MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài Trong khoa học pháp lý, vấn đề vi phạm pháp luật có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng phong phú. Việc nghiên cứu thấu đáo vấn đề vi phạm pháp luật sẽ giúp nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật, góp phần kiểm soát xã hội tốt, phát hiện nhanh, nhận diện đúng bản chất và xử lý chính xác các vi phạm pháp luật, tìm ra phương cách hữu hiệu điều chỉnh xã hội và định hướng việc thực thi pháp luật đạt hiệu quả.
Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, khó khăn, phức tạp cần phải tập trung giải quyết, khắc phục. Một trong những khó khăn làm ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội là tình trạng vi phạm pháp luật hiện nay đặc biệt trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình (BLGĐ) đang ngày một gia tăng, làm ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của xã hội.
Ngày nay, bạo lực gia đình là vấn đề mang tính toàn cầu, gây nhức nhối cho nhân loại, để lại nhiều hậu quả cho con người. BLGĐ đang trở thành vấn đề phổ biến, là biểu hiện của các mối quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa người lớn và trẻ em trên toàn thế giới, là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng tới danh dự, nhân phẩm, sức khỏe, tính mạng của con người, làm suy giảm chất lượng cuộc sống nói chung. BLGĐ đã và đang là một trở ngại lớn đối với sự bình đẳng trong xã hội, là lực cản trên con đường xây dựng một xã hội văn minh, hiện đại. Vì vậy, trong nhiều năm qua, sự gia tăng và mức độ nghiêm trọng của BLGĐ là mối quan tâm của nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế, đặc biệt, tổ chức Liên hợp quốc đã thông qua Công ước về các quyền dân sự và chính trị; Công ước về quyền trẻ em; Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW)… đã thể hiện sự quan tâm chung của cả cộng đồng quốc tế trong
1
vấn đề bình đẳng giới và phòng, chống BLGĐ. Bước sang thế kỷ XXI, bạo lực gia đình không giảm mà vẫn tiếp tục lan rộng, trở thành vấn đề nghiêm trọng và phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Bạo lực gia đình đang trở thành vấn đề phổ biến có quy mô của một đại dịch và là một biểu hiện của các mối quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ trên toàn thế giới. Bạo lực gia đình đã và đang là một trở ngại lớn đối với sự bình đẳng, là sự vi phạm thô bạo các quyền con người.
Chính tính nguy hiểm và tác hại của bạo lực gia đình mà vấn đề bạo lực gia đình tại Việt Nam đã được Luật hoá, được đặt dưới sự kiểm soát của pháp luật. Bạo lực gia đình là vi phạm pháp luật. Ở nước ta, thúc đẩy bình đẳng giới, tôn trọng và bảo đảm quyền con người chống lại mọi hành vi bạo lực là quan điểm nhất quán của nhà nước Việt Nam. Việt Nam đã phê chuẩn và tham gia nhiều công ước liên liên quan đến phòng, chống bao lực, cụ thể như phê chuẩn Công ước CEDAW vào ngày 17/12/1982, phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em….Vấn đề phòng, chống BLGĐ cũng được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật, theo đó đều coi BLGĐ là hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người, cụ thể như: Luật Hôn nhân và gia đình; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Bộ luật Dân sự; Bộ luật Tố tụng dân sự; Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Bình đẳng giới; đặc biệt là Luật Phòng, chống bạo lực gia đình được Quốc hội khóa XII thông qua ngày 21/11/2007, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2008. Những văn bản pháp luật nêu trên và các văn bản hướng dẫn thi hành là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tổ chức thực hiện pháp luật và xử lý các hành vi BLGĐ.
Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đã để lại nhiều hậu quả xấu cho xã hội, trước hết là vi phạm đến quyền con người, danh dự, nhân phẩm và tính mạng của mỗi cá nhân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình còn làm xói mòn đạo đức, mất tính dân chủ xã hội và ảnh hưởng xấu đến thế hệ tương lai. Kết quả nghiên cứu cho thấy ở nhiều gia đình, thế hệ con đã lặp lại hành vi bạo lực gia đình mà khi còn nhỏ chúng đã được chứng kiến. Bạo lực gia đình đang là nguy cơ gây tan vỡ và suy giảm sự bền vững của gia đình Việt nam. Ngoài hậu quả về xã hội, đạo đức và sự bền vững gia đình, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình còn gây ra những hậu quả về kinh tế như chi phí chăm sóc và phục hồi sức khoẻ nạn nhân, chi phí điều tra, truy tố, xét xử cùng nhiều chi phí gián tiếp khác liên quan đến tình trạng bệnh tật, mất khả năng tham gia lao động sản xuất của nạn nhân.
2
Nhiều vụ án thương tâm liên quan đến bạo lực gia đình đã xảy ra và số lượng tăng lên từng ngày, gây hậu qủa nhức nhối cho xã hội và đặt ra cho xã hội một lời giải đáp cần phải làm gì trước thực trạng vi phạm pháp luật về bạo lực gia đình. Điều này đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách, pháp luật và các nhà thực thi pháp luật cùng các cơ quan có thẩm quyền cần có một cơ chế và biện pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho mọi người, giúp họ thoát khỏi bạo lực đồng thời có biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với các chủ thể vi phạm pháp luật về bạo lực gia đình, tạo ổn định và phát triển cho xã hội. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp giúp phòng, chống bạo lực gia đình, loại bỏ vi phạm pháp luật về bạo lực gia đình trong xã hội, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, đề tài "Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay" đã được tác giả lựa chọn làm đề tại luận văn thạc sỹ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài Bạo lực gia đình không phải là vấn đề mới mẻ, mà là hiện tượng xã hội có tính lịch sử và tương đối phổ biến trên thế giới. Bạo lực gia đình là vấn đề thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả trong và ngoài nước. Một số công trình nghiên cứu được công bố về vấn đề này, cụ thể như: “Luật Phòng, chống bạo lực gia đình của một số nước trên thế giới” do Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội XI biên soạn; “Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc phòng chống bạo lực gia đình” của Nguyễn Thị Ngọc Bích, Đại học Luật Hà Nội; “Tìm hiểu và thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình” của Phạm Văn Dũng, Nguyễn Đình Thơ;“Bàn về ranh giới giữa xử lý hình sự và xử lý hành chính các hành vi bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Lan Chi, Viện Nhà nước và Pháp luật; “Phòng chống BLGĐ đối với phụ nữ ở nước ta hiện nay - Thực trạng vấn đề và giải pháp” của Viện nghiên cứu Quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia HCM 2008; “Nhận thức và thái độ của cộng đồng đối với BLGĐ- đề xuất giải pháp” của TS. Nguyễn Thế Hùng, Phó chủ nhiệm Ủy ban Dân số - Gia đình- Trẻ em Hà Nội và PGS.TS. Nguyễn Trí Dũng, Phó Viện Trưởng Viện Xã hội học và Tâm lý lãnh đạo, quản lý Học viện Chính trị Quốc gia HCM; “Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình” của tác giả Nguyễn Ngọc Điện; “Pháp luật quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ” của tác giả Trần Thị Hòe; “Tính hợp lý, khả thi của một số biện pháp xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình” của tác giả Phan Thị Lan Hương; “Bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em - thực trạng và nguyên nhân” của Ngô Thị Hường, Đại học Luật Hà Nội;“Tổng quan về bạo lực và
3
pháp luật phòng, chống bạo lực đối với phụ nữ, trẻ em” của Nguyễn Thị Kim Phụng…. Ngoài ra, còn nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học, các Luận văn, đề tài đã được nghiệm thu liên quan đến vấn đề BLGĐ. Nhìn chung, các công trình nêu trên đã phân tích, đánh giá vấn đề BLGĐ dưới nhiều góc độ khác nhau, Tuy nhiên nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề phòng, chống bạo lực gia đình dưới góc độ pháp lý - vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc đến nay hầu như chưa có. Trong khi đó, tình trạng vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình diễn ra ngày càng nhiều với tính chất và mức độ nguy hiểm ngày càng tăng, ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Vì vậy, đề tài nghiên cứu này không có sự trùng lắp với những công trình nghiên cứu đã được công bố, các kết quả nghiên cứu trước đó chỉ có giá trị tham khảo khi tác giả nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích Đề tài có mục đích nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cơ sở lý luận về vi phạm pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc hiện nay, trên cơ sở đánh giá thực trạng, luận văn đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm phòng chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc. 3.2. Nhiệm vụ Để đảm bảo mục đích nêu trên trên, luận văn xác định các nhiệm vụ
chính sau:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật và vi phạm pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình. Trên cơ sở lý luận về vi phạm pháp luật, các yêu cầu của hành vi hợp pháp trong việc phòng, chống bạo lực gia đình, luận văn có nhiệm vụ chỉ ra được các đặc điểm của vi phạm pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình; nội dung vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc hiện nay.
- Nghiên cứu đánh giá thực trạng vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình trên cơ sở phân tích và đánh giá tình hình vi phạm pháp luật, làm rõ các hành vi vi phạm pháp luật cơ bản trong phòng, chống bạo lực gia đình trong những năm qua để có một bức tranh về thực trạng vi phạm pháp luật một cách cơ bản nhất trong phòng, chống bạo lực gia đình. Từ đó, phân tích các nguyên nhân khách quan và chủ quan của thực trạng trên làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp khắc phục vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này.
4
- Nghiên cứu đưa ra các giải pháp hợp lý, toàn diện, khả thi trong phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình góp phần hạn chế tiến tới đẩy lùi hiện tượng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong xã hội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu như đã trình bày ở trên, luận văn xác định đối tượng nghiên cứu là các hành vi trái pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý trên cơ sở lý luận chung về Nhà nước, pháp luật và pháp luật thực định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống
bạo lực gia đình trong phạm vi tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2008 đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước, pháp luật về bình đẳng giới, pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình.
5.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở những phương pháp nghiên cứu cụ thể: thống kê, tổng hợp, diễn giải, phân tích, so sánh để phân tích và làm rõ các vấn đề khoa học cần nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
- Về mặt lý luận, những vấn đề được nghiên cứu trong luận văn góp phần làm phong phú thêm những vấn đề lý luận về pháp luật phòng chống BLGĐ, đóng góp vào việc hoàn thiện pháp luật về phòng, chống BLGĐ ở nước ta hiện nay.
- Về mặt thực tiễn, luận văn góp phần thay đổi phần nào nhận thức của người dân về vấn đề BLGĐ, bên cạnh đó, những giải pháp được đề xuất vận dụng vào thực tiễn sẽ nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống BLGĐ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc và có thể là kinh nghiệm thực tiễn để tham khảo, áp dụng cho những địa phương khác trên cả nước, đồng thời luận văn cũng là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm nghiên cứu về những vấn đề vi phạm pháp luật phòng, chống BLGĐ.
5
7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận vi phạm pháp luật về phòng, chống
bạo lực gia đình.
Chương 2: Thực trạng vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia
đình ở tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2009 đến nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phòng, chống vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc.
6
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH
1.1. Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
1.1.1. Khái niệm về bạo lực gia đình
Bạo lực gia đình là một dạng thức của bạo lực xã hội, Điều 1 Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình 2007 quy định bạo lực gia đình là "Bạo lực gia
đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây
tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với các thành viên khác trong gia
đình" [29, tr.1]. Gia đình là tế bào của xã hội, là hình thức thu nhỏ của xã hội
nên bạo lực gia đình có thể coi là hình thức thu nhỏ của bạo lực xã hội với
nhiều dạng thức khác nhau. Xét về hình thức, có thể chia bạo lực gia đình
thành các hình thức chủ yếu sau:
- Bạo lực về thể chất: là hành vi ngược đãi, đánh đập thành viên gia
đình, làm tổn thương tới sức khỏe, tính mạng của họ.
- Bạo lực về tinh thần: là những lời nói, thái độ, hành vi làm tổn thương
tới danh dự, nhân phẩm, tâm lý của thành viên gia đình
- Bạo lực về kinh tế: là hành vi xâm phạm tới các quyền lợi về kinh tế
của thành viên gia đình (quyền sở hữu tài sản, quyền tự do lao động…)
- Bạo lực về tình dục: là bất kỳ hành vi nào mang tính chất cưỡng ép
trong các quan hệ tình dục giữa các thành viên gia đình, kể cả việc cưỡng ép
sinh con.
Mỗi hình thức bạo lực có thể được biểu hiện dưới nhiều hành vi khác
nhau. Hiểu một cách thông dụng thì bạo lực gia đình là một thuật ngữ dùng để
chỉ các hành vi bạo lực giữa các thành viên trong cùng một gia đình. Đây là
hiện tượng một hay nhiều thành viên dùng quyền lực và bạo lực trong cả một
quá trình để thực hiện hành vi làm cho người khác đau đớn về thể xác, bị
khủng hoàng về tinh thần và bị bế tắc về mặt xã hội nhằm khuất phục, khống
7
chế và kiểm soát người đó. Bạo lực gia đình xảy ra ở mọi quốc gia, nền văn
hóa, tôn giáo không ngoại lệ giàu nghèo và trình độ học vấn cao hay thấp.
Như vậy, dù được định nghĩa với nhiều cách khác nhau nhưng khi xem
xét bạo lực gia đình, ta có thể thấy các đặc điểm:
+ Thứ nhất, bạo lực gia đình là hành vi bạo lực xảy ra giữa các thành
viên trong gia đình tức là chủ thể có hành vi bạo lực gia đình (người gây ra
bạo lực gia đình) phải là thành viên trong gia đình và nạn nhân của bạo lực
gia đình là một trong những thành viên còn lại của gia đình đó.
+ Thứ hai, bạo lực gia đình được thực hiện bởi lỗi cố ý chứ không thể
là lỗi vô ý.
+ Thứ ba, bạo lực gia đình là hành vi gây tổn hại hoặc có khả năng gây
tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình.
Bạo lực gia đình đang là vấn đề được dư luận xã hội quan tâm sâu sắc.
Bạo lực gia đình không phải là vấn đề mang tính địa phương, vùng miền mà
là một vấn đề toàn cầu, ở đâu cũng có, từ các nước nghèo, nước đang phát
triển cho đến nước giàu có, phát triển mạnh về kinh tế và xã hội. Mọi gia đình
thuộc mọi tầng lớp của xã hội đều có thể gặp phải tệ nạn này. Đối tượng của
các hành vi bạo lực gia đình có thể là bất kỳ ai trong đó có cả nam giới nhưng
thường là những thành viên yếu đuối, dễ bị tổn thương và trong hầu hết các
trường hợp là phụ nữ, người già và trẻ em.
Bạo lực gia đình đều ảnh hưởng lâu dài đến sức khoẻ, tâm lý, tình cảm
của mỗi cá nhân. Đặc biệt đối với trẻ em, bạo lực còn ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sự hình thành nhân cách, hạn chế những cơ hội để trẻ em có một
cuộc sống bình thường và nhất là tương lai của các em sau này.
1.1.2. Phòng, chống bạo lực gia đình
a) Khái niệm phòng bạo lực gia đình
Phòng bạo lực gia đình nhằm mục đích tìm ra được những biện pháp
tác động và quy luật phát sinh, tồn tại và phát triển của bạo bực gia đình, đồng
thời khắc phục được nguyên nhân và điều kiện xuất hiện bạo lực gia đình.
8
Phòng bạo lực gia đình và sự cần thiết của phòng bạo lực gia đình là để bảo
vệ, duy trì trật sự và công bằng xã hội, góp phần bảo vệ các lợi ích chung của
cộng đồng, của xã hội.
Bạo lực gia đình phát sinh, tồn tại là do những nguyên nhân và điều
kiện khác nhau, song chúng ta hoàn toàn có khả năng tiến hành phòng ngừa
và ngăn chặn hàng vi bạo lực gia đình khi nó chưa xảy ra.
Trong ngành tư pháp: Xét xử là tốt, nhưng nếu không phải xét xử thì
càng tốt hơn. Quan điểm này thể hiện phương châm rất quan trọng là lấy giáo
dục, phòng ngừa là chính, phòng ngừa tốt cũng chính là chống bạo lực gia
đình tốt. Yêu cầu là phải phòng bạo lực gia đình ngay từ lúc đầu, làm cho bạo
lực gia đình ít xảy ra hơn và tiến tới không xảy ra bạo lực gia đình hay xử lý
bạo lực gia đình chỉ là hãn hữu, là việc làm bất đắc dĩ.
Do đó, phòng bạo lực gia đình cần lấy việc tuyên truyền, phổ biến giáo
dục pháp luật là quan trọng, hàng đầu. Thực hiện tư tưởng phòng ngừa này thì
phòng bạo lực gia đình được coi là nhiệm vụ chung của các cấp, các ngành và
toàn xã hội.
b) Khái niệm chống bạo lực gia đình
Khi bạo lực gia đình đã tiến triển lên mức độ trầm trọng hơn, tần suất
cũng như cường độ mạnh hơn, hoặc ở vào tình thế nguy hiểm thì nạn nhân
thường nhờ cậy các tổ chức đoàn thể, chính quyền, công an, với huy vọng là
các tổ chức này gây áp lực và có biện pháp hữu hiệu cũng như mong muốn
chống lại bạo lực gia đình.
Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp chống bạo lực gia đình, lấy
phòng ngừa là chính, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư
vấn, hòa giải phù hợp với truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam.
Xuất phát từ thực tế quan hệ trong gia đình thường mang tính khép kín,
với các thành viên gia đình cũng như những người xung quanh, việc trong gia
đình thì người ngoài ít có cơ hội xen vào. Vì thế, những vụ việc bạo hành gia
đình thường khó phát hiện, khi bị phát hiện cũng khó xử lý bởi tâm lý e ngại
9
của nạn nhân và cả những người biết chuyện, và thậm chí nếu xử lý rồi thì
khả năng tái diễn cũng rất cao vì để tìm ra biện pháp ngăn chặn phù hợp là
không dễ. Các quy định pháp luật khó vươn tới từng gia đình, bởi nhận thức
của người dân về vấn đề này còn hạn chế, sự can thiệp giữa các thành viên gia
đình. Chính vì vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hòa
giải trong vấn đề này là rất quan trọng, góp phần định hướng hành vi của mỗi
người, nạn nhân được trang bị kiến thức để tự bảo vệ; người có thể có hành vi
bạo lực thì nhận thức được tính chất, hậu quả của hành vi để tự kiềm chế tốt
hơn; những người xung quanh biết được trách nhiệm tham gia phòng chống
bạo lực gia đình và có ứng xử phù hợp.
Pháp luật luôn hướng tới việc ngăn chặn các hành vi phạm tội trước khi
xảy ra để giữ gìn trật tự, tránh những tổn thất cho cộng đồng và xã hội. Riêng
trong lĩnh vực chống bạo lực gia đình thì việc phòng ngừa càng có ý nghĩa
quan trọng. Bởi vì hành vi bạo lực nếu xảy ra thì ít nhiều đã gây ra những tổn
thương nhất định cho các thành viên trong gia đình, làn xấu đi mối liên kết và
tình cảm gia đình, và việc hàn gắn là không dễ; nếu hành vi bị phát hiện và xử
ký theo pháp luật thì quan hệ gia đình có thể sẽ chuyển biến xấu hơn nữa. Vì
vậy, cần phải lấy phòng ngừa là chính trong hoạt động chống bạo lực gia
đình.
Bên cạnh đó, hành vi bạo lực càng kéo dài thì càng gây ra nhiều tổn
thương cho nạn nhân, tổn hại tới mối quan hệ gia đình. Điều này sẽ được hạn
chế rất nhiều nếu hành vi bị phát hiện và xử lý kịp thời. Do đó, cần phát huy
vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong
chống bạo lực gia đình.
Bạo lực gia đình từ lâu đã không còn là vấn đề của mỗi gia đình mà
còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất ổn định xã hội, do đó việc chống bạo lực
gia đình là trách nhiệm chung của cộng đồng chứ không chỉ là của nhà nước
và những người có liên quan. Việc chống bạo lực gia đình vốn gặp nhiều khó
khăn khi triển khai trên thực tế, do không có nhiều chủ thể tích cực tham gia
công tác này vì nhận thức không đúng tầm quan trọng, ý nghĩa của nó. Điều
10
đó một lần nữa khẳng định tầm quan trọng cũng như sự cần thiết của việc
phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng động, cơ quan, tổ
chức trong việc phòng chống bạo lực gia đình.
c) Khái niệm phòng, chống bạo lực gia đình
Phòng chống bạo lực gia đình là hoạt động của các cơ quan nhà nước,
các tổ chức xã hội, cá nhân và gia đình trong việc phòng ngừa và ngăn chặn
các hành vi bạo lực gia đình; xử lý các hành vi vi phạm các quy định của pháp
luật về phòng chống bạo lực gia đình. Công tác phòng, chống bạo lực gia đình
của nước ta hiện nay chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố trong đó yếu tố về
nhận thức, kinh tế và pháp luật là cơ bản nhất.
- Yếu tố nhận thức: Ảnh hưởng của nền văn hóa phong kiến với những
quan niệm mang đậm màu sắc định kiến giới nằm ngay trong truyền thống
văn hóa, phong tục tập quán, chuẩn mực đạo đức với tư tưởng trọng nam
khinh nữ, chồng chúa vợ tôi. Suy nghĩ sai lầm đó đã củng cố niềm tin rằng
đàn ông có quyền dạy dỗ vợ của họ thông qua các hành động có tính bạo lực.
Họ cũng tự cho mình có vai trò trụ cột gia đình, có quyền định đoạt mọi việc,
có thể mắng chửi vợ con một vài câu là bình thường, nhiều bậc cha mẹ tự cho
mình quyền được mắng chửi con cái. Họ luôn có tư tưởng cam chịu, vì sợ
vạch áo cho người xem lưng, hay sợ hàng xóm, bạn bè chê cười.
- Yếu tố về kinh tế: Khó khăn về kinh tế là một trong những nguyên
nhân có thể dẫn tới bạo lực gia đình. Khó khăn về kinh tế thường tạo ra các áp
lực, căng thẳng, bế tắc đối với các thành viên gia đình. Do khó khăn về kinh
tế nên các cặp vợ chồng rất dễ xung đột, cãi cọ người này đổ lỗi cho người
khác làm nảy sinh bạo lực. Những bất hòa nhỏ thường ngày trở nên càng
nghiêm trọng trong bối cảnh kinh tế khó khăn làm cho con người không còn
bình tĩnh để ứng xử một cách khôn ngoan và dễ dẫn đến bạo lực gia đình.
- Yếu tố luật pháp: Sự thiếu hiểu biết pháp luật của người bị bạo lực
làm cho họ không tự bảo vệ được chính bản thân mình, không đấu tranh vì lẽ
phải. Mặt khác, việc thực thi pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong
11
thực tiễn chưa nghiêm, chưa hiệu quả, chưa đủ mạnh, chưa đủ răn đe đối với
những người có hành vi bạo lực gia đình.
Ảnh hưởng của yếu tố nhận thức, kinh tế và pháp luật dẫn đến việc
phòng, chống bạo lực gia đình trong thực tế hiện nay hầu như chưa có hiệu
quả. Do đó, cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình cần
quan tâm và chú trọng đến những yếu tố trên trong quá trình xây dựng và thực
thi văn bản pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.
1.1.3. Nội dung của pháp luật phòng chống bạo lực gia đình
Trong hệ thống pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình, Hiến pháp
là văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất. Điều 26 Hiến pháp năm 2013
quy định “Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”. Điều 20 “Mọi người có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ,
danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất
kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh
dự, nhân phẩm”. Điều 36 “Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo
nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn
trọng lẫn nhau” [26].
Cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp; nội dung phòng, chống bạo lực
gia đình được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác. Tiêu biểu là
những quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999 là một trong những văn bản
đó. Bộ luật Hình sự là căn cứ để xác định hành vi bạo lực gia đình nào là hành
vi phạm tội. Điều 130, Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định tội xâm phạm
quyền bình đẳng của phụ nữ: "người nào dùng vũ lực hoặc có hành vi nghiêm
trọng khác cản trở phụ nữ tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, văn
hoá, xã hội, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị
phạt tù từ ba tháng đến một năm" [27]. Ngoài ra, Bộ luật hình sự Việt Nam đã
hình sự hoá nhiều hành vi bạo lực gia đình, quy định thành nhiều tội phạm
liên quan đến bạo lực gia đình. Tuy nhiên, những điều luật đó mới chỉ quy
12
định gián tiếp về hành vi bạo lực gia đình, chưa có nhiều quy định trực tiếp về
phòng, chống bạo lực gia đình.
Cùng với Bộ luật Hình sự, Luật Tổ chức Chính phủ cũng quy định
nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ: "Chỉ đạo và tổ chức thực hiện chính
sách xây dựng gia đình Việt Nam bình đẳng, ấm no, hạnh phúc; bảo đảm
quyền bình đẳng nam, nữ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình;
bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người mẹ và trẻ em; có biện pháp ngăn ngừa và
chống mọi hành vi bạo lực, xúc phạm nhân phẩm đối với phụ nữ và trẻ em".
[31]. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 là một trong những văn
bản pháp luật quan trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ
hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử
của các thành viên trong gia đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức
tốt đẹp của gia đình Việt Nam nhằm xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến
bộ, hạnh phúc, bền vững. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam còn là phương
tiện hữu hiệu trong việc phòng, chống bạo lực gia đình. Luật đã có nhiều điều
khoản quy định trực tiếp và gián tiếp đến việc phòng, chống bạo lực gia đình.
Tại khoản 2, điều 5, Luật Hôn nhân và gia đình quy định: Cấm Kết hôn giả
tạo, ly hôn giả tạo; Cấm Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở
kết hôn; cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ
chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung
sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ; cấm kết hôn hoặc chung
sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những
người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người
đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con
rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; cấm yêu
sách của cải trong kết hôn; cấm cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly
hôn; cấm thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương
mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh
sản vô tính; Bạo lực gia đình; Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và
13
gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có
hành vi khác nhằm mục đích trục lợi [30].
Như vậy, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 cũng như các
văn bản pháp luật kể trên đã có nhiều quy phạm pháp luật nhằm phòng, chống
bạo lực gia đình. Tuy nhiên, xét một cách tổng quát, những quy định đó vẫn
còn sơ sài, tản mạn ở nhiều văn bản khác nhau, thiếu tính cụ thể và chưa có
những quy định pháp lý đặc thù.
Để khắc phục những hạn chế của hệ thống pháp luật về phòng, chống
bạo lực gia đình đồng thời nhằm đạt được hiệu quả cao hơn nữa trong việc
phòng, chống bạo lực gia đình, hạn chế tiến tới đẩy lùi bạo lực gia đình, tạo
nên một cuộc cách mạng thực sự trong phòng, chống bạo lực gia đình, Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình đã được Quốc hội khoá XII nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam thông qua ngày 21 tháng 11 năm 2007 và có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/7/2008. Luật phòng, chống bạo lực gia đình gồm 6 chương
và 46 điều. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên quy định một cách trực tiếp, cụ
thể về hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình. Luật Phòng, chống bạo lực
gia đình năm 2007 đã điều chỉnh một cách có hệ thống các hành vi bạo lực
gia đình để trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình.
Luật phòng, chống bạo lực gia đình quy định về phạm vi điều chỉnh;
định nghĩa về bạo lực gia đình, xác định cụ thể các hành vi bạo lực gia đình;
nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình; nghĩa vụ của người có hành vi bạo
lực gia đình; quyền và nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực gia đình; chính sách của
Nhà nước, hợp tác quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình và những hành vi
bị nghiêm cấm.
Về phạm vi điều chỉnh được quy định tại điều 1, Luật Phòng, chống
bạo lực gia đình: "Luật này quy định về phòng ngừa bạo lực gia đình, bảo vệ,
hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan,
tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình và xử lý vi phạm pháp luật về
phòng, chống bạo lực gia đình". Như vậy phạm vi điều chỉnh của Luật khá
rộng. Luật điều chỉnh nhiều vấn đề, quy định về tất cả hành vi bạo lực của các
14
thành viên trong gia đình kể cả đối với gia đình của vợ, chồng đã ly hôn hoặc
nam nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng, các
phương thức phòng, chống bạo lực gia đình, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực
gia đình đồng thời xác định trách nhiệm của toàn xã hội đối với vấn đề này và
quy định về xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.
Lần đầu tiên, bạo lực gia đình được quy định trong văn bản pháp luật
Việt Nam. Theo đó, hành vi bạo lực gia đình trước hết phải là hành vi cố ý
chứ không thể là hành vi vô ý. Thứ hai, người thực hiện hành vi bạo lực chính
là một trong những thành viên trong gia đình (các chủ thể ngoài gia đình bị
loại trừ). Thứ ba, hành vi bạo lực gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây
tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình ngoài việc định nghĩa về bạo lực
gia đình còn quy định cụ thể các hành vi bạo lực gia đình: Hành hạ, ngược
đãi, đánh đập hoặc có hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng;
Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm; Cô lập, xua
đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng;
Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà
và cháu; giữa cha mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;
Cưỡng ép quan hệ tình dục; Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc
cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có
hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia
đình hoặc tài sản chung của các thành viên trong gia đình; Cưỡng ép thành
viên trong gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ;
kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc
về tài chính; Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.
[29].
Các hành vi bạo lực trên cũng được áp dụng đối với thành viên gia đình
của vợ, chồng đã ly hôn hoặc nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống
với nhau như vợ chồng. Khi chủ thể là thành viên trong gia đình mà có những
hành vi trên đối với một trong những thành viên trong gia đình thì bị coi là
15
hành vi bạo lực gia đình đồng thời là hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan thực thi
pháp luật, các cá nhân cũng như toàn xã hội nhận thức và xác định và hiểu rõ
hơn về các hành vi bạo lực gia đình, khắc phục được tình trạng chưa có và
chưa hiểu rõ quy định về hành vi bạo lực gia đình, tránh được quan niệm của
một số người, bạo lực gia đình là chồng đánh vợ hoặc vợ đánh chồng, có
nghĩa là phải có "đánh đập", còn "chửi mắng, lăng mạ, cô lập, xua đuổi, hay
cưỡng ép..." thì không phải là hành vi bạo lực gia đình hay một số người thì
cho rằng hành vi đánh vợ hay chồng là chuyện bình thường xảy ra trong cuộc
sống, vì vậy, không phải là hành vi bạo lực gia đình và như vậy, không phải là
vi phạm pháp luật.
Cũng như các đạo luật khác, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình Việt
Nam cũng quy định "nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình" điều 3, Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình 1. Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp
phòng, chống bạo lực gia đình, lấy phòng ngừa là chính, chú trọng công tác
tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hoà giải phù hợp với truyền thống
văn hoá, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. 2. Hành vi bạo
lực gia đình được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời theo quy định của
pháp luật. 3. Nạn nhân bạo lực gia đình được bảo vệ, giúp đỡ kịp thời phù hợp
với điều kiện hoàn cảnh của họ và điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; ưu
tiên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, người cao tuổi, người tàn tật
và phụ nữ. 4. Phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng,
cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình [29].
Như vậy, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã đưa ra các nguyên tắc
rất cơ bản trong phòng, chống bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình đang là một
căn bệnh nguy hiểm trong xã hội, là vấn đề toàn cầu, gây ảnh hưởng đến tính
mạng, danh dự, sức khỏe, nhân phẩm của người phụ nữ trong gia đình. Do
vậy, để ngăn chặn đẩy lùi bạo lực gia đình thì nguyên tắc phòng ngừa là chính
được đặt lên hàng đầu; hành vi bạo lực gia đình phải nhanh chóng được phát
hiện để bảo vệ, giúp đỡ nạn nhân đồng thời xử lý nghiêm minh đối với người
16
có hành vi bạo hành; mỗi cá nhân và cả xã hội phải có trách nhiệm trong việc
phòng, chống bạo lực gia đình. Nội dung của các nguyên tắc này được thể
hiện xuyên suốt toàn bộ 46 điều luật, thể hiện tính nhân đạo của nhà nước ta
đồng thời xác định trách nhiệm của mỗi cá nhân và toàn xã hội trong chiến
dịch đẩy lùi và xoá bỏ nạn bạo hành gia đình, thể hiện tính nghiêm minh của
pháp luật Việt Nam.
Bên cạnh việc quy định các hành vi bạo lực gia đình, Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình còn quy định các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt
động phòng, chống bạo lực gia đình điều 8, Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình. Điều này cho chúng ta thấy, ngoài các chủ thể thực hiện hành vi bạo lực
gia đình đối với thành viên trong gia đình mình còn có các chủ thể khác ngoài
gia đình vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình.
Điều này giúp ta phân biệt chủ thể của bạo lực gia đình với chủ thể vi phạm
pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.
Luật Phòng chống bạo lực gia đình quy định các biện pháp như: quy
định về thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình; hoà giải
mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình; tư vấn, góp ý, phê bình
trong cộng đồng dân cư về phòng ngừa bạo lực gia đình từ điều 9 đến điều 17.
Có thể thấy rằng, phòng ngừa là một biện pháp rất quan trọng và có tác
dụng lớn trong việc ngăn chặn và đẩy lùi bạo lực gia đình. Nếu như thực hiện
phòng ngừa tốt, bạo lực gia đình sẽ xảy ra ít hơn rất nhiều. Để ngăn ngừa và
xử lý có hiệu quả về bạo lực gia đình, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình chú
trọng tới các giải pháp giáo dục tại cộng đồng bởi vì khi ý thức và kiến thức
của các cá nhân trong xã hội về pháp luật hôn nhân và gia đình; về pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình được nâng cao sẽ là điều kiện quan trọng nhất
để tránh được bạo lực gia đình xảy ra. Luật còn chú trọng tới việc phát huy
hết khả năng và vai trò của gia đình, dòng họ; bạo lực gia đình cần được phát
hiện và xử lý sớm từ mâu thuẫn xích mích nhỏ, không để phát sinh thành mâu
thuẫn lớn gây bạo lực gia đình. Việc xử lý xích mích mâu thuẫn nhỏ thông
qua các biện pháp hoà giải cơ sở. Tuỳ theo từng sự việc mà việc hoà giải do
17
gia đình, dòng họ tiến hành hay cơ quan, tổ chức tiến hành hoặc do tổ chức
hoà giải cơ sở tiến hành. Quy định này rất quan trọng nhằm phát huy vai trò
và trách nhiệm của cộng đồng đối với mỗi thành viên trong xã hội, phát huy
được tính dân chủ trong nhân dân, từ đó góp phần thay đổi nhận thức và nâng
cao ý thức pháp luật, trình độ hiểu biết pháp luật đặc biệt là pháp luật về
phòng, chống bạo lực gia đình.
Nạn nhân bạo lực gia đình được bảo vệ ở mức cao nhất thông qua các
biện pháp như: phát hiện, báo tin về bạo lực gia đình điều 18; biện pháp ngăn
chặn, bảo vệ điều 19; cấm tiếp xúc theo quyết định của Chủ tịch uỷ ban nhân
dân cấp xã điều 20, quyết định của toà án điều 21; biện pháp chăm sóc tại cơ
sở khám chữa bệnh điều 23; biện pháp tư vấn điều 24; hỗ trợ khẩn cấp các
nhu cầu thiết yếu cho nạn nhân [29]. Những quy định trên thể hiện tính nhân
đạo của Nhà nước ta, thể hiện sự quan tâm, bảo vệ quyền con người, kế thừa
truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Một trong những biện pháp bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân rất quan trọng là
biện pháp cấm tiếp xúc và biện pháp này được thực hiện theo điều 20 và điều
21 của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Khoản 1, điều 20, Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình quy định: "Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi xảy
ra bạo lực gia đình quyết định áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc trong thời hạn
không quá 3 ngày khi có đủ các điều kiện sau đây: a. có đơn yêu cầu của nạn
nhân bạo lực gia đình, người giám hộ hoặc người đại diện hợp pháp hoặc cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền; trường hợp cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có
đơn yêu cầu thì phải có sự đồng ý của nạn nhân bạo lực gia đình; b. hành vi
bạo lực gia đình gây tổn hại hoặc đe doạ gây tổn hại đến sức khoẻ hoặc đe
doạ tính mạng của nạn nhân bạo lực gia đình; c. người có hành vi bạo lực gia
đình và nạn nhân bạo lực gia đình có nơi ở khác nhau trong thời gian cấm tiếp
xúc". Điều 21, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy định: "toà án đang thụ
lý hoặc giải quyết vụ án dân sự giữa nạn nhân bạo lực gia đình và người có
hành vi bạo lực gia đình quyết định biện pháp cấm tiếp xúc trong thời hạn
không quá 4 tháng khi có đủ các điều kiện sau đây: a. có đơn yêu cầu của nạn
18
nhân bạo lực gia đình, người giám hộ hoặc người đại diện hợp pháp hoặc cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền; trường hợp cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có
đơn yêu cầu thì phải có sự đồng ý của nạn nhân bạo lực gia đình; b. hành vi
bạo lực gia đình gây tổn hại hoặc đe doạ gây tổn hại đến sức khoẻ hoặc đe
doạ tính mạng của nạn nhân bạo lực gia đình; c. Người có hành vi bạo lực gia
đình và nạn nhân bạo lực gia đình có nơi ở khác nhau trong thời gian cấm tiếp
xúc" [29]. Có thể nói các quy định về biện pháp cấm tiếp xúc rất chặt chẽ,
không phải vụ bạo lực gia đình nào cũng áp dụng được biện pháp này mà cần
có sự đồng ý của nạn nhân bạo lực gia đình. Biện pháp cấm tiếp xúc là một
trong những giải pháp đặc biệt và hữu ích để bảo vệ nạn nhân, giảm thiểu hậu
quả bạo lực gia đình, hạn chế tội phạm. Tuy nhiên, khi áp dụng biện pháp
này, các chủ thể có thẩm quyền phải đảm bảo các điều kiện mà Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình quy định.
Luật quy định về trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức
trong phòng, chống bạo lực gia đình, tại chương IV: "Trách nhiệm của cá
nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình" từ
điều 31 đến điều 41 quy định về trách nhiệm cụ thể của cá nhân; trách nhiệm
của gia đình; trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên; trách nhiệm của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam; trách nhiệm của
cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình; trách nhiệm của
Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch; trách nhiệm của Bộ Y tế; trách nhiệm của
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội; trách nhiệm của Bộ Giáo dục và Đào
tạo, nhà trường và các cơ sở giáo dục khác thuộc hệ thống giáo dục quốc dân;
trách nhiệm của Bộ Thông tin và Truyền thông và các cơ quan thông tin đại
chúng và trách nhiệm của cơ quan Công an, Toà án, Viện kiểm sát [29].
Mỗi cá nhân trong xã hội phải thực hiện đúng quy định của pháp luật
về phòng, chống bạo lực gia đình, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới,
phòng, chống ma tuý, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác đồng thời kịp thời
ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình và thông báo cho cơ quan, tổ chức, người
có thẩm quyền. Mỗi gia đình phải giáo dục, nhắc nhở thành viên gia đình thực
19
hiện quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình; phối hợp với
cơ quan, tổ chức và cộng đồng dân cư trong phòng, chống bạo lực gia đình.
Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình quy định về việc áp dụng các biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo
dưỡng; khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo được quy định chi tiết
tại Chương V "Xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình và
khiếu nại, tố cáo [29]. Theo quy định của điều 42, Luật Phòng, chống bạo lực
gia đình, khi chủ thể có bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật bạo lực gia đình
nào, tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính, xử
lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi
thường theo quy định của pháp luật. Như vậy, cũng như các loại vi phạm
pháp luật trong các lĩnh vực khác, khi chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình, chủ thể phải chịu trách nhiệm
pháp lý tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm. Quy định này sẽ giúp việc
phòng, chống bạo lực gia đình đạt kết quả cao hơn bởi trước đây, rất nhiều
chủ thể còn chưa nhận thức được hậu quả mình phải gánh chịu khi thực hiện
hành vi bạo lực gia đình đồng thời là tiếng chuông cảnh tỉnh cho những ai có
ý định, hành động bạo lực đối với những người thân của mình.
Đối với các chủ thể vi phạm là cán bộ, công chức, viên chức, người
thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, nếu bị xử lý vi phạm hành chính theo quy
định trên thì bị thông báo cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có
thẩm quyền quản lý người đó để giáo dục. Chính phủ quy định cụ thể các
hành vi vi phạm hành chính về phòng, chống bạo lực gia đình, hình thức xử
phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với người có hành vi vi phạm pháp
luật về phòng, chống bạo lực gia đình.
Điều 43, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình còn quy định: "1. Người
thường xuyên có hành vi bạo lực gia đình đã được góp ý, phê bình trong cộng
đồng dân cư mà trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày áp dụng biện pháp này vẫn
còn hành vi bạo lực gia đình nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm
hình sự thì có thể bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; 2.
20
Người có hành vi bạo lực gia đình đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn mà tiếp tục thực hiện hành vi bạo lực gia đình nhưng chưa
đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì có thể bị áp dụng biện pháp đưa
vào cơ sở giáo dục; đối với người dưới 18 tuổi thì có thể bị ấp dụng biện pháp
đưa vào trường giáo dưỡng" [29]. Việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn, đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng nhằm ngăn chặn,
hạn chế bạo lực gia đình, mặt khác giúp đỡ, tạo cơ hội cho người vi phạm có
thể sửa chữa tại cộng đồng. Điều này làm tăng hiệu quả công tác phòng,
chống vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.
Như vậy, với những quy định trực tiếp, cụ thể, rõ ràng, sâu sát về bạo
lực gia đình, các hành vi bạo lực gia đình cũng như cách thức xử lý vi phạm
pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình là chuẩn mực pháp lý cơ bản và quan trọng trong việc đấu tranh, hạn chế
và đẩy lùi bạo lực gia đình. Luật ra đời là một dấu ấn pháp lý quan trọng trên
con đường hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới, hôn nhân và gia đình,
phòng, chống bạo lực gia đình. Để Luật được đi vào cuộc sống, phát huy tác
dụng của nó, ngày 04 tháng 02 năm 2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 08/2009/NĐ - CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình; Ngày 12 tháng 11 năm 2013, Chính phủ
ban hành Nghị định số 167/2013/NĐ-CP Nghị định Quy định xử phạt hành
chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội, phòng chống tệ nạn xã
hội, phòng cháy và chữa cháy, phòng, chống bạo lực gia đình. Cùng với các
văn bản pháp luật khác, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã tạo nên một hệ
thống pháp luật khá đầy đủ trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Với
tính chính xác, kịp thời, cụ thể, rõ ràng, phù hợp với điều kiện thực tế của
Việt Nam, hệ thống pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình là một trong
những công cụ hữu hiệu nhất để hạn chế, chặn đứng, đẩy lùi được nạn bạo lực
gia đình đang gia tăng hiện nay.
1.1.4. Vai trò pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
21
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình là cơ sở pháp lý thống nhất để bảo
vệ quyền và lợi ích của các thành viên trong gia đình, góp phần củng cố và
xây dựng gia đình Việt nam ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
Đây là một đạo luật quan trọng và có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, thể hiện
rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước trong vấn đề phòng, chống bạo hành và
là cơ sở pháp lý thống nhất để bảo vệ quyền và lợi ích của các thành viên
trong gia đình.
Có vai trò rất quan trọng trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội,
tạo ra trật tự và ổn định cho xã hội nhất là trong việc ngăn chặn và đẩy lùi
hiện tượng vi phạm pháp luật. Một hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực
gia đình hoàn thiện, đầy đủ, thống nhất, cụ thể, tính khả thi cao, dân chủ, tiến
bộ, hướng tới các giá trị nhân văn cùng với hệ thống các biện pháp phòng
ngừa, ngăn chặn và xoá bỏ nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình ngày càng đầy đủ; hoạt động của hệ thống các cơ quan
bảo vệ pháp luật ngày càng đạt hiệu quả cao hơn sẽ là những đảm bảo pháp lý
để ngăn chặn, hạn chế vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình.
1.2. Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
1.2.1. Khái niệm vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
Cho đến nay, chúng ta đã có một hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh
về bạo lực gia đình. Lần đầu tiên, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình được
Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2008 . Phòng, chống
bạo lực gia đình đã được Luật hoá. Vì vậy, bạo lực gia đình là vi phạm pháp
luật. Những hành vi xâm hại đến các quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp
luật phòng, chống bạo lực gia đình là những hành vi vi phạm pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình. Từ những phân tích trên, vi phạm pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình được hiểu là những hành vi trái pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý
thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ trong lĩnh
vực phòng, chống bạo lực gia đình mà nạn nhân của bạo hành gia đình là
các thành viên trong gia đình.
22
Như vậy, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình là các hành
vi bạo hành trong gia đình. Đồng thời, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình còn là các hành vi liên quan đến việc phòng, chống bạo lực gia
đình đối với các thành viên trong gia đình như những hành vi trái pháp luật
trong việc phát hiện, ngăn chặn, xử lý các trường hợp bạo hành gia đình.
1.2.2. Đặc điểm của vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
Thứ nhất, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình luôn là
hành vi được xác định của con người.
Cũng như các hành vi vi phạm pháp luật khác, vi phạm pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình trước hết phải là hành vi cụ thể của con người.
Suy nghĩ của con người dù xấu như thế nào chăng nữa, nếu không được biểu
hiện ra ngoài thành hành động cụ thể thì không bị coi là vi phạm pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình. Chỉ những hành vi được thể hiện bằng hành
động cụ thể mới có thể bị quy kết là đúng pháp luật hay vi phạm pháp luật.
Hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình được biểu
hiện dưới hai hình thức là hành động như người chồng đã có hành vi đánh vợ
gây thương tích hoặc không hành động như người chồng đã hành hạ người vợ
bằng cách trong một thời gian dài thờ ơ, không nói chuyện, không về nhà làm
người vợ bị tổn thất nặng về tinh thần.
Như vậy, dấu hiệu đầu tiên để nhận biết vi phạm pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình là nó phải biểu hiện ra ngoài bằng hành vi bởi pháp
luật phòng, chống bạo lực gia đình không điều chỉnh những suy nghĩ của con
người.
Thứ hai, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình là hành vi
trái pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình.
Tính trái pháp luật thể hiện sự chống đối, làm ngược lại những quy
định của pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Cụ thể, chủ thể có những
hành vi trái với quy định của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình hay các quy
định trong các văn bản pháp luật khác có quy định về phòng, chống bạo lực
gia đình như Hiến pháp 2013, Luật Hình sự 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự
23
2003, Bộ luật Dân sự 2005... Chẳng hạn, chủ thể có một trong những hành vi
quy định tại điều 2, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình như cưỡng ép quan
hệ tình dục; ...[29]. Pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình cấm hành vi trên,
mọi người có quyền được bảo vệ về tính mạng, danh dự, nhân phẩm nhưng
người chồng đã xâm hại đến quyền đó của người phụ nữ, làm trái lại những gì
mà pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình yêu cầu, đặt ra thì đó chính là
hành vi trái pháp luật.
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật nhưng là hành vi trái pháp
luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Chỉ các hành vi liên quan
đến lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình, trái với các quy định trong hệ
thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình mà nạn nhân của bạo lực gia
đình phải là các thành viên trong gia đình là vi phạm pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình. Đặc điểm này giúp ta phân biệt vi phạm pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình với các loại vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực khác.
Thứ ba, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình phải là hành
vi có lỗi.
Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình phải là hành vi có lỗi.
Đây là dấu hiệu không thể thiếu được của bất kỳ loại vi phạm pháp luật nào
bởi vì dấu hiệu này xác định thái độ tâm lý của chủ thể khi thực hiện hành vi
trái pháp luật. Lỗi chính là thái độ phủ nhận của chủ thể vi phạm pháp luật
trước những yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật. Trong một hoàn cảnh nhất định,
chủ thể hoàn toàn có đủ điều kiện để lựa chọn một xử xự khác phù hợp với
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình nhưng chủ thể đã không lựa chọn mà
quyết định một xử sự trái với yêu cầu của pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình. Con người là đối tượng được bảo vệ của pháp luật trước bạo lực gia
đình, nhưng các chủ thể đã xâm hại đến quyền được bảo vệ đó hay chủ thể, cơ
quan có thẩm quyền đã không hoàn thành nhiệm vụ của mình trong việc bảo
vệ quyền đó của con người.
24
Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình có thể là lỗi cố ý
hoặc lỗi vô ý. Nhưng nếu là hành vi bạo lực gia đình thì lỗi phải là cố ý. Còn
các trường hợp khác thì không nhất thiết phải là lỗi cố ý.
Thứ tư, chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật phòng, chống bạo lực
gia đình phải có năng lực pháp luật và năng lực trách nhiệm pháp lý đầy đủ.
Điều này đòi hỏi, chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật phải đạt
một độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật, có khả năng nhận thức
được sự việc và điều khiển được hành vi và tự do ý chí. Hay nói khác đi, chủ
thể thực hiện hành vi vi phạm phải đạt một độ tuổi nhất định, không mắc bệnh
tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức và điều khiển hành
vi vi phạm pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình.
Trong thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp, người chồng thường uống
rượu say rồi về hành hạ, đánh đập vợ thì vẫn bị coi là vi phạm pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình và phải chịu trách nhiệm pháp lý vì mặc dù lúc
đó họ không đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi nhưng họ đã có lỗi
trong việc tự đặt mình vào trong tình trạng say đó.
Trong mỗi trường hợp vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
khác nhau, thì chủ thể gây ra vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
là khác nhau: có trường hợp chủ thể thực hiện hành vi vi phạm, ngoài các điều
kiện trên còn bắt buộc phải là nam giới (trường hợp bạo lực gia đình đối với
phụ nữ). Có trường hợp, chủ thể phải là người có nhiệm vụ, quyền hạn (không
thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong lĩnh vực phòng, chống
bạo lực gia đình) như: người có thẩm quyền đã không xử lý người có hành vi
bạo lực gia đình, điều tra viên không khởi tố vụ án, không khởi tố bị can khi
biết chính xác và có đầy đủ căn cứ pháp lý rằng bị can đó đã có hành vi phạm
tội trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình.
Từ những phân tích trên ta thấy, khi xem xét hành vi vi phạm pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình, phải căn cứ vào cả bốn dấu hiệu kể trên. Các
dấu hiệu trên là tiêu chí để ta phân biệt vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
25
phòng, chống bạo lực gia đình với các dạng vi phạm pháp luật trong các lĩnh
vực khác của đời sống xã hội.
1.2.3. Các loại bạo lực gia đình
- Theo phương cách ứng xử có thể phân bạo lực gia đình thành hai loại
hình chính:
Bạo lực thể chất là loại bạo lực có sử dụng vũ lực, tác động trực tiếp
lên thân thể nạn nhân như đánh đập; nhục hình; tước đoạt tùy tiện về tiền của;
tài sản; cưỡng bức tình dục.
Bạo lực tinh thần là loại bạo lực không sử dụng vũ lực, tác động lên
tinh thần của nạn nhân như chì triết, mắng chửi, lăng ma, tỏ thái độ lạnh lùng,
không quan tâm, bỏ rơi, không nói chuyện.
- Theo quan hệ của các đối tượng bạo lực gia đình có thể phân thành
một số loại hình bạo lực gia đình:
Bạo lực giữa vợ chồng với nhau loại bạo lực gia đình phổ biến, được
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Trong loại hình bạo lực gia đình có một số
hình thức chính như cưỡng bức thân thể, cưỡng bức tình dục, cưỡng bức tâm
lý, tình cảm, cưỡng bức về xã hội và cưỡng bức về tài chính.
Bạo lực giữa các thành viên lớn tuổi trong gia đình là lạo bạo lực giữa
anh, chị,em, bố/mẹ chồng nàng dâu, anh/chị/em với chồng với chị/em dâu.
Bạo lực của người lớn đối với trẻ em là loại bạo lực của cha mẹ đối với
con cái, ông bà với nhau, anh chị đối với em.
Bạo lực ngược, bạo lực của người nhỏ tuổi với người lớn tuổi hơn như
con cái bạo lực cha mẹ, cháu ngược đãi ông bà, em hành hạ anh/chị
1.3. Các yếu tố bảo đảm ngăn chặn, hạn chế vi phạm pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình
1.3.1. Yếu tố chính trị
Hệ thống chính trị là trụ cột của nền chính trị xã hội của nước ta dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong hệ thống chính trị ở nước ta,
Đảng là hạt nhân lãnh đạo, Nhà nước là trung tâm , là tổ chức cốt yếu để thực
thi quyền lực của nhân dân. Ngoài ra, hệ thống chính trị còn bao gồm: Mặt
26
trận, Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Nông dân và
Hội Cựu chiến binh.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội do đại hội VII thông qua, đã xác định rõ mục tiêu tổng quát của
hệ thống chính trị: "Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước
ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân" Văn kiện Đại hội
XII đồng thời xác định: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống
chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế
nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hòa bình, ổn định, chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế để phát triển đất nước. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt
Nam trong khu vực và trên thế giới” [18].. Thực hiện dân chủ xã hội chủ
nghĩa là thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Đây vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới". Để đất nước phát triển, đạt
được những thành quả tốt đẹp trên con đường đổi mới, Hệ thống chính trị
nước ta cần phải đổi mới để ngày càng thống nhất, phát triển và bền vững
hơn, thể hiện đúng đắn và đầy đủ hơn bản chất xã hội chủ nghĩa, phát huy tính
ưu việt và vai trò tích cực của chính trị đối với sự phát triển kinh tế-xã hội.
Các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị hoạt động có hiệu lực và hiệu quả
cao hơn, khắc phục bệnh quan liêu, hình thức, trên cơ sở xác định rõ, thực
hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức và xác lập cơ chế vận hành
thông suốt, chặt chẽ của cả hệ thống dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam;
27
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò quyết định đến thành công của
sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, tạo ra sự ổn định và trật tự xã hội
trong đó góp phần bảo đảm, hạn chế vi phạm pháp luật xảy ra trong xã hội. Vì
vậy, trong công cuộc đổi mới, Đảng phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng, làm cho Đảng ta ngày càng nâng tầm trí tuệ,
bảo đảm sự trong sạch, vững mạnh. Một mặt, Đảng cần nâng cao năng lực
hoạch định đường lối, chính sách để có nhiều đường lối, chủ trương chính
sách phù hợp với thực tiễn đời sống và nguyện vọng của nhân dân; nâng cao
năng lực tổ chức chỉ đạo thực hiện; năng lực nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn, tạo sự thống nhất nhận thức và hành động trong Đảng; năng lực lãnh đạo
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết
với nhân dân. Mặt khác, mỗi cán bộ, đảng viên, từng tổ chức và cấp uỷ đảng
(toàn đảng) phải có ý chí phấn đấu vươn lên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
được giao; thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức; kiên quyết đấu tranh
với những hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng
không làm thay Nhà nước mà nâng cao tính chủ động, sáng tạo trong hoạt
động của Nhà nước. Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Đảng cần có nhiều chủ trương, chính sách phù hợp trong việc phòng, chống
bạo lực gia đình, để công tác phòng, chống bạo lực gia đình đạt được hiệu
quả, từ đó Nhà nước sẽ cụ thể hoá trong hệ thống pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình một cách kịp thời, cụ thể, thể hiện ý chí chung của toàn xã hội,
tạo nên sự hoàn thiện, thống nhất trong hệ thống pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình. Một hệ thống pháp luật hoàn thiện sẽ đảm bảo hạn chế được tình
trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Với
nhiệm vụ chính trị của mình, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam cũng cần
đổi mới, thể chế hoá, cụ thể hoá và tổ chức thực hiện đường lối của Đảng,
quản lý toàn diện xã hội và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước cần ban
hành các chính sách, pháp luật phản ánh ý chí, là tổng hoà ý chí của nhân dân,
phản ánh thực tiễn đời sống xã hội nhằm nâng cao mọi mặt đời sống của nhân
28
dân; quản lý nhà nước đạt được hiệu lực và hiệu quả. Mặt trận Tổ quốc là liên
minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và cá nhân tiêu biểu của các giai
cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo, là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân, có vai trò quan trọng trong củng cố khối đại đoàn kết toàn dân,
phản biện và giám sát xã hội, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân.
Các bộ phận hợp thành hệ thống chính trị và hoạt động của các bộ phận
đó đã tạo nên sự thống nhất và thành công của hệ thống chính trị nước ta. Sự
phát triển của hệ thống chính trị và các thể chế chính trị, sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản đối với Nhà nước và hệ thống chính trị thống nhất là những bảo
đảm, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực
gia đình.
1.3.2. Yếu tố kinh tế
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một sự
đột phá về tư duy lý luận của Đảng ta. Đại hội VI (1986) đã đánh dấu sự đổi
mới toàn diện, cả cấu trúc và cơ chế vận hành của nền kinh tế với nội dung
chính là từ bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp đó, đại hội IX của Đảng (2001)
đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
"mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội", đề ra nhiệm vụ xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước chuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế
thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý sang nhận thức mới, coi kinh
tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Kế thừa tư duy Đại hội IX, Đại hội X, Đại hội XI,
Đại hội XII đã làm sáng tỏ thêm một bước nội dung cơ bản của định hướng xã
hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Mục tiêu của nền kinh tế thị trường là nhằm thực hiện "dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"; giải phóng mạnh mẽ và không
29
ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xoá đói,
giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ
người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Mục tiêu trên đây thể hiện
phát triển kinh tế vì con người. Trên cơ sở giải phóng mọi tiềm năng cho sự
phát triển sức sản xuất, phát triển kinh tế để làm cho mọi người đều được
hưởng những thành quả phát triển. Điều đó khác hẳn với mục tiêu tất cả vì lợi
nhuận phục vụ lợi ích các nhà tư sản, xây dựng cơ sở kinh tế cho chủ nghĩa tư
bản, bảo vệ chế độ tư bản, phát triển chủ nghĩa tư bản.
Với những ưu điểm của mình, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý
của Nhà nước, sự làm chủ của nhân dân, nền kinh tế nước ta đã có sự phát
triển vượt bậc và tăng trưởng khá nhanh, đời sống của nhân dân được cải
thiện và nâng cao rõ rệt. Nền kinh tế phát triển là yếu tố quan trọng tạo sự
phát triển cho xã hội, nâng cao mức sống và thoả mãn nhu cầu vật chất của
nhân dân lao động. Điều này sẽ là điều kiện quan trọng đảm bảo, hạn chế vi
phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Nghèo đói là một trong những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình. Vì vậy, phát triển kinh tế là yếu tố trực tiếp tạo sự ổn định cho xã hội;
nâng cao nhận thức của nhân dân, nhu cầu của con người dần được thoả mãn.
Điều này quyết định đến việc thực hiện hành vi của con người phù hợp với
yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật và như vậy, hiện tượng vi phạm pháp luật sẽ
được hạn chế và dần bị đẩy lùi. Mặt khác, khi kinh tế phát triển sẽ là yếu tố
tác động đến pháp luật, làm cho pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình ngày
càng hoàn thiện trong điều kiện kinh tế mới.
1.3.3. Yếu tố tư tưởng
Một trong những nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình là do nhận thức của nhân dân còn thấp. Chính vì vậy, để ngăn
chặn, hạn chế vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình thì không thể
xem nhẹ yếu tố tư tưởng. Vì vậy, cần đề cao và đẩy mạnh công tác giáo dục,
đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa. Khi trong xã hội, mỗi công dân đều
có trình độ chính trị, trình độ văn hoá và ý thức pháp luật cao thì sẽ có ý thức
30
tuân thủ pháp luật và thực hiện theo những yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật.
Chính vì vậy, vi phạm pháp luật nói chung và trong lĩnh vực phòng, chống
bạo lực gia đình sẽ bị hạn chế và đẩy lùi.
1.3.4. Yếu tố pháp lý
Việt nam đang tiếp tục hoàn thiện và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Vì vậy, pháp luật có vai trò rất quan
trọng trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, tạo ra trật tự và ổn định
cho xã hội nhất là trong việc ngăn chặn và đẩy lùi hiện tượng vi phạm pháp
luật. Một hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình hoàn thiện, đầy
đủ, thống nhất, cụ thể, tính khả thi cao, dân chủ, tiến bộ, hướng tới các giá trị
nhân văn cùng với hệ thống các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xoá bỏ
nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình ngày
càng đầy đủ; hoạt động của hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật ngày càng
đạt hiệu quả cao hơn sẽ là những đảm bảo pháp lý để ngăn chặn, hạn chế vi
phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Tuy nhiên, để công cuộc
phòng chống bạo lực trong gia đình đạt hiệu quả thì không chỉ xây dựng một
đạo luật về phòng chống bạo lực gia đình là đủ, cần phải có các văn bản pháp
luật khác điều chỉnh các mối quan hệ trong gia đình để mọi người có cơ chế
tự bảo vệ mình, tự tránh khỏi các áp lực, các yếu tố và hành vi dẫn đến bạo
hành, nhằm xây dựng gia đình hòa thuận, tiến bộ và văn minh. Pháp luật cũng
phải là đại lượng công bằng nhất, xóa tan khoảng cách và xây dựng lại các gia
đình từ các đổ vỡ, bất đồng, xung đột tiềm ẩn hoặc đã thể hiện trong thực tế,
tạo cơ sở pháp lý để mọi người thể hiện được thái độ đúng đắn của mình,
những ứng xử phù hợp với pháp luật đối với nhau trước những bất đồng, xung
đột của gia đình. Như vậy, trong các yếu tố đảm bảo thì pháp luật được xem là
yếu tố đảm bảo cơ bản nhất nhằm phòng và chống bạo lực trong gia đình.
1.3.5. Yếu tố xã hội
Một xã hội phát triển, ổn định, có sự tham gia hoạt động xã hội của các
tổ chức và đoàn thể quần chúng sẽ tạo ra những bảo đảm về mặt xã hội cho
việc hạn chế vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Mỗi công dân
31
sẽ phát huy quyền làm chủ của mình đối với đất nước, đối với xã hội; mỗi tổ
chức sẽ phát huy khả năng tập hợp lực lượng, tạo ra khối đoàn kết chặt chẽ
trong xã hội nhằm phát huy sức mạnh của tập thể. Cả xã hội liên kết gắn bó
chặt chẽ với nhau tạo nên một sức mạnh lớn mà sức mạnh đó có thể đẩy lùi sự
xuất hiện của vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Nếu như, nhà
nước tạo ra các cơ chế bảo đảm cho pháp luật đi vào đời sống, thì xã hội chính
là môi trường nuôi dưỡng pháp luật đó, đảm bảo cho pháp luật hiện hữu và có
sức sống. Do đó, trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực trong gia đình, xã hội
luôn luôn được xem là cái nôi cho sự phát triển lành mạnh của gia đình và là
cơ sở, là tiền đề để Nhà nước cũng như mọi cá nhân, tổ chức tỏ thái độ và có
hành vi phản ứng lại với những hành vi vi phạm pháp luật, phát hiện ra những
hành vi vi phạm pháp luật cũng như bảo vệ, che chắn cho người phụ nữ thoát
khỏi nạn bạo hành gia đình. Nạn bạo lực gia đình chỉ có thể bị hạn chế nếu xã
hội, cộng đồng lên tiếng bảo vệ và thực sự chung tay, góp sức chống lại nó.
32
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Bạo lực gia đình đang là vấn nạn của xã hội, là mối quan tâm không chỉ
ở mỗi quốc gia mà của cả cộng đồng quốc tế. Chính vì vậy, đã có nhiều đề tài
nghiên cứu về bạo lực gia đình. Tuy nhiên, nghiên cứu dưới góc độ pháp lý,
xem xét bạo lực gia đình dưới góc độ vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực
gia đình thì cho đến nay chưa có một đề tài nào nghiên cứu. Vì vậy, việc
nghiên cứu vấn đề vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình là việc
làm rất cần thiết đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam đang tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân.
Trong phạm vi của luận văn này, chương 1 đề cập đến những vấn đề lý
luận cơ bản nhất về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình; vi phạm pháp
luật phòng, chống bạo lực gia đình; từ đó chỉ ra những hậu quả mà vi phạm
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình gây ra đồng thời nghiên cứu kinh
nghiệm một số tỉnh trong việc phòng, chống bạo lực gia đình. Đây chính là
những cơ sở cho việc phân tích thực trạng vi phạm pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình, xây dựng những giải pháp nhằm hạn chế tiến tới đẩy lùi tình
trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc trong
những chương tiếp theo. Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình là
vấn đề cần được nghiên cứu và xem xét một cách cấp thiết, kịp thời, khoa học
bởi nó là vấn đề mang tính toàn xã hội, ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển
kinh tế - xã hội của Việt Nam nói chung và Vĩnh Phúc nói riêng.
33
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO
LỰC GIA ĐÌNH Ở TỈNH VĨNH PHÚC
2.1. Khái quát về đặc điểm tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc thuộc Vùng quy hoạch Thủ đô, Vùng kinh tế trọng điểm
Bắc Bộ, Vùng Đồng bằng sông Hồng; phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên và
Tuyên Quang, phía Đông và phía Nam giáp thủ đô Hà Nội, phía Tây giáp tỉnh
Phú Thọ. Tỉnh có 9 đơn vị hành chính, 137 xã, phường, thị trấn, 1.368 thôn,
tổ dân phố. Gần 80% dân số sống ở nông thôn. Toàn tỉnh có 252.110 hộ gia
đình, trong đó có 220.807 hộ gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa
(87,5%); 1.304 thôn, TDP, trong đó có 869 thôn, TDP đạt tiêu chuẩn văn hóa
(66,6%). Kinh tế - xã hội, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm
bảo, công tác an sinh xã hội được coi trọng. [33]
Sự quan tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền, cùng với sự phối hợp
vào cuộc của các cấp, các ngành đã tạo tiền và đề thúc đẩy sự nghiệp văn hóa
gia đình ngày càng phát triển; đặc biệt là công tác quản lý nhà nước về Phòng
chống BLGĐ ngày càng có hiệu quả, góp phần vào thực hiện mục tiêu xây
dựng gia đình "no ấm, tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc".
Tuy nhiên do quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mặt trái của cơ
chế thị trường tác động đến lối sống giới trẻ nói chung, một bộ phận cán bộ
đảng viên, công chức xuống cấp về đạo đức, tác động mạnh tới các giá trị đạo
đức truyền thống, lối sống lành mạnh trong gia đình Việt Nam. Nhiều gia
đình chưa quan tâm đến việc xây dựng gia đình văn hóa, nếp sống văn minh,
nhận thức của xã hội về vai trò, tầm quan trọng của gia đình, phòng, chống
bạo lực gia đình còn hạn chế, sự quan tâm, vào cuộc của các cấp ủy đảng
chính quyền ở cơ sở còn chưa quyết liệt, nên tình trạng bạo lực gia đình nảy
sinh nhiều vấn đề cần sự quan tâm vào cuộc tích cự của các cấp các ngành.
34
2.2. Thực trạng phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc
2.2.1. Thực trạng bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc
Như một căn bệnh nguy hiểm có trong bất kỳ xã hội nào, bạo lực gia
đình đang len lỏi vào mỗi vùng miền, mỗi gia đình và làm cản trở sự phát
triển bình thường của mỗi quốc gia, mỗi vùng miền và mỗi gia đình. Với một
hệ thống pháp luật cho đến nay có thể nói tương đối đầy đủ trong lĩnh vực
phòng, chống bạo lực gia đình đồng thời đã thực hiện hệ thống các biện pháp
thiết thực, tích cực nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng bạo lực gia đình. Tuy
nhiên, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình vẫn còn rất nghiêm
trọng. Nhiều lúc, nhiều nơi, ở nhiều địa phương trong tỉnh vẫn có nhiều gia
đình, nhiều người còn là nạn nhân của tình trạng bạo lực gia đình, họ còn phải
sống trong bạo lực đang hoành hành mà người gây ra những nỗi đau cho họ
lại chính là những người gần gũi nhất, thân yêu nhất. Tiếng kêu cứu của rất
nhiều người phụ nữ vang lên, nhiều vụ án đau lòng, thương tâm, gây bức xúc
trong xã hội về bạo lực gia đình đã cho chúng ta thấy một bức tranh ảm đạm
về tình trạng bạo lực gia đình. Hơn nữa, các cấp chính quyền, các cơ quan
chức năng còn có thái độ thờ ơ, bàng quan, vô trách nhiệm đối với các vụ bạo
lực gia đình. Họ chưa làm đúng chức năng, trách nhiệm của mình, còn bao
che, bỏ qua, xử lý chưa đúng pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.
Những người đứng ngoài khi biết có bạo lực gia đình xảy ra thì né tránh,
không tố cáo, thậm chí có người còn kích động, xúi giục giúp sức, tạo điều
kiện cho hành vi bạo lực gia đình được thực hiện. Nhiều chủ thể thì lợi dụng
tình trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ để kiếm lời. Từ thực tế đã cho
chúng ta thấy tình trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình ở
mức báo động.
Mặc dù chưa có cuộc điều tra tổng thể trên phạm vi toàn tỉnh; nhưng
theo báo cáo kết quả thống kê số liệu về bạo lực gia đình của các huyện, thành
thị, báo cáo của các sở, ngành, tuy chưa đầy đủ, song cũng cho thấy tình hình
về bạo lực gia đình có chiều hướng ra tăng, các số liệu cụ thể như sau:
35
Theo số liệu thu thập thống kê hàng năm của các cơ quan quản lý nhà
nước về gia đình, và báo cáo tổng kết tình hình triển khai kế hoạch thi hành
luật phòng chống bạo lực gia đình giai đoạn 2008-2015 của tỉnh Vĩnh Phúc.
Từ năm 2009 đến năm 2015 số vụ có bạo lực gia đình được phát hiện trên địa
bàn tỉnh qua từng năm cụ thể như sau: Năm 2009 xảy ra 276 vụ; Năm 2010
xảy ra 276 vụ; Năm 2011 xảy ra 497 vụ; Năm 2012 xảy ra 635 vụ; Năm 2013
xảy ra 552 vụ. Năm 2014 xảy ra 395 vụ, năm 2015 xảy ra 265 vụ. Trong 7
năm từ 2009-2015 tổng số vụ bạo lực gia đình được phát hiện là 2.859 vụ,
trong đó có 1.474 vụ bạo lực thể xác (51,5%); 854 vụ bạo lực tinh thần
(29,9%); 230 vụ bạo lực kinh tế (8%); 73 vụ bạo lực tình dục (2,5%) [33].
Biểu 2.1. Tổng hợp số vụ bạo lực gia đình trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc từ 2009-2014
STT Huyện, thành, Tổng số vụ bạo lực gia đình
thị
Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015
Vĩnh Tường
1
22
29
27
40
19
28
25
Yên Lạc
2
29
35
87
88
58
50
20
Tam Dương
3
54
56
92
73
60
48
43
Tam Đảo
4
76
88
87
132
102
134
70
Lập Thạch
5
30
12
33
24
26
37
20
Sông Lô
6
26
26
33
23
13
30
15
Bình Xuyên
7
24
17
70
69
138
121
35
Vĩnh Yên
8
4
7
20
9
20
10
12
Phúc Yên
9
11
6
120
91
43
24
25
Tổng số
276
276
497
635
552
395
265
Nguồn: Số liệu báo cáo 8 năm thực hiện luật phòng, chống BLGĐ tỉnh Vĩnh Phúc
36
Tuy nhiên trong tổng số vụ BLGĐ nêu trên, tính chất, mức độ là ít
nghiêm trọng, chủ yếu là mâu thuẫn gia đình và cơ bản được hòa giải ngay tại
cơ sở. Tỷ lệ BLGĐ phải xử lý về hành chính hoặc phải truy cứu trách nhiệm
hình sự chiếm tỷ lệ không nhiều. Theo thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh,
Năm 2010 toàn tỉnh có 979 vụ ly hôn; Năm 2011 có 1.173 vụ án ly hôn tăng
194 vụ so với năm 2010, trong đó có 240 vụ án ly hôn liên quan đến bạo lực
gia đình (20,46%). Đặc biệt có 164 vụ bạo lực gia đình phải truy cứu trách
nhiệm hình. Theo số liệu của Công an tỉnh từ năm 2008-2015 đã thụ lý giải
quyết 142 vụ BLGĐ, điều tra, khởi tố 17 vụ, xử lý vi phạm hành chính 115 vụ
BLGĐ; trong 142 vụ có 8 vụ dẫn đến hậu quả chết người, 79 vụ dẫn đến hậu
quả thương tích. Điển hình như Chồng là Nguyễn Tiến Thịnh bạo hành vợ là
Lê Thị Lý ở phường Hùng Vương, thị xã Phúc Yên; Vụ cha đẻ cưỡng bức con
gái ở xã Kim Long, huyện Tam Dương; Vụ con trai đánh mẹ đẻ gãy chân ở
Yên Thạch, Sông Lô; Vụ chồng là Nguyễn Văn Hải, thôn Dừa Cả, xã Hải
Lựu, Sông Lô dùng dao quắm chém vợ là Phạm Thị Thắm gây tử vong; Vụ
chồng Dương Đức Yên, thôn An Khang, xã Yên Thạch, Sông Lô tưới xăng
lên người vợ là chị Hà Thị Hiền đốt dẫn đến tử vong; Trường hợp Đỗ Cao
Cường Định Trung, Thành phố Vĩnh Yên dùng phích đập đầu vợ; vụ Chồng
đánh vợ gây thương tích nặng ở Đồng Cương, Yên Lạc; vụ bênh vợ, con ném
bát vào mặt mẹ ở thôn Hòa Loan, xã Lũng Hòa; vụ Phạm Thị Liên ở thôn 5,
nhà máy gạch Bồ Sao Vĩnh Tường bị chồng đánh phải nhập viện cấp cứu... .
Các vụ bạo lực gia đình thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: bạo lực
thể xác, bạo lực tinh thần, bạo lực tình dục, bạo lực kinh tế, trong đó nạn nhân
bạo lực gia đình chủ yếu là phụ nữ, người già, trẻ em. Theo số liệu của Sở Y
tế từ năm 2008-2015 có 864 nạn nhân bạo lực gia đình đến cơ sở Y tế khám
và điều trị, trong đó tuyến tỉnh 91 trường hợp, tuyến huyện 332 trường hợp,
tuyến xã 441 trường hợp [33]. Tuy có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban
ngành đoàn thể và sự đồng tình lên án các hành vi BLGĐ của người dân
nhưng vẫn còn nhiều trường hợp nạn nhân im lặng, cam chịu không khai báo,
37
đôi khi còn che giấu, nhất là bạo lực tình dục, bạo lực tinh thần, nên việc phát
hiện, can thiệp, tư vấn xử lý chưa kịp thời.
Hầu hết người gây ra bạo lực gia đình đã phải chịu các các biện pháp
giáo dục, các hình phạt thích đáng đúng pháp luật, tuy nhiên đó như một hồi
chuông báo động nạn bạo lực gia đình ngày một gia tăng và mức độ ngày một
nguy hiểm. Chúng ta sẽ xem xét thực trạng bạo lực gia đình dưới các hình
thức bạo lực cụ thể:
- Bạo lực về thân thể: Người bị bạo lực đã phải chịu đựng nhiều hình
thức bạo lực gia đình. Bạo lực thân thể là hình thức khá phổ biến trong các
dạng bạo lực gia đình ở Việt Nam nói chung, Vĩnh Phúc nói riêng. Bạo lực
thân thể là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra thương tích cho con
người. Nạn nhân của bạo hành gia đình dưới hình thức bạo lực thân thể, họ
phải chịu sự đánh đập của người chồng, người bạn tình ở nhiều mức độ khác
nhau, có trường hợp người chồng đấm, đá, tát, xô ngã vợ; có trường hợp dùng
cả vũ khí để hành hung vợ để lại những hậu quả nghiêm trọng như để lại
thương tích trên thân thể, xảy thai thậm chí tử vong... Theo số liệu thống kê
các huyện, thành, thị năm từ năm 2008-2015 toàn tỉnh có 2.859 vụ bạo lực gia
đình, trong đó có 1.474 vụ bị bạo lực về thân thể (chiếm 51,5%) [33]
- Bạo lực về tinh thần: Cùng với bạo lực về thân thể, bạo lực về tinh
thần là hình thức bạo lực ngày càng phổ biến. Những vết thương về thân thể
của con người, với thời gian có thể lành lại nhưng những vết thương về tinh
thần do bạo lực gia đình gây ra sẽ rất khó lành. Bạo lực về tinh thần đã gây
cho người bị bạo hành những chấn động mạnh và lâu dài về tâm lý, họ phải
chịu đựng những sang chấn tâm lý mà không dễ gì chữa khỏi. Nạn nhân bị
bạo lực tinh thần thường tự dằn vặt mình, trầm cảm và sợ sệt, ăn không ngon,
ngủ không yên, nóng giận vô cớ, luôn bị ám ảnh về bạo lực, có trường hợp bị
ảnh hưởng nghiêm trọng đến tâm lý, thần kinh suốt đời, có trường hợp thì tự
tử. Theo số liệu thống kê các huyện, thành, thị từ năm 2008-2015 toàn tỉnh có
2.859 vụ bạo lực gia đình, trong đó có 854 vụ bị bạo lực về tinh thần chiếm
(29,9%) [33].
38
Bạo lực tinh thần trong gia đình là hình thức bạo lực không nhìn thấy
được. Trong nhiều trường hợp, nó là nguyên nhân trực tiếp cướp đi sinh mạng
của người bị bạo hành. Rất nhiều người không chịu nổi bạo hành tinh thần đã
tìm đến với cái chết.
Có rất nhiều lý do dẫn đến bạo lực tinh thần, một trong những lý do khá
nổi bật là ngoại tình. Phần lớn những người chồng khi ngoại tình về thường
bỏ rơi, chửi mắng, ngược đãi vợ con. Có những người chồng còn thực hiện
một kiểu tra tấn tinh thần bằng cách công khai ngoại tình trước mặt vợ, công
khai khiêu khích, tra tấn vợ bằng những lời nói, hành vi mà người có hiểu biết
một chút sẽ không bao giờ làm như vậy. Cùng với sự tra tấn dã man đó là
mục đích mong cho vợ chết mòn, chết dần. Trong những hoàn cảnh như vậy,
người phụ nữ thật đau khổ và nhiều khi họ đã không làm chủ được bản thân
mình nữa, mắc phải những sang chấn tâm lý ám ảnh suốt cuộc đời họ. Hiện
nay, bạo lực tinh thần diễn ra ở mọi nơi và có mặt ở rất rất nhiều gia đình.
Không chỉ ở nông thôn hoặc những người có trình độ dân trí thấp mà trên
thực tế, bạo lực tinh thần đang ồ ạt tấn công vào những người có trí thức mà
kẻ gây ra hình thức bạo lực này cũng là người có trí thức. Điều này làm cho
tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi bạo lực được nâng lên rất nhiều
đồng thời chúng ta thấy rất rõ cảm xúc của một tri thức khi bị tổn thương về
tinh thần sẽ hằn sâu hơn những người khác.
- Bạo lực về kinh tế: Cùng với bạo hành về thể chất, bạo hành về tinh
thần và bạo lực về kinh tế. Bạo lực về kinh tế là hành vi dùng sức mạnh, áp
đặt hoặc lừa mị nhằm chiếm giữ và kiểm soát tài chính trong gia đình nhằm
tạo ra sự phụ thuộc về mặt kinh tế. Cho đến nay, chưa có nhiều số liệu thống
kê về bạo lực kinh tế trong gia đình, tuy nhiên trên thực tế, bạo lực kinh tế thể
hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: không đóng góp kinh tế cho chi
tiêu chung trong gia đình; quản lý hết tiền của gia đình; bắt người vợ phụ
thuộc hoàn toàn vào mình; coi thường vợ không có công ăn việc làm, không
kiếm được tiền; kiểm soát toàn bộ việc chi tiêu trong nhà; vay nợ nhiều để vợ
gánh chịu trả nợ... Có rất nhiều người hoàn toàn bị phụ thuộc vào chồng về
39
mặt kinh tế, mọi sự chi tiêu trong gia đình từ những vật dụng nhỏ nhất cũng
phải ngửa tay xin chồng, phải xin phép chồng, chồng không đồng ý hay
không cho thì không có tiền để tiêu thậm chí để phục vụ cho những nhu cầu
tối thiểu nhất của người phụ nữ. Hỏi chăng, người phụ nữ sinh ra để làm gì?
họ đâu còn được tôn trọng quyền con người nữa. Theo số liệu thống kê các
huyện, thành, thị từ năm 2008-2015 toàn tỉnh có 2.859 vụ bạo lực gia đình,
trong đó có 230 vụ bị bạo lực về kinh tế chiếm (8%) [33]
Như vậy, bạo lực kinh tế trong gia đình biểu hiện rất đa dạng, nhiều vẻ
với nhiều cấp độ khác nhau và phần lớn bạo lực kinh tế thường ít bộc lộ công
khai. Vì thế, bạo lực kinh tế là dạng bạo lực không dễ nhận diện. Bạo lực kinh
tế đã và đang ảnh hưởng sâu sắc tới mọi người, vi phạm quyền tự do của con
người. Chính vì vậy, hơn ai hết, người bị bạo lực phải đứng lên đấu tranh để
bảo vệ quyền cho họ đồng thời những kẻ gây ra bạo lực cần bị xử lý nghiêm
minh theo quy định của pháp luật.
- Bạo lực tình dục: Một hình thức bạo lực gia đình hiện nay làm ảnh
hưởng rất lớn đến tâm lý của người bị bạo lực tình dục. Hình thức bạo lực này
rất khó phát hiện bởi tất cả các nạn nhân rất ít khi nói ra. Theo Tổ chức Y tế
thế giới, bạo lực tình dục được xem là vấn đề ưu tiên trong các vấn đề sức
khoẻ cộng đồng và quyền con người bởi vì vấn đề này tồn tại ở nhiều nước
trên thế giới và gây ảnh hưởng đến sức khoẻ phụ nữ. Cưỡng bức tình dục
trong hôn nhân là một hình thức bạo lực đối với phụ nữ, là hành vi vi phạm
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, đây là điều mà bấy lâu nay nhiều
người không nhận thức được. Ở nước ta, theo quan niệm truyền thống, việc
người vợ đáp ứng nhu cầu tình dục của chồng là việc bình thường như là một
bổn phận của người vợ để giữ gìn hạnh phúc gia đình. Nhiều người chồng coi
đó là trách nhiệm đương nhiên của người vợ, người vợ không có quyền kháng
cự và đã có rất nhiều người được hỏi đã khẳng định rằng đây không phải là
việc bạo hành vợ, vì thế không phải là vi phạm pháp luật. Chính vì vậy mà
hình thức bạo lực này bị xem nhẹ. Điều này dẫn đến tình trạng bạo lực tình
dục trong gia đình đối với vợ còn xảy ra nhiều với con số khá cao mà trong
40
thực tế, con số đó còn nhiều hơn rất nhiều. Theo số liệu thống kê các huyện,
thành, thị từ năm 2008-2015 toàn tỉnh có 2.859 vụ bạo lực gia đình, trong đó
có 73 vụ bị bạo lực về tình dục chiếm (2,5%) [33].
Bạo lực tình dục là vấn đề rất tế nhị và nhạy cảm, hơn nữa Việt Nam
nói chung và Vĩnh Phúc nói riêng chịu ảnh hưởng của nhiều phong tục tập
quán phương đông, vì vậy khi bị bạo hành về tình dục, người phụ nữ rất ngại
nói ra, đành cam chịu để giữ yên "tổ ấm" của mình. Các nghiên cứu gần đây
chỉ ra rằng, người phụ nữ sau khi bị cưỡng ép quan hệ tình dục, sẽ phải chịu
nhiều hậu quả nặng nề, ảnh hưởng đến sức khoẻ và tâm lý của người phụ nữ.
Họ bị lãnh cảm về tình dục hoặc hoảng loạn về tinh thần cao hơn so với các
nạn nhân của các nỗi đau khác. Hơn nữa, do không chủ động được trong quan
hệ tình dục, người phụ nữ rất dễ có thai ngoài ý muốn, gặp khó khăn trong
việc sinh đẻ có kế hoạch và phải đối mặt với nguy cơ mắc các bệnh lây nhiễm
qua đường tình dục kể cả hội chứng suy giảm miễn dịch (HIV/AIDS).
Biểu 2.2. Các dạng bạo lực gia đình từ năm 2009-2014
STT Tên đơn vị Hình thức bạo lực
Thân thể Tinh thần Tình dục Kinh tế
Vĩnh Tường
1
115
55
0
0
Yên Lạc
2
204
96
7
40
Tam Dương
3
144
147
2
30
Tam Đảo
4
428
79
19
25
Lập Thạch
5
89
73
0
18
Sông Lô
6
74
57
0
10
Bình Xuyên
7
233
145
29
55
Vĩnh Yên
8
33
24
3
4
Phúc Yên
9
154
178
13
48
854
73
230
Tổng số
1.474
Nguồn: Số liệu báo cáo 8 năm thực hiện luật phòng, chống BLGĐ tỉnh Vĩnh Phúc
41
Những kết quả thu được từ các cuộc điều tra về bạo lực gia đình đã cho
chúng ta thấy những con số đáng giật mình. Ngoài các vụ bạo lực gia đình, vi
phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình còn rất nhiều các hành vi trái
pháp luật khác. Đến nay, chúng ta chưa có số liệu, báo cáo chính thức về các
hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình như những hành vi
kích động, giúp sức, dung túng, bao che, xử lý không đúng pháp luật, nhưng
trên thực tế, những hành vi trái pháp luật này diễn ra khá nhiều. Trong các gia
đình, vì những lý do khác nhau mà xảy ra mâu thuẫn giữa các thành viên
trong gia đình mà chủ yếu là mối quan hệ giữa mẹ chồng và nàng dâu, giữa
người phụ nữ với anh em nhà chồng... mà mẹ chồng, bố chồng, anh chị em
chồng đã thường xuyên có hành vi kích động, xúi giục, tạo điều kiện để cho
người chồng đánh đập, hành hạ vợ. Có trường hợp gia đình, người gây ra bạo
lực gia đình đã tìm cách trả thù, đe doạ trả thù người đã giúp đỡ nạn nhân bạo
lực gia đình, người phát hiện, báo tin, ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình. Có
nhiều trường hợp, nhiều người khi biết rõ hành vi bạo lực gia đình xảy ra với
tính chất và mức độ nguy hiểm nhưng coi như không có chuyện gì, không báo
cáo với cơ quan, người có trách nhiệm giải quyết, đã gây ra hậu quả nghiêm
trọng. Có nhiều nơi, chính quyền địa phương chưa làm tốt nhiệm vụ quản lý
nhà nước để nhiều vụ bạo lực gia đình xảy ra từ rất lâu trên địa bàn mà nhiều
người đã phải chịu những hậu quả nặng nề nhưng không hề hay biết hoặc có
biết nhưng không xử lý, xử lý qua loa, không đúng pháp luật... Như vậy, mặc
dù chưa có số liệu thống kê chính thức về các hành vi vi phạm pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình như trên nhưng trên thực tế những hành vi này
còn xảy ra rất nhiều và một điều nguy hiểm nhất, chính những cơ quan, người
thực thi pháp luật lại có hành vi vi phạm. Rất nhiều vụ bạo lực gia đình còn bị
bỏ qua, chưa phải chịu sự trừng trị của pháp luật bởi vì còn một quan niệm
được hình thành và ăn sâu trong tiềm thức của cộng đồng dân cư là bạo lực
gia đình là chuyện nội bộ, chuyện riêng của mỗi gia đình, do vậy mỗi gia đình
sẽ tự giải quyết. Trong cộng đồng xã hội còn khá nhiều người trong đó có cả
cán bộ tư pháp, cán bộ thực thi pháp luật vẫn chưa hiểu được hành vi bạo lực
42
gia đình là hành vi trái pháp luật và là vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo
lực gia đình. Chính vì vậy mà tình trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình vẫn diễn ra khá nhiều.
Như vậy, theo kết quả tổng hợp từ nhiều cơ quan, các huyện, thành, thị,
tình trạng bạo lực gia đình đã ở mức báo động. Trên khắp các địa phương
trong tỉnh, rất nhiều gia đình đã, đang và sẽ có nguy cơ trở thành nạn nhân
của các vụ bạo lực gia đình. Đã đến lúc, cần có sự lên tiếng, giúp đỡ của toàn
xã hội. Những con số đó mới chỉ phản ánh phần nào về tình trạng vi phạm
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Đây chỉ là phần nổi trong "tảng băng
chìm" vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Trên thực tế đời
sống, vẫn còn rất rất nhiều các hành vi bạo lực gia đình bởi một phần nhiều
người bị bạo lực còn chưa dám lên tiếng tố cáo người bạo lực mình, mặt khác
cộng đồng còn chưa quan tâm đến vấn đề phòng, chống bạo lực gia đình nên
nhiều vụ bạo lực gia đình còn chưa được phát hiện và xử lý kịp thời. Chính vì
vậy, để giảm thiểu tình trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình, cần phải có sự chung tay của cả xã hội đồng thời cần có các giải pháp
hữu hiệu để tổ chức thực hiện thành công công tác phòng, chống bạo lực gia
đình.
2.2.2. Thực trạng thực hiện phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh
Vĩnh Phúc.
a) Công tác tham mưu ban hành văn bản chỉ đạo
Ngay sau khi Luật Phòng, chống bạo lực gia đình có hiệu lực thi hành
(01/07/2008), UBND tỉnh ban hành nhiều văn bản chỉ đạo như:
- Quyết định 3216/QĐ-CT ngày 26 tháng 8 năm 2008 của Chủ tịch
UBND tỉnh Vĩnh Phúc về việc Thành lập Ban chỉ đạo Thực hiện Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình; Quyết định 3943/QĐ-BCĐ của UBND tỉnh
Vĩnh Phúc về việc ban hành quy chế hoạt động của Ban chỉ đạo thực hiện
Luật PCBLGĐ tỉnh;
43
- Quyết định số 2777/QĐ-UB ngày 28/10/2012 về phân bổ kinh phí
thực hiện phòng chống BLGĐ cho các sở, ngành, UBND các huyện, thành,
thị và UBND các xã, phường thị trấn trên địa bàn tỉnh.
- Quyết định số 1877/QĐ-CT ngày 23 tháng 7 năm 2013 của Chủ tịch
UBND tỉnh Vĩnh Phúc về việc thành lập Ban chỉ đạo công tác gia đình tỉnh
Vĩnh Phúc; Quyết định số 2909/QĐ-BCĐ ngày 18 tháng 10 năm 2013 về việc
ban hành quy chế hoạt động của Ban chỉ đạo công tác gia đình tỉnh Vĩnh
Phúc.
- Kế hoạch số 3838/KH-UBND ngày 26 tháng 6 năm 2008 của UBND
tỉnh Vĩnh Phúc về việc triển khai thi hành Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình;
- Kế hoạch 6530/KH-UBND ngày 28/12/2012 của Ủy ban nhân dân
tỉnh về thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam tỉnh Vĩnh Phúc đến
năm 2020 tầm nhìn 2030;
- Kế hoạch số 2934/KH-BCĐ ngày 7 tháng 6 năm 2013 của Trưởng
Ban chỉ đạo Phòng, chống bạo lực gia đình tỉnh Vĩnh Phúc về Sơ kết 5 năm
thi hành Luật Phòng, chống bạo lực gia đình giai đoạn 2008-2013;
Các sở, ngành của tỉnh đã chủ động xây dựng kế hoạch, văn bản chỉ
đạo thực hiện theo chức năng nhiệm vụ của sở ngành như: Sở Tư Pháp xây
dựng Kế hoạch gắn nội dung Luật Phòng, chống bạo lực gia đình vào kế
hoạch công tác ngành và chỉ đạo hướng dẫn cơ sở thực hiện tốt công tác tư
vấn, hoà giải can thiệp Phòng chống BLGĐ. Công an tỉnh triển khai lồng
ghép phòng chống tội phạm, phòng ngừa ngăn chặn vi phạm BLGĐ ở nhiều
mô hình liên quan “Câu lạc bộ gia đình hạnh phúc, CLB phòng chống bạo lực
gia đình; Hội Liên hiệp Phụ nữ ban hành nhiều văn bản chỉ đạo và Kế hoạch
phối hợp thực hiện Phòng chống BLGĐ, thực hiện phong trào xây dựng gia
đình hạnh phúc, phong trào “5 không, 3 sạch”, hoạt động tư vấn, hỗ trợ nạn
nhân bạo lực gia đình, tập huấn hòa giải ở cơ sở; Sở Giáo dục Đào tạo triển
khai thực hiện Đề án “Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh thiếu niên giai đoạn 2011-2015”;
44
Sở Lao động TBXH xây dựng kế hoạch và các văn bản chỉ đạo thực hiện Luật
Bình đẳng giới, luật giáo dục trăm sóc trẻ em, chương trình xoá đói giảm
nghèo và hoạt động bảo trợ xã hội; Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Cơ quan
thường trực Ban chỉ đạo công tác gia đình cũng đã chủ động ban hành nhiều
văn bản, kế hoạch phối hợp với các sở, ban ngành, UBND các huyện, thành,
thị trong công tác chỉ đạo, triển khai thực hiện Phòng, chống bạo lực gia đình;
Hướng dẫn nghiệp vụ đối với phòng Văn hoá và Thông tin cấp huyện; Xây
dựng các Mô hình can thiệp phòng, chống BLGĐ ở cơ sở; xây dựng địa chỉ
tin cậy, đường dây nóng; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tập huấn nâng cao
kiến thức cho người dân về thực hiện Luật PCBLGĐ; đặc biệt giúp cho đội
ngũ cán bộ làm công tác gia đình từ tỉnh xuống cơ sở có đầy đủ kiến thức kỹ
năng, tư vấn hoà giải và xử lý kịp thời trong việc phòng, chống bạo lực gia
đình.
Các huyện, thành, thị trên cơ sở hướng dẫn và chỉ đạo của tỉnh, đến nay
9/9 huyện, thành thị đã xây dựng Kế hoạch thực hiện Luật PCBLGĐ, Ban Chỉ
đạo Phòng, chống bạo lực gia đình nay kiện toàn lại thành Ban chỉ đạo Công
tác Gia đình cấp huyện, thành, thị.
b) Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật
Ban chỉ đạo cấp huyện cũng đã làm tốt công tác tham mưu cho UBND
ban hành các văn bản chỉ đạo, phối hợp với các ban, ngành đoàn thể chỉ đạo
thí điểm và nhân rộng các mô hình Câu lạc bộ gia đình phát triển bền vững,
nhóm phòng chống BLGĐ, xây dựng địa chỉ tin cậy, thành lập đường dây
nóng; chỉ đạo các xã phường thị trấn làm tốt công tác hoà giải, công tác thu
thập xử lý các dữ liệu về gia đình và phòng chống bạo lực gia đình.
Xác định, công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác phòng, chống bạo lực
gia đình là một trong những giải pháp cơ bản góp phần nâng cao nhận thức
của nhân dân trong việc thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Hàng
năm, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tham mưu cho UBND tỉnh chỉ đạo
hướng dẫn tổ chức nhiều hoạt động truyền thông, vận động nhằm phổ biến,
45
giáo dục pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình và hậu quả của các hành
vi bạo lực gia đình đến với mọi tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh cụ thể:
Từ năm 2008 đến nay, toàn tỉnh đã tổ chức in và phát hành được 11
nghìn cuốn tài liệu gồm: “Văn bản Quản lý nhà nước về công tác gia
đình”,“Sổ tay công tác gia đình”, “Văn bản Quản lý Nhà nước về xây dựng
đời sống văn hóa và gia đình” Giáo dục đời sống gia đình và 57.064 tờ rơi
“Kiến thức gia đình”, “Hỏi đáp Luật Phòng, chống bạo lực gia đình”, “Tuyên
truyền phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt Nam thời kỳ CNH-HĐH đất nước;
Cấp phát 1.000 cuốn kiến thức gia đình, hỏi đáp về luật PCBLGĐ, Luật Bình
đẳng giới; Xây dựng 8 cụm Pa nô tấm lớn, 724 cụm pa nô, áp phích, 274 băng
zôn, 411 khẩu hiệu truyên truyền về giáo dục đạo đức lối sống truyền thống
của gia đình Việt Nam và Phòng, chống bạo lực gia đình; Mỗi năm có hơn
480 chuyên mục, 1.200 tin, bài được phản ánh về phòng, chống bạo lực gia
đình thông qua Đài truyền thanh cấp xã, cấp huyện; Đài Phát thanh - Truyền
hình tỉnh Vĩnh Phúc với tổng số 21 chuyên mục với 15 phóng sự, 3 buổi toạ
đàm; Xây dựng chuyên trang weside “Chung tay phòng chống bạo lực gia
đình” trên Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc, Báo điện tử Vĩnh Phúc với
6 chuyên mục; nhằm đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến các văn bản
quản lý nhà nước về gia đình, Luật PCBLGĐ, Luật bình đẳng giới, kiến thức
gia đình, địa chỉ tin cậy, đường dây nóng hỗ trợ nạn nhân BLGĐ, Thông qua
đó, đã nâng cao nhận thức cho người dân về phòng, chống bạo lực gia đình,
phòng, chống các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình [33]
Hàng năm nhân kỷ nhiệm ngày gia đình Việt Nam (28/6) từ cấp tỉnh
đến cấp xã đều tổ chức nhiều hoạt động như; Hội diễn văn hoá, văn nghệ, thi
đấu thể dục thể thao gia đình, tổ chức biểu dương, gặp mặt gia đình tiêu biểu
xuất sắc, nói chuyện chuyên đề về công tác gia đình và phòng chống BLGĐ,
đặc biệt năm 2012, năm 2014 nhân ngày Quốc tế xoá bỏ bạo lực đối với Phụ
nữ 25/11, Sở VHTTDL tổ chức Lễ mít tinh diễu hành hưởng ứng chiến dịch
truyền thông về phòng, chống bạo lực gia đình và bình đẳng giới trên địa bàn
46
tỉnh, thu hút được đông đảo cán bộ công chức của các sở ngành, phòng VHTT
cấp huyện và người dân hưởng ứng tham gia [33];
Phối hợp với Sở Tư pháp, Hội LHPN tỉnh chỉ đạo tổ chức cuộc thi tìm
hiểu Luật PCBLGĐ với hình thức sân khấu hoá ở cấp huyện, cấp tỉnh, qua đó
tạo sức lan toả rộng rãi đến các tầng lớp nhân dân trên địa bàn. Sở Tư Pháp
đăng tải các văn bản về phòng, chống bạo lực gia đình trên 30 bản tin tư pháp,
bình quân 5.500 cuốn/sổ, phát hành tới các ngành, các cấp và tổ hòa giải; xây
dựng và phát hành 30 số chuyên mục băng casset, đĩa CD, bình quân 960
đĩa/chuyên mục. Phối hợp với Đài Phát thanh- Truyền hình tỉnh, Báo Vĩnh
Phúc xây dựng và phát hơn 408 chuyên mục “pháp luật và đời sống"... Đưa
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình vào hương ước, quy ước thôn, tổ dân phố.
Sau 8 năm triển khai tuyên truyền dưới nhiều hình thức khác nhau
như: Thông qua các ấn phẩm báo, tạp chí, tài liệu, tờ rơi; Các chuyên mục,
phóng sự truyền hình; Các cụm pa nô, áp phích, khẩu hiệu, băng zôn; Các
buổi hội thảo, hội nghị chuyên đề hay lồng ghép với phong trào “Toàn dân
xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư”, xây dựng quy ước, hương
ước...Luật Phòng, chống bạo lực gia đình thực sự đi vào cuộc sống được đông
đảo cán bộ, đảng viên và người dân hưởng ứng góp phần vào xây dựng "gia
đình, no ấm, tiến bộ, hạnh phúc" [33]
c) Tổ chức bộ máy
Từ năm 2008 mảng gia đình thuộc chức năng quản lý của Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch; Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch với vai trò là cơ quan
chuyên môn giúp UBND tỉnh quản lý Nhà nước về công tác gia đình, tuy
nhiên về đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình, nhìn chung còn thiếu và hạn
chế về chuyên môn. Theo kết quả thống kê về số lượng cán bộ làm công tác
gia đình, đối với cấp tỉnh hiện có 03 đồng chí, trong đó có 1 lãnh đạo Sở trực
tiếp phụ trách; cấp huyện có 9 đồng chí; Ở cơ sở, không có cán bộ chuyên
trách làm công tác gia đình, chỉ có cán bộ văn hóa - xã hội kiêm nhiệm từ đó
làm ảnh hưởng đến việc tổ chức triển khai, thực hiện các nhiệm vụ công tác
47
gia đình, đặc biệt là công tác thu thập, thống kế số liệu về gia đình và phòng
chống bạo lực gia đình là rất khó khăn.
d) Công tác phối hợp liên ngành
Công tác phối hợp liên ngành là một nhiệm vụ hết sức quan trọng
nhằm phát huy vai trò, trách nhiệm của từng ban, ngành, đoàn thể, đồng thời
tạo nên sức mạnh tổng hợp góp phần tích cực thực hiện tốt luật PCBLGĐ.
Hầu hết các Sở, ngành của tỉnh đã làm tốt công tác tuyên truyền, triển khai
các nội dung phòng, chống bạo lực gia đình theo ngành mình quản lý.
Sở Tư pháp đã chỉ đạo Phòng tư pháp các huyện, thành, thị tổ chức
hàng chục buổi tập huấn cho cán bộ làm công tác hoà giải của 137 xã,
phường, thị trấn; hơn 100 buổi tuyên truyền, tư vấn, phổ biến Luật PCBLGĐ,
Luật Bình đẳng giới cho hàng nghìn cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân
dân. Trung tâm trợ giúp pháp lý tổ chức nhiều buổi tuyên truyền lưu động,
phổ biến pháp luật hôn nhân và gia đình và Luật PCBLGĐ [33]
Sở Giáo dục - Đào tạo tuyên truyền nội dung giáo dục đạo đức lối sống
trong nhà trường qua các giờ học, buổi chào cờ, những buổi nói chuyện
chuyên đề, những giờ học ngoại khóa; Tuyên truyền công tác, phòng, chống
bạo lực gia đình trong các Hội thi như “Hội thi Gia đình Sức khỏe và trẻ thơ”
“Hội thi tìm hiểu kiến thức pháp luật”, Hội diễn văn nghệ ...[33].
Sở thông tin truyền thông, Đài Phát thanh - Truyền hình, Báo Vĩnh
Phúc tỉnh đã chỉ đạo làm tốt công tác truyền thông giáo dục, xây dựng các
chuyên mục, phóng sự truyền hình, các trang Wesibe tuyên truyền về công tác
phòng, chống bạo lực gia đình [33]
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội triển khai thực hiện Luật Bình
đẳng giới, Luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em.
Sở Y tế triển khai chỉ đạo các cơ sở Y tế trên địa bàn tỉnh làm tốt công
tác sàng lọc, khám và điều trị chăm sóc, giúp đỡ các nạn nhân bị bạo hành gia
đình. Điển hình là các nạn nhân được cơ sở y tế giúp đỡ gần đây như: Nạn
nhân Đỗ Thị Quyên, xã Đồng Cương, huyện Yên Lạc nhiều lần bị chồng đánh
48
đập phải nhập viện; Chị Nguyễn Thị Liên, xã Bồ Sao, huyện Vĩnh Tường bị
chồng dùng búa đập vào đầu gây tổn hại sức khỏe ... [33]
Hội Liên hiệp Phụ nữ xây dựng mô hình can thiệp PCBLGĐ, tổ chức
ngày hội Gia đình nhân kỷ niệm ngày Gia đình Việt Nam (28/6) gắn với triển
khai nội dung cuộc vận động gia đình “5 không, 3 sạch”; Tổ chức cuộc thi
sáng tác tranh, triển lãm giới thiệu hình ảnh người phụ nữ với phẩm chất, đạo
đức truyền thống; thực hiện đề án “Tuyên truyền, giáo dục phẩm chất đạo đức
phụ nữ Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa đất
nước”; Thực hiện các hoạt động tuyên truyền, giáo dục phẩm chất đạo đức
cho phụ nữ giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, vùng miền [33].
Ủy ban MTTQ, Hội Nông dân, Đoàn thanh niên, Hội Người cao tuổi tổ
chức tốt các hoạt động tuyên truyền nhằm góp phần nâng cao nhận thức về
vai trò, vị trí và trách nhiệm của xã hội và từng gia đình trong việc thực hiện
chính sách, pháp luật hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới; Lồng ghép nội
dung PCBLGĐ vào các hoạt động của phong trào xây dựng "Gia đình văn
hóa" và cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu
dân cư”, phong trào “Xây dựng nông thôn mới” và “Xây dựng đô thị văn
minh”. Các ban, ngành, đoàn thể đã cụ thể hóa nội dung PCBLGĐ với các nội
dung thi đua như phong trào: “Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền”,
“Nuôi con khỏe, dạy con ngoan”, “Xóm, phố bình yên, gia đình hạnh phúc”,
phong trào xoá đói, giảm nghèo..., đồng thời gắn nội dung PCBLGĐ với việc
đăng ký và bình xét danh hiệu "Gia đình văn hóa" [33].
Công an tỉnh, Viện kiểm sát, Toà án thực hiện công tác đấu tranh chủ
động phòng ngừa, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đúng pháp luật. Bên cạnh đó
Công an tỉnh luôn tích cực làm tốt công tác hòa giải ở cơ sở, trực tiếp tư vấn
pháp luật, tư vấn tâm lý cho các nạn nhân trong quá trình giải quyết các vấn
đề liên quan đến BLGĐ [33].
Nhìn chung công tác phối hợp giữa các Sở, ban ngành, đoàn thể trong
việc triển khai thi hành Luật Phòng, chống bạo lực gia đình được triển khai
49
khá đồng bộ từ tỉnh đến cở sở, đem lại nhiều kết quả đáng khích lệ, giúp cho
lãnh đạo, cơ quan đơn vị và người dân nâng cao nhận thức hành vi vi phạm
pháp luật, tham gia vào công tác phòng chống BLGĐ có hiệu quả.
đ) Công tác thanh tra, kiểm tra.
Hàng năm, UBND cấp huyện, xã đã chủ động ban hành kế hoạch thanh
tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình. Về cơ bản
các địa phương đã thực hiện nghiêm văn bản chỉ đạo về triển khai việc thi
hành Luật phòng, chống bạo lực gia đình; đã chủ động tham mưu cho UBND
cùng cấp ban hành kế hoạch phòng, chống bạo lực gia đình và phối hợp với
các ban, ngành đoàn thể để triển khai thực hiện; sự vào cuộc của các ngành
bước đầu đã đảm bảo theo quy định của Luật; các địa phương đã thực hiện
việc tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình trên diện rộng và một số
địa bàn trọng điểm; việc nhân rộng mô hình được nhiều địa phương quan tâm,
chú trọng, hoạt động của các câu lạc bộ, nhóm phòng chống bạo lực gia đình
được duy trì với nội dung sinh hoạt phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, công tác
thanh tra, kiểm tra ở một số địa phương chưa được chú trọng.
2.2.3. Đánh giá chung
2.2.3.1. Kết quả đạt được
- Hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc luôn nhận
được sự quan tâm lãnh, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, nhiều
văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, nhiều chương trình, kế hoạch hành động đã được
xây dựng, tổ chức triển khai thực hiện, góp phần ngăn chặn và làm giảm các
hành vi bạo lực gia đình. Luật phòng, chống bạo lực gia đình từng bước
chuyển tải đến người dân để người dân hiểu biết và tự giác chấp hành, góp
phần quan trọng trong việc phòng ngừa, hạn chế bạo lực gia đình xảy ra trong
ra đình.
- Việc triển khai thi hành Luật phòng, chống bạo lực gia đình và triển
khai thực hiện thí điểm Mô hình can thiệp PCBLGĐ đã có tác dụng thiết thực,
góp phần nâng cao nhận thức, phát huy vai trò vị trí của gia đình, thực hiện tốt
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đối với
50
công tác gia đình, đặc biệt trong việc thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình, Luật Bình đẳng giới, Luật Hôn nhân và Gia đình... góp phần giảm thiểu
các vụ bạo lực gia đình; công tác can thiệp, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình
đã được triển khai kịp thời và có hiệu quả; các huyện, thị, thành phố đã xây
dựng được kế hoạch triển khai thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình;
một số ban, ngành đã phối hợp chỉ đạo thực hiện có hiệu quả việc lồng ghép
tuyên truyền nội dung phòng, chống bạo lực gia đình với Phong trào "Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" với nhiều nội dung, hình thức
phong phú, góp phần nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi trong phòng,
chống bạo lực gia đình, nâng cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân, cộng động
trong việc PCBLGĐ, xây dựng gia đình hoà thuận, ấm no, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc [33].
- Công tác tuyên truyền, phổ biến được phối hợp triển khai thực hiện
với nhiều nội dung, hình thức phong phú, làm cho người dân nâng cao nhận
thức về pháp luật, đặc biệt là nắm rõ được các hành vi vi phạm về bạo lực gia
đình, nâng cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân trong việc Phòng chống
BLGĐ, xây dựng gia đình hoà thuận, tiến bộ, hạnh phúc. Việc tuyên truyền
giáo dục đạo đức lối sống tốt đẹp trong gia đình Việt Nam, đặc biệt là giáo
dục thanh thiếu niên được chú trọng như giáo dục truyền thống tôn sư trọng
đạo, kính trên nhường dưới, ông bà mẫu mực, con cháu thảo hiền ...được duy
trì thường xuyên và liên tục. Tuy nhiên lĩnh vực QLNN về gia đình còn mới,
nên các hoạt động về PCBLGĐ vẫn còn hình thức, chưa phản ánh đúng thực
tế.
- Nhiều địa phương làm tốt công tác thực hiện Luật Phòng, chống bạo
lực gia đình: Thành phố Vĩnh Yên tổ chức thành công cuộc thi “Hòa giải viên
giỏi về PCBLGĐ cấp thành phố” năm 2012 và tổ chức đánh giá sơ kết 5 năm
thực hiện luật bài bản có hiệu quả; Huyện Vĩnh Tường vận dụng sáng tạo đưa
nội dung Luật Phòng, chống bạo lực gia đình bổ sung vào hương ước, quy
ước của các thôn, làng, tổ dân phố và nhân rộng nhiều mô hình can thiệp
PCBLGĐ; Huyện Bình Xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, điều tra, thu
51
thập thống kê, xử lý về BLGĐ; huyện Yên Lạc triển khai chỉ đạo thí điểm các
mô hình can thiệp PCBLGĐ có hiệu quả [33].
2.2.3.2. Hạn chế
- Việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Luật PCBLGĐ của một số cấp uỷ
đảng, chính quyền cơ sở chưa được quan tâm đúng mức, vẫn còn hình thức,
mới chỉ dừng lại ở khâu tổ chức, quán triệt, chưa chỉ đạo quyết liệt, chưa đưa
nội dung PCBLGĐ gắn với kế hoạch phát triển KT-XH hàng năm của địa
phương; sự phối kết hợp giữa các cấp, các ban ngành đoàn thể chưa chặt chẽ
đồng bộ, các nội dung hoạt động chưa phong phú, chính vì vậy công tác
phòng chống BLGĐ còn nhiều hạn chế.
- Công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến Luật và các văn bản thi
hành Luật phòng chống BLGĐ còn đơn giản chưa sâu, hình thức tuyên truyền
chưa đổi mới, do đó người dân thiếu hiểu biết về pháp luật nói chung, luật
phòng chống BLGĐ nói riêng.
- Công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực này chưa phát huy vai trò trách
nhiệm và kỷ cương thực hiện pháp luật chưa nghiêm, Công tác phối hợp giữa
các cấp, các ngành nhất là ở cơ sở chưa chặt chẽ đồng bộ; các biện pháp ngăn
chặn, xử lý các hành vi bạo lực gia đình chưa kịp thời; công tác tư vấn, giải
quyết mâu thuẫn trong gia đình theo pháp luật còn yếu.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình nhất là ở cơ sở chưa thật sự
nắm chắc các quy định của Luật PCBLGĐ, ảnh hưởng không nhỏ đến việc
chỉ đạo thực hiện các mô hình điểm thể hiện ở sự lúng túng, hiệu quả chỉ đạo
chưa cao.
- Công tác thống kê, thu thập số liệu về bạo lực gia đình chưa thực sự
chính xác, chưa phản ánh đúng thực tế, nhiều vụ BLGĐ xảy ra chưa được
thống kê đầy đủ, số liệu này chủ yếu là phụ thuộc vào sự nhiệt tình của đội
ngũ cán bộ cơ sở.
- Kinh phí dành cho công tác phòng chống bạo lực gia đình còn ở mức
thấp. Thực sự chưa đáp ứng được so với nhiệm vụ đặt ra.
2.2.3.3. Nguyên nhân hạn chế
52
Kinh phí đầu tư cho công tác phòng, chống bạo lực gia đình còn hạn
chế.
Việc triển khai chỉ đạo thực hiện Luật phòng chống bạo lực gia đình
chưa được các cấp ủy Đảng quan tâm đúng mức; đội ngũ cán bộ làm công tác
gia đình từ cấp huyện, cấp xã còn hoạt động kiêm nhiệm, chưa nắm chắc về
kiến thức về Luật phòng chống bạo lực gia đình, phần lớn còn yếu về năng
lực chuyên môn, đôi khi còn lúng túng trong việc triển khai hoạt động.
Bạo lực gia đình đã bị nhìn nhận chưa đúng với tính chất nghiêm trọng
của nó, công tác tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình chưa thực sự
hiệu quả để giúp cho chính quyền và người dân nhận thấy trách nhiệm, nghĩa
vụ trong việc ngăn chặn bạo lực gia đình ở mỗi địa phương.
Việc phát hiện và xử lý các vụ bạo lực gia đình chưa kịp thời, kiên
quyết, nghiêm minh. Hình thức phạt đối với các đối tượng gây bạo lực gia
đình còn nhẹ, chưa đủ sức răn đe.
Việc kiểm tra, cập nhật thông tin về bạo lực gia đình còn chậm, chưa
kịp thời.
Công tác phát hiện, thống kê báo cáo về bạo lực gia đình rất khó khăn
nên việc xử lý các hành vi vi phạm bạo lực gia đình chưa kịp thời.
Ý thức chấp hành pháp luật nói chung và các chính sách, pháp luật liên
quan công tác gia đình của một bộ phận người dân chưa cao.
2.3. Trách nhiệm của chính quyền địa phƣơng trong phòng, chống
vi phạm pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình.
Luật Phòng chống bạo lực gia đình có một chương riêng quy định trách
nhiệm của của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực
gia đình.
Có thể thấy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền trong phòng, chống bạo lực gia đình còn rất mờ nhạt, mà nguyên nhân
chính là do các cơ quan này chưa thật sự ý thức được tầm quan trọng, ý nghĩa
của công tác này, cũng như trách nhiệm, nghĩa vụ đã được pháp luật quy
53
định.Trong khi đó, pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình cũng chưa có
một quy định chặt chẽ để ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan này.
Thực tiễn vấn nạn bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc cho thấy: Việc
thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình để nâng cao sự hiểu
biết, từ đó làm thay đổi về nhận thức vấn đề là hết sức quan trọng và cần thiết,
nhưng dường như chưa được chú ý đúng mức. Pháp luật đã quy định nhưng
lại không đề ra cơ chế cho việc thực thi trên thực tế, mà chỉ quy định chung
chung trong Chương 4 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình về trách nhiệm
của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong thi hành Luật [29]. Vì vậy, cần có
những quy định chi tiết hơn về vấn đề này. Cần quy định việc tuyên truyền
này như là một trách nhiệm thường xuyên của một cơ quan, tổ chức cụ thể ở
từng địa phương, từng cơ sở.
Để mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần ngăn chặn bạo lực gia đình,
trước tiên chính bản thân mỗi nạn nhân phải chủ động lên tiếng nhờ sự can
thiệp, giúp đỡ từ các đoàn thể, chính quyền địa phương.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng luật bình đẳng giới và luật
phòng chống bạo lực gia đình trong mọi tầng lớp nhân dân.
Về mặt quản lý nhà nước, bên cạnh việc hoàn thiện khung hành lang
pháp lý, thì chính quyền các cấp cần xử lý nghiêm đối với các hành vi vi
phạm, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể nhân dân mà nòng cốt là
Hội Nông dân và Hội Liên hiệp Phụ nữ xây dựng mô hình phòng chống bạo
lực gia đình ở địa phương, làm cho mỗi gia đình hiểu rõ vai trò, trách nhiệm
của mình để xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, bền vững.
Cần xem công tác phòng chống bạo lực gia đình là trách nhiệm của mọi
gia đình và toàn xã hội chứ không của riêng ai.
54
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Chương 2 của luận văn tập trung phân tích thực trạng vi phạm pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc từ năm 2008 đến nay đồng thời
chỉ ra và phân tích các nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên. Trên cơ sở các
kết quả nghiên cứu về bạo lực gia đình, các báo cáo tình hình xét xử của Toà
án tỉnh Vĩnh Phúc, cho ta thấy tình trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình đang ở mức báo động, số lượng, tính chất và mức độ vi phạm của
các vụ vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình ngày càng tăng, càng
nguy hiểm, gây thiệt hại lớn cho gia đình và cho cả xã hội.
Qua sự trình bày thực trạng cũng như nguyên nhân dẫn đến vi phạm
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình cho thấy bức tranh toàn cảnh về vi
phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc hiện nay. Đây là
cơ sở thực tiễn để làm căn cứ cho việc đề ra và luận chứng giải pháp phòng,
chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình trong
thời gian tới.
55
Chƣơng 3 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH Ở TỈNH VĨNH PHÚC
3.1. Phƣơng hƣớng giảm thiểu vi phạm pháp luật về phòng, chống
bạo lực gia đình
3.1.1. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí minh và quan điểm của Đảng về
xây dựng gia đình và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người
Gia đình là tế bào của xã hội, nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan
trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và
phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn
nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: "Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt
thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã hội là gia
đình". Sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã đạt được
những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội, góp phần nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi gia đình. Kinh tế hộ gia đình thực
sự đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự tăng trưởng tổng thu nhập
quốc dân hàng năm. Phong trào xây dựng đời sống văn hoá mới ở cơ sở phát
triển, ngày càng có nhiều gia đình văn hoá, góp phần gìn giữ và phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, cũng như
nhiều tỉnh, thành khác, bạo lực gia đình đang làm nhiều gia đình đã mất đi
những giá trị truyền thống tốt đẹp và đang đứng trước nguy cơ tan vỡ, làm
ảnh hưởng đến sự phát triển chung của xã hội.
Chính vì vậy, việc xây dựng và phát triển gia đình; phòng và chống vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình là sự nghiệp của
toàn Đảng, toàn dân, là trách nhiệm của mỗi gia đình và toàn xã hội. Để
nhiệm vụ này được hoàn thành với kết quả tốt đẹp, chúng ta cần quán triệt tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về xây dựng gia đình và bảo vệ
56
quyền lợi hợp pháp của con người. Điều này có tầm quan trọng và ý nghĩa đặc
biệt sâu sắc. Xây dựng gia đình hạnh phúc, không có bạo lực là vấn đề được
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Chính vì vậy, ngay sau khi miền Bắc
được giải phóng, năm 1954, tại Hội nghị cán bộ dự thảo Luật Hôn nhân và
Gia đình, Chủ tịch Hồ Chí minh đã khẳng định: Luật Hôn nhân và Gia đình là
bộ luật tiến bộ và cách mạng bởi nó có vai trò to lớn đối với sự nghiệp xây
dựng gia đình mới.
3.1.2. Quán triệt quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền là một bước tiến khoa học vĩ đại
trong lịch sử nhân loại. Nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà
nước riêng gắn liền với một giai cấp, như nhà nước chủ nô, nhà nước phong
kiến, nhà nước tư sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa, mà là một hình thức tổ
chức nhà nước, một trình độ phát triển của nhà nước về phương diện tổ chức -
thiết kế, hoạt động trong đó có sự phân công và tổ chức quyền lực nhà nước
để bảo đảm Hiến pháp và pháp luật giữ vị trí tối cao. Chính vì tính tối ưu của
Nhà nước pháp quyền mà Đảng ta nhất quán chủ trương xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam sẽ là tiền đề quan trọng tạo ra sự đồng thuận, phát triển trong xã
hội, xây dựng một đất nước hiện đại, đem lại hạnh phúc cho nhân dân.
Từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII (1-1994), Đảng ta đã dùng khái
niệm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong nội dung phần 2 về những
nhiệm vụ chủ yếu trong thời gian tới, đã nêu nhiệm vụ thứ 7: "xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân". Đại hội VIII cũng đã
tiếp tục khẳng định tinh thần, quan điểm này. Văn kiện Đại hội XI khẳng
định: "Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo; thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế,
quản lý xã hội; giải quyết đúng mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức
57
khác trong hệ thống chính trị, với nhân dân, với thị trường. Nâng cao năng lực
quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương. Nhà nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo
đảm quyền, lợi ích chính đáng của mọi người dân. Nghiên cứu xây dựng, bổ
sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong
việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” [16].
Văn kiện đại hội XII cũng khẳng định đường lối tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: " Tiếp tục hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong
sạch, vững mạnh; hoàn thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh cải cách hành
chính, cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có
phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; phát huy dân chủ, tăng
cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tệ nạn xã hội và tội phạm" [17]
Nhà nước pháp quyền mà Việt Nam đang xây dựng và hoàn thiện có
các đặc trưng sau đây:
Một là, đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân; tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về Nhân dân.
Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp,
kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp.
Ba là, Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân;
công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân;
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Bốn là, Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp
luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ.
58
Năm là, Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công
dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa nhà nước và công dân; thực hành dân
chủ, đồng thời tăng cường kỷ cường, kỷ luật.
Sáu là, Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt
Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Với những đặc trưng trên, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ phát huy được vai
trò làm chủ của nhân dân. Mỗi người dân, khi họ thực sự là chủ thể của mọi
quyền lực và là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, họ sẽ có trách nhiệm
hơn đối với đất nước, phát huy và cống hiến hết khả năng của mình cho đất
nước. Điều này sẽ tạo nên một sức mạnh tổng hợp rất lớn, sức mạnh ấy là tiền
đề quyết định sự thành công trong sự nghiệp đổi mới toàn diện xã hội. Đồng
thời, với vai trò là người chủ của quyền lực nhà nước, mỗi công dân sẽ sống
tốt hơn, thực hiện nghiêm minh những quy định do ý chí chung của toàn xã
hội đặt ra, sống và làm việc theo pháp luật, đặt mình trong khuôn khổ pháp
luật, từ đó sẽ hạn chế được tình trạng vi phạm pháp luật nói chung trong đó có
vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bao lực gia đình. Các cơ quan
nhà nước, trong phạm vi quyền hạn và nhiệm vụ của mình, thực hiện tốt chức
năng của mình, có sự phối kết hợp trong việc phòng ngừa, phát hiện và xử lý
nghiêm minh hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Như
vậy, vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình sẽ được
hạn chế ngay từ khi nó có nguy cơ hình thành đồng thời mọi hành vi vi phạm
sẽ được phát hiện và xử lý nghiêm minh, từ đó hình thành nên ý thức pháp
luật cao trong xã hội. Pháp luật là phương tiện quan trọng và hữu hiệu nhất
trong việc điều chỉnh hành vi của con người, các mối quan hệ xã hội. Các cơ
quan nhà nước, các tổ chức và mọi công dân đều phải đặt mình trong khuôn
khổ pháp luật. Phòng, chống bạo lực gia đình đã được luật hoá, mỗi thành
59
viên trong gia đình được bảo vệ trong hành lang pháp luật. Do vậy, các chủ
thể trong xã hội không thể lấy gia đình ra làm rào chắn cho hành vi trái pháp
luật của mình và họ sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý khi xâm hại đến các quy
phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Vi
phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình là hành vi xâm hại đến quyền
con người, quyền công dân. Vì vậy, trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, nạn nhân của bạo hành gia đình sẽ được bảo vệ kịp thời và tốt nhất,
đảm bảo các quyền con người và quyền công dân của mình.
Như vậy, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là một chủ trương đúng đắn
của Đảng ta, thể hiện sự nhận thức sâu sắc tính ưu việt của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một đảm
bảo để loại bỏ, triệt tiêu mọi lực cản đối với sự phát triển trong xã hội trong
đó có tình trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Quán triệt
và thực hiện tốt chủ trương này, nhất định Việt Nam sẽ thu được nhiều thành
công tốt đẹp trên con đường đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
3.2. Giải pháp giảm thiểu vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo
lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc
Hiện nay, đất nước ta đang trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, thực hiện nền kinh tế thị trường
XHCN, mở rộng dân chủ xã hội, tăng cường xã hội hoá và đặc biệt, đang hội
nhập đầy đủ với khu vực, thế giới và toàn cầu. Để đạt được thành công,
những kết quả tốt đẹp trên con đường đổi mới đất nước, đem lại cuộc sống
hạnh phúc cho nhân dân, điều quan trọng hơn bao giờ hết là chúng ta cần loại
bỏ những trở ngại, khó khăn, những yếu tố cản trở sự phát triển. Một trong
những lực cản sự phát triển của xã hội, đó là tình trạng vi phạm pháp luật
trong đó có vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Nhưng qua
phân tích ở chương 2, trong thực tế xã hội, rất nhiều người là nạn nhân của
bạo lực gia đình, việc phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực
60
gia đình là yêu cầu cấp bách trước thực trạng vi phạm pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc hiện nay. Tình trạng vi phạm pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình trở thành một bài toán khó đối với các cấp chính
quyền, các cơ quan bảo vệ pháp luật. Mặc dù nó không phải là vấn đề mới
nhưng lại rất khó, bởi vì đây là vấn đề ít được quan tâm của chính quyền các
cấp, đặc biệt là của xã hội. Đi tìm lời giải cho bài toán này là một công việc
rất khó khăn và đòi hỏi phải có sự chung tay của toàn xã hội. Lời giải cho bài
toán này chính là các giải pháp cụ thể mang tính khoa học, khả thi, có sức
mạnh phá vỡ sự hình thành, tồn tại và phát triển của vi phạm pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình. Tất cả các giải pháp hợp thành một vũ khí sắc bén,
hiệu quả trong cuộc chiến đấu với nạn bạo hành gia đình, với sự coi thường
và xâm hại đến các quy phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Trong
khuôn khổ luận văn này, tác giả xin nêu ra một số giải pháp cơ bản nhằm
phòng, chống vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.
3.2.1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống
bạo lực gia đình
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình là hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình còn chưa hoàn thiện. Vì vậy, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật phòng, chống bạo lực gia đình là cực kỳ cần thiết, quan trọng và cấp bách
trong giai đoạn hiện nay. Sự giao thoa và tác động đa chiều ở mọi lĩnh vực
của đời sống kinh tế-xã hội của Việt Nam trên con đường xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCH của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; thực hiện nền
kinh tế thị trường XHCN, mở rộng dân chủ xã hội, tăng cường xã hội hoá,
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đã tạo ra những thay đổi
nhanh chóng. Những gì hôm nay, hiện tại là đúng thì ngày mai có thể đã trở
thành lạc hậu. Nhu cầu của xã hội, của nhân dân cũng thay đổi theo nhịp sống
thời đại, đòi hỏi pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, bắt đầu từ nhận
thức của các nhà lãnh đạo, hoạch định chính sách đến hệ thống pháp luật,
61
cũng phải không ngừng được đổi mới, hoàn thiện. Đó là một nhu cầu tất yếu
khách quan.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có chất lượng tốt về nội
dung, hình thức thể hiện cả trong tổ chức thực hiện là một trong những trọng
tâm, đòi hỏi cấp thiết của việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
hiện nay. Để có một hệ thống pháp luật hoàn thiện, đòi hỏi từng bộ phận trong
hệ thống cũng phải hoàn thiện và do đó việc hoàn thiện pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật của nước ta. Mặt khác, từng bộ phận trong hệ thống pháp luật có
mối liên hệ tương hỗ, gắn bó hữu cơ, bởi tuy chúng sinh ra để điều chỉnh các
quan hệ xã hội khác nhau nhưng các quan hệ xã hội này lại phát sinh trên
cùng một nền tảng kinh tế xã hội. Chính vì vậy, việc hoàn thiện một bộ phận
trong hệ thống đó phải đặt trong mối liên hệ với việc hoàn thiện các bộ phận
khác. Pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình là một bộ phận của pháp luật
nói chung, do đó việc hoàn thiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
phải đặt trong tổng thể việc hoàn thiện các quy định của pháp luật nói chung.
Mặt khác, để bảo đảm thực hiện được các quy định pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình còn cần phải chú ý đến tác động của các thể chế khác như
kinh tế, xã hội... Các thể chế này tuy không trực tiếp điều chỉnh các vấn đề
phòng, chống bạo lực gia đình nhưng lại tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ về giá
trị vật chất, nâng cao ý thức pháp luật cho mọi người tham gia hoạt động
phòng, chống bạo lực gia đình, đảm bảo cho hoạt động này đạt được hiệu quả
thiết thực.
Trước yêu cầu đổi mới đất nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật nói
chung là tiền đề cần thiết hoàn thiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia
đình. Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về
chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020. Nghị quyết này là cơ sở xác định nội dung
cơ bản việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật phòng, chống bạo lực
gia đình nói riêng: "Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ,
62
thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân;
đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và
hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị,
phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững
mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp
phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020" [4].
Hoàn thiện pháp luật là một quá trình liên tục, có nhiều khó khăn phức
tạp, đòi hỏi có sự quan tâm, nỗ lực của từng cơ quan, tổ chức và cá nhân có
nhiệm vụ soạn thảo, ban hành, hướng dẫn các văn bản quy phạm pháp luật có
liên quan trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Do vậy, việc tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
ở Việt Nam trong những năm tới cần định hướng tập trung mọi nguồn lực, đề
cao trách nhiệm của các ngành, các cấp, phấn đấu xây dựng hệ thống pháp
luật về phòng, chống bạo lực gia đình đủ về số lượng, nâng cao về chất lượng,
phấn đấu năm 2020, hệ thống pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình đạt
đến trình độ tương đối thống nhất, đồng bộ, toàn diện, bảo đảm kỹ thuật văn
bản, phù hợp với pháp luật quốc tế. Đây chính là các tiêu chí, các yêu cầu của
chương trình đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng
văn bản quy phạm pháp luật trong đó có pháp luật về phòng chống bạo lực gia
đình.
Trong những năm qua, thực tiễn xây dựng pháp luật cho thấy rằng
không thể có pháp luật có hiệu lực và hiệu quả khi nó không trở thành hệ
thống pháp luật chung. Điều này có nghĩa là, khi mà bộ phận cấu thành nên
pháp luật thiếu tính thống nhất, đồng bộ, toàn diện, kỹ thuật văn bản và còn
có những quy định mâu thuẫn ảnh hưởng đến hiệu quả điều chỉnh của nhau
thì không thể nói hiệu quả của quá trình xây dựng pháp luật. Vì vậy, muốn
hoàn thiện pháp luật cho từng lĩnh vực cụ thể thì không thể chỉ chú ý đến việc
63
hoàn thiện từng bộ phận pháp luật mà phải chú ý đến mối liên hệ, tính hệ
thống giữa các bộ phận đó. Ngược lại, để đảm bảo tính hệ thống, khi hoàn
thiện từng bộ của pháp luật, phải đặt nó trong tổng thể các yêu cầu khách
quan, mục tiêu, phương hướng hoàn thiện pháp luật. Do pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình có những đặc thù riêng, bao gồm các quy phạm điều
chỉnh các quan hệ liên quan đến phòng, chống bạo lực gia đình, nhằm bảo vệ
các quyền của con người, giữ vững ổn định và trật tự xã hội nên việc hoàn
thiện các bộ phận pháp luật này phải được đặt trong mối quan hệ với hoàn
thiện pháp luật chung. Thể hiện:
Tính thống nhất là đòi hỏi các văn bản pháp luật chứa đựng các quy
phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình không mâu thuẫn, chồng chéo,
triệt tiêu lẫn nhau, bảo đảm sự liên kết chặt chẽ, sự phối hợp tác động điều
chỉnh các văn bản theo một chiều hướng nhất định và sự thống nhất giữa nội
dung văn bản với đối tượng phản ánh, tức là các quan hệ kinh tế, xã hội hiện
thực nhằm bảo đảm giá trị thực tế của hệ thống pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình.
Toàn diện là việc pháp điển hoá các quan hệ xã hội về phòng, chống
bạo lực gia đình, tiến tới nâng cao việc điều chỉnh các quan hệ xã hội đó bằng
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, đặc biệt là những quan hệ xã hội liên
quan đến phòng, chống bạo lực gia đình phát sinh trong những tình huống
phức tạp, nhạy cảm trong gia đình, những hành vi vi phạm pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình trong đời sống xã hội.
Đồng bộ là phải bảo đảm việc ban hành các văn bản pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình tránh chồng chéo nhau; các văn bản của cấp dưới phải
phù hợp với các văn bản của cấp trên; văn bản dưới luật phải phù hợp với
Hiến pháp và Luật.
Kỹ thuật văn bản là một vấn đề rộng lớn phức tạp trong đó có ba điểm
quan trọng, cần thiết, chú ý khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình:
64
- Kỹ thuật pháp lý thể hiện những nguyên tắc tối ưu được vạch ra để áp
dụng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật phòng, chống bạo lực
gia đình.
- Trình độ kỹ thuật pháp lý thể hiện ở việc xác định chính xác cơ cấu
của pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình.
- Các biểu đạt bằng ngôn ngữ pháp lý, phải đảm bảo tính cô đọng,
logic, chính xác và một nghĩa.
Trên thực tế, chúng ta đã có một hệ thống pháp luật về phòng, chống
bạo lực gia đình mà đỉnh cao là Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Hệ thống
pháp luật này đã có những tác động tích cực trong nhận thức và thực tiễn hoạt
động phòng, chống bạo lực gia đình ở nước ta, từng bước đưa hoạt động
phòng, chống bạo lực gia đình đi vào nề nếp, ngăn chặn hành vi bạo lực gia
đình, hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho người bị bạo lực. Lần đầu tiên chúng ta có một văn bản pháp lý
quy định trực tiếp về phòng, chống bạo lực gia đình và đã có ý nghĩa rất lớn
trên con đường hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống
bạo lực gia đình. Tuy nhiên, sau một thời gian có hiệu lực, Luật Phòng, chống
bạo lực gia đình vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế. Những hạn chế này đã được
luận văn phân tích tại chương 2.
Theo luận văn, để Luật Phòng, chống bạo lực gia đình nói riêng cũng
như hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình được thực thi trong
cuộc sống, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan chức năng áp dụng dễ
dàng và xử lý chính xác các vụ vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng,
chống bạo lực gia đình, cần có văn bản pháp luật cụ thể hoá các quy định
chung chung trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Đồng thời, trong các
văn bản pháp luật trong hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình cần
quy định rõ hành vi vi phạm nào, ở mức độ nào thì xử lý hành chính và xử lý
như thế nào, và ở từng hành vi bạo lực gia đình cụ thể thì hành vi nào, mức độ
nào cấu thành tội phạm. Hơn nữa, trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
cần hình sự hoá các hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình,
65
quy định cụ thể về tội phạm trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Có
như vậy mới có tính răn đe đối với chủ thể vi phạm và với những người khác,
dễ dàng trong việc áp dụng, xử lý, tránh được tình trạng bỏ lọt tội phạm trong
lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Vì vậy, các cơ quan có trách nhiệm
cần sớm ban hành các văn bản pháp luật để cụ thể hoá, hướng dẫn thi hành
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Hiện nay, Chính phủ đã ban hành Nghị
định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình, Nghị định số 08/2009/NĐ-CP, nhưng xét một cách
tổng quát thì Nghị định này chưa cụ thể và giải quyết được nhiều vấn đề
chung chung trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Ngày 12 tháng 11
năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 167/2013/NĐ-CP Nghị định
Quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
phòng chống tệ nạn xã hội, phòng cháy và chữa cháy, phòng, chống bạo lực
gia đình. Nghị định hướng dẫn về xử phạt hành chính chi tiết, cụ thể vi phạm
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Đây là điều kiện thuận lợi để các cơ
quan thực thi pháp luật áp dụng một cách chính xác, không xử lý oan đồng
thời không bỏ lọt hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này, tạo cơ sở
pháp lý chặt chẽ, đầy đủ nhằm hạn chế và đẩy lùi tình trạng vi phạm pháp luật
trong phòng, chống bạo lực gia đình, giúp công tác phòng, chống bạo lực gia
đình đạt được hiệu quả cao.
Với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình, Bộ luật Hình sự của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam nên quy định cụ thể những tội danh về bạo lực gia đình
(nếu Luật Phòng, chống bạo lực gia đình không quy định cụ thể về tội phạm
trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình) bởi vì cùng là các hành vi như
nhau nhưng trong gia đình và ngoài gia đình thì tính chất và mức độ nguy
hiểm của hành vi, ý thức và thái độ phủ nhận yêu cầu của pháp luật của chủ
thể vi phạm là khác nhau. Quy định cụ thể như vậy sẽ có tác dụng răn đe đối
với các hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong đó có
66
hành vi bạo hành gia đình đồng thời đạt được hiệu quả trong công tác phòng
chống bạo lực gia đình.
Như vậy, hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình hiện tại còn
nhiều điểm hạn chế. Vì vậy, để tăng cường hiệu quả công tác phòng, chống vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình, việc khắc phục
những hạn chế đó là điều rất cần thiết để chúng ta hoàn thiện hệ thống pháp
luật phòng, chống bạo lực gia đình. Khi hệ thống pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình được hoàn thiện, thống nhất sẽ là cơ sở pháp lý cho việc áp dụng,
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, từ đó góp
phần hạn chế vi phạm pháp luật.
3.2.2. Hoàn thiện cơ chế xã hội phòng, chống vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình
Bạo lực gia đình đang hoành hành và lây lan nhanh chóng trong xã hội,
xâm nhập vào mỗi gia đình và ngày càng nhiều gia đình đang phải sống
chung với bạo lực gia đình nhưng giường như xã hội vẫn thờ ơ, dửng dưng
với vấn đề này. Mặc dù vấn đề phòng, chống bạo lực gia đình đã được Luật
hoá, được đặt dưới sự điều chỉnh của pháp luật, bạo hành gia đình đã trở
thành vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình nhưng cộng đồng xã
hội vẫn khoanh tay đứng nhìn, vẫn coi đó là vấn đề riêng của mỗi gia đình, vì
thế mỗi gia đình tự đóng cửa bảo nhau. Như vậy, phải chăng, chính cộng
đồng xã hội đã tạo điều kiện để vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình phát triển. Vì vậy, đã đến lúc, cả xã hội phải chung tay, góp sức lại để
triệt tiêu vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo hành gia đình. Sự
chung tay của cả xã hội sẽ tạo nên một sức mạnh tổng hợp có thể ngăn chặn,
đẩy lùi tình trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Chính vì
vậy, việc hoàn thiện cơ chế xã hội phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực phòng, chống bạo lực gia đình là rất cần thiết và đặc biệt quan trọng.
Hoàn thiện cơ chế xã hội phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực phòng, chống bạo lực gia đình tức là hoàn thiện cách thức tổ chức, hành
động của xã hội đối với vấn đề vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống
67
bạo lực gia đình. Điều đó có nghĩa là tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong xã hội cần có cách thức hành động cần thiết, tích cực trong sự phối kết
hợp chặt chẽ đối với hiện tượng xã hội là vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
phòng, chống bạo lực gia đình. Nội dung của giải pháp này, trước hết, cần
nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, trách nhiệm của cá nhân, gia đình và
cộng đồng xã hội trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống
bạo lực gia đình. Tiếp đó, xã hội cần có những hành động cụ thể góp phần vào
việc ngăn chặn, đẩy lùi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, góp
phần xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững, giữ vững trật tự và ổn định xã
hội.
a) Xây dựng mạng lưới phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
phòng, chống bạo lực gia đình có sự thống nhất chỉ đạo hành động từ Trung
ương đến các cấp chính quyền địa phương
Để công tác phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng,
chống bạo lực gia đình đạt được hiệu quả, theo luận văn, cần phải thành lập
ngay một mạng lưới chuyên trách ngăn chặn bạo lực từ Trung ương tới từng
địa phương. Ở cấp Trung ương cần có một Uỷ ban về phòng, chống bạo lực
gia đình, mỗi tỉnh, huyện, có Ban phòng, chống bạo lực; mỗi xã có đội phòng,
chống bạo lực gia đình; mỗi thôn, xóm có nhóm can thiệp phòng, chống bạo
lực gia đình.
Thành phần của Ban/đội phòng, chống bạo lực gia đình gồm:
- Trưởng ban/đội trưởng: đại diện của chính quyền (chủ tịch hoặc phó
chủ tịch tỉnh, huyện, xã) ;
- Các phó ban/ phó đội trưởng;
- Các uỷ viên: cán bộ chính quyền, công an, y tế, thành viên trong các tổ
chức chính trị - xã hội.
Các thành viên phải là người có uy tín, nghiêm túc, có kinh nghiệm,
gương mẫu trong cuộc sống, được người dân địa phương tín nhiệm, những
người đứng đầu trong các dòng tộc, các chức sắc tôn giáo, những người có
68
kiến thức và kỹ năng về pháp luật về bình đẳng giới, tư vấn, hoà giải, biết
cách tiếp cận đối tượng...
Ở cấp xã, phường, thị trấn, việc thành lập Đội phòng, chống bạo lực gia
đình là đặc biệt cần thiết bởi cấp xã là nơi trực tiếp xảy ra các vụ bạo lực gia
đình. Vì vậy, phòng, chống từ cơ sở sẽ có tác dụng rất lớn trong việc ngăn
chặn các vụ bạo lực gia đình bởi vì nếu không ngăn chặn kịp thời, nó sẽ kéo
theo các vụ vi phạm pháp luật phòng, chống vi phạm pháp luật liên quan cũng
như các vụ vi phạm khác. Các thành viên của đội phòng chống BLGĐ tư vấn
cho các nạn nhân cũng như những người gây ra bạo lực đồng thời các thành
viên làm luôn nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình, bình đẳng giới, quyền của phụ nữ, trách nhiệm của mỗi công dân
trước vấn đề bạo lực gia đình. Đội phòng, chống bạo lực gia đình có trụ sở
sinh hoạt tại trụ sở UBND xã, phường, thị trấn. Đội có mạng lưới các thành
viên và cộng tác viên ở khắp các xóm, thôn.
Ở cấp thôn, xóm, thành lập nhóm người tình nguyện tham gia phòng,
chống bạo lực gia đình. Họ sẽ là người phát hiện sớm nhất những trường hợp
bạo lực gia đình trong thôn, xóm để hoà giải hoặc báo cáo cho Đội phòng,
chống bạo lực gia đình ở cấp xã, huyện. Chức năng chính của nhóm phòng,
chống bạo lực gia đình: rà soát, lập danh sách theo dõi các gia đình hay có
hành vi bạo lực; lập kế hoạch và thực hiện tuyên truyền vận động; tập huấn
cho cán bộ cơ sở; thành lập, chỉ đạo hoạt động của các Câu lạc bộ; tham gia
tư vấn trực tiếp cho các gia đình; can thiệp xử lý các vụ bạo lực gia đình; tư
vấn hoà giải, giúp đỡ nạn nhân và gia đình nạn nhân bị bạo lực. Hoạt động
của nhóm phòng, chống bạo lực gia đình cần đảm bảo cho các vụ vi phạm
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình được:
- Trấn áp tức thời: Khi phát hiện một hành vi bạo lực gia đình, một hoặc
nhiều thành viên của nhóm can thiệp phòng, chống bạo lực gia đình phải có
mặt kịp thời và phải phối hợp cùng nhau ngăn chặn ngay hành vi bạo lực đó,
trấn áp người gây ra bạo lực và bảo vệ, chăm sóc nạn nhân.
69
- Tư vấn, hoà giải: Mỗi xã, phường cần có một phòng tư vấn để tiến
hành công tác tư vấn nhằm giải quyết vấn đề bạo lực cho địa phương. Các
thành viên trong nhóm ngăn chặn bạo lực có trách nhiệm tìm cách tiếp cận
phù hợp để tư vấn, hoà giải và giải quyết mâu thuẫn. Bên cạnh đó cũng
khuyến khích sự can thiệp, hoà giải ở gia đình, dòng họ.
- Xử lý theo pháp luật: Chính quyền phải xử lý một cách nghiêm minh
những người có hành vi bạo lực gia đình tuỳ theo tính chất và mức độ vi
phạm để không bỏ lọt, bao che, dung túng cho hành vi bạo lực từ đó dẫn đến
tình trạng có tâm lý coi thường pháp luật. Việc xử lý kịp thời, nghiêm khắc có
tác dụng giáo dục và răn đe đối với người vi phạm đồng thời với những người
khác trong cộng đồng.
- Theo dõi, giám sát để hành vi bạo lực gia đình không tái diễn: Đối với
các đối tượng đã từng có hành vi bạo lực gia đình thì mạng lưới ngăn chặn
bạo lực cần thực hiện những hoạt động có tính giáo dục trực tiếp để họ không
tái diễn.
b) Mở rộng và đẩy mạnh hoạt động của các cơ sở tư vấn, cơ sở hỗ trợ về
phòng, chống bạo lực gia đình
Bên cạnh việc xây dựng mạng lưới chuyên trách ngăn chặn bạo lực gia
đình, để hoàn thiện cơ chế xã hội phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực phòng, chống bạo lực gia đình, cần mở rộng và đẩy mạnh hoạt động của
các cơ sở tư vấn và hỗ trợ về phòng, chống bạo lực gia đình đồng thời thực
hiện xã hội hoá trên các lĩnh vực: giáo dục, y tế, dạy nghề, văn hoá, văn nghệ,
thể thao. Số lượng và chất lượng hoạt động của các cơ sở tư vấn và hỗ trợ
phải được tăng cường. Các cơ sở tư vấn và hỗ trợ về phòng, chống bạo lực gia
đình được thành lập và giải thể theo sự hướng dẫn của Bộ Văn hoá, Thể thao
và Du lịch. Các cơ sở tư vấn, hỗ trợ sẽ giúp người bị bạo hành nâng cao nhận
thức của mình về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, thấy được mình là
đối tượng được pháp luật bảo vệ, biết cách bảo vệ mình trước bạo lực gia đình
đồng thời bảo vệ, hỗ trợ họ khi họ là nạn nhân của bạo lực gia đình. Các cơ sở
70
tư vấn và hỗ trợ về phòng, chống bạo lực gia đình còn có vai trò tuyên truyền,
phổ biến giáo dục pháp luật, kiến thức về phòng, chống bạo lực gia đình.
c) Nâng cao nhận thức và tăng cường năng lực hoạt động của cả xã hội
trong sự phối kết hợp chặt chẽ
Trong thực tế xã hội, ở nhiều địa phương, khi nạn nhân cần sự giúp đỡ
của chính quyền thì nhiều cơ quan chức năng vẫn chỉ muốn "bình thường
hoá" những xung đột trong gia đình, không quan tâm giải quyết đơn thư, lơ là
công tác giám sát, giải quyết các vụ bạo lực gia đình.
Đã đến lúc cần xã hội hoá vấn đề phòng, chống vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Mỗi cá nhân, mỗi cơ quan, tổ chức
trong xã hội, cần xác định được trách nhiệm của mình đối với vấn đề vi phạm
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình không còn là vấn
đề riêng của mỗi gia đình để mỗi gia đình tự đóng cửa bảo nhau mà là vấn đề
chung của xã hội, cần sự chung tay của cả xã hội. Có như vậy, việc phòng,
chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình mới
đạt được hiệu quả thiết thực. Mỗi cá nhân trong xã hội sẽ là một mắt xích
quan trọng trong mạng lưới phòng, chống vi phạm pháp luật mà hổng mắt
xích nào trong mạng lưới đó sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của cuộc đấu tranh
chống lại vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Vì
thế phải nâng cao nhận thức và tăng cường năng lực hoạt động của mỗi cá
nhân, mỗi gia đình, mỗi cơ quan nhà nước, mỗi tổ chức xã hội trong công tác
phòng, chống bạo lực gia đình. Mỗi cá nhân phải thực hiện nghiêm chỉnh các
quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, hôn nhân và gia
đình, bình đẳng giới, kịp thời ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình và thông báo
cho cơ quan, tổ chức , người có thẩm quyền. Mỗi gia đình phải giáo dục, nhắc
nhở thành viên gia đình mình thực hiện quy định của pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới...; hoà giải mâu
thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên trong gia đình, can ngăn người có hành
vi bạo lực gia đình chấm dứt hành vi bạo lực, chăm sóc nạn nhân bạo lực gia
đình; phối hợp với các cơ quan, tổ chức và cộng đồng dân cư trong phòng,
71
chống bạo lực gia đình. Các cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống bạo
lực gia đình: Chính phủ, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch; Bộ, cơ quan ngang
bộ; Uỷ ban nhân dân các cấp cần làm tốt chức năng và nhiệm vụ của mình
trong việc quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình để đạt được
hiệu lực và hiệu quả. Đặc biệt, các cơ quan bảo vệ pháp luật: cơ quan Công
an, Toà án, Viện kiểm sát cần phát huy vai trò tích cực, chủ động của mình
trong việc phòng ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình để mỗi hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình được phát hiện sớm và bị xử lý theo quy định của pháp luật, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nạn nhân bạo lực gia đình; không bao che,
dung túng, xử lý không nghiêm đối với hành vi vi phạm pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình để tránh tình trạng coi thường pháp luật, tiếp diễn thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật. Cần nâng cao và phát huy vai trò của các tổ
chức chính trị-xã hội nhất là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác phòng, chống bạo lực gia đình.
Đối với Hội phụ nữ, cần đề cao vị trí, vai trò của các cấp Hội trong việc
tuyên truyền pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình; tuyên truyền về tác
hại, ảnh hưởng của bạo lực gia đình cho cán bộ phụ nữ tại các cấp Hội, nhất là
chị em phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa... Hội phụ nữ phối hợp với cơ quan chức
năng tổ chức các khoá tập huấn nâng cao cho chị em phụ nữ các cấp về kỹ
năng tư vấn, hoà giải và kỹ năng tự bảo vệ mình và gia đình mình trong các
tình huống bạo lực gia đình đồng thời tổ chức các chương trình nhằm xoá đói
giảm nghèo, nâng cao đời sống cho các gia đình ở mỗi địa phương; xoá bỏ tệ
nạn xã hội trong cộng đồng dân cư.
Đối với Mặt trận Tổ quốc: tổ chức tuyên truyền sâu rộng chính sách,
pháp luật của đảng và nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình, hôn nhân
và gia đình, về bình đẳng giới...; kiến nghị những biện pháp cần thiết với cơ
quan nhà nước có liên quan để thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực
gia đình, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới; tham gia giám sát việ thực
hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.
72
Đối với Đoàn thanh niên, cùng phối hợp với cơ quan quản lý, cơ quan
chức năng tổ chức tuyên truyền về chính sách, pháp luật về phòng, chống bạo
lực gia đình trong thế hệ trẻ về kỹ năng tư vấn, xử lý và phòng ngừa bạo lực
gia đình, tránh để xảy ra bạo lực gia đình nhất là bạo lực gia đình đối với phụ
nữ khi xây dựng gia đình.
d) Nhà nước cần quy định chế độ khen thưởng, khuyến khích người trực
tiếp tham gia phòng, chống bạo lực gia đình
Thực hiện tốt vấn đề này sẽ góp phần kích thích tinh thần tích cực của
cộng đồng trong việc góp sức mình vào cuộc đấu tranh loại bỏ vi phạm pháp
luật đặc biệt là vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong xã hội.
Bên cạnh việc xử lý kiên quyết, nghiêm minh những hành vi vi phạm thì việc
khen thưởng kịp thời, đúng mức sẽ giấy lên một phong trào phòng, chống bạo
lực gia đình mạnh mẽ trong xã hội và điều này sẽ làm hoàn thiện hơn cơ chế
xã hội phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực
gia đình.
Như vậy, để hoạt động phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
phòng, chống bạo lực gia đình đạt được hiệu quả cao, ngày càng giảm về số
lượng, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật, cần có
sự góp sức, chung tay, đồng lòng của cả xã hội. Mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức
trong xã hội cần nâng cao nhận thức và thấy được trách nhiệm của mình đối
với vấn đề phòng, chống vi phạm pháp luật nói chung và phòng, chống vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình nói riêng, từ đó
góp sức lực của mình vào cuộc đấu tranh chung đó. Cách thức hoạt động của
mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội phải có sự phối kết hợp chặt chẽ,
đặt trong một chỉnh thể thống nhất, một mục đích chung là tạo điều kiện để xã
hội phát triển. Xã hội cần có sự hoàn thiện cách thức tổ chức, hoạt động phù
hợp, kịp thời để làm đường hướng, làm cơ sở cho việc phòng, chống bạo lực
gia đình đạt được kết quả cao, thiết thực. Đó chính là nội dung của giải pháp
hoàn thiện cơ chế xã hội phòng, chống bạo lực gia đình trong lĩnh vực phòng,
73
chống bạo lực gia đình. Thực hiện tốt giải pháp này sẽ góp phần giảm thiểu số
vụ vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình.
3.2.3. Tăng cường công tác tổ chức thực hiện pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, đào
tạo, thông tin về bình đẳng giới, về bạo lực gia đình và nâng cao khả năng
tự bảo vệ mình trước bạo lực gia đình
Để pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đi vào thực tiễn đời sống,
được nhân dân chấp hành nghiêm minh là một công việc cực kỳ khó khăn bao
gồm nhiều hoạt động, nhiều giai đoạn và do nhiều chủ thể thực hiện. Đây là
những hoạt động mang tính khoa học, đòi hỏi có kinh nghiệm, năng lực và
nghệ thuật. Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực
gia đình là rất quan trọng và không thể thiếu được nhưng cũng chỉ là bước
đầu. Khó khăn lớn nhất là việc tổ chức thực hiện, đưa pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình vào cuộc sống, biến pháp luật thành hoạt dộng thực tiễn của
nhân dân. Đây là hoạt động mang tính quyết định thành công của việc điều
chỉnh hành vi của con người bằng pháp luật, để pháp luật do Nhà nước ban
hành được chấp hành. Vì vậy, tổ chức thực hiện tốt pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình sẽ là một trong những biện pháp phòng, chống vi phạm pháp
luật phòng, chống bạo lực gia đình hiệu quả.
Để tổ chức thực hiện tốt pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình thì một
trong những biện pháp có ý nghĩa quyết định là giáo dục và nâng cao ý thức
pháp luật, năng lực thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong
cộng đồng. Giáo dục pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình sẽ giúp cho các
chủ thể trong xã hội có kiến thức về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình,
có lòng tin vào sự điều chỉnh của pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, từ
đó hình thành thói quen xử sự theo pháp luật, có ý thức pháp luật cao từ đó
thực hiện những hành vi hợp pháp, phù hợp với những quy định mà pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình đặt ra. Thực tiễn cho thấy, ở Vĩnh Phúc hiện
nay, tình trạng vi phạm pháp luật trong đó có vi phạm pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình còn sẩy ra ở một số cán bộ, công chức cũng như trong các
74
tầng lớp nhân dân. Một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng trên là do
sự thiếu hiểu biết pháp luật hoặc hiểu không sâu sắc, không thấu đáo về pháp
luật phòng, chống bạo lực gia đình. Có chủ thể hiểu biết pháp luật nhưng
thiếu tình cảm, lòng tin vào pháp luật, không tôn trọng pháp luật, thiếu trách
nhiệm đối với nhà nước và xã hội đồng thời các cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật không nghiêm, dẫn đến tâm lý
coi thường và vi phạm pháp luật phòng chống bạo lực gia đình. Vì vậy, việc
giáo dục pháp luật có vai trò và tác dụng rất lớn trong việc ngăn chặn việc
hình thành vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Để tổ chức thực
hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đạt được hiệu quả thiết thực
cần:
- Xây dựng một chương trình giáo dục truyền thông mạnh mẽ, rộng khắp
thông qua nhiều phương thức khác nhau: xã hội, nhà trường, y tế, đoàn thể
quần chúng, các phương tiện thông tin đại chúng (vô tuyến, đài truyền thanh,
báo chí, các tài liệu truyền thông , các hình thức truyền thông khác như: tờ
rơi, áp phích, sách bỏ túi, tổ chức câu lạc bộ, văn nghệ quần chúng, hội thi...)
nhằm phổ biến kiến thức, nâng cao hiểu biết của cộng đồng về pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình, bạo lực gia đình, huy động sự tham gia của
cộng đồng trong việc ngăn chặn vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình. Khi có điều kiện, cần đưa các nội dung này vào chương trình giảng dạy,
học tập ở các cấp học, đồng thời cần nghiên cứu sớm để hình thành một số
chuyên đề về phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
để đưa vào giảng dạy cho các lớp bồi dưỡng, đào tạo tại các trường chính trị
tỉnh, thành phố và các lớp bồi dưỡng chính trị tổ chức tại huyện, thị xã để đội
ngũ cán bộ, công chức chính quyền cơ sở có kiến thức đầy đủ về pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình. Từ đó làm tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của mình trong việc phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực
gia đình. Nội dung giáo dục pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình phải
nhất quán, có hệ thống.
75
- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân đặc biệt là thế hệ trẻ để họ có kiến thức
xây dựng một gia đình hạnh phúc không có bạo lực gia đình. Tại các địa
phương, cần đảm bảo thực hiện 100% các gia đình được học tập nội dung cơ
bản của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đặc biệt cần có sự tham gia của
nam giới.
- Tổ chức nhiều lớp tập huấn cho cán bộ lãnh đạo các cấp, tập huấn nâng
cao năng lực quản lý cho cán bộ làm công tác gia đình từ tỉnh đến cơ sở; tập
huấn nâng cao kỹ năng tuyên truyền, vận động, kỹ năng tư vấn, kỹ năng
thương thuyết, hoà giải, kỹ năng công tác xã hội với gia đình cho Ban chỉ đạo
cấp xã, trưởng thôn, ấp, cán bộ tổ hoà giải cấp cơ sở, tổ trưởng, tổ phó Tổ
nhân dân tự quản, cán bộ tác nghiệp tại Trung tâm Dân số - KHHGĐ; tổ chức
các buổi sinh hoạt tập thể trong cộng đồng với nhiều hình thức khác nhau có
nội dung tuyên truyền về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, đặc biệt có
sự tham gia của nam giới nhằm tạo ra một phong trào, một môi trường mới
làm thay đổi quan niệm của người dân địa phương về bạo lực gia đình.
- Tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình trên các phương tiện thông tin đại chúng. Cần đảm bảo về số
lượng, chất lượng các chuyên mục được đăng tải để đáp ứng được yêu cầu
của thực tiễn hiện nay.
- Kiểm tra việc thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình ở các
cơ quan, đơn vị.
- Xây dựng các câu lạc bộ gia đình hạnh phúc không có bạo lực gia đình
ở các địa phương. Các Câu lạc bộ này sẽ tiến hành xây dựng quy chế hoạt
động, chương trình hoạt động, phân công trách nhiệm cho từng thành viên.
Câu lạc bộ được tập huấn, bồi dưỡng các chuyên đề về xây dựng gia đình bền
vững, phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Chính
quyền, các đoàn thể địa phương cần phối hợp với chương trình xây dựng gia
đình văn hoá mới và phòng chống tệ nạn xã hội ở địa phương để xây dựng các
76
câu lạc bộ gia đình hạnh phúc không có bạo lực gia đình với các biện pháp cụ
thể:
+ Đưa vấn đề bạo lực gia đình vào Hương ước và giám sát việc thực hiện
hương ước tại địa phương. Cần đưa những người vi phạm pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình vào Hương ước để xử lý. Phát huy vai trò tích cực,
chủ động của gia đình, dòng họ trong việc giáo dục, ngăn chặn bạo lực gia
đình; đề nghị các thành viên gia đình cam kết, ký vào văn bản về lối sống văn
hoá, không để xảy ra bạo lực gia đình. Một thực tế xảy ra là những kẻ vũ phu
thường đánh vợ con khi còn nhỏ, khi con lớn thì họ ít đánh hoặc ngừng đánh.
Nguyên nhân một phần là do con cái ngăn cản, mặt khác họ không muốn biểu
lộ những hành vi tàn bạo trước mặt con cái. Do đó, trong chương trình giáo
dục những người này, có thể chúng ta nên sử dụng áp lực từ phía con cái.
+ Các Câu lạc bộ thường xuyên sinh hoạt với nội dung liên quan đến
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, tạo điều kiện cho nam giới tham gia.
Đây chính là một hình thức tuyên truyền, giáo dục pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình tại địa phương đem lại hiệu quả cao.
Bên cạnh việc giáo dục kiến thức pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình, nâng cao ý thức pháp luật cho cộng đồng, việc tăng cường công tác
tuyên truyền, giáo dục, đào tạo, thông tin về bạo lực gia đình, bình đẳng giới,
về quyền con người, quyền của phụ nữ và trẻ em... là việc làm rất cần thiết.
Do vậy, việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về bạo lực gia đình,
bình đẳng giới và quyền của con người phải được tiến hành nhanh trong thời
gian tới và tiến hành một cách toàn diện.
3.2.4. Tăng cường pháp chế trong lĩnh vực phòng, chống vi phạm
pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
Pháp chế trong lĩnh vực phòng, chống vi phạm pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình là chế độ thực hiện các quy định pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình một cách nghiêm minh, thống nhất, tự giác của các cơ
quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hôi, đơn vị kinh tế, lực lượng vũ
trang, các cán bộ, công chức nhà nước và mọi công dân.
77
Khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển và công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá càng ngày càng thu được nhiều kết quả tốt đẹp thì
không thể không tiếp tục xây dựng nhà nước, hoàn chỉnh pháp luật, tăng
cường pháp chế để giúp đỡ và hướng dẫn kinh tế thị trường phát huy đầy đủ
tác dụng tích cực và hạn chế, ngăn ngừa được các mặt trái của nó. Trong nền
kinh tế thị trường, để phòng chống vi phạm pháp luật có hiệu quả thì việc tăng
cường pháp chế trong lĩnh vực này là một điều kiện quan trọng, không thể
thiếu nhằm hạn chế, đẩy lùi vi phạm pháp luật. Vi phạm pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình là một trong những loại vi phạm pháp luật và ngày
càng gia tăng về số lượng, tính chất và mức độ nguy hiểm. Chính vì vậy, tăng
cường pháp chế càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết, đây chính là nhân tố quyết
định hiệu quả công tác phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng,
chống bạo lực gia đình. Một hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
hoàn thiện, đầy đủ, là cơ sở pháp lý điều chỉnh hành vi của con người trong
lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình là rất cần thiết nhưng vẫn chưa đủ để
có thể hạn chế, ngăn chặn được tình trạng vi phạm pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình. Hệ thống pháp luật mới chỉ là điều kiện tạo ra khả năng, tiền
đề cần thiết tác động đến hành vi của con người. Hiệu lực của những văn bản
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình có được phát huy hay không còn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó việc các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính
trị - xã hội, đoàn thể quần chúng, đơn vị kinh tế, lực lượng vũ trang, các cán
bộ, công chức nhà nước và mọi công dân tuân theo và chấp hành pháp luật là
yếu tố cơ bản, biến khả năng trở thành hiện thực. Điều đó quyết định ảnh
hưởng của pháp luật đối với xã hội. Vai trò đó thuộc về pháp chế. Vì thế
không thể không tăng cường pháp chế nếu như chúng ta muốn các quy định
pháp luật trong các văn bản pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình được đi
vào thực tiễn đời sống, được chấp hành, tuân thủ nghiêm minh và công tác
phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đạt được hiệu
quả. Tăng cường pháp chế trong phòng, chống vi phạm pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình chính là việc làm cho mỗi công dân trong xã hội đều
78
tự giác chấp hành các quy định của pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
với ý thức trách nhiệm của mình - người chủ đất nước - trong công cuộc xây
dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Để tăng cường pháp chế trong lĩnh vực phòng, chống vi phạm pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình, cần thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ như
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình,
tổ chức thực hiện tốt pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, kịp thời đấu
tranh kiên quyết với những hành vi vi phạm phạm pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống hệ thống pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình là nhiệm vụ quan trọng đầu tiên để pháp chế được đảm bảo, từ đó
hạn chế vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Pháp chế chỉ có thể
được củng cố và tăng cường trên cơ sở của một hệ thống pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình ngày càng hoàn thiện và phát triển, kịp thời thể chế
hoá các chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng, phản ánh đúng những
đặc điểm của kinh tế xã hội trong mỗi giai đoạn cụ thể. Để có được một hệ
thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đáp ứng các tiêu chuẩn như
vậy phải thực hiện nhiều biện pháp như: phải thường xuyên hệ thống hoá
pháp luật để phát hiện và loại bỏ những quy định pháp luật trùng lặp, mâu
thuẫn, lạc hậu, bổ sung những thiếu sót trong hệ thống pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình; kịp thời thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng
thành pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình; có kế hoạch
xây dựng pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong mỗi giai đoạn cụ thể;
đẩy mạnh công tác nghiên cứu, kỹ thuật xây dựng pháp luật, để đảm bảo cho
hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình được mang tính khoa học
và đạt trình độ kỹ thuật cao, mở rộng các hình thức nhân dân lao động tham
gia vào việc xây dựng pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình . Mỗi văn bản
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình phải đảm bảo chất lượng thể hiện khi
nó được ban hành, mọi người hiểu đúng và chính xác những điều quy định
79
trong những văn bản đó. Nghĩa là pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình chỉ
có ý nghĩa thực sự khi nó không dừng lại ở những quy định chung chung, có
tính nguyên tắc mà phải quy định các mối quan hệ cụ thể giữa những chủ thể
trong một hoàn cảnh cụ thể. Do đó, các yêu cầu rõ ràng, cụ thể, chính xác,
một nghĩa luôn luôn là những thuộc tính không thể thiếu được của các quy
phạm pháp luật nói chung cũng như quy phạm pháp luật về phòng, chống bạo
lực gia đình. Thiếu những thuộc tính này, pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình không thể đi vào cuộc sống. Nhấn mạnh vấn đề này, Nghị quyết Hội
nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương đảng khoá VIII viết: "các luật ban
hành cần bảo đảm tính khả thi, dễ hiểu, quy định cụ thể để giảm bớt tình trạng
phải chờ đợi quá nhiều văn bản hướng dẫn mới thi hành được".
Xây dựng và hoàn chỉnh pháp luật là rất quan trọng, nhưng cũng chỉ là
bước đầu, khó khăn lớn nhất là việc tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật
vào cuộc sống, biến pháp luật thành hoạt động thực tiễn của nhân dân. Vì vậy,
khi đã có hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình hoàn thiện chưa
đủ để tăng cường pháp chế trong lĩnh vực phòng, chống vi phạm pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình từ đó sẽ không hạn chế được vi phạm pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình. Để củng cố, tăng cường pháp chế trong phòng,
chống vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, việc tổ chức thực
hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
Pháp luật được chấp hành và thực hiện ở mức độ nào tuỳ thuộc vào
nhiều yếu tố. Một trong những yếu tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định về
mặt chủ quan, đó là ý thức pháp luật. Vì vậy, để tổ chức thực hiện tốt pháp
luật, biện pháp có ý nghĩa quyết định là giáo dục và nâng cao ý thức pháp
luật, năng lực thực hiện pháp luật cho cán bộ, công chức nhà nước, đồng thời
"tích cực tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật trong nhân dân".
Không có ý thức pháp luật thì không thể tự giác tuân theo và chấp hành
nghiêm chỉnh, cũng như không thể áp dụng đúng pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Để tổ chức thực hiện tốt
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình cụ thể là giáo dục và nâng cao ý thức
80
pháp luật cho mọi người có hiệu quả cao, cần thực hiện đồng bộ các biện
pháp sau:
- Cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, tăng cường công
tác giải thích pháp luật để làm sáng tỏ nội dung và ý nghĩa của các quy định
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình làm cơ sở cho việc tuyên truyền và
giáo dục pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đạt được hiệu quả.
- Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền và giáo dục pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình nhằm làm cho nhân dân hiểu biết pháp luật,
nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân
- Đưa việc giảng dạy pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong các
trường phổ thông, đại học, trong các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
- Chú trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ pháp lý có trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ cao,ngăn chặn và xử lý tốt các vụ bạo lực gia đình cũng như
các trường hợp vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình.
- Trong từng thời kỳ, cần có sự tổng kết, rút kinh nghiệm kịp thời những
thiếu sót, những nhược điểm trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình, từ đó đề ra những phương hướng và biện pháp
tăng cường hiệu lực công tác này.
Việc thực hiện đầy đủ và đồng bộ các biện pháp trên sẽ góp phần không
nhỏ và thiết thực vào việc tăng cường pháp chế trong phòng, chống vi phạm
pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình từ đó góp phần hạn chế, ngăn
chặn và đẩy lùi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình.
Cùng với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình; tổ chức thực hiện tốt pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình để tăng cường pháp chế trong phòng, chống vi phạm pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình thì việc đấu tranh kiên quyết, kịp thời với những hành
vi vi phạm pháp luật phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực
gia đình là biện pháp không thể thiếu được. Để đấu tranh và phòng ngừa
những vi phạm pháp luật đặc biệt là tội phạm trong phòng, chống bạo lực gia
đình thì cơ quan có thẩm quyền phải giải quyết kịp thời mọi vi phạm pháp
81
luật phòng, chống bạo lực gia đình từ những vụ việc nhỏ cho đến những vụ
việc lớn, gây nguy hiểm cho xã hội. Điều quan trọng là các cơ quan bảo vệ
pháp luật không được vì bất cứ lý do gì mà bỏ qua, không xử lý các vụ vi
phạm dù sự vi phạm đó là nặng hay nhẹ. Cần kiên quyết chống mọi biểu hiện
nương nhẹ, nể nang, bao che hành vi phạm pháp cũng như người vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình dưới bất kỳ hình thức
nào. Nếu không xử lý kịp thời hoặc xử lý nhưng không đúng mức sẽ tạo ra
tâm lý coi thường pháp luật và mất lòng tin trong nhân dân. Thực tế cho thấy,
trong những năm vừa qua, các cơ quan chức năng đã xử lý chưa kiên quyết,
nghiêm minh đối với các vụ bạo lực gia đình thậm chí còn coi đó là việc riêng
của mỗi gia đình, mỗi gia đình tự giải quyết. Đây chính là một trong những
nguyên nhân làm số vụ vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình gia
tăng, tạo ra tâm lý coi thường pháp luật, người gây ra bạo lực gia đình cứ thế
mà vi phạm vì họ nghĩ rằng vi phạm cúng không bị xử lý hoặc có sử lý thì
cũng qua loa.
Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn cách
mạng hiện nay là một trong những quan điểm cơ bản có tính nguyên tắc, chỉ
đạo trong việc tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,
nhằm bảo đảm thắng lợi quá trình đổi mới và phát triển đất nước. Tăng cường
pháp chế trong phòng, chống vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực là
một phần trong việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm làm cho các
quy định của hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình được chấp
hành một cách tự giác, nghiêm minh, từ đó hạn chế, ngăn chặn được các vi
phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Để pháp chế được tăng cường
trong lĩnh vực phòng, chống vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia
đình, không chỉ xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình, mà quan trọng hơn là tổ chức thực hiện pháp luật phòng, chống
bạo lực gia đình, bảo đảm cho pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình được
chấp hành thường xuyên, nghiêm chỉnh đồng thời phải kiên quyết đấu tranh
82
với những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình.
Pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình không được tuân theo và chấp hành
nghiêm chỉnh thì pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình không có hiệu lực,
pháp chế không được củng cố và tăng cường từ đó dẫn đến tình trạng vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực này. Việc chấp hành thường xuyên, những đòi hỏi
của pháp chế, phòng ngừa những hành vi vi phạm pháp luật tất yếu dẫn đến
thiết lập trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa bền vững.
83
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Ở Chương 3, luận văn đã tập trung phân tích, làm rõ yêu cầu khách
quan cũng như phương hướng và giải pháp cơ bản của việc phòng, chống vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình trong bối cảnh
hội nhập quốc tế, xây dựng và phát triển Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay. Những giải pháp mà luận văn đưa ra được dựa
trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận về pháp luật phòng, chống bạo lực
gia đình; đặc điểm, nội dung vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình; thực trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, đồng thời
tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm một số tỉnh trong việc phòng, chống bạo lực
gia đình với mong muốn Vĩnh Phúc sẽ có những hành động kịp thời, cụ thể,
tích cực, phù hợp để nhanh chóng đẩy lùi tình trạng vi phạm pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình, góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng, chống bạo
lực gia đình, đấu tranh vì sự phát triển của xã hội.
Các giải pháp trên được nghiên cứu trong một chỉnh thể thống nhất, có
quan hệ chặt chẽ với nhau nên cần được tiến hành đồng bộ, nhằm tạo ra một
sức mạnh tổng hợp để kiên quyết đấu tranh và đẩy lùi các hành vi vi phạm
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, tạo các bảo đảm cần thiết cho sự
phát triển lành mạnh của con người, làm động lực cho sự phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh.
84
KẾT LUẬN
Bạo lực gia đình đã gây ra tác hại vô cùng to lớn ảnh hưởng đến tình
hình kinh tế xã hội của đất nước. Khi bạo lực gia đình xẩy ra hậu quả thường
thấy là những tổn hại về sức khỏe kéo theo tổn hại tất yếu về kinh tế và cả
những hệ lụy trong mối quan hệ gia đình như gây ra những sang chấn tinh
thần cho nạn nhân và những người trong gia đình, những sang chấn này
thường khó hồi phục hơn những tổn thương trên thân thể, nhất là để lại những
dấu ấn khó phai trong tâm trí trẻ thơ, ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách
của con trẻ. Ở nhiều gia đình thế hệ con cháu đã lặp lại hành vi bạo lực mà
khi còn nhỏ chúng đã được chứng kiến. Rõ ràng bạo lực gia đình đang làm
xói mòn đạo đức, mất tính dân chủ xã hội và trở thành nguy cơ làm tan vỡ sự
bền vững của gia đình Việt Nam.
Bạo lực gia đình không còn là chuyện riêng của mỗi nhà, mà là trách
nhiệm của toàn xã hội. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong xã hội còn rất
nhiều gia đình có tình trạng bạo lực gia đình. Với sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước ta hiện nay, bạo lực gia đình đã được luật hoá, do đó, hành vi bạo
hành gia đình bị coi là hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình. Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình làm mất đi điều kiện
được cống hiến cho xã hội, được phát triển của mọi thành viên trong gia đình
đồng thời là lực cản đối với sự phát triển của xã hội. Chính vì vậy, hơn bao
giờ hết, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình cần được hạn chế và
triệt tiêu trong xã hội.
Trên cơ sở phân tích thực trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình ở Vĩnh Phúc hiện nay, tìm ra những nguyên nhân dẫn đến thực
trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, luận văn bước đầu
đưa ra những giải pháp cụ thể góp phần vào việc phòng ngừa, hạn chế tiến tới
đẩy lùi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong xã hội. Điều
này có ý nghĩa rất lớn bởi vì Việt Nam hiện là thành viên của các Công ước
quốc tế và các Nghị định thư về quyền con người.
85
Trong bối cảnh hiện nay, khi bạo lực gia đình đang ồ ạt tấn công vào
từng vùng miền và đang len lỏi vào mỗi gia đình thì giường như mỗi cá nhân,
cả cộng đồng vẫn thờ ơ, bàng quan và khoanh tay đứng nhìn nó phát triển,
kéo theo các hành vi vi phạm pháp luật khác trong lĩnh vực phòng, chống bạo
lực gia đình. Đã đến lúc, cả xã hội phải góp sức, chung tay, đồng lòng triệt
tiêu hiện tượng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình để đảm bảo
quyền con người, quyền công dân, đem lại hạnh phúc cho con người, đồng
thời cũng là loại bỏ yếu tố là lực cản trên con đường công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Bên cạnh sự quan tâm, góp sức, chung tay, đồng lòng của cả
xã hội, Việt Nam cần có một hệ thống pháp luật về phòng, chống bạo lực gia
đình hoàn thiện, là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc bảo vệ con người, đem
lại trật tự và ổn định xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: "Vi phạm pháp
luật phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc hiện nay" có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn vô cùng quan trọng đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi Việt
Nam đang tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện nền kinh tế thị
trường, thực hiện dân chủ hoá xã hội và hội nhập mọi mặt trong khu vực và
toàn cầu, xây dựng một xã hội văn minh, hiện đại, đem lại cuộc sống hạnh
phúc cho nhân dân. Luận văn đã phân tích, làm rõ những vấn đề cơ bản về lý
luận và thực tiễn về bạo lực gia đình, pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình để từ đó đưa ra những
giải pháp nhằm phòng, chống vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia
đình đạt được hiệu quả cao hơn nữa; mong muốn đóng góp một chút hiểu biết
của mình vào công cuộc xây dựng đất nước, đem lại trật tự, ổn định xã hội.
86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2005), Chỉ thị số 49/CT-TW ngày
21/12/2005 "vế xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá".
2. Báo điện tử Chính phủ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Văn kiện Đại hội đảng toàn quốc lần thứ XII.
3. Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình” của tác giả Nguyễn
Ngọc Điện;
4. Bộ chính trị, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020.
5. Bộ Tư pháp (2011), Thông tư số 07/2011/TT-BTP hướng dẫn bảo đảm
bình đẳng giới trong tổ chức cán bộ và hoạt động trợ giúp pháp lý
6. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch (2008), Kế hoạch hành động phòng,
chống bạo lực gia đình.
7. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch (2008), Quyết định 2879/QĐ-
BVHTTDL về việc triển khai mô hình can thiệp phòng, chống bạo lực gia đình
trên toàn quốc.
8. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch (2010), Thông tư 02/2010/TT-
BVHTTDL Quy định chi tiết về thủ tục đăng ký hoạt động, giải thể cơ sở hỗ
trợ nạn nhân bạo lực gia đình; cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia
đình; tiêu chuẩn của nhân viên tư vấn; cấp thẻ nhân viên tư vấn, chứng nhận
nghiệp vụ chăm sóc, tư vấn và tập huấn phòng, chống bạo lực gia đình
9. Bộ Y tế (2009), Thông tư số 16/2009/TT-BYT hướng dẫn việc tiếp
nhận, chăm sóc y tế và thống kê, báo cáo đối với người bệnh là nạn nhân bạo
lực gia đình tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
10. Chính phủ (2008), Chỉ thị số 16/2008/CT-TTg về hướng dẫn thi hành
Luật phòng, chống bạo lực gia đình.
87
11. Chính phủ (2008), Nghị định số 70/2008/NĐ-CP quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều Luật bình đẳng giới.
12. Chính phủ, Nghị định 08/2009/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật phòng, chống bạo lực gia đình.
13. Chính phủ (2009), Nghị định số 55/2009/NĐ-CP quy định xử phạt vi
phạm hành chính về bình đẳng giới.
14. Chính phủ (2013), Nghị định số 167/2013/NĐ-CP Nghị định Quy
định xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội, phòng
chống tệ nạn xã hội, phòng cháy và chữa cháy, phòng, chống bạo lực gia
đình.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ X , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Lê Lan Chi, Viện Nhà nước và Pháp luật, Bàn về ranh giới giữa xử lý hình
sự và xử lý hành chính các hành vi bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay.
19. Ngô Thị Hường, Đại học Luật Hà Nội, Bạo lực đối với phụ nữ và trẻ
em, thực trạng và nguyên nhân.
20. Nguyễn Thị Ngọc Bích, Đại học Luật Hà Nội, Trách nhiệm của các
cơ quan nhà nước trong việc phòng chống bạo lực gia đình.
21. Nguyễn Thế Hùng, Phó chủ nhiệm Ủy ban Dân số- Gia đình- Trẻ em
Hà Nội và PGS.TS. Nguyễn Trí Dũng, Phó Viện Trưởng Viện Xã hội học và
Tâm lý lãnh đạo, quản lý Học viện Chính trị Quốc gia HCM, Nhận thức và
thái độ của cộng đồng đối với BLGĐ, đề xuất giải pháp.
22. Nguyễn Thị Kim Phụng, Tổng quan về bạo lực và pháp luật phòng,
chống bạo lực đối với phụ nữ, trẻ em.
23. Phạm Văn Dũng, Nguyễn Đình Thơ, Tìm hiểu và thực hiện Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình.
88
24. Phan Thị Lan Hương, Tính hợp lý, khả thi của một số biện pháp xử lý
vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình.
25. Quốc hội nước CHXHCHVN (2005), Bộ luật dân sự 2005, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
26. Quốc hội nước CHXHCHVN (2013), Hiến pháp nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt nam sửa đổi, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
27. Quốc hội nước CHXHCHVN (1999), Luật hình sự 1999, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội
28. Quốc hội nước CHXHCHVN (2007), Luật bình đẳng giới 2007,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Quốc hội nước CHXHCHVN (2007), Luật phòng, chống bạo lực gia
đình 2007, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
30. Quốc hội nước CHXHCHVN (2014), Luật Hôn nhân và Gia đình,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
31. Quốc hội nước CHXHCHVN (2015), Luật tổ chức Chính phủ, Cổng
thông tin điện tử Bộ tư Pháp.
32. Quỹ Dân số LHQ, Báo cáo về bạo lực trên cơ sở giới ở Việt Nam.
33. Sở Văn hóa thể thao và du lịch Vĩnh Phúc, Báo cáo tổng kết tình
hình triển khai kế hoạch thi hành Luật phòng, chống bạo lực gia đình giai
đoạn 2008-2015.
34. Tài liệu thảo luận của Ngân hàng thế giới, Bạo lực đối với phụ nữ,
gánh nặng sức khoẻ tiềm ẩn.
35. Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc (2015), Báo cáo về tình hình xét xử
năm 2015.
36. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 2351/QĐ-TTg về việc phê duyệt
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020.
37. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 1241/QĐ-TTg về việc phê duyệt
Chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2015;
38. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 629/QĐ-TTg về phê
duyệt chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
89
90
91
92
93