ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHẠM THỊ MINH DƯƠNG
VĂN NGHIỆP CỦA PHAN KẾ BÍNH TRONG
NHỮNG CHUYỂN ĐỘNG VĂN HÓA VIỆT NAM
ĐẦU THẾ KỶ XX
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
1
Hà Nội – 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHẠM THỊ MINH DƯƠNG
VĂN NGHIỆP CỦA PHAN KẾ BÍNH TRONG
NHỮNG CHUYỂN ĐỘNG VĂN HÓA VIỆT NAM
ĐẦU THẾ KỶ XX
LUẬN VĂN THẠC SĨ chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 0121
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Hải Yến
2
Hà Nội - 2012
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 4 Chương 1 ........................................................................................................................ 11 Môi trường văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX ................................................................. 11 1.1. Chính sách văn hó a của Pháp ở Việt Nam đầu thế kỷ XX () .................................... 11 1.2. Báo chí Việt Nam trước ĐDTC ............................................................................. 17 1.3. Sự ra đời và hoạt động của ĐDTC ........................................................................ 19 1.3.1. Sự ra đời và tôn chỉ của ĐDTC ....................................................................... 19 1.3.2. Hệ thống chuyên mục của ĐDTC ................................................................... 24 * Tiểu kết......................................................................................................................... 30 Chương 2 ........................................................................................................................ 31 Sự nghiệp văn chương của Phan Kế Bính ........................................................................ 31 2.1. Nhà nho Phan Kế Bính và nghề bá o ...................................................................... 31 2.1.1. Con đường đến với nghề bá o .......................................................................... 31 2.1.2. Phan Kế Bính với chuyên mục “Hán văn” và “Việt Hán văn khảo” trên ĐDTC ................................................................................................................................ 32 2.2. Các công trình biên khảo của Phan Kế Bính .......................................................... 37 2.3. Phan Kế Bính và công việc dịch thuật ................................................................... 53 2.4. “Tiể u thuyế t gia” Phan Kế Bí nh ............................................................................ 65 * Tiểu kết......................................................................................................................... 73 Chương 3 ........................................................................................................................ 74 Nghề báo và di sản của Phan Kế Bính – .......................................................................... 74 nhìn từ thực tế thực dân hó a của Việt Nam ...................................................................... 74 3.1. Học vấn và những ngả đường “nhậ p thế ” () của trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX .. 74 3.2. Các giá trị văn hóa văn chương Việt Nam đầu thế kỷ XX: lựa chọn xã hội và lựa chọn của Phan Kế Bính ....................................................................................... 83 * Tiểu kết ....................................................................................................................... 98 KẾT LUẬN................................................................................................................... 100 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 102
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong khoảng chuyển giao cũ – mới đầu thế kỷ XX, Phan Kế Bính thuộc
số trí thức cựu học Bắc Kỳ đầu tiên sử dụng chữ quốc ngữ trong lĩnh vực
khoa học, báo chí và nghệ thuật mà đương thời “không ai theo kịp” [40, tr.
56] và có “những áng văn xuất sắc hơn hết” [40, tr. 52]. Tên tuổi ông gắn liền
với các công trình biên khảo, dịch thuật, trước tác… Đồng thời sự nghiệp của
Phan Kế Bính cũng đáng chú ý ở chỗ gắn liền với hoạt động của báo chí thời
kỳ đó và đây cũng là công việc mà Phan Kế Bính đã dành gần như trọn vẹn
quãng đời hoạt động chữ nghĩa của ông. Một loạt các tờ báo gắn với vai trò
biên tập viên của ông như: Đăng cổ tùng báo, Lục tỉnh tân văn, Đông Dương
tạp chí, Trung Bắc tân văn, và Học báo, trong đó vai trò của ông đối với
Đông Dương tạp chí là vô cùng quan trọng với tư cách là biên tập viên chính
và lâu đời nhất của tờ báo.
Đầu thế kỷ XX, tại Việ t Nam, sự giao thoa Âu – Á, Đông – Tây diễ n tiế n
trong mộ t khung cả nh khá yên bì nh , công cuộ c cai trị thự c dân lan rộ n g khắ p
ba kỳ , thể hiệ n trong nhiề u hoạ t độ ng : thiế t lậ p thể chế chí nh trị , xã hội, giáo
dục văn hóa . Sự gặ p gỡ , “va chạ m giữ a cá c nề n văn minh” đương nhiên xả y
ra, và chắc chắn có nhiều nét khác biệt với các giai đoạn k hác của thời kỳ
thự c dân Phá p ở Việ t Nam . Trong khung cả nh ấ y , nền văn chương học thuật
truyền thống có vai trò ra sao , đượ c vậ n dụ ng và tá c độ ng như thế nà o trong
chủ định , chủ trương “giao hòa” đó ? Thông qua nhân vậ t Phan Kế Bính ,
chúng tôi muốn tìm một cách trả lời cho vấn đề nêu trên , bởi: “Từ cách chấm
câu đến diễn đạt ý kiến cùng tư tưởng của ông, người ta tưởng như ông là một
nhà Tây học kiêm Hán học, chứ không mấy ai có thể biết ông chỉ là một nhà
5
Hán học thuần túy, chưa hề chịu ảnh hưởng Tây học trực tiếp” [40, tr. 57].
Mặc dù công lao của Phan Kế Bính đối với văn hóa văn chương Việt
Nam đầu thế kỷ XX không nhỏ nhưng những công trình, bài viết về ông lại
khá ít ỏi. Đây đó mới bắt gặp một vài bài báo lẻ tẻ, một bài viết ngắn trong
các sách in chung với tác giả khác và ít được nghiên cứu dưới góc độ như một
tác giả độc lập, ngoại trừ công trình duy nhất Phan Kế Bính – Tác giả và Tác
phẩm của Bùi Văn Vượng. Chưa kể việc người ta thường chú trọng đóng góp
của ông cho sử học, văn hóa mà chưa mấy quan tâm đến vai trò của ông trong
hoạt động văn học. Vì vậy, với đề tài Văn nghiệp của Phan Kế Bính trong
những chuyển động văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX, người viết mong muốn
tìm hiểu những đóng góp của tác giả này , trong so sá nh với những cây bút
khác của Đông Dương tạp chí, cho nền văn học quốc ngữ Việt Nam . Đồng
thờ i cũ ng tì m cá ch lý giả i hoạ t độ ng đó củ a ông , như mộ t cá ch ứ ng xử , đố i
diệ n vớ i chí nh sá ch thự c dân [trong văn hó a ] của lớp trí thức cựu học Việt
Nam.
2. Lịch sử vấn đề
Như trên đã nói, cho đến nay những tìm hiểu về Phan Kế Bính còn ít ỏi.
Một số công trình, bài viết, nghiên cứu về Phan Kế Bính thường chỉ tập trung
vào văn hóa, sử học và ít quan tâm đến phương diện văn chương. Cũng đôi
chỗ, xét về phương diện văn học, người ta thường nhìn nhận, đánh giá về ông
như một thành tố của nền văn học giao thời và đặt chung trong nhóm Đông
Dương tạp chí. Tiêu biểu là cuốn Nhà văn hiện đại (1942 - 1945) của Vũ
Ngọc Phan. Ở đây, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan có những ghi nhận, đánh
giá bước đầu một phần di sản báo chí của Phan Kế Bính trên tờ Đông Dương
tạp chí qua hai mục “Hán văn” và “Việt Hán văn khảo”. Theo đó, tác giả đã
dành cho Phan Kế Bính những lời khen ngợi rất hùng hồn: “Giản dị và hùng
tráng, đó là hai điều ít khi người ta thấy được trong văn chương của các nhà
6
nho; vậy mà đọc văn của Bưu Văn, điều đặc biệt mà ta có thể thấy ngay lại
chính là sự giản dị và sự hùng tráng” [40, tr. 57]. Bên cạnh đó, trong cuốn
Văn học Việt Nam 1900 – 1945 (2003), Văn học Việt Nam thế kỷ XX (2004),
Phan Kế Bính cũng được đề cập đến ít nhiều với tư cách là nhà văn theo phái
cựu học.
Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (1961) đã
xếp Phan Kế Bính trong nhóm tác giả làm biên khảo và phê bình, cụ thể là
nhóm biên soạn Sử học và biên khảo Văn học. Ở cả hai bộ phận này, Phạm
Thế Ngũ đều đi vào xem xét, đánh giá những đóng góp và giá trị từ các công
trình biên khảo của Phan Kế Bính đem lại không chỉ cho nền văn học Việt
Nam đầu thế kỷ XX mà đến tận ngày nay, thể hiện qua việc dịch những áng
văn chương cổ của Trung Hoa ra chữ quốc ngữ đăng trên mục “Hán văn” của
Đông Dương tạp chí, hoặc tổng kết lại những nguyên lý, thể cách, kĩ thuật…
của lối văn chương xưa qua mục “Việt Hán văn khảo”.
Phải đến gần đây, Phan Kế Bính mới được chú ý tìm hiểu như một tác
giả độc lập. Đó là công trình Phan Kế Bính – tác giả và tác phẩm do Bùi Văn
Vượng chủ biên (2004). Tuy nhiên Bùi Văn Vượng lại nhấn mạnh tác giả
Phan Kế Bính ở vai trò một nhà văn hóa với việc nghiên cứu về phong tục tập
quán, sử học… Cùng chung quan điểm này, Phạm Công Tiến đã viết bài phê
bình “Nhà văn hóa Phan Kế Bính” trong số 191/2006 báo Toàn cảnh sự kiện
– dư luận. Ở đây, tác giả nhấn mạnh cuốn Việt Nam phong tục với những sưu
tầm, ghi chép rất tỉ mỉ, kĩ lưỡng của Phan Kế Bính về truyền thống, phong tục
Việt Nam cổ xưa, và một yếu tố nữa cũng được đề cập đến là khả năng sử
dụng chữ quốc ngữ trong nền văn chương học thuật những năm 20 của thế kỷ
XX. Ngày 29 tháng 5 năm 2005, tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hội Khoa
học Lịch sử Việt Nam đã tổ chức một lễ tưởng niệm nhân 130 năm ngày sinh
7
và 85 năm ngày mất của Phan Kế Bính. Tuy nhiên những bài viết này chỉ
mang tính chất hồi ức, tưởng nhớ, và không chứa đựng nhiều giá trị nghiên
cứu, học thuật.
Tóm lại, những nghiên cứu, tìm hiểu của các nhà nghiên cứu về Phan Kế
Bính là những phục dựng ban đầu chân dung một trí thức cựu học chuyển
theo tân trào và vinh danh di sản của ông. Song, cũng vì thế mà một số đóng
góp của Phan Kế Bính cho văn học dân tộc vẫn còn có thể và cần phải tìm
hiểu kỹ hơn, đó là sự nghiệp báo chí và trước tác văn chương của ông.
3. Mục đích nghiên cứu
Luậ n văn sẽ tậ p trung giả i quyế t 2 vấ n đề :
- Nhìn lại văn nghiệp của P han Kế Bí nh theo cá c mả ng : báo chí , dịch
thuậ t, biên khả o, sáng tác.
- Lý giải , đá nh giá lự a chọ n củ a Phan Kế Bí nh trong nhữ ng diễ n biế n
tinh thầ n đầ u thế kỷ XX , và đóng góp của ông đối với sự phát triển của văn
hóa văn học dân tộc.
4. Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi thời gian: Trong quãng đời ngắn ngủi của Phan Kế Bính,
khoảng thời gian hoạt động rực rỡ nhất, đưa tác giả trở thành một nhà báo,
nhà văn hoá lớn của Việt Nam gần như trùng khít với sự xuất hiện và kết thúc
của Đông Dương tạp chí: từ năm 1913 đến năm 1919. Dấu mốc năm 1919
này cũng đánh dấu sự suy tàn của chế độ khoa cử Việt Nam – môi trường
giáo dục đào luyện nên những người như Phan Kế Bính. Vì vậy các khảo sát
của chúng tôi sẽ tập trung vào những năm 1913 – 1919.
* Phạm vi tư liệu: Di sản của Phan Kế Bính bao gồm các bài đăng báo và
một số ấn phẩm độc lập. Riêng phần báo chí, do điều kiện bảo quản, lưu trữ ở
Việt Nam, và khuôn khổ thời gian thực hiện đề tài , chúng tôi sẽ khoanh vùng
ở Đông Dương tạp chí. Tuy nhiên Đông Dương tạp chí (1913 - 1919) là một
8
tư liệu quý hiếm, và các cơ sở lưu trữ quan phương của Việt Nam hiện không
có một sưu tập hoàn chỉnh. Ngay trong lưu trữ của thư viện quốc gia cũng chỉ
lưu giữ được 130 số báo, cụ thể từng năm như sau:
Năm 1913: 1 – 34
Năm 1914: 35 – 52
Năm 1916: 51 – 104
Năm 1917: 109 – 134
Toàn bộ công việc của chúng tôi sẽ được tiến hành trên lượng tư liệu còn
lại này.
* Phạm vi vấn đề: Qua tác giả Phan Kế Bính, có thể soi chiếu những vấn
đề rộng lớn hơn là Đông Dương tạp chí, đồng thời hiểu được lịch sử, tiến
trình của báo chí Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Hơn nữa, từ sự nghiệp
cá nhân của một học giả , chúng ta có thể thấy được thực tế thực dân hó a , sự
thay đổi trong văn hoá văn chương, sự thay đổi học thuật, hạn vận của Nho
học và sự lựa chọn các giá trị truyền thống của Việt Nam đầu thế kỷ XX để
tồn tại và phát triển.
Những thống kê, khảo sát sẽ hướng đến việc tìm hiểu mức độ “can dự”
của nhà cựu học Phan Kế Bính không chỉ vào Đông Dương tạp chí mà cả hệ
thống văn chương , văn hó a đầu thế kỷ XX .
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn này dùng cách tiếp cận văn học sử làm phương pháp bao trùm .
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng cố gắng khảo sát , nhìn nhận một số vấn đề trong
mộ t khuôn khổ rộ ng hơn là văn hóa .
Để cụ thể hó a những phương pháp đó , các thao tác được sử dụng là:
thống kê, khảo sát, tổng hợp, có kết hợp phân tích, lý giải để làm nổi bật con
người và sự nghiệp của Phan Kế Bính. Thao tác so sánh (đồng đại, lịch đại)
cũng là không thể thiếu, đặc biệt là đặt đối tượng nghiên cứu trong khuôn khổ
9
của Đông Dương tạp chí nói riêng, không khí văn học - báo chí đương thời,
đồng thời cố gắng khu biệt đối tượng để nhận diện những đóng góp riêng
cũng như những hạn chế của tác giả.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm có các chương và mục
chính như sau:
Chương 1: Môi trường văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX
1.1. Chính sách văn hó a của Pháp ở Việt Nam đầu thế kỷ XX
1.2. Báo chí Việt Nam trước Đông Dương tạp chí
1.3. Sự ra đời và hoạt động của Đông Dương tạp chí
1.3.1. Sự ra đời và tôn chỉ của Đông Dương tạp chí
1.3.2. Hệ thống chuyên mục của Đông Dương tạp chí
Chương 2: Sự nghiệp văn chương của Phan Kế Bính
2.1. Nhà nho Phan Kế Bính và nghề báo
2.1.1. Con đường đến với nghề báo
2.1.2. Phan Kế Bính với chuyên mụ c "Hán Văn " và "Việ t Há n
văn khả o" trên Đông Dương tạp chí
2.2. Các công trì nh biên khả o củ a Phan Kế Bính
2.3. Phan Kế Bính và công việc dịch thuật
2.4. “Tiểu thuyết gia” Phan Kế Bính
Chương 3: Nghề báo và di sản của Phan Kế Bính - nhìn từ thực tế
thực dân hó a của V iệt Nam
3.1. Học vấn và những ngả đường “nhậ p thế ” của trí thức Việt Nam đầu
thế kỷ XX
3.2. Các giá trị văn hó a văn chương Việt Nam đầu thế kỷ XX : lựa chọn
xã hội và lựa chọn của Phan Kế Bính
10
7. Một vài ký chú
Tôn trọng tính lịch sử của sự vật, hiện tượng, chúng tôi sẽ giữ nguyên
cách viết chính tả của báo Đông Dương tạp chí. Vì thế, toàn bộ tên bài cũng
như nội dung trích đoạn bài viết của Phan Kế Bính trong mục “Hán văn” và
“Việt Hán văn khảo” chúng tôi cũng giữ nguyên văn.
8. Chữ viết tắt
GĐB: Gia Định báo
NCMĐ: Nông cổ mín đàm
ĐCTB: Đăng cổ tùng báo
ĐDTC: Đông Dương tạp chí
LTTV: Lục tỉnh tân văn
TBTV: Trung Bắc tân văn
NPTC: Nam Phong tạp chí
11
ĐKNT: Đông Kinh Nghĩa Thục
NỘI DUNG
Chương 1
Môi trường văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX
1.1. Chính sách văn hó a của Pháp ở Việt Nam đầu thế kỷ XX(1)
Bước vào những năm đầu thế kỷ XX, có thể nói thực dân Pháp đã hoàn
thành công cuộc xâm lược và chiếm đóng Việt Nam bằng quân sự. Trên thực
tế, nỗ lực vận động yêu nước, cứu vong cứu tồn cho dân tộc của các sĩ phu về
cơ bản đã thất bại. Ở ngoài Bắc, tuy vẫn còn Hoàng Hoa Thám đơn thương
hoạt động chống Pháp dai dẳng đến 1913, nhưng đó chỉ là nỗ lực cuối cùng
của phong trào kháng chiến bằng quân sự. Tình hình chung tương đối ổn định
và thực dân Pháp có thể thiết định bộ máy cai trị dân sự trên toàn Việt Nam
và toàn cõi Đông Dương. Trong đó đáng chú ý là thiết lập một hệ thống giáo
dục Pháp – Việt nhằm đào tạo một tầng lớp thông ngôn, thư lại phục vụ cho
những chủ trương và chính sách bảo hộ.
Từ tháng 10 năm 1902 đến tháng 2 năm 1908, toàn quyền Đông Dương
Paul Beau đã chủ trương “thay thế chính sách thống trị bằng chính sách liên
hợp”. Năm 1917, toàn quyền Albert Sarraut ban bố “Học chính Tổng quy”
(tức luật giáo dục chung) và hủy bỏ giáo dục truyền thống trên cả ba kỳ.
Trong ba cuộc cải cách giáo dục (1906, 1917 và 1926) thì năm 1906, giáo dục
truyền thống chuyển giao theo cách giáo dục mới, trong đó chữ Nho vẫn được
dùng nhưng bổ sung thêm chữ quốc ngữ, chữ Pháp, Toán và một số môn khoa
(1) Để đảm bảo sự tập trung, chúng tôi sẽ khoanh phạm vi tìm hiểu trong quãng thời gian 1910–1920 – thời điểm hoạt động của ĐDTC và tác giả Phan Kế Bính.
12
học. Cuộc cải cách thứ hai mở ra bằng việc bãi bỏ Nho học, tiếng Pháp trở
thành ngôn ngữ chính trong nhà trường Pháp - Việt. Và một dấu mốc cũng hết
sức quan trọng trong khoảng 1906 đến 1917 là việc bãi bỏ thi cử chữ Hán ở
Bắc Kỳ năm 1915, đồng thời việc dạy quốc văn cũng đã phổ thông nhiều
trường học ở thôn quê. Năm 1919 chấm dứt vĩnh viễn cơ chế tuyển dụng quan
lại thông qua khoa cử Hán học. Và cuộc cải cách giáo dục năm 1926 được mở
ra bằng việc tập trung vào các trường sơ học Pháp – Việt: các làng phải mở
trường học, lấy tài chính từ đóng góp của dân, cho học chủ yếu bằng tiếng mẹ
đẻ, tiếng Pháp và Hán tự là những môn không bắt buộc. Mục tiêu duy nhất
của nhà cầm quyền Pháp khi nhấn mạnh việc phổ biến chữ quốc ngữ là để cắt
đứt mọi sự tiếp xúc và liên lạc chặt chẽ giữa người Việt Nam và Trung Hoa
đã có từ ngàn năm trước. Với thực dân, đó là phương tiện tốt nhất để Âu hóa
nho sĩ Việt Nam, từ xưa không biết một nền văn minh nào khác ngoài Trung
Hoa. Nhận xét của Piri, hội viên trường Viễn Đông bác cổ (EFEO) đã xác
Sự thật, người Annam mà chúng ta đang bảo hộ, đang cai trị đã được giáo dục
theo khuôn mẫu của Trung-hoa, hơn lúc nào hết giới Nho sĩ đã chịu ảnh hưởng
tích cực của Trung-hoa. Họ chỉ biết, chỉ hiểu qua Trung-hoa, theo Trung-hoa và
theo một cách lâu dài. Đối với giai cấp này, điều cần nhất là phải chuyển hướng
giáo dục. Vấn đề này sẽ giữ mãi như thế, bao lâu tình trạng hiện tại còn kéo dài,
bao lâu người Tàu còn nắm giữ vai trò ưu thế ở đây, và bao lâu chưa thay thế
chữ Hán bằng chữ Quốc ngữ cho mọi sự sử dụng thường ngày và tiếng Pháp
được xem như là thượng tầng cơ sở giáo dục [9, tr. 79]
nhận mục đích này của chính phủ Pháp:
Trong “Báo cáo của toàn quyền Sarraut” ngày 15/9/1917 tại Hà Nội
cũng đã nhấn mạnh đến những ảnh hưởng xấu của văn hóa Trung Hoa đến
Mới đây, một trong những cộng tác viên của tôi sau khi viếng thăm các tỉnh ở
bắc Trung-kỳ đã xác nhận rằng các gia đình nho sĩ chỉ có trong tủ sách của họ
các tác phẩm ngoại quốc phổ biến ở đây đều không nói gì đến Pháp hoặc chỉ
giữ những lời phẩm bình bất lợi cho Pháp. Và những tác phẩm của Khang Hữu
13
công cuộc cai trị và bảo hộ của thực dân:
Vi tiếp tục được mến chuộng nhiều và lưu hành trong thuộc địa, mặc dù có
những sự cấm đoán của chính phủ về việc nhập cảng các loại sách Trung –
hoa… [9, tr. 85]
Giáo dục Hán học bị triệt tiêu, các trường học Pháp – Việt chưa thể tức
thời tạo ra một đội ngũ trí thức mới, và cũng để tranh thủ các nhà cựu học
mang tinh thần ái quốc nên đã hình thành xu thế khuyến khích số này chuyển
sang môi trường hoạt động văn hóa mới. Bên cạnh đó, Pháp đưa ra những
chính sách về báo chí nhằm giới thiệu phổ biến văn hóa phương Tây, và nhằm
tạo nên một sức hút mới, một mối quan tâm mới cho độc giả nói chung và
tầng lớp trí thức đầu thế kỉ XX nói riêng.
Sự xuất hiện của báo chí kéo theo một loạt các cơ sở vật chất cần thiết
như: nhà in, nhà xuất bản,… ngày càng đầy đủ, dồi dào. Không chỉ tập trung
ở hai thành phố lớn là Sài Gòn, Hà Nội mà ở cả các thành phố khác như Hải
Phòng, Đà Nẵng, Nam Định, Vinh… cũng có nhà in và nhà xuất bản. Năm
1861 bắt đầu xuất hiện xưởng in Tipô, với bốn công nhân đưa từ Pháp sang.
Nghề in chữ đúc này du nhập vào Việt Nam (tại Sài Gòn), đi theo đạo quân
của tướng Bonard. Ấn phẩm đầu tiên là tờ Công báo của quân đội viễn chinh
Pháp ở Nam Kỳ (Bulletin officiel de Léxpetion de la Cochichine 1861). Năm
1865 xuất hiện một nhà in khác của chính quyền Pháp, in tờ báo đầu tiên bằng
chữ quốc ngữ: GĐB. Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Việt Nam đã có một hệ
thống các nhà in phần lớn của tư bản Pháp như: Imprimerie Impériale (Nhà in
Hoàng gia) năm 1867, Imprimerie C. Guillaud et Martinon năm 1883,
Imprimrie Mission năm 1884, Imprimerie Réy et Curiol năm 1886 đều ở Sài
Gòn… Nhà in Viễn Đông (IDEO) năm 1905 là nhà in sớm nhất của Hà Nội,
rồi đến nhà in Nordemann (1905), nhà in Đông Kinh (1907)…
Bên cạnh hệ thống nhà in là nhà xuất bản, tiêu biểu như: Chân Phương,
14
Nam Ký… đã có công không nhỏ trong việc xây dựng nền báo chí và văn học
mới của Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Báo chí, nhà in, nhà xuất bản
lần lượt ra đời đã thúc đẩy phong trào viết văn, bắt đầu là văn báo chí và đem
lại sự kích thích bước đầu cho cả hai phía: người viết và người đọc. Ở các
nước trên thế giới, báo chí vốn chỉ là phương tiện thông tin. Trong Văn minh
Các nước đặt ra báo chí có những danh mục như nhật báo, tuần báo, nguyệt san
và bán nguyệt san. Thể tài thì chia ra chính trị, tin tức, thời sự, quảng cáo…
Phàm việc trong việc ngoài, sáng chế mới, tình hình thương mại, cho đến pháp
luật, mà y học, nông, thợ thuyền, thương gia, chẳng giới nào là không có báo.
Pháp có hơn 1.230 báo quán, Đức có hơn 2.350 báo quán, Mỹ có hơn 14.150
báo quán, Nhật-bản không quận nào là không có báo quán. Trung Quốc gần đây
cũng mở báo rất nhiều. Dân trí sở dĩ được mở mang là chính nhờ đó [11, tr. 80]
tân học sách cũng đã nói về điều này rất rõ:
Như vậy, có thể nhận thấy tầm quan trọng của báo chí trong việc truyền
tải thông tin như thế nào. Nhưng đối với Việt Nam, báo chí lại có một vai trò
quan trọng trong việc hình thành dòng văn chương mới. Thiếu Sơn trong Phê
bình và Cảo luận đã nói: “Trong những nước văn minh, văn học ra đời trước
báo chí, nhưng ở Việt Nam, chính báo chí đã tạo nên nền văn học hiện đại”.
Trong hồi ký của Nguyễn Công Hoan khi thuật lại bầu không khí văn chương
thời ông mới bước vào công việc viết văn cũng nhấn mạnh điều này: “Trước
kia, người viết văn ra làm báo, và trong khi làm báo, vẫn viết văn. Báo nào
cũng có đăng văn chương, nên văn chương ra đời bằng con đường của báo
chí. Chưa có báo chí thuần túy về văn chương, cũng chưa có nhà xuất bản in
những sách văn học” [17, tr. 54], rồi: “thời đó, người ta lẫn lộn nhà báo với
nhà văn, cũng như nhà văn với nhà báo” [17, tr. 54]. Nhà văn của thời kỳ này
đối diện với trang báo đồng thời với trang giấy viết văn. Vẫn là Nguyễn Công
Hoan viết: “Báo ra đời nhiều dần là miếng đất tốt cho việc gieo hạt văn
15
chương” [17, tr. 91]. Huỳnh Văn Tòng trong Lịch sử báo chí Việt Nam cũng
đã nhận xét: “Ta thấy rằng văn học Việt Nam hiện đại thoát thai từ báo chí,
khác với trường hợp ở các nước Tây phương là văn học đẻ ra báo chí” [11, tr.
238]. Huỳnh Văn Tòng cũng nêu một nhận xét then chốt về vai trò báo chí
trong nền văn học đầu thế kỷ XX: “Khi nghiên cứu văn học hiện đại, chúng ta
hẳn chú ý rằng đa số các tác phẩm văn học đều đăng trước nhứt trên mặt báo,
sau đó mới in thành sách. Bởi vậy, theo thiển ý chúng tôi, muốn nghiên cứu
văn học hiện đại, ta nên xem qua lịch sử báo chí. Các nhà văn nổi tiếng lúc
bấy giờ thường dùng báo chí để đăng tải lần hồi các tác phẩm văn học do họ
sáng tác” [11, tr. 238-239]. Phạm Quỳnh trong bài “La Presse annamite” [Báo
chí Annam] trên Nam phong số 107, tháng Bảy năm 1926 cũng viết: “Văn
học hiện đại của chúng ta chỉ xuất hiện từ sau khi có báo chí ra đời. Những
tác giả đầu tiên của những tác phẩm được viết bằng chữ quốc ngữ đều được
đào tạo trong môi trường báo chí” [11, tr. 69]. Những tác phẩm của Trương
Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của được đăng trên GĐB đã ảnh hưởng rất nhiều đến
nền văn học Việt Nam trong giai đoạn đầu. Những nhà báo, nhà văn đầu tiên
đã góp phần đắc lực vào việc phát huy nền văn học Việt Nam và chính lịch sử
văn học Việt Nam đã đi đôi với lịch sử báo chí. Thời kì sau này, hai tờ báo
quan trọng nhất đã góp phần vào việc xây dựng nền văn học Việt Nam là:
ĐDTC và NPTC. Nguyễn Sỹ Tế đã gọi ĐDTC là “cơ quan văn học đầu tiên
bằng chữ quốc ngữ” [21, tr. 57], dù ĐDTC hay NPTC đều không thể coi là
thuần túy văn chương được, nhưng rất nhiều chuyên mục trên báo đã xoay
quanh vấn đề này: “viết bài khảo cứu và bình luận về văn học, phiên âm và
dịch nghĩa các sách cũ, sưu tập các thơ văn cổ, in các sách quan trọng…” [21,
tr. 189].
Một điều rất mới mẻ mà báo chí đưa lại cho công chúng và đời sống văn
16
học đầu thế kỷ XX đó là dịch thuật. Có thể nói trước đây, trong một nền văn
hóa sử dụng chữ Hán vay mượn làm văn tự chính thức và chưa có các quan hệ
với những nền văn hóa khác, dịch thuật chưa bao giờ là một hoạt động thực
sự. Chủ trương dùng chữ quốc ngữ thay cho chữ Hán của chính quyền thực
dân đầu thế kỷ XX thành nguyên nhân chính thúc đẩy dịch thuật phát triển.
Sự thay đổi văn tự đã cho phép phổ biến trong dân chúng nền văn học mới,
nền văn học chữ quốc ngữ cùng với những tư tưởng, những học thuyết Tây
phương thông qua con đường dịch thuật. Những bài dịch từ thơ văn của Pháp
và Trung Hoa sang quốc ngữ lần lượt được đăng trên những mục nói về văn
chương trên các số báo vào những ngày cố định trong tuần. Chưa bao giờ dịch
thuật bao gồm dịch từ Pháp sang Việt và từ văn chương truyền thống sang
chữ quốc ngữ lại phát triển rầm rộ như thời kì này. Công lao dịch thuật của
các tác giả hồi đầu thế kỷ XX như Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính, Nguyễn
Đỗ Mục… đã được Vũ Ngọc Phan xác nhận khi nhận xét về ĐDTC: “Người
ta có thể lấy ra từ trong ĐDTC tất cả những điều rất tốt của nền văn minh
Trung-hoa cũng như những tư tưởng Tây phương hiện đại, nói khác đi, ĐDTC
có thể cung cấp cho người Việt-nam những gì mà họ cần cho nền văn hóa mới
của họ” [11, tr. 120]. Những tư tưởng về Tây phương, hay những điều tốt của
nền văn minh Trung Hoa được mang lại là nhờ vào công việc dịch thuật trên
báo chí. Vì thế vai trò của báo chí cùng với văn tự mới là chữ quốc ngữ đã
góp phần quan trọng rất lớn trong việc thay đổi môi trường văn hóa xã hội
đầu thế kỉ XX.
Những yếu tố vừa trình bày ở trên không chỉ cho chúng ta cái nhìn chung
về bối cảnh văn hóa đầu thế kỷ XX mà còn cho phép hình dung về báo chí
cùng với vai trò của nó trong việc nhen nhóm lên một nền văn chương mới.
17
1.2. Báo chí Việt Nam trước ĐDTC
Báo chí du nhập vào Việt Nam cùng với quá trình chinh phục và thực
dân hóa Đông Dương của người Pháp. Xuất phát từ nhu cầu sinh hoạt văn hóa
của họ ở thuộc địa và nhu cầu thực tiễn cần có cơ quan ngôn luận làm cầu nối
giữa người đi chinh phục và người bị chinh phục, chính quyền thực dân đã
xuất bản báo chí ở Việt Nam ngay sau những ngày đặt chân lên vùng đất này.
Tiếp đó trong văn thư đề ngày 9-5-1865 của viên Thống đốc chỉ huy trưởng
Nam Kỳ là G. Roze gửi cho Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp đã nêu rõ dụng ý
của chính phủ Pháp trong việc thành lập tờ báo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ ở
Tờ báo này (tức GĐB) nhằm phổ biến trong giới dân bản xứ tất cả những tin tức
đáng cho họ lưu ý và cho họ có một kiến thức về những vấn đề mới có liên
quan đến văn hóa và những tiến bộ về ngành canh nông. Những viên thanh tra
đặc trách về những công việc của người dân bản xứ đã cho tôi biết rằng tờ GĐB
đã được dân chúng ủng hộ một cách nhiệt liệt và ở nhiều địa phương những em
bé biết đọc chữ quốc ngữ đã đọc báo cho cha mẹ chúng nghe. Như vậy tờ báo
này xuất bản mỗi tháng một lần sẽ là một sự hữu ích không thể chối cãi được và
nó sẽ góp phần vào việc thay thế chữ của chúng ta và chữ Hán, một thứ chữ mà
chỉ có một thiểu số quan lại hiểu biết mà thôi. [11, tr. 55]
Việt Nam:
Đầu tiên người Pháp cho phát hành hai loại báo: báo chí bằng tiếng Pháp
và báo chí bằng chữ Hán. Loại thứ nhất dành cho những độc giả người Pháp
và những người Việt biết tiếng Pháp; và loại thứ hai nhằm vào những quan lại
bản xứ, nhà nho... Tờ báo tiếng Pháp đầu tiên là tờ Le Bullelin Officiel de
l’expedition de la Co-chinchine (Công báo của đội quân viễn chinh Nam Kỳ)
do đô đốc Bonard làm chủ nhiệm ra đời ngày 29-9-1861 ở Nam Kỳ. Đối
tượng phục vụ của những tờ công báo đầu tiên này là người Pháp ở thuộc địa
cùng một bộ phận nhỏ nhân viên bản xứ làm việc trong bộ máy cai trị và
những cơ sở dân sự. Nội dung của các tờ công báo này đăng những nghị định,
18
công văn đạo luật, các chỉ thị, các bài diễn văn phát ra từ Soái phủ Nam Kỳ.
Đồng thời để hướng ảnh hưởng vào đội ngũ quan lại người Việt nên cùng với
báo tiếng Pháp, thực dân cũng đã cho xuất bản báo chữ Hán. Những tờ như
Nam Kỳ viễn chinh công báo hay Xã thôn công báo (xuất bản ở Nam Kỳ) đều
bằng chữ Hán. Đến năm 1893, báo chữ Hán có mặt ở Bắc Kỳ: tờ Đại Nam
đồng văn nhật báo hướng đến đối tượng chính là nhà nho và “chỉ phát hành
trong quan giới”. Báo in bằng hai thứ chữ Hán và quốc ngữ xuất hiện với tờ
Đại Việt tân báo và ĐCTB (1907) là một bước tiến về mặt ngôn ngữ để thông
tin xâm nhập sâu rộng hơn trong giới quan lại người bản xứ.
Bên cạnh đó, nằm trong chiến lược văn hóa nô dịch của thực dân nhằm
đẩy lùi ảnh hưởng của Hán học, báo chí quốc ngữ cũng sớm được triển khai.
Tờ báo tiếng Việt đầu tiên là GĐB, ra mắt ở Sài Gòn ngày 15-4-1865 do chủ
bút đầu tiên là người Pháp, sau đó là sự xuất hiện của một loạt các tờ báo khác
như: Thông loại khóa trình, NCMĐ, LTTV… Điều đó thể hiện qua việc báo
chí tiếng Việt không ngừng tăng lên với sự phong phú và đầy đủ về mặt
chủng loại với tất cả những hình thức thể tài của báo chí như: nhật báo, tuần
báo, bán nguyệt san… Để hiểu thêm nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự ra đời
của báo chí quốc ngữ đầu thế kỷ XX nói chung và ĐDTC nói riêng, có thể căn
cứ vào nhận định của nhà cầm quyền Pháp Sestier về mối nguy hiểm do sách
báo Trung Hoa gây ra và đề nghị biện pháp đối phó trong một tờ trình năm
1912 như sau: “Thay thế cho những tin tức xâm nhập vào xứ này bằng con
đường báo chí Trung-hoa, chúng tôi nghĩ rằng tốt nhất là nên có ngay ở xứ
nầy một tờ báo An-nam mà trong đó, mỗi một sự kiện lý thú sẽ được trình bầy
thực thà rõ ràng, kèm theo một sự giải thích cụ thể trong mức độ cần thiết và
những lời bình luận hợp pháp” [20, tr. 136]. Sestier còn định rõ quyền hạn của
những người cầm bút dịch thuật cộng tác với tờ báo là chỉ được “nghĩ và viết
19
trong phạm vi tôn trọng chính phủ bảo hộ” [20, tr. 137].
Ngoài việc đặt cho báo chí nhiệm vụ làm tấm lá chắn để chống đỡ những
ảnh hưởng của phong trào giải phóng dân tộc từ bên ngoài dội vào, thực dân
còn đặt ra nhiệm vụ dùng báo chí để hướng dẫn dư luận bản xứ. Báo cáo của
… Tôi cho rằng thật là một việc tốn công vô ích và là một đường lối chính trị
tồi ở xứ này khi muốn dập tắt tư tưởng và tình cảm của dân chúng An Nam đã
thể hiện rõ rệt trong sự bàn luận về các vấn đề chính trị.
Việc thành lập một tờ báo bằng tiếng An Nam không cần tính chất công báo
hay nửa công báo, trình bày cho người đọc xứ này, dưới những hạn chế cần
thiết những quyền lợi về tự do và độc lập để đáp ứng tình thế hiện nay một cách
chắc chắn là một nhu cầu thực tế của dân chúng bản xứ… Hơn nữa chúng ta sẽ
lợi hoàn toàn ở chỗ tờ báo bằng tiếng bản xứ đó mà họ sẽ chỉ dẫn cho họ một
cách chính xác để khiến họ sẵn sàng chống lại sự tuyên truyền có dụng ý bất cứ
từ đâu tới…
thống sứ Bắc kỳ Simoni ngày 12–3–1912 cho thấy rõ:
Có thể coi những tờ trình như của Sestier là căn cứ để Simoni cho phép
xuất bản tờ ĐDTC vào năm 1913.
1.3. Sự ra đời và hoạt động của ĐDTC
1.3.1. Sự ra đời và tôn chỉ của ĐDTC
ĐDTC ra đời ngày 15-5-1913 tại Hà Nội. Người sáng lập và chủ nhiệm
tờ báo này là nhà tư bản Pháp Schneider, người đã xuất bản tờ LTTV ở Nam
Kỳ từ năm 1907, mà Phạm Quỳnh gọi là “cha Schneider”, ông tổ của báo chí
ở Việt Nam. Schneider sang Việt Nam từ lâu, là người thân cận với các Toàn
quyền từ thời Lanessan, có óc kinh doanh, lập được nhiều nhà in, cơ sở ấn
loát báo chí tiếng Pháp và tiếng Việt. Ông khéo giao thiệp với các nhân vật
lãnh đạo trong giới cầm quyền thực dân nên hầu như được độc quyền trợ cấp
hoặc giúp đỡ chuyển báo, mua báo qua những hợp đồng ký với nhà cầm
quyền thực dân trong đó ông cam kết thực hiện những đường lối của thực dân
20
Pháp. Schneider trở thành một nhân vật có thế lực, ảnh hưởng nhất đối với
giới báo chí lúc đó và thực sự trở thành “cai thầu trên lĩnh vực văn hó a , trước
hết là báo chí” [20, tr. 137]. Sau khi thành lập nhiều tờ báo bằng tiếng Pháp,
tiếng Việt ở Nam Kỳ, Schneider ra Bắc và được chính phủ bảo hộ đồng ý cho
xuất bản tờ ĐDTC với sự cộng tác của Nguyễn Văn Vĩnh xuất thân từ trường
Thông Ngôn làm chủ bút. ĐDTC được coi là một “chi nhánh” của tờ LTTV ở
Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Ở đầu trang nhất dưới tên báo ĐDTC ghi rõ dòng chữ
Pháp: “Edition spéciale du Lục tỉnh tân văn pour le Tonkin et l’Annam” (Ấn
bản đặc biệt của LTTV cho Bắc Kỳ và Trung Kỳ).
Trên thực tế, chủ trương này của chính quyền thực dân “gặp gỡ ” và tiếp
tục một trong những đường hướng của phong trào Duy tân do các chí sĩ yêu
nước dấy lên những năm đầu thế kỷ XX. Trong Văn minh tân học sách -
Cương lĩnh hành động của ĐKNT - đã dành một phần quan trọng nói về vấn
đề báo chí. Theo các nhà Duy tân, báo chí có một vai trò quan trọng trong
việc nâng cao dân trí đối với đại chúng. Một mặt báo chí phải góp phần “phá
tan được cái giới câu nệ, tối tăm”, mặt khác phải góp phần truyền bá những tri
thức mới về khoa học, công nghệ, chính trị, xã hội để “loại trừ những kẻ cố
chấp mù quáng, để gieo vào đầu óc dân ta tinh thần khoa học và óc tiến thủ”...
Việc cổ vũ, khuyến khích cho việc xuất bản và phát triển báo chí ở Việt Nam
Thiết tưởng ở kinh đô ta cũng nên đặt một tòa báo, lựa lấy một vị đại thần làm
chủ, lựa một số nhân sĩ sung vào nửa viết bằng chữ nước ta (tức chữ quốc ngữ),
nửa viết bằng chữ Hán. Bao nhiêu phép tốt, ý hay, nghề lạ, ngón khéo của Âu
Mỹ, cùng là những việc xưa nay ở nước ta, hoặc những lời và việc tìm được
trong sách và đáng nêu làm kiểu mẫu, hoặc những bài thiết thực về thời sự góp
nhặt được trong sách luận bài thi, hoặc có người đặc biệt trong đám nhân tài,
hoặc có kỹ thuật mới có lợi cho nước ngoài và do giới công nghệ mới tìm ra; thì
đều đăng hết lên báo để đồng nhân cùng biết. Giá báo thì tính rẻ, và cứ theo
ngày đã định gửi cho các quan lại lớn, nhỏ trong ngoài; và các thôn các xã mỗi
21
được biện luận và dẫn dụ rất cụ thể:
nơi một tờ. Trong dân gian nếu có ai bỏ tiền ra mua riêng thì có thưởng. Những
kẻ thừa hành phát báo nếu để chậm không đúng ngày, đúng kỳ, đúng lệ thì có
phạt. Cái lợi thu được đã đủ để chi tiêu về việc nhà báo, mà nhờ báo chương rồi
sẽ phá tan được cái giới câu nệ, tối tăm. [11, tr. 81]
Chủ trương này đã khiến chính quyền thực dân phải lo lắng. Pháp muốn
giữ độc quyền giáo dục quần chúng, để đào tạo những trí thức tương lai của
Việt Nam theo chiều hướng có lợi cho chính sách thuộc địa của họ. Việc này
Một phong trào cổ xúy cho nền văn học mới, Trung học và Đại học vừa được
thiết lập giữa những người Annam…
Sự thành lập do sáng kiến riêng này đã phát hiện trong một vài lãnh vực, sự lo
ngại hiện tại của thành phần sáng suốt trong dân chúng, mà sự tin tưởng vào
công trình giáo dục của chúng ta đã hơi bị lung lay bởi những sự đồn đãi không
đứng đắn cho rằng chúng ta muốn giới hạn sự giáo dục ấy cho dân bản xứ và
thống trị trên sự ngu dốt của họ. Mặt khác, không phải là không nguy hiểm nếu
để cho họ thành lập, ngoài sự hướng dẫn tinh thần và sư phạm, một nền giáo
dục bản xứ, tự do, và giành riêng cho thành phần thượng lưu này mà chúng ta
phải cố gắng gây ảnh hưởng càng mạnh càng tốt… [11, tr. 81]
đã được xác nhận qua lời của Beau, toàn quyền Đông Dương:
Mục tiêu của các sĩ phu yêu nước là khuyến khích những người đồng chí
hướng xây dựng báo chí, chọn chủ bút trong giới trí thức, đăng những bài thời
sự đòi hỏi những sáng kiến mới và làm giảm giá báo tới mức để cho báo chí
có thể vào tận các làng xã. Và quan trọng hơn, công cuộc Duy tân này hướng
đến mục tiêu “cứu vong cứu tồn”. Đấy là lý do ĐKNT bị đóng cửa vào đầu
năm 1908. Khoảng thời gian sau đó là một quãng trống lớn trong đời sống
chính trị, văn hóa của Việt Nam, nhất là Bắc Kỳ. Để công cuộc bình định
thuộc địa phát triển, người Pháp lập tức tìm mọi cách lấp đầy khoảng “chân
không” này. Và một trong những hoạt động thiết thực là thúc đẩy báo chí giáo
dục phát triển. Vì thế, có thể thấy việc xuất hiện ĐDTC là một tình thế khá
22
tinh tế: tờ báo hiển nhiên nằm trong chương trình thuộc địa hóa của Pháp
song ở đó lại có mạch ngầm tiếp nối của phong trào yêu nước. Việc đề cao,
chú trọng tuyên truyền và học chữ quốc ngữ của ĐKNT đã được tiếp nối
trong ĐDTC; bản thân ông chủ bút cùng với đội ngũ biên tập viên cũng bước ra từ phong trào này sau khi bị Pháp đàn áp, giải tán(2).
ĐDTC là báo tuần, ra mỗi kỳ 16 trang. Chủ bút là Nguyễn Văn Vĩnh.
Đội ngũ biên tập bao gồm: Phạm Duy Tốn, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục,
Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Tố, Trần Trọng Kim, Tản Đà…
Như hầu hết mọi tờ báo, số ra đầu tiên của ĐDTC (15-5-1913) đã cho
Tôi định trở về Saigon đã chừng 15 bữa nay, đã từ giã các bạn quen ở Hà Nội,
định về để cất nóc cái việc tổ-chức đã lâu, là việc in một tờ riêng ở Bắc-kỳ,
Trung-kỳ của báo “Lục tỉnh Tân Văn”. Tờ tiếng ấy đặt tên là ĐDTC, nguyên
biết tôn chỉ mục đích:
mục đích là đem các thuật hay nghề mới Thái-tây mà dạy phổ thông cho
người An-nam. Quan Toàn-quyền, vốn chỉ muốn dùng hết chước mà cho dân
An-nam được học, cho nên tôi đệ chương-trình lên thì ngài duyệt ngay”.
Bổn quán in ra sau đây các thơ, giây thép, và các lời viếng mà quan Toàn-quyền
và quan Thống-sứ đã tiếp được. Xem như lòng các quan an-nam phần nhiều
cũng tỏ trung nghĩa với nhà nước như vậy thì quốc gia cũng giải được cơn sầu ít
nhiều.
(2) Cũng trong thời gian này xảy ra một loạt những biến cố về chính trị, vũ trang như: vụ “đầu độc”
ở Hà Nội và vụ “xin xâu” ở Trung Kỳ năm 1908. Cao trào là hoạt động vũ trang của Việt Nam
quang phục hội ở Bắc Kỳ năm 1913. Ngày 12-4-1913, nghĩa sĩ Phạm Văn Tráng giết Tuần phủ
Thái Bình là Nguyễn Duy Hàn ngay ở bến phà Tân Đệ. Ngày 26-4-1913, ngay tại nhà hàng Hà Nội
– Hotel, nghĩa sĩ Nguyễn Văn Túy dũng cảm ném bom giết chết hai “quan tư” Pháp và làm bị thương 11 tên sĩ quan Pháp khác, thực sự chấn động dư luận. Trước tình hình đó, để trấn an dư
luận, thực dân Pháp vội vã cho xuất bản gấp tờ báo này như một cách xoa dịu dân chúng và thu hút
tinh lực của giới tinh hoa.
23
Vẫn trong số 1, bài Giải ưu, chủ bút của báo ĐDTC tiếp tục nói rõ:
Bổn quán kính tạ hai liệt quí đại-thần vô cùng, vì đã cho phép bổn-quán dịch và
in ra đây cả những nhời ấy, cho các duyệt-báo chư quân tử coi, mà hưởng cái
cuộc êm ái của hai dân, vì có sự nguy chung thành tương thân tương ái.
Trong bài Cẩn cáo, số 1 còn cụ thể hóa tôn chỉ, mục đích của tờ báo qua
Nay hãy nói đại-cương để các ngài biết.
Mỗi kỳ sẽ có một bài tổng thuật các việc trong tuần-lễ, một bài đại luận
về thời-sự; các điện-báo hoàn-cầu, các điều nên biết về việc buôn-bán.
Mục chủ-nghĩa thì cốt in những bài phổ thông các thuật hay, nghề mới,
mà chuyên nhất vào việc nông là việc cốt của dân an-nam, bàn luận về các
công-nghệ thường……….
cách bố trí những chuyên mục của ĐDTC:
Đến bài Chữ nghĩa (số 2, 22-5-1913), Nguyễn Văn Vĩnh đã nêu lại
những mục tiêu của tờ báo: Phổ biến văn hoá Tây phương, cổ động học chữ
quốc ngữ, giới thiệu kiến thức thực nghiệp như canh nông, công nghệ, tuyên
truyền cho chính phủ bảo hộ. Nghĩa là, cùng có những mục tiêu như của
ĐKNT, trừ việc tuyên truyền cho chính phủ bảo hộ.
Song song với việc nêu bật mục đích, tôn chỉ hoạt động của mình, ĐDTC
còn thường xuyên in trên mặt báo những “Cẩn cáo” của chính quyền Pháp khi
đề ra chính sách bắt buộc tất cả các trường làng và trường tổng ở Bắc Kỳ phải
mua đọc ĐDTC. Trong số ra ngày 4-1-1914 có “cẩn cáo” như sau: “Thống sứ
Bắc Kỳ ra thông tư cho các tỉnh: mỗi trường tổng sư và hương sư phải mua tờ
ĐDTC để dùng làm sách chỉ nam trong trường học”. Để thâm nhập các trường
học được dễ dàng hơn, ĐDTC mở mục Sư phạm học khoa, là mục dành riêng
cho các thầy dùng làm tài liệu dạy học. Mục này về sau càng mở rộng. Năm
1916, Nguyễn Văn Vĩnh cùng với một số biên tập viên của báo lập ra một phụ
trương của ĐDTC là “Nam học niên khóa”. Sau “Nam học niên khóa” cùng
với ĐDTC đổi thành Học báo vẫn do Nguyễn Văn Vĩnh đứng chủ nhiệm và
24
trông coi.
Là tờ báo quan trọng bậc nhất trong việc tuyên truyền cho văn minh
phương Tây, văn minh Pháp tại thời điểm đó ở Bắc và Trung Kỳ, ĐDTC
không chỉ thường xuyên có chuyên mục dạy, phổ biến chữ quốc ngữ mà còn
đẩy mạnh việc dịch (diễn Nôm) các văn phẩm nổi tiếng chủ yếu của văn học
Pháp, đăng tải các diễn văn, tin tức quan trọng của Phủ Toàn quyền (song ngữ
Pháp, Việt), đến quảng cáo, rao vặt…
Tóm lại, tôn chỉ và mục đích của ĐDTC ban đầu đi theo đường hướng
bài cựu nghinh tân, chú trọng vào những “thuật hay nghề mới” của Thái-tây
nhưng từ năm 1915 trở đi, tờ báo đã có sự chuyển dịch lớn lao về mặt nội
dung khi nghiêng về đường lối văn chương, giáo dục. Lúc này văn chương
được chú trọng với những thiên biên khảo của Phan Kế Bính, những chuyện
Tầu của Nguyễn Đỗ Mục, những trang dịch tiểu thuyết Pháp của Nguyễn Văn
Vĩnh…
1.3.2. Hệ thống chuyên mục của ĐDTC
Tôn chỉ và mục đích của ĐDTC đã được thể hiện một cách rõ nét qua hệ
thống chuyên mục trên mặt báo. Tính đến tháng 7 năm 1919, khi đổi tên
thành Học báo, ĐDTC đã có một thay đổi quan trọng về hình thức và nội
dung. Thời điểm đó là tháng 1 năm 1915. Từ lúc ra đời vào ngày 15 tháng 5
năm 1913 đến năm 1914, ĐDTC là tờ tuần báo, chỉ dày 16 trang, tuy có lúc
thêm bớt một số chuyên mục nhưng hầu như có các chuyên mục chính, ổn
định như sau:
1. Cẩn cáo
2. Thời sự tổng thuật
3. Điện báo
4. Quan báo lược lục
5. Đông Dương thời sự
25
6. Nhời đàn bà
7. Tự do diễn đàng
8. Triết học yếu lược
9. Việc buôn bán
10. Luân lý học
11. Dưỡng anh nhi pháp
12. Người đau nên biết
13. Văn chương
14. Nam văn hợp thái
15. Gõ đầu trẻ
Bên cạnh các chuyên mục cố định trong suốt thời gian hơn 1 năm đó,
trong từng số báo thời kỳ đầu (năm 1913: từ số 1 đến số 34, năm 1914: từ số
35 đến số 52) đôi khi có những chuyên mục mở thêm ra trong một vài số báo
nhất định để phục vụ cho một mục đích chính trị, xã hội hoặc tình hình thời
sự nào đó. Ngay trong số 1, ra ngày 15-5-1913 có mục “Việc trái phá” để
thông tin về việc ném bom xảy ra ngày 26-4-1913 tại “khách sạn Hà Nội” (ở
Hà Nội) và Thái Bình. Hay trong số 17, ra ngày 28-8-1913 có mục “Nước lụt”
để thông báo về tình hình các tỉnh Bắc Kỳ đang rơi vào tình trạng nước lụt
nghiêm trọng. Đôi khi là những vấn đề đưa ra sát hợp với tình hình thời sự lúc
bấy giờ và liên quan đến vấn đề sống còn của người dân An-nam là đê điều.
Trong một loạt các số báo: số 20 (ra ngày 25-9-1913) đến số báo 33 (25-12-
1913) liên tục xuất hiện mục “Luận về đê” bàn về cách thức ứng phó với vấn
đề giữ đê, phòng đê, trị đê.
(3) Tuy nhiên hiện nay trong thư viện quốc gia không lưu trữ được các số báo của năm
1915, vì thế chúng tôi không thể khảo sát kỹ lưỡng hơn các chuyên mục trong năm này.
26
Bắt đầu từ số 4 (năm 1915), ĐDTC mở thêm mục mới Một lối văn Nôm, đăng các bài văn của Tản Đà. Về sau, mục này đổi tên là Tản Đà văn tập(3).
Sau khi thay đổi khuôn khổ từ cỡ lớn thành cỡ tùng báo, đóng thành tập như
sách, ĐDTC tiếp tục ra hàng tuần. Nhiệm vụ tuần báo bao gồm: tin tức, bình
luận, thời sự, chính trị xã hội, phổ biến kiến thức phổ thông được giao lại cho
TBTV. Từ thời điểm này, ĐDTC bên cạnh mục “Sư phạm học khoa”, tập
trung cho nội dung văn chương với các chuyên mục như:
1. Pháp văn
1. Hán văn
2. Gương phong tục
3. Chuyện Hoa tiên (diễn Nôm)
4. Kim Vân Kiều (dịch sang Pháp văn)
5. Bình phẩm sách mới
6. Văn Nôm cổ
7. Văn Nôm Đàng Trong
Năm 1917, các số báo từ 109 đến 134 được sắp xếp thành:
* Tiểu thuyết Tây diễn nôm:
Truyện Miếng da lừa của H. de Balzac (NGUYỄN-VĂN-VĨNH diễn
nôm)
* Tiểu thuyết Tàu:
Đông-chu-liệt-quốc (Nguyễn-đỗ-Mục)
* Bổ quốc sử:
ĐẠI-NAM NHẤT THỐNG CHÍ (Cụ CAO-XUÂN-DỤC tổng tài, PHAN-
KẾ-BÍNH ước dịch)
* Tân-học Văn-tập:
- Văn quốc ngữ (PHẠM-VĂN-HỮU)
- Cách-trí (ĐOÀN-TRỌNG-PHAN)
- Tập đọc (NGUYỄN-ĐỖ-MỤC)
27
- Giảng nghĩa và học thuộc lòng (PHAN-KẾ-BÍNH)
- Nam-sử (TRẦN-TRỌNG-KIM)
* Văn-chương
- Pháp văn
- Hán văn (Phan-kế-Bính)
- Văn nôm
- Kim-vân-Kiều (Nguyễn-văn-Vĩnh)
* Thiệt hành điện-học
Tất cả hệ thống chuyên mục trên đều phục vụ cho tôn chỉ mục đích của
báo trong từng thời gian nhất định. Những chuyên mục của báo trong thời
gian từ 1913 đến 1914 mang đậm tính chất thông tin, hướng về mặt thông tin,
thời sự, chính trị như: “Cẩn cáo”, “Thời sự tổng thuật”, “Điện báo”, “Đông
Dương thời sự”… Thời kỳ đầu này, ĐDTC nhằm vào ý hướng chính trị rõ rệt.
Một loạt bài “Xét tật mình”, “Nhời đàn bà” trong những số đầu thể hiện tư
tưởng bài cựu nghinh tân và học theo ngón hay nghề khéo của Thái-tây. “Xét
(4) Như sự hủ bại của thôn xã trong tay những kỳ mục, kỳ nát (số 10). Hay thói tín ngưỡng lăng
nhăng, mê muội làm cho ta không có một tôn giáo nào mạnh mẽ nên không có sự tin tưởng nhiệt
thành, do đó không có sức mạnh tinh thần để làm một công cuộc gì lớn lao (số 13). Hoặ c sự nông cạn và sai lầm của cái học người mình, cái học tạo ra một giai cấp kẻ sĩ “với dăm ba chữ ngồi rung
đùi từ sáng tới chiều, no cơm ấm cật, còn gạo thổi cơm ở tay mà ra, vải may áo ở tay ai mà ra
không nghĩ đến lại còn có ý khinh người chân lấm tay bùn nông giả nãi vũ phu chi cục mịch”, tóm lại tạo ra “một hạng người ăn lường cơm, mặc lường áo của xã hội” (số 11). Và tình trạng xã hội
bất ổn, loạn tạc, áp bức thường xuyên làm cho dân quê điêu đứng và do đó sự an ninh và dân chủ
người Tây đem lại quả là một con đường giải phóng (số 12). Ngoài ra còn nhiều những tật như:
ham cờ bạc, vụng nói chuyện, huyền hồ lý tướng, gì cũng cười… Tóm lại tất cả từ chế độ, học
thuật, văn chương cho đến phong tục, tính tình ở chỗ nào so với Tây phương cũng là kém là thua,
cũng xấu, cũng hủ, cũng cần phải sửa đổi, phải học theo Tây phương.
28
tật mình” (đăng từ số 6 đến số 29 năm 1913) là để phơi trần những hủ lậu xấu xa mà người mình cần phải ý thức và từ bỏ nếu muốn học theo văn minh(4).
“Nhời đàn bà” lại là một mục khác để xét tật mình nhưng hướng riêng
vào nữ giới. Tác giả vạch ra những nết dở, thói ngang của phụ nữ ta khi đó từ trong cách ăn ở, sanh đẻ, đến phép đối xử với chồng con bè bạn(5).
Bên cạnh đó việc tuyên truyền cổ động học chữ quốc ngữ cũng rất được
đề cao. Trong từng chuyên mục, tác giả nêu lên tầm quan trọng của việc học
thứ chữ này vì suy cho cùng quốc ngữ cũng là con đường dẫn đến với văn
minh chứ không như chữ nho là “hàng rào chắn ngang đường văn minh”
(Nguyễn Văn Vĩnh viết trên báo Đăng cổ). Ông nhìn cái xã hội Việt Nam cũ
kĩ ngàn xưa, chồng chất những thế hệ hủ bại, thâm nhiễm những tư tưởng lỗi
thời, ông tìm cách đưa văn minh lại gần với người An-nam mà không còn
cách nào ngoài giáo dục. Mà giáo dục ở đây trọng tâm nhằm vào trẻ con. Ông
nói “ai muốn lo khai hóa cho nước Nam tôi tưởng nên lo cho mấy đứa trẻ đó
trước. Và nghĩ đến thế thì lại càng nên quý cái chữ quý hóa là chữ quốc ngữ,
nay mai ta khéo cổ động thì chuyển được tới chốn lưng trâu mà lên cho đến
chiếu cạp đình, cho đến nơi thư phòng người đi học, cho đến công đường ông
quan, từ gốc mà lên cho đến ngọn, mới thực là cái duy tân chính sách” (Xét
(5) Ví dụ như tục nằm bếp kỳ cục (số 9), cách nuôi con luộm thuộm (số 10), nào là thói ngồi đồng
cốt chỉ là trá hình của thị dục nữ tính (số 20), tục ăn trầu có người cho là lịch sự nhưng “cái lịch sự
ấy cũng dã man một chút” (số 49 năm 1914), nết nói bẩn nói tục “chắc hẳn không người nước nào
bằng nước An nam ta” (số 50 năm 1914)…
Để hướng vào việc tuyên truyền thuật hay nghề mới Thái tây, ĐDTC còn mở ra chuyên mục
“Thiệt hành điện học” in từ số 109 đến 134 năm 1917. Như vậy bên cạnh phần văn chương thì việc
tuyên truyền, phổ biến văn minh vẫn được chú trọng. Tuy vậy, xét đến cùng với sự cộng tác của
nhiều nhà văn, tờ báo này trên phương diện nào đó đã góp phần vào việc tài bồi cho nền văn học
nước nhà.
29
tật mình, số 7).
Từ năm 1915 trở đi các số báo của ĐDTC với các chuyên mục mang tính
chất văn chương chiếm tới 90%. Thậm chí sau này, ĐDTC chỉ đơn thuần là
một tờ báo văn nghệ.
Như vậy, trước 1913, trước khi tờ báo này ra đời, mới chỉ là giai đoạn
học quốc ngữ của người Việt. Sau 1913, với ĐDTC mới là giai đoạn dùng văn
tự ấ y để viết câu văn mới. Những cây bút sau thời gian ngắn “tập sự” ở đây
đều trở thành trụ cột hoặc thành viên tích cực của một số tờ báo sau này.
Nhóm cốt cán: Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục rẽ sang
Trung Bắc, nhất là Nguyễn Văn Vĩnh nhờ câu văn dịch mà nổi tiếng với tủ
sách Âu tây tư tưởng; Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác, Phạm Duy Tốn,
Nguyễn Trọng Thuật thì qua Nam Phong; còn Trần Trọng Kim, từ viết bài
giáo khoa trên ĐDTC sẽ tạo lập một sự nghiệp biên khảo riêng cho mình.
Như trên đã nói, ĐDTC là một phiên bản LTTV của Bắc Kỳ, song tờ báo
đã có những đổi mới đáng kể cả về hình thức lẫn nội dung để phù hợp hơn với
thị hiếu và thẩm mĩ của độc giả miền Bắc.
LTTV ra đời trong phong trào vận động Duy Tân đầu thế kỷ XX, mà ở
Nam Kỳ có tên là cuộc vận động Minh Tân. Các phong trào này, trực tiếp hay
gián tiếp đều chịu ảnh hưởng của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Giai
đoạn đầu của LTTV đúng là tiếng nói của cuộc vận động Minh Tân, hướng
theo cải cách, tự cường đang sôi động. Nội dung của báo tập trung vào: kêu
gọi và giải thích về cuộc vận động Minh Tân; chống hủ tục; tranh luận về lập
trường dân tộc; thời sự quốc tế và văn uyển, ngôn ngữ; và cổ vũ chấn hưng
dân trí, dân khí, hợp quần kinh doanh, phổ biến tư tưởng, học thuyết phương
Tây cũng như phương Đông, mà ĐDTC sau này đã tiếp tục.
Trên phương diện văn chương, LTTV cũng đã thu hút được nhiều cây
bút mới cả ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ như: Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, Trần
30
Huy Liệu, Tản Đà, Phan Kế Bính… Mặc dù vậy, LTTV cũng chỉ có tính cách
thông tin còn về văn chương vẫn ở mức giản đơn và hết sức sơ sài. Ở phương
diện này, ĐDTC đã làm mới mình hơn, bằng cách dịch rất nhiều các tác phẩm
văn học nước ngoài, giúp độc giả Việt Nam làm quen và tiếp xúc được với
văn học thế giới. Thời kỳ sau của ĐDTC, khuynh hướng văn học càng rõ nét,
với những tiểu thuyết Pháp được dịch ra tiếng Việt, những bài nói về lịch sử,
những trang “Hán văn”, “Việt Hán văn khảo”, những bài khảo cứu về luật lệ,
phong tục, tập quán, chế độ học vấn…
* Tiểu kết
Có thể nói đầu thế kỷ XX, báo chí ở Việt Nam đã có một chỗ đứng khá
quan trọng trong các sinh hoạt văn hóa. Sự chấm dứt chế độ khoa cử cùng với
việc thiết lập hệ thống giáo dục Pháp-Việt và truyền bá chữ quốc ngữ một
cách sâu rộng đã khiến số lượng báo chí Việt ngữ tăng lên đáng kể. Đội ngũ
nhà nho, trí thức chuyển sang viết văn làm báo khá đông.
Trong bối cảnh văn hóa chung đó, ĐDTC xuất hiện và là tờ báo quan
trọng của chính quyền thực dân trong suốt những năm chiến tranh thế giới thứ
nhất. Thời kì đầu, ĐDTC chủ trương “bài cựu nghinh tân”, tuyên truyền văn
minh phương Tây, phê bình lối sống phong kiến, các hủ tục cũ còn rơi rớt…
Ngoài tôn chỉ, mục đích đó thì còn phải kể đến những cống hiến nhất định của
ĐDTC đối với nền văn học nước nhà. Đây là tờ báo đầu tiên chú ý nhiều đến
văn học. Với tạp chí này, văn học chữ quốc ngữ dần trở nên mạch lạc, trôi
chảy hơn.
Với đường hướng nghiêng về văn hóa, văn học của ĐDTC, chữ quốc
ngữ bắt đầu phát triển và tiến bộ để sau này nó giữ một vai trò trọng yếu trong
nền văn học cận đại của Việt Nam. Bước chuyển này có công của những nhà
31
văn nhà báo thế hệ đầu tiên như Phan Kế Bính.
Chương 2
Sự nghiệp văn chương của Phan Kế Bính
2.1. Nhà nho Phan Kế Bính và nghề báo
2.1.1. Con đường đến với nghề bá o
Phan Kế Bính, hiệu Bưu Văn, bút danh Liên Hồ Tử, sinh năm 1875 tại
làng Thụy Khuê, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông (nay là quận Ba Đình, Hà
Nội). Ông đi thi hương, đỗ cử nhân năm 1906 nhưng không ham đường công
danh theo cá ch cũ mà hưởng ứng phong trào Duy Tân, để tâm đến những vấn
đề văn hóa văn chương của một không khí xã hội mới.
Điều đáng chú ý là suốt cuộc đời cầm bút của mình, tên tuổi Phan Kế
Bính luôn gắn với Nguyễn Văn Vĩnh. Mở đầu bằng việc ông trông coi phần
chữ Hán bên cạnh Nguyễn Văn Vĩnh cho ĐCTB (năm 1907). Rồ i sau khi dự
Hội trợ thuộc địa từ Pháp trở về, Nguyễn Văn Vĩnh lập nhà in, in cuốn sách
dịch Hán văn đầu tiên là bản dịch Tam quốc diễ n nghĩ a của Phan Kế Bính
(1909). Tới năm 1911–1912, khi Schneider ra báo LTTV ở Nam Kỳ, mời
Nguyễn Văn Vĩnh vào làm chủ bút, thì Phan Kế Bính cũng được mời cộng tác
với vai trò biên tập. Đầu năm 1913, tuần báo ĐDTC được phép xuất bản ở Hà
Nội, Nguyễn Văn Vĩnh lại được mời trở ra Bắc làm chủ bút và Phan Kế Bính
lại giữ chân biên tập đều đặn, chuyên coi mục dịch thuật “Hán văn”, biên
khảo, khảo cứu lịch sử và chế độ của nước Việt Nam xưa. Khi thêm tờ TBTV
ra đời (1915), ông phụ trách viết những bài xã-thuyết, và từ 1919 tờ ĐDTC
đổi thành Học báo, Phan Kế Bính vẫn tiếp tục làm trợ bút, viết các bài giáo
khoa về sử ký, luân lý. Ngoài ra, năm 1917, Phan Kế Bính tham gia viết bài
32
trong hai chuyên mục lớn là Sư phạm học khoa và Bổ quốc sử. Bên cạnh
chuyên mục trên Phan Kế Bính cũng có công rất lớn khi cùng với Nguyễn
Văn Vĩnh biên tập cuốn sách Quốc ngữ chỉ nam để dạy học chữ quốc ngữ.
Như vậy Phan Kế Bính giống như phần nhiều trí thức đầu thế kỷ XX đã
nhập vào công cuộc cải cách văn hóa, canh tân xã hội bằng báo chí. Và ở vị
trí người làm báo, Phan Kế Bính đã hoạt động không chỉ như một nhà văn,
mà còn là nhà sử học có hiểu biết sâu rộng cả trên phương diện học thuật và
văn hóa.
2.1.2. Phan Kế Bính với chuyên mục “Hán văn” và “Việt Hán văn khảo”
trên ĐDTC
Phan Kế Bính là một nhà nho có vốn Hán học sâu rộng, và sở trường này
đã được phát huy khi ông chuyên giữ mục “Hán văn” trên ĐDTC. Riêng
chuyên mục này, chúng tôi đã có điều kiện khảo sát được các số báo từ 51 đến
- Số 51: Tham thì thâm (Lưu tử) (có kèm theo lời phê bình của ông Thang – thôi –
Lâm)
- Số 52: Lão hay rượu (Lưu linh) (có kèm theo Lời phê bình của ông Lâm – tây –
Trọng)
- Số 53: Truyện Tô Tần và Trương Nghi (Văn sử ký)
- Số 54: Chuyện Mao – Toại (Sử ký)
- Số 55: Quách Ngôi tự tiến (Chiến quốc sách) (có kèm theo lời phê bình của ông
Lâm tây Trọng)
- Số 56: Chuyện Dự Nhượng báo thù (Chiến quốc sách)
- Số 57: - Đầy thì đổ (Tuân tử)
- Gặp may nhờ dịp (Úc ly – tử) (Có kèm theo lời phê bình của ông Ngụy –
trọng – Tuyết)
- Số 58: Tùy thời (Lưu tử) (Nhời phê bình của ông Phan – nghĩa – Thắng)
- Số 59: Bài ký sự chơi núi Bao Thiền (Vương An Thạch) (Nhời phê bình của ông
Lâm – tây – Trọng)
- Số 60: Bài ký sự đền Siêu nhiên (Tô Thức)
33
104 (năm 1916) như sau:
- Số 61: Ngoi rồi là thuốc độc (Đông lai tử)
- Số 62: Bài ký sự ở miếu Trung – tiết Báo khánh (La – cung – Tiên)
- Số 63: Bài phú Tiền Xích – bích (Lục trong cổ văn)
- Số 64: Bài phú Hậu Xích – bích (Nhời phẩm bình của người dịch)
- Số 65: Bài ký Nhạc – dương lâu (Phạm – trọng – Yêm) (Tự - Trân dịch nôm)
- Số 66: Bài tiểu – chuyện của Ngụy – văn – đế (Cổ văn)
- Số 67: Chuyện Khuất – nguyên (Sử ký) (Tự - Trân)
- Số 68: Chuyện Khuất – nguyên (Tình sử) (Tự - Trân)
- Số 69: Bài ký Đào – hoa – nguyên (Tân Đào – uyên - minh) (Tự - Trân dịch nôm)
- Số 70: Bài tựa hội Lan – đình (Nhời phê bình của người dịch)
- Số 71: Chuyện ông Vô-danh
- Số 72: Truyện trinh – tiết (Tình sử)
- Số 73: Đức Khổng – tử và ngươi Hạng Thác
- Số 74: Bài tựa tiễn Lý – nguyện về đất Bàn – cốc (Trích trong Cổ văn)
- Số 75: Chuyện Tư – mã – Tương – như và nàng Trác – văn – Quân (Tình sử)
- Số 76: Bài phú ghét con nhặng xanh (Âu – dương - Tu) (Trích lục trong Cổ văn)
- Số 77: Non – bộ gỗ (Tô lão - toàn) (Trích lục trong Cổ văn)
- Số 78: Yêu hoa sen (Chu Đôn Di) (Trích lục Cổ văn)
- Số 79: Gốc loạn bởi tự không yêu nhau (Mặc tử)
- Số 80: Bài ký – sự núi Thạch chung (Tô – đông - pha) (Trích lục trong Cổ văn)
- Số 81: Bài ký sự yết đền bà Siếu – mẫu (Hoàng – tỉnh - Tăng) (Trích lục Cổ văn)
- Số 82: Tỳ - bà – hành diễn âm (Khuyết danh)
- Số 84: Chuyện ông Bùi – Độ và một quan tham tướng (Tình sử)
- Số 85: Chuyện thôn Tam – nghĩa (Tình sử)
- Số 86: Chuyện người đàn bà dữ tợn (Tình sử)
- Số 87: Chuyện hai vợ chồng bậc cao hiền (Tình sử) (Nhời phê bình của người dịch)
- Số 88: Chuyện vua Đường Minh – hoàng và nàng Dương quí – phi (Tình sử)
- Số 89: Chuyện Ma – lặc (Tình sử)
- Số 90: Thuốc bất tử (Chiến quốc sách) (Nhời phê bình của người dịch)
- Số 91: Chuyện Tôn – thúc – Ngao (Sử ký)
- Số 92: Chuyện Nhiếp – chính báo thù cho Nghiêm Toại (Chiến quốc sách)
- Số 93: Gương vỡ lại lành (Tình sử)
34
- Số 94: Chuyện Thạch-sùng và nàng Lục – châu (Tình sử)
- Số 95: Chuyện Lạc – hòa và nàng Thuận – nương (Tình sử)
- Số 96: Bài Qui – khứ - lai – từ (Trích lục Cổ văn) (Trương – Phục – Hứa diễn nôm)
- Số 97: Bụng khoát đạt (Trích lục văn Độc – thư lạc – thú)
- Số 99: Bụng khoát đạt (Trích lục trong Độc – thư lạc – thú)
- Số 101: Lòng thanh tĩnh (Trích lục trong Độc thư lạc thú)
- Số 102: Hứng thú của người hiển đạt (Trích lục trong Độc thư lạc thú)
- Số 103: Phóng khoáng điềm đạm (Trích lục trong Độc thư lạc thú)
- Số 104: Luận về văn - chương (Trích lục trong Độc thư lạc thú)
Có thể thấy chuyên mục này đượ c dịch chủ yếu từ: Chiến quốc sách, Liệt
Tử, Mặc Tử, Hàn Phi Tử, Tình sử, Kim cổ kỳ quan, Tiền Hán thư, Sử ký và Cổ
văn… tức là những sách vở ngoài kinh điển Nho gia. Lựa chọn những câu
chuyện, áng văn thơ thiên về thưởng thức có lẽ Phan Kế Bính đã hiểu rõ thỏa
mãn nhu cầu độc giả là điều kiện tối quan trọng để giữ cho tờ báo tồn tại. Mặt
khác những câu chuyện dịch này sẽ đồng thời đảm nhiệm vai trò đưa tri thức
quá khứ đến độc giả đương thời và cung cấp văn liệu cho những người cầm
bút hiện đại, bên cạnh nhiệm vụ trau dồi câu văn quốc ngữ.
Ngoài chuyên mục “đinh” của Phan Kế Bính trên ĐDTC là “Hán văn”
thì “Việt Hán văn khảo” (đăng từ số 167 đến số 180) cũng được coi là một
chuyên mục vô cùng quan trọng, tạo nên “bản sắc Phan Kế Bính”. Mặc dù,
chúng tôi không thu thập được đầy đủ các số của ĐDTC nhưng một điều may
mắn là nội dung của chuyên mục này đã được in thành sách Việt Hán văn
khảo năm 1934 khi nó được chọn làm sách giáo khoa trong các trường phổ
thông Pháp-Việt. Do cấu trúc của luận văn sẽ có phần tìm hiểu các công trình
biên khảo của Phan Kế Bính (mục 2.2 dưới đây) nên ở phần này chúng tôi
không bàn về phong cách biên khảo mà chú ý tới vị trí của nó như một mục
35
của tờ ĐDTC.
Hai chuyên mục “Hán văn” và “Việt Hán văn khảo” giữ vai trò hết sức
quan trọng trên ĐDTC. Điều này được thể hiện rất rõ trong tương quan với
các chuyên mục khác của ĐDTC (nhất là những chuyên mục có tính văn
chương). Từ số 4 (năm 1915), ĐDTC mở thêm mục mới “Một lối văn Nôm”, đăng các bài văn của Tản Đà. Về sau, mục này đổi tên là “Tản Đà văn tập”(6).
Không phải ngẫu nhiên khi đánh giá về ĐDTC, Vũ Ngọc Phan đã nhận định:
“Người Tây học có thể thấy trong đó những tinh hoa của nền cổ học Trung
Hoa mà nước ta đã chịu ảnh hưởng tự lâu đời; người Hán học có thể thấy
của Tản Đà như sau:
* Mục “Một lối văn Nôm” (ký tên: Nguyễn Khắc Hiếu):
- Cái chứa trong bụng người (số 4 – tr. 206)
- Giá người; Giá ngày (số 5 – tr. 272)
- Luận về cách vợ chồng lấy nhau đời bây giờ; Luận đạo bố, con đời bây giờ (số 6 – tr.
336)
* Mục “Tản Đà văn tập” (ký tên: Tản Đà):
- Chơi xuân kẻo hết xuân đi (số 25 – tr. 1372)
- Thằng người ngây cưỡi con ngựa hay (số 27 – tr. 1462)
- Luận cô Kiều (số 28 – tr. 1502)
- Người ta có cái không may, cái may (số 29)
- Luận sự ghen tuông là không nên (số 32 – tr. 1680)
- Thế giới; Văn chương (số 38 – tr. 1727)
- Luận cách vợ chồng lấy nhau đời bây giờ; Luận cái sự buồn; Văn minh nại cái; Tri kỉ
(số 34 – tr. 1774, 1776)
- Bài tư tưởng về cảnh ngộ đã qua, cảnh ngộ hiện thời và cảnh ngộ về sau của người ta;
Luận sự ăn ngon (số 35 – tr. 1824)
- Luận cái bụng người tự tử chết (số 37 – tr. 1919)
- Bài giải sầu (số 38 – tr. 1968)
- Luận cơm gạo cá thịt (số 40 – tr. 2055, 2056)
- Chủ định (số 41 – tr. 2095, 2096)
- Thiên lương (số 46 – tr. 2296; số 49 – tr. 2423, 2424)
36
trong đó những tư tưởng mới của Tây phương là những tư tưởng mà người (6) Tầm Dương trong Tản Đà khối mâu thuẫn lớn đã khảo sát lại những bài trong chuyên mục này
Việt Nam ta cần phải biết rõ để mà thâu thái” [41, tr. 51]. Nền văn hóa cổ
kim, Đông Tây đó được minh chứng bằng những tác phẩm dịch, biên khảo,
sưu tầm, hệ thống tư liệu, thư mục của Phan Kế Bính hướng về nền văn học
cổ, cùng với những truyện Tàu dịch của Nguyễn Đỗ Mục, những truyện sáng
tác của Tản Đà đi từ cổ văn đến kim văn, đặt cạnh bên những tiểu thuyết Pháp
dịch sang chữ quốc ngữ của Nguyễn Văn Vĩnh… Điều này đem đến sự phong
phú đa dạng cho phần văn chương của ĐDTC. Nếu như mặt mạnh trong
chuyên mục của Tản Đà là gồm những truyện sáng tác thì Phan Kế Bính lại
dẫn dụ người đọc tìm về với những tích truyện cổ, tư tưởng của các nhà triết
học Tàu. Những câu văn dịch của ông đọc lên “đanh thép”, chắc nịch, “không
Tiếng khen là cái ngòi tỏ giãi điều hay; tiếng chê là cái máy bới móc nết xấu.
Tỏ giãi điều hay bởi cái tính tốt mà sinh ra; bới móc nết xấu bởi cái tình ghen
mà sinh ra. Tính tốt thì mong cho nên việc; tình ghen mà sinh ra. Tính tốt thì
mong cho nên việc; tình ghen thì chăm về hại người. Cho nên khen người
không nói cho thêm hay thì người nghe không được sướng dạ, chê người không
nói cho thêm xấu thì người nghe không được khoái tai (“Gươm đầu lưỡi”,
ĐDTC, số 33, tr. 267).
thể nào dịch gọn và cứng hơn được” [40, tr. 52-53]:
Trong “Việt Hán văn khảo”, những bài trích lục, trích dịch cũng gây ấn
tượng đặc biệt. Với mỗi lối thơ, lối văn, ông đều có dẫn chứng với lựa chọn
rất thích đáng và công phu. Nội dung khảo cứu, đúng như tên gọi, bao gồm:
thơ nôm, kinh nghĩa chữ nôm, như: Hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan, Khóc
ông phủ Vĩnh Tường của Hồ Xuân Hương, Hỏi tượng sành của Tam nguyên
Yên Đổ, Mẹ ơi, con muốn lấy chồng của Lê Quí Đôn, và những điệu dân ca
hành vân, lưu thủy; cho đến những bài biểu, chiếu, truyện ký, nghị luận, ký
sự, tựa, dịch từ Hán văn ra quốc văn. Tấ t cả đề u cho thấy rõ công phu của
37
Phan Kế Bí nh trong việc lên thư mục, hệ thống tư liệu cũng như dịch thuật và
trình bày hệ thống văn chương cổ vớ i độc giả tân học đang dần bị tách khỏi
văn chương truyền thống.
2.2. Các công trình biên khảo của Phan Kế Bính
Đầu thế kỷ XX khi việc học và thi chữ Hán bị bãi bỏ, lớp thanh niên mới
lớn và tầng lớp trung lưu ở thành thị hầu như không còn mối dây liên hệ nào
để gắn bó với văn hóa quá khứ. Trường Tây, tiếng Tây, nền văn minh phương
Tây đã tạo nên một không khí mới, sôi động, nhưng cũng từ đây dấy lên một
nguy cơ mới – cái nguy mất gốc mà các nhà nho yêu nước, văn thi sĩ có tinh
thần dân tộc thời đó đã luôn luôn lên tiếng cảnh tỉnh. Nguyễn Triệu Luật chì
chiết: “Cái số kiếp dân tộc này như thế đó: bao giờ có khinh tiếng mẹ đẻ, thì
bấy giờ mới đứng đắn; bao giờ có ngoại chủng hóa mình đi được thì mới là
sang, là nền! Người ta không có cái kiêu ngạo làm người Việt Nam bao giờ”
[69, tr. 28]. Lưu Trọng Lư sau này gay gắt: “xưa kia chúng ta là người Tàu,
gần đây chúng ta là những người Tây và chưa có lúc nào chúng ta là người
Việt Nam cả” [69, tr. 28]. Và để khắc phục nguy cơ này, các bậc trí thức
đương thời ý thức được hai nhiệm vụ cấp bách của “trận địa” văn hóa. Một là
làm sáng tỏ cái điều mà Nguyễn Trãi đã tuyên ngôn từ năm thế kỷ trước:
“Như nước Đại Việt ta, vốn là một nước văn hiến” (Bình Ngô đại cáo). Hai là
phải: “Làm sao mà gây được một nền văn hóa riêng cho dân tộc Việt Nam”
[69, tr. 28]. “Trận địa” văn hóa này đã thu hút được khá nhiều cây bút học vấn
sâu rộng trên các lĩnh vực. Chỉ trong vòng nửa thế kỷ mà số đầu sách biên
dịch, biên khảo đã lên tới hàng trăm. Đó là chưa kể có những bài viết, công
trình chỉ công bố trên một số tờ tạp chí có tính chất khảo cứu đậm đặc như:
ĐDTC và NPTC. Chính vì vậy nhiều nhà nghiên cứu văn học sử đã coi đầu
thế kỷ XX là “giai đoạn phồn thịnh về biên khảo”. Trong xu hướng văn hóa
38
xã hội mạnh mẽ ấy, riêng Phan Kế Bính đã góp phần vớ i cá c công trình: Nam
hải dị nhân (1909), Việt Nam phong tục (1915), Hán văn (1916) và Việt Hán
văn khảo (1918).
Ngòi bút của Phan Kế Bính, dịch thuật cũng như biên khảo, hướng hẳn
về lịch sử. Trên ĐDTC có một mục là “Bổ quốc sử” mà ông đã giữ trong
nhiều năm và đăng tải nhiều tư liệu hữu ích cho việc tìm hiểu lịch sử nước
nhà. Tiếp tục mạch quan tâm này là ấn bản sách Nam Hải dị nhân. Ở đây,
Phan Kế Bính đã tầm khảo từ các trước tác Hán văn như: Việt điện u linh,
Lĩnh nam chích quái, Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện hoặc dã sử. Sách
1, Các bậc đại anh kiệt: Trưng Vương – Bố cái Đại Vương – Đinh Tiên Hoàng
– Lý Thái Tổ - Lê Thái Tổ - Bắc Bình Vương – Gia Long.
2, Các bậc danh thần: Lý Thường Kiệt – Tô Hiến Thành – Trần Hưng Đạo –
Nguyễn Trãi – Trịnh Kiểm – Lương Hữu Khánh – Phạm Đình Trọng – Đào Duy Từ
- Trịnh Hoài Đức.
3, Các bậc danh hiền: Mạc Đĩnh Chi – Chu Văn An – Nguyễn Bỉnh Khiêm –
Đặng Đình Tướng.
4, Các bậc văn tài: Nguyễn Hiền – Lương Thế Vinh – Vũ Công Duệ - Giáp
Hải – Phạm Trấn – Đỗ Uông – Lê Như Hổ - Phùng Khắc Khoan – Lê Quý Đôn.
5, Các bậc mãnh tướng: Lê Phụng Hiểu – Đoàn Thượng – Phạm Ngũ Lão –
Nguyễn Xí – Phạm Tử Nghi – Đinh Văn Tả - Võ Tánh – Nguyễn Văn Thành – Lê
Văn Duyệt.
6, Các vị thần linh ứng: Chử Đồng Tử - Phù đổng Thiên Vương – Tản viên
Sơn thần – Lý Hiệu Úy – Tô lịch giang thần – Bạch mã thần – Liễu Hạnh công
chúa.
7, Các vị tiên thích: Từ Thức – Tú Uyên – Phạm Viên – Từ đạo Hạnh –
Nguyễn minh Không – Trần Lộc.
8, Các người có danh tiếng: Ngô Soạn – Từ nhị Khanh – Tả Ao – Đoàn thị
Điểm.
39
gồm có 56 truyện, chia làm tám chương, như sau:
Phạm Quỳnh về sau trong bài khảo cứu về văn học Pháp có so sánh công
việc ấy của Phan Kế Bính với công việc của Amyot hồi thế kỷ 16 ở Pháp đem
Danh nhân liệt truyện bằng La tinh dịch thuật ra chữ Pháp, làm cho Pháp văn
mới chớm lên đã có vẻ trau chuốt dễ ưa, được người ta thưởng thức và tin
tưởng.
Nam hải dị nhân như tên gọi gồm những câu chuyện về những nhân vật
kỳ lạ, phi thường trong lịch sử Việt Nam. Sự tích các nhân vật được kể theo
phong cách bình dị. Nhiều truyện có yếu tố hoang đường tạo nên sức hấp dẫn.
Đấy là lí do để sau này Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: “Văn cứng cỏi, lời ít ý
nhiều, là một tập về tiểu sử, về sự nghiệp các bậc anh hùng hào kiệt, chí sĩ,
cao nhân nước ta. Quyển này là một quyển danh nhân truyện ký, nhưng nhờ
cái nhan đề có hai chữ “dị nhân”, nên ông đã có thể để nguyên nhiều sự huyền
hoặc” [40, tr. 56]. Bản thân Phan Kế Bính trong lời đề tựa cho ta thấy rõ ý
Vả chăng mình là người nước Nam, mà sự tích các bậc danh giá trong nước
Nam mình không biết, chẳng hóa ra kiến thức của mình kém lắm dư? Vì vậy
chúng tôi kê cứu trong chính sử và các tạp ký tìm những truyện các người có
danh vọng, có sự tích lạ lùng, chia ra từng môn từng mục, cứ theo thể thức
trước sau mà đặt, gọi là Nam Hải dị nhân liệt truyện, trước là để lưu cái sự tích
của người trước, sau là để các văn nhân tài tử xem cho biết anh tài nước mình,
thì chẳng những là giúp được khi vui cười, mà cũng có thể tư ích trí khôn được
cho người ta nữa. Còn như những sự quái lạ, là lời tục truyền để lại, thì chúng
tôi cũng theo mà chép vào đây, hoặc có, hoặc không, tùy người xem nên lấy
nghĩa lý mà đoán, chớ cũng không dám chắc là có những việc ấy cả.
tưởng của tác giả:
Nói cách khác, cuốn sách mang mục đích kép: giáo dục và giải trí. Tuy
nhiên việc bốn năm sau, năm 1913, sách được dùng làm sách giáo khoa dạy
40
trong hệ thống trường phổ thông cho thấy tiêu đích giáo dục là vượt trội; hơn
thế nó chứng tỏ lối biên khảo của Phan Kế Bính có độ chuẩn mực đáng tin
cậy.
Với Việt Nam phong tục (1915), Phan Kế Bính chuyển sang khảo cứu
một lĩnh vực khác. Ông miêu tả lại một cách đầy đủ và kĩ lưỡng nếp sinh hoạt
vật chất cũng như tinh thần, cá nhân cũng như của làng nước, xã hội Việt
Nam xưa. Ở đây, tác giả chia làm ba thiên: phong tục trong gia đình, phong
1. Phong tục gia đình (16 mục) (7) 2. Phong tục hương đảng (34 mục) (8) 3. Phong tục xã hội (47 mục) (9)
tục hương đảng và phong tục xã hội.
Những vấn đề mà Phan Kế Bính nói đến rất tỉ mỉ và cụ thể. Công việc
biên khảo Việt Nam phong tục dự a và o sử sá ch và cả những hương ước, điển
lệ. Cách viết đơn giản, dễ hiểu nhưng lại chứa đựng nhiề u lượng thông tin cụ
thể khiến người đọc dễ tiếp thu, nắm bắt. Là một nhà nho, Phan Kế Bính đã
trình làng những kiến thức, hiểu biết quảng bác từ những đạo lý cao xa như
(7) Gồm: Cha con, anh chị em, thân thuộc, phụng sự tổ tông, đạo hiếu, lễ thọ, sinh nhật, thần hoàng,
tang ma, cải táng, kị nhật, tứ thời tiết lạp, giá thú, vợ chồng, vợ lẽ, cầu tự, nghĩa tử. (8) Gồm: Sự Thần, việc tế tự, nhập tịch, đại hội, kỳ an, văn từ văn chỉ, kỵ hậu, công quán, am chúng
sinh, ngôi thứ, viên chức, hương ẩm, khao vọng, lễ kính biếu, đăng khao, cáo sắc phong tặng, bầu
cử lý dịch, thuế khóa, binh lính, tạp dịch, hướng học, khoán ước, việc hiếu, việc cưới, việc khánh
điếu, vợ chồng ly dị, tài chính, nghĩa sương, hội chư bà, hội tư cấp, hội bách nghệ, tuần đinh, đạc
phu. (9) Gồm: Vua tôi, thầy trò, bầu bạn, quan dân, chủ khách, chủ nhà người ở, dâu gia, Nho giáo, Phật
giáo, Lão giáo, Gia tô giáo, chính trị, văn chương, khoa cử, võ nghệ, nghề làm ruộng, nghề nuôi
tằm, bách công, nghề buôn bán, y dược, bốc phệ, địa lý, toán số, tướng thuật, phù thủy, thanh đồng,
đồng cốt, cô hồn, các cách chiêm đoán, các cách chiêm nghiệm, xem ngày kén giờ, các việc kiêng
kị, các phương thuật, tính tình, thanh âm ngôn ngữ, cách ẩm thực, cách phục sức, cách cư xử, để
tóc, nhuộm răng, ăn trầu, hút thuốc lào, hát xẩm, hát ả đào, hát tuồng, cuộc tiêu khiển, cuộc cờ bạc.
41
Nho giáo, Lão giáo, đến tín ngưỡng gần gũi, bình dân như cách xem giờ, cưới
hỏi, ma chay…, cách tổ chức chính trị của guồng máy triều đình đến cách tổ
chức theo cơ cấu làng xã của Việt Nam sau lũy tre xanh. Ông trình bày hình
ảnh cuộc sống, con người Việt Nam thời xưa, từ gia đình đến thôn xóm làng
mạc, quốc gia xã hội, từ sinh hoạt vật chất đến những tín ngưỡng tinh thần.
Đặt vào hoàn cảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX đang diễn ra sự giao
thoa văn hóa, mưa Âu gió Á thì cuốn sách này là một tài liệu rất quí cho
những ai muốn nhìn lại dĩ vãng, muốn tìm hiểu phong tục xưa của nước nhà.
Sự hiểu biết ấy còn cần thiết cho cả nghiên cứu văn học sau này. Ngày nay
khi lật lại những áng văn chương cổ thường gặp những nét phong tục đối với
ta rất xa lạ. Như đọc trong bài Phú hỏng khoa Canh Tý của Trần Tế Xương:
“Thầy chắc hẳn văn chương có mực, lễ thánh xem giò; cô mừng thầm mũ áo
đến tay, gặp người đoán mộng”, muốn biết thế nào là “xem giò”, “đoán
mộng” hãy mở mục “Chiêm đoán” trong Việt Nam phong tục. Hoặc trong bài
thơ Hội Tây của Nguyễn Khuyến: “Cậy sức cây đu nhiều chị nhún, Tham tiền
cột mỡ lắm anh leo”, muốn hiểu thế nào là tục lệ leo cây đu và bám cột mỡ
hãy coi mục “Nhập tịch” sẽ thấy giải thích đủ các trò vui trong phong tục xưa
như: đánh đu, leo cột, múa cối, hát chèo… Cho đến thơ văn của thời tiền
chiến cũng còn phản ánh nhiều những nét phong tục ấy như phong tục gia
đình cổ trong nhiều tiểu thuyết của Nhất Linh, Khái Hưng, phong tục về làng
xã trong tiểu thuyết của Trần Tiêu… mà nếu không lật dở lại cuốn sách biên
khảo Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính thì độ c giả hôm nay rất khó hiểu
được mộ t cá ch thấ u đá o . Điều đáng chú ý hơn nữa là những phong tục Việt
Nam ấy tác giả không những thuật lại mà còn đưa ra những lời phẩm bình,
những lời bàn, có khi cả một bài dài, cho thấy lập trường và quan điểm của
người biên khảo. Mặc dù là một nhà nho, sống trong phong tục xưa, Phan Kế
Bính đã có một quan điểm hết sức tiến bộ và cấp tiến. Ngay trong bài tựa, ông
42
nói:
Nay nhờ nước Pháp đem những thói văn minh Âu tây rải rắc sang nước ta, ta
ngoảnh lại xem những tục cũ thì tỏ ra nhiều điều ngày trước là hay mà bây giờ
hóa ra hủ bại lắm rồi. Tuy vậy các tục cũ truyền nhiễm đã lâu không một mai
đổi ngay được. Muốn đổi thì phải lựa dần. Trước hết phải xét điều gì quá tệ mà
bỏ bớt đã rồi mới đem cái tục hay mà bổ cho cái tục dở. Còn tục gì hay mà là
quốc túy của ta thì cứ giữ lấy. Song muốn biết tục nào hay tục nào dở thì lại
phải xét gốc tích các tục ấy, vậy tôi tưởng nên kê cứu cho biết cái nguyên ủy
những phong tục của mình xem những tục mới có điều gì nên theo thì bàn tham
bác vào, để chờ có khi mà thay đổi được chăng [4, tr. 689-690].
Trong việc xem xét và phê phán ấy, Phan Kế Bính đã rất nghiêm khắc
đối với những phong tục của mình. Ông chê nhiều hơn khen. Đầu óc duy lý,
thiết thực của một nhà nho bị chinh phục bởi những gì được gọi là văn minh,
khai hóa nên đã nhìn ra được những cái dở cái kém của xã hội mình. Bên
cạnh những tục cúng lễ, bói toán đồng cốt mê tín bị lên án, tác giả còn hướng
ngòi bút vào phê phán cách phục sức và ẩm thực được coi là hết sức hủ lậu.
Trong khi phê phán một cách nghiêm khắc những hủ lậu đó, tác giả cũng
mách bảo một vài cải cách theo đường lối Âu Tây hoặc Nhật Bản. Như khi
bàn về cách phục sức của người Việt xưa: “Thử coi các nước có nước nào ăn
mặc như ta không, nước nào thì đàn ông cũng áo phải ngắn, quần phải hẹp thì
mới gọn, mới ra dáng khỏe mạnh, đàn bà thì áo phải hoa mỹ, phải xênh xang
thì coi mới đẹp mắt. Thiết tưởng cũng có một khi nên cải lương cho hợp với
trình độ văn minh hoàn cầu” [4, tr. 1052]. Về tục để tóc dài của người mình
trước kia: “Đầu để lù lù một đống tóc, vừa bẩn thỉu vừa ngứa ngáy. Thử coi
khắp hoàn cầu nước nào cũng húi đầu duy còn ta với nước Tây đen là để bới
tóc, nghĩ đến mấy chú đi gác cửa mà lại thẹn thùng cho mình” [4, tr. 1056].
Về tục cúng giỗ ông bà: “Xét như tục Âu châu, nhớ ngày húy, con cái chỉ đem
bó hoa ra thăm mả là cùng. Tục Nhật Bản cũng chuộng sự tế tự nhưng đến
43
ngày húy con cháu chỉ đem hương hoa dâng cúng mà thôi. Xem như tục các
nước văn minh ấy tuy rằng thanh đạm nhưng thực là đủ tỏ lòng thành kính mà
lại giữ được tiền của để dùng vào việc đáng dùng” [4, tr. 724]. Tác giả là một
nhà nho qua khoa cử, nhưng ông vẫn lên án Nho giáo: “Triết lý thì nhiều điều
viển vông mà khiến người ta khó hiểu. Thủ lễ thì lắm sự câu thúc mà khiến
người ta khó theo. Tính tình thì chuộng một cách êm ái hòa nhã khiến cho dân
khí nhu nhược, không được hùng dũng hoạt động như người Âu châu. Nhu
dụng thì chuộng một cách tiết kiệm, tầm thường khiến cho kĩ nghệ thô sơ,
không được tinh xảo phát đạt như các nước Thái tây. Nói rút lại thì đạo Nho
là một đạo tự trị thì rất hay mà đem đối với đời cạnh tranh thì không mạnh”
[4, tr. 904].
Phan Kế Bính hăng hái tham gia phong trào ĐKNT ngay từ những ngày
đầu, chịu ảnh hưởng rất lớn tư tưởng của phái duy tân. Cho nên không hề
ngạc nhiên khi mặc dù xuất thân từ cựu học nhưng lại có nhiều tư tưởng mới,
canh tân chia sẻ với Nguyễn Văn Vĩnh. Cụ thể là những tư tưởng trong Việt
Nam phong tục của Phan Kế Bính rất đồng điệu và xuất hiện đồng thời trên
báo ĐDTC với những bài Xét tật mình của Tân Nam Tử Nguyễn Văn Vĩnh.
Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên còn cho rằng,
việc đọc Việt Nam phong tục thú vị hơn cả Việt Nam văn hóa sử cương của
Đào Duy Anh. Thực chất, theo chúng tôi sự so sánh này có phần khập khiễng,
vì Việt Nam văn hóa sử cương là một bộ sử nên phải theo những ước thúc
riêng của lối viết sử. Tuy nhiên cảm nhận về sự thú vị của Việt Nam phong
tục mà Phạm Thế Ngũ đưa ra thì đúng với thực tế của bộ sách. Và điều thú vị
này có thể nghiêng về cách truyền đạt của tác giả? Nếu như ở Việt Nam phong
tục, Phan Kế Bính chia làm ba thiên với: phong tục gia đình, phong tục hương
đảng và phong tục xã hội và đi vào trình bày một cách kĩ lưỡng, tỉ mỉ những
phong tục đó trong từng khía cạnh nhỏ, thì Việt Nam văn hóa sử cương lại hơi
44
“khô khan”, “cứng nhắc” vì phải trình bày tuần tự về địa lý, cư dân, đặc điểm
tiến hóa của dân tộc Việt Nam, rồi trình bày về các nền kinh tế, các yếu tố
giao thông… Chỉ duy nhất có một mục ở Thiên thứ ba của cuốn sách, Đào
Duy Anh đặt thành “Phong tục” trong đó trình bày sơ lược một số tục tiêu
biểu của người Việt như: ăn uống, ăn trầu, hút thuốc lào, chè Tàu, quần áo, để
tóc, nhuộm răng, trang sức, nhà ở… và cũng do nội dung đeo đuổi ở đây là
lịch sử văn hóa, mà phong tục chỉ là một thành tố bộ phận nên những nội
dung này chỉ sơ lược, không có lời bàn của tác giả như trong Việt Nam phong
tục. Lí giải cho mục đích quyển Việt Nam văn hóa sử cương, Đào Duy Anh
… Cái bi kịch hiện thời của dân tộc ta là sự xung đột của những giá trị cổ
truyền của văn hóa cũ với những điều mới lạ của văn hóa Tây phương. Cuộc
xung đột sẽ giải quyết thế nào, đó là một vấn đề quan hệ đến cuộc sinh tử tồn
vong của dân tộc ta vậy. Nhưng muốn giải quyết thì phải nhận rõ chân tướng
của bi kịch ấy, tức một mặt phải xét lại cho biết nội dung của văn hóa xưa là thế
nào, một mặt phải nghiên cứu cho biết chân giá trị của văn hóa mới.
Quyển sách bỉ nhân soạn đây chỉ cốt cống hiến một mớ tài liệu cho những
người quan tâm về điều thứ nhất, là muốn ôn lại cái vốn văn hóa của nước nhà,
chứ không có hy vọng gì hơn nữa.
đã viết lời tựa:
Như vậy, quyển sách này có tính chất phổ thông, cho người ta biết đại
lược về nội dung văn hóa cũ của ta. Đó là mục đích chính của soạn giả. Điều
đó cũng có nghĩa là xét về các công trình khảo cứu tập tục, Việt Nam phong
tục của Phan Kế Bính là một công trình kỹ càng, thú vị, và có đóng góp hơn
cả trong số các biên khảo thời kỳ đầu thế kỷ XX về đời sống văn hóa cổ
truyền. Không những thế, tác giả Việt Nam phong tục còn rất nghiêm khắc đối
với những lề thói hủ tục lạc hậu và đồng thời còn mách bảo một số đường lối
văn minh của các nước Nhật Bản, Âu Châu để dân mình có thể noi theo.
Nhưng điều này đều vắng bóng trong Việt Nam văn hóa sử cương. Với cách
45
truyền đạt của Phan Kế Bính, vừa kĩ lưỡng, vừa tỉ mỉ lại vừa đưa ra những lời
bình luận tâm huyết đã làm nên nét đặc sắc cho cuốn sách. Điều đặc biệt toát
lên từ những cuốn sách này là những giá trị dân tộc đã được nhận chân.
Tuy nhiên công trình biên khảo mang “bản sắc” Phan Kế Bính nhất phải
đề cập đến là “Hán văn” và “Việt Hán văn khảo”. Trong các số báo từ 51 đến
104 (năm 1916) của chuyên mục “Hán văn” trên ĐDTC trích rất nhiều những
câu chuyện trong cổ văn, tích cũ của Trung Hoa. Và điều quan trọng ở đây là
sau mỗi câu chuyện, mỗi trích đoạn, thỉnh thoảng lại xuất hiện lời bình luận
của các học giả xưa và đôi khi là chính lời bình của Phan Kế Bính. Ở mỗi lời
bình, tác giả thường nêu lên quan điểm, tư tưởng của mình trước mỗi vấn đề
được đưa ra trong văn chương cổ. Với chuyên mục “Hán văn” này, Vũ Ngọc
Phan dành cho Phan Kế Bính rất nhiều lời ngợi khen. “Văn ông đã sáng, lời
lại đanh, nhiều câu đọc chắc nịch” [40, tr. 52], hay: “Thật là những lời đanh
thép, không thể nào dịch gọn và cứng hơn được” [40, tr. 53]. Và càng ở các số
sau này văn của Phan Kế Bính lại càng: “sáng suốt và giản dị vô cùng, thật là
lột được hết cái tinh thần của nền văn học cổ nước Tàu” [40, tr. 53], giúp ta
hiểu rõ hơn giá trị văn chương truyền thống của dân tộc đầu thế kỷ XX. Qua
đó thể hiện ước nguyện xây dựng “nền văn chương Việt Nam” - nền văn
chương viết bằng chữ quốc ngữ của Phan Kế Bính nói riêng và các trí thức
đầu thế kỷ XX nói chung.
Việt Hán văn khảo là công trình khảo về văn học cổ điển Việt Nam và
Trung Hoa. Mục đích của tác phẩm này, như Phan Kế Bính đã viết trong lời
Văn chương của ta phần nhiều gốc ở nước Tầu, nay ta muốn biết văn chương
của ta thì trước hết nên tham khảo văn chương của Tầu. Mà muốn biết cho đến
nơi đến chốn, cho tường tận thủy chung thì lại phải xét xem căn nguyên văn
chương ở đâu mà ra, thể cách văn chương thế nào; lý thú làm sao, kết quả được
những gì, trình độ mỗi thời biến đổi làm sao, có xét kỹ như thế mới biết hết
nguồn gốc văn chương. Ký giả vì lẽ ấy soạn ra tập Việt Hán văn khảo này, chủ
46
đề tựa là:
ý cốt nghị luận kê cứu văn chương của ta và Tầu. Trước là để lưu truyền cái
tinh thần, cái lề lối văn chương của cổ nhân, sau là để giúp thêm một chút vào
việc khảo cứu trong mục văn chương cho hậu nhân [29, tr. 2].
Xét qua các đề mục, công trình biên khảo này khá bao quát về nội dung,
vừa khảo về thẩm mỹ vừa khảo về văn thể, khảo theo lịch đại kết hợp trình
bày chi tiết ở từng lát cắt cụ thể, và các vấn đề văn chương được trình bày cả
ở Việt Nam và Trung Hoa. Sách, ngoài bài tự ngôn, chia ra 8 tiết như sau:
1. Nguyên lý văn chương
2. Thể cách văn chương
3. Phép làm văn
4. Lý thú văn chương
5. Kết quả văn chương
6. Văn chương thượng cổ
7. Văn chương trung cổ
8. Văn chương cận thời
Trong tiết 1, nói về nguyên lý văn chương, Phan Kế Bính đã phân tích và
lý giải nguồn gốc của văn chương: “Song thử xét xem căn-nguyên của văn-
chương ấy, bởi lẽ gì mà có, vì ở đâu mà sinh ra thì gọi là nguyên-lý văn-
chương”. Vì thế tác giả đã đưa ra sự lí giải: “Sở dĩ có văn-chương, một là bởi
ở tính-tình, hai là bởi ở tư-tưởng, ba là bởi ở ngôn-ngữ văn-tự, đó là ba cái
căn-nguyên trước nhất. Có ba cái căn-nguyên ấy, rồi những sự quan-cảm ở bề
ngoài đưa đến mới thành ra văn-chương vậy”. Mà “quan-cảm bề ngoài, thì lại
do ở cảnh-tượng của tạo-hóa, do ở công việc của cuộc đời, và ở cảnh-ngộ của
một mình”.
Tiết 2 và 3 nói chung luận về kỹ thuật văn chương. Trong tiết 2, Phan Kế
Bính lần lượt đi vào các thể văn như: Văn vần, văn không có vần và văn xuôi.
47
Trên phương diện văn vần thì tác giả trình bày các thể như: thơ (có ngũ ngôn
và thất ngôn và trong hai thể thơ này thì còn được chia ra làm nhiều loại với
những quy định về niêm luật khác nhau), phú, văn tế, minh, trâm, tán, ca
ngâm khúc điệu. Đối với lối không vần thì tác giả trình bày: đối liên, kinh
nghĩa, văn sách, tứ lục, hịch văn. Còn văn xuôi thì có 4 lối: nghị luận, truyện
ký, ký sự, tựa. Ở mỗi lối này đều được tác giả định nghĩa và dẫn chứng bằng
một hai bài văn Hán. Trong lối nghị luận, tác giả lấy dẫn chứng bằng Bài luận
bằng đảng của ông Âu-dương-Tu, ở văn truyện ký là Truyện “Ngũ –liễu tiên-
sinh của ông Đào-Tiềm, Truyện “Túy-ngâm tiên-sinh của ông Bạch-cư-Dị,
đối với văn ký sự là Bài ký-sự “Chơi núi Thạch-chung” của Tô-Thức”, Bài
ký-sự “Chơi núi Bao-thiền” của Vương-an-Thạch, với văn tựa là Bài tựa tập
thơ “Mai-thánh-Du” của Âu-dương-Tu”, Bài tựa “Tiễn Lý-Nguyện về đất
Bàn-cốc” của Hàn-xương-Lê.
Trong tiết 3, tác giả nêu ra 6 phương pháp để viết văn: lập định chủ ý,
cấu tứ, bố cục, lập ngôn, dụng điển, khảo cứu. Bên cạnh đó, ông còn trình bày
24 điều cốt yếu trong phép làm văn của Võ-thúc-Khanh (thần, tình, khí, cốt,
chất, phẩm, tài, thức, lý, ý, từ, cách, cơ, thế, điệu, pháp, thú, trí, cảnh, thái,
hàm dưỡng, tố, pháp cổ, độc) và 9 phép cốt yếu của Đổng-tư-Bạch (Tân,
chuyển, phản, cán, đại, phiên, thoát, cầm, ly). Ngoài ra, tác giả còn dành hẳn
một mục trong tiết 3 để luận riêng về phép làm thơ và gồm có 8 phép: bố cục,
cú pháp, chỉnh đối, nhãn-tự, điểm nhiễm, quí thanh nhã, quý ổn luyện và kỵ
trùng chữ, trùng ý, trùng điệu.
Tiết 4 và 5 nói chung về tác dụng của văn chương. Theo soạn giả, văn
chương có tác dụng đối với con người ở chỗ nó gây ra một cái lý thú (tiết 4),
một cái hay làm cho mê thích. Phân tích tỉ mỉ các khía cạnh cái hay của văn
chương, Phan Kế Bính quan niệm: “Văn-chương không phải gọt từng chữ
luyện từng câu là hay… Hay là hay ở tư tưởng cao, hay là hay ở kiến thức
48
rộng, hay là hay ở nhời bàn thấu lý, hay là hay ở câu nói đạt tình”. Đây là
quan niệm coi trọng nội dung hơn hình thức. Tuy nhiên Phan Kế Bính đã có
một hình dung không nhất phiến về vấn đề này. Theo ông văn chương hay ở
nhiều phương diện, khía cạnh: “Có cái hay kỳ cổ, có cái hay hùng kiệt, có cái
hay hồn hậu, có cái hay thanh sảng, có cái hay bóng bẩy như vầng giăng dưới
nước, như cành hoa trong gương; có cái hay man mác như gió phẩy mặt nước,
sao mọc trên giời; có cái hay rực rỡ như thêu hoa dệt gấm, có cái hay quý báu
như nhả ngọc phun châu”, “hay ở tâm khí ngay, học thức nhiều, lịch duyệt
rộng”. Bên cạnh đó, tác giả còn bàn luận về người tiếp nhận văn chương:
“Người không biết lĩnh hội, dù hay đến đâu cũng không biết là thú; mà
thường những câu của người ấy cho là hay là thú, thì lại là những câu không
thú vị gì. Còn như người lĩnh hội được, thì bất cứ câu tinh-diệu hay câu tầm-
thường, câu văn-chương cao-kỳ hay câu thiển-cận, lắm khi tự nhiên nhân câu
văn mà hội được cái thú riêng; có khi lại hội được ở ngoài câu văn nữa”.
Ở tiết 5, tác giả lại bàn về “sự kết-quả của văn-chương”. Sau khi đã đưa
ra những ý kiến kèm theo dẫn chứng trong văn chương cổ xưa, tác giả rút ra
kết luận: “Đại phàm lúc một nước nào mới lên, trăm việc đổ nát, đều phải bắt
đầu chỉnh-đốn lại, sơ-chính bao giờ vẫn trong sạch, cái cảm-tình của người ta
khi đó cũng hòa-bình, cho nên nẩy ra văn-chương cũng bình-đạm. Đến nửa
chừng thì trăm việc mỗi ngày thêm thịnh-vượng, cái cảm-tình của người ta
cũng nở thêm mãi ra, văn-chương bởi đó mà càng ngày càng hay lên. Đến lúc
nước đã suy thì trông ra toàn là những cảnh khổ não, văn-chương mới thành
ra những giọng bi ai sầu oán. Vậy thì cái hay dở đó, lại là một lẽ tất nhiên của
nhân-sự xui nên; rồi vận-hội mới nhân đó mà xoay đổi”.
Ba tiết cuối cùng 6, 7, 8 luận về lịch sử văn học Trung Hoa và Việt Nam.
Tiết 6 bàn về văn-chương thượng-cổ kể từ đời Đường, Ngu cho đến cuối thời
nhà Chu. Tác giả hướng sự tập trung chính vào ngũ kinh (Kinh Dịch, Kinh
49
Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ và Xuân thu), tứ thư (Đại-học, Luận-ngữ, Trung-
dung, Mạnh-tử), Chư tử (Lão-tử, Trang-tử, Liệt-tử, Dương, Mặc, Quản-tử,
Tôn-tử, Thân, Hàn). Tiết 7 luận về văn-chương thời trung cổ qua Hán nho
(Đổng-trọng-Thư, Giả-Nghị, Dương-Hùng, Tư-mã-Thiên), Tùy nho (Vương-
Thông (Văn-trung-Tử), Đường nho (Hàn-Dũ (Hàn-xương-Lê), Tống nho (Âu-
dương-Tu, Tô-đông-Pha, Chu-thúc-Mậu (Liêm-Khê), Trình-y-Xuyên (Tiểu-
Trình), Trương-hoành-Cừ, Triệu-khang-Tiết (Nghiêu-phu), Chu-hối-Am
(Chu-Hi), Hồ-an-Định (Ngũ-phụng), Các nhà văn-nho thi-sĩ). Tiết thứ 8 luận
về văn-chương đời cận kim: Đầu tiên là luận về văn-chương Tàu ở giai đoạn
tiếp theo nhà Tống, các sách khảo luận của Minh Thanh nho, các tiểu thuyết
diễn nghĩa Tầu: Đông Chu liệt quốc, Tam quốc, Tây Sương, Tỳ bà, Tình sử,
Liêu trai, Chinh Đông, Chinh Tây, Tây Du, Phong Thần, Thủy Hử, các nhà
thi-sĩ như Trịnh-Hậu, Chu-lâm-Tu, Tôn-thiềm-Phong…, các nhà bình phẩm
như Vương-thánh-Thán, Ngũ-hàm-Phân, Lâm-tây-Trọng, Quá-thương-
Hầu…, các nhà nghị luận như: Kỳ-Quỳnh-Sơn, Phan-Vinh… Cuối cùng bàn
đến văn chương Việt Nam đời Lý, đời Trần, đời Lê, đời Nguyễn, thơ văn chữ
Hán và các tác phẩm Nôm: Kiều, Chinh phụ, Cung oán, Phan Trần, Nhị độ
mai, Quan Âm.
Trong một khuôn khổ khiêm tốn, chừng ấy vấn đề được đề cập khiến
cho cá c nộ i dung trở nên sơ giản: Mỗi thời đại Trung Hoa được giới thiệu
bằng vài ba tên tuổi, mỗi tên tuổi được dẫn chứng bằng một bài thơ hoặc văn.
Phần “Việt văn” thậm chí còn ít ỏi hơn nữa, trong đó có 4 trang để trích dẫn
Truyện Kiều. Như vậy, Việt Hán văn khảo là một tài liệu hữu ích cho ta hiểu
hơn về nền văn chương Trung Hoa nhưng đối với văn học Việt Nam thì còn
khá sơ sài. Dẫu vậy, qua những khảo cứu nói trên soạn giả cũng thể hiện được
nguồn hiểu biết và quan niệm về nền văn chương truyền thống. Có chỗ ông
cũng chê sự “chạm phượng trổ rồng, kênh kiệu rền rĩ”, nghĩa là thứ văn
50
chương sáo rỗng, giả dối vì thế đòi hỏi người sáng tác phải “tinh công mạt
luyện”, mà muốn như thế phải học, phải noi theo những phép làm văn: 6 phép
chung cho văn chương, 8 phép riêng cho thơ, không kể 24 điều của họ Võ, 9
điều của họ Đổng. Nhất là làm thơ, phải “cân từng chữ, đo từng vần, gò từng
câu, thật là thôi sao vô tận”.
Theo ông, thơ phải bố cục cho tinh, chỉnh đốn cho mật, chữ thì nào
“nhãn tự”, nào “điểm nhiễm”, lời quý thanh nhã, quý ổn luyện, lại kỵ trùng
chữ, trùng ý, trùng điệu. Tác giả còn quan niệm, trong văn chương cái mỹ
phải luôn đi cùng với cái thú, làm cho rung động vui thích nhưng cũng cần đi
với cái thiện. Nghệ thuật văn chương lại có tính cách siêu hình. Nó là tiếng
nói của tâm linh, của thần linh, nó vạch ra vận hội của một xã hội khi thịnh
khi suy. Ngay trong cách phê bình, ở phần dậy phép làm văn, ta cũng thấy
những danh từ xưa có ý vị đặc biệt: “thần”, “tình”, “khí”, “cốt”, “phong”,
“thái”… Quan niệm thẩm mỹ tổng hợp của nho gia xưa thể hiện qua cách phê
bình hết sức giản lược, thường điểm cho mỗi thời kỳ, mỗi tác giả một câu, có
khi vài ba chữ súc tích cô đọng.
Đóng góp lớn nữa của cuốn sách là phầ n giảng về thể cách văn chương.
Phần này nằm trong khuôn khổ một tiết. Tác giả đề cập đủ các thể văn Hán,
văn Việt. Thể nào chưa có sẵn Nôm thì Phan Kế Bính lấy những dẫn chứng
minh họa bằng cách lấy những bài văn Tàu dịch ra làm thí dụ. Phan Kế Bính
giúp ta nhận ra một điều lý thú về văn Nôm: thể Thi, Phú thì văn Nôm có
nhưng ở thể Minh, Trâm, Tán, Kinh nghĩa, Văn sách, Chiếu, Biểu, Tứ lục…
thì không làm theo văn Nôm. Do đó phần nào thấy được quan niệm văn gia
xưa làm văn Việt thường chỉ để “chơi”, để tiêu dao, thưởng ngoạn và nói
những điều suồng sã hoặc bông lơn. Văn học thuật tư tưởng, văn chính thống
của nhà nước phải viết bằng chữ Hán. Một điều dễ nhận thấy nữa khi so sánh
51
văn Hán và Việt khi trong văn chương cổ của ta đã thiếu hẳn loại không vần
không đối nghĩa là văn xuôi. Văn Trung Hoa có sự góp mặt của mấy thể viết
như vậy: Nghị luận – Truyện ký – Tựa.
Trong phần biên khảo những thể Việt-Hán này đôi chỗ còn sơ lược và
chưa thật “tinh”: khi ông lấy ví dụ cho thể Chiếu, Từ khúc, hay khi khảo về
thể lục bát (phần lục bát biến thể). Ông dường như rất “kiệm lời” trong việc
khảo về lục bát biến thể vì chỉ đưa ra một vài lí giải cho người đọc hình dung
Lối này cũng dùng trên sáu dưới tám, nhưng thỉnh thoảng chữ thứ tư câu dưới,
tiếp vần với chữ cuối câu trên, tức như lối chuyện Quan-âm, chuyện Phạm-
công…
Trích lục mấy câu Quan-âm
Này sự con vua thủy thần,
Thái-tử đi tuần đội lốt lý ngư.
Đi nhầm mắc lưới vẩn vơ,
Chẳng chậm một giờ dao thớt phải sa. [29, tr. 44]
về thể này cùng với một dẫn chứng cụ thể:
Ngay cả khi bàn về thể chiếu, tác giả cũng khảo hết sức sơ lược: “Chiếu
là đời vua thi lệnh cho thiên-hạ […] Chiếu biểu theo lối tứ lục là lối cận thể,
mới từ đời Đường, Tống giở lại mới có lối ấy, nếu theo cổ-thể thì chỉ dùng lối
văn xuôi mà thôi. Chiếu biểu là văn ứng thế, khi mới tập thì lấy các việc ở
trong sử sách mà ra đầu bài, còn về sau có ứng dụng thì mới dùng đến, cho
nên không mấy khi đem làm văn chơi” [29, tr. 62]. Hoặc khi Phan Kế Bính
xếp những ca Huế vào thể cách văn Nôm. Cách xếp loại này đương nhiên nảy
ra những câu hỏi: ca Huế là một làn điệu hát xướng, nếu xếp nó vào thể văn
thì những làn điệu ca hát của các vùng miền Việt Nam tự cổ đến kim vì sao
không được nhắc đến? Tuy nhiên hạn chế nhỏ này cũng cho thấy một cách
nhìn “mở” về khái niệm văn bản văn chương – theo cách hiểu hiện đại.
Tóm lại, Việt Hán văn khảo đã cung cấp cho ta một kiến thức văn
52
chương cổ sơ giản nhưng cụ thể và khá hệ thống. Mang tính chất khảo cứu
nhưng được trình bày lớp lang và theo kiểu bình giảng, Việt Hán văn khảo
mang đậm chất biên soạn truyền thống. Công trình không chỉ có giá trị bảo
lưu văn chương truyền thống mà còn mở đường cho lối biên khảo, làm sách
giáo khoa vào thập niên tiếp theo như: Quốc văn cụ thể của Bùi Kỷ năm
1932, Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm năm 1941. Thậm chí
ở một vài chỗ, các học giả này đã “vay mượn” từ cuốn sách Việt Hán văn
khảo của Phan Kế Bính. Quốc văn cụ thể là một quyển mà Bùi Kỷ giảng rất
tường tận về các lối văn và về những cách thức làm các lối văn ấy. Sách chia
làm bốn thiên: thiên thứ nhất nói về Việt văn, thiên thứ hai nói về Hán văn,
thiên thứ ba nói về Hán Việt hợp dụng thể và thiên thứ tư nói về văn pháp. Ở
chương thứ nhất, thiên thứ nhất, Bùi Kỷ xét nhận lối gieo vần của Tàu và ta
rất là tinh vi. Và ngay trong lối gieo vần này, tác giả cũng đã đề cập đến vần
của thể lục bát. Bùi Kỷ đã có những ý kiến giống với Phan Kế Bính khi đưa ra
cách gieo vần của lục bát. Cái khác của Bùi Kỷ là ông so sánh lối lục bát với
từ khúc của Trung Quốc: “Lối lục bát khác với lối từ khúc là vì câu bát gieo
vần ở chữ thứ sáu, mà từ khúc thì gieo vần ở cuối câu. Song cứ xét nguyên về
lối lục bát, thì thấy cứ trong bốn câu lục bát, có hai câu từ khúc”. Nhưng Phan
Kế Bính đã đưa thêm điệu biến thể của lục bát với lập luận: “Lối này cũng
dùng trên sáu dưới tám, nhưng thỉnh thoảng chữ thứ tư câu dưới, tiếp vần với
chữ cuối câu trên, tức như lối chuyện Quan-âm, chuyện Phạm-công…”. Ở
điểm này, Dương Quảng Hàm trong cuốn sách Việt Nam văn học sử yếu cũng
theo Phan Kế Bính khi coi câu lục bát gieo vần xuống chữ thứ tư là biến thể
lục bát, và cũng kể các bài ca Huế làm một thể Việt văn. Ngoài ra, Dương
Quảng Hàm cũng đã mượn nhiều cách phân biệt, những định nghĩa, cả những
thí dụ, những bài dịch của ông Bưu Văn trong Việt Hán văn khảo.
Như vậy, cuốn sách đã giúp ta hiểu rõ quan niệm của tác giả cũng như
53
nho gia xưa về văn chương, và những thể cách văn chương Hán Việt truyền
thống. Có thể coi đây là một tổng kết giản lược đầu tiên về truyền thống lý
thuyết của văn học cổ Việt Nam. Và thực tế cho thấy tính mực thước, mạch
lạc đã khiến cho công trình có ảnh hưởng đến đời sống biên khảo những năm
sau đó.
2.3. Phan Kế Bính và công việc dịch thuật
Đầu thế kỷ XX, khi hệ thống giáo dục Pháp Việt xuất hiện, môi trường
cũng như điều kiện tồn tại của văn chương truyền thống ngày càng bị thu hẹp.
Tuy nhiên, trong thời gian này, lực lượng những nhà văn xuất thân từ nền cựu
học vẫn còn rất đông đảo. Theo chủ trương “điều hòa tân cựu”, “bảo tồn cổ
học”, các nhà cựu học đã tiến hành một cuộc tổng duyệt lại và bảo tồn văn
chương truyền thống bằng cách chuyển dịch sang chữ quốc ngữ. Và trong trào
lưu đó thấy hiện diện đủ mọi thế hệ cựu học, từ Nguyễn Văn Ngọc, Phan Kế
Bính, Nguyễn Đỗ Mục… Đồng thời, để đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn học
bằng chữ quốc ngữ, các nhà nho đã tích cực bắt tay vào dịch tiểu thuyết cổ
điển Trung Quốc. Nếu như ở miền Nam thịnh hành việc dịch các tiểu thuyết
võ hiệp thì ở miền Bắc lại phổ biến các loại tiểu thuyết lịch sử. Hầu hết những
bản dịch này đều được in dưới dạng sách nhưng một phần không nhỏ cũng đã
được giới thiệu trên báo chí đương thời. Trên ĐDTC, bên cạnh mục “Tiểu
thuyết Tây diễn Nôm”, có mục cho các loại “tiểu thuyết Tàu diễn Nôm”.
Đồng thời, trên tờ báo này, các trích đoạn văn chương cổ điển Trung Quốc lấy
từ các sách Chiến Quốc, Cổ văn, Mặc tử… các loại truyện ký, thơ, phú cũng
thường xuyên được giới thiệu qua các bản dịch của Nguyễn Đỗ Mục, Phan Kế
Bính. Không phải ngẫu nhiên mà Kiều Thanh Quế đã nhận định Phan Kế
Bính là tác giả dịch Hán văn xuất sắc nhất đầu thế kỷ XX với một loạt tác
phẩm như: “Hán văn” (ĐDTC), Tam quốc chí diễn nghĩa (1909), Đại Nam
54
điển lệ toát yếu (1915 – 1916), Đại Nam nhất thống chí (1916), Việt Nam khai
quốc chí truyện (1917), Đại Nam liệt truyện tiền biên (1918), Đại Nam liệt
truyện chính biên (1919)… Dưới đây xin được tập trung vào dịch phẩm Tam
quốc chí diễn nghĩa, vì mục “Hán văn” đã được nói kỹ ở trên, các bộ sử và
bản dịch thì hầu như chưa được công bố rộng rãi.
Từ đầu thế kỷ XX, khi chữ quốc ngữ mới manh nha hình thành và phát
triển ở Việt Nam thì Tam quốc diễn nghĩa đã lập tức được các nhà nho dịch
sang chữ quốc ngữ để người đọc Việt Nam làm quen với một kiệt tác của văn
học cổ Trung Quốc. Điều đầu tiên độc giả đặt ra là vấn đề: Tại sao Tam quốc
diễn nghĩa lại được chọn dịch đầu tiên chứ không phải một tác phẩm nào
khác? Nguyên nhân có thể nhiều. Do sở thích của dịch giả, do nhu cầu đọc
của công chúng, và cũng có thể do những ngẫu nhiên… Lời giới thiệu trong
bản dịch Tam quốc chí tục dịch trên NCMĐ cho thấy một trong những nguyên
cớ: “Tự cổ kiêm truyện nầy sử kia cũng nhiều, mà ai ai cũng vẫn thường ưng
xem Tam-quốc. Là vì truyện sử nào cũng đều có nhơn tài trí đổng, mà cũng
chẳng nhiều đặng cho bằng Tam-quốc.” Đó là thời điểm 1901. Tám năm sau,
1909, nhu cầu diễn dịch Tam Quốc chí sang chữ quốc ngữ lại xuất hiện. Vì
vậy quá trình xuất bản và giới thiệu Tam quốc diễn nghĩa dường như song
hành với sự phát triển chữ quốc ngữ ở Việt Nam.
Năm 1901 là cột mốc đầu tiên cho lịch trình quốc ngữ hóa Tam quốc
diễn nghĩa ở Việt Nam. Bản dịch được đăng trên NCMĐ, một trong những tờ
báo sớm nhất của báo chí quốc ngữ Việt Nam do Canavaggio sáng lập từ
ngày 1/8/1901, đều đặn trên mỗi số báo, từ số báo 1 đến số báo 150, với tiêu
đề Tam-quốc chí tục dịch. Năm 1907, nhà in Imprimerie De L’Opinion tại Sài
Gòn xuất bản Tam quốc diễn nghĩa thành 24 quyển, mỗi quyển 5 hồi; sách
không có hình minh họa.
Năm 1909, bản dịch Tam quốc diễn nghĩa của Phan Kế Bính được in ở
55
nhà in Impimerie–Express tại Hà Nội và phía trên có đề chữ “Sách ngoài dịch
Nôm”. Cuối mỗi hồi củ a bả n dị ch có cả lời bình của Mao Tôn Cương và lời
bình của người dịch. Cuốn sách có hình vẽ minh họa in thành 5 cuốn, khổ
nhỏ. Việc dịch và in bộ Tam quốc này, theo như lời tựa ở đầu sách, chính là
nhằm tuyên truyền cho việc học chữ quốc ngữ lúc bấy giờ. Lời tựa do Nguyễn
Văn Vĩnh viết có đoạn như một “tuyên ngôn” rằng: “Nước Nam ta mai sau
này, hay dở cũng ở như chữ quốc ngữ… cái điều hay cho hậu vận nước Tổ -
Việt ta ấy là nhờ như chữ quốc ngữ. Chữ đâu hay thế! Mà dễ học thay! Gốc
hai mươi ba chữ, năm dấu soay (xoay) vần, mà tiếng nước Nam bao nhiêu
cũng viết được đủ”. Như vậ y, bản dịch 1909 đã không chỉ quan tâm riêng đế n
thị hiếu của công chúng đọc mà còn tự gánh thêm một trách nhiệm xã hội văn
hóa: phổ cậ p chữ quố c ngữ , xây dự ng nề n quố c văn .
Để thấy được lối dịch tài tình, khéo léo của Phan Kế Bính, chúng tôi
trích ra đây hai bản dịch truyện Tam quốc đó là bản Tam quốc chí tục dịch do Lương Khắc Ninh dịch lần đầu tiên đăng trên báo NCMĐ(10) và bản dịch Tam
quốc diễn nghĩa của Phan Kế Bính.
Tam quốc chí tục dịch Tam quốc diễn nghĩa
... Thuở ấy quận Cự-lộc có ba anh em
... Khi ấy ở đất Cự-lộc, có một nhà ba
Trương-Giốc, Trương-Bửu, Trương-Lương,
anh em: anh cả là Trương Giốc, em hai là
tên Trương-Giốc, nguyên thi hỏng tú tài,
Trương Bảo, em út là Trương Lương.
nhóm vào rừng hái thuốc gặp ông Nam-ba-
Trương Giốc vốn là học trò đi thi hỏng,
Lảo-tiên cho ba quyển thiên thơ mà dặn
nhân thế bực mình vào núi hái thuốc. Đi
rằng: nầy là sách thái bình yêu thuật, ta cho
(10) Vấn đề dịch giả của Tam Quốc chí tục dịch thì còn nhiều tranh cãi. Một số ý kiến cho rằng Tam Quốc chí tục dịch là do Canavaggio dịch.
56
(Lương Khắc Ninh dịch) (Phan Kế Bính dịch)
ngươi để mà cứu dân độ thể, nếu ngươi làm
đường gặp một ông cụ già mặt tròn mắt biếc,
đều chẳng phải thời mắc lấy họa tai.
tay chống gậy lê, gọi Trương Giốc vào trong
một cái động, trao cho ba quyển sách và bảo
rằng: “Thuật mầu nhiệm làm cho thiên hạ thái
bình đều ở trong sách này. Ngươi nên thay
trời dạy người, để cứu lấy đời. Nếu sau này
manh tâm tà gian ắt bị ác báo”. Trương Giốc
sụp xuống lạy, hỏi họ tên thì cụ già nói: “Ta
là Nam Hoa lão tiên”, nói đoạn, hóa một trận
gió biến mất.
Được sách Trương-Giốc về ngày đêm
Trương Giốc được ba quyển sách ấy
luyện đọc, biết hô phong, hoán võ, tự xưng
đem về ngày đêm học tập, không bao lâu biết
hiệu là Thái-bình đạ o nhơn.
đủ các phép hô gió gọi mưa, tự xưng là Thái-
bình đạo nhân.
Đến tháng giêng, năm Trung Bình thứ
Nhơn vì có dịch khí lưu hành thiên hạ
nhất (184), có bệnh ôn dịch. Trương Giốc làm
thọ bịnh, Trương-Giốc thí phù cứu bịnh dắc
ra nước phép chữa bệnh, cứu được nhiều
hiệu, tự xưng là đại-hiền lương-sư. Đồ đệ
người, tự xưng là Đại hiền lương sư. Giốc có
theo nhiều hơn năm trăm, mới châu lưu qui
đồ đệ năm trăm người, đi dạo các nơi, ai cũng
đẳng đặng đồng, phân đạo dựng cờ vàng, bịt
biết phép thư phù niệm chủ. Về sau đồ đệ
khăn vàng làm ngụy gọi là giặc Huỳnh-Can.
càng ngày càng đông, Giốc bèn chia học trò
Hoàng-Cân, Trương-Giốc
tụ đảng
ra ba mươi sáu phương, phương lớn hơn một
đặng đông, mới phân làm 36 đạo binh, đạo
vạn người, phương nhỏ sáu bảy nghìn người,
lớn dư muôn, đạo nhỏ ước sáu bẩy ngàn
phương nào cũng đặt một người làm thủ lĩnh
người, đâu đâu đều có dặt tướng-soái.
xưng là đại tướng quân. Nói phao lên rằng:
“Trời xanh đã chết, trời vàng nên dựng”. Lại
Lại ngoa ngôn cùng thiên hạ rằng: nay
nói: “Đến năm giáp tí, thiên hạ thái bình”. Sai
trời xanh hầu tuyệt, trời vàng đã ra đời; đến
57
năm giáp tí thời thiên hạ đại kiệt; bảo nhà
người lấy đất thó trắng viết hai chữ “Giáp tý”
nhà đều phải lấy đất trắng mà để hai chữ
ở ngay giữa cửa. Nhân dân tám châu Thanh,
giáp tí nơi cửa cái. Trong tám châu Thanh,
U, Từ, Kế, Kinh, Dương, Duyện, Dự, nhà nào
U, Từ, Ký, Kinh, Dương, Diển, Dự, thiên hạ
cũng thờ mấy chữ hiệu: “Đại hiền lương sư
đều theo phụng thị ông Đại-hiền lương-sư.
Trương Giốc”.
Trương-Giốc sai thuộc đảng là Mả-
nguyên-Nghĩa, đem vàng bạc lụa hàng đèn
Trương Giốc lại sai đồng đảng là Mã
lén lo cùng Thái-giám Phong-Tư xin làm
nguyên Nghĩa đem vàng lụa vào kinh kết giao
nội ứng. Rồi mới thương nghị cùng hai em
với tên hoạn quan Phong Tư, để làm nội ứng,
rằng: muôn việc khó là tại nơi lòng người;
rồi bàn với hai em rằng: “Không gì khó bằng
mà nay người ta đã đều thuận tùng mình, ta
thu phục được lòng dân, nay lòng dân đã quy
không cữ đồ đại sư thời uổng lắm.
thuận về ta, nếu không thừa thế chiếm lấy
Hai em ý hiệp, đồng nhứt diện điều
thiên hạ thì thật là đáng tiếc lắm”.
binh, nhứt diện sai đệ tử Đường-Châu đem
Bên một mặt sai may cờ vàng, hẹn ngày
thơ báo cùng Phong-Tư. Đường-Châu đi
khởi sự, một mặt sai đồ đệ là Đường Châu
ngang qua tỉnh cáo biểu, vua hay đặng mới
đem thư báo cho Phong Tư biết. Nhưng
triệu đại-tướng-quân Hà-Tân dẫn binh bắt
Đường Châu lại đi thẳng đến cửa cung tố cáo.
Mả-nguyên-Nghĩa hạ sát và Phong-Tư cùng
Được tin, vua liền triệu quan đại tướng quân
bộ hạ dư ngàn đều hạ ngục. Trương-Giốc
Hà Tiến điều binh bắt chém Mã nguyên
nghe tin sự lậu, bèn tính khí binh, tự xưng là
Nghĩa và bắt cả bọn Phong Tư bỏ ngục.
Thiên-công tướng-quân; Trương-Bữu xưng
Trương Giốc thấy việc đã tiết lộ, vội vàng cử
Địa-công
tướng-quân, Trương –Lương,
binh khởi sự, tự xưng là Thiên công tướng
Nhơn-công tướng-quân. Khắp rao cùng
quân, Trương Bảo xưng Địa công tướng
chúng rằng: nay Hớn vận đã suy, có Đại-
quân, Trương Lương xưng Nhân công tướng
thanh nhơn xuất thế: đâu đâu phải thuận
quân; nói với mọi người rằng: “Nay vận nhà
58
mạng trời, phò ngôi chánh mà cộng hưởng
Hán sắp hết. Đại thánh nhân ra đời. Các
thái bình.
ngươi nên thuận mệnh trời, theo về ta để cùng
vui hưởng thái bình!”.
Dân gian bách tánh bịt khăn vàng theo
bọn Trương-Giốc mà làm phần có đặng bốn
Nhân dân bốn phương đội khăn vàng, đi
năm muôn. Thế giặc tung hoành quan quân
theo Trương Giốc có tới bốn trăm năm mươi
đều đào tị. Hà-Tần tâu vua hạ chiếu truyền
vạn người. Thế giặc dữ dội, quan quân thua
đâu đó phải phòng bị thảo tặc mà lập công.
chạy như cỏ lướt theo ngọn gió. Hà Tiến một
Rồi nhứt điện sai Trung-lang-tướng Lư-
mặt tâu vua, xin hỏa tốc xuống chiếu cho các
Thực, Hoàng-phủ-Trung và Châu-Thuyển
nơi phòng giữ; một mặt sai ba quan trung lang
đem binh ba ngàn mà ngăn giặc.
tướng là: Lư Thực, Hoàng phủ Tung, Chu
Tuấn đem quân tinh nhuệ chia ra làm ba ngả
Trước hết Trương-Giốc để binh phạm
dẹp giặc.
giới phận U-châu. Quan Thái-thú U-châu
tên là Lưu-Yên, vốn dòng Hớn-thất, hệ Lỗ-
Trong khi ấy, quân Trương Giốc có một
cung-vương, nguyên người Cảnh-lăng
toán phạm vào bờ cõi U-châu. Quan Thái thú
Giang-hạ, nghe giặc hầu đến, mới cho triệu
châu ấy là Lưu Yên người làng Kinh-lăng đất
Hương-hủy Trâu-tịnh sai tức tốc chiêu quân
Giang-hạ, tức là dòng dõi Lỗ Cung Vương
ứng dịch. Bèn ra bằng văn chiêu mộ nghĩa
nhà Hán, nghe tin quân giặc sắp đến, liền
binh.
triệu quan hiệu úy Châu Tĩnh đến bàn bạc.
Tĩnh nói:
- Quân giặc nhiều, quân ta ít, ông nên
tức khắc chiêu mộ thêm quân thì mới kịp ứng
phó.
Lưu Yên cho là phải, bèn sai treo bảng
mộ quân.
Thuở ấy tại huyện Trác-huyện có kẻ
Khi bảng treo đến Trác quận thì có ngay
59
anh hùng, người nhát học, mà tánh khoan
một vị anh hùng ra ứng mộ. Vị anh hùng ấy
hòa, ít nói, mắng giận cũng chẳng lộ ra
không thích đọc sách mấy, tính ôn hòa, ít cười
ngoài. Tằng có chí viển đại; nghe trong
nói, mừng giận không hề lộ ra mặt, vốn có chí
thiên hạ có hào kiệt thời muốn giao du.
lớn, chỉ thích kết giao với những tay hào kiệt
Hình cao tám thước, tai dài chấm vai, mắt
trong thiên hạ. Kể dáng người thì mình cao
ngó thấy tai, tay quá đầu gối, môi son má
tám thước, hai tai chảy xuống gần vai, hai tay
trắng hơn ngọc. Vẫn là dòng Hớn thất hệ
buông khỏi đầu gối, mặt đẹp như ngọc, môi
Trung-sơn-Tịnh vương cháu huyền-tôn vua
đỏ như son, tức là dòng dõi Trung-sơn Tĩnh-
Hớn-cảnh-Đề, tên là Lưu-Bị tự là Huyền
vương Lưu Thắng, cháu năm đời vua Cảnh-đế
Đức.
nhà Hán, họ Lưu, tên Bị, tự là Huyền Đức.
Thuở xưa con Tịnh -vương Lưu -Thắ ng
Ngày trước con Lưu Thắng là Lưu
là Lưu-trình thọ phong Trào-lộc Đình-hầu
Trinh, về đời vua Hán Vũ, được phong làm
đời Hớn võ-nhơn, vì chiêu lệ trong kim-chi
Trác-lộc Đinh-hầu, sau vì tội góp thiếu tiền
phải dâng vàng mà trợ tể, mắc phải vàng
cúng tế bị mất chức, vì vậy còn sót một ngành
thấp nên mất tước đình-hầu. Sau mới còn di
ở Trác-quận. Ông của Huyền Đức là Lưu
con cháu lại nơi huyện Trác-huyện. Ông nội
Hùng, cha là Lưu Hoằng. Hoằng thi đỗ hiếu-
Lưu-Bị là Lưu-Hùng cha là Lưu-Hoằng
liêm, đã từng làm quan, nhưng mất sớm.
cũng tằng thi đỗ hiếu-liêm (cử nhơn) có ra
Huyền Đức bồ côi cha, thờ mẹ rất hiếu, nhà
làm quan. Cha mất sớm Huyền-Đức mồ-côi
nghèo, phải làm nghề đóng dép, dệt chiếu
còn nhỏ, mà phụng sự mẹ chí hiếu lắm. Nhà
kiếm ăn.
nghèo đóng dép, dệt chiếu mà làm ăn.
Nhà ở thôn Lâu-tang. Mé đông-nam nhà
Huyền Đức, có một cây dâu rất lớn, cao hơn
năm trượng, xa trông từng lớp trên xòe ra như
cái tán che cỗ xe. Có người thầy tướng đi qua
trông thấy khen rằng: “Nhà có cây dâu này tất
Từ nhỏ đã có khí tượng, ngôn ngữ phi
sinh quý tử”. Lúc Huyền Đức còn thơ ấu,
thường, chú
là Lưu-Nguyên
thấy vậy
cùng trẻ con chơi dưới gốc dâu, thường vẫn
thương hay tư cấp. Thuở mới mười lăm mẹ
60
cho đi học, thường lấy bực thầy mà kính
nói rằng: “Ngày sau ta làm vua, cũng ngự cái
Trịnh-Huyền, với Lưu-Thực; lại hay giao du
xe có tàn che như cây dâu này”. Người chú là
với bọn Công-tôn-Toản. Lúc Lưu-Yên ra
Lưu nguyên Khởi nghe nói, lấy làm lạ bảo
bằng chiêu quân thời Huyền-Đức đã đặng
rằng: “Thằng bé này không phải người
28 tuổi thấy bảng treo đương đứng than dài
thường”. Nhân thấy Huyền Đức nhà nghèo,
thở vắn, bỗng đâu sau lưng có người tiếng
thường tư cấp cho. Huyền Đức, năm 15 tuổi,
vang như sấm, lên giọng nói rằng; nước nhà
mẹ cho đi học, thờ Trịnh Huyền và Lư Thực
đương loạn, đứng đại trượng phu sao chẳng
làm thầy và cùng với Công tôn Toản kết bạn
ra tài, lại đứng đó mà thở mà than?
học. Lúc Lưu Yên treo bảng mộ quân, thì
Huyền Đức 28 tuổi. Bấy giờ Huyền Đức đọc
bảng văn rồi thở dài. Bỗng thấy một người
đứng sau nói lớn lên rằng: “Đại trượng phu
Huyền-Đức chợt ngó lại thấy người
như ông, không ra giúp nước, đứng thở dài
cao tám thước, đầu beo, mắt lộ tròn hính,
đó, được việc chi?”
hàm én râu hùm, tiếng nói tợ sấm to, bộ bồn
chôn như ngựa hăng chạy. Huyền-Đức thấy
Huyền Đức ngoảnh lại nhìn: người ấy
người tướng mạo dị thường, mới hỏi tánh
mình cao tám thước, đầu như đầu báo, hai
danh. Xưng rằng: họ Trương tên Phi, tự là
mắt tròn xoe, hàm én, râu hùm, tiếng vang
Dực-Đức; vẫn nhà có ăn, làm hàng heo, bán
như sấm. Huyền Đức thấy dung mạo khác
rượu quán, Huyền-Đức phán rằng: “Ta vốn
thường, liền hỏi họ tên. Người ấy nói:
dòng Tôn-thất, họ Lưu tên Bị: nghe Hoàng-
Cán giấy loạn cũng muốn ra mà phá tặc an
- Tôi họ Trương tên Phi, tự là Dực Đức,
dân, nhưng mà ngặc không đủ sức nên mới
ở Trác-quận đã lâu đời. Gia tư có ít ruộng,
than dài”. Trương Phi mới nói: “Tôi đây
vườn, trại và mở ngôi hàng bán rượu, thịt chó.
sẵng có của. Vậy thời hai ta đồng hiệp lực
Tôi chỉ thích kết giao với hào kiệt trong thiên
chiêu mộ hương đồng mà lập công”
hạ. Vừa rồi thấy ông xem bảng văn rồi thở
dài, nên tôi mới hỏi.
Huyền Đức nói:
61
- Tôi đây vốn dòng dõi nhà Hán, họ Lưu
tên Bị; nay thấy giặc khăn vàng nổi loạn, có
chí ra dẹp giặc yên dân, chỉ hiềm sức mình
không nổi, nên mới thở dài.
Phi nói:
- Nhà tôi gia tư cũng khá. Ý muốn chiêu
mộ hương dũng, cùng ông mưu đồ việc lớn,
ông tính sao?
Huyền-Đức mừng, mới rủ nhau vào
làng kiếm quán uống rượu. Đương uống
Huyền Đức mừng lắm. Hai người bèn rủ
rượu tại quán, thời phúc đâu có một người
nhau vào hàng uống rượu. Đương đánh chén,
ghé xe vào quán kêu đem rượu uống, đặng
bỗng thấy một người cao lớn lực lưỡng, đẩy
có nhập thành đầu quân. Huyền-Đức mới lại
một cỗ xe đến cửa, vào hàng ngồi phịch
mời đồng tọa hồi tánh danh. Xưng rằng họ
xuống, gọi nhà hàng:
Quan tên Võ, tự là Thọ-Trường sau cải lại là
Vân-Trường Nguyên người giải lương quận
- Rượu mau lên! Để ta uống xong còn
Hà-đông. Nhơn vì giết kẻ hào gia ỷ thế hiếp
vào thành ứng mộ!
người, nên phải tị nạng lưu lạc Giang-hồ đã
năm sáu năm. Nghe xứ này có chiêu quân
Huyền Đức nhìn xem thấy người ấy
phá tặc, nên tìm ra ứng mộ, Huyền Đức
mình cao chín thước, râu dài hai thước, mặt
cũng phân tổ chí minh. Vân-Trường mừng,
như hai quả táo chồng lên nhau, môi như tô
mới diều dắc nhau về nhà Trương-Phi, mà
son, mắt phượng mày tằm oai phong lẫm liệt.
cọng nghị đại sự. Phi mới bàn: “Sau tôi có
Huyền Đức bèn mời cùng ngồi và hỏi họ tên.
một vườn đào đương đơm bông lô xô. Vậy
Người ấy nói:
sáng mai ba ta ra đó tế cáo thiên-địa kết
- Tôi họ Quan tên Vũ, tự là Trương
nghĩa đệ huynh, rồi sẽ đồng tâm hiệp lực mà
Sinh, sau đổi là Vân Trường, người làng Giải-
cữ đồ đại sự”. Huyền-Đức, Vân-Trường đều
lương, tỉnh Hà-đông. Nhân thấy có đứa thổ
62
y hiệp.
hào ỷ thế hiếp người tôi bèn giết chết rồi đi
trốn tránh, đã năm, sáu năm rồi. Nay nghe ở
đây có lệnh chiêu binh phá giặc, nên tôi đến
ứng mộ.
Huyền Đức cũng đem chí mình ra nói,
Vân Trường rất mừng. Bèn cùng đến trại của
Trương Phi bàn tính việc lớn. Phi nói:
- Sau trại tôi có một vườn đào đang nở
hoa đẹp lắm; ngày mai nên làm lễ tế trời đất ở
trong vườn, ba chúng ta kết làm anh em, cùng
lòng hợp sức, sau mới có thể tình được việc
lớn.
Huyền Đức, Vân Trường đều nói:
- Như thế tốt lắm.
Qua ngày sau đến vườn đào sát hải-
ngưu, bạch mã, hương đèn tế vái, đồng lập
Ngày hôm sau sửa soạn trâu đen ngựa
thệ rằng: “Nay ba tôi Lưu-Bị, Quang-Võ,
trắng và các lễ vật ở trong vườn đào, ba người
Trương-Phi, tuy là dị tánh, nhưng nguyện
đốt hương lạy hai lạy thề rằng:
kết huynh đệ đồng tâm hiệp lực cứu khốn
phò nguy, trước là trả nợ cho quốc-gia, sau
- Chúng tôi là Lưu Bị, Quan Vũ, Trương
đặng phò an lê thứ. Chúng tôi chẳng cầu
Phi, dẫu rằng khác họ, song đã kết làm anh
sanh một năm, một tháng, một ngày; mà chí
em, thì phải cùng lòng hợp sức, cứu khốn phù
nguyện đều thác một ngày một tháng một
nguy, trên báo đền nợ nước, dưới yên định
năm. Xin Hoàng-thiên hậu thổ chứng thừa
nạn dân. Chúng tôi không cần sinh cùng ngày,
tấm lòng. Ai mà bội nghĩa vong ân, dầu
cùng tháng, cùng năm, chỉ muốn chết cùng
chẳng mang người hại, thời trời cũng giết
năm, cùng ngày, cùng tháng. Hoàng thiên hậu
63
tru”.
thể, soi xét lòng này. Nếu ai bội nghĩa quên
ơn thì trời cùng giết.
Tế rồi Huyền-Đức làm anh cả. Quang-
Võ thứ hai, còn Trương-Phi lãnh phần em
Thề xong, tôn Huyền Đức làm anh cả,
út. Mới ra trâu thiết rượu cho mời dõng sĩ
Quan Vũ thứ hai, Trương Phi em út. Mổ trâu
trong làng hơn ba trăm tựu tại Điền-viên say
đặt tiệc, tụ họp dũng sĩ trong làng được ba
vui một tiệ c.
trăm người, cùng đến vườn đào uống một bữa
rượu thật say.
Hai bả n dị ch có nhiề u chỗ khá c biệ t . Có thể nghĩ đế n khả năng hai dị ch
giả đã dựa trên hai nguồn tư liệu khác nhau , bở i Tam quố c có rất nhiều phiên
bản. Cũng có thể mỗi dịch giả đã mang một quan niệm khác nhau về mức độ
phóng dịch , tướ c lượ c, dẫ n đế n nhữ ng chênh lệ ch về độ dà i và cá c chi tiế t ở
từ ng dị ch phẩ m . Hơn nữ a , so vớ i bả n dị ch củ a Phan Kế Bí nh , Tam quốc chí
tục dịch dùng nhiều từ địa phương của Nam Kỳ, bở i nó nhắ m đế n công chú ng
đọ c đị a phương nà y . Tuy nhiên chỗ khá c biệ t quan trọ ng nhấ t giữ a hai bả n
dịch là độ đậ m đặ c củ a từ ngữ cổ và Há n ngữ trong bả n 1901, lố i diễ n đạ t
nghiêng nhiề u hơn theo kế t cấ u cú phá p hiệ n nay củ a bả n 1909. Có lẽ đó là lý
do chí nh mà bả n dị ch củ a Phan Kế Bí nh đượ c coi là “khuôn mẫu cho tất cả
các truyện dịch” [40, tr. 49] lúc bấy giờ và thậm chí sau này vẫn được coi là
mẫ u mự c cho cá c bả n dị ch củ a Tam quố c.
Cuối năm 1959 và đầu năm 1960 nhà xuất bản Phổ Thông tại Hà Nội
cho in Tam quốc diễn nghĩa thành 13 tập, vẫn dựa trên bản dịch năm 1909
của Phan Kế Bính, nhưng do Bùi Kỷ hiệu đính khá nhiều bằng cách đem đối
chiếu với nguyên bản tiếng Trung Quốc mới nhất vào thời điểm ấy do Nhân
dân Văn học xã Bắc Kinh xuất bản năm 1958. Đến năm 1972, Nhà sách Khai
64
Trí ở 62 Lê Lợi, Sài Gòn cũng xuất bản Tam quốc diễn nghĩa theo bản dịch
của Phan Kế Bính in năm 1909(11). Năm 1987, Nhà xuất bản Đại học và Trung
học chuyên nghiệp cho in bản dịch Tam quốc diễn nghĩa dựa vào bản dịch in
năm 1959 của nhà xuất bản Phổ Thông (vẫn là bản dịch của Phan Kế Bính),
bản dịch này chia làm 8 tập, ngoài ra còn có bản đồ và bảng đối chiếu địa
danh xưa và nay. Ngay năm sau 1988, Nhà xuất bản Đại học và Giáo dục
chuyên nghiệp lại nối bản và Nhà xuất bản Giáo dục lại cho “in lần thứ hai”
vào năm 1996. Đặc biệt đầu năm 2007, Nhà xuất bản Văn học cho in lại theo
bản 13 tập (cả phần tranh) của Nhà xuất bản Phổ Thông năm 1959 do Phan
Kế Bính dịch và Bùi Kỷ hiệu đính, bìa cứng có hai loại khổ để người đọc lựa
chọn (khổ nhỏ 4 tập, khổ lớn 2 tập) còn in kèm 40 trang phụ bản màu với hơn
100 các nhân vật và kèm theo bản đồ màu khổ lớn. Bản in này còn in y
nguyên lời giới thiệu của Nhà xuất bản Phổ Thông năm 1959 và Lời nói đầu
của bộ biên tập Nhân dân Văn học Xuất bản xã Bắc Kinh tháng 3 năm 1959(12). Cũng trong lần xuất bản này còn có mục Hành trình truyện Tam
Quốc ở Việt Nam của Yên Ba (từ trang 30 đến 38) thống kê khá tỷ mỉ về
những lần dịch và xuất bản ở Việt Nam. Quá trình lưu hành, “nhuận sắc” bản
dịch Tam quốc đó cho thấy giá trị và ý nghĩa quan trọng của bản quốc ngữ
hóa mà Phan Kế Bính đã thực hiện. Am hiểu vốn văn hóa cổ, công phu lao
động và khả năng chuyển dịch ngôn ngữ văn chương chính là ba yếu tố làm
(9) Ở miền Bắc, sau bản in năm 1909 của dịch giả Phan Kế Bính, tròn 40 năm sau, năm 1949 nhà in Phúc Chi ở 95 Hàng Bồ, Hà Nội mới in tiếp Tam quốc diễn nghĩa, người dịch là Hồng Việt, bản này trình bày hai cột như trên báo, tổng cộng lên tới hơn 2000 trang. (12) Trong số tất cả các bản dịch trước đó thì đây là bản dịch được hiệu đính kỹ lưỡng nên rất trau chuốt, toát lên được cái thần của Tam quốc nhất. Đặc biệt tập 1 có đăng lời nói đầu của bộ biên tập Nhà xuất bản Nhân Dân Văn Học Trung Quốc dài tới 35 trang, phân tích khá kỹ nội dung truyện và lần đầu tiên có in bài từ mở đầu truyện do cụ Bùi Kỷ dịch với những dòng hào sảng, cùng với những tranh minh họa do hai họa sĩ Trung Quốc Từ Chính Bình và Từ Hoằng Đạt thể hiện thật sống động như trong một cuốn phim.
65
nên thành công của bản dịch Phan Kế Bính.
2.4. “Tiể u thuyế t gia” Phan Kế Bí nh
So vớ i biên khả o , dịch thuật , sáng tác dường như không phải là công
việ c Phan Kế Bí nh chuyên tâm . Ông để lạ i duy nhấ t mộ t tá c phẩ m Hưng Đạo
đại vương. Tác phẩm xuấ t hiệ n và o năm 1912, sau Nam Hả i dị nhân và Tam
quố c diễ n nghĩ a . Có lẽ truyện về cá c bậ c dị nhân đượ c công chú ng chà o đó n
và kinh nghiệm dịch thuật cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Trung Hoa đã khí ch lệ
Phan Kế Bính thử bút viế t mộ t tá c phẩ m mớ i về danh nhân đấ t Việ t . Mặ t
khác, như đã đề cậ p ở trên , chuyên mụ c Bổ quố c sử của ĐDTC là công phu
dịch bộ quốc sử Đại Nam nhất thống chí của Phan Kế Bính . Mặ c dù việ c
công bố bả n dị ch muộ n hơn cuố n tiể u thuyế t, nhưng có thể chắc chắn rằng
Phan Kế Bính đã có một hiể u biế t sử liệu dà y dặ n . Theo phỏ ng đoá n củ a
chúng tôi , tiểu thuyết Hưng Đạo đại vương đã ra đời từ nguồn cảm hứng và
sử liệu đó.
Khác với Nam Hải dị nhân là một biên khảo dự a theo cá c môn mụ c liệ t
truyệ n, Hưng Đạo đại vương là một cuốn tiểu thuyết chương hồi được xây
dựng theo kết cấu của Hoàng Lê nhất thống chí (Việt Nam), Tam quốc, Đông
chu… (Trung Quốc). Cuốn tiểu thuyết được chia thành 17 hồi, viết về cuộc
đời của Trần Hưng Đạo, một anh hùng dân tộc thời Trần, từ khi ra đời cho
đến khi “nghìn thu hiển khánh”.
Ngay trong Nam Hải dị nhân cũng có kể về Hưng Đạo Vương, tuy nhiên
cách kể ở đây hết sức sơ lược, ngắn gọn như kiểu tóm lược lại cuộc đời của
một vị anh hùng. Với tiểu thuyết Hưng Đạo đại vương Phan Kế Bính đã thuật
dựng lại một cách tỉ mĩ, kĩ lưỡng cuộc đời của một vị tướng có nhiều công
trạng với dân tộc. Một vấn đề đặt ra là việc tiếp thu sử liệu của Phan Kế Bính
đến đâu trong khi viết tiểu thuyết này và mức độ hư cấu đến đâu so với các sử
gia xưa ghi chép lại. Để thấy rõ hơn điều này, ta có thể đặt trong tương quan
66
với Đại Việt sử ký toàn thư. Đây chắc hẳn là nguồn sử liệu quý báu mà trong
quá trình viết cuốn Hưng Đạo đại vương, Phan Kế Bính không thể không
tham khảo. Nếu đem đối sánh ta dễ dàng nhận ra những chi tiết trong Hưng
Đạo đại vương đã lấy từ Đại Việt Sử ký toàn thư. Ngay ở phần nêu tiểu sử của
Hưng Đạo Vương, trong Đại Việt Sử ký Toàn thư chỉ đơn giản dừng lại ở việc
kể rằng có một thầy tướng số nhận định về Trần Quốc Tuấn: “[Người này] ngày sau có thể giúp nước cứu đời”(13) nhưng trong tiểu thuyết của Phan Kế
Bính điều này đượ c đặc tả bằng việc tạo dựng giấc mơ của Vương phu nhân:
“Trước đây phu nhân mơ thấy một ông thần toàn vàng, tướng ngọc, tự xưng
là Thanh Thiên Đồng Tử, phụng mệnh Ngọc Hoàng ban cho kiếm ấn và đủ
tam tài, ngũ bảo, xuống xin đầu thai nhân thế. Lúc Ngài sinh ra, gió thơm, khí
sáng rực nhà” [28, tr. 23].
Một chi tiết thể hiện được phong thái uy nghiêm, dũng cảm của Hưng
Đạo Vương là việc tiếp sứ phương Bắc. Ở Đại Việt Sử ký Toàn thư chi tiế t
này chỉ dừng lại ở việc đại vương bị đâm vào đầu, máu chảy ròng ròng mà
vẫn bình thản nói chuyện nhưng trong cuốn tiểu thuyết của mình, Phan Kế
Bính thêm và o sự việc hai tướng dưới trướng của ngài là Dã Tượng, Yết Kiêu
được chứng kiến cảnh tượng này, xảy ra xô sát với lính giặc, mặc dù vậy
Hưng Đạo vẫn ân cần dạy rằng: “Chúng nó tuy vô lễ, nhưng mình phải lấy
quân làm trọng” [28, tr. 52].
Hay ở một loạt các chi tiết khác cũng cho thấy việc Phan Kế Bính đã
dùng chất liệu của lịch sử nhưng có thêm thắt yếu tố hư cấu ở trong đó để làm
bật nổi hơn vai trò, sức mạnh, tài năng cũng như sự đức độ nhân từ của Hưng
Đạo Vương. Để thể hiện hết uy lực, tài ba của vị tướng này đến độ cả m độ ng
cả thần tiên, tác giả đã thêm chi tiết hai cô con gái của Đại Vương dạo chơi,
(13)http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n1ntn4ntn31n343tq83a3q3m3 237n1nvn (Bản Kỷ toàn thư Q6 (a)
67
gặp Tiên mẫu trao cho thanh kiếm thần, giúp cho việc trừ yêu thuật trong khi
đánh giặc. Sự việc kì lạ này đã dẫn tới việc hư cấu thêm chi tiết Bá Linh là
giặc phương Bắc, theo Thoát Hoan qua xâm lược nước ta, có rất nhiều yêu
thuật trong người, đến khi bị bắt, Hưng Đạo đại vương phải sử dụng đến
thanh kiếm thần này mới chém đầu được hắn…
Không chỉ dừng lại ở việc hư cấu này, tác giả còn đặc tả một loạt các tì
tướng giỏi của Hưng Đạo như Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Chế Nghĩa… đều có
tài năng phi thường, xuất chúng và đều được Hưng Đạo Vương tin yêu. Hay
như chi tiết tì tướng của Hưng Đạo là Yết Kiêu đã dùng thanh thần kiếm của
chủ tướng để giết yêu thần cũng không có trong Đại Việt Sử ký Toàn thư:
“Tháng Sáu năm ấy, đang tự nhiên trời tối ngay lại. Mây kéo đen xì, sóng gió
nổi lên ầm ầm. Thượng Hoàng, vua và các tướng không biết tại sao mà thế.
Hưng Đạo Vương mới sai Yết Kiêu cầm thanh Thần kiếm xuống sông, xem
có yêu thần thì cứ giết. Dưới sông bấy giờ còn đương sóng to gió dữ. Yết
Kiêu thấy vô số những ba ba, giải, thuồng luồng, rắn to, cá nhà táng, cá ông
voi… Các giống thủy tộc vây quanh mình Yết Kiêu chực ăn thịt. Yết Kiêu
vung kiếm chém yêu quái chết rất nhiều. Sau một hồi, thấy con thuồng luồng
rất to lao đến, Yết Kiêu đuổi theo định giết, nhưng con vật ấy đã biến mất.
Yết Kiêu bơi lên mặt nước, rồi nhảy vào thuyền. Trước đó các tướng tưởng là
Yết Kiêu đã bị yêu quái ăn thịt rồi. Bỗng tự nhiên sóng gió yên, mặt nước đỏ
toàn những máu. Thấy Yết Kiêu ai cũng vui mừng” [28, tr. 142]. Đặc tả sức
mạnh của tì tướng là cách khác bộc lộ uy lực, tài năng của Hưng Đạo.
Bên cạnh đó , tâm lý , tính cách nhân vật Trần Hưng Đạo – nhữ ng điề u
không thể đò i hỏ i có mặ t trong cá c bộ sử – đã được tiểu thuyết gia chú ý . Sử
liệ u đã ghi lạ i vắ n tắ t tì nh thế vì xã tắc giang sơn , vị tướng này sẵn sàng dẹp
bỏ mối hiềm thù cá nhân sang một bên , toàn tâm toàn sức dốc lòng phụng sự
theo đúng đạo nghĩa vua tôi . Mượn chi tiết nà y trong Đại Việt Sử ký Toàn thư,
68
Phan Kế Bính mô tả Hưng Đạo Vương hộ vệ xa giá vua ngày đêm không lúc
nào rời nhưng trên tay thường cầm một tay trượng đầu bịt nhọn. Các quan vốn
có người chưa tin bụng Ngài vì nghĩ Ngài sẵn có tị hiềm với vua thì biết đâu
có ý thống lĩnh quốc gia. Và để gạt bỏ đi dị nghị này, Ngài liền rút cái đầu sắt
nhọn ở cây trượng bỏ đi, chỉ cầm trượng đầu bằng. Quần thần bấy giờ mới
yên tâm. Không chỉ là những cử chỉ, hành động mà đôi khi qua lời nói cũng
Khi vua tới Vạn Kiếp cho đòi Hưng Đạo Vương đến hỏi rằng:
- Trẫm nghe trong truyện Mạnh Tử có nói chinh chiến thì dân điêu linh? Hay là
trẫm hãy hàng đi để cứu mệnh muôn dân?
Hưng Đạo Vương tâu rằng:
- Bệ hạ nghĩ vậy thật là nhân đức. Nhưng còn tôn miếu, xã tắc thì sao? Nếu Bệ
hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu tôi trước đã rồi sẽ hàng. Đầu tôi còn thì xã tắc cũng
còn, xin Bệ hạ chớ lo”. Lần khác khi thấy thế giặc mạnh, vua hỏi ý kiến của Hưng
Đạo Vương thì lời lẽ ứng đối của Ngài rất kiên quyết: “Được thua là sự thường. Xin
Bệ hạ cứ kiên tâm. Tôi sẽ liệu cơ, tùy thế mà chống trả. Không sợ gì cả. [28, tr. 97-
98]
thể hiện rất rõ tấm lòng của Ngài với xã tắc dân tộc:
Mộ t chi tiế t khá c : Cha Ngài là An Sinh Vương vốn có tị hiềm với vua
Thái Tông. Khi sắp mất, cha Ngài căn dặn: “Con làm thế nào lấy được thiên
hạ cho cha, thời cha chết mới nhắm được mắt” [28, tr.116]. Mặc dù vậy, Ngài
vẫn hết lòng thờ vua, luôn giữ tấm lòng trung quân ái quốc mà không có một
chút tư lợi nào khác. Chính vì thế khi người con thứ là Quốc Tảng bày tỏ suy
nghĩ của mình: “Ngày xưa vua Thái Tổ nhà Tống vốn là một ông lão làm
ruộng, còn biết thừa cơ tranh cướp lấy thiên hạ. Huống chi bây giờ cha đang
nắm cả quyền binh ở trong tay, việc gì chẳng lấy” [28, tr.229], Ngài đã hết
sức phẫn nộ, tức giận. Nếu không có sự can ngăn của các tướng, Ngài đã
chém đầu con trai mình vì cho là loài bất trung, bất hiếu.
Vì tiểu thuyết viết về một bậc tướng tài , nên chiế n trậ n là nộ i dung đượ c
69
tác giả rất quan tâm . Từng trận đánh với những mưu lược, cách bày binh bố
trận được miêu tả một cách tỉ mỉ, kĩ lưỡng trong Hưng Đạo đại vương. Cụ thể
khi đương đầu với Bá Linh, là quân của Thoát Hoan có nhiều yêu thuật thì
Trần Hưng Đạo cũng nghĩ ra được nhiều kế hay, khi giặc dàn thế trận, dùng
yêu thuật làm cho quân ta thất đản kinh hồn thì Hưng Đạo đã cho dùng uế vật
như máu chó, máu dê để chống lại, hay khi đi bắt Bá Linh giỏi tàng hình lẩn
trốn thì Hưng Đạo đã đưa chỉ ngũ sắc cho Yết Kiêu nhằm tóm gọn hắn… Đây
đều là những chi tiết mà hầu như không có mặt trong những bộ sử chính
thống như Đại Việt Sử ký Toàn thư.
Có thể nói, trong tiểu thuyết Hưng Đạo đại vương của Phan Kế Bính,
hình ảnh Trần Hưng Đạo được khắc họa trong cái nhìn rất đa chiều. Không
chỉ là mối quan hệ lớn với vua, với xã tắc mà còn là những mối quan hệ rất
đời thường, chủ-tớ, cha–con, vua–tôi… Mỗi một hành động, một sự việc của
Trần Hưng Đạo trong Hưng Đạo đại vương được kể, được nhìn nhận có phần
kĩ lưỡng và mang yếu tố chủ quan hơn những bộ sử chính thống. Trong mỗi
sự kiện lịch sử, hình ảnh người anh hùng luôn luôn nổi bật.
Cũng như Nam Hải dị nhân, Hưng Đạo Đại Vương chưa thoát khỏi
phương thức thuậ t sự của văn học Trung đại , nhưng ý nghĩa cách tân của tá c
giả là ở chỗ đã viết lại những câu chuyện đó bằng chữ quốc ngữ , một thứ văn
tự còn đang trong giai đoạn tập rèn diễn đạt . Và thông qua hình ảnh vị tướng
tài ba, có nhiều công trạng đóng góp cho lịch sử dân tộc, tiểu thuyết Hưng
Đạo đại vương không chỉ đơn thuần đọc để mà đọc trong hoàn cảnh đất nước
lúc bấy giờ. Không hoàn toàn mang tính chất “dị nhân” như Nam Hải dị nhân
với nhữ ng chi tiết hư cấu, bên cạnh cảm hứng dân tộc còn mang tính giải trí
rất rõ trong thị hiếu người đọc. Đọc Hưng Đạo đại vương của Phan Kế Bính
thấy được nguồn cảm hứng dân tộc rất đậm đặc ở trong đó.
Thời kì này, các ký sự lịch sử cũng như tiểu thuyết lịch sử xuất hiện rất
70
nhiều tạo nên một hiện tượng rất mới và thú vị. Lúc này, ở Bắc Kỳ có những
nhà văn viết lịch sử ký sự và truyện ký như: Phan Trần Chúc, Đào Trinh
Nhất, Nguyễn Triệu Luật… Ở Phan Trần Chúc bắt gặp các lịch sử ký sự như:
Vua Hàm Nghi, Lê Hoan, Vua Quang Trung, hay các tiểu thuyết lịch sử như:
Cần Vương, Dưới lũy Trường Dục, Danh nhân Việt Nam qua các triều đại…
Đào Trinh Nhất với Phan Đình Phùng, Trần Thanh Mại với Tuy Lý Vương,
Nguyễn Triệu Luật với: Bà Chúa Chè, Loạn Kiêu binh, Chúa Trịnh Khải,
Ngược đường Trường Thi đều là những cuốn ký sự lịch sử nổi tiếng.
Không chỉ ở Bắc Kỳ, các nhà văn Nam Kỳ cũng viết rất nhiều về lịch sử
dân tộc xoay quanh các triều đại. Không kể Trương Duy Toản, Tân Dân Tử là
hai nhà văn chuyên viết về lịch sử Nam Bộ thời Nguyễn Ánh thì còn có Hồ
Biểu Chánh với Nam Cực tinh huy viết về Ngô Quyền, Nặng gánh cang
thường viết về lịch sử thời Lê Thánh Tông; Nguyễn Chánh Sắt với Việt Nam
Lê Thái Tổ; Việt Đông có Vì nước bạc tình; Phạm Minh Kiên thì có tận năm
tác phẩm tiểu thuyết lịch sử dân tộc viết về Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt,
Trần Hưng Đạo và nhà Hậu Trần… Khi viết về lịch sử dân tộc, các nhà văn
ấy có ý thức rất rõ về công việc của mình là nhằm phổ biến quốc sử vào dân
chúng, qua đó hun đúc lòng yêu nước và tự hào dân tộc. Trong lời tựa cho
quyển Việt Nam Lý Trung hưng của Phạm Minh Kiên, Nguyễn Chánh Sắt có
nói đến lịch sử xa xưa nữa của dân tộc – từ bà Trưng, bà Triệu và than phiền
Nay thử ngồi nhắc đến những chuyện Hạng Võ, Bái Công hoặc Quan Công,
Tào Tháo, hoặc Tiết Nhân Quý với Địch Thanh, hoặc Nhạc Phi hay Tần Cối…
thì chẳng những đàn ông mà thôi, lâu cho đến đàn bà con nít cũng đều thông
thạo như ăn cơm, như uống nước hàng ngày. Bằng mà nói qua những chuyện
như bà Trưng, bà Triệu, như Lý Tướng quân, như Trần Hưng Đạo vương, như
Lê Thái Tổ, như Nguyễn Hoàng, như Lê Công, như Võ Tánh… thì có nhiều kẻ lại mang nhiên, lửng lửng lơ lơ đối với lịch sử của nước nhà.(14)
(14) Việt Nam Lý Trung hưng của Phạm Minh Kiên, Đức Lưu Phương xuất bản 1929, tr.1- 2
71
là dân ta không biết sử ta bằng sử Tàu:
Trong lời tựa tiểu thuyết Việt Nam Lê Thái Tổ của mình, Nguyễn Chánh
Sắt nhắc đến lịch sử Đinh, Lê, Lý, Trần và mục đích sáng tác của mình:
“Nước Việt Nam ta từ ngày lập quốc nhẫn xuống Đinh, Lê, Lý, Trần cho đến
bổn triều, trải qua bốn ngàn năm, biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt, dọc trời
ngang bể, oanh oanh liệt liệt mà đối phó với nước ngoài (…), sánh với các
nước bên cõi Á Đông này thì dân tộc Việt Nam ta cũng được vẻ vang trong lịch sử”(15). Nỗi niềm trăn trở, đau đáu về lịch sử nước nhà của mỗi nhà văn đã
dẫn đến sự nở rộ của tiểu thuyết lịch sử và cũng là một bước chuyển biến
mạnh mẽ trong tư tưởng của các tác giả. Chú trọng đến đề tài lịch sử, các nhà
văn đã nêu bật được khát vọng của cả một dân tộc, muốn tìm lại “hồn nước”
một thời. Mỗi trang văn tái hiện lại quá khứ hào hùng của dân tộc là để ấp ủ
lòng yêu nước, thể hiện tinh thần yêu nước, tự hào về truyền thống dân tộc,
nhắc nhở quốc dân đồng bào đừng bao giờ quên quá khứ và góp tiếng nói vào
phong trào đấu tranh của nhân dân. Bên cạnh đó, tiểu thuyết lịch sử ra đời
cũng có nguyên nhân từ yêu cầu đa dạng về thể loại trong tiến trình hiện đại
hóa văn học. Một mặt khác không kém phần quan trọng, đó là sự phản ứng lại
hiện tượng dịch thuật truyện Tàu: “Người đọc ở mọi tầng lớp, và họ tiêu thụ ở
những mức độ khác nhau. Người ta làu thông tên tuổi của những anh hùng
Trung Quốc có thật hay tưởng tượng nhiều hơn là tên tuổi các anh hùng liệt nữ Việt Nam”(16). Như vậy, dù viết về đề tài lịch sử dưới hình thức kí sự hay
tiểu thuyết thì vấn đề mà các nhà văn hướng tới vẫn là việc đề cao truyền
thống dân tộc, nhắc nhở lại vấn đề quốc hồn quốc túy của dân tộc. Hưng Đạo
(15) Việt Nam Lê Thái Tổ, Nguyễn Chánh Sắt, tiểu thuyết lịch sử, 4 tập, Đức Lưu Phương xuất bản, SG, 1929, tr.1 – 2. (16) Trương Đăng Dung, Tiểu thuyết lịch sử trong quan niệm của G. Lucacs, Tạp chí Văn học, số 5, năm 1994.
72
đại vương của Phan Kế Bính cũng không nằm ngoài ngoại lệ đó.
Bên cạnh phương diện cảm hứng chung về lịch sử dân tộc thì Hưng Đạo
đại vương của Phan Kế Bính cũng giống như một số tiểu thuyết lịch sử khác
thời kì này còn chịu ảnh hưởng lớn của tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa từ ngôn
ngữ, kết cấu cho đến cách xây dựng nhân vật, mặc dù có một số cách tân về
nghệ thuật nhưng vẫn không đáng kể. Ở điểm này, dễ nhận thấy nhất là kiểu
kết cấu chương hồi giống như Tam Quốc diễn nghĩa, Đông Chu liệt quốc…
Có lẽ việc mượn lại hình thức này dễ đáp ứng được “khẩu vị” của độc giả, lại
vừa với khả năng của người cầm bút và nêu cao được tinh thần tự hào về lịch
sử dân tộc. Điều đó là bởi tuy vay mượn nhưng kiểu kết cấu chương hồi này
đã được các tác giả trung đại sử dụng một cách nhuần nhuyễn với tác phẩm
điển hình là Hoàng Lê nhất thống chí.
Dù theo con đường biên khảo, dịch thuật hay sáng tác thì vấn đề mà các
tác giả này đề cập đến đều là những câu chuyện về danh nhân, hoặc những
truyện về lịch sử đôi khi chỉ là sưu tầm, ghi chép lại hoặc thêm thắt một số
yếu tố huyền hoặc để tăng thêm sức thuyết phục, đôi khi là dụng ý của nhà
văn khi muốn truyền đạt một vấn đề nào đó hoặc cũng có thể nhà văn muốn
thêm chức năng giải trí cho cuốn sách của mình như Phan Kế Bính đề tựa khi
soạn cuốn Nam Hải dị nhân. Tựu chung lại, tiểu thuyết Hưng Đạo đại vương
của Phan Kế Bính cùng với sự nở rộ của tiểu thuyết lịch sử lấy đề tài từ lịch
sử dân tộc lúc bấy giờ cho thấy một bước chuyển biến mạnh mẽ trong tư
tưởng của các nhà văn thời kì này. Đằng sau loại văn chương sáng tác tưởng
như giải trí đó là cả một ý thức rất cao, một tình cảm nồng nàn về cội nguồn
và sự thống nhất dân tộc. Đó cũng là một trong những đóng góp quan trọng
của Phan Kế Bính nói riêng, các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử nói chung đối
với tư tưởng văn học dân tộc.
73
* Tiểu kết
Có thể thấy sự nghiệp văn chương – báo chí của học giả Phan Kế Bính
không nằm ngoài quỹ đạo chung của những trí thức cựu học đầu thế kỷ XX.
Không chỉ là một trong số nhà nho đầu tiên viết văn bằng chữ quốc ngữ, cùng
với Nguyễn Văn Vĩnh, ông đã tích cực tuyên truyền, cổ động cho việc học
chữ quốc ngữ ngay trên những số báo ĐDTC đầu tiên, tạo nên nhữ ng bướ c
chuyể n có ý nghĩ a trong việ c phổ cậ p chữ quố c ngữ và biế n văn tự nà y thà nh
mộ t phương tiệ n biể u đạ t văn hó a văn chương thuầ n thụ c ngay trước khi
NPTC ra đời.
Ông là một trong số nhà nho ở giai đoạn này có những công trình biên
khảo vững vàng, dày dặn hơn cả; nhưng về sáng tác, ngòi bút của ông cho
thấy sở đoản và những giới hạn không thể vượt qua của cả thế hệ. Văn nghiệp
của Phan Kế Bính rõ ràng có ý nghĩa như một cuộc bàn giao, đem cái cựu học
trình bày, luận giải để chuyển giao cho lớp người mới.
Trong mọi lĩnh vự c ông tham gia: dịch thuật, biên khảo, sáng tác, ngòi
bút Phan Kế Bính đều mang lại những đóng góp lớn cho sự phát triển quốc
văn, từ phương diện xây dựng lối diễn đạt, như Phạm Thế Ngũ đã nhận định:
“Cứ kể về giản dị, sáng sủa thì ông hơn cả Nguyễn Văn Vĩnh, cả Phạm
Quỳnh. Ông viết gọn, rõ ràng, mạch lạc, không rườm nặng như Nguyễn Đôn
Phục, mà văn có duyên có trang sức, chớ không khô khan bóc trần như Trần
Trọng Kim” [25, tr. 272], đến việc cung cấp những chất liệu cụ thể cho việc
xây dựng một tinh thần riêng cho văn hóa, văn học Việt Nam khi ở vào thế
74
đối diện với sức mạnh của văn hóa phương Tây (Pháp) thống trị.
Chương 3
Nghề báo và di sản của Phan Kế Bính –
nhìn từ thực tế thực dân hó a của Việt Nam
3.1. Học vấn và những ngả đường “nhậ p thế ”(17) của trí thức Việt
Nam đầu thế kỷ XX
Sự xuất hiện của các phong trào duy tân mà điển hình là ĐKNT đã mở ra
phong trào cổ động văn hóa học thuật đầu thế kỷ XX. Trong Văn minh tân
học sách, tuyên ngôn hành động của phong trào ĐKNT, một trong “sáu
đường” để “mở dân trí giữa nghìn muôn khó khăn”, cùng với việc “dùng văn
trị nước nhà”, “hiệu đính sách vở”, “sửa đổi phép thi”, “cổ võ nhân tài” các cụ
đã đề xuất việc “mở tòa báo”. Bởi theo các chí sĩ duy tân “dân trí sở dĩ mở
mang là nhờ đó”. Văn minh tân học sách còn vạch ra chủ trương: “Bao nhiêu
pháp tốt, ý hay, nghề lạ, ngón khéo ở Âu Mỹ, cùng là những việc xưa nay ở
nước ta, hoặc những lời và việc tìm được đáng nêu làm kiểu mẫu, hoặc những
bài thiết thực về thời sự góp nhặt được trong sách luận, bài thơ (…) hoặc có
kỹ thuật mới có ích lợi cho nước nhà và do giới công nghệ mới tìm ra, thì đều
đăng hết lên báo để mọi người cùng biết…”. Khi phong trào này bị dập tắt đã
chặn ngang con đường hoạt động xã hội của các sĩ phu yêu nước và để lại
nhiều kinh nghiệm hoạt động trong văn hóa, văn chương.
Cùng với việc đóng cửa ĐKNT, Pháp thiết lập hệ thống trường học Pháp
– Việt, bãi bỏ thi cử bằng chữ Hán kéo theo việ c kế t thú c lối học khoa cử ,
chấ m dứ t “lộ trì nh” học - đi thi - đỗ đạ t - làm quan của nhà nho. Toàn quyền
(17) Để vấ n đề không bị tả n má t , chúng tôi xin tập trung vào phạm vi văn hóa trong sự nhập thế củ a trí thứ c Việ t Nam thờ i kỳ nà y .
75
Paul Doumer, sau khi tới dự lễ xướng danh kỳ thi Hương năm 1897 ở Nam
Định, chứng kiến tinh thần hiếu học và lòng quyết tâm của sĩ tử Bắc Kỳ, năm
Ở kỳ thi Hương Nam Định có khoảng 10 ngàn người tham dự. Nếu cứ một
người có mặt tại cuộc thi, có ít nhất 3 người khác theo học thì tổng số người
học là 40 ngàn. Nếu ta đưa tiếng Pháp và quốc ngữ vào trường thi thì
nghiễm nhiên ta có 40 ngàn người phải học tiếng Pháp và quốc ngữ, mà
ngân sách lại không phải chịu gánh nặng. Hiệu quả đối với nền hành chính và chính trị sẽ là vô giá(18)
1898 đã ra quyết định đưa chữ quốc ngữ, chữ Pháp vào kỳ thi Hương vì:
Tuy nhiên, quyết định này đã không được thực hiện ngay mà phải 11
năm sau mới được đưa vào thực tiễn. Ngày 27 tháng 4 năm 1904, chính phủ
Bảo hộ ra Nghị định 1331 về tổ chức lại giáo dục công ở Bắc Kỳ, gồm năm
phần do Paul Beau ký. Theo Nghị định này, các trường học công sẽ gồm hai
loại: trường dành cho người Âu và trường dành cho người bản xứ. Trường
dành cho người An Nam được gọi là trường Pháp-An Nam. “Đây được coi là
cải cách giáo dục Pháp-Việt lần thứ nhất với mục tiêu chuyển giáo dục truyền
thống thành giáo dục kiểu mới, thúc đẩy nền giáo dục bản địa theo các
chương trình và phương pháp giáo dục có tên Pháp-Việt, chủ trương tập trung
hóa và thống nhất nền giáo dục với những chương trình học giống nhau trong từng xứ”(19). Mục tiêu của người Pháp là xây dựng một nền giáo dục có sự
hòa trộn giữa các yếu tố Pháp với Việt. Năm 1906, Paul Beau cho thành lập
Hội đồng Hoàn thiện Giáo dục bản xứ nhằm tiến hành cải cách các trường
bản xứ và đưa các trường bản xứ vào hệ thống giáo dục công lập dưới quyền
Nha học chính. Như vậy, kể từ thời điểm này, cùng với việc thành lập Hội
đồng hoàn thiện giáo dục bản xứ, hệ thống các trường công bản xứ đã được
(18), (19) http://vanhoanghean.vn/van-hoa-va-doi-song/van-hoa-hoc-duong/4012-giao-duc-o- bac-ky-dau-the-ky-xx-den-nam-1915-chuyen-doi-cac-truong-nho-giao-sang-truong-phap- viet.html
76
đổi mới nhằm mục tiêu cuối cùng là cung cấp nguồn nhân lực chuẩn bị cho sự
phát triển của các trường Pháp-Việt. Ngoài các trường làng của các thầy đồ
theo lố i cũ , các trường công bản xứ bao gồm trường Ấu học, Tiểu học và
Trung học. Chương trình của các trường đều có thêm phần chữ quốc ngữ, một
số môn khoa học như toán, sử, địa, đặc biệt còn có thêm phần tiếng Pháp tự
chọn. Hệ thống thi cử bản xứ cũng có nhiều thay đổi. Để tốt nghiệp các
trường bản xứ, học sinh phải thi qua các kỳ Tuyển, Khảo khóa, Hạch (tương
ứng với ba bậc Ấu học, Tiểu học, Trung học). Đặc biệt, kể từ kỳ thi Hương
năm 1909, ngoài kỳ thi văn sách và luận chữ Hán còn có thêm các kỳ thi luận
quốc ngữ, toán, khoa học, và tiếng Pháp (tự chọn). Trong kỳ thi Hương cuối
cùng năm 1915, thí sinh bắt buộc phải thi tiếng Pháp. Năm 1918, các trường
bản xứ chuyển thành trường Pháp - Việt, giáo dục bản xứ không còn thuộc hệ
thống trường công và trực thuộc sự quản lý của Sở Học chính Bắc Kỳ.
Những thay đổi sâu sắc, lớn lao kể trên trong giáo dục đã dẫn tới nhiều
phản ứng trái chiều nhau trong tầng lớp các nhà nho cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX. Mặc dù thời kỳ này, ở Bắc Kỳ, nho học vẫn phổ biến nhưng ý nghĩa
Kể từ đầu thế kỷ, ở nước ta cũng như các nước khác ở Á Đông, có cuộc xung đột
lớn của hai nền văn hóa cũ mà nền tảng là nho giáo và văn hóa mới từ Âu châu đưa
vào. Kết cục của sự xung đột ấy, văn hóa của mình sụp đổ tan tác, rã rời. Người
mình tựa như ngồi trên con thuyền không lái, về đời tinh thần không biết bấu víu
vào đâu… Một người An Nam thuộc vào hạng học thức là một môn đồ của nho
giáo. Tứ thư, Ngũ Kinh thuộc làu làu, nhưng thuộc chưa chắc đã hiểu… Thành ra
một nhà nho có khi chỉ nho ở cái áo khoác bên ngoài. Đến khi thấy một cái áo
khoác có cái hình thế khác, mới mẻ hơn, cứ việc cởi cái cũ của mình để khoác cái áo mới vào, không do dự, không nhớ tiếc(20).
(20) http://vanhoanghean.vn/van-hoa-va-doi-song/van-hoa-hoc-duong/4012-giao-duc-o-bac- ky-dau-the-ky-xx-den-nam-1915-chuyen-doi-cac-truong-nho-giao-sang-truong-phap- viet.html
77
của nó đối với xã hội đã dần suy giảm:
Khi Hội đồng Hoàn thiện giáo dục bản xứ năm 1906 ban hành cải cách
các trường bản xứ, đưa thêm chữ quốc ngữ, chữ Pháp và một số môn khoa
học vào trường, cũng như vào các kỳ thi Hương, không í t ngườ i quay l ưng
vớ i cuộ c “tân trà o” , nhưng nhiều ngườ i đã chọn thái độ hưởng ứng . Năm
1909, năm đầu tiên đưa các môn thi mới vào thi Hương, một số nhà nho ở Hà
Đông, Nam Định đã gửi thư cho Thống sứ Bắc Kỳ thể hiện quan điểm đồng
tình, ủng hộ với quy chế thi cử mới này: “Những người già không học được
chữ quốc ngữ, những người lười không học được sách tân thư, những người
con quan chỉ học lối cũ, không chịu học lối mới, trong ba giống người ấy nếu
có đỗ thì cũng vô dụng mà thôi. Xin nhà nước nhất định bỏ phép thi cũ mà thi phép mới”(21). Tầng lớp cựu học mất đi cơ hội làm quan, làm thầy buộc phải
theo học văn tự mới để có thể nhập cuộc làm thông ngôn, ký giả, viết văn và
làm báo. Không ít người trong số nhà nho cũ cảm thấy “bất lực”, “hậm hực”
trước nền học mới này nhưng vẫn phải chấp nhận thực tế “vứt bút lông đi,
giắt bút chì”:
Nghe nói khoa này sắp đổi thi,
Các thầy đồ cổ đỗ mau đi!
Dẫu không bia đá còn bia miệng,
Vứt bút lông đi, giắt bút chì
(Đổi thi – Tú Xương)
Tú Xương là một điển hình trong số những nhà nho ấy – nhà nho luôn
ôm mộng công danh trong truyền thống, để rồi phải thốt lên đầy dằn vặt:
Nào có ra gì cái chữ Nho
(21) http://vanhoanghean.vn/van-hoa-va-doi-song/van-hoa-hoc-duong/4012-giao-duc-o-bac- ky-dau-the-ky-xx-den-nam-1915-chuyen-doi-cac-truong-nho-giao-sang-truong-phap- viet.html
78
Ông Nghè ông Cống cũng nằm co
Sao bằng đi học làm ông Phán
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò…
(Chữ Nho)
rồi chợt thấy mình “vô tích sự” trước cái nền học mới ấy:
Trời đất sinh ra chán vạn nghề;
Làm thầy, làm thợ, lại làm thuê.
Bác này mới thật thái vô tích,
Sáng vác ô đi, tối vác về!
(Vô tích)
Không lận đận trên con đường khoa cử, hoạn lộ như Tú Xương, Tam
nguyên Yên Đổ có vẻ xuôi chiều mát mái hơn khi đỗ đầ u tới ba kì thi: Giải
nguyên, Hội nguyên và Đình nguyên. Thế nhưng, nhìn vào lối học khoa cử cũ
ấy, ông vẫn phê phán nhân tài của xã hội có danh nhưng không có thực, chỉ là
bù nhìn, tay sai trong hoàn cảnh nước mất nhà tan lúc bấy giờ:
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai
Cũng gọi ông Nghè có kém ai
và ngậm ngùi, bẽ bàng:
Chiếc thân xiêm áo sao mà nhẹ
Cái giá khoa danh thế mới hời
… Ghế tréo lộng xanh ngồi bảnh chọe
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi
Không chỉ Tú Xương, Nguyễn Khuyến mà cả nhà nho tài tử Tản Đà
cũng thể hiện sâu sắc những phản ứng với nền học trong buổi “mưa Âu gió
Á”, Tây Tàu lẫn lộn ấy. Năm 1909, cậu ấm Hiếu thi trượt kỳ thi Hương ở
79
Nam Định, quay về Vĩnh Tường quyết chí học hành, đến năm 1912 tham gia
cả hai kỳ thi nhưng đều trắng giải chỉ vì cái lối thi mới làm Tản Đà không
khỏi “phẫn uất”:
Xuân hai tư tuổi thi Ấm sinh
Tên đỗ thứ ba, đăng nhật trình
Hậu bổ thi luôn, hỏng vấn đáp
Chữ Pháp thất bại đường công danh
Xuân qua thu lại, lại đi thi
Nam Định bay luôn đệ nhất kỳ
Càng học để thi, thi cứ hỏng
Thi tàn, học cũng tàn theo thi
Thất bại nhiều lần trong khoa cử, Tản Đà đã quyết tâm lựa chọn cho
riêng mình một lối đi khác:
Chữ nghĩa Tây Tàu trót dở dang
Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng.
Nửa ngòi bút ngỗng ba sinh lụy
Một mối tơ tằm mấy đoạn vương.
Có kẹo có câu là sách vở
Chẳng lề, chẳng lối cũng văn chương.
Còn non, còn nước, còn trăng gió
Còn có văn chương bán phố phường.
Từ đây trở đi, Tản Đà bén duyên với báo chí, văn chương và đeo đuổi nó
trong suốt cuộc đời sau này. Không thể chinh phục con đường công danh
khoa cử bằng lối học mới thì đành phải dùng nó để làm cần câu cơm “kiếm ăn
xoàng”.
Trong chiề u hướ ng đó của thời đại, hoạt động báo chí đã trở thành môi
80
trường hấp dẫn, thu hút những gương mặt trí thức đương thời. Và tuyệt đại đa
số họ đều xuất thân từ nền cựu học. Không ít những nhà nho chí sĩ, yế u nhân
của những phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX đều tham gia viết báo trong
vòng kiềm tỏa của nhà cầm quyền. Chiếm số đông hơn cả là những nhà nho
“cuối mùa” như Nguyễn Đỗ Mục, Phan Kế Bính, Nguyễn Bá Học, Nguyễn
Hữu Tiến… Và trong thực tế, môi trường báo chí đầu thế kỷ XX đã có sự gặp
gỡ giữa trí thức cựu học và tân học. Trong khi những nhà nho cựu học ít có
lợi thế trong việc tiếp thu văn minh phương Tây thì những trí thức có cả cựu
học và tân học như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh… có điều kiện tiếp xúc
với tri thức về văn minh phương Tây dễ dàng hơn. Tuy nhiên dù theo phái
cựu học hay tân học thì các hoạt động của họ đều dồn vào lĩnh vực văn hóa.
Nhà nho Nguyễn Đỗ Mục (1882-1951) là một trong số trí thức cựu học
tiêu biểu, sinh trưởng trong một gia đình nho học truyền thống. Xuất thân là
ấm sinh (thân phụ từng làm Án sát Hưng Yên, Bố chánh Quảng Bình, Biện lí
bộ Lại) đậu tú tài khoa Kỷ Dậu 1909 và từng đi thi Hội nhưng không đỗ. Khi
ĐDTC ra đời tại Hà Nội, ông đến cộng tác và viết đều đặn ở mục Gõ đầu trẻ,
chuyên về giáo dục. Sau khi tạp chí này đình bản (ngày 15 tháng 9 năm 1919)
thì ông viết cho tờ Trung Bắc tân văn (cũng do Nguyễn Văn Vĩnh đảm nhiệm,
và tồn tại cho đến năm 1939) và cho nhiều báo khác tại Hà Nội.
Cũng như Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Bá Học (1857-1921) sau khi con
đường khoa cử lận đận: hai lần thi hỏng tú tài Hán học, đã chuyển sang học
tân học. Ông chọn nghề dạy học trong suốt 31 năm ở Sơn Tây, Hà Nội và
Nam Định. Năm 1918 ông về hưu và bắt đầu theo đuổi nghiệp văn chương,
viết truyện ngắn, chính luận và chọn dịch các bài Hán văn, Pháp văn, cho
81
đăng ở ĐDTC, NPTC.
Không chủ trương văn chương khoa cử, theo đuổi con đường làm quan
truyền thống như một số nhà nho cựu học, Nguyễn Văn Vĩnh chọn đi theo
tân học. Ngay từ bé ông đã theo học tại trường Thông ngôn vì thế ông sớm
được tiếp cận với tiếng Pháp. Con đường dấn thân hoạt động xã hội của ông
bắt đầu bằng việc làm thông ngôn tòa sứ Lào Cai, sau đó là tòa sứ Hải Phòng.
Ở Hải Phòng lúc bấy giờ chỉ mới có tờ báo Courrier de Hải Phòng. Nguyễn
Văn Vĩnh bắt đầu bước vào nghề báo lúc mới 17 tuổi bằng việc trở thành
cộng tác viên cho tờ báo này. Ông tập viết báo bằng tiếng Pháp. Năm 1906,
Nguyễn Văn Vĩnh làm thông ngôn tòa đốc lý Hà Nội. Khi ĐKNT được thành
lập, mỗi tuần ông dành mấy tối để nói chuyện hoặc dạy tiếng Pháp, dạy chữ
Quốc ngữ để nâng cao dân trí. Trong quá trình dạy học ở đây, ông đã thân với
các ông Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Hoàng Tăng Bí, Dương Phượng
Dực… là những người sau này cộng tác với ông làm báo ĐCTB, LTTV,
ĐDTC và TBTV. Từ năm 1907 đến năm 1936, sau khi đi Pháp dự Đấu xảo
thuộc địa Marseille trở về, Nguyễn Văn Vĩnh xin thôi cuộc đời công chức
đang rất hanh thông của mình để làm một nhà báo tự do. Tên tuổi ông Vĩnh
gắn với một loạt các tờ báo cả tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ đầu thế kỷ XX,
như: ĐCTB (1907), Notre Journal (1908), Notre Revue (1909), rồi LTTV
(1909) ở Nam Kỳ, và ĐDTC (1913) ở Bắc Kỳ . Năm 1915, ông làm thêm tờ
Nam học niên khóa, sau đổi là Học báo. Năm 1931, Nguyễn Văn Vĩnh sáng
lập tờ L’Annam Nouveau, tờ báo định mệnh dẫn đến cái chết của ông.
Giống như Nguyễn Văn Vĩnh chọn tân học làm con đường dấn thân
trong những hoạt động xã hội, Phạm Quỳnh (1892-1945) cũng sớm tiếp xúc
với tiếng Pháp ngay khi còn nhỏ tuổi. Ông học tiếng Pháp và chữ quốc ngữ
rấ t nhanh . Sau khi đỗ đầu bằng Thành chung trường Trung học Bảo hộ năm
82
1908, Phạm Quỳnh làm việc ở trường Viễn Đông Bác cổ tại Hà Nội. Từ năm
1916, ông bước chân vào lĩnh vực báo chí bằng việc viết cho ĐDTC; và sau
đó làm chủ bút của NPTC. Đồng thời, ông chủ bút của NPTC cũng là người
sáng lập và là Tổng thư ký Hội khai trí Tiến Đức và Hội trưởng Hội Trí tri
Bắc Kỳ. Phạm Quỳnh còn là một học giả uyên thâm trong lĩnh vực nghiên
cứu, lý luận, phê bình văn hóa, văn học và đã tích cực tham gia dịch thuật và
khảo luận các học thuyết, phương pháp luận, sách cách ngôn, kịch bản và thơ
văn…
Bên cạnh những Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh thì Phạm Duy Tốn
(1881 - 1924) cũng là một người theo phái tân học. Ông học ở trường Thông
ngôn Hà Nội cùng với Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim và
tốt nghiệp năm 1901. Sau khi tốt nghiệp, Phạm Duy Tốn được bổ làm thông
ngôn ngạch tòa sứ Ninh Bình rồi sang Thị Cầu (tòa sứ Bắc Ninh). Trong lúc
sự nghiệp đang rất hanh thông thì ông lại đột ngột bỏ công việc đúng theo sở
học của mình mà không rõ lý do. Sau khi bỏ, Phạm Duy Tốn đi dạy học ở
trường Trí Tri, phố Hàng Quạt, Hà Nội. Là một trong số những người Việt
Nam đầu tiên húi tóc ngắn và mặc trang phục châu Âu, Phạm Duy Tốn cùng
Nguyễn Văn Vĩnh là hai trong số những trí thức hoạt động trong phong trào
ĐKNT ở Hà Nội năm 1907. Một thời gian sau, ông thôi dạy học và làm đủ
các nghề khác nhau. Đầu tiên là mở một tiệm cao lâu ở phố Cầu Gỗ, Hà Nội(22). Tuy nhiên, tiệm không cạnh tranh được và phải đóng cửa. Ông lại vay tiền để mở một tiệm vàng tên là Nam Bảo(23). Tiệm vàng thất bại, Phạm Duy
Tốn lại cùng một số bạn bè đi tìm mỏ ở Quảng Yên, nhưng theo lời Phạm
(22) Theo Phạm Duy, nghề mở tiệm ăn lúc đó nằm trong tay Hoa kiều, tiệm cao lâu của ông Phạm Duy Tốn là tiệm đầu tiên của người Việt Nam. (23) Chính vì việc vay mượn này mà sau khi Phạm Duy Tốn mất, vợ ông - bà Nguyễn Thị Hòa, đã phải làm lụng suốt đời để trả món nợ của chồng.
83
Duy, "việc tìm mỏ chắc không đem lại cho bố tôi những thích thú về tiền bạc
hay tinh thần"(24). Sau khi thất bại liên tục trên đường tìm sinh kế, Phạm Duy
Tốn được một người bạn Pháp giúp đỡ bằng cách giới thiệu vào làm việc cho
chi nhánh của Ngân hàng Đông Dương (Banque d'Indochine) ở Mông Tự ,
Trung Quốc . Ở Trung Quốc không lâu, ông lại bỏ việc trở về và quyết định
theo đuổi nghề mà xưa nay ông vẫn cho là nghề phụ: viết văn, làm báo. Trong
tiểu luận Phạm Duy Tốn, Journalist, Short Story Writer, Collector of
Humorous Stories (Phạm Duy Tốn, nhà báo, tác giả truyện ngắn, nhà sưu tập
truyện cười), Schafer nhận định khi theo nghề báo và viết lách, Phạm Duy Tốn "đã tìm thấy tiếng gọi của ông"(25) và ông theo đuổi các hoạt động này
đến khi qua đời. Phạm Duy Tốn đã viết cho tất cả 11 tờ báo khác nhau. Cùng
với Tản Đà, đây là một điển hình của sự vật lộn mưu sinh của một bộ phận trí
thức đầu thế kỷ XX. Và một trong những “cánh cửa” mà đời sống mới mở ra
trước họ đó là nghề viết.
3.2. Các giá trị văn hóa văn chương Việt Nam đầu thế kỷ XX: lựa
chọn xã hội và lựa chọn của Phan Kế Bính
3.2.1. Đầu thế kỷ XX, khi công cuộc bình định quân sự đã hoàn thành,
người Pháp bắt đầu nghĩ đến công cuộc khai thác thuộc địa và xây dựng một
xã hội mới phù hợp với chính sách cai trị thực dân, trong đó giá o dụ c và văn
hóa là hai vấn đề được lưu tâm nhiều và khá sớm . Việc xây dựng nền giáo
dục Pháp – Việt đi liền với bãi bỏ chế độ khoa cử Hán học từ năm 1919, đưa
chữ viết Latinh hóa thay thế cho chữ Hán và Nôm đã khiến nhiều người Việt
Nam bị cắt rời khỏi nền văn hóa truyền thống. Trong khi các nước nằm trong
vùng ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa như Triều Tiên, Nhật Bản vẫn sử
(24) Trích trong Hồi ký của Nguyễn Duy, năm 1989. (25) Trích trong http://vi.wikipedia.org/wiki/Phạm_Duy_Tốn
84
dụng chữ viết cũ, để tiếp thu văn minh phương Tây, và do đó mà duy trì được
văn hóa truyền thống, thì người Việt Nam lại tách khỏi môi trường sống quen
thuộc để chuyển sang một không khí sinh hoạt mới. Nói cách khác , so vớ i tấ t
cả các nước trong khu vự c Đông Á đầ u thế kỷ XX , Việ t Nam đã phả i trả i qua
mộ t thá ch thứ c ngặ t nghè o hơn rấ t nhiề u trong việ c xây d ựng nền văn hóa văn
chương dân tộ c , và đội ngũ trí thức Việt Nam cũ ng phả i “gánh nặng đường
xa” hơn hẳ n cá c đồ ng nghiệ p củ a mì nh trong mộ t á m ả nh “thấ t cướ c” , “lạ c
loài” cũng hơn hẳn .
3.2.2. Trong cuộc va chạm văn hóa đầu thế kỷ XX, người Việt Nam bị
đặt vào thế “hạ phong”. Tuy nhiên, khi tiếp thu văn hóa phương Tây thông
qua văn hóa Pháp, người Việt Nam đã tìm thấy ở đó những nhân tố mới phục
vụ cho công cuộc đấu tranh tự lực, tự cường, mở đường cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Trong tình thế lị ch sử bứ c bách đầu thế kỷ XX, các trí thức
dân tộc nhận ra một nhiệm vụ tức thời: phải học cái khôn, “cái xảo” của
phương Tây, trước hết để canh tân đất nước, làm cho dân trí được nâng cao,
bách nghệ được mở mang, nước nhà hưng thịnh. Một trong những điều mới
mẻ của công cuộc canh tân này là việc học và thi chữ Hán bị hoàn toàn bãi bỏ
từ năm 1919. Lớp thanh niên mới lớn hầu như mấ t dầ n nhữ ng mối dây liên
lạc gắn bó với truyền thống văn hóa quá khứ, bị văn minh phương Tây, văn
hóa Pháp chinh phục. Tình trạng này đem lạ i cho dân tộc cả hai mối lợi và
hại. Nhiều nhân tài được đào tạo , trở thà nh những tân trí thứ c , am hiể u văn
hóa phương Tây . Song cái hại là việc dấy lên nguy cơ: đất nước sẽ ngậ p trà n
những “ông Tây An Nam” và những kẻ nô lệ da vàng chỉ biết có mẫu quốc
Pháp. Không chỉ các nhà nho yêu nước mà nhiều văn thi sĩ, trí thức thời đó đã
luôn luôn lên tiếng cảnh tỉnh về “cái nguy mất gốc” này. Và để khắc phục,
vấn đề “Làm sao mà gây dựng được một nền văn hóa riêng cho dân tộc Việt
85
Nam” (Nguyễn Triệu Luật) đã đượ c đặ t ra , và ngay lập tức thu hút được khá
nhiều cây bút học vấn uyên thâm trên các lĩnh vực. Có thể nói , đó là bướ c
chuyể n vấ n đề dân tộ c từ trườ ng quân sự , chính trị sang trường văn hóa. Chủ
đề dân tộc, dân tộ c tí nh trở thà nh mố i quan tâm hà ng đầ u củ a họ . Các nghiên
cứ u về chủ nghĩ a thự c dân trong văn hó a văn chương đã chỉ ra rằ ng đây là
kiể u phả n ứ ng mang tí nh quy luậ t và phổ quá t ở cá c vù ng thuộ c đị a trong thờ i
kỳ thực dân hóa.
Trên thự c tế , các cuộc tranh luận quốc ngữ - quố c họ c - quố c văn trong
30 năm đầ u thế kỷ XX trên bá o chí đã thể hiệ n rấ t rõ đặ c thù củ a cuộ c chuyể n
đổ i, lự a chọ n nó i trên. Và vấn đề quốc ngữ đã có thể coi là đượ c “an đị nh” vớ i
sự tham gia củ a cá c chí sĩ duy tân và tờ ĐDTC. Từ 1917 trở đi, cuộ c tranh
luậ n chủ yế u diễ n ra vớ i vấ n đề quố c họ c - quố c văn . Trên trận địa văn hó a
văn chương, ý thức này được thể hiện sâu sắc ở ước nguyện xây dựng “nền
văn hó a văn chương Việt Nam” – nền văn hó a văn chương dân tộ c viết bằng
chữ quốc ngữ. Nhưng theo cá ch nà o và gồ m nhữ ng gì – đó là tâm điể m củ a
các tranh luận, luậ n chiế n .
Năm 1917, NPTC ra đời đã dành riêng một chuyên mục Văn uyển “rộng
mở” nhằm để “hoan nghênh các nhà văn sĩ mới nước ta, nhất là những nhà đã
khéo đào luyện cái chất nôm mà mở rộng đường cho một lối văn chương
riêng bằng quốc ngữ” (Mấy nhời nói đầu - NPTC). Các nhà chủ trương NPTC
cho rằng: “Bao giờ nhời nôm ta có được “bằng nhập tị ch” vào cõi văn chương
thì sự học trong nước mới có cơ phát đạt lên được”. Năm 1924, trên báo Hữu
thanh, chí sĩ Ngô Đức Kế, người đã phản bác gay gắt Phạm Quỳnh về vấn đề
Truyện Kiều cũng công nhận phải xây dựng một nền quốc văn. Học giả họ
Ngô cho rằng: giữa lúc học giới đang ở thời kỳ “giáp hạt” mà xây dựng nền
quốc văn là “đúng dịp gặp thời”. Song Ngô Đức Kế không chủ trương cắt đứt
86
với quá khứ, ông muốn xây dựng nền quốc văn dựa trên sự tiếp thu cả văn
hóa Đông Tây “không phải tìm tài liệu ở đâu xa, không phải phí công trình
cho trọng đại, lấy cái tinh thần trong Hán văn làm đất cát, lấy cái trí thức
trong Pháp văn làm gạch đá, mà lấy quốc ngữ làm vôi hồ, thực là một cái nền
tốt đẹp cho mười mấy triệu con Hồng cháu Lạc cất nhà xây vách ở trên ấy,
sinh trưởng cư tụ ở trên ấy, núp nắng mưa bão lụt, giữ trộm cắp cướp bóc ở
trên ấy” (Nền quốc văn). Có điều là tác giả nhận xét rất tỉnh táo rằng đương
thời việc xây dựng nền quốc văn “chẳng qua là cái mộng tưởng của đôi ba
nhà học giả, mà chưa phải là tâm lý chung của quốc dân”. Cho nên những bậc
thượng lưu, trung lưu hữu tâm với quốc văn, hiểu rõ vai trò của quốc văn phải
“tính cái phương pháp đắp dựng thế nào” để “sao cho nhân dân trong làng
trong tổng, bất luận kẻ trên người dưới, ai cũng có cái nghĩa vụ”, “cũng phải
xắn tay vén áo ra mà làm”. Có lẽ đó là một nhận định chính xác, cho nên trên
các báo chí, các nhà văn, các học giả tiếp tục cổ vũ cho nền quốc văn. Mãi
đến năm 1939, trên Tao đàn (số 1, số 2), Phan Khôi vẫn kêu gọi: “Hỡi, người
Việt Nam trở về với quốc văn!” (Khái luận văn học chữ Hán ở nước ta).
Cùng năm, trên Tao đàn (số 5), Nguyễn Triệu Luật cũng mượn ý ấy để kết
thúc ý kiến phải làm sao mà gây được một nền văn hóa riêng cho dân tộc Việt
Nam: “Hỡi người Việt Nam, hãy trở về với quốc văn” (Lan Khai – Cái nguy
mất gốc). Còn Phạm Quỳnh trong khi luận về Văn quốc ngữ cũng đã bày tỏ
quan điểm: “Nhờ cả các bậc cựu học tân học trong nước vun trồng vào, thì cái
mầm quốc văn mấy nỗi mà mọc thành cây, sinh hoa kết quả, thêm tốt đẹp cho
cảnh vườn cũ đất Việt Nam này. Nhà Tây học thì phỏng cái lối thuyết lý tả
thực của Âu châu mà vụ cho lời Nôm được rõ ràng thiết thực, trọng phép trực
tiếp hơn gián tiếp. Nhà nho học thì theo cái lối từ chương biền ngẫu của văn
Tàu mà luyện cho lời Nôm được chải chuốt nghiêm trang, dùng phép gián
87
tiếp hơn phép trực tiếp. Hai lối điều hòa với nhau thì quốc văn cũng được đủ
tư cách mà ra ứng đối trong trường ngôn luận, kết cấu trong cõi văn đàn” [22,
tr. 62].
Thực tế, lựa chọn kế t hợp Đông Tây này đã xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX
và người đại diện cho xu hướng dung hòa chính là Trương Vĩnh Ký. Sang thế
kỷ XX, chủ trương này lại được tiếp nối. Trong bài “Bàn phiếm về văn hóa
Đông Tây”, Phạm Quỳnh đã trì nh bà y quan điểm của mình: “Bọn ta sống
giữa đời Đông–Tây giao thiệp, Âu–Á một nhà, đối với văn hóa Tây phương,
đối với văn hóa Đông phương, đối với tinh thần Âu châu, đối với tinh thần Á
châu, phải nên có một thái độ như thế nào?”. Tác giả còn đồng tình và tin
tưởng ở chủ trương “Thổ nạp Âu-Á” với việc “phải điều hòa hai bên, giữ lấy
cái hay mà bỏ cái dở”. Đường lối mà Phạm Quỳnh vạch ra ở đây là việc muốn
điều hòa thì phải “tham bác cả đôi bên, nghiền ngẫm cho thâm thúy, rồi mới
châm chước cho vừa phải”.
Chúng tôi dừng lại lâu hơn ở nhân vật Phạm Quỳnh , bở i ông là ngườ i
tham bá c cả văn hó a Đông Tây , và bởi ông gắn liền với hoạt động của NPTC
- tờ bá o chí nh thố ng và có thờ i gian tồ n tạ i khá lâu dà i – nên đã ả nh hưở ng
không nhỏ đố i vớ i con đườ ng tạo dựng nền văn hóa dân tộc thời kỳ này . Vì
sao mà phải điều hòa cả con đường Tây học và Đông phương? Ông chủ bút
NPTC đã đưa ra lí giải: “Người Nam ta nếu túy tâm về Âu hóa mà không hồi
cố đến căn bản mình, thời không khác gì người đi vay nợ mà ăn, tất có ngày
vỡ nợ”. Mặc dù theo phái tân học nhưng Phạm Quỳnh luôn kêu gọi bồi bổ
quốc văn, di dưỡng tinh thần truyền thống mà một trong những điều này được
ông nhấn mạnh là ở cốt cách tinh thần của Nho học: “Chắc ngày nay nho học
đã nhiều phần quá cũ rồi, không hợp thời nữa, nhưng cũ là về phần hình thức
mà thôi, còn phần cốt cách tinh thần, còn cái gốc đạo đức của nho học thì
88
cùng với núi sông mà sống mãi muôn đời; ta nên bỏ là bỏ phần hình thức
phiền toái, còn phần cốt cách tinh túy phải giữ lấy, vì nước ta còn có mặt trên
địa cầu là còn phải nhờ cái tinh thần cố hữu ấy mới sống được”[22, tr. 335].
Nổ i bậ t trong chủ trương củ a Phạ m Quỳ nh là “Thổ nạp Âu-Á”, và được thể
hiện ra một cách sâu sắc rõ nét trong việc lựa chọn ngôn ngữ sáng tác, ngôn
ngữ văn chương: “Yêu quí nước mình không phải là ruồng bỏ tiếng nước
ngoài. Yêu quí tiếng người mình là phải khéo lợi dụng tiếng nước ngoài để
làm cho tiếng quốc âm mình giàu có thêm lên. Cho nên những người vì
“thương tiếng nước nhà” mà muốn “bài trừ chữ Hán” là tỏ ra ý kiến thấp hẹp
vậy” [22, tr. 352]. Mặc dù theo tân học với khả năng tiếng Pháp thông thạo
nhưng khi bàn về văn chương truyền thống, Phạm Quỳnh vẫn dùng những lời
Nhìn ngược, nhìn xuôi, trông xa, trông gần, chỉ thấy rừng “nho” man mác, là
rậm um tùm, muốn thoát ra ngoài mà không thoát được, đi mãi không cùng.
Bấy giờ mới tỉnh ngộ mà biết rằng người mình sinh trưởng trong góc rừng nầy
đã mươi đời, những khi gió táp mưa sa được ẩn thân ở dưới cây cao cỗi lớn, nay
muốn thoát ly mà ra ngoài, bông lông trong đồng rộng bể khơi sao đành? Chi
bằng ta cứ nương náu ở đây, mở rộng phá quang, đặt đường xẻ lối, cho tiện sự
giao thông, để đón lấy gió Âu mưa Mỹ, mà ra công ráng sức tài bồi cho cái đất
cũ mấy nghìn năm này có ngày được rạng vẻ phong quang, tốt tươi đẹp đẽ [22,
tr. 353].
lẽ rất tha thiết:
Tư tưởng điều hòa Pháp–Việt, giao thoa Đông–Tây trở đi trở lại rất
nhiều lần qua một loạt bài viết đề cập đến vấn đề chữ quốc ngữ, bàn về tính
dân tộc, quốc hồn quốc túy như “Văn quốc ngữ”, “Chữ nho với văn quốc
ngữ”, “Bàn về quốc học”, “Quốc học với Quốc văn”... Ông chủ bút báo Nam
Phong đã nỗ lực cho việc gây lấy trong quốc dân một chủ nghĩa quốc gia ôn
89
hòa, Pháp–Việt đề huề bằ ng văn hóa .
Như vậy có thể thấ y đầ u thế kỷ XX họ c giớ i Việ t Nam dù quan điể m
chính trị sâu bên trong có những khác biệt , đã gầ n như thố ng nhấ t ở chủ
trương xây dựng nền quốc văn cho dân tộc dựa trên sự kết hợp văn hóa cả
Đông và Tây (trong đó chấ t phương Đông đượ c hiể u theo nghĩ a văn hó a
truyề n thố ng dân tộ c gắ n liề n vớ i văn hó a truyề n thố ng Trung Hoa ), vớ i sự
tham gia củ a cả hai tầ ng lớ p cự u và tân họ c . Điể m khá c biệ t gầ n như chỉ ở
mứ c độ và nhữ ng lự a chọ n cụ thể khi sá ng tá c , dịch thuật, biên khả o. Nói cách
khác, xây dự ng mộ t hì nh ả nh dân tộ c theo cá ch lọ c lự a cá c yế u tố củ a truyề n
thố ng kế t hợ p vớ i nhữ ng yế u tố khá c nữ a – yế u tố phi truyề n thố ng – đã thà nh
mộ t lự a chọ n . Lự a chọ n nà y cũ ng gặ p gỡ vớ i chủ trương củ a chí nh quyề n
(26) Không chỉ người Việt Nam muốn giữ lấy bản sắc, truyền thống, tính dân tộc của đất nước mình
trước nguy cơ thống trị tinh thần mà cả người Pháp – với tư cách là nước bảo hộ - cũng cho rằ ng
muốn cai trị thành công xứ thuộc địa thì trước hết phải trân trọng cốt cách, tinh thần của quốc gia
đó. Trong cuốn sách Cổ Nam Việt, ông Khâm sứ Pasquier đã nói lên chủ trương đó :
Ta chớ nên phá đổi cái nhà cổ nước Việt Nam. Chữ nho kia là cái khuôn tư tưởng của dân
tộc này, ta phải biết tôn trọng. Ta phải khéo điều hòa mà chớ nên phá hoại. Chớ nên để cho
trăm năm về sau nước Pháp phải mang cái cữu rằng vì tập quyền khắc khe quá mà tiêu diệt
mất quốc túy của một nước phương xa (…) Nước Pháp vẫn có tiếng là khoan dung đại độ;
nếu sang cai trị bên Đông Pháp này lại biết tôn trọng cái tinh thần cũ của giống Việt Nam,
giúp cho dân trí mở mang, ân cần mà quyến cố đến các nhà nho, chớ khinh rẻ mà rộng
bụng biết dung nạp những sự sáng kiến về tri thức của người dân, thời chắc là càng ngày
càng được người bản xứ yêu mến bội phần vậy.
Sự giao thoa văn hóa luôn đặt ra tính chất nước đôi, lưỡng phân, dùng dằng giữa cái cũ và cái mới
khi xã hội Việt Nam phải đối mặt với chủ trương khai tử nền cựu học hay bác bỏ Tây học. Các
nước thuộc địa nên tiếp thu những tư tưởng học thuật, “ngón hay nghề khéo”, “thể thức hay,
90
thự c dân Phá p , thậ m chí có thể nó i đó là mộ t tương nhượ ng giữ a kẻ thố ng trị và người bị trị (26).
3.2.3. Tại Bắc Kỳ , lự a chọ n giao hò a Đông -Tây đã đượ c cụ thể hó a bở i
Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh trên hai tờ ĐDTC và NPTC. Hai nhà tân
học và tân cựu học này đã tìm được sự ủng hộ của các nhà nho cựu học như
Tản Đà, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục… Sự tồn tại, gắn bó lâu dà i giữa
Nguyễn Văn Vĩnh và Phan Kế Bính trên tờ ĐĐTC – như đã nó i ở Chương 1 -
chính là một minh chứng sâu sắc cho trạng thái điều hòa giữa tân học–cựu
học, phương Đông-phương Tây. Nên không phải ngẫu nhiên mà bên cạnh
những “Tiểu thuyết Tây diễn nôm”, “Pháp văn” luôn tồn tại những chuyên
mục như “Hán văn”, “Việt Hán văn khảo” của Phan Kế Bính; rồ i bả n in đầ u
tiên củ a nhà in do Nguyễ n Văn Vĩ nh thà nh lậ p lạ i là dị ch phẩ m Tam quố c chí
diễ n nghĩ a của Phan Kế Bính ; cũng như công trình khảo cứu Việ t Nam phong
tục của Phan Kế Bính là trên cùng tuyến ý tưởng với mục Xét tậ t mì nh do
Nguyễ n Văn Vĩ nh đả m nhiệ m từ ĐCTB đến ĐDTC. Và việc chuyển từ lối viết
văn chương củ a nhà nho truyề n thố ng sang con đườ ng là m bá o , viế t bá o củ a
Phan Kế Bí nh – như chú ng tôi đã trì nh bà y ở trên – cũng thuyết min h mạ nh
mẽ cho sự thắng thế của chủ trương mang tính thời đại đó .
Có thể nói, tính chất đan xen , giao hò a tân -cự u, Đông-Tây là không khí
chung cho cá c hoạ t độ ng văn hó a ở Việ t Nam nhữ ng năm đầ u thế kỷ XX . Nó
ngấ m và o lự a ch ọn và thể hiện của từng cá nhân – như trườ ng hợ p Phan Kế
phương pháp khéo”, học hỏi “cái phần máy móc của đời người, cùng những cách ra công, dụng sức
để cho thông tỏ và sai khiến được máy móc ấy” nhưng những gì thuộc về tinh thần, cốt cách dân
tộc như tiếng nói, chữ viết ta nên bảo tồn: “Trong khi bắt chước văn Tây hay phóng theo văn Tàu,
phải cố giữ lấy cái quốc túy của mình, nghĩa là cái phần tinh hoa đặc biệt của nước mình. Theo người là theo thể thức hay, phương pháp khéo của người, không phải là bỏ cái hồn của mình đi mà
chuốc lấy cái hồn của người đâu. Mỗi người có một cách tư tưởng cảm giác riêng, không ai giống
ai” [22, tr. 359]
91
Bính, đồ ng thờ i cò n thể hiệ n ở sự chia sẻ bả ng “phân vai” trong cá c hoạ t độ ng
chung. Chẳ ng hạ n , cùng có vốn tri thức tân học phong phú hơn hẳn , cùng
phương thứ c sử dụ ng bá o chí là m công cụ canh tân văn hó a , và chủ trương
bảo tồn , xây đắ p giá trị dân tộc ... nhưng giữ a Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm
Quỳnh vẫ n có nhữ ng khá c biệ t mà Dương Quảng Hàm đã nhậ n diệ n và chỉ ra
Ông Vĩnh có công diễn dịch những tiểu thuyết và kịch bản của Âu Tây và phát biểu
những cái hay trong tiếng Nam ra; ông Quỳnh thì có công dịch thuật các học thuyết
tư tưởng của Thái Tây và luyện cho tiếng Nam có thể diễn đạt được các ý tưởng mới.
Đối với nền văn hóa cũ của nước ta, thì ông Vĩnh hay khảo cứu những phong tục tín
ngưỡng của dân chúng, mà ông Quỳnh thường nghiên cứu đến chế độ, văn chương
của tiền nhân. Văn ông Vĩnh có tính cách giản dị của một nhà văn bình dân, văn ông
Quỳnh có tính cách trang nghiêm của một học giả. Tuy văn nghiệp của mỗi người có
tính cách riêng, nhưng hai ông đều có công với việc thành lập quốc văn vậy [5, tr.
411].
trong Việt Nam văn học sử yếu:
Hoặ c, cùng thuộc nhóm NPTC, cùng quan tâm đến quốc ngữ , quố c văn,
Phạm Quỳnh chuyên viế t cá c tiể u luậ n (như “Văn quốc ngữ” , “Chữ nho với
văn quốc ngữ” , “Bàn về quốc học” , “Quốc học với Quốc văn”… ), thậ m chí là
viế t biên khả o về văn chương dân tộ c (như “Tục ngữ ca dao” , “Truyện
Kiều”...); còn Nguyễn Đỗ Mục hướng đến dịch thuật , lấy dịch thuật là thế
mạnh của mình để qua công việc này hướng đến quốc văn, vun xới cho nền
quốc văn buổi ban đầu, bằng việc dịch một loạt các tiểu thuyết Trung Quốc ra
quốc ngữ như: Tây sương kí, Song phượng kì duyên, Tái sinh duyên, Tục tái
sinh duyên, Thuyền tình bể ái, Bình sơn lãnh yến, Hồng nhan đa truân, Hiệp
nghĩa anh hùng, Thủy Hử diễn nghĩa, Đông Chu liệt quốc, Nhi nữ tạo anh
hùng… Không chỉ dịch thuật như Nguyễn Đỗ Mục , Phan Kế Bính thể hiệ n
92
quan điể m dân tộ c củ a mì nh bằng chuyên sâu vào biên khảo với một loạt các
vấn đề về văn chương cổ như: Hán văn, Việt Hán văn khảo, về phong tục tập
quán như: Việt Nam phong tục…
3.2.4. Ở Chương 2, chúng tôi đã khảo sát tỉ mỉ con đường đến với nghề
báo, công việ c dị ch thuậ t , sáng tác, biên khả o củ a Phan Kế Bính. Điề u có thể
nhậ n thấ y dễ dà ng là gia nhậ p là ng bá o là mộ t hà nh độ ng không nằ m trong sở
trườ ng củ a nhữ ng nhà nho như Phan kế Bí nh (quá trình thực dân hóa đã tạo ra
nhữ ng sinh hoạ t không có trong truyề n thố ng ), và trong 3 mảng trước tác thì
Biên khả o là hoạt động chủ yếu của ông . Vì vậy, ở chương này, chúng tôi bàn
sâu thêm về ý nghĩ a việc dấ n thân và o là ng bá o củ a Phan Kế Bí nh , và tập
trung phân tí ch hoạ t độ ng biên khả o củ a ông trong dò ng chả y biên khả o
chung Việ t Nam nhữ ng năm đầ u th ế kỷ XX – giai đoạ n hình thành đờ i số ng
hiệ n đạ i hó a củ a văn hó a văn chương dân tộ c.
Như đã nó i , hoạt động báo chí đã trở thành môi trường hấp dẫn , thu hút
đông đảo trí thức đầ u th ế kỷ XX. Dù xuất thân từ nền cựu học, không ít người
là những nhà nho chí sĩ (Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức
Kế…), hay những “nhà nho cuối mùa” (Nguyễn Đỗ Mục, Phan Kế Bính,
Nguyễn Bá Học…), và cả những nhà tân học (Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm
Quỳnh, Phạm Duy Tốn…) cũng lấy ngòi bút làm sự nghiệp của cả cuộc đời.
Họ là đội ngũ những người thông qua lĩnh vực báo chí để tiến hành “tổng
kiểm kê văn học truyền thống”, hoạt động tích cực trong địa hạt biên khảo,
dịch thuật. Đáng chú ý là nhiều nhà nho làm báo lú c đó , do có những tiếp xúc
nhất định với văn học phương Tây đã bắt đầu tiến hành những thể nghiệm văn
học mới (viết “tiểu thuyết”, “đoản thiên tiểu thuyết”) như Phan Kế Bính, Tản
Đà… Bộ phận tân học, thông qua môi trường báo chí đã tích cực dịch thuật,
93
giới thiệu văn học phương Tây, kiến tạo mô hình văn học hiện đại. Nhìn
chung, tất cả những kiểu trí thức – văn nghệ sĩ điển hình của thời đại đều tập
hợp trong môi trường báo chí.
Ngay trong bài diễn thuyết của Toàn quyền Albert Sarraut ở hội các báo
quán Nam Kỳ tháng 10 năm 1917 đã coi nghề báo như “một nghề tuyệt phẩm
ở đời”: “Một tờ báo! Một ngọn bút! Còn cái động lực nào mạnh bằng!” [22,
tr. 64]. Vì thế Sarraut khuyên các nhà làm báo nên “tự nhiệm cái trách nhiệm
giáo dục cho dư luận trong nước” và nhà báo phải “định một chương trình
phân minh, lập một chủ nghĩa nhất định, rồi cứ thi hành cái công “giáo dục”
theo một chương trình, chủ nghĩa ấy” [22, tr. 68]. Ý thức được vai trò quan
trọng trong sự nghiệp báo chí, những trí thức đầu thế kỷ XX như Phạm
Quỳnh đã vạch sẵn đường hướng cho ngòi bút của mình: “Nước Nam ta sau
này hay hay dở, các nhà báo cũng có phần vào đấy. Nếu ta biết khéo dùng cái
động lực rất mạnh là tờ báo ngọn bút kia, mà gây thành được một dư luận
sáng suốt khôn ngoan, thông hiểu tình thế, giúp được cho cái công tiến hóa về
chính trị của quốc dân, thì mới thực là xứng đáng với lương tâm cùng thiên
chức của nhà nghề vậy” [22, tr. 70]. Qua ý kiến của Phạm Quỳnh, chúng ta
cũng hiểu được phần nào tư tưởng, ý thức, mục đích của đội ngũ trí thức làm
báo đương thời: “Lấy cái sức của dư luận mà rèn đúc cho dư luận, khiến cho
không tán mạng đi mà thành một khối bền chặt, giúp được cho cuộc sinh hoạt
chung của một dân một nước, đó là cái nhiệm vụ tối cao của các nhà làm báo”
[22, tr. 67].
Không chỉ Phạm Quỳnh mà sau này, Vũ Bằng trong Bốn mươi năm nói
láo cũng viết về nghề nghiệp, công việc của người làm báo, tôn vinh sứ mệnh
Làm báo không thể là chỉ để chơi hay kiếm tiền, người làm báo phải trả nhiều thứ
nợ hơn người khác vì người làm báo biết nhiều hơn, cảm nhiều hơn và cũng sống
gần với thực tế xã hội hơn người khác. Đọc rồi, người ta bảo làm báo là nói láo
ăn tiền, mặc họ; nhưng người làm báo chân chính không thể và không bao giờ
94
của nghề báo sâu sắc và tâm huyết:
quan niệm nghề nghiệp của mình như vậy. Hơn cả ai hết, họ biết rằng báo chí là
một bộ môn văn hóa phản ánh sinh động nhất, đầy đủ nhất tính chất của một chế
độ và cho một chế độ xã hội, không những nói lên – đúng như lời ông Nguyễn
Văn Vĩnh đã nói với Hy Tống – nói lên phẩm chất hoặc văn minh ưu việt, hoặc
thoái hóa của chế độ ấy, mà còn đi sâu vào từng tình tiết, tâm tư của con người,
từng khía cạnh trớ trêu, uẩn khúc, giả tạo của chế độ [39, tr. 182].
Cùng với sứ mệnh cao cả, nặng nề đó, những người viết báo “không thể
viết gì thì viết mà phải viết những bài theo những mục đề và tinh thần do tòa
soạn thảo luận và quyết định” [39, tr. 172]. Tính chất đặc biệt của báo chí đầu
thế kỷ XX đã quy định một đội ngũ làm báo rất đặc thù: “Người viết báo nói
thực ra là làm văn chớ không phải làm báo” [39, tr. 8]. Nhờ Vũ Bằng ta cũng
hiểu thêm được tính chất công việc của những người làm công việc biên tập
như Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục… hồi đầu thế kỷ XX: “sắp xếp, làm tít,
đặt thứ tự và sửa chữa các bài để cho tất cả đều nhất trí, phối hợp cho có hệ
thống và làm tít để cho độc giả ham mà đọc” [39, tr. 171]. Có thể nói, sự phát
triển cho dù chật vật của báo chí Việt Nam cũng đã từng bước tạo nên một đội
ngũ những người làm báo chuyên nghiệp. Gia nhập đội ngũ làm báo có những
nhà hoạt động chính trị, trước đó như: Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng…;
những nhà học thuật như: Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh…; những nhà dịch
thuật, khảo cứu như: Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục…; những trí thức du
học từ Pháp về như: Nguyễn An Ninh, Hoàng Tích Chu… Chịu ràn g buộc
khắt khe củ a chí nh quyề n cai trị , như chế độ kiể m duyệ t , hay đị nh hướ ng lớ n
của tờ báo , họ không thể có một chủ trương độc lập hoặc hoàn toàn tự do
trong việ c thể hiệ n cá c ý tưở ng theo quan điểm riêng của mỗi người , song cả
đội ngũ trí thức làm báo này đã có vai trò quyế t đị nh đố i vớ i mộ t số nội dung
cụ thể của báo chí, nhấ t là trong phạ m vi văn chương , hoặ c ở nhữ ng giả i p háp
cụ thể cho mỗi thời kỳ , mỗ i vấ n đề , chẳ ng hạ n vấ n đề quố c văn quố c họ c quố c
95
ngữ . Công sứ c củ a Phan Kế Bí nh trong nghề bá o thuộ c mộ t hoà n c ảnh như
vậ y. Trong bài điếu văn viếng Phan Kế Bính, chủ bút NPTC - Phạm Quỳnh -
đã có một cách nhìn nhận quá trình làm báo của ông cử Phan trân trọ ng và
đú ng mự c: “Sự nghiệp làm báo của ông, trước là ĐCTB, sau tới ĐDTC, rồi tới
Trung Bắc tân văn và Học báo ngày nay thế nào, đã có các ngài trong Trung
Bắc báo quán tự thuật, chắc được tường hơn. Tôi nay chỉ xin tỏ lòng kính
phục ông là một bậc đàn anh đã có công to với quốc văn trong buổi gây dựng
này” [22, tr. 995].
Khác với hoạt động báo chí , biên khả o là mộ t việ c có phầ n gầ n gũ i vớ i
trí thức cựu học , thậ m chí có thể coi đây là sở trườ ng củ a nhà nho . Tuy nhiên
giữ a biên khả o truy ền thống và hiện đại lại có những khác biệt khá rõ ràng .
Vậ y Phan Kế Bí nh đứ ng ở đâu trong lị ch trì nh biên khả o Việ t Nam đầ u thế kỷ
XX? Bên cạnh chủ bút ĐDTC - dịch giả Truyệ n Kiề u sang tiế ng Phá p , ngụ
ngôn củ a La Fontain e sang tiế ng Việ t , sự hiệ n diệ n của Phan Kế Bí nh với lối
diễn nôm cổ văn của Trung Quốc, những tác phẩm dịch thuật, biên khảo về
lịch sử, gương danh nhân đất Việt, phong tục tập quán cổ xưa của nước An-
nam đã thể hiệ n rõ khuynh hướng lựa chọn của cá nhân ông . Đó là đem lạ i
cho kho tà ng văn hó a truyề n thố ng , văn hó a p hương Đông mộ t hì nh hà i mớ i .
Mớ i ở hì nh thứ c văn tự và cả ở lố i biể u đạ t . Các biên khảo của Phan Kế Bính
không đơn thuầ n là nhữ ng miêu tả , hệ thố n g cá c di sả n quá khứ mà cò n thể
hiệ n mộ t đị nh giá , mộ t lự a chọ n mang tí nh cá nhân . Bên cạ nh đó cũ ng r ất dễ
nhận thấy rằ ng: tuy theo cựu học nhưng lố i viế t , phương thứ c trì nh bà y củ a
Phan Kế Bính đều hội ngộ đầy đủ cả Đông-Tây trong đó. Bở i ông thuộ c thế
hệ chủ yếu được đào tạo trong nền Hán học, nhưng đã sớm giác ngộ sự cần
thiết phải có vốn Tây học, để tiếp xúc với văn minh phương Tây; mong qua
sự tiếp xúc ấy mà tìm ra lời giải và cách thức giải quyết các vấn đề bức xúc
96
của dân tộc, về mặt văn hóa, tinh thần. Chính vì vậy , Vũ Ngọc Phan, khi nhậ n
xét về tác giả Việt Hán văn khảo và Việt Nam phong tục, và cũng là người
chuyên giữ mục “Hán văn” cho ĐDTC, đã cho rằ ng : Ông là nhà “Tây học
kiêm Hán học”. Nói cách khác, tuy thâm canh trên cá nh đồ ng cũ song công cụ
mà Phan Kế Bính sử dụng đã thay đổi , đố i tượ ng và mụ c đí ch củ a lao độ ng
này cũng không còn như cũ . Việc làm này của Phan Kế Bính đã được thế hệ
sau này nối tiếp như: Nguyễn Văn Ngọc, Đào Duy Anh, Nguyễn Văn
Huyên… Tuy nhiên, so với lớp người đi sau , công việc củ a Phan Kế Bí nh
mớ i chỉ dừ ng ở mứ c sưu tầm , diễn dịch ra quốc văn, đưa thêm một số lời bình
phẩm vào trong mỗi chủ đề ; trong khi, các học giả sau này đã mở rộng hơn
các vấn đề, và tính chuyên biệt chuyên sâu trong khảo cứu cũng rõ ràng hơn .
Giá trị dân tộc không chỉ được xem xét trên lĩnh vực văn chương mà còn trên
phương diện sử học như Cổ sử Việt Nam, Việt Nam văn hóa sử cương của
Đào Duy Anh. Văn hóa được đưa ra để mổ xẻ với Sự thờ phụ ng thầ n thá nh ở
nướ c Nam hay trong Văn minh nướ c Nam của Nguyễn Văn Huyên. Bên cạ nh
đó các học giả cũng quan tâm rất nhiều đến loại hình văn học dân gian, nhất là
Nguyễn Văn Ngọc với một loạt các công trình như Tục ngữ phong dao,
Truyện cổ nước Nam, Thú chơi câu đối, hay sưu tậ p về há t ả đà o củ a Phan
Văn Duyệ t (Hát ả đà o), của Hoàng Tăng Bí (Văn ca trí ch cẩ m), hoặ c Các bài
hát chèo cổ của Nguyễn Thúc Khiêm , Nhữ ng câu há t xanh của Lâm Tuyền
Khách,… Và có thể kể đến toàn bộ các bài khảo cứu (cũng như dịch thuật ,
sáng tác) trên Tri tân nhữ ng năm 1940, đượ c đá nh giá là “ngoà i việ c có nhữ ng
phát hiện quan trọng về các giá trị văn học còn là việc hình thành , xây dự ng
mộ t phương phá p khoa họ c trong nghiên cứ u văn họ c cổ ” [69, tr. 35].
Nhìn chung , kể từ nhữ ng công trì nh biên khả o thờ i kỳ đầ u cho đế n
nhữ ng năm 30 - 40 của thế kỷ XX , các giá trị truyền thống được xem xét,
97
nhận diện trên rất nhiều lĩnh vực. Và chưa bao giờ văn hóa dân tộc được nhìn
nhận, nghiên cứu , suy xét kĩ lưỡng như thời điểm này . Nhìn từ số lượng ấn
phẩ m, cũng thấy rõ ấn tượng về một sự nở rộ . Chỉ trong vòng nửa thế kỷ số
đầu sách biên dịch, biên khảo (chỉ chuyên về thời trung đại) đã lên tới hàng
trăm. Theo thống kê của Trần Nghĩa trong bài viết “Điểm qua tình hình dịch
thuật và biên khảo thuộc lĩnh vực Hán Nôm trong thế kỷ XX” (Tạp chí Hán
Nôm, số 1 – 2001) thì trong khoảng thời gian này, về sử học đã có bốn bộ
sách lớn được dịch và 19 cuốn khảo cứu được xuất bản, chưa kể nhiề u công
trình khảo cứu khác về triết học, tôn giáo đăng trên báo, tạp chí. Mặ t khá c ,
nhìn từ đội ngũ thì đây cũng là thời kỳ hình thành những bậc thầy đào tạo thế
hệ các nghiên cứu văn hóa văn học những năm tiếp sau . Nhiề u công trì nh
nghiên cứ u văn hó a , lịch sử Việt Nam đã ghi nhận sự hình thành một đời sống
học thuật hiện đại ở Việt Nam được chuẩn bị từ sớm với một loạt tên tuổ i :
Nguyễn Bá Học, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Hữu Tiến, Phan Kế Bính, Nguyễn
Can Mộng, Phạm Duy Tốn, Trần Trọng Kim, Phan Khôi, Nguyễn Văn Tố,
Phạm Quỳnh, Đào Duy Anh… Trong đó việc sưu tầm , biên khảo , dịch
thuật,... ở buổi đầu tiếp xúc Đông –Tây, quãng hai thập niên mười v à hai mươi
của thế kỷ XX , đã được đặt lên vai thế hệ các nhà nho ít nhiều có vốn Tây
học, như Phan Kế Bí nh . Có thể nói , mộ t chặ ng đườ ng nhiề u thà nh tự u , kế t
tinh như vậ y có sự gó p công củ a rấ t nhiề u bậ c trí thứ c , trong đó Phan Kế Bính
là một tên tuổi khó bỏ qua ở chặng khởi đầu .
Nhìn lại môi trường văn hóa Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX có thể
thấ y mộ t nhu cầ u thiế t cố t là kiế m tì m mộ t phương thứ c sinh tồ n tinh thầ n
trong tì nh huố ng dân tộ c mấ t quyề n tự chủ . Sự kiế m tì m và lự a chọ n trong
hoàn cảnh ấy tất nhiên là khắc nghiệt . Các học giả trước và sau Phan Kế Bính
hầ u hế t đều lựa chọn giá trị dân tộc là đí ch đế n , vớ i phương thứ c tiếp thu văn
98
hóa phương Tây kế t hợ p vớ i bả o tồ n văn hó a truyề n thố ng . Họ có thể dịch
thuật, khảo cứu , biên khảo , phê bình , hay sá ng tá c… , và mỗi người có thể
chọn cho mình một cách truyền tải riêng nhưng tựu chung đều nhắ m đế n mộ t
nề n văn hó a văn chương cho dân tộ c mì nh . Như phần nhiều nhà cựu học ,
Phan Kế Bí nh đã chọn con đường viết báo , dịch thuật, khảo cứu. Toàn bộ
trướ c tá c bằ ng chữ quố c ngữ củ a ông đã gó p phầ n và o việ c hì nh thà nh mộ t lố i
diễ n đạ t mớ i . Trong tì nh huố ng văn tự dân tộ c phả i t hay đổ i thì đó là mộ t
đó ng gó p không hề nhỏ . Tậ p trung cho biên khả o , dịch thuật Hán Nôm , ông
đã để lại những tác phẩm có giá trị chuẩn mực và lâu dài cho việ c tì m hiể u
nề n văn hó a văn chương quá khứ cũ ng như hì nh thà nh mộ t đờ i số ng họ c thuậ t
mớ i củ a Việ t Nam sau nà y . Không trự c tiế p tạ o nên nhữ ng thể văn mớ i , song
sự hiệ n diệ n củ a ngò i bú t là m bá o , các công trình biên khảo về các thể văn cổ
bằ ng văn tự mớ i từ Phan Kế Bí nh đã cung cấ p nh iề u chấ t liệ u cho nề n văn
học trong tương lai ; và quan trọng hơn , nhữ ng sả n phẩ m mang tí nh trung gian
như vậ y đã tạ o mộ t kế t nố i cho hai thế hệ cũ -mớ i, tự a như vị trí củ a Tả n Đà
trong hà nh trì nh thơ cũ -mớ i Việ t Nam : “dạ o những bản đàn mở đầu cho một
cuộ c hò a nhạ c tân kỳ đang sắ p sử a ”.
* Tiểu kết
Phan Kế Bính xuất hiện vào một thời điểm bình ổn về phương diện tranh
chấp quân sự Pháp-Việt nhưng lại là quãng thời gian sôi động của những va
chạm và lựa chọn văn hóa. Trong cuộc tiếp xúc nửa áp đặt, nửa tự giác đó,
hầu hết giới trí thức Việt Nam đã hướng đến mục đích xây dựng một nền văn
hóa, văn chương dân tộc trên cơ sở chấp nhận giải pháp dung hòa Đông–Tây,
tân–cựu, thể hiện rất rõ một kiểu quan niệm về con đường xây dựng tí nh dân
99
tộc tương ứng với vị thế một xứ sở thuộc địa. Bở i trong mộ t tì nh thế khá c , độ c
lậ p và tự chủ , tinh thầ n dân tộ c và con đườ ng hiệ n đạ i hó a và hò a nhậ p và o
thế giớ i theo cá ch “Thoá t Á ” củ a Nhậ t Bả n có thể là mộ t lự a chọ n cho Việ t
Nam.
Trên thự c tế , quãng những năm 1910-1930, tại Bắc Kỳ lực lượng cựu
học - lớp người có vốn kiến thức sâu về văn hóa phương Đông nhưng cũng
không hoàn toàn xa lạ với văn hóa phương Tây và mang tinh thầ n canh tân xã
hộ i – đã đó ng mộ t vai trò quan trọ ng trong việ c hiệ n thự c hó a chủ trương
dung hò a nó i trên , vì chính sách văn hóa giáo dục mà chính quyền thực dân
vừ a ban bố nhằ m tạ o ra mộ t thế hệ trí thứ c Âu họ c phải đợi mươi năm nữa
mớ i có mù a gặ t đầ u tiên . Cuộc “dấn thân” mạnh mẽ của một trí thức cựu học
như Phan Kế Bính vào đời sống báo chí, dịch thuật, biên khảo, sáng tác đã
làm rõ hơn tính chất cầu nối , giao thờ i củ a giai đoạ n nà y . Ông và nhữ ng
ngườ i cù ng th ế hệ, cùng thời đại đã tận dụng môi trường và phương tiện mớ i
do chí nh quyề n thự c dân đưa đế n , tậ n dụ ng vố n liế ng sẵ n có là di sả n văn hó a ,
100
tri thứ c cổ họ c phương Đông để tạ o ra mộ t nề n văn hó a văn chương lưu giữ bản sắc dân tộ c.
KẾT LUẬN
1. Trong buổi giao thời Đông–Tây đụng độ, tân–cựu giao tranh, Phan Kế
Bính như phần nhiều trí thức đầu thế kỷ XX đã tham gia vào việc viết văn làm
báo – mộ t công việ c í t nhiề u vượ t khỏ i nhữ ng cơ sở họ c vấ n và tâm lý của thế
hệ mì nh . Đầu thế kỷ XX , ở Việt Nam giao hòa Đông -Tây, điề u hò a tân -cự u
thành một trào lưu chung , đượ c cả trí thứ c cự u họ c và tân họ c lự a chọ n . Phan
Kế Bí nh không khó khăn để gia nhậ p và o không khí chung đó . Bở i Nho giá o
vố n có để ngỏ cho môn đệ lố i ứ ng xử mang tí nh trung dung . Con ngườ i và
văn chương Phan Kế Bí nh cũ ng mang cá c đặ c điể m đó “không có khăng
khăng ra mặt thủ cựu, cũng không có xuẩn xuẩn mà cố theo thời, nhất thiết
lấy đạo trung dung của thánh hiền làm tiêu chuẩn” [22, tr. 996]. Xuất thân từ
cửa Khổng sân Trình , là một ông Cử Hán học , gặp buổi nho họ c và khoa cử
phải đứt đoạn, Phan Kế Bính đã không chọn cho mình thái độ bấ t mã n, hay tư
tưởng ẩn mình, hoặc khoác ngoài vẻ ngông cuồng, kiêu bạc. Ông nhập cuộc
một cách tích cực và o đờ i số ng trướ c thuậ t mớ i bằ ng nhữ ng tí ch lũ y riêng .
2. Không phả i là ngườ i chủ xướ ng , dẫ n dắ t mà là ngườ i chủ độ ng , tích
cự c tham gia và o chủ trương kế t hợ p Đông -Tây để giữ gìn và bồ i đắ p hồ n cố t
dân tộ c , trong khoảng thời gian cầm bút quãng mươi năm , Phan Kế Bí nh đã
để lại nhiều tác phẩm trên báo chí , qua dịch thuật , biên khả o và sá ng tá c ,
trong đó bá o chí và biên khả o là nơi ông có nhiề u thà nh tự u hơn cả . Đó ng gó p
ấy cũng phản ánh đúng nỗ lực , sở trườ ng và sở đoả n củ a thế hệ ông trong
công cuộ c hiệ n đạ i hó a văn hó a văn chương .
Và nhìn chung , có thể nói , Phan Kế Bính là một trong số những trí thức
101
cự u họ c đầ u thế kỷ XX có công lớ n trong việc gây dựng lố i viế t , lố i diễ n đạ t
nhuầ n nhị – tứ c quốc văn buổi ban đầu , góp phần khẳng định sự tồn tại của
Văn ông thứ nhất là có cái vẻ thuần túy. Đương buổi quốc văn mới nhóm thành, chưa
có phương châm nhất định, nhà làm văn dễ hay múa may ngọn bút mà viết ra những
lời chếch lệch chông chênh, giữ cho được cái vẻ thuần túy đó, thật cũng khó thay.
Nhưng văn chương ông sở dĩ thuần túy cũng là bởi tính cách ông là người thuần túy!
Ôi! Ở vào buổi đời này, mới cũ giao nhau, Á Âu xung đột, không những lời ăn tiếng
nói thường có giọng chông chênh, mà tư cách người ta cũng không khỏi bác tạp.
Mấy người đã đem thân ra trì trục với đời mà trọn đời giữ được vẹn nhân cách thanh
cao! Ông cử Phan thật là một người như thế [22, tr. 995].
văn tự mớ i, lố i diễ n đạ t mớ i trong đờ i số ng văn chương hiệ n đạ i củ a dân tộ c :
3. Vớ i bả n thân Phan Kế Bí nh , con đườ ng và sự lự a chọ n củ a cá nhân
ông, như đã phân tí ch là sự cộ ng hưở ng , hòa mình , dấ n thân và o mộ t xu
hướ ng xã hộ i chung . Trong khả năng củ a cá nhân ông và thế hệ mì nh , Phan
Kế Bí nh đã gó p phầ n giả m bớ t tí nh đứ t đoạ n , sự đứ t gã y vớ i truyề n thố ng ,
khắ c phụ c tì nh trạ ng vong bả n vong thân mà mộ t xứ sở thuộ c đị a c ó thể phải
gánh chịu . Tuy nhiên , việ c cả mộ t thế hệ cũ không qua canh tân họ c thứ c họ c
vấ n triệ t để mà vẫ n phả i gá nh vá c sứ mệ nh canh cả i văn hó a tinh thầ n , trong
đó có văn chương , đương nhiên sẽ tạ o ra nhữ ng thiế u hụ t so vớ i yêu cầ u củ a
thự c tế lị ch sử , và cả những hạn chế , thậ m chí là cả n trở cho sự phá t triể n ở
bướ c tiế p sau khi yêu cầ u hiệ n đạ i hó a , dân chủ hó a đặ t ra quyế t liệ t và gắ t
gao hơn.
Giao hòa Đông Tây , tân cự u - đó là mộ t giả i phá p tì nh thế cá c trí thứ c ,
các cây bút Việt Nam đầu thế kỷ XX đã lựa chọn , mà trong một điều kiện
khác thì lựa chọn rất có thể đã khác đi , và nếu đó là một điều kiện có chủ
102
quyề n có tự do thì giả i phá p cũ ng có thể tố i ưu hơn .
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Sách
1. Bằng Giang (1974), Mảnh vụn văn học sử, NXB Chân Lưu, Sài Gòn.
2. Bích Thu (2000), Văn học và Báo chí – Từ một góc nhìn, NXB Văn
học, Hà Nội.
3. Bùi Đức Tịnh (2002), Những bước đầu của báo chí, truyện ngắn, tiểu
thuyết và thơ mới, NXB TP. HCM.
4. Bùi Văn Vượng (chủ biên) (2004), Phan Kế Bính – tác giả và tác
phẩm, NXB Thanh niên, Hà Nội.
5. Dương Quảng Hàm (2002), Việt Nam văn học sử yếu, NXB Hội Nhà
văn, Hà Nội.
6. Đỗ Quang Hưng (chủ biên) (2001), Lịch sử báo chí Việt Nam 1865 –
1945, NXB ĐHQG, Hà Nội.
7. Hà Minh Đức (chủ biên) (2002), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
8. Hoài Thanh, Hoài Chân (2003), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học,
Hà Nội.
9. Hồng Chương (1987), Tìm hiểu lịch sử báo chí Việt Nam, NXB sách
giáo khoa Mác – Lê-Nin, Hà Nội.
10. Hồng Chương (1985), Báo chí Việt Nam, NXB Sự thật, Hà Nội.
11. Huỳnh Văn Tòng (1973), Lịch sử báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến
năm 1930, NXB Trí Đăng, Sài Gòn.
12. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2007), Từ điển thuật
ngữ Văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
13. Lê Trí Viễn, Nguyễn Đình Chú (1976), Lịch sử văn học Việt Nam,
văn học viết thời kỳ II, giai đoạn II, đầu thế kỷ 1930, NXB Giáo dục, Hà Nội.
103
14. Lê Văn Siêu (2006), Văn học sử Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.
15. Mã Giang Lân (chủ biên) (2000), Quá trình hiện đại hó a Văn học
Việt Nam 1900 – 1945, NXB Văn hó a thông tin, Hà Nội.
16. Nguyễn Công Hoan (1971), Đời viết văn của tôi, NXB Văn học, Hà
Nộ i.
17. Nguyễn Kim Anh (chủ biên) (2004), Tiểu thuyết Nam bộ nửa cuối
thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, NXB ĐHQG TP. HCM.
18. Nguyễn Tấn Long (1996), Việt Nam thi nhân tiền chiến, quyển
thượng, NXB Văn học, Hà Nội.
19. Nguyễn Sỹ Tế (1962), Việt Nam văn học nghị luận, NXB Trường
Sơn, Sài Gòn.
20. Nguyễn Văn Trung (1972), Chủ đích Nam Phong, NXB Sài gòn.
21. Nguyễn Văn Trung, Hồ sơ Lục châu học (Nguồn Internet:
http://www.e-thuvien.com/).
22. Phạm Quỳnh (2006), Thượng Chi văn tập, NXB Văn học, Hà Nội.
23. Phạm Quỳnh (2003), Luận giải Văn học và Triết học, NXB Văn hóa
thông tin, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
24. Phạm Quỳnh (2007), Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian
1922 – 1932, NXB Tri thức, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
25. Phạm Thế Ngũ (1961), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, NXB
Quốc học tùng thư , Sài Gòn.
26. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung,
Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức (2003), Văn học Việt Nam 1900 – 1945, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
27. Phan Cự Đệ (chủ biên), Trần Đình Sử, Hà Văn Đức, Mã Giang Lân,
Phan Trọng Thưởng, Tất Thắng, Bùi Việt Thắng, Hà Văn Đức, Bích Thu, Lê
104
Dục Tú (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB Giáo dục, Hà Nội.
28. Phan Kế Bính, Lê Văn Phúc (1999), Truyện Hưng Đạo đại vương,
NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
29. Phan Kế Bính (1938), Việt Hán văn khảo, NXB Nam Ký, Hà Nội.
30. Tầm Dương (2003), Tản Đà khối mâu thuẫn lớn, NXB Văn nghệ TP.
HCM.
31. Thanh Lãng (1972), Phê bình văn học thế hệ 1932, Phong trào văn
hóa xuất bản, Sài Gòn.
32. Thanh Lãng (1975), 13 năm tranh luận văn học, NXB Văn học, Hội
nghiên cứu và giảng dạy thành phố Hồ Chí Minh.
33. Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn
giao thời 1900 – 1930, NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.
34. Trần Nam Tiến (chủ biên) (2006), Báo chí Việt Nam những sự kiện
đầu tiên và nhất, NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
35. Trần Ngọc Vương (1998), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn
chung, NXB Giáo dục, Hà Nội.
36. Trần Ngọc Vương (Chủ biên), Trần Hải Yến, Phạm Xuân Thạch
(2010), Giáo trình Văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỷ, NXB ĐHQG
Hà Nội.
37. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn
văn hóa, NXB Giáo dục, Hà Nội.
38. Trần Thị Trâm (2003), Văn học và báo chí từ một góc nhìn, NXB
Thanh niên, Hà Nội.
39. Vũ Bằng (2010), Bốn mươi năm nói láo, NXB Văn hóa Sài Gòn,
Thành phố Hồ Chí Minh.
40. Vũ Ngọc Phan (2005), Nhà văn hiện đại, tập I, NXB Văn học, Hà
105
Nội.
41. Vũ Ngọc Phan (2005), Nhà văn hiện đại, tập II, NXB Văn học, Hà
Nội.
42. Vương Trí Nhàn (2005), Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại
hóa, NXB ĐHQG, Hà Nội.
43. Vương Trí Nhàn (2003), Những lời bàn về tiểu thuyết trong văn học
Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến 1945, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
II. Báo và tạp chí
44. Bích Thu (2001), “Tiểu thuyết Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa
văn học nửa đầu thế kỉ”, Tạp chí Văn học (4), Tr. 61-68.
45. Biện Minh Điền (2003), “Vai trò của báo chí trong sự phát triển văn
hóa dân tộc đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Văn học (4), Tr. 81-90.
46. Đinh Trí Dũng (2005), “Từ những ảnh hưởng của thể loại truyện
Nôm đến những cách tân theo hướng hiện đại của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh
ở thời kỳ đầu”, Tạp chí Văn học (7), Tr. 40-44.
47. Đào Hùng (2005), “Đối thoại giữa các nền văn hóa và vă minh: Bài
học Việt Nam”, Xưa và Nay (227+228), Tr. 14-15.
48. Đức Dũng (2000), “Suy nghĩ về mối quan hệ giữa văn học và báo
chí”, Tạp chí Văn học (8), Tr. 71-78.
49. Hà Minh Đức (2000), “Truyện ngắn Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX”,
Tạp chí Văn học (12), Tr. 3-6.
50. Lê Thị Đức Hạnh (2001), “Báo chí với văn học giai đoạn 1932 –
1945”, Tạp chí Văn học (6), Tr. 16-22.
51. Lưu Khánh Thơ (2003), “Từ quan niệm về thơ đến lí luận về tiểu
thuyết – Bước tiến trên con đường hiện đại hóa văn học dân tộc”, Nghiên cứu
106
văn học (4), Tr. 71-80.
52. Nghi Hoàng (2005), “Triển lãm thuộc địa của Pháp năm 1906”, Xưa
và Nay (229+230), Tr. 53-54.
53. Nguyễn Duy Yên (2005), “Ký ức về ông ngoại tôi”, Xưa và Nay
(235), Tr. 34-35.
54. Nguyễn Đình Chú (1960), “Thực chất của cuộc đấu tranh giữa Ngô
Đức Kế và Phạm Quỳnh chung quanh vấn đề Truyện Kiều”, Nghiên cứu văn
học (12), Tr. 31-44.
55. Nguyễn Huệ Chi (2002), “Thử tìm vài đặc điểm của văn xuôi tự sự
quốc ngữ Nam Bộ trong bước khởi đầu”, Tạp chí Văn học (5), Tr. 13-20.
56. Nguyễn Khuê (2002), “Phác thảo quá trình hình thành tiểu thuyết
văn xuôi quốc ngữ ở Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Văn
học (5), Tr. 29-32.
57. Nguyễn Ngọc Thiện (2001), “Tranh luận văn nghệ nửa đầu thế kỷ
XX”, Tạp chí Văn học (12), Tr. 23-32.
58. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2000), “Văn học hiện đại Việt Nam, bước
khởi đầu quan trọng ở Sài Gòn – Nam bộ”, Tạp chí Văn học (3), Tr. 33-38.
59. Nguyễn Văn Hiệu (2002), “Văn chương quốc ngữ Nam Bộ cuối thế
kỉ XIX đầu thế kỉ XX nhìn từ quá trình xã hội hó a chữ quốc ngữ”, Tạp chí
Văn học (5), Tr. 21-28.
60. Phạm Công Tiến (2006), “Nhà văn hó a Phan Kế Bính”, Toàn cảnh
sự kiện – dư luận (191), Tr. 32-33.
61. Phong Lê (2002), “Thời kỳ 1900-1932 và cuộc chuyển giao từ văn
học trung đại sang văn học hiện đại”, Tạp chí Văn học (8), Tr. 3-6.
62. Phong Lê (2004), “Chữ quốc ngữ trong chuyển động của văn học
Việt Nam từ trung đại sang hiện đại”, Nghiên cứu văn học (11), Tr. 3-10.
63. Phong Lê (2001), “Phác thảo buổi đầu văn xuôi quốc ngữ”, Tạp chí
107
Văn học (11), Tr. 15-31.
64. Phong Lê (2002), “Thời kỳ 1900-1932 và cuộc chuyển giao từ văn
học trung đại sang văn học hiện đại”, Tạp chí Văn học (8), Tr. 3-6.
65. Phong Lê (2002), “Văn xuôi những năm 20 (thế kỷ XX) phòng chờ
cho bước chuyển giai đoạn sau 1932”, Tạp chí Văn học (5), Tr. 3-12.
66. Phong Lê (2001), “Trên quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam vào
nửa đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Văn học (1), Tr. 11-16.
67. Tân-Fong-Hiệb, “Nguyễn – Văn – Vĩnh (1882-1936)”, Tạp chí Bách
khoa (XXXII).
68. Trần Hữu Tá (2000), “Nghĩ về buổi bình minh của tiểu thuyết Nam
Bộ”, Tạp chí Văn học (10), Tr. 11-19.
69. Trần Thị Băng Thanh (2001), “Tình hình biên khảo văn học nửa đầu
thế kỷ XX”, Tạp chí Văn học (10), Tr. 27-36.
70. Trần Thị Trâm (1994), “Vai trò của báo chí trong sự phát triển văn
học dân tộc đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Văn học (6), Tr. 6-10.
71. Vũ Thanh (Tổng thuật) (2002), “Hội thảo khoa học văn xuôi quốc
ngữ Nam Bộ cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Văn học (5), Tr. 33-
40.
72. Vũ Tuấn Anh (2000), “Ba mươi năm đầu thế kỷ: Sự định hình tính
chất mới, hệ thống thể loại mới của văn học Việt Nam hiện đại”, Tạp chí Văn
học (12), Tr. 35-42.
73. Vương Trí Nhàn (2005), “Vai trò của trí thức trong quá trình tiếp
nhận văn hóa phương Tây ở Việt Nam đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Văn học (7),
108
Tr. 45-60.