ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HOÀNG THỊ LAN ANH ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI HOÀNG VIỆT HẰNG LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2016

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HOÀNG THỊ LAN ANH ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI HOÀNG VIỆT HẰNG

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 62 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN BÍCH THU

THÁI NGUYÊN - 2016

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự

hướng dẫn của PGS. TS Nguyễn Bích Thu, kết quả nêu trong luận văn này là

hoàn toàn trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình

nào khác.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2016

Tác giả

Hoàng Thị Lan Anh

i

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

LỜI CẢM ƠN

Luận văn đã được hoàn thành tại khoa Ngữ Văn, trường Đại học sư

phạm, Đại học Thái Nguyên.

Với tình cảm chân thành nhất của mình, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu

sắc tới PGS.TS. Nguyễn Bích Thu, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo

mọi điều kiện trong suốt quá trình thực hiện đề tài luận văn.

Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Ban giám hiệu,

khoa Sau Đại học, khoa Ngữ Văn trường Đại Học Sư phạm - Đại học Thái

Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ em trong quá trình học tập và

nghiên cứu.

Em xin chân thành cảm ơn tác giả Hoàng Việt Hằng đã giúp đỡ em trong

việc tìm hiểu quá trình sáng tác, thu thập thông tin phục vụ cho việc hoàn thành

luận văn.

Nhân đây, tôi cũng xin chân thành cảm ơn các bạn bè, những người thân

trong gia đình đã khuyến khích, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình

học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2016

Tác giả

Hoàng Thị Lan Anh

ii

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii

MỤC LỤC .......................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 5

4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 6

5. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 7

6. Cấu trúc luận văn ......................................................................................... 7

Chương 1: SÁNG TÁC CỦA HOÀNG VIỆT HẰNG TRONG DÒNG

CHẢY CHUNG CỦA VĂN XUÔI NỮ THỜI KỲ ĐỔI MỚI ....................... 8

1.1. Khái lược văn xuôi Việt Nam đương đại ................................................. 8

1.2. Đội ngũ nhà văn nữ đương đại ................................................................. 8

1.3. Hành trình sáng tác của Hoàng Việt Hằng ............................................. 12

1.3.1. Vài nét về tác giả ............................................................................. 12

1.3.2. Văn nghiệp Hoàng Việt Hằng ......................................................... 15

Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 18

Chương 2: NHỮNG KHÁM PHÁ VỀ ĐỜI SỐNG - VĂN HÓA

TRONG VĂN XUÔI HOÀNG VIỆT HẰNG ............................................... 19

2.1. Những quầng sáng kí ức ......................................................................... 19

2.1.1. Nỗi nhớ Hà Nội một thời chưa xa ................................................... 19

2.1.2. Hoài niệm về người Hà Nội ............................................................ 25

2.2. Những phận người .................................................................................. 31

2.2.1. Thân phận người phụ nữ .................................................................. 31

2.2.2. Thân phận con người nhỏ bé ........................................................... 40

iii

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

2.3. Những nét đẹp trong văn hóa ứng xử ..................................................... 43

2.3.1. Giữa người với người ...................................................................... 43

2.3.2. Với thiên nhiên ................................................................................ 48

2.3.3. Với văn hóa ẩm thực ........................................................................ 52

Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 57

Chương 3: MỘT VÀI PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN TRONG VĂN

XUÔI HOÀNG VIỆT HẰNG ......................................................................... 58

3.1. Nghệ thuật thể hiện tâm lý trong văn xuôi Hoàng Việt Hằng ................ 58

3.2. Màu sắc tự truyện trong văn xuôi Hoàng Việt Hằng ............................. 61

3.3. Xây dựng nhân vật .................................................................................. 64

3.3.1. Phác họa ngoại hình ......................................................................... 64

3.3.2. Khắc họa nội tâm ............................................................................. 65

3.4. Ngôn ngữ trần thuật. ............................................................................... 68

3.4.1. Ngôn ngữ đậm chất thơ ................................................................... 68

3.4.2. Ngôn ngữ đậm chất đời thường ....................................................... 70

3.5. Giọng điệu trần thuật .............................................................................. 73

3.5.1. Giọng trữ tình, thương cảm ............................................................. 74

3.5.2. Giọng chiêm nghiệm, suy tư ........................................................... 76

Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 78

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 82

iv

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Chân dung nhà văn Hoàng Việt Hằng

v

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Từ sau 1986 nền văn học nước nhà có nhiều biến chuyển và khởi sắc,

góp phần vào những khởi sắc ấy là một thế hệ nhà văn nữ giàu nội lực sáng tạo.

Hoàng Việt Hằng là một trong những cây bút như thế. Cùng với lớp người cầm

bút sau năm 1975 như Mai Quỳnh Nam, Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Việt

Chiến, Trần Thùy Mai, Thùy Dương, Ngô Thị Kim Cúc, Phạm Thị Ngọc Liên.

Y Ban, Phan Thị Vàng Anh,… Hoàng Việt Hằng là một trong những cây bút

nữ viết liên tục và bền bỉ. Bà bám chắc vào cuộc sống để lắng nghe, quan sát

và viết. Sáng tác của Hoàng Việt Hằng là những đóng góp đáng ghi nhận trong

việc tạo nên sự phong phú, nhiều màu sắc của đời sống trong văn học ở thời kì

đổi mới và hội nhập.

Văn xuôi Hoàng Việt Hằng có vẻ đẹp giản dị, mộc mạc, gần với hơi thở

cuộc sống. Bà đã nhiều lần đoạt các giải thưởng văn học: Giải thưởng của

Hội nhà văn Hà Nội năm 1980-1981 cho tập truyện ngắn Những lời chưa nói

hết ; tặng thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 2010 cho tiểu thuyết Một

bàn tay thì đầy. Về thơ Hoàng Việt Hằng được nhận giải thưởng của Liên

hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam các tập thơ Tự tay nhóm lửa

(2005); giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội cho tập thơ Vệt trăng và cánh

cửa (2008). Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam và Tổng liên đoàn lao

động Việt Nam cho tập thơ Xóa đi và không xóa. Ngoài ra bà còn năm lần

nhận giải thưởng báo chí.

Trong những trang viết của Hoàng Việt Hằng, dễ nhận thấy, bà là người

dám dấn thân cho những chuyến đi; cũng là người dám “thế chấp” cả cuộc đời

mình cho “cánh đồng chữ”. Trong quá trình sáng tác Hoàng Việt Hằng ngày

càng tự tin hơn với ngòi bút của mình.

Gắn bó với nghề văn đã hơn bốn mươi năm, đến nay Hoàng Việt Hằng

đã là tác giả của 7 tập thơ và 9 tập văn xuôi. Ở địa hạt văn xuôi, bà lần lượt cho

1

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

ra mắt truyện ngắn, tiểu thuyết và tản văn. Và dường như càng về sau, tản văn,

truyện ngắn và tiểu thuyết đã chiếm vị trí đáng kể trong cảm hứng sáng tạo của

bà. Tiểu thuyết Một bàn tay thì đầy, tản văn Dấu chấm than viết ngược, Người

cho đã không nhớ, Tiếng dẻ cùi phía cây cơm vàng và Tiêu gì cho thời gian để

sống, Bóng đổ nơi chân sóng, truyện ngắn Nắng trưa không đứng bóng… xuất

hiện đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo bạn đọc. Khá nhiều bài viết, bài

phỏng vấn về Hoàng Việt Hằng và các cuốn sách của bà nằm rải rác trên các

báo và tạp chí. Có thể nói với số lượng tác phẩm đáng kể, với những giải

thưởng văn học được nhận, Hoàng Việt Hằng trở thành một cây bút khá tiêu

biểu với dòng văn học nữ nói riêng và với nền văn học đương đại nói chung.

Sẽ thật là thiệt thòi với cây bút mà cả cuộc đời trọn vẹn sống với văn

chương, coi nghiệp viết là lẽ sống của mình. Và cũng là thật thiếu sót nếu nhìn

vào đội ngũ những nhà văn nữ đương đại lại không có những công trình tìm

hiểu và nghiên cứu về sáng tác của Hoàng Việt Hằng nói chung và văn xuôi nói

riêng một cách hệ thống và đầy đủ. Đó là lý do khiến chúng tôi chọn văn xuôi

Hoàng Việt Hằng làm đối tượng nghiên cứu, với đề tài Đặc điểm văn xuôi

Hoàng Việt Hằng. Chúng tôi hi vọng thông qua việc tìm hiểu, nhận diện những

đặc điểm trong văn xuôi của Hoàng Viêt Hằng - một gương mặt khá nổi bật của

dòng văn học nữ đương đại Việt Nam sẽ góp phần làm đầy đặn và phong phú

hơn bức tranh văn học nữ đương đại nói riêng và văn xuôi Việt Nam đương đại

nói chung.

2. Lịch sử vấn đề

Trước khi đến với văn xuôi, Hoàng Việt Hằng đã là một nhà thơ. Khi bà

đã làm chủ một gia tài thơ gồm 7 tập.

Trong một bài viết về tập thơ gần đây của Hoàng Việt Hằng với nhan đề

Xóa đi và không xóa (2012), nhà nghiên cứu Mã Giang Lân đã khẳng định sức

sáng tạo của cây bút thơ này: “chị là một cây bút nữ viết khỏe và xông xáo. Cả

thơ, tản văn, tiểu thuyết khoảng 4 năm in 5 quyển”[26].Về thơ, tác giả ghi nhận

2

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

“Hoàng Việt Hằng chú trọng đưa chất sống vào thơ, hút nhụy sống từ nhiều

miền quê đất nước và vươn ra ngoài biên giới hy vọng đem lại màu mỡ cho

thơ”[26]. Mã Giang Lân nhận thấy ở những bài thơ của Hoàng Việt Hằng là

những phác thảo gọn và gợi. Trong Xóa đi và không xóa của bà không chỉ giữ

được và tiếp tục mạch nguồn từ những tập thơ trước, mà còn mở mang thêm

tầng vỉa đời sống, một điều xưa cũ nhưng lại luôn có ý nghĩa thẩm mỹ.

Nhưng rồi vừa như một thử bút, vừa như một định mệnh, các truyện

ngắn đầu tay và các sáng tác văn xuôi của Hoàng Việt Hằng lần lượt hiện diện

trên các báo Tiền Phong, Độc lập, Thống Nhất, Người Hà Nội, Lao Động…vào

cuối thập niên bảy mươi của thế kỉ hai mươi mang ám ảnh thân phận, và hơi

thở cuộc sống đã được bạn đọc, giới sáng tác và phê bình văn học quan tâm.

Trên trang VietBao.vn tác giả Hoàng Định (nhà văn Trần Chiến) viết về

tập tản văn đầu tiên Dấu chấm than viết ngược của Hoàng Việt Hằng: “ Hoàng

Việt Hằng đi nhiều, gặp lắm. Ngoài cung cấp thông tin, những gì chị kể đều lưu

lại cảm xúc riêng. Vết khắc trên đá xám chắt lọc từ vài chuyến đi mới được độ

nghìn chữ, kể về người đàn bà "sống với năm ngọn đèn", "Chúa đã an bài",

"Không có gì riêng tư để nói". Đó là "đối tượng" rất khó viết so với những

người nổi tiếng khác như ca nương Quách Thị Hồ, dịch giả Trần Đình Hiến…

Lần theo con đường tơ lụa bên Trung Hoa, chị nhớ "người nướng thịt dê thì cứ

nướng, người chăn dê vẫn hát giữa cỏ xanh" [5]. Nhưng dù viết về ai, vùng đất

nào, "sự vật" gì, hồn nhiên hay u uất, cái nhu cầu phải nói với mình, nói cho

mình vẫn bộc lộ ra trong từng câu chữ”. Sau tập tản văn Dấu chấm than viết

ngược (2008), Hoàng Việt Hằng cho ra mắt bạn đọc cuốn tiểu thuyết Một bàn

tay thì đầy (2010). Trên trang Phong Điệp.net, trang báo Văn nghệ viết:

“Trong tác phẩm (Một bàn tay thì đầy) những trải nghiệm đời sống với đầy nỗi

cơ cực, nhọc nhằn trong cuộc đời một người đàn bà được thể hiện bằng một

giọng văn hiện đại, ám ảnh. Tác phẩm cũng là tiếng nói KHÁT sống của những

con người đã rơi vào tận cùng bi kịch”. Bài viết Tin vào nước mắt trên Báo

3

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

điện tử Công an nhân dân ngày 3-12-2011 của tác giả Bùi Việt Thắng nhận

thấy Một bàn tay thì đầy mang dấu ấn tự truyện. Người đọc từng trải mới có thể

thấm thía cái giọng đầy thương cảm trong tác phẩm này. Thương cảm không có

nghĩa là tạo ra sự ủy mỵ, yếu mềm mà tạo ra sự đồng cảm đến tri âm tri kỷ giữa

nhà văn và độc giả.

Tiếp theo cuốn tiểu thuyết, Hoàng Việt Hằng lại cho ra đời tập tản văn

Tiếng dẻ cùi phía cây cơm vàng. Tác giả Tuy Hòa trong bài Tiếng dẻ cùi phía

cây cơm vàng đánh thức cảm xúc đã viết: “Ở độ tuổi lục tuần, vẫn đi và viết

như Hoàng Việt Hằng rất hiếm…Hoàng Việt Hằng viết tản văn như chơi,

buông câu nhả chữ nhẹ nhàng mà đủ sức níu giữ người đọc bằng hình ảnh.

Bằng sự quan sát tinh tế, chị cảm nhận được sự vận động, cựa quậy của thiên

nhiên và luôn nhìn thiên nhiên bằng con mắt của người đàn bà nhạy cảm,

nhiều tâm trạng” [21]. Tống Thảo Trang trong bài Tiếng dẻ cùi phía cây cơm

vàng cảm nhận: “Tản văn Hoàng Việt Hằng nhẹ nhàng, mộc mạc mà da diết

đầy chất văn, dễ thấm vào lòng người. Tiếng dẻ cùi phía cây cơm vàng không

chỉ mang lại cảm giác háo hức được thưởng thức những vẻ đẹp mới mẻ lấp

lánh của thiên nhiên, cảnh vật và khơi gợi cảm hứng hành trình trong mỗi con

người để khám phá và trải nghiệm. Hơn thế người đọc còn cảm giác được sẻ

chia rất nhiều từ ý tưởng, hình ảnh, tâm tình trao gửi của tác giả trong mỗi

bươc chân, trên mỗi nẻo đường”. Năm 2014, Hoàng Việt Hằng lại cho ra mắt

văn đàn tập tản văn Tiêu gì cho thời gian để sống. Nhà phê bình Hàn Hoa trong

bài Giọt đục, giọt trong nước mắt trên Báo Văn nghệ số 13 (28-3-2015) nhận

thấy: “ Sắc bén về tình người và nghiêng hoàn toàn lòng cảm thông nhạy cảm

về phía những thân phận lận đận - đấy là đặc điểm quán xuyến và nổi bật khiến

những tản văn này (tập tản văn Tiêu gì cho thời gian để sống - HTLA) đạt đến

độ lôi cuốn một cách trong sáng giản dị”[18]. Và tác giả còn nhận ra: “Một

trong những cái hay của sự triết lý là không - triết - lý. Nhiều bài tản văn của

Hoàng việt Hằng trong tập này đẩy tới các câu hỏi tự vấn cho chị và cho

4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

những ai đọc chị, hẳn là thế. Xét trên phương diện này thì đó quả là những tự

vấn khá nhẹ nhàng về phương thức, hay cũng có thể nói là dịu dàng” [18]. Nhà

nghiên cứu Bích Thu trong bài Hoàng Việt Hằng viết cho thời gian để sống in

trên Tạp chí Văn nghệ quân đội số 817 (tháng 3 năm 2015) đã nhận diện một

vài điểm nhấn trong tập tản văn: Kí ức về Hà Nội xưa, về văn hóa ẩm thực, về

thiên nhiên, về cái tôi tác giả Hoàng Việt Hằng là người chịu đi, chịu đọc, chịu

thiệt thòi về số phận để cống hiến cho từng trang viết. Bích Thu ghi nhận: “

Trong cấu trúc thể loại, tản văn Hoàng việt Hằng có sự phối trộn giữa tự sự và

trữ tình. Từ những điều mắt thấy tai nghe đã dung chứa thế giới nội tâm, cảm

xúc của chủ thể viết một cách trực tiếp nhất…”[51]. Gần đây Hoàng Việt Hằng

trình làng văn tập truyện ngắn Nắng trưa không đứng bóng (2015) và tập tản

văn Bóng đổ nơi chân sóng (2015). Ở đây người đọc bắt gặp một Hoàng Việt

Hằng sát kề, gần gụi với những phận người thua thiệt và bất hạnh, tác giả chia

sẻ “Tôi chỉ thuộc về phía những người cùng khổ”. Đọc tác phẩm của Hoàng

Việt Hằng, nhà nghiên cứu Mã Giang Lân nhận xét: “….các tác phẩm (của

Hoàng Việt Hằng - HTLA) như nói với mình, về mình nhưng lại là những lời

nhắc nhở, khơi gợi lương tâm đồng loại”[26].

Trên đây là những bài viết, những ý kiến của giới sáng tác và phê bình về

sáng tác của Hoàng Việt Hằng tập trung ở mảng văn xuôi. Các ý kiến đã trích

dẫn mới chỉ đề cập đến một tác phẩm riêng lẻ, chưa có những tìm hiểu về văn

xuôi Hoàng Việt Hằng một cách đầy đủ và hệ thống. Trên cơ sở gợi ý từ những

bài viết kể trên, chúng tôi tìm thấy khoảng trống để tiếp cận và triển khai đề tài:

Đặc điểm văn xuôi Hoàng Việt Hằng.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đặc điểm văn xuôi Hoàng Việt Hằng nhìn từ phương diện nội dung và

phương thức thể hiện.

5

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Trong gia tài văn chương của Hoàng Việt Hằng cho đến nay đã có 7 tập

thơ và 9 cuốn văn xuôi được “trình làng”. Song trong khuôn khổ của luận văn,

chúng tôi chỉ khảo sát văn xuôi của Hoàng Việt Hằng bao gồm 7 tác phẩm;

xuất hiện vào những năm đầu của thế kỉ XXI.

 Tản văn Dấu chấm than viết ngược (2008)

 Tiểu thuyết Một bàn tay thì đầy (2010)

 Tản văn Người cho đã không nhớ (2012)

 Tản văn Tiếng dẻ cùi phía cây cơm vàng (2013)

 Tản văn Tiêu gì cho thời gian để sống (2014)

 Tản văn Bóng đổ nơi chân sóng (2015)

 Truyện ngắn Nắng trưa không đứng bóng (2015)

4. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi thực hiện những phương pháp

nghiên cứu chủ yếu sau:

- Phương pháp thống kê, phân loại:

Phương pháp này sẽ giúp chúng tôi trong quá trình khảo sát, phân loại

các đặc điểm nổi bật về nội dung, các kiểu dạng nhân vật và một số phương

thức biểu hiện nghệ thuật trong sáng tác của Hoàng việt Hằng.

- Phương pháp so sánh đối chiếu:

Tiến hành so sánh tác phẩm của Hoàng Việt Hằng với sáng tác của một

số nhà văn khác để thấy những điểm khác biệt và đặc trưng trong sáng tác của

Hoàng Việt Hằng.

- Phương pháp phân tích tổng hợp:

Phương pháp này sẽ giúp chúng tôi vừa đi sâu tìm hiểu nghiên cứu

những đặc điểm trong văn xuôi Hoàng Việt Hằng vừa hệ thống tổng hợp kết

quả từ đó minh chứng cho các luận điểm chính của luận văn.

6

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

- Phương pháp tiểu sử:

Nhằm tìm hiểu tác phẩm thông qua mối quan hệ giữa tác giả và văn bản

tác phẩm do nhà văn sáng tạo nên.

5. Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu những đặc điểm nổi bật trong sáng tác của Hoàng Việt Hằng

trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật.

Bước đầu ghi nhận thành tựu và những đóng góp của nhà văn Hoàng

Việt Hằng đối với văn xuôi nữ nói riêng và văn xuôi Việt Nam đương đại

nói chung.

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu và kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương.

Chương1: Sáng tác của Hoàng Việt Hằng trong dòng chảy chung của văn

xuôi nữ thời kỳ đổi mới.

Chương 2: Những khám phá về đời sống - văn hóa trong văn xuôi

Hoàng Việt Hằng.

Chương 3: Một vài phương thức thể hiện trong văn xuôi Hoàng Việt Hằng.

7

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Chương 1

SÁNG TÁC CỦA HOÀNG VIỆT HẰNG TRONG DÒNG CHẢY CHUNG

CỦA VĂN XUÔI NỮ THỜI KỲ ĐỔI MỚI

1.1. Khái lược văn xuôi Việt Nam đương đại

Văn xuôi Việt Nam từ năm 1975 đến nay có sự đổi mới trên mọi bình

diện, ở nhiều cấp độ và trong mọi thể loại. Nhiều cây bút văn xuôi đã có ý thức

cách tân trong cách nhìn và lối viết. Có thể kể đến những cây bút đã thành danh

như: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma văn Kháng, Xuân Thiều, Lê

Lựu… Tiếp đến là lớp nhà văn trưởng thành sau 1975 như: Bảo Ninh, Chu Lai,

Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh, Võ Thị Hảo, Phan Thị Vàng

Anh, Y Ban. Đoàn Lê,… Càng về sau trong không khí và đổi mới và hội nhập

văn hóa, văn học, các cây bút văn xuôi càng tích cực và tỏ ra nhạy bén trong

việc làm mới chính mình. Tác phẩm của họ làm nên sự đa dạng của văn xuôi

những năm cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI.

Văn xuôi thời kì đổi mới, hội nhập đã phản ánh chân thực, gần gũi những

vấn đề mà nhà văn trăn trở. Ở đó các tác giả đặt ra nhu cầu về ý thức, trách

nhiệm của ngòi bút trước những biến động ghê gớm của các chuẩn mực giá trị

đạo đức, góp phần làm cuộc sống hoàn thiện tốt đẹp hơn. Từ đó giúp người đọc

nhận thấy đời sống xã hội không còn là một chiều giản đơn, thuần nhất mà

luôn biến chuyển phức tạp, đa chiều. Với trách nhiệm của người cầm bút, các

nhà văn đã đưa ngòi bút của mình len lỏi tới những ngõ ngách của đời sống xã

hội những mảnh đời đau khổ, những cảnh đời éo le, những tấn bi hài kịch của

con người. Các sáng tác văn chương của họ đã đáp ứng được những yêu cầu

của văn học giai đoạn đổi mới, và của người đọc đương đại.

1.2. Đội ngũ nhà văn nữ đương đại

Nhắc đến văn học nữ Việt Nam sau năm 1975, phải nhắc đến thế hệ các

nhà văn nữ xuất hiện vào cuối thập kỉ 80 và đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX.

Mười năm cuối thế kỷ trước, gần như đồng loạt, có đến hàng chục nhà văn nữ

8

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

xuất hiện đem đến một phong khí mới mẻ cho văn chương nước nhà. Những

tên tuổi như Lê Minh Khuê, Phạm Thị Minh Thư, Lý Lan, Đoàn Lê, Võ Thị

Hảo, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Xuân Hà….đã

làm nên một bước ngoặt của dòng chảy văn học nữ Việt Nam. Không có nhiều

trải nghiệm chiến tranh nhưng họ lại sống trong không gian của những nhận

thức về cuộc chiến ấy. Từ cái nhìn của người phụ nữ, những vấn đề mà họ đặt

ra trong những Có một đêm như thế (Phạm Thị Minh Thư), Người sót lại của

Rừng cười (Võ Thị Hảo), Tiếng rừng (Hàn Phương), Đàn sẻ ri bay ngang rừng

(Võ Thị Xuân Hà),… chắc chắn là những tiếng nói không thể thiếu trong mọi

nhìn nhận về văn học giai đoạn này. Các nhà văn nữ cũng là người đi sâu vào

các không gian cá nhân (trong những mối quan hệ gia đình, bạn bè, và với

chính bản thân), vừa như một vấn đề tự thân, vừa như một nỗ lực thay thế các

không gian xã hội thời chiến tranh (trong những mối quan hệ dân tộc, cộng

đồng, đội ngũ) đang dần nhạt nhòa trước đời sống dân sự mới mẻ. Sự xen cài

giữa màu sắc nữ quyền và nữ tính trong sáng tác của thế hệ các nhà văn nữ thời

kì này đã làm nên sức hấp dẫn riêng có của nó.

Nhà văn nữ viết nhiều về phụ nữ vì theo đặc trưng tâm lý họ tồn tại với

tình cảm hướng nội, luôn muốn tìm sự đồng cảm, khác tâm lý đàn ông với lý trí

hướng ngoại luôn luôn phân tích chiếm lĩnh. Bên cạnh đó nhà văn nữ muốn

thông qua nhân vật nữ để thể hiện tâm hồn mình, bản thân mình, vì vậy mà

những sáng tác của các tác giả nữ thường mang màu sắc tự truyện.

Sự kiện các nhà văn nữ lên ngôi được cắt nghĩa bởi hai lý do: Thứ nhất là

do cơ chế đổi mới của đất nước sau năm 1986. Đây là điều kiện sáng tác thuận

lợi cho tất cả các nhà văn nói chung trong cả nước và các nhà văn nữ nói riêng.

Sự cơi nới về đề tài và dỡ bỏ một số quan niệm áp đặt cho văn chương đã kích

thích sự sáng tạo của nhà văn. Họ có điều kiện để thâm nhập vào mọi ngõ

nghách của đời sống xã hội cũng như đời sống tinh thần của con người, thậm

chí những vùng đất cấm kị mà một thời văn học phải né tránh thì nay lại càng

9

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thu hút ngòi bút của họ. Bối cảnh xã hội mới cũng mở rộng việc giao lưu với

văn hóa thế giới thông qua một số lượng lớn sách dịch. Tầm nhìn xa hơn, rộng

hơn về văn hóa thế giới cũng thúc đẩy những tìm tòi nghệ thuật của nhà văn.

Nguyên nhân thứ hai là do thiên hướng nghệ thuật của giới tính, “nhà tâm lý

học Thụy Sĩ Karl Gustave Jung cho rằng: Xét từ tố chất tâm lý thì nữ giới thuộc

loại hình tình cảm….mang những đặc điểm rõ ràng hơn là tư duy”, “một số nhà

giải phẫu học cũng đã chứng thực nữ giới thường tư duy nghiêng về bán cầu

não trái tức là bộ phận nặng về tình cảm tưởng tượng, hồi tưởng….nhiều nhà

tâm lý học khác khẳng định nữ giới rất nhạy cảm dễ xúc động” [10]. Do đó họ

có thể viết sâu về những vấn đề của giới mình, đi sâu vào thế giới tâm hồn bí ẩn

của người phụ nữ. Đối với việc sáng tác văn học ngoài sự đa cảm - yếu tố được

coi là mảnh đất tốt cho sự nảy mầm tài năng của chính họ, nữ giới còn có lợi

thế ở tài quan sát tinh tế và năng lực ngôn ngữ.

Trên nền chung thì như thế, còn đi vào tình hình cụ thể của văn học nữ

nước ta những năm gần đây, nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn cũng có những

nhận định rất sát sao: “Hình như do sự nhạy cảm riêng của mình, phụ nữ bắt

mạch với thời đại nhanh hơn nam giới. Họ luôn gần với cái lỉnh kỉnh dở dang

của đời sống. Mặt khác với cái cực đoan sẵn có: tốt, dịu dàng, rộng lượng thì

không ai bằng, mà nhỏ nhen chấp nhặt dữ dằn cũng không ai bằng - Từng cây

bút nữ tìm ra mặt mạnh của mình khá sớm, định hình khá sớm” [5]. Cũng cần

nói thêm số lượng các tác giả nữ đông đảo và “tỏ ra khó chắc tay trong dàn

chung” [31] lại chủ yếu là những cây bút viết nhiều và thành công hơn ở thể

loại truyện ngắn. Có lẽ “cảm xúc sáng tạo truyện ngắn có chung tần số với cảm

xúc nữ tính: Sự lóe sáng, sự thất thường, tính thời khắc và sự dẫn dắt tuyệt diệu

của mẫn cảm bản năng” [54].

“Cuộc sống luôn vỗ sóng vào văn học”, vì thế cũng như những sáng tác

của các nhà văn giai đoạn này, sáng tác của các nhà văn nữ là những vang

10

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

hưởng của cuộc sống thời đại. Họ thẳng thắn bóc tách những mặt trái của xã

hội và cũng mạnh dạn bóc tách chính tâm hồn cuộc đời của mình.

Một đặc điểm nữa cũng rất dễ nhận thấy trong sáng tác của những cây

bút nữ đó là họ hay viết về kí ức, kể cả cách đây hơn hai chục năm, khi họ mới

xuất hiện trên văn đàn. Khi ấy họ còn trẻ nhưng những trang văn vẫn đầy ắp

những kí ức. Đó là Chuyện buồn tuổi 18 - Nguyễn Thị Minh Hoa, là Chiếc bình

đựng kí ức - Dương Nữ Khánh Dương, là Cau non - Nguyễn Thị Phước, Những

miền rừng - Trần Thanh Hà, là Vùng sáng kí ức - Y Ban, là Một bàn tay thì đầy

- Hoàng Việt Hằng,…Kí ức của họ có kỉ niệm thời thơ ấu với những trò nghịch

dại, có khoảng trống nhớ nhung về những người thân yêu, và có cả miền kí ức

về một vùng đất quê hương gắn bó…Nhưng thẳm sâu và da diết nhất vẫn là kí

ức của tình yêu. Tình yêu đến mang theo những khoảnh khắc đẹp đẽ, rồi ra đi

để lại những vết thương suốt cuộc đời không lành nổi. Tất cả - cả hạnh phúc và

đớn đau đều được “gói ghém” cẩn thận và cất vào một nơi bí mật nhất trong

tâm hồn. Đó là cách mà những người phụ nữ vẫn làm để có thể cân bằng cuộc

sống của chính họ.

Chưa bao giờ phái nữ lại dành được sự quan tâm nhiều của người cầm

bút như ngày hôm nay. Khuynh hướng duy nữ được thể hiện không chỉ là sự

xuất hiện nhiều nhà văn nữ, nhiều nhân vật nữ trong tác phẩm mà nó còn chi

phối ngay cả cách đặt tên tác phẩm như: Người đàn bà đứng trước gương,

Người đàn bà có ma lực, I am đàn bà của Y Ban; Hồn trinh nữ, Góa phụ đen

của Võ Thị Hảo; Thiếu phụ chưa chồng của Nguyễn Thị Thu Huệ,….Mỗi tác

giả đều cố gắng xác lập một tiếng nói riêng, một giọng điệu riêng của mình.

Dường như với khuynh hướng duy nữ ngôn ngữ văn chương của nền văn học

đã đổi thay, tinh tế hơn và giàu nội cảm hơn.

Tuy nhiên, điểm mạnh bao giờ cũng đi cùng những điểm yếu. Bên cạnh

những ưu thế nữ giới, họ có những hạn chế so với đòi hỏi của việc tạo ra những

kiệt tác trong văn học. “Phụ nữ đúng là giàu óc tưởng tượng hơn nam giới.

11

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Nhưng theo các nhà tâm lý học thì giấc mơ của chị em thường là những câu

chuyện thường nhật xảy ra trong nhà....Chị em có ưu thế về tình cảm và ngôn

ngữ nhưng chưa tìm được sự cân đối hài hòa với lý trí, trí tuệ” [31]. Chính vì

thế mà Lê Minh Khuê cũng có nhiều trăn trở khi nhìn nhận về sáng tác của giới

mình “Nghĩ về những trang viết cùng giới với mình tôi thường bị chi phối bởi

cảm giác nước đôi. Một mặt nhiều chị em bộc lộ một tài năng rõ rệt không lèm

nhèm, không mờ nhạt. Mặt khác sao vẫn cảm thấy đặt trong hoàn cảnh chung

rồi thì mỗi người cũng đến thế thôi: Không bao giờ có sự gọi là đồ sộ, vĩ đại ở

những cây bút nữ này cả” [33].

Sự phát triển mạnh mẽ của đất nước và những nỗ lực tạo nên sự bình

đẳng về giới đã tạo nên những tiền đề cơ bản để giúp người đàn bà thoát khỏi

sự áp chế của đàn ông, khiến cho họ có khả năng tồn tại độc lập và có khả năng

tự quyết số phận mình. Nhưng quan trọng hơn, ý thức về giới một cách tự giác

đã ăn sâu vào tâm thức đội ngũ cầm bút và tạo nên một khuynh hướng nữ

quyền trong văn học Việt Nam đương đại. Những cây bút này đã đem đến cho

văn đàn những tiếng nói mới mẻ khiến các nhà văn và các nhà phê bình nam

giới phải thừa nhận tài năng cùng đóng góp đáng kể của họ với đời sống văn

học đương đại.

1.3. Hành trình sáng tác của Hoàng Việt Hằng

1.3.1. Vài nét về tác giả

Hoàng Việt Hằng người Hà Nội gốc, sinh ngày 29 tháng 12 năm 1953

quê làng Vân Hồ tại Hà Nội. Đã tốt nghiệp trường Đại học Văn hóa, bà từng là

công nhân nhà máy Cơ khí Trần Hưng Đạo, Công ty xây dựng số 1 Hà Nội.

Hoàng Việt Hằng yêu thơ, đến với thơ từ năm 17 tuổi, bà cũng đã theo học

Trường viết văn Nguyễn Du khóa 7. Khác với bạn bè, Hoàng Việt Hằng là

người lận đận trong con đường công danh và duyên phận. Bà gặp và yêu nhà

văn Triệu Bôn khi ông đã nổi tiếng với truyện Mầm sống và những tập truyện

ngắn, truyện dài của một người lính đã đi qua chiến tranh bom đạn. Mối tình

12

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

của cô gái với nhà văn lớn tuổi trải qua biết bao ghềnh thác, kéo dài bao nhiêu

năm rồi mới có được một đám cưới, một danh phận.

Tác giả Hoàng Việt Hằng có một đôi vai rộng, hiểu theo cả nghĩa đen lẫn

nghĩa bóng là đôi vai mang gánh nặng nhân tình thế thái và văn chương. Đôi

vai ấy gánh vác nhiều việc hệ trọng trong đời. Là đôi vai đã từng bốc vải ở chợ

Bắc Qua những năm nghèo khó, cơ cực để lấy tiền nuôi con, chăm chồng. Là

đôi vai đã giúp bà vững vàng đến bệnh viện một mình “vượt cạn”, một mình

xây nhà, một mình đi sau xe tang mẹ, một mình cõng chồng đi khắp các bệnh

viện ròng rã mười năm trời. Đôi vai đã thức khuya dậy sớm, lam lũ với đủ mọi

bận bịu để làm tròn bổn phận, thiên chức của một người mẹ người vợ. Và đôi

vai đã nâng đỡ cả thể chất và tâm hồn Hoàng Việt Hằng, cố gắng giúp bà thăng

bằng trong cuộc sống.

Hoàng Việt Hằng là một người đàn bà yêu chồng hết lòng hết dạ,

thương chồng một cách quyết liệt và tôn thờ chồng một cách cực đoan. Cho

dù nhà văn Triệu Bôn không phải là người anh hùng mã thượng, tiền bạc đầy

mình mà chỉ là một nhà văn cày sâu cuốc bẫm trên từng trang viết, suốt cả

đời chỉ biết cống hiến cho đời những con chữ bầm dập của mình. Thời của

ông, nhà văn chỉ có "danh" mà không có "thực", cuộc sống khốn khó trăm

bề. Huống hồ khi nhà văn Triệu Bôn đến với bà, trên người ông đã có 4 vết

thương của bom đạn. Và hơn thế nữa: "Con chồng vợ cũ đồng sâu/ Lấy

chồng lấy cả nỗi đau của chồng/ Văn chương bảy sắc cầu vồng/ Chuyện tình

anh cũ em không biết gì" (thơ Hoàng Việt Hằng).

Với một người đàn ông đã có một đời vợ và đàn con, một người thương

binh mà không có thẻ. Sự thua thiệt ấy của nhà văn Triệu Bôn đã trút cả vào

đôi vai của Hoàng Việt Hằng, thật tự nhiên, như lẽ thường để rồi chuỗi ngày

tiếp nối bà gồng sức mình lên để gánh vác, để san sẻ, bù đắp cho cái hạnh phúc

ngộp thở trong tổ kén bé tý tẹo của mình. Thế rồi, đứa con trai là kết quả của

mối tình nhiều trắc trở đã góp phần làm thăng hoa hạnh phúc của ông bà.

13

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Những ngày tháng hạnh phúc của họ gắn với căn phòng 8m2 ở 19 Hàng Buồm.

Biết bao nhọc nhằn, khổ ải của cuộc sống những năm tháng thời bao cấp đổ

dồn lên cặp vợ chồng nhà văn.

Trong gần 20 năm sống với chồng thì có tới 10 năm nhà văn Triệu Bôn

đau nặng. Trầm trọng nhất là vào năm 1993, ông bị tai biến mạch máu não và

liệt nửa người trong suốt 2 năm trên tay chị. Hồi đó, bạn bè thương gia cảnh

của hai vợ chồng đã giúp đỡ họ hết lòng. Những người bạn đã nghĩ cách cho

Hoàng Việt Hằng đi viết báo để kiếm sống. Người bạn gái thân của bà là nhà

báo Kim Hạnh ở Báo Sài Gòn tiếp thị đã mở một chuyên mục trên chính tờ báo

của mình để giúp bà in những bài viết lấy tiền sinh sống và chăm sóc thuốc

thang cho chồng. Như có lần Hoàng Việt Hằng tâm sự: "Nếu không có những

sự giúp đỡ tận tụy của bạn bè văn chương và báo chí, vợ chồng chị có lẽ không

vượt qua nổi những ngày tháng nghiệt ngã ấy". Chính bà đã dệt nên những vần

thơ làm sâu lắng lòng người: “Một mình khâu những lặng im/ Áo không vá

cũng không kim chỉ điều/ Em khâu lá rụng như thêu/ Khâu cay đắng với trớ

trêu mỉm cười/ Em khâu tóc trắng thay lời/ Mỗi khi cúi xuống rã rời nỗi đau”

(thơ Hoàng Việt Hằng).

Nhà văn Triệu Bôn là người bạn đời lớn mà Hoàng Việt Hằng rất đỗi

kính trọng, người đã mang lại cho bà những niềm vui trong vắt như pha lê kèm

những gánh nặng nhọc nhằn đày ải của “kiếp lạc đà trên sa mạc cát”. Mối tình

trắc trở của ông bà trong giới văn đàn đều biết đến như một sự trân trọng, chia

sẻ và thấu hiểu. Đúng như Hoàng Việt Hằng bộc bạch: "Cả chị và anh là những

kiếp lạc đà đã vượt qua được sa mạc cát”. Ngoảnh lại đoạn đường đã qua, bà

không khỏi rùng mình và cảm thấy không hiểu sao mình đã vượt qua dốc

ngược ấy. Hạnh phúc thường kèm theo tai ương và bất trắc.

Trên con đường khổ ải, đầy vất vả mưu sinh của mình Hoàng Việt Hằng

luôn phải gửi con ở nhà hàng xóm để thâm nhập thực tế, cho đến bây giờ vẫn

rất biết ơn họ. Họ giống như là những người mẹ người chị luôn sát cánh trên

14

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

bước đường của mình. Rất nhiều lần bà đến với những con người tại những nơi

không có sóng điện thoại, đường đi thì cheo leo dốc núi, chỉ sợ có mệnh hệ gì

thì con mình ở với ai, ai biết ở đâu mà tìm. Nhưng niềm đam mê của bà đã dập

tắt đi nỗi sợ hãi và bà lại tiếp tục là lữ khách trên mọi nẻo đường của đất nước

để quan sát, nghe ngóng và để viết.

Từng là phóng viên của báo Du lịch trong nhiều năm, tài sản lớn nhất

của Hoàng Việt Hằng là tư liệu và vốn sống văn hóa của nhiều miền đất, làm

giàu thêm vốn sống cho trang viết dài hơi. Gần như hai mươi năm dành cho đi,

đất nước này không một địa danh nào mà bà không đặt chân đến.

Giờ đây mái tóc bà đã “bời bời sợi bạc” nhưng còn sức khỏe là còn đi.

Bởi bà vẫn tâm huyết, vẫn trăn trở với con người và cuộc đời.

Hiện nay Hoàng Việt Hằng là hội viên Hội nhà văn Việt Nam năm 2002.

1.3.2. Văn nghiệp Hoàng Việt Hằng

Trên tạp chí Văn nghệ quân đội số ra 817 tháng 3 năm 2015 tác giả Bích

Thu đã viết: “Nói đến Hoàng Việt Hằng là nói đến đi và viết. Đi để thâm nhập,

tích lũy vốn sống, đi để quan sát, thức nhận và phát hiện những điều mới mẻ,

những vui buồn, được mất trong cuộc đời và thế giới quanh mình. Có thể nói

“xê dịch” là lẽ sống, đã cung cấp năng lượng thôi thúc sự sáng tạo nơi chị. Và

viết là đồng cảm với phận người, là quá trình đối thoại với cuộc sống để tìm ra

chính mình”.

Với Hoàng Việt Hằng được cầm bút viết là thấy như mình được tồn tại,

chính vì vậy mà bà luôn thâm nhập vào cuộc sống đời thường. Số nhuận bút

nhận được chỉ dành để nuôi con, thuốc thang cho chồng và để đi. Tiền của bà

không dùng cho cá nhân mình. Là đàn bà nhưng Hoàng Việt Hằng không hay

mua sắm mĩ phẩm, những thứ mà một người phụ nữ được quyền tô điểm cho

vẻ đẹp của mình. Bởi bà đã tiêu chúng cho những chuyến đi đơn lẻ cùng với

chiếc máy ảnh ghi nhật kí thường ngày. Hơn một lần, Hoàng Việt Hằng mong

ước sẽ được gần hơn với thiên nhiên, với con người ở mọi miền quê của xứ sở

hay ở bên ngoài lãnh thổ Việt Nam.

15

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Còn lại một mình với con trai, với những ký ức không nguôi thổn thức,

Hoàng Việt Hằng lại lao vào cuộc vật lộn để sống, để cặm cụi viết. Một nhà

thơ, người bạn của bà đã nói rằng, bà là người phụ nữ luôn phải bôn ba qua

nhiều ngả phố, miền đất, chân bước nhanh nhưng trái tim cứ ngoảnh lại, xuyên

vào những buồn thương nhân thế. Hoàng Việt Hằng cũng ngộ ra rằng, cái kiếp

viết, dù có nhọc nhằn, có bạc bẽo thì cũng: "Xin cảm ơn câu thơ/ Cho tôi tựa

vào người/ Mỗi khi đơn độc... Tôi tựa vào Người/để thở/để sống/và để chết..."

(thơ Hoàng Việt Hằng).

Hoàng Việt Hằng chịu khó đi và viết. Bà viết về những người mình kính

trọng, quý mến, viết về những người lao động, những người bất hạnh. Hoàng

Việt Hằng bộc lộ rõ tình cảm thái độ của mình trước con người và sự việc, hiện

tượng xã hội. Đấy là điều rất đáng quý ở bà. Trong lúc hiện nay nhiều người

viết đánh bóng bằng chữ nghĩa, bằng lối diễn tả khó nắm bắt, bà vẫn thẳng

thắn, bộc trực trong văn chương như vốn có ngoài đời. Nhưng như thế không

có nghĩa là dừng lại ở đó. Mạch cảm xúc, dòng chảy ngôn từ, hiện thực và hư

cấu, cụ thể và khái quát,…bao điều cần có ở ngòi bút văn xuôi, luôn là đòi hỏi

khắt khe với người viết mà Hoàng Việt Hằng không là ngoại lệ.

Trước khi đến với văn xuôi, Hoàng Việt Hằng đã thành danh một nhà

thơ qua những tác phẩm Tự tay nhóm lửa, Một mình khâu những lặng im, Vệt

trăng và cánh cửa… Thế nhưng, ở cái thời thơ thưa vắng người đọc, nữ sĩ cũng

phải mưu sinh bằng cách viết báo, đúng như Hoàng Việt Hằng thổ lộ: “Những

ngày làm lữ thứ tha hương. Đi viết nuôi con, Như người mẹ đi nương. Rắc ngô

và rắc lúa. Tôi cày trên đồng chữ”. Là phụ nữ, bà thích làm nội trợ, được

chồng che chở, không phải lo cơm áo gạo tiền. Nhưng những ước muốn tưởng

nhỏ nhoi thường tình ấy lại né tránh bà, buộc bà phải rẽ ngang vào địa hạt văn

xuôi vốn không phải là sở trường của một nhà thơ để viết, để mưu sinh. Các tập

tiểu thuyết, truyện ngắn, tản văn của bà lần lượt trình diện làng văn và như một

cơ duyên, nghề đã chọn Hoàng Việt Hằng.

16

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Có lẽ ai đã được gặp và nói chuyện với Hoàng Việt Hằng đều nhận ra ở

bà một tâm hồn giản dị, một phong thái nhanh nhẹn với cuộc sống đơn giản nhẹ

nhàng, dù tuổi đã cao nhưng chất lãng du của người làm báo Du lịch đã ngấm

vào con người bà, luôn mời gọi bà dấn bước trên các nẻo đường để hòa mình

vào thiên nhiên, để tìm kiếm những gì bị lãng quên giữa cuộc đời,…Và để có

được điều này,Với Hoàng Việt Hằng việc tiết kiệm thời gian luôn thường trực

ở trong con người bà, Hoàng Việt Hằng chạy đua cùng với thời gian để sáng

tác và để cho những chuyến đi. Chính vì vậy mà bà đã liên tiếp cho ra mắt độc

giả những đứa con tinh thần thẫm đẫm cảm xúc và suy tư của mình.

Có thể nói, Hoàng Việt Hằng là cây bút sáng tác trên nhiều thể loại. Và

là một trong những tác giả nữ viết sung sức đầu thế kỉ XXI.

Tác phẩm đã xuất bản:

Thơ:

- Những dấu lặng, Nxb Phụ nữ 1990.

- Tự tay nhóm lửa, Nxb Hội nhà văn 1996.

- Chuông vọng, Nxb Phụ nữ 2000.

- Một mình khâu những lặng im, Nxb phụ nữ 2005.

- Vệt trăng và cánh cửa, Nxb Phụ nữ 2008.

- Xóa đi và không xóa, Nxb Phụ nữ 2012.

- Trăng vàng ngồi vớt trăng vàng, Nxb Phụ nữ 2015.

Văn xuôi:

- Những lời chưa nói hết (Tập truyện ngắn), Nxb Thanh niên 1987.

- Ngón nhẫn xinh xinh (Tập truyện thiếu nhi), Nxb Kim Đồng 1998.

- Dấu chấm than viết ngược (Tập tản văn), Nxb Phụ nữ 2008, tái bản 2009.

- Một bàn tay thì đầy (Tiểu thuyết), Nxb Phụ nữ 2010.

- Người cho đã không nhớ (Tập tản văn), Nxb Thanh niên 2012.

- Tiếng dẻ cùi phía cây cơm vàng (Tản văn), Nxb Phụ nữ 2013.

- Tiêu gì cho thời gian để sống (Tản văn), Nxb Trẻ 2014.

17

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

- Bóng đổ nơi chân sóng (Tản văn), Nxb Quân đội nhân dân 2015.

- Nắng trưa không đứng bóng (Tập truyện), Nxb Văn học 2015.

Giải thưởng văn học:

- Giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội với tập truyện ngắn Những lời

chưa nói hết (1980-1981), tập thơ Vệt trăng và cánh cửa (2008)

- Giải thưởng của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam với tập thơ Những

dấu lặng (1990-1995).

- Giải thưởng của Liên hiệp các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam với

tập thơ Một mình khâu những lặng im (2005).

- Tặng thưởng của Hội nhà văn Việt Nam với tiểu thuyết Một bàn tay thì

đầy (2010).

- Giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam và tổng liên đoàn lao động Việt

Nam tổ chức năm 2010-2014 với tập thơ Xóa đi và không xóa.

- 5 lần nhận giải thưởng báo chí.

Tiểu kết chương 1

Trên đây chúng tôi vừa trình bày những tiền đề cơ bản làm cơ sở cho

những nghiên cứu về đối tượng trong luận văn. Chúng tôi đã khái lược văn

xuôi Việt Nam đương đại nói chung và đội ngũ nhà văn nữ đương đại nói riêng.

Bên cạnh đó chúng tôi cũng nêu những nét nổi bật trong hành trình sáng tác của

nhà văn Hoàng Việt Hằng, một tác giả thành công trong cả hai mảng thơ và văn

xuôi. Với một gia tài văn chương đáng kể, Hoàng Việt Hằng đã tạo nên dấu ấn

riêng trong các tác phẩm của mình, đặt mình vào vị trí những cây bút nữ tiêu

biểu của dòng văn học nữ nói riêng và của dòng văn học Việt Nam đương đại

nói chung.

18

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Chương 2

NHỮNG KHÁM PHÁ VỀ ĐỜI SỐNG - VĂN HÓA

TRONG VĂN XUÔI HOÀNG VIỆT HẰNG

2.1. Những quầng sáng kí ức

Theo từ điển Tiếng Việt : “Kí ức là quá trình tâm lý phản ánh lại trong óc

những hình ảnh của sự vật đã tri giác được hoặc những tư tưởng, tình cảm hành

động về những sự vật đó” [40]

Theo định nghĩa của từ điển Triết học viết “ Kí ức là việc cá nhân bảo

tồn những kết quả của sự tác động qua lại giữa mình với thế giới, cho phép có

thể tái tạo và sử dụng những kết quả đó trong hoạt động tiếp theo…”[44].

Trong quá trình sáng tác của nhà văn, kí ức như là một thành tố quan

trọng trong tổ chức cấu trúc tác phẩm. Có thể nói nhờ vai trò của kí ức, cấu trúc

tác phẩm chuyển từ cấu trúc đơn sang cấu trúc kép, cấu trúc đóng sang cấu trúc

mở. Kí ức góp phần mở rộng trường nhìn của nhà văn, giúp họ khám phá đào

sâu vào những tầng vỉa của đời sống, của văn hóa, của tâm linh trong những

trang viết của mình. Trong hàng loạt các cuốn sách xuất hiện trong những năm

gần đây, người đọc dường như bị cuốn hút về những năm tháng đã lùi xa về kí

ức một thời mà sáng tác của Hoàng Việt Hằng là một trong số đó. Một điểm

nổi bật trong văn xuôi Hoàng Việt Hằng là những trang viết giàu cảm xúc gợi

về những quầng sáng kí ức.

2.1.1. Nỗi nhớ Hà Nội một thời chưa xa

Nhớ đến Hà Nội trong kí ức của Hoàng việt Hằng là những hàng cây,

dường như cây không chỉ là túi khí oxy cho bà thở mà nó còn là điểm tựa để bà

đến gần với thiên nhiên, gần với chính mình hơn.

Trong tâm khảm của mình, Hoàng Việt Hằng thuộc lòng từng phố

cây đã đi vào tình yêu của người Hà Nội, người của nhiều vùng quê đến

đây lập nghiệp. Trong tản văn Dấu chấm than viết ngược, Hoàng Việt Hằng

đã viết:

19

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

“Có bao nhiêu mối tình lặng lẽ dưới cây sấu già trên đường Phan Đình

Phùng, trên đường Hai Bà Trưng. Thảng thốt hơn đó là hàng phượng dọc phố

Lý Thường kiệt, hoặc bên Hồ Gươm, bên phố Lê Thái Tổ. Mùa đông trơ trụi lá,

mùa xuân đầy lá non. Mùa hè chói chang hoa đỏ, vân trắng, nụ xanh. Ve tha hồ

khản giọng gào. Phố Lò Đúc không còn cò đậu, hàng cây sao đen không có hoa

cao chót vót ở gần nơi nhà máy sản xuất vắc xin duy nhất hàng đầu của Việt

Nam. Phố, duy nhất có Cây đa Nhà Bò, nơi có nhà hộ sinh nổi tiếng, các bà đỡ

từng đón bao chàng trai cô gái Hà Nội ra đời. Hai hàng cây sao đen, cuối thế

kỉ XX còn có bao nhiêu cò về đậu. Nay cò không thấy, chỉ thấy cây sao đen bị

đẽo gốc nham nhở. Đã có người đẽo vỏ làm thuốc chữa bệnh ngoài da.

Nhưng cây sao đen đau đớn mà không nói được. Các vị lãnh đạo của

Công Ty công viên cây xanh chưa biết.

Còn cây sanh là anh cây si ở phố Lê Thái Tổ, bị chết khi họ đẽo cây, khi

gặp bão lớn cây đổ”. [9, tr.21]

Với sự phát triển không ngừng của đất nước theo nền công nghiệp hóa

thì sẽ dẫn đến một hệ lụy đó là những đường cây dần sẽ mất đi thay vào đó là

các nhà máy, công trình. Với sự am hiểu tường tận về vị trí đặc điểm của từng

loại cây ở Hà Nội, Hoàng Việt Hằng và người đọc không khỏi tiếc nuối về sự

mất mát dần của phố cây Hà Nội xưa. Dần dần bên Hồ Gươm sẽ không còn cây

lộc vừng, cây vông nem, làng Thể Giao phố sẽ vắng bóng hàng cây hoa sữa,

phố Nguyễn Bỉnh Khiêm sẽ không còn bóng dáng cây cơm nguội xưa cũ. Có

thể nói chỉ tràn đầy tình yêu với thiên nhiên, cây lá thì mới viết được những

trang miêu tả tỉ mỉ, cặn kẽ như dẫn dụ người đọc đi vào mê cung của thế giới

loài cây vậy.

Là người gốc Hà Nội nên những con đường ngõ hẻm dường như đã ăn

sâu vào tiềm thức của Hoàng Việt Hằng, không rõ đất Hà Thành có bao nhiêu

ngõ nhỏ nhưng có một con ngõ sâu hút trong một phố nhỏ ngày xưa nối làng

Thể Giao và làng Vân Hồ đã in sâu như một vệt nâu trên bản đồ trí nhớ của bà.

20

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Đọc tản văn của Hoàng Việt Hằng người đọc như thấy mình đang được tác giả

dẫn đến với từng nhà của con ngõ ấy. Đầu tiên “cứ lần theo ngõ mà rẽ vào nhà

cụ trưởng Phát xưa (…).Đi sâu vào ngõ là con đường cụt nhà trong cùng của

ngõ cụt là ngôi nhà rất khá giả của bà cụ Tam Hoàng (…). Lối ngõ chỗ có giậu

cúc tần và khóm dứa dại thơm nức quanh năm giờ còn cậu Túc ở vậy một

mình” [12, tr.5-8]. Cái ngõ nhỏ không tên ấy chỉ còn lại mấy nhà người Hà Nội

gốc, ngõ nhỏ không tên đã bao bọc bao phận người nhỏ nhoi, đã vui cười cùng

họ, đau khổ cùng họ, chứng kiến bao sự đổi thay cùng họ.

Nhắc đến Hà Nội không thể không nhắc đến những cây cầu với các tên

gọi quen thuộc Vĩnh Tuy, Chương Dương, Thăng Long,… Nhưng trong hoài

niệm của Hoàng Việt Hằng, cầu Long Biên để lại cho bà nhiều ám ảnh nhất, nó

gắn liền với nghề xây dựng, với tình yêu đầu đời của bà, trong tản văn Tiếng dẻ

cùi phía cây cơm vàng tác giả viết: “Với cuộc đời tôi chỉ ám ảnh một cây cầu

Long Biên cũ kĩ in dấu những chiếc đinh khuy, những chiếc ốc vít to cồ cộ.

Những người công nhân cầu đường thường đi làm đêm, trực ca vì bom đạn

chiến tranh, bom tấn của Mỹ từng không hủy hoại được cây cầu.

Ngày đó mối tình đầu thời thanh xuân, anh và tôi đi xe đạp trong những sớm

sương mù nhòa nhạt, cả tôi và anh lẫn vào dòng người lam lũ đi chợ sớm bán rau

xanh và hoa quả ngọt bên bờ bãi sông Hồng. Chúng tôi đi làm ca.” [12, tr.12]

Cây cầu gắn liền với những rung động đầu đời khó phai trong tâm trí của

người con gái yêu nghề xây dựng, cũng cây cầu này đã chứng kiến có cặp tình

nhân thề thốt thủy chung: “Họ đan tấm thảm tình yêu bằng chính bờ môi và hơi

thở của họ để rồi trong lễ cưới vàng họ lại lên cây cầu khóa môi nhau ở tuổi

ngoài bảy mươi” [11, tr.189].

Hoàng Việt Hằng có người mẹ đi tu, cả phần đời còn lại sau khi gửi con

đi ở nhà người của bà gắn liền với chùa chiền, chính vì vậy mà những ngôi

chùa Hà Nội cũng để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí của tác giả, chính không

khí trong chùa đã nhiều lần lấy lại sự tĩnh tâm cho Hoàng Việt Hằng, nhiều lần

21

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

chị tìm đến cửa Phật như là một sự cứu cánh, một sự chở che như bàn tay người

mẹ hiền, bà thuộc như lòng bàn tay từng ngôi chùa ở Hà Nội với những cái tên

như Chùa Vạn Niên, chùa Tảo Sách, Chùa Kim Liên, chùa Trấn Quốc. Bà viết

về những ngôi chùa với một sự am hiểu kĩ lưỡng như chính bà là một phần

trong ngôi chùa ấy. Trong tập tản văn Tiếng dẻ cùi phía cây cơm vàng tác giả

viết: “Hàng chục cây số Hồ Tây mù sương, ta ghé chùa Tĩnh Lâu, ngôi chùa

dân làng Võng Thị quen gọi chùa Sải, chùa tu bổ từ năm 2008, vẫn chưa xong.

Nhưng dân vẫn lặng thắp hương Bồ Tát. Nếu như sân trước chùa Sải ngoảnh

mặt ra hồ, thì chùa Trấn Quốc và chùa Vạn Niên, chùa Tảo Sách lại nhìn ra hồ

từ phía sân sau. Chùa Sải có những tủ sách gồm kinh kệ nhà Phật, những bức

tranh, những tượng Phật.

Chùa Sải rộng lớn có những bức tranh khiến ta chạnh nhớ tranh của

Michelangelo. Chùa có tủ sách như một thư viện quý. Ở Tam bảo tĩnh mịch ta có

thể trôi ngay vào cõi thiền, tâm thanh thản không vướng bận gì. Rồi ta chậm rãi

bước sang vệt chùa Vạn Niên.Chùa Vạn Niên cổ bậc nhất kinh kỳ Thăng Long

xưa, nay còn lưu giữ 46 pho tượng, gồm 26 pho tượng Phật, 20 pho tượng Mẫu,

quả chuông đồng niên đại thời Nguyễn. Chùa cổ này còn lưu giữ 11 đạo sắc

phong thần, là nơi ghi dấu vị quốc sư Thảo Đường trụ trì nhiều năm hai chùa

Trấn Quốc và Vạn Niên. Nay ngôi chùa chưa phai nhòa cổ kính, và tôn tạo mới

không gian sân sau nét kiến trúc hiện đại. Tượng Phật cũ xưa rất xưa, chùa mới

có một không gian thờ tượng phật bằng ngọc của xứ Myanmar, cao 1.3 mét,

nặng 600kg, hai bên tượng Phật có tòa sen bằng gỗ hương còn gọi Cửu phẩm

liên hoa phụ mẫu. Nếu rẽ trái, đi sâu xuống tầng hầm có trụ đá hồng ngọc, nghe

nói trụ đá này đem lại nhiều ước nguyện cho con người. Nếu bạn muốn ước, tay

trái đặt lên trụ đá, tay phải xoay, cầu nguyện điều ước năm mới….

Đi thêm vài chục mét là sang chùa Tảo Sách, gần chùa Tảo Sách có hai

con rồng phun nước rất thơ mộng…Bạn có thể ghé qua chùa cổ Kim Liên gần

khách sạn Thắng Lợi. Chùa được xây lên từ nền cũ của cung Từ Hoa, con gái

22

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

của vua Lý Thái Tông. Chùa có kiến trúc cổ hai tầng tám mái, nhìn xa như

bông sen. Nơi thờ phật, nơi thờ công chúa Từ Hoa. Chùa Hạ, chùa Trung, chùa

Thượng xếp theo kiểu chữ tam, nối với nhau bởi cái máng nước. Đến chùa Kim

Liên ám ảnh nhất đối với tôi là cái máng nước, với tôi còn một thứ ám ảnh nữa

là cái bể nước và cái gáo dừa. Quê ơi là quê, đẹp thế mà cứ mải đi đến những

đẩu những đâu.[12, tr.19]

Dẫu xuôi ngược bôn ba nhưng ai cũng muốn được một lần đến với

chốn Phật, họ đến để cầu rất nhiều thứ tiền, tài, lộc nhưng ít ai biết cầu an

trong lòng. Chính sự “đủ” ở trong tâm mới là cái đích đến của cửa Phật,

Hoàng Việt Hằng muốn gửi một thông điệp đến người đọc rằng con người

không biết thế nào là bớt ham muốn thì con người mãi vướng vào cái nghiệp

chướng của sự Khổ mà thôi.

Những người sinh ra và lớn lên ở Hà Nội vào thời nay sẽ không bao giờ

biết Hà Nội xưa như thế nào nếu không có những nhiếp ảnh gia trong làng văn

chương như Hoàng Việt Hằng, dưới ngòi bút của bà người đọc sẽ thấy Hà Nội

xưa hiện lên qua kí ức: “Ở làng Vân Hồ xưa, vẫn còn một rặng cây hoa dứa dại

thơm ngào ngạt vào lúc khuya. Bây giờ là con đường nối từ phố Nguyễn Đình

Chiểu qua phố Vân Hồ 2 sang Đại Cồ Việt. Cái nhà bán thịt bán cá của Mậu

dịch quốc doanh giờ đây là siêu thị Hà Nội. Cả một cái ao lớn đến vườn tược

đã trở thành Trung tâm triển lãm Văn hóa nghệ thuật trên phố Hoa Lư.

Cái ống khói của phân xưởng Đúc nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo đã

xóa đi trong nhà cao tầng, một trung tâm thương mại lớn của Hà Nội mới. Chợ

Đuổi ngày xưa không còn. Chỉ còn trong kí ức. Chợ Mơ phiên cũng đã xóa đi,

chỉ còn trong ám ảnh của người Hà Nội cũ . Rất cũ, rất mới khi hình dung ra

cái chợ phiên, phía Bắc có chợ Bưởi phía Nam có chợ Mơ. Hai chợ phiên đã

thành Trung tâm thương mại lớn.Chỉ còn hồn quê ở các loại chum vại, quang

thúng, giần sàng vẫn bán trong chợ Trung tâm.” [13, tr.31-32].

23

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Tất cả những kí ức đẹp đẽ về Hà Nội xưa cứ dần dần hiện ra qua ngòi

bút của Hoàng Việt Hằng, bà viết về nó với một sự luyến tiếc và sự trân

trọng của một người con đất Hà Thành, những trang viết của Hoàng Việt

Hằng đã diễn tả tâm trạng vừa nhớ thương quá khứ, vừa đau lòng trước hiện

tại, khi cái đẹp trong kí ức đã lùi xa. Bà tiếc nuối những hàng cây được cho

là lá phổi xanh của con người đang bị đe dọa trước sự xô bồ của việc đô thị

hóa, sự tan rã của mạch nối gia đình bởi sự phát triển của nền công nghiệp

hiện đại. Cũng viết về đời sống thị dân nơi đây, Nguyễn Việt Hà - Một người

thuộc thế hệ 6X của phố cổ cũng có những cảm nhận giống Hoàng Việt

Hằng, ông cho rằng: “Khi nhớ, lẽ thường, người ta vẫn nhớ về những gì đẹp

đẽ. Để rồi con người ta đâu dễ tránh khỏi những cảm thức xót xa khi những

điều tốt đẹp đó không còn trong hiện tại” [52].

Càng về sau những trang viết về kí ức của Hoàng Việt Hằng càng sâu

sắc, có lẽ mỗi một mùa xuân qua bà ý thức được mình đã có tuổi, đã trải qua

sóng gió cuộc đời, giờ đôi lúc bà ngoảnh lại bờ vai thấy kí ức lại hiện về lúc rực

rỡ, lúc mờ nhạt với dòng sông Đáy thơ mộng, với những vườn cây nay đã thay

thế bởi những dự án phát triển của đất nước: “Sông Đáy vẫn chảy như xưa, mùa

khô sông cạn, mùa hoa mía cũng ít đi những vạt hoa tím. Thay thế vào những

vườn cây xưa là những dự án, những ngôi nhà lợp tôn dành cho đủ chức năng

sản xuất phục vụ tiêu dùng cho con người. Của cải nhiều lên nhưng bờ bãi hẹp

lại. Thiên nhiên mơ mộng cũng bị xóa đi.

Dòng sông quê, với tuổi thơ tôi luôn có anh Vinh, có một tình bạn sáng

trong với bao kỉ niệm khó phai trong kí ức”. [15, tr.84]

Trong văn xuôi Hoàng Việt Hằng, không chỉ hiện ra với hương cây,

mùi lá mà còn hiện ra với vị của nó. Không phải ngẫu nhiên Hoàng Việt Hằng

nhận ra phố Hà Nội có vị và cỏ hương. Bên cạnh hương thơm của các loài hoa

bưởi, hoa sen là mùi vị. Với Hoàng Việt Hằng: “Kỉ niệm về vị phố không cần

phải cất trong album ảnh, không cần phải chụp bằng máy kĩ thuật số, không

24

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

cần điện thoại chụp ngay, mà vị phố đang ẩn sâu trong trái tim người, đôi khi

như thước phim tua chậm lại trong mắt ta, khiến ta bước chậm hồi tưởng và

muốn khóc. Vị của mỗi món ăn cứ tràn về khi ta bước chân xa Hà Nội, nhất là

khi xa Tổ Quốc. Bạn tôi ở Châu Âu bao năm cứ nhắc mãi tên phố, tên ngõ, tên

món ăn ở Hà Nội, mỗi khi tết về. Dù ở bên trời Tây không thiếu gì vị phở vị

bún. Nhưng nói cái gì đi chứ, khi ta nhớ vị phố cổ, vị món ăn ở nơi xứ sở chí

có gió mùa và mưa phùn lay lứt nhớ nhung, nhớ nhung cả khi mùa hè vị của

nước sấu đá cũng làm ta tỉnh giấc. Vị đã tan mà không tan trong nỗi nhớ của

phố cũ Hà Nội”[15, tr.158-159].

2.1.2. Hoài niệm về người Hà Nội

Sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, chứng kiến và trải nghiệm những đổi thay

của Thủ đô trong bối cảnh đổi mới và hội nhập, dễ nhận ra các trang viết của

Hoàng Việt Hằng thường gợi nhớ Hà Nội một thời…Kí ức như một chất liệu

kiến tạo nên tác phẩm, như chất keo kết dính quá khứ và hiện tại. Bất cứ một

tín hiệu nào của hiện tại cũng đưa tác giả về với niềm hoài nhớ, với dĩ vãng

đầy ắp thân thương của tình mẫu tử, của người thân trong gia đình giản dị

mà nồng ấm.

Nhân vật Xinh trong tiểu thuyết Một bàn tay thì đầy chỉ là con nuôi của

ông bà Ba Tần nhưng tự trong lòng mình, cô coi ông bà như cha mẹ ruột, bởi

họ đã dạy dỗ Xinh nên người, biết thế nào là cái hay cái dở trong cuộc sống. Họ

không có công sinh nhưng lại có công dưỡng. Còn người mẹ ruột, người mẹ

sinh ra cô vì hoàn cảnh éo le của mình đã cho con đến ở nhà người để đi ở

chùa. Cả hai bà mẹ Xinh đều rất đỗi kính trọng, u Trần - mẹ đẻ của Xinh dạy

cho cô biết cách im lặng, sự nhẫn nhục chịu đựng, còn bà Ba Tần - mẹ nuôi dạy

cho Xinh biết cách đối nhân xử thế, biết nấu các món ăn ngon của người Hà

thành,…. Sau này Xinh có thêm một đứa em trai cũng chính do u Trần sinh ra -

vì bà Ba không có khả năng có con. Song muốn được nhìn thấy Xinh hàng

ngày mà u Trần nhận lời đẻ cho ông Ba một đứa con nhưng đứa con này lại bị

dị tật nên mọi người gọi cậu là cậu Nghẹo (tên cậu là Tấn).

25

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Những tín hiệu của hiện tại đã đưa Hoàng Việt Hằng dẫn nhân vật Xinh

đến với những hồi nhớ khôn nguôi. Trong chuyến đường dài ở huyện miền núi

Tây Bắc, Xinh đã đi thật nhiều, cố lấy thật nhiều tài liệu chụp hết phim mới trở

về để dự tính viết cho xong những điểm đến văn hóa thì bị ốm. Hoàng Việt

Hằng đã viết trong tiểu thuyết Một bàn tay thì đầy: “Cô tỉnh dậy khi nghe thấy

một tiếng rao của một đứa trẻ chạy trên đường: “Ai kết quả, kết quả đi!”

Kết quả gì nhỉ lúc hơn sáu giờ tối, thì ra những đúa trẻ bán tờ rơi kết quả

xổ số, năm trăm đồng một tờ rơi, cũng là một cách kiếm tiền vặt của trẻ con.

Kết quả của xổ số cũng đem lại niềm vui cho mỗi con người. Người mê

lô đề, đến ra ở gầm cầu vẫn chơi. Người mê chơi cờ và người mê chơi cá.

Những thú chơi chẳng giống ai. Như cha cô. Ông ba Tần chỉ có cái thú vác cần

câu, cái giỏ đi suốt đêm câu được vài ba con cá rô đầm Sét rồi sớm đem về cho

vợ nấu bát canh cải.

Cô đã từng hỏi bố cô rằng: Đánh đổi một đêm không ngủ lấy ba con cá

rô đầm Sét có đáng không?

Ông Ba Tần đáp: Bố không nghĩ đến đáng và không đáng, mà là cái thú

câu đêm yên tĩnh thích lắm. Con ạ ban đêm nghe cá quẫy dưới đầm Sét nước

trong, biết là ít cá nhưng câu được con cá rô to, thích lắm. Bố mừng là ngày

mai mẹ con con có bát canh cá rô rau cải sẽ rất ngọt” [10, tr.213].

Trong lúc đau ốm một mình Xinh mới có những khoảng lặng nhớ lại

những kỉ niệm đẹp: “khi tỉnh lại Xinh nhớ đến mẹ nuôi- bà Ba Tần người dạy

Xinh bao nhiêu món ngon, chuẩn bị nấu cá ám thì phải thế này. Chuẩn bị

nấu bún thang thì đi mua ngần này thứ. Cứ thế rồi mẹ hỏi: Con đã thuộc

món ăn này chưa. Chỉ cần nhớ trong đầu thôi. Rồi về sau con sẽ tha hồ làm”

[10, tr.214]. Bây giờ Xinh đã làm mẹ, Xinh vẫn nhớ các món nấu, món xào,

món kho đậm đà hương và vị của mẹ.

Rồi tiếng rao “Ai kết quả đi” lại kéo cô từ quá khứ về với hiện tại, lời

rao khép lại nhưng Xinh vẫn thấy âm vang kết quả như chuông ngân trong

26

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

lòng. Rồi cô lại chìm trong những tiếng ngân vang ấy để cho tâm hồn lắng

lại với những kí ức về u Trần - Người mẹ ruột và cậu em trai cùng mẹ khác

cha - cậu Nghẹo.

Lại thấy u Trần quét lá ở sân sau chùa, bóng đổ sau khóm hoa trứng gà,

sau khóm hoa hồng ta dàn đầy gai lởm chởm.

U quét lá ăn chay bao năm vẫn mơ về nhà một ngày hầu hạ ông bà chủ

để được gần con. [10, tr.219]

Lại thấy cậu Nghẹo lắc lư trên đường, dù cậu tàn tật nhưng cậu sống tình

nghĩa, Xinh nhớ hôm “đi mua cho cậu chiếc áo gỗ ở phố Thịnh Yên, chợ Trời,

người bán áo quan còn cho cậu thêm một võng lưới,và bảo: cậu Nghẹo này tốt

bụng lắm, chiều nào đi bộ ở công viên có điếu thuốc ngon cậu cũng cho tôi.

Điếu thuốc vò nhàu mà tôi vẫn rít hết. Có hôm thì lon bia, phẩm oản. Cậu ta

đâu có biết tôi là chủ cửa hàng bán áo quan. Cậu đi hẳn rồi, chị cho tôi gửi

biếu cậu thêm một nén hương. Chọn cho cậu cỗ áo tốt nhất. Tiền chỉ lấy thế,

còn là nén hương tôi thắp cho cậu.

Thì ra đến một con người tàn tật sống cũng để lại tiếng thơm nhờ sự

tử tế.

“Ai kết quả đi”. Kết quả đời cậu cũng có một mối tình với em Mến, Mến

có chửa với người đàn ông đã có vợ, ba con và cậu đã đón Mến về nuôi. Mất gì

đâu nào. Làm phúc đi Xinh. Em nói thật đấy. Đời người như ngọn đèn sợi tóc.

Đứt. Là hết.” [10, tr.220]

Những con người gần gũi với cuộc đời Xinh dần hiện ra trong kí ức cô.

Cả đời Xinh đã gắn bó với một người đàn ông mà có lẽ những thăng trầm khổ

đau đã dồn nén lên Xinh bởi người đàn ông này, đó là Trị - chồng Xinh. Tình

yêu của họ dẫu trải qua nhiều thử thách nhưng mỗi khi nhớ về anh, Xinh luôn

dành cho anh những tình cảm sâu lắng nhất: “Lời rao lại cứa vào Xinh mỗi

chiều nhập nhoạng. Khi nhớ dáng Trị ngồi như dấu chấm hỏi trước cổng, chờ

đứa con riêng ra đèo bố đi chơi một vòng Bờ Hồ mà không thấy tăm hơi, bóng

cá.” [10, tr.221]

27

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Một sinh linh bé nhỏ tên Xinh vật vã đi qua ba cửa nhà người, rồi đậu lại

bến thuyền nhà bà Ba Tần đã không bao giờ quên những con người xa lạ mà

bỗng trở thành gần gũi, Họ đã giúp đỡ Xinh và gia đình những lúc khốn khó, để

có những chuyến đi thực tế Xinh đã gửi con ở nhà bà hàng xóm và bạn bè của

cô đã giúp cô rất nhiều từ việc biên tập bài đến việc xây sửa nhà.

Người Hà Nội không chỉ hiện lên qua những dòng tiểu thuyết của Hoàng

Việt Hằng mà ta vẫn thấy bóng dáng của họ ở đâu đó trong những trang tản văn

nhẹ nhàng mà sâu lắng.

Khác với nhân vật Xinh - một nhân vật mang tính chất tự truyện của tác

giả, các nhân vật trong tản văn của Hoàng Việt Hằng đều là những con người

sống quanh bà. Họ là những con người dù có hay không mang trong mình dòng

máu của người Hà Nội song ít nhiều trong họ vẫn in đậm nét thanh lịch, nền nã

của người Thăng Long, của Hà Nội dấu xưa.

Viết về người Hà Nội với những hoài niệm không quên trong những

trang viết của Hoàng Việt Hằng còn là những câu chuyện về những tên tuổi

trong làng văn Việt Nam. Ở đấy người đọc phần nào đã thấy được những góc

khuất đời thường cũng như hiểu kĩ hơn về cuộc sống của thế hệ nhà văn cách

đây năm mươi năm.

Trên các trang viết của Hoàng Việt Hằng, ta gặp được các nhà văn,

nhà nghệ thuật và một vài nhân vật bà gặp trong cuộc sống thường nhật. Tản

văn của bà đọc giản dị, chân thật và cảm động. Dừng lại ngay những trang

đầu Hoàng Việt Hằng viết về nhà văn Tô Hoài với nhan đề bài Người cho đã

không nhớ. Nhan đề của bài viết về nhà văn Tô Hoài được chọn làm nhan đề

của tập tản văn Người cho đã không nhớ thật ấn tượng. Nhà văn không nhớ.

Mỗi chúng ta nhiều khi đã cho mà không nhớ. Cái cho tự nhiên như thuộc

tính bẩm sinh của con người. Hoàng Việt Hằng viết: “Họ thường ngượng khi

ai đó nhắc lại chuyện cho đi. Ông Tô Hoài hẳn cũng không ngoại lệ. Nhưng

ông rất hay nhãng đi, có thể ông vẫn nhớ, có thể như ông vờ không nghe

thấy cũng nên” [11, tr.11].

28

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Người đọc có thể nhận thấy một nhà văn Tô Hoài chỉ biết cho đi chứ

không mong người khác nhắc lại những việc tốt của mình, Hoàng Việt Hằng kể

lại: “Còn nhớ nhà thơ Anh Thơ trước khi mất, sống ở chung cư Văn Chương,

trong một căn hộ hơn chục mét vuông toàn sách là sách. Bà kể với tôi rằng:

Ông Tô Hoài sống đến là hay. Cô sống ngần này tuổi mới thấy cách cho của tô

Hoài cũng lạ. Thời bao cấp, cô bị mất xe đạp, không có xe đi làm. Thế là Tô

Hoài cho cô vay tiền mua xe. Ông ấy viết báo giỏi lắm, nhưng lạ là rất lâu sau

ông ấy không đòi tiền mà còn nói tặng cô chiếc xe đạp đó nữa. Cô cũng biết

ông nghèo nên mấy năm sau dành dụm được món tiền mới gửi lại cho ông. Có

vẻ như ông giận rồi sau đó cũng không nhớ gì lâu” [11, tr.8]. Qua mẩu chuyện

nhỏ thường ngày này, người đọc thấy thế hệ trẻ bây giờ cần học tập cách sống

của người xưa, vì cuộc sống bây giờ đòi hỏi con người phải sống gấp gáp, bận

rộn nên nhiều khi đã đánh mất đi sự gần gũi của tình người, của tri ân tri kỉ.

Chân dung của mỗi nhà văn, nhà nghệ thuật trong văn xuôi của Hoàng

Việt Hằng lại đem đến cho ta những nét riêng rất xúc động. Một Văn Linh với

tiểu thuyết Tịnh Hà dấu yêu tập 1 vừa viết xong thì bị suy sụp vì bệnh tim, một

người hai lần chết, ba lần vào hội nhà văn, với 70 tác phẩm chỉ viết trên giấy

dòng kẻ. “Ông đã làm tròn thiên chức nhà văn Việt Nam, lặng lẽ cống hiến cho

nền văn học đất nước Lào, lặng lẽ sống và lặng lẽ viết.” [11, tr.21]. Một Phùng

Quán trong tản văn của Hoàng Việt Hằng với Câu chuyện mừng tuổi rượu, với

chi tiết ghi nợ rượu độc đáo ghi dấu +, - lên vỏ cây xà cừ. Một nhà báo Phạm

Phú Bằng “không chỉ xê dịch liên tục, bỏ quên tuổi tác, mà dường như đi mới

giúp ông thở sâu hơn thì phải.” [11].

Hoàng Việt Hằng cũng dành nhiều trang viết về các nhà văn, nhà nghệ

thuật nữ. Với nhà văn Lê Minh - con gái út nhà văn Nguyễn Công Hoan,

Hoàng Việt Hằng ấn tượng về một người “không ngừng viết và không ngừng

đọc” [11]. Với nữ hoàng múa rối nước Đặng Ánh Ngà, Hoàng Việt Hằng nhấn

mạnh đến tâm huyết làm nghề của bà: “từng mong có một kiếp khác nữa, nhất

29

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

định chị lại chọn nghề múa rối” [11]. Chỉ có Nguyễn Thị Thu Huệ là nhà văn

được Hoàng Việt Hằng chọn viết ở đây là trẻ nhất, rồi tiếp đến là nhà văn Lê

Minh Khuê. Các nhà văn khác khi được viết tới đều đã cao tuổi - 90, 80 và hơn

70 tuổi. Hình như với Hoàng Việt Hằng, hướng về họ là hướng về những tấm

gương lao động nhà văn, lao động nghệ thuật miệt mài, không ngừng nghỉ.

Vẫn là kí ức của nhân vật tôi - Hoàng Việt Hằng đã giúp người đọc đến

với những người tài hoa mà khiêm nhường như nhà biên kịch Tào Mạt: “Ông

không chỉ là nhà biên kịch chèo mà ông múa và hát chèo cũng hay, ông đã thấu

đủ nỗi đời, đi qua trận mạc, đi qua nhiều cánh rừng, gặp gỡ nhiều thân phận

để viết, chữ Hán ông viết rất đẹp, ông còn am tường cả thơ chữ Hán và thơ

Đường nữa nhưng ông chỉ dám nhận đời mình chỉ để lại một tiếng nổ không

vang” [11, tr.14]. Một Lê Minh Khuê “thấy bút lực lọc lõi, ghê gớm, chứ không

giống như ngoài đời, chị hiền lành” [11], …. Một NSND Bạch Diệp “Sống thở

bằng phim” [11]. Một nhà văn Đoàn Lê “bận rộn một núi việc nhưng phong

cách lại ung dung” [11].

Lần theo các trang viết đồng hành cùng Hoàng Việt Hằng đến Sóc Sơn

cách Hà Nội ba bảy cây số đến nhà họa sĩ Thành Chương - người gìn giữ cái

nhà quê rất Bắc Bộ ở ngay vùng núi Sóc Sơn. Họa sĩ Thành Chương vẽ tranh

rất hiện đại, nhưng đời sống lại nghiêng hết về cái nhà quê: “Đâu đó du khách

gặp một bức tranh, một phiến đá, giếng khơi, một chiếc cối xay lúa”. Cậu bé

trông coi nhà bảo rằng : “Ông Chương cháu lọ mọ suốt ngày, vẽ tranh, bê đá,

trồng cây, cả hút thuốc lào…cả hát dân ca quan họ…cháu công nhận là ông

Chương cháu hát hay lắm, chỉ mỗi tội không vào đoàn dân ca quan họ Bắc

Ninh thôi”. Ở đây chúng cháu trồng lúa, trồng khoai, xay lúa, giã gạo, uống

nước chè xanh. Quê thật sự ấy bác ạ” [9, tr.36]

Tản văn của Hoàng Việt Hằng viết về những phận người mà chị đã gặp,

họ là những nghệ sĩ có tên tuổi hay là những danh nhân thành đạt. Ta gặp đâu

đó tiếng hát ngân nga, nhấn nhá của nghệ sĩ nhân dân ca trù Quách Thị Hồ, bắt

gặp một doanh nhân Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới Phan Đức Mẫn.

30

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Người Hà Nội trong tâm trí của Hoàng Việt Hằng đó còn là những con

người sống trong ngõ có tên Vân Hồ hai, lối rẽ sang đường Đại Cồ Việt mà

tháng ba có cây hoa sưa nở như khơi về một màu trắng đục, màu của mất mát

xót xa. Dường như màu của hoa đã báo hiệu màu cuộc sống của những con

người trong ngõ hẻm ấy. Những chứng nhân của Hà Nội xưa như những cụ bà,

cụ ông đã 90 tuổi trong ngõ, hay những người dân bình thường vẫn làm những

công việc hàng ngày, người thì bán bún riêu để nuôi sáu miệng ăn trong truyện

Dấu ngõ, tác giả viết: “cứ sáu giờ sáng mở hàng mười giờ dọn hàng. Một yến

bún hết veo. Một yến bún nuôi hai đứa trẻ ăn học, một người già lẩn thẩn, một

cô em chồng tai biến mạch máu não. Vậy mà lúc nào cũng thấy chị thường tươi

cười” [12, tr.6]. Đó là những người sống với hiện tại mà luôn day dứt với quá

khứ: “Mẹ cháu suốt ngày kể về cái ngõ mà ngày xưa mẹ đi chợ Đuổi về luôn có

bốn đứa con chờ cửa để chia quà. Có ngày bà dắt díu bốn đứa con đi chơi tầu

điện từ phố Huế lên chợ Bưởi mua cây, chậu cây chân châu phong thủy cho

con cái thịnh vượng, nhưng giờ thịnh vượng chúng lại xa lánh bà. Chúng gửi

tiền kí thác cho cô em dâu út nghèo khó nhưng giàu tình cảm chăm mẹ.” [12,

tr.7]. Trong cái ngõ nhỏ ấy có rất nhiều bóng dáng leo lét như những ngọn đèn,

họ có cuộc sống vật chất nghèo nàn nhưng lại chan chứa tình làng nghĩa xóm,

tối lửa tắt đèn có nhau. Đấy là xưa kia còn bây giờ cái ngõ tình nghĩa ấy lại

thay vào đó là những hộ gia đình nhập cư ở nơi khác đến, họ làm giàu và có

cuộc sống kiểu thành thị, họ có đầy đủ vật chất nên kiểu văn hóa làng xã sẽ dần

bị mai một phai tàn. Đọc tản văn của Hoàng Việt Hằng ta thấy cả một sự tiếc

nuối về những bóng dáng xưa cũ của người Hà Nội xưa.

2.2. Những phận người

2.2.1. Thân phận người phụ nữ

Trong xã hội Á Đông truyền thống, vai trò vị trí của người phụ nữ luôn

bị đánh giá thấp, họ luôn bị những quy định ràng buộc chặt chẽ của xã hội

phong kiến như “Tam tòng tứ đức”, “Công dung ngôn hạnh”, người phụ nữ

31

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

luôn phải nín nhịn, chấp nhận địa vị hèn kém của mình trong gia đình và ngoài

xã hội. Ngày nay khi hơn nửa dân số thế giới là phụ nữ và phụ nữ đóng vai trò

quan trọng trong đời sống gia đình và xã hội nhưng bất chấp thực tế này trong

nhiều nền văn hóa phụ nữ không những không được đánh giá và đối xử đúng

với năng lực và vị trí thực tế của mình mà còn là đối tượng của những phân biệt

đối xử.

Đọc những tác phẩm của Hoàng Việt Hằng ta bắt gặp những người đàn

bà với những hoàn cảnh rất thương tâm, dù họ là những nhân vật có thật hay hư

cấu thì cũng mang lại một dư vị ngậm ngùi trong lòng người đọc.

Với Một bàn tay thì đầy người đọc thấy rõ cuộc hành trình đi tìm tình

yêu của một cô gái Hà Nội tên Xinh, số phận thử thách cô ngay từ những tháng

năm đầu tiên của cuộc đời. Thượng đế đã đem cô đến với mẹ cô nhưng cô lại

không được sống cùng với mẹ mà phải làm con nuôi trong một gia đình khá giả

hiếm con tại làng Vân Hồ Hà Nội. Khi lớn lên ý thức được mình là con nuôi cô

đã “càng làm cố để sống, Xinh đan len để có 5 xu một ngày để đưa cho mẹ rau

cháo đủ bữa” [10], cô đã làm tròn chữ hiếu với mẹ đẻ và ba mẹ nuôi.

Rồi việc gì đến cũng sẽ đến, con đường hôn nhân của cô cũng không

phải trải đầy hoa hồng như những người khác. Cô yêu và cưới người đàn ông

hơn mình nhiều tuổi, đã có một đời vợ và mấy mặt con, dù hai bên gia đình

không đồng ý nhưng đám cưới của họ vẫn được tổ chức dưới sự chứng kiến của

bạn bè và anh em trong cơ quan. Chính người chồng của cô đã dìu dắt và rèn

luyện Xinh từ một cô gái mang trong mình niềm đam mê xây dựng lại có thêm

niềm đam mê văn chương.

Đó mới chỉ là bắt đầu về cuộc đời bể dâu của một cô gái mang chất nền

nã Thăng Long xưa. Ngay từ đêm tân hôn cô đã phải trải qua một nỗi sợ hãi từ

chính người chồng mình đem lại, vì bản thân đã một lần trải qua hôn nhân cùng

với sự trẻ trung của Xinh nên chồng cô đã ghen, anh đã sợ Xinh cũng giống

như người đàn bà trước kia, anh đã xé tờ giấy đăng kí kết hôn cùng với những

32

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

lời nhiếc mắng người vợ trẻ. Còn gì đau đớn hơn một cô gái trong đêm tân hôn

tưởng rằng sẽ ấm áp bên người chồng nhưng thay vào đó là những sợi roi vô

hình từ chính người chồng đem lại. Cuối cùng cô lại phải quệt ngang nước mắt

cam chịu số phận cuộc đời mình. Lúc sinh con cô phải vượt cạn một mình và

cô tự an ủi “Có gì ghê gớm đâu, phụ nữ trên thế giới ối người sinh con một

mình Xinh không ngoại lệ” [10, tr.96]

Rồi tai họa ập đến gia đình nhỏ bé của Xinh, Trị - Chồng Xinh bị tai biến

liệt nửa người do hậu quả của chiến tranh gây ra. Chiếc đòn gánh cuộc đời nay

đè nặng lên đôi vai của Xinh, con nhỏ chồng đau ốm, một mình bươn trải với

những trang viết, ngoài ra cô còn phải đi kiếm thêm tiền bằng cách bốc vải thuê

ở chợ Bắc Qua - Một công việc không dễ dàng gì đối với một người phụ nữ.

Cũng giống như các tác phẩm văn học của các nhà văn nữ cùng thời đề

tài về hạnh phúc gia đình cũng được Hoàng Việt Hằng quan tâm và khai thác.

Hạnh phúc gia đình luôn bị những bóng đen đe dọa và trong đó người phụ nữ

luôn cảm thấy đau khổ bất hạnh và đôi khi như không thể giữ trọn hạnh phúc

của mình. Người con gái tên Xinh có lần đã phải nuốt nước mắt về nhà mẹ đẻ

khi chứng kiến sự bỗ bã của người đàn bà khác với chồng mình. Có người đàn

bà đã nói thẳng vào mặt Xinh khi đến chơi đúng lúc nhìn thấy cô vừa đi chợ về:

“Chị cứ để thức ăn đấy, tôi nấu cho anh Trị ăn. Tôi nấu ngon. Tôi mới là

người đem lại hạnh phúc cho anh Trị”[10].

Xinh ra trường mẫu giáo đón con về nhà ngoại, về với cậu Nghẹo tật

nguyền nhưng có tấm lòng từ bi, cô về với ngôi nhà có căn bếp mà u Trần đã

từng thổi cơm. Thế nhưng dẫu đau đớn xé lòng cuối cùng Xinh vẫn phải quay

lại cái nơi mà người đàn bà khác tuyên bố với chị sẽ nấu cơm tối cho chồng chị

ăn. Sự hi sinh và cam chịu của người đàn bà và tình yêu thương con vô bờ bến

đã giúp cô bước tiếp trên con đường hôn nhân đầy gian khó của mình.

Cũng như nhân vật Xinh trong tập truyên ngắn Nắng trưa không đứng

bóng ta cũng bắt gặp hình ảnh người phụ nữ có chồng ngoại tình qua nhân vật

33

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

“em”, Hoàng Việt Hằng đã diễn tả đúng tâm trạng của một người phụ nữ bị san

sẻ tình cảm:

“Em đi lên chiếu nghỉ cầu thang, chợt nghe thấy anh đang ở nhà, nói với

giọng âu yếm qua điện thoại: “anh nhớ em, cưng ạ”. Em đứng chôn chân

xuống đất. Như trời trồng. Như cây chuối trồng ngược. Câu nói này từng lặp

lại trong một điệp khúc anh từng nói với em ngày xửa, ngày xưa khi chúng ta

yêu nhau. Rồi em bỏ đi ngay như chạy trốn sự sợ hãi mơ hồ.

Em đã bao lần nuốt khan nước mắt. Khi dậy sớm ra Hồ Tây lúc sương

còn nhạt nhòa, em khóc khản hơi rồi về nhà. Anh thấy em khản tiếng, cùng đi

liêu xiêu, có khi thấy em làm vỡ bát, tự tay đi dọn bếp cho em. Không ai nói với

ai câu nào.

Rồi chưa hết nỗi đau, nỗi đau kéo dài tới lúc em 50 tuổi; Lại có một

người đàn bà khác xấn xổ yêu anh. Chị ta gọi điện hẹn gặp em, chị ta mặc cả

hẳn hoi, ngã giá hẳn hoi để chị ta được yêu anh.” [14, tr.39]

Cuộc đời người đàn bà đa đoan thì mãi đa đoan, các đấng mày râu đâu

chịu thấu hiểu cho nỗi vất vả của vợ mình khi vừa phải đảm nhiệm vai trò

người vợ, người mẹ, người con dâu tốt. Lúc còn sung sức, khỏe mạnh thì cứa

lên mình những người vợ hiền ngàn vết dao sắc nhọn làm tổn thương tình cảm

của những người đàn bà thủy chung. Họ sẵn sàng đánh đổi hạnh phúc gia đình

với những canh bạc tình ái, còn khi già yếu hoặc thất cơ lỡ vận thì lại chỉ có vợ

chăm sóc chia sẻ, những lúc khó khăn sao không thấy những bóng hồng cam

tâm tình nguyện xưa kia ra mặt giúp đỡ ? Nhưng bản chất của người phụ nữ

Việt Nam từ xưa đến nay vẫn vậy khi thấy người mình yêu thương biết quay

đầu lại thì lại mủi lòng tha thứ vì một nỗi “Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ

chạy lại”, vì một chữ “ nghĩa” và hơn hết là vì con. Phật dạy rằng tu trăm năm

mới chung thuyền, tu nghìn năm mới chung chăn gối, không nên dễ dàng

buông bỏ, cải thiện quan hệ vợ chồng, cùng nhau hòa hảo ấy mới là cái đích

hướng đến. Cho nên những người đàn bà đa đoan trong tác phẩm của Hoàng

34

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Việt Hằng cuối cùng vẫn tha thứ và làm tiếp trọng trách của một người vợ,

người mẹ.

Tiếp tục với cuộc đời của Xinh, dẫu khó khăn vất vả là vậy nhưng gia

đình Xinh vẫn phải chu cấp cho con riêng của Trị, gia đình cũ của Trị biến gia

đình mới của anh thành chiến trường của cơm áo. Xinh cặm cụi nhẫn nhịn chịu

đựng và cố gắng để có một gia đình yên ấm, cô có đủ những tố chất của người

đàn bà đức hạnh.

Mười năm ròng chăm chồng đau ốm, thi thoảng lai phải chịu những trận

đòn từ chồng bởi dư âm của căn bệnh Alzheimer nhưng Xinh can đảm vượt qua

hết, nhiều lần đã muốn vứt bỏ tất cả nhưng nghĩ đến đứa con thơ ở nhà chị lại

càng phải cố sống. Trong một lần đến với Hồ Ba Bể - Bắc Cạn Xinh đã định

trẫm mình xuống hồ nhưng “Thấy con nghé chạy theo con trâu mẹ đòi bú. Thấy

con chó vện đang bú mẹ rồi nhảy cẫng lên, rồi ôm chân mẹ. Xinh thấy mình

không nên rời bỏ con.

Khi nằm dưới hồ sâu, con thơ dại, Trị đang dở người. Ai sẽ lo liệu cho

cu Bin.

Sẽ là chất chồng lên con thơ nỗi bơ vơ thiếu mẹ như u Trần từng gửi con

đi cửa người để vào chùa hương khói, mà rồi hương khói cũng không xong.

Việc đời không phải muốn là được.” [10, tr.204]

Tình mẫu tử đã giúp chị vượt hết khó khăn này đến khó khăn khác.

Vừa phải bon chen, vừa phải đi trên những cuộc hành trình để viết nên

Xinh thường xuyên phải xa con. Do vậy trong lòng Xinh lúc nào cũng cũng

thường trực nỗi đau bởi sự dửng dưng của con trai với mình “nếu như trong

nhiều việc khó của đời Xinh, thì việc làm nhà đổ móng, làm cửa đến việc làm

cửu vạn ở chợ Đồng Xuân, đến làm thêu ren tinh xảo, đến viết văn viết báo thì

Xinh cũng đã qua. Chỉ mỗi việc dạy con là khó nhất, khi mà Xinh không thể

thay thế Trị nói tiếng nói của người cha với con trai.” [10, tr.205] Chính việc

không được thường xuyên bên con, chăm sóc con, theo dõi con đã đưa đến một

35

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

hệ lụy cho mối quan hệ mẹ con Xinh, “máy vi tính, các loại nhạc, những trò

chơi game và những phim kinh dị đã lấy đi ở con trai Xinh sự ấm áp và lòng

quan tâm đến người khác, kể cả người mẹ” [10, tr.205] . Điều này đã là lời

cảnh tỉnh cho những gia đình không có đủ trách nhiệm với con cái để con lầm

đường lạc lối, nghiện chất trắng, thuốc lắc, ma túy là những hiện tượng rất thực

trong cuộc sống hiện nay. Mặc dù vậy người đàn bà bản lĩnh mang tên Xinh đã

là tấm gương tốt cho con noi theo, chị thà lao động vất vả chứ không chịu làm

việc gì có lỗi với chồng con, luôn lo lắng cho hạnh phúc của chồng con, xem đó

như mục đích cao nhất của cuộc đời mình. Hoàng Việt Hằng đã từng trải

nghiệm những điều ấy bằng cuộc đời của mình. Khi con bà đang ở tuổi thiếu

niên, ham thích những trò chơi game - một trò chơi ảo ảnh hưởng đến sự phát

triển tâm lý của lứa tuổi này, đã có lúc hầu như đêm nào bà cũng ngồi chờ con

đến sáng, có lần đội mưa đi tìm con trong đêm tối. Tác giả đã cầu cạnh người

bạn chiến đấu của chồng dạy con nên người nhưng càng nhờ người dạy càng

rối. Khi lên núi cao ở Pù Luông, bà đã ngộ ra bài học của người đàn bà dân tộc

Thái đó là “để cho con tự đi rừng khắc biết tránh hổ” [10, tr.205].Cuối cùng

đến giờ, khi mái tóc đã pha sương con bà mới chịu thấu hiểu cho nỗi lòng mẹ

mình. Dường như những chi tiết, tình huống trong tiểu thuyết Một bàn tay thì

đầy như từ trong cuộc sống bước vào tác phẩm.

Có lẽ tạo hóa đã bắt Xinh phải sống trong cô đơn, dù có chồng nhưng

mọi việc trong nhà ngoài ngõ đều do một mình Xinh lo liệu, đó là về vật chất

còn về phương diện tinh thần Xinh đã không được nhận sự an ủi sẻ chia của

chồng, mặc dù rất yêu vợ nhưng thấy vợ tất bật ngày đêm để lo cho cuộc sống

thì máu ghen trong người đàn ông lại nổi lên, anh đã dành cho Xinh những lời

nói ai oán, đã gán ghép cho Xinh tội ngoại tình.

“Có lần Trị gọi Xinh lại gần:

- Lại gần đây, anh bảo

- Anh bảo gì ạ? Xinh hỏi.

36

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

- Cô được thằng nào ôm sướng lắm phải không? Hai người rên rỉ chứ.

Hai người còn trẻ mà, lên đỉnh mấy lần hử, đồ con đĩ” [10, tr.102].

Nhưng than ôi người đàn bà hết mực vì chồng con ấy làm sao có thể làm

được chuyện ấy khi cuộc hôn nhân định mệnh này được gắn kết từ sự cảm

thông và sự thương yêu, lấy chồng trong một hoàn cảnh như vậy đã là một sự

hi sinh, vậy thì hi sinh nhiều nữa cho sự chung thủy thì có hề gì với bản lĩnh

một người đàn bà đã dám bước chân đến với một người lính già đã có vợ và

một đàn con riêng.

Sống trong cảnh như vậy hỏi rằng có mấy ai mà đứng dậy được nhưng

với Xinh, cô đã tìm mọi cách để tự xua tan đi nỗi cô đơn trong lòng mình “Có

lần bưng chồng bát Xinh buông tay cho vỡ hết rồi cô đi nhặt mảnh vỡ, đi quét

cho hết thời gian. Buổi chiều cô nói đi mua bát đĩa, thực ra Xinh đi chợ cho

khuây khỏa. Để tránh hoài nghi Xinh bế cu Bin đi theo” [10, tr. 102].

Xinh đã rất đau khổ nhưng mỗi lần buồn là Xinh lại tìm về với chốn

thanh tịnh nơi cửa chùa để ngộ ra chữ nhẫn và tập buông bỏ cho nhẹ lòng. Phật

dạy rằng:

“Mỗi ngày con tập chữ buông,

Buông thương, buông ghét, buông buồn, buông vui.

Buông cho nó khỏe người ơi!

Buông cho lòng dạ thảnh thơi nhẹ nhàng.”

(Buông - st)

Không chỉ với nhân vật Xinh trong tiểu thuyết Một bàn tay thì đầy mà

với tản văn bằng những mẩu ghi chép ngắn, những dòng tâm sự nhỏ nhẹ,

Hoàng Việt Hằng đã đem đến cho bạn đọc những cảnh đời và cảm xúc nhân ái

của bà. Một lời người khóc thuê, ngọng nghịu, vụng về mà nghe xót xa: “ Nà,

khi nhà bác có đám, nhớ nhắn tin cho em, em khóc cho giá rẻ giật mình, mà

tang thương nữa, cho dù bác có khóc thật cũng còn nâu mới bằng được em, em

khóc chuyên nghiệp, nâu lăm, có thương hiệu ở nàng bác ạ…” [12, tr.83].

37

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Hoàng Việt Hằng khéo chọn con người, sự việc để viết, để bộc lộ cảm xúc. Khi

“Đến Đồng Cói ở Kim Sơn Ninh Bình gặp lại chị Bích Thu (nhân vật trong tản

văn - HTLA) ngồi đan cói ở góc chợ chiều, tay nhuộm đỏ, tay nhuộm vàng, đan

làn giỏ để bán cho khách du lịch. Chị sống một mình, tựa vào mấy cái giỏ cói

để làm vui. Nhà chị có một gian, một chái có năm ngọn đèn dầu thắp khi mất

điện. chị sợ bóng tối mà cả đời chỉ sống một mình với đêm đen.

Chị bảo chúa đã an bài và chị sống với năm ngọn đèn dầu không lưu dấu

gì. Không có chuyện gì riêng tư để kể. Đơn giản chị bị bệnh quai bị. Không thể

sinh con thì phải sống một mình.Vết thương lòng của chị cứ đan vào sợi cói,

vào làn cói và quạt cói.” [9, tr.9]

Hầu như những trang viết của Hoàng Việt Hằng đều hướng đến những

người đàn bà cô đơn, dù họ có hoàn cảnh thế nào đi chăng nữa thì Hoàng Việt

Hằng cũng tìm thấy tự trong tâm hồn của họ một nỗi buồn trống vắng. Một lần

vô tình gặp nữ thẩm phán tên H.K tại nhà người bạn, được nghe vị thẩm phán

trải lòng mới thấy rằng làm nghề thẩm phán với một người phụ nữ hết sức khó

khăn. Chị H.K thổ lộ, nhiều lúc vào những ngày mưa: “chị ngồi trên chiếc xe đi

vô định, đến bến đỗ lại quay về. Nhìn xem, nghĩ và nạp năng lượng vào cơ thể.

Chiêm nghiệm để rồi xử lý những tình huống hôn nhân phức tạp, sao cho thấu

tình đạt lý. Các cặp vợ chồng thì trông vào thẩm phán, chánh án xét xử nhưng

nỗi đau của nữ thẩm phán thì chính họ phán xét họ mà thôi” [9, tr.136].

Có lẽ ai cũng cô đơn ở trên cõi tạm dương thế này, có chăng chỉ khác

hoàn cảnh cô đơn mà thôi. Ta bắt gặp người đàn bà tên Thẩm đồng hành cùng

nhân vật tôi trên chuyến du hành lên đỉnh Rùng Rình ở Tam Đảo - Vĩnh Phúc.

Chị Thẩm chia tay người chồng đào hoa của mình và lên đỉnh Rùng Rình nghe

tiếng lòng mình chảy trong từng thớ thịt của chị. Chị Thẩm tâm sự: “Khi ấy, tôi

bốn mươi, anh ba mươi lăm. Chúng tôi làm luận án kinh tế bên Nga xong cùng

khoác tay đi trong rừng Bạch Dương, cùng đi hết đêm trắng ở St. Petersburg.

Lúc đó anh đang nuôi một đứa con ngoài giá thú. Tôi lấy anh và nuôi cháu Đạt

38

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

- Con riêng anh, và sau một năm tôi sinh cháu Thuận.” [14, tr.172]. Mặc dù

nuôi con chồng nhưng với chị không có cảnh bánh đúc có xương, cuộc sống

của chị có lẽ đã êm thấm với cảnh chồng thành đạt, con ngoan nhưng trớ trêu

thay chị lại phải chứng kiến cảnh hai người đàn bà đến tố giác tội “Sở Khanh”

của chồng, chị đã bàng hoàng và “sốc” với biến cố hôn nhân quan trọng này.

Chị ngỡ chồng mình đã đi qua khổ đau, ê chề sẽ tử tế với mình ai ngờ “ Giang

sơn khó đổi, bản tính khó rời”, người đau khổ lại chính là chị. Chị đã chọn cách

li hôn để giải thoát cho tâm hồn chị, chọn cách sống đẹp để con cái tôn trọng

chị. Bây giờ chị cũng cô đơn nhưng sự cô đơn này khác xa so với sự cô đơn

nằm trong khuôn khổ hạnh phúc ảo trước kia.

Là người đàn bà ưa “xê dịch” nên Hoàng Việt Hằng gặp rất nhiều cảnh

đời éo le của người cùng giới. Đó là chị Thứ, người phụ nữ mà từ nhỏ bà đã

được gắn bó. Chị Thứ là người giúp việc trong nhà Hoàng Việt Hằng nhưng

đối với bà, chị Thứ là người gần gũi và thân kính. Theo cái nhìn của tác giả, chị

Thứ có vầng trán rộng thì đáng lẽ ra phải là người sung sướng mới phải nhưng

trái lại đời chị lại lắm đa đoan. Chị mất mẹ từ năm hai tuổi, bố chị đi làm mía,

lá mía quệt vào mắt khiến ông mù lòa, chị được mẹ của tác giả nhận về để giúp

việc và trông em. Mãi đến năm mười chín tuổi chị mới về quê lấy chồng,

nhưng số chị phải ở một mình nên lại lủi thủi cô đơn bên vườn mía. Chị ngã

bệnh, ra đi trước tết có vài ngày, tiễn chị có vài người ở xóm bãi, đưa chị ra

đồng không một tiếng khóc. Cũng là thân phận người phụ nữ nhưng có nhiều

người may mắn tốt số nên được sung sướng đằng này lúc sống chị cô đơn, khi

về đất chị vẫn mãi cô đơn.

Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh, cốt là môĩ con người cần nhận ra

chính mình mà thôi. Hoàng Việt Hằng đã tự hỏi “Xinh và không xinh, đàn bà ta có

mấy ai sung sướng trong cõi này không nhỉ?” [14, tr.17]. Đàn bà ai cũng có nỗi

khổ riêng, trời chẳng cho ai được vẹn tròn hạnh phúc viên mãn. Tình và tiền luôn

làm cho đàn bà thông minh hơn và cũng làm cho đàn bà ngờ nghệch hơn.

39

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Trong văn xuôi Hoàng Việt Hằng, trên từng con chữ, mang đầy tâm

trạng của cái tôi, người đọc như đồng cảm với nhà văn. Vốn dĩ con người sinh

ra đã khổ, ngay khi mới lọt lòng đến với dương gian, sinh linh bé nhỏ đã phải

cất tiếng khóc chứ không mang tiếng cười, tiếng khóc là dấu hiệu của nỗi khổ

chúng sinh. Nhưng mỗi người lại có nỗi khổ riêng không ai giống ai, người phụ

nữ dù là trong xã hội xưa hay là ở thời đại lúc bấy giờ, họ đều chịu nhiều cảnh

ngang trái, luôn phải vật lộn với những trách nhiệm cao cả. Mỗi người một

cảnh đời nhưng họ đều có điểm chung là nghị lực và luôn giữ cốt cách của

người phụ nữ Việt Nam.

2.2.2. Thân phận con người nhỏ bé

Trong nền kinh tế thị trường ồ ạt đô thị hóa, sự phân tầng giàu nghèo

đang được coi là “vấn nạn nóng hổi” thì người viết không thể làm ngơ trước

những con người ở đáy cùng của xã hội. Dường như từ những mất mát riêng

tư, Hoàng Việt Hằng luôn có ý thức nghiêng về những thân phận thua thiệt,

bất hạnh. Trong tản văn của Hoàng Việt Hằng hiện diện những con người

thiệt thòi yếm thế nhưng lại thấm đậm chất người như người đàn ông dị tật,

sống độc thân, hơn bốn mươi năm làm nghề liệm xác tên là Nguyễn Ngô

Đồng. Người đàn ông tưởng chừng lì lợm, âm thầm ấy biết sẻ chia với người

khác, biết sưởi ấm cho một người đàn bà đau đớn, đơn độc: “Có một người

đàn bà mà ông rất thương vì lúc chết, bà ta không có ai ở bên, trong những

cơn đau vật vã. Bà bị một khối u gì đó, hai mươi mốt ngày sau mới đi hẳn.

Trước khi đi bà nhờ tôi vuốt mắt, lại còn nài nỉ ôm bà vào lòng một lần. Đôi

tay tôi chưa từng ôm một người phụ nữ, cũng chưa từng ôm một người đàn

bà….Tôi ôm bà ấy một lần, vỗ về vì bà ấy bất hạnh, không có ai trên đời. Hai

kẻ không có ai thân thích nương tựa vào nhau, một kẻ yếu sắp tắt ngọn đèn

leo lét trong đêm” [9, tr.87]. Hoàng Việt Hằng thường đi ven sông Hồng, làm

quen với những người phụ nữ trồng thuốc nam, tìm thấy ở họ nét đẹp giản dị

mộc mạc của các loài cây thuốc quý bạc hà, ngưu tất. Đó là người đàn bà

40

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

không lưu danh tên tuổi trong truyện Mùa bạc hà, ngưu tất trổ hoa đã cứu rỗi

bao đứa trẻ bị bỏ rơi trên sông và luôn hết lòng cưu mang trẻ mồ côi . Bà chỉ

làm phúc để trời biết, đất biết, sông biết với tâm niệm sống ở đời chẳng nên

tham lam làm gì, “đun bếp khi cơm chín thì rút lửa, cơm cháy có ăn được

đâu” [13, tr.121]. Một kiểu “ triết lý củi lửa” của người thất học bình dị mà ý

nghĩa. Đó còn là tấm lòng của người đàn ông vớt rác ven hồ với người đàn bà

có thời làm ở nhà máy diêm, họ tìm thấy ở nhau sự đồng điệu về cảnh ngộ và

tâm hồn. Đọc những trang viết trĩu nặng nhân tình của Hoàng Việt Hằng,

người đọc không khỏi bùi ngùi, rưng rưng theo từng thân phận.

Là người cầm bút sinh ra và lớn lên ở Hà Nội nhưng Hoàng Việt Hằng

thường viết về những phận người bé nhỏ, thua thiệt nhiều lẽ ở đời. Dễ nhận ra

trên các trang viết của mình, tác giả thường quan tâm đến những số phận có

phần lam lũ, vất vả trong mưu sinh. Bà muốn được đến gần những con người

thiếu may mắn, với bà họ chính là tri âm, là người kéo bà đứng dậy sau những

đau buồn, bất hạnh.

Hoàng Việt Hằng đã đi qua những vùng đất, những thác nước, sông suối,

rừng núi để gặp gỡ những số phận mỏng manh, bạc phận, để day dứt, nhớ

nhung, để một ngày ngồi ước được thanh thản dưới một cây xanh khắc tên

mình trên một cây cao, một ngọn núi trong tiếng hót của chim họa mi chứ

không phải tích tắc của đồng hồ.

Bà đã xuôi sông Mã ra một bến thuyền gặp người chèo đò tên là Nguyễn

Lương với nửa thế kỉ chèo đò trên sông có một cái điếu cày khắc những nỗi đau

và hạnh phúc bằng những dấu trừ và dấu cộng: “Mái chèo con đò đã thay tới ba

lần. Lúc nào ông cũng nhớ con đò. Và mỗi lần ông thay đò là một lần ông mất

vợ. Lần vợ chết, lần vợ bỏ đi sang Lào. Lần này thì may ra yên ổn. Ông lái đò

chỉ nói may ra. Vì hạnh phúc khó kiếm hơn tiền bạc và địa vị” [9, tr.8].

Một lần đi thuyền trên sông Gâm ở Tuyên Quang để đi chợ Cắn Cáu,

Cốc Ly (Bắc Hà - Lào Cai), Hoàng Việt Hằng gặp ông Cầm Thuận ngồi bóc

41

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thân cây ngô cho vào bao tải để dành cho ngựa ăn: “Ông đã bầu bạn với ngựa

và đường núi, không có gia đình riêng. Đơn giản vì ông xấu giai, và nghèo.

Nếu chỉ có một con ngựa thì không thể lấy vợ và ông đã bầu bạn với ngựa và

chợ ngựa nhiều năm ròng. Nhà ông có những viên đá nhỏ đựng ở cối xay. Thế

rồi ông bảo khi nào thác gởi về đất, hoặc khi chán sống ông sẽ chèo thuyền vào

chỗ nước xiết. Sông Gâm sẽ giúp ông hóa giải mọi nỗi niềm. Ông bảo không

cần phải ai nhớ đến. Trở về với thiên nhiên nước suối, sông Gâm. Rồi ông rít

điếu cày.

Sương khói đã che đi giọt nước mắt không màu của ông Cầm Thuận” [9,

tr.9].

Đến với đảo Lý Sơn, Hoàng Việt Hằng gặp người đàn bà tên Việt sống

nhờ vào cây tỏi, một nhánh mang tên tỏi cô đơn, cây tỏi này dùng để chữa

bệnh tiểu đường và mỡ máu nên rất thu hút khách hàng. Chị Việt vật lộn với

cuộc sống mưu sinh để trả nợ sau khi chồng mất tích trên chuyến tàu đánh cá

trên đảo Lý Sơn. Năm năm ở trên biển khơi ngóng chồng không về, chị và

con vẫn lầm lũi vật lộn với cái rét trồng từng cây tỏi để trả món nợ đến con số

hai trăm triệu: “Cây tỏi đã cùng người thiếu phụ 41 tuổi, đã không nổi giận

mà nhẫn nhịn chịu đựng đứng lên cùng với vị cây tỏi để cầm cự sống và trả

nợ” [14, tr.27]. Những người dân xứ Quảng trên đảo vẫn trồng tỏi bám biển

và thầm lặng hi sinh, người cô đơn bán tỏi cô đơn, họ cam chịu với sự suy

nghĩ rất giản đơn “Phận cái kiến củ khoai như tôi thôi thì ráng chịu, biển lấy

đi của mình thì mình đành trả nợ biển thôi” [14, tr.29].

Là người luôn khoác ba lô lên đường nên Hoàng Việt Hằng đã chứng

kiến nhiều cảnh đời éo le, bé nhỏ. Bà gặp cậu bé tên Giong 17 tuổi lớn lên ở cô

nhi viện, hàng ngày chỉ sống vào nghề đánh bắt cá và bắt ốc núi, cậu vận trên

người một chiếc quần đùi và cởi trần, cậu sống độc thân bỏ cô nhi viện đi đan

cói, một ngày mưa đi tắm sông thấy đi bắt cá cũng hay hay và thế là Phật độ

cho đi bắt cá. Cậu có cách sống và cách nghĩ đơn giản: “Một kẻ độc thân,

42

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

chuyên đi bắt cá bắt cua để tồn tại và cậu ta không thấy mình khốn khổ. Chiếc

giường là một cây gỗ xể đôi, phạt hai đầu, độ dài hai mét, kê bằng hai viên đá

thế là thành chốn ngủ thiên đường. Cuối nhà xếp ba ông vua bếp. Khói đun

nước đã xám lại trên vách đá, một bữa cơm đạm bạc là cơm và cá nướng.

...

Hỏi, sao nhà không có gì ngoài hai bộ áo quần vắt trên dây phơi? Giong

nói không cần thiết. Cách nói của em chỉ ngày ngày đánh lưới trên sông Ngô

Đồng, chèo thuyền vào chợ bán mớ cá đong cân gạo, mua tý mắm ngon để

uống một hụm khi lặn sông” [15, tr.93].

Dù ở xứ sở nào cũng có kẻ giàu người nghèo, mỗi nhà văn đều có cái

nhìn của riêng mình. Có nhà văn nhìn xã hội ở khía cạnh phồn hoa đô thị

nhưng Hoàng Việt Hằng lại thường đến gần, sát gần với cuộc sống của những

con người bé nhỏ. Bước chân đến mảnh đất nào dù ở Việt Nam hay ở nước

ngoài, những thân phận cô liêu với tấm lòng nhân hậu luôn là hình ảnh tốt đẹp

để bà dùng làm chất liệu cho cảm hứng sáng tác của mình. Có thể nói bằng

những trang viết của mình, Hoàng Việt Hằng đã “vinh danh” cho những người

nhỏ bé trong xã hội, trong cuộc sống còn nhiều thăng bậc, bộn bề và phức tạp

hôm nay.

2.3. Những nét đẹp trong văn hóa ứng xử

2.3.1. Giữa người với người

Trong văn xuôi Hoàng Việt Hằng, người đọc không khó nhận ra những

trang viết thấm đậm tình người, ánh lên nét đẹp của con người nhìn từ văn hóa

ứng xử.

Từ chính cuộc đời gian truân và lận đận của mình, Hoàng Việt Hằng có

được không ít văn cảnh rung động về lòng nhân ái. Bài Đời người gió thổi mây

bay, Hoàng Việt Hằng kể lại câu chuyện bà Thái - một người hàng xóm tốt

bụng đã cưu mang và giúp đỡ trong những ngày khốn khó. Mà ấn tượng đọng

lại là câu an ủi nỗi cô đơn của nhân vật “tôi” ngày ấy: “Về nhà lúc sấp bóng

43

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

hãy nhìn lên tường. Nếu thấy bóng mình cũng là thấy mẹ, thấy em cháu về.

Thôi thì phận mỏng, ít ra mình còn có người thân ở trên tường kia, trên bàn thờ

kia” [11, tr.113]. Và nhờ đó, Hoàng Việt Hằng nhận ra: “Tôi đã nhìn bà thắp

đèn dầu với đôi bàn tay bé nhỏ, thắp lên tình nghĩa xóm giềng thiêng liêng nhất

đời tôi” [11, tr.113].

Mối quan hệ giữa người với người được Hoàng Việt Hằng thể hiện ở

khía cạnh con rể với mẹ vợ trong một gia đình Việt có con rể Tây. Trong tản

văn Dấu chấm than viết ngược có nói đến Chị Trần Thu Trang và anh Francois

(tên thân mật là Făng) cưới nhau đến đây đã gần chục năm nhưng họ có cách

ứng xử với gia đình thật có văn hóa và đáng quý trọng. Făng giản dị, kiệm lời

nhưng tinh tế. Anh đọc nhiều về văn hóa phong tục Việt Nam nên đám cưới

Trang vẫn đủ trầu cau ăn hỏi và cỗ Việt Nam vẫn giữ được bốn bát sáu đĩa cổ

truyền của dân tộc. Qua lời kể của mẹ vợ hồi đi học ở Nga nghe nói trứng cá

hồi đen nổi tiếng lắm nhưng bà chưa được ăn trứng cá hồi bao giờ. Ít lâu sau ,

chàng con rể người Pháp vừa tinh tế vừa mẫn cảm đó đi công tác nước ngoài về

đã: “mua về một hộp trứng cá hồi đen và nói: mẹ ăn đi cho biết. Con vẫn nhớ

khi nào qua nước Nga sẽ mua trứng cá hồi đen, mãi giờ mới tiện đem về cho

mẹ!”. Phăng đi nhiều nước trên thế giới lần nào đi tới đâu anh cũng gửi cho bố

vợ một bưu thiếp vì bố vợ là người rất chịu khó sưu tầm nền văn minh các nước

trên thế giới qua bưu thiếp” [9, tr.58]. Còn mẹ của Trang lại thích nấu các món

ăn “thuần Việt” cho con rể ăn như những món nem, bún chả, bún riêu cua và bà

cũng biết Făng không thích những món ăn như khoai sọ, rau muống luộc. Còn

với cuộc sống vợ chồng, cả hai hầu như một năm chỉ gặp nhau một số ngày có

thể tính trên đầu ngón tay. Vì cuộc sống của hai vợ chồng nay đây mai đó, họ

hiểu nhau nên ít khi mua quà. Nhưng có lần Făng bắt gặp Trang loanh quanh đi

lại vài lần ở cửa hàng vàng bạc có cái vòng bạc rất đẹp nhưng lại quá đắt với

cô, và cô chỉ xem mà không mua, Făng tinh ý nhận ra sự tần ngần của cô lúc

đó. Một thời gian sau đúng vào ngày sinh nhật, Thu Trang đã được Făng tặng

44

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

cho một cái vòng bạc - vật kỉ niệm từ nước Ý xa xôi “Chỉ là chiếc vòng bạc mà

Thu Trang thích, chỉ là cái vòng bạc mà chỉ có Făng mới biết lặng lẽ mua để

dành tặng vợ” [9, tr.59]. Một cử chỉ đẹp của tình nghĩa vợ chồng, còn gì hạnh

phúc hơn khi gặp được một người chồng biết san sẻ và hiểu được tiếng lòng

của người phụ nữ. Không chỉ có chàng rể mà nàng dâu cũng biết ứng xử cho

phải đạo với nhà chồng: “sau mỗi lần đi xa về quê chồng ở Canada Thu Trang

lại vào bếp nấu nướng cho chồng và cha mẹ thưởng thức. Những món ăn ngon

mà chị học được ở các nước cũng khiến cho cha mẹ chồng chị rất lấy làm hài

lòng và hãnh diện về cô con dâu người Việt Nam của họ” [9, tr.60]. Chỉ qua

những chi tiết rất nhỏ trong cuộc sống hàng ngày nhưng sự vun đắp của từng

thành viên trong gia đình có chàng rể tây và cô dâu Việt này đã làm đẹp thêm

nền văn hóa của hai nước.

Cha ông ta có câu “dâu là con, rể là khách”, nhưng với gia đình mẹ con

nhân vật Liên trong bài Đêm giao thừa có mưa phùn thì khác, từ sự nhạy cảm

tinh tế của cậu con rể, cuối cùng người mẹ vợ đã cảm động mà nói với con rể

trước mặt con gái rằng: “Từ nay mẹ không coi con là con rể, là khách ở trong

nhà, mà mẹ coi mình có thêm một người con trai nữa” [15, tr.19]. Sở dĩ có

cảnh tượng này bởi sau khi đóng được cái tủ thờ thì người cha bị một cơn đau

ruột thừa lấy đi tính mạng của mình, bỏ lại mẹ con Liên ở cõi dương gian. Cha

Liên đã từng ao ước sẽ điêu khắc gỗ một bức tượng Phật tặng vợ, nhiều lần

thấy Liên đi tìm mua một bức tượng Phật nhỏ cho mẹ mà không đủ tiền, Đĩnh

- chồng Liên đã để tâm đến điều này và dành hẳn một năm để tìm gỗ hương và

khắc bức tượng Phật nhỏ để tặng mẹ vợ vào năm mới. Anh đã mừng tuổi mẹ vợ

theo cách riêng của người thợ mộc. Chân thành, giản dị mà chứa chan tình

người là nét đặc sắc trong văn xuôi của Hoàng Việt Hằng.

Ca dao xưa có câu: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống

nhưng chung một giàn”. Câu ca dao đã nói lên tình cảm đùm bọc lẫn nhau của

con người Việt Nam, trong tản văn của Hoàng Việt Hằng ta cũng nhận thấy rõ

45

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

tình cảm cao đẹp ấy trong mối quan hệ giữa nhân vật với chính tác giả thời thơ

ấu. Trong tập tản văn Bóng đổ nơi chân sóng với bài Nước mắt vẫn chảy ngược

có nói đến nhân vật chị Thứ. Hai tuổi chị Thứ mất mẹ, bố chị đi làm mía bị mù

lòa vì bị lá mía quệt vào mắt. Một ngày chị Thứ dắt bố lên Hà Nội chữa bệnh

hỏi thăm nhà mẹ của em Hằng, vô tình người chỉ đường chính là chủ ngôi nhà

cha con chị cần tìm, cơ duyên gặp gỡ, mẹ của em Hằng đã đón chị trông nom

nhà cửa và trông Hằng. Đến năm mười chín tuổi chị về quê lấy chồng, nhưng

số chị cuối cùng vẫn phải lủi thủi một mình bên vườn mía. Chị Thứ xem Hằng

như em ruột của mình và ngược lại lúc chị đổ bệnh, người em tên Hằng đã về

thăm và chạy thuốc men cho chị. Hai chị em nhìn nhau rưng rưng với những kỉ

niệm ngày xưa: “Hằng biết không, lúc bế em hồi nhỏ, ta mải chơi để cho em bị

muỗi đốt hai lần, bị cô Ba cho hai roi, mà nhớ đời luôn. Chị cũng giận cô Ba,

sợ nữa nhưng nghĩ lại thương cô Ba cũng không có con. Cô nuôi em và nuôi

chị. Chị nhờ em báo đáp cũng là một thứ nước mắt chảy ngược rồi.

Chị Thứ ước bao giờ Hằng có gia đình chị ra ở với em, trông con cho

em. Thế thì còn gì bằng, nhưng số trời luôn hay sắp đặt lệch. Tôi chưa kịp lập

gia đình thì chị Thứ đổ bệnh, chị đem theo miếng lụa Vạn Phúc tôi tặng mà

không kip may áo cánh. Chị đi khỏi dương gian này, đem theo ước mơ chỉ được

sống với gia đình bé nhỏ của tôi, trông con và trông nom cửa nhà cho tôi. Cái

ước mơ bé nhỏ mà nhiều lần nước mắt chảy ngược trên trán chị không sao thực

hiện được” [13, tr.78].

Lúc cô em gái đi học xa hay tin tìm về, vườn mía nhà chị ra hoa rực rỡ, tím

trắng đến xót xa, hoa bưởi, hoa chanh thi nhau nở. Bà cụ đầu xóm bãi bảo:

“…Mùa hoa cuối, may cho cô Thứ còn có đứa em ở Hà Nội về, nhỏ giọt nước mắt

thương cô. Cái nhà này khóc toàn dốc đầu cho nước mắt chảy ngược, thế mới

khổ. Nhưng sao ở đời lại có thứ người dưng thương nhau đến thế này là sao?.

Tôi cãi bà lão, chị Thứ không phải người ở, mà là chị cháu. Người bế ẵm

cháu cả đời thơ bé. Ai đã từng sống lủi thủi một mình, mói thấy quý giá tình

46

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

anh chị em. Chỉ có những người mất mát đơn độc mới tìm ra giá trị của tổ ấm

gia đình”[13, tr.79].

Đúng là con người mà sống có tấm lòng thì rồi sẽ gặp những tấm lòng.

Cũng chỉ là người dưng nhưng bà cụ quê ở gần rừng trám Bắc Giang trong

truyện Quê người ở gần rừng trám có con cái làm ăn xa luôn dành sự quan tâm,

giúp đỡ cho người khác. Chính vì ở một mình nên bà đã cho người khác thuê

nhà với giá rẻ giật mình, cốt là trong nhà có người để bà bớt hiu quạnh nhưng

bà chỉ nhận người miền ngược. Bởi một lần bà đã thấy sự phóng túng của

người miền xuôi nên bà “sợ”. Bà đã giúp đỡ hai cô sinh viên cùng quê với bà,

nhìn cử chỉ cách nói và cách sống của hai cô sinh viên bà thấy toát lên ở hai cô

sự chân thật, bà đã quan tâm họ như những đứa cháu của mình. Hai cô gái cũng

quan tâm bà như chính người bà mình vậy. Từ khi rời bỏ quê nhà, cha mẹ anh

em không có, bà nhớ quê nhưng không có cớ để về, duyên trời run rủi đã cho

bà gặp những con người ở chính quê mình, bà sẽ về thăm quê người ở trọ nhà

mình: “không họ hàng thân thích nhưng tình người thì ở đâu cũng ấm áp, cho

dù mưa phùn vẫn mưa và gió bấc vẫn lao xao” [14, tr.63]. Chính sợi dây tình

cảm đã gắn kết tâm hồn của những con người xa lạ đến gần với nhau hơn, hiểu

nhau hơn và biết sống vì nhau hơn. Trong bài Vó ngựa trong chiều mưa, Hoàng

Việt Hằng đã dường như thấu hiểu, đồng cảm với tâm trạng người thiếu phụ

trẻ, có hai con nhỏ, đã li hôn người chồng mắc nghiện phải vào trại cai nghiện.

Một mình chị luôn phải “xòe cánh” như gà mẹ để bảo vệ những đứa con của

mình. Bao phiền muộn, lo lắng, bao nhọc nhằn mưu sinh đổ lên “đôi vai gầy

guộc nhỏ” của chị. Thế mà trong khoảnh khắc tưởng như cô đơn đến tận cùng,

điểm tựa của người thiếu phụ trẻ lại là: “điểm tựa vào tấm lòng bác xà ích,

trong hoàng hôn, mắt bác buồn và hiền khô cùng con ngựa óng nâu, bờm

trắng, nó nện gót đường nhựa trong mưa, như đệm lót cho khúc ru buồn trong

cõi người” [15, tr.164].

47

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

2.3.2. Với thiên nhiên

Tản văn Hoàng Việt Hằng có không ít trang viết gây thiện cảm với

người đọc bởi sắc màu của thiên nhiên, cây cỏ, và bởi cách ứng xử của con

người với thiên nhiên. Gần đây người ta nói đến sinh thái học văn hóa, chú ý

đến sự hiện hữu của thiên nhiên trong văn học mà lâu nay con người đã xem

nhẹ vai trò của nó. Trong tản văn của Hoàng Việt Hằng, hình ảnh của cỏ cây,

hoa lá, núi non, sông biển không chỉ hiển lộ ở cách đặt “tít” mà còn hiển thị ở

tần số xuất hiện văn bản và ẩn ngầm sau con chữ là cảm xúc, nỗi niềm của

người viết: Nỗi buồn hoa mía, Cây cơm vàng, Hoa sen tàn còn gương sen,

Giọt giọt hạt ngô vàng, Chim le le lẻ bạn, Phố và cây Hà Nội, Biển nhìn sóng

xóa đi, Mùa bạc hà ngưu tất trổ hoa, 21 giờ bay chỉ nhìn hoa cúc chi, Phía

dưới chân núi là mùi lá (trong tập tản văn Tiêu gì cho thời gian để sống), Cây

muồng hồng, Rặng duối gai quê nhà, Đêm giao thừa có mưa phùn, Hồ thẳm

xanh ở thung lũng vàng, Đường quê hoa xoan còn buông tím, Tìm về cổng

làng xưa (trong tập tản văn Bóng đổ nơi chân sóng). Với Hoàng Việt Hằng, “

Đời người như một chiếc lá ấy. Một nửa phơi lên ánh mặt trời, một nửa chiếc

lá thì giấu dưới mặt đất” [13, tr.91], và theo cách nghĩ ấy, bà luôn đau đáu

vào nửa chiếc lá giấu dưới mặt đất, tìm thấy ở mặt khuất ấy thế giới nội cảm

của con người, đặc biệt ở nhân vật nữ và ở chính mình. Khi may mắn có được

chuyến đi Ấn Độ, đặt chân lên nước bạn, tác giả không náu mình trong khách

sạn mà len chân trong bụi và những chiếc xe kéo để có được khoảnh khắc

ngồi “vớt mặt trời trên sông Hằng” đầy ảo diệu. Là một người năng động, cứ

có dịp là Hoàng Việt Hằng lại trên từng cây số. Khi đặt chân lên miền núi

phía Bắc, theo thói quen của mình, Hoàng Việt Hằng ngước nhìn trần bếp

người Mông, thấy “Giọt giọt hạt ngô vàng” đã đọng lại ở bà “ khoảnh khắc kì

diệu nhất đời tôi”. Từ khoảnh khắc ấy Hoàng Việt Hằng liên tưởng đến sự

đoàn tụ sau li tán của những cặp vợ chồng trẻ nơi rẻo cao thời mở cửa đầy

48

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

biến động. Lúc đặt chân tới biển Cửa Tùng, tác giả như hòa mình với biển trời

và con người Quảng Trị. Thời gian thăm viếng những chứng tích một thời bi

tráng nơi đây là “thời gian lữ khách tiêu dao không uổng phí cho những ngày

có ích nhất trần gian”. Đan xen trong bộn bề các vấn đề về nhân tình thế thái,

người đọc không khỏi trầm tư, xúc động khi bắt gặp trong các trang viết của

Hoàng Việt Hằng “mùi hoa dứa dại thơm ngào ngạt vào lúc khuya”, “vườn

mía tím rời rợi ven sông Đáy”, “cây muồng hoa vàng đứng vắt cành sang cây

muồng hoa phớt hồng”. Một Hà Nội mùa nào cũng có vị cây để nhớ: Từ cây

sấu già tróc vỏ ở đường Phan Đình Phùng, cây hoa sữa tỏa hương vào tháng

mười trên đường Bà Triệu, cây sưa trên đường Đại Cồ Việt nở rộ hoa vào

giữa tháng ba đến cây lộc vừng bên hồ Gươm, cây bằng lăng hoa tím bên hồ

Bảy Mẫu… Sự hiện diện của thiên nhiên là một trong yếu tố làm dịu cuộc

sống tất bật thường ngày, giúp giải tỏa áp lực, sự quá tải trong đời sống tâm lý

con người đương đại. Phải chăng vì thế mà nhân vật phụ nữ trong tản văn

Hoàng Việt Hằng đã vượt 21 giờ bay để nhìn hoa cúc chi nở dưới mưa phùn,

để được sống chậm, được nhâm nhi ngụm trà hoa cúc sau thời gian dài xa quê.

Là một nữ họa sĩ “trốn lên sườn núi Chè, kết bạn với ao quê, đồng mùa, rơm

rạ và khói bếp chỉ để vẽ” và để “cô đơn gói lại cô đơn”. Ở đây người đàn bà

vẽ đã tựa vào thiên nhiên và nó đã giúp chị “đi tiếp, tìm kiếm ra một giá trị

sống khác ngày hôm qua” [13, tr.141].

Không chỉ ở trong nước mà khi đến với các nước bạn Hoàng Việt Hằng

cũng đắm mình với thiên nhiên và đem thiên nhiên của nước bạn qua những

trang viết để đến với bạn đọc Việt Nam. Đến với Trung Quốc người đọc sẽ ngơ

ngẩn với núi tuyết lẫn trong thung lũng mà thầy trò Đường Tăng đi trẩy kinh,

sẽ ngẩn ngơ trước di tích cổ Vạn Phật Ly - những bức tượng khắc trên đá ngàn

tuổi, thánh thiện mà không lạnh lẽo. Rồi đến với cửa ngõ của con đường tơ lụa,

cửa ngõ của Phật giáo, Hồi giáo, Cơ đốc giáo thấy hoàng hôn ở thảo nguyên

xuống nhanh, đẹp mê hồn và buồn lắm [9, tr.19].

49

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Đến với rừng Ba Vì của khu Du lịch vườn Quốc gia Ba Vì chúng ta sẽ

được khám phá văn hóa lịch sử của truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh, là nơi

có thể trôi vào cõi mộng mơ của rừng nguyên sơ cổ kính. Có bạt ngàn cây cơm

vàng trên đó là hàng ngàn con chim dẻ cùi có thân dáng tuyệt đẹp. Ở đây còn

có vườn cây bách xanh cổ thụ và vườn cây xương rồng trăm sắc như cõi thần

tiên. Đứng trước vườn cây xương rồng, Hoàng Việt Hằng đã tìm hiểu và đem

đến cho người đọc nhận biết về giá trị của loài cây không chỉ làm cảnh mà còn

làm thuốc chữa bệnh cho con người: “vườn cây xương rồng này được hình

thành từ năm 2008 với năm chủ đầu tư, mỗi năm rót vốn gần hai tỷ đồng cho

38ha xương rồng có xuất xứ từ nhiều nước. Cây xương rồng Mexico này còn có

giá trị làm nước giải khát, còn xương rồng xuất xứ từ Thái Lan có tên xương

rồng cột sống. Loại cây này có thể chữa trị thoái hóa đốt sống cổ, tùy theo đốt

sống từ cổ tới thắt lưng mà hơ lửa xương rồng, rồi chườm nóng ở dọc đốt sống

lưng. Lại có cây xương rồng chữa bệnh thấp khớp. Cây xương rồng có tên

phong thấp, dùng để ngâm chân khi bị tê nhức, mỏi, buồn trong xương, trong

tủy cơ thể [12, tr.41].

Việc đi nhiều đã đem đến cho mạch cảm hứng của Hoàng Việt Hằng như là

nguồn suối không bao giờ cạn. Một lần đến với Thanh Hóa bà lại được đắm mình

trong dòng suối khoáng mà thiên nhiên ban tặng nơi đây. Đó là xóm Cảnh, Quảng

Yên, Quảng Xương, cách thành phố Thanh Hóa hơn 10 km, nơi đây có một ngôi

làng có suối khoáng nóng 41 độ C. Qua trang viết của bà du khách gần xa lại biết

đến một địa chỉ có dòng nước đem lại nhiều lợi ích cho sức khỏe: “Dòng nước

khoáng có khả năng tắm chữa bệnh rất tốt cho con người. Không chỉ chữa trị

bệnh khớp, đau mình nhức mẩy, hay đau thắt lưng, hay thứ bệnh ngoài da, nước

nóng có khả năng tắm xong là khỏi…” [14, tr. 97]. Thiên nhiên không chỉ đem lại

lợi ích về mặt sức khỏe cho con người mà ở đây người dân xóm Cảnh còn có thêm

một dịch vụ để tăng thêm thu nhập gia đình, ở đâu tạo hóa cũng cho con người

con đường sống, luôn cứu rỗi con người nhưng việc sử dụng thiên nhiên như thế

50

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nào cho hợp lý phù hợp với quy luật nhân quả phụ thuộc phần lớn vào con người -

Người nắm giữ thiên nhiên. Những con người nơi đây đã biết san sẻ lộc trời cho

mọi người du khách gần xa, họ đến đây để đón nhận lộc trời ban và trao gửi ít

“phí” để cho những hộ dân nơi đây tu sửa và bảo vệ suối khoáng. “Anh Chính -

Người cựu chiến binh năm xưa rít mạnh điếu thuốc lào rồi bảo: Biết đủ lòng bao

giờ cũng vui, kinh nhà phật dạy, vận dụng vào mình một tý teo ấy mà. Một tý teo

giúp người để mọi người tắm chữa bệnh và phục hồi sức khỏe.

Riêng chị Tính vợ anh thì mừng lắm chị bảo với tôi: Anh ấy sống vậy

là để phúc cho con em rồi, ở đời chỉ mong lấy hai chữ sống tử tế thôi, ở làng

quê biết là đủ rồi, ấy thế mà khách thập phương cũng biết, ghé qua họ cứ

chờ để tắm nước khoáng như thời bao cấp xếp hàng mua gạo, em nghĩ chắc

là giọt nước trời cho, em cũng biết chia cho mọi người, hữu xạ tự nhiên

hương, là rứa” [14, tr.98-99].

Dù người trong làng hay đại gia ở xa đến vợ chồng anh chị cũng chỉ lấy

ba ngàn đồng, năm ngàn đồng một lần tắm, có cụ ông cụ bà cao tuổi đến anh

chị cũng không lấy tiền, mong cụ khỏe là mừng rồi. Vợ chồng anh chị chân

chất mà sống đơn giản, chị nói Em cũng gửi chút lộc trời cho, dòng nước trời

cho, giúp bàn dân thiên hạ. Có vậy mấy đứa nhỏ nhà em ra đường lại ăn cơm

thiên hạ lại có người nâng đỡ. Em nghĩ hẹp như cái xóm nhỏ này thôi nhưng

gia đình yên ấm, con cái ngoan là dòng nước lớn nhất. Bởi vậy cứ mùa thu

đông đến tết thì nhà em khách tiếp thị truyền miệng đến tắm rất đông. Em thấy

nước trời cho mình không tận hưởng, phải sẻ chia vì đem cho nước đi chỉ có

được thêm chứ có mất đi giọt nước nào đâu [14, tr.100]. Một triết lý nhà Phật

mà đến tận bây giờ hiếm có ai thực hiện được.

Có thể nói thế giới thiên nhiên là nơi phản chiếu tâm hồn, người biết

yêu thương, biết gần gũi, tâm sự với thiên nhiên cây cỏ là những người tràn

đầy tình yêu, biết đồng cảm và chia sẻ với đồng loại, với chính mình. Trong

tiểu thuyết Một bàn tay thì đầy, nhân vật nữ trong đó đã hơn một lần tự vượt

51

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thoát nỗi đau đớn, xót xa về tinh thần, về thân phận để tâm sự với cây,

những loài cây nhỏ bé nhưng lại là người bạn, là sinh thể thứ hai, biết lắng

nghe và thấu hiểu nỗi lòng của Xinh, người đàn bà đã có chồng và một đứa

con, nhưng dường như “cái tổ chim sẻ ba người” ở trong không gian căn

phòng của mình “trái tim” cô nhiều lúc bị “tổn thương”. Song nỗi đau con

tim không phải lúc nào cũng có thể chia sẻ với bạn bè. Nhân vật Xinh đã

luyện cho mình một thói quen“nhìn vào cái cây trong vườn và xới đất, nói

ra những điều mình nghĩ” [10, tr.184].

Là con nuôi trong một gia đình tử tế nhưng Xinh luôn cảm thấy cô độc và

lẻ loi vì không thể trò chuyện, bộc bạch mọi nỗi niềm với họ. Là người yêu đọc

sách và thèm được nói chuyện, cô đã ra “Hồ Bảy mẫu, nói chuyện với cây cổ thụ”

[10, tr.25], người và cây cứ như thể hai người bạn, tâm sự, bộc bạch những cảm

xúc, suy nghĩ của mình. Cứ như vậy, dễ nhận thấy trên các trang viết của Hoàng

Việt Hằng, tác giả nữ này đã “tựa đầu vào thiên nhiên”, như tìm thấy ở đó một

nguồn năng lượng, tiếp sức cho bà trên những chặng hành trình để tìm kiếm chất

liệu, cảm hứng, tìm thấy sự thăng hoa trong lao động nghệ thuật.

2.3.3. Với văn hóa ẩm thực

Hà Nội luôn được các nhà văn nhìn dưới góc nhìn văn hóa hết sức chi

tiết và kĩ lưỡng. Hà Nội hiện ra như một đô thị có lịch sử lâu đời, giàu có về

sản vật, giàu có về truyền thống và đặc biệt là giàu có về bản sắc văn hóa mà

chúng ta có thể đọc ra được tinh thần và tâm hồn Hà Nội trong văn học.

Trong tản văn của Hoàng Việt Hằng món ăn không đơn thuần là sự no

mà chứa đựng tinh thần và tình cảm trong đó. Văn hóa ẩm thực quấn quyện

trong không gian, thời gian mang đậm chất kinh kỳ, tưởng chừng có thể nhìn

thấy, ngửi thấy và cảm thấu đến tận cùng. Món ăn thành miền hồi nhớ, gắn chặt

tình người, tình quê hương xứ sở. Người mẹ đã dạy con gái cách pha chế món

ăn, từ món mặn đến món ngọt, không bằng lời suông mà bằng “người thật, việc

thật” như mục “ Món ngon mỗi ngày” trên truyền hình Hà Nội hằng đêm.

52

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Hình ảnh người mẹ, người lưu giữ văn hóa truyền thống và cũng là

người truyền lại tinh hoa văn hóa ẩm thực cho con cháu thật sự gây ấn tượng

với người đọc. Có người mẹ đã từng nói Tôi có giữ con trai cho tôi đâu. Nó yêu

vợ, nó hạnh phúc, tôi mừng lắm chứ. Nhưng nó không rời tôi được đâu, các

món ăn tôi nấu nó phải về với tôi. Con trai tìm về với mẹ vì một khúc cá kho

trám đen ăn với cơm nguội nấu nồi gang. Nó nói cơm ngọt cá bùi mẹ ạ. Con

trai lại về với mẹ vì món canh thịt băm viên nấu với quả thanh trà, lại lý do về

với mẹ dể ăn món chè kho có mùi vị gừng và vừng vàng bỏ vỏ rắc li ti trên đĩa

chè vàng. [13, tr.14]

Không chỉ có người mẹ của đất kinh kì mà Hoàng Việt Hằng còn dẫn

người đọc đến với những con người vùng cao chân chất mộc mạc ta bắt gặp

những bữa cơm giản dị thấm đượm tình nghĩa. Tác giả tả rất chi tiết tỉ mỉ về

bữa cơm ngày tết mang đậm màu sắc văn hóa của người dân tộc Tày ở bản Pó

Lù, xã Tam Mẫu, huyện Ba Bể, Tỉnh Bắc Cạn.

Tôi nói với chị Thủy vợ anh Thuận: “Chị cho tôi ăn một bữa cơm trước

tết ở nhà anh chị được không?”- Được chứ, bác muốn ăn gà nướng hay cá

nướng, có ăn được măng đắng không?”- Măng đắng nấu với chân giò ninh kĩ,

hương vị rất Ba Bể. Thịt gà đã tẩm qua gia vị, có thứ lá thơm của rừng, có cả

mùi mật ong nướng lên. Khói bếp và sương lam nhà sàn, tết ở Pó Lù không

giống nơi nào. Một đĩa thịt gà vàng tượng trưng cho màu của đất đai. Rồi bát

canh măng đắng, rượu nếp ngô trắng tượng trưng cho nước. Bánh tày gói gạo

nếp nương với mật, rồi hoa chuối rừng đỏ cắm ở cái hũ rượu góc nhà tượng

trưng cho lửa. Đất, nước, lửa là ba thứ linh thiêng của người dân tộc Tày nơi

đây coi trọng [9, tr.31]. Chỉ gói gọn trong trang giấy mà Hoàng Việt Hằng đã

đem nền văn hóa ẩm thực của dân tộc Tày ở Bắc Cạn đến với người đọc gần xa

khắp cả nước, đọc những trang viết ta thấy đâu đó hòa quện vị đậm đà của các

món ăn dân tộc.

53

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Hình ảnh cây sen, hoa sen gắn liền với hồn cốt người Việt. Chè sen cũng

là một thức uống mang đậm bản sắc văn hóa Việt, người biết thưởng trà sen

hẳn là người rất tinh tế và cách pha chè là cả một nghệ thuật, nghệ thuật từ

khâu chuẩn bị đến lúc có những chén chè thơm ngon, bổ dưỡng. Đọc tản văn

Hoàng Việt Hằng người đọc được cung cấp thêm thông tin, theo người hái sen

ở chùa Phổ Linh Hà Nội: Phải hái 1.200 bông sen mới đủ ướp 1kg chè, kiên

nhẫn với hàng ngàn bông hoa sen, tách hoa, bỏ nhụy, chỉ lấy gạo sen:

“Gạo sen trắng nhỏ như hạt vừng trắng trộn với chè, đem sao nhỏ lửa

tới năm lần. Phải thật nhỏ lửa, phải khua đều tay, không để sém cánh chè,

không để cháy gạo sen là cả một công đoạn kiên trì bền bỉ với lửa, là sự chuyên

nghiệp trong nghề trà sen lâu năm của người Hà Thành” [12, tr.35]. Qua

những trang viết của bà, người đọc có thể học cả cách pha trà sen: Bộ ấm pha

trà phải bằng đất nung, phải dùng nước giếng đá ong, nước mưa pha trà mới

ngon. Ấm pha trà phải tráng nước sôi, phải đổ nước sôi cho trà vừa đủ ngấm để

thưởng hương sen. Sự cao quý của trà Sen đã được người Hà Nội dùng vào

những ngày lễ tết Nguyên đán, ngày dựng vợ gả chồng cho con chứng tỏ một

nét văn hóa ẩm thực đặc sắc mang phong vị người Việt.

Người đàn bà Hà thành luôn biết cách níu chân những người đàn ông

trong gia đình, bởi họ biết nhóm lên ngọn lửa sưởi ấm con tim những người

thân yêu, chính những món ăn giản dị tinh tế hay những vị trà ngọt ngào hương

quê đã làm say lòng bao người thưởng thức. Trong gia đình các thế hệ đã

truyền lại cho nhau cách pha chế hay kĩ thuật nấu nướng. Người mẹ đã dạy con

gái từng cử chỉ một kể cả cách ngồi của người con gái tế nhị, mẹ nói câu ngắn

dễ nhớ, chỉ bắt con gái lặng lẽ ngồi nhìn mẹ làm mà học theo. Món nào cũng

phải có một thứ gia vị phù hợp: “món vịt luộc, phải ăn với rau húng chó;

Nhưng gà luộc thì không ăn với rau kinh giới, rau kinh giới ăn với đậu phụ

mắm tôm. Mẹ dặn lại. Con phải ngồi khép chân nhìn mẹ làm. Mẹ rõ khắt khe.

Có lần bận chơi đồ hàng, con đã gắt và con ghét mẹ. Mẹ bắt con ngồi nhìn làm

54

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

gì? Con gái nhìn mẹ càu cạu. Nhìn và nhớ phân biệt các loại rau. Chưa hết.

Các món canh bí đao nấu với nước luôc gà; món nem phải giã tôm khô trộn với

thịt nạc vai băm nhỏ, trộn thịt với miến, trứng gà, củ đậu, có thêm nấm hương,

mộc nhĩ mới ngon.

Mùa nào thức nấy, mẹ dạy con nấu chè hoa cau, chè bà cốt, cách giã

vừng vắt nước nấu với mật mía, khi ăn vào mùa heo may rất khó quên.

Mẹ bảo rằng nấu ăn phải tập trung vào món nấu thì món ăn mới ngon. Và

phải để mắt đến ngọn lửa. Nếu không món nấu rất khó mà ngon” [13, tr.14].

Hoàng Việt Hằng rất thích những gì nền nã xưa cũ, chính vì vậy mà tản

văn của bà luôn hướng đến những nét văn hóa mang giá trị cổ truyền. Ngay cả

mâm cỗ truyền thống tác giả cũng muốn lưu lại cho thế hệ sau, vì với sự phát

triển của xã hội, thế hệ trẻ bây giờ đã không biết đến phong vị ngày tết cổ

truyền xưa kia là thế nào nữa. Đọc tản văn của Hoàng Việt Hằng, ta mới biết

ngày xưa cha ông đặt mâm cỗ gồm bốn bát, sáu đĩa dâng lên bàn thờ tổ tiên:

“Bát măng ninh móng giò, bát bóng nấu với nước tôm khô, thịt nạc thăn, mấy

chục viên mọc và su hào thái lát có hoa văn với điểm thêm mấy cánh hoa cà

rốt, mấy nhánh nấm hương. Bát canh bóng mẹ chỉ cho tôi màu sắc của phong

thủy, gồm kim mộc thủy hỏa thổ trong bát canh dâng trời đất ông bà. Bát khoai

tây nấu cari với cổ cánh gà, và bát canh miến để ngoài mâm không để cúng.

Mẹ cũng dặn không được cúng miến và bún, nếu cúng là sẽ làm rối ruột ông bà

không nhớ đường về nhà. Còn sáu đĩa cỗ, có một đĩa bánh chưng xanh, đĩa xôi

gấc đỏ, đĩa thịt gà vàng, đĩa xào thịt bò nâu với cần tỏi tây, đĩa nộm đu đủ và

một đĩa chả quế thái lát hình quả trám. Bát muối tiêu ớt tươi và lát chanh để

giữa mâm” [13, tr.28].

Những gì gần gũi hương vị Việt đều là món ăn thức uống để con cháu

dâng lên tổ tiên, nó không chỉ thể hiện tấm lòng của con cháu mà còn nói lên sự

gìn giữ bản sắc dân tộc Việt của cha ông ta để lại.

55

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Không chỉ viết về văn hóa ẩm thực của dân tộc mà Hoàng Việt Hằng còn

viết về ẩm thực của những vùng miền khác nhau của những đất nước mà bà đặt

chân đến. bà viết về bữa ăn của người Ấn Độ: “Gồm có lát bánh mì và rau,

hoặc một thứ nước chấm cà ri màu vàng sậm, xào sền sệt, dùng để quết lên

bánh. Có bữa là củ cải trắng cắt hạt lựu với cà rốt tím, xúp lơ xanh, tạo nên

món ăn ba màu hấp dẫn của xúp rau” [15, tr.7]. Nếu không đi đây đó, tác giả

khó có thể quan sát và suy nghiệm để nhận ra sự khác biệt giữa văn hóa Việt

Nam và văn hóa Ấn, để cảm nhận món ăn nào của người Ấn cũng có vẻ cay

hơn và nhạt hơn món ăn Việt.

Nếu Vũ Bằng ca ngợi sự tinh tế của các món ăn với sự khoái khẩu của

người thưởng thức, hưởng thụ qua tác phẩm Miếng ngon Hà Nội thì Hoàng

Việt Hằng còn nói đến sự tinh tế của món ăn qua khứu giác. Đọc Vị Phố của

bà, ta thấy dường như mùi vị đặc trưng của từng món ăn trong từng góc phố

lan tỏa: “Hà Nội khi bắt đầu có gió mùa ở phía cực Bắc thì các bếp than hoa

nổi lên trên phố trên ngõ, ở đâu cũng gặp ngô nướng. Tối đến thích húp nước

thì rẽ sang phố Hàng Giầy sẽ gặp phở Vui bán cả đêm khuya đến sáng. Cái

mùi xương bò, hoa hồi, quế chi, cái mùi vị phở cứ hất lên mùi xương bò ninh,

mùi nồng nồng, hoi hoi, thinh thích, khó chịu một tý nhưng vị nước phở thì

không nơi nào sánh được với phở gia truyền. Còn góc phố Hàng Chiếu cách

đó không bao xa, ban ngày hiên nhà bày bán đồ phụ liệu trang trí cho đám

cưới; thì 3 giờ sáng một quán phở mọc lên ở góc phố Hàng Chiếu cắt vuông

góc với phố Hàng Ngang này. Chuyên đề sốt vang chỉ xuất hiện 3 tiếng đồng

hồ từ 3 giờ sáng đến 7 giờ sáng; phở sốt vang phải xếp hàng chờ ăn. Người

dân xích lô, ba gác, chuyên chở nặng gì thì cứ làm bát phở lúc tinh mơ cho

ấm bụng cái đã, rồi mới nhấc xe đi tiếp. phở số vang có 4 miếng thịt bò cắt

dày như bao diêm thống nhất; dày và nạc có tý mỡ đủ béo, đủ làm say mê dầu

lưỡi của dân nhắm rượu quốc lủi thực thụ, rượu làng Vân, hay rượu Sấu Giá,

rượu bá Giang ở đê Quai Phùng.

56

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Nếu ở phía cực nam hay ta qua giang xuống phố Tam Chinh ngồi vỉa hè

chờ ăn một bát phở “ mắng”, nghe “mắng” mà vẫn cắn răng chờ đợi cho được

bát phở nước ngon, sợi phở mềm và vị bò ra vị thịt bò của bà chủ quán hay

mắng khách.

… Vị phở đã không thể xa được khi gió mùa đông bắc tràn về. Rồi chán

phở thì tìm phố bún chả mà ăn. Khách ăn phở Vui ở phố Hàng Giầy thì cứ nêm

chật vỉa hè mà xì xì xụp xụp.

Phở sốt vang xích lô ba gác ở phố Hàng Chiếu ai đó đều lặng lẽ húp húp

và mơ màng” [15, tr.155-156].

Những con người Hà Nội trong tiểu thuyết, truyện ngắn và tản văn của

Hoàng Việt Hằng chính là những người chế biến và lưu giữ bản sắc văn hóa

của dân tộc Việt qua văn hóa ẩm thực.

Tiểu kết chương 2

Viết bằng sự thấu hiểu cuộc sống, sự cảm thông của một nhà văn nữ.

Hoàng Việt Hằng đã thể hiện cái tôi của mình trong từng trang viết, với niềm

khao khát đi và viết ấy người đọc tìm thấy trong những trang viết của bà là

những quầng sáng kí ức, những phận người, những nét đẹp trong văn hóa ứng

xử. Tất cả đã tạo nên cái riêng, cái đặc sắc trong văn xuôi Hoàng Việt Hằng -

Một nét khu biệt giữa tác giả với các tác giả nữ khác trong việc nhận diện tác

phẩm trong lòng độc giả.

57

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Chương 3

MỘT VÀI PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN TRONG VĂN XUÔI

HOÀNG VIỆT HẰNG

3.1. Nghệ thuật thể hiện tâm lý trong văn xuôi Hoàng Việt Hằng

Theo từ điển Tiếng Việt: “ Tâm lý là toàn bộ nói chung sự phản ánh của

hiện thực khách quan vào ý thức con người, bao gồm nhận thức ý chí tình

cảm…. biểu hiện trong hoạt động và cử chỉ của mỗi người”. Như vậy khi nhắc

đến tâm lý nhân vật là nhắc đến những biểu hiện của con người bên trong nhân

vật. Đó là những cảm xúc suy nghĩ, là tâm trạng, là những phản ứng của nhân

vật trong các tình huống của cuộc sống. Có thể nói trong các tác phẩm văn học

hiện đại, nghệ thuật phân tích tâm lý, khắc họa tính cách nhân vật là yếu tố

quan trọng giúp nhân vật trở nên có hồn và mang dấu ấn riêng, nhất là với nhân

vật cá tính và có đời sống nội tâm phong phú. Nhờ đó nhân vật hiện lên sinh

động với diễn biến tâm lý phù hợp. Cái tài của nhà văn chính là thể hiện được

quá trình diễn biến tâm lý phức tạp của nhân vật theo logic cuộc sống, khiến

độc giả như đang gặp một con người ngoài đời chứ không phải là sản phẩm của

trí tưởng tượng.

Trong văn xuôi Hoàng Việt Hằng, người đọc nhận thấy yếu tố tâm lý

được nhà văn sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật. Viết về những khát vọng

của người phụ nữ, nhà văn chú ý đi sâu khám phá diễn biến tâm lý ở họ. Đó là

quá trình đấu tranh giằng xé giữa con người của trách nhiệm, bổn phận và

những khát vọng cá nhân. Đôi khi vẻ bề ngoại lặng thầm cam chịu nhưng bên

trong lại là bão nổi. Điều này thể hiện rõ trong tiểu thuyết Một bàn tay thì đầy

của Hoàng Việt Hằng. Đó là tình cảnh của Xinh khi lấy một người chồng hơn

mình về tuổi đời và tuổi nghề, lại trải qua một lần đò. Vì vậy từ lúc lấy Trị,

Xinh luôn là người nhẫn nhịn, cố gắng điều hòa không khí trong gia đình. Cô

đã cùng chồng và đứa con nhỏ trải qua gian khó của một thời bao cấp và đã

sống hết mình cho con đường đã chọn.

58

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Trong quá trình miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật, Hoàng Việt Hằng đã

sử dụng độc thoại nội tâm như một phương tiện hữu hiệu giúp nhân vật bộc lộ

tính cách chân thực, sâu sắc nhất. Đó là những khoảnh khắc nhân vật trở về với

cái tôi của mình, không thôi trăn trở băn khoăn về tình yêu, về gia đình, về

hạnh phúc. Từ đó nhân vật hiện hình sinh động và có sức lôi cuốn. Trong thời

gian yêu Trị, Xinh đã hồn nhiên kể hết cho anh những câu chuyện tình trong

quá khứ. Xinh đâu ngờ lấy nhau rồi, những câu chuyện đấy lại là cái cớ làm

nảy sinh những chuyện ghen tuông vô lý của chồng. Những lúc đó cô không

sao khóc được, cứ lặng thinh đối diện với những lời nhiếc móc, rỉa rói của Trị:

“Đầu óc cô để vào anh nào thế. Có phải anh họa sĩ thọc cả ngón tay trỏ vét

lòng trắng trứng ra bát, cô cho rằng hắn ki bo mà cô bỏ hắn phải không. Hay

anh tiến sĩ Toán học mà cô thích trước khi rẽ ngang lấy tôi” [10, tr.99].

Cô đã dần hiểu ra nông nỗi người đàn ông từng bị vợ cắm sừng, có lần

Trị còn riết róng hơn:

“Cô có nuôi được con không? Hay lại giống mẹ cô đi gửi con nhà người.

Để con đấy, tôi nuôi, đi với thằng nào thì đi đi” [10, tr.100].

Những lần như vậy, Xinh lại đạp xe đến chùa hoặc sang nhà ngoại, khóc

chán chê rồi cũng vẫn phải về vì nhớ con. Đêm đã lắng sâu, cô cho con ngủ rồi

thắp ngọn đèn sợi tóc lên độc thoại với cái bóng trên tường, mắt nhìn nhớ về

cậu Nghẹo (là đứa em dị tật của mình): “Nếu cậu còn sống, chị sẽ nói với cậu

chuyện này. Nếu cậu khỏe mạnh cậu sẽ bênh chị. Nhưng không có ai ở đây để

bênh Xinh cả” [10, tr.102]. Một con người từ nhỏ đã phải sống cam chịu, sống

thua thiệt về mình dành phần hơn cho người khác, dường như chữ “ Nhẫn”

luôn nằm thường trực trong con người Xinh, những lúc trải nỗi lòng cô chỉ biết

tâm sự với chính mình qua bóng đèn sợi tóc trong đêm thanh vắng.

Không chỉ có ở tiểu thuyết mà trong truyện ngắn và tản văn của Hoàng

Việt Hằng, người đọc cũng hình dung ra được nét tâm lý ở trong mỗi nhân vật.

Rõ nét nhất là ở trong những con người gần đất xa trời, sống với những căn

59

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

bệnh nan y, họ lúc nào cũng đau đáu một nỗi lòng muốn được đoàn tụ bên

người thân và gia đình. Ta gặp chị Thuyên - chị họ của nhân vật Tôi (trong

truyện Đến một ngày đáo hạn), chị có một khối u trong phổi. Lúc còn khỏe thì

chị cứ miệt mài sống vội với công việc, dùng sức và trí để nuôi cả nhà. Chị có

tất cả ba ngôi nhà cho con gái, con trai và vợ chồng chị ở một biệt thự gần ga

Hàng Cỏ. Thường thường vào buổi sáng chồng đi làm chị sống với ô sin, tâm

tình với ô sin là chính. Khi gần đất xa trời, chị mới thấm thía món quà vô giá

nhất của mình là có ai trò chuyện, có con cái quây quần ở bên. “Nhiều khi đau

quá chị rất muốn đi nhanh. Chết nhanh” [15, tr.21]. Có lẽ ai bị mắc căn bệnh

nan y đều có một tâm lý cô đơn và muốn giải thoát nhanh chóng trên cõi tạm về

với cõi vĩnh hằng, đó là tâm lý vừa sợ hãi vừa sẵn sàng chấp nhận thực tế từ

những cơn đau vật vã. Lúc ấy con người ta không thiết vật chất nữa, chỉ muốn

tinh thần được thoải mái an nhiên tự tại với con cái bạn bè mà thôi.

Cho dù viết ở thể loại nào, truyện ngắn, tiểu thuyết hay tản văn thì người

đọc cũng thấy thường trực trong tâm lý của các nhân vật một câu hỏi đó là

“Phải tiêu dao thời gian sống ra sao?”. Người vớt rác ven hồ tên Hổ trong tản

văn Bóng đổ nơi chân sóng cũng đã từng “tâm sự” với người đồng cảnh: “…

Thời gian thật quý hóa bà nhỉ, thời gian chẳng chờ đợi ai. Vậy mà con người ta

cứ hay phung phí thời gian sống, chẳng nuối tiếc, chẳng chịu chắt chiu nó bà

Nhi nhỉ” [15, tr.14]. Mỗi người có một cách sử dụng thời gian khác nhau

nhưng tựu trung lại trong họ đều muốn làm việc có ích cho đời. Người vớt rác

ven hồ tên Hổ dành thời gian cho việc làm sạch môi trường, khâm liệm xác

người chết. Tiến sĩ văn học Nguyễn Thị Minh Thái (trong tản văn Dấu chấm

than viết ngược với mẩu chuyện Đi để khám phá chính mình) là người vùi vào

công việc, nếu có kẽ hở của thời gian rỗi chị dành cho đi bộ, bơi nước nóng vào

mùa lạnh hoặc tập yoga để tự chăm sóc cho sức khỏe của mình, phấn đấu học

để có sự nghiệp và tự nuôi con. Rất nhiều người với những tâm trạng khác nhau

đã bước vào trang viết của Hoàng Việt Hằng, đem tới cái nhìn đa diện, nhiều

chiều kích về con người.

60

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

3.2. Màu sắc tự truyện trong văn xuôi Hoàng Việt Hằng

Bên cạnh nghệ thuật thể hiện tâm lý, yếu tố tự truyện thẩm thấu trong

văn xuôi Hoàng Việt Hằng như một cách thức thể hiện của nhà văn.

Trước hết ta hiểu tự truyện là những tác phẩm văn học thuộc thể loại tự

sự, thường được viết bằng văn xuôi trong đó tác giả tự kể lại và miêu tả cuộc

đời mình trong tác phẩm. Bên cạnh những tiểu thuyết có khuynh hướng tự

truyện như Gia đình bé mọn (Dạ Ngân), Phố Tàu (Thuận), Tiền Định (Đoàn

Lê) thì tiểu thuyết Một bàn tay thì đầy của Hoàng Việt Hằng là một sự góp mặt

đáng trân trọng.

Không khó nhận ra chất tự truyện trong văn xuôi Hoàng Việt Hằng, nổi

bật ở tiểu thuyết Một bàn tay thì đầy và một số tản văn trong tập Tiêu gì cho

thời gian để sống, Bóng đổ nơi chân sóng. Có thể thấy chất liệu đời tư, chất

liệu cái tôi đã được hình tượng hóa vào các nhân vật trong tiểu thuyết của

Hoàng Việt Hằng. Tiểu thuyết Một bàn tay thì đầy được kể ở ngôi thứ ba theo

điểm nhìn nhân vật, cụ thể là nhân vật nữ. Nhân vật Xinh trong tiểu thuyết là

nữ và cũng là nhà văn.

Nhiều năm làm báo Du lịch, Hoàng Việt Hằng luôn rời khỏi căn phòng

nhỏ của mình đến với không gian bên ngoài để quan sát và để viết, để nuôi

con nhỏ, để mưu sinh, để nuôi chồng đang đổ bệnh. Không chỉ thế, viết để tự

nâng mình lên, tự ru vỗ mình vượt qua những áp lực của thời gian, của hiện

sinh nghiệt ngã. Toàn bộ tiểu thuyết Một bàn tay thì đầy với nhân vật Xinh

chính là hình bóng của tác giả, các nhân vật xung quanh câu chuyện về cuộc

đời Xinh chính là những người thân trong gia đình Hoàng Việt Hằng. Nhiều

chi tiết trong cuộc đời nhân vật trùng với cuộc đời tác giả. Đó là bố mẹ nuôi,

mẹ đẻ, người em trai tàn tật, người chồng có những cơn ghen mang bóng dáng

của Otello, người chị vú em, bà hàng xóm tốt bụng,…. Những bước ngoặt

trong cuộc đời Xinh chính là những bước ngoặt của tác giả. Ngoài đời thật thì

tác giả cũng xuất thân từ nghề xây dựng, cũng gặp gỡ và yêu, xây dựng gia

61

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

đình với người lính là nhà văn, cũng trải qua thời kì bao cấp vất vả chèo

chống cùng cây bút văn chương, cũng viết báo nuôi con, chữa bệnh cho

chồng. Chất tự truyện rõ nét trong những đoạn văn nhân vật Xinh ngoảnh nhìn

cuộc đời mình: “Mới biết lúc khỏe Xinh đã làm lụng như một con bò kéo cày

quanh năm. Lại thấy mình cũng không khác con bò là mấy, ăn giả làm thật.

Lúc nào cũng ăn qua quýt, cho xong để còn làm. Việc nhà dọn dẹp quanh

năm, và viết để kéo cày trả nợ như cái bánh xích chạy trên đường cưa, sin sít,

đều đều. Xinh phải thức giấc lúc bốn giờ sáng thắp đèn viết đến bảy giờ thì

đứng lên. Nhanh nhanh rửa mặt, đánh răng, chải đầu để đi chợ lo ăn sáng, đi

làm, và lại lo bữa cơm trưa” [10, tr.212]. Dễ nhận thấy tự truyện đã rút ngắn

khoảng cách giữa nhân vật và chủ thể sáng tạo. Dường như hồi ức của cuộc

đời Hoàng Việt Hằng cứ tuôn chảy theo dòng kí ức của nhân vật Xinh, có lẽ

đấy là sự trải lòng của tác giả, với những suy nghiệm, biểu cảm, trở về với cái

tôi của chính mình, không ít trang làm người đọc rưng rưng trong niềm đồng

cảm và sẻ chia sâu sắc, chân tình: “Cuộc đời ngỡ tẻ nhạt với công việc nhà,

rồi những chuyến đi làm phóng sự, tản văn, Xinh lại thấy những chuyến rong

ruổi cho Xinh những cảm xúc run rẩy. Run rẩy nhìn thấy hoa mai nở muộn ở

góc núi, còn thấy vệt khói trắng đùn lên ở góc bếp nhà sàn như giun bò. Khói

thơm quá, ấm quá. Lại tiếng chích chích bập bập gọi gà, lại tiếng gà mái gọi

sống khi gà sống còn gân cổ lên gáy. Thiên nhiên êm dịu ở vùng núi hút hồn

Xinh. Chính những chuyến đi đã giúp cô viết như nghiện chữ” [10, tr.213].

Trong một số tản văn của Hoàng Việt Hằng là những mẩu chuyện nhỏ

quanh những chuyến đi với những nhân vật có thật mà Hoàng Việt Hằng đã

gặp, họ bước vào tác phẩm của bà với một niềm cảm thông sâu sắc. Chính vì

vậy mà qua các trang viết của mình, Hoàng Việt Hằng như đang viết lên nỗi

niềm, tâm tư cùng sự trăn trở của bản thân mình. Đó là những con người tài hoa

trong làng văn, những con người làm nghề nghệ thuật, những con người bình dị

trong cuộc sống đời thường.

62

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Khi có tuổi nhân vật tôi (trong bài tản văn Chảy ngược về sông Đáy) mới

ngoảnh lại thấy mình có một gia tài tuổi thơ phong phú. Nhân vật tôi chính là

hình bóng tác giả, kí ức tuôn trào, nhân vật Tôi nhớ về lớp học bên Chùa Rừng,

cạnh đó là dòng sông Đáy: “Tuổi thơ tôi, có anh Vinh đã tha tôi đi khắp làng

Cát Quế, đi bộ theo dòng sông, đếm những ruộng cải có hao, và những vườn

chanh trĩu quả. Chúng tôi đi bộ rất xa lên gần chợ ven núi Thầy, có hôm mỏi rã

chân anh Vinh cõng tôi về . Không phải là anh em ruột, nhưng quý tôi hơn em

ruột. Chúng tôi ngoắc ngón tay út vào nhau đồng ý kết bạn. Vì hồi đó chúng tôi

đọc sách của nhà văn Ba Kim Trung Quốc, đọc Khúc Ba - Rừng thẳm tuyết

dày, mê văn chương lắm. Anh mượn rất nhiều sách cho tôi đọc, dạy tôi viết

chữ đẹp hàng ngày nữa. Rồi chuyện ở vườn nhà có bưởi bói hoa anh ngắt cho

tôi ướp mía ăn, bị bác tôi mắng tơi bời, anh nhận về mình hết” [15, tr.83].

Hoàng Việt Hằng có một người mẹ tinh tế và hết mực thương con chính

vì vậy mà hình ảnh những người mẹ bước vào trong trang văn của chị cũng thật

như chính trong tâm trí của chị vậy. Ở dưới chân núi Tản Lĩnh - Ba Vì luôn có

một bà mẹ cứ cuối tuần là ngóng con gái và cháu ngoại về thăm, để được tắm

cho cháu bằng những lá thuốc mà bà đã chắt chiu trồng hái.

“Vạt mùi này, theo bà Lẫm là để cả nhà con gái từ phố về quê tắm gội.

Còn ít mùi già bà phơi hạt treo gác bếp dành cho trẻ con trong xóm có đứa lên

sởi thì cho, đỡ phải đi ra chợ. Trong bếp có một bồ lá khô, có lần cu Bin cháu

ngoại bà đã ngồi chơi với lá khô, xem bà ngoại dán lên tờ bìa xanh đủ thứ lá

dạy cho cháu phân biệt lá mơ và lá tía tô, lá nhót và lá khế….Bà cũng được mẹ

truyền cho những vị lá đã trở thành những thang thuốc chữa bệnh trong truyền

miệng dân gian” [15, tr.78].

Trong các tản văn: Nước mắt vẫn chảy ngược, Ngọn khói nhà quê, Rớt

bão, Chim le le lẻ bạn,…thêm một lần nữa tô đậm cái tôi tác giả, một cái tôi

đầy ưu ái, nỗi niềm mà cũng đầy tự tin, bản lĩnh trong đời sống và đời viết của

nhà văn.

63

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

3.3. Xây dựng nhân vật

3.3.1. Phác họa ngoại hình

Có lẽ con người thực của Hoàng Việt Hằng không chú trọng về vẻ bề

ngoài cho nên những nhân vật của chị cả trong tiểu thuyết, truyện ngắn hoặc

tản văn đều hiện lên mờ nhạt về ngoại hình, thường thì ngoại hình nhân vật

phần nào sẽ nói lên số phận nhân vật, nhưng ở đây với các tác phẩm của chị ta

thấy vài dòng nội cảm của nhân vật đã tạc nên bức chân dung của chính họ. Tác

giả không trực tiếp vẽ ra cho người đọc thấy hình dáng của nhân vật mà qua cử

chỉ, lời nói tự nó đã khắc vào trong tâm trí người đọc những bức chân dung

riêng tùy theo từng cảm nhận của mỗi người.

Chính từ bút pháp phác họa ngoại hình đã giúp tác giả xây dựng được

một nhân vật người lính tên Trị trong tác phẩm Một bàn tay thì đầy xuất thân từ

nông dân chính hiệu, anh đã không vượt qua được chất nông dân ấy dù đã học

rộng đi nhiều. Và tác giả đã bóc trần nhân vật Trị về thái độ, cách ứng xử để

làm rõ cá tính hơn là miêu tả ngoại hình.

Cũng với bút pháp này người đọc hình dung ra một người cha làm

nghề mộc khỏe mạnh, qua hồi ức của Liên: “trên bàn thờ cũ kĩ không có một

tấm ảnh của cha nhưng nghe mẹ kể thì cha đẹp nhất làng, người có đôi tay

vạm vỡ như bờ vai vì nghề mộc làm gỗ không nhẹ nhàng như mọi nghề

khác.[15, tr.16]. Ở đây tác giả không tô đậm hình dáng của người cha Liên

nhưng chỉ qua phác họa tả vài chi tiết là đã cho người đọc thấy nhân vật có

tính cách mạnh mẽ rất đàn ông.

Trong tản văn Tiêu gì cho thời gian để sống, những thân hình co lại trên

giường gậm nhấm sự cô đơn như Một dấu hỏi của người. Nấc thang của tình

nghĩa cha con, mẹ con như không có phanh ở bước trượt tình cảm. Những hình

dáng như dấu chấm hỏi luôn ám ảnh rất lâu trong lòng những người tử tế. Ta

còn bắt gặp dáng lưng còng của những bà mẹ có con là liệt sĩ: “những nỗi đau

64

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

dã làm lưng má gập xuống như một dấu hỏi. Buổi trưa vẫn có những bóng má

lúi húi thắp hương, đối thoại với ngôi mộ dá vô danh [13, tr.102].

Hay nữ thẩm phán tên HK với mẩu chuyện Cái gạt nước ngày mưa, có

nét mặt bình thản, rất khó đoán chị thể hiện mình đang đau khổ, hay mình đang

hạnh phúc:

“Mắt tôi đã dán mãi vào một gương mặt thiếu phụ khoảng ngoài bốn

mươi tuổi, các nét trên gương mặt chị được tạo hóa bố cục rất nhẹ nhõm, cái

mũi của nàng thẳng tắp như một dòng kẻ, ánh mắt đen nhìn thẳng kiên nghị”

[13, tr.91].

Hoàng Việt Hằng miêu tả các nhân vật là những văn nghệ sĩ (tản văn

Người cho đã không nhớ) với những bóng dáng mờ nhạt nhưng chỉ qua phác họa

đôi chút về nhà văn ấy mà người đọc dường như đã hình dung ra cả con người

nhà văn. Nhớ đến nhà văn Tô Hoài với dáng ngồi đang viết trên chiếc bàn cũ

xoàng xĩnh, nhớ đến bóng dáng nhanh nhẹn của nhà văn Kim Lân, nhớ đến

nhiếp ảnh gia Quang Phùng lúc nào cũng vác máy đi trong ngày mưa…Viết về

những con người cống hiến cho nghệ thuật, với một sự hi sinh thầm lặng Hoàng

Việt Hằng chỉ phác họa đôi nét về ngoại hình mà chủ yếu là đi sâu về những biểu

hiện bên trong, khắc đậm chân dung tinh thần của các nhân vật.

3.3.2. Khắc họa nội tâm

Hoàng Việt Hằng đã mô tả chiều kích thế giới nội tâm của nhân vật Xinh

trong tiểu thuyết Một bàn tay thì đầy thông qua việc nhân vật tự ý thức, suy tư,

trăn trở, suy ngẫm về thân phận của bản thân trong các mối quan hệ gia đình và

xã hội.

Ở đây tác giả đã chiếu rọi cái nhìn của mình vào những góc khuất trong

thế giới nội tâm của nhân vật Xinh. Bi kịch của nhân vật chính vừa là bi kịch

gia đình vừa pha lẫn bi kịch nội tâm. Quá trình tự ý thức của nhân vật Xinh đã

tạo nên dấu ấn tinh thần của nhân vật và phần nào bộc lộ chủ đề tư tưởng của

cuốn tiểu thuyết.

65

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Không chỉ trong tiểu thuyết mà hầu như trong các tác phẩm văn xuôi của

Hoàng Việt Hằng đều khắc họa rõ nét nội tâm nhân vật thông qua một vài chi

tiết thoáng qua của ngoại hình, ví như nhân vật ông Ngô Đồng. Mọi người chỉ

thấy ông hiện lên qua chi tiết ít nói và không bao giờ cười, phải chăng cái

khuôn mặt lạnh lùng của ông nó lạnh như nghề của ông vậy. Ông là người sống

tình cảm, tình cảm nên ông mới không thấy trở ngại gì trong công việc liệm xác

lạnh người ấy, những cái xác là những con người xa lạ nhưng ông đã gói ghém

họ khâm liệm họ như chính người thân trong nhà mình vậy. Vì công việc hàng

ngày tiếp xúc với người đã khuất nên nhân vật Ngô Đồng luôn khắc khổ, lúc

nào cũng chỉ ngậm ngùi đau đáu cho những con người sắp chuyển kiếp về thế

giới bên kia: “Ông Ngô Đồng ít nói lắm. Nghề của ông chẳng có giây phút nào

vui. Nó cứ thấm vào ông, một giây, một phút, một giờ, hai mươi bốn giờ, và

mười hai tháng, nhiều năm sau, đến lúc một đứa trẻ sống ở tập thể bệnh viện

bảo với mẹ nó là y tá khoa ngoại: “Mẹ ơi con không thấy ông Ngô Đồng cười,

mẹ bảo ông Ngô Đồng cười với con”.

Ngay cả lúc ông đem gói bánh, kẹo rất ngon cho đứa trẻ, khi các cháu ở

bệnh viện cưới xin, ông đi dự cũng không thấy ông cười bao giờ.

Vài năm sau trở lại bệnh viện Gờ sáu, tôi nghe nói ông Ngô Đồng đã về

sống với đứa cháu họ có chồng là chiến sĩ lái máy bay.

Chỉ có điều những đứa cháu họ kia cũng nhận xét rằng, giá chỉ thấy ông

cười một lần. mà khi ông vui lắm cũng chỉ nhìn lơ ngơ vào khoảng không, xa

lắc, và mắt ông mờ mờ như có sương giăng” [13, tr.25-26].

Còn nhân vật mang tên Lê An (trong truyện Nỗi buồn hoa mía): “Ngày

xưa chị ít nói, đôi mắt luôn mở to như nuốt lấy từng lời người khác. Ở cái tuổi

lục tuần, chị còn nguyên những nét đẹp của cái thời nhí nhảnh với những ngọn

hoa mía ven sông. Nhưng nụ cười của chị thì sao thật buồn - nỗi buồn của

người đàn bà hàng ngày phải vặn vòi nước để nghe nước chảy, thỉnh thoảng ra

ngõ chờ bọn trẻ đi học về và đợi tiếng “cạch” của tờ báo ném vào thùng thư để

trôi đi một ngày sống” [13, tr.36].

66

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Không chỉ có vậy đó còn là nỗi niềm sâu nặng của các cụ trong trại dưỡng

lão (tản văn Tiếng dẻ cùi phí cây cơm vàng): “Tháng mưa ngâu buồn lắm, nhưng

cả tháng bảy hông buồn bằng mấy ngày tết ta, tết nhất thì buồn hiu. Ai ở Hà Nội

một, con cháu đi làm xa thì vẫn thung dung còn đón cha hoặc mẹ về nhà cho cả

nhà đoàn tụ. Nhưng trong trung tâm có cụ không còn nơi để về, vì con cái đúa

sống bên Đức, đứa sống bên Bỉ, chẳng có nơi để về. Thế nên các cụ ở lại trung

tâm ăn tết. Sống kiểu ngày nay sỏi đá cũng cần có nhau” [12, tr.69].

Và nội tâm của nữ thẩm phán đã từng phán xét nhiều vụ án dân sự liên

quan đến tình nghĩa vợ chồng nhưng không phán xét nổi chính bản thân mình

“Ngày mưa chị ngồi trên chiếc xe vô định, đến bến đỗ lại quay về. Nhìn xem,

nghĩ và nạp năng lượng vào cơ thể. Chiêm nghiệm để rồi xử lý những tình

huống hôn nhân phức tạp, sao cho thấu tình đạt lý. Các cặp vợ chồng thì trông

vào thẩm phán, chánh án xét xử. Nhưng nỗi đau của nữ thẩm phán thì chỉ có

chính họ mới phán xét họ mà thôi.

Họ phải vượt qua những barie vô hình. Họ phải tự tuyên án và phán xét

nỗi đau của mình, không phải ai người phụ nữ nào cũng làm được.

Hai người một nữ thẩm phán và một nguyên đơn thuê một chiếc xe. Họ

đi hết một ngày mưa. Không định trước, để nhìn chiếc gạt mưa trên xe lúc mờ

lúc sáng, lúc sẫm, lúc rực rỡ như những mảnh đời mà một người cả đời phải

đứng ra xét xử người khác. Còn mình thì tự xử lấy những nỗi đau riêng, không

có ai phán quyết” [9, tr.136].

Đặc biệt tiếng lòng của người mẹ (tản văn Người cho đã không nhớ), chỉ

biết tâm sự trước đèn trước nến về những bất lực của cuộc sống: “Đã năm mùa

heo may, mỗi lần phải đối mặt với nhiều nỗi lo lắng trên đường đời mẹ thường

đi thắp đèn dầu, khêu to bấc lên, hỏi bố con mẹ phải dạy con thế nào đây ở tuổi

18. Khi anh em không có, nhà ngoại dòng chân tu không còn ai. Bên nội con thì

một nồi hai nước, họ ngoảnh mặt là lẽ đương nhiên.

67

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Mẹ phải đối mặt với nhiều thứ, nhưng dạy con khó nhất trên đời. làm

một câu thơ hay thật khó sao mẹ làm được, nhưng uốn nắn con dạy con thành

Người viết hoa, thời @ không dễ. Mẹ đã bó tay” [11, tr.97].

Giống như nhà phê bình văn học M.Bakhtin viết trong tác phẩm: “Những

vấn đề thi pháp Đôt- xtôi-epxki”: “Trong con người bao giờ cũng có một cái gì

mà chỉ có bản thân người đó là có thể phát hiện được bằng hành vi tự nhận

thức tự do, bằng hành vi ngôn từ, là cái mà người ta không thể xác định theo bề

ngoài và sau lưng được” [3]. Hoàng Việt Hằng đã phát hiện và thể hiện thành

công chiều kích bí ẩn của “con người trong con người”.

3.4. Ngôn ngữ trần thuật.

Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học. Nhà văn M. Gorki

đã từng khẳng định: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Nó đóng vai

trò quan trọng giúp nhà văn thể hiện tư tưởng, cảm xúc của mình. Theo Từ điển

thuật ngữ văn học: “Trong tác phẩm ngôn ngữ văn học là một trong những yếu

tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn. Mỗi

nhà văn lớn bao giờ cũng là tấm gương sáng về mặt hiểu biết sâu sắc về ngôn

ngữ” [34]. Như vậy ngôn ngữ trần thuật chính là sự sáng tạo, mang dấu ấn cá

nhân của nhà văn. Nó không chỉ dừng lại ở một mà có thể chứa đựng nhiều lớp

nghĩa khác nhau, nhiều cách giải thích khác nhau. Điều này tạo nên vẻ đẹp đa

thanh cho ngôn ngữ. Có thể khẳng định ngôn ngữ văn xuôi là sự tác động qua

lại phức hợp của tiếng nói tác giả, người kể chuyện và nhân vật.

3.4.1. Ngôn ngữ đậm chất thơ

Tác phẩm nghệ thuật nói gì và nói như thế nào. Tư tưởng và phương

thức biểu hiện. Tư tưởng toát lên từ đời sống, cách nhìn đời sống và phương

thức biểu hiện nhờ ngôn ngữ. Ngôn ngữ tạo mô thức hình dáng, câu chữ, vắt

dòng, hình ảnh, liên tưởng, vần điệu, nhịp điệu, giọng điệu….Và chính ở đây tư

tưởng tác phẩm mới được hiện ra cụ thể sinh động. Có bước chân rộng, có tầm

nhìn xa nhưng quan trọng là độ sâu tâm hồn. Trước khi đến với văn xuôi,

68

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Hoàng Việt Hằng là một nhà thơ. Vì vậy trong các trang văn xuôi của bà có sự

giao thoa giữa tự sự và trữ tình, và nổi bật ở bút pháp sáng tạo của bà là ngôn

ngữ thấm đậm chất thơ.

Trong tản văn Hồ thẳm xanh ở thung lũng vàng, Hoàng Việt Hằng

nhấn mạnh đến vẻ đẹp Đà Lạt đã cho con người tìm lại niềm tin: “Nếu như

biết tiết kiệm thời gian sống hơn khi khám phá Đà Lạt với một trời thác

nước, một vệt trăng vắt trên đồi thông, không xa kia là đồi thông nữ thi sĩ

Hồ Xuân Hương thoảng như nhắc ta liệu có còn nhớ thơ của bà trong vũng

trăng vàng mà không ai còn rơi lệ. Đà Lạt của trăng vàng, hồ xanh thẳm,

ngàn hoa vẫy gọi trong gió. Bạn sẽ như trẻ thơ hò hẹn thông xanh, không dễ

chia tay với cao nguyên Langbiang; với những con lạc đà ngơ ngác không

phải ở trên sa mạc, mà ở ngay thung lũng Prenn có xe hoa và có thuyền

buồm đỏ trắng, cho bạn chùng xuống sau bao vất vả nông nổi phận người,

để bạn sống với kim giây, kim giờ của thiên nhiên tràn ánh sáng mặt trời,

nước hồ và cây xanh” [15, tr.34].

Sống trong không gian thẳm xanh, nên thơ của thành phố ngàn hoa,

tác giả đã hóa thân vào thiên nhiên, giúp người đọc liên tưởng một vẻ đẹp

hoang sơ đến lạ kì của Đà Lạt: “Con đường độc đạo dẫn đến làng du lịch

đất sét, có hồ trong nước thẳm, có những cái nơm, những mẻ lưới trắng treo

trên mặt hồ. Xa kia là rừng thông, lác đác vài ba ngôi biệt thự trong

núi…rồi chạm mắt tới làng quê có ngôi nhà đất đỏ ba - dan, tới một dãy ta

luy có bản nhạc, có xe véc-pa cổ, có song mã kéo, có điếu cày và bát điếu,

có nhà và dãy chuối xanh, thác nước và ngước lên là rừng thông xanh đến

mê hoặc cõi người” [15, tr.161].

Hay như vẻ đẹp của hồ sen Quảng An, Nghi Tàm “đang phơi ra màu

xanh non giống như một chiếc xiêm áo của thôn nữ mặc đẹp nhất trong lễ hội

Sen vào mùa tháng 6” [15, tr.53].

69

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Tả về sông Ngô Đồng: “Có một dòng sông không lớn, không nổi tiếng

lắm, đi khắp sông cũng không tìm đâu ra bóng một cây ngô đồng mà lại tên

Ngô Đồng. Nó làm cho tôi phải tìm đến vùng núi Cấm Sơn để nhìn nơi bắt

nguồn dòng chảy rồi tràn sang lưu vực sông Sào Khê. Đến trước mùa thu heo

may sông Ngô Đồng vắt trên mình màu vàng của lúa miền đất Tràng An, và

mùa đông thì nước trong đến nao lòng khi bóng núi đá vôi đổ xuống uy nghi và

kiêu hãnh bên đền Thái Vy nhuộm vết rêu phong cổ kính. Và để đi trên dòng

sông này, hạnh phúc nhất là không có tiếng máy nổ, chỉ có tiếng chèo thuyền

gạt nước lãng đãng trôi chậm qua ba động Tam cốc mà ngắm cố cung xưa một

thủa hiển vinh của vua Đinh và vua Lê” [15, tr.90].

3.4.2. Ngôn ngữ đậm chất đời thường

Tư duy nghệ thuật trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1986 có nhiều đổi

mới. Một trong số đó là ngôn ngữ gần gũi với đời sống. Để đưa tác phẩm gần

gũi với bạn đọc, nhà văn đã sử dụng tiếng nói của đời sống hàng ngày giúp

người đọc tiếp cận gần nhất với cuộc sống qua nội dung mang tính hiện thực,

với sự dung nạp của nhiều khẩu ngữ.

Đó là sự xuất hiện của những lời nói bỗ bã, suồng sã của lời ăn tiếng nói

hàng ngày. Thứ ngôn ngữ này dường như thô nhám, mộc mạc chứ không phải

là sự trau chuốt mượt mà. Bởi vậy, nó mang đậm hơi thở của đời sống.

Lối nói suồng sã xuất hiện trong tiểu thuyết của Hoàng Việt Hằng khi

nói về nhân vật Xinh một lần bị chồng đạp chân, “ nhanh ý Xinh túm một chân

của Trị, anh ngã quay đơ, chống tay xuống nền nhà. Xinh cũng không vừa:

- Nếu lần sau còn thích đánh nhau, bố mày sẽ quyết chiến đấu với mày.

Nghe xong Trị lại cười khùng khục, anh như được xả cơn giận: “Ừ, bố mày

được lắm. Lần này cho anh đo ván, lần sau anh sẽ xử bố mày” [10, tr.107].

Người đàn bà rất biết cách xử lý khéo các tình huống, dù đang trong tư

thế bị động nhưng bằng trí thông minh và sự nhạy bén của mình Xinh đã

chuyển sang thế chủ động, biến cuộc “bạo loạn gia đình” thành một trò chơi,

mà người chơi lại chính là những người trong cuộc “bạo loạn” ấy.

70

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Những giây phút cuối đời của Trị, một lần hai vợ chồng đã thỏa thuận

xưng hô tao - mày cho sướng cái mồm trong một ngày, mọi ngày thì Xinh cõng

Trị đi khắp bệnh viện nhưng ngày đó Trị là người cõng Xinh.

- Anh là tao hay mày?

- Cứ tự nhiên xưng hô thế nhé.

- Ừ.

- Hôm nay mày cõng tao được không? Từ ngày mày ốm, tao phải bế,

phải cõng, phải dìu mày.

- Trong bệnh viện có bà vợ chân yếu tay mềm không dìu nổi chồng và

xô nhau ngã. Bệnh trọng thêm. Đằng này tao đã cõng mày, và mày còn cười

trên lưng tao là sao?

- Là vì tao là thằng đàn ông lại phải để mày cõng. Tao cười cho

thằng lính như thằng Trị đi khắp cánh đồng chó ngáp, chôn bạn dưới nước

dềnh lên, phải buộc cây, buộc đá cho bạn chìm hẳn. Không thì chim nó ăn

xác. Tao cười những lần đi vắt vẻo qua cầu khỉ như xiếc. Nhịn đói cả tháng

trời không có hạt cơm.

- Thế mà thời bình tao lại phải ôm vai mày ngả nghiêng đi từng bước

trên hành lang bệnh viện. [10, tr.108].

Mặc dù đã vào tuổi xế chiều nhưng Hoàng Việt Hằng luôn nhạy bén bắt

nhịp sự thay đổi của thời đại, đọc những trang viết gần đây của bà ta bắt gặp

một lối nói hiện đại, ví như lúc Xinh nói về những đồng lương ít ỏi của Trị:

“Khốn nỗi chỉ là những đồng tiền lương của một viên thiếu tá bị một sao để

làm dân thường. Đồng lương còm bây giờ chỉ đủ tiêu vèo trong một tuần. Nếu

ốm đau mua hai chai nước cất, hoặc chai đạm truyền tĩnh mạch là hết veo cả

tháng. Là “chấm com” ba miệng ăn” [10, tr.103].

Sự dấn thân giúp một người đã quá tuổi tri thiên mệnh như Hoàng Việt

Hằng có được kiểu nói hiện đại. Chẳng hạn, viết về tác giả lời thơ Chị tôi được

phổ nhạc khá nổi tiếng, Hoàng Việt Hằng tung hứng sinh động: “Đoàn Thị Tảo

71

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

sống một mình, tảo tần vì gia đình lớn, ngoảnh lại thì duyên muộn cũng chấm

com thôi!”

Hiện tại đã xóa đi nhiều vết tích của quá khứ nhưng ẩn ức con người

lại không dễ phai mờ, tác giả viết: “Người Hà Nội cũ vừa vui lại như vừa

buồn vì ẩn ức con người không phải như chiếc máy vi tính, nhấn Delete, xóa

ngay là được” [15, tr.87].

Những mẩu chuyện của Hoàng Việt Hằng được chắt lọc đúc kết từ cuộc

sống hàng ngày, tác giả viết về những con người dù ở địa vị như thế nào đi nữa

thì cũng không hề mất đi cái dư vị cuộc sống đời thường, cụ thể nó thể hiện

trong chính lời nói hàng ngày, nó tạo nên sự gần gũi và đa thanh giữa các nhân

vật trong tác phẩm. Ví như viết về nhà thơ của núi Đỗ Thị Tấc gặp tại Cung

văn hóa Hữu Nghị, Hoàng Việt Hằng viết Ở Cung văn hóa Hữu Nghị, có người

bắt tay Tấc, chào: “Chú Tấc mới về”, “Ê, Tấc mo Thái”, “Chào bố Tấc”.

Tôi bảo:

- Bố Tấc định đi chụp ảnh à?

Đáp:

- Chưa ăn gì đi kiếm điếu thuốc lào hút đây.

Tôi kéo bố Tấc về nhà giao hẹn, có gì ăn nấy nhé, có rượu cúc đấy. [15, tr.145]

Trong tản văn Trú mưa dưới chân cầu vượt, Hoàng Việt Hằng đã dựng

lại khoảnh khắc mà hai người xa lạ gặp nhau trong chốc lát bởi có cùng một

nghĩa vụ đó là trông mẹ ốm trong viện, tác giả viết: Thấy Hạt nhìn chăm chú,

cô bé nhai bánh phân bua: “Từ sáng cháu chưa ăn gì, cháu cố gắng nốt đêm

nay, mẹ cháu truyền xong sang phòng hậu phẫu”.

- Này cô có vào bệnh viện không? Chăm chồng à? Hay là chăm mẹ?-

Con bé rải tấm ni lông rộng ra - Cô có chồng không đấy?

- Có thì sao mà không có thì sao?

- À là hỏi cho có chuyện chứ nhìn cái dáng cứng đơ đơ của cô thì em

nghĩ cô không chịu lấy chồng rồi!

72

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

“ Con ranh này háo chuyện”. Hạt định đi nhưng cô bé nhanh nhảu cười,

níu tay:

- Đừng đi vội, mưa to, bảo vệ hay gác cổng không cho vào ngay đâu.

Bảo vệ mà cũng ra dáng lắm, có ướt thì cũng cho chờ ở hành lang bệnh viện,

hành là chính. Cô cũng chăm mẹ à? [15, tr.166]

Có thể nói ngôn ngữ trần thuật trong văn xuôi Hoàng Việt Hằng dù mang

đậm chất thơ hay đời thường đều ẩn giấu một nỗi niềm thế sự nhân sinh.

3.5. Giọng điệu trần thuật

Trong tác phẩm văn học, giọng điệu là một trong những yếu tố quan

trọng nhằm thể hiện tư tưởng tình cảm của tác giả. “Giọng điệu là thái độ, tình

cảm, lập trường tư tưởng được miêu tả, thể hiện trong lời văn quy định cách

xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thô sơ hay

thành kính, suồng sã, ngợi ca hay châm biếm [4, tr.112]. Bởi vậy có thể khẳng

định giọng điệu là một trong những “tín hiệu” giúp người đọc nhận ra văn

phong của từng tác giả. Nói cách khác, giọng điệu là yếu tố quan trọng giúp các

nhà văn khẳng định phong cách của mình. Tuy nhiên chúng ta cần phân biệt

giọng điệu trong lời nói và giọng điệu trong các tác phẩm văn học. Đề cập về

vấn đề này, nhà nghiên cứu Nguyễn Thái Hòa đã đưa ra cách hiểu về giọng

điệu trong văn học: “ Cấu trúc bất biến của một nhà văn có phong cách riêng

đánh dấu dặc trưng sử dụng ngôn ngữ, trong đó phản ánh mối quan hệ giữa nhà

văn với hiện thực cuộc sống, với ngôn ngữ đang dùng và không phụ thuộc vào

thể loaị và đối tượng được nói đến” [16, tr.160]. Như vậy giọng văn là sự thống

nhất bất biến trong các tác phẩm của từng nhà văn. Trong văn chương, nhắc

đến giọng điệu là nhắc đến hình thức nói nhưng giữa hình thức ấy lại có mối

liên hệ mật thiết với nội dung được gửi gắm. Bởi giọng điệu luôn gắn kiền với

việc dùng hình tượng để miêu tả đối tượng của sáng tác. Trong văn học ta bắt

gặp nhiều giọng điệu khác nhau. Ứng với mỗi trạng thái tâm lý của nhân vật,

73

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

các nhà văn sẽ lựa chọn giọng điệu thích hợp. Tìm được giọng điệu phù hợp là

cách để câu chuyện chân thật và đi vào lòng người dễ dàng hơn.

3.5.1. Giọng trữ tình, thương cảm

Trữ tình là sự bộc lộ trực tiếp những suy nghĩ, cảm xúc của con người

với thế giới. Dù là giọng văn giàu nữ tính với sự dịu dàng trong những câu chữ

hay là sự sắc sảo, chao chát thì ẩn sâu bên trong đều là giọng điệu trữ tình thiết

tha với khát vọng và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống.

Có thể nói, giọng trữ tình, thương cảm là một trong những giọng điệu cơ

bản để tạo nên chất nữ tính trong sáng tác của Hoàng Việt Hằng. Cái nhẹ nhàng

thủ thỉ của chất trữ tình dường như thấm trong từng câu chữ, cất lên từ những

lời tâm sự, trong những ước mơ bay bổng, những hoài niệm quá khứ của nhân

vật. Thông thường giọng điệu này dễ tìm thấy ở dạng truyện tự bạch, người kể

chuyện tự kể về cuộc đời mình, bộc bạch nỗi lòng của mình. Chất giọng trữ

tình được thể hiện thông qua lối kể theo ngôi thứ nhất. Các nhân vật xưng “tôi”,

“con”, “ta”,... Ngoài ra giọng điệu trữ tình còn là cách gọi tên nhẹ nhàng tình

cảm: “chàng”, “nàng”, “anh chị”, “cô bé”,… Nhờ đó thế giới xúc cảm phong

phú của nhân vật như được tãi ra trên từng trang giấy. Đó là nhân vật xưng

“em” kể về nỗi đau và cách giải quyết của một người đàn bà bị san sẻ tình cảm:

“Một ngày mùa đông ảm đạm khi giặt quần áo của anh, em cũng muốn băm

nát quần áo trước khi đi giặt, rồi lại thôi; Cố gắng xua đi hình ảnh cô ấy, cố

gắng xua đi hình ảnh anh trong tim. Rồi kết quả em vẫn phải giặt là tử tế, để

khi ra ngoài anh thật tươm tất, ai nhìn vào cũng bảo, đó là người vợ tuyệt vời

đứng phía sau anh” [14, tr.37]

Hoàng Việt Hằng đi nhiều thấy nhiều phận đời hắt hiu nên bà chạnh lòng

với những cảnh đời éo le ngang trái. Bà trân trọng sự hi sinh và chia sẻ với

những mất mát thiệt thòi mà người phụ nữ phải gánh chịu. Đó là người đàn bà

khóc thuê, là người đàn bà trồng cây ngưu tất, là người đàn bà cô đơn ngày nào

cũng nghe tiếng nước chảy trong nhà, không chỉ có vậy đó còn là ông già

74

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

không vợ con suốt ngày chỉ bầu bạn với ngựa và đường núi, bà viết “Sương

khói đã che đi giọt nước mắt không màu của ông Cầm Thuận” [15, tr.153].

Hoàng Việt Hằng viết về họ bằng tất cả sự chân thành và đồng cảm của trái tim

mình - Một trái tim của người phụ nữ từng trải, đã từng bị nhiều tổn thương và

mất mát.

Không chỉ có vậy giọng điệu này còn thể hiện qua con mắt của nhân vật

trong chính câu chuyện của mình, chị Hạt - Một vị thẩm phán vừa nghỉ hưu vừa

chăm mẹ ốm ở bệnh viện, chị đã nhiều lần xử án tại các phiên tòa nhưng lần

này chị tự xử án một mình, tự phân thân mà làm rõ cái tốt xấu của con người

chị. Chị Hạt gặp cô bé cũng trú mưa ở dưới chân cầu vượt, đang nhai dở mẩu

bánh mì chay, câu qua câu lại mà hai cô cháu cuối cùng cũng nói chuyện cùng

một chủ đề, đó là chuyện hiếu đễ của con cái với mẹ già. Cô bé nói:

“ Mới đầu cháu nghĩ mẹ cháu nằm độ vài ngày rồi ra viện, thế mà thoắt

đã ba tháng, cháu về bán hết cả tấn lúa, cả đàn heo, đàn gà chọi mà mẹ cháu

khó về rồi. Quê cháu nghèo, vùng chiêm trũng. Nhà cháu gần chùa Bà Đanh ở

Hà Nam, cứ nghĩ mẹ cháu đi thật thì nhà càng vắng, thẻ lệnh bài “Bao Chửng”

ném xuống là y lệnh; Cháu chưa tính xa đến ngày kia.

….Cháu đã vạ vật hết mái hiên bệnh viện đến mái cầu vượt, cũng qua

được ba tháng trực viện trông mẹ. Ở Hà Nội có những nhà có tiền nên họ thuê

phòng dịch vụ, trông nom người nhà đỡ lắm. Có nhà có ô sin chăm mẹ, con gái

vào thăm hỏi bà vẫn thế à? Kiểu này kéo dài thì con lại phải bán con xe, thuê

phòng, thuê người chăm cụ vậy. Có cô vào phòng cấp cứu thì hỏi người giúp

việc, tưởng cụ đi rồi chứ, kéo lâu thế, tiền có in được đâu” [15, tr.167].

Giọng điệu trữ tình còn thể hiện qua những trang viết giàu trải nghiệm

của người đàn bà đã vượt qua bao thăng trầm của số phận, không thôi những

hoài niệm về những ngày xưa yêu dấu bên người thân và nguồn cội. Trong tản

văn Rặng duối gai quê nhà, Hoàng Việt Hằng đã bộc lộ: “Sau này từng trải,

biết đứng dậy sau vấp ngã, tôi luôn nhớ xao xác về tuổi thơ cùng mẹ hái cúc

75

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

chi sân sau vườn chùa, nhớ xao xác sân sau nhà bà nội, nơi mẹ Trần dặn dò, về

quê nội cha tôi. Có một tuổi thơ ngơ ngác và chua xót. Lại thấy tài sản lớn nhất

của mình là bố mẹ - gia đình như phía sân sau, điểm tựa vững chãi mỗi lần

tuyệt vọng, để nhớ, để quay về, tự tin can đảm hơn, sải bước. Đó là quê hương”

[15, tr.104]

3.5.2. Giọng chiêm nghiệm, suy tư

Khi con người ta từng trải lại đa sầu, đa cảm, sống nặng với những kí ức

- họ sẽ có những nghiền ngẫm chiêm nghiệm về cuộc đời. Với tuổi thơ không

phải lúc nào cũng bình yên, với một cuộc sống gia đình nhiều sóng gió, Hoàng

Việt Hằng đã tích lũy cho mình những vốn sống phong phú, những kinh

nghiệm, trải nghiệm để dễ dàng hoàn thiện chính mình. Những vốn sống,

những kinh nghiệm ấy đã mang đến cho tác phẩm của bà giọng chiêm nghiệm,

suy tư. Những trang viết của Hoàng Việt Hằng không nói trực tiếp về nỗi đau

của những phận người nhưng bằng sự khéo léo trong ngòi bút của mình nhà

văn đã đem đến cho người đọc một dư vị xót xa bởi bà nhận thấy sự nhiều vẻ

của bi kịch cuộc đời.

Với đặc thù của giới nữ, lại tiếp cận hiện thực từ những vấn đề của cuộc

sống đời thường nên giọng chiêm nghiệm, suy tư của Hoàng Việt Hằng thường

thấm đậm khuynh hướng cảm hứng nhân sinh.

Hoàng Việt Hằng là nhà văn viết bằng sự nhạy cảm và trái tim thương

yêu con người, con người trong sáng tác của bà được soi rọi từ nhiều bình diện

và tầng bậc, từ con người của tình cảm đến con người của lý trí, từ con người

của xã hội đến con người của bản năng tự nhiên họ đều là những con người

bình thường, không được lý tưởng hóa. Họ khác nhau ở thân phận nhưng lại

đều là những con người đã trải qua những nỗi đau. Vì vậy giọng chiêm nghiệm,

suy tư là một nốt trầm, nhấn mạnh đến những suy nghĩ trăn trở nghiêm túc về

thế sự, nhân sinh. Nhân vật Nghẹo, em của Xinh trong tiểu thuyết Một bàn tay

thì đầy đã có suy nghĩ về cách sống giản dị mà sâu sắc dù cậu còn trẻ: “Em rất

76

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thương chị, nhưng em tàn tật không giúp chị được gì. Chị phải cố gắng thôi.

Đời như bóng đèn kia, phụt cái, là tắt thôi. Xong đời nhưng thằng Bin hay lắm.

Chị tựa vào nó mà sống. Nó là khi chị bật đèn, nhìn thấy ánh sáng là nhìn thấy

bóng mình” [10, tr.76]. Hay như triết lý “củi lửa” rất sâu sắc của bà Từ: “Bà Từ

bảo sống ở đời, ta đun bếp khi cơm chín thì rút lửa, chả tham lam mà làm gì,

cơm cháy có ăn được đâu” [11, tr.87]. Rõ ràng bằng giọng điệu này, nhà văn

đã bộc lộ được thế giới quan và nhân sinh quan, bộc lộ được thái độ của người

cầm bút trước hiện thực. Nó không chỉ làm tăng sức khái quát cho hình tượng

nghệ thuật mà nó còn tạo ra chiều sâu cần thiết cho tác phẩm:

“Ngay cả các bức tượng ông phật gầy nhịn ăn để mặc, ông phật béo

nhịn mặc để ăn, nó khắc họa thật như người mẫu ở đời.

Con ạ, cứ nhìn bức tượng phật La Hán ở chùa Tây Phương ấy mà

ngẫm xem sự đời nếu không cân bằng được sự ăn mặc cũng đều lệch lạc cả”

[15, tr.17]. Một sự chiêm nghiệm hết sức thâm thúy được đúc rút chính từ

cuộc sống:

“Thời nào cũng cần đồ gỗ cả. Nhất là nhà mình gần làng nghề Sơn

Đồng, chồng con đục cái tàu lá chuối nom cũng y như thật. Tàu lá chuối và câu

đối cầu cho con học hành nên người cũng là cách thể hiện trong nhà cần cho

con cái chữ, là sự mãn nguyện của cha mẹ” [15, tr.17].

Triết lý trong văn hóa vợ chồng “Hình như trong đời sống ngay cả khi

chúng ta đã làm vợ, làm chồng vẫn phải tự học cách xử sự văn hóa với nhau

trước mặt con cái. Nhất là trong không gian nhà chật hôm nay. Chớ nên làm

tổn thương nhau, lại đừng để tuột khỏi tay hạnh phúc,…” [15, tr.48].

Sống chết là quy luật của mỗi người, có đi đến cõi tạm thì ắt có về ở cõi

vĩnh hằng, con người chỉ sống trên dương thế như là chốn gửi tạm mà thôi, dù

có giàu, nghèo, đông con hay ít cháu thì cuối cùng vẫn không tránh khỏi lệnh

bài của Ngọc hoàng hay y lệnh của Diêm vương. Vị bác sĩ tên Kim đã nói với

người yêu cũ khi luống tuổi về già: “Chúng ta rồi ai cũng một lần đối mặt với

77

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

kết cục như thế này, chỉ có điều khi trút hơi thở cuối có người đông con cháu

thì hãnh diện, ở bệnh viện gặp trường hợp đơn thân khi chết, nếu có phận

người không có ai thì cũng có một nhân viên nhà xác bệnh viện vuốt mắt cho.

Làm nghề Y em cho rằng phận người khi ở giây phút cuối đều giống như nhau

cả thôi” [15, tr.172].

Sự chiêm nghiệm lắng đọng lại trong lòng mỗi người đọc, tất cả phải trải

qua thời gian mới đúc kết được những triết luận đúng đắn và thâm thúy như

vậy. Phải nói rằng Hoàng Việt Hằng rất sâu sắc đã nhìn rõ nhìn sâu bản chất

của cuộc sống và con người trong các mối quan hệ ràng buộc của nó.

Tiểu kết chương 3

Có thể nói một vài phương thức thể hiện trong văn xuôi Hoàng Việt

Hằng mà chúng tôi nghiên cứu ở đây đã góp phần quan trọng trong việc nhận

diện tác phẩm văn xuôi Hoàng Việt Hằng, nhờ đó mà tác phẩm của bà để lại sự

sâu lắng trong lòng bạn đọc.

78

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

KẾT LUẬN

Nhập cuộc vào làng văn vào thập niên 80 của thế kỉ XX nhưng vào

những năm đầu của thế kỉ XXI, tên tuổi của Hoàng Việt Hằng mới thật sự quen

thuộc với giới phê bình và sáng tác văn học. Thoạt đầu, người đọc biết đến bà

với những sáng tác thơ ca. Nhưng không dừng lại ở địa hạt thơ, vì nhiều

nguyên nhân, Hoàng Việt Hằng đã gia nhập vào lĩnh vực văn xuôi như một cơ

duyên và nghề đã chọn bà. Dường như trong nỗi gian truân của người đàn bà

viết, Hoàng Việt Hằng cũng gặp may mắn là vợ của nhà văn Triệu Bôn - một

cây bút đã thành danh ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Từ lúc nào, ông đã giúp

bà đến với văn xuôi và trở thành một cây bút nữ được bạn đọc đón nhận với

một loạt tiểu thuyết, truyện ngắn, tản văn mà trong số đó có không ít tác phẩm

đoạt giải thưởng văn học.

Hoàng Việt Hằng đã lặng lẽ, liên tục đi và viết. Có thể nói đi và viết là

hai động thái song hành trong quá trình sáng tạo của bà, đưa tác phẩm của bà

hòa nhập vào ngữ cảnh văn học đổi mới và hội nhập nói chung và văn học nữ

nói riêng. Với 7 cuốn sách xuất hiện liên tiếp vào những năm đầu thế kỉ XXI:

Tản văn Dấu chấm than viết ngược (2008), tiểu thuyết Một bàn tay thì đầy

(2010), tản văn Người cho đã không nhớ (2012), tản văn Tiếng dẻ cùi phía cây

cơm vàng (2013), tản văn Tiêu gì cho thời gian để sống (2014), tản văn Bóng

đổ nơi chân sóng (2015), truyện ngắn Nắng trưa không đứng bóng (2015),

Hoàng Việt Hằng đã tạo cho mình một vị trí không hề mờ nhạt trong số các nhà

văn nữ xuất hiện sau đổi mới. Qua nghiên cứu Đặc điểm văn xuôi Hoàng Việt

Hằng, chúng tôi rút ra một vài kết luận sau:

Sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, chứng kiến và trải nghiệm từ những năm

bao cấp đến thời kì đổi mới và hội nhập, dễ nhận thấy trong văn xuôi Hoàng

Việt Hằng thường gợi nhớ về Hà Nội và người Hà Nội một thời kí ức như một

chất liệu kiến tạo nên tác phẩm, như chất keo kết dính quá khứ và hiện tại. Bất

79

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

cứ một tín hiệu nào của hiện tại cũng đưa tác giả về với niềm hoài nhớ, với dĩ

vãng đầy thân thương về cảnh và người một thời chưa xa.

Không chỉ trở về với kí ức, văn xuôi Hoàng Việt Hằng còn là những

trang viết về cuộc sống và con người trong hiện tại, nổi bật ở nét đẹp trong văn

hóa ứng xử, thể hiện ở sự tương tác giữa con người với con người, giữa con

người với thiên nhiên, với văn hóa ẩm thực. Là một tác giả nữ, cũng như những

cây bút cùng giới, Hoàng Việt Hằng dễ dàng trải lòng mình trên trang viết.

Trong một bối cảnh xã hội mà sự thiệt thòi, bất hạnh đa phần nghiêng về phụ

nữ thì trong tâm thế sáng tạo, người phụ nữ cũng chính là nhà văn càng có nhu

cầu được bày tỏ tiếng nói của chính mình, của phái tính để giãi bày tâm tư, nỗi

buồn, sự bất hạnh cũng như để chia sẻ, tìm sự lắng nghe, đồng cảm. Riêng với

Hoàng Việt Hằng, bà không chỉ viết về giới mình, về chính mình mà còn về

đồng loại, đặc biệt về những con người bình thường, lầm lụi trong sự vật lộn

với mưu sinh, với sinh hoạt đời thường.

Văn xuôi Hoàng Việt Hằng đứng được trong lòng bạn đọc đương đại

cũng một phần do phương thức thể hiện của ngòi bút tác giả. Trong các trang

viết của nhà văn, nghệ thuật thể hiện tâm lý, màu sắc tự truyện thẩm thấu trên

các trang viết đã rút ngắn khoảng cách giữa tác phẩm và người đọc. Tâm thế

hướng nội, lách sâu vào thế giới bên trong với nghệ thuật khắc họa nội tâm, với

sự đan xen các sắc thái ngôn ngữ đậm chất thơ và chất đời thường, với sự đan

cài giữa giọng điệu trữ tình thương cảm và giọng chiêm nghiệm suy tư, đã

khiến cho các trang viết của Hoàng Việt Hằng ở tiểu thuyết, truyện ngắn hay

tản văn đều trĩu nặng tâm tình, thành thật và nhân văn.

Tuy nhiên trong văn xuôi Hoàng Việt Hằng không tránh khỏi đôi chút

hụt hẫng do viết nhiều thể loại nên có sự “nhòe lẫn” giữa các thể văn. Ở tiểu

thuyết nghệ thuật khắc họa nội tâm có phần lấn át miêu tả ngoại hình, ở truyện

ngắn đôi chỗ lẫn vào tản văn, còn ở tản văn thì một số bài nghiêng về tin tức,

báo chí.

80

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Song nhìn chung, với 7 cuốn sách ra đời liên tục trong gần chục năm (từ

2008 đến 2015) Hoàng Việt Hằng đã thể hiện tấm lòng chân thành, da diết của

mình với cuộc sống và con người trong quá khứ cũng như hiện tại. Là một

người đã tạo nên thói quen hàng ngày viết, coi viết như là sống, bằng cả bản

năng và ý thức sáng tạo, bằng cả tâm huyết và tài hoa, Hoàng Việt Hằng càng

ngày càng làm phong phú khuôn diện văn chương của mình, trở thành một

trong những cây bút nữ tiêu biểu của dòng văn học nữ nói riêng và văn học

Việt Nam đương đại nói chung.

81

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bùi Kim Anh, "Đọc tản văn Người cho đã không nhớ của Hoàng Việt

Hằng", Báo điện tử 28/03/2012.

2. Lại Nguyên Ân (2004), 150 Thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội.

3. Ba Khơ Tin, “Những vấn đề thi pháp Đôt- xtôi- epxki”, Xuất bản 1929

(Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch, Nxb Giáo dục,

1993).

4. Lê Huy Bắc (1998), Giọng và giọng điệu trong thơ văn hiện đại, Tạp chí

văn học số 9.

5. Hoàng Định, "Một mình khâu những lặng im", Báo an ninh thế giới điện tử

19/10/2005.

6. Trần Thanh Địch (1998), Tìm hiểu truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới.

7. Hà Minh Đức (2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục.

8. Hoàng Ngọc Hà (1993), "Những nung nấu nghệ thuật về Hà Nội hào hoa",

Báo Văn nghệ (44).

9. Hoàng Việt Hằng (2008), Dấu chấm than viết ngược, Nxb Phụ nữ.

10. Hoàng Việt Hằng (2010), Một bàn tay thì đầy, Nxb Phụ nữ 2010.

11. Hoàng Việt Hằng (2012), Người cho đã không nhớ, Nxb Thanh niên.

12. Hoàng Việt Hằng (2013), Tiếng dẻ cùi phía cây cơm vàng, Nxb Phụ nữ.

13. Hoàng Việt Hằng (2014), Tiêu gì cho thời gian để sống, Nxb Trẻ.

14. Hoàng Việt Hằng (2015), Nắng trưa không đứng bóng, Nxb Văn học.

15. Hoàng Việt Hằng (2015), Bóng đổ nơi chân sóng, Nxb Quân đội nhân dân.

16. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2006), Từ điển thuật ngữ văn

học, Nxb Giáo dục.

17. Diệu Hiền (2002), "Trần Thùy Mai và những bi kịch của người phụ nữ",

Tạp chí kiến thức gia đình, (11).

82

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

18. Hàn Hoa, Giới thiệu sách trên trang báo điện tử về Tiêu gì cho thời gian để

sống, http://nhavantphcm.com.vn/.

19. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục.

20. Tuy Hòa, "Tản văn Hoàng Việt Hằng bùi ngùi từng thân phận", Báo điện tử

9/12/2011.

21. Tuy Hòa, ""Tiếng dẻ cùi phía cây cơm vàng” đánh thức cảm xúc", Báo điện

tử 4/5/2013.

22. Đới Thị Hồng (2013), Cái tôi trữ tình trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị

Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng, Luận văn Thạc sĩ - Đại học KHXH & NV.

23. Lê Thị Hường (1994), "Quan niệm con người cô đơn trong truyện ngắn

hôm nay", Tạp chí văn học (2).

24. Tôn Phương Lan (2002), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, Nxb

KHXH.

25. Phong Lan, Hoàng Việt Hằng thợ xây thành nhà thơ, Hội Nhà văn TP Hồ

Chí Minh 9/12/2013.

26. Mã Giang Lân, “Hoàng Việt Hằng xóa đi và không xóa”, Báo điện tử nhà

văn TP Hồ Chí Minh, ngày 16/8/2015.

27. Phong Lê (2006), Người trong văn, Nxb Văn hóa Sài Gòn.

28. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb

Giáo dục.

29. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2006), Văn học Việt Nam sau năm

1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục.

30. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà - Lí luận

văn học, Nxb Giáo dục.

31. Phương Lựu. "Suy nghĩ về đặc điểm của nữ văn sĩ". Tạp chí Tác phẩm mới, (3).

32. Phạm Xuân Nguyên (1994), "Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay". Tạp chí

văn học, (2).

33. Nhiều tác giả, "Phụ nữ và sáng tác văn chương". Tạp chí văn học, (6).

83

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

34. Nhiều tác giả (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục.

35. Nhiều tác giả (2000), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.

36. Nhiều tác giả (2002), Truyện ngắn bốn cây bút nữ: Phan Thị Vàng Anh, Võ

Thị Hảo, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nxb Văn học.

37. Phạm Xuân Nguyên, Tuyển tập tác giả nữ Việt nam 1975-2007, Nxb Phụ Nữ.

38. Phạm Xuân Nguyên. "Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay". Tạp chí văn

học (2).

39. Lê Thiếu Nhơn, "Hoàng Việt Hằng tựa vào bút nghiên run rẩy viết", Báo

điện tử 6/3/2010.

40. Hoàng Phê (2002), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

41. Việt Quỳnh, "Hoàng Việt Hằng người đàn bà ưa chuyển dịch", Báo Thể

thao văn hóa 19/8/2012.

42. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục.

43. Bình Nguyên Trang, “Hoàng Việt Hằng giời cho thế nào tôi nhận thế ấy”,

Báo Văn nghệ Công an 21/12/2010.

44. Cung Kim Tiến (2002), Từ điển Triết học, Nxb văn hóa thông tin.

45. Bùi Việt Thắng (1999), Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học.

46. Bùi Việt Thắng (1997), "Một giọng nữ trầm trong văn chương". Tạp chí

văn hóa (397).

47. Bích Thu (1995), "Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau năm 1975

qua hệ thống mô típ chủ đề", Tạp chí văn học, (4).

48. Bích Thu (1996), "Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975", Tạp chí

văn học (9).

49. Bích Thu, "Văn xuôi của phái đẹp", Tạp chí Sông Hương (145).

50. Bích Thu (2015), Văn học Việt Nam hiện đại sáng tạo và tiếp nhận, Nxb

Văn học.

51. Bích Thu (2015), "Hoàng Việt Hằng viết cho thời gian để sống", Tạp chí

văn nghệ Quân đội, (817).

84

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

52. Lam Thu, "Nhà văn Nguyễn Việt Hà đau lòng trước sự xô bồ của Hà Nội".

Báo điện tử 9/1/2015.

53. Lê Thị Hương Thủy (2004), Truyện ngắn của một số cây bút nữ thời kì đổi

mới (qua sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh,

Lý Lan), Luận văn Thạc sĩ - Đại học KHXH & NV.

54. Lê Thị Hương Thủy (2006), "Điểm qua sự vận động truyện ngắn các cây

bút nữ", Tạp chí Nhà văn (3).

85

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn