MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài Trong khoa học pháp lý, vấn đề vi phạm pháp luật có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng phong phú. Việc nghiên cứu thấu đáo vấn đề vi phạm pháp luật sẽ giúp nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật, góp phần kiểm soát xã hội tốt, phát hiện nhanh, nhận diện đúng bản chất và xử lý chính xác các vi phạm pháp luật, tìm ra phương cách hữu hiệu điều chỉnh xã hội và định hướng việc thực thi pháp luật đạt hiệu quả.

Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, khó khăn, phức tạp cần phải tập trung giải quyết, khắc phục. Một trong những khó khăn làm ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội là tình trạng vi phạm pháp luật hiện nay đặc biệt trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình (BLGĐ) đang ngày một gia tăng, làm ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của xã hội.

Ngày nay, bạo lực gia đình là vấn đề mang tính toàn cầu, gây nhức nhối cho nhân loại, để lại nhiều hậu quả cho con người. BLGĐ đang trở thành vấn đề phổ biến, là biểu hiện của các mối quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa người lớn và trẻ em trên toàn thế giới, là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng tới danh dự, nhân phẩm, sức khỏe, tính mạng của con người, làm suy giảm chất lượng cuộc sống nói chung. BLGĐ đã và đang là một trở ngại lớn đối với sự bình đẳng trong xã hội, là lực cản trên con đường xây dựng một xã hội văn minh, hiện đại. Vì vậy, trong nhiều năm qua, sự gia tăng và mức độ nghiêm trọng của BLGĐ là mối quan tâm của nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế, đặc biệt, tổ chức Liên hợp quốc đã thông qua Công ước về các quyền dân sự và chính trị; Công ước về quyền trẻ em; Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW)… đã thể hiện sự quan tâm chung của cả cộng đồng quốc tế trong

1

vấn đề bình đẳng giới và phòng, chống BLGĐ. Bước sang thế kỷ XXI, bạo lực gia đình không giảm mà vẫn tiếp tục lan rộng, trở thành vấn đề nghiêm trọng và phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Bạo lực gia đình đang trở thành vấn đề phổ biến có quy mô của một đại dịch và là một biểu hiện của các mối quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ trên toàn thế giới. Bạo lực gia đình đã và đang là một trở ngại lớn đối với sự bình đẳng, là sự vi phạm thô bạo các quyền con người.

Chính tính nguy hiểm và tác hại của bạo lực gia đình mà vấn đề bạo lực gia đình tại Việt Nam đã được Luật hoá, được đặt dưới sự kiểm soát của pháp luật. Bạo lực gia đình là vi phạm pháp luật. Ở nước ta, thúc đẩy bình đẳng giới, tôn trọng và bảo đảm quyền con người chống lại mọi hành vi bạo lực là quan điểm nhất quán của nhà nước Việt Nam. Việt Nam đã phê chuẩn và tham gia nhiều công ước liên liên quan đến phòng, chống bao lực, cụ thể như phê chuẩn Công ước CEDAW vào ngày 17/12/1982, phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em….Vấn đề phòng, chống BLGĐ cũng được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật, theo đó đều coi BLGĐ là hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người, cụ thể như: Luật Hôn nhân và gia đình; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Bộ luật Dân sự; Bộ luật Tố tụng dân sự; Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Bình đẳng giới; đặc biệt là Luật Phòng, chống bạo lực gia đình được Quốc hội khóa XII thông qua ngày 21/11/2007, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2008. Những văn bản pháp luật nêu trên và các văn bản hướng dẫn thi hành là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tổ chức thực hiện pháp luật và xử lý các hành vi BLGĐ.

Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đã để lại nhiều hậu quả xấu cho xã hội, trước hết là vi phạm đến quyền con người, danh dự, nhân phẩm và tính mạng của mỗi cá nhân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình còn làm xói mòn đạo đức, mất tính dân chủ xã hội và ảnh hưởng xấu đến thế hệ tương lai. Kết quả nghiên cứu cho thấy ở nhiều gia đình, thế hệ con đã lặp lại hành vi bạo lực gia đình mà khi còn nhỏ chúng đã được chứng kiến. Bạo lực gia đình đang là nguy cơ gây tan vỡ và suy giảm sự bền vững của gia đình Việt nam. Ngoài hậu quả về xã hội, đạo đức và sự bền vững gia đình, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình còn gây ra những hậu quả về kinh tế như chi phí chăm sóc và phục hồi sức khoẻ nạn nhân, chi phí điều tra, truy tố, xét xử cùng nhiều chi phí gián tiếp khác liên quan đến tình trạng bệnh tật, mất khả năng tham gia lao động sản xuất của nạn nhân.

2

Nhiều vụ án thương tâm liên quan đến bạo lực gia đình đã xảy ra và số lượng tăng lên từng ngày, gây hậu qủa nhức nhối cho xã hội và đặt ra cho xã hội một lời giải đáp cần phải làm gì trước thực trạng vi phạm pháp luật về bạo lực gia đình. Điều này đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách, pháp luật và các nhà thực thi pháp luật cùng các cơ quan có thẩm quyền cần có một cơ chế và biện pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho mọi người, giúp họ thoát khỏi bạo lực đồng thời có biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với các chủ thể vi phạm pháp luật về bạo lực gia đình, tạo ổn định và phát triển cho xã hội. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp giúp phòng, chống bạo lực gia đình, loại bỏ vi phạm pháp luật về bạo lực gia đình trong xã hội, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, đề tài "Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay" đã được tác giả lựa chọn làm đề tại luận văn thạc sỹ Luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài Bạo lực gia đình không phải là vấn đề mới mẻ, mà là hiện tượng xã hội có tính lịch sử và tương đối phổ biến trên thế giới. Bạo lực gia đình là vấn đề thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả trong và ngoài nước. Một số công trình nghiên cứu được công bố về vấn đề này, cụ thể như: “Luật Phòng, chống bạo lực gia đình của một số nước trên thế giới” do Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội XI biên soạn; “Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc phòng chống bạo lực gia đình” của Nguyễn Thị Ngọc Bích, Đại học Luật Hà Nội; “Tìm hiểu và thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình” của Phạm Văn Dũng, Nguyễn Đình Thơ;“Bàn về ranh giới giữa xử lý hình sự và xử lý hành chính các hành vi bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Lan Chi, Viện Nhà nước và Pháp luật; “Phòng chống BLGĐ đối với phụ nữ ở nước ta hiện nay - Thực trạng vấn đề và giải pháp” của Viện nghiên cứu Quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia HCM 2008; “Nhận thức và thái độ của cộng đồng đối với BLGĐ- đề xuất giải pháp” của TS. Nguyễn Thế Hùng, Phó chủ nhiệm Ủy ban Dân số - Gia đình- Trẻ em Hà Nội và PGS.TS. Nguyễn Trí Dũng, Phó Viện Trưởng Viện Xã hội học và Tâm lý lãnh đạo, quản lý Học viện Chính trị Quốc gia HCM; “Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình” của tác giả Nguyễn Ngọc Điện; “Pháp luật quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ” của tác giả Trần Thị Hòe; “Tính hợp lý, khả thi của một số biện pháp xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình” của tác giả Phan Thị Lan Hương; “Bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em - thực trạng và nguyên nhân” của Ngô Thị Hường, Đại học Luật Hà Nội;“Tổng quan về bạo lực và

3

pháp luật phòng, chống bạo lực đối với phụ nữ, trẻ em” của Nguyễn Thị Kim Phụng…. Ngoài ra, còn nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học, các Luận văn, đề tài đã được nghiệm thu liên quan đến vấn đề BLGĐ. Nhìn chung, các công trình nêu trên đã phân tích, đánh giá vấn đề BLGĐ dưới nhiều góc độ khác nhau, Tuy nhiên nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề phòng, chống bạo lực gia đình dưới góc độ pháp lý - vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc đến nay hầu như chưa có. Trong khi đó, tình trạng vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình diễn ra ngày càng nhiều với tính chất và mức độ nguy hiểm ngày càng tăng, ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Vì vậy, đề tài nghiên cứu này không có sự trùng lắp với những công trình nghiên cứu đã được công bố, các kết quả nghiên cứu trước đó chỉ có giá trị tham khảo khi tác giả nghiên cứu đề tài này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích Đề tài có mục đích nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cơ sở lý luận về vi phạm pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc hiện nay, trên cơ sở đánh giá thực trạng, luận văn đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm phòng chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc. 3.2. Nhiệm vụ Để đảm bảo mục đích nêu trên trên, luận văn xác định các nhiệm vụ

chính sau:

- Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật và vi phạm pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình. Trên cơ sở lý luận về vi phạm pháp luật, các yêu cầu của hành vi hợp pháp trong việc phòng, chống bạo lực gia đình, luận văn có nhiệm vụ chỉ ra được các đặc điểm của vi phạm pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình; nội dung vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc hiện nay.

- Nghiên cứu đánh giá thực trạng vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình trên cơ sở phân tích và đánh giá tình hình vi phạm pháp luật, làm rõ các hành vi vi phạm pháp luật cơ bản trong phòng, chống bạo lực gia đình trong những năm qua để có một bức tranh về thực trạng vi phạm pháp luật một cách cơ bản nhất trong phòng, chống bạo lực gia đình. Từ đó, phân tích các nguyên nhân khách quan và chủ quan của thực trạng trên làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp khắc phục vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này.

4

- Nghiên cứu đưa ra các giải pháp hợp lý, toàn diện, khả thi trong phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình góp phần hạn chế tiến tới đẩy lùi hiện tượng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong xã hội.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu như đã trình bày ở trên, luận văn xác định đối tượng nghiên cứu là các hành vi trái pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý trên cơ sở lý luận chung về Nhà nước, pháp luật và pháp luật thực định.

4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống

bạo lực gia đình trong phạm vi tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2008 đến nay.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước, pháp luật về bình đẳng giới, pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình.

5.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở những phương pháp nghiên cứu cụ thể: thống kê, tổng hợp, diễn giải, phân tích, so sánh để phân tích và làm rõ các vấn đề khoa học cần nghiên cứu.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu

- Về mặt lý luận, những vấn đề được nghiên cứu trong luận văn góp phần làm phong phú thêm những vấn đề lý luận về pháp luật phòng chống BLGĐ, đóng góp vào việc hoàn thiện pháp luật về phòng, chống BLGĐ ở nước ta hiện nay.

- Về mặt thực tiễn, luận văn góp phần thay đổi phần nào nhận thức của người dân về vấn đề BLGĐ, bên cạnh đó, những giải pháp được đề xuất vận dụng vào thực tiễn sẽ nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống BLGĐ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc và có thể là kinh nghiệm thực tiễn để tham khảo, áp dụng cho những địa phương khác trên cả nước, đồng thời luận văn cũng là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm nghiên cứu về những vấn đề vi phạm pháp luật phòng, chống BLGĐ.

5

7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận vi phạm pháp luật về phòng, chống

bạo lực gia đình.

Chương 2: Thực trạng vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia

đình ở tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2009 đến nay.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp phòng, chống vi phạm pháp luật

trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc.

6

Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH

1.1. Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình

1.1.1. Khái niệm về bạo lực gia đình

Bạo lực gia đình là một dạng thức của bạo lực xã hội, Điều 1 Luật

Phòng, chống bạo lực gia đình 2007 quy định bạo lực gia đình là "Bạo lực gia

đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây

tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với các thành viên khác trong gia

đình" [29, tr.1]. Gia đình là tế bào của xã hội, là hình thức thu nhỏ của xã hội

nên bạo lực gia đình có thể coi là hình thức thu nhỏ của bạo lực xã hội với

nhiều dạng thức khác nhau. Xét về hình thức, có thể chia bạo lực gia đình

thành các hình thức chủ yếu sau:

- Bạo lực về thể chất: là hành vi ngược đãi, đánh đập thành viên gia

đình, làm tổn thương tới sức khỏe, tính mạng của họ.

- Bạo lực về tinh thần: là những lời nói, thái độ, hành vi làm tổn thương

tới danh dự, nhân phẩm, tâm lý của thành viên gia đình

- Bạo lực về kinh tế: là hành vi xâm phạm tới các quyền lợi về kinh tế

của thành viên gia đình (quyền sở hữu tài sản, quyền tự do lao động…)

- Bạo lực về tình dục: là bất kỳ hành vi nào mang tính chất cưỡng ép

trong các quan hệ tình dục giữa các thành viên gia đình, kể cả việc cưỡng ép

sinh con.

Mỗi hình thức bạo lực có thể được biểu hiện dưới nhiều hành vi khác

nhau. Hiểu một cách thông dụng thì bạo lực gia đình là một thuật ngữ dùng để

chỉ các hành vi bạo lực giữa các thành viên trong cùng một gia đình. Đây là

hiện tượng một hay nhiều thành viên dùng quyền lực và bạo lực trong cả một

quá trình để thực hiện hành vi làm cho người khác đau đớn về thể xác, bị

khủng hoàng về tinh thần và bị bế tắc về mặt xã hội nhằm khuất phục, khống

7

chế và kiểm soát người đó. Bạo lực gia đình xảy ra ở mọi quốc gia, nền văn

hóa, tôn giáo không ngoại lệ giàu nghèo và trình độ học vấn cao hay thấp.

Như vậy, dù được định nghĩa với nhiều cách khác nhau nhưng khi xem

xét bạo lực gia đình, ta có thể thấy các đặc điểm:

+ Thứ nhất, bạo lực gia đình là hành vi bạo lực xảy ra giữa các thành

viên trong gia đình tức là chủ thể có hành vi bạo lực gia đình (người gây ra

bạo lực gia đình) phải là thành viên trong gia đình và nạn nhân của bạo lực

gia đình là một trong những thành viên còn lại của gia đình đó.

+ Thứ hai, bạo lực gia đình được thực hiện bởi lỗi cố ý chứ không thể

là lỗi vô ý.

+ Thứ ba, bạo lực gia đình là hành vi gây tổn hại hoặc có khả năng gây

tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình.

Bạo lực gia đình đang là vấn đề được dư luận xã hội quan tâm sâu sắc.

Bạo lực gia đình không phải là vấn đề mang tính địa phương, vùng miền mà

là một vấn đề toàn cầu, ở đâu cũng có, từ các nước nghèo, nước đang phát

triển cho đến nước giàu có, phát triển mạnh về kinh tế và xã hội. Mọi gia đình

thuộc mọi tầng lớp của xã hội đều có thể gặp phải tệ nạn này. Đối tượng của

các hành vi bạo lực gia đình có thể là bất kỳ ai trong đó có cả nam giới nhưng

thường là những thành viên yếu đuối, dễ bị tổn thương và trong hầu hết các

trường hợp là phụ nữ, người già và trẻ em.

Bạo lực gia đình đều ảnh hưởng lâu dài đến sức khoẻ, tâm lý, tình cảm

của mỗi cá nhân. Đặc biệt đối với trẻ em, bạo lực còn ảnh hưởng nghiêm

trọng đến sự hình thành nhân cách, hạn chế những cơ hội để trẻ em có một

cuộc sống bình thường và nhất là tương lai của các em sau này.

1.1.2. Phòng, chống bạo lực gia đình

a) Khái niệm phòng bạo lực gia đình

Phòng bạo lực gia đình nhằm mục đích tìm ra được những biện pháp

tác động và quy luật phát sinh, tồn tại và phát triển của bạo bực gia đình, đồng

thời khắc phục được nguyên nhân và điều kiện xuất hiện bạo lực gia đình.

8

Phòng bạo lực gia đình và sự cần thiết của phòng bạo lực gia đình là để bảo

vệ, duy trì trật sự và công bằng xã hội, góp phần bảo vệ các lợi ích chung của

cộng đồng, của xã hội.

Bạo lực gia đình phát sinh, tồn tại là do những nguyên nhân và điều

kiện khác nhau, song chúng ta hoàn toàn có khả năng tiến hành phòng ngừa

và ngăn chặn hàng vi bạo lực gia đình khi nó chưa xảy ra.

Trong ngành tư pháp: Xét xử là tốt, nhưng nếu không phải xét xử thì

càng tốt hơn. Quan điểm này thể hiện phương châm rất quan trọng là lấy giáo

dục, phòng ngừa là chính, phòng ngừa tốt cũng chính là chống bạo lực gia

đình tốt. Yêu cầu là phải phòng bạo lực gia đình ngay từ lúc đầu, làm cho bạo

lực gia đình ít xảy ra hơn và tiến tới không xảy ra bạo lực gia đình hay xử lý

bạo lực gia đình chỉ là hãn hữu, là việc làm bất đắc dĩ.

Do đó, phòng bạo lực gia đình cần lấy việc tuyên truyền, phổ biến giáo

dục pháp luật là quan trọng, hàng đầu. Thực hiện tư tưởng phòng ngừa này thì

phòng bạo lực gia đình được coi là nhiệm vụ chung của các cấp, các ngành và

toàn xã hội.

b) Khái niệm chống bạo lực gia đình

Khi bạo lực gia đình đã tiến triển lên mức độ trầm trọng hơn, tần suất

cũng như cường độ mạnh hơn, hoặc ở vào tình thế nguy hiểm thì nạn nhân

thường nhờ cậy các tổ chức đoàn thể, chính quyền, công an, với huy vọng là

các tổ chức này gây áp lực và có biện pháp hữu hiệu cũng như mong muốn

chống lại bạo lực gia đình.

Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp chống bạo lực gia đình, lấy

phòng ngừa là chính, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư

vấn, hòa giải phù hợp với truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán tốt đẹp

của dân tộc Việt Nam.

Xuất phát từ thực tế quan hệ trong gia đình thường mang tính khép kín,

với các thành viên gia đình cũng như những người xung quanh, việc trong gia

đình thì người ngoài ít có cơ hội xen vào. Vì thế, những vụ việc bạo hành gia

đình thường khó phát hiện, khi bị phát hiện cũng khó xử lý bởi tâm lý e ngại

9

của nạn nhân và cả những người biết chuyện, và thậm chí nếu xử lý rồi thì

khả năng tái diễn cũng rất cao vì để tìm ra biện pháp ngăn chặn phù hợp là

không dễ. Các quy định pháp luật khó vươn tới từng gia đình, bởi nhận thức

của người dân về vấn đề này còn hạn chế, sự can thiệp giữa các thành viên gia

đình. Chính vì vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hòa

giải trong vấn đề này là rất quan trọng, góp phần định hướng hành vi của mỗi

người, nạn nhân được trang bị kiến thức để tự bảo vệ; người có thể có hành vi

bạo lực thì nhận thức được tính chất, hậu quả của hành vi để tự kiềm chế tốt

hơn; những người xung quanh biết được trách nhiệm tham gia phòng chống

bạo lực gia đình và có ứng xử phù hợp.

Pháp luật luôn hướng tới việc ngăn chặn các hành vi phạm tội trước khi

xảy ra để giữ gìn trật tự, tránh những tổn thất cho cộng đồng và xã hội. Riêng

trong lĩnh vực chống bạo lực gia đình thì việc phòng ngừa càng có ý nghĩa

quan trọng. Bởi vì hành vi bạo lực nếu xảy ra thì ít nhiều đã gây ra những tổn

thương nhất định cho các thành viên trong gia đình, làn xấu đi mối liên kết và

tình cảm gia đình, và việc hàn gắn là không dễ; nếu hành vi bị phát hiện và xử

ký theo pháp luật thì quan hệ gia đình có thể sẽ chuyển biến xấu hơn nữa. Vì

vậy, cần phải lấy phòng ngừa là chính trong hoạt động chống bạo lực gia

đình.

Bên cạnh đó, hành vi bạo lực càng kéo dài thì càng gây ra nhiều tổn

thương cho nạn nhân, tổn hại tới mối quan hệ gia đình. Điều này sẽ được hạn

chế rất nhiều nếu hành vi bị phát hiện và xử lý kịp thời. Do đó, cần phát huy

vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong

chống bạo lực gia đình.

Bạo lực gia đình từ lâu đã không còn là vấn đề của mỗi gia đình mà

còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất ổn định xã hội, do đó việc chống bạo lực

gia đình là trách nhiệm chung của cộng đồng chứ không chỉ là của nhà nước

và những người có liên quan. Việc chống bạo lực gia đình vốn gặp nhiều khó

khăn khi triển khai trên thực tế, do không có nhiều chủ thể tích cực tham gia

công tác này vì nhận thức không đúng tầm quan trọng, ý nghĩa của nó. Điều

10

đó một lần nữa khẳng định tầm quan trọng cũng như sự cần thiết của việc

phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng động, cơ quan, tổ

chức trong việc phòng chống bạo lực gia đình.

c) Khái niệm phòng, chống bạo lực gia đình

Phòng chống bạo lực gia đình là hoạt động của các cơ quan nhà nước,

các tổ chức xã hội, cá nhân và gia đình trong việc phòng ngừa và ngăn chặn

các hành vi bạo lực gia đình; xử lý các hành vi vi phạm các quy định của pháp

luật về phòng chống bạo lực gia đình. Công tác phòng, chống bạo lực gia đình

của nước ta hiện nay chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố trong đó yếu tố về

nhận thức, kinh tế và pháp luật là cơ bản nhất.

- Yếu tố nhận thức: Ảnh hưởng của nền văn hóa phong kiến với những

quan niệm mang đậm màu sắc định kiến giới nằm ngay trong truyền thống

văn hóa, phong tục tập quán, chuẩn mực đạo đức với tư tưởng trọng nam

khinh nữ, chồng chúa vợ tôi. Suy nghĩ sai lầm đó đã củng cố niềm tin rằng

đàn ông có quyền dạy dỗ vợ của họ thông qua các hành động có tính bạo lực.

Họ cũng tự cho mình có vai trò trụ cột gia đình, có quyền định đoạt mọi việc,

có thể mắng chửi vợ con một vài câu là bình thường, nhiều bậc cha mẹ tự cho

mình quyền được mắng chửi con cái. Họ luôn có tư tưởng cam chịu, vì sợ

vạch áo cho người xem lưng, hay sợ hàng xóm, bạn bè chê cười.

- Yếu tố về kinh tế: Khó khăn về kinh tế là một trong những nguyên

nhân có thể dẫn tới bạo lực gia đình. Khó khăn về kinh tế thường tạo ra các áp

lực, căng thẳng, bế tắc đối với các thành viên gia đình. Do khó khăn về kinh

tế nên các cặp vợ chồng rất dễ xung đột, cãi cọ người này đổ lỗi cho người

khác làm nảy sinh bạo lực. Những bất hòa nhỏ thường ngày trở nên càng

nghiêm trọng trong bối cảnh kinh tế khó khăn làm cho con người không còn

bình tĩnh để ứng xử một cách khôn ngoan và dễ dẫn đến bạo lực gia đình.

- Yếu tố luật pháp: Sự thiếu hiểu biết pháp luật của người bị bạo lực

làm cho họ không tự bảo vệ được chính bản thân mình, không đấu tranh vì lẽ

phải. Mặt khác, việc thực thi pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong

11

thực tiễn chưa nghiêm, chưa hiệu quả, chưa đủ mạnh, chưa đủ răn đe đối với

những người có hành vi bạo lực gia đình.

Ảnh hưởng của yếu tố nhận thức, kinh tế và pháp luật dẫn đến việc

phòng, chống bạo lực gia đình trong thực tế hiện nay hầu như chưa có hiệu

quả. Do đó, cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình cần

quan tâm và chú trọng đến những yếu tố trên trong quá trình xây dựng và thực

thi văn bản pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.

1.1.3. Nội dung của pháp luật phòng chống bạo lực gia đình

Trong hệ thống pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình, Hiến pháp

là văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất. Điều 26 Hiến pháp năm 2013

quy định “Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”. Điều 20 “Mọi người có

quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ,

danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất

kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh

dự, nhân phẩm”. Điều 36 “Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo

nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn

trọng lẫn nhau” [26].

Cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp; nội dung phòng, chống bạo lực

gia đình được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác. Tiêu biểu là

những quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999 là một trong những văn bản

đó. Bộ luật Hình sự là căn cứ để xác định hành vi bạo lực gia đình nào là hành

vi phạm tội. Điều 130, Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định tội xâm phạm

quyền bình đẳng của phụ nữ: "người nào dùng vũ lực hoặc có hành vi nghiêm

trọng khác cản trở phụ nữ tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, văn

hoá, xã hội, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị

phạt tù từ ba tháng đến một năm" [27]. Ngoài ra, Bộ luật hình sự Việt Nam đã

hình sự hoá nhiều hành vi bạo lực gia đình, quy định thành nhiều tội phạm

liên quan đến bạo lực gia đình. Tuy nhiên, những điều luật đó mới chỉ quy

12

định gián tiếp về hành vi bạo lực gia đình, chưa có nhiều quy định trực tiếp về

phòng, chống bạo lực gia đình.

Cùng với Bộ luật Hình sự, Luật Tổ chức Chính phủ cũng quy định

nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ: "Chỉ đạo và tổ chức thực hiện chính

sách xây dựng gia đình Việt Nam bình đẳng, ấm no, hạnh phúc; bảo đảm

quyền bình đẳng nam, nữ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình;

bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người mẹ và trẻ em; có biện pháp ngăn ngừa và

chống mọi hành vi bạo lực, xúc phạm nhân phẩm đối với phụ nữ và trẻ em".

[31]. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 là một trong những văn

bản pháp luật quan trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ

hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử

của các thành viên trong gia đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức

tốt đẹp của gia đình Việt Nam nhằm xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến

bộ, hạnh phúc, bền vững. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam còn là phương

tiện hữu hiệu trong việc phòng, chống bạo lực gia đình. Luật đã có nhiều điều

khoản quy định trực tiếp và gián tiếp đến việc phòng, chống bạo lực gia đình.

Tại khoản 2, điều 5, Luật Hôn nhân và gia đình quy định: Cấm Kết hôn giả

tạo, ly hôn giả tạo; Cấm Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở

kết hôn; cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ

chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung

sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ; cấm kết hôn hoặc chung

sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những

người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người

đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con

rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; cấm yêu

sách của cải trong kết hôn; cấm cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly

hôn; cấm thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương

mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh

sản vô tính; Bạo lực gia đình; Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và

13

gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có

hành vi khác nhằm mục đích trục lợi [30].

Như vậy, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 cũng như các

văn bản pháp luật kể trên đã có nhiều quy phạm pháp luật nhằm phòng, chống

bạo lực gia đình. Tuy nhiên, xét một cách tổng quát, những quy định đó vẫn

còn sơ sài, tản mạn ở nhiều văn bản khác nhau, thiếu tính cụ thể và chưa có

những quy định pháp lý đặc thù.

Để khắc phục những hạn chế của hệ thống pháp luật về phòng, chống

bạo lực gia đình đồng thời nhằm đạt được hiệu quả cao hơn nữa trong việc

phòng, chống bạo lực gia đình, hạn chế tiến tới đẩy lùi bạo lực gia đình, tạo

nên một cuộc cách mạng thực sự trong phòng, chống bạo lực gia đình, Luật

Phòng, chống bạo lực gia đình đã được Quốc hội khoá XII nước Cộng hòa

XHCN Việt Nam thông qua ngày 21 tháng 11 năm 2007 và có hiệu lực thi

hành từ ngày 01/7/2008. Luật phòng, chống bạo lực gia đình gồm 6 chương

và 46 điều. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên quy định một cách trực tiếp, cụ

thể về hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình. Luật Phòng, chống bạo lực

gia đình năm 2007 đã điều chỉnh một cách có hệ thống các hành vi bạo lực

gia đình để trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình.

Luật phòng, chống bạo lực gia đình quy định về phạm vi điều chỉnh;

định nghĩa về bạo lực gia đình, xác định cụ thể các hành vi bạo lực gia đình;

nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình; nghĩa vụ của người có hành vi bạo

lực gia đình; quyền và nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực gia đình; chính sách của

Nhà nước, hợp tác quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình và những hành vi

bị nghiêm cấm.

Về phạm vi điều chỉnh được quy định tại điều 1, Luật Phòng, chống

bạo lực gia đình: "Luật này quy định về phòng ngừa bạo lực gia đình, bảo vệ,

hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan,

tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình và xử lý vi phạm pháp luật về

phòng, chống bạo lực gia đình". Như vậy phạm vi điều chỉnh của Luật khá

rộng. Luật điều chỉnh nhiều vấn đề, quy định về tất cả hành vi bạo lực của các

14

thành viên trong gia đình kể cả đối với gia đình của vợ, chồng đã ly hôn hoặc

nam nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng, các

phương thức phòng, chống bạo lực gia đình, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực

gia đình đồng thời xác định trách nhiệm của toàn xã hội đối với vấn đề này và

quy định về xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.

Lần đầu tiên, bạo lực gia đình được quy định trong văn bản pháp luật

Việt Nam. Theo đó, hành vi bạo lực gia đình trước hết phải là hành vi cố ý

chứ không thể là hành vi vô ý. Thứ hai, người thực hiện hành vi bạo lực chính

là một trong những thành viên trong gia đình (các chủ thể ngoài gia đình bị

loại trừ). Thứ ba, hành vi bạo lực gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây

tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế.

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình ngoài việc định nghĩa về bạo lực

gia đình còn quy định cụ thể các hành vi bạo lực gia đình: Hành hạ, ngược

đãi, đánh đập hoặc có hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng;

Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm; Cô lập, xua

đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng;

Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà

và cháu; giữa cha mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;

Cưỡng ép quan hệ tình dục; Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc

cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có

hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia

đình hoặc tài sản chung của các thành viên trong gia đình; Cưỡng ép thành

viên trong gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ;

kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc

về tài chính; Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.

[29].

Các hành vi bạo lực trên cũng được áp dụng đối với thành viên gia đình

của vợ, chồng đã ly hôn hoặc nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống

với nhau như vợ chồng. Khi chủ thể là thành viên trong gia đình mà có những

hành vi trên đối với một trong những thành viên trong gia đình thì bị coi là

15

hành vi bạo lực gia đình đồng thời là hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống

bạo lực gia đình. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan thực thi

pháp luật, các cá nhân cũng như toàn xã hội nhận thức và xác định và hiểu rõ

hơn về các hành vi bạo lực gia đình, khắc phục được tình trạng chưa có và

chưa hiểu rõ quy định về hành vi bạo lực gia đình, tránh được quan niệm của

một số người, bạo lực gia đình là chồng đánh vợ hoặc vợ đánh chồng, có

nghĩa là phải có "đánh đập", còn "chửi mắng, lăng mạ, cô lập, xua đuổi, hay

cưỡng ép..." thì không phải là hành vi bạo lực gia đình hay một số người thì

cho rằng hành vi đánh vợ hay chồng là chuyện bình thường xảy ra trong cuộc

sống, vì vậy, không phải là hành vi bạo lực gia đình và như vậy, không phải là

vi phạm pháp luật.

Cũng như các đạo luật khác, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình Việt

Nam cũng quy định "nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình" điều 3, Luật

Phòng, chống bạo lực gia đình 1. Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp

phòng, chống bạo lực gia đình, lấy phòng ngừa là chính, chú trọng công tác

tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hoà giải phù hợp với truyền thống

văn hoá, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. 2. Hành vi bạo

lực gia đình được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời theo quy định của

pháp luật. 3. Nạn nhân bạo lực gia đình được bảo vệ, giúp đỡ kịp thời phù hợp

với điều kiện hoàn cảnh của họ và điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; ưu

tiên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, người cao tuổi, người tàn tật

và phụ nữ. 4. Phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng,

cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình [29].

Như vậy, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã đưa ra các nguyên tắc

rất cơ bản trong phòng, chống bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình đang là một

căn bệnh nguy hiểm trong xã hội, là vấn đề toàn cầu, gây ảnh hưởng đến tính

mạng, danh dự, sức khỏe, nhân phẩm của người phụ nữ trong gia đình. Do

vậy, để ngăn chặn đẩy lùi bạo lực gia đình thì nguyên tắc phòng ngừa là chính

được đặt lên hàng đầu; hành vi bạo lực gia đình phải nhanh chóng được phát

hiện để bảo vệ, giúp đỡ nạn nhân đồng thời xử lý nghiêm minh đối với người

16

có hành vi bạo hành; mỗi cá nhân và cả xã hội phải có trách nhiệm trong việc

phòng, chống bạo lực gia đình. Nội dung của các nguyên tắc này được thể

hiện xuyên suốt toàn bộ 46 điều luật, thể hiện tính nhân đạo của nhà nước ta

đồng thời xác định trách nhiệm của mỗi cá nhân và toàn xã hội trong chiến

dịch đẩy lùi và xoá bỏ nạn bạo hành gia đình, thể hiện tính nghiêm minh của

pháp luật Việt Nam.

Bên cạnh việc quy định các hành vi bạo lực gia đình, Luật Phòng,

chống bạo lực gia đình còn quy định các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt

động phòng, chống bạo lực gia đình điều 8, Luật Phòng, chống bạo lực gia

đình. Điều này cho chúng ta thấy, ngoài các chủ thể thực hiện hành vi bạo lực

gia đình đối với thành viên trong gia đình mình còn có các chủ thể khác ngoài

gia đình vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình.

Điều này giúp ta phân biệt chủ thể của bạo lực gia đình với chủ thể vi phạm

pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.

Luật Phòng chống bạo lực gia đình quy định các biện pháp như: quy

định về thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình; hoà giải

mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình; tư vấn, góp ý, phê bình

trong cộng đồng dân cư về phòng ngừa bạo lực gia đình từ điều 9 đến điều 17.

Có thể thấy rằng, phòng ngừa là một biện pháp rất quan trọng và có tác

dụng lớn trong việc ngăn chặn và đẩy lùi bạo lực gia đình. Nếu như thực hiện

phòng ngừa tốt, bạo lực gia đình sẽ xảy ra ít hơn rất nhiều. Để ngăn ngừa và

xử lý có hiệu quả về bạo lực gia đình, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình chú

trọng tới các giải pháp giáo dục tại cộng đồng bởi vì khi ý thức và kiến thức

của các cá nhân trong xã hội về pháp luật hôn nhân và gia đình; về pháp luật

phòng, chống bạo lực gia đình được nâng cao sẽ là điều kiện quan trọng nhất

để tránh được bạo lực gia đình xảy ra. Luật còn chú trọng tới việc phát huy

hết khả năng và vai trò của gia đình, dòng họ; bạo lực gia đình cần được phát

hiện và xử lý sớm từ mâu thuẫn xích mích nhỏ, không để phát sinh thành mâu

thuẫn lớn gây bạo lực gia đình. Việc xử lý xích mích mâu thuẫn nhỏ thông

qua các biện pháp hoà giải cơ sở. Tuỳ theo từng sự việc mà việc hoà giải do

17

gia đình, dòng họ tiến hành hay cơ quan, tổ chức tiến hành hoặc do tổ chức

hoà giải cơ sở tiến hành. Quy định này rất quan trọng nhằm phát huy vai trò

và trách nhiệm của cộng đồng đối với mỗi thành viên trong xã hội, phát huy

được tính dân chủ trong nhân dân, từ đó góp phần thay đổi nhận thức và nâng

cao ý thức pháp luật, trình độ hiểu biết pháp luật đặc biệt là pháp luật về

phòng, chống bạo lực gia đình.

Nạn nhân bạo lực gia đình được bảo vệ ở mức cao nhất thông qua các

biện pháp như: phát hiện, báo tin về bạo lực gia đình điều 18; biện pháp ngăn

chặn, bảo vệ điều 19; cấm tiếp xúc theo quyết định của Chủ tịch uỷ ban nhân

dân cấp xã điều 20, quyết định của toà án điều 21; biện pháp chăm sóc tại cơ

sở khám chữa bệnh điều 23; biện pháp tư vấn điều 24; hỗ trợ khẩn cấp các

nhu cầu thiết yếu cho nạn nhân [29]. Những quy định trên thể hiện tính nhân

đạo của Nhà nước ta, thể hiện sự quan tâm, bảo vệ quyền con người, kế thừa

truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

Một trong những biện pháp bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân rất quan trọng là

biện pháp cấm tiếp xúc và biện pháp này được thực hiện theo điều 20 và điều

21 của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Khoản 1, điều 20, Luật Phòng,

chống bạo lực gia đình quy định: "Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi xảy

ra bạo lực gia đình quyết định áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc trong thời hạn

không quá 3 ngày khi có đủ các điều kiện sau đây: a. có đơn yêu cầu của nạn

nhân bạo lực gia đình, người giám hộ hoặc người đại diện hợp pháp hoặc cơ

quan, tổ chức có thẩm quyền; trường hợp cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có

đơn yêu cầu thì phải có sự đồng ý của nạn nhân bạo lực gia đình; b. hành vi

bạo lực gia đình gây tổn hại hoặc đe doạ gây tổn hại đến sức khoẻ hoặc đe

doạ tính mạng của nạn nhân bạo lực gia đình; c. người có hành vi bạo lực gia

đình và nạn nhân bạo lực gia đình có nơi ở khác nhau trong thời gian cấm tiếp

xúc". Điều 21, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy định: "toà án đang thụ

lý hoặc giải quyết vụ án dân sự giữa nạn nhân bạo lực gia đình và người có

hành vi bạo lực gia đình quyết định biện pháp cấm tiếp xúc trong thời hạn

không quá 4 tháng khi có đủ các điều kiện sau đây: a. có đơn yêu cầu của nạn

18

nhân bạo lực gia đình, người giám hộ hoặc người đại diện hợp pháp hoặc cơ

quan, tổ chức có thẩm quyền; trường hợp cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có

đơn yêu cầu thì phải có sự đồng ý của nạn nhân bạo lực gia đình; b. hành vi

bạo lực gia đình gây tổn hại hoặc đe doạ gây tổn hại đến sức khoẻ hoặc đe

doạ tính mạng của nạn nhân bạo lực gia đình; c. Người có hành vi bạo lực gia

đình và nạn nhân bạo lực gia đình có nơi ở khác nhau trong thời gian cấm tiếp

xúc" [29]. Có thể nói các quy định về biện pháp cấm tiếp xúc rất chặt chẽ,

không phải vụ bạo lực gia đình nào cũng áp dụng được biện pháp này mà cần

có sự đồng ý của nạn nhân bạo lực gia đình. Biện pháp cấm tiếp xúc là một

trong những giải pháp đặc biệt và hữu ích để bảo vệ nạn nhân, giảm thiểu hậu

quả bạo lực gia đình, hạn chế tội phạm. Tuy nhiên, khi áp dụng biện pháp

này, các chủ thể có thẩm quyền phải đảm bảo các điều kiện mà Luật Phòng,

chống bạo lực gia đình quy định.

Luật quy định về trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức

trong phòng, chống bạo lực gia đình, tại chương IV: "Trách nhiệm của cá

nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình" từ

điều 31 đến điều 41 quy định về trách nhiệm cụ thể của cá nhân; trách nhiệm

của gia đình; trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức

thành viên; trách nhiệm của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam; trách nhiệm của

cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình; trách nhiệm của

Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch; trách nhiệm của Bộ Y tế; trách nhiệm của

Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội; trách nhiệm của Bộ Giáo dục và Đào

tạo, nhà trường và các cơ sở giáo dục khác thuộc hệ thống giáo dục quốc dân;

trách nhiệm của Bộ Thông tin và Truyền thông và các cơ quan thông tin đại

chúng và trách nhiệm của cơ quan Công an, Toà án, Viện kiểm sát [29].

Mỗi cá nhân trong xã hội phải thực hiện đúng quy định của pháp luật

về phòng, chống bạo lực gia đình, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới,

phòng, chống ma tuý, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác đồng thời kịp thời

ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình và thông báo cho cơ quan, tổ chức, người

có thẩm quyền. Mỗi gia đình phải giáo dục, nhắc nhở thành viên gia đình thực

19

hiện quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình; phối hợp với

cơ quan, tổ chức và cộng đồng dân cư trong phòng, chống bạo lực gia đình.

Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình quy định về việc áp dụng các biện

pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo

dưỡng; khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo được quy định chi tiết

tại Chương V "Xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình và

khiếu nại, tố cáo [29]. Theo quy định của điều 42, Luật Phòng, chống bạo lực

gia đình, khi chủ thể có bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật bạo lực gia đình

nào, tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính, xử

lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi

thường theo quy định của pháp luật. Như vậy, cũng như các loại vi phạm

pháp luật trong các lĩnh vực khác, khi chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật

trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình, chủ thể phải chịu trách nhiệm

pháp lý tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm. Quy định này sẽ giúp việc

phòng, chống bạo lực gia đình đạt kết quả cao hơn bởi trước đây, rất nhiều

chủ thể còn chưa nhận thức được hậu quả mình phải gánh chịu khi thực hiện

hành vi bạo lực gia đình đồng thời là tiếng chuông cảnh tỉnh cho những ai có

ý định, hành động bạo lực đối với những người thân của mình.

Đối với các chủ thể vi phạm là cán bộ, công chức, viên chức, người

thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, nếu bị xử lý vi phạm hành chính theo quy

định trên thì bị thông báo cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có

thẩm quyền quản lý người đó để giáo dục. Chính phủ quy định cụ thể các

hành vi vi phạm hành chính về phòng, chống bạo lực gia đình, hình thức xử

phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với người có hành vi vi phạm pháp

luật về phòng, chống bạo lực gia đình.

Điều 43, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình còn quy định: "1. Người

thường xuyên có hành vi bạo lực gia đình đã được góp ý, phê bình trong cộng

đồng dân cư mà trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày áp dụng biện pháp này vẫn

còn hành vi bạo lực gia đình nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm

hình sự thì có thể bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; 2.

20

Người có hành vi bạo lực gia đình đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,

phường, thị trấn mà tiếp tục thực hiện hành vi bạo lực gia đình nhưng chưa

đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì có thể bị áp dụng biện pháp đưa

vào cơ sở giáo dục; đối với người dưới 18 tuổi thì có thể bị ấp dụng biện pháp

đưa vào trường giáo dưỡng" [29]. Việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,

phường, thị trấn, đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng nhằm ngăn chặn,

hạn chế bạo lực gia đình, mặt khác giúp đỡ, tạo cơ hội cho người vi phạm có

thể sửa chữa tại cộng đồng. Điều này làm tăng hiệu quả công tác phòng,

chống vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.

Như vậy, với những quy định trực tiếp, cụ thể, rõ ràng, sâu sát về bạo

lực gia đình, các hành vi bạo lực gia đình cũng như cách thức xử lý vi phạm

pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Phòng, chống bạo lực gia

đình là chuẩn mực pháp lý cơ bản và quan trọng trong việc đấu tranh, hạn chế

và đẩy lùi bạo lực gia đình. Luật ra đời là một dấu ấn pháp lý quan trọng trên

con đường hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới, hôn nhân và gia đình,

phòng, chống bạo lực gia đình. Để Luật được đi vào cuộc sống, phát huy tác

dụng của nó, ngày 04 tháng 02 năm 2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định

số 08/2009/NĐ - CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình; Ngày 12 tháng 11 năm 2013, Chính phủ

ban hành Nghị định số 167/2013/NĐ-CP Nghị định Quy định xử phạt hành

chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội, phòng chống tệ nạn xã

hội, phòng cháy và chữa cháy, phòng, chống bạo lực gia đình. Cùng với các

văn bản pháp luật khác, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã tạo nên một hệ

thống pháp luật khá đầy đủ trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Với

tính chính xác, kịp thời, cụ thể, rõ ràng, phù hợp với điều kiện thực tế của

Việt Nam, hệ thống pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình là một trong

những công cụ hữu hiệu nhất để hạn chế, chặn đứng, đẩy lùi được nạn bạo lực

gia đình đang gia tăng hiện nay.

1.1.4. Vai trò pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình

21

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình là cơ sở pháp lý thống nhất để bảo

vệ quyền và lợi ích của các thành viên trong gia đình, góp phần củng cố và

xây dựng gia đình Việt nam ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.

Đây là một đạo luật quan trọng và có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, thể hiện

rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước trong vấn đề phòng, chống bạo hành và

là cơ sở pháp lý thống nhất để bảo vệ quyền và lợi ích của các thành viên

trong gia đình.

Có vai trò rất quan trọng trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội,

tạo ra trật tự và ổn định cho xã hội nhất là trong việc ngăn chặn và đẩy lùi

hiện tượng vi phạm pháp luật. Một hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực

gia đình hoàn thiện, đầy đủ, thống nhất, cụ thể, tính khả thi cao, dân chủ, tiến

bộ, hướng tới các giá trị nhân văn cùng với hệ thống các biện pháp phòng

ngừa, ngăn chặn và xoá bỏ nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật phòng,

chống bạo lực gia đình ngày càng đầy đủ; hoạt động của hệ thống các cơ quan

bảo vệ pháp luật ngày càng đạt hiệu quả cao hơn sẽ là những đảm bảo pháp lý

để ngăn chặn, hạn chế vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình.

1.2. Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình

1.2.1. Khái niệm vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình

Cho đến nay, chúng ta đã có một hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh

về bạo lực gia đình. Lần đầu tiên, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình được

Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2008 . Phòng, chống

bạo lực gia đình đã được Luật hoá. Vì vậy, bạo lực gia đình là vi phạm pháp

luật. Những hành vi xâm hại đến các quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp

luật phòng, chống bạo lực gia đình là những hành vi vi phạm pháp luật phòng,

chống bạo lực gia đình. Từ những phân tích trên, vi phạm pháp luật phòng,

chống bạo lực gia đình được hiểu là những hành vi trái pháp luật phòng,

chống bạo lực gia đình, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý

thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ trong lĩnh

vực phòng, chống bạo lực gia đình mà nạn nhân của bạo hành gia đình là

các thành viên trong gia đình.

22

Như vậy, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình là các hành

vi bạo hành trong gia đình. Đồng thời, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo

lực gia đình còn là các hành vi liên quan đến việc phòng, chống bạo lực gia

đình đối với các thành viên trong gia đình như những hành vi trái pháp luật

trong việc phát hiện, ngăn chặn, xử lý các trường hợp bạo hành gia đình.

1.2.2. Đặc điểm của vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình

Thứ nhất, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình luôn là

hành vi được xác định của con người.

Cũng như các hành vi vi phạm pháp luật khác, vi phạm pháp luật

phòng, chống bạo lực gia đình trước hết phải là hành vi cụ thể của con người.

Suy nghĩ của con người dù xấu như thế nào chăng nữa, nếu không được biểu

hiện ra ngoài thành hành động cụ thể thì không bị coi là vi phạm pháp luật

phòng, chống bạo lực gia đình. Chỉ những hành vi được thể hiện bằng hành

động cụ thể mới có thể bị quy kết là đúng pháp luật hay vi phạm pháp luật.

Hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình được biểu

hiện dưới hai hình thức là hành động như người chồng đã có hành vi đánh vợ

gây thương tích hoặc không hành động như người chồng đã hành hạ người vợ

bằng cách trong một thời gian dài thờ ơ, không nói chuyện, không về nhà làm

người vợ bị tổn thất nặng về tinh thần.

Như vậy, dấu hiệu đầu tiên để nhận biết vi phạm pháp luật phòng,

chống bạo lực gia đình là nó phải biểu hiện ra ngoài bằng hành vi bởi pháp

luật phòng, chống bạo lực gia đình không điều chỉnh những suy nghĩ của con

người.

Thứ hai, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình là hành vi

trái pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình.

Tính trái pháp luật thể hiện sự chống đối, làm ngược lại những quy

định của pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Cụ thể, chủ thể có những

hành vi trái với quy định của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình hay các quy

định trong các văn bản pháp luật khác có quy định về phòng, chống bạo lực

gia đình như Hiến pháp 2013, Luật Hình sự 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự

23

2003, Bộ luật Dân sự 2005... Chẳng hạn, chủ thể có một trong những hành vi

quy định tại điều 2, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình như cưỡng ép quan

hệ tình dục; ...[29]. Pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình cấm hành vi trên,

mọi người có quyền được bảo vệ về tính mạng, danh dự, nhân phẩm nhưng

người chồng đã xâm hại đến quyền đó của người phụ nữ, làm trái lại những gì

mà pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình yêu cầu, đặt ra thì đó chính là

hành vi trái pháp luật.

Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật nhưng là hành vi trái pháp

luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Chỉ các hành vi liên quan

đến lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình, trái với các quy định trong hệ

thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình mà nạn nhân của bạo lực gia

đình phải là các thành viên trong gia đình là vi phạm pháp luật phòng, chống

bạo lực gia đình. Đặc điểm này giúp ta phân biệt vi phạm pháp luật phòng,

chống bạo lực gia đình với các loại vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực khác.

Thứ ba, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình phải là hành

vi có lỗi.

Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình phải là hành vi có lỗi.

Đây là dấu hiệu không thể thiếu được của bất kỳ loại vi phạm pháp luật nào

bởi vì dấu hiệu này xác định thái độ tâm lý của chủ thể khi thực hiện hành vi

trái pháp luật. Lỗi chính là thái độ phủ nhận của chủ thể vi phạm pháp luật

trước những yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật. Trong một hoàn cảnh nhất định,

chủ thể hoàn toàn có đủ điều kiện để lựa chọn một xử xự khác phù hợp với

pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình nhưng chủ thể đã không lựa chọn mà

quyết định một xử sự trái với yêu cầu của pháp luật phòng, chống bạo lực gia

đình. Con người là đối tượng được bảo vệ của pháp luật trước bạo lực gia

đình, nhưng các chủ thể đã xâm hại đến quyền được bảo vệ đó hay chủ thể, cơ

quan có thẩm quyền đã không hoàn thành nhiệm vụ của mình trong việc bảo

vệ quyền đó của con người.

24

Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình có thể là lỗi cố ý

hoặc lỗi vô ý. Nhưng nếu là hành vi bạo lực gia đình thì lỗi phải là cố ý. Còn

các trường hợp khác thì không nhất thiết phải là lỗi cố ý.

Thứ tư, chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật phòng, chống bạo lực

gia đình phải có năng lực pháp luật và năng lực trách nhiệm pháp lý đầy đủ.

Điều này đòi hỏi, chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật phải đạt

một độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật, có khả năng nhận thức

được sự việc và điều khiển được hành vi và tự do ý chí. Hay nói khác đi, chủ

thể thực hiện hành vi vi phạm phải đạt một độ tuổi nhất định, không mắc bệnh

tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức và điều khiển hành

vi vi phạm pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình.

Trong thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp, người chồng thường uống

rượu say rồi về hành hạ, đánh đập vợ thì vẫn bị coi là vi phạm pháp luật

phòng, chống bạo lực gia đình và phải chịu trách nhiệm pháp lý vì mặc dù lúc

đó họ không đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi nhưng họ đã có lỗi

trong việc tự đặt mình vào trong tình trạng say đó.

Trong mỗi trường hợp vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình

khác nhau, thì chủ thể gây ra vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình

là khác nhau: có trường hợp chủ thể thực hiện hành vi vi phạm, ngoài các điều

kiện trên còn bắt buộc phải là nam giới (trường hợp bạo lực gia đình đối với

phụ nữ). Có trường hợp, chủ thể phải là người có nhiệm vụ, quyền hạn (không

thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong lĩnh vực phòng, chống

bạo lực gia đình) như: người có thẩm quyền đã không xử lý người có hành vi

bạo lực gia đình, điều tra viên không khởi tố vụ án, không khởi tố bị can khi

biết chính xác và có đầy đủ căn cứ pháp lý rằng bị can đó đã có hành vi phạm

tội trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình.

Từ những phân tích trên ta thấy, khi xem xét hành vi vi phạm pháp luật

phòng, chống bạo lực gia đình, phải căn cứ vào cả bốn dấu hiệu kể trên. Các

dấu hiệu trên là tiêu chí để ta phân biệt vi phạm pháp luật trong lĩnh vực

25

phòng, chống bạo lực gia đình với các dạng vi phạm pháp luật trong các lĩnh

vực khác của đời sống xã hội.

1.2.3. Các loại bạo lực gia đình

- Theo phương cách ứng xử có thể phân bạo lực gia đình thành hai loại

hình chính:

Bạo lực thể chất là loại bạo lực có sử dụng vũ lực, tác động trực tiếp

lên thân thể nạn nhân như đánh đập; nhục hình; tước đoạt tùy tiện về tiền của;

tài sản; cưỡng bức tình dục.

Bạo lực tinh thần là loại bạo lực không sử dụng vũ lực, tác động lên

tinh thần của nạn nhân như chì triết, mắng chửi, lăng ma, tỏ thái độ lạnh lùng,

không quan tâm, bỏ rơi, không nói chuyện.

- Theo quan hệ của các đối tượng bạo lực gia đình có thể phân thành

một số loại hình bạo lực gia đình:

Bạo lực giữa vợ chồng với nhau loại bạo lực gia đình phổ biến, được

nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Trong loại hình bạo lực gia đình có một số

hình thức chính như cưỡng bức thân thể, cưỡng bức tình dục, cưỡng bức tâm

lý, tình cảm, cưỡng bức về xã hội và cưỡng bức về tài chính.

Bạo lực giữa các thành viên lớn tuổi trong gia đình là lạo bạo lực giữa

anh, chị,em, bố/mẹ chồng nàng dâu, anh/chị/em với chồng với chị/em dâu.

Bạo lực của người lớn đối với trẻ em là loại bạo lực của cha mẹ đối với

con cái, ông bà với nhau, anh chị đối với em.

Bạo lực ngược, bạo lực của người nhỏ tuổi với người lớn tuổi hơn như

con cái bạo lực cha mẹ, cháu ngược đãi ông bà, em hành hạ anh/chị

1.3. Các yếu tố bảo đảm ngăn chặn, hạn chế vi phạm pháp luật

phòng, chống bạo lực gia đình

1.3.1. Yếu tố chính trị

Hệ thống chính trị là trụ cột của nền chính trị xã hội của nước ta dưới

sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong hệ thống chính trị ở nước ta,

Đảng là hạt nhân lãnh đạo, Nhà nước là trung tâm , là tổ chức cốt yếu để thực

thi quyền lực của nhân dân. Ngoài ra, hệ thống chính trị còn bao gồm: Mặt

26

trận, Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Nông dân và

Hội Cựu chiến binh.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội do đại hội VII thông qua, đã xác định rõ mục tiêu tổng quát của

hệ thống chính trị: "Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước

ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ

xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân" Văn kiện Đại hội

XII đồng thời xác định: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh,

nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống

chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ

nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế

nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công

nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân

dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,

thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân

và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hòa bình, ổn định, chủ động và tích cực

hội nhập quốc tế để phát triển đất nước. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt

Nam trong khu vực và trên thế giới” [18].. Thực hiện dân chủ xã hội chủ

nghĩa là thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Đây vừa là

mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới". Để đất nước phát triển, đạt

được những thành quả tốt đẹp trên con đường đổi mới, Hệ thống chính trị

nước ta cần phải đổi mới để ngày càng thống nhất, phát triển và bền vững

hơn, thể hiện đúng đắn và đầy đủ hơn bản chất xã hội chủ nghĩa, phát huy tính

ưu việt và vai trò tích cực của chính trị đối với sự phát triển kinh tế-xã hội.

Các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị hoạt động có hiệu lực và hiệu quả

cao hơn, khắc phục bệnh quan liêu, hình thức, trên cơ sở xác định rõ, thực

hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức và xác lập cơ chế vận hành

thông suốt, chặt chẽ của cả hệ thống dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản

Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân

đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam;

27

đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của

dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò quyết định đến thành công của

sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, tạo ra sự ổn định và trật tự xã hội

trong đó góp phần bảo đảm, hạn chế vi phạm pháp luật xảy ra trong xã hội. Vì

vậy, trong công cuộc đổi mới, Đảng phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh

đạo và sức chiến đấu của Đảng, làm cho Đảng ta ngày càng nâng tầm trí tuệ,

bảo đảm sự trong sạch, vững mạnh. Một mặt, Đảng cần nâng cao năng lực

hoạch định đường lối, chính sách để có nhiều đường lối, chủ trương chính

sách phù hợp với thực tiễn đời sống và nguyện vọng của nhân dân; nâng cao

năng lực tổ chức chỉ đạo thực hiện; năng lực nghiên cứu lý luận, tổng kết thực

tiễn, tạo sự thống nhất nhận thức và hành động trong Đảng; năng lực lãnh đạo

Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết

với nhân dân. Mặt khác, mỗi cán bộ, đảng viên, từng tổ chức và cấp uỷ đảng

(toàn đảng) phải có ý chí phấn đấu vươn lên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ

được giao; thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức; kiên quyết đấu tranh

với những hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng

không làm thay Nhà nước mà nâng cao tính chủ động, sáng tạo trong hoạt

động của Nhà nước. Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Đảng cần có nhiều chủ trương, chính sách phù hợp trong việc phòng, chống

bạo lực gia đình, để công tác phòng, chống bạo lực gia đình đạt được hiệu

quả, từ đó Nhà nước sẽ cụ thể hoá trong hệ thống pháp luật phòng, chống bạo

lực gia đình một cách kịp thời, cụ thể, thể hiện ý chí chung của toàn xã hội,

tạo nên sự hoàn thiện, thống nhất trong hệ thống pháp luật phòng, chống bạo

lực gia đình. Một hệ thống pháp luật hoàn thiện sẽ đảm bảo hạn chế được tình

trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Với

nhiệm vụ chính trị của mình, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam cũng cần

đổi mới, thể chế hoá, cụ thể hoá và tổ chức thực hiện đường lối của Đảng,

quản lý toàn diện xã hội và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước cần ban

hành các chính sách, pháp luật phản ánh ý chí, là tổng hoà ý chí của nhân dân,

phản ánh thực tiễn đời sống xã hội nhằm nâng cao mọi mặt đời sống của nhân

28

dân; quản lý nhà nước đạt được hiệu lực và hiệu quả. Mặt trận Tổ quốc là liên

minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và cá nhân tiêu biểu của các giai

cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo, là cơ sở chính trị của chính quyền

nhân dân, có vai trò quan trọng trong củng cố khối đại đoàn kết toàn dân,

phản biện và giám sát xã hội, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước, phát huy

quyền làm chủ của nhân dân.

Các bộ phận hợp thành hệ thống chính trị và hoạt động của các bộ phận

đó đã tạo nên sự thống nhất và thành công của hệ thống chính trị nước ta. Sự

phát triển của hệ thống chính trị và các thể chế chính trị, sự lãnh đạo của Đảng

Cộng sản đối với Nhà nước và hệ thống chính trị thống nhất là những bảo

đảm, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực

gia đình.

1.3.2. Yếu tố kinh tế

Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một sự

đột phá về tư duy lý luận của Đảng ta. Đại hội VI (1986) đã đánh dấu sự đổi

mới toàn diện, cả cấu trúc và cơ chế vận hành của nền kinh tế với nội dung

chính là từ bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, phát triển nền kinh tế hàng hoá

nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà

nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp đó, đại hội IX của Đảng (2001)

đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là

"mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa

xã hội", đề ra nhiệm vụ xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước chuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế

thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý sang nhận thức mới, coi kinh

tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định

hướng xã hội chủ nghĩa. Kế thừa tư duy Đại hội IX, Đại hội X, Đại hội XI,

Đại hội XII đã làm sáng tỏ thêm một bước nội dung cơ bản của định hướng xã

hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa. Mục tiêu của nền kinh tế thị trường là nhằm thực hiện "dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"; giải phóng mạnh mẽ và không

29

ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xoá đói,

giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ

người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Mục tiêu trên đây thể hiện

phát triển kinh tế vì con người. Trên cơ sở giải phóng mọi tiềm năng cho sự

phát triển sức sản xuất, phát triển kinh tế để làm cho mọi người đều được

hưởng những thành quả phát triển. Điều đó khác hẳn với mục tiêu tất cả vì lợi

nhuận phục vụ lợi ích các nhà tư sản, xây dựng cơ sở kinh tế cho chủ nghĩa tư

bản, bảo vệ chế độ tư bản, phát triển chủ nghĩa tư bản.

Với những ưu điểm của mình, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý

của Nhà nước, sự làm chủ của nhân dân, nền kinh tế nước ta đã có sự phát

triển vượt bậc và tăng trưởng khá nhanh, đời sống của nhân dân được cải

thiện và nâng cao rõ rệt. Nền kinh tế phát triển là yếu tố quan trọng tạo sự

phát triển cho xã hội, nâng cao mức sống và thoả mãn nhu cầu vật chất của

nhân dân lao động. Điều này sẽ là điều kiện quan trọng đảm bảo, hạn chế vi

phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Nghèo đói là một trong những

nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia

đình. Vì vậy, phát triển kinh tế là yếu tố trực tiếp tạo sự ổn định cho xã hội;

nâng cao nhận thức của nhân dân, nhu cầu của con người dần được thoả mãn.

Điều này quyết định đến việc thực hiện hành vi của con người phù hợp với

yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật và như vậy, hiện tượng vi phạm pháp luật sẽ

được hạn chế và dần bị đẩy lùi. Mặt khác, khi kinh tế phát triển sẽ là yếu tố

tác động đến pháp luật, làm cho pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình ngày

càng hoàn thiện trong điều kiện kinh tế mới.

1.3.3. Yếu tố tư tưởng

Một trong những nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật phòng, chống

bạo lực gia đình là do nhận thức của nhân dân còn thấp. Chính vì vậy, để ngăn

chặn, hạn chế vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình thì không thể

xem nhẹ yếu tố tư tưởng. Vì vậy, cần đề cao và đẩy mạnh công tác giáo dục,

đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa. Khi trong xã hội, mỗi công dân đều

có trình độ chính trị, trình độ văn hoá và ý thức pháp luật cao thì sẽ có ý thức

30

tuân thủ pháp luật và thực hiện theo những yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật.

Chính vì vậy, vi phạm pháp luật nói chung và trong lĩnh vực phòng, chống

bạo lực gia đình sẽ bị hạn chế và đẩy lùi.

1.3.4. Yếu tố pháp lý

Việt nam đang tiếp tục hoàn thiện và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Vì vậy, pháp luật có vai trò rất quan

trọng trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, tạo ra trật tự và ổn định

cho xã hội nhất là trong việc ngăn chặn và đẩy lùi hiện tượng vi phạm pháp

luật. Một hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình hoàn thiện, đầy

đủ, thống nhất, cụ thể, tính khả thi cao, dân chủ, tiến bộ, hướng tới các giá trị

nhân văn cùng với hệ thống các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xoá bỏ

nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình ngày

càng đầy đủ; hoạt động của hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật ngày càng

đạt hiệu quả cao hơn sẽ là những đảm bảo pháp lý để ngăn chặn, hạn chế vi

phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Tuy nhiên, để công cuộc

phòng chống bạo lực trong gia đình đạt hiệu quả thì không chỉ xây dựng một

đạo luật về phòng chống bạo lực gia đình là đủ, cần phải có các văn bản pháp

luật khác điều chỉnh các mối quan hệ trong gia đình để mọi người có cơ chế

tự bảo vệ mình, tự tránh khỏi các áp lực, các yếu tố và hành vi dẫn đến bạo

hành, nhằm xây dựng gia đình hòa thuận, tiến bộ và văn minh. Pháp luật cũng

phải là đại lượng công bằng nhất, xóa tan khoảng cách và xây dựng lại các gia

đình từ các đổ vỡ, bất đồng, xung đột tiềm ẩn hoặc đã thể hiện trong thực tế,

tạo cơ sở pháp lý để mọi người thể hiện được thái độ đúng đắn của mình,

những ứng xử phù hợp với pháp luật đối với nhau trước những bất đồng, xung

đột của gia đình. Như vậy, trong các yếu tố đảm bảo thì pháp luật được xem là

yếu tố đảm bảo cơ bản nhất nhằm phòng và chống bạo lực trong gia đình.

1.3.5. Yếu tố xã hội

Một xã hội phát triển, ổn định, có sự tham gia hoạt động xã hội của các

tổ chức và đoàn thể quần chúng sẽ tạo ra những bảo đảm về mặt xã hội cho

việc hạn chế vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Mỗi công dân

31

sẽ phát huy quyền làm chủ của mình đối với đất nước, đối với xã hội; mỗi tổ

chức sẽ phát huy khả năng tập hợp lực lượng, tạo ra khối đoàn kết chặt chẽ

trong xã hội nhằm phát huy sức mạnh của tập thể. Cả xã hội liên kết gắn bó

chặt chẽ với nhau tạo nên một sức mạnh lớn mà sức mạnh đó có thể đẩy lùi sự

xuất hiện của vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Nếu như, nhà

nước tạo ra các cơ chế bảo đảm cho pháp luật đi vào đời sống, thì xã hội chính

là môi trường nuôi dưỡng pháp luật đó, đảm bảo cho pháp luật hiện hữu và có

sức sống. Do đó, trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực trong gia đình, xã hội

luôn luôn được xem là cái nôi cho sự phát triển lành mạnh của gia đình và là

cơ sở, là tiền đề để Nhà nước cũng như mọi cá nhân, tổ chức tỏ thái độ và có

hành vi phản ứng lại với những hành vi vi phạm pháp luật, phát hiện ra những

hành vi vi phạm pháp luật cũng như bảo vệ, che chắn cho người phụ nữ thoát

khỏi nạn bạo hành gia đình. Nạn bạo lực gia đình chỉ có thể bị hạn chế nếu xã

hội, cộng đồng lên tiếng bảo vệ và thực sự chung tay, góp sức chống lại nó.

32

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

Bạo lực gia đình đang là vấn nạn của xã hội, là mối quan tâm không chỉ

ở mỗi quốc gia mà của cả cộng đồng quốc tế. Chính vì vậy, đã có nhiều đề tài

nghiên cứu về bạo lực gia đình. Tuy nhiên, nghiên cứu dưới góc độ pháp lý,

xem xét bạo lực gia đình dưới góc độ vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực

gia đình thì cho đến nay chưa có một đề tài nào nghiên cứu. Vì vậy, việc

nghiên cứu vấn đề vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình là việc

làm rất cần thiết đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam đang tiếp tục

xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,

do nhân dân, vì nhân dân.

Trong phạm vi của luận văn này, chương 1 đề cập đến những vấn đề lý

luận cơ bản nhất về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình; vi phạm pháp

luật phòng, chống bạo lực gia đình; từ đó chỉ ra những hậu quả mà vi phạm

pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình gây ra đồng thời nghiên cứu kinh

nghiệm một số tỉnh trong việc phòng, chống bạo lực gia đình. Đây chính là

những cơ sở cho việc phân tích thực trạng vi phạm pháp luật phòng, chống

bạo lực gia đình, xây dựng những giải pháp nhằm hạn chế tiến tới đẩy lùi tình

trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc trong

những chương tiếp theo. Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình là

vấn đề cần được nghiên cứu và xem xét một cách cấp thiết, kịp thời, khoa học

bởi nó là vấn đề mang tính toàn xã hội, ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển

kinh tế - xã hội của Việt Nam nói chung và Vĩnh Phúc nói riêng.

33

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO

LỰC GIA ĐÌNH Ở TỈNH VĨNH PHÚC

2.1. Khái quát về đặc điểm tỉnh Vĩnh Phúc

Vĩnh Phúc thuộc Vùng quy hoạch Thủ đô, Vùng kinh tế trọng điểm

Bắc Bộ, Vùng Đồng bằng sông Hồng; phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên và

Tuyên Quang, phía Đông và phía Nam giáp thủ đô Hà Nội, phía Tây giáp tỉnh

Phú Thọ. Tỉnh có 9 đơn vị hành chính, 137 xã, phường, thị trấn, 1.368 thôn,

tổ dân phố. Gần 80% dân số sống ở nông thôn. Toàn tỉnh có 252.110 hộ gia

đình, trong đó có 220.807 hộ gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa

(87,5%); 1.304 thôn, TDP, trong đó có 869 thôn, TDP đạt tiêu chuẩn văn hóa

(66,6%). Kinh tế - xã hội, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm

bảo, công tác an sinh xã hội được coi trọng. [33]

Sự quan tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền, cùng với sự phối hợp

vào cuộc của các cấp, các ngành đã tạo tiền và đề thúc đẩy sự nghiệp văn hóa

gia đình ngày càng phát triển; đặc biệt là công tác quản lý nhà nước về Phòng

chống BLGĐ ngày càng có hiệu quả, góp phần vào thực hiện mục tiêu xây

dựng gia đình "no ấm, tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc".

Tuy nhiên do quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mặt trái của cơ

chế thị trường tác động đến lối sống giới trẻ nói chung, một bộ phận cán bộ

đảng viên, công chức xuống cấp về đạo đức, tác động mạnh tới các giá trị đạo

đức truyền thống, lối sống lành mạnh trong gia đình Việt Nam. Nhiều gia

đình chưa quan tâm đến việc xây dựng gia đình văn hóa, nếp sống văn minh,

nhận thức của xã hội về vai trò, tầm quan trọng của gia đình, phòng, chống

bạo lực gia đình còn hạn chế, sự quan tâm, vào cuộc của các cấp ủy đảng

chính quyền ở cơ sở còn chưa quyết liệt, nên tình trạng bạo lực gia đình nảy

sinh nhiều vấn đề cần sự quan tâm vào cuộc tích cự của các cấp các ngành.

34

2.2. Thực trạng phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo

lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc

2.2.1. Thực trạng bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc

Như một căn bệnh nguy hiểm có trong bất kỳ xã hội nào, bạo lực gia

đình đang len lỏi vào mỗi vùng miền, mỗi gia đình và làm cản trở sự phát

triển bình thường của mỗi quốc gia, mỗi vùng miền và mỗi gia đình. Với một

hệ thống pháp luật cho đến nay có thể nói tương đối đầy đủ trong lĩnh vực

phòng, chống bạo lực gia đình đồng thời đã thực hiện hệ thống các biện pháp

thiết thực, tích cực nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng bạo lực gia đình. Tuy

nhiên, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình vẫn còn rất nghiêm

trọng. Nhiều lúc, nhiều nơi, ở nhiều địa phương trong tỉnh vẫn có nhiều gia

đình, nhiều người còn là nạn nhân của tình trạng bạo lực gia đình, họ còn phải

sống trong bạo lực đang hoành hành mà người gây ra những nỗi đau cho họ

lại chính là những người gần gũi nhất, thân yêu nhất. Tiếng kêu cứu của rất

nhiều người phụ nữ vang lên, nhiều vụ án đau lòng, thương tâm, gây bức xúc

trong xã hội về bạo lực gia đình đã cho chúng ta thấy một bức tranh ảm đạm

về tình trạng bạo lực gia đình. Hơn nữa, các cấp chính quyền, các cơ quan

chức năng còn có thái độ thờ ơ, bàng quan, vô trách nhiệm đối với các vụ bạo

lực gia đình. Họ chưa làm đúng chức năng, trách nhiệm của mình, còn bao

che, bỏ qua, xử lý chưa đúng pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.

Những người đứng ngoài khi biết có bạo lực gia đình xảy ra thì né tránh,

không tố cáo, thậm chí có người còn kích động, xúi giục giúp sức, tạo điều

kiện cho hành vi bạo lực gia đình được thực hiện. Nhiều chủ thể thì lợi dụng

tình trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ để kiếm lời. Từ thực tế đã cho

chúng ta thấy tình trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình ở

mức báo động.

Mặc dù chưa có cuộc điều tra tổng thể trên phạm vi toàn tỉnh; nhưng

theo báo cáo kết quả thống kê số liệu về bạo lực gia đình của các huyện, thành

thị, báo cáo của các sở, ngành, tuy chưa đầy đủ, song cũng cho thấy tình hình

về bạo lực gia đình có chiều hướng ra tăng, các số liệu cụ thể như sau:

35

Theo số liệu thu thập thống kê hàng năm của các cơ quan quản lý nhà

nước về gia đình, và báo cáo tổng kết tình hình triển khai kế hoạch thi hành

luật phòng chống bạo lực gia đình giai đoạn 2008-2015 của tỉnh Vĩnh Phúc.

Từ năm 2009 đến năm 2015 số vụ có bạo lực gia đình được phát hiện trên địa

bàn tỉnh qua từng năm cụ thể như sau: Năm 2009 xảy ra 276 vụ; Năm 2010

xảy ra 276 vụ; Năm 2011 xảy ra 497 vụ; Năm 2012 xảy ra 635 vụ; Năm 2013

xảy ra 552 vụ. Năm 2014 xảy ra 395 vụ, năm 2015 xảy ra 265 vụ. Trong 7

năm từ 2009-2015 tổng số vụ bạo lực gia đình được phát hiện là 2.859 vụ,

trong đó có 1.474 vụ bạo lực thể xác (51,5%); 854 vụ bạo lực tinh thần

(29,9%); 230 vụ bạo lực kinh tế (8%); 73 vụ bạo lực tình dục (2,5%) [33].

Biểu 2.1. Tổng hợp số vụ bạo lực gia đình trên địa bàn tỉnh Vĩnh

Phúc từ 2009-2014

STT Huyện, thành, Tổng số vụ bạo lực gia đình

thị

Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015

Vĩnh Tường

1

22

29

27

40

19

28

25

Yên Lạc

2

29

35

87

88

58

50

20

Tam Dương

3

54

56

92

73

60

48

43

Tam Đảo

4

76

88

87

132

102

134

70

Lập Thạch

5

30

12

33

24

26

37

20

Sông Lô

6

26

26

33

23

13

30

15

Bình Xuyên

7

24

17

70

69

138

121

35

Vĩnh Yên

8

4

7

20

9

20

10

12

Phúc Yên

9

11

6

120

91

43

24

25

Tổng số

276

276

497

635

552

395

265

Nguồn: Số liệu báo cáo 8 năm thực hiện luật phòng, chống BLGĐ tỉnh Vĩnh Phúc

36

Tuy nhiên trong tổng số vụ BLGĐ nêu trên, tính chất, mức độ là ít

nghiêm trọng, chủ yếu là mâu thuẫn gia đình và cơ bản được hòa giải ngay tại

cơ sở. Tỷ lệ BLGĐ phải xử lý về hành chính hoặc phải truy cứu trách nhiệm

hình sự chiếm tỷ lệ không nhiều. Theo thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh,

Năm 2010 toàn tỉnh có 979 vụ ly hôn; Năm 2011 có 1.173 vụ án ly hôn tăng

194 vụ so với năm 2010, trong đó có 240 vụ án ly hôn liên quan đến bạo lực

gia đình (20,46%). Đặc biệt có 164 vụ bạo lực gia đình phải truy cứu trách

nhiệm hình. Theo số liệu của Công an tỉnh từ năm 2008-2015 đã thụ lý giải

quyết 142 vụ BLGĐ, điều tra, khởi tố 17 vụ, xử lý vi phạm hành chính 115 vụ

BLGĐ; trong 142 vụ có 8 vụ dẫn đến hậu quả chết người, 79 vụ dẫn đến hậu

quả thương tích. Điển hình như Chồng là Nguyễn Tiến Thịnh bạo hành vợ là

Lê Thị Lý ở phường Hùng Vương, thị xã Phúc Yên; Vụ cha đẻ cưỡng bức con

gái ở xã Kim Long, huyện Tam Dương; Vụ con trai đánh mẹ đẻ gãy chân ở

Yên Thạch, Sông Lô; Vụ chồng là Nguyễn Văn Hải, thôn Dừa Cả, xã Hải

Lựu, Sông Lô dùng dao quắm chém vợ là Phạm Thị Thắm gây tử vong; Vụ

chồng Dương Đức Yên, thôn An Khang, xã Yên Thạch, Sông Lô tưới xăng

lên người vợ là chị Hà Thị Hiền đốt dẫn đến tử vong; Trường hợp Đỗ Cao

Cường Định Trung, Thành phố Vĩnh Yên dùng phích đập đầu vợ; vụ Chồng

đánh vợ gây thương tích nặng ở Đồng Cương, Yên Lạc; vụ bênh vợ, con ném

bát vào mặt mẹ ở thôn Hòa Loan, xã Lũng Hòa; vụ Phạm Thị Liên ở thôn 5,

nhà máy gạch Bồ Sao Vĩnh Tường bị chồng đánh phải nhập viện cấp cứu... .

Các vụ bạo lực gia đình thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: bạo lực

thể xác, bạo lực tinh thần, bạo lực tình dục, bạo lực kinh tế, trong đó nạn nhân

bạo lực gia đình chủ yếu là phụ nữ, người già, trẻ em. Theo số liệu của Sở Y

tế từ năm 2008-2015 có 864 nạn nhân bạo lực gia đình đến cơ sở Y tế khám

và điều trị, trong đó tuyến tỉnh 91 trường hợp, tuyến huyện 332 trường hợp,

tuyến xã 441 trường hợp [33]. Tuy có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban

ngành đoàn thể và sự đồng tình lên án các hành vi BLGĐ của người dân

nhưng vẫn còn nhiều trường hợp nạn nhân im lặng, cam chịu không khai báo,

37

đôi khi còn che giấu, nhất là bạo lực tình dục, bạo lực tinh thần, nên việc phát

hiện, can thiệp, tư vấn xử lý chưa kịp thời.

Hầu hết người gây ra bạo lực gia đình đã phải chịu các các biện pháp

giáo dục, các hình phạt thích đáng đúng pháp luật, tuy nhiên đó như một hồi

chuông báo động nạn bạo lực gia đình ngày một gia tăng và mức độ ngày một

nguy hiểm. Chúng ta sẽ xem xét thực trạng bạo lực gia đình dưới các hình

thức bạo lực cụ thể:

- Bạo lực về thân thể: Người bị bạo lực đã phải chịu đựng nhiều hình

thức bạo lực gia đình. Bạo lực thân thể là hình thức khá phổ biến trong các

dạng bạo lực gia đình ở Việt Nam nói chung, Vĩnh Phúc nói riêng. Bạo lực

thân thể là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra thương tích cho con

người. Nạn nhân của bạo hành gia đình dưới hình thức bạo lực thân thể, họ

phải chịu sự đánh đập của người chồng, người bạn tình ở nhiều mức độ khác

nhau, có trường hợp người chồng đấm, đá, tát, xô ngã vợ; có trường hợp dùng

cả vũ khí để hành hung vợ để lại những hậu quả nghiêm trọng như để lại

thương tích trên thân thể, xảy thai thậm chí tử vong... Theo số liệu thống kê

các huyện, thành, thị năm từ năm 2008-2015 toàn tỉnh có 2.859 vụ bạo lực gia

đình, trong đó có 1.474 vụ bị bạo lực về thân thể (chiếm 51,5%) [33]

- Bạo lực về tinh thần: Cùng với bạo lực về thân thể, bạo lực về tinh

thần là hình thức bạo lực ngày càng phổ biến. Những vết thương về thân thể

của con người, với thời gian có thể lành lại nhưng những vết thương về tinh

thần do bạo lực gia đình gây ra sẽ rất khó lành. Bạo lực về tinh thần đã gây

cho người bị bạo hành những chấn động mạnh và lâu dài về tâm lý, họ phải

chịu đựng những sang chấn tâm lý mà không dễ gì chữa khỏi. Nạn nhân bị

bạo lực tinh thần thường tự dằn vặt mình, trầm cảm và sợ sệt, ăn không ngon,

ngủ không yên, nóng giận vô cớ, luôn bị ám ảnh về bạo lực, có trường hợp bị

ảnh hưởng nghiêm trọng đến tâm lý, thần kinh suốt đời, có trường hợp thì tự

tử. Theo số liệu thống kê các huyện, thành, thị từ năm 2008-2015 toàn tỉnh có

2.859 vụ bạo lực gia đình, trong đó có 854 vụ bị bạo lực về tinh thần chiếm

(29,9%) [33].

38

Bạo lực tinh thần trong gia đình là hình thức bạo lực không nhìn thấy

được. Trong nhiều trường hợp, nó là nguyên nhân trực tiếp cướp đi sinh mạng

của người bị bạo hành. Rất nhiều người không chịu nổi bạo hành tinh thần đã

tìm đến với cái chết.

Có rất nhiều lý do dẫn đến bạo lực tinh thần, một trong những lý do khá

nổi bật là ngoại tình. Phần lớn những người chồng khi ngoại tình về thường

bỏ rơi, chửi mắng, ngược đãi vợ con. Có những người chồng còn thực hiện

một kiểu tra tấn tinh thần bằng cách công khai ngoại tình trước mặt vợ, công

khai khiêu khích, tra tấn vợ bằng những lời nói, hành vi mà người có hiểu biết

một chút sẽ không bao giờ làm như vậy. Cùng với sự tra tấn dã man đó là

mục đích mong cho vợ chết mòn, chết dần. Trong những hoàn cảnh như vậy,

người phụ nữ thật đau khổ và nhiều khi họ đã không làm chủ được bản thân

mình nữa, mắc phải những sang chấn tâm lý ám ảnh suốt cuộc đời họ. Hiện

nay, bạo lực tinh thần diễn ra ở mọi nơi và có mặt ở rất rất nhiều gia đình.

Không chỉ ở nông thôn hoặc những người có trình độ dân trí thấp mà trên

thực tế, bạo lực tinh thần đang ồ ạt tấn công vào những người có trí thức mà

kẻ gây ra hình thức bạo lực này cũng là người có trí thức. Điều này làm cho

tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi bạo lực được nâng lên rất nhiều

đồng thời chúng ta thấy rất rõ cảm xúc của một tri thức khi bị tổn thương về

tinh thần sẽ hằn sâu hơn những người khác.

- Bạo lực về kinh tế: Cùng với bạo hành về thể chất, bạo hành về tinh

thần và bạo lực về kinh tế. Bạo lực về kinh tế là hành vi dùng sức mạnh, áp

đặt hoặc lừa mị nhằm chiếm giữ và kiểm soát tài chính trong gia đình nhằm

tạo ra sự phụ thuộc về mặt kinh tế. Cho đến nay, chưa có nhiều số liệu thống

kê về bạo lực kinh tế trong gia đình, tuy nhiên trên thực tế, bạo lực kinh tế thể

hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: không đóng góp kinh tế cho chi

tiêu chung trong gia đình; quản lý hết tiền của gia đình; bắt người vợ phụ

thuộc hoàn toàn vào mình; coi thường vợ không có công ăn việc làm, không

kiếm được tiền; kiểm soát toàn bộ việc chi tiêu trong nhà; vay nợ nhiều để vợ

gánh chịu trả nợ... Có rất nhiều người hoàn toàn bị phụ thuộc vào chồng về

39

mặt kinh tế, mọi sự chi tiêu trong gia đình từ những vật dụng nhỏ nhất cũng

phải ngửa tay xin chồng, phải xin phép chồng, chồng không đồng ý hay

không cho thì không có tiền để tiêu thậm chí để phục vụ cho những nhu cầu

tối thiểu nhất của người phụ nữ. Hỏi chăng, người phụ nữ sinh ra để làm gì?

họ đâu còn được tôn trọng quyền con người nữa. Theo số liệu thống kê các

huyện, thành, thị từ năm 2008-2015 toàn tỉnh có 2.859 vụ bạo lực gia đình,

trong đó có 230 vụ bị bạo lực về kinh tế chiếm (8%) [33]

Như vậy, bạo lực kinh tế trong gia đình biểu hiện rất đa dạng, nhiều vẻ

với nhiều cấp độ khác nhau và phần lớn bạo lực kinh tế thường ít bộc lộ công

khai. Vì thế, bạo lực kinh tế là dạng bạo lực không dễ nhận diện. Bạo lực kinh

tế đã và đang ảnh hưởng sâu sắc tới mọi người, vi phạm quyền tự do của con

người. Chính vì vậy, hơn ai hết, người bị bạo lực phải đứng lên đấu tranh để

bảo vệ quyền cho họ đồng thời những kẻ gây ra bạo lực cần bị xử lý nghiêm

minh theo quy định của pháp luật.

- Bạo lực tình dục: Một hình thức bạo lực gia đình hiện nay làm ảnh

hưởng rất lớn đến tâm lý của người bị bạo lực tình dục. Hình thức bạo lực này

rất khó phát hiện bởi tất cả các nạn nhân rất ít khi nói ra. Theo Tổ chức Y tế

thế giới, bạo lực tình dục được xem là vấn đề ưu tiên trong các vấn đề sức

khoẻ cộng đồng và quyền con người bởi vì vấn đề này tồn tại ở nhiều nước

trên thế giới và gây ảnh hưởng đến sức khoẻ phụ nữ. Cưỡng bức tình dục

trong hôn nhân là một hình thức bạo lực đối với phụ nữ, là hành vi vi phạm

pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, đây là điều mà bấy lâu nay nhiều

người không nhận thức được. Ở nước ta, theo quan niệm truyền thống, việc

người vợ đáp ứng nhu cầu tình dục của chồng là việc bình thường như là một

bổn phận của người vợ để giữ gìn hạnh phúc gia đình. Nhiều người chồng coi

đó là trách nhiệm đương nhiên của người vợ, người vợ không có quyền kháng

cự và đã có rất nhiều người được hỏi đã khẳng định rằng đây không phải là

việc bạo hành vợ, vì thế không phải là vi phạm pháp luật. Chính vì vậy mà

hình thức bạo lực này bị xem nhẹ. Điều này dẫn đến tình trạng bạo lực tình

dục trong gia đình đối với vợ còn xảy ra nhiều với con số khá cao mà trong

40

thực tế, con số đó còn nhiều hơn rất nhiều. Theo số liệu thống kê các huyện,

thành, thị từ năm 2008-2015 toàn tỉnh có 2.859 vụ bạo lực gia đình, trong đó

có 73 vụ bị bạo lực về tình dục chiếm (2,5%) [33].

Bạo lực tình dục là vấn đề rất tế nhị và nhạy cảm, hơn nữa Việt Nam

nói chung và Vĩnh Phúc nói riêng chịu ảnh hưởng của nhiều phong tục tập

quán phương đông, vì vậy khi bị bạo hành về tình dục, người phụ nữ rất ngại

nói ra, đành cam chịu để giữ yên "tổ ấm" của mình. Các nghiên cứu gần đây

chỉ ra rằng, người phụ nữ sau khi bị cưỡng ép quan hệ tình dục, sẽ phải chịu

nhiều hậu quả nặng nề, ảnh hưởng đến sức khoẻ và tâm lý của người phụ nữ.

Họ bị lãnh cảm về tình dục hoặc hoảng loạn về tinh thần cao hơn so với các

nạn nhân của các nỗi đau khác. Hơn nữa, do không chủ động được trong quan

hệ tình dục, người phụ nữ rất dễ có thai ngoài ý muốn, gặp khó khăn trong

việc sinh đẻ có kế hoạch và phải đối mặt với nguy cơ mắc các bệnh lây nhiễm

qua đường tình dục kể cả hội chứng suy giảm miễn dịch (HIV/AIDS).

Biểu 2.2. Các dạng bạo lực gia đình từ năm 2009-2014

STT Tên đơn vị Hình thức bạo lực

Thân thể Tinh thần Tình dục Kinh tế

Vĩnh Tường

1

115

55

0

0

Yên Lạc

2

204

96

7

40

Tam Dương

3

144

147

2

30

Tam Đảo

4

428

79

19

25

Lập Thạch

5

89

73

0

18

Sông Lô

6

74

57

0

10

Bình Xuyên

7

233

145

29

55

Vĩnh Yên

8

33

24

3

4

Phúc Yên

9

154

178

13

48

854

73

230

Tổng số

1.474

Nguồn: Số liệu báo cáo 8 năm thực hiện luật phòng, chống BLGĐ tỉnh Vĩnh Phúc

41

Những kết quả thu được từ các cuộc điều tra về bạo lực gia đình đã cho

chúng ta thấy những con số đáng giật mình. Ngoài các vụ bạo lực gia đình, vi

phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình còn rất nhiều các hành vi trái

pháp luật khác. Đến nay, chúng ta chưa có số liệu, báo cáo chính thức về các

hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình như những hành vi

kích động, giúp sức, dung túng, bao che, xử lý không đúng pháp luật, nhưng

trên thực tế, những hành vi trái pháp luật này diễn ra khá nhiều. Trong các gia

đình, vì những lý do khác nhau mà xảy ra mâu thuẫn giữa các thành viên

trong gia đình mà chủ yếu là mối quan hệ giữa mẹ chồng và nàng dâu, giữa

người phụ nữ với anh em nhà chồng... mà mẹ chồng, bố chồng, anh chị em

chồng đã thường xuyên có hành vi kích động, xúi giục, tạo điều kiện để cho

người chồng đánh đập, hành hạ vợ. Có trường hợp gia đình, người gây ra bạo

lực gia đình đã tìm cách trả thù, đe doạ trả thù người đã giúp đỡ nạn nhân bạo

lực gia đình, người phát hiện, báo tin, ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình. Có

nhiều trường hợp, nhiều người khi biết rõ hành vi bạo lực gia đình xảy ra với

tính chất và mức độ nguy hiểm nhưng coi như không có chuyện gì, không báo

cáo với cơ quan, người có trách nhiệm giải quyết, đã gây ra hậu quả nghiêm

trọng. Có nhiều nơi, chính quyền địa phương chưa làm tốt nhiệm vụ quản lý

nhà nước để nhiều vụ bạo lực gia đình xảy ra từ rất lâu trên địa bàn mà nhiều

người đã phải chịu những hậu quả nặng nề nhưng không hề hay biết hoặc có

biết nhưng không xử lý, xử lý qua loa, không đúng pháp luật... Như vậy, mặc

dù chưa có số liệu thống kê chính thức về các hành vi vi phạm pháp luật

phòng, chống bạo lực gia đình như trên nhưng trên thực tế những hành vi này

còn xảy ra rất nhiều và một điều nguy hiểm nhất, chính những cơ quan, người

thực thi pháp luật lại có hành vi vi phạm. Rất nhiều vụ bạo lực gia đình còn bị

bỏ qua, chưa phải chịu sự trừng trị của pháp luật bởi vì còn một quan niệm

được hình thành và ăn sâu trong tiềm thức của cộng đồng dân cư là bạo lực

gia đình là chuyện nội bộ, chuyện riêng của mỗi gia đình, do vậy mỗi gia đình

sẽ tự giải quyết. Trong cộng đồng xã hội còn khá nhiều người trong đó có cả

cán bộ tư pháp, cán bộ thực thi pháp luật vẫn chưa hiểu được hành vi bạo lực

42

gia đình là hành vi trái pháp luật và là vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo

lực gia đình. Chính vì vậy mà tình trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo

lực gia đình vẫn diễn ra khá nhiều.

Như vậy, theo kết quả tổng hợp từ nhiều cơ quan, các huyện, thành, thị,

tình trạng bạo lực gia đình đã ở mức báo động. Trên khắp các địa phương

trong tỉnh, rất nhiều gia đình đã, đang và sẽ có nguy cơ trở thành nạn nhân

của các vụ bạo lực gia đình. Đã đến lúc, cần có sự lên tiếng, giúp đỡ của toàn

xã hội. Những con số đó mới chỉ phản ánh phần nào về tình trạng vi phạm

pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Đây chỉ là phần nổi trong "tảng băng

chìm" vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Trên thực tế đời

sống, vẫn còn rất rất nhiều các hành vi bạo lực gia đình bởi một phần nhiều

người bị bạo lực còn chưa dám lên tiếng tố cáo người bạo lực mình, mặt khác

cộng đồng còn chưa quan tâm đến vấn đề phòng, chống bạo lực gia đình nên

nhiều vụ bạo lực gia đình còn chưa được phát hiện và xử lý kịp thời. Chính vì

vậy, để giảm thiểu tình trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia

đình, cần phải có sự chung tay của cả xã hội đồng thời cần có các giải pháp

hữu hiệu để tổ chức thực hiện thành công công tác phòng, chống bạo lực gia

đình.

2.2.2. Thực trạng thực hiện phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh

Vĩnh Phúc.

a) Công tác tham mưu ban hành văn bản chỉ đạo

Ngay sau khi Luật Phòng, chống bạo lực gia đình có hiệu lực thi hành

(01/07/2008), UBND tỉnh ban hành nhiều văn bản chỉ đạo như:

- Quyết định 3216/QĐ-CT ngày 26 tháng 8 năm 2008 của Chủ tịch

UBND tỉnh Vĩnh Phúc về việc Thành lập Ban chỉ đạo Thực hiện Luật

Phòng, chống bạo lực gia đình; Quyết định 3943/QĐ-BCĐ của UBND tỉnh

Vĩnh Phúc về việc ban hành quy chế hoạt động của Ban chỉ đạo thực hiện

Luật PCBLGĐ tỉnh;

43

- Quyết định số 2777/QĐ-UB ngày 28/10/2012 về phân bổ kinh phí

thực hiện phòng chống BLGĐ cho các sở, ngành, UBND các huyện, thành,

thị và UBND các xã, phường thị trấn trên địa bàn tỉnh.

- Quyết định số 1877/QĐ-CT ngày 23 tháng 7 năm 2013 của Chủ tịch

UBND tỉnh Vĩnh Phúc về việc thành lập Ban chỉ đạo công tác gia đình tỉnh

Vĩnh Phúc; Quyết định số 2909/QĐ-BCĐ ngày 18 tháng 10 năm 2013 về việc

ban hành quy chế hoạt động của Ban chỉ đạo công tác gia đình tỉnh Vĩnh

Phúc.

- Kế hoạch số 3838/KH-UBND ngày 26 tháng 6 năm 2008 của UBND

tỉnh Vĩnh Phúc về việc triển khai thi hành Luật Phòng, chống bạo lực gia

đình;

- Kế hoạch 6530/KH-UBND ngày 28/12/2012 của Ủy ban nhân dân

tỉnh về thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam tỉnh Vĩnh Phúc đến

năm 2020 tầm nhìn 2030;

- Kế hoạch số 2934/KH-BCĐ ngày 7 tháng 6 năm 2013 của Trưởng

Ban chỉ đạo Phòng, chống bạo lực gia đình tỉnh Vĩnh Phúc về Sơ kết 5 năm

thi hành Luật Phòng, chống bạo lực gia đình giai đoạn 2008-2013;

Các sở, ngành của tỉnh đã chủ động xây dựng kế hoạch, văn bản chỉ

đạo thực hiện theo chức năng nhiệm vụ của sở ngành như: Sở Tư Pháp xây

dựng Kế hoạch gắn nội dung Luật Phòng, chống bạo lực gia đình vào kế

hoạch công tác ngành và chỉ đạo hướng dẫn cơ sở thực hiện tốt công tác tư

vấn, hoà giải can thiệp Phòng chống BLGĐ. Công an tỉnh triển khai lồng

ghép phòng chống tội phạm, phòng ngừa ngăn chặn vi phạm BLGĐ ở nhiều

mô hình liên quan “Câu lạc bộ gia đình hạnh phúc, CLB phòng chống bạo lực

gia đình; Hội Liên hiệp Phụ nữ ban hành nhiều văn bản chỉ đạo và Kế hoạch

phối hợp thực hiện Phòng chống BLGĐ, thực hiện phong trào xây dựng gia

đình hạnh phúc, phong trào “5 không, 3 sạch”, hoạt động tư vấn, hỗ trợ nạn

nhân bạo lực gia đình, tập huấn hòa giải ở cơ sở; Sở Giáo dục Đào tạo triển

khai thực hiện Đề án “Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh thiếu niên giai đoạn 2011-2015”;

44

Sở Lao động TBXH xây dựng kế hoạch và các văn bản chỉ đạo thực hiện Luật

Bình đẳng giới, luật giáo dục trăm sóc trẻ em, chương trình xoá đói giảm

nghèo và hoạt động bảo trợ xã hội; Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Cơ quan

thường trực Ban chỉ đạo công tác gia đình cũng đã chủ động ban hành nhiều

văn bản, kế hoạch phối hợp với các sở, ban ngành, UBND các huyện, thành,

thị trong công tác chỉ đạo, triển khai thực hiện Phòng, chống bạo lực gia đình;

Hướng dẫn nghiệp vụ đối với phòng Văn hoá và Thông tin cấp huyện; Xây

dựng các Mô hình can thiệp phòng, chống BLGĐ ở cơ sở; xây dựng địa chỉ

tin cậy, đường dây nóng; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tập huấn nâng cao

kiến thức cho người dân về thực hiện Luật PCBLGĐ; đặc biệt giúp cho đội

ngũ cán bộ làm công tác gia đình từ tỉnh xuống cơ sở có đầy đủ kiến thức kỹ

năng, tư vấn hoà giải và xử lý kịp thời trong việc phòng, chống bạo lực gia

đình.

Các huyện, thành, thị trên cơ sở hướng dẫn và chỉ đạo của tỉnh, đến nay

9/9 huyện, thành thị đã xây dựng Kế hoạch thực hiện Luật PCBLGĐ, Ban Chỉ

đạo Phòng, chống bạo lực gia đình nay kiện toàn lại thành Ban chỉ đạo Công

tác Gia đình cấp huyện, thành, thị.

b) Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật

Ban chỉ đạo cấp huyện cũng đã làm tốt công tác tham mưu cho UBND

ban hành các văn bản chỉ đạo, phối hợp với các ban, ngành đoàn thể chỉ đạo

thí điểm và nhân rộng các mô hình Câu lạc bộ gia đình phát triển bền vững,

nhóm phòng chống BLGĐ, xây dựng địa chỉ tin cậy, thành lập đường dây

nóng; chỉ đạo các xã phường thị trấn làm tốt công tác hoà giải, công tác thu

thập xử lý các dữ liệu về gia đình và phòng chống bạo lực gia đình.

Xác định, công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của

Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác phòng, chống bạo lực

gia đình là một trong những giải pháp cơ bản góp phần nâng cao nhận thức

của nhân dân trong việc thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Hàng

năm, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tham mưu cho UBND tỉnh chỉ đạo

hướng dẫn tổ chức nhiều hoạt động truyền thông, vận động nhằm phổ biến,

45

giáo dục pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình và hậu quả của các hành

vi bạo lực gia đình đến với mọi tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh cụ thể:

Từ năm 2008 đến nay, toàn tỉnh đã tổ chức in và phát hành được 11

nghìn cuốn tài liệu gồm: “Văn bản Quản lý nhà nước về công tác gia

đình”,“Sổ tay công tác gia đình”, “Văn bản Quản lý Nhà nước về xây dựng

đời sống văn hóa và gia đình” Giáo dục đời sống gia đình và 57.064 tờ rơi

“Kiến thức gia đình”, “Hỏi đáp Luật Phòng, chống bạo lực gia đình”, “Tuyên

truyền phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt Nam thời kỳ CNH-HĐH đất nước;

Cấp phát 1.000 cuốn kiến thức gia đình, hỏi đáp về luật PCBLGĐ, Luật Bình

đẳng giới; Xây dựng 8 cụm Pa nô tấm lớn, 724 cụm pa nô, áp phích, 274 băng

zôn, 411 khẩu hiệu truyên truyền về giáo dục đạo đức lối sống truyền thống

của gia đình Việt Nam và Phòng, chống bạo lực gia đình; Mỗi năm có hơn

480 chuyên mục, 1.200 tin, bài được phản ánh về phòng, chống bạo lực gia

đình thông qua Đài truyền thanh cấp xã, cấp huyện; Đài Phát thanh - Truyền

hình tỉnh Vĩnh Phúc với tổng số 21 chuyên mục với 15 phóng sự, 3 buổi toạ

đàm; Xây dựng chuyên trang weside “Chung tay phòng chống bạo lực gia

đình” trên Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc, Báo điện tử Vĩnh Phúc với

6 chuyên mục; nhằm đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến các văn bản

quản lý nhà nước về gia đình, Luật PCBLGĐ, Luật bình đẳng giới, kiến thức

gia đình, địa chỉ tin cậy, đường dây nóng hỗ trợ nạn nhân BLGĐ, Thông qua

đó, đã nâng cao nhận thức cho người dân về phòng, chống bạo lực gia đình,

phòng, chống các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình [33]

Hàng năm nhân kỷ nhiệm ngày gia đình Việt Nam (28/6) từ cấp tỉnh

đến cấp xã đều tổ chức nhiều hoạt động như; Hội diễn văn hoá, văn nghệ, thi

đấu thể dục thể thao gia đình, tổ chức biểu dương, gặp mặt gia đình tiêu biểu

xuất sắc, nói chuyện chuyên đề về công tác gia đình và phòng chống BLGĐ,

đặc biệt năm 2012, năm 2014 nhân ngày Quốc tế xoá bỏ bạo lực đối với Phụ

nữ 25/11, Sở VHTTDL tổ chức Lễ mít tinh diễu hành hưởng ứng chiến dịch

truyền thông về phòng, chống bạo lực gia đình và bình đẳng giới trên địa bàn

46

tỉnh, thu hút được đông đảo cán bộ công chức của các sở ngành, phòng VHTT

cấp huyện và người dân hưởng ứng tham gia [33];

Phối hợp với Sở Tư pháp, Hội LHPN tỉnh chỉ đạo tổ chức cuộc thi tìm

hiểu Luật PCBLGĐ với hình thức sân khấu hoá ở cấp huyện, cấp tỉnh, qua đó

tạo sức lan toả rộng rãi đến các tầng lớp nhân dân trên địa bàn. Sở Tư Pháp

đăng tải các văn bản về phòng, chống bạo lực gia đình trên 30 bản tin tư pháp,

bình quân 5.500 cuốn/sổ, phát hành tới các ngành, các cấp và tổ hòa giải; xây

dựng và phát hành 30 số chuyên mục băng casset, đĩa CD, bình quân 960

đĩa/chuyên mục. Phối hợp với Đài Phát thanh- Truyền hình tỉnh, Báo Vĩnh

Phúc xây dựng và phát hơn 408 chuyên mục “pháp luật và đời sống"... Đưa

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình vào hương ước, quy ước thôn, tổ dân phố.

Sau 8 năm triển khai tuyên truyền dưới nhiều hình thức khác nhau

như: Thông qua các ấn phẩm báo, tạp chí, tài liệu, tờ rơi; Các chuyên mục,

phóng sự truyền hình; Các cụm pa nô, áp phích, khẩu hiệu, băng zôn; Các

buổi hội thảo, hội nghị chuyên đề hay lồng ghép với phong trào “Toàn dân

xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư”, xây dựng quy ước, hương

ước...Luật Phòng, chống bạo lực gia đình thực sự đi vào cuộc sống được đông

đảo cán bộ, đảng viên và người dân hưởng ứng góp phần vào xây dựng "gia

đình, no ấm, tiến bộ, hạnh phúc" [33]

c) Tổ chức bộ máy

Từ năm 2008 mảng gia đình thuộc chức năng quản lý của Sở Văn hóa,

Thể thao và Du lịch; Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch với vai trò là cơ quan

chuyên môn giúp UBND tỉnh quản lý Nhà nước về công tác gia đình, tuy

nhiên về đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình, nhìn chung còn thiếu và hạn

chế về chuyên môn. Theo kết quả thống kê về số lượng cán bộ làm công tác

gia đình, đối với cấp tỉnh hiện có 03 đồng chí, trong đó có 1 lãnh đạo Sở trực

tiếp phụ trách; cấp huyện có 9 đồng chí; Ở cơ sở, không có cán bộ chuyên

trách làm công tác gia đình, chỉ có cán bộ văn hóa - xã hội kiêm nhiệm từ đó

làm ảnh hưởng đến việc tổ chức triển khai, thực hiện các nhiệm vụ công tác

47

gia đình, đặc biệt là công tác thu thập, thống kế số liệu về gia đình và phòng

chống bạo lực gia đình là rất khó khăn.

d) Công tác phối hợp liên ngành

Công tác phối hợp liên ngành là một nhiệm vụ hết sức quan trọng

nhằm phát huy vai trò, trách nhiệm của từng ban, ngành, đoàn thể, đồng thời

tạo nên sức mạnh tổng hợp góp phần tích cực thực hiện tốt luật PCBLGĐ.

Hầu hết các Sở, ngành của tỉnh đã làm tốt công tác tuyên truyền, triển khai

các nội dung phòng, chống bạo lực gia đình theo ngành mình quản lý.

Sở Tư pháp đã chỉ đạo Phòng tư pháp các huyện, thành, thị tổ chức

hàng chục buổi tập huấn cho cán bộ làm công tác hoà giải của 137 xã,

phường, thị trấn; hơn 100 buổi tuyên truyền, tư vấn, phổ biến Luật PCBLGĐ,

Luật Bình đẳng giới cho hàng nghìn cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân

dân. Trung tâm trợ giúp pháp lý tổ chức nhiều buổi tuyên truyền lưu động,

phổ biến pháp luật hôn nhân và gia đình và Luật PCBLGĐ [33]

Sở Giáo dục - Đào tạo tuyên truyền nội dung giáo dục đạo đức lối sống

trong nhà trường qua các giờ học, buổi chào cờ, những buổi nói chuyện

chuyên đề, những giờ học ngoại khóa; Tuyên truyền công tác, phòng, chống

bạo lực gia đình trong các Hội thi như “Hội thi Gia đình Sức khỏe và trẻ thơ”

“Hội thi tìm hiểu kiến thức pháp luật”, Hội diễn văn nghệ ...[33].

Sở thông tin truyền thông, Đài Phát thanh - Truyền hình, Báo Vĩnh

Phúc tỉnh đã chỉ đạo làm tốt công tác truyền thông giáo dục, xây dựng các

chuyên mục, phóng sự truyền hình, các trang Wesibe tuyên truyền về công tác

phòng, chống bạo lực gia đình [33]

Sở Lao động - Thương binh và Xã hội triển khai thực hiện Luật Bình

đẳng giới, Luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em.

Sở Y tế triển khai chỉ đạo các cơ sở Y tế trên địa bàn tỉnh làm tốt công

tác sàng lọc, khám và điều trị chăm sóc, giúp đỡ các nạn nhân bị bạo hành gia

đình. Điển hình là các nạn nhân được cơ sở y tế giúp đỡ gần đây như: Nạn

nhân Đỗ Thị Quyên, xã Đồng Cương, huyện Yên Lạc nhiều lần bị chồng đánh

48

đập phải nhập viện; Chị Nguyễn Thị Liên, xã Bồ Sao, huyện Vĩnh Tường bị

chồng dùng búa đập vào đầu gây tổn hại sức khỏe ... [33]

Hội Liên hiệp Phụ nữ xây dựng mô hình can thiệp PCBLGĐ, tổ chức

ngày hội Gia đình nhân kỷ niệm ngày Gia đình Việt Nam (28/6) gắn với triển

khai nội dung cuộc vận động gia đình “5 không, 3 sạch”; Tổ chức cuộc thi

sáng tác tranh, triển lãm giới thiệu hình ảnh người phụ nữ với phẩm chất, đạo

đức truyền thống; thực hiện đề án “Tuyên truyền, giáo dục phẩm chất đạo đức

phụ nữ Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa đất

nước”; Thực hiện các hoạt động tuyên truyền, giáo dục phẩm chất đạo đức

cho phụ nữ giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, vùng miền [33].

Ủy ban MTTQ, Hội Nông dân, Đoàn thanh niên, Hội Người cao tuổi tổ

chức tốt các hoạt động tuyên truyền nhằm góp phần nâng cao nhận thức về

vai trò, vị trí và trách nhiệm của xã hội và từng gia đình trong việc thực hiện

chính sách, pháp luật hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới; Lồng ghép nội

dung PCBLGĐ vào các hoạt động của phong trào xây dựng "Gia đình văn

hóa" và cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu

dân cư”, phong trào “Xây dựng nông thôn mới” và “Xây dựng đô thị văn

minh”. Các ban, ngành, đoàn thể đã cụ thể hóa nội dung PCBLGĐ với các nội

dung thi đua như phong trào: “Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền”,

“Nuôi con khỏe, dạy con ngoan”, “Xóm, phố bình yên, gia đình hạnh phúc”,

phong trào xoá đói, giảm nghèo..., đồng thời gắn nội dung PCBLGĐ với việc

đăng ký và bình xét danh hiệu "Gia đình văn hóa" [33].

Công an tỉnh, Viện kiểm sát, Toà án thực hiện công tác đấu tranh chủ

động phòng ngừa, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm

pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đúng pháp luật. Bên cạnh đó

Công an tỉnh luôn tích cực làm tốt công tác hòa giải ở cơ sở, trực tiếp tư vấn

pháp luật, tư vấn tâm lý cho các nạn nhân trong quá trình giải quyết các vấn

đề liên quan đến BLGĐ [33].

Nhìn chung công tác phối hợp giữa các Sở, ban ngành, đoàn thể trong

việc triển khai thi hành Luật Phòng, chống bạo lực gia đình được triển khai

49

khá đồng bộ từ tỉnh đến cở sở, đem lại nhiều kết quả đáng khích lệ, giúp cho

lãnh đạo, cơ quan đơn vị và người dân nâng cao nhận thức hành vi vi phạm

pháp luật, tham gia vào công tác phòng chống BLGĐ có hiệu quả.

đ) Công tác thanh tra, kiểm tra.

Hàng năm, UBND cấp huyện, xã đã chủ động ban hành kế hoạch thanh

tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình. Về cơ bản

các địa phương đã thực hiện nghiêm văn bản chỉ đạo về triển khai việc thi

hành Luật phòng, chống bạo lực gia đình; đã chủ động tham mưu cho UBND

cùng cấp ban hành kế hoạch phòng, chống bạo lực gia đình và phối hợp với

các ban, ngành đoàn thể để triển khai thực hiện; sự vào cuộc của các ngành

bước đầu đã đảm bảo theo quy định của Luật; các địa phương đã thực hiện

việc tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình trên diện rộng và một số

địa bàn trọng điểm; việc nhân rộng mô hình được nhiều địa phương quan tâm,

chú trọng, hoạt động của các câu lạc bộ, nhóm phòng chống bạo lực gia đình

được duy trì với nội dung sinh hoạt phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, công tác

thanh tra, kiểm tra ở một số địa phương chưa được chú trọng.

2.2.3. Đánh giá chung

2.2.3.1. Kết quả đạt được

- Hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc luôn nhận

được sự quan tâm lãnh, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, nhiều

văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, nhiều chương trình, kế hoạch hành động đã được

xây dựng, tổ chức triển khai thực hiện, góp phần ngăn chặn và làm giảm các

hành vi bạo lực gia đình. Luật phòng, chống bạo lực gia đình từng bước

chuyển tải đến người dân để người dân hiểu biết và tự giác chấp hành, góp

phần quan trọng trong việc phòng ngừa, hạn chế bạo lực gia đình xảy ra trong

ra đình.

- Việc triển khai thi hành Luật phòng, chống bạo lực gia đình và triển

khai thực hiện thí điểm Mô hình can thiệp PCBLGĐ đã có tác dụng thiết thực,

góp phần nâng cao nhận thức, phát huy vai trò vị trí của gia đình, thực hiện tốt

chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đối với

50

công tác gia đình, đặc biệt trong việc thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia

đình, Luật Bình đẳng giới, Luật Hôn nhân và Gia đình... góp phần giảm thiểu

các vụ bạo lực gia đình; công tác can thiệp, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình

đã được triển khai kịp thời và có hiệu quả; các huyện, thị, thành phố đã xây

dựng được kế hoạch triển khai thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình;

một số ban, ngành đã phối hợp chỉ đạo thực hiện có hiệu quả việc lồng ghép

tuyên truyền nội dung phòng, chống bạo lực gia đình với Phong trào "Toàn

dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" với nhiều nội dung, hình thức

phong phú, góp phần nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi trong phòng,

chống bạo lực gia đình, nâng cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân, cộng động

trong việc PCBLGĐ, xây dựng gia đình hoà thuận, ấm no, bình đẳng, tiến bộ,

hạnh phúc [33].

- Công tác tuyên truyền, phổ biến được phối hợp triển khai thực hiện

với nhiều nội dung, hình thức phong phú, làm cho người dân nâng cao nhận

thức về pháp luật, đặc biệt là nắm rõ được các hành vi vi phạm về bạo lực gia

đình, nâng cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân trong việc Phòng chống

BLGĐ, xây dựng gia đình hoà thuận, tiến bộ, hạnh phúc. Việc tuyên truyền

giáo dục đạo đức lối sống tốt đẹp trong gia đình Việt Nam, đặc biệt là giáo

dục thanh thiếu niên được chú trọng như giáo dục truyền thống tôn sư trọng

đạo, kính trên nhường dưới, ông bà mẫu mực, con cháu thảo hiền ...được duy

trì thường xuyên và liên tục. Tuy nhiên lĩnh vực QLNN về gia đình còn mới,

nên các hoạt động về PCBLGĐ vẫn còn hình thức, chưa phản ánh đúng thực

tế.

- Nhiều địa phương làm tốt công tác thực hiện Luật Phòng, chống bạo

lực gia đình: Thành phố Vĩnh Yên tổ chức thành công cuộc thi “Hòa giải viên

giỏi về PCBLGĐ cấp thành phố” năm 2012 và tổ chức đánh giá sơ kết 5 năm

thực hiện luật bài bản có hiệu quả; Huyện Vĩnh Tường vận dụng sáng tạo đưa

nội dung Luật Phòng, chống bạo lực gia đình bổ sung vào hương ước, quy

ước của các thôn, làng, tổ dân phố và nhân rộng nhiều mô hình can thiệp

PCBLGĐ; Huyện Bình Xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, điều tra, thu

51

thập thống kê, xử lý về BLGĐ; huyện Yên Lạc triển khai chỉ đạo thí điểm các

mô hình can thiệp PCBLGĐ có hiệu quả [33].

2.2.3.2. Hạn chế

- Việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Luật PCBLGĐ của một số cấp uỷ

đảng, chính quyền cơ sở chưa được quan tâm đúng mức, vẫn còn hình thức,

mới chỉ dừng lại ở khâu tổ chức, quán triệt, chưa chỉ đạo quyết liệt, chưa đưa

nội dung PCBLGĐ gắn với kế hoạch phát triển KT-XH hàng năm của địa

phương; sự phối kết hợp giữa các cấp, các ban ngành đoàn thể chưa chặt chẽ

đồng bộ, các nội dung hoạt động chưa phong phú, chính vì vậy công tác

phòng chống BLGĐ còn nhiều hạn chế.

- Công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến Luật và các văn bản thi

hành Luật phòng chống BLGĐ còn đơn giản chưa sâu, hình thức tuyên truyền

chưa đổi mới, do đó người dân thiếu hiểu biết về pháp luật nói chung, luật

phòng chống BLGĐ nói riêng.

- Công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực này chưa phát huy vai trò trách

nhiệm và kỷ cương thực hiện pháp luật chưa nghiêm, Công tác phối hợp giữa

các cấp, các ngành nhất là ở cơ sở chưa chặt chẽ đồng bộ; các biện pháp ngăn

chặn, xử lý các hành vi bạo lực gia đình chưa kịp thời; công tác tư vấn, giải

quyết mâu thuẫn trong gia đình theo pháp luật còn yếu.

- Đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình nhất là ở cơ sở chưa thật sự

nắm chắc các quy định của Luật PCBLGĐ, ảnh hưởng không nhỏ đến việc

chỉ đạo thực hiện các mô hình điểm thể hiện ở sự lúng túng, hiệu quả chỉ đạo

chưa cao.

- Công tác thống kê, thu thập số liệu về bạo lực gia đình chưa thực sự

chính xác, chưa phản ánh đúng thực tế, nhiều vụ BLGĐ xảy ra chưa được

thống kê đầy đủ, số liệu này chủ yếu là phụ thuộc vào sự nhiệt tình của đội

ngũ cán bộ cơ sở.

- Kinh phí dành cho công tác phòng chống bạo lực gia đình còn ở mức

thấp. Thực sự chưa đáp ứng được so với nhiệm vụ đặt ra.

2.2.3.3. Nguyên nhân hạn chế

52

Kinh phí đầu tư cho công tác phòng, chống bạo lực gia đình còn hạn

chế.

Việc triển khai chỉ đạo thực hiện Luật phòng chống bạo lực gia đình

chưa được các cấp ủy Đảng quan tâm đúng mức; đội ngũ cán bộ làm công tác

gia đình từ cấp huyện, cấp xã còn hoạt động kiêm nhiệm, chưa nắm chắc về

kiến thức về Luật phòng chống bạo lực gia đình, phần lớn còn yếu về năng

lực chuyên môn, đôi khi còn lúng túng trong việc triển khai hoạt động.

Bạo lực gia đình đã bị nhìn nhận chưa đúng với tính chất nghiêm trọng

của nó, công tác tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình chưa thực sự

hiệu quả để giúp cho chính quyền và người dân nhận thấy trách nhiệm, nghĩa

vụ trong việc ngăn chặn bạo lực gia đình ở mỗi địa phương.

Việc phát hiện và xử lý các vụ bạo lực gia đình chưa kịp thời, kiên

quyết, nghiêm minh. Hình thức phạt đối với các đối tượng gây bạo lực gia

đình còn nhẹ, chưa đủ sức răn đe.

Việc kiểm tra, cập nhật thông tin về bạo lực gia đình còn chậm, chưa

kịp thời.

Công tác phát hiện, thống kê báo cáo về bạo lực gia đình rất khó khăn

nên việc xử lý các hành vi vi phạm bạo lực gia đình chưa kịp thời.

Ý thức chấp hành pháp luật nói chung và các chính sách, pháp luật liên

quan công tác gia đình của một bộ phận người dân chưa cao.

2.3. Trách nhiệm của chính quyền địa phƣơng trong phòng, chống

vi phạm pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình.

Luật Phòng chống bạo lực gia đình có một chương riêng quy định trách

nhiệm của của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực

gia đình.

Có thể thấy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có thẩm

quyền trong phòng, chống bạo lực gia đình còn rất mờ nhạt, mà nguyên nhân

chính là do các cơ quan này chưa thật sự ý thức được tầm quan trọng, ý nghĩa

của công tác này, cũng như trách nhiệm, nghĩa vụ đã được pháp luật quy

53

định.Trong khi đó, pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình cũng chưa có

một quy định chặt chẽ để ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan này.

Thực tiễn vấn nạn bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc cho thấy: Việc

thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình để nâng cao sự hiểu

biết, từ đó làm thay đổi về nhận thức vấn đề là hết sức quan trọng và cần thiết,

nhưng dường như chưa được chú ý đúng mức. Pháp luật đã quy định nhưng

lại không đề ra cơ chế cho việc thực thi trên thực tế, mà chỉ quy định chung

chung trong Chương 4 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình về trách nhiệm

của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong thi hành Luật [29]. Vì vậy, cần có

những quy định chi tiết hơn về vấn đề này. Cần quy định việc tuyên truyền

này như là một trách nhiệm thường xuyên của một cơ quan, tổ chức cụ thể ở

từng địa phương, từng cơ sở.

Để mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần ngăn chặn bạo lực gia đình,

trước tiên chính bản thân mỗi nạn nhân phải chủ động lên tiếng nhờ sự can

thiệp, giúp đỡ từ các đoàn thể, chính quyền địa phương.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng luật bình đẳng giới và luật

phòng chống bạo lực gia đình trong mọi tầng lớp nhân dân.

Về mặt quản lý nhà nước, bên cạnh việc hoàn thiện khung hành lang

pháp lý, thì chính quyền các cấp cần xử lý nghiêm đối với các hành vi vi

phạm, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể nhân dân mà nòng cốt là

Hội Nông dân và Hội Liên hiệp Phụ nữ xây dựng mô hình phòng chống bạo

lực gia đình ở địa phương, làm cho mỗi gia đình hiểu rõ vai trò, trách nhiệm

của mình để xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, bền vững.

Cần xem công tác phòng chống bạo lực gia đình là trách nhiệm của mọi

gia đình và toàn xã hội chứ không của riêng ai.

54

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2

Chương 2 của luận văn tập trung phân tích thực trạng vi phạm pháp luật

phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc từ năm 2008 đến nay đồng thời

chỉ ra và phân tích các nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên. Trên cơ sở các

kết quả nghiên cứu về bạo lực gia đình, các báo cáo tình hình xét xử của Toà

án tỉnh Vĩnh Phúc, cho ta thấy tình trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo

lực gia đình đang ở mức báo động, số lượng, tính chất và mức độ vi phạm của

các vụ vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình ngày càng tăng, càng

nguy hiểm, gây thiệt hại lớn cho gia đình và cho cả xã hội.

Qua sự trình bày thực trạng cũng như nguyên nhân dẫn đến vi phạm

pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình cho thấy bức tranh toàn cảnh về vi

phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc hiện nay. Đây là

cơ sở thực tiễn để làm căn cứ cho việc đề ra và luận chứng giải pháp phòng,

chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình trong

thời gian tới.

55

Chƣơng 3 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH Ở TỈNH VĨNH PHÚC

3.1. Phƣơng hƣớng giảm thiểu vi phạm pháp luật về phòng, chống

bạo lực gia đình

3.1.1. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí minh và quan điểm của Đảng về

xây dựng gia đình và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người

Gia đình là tế bào của xã hội, nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan

trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và

phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn

nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã khẳng định: "Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt

thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã hội là gia

đình". Sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã đạt được

những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội, góp phần nâng

cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi gia đình. Kinh tế hộ gia đình thực

sự đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự tăng trưởng tổng thu nhập

quốc dân hàng năm. Phong trào xây dựng đời sống văn hoá mới ở cơ sở phát

triển, ngày càng có nhiều gia đình văn hoá, góp phần gìn giữ và phát huy bản

sắc văn hoá dân tộc. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, cũng như

nhiều tỉnh, thành khác, bạo lực gia đình đang làm nhiều gia đình đã mất đi

những giá trị truyền thống tốt đẹp và đang đứng trước nguy cơ tan vỡ, làm

ảnh hưởng đến sự phát triển chung của xã hội.

Chính vì vậy, việc xây dựng và phát triển gia đình; phòng và chống vi

phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình là sự nghiệp của

toàn Đảng, toàn dân, là trách nhiệm của mỗi gia đình và toàn xã hội. Để

nhiệm vụ này được hoàn thành với kết quả tốt đẹp, chúng ta cần quán triệt tư

tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về xây dựng gia đình và bảo vệ

56

quyền lợi hợp pháp của con người. Điều này có tầm quan trọng và ý nghĩa đặc

biệt sâu sắc. Xây dựng gia đình hạnh phúc, không có bạo lực là vấn đề được

Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Chính vì vậy, ngay sau khi miền Bắc

được giải phóng, năm 1954, tại Hội nghị cán bộ dự thảo Luật Hôn nhân và

Gia đình, Chủ tịch Hồ Chí minh đã khẳng định: Luật Hôn nhân và Gia đình là

bộ luật tiến bộ và cách mạng bởi nó có vai trò to lớn đối với sự nghiệp xây

dựng gia đình mới.

3.1.2. Quán triệt quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay

Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền là một bước tiến khoa học vĩ đại

trong lịch sử nhân loại. Nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà

nước riêng gắn liền với một giai cấp, như nhà nước chủ nô, nhà nước phong

kiến, nhà nước tư sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa, mà là một hình thức tổ

chức nhà nước, một trình độ phát triển của nhà nước về phương diện tổ chức -

thiết kế, hoạt động trong đó có sự phân công và tổ chức quyền lực nhà nước

để bảo đảm Hiến pháp và pháp luật giữ vị trí tối cao. Chính vì tính tối ưu của

Nhà nước pháp quyền mà Đảng ta nhất quán chủ trương xây dựng và hoàn

thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì

nhân dân. Xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở

Việt Nam sẽ là tiền đề quan trọng tạo ra sự đồng thuận, phát triển trong xã

hội, xây dựng một đất nước hiện đại, đem lại hạnh phúc cho nhân dân.

Từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII (1-1994), Đảng ta đã dùng khái

niệm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong nội dung phần 2 về những

nhiệm vụ chủ yếu trong thời gian tới, đã nêu nhiệm vụ thứ 7: "xây dựng nhà

nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân". Đại hội VIII cũng đã

tiếp tục khẳng định tinh thần, quan điểm này. Văn kiện Đại hội XI khẳng

định: "Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân

và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo; thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế,

quản lý xã hội; giải quyết đúng mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức

57

khác trong hệ thống chính trị, với nhân dân, với thị trường. Nâng cao năng lực

quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã

hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương. Nhà nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo

đảm quyền, lợi ích chính đáng của mọi người dân. Nghiên cứu xây dựng, bổ

sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả

quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là

thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong

việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” [16].

Văn kiện đại hội XII cũng khẳng định đường lối tiếp tục xây dựng và

hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: " Tiếp tục hoàn thiện Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong

sạch, vững mạnh; hoàn thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh cải cách hành

chính, cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có

phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; phát huy dân chủ, tăng

cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống

tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tệ nạn xã hội và tội phạm" [17]

Nhà nước pháp quyền mà Việt Nam đang xây dựng và hoàn thiện có

các đặc trưng sau đây:

Một là, đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân; tất cả quyền lực nhà

nước thuộc về Nhân dân.

Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp,

kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,

hành pháp, tư pháp.

Ba là, Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân;

công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân;

thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi

người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.

Bốn là, Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp

luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập

trung dân chủ.

58

Năm là, Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công

dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa nhà nước và công dân; thực hành dân

chủ, đồng thời tăng cường kỷ cường, kỷ luật.

Sáu là, Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công

nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt

Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và

của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền

tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Với những đặc trưng trên, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ phát huy được vai

trò làm chủ của nhân dân. Mỗi người dân, khi họ thực sự là chủ thể của mọi

quyền lực và là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, họ sẽ có trách nhiệm

hơn đối với đất nước, phát huy và cống hiến hết khả năng của mình cho đất

nước. Điều này sẽ tạo nên một sức mạnh tổng hợp rất lớn, sức mạnh ấy là tiền

đề quyết định sự thành công trong sự nghiệp đổi mới toàn diện xã hội. Đồng

thời, với vai trò là người chủ của quyền lực nhà nước, mỗi công dân sẽ sống

tốt hơn, thực hiện nghiêm minh những quy định do ý chí chung của toàn xã

hội đặt ra, sống và làm việc theo pháp luật, đặt mình trong khuôn khổ pháp

luật, từ đó sẽ hạn chế được tình trạng vi phạm pháp luật nói chung trong đó có

vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bao lực gia đình. Các cơ quan

nhà nước, trong phạm vi quyền hạn và nhiệm vụ của mình, thực hiện tốt chức

năng của mình, có sự phối kết hợp trong việc phòng ngừa, phát hiện và xử lý

nghiêm minh hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Như

vậy, vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình sẽ được

hạn chế ngay từ khi nó có nguy cơ hình thành đồng thời mọi hành vi vi phạm

sẽ được phát hiện và xử lý nghiêm minh, từ đó hình thành nên ý thức pháp

luật cao trong xã hội. Pháp luật là phương tiện quan trọng và hữu hiệu nhất

trong việc điều chỉnh hành vi của con người, các mối quan hệ xã hội. Các cơ

quan nhà nước, các tổ chức và mọi công dân đều phải đặt mình trong khuôn

khổ pháp luật. Phòng, chống bạo lực gia đình đã được luật hoá, mỗi thành

59

viên trong gia đình được bảo vệ trong hành lang pháp luật. Do vậy, các chủ

thể trong xã hội không thể lấy gia đình ra làm rào chắn cho hành vi trái pháp

luật của mình và họ sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý khi xâm hại đến các quy

phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Vi

phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình là hành vi xâm hại đến quyền

con người, quyền công dân. Vì vậy, trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa, nạn nhân của bạo hành gia đình sẽ được bảo vệ kịp thời và tốt nhất,

đảm bảo các quyền con người và quyền công dân của mình.

Như vậy, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là một chủ trương đúng đắn

của Đảng ta, thể hiện sự nhận thức sâu sắc tính ưu việt của Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một đảm

bảo để loại bỏ, triệt tiêu mọi lực cản đối với sự phát triển trong xã hội trong

đó có tình trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Quán triệt

và thực hiện tốt chủ trương này, nhất định Việt Nam sẽ thu được nhiều thành

công tốt đẹp trên con đường đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,

xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

3.2. Giải pháp giảm thiểu vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo

lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc

Hiện nay, đất nước ta đang trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, thực hiện nền kinh tế thị trường

XHCN, mở rộng dân chủ xã hội, tăng cường xã hội hoá và đặc biệt, đang hội

nhập đầy đủ với khu vực, thế giới và toàn cầu. Để đạt được thành công,

những kết quả tốt đẹp trên con đường đổi mới đất nước, đem lại cuộc sống

hạnh phúc cho nhân dân, điều quan trọng hơn bao giờ hết là chúng ta cần loại

bỏ những trở ngại, khó khăn, những yếu tố cản trở sự phát triển. Một trong

những lực cản sự phát triển của xã hội, đó là tình trạng vi phạm pháp luật

trong đó có vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Nhưng qua

phân tích ở chương 2, trong thực tế xã hội, rất nhiều người là nạn nhân của

bạo lực gia đình, việc phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực

60

gia đình là yêu cầu cấp bách trước thực trạng vi phạm pháp luật phòng, chống

bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc hiện nay. Tình trạng vi phạm pháp luật phòng,

chống bạo lực gia đình trở thành một bài toán khó đối với các cấp chính

quyền, các cơ quan bảo vệ pháp luật. Mặc dù nó không phải là vấn đề mới

nhưng lại rất khó, bởi vì đây là vấn đề ít được quan tâm của chính quyền các

cấp, đặc biệt là của xã hội. Đi tìm lời giải cho bài toán này là một công việc

rất khó khăn và đòi hỏi phải có sự chung tay của toàn xã hội. Lời giải cho bài

toán này chính là các giải pháp cụ thể mang tính khoa học, khả thi, có sức

mạnh phá vỡ sự hình thành, tồn tại và phát triển của vi phạm pháp luật phòng,

chống bạo lực gia đình. Tất cả các giải pháp hợp thành một vũ khí sắc bén,

hiệu quả trong cuộc chiến đấu với nạn bạo hành gia đình, với sự coi thường

và xâm hại đến các quy phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Trong

khuôn khổ luận văn này, tác giả xin nêu ra một số giải pháp cơ bản nhằm

phòng, chống vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.

3.2.1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống

bạo lực gia đình

Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật

phòng, chống bạo lực gia đình là hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia

đình còn chưa hoàn thiện. Vì vậy, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp

luật phòng, chống bạo lực gia đình là cực kỳ cần thiết, quan trọng và cấp bách

trong giai đoạn hiện nay. Sự giao thoa và tác động đa chiều ở mọi lĩnh vực

của đời sống kinh tế-xã hội của Việt Nam trên con đường xây dựng Nhà nước

pháp quyền XHCH của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; thực hiện nền

kinh tế thị trường XHCN, mở rộng dân chủ xã hội, tăng cường xã hội hoá,

thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đã tạo ra những thay đổi

nhanh chóng. Những gì hôm nay, hiện tại là đúng thì ngày mai có thể đã trở

thành lạc hậu. Nhu cầu của xã hội, của nhân dân cũng thay đổi theo nhịp sống

thời đại, đòi hỏi pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, bắt đầu từ nhận

thức của các nhà lãnh đạo, hoạch định chính sách đến hệ thống pháp luật,

61

cũng phải không ngừng được đổi mới, hoàn thiện. Đó là một nhu cầu tất yếu

khách quan.

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có chất lượng tốt về nội

dung, hình thức thể hiện cả trong tổ chức thực hiện là một trong những trọng

tâm, đòi hỏi cấp thiết của việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền

hiện nay. Để có một hệ thống pháp luật hoàn thiện, đòi hỏi từng bộ phận trong

hệ thống cũng phải hoàn thiện và do đó việc hoàn thiện pháp luật về phòng,

chống bạo lực gia đình có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống

pháp luật của nước ta. Mặt khác, từng bộ phận trong hệ thống pháp luật có

mối liên hệ tương hỗ, gắn bó hữu cơ, bởi tuy chúng sinh ra để điều chỉnh các

quan hệ xã hội khác nhau nhưng các quan hệ xã hội này lại phát sinh trên

cùng một nền tảng kinh tế xã hội. Chính vì vậy, việc hoàn thiện một bộ phận

trong hệ thống đó phải đặt trong mối liên hệ với việc hoàn thiện các bộ phận

khác. Pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình là một bộ phận của pháp luật

nói chung, do đó việc hoàn thiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình

phải đặt trong tổng thể việc hoàn thiện các quy định của pháp luật nói chung.

Mặt khác, để bảo đảm thực hiện được các quy định pháp luật phòng, chống

bạo lực gia đình còn cần phải chú ý đến tác động của các thể chế khác như

kinh tế, xã hội... Các thể chế này tuy không trực tiếp điều chỉnh các vấn đề

phòng, chống bạo lực gia đình nhưng lại tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ về giá

trị vật chất, nâng cao ý thức pháp luật cho mọi người tham gia hoạt động

phòng, chống bạo lực gia đình, đảm bảo cho hoạt động này đạt được hiệu quả

thiết thực.

Trước yêu cầu đổi mới đất nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật nói

chung là tiền đề cần thiết hoàn thiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia

đình. Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về

chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm

2010, định hướng đến năm 2020. Nghị quyết này là cơ sở xác định nội dung

cơ bản việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật phòng, chống bạo lực

gia đình nói riêng: "Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ,

62

thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân;

đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và

hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị,

phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững

mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp

phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm

2020" [4].

Hoàn thiện pháp luật là một quá trình liên tục, có nhiều khó khăn phức

tạp, đòi hỏi có sự quan tâm, nỗ lực của từng cơ quan, tổ chức và cá nhân có

nhiệm vụ soạn thảo, ban hành, hướng dẫn các văn bản quy phạm pháp luật có

liên quan trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Do vậy, việc tiếp tục

xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình

ở Việt Nam trong những năm tới cần định hướng tập trung mọi nguồn lực, đề

cao trách nhiệm của các ngành, các cấp, phấn đấu xây dựng hệ thống pháp

luật về phòng, chống bạo lực gia đình đủ về số lượng, nâng cao về chất lượng,

phấn đấu năm 2020, hệ thống pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình đạt

đến trình độ tương đối thống nhất, đồng bộ, toàn diện, bảo đảm kỹ thuật văn

bản, phù hợp với pháp luật quốc tế. Đây chính là các tiêu chí, các yêu cầu của

chương trình đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng

văn bản quy phạm pháp luật trong đó có pháp luật về phòng chống bạo lực gia

đình.

Trong những năm qua, thực tiễn xây dựng pháp luật cho thấy rằng

không thể có pháp luật có hiệu lực và hiệu quả khi nó không trở thành hệ

thống pháp luật chung. Điều này có nghĩa là, khi mà bộ phận cấu thành nên

pháp luật thiếu tính thống nhất, đồng bộ, toàn diện, kỹ thuật văn bản và còn

có những quy định mâu thuẫn ảnh hưởng đến hiệu quả điều chỉnh của nhau

thì không thể nói hiệu quả của quá trình xây dựng pháp luật. Vì vậy, muốn

hoàn thiện pháp luật cho từng lĩnh vực cụ thể thì không thể chỉ chú ý đến việc

63

hoàn thiện từng bộ phận pháp luật mà phải chú ý đến mối liên hệ, tính hệ

thống giữa các bộ phận đó. Ngược lại, để đảm bảo tính hệ thống, khi hoàn

thiện từng bộ của pháp luật, phải đặt nó trong tổng thể các yêu cầu khách

quan, mục tiêu, phương hướng hoàn thiện pháp luật. Do pháp luật phòng,

chống bạo lực gia đình có những đặc thù riêng, bao gồm các quy phạm điều

chỉnh các quan hệ liên quan đến phòng, chống bạo lực gia đình, nhằm bảo vệ

các quyền của con người, giữ vững ổn định và trật tự xã hội nên việc hoàn

thiện các bộ phận pháp luật này phải được đặt trong mối quan hệ với hoàn

thiện pháp luật chung. Thể hiện:

Tính thống nhất là đòi hỏi các văn bản pháp luật chứa đựng các quy

phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình không mâu thuẫn, chồng chéo,

triệt tiêu lẫn nhau, bảo đảm sự liên kết chặt chẽ, sự phối hợp tác động điều

chỉnh các văn bản theo một chiều hướng nhất định và sự thống nhất giữa nội

dung văn bản với đối tượng phản ánh, tức là các quan hệ kinh tế, xã hội hiện

thực nhằm bảo đảm giá trị thực tế của hệ thống pháp luật phòng, chống bạo

lực gia đình.

Toàn diện là việc pháp điển hoá các quan hệ xã hội về phòng, chống

bạo lực gia đình, tiến tới nâng cao việc điều chỉnh các quan hệ xã hội đó bằng

pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, đặc biệt là những quan hệ xã hội liên

quan đến phòng, chống bạo lực gia đình phát sinh trong những tình huống

phức tạp, nhạy cảm trong gia đình, những hành vi vi phạm pháp luật phòng,

chống bạo lực gia đình trong đời sống xã hội.

Đồng bộ là phải bảo đảm việc ban hành các văn bản pháp luật phòng,

chống bạo lực gia đình tránh chồng chéo nhau; các văn bản của cấp dưới phải

phù hợp với các văn bản của cấp trên; văn bản dưới luật phải phù hợp với

Hiến pháp và Luật.

Kỹ thuật văn bản là một vấn đề rộng lớn phức tạp trong đó có ba điểm

quan trọng, cần thiết, chú ý khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật phòng,

chống bạo lực gia đình:

64

- Kỹ thuật pháp lý thể hiện những nguyên tắc tối ưu được vạch ra để áp

dụng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật phòng, chống bạo lực

gia đình.

- Trình độ kỹ thuật pháp lý thể hiện ở việc xác định chính xác cơ cấu

của pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình.

- Các biểu đạt bằng ngôn ngữ pháp lý, phải đảm bảo tính cô đọng,

logic, chính xác và một nghĩa.

Trên thực tế, chúng ta đã có một hệ thống pháp luật về phòng, chống

bạo lực gia đình mà đỉnh cao là Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Hệ thống

pháp luật này đã có những tác động tích cực trong nhận thức và thực tiễn hoạt

động phòng, chống bạo lực gia đình ở nước ta, từng bước đưa hoạt động

phòng, chống bạo lực gia đình đi vào nề nếp, ngăn chặn hành vi bạo lực gia

đình, hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này, bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp cho người bị bạo lực. Lần đầu tiên chúng ta có một văn bản pháp lý

quy định trực tiếp về phòng, chống bạo lực gia đình và đã có ý nghĩa rất lớn

trên con đường hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống

bạo lực gia đình. Tuy nhiên, sau một thời gian có hiệu lực, Luật Phòng, chống

bạo lực gia đình vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế. Những hạn chế này đã được

luận văn phân tích tại chương 2.

Theo luận văn, để Luật Phòng, chống bạo lực gia đình nói riêng cũng

như hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình được thực thi trong

cuộc sống, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan chức năng áp dụng dễ

dàng và xử lý chính xác các vụ vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng,

chống bạo lực gia đình, cần có văn bản pháp luật cụ thể hoá các quy định

chung chung trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Đồng thời, trong các

văn bản pháp luật trong hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình cần

quy định rõ hành vi vi phạm nào, ở mức độ nào thì xử lý hành chính và xử lý

như thế nào, và ở từng hành vi bạo lực gia đình cụ thể thì hành vi nào, mức độ

nào cấu thành tội phạm. Hơn nữa, trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình

cần hình sự hoá các hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình,

65

quy định cụ thể về tội phạm trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Có

như vậy mới có tính răn đe đối với chủ thể vi phạm và với những người khác,

dễ dàng trong việc áp dụng, xử lý, tránh được tình trạng bỏ lọt tội phạm trong

lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Vì vậy, các cơ quan có trách nhiệm

cần sớm ban hành các văn bản pháp luật để cụ thể hoá, hướng dẫn thi hành

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Hiện nay, Chính phủ đã ban hành Nghị

định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng,

chống bạo lực gia đình, Nghị định số 08/2009/NĐ-CP, nhưng xét một cách

tổng quát thì Nghị định này chưa cụ thể và giải quyết được nhiều vấn đề

chung chung trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Ngày 12 tháng 11

năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 167/2013/NĐ-CP Nghị định

Quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội,

phòng chống tệ nạn xã hội, phòng cháy và chữa cháy, phòng, chống bạo lực

gia đình. Nghị định hướng dẫn về xử phạt hành chính chi tiết, cụ thể vi phạm

pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Đây là điều kiện thuận lợi để các cơ

quan thực thi pháp luật áp dụng một cách chính xác, không xử lý oan đồng

thời không bỏ lọt hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này, tạo cơ sở

pháp lý chặt chẽ, đầy đủ nhằm hạn chế và đẩy lùi tình trạng vi phạm pháp luật

trong phòng, chống bạo lực gia đình, giúp công tác phòng, chống bạo lực gia

đình đạt được hiệu quả cao.

Với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật

phòng, chống bạo lực gia đình, Bộ luật Hình sự của nước Cộng hoà xã hội

chủ nghĩa Việt Nam nên quy định cụ thể những tội danh về bạo lực gia đình

(nếu Luật Phòng, chống bạo lực gia đình không quy định cụ thể về tội phạm

trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình) bởi vì cùng là các hành vi như

nhau nhưng trong gia đình và ngoài gia đình thì tính chất và mức độ nguy

hiểm của hành vi, ý thức và thái độ phủ nhận yêu cầu của pháp luật của chủ

thể vi phạm là khác nhau. Quy định cụ thể như vậy sẽ có tác dụng răn đe đối

với các hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong đó có

66

hành vi bạo hành gia đình đồng thời đạt được hiệu quả trong công tác phòng

chống bạo lực gia đình.

Như vậy, hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình hiện tại còn

nhiều điểm hạn chế. Vì vậy, để tăng cường hiệu quả công tác phòng, chống vi

phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình, việc khắc phục

những hạn chế đó là điều rất cần thiết để chúng ta hoàn thiện hệ thống pháp

luật phòng, chống bạo lực gia đình. Khi hệ thống pháp luật phòng, chống bạo

lực gia đình được hoàn thiện, thống nhất sẽ là cơ sở pháp lý cho việc áp dụng,

xử lý các hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, từ đó góp

phần hạn chế vi phạm pháp luật.

3.2.2. Hoàn thiện cơ chế xã hội phòng, chống vi phạm pháp luật

trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình

Bạo lực gia đình đang hoành hành và lây lan nhanh chóng trong xã hội,

xâm nhập vào mỗi gia đình và ngày càng nhiều gia đình đang phải sống

chung với bạo lực gia đình nhưng giường như xã hội vẫn thờ ơ, dửng dưng

với vấn đề này. Mặc dù vấn đề phòng, chống bạo lực gia đình đã được Luật

hoá, được đặt dưới sự điều chỉnh của pháp luật, bạo hành gia đình đã trở

thành vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình nhưng cộng đồng xã

hội vẫn khoanh tay đứng nhìn, vẫn coi đó là vấn đề riêng của mỗi gia đình, vì

thế mỗi gia đình tự đóng cửa bảo nhau. Như vậy, phải chăng, chính cộng

đồng xã hội đã tạo điều kiện để vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia

đình phát triển. Vì vậy, đã đến lúc, cả xã hội phải chung tay, góp sức lại để

triệt tiêu vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo hành gia đình. Sự

chung tay của cả xã hội sẽ tạo nên một sức mạnh tổng hợp có thể ngăn chặn,

đẩy lùi tình trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Chính vì

vậy, việc hoàn thiện cơ chế xã hội phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh

vực phòng, chống bạo lực gia đình là rất cần thiết và đặc biệt quan trọng.

Hoàn thiện cơ chế xã hội phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh

vực phòng, chống bạo lực gia đình tức là hoàn thiện cách thức tổ chức, hành

động của xã hội đối với vấn đề vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống

67

bạo lực gia đình. Điều đó có nghĩa là tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân

trong xã hội cần có cách thức hành động cần thiết, tích cực trong sự phối kết

hợp chặt chẽ đối với hiện tượng xã hội là vi phạm pháp luật trong lĩnh vực

phòng, chống bạo lực gia đình. Nội dung của giải pháp này, trước hết, cần

nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, trách nhiệm của cá nhân, gia đình và

cộng đồng xã hội trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống

bạo lực gia đình. Tiếp đó, xã hội cần có những hành động cụ thể góp phần vào

việc ngăn chặn, đẩy lùi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, góp

phần xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững, giữ vững trật tự và ổn định xã

hội.

a) Xây dựng mạng lưới phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực

phòng, chống bạo lực gia đình có sự thống nhất chỉ đạo hành động từ Trung

ương đến các cấp chính quyền địa phương

Để công tác phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng,

chống bạo lực gia đình đạt được hiệu quả, theo luận văn, cần phải thành lập

ngay một mạng lưới chuyên trách ngăn chặn bạo lực từ Trung ương tới từng

địa phương. Ở cấp Trung ương cần có một Uỷ ban về phòng, chống bạo lực

gia đình, mỗi tỉnh, huyện, có Ban phòng, chống bạo lực; mỗi xã có đội phòng,

chống bạo lực gia đình; mỗi thôn, xóm có nhóm can thiệp phòng, chống bạo

lực gia đình.

Thành phần của Ban/đội phòng, chống bạo lực gia đình gồm:

- Trưởng ban/đội trưởng: đại diện của chính quyền (chủ tịch hoặc phó

chủ tịch tỉnh, huyện, xã) ;

- Các phó ban/ phó đội trưởng;

- Các uỷ viên: cán bộ chính quyền, công an, y tế, thành viên trong các tổ

chức chính trị - xã hội.

Các thành viên phải là người có uy tín, nghiêm túc, có kinh nghiệm,

gương mẫu trong cuộc sống, được người dân địa phương tín nhiệm, những

người đứng đầu trong các dòng tộc, các chức sắc tôn giáo, những người có

68

kiến thức và kỹ năng về pháp luật về bình đẳng giới, tư vấn, hoà giải, biết

cách tiếp cận đối tượng...

Ở cấp xã, phường, thị trấn, việc thành lập Đội phòng, chống bạo lực gia

đình là đặc biệt cần thiết bởi cấp xã là nơi trực tiếp xảy ra các vụ bạo lực gia

đình. Vì vậy, phòng, chống từ cơ sở sẽ có tác dụng rất lớn trong việc ngăn

chặn các vụ bạo lực gia đình bởi vì nếu không ngăn chặn kịp thời, nó sẽ kéo

theo các vụ vi phạm pháp luật phòng, chống vi phạm pháp luật liên quan cũng

như các vụ vi phạm khác. Các thành viên của đội phòng chống BLGĐ tư vấn

cho các nạn nhân cũng như những người gây ra bạo lực đồng thời các thành

viên làm luôn nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục pháp luật phòng, chống bạo

lực gia đình, bình đẳng giới, quyền của phụ nữ, trách nhiệm của mỗi công dân

trước vấn đề bạo lực gia đình. Đội phòng, chống bạo lực gia đình có trụ sở

sinh hoạt tại trụ sở UBND xã, phường, thị trấn. Đội có mạng lưới các thành

viên và cộng tác viên ở khắp các xóm, thôn.

Ở cấp thôn, xóm, thành lập nhóm người tình nguyện tham gia phòng,

chống bạo lực gia đình. Họ sẽ là người phát hiện sớm nhất những trường hợp

bạo lực gia đình trong thôn, xóm để hoà giải hoặc báo cáo cho Đội phòng,

chống bạo lực gia đình ở cấp xã, huyện. Chức năng chính của nhóm phòng,

chống bạo lực gia đình: rà soát, lập danh sách theo dõi các gia đình hay có

hành vi bạo lực; lập kế hoạch và thực hiện tuyên truyền vận động; tập huấn

cho cán bộ cơ sở; thành lập, chỉ đạo hoạt động của các Câu lạc bộ; tham gia

tư vấn trực tiếp cho các gia đình; can thiệp xử lý các vụ bạo lực gia đình; tư

vấn hoà giải, giúp đỡ nạn nhân và gia đình nạn nhân bị bạo lực. Hoạt động

của nhóm phòng, chống bạo lực gia đình cần đảm bảo cho các vụ vi phạm

pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình được:

- Trấn áp tức thời: Khi phát hiện một hành vi bạo lực gia đình, một hoặc

nhiều thành viên của nhóm can thiệp phòng, chống bạo lực gia đình phải có

mặt kịp thời và phải phối hợp cùng nhau ngăn chặn ngay hành vi bạo lực đó,

trấn áp người gây ra bạo lực và bảo vệ, chăm sóc nạn nhân.

69

- Tư vấn, hoà giải: Mỗi xã, phường cần có một phòng tư vấn để tiến

hành công tác tư vấn nhằm giải quyết vấn đề bạo lực cho địa phương. Các

thành viên trong nhóm ngăn chặn bạo lực có trách nhiệm tìm cách tiếp cận

phù hợp để tư vấn, hoà giải và giải quyết mâu thuẫn. Bên cạnh đó cũng

khuyến khích sự can thiệp, hoà giải ở gia đình, dòng họ.

- Xử lý theo pháp luật: Chính quyền phải xử lý một cách nghiêm minh

những người có hành vi bạo lực gia đình tuỳ theo tính chất và mức độ vi

phạm để không bỏ lọt, bao che, dung túng cho hành vi bạo lực từ đó dẫn đến

tình trạng có tâm lý coi thường pháp luật. Việc xử lý kịp thời, nghiêm khắc có

tác dụng giáo dục và răn đe đối với người vi phạm đồng thời với những người

khác trong cộng đồng.

- Theo dõi, giám sát để hành vi bạo lực gia đình không tái diễn: Đối với

các đối tượng đã từng có hành vi bạo lực gia đình thì mạng lưới ngăn chặn

bạo lực cần thực hiện những hoạt động có tính giáo dục trực tiếp để họ không

tái diễn.

b) Mở rộng và đẩy mạnh hoạt động của các cơ sở tư vấn, cơ sở hỗ trợ về

phòng, chống bạo lực gia đình

Bên cạnh việc xây dựng mạng lưới chuyên trách ngăn chặn bạo lực gia

đình, để hoàn thiện cơ chế xã hội phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh

vực phòng, chống bạo lực gia đình, cần mở rộng và đẩy mạnh hoạt động của

các cơ sở tư vấn và hỗ trợ về phòng, chống bạo lực gia đình đồng thời thực

hiện xã hội hoá trên các lĩnh vực: giáo dục, y tế, dạy nghề, văn hoá, văn nghệ,

thể thao. Số lượng và chất lượng hoạt động của các cơ sở tư vấn và hỗ trợ

phải được tăng cường. Các cơ sở tư vấn và hỗ trợ về phòng, chống bạo lực gia

đình được thành lập và giải thể theo sự hướng dẫn của Bộ Văn hoá, Thể thao

và Du lịch. Các cơ sở tư vấn, hỗ trợ sẽ giúp người bị bạo hành nâng cao nhận

thức của mình về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, thấy được mình là

đối tượng được pháp luật bảo vệ, biết cách bảo vệ mình trước bạo lực gia đình

đồng thời bảo vệ, hỗ trợ họ khi họ là nạn nhân của bạo lực gia đình. Các cơ sở

70

tư vấn và hỗ trợ về phòng, chống bạo lực gia đình còn có vai trò tuyên truyền,

phổ biến giáo dục pháp luật, kiến thức về phòng, chống bạo lực gia đình.

c) Nâng cao nhận thức và tăng cường năng lực hoạt động của cả xã hội

trong sự phối kết hợp chặt chẽ

Trong thực tế xã hội, ở nhiều địa phương, khi nạn nhân cần sự giúp đỡ

của chính quyền thì nhiều cơ quan chức năng vẫn chỉ muốn "bình thường

hoá" những xung đột trong gia đình, không quan tâm giải quyết đơn thư, lơ là

công tác giám sát, giải quyết các vụ bạo lực gia đình.

Đã đến lúc cần xã hội hoá vấn đề phòng, chống vi phạm pháp luật trong

lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Mỗi cá nhân, mỗi cơ quan, tổ chức

trong xã hội, cần xác định được trách nhiệm của mình đối với vấn đề vi phạm

pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình không còn là vấn

đề riêng của mỗi gia đình để mỗi gia đình tự đóng cửa bảo nhau mà là vấn đề

chung của xã hội, cần sự chung tay của cả xã hội. Có như vậy, việc phòng,

chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình mới

đạt được hiệu quả thiết thực. Mỗi cá nhân trong xã hội sẽ là một mắt xích

quan trọng trong mạng lưới phòng, chống vi phạm pháp luật mà hổng mắt

xích nào trong mạng lưới đó sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của cuộc đấu tranh

chống lại vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Vì

thế phải nâng cao nhận thức và tăng cường năng lực hoạt động của mỗi cá

nhân, mỗi gia đình, mỗi cơ quan nhà nước, mỗi tổ chức xã hội trong công tác

phòng, chống bạo lực gia đình. Mỗi cá nhân phải thực hiện nghiêm chỉnh các

quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, hôn nhân và gia

đình, bình đẳng giới, kịp thời ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình và thông báo

cho cơ quan, tổ chức , người có thẩm quyền. Mỗi gia đình phải giáo dục, nhắc

nhở thành viên gia đình mình thực hiện quy định của pháp luật về phòng,

chống bạo lực gia đình, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới...; hoà giải mâu

thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên trong gia đình, can ngăn người có hành

vi bạo lực gia đình chấm dứt hành vi bạo lực, chăm sóc nạn nhân bạo lực gia

đình; phối hợp với các cơ quan, tổ chức và cộng đồng dân cư trong phòng,

71

chống bạo lực gia đình. Các cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống bạo

lực gia đình: Chính phủ, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch; Bộ, cơ quan ngang

bộ; Uỷ ban nhân dân các cấp cần làm tốt chức năng và nhiệm vụ của mình

trong việc quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình để đạt được

hiệu lực và hiệu quả. Đặc biệt, các cơ quan bảo vệ pháp luật: cơ quan Công

an, Toà án, Viện kiểm sát cần phát huy vai trò tích cực, chủ động của mình

trong việc phòng ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật phòng,

chống bạo lực gia đình để mỗi hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo

lực gia đình được phát hiện sớm và bị xử lý theo quy định của pháp luật, bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nạn nhân bạo lực gia đình; không bao che,

dung túng, xử lý không nghiêm đối với hành vi vi phạm pháp luật phòng,

chống bạo lực gia đình để tránh tình trạng coi thường pháp luật, tiếp diễn thực

hiện hành vi vi phạm pháp luật. Cần nâng cao và phát huy vai trò của các tổ

chức chính trị-xã hội nhất là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công

tác phòng, chống bạo lực gia đình.

Đối với Hội phụ nữ, cần đề cao vị trí, vai trò của các cấp Hội trong việc

tuyên truyền pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình; tuyên truyền về tác

hại, ảnh hưởng của bạo lực gia đình cho cán bộ phụ nữ tại các cấp Hội, nhất là

chị em phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa... Hội phụ nữ phối hợp với cơ quan chức

năng tổ chức các khoá tập huấn nâng cao cho chị em phụ nữ các cấp về kỹ

năng tư vấn, hoà giải và kỹ năng tự bảo vệ mình và gia đình mình trong các

tình huống bạo lực gia đình đồng thời tổ chức các chương trình nhằm xoá đói

giảm nghèo, nâng cao đời sống cho các gia đình ở mỗi địa phương; xoá bỏ tệ

nạn xã hội trong cộng đồng dân cư.

Đối với Mặt trận Tổ quốc: tổ chức tuyên truyền sâu rộng chính sách,

pháp luật của đảng và nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình, hôn nhân

và gia đình, về bình đẳng giới...; kiến nghị những biện pháp cần thiết với cơ

quan nhà nước có liên quan để thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực

gia đình, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới; tham gia giám sát việ thực

hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.

72

Đối với Đoàn thanh niên, cùng phối hợp với cơ quan quản lý, cơ quan

chức năng tổ chức tuyên truyền về chính sách, pháp luật về phòng, chống bạo

lực gia đình trong thế hệ trẻ về kỹ năng tư vấn, xử lý và phòng ngừa bạo lực

gia đình, tránh để xảy ra bạo lực gia đình nhất là bạo lực gia đình đối với phụ

nữ khi xây dựng gia đình.

d) Nhà nước cần quy định chế độ khen thưởng, khuyến khích người trực

tiếp tham gia phòng, chống bạo lực gia đình

Thực hiện tốt vấn đề này sẽ góp phần kích thích tinh thần tích cực của

cộng đồng trong việc góp sức mình vào cuộc đấu tranh loại bỏ vi phạm pháp

luật đặc biệt là vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong xã hội.

Bên cạnh việc xử lý kiên quyết, nghiêm minh những hành vi vi phạm thì việc

khen thưởng kịp thời, đúng mức sẽ giấy lên một phong trào phòng, chống bạo

lực gia đình mạnh mẽ trong xã hội và điều này sẽ làm hoàn thiện hơn cơ chế

xã hội phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực

gia đình.

Như vậy, để hoạt động phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực

phòng, chống bạo lực gia đình đạt được hiệu quả cao, ngày càng giảm về số

lượng, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật, cần có

sự góp sức, chung tay, đồng lòng của cả xã hội. Mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức

trong xã hội cần nâng cao nhận thức và thấy được trách nhiệm của mình đối

với vấn đề phòng, chống vi phạm pháp luật nói chung và phòng, chống vi

phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình nói riêng, từ đó

góp sức lực của mình vào cuộc đấu tranh chung đó. Cách thức hoạt động của

mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội phải có sự phối kết hợp chặt chẽ,

đặt trong một chỉnh thể thống nhất, một mục đích chung là tạo điều kiện để xã

hội phát triển. Xã hội cần có sự hoàn thiện cách thức tổ chức, hoạt động phù

hợp, kịp thời để làm đường hướng, làm cơ sở cho việc phòng, chống bạo lực

gia đình đạt được kết quả cao, thiết thực. Đó chính là nội dung của giải pháp

hoàn thiện cơ chế xã hội phòng, chống bạo lực gia đình trong lĩnh vực phòng,

73

chống bạo lực gia đình. Thực hiện tốt giải pháp này sẽ góp phần giảm thiểu số

vụ vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình.

3.2.3. Tăng cường công tác tổ chức thực hiện pháp luật về phòng,

chống bạo lực gia đình. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, đào

tạo, thông tin về bình đẳng giới, về bạo lực gia đình và nâng cao khả năng

tự bảo vệ mình trước bạo lực gia đình

Để pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đi vào thực tiễn đời sống,

được nhân dân chấp hành nghiêm minh là một công việc cực kỳ khó khăn bao

gồm nhiều hoạt động, nhiều giai đoạn và do nhiều chủ thể thực hiện. Đây là

những hoạt động mang tính khoa học, đòi hỏi có kinh nghiệm, năng lực và

nghệ thuật. Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực

gia đình là rất quan trọng và không thể thiếu được nhưng cũng chỉ là bước

đầu. Khó khăn lớn nhất là việc tổ chức thực hiện, đưa pháp luật phòng, chống

bạo lực gia đình vào cuộc sống, biến pháp luật thành hoạt dộng thực tiễn của

nhân dân. Đây là hoạt động mang tính quyết định thành công của việc điều

chỉnh hành vi của con người bằng pháp luật, để pháp luật do Nhà nước ban

hành được chấp hành. Vì vậy, tổ chức thực hiện tốt pháp luật phòng, chống

bạo lực gia đình sẽ là một trong những biện pháp phòng, chống vi phạm pháp

luật phòng, chống bạo lực gia đình hiệu quả.

Để tổ chức thực hiện tốt pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình thì một

trong những biện pháp có ý nghĩa quyết định là giáo dục và nâng cao ý thức

pháp luật, năng lực thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong

cộng đồng. Giáo dục pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình sẽ giúp cho các

chủ thể trong xã hội có kiến thức về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình,

có lòng tin vào sự điều chỉnh của pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, từ

đó hình thành thói quen xử sự theo pháp luật, có ý thức pháp luật cao từ đó

thực hiện những hành vi hợp pháp, phù hợp với những quy định mà pháp luật

phòng, chống bạo lực gia đình đặt ra. Thực tiễn cho thấy, ở Vĩnh Phúc hiện

nay, tình trạng vi phạm pháp luật trong đó có vi phạm pháp luật phòng, chống

bạo lực gia đình còn sẩy ra ở một số cán bộ, công chức cũng như trong các

74

tầng lớp nhân dân. Một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng trên là do

sự thiếu hiểu biết pháp luật hoặc hiểu không sâu sắc, không thấu đáo về pháp

luật phòng, chống bạo lực gia đình. Có chủ thể hiểu biết pháp luật nhưng

thiếu tình cảm, lòng tin vào pháp luật, không tôn trọng pháp luật, thiếu trách

nhiệm đối với nhà nước và xã hội đồng thời các cơ quan, cá nhân có thẩm

quyền xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật không nghiêm, dẫn đến tâm lý

coi thường và vi phạm pháp luật phòng chống bạo lực gia đình. Vì vậy, việc

giáo dục pháp luật có vai trò và tác dụng rất lớn trong việc ngăn chặn việc

hình thành vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Để tổ chức thực

hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đạt được hiệu quả thiết thực

cần:

- Xây dựng một chương trình giáo dục truyền thông mạnh mẽ, rộng khắp

thông qua nhiều phương thức khác nhau: xã hội, nhà trường, y tế, đoàn thể

quần chúng, các phương tiện thông tin đại chúng (vô tuyến, đài truyền thanh,

báo chí, các tài liệu truyền thông , các hình thức truyền thông khác như: tờ

rơi, áp phích, sách bỏ túi, tổ chức câu lạc bộ, văn nghệ quần chúng, hội thi...)

nhằm phổ biến kiến thức, nâng cao hiểu biết của cộng đồng về pháp luật

phòng, chống bạo lực gia đình, bạo lực gia đình, huy động sự tham gia của

cộng đồng trong việc ngăn chặn vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia

đình. Khi có điều kiện, cần đưa các nội dung này vào chương trình giảng dạy,

học tập ở các cấp học, đồng thời cần nghiên cứu sớm để hình thành một số

chuyên đề về phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình

để đưa vào giảng dạy cho các lớp bồi dưỡng, đào tạo tại các trường chính trị

tỉnh, thành phố và các lớp bồi dưỡng chính trị tổ chức tại huyện, thị xã để đội

ngũ cán bộ, công chức chính quyền cơ sở có kiến thức đầy đủ về pháp luật

phòng, chống bạo lực gia đình. Từ đó làm tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

của mình trong việc phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực

gia đình. Nội dung giáo dục pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình phải

nhất quán, có hệ thống.

75

- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục Luật Phòng, chống bạo lực gia đình

sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân đặc biệt là thế hệ trẻ để họ có kiến thức

xây dựng một gia đình hạnh phúc không có bạo lực gia đình. Tại các địa

phương, cần đảm bảo thực hiện 100% các gia đình được học tập nội dung cơ

bản của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đặc biệt cần có sự tham gia của

nam giới.

- Tổ chức nhiều lớp tập huấn cho cán bộ lãnh đạo các cấp, tập huấn nâng

cao năng lực quản lý cho cán bộ làm công tác gia đình từ tỉnh đến cơ sở; tập

huấn nâng cao kỹ năng tuyên truyền, vận động, kỹ năng tư vấn, kỹ năng

thương thuyết, hoà giải, kỹ năng công tác xã hội với gia đình cho Ban chỉ đạo

cấp xã, trưởng thôn, ấp, cán bộ tổ hoà giải cấp cơ sở, tổ trưởng, tổ phó Tổ

nhân dân tự quản, cán bộ tác nghiệp tại Trung tâm Dân số - KHHGĐ; tổ chức

các buổi sinh hoạt tập thể trong cộng đồng với nhiều hình thức khác nhau có

nội dung tuyên truyền về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, đặc biệt có

sự tham gia của nam giới nhằm tạo ra một phong trào, một môi trường mới

làm thay đổi quan niệm của người dân địa phương về bạo lực gia đình.

- Tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích pháp luật phòng, chống

bạo lực gia đình trên các phương tiện thông tin đại chúng. Cần đảm bảo về số

lượng, chất lượng các chuyên mục được đăng tải để đáp ứng được yêu cầu

của thực tiễn hiện nay.

- Kiểm tra việc thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình ở các

cơ quan, đơn vị.

- Xây dựng các câu lạc bộ gia đình hạnh phúc không có bạo lực gia đình

ở các địa phương. Các Câu lạc bộ này sẽ tiến hành xây dựng quy chế hoạt

động, chương trình hoạt động, phân công trách nhiệm cho từng thành viên.

Câu lạc bộ được tập huấn, bồi dưỡng các chuyên đề về xây dựng gia đình bền

vững, phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Chính

quyền, các đoàn thể địa phương cần phối hợp với chương trình xây dựng gia

đình văn hoá mới và phòng chống tệ nạn xã hội ở địa phương để xây dựng các

76

câu lạc bộ gia đình hạnh phúc không có bạo lực gia đình với các biện pháp cụ

thể:

+ Đưa vấn đề bạo lực gia đình vào Hương ước và giám sát việc thực hiện

hương ước tại địa phương. Cần đưa những người vi phạm pháp luật phòng,

chống bạo lực gia đình vào Hương ước để xử lý. Phát huy vai trò tích cực,

chủ động của gia đình, dòng họ trong việc giáo dục, ngăn chặn bạo lực gia

đình; đề nghị các thành viên gia đình cam kết, ký vào văn bản về lối sống văn

hoá, không để xảy ra bạo lực gia đình. Một thực tế xảy ra là những kẻ vũ phu

thường đánh vợ con khi còn nhỏ, khi con lớn thì họ ít đánh hoặc ngừng đánh.

Nguyên nhân một phần là do con cái ngăn cản, mặt khác họ không muốn biểu

lộ những hành vi tàn bạo trước mặt con cái. Do đó, trong chương trình giáo

dục những người này, có thể chúng ta nên sử dụng áp lực từ phía con cái.

+ Các Câu lạc bộ thường xuyên sinh hoạt với nội dung liên quan đến

pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, tạo điều kiện cho nam giới tham gia.

Đây chính là một hình thức tuyên truyền, giáo dục pháp luật phòng, chống

bạo lực gia đình tại địa phương đem lại hiệu quả cao.

Bên cạnh việc giáo dục kiến thức pháp luật phòng, chống bạo lực gia

đình, nâng cao ý thức pháp luật cho cộng đồng, việc tăng cường công tác

tuyên truyền, giáo dục, đào tạo, thông tin về bạo lực gia đình, bình đẳng giới,

về quyền con người, quyền của phụ nữ và trẻ em... là việc làm rất cần thiết.

Do vậy, việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về bạo lực gia đình,

bình đẳng giới và quyền của con người phải được tiến hành nhanh trong thời

gian tới và tiến hành một cách toàn diện.

3.2.4. Tăng cường pháp chế trong lĩnh vực phòng, chống vi phạm

pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình

Pháp chế trong lĩnh vực phòng, chống vi phạm pháp luật về phòng,

chống bạo lực gia đình là chế độ thực hiện các quy định pháp luật phòng,

chống bạo lực gia đình một cách nghiêm minh, thống nhất, tự giác của các cơ

quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hôi, đơn vị kinh tế, lực lượng vũ

trang, các cán bộ, công chức nhà nước và mọi công dân.

77

Khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển và công cuộc công

nghiệp hoá, hiện đại hoá càng ngày càng thu được nhiều kết quả tốt đẹp thì

không thể không tiếp tục xây dựng nhà nước, hoàn chỉnh pháp luật, tăng

cường pháp chế để giúp đỡ và hướng dẫn kinh tế thị trường phát huy đầy đủ

tác dụng tích cực và hạn chế, ngăn ngừa được các mặt trái của nó. Trong nền

kinh tế thị trường, để phòng chống vi phạm pháp luật có hiệu quả thì việc tăng

cường pháp chế trong lĩnh vực này là một điều kiện quan trọng, không thể

thiếu nhằm hạn chế, đẩy lùi vi phạm pháp luật. Vi phạm pháp luật phòng,

chống bạo lực gia đình là một trong những loại vi phạm pháp luật và ngày

càng gia tăng về số lượng, tính chất và mức độ nguy hiểm. Chính vì vậy, tăng

cường pháp chế càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết, đây chính là nhân tố quyết

định hiệu quả công tác phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng,

chống bạo lực gia đình. Một hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình

hoàn thiện, đầy đủ, là cơ sở pháp lý điều chỉnh hành vi của con người trong

lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình là rất cần thiết nhưng vẫn chưa đủ để

có thể hạn chế, ngăn chặn được tình trạng vi phạm pháp luật phòng, chống

bạo lực gia đình. Hệ thống pháp luật mới chỉ là điều kiện tạo ra khả năng, tiền

đề cần thiết tác động đến hành vi của con người. Hiệu lực của những văn bản

pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình có được phát huy hay không còn phụ

thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó việc các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính

trị - xã hội, đoàn thể quần chúng, đơn vị kinh tế, lực lượng vũ trang, các cán

bộ, công chức nhà nước và mọi công dân tuân theo và chấp hành pháp luật là

yếu tố cơ bản, biến khả năng trở thành hiện thực. Điều đó quyết định ảnh

hưởng của pháp luật đối với xã hội. Vai trò đó thuộc về pháp chế. Vì thế

không thể không tăng cường pháp chế nếu như chúng ta muốn các quy định

pháp luật trong các văn bản pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình được đi

vào thực tiễn đời sống, được chấp hành, tuân thủ nghiêm minh và công tác

phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đạt được hiệu

quả. Tăng cường pháp chế trong phòng, chống vi phạm pháp luật về phòng,

chống bạo lực gia đình chính là việc làm cho mỗi công dân trong xã hội đều

78

tự giác chấp hành các quy định của pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình

với ý thức trách nhiệm của mình - người chủ đất nước - trong công cuộc xây

dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Để tăng cường pháp chế trong lĩnh vực phòng, chống vi phạm pháp luật

phòng, chống bạo lực gia đình, cần thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ như

xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình,

tổ chức thực hiện tốt pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, kịp thời đấu

tranh kiên quyết với những hành vi vi phạm phạm pháp luật phòng, chống bạo

lực gia đình.

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống hệ thống pháp luật phòng, chống bạo

lực gia đình là nhiệm vụ quan trọng đầu tiên để pháp chế được đảm bảo, từ đó

hạn chế vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Pháp chế chỉ có thể

được củng cố và tăng cường trên cơ sở của một hệ thống pháp luật phòng,

chống bạo lực gia đình ngày càng hoàn thiện và phát triển, kịp thời thể chế

hoá các chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng, phản ánh đúng những

đặc điểm của kinh tế xã hội trong mỗi giai đoạn cụ thể. Để có được một hệ

thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đáp ứng các tiêu chuẩn như

vậy phải thực hiện nhiều biện pháp như: phải thường xuyên hệ thống hoá

pháp luật để phát hiện và loại bỏ những quy định pháp luật trùng lặp, mâu

thuẫn, lạc hậu, bổ sung những thiếu sót trong hệ thống pháp luật phòng,

chống bạo lực gia đình; kịp thời thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng

thành pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình; có kế hoạch

xây dựng pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong mỗi giai đoạn cụ thể;

đẩy mạnh công tác nghiên cứu, kỹ thuật xây dựng pháp luật, để đảm bảo cho

hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình được mang tính khoa học

và đạt trình độ kỹ thuật cao, mở rộng các hình thức nhân dân lao động tham

gia vào việc xây dựng pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình . Mỗi văn bản

pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình phải đảm bảo chất lượng thể hiện khi

nó được ban hành, mọi người hiểu đúng và chính xác những điều quy định

79

trong những văn bản đó. Nghĩa là pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình chỉ

có ý nghĩa thực sự khi nó không dừng lại ở những quy định chung chung, có

tính nguyên tắc mà phải quy định các mối quan hệ cụ thể giữa những chủ thể

trong một hoàn cảnh cụ thể. Do đó, các yêu cầu rõ ràng, cụ thể, chính xác,

một nghĩa luôn luôn là những thuộc tính không thể thiếu được của các quy

phạm pháp luật nói chung cũng như quy phạm pháp luật về phòng, chống bạo

lực gia đình. Thiếu những thuộc tính này, pháp luật phòng, chống bạo lực gia

đình không thể đi vào cuộc sống. Nhấn mạnh vấn đề này, Nghị quyết Hội

nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương đảng khoá VIII viết: "các luật ban

hành cần bảo đảm tính khả thi, dễ hiểu, quy định cụ thể để giảm bớt tình trạng

phải chờ đợi quá nhiều văn bản hướng dẫn mới thi hành được".

Xây dựng và hoàn chỉnh pháp luật là rất quan trọng, nhưng cũng chỉ là

bước đầu, khó khăn lớn nhất là việc tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật

vào cuộc sống, biến pháp luật thành hoạt động thực tiễn của nhân dân. Vì vậy,

khi đã có hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình hoàn thiện chưa

đủ để tăng cường pháp chế trong lĩnh vực phòng, chống vi phạm pháp luật

phòng, chống bạo lực gia đình từ đó sẽ không hạn chế được vi phạm pháp luật

phòng, chống bạo lực gia đình. Để củng cố, tăng cường pháp chế trong phòng,

chống vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, việc tổ chức thực

hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình giữ vai trò đặc biệt quan trọng.

Pháp luật được chấp hành và thực hiện ở mức độ nào tuỳ thuộc vào

nhiều yếu tố. Một trong những yếu tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định về

mặt chủ quan, đó là ý thức pháp luật. Vì vậy, để tổ chức thực hiện tốt pháp

luật, biện pháp có ý nghĩa quyết định là giáo dục và nâng cao ý thức pháp

luật, năng lực thực hiện pháp luật cho cán bộ, công chức nhà nước, đồng thời

"tích cực tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật trong nhân dân".

Không có ý thức pháp luật thì không thể tự giác tuân theo và chấp hành

nghiêm chỉnh, cũng như không thể áp dụng đúng pháp luật phòng, chống bạo

lực gia đình trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Để tổ chức thực hiện tốt

pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình cụ thể là giáo dục và nâng cao ý thức

80

pháp luật cho mọi người có hiệu quả cao, cần thực hiện đồng bộ các biện

pháp sau:

- Cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, tăng cường công

tác giải thích pháp luật để làm sáng tỏ nội dung và ý nghĩa của các quy định

pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình làm cơ sở cho việc tuyên truyền và

giáo dục pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đạt được hiệu quả.

- Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền và giáo dục pháp luật

phòng, chống bạo lực gia đình nhằm làm cho nhân dân hiểu biết pháp luật,

nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân

- Đưa việc giảng dạy pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong các

trường phổ thông, đại học, trong các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

- Chú trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ pháp lý có trình độ chuyên

môn, nghiệp vụ cao,ngăn chặn và xử lý tốt các vụ bạo lực gia đình cũng như

các trường hợp vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình.

- Trong từng thời kỳ, cần có sự tổng kết, rút kinh nghiệm kịp thời những

thiếu sót, những nhược điểm trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật

phòng, chống bạo lực gia đình, từ đó đề ra những phương hướng và biện pháp

tăng cường hiệu lực công tác này.

Việc thực hiện đầy đủ và đồng bộ các biện pháp trên sẽ góp phần không

nhỏ và thiết thực vào việc tăng cường pháp chế trong phòng, chống vi phạm

pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình từ đó góp phần hạn chế, ngăn

chặn và đẩy lùi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình.

Cùng với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phòng, chống

bạo lực gia đình; tổ chức thực hiện tốt pháp luật phòng, chống bạo lực gia

đình để tăng cường pháp chế trong phòng, chống vi phạm pháp luật về phòng,

chống bạo lực gia đình thì việc đấu tranh kiên quyết, kịp thời với những hành

vi vi phạm pháp luật phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực

gia đình là biện pháp không thể thiếu được. Để đấu tranh và phòng ngừa

những vi phạm pháp luật đặc biệt là tội phạm trong phòng, chống bạo lực gia

đình thì cơ quan có thẩm quyền phải giải quyết kịp thời mọi vi phạm pháp

81

luật phòng, chống bạo lực gia đình từ những vụ việc nhỏ cho đến những vụ

việc lớn, gây nguy hiểm cho xã hội. Điều quan trọng là các cơ quan bảo vệ

pháp luật không được vì bất cứ lý do gì mà bỏ qua, không xử lý các vụ vi

phạm dù sự vi phạm đó là nặng hay nhẹ. Cần kiên quyết chống mọi biểu hiện

nương nhẹ, nể nang, bao che hành vi phạm pháp cũng như người vi phạm

pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình dưới bất kỳ hình thức

nào. Nếu không xử lý kịp thời hoặc xử lý nhưng không đúng mức sẽ tạo ra

tâm lý coi thường pháp luật và mất lòng tin trong nhân dân. Thực tế cho thấy,

trong những năm vừa qua, các cơ quan chức năng đã xử lý chưa kiên quyết,

nghiêm minh đối với các vụ bạo lực gia đình thậm chí còn coi đó là việc riêng

của mỗi gia đình, mỗi gia đình tự giải quyết. Đây chính là một trong những

nguyên nhân làm số vụ vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình gia

tăng, tạo ra tâm lý coi thường pháp luật, người gây ra bạo lực gia đình cứ thế

mà vi phạm vì họ nghĩ rằng vi phạm cúng không bị xử lý hoặc có sử lý thì

cũng qua loa.

Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn cách

mạng hiện nay là một trong những quan điểm cơ bản có tính nguyên tắc, chỉ

đạo trong việc tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,

nhằm bảo đảm thắng lợi quá trình đổi mới và phát triển đất nước. Tăng cường

pháp chế trong phòng, chống vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực là

một phần trong việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm làm cho các

quy định của hệ thống pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình được chấp

hành một cách tự giác, nghiêm minh, từ đó hạn chế, ngăn chặn được các vi

phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Để pháp chế được tăng cường

trong lĩnh vực phòng, chống vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia

đình, không chỉ xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phòng, chống bạo

lực gia đình, mà quan trọng hơn là tổ chức thực hiện pháp luật phòng, chống

bạo lực gia đình, bảo đảm cho pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình được

chấp hành thường xuyên, nghiêm chỉnh đồng thời phải kiên quyết đấu tranh

82

với những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình.

Pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình không được tuân theo và chấp hành

nghiêm chỉnh thì pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình không có hiệu lực,

pháp chế không được củng cố và tăng cường từ đó dẫn đến tình trạng vi phạm

pháp luật trong lĩnh vực này. Việc chấp hành thường xuyên, những đòi hỏi

của pháp chế, phòng ngừa những hành vi vi phạm pháp luật tất yếu dẫn đến

thiết lập trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa bền vững.

83

TIỂU KẾT CHƢƠNG 3

Ở Chương 3, luận văn đã tập trung phân tích, làm rõ yêu cầu khách

quan cũng như phương hướng và giải pháp cơ bản của việc phòng, chống vi

phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình trong bối cảnh

hội nhập quốc tế, xây dựng và phát triển Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện nền kinh tế thị

trường ở Việt Nam hiện nay. Những giải pháp mà luận văn đưa ra được dựa

trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận về pháp luật phòng, chống bạo lực

gia đình; đặc điểm, nội dung vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia

đình; thực trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, đồng thời

tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm một số tỉnh trong việc phòng, chống bạo lực

gia đình với mong muốn Vĩnh Phúc sẽ có những hành động kịp thời, cụ thể,

tích cực, phù hợp để nhanh chóng đẩy lùi tình trạng vi phạm pháp luật phòng,

chống bạo lực gia đình, góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng, chống bạo

lực gia đình, đấu tranh vì sự phát triển của xã hội.

Các giải pháp trên được nghiên cứu trong một chỉnh thể thống nhất, có

quan hệ chặt chẽ với nhau nên cần được tiến hành đồng bộ, nhằm tạo ra một

sức mạnh tổng hợp để kiên quyết đấu tranh và đẩy lùi các hành vi vi phạm

pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, tạo các bảo đảm cần thiết cho sự

phát triển lành mạnh của con người, làm động lực cho sự phát triển kinh tế -

xã hội của tỉnh.

84

KẾT LUẬN

Bạo lực gia đình đã gây ra tác hại vô cùng to lớn ảnh hưởng đến tình

hình kinh tế xã hội của đất nước. Khi bạo lực gia đình xẩy ra hậu quả thường

thấy là những tổn hại về sức khỏe kéo theo tổn hại tất yếu về kinh tế và cả

những hệ lụy trong mối quan hệ gia đình như gây ra những sang chấn tinh

thần cho nạn nhân và những người trong gia đình, những sang chấn này

thường khó hồi phục hơn những tổn thương trên thân thể, nhất là để lại những

dấu ấn khó phai trong tâm trí trẻ thơ, ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách

của con trẻ. Ở nhiều gia đình thế hệ con cháu đã lặp lại hành vi bạo lực mà

khi còn nhỏ chúng đã được chứng kiến. Rõ ràng bạo lực gia đình đang làm

xói mòn đạo đức, mất tính dân chủ xã hội và trở thành nguy cơ làm tan vỡ sự

bền vững của gia đình Việt Nam.

Bạo lực gia đình không còn là chuyện riêng của mỗi nhà, mà là trách

nhiệm của toàn xã hội. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong xã hội còn rất

nhiều gia đình có tình trạng bạo lực gia đình. Với sự quan tâm của Đảng và

Nhà nước ta hiện nay, bạo lực gia đình đã được luật hoá, do đó, hành vi bạo

hành gia đình bị coi là hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia

đình. Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình làm mất đi điều kiện

được cống hiến cho xã hội, được phát triển của mọi thành viên trong gia đình

đồng thời là lực cản đối với sự phát triển của xã hội. Chính vì vậy, hơn bao

giờ hết, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình cần được hạn chế và

triệt tiêu trong xã hội.

Trên cơ sở phân tích thực trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo

lực gia đình ở Vĩnh Phúc hiện nay, tìm ra những nguyên nhân dẫn đến thực

trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, luận văn bước đầu

đưa ra những giải pháp cụ thể góp phần vào việc phòng ngừa, hạn chế tiến tới

đẩy lùi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong xã hội. Điều

này có ý nghĩa rất lớn bởi vì Việt Nam hiện là thành viên của các Công ước

quốc tế và các Nghị định thư về quyền con người.

85

Trong bối cảnh hiện nay, khi bạo lực gia đình đang ồ ạt tấn công vào

từng vùng miền và đang len lỏi vào mỗi gia đình thì giường như mỗi cá nhân,

cả cộng đồng vẫn thờ ơ, bàng quan và khoanh tay đứng nhìn nó phát triển,

kéo theo các hành vi vi phạm pháp luật khác trong lĩnh vực phòng, chống bạo

lực gia đình. Đã đến lúc, cả xã hội phải góp sức, chung tay, đồng lòng triệt

tiêu hiện tượng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình để đảm bảo

quyền con người, quyền công dân, đem lại hạnh phúc cho con người, đồng

thời cũng là loại bỏ yếu tố là lực cản trên con đường công nghiệp hoá, hiện

đại hoá đất nước. Bên cạnh sự quan tâm, góp sức, chung tay, đồng lòng của cả

xã hội, Việt Nam cần có một hệ thống pháp luật về phòng, chống bạo lực gia

đình hoàn thiện, là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc bảo vệ con người, đem

lại trật tự và ổn định xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: "Vi phạm pháp

luật phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc hiện nay" có ý nghĩa lý luận

và thực tiễn vô cùng quan trọng đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi Việt

Nam đang tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện nền kinh tế thị

trường, thực hiện dân chủ hoá xã hội và hội nhập mọi mặt trong khu vực và

toàn cầu, xây dựng một xã hội văn minh, hiện đại, đem lại cuộc sống hạnh

phúc cho nhân dân. Luận văn đã phân tích, làm rõ những vấn đề cơ bản về lý

luận và thực tiễn về bạo lực gia đình, pháp luật phòng, chống bạo lực gia

đình, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình để từ đó đưa ra những

giải pháp nhằm phòng, chống vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia

đình đạt được hiệu quả cao hơn nữa; mong muốn đóng góp một chút hiểu biết

của mình vào công cuộc xây dựng đất nước, đem lại trật tự, ổn định xã hội.

86

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2005), Chỉ thị số 49/CT-TW ngày

21/12/2005 "vế xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại

hoá".

2. Báo điện tử Chính phủ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Văn kiện Đại hội đảng toàn quốc lần thứ XII.

3. Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình” của tác giả Nguyễn

Ngọc Điện;

4. Bộ chính trị, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về chiến lược

xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định

hướng đến năm 2020.

5. Bộ Tư pháp (2011), Thông tư số 07/2011/TT-BTP hướng dẫn bảo đảm

bình đẳng giới trong tổ chức cán bộ và hoạt động trợ giúp pháp lý

6. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch (2008), Kế hoạch hành động phòng,

chống bạo lực gia đình.

7. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch (2008), Quyết định 2879/QĐ-

BVHTTDL về việc triển khai mô hình can thiệp phòng, chống bạo lực gia đình

trên toàn quốc.

8. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch (2010), Thông tư 02/2010/TT-

BVHTTDL Quy định chi tiết về thủ tục đăng ký hoạt động, giải thể cơ sở hỗ

trợ nạn nhân bạo lực gia đình; cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia

đình; tiêu chuẩn của nhân viên tư vấn; cấp thẻ nhân viên tư vấn, chứng nhận

nghiệp vụ chăm sóc, tư vấn và tập huấn phòng, chống bạo lực gia đình

9. Bộ Y tế (2009), Thông tư số 16/2009/TT-BYT hướng dẫn việc tiếp

nhận, chăm sóc y tế và thống kê, báo cáo đối với người bệnh là nạn nhân bạo

lực gia đình tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

10. Chính phủ (2008), Chỉ thị số 16/2008/CT-TTg về hướng dẫn thi hành

Luật phòng, chống bạo lực gia đình.

87

11. Chính phủ (2008), Nghị định số 70/2008/NĐ-CP quy định chi tiết và

hướng dẫn thi hành một số điều Luật bình đẳng giới.

12. Chính phủ, Nghị định 08/2009/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng

dẫn thi hành một số điều của Luật phòng, chống bạo lực gia đình.

13. Chính phủ (2009), Nghị định số 55/2009/NĐ-CP quy định xử phạt vi

phạm hành chính về bình đẳng giới.

14. Chính phủ (2013), Nghị định số 167/2013/NĐ-CP Nghị định Quy

định xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội, phòng

chống tệ nạn xã hội, phòng cháy và chữa cháy, phòng, chống bạo lực gia

đình.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn

quốc lần thứ X , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn

quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn

quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Lê Lan Chi, Viện Nhà nước và Pháp luật, Bàn về ranh giới giữa xử lý hình

sự và xử lý hành chính các hành vi bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay.

19. Ngô Thị Hường, Đại học Luật Hà Nội, Bạo lực đối với phụ nữ và trẻ

em, thực trạng và nguyên nhân.

20. Nguyễn Thị Ngọc Bích, Đại học Luật Hà Nội, Trách nhiệm của các

cơ quan nhà nước trong việc phòng chống bạo lực gia đình.

21. Nguyễn Thế Hùng, Phó chủ nhiệm Ủy ban Dân số- Gia đình- Trẻ em

Hà Nội và PGS.TS. Nguyễn Trí Dũng, Phó Viện Trưởng Viện Xã hội học và

Tâm lý lãnh đạo, quản lý Học viện Chính trị Quốc gia HCM, Nhận thức và

thái độ của cộng đồng đối với BLGĐ, đề xuất giải pháp.

22. Nguyễn Thị Kim Phụng, Tổng quan về bạo lực và pháp luật phòng,

chống bạo lực đối với phụ nữ, trẻ em.

23. Phạm Văn Dũng, Nguyễn Đình Thơ, Tìm hiểu và thực hiện Luật

Phòng, chống bạo lực gia đình.

88

24. Phan Thị Lan Hương, Tính hợp lý, khả thi của một số biện pháp xử lý

vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình.

25. Quốc hội nước CHXHCHVN (2005), Bộ luật dân sự 2005, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

26. Quốc hội nước CHXHCHVN (2013), Hiến pháp nước cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt nam sửa đổi, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

27. Quốc hội nước CHXHCHVN (1999), Luật hình sự 1999, NXB Chính

trị Quốc gia, Hà Nội

28. Quốc hội nước CHXHCHVN (2007), Luật bình đẳng giới 2007,

NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

29. Quốc hội nước CHXHCHVN (2007), Luật phòng, chống bạo lực gia

đình 2007, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

30. Quốc hội nước CHXHCHVN (2014), Luật Hôn nhân và Gia đình,

NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

31. Quốc hội nước CHXHCHVN (2015), Luật tổ chức Chính phủ, Cổng

thông tin điện tử Bộ tư Pháp.

32. Quỹ Dân số LHQ, Báo cáo về bạo lực trên cơ sở giới ở Việt Nam.

33. Sở Văn hóa thể thao và du lịch Vĩnh Phúc, Báo cáo tổng kết tình

hình triển khai kế hoạch thi hành Luật phòng, chống bạo lực gia đình giai

đoạn 2008-2015.

34. Tài liệu thảo luận của Ngân hàng thế giới, Bạo lực đối với phụ nữ,

gánh nặng sức khoẻ tiềm ẩn.

35. Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc (2015), Báo cáo về tình hình xét xử

năm 2015.

36. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 2351/QĐ-TTg về việc phê duyệt

Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020.

37. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 1241/QĐ-TTg về việc phê duyệt

Chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2015;

38. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 629/QĐ-TTg về phê

duyệt chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030.

89

90

91

92

93