ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ _________________________
NGUYỄN ĐỨC QUỲNH
VIỆC LÀM Ở KHU VỰC NÔNG THÔN THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HÓA
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2012
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ _________________________
NGUYỄN ĐỨC QUỲNH
VIỆC LÀM Ở KHU VỰC NÔNG THÔN THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HÓA
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số : 60 31 01
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. PHÍ MẠNH HỒNG
HÀ NỘI - 2012
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1. VIỆC LÀM VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
1.1. Một số vấn đề chung về việc làm và giải quyết việc làm ..................................... 7
1.2. Tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến vấn đề việc
làm ở khu vực nông thôn ............................................................................ 12
1.2.1. Đặc điểm về lao động, việc làm ở nông thôn ........................................... 12
1.2.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tác động của nó đối với những
biến đổi về việc làm và vấn đề giải quyết việc làm cho người lao
động ở khu vực nông thôn .......................................................................... 18
1.2.3. Giải quyết việc làm và các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc
làm cho lao động nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ........................................................................................................ 23
1.3. Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn
một số tỉnh .................................................................................................. 29
1.3.1. Kinh nghiệm của tỉnh Vĩnh Phúc ............................................................. 29
1.3.2. Kinh nghiệm của tỉnh Đồng Nai .............................................................. 34
CHO LAO ĐỘNG Ở NÔNG THÔN ................................................... 7
Chương 2. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO
ĐỘNG Ở KHU VỰC NÔNG THÔN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
TRONG QUÁ TRÌNH ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng tới việc làm và giải quyết
việc làm cho người lao động ở nông thôn thành phố Hà Nội .................... 37
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, dân số lao động ......................................................... 37
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ......................................................................... 39
2.2. Thực trạng việc làm của người lao động ở khu vực nông thôn Thành
phố Hà Nội ................................................................................................. 43
2.2.1. Một số chính sách giải quyết việc làm cho người lao động của Hà
Nội .............................................................................................................. 43
HIỆN ĐẠI HÓA ................................................................................... 37
4
2.2.2. Quy mô và cơ cấu lao động ...................................................................... 44
2.2.3. Tình hình việc làm giai đoạn 2006 - 2010 ............................................... 50
2.2.4. Tình hình thất nghiệp, thiếu việc làm ...................................................... 53
2.3. Đánh giá chung về hoạt động giải quyết việc làm cho người lao động ở
nông thôn thành phố Hà Nội ...................................................................... 61
2.3.1. Những kết quả đạt được ........................................................................... 61
2.3.2. Những vấn đề đặt ra trong việc giải quyết việc làm ở nông thôn
Thành phố Hà Nội ...................................................................................... 73
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI ................................................................................................ 78
3.1. Bối cảnh phát triển mới và tác động của nó đến vấn đề giải quyết việc
làm ở nông thôn Thành phố Hà Nội ........................................................... 78
3.1.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa đang
tạo ra những cơ hội và thách thức mới với vấn đề việc làm và giải
quyết việc làm ............................................................................................ 78
3.1.2. Phát triển của Hà Nội có ý nghĩa với sự phát triển của cả nước .............. 80
3.2. Quan điểm giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn Thành
phố Hà Nội ................................................................................................. 81
3.2.1. Mở rộng cơ hội tạo việc làm cho người lao động .................................... 81
3.2.2. Phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế ................................ 83
3.2.3. Giải quyết việc làm trên cơ sở tăng trưởng kinh tế nhanh bền
vững ............................................................................................................ 84
3.3. Giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn ............ 86
3.3.1. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ................................................ 86
3.3.2. Nâng cao chất lượng nguồn lao động, phát triển giáo dục, tăng
cường công tác đào tạo nghề ...................................................................... 90
3.3.3. Phát triển đa dạng hóa các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh,
tạo việc làm cho người lao động nông thôn trên cơ sở nâng cao thu
5
nhập ............................................................................................................ 98
3.3.4. Tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn qua xuất khẩu lao
động .......................................................................................................... 103
3.3.5. Nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống dịch vụ việc làm ............ 105
3.3.6. Hoàn thiện các pháp luật chính sách về lao động việc làm, xây
dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực nông thôn ............................ 107
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 115
6
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CN : Công nghiệp
CNH : Công nghiệp hóa
CNXH : Chủ nghĩa xã hôi
ĐTH : Đô thị hóa
HĐH : Hiện đại hóa
KCN : Khu công nghiệp
KCX : Khu chế xuất
KĐT : Khu đô thị
TTCN : Tiểu thủ công nghiệp
TCN : Thủ công nghiệp
TBCN : Tư bản chủ nghĩa
UBND : Uỷ ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề việc làm luôn là một trong những vấn đề được quan tâm hàng
đầu trong các quyết sách phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia để hướng
tới sự phát triển bền vững. Có việc làm vừa giúp bản thân người lao động có
thu nhập, cải thiện điều kiện sống, là cơ sở lành mạnh hoá các quan hệ xã hội.
Trên bình diện quốc gia, tạo ra việc làm đầy đủ là cơ sở để đất nước khai thác
hiệu quả các nguồn lực của mình và nền kinh tế đạt đến sản lượng tiềm năng.
Ở nước ta, theo tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân số nông
thôn Việt Nam là 60.451.311 người trong tổng số 85.787.573 dân số cả nước
(chiếm 70,3%). Số người trong độ tuổi lao động trong cả nước là 43,8 triệu
người, chiếm 51,1% dân số, trong đó thành thị có 11,9 triệu người, nông thôn
có 31,9 triệu người và hơn 90% dân số nghèo của cả nước đang sống ở nông
thôn. Lao động ở nông thôn hiện nay chiếm tới 3/4 lao động của cả nước, tập
trung chủ yếu trong ngành nông nghiệp, nơi năng suất lao động thấp và cũng
là nơi quỹ đất canh tác đang ngày càng bị thu hẹp do quá trình đô thị hóa và
công nghiệp hóa. Vì thế, trong nhiệm vụ giải quyết việc làm tổng thể chung,
giải quyết việc làm cho lao động ở khu vực nông thôn giữ vai trò trọng yếu,
nhất là trong bối cảnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa
đang được đẩy mạnh như ở nước ta hiện nay.
Hà Nội là trung tâm về chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật
của cả nước nên việc phát triển của Hà Nội về mọi mặt có ý nghĩa vô cùng
quan trọng không chỉ với riêng Thủ đô. Sự phát triển nhanh, bền vững của Hà
Nội có quan hệ mật thiết với sự phát triển chung của cả vùng đồng bằng Sông
Hồng cũng như của cả nước, có tác động không nhỏ đến tiến trình phát triển
chung. Giải quyết và bảo đảm ngày càng đầy đủ việc làm cho người lao động
với tư cách là một kênh quan trọng nhất để nâng cao thu nhập, cải thiện đời
8
sống của đông đảo người dân không thể không là một nội dung đáng được ưu
tiên trong định hướng phát triển bền vững của Hà Nội.
Lao động ở nông thôn Hà Nội hiện đang chiếm số lượng lớn trong cơ
cấu dân số và lao động thủ đô. Phần lớn số lao động này đang tham gia vào
các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong các ngành nghề ở nông thôn với các
công cụ, phương pháp sản xuất tương đối lạc hậu, năng suất lao động thấp.
Yêu cầu đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn gắn
với sản xuất hàng hóa lớn theo hướng công nghiệp hiện đại ở Hà Nội, đang tỏ
ra mâu thuẫn với hiện trạng trong lĩnh vực lao động - việc làm của Thành
phố: trình độ của lực lượng lao động nông thôn thấp, số lao động chưa được
đào tạo chiếm tỷ lệ cao; lao động làm việc trong lĩnh vực công nghiệp và dịch
vụ chiếm tỷ trọng nhỏ; ý thức kỷ luật của người lao động còn chưa cao. Công
nghiệp hóa, đô thị hóa, bên cạnh những tác động tích cực chung của nó, cũng
đang tạo ra những khó khăn to lớn cho những người nông dân mất đất nông
nghiệp, khi đa số họ lâu đời nay chỉ quen với nghề nông, và cuộc sống ở nông
thôn, chưa có sự chuẩn bị cần thiết cho một cuộc sống "phi nông nghiệp, phi
đất đai". Đây đang và sẽ là vấn đề nhức nhối tác động lên vấn đề giải quyết
việc làm của Hà Nội. Ngoài ra, công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng đang đặt
ra những đòi hỏi rất lớn từ phía người lao động như: chỉ có nâng cao trình độ
nhận thức, kiến thức chuyên môn nghề nghiệp, có thể tiếp thu và vận dụng
những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại vào sản
xuất, người lao động mới có cơ hội tìm được việc làm. Quá trình này chỉ có
thể thực hiện thành công khi một mặt, người lao động ý thức được đầy đủ
những đòi hỏi đang đặt ra trước mắt cần phải vượt qua; mặt khác, họ nhận
được sự trợ giúp thích đáng của Nhà nước dưới các hình thức thích hợp trong
quá trình chuyển đổi.
Ngoài ra, giải quyết việc làm đối với lao động nông thôn Hà Nội không
chỉ là vấn đề kinh tế - xã hội nóng bỏng của bản thân khu vực nông thôn. Tình
9
trạng thiếu việc làm ở nông thôn đã đẩy một bộ phận không nhỏ lao động
nông thôn di cư ra Thành phố kiếm sống. Điều này dẫn đến sự mất cân đối
cung - cầu lao động trong một số ngành nghề ở nông thôn, cùng với đó nó
cũng làm nảy sinh một loạt vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp khác ở Thủ đô.
Những khía cạnh trên cho thấy giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn Hà Nội rõ ràng đang nổi lên như một vấn đề kinh tế - xã hội bức thiết. Vì
vậy: “Việc làm ở khu vực nông thôn Thành phố Hà Nội trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hóa” được học viên lựa chọn để nghiên cứu làm luận
văn tốt nghiệp Thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Cho đến nay có nhiều công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến
vấn đề việc làm và thu nhập của người lao động được công bố ở trong và
ngoài nước.
- Thị trường lao động: Thực trạng và giải pháp của PGS Nguyễn
Quang Hiền, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 1995;
- Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam của PTS Nguyễn Hữu
Dũng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997;
- Thị trường lao động ở Việt Nam: Định hướng và phát triển của Thạc
sỹ Nguyễn Thị Lan Hương, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2002;
- Mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng lao động với giải quyết việc
làm trong quá trình CNH, HĐH đất nước: Đề tài khoa học cấp Bộ do PGS,
TS Trần Văn Chử làm chủ biên, Hà Nội, 2001.
Các công trình trên đã quan tâm đến vấn đề việc làm và thất nghiệp, coi
đó là một vấn đề có tính toàn cầu; đã đưa ra cách tiếp cận về chính sách việc
làm, hệ thống hoá những khái niệm lao động, việc làm, thu nhập; đánh giá
thực trạng vấn đề việc làm ở Việt Nam nói chung; đề xuất quan điểm và
phương hướng giải quyết vấn đề việc làm và khuyến nghị, định hướng một số
chính sách cụ thể về việc làm trong quá trình CNH, HĐH đất nước.
10
Bên cạnh những công trình nghiên cứu mang tính chuyên khảo, cũng
đã có nhiều bài báo công bố trên các tạp chí về đề tài việc làm và thu nhập
của người dân nông thôn nước ta như:
- "Giải quyết việc làm ở nông thôn và những vấn đề đặt ra", của PGS,
TS Nguyễn Sinh Cúc, đăng trên tạp chí Con số và sự kiện, số 8, năm 2003;
- "Giải quyết vấn đề lao động và việc làm trong quá trình đô thị hoá,
công nghiệp hoá nông thôn” của Nguyễn Hữu Dũng, đăng trên tạp chí Lao
động - Xã hội, số 247, năm 2004;
- "Vấn đề việc làm cho lao động nông thôn", bài viết của GS, TSKH Lê
Đình Thắng, đăng trên tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 3/2002;
- "Thực trạng lao động, việc làm ở nông thôn và một số giải pháp cho
giai đoạn 2001-2005", của Bùi Văn Quán, trên Tạp chí Lao động - Xã hội, số
chuyên đề 3, năm 2001;
- "Việc làm cho người nông dân hết đất sản xuất, quy hoạch lại nguồn
lao động", của Nguyễn Văn Nam, đăng trên Thời báo Kinh tế Việt Nam,
19/8/2005;
- "Chất lượng lao động nông thôn thấp” của tác giả Huyền Ngân, trên
Thời báo kinh tế Việt Nam số ra ngày 23/3/2005.
- Đẩy mạnh xuất khẩu lao động tại chỗ - hướng giải quyết việc làm
quan trọng trong hội nhập của của TS Bùi Thị Lý - Đại học Ngoại thương Hà
Nội, đăng trên Tạp chí Cộng sản số 801, 7/2009.
Ngoài ra, còn có một số luận văn thạc sĩ viết vấn đề việc làm ở một số
tỉnh như Hưng Yên, Thái Bình, Kiên Giang, Hải Dương… với những cách
tiếp cận khác nhau, trong đó có cả tiếp cận dưới góc độ kinh tế chính trị.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn
đề việc làm của người lao động nông thôn Thành phố Hà Nội nhất là từ sau
khi Hà Nội được mở rộng về mặt địa giới trong quá trình công nghiệp hóa,
11
hiện đại hóa. Vì thế, việc nghiên cứu vấn đề này nhằm đưa ra những giải pháp
cần thiết là một công việc có ý nghĩa.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn nhằm làm rõ thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho
lao động nông thôn Thành phố Hà Nội trong quá trình CNH, HĐH. Trên cơ
sở đó đề xuất những giải pháp thích hợp nhằm tạo nhiều việc làm cho lực
lượng lao động này.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hóa đến việc làm của
người lao động ở nông thôn; sự cần thiết phải giải quyết việc làm cho người
lao động ở nông thôn. những nhân tố ảnh hưởng đến việc làm ở nông thôn.
- Phân tích kinh nghiệm của một số địa phương trong việc giải quyết
vấn đề việc làm trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Phân tích thực trạng việc làm và giải quyết việc làm ở nông thôn Hà
Nội từ năm 2001 đến nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm giải quyết vấn đề việc làm cho lao động
nông thôn ở Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề việc làm của người lao động
ở nông thôn Hà Nội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu vấn đề việc làm ở các huyện ngoại thành của Hà
Nội trong thời gian từ năm 2001 đến nay.
12
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên nền tảng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn
còn chú trọng sử dụng các phương pháp cụ thể như: trừu tượng hóa khoa học,
hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh để làm sáng tỏ vấn đề.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho
người lao động ở nông thôn Thành phố Hà Nội trong bối cảnh của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chỉ ra được những vấn đề cần phải giải quyết.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho người
lao động ở nông thôn Hà Nội trong điều kiện đẩy nhanh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương, 9 tiết:
Chương 1: Việc làm và thực tiễn giải quyết việc làm cho lao động ở
nông thôn.
Chương 2: Thực trạng giải quyết việc làm cho lao động ở khu vực
nông thôn Thành phố Hà Nội trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm
ở nông thôn Thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
13
Chương 1
VIỆC LÀM VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO LAO ĐỘNG Ở NÔNG THÔN
1.1. Một số vấn đề chung về việc làm và giải quyết việc làm
* Khái niệm việc làm
Hoạt động lao động sản xuất là hoạt động gắn liền với con người và xã
hội loài người. Trong sự phát triển của mình, con người đã biết lợi dụng thế
giới tự nhiên để sản xuất ra những sản phẩm cần thiết nhằm phục vụ cho nhu
cầu của bản thân mình. Khi xã hội phát triển, những hoạt động sản xuất nói
chung ấy được phân chia thành những ngành nghề cụ thể khác nhau và người
lao động đã được phân chia vào làm việc trong những lĩnh vực phù hợp với sở
trường và thế mạnh của mình. Mỗi cá nhân tham gia lao động với những công
việc cụ thể nhằm tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân và đóng góp cho xã hội.
Việc làm được thể hiện trước hết trong các hoạt động lao động sản xuất
ở mỗi người lao động. Nếu lao động là hoạt động nói chung của xã hội, phản
ánh bản chất của con người thì việc làm là hoạt động cụ thể của mỗi người lao
động tham gia vào trong quá trình lao động nói chung ấy.
Ở Việt Nam, trước đây, trong cơ chế cũ, việc làm cho người lao động
được nhà nước sắp xếp với chế độ biên chế làm việc suốt đời. Người lao động
có việc làm được xã hội coi trọng được thừa nhận là những người làm việc
trong các cơ quan hành chính sự nghiệp của Nhà nước, các đơn vị kinh tế
quốc doanh. Với quan niệm nhà nước có trách nhiệm bố trí việc làm cho
người lao động và đảm bảo mức thu nhập giúp duy trì đời sống của họ, nên xã
hội không thừa nhận hiện tượng thất nghiệp, thiếu việc làm, hay việc làm
không đầy đủ. Quan niệm đó tạo ra tâm lý ỷ lại vào nhà nước ở người lao
động khi họ cần việc làm.
14
Khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quan
niệm trên về việc làm đã thay đổi. Quan điểm mới về việc làm được thể hiện
ở Luật lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi bổ
sung năm 2002. Điều 13, Chương 2 (việc làm) của Luật quy định: "Mọi hoạt
động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa
nhận là việc làm”.
Như vậy, việc làm là những hoạt động lao động sản xuất trong tất cả các
lĩnh vực cùa đời sống xã hội mang lại thu nhập cho người lao động mà không
bị pháp luật ngăn cấm.
Quan niệm trên về việc làm hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã
hội ở Việt Nam hiện nay. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa người lao động có thể làm bất cứ việc gì, ở bất cứ đâu miễn là không vi
phạm pháp luật để mang lại thu nhập cao hơn cho bản thân. Quan niệm trên
đã mở ra một hướng mới cho vấn đề giải quyết việc làm, tạo ra một thị trường
việc làm phong phú và đa dạng, thu hút nhiều lao động, thực hiện mục tiêu
giải phóng triệt để sức lao động và tiềm năng toàn xã hội.
Nghiên cứu việc làm cho người lao động trong một quốc gia, một địa
phương và trong một thời kỳ nhất định người ta phải quan tâm đến vấn đề
việc làm đầy đủ và thiếu việc làm.
Thiếu việc làm là tình trạng người lao động không có đủ việc làm theo
thời gian quy định trong tuần, trong tháng hoặc là làm những công việc có thu
nhập quá thấp không đảm bảo cuộc sống nên có nhu cầu tìm việc làm để tăng
thu nhập.
Thực tiễn giải quyết việc làm là phải tạo ra việc làm đầy đủ cho người
lao động và cao hơn nữa phải tạo ra việc làm được tự do lựa chọn để thực
hiện giải phóng triệt để sức lao động.
Việc làm được tự do lựa chọn là sự đáp ứng tối ưu nhất nhu cầu về việc
làm cho người lao động. Nó không những đưa lại thu nhập cao cho người lao
15
động mà còn đưa lại năng suất lao động cao cho xã hội. Việc làm được tự do
lựa chọn là sự kết hợp tối ưu sức lao động với các yếu tố khác của sản xuất.
Người lao động có thể lựa chọn công việc phù hợp với nhu cầu vật chất cũng
như năng lực sở trường để vừa đảm bảo thu nhập vừa có điều kiện làm phong
phú đời sống tinh thần.
* Khái niệm thất nghiệp
Thực hiện việc làm đầy đủ tiến tới việc làm được lựa chọn cho người
lao động là một quá trình phát triển lâu dài. Trong nền kinh tế thị trường tất
yếu tồn tại vấn đề thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp là một trong các chỉ tiêu để
đánh giá tình trạng của một nền kinh tế.
Người thất nghiệp là người thuộc lực lượng lao động hay dân số hoạt động
kinh tế có khả năng làm việc, song hiện đang chưa có việc làm, đồng thời đang
mong muốn và đi tìm việc làm.
Với cách hiểu như trên, không phải bất kỳ ai có sức lao động nhưng
chưa làm việc đều được coi là thất nghiệp. Do đó một tiêu thức quan trọng để
xem xét một người được coi là thất nghiệp thì phải biết được người đó có
muốn đi làm hay không. Bởi lẽ, trên thực tế nhiều người có sức khoẻ, có nghề
nghiệp song không có nhu cầu làm việc; họ sống chủ yếu dựa vào “nguồn dự
trữ” như kế thừa của bố mẹ, nguồn tài trợ. Trong trường hợp này họ nằm
ngoài lực lượng lao động.
Như vậy, lực lượng lao động bao gồm những người có việc làm cộng
với những người thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp chính là tỷ lệ những người thất
nghiệp trong tổng số những người nằm trong lực lượng lao động.
Những người thất nghiệp
Tỷ lệ thất nghiệp (a) =
lực lượng lao động Những người thất nghiệp = Số người có việc làm + Số người thất nghiệp
16
* Phân loại thất nghiệp.
- Xét về nguồn gốc thất nghiệp có thể chia thành:
Thất nghiệp tạm thời: Là loại thất nghiệp phát sinh do sự di chuyển
không ngừng của ngành lao động giữa các vùng, giữa các loại công việc hoặc
giữa các giai đoạn khác nhau của cuộc sống.
Thất nghiệp cơ cấu: Là loại thất nghiệp xảy ra khi có sự mất cân đối
giữa cầu - cung lao động trong một ngành hoặc một vùng nào đó.
Thất nghiệp chu kỳ: Là loại thất nghiệp xảy ra do giảm sút giá trị
tổng sản lượng của nền kinh tế gắn liền với chu kỳ kinh tế. Trong giai đoạn
suy thoái của chu kỳ kinh doanh, tổng giá trị sản xuất giảm dần, hầu hết
các nhà sản xuất giảm sản lượng cầu đối với các đầu vào, trong đó có lao
động. Đối với loại thất nghiệp này, những chính sách nhằm khuyến khích
tăng cầu thường mang lại kết quả tích cực.
- Xét về tính chủ động của người lao động, thất nghiệp có thể chia thành:
Thất nghiệp tự nguyện: Là loại thất nghiệp mà ở mức tiền công thị
trường nào đó người lao động vẫn không muốn làm việc. Thất nghiệp loại này
thường gắn với thất nghiệp tạm thời.
Thất nghiệp không tự nguyện: Là loại thất nghiệp mà ở mức tiền công
thị trường nào đó người lao động chấp nhận nhưng vẫn không tìm được việc
làm do kinh tế suy thoái, cung lớn hơn cầu về lao động.
Ngoài thất nghiệp hữu hình (thất nghiệp tự nguyện và không tự
nguyện) còn tồn tại thất nghiệp trá hình:
Thất nghiệp trá hình: Là hiện tượng xuất hiện khi người lao động được
sử dụng ở dưới mức khả năng mà bình thường người lao động sẵn sàng làm
việc. Hiện tượng này xảy ra khi năng suất lao động của một ngành nào đó thấp.
Thất nghiệp loại này thường gắn với việc sử dụng không hết thời gian lao động.
Xét theo cơ cấu của những người thất nghiệp có thể chia thành:
Thất nghiệp theo giới tính: Là loại thất nghiệp của lao động nam (hoặc nữ).
17
Thất nghiệp chia theo lứa tuổi: Là loại thất nghiệp của một lứa tuổi nào
đó trong tổng số lực lượng lao động.
Thất nghiệp chia theo vùng lãnh thổ: Là hiện tượng thất nghiệp xảy ra
thuộc vùng lãnh thổ (thành thị, nông thôn, đồng bằng, miền núi..).
Thất nghiệp chia theo ngành nghề: Là loại thất nghiệp xảy ra ở một
ngành nghề nào đó.
Ngoài các loại thất nghiệp nêu trên, người ta có thể chia thất nghiệp
theo dân tộc, chủng tộc, tôn giáo...
* Khái niệm thiếu việc làm:
Theo một số chuyên gia về chính sách lao động việc làm thì: Người
thiếu việc làm là những người đang làm việc có mức thu nhập dưới mức
lương tối thiểu và họ có nhu cầu làm thêm.
Từ khái niệm người thiếu việc làm trên có thể hiểu như sau: Người
thiếu việc làm là người lao động đang có việc làm nhưng họ làm việc không
hết thời gian theo pháp luật quy định hoặc làm những công việc mà tiền lương
thấp không đáp ứng đủ nhu cầu của cuộc sống, họ muốn tìm thêm việc làm để
bổ sung thu nhập.
ILO cũng khuyến nghị các nước dùng khái niệm người thiếu việc
làm hữu hình (dạng nhìn thấy được) và dạng người thiếu việc làm vô hình
(khó xác định).
Thiếu việc làm hữu hình: Là khái niệm để chỉ hiện tượng người lao
động làm việc có thời gian ít hơn thường lệ, họ không đủ việc làm đang tìm
kiếm thêm việc làm và sẵn sàng để làm việc.
Tình trạng việc làm hữu hình được biểu thị bởi hàm số sử dụng thời
gian lao động như sau:
Số giờ làm việc thực tế K = x 100% Số giờ quy định
(Tính theo ngày, tháng, năm)
18
Thiếu việc làm vô hình: Là những người có đủ việc làm, làm đủ thời
gian thậm chí nhiều thời gian hơn mức bình thường nhưng thu nhập thấp.
Nguyên nhân của tình trạng này là do tay nghề hoặc kỹ năng của người lao
động thấp không sử dụng hết khả năng hiện có hoặc do điều kiện lao động tồi,
tổ chức lao động kém. Thước đo khái niệm thiếu việc làm vô hình là mức thu
nhập thấp hơn mức lương tối thiểu.
1.2. Tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến vấn
đề việc làm ở khu vực nông thôn
1.2.1. Đặc điểm về lao động, việc làm ở nông thôn
* Đặc điểm của việc làm ở nông thôn
Nông thôn là nơi sinh sống của một bộ phận dân cư chủ yếu làm việc
trong lĩnh vực nông nghiệp. Có nhiều loại việc làm diễn ra ở nông thôn, phản
ánh tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội ở nông thôn. Nhưng việc
làm của người lao động ở nông thôn lại gắn với đặc điểm của lực lượng lao
động ở đây, với điều kiện tự nhiên nơi họ sinh sống.
Việc làm của người lao động ở nông thôn gắn liền với môi trường, điều
kiện sinh sống và làm việc của người lao động. Và chính môi trường, điều
kiện đó đã ảnh hưởng đến việc làm của họ. Nguồn lao động nông thôn thường
làm việc trong các ngành nông - lâm - thủy sản, những loại việc làm có thể
khai thác tài nguyên tự nhiên phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, có thể nói lao động trồng trọt và chăn nuôi là việc làm chính
của người lao động ở nông thôn. Thế mạnh của lĩnh vực này là người lao
động được kế thừa kinh nghiệm sản xuất của ông cha để lại. Người lao động ở
nông thôn lớn lên theo cha mẹ ra đồng làm việc nên họ thường quan niệm
rằng không cần phải qua trường lớp đào tạo. Kiến thức nghề nông được tích
lũy dần trong quá trình người lao động tham gia sản xuất với tư cách là người
lao động phụ của gia đình. Bên cạnh đó loại công việc này còn nhiều hạn chế.
19
Thứ nhất, sản xuất bị chi phối trực tiếp bởi các quy luật của tự nhiên
như: gió mưa năng, nhiệt độ, thổ nhưỡng... dẫn đến năng suất và hiệu quả
công việc thấp.
Thứ hai, sản xuất theo mùa vụ, năm này theo năm khác, lặp đi lặp lại
nên người lao động chỉ làm việc theo kinh nghiệm, ít cải tiến sáng tạo. Quá
trình đó cứ diễn ra thường xuyên qua nhiều năm làm cho tiến trình phát triển
kinh tế xã hội ở nông thôn diễn ra một cách chậm chạp.
Thứ ba, loại công việc này có tính chất mùa vụ nên lao động ở nông
thôn sẽ thiếu việc làm trong những lúc nông nhàn. Mặt khác, cùng với quá
trình đô thị hóa đất nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng làm cho
người nông dân bị mất tư liệu sản xuất và với trình độ học vấn tay nghề thấp
họ sẽ gặp khó khăn trong tìm kiếm việc làm và phải làm những công việc
nặng nhọc với mức lương thấp… Như vậy, trong quá trình CNH, HĐH, người
lao động làm việc trong lĩnh vực thuần nông là những người có nguy cơ bị
thiếu việc làm và bị thất nghiệp cao nhất.
Cùng với sự hình thành và phát triển của cơ chế thị trường, các loại
ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn phát triển đã tạo nên sự phong phú,
đa dạng về việc làm cho người lao động ở đây. Trong quá trình này có nhiều
loại hình công việc ngoài nông nghiệp ra đời và phát triển. Bên cạnh sự phát
triển của các loại nghề thường có trong các xã hội truyền thống như sản xuất
đồ gỗ, gốm sứ, thêu ren, đồ thủ công mỹ nghệ, nhiều ngành nghề chế biến
nông lâm thủy sản mới xuất hiện như: sấy thóc, sơ chế và chế biến thực phẩm,
chế biến rau quả, thủy sản. Hoạt động gia công cơ khí xuất hiện phục vụ sửa
chữa đồ gia dụng, nông cụ, sửa chữa máy móc nông nghiệp. Đặc biệt cùng
với sự phát triển của kinh tế hàng hóa các hoạt động dịch vụ ở nông thôn cũng
phát triển mạnh mẽ. Nhiều loại hình dịch vụ phục vụ đời sống trước đây chỉ
có ở thành thị nay đã có ở nông thôn như dịch vụ cung cấp nước sạch…
Nhiều việc làm trước đây bị xã hội coi rẻ và cấm đoán như: giúp việc gia
20
đình, chạy chợ… thì nay được coi như một nghề. Tất cả những biến đổi đó đã
tạo ra nhiều loại hình việc làm phong phú, góp phần đa dạng hóa thị trường
việc làm cho người lao động ở nông thôn.
Việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn có vai trò tích cực trong phát
triển kinh tế xã hội ở nông thôn.
- Phát triển ngành nghề ngoài việc đem lại việc làm ổn định thường
xuyên cho người lao động trong lĩnh vực đó, còn có khả năng thu hút thêm
lao động nhàn rỗi ở nông thôn. Ngoài ra sự phát triển của nó lại nảy sinh
những ngành nghề mới, những hoạt động dịch vụ liên quan tạo thêm nhiều
việc làm mới cho người lao động.
- Loại việc làm này thường đưa lại việc làm ổn định và thu nhập cao
hơn cho người lao động. Ở Việt Nam hiện nay, thu nhập của các hộ chuyên
ngành nghề ở nông thôn thường cao hơn khoảng 4 lần so với thu nhập bình
quân của hộ lao động nông nghiệp thuần nông. Điều đó làm gia tăng tỷ lệ hộ
giàu, tăng tích lũy, tạo điều kiện cho nâng cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng, cải
thiện đời sống cho người lao động ở nông thôn.
- Việc làm phi nông nghiệp có vai trò to lớn thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng CNH, HĐH.
Các ngành nghề ở nông thôn sử dụng nông sản hàng hóa làm nguyên
liệu đã hình thành nên hệ thống dịch vụ đầu vào, đầu ra, đưa lại giá trị gia tăng
cho sản phẩm nông nghiệp. Mặt khác, do yêu cầu của công việc, người lao
động làm việc trong các ngành nghề ít nhiều phải có tay nghề và đòi hỏi phải
có tay nghề ngày càng cao. Điều đó bắt buộc người lao động phải không ngừng
học tập, rèn luyện giúp nâng cao chất lượng nguồn lao động ở nông thôn.
Việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn hiện nay đang phát triển phong
phú đa dạng. Tuy nhiên sự phát triển của loại việc làm này cũng gặp khó khăn
do hạn chế về trình độ tay nghề của người lao động, về công nghệ cũng như
về giới hạn khả năng quản lý của chủ hộ sản xuất kinh doanh, về nguồn vốn
21
cũng như phong tục tập quán. Người dân có nghề phi nông nghiệp vẫn chưa
mạnh dạn bỏ ruộng đất tập trung sản xuất ngành nghề.
Tóm lại, mặc dù có nhiều khó khăn trong phát triển ngành nghề ở nông
thôn, nhưng so với việc làm thuần nông thì sự phát triển gia tăng của việc làm
phi nông nghiệp trong quá trình CNH, HĐH sẽ dần chiếm ưu thế. Bởi vì so
với lĩnh vực thuần nông, lĩnh vực phi nông nghiệp ở nông thôn ít gặp những
giới hạn của tự nhiên, ngược lại nó còn được thúc đẩy mạnh mẽ bởi sự phát
triển của quá trình CNH, HĐH. Nếu như việc làm thuần nông ngày càng bị
thu hẹp thì việc làm phi nông nghiệp đang trong xu thế phát triển mở rộng do
chính sự phát triển của một nền nông nghiệp hàng hóa đưa lại. Điều đó tạo ra
thị trường rộng lớn cho sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế công, nông
nghiệp, dịch vụ với cơ cấu lao động tiến bộ ở nông thôn.
* Đặc điểm của lực lượng lao động ở nông thôn
Lực lượng lao động ở nông thôn là một bộ phận của lực lượng lao động
cả nước sinh sống và làm việc tại khu vực nông thôn. Cũng như lực lượng lao
động chung của cả nước, lực lượng lao động ở nông thôn (hay còn gọi là dân
số hoạt động kinh tế) ở nông thôn là bộ phận dân số có độ tuổi từ 15 tuổi trở
lên có việc làm hay không có việc làm đang tìm kiếm việc làm.
Lực lượng lao động ở nông thôn thường có những đặc điểm sau:
Một là, lực lượng lao động nông thôn ở đa số các nước kém phát triển
thường chiếm tỷ trọng lớn trong lực lượng lao động cả nước và tăng với quy
mô lớn so với lực lượng lao động ở thành thị. Ví dụ ở nước ta, theo số liệu của
Tổng cục Thống kê, dân số năm 2009 là 86.024.600 người, đứng thứ 12 trên
thế giới, trong đó nông dân chiếm tỷ lệ 71% dân số với 42.215.358 người [47,
tr.35-36]. Lực lượng lao động ở nông thôn hiện nay chủ yếu làm việc trong các
ngành nông - lâm - ngư nghiệp, một bộ phận không nhiều hoạt động trong lĩnh
vực du lịch, tiểu thủ công nghiệp. Thời gian lao động trung bình ở nông thôn
hiện nay mới chỉ chiếm khoảng 65 - 70%, còn lại là thời gian nông nhàn [7,
22
tr.21], trong khi sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đang điễn ra mạnh mẽ đòi hỏi
phải giảm bớt lao động nông nghiệp để chuyển sang công nghiệp, dịch vụ.
Như vậy, lực lượng lao động hiện nay ở nước ta phần lớn là ở nông
thôn và hàng năm khu vực này lại được tiếp nhận một lực lượng lao động trẻ,
có sức khỏe và trình độ văn hóa, rất dễ dàng trong việc tiếp thu ứng dụng
khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế khu
vực nông thôn, là nguồn lực to lớn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn.
Tuy nhiên, lực lượng lao động nông thôn gia tăng sẽ tạo sức ép việc
làm to lớn ở khu vực nông thôn. Bởi vì lực lượng lao động tăng lên trong khi
đất canh tác lại giảm dần do quá trình đô thị hóa dẫn đến diện tích trên đầu
người giảm, thời gian sử dụng ngày công trong nông nghiệp thấp, người lao
động phải làm những công việc có thu nhập thấp, gây ra tình trạng thiếu việc
làm ở nông thôn.
Hai là, trong quá trình CNH, HĐH lực lượng lao động ở nông thôn có
xu hướng chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp
tăng tỷ trong các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Ví dụ ở nước ta, trên phạm vi cả nước từ 2005 đến 2009, tỷ trọng lao
động làm việc trong khu vực I (nông - lâm - thủy sản) giảm từ 57,1% năm
2005 xuống còn 51,9% năm 2009, bình quân hàng năm giảm gần 1,3%. Tỷ
trọng lao động làm việc trong khu vực II (công nghiệp) tăng từ 18,2% năm
2005 lên 21,4% năm 2009, bình quân hàng năm tăng 0,8%. Tỷ trọng lao động
làm việc trong khu vực III (dịch vụ) tăng từ 24,7% năm 2005 lên 26,5% năm
2009 bình quân hàng năm tăng 0,45% [47, tr.34]. Lao động ở nông thôn cũng
không nằm ngoài xu hướng vận động chung đó. Đặc biệt từ khi thực hiện chủ
trương giao đất, giao rừng, người lao động ở nông thôn đã có sự độc lập tự
chủ trong sản xuất kinh doanh. Kinh tế nông thôn đã có sự chuyển hướng từ
thuần nông, tự túc tự cấp sang kinh tế hàng hóa, với sự xuất hiện đa dạng
23
nhiều ngành nghề. Ngoài trồng trọt, chăn nuôi, người lao động có thể làm việc
trong các ngành nghề khác tại các xí nghiệp vừa và nhỏ tại các địa phương.
Dưới tác động của quá trình CNH, HĐH, quá trình chuyển dịch cơ cấu
lao động trên càng được thúc đẩy nhanh chóng. Việc ứng dụng khoa học công
nghệ vào sản xuất, một mặt đã tạo ra nhiều ngành nghề mới ở địa phương,
kéo theo sự xuất hiện của nhiều loại hình dịch vụ có khả năng thu hút lao
động lớn. Mặt khác, do ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, năng suất
lao động sẽ không ngừng được tăng lên. Vai trò quan trọng của nông thôn là
cung cấp lương thực, thực phẩm cho toàn dân, cung cấp nguyên vật liệu cho
công nghiệp ngày càng được đảm bảo, cho phép giải phóng lao động nông
nghiệp sang làm các ngành nghề khác. Như vậy, song song với quá trình rút
lao động ra khỏi sản xuất nông nghiệp cũng đồng thời diễn ra quá trình thu
hút lao động ở nông thôn vào các ngành công nghiệp và dịch vụ. Đó là xu
hướng vận động phù hợp với xu hướng phát triển tiến bộ nhưng yêu cầu đặt ra
là phải chuẩn bị lực lượng lao động ở nông thôn đáp ứng được yêu cầu của
lao động ngành nghề, tạo ra sự đồng bộ giữa kỹ năng, trình độ người lao động
với cơ hội việc làm.
Ba là, lực lượng lao động ở nông thôn, bên cạnh các đặc tính phù hợp
với sự phát triển, cũng còn nhiều mặt hạn chế.
- Lực lượng lao động nông thôn thường phân bố không hợp lý giữa các
vùng, các ngành. Đối với những nước mà ngành nông nghiệp chủ yếu thiên về
trồng trọt, phần lớn lực lượng lao động tập trung ở những nơi có điều kiện tự
nhiên thuận lợi cho việc cấy trồng như các vùng đồng bằng khiến cho những
vùng này rơi vào tình trạng đất chật người đông, thiếu việc làm trong khi đó
vùng rừng núi có diện tích đất đai rộng lớn nhưng dân cư thưa thớt, không đủ
lao động để phát triển kinh tế - xã hội.
- Lực lượng lao động ở nông thôn thường hạn chế về sức khỏe, thể lực.
Do sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào tự nhiên có năng suất thấp, bấp
24
bênh nên thu nhập của người lao động thấp hơn thu nhập của người lao động ở
thành thị. Hơn nữa, do hạn chế nhiều mặt về thông tin, thiếu hiểu biết về chế độ
dinh dưỡng cho cuộc sống nên người lao động ở nông thôn không có điều kiện
để nâng cao chất lượng cuộc sống. Cho nên, thể lực, tầm vóc và tuổi thọ trung
bình của người lao động ở nông thôn thường thấp hơn người lao động ở thành
thị. Khu vực nông thôn cũng chưa được tạo điều kiện để nâng cao các yếu tố
khác của chất lượng nguồn lao động như văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ cũng
như nhận thức về công ăn việc làm, tinh thần, ý thức trách nhiệm.
- Lực lượng lao động ở nông thôn thường có trình độ học vấn và trình
độ tay nghề chưa cao. Nhiều công trình nghiên cứu ở nước ta đã kết luận: ở
nông thôn dân trí thấp hơn hai lần so với thành thị, nhân tài thấp hơn 6 lần,
đào tạo nghề thấp hơn 10 lần, lao động trí óc ở nông thôn cũng chỉ chiếm
4,4% trong khi đó ở thành thị là 30%, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nghề ở
nông thôn mới chỉ 10%, trong khi đó chung cả nước là 25% [6, tr.27]. Do
điều kiện sản xuất ở nông thôn còn ở trình độ thấp, thô sơ lạc hậu, người lao
động thường làm theo kinh nghiệm nên không có điều kiện nâng cao tay
nghề. Mặt khác, người lao động có trình độ cao thường muốn tìm cho mình
một chỗ làm việc thường ở ngoài nông thôn, có thu nhập cao, có điều kiện
hưởng thụ nhiều kết quả của sự phát triển xã hội. Họ thường tìm việc làm ở
thành phố chứ ít khi làm việc ở nông thôn. Lực lượng lao động còn lại ở nông
thôn thường là những người không có điều kiện đi làm ở nơi khác mới ở lại
nông thôn làm việc. Vì vậy cần phải đào tạo và huấn luyện tay nghề cho họ để
nâng cao chất lượng nguồn lao động ở khu vực này.
1.2.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tác động của nó đối với
những biến đổi về việc làm và vấn đề giải quyết việc làm cho người lao
động ở khu vực nông thôn
Trước hết, cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa một bộ
phận lực lượng lao động trong nông nghiệp được rút ra khỏi sản xuất nông
25
nghiệp. Việc ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, sử dụng máy
móc trong sản xuất, làm cho năng suất lao động trong nông nghiệp tăng, dẫn
đến thời gian lao động trong nông nghiệp giảm xuống, cho phép một bộ phận
lao động trong nông nghiệp chuyển sang làm các ngành khác.
Đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước là hướng cơ bản tạo ra cầu lao động
ngày càng lớn cho khu vực nông thôn. Lịch sử phát triển các nước trên thế
giới đã khẳng định: không có công nghiệp thì không có cách nào khác để tạo
thêm công ăn việc làm. Điều đó đặc biệt có ý nghĩa đối với bất kỳ quốc gia
nào trên thế giới, đặc biệt đối với các nước đang có tỷ lệ thất nghiệp trong
nông nghiệp cao. Theo lý thuyết của W. Rowtow, hầu hết các nước đang phát
triển và đang trong quá trình công nghiệp hóa nằm trong khoảng giai đoạn 2
(giai đoạn chuẩn bị cất cánh) và giai đoạn 3 (giai đoạn cất cánh). Về mặt cơ
cấu kinh tế, phải bắt đầu hình thành được những ngành công nghiệp chế biến
có khả năng thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng. Ngoài ra, sự chuyển
tiếp từ giai đoạn 2 sang giai đoạn 3 đi kèm với sự thay đổi của những ngành
chủ lực, đóng vai trò đầu tàu. Điều này nghĩa là, trong chính sách cơ cấu, cần
xét đến trật tự ưu tiên phát triển những ngành, lĩnh vực có khả năng đảm trách
vai trò đầu tàu kinh tế trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau. Điều này có
thể được chứng minh rất rõ trong "lý thuyết nhị nguyên" của A. Lewis.
Lý thuyết này cho rằng ở các nền kinh tế có hai khu vực kinh tế song
song tồn tại: 1) khu vực truyền thống chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và có
đặc trưng là rất trì trệ, năng suất lao động rất thấp và lao động dư thừa: 2) khu
vực công nghiệp hiện đại có đặc trưng năng suất lao động cao và có khả năng
tự tích lũy. Do lao động dư thừa nên việc chuyển một phần lao động thặng dư
từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp sẽ không gây ảnh hưởng gì
đến sản xuất nông nghiệp. Do có năng suất lao động cao và tiền công cao hơn
nên khu vực công nghiệp sẽ thu hút lao động dư thừa từ khu vực nông nghiệp
chuyển sang, và do lao động trong khu vực nông nghiệp quá dư thừa, tiền
26
công thấp hơn nên các ông chủ công nghiệp có thể thuê mướn nhiều nhân
công mà không phải tăng thêm tiền công, do đó lợi nhuận của các ông chủ
ngày càng tăng. Giả định rằng toàn bộ lợi nhuận sẽ được đem tái đầu tư thì
nguồn tích lũy để mở rộng sản xuất trong khu vực công nghiệp ngày càng
tăng lên.
Như vậy, có thể rút ra từ lý thuyết này một nhận định là để thúc đẩy sự
phát triển, các quốc gia đang phát triển cần phải mở rộng khu vực công
nghiệp hiện đại bằng mọi giá mà không cần quan tâm đến khu vực truyển
thống. Sự tăng trưởng các khu vực công nghiệp tự nó sẽ thu hút hết lượng lao
động dư thừa trong nông nghiệp chuyển sang và từ trạng thái nhị nguyên, nền
kinh tế sẽ chuyển sang một nền kinh tế công nghiệp phát triển.
Lý thuyết nhị nguyên của Lewis tiếp tục được nhiều nhà kinh tế nổi
tiếng (như G. Ranis, J. Fei, Harris) khác tiếp tục nghiên cứu và phân tích.
Luận cứ của họ xuất phát từ khả năng phát triển và tiếp nhận lao động của khu
vực công nghiệp hiện đại. Khu vực này có nhiều khả năng lựa chọn công
nghệ sản xuất, trong đó có công nghệ sử dụng nhiều lao động nên về nguyên
tắc có thể thu hút hết lượng lao động dư thừa của khu vực công nghiệp.
Nhưng việc di chuyển lao động được giả định là do chênh lệch về thu nhập
giữa lao động của hai khu vực kinh tế trên quyết định (các tác giả giả định
rằng thu nhập của lao động công nghiệp tối thiểu cao hơn 30% so với lao
động trong nông nghiệp). Như vậy, khu vực công nghiệp chỉ có thể thu hút
lao động nông nghiệp khi có sự dư thừa lao động nông nghiệp và chênh lệch
tiền công giữa hai khu vực đủ lớn. Nhưng khi nguồn lao động nông nghiệp dư
thừa ngày càng cạn dần thì khả năng duy trì sự chênh lệch về tiền lương này
sẽ ngày một khó khăn. Đến khi đó, việc tiếp tục di chuyển lao động nông
nghiệp sang công nghiệp sẽ làm giảm sản lượng nông nghiệp và làm cho giá
cả nông sản tăng lên, và kéo theo đó là mức tăng tiền công tương ứng trong
khu vực công nghiệp. Sự tăng lương của khu vực công nghiệp này đặt ra giới
27
hạn về mức cầu tăng thêm đối với lao động của khu vực này. Như thế, về mặt
kỹ thuật, mặc dù khu vực công nghiệp có thể thu hút không hạn chế lượng lao
động dư thừa từ khu vực nông nghiệp chuyển sang thì về mặt thu nhập và độ
co giãn cung cầu thì khả năng tiếp nhận lao động từ khu vực nông nghiệp của
khu vực công nghiệp là có hạn.
Một hướng phân tích khác dựa trên lý thuyết nhị nguyên là phân tích
khả năng di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị mà Todarro là một điển
hình. Quá trình dịch chuyển lao động chỉ diễn ra suôn sẻ khi tổng cung về lao
động từ nông nghiệp phù hợp với tổng cầu ở khu vực công nghiệp. Sự di
chuyển lao động này không những phụ thuộc vào chêch lệch thu nhập mà còn
phụ thuộc vào xác suất tìm được việc làm đối với lao động nông nghiệp.
Qua việc phân tích ở trên có thể thấy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
hai lĩnh vực sản xuất vật chất quan trọng nhất của nền kinh tế các nước đang
phát triển. Các lý thuyết nhị nguyên đã đi từ việc cho rằng chỉ cần tập trung
vào phát triển công nghiệp mà không quan tâm đến sự phát triển của khu vực
nông nghiệp, đến việc chỉ ra những giới hạn của việc này và như vậy, khu vực
nông nghiệp cũng cần được quan tâm thích đáng trong quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế.
Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo cơ hội việc làm cho người
lao động ở nông thôn bởi lẽ:
Thứ nhất, quá trình CNH, HĐH với việc đổi mới và sử dụng nhiều
trang thiết bị hiện đại, là điều kiện tiên quyết cho việc tạo lập ra những khối
lượng lớn việc làm cho người lao động. Vì việc sử dụng lao động máy móc là
cơ sở thiết lập ra những xí nghiệp vừa và nhỏ và là cơ sở để nâng cao năng
suất lao động, tạo thu nhập và việc làm.
Thứ hai, các khu công nghiệp là nơi có khả năng thu hút lao động rất
lớn, đặc biệt là thanh niên ở nông thôn. Hiện nay, những ngành công nghiệp
như giày da, xuất khẩu may công nghiệp là những ngành đưa lại khối lượng
28
việc làm lớn cho lực lượng lao động trẻ ở nông thôn, giúp giảm bớt sức ép về
việc làm ở khu vực này.
Các khu công nghiệp mọc lên đồng thời cũng làm xuất hiện những vùng
chuyên canh cung cấp nguyên vật liệu cho công nghiệp và nhu yếu phẩm cho
đội ngũ công nhân. Điều đó giúp phát triển và mở rộng phát triển nền sản xuất
nông nghiệp hàng hóa ở những vùng lân cận. Hệ thống dịch vụ đầu vào và đầu
ra cho sản phẩm nông nghiệp không ngừng phát triển. Sản xuất được gắn liền
với chế biến lưu thông và tiêu thụ, sản xuất ngay tại nông thôn, làm hình thành
cơ cấu công, nông nghiệp, dịch vụ sang lao động ở các ngành nghề khác, hay
kết hợp vừa làm nông vừa làm kinh tế dịch vụ rất đa dạng.
Thứ ba, CNH, HĐH làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới ở khu vực
nông thôn nhờ ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ mới. Hiện nay,
có rất nhiều ngành nghề mới ở nông thôn như: chế biến bảo quản sản phẩm,
chế biến thủy sản, chăn nuôi gia súc, nuôi trồng thủy sản… nhờ ứng dụng
thành tựu khoa học công nghệ có khả năng thu hút lao động rất lớn. Đó là nơi
đến của lực lượng lao động rút ra từ lĩnh vực thuần nông.
Quá trình tạo mở việc làm cho người lao động tăng lên cùng với tốc độ
phát triển của CNH, HĐH. Thông thường vốn đầu tư xây dựng các ngành
công nghiệp càng lớn càng cho phép tạo ra nhiều nơi làm việc, và thu hút
nhiều lao động nông nghiệp chuyển sang. Như vậy, cùng với quá trình rút một
bộ phận lao động ra khỏi sản xuất nông nghiệp, quá trình CNH, HĐH cũng
thu hút ngày càng lớn bộ phận lao động vào các ngành công nghiệp và dịch
vụ làm cho cung cầu lao động ở khu vực nông thôn dịch chuyển và mở rộng
cầu lao động theo hướng ngày càng thu hẹp khối lượng cầu lao động trong
lĩnh vực nông nghiệp và mở rộng cầu lao động trong các ngành công nghiệp
và dịch vụ.
Quá trình CNH, HĐH làm xuất hiện những khu vực kinh tế, khu công
nghiệp hay khu chế xuất làm hình thành những trung tâm kinh tế và thúc đẩy
29
quá trình đô thị hóa phát triển mạnh mẽ. Quá trình đó đòi hỏi phải dành một
bộ phận lớn đất đai để xây dựng làm cho đất nông nghiệp bị chuyển đổi mục
đích sử dụng ngày càng nhiều.
Sự giảm sút một bộ phận khá lớn đất nông nghiệp diễn ra là một tất yếu
khách quan cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhưng nó
cũng kéo theo những vấn đề kinh tế xã hội khác ảnh hưởng tới đời sống của
người lao động, nhất là người lao động ở nông thôn. Người nông dân sẽ thiếu
tư liệu sản xuất để lao động. Trong điều kiện đất nông nghiệp được chuyển
giao cho các hộ nông nghiệp được sử dụng lâu dài, việc thu hồi đất sẽ ảnh
hưởng đến kế hoạch làm ăn lâu dài, ổn định, tự chủ về nhiều mặt, trong đó có
vấn đề về việc làm của mỗi gia đình. Thậm chí một bộ phận lớn người lao
động sẽ mất việc làm và nơi ở, phải di dời đến chỗ ở mới, ngành nghề mới. Vì
vậy, tìm kiếm việc làm phù hợp để ổn định đời sống là nhu cầu bức thiết của
bộ phận lao động này.
Mặt khác, CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn thực chất là quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp và tăng tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ. Như vậy, lao động trong từng ngành thu hẹp
sản xuất sẽ buộc phải chuyển nghề, tính chất ổn định của nghề nghiệp sẽ giảm
đi, sự bấp bênh và yêu cầu chuyển đổi tăng lên cùng với sự đòi hỏi cao về
trình độ, tay nghề sẽ gây áp lực lớn cho lực lượng lao động ít khả năng thích
ứng bộ phận này chủ yếu là lao động dôi dư từ sản xuất nông nghiệp ở vùng
nông thôn.
1.2.3. Giải quyết việc làm và các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc
làm cho lao động nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.2.3.1. Khái niệm giải quyết việc làm
Giải quyết việc làm là việc tạo ra các cơ hội để người lao động có việc
làm và tăng được thu nhập, phù hợp với lợi ích của bản thân, gia đình, cộng
đồng và xã hội.
30
Như vậy, giải quyết việc làm là nhằm khai thác triệt để tiềm năng của
một con người, nhằm đạt được việc làm hợp lý và việc làm có hiệu quả.
Chính vì vậy, giải quyết việc làm phù hợp có ý nghĩa hết sức quan trọng đối
với người lao động ở chỗ tạo cơ hội cho họ thực hiện được quyền và nghĩa vụ
của mình. Trong đó, có quyền cơ bản nhất là quyền được làm việc nhằm nuôi
sống bản thân và gia đình góp phần xây dựng quê hương đất nước.
Giải quyết việc làm có thể được hiểu ở một số khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất. Số lượng và
chất lượng tư liệu sản xuất phụ thuộc vào vốn đầu tư, tiến bộ khoa học - kỹ
thuật áp dụng trong sản xuất và khả năng quản lý, sử dụng đối với các tư liệu
sản xuất đó.
Thứ hai, tạo ra số lượng và chất lượng sức lao động. Số lượng lao động
phụ thuộc vào quy mô, tốc độ tăng dân số, các quy định về độ tuổi lao động
và sự di chuyển của lao động, chất lượng lao động phụ thuộc vào sự phát triển
của giáo dục đào tạo, y tế, thể dục thể thao và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng,
Thứ ba, thực hiện các giải pháp để duy trì việc làm ổn định và đạt hiệu
quả cao, các giải pháp về quản lý thị trường, kỹ thuật... nhằm nâng cao hiệu
quả của việc làm.
Chỉ khi nào trên thị trường người lao động và người sử dụng lao động
gặp gỡ và tiến hành trao đổi thì khi đó việc làm được hình thành. Giải quyết
việc làm cần phải được xem xét cả phía người lao động, người sử dụng lao
động và vai trò của nhà nước.
Vì vậy “giải quyết việc làm là tổng thể các biện pháp, chính sách kinh
tế, xã hội từ vi mô đến vĩ mô tác động đến người lao động có thể có việc làm”
[17, tr.18].
1.2.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Nhân tố về điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái:
Nếu điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái thuận lợi, sẽ có nhiều dự
án, nhiều chương trình kinh tế - xã hội đầu tư và như vậy nơi đây sẽ có điều kiện
31
hơn trong giải quyết việc làm cho người lao động. Ngược lại, không thể có sự
thuận lợi trong giải quyết việc làm tại chỗ đối với người lao động sống ở những
nơi điều kiện tự nhiên bất lợi (sa mạc, vùng băng giá, vùng núi cao, hải đảo...).
Giải quyết việc làm vừa là nhiệm vụ bức xúc, vừa là chiến lược lâu dài.
Vấn đề đặt ra là phải bảo đảm cho môi trường nhân tạo hoà hợp với môi
trường thiên nhiên, coi đây là một mục tiêu chính quan trọng trong giải quyết
việc làm. Vấn đề này cần được thực hiện xuyên suốt trong toàn bộ chiến lược
về việc làm thể hiện trong từng vùng, từng ngành, từng lĩnh vực, từng cộng
đồng dân cư để con người thực sự làm chủ được môi trường sống của mình
hoặc hạn chế được đến mức thấp nhất những tác động xấu do biến động môi
trường. Như vậy, bảo vệ và cải thiện môi trường không chỉ là mục tiêu trong
giải quyết việc làm mà còn là điều kiện để phát triển bền vững.
- Nhân tố về dân số:
Dân số, lao động, việc làm và nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đến
sự phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước. Tăng trưởng dân số với tốc độ
và quy mô hợp lý là nguồn cung cấp nguồn nhân lực vô giá. Tuy nhiên, nếu
dân số phát triển quá nhanh, quy mô phát triển lớn vượt khả năng đáp ứng và
yêu cầu của xã hội, thì tăng trưởng dân số không phải là yếu tố tích cực mà lại
là gánh nặng cho nền kinh tế.
Mức sinh, mức chết, cơ cấu giới, tuổi của dân số đều ảnh hưởng đến
quy mô của lực lượng lao động. Nếu mức sinh cao dẫn đến gia tăng nhanh
chóng số lượng người trong độ tuổi lao động tương lai.
Ngoài ra, vấn đề di dân và các dòng di dân, đặc biệt là di dân từ nông
thôn ra đô thị gây ra các áp lực kinh tế - xã hội và chính trị còn lớn hơn so với
tỷ lệ gia tăng dân số nhanh chóng. Quá trình đô thị hoá gây ra hậu quả trực
tiếp đến vấn đề việc làm. Để có thể thu hút hết số lao động này, cần phải
nhanh chóng tạo ra một số lượng lớn chỗ làm việc. Hơn nữa chất lượng của số
lao động này về học vấn, đào tạo, trình độ nghề nghiệp có thể không đáp ứng
32
được với yêu cầu công việc trong khu đô thị. Do đó tỷ lệ thất nghiệp, thiếu
việc làm sẽ cao lên.
Trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của nhiều nước, việc khống
chế mức tăng dân số thường được gắn với vấn đề giảm áp lực đối với việc làm.
Vấn đề dân số thường được gắn với vấn đề sử dụng nguồn lao động và giải
quyết việc làm. Nhìn chung, giảm tỷ lệ gia tăng dân số cũng có nghĩa là có sự
đầu tư cao hơn vào các lĩnh vực giáo dục, sức khoẻ và các dịch vụ xã hội.
Ở nước ta, nhân tố dân số đã được Đảng và Nhà nước ta thể hiện trong
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ. Con người được đặt vào vị
trí trung tâm trong chiến lược phát triển xã hội, con người vừa là mục tiêu, và
động lực cho sự phát triển. Tuy nhiên, khi nguồn lực này tăng quá nhanh lại
chưa sử dụng hết sẽ là lực cản, gây sức ép về đời sống và việc làm.
- Nhân tố về chính sách vĩ mô:
Để giải quyết việc làm cho người lao động, vấn đề quan trọng nhất là
nhà nước phải tạo các điều kiện và môi trường thuận lợi để người lao động tự
tạo việc làm trong cơ chế thị trường thông qua những chính sách cụ thể. Có
thể có nhiều chính sách tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc làm, hợp
thành một hệ thống chính sách hoàn chỉnh có quan hệ qua lại, bổ sung cho
nhau hướng vào phát triển cả cung và cầu về lao động, đồng thời làm cho
cung và cầu phù hợp với nhau. Thực chất là tạo ra sự phù hợp giữa cơ cấu
kinh tế và cơ cấu lao động.
+ Nhóm chính sách khuyến khích phát triển những lĩnh vực, hình thức
và vùng có khả năng thu hút được nhiều lao động trong cơ chế thị trường như:
Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, chính sách phát triển khu vực
phi kết cấu, chính sách di dân và phát triển vùng kinh tế mới, chính sách đưa
lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, chính sách khôi phục và phát
triển làng nghề...
33
+ Nhóm chính sách việc làm cho các đối tượng là người có công và
chính sách xã hội đặc biệt khác như: Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ,
người tàn tật, đối tượng xã hội...
+ Chính sách việc làm thuộc hệ thống chính sách xã hội, nhưng phương
thức và biện pháp giải quyết việc làm mang nội dung kinh tế đồng thời liên
quan đến những vấn đề thuộc về tổ chức sản xuất kinh doanh như: Tạo môi
trường pháp lý, vốn, lựa chọn và chuyển giao công nghệ, cơ sở hạ tầng, thị
trường tiêu thụ sản phẩm...
- Nhân tố liên quan đến giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ:
+ Về giáo dục - đào tạo:
Tiềm năng kinh tế của một đất nước phụ thuộc vào trình độ khoa học -
công nghệ của đất nước đó. Trình độ khoa học - công nghệ lại phụ thuộc vào các
điều kiện giáo dục. Giáo dục - đào tạo giúp cho người lao động có đủ tri thức,
năng lực, sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của công việc. Người lao động qua quá
trình đào tạo sẽ có nhiều cơ hội để thực hiện các công việc mà xã hội phân công
sắp xếp.
Giáo dục và đào tạo là động lực thúc đẩy, là điều kiện cơ bản để đảm
bảo việc thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội. Giáo dục và đào tạo nhằm
vào định hướng phát triển, trước hết cung cấp cho xã hội một lực lượng lao động
mới đủ về số lượng, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả để đảm bảo việc
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
+ Về Khoa học - công nghệ:
Khoa học - công nghệ đã làm biến đổi cơ cấu đội ngũ lao động. Bên
cạnh những ngành nghề truyền thống đã xuất hiện những ngành nghề mới,
cùng với nó là xu hướng tri thức hoá công nhân, chuyên môn hoá lao động,
giảm bớt lao động chân tay nặng nhọc.
Trong nền kinh tế phát triển, người lao động muốn thích ứng với các
công việc xã hội yêu cầu. Trước hết, họ phải là những người được trang bị
34
nhất định về khoa học - công nghệ. Tuy nhiên, trong thực tế ở những nước
sản xuất kém phát triển thường có mâu thuẫn: Nếu công nghệ sản xuất tiên
tiến với các dây chuyền sản xuất tự động hoá, chuyên môn hoá cao thì trình
độ người lao động chưa bắt kịp dễ dẫn đến tình trạng một bộ phận người lao
động bị gạt ra khỏi quá trình sản xuất kinh doanh. Vì thế, bên cạnh công việc
đào tạo nâng cao trình độ lành nghề cho người lao động, vấn đề lựa chọn áp
dụng mức độ công nghệ nào trong dây chuyền kinh doanh phải tính toán thận
trọng. Bởi vì, chính sách khoa học - công nghệ có tác động mạnh mẽ đến vấn
đề giải quyết việc làm cho người lao động.
- Nhân tố toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế:
Toàn cầu hoá đặt ra những thách thức và những nguy cơ lớn đối với
tình trạng việc làm ở tất cả các nước trên thế giới. Số lượng việc làm ở khu
vực này có thể tăng lên nhưng lại giảm đi ở khu vực khác, một số loại việc
làm sẽ mất đi nhưng một số loại việc làm mới xuất hiện.
Những biến đổi về quy mô và cơ cấu việc làm, sẽ gây không ít khó
khăn và những chi phí lớn của cá nhân gia đình và toàn xã hội. Do mất việc
làm người lao động phải tìm chỗ làm việc mới, phải học tập những kiến thức
và kỹ năng mới, phải di chuyển từ nơi này đến nơi khác để tìm việc làm, phải
thích nghi với những điều kiện sống luôn thay đổi. Điều đó, đã gây gánh nặng
về đào tạo lại, trợ cấp xã hội, trợ cấp thất nghiệp do chính phủ phải gánh chịu.
Trong điều kiện thế giới ngày nay, để khai thác và sử dụng tốt các yếu
tố bên ngoài, đồng thời phải phát huy tối đa nội lực, kết hợp nội lực với ngoại
lực thành sức mạnh tổng hợp trong giải quyết việc làm một cách năng động,
hiệu quả, bền vững, tránh được những rủi ro. Cần có những nghiên cứu mang
tính hệ thống tình hình thế giới, khu vực và các mối quan hệ giữa các điều
kiện bên trong và bên ngoài, nhận thức và vận dụng đúng đắn quan hệ đó khi
xây dựng chiến lược việc làm.
35
1.3. Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho người lao động ở nông
thôn một số tỉnh
1.3.1. Kinh nghiệm của tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc là tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, với tổng diện tích đất tự nhiên 1.371 km2. Trong những năm gần đây, Vĩnh Phúc để trở
thành một trong những địa phương đi đầu cả nước về thu hút đầu tư phát triển
Công nghiệp cả trong và ngoài nước. Tính đến hết tháng 6/2010 đã có 635 dự
án đầu tư vào Vĩnh Phúc, với tổng số vốn đầu tư trên 1 tỷ USD và gần 25.000
tỷ đồng Việt Nam. Nhờ đó, kinh tế của tỉnh phát triển khá nhanh. Trong
những năm qua, tính từ năm (2006 - 2010) tốc độ tăng trưởng tổng giá trị sản
lượng nội tỉnh bình quân là 18,84%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh
theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp.
Năm 2009, cơ cấu kinh tế của tỉnh là công nghiệp - xây dựng 48,3%; dịch vụ
37,7%; nông nghiệp 14,0%.
Trong quá trình phát triển công nghiệp, xây dựng các KCN, cụm công
nghiệp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, Vĩnh Phúc phải chuyển đổi một phần
diện tích đất nông nghiệp sang phục vụ cho thực hiện mục tiêu này. Điều đó
gây ảnh hưởng đến việc làm của hàng chục nghìn lao động. Theo tính toán
của Sở kế hoạch và đầu tư Vĩnh Phúc, từ 1997 đến nay, Vĩnh Phúc đã thu hồi
gần 5.000 ha đất, trong đó trên 70% là đất nông nghiệp để thực hiện 619 dự
án phát triển công nghiệp, dịch vụ, đô thị. Các huyện, thị có diện tích đất thu
hồi lớn là: Mê Linh 1.300 ha, Vĩnh Yên 1.100 ha, Phúc Yên 700 ha, Bình
Xuyên 450 ha. Có trên 20.000 hộ có đất phải thu hồi trong đó có khoảng
10.000 hộ có diện tích thu hồi chiếm hơn 1/3 diện tích hộ đang sử dụng.
Là tỉnh có mật độ dân số cao so với bình quân chung cả nước, lại có diện tích đất canh tác bình quân trên một người rất thấp (chưa đầy 400m2),
nên số lao động dư thừa trong nông nghiệp vốn đã cao, nay ở những địa
phương dành đất cho phát triển công nghiệp, dịch vụ, đô thị lại càng cao hơn.
36
Theo thống kê của Sở Lao động Thương binh - Xã hội tỉnh năm (2009), có tới
50.000 lao động bị ảnh hưởng, trong đó 45.000 lao động thiếu việc làm hoặc
mất việc làm khi nhà nước thu hồi đất.
Tỉnh ủy và uỷ ban nhân dân tỉnh đã đưa ra nhiều biện pháp nhằm giải
quyết vấn đề việc làm của người lao động nông thôn, như:
- Triển khai các chủ trương, chính sách, chương trình mục tiêu quốc gia
về giải quyết việc làm giai đoạn 2001 - 2005 và phương hướng giai đoạn 2006
- 2010; chương trình xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2001- 2005 và giai đoạn
2006 - 2010;
- Ra Quyết định số 4118/QĐ-UB ngày 11/11/2002 của UBND tỉnh Vĩnh
Phúc về chính sách khuyến khích xuất khẩu lao động; Quyết định số
2968/QĐ-UB ngày 11-8-2003 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc về việc hỗ trợ cho
người lao động đi làm việc ở ngoài tỉnh; Nghị quyết số 15/2004/NQ - HĐND
ngày 25-5-2002 của hội đồng nhân dân tỉnh về việc bố trí đất sử dụng làm dịch
vụ cho các hộ gia đình bị thu hồi đất nông nghiệp; Quyết định số 340/QĐ -
UBND ngày 30-1-2007 về việc phê duyệt đề án đào tạo nghề và giải quyết việc
làm cho lao động xã Quang Minh; Nghị quyết số 05/2005/NQ - HĐND ngày
22-7-2005 của hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc về việc dạy nghề cho lao
động nông thôn, lao động ở vùng dành đất cho phát triển công nghiệp, dịch vụ
và đô thị trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2006-2010.
- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn liền với chuyển dịch cơ cấu
lao động theo hướng CNH, HĐH. phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ để
thu hút lao động nông nghiệp, nông thôn. Thông qua phát triển các khu công
nghiệp tập trung để đẩy mạnh CNH, HĐH, chuyển dịch lao động từ nông
nghiệp sang công nghiệp. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XIV (năm 2005)
của tỉnh khẳng định hướng đi và nhấn mạnh trọng tâm vào phát triển các KCN,
cụm công nghiệp công nghệ cao. Phấn đấu đến năm 2015, Vĩnh Phúc cơ bản
trở thành tỉnh công nghiệp.
37
Với hướng đi đó, đến năm 2007 toàn tỉnh đã có 15 khu và cụm CN tập
trung với 218 dự án đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh (139 dự án DDI
và 79 dự án FDI). Trên địa bàn tỉnh đã bước đầu hình thành được một số ngành
CN quan trọng mũi nhọn như: cơ khí, lắp ráp ô tô, xe máy, vật liệu xây dựng,
dệt may, giày da… sự phát triển mạnh của CN (đặc biệt là các KCN, cụm CN)
đã thu hút nhiều lao động từ khu vực nông nghiệp sang. Tính đến hết năm 2007
các doanh nghiệp của tỉnh đã thu hút 80.054 lao động, trong đó có 58.490 lao
động là người Vĩnh Phúc. Riêng 6 tháng đầu năm 2008, theo báo cáo của các
doanh nghiệp các dự án mới đã tạo việc làm cho 4.201 lao động, gồm 2.000 lao
động làm việc tại các dự án FDI và 2.201 lao động làm việc tại các doanh
nghiệp DDI. Tính đến hết tháng 6/2008, số lao động làm việc trực tiếp tại các
dự án là 43.514 người, trong đó 28.500 người làm việc ở các dự án FDI và
15.014 người làm việc ở các dự án DDI.
Cùng với việc tập trung phát triển các ngành CN hiện đại, Vĩnh Phúc
còn đặc biệt chú trọng phát triển tiểu thủ CN và làng nghề, đã quy hoạch tổng
thể các cụm CN, làng nghề, tiểu thủ CN trên địa bàn 5 huyện, quy hoạch chi
tiết một số cụm làng nghề, xây dựng đề án phát triển cụm CN, làng nghề, tiểu
thủ CN nông thôn. Tỉnh còn bố trí ngân sách hỗ trợ cho phát triển làng nghề
truyền thống. Nhờ đó, nhiều việc làm mới và việc làm thêm cho lao động
nông nghiệp được tạo ra, góp phần tích cực vào giải quyết việc làm, chuyển
dịch cơ cấu lao động sang các ngành CN.
Cơ cấu cây trồng, vật nuôi cũng được quan tâm chuyển dịch theo
hướng sản xuất hàng hóa, tạo thêm nhiều việc làm cho nông dân. để khai thác
lợi thế của tỉnh trung du. Vĩnh Phúc rất chú trọng phát triển các vùng chuyên
canh như trồng hoa ở Mê Linh, cây ăn quả ở Lập Thạch, Tam Dương; vùng
chăn nuôi bò ở Vĩnh Tường, Yên Lạc; đưa các giống cây, con có giá trị kinh
tế cao như: rau sạch, bò sinh sản, bò sữa, lợn siêu nạc… vào sản xuất. Nhờ
38
đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, lĩnh vực nông nghiệp của
tỉnh để giải quyết việc làm mới cho trên 32 nghìn lao động.
- Phát triển các hình thức dạy nghề gắn với giải quyết việc làm cho lao
động nhất là cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp, bằng nhiều hình thức đào tạo như dài hạn ở các trường, ngắn hạn ở
các trung tâm và đào tạo tại các doanh nghiệp. Cả tỉnh đã đào tạo nghề cho
hơn 90.000 lao động. Toàn tỉnh đã có 27 cơ sở dạy nghề, trong đó có 6 trường
dạy nghề, 10 trung tâm dạy nghề, 8 trường trung học chuyên nghiệp, cao
đẳng, 2 trung tâm dịch vụ việc làm và 1 trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng
nghiệp có dạy nghề.
Vĩnh Phúc đã ban hành đề án dạy nghề cho lao động nông thôn, lao
động ở các vùng đất dành phát triển CN, dịch vụ và đô thị giai đoạn 2006-
2010. trong đó xác định: cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch theo hướng tăng
tỷ trọng CN - xây dựng, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu lao động tương ứng với tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
cùng với sự phát triển các KCN, khu du lịch và KĐT tập trung. Diện tích đất
canh tác nông nghiệp bị thu hẹp dần đã ảnh hưởng trực tiếp tới một bộ phận
lao động nông nghiệp cần được chuyển sang khu vực phi nông nghiệp. Theo
Đề án số 1795/UBND ban hành ngày 17/6/2005 của Uỷ ban nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc, các lao động này cần phải được đào tạo nghề. Tổng kinh phí để
thực hiện đề án là 87 tỷ đồng, trong đó 65% từ nguồn ngân sách địa phương,
kế hoạch đặt ra là đào tạo các ngành nghề sau:
Những nghề phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn như: kỹ thuật
trồng các loại cây, kỹ thuật nuôi các loại con, kỹ thuật nuôi trồng thủy sản, kỹ
thuật chế biến, bảo quản nông lâm thủy sản.
Những nghề dịch vụ phục vụ nông nghiệp như: bảo dưỡng, sửa chữa
máy nông nghiệp, sửa chữa điện, cơ khí nhỏ. các nghề dịch vụ du lịch, khách
sạn, nhà hàng, cắt tóc, trang điểm, nấu ăn…
39
Những nghề tiểu thủ CN như: thêu ren, mây, tre đan, chạm đá, mộc, mỹ
nghệ, cắt may, mộc dân dụng… các nghề mà các doanh nghiệp trên địa bàn đang
có nhu cầu tuyển dụng như điện, cơ khí, máy động lực, sửa chữa ô tô, may CN…
Quy mô đào tạo khoảng 23.600 người/năm, trong đó, khoảng 3000
người được đào tạo tại doanh nghiệp, đào tạo cả hệ dài hạn, tập trung tại các
trường dạy nghề trung ương; đào tạo hệ dài hạn vừa học nghề vừa học bổ túc
văn hóa; đào tạo nghề ngắn hạn tại các trung tâm dạy nghề.
Một số cơ sở đào tạo nghề trên địa bàn đã và đang liên kết chặt chẽ với
các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh, kịp thời nắm bắt thông tin để gắn công
tác đào tạo nghề với giải quyết việc làm. Nhờ đó, đã có hơn 30.000 lao động
ở độ tuổi 18 - 30 thuộc những hộ dân bị thu hồi đất đã được tuyển vào làm
việc trong các nhà máy. Đây chính là một trong những hướng quan trọng để
góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế, đưa lao
động nông nghiệp sang CN và dịch vụ [2].
- Đẩy mạnh xuất khẩu lao động là hướng quan trọng để giải quyết việc
làm được các cấp trong tỉnh chú trọng. Tỉnh đã ban hành chính sách khuyến
khích xuất khẩu lao động như hỗ trợ kinh phí cho người lao động tham gia giáo
dục định hướng, học ngoại ngữ, học nghề để đi lao động có thời hạn ở nước
ngoài với mức 350.000 đồng/người. Riêng đối với lao động thuộc các hộ bị thu
hồi đất được hỗ trợ 1 triệu đồng/người. Mỗi hộ nghèo được hỗ trợ vay ngân
hàng chính sách xã hội 10 triệu đồng cho năm đầu với lãi suất 0,25%/tháng.
Ngoài ra, tỉnh còn cung cấp các thông tin về những hợp đồng mà đơn vị xuất
khẩu lao động thực hiện như: nước đến làm việc, công việc phải làm, điều kiện
làm việc, thu nhập và đời sống khi ở nước ngoài, chi phí phải nộp, những điều
kiện để đảm bảo hợp đồng, thời gian xuất cảnh…
- Dành một phần đất dự án hoặc gần sát dự án để phát triển dịch vụ
phục vụ cho các KCN, KCX, khu đô thị mới, qua đó tạo mở việc làm cho lao
động lớn tuổi, khó có khả năng học nghề. So với nhiều địa phương khác, Vĩnh
Phúc đã khá thành công trong việc thực hiện giải pháp này nhờ đó đã giải
40
quyết việc làm tại chỗ cho số lao động lớn tuổi, khó có khả năng học nghề ở
các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp, và chuyển dịch được
một bộ phận lao động nông nghiệp, nông thôn sang CN và dịch vụ, đảm bảo
đời sống cho người dân các vùng này, đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội.
1.3.2. Kinh nghiệm của tỉnh Đồng Nai
Đồng Nai là một tỉnh miền Đông Nam Bộ, có diện tích 586.024 ha,
chiếm 1,76% diện tích tự nhiên của cả nước, với số dân 2.484.541 người. Là
một tỉnh có tiềm năng kinh tế nhiều mặt, lại nằm trong vùng trọng điểm phát
triển kinh tế của các tỉnh phía Nam, nằm cạnh Thành phố Hồ Chí Minh - một
trung tâm kinh tế lớn và năng động nhất cả nước, Đồng Nai có nhiều điều
kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội.
Ủy ban nhân dân tỉnh đã xây dựng chương trình giải quyết việc làm
trên địa bàn tỉnh và hình thành các chương trình, dự án có mục đích như: di
dân, định canh định cư, cho vay vốn theo dự án nhỏ giải quyết việc làm tại
chỗ, chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình phòng chống tệ nạn xã
hội, giáo dục, y tế và tạo việc làm cho đối tượng tệ nạn xã hội. Mặt khác,
công tác quản lý nhà nước về lao động, việc làm đã được chú ý và tăng
cường. Đồng thời, tỉnh cũng mở rộng quan hệ với nước ngoài và đã tranh thủ
được các nguồn tài trợ của một số tổ chức quốc tế để xây dựng kết cấu hạ
tầng, hỗ trợ vốn tạo việc làm, nhất là cho người nghèo ở vùng sâu, vùng xa.
Trong những năm vừa qua, cùng với sự phát triển của đất nước, cơ cấu
kinh tế ở Đồng Nai đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp,
dịch vụ. Từ năm 1995- 2005 tỉnh đã giải quyết việc làm cho 676.939 lao
động. Trong 10 năm lao động được tuyển vào các doanh nghiệp là 217.634
người chủ yếu là ở Thành phố Biên Hòa và các thị trấn trong tỉnh. Trong đó
doanh nghiệp nhà nước tuyển 19.950 lao động, doanh nghiệp tư nhân và công
ty Trách nhiệm hữu hạn: 95.074 lao động, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài: 110.600 lao động. Giải quyết việc làm tại chỗ tạo được 402.305 chỗ
làm việc mới.
41
Để có những kết quả nói trên, Đồng Nai đã tiến hành một số chủ trương
và biện pháp như sau:
- Chương trình giải quyết việc làm được xác định là một chương trình
kinh tế - xã hội quan trọng, được các cấp, các ngành trong tỉnh quan tâm thực
hiện nghiêm túc để tạo lập điều kiện, môi trường và các nguồn lực quan trọng
nhằm ổn định, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
- Quan tâm về việc làm đã được người lao động nhận thức và hiểu theo
đúng nghĩa là những hoạt động tạo ra thu nhập không bị luật pháp ngăn cấm.
Họ đã chủ động bỏ vốn ra để sản xuất, tự tạo việc làm cho mình và cho người
khác thông qua cơ chế, chính sách của Nhà nước.
- Đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức, đoàn thể tại cơ sở như: Hội
nông dân tập thể, Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ, Đoàn Thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh. Thông qua các tổ chức này người lao động được hưởng quyền
lợi thiết thực là giải quyết việc làm, cho vay vốn sản xuất, vay vốn xóa đói
giảm nghèo, hưởng các công trình phúc lợi của các dự án có mục tiêu…
- Phát triển trung tâm dịch vụ việc làm trên địa bàn tỉnh, thực hiện
nhiệm vụ cung ứng lao động cho các thành phần kinh tế, nhất là giới thiệu lao
động cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Giải quyết việc làm gắn liền với chuyển dịch cơ cấu lao động và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh.
- Huy động tối đa mọi nguồn vốn trong tỉnh kết hợp với việc thu hút
các nguồn vốn bên ngoài, thực hiện có hiệu quả các chương trình kinh tế - xã
hội của tỉnh, trong đó có chương trình giải quyết việc làm.
- Việc cho vay vốn giải quyết việc làm tại chỗ theo Nghị quyết
120/HĐBT đã góp phần vào chương trình giải quyết việc làm nói chung trong
toàn tỉnh, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội thiết thực.
- Ban hành một số chính sách nhằm khuyến khích những doanh nghiệp
trong nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và những người có khả
năng đầu tư mở các cơ sở dạy nghề, các trường đào tạo nghề cùng với Nhà
42
nước nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tỉnh, đáp ứng được những
yêu cầu mới của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Từ thực tiễn giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn của
hai tỉnh Vĩnh Phúc và Đồng Nai, rút ra được một số bài học có thể vận dụng
vào giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động nông thôn Thành phố Hà
Nội và các tỉnh khác có điều kiện tương đồng đó là:
Một là, cần phải tập trung đẩy mạnh công tác đào tạo nghề cho người
dân ở nông thôn vì nó có tác động mạnh mẽ đến giải quyết việc làm. Chính
sách đào tạo nghề phải hội tụ đủ hai tiêu chuẩn, đó là cung cấp đủ số lượng
lao động cho số lượng việc làm được tạo ra và cơ cấu đào tạo nghề gồm: cơ
cấu về giới tính, độ tuổi, trình độ chuyên môn kỹ thuật, cơ cấu ngành nghề
đào tạo theo vùng, khu vực... phải phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH, HĐH. Đào tạo nghề gắn với nhu cầu thực tiễn của doanh
nghiệp, góp phần giải quyết việc làm cho số lượng lớn lao động bị chuyển đổi
mục đích sử dụng đất.
Hai là, đẩy mạnh việc thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước để
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, phát
triển kinh tế, tạo nhiều việc làm cho người dân nông thôn.
Ba là, đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động một cách bài bản, hiệu
quả và đưa lao động đi xây dựng vùng kinh tế mới. Giám sát việc thực hiện
cam kết tuyển dụng lao động địa phương vào làm việc của các doanh nghiệp
trong các khu công nghiệp, các nhà máy, xí nghiệp, doanh nghiệp đóng trên
địa bàn.
Bốn là, sử dụng và quản lí tốt Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm cho người
lao động ở nông thôn. Xây dựng chương trình giải quyết việc làm của địa
phương gắn giải quyết việc làm với tổng thể các chương trình phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương để tạo việc làm, thu hút lao động.
43
Chương 2
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG
Ở KHU VỰC NÔNG THÔN THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG QUÁ TRÌNH
ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng tới việc làm và
giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn thành phố Hà Nội
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, dân số lao động
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Thủ đô Hà Nội nằm ở trung tâm đồng bằng sông Hồng có diện tích tự nhiên 3344,7 km2 (diện tích Hà Nội cũ là 920,97 km2, diện tích Hà Tây là 2193,41 km2, diện tích huyện Mê Linh là 141,65 km2 và diện tích thuộc 4 xã của tỉnh Hòa Bình là 87,84 km2. Hà Nội có vị trí tiếp giáp với 8 tỉnh: Phía
Đông giáp các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Hưng Yên, phía Tây giáp tỉnh Hòa
Bình, Phú Thọ, phía Nam giáp tỉnh Hà Nam, phia Bắc giáp các tỉnh Thái
Nguyên, Vĩnh Phúc. Thủ đô Hà Nội được mở rộng như hiện nay có địa thế
tựa lưng vào dãy núi Ba Vì, nhìn về sông Hồng, tạo nên thế "rồng cuộn, hổ
ngồi”. Từ Hà Nội đi các thành phố, thị xã của Bắc Bộ, cũng như của cả nước
rất dễ dàng bằng cả đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không. Hà Nội
có Sân bay quốc tế Nội Bài và 4 sân bay Gia Lâm, Bạch Mai, Hòa Lạc, Miếu
Môn do quân đội quản lý, là đầu mối giao thông của 4 tuyến đường sắt và 6
tuyến đường quốc lộ chính. Riêng về đường bộ, hệ thống này đã và đang
được nâng cấp, xây dựng: nâng cấp quốc lộ 5, cải tạo quốc lộ 1A, xây dựng
quốc lộ 1B và sắp tới hoàn thành quốc lộ 18B. Đó là yếu tố gắn bó chặt chẽ
Hà Nội với các trung tâm trong cả nước và tạo điều kiện thuận lợi để phát
triển vùng, hợp tác trong nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Tài nguyên du lịch: Hà Nội nằm trong vùng du lịch có nhiều triển vọng.
Sự phối hợp của Hà Nội với các điểm du lịch nổi tiếng như: Hạ Long, Đồ
44
Sơn, Côn Sơn - Kiếp Bạc, Đền Hùng các quần thể chùa chiền nổi tiếng trên
địa bàn Hà Tây cũ, hệ thống hang động tự nhiên rất đẹp ở Ninh Bình, Hà
Nam… sẽ hình thành các điểm du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.
Mạng lưới sông ngòi trên địa bàn Hà Nội khá dày đặc với các sông lớn
như: sông Hồng, sông Đà, sống Đuống, sông Cầu, sông Tích, sông Đáy, sông
Công, sông Cả, Lô. Ngoài ra còn các sông nhỏ như sông Tô Lịch, sông Lừ,
sông Sét, sông Nhuệ v.v… Hà Nội có nhiều hồ đầm tự nhiên, vừa tạo môi
trường cảnh quan sinh thái cho thành phố, vừa là nơi tiêu nước khi có mưa,
làm nơi dự trữ nước tưới cho cây xanh. Trước đây, do nhu cầu đô thị hóa và
cũng do thiếu tính quy hoạch, quản lý kém nên nhiều ao hồ đã bị san lấp để
lấy đất xây dựng. Một số đầm hồ ở Thanh Trì và Đông Anh đã được cải tạo
để nuôi trồng thủy sản và trồng lúa. Khu vực nội thành Hà Nội có khá nhiều
hồ (27 hồ, đầm) trong đó có nhiều hồ lớn như Hồ Tây, Bảy Mẫu, Trúc Bạch,
Hoàn Kiếm, Thiện Quang, Thủ Lệ, Giảng Võ, Ngọc Khánh. Riêng trên địa
bàn Hà Nội cũ có 14 hồ đầm lớn với diện tích từ 50 ha đến 1260 ha. Có thể
nói, hiếm có một thủ đô nào trên thế giới có nhiều hồ đầm như Hà Nội. Hồ
đầm Hà Nội đã tạo nên nhiều cảnh quan sinh thái đẹp cho thành phố, điều hòa
tiểu khí hậu cho khu vực, rất có giá trị trong việc kết hợp xây dựng các điểm
vui chơi giải trí, du lịch cho nhân dân Thủ đô. Đặc biệt Hồ Tây với diện tích
khoảng 500 ha là tài sản vô giá của Thủ đô và cả nước.
Tài nguyên đất: hệ thống đất của Hà Nội gồm các loại chủ yếu sau: đất
phù sa, đất nâu vàng, đất đỏ vàng… Đất phù sa Hà Nội thuộc hệ thống sông
Hồng, vừa có quy mô diện tích lớn, phân bố tập trung, vừa ít chua và hầu hết
các tiêu chí lí hóa đều cao hơn đất phù sa của các sông khác. Nhìn chung, đất
Hà Nội có độ phì cao với nhiều loại địa hình nên có thể bố trí được nhiều loại
cây trồng ngắn ngày, dài ngày, cây lương thực, cây thực phẩm, cây công
nghiệp, đồng cỏ chăn nuôi, cây ăn quả, trồng rừng. Vùng đồng bằng của Hà
45
Nội thuận lợi cho việc trồng cây lương thực, rau đậu, cây công nghiệp ngắn
ngày, chăn nuôi thủy cầm, thủy sản...
Tài nguyên rừng Hà Nội không lớn nhưng rừng tự nhiên (vùng Ba Vì)
có nhiều chủng loại thực vật phong phú đa dạng, quý hiếm. Khu vực rừng tự
nhiên thuộc huyện Mỹ Đức (vùng Hương Sơn) cũng bao gồm nhiều chủng
loại động thực vật quý hiếm. Ngoài ra, còn có một diện tích rừng trồng ở Sóc
Sơn và Đông Anh chủ yếu là trồng các loại cây có giá trị kinh tế như là: bạch
đàn, keo lá tràm.
Tài nguyên khoáng sản: Hà Nội và vùng phụ cận có 500 mỏ và 40 loại
khoáng sản khác nhau. Hà Nội có các loại khoáng sản chủ yếu như; đá vôi, đá
granít ốp lát, cao lanh, sắt, đồng nước khoáng và một số loại khoáng sản khác
với trữ lượng nhỏ chủ yếu tập trung tại các huyện Mỹ Đức, Chương Mỹ, Sơn
Tây, Thạch Thất, Quốc Oai, Ba vì.
2.1.1.2. Dân số lao động
Hà Nội sau khi mở rộng địa giới hành chính có dân số là: 6.313.160
người, trong đó đa số là dân tộc kinh, có trên 35 nghìn người dân tộc Mường,
dân tộc Dao có 1320 người. Theo kết quả tổng điều tra dân số năm 2009 dân
số Thành phố Hà Nội có 6.448.837 người, chiếm 7,01% dân số cả nước, đứng
thứ 2 trong tổng số 63 tỉnh thành, sau thành phố Hồ Chí Minh (7.123.300
người). Hà Nội là nơi có tiềm lực khoa học kỹ thuật lớn mạnh nhất trong cả
nước, lực lượng cán bộ khoa học có học hàm học vị trên địa bàn chiếm
khoảng 65% trong cả nước. Đến nay có 53% lao động qua đào tạo trên 20 vạn
lao động có trình độ đại học, trên 1 vạn lao động có trình độ đại học trở lên.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Trong giai đoạn từ năm (2006 đến 2010), Hà Nội đã đạt được nhiều
thành tựu nổi bật nhất như: kinh tế đạt mức tăng trưởng trung bình 12,1%
(gấp 1,42 lần bình quân của cả nước). Năm 2011 mặc dù tình hình thế giới và
trong nước có nhiều khó khăn và biến động nhưng Hà Nội vẫn duy trì được
mức tăng trưởng khoảng 10,5%, kinh tế tăng trưởng cao đồng đều trên các
46
lĩnh vực. Sản xuất công nghiệp trong giai đoạn này tăng trưởng ở mức cao
vượt so với kế hoạch, giá trị công nghiệp ước tính khoảng 21,1%.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo xu thế hiện đại hóa; cơ cấu kinh tế
dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp đã hình thành rõ nét, tỷ trọng các ngành
kinh tế trong GDP là dịch vụ 57,5%, công nghiệp 40,5%, nông nghiệp 2%.
Công nghiệp và dịch vụ tăng trưởng nhanh, chất lượng, trình độ các ngành
kinh tế được nâng lên. Công nghiệp được sắp xếp lại phát triển mạnh. Giá trị
sản xuất tăng bình quân 19% năm (giai đoạn 2006 - 2010), trong đó các ngành
công nghiệp chủ lực tăng 19,7% năm [12, tr.48].
Nông nghiệp cũng được quan tâm đầu tư phát triển, hiệu quả sản xuất
có nhiều tiến bộ. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tăng
tỷ trọng các ngành chăn nuôi, thủy sản, các loại nông sản, hàng hóa có chất
lượng và giá trị cao, đã hình thành một số vùng chuyên canh sản xuất tập
trung (hoa, rau an toàn, cây ăn quả, nuôi trồng thủy sản [29, tr.21].
Các ngành dịch vụ được mở rộng, chất lượng từng bước được nâng lên.
Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân 10,5%/năm. Một số lĩnh
vực dịch vụ phát triển khá, ứng dụng công nghệ hiện đại ngày càng đáp ứng
yêu cầu của nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế (dịch vụ
viễn thông, thông tin, ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn).
Nhờ đẩy mạnh công tác đối ngoại, các hoạt động tuyên truyền quảng
bá, xúc tiến du lịch của Hà Nội được tăng cường. Hà Nội tổ chức thành công
nhiều hoạt động tuyên truyền, xúc tiến quảng bá du lịch; như các liên hoan du
lịch quốc tế, Hội thảo giới thiệu thị trường du lịch Việt Nam và Hà Nội, Tuần
lễ văn hóa Hà Nội,... góp phần đưa số lượng khách du lịch vào Việt Nam và
Hà Nội tăng nhanh trong những năm qua.
Về xuất khẩu: Hà Nội đã thực hiện chủ trương đa dạng hóa thị trường
và đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại, vừa củng cố thị trường truyền
thống, vừa chủ động thâm nhập khai thác các thị trường mới. Nhiều sản phẩm
xuất khẩu của Thủ đô đã đứng vững trên thị trường các nước EU, SNG,
47
ASEAN, Nhật Bản và một số thị trường mới như Mỹ, Châu Phi, Trung Đông.
Kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn Hà Nội thời kỳ đổi mới luôn tăng trưởng
với tốc độ khá. Giai đoạn 2006 - 2010 tăng bình quân 9,1% năm. Năm 2010
đạt 2,5 tỷ USD. Hoạt động xuất khẩu liên tục tăng đã góp phần thúc đẩy quá
trình đổi mới công nghệ và thiết bị trong các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất
khẩu nói riêng, kinh tế Thủ đô nói chung.
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo của Thủ đô trong hoàn cảnh khó khăn
vẫn được duy trì và có mặt phát triển. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp, học sinh giỏi
toàn quốc và dự các kỳ thi quốc tế chiếm vị trí cao so với cả nước. Năm 1990,
Hà Nội là địa phương đầu tiên được Nhà nước công nhận đạt tiêu chuẩn phổ
cập cấp I và xóa nạn mù chữ. Loại hình phổ thông trung học dân lập được thí
điểm ở 3 trường, bước đầu có hiệu quả.
Công tác bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể lực nhân dân có chuyển biến
tiến bộ. Mạng lưới y tế cơ sở được duy trì và củng cố. Dịch vụ khám chữa
bệnh ngoài giờ có hiệu quả rõ rệt. Phong trào thể dục thể thao, rèn luyện sức
khỏe được duy trì.
Công tác văn hóa, văn nghệ, xuất bản, thông tin, báo chí trên địa bàn
Hà Nội phát triển phong phú, đa dạng nhưng vẫn giữ được định hướng xã hội
chủ nghĩa, góp phần giáo dục thẩm mỹ, chống tiêu cực và định hướng tư
tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Công tác xây dựng, quản lý đô thị ở thành phố có nhiều chuyển biến
quan trọng. Thành phố đã cải tạo nâng cấp và xây dựng một số cơ sở trọng
điểm như: đèn chiếu sáng, cấp nước, đường giao thông, bưu điện. Trật tự đô
thị có tiến bộ đã hạn chế được một phần tiêu cực xã hội.
* Về thuận lợi:
Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước, có điều
kiện về cơ sở hạ tầng và giao thông vận tải tương đối thuận lợi. Từ Hà Nội có
nhiều tuyến đường thông suốt huyết mạch chạy đi các thành phố khác. Đặc
48
biệt Hà Nội là cầu nối của tam giác phát triển kinh tế trọng điểm Hà Nội - Hải
Phòng - Quảng Ninh.
Là nơi có khí hậu nhiệt đới gió mùa lại có sự xen kẽ giữa đồng bằng và
ao hồ nên ở đây có thể dễ dàng phát triển một nền nông nghiệp sản xuất lớn
thuận lợi cho việc phát triển cơ cấu kinh tế đa ngành nghề với nhiều loại sản
phẩm có giá trị. Đây là điều kiện rất quan trọng để Hà Nội có thể đẩy mạnh
việc phát triển nền sản xuất hàng hóa, tạo mở nhiều loại hình việc làm thu hút
lao động của thành phố, nhất là lực lượng lao động ở nông thôn. Hà Nội là nơi
tập trung số lượng trường đại học, cao đẳng cao nhất nước, là nơi đào tạo
nguồn lực lao động chất lượng cao. Hà Nội có lực lượng lao động dồi dào. Số
lao động từ 15 đến 24 tuổi bổ sung vào lực lượng lao động hàng năm là hơn
10 vạn lao động với trình độ học vấn khá [43, tr.36].
Trong những năm vừa qua tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hà Nội đạt
mức cao tạo ra sự ổn định về việc làm cho người lao động nhất là lực lượng
lao động ở nông thôn. Là nơi có điều kiện cơ sở hạ tầng và giao thông thuận
lợi nên Hà Nội dễ dàng trong viêc thu hút nguồn vốn FDI vào phát triển kinh
tế để có thể đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,
HĐH. Điều đó đưa lại khả năng tạo cơ hội việc làm to lớn cho người lao động
nói chung và người lao động ở nông thôn Hà Nội nói riêng.
* Về khó khăn:
Quá trình mở rộng địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội và sáp nhập với
Hà Tây làm tăng quy mô về dân số và diện tích đã ảnh hưởng trực tiếp đến cơ
sở hạ tầng và khả năng nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động.
Cùng với quá trình đô thị hóa, số lượng người sống trong khu vực nội thành
Hà Nội tăng đáng kể gây sức ép cho cơ sở hạ tầng, giao thông. Đô thị hóa
nhanh đã làm cho các vấn đề xã hội như nhà ở, tội phạm, nghèo đói, bất bình
đẳng, thất nghiệp trở nên trầm trọng hơn.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đặc biệt là cơ cấu nội ngành còn chậm, khả
năng và mức tác động CNH đối với nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế. Hội
49
nhập kinh tế quốc tế chưa mạnh, chưa tích cực và chủ động theo yêu cầu. Các
cơ chế, chính sách còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển.
Các loại thị trường phát triển chưa đồng bộ. Năng lực cạnh tranh của các chủ
thể tham gia thị trường còn thấp. Lực lượng lao động chưa qua đào tạo vẫn
chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu lao động của thành phố. Đây là cản trở rất lớn
trong việc thực hiện mục tiêu của Thành ủy để đến năm 2015 đưa Hà Nội
thực hiện xong mục tiêu CNH, HĐH.
2.2. Thực trạng việc làm của người lao động ở khu vực nông thôn
Thành phố Hà Nội
2.2.1. Một số chính sách giải quyết việc làm cho người lao động của
Hà Nội
Công tác giải quyết việc làm đã được các cấp ủy Đảng, chính quyền và
các ngành quan tâm, coi đây là một trong những vấn đề xã hội bức xúc của
Thành phố:
Ngày 14/11/2006, UBND Thành phố có Quyết định số 5117/QĐ -
UBND phê duyệt chương trình giải quyết việc làm Thành phố Hà Nội giai
đoạn 2006 - 2010, trong đó đã giao cho Sở Lao động Thương binh - Xã hội
triển khai:
- Xây dựng kế hoạch đào tạo nghề đến năm 2010;
- Quy hoạch, củng cố, nâng cao chất lượng các trung tâm giới thiệu
việc làm; rà soát các doanh nghiệp có chức năng giới thiệu việc làm;
- Quy hoạch, xây dựng phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp và
làng nghề.
- Kế hoạch xã hội hóa trong lĩnh vực dạy nghề…
- Xây dựng và thực hiện đề án thí điểm “Chính sách hỗ trợ dạy nghề
ngắn hạn cho lao động nông thôn”, nâng cao chất lượng lao động nông thôn;
Thành phố đã phê duyệt chương trình thí điểm đào tạo nghề cho lao động
nông thôn vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất tại 5 huyện ngoại thành giai
đoạn 2005-2006, HĐND Thành phố đã phê duyệt Đề án hỗ trợ dạy nghề cho
50
lao động nông thôn giai đoạn 2008-2010, UBND Thành phố đã ban hành
Quyết định số 2383/QĐ-UBND phê duyệt đề án, đồng thời quyết định thành
lập Quỹ “Hỗ trợ ổn định đời sống, học tập, đào tạo nghề và việc làm cho lao
động chuyển đổi mục đích sử dụng đất”; Xây dựng Đề án quản lý dạy nghề và
giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện; Chính sách hỗ trợ phát triển các
sản phẩm công nghiệp chủ lực của Thành phố; Chính sách phát triển dịch vụ
trình độ cao, chất lượng cao; Đề án nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Thủ
đô. Trên cơ sở các kế hoạch, đề án, chỉ tiêu của Thành phố các sở, ngành,
quận, huyện, thị xã đã xây dựng, cụ thể hóa thành các kế hoạch triển khai và
tổ chức thực hiện các nội dung trên địa bàn đạt nhiều kết quả tốt.
- Thành phố đã thực hiện lồng ghép chương trình giải quyết việc làm
với các chương trình kinh tế - xã hội khác như: chương trình giảm nghèo,
chương trình hỗ trợ nông dân và người nghèo phát triển kinh tế…
- Đẩy mạnh sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, khuyến khích các
doanh nghiệp tập trung đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hóa thiết bị, công nghệ
tạo ra môi trường cạnh tranh nhằm phát triển sản xuất, thu hút lao động và đổi
mới chất lượng lao động cho các doanh nghiệp.
- Xây dựng các chính sách ưu đãi về đầu tư, đẩy mạnh xúc tiến đầu tư
để khuyến khích thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào Hà Nội nhằm tạo
nguồn xuất khẩu lao động tại chỗ, đồng thời mở rộng và phát triển thị trường
lao động nước ngoài đặc biệt là các thị trường phù hợp với đặc điểm của lao
động Hà Nội.
2.2.2. Quy mô và cơ cấu lao động
- Về quy mô lao động ở nông thôn thành phố Hà Nội
Qua bảng số liệu 2.1 chúng ta thấy, lực lượng lao động nói chung tăng
đều từ các năm 2005 đến 2010. Trong đó lực lượng lao động so với dân số
vẫn tăng đều về số lượng. Năm 2005 tỷ lệ lực lượng lao động trong dân số ở
Hà Nội là 55,73%; tỷ lệ này vào năm 2010 tăng lên thành 66,32%, mỗi năm
lực lượng lao động ở Hà Nội tăng hơn 15 vạn người. Ở khu vực nông thôn tỷ
51
lệ lao động so với dân số trong các năm tương ứng là 68,23% và 64,33%.
Điều này cho thấy sự dồi dào về nguồn lực lao động ở nông thôn. Tuy vậy
dưới tác động của quá trình đô thị hóa, lực lượng lao động ở nông thôn có xu
thế giảm dần về cơ cấu như các con số trên chỉ ra.
Bảng 2.1: Quy mô dân số và lực lượng lao động nông thôn Hà Nội
Đơn vị tính: Người
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Tiêu chí
615934 6350226 6472652 6532613 5910232 6030212 Dân số trung bình
3293772 3448076 3640141 4022868 4116606 4332428 Lực lượng lao động
57,18 59,11 63,35 63,76 66,32 55,73 % lực lượng lao động
2247340 2328140 2447117 2661127 2684438 2789217
Lực lượng lao động nông thôn
67,52 67,23 66,15 65,21 64,33 68,23
% lực lượng lao động nông thôn
Nguồn: [12, tr.23-25].
- Về cơ cấu lao động ở nông thôn Thành phố Hà Nội
+ Theo độ tuổi:
Trong lực lượng lao động ở Hà Nội nói chung, lực lượng lao động ở
nông thôn Hà Nội nói riêng, phần lớn là lao động trẻ. Năm 2010, số lao động
có độ tuổi từ 15 đến 24 được bổ sung vào lực lượng lao động chung là 15,5%,
số lao động có độ tuổi từ 25 đến 34 chiếm đến 21%. Đây là thế mạnh của lực
lượng lao động nông thôn Hà Nội vì lực lượng lao động này có nhiều ưu thế
trong đó ưu thế về sức khỏe, trình độ văn hóa, dễ dàng tiếp thu những kiến
52
thức và tiếp nhận chuyển giao khoa học công nghệ trong sản xuất kinh doanh,
phát triển mạnh kinh tế ở khu vực nông thôn (Bảng 2.2).
Số lao động có độ tuổi từ 35 đến 44 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất 24,4%.
Đây phần lớn là lao động chính, trụ cột trong gia đình. Số lao động này chiếm
tỷ lệ lớn là một thuận lợi cho công tác giải quyết việc làm.
Bảng 2.2: Cơ cấu lực lượng lao động ở nông thôn Hà Nội theo nhóm tuổi
năm 2010
Đơn vị tính: Người
Độ tuổi 15 - 24 25 - 34 35 - 44 45 -54 55 - 59 Trên
Tổng số LĐ tuổi tuổi tuổi tuổi tuổi 60 tuổi
3.356 212 615.624 705.214 846.432 521.732 435.216 331.999
% so với tổng số 15,5 21,0 25,2 15,5 12,9 9.9
Nguồn: [12, tr.397].
+ Theo trình độ học vấn:
Bảng 2.3: Lực lượng lao động ở Hà Nội chia theo trình độ học vấn
Đơn vị tính: Người, %
Trong đó
Tổng số %
Không biết chữ Đã tốt nghiệp THCS Đã tốt nghiệp THPT Chưa TN tiểu học Đã tốt nghiệp Tiểu học Năm Tiêu chí
Tốt nghiệp CĐ, ĐH và trên Đại học
Năm 2006
3152392 100% 47285 1,51 141857 4,5 605574 19,21 1119729 36,52 921813 30,21 315869 8,02
Lực lượng LĐ chung toàn TP
53
Trong đó
Tổng số %
Không biết chữ Đã tốt nghiệp THCS Đã tốt nghiệp THPT Chưa TN tiểu học Đã tốt nghiệp Tiểu học Năm Tiêu chí
Thành thị
Nông thôn 998030 100% 2154362 100% 1497 0,15 32961 1,53 95311 9, 55 383907 17, 82 26747 32,68 845156 39, 23 470072 47, 15 780956 36, 25 Tốt nghiệp CĐ, ĐH và trên ĐH 107088 10,73 72171 3, 53
2495 0,25 39209 1,82 Năm 2008
3296214 100% 49772 1,51 113719 3,45 594966 18,05 1225202 37,17 1023474 31,05 288418 8,75
Lực lượng LĐ chung toàn TP
Thành thị
Nông thôn 1052542 100% 2243672 100% 242 0,13 28719 1,28 90202 8, 57 393091 17,52 33975 32, 28 857301 38, 21 510693 48,52 846986 37, 75 112832 10, 72 78977 3, 52
147 0,14 38591 1,72 Năm 2010
3486319 100% 24752 0,71 77047 2,21 63973 18,35 1302488 37,36 113619 32,59 306098 8,78
Lực lượng LĐ chung toàn TP
Thành thị
1072107 100% 2414212 100% 1179 0,11 3017 1,25 9756 O,91 40317 1.67 72688 6, 78 407277 16, 87 340501 31, 76 920297 38, 12 538304 50, 21 936714 38, 80 109462 10,21 77979 3,23
Nông thôn Nguồn: [12, tr.398-399].
Bảng 2.3 cho thấy, trình độ học vấn của lực lượng lao động ở Hà Nội
trong những năm gần đây có xu hướng được nâng lên: Năm 2006 số lao động
54
chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học chiếm 6,1% và giảm dần đến năm
2010 còn 2,92. Số người lao động đã tốt nghiệp trung học cơ sở chiếm tỷ lệ
cao nhất 36,52% năm 2006 và 37,36% năm 2010; đây là số học sinh học hết
trung học cơ sở và không tiếp tục học lên Trung học phổ thông, nên đã bổ
sung số lượng lớn vào lực lượng lao động hàng năm. Số lao động trung học
phổ thông cũng tăng lên qua các năm nhưng với mức độ vừa phải do có một
bộ phận lao động sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở do đi học các trường
nghề để phục vụ cho sự phát triển ở các khu công nghiệp.
Trong những năm qua, do đẩy mạnh các hình thức phát triển giáo dục
nên trình độ học vấn của lực lượng lao động ở nông thôn Hà Nội đã từng
bước được cải thiện. Số lao động có trình độ học vấn thấp có xu hướng giảm
dần, trong khi số lao động có trình độ học vấn cao tăng lên rõ rệt cả về số
lượng và tỷ lệ.
So sánh hai khu vực giữa nông thôn và thành thị, có thể thấy rằng lực
lượng lao động ở thành thị có trình độ học vấn cao hơn ở nông thôn. Năm
2010, số lao động không biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học ở thành thị có
10935 người thì ở nông thôn đối tượng này là 43334 người. Số lao động có
học vấn cao ở nông thôn chiếm tỷ lệ thấp hơn ở thành thị (năm 2010, con số
này ở nông thôn là 3,23% so với 10,21% ở thành thị).
55
+ Trình độ chuyên môn kỹ thuật
Bảng 2.4: Lực lượng lao động ở nông thôn Hà Nội chia theo trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao nhất được đào tạo
Đơn vị tính: Người
Trong đó Trình độ đào tạo
Tổng số
Chưa đào tạo Sơ cấp nghề Trung Cấp nghề Cao đẳng nghề Trung cấp chuyên nghiệp Năm Cao đẳng, ĐH& trên ĐH
2006
3296529 100 2274605 69,19% 13680 4,15 138783 4,21 119664 3,63 21427 0,65 596671 18,17 Lực lượng LĐ chung toàn TP
Thành thị 1153788 35 236757 20,52 186568 14,61 60573 5,25 325022 28,17 175952 15,25 186913 16,2
Nông thôn 2142744 65 1399426 65,31 88495 4,13 91709 4,28 347338 16,21 88281 4,12 125779 5,87
2010
3376521 100 2301774 68,17 145528 4,31 150592 4,46 129320 3,83 28700 0,85 618240 18,31 Lực lượng LĐ chung toàn TP
Thành thị 1215547 36 271796 22,36 160573 13,21 83508 6,87 295742 24,33 195824 16,11 209195 17,21
Nông thôn 2160974 64 1386480 64,16 94434 4,37 67638 3,13 351158 16,25 139641 6,21 125768 5,82
Nguồn: [12, tr.402-404].
Qua bảng số liệu 2.4 ta thấy tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ở Hà Nội tuy
chưa cao nhưng đã tăng đáng kể. Năm 2006, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ở
trình độ sơ cấp, trung học nghề chiếm 8,36%, nhưng đến năm 2010 đã tăng
lên là 8,77% (tăng 0,41%) so với năm 2006). Điều đó cho thấy xu hướng
56
chuyên môn hóa trong lao động ở nông thôn Hà Nội, từ đó tạo cơ sở cho việc
nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp, nông thôn.
So sánh giữa hai khu vực thành thị và nông thôn, ta thấy trình độ
chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động ở nông thôn Thành phố Hà Nội
được cải thiện qua các năm. Năm 2006 số lực lượng lao động ở nông thôn
không được đào tạo chuyên môn kỹ thuật là 65,31% nhưng giảm xuống còn
64,16% năm 2010. Trong khi đó số lao động có trình độ chuyên môn, đào tạo
từ sơ cấp, học nghề tăng từ 4,13% lên 4,37% tăng 0,24%. Tuy nhiên, số lao
động có trình độ kỹ thuật ở Hà Nội hiện nay vẫn tập trung chủ yếu ở khu vực
thành thị. Năm 2010, nếu lao động tại thành thị là 1215547 thì có tới 784269
công nhân có bằng cấp kỹ thuật trở lên (chiếm 64,5%) trong khi đó số lao
động này ở nông thôn chỉ chiếm 30,87. Điều này phản ánh trình độ kinh tế kỹ
thuật ở nông thôn Hà Nội còn nhiều hạn chế.
2.2.3. Tình hình việc làm giai đoạn 2006 - 2010
* Tình hình việc làm: Số lao động có việc làm ở thành thị và nông thôn
Hà Nội trong những năm gần đây được thể hiện qua bảng 2.5
57
Bảng 2.5: Việc làm phân theo thành thị và nông thôn
Năm 2006 Năm 2008 Năm 2010
Chỉ tiêu T. thị N. thôn T. thị N. thôn T. thị N. thôn Đơn vị tính
Tổng số người 1196133 1757283 1.284.916 1841401 1354276 1960967
% 40,5 59,5 41,1 58,9 40,85 59,15
So với tổng số chung
người 87437 1344497 78765 1381050 70557 1441899
1. Nông, lâm, ngư nghiệp
% 7,31 76,51 6,13 75,00 5,21 73,53
So với tổng số khu vực
người 635983 268512 692826 292230 732934 332383
2. Công nghiệp xây dựng
% 53,17 15,28 53,92 15,87 54,12 16,95
So với tổng số khu vực
3. Dịch vụ người 472711 12912 513323 169119 552002 186684
% 39,52 8,21 39,95 9,13 40,76 9,52
So với tổng số khu vực
Nguồn: [12, tr.38-39].
Qua bảng 2.5 ta thấy: Lao động có việc làm thường xuyên ở Hà Nội
năm 2010 là 3.315.333 người chiếm tỷ lệ 73,5% trong đó ở nông thôn
1.960.976 người, chiếm 59,15%. Qua khảo sát 3 năm gần đây cho thấy: Trong
tổng số việc làm chung của cả Thành phố, tỷ trọng việc làm ở khu vực thành
thị có xu hướng tăng, tỷ trọng việc làm ở nông thôn có xu hướng giảm. Điều
58
này phản ánh xu thế gia tăng của quá trình đô thị hóa. Năm 2006 lao động ở
khu vực nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 76,51%, đến năm 2010, tỷ lệ này
giảm xuống còn 73,53%. Lao động công nghiệp xây dựng ở khu vực nông
thôn 15,28% năm 2006 lên 16,95% năm 2010; Lao động dịch vụ tăng từ 8.2%
năm 2006 lên 9,52% năm 2010.
Từ sự phân tích trên cho thấy lao động ở nông thôn Hà Nội vẫn chiếm
tỷ lệ cao, nhưng chủ yếu là lao động phổ thông chưa qua đào tạo. Đây là khó
khăn trong quá trình giải quyết việc làm trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nguyên nhân của tình trạng trên là trong những năm gần đây, Hà Nội
đã tích cực thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng các
ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Bên cạnh
đó, Thành phố cũng đã tích cực nâng cao hiệu quả của các ngành kinh tế nói
chung và đặc biệt là ngành nông nghiệp, nói riêng. Việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nói trên tất yếu dẫn đến việc chuyển dịch cơ cấu lao động; việc chuyển
một bộ phận không nhỏ lực lượng lao động ở nông thôn di cư ra thành thị
kiếm việc làm, do đó tỷ lệ việc làm ở khu vực thành thị liên tục tăng còn ở
nông thôn giảm xuống. Bên cạnh đó, cùng với quá trình đô thị hóa nông thôn,
một số hộ nông dân nằm gần các trục đường giao thông có cơ hội chuyển
sang buôn bán, làm các lĩnh vực khác ngoài nông nghiệp.
Thứ hai, việc làm ở nông thôn Hà Nội đang có chuyển biến tích cực
theo hướng CNH, HĐH của cả nước: việc làm trong nông, lâm, ngư nghiệp ở
nông thôn đang có xu hướng giảm dần (năm 2006 chiếm 76,51%, đến năm
2010 tỷ lệ này giảm xuống còn 73,53 %. Việc làm trong ngành công nghiệp,
xây dựng ở khu vực nông thôn tăng từ 15,28% năm 2006 lên 16,95% năm
2010. Lao động trong ngành dịch vụ tăng từ 8,21% năm 2006 lên 9,25% năm
2010.
59
Qua sự phân tích trên cho thấy lao động ở nông thôn Hà Nội vẫn chiếm
tỷ lệ cao nhưng chủ yếu là lao động phổ thông chưa qua đào tạo. Đây là
những khó khăn trong quá trình giải quyết việc làm trong quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2.2.4. Tình hình thất nghiệp, thiếu việc làm
Bảng 2.6: Tình hình thiếu việc làm của lực lượng lao động
ở nông thôn Thành phố Hà Nội
Đơn vị Tiêu chí 2004 2006 2008 2010 tính
Lực lượng lao Người 1767236 1952328 2136721 2363212
động ở nông thôn
Lực lượng lao Người 1558349 1713168 1920485 2097351
động ở nông thôn
có việc làm
Lực lượng lao Người 208887 239160 216236 265861
động ở nông thôn
thất nghiệp
Tỷ lệ thất nghiệp % 11,82 12,25 10,12 11,25
Nguồn: [38, tr.19-20].
Qua bảng 2.6, ta thấy tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn thành phố Hà Nội từ
năm 2004 đến năm 2010 là 11,82%, tăng lên 12,25% năm 2006, nhưng lại có
xu hướng giảm xuống vào năm 2008 là 10,12% và lại tăng trở lại vào năm
2010 với 11,25%.
Qua thực tế ở Hà Nội lực lượng lao động ở nông thôn có nguy cơ thất
nghiệp cao hơn so với lực lượng lao động ở thành thị. Thực tế tình trạng thiếu
việc làm còn gọi là bán thất nghiệp của lực lượng lao động ở nông thôn cũng
60
ảnh hưởng tới thu nhập và đời sống của người lao động, lãng phí nguồn lực
lao động xã hội ở khu vực này.
Bảng 2.7: Tình hình thất nghiệp ở thành thị và sử dụng thời gian
lao động ở nông thôn Hà Nội
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu 2006 2007 2008 2009 2010
Tỷ lệ thất nghiệp khu vực 6.02 5,76 5, 52 5,27 5,05
thành thị
Tỷ lệ sử dụng thời gian trong 75,18 76.15 75,46 75,76 76,7
khu vực nông thôn
Nguồn: [38, tr.21-22]
Bảng số liệu 2.7 cho thấy tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị có xu
hướng giảm từ 6,02% năm 2006, xuống 5,52% năm 2008 và đến năm 2010
con số này xuống chỉ còn 5,05%.
Như vậy, từ năm 2006 đến năm 2010 thông qua chương trình giải quyết
việc làm của Hà Nội đã tạo việc làm mới và làm thêm cho 567000 lượt người,
với tỷ lệ này đã nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn từ
75,18 (năm 2006) lên 76,7% (bảng 2.7) và góp phần từng bước chuyển dịch
cơ cấu lao động của Hà Nội (lao động việc làm trong khu vực nông nghiệp
chuyển dần sang khu vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ).
61
Bảng 2.8: Tình hình sử dụng thời gian lao động của lao động
thường xuyên ở các hộ điều tra trong 12 tháng qua (năm 2010)
Huyện
Tổng số lao động (người) Tổng số hộ điều tra (hộ)
Tổng số ngày thực tế làm việc 12 tháng qua Tổng số ngày có nhu cẩu làm thêm (ngày) Tổng số lao động tham gia hoạt động kinh tế (người) Tỷ lệ thời gian thực tế được sử dụng (%) Tổng số ngày thực tế làm việc và số ngày có nhu cầu làm thêm
190 564 515 129.654 20. 532 140.398 85,42 Phúc
Thọ
Ba Vì 110 271 251 58. 898 11.876 70. 675 83,3
Quốc 99 235 218 49.232 16.435 65. 657 74,7
Oai
Tổng số 399 1070 984 237.784 48.843 276.730 81,14
Nguồn: [38, tr.25-26].
Bảng 2.8 cho ta thấy, vùng đồng bằng (đại diện là huyện Phúc Thọ), có
tỷ lệ sử dụng thời gian lao động (85,42%) cao hơn các huyện khác (đại diện là
huyện Ba Vì: 83,3% và Quốc Oai: 74,7%).
Qua phân tích thực trạng thất nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn Hà
Nội trong những năm qua nổi lên một số đặc điểm sau:
- Tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn Hà Nội tuy có tăng, giảm song không
biến động không nhiều và còn ở mức cao.
- Số người thiếu việc làm ở nông thôn còn rất lớn, độ tuổi có tỷ trọng
thiếu việc làm cao nhất là 15 - 24 tuổi, 25 - 34 tuổi.
- Mỗi năm dân số và lao động tăng thêm 220.000 người đây là khó
khăn trong giải quyết việc làm của Hà Nội. Mặc dù hàng năm vẫn có một
62
lượng việc làm mới đáng kể được tạo ra song với sự gia tăng về lao động này,
tỷ lệ thất nghiệp hầu như không giảm.
- Trên 75% dân số và lao động sinh sống và làm việc ở khu vực nông
thôn, trình độ mọi mặt nhìn chung còn thấp so với thành thị. Trình độ giáo
dục phổ thông của lực lượng lao động ở nông thôn được nâng lên, nhưng trình
độ chuyên môn còn thấp và được phân bố không đều giữa các vùng.
Hậu quả của tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm:
- Theo kết quả điều tra từ phiếu điều tra của 3 huyện bảng (2.8), 100%
hộ có lao động không có việc làm hoặc thiếu việc làm đều dẫn đến đói nghèo
và những hộ giàu đều có đủ việc làm. Để lý giải vấn đề này cần phải làm rõ
thực trạng của lao động ở nông thôn Hà Nội thì phần lớn số lao động ở nông
thôn là lao động chưa được đào tạo nghề nên chưa tìm được việc làm, còn lại
số đông là lao động thuần nông nên không thể thay đổi công việc ngay lập tức
được. Tuy vậy, trong thời gian qua cùng với quá trình đẩy mạnh đô thị hóa
nông thôn một số khu công nghiệp được mở rộng tới nông thôn như ở Thạch
Thất, Quốc Oai, Mỹ Đức, Phú Xuyên. Điều đó đang đặt ra những thách thức
với lao động nông thôn là trình độ của họ chưa đáp ứng được đòi hỏi của các
khu công nghiệp nên ít có cơ hội tham gia thị trường lao động. Kết quả là số
lao động này phải tìm đến những công việc nặng nhọc, có thu nhập thấp, hoặc
làm các công việc giản đơn hoặc không có việc làm.
Do tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, mức thu nhập của lao động
nông nghiệp thường chỉ đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu. Do đó họ
không có điều kiện nâng cao trình độ của mình trong tương lai để thoát
nghèo. Hơn nữa, tác động của yếu tố học vấn cũng ảnh hưởng đến các quyết
định có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi dạy con cái.
Khi hết mùa vụ trong thời gian rảnh rỗi, có đến 45% số lao động là nam
giới có độ tuổi từ 18 đến 50, rời làng quê ra thành thị tìm thêm việc làm tăng
thu nhập. Hiện nay, phần lớn số lao động nông thôn di cư làm ăn nơi khác là
63
những người nghèo, mất ruộng đất tự tìm việc để duy trì và nâng cao đời sống
cho bản thân và gia đình họ. Vì vậy, việc lao động nông thôn di cư đi nơi khác
nhìn chung đều góp phần cải thiện đời sống, giảm bớt đói nghèo và sức ép về
lao động, việc làm, thu nhập và các nhu cầu khác cho khu vực nông thôn.
Bên cạnh những yếu tố tích cực, di chuyển lao động tự do ở nông thôn
đang gây ra một số tác động tiêu cực. Do phần lớn số lao động nông thôn
không qua đào tạo về chuyên môn kỹ thuật nên hầu hết lực lượng này chấp
nhận làm các công việc đơn giản, nặng nhọc (thơ xây, đạp xích lô, cửu vạn,
bốc vác...). Do xuất thân từ nền sản xuất nông nghiệp lại mang lối sống tự do,
thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, lực lượng lao động này có những thói quen tùy
tiện làm phức tạp thêm trật tự an ninh xã hội, dễ mắc các tệ nạn xã hội.
Nguyên nhân thất nghiệp và thiếu việc làm của lực lượng lao động ở
nông thôn Hà Nội
Qua thực trạng việc làm của người lao động nói chung và người lao
động ở nông thôn nói riêng, chúng ta thấy rằng trong những năm qua tình
hình việc làm của người lao động ở nông thôn Hà Nội có nhiều chuyển biến
góp phần tạo ra sự ổn định, phát triển và nâng cao đời sống cho người lao
động nông thôn. Tuy nhiên đến năm 2010 số người thất nghiệp ở khu vực
nông thôn Hà Nội vẫn còn chiếm số lượng tương đối lớn. Số người thiếu việc
làm ở nông thôn là 265861 người, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực
nông thôn còn thấp so với nhiều tỉnh khác trong vùng (khi tính toán số liệu
gồm tỉnh Hà Tây cũ) với tỷ lệ 76,7%. Sở dĩ còn tồn tại tình trạng đó là do
những nguyên nhân sau đây:
Một là, lực lượng lao động ở nông thôn Hà Nội hoạt động trong lĩnh
vực nông nghiệp là chủ yếu nên đời sống của người lao động còn gặp rất
nhiều khó khăn và chưa ổn định. Tình trạng lao động dôi dư còn tồn tại ở
nhiều địa phương do có tình trạng chuyển đổi mục đích sử dụng đất phát triển
các khu công nghiệp, các trung tâm dịch vụ thương mại, chế biến lương thực,
64
thực phẩm. Đối tượng lao động này do chưa được đào tạo nghề, chưa biết
việc một cách thuần thục; do trình độ học vấn còn hạn chế nên không có điều
kiện nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật nên gặp nhiều khó khăn trong
khâu tìm kiếm việc làm.
Hai là, quỹ đất ở một số vùng nông thôn đã bị thu hep do nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp, đất ở các khu vực nông thôn phục vụ cho nhu cầu xây
dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia. Việc chuyển đổi mục đích sử
dụng đất là tất yếu, phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phù hợp với lao
động trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhưng việc thu hẹp đất ở
khu vực nông thôn đặc biệt là đất sản xuất nông nghiệp đã làm nảy sính nhiều
vấn đề kinh tế xã hội bức bách ở nhiều địa phương, trong đó nổi cộm là vấn
đề việc làm của người lao động sau khi bị thu hồi đất. Kết quả điều tra tình
hình nông dân mất đất do đô thị hóa và phục vụ các công trình phúc lợi từ
năm 2006 đến năm 2010 được phân tích qua bảng 2.9. Từ năm 2006 đến năm
2010, Hà Nội đã có 178205 hộ có diện tích bị lấy ra để sử dụng với mục đích
khác và số diện tích đất thu hồi lên đến 5201 ha dẫn đến 197000 lao động
nông nghiệp bị mất việc, bình quân 1 ha diện tích đất bị thu hồi sẽ làm cho 20
lao động bị mất việc.
Khi những lao động nông thôn bị thu hồi đất, họ có rất ít cơ hội được
cấp lại đất để tiếp tục sinh sống bằng nghề cũ dẫn tới hàng chục nghìn người,
chủ yếu là nông dân không có hoặc thiếu việc làm, không có hoặc giảm thu
nhập. Điều đáng chú ý là trong số những người mất việc này, nhóm người bị
ảnh hưởng nhiều nhất là từ 35 tuổi trở lên (chiếm khoảng 50%) là nhóm
người gặp nhiều khó khăn trong việc đào tạo lại nghề, chuyển đổi nghề mới.
Đa số các hộ dân nằm gần các trục giao thông chính phải chuyển sang buôn
bán, chạy chợ, làm thêm nhiều việc như vận tải, thợ mộc, thợ nề... và số khác
ra thành phố kiếm sống.
65
Theo kết quả điều tra của Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, tại
các vùng bị thu hồi đất do đô thị hóa và xây dựng khu công nghiệp ở Hà Nội
tỷ lệ lao động không được đào tạo nghề, không có chuyên môn rất cao là
76,2%, tỷ lệ lao động không có việc làm trước khi thu hồi đất là 4,7% đã tăng
lên 12,4% sau khi thu hồi đất, số người không có việc làm tăng, cơ cấu nghề
nghiệp thay đổi, số người chuyển sang buôn bán tăng 2,72%, làm xe ôm tăng
3,64%, số người làm công việc khác tăng 4,1%, trong khi số người gắn với
các khu công nghiệp chỉ tăng 2,97%.
Bảng 2.9: Tình hình nông dân mất đất do đô thị hóa và phục vụ các công
trình kinh tế, phúc lợi thành phố Hà Nội từ năm 2006 đến năm 2010
Đơn vị TT Chỉ tiêu Số lượng tính
1 Tổng số hộ có diện tích đất bị lấy Hộ 178205
2 Tổng số diện tích bị lấy Ha 5201
Tổng số lao động bị mất việc do thu hồi đất Lao động 197000 3 Trong đó:
- Số lao động đã bố trí được việc làm mới Lao động 59100
- Số lao động đang được đào tạo chuyển Lao động 99262 đổi nghề
- Số lao động thất nghiệp không bố trí được Lao động 60138 việc làm
Nguồn: [30, tr.31-32].
Ba là, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, dẫn đến phân
công lao động chưa hợp lý, phần lớn lao động ở nông thôn gắn với lĩnh vực
nông nghiệp là chính. Còn đối với khu vực dịch vụ và việc phảt triển tiểu thủ
công nghiệp tuy đã hình thành và phát triển ở một số khu vực nhưng nhìn
chung thu nhập cho người lao động vẫn còn thấp nên tỷ lệ số giờ làm việc vẫn
chưa cao đã dẫn đến tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn Hà Nôi.
66
Bốn là, công tác đào tạo nghề của Hà Nội hiện nay còn nhiều bất cập,
cơ cấu ngành chưa hợp lý, chưa thực sự gắn công tác dạy nghề với giải quyết
việc làm. Vì thế người lao động còn nhiều khó khăn, lúng túng trong định
hướng lựa chọn ngành nghề nhất là đối với lực lượng lao động trẻ ở nông
thôn. Việc dạy nghề vẫn nặng về lý thuyết sách vở chưa gắn với yêu cầu của
thị trường, các cơ sở đào tạo còn chú trọng dạy "cái ta có" chứ chưa chú ý đến
"dạy cái thị trường cần". Chất lượng giáo dục tại nhiều trường công lập chưa
đạt yêu cầu, do chưa gắn với nhu cầu của sản xuất, kinh doanh, nhiều người
học xong vẫn không tìm được việc làm hoặc nơi tiếp nhận họ phải tốn thêm
thời gian và kinh phí để đào tạo lại. Tình trạng trên cũng do nguyên nhân là
do các trường này thiếu trang thiết bị cần thiết cho việc dạy và học, thiếu kinh
phí, thiếu thầy giỏi, địa điểm tổ chức lớp không thuận tiện cho việc đi lại của
học viên. Trong thời gian từ năm (2006 - 2010) tại Hà Nội lực lượng lao động
ở nông thôn mỗi năm được đào tạo 25.980 người trong đó đào tạo dài hạn là
8050 người. Việc đào tạo nghề cho lao động ngoại thành chủ yếu là đào tạo
nghề ngắn hạn và số lao động này cũng chỉ tìm kiếm được việc làm khoảng
3500 người mỗi năm.
Năm là, kỹ năng và kiến thức làm ăn của người lao động nhất là người
lao động ở khu vực nông thôn chưa theo kịp những đòi hỏi khắt khe của cơ chế
thị trường. Đây là lực lượng lao động chịu rủi ro cao lại thường xuyên chịu
thua thiệt trong cạnh tranh. Cơ hội để họ đứng vững và phát triển sản xuất kinh
doanh ngành nghề là rất khó nên đa phần lực lượng lao động ở khu vực này là
làm nông nghiệp dẫn đến tình trạng thiếu việc làm ở khu vực nông thôn.
Khả năng phát triển kinh tế xã hội, tạo mở việc làm ở khu vực nông
thôn còn nhiều hạn chế. Do trình độ và khả năng nhận thức, ứng dụng khoa
học công nghệ, tiềm năng vốn, quy mô và trình độ phát triển, thị trường hạn
hẹp do mức sống của người dân nói chung còn thấp, cơ sở hạ tầng chưa phát
triển nên khu vực nông thôn ít hấp dẫn với việc đầu tư vốn của các doanh
67
nghiệp. Những dự án đầu tư cho nông thôn thường là những dự án nhỏ. Chính
vì vậy, vẫn chưa thu hút được nhiều lực lượng lao động cho khu vực này.
2.3. Đánh giá chung về hoạt động giải quyết việc làm cho người lao
động ở nông thôn thành phố Hà Nội
2.3.1. Những kết quả đạt được
Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trên cơ sở vừa phát triển nông
nghiệp, vừa phát triển nhanh công nghệ, dịch vụ (đặc biệt là công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn) như một hướng cơ bản để giải
quyết việc làm ở khu vực nông thôn.
+ Ngành nông nghiệp
Lực lượng lao động ở nông thôn Thành phố Hà Nội chủ yếu làm việc
trong lĩnh vực nông nghiệp. Trong thời gian qua nông nghiệp ở nông thôn
Thành phố Hà Nội đã có bước phát triển cao theo hướng nông nghiệp sản xuất
hàng hóa lớn nhằm khai thác và phát huy thế mạnh của địa phương. Cơ cấu
sản xuất nông nghiệp đã được chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng ngành
trồng trọt, tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi và dịch vụ, đã tạo ra được cơ sở kinh
tế bước đầu đối với vấn đề giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho lao động
nông thôn. Theo số liệu thống kê cho thấy tổng giá trị sản xuất ngành trồng
trọt đã giảm từ 68,21% năm 2005 xuống còn 63,71% năm 2009. Giá trị sản
xuất ngành chăn nuôi tăng từ 29,35% năm 2005 lên 32,18% năm 2009 và dịch
vụ trong nông nghiệp tăng từ 2,44 năm 2005 lên 4,11% năm 2009 [12, tr.101-
102]. Như vậy, cơ cấu kinh tế trong nội bộ ngành nông nghiệp đã chuyển dịch
theo hướng tiến bộ. Ngành trồng trọt đã xóa bỏ tình trạng độc canh cây lương
thực, phát triển các giống cây trồng có giá trị kinh tế cao đáp ứng cho nhu cầu
tiêu dùng và xuất khẩu. Năm 2009 Hà Nội đã có diện tích trồng lúa là 103211
ha, diện tích trồng ngô là 7666 ha, đỗ tương là 1960 ha, lạc là 5705 ha. Ngoài
ra còn các gống cây trồng có giá trị kinh tế như: bưởi, nhãn, xoài… vv, được
trồng ở nhiều địa phương của Thành phố và được đầu tư phát triển đã tạo
68
được nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và cải thiện đời sống.
Ngành chăn nuôi được đầu tư phát triển theo hướng tăng tỷ trọng bình quân
và chất lượng gia súc xuất chuồng. Nhiều mô hình chăn nuôi với quy mô lớn
mang lại hiệu quả kinh tế cao được nhân rộng như ở Ba Vì, Hoài Đức, Phú
Xuyên. Tỷ trọng giá trị ngành chăn nuôi trong nông nghiệp tăng từ 29,3%
năm 2006 tăng lên 32,5% năm 2010. Trong những năm tới Hà Nội xác định
phát triển ngành chăn nuôi là khâu cơ bản trong tạo việc làm cho lao động
nông thôn.
Bên cạnh đó, chủ trương của Thành phố trong việc khuyến khích các
hộ nông dân đầu tư mở rộng trang trại với quy mô lớn, vừa và nhỏ được ưu
tiên vay vốn tập trung vào sản xuất với lãi suất thấp, đã mở ra cơ hội thuận lợi
cho việc giải quyết việc làm và đẩy mạnh xuất khẩu. Diện tích nuôi trồng thủy
sản không ngừng được mở rộng từ 3516 ha năm 2006 lên 5645 ha năm 2010
chủ yếu là nuôi cá nước ngọt, ba ba, ếch… và những sản phẩm có giá trị cao
phục vụ đời sống và xuất khẩu. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông
nghiệp thuần nông sang chăn nuôi đã tạo cơ sở thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi
cơ cấu sản xuất, cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn sang nền sản
xuất hàng hóa lớn phát huy tối đa tiềm năng và thế mạnh của nông thôn
Thành phố Hà Nội.
+ Ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.
Giá trị sản xuất công nghiệp và TTCN tăng bình quân từ năm 2006 đến
2010 là 35,6%, giá trị tăng lên là 39,2%. Bên cạnh đó công nghiệp nông thôn
Hà Nội cũng có bước phát triển mới, toàn Thành phố có trên 40000 doanh
nghiệp, cơ sở công nghiệp nông thôn thu hút trên 300.000 lao động làm việc
thường xuyên và hàng trăm nghìn lao động làm việc trong thời gian nông
nhàn. Với qui mô nhỏ, cơ cấu vốn không lớn nên phù hợp với khả năng nhiều
gia đình, dễ thu hút và huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân để đầu tư cho
sản xuất: nhiều nghề thủ công nên có khả năng tận dụng lao động nông
69
thôn… Do đó, công nghiệp nông thôn cũng đang đóng vai trò không nhỏ
trong quá trình thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ngoại thành
theo hướng công nghiệp hóa, đồng thời giảm sức ép cho khu vực nội đô…
Sản xuất tiểu thủ công nghiệp và các làng nghề truyền thống từng bước
được phục hồi. Toàn thành phố hiện có 1.350 làng có nghề, trong đó có 244
làng nghề truyền thống và 272 làng nghề được công nhận. Ngành nghề và sản
phẩm làng nghề Hà Nội rất đa dạng, phong phú và gần như đầy đủ các nhóm
nghề theo hệ thống phân ngành của Cục Thống kê. Nhiều nhất là các nghề:
chế biến lương thực thực phẩm, tập trung ở huyện Thanh Trì, Hoài Đức,
Thanh Oai; chế biến gỗ, lâm sản ở huyện Đông Anh, Thường Tín, Thạch
Thất, Đan Phượng; sản xuất hàng mây, tre, giang đan, guột tế tại huyện
Chương Mỹ, Sóc Sơn, Thanh Trì, Thanh Oai, Phú Xuyên... và nhiều nghề
khác như dệt may, da giày, gốm sứ, đúc đồng, cơ kim khí. Cơ sở hạ tầng công
nghệ, tiểu thủ công nghiệp được cải thiện; làng nghề tập trung được quy
hoạch, đầu tư và xây dựng đã đi vào hoạt động. Số lao động được sử dụng
trong các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng tăng đều các
năm 1274839 năm 2006 lên 1675255 năm 2010, trong đó lực lượng lao động
nông thôn là 1658720 người.
- Ngành dịch vụ:
Cùng với việc phát triển nền kinh tế thị trường, việc phát triển sản xuất,
mở rộng các loại hình dịch vụ của thủ đô ngày càng đa dạng hóa, chất lượng
dịch vụ có nhiều chuyển biến đã xuất hiện nhiều loại hình dịch vụ mới như
dịch vụ tư vấn, dịch vụ môi giới việc làm, môi giới nhà đất, du học, dịch vụ
xuất khẩu lao động, cho thuê nhà ở sinh viên, công nhân… Các sản phẩm dịch
vụ này phát triển khá nhanh, chất lượng ngày một nâng cao, đáp ứng nhu cầu
xã hội, tạo nhiều việc làm mới và thu hút nhiều lao động, có tác dụng tích cực
đối với việc phát triển kinh tế xã hội Thủ đô. Mức đóng góp của dịch vụ Hà
70
Nội vào tổng giá trị dịch vụ cả nước tăng 10,3% năm 2006 lên 11,8% năm
2010.
Trong cơ cấu giá trị sản xuất dịch vụ có sự chuyển biến theo hướng
phục vụ nhiều hơn cho sản xuất kinh doanh: tỷ trọng ngành vận tải, kho bãi,
thông tin liên lạc tăng mạnh từ 9,1% (năm 1990) lên 32,65% (năm 2005); tỷ
trọng tài chính tín dụng tăng từ 2,9% lên 6,56%, tỷ trọng kinh doanh bất động
sản tăng lên từ 6% tăng lên 9,1% trong những năm tương ứng.
Về thương mại:
Ở khu vực nông thôn hoạt động thương mại dịch vụ có bước phát triển
mới, nhiều loại hình kinh doanh dịch vụ như: cung ứng hàng tiêu dùng, vật tư,
thu gom nông sản, sửa chữa công cụ, đồ dùng phục vụ sinh hoạt xuất hiện phổ
biến trong từng thôn xóm. Từ đó đã và đang hình thành các tụ điểm kinh tế,
các thị tứ, chợ nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn và
giải quyết việc làm cho người lao động. Số lao động làm việc trong các lĩnh
vực thương mại, dịch vụ của Thành phố tăng nhanh từ 121213 người năm
2006 tăng lên 154323 người năm 2010, trong đó lực lượng lao động nông
thôn làm kinh tế dịch vụ là 45765 người chiểm 29,65% [12, tr.112].
- Đã phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế trong việc
giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Nội
Trong những năm qua các thành phần kinh tế ở Hà Nội đã có bước
chuyển biến, phát triển mạnh mẽ, góp phần giải phóng mọi tiềm năng phát
huy lợi thế của Thành phố và giải quyết việc làm cho người lao động nhất là
người lao động ở nông thôn.
Số liệu bảng 2.10 cho thấy số lao động làm việc trong khu vực kinh tế
Nhà nước chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ, chủ yếu là lao động ở thành thị. Lao
động nông thôn làm việc trong kinh tế Nhà nước chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ (3,15%)
điều đó phản ánh nhận thức của người lao động về vấn đề việc làm trong cơ
chế thị trường. Và số lao động này sắp tới sẽ giảm xuống cùng với quá trình
71
cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước và quá trình đổi mới sắp xếp doanh
nghiệp ở Hà Nội.
Bảng 2.10: Số người và cơ cấu số người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm
của Hà Nội phân theo thành phần kinh tế năm 2009.
Đơn vị tính: Người
Khu vực Chung toàn TP Thành thị Nông thôn
Số Loại Số lượng % Số lượng % % lượng hình kinh tế
Nhà nước 618886 28.15 495752 37.45 123134 10.42
Tập thể 4842 0.19 1241 0.09 3601 0.30
Tư nhân 428930 17.11 278171 20.99 150759 12.76
Cá thể hộ gia 1354622 54.55 518351 39.12 836271 70.78
đình
Có vốn đầu tư 98764 3.94 31215 2.35 67549 5.71
nước ngoài
Nguồn: [12, tr.131-154].
Các thành phần kinh tế ngoài khu vực nhà nước có vai trò to lớn trong
đầu tư tạo ra sản phẩn và tạo việc làm. Theo báo cáo đánh giá tình hình phát
triển doanh nghiệp ở Hà Nội năm 2009 toàn thành phố có 30000 doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, sử dụng 76,7% số lao động làm việc tại các cơ sở
kinh tế với số lượng 757865 người tập trung chủ yếu ở kinh tế tập thể và kinh
tế tư nhân. Khu vực có nhiều lao động tham gia làm việc nhất vẫn là kinh tế
cá thể hộ gia đình. Ở thành thị khu vực này sử dụng 54,55% tổng số lao động,
ở nông thôn khu vực này sử dụng 70,78%. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài ở Hà Nội còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong toàn bộ GDP của thành
phố. Trong thời gian vừa qua, thành phố đã cấp giấy phép cho các doanh
72
nghiệp nước ngoài đầu tư vốn vào sản xuất kính doanh nhưng khả năng thu
hút lao động vào làm việc trong các doanh nghiệp này còn thấp. Năm 2009,
lao động làm việc trong các thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Hà
Nội chỉ có 98764 người, chiếm 5,71% (Bảng 2.10).
- Giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Nội trong
khu vực phi chính thức.
Trong nền kinh tế thị trường khu vực phi chính thức có điều kiện phát
triển rộng rãi. Đây là lĩnh vực có ưu thế trong tạo việc làm cho người lao động
nhất là lao động nữ ở nông thôn trong lúc nông nhàn. Khu vực kinh tế phi
chính thức bao gồm các hoạt động sản xuất kinh doanh có quy mô nhỏ, vốn ít,
lao động thủ công là chính, dễ đào tạo hoặc không cần phải qua đào tạo; khối
lượng sản phẩm nhỏ, đặc điểm kinh doanh không cố định. Hoạt động sản xuất
trong khu vực nay có tính lính hoạt cao, có thể dễ dàng di chuyển lao động.
Các chủ cơ sở sản xuất kinh doanh chủ yếu tự hành nghề, sử dụng lao động
gia đình, có thuê thêm một vài lao động. Đặc điểm đó của hoạt động sản xuất
kinh doanh trong khu vực này rất phù hợp với lực lượng lao động ở khu vực
nông thôn. Tranh thủ lúc nông nhàn người lao động có thể chạy chợ, kinh
doanh dịch vụ ăn uống, kinh doanh may mặc... tại các chợ nông thôn, thị tứ,
thị xã.
Theo số liệu điều tra Sở Lao động Thương binh Xã hội Hà Nội, số
người tham gia trong lĩnh vực kinh doanh tư nhân và dịch vụ cá thể tăng từ
156272 người năm 2003 lên 198721 người năm 2008. Trong đó lực lượng lao
động nông thôn chiếm đa số là lực lượng lao động nữ [42, tr.35].
Hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế phi chính thức chủ
yếu là tự tạo việc làm cho người lao động nghèo, đa số phu nữ nông thôn,
công việc có thu nhập thấp không ổn định, điều kiện làm việc còn vất vả. Vì
thế người lao động phải làn việc nhiều giờ trong ngày, nhiều ngày trong tháng
để nâng cao thu nhập cho gia đình.
73
Có thể nói, điều kiện làm việc của lao động nông thôn trong khư vực
phi kinh tế còn nghèo nàn, với kỹ thuật thủ công năng suất thấp. Nhưng trước
mắt sự phát triển của khu vực kinh tế này sẽ tạo việc làm, khắc phục tình
trạng thiếu việc làm của lao động nông thôn và tăng thu nhập cho gia đình họ.
Mặt khác, sự phát triển sôi động những hoạt động sản xuất kinh doanh trong
khu vực này sẽ tạo điều kiện cho người lao động ở nông thôn thích ứng với cơ
chế thị trường, nhanh nhạy trong tìm kiếm cơ hội có việc làm và phát triển
nhận thức mới về việc làm.
- Giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Nội qua
chương trình quốc gia xúc tiến việc làm
Số lao động nông thôn tăng dần trong các ngành nghề và khu vực kinh
tế. Năm 2005, lao động làm việc trong các ngành kinh tế ở khu vực nông thôn
là 986213 đến năm 2009 đã tăng lên 1354622. Trung bình mỗi năm khu vực
nông thôn tạo ra 5 vạn chỗ làm mới cho người lao động [12, tr.25].
Huy động và nâng cao hiệu quả nguồn vốn giải quyết việc làm.
Để phát triển kinh tế, tạo nhiều việc làm cho người lao động, nhất là tạo
việc làm cho người lao động ở nông thôn, các cấp lãnh đạo của Thành phố đã
xác định Hà Nội cần tranh thủ sự giúp đỡ của các cấp ngành và thực hiện tốt
chính sách tạo vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Ttrong 5 năm (2004 - 2009) Thành phố đã huy động nguồn vốn cho sản
xuất và giải quyết việc làm là 3235 tỷ đồng. Trong đó vốn chương trình xóa
đói giảm nghèo và giải quyết việc làm là 1125 tỷ đồng, tổng kinh phí bổ sung
quỹ giải quyết việc làm là 2130 tỷ đồng. Bình quân hàng năm cho vay hơn
2000 dự án, giải quyết việc làm mới cho hơn 2 vạn lao động. Riêng năm 2009
Ngân hàng chính sách xã hội cùng với ngành Lao động thương binh xã hội đã
phối hợp với các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức thẩm định cho vay 1357 dự
án với số tiền là 350 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho hơn 2 vạn lao động.
74
Bảng 2.11: Vốn quốc gia thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo
và giải quyết việc làm ở Hà Nội (2004 - 2009)
Đơn vị tính: Triệu đồng
Năm
2005 2006 2007 2008 2009
Tổng 5 năm 2005 - 2009 Chương trình, dự án đầu tư
Tổng 1483 2300 2230 2600 5080 6018,8
Dự án thực hiện 200 400 300 500 800 2400
Đào tạo xã nghèo 500 500 500 500 500 2500
làm XĐGN
Hướng dẫn người 30 100 80 210
nghèo làm ăn
Hướng dẫn khuyến 600 600 600 600 2400
nông, khuyến lâm
Hỗ trợ phát triển 1000 1000
ngành nghề
Hỗ trợ trung tâm 1000 1000
xúc tiến việc làm
Bổ sung quỹ vốn 783 800 800 900 1100 4383
vay giải quyết việc
làm
Nguồn: [29, tr.23-24]
Qua bảng số liệu 2.11 có thể thấy tổng nguồn vốn thực hiện chương
trình xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm ở Hà Nội trong 5 năm (2004 -
2009) là 6018,8 tỷ đồng. Nguồn vốn trên được huy động thông qua ngân sách
của Trung ương và ngân sách địa phương hỗ trợ cho công tác các hoạt động
75
khuyến nông, khuyến lâm. Nguồn vốn đã được luân chuyển kịp thời đáp ứng
nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Sở lao động -
Thương binh xã hội là cơ quan thường trực kết hợp với Sở Kế hoạch Đầu tư,
Sở Tài chính - Vật giá, duyệt các dự án cho vay.
Trong thời gian qua, Hà Nội đã tranh thủ tối đa mọi thuận lợi, tìm mọi
giải pháp phát triển ngành nghề trên địa bàn để tạo mở việc làm cho người lao
động, trong đó công tác xuất khẩu lao động được coi trọng là công tác mũi
nhọn là giải pháp hữu hiệu nhằm giải quyết việc làm cho người lao động, nhất
là lao động ở nông thôn, xuất khẩu lao động sẽ mang lại nguồn thu ngoại tệ,
góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực và xây dựng đội ngũ lao động có tay nghề cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa địa phương.
Những năm qua, thực hiện Chỉ thị số 15/2002 UBND Thành phố về
tăng cường quản lý và tổ chức công tác xuất khẩu lao động trên địa bàn Thành
phố và Chỉ thị 45/CT.TU của thành phố về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác xuất khẩu lao động ra nước ngoài, công tác xuất khẩu lao
động ở Hà Nội đã đạt nhiều kết quả tích cực. Hiện nay toàn Thành phố đã có
26 đơn vị trực tiếp xuất khẩu lao động. Năm 2007, thành phố đã xuất khẩu lao
động trên 11255 lao động. Năm 2008 thành phố xuất khẩu lao động 12575 lao
động đi các nước Đài Loan, Hàn Quốc, Malaixia, Nhật. Năm 2009 mặc dù
tình hình thế giới có nhiều biến động, nhưng chỉ 10 tháng đầu năm thành phố
đã đưa 9405 người. Từ năm 2005 đến năm 2010, thành phố đã xuất khẩu lao
động được 45215 người. Trong đó 3 doanh nghiệp xuất khẩu lao động trực
tiếp được 16571 người chiếm 36,64%; 7 doanh nghiệp tạo nguồn xuất khẩu
lao động 14512 người, chiểm 32,09% và 6 trung tâm dịch vụ việc làm xuất
khẩu lao động 14132 người chiếm 31,27%.
Người lao động ở nông thôn Hà Nội chủ yếu xuất khẩu sang các nước:
+ Đài loan: 12311 người chiếm 27,22%
76
+ Malaixia: 11515 người chiếm 25,46%
+ Hàn Quốc: 6955 người chiếm 15,38%
+ Khu vực Trung Đông: 5756 người chiếm 12,73%
+ Các nước khác: 8678 người chiếm 19,21% [43, tr.9].
Theo báo cáo của Sở Lao động - Thương bình và Xã hội, bình quân
mỗi năm số người đi xuất khẩu lao động đưa về cho thành phố nguồn thu là
700 tỷ đồng.
Như vậy, trong những năm qua, công tác xuất khẩu lao động ở Hà Nội
đã giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động, chủ yếu là lao động ở nông
thôn và tạo ra nguồn thu đáng kể cho thành phố. Năm 2005 Hà Nội là thành
phố có lao động xuất khẩu lớn thứ hai cả nước.
Năm 2007, công tác xuất khẩu lao động ở Hà Nội được Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội quan tâm, cử nhiều đoàn đến nghiên cứu và học tập
kinh nghiệm. Điển hình xuất khẩu lao động ở Hà Nội là mô hình xã Tích
Giang, huyện Phúc Thọ. Tích Giang là một xã nghèo nằm phía Tây Hà Nội,
diện tích tự nhiên là 1756,54 ha. Toàn xã có 3813 hộ với 13131 nhân khẩu.
Diện tích đất nông nghiệp của xã chỉ chiếm 61% (996 ha) người dân chủ yếu
sống phụ thuộc vào ruộng đồng. Trước năm 1996 đời sống của nhân dân
trong xã vô cùng khó khăn, gần 40% hộ đói, trên 200 hộ 1259 nhân khẩu phải
chuyển sang làm các công việc khác. Vào năm 1997 nắm bắt được chủ trương
của Đảng và Nhà nước về xuất khẩu lao động, Tích Giang đã nhanh chóng
xác định xuất khẩu lao động là mũi nhọn kinh tế - xã hội nhằm xóa nhanh tình
trạng đói nghèo và tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế bền vững. Công tác
xuất khẩu lao động được phổ biến rộng rãi trong nhân dân thu hút nhiều
người, nhiều nhà chú ý, hăng hái tham gia. Cuối năm 1998, đầu năm 1999
toàn xã chỉ có 15 đến 20 lao động làm việc tại Hàn Quốc, sau đó tăng dần lên.
Tại thời điểm đó chi phí cho một lao động xuất khẩu chỉ hết 10 đến 15 triệu
đông Việt Nam nhưng thu nhập hàng tháng từ 500 đến 600 USD (chưa tính
77
đến tiền thưởng sau một kỳ hợp đồng/năm). Như vậy, trừ chi phí ban đầu, mỗi
năm lao động sẽ có thu nhập từ 100 đến 120 triệu đồng. Nguồn thu nhập cao
đã thu hút lực lượng lao động, nhất là lao động chưa có việc làm ở Tích Giang
đi xuất khẩu lao động. Đến năm 2000, số người đi xuất khẩu lao động của xã
đã tăng lên 200 lượt và số dư tại các nước là 380 người. số lao động đó đã đưa
về cho xã nguồn thu 10 tỷ đồng góp phần giảm tỷ lệ hộ đói nghèo xuống còn
20%, tăng hộ khá, giàu lên 25%.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động, từ 2005 đến 2009 số
lượng người xuất khẩu lao động ở Tích Giang đã tăng lên 500 lượt. Tại thời
điểm tháng 7 năm 2009 xã có 700 người đang làm việc ở nước ngoài, số lao
động đó đã đưa lại nguồn thu từ xuất khẩu lao động cho xã là 14 tỷ đồng, tăng
nguồn thu của xã từ 21 tỷ đồng năm 2005 lên 35 tỷ đồng năm 2009.
Có nguồn vốn UBND xã quyết định tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng và phát triển nhiều ngành nghề, tạo mở nhiều việc làm tại chỗ cho người
lao động. Hiện nay, Tích Giang đã bê tông hóa 15 km đường liên thôn, liên
xã, 58/69 phòng học cao tầng và kiên cố, xây dựng trung tâm học tập cộng
đồng, trạm y tế, 12 km kênh mương nội đồng, đầu tư phát triển các hợp tác xã
gia công các mặt hàng may mặc và mô hình trồng hoa cây cảnh. Điều quan
trọng xã đã có hội đồng quản trị quỹ tín dụng với nguồn vốn 50 tỷ đồng để
cho vay sản xuất và xuất khẩu lao động theo cơ chế cho vay theo ngân hàng
quản lý.
Những kết quả trên đã góp phần tạo nên những thành tựu to lớn trong
phát triển kinh tế - xã hội của xã giảm số lao động thiếu việc làm từ 30% năm
2000 xuống còn 12,1% năm 2009. Tỷ lệ hộ giàu tăng từ 7% năm 2000 lên
31,5% năm 2009. Trong đó 100% số hộ có nhà ngói và dùng điện, 100% hộ
có phương tiện nghe nhìn, bình quân 3,4 hộ có 1 máy điện thoại, tình hình an
ninh trật tự và quốc gia được ổn định.
78
Những thành tựu trên là kết quả của nhiều hoạt động công tác trong đó
công tác xuất khẩu lao động chính là công tác mũi nhọn và có đóng góp to lớn
vào hoạt động kinh tế của địa phương và thực hiện nhiệm vụ chính trị của xã.
Để đạt được kết quả đó, trong những năm qua, Tích Giang đã chỉ đạo
công tác xuất khẩu lao động theo những hướng sau:
Một là, cử cán bộ chuyên trách có năng lực và nhiệt tình, thường xuyên
bám sát Cục hợp tác quốc tế về lao động và các công ty xuất khẩu lao động để
xin chỉ tiêu và trực tiếp ký hợp đồng cung ứng lao động.
Hai là, tập trung nguồn vốn theo phương châm tạo nguồn, sử dụng và
bổ sung nâng nguồn vốn cho xuất khẩu lao động. Cho phép dùng tín chấp để
con em trong xã vay vốn đi xuất khẩu lao động. Đồng thời xã đứng ra xây
dựng tổ liên hợp gia công, nêu trách nhiệm cho gia đình, dòng họ, thành lập
mỗi tổ từ 5 đến 7 gia đình tương trợ nhau, tạo vốn luân phiên hỗ trợ người đi
xuất khẩu lao động.
Ba là, xã có quy chế xử lý vi phạm hợp đồng ký kết với từng người đi
xuất khẩu lao động, đồng thời kết hợp với công ty xử lý đúng mức và đòi bồi
thường đầy đủ các thiệt hại vật chất do hành vi vi phạm của người bỏ hợp
đồng với phía bạn gây ra.
Bốn là, thường xuyên giáo dục truyền thống đạo đức của con người
Việt Nan với tác phong lao động công nghiệp trong xuất khẩu lao động để
người lao động chấp hành nghiêm túc luật pháp và phong tục tập quán nước
sở tại và pháp luật Việt Nam, làm giàu chính đáng và về nước đúng hạn, tiếp
tục lao động đóng góp cho quê hương.
Trong những năm tới Tích Giang xác định xuất khẩu lao động từ 70
đến 80 người/năm, đưa tổng thu nhập từ xuất khẩu lao động tăng từ 21 tỷ năm
2010 lên 32 tỷ vào năm 2015.
79
Thực hiện chủ trương đó 3 tháng đầu năm 2011, Tích Giang đã xuất
khẩu 40 người đi làm việc tại Hàn Quốc, Đài Loan và các nước khu vực
Trung Đông.
Như vậy, công tác xuất khẩu lao động đã tạo việc làm cho hàng trăm
lao động, và mô hình xuất khẩu lao động ở Tích Giang đã để lại những kinh
nghiệm quý báu cho xuất khẩu lao động. Đó là, một mặt, có đội ngũ cán bộ
chuyên trách có đầy đủ năng lực, trình độ, và nhiệt tình đảm nhận công tác
xuất khẩu lao động. Mặt khác, phải huy động sức mạnh của cả cộng đồng để
tạo nguồn vốn cũng như tạo uy tín cho cơ sở làm công tác xuất khẩu lao động.
Nhất là mô hình huy động và sử dụng quỹ tín dụng nhân dân theo phương
châm tạo nguồn, sử dụng và bổ sung, nâng nguồn vốn cho xuất khẩu lao động
đã phát huy hiệu quả tốt. Người lao động đi xuất khẩu lao động được hỗ trợ
đảm bảo về nhiều mặt nhưng đồng thời phải có ý thức trách nhiệm chấp hành
nghiêm túc hợp đồng lao động.
2.3.2. Những vấn đề đặt ra trong việc giải quyết việc làm ở nông thôn
Thành phố Hà Nội
2.3.2.1. Giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn và quá
trình đô thị hóa
Trong những năm qua, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà
Nội đã được triển khai hết sức mạnh mẽ gắn liền với quá trình hình thành các
đô thị hiện đại và thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế được diễn ra trên
toàn thành phố.
Đô thị hóa sẽ tạo điều kiên phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật cho nền
kinh tế, tăng cường mối liên kết giữa các vùng, miền, các khu vực, tạo điều
kiện cho chủ sản xuất, doanh nghiệp, nhà đầu tư phát triển sản xuất, khai thác
tiềm năng đặc biệt là tiềm năng của khu vực nông nghiệp, nông thôn; các
vùng sản xuất nông nghiệp, sản xuất nhỏ mang tính chất tự cấp tự túc trước
đây thành khu vực sản xuất hàng hóa lớn làm nguyên liệu cho công nghiệp
80
nhẹ, công nghiệp chế biến và hàng hóa cho xuất khẩu đạt hiệu quả cao. Mặt
khác, phát triển các khu đô thị, các khu công nghiệp các trung tâm văn hóa
khoa học kỹ thuật, các trung tâm thương mại dịch vụ... sẽ góp phần cung cấp
tư liệu sản xuất, máy móc, tiến bộ cho khoa học công nghệ, vốn cho nông
nghiệp và các ngành cung cấp thông tin, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm
cho nông nghiệp, nông thôn; thúc đẩy và tạo điều kiện cho nông nghiệp phát
triển theo hướng sản xuất hàng hóa, tập trung chuyên canh với quy mô lớn,
thúc đẩy quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, theo hướng tiến bộ trong xu thế
hội nhập với kinh tế cả nước, với khu vực và thế giới.
Tuy vậy, việc đẩy nhanh tiến trình đô thị hóa ở địa phương sẽ tạo ra sức
ép về việc làm nhất là đối với người lao động ở nông thôn. Bởi vì đô thị hóa
dẫn đến việc mất một phần hay toàn bộ diện tích đất nông nghiệp của người
nông dân. Chỉ tính từ năm 2001 đến năm 2008 Hà Nội triển khai 2818 dự án,
bàn giao cho chủ đầu tư 1291 dự án với 6303 ha đất, trong đó trên 80% là đất
nông nghiệp. Kết quả là có khoảng 197.000 người bị mất việc tính từ năm
2001 đến năm 2008. Mặt khác, phần lớn những vùng đất mà nhà nước thu hồi
lại chủ yếu nằm ở nông thôn như: Thạch Thất, Quốc Oai, Thường Tín,
Chương Mỹ, Hoài Đức để xây dựng các nhà máy, các khu công nghiệp và các
đô thị. Ở những vùng này người nông dân chủ yếu làm nông nghiệp, không có
ngành nghề. Do đó khi bị thu hồi đất sẽ dẫn đến tình trạng người dân không
thể tìm được việc làm và chỉ nhận được một khoản tiền đền bù. Một bộ phận
lớn người lao động dùng tiền đền bù để xây nhà, sắm đồ tiện nghi... thay vì
đầu tư sản xuất, chuyển đổi nghề hoặc học nghề. Như đã trình bày, việc thu
hồi đất nông nghiệp cho nhu cầu đô thị hóa, công nghiệp hóa đang tạo ra sức
ép rất lớn về nhu cầu giải quyết việc làm cho một bộ phận nông dân, cũng
như đang đặt ra nhiều vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp.
Tất cả những vấn đề đó đặt ra đối với Hà Nội phải có chiến lược phát
triển đô thị hóa gắn chặt với quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp nông
81
thôn, phải có chính sách đền bù thích hợp nhằm mục đích tạo ngành nghề
giúp người lao động ở nông thôn ổn định việc làm.
2.3.2.2. Trình độ người lao động ở nông thôn còn thấp, chưa đáp ứng
yêu cầu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là xu hướng chung có tính quy luật của mọi
nền kinh tế đang phát triển trong quá trình CNH, HĐH. Thực chất của xu
hướng này là quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nền kinh tế nặng về nông
nghiệp là chủ yếu sang cơ cấu kinh tế đa ngành với công nghiệp, nông nghiệp
và dịch vụ để tạo thêm việc làm tăng năng suất lao động và thu nhập của
người lao động. Đó là quá trình giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ
trọng ngành công nghiệp và dịch vụ trong tổng giá trị sản xuất và gia tăng
thêm GDP của nền kinh tế, gắn với chuyển đổi cơ cấu lao động theo hướng
giảm số lượng tuyệt đối và tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng số lượng và tỷ
trọng lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ, nhằm mục đích giải
phóng lao động ở ngành có năng suất thấp sang các ngành có năng suất cao
hơn. Từ đó, tạo ra nhiều của cải vật chất và sản phẩm dịch vụ cho xã hội. Tốc
độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động là thước đo kết quả quá trình CNH,
HĐH nền kinh tế đất nước.
Muốn chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải phóng một phần lao động nông
nghiệp, nông thôn thì yêu cầu đặt ra cho Hà Nội là phải đẩy mạnh công tác
đào tạo, dạy nghề cho người lao động; đặc biệt trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phát huy vai trò của thị trường lao động như là
nơi xử lý hiệu quả quan hệ cung - cầu lao động. Đến lượt mình, người lao
động cần ý thức được tầm quan trọng của việc học nghề và chuyển đổi nghề
khi Hà Nội là địa phương đi đầu cả nước trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Hà Nôi đang đặt ra những đòi hỏi với người lao động cần phải
được đào tạo, có trình độ chuyên môn ở mức độ nhất định. Trong khi đó hệ
thống đào tạo nghề cho lao động nông thôn của thành phố còn chưa đáp ứng
82
kịp cả về chất lượng và cơ sở vật chất nên người lao động gặp rất nhiều khó
khăn lúng túng trong tìm kiếm việc làm.
Mặt khác, hàng năm Hà Nội xuất khẩu 1 đến 2 vạn lao động, đa số lao
động đó phải qua đào tạo nghề. Trong khi đó công tác đào tạo nghề của Thành
phố mới chỉ có thể đáp ứng hơn 30% khoảng 3.000 người mỗi năm. Chính vì
vậy số lao động được đào tạo hàng năm của Thành phố sẽ được rút dần cho xuất
khẩu lao động, dẫn đến nguồn lao động đào tạo cho CNH, HĐH của địa phương
ngày càng thu hẹp. Thực trạng đó ở Hà Nội đòi hỏi phải đẩy mạnh công tác đào
tạo nghề, xã hội hóa công tác đào tạo nghề cho người lao động, nhất là dạy nghề
cho người lao động ở nông thôn, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của thành phố cũng như cơ cấu nông nghiệp và lao động nông thôn theo
hướng phát triển sản xuất hàng hóa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm,
nâng cao thu nhập cho người lao động và đời sống nhân dân.
2.3.2.3. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và trình độ khoa học công nghệ
trong nông nghiệp, nông thôn Hà Nội phát triển chưa đồng bộ và còn nhiều
hạn chế trong việc tạo ra việc làm cho người lao động
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn có vai trò to lớn đối với sự
phát triển chung của khu vực này. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội là
tiền đề quan trọng để phá vỡ những hoạt động kinh tế - xã hội chật hẹp trong
các làng xã, tạo điều kiện mở rộng giao lưu giữa vùng này với vùng khác,
giữa nông thôn với đô thị. Trong nền kinh tế thị trường, kết cấu hạ tầng kinh
tế xã hội ở nông thôn là điều kiện để phát triển sản xuất hàng hóa, lưu thông
trao đổi sản phẩm nông nghiệp, mở rộng thị trường nông thôn, biến những
vùng sản xuất nông nghiệp nhỏ hẹp, tự cấp tự túc thành những vùng sản xuất
hàng hóa, những trung tâm kinh tế, những cụm ngành nghề, hình thành những
thị trấn, thị tứ, tạo ra những điểm thu hút đầu tư cho phát triển sản xuất, nhằm
chuyển đổi cơ cấu ngành nghề cho lao động nông thôn.
83
Mặt khác, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội là điều kiện để đẩy
mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, nông
thôn như thực hiện cơ giới hóa, thủy lợi hóa, điện khí hóa, ứng dụng công
nghệ sinh học trong sản xuất. Ứng dụng thành tựu của khoa học - công nghệ
trong sản xuất nông nghiệp, nông thôn, một mặt, giải phóng sức sản xuất cơ
bắp cho người lao động, làm tăng năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh,
nâng cao khả năng chế ngự của con người với tự nhiên; mặt khác, tạo điều
kiện để người lao động nông thôn tiếp cận với văn minh nhân loại. Ứng dụng
công nghệ trong sản xuất nông nghiệp sẽ tạo ra những sản phẩm mới làm cho
sản xuất nông nghiệp đạt năng suất cao hơn, chất lượng tốt hơn, tiết kiệm tài
nguyên và bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ là
yêu cầu tất yếu của nền nông nghiệp hiện đại.
84
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Bối cảnh phát triển mới và tác động của nó đến vấn đề giải
quyết việc làm ở nông thôn Thành phố Hà Nội
3.1.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa
đang tạo ra những cơ hội và thách thức mới với vấn đề việc làm và giải
quyết việc làm
Công nghiệp hóa được xem là con đường đi tất yếu khách quan của mọi
quốc gia chậm phát triển. Thế giới đã trải qua chặng đường CNH mấy trăm
năm và thể nghiệm đến mấy thế hệ, mô hình CNH. Có thể tạm sắp xếp như
sau: CNH thế hệ thứ nhất gồm các nước Âu Mỹ vào thế kỷ XVII - XVIII
được gọi là mô hình CNH cổ điển, CNH thế hệ thứ hai mà tiêu biểu là Nhật
Bản cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX (gọi là mô hình CNH tuần tự).
CNH thế hệ thứ ba gồm các nước NICS trong những thập kỷ 60 - 80 của thế
kỷ XX.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập không thể phủ nhận bên cạnh
những cơ hội lớn mà thời đại tạo ra cũng có nhiều thách đố gay gắt về phát
triển. Trong đó thách thức lớn nhất là đòi hỏi các nước đi sau như Việt Nam
là phải phát triển được nội lực và nhân tố năng động của chủ thể để khai thác
tối đa ngoại lực và lợi thế của người đi sau, nhằm thu hẹp khoảng cách và đạt
được sự phát triển hiện đại.
Tuy vậy, do tồn tại khoảng cách lớn về trình độ, nhất là khoảng cách
khoa học công nghệ so với các nước phát triển mà các nước đi sau phải chịu
sức ép lớn trong cuộc cạnh tranh không cân sức. Họ đứng trước yêu cầu bức
thiết về phát triển rút ngắn và đuổi kịp, nếu không sẽ bị loại khỏi cuộc chơi
85
toàn cầu hóa. Thậm chí có ý kiến lại cho rằng trong điều kiện chênh lệch quá
lớn về trình độ phát triển như ngày nay thì những nước nghèo sẽ khó theo kịp
nước giàu.
Ngoài ra, các nước phát triển hiện nay đang gia tăng sự ảnh hưởng với
các nước còn có trình độ kỹ thuật chưa phát triển. Về thực chất, hội nhập kinh
tế toàn cầu hiện nay là sự thống trị của một thiểu số các nước lớn hay các tập
đoàn xuyên quốc gia (TNCs ) ở "trung tâm" đối với "ngoại vi", thông qua việc
định ra chính sách, luật lệ, điều phối hoạt động kinh tế và trao đổi thương mại
bất lợi cho các nước nghèo.
Ở Việt Nam, sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO),
nền kinh tế nước ta lúc này phải tham gia vào sân chơi chung, vận hành theo
luật lệ thương mại và thị trường toàn cầu. CNH, HĐH hơn bao giờ hết lại nổi
lên thành nhiệm vụ trung tâm và có tính quyết định. Vấn đề là ở chỗ làm sao
nhanh chóng đưa nước ta ra khỏi tình trạng chậm phát triển, xây dựng Việt
Nam giàu mạnh trở thành quốc gia công nghiệp trong thế kỷ XXI. Hơn nữa,
Việt Nam sau hơn hai thập kỷ cải cách mở cửa và hội nhập luôn duy trì được
mức tăng trưởng cao. Nước ta đã ra khỏi nhóm nước nghèo có thu nhập thấp
và bước vào hàng các quốc gia có thu nhập trung bình. Nhưng cũng có nhiều
cảnh báo đây là giai đoạn khó khăn nhất trong phát triển. Bởi nó quyết định
hoặc chúng ta vươn lên đẳng cấp các nước phát triển cao như các nước Tây
Âu, Nhật Bản hay Đông Á, hoặc sẽ nằm trong quỹ đạo "bẫy thu nhập trung
bình" và "trần công nghệ thấp" như các nước Đông Nam Á và nhiều nước
châu Mỹ la tinh.
Thực tế đó đang đặt ra cho Thủ đô Hà Nội những thách thức cần giải
quyết. Hà Nội có chỉ số công nghiệp cao hơn của cả nước 1,5 đến 1,7 lần,
khoảng cách về trình độ phát triển của Hà Nội so với các nước trong khu vực
ước chừng chậm hơn từ 10 đến 15 năm. Như vậy, trong khoảng thời gian từ
năm 2010 đến năm 2015 để đạt trình độ hiện đại của một số nước CNH trong
86
khu vực, thì Hà Nội cần nâng tốc độ tăng trưởng lên cao hơn nữa so với mức
khoảng 10%/năm như hiện nay. Tuy vậy, sẽ là thách thức lớn đối với một nền
kinh tế "quá nóng".
Xét trên phương diện công nghiệp hóa dựa vào nguồn lực nông nghiệp,
nông thôn cũng là mô hình có uu thế cạnh tranh ở Việt Nam, tao được sự phát
triển bền vững. Chúng ta cần phải công nghiệp hóa theo con đường phát triển
mạnh công nghiệp chế biến để nâng giá trị gia tăng nông sản trong phát triển
kinh tế nông thôn. Kinh nghiệm các nước cho thấy, du lịch sinh thái nông
thôn có thể tăng gấp đôi thu nhập của nông dân, tạo việc làm dịch vụ và nâng
cao chất lượng nông nghiệp.
Như vậy, nếu Hà Nội xây dựng được một hệ thống dịch vụ phục vụ cho
nông thôn vùng châu thổ sông Hồng thì đây là một cơ hội việc làm rất phong
phú, có thể giải quết việc làm cho nông dân làm nông nghiệp và khu vực dân
cư có đất bị thu hồi.
3.1.2. Phát triển của Hà Nội có ý nghĩa với sự phát triển của cả nước
Thủ đô Hà Nội, thành phố trực thuộc Trung ương, nơi thu hút và lan
toả các nguồn lực vật chất và tinh thần vô giá của cả nước và vì cả nước. Hà
Nội là trung tâm chính trị, hành chính, khoa học và công nghệ, thể thao, y tế,
tài chính ngân hàng và thương mại, nơi hội tụ các tinh hoa các giá trị văn hoa
là một trong các đầu tàu về kinh tế lớn nhất cả nước, ngày càng tràn sức sống
ngàn năm.
Hà Nội mở rộng và phát triển, làm gia tăng tầm ảnh hưởng của nó với
các địa phương và khu vực xung quanh. Thủ đô Hà Nội có vị thế quan trọng
trong cả nước. Trên địa bàn Hà Nội đã có quy hoạch phát triển: 1 Khu công
nghệ cao Hòa Lạc diện tích 1600 ha, 11 khu công nghiệp tổng diện tích 2000
ha, 49 cụm công nghiệp tổng diện tich 3707 ha và 177 điểm công nghiệp với
tổng diện tích 1330 ha, tổng diện tích quy hoạch các khu, cụm, điểm công
nghiệp 8640 ha. Quy mô bình quân 180 ha/khu công nghiệp, 750 ha/cụm
87
công nghiệp, 7,5 ha/điểm công nghiệp. Hà Nội chiểm 59 % tổng số làng nghề
của cả nước, trong đó có 198 làng nghề truyền thống và nổi tiếng thuộc 47
nghề như: gốm sứ, dệt may, da giầy, điêu khắc, sơn mài... với hơn 1350 làng
có nghề, 40000 cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn, thu hút 626.000 lao
động có thu nhập bình quân 13,1 triệu đồng/người/năm, giá trị sản xuất các
làng nghề Hà Nội đạt 7.650 tỷ đồng, chiếm 26% giá trị sản xuất công nghiệp
của ngoài quốc doanh và 8,6 % giá trị sản xuất công nghiệp của thành phố.
Về tổng thể, Thủ đô ngày càng mở rộng và phát triển theo cả bề rộng
và chiều sâu, gắn kết hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa xã
hội. Các nguồn lực của thành phố ngày càng được khai thác và phối hợp hiệu
quả. Quá trình tái cấu trúc kinh tế đang được thúc đẩy, sức cạnh tranh của
nhiều sản phẩm chủ lực ngày càng cao. Công tác cổ phần hóa, sắp xếp, đổi
mới, nâng cao hiệu quả của khu vực doanh nghiệp trên địa bàn đang có nhiều
chuyển biến tích cực. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội ngày càng
phát triển đồng bộ, hiện đại từng bước phát triển và tô đẹp thêm cho cảnh sắc
Thủ đô.
Bên cạnh đó, quá trình phát triển của Hà Nội mở rộng hiện nay cũng
gặp nhiều khó khăn, bất cập (chất lượng và hiệu quả tăng trưởng, sự chênh
lệch phát triển giữa nông thôn và thành thị; nhiều vấn đề hiện tại về kết cấu hạ
tầng nói chung, kết cấu hạ tầng giao thông nói riêng...). Tất cả những điều đó
đang đặt ra cả cơ hội lẫn thách thức đối với việc giải quyết việc làm ở khu vực
nông thôn Thành phố.
3.2. Quan điểm giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn
Thành phố Hà Nội
3.2.1. Mở rộng cơ hội tạo việc làm cho người lao động
- Phát triển ngành nghề ở nông thôn Hà Nội phải trên cơ sở khai thác
được những lợi thế, khắc phục hạn chế, khó khăn của Thủ đô trong lĩnh vực
này. Các ngành nghề ở nông thôn phải tạo mọi điều kiện khai thác mọi nguồn
88
lực trong và ngoài thành phố, cũng như các thành phần kinh tế tạo ra nhiều
sản phẩm hàng hóa đáp ứng yêu cầu của thị trường và giải quyết nhiều việc
làm cho người lao động ở nông thôn. Ngành nghề ở nông thôn phải được phát
triển trong mối liên kết chặt chẽ với nông nghiệp và công nghiệp, trong thành
phố và cả nước. Phát triển nhiều loại hình sản xuất kinh doanh với nhiều loại
quy mô và trình độ công nghệ thiết bị thích hợp, kết hợp công nghệ truyền
thống với công nghệ hiện đại nhằm tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người
lao động và phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn.
- Phát triển các ngành nghề có nhiều tiềm năng, lợi thế để thu hút nhiều
và nhanh lực lượng lao động dư thừa, nâng cao thu nhập nhất là đời sống của
lao động nông dân. Đó là những ngành có nguyên vật liệu có sẵn, tại chỗ như
chế biến nông, lâm, thủy sản, chế biến gỗ, sản xuất đồ gỗ cao cấp... phát triển
các ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm, phát triển các dịch vụ du lịch sinh thái.
Phát triển các ngành thủ công nghiệp và xây dựng, các ngành sản xuất
những mặt hàng thiết yếu phục vụ cho sản xuất và đời sống ở nông thôn. Cụ
thể như ngành khai thác, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất các công cụ
phục vụ sản xuất và đời sống ở nông thôn như khai thác cát sỏi ở Phúc Thọ,
Đan Phượng; sản xuất xi măng ở Quốc Oai, sản xuất gạch ngói ở Mê Linh...
Phát triển các ngành dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống, một mặt,
cung ứng vật tư, hàng hóa cho sản xuất và đời sống, mặt khác, tiêu thụ sản
phẩm cho nông dân. Ở nông thôn Hà Nội hiện nay, cần chủ trương phát triển
mạng lưới thông tin liên lạc, các loại hình về tư vấn tiếp thị, chuyển giao công
nghệ, đào tạo kỹ thuật cho người lao động.
Bên cạnh đó phải khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống
như: gốm Bát Tràng, đồ gỗ Tràng Sơn, sơn mài, Chương Mỹ, lụa Vạn Phúc,
trầm nón lá Chuông, điêu khắc đá, Ninh Vân, cụm công nghiệp mây tre đan,
Phú Nghĩa, thêu, Ninh Hải, dệt La Phù. Phát triển làng nghề góp phần nâng
cao thu nhập và mức sống cho người nông dân.
89
3.2.2. Phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế
Cần có sự phối hợp của các cơ quan Trung ương để sửa đổi bổ sung cơ
chế nhằm đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, phát triển
đa dạng các loại hình doanh nghiệp; khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ và
vừa phát triển, thu hút nhiều lao động nhất là lao động nông thôn. Đổi mới cơ
chế quản lý, nâng cao năng lực hiệu quả sản xuất kinh doanh, xây dựng
thương hiệu, tiếp cận thị trường, khai thác thị trường, đổi mới công nghệ,
thành lập các tập đoàn kinh tế mạnh. Đẩy mạnh kiểm kê, kiểm soát việc xây
dựng công khai hóa và thực hiện các quy hoạch, quy trình giao, sử dụng đất
hợp lý để nông dân có thể duy trì ổn định đời sống.
- Hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể
Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động đảm bảo nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của hợp tác xã, tạo sự chuyển biến về quản lý, về sở hữu,
phân phối.. cần được tăng cường nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất, kỹ thuật,
công nghệ. Phát triển kinh tế hợp tác để phát huy được mọi tiềm năng của
người lao động nông thôn không hạn chế về quy mô, trình độ. Cần có chính
sách hỗ trợ các tổ chức kinh tế tập thể tiếp cận đất đai, các nguồn vốn, bảo
lãnh vay vốn, tín chấp vay vốn. Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực; Đẩy
mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh. Hỗ trợ phát
triển vùng trồng hoa, cây cảnh, sản xuất thực phẩm sạch. Cần có chính sách
khuyến khích phát triển hợp tác xã nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, dịch vụ
kỹ thuật, bao tiêu sản phẩm. Thành phố cần tập trung triển khai mạnh công
tác tuyên truyền, thống nhất nhận thức tạo môi trường tâm lý thuận lợi cho
kinh tế tập thể. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; thực hiện tốt chính sách
đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề cho đội ngũ quản lý và xã viên làm công việc
chuyên môn, nghiệp vụ trong hợp tác xã. Khuyến khích các hợp tác xã có
chính sách thu hút người có trình độ cao đẳng, đại học hoặc trên đại học hoặc
người có tay nghề cao về làm việc trong hợp tác xã. Triển khai thí điểm một
90
số hợp tác xã liên kết ở trình độ cao, hình thành liên hiệp sản xuất theo ngành
hàng, sản phẩm có thế mạnh như: thủ công mỹ nghệ, vận tải, tín dụng, sản
xuất rau an toàn.
- Khuyến khích phát trển kinh tế ngoài nhà nước.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 14-NQ/TW của Ban bí thư Trung
ương Đảng khóa IX và tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và
tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Ban hành cơ chế, chính sách khuyến
khích phát triển doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước, khuyến khích
doanh nghiệp tư nhân liên doanh, liên kết với doanh nghiệp nhà nước, bán cổ
phần cho người lao động tại doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần có chính sách hỗ
trợ phát triển các trang trại, hộ sản xuất kinh doanh đặc biệt trong nông
nghiệp và khu vực nông thôn góp vốn phát triển theo các hình thức hợp tác.
Phát triển khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Đẩy mạnh thu hút
vốn đầu tư nước ngoài vào phát triển hạ tầng kỹ thuật, các khu công nghệ cao,
các ngành lĩnh vực dịch vụ trình độ cao, chất lượng cao. Ban hành những cơ
chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp FDI phát triển. Thu
hút các dự án đầu tư vào phát triển nông thôn, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông thôn; thực hiện tốt vấn đề việc làm và phát triển bền vững ở
nông thôn.
3.2.3. Giải quyết việc làm trên cơ sở tăng trưởng kinh tế nhanh bền vững
Xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội theo quan điểm của Đảng và của
Đảng bộ Thành phố là phát triển nhanh nhưng đi đôi với nó là vấn đề sử dụng
hiệu quả các nguồn lực về vốn, lao động, khoa học công nghệ. Đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn gắn với đó là bảo vệ môi trường. Trên
cơ sở đó cần đẩy mạnh vấn đề giải quyết việc làm cho lao động dôi dư ở nông
thôn, tận dụng được mọi tiềm năng, khai thác, sử dụng có hiệu quả các tiềm
năng lợi thế vốn có.
91
Đại hội XV (2011) Đảng bộ Thành phố Hà Nội khẳng định: "Tiếp tục
đẩy mạnh CNH, HĐH, nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh của kinh tế doanh
nghiệp thủ đô. Nâng cao chất lượng phát triển, thực hiện mục tiêu phát triển
bền vững gắn với phát huy tiềm năng và lợi thế của thủ đô. Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH, kinh
tế tri thức; phấn đấu đến năm 2015, Hà Nội cơ bản trở thành Thủ đô công
nghiệp theo hướng hiện đại.
Năm 2020 Hà Nội phấn đấu trở thành một đô thị văn minh hiện đại,
thành phố du lịch hấp dẫn của khu vực; thể chế kinh tế thị trường được thiết
lập, hình thành các yếu tố của kinh tế tri thức. Trong phát triển kinh tế, Hà
Nội coi trọng chất lượng phát triển, thực sự là thành phố đi đầu trong công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; chú trọng khu vực nông nghiệp nông thôn, đẩy
mạnh tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế dịch vụ - công nghiệp - nông
nghiệp; nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của kinh tế thủ đô, giữ vững và mở
rộng thị trường trong và ngoài nước, phát triển đồng bộ các loại thị trường
gắn với tạo động lực mạnh mẽ trong tìm kiếm và giải quyết việc làm cho lao
động nông thôn.
Thúc đẩy xã hội hóa gắn kết giữa các doanh nghiệp, các ngành, các
thành phần kinh tế. Mở rộng và phát triển quan hệ hợp tác giữa Hà Nội với
các tỉnh, Thành phố phát huy vai trò trung tâm kinh tế trình độ cao, tạo động
lực phát triểm kinh tế vùng thủ đô, vùng trọng điểm của cả nước.
Đến năm 2020, Hà Nội tập trung nâng cao chất lượng phát triển, đẩy
mạnh tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế dịch vụ - công nghiệp - nông
nghiệp. Phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở tiếp tục đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển các ngành có hàm lượng chất xám
và công nghệ cao, có triển vọng thị trường phù hợp với lợi thế so sánh Thủ
đô.
92
Dịch vụ: Xây dựng Hà Nội thành trung tâm dịch vụ chất lượng cao và
nâng cao chất lượng dịch vụ trước hết trong các lĩnh vực du lịch, thương mại,
viễn thông - công nghệ thông tin, khoa học và công nghệ, y tế, tài chính ngân
hàng, giáo dục và đào tạo. Chuyển dịch hàng hóa xuất khẩu theo hướng tăng
tỷ trọng các mặt hàng chế biến sâu, có giá trị gia tăng cao, tăng xuất khẩu dịch
vụ và xuất khẩu tại chỗ.
Phát triển công nghiệp có chọn lọc, ưu tiên công nghệ cao, công nghệ
sạch các ngành tạo ra sản phẩm có hàm lượng chất xám cao. Từng bước hình
thành các thành phần cơ bản của kinh tế tri thức.
Tiếp tục phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng đô thị sinh thái.
Quy hoạch vùng nông nghiệp ổn định. Quy hoạch xây dựng hệ thống kết cấu
hạ tầng, các làng nghề và các điểm dân cư nông thôn theo hướng hiện đại, văn
minh, đồng bộ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và từng bước nâng
cao đời sống vật chất tinh thần cho người dân ngoại thành. Gắn phát triển
nông thôn với du lịch sinh thái - lịch sử - văn hóa - làng nghề. Trong phát
triển nông nghiệp cố gắng thực hiện nông nghiệp sạch.
Phát triển bền vững về môi trường là bảo đảm bền vững về không gian
sống trong sử dụng tài nguyên thiên nhiên, trong bảo đảm môi trường trong
sạch về nước, không khí, hài hòa giữa con người và tự nhiên.
3.3. Giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho lao động ở
nông thôn
3.3.1. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Vị trí trung tâm của "Tam nông" chính là người nông dân, mục tiêu của
“Tam nông" cũng chính là lợi ích của người nông dân, bảo đảm việc làm cho
nông dân chính là điểm mấu chốt trong chính sách an sinh xã hội đối với nông
dân. Do vậy, phát triển CNH, HĐH đi đôi với bảo đảm việc làm và an sinh xã
hội đối với nông dân là con đường đi thích hợp nhất.
93
Thực tiễn công nghiệp hóa của Hà Nội trong thời gian qua cho thấy vấn
đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân chưa được giải quyết thỏa đáng vẫn còn
nhiều mâu thuẫn cần được xem xét. Đầu tư cho nông nghiệp thấp và liên tục
giảm trong những năm gần đây đã không tạo ra động lực cho nông nghiệp
phát triển dẫn đến sản xuất nông nghiệp cạnh tranh thấp và hiệu quả yếu,
nông dân ở nhiều địa phương bị mất đất, một bộ phận khác không thiết tha
với đồng ruộng, đã bỏ làng ra thành phố mưu sinh. Nông thôn vẫn là khu vực
yếu thế hơn so với thành thị. Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm của lao
động nông thôn còn lớn, cuộc sống của nông thôn còn gặp nhiều khó khăn...
Kinh nghiệm công nghiệp hóa ở một số nước Nam Á như Ấn Độ, Pakistan,
Bănglađét, Xrilanca cho thấy, nếu tách rời nông thôn và nông dân trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng
như nông dân bị cưỡng chế thu hồi đất ở Ấn Độ, hay sự chia cắt giữa đô thị
và nông thôn đã làm cho 60 - 70% dân số ở nông thôn Xrilanca có thu nhập
giảm liên tục, dẫn đến 50% dân số nông thôn di cư ra thành thị. Tình trạng
"coi nhẹ" nông nghiệp ở một số nước Đông Nam Á và Trung Quốc đã dẫn tới
mất cân đối nghiêm trọng về lương thực. Từ một nước xuất khẩu lương thực,
Inđônêxia đã phải nhập khẩu lương thực. Ở Trung Quốc sau 30 năm cải cách
kinh tế với tốc độ tăng trưởng GDP liên tục đạt trên 9% năm, mục tiêu công
nghiệp hóa đã gần tới đích. Tuy nhiên, khi xuất hiện tình trạng "coi nhẹ nông
nghiệp" nông thôn với đầu tư cho nông nghiệp giảm liên tục, đầu tư nước
ngoài cho nông nghiệp chỉ chiếm 2% tổng dự án và 1% tổng vốn... đã dẫn đến
tăng trưởng nông nghiệp liên tục giảm từ 7% năm 1980 xuống còn 3.6% giai
đoạn 1996 - 2000. Kết quả đã tạo ra sự chênh lệch lớn về thu nhập giữa thành
thị - nông thôn, giữa các tầng lớp giàu nghèo, hàng trăm triệu người ở nông
thôn Trung Quốc không được tiếp cận với giáo dục, y tế, nước sạch... làm cho
đời sống của người dân nông thôn vô cùng khó khăn. Chính vì thấy được tầm
quan trọng đặc biệt của khu vực nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa,
94
hiện đại hóa đất nước. Đảng ta đã ra Nghị quyết số 26 - NQTW vấn đề nông
nghiệp, nông thôn, nông dân với kỳ vọng tạo đột phá mới thực chất và bền
vững hơn cho xã hội nông thôn Việt Nam trong giai đoạn tới. Và như vậy,
vấn đề giải quyết việc làm cho nông thôn Hà Nội trong thời gian tới sẽ gắn
chặt với việc thực hiện Nghị quyết 26 - NQTW. Để giải quyết tốt vấn đề việc
làm cho nông thôn cần:
- Có cơ chế chính sách quan tâm đến lợi ích của người nông dân.
Mục tiêu và động lực phát triển nông thôn bền vững là nâng cao chất
lượng cuộc sống của người dân, xét trên cả khía cạnh kinh tế - xã hội và môi
trường. Do đó, nông dân phải là người được hưởng lợi trước tiên từ những
thành quả của quá trình phát triển. Ruộng đất đối với người nông dân là
những tư liệu sản xuất chủ yếu, chính vì vậy để giải quyết tốt việc làm cho
nông dân Hà Nội (nhất là nông dân bị thu hồi đất), trước hết phải xem lại chế
độ sở hữu ruộng đất đang áp dụng cho nông dân sao cho người nông dân vẫn
bảo đảm có việc làm và ổn định cuộc sống khi bị mất ruộng, không lâm vào
cảnh chán ruộng và phải ly hương đi tìm việc làm ở đô thị. Muốn vậy, Nhà
nước cần phải bảo vệ quyền tài sản của họ, giúp họ tự do hưởng dụng quyền
ấy phù hợp với quy hoạch quốc gia và địa phương.
Nhà nước cần phải tạo lập một khung pháp lý cho thị trường đất nông
nghiệp hoạt động lành mạnh để thúc đẩy quá trình tích tụ ruộng đất, hình
thành các trang trại quy mô lớn. Tích tụ ruộng đất là một tất yếu khách quan
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa được thực hiện theo cơ chế thị
trường. Mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 chỉ có thể
trở thành hiện thực một khi xóa bỏ tinh trạng ruộng đất sản xuất nông nghiệp
manh mún như hiện nay. Thực tế cho thấy với một hạn điền "chật chội" và
quá ngắn, kém xa so với thời gian sử dụng đất trong sản xuất công nghiệp, thì
các điền chủ đã tích tụ được ruộng đất cũng không dám đầu tư ở tầm dài hạn.
95
Nghị quyết về nông nghiệp, nông thôn, nông dân muốn thực hiện thành
công không thể không có khung pháp lý cho thị trường đất nông nghiệp hoạt
động. Người nông dân phải có quyền quyết định trong mọi việc: bán đất,
chuyển nhượng đất, cho thuê đất... của mình cho những dự án phát triển hay
cho những điền chủ trên cơ sở lợi ích của chính bản thân và gia đình họ.
Tích tụ ruộng đất là một quá trình tất yếu, song nó phải được diễn ra
phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tức là việc tích tụ ruộng
đất trong nông nghiệp để giải phóng một lực lượng lao động khỏi khu vực này
sẽ được diễn ra đồng thời với việc phát triển công nghiệp, dịch vụ để hút lao
động từ nông thôn. Nói cách khác, công nghiệp hóa để rút dần lao động nông
thôn sang các ngành nghề phi nông nghiệp đồng thời với quá trình sản xuất
nông nghiệp hàng hóa. Tuy nhiên, khi phát triển các khu công nghiệp, cần chú
trọng bảo vệ diện tích đất canh tác nông nghiệp, bảo đảm an ninh lương thực,
hết sức tránh "đưa" nhà máy, sân golf xuống các cánh đồng lúa.
- Phát triển công nghiệp, đô thị gắn với phát triển nông thôn và tạo việc
làm phi nông nghiệp.
Đối với việc phát triển các khu công nghiệp: theo dự báo khi lấp đầy
các khu công nghiệp số lao động làm việc trong các khu công nghiệp của
nông thôn Hà Nội sẽ lên tới 15 vạn người. Thêm vào đó, với hàng loạt các
khu công nghiệp và hàng trăm cụm công nghiệp được hình thành mới thì số
lao động đổ về các khu công nghiệp, cụm công nghiệp sẽ lên tới trên 20 vạn
lao động. Điều đó đặt ra yêu cầu quy hoạch và phát triển đô thị kiểu mới,
nhằm bảo đảm tính hữu ích của các công trình công cộng, trật tự an toàn xã
hội, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Việc phân bổ các khu công
nghiệp hợp lý theo vùng, lãnh thổ thì sẽ tạo điều kiện cho việc phân bố lực
lượng lao động, hạn chế được dòng di chuyển từ nông thôn ra thành thị, tạo
việc làm tại chỗ cho lao động nông thôn của khu vực. Việc phát triển các khu
công nghiệp phải gắn liền với cơ sở hạ tầng, trong đó chú trọng đến nhà ở cho
96
công nhân làm việc trong các khu công nghiệp và các điều kiện sống và lao
động của họ.
Ở khu vực nông thôn Hà Nội trong thời gian tới cần có những quy
hoạch cụ thể về phát triển các khu công nghiệp, các cụm công nghiệp, các
làng nghề theo hướng công nghiệp hóa, chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế, cơ
cấu việc làm và phát triển đô thị. Bên cạnh đó cần kết nối giữa nông thôn và
thành thị vùng nông thôn Thủ đô sẽ được thực hiện trên cơ sở hình thành các
đô thị vệ tinh; hệ thống giao thông thuận tiện tạo sự gắn kết hài hòa giữa nông
thôn và thành thị. Mặt khác, cần nhanh chóng triển khai thực hiện quy hoạch
và phát triển các thị trấn, thị tứ ở khu vực nông thôn, xây dựng nông thôn
mới, phát triển kết cấu hạ tầng kết hợp với phát triển các ngành nghề tiểu thủ
công nghiệp, thủ công nghiệp, các ngành nghề truyền thống, các dịch vụ phục
vụ sản xuất và đời sống... để thu hút lao động nông thôn giảm lao động nhập
cư vào thành phố.
3.3.2. Nâng cao chất lượng nguồn lao động, phát triển giáo dục, tăng
cường công tác đào tạo nghề
So với các địa phương khác, Hà Nội có lợi thế về con người, nguồn
nhân lực. Tỷ lệ lực lượng qua đào tạo đạt trên 45% so với tổng số lực lượng
lao động năm (2008). Hà Nội chiếm 65% số giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ so
với tổng số nhà khoa học trong cả nước. Trên địa bàn Hà Nội hiện đang tập
trung 50 trường đại học, 29 trường cao đẳng, 45 trường trung cấp chuyên
nghiệp, 113 cơ quan nghiên cứu khoa học.
Xét trong lĩnh vực đào tạo nghề và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao, Hà Nội là một trong những trung tâm lớn nhất, chiếm trên 30% nguồn
nhân lực chất lượng cao của cả nước.
Số lượng trường và cơ sở đào tạo nghề của Hà Nội trong 10 năm qua
tăng khoảng 10 lần từ 21 trường và cơ sở đào tạo năm 2000 tăng 279 trường
và cơ sở đào tạo năm 2009.
97
Số lượng học sinh trong các trường và cơ sở đào tạo nghề của Hà Nội của
thời điểm trên cũng tăng 8 lần từ 13.000 học sinh tăng lên 117.000 học sính.
Nhằm phục vụ chủ trương chuyển dịch sang các ngành dịch vụ cao,
chất lượng cao, trong những năm qua, Hà Nội ưu tiên đầu tư và chú trọng
phát triển 4 nhóm ngành công nghiệp chủ yếu là cơ khí, điện, điện tử và tin
học. Đặc biệt, Hà Nội đầu tư hai trung tâm đào tạo nghề kỹ thuật cao với quy
mô trang thiết bị hiện đại là Trường Đào tạo Trung tâm Kỹ thuật cao Tây Mỗ
(Từ Liêm) và Trường Đào tạo Kỹ thuật cao Việt - Hàn (Đông Anh), mỗi năm
đào tạo khoảng 2500 đến 3000 công nhân có kỹ thuật cao phục vụ cho các
doanh nghiệp của Hà Nội và các doanh nghiệp khác trên địa bàn toàn quốc.
Xét về chất lượng đào tạo nghề, đặc biệt với nguồn lao động chất lượng
cao trong các trường và các cơ sở đào tạo của Hà Nội tỷ lệ học sinh tốt nghiệp
đạt trên 95%, trong đó tỷ lệ học sinh tốt nghiệp có việc làm đạt trên 75%, một
số trường và cơ sở đào tạo đạt trên 100%. Theo đánh giá của cơ sở, doanh
nghiệp tuyển dụng nguồn lao động chất lượng cao từ các trường, các cơ sở
đào tạo Hà Nội thông qua kết quả điều tra xã hội học năm 2009 cho thấy 30%
số lao động đạt loại khá giỏi, 59% số lao động đáp ứng được các công việc
theo yêu cầu của cơ sở doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Hà Nội còn là một trong
những trung tâm lớn của cả nước phát triển các ngành dịch vụ có giá trị gia
tăng, chiếm tỷ trọng cao, có tác dụng làm hạt nhân đóng góp vào mức tăng
trưởng chung của Thủ đô. Để nguồn lao động Hà Nội có thể đáp ứng được
những vấn đề mới đang đặt ra trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường
hiện nay, yêu cầu cấp bách đang đặt ra đối với nguồn lao động này đi liền với
đổi mới giao dục và đào tạo, trọng tâm là nâng cao chất lượng của người lao
động đáp ứng những yêu cầu phát triển mới, bao gồm: trang bị những tri thức
hiện đại, vận dụng những tri thức đó vào thực tiễn, khả năng sáng tạo trong
công việc, năng động, dám đương đầu với những rủi ro, có thể chất tâm hồn
lành mạnh, có lòng yêu tổ quốc, yêu lao động.
98
Để tạo sự chuyển biến có tính quyết định trong phát triển nguồn nhân
lực tại Hà Nội, giải pháp trung tâm mang tính đột phá trong giai đoạn hiện
nay là tái cấu trúc để phát triển và nâng cao sức cạnh tranh của các cơ sở đào
tạo hiện có, trước hết là các trường Đại học, Cao đẳng, THCN và dạy nghề
theo hướng nâng cao quyền tự chủ, tự quyết về chương trình và nội dung đào
tạo của họ; tạo thuận lợi cho phát triển hệ thống các trường tư thục, kể cả các
cơ sở có yếu tố nước ngoài, tăng cường liên kết giữa đào tạo và các cơ sở
tuyển dụng. Cần quán triệt tinh thần của Pháp lệnh thủ đô trong việc đầu tư
xây dựng một số trường đại học, cao đẳng, dạy nghề chất lượng cao đạt tiêu
chuẩn khu vực.
Phát triển hệ thống đào tạo nghề theo hướng đáp ứng nhu cầu thị
trường, đa dạng hóa mô hình đối tượng đào tạo.
Tập trung mạnh vào việc đầu tư cho hệ thống trang thiết bị máy móc
hiện đại, kể cả các hình thức cho thuê máy móc hiện đại phục vụ giảng dạy.
Tăng cường liên kết với các đơn vị sử đụng lao động để xây dựng các cơ sở
thực hành, thực tập. Tiến tới mỗi trường THCN có một cơ sở đạt chuẩn quốc
gia và khu vực.
Khuyến khích hình thức liên doanh, liên kết đào tạo giữa các trường
dạy nghề với các doanh nghiệp, các tổ chức nghề nghiệp để tạo hiệu quả tối
ưu trong đào tạo, đồng thời tranh thủ được mọi nguồn đầu tư.
Đổi mới các hình thức dạy nghề hiện nay, đẩy mạnh hình thức đào tạo
nghề theo đơn đặt hàng của từng đơn vị, đa dạng hóa các đối tượng đào tạo,
nâng cao cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên trường dạy nghề. Xây dựng
trường đào tạo công nhân kỹ thuật cao, cụm trường THCN, dạy nghề. Có
chính sách hỗ trợ đào tạo nghề với các đối tượng nông thôn, người nghèo,
diện giải phóng mặt bằng.
- Những bất cập về chính sách cần tháo gỡ:
99
Chi ngân sách nhà nước cho đào tạo nghề và tạo việc làm cho nông dân
bị thu hồi đất canh tác không ngừng tăng lên, song vẫn thấp hơn nhiều so với
nhu cầu thực tế.
Chi ngân sách nhà nước cho đào tạo nghề trên địa bàn toàn thành phố
tăng dần qua các năm. Nếu như giai đoạn 2001 - 2005 tổng chi ngân sách nhà
nước cho đào tạo nghề là 1608,8 tỷ đồng, bình quân mỗi năm ngân sách nhà
nước chi 321,76 tỷ đồng, thì từ năm 2006 đến tháng 8 năm 2008 tổng chi
ngân sách nhà nước cho đào tạo nghề đã đạt 1.167,3 tỷ đồng, bình quân mỗi
năm ngân sách nhà nước chi 389,1 tỷ đồng. Tuy nhiên, tỷ trọng chi ngân sách
nhà nước cho đào tạo nghề trong tổng chi ngân sách nhà nước cho lĩnh vực
giáo dục - đào tạo lại có xu hướng giảm đi. Nếu như giai đoạn 2001 - 2005
bình quân tỷ trọng chi cho đào tạo nghề chiếm 16,81% tổng chi ngân sách nhà
nước cho giáo dục - đào tạo, thì đến giai đoạn 2006 - 2008 tỷ trọng này là
12,47% giảm 4,34%. Tổng chi ngân sách nhà nước cho những hoạt động trực
tiếp đào tạo nghề cho nông thôn ngoại thành từ 2001 đến 2008 là 425,29 tỷ
đồng. Trong đó giai đoạn 2001 - 2005 là 149, 645 tỷ đồng. Trong cơ cấu chi
ngân sách nhà nước: đào tạo nghề trực tiếp của nông thôn ngoại thành, chi
đầu tư nâng cấp, củng cố, mở rộng công tác đào tạo nghề cho nông thôn ngoại
thành và chi hoạt động cho các cơ sở đào tạo nghề chiếm tỷ trọng cao nhất
(khoảng 38 - 44% trong giai đoạn 2005 - 2008). Trong cơ cấu nguồn chi
thường xuyên cho công tác đào tạo nghề các nghề mới trên địa bàn toàn thành
phố, tỷ lệ đóng góp của người học là 42,8% và tỷ lệ đóng góp từ ngân sách
nhà nước chiếm 45,1% giai đoạn 2001 - 2005 và tương ứng là: 43% và
34,26% cho giai đoạn 2006 - 2008 (với các cơ sở đào tạo nghề trực thuộc Sở
Lao động - Thương binh xã hội Hà Nội, cùng tỷ lệ trên là 20,45% và 79,55%;
21,2% và 77,8%). Tương ứng nguồn thu học phí của các trường Trung ương
lớn hơn các trường địa phương. Với các cơ sở dạy nghề ngoài công lập, hầu
100
như không có sự hỗ trợ từ ngân sách mà chủ yếu là từ nguồn đóng góp của
người học.
Nguồn thu từ học phí là nguồn đóng góp quan trọng và ngày càng tăng.
Theo Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội, giai đoạn 2000 - 2005
đóng góp của người học nghề của nông thôn ngoại thành bình quân mỗi năm
đạt 25,111 tỷ đồng, giai đoạn 2006 - 2008 tăng lên 50,114 tỷ đồng, nâng tổng
số đóng góp của người học cả hai giai đoạn lên 257,897 tỷ đồng, trung bình
mỗi năm đóng góp 37,613 tỷ đồng; đóng góp của người học nghề chuyển đổi
nghề nghiệp do họ bị thu hồi đất canh tác giai đoạn 2001 - 2008 đạt 49,96 tỷ
đồng bình quân mỗi năm đóng góp 6,245 tỷ đồng.
Đầu tư cho đào tạo nghề của nông thôn ngoại thành từ các nguồn lực
khác như: doanh nghiệp, hiệp hội, tổ chức, cá nhân hay các tổ chức nước
ngoài. Nếu như giai đoạn 2001 - 2005 tổng nguồn tài chính huy động được từ
nguồn này là 11,5 tỷ đồng trung bình 2,3 tỷ đồng năm, thì đến giai đoạn 2006
- 2008 tổng nguồn tài chính huy động đã đạt được 25 tỷ đồng năm tăng 0,95
tỷ đông so với giái đoạn 2001 - 2005; nâng tổng số đóng góp từ nguồn khác
trong hai giai đoạn lên 21,25 tỷ đồng, trung bình 2,775 tỷ đồng/năm.
Mặt khác, tỷ trọng chi ngân sách nhà nước cho hoạt động đào tạo nghề
trong tổng số chi ngân sách địa phương rất nhỏ. Nếu như giai đoạn 2001 -
2005, chi ngân sách cho đào tạo nghề chiếm 3,35% trong chi ngân sách địa
phương thì đến giai đoạn 2006 - 2008 tỷ lệ này còn 2,84%; tính bình quân cả
hai giai đoạn, chi ngân sách nhà nước cho đào tạo nghề toàn thành phố chiếm
xấp xỉ 3% tổng chi ngân sách địa phương. Chi thường xuyên có tỷ trọng lớn
nhất trong tổng chi ngân sách cho đào tạo nghề của thành phố chiếm xấp xỉ
50%. Tuy nhiên, trong cơ cấu chi thường xuyên, chi lương và các khoản phụ
cấp theo lương thưởng chiếm từ 50 đến 60% tổng chi thường xuyên. Với mức
chi này, các cơ sở đào tạo nghề còn thiếu hụt nghiêm trọng về kinh phí đầu tư
cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ hoạt động đào tạo, đặc biệt những khoản
101
chi cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ có ý nghĩa quan trọng mang tính chất
đặc thù đối với đào tạo nghề.
- Mức hỗ trợ trực tiếp cho đào tạo nghề quá thấp và chưa đa dạng,
khiến đào tạo nghề ngắn hạn còn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu dạy nghề.
Mức hỗ trợ chi phí đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động -
thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội được nâng dần từ 25.000 đồng/m2 (năm 1998 lên 35.000 đồng/m2 (năm 2003); mức hỗ trợ tính theo số lượng
học viên thực tế tốt nghiệp khóa học nhưng tối đa không quá 300.000
đồng/người/tháng và không quá 1.500.000 đồng người khóa học. Theo Quyết
định số 137/2007 QĐ - UB ngày 30 -11-2007 của Uỷ ban nhân dân thành phố
Hà Nội, thay thế Quyết định số 26/2005/QĐ - UB ngày 18 - 5 - 2005 của Uỷ
ban nhân dân thành phố, thực hiện Luật đất đai 2003, Nghị định số
197/2004/NĐ-CP của chính phủ ngày 3 - 12 - 2004 và các nghị định khác của
Chính phủ, chính sách hỗ trợ ổn định đời sống, hỗ trợ học nghề giải quyết lao
động việc làm cho người nông dân bị thu hồi đất, thì mức hỗ trợ ổn định đời sống là 350.000 đồng/m2, hỗ trợ học nghề, chuyển đổi nghề nghiệp là 300.000 đồng/m2. Ngoài ra Quyết định số 99/2003 QĐ - UB ngày 21 - 8 - 2003 của Uỷ
ban nhân dân thành phố cũng quy định các doanh nghiệp đầu tư sản xuất, kinh
doanh dịch vụ trên địa bàn khi sử dụng đất nông nghiệp phải thu hút 10 lao
động/1ha đất canh tác bị thu hồi. Đặc biệt, ngày 22 - 12 - 2008, Uỷ ban nhân
dân Thành phố Hà Nội ra Quyết định số 58/2008/QĐ - UB về việc ban hành
điều lệ quỹ hỗ trợ ổn định đời sống, học tập, đào tạo nghề dành cho các đối
tượng trong độ tuổi lao động đang hoặc chưa theo học ở các cấp trình độ sơ,
trung, và cao đẳng nghề tại các cơ sở học nghề hợp pháp, nằm trong độ tuổi
lao động, có hộ khẩu tại Hà Nội, thuộc các gia đình có trên 30% đất canh tác
chỉ áp dụng một lần khi bị thu hồi đất. Mức hỗ trợ không quá 6 triêu đồng/thẻ
học nghề/khóa học dành cho việc chi trả học phí học nghề các cấp trình độ ở
102
các cơ sở dạy nghề được Nhà nước cho phép hoặc các doanh nghiệp cam kết
tuyển dụng lâu dài tự tổ chức đào tạo, tạo nghề cho người được tuyển dụng
Trong giai đoạn 2005 - 2008 tổng số nông dân ngoại thành được đào
tạo nghề là 161310 lượt người. Trong đó, các cơ sở đào tạo nghề Hà Nội đào
tạo được 44.930 người các cơ sở đào tạo nghề Trung ương đào tạo được
116.380 người. Đào tạo nghề ngắn hạn trong cả giai đoạn là 104.760 người.
Nếu như tính năng lực đào tạo nghề bình quân cho nông thôn ngoại thành Hà
Nội trong một năm thì mỗi năm đào tạo được 25.890 người; trong đó, đào tạo
nghề cho nông thôn ngoại thành Hà Nội là đào tạo nghề ngắn hạn.
- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho công tác đào tạo nghề:
Đối với đào tạo nghề dài hạn cho nông dân ngoại thành, các cơ
sở đào tạo nghề của Hà Nội chỉ đáp ứng được 39,31%; các cơ sở đào tạo
nghề Trung ương chỉ đáp ứng được 27,28% so với mức chung về đào tạo
nghề dài hạn toàn thành phố Hà Nội.
Theo thống kê của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội, hiện
nay mạng lưới các cơ sở đào tạo nghề trên địa bàn thành phố gồm có 230 cơ
sở với nhiều loại hình đào tạo nghề thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
Tuy nhiên, việc phân bố cơ sở dạy nghề trên địa bàn 14 quận huyện lại không
đồng đều. Nếu chỉ tính riêng khu vực ngoại thành, cơ sở đào tạo nghề hiện
nay là 42 trong tổng số 230 cơ sở đào tạo nghề toàn thành phố, chiếm tỷ lệ
khiêm tốn là 18,26%. Hà Nội chưa có trường đào tạo nghề chất lượng cao, đa
số các cơ sở đào tạo nghề đều nằm trong tình trạng cơ sở vật chất - kỹ thuật
nghèo nàn, máy móc thiết bị phục vụ cho đào tạo thiếu và lạc hậu. Chất lượng
đội ngũ giáo viên các cơ sở dạy nghề nhìn chung còn hạn chế. Chương trình
nội dung đào tạo còn nhiều bất cập, đặc biệt là hạn chế trong cập nhập kiến
thức mới, công nghệ mới, phù hợp với xu hướng đào tạo của các nước có hệ
thống đào tạo hiện đại trong khu vực và thế giới. Để khắc phục tình trạng
trên, Hà Nội cần triển khai các giải pháp sau:
103
+ Ngân sách Nhà nước cần đáp ứng các nhu cầu cơ bản về nâng cao
trình độ và khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản cho mọi người dân, đặc biệt
là đối tượng chính sách, người nghèo và đối tượng thuộc diện hỗ trợ. Ưu tiên
chi ngân sách Nhà nước trong việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ đào tạo
nghề mang tính chất hàng hóa công cộng như: đầu tư xây dựng cơ sở vật chất,
xây dựng trường học, đầu tư mua sắm trang thiết bị giảng dạy và học tập. Đối
với quỹ hỗ trợ nông dân bị thu hồi đất canh tác, học nghề cần phải tăng dần tỷ
trọng đầu tư từ ngân sách nhà nước làm cho quỹ trở thành quỹ tài chính lớn
mạnh. Tăng dần tỷ trọng chi ngân sách nhà nước cho đào tạo nghề của người
dân bị thu hồi đất canh tác trong tổng ngân sách nhà nước cho đào tạo nghề
của thành phố trong giai đoạn tới. Trong cơ cấu chi ngân sách nhà nước cho
đào tạo nghề của người dân bị thu hồi đất canh tác, cần chú trọng đặc biệt tới
tăng dần tỷ trọng đầu tư cho đào tạo nghề dài hạn thay vì đầu tư ngắn hạn như
hiện nay.
+ Thực hiện xã hội hóa đào tạo nghề. Khuyến khích việc xây dựng các
cơ sở đào tạo nghề ngoài công lập được quản lý như bộ phận hữu cơ trong hệ
thống giáo dục quốc dân. Nhà nước thực hiện chính sách hỗ trợ về thuế, đất
đai và các chính sách hỗ trợ khác.
+ Cần có chính sách phát triển, mở rộng quy mô đào tạo và tạo nguồn
thu lớn ngoài ngân sách nhà nước cho các cơ sở đào tạo nghề. Khuyến khích
các doanh nghiệp có quy mô lớn, tổng công ty tập đoàn thành lập cơ sở đào
tạo nghề hoặc chủ động liên kết với nhau thành lập trường. Khuyến khích sáp
nhập một số cơ sở đào tạo nghề quy mô nhỏ thanh cơ sở đào tạo quy mô lớn
hơn để tăng khả năng cạnh tranh cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao ra
thị trường lao động. Thành phố cần tăng mức hỗ trợ cho người dân bị thu hồi
đất canh tác tham gia học nghề và cần tiếp tục đổi mới phương thức cho vay
vốn nhằm đơn giản hơn các thủ tục cho vay, song vẫn bảo đảm khả năng thu
hồi vốn, bảo đảm đúng đối tượng và công bằng, nâng cao ý thức trách nhiệm
104
vay và hoàn trả nợ vay. Đồng thời cần khuyến khích mô hình đào tạo nghề và
việc làm trực tiếp do doanh nghiệp thực hiện; doanh nghiệp tự tổ chức đào tạo
nghề cho người lao động và sau đó tuyển dụng luôn họ vào làm việc trong
doanh nghiệp.
3.3.3. Phát triển đa dạng hóa các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh,
tạo việc làm cho người lao động nông thôn trên cơ sở nâng cao thu nhập
Phát triển và đa dạng hóa các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh với
nhiều trình độ kỹ thuật và quy mô tổ chức khác nhau, thu hút nhiều lao động
là hướng đi quan trọng tạo việc làm, tăng thu nhập và chuyển dịch cơ cấu lao
động ở nông thôn.
* Phát triển kinh tế hộ gia đình:
Trong kinh tế thị trường, kinh tế hộ phát triển hết sức linh hoạt, thích
ứng nhanh, góp phần phát triển sản xuất, tạo mở nhiều việc làm phù hợp với
mọi lứa tuổi, mọi trình độ của người lao động. Phát triển kinh tế hộ gia đình
sẽ tận dụng được các nguồn lực về đất đai, lao động dư thừa, huy động nguồn
vốn nhàn rỗi trong dân cư, kinh nghiệm quản lý và ngành nghề nông thôn.
Trong những năm tới, khuyến khích kinh tế hộ gia đình phát triển ở Hà
Nội cần tập trung những hướng sau:
- Tập trung phát triên các ngành nghề thủ công truyền thống ở nông
thôn ở các huyện: Thạch Thất, Chương Mỹ, Ứng Hòa, Đan Phượng, Phú
Xuyên đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng truyền thống là thế mạnh của địa
phương... Đẩy mạnh phát triển các mô hình kinh tế giỏi ở nông thôn, phát
triển các trang trại quy mô lớn, phát huy sức trẻ của thanh niên, xây dựng các
làng thanh niên lập nghiệp nhằm tạo lập các hộ sản xuất trẻ trong tương lai.
- Khuyến khích các hộ gia đình phát triển các doanh nghiệp có quy mô
nhỏ và vừa ở nông thôn, nhà nước cần có chính sách đãi ngộ thỏa đáng cho
các doanh nghiệp này về vốn vay, tìm kiếm thị trường, đầu tư về khoa học
công nghệ, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm.
105
- Tạo nguồn vốn, cho vay vốn để các hộ có điều kiện phát triển sản
xuất. Trong đó cần phân loại các loại hình hộ theo trình độ phát triển để có
chủ trương, định hướng phát triển cho phù hợp. Đảm bảo đủ nguồn vốn cho
các hộ nghèo, hộ khó khăn vay để phát triển sản xuất. Phấn đấu tăng tổng
nguồn vốn cho hộ nghèo bình quân mỗi năm là 70.000 triệu đồng. Cùng với
việc cho vay vốn phải hướng dẫn bà con cách làm ăn kinh doanh, chi tiêu hợp
lý để tránh việc quay lại tái nghèo.
- Tăng cường cung ứng mô hình đào tạo các lớp ngắn hạn cho các hộ
tiến hành sản xuất đem lại kết quả cao. Cần đẩy mạnh việc tuyên truyền
những mô hình kinh tế hộ gia đình làm ăn có hiệu quả, thu nhập cao phù hợp
với điều kiện của từng vùng để nhân rộng mô hình. Ví dụ: mô hình cá - lúa -
vịt, lúa - lợn - vịt ở đồng bằng; các mô hình trồng rau cung cấp ra thị trường;
các cây ăn quả có giá trị kinh tế như trồng cây cảnh, bưởi diễn, cam canh...
đạt hiệu quả kinh tế cao để hộ gia đình vận dụng vào sản xuất.
- Tăng cường công tác dịch vụ sản xuất như: cung ứng vật tư, thuốc bảo
vệ thực vật, thú y, chuyển giao khoa học công nghệ và tiêu thụ sản phẩm cho
hộ gia đình.
- Tạo hành lang pháp lý cho kinh tế hộ gia đình phát triển.
Những giải pháp trên sẽ tạo điều kiện cho kinh tế hộ gia đình ở nông
thôn Hà Nội phát triển, thu hút được mọi đối tượng lao động trong gia đình:
phụ nữ, trẻ em, lao động lớn tuổi, lao động có trình độ văn hóa và chuyên
môn thấp, tạo việc làm tại chỗ cho người lao động ở nông thôn.
* Phát triển kinh tế trang trại
Kinh tế trang trại là hệ quả tất yếu của kinh tế hộ, phù hợp với quy luật
vận động và phát triển của kinh tế xã hội. Kinh tế trang trại góp phần sử dụng
hiệu quả đất đai, vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý tạo chuyển biến mạnh mẽ
trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở nông thôn; tạo ra
các vùng chuyên canh tập trung sản xuất hàng hóa; là cơ sở cho sự phát triển
106
của công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm; tạo điều kiện thúc đẩy sự phát
triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội ở
nông thôn. Sự phát triển của kinh tế trang trại góp phần quan trọng vào giải
quyết việc làm, giải quyết lao động dư thừa ở nông thôn; nâng cao thu nhập
và cải thiện đời sống dân cư nông thôn.
Để kinh tế trang trại phát triển đúng hướng, thành phố Hà Nội cần phải
tập trung vào các nội dung sau:
- Phân vùng quy hoạch gắn với chính sách sử dụng đất đai. Nhà nước
cần thay đổi lại chính sách hạn điền và kéo dài thời gian được quyền sử dụng
đất có thể đến 50 năm; tạo điều kiện cho kinh tế trang trại phát triển sản xuất
kinh doanh hiệu quả, thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển.
- Tăng cường đầu tư vốn, khoa học công nghệ, tiếp cận phương pháp
sản xuất mới, chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Có chính sách cho vay vốn ưu đãi
để đầu tư phát triển trang trại.
- Hỗ trợ các chủ trang trại trong tìm kiếm thị trường, mở rộng và ổn
định thị trường tiêu thụ hàng hóa.
- Xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hóa, đặc
biệt hệ thống giao thông, thủy lợi, điện...
* Phát triển kinh tế tập thể nòng cốt là hợp tác xã.
+ Ở Hà Nội hiện nay, các hợp tác xã là loại hình kinh tế có đóng góp to
lớn vào sự phát triển kinh tế của thành phố, góp phần xóa đói giảm nghèo,
xây dựng nông thôn mới. Hợp tác xã còn có vai trò và ý nghĩa to lớn trong đời
sống xã hội, là cầu nối giữa hộ nông dân với chính quyền, tạo lập mối quan hệ
cộng đồng, góp phần tăng cường tình làng nghĩa xóm, hỗ trợ nhau trong sản
xuất và đời sống.
Trong những năm tới, Hà Nội xác định phát triển kinh tế hợp tác xã là
hướng đi cơ bản để phát triển kinh tế, nhất là trong kinh tế nông nghiệp nông
107
thôn, mang lại nhiều việc làm cho người lao động khu vực này. Chính vì vậy,
cần đẩy mạnh phát triển kinh tế hợp tác xã theo các hướng sau:
+ Cải tiến công tác quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các
hợp tác xã nông nghiệp, phi nông nghiệp hiện có. Phát triển các hình thức đa
dạng trong các lĩnh vực chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản chế biến thực phẩm,
sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ... ở những nơi có nhu cầu và điều kiện.
+ Tập trung chỉ đạo để kiện toàn lại các hợp tác xã đã được chuyển đổi
và xây dựng mới. Tổng kết những mô hình tốt để rút ra bài học kinh nghiệm,
đồng thời tập trung hỗ trợ, kiện toàn các hợp tác xã còn gặp khó khăn để tạo
sự chuyển biến đồng đều.
+ Ngoài các chính sách ưu đãi các hợp tác xã nông nghiệp do Nhà nước
quy định, thành phố cần hỗ trợ nhằm tạo điều kiện cho kinh tế hợp tác và hợp
tác xã phát triển như: bố trí mặt bằng, hỗ trợ vốn, đặc biệt hỗ trợ đào tạo phát
triển nguồn nhân lực cho các hợp tác xã.
- Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc những
ngành đòi hỏi không nhiều vốn nhưng sử dụng nhiều lao động với trình độ
công nghệ vừa phải và sử dụng nguyên liệu tại chỗ được coi là nhân tố chủ
yếu để tạo việc làm, tăng thu nhập và chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông
thôn.
Hiện nay, Hà Nội triển khai các dự án lớn: Khu công nghệ cao Láng -
Hòa Lạc, Vĩnh Tuy; các khu công nghiệp ở Thạch Thất, Chương Mỹ... với
một hệ thống chính sách ưu đại đã tạo ra nền tảng và cơ hội phát triển tốt cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển, giữ vai trò vệ tinh cung cấp nguyên,
vật liệu, lao động, dịch vụ, thương mại cho các trung tâm kinh tế. Trong giai
đoạn từ 2005 - 2010, Hà Nội tập trung ưu tiên doanh nghiệp vừa và nhỏ về cả
số lượng và chất lượng trong các lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,
các làng nghề truyền thống khởi dậy tính sáng tạo và phát huy truyền thống
108
của địa phương. Bên cạnh đó, chú trọng phát triển một số công ty đủ mạnh
trên một số lĩnh vực như: công nghiệp, lâm nghiệp, xây dựng, giao thông,
thủy lợi, thủy sản để vừa làm đối tượng liên kết, liên doanh trong và ngoài
nước, tạo điều kiện thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Cần tập trung phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Hà Nội theo những
hướng sau:
- Rà soát quy hoạch ngành nghề trên địa bàn, điều chỉnh sửa đổi bổ
sung các quy hoạch cho phù hợp với thực tế và xu thế phát triển. Công bố quy
hoạch phát triển đô thị, quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, cụm công
nghiệp, quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu để người dân và doanh nghiệp
có nhu cầu đầu tư có những thông tin đầy đủ và chính xác nhất.
- Xây dựng, thành lập và ban hành các chính sách khuyến khích phát
triển các quỹ dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, tăng cường khả năng tiếp
cận các nguồn vốn tín dụng cho các doanh nghiệp. Tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp tiếp cận với các nguồn vốn tại các ngân hàng thương
mại, tín dụng ưu đãi, tổ chức tín dụng quốc tế, các tổ chức thuê mua tài chính;
hướng dẫn và hỗ trợ cho các doanh nghiệp có khả năng lập những dự án khả
thi để thuyết phục các ngân hàng cho vay vốn, đồng thời khuyến khích các
doanh nghiệp cùng góp vốn để hình thành các quỹ trợ giúp nhau.
- Bồi dưỡng kiến thức, năng lực tổ chức quản lý và phát triển doanh
nghiệp cho chủ doanh nghiệp, cán bộ quản lý và những người có nguyện vọng
thành lập doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu đào tạo cho các doanh nghiệp vừa
và nhỏ.
- Chấn chỉnh bộ máy cơ quan đăng ký kinh doanh từ huyện, thị; xây
dựng phương án củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực để thống nhất đăng ký
kinh doanh tất cả các loại hình doanh nghiệp trên địa bàn. Khuyến khích
doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế phát triển nhanh, bền vững.
109
- Tạo điều kiện về mặt bằng sản xuất, bảo vệ môi trường và đầu tư xây
dựng kết cấu hạ tầng phục vụ nhu cầu sản xuất và kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Phát triển thị trường, xúc tiến thương mại và đầu tư, phổ biến thông
tin kỹ thuật, công nghệ tới các doanh nghiệp và nâng cao năng lực của các
doanh nghiệp trong việc xác định, lựa chọn và thích ứng với công nghệ.
- Khuyến khích các doanh nghiệp tham gia liên kết ngành ở mọi cấp và
hỗ trợ phát triển các hiệp hội doanh nghiệp để bảo vệ lợi ích của các doanh
nghiệp trong hội nhập và cạnh tranh.
- Thực hiện trợ giúp có trọng điểm về tăng cường khả năng cạnh tranh
của một số ngành hàng mà thành phố có lợi thế so với các địa phương khác.
Đặc biệt ưu tiên khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư phát triển
công nghiệp, thủ công nghiệp, chế biến nông, lâm, thủy sản, hàng xuất khẩu,
các ngành nghề truyền thống, thu hút nhiều lao động, giải quyết việc làm cho
người lao động ở nông thôn.
3.3.4. Tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn qua xuất khẩu
lao động
- Đẩy mạnh việc xuất khẩu lao động, đưa lao động đi làm việc ở trong
và ngoài nước.
Công tác xuất khẩu lao động được coi là công tác mũi nhọn trong giải
quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
Trong những năm tới, để thực hiện mục tiêu từng bước tăng quy mô xuất
khẩu lao động, Hà Nội cần tiến hành đồng bộ các giải pháp sau:
- Cần phải tuyên truyền sâu rộng Chỉ thị của Bộ Chính trị, Nghị định
Chính phủ và các văn bản hướng dẫn về xuất khẩu lao động trên các phương
tiện thông tin đại chúng và các tổ chức đoàn thể, thông báo công khai, cụ thể
về thị trường lao động, số lượng, thời gian, tiêu chuẩn tuyển chọn, điều kiện
lao động, pháp luật về lao động của nước có nhu cầu tuyển lao động cũng như
110
các chi phí đóng nộp, mức lương và quyền lợi được hưởng để người lao động
tìm hiểu và có kế hoạch lựa chọn tham gia xuất khẩu lao động.
Các ngành, các cấp của thành phố như Sở Lao động - Thương binh và
Xã hội, Công an tỉnh, ngành Y tế và các ngành liên quan cũng như các cấp
chính quyền địa phương phải phối hợp hoạt động đề xuất giải pháp thực hiện
tốt công tác xuất khẩu trên địa bàn.
Mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, một mặt, khai thác các thị
trường truyền thống như: Malaixia, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản,... đồng
thời mở rộng xuất khẩu lao động sang các thị trường có thu nhập cao và có
nhu cầu lớn về lao động như đưa người lao động đi làm nghề nông ở Mỹ hay
xuất khẩu lao động sang Châu Âu, Trung Đông... các thị trường vốn ổn định
và đưa lại thu nhập cao cho người lao động.
+ Đầu tư thêm cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy nghề trọng điểm,
nâng cao chất lượng đào tạo các cơ sở dạy nghề gắn với yêu cầu của thị
trường, phát triển trung tâm có đủ điều kiện đào tạo đội ngũ lao động có chất
lượng cao. Mặt khác, phải xây dựng và hoàn thiện chương trình đào tạo nghề
cho người lao động phù hợp với nguồn lao động ở địa phương để nhanh
chóng đào tạo lực lượng lao động có trình độ văn hóa cao, tay nghề vững
chắc, ý thức tổ chức kỷ luật tốt đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của phía sử
dụng lao động.
+ Cần lập quỹ xuất khẩu lao động để có nguồn hỗ trợ kinh phí đào tạo
cho người nghèo, nhất là người lao động thuộc diện chính sách để họ có đủ
điều kiện đi xuất khâu lao động.
Theo đề nghị của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội cần hỗ trợ kinh
phí đào tạo cho bình quân mỗi lao động đi xuất khẩu lao động từ 1.5 đến 2
triệu đồng, đảm bảo cho 100% lao động hộ nghèo đi xuất khẩu lao động nước
ngoài được vay vốn tín dụng ưu đại và đề nghị Ngân hàng Thương mại bỏ
quy định thế chấp 100% vốn vay cho người lao động.
111
+ Coi trọng công tác đào tạo nguồn và giới thiệu người lao động có ý
thức tổ chức kỷ luật, chấp hành tốt các quy định của pháp luật để tham dự đi
làm việc ở nước ngoài. Công tác tạo nguồn và giới thiệu người đi lao động ở
nước ngoài phải gắn với chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu lao động,
phù hợp với quan hệ cung - cầu và quá trình hội nhập quốc tế của thị trường
xuất khẩu lao động.
+ Để công tác xuất khẩu lao động thực sự là tiền đề cho sự phát triển
bền vững sau này của địa phương thì bên cạnh việc đẩy mạnh xuất khẩu lao
động cần xây dựng chương trình hậu xuất khẩu lao động để một mặt, tận dụng
nguồn vốn, tay nghề của người lao động ở nước ngoài về, mặt khác, tạo sự ổn
định kinh tế xã hội cho địa phương có xuất khẩu lao động. Chương trình hậu
xuất khẩu lao động cần phát triển theo hướng khuyến khích người đi xuất
khẩu lao động trở về đầu tư kinh doanh những ngành nghề thiết thực, khai
thác được tiềm năng lợi thế của địa phương.
Đối với những người lao động đã được đào tạo nghề như sản xuất điện
tử, cơ khí hay chế tạo máy v.v... sau khi đi xuất khẩu lao động trở về có thể
được đào tạo lại và được nhận vào làm việc ở các doanh nghiệp ở địa phương
để phát huy tay nghề và kinh nghiệm bởi đây là lực lượng lao động có điều
kiện tiếp xúc với trình độ công nghệ tiên tiến trong môi trường xã hội công
nghiệp của nước bạn. Đây được coi là nguồn nhân lực phục vụ tốt qúa trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của địa phương.
3.3.5. Nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống dịch vụ việc làm
Để nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống dịch vụ việc làm Thành
phố cần:
Quy hoạch, sắp xếp lại mạng lưới trung tâm dịch vụ việc làm để tránh sự
cạnh tranh không cần thiết và lãng phí. Hiện nay, thành phố có 20 trung tâm
dịch vụ việc làm gồm: Trung tâm giới thiệu việc làm thành phố Hà Nội, Thành
đoàn, Liên đoàn lao động, Hội phụ nữ Thành phố Hà Nội, Tổng liên đoàn lao
112
động thành phố, Trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm Hội nông dân... Để
đảm bảo cho các trung tâm này hoạt động có hiệu quả, thì mỗi trung tâm này
cần có hệ thống chân rết ở các cụm xã, các xã, các khu công nghiệp, cụm công
nghiệp, để nắm được thông tin đầy đủ, nhanh nhạy, đáng tin cậy về cả hai bên
cung và cầu lao động kịp thời đáp ứng nhu cầu của các bên.
Cùng với việc hình thành hệ thống chân rết nói trên Hà Nội còn có
trung tâm giới thiệu việc làm của thành phố, Trung tâm giới thiệu việc làm
của Bộ lao động - Thương binh và xã hội. Trung tâm này ngoài chức năng
giới thiệu việc làm, cung cấp thông tin học nghề người tìm việc - việc tìm
người cho các cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp, hàng năm nâng quy mô dạy
nghề lên, từ 30.000 lên 50.000 học sinh học trình độ sơ cấp nghề. Ngoài ra,
Thành phố còn đầu tư nâng cấp 5 trung tâm giới thiệu việc làm, các trung tâm
còn tham gia dạy nghề trình độ sơ cấp với quy mô 10.000 đến 15.000 học
sinh/trung tâm/năm.
- Xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thông thông tin thị trương lao
động thành phố.
Hàng năm, thành phố không chỉ thực hiện nghiêm túc Quyết định số
385/TTg ngày 6 - 6 - 1997 của Chính phủ về điều tra lao động việc làm, mà
còn cần tiến hành thêm các cuộc điều tra sau:
+ Điều tra chuyên đề về việc làm ở khu vực nông thôn về thời gian làm
việc của lao động nông thôn. Công việc này được tiến hành hàng năm trên địa
bàn thành phố, với quy mô điều tra khoảng 50.000 hộ nông dân.
+ Điều tra tình hình sử dụng lao động và nhu cầu tuyển dụng lao động
của các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố.
+ Điều tra tình hình dạy nghề của các cơ sở dạy nghề.
+ Điều tra tình hình hoạt động của các trung tâm dịch vụ việc làm.
+ Điều tra tình hình lao động ở các địa phương.
113
Trên cơ sở các số liệu điều tra, Thành phố đã có Website về thông tin
thị trường sức lao động của Thành phố.
+ Yêu cầu doanh nghiệp đóng trên địa bàn Thành phố phải thực hiện
nghiêm túc việc báo cáo thống kê tình hình sử dụng lao động, nhu cầu tuyển
dụng lao động, tình hình thực hiện các chính sách đối với người lao động.
+ Yêu cầu Ban quản lý các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, Uỷ ban
nhân dân các huyện, thành phố phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp có dự
án đầu tư để nắm được kế hoạch sử dụng lao động, thông báo công khai về số
lượng lao động cần tuyển, thời gian tuyển để người lao động được rõ, ngăn
chặn kịp thời nạn môi giới, cò lao động. Tổ công tác giúp việc Ban chỉ đạo
giải quyết việc làm của thành phố hàng quý và 6 tháng phải thu thập thông tin
về thị trường sức lao động, báo cáo về Thường trực Uỷ ban nhân dân thành
phố cho hướng giải quyết. Các thông tin về thị trường sức lao động phải được
công bố công khai, rõ ràng, thường xuyên để mọi người lao động, mọi cơ sở
sử dụng lao động được biết. Xử lý kịp thời các trường hợp bưng bít thông tin
để cò mồi, lừa đảo người lao động.
3.3.6. Hoàn thiện các pháp luật chính sách về lao động việc làm, xây
dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực nông thôn
Nhà nước cần xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực đối với
thủ đô, trung tâm chính trị - kinh tế văn hóa xã hội của đất nước. Trong đó
cần nâng cao trình độ học vấn và đào tạo nghề cho người lao động cần được
coi là một sự đầu tư, chứ không phải là chi phí như trước đây. Như vậy nếu
như đã coi giáo dục và đào tạo là lĩnh vực đầu tư thì phải có tính toán cụ thể,
hiệu quả cũng như các phương án đầu tư mới có thể bảo đảm chất lượng đầu
tư. Mặt khác, cần xây dựng đồng bộ giữa chính sách phát triển ngành nghề
phi nông nghiệp nông thôn, với chính sách công nghiệp hóa với phát triển
nguồn nhân lực cho khu vực này. Ngoài ra tiếp tục đầu tư vào cải tạo và nâng
cấp hệ thống giáo dục, Nhà nước nên có chính sách khuyến khích các doanh
114
nghiệp đào tạo nhân lực. Có như vậy, các doanh nghiệp mới có thêm động lực
thực hiện vì đào tạo rất quan trọng nhưng cũng đòi hỏi đầu tư lớn. Kinh
nghiệm của các nước Đông Nam Á cho thấy họ rất chú trọng vào vai trò của
chính phủ và giới doanh nghiệp trong công tác giáo dục, phát triển nguồn
nhân lực. Trong đó vai trò của Chính phủ được đề cao trong quá trình hoạch
định và thực thi chính sách, xây dựng môi trường pháp lý, tổ chức, quản lý hệ
thống giáo dục và tăng cường nguồn đầu tư từ ngân sách Nhà nước. Bên cạnh
đó, Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, giới chủ,
quan tâm đầu tư vào công tác đào tạo, bồi dưỡng lực lượng lao động kỹ thuật
thông qua các khâu đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp, tại doanh nghiệp, cơ sở
sản xuất.
Hiện nay quản lý nguồn nhân lực ở tầm vĩ mô của Nhà nước và ở các
địa phương vẫn chưa theo kịp sự biến đổi nhanh chóng về đời sống kinh tế -
xã hội của đất nước và thủ đô. Quản lý nhà nước về nguồn nhân lực chưa thực
sự tích cực đổi mới và hoàn thiện để có thể nhanh chóng khắc phục những
mặt bất cập và đáp ứng được những yêu cầu đặt ra của quá trình đổi mới và
phát triển. Thông thường, chính sách đào tạo nguồn nhân lực phải đi trước,
đón đầu trong quá trình hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội của
thủ đô. Đào tạo - sử dụng phải được gắn kết với nhau thông qua chức năng kế
hoạch hóa phân bổ nguồn nhân lực của Nhà nước và các địa phương. Đây
chính là cơ sở định hướng và đơn đặt hàng đối với cơ sở đào tạo. Trong nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, quyền, nghĩa vụ của người lao
động và người sử dụng lao động chỉ có thể được đảm bảo song song với việc
tăng cường vai trò quản lý của nhà nước đối với phát triển nguồn nhân lực.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thực hiện chương trình quốc gia 3 năm đào
tạo theo nhu cầu xã hội, từ năm 2008 đến năm 2010, trong đó quan hệ nhà
trương - doanh nghiệp là yếu tố quyết định. Theo chương trình này, hình
thành một cơ chế chuyên biệt quy định mức học phí cho các ngành nghề đào
115
tạo gắn với doanh nghiệp. Bộ cũng đề xuất phương án doanh nghiệp dành 2 -
3% chi phí cho các ngành nghề đào tạo. Các trường đại học, cao đẳng phối
hợp các doanh nghiệp xây dựng chương trình dạy và học phù hợp với yêu cầu
của doanh nghiệp. Theo đó, các trường cần phải thành lập hội đồng trường
gồm cả đại diện là doanh nghiệp, thường xuyên điều tra giới thiệu thông tin
sinh viên sau khi tốt nghiệp để biết được hiệu quả đào tạo. Nếu thực hiện tốt,
đây sẽ là giải pháp thực hiện có hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước
nói chung và cho thủ đô Hà Nội nói riêng.
- Hoàn thiện môi trường thể chế để phát triển thị trường lao động Thủ đô.
Hiện nay những cơ chế chính sách cho sự phát triển thị trường lao động
vẫn chưa theo kịp với yêu cầu thực tiễn phát triển kinh tế sôi động của Thủ đô
và khu vực sông Hồng. Trong thời gian tới, Hà Nội với đặc trưng là trung tâm
của khu vực đồng bằng sông Hồng và đòi hỏi những nhu cầu rất lớn về nguồn
nhân lực. Mặt khác, sự mở cửa hội nhập của nền kinh tế sẽ làm tăng tính linh
hoạt của thị trường lao động, làm tăng cầu lao động cho vùng. Cùng với sự tự
do hóa thương mại thì việc tiếp tục gỡ bỏ những rào cản, tự do hóa thị trường
lao động là vấn đề rất cấp bách cần được giải quyết. Trong thời gian tới cần
tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau:
+ Tiếp tục hoàn thiện thể chế chính sách và môi trường pháp lý về lao động
Một trong những công cụ quan trọng nhất để điều chỉnh các quan hệ lao
động trên thị trường lao động là Luật lao động. Trong thời gian qua, Luật lao
động đã được bổ sung cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước,
trong đó có những điều lệ quy định khác nhau tùy theo các vùng kinh tế khác
nhau. Tuy nhiên, thực tế phát triển kinh tế xã hội của Hà Nội trong thời gian
qua cho thấy còn thiếu một chính sách riêng về quản lý lao động và phát triển
thị trường lao động phù hợp với Thủ đô. Với cơ chế mở để thu hút lao động
phát triển tam giác kinh tế trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh,
nhưng lại có quá nhiều rào cản đối với người lao động di chuyển trong việc
116
ổn định cuộc sống và làm việc; thiếu một cơ chế đào tạo - sử dụng lao động
chất xám và lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao cho các cơ sở sản
xuất kinh doanh; thiếu một cơ chế hoạt động riêng cho các trung tâm dịch vụ
việc làm trong điều kiện thị trường lao động hoạt động rất sôi động, đặc biệt
phạm vi điều chỉnh của các văn bản pháp luật trong những quy định về việc
làm - thị trường lao động còn hạn chế như chưa bao hàm các đối tượng là
nông dân, người làm viêc trong khu vực phi chính thức... Nói tóm lại, điều
cần thiết là các cơ quan chức năng cần xem xét, nghiên cứu để xây dựng một
cơ chế chính sách hoàn thiện cho phát triển thị trường lao động thủ đô ở tầm
vĩ mô.
+ Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước ở tầm vĩ mô nói chung và ở Hà
Nội nói riêng còn yếu và thiếu đồng bộ. Cần thiết phải củng cố và kiện toàn
lại cơ quan quản lý lao động từ Trung ương đến địa phương xác định rõ chức
năng và nhiệm vụ của từng bộ phận, tránh chồng chéo và trùng lặp.
Tăng cường trang thiết bị kỹ thuật hiện đại cho các cơ quan quản lý thị
trường lao động của thủ đô, tăng cường về số lượng và nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về lao động ở tất cả các cấp, thường xuyên
cập nhập thông tin về lao động và thị trường lao động.
Nâng cao hơn nữa vai trò của các tổ chức đại diện cho người lao động
và các tổ chức đại diện cho chủ sử dụng lao động. Cần phát triển hệ thống
công đoàn đến các cơ sở sản xuất, kinh doanh của tất cả các thành phần kinh
tế, đặc biệt trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các tổ chức
công đoàn cần được tham gia tích cực vào việc thiết kế các cơ chế, chính sách
có liên quan đến lao động và người lao động, bảo vệ quyền lợi chính đáng của
người lao động. Mặt khác, các cơ quan chức năng cần thu hút thêm sự tham
gia của giới chủ sử dụng lao động vào quá trình hoạch định các chính sách về
thị trường lao động, đặc biệt là chính sách sử dụng và phát triển nguồn nhân
lực cho các doanh nghiệp.
117
+ Nâng cao hiệu quả của các chính sách thị trường lao động tích cực.
Chính sách thị trường lao động tích cực có mục tiêu nâng cao tính năng
động của lao động, tăng cường sự thích ứng của lao động đối với mức cầu lao
động, điều chỉnh sự cân bằng giữa cung - cầu lao động và thúc đẩy sự di chuyển
lao động để cân đối nguồn lực cho sự phát triển của thủ đô và của cả nước.
Cần tiếp tục củng cố, hoàn thiện và phát triển mạnh mạng lưới các
trung tâm dịch vụ việc làm của Hà Nội trên cơ sở phối hợp với các tổ chức
hướng nghiệp thành một mạng lưới thống nhất hoạt động có hiệu quả. Mở
rộng phạm vi hoạt động của các trung tâm này nhằm đáp ứng nguồn lao động
cho các doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ của thành phố.
Hiện đại hóa các cơ sở vật chất cho các trung tâm dịch vụ việc làm, sử dụng
rộng rãi các hình thức môi giới lao động như hội chợ việc làm, phòng thông
tin lao động tự chọn.
Xây dựng hệ thống thông tin, thống kê về thị trường lao động của Hà
Nội với các chỉ số về cung - cầu lao động, tình trạng thất nghiệp của người lao
động, trình độ lao động, sự di chuyển lao động... Hình thành các ngân hàng
việc làm để phục vụ cho các đối tượng có nhu cầu tìm việc và chuyển đổi việc
làm trên thị trường lao động.
Lành mạnh hóa quan hệ lao động và xử lý tranh chấp, xây dựng cơ chế
tuyển dụng - thôi việc - sa thải linh hoạt, tạo điều kiện cho việc duy trì kỷ luật
và sức cạnh tranh, dịch chuyển lao động giữa các khu vực, bảo đảm quyền lợi
bình đẳng giữa người lao động và người sử dụng lao động. Đồng thời bãi bỏ
những hạn chế trong chính sách lao động và cư trú, phân biệt người nhập cư
và dân bản địa, tạo điều kiện cho di dân nông thôn - thành thị.
118
KẾT LUẬN
Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nội không chỉ là công việc bức xúc trước mắt,
mà còn là vấn đề mang tính chiến lược. Qua nghiên cứu vấn đề này có thể rút
ra một số kết luận sau:
Khác với lao động ở các ngành, lĩnh vực khác, lao động nông thôn có
đặc điểm rất riêng biệt: Cung lao động nông nghiệp mang tính tự có, gắn liền
với những đặc điểm của dòng họ, gia đình, làng xã, dân tộc, tôn giáo, thời đại;
cầu lao động nông nghiệp, nông thôn có tính chất thời vụ, gắn liền với tính
chất mùa vụ của sản xuất nông nghiệp; chất lượng lao động nông nghiệp thấp,
hầu hết không có chuyên môn kỹ thuật; hoạt động của lao động nông nghiệp
thường bó hẹp ở quy mô hộ gia đình và khả năng tự tạo việc làm của lao động
nông nghiệp hạn chế. Chính vì thế, quá trình đô thị hóa, đặc biệt là đô thị hóa
nông thôn có tác động rất lớn đến việc làm của lao động nông nghiệp cả tích
cực lẫn tiêu cực. Về tác động tích cực: đô thị hóa tạo cơ hội chuyển đổi việc
làm cho lao động nông nghiệp, từ đó thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động
theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động công
nghiệp và dịch vụ; đô thị hóa làm cho năng suất, thu nhập từ việc làm nông
nghiệp tăng lên thông qua việc đưa tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất
nông nghiệp. Về tác động tiêu cực, đô thị hóa làm giảm việc làm của lao động
nông thôn (do thu hẹp diện tích đất canh tác), gây nguy cơ thất nghiệp cho lao
động nông thôn và làm tăng sức ép tìm việc làm của họ.
Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nội cần phải làm rõ được các nhân tố ảnh
hưởng đến vấn đề việc làm của người lao động. Có thể khái quát các nhân tố
ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình đô
thị hóa thành 3 nhóm: 1- Nhóm các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình tạo ra tư
119
liệu sản xuất như vốn, tài nguyên thiên nhiên, khoa học - công nghệ; 2 -
Nhóm các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình tạo ra số lượng và chất lượng lao
động sức lao động như dân số, giáo dục đào tạo, y tế, chăm sóc sức khỏe; 3 -
Nhóm các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao
động như các chính sách của Nhà nước, sự phát triển của thị trường sức lao
động, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Hà Nội nằm trong vùng trọng điểm kinh tế đồng bằng sông Hồng, trong
tam giác phát triển Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh trong thời gian qua có
tốc độ đô thị hóa cao. Đi liền với đó là tình trạng thiếu việc làm, không tìm
được việc làm của lực lượng lao động, đặc biệt là lao động nông thôn, chuyển
đổi mục đích sử dụng rất lớn. Trước thực trạng đó, Hà Nội đã sử dụng nhiều
biện pháp để tạo việc làm như thực hiện chương trình phát triển kinh tế - xã
hội, thực hiện các đề án cho vay vốn hỗ trợ giải quyết việc làm: đẩy mạnh
xuất khẩu lao động, nâng cao hiệu quả công tác đào tạo nghề, dịch vụ việc
làm, thông tin thị trường sức lao động... kết quả là từ năm 2001 đến nay, Hà
Nội đã tạo được việc làm cho hơn 342143 việc làm mới cho người lao động,
góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp của lao động thành thị, tăng tỷ lệ thời gian lao
động được sử dụng ở khu vực nông thôn Hà Nội từ 75,18 giờ năm 2006 lên
76,7 giờ năm 2010 và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động thành phố theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Mặc dù đạt được những kết quả nêu trên, song vấn đề giải quyết việc
làm cho lao động nông thôn ở Hà Nội vẫn còn nhiều bất cập như: chất lượng
việc làm mới chưa cao, cơ cấu lao động lạc hậu, tình trạng không tìm được
việc làm, thiếu việc làm của lao động nông nghiệp nhất là lao động nông
nghiệp bị thu hồi đất còn cao; việc thực hiện các chính sách giải quyết việc
làm cho lao động nông thôn còn nhiều điểm chưa hợp lý; hoạt động của hệ
thống công cụ hỗ trợ giải quyết việc làm của Hà Nội còn nhiều yếu kém và
sức ép giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình công
120
nghiệp hóa, đô thị hóa lớn, trong khi chất lượng lao động nông nghiệp rất
thấp.
Để thực hiện được mục tiêu và phương hướng giải quyết việc làm cho
lao động nông nghiệp của thành phố trong thời gian tới đây cần tăng cường sự
chỉ đạo của chính quyền nhà nước trong việc định hướng về nhu cầu thị
trường lao động và thực hiện đồng bộ các giải pháp, chính sách nhằm thúc
đẩy sự phát triển của thị trường lao động và mở rộng cơ hội việc làm cho
nhiều người lao động nói chung và nhiều người lao động ở khu vực nông thôn
nói riêng.
121
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Xuân Bá (2003), Một số vấn đề phát triển thị trường lao động ở Việt
Nam, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
2. Báo Vĩnh Phúc (23/7/2010), Vĩnh Phúc.
3. Bộ luật Lao động, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Bộ Lao động - Thương Binh và xã hội (2009), Số liệu thống kê lao động
và việc làm ở Việt Nam 2009, Nxb. Lao động và Xã hội, Hà Nội.
5. Bộ môn Kinh tế phát triển - Khoa Kế hoạch và Phát triển, Trường Đại
học Kinh tế Quốc dân (2005), Giáo trình Kinh tế phát triển, Nxb. Lao
động Xã hội, Hà Nội.
6. Trần Văn Chử (Chủ biên, 2001), Mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng
lao động với giải quyết việc làm trong quá trình CNH, HĐH đất nước
Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội
7. Nguyễn Sinh Cúc (2003), "Giải quyết việc làm ở nông thôn và những
vấn đề đặt ra", Con số và sự kiện, (20).
8. Cục Thống kê Hà Nội (2005), Niên giám thống kê 2005, Hà Nội.
9. Cục Thống kê Hà Nội (2006), Niên giám thống kê 2006, Hà Nội.
10. Cục Thống kê Hà Nội (2007), Niên giám thống kê 2007, Hà Nội.
11. Cục Thống kê Hà Nội (2008), Niên giám thống kê 2008, Hà Nội.
12. Cục Thống kê Hà Nội (2009), Niên giám thống kê 2009, Hà Nội.
13. Cục Thống kê Hà Nội (2009), Một số chỉ tiêu kinh tế xã hội chủ yếu
thành phố Hà Nội thời kỳ 2006 - 2010, Hà Nội.
14. Cục Thống kê Hà Nội (2010), Niên giám thống kê 2010, Hà Nội.
15. Đỗ Minh Cương (2007), "Dạy nghề cho lao động nông thôn hiện nay",
Nông thôn mới Hà Nội.
122
16. Nguyễn Hữu Dũng, Trần Hữu Trung (1997), Chính sách giải quyết việc
làm ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Nguyễn Hữu Dũng (2004), "Giải quyết vấn đề lao động và việc làm trong
quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá nông thôn”, Lao động - Xã hội, (247).
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5, Ban
Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng bộ Thành phố Hà Nội (2006), Văn kiện trình Đại hội đại biểu
Đảng bộ Thành phố lần thứ XIV, Hà Nội.
23. Đảng bộ Thành phố Hà Nội (2011), Văn kiện trình Đại hội đại biểu
Đảng bộ Thành phố lần thứ XV, Hà Nội.
24. Đinh Đăng Định (chủ biên, 2004), Một số vấn đề lao động, việc làm và
đời sống người lao động ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Lao động, Hà Nội.
25. Đặng Đình Hải - Nguyễn Ngọc Thụy (3/2005), “Làm thế nào để đẩy
mạnh công tác dạy nghề cho lao động nông thôn”, Tạp chí Lao động Xã
hội, (259).
26. Nguyễn Quang Hiền (1995), Thị trường lao động: Thực trạng và giải
pháp, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
27. Hoàng Văn Hoa, Phan Huy Vĩnh (2010), Phát triển công nghiệp chủ lực
Hà Nội đến năm 2020, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Nguyễn Thị Lan Hương (chủ biên, 2002), Thị trường lao động Việt Nam
định hướng và phát triển, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.
123
29. Hội Nông dân Thành phố Hà Nội (2005), Báo cáo kết quả 5 năm Hội
nông dân thực hiện chương trình mục tiêu xóa đói giảm nghèo (2000 -
2005) và phương hướng nhiệm vụ (2005 - 2010), Hà Nội.
30. Hội Nông dân Thành phố Hà Nội (2005), Báo cáo kết quả Hội nông dân
thực hiện phong trào thi đua sản xuất - kinh doanh giỏi, xây dựng điển
hình tiên tiến hộ nông dân thu nhập 50 triệu đồng năm, Hà Nội.
31. Hội Nông dân Thành phố Hà Nội (2009), Báo cáo kết quả thực hiện 3
dự án phối hợp Trung ương Hội Nông dân Việt Nam và Hội nông dân
Thành phố Hà Nội, Hà Nội.
32. C.Mác (1984), Bộ tư bản, Tập thứ nhất, quyển I, phần 1, Nxb. Sự thật,
Hà Nội.
33. C.Mác - Ph.ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
34. C.Mác - Ph.ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
35. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 4 (1945 - 1946), Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
36. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 4 (1946 - 1954), Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
37. Nguyễn Văn Nam (19/8/2005), "Việc làm cho người nông dân hết đất
sản xuất, quy hoạch lại nguồn lao động", Thời báo Kinh tế Việt Nam.
38. Ngân hàng Chính sách xã hội thành phố Hà Nội (2010), Báo cáo đánh
giá cho vay vốn giải quyết việc làm giai đoạn 2006 - 2010, Hà Nội.
39. Nguyễn Văn Phúc (2007), Công nghiệp nông thôn Việt Nam. Thực trạng
và giải pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Bùi Văn Quán (2001), "Thực trạng lao động, việc làm ở nông thôn và
một số giải pháp cho giai đoạn 2006-2010 ", Báo Lao động và Xã hội,
tr.259.
124
41. Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội Hà Nội (2006), Đề án xuất khẩu
lao động thành phố Hà Nội, giai đoạn 2006, 2010, 2012.
42. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội (2010), Báo cáo thực
hiện chương trình xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm, dạy nghề,
Hà Nội.
43. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội (2010), Báo cáo kết quả
thực hiện chương trình giải quyết việc làm giai đoạn 2006 - 2010 và
phương hướng giải pháp giai đoạn 2010 - 2015, Hà Nội.
44. Vũ Đình Thắng (2002), "Vấn đề việc làm cho lao động nông thôn”
Kinh tế và phát triển, (3).
45. Nguyễn Thị Thơm (2004), Thị trường lao động Việt Nam. Thực trạng và
giải pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ năm 2003 - 2004, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
46. Trần Thị Thu (2003), Tạo việc làm cho lao động nữ trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.
47. Tổng Cục Thống kê (2009), Niên giám thống kê 2009, Nxb. Thống kê,
Hà Nội.
48. Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội (2009), Công văn số 4503 UBND -
NN ngày 21/5/2009 về kiện toàn Ban chỉ đạo phát triển nghề và làng
nghề ở Hà Nội.
49. Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội (2010), Chương trình đào tạo nghề,
giải quyết việc làm đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
125