BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Lâm Thị Cẩm Loan

XÂY DỰNG HỆ THỐNG ĐỀ BÀI TẬP

LÀM VĂN LỚP 4, LỚP 5 THEO

QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Lâm Thị Cẩm Loan

XÂY DỰNG HỆ THỐNG ĐỀ BÀI TẬP

LÀM VĂN LỚP 4, LỚP 5 THEO

QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP

Chuyên ngành : Giáo dục học (Giáo dục Tiểu học)

Mã số

: 8140101

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN THỊ XUÂN YẾN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự

hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị Xuân Yến, các nội dung nghiên cứu

và kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố bất kỳ hình thức nào

trước đây. Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận

xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau ghi rõ trong

phần tài liệu tham khảo.

Ngoài ra trong luận văn còn sử dụng một số khái niệm, nhận xét, đánh giá

của các tác giả có trích dẫn và chú thích nguồn gốc. Nếu có bất kỳ sự gian lận

TP. Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 09 năm 2018

Tác giả

Lâm Thị Cẩm Loan

nào tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội dung luận văn của mình.

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện đề tài: “Xây dựng hệ thống đề bài tập làm văn

lớp 4, lớp 5 theo quan điểm giao tiếp”, tôi đã nhận được rất nhiều sự động

viên, hướng dẫn, giúp đỡ của các cá nhân và tập thể cùng với ý thức cố gắng,

sự nỗ lực của bản thân để hoàn thành luận văn này.

Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thị Xuân Yến,

giảng viên Khoa Giáo dục Tiểu học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ

Chí Minh. Cô đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt cho chúng tôi nhiều kiến thức,

kĩ năng quan trọng của một người giáo viên. Cô đã tận tình hướng dẫn và đóng

góp ý kiến giúp tôi có điều kiện tốt nhất để hoàn thành luận văn.

Tiếp đến, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các Thầy, Cô trong

khoa Giáo dục Tiểu học của trường Đại học Sư phạm TP. HCM, cùng toàn thể

các thầy cô là những người đã đem lại cho tôi những kiến thức bổ trợ vô cùng

quý báu trong thời gian theo học vừa qua. Qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn

chân thành tới Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau Đại học đã tạo điều kiện để

hoàn thành khóa học theo đúng thời gian quy định.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu cùng quý thầy cô ở các trường

tiểu học: Hồ Văn Cường (Quận Tân Phú), Hiệp Tân (Quận Tân Phú), Tân Sơn

Nhì (Quận Tân Phú), Phú Định (Quận 6) đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ

chúng tôi trong suốt quá trình khảo sát.

Tôi rất mong nhận được những lời góp ý chân thành của quý thầy cô,

các bạn đối với đề tài này.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 09 năm 2018

Tác giả

Lâm Thị Cẩm Loan

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

Danh mục các bảng

Danh mục các biểu đồ

Danh mục các sơ đồ

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỀ BÀI DẠY HỌC

TLV LỚP 4, LỚP 5 THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP ............ 8

1.1. Lí thuyết về quan điểm giao tiếp .................................................................... 8

1.1.1. Khái niệm về giao tiếp ......................................................................... 8

1.1.2. Chức năng của giao tiếp ....................................................................... 8

1.1.3. Ngôn bản và các nhân tố của hoạt động giao tiếp .......................... 10

1.1.4. Các dạng lời nói và hoạt động giao tiếp .......................................... 13

1.1.5. Bản chất của quan điểm giao tiếp ..................................................... 16

1.1.6. Quá trình sản sinh và tiếp nhận lời nói trong hoạt động giao tiếp ....... 18

1.2. Dạy học TLV theo quan điểm giao tiếp....................................................... 20

1.3. Vai trò của đề bài đối với quá trình dạy học TLV ...................................... 21

1.4. Đặc điểm tâm lý của HS lớp 4, lớp 5 đối với quá trình tạo lập ngôn

bản và văn bản ................................................................................................ 22

1.4.1. Tri giác ................................................................................................. 22

1.4.2. Trí nhớ .................................................................................................. 23

1.4.3. Tư duy .................................................................................................. 24

1.4.4. Chú ý .................................................................................................... 25

1.4.5. Tưởng tượng ........................................................................................ 25

1.4.6. Ngôn ngữ ............................................................................................. 26

Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 28

Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ BÀI DẠY HỌC TLV LỚP 4,

LỚP 5 THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP .................................. 29

2.1. Chương trình, mục tiêu, thể loại dạy học TLV ở tiểu học......................... 29

2.1.1. Chương trình TLV ở tiểu học ............................................................ 29

2.1.2. Mục tiêu dạy học TLV lớp 4, lớp 5 .................................................. 30

2.1.3. Thể loại TLV lớp 4, lớp 5 .................................................................. 32

2.2. Đề bài TLV lớp 4, lớp 5 trong SGK hiện hành .......................................... 33

2.2.1. Đề bài TLV lớp 4 trong SGK hiện hành .......................................... 33

2.2.2. Đề bài TLV lớp 5 trong SGK hiện hành .......................................... 35

2.3. Khảo sát đề bài TLV trong SGK hiện hành và thực trạng dạy học

TLV hiện nay .................................................................................................. 37

2.3.1. Khảo sát đề bài TLV trong SGK hiện hành .................................... 37

2.3.2. Khảo sát thực trạng dạy TLV ............................................................ 42

Chương 3. THIẾT KẾ ĐỀ BÀI TLV LỚP 4, LỚP 5 THEO QUAN

ĐIỂM GIAO TIẾP ........................................................................ 54

3.1. Nguyên tắc xây dựng đề bài TLV lớp 4, lớp 5 theo quan điểm giao tiếp ...... 54

3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo phù hợp mục tiêu chương trình .................... 54

3.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống ................................................... 55

3.1.3. Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức ..................................................... 55

3.1.4. Nguyên tắc đảm bảo quan điểm giao tiếp trong dạy học Tiếng Việt .. 56

3.1.5. Nguyên tắc đảm bảo sự phù hợp với đối tượng học sinh .............. 56

3.2. Ma trận đề bài TLV lớp 4, lớp 5 theo quan điểm giao tiếp ....................... 56

3.3. Quá trình xây dựng đề bài TLV theo quan điểm giao tiếp ........................ 57

3.4. Hệ thống đề bài TLV lớp 4, lớp 5 theo quan điểm giao tiếp..................... 59

3.4.1. Phân tích một số đề bài TLV theo quan điểm giao tiếp ................. 59

3.4.2. Giáo án TLV theo quan điểm giao tiếp ............................................ 60

Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 69

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ........................................................................ 70

TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 72

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

HS : Học sinh

GV : Giáo viên

TLV : Tập làm văn

TV : Tiếng Việt

SGK : Sách giáo khoa

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Bảng thống kê các yếu tố của một đề bài TLV tốt ......................... 37

Bảng 2.2. Bảng thống kê các yếu tố của đề bài TLV theo quan điểm giao tiếp ... 39

Bảng 2.3. Bảng thống kê những khó khăn của đề bài TLV hiện nay ............. 41

Bảng 2.4. Bảng thống kê kết quả bài văn của HS theo đề bài hiện nay .......... 42

Bảng 2.5. Bảng thống kê những khó khăn trong việc dạy TLV hiện nay ....... 43

Bảng 2.6. Bảng thống kê khó khăn của HS khi làm văn kể chuyện ............... 45

Bảng 2.7. Bảng thống kê khó khăn của HS khi viết văn miêu tả .................... 47

Bảng 2.8. Bảng thống kê thái độ của HS trong giờ TLV ................................ 49

Bảng 2.9. Bảng thống kê những điều cần chú ý trong việc luyện viết TLV ... 50

Bảng 2.10. Bảng thống kê khó khăn của GV khi dạy tiết tìm hiểu đề .............. 51

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1. Biểu hiện đề bài TLV tốt .............................................................. 38

Biểu đồ 2.2. Biểu hiện đề bài TLV theo quan điểm giao tiếp........................... 40

Biểu đồ 2.3. Những khó khăn chủ yếu của đề bài TLV hiện nay ..................... 41

Biểu đồ 2.4. Kết quả bài văn của HS theo các đề bài hiện nay......................... 42

Biểu đồ 2.5. Những khó khăn chủ yếu của việc dạy TLV hiện nay ................. 44

Biểu đồ 2.6. Biểu thị khó khăn chủ yếu của HS khi làm văn kể chuyện .......... 46

Biểu đồ 2.7. Biểu thị những khó khăn của HS khi viết văn miêu tả ................. 47

Biểu đồ 2.8. Biểu thị thái độ của HS trong giờ TLV ........................................ 49

Biểu đồ 2.9. Những điều cần chú ý của GV khi luyện viết cho HS ................. 50

Biểu đồ 2.10. Biểu thị khó khăn của GV khi dạy tiết tìm hiểu đề .................... 51

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, HÌNH

Sơ đồ 1.1. Cơ chế hoạt động giao tiếp .............................................................. 16

Sơ đồ 2.1. Thể loại TLV lớp 4 .......................................................................... 32

Sơ đồ 2.2. Thể loại TLV lớp 5 .......................................................................... 33

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Mục tiêu của môn TV ở nhà trường Tiểu học hiện nay là hình thành và

phát triển năng lực giao tiếp cho HS. Giao tiếp là năng lực nền tảng, cở sở, có

Giao tiếp là hoạt động tiếp xúc giữa các thành viên trong xã hội với nhau,

dùng ngôn ngữ để bày tỏ tư tưởng, tình cảm, trao đổi ý kiến, kiến thức, nhận xét

về xã hội, con người và thiên nhiên, … (Nguyễn Trí, 2009, p. 57– 58).

tính công cụ.

Trong môn TV ở Tiểu học có nhiều phân môn (Học vần, Tập viết, Chính

tả, Tập đọc, Luyện từ và Câu, TLV) mỗi phân môn chứa đựng một bộ phận

kiến thức nhất định, chúng bổ trợ cho nhau để HS học tốt môn TV. Trong đó

phân môn TLV là một phân môn quan trọng giúp HS hình thành và phát triển

năng lực tạo lập ngôn bản và văn bản. Để dạy và học TLV hiệu quả, việc chọn

lọc đề bài để dạy học là vô cùng quan trọng. Đề bài giúp HS định hướng, xác

định ý tưởng cho bài văn. HS viết một bài văn không chỉ để tả, kể mà qua việc

tả, kể đó nhằm hướng đến mục đích giao tiếp cho HS. Đề bài TLV phải đảm

bảo được các nhân tố của hoạt động giao tiếp (hoàn cảnh giao tiếp, nhân vật

giao tiếp, mục đích giao tiếp, nội dung giao tiếp và phương tiện giao tiếp) từ đó

giúp bài văn của HS trở nên sinh động, tránh đơn điệu và nhàm chán.

Đề bài dạy học TLV hiện nay bên cạnh những ưu điểm vẫn còn một số

hạn chế về nội dung và hình thức. Một số đề bài chưa đảm bảo tính vừa sức đối

với HS, còn mang tính khuôn mẫu, chưa kích thích được năng lực thích nói,

thích viết, không phát huy tính sáng tạo của HS. Bên cạnh đó, một số đề bài

TLV còn mang nặng tính sách vở, thiếu hẳn tính phong phú đa dạng của đời

sống thực. Kết quả bài văn của HS đều dùng từ em để xưng hô, các bài tương

đối giống nhau khi tả hoặc kể về một đối tượng. HS viết câu văn chưa mạch

2

lạc, còn viết dưới dạng liệt kê.

Hiện nay, chương trình giáo dục phổ thông mới ban hành với chủ trương

một chương trình, nhiều bộ sách giáo khoa nên việc tìm hiểu và xây dựng đề

bài TLV lớp 4, lớp 5 theo quan điểm giao tiếp sẽ làm tăng nguồn ngân hàng đề

phong phú cho các bộ SGK.

Với những lí do trên, qua nghiên cứu tìm hiểu và được sự gợi ý của giáo

viên hướng dẫn, chúng tôi đã quyết định chọn nghiên cứu và thực hiện đề tài:

“Xây dựng hệ thống đề bài tập làm văn lớp 4, lớp 5 theo quan điểm giao

tiếp” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Trong giáo trình “Hỏi – đáp về dạy học TV 4”, Nguyễn Minh Thuyết

(2006) cho rằng quan điểm giao tiếp được thể hiện cả hai phương diện nội

dung và hình thức. Về phần nội dung, quan điểm được thể hiện trên cách bố trí

thời lượng, sắp xếp các đơn vị kiến thứ và các kiểu bài. Về phương pháp dạy

học, quan điểm giao tiếp được thể hiện ở nội dung các kiến thức và kĩ năng

trong phân môn Luyện Từ và Câu được rèn luyện thông qua nhiều bài tập gắn

với yêu cầu của TLV ở lớp 5.

Trong sách “Một số vấn đề dạy học Tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp ở

tiểu học” , Nguyễn Trí (2009) cho rằng giao tiếp là hoạt động quan trọng của

loài người. Có nhiều phương tiện giao tiếp, trong đó ngôn ngữ là phương tiện

quan trọng nhất được sử dụng. Tác giả cho rằng mỗi cuộc giao tiếp có ít nhất

hai người và phải dùng cùng một ngôn ngữ nhất định. Hoạt động giao tiếp còn

được thể hiện qua khái niệm, chức năng, thành phần tham gia giao tiếp.

Theo Nguyễn Quang Ninh (1999) trong sách“Một số vấn đề dạy ngôn

bản nói và viết ở tiểu học theo hướng giao tiếp” khi nói về việc dạy TLV, tác

giả nêu lên nhược điểm của dạy TLV nói theo định hướng giao tiếp. Ông cho

rằng mục đích của các bài tập làm văn thường bị giáo viên xem nhẹ, GV chỉ

thiên về đánh giá thành phần nội dung của sự việc. Người GV đã quên rằng

3

một bài văn không phải chỉ để tả, kể mà qua việc tả, kể đó nhằm hướng đến

mục đích khác. Bên cạnh đó, khi ra đề làm văn cho HS thì dường như các nhân

tố giao tiếp bị gạt ra ngoài sự chú ý của giáo viên. Chính điều đó đã dẫn đến

bài làm văn của HS trở nên đơn điệu, nhàm chán. Tác giả đặc biệt chú ý đến

phương tiện của các hoạt động giao tiếp là ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Đây

chính là phương tiện chủ yếu để thực hiện quá trình giao tiếp. Ở bài viết này

tác giả cũng đã đưa ra những đặc điểm của ngôn bản nói và ngôn ngữ viết.

Ngôn bản ở đây là một chuỗi ngôn ngữ được sắp xếp theo qui tắc ngữ pháp,

kèm theo ngữ điệu nhằm thể hiện nội dung giao tiếp. Từ những đặc điểm trên

giúp người dạy tìm ra được những phương pháp dạy học TLV phù hợp theo

quan điểm giao tiếp.

Từ bài viết “Từ khái niệm năng lực giao tiếp đến vấn đề dạy và học TV

trong nhà trường phổ thông hiện nay”, Vũ Thị Thanh Hương (2006) đã đề cập

và phân tích khái niệm “năng lực giao tiếp”, đã dẫn ra những ý kiến khác nhau

của các học giả (Chomsky, Campbell & Wales, Hymes, Murby, Canale &

Swain, Bachman) xoay quanh khái niệm “năng lực giao tiếp”. Tác giả bài viết

so sánh đối chiếu các nội dung kiến thức TV được trình bày trong các chương

trình TV hiện hành (của Bộ Giáo dục và Đào tạo) với các nội dung của mô

hình lí thuyết về “năng lực giao tiếp”. Từ khái niệm “năng lực giao tiếp”,

người viết tìm hiểu chương trình dạy TV trong nhà trường phổ thông đầu thế kỉ

21 và nhận xét: “Có thể nói, trong tất cả các tài liệu về chương trình mà chúng

tôi được tiếp cận cho đến bây giờ, quan điểm giao tiếp là sợi chỉ đỏ xuyên suốt

toàn bộ mục tiêu giảng dạy TV ở tất cả các cấp trong nhà trường phổ thông

hiện nay”. Tác giả bài viết tiến hành khảo sát chương trình TV ở các cấp học

đề làm rõ vấn đề: “liệu nội dung của chương trình có thực sự đảm bảo cung

cấp đủ kiến thức để giúp các em hình thành và rèn luyện tốt năng lực giao

tiếp?”. Tác giả có trình bày kết quả khảo sát và kết thúc bài viết với vài lời

nhận xét ngắn gọn.

4

Một trong số những người nghiên cứu về dạy TV trung học phổ thông

theo tình huống giao tiếp, Lê Thị Bích Hồng (10/2017) đã khẳng định sự cần

thiết phải sử dụng tình huống giao tiếp trong dạy TV:

Trong dạy học, để giúp HS tích cực chủ động, huy động mọi vốn sống, tri

thức, kinh nghiệm của mình vào hoạt động tìm kiếm tri thức mới hay giải

quyết các tình huống mới, tăng cường khả năng suy nghĩ độc lập, sáng tạo, chủ

động điều chỉnh nhận thức, lời nói và hành vi, GV cần xây dựng các tình

huống giao tiếp.

Trong bài viết, tác giả đã đưa ra những định nghĩa tương đối đầy đủ về

tình huống giao tiếp, đồng thời xác định các đặc điểm cơ bản cũng như những

yêu cầu cần thiết của một tình huống giao tiếp trong giờ học tiếng; từ cơ sở đó

đó, tác giả mô tả khái quát quy trình thực hiện một tình huống giao tiếp trong

giờ dạy TV.

Theo Nguyễn Trí, Lê A, & Lê Phương Nga (2001) trong sách “Phương

pháp dạy học Tiếng Việt” khi bàn về phương pháp giao tiếp đã nói:

Phương pháp giao tiếp là phương pháp quan trọng trong dạy học Tiếng

Việt. Phương pháp giao tiếp là phương pháp hướng dẫn học sinh vận dụng lý

thuyết được học vào thực hiện các nhiệm vụ của quá trình giao tiếp, có chú ý

đến đặc điểm và các nhân tố tham gia hoạt động giao tiếp.

Từ những ý kiến trên, ta thấy rằng tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò

của phương pháp giao tiếp. Phương pháp này có thể giúp HS vận dụng được

những lí thuyết đã học để thực hành các văn bản trong quá trình giao tiếp.

Phương pháp giao tiếp là phương pháp có vai trò rất lớn và đang được sử dụng

rộng rãi trong việc dạy TV nói chung và phân môn TLV nói riêng.

Theo (Nguyễn Trí, 2008) trong sách “Dạy học văn ở trường tiểu học”, tác

giả chú ý đến mục đích của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Bên cạnh đó,

khi nói về mục đích của phân môn TLV tác giả cũng nhấn mạnh “Tập làm văn

có nhiệm vụ chủ yếu là rèn luyện kĩ năng sản sinh ngôn bản nói và viết. Không

5

học tốt Tập làm văn khả năng nói và viết ngôn bản của học sinh bị hạn chế”

[trang 8]. Điều đó có nghĩa là mục đích cuối cùng của phân môn TLV là giúp

HS sử dụng thành thạo ngôn ngữ vào trong hoạt động giao tiếp, học làm văn

tốt sẽ giúp học sinh có kĩ năng nói và viết thành thạo hơn.

Trong sách “Hoạt động giao tiếp với dạy học tiếng Việt ở tiểu học” của

hai tác giả Phan Phương Dung & Đặng Kim Nga (2009) là công trình nghiên

cứu về dạy TV theo hướng giao tiếp. Nội dung chương trình được triển khai

theo 3 chương: giao tiếp và hoạt động giao tiếp, từ câu trong hoạt động giao

tiếp, dạy học TV theo quan điểm giao tiếp. Trong chương 3, những vấn đề lí

luận, những định hướng dạy học tương đối cụ thể ở tiểu học được trình bày

khá cặn kẽ, đem đến cho người quan tâm những tri thức cần thiết về quan điểm

giao tiếp trong dạy học TV ở tiểu học. Giáo trình xác định rõ việc dạy TV ở

tiểu học cần phải theo quan điểm giao tiếp, chỉ rõ mối quan hệ giữa quan điểm

giao tiếp với mục tiêu dạy học TV ở tiểu học.

Mặc dù các giáo trình, các tài liệu và các bài viết trên không đề cập trực

tiếp đến vấn đề mà đề tài quan tâm nhưng chính các công trình trên là những

định hướng, những gợi ý quý báu giúp người thực hiện đề tài “Xây dựng hệ

thống đề bài tập làm văn lớp 4, lớp 5 theo quan điểm giao tiếp” triển khai thực

hiện các nội dung nghiên cứu theo quan điểm giao tiếp.

3. Mục tiêu nghiên cứu

Xây dựng được hệ thống đề bài TLV lớp 4, lớp 5 theo quan điểm giao

tiếp, hình thành và phát triển năng lực tạo lập ngôn bản và văn bản của HS tiểu

học. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học TLV ở nhà trường tiểu học

hiện nay.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra, người nghiên cứu tiến hành

thực hiện các nhiệm vụ sau:

 Nghiên cứu cơ sở lí luận về đề bài TLV lớp 4, lớp 5 theo quan điểm

6

giao tiếp. Cụ thể là nghiên cứu lí thuyết về quan điểm giao tiếp, tìm hiểu đề bài

dạy học TLV, đặc điểm tâm sinh lý của HS lớp 4, lớp 5 đối với quá trình tạo

lập ngôn bản và văn bản.

 Tìm hiểu mục tiêu dạy học TLV lớp 4, lớp 5. Nội dung chương trình

và các đề bài TLV lớp 4, lớp 5. Khảo sát đề bài TLV trong SGK hiện hành,

khảo sát thực trạng dạy học TLV

 Hệ thống đề bài TLV lớp 4, lớp 5 theo quan điểm giao tiếp.

5. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

5.1. Khách thể nghiên cứu

Việc dạy học các đề bài dạy học TLV

5.2. Đối tượng nghiên cứu

Các đề bài TLV lớp 4, lớp 5 theo quan điểm giao tiếp.

6. Giới hạn của đề tài nghiên cứu

Đề bài dạy học TLV lớp 4, lớp 5 theo quan điểm giao tiếp

7. Giả thuyết khoa học

Nếu hệ thống đề TLV lớp 4, lớp 5 theo quan điểm giao tiếp của luận văn

được xem xét và đưa vào làm đề bài TLV trong các bộ SGK và trong các tài

liệu dạy học của chương trình TV tiểu học sau năm 2019 thì sẽ góp phần nâng

cao hiệu quả dạy TLV ở trường tiểu học, tạo điều kiện để HS hình thành và

phát triển năng lực tạo lập văn bản và ngôn bản.

8. Phương pháp nghiên cứu

Để triển khai đề tài này, chúng tôi sử dụng những PP nghiên cứu sau:

- PP phân tích, tổng hợp để tìm hiểu cơ sở lí luận về quan điểm giao tiếp,

tìm hiểu đề bài dạy học TLV, đặc điểm tâm sinh lý của HS lớp 4, lớp 5 đối với

quá trình tạo lập ngôn bản và văn bản.

- PP quan sát để tìm hiểu thực trạng quá trình dạy học Tập làm văn với

các đề bài sẵn có.

- PP điều tra, phỏng vấn để khảo sát ý kiến GV, HS về những thuận lợi,

7

khó khăn khi sử dụng đề bài dạy học TLV lớp 4, lớp 5 theo quan điểm giao

tiếp.

- PP thống kê, so sánh, đối chiếu để xử lí các tài liệu đã thu thập, đưa ra

những đánh giá, kết luận liên quan đến vấn đề nhiên cứu.

9. Đóng góp của đề tài

 Về lí luận, đề tài góp phần hệ thống hóa cở sở lí luận về việc xây dựng

đề bài TLV theo quan điểm giao tiếp.

 Về thực tiễn, có thể bổ sung nguồn tư liệu cho việc xây dựng nội dung

dạy học TLV lớp 4, lớp 5 theo quan điểm giao tiếp vào dạy học phân môn

TLV.

10. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục như những công trình nghiên cứu

khác, thì luận văn gồm có 4 chương.

Chương 1 là hệ thống hóa cơ sở lí luận về việc xây dựng đề bài TLV lớp

4, lớp 5 theo quan điểm giao tiếp cho HS.

Từ chương 1, là cơ sở để tiếp tục khảo sát thực tiễn ở chương 2 (cơ sơ

thực tiễn về việc xây dựng đề bài TLV lớp 4, lớp 5 theo quan giao tiếp cho

HS).

Đề tài tiếp tục xây dựng một hệ thống đề bài TLV lớp 4, lớp 5 theo quan

điểm giao tiếp cho HS ở chương 3 (thiết kế đề bài TLV lớp 4, lớp 5 theo quan

điểm giao tiếp)

8

Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỀ BÀI DẠY HỌC

TLV LỚP 4, LỚP 5 THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP

1.1. Lí thuyết về quan điểm giao tiếp

1.1.1. Khái niệm về giao tiếp

Giao tiếp là một hoạt động quan trọng để phát triển xã hội loài người và là

nhu cầu thường xuyên không thể thiếu của con người. Có nhiều phương tiện

giao tiếp, trong đó ngôn ngữ là phương tiện quan trọng nhất, cơ bản nhất.

Giao tiếp là hoạt động trao đổi tư tưởng, tình cảm, cảm xúc,… nhằm thiết

lập quan hệ, sự hiểu biết, công tác, … giữa các thành viên trong xã hội, … Hoạt

động giao tiếp gồm các hành vi giải mã (nhận thông tin), kỹ mã (phát thông

tin). Trong ngôn ngữ, mỗi hành vi đều có thể được thực hiện bằng hai hình

thức: khẩu ngữ (nghe, nói), bút ngữ (đọc viết)

Theo Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên) (2014, p. 6) cho rằng:

Giao tiếp ngôn ngữ là quá trình gồm hai hoạt động xảy ra tương tác lẫn

nhau: tạo lập lời nói và lĩnh hội lời nói. Hoạt động tạo lập lời nói được thực

hiện qua hai mô thức nói và viết, và hoạt động lĩnh hội lời nói được thực hiện

qua hai mô thức đọc và nghe.

Theo Hoàng Thị Tuyết (2013, p. 175)

Vậy giao tiếp ở HS tiểu học trong dạy học TLV được hiểu là hoạt động

tiếp xúc giữa HS với HS, giữa HS với GV trong giờ học TLV nhằm bày tỏ tư

tưởng, tình cảm, trao đổi ý kiến, kiến thức, nhận xét về các hoạt động làm văn.

Thông qua hoạt động giao tiếp đó giúp HS hình thành và tạo lập được ngôn

bản, văn bản.

1.1.2. Chức năng của giao tiếp

Cũng như khái niệm giao tiếp, các nhà nghiên cứu đã đưa ra các quan

9

niệm của mình về chức năng giao tiếp như sau:

Theo Nguyễn Trí (2009) cho rằng giao tiếp có 5 chức năng sau đây:

Chức năng thông tin (chức năng thông báo), chức năng tạo lập quan hệ, chức

năng tự biểu hiện (biểu lộ), chức năng giải trí (tiêu khiển), chức hành động.

Nguyễn Quang Ninh (1999) trong “Một số vấn đề dạy ngôn bản nói

và viết ở tiểu học theo hướng giao tiếp” cho rằng giao tiếp có 4 chức năng:

chức năng thông tin, chức năng tự biểu hiện, chức năng tạo lập quan hệ, chức

năng giải trí.

Theo Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Kế Hào, & Phan Thị Hạnh Mai (2007)

cho rằng giao tiếp có các chức năng thông tin hai chiều (chức năng nhận thức),

chức năng thể hiện và đánh giá thái độ xúc cảm; chức năng liên kết, phối hợp

hoạt động; chức năng đồng nhất hóa; tạo sự hiểu biết lẫn nhau, thông cảm,

đồng cảm chung giữa các cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với nhóm, nhóm

này với nhóm khác; chức năng giáo dục.

Từ các quan niệm của các nhà nghiên cứu về chức năng giao tiếp, chúng

tôi nhận thấy rằng giao tiếp ở tiểu học trong dạy học TLV có những chức năng

sau:

- Chức năng thông tin (chức năng thông báo): Thông tin là chức năng

thường gặp nhất của giao tiếp. Nó có thể thực hiện qua nhiều phương tiện.

Trong chức năng này, giao tiếp giúp HS trao đổi, truyền đạt cho nhau những

hiểu biết, những kinh nghiệm, tri thức mới mẻ, bổ ích, lí thú khi học TLV. HS

có thể trao đổi, chia sẻ về những gì các em quan sát được với các bạn khi học

văn miêu tả (tả đồ vật, tả con vật, tả cây cối, tả cảnh). Những thông tin này

thường có tính chất trí tuệ và những nội dung nhận được điều có thể đánh giá

theo tiêu chuẩn đúng – sai.

- Chức năng tạo lập quan hệ: Tạo lập quan hệ là chức năng giao tiếp cộng

tác giữa người với người. Chức năng tạo lập quan hệ của giao tiếp ngôn ngữ

rất cần thiết cho sự tồn tại của xã hội. Thông qua hoạt động giao tiếp trong quá

10

trình học TLV, HS có thể xích lại gần nhau, gắn kết với nhau, các em làm quen

được nhiều bạn mới. Sau một cuộc giao tiếp, các em có thể thấy thân thiết hơn,

xây dựng được mối quan hệ trong lớp học hoặc có thể ác cảm hơn.

- Chức năng tự biểu hiện: Chức năng này tạo điều kiện cho mỗi HS khi

học TLV có thể bày tỏ chính kiến, tình cảm, sở thích, năng khiếu, hứng thú, …

để các bạn hiểu mình hơn. Qua đó các em cũng thể hiện thái độ, cách đánh giá,

tình cảm … đối với cuộc sống, đối với đề tài và các bạn trong lớp.

- Chức năng phối hợp hoạt động: Nhờ có quá trình giao tiếp mà HS tiểu

học có thể phối hợp hoạt động để cùng nhau giải quyết nhiệm vụ học tập và

các nhiệm vụ khác nhằm đạt tới mục tiêu chung khi học TLV. Đây là chức

năng giao tiếp phục vụ các nhu cầu chung của tập thể lớp, của tổ, của Đội.

- Chức năng giải trí: Trong những giờ ra chơi, HS thường nói chuyện,

đùa giỡn với nhau. Những lúc đó, cuộc nói chuyện chủ yếu là thư giãn, để nghỉ

ngơi sau những giờ học mệt mỏi, căng thẳng. Lúc này, chúng ta nói giao tiếp

đã thực hiện chức năng giải trí.

1.1.3. Ngôn bản và các nhân tố của hoạt động giao tiếp

1.1.3.1. Ngôn bản

a) Khái niệm ngôn bản

Ngôn bản là những lời được nói ra hoặc viết ra trong hoạt động giao

tiếp. Nói một cách khác, ngôn bản là do một chuỗi lời nói mạch lạc nhằm

truyền đạt một nội dung giao tiếp nào đó của người tham dự giao tiếp tạo nên.

b) Nội dung và hình thức của ngôn bản

Một ngôn bản nào cũng bao gồm hai thành phần: thành phần nội dung và

thành phần hình thức.

Thành phần nội dung trong ngôn bản là thành phần nói lên thực tế, thể

hiện thái độ, tình cảm, đánh giá hiện thực được nói tới và phản ánh những ý

muốn tác động tới hành động ở người nghe của những người tham dự hoạt

động giao tiếp.

11

Thành phần hình thức trong ngôn bản là cách thức tổ chức bản thân các

yếu tố ngôn ngữ lẫn việc sử dụng các yếu tố đi kèm như nét mặt, cử chỉ, điệu

bộ … để thể hiện nội dung. Người nghe sẽ tiếp nhận nội dung ngôn bản thông

qua tiếp nhận các yếu tố hình thức của ngôn bản đó.

Vậy ngôn bản do HS tạo lập trong dạy học TLV có nội dung và hình

thức như sau:

Thành phần nội dung của ngôn bản trong dạy học TLV là nội dung tả, kể

của HS trong các bài TLV. Thông qua nội dung tả, kể đó thể hiện thái độ, tình

cảm, sự đánh giá của HS đối với hiện thực được nói tới trong bài văn.

Thành phần hình thức của ngôn bản trong dạy học TLV là cách thức sử

dụng ngôn ngữ của HS khi làm văn. HS có thể nói hoặc viết để tạo ra ngôn bản

hay văn bản. Đối với văn nói, HS có thể sử dụng các yếu tố như nét mặt, cử

chỉ, điệu bộ để thể hiện nội dung tả/ kể đó.

Gián đoạn và liên tục là những khái niệm gắn bó trực tiếp, chặt chẽ với

khái niệm thời gian và không gian. Và như vậy, hiểu một cách chung nhất, đơn

giản nhất thì ngôn bản gián đoạn là ngôn bản bị ngắt quãng bởi thời gian và

không gian; còn ngôn bản liên tục là ngôn bản diễn ra liền mạch, không bị chia

cắt bởi thời gian và không gian trong quá trình giao tiếp. (Nguyễn Trí, 2009, p. 18).

c) Ngôn bản gián đoạn và ngôn bản liên tục

Đích của ngôn bản cũng chính là đích của giao tiếp. Tùy vào những cuộc

giao tiếp cụ thể mà có sự khác nhau về đích. Có khi đích đó đơn thuần chỉ là sự

làm quen, nhưng cũng có khi đích đó lại là sự bộc bạch, tâm sự mong một sự

cảm thông ở người nghe hoặc đưa ra những kiến nghị, yêu cầu hay những thông

báo hết sức quan trọng về một vấn đề nào đấy …” (Nguyễn Trí, 2009, p. 19).

d) Đích của ngôn bản và hiệu quả của giao tiếp

12

1.1.3.2. Nhân tố của hoạt động giao tiếp

Chúng ta đều thấy rõ ràng trong hoạt động giao tiếp có nhiều nhân tố ảnh

hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc hình thành ngôn bản. Tất cả những

nhân tố này đều có để lại dấu ấn của nó trong ngôn bản. Có thể lúc này nhân tố

này để lại dấu ấn đậm nét hơn, nhưng tất cả đều có tác động tới việc tạo lập

ngôn bản. Chúng ta gọi tất cả các nhân tố ngoài ngôn ngữ có ảnh hưởng xa gần

và để lại những dấu ấn của mình trong ngôn bản là các nhân tố giao tiếp.

Trong quá trình giao tiếp, có nhiều nhân tố cùng tham gia, và ảnh hưởng

đến các phương diện của hoạt động giao tiếp. Những nhân tố này góp phần

thực hiện hoạt động, vừa ảnh hưởng chi phối đến hoạt động. Đó là các nhân tố:

- Nhân vật giao tiếp: bao gồm người phát (người nói, viết) và người

nhận (người nghe, đọc). Người phát chỉ có thể là một người, nhưng người nhận

có thể là một, có thể là nhiều người. Trong hoạt động giao tiếp, người phát và

người nhận luôn có sự chuyển đổi vai cho nhau, nhất là trong hội thoại. Mỗi

người lúc thì đóng vai người phát, lúc thì đòng vai người nhận.

- Nội dung giao tiếp: là hiện thực được nói tới trong quá trình giao tiếp.

Đó có thể là những sự kiện, sự vật hiện tượng trong thực tế khách quan, hoặc

cũng có thể là tâm tư, tình cảm của con người.

- Hoàn cảnh giao tiếp (ngữ cảnh): là không gian, thời gian, địa điểm diễn

ra cuộc giao tiếp. Các nhân tố trong hoàn cảnh giao tiếp luôn luôn chi phối các

phương diện của hoạt động giao tiếp: từ việc lựa chọn nội dung đến cách thức

thể hiện và cả những nghi thức trong giao tiếp.

- Mục đích giao tiếp: là cái đích, mục tiêu cần đạt được thông qua hoạt

động giao tiếp. Mục đích giao tiếp chi phối các phương diện của hoạt động

giao tiếp và để lại dấu ấn trong ngôn bản.

- Phương tiện và cách thức giao tiếp: phương tiện giao tiếp chính là ngôn

ngữ. Với đại đa số người Việt, phương tiện giao tiếp là tiếng Việt. Cách thức

giao tiếp là cách sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp. Trong những

13

hoàn cảnh giao tiếp khác nhau, ta có những cách thức giao tiếp khác nhau.

Để đạt được hiệu quả cao nhất trong quá trình giao tiếp thì hoạt động giao

tiếp bằng ngôn ngữ cần phải có đầy đủ năm nhân tố trên.

Phân tích các nhân tố giao tiếp khi xem xét bài văn của HS là phương tiện

giao tiếp như sau:

- Nhân vật giao tiếp: HS, GV, bố, mẹ, ông, bà.

- Nội dung giao tiếp: Là hiện thực được tả/kể trong bài TLV của HS. Đó

có thể là đồ vật, cây cối, con vật, con người hoặc các hiện tượng hay cảnh vật

như đêm trăng đẹp, một ngày mới bắt đầu, quê hương, …, .

- Hoàn cảnh giao tiếp: là ngữ cảnh diễn ra các tình huống giao tiếp trong

các đề bài TLV. Cũng có thể là không gian, thời gian, địa điểm diễn ra cuộc

giao tiếp.

- Mục đích giao tiếp: là mục đích, yêu cầu, nguyện vọng của HS cần đạt

được thông qua việc tả/kể đó.

1.1.4. Các dạng lời nói và hoạt động giao tiếp

1.1.4.1. Các dạng lời nói

e) Lời nói bên trong và lời nói bên ngoài

Lời nói bên ngoài được thể hiện bằng âm thanh (lời con người nói, trò

chuyện với nhau) hoặc bằng các dạng chữ viết khác nhau. Lời nói bên ngoài

chính là công cụ để con người giao tiếp với nhau, trao đổi tâm tư, tình cảm,

nguyện vọng, tư tưởng, kiến thức với nhau.

Lời nói bên trong được phát âm hay viết ra. Đó là lời nói – ý nghĩ. Lời

nói bên trong thường hướng tới chính bản thân nói. Đó là lời nói cho mình, tự

nhủ mình. Lời nói bên trong còn là những bước chuẩn bị cho lời nói bên ngoài,

nhất là cho các lời nói viết.

f) Lời nói miệng và lời nói viết

Căn cứ vào phương thức thực hiện, lời nói bên ngoài được chia thành

lời nói miệng và lời nói viết.

Lời nói miệng (văn nói, khẩu ngữ) là ngôn ngữ của âm thanh. Nó là một

phương tiện trao đổi thông tin trong xã hội. Nhịp điệu lời nói nhanh hay chậm,

độ cao thấp của giọng nói, sự ngắt đoạn, trọng âm lô – gic, sắc thái tình cảm,

điệu bộ, nét mặt, khóe mắt … đều để lại ảnh hưởng đối với văn nói. Do đó, văn

nói có khả năng truyền cảm lớn (Nguyễn Trí, 2009, p. 132).

Lời nói viết (văn viết) là sản phẩm của quá trình học tập. Văn viết là

phương tiện giao tiếp và học tập hiệu quả. Trong văn viết, các câu thường đầy

đủ và phức tạp hơn văn nói dùng nhiều từ ngữ sách vở hơn, có khối lượng lớn

hơn so với một bài nói miệng cùng một đề tài. Trong văn viết, các yếu tố phi

ngôn ngữ không còn vai trò phụ trợ. Người ta dùng các biện pháp khác để bổ

trợ như dùng các dấu, dùng cách phân chia bài thành đoạn, dùng các kiểu chữ

khác nhau, dùng các phép liên kết câu và đoạn (Nguyễn Trí, 2009, p. 132).

14

g) Lời độc thoại và lời hội thoại

Căn cứ vào mối quan hệ các thành viên trong cuộc giao tiếp, lời nói bên

ngoài được chia thành lời độc thoại và lời hội thoại. Cả lời độc thoại và lời hội

thoại đều có hai dạng: dạng nói và dạng viết.

- Lời hội thoại: hội thoại là cuộc trò chuyện, trao đổi, thảo luận, tranh

luận của hai hay nhiều người. Lời nói trong cuộc hội thoại là lời đối thoại. Các

cuộc hội thoại có thể diễn ra trực tiếp, có thể diễn ra gián tiếp (qua điện thoại,

qua cầu truyền hình …)

- Lời độc thoại: lời độc thoại là lời nói của một người cho những người

khác nghe hoặc chỉ nói cho chính mình nghe. Vì vậy, lời độc thoại đòi hỏi sự

tập trung ý chí và tư tưởng cao độ của người nói. Lời độc thoại xuất hiện trong

một số hoàn cảnh cụ thể: người báo cáo, đọc diễn văn trong các cuộc họp, hội

thảo, thầy giáo giảng bài.

15

1.1.4.2. Hoạt động giao tiếp

Hoạt động giao tiếp là hoạt động diễn ra thường xuyên giữa mọi người

trong xã hội. Giao tiếp có ở mọi nơi, mọi lúc, có thể ở dạng lời nói nhưng cũng

có khi tồn tại ở dạng viết. Giao tiếp cũng có thể được tiến hành bằng nhiều

phương tiện “ngôn ngữ” khác như: cử chỉ, điệu bộ, hành động, nét mặt, các

phương tiện kĩ thuật (tất cả được gọi là hành vi siêu ngôn ngữ). Tuy nhiên

phương tiện quan trọng nhất, phổ biến nhất và hiệu quả tối ưu nhất vẫn là ngôn

ngữ. Nhờ ngôn ngữ và giao tiếp, con người trao đổi thông tin, bộc lộ tình cảm,

Mỗi cuộc giao tiếp gồm hai hoạt động: hoạt động tạo lập (hoặc sản sinh)

lời nói (lí thuyết thông tin gọi hoạt động truyền tin), hoạt động tiếp nhận (hoặc

lĩnh hội) lời nói (lí thuyết thông tin gọi là hoạt động nhận tin) (Nguyễn Trí,

2009, p. 58).

thái độ, quan hệ, … để tổ chức xã hội hoạt động.

Hoạt động giao tiếp diễn ra khi có ít nhất hai người tiếp xúc, trao đổi với

nhau một nội dung nào đó. Sản phẩm của hoạt động giao tiếp là ngôn bản.

Ngôn bản là chuỗi ngôn từ được sắp xếp theo một quy tắc nhất định để thể

hiện nội dung được trao đổi trong giao tiếp.

Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ chịu sự chi phối của các nhân tố giao

tiếp: đối tượng, mục đích, nội dung, hoàn cảnh, phương tiện (cách thức) giao

tiếp với các mối quan hệ như sau:

16

Hoàn cảnh giao tiếp

Mục đích giao tiếp

Tạo lập

Tiếp nhận

Người nghe Người nói Văn bản

Giải mã

Mã hóa

(Người đọc) (Người viết) (Ngôn bản)

Phương tiện giao tiếp

Hiệu quả giao tiếp

Sơ đồ 1.1. Cơ chế hoạt động giao tiếp

Sơ đồ trên cho thấy việc hình thành văn bản (ngôn bản) chịu sự tác động

rõ rệt của các nhân tố giao tiếp khách quan (hoàn cảnh giao tiếp, phương tiện

giao tiếp) và chủ quan (mục đích giao tiếp, đối tượng giao tiếp). Văn bản (ngôn

bản) được tạo lập phải thỏa mãn mong muốn bộc lộ hiểu biết, tình cảm, tư

tưởng của người nói (người viết) nhưng cũng phải đáp ứng được những yêu

cầu giao tiếp cơ bản là phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp, có khả năng tác động

và tạo ra phản ứng ở người nghe. Việc tạo lập và tiếp nhận (văn bản) thành

công nghĩa là hoạt động giao tiếp đạt được đích.

1.1.5. Bản chất của quan điểm giao tiếp

Quan điểm giao tiếp trong việc dạy – học ngôn ngữ (TV) xuất phát từ đặc

trưng bản chất của đối tượng và phù hợp với đối tượng. Vì ngôn ngữ là phương

tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người, có chức năng cơ bản nhất là chức

năng giao tiếp. Ngôn ngữ vừa tồn tại trong trạng thái tỉnh như một hệ thống –

kết cấu tiềm ẩn trong năng lực ngôn ngữ của mỗi người, đồng thời nó cần phải

17

hoạt động để thực hiện chức năng giao tiếp. Trong hoạt động giao tiếp, ngôn

ngữ vừa là phương tiện, vừa tạo ra sản phẩm phục vụ cho sự giao tiếp. Dạy học

ngôn ngữ theo quan điểm giao tiếp chính là dạy về phương tiện giao tiếp quan

trọng nhất của con người.

Quan điểm giao tiếp cũng phù hợp với mục tiêu của môn học: môn ngôn

ngữ nói chung và phân môn TV nói riêng không chỉ có mục đích trang bị kiến

thức khoa học về ngôn ngữ, về TV cho HS, mà điều quan trọng là rèn luyện và

nâng cao năng lực sử dụng TV trong các hoạt động tư duy, giao tiếp. Ngay

trong lĩnh vực kiến thức khoa học về ngôn ngữ, về TV cho HS, mà điều quan

trọng là rèn luyện và nâng cao năng lực sử dụng TV trong các hoạt động tư

duy, giao tiếp. Ngay trong lĩnh vực kiến thức môn ngôn ngữ cũng không phải

chỉ cung cấp những kiến thức có tính chất có tính chất lí thuyết về cơ cấu tổ

chức, về hệ thống ngôn ngữ, về nguồn gốc và sự phát triển lịch sử, về loại hình

các ngôn ngữ… mà còn không thể thiếu được những hiểu biết về quy tắc sử

dụng, về các thao tác và kĩ năng sử dụng ngôn ngữ. Do đó, quan điểm giao tiếp

rất phù hợp với mục tiêu các môn học.

Quan điểm giao tiếp được thể hiện trên cả hai phương diện nội dung và

phương pháp dạy học. Về nội dung, phân môn TV tạo ra những môi trường

giao tiếp có chọn lọc để HS mở rộng vốn từ theo định hướng, trang bị những

tri thức nền và phát triển các kĩ năng sử dụng TV trong giao tiếp. Về phương

pháp dạy học, các kĩ năng được hình thành thông qua nhiều bài tập mang tính

tình huống, phù hợp với những tình huống giao tiếp tự nhiên.

Dạy học TV theo quan điểm giao tiếp thực chất là dạy học vì mục đích

giao tiếp. Dạy về giao tiếp và dạy trong giao tiếp.

Khi dạy theo quan điểm giao tiếp, GV phải dạy cho HS được học, được

tập giao tiếp ở trong bài học, ở lớp rồi biết cách giao tiếp trong thực tế cuộc

sống hàng ngày. Biết nói năng, quan hệ ngôn ngữ đúng vai trò, đúng mục đích

với người xung quanh, biết nêu nhận xét, đánh giá trước sự vật, sự việc ...

18

(không phải chỉ nhằm tới mục đích là biết làm văn như trước đây).

Quan điểm giao tiếp quán triệt tư tưởng giao tiếp vừa là điểm xuất phát lại

vừa là đích hướng tới, vừa là nội dụng lại vừa là định hướng phương pháp và

môi trường tổ chức dạy học của tất cả các đợn vị kiến thức.

1.1.6. Quá trình sản sinh và tiếp nhận lời nói trong hoạt động giao tiếp

1.1.6.1. Quá trình sản sinh lời nói

- Định hướng giao tiếp trong quá trình tạo lời chính là xác định các nhân

tố giao tiếp: nội dung, cách thức, nhân vật, hoàn cảnh, mục đích, … Trong các

nhân tố kể trên, sự lựa chọn nội dung và cách thức giao tiếp chịu chi phối của

những nhân tố giao tiếp còn lại.

- Lập chương trình biểu đạt trong quá trình tạo lời chính là hoạt động tìm

ý bằng cách quan sát, tái hiện những điều đã quan sát tưởng tượng những điều

có thể xảy ra, theo các nhân tố đã được xác định khi định hướng. Lập chương

trình còn là lựa chọn và sắp xếp các ý đã tìm được theo một trình tự hợp lý để

có sản phẩm là một dàn bài cho bài nói, bài viết trong tương lai.

- Hiện thực hóa chương trình trong quá trình tạo lời là quá trình chuyển

những nội dung đã được lựa chọn và sắp xếp trong dàn bài thành phát ngôn,

ngôn bản.

- Kiểm tra, điều chỉnh là hoạt động không thể thiếu trong quá trình tạo lời.

Bởi vì, mỗi cuộc giao tiếp đều nhằm một hoặc một số đích nhất định. Sau khi

hoàn thành một phần hoặc toàn bộ cuộc giao tiếp, người nói/người viết cần đối

chiếu kết quả với mục đích, nội dung đã chuẩn bị trong phần dàn ý, xác định

nguyên nhân không thành công để điều chỉnh kịp thời, cho đến khi kết quả

giao tiếp trùng với mục đích ban đầu.

Sự phối hợp thực hiện các thao tác của hoạt động sản sinh lời nói quyết

định mức độ thành công của cuộc giao tiếp. Không ít trường hợp, do thực hiện

tốt các bước sản sinh lời nói, cuộc giao tiếp thành công hơn cả sự mong đợi

của người nói, người viết. Do vậy, thực hiện tốt các bước trong hoạt động tạo

19

lời nói là việc cần chú ý trong quá trình giao tiếp.

1.1.6.2. Quá trình tiếp nhận lời nói

Tiếp nhận lời nói là hoạt động giải mã từ lời thành ý, là hoạt động nghe

hoặc đọc để hiểu những điều mà người nói/nghe thể hiện qua ngôn bản. Việc

tìm hiểu nội dung lời nói không thể chỉ dừng lại ở ý nghĩa tường minh mà còn

phải chú ý tới ý nghĩa hàm ẩn, không chỉ biết tới nội dung sự vật mà còn phải

thấu hiểu cả nội dung liên cá nhân của lời nói mà ta nghe hay đọc.

* Quá trình nghe:

Trong hoạt động nghe, tính hiệu vật chất kích thích vào giác quan người

nghe không phải là đường nét mà là những song âm thanh. Người nghe phải

tìm cách luận giải các mặt ngữ âm, ngữ pháp của tín hiệu ngôn ngữ dạng âm

thanh để khôi phục lại nội dung thông báo mà người nói đã truyền đi. Không

luận giải được nhanh chóng, đầy đủ và chính xác những tín hiệu này, người

nghe sẽ bị hạn chế rất nhiều trong việc tiếp nhận thông điệp. Vì vậy, rèn kỹ

năng nghe chính là rèn kỹ năng phân tích – lĩnh hội ngôn bản nói, một kỹ năng

không thể thiếu trong hoạt động giao tiếp.

Có hai hình thức nghe: nghe trong hội thoại và nghe trong đơn thoại. Việc

phân loại này chỉ có tính tương đối vì trong thực tế, ở những điều kiện và hoàn

cảnh nhất định, chúng ta có thể biến nghe trong đơn thoại thành nghe hội thoại

hay ngược lại.

- Nghe trong hội thoại: là hoạt động nghe diễn ra với sự hiện diện trực

tiếp của những người tham gia hội thoại trong điểm không gian hẹp. Khi hội

thoại, sự chuyển đổi từ vai người nghe sang vai người nói hoặc vai nói sang

vai nghe diễn ra thường xuyên.

- Nghe trong đơn thoại: không có sự chuyển vai như nghe trong hội thoại.

Thời gian để nghe đơn thoại thường dài hơn thời gian nghe hội thoại, nội dung

của đơn thoại do người nói quy định, người nghe không tham dự trực tiếp vào

việc xác lập nội dung nói. Chính vì vậy, người nghe khó nắm bắt nội dung nói

20

hơn so với nghe trong hội thoại, mặc dù đề tài có thể được thông báo trước.

* Quá trình đọc:

Trong xã hội loại người, giao tiếp bằng chữ được thực hiện từ khi có

chữ viết. Nhờ chữ viết mà ngôn ngữ âm thanh được ghi lại và lưu giữ thành

dòng mà mắt ta có thể nhìn thấy và đọc được. Đọc là hoạt động lĩnh hội, tiếp

nhận thông tin các ngôn bản viết, là một hình thức của giao tiếp bằng chữ viết.

Ở nhà trường, công việc giảng dạy và học tập phần lớn dựa vào sách.

Thông qua đọc sách, các em được mở rộng hiểu biết về thiên nhiên, về cuộc

sống con người, về văn hóa, văn minh, về phong tục, tập quán của các dân tộc

trên thế giới. Cũng thông qua đọc, các em được bồi dưỡng về năng lực thẩm

mĩ, trau đổi kỹ năng sử dụng ngôn ngữ, sử dụng tiếng mẹ đẻ … Vì vậy, đối với

HS, đọc mang ý nghĩa giáo dục, giáo dưỡng và phát triển rất lớn.

Hoạt động đọc gồm hai hình thức chủ yếu là đọc thành tiếng và đọc

thầm. Dù được thực hiện bằng hình thức nào, đích hoạt động của người đọc

đều là chiếm lĩnh những thông tin sự vật và thông tin liên cá nhân mà người

viết gửi gắm trong văn bản.

1.2. Dạy học TLV theo quan điểm giao tiếp

Phân môn TLV nhằm rèn cho HS các kĩ năng sản sinh văn bản. Nó có vị

trí đặc biệt trong quá trình dạy học TV bởi vì đây là phân môn sử dụng và hoàn

thiện một cách tổng hợp các kiến thức và kỹ năng TV mà các phân môn TV đã

hình thành. Đồng thời phân môn TLV còn rèn cho HS kỹ năng sản sinh văn

bản, nhờ đó TV không chỉ được xem xét từng phần, từng mặt qua phân môn

mà trở thành một công cụ tổng hợp để giao tiếp. Như vậy, môn TLV thực hiện

mục tiêu cuối cùng, quan trọng nhất của dạy học tiếng mẹ đẻ là HS sử dụng

được TV để giao tiếp, tư duy, học tập. Bản chất môn TLV nhằm rèn luyện cho

HS các kỹ năng tạo lập văn bản trong quá trình lĩnh hội các kiến thức khoa

học, góp phần dạy HS biết cách sử dụng TV có hiệu quả trong đời sống sinh

hoạt. Dạy học TLV gắn liền với các nhân tố giao tiếp. Làm văn là một hoạt

21

động giao tiếp. Dạy làm văn cho HS thực chất là dạy cho các em nắm được cơ

chế của việc sản sinh ngôn ngữ nói và viết theo đúng các quy tắc ngôn ngữ. Đề

sản sinh được các bài văn, HS phải có nhiều kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết, kĩ

năng phân tích đề, tìm ý, lập dàn ý, viết đoạn và liên kết đoạn. Dạy TLV theo

thuyết hoạt động giao tiếp là dạy các kĩ năng làm văn theo cấu trúc hoạt động

lời nói. Dạy TLV cần gắn liền các nhân tố giao tiếp (nhân vật giao tiếp, nội

dung giao tiếp, mục đích mục đích, hoàn cảnh giao tiếp). Dạy TLV là dạy các

dạng ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp. Dạy TLV không chỉ dạy sản sinh văn

bản mà còn phải chú ý đảm bảo chất văn, chất thẩm mỹ.

Từ lí thuyết hoạt động, chúng tôi nhận thấy việc dạy học TLV thể hiện rõ

cơ chế của một hoạt động giao tiếp vì bao giờ nó cũng bắt đầu từ một động cơ,

một nhu cầu giao tiếp. Mục đích giao tiếp, trình độ của đối tượng giao tiếp

(HS) chi phối cách thức tạo lập văn bản và hiệu quả của quá trình giao tiếp.

1.3. Vai trò của đề bài đối với quá trình dạy học TLV

Đề bài TLV có vai trò quan trọng trong việc dạy TLV. Đề bài giúp định

hướng, xác định ý tưởng cho quá trình tạo lập văn bản (ngôn bản). Đây là khâu

quan trọng, có ý nghĩa tiên quyết đối với việc tạo lập một văn bản. Để định

hướng cho quá trình tạo lập văn bản (ngôn bản), cần phải xác định các vấn đề

xoay quanh những câu hỏi sau:

- Viết cho ai? Câu hỏi này giúp cho người tạo lập văn bản (ngôn bản) xác

định được đối tượng giao tiếp cần hướng tới.

- Viết để làm gì? Câu hỏi này giúp cho người tạo lập văn bản (ngôn bản)

xác định được mục đích của việc tạo lập văn bản, chủ đề cần hướng tới.

- Viết về cái gì? Câu hỏi này giúp cho người tạo lập văn bản (ngôn bản)

xác định được đề tài, nội dung cụ thể của văn bản.

- Viết như thế nào? Câu hỏi này giúp cho người tạo lập văn bản (ngôn

bản) xác định được cách thức tạo lập, các phương tiện biểu đạt gắn với nội

dung cụ thể đã được định hình, hình thức ngôn ngữ để biểu đạt nội dung ấy

22

một cách hiệu quả nhất.

Để thấy rõ được vai trò quan trọng của đề bài đối với quá trình dạy học

TLV, chúng ta cùng xem đề bài TLV sau:

Em có một người bạn học cùng lớp bị béo phì, ăn uống không điều độ và

không rèn luyện thân thể. Em hãy kể một câu chuyện về tấm gương rèn luyện

thân thể cho người bạn của em nghe để bạn ấy nhìn lại bản thân và chăm chỉ

luyện tập thể dục.

Với đề bài TLV như trên, ta thấy rõ được các nhân tố của hoạt động giao tiếp

- Nhân vật giao tiếp: Kể cho bạn của em nghe.

- Nội dung giao tiếp: Kể về một tấm gương rèn luyện thân thể.

- Hoàn cảnh giao tiếp: Trong hoàn cảnh là bạn em bị béo phì vì ăn uống

không điều độ và không rèn luyện thân thể.

- Mục đích giao tiếp: Để bạn chăm chỉ luyện tập thể dục.

Đề bài TLV phải đảm bảo được các nhân tố của hoạt động giao tiếp: hoàn

cảnh giao tiếp, nhân vật giao tiếp, mục đích giao tiếp, nội dung giao tiếp và

phương tiện giao tiếp.

1.4. Đặc điểm tâm lý của HS lớp 4, lớp 5 đối với quá trình tạo lập ngôn

bản và văn bản

1.4.1. Tri giác

Ở giai đoạn đầu tiểu học, tri giác không chủ định là chủ yếu ở HS, chưa

có kĩ năng điều khiển tri giác của mình, bị quy định bởi những đặc điểm của

chính đối tượng một cách tỉ mỉ và chi tiết. Khả năng phân tích một cách có tổ

chức và sâu sắc khi tri giác của các HS còn yếu. Các em thường thâu tóm sự

vật về toàn bộ, về đại thể để tri giác. Chẳng hạn khi cho các em tri giác một

bức tranh đẹp, sau đó cất bức tranh đó đi và yêu cầu các em vẽ lại thì thấy các

em không nhận thấy được rất nhiều chi tiết. Các em phân biệt đối tượng còn

chưa chính xác, dễ mắc sai lầm, dễ nhầm lẫn.

Vào cuối lứa tuổi HS tiểu học (lớp 4, lớp 5), quá trình tri giác của HS có

23

những biến đổi. Các em nắm được kỹ thuật tri giác, học được cách nhìn, cách

nghe, học được cách phân biệt những dấu hiệu chủ yếu, quan trọng, cách nhìn

thấy nhiều chi tiết trong một đối tượng. Tri giác có chủ định được phát triển,

có liên quan đến sự phát triển quan sát ở trẻ. Ở trình độ này, tri giác đã trở

thành một quá trình phân hóa và biến thành quá trình có đích hướng, được điều

khiển, có ý thức.

Tri giác của HS tiểu học còn mang tính trực quan và mang tính cảm xúc

nhiều. Nên trong quá trình dạy TLV, GV không chỉ dạy trẻ kỹ năng nhìn mà

còn phải biết xem xét sự vật, biết phát hiện những thuộc tính bản chất của sự

vật hiện tượng. Không chỉ dạy trẻ nghe mà còn dạy trẻ biết cách lắng nghe.

Bên cạnh đó, để tăng khả năng quan sát cho HS tiểu học khi học tiết

TLV, GV cần xác định rõ mục đích, ý nghĩa, yêu cầu, nhiệm vụ của việc quan

sát. GV cần chuẩn bị chu đáo cả về tri thức lẫn phương tiện trước khi HS quan

sát. GV giúp HS biết quan sát sự vật, hiện tượng theo một trình tự hợp lí bằng

giác quan khi quan sát (mắt nhìn, tai nghe, tay sờ, …), đặc biệt ở thể loại văn

miêu tả (tả đồ vật, tả con vật, tả người, tả cảnh, tả cây cối). GV tạo điều kiện

cho HS quan sát đối tượng trước khi làm bài.

Chẳng hạn đối với kiểu bài văn tả cây cối, GV cần hướng dẫn HS quan

sát theo một trình tự: từ xa đến gần, từ bao quát đến bộ phận, quan sát nét

khác biệt của cây đó với cây khác. Đối với bài văn tả loài vật ta quan

sát: ngoại hình rồi mới đến những thói quen sinh hoạt và những hoạt động của

con vật. Còn đối với bài văn tả cảnh, HS quan sát theo trình tự: thời gian, theo

đặc điểm nổi bật của cảnh và theo từng góc độ của cảnh. Với bài văn tả người,

lại cần phải quan sát kĩ về: ngoại hình (tầm vóc, cách ăn mặc, khuôn mặt, mái

tóc, cặp mắt, hàm răng,…); về tính tình và hoạt động (lời nói, cử chỉ, thói

quen, cách cư xử với người khác, việc làm…).

1.4.2. Trí nhớ

Ở giai đoạn đầu tiểu học, ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốt và

24

chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Nhiều HS chưa biết tổ chức việc

ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết cách

khái quát hóa hay xây dựng dàn bài để ghi nhớ tài liệu.

Giai đoạn cuối tiểu học, ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ được tăng

cường. Ghi nhớ có chủ định đã phát triển. HS đã có một số vốn từ nhất định để

trình bày lại những thông tin đã ghi nhớ được theo cách hiểu của mình. Tuy

nhiên, hiệu quả của việc ghi nhớ có chủ định còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố

như mức độ tích cực tập trung trí tuệ của các em, sức hấp dẫn của nội dung tài

liệu, yếu tố tâm lý tình cảm hay hứng thú của các em. Do đó, GV cần phải hình

thành biện pháp ghi nhớ có ý nghĩa theo điểm tựa cho HS.

Từ đặc điểm về ghi nhớ trên của HS tiểu học, chúng ta thấy rằng ở giai

đoạn đầu sự ghi nhớ của HS còn mang tính chất học vẹt do chưa biết dựa vào

các điểm tựa để ghi nhớ. Chính vì vậy nên các em thường nhanh quên các cách

làm bài của thể loại TLV. Các em thường lẫn lộn cách làm của thể loại này với

thể loại khác. Hoặc các em quên cách xây dựng dàn ý của bài TLV. Chuyển

qua giai đoạn lớp 4, lớp 5, các em bắt đầu ghi nhớ tốt hơn. Các em nhớ được

cách làm cũng như là cách lập dàn ý của các thể loại TLV. Các em viết đúng

theo yêu cầu của đề bài, có đủ ba phần (mở bài, thân bài, kết bài). Bên cạnh đó,

HS nhớ được các chi tiết quan sát (tả người, tả hoạt động của người, tả cây cối,

tả đồ vật, tả cảnh trời mưa …). Các em liên tưởng được câu chuyện về người

có ý chí nghị lực vượt qua khó khăn, người có đức tính dũng cảm cứu người,

người có tấm lòng nhân hậu, vị tha.

1.4.3. Tư duy

Tư duy mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy trực quan

hành động. Các phẩm chất tư duy chuyển dần từ tính cụ thể sang tư duy trừu

tượng khái quát. Khả năng khái quát hóa phát triển dần theo lứa tuổi. Lớp 4,

lớp 5 trẻ bắt đầu biết khái hóa lý luận. Tuy nhiên, hoạt động phân tích, tổng

hợp kiến thức còn sơ đẳng ở phần đông HS tiểu học. Trẻ dễ xúc cảm với tất cả

25

những điều suy nghĩ.

Từ đặc điểm tư duy của HS lớp 4, lớp 5, GV cần dạy cho trẻ cách suy

luận có căn cứ khách quan, phán đoán phải có dẫn chứng thực tế, kết luận phải

có tính đúng đắn logic, suy nghĩ phải có mục đích. Mặc khác, khi nội dung và

phương pháp được thay đổi tương ứng với nhau thì có thể được một số tư duy

hoàn toàn khác.

1.4.4. Chú ý

Ở giai đoạn đầu tiểu học, chú ý có chủ định của trẻ còn yếu, khả năng

kiểm soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú ý không chủ định

chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định. Trẻ lúc này chỉ quan tâm chú ý đến những

môn học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều tranh ảnh,

trò chơi hoặc có cô giáo xinh đẹp, dịu dàng … Sự tập trung chú ý của trẻ còn

yếu và thiếu tính bền vững, chưa thể tập trung lâu dài và dễ bị phân tán trong

quá trình học tập.

Ở giai đoạn cuối tiểu học, trẻ dần hình thành kĩ năng tổ chức, điều chỉnh

chú ý của mình. Chú ý có chủ định phát triển dần và chiếm ưu thế, ở trẻ đã có

sự nỗ lực về ý chí trong hoạt động học tập như học thuộc một bài thơ, một

công thức toán hay một bài hát dài.

Từ đặc điểm chú ý của HS tiểu học, chúng ta nhận thấy rằng chú ý có chủ

định đang phát triển mạnh, tri thức của HS được mở rộng, ngôn ngữ phong

phú, tư duy phát triển. Vì vậy, khi dạy làm văn GV cần sử dụng các đồ dùng

trực quan để tăng mục tiêu thu hút chú ý của trẻ.

1.4.5. Tưởng tượng

Tưởng tượng của HS Tiểu học so với trẻ ở mẫu giáo phát triển cao hơn và

rất phong phú. Tuy nhiên, tưởng tượng của các em còn tản mạn ít có tổ chức,

xa rời thực tế. Càng về cuối cấp thì tưởng tượng của các em càng gần hiện

thực, càng phản ánh đúng đắn và đầy đủ thực tế khách quan hơn.

Ở giai đoạn lớp 4, lớp 5:

Nảy sinh xử lý sáng tạo những biểu tượng. Số lượng dấu hiệu và đặc điểm

trong hình ảnh tăng lên nhiều. Trên cơ sở xử lý một cách sáng tạo các biểu

tượng đó, cho nên trí tưởng tượng của học sinh bay bổng, phóng khoáng và

chưa bị hạn chế bởi những hình ảnh hiện thực trực quan, mặc dù nó dựa trên

những hình ảnh trực quan hiện thực và vốn kinh nghiệm của bản thân.

(Nguyễn Thị Bích Hạnh & Trần Thị Thu Mai, 2007, p. 43)

26

Tưởng tượng sáng tạo tiểu học biểu hiện khá rõ rệt trong khi các em làm

thơ, vẽ tranh và trong khi kể chuyện. Nhưng nhược điểm trong sản phẩm tưởng

tượng của các em là các chủ đề nghèo nàn, hành động phát triển không nhất

quán, xa hiện thực. Vì vậy, khi dạy học TLV, GV cần chú ý hướng HS tránh

những tưởng tượng ngông cuồng, xa thực tế nhưng không làm hạn chế tính

sáng tạo của trẻ trong quá trình tưởng tượng.

1.4.6. Ngôn ngữ

Ngôn ngữ của HS tiểu học phát triển mạnh cả về ngữ âm, ngữ pháp và từ

ngữ. Ở cuối cấp tiểu học, HS đã nắm được ngữ âm, song hiện tượng phát âm

sai gần như phổ biến ở lớp 3, lớp 4. Các em đã nắm được một số qui tắc ngữ

pháp cơ bản khi nói và viết. Tuy nhiên các em vẫn còn sai ngữ pháp. Việc hiểu

nghĩa của từ vẫn còn hạn chế. Nhờ tham gia nhiều hoạt động (hoạt động học

tập, lao động, hoạt động ngoài nhà trường …) vốn từ của các em ngày càng

phong phú, chính xác và giàu hình ảnh, ngôn ngữ phát triển có tính chất logic,

có sức truyền cảm.

Từ đặc điểm ngôn ngữ của HS tiểu học, ta nhận thấy rằng HS viết chưa

mạch lạc, còn viết dưới dạng liệt kê. Ngôn ngữ của các em còn hạn chế. Một

số HS do vốn từ nghèo nàn nên thường dùng từ sai. Ví dụ “dáng đi của

bạn mảnh khảnh” (do không hiểu từ). Muốn làm văn tốt, các em phải hiểu từ

và nắm vững ý nghĩa của từ để sử dụng một cách chính xác khi diễn đạt. Để

27

bài văn được sinh động, hấp dẫn người đọc, khi viết các em phải sử dụng từ

ngữ có hình ảnh, có sức gợi tả, gợi cảm. Để hỗ trợ cho HS, GV cần cung cấp

thêm cho các em một số từ (theo dạng chủ đề đang học) để các em tham khảo.

Ví dụ 1: Đối với dạng văn tả người

- Tả vóc dáng: cao, lùn, gầy, mảnh mai, bụ bẫm, lụ khụ …

- Tả khuôn mặt, diện mạo: bầu bỉnh, rám nắng, xanh xao, trái xoan, hốc

hác, đần độn, ủ rủ, cau có …

- Tả làn da: nhăn nheo, xanh như tàu lá chuối, trắng trẻo, chai cứng, mốc

thếch, da bánh mật…

- Tả mắt: đen huyền, đen láy, bồ câu, ti hí, mắt ốc bươu…

Ví dụ 2: Đối với dạng tả cây

- Thân cây: sần sùi, đầy gai …

- Lá cây: xanh thẳm, xanh mượt, xanh uá …

28

Tiểu kết chương 1

TLV là phân môn dạy HS tạo lập ngôn bản (nói, viết) và rèn luyện tư duy

ở những thể loại gần với văn học (kể chuyện, thuật chuyện, miêu tả). Điều

quan trọng khi dạy TLV là giúp HS tạo được những ngôn bản chân thực, bộc

lộ rõ cá tính, năng lực ngôn ngữ và khả năng cảm thụ sáng tạo của mỗi em.

Như thế thì giờ học phải giúp các em có cái để nói, có nhu cầu nói, có khả

năng nói điều muốn nói. Nghĩa là, phải dạy các em biết thu nhận những biểu

tượng, cảm xúc, ý nghĩa nhờ quan sát và cảm thụ một cách chính xác, tinh tế

thế giới nhân vật, con người, đồ vật, xã hội, thiên nhiên … gần gũi và gợi cảm

hứng với các em; dạy các em biết diễn đạt những gì đã có theo câu hỏi gợi ý,

theo một đề tài kích thích được hứng thú và nhu cầu bộc lộ bản thân của mỗi

em.

Đề tài đã nêu tổng quan về vấn đề nghiên cứu quan điểm giao tiếp trong

dạy học, bên cạnh đó, khái quát các lí thuyết về quan điểm giao tiếp. Nêu được

cách dạy học TLV theo quan điểm giao tiếp, thể loại TLV lớp 4, lớp 5. Từ đó,

chúng tôi giúp người đọc có được cái nhìn bao quát về vấn đề. Ngoài ra, do

tính chất của đối tượng nghiên cứu, chương 1 cũng nêu về những đặc điểm tâm

lí của HS lớp 4, lớp 5 với quá trình tại lập ngôn bản và văn bản. Qua tất cả,

việc nghiên cứu lý luận này là nền tảng để tìm hiểu về thực trạng dạy học thực

trạng dạy học TLV lớp 4, lớp 5 hiện nay ở chương 2.

29

Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ BÀI DẠY HỌC TLV

LỚP 4, LỚP 5 THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP

Từ cơ sở lí luận đã trình bày ở chương 1, chương 2 tập trung tìm hiểu về

đề bài, mục tiêu chương trình dạy học TLV lớp 4, lớp 5. Khảo sát đề bài TLV

trong SGK hiện hành và thực trạng dạy học TLV hiện nay. Để tiến hành khảo

sát, người nghiên cứu phát phiếu khảo sát GV dạy lớp 4, lớp 5.

2.1. Chương trình, mục tiêu, thể loại dạy học TLV ở tiểu học

2.1.1. Chương trình TLV ở tiểu học

Ở tiểu học, phân môn TLV được bắt đầu giảng dạy ở lớp 2. Chương

trình dạy học TLV gồm có 32 tuần.

- Ở học kì I của lớp 2, HS được học về nói lời cảm ơn, xin lỗi, kể ngắn

theo tranh, chia buồn,an ủi, kể về người thân. Học kì II, HS học về đáp lời

chào, lời tự giới thiệu, đáp lời chia vui, đáp lời khen ngợi, đáp lời chia vui. HS

kể ngắn về bốn mùa, tả ngắn về loài chim, tả ngắn về cây cối, tả ngắn về Bác

Hồ.

- Lớp 3 ở học kì I, HS được kể về gia đình, kể lại buổi đầu đi học, kể về

người hàng xóm, viết thư, viết về thành thị, nông thôn. HS học về cách điền

vào giấy tờ in sẵn, viết đơn. Học kì II, HS kể lại một buổi biểu diễn nghệ thuật,

kể về lễ hội, về một ngày hội, một trận thi đấu thể thao. HS học viết thư, nói và

viết về bảo vệ môi trường.

- Lớp 4, HS được học các thể loại: văn kể chuyện, khái niệm miêu tả,

miêu tả đồ vật, miêu tả con vật, miêu tả cây cối, văn viết thư, trao đổi ý kiến,

giới thiệu hoạt động, tóm tắt tin tức, điền vào mẫu giấy tờ in sẵn. Học kì I lớp

4, HS được tìm hiểu về văn kể chuyện. Các em kể lại hành động của nhân vật,

kể lại lời nói và ý nghĩ của nhân vật. HS được ôn tập lại cách viết thư ở lớp 3

30

và mở rộng các dạng viết thư ở lớp 4. Cuối học kì I, HS được làm quen với

văn miêu tả đồ vật, quan sát đồ vật. Bước qua học kì II, các em được luyện tập

xây dựng đoạn mở bài, đoạn kết bài trong văn miêu tả đồ vật. Tiếp theo, HS

tìm hiểu và luyện tập viết về văn miêu tả cây cối và con vật. Đề tài tập trung

vào thể loại văn kể chuyện, văn miêu tả và viết thư.

- Lớp 5, HS được học các thể loại như sau: miêu tả cảnh, văn kể chuyện,

miêu tả người, miêu tả con vật, miêu tả đồ vật, miêu tả cây cối, báo cáo thống

kể, làm đơn, thuyết trình, lập luận, làm biên bản, tập viết đối thoại, tập chương

trình hoạt động. Ở học kì I, HS học về cấu tạo bài văn tả cảnh, tả người (tả

ngoại hình), tả người (tả hoạt động). Các em được luyện tập làm báo cáo thông

kê, làm đơn, làm biên bản cuộc họp, lập chương trình hoạt động. Học kì II, HS

ôn tập lại về văn kể chuyện, tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật.

2.1.2. Mục tiêu dạy học TLV lớp 4, lớp 5

2.1.2.1. Mục tiêu dạy học TLV lớp 4

- HS biết thực hiện quy trình viết gồm các bước: xác định nội dung viết;

thu thập chất liệu cho bài viết (từ suy nghĩ, quan sát, trải nghiệm cá nhân;

thông qua thảo luận, đọc sách báo, phỏng vấn, đọc trên mạng, …); hình thành

ý cho bài viết; viết dựa vào nhận xét, góp ý của GV hoặc bạn bè.

- HS có thể viết đoạn văn, bài văn thể hiện rõ ràng và mạch lạc chủ đề, ý

tưởng chính hoặc thông tin cơ bản; bảo đảm phù hợp với yêu cầu về kiểu loại

văn bản; có mở bài, triển khai, kết thúc; các câu, đoạn có mối liên kết với nhau.

- HS viết được bài văn kể lại một sự việc bản thân đã chứng kiến (nhìn

thấy, xem) hoặc tham gia và chia sẻ suy nghĩ, tình cảm của mình về sự việc đó.

- Các em viết bài văn kể lại câu chuyện (đã đọc, đã nghe hoặc tự sáng tác)

có kèm tranh minh họa.

- HS có kĩ năng định hướng văn bản: nhận diện đặc điểm loại văn và phân

tích đề bài.

- HS có kĩ năng tìm ý, lập dàn ý: phân tích, tìm ý trong văn bản và tìm ý

31

theo đề bài, quan sát đối tượng, lập dàn bài.

- Kĩ năng diễn đạt văn bản: chọn từ, tạo câu, viết đoạn và liên kết các

đoạn thành bài.

- HS có kĩ năng diễn đạt văn bản: chọn từ, tạo câu, viết đoạn và liên kết

các đoạn thành bài.

- Kĩ năng tự kiểm tra, sửa chữa văn bản.

- HS biết viết bài văn miêu tả về đồ vật hoặc con vật, cây cối; dùng những

từ ngữ gợi lên những đặc điểm nổi bật của đối tượng được miêu tả.

- Biết viết đoạn văn nêu tình cảm, cảm xúc của bản thân về một nhân vật

trong văn học hoặc một người gần gũi, thân thiết.

- HS biết viết đoạn văn nêu lí do vì sao mình thích câu chuyện đã đọc

hoặc đã nghe.

2.1.2.2. Mục tiêu dạy học TLV lớp 5

- HS biết thực hiện quy trình viết bảo đảm các bước : xác định mục đích

và nội dung viết; thu thập thông tin, tư liệu; hình thành ý và lập dàn ý cho bài

viết; viết nháp; chỉnh sửa; chia sẻ và hoàn thiện bài viết dựa vào nhận xét, góp

ý của GV hoặc bạn bè.

- HS viết đoạn văn, bài văn thể hiện được rõ ràng và mạch lạc chủ đề, ý

tưởng chính hoặc thông tin cơ bản; bảo đảm phù hợp với yêu cầu cần về mục

đích viết; có mở đầu, triển khai, kết thúc và những chi tiết quan trọng; các câu,

đoạn có liên kết với nhau.

- Các em có thể viết được bài văn kể lại câu chuyện đã học hoặc đã đọc;

khuyến khích viết sáng tạo bằng những chi tiết hoặc kết thúc câu chuyện do cá

nhân tưởng tượng.

- HS biết viết bài văn tả người hoặc tả phong cảnh; bài viết có đầy đủ ba

phần: mở bài, thân bài và kết bài.

- Viết được đoạn văn nêu lí do vì sao tán thành hoặc phản đối một hiện

tượng trong đời sống học đường.

- Biết viết bài giới thiệu một nhân vật trong một cuốn sách hoặc bộ phim

32

hoạt hình đã xem (hình dáng, cử chỉ, hành động, ngôn ngữ).

- Biết viết báo cáo công việc, chương trình hoạt động, có sử dụng bảng

biểu.

2.1.3. Thể loại TLV lớp 4, lớp 5

a) Lớp 4

Kể lại hành động của nhân vật

Kể Kể lại lời nói, ý nghĩ của nhân vật

Kể chuyện

Ngoại hình

Cây cối

Tả Đồ vật

Con vật

Viết thư

Sơ đồ 2.1. Thể loại TLV lớp 4

Sơ đồ cho thấy thể loại TLV lớp 4 gồm có 3 thể loại kể, tả, viết thư. Trong

văn kể chuyện được chia làm 3 nhóm: kể lại hành động của nhân vật, kể lại lời

nói và ý nghĩ của nhân vật, kể lại câu chuyện. Văn miêu tả gồm có tả ngoại

hình, cây cối, đồ vật, con vật.

b) Lớp 5

33

Tả cảnh

Tả người (ngoại hình)

Tả người (hoạt động)

Tả

Tả con vật

Tả đồ vật

Tả cây cối

Kể chuyện

Sơ đồ 2.2. Thể loại TLV lớp 5

Trong chương trình dạy học TLV lớp 5, học sinh được học gồm 2 thể loại:

miêu tả và kể. HS được ôn lại thể loại văn miêu tả ở lớp 4 như tả về con vật, tả

đồ vật, tả cây cối. Ngoài ra, HS được học nâng cao về văn tả cảnh, tả người

(ngoại hình), tả người (hoạt động).

2.2. Đề bài TLV lớp 4, lớp 5 trong SGK hiện hành

2.2.1. Đề bài TLV lớp 4 trong SGK hiện hành

Viết thư

Đề 1: Nhân dịp năm mới, hãy viết thư cho một người thân (ông bà, cô

giáo cũ, bạn cũ, …) để thăm hỏi và chúc mừng người thân đó.

Đề 2: Nhân dịp sinh nhật của một người thân đang ở xa, hãy viết thư để

thăm hỏi và chúc người thân đó.

Đề 3: Nghe tin quê bạn bị thiệt hại do bão, hãy viết thăm hỏi và động viên

bạn em.

Đề 4: Nghe tin gia đình một người thân ở xa có chuyện buồn (có người

đau ốm, người mới mất hoặc mới gặp tai nạn …), hãy viết thư thăm hỏi và

34

động viên người thân đó.

Kể chuyện

Đề 1: Hãy kể lại câu chuyện mà em đã được nghe hoặc được đọc về một

người có nghị lực.

Đề 2: Kể lại câu chuyện em đã được nghe hoặc được đọc về một người có

tấm lòng nhân hậu.

Đề 3: Kể lại câu chuyện Nỗi dằn vặt của An – đrây – ca bằng lời của cậu

bé An – đrây – ca.

Đề 4: Kể lại câu chuyện “Vua tàu thủy” Bạch Thái Bưởi bằng lời của một

chủ tàu người Pháp hoặc người Hoa.

Tả đồ vật

Đề 1: Tả một đồ chơi mà em thích

Đề 2: Tả chiếc cặp sách của em

Đề 3: Tả cái thước kẻ của em

Đề 4: Tả cây bút chì của em

Đề 5: Tả cái bàn học ở lớp hoặc ở nhà của em.

Tả cây cối

Đề 1: Tả một cây có bóng mát (hoặc cây ăn quả, cây hoa) mà em yêu

thích.

Đề 2: Tả một cây có bóng mát

Đề 3: Tả một cây ăn quả

Đề 4: Tả một cây hoa

Đề 5: Tả một luống rau hoặc vườn rau

Miêu tả con vật

Đề 1: Tả một con vật nuôi trong nhà

Đề 2: Tả một con vật nuôi ở vườn thú

Đề 3: Tả một con vật em chợt gặp trên đường

Đề 4: Tả một con vật lần đầu tiên em thấy trên họa báo hay trên truyền

35

hình, phim ảnh.

2.2.2. Đề bài TLV lớp 5 trong SGK hiện hành

Tả cảnh

Đề 1: Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây (hay

trong công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy).

Đề 2: Tả một cơn mưa

Đề 3: Tả ngôi nhà của em (hoặc căn hộ, phòng ở của gia đình em)

Đề 4: Hãy tả ngôi trường thân yêu đã gắn bó với em trong nhiều năm qua.

Đề 5: Tả một ngày mới bắt đầu ở quê em.

Đề 6: Tả một đêm trăng đẹp

Đề 7: Tả trường em trước buổi học

Đề 8: Tả một khu vui chơi, giải trí mà em thích

Tả người (ngoại hình)

Đề: Tả ngoại hình của một người mà em thường gặp

Tả hoạt động

Đề 1: Tả một em bé đang tuổi tập đi, tập nói.

Đề 2: Tả một người thân (ông, bà, cha, mẹ, anh, em, …) của em.

Đề 3: Tả một bạn học của em.

Đề 4: Tả một người lao động (công nhân, nông dân, thợ thủ công, bác sĩ,

ý tá, cô giáo, thầy giáo, …) đang làm việc.

Đề 5: Em hãy tả một người thân đang làm việc, ví dụ: đang nấu cơm,

khâu vá, làm vườn, đọc báo, xây nhà hay học bài, …

Tả người

Đề 1: Tả một ca sĩ đang biểu diễn

Đề 2: Tả một nghệ sĩ hài mà em yêu thích

Đề 3: Hãy tưởng tượng và tả lại một nhân vật trong truyện em đã đọc

Đề 4: Em hãy tả người bạn thân của em ở trường

Đề 5: Tả cô giáo (hoặc thầy giáo) đã từng dạy dỗ em và để lại cho em

36

nhiều ấn tượng, tình cảm tốt đẹp.

Đề 6: Tả một người ở địa phương em sinh sống (chú công an phường, chú

dân phòng, bác tổ trưởng dân phố, bà cụ bán hàng, …)

Đề 7: Tả một người em mới gặp một lần nhưng để lại cho em những ấn

tượng sâu sắc.

Đề 8: Em hãy miêu tả cô giáo (hoặc thầy giáo) của em trong một giờ học

mà em nhớ nhất.

Tả đồ vật

Đề 1: Tả quyển sách Tiếng Việt 5, tập hai của em.

Đề 2: Tả cái đồng hồ báo thức.

Đề 3: Tả một đồ vật trong nhà mà em yêu thích.

Đề 4: Tả một đồ vật hoặc món quà có ý nghĩa sâu sắc với em

Đề 5: Tả một đồ vật trong viện bảo tang hoặc trong nhà truyền thống mà

em đã có dịp quan sát.

Tả cây cối

Đề 1: Tả một loài hoa mà em thích

Đề 2: Tả một loại trái cây mà em thích

Đề 3: Tả một giàn cây leo.

Đề 4: Tả một cây non mới trồng.

Đề 5: Tả một cây cổ thụ

Tả con vật

Đề: Hãy tả một con vật mà em yêu thích

Kể chuyện

Đề 1: Hãy kể một kỉ niệm khó quên về tình bạn.

Đề 2: Hãy kể lại một câu chuyện mà em thích nhất trong những truyện đã

được học.

Đề 3: Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật

trong câu chuyện đó.

37

2.3. Khảo sát đề bài TLV trong SGK hiện hành và thực trạng dạy học

TLV hiện nay

Đề tài được tiến hành phát phiếu thăm dò ý kiến trên nhóm khách thể là

75 GV đang giảng dạy các khối lớp 4, lớp 5 của các trường tiểu học ở Thành

phố Hồ Chí Minh. Sau khi thu phiếu lại, không có phiếu không hợp lệ (phiếu

có câu trả lời không đầy đủ, trọn vẹn yêu cầu), kết quả 100% phiếu hợp lệ.

Công cụ nghiên cứu chủ yếu của đề tài là phiếu thăm dò ý kiến của GV về

việc khảo sát thực trạng dạy học TLV lớp 4, lớp 5 theo quan điểm giao tiếp.

Trong đó phiếu thăm dò ý kiến được xây dựng trên cơ sở lí luận của đề tài.

Cấu trúc của bảng hỏi

Phần thứ nhất: Tìm hiểu về đề bài TLV lớp 4, lớp 5 trong SGK hiện

hành, gồm các 3 câu (câu 1, 2, 3).

Phần thứ hai: Thực trạng dạy học TLV lớp 4, lớp 5, gồm 6 câu (câu 4, 5,

6, 7, 8, 9, 10).

2.3.1. Khảo sát đề bài TLV trong SGK hiện hành

2.3.1.1. Đề bài TLV tốt

Bảng 2.1. Bảng thống kê các yếu tố của một đề bài TLV tốt

STT Đề bài TLV tốt Số lượng

1 Kích thích hứng thú viết văn của HS 8/75

2 8/75

Tạo điều kiện để HS suy nghĩ, cảm xúc, diễn đạt

3 9 /75

Chú ý các nhân tố giao tiếp (kể/tả cho ai; kể/tả trong hoàn cảnh nào; kể/tả để làm gì; kể/tả gì)

4 Diễn đạt trong sáng 1/75

5 Tất cả các ý kiến trên 49/75

6 2/75

Ý kiến khác: yêu cầu đề rõ ràng, tạo cơ hội cho HS sử dụng kinh nghiệm, vốn sống. Đề tài gần với cuộc sống của HS.

38

Biểu đồ 2.1. Biểu hiện đề bài TLV tốt

Thông qua biểu đồ trên ta thấy được rằng, có đến 64% (49 GV) GV cho

rằng một đề bài TLV tốt là phải kích thích hứng thú viết văn của HS. Đề bài

TLV có thể tạo điều kiện để HS suy nghĩ, cảm xúc, diễn đạt, các nhân tố giao

tiếp. Tiếp theo, có đến 12% ( 9 GV) GV nhận thấy một đề bài TLV tốt phải

chú ý các nhân tố giao tiếp (nhân vật giao tiếp, nội dung giao tiếp, hoàn cảnh

giao tiếp, mục đích giao tiếp, phương tiện và cách thức giao tiếp). Xếp thứ ba

là có 11% (10 GV) GV cho rằng đề bài TLV phải tạo điều kiện để HS suy nghĩ,

cảm xúc, diễn đạt. Có 10% GV nhận thấy một đề bài TLV tốt là kích thích hứng

thú viết văn của HS. Có 2% (2 GV) GV cho rằng đề bài TLV phải yêu cầu rõ

ràng, tạo cơ hội cho HS sử dụng kinh nghiệm, vốn sống. Đề bài gần gũi với

cuộc sống, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi HS. Cuối cùng có 1% (1

GV) GV cho rằng đề bài TLV tốt phải diễn đạt trong sáng, ngôn ngữ dễ hiểu.

39

Nhìn một cách tổng quan thì có nhiều GV nhận thấy rằng một đề bài TLV

tốt phải đảm bảo nhiều yếu tố như kích thích hứng thú viết văn của HS, tạo

điều kiện để HS suy nghĩ, cảm xúc, chú ý các nhân tố giao tiếp. Đề bài rõ ràng,

diễn đạt trong sáng, tạo cơ hội cho HS sử dụng kinh nghiệm, vốn sống của

mình. Cuộc sống xung quanh các em thật phong phú, các em hãy hoà mình với

thiên nhiên, cỏ cây, hoa lá,… mỗi khi có dịp. Các em có thể xem: mặt trời buổi

sáng có gì khác với mặt trời khi sắp lặn; hàng cây sẽ như thế nào khi không có

gió, khi có gió to,…Chú gà trống trưởng thành và chú gà trống choai tiếng

gáy có giống nhau không, hay cũng là tiếng nước chảy khi thì ồ ồ, khi thì ầm

ầm, khi thì róc rách,… Những lời hát ru, những câu thành ngữ, tục ngữ, những

lời ăn tiếng nói trong giao tiếp hàng ngày,… Các em rèn luyện được khả năng

giao tiếp, khả năng sử dụng ngôn từ và khả năng tạo lập văn bản.

2.3.1.2. Đề bài TLV theo quan điểm giao tiếp cần đảm bảo

Bảng 2.2. Bảng thống kê các yếu tố của đề bài TLV theo quan điểm giao

tiếp

STT Các yếu tố của đề bài TLV theo quan Số lượng

điểm giao tiếp

Kể/tả cho ai? 9/75 1

Kể/tả cái gì, điều gì? 11/75 2

Kể/tả trong hoàn cảnh nào? 5/75 3

Kể/tả để làm gì? 8/75 4

Tất cả các ý kiến trên 42/75 5

40

Biểu đồ 2.2. Biểu hiện đề bài TLV theo quan điểm giao tiếp

Biểu đồ trên cho thấy được có đến 56% (42 GV) GV cho rằng một đề bài

TLV theo quan điểm giao tiếp cần đảm bảo các 4 yếu tố: Kể/tả cho ai?, kể/tả

cái gì?, điều gì?, kể/tả trong hoàn cảnh nào?, kể/tả để làm gì?. Có 14% (11

GV) GV cho rằng đề bài TLV được nội dung giao tiếp cụ thể là kể/tả cái gì,

điều gì?. Có 12% (9 GV) GV nghĩ rằng đề bài theo quan điểm giao tiếp chỉ cần

đảm bảo được đối tượng giao tiếp là kể/tả cho ai?. Tiếp theo có 11% (8 GV)

GV nghĩ rằng đề bài phải có mục đích của giao tiếp (kể/tả để làm gì?), mục

tiêu cần đạt được thông qua đề bài TLV. Cuối cùng có 7% (5 GV) GV nghĩ là

đề bài TLV phải đảm bảo hoàn cảnh giao tiếp (ngữ cảnh), không gian, thời

gian, địa điểm diễn ra cuộc giao tiếp.

Thông qua việc phân tích biểu hiện của một đề bài TLV theo quan điểm

giao tiếp, đánh giá của GV về đề bài, chúng tôi kết luận rằng, đa số GV nhận

thấy được đề bài TLV theo quan điểm giao tiếp phải đảm bảo được 4 yếu tố

của quan điểm giao tiếp: nhân vật, nội dung, mục đích và hoàn cảnh giao tiếp.

Thực tế chúng ta thấy rằng rất ít khi trong giao tiếp hàng ngày chúng ta chỉ để

tả hoặc chỉ để kể mà thường là qua làm văn như trên sẽ chỉ rèn cho HS việc tả

41

đê tả, kể để kể. Những đề bài như thế mang nặng tính sách vở, thiếu hẳn tính

phong phú với sự đòi hỏi của cuộc sống.

Trong việc ra đề TLV cho HS cũng như trong việc luyện viết các TLV

của HS, dường như các nhân tố giao tiếp đều bị gạt ra ngoài sự chú ý của GV

và HS. Hai nhân tố để lại dấu rất đậm nét trong việc tổ chức bài văn là nhân

vật giao tiếp và hoàn cảnh giao tiếp đều không được chú ý.

2.3.1.3. Những khó khăn chủ yếu của đề bài TLV hiện nay

Bảng 2.3. Bảng thống kê những khó khăn của đề bài TLV hiện nay

STT Những khó khăn của đề bài TLV hiện nay

Số lượng 10/7 18/7 1 2

10/7 3

37/7 1/75 4 5

Đề bài còn mang tính khuôn mẫu Đề bài chưa kích thích được năng lực thích nói, thích viết của HS Đề bài chưa thể hiện rõ được các yếu tố của quan điểm giao tiếp. Tất cả các ý kiến trên Ý kiến khác: đề bài chưa gần gũi với cuộc sống HS

Biểu đồ 2.3. Những khó khăn chủ yếu của đề bài TLV hiện nay

42

Ở biểu đồ trên thì có 49 % GV cho rằng đề bài TLV hiện nay còn mang

tính khuôn mẫu, chương kích thích được năng lực thích nói, thích viết của HS.

Đề bài chưa thể hiện rõ được các yếu tố của quan điểm giao tiếp. Có 18 GV

chiếm tỉ lệ 24% cho rằng các đề bài trong SGK chưa kích thích được năng lực

thích nói, thích viết của HS. Cùng chiếm tỉ lệ 13% là có 10 GV cho rằng đề bài

TLV còn mang tính khuôn mẫu và chưa thể hiện rõ các yếu tố giao tiếp. Cuối

cùng có 1% GV cho rằng đề bài TLV chưa gần gũi với cuộc sống HS.

Thông qua việc phân tích biểu đồ ở trên, ta nhận thấy có nhiều khó khăn

đề bài TLV hiện nay như: chưa kích thích được năng lực thích nói, thích viết

của HS. Đề bài TLV còn mang tính khuôn mẫu, được thấy rõ hơn qua hình sau

2.3.2. Khảo sát thực trạng dạy TLV

2.3.2.1. Kết quả bài văn của HS theo các đề bài hiện nay

Bảng 2.4. Bảng thống kê kết quả bài văn của HS theo đề bài hiện nay

STT Kết quả bài văn của HS theo các đề bài hiện nay Số lượng

1 2 6/75 Đều dùng từ em để xưng hô Các bài tương đối giống nhau khi tả/kể về một đối tượng 8/75

4 5 Các bài tương đối giống nhau về bố cục Câu văn chưa mạch lạc, còn viết dưới dạng liệt kê 8/75 19/75

6 Tất cả các ý kiến trên 35/75

Biểu đồ 2.4. Kết quả bài văn của HS theo các đề bài hiện nay

43

Biểu đồ trên cho thấy có 46% (35 GV) GV dạy lớp 4, lớp 5 cho rằng kết

quả bài văn của HS theo các đề bài hiện nay là đều dùng từ em để xưng hô.

Các bài văn tương đối giống nhau khi tả/kể về một đối tượng, giống nhau về

bố cục. Câu văn của các em viết chưa mạch lạc, còn viết dưới dạng liệt kê.

Tiếp theo, có đến 25% (19 GV) GV nghĩ rằng HS viết văn chưa mạch lạc, còn

viết dưới dạng liệt kê. Có 11% (9 GV) cho rằng các bài văn tương đối giống

nhau về bố cục. Có 10% (8 GV) các bài tương đối giống nhau khi tả/kể về một

đối tượng. Cuối cùng có 8% (6 GV) cho rằng HS đều dùng từ em để xưng hô.

Với những đề bài TLV không nêu cụ thể đối tượng giao tiếp và mục đích

giao tiếp, chắc chắn rằng lời lẽ trong các bài viết của các em sẽ na ná nhau.

Dường như trong mọi trường hợp, các em đều cho rằng mình viết bài văn này

là cho cô giáo, thầy giáo của mình. Nếu như đối tượng giao tiếp chỉ được xác

định như thế khiến cho giọng văn của các em cũng dần trở nên khô cứng, rập

khuôn. Bởi vậy, vấn đề nêu cụ thể đối tượng giao tiếp trong một đề bài TLV là

điều cần thiết với các em. Đối tượng giao tiếp thường để lại dấu ấn rất sâu đậm

trong việc hình thành ngôn bản.

2.3.2.2. Những khó khăn chủ yếu trong việc dạy TLV hiên nay

Bảng 2.5. Bảng thống kê những khó khăn trong việc dạy TLV hiện nay

STT Những khó khăn trong việc dạy TLV hiện nay Số lượng

Thời lượng dành cho phân môn TLV còn quá ít 13/7 1

HS chưa nắm vững các thao tác, kĩ năng viết văn 1/75 2

HS còn thụ động, khả năng tự làm việc và phối 11/7 3

hợp hoạt động còn hạn chế

HS còn hạn chế về vốn từ: 10/7 4

Tất cả các ý kiến trên 41/7 5

44

Biểu đồ 2.5. Những khó khăn chủ yếu của việc dạy TLV hiện nay

Qua bảng thống kê và biểu đồ trên cho ta thấy được có đến 55% (41 GV)

GV cho rằng khó khăn chủ yếu của việc dạy TLV hiện nay là thời lượng dành

cho phân môn TLV còn quá ít, HS chưa nắm vững các thao tác, kĩ năng viết

văn. HS còn thụ động, khả năng tự làm việc và phối hợp hoạt động còn hạn

chế. Bên cạnh đó, HS còn hạn chế vốn từ. Có 17% (13 GV) GV cho rằng thời

lượng dành cho phân môn TLV còn quá ít. 14% (11 GV) GV cho rằng HS còn

thụ động, khă năng tự làm việc và phối hợp hoạt động còn hạn chế. 13% (10

GV) cho rằng khó khăn chủ yếu của việc dạy TLV hiện nay là do vốn từ của

HS còn hạn chế. Cuối cùng còn 1% (1GV) GV cho rằng HS chưa nắm vững

các thao tác, kĩ năng viết văn.

45

Vốn sống, vốn hiểu biết cũng như năng lực và trình độ kiến thức, tình

cảm và thái độ của HS còn hạn chế. Vốn từ của các em còn nghèo do các

em sinh thường lười đọc sách báo hoặc ít tìm tòi, sưu tầm những tài liệu phục

vụ cho kiến thức có liên quan đến môn học. GV thường xuyên tích luỹ vốn

hiểu biết thực tế và cuộc sống văn học cho HS. Có những cảnh vật, sự việc

diễn ra quanh ta tưởng chừng như rất quen thuộc nhưng nếu không chú ý quan

sát, nhận xét để ghi nhớ thì những điều đó khó có thể đi vào bài văn của các

em.

Bên cạnh vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống, GV cần giúp HS tích luỹ

vốn hiểu biết về văn học thông qua việc đọc sách báo thường xuyên. Nên

hướng cho các em đọc các sách hay, phù hợp với lứa tuổi, phục vụ cho việc

học tập như: báo Thiếu niên, sách văn học, truyện cổ tích, sách về các danh

nhân... HS hiểu biết sâu sắc về thực tế cuộc sống và văn học nhằm giúp trí

tưởng tượng và cảm xúc của các em ngày càng thêm phong phú, chân thực.

Đây chính là điều quan trọng để bài văn đạt kết quả cao.

2.3.2.3. Khó khăn chủ yếu của HS khi làm văn kể chuyện

Bảng 2.6. Bảng thống kê khó khăn của HS khi làm văn kể chuyện

STT Khó khăn của HS khi làm văn kể chuyện Số lượng

HS kể lại được câu chuyện nhờ vào học thuộc 6/75 1 lòng câu chuyện

HS kể lại cốt truyện một cách khô khan 8/75 2

Bài văn của HS chưa có sự lập luận chặt chẽ 12/75 3

Chưa thể hiện được ngoại hình, tính cách, 12/75 4 hành động, suy nghĩ của nhân vật

Tất cả các ý kiến trên 37/75 5

46

Biểu đồ 2.6. Biểu thị khó khăn chủ yếu của HS khi làm văn kể chuyện

Từ biểu đồ và bảng thống kê trên, cho ta thấy có đến 49% GV cho rằng

HS thường gặp nhiều khó khăn khi làm văn kể chuyện. HS kể lại câu chuyện

nhờ vào học thuộc lòng hoặc kể lại một cách khô khan. HS chưa lập luận chặt

chẽ, chưa thể hiện được ngoại hình, tính cách, hành động, suy nghĩ của nhân

vật. Có 16% GV đều cho rằng HS chưa lập luận chặt chẽ và chưa thể hiện

được ngoài hình, tính cách, hành động, suy nghĩ của nhân vật. 11% GV cho

rằng HS kể lại câu chuyện khô khan. Cuối cùng có 8% GV cho rằng HS kể lại

được câu chuyện nhờ vào học thuộc lòng câu chuyện.

Văn kể chuyện là thể loại văn nghệ thuật gắn liền với đời sống xã hội, có

tác dụng giáo dục, tư tưởng tình cảm, kỹ năng sống cho HS tiểu học. Thể loại

TLV này vận dụng tổng hợp, ở mức độ cao, vốn tri thức về cuộc sống, tư

tưởng, tình cảm, hành động của người nói, người viết. Văn kể chuyện là một

thể loại văn nghệ thuật, có đặc trưng thể loại riêng biệt. Xuất phát từ đặc trưng

của văn kể chuyện, GV cần sử dụng các biện pháp rèn luyện kĩ năng lập luận

47

cho học sinh lớp 4 như: định hướng lập luận qua việc xây dựng và sắp xếp các

sự việc để tạo thành cốt truyện; định hướng lập luận qua việc kể lại hành động,

ý nghĩ và lời nói của nhân vật; định hướng việc lựa chọn các chi tiết miêu tả

cùng chủ đề và sử dụng các từ ngữ cùng trường nghĩa để miêu tả ngoại hình

nhân vật.

2.3.2.4. Khó khăn của HS khi viết văn miêu tả

Bảng 2.7. Bảng thống kê khó khăn của HS khi viết văn miêu tả

STT Khó khăn của HS khi viết văn miêu tả Số lượng

1 Chưa từng gặp đối tượng miêu tả 1/75

2 Chưa có được kĩ năng quan sát thực tế 8/75

3 Quan sát hời hợt thiếu định hướng, thiếu tinh tế 9/75

4 Khả năng liên tưởng của HS còn hạn chế 18/7

5 Tất cả các ý kiến trên 41/7

Biểu đồ 2.7. Biểu thị những khó khăn của HS khi viết văn miêu tả

Qua biểu đồ và bảng thống kê trên, chúng ta thấy có đến 41 GV chiếm tỉ

48

lệ 54% cho rằng HS gặp nhiều khó khăn khi viết văn miêu như: chưa gặp đối

tượng miêu tả, chưa có được kĩ năng quan sát thực tế, khả năng liên tưởng của

HS còn hạn chế. Có 18 GV chiếm 23% cho rằng HS gặp khó khăn khi viết văn

miêu tả là do khả năng liên tưởng của HS còn hạn chế. Khả năng viết văn miêu

tả của các em còn hạn chế là do HS quan sát hời hợt thiếu định hướng, thiếu

tinh tế có 9 GV chiếm tỉ lệ 12% nhận định về điều này. 10% GV (8 GV) cho

rằng HS chưa có kỹ năng quan sát thực tế về những cảnh vật, những con

người, những cảnh sinh hoạt. Đó chính là những đối tượng để các em quan sát,

bộc lộ những hiểu biết, những cảm xúc, những tình cảm của mình. Cuối cùng

có 1 GV chiếm tỉ lệ 1% cho rằng HS chưa từng gặp đối tượng miêu tả khi làm

văn. Những đối tượng miêu tả có thể các em chưa từng có dịp để quan sát

ngoài thực tế, chẳng hạn như tả cảnh vùng quê, tả con sông ở quê em hay một

đêm trăng đẹp. Với những đối tượng miêu tả này, những HS ở thành thị rất khó

có cơ hội quan sát thực tế nên các em thường gặp khó khăn khi miêu tả. Dẫn

tới bài văn của các em thiếu sinh động và cảm xúc.

Văn bản miêu tả không chỉ đơn thuần “tả để mà tả”, mà thông qua việc tả

để gửi gắm những suy nghĩ, cảm xúc và đánh giá của HS. Dù miêu tả đồ vật,

con vật, cây cối, phong cảnh, con người … tất cả đều chứa đựng tình cảm của

người viết với đối tượng đó. Trong nhà trường tiểu học, đối tượng miêu tả chủ

yếu là những sự vật có ích thiết thực với đời sống: tả đồ vật, tả cây cối, tả con

vật, tả cảnh, tả người.

Để làm tốt bài văn miêu tả, GV cần hướng dẫn HS quan sát các sự vật,

hiện tượng, con người. Quan sát là sự vận dụng tất cả các giác quan để nhận

biết về đối tượng miêu tả. Dùng mắt để nhận rõ hình dáng, màu sắc, hình khối

… của sự vật; dùng tai để nghe âm thanh, tiếng động; dùng mũi để phát hiện

các loại mùi. Để tăng khả năng gợi cảm, HS cần sử dụng nhiều những từ ngữ

chỉ màu sắc, cảm xúc và những từ ngữ chỉ địa điểm, vị trí không gian: trong,

trước, giữa, ngoài, sau … tạo cho văn bản những cảnh vật vừa sống động vừa

49

cụ thể cuốn hút người đọc, người nghe.

2.3.2.5. Thái độ của HS trong giờ TLV

Bảng 2.8. Bảng thống kê thái độ của HS trong giờ TLV

STT Thái độ của HS trong giờ TLV 1 2 3 4 Rất hứng thú, tích cực Bình thường, không mấy hào hứng Uể oải, ít hoạt động Thụ động, không hợp tác Số lượng 6/75 52/7 7/75 10/7

Biểu đồ 2.8. Biểu thị thái độ của HS trong giờ TLV

Qua biểu đồ và bảng thống kê trên, cho thấy có đến 52 GV chiếm 70%

cho rằng HS cảm thấy bình thường, không mấy hào hứng khi học tiết TLV. Có

13% GV cho rằng HS thụ động, không hợp tác. Có 7 GV chiếm tỉ lệ 9% nghỉ

rằng HS uể oải, ít hoạt động khi học TLV. Chiếm tỉ lệ ít nhất là 8% (6 GV) HS

rất hứng thú, tích cực trong tiết TLV.

Nguyên nhân dẫn đến thái độ không mấy hào hứng của HS lớp 4, lớp 5

khi học tiết TLV là do đề bài TLV không kích thích được năng lực thích viết,

thích nói của HS. Đề bài quá khuôn mẫu, thiếu các nhân tố giao tiếp. Từ việc

thiếu nhân tố giao tiếp, HS không xác định được mục đích của việc tả/kể để

50

làm gì, hay tả/kể cho ai nghe (đọc) và việc tả/kể trong hoàn cảnh nào. Kết quả

của các bài văn điều giống nhau về đối tượng tả/kể là giáo viên dạy, đều xưng

em. Bên cạnh đó, TLV là phân môn khó, đòi hỏi HS có vốn từ nhiều, vốn hiểu

biết về kiến thức thực tế. Đòi hỏi các em có kỹ năng viết văn, viết đúng chính

tả, ngữ pháp.

2.3.2.6. Trong việc luyện viết TLV cho HS, GV chú ý đến

Bảng 2.9. Bảng thống kê những điều cần chú ý trong việc luyện viết TLV

STT Những điều cần chú ý trong việc luyện viết TLV Số lượng

cho HS Lỗi chính tả, ngữ pháp Lỗi diễn đạt ý Xác định đúng thể loại (chỉ tả là tả, chỉ kể là kể) Xác định các nhân tố giao tiếp Tất cả các ý trên 1 2 3 4 5 4/75 23/75 7/75 4/75 46/75

Biểu đồ 2.9. Những điều cần chú ý của GV khi luyện viết cho HS

Từ biểu đồ, ta thấy có 46 GV chiếm 59% GV cho rằng cần chú ý về lỗi

chính tả, ngữ pháp, lỗi diễn đạt ý. HS chưa xác định đúng thể loại (chỉ tả là tả,

chỉ kể là kể). HS chưa xác định được các nhân tố giao tiếp (hoàn cảnh, nội

dung, mục đích, đối tượng). Có 29% (23 GV) cho rằng cần chú ý về lỗi diễn

51

đạt ý của HS. Do đặc điểm về ngôn ngữ của HS lớp 4, lớp 5 còn hạn chế. Có

4% GV đều cho rằng cần chú ý về lỗi ngữ pháp, chính tả và việc xác định đúng

thể loại (kể, tả, viết thư). HS chưa xác định đúng các nhân tố giao tiếp.

Sau khi đánh giá tổng quan về những điều cần chú ý của GV trong việc

luyện viết TLV cho HS lớp 4, lớp 5. Chúng ta nhận thấy rằng đa số các em bị

lỗi về diễn đạt ý. Do đặc điểm ngôn ngữ của HS tiểu học còn hạn chế nên các

em viết văn chưa mạch lạc, còn viết dưới dạng liệt kê. Một số HS do vốn từ

nghèo nàn nên thường dùng từ sai. Muốn làm văn tốt, các em phải hiểu từ và

nắm vững ý nghĩa của từ để sử dụng một cách chính xác khi diễn đạt.

2.3.2.7. Khó khăn của GV khi dạy tiết tìm hiểu đề

Bảng 2.10. Bảng thống kê khó khăn của GV khi dạy tiết tìm hiểu đề

STT 1 2 3 4 5 6

Số lượng 3/75 4/75 28/75 13/75 25/75 2/75

Khó khăn của GV khi dạy tiết tìm hiểu đề HS chưa xác định đúng thể loại TLV HS chưa xác định được đối tượng sẽ tả/kể HS chưa lập được dàn ý của để bài TLV HS chưa xác định được nội dung sẽ tả/kể Tất cả các ý kiến trên Ý kiến khác: HS chưa cẩn thận, quá hấp tấp khi đọc đề bài. HS chưa diễn đạt ý trọn vẹn.

Biểu đồ 2.10. Biểu thị khó khăn của GV khi dạy tiết tìm hiểu đề

52

Biểu đồ trên cho ta thấy có đến 38% (28 GV) cho rằng khó khăn khi dạy

tiết tìm hiểu đề là HS chưa lập được dàn ý của đề bài. Có 36% (25 GV) cho

rằng HS chưa xác định đúng thể loại, chưa xác định được đối tượng sẽ tả/kể,

chưa lập được dàn ý của đề bài TLV, chưa xác định được nội dung sẽ tả/kể và

HS chưa cẩn thẩn, quá hấp tấp khi đọc đề bài, HS diễn đạt ý chưa trọn vẹn.

15% (12 GV) GV nhận thấy rằng khó khăn khi dạy tiết tìm hiểu đề là do các

em chưa xác định được nội dung sẽ tả/kể. Có 5% (4 GV) GV nhận thấy HS

chưa xác định được đối tượng sẽ tả/kể. HS chưa xác định đúng thể loại Có 3

GV chiếm 4% cho rằng việc gặp khó khăn khi dạy tiết tìm hiểu đề là do HS

chưa xác định đúng thể loại. Có 2 GV cho rằng HS chưa cẩn thận, quá hấp tấp

khi đọc đề bài. GV cần giúp HS diễn đạt ý trọn vẹn.

53

Tiểu kết chương 2

Kết quả khảo sát cho thấy, đa số các đề bài TLV lớp 4, lớp 5 trong SGK

hiện hành còn mang tính khuôn mẫu, chưa thể hiện rõ được các yếu tố của

quan điểm giao tiếp đặc biệt là đối tượng giao tiếp. Từ đó dẫn đến việc kết quả

bài văn của HS đều giống nhau khi tả/kể về một đối tượng. Khi viết văn, HS

đều dùng từ em để xưng hô vì các em cho rằng mình viết văn cho cô giáo, thầy

giáo. Đề bài TLV chưa kích thích được năng lực thích nói, thích viết của HS.

Việc xác định các nhân tố giao tiếp trong đề bài TLV bị GV cọi nhẹ. GV

còn lúng túng khi vận dụng phương pháp dạy TLV. Lập dàn bài rập khuôn dẫn

đến bài làm của HS giống nhau về ý tưởng, nội dung. GV chưa rèn cho HS có

thói quen đọc các bài văn mẫu, văn hay từ đó rút ra ý hay; tai hại thay một số

GV còn cho HS học thuộc những bài văn mẫu điều đó đã làm mất đi sự sáng

tạo và óc tưởng tương phong phú của HS.

Việc dạy TLV tuy nhiều (62 tiết/năm) nhưng lại chưa phù hợp với sự đòi

hỏi của cuộc sống, chưa giúp được nhiều cho các em trong việc ứng xử linh

hoạt trong cách kể, cách tả của đời sống muôn màu muôn vẻ.

Các kết quả của chương 2 cho thấy cái nhìn toàn cảnh về đề bài TLV

trong SGK hiện hành và thực trạng dạy học TLV lớp 4, lớp 5 hiện nay. Chính

vì thế, việc xây dựng hệ thống đề bài TLV lớp 4, lớp 5 theo quan điểm giao

tiếp là rất cần thiết sẽ được thực hiện ở chương 3.

54

Chương 3. THIẾT KẾ ĐỀ BÀI TLV LỚP 4, LỚP 5

THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP

Thông qua việc tìm hiểu và phân tích cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn đã

được trình bày ở chương 1 và chương 2. Ở chương 3, tác giả luận văn trình bày

và thiết kế đề bài TLV lớp 4, lớp 5 theo quan điểm giao tiếp như nguyên tắc

xây dựng đề bài, quy trình, phương pháp xây dựng đề bài. Theo đó, tác giả

luận văn tiến hành đưa ra một số đề bài TLV lớp 4, lớp 5 theo quan điểm giao

tiếp.

3.1. Nguyên tắc xây dựng đề bài TLV lớp 4, lớp 5 theo quan điểm giao tiếp

3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo phù hợp mục tiêu chương trình

Phân môn TLV có tính chất tổng hợp, vừa vận dụng các hiểu biết và kĩ

năng về Tiếng Việt từ các phân môn khác vừa phát huy và hoàn thiện các kết

quả đó. Việc học TLV rèn luyện các kĩ năng làm văn: Kĩ năng phân tích đề, kĩ

năng tìm ý, lập dàn ý bài văn, kĩ năng viết đoạn, liên kết đoạn thành bài văn, kĩ

năng tự kiểm tra, sửa chữa bài văn nói và viết. Góp phần cùng các môn học

khác phát triển ngôn ngữ, mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy logic, tư duy

hình tượng cho HS. Bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân

cách cho HS.

Khi xây dựng đề bài TLV theo quan điểm giao tiếp cho HS lớp 4, lớp 5

cần căn cứ vào mục tiêu của môn học, xác định kiến thức cần dạy, kĩ năng cần

hình thành, phái triển cho HS. Do vậy, những biện pháp xây dựng phải bám sát

mục tiêu môn học. Hình thành và phát triển ở HS các kỹ năng sử dụng Tiếng

Việt (nghe, nói, đọc, viết) cung cấp những kiến thức cơ bản để HS biết cách sử

dụng Tiếng Việt làm công cụ tư duy, giao tiếp và học tập, tạo điều kiện cho HS

độc lập về suy nghĩ, chủ dộng sáng tạo, bồi dưỡng phương pháp tự học, tạo

hứng thú và nhu cầu sản sinh ngôn bản ở HS. Là loại văn giúp người đọc,

55

người nghe hình dung những đặc điểm, tính chất nổi bật của một sự vật, sự

việc, con người, phong cảnh,…. làm cho đối tượng miêu tả như hiện lên trước

mắt người đọc, người nghe.

Kể chuyện là kể lại một chuỗi sự việc có đầu có cuối, có lien quan đến

một hay một số nhân vật. Mỗi câu chuyện nói lên một điều ý nghĩa. Miêu tả là

vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, con người, … để người nghe

hình dung được đối tượng miêu tả. Qua việc kể/tả HS hình thành được kỹ năng

quan sát sự vật, hiện tượng trong cuộc sống từ đó hình thành được năng lực

tạo lập ngôn bản, văn bản.

3.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống

Quá trình dạy TLV là một hệ thống gồm các thành tố cơ bản: đối tượng

dạy học (dạy cho ai?), nội dung dạy học (dạy cái gì?), mục đích dạy học (dạy

đề làm gì?), phương pháp, hình thức tổ chức, phương tiện (dạy như thế nào?)

và kết quả dạy học. Tất cả các thành tố trên có mối quan hệ mật thiết với nhau,

quy định, chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau. Vì vậy, việc xây các đề bài TLV lớp 4,

lớp 5 theo quan điểm giao tiếp phải dựa trên các biện pháp, phương pháp dạy

TLV nhằm đảm bảo trật tự khoa học, tính hệ thống của quá trình dạy học, giúp

quá trình dạy phát triển năng lực giao tiếp trong giờ TLV đạt hiệu quả.

Đề bài TLV giúp định hướng, xác định ý tưởng cho quá trình tạo lập văn

bản (ngôn bản). Dựa vào đề bài TLV, HS xác định được đối tượng, nội dung,

mục đích, hoàn cảnh của việc tả/kể. Từ việc phân tích đề bài TLV, HS quan sát

sự vật, hiện tượng để tìm ý cho bài văn. HS phân tích đề bài TLV, quan sát đối

tượng, tìm ý trong văn bản và tìm ý theo đề bài. HS chọn từ, tạo câu, viết đoạn

và liên kết các đoạn thành bài. HS kiểm tra, sửa chữa bài văn.

3.1.3. Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức

Để thực hiện nhiệm vụ học tập, đặc biệt là học TLV, HS cần vận dụng các

kĩ năng, tri thức, kinh nghiệm sống của HS. Nếu đề bài TLV này quá sức, thì

HS sẽ không hứng thú khi thực hiện, thậm chí HS sẽ tìm cách đối phó hoặc từ

56

chối. Nếu đề bài quá đơn giản thì hiệu quả thực hiện sẽ hạn chế vì tạo sự lôi

cuốn với HS. Vì vậy, việc xây dựng đề bài TLV lớp 4, lớp 5 theo quan điểm

giao tiếp phải đảm bảo tính vừa sức với HS, đề bài phù hợp với đặc điểm tâm

lí của HS. Đề bài TLV gần gũi với cuộc sống, tạo điều kiện để các em sử dụng

kinh nghiệm sống của mình khi làm văn.

3.1.4. Nguyên tắc đảm bảo quan điểm giao tiếp trong dạy học Tiếng Việt

Các đề bài TLV được xây dựng phải đảm bào quan điểm giao tiếp, coi

trọng sự phát triển kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho HS. Đề bài dạy học TLV

theo quan điểm giao tiếp cần đảm bảo các nhân tố giao tiếp:

- Nhân vật giao tiếp: Kể/ tả cho ai?

- Nội dung giao tiếp: Kể/ tả cái gì, điều gì?

- Hoàn cảnh giao tiếp: Kể/tả trong hoàn cảnh nào?

- Mục đích giao tiếp: Kể/ tả để làm gì?

3.1.5. Nguyên tắc đảm bảo sự phù hợp với đối tượng học sinh

Khi xây dựng đề bài TLV theo quan điểm giao tiếp cần chú ý phù hợp

với đối tượng học sinh. Để phù hợp với đối tượng học sinh thì cần xem

xét một số yếu tố như sau: độ tuổi, trình độ, vùng miền.

Đối với yếu tố độ tuổi của HS lớp 4, lớp 5 thì các em từ 9 đến 10 tuổi.

Với lứa tuổi này, các em nảy sinh xử lý sáng tạo những biểu tượng. Trí tưởng

tượng của HS bay bổng, phóng khoáng và chưa bị hạn chế bởi những hình ảnh

hiện thực trực quan. Vốn từ của các em ngày càng phong phú, chính xác và

giàu hình ảnh, ngôn ngữ phát triển có tính chất logic, có sức truyền cảm.

57

3.2. Ma trận đề bài TLV lớp 4, lớp 5 theo quan điểm giao tiếp

Bảng 3.1. Ma trận đề bài TLV lớp 4, lớp 5 theo quan điểm giao tiếp

Yếu tố giao tiếp

Đối

tượng

Nội dung Mục đích Hoàn cảnh (kể/tả cho

Lớp Thể loại (kể/tả trong ai?)

(kể/tả để làm gì?) hoàn cảnh (cô giáo, (kể/tả cái gì, điều gì?) nào?) bạn, ông

bà, cha

mẹ)

Kể chuyện

Viết thư

Lớp 4 Tả đồ vật

Tả con vật

Tả cây cối

Kể chuyện

Tả cảnh

Lớp 5 Tả người

Tả con vật

Tả cây cối

Tả đồ vật

3.3. Quá trình xây dựng đề bài TLV theo quan điểm giao tiếp

- Xác định từng thể loại: viết thư, kể chuyện, miêu tả (tả cảnh, tả người, tả

cây cối, tả con vật, tả đồ vật).

- Chọn nội dung phù hợp với chương trình dạy học TLV lớp 4, lớp 5.

- Xác định các nhân tố giao tiếp trong mỗi đề bài TLV

58

+ Xác định đối tượng giao tiếp: người tả hay kể là ai? tả hay kể cho ai

biết?

+ Xác định mục đích giao tiếp: kể/tả để làm gì?

+ Xác định tình huống giao tiếp (hoàn cảnh giao tiếp): kể/tả trong hoàn

cảnh nào?

+ Xác định nội dung giao tiếp: kể/tả cái gì?

- Xây dựng đề bài TLV.

- Kiểm tra lại đề bài, chỉnh sửa hoàn chỉnh.

Ví dụ minh họa cho quá trình xây dựng đề bài TLV theo quan điểm giao

tiếp:

Đề bài TLV theo quan điểm giao tiếp: Em có quen người bạn qua thư, bạn

là người Việt Nam ở nước ngoài và rất yêu thích phong cảnh ở Việt Nam

nhưng chư có cơ hội về nước tham quan. Em hãy tả một cảnh đẹp của quê

hương em để chia sẻ cùng bạn.

- Xác định thể loại: miêu tả (tả cảnh)

- Chọn nội dung phù hợp với chương trình dạy học TLV lớp 4, lớp 5: là

văn tả cảnh.

- Xác định các nhân tố giao tiếp trong mỗi đề bài TLV

+ Xác định đối tượng giao tiếp: Viết cho người bạn ở nước ngoài.

+ Xác định mục đích giao tiếp: để chia sẻ về vẻ đẹp của quê hương em và

tình cảm em dành cho quê hương mình.

+ Xác định tình huống giao tiếp (hoàn cảnh giao tiếp): Trong hoàn cảnh

bạn rất yêu thích phong cảnh quê hương Việt Nam nhưng chưa có cơ hội về

nước.

+ Xác định nội dung giao tiếp: Tả một cảnh đẹp quê hương.

- Kiểm tra lại đề bài, chỉnh sửa hoàn chỉnh: Kiểm tra đề bài để xem xét lại

đề bài đã tạo ra được có phù hợp với các bước đã thực hiện hay không. Nếu sai

sót cần điều chỉnh lại

59

3.4. Hệ thống đề bài TLV lớp 4, lớp 5 theo quan điểm giao tiếp

3.4.1. Phân tích một số đề bài TLV theo quan điểm giao tiếp

3.4.1.1. Đề bài 1

Đề: Tả ngôi nhà của em.

Đề bài theo quan điểm giao tiếp:

Ngôi nhà của em vừa xây mới lại. Do ông bà em ở xa nên vẫn chưa đến

thăm nhà mới được. Hãy viết một bài văn tả ngôi nhà của em để ông bà hình

dung được về ngôi nhà mới này.

Phân tích:

- Viết cho ông bà

- Tả về ngôi nhà của em vừa mới xây lại.

- Trong hoàn cảnh ông bà ở xa và giúp ông bà hình dung ra ngôi nhà mới.

- Hy vọng ông bà có thể lên thăm nhà.

3.4.1.2. Đề bài 2

Đề bài: Tả lại người lao động (công nhân, nông dân, bác sĩ, y tá, cô giáo,

…) đang làm việc

Đề bài TLV theo quan điểm giao tiếp:

Vào giờ ra chơi, em tình cờ nghe thấy một số bạn trong lớp đang bàn tán

và chế giễu các cô/ chú lao công đang làm việc. Em hãy tả lại cô/ chú lao công

đang làm việc vất vả mà em được chứng kiến và chia sẻ cảm xúc của mình để

các bạn trong lớp hiểu rằng nghề nghiệp nào cũng rất cao quý và đáng trân

trọng.

Phân tích

- Viết cho các bạn trong lớp.

- Tả lại cảnh làm việc vất vả của cô chú lao công trong trường.

- Trong hoàn cảnh các bạn đang bàn tán chế giễu công việc lao động.

- Chia sẻ để các bạn cùng biết nghề nghiệp nào cũng đáng quý.

60

3.4.1.3. Đề bài 3

Đề: Tả về chiếc xe đạp

Đề bài theo quan điểm giao tiếp: Nhân dịp năm học mới, em được ba

mẹ tặng cho một chiếc xe đạp. Em rất vui và muốn viết thư để khoe cho ông

em ở quê về chiếc xe đạp mới này.

Phân tích:

- Viết cho ông

- Tả chiếc xe đạp em được bố mẹ tặng

- Trong hoàn cảnh ông em ở quê không có dịp tận mắt nhìn thấy chiếc xe đạp.

- Muốn chia sẻ niềm vui với ông khi em có chiếc xe đạp mới.

3.4.1.4. Đề bài 4

Đề: Tả cảnh quê hương em.

Đề bài theo quan điểm giao tiếp: Em có quen người bạn qua thư, bạn là

người Việt Nam ở nước ngoài và rất yêu thích phong cảnh ở Việt Nam nhưng

chư có cơ hội về nước tham quan. Em hãy tả một cảnh đẹp của quê hương em

để chia sẻ cùng bạn.

Phân tích:

- Viết cho người bạn ở nước ngoài.

- Tả một cảnh đẹp quê hương em.

- Trong hoàn cảnh bạn rất yêu thích phong cảnh quê hương Viêt Nam

nhưng chưa có cơ hội về nước.

- Chia sẻ về vẻ đẹp của quê hương em và tình cảm của em dành cho quê

hương mình.

3.4.2. Giáo án TLV theo quan điểm giao tiếp

3.4.3.1. Giáo án 1

Đề bài: Em có người bạn thân lười học, ham chơi. Em hãy kể một câu

chuyện về người có nghị lực cho bạn của em nghe để bạn ấy có thể nhìn lại

bản thân và chăm chỉ học tập.

61

I. Mục tiêu

- Có kỹ năng phân tích đề bài, tìm ý và lập dàn bài văn kể chuyện.

- Có kỹ năng nhận diện đặc điểm loại văn kể chuyện.

- HS có kĩ năng diễn đạt văn bản.

- Có kỹ năng viết bài TLV.

- Viết bài văn đúng yêu cầu của đề bài, có đầy đủ ba phần của bài văn kể

chuyện (mở bài, thân bài, kết bài), diễn đạt thành câu, lời văn tự nhiên, chân

thực.

- Kĩ năng tự kiểm tra, sửa chữa văn bản.

II. Đồ dùng dạy học

- Tranh ảnh minh họa.

- Vở tập làm văn, bút.

- Bảng phụ viết dàn ý của bài văn.

III. Hoạt động dạy – học

Thời gian Hoạt động của GV Hoạt động của HS

3 phút A. Phân tích đề bài TLV

- Yêu cầu HS đọc đề bài TLV. - Đọc đề bài TLV.

- Yêu cầu HS phân tích đề bài. - HS phân tích đề bài

+ Kể cho ai nghe? + Kể cho bạn của em

nghe.

+ Kể về nội dung gì? + Kể về người có nghị

lực.

+ Kể trong hoàn cảnh nào? + Trong hoàn cảnh là

bạn em lười học, ham

chơi.

62

+ Kể với mục đích gì? + Đề bạn chăm chỉ học

tập.

7 phút - HS tìm ý. B. Lập dàn ý

- HS lập dàn bài. Mở bài:

Giới thiệu câu chuyện mình định kể

là câu chuyện gì? Trong hoàn cảnh

nào?

Thân bài:

- Câu chuyện kể về ai?

- Ngoại hình người đó như thể nào?

Nghề nghiệp? Sở thích?

- Tính cách của người đó?

- Câu chuyện về người có nghị lực là

câu chuyện gì?

Kết bài:

Em có lời khuyên gì cho bạn em để

bạn em chăm chỉ học tập hơn?

- GV chỉnh sửa dàn ý của HS.

C. Viết bài TLV

25 phút - GV nhắc nhở HS trước khi viết bài. - HS nhận xét lẫn nhau.

- GV cho HS viết bài.

- Quan sát HS làm bài. - HS viết bài TLV.

Rút kinh nghiệm: …………………………………………………………………………………

3.4.3.2. Giáo án 2

Đề bài: Ngôi nhà của em vừa mới xây mới lại. Do ông bà em ở xa nên

63

vẫn chưa đến thăm nhà mới được. Em hãy viết một bài văn tả ngôi nhà của em

để ông bà hình dung được về ngôi nhà mới này.

I. Mục tiêu

- Có kỹ năng phân tích đề bài, tìm ý và lập dàn bài văn tả cảnh.

- Có kỹ năng nhận diện đặc điểm loại văn miêu tả (tả cảnh).

- HS có kĩ năng diễn đạt văn bản.

- Có kỹ năng viết bài TLV.

- Viết bài văn đúng yêu cầu của đề bài, có đầy đủ ba phần của bài văn tả

cảnh (mở bài, thân bài, kết bài), diễn đạt thành câu, lời văn tự nhiên, chân thực.

- Kĩ năng tự kiểm tra, sửa chữa văn bản.

II. Đồ dùng dạy học

- Tranh ảnh minh họa.

- Vở tập làm văn, bút.

- Bảng phụ viết dàn ý của bài văn.

III. Hoạt động dạy – học

Thời gian Hoạt động của GV Hoạt động của HS

3 phút A. Phân tích đề bài TLV

- Yêu cầu HS đọc đề bài TLV. - Đọc đề bài TLV.

- Yêu cầu HS phân tích đề bài. - HS phân tích đề bài.

+ Viết cho ai đọc? + Viết cho ông bà.

+ Tả về nội dung gì? + Tả về ngôi nhà của

em vừa mới xây lại.

+ Tả trong hoàn cảnh nào? + Trong hoàn cảnh ông

bà ở xa tả để giúp ông

bà hình dung ra ngôi

nhà mới.

64

+ Tả với mục đích gì? + Hy vọng ông bà có

thể lên thăm nhà.

7 phút B. Lập dàn ý

Mở bài:

Giới thiệu chung vị trí ngôi nhà,

cảm giác chung về ngôi nhà? - HS tìm ý.

- HS lập dàn bài. Thân bài

Những nét chung

- Ngôi nhà mới của em được xây lại

khi nào? Xây trong thời gian bao lâu?

- Nhà có hàng rào, có vườn, có sân

không?

- Nhà rộng hay hẹp? Bằng vật liệu gì?

- Nhà có bao nhiêu phòng? (phòng

ngủ, phòng ăn, nhà bếp).

Đặc điểm tả một số chi tiết

- Phòng đầu tiên (hoặc phòng khách)

được trang hoàng như thế nào? Có nét

gì đặc biệt?

- Phòng em học ở đâu? Phòng được

sắp xếp như thế nào? Có gì thuận tiện

hay trở ngại cho việc học tập của em?

- Ngôi nhà mới của em có gì thay đổi

so với ngôi nhà cũ?

- Nơi nào em thích nhất và muốn giới

thiệu với ông bà nhất trong ngôi nhà

mới của mình? Và vì sao em thích nới

65

đó nhất?

Kết bài:

- Cảm nghĩ của em vê ngôi nhà?

- Em sẽ làm gì để giữ gìn, bảo quản

ngôi nhà mới này? Và em sẽ mời ông

bà đến thăm nhà mới vào dịp nào?

- GV chỉnh sửa dàn ý của HS. HS nhận xét lẫn nhau

- GV nhận xét, sửa lỗi.

25 phút C. Viết bài TLV

- GV nhắc nhở HS trước khi viết bài.

- GV cho HS viết bài.

- Quan sát HS làm bài. - HS viết bài TLV.

Rút kinh nghiệm: …………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………

3.4.3.3. Giáo án 3

Đề bài: Em gái của em đang độ tuổi tập đi, tập nói. Em hãy tả lại hình

dáng và tính nết ngây thơ của em ấy cho các bạn cùng lớp đều biết và thể hiện

tình cảm của mình với em.

I. Mục tiêu

- Có kỹ năng phân tích đề bài, tìm ý và lập dàn bài văn tả người (hoạt

động.

66

- Có kỹ năng nhận diện đặc điểm loại văn miêu tả.

- HS có kĩ năng diễn đạt văn bản.

- Có kỹ năng viết bài TLV.

- Viết bài văn đúng yêu cầu của đề bài, có đầy đủ ba phần của bài văn

miêu tả (mở bài, thân bài, kết bài), diễn đạt thành câu, lời văn tự nhiên, chân

thực.

- Kĩ năng tự kiểm tra, sửa chữa văn bản.

II. Đồ dùng dạy học

- Tranh ảnh minh họa.

- Vở tập làm văn, bút.

- Bảng phụ viết dàn ý của bài văn.

III. Hoạt động dạy – học

Thời gian Hoạt động của GV Hoạt động của HS

3 phút A. Phân tích đề bài TLV

- Yêu cầu HS đọc đề bài TLV. - Đọc đề bài TLV.

- Yêu cầu HS phân tích đề bài. - HS phân tích đề bài.

+ Tả cho ai đọc? + Tả cho các bạn cùn

lớp.

+ Tả về hình dáng và + Tả về nội dung gì?

tính nết ngây thơ của

em ấy.

+ Tả trong hoàn cảnh nào? + Trong hoàn cảnh em

gái của em đang độ tuổi

tập đi, tập nói.

+ Tả với mục đích gì? + Giới thiệu với bạn bè

về hình dáng và tính

67

cách của em gái. Đồng

thời khuyên các bạn

phải biết thương yêu,

chăm sóc em gái của

mình hơn.

7 phút - HS tìm ý. B. Lập dàn ý

- HS lập dàn bài.

Mở bài

Giới thiệu người mà em sắp tả:

tên, tuổi, Quan hệ với em ra sao?

Thân bài

* Tả khái quát về hình dáng và những

đặc điểm nổi bật của em gái:

- Vóc dáng: cao, thấp, mập mạp

- Gương mặt, mái tóc, đôi mắt, lông

mày, sống mũi, đôi môi, hàm răng,

làn da, độ tuổi, …

Kết bài

Cảm nghĩ của em về em gái và đưa ra

lời khuyên cho các bạn để biết yêu

thương và chăm sóc em gái của mình

hơn.

- GV chỉnh sửa dàn ý của HS.

25 phút C. Viết bài TLV

- GV nhắc nhở HS trước khi viết bài. - HS nhận xét lẫn nhau.

- GV cho HS viết bài. - HS viết bài TLV.

68

Rút kinh nghiệm:

…………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………

69

Tiểu kết chương 3

Mục đích dạy học TLV là giúp HS rèn kỹ năng tạo lập ngôn bản và văn

bản trong quá trình lĩnh hội các kiến thức khoa học, góp phần dạy HS cách sử

dụng tiếng Việt hiệu quả trong đời sống sinh hoạt. Đề bài TLV có vai trò định

hướng, xác định tư tưởng bài văn. Vì vậy, đề bài TLV cần phải rõ ràng, ngôn

ngữ trong sáng, dễ hiểu, tạo cơ hội cho HS sử dụng kinh nghiệm, vốn sống. Đề

bài gần gũi với cuộc sống, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi HS.

Chương 3 là tổng quát hệ thống đề bài TLV lớp 4, lớp 5 theo quan điểm

giao tiếp. Hệ thống đề bài TLV bao gồm các đề bài được chia theo từng thể

loại của lớp 4, lớp 5 (viết thư, kể chuyện, tả cảnh, tả cây cối, tả đồ vật, tả con

vật, tả người). Trước khi thực hiện xây dựng đề bài, chúng tôi xây dựng

nguyên tắc xây dựng đề bài TLV lớp 4, lớp 5 theo quan điểm giao tiếp. Đặc

biệt chú ý đến nguyên tắc đảm bảo quan điểm giao tiếp trong dạy học Tiếng

Việt. Đề bài dạy học TLV theo quan điểm giao tiếp cần đảm bảo các nhân tố

giao tiếp: nhân vật giao tiếp, nội dung giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp, mục đích

giao tiếp.

70

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

TLV là một phân môn có vị trí đặc biệt trong chương trình TV ở tiểu

học. Nó nối tiếp một cách tự nhiên các bài học khác nhau của môn TV nhằm

giúp HS tạo ra một năng lực mới: năng lực sản sinh ngôn bản nói hoặc viết.

Đây là một phân môn mang tính chất thực hành tổng hợp và sáng tạo, mang

đậm dấu ấn cá nhân trong quá trình tạo lập ngôn bản.

Giao tiếp có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động dạy và học.Nó

giúp HS chiếm lĩnh tri thức và hình thành nhân cách. Giao tiếp ở HS tiểu học

trong dạy học TLV được hiểu là hoạt động tiếp xúc giữa HS với HS, giữa HS

với GV trong giờ học TLV nhằm bày tỏ tư tưởng, tình cảm, trao đổi ý kiến,

kiến thức, nhận xét về các hoạt động làm văn. Thông qua hoạt động giao tiếp

đó giúp HS hình thành và tạo lập được ngôn bản, văn bản.

Qua kết quả nghiên cứu, đa phần GV nhận thấy được đề bài TLV theo

quan điểm giao tiếp phải đảm bảo được 4 yếu tố của quan điểm giao tiếp:

nhân vật, nội dung, mục đích và hoàn cảnh giao tiếp. Nhưng trong việc ra đề

TLV cho HS cũng như trong việc luyện viết các bài TLV, dường như các

nhân tố giao tiếp đều không được GV chú ý.

Đề bài TLV có vai trò quan trọng trong việc dạy TLV. Đề bài giúp định

hướng, xác định ý tưởng cho quá trình tạo lập văn bản (ngôn bản). Đây là

khâu quan trọng, có ý nghĩa tiên quyết đối với việc tạo lập một văn bản.

Từ đó, tôi xin đưa một số kiến nghị như sau:

- Thêm vào SGK lớp 4, lớp 5 các đề bài TLV theo quan điểm giao tiếp.

Việc làm này nhằm mang lại cho HS sự hứng thú khi viết văn, phát triển năng

lực tạo lập văn bản và ngôn bản của các em.

- Hướng dẫn HS thực hiện cá thể hóa biến đổi đề bài chung thành đề bài

riêng từng em. Các em trả lời câu hỏi: bài văn viết ra nhằm mục đích gì? Cho

71

ai đọc? Trong hoàn cảnh nào? Tất cả các câu hỏi đó GV phải thường xuyên

nhắc nhở để các em lưu ý, quán triệt trong tất cả các giờ học TLV.

Tôi mong rằng trong thời gian tới sẽ có thêm nhiều nghiên cứu hơn nữa

về đền bài TLV theo quan điểm giao tiếp ở nước ta.

72

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2018), Chương trình dự thảo giáo dục phổ thông

môn Ngữ Văn.

Phan Phương Dung, & Đặng Kim Nga. (2009), Hoạt động giao tiếp với dạy

học tiếng việt ở tiểu học, Nxb Đại học Sư phạm.

Nguyễn Thị Bích Hạnh, & Trần Thị Thu Mai. (2007), Tâm lí học Tiểu học và

Tâm lí học Sư phạm Tiểu học, Nxb Hà Nội.

Lê Thị Bích Hồng. (2017), Dạy học Nghĩa của câu ở trung học phổ thông

theo tình huống giao tiếp, Giáo Dục, số 175 kì 2.

Vũ Thị Thanh Hương. (2006), Từ khái niệm năng lực giao tiếp đến vấn đề

dạy và học TV trong nhà trường phổ thông hiện nay, Tạp Chí Ngôn Ngữ,

số 4.

Trần Thị Hương (2014), Giáo trình Giáo dục học Phổ thông, Nxb Đại học Sư

phạm TP Hồ Chí Minh.

Nguyễn Thị Ly Kha (2009), Ngữ pháp văn bản và luyện tập làm văn, Nxb

Giáo dục.

Nguyễn Quang Ninh. (1999), Một số vấn đề dạy ngôn bản nói và viết ở tiểu

học theo hướng giao tiếp, Nxb Giáo dục.

Hoàng Thị Tuyết. (2013), Lí luận dạy học Tiếng Việt ở tiểu học, phần 1, Nxb

Thời Đại.

Lê Thị Bích Hồng. (2017). Dạy học Nghĩa của câu ở trung học phổ thông theo

tình huống giao tiếp. Giáo Dục, số 175 kì 2.

Nguyễn Minh Thuyết. (2006). Hỏi – đáp dạy học TV 4. Nxb Giáo dục.

Nguyễn Minh Thuyết. (2008). Tiếng Việt 5, tập 2. Nxb Giáo dục.

Nguyễn Minh Thuyết. (2014). Tiếng Việt 4, tập 2. Nxb Giáo dục.

Nguyễn Minh Thuyết. (2014). Tiếng Việt 5 Sách Giáo Viên, tập 1. Nxb Giáo

dục Việt Nam.

73

Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Kế Hào, & Phan Thị Hạnh Mai. (2007). Tâm lí

học. Nxb Giáo dục.

Nguyễn Trí. (2008). Dạy tập làm văn ở tiểu học. Nxb Giáo dục.

Nguyễn Trí. (2009). Một số vấn đề dạy học tiếng việt theo quan điểm giao

tiếp. Nxb Giáo Dục.

Nguyễn Trí, Lê A, & Lê Phương Nga. (2001). Phương pháp dạy học TV. Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

PL 1

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

HỆ THỐNG ĐỀ BÀI TLV LỚP 4, LỚP 5

THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP

Đề bài TLV lớp 4:

Viết thư

Đề 1: Tết năm nay, em không về quê thăm ông bà được. Nhân dịp năm

mới, em hãy viết thư cho ông bà em để thăm hỏi và chúc mừng năm mới ông

bà của em.

Đề 2: Nhân dịp đầu xuân, em hãy viết thư cho bạn em để kể về không khí

tết ở quê em và chúc tết bạn ấy.

Đề 3: Nhân dịp đầu xuân, em hãy viết thư cho cô giáo cũ để kể về không

khí tết ở quê em và chúc sức khỏe cô giáo cũ.

Đề 4: Trước đây cùng học chung lớp một nhưng do hoàn cảnh gia đình

nên bạn đã chuyển trường. Em hãy viết thư thăm bạn và kể cho bạn nghe về

tình hình học tập của lớp em cho bạn biết.

Kể chuyện

Đề 1: Em có người bạn thân lười học, ham chơi. Em hãy kể một câu

chuyện về người có nghị lực cho bạn của em nghe để bạn ấy có thể nhìn lại

bản thân và chăm chỉ học tập.

Đề 2: Em có một người bạn học cùng lớp bị béo phì, ăn uống không điều

độ và không rèn luyện thân thể. Em hãy kể một câu chuyện về tấm gương rèn

luyện thân thể cho người bạn của em nghe để bạn ấy nhìn lại bản thân và chăm

chỉ luyện tập thể dục.

Đề 3: Trên đường đi học về, gặp một phụ nữ bế con vừa mang nhiều đồ.

Em đã giúp cô ấy xách đồ đi một quãng đường. Em hãy kể lại câu chuyện đó

cho các bạn biết để các bạn biết yêu thương và giúp đỡ người gặp khó khăn.

PL 2

Tả đồ vật

Đề 1: Đầu năm học mới, em được mẹ mua tặng chiếc cặp rất đẹp. Em hãy

viết bài văn miêu tả chiếc cặp để khoe với ông về món quà ý nghĩa mà mẹ đã

mua tặng và hứa với ông sẽ cố gắng học tốt.

Đề 2: Cuối năm học lớp 2, bố em đã cho mời thợ đến tân trang lại cái bàn

của chị Hai cho em vì nó không phù hợp với lứa tuổi của chị nữa. Em hãy tả

cái bàn ấy đề các bạn cùng biết và khuyến khích các bạn giữ gìn bàn học ở lớp

cũng như ở nhà.

Tả cây cối

Đề 1: Ở vườn nhà em có chậu hoa hồng nở rất đẹp. Em chăm sóc cho hoa

mỗi ngày. Em hãy tả cây hoa hồng ấy để các bạn trong lớp cùng chiêm

ngưỡng.

Đề 2: Cây tre, một biểu tượng đẹp của làng quê Việt Nam, của sức sống

con người Việt Nam. Em hãy tả lại cây tre ở làng quê em cho các bạn ở vùng

thị thành cùng biết và thể hiện tình cảm của em đối với quê hương của mình.

Miêu tả con vật

Đề 1: Nhà em có con mèo bắt chuột rất giỏi. Em yêu thương và chăm sóc

nó rất cẩn thận. Em hãy tả con mèo đó để giới thiệu với các bạn để các bạn biết

yêu thương động vật.

Đề 2: Mẹ mới mua về một con cún con rất đẹp. Em hãy tả con cún con đó

để khoe với ông bà.

Đề 3: Đã lâu em mới được bố mẹ cho về quê chơi. Qua khỏi cổng làng,

em thấy một bầy vịt đang lặn hụp kiếm mồi dưới ao. Em hãy tả lại con vịt ấy

để cho các bạn trong lớp cùng.

Đề bài TLV lớp 5:

Tả cảnh

Đề 1: Ngôi nhà của em vừa mới xây mới lại. Do ông bà em ở xa nên vẫn

chưa đến thăm nhà mới được. Em hãy viết một bài văn tả ngôi nhà của em để

PL 3

ông bà hình dung được về ngôi nhà mới này.

Đề 2: Năm nay là năm đầu tiên em học ngôi trường mới với nhiều bạn bè

mới. Em rất nhớ ngôi trường thân yêu đã gắn bó với em trong nhiều năm qua.

Em hãy viết bài văn miêu tả ngôi trường ấy để kể cho các bạn cùng biết và thể

hiện tình cảm của em với ngôi trường cũ đó.

Đề 3: Em có một người bạn quen qua thư, bạn là người Việt Nam ở nước

ngoài và rất thích phong cảnh Việt Nam nhưng chưa có cơ hội về nước tham

quan. Em hãy tả một cảnh đẹp của quê hương em để chia sẻ cùng bạn.

Đề 4: Em có một người bạn ở xa chưa một lần nào được biết khung cảnh

trường em như thế nào cả. Em hãy viết viết một một bài văn tả quang cảnh

trường em trước buổi học cho bạn ấy cùng biết và thể hiện tình cảm của mình

với ngôi trường ấy.

Tả người (ngoại hình)

Đề 1: Mẹ là hình ảnh đẹp nhất. Bằng tình yêu và lòng kính trọng của

mình, em hãy viết một bài văn tả về mẹ của mình cho các bạn trong lớp cùng

biết và khuyên các bạn phải biết yêu thương và vâng lời mẹ.

Tả người (hoạt động)

Đề 1: Vào giờ ra chơi, em tình cờ nghe thấy một số bạn trong lớp đang

bàn tán và chế giễu các cô/ chú lao công đang làm việc. Em hãy tả lại cô/ chú

lao công đang làm việc vất vả mà em được chứng kiến và chia sẻ cảm xúc của

mình để các bạn trong lớp hiểu rằng nghề nghiệp nào cũng rất cao quý và đáng

trân trọng.

Đề 2: Trong giờ ra chơi, một số bạn trong lớp bàn tán và chế giễu cô công

nhân vệ sinh đường phố đang dọn rác trước cổng trường. Em hãy tả lại hình

dáng và công việc của cô công nhân ấy cho các bạn trong lớp cùng biết. Để các

bạn hiểu được nghề nào cũng đáng quý và cảm nghĩ của em về nghề vệ sinh

đường phố.

PL 4

Đề 3: Em gái của em đang độ tuổi tập đi, tập nói. Em hãy tả lại hình dáng

và tính nết ngây thơ của em ấy cho các bạn cùng lớp đều biết và thể hiện tình

cảm của mình với em.

PL 5

PHỤ LỤC 2

PHIẾU KHẢO SÁT LẤY Ý KIẾN GIÁO VIÊN

Kính thưa Quý Thầy/Cô.

Chúng tôi đang thực hiện một khảo sát về “Thực trạng dạy học tập làm

văn lớp 4, lớp 5 theo quan điểm giao tiếp”. Để có cơ sở xây dựng hệ thống đề

bài Tập làm văn lớp 4, lớp 5 theo quan điểm giao tiếp, kính mời Quý Thầy/Cô

dành ít thời gian điền giúp vào phiếu sau.

Những thông tin Quý Thầy/Cô cung cấp chỉ dùng cho việc nghiên cứu,

không được tiết lộ để gây bất cứ ảnh hưởng nào đến cá nhân và cơ quan Quý

Thầy/Cô đang công tác.

- Khối lớp thầy/cô đang trực tiếp giảng dạy:

Khối 4 Khối 5

- Vai trò của quý thầy/cô là:

Giáo viên chủ nhiệm Giáo viên bộ môn

1/ Theo Thầy/Cô, một đề bài TLV tốt là:

a) Kích thích hứng thú viết văn của HS (quen thuộc).

b) Tạo điều kiện để HS suy nghĩ, cảm xúc, diễn đạt.

c) Chú ý các nhân tố giao tiếp (kể/tả cho ai; kể/tả trong hoàn cảnh nào; kể/tả để

làm gì; kể/tả gì).

d) Diễn đạt trong sáng.

e) Tất cả các ý kiến trên.

f) Ý kiến khác ……………………………………………………………

2/ Theo Thầy /Cô, đề bài TLV theo quan điểm giao tiếp cần đảm bảo:

a) Kể/tả cho ai?

b) Kể/tả cái gì, điều gì?

c) Kể/tả trong hoàn cảnh nào?

d) Kể/tả để làm gì?

e) Tất cả các ý kiến trên.

PL 6

f) Ý kiến khác: ..………………………………………………………………

3/ Kết quả bài văn của HS theo các đề bài hiện nay:

a) Đều dùng từ em để xưng hô

b) Các bài tương đối giống nhau khi tả/kể về một đối tượng

c) Các bài tương đối giống nhau về bố cục

d) Câu văn chưa mạch lạc, còn viết dưới dạng liệt kê

e) Tất cả các ý kiến trên.

f) Ý kiến khác: ………………………………………………………………

4/ Theo Thầy/Cô, những khó khăn chủ yếu của đề bài TLV hiện nay là:

a) Đề bài còn mang tính khuôn mẫu.

b) Đề bài chưa kích thích được năng lực thích nói, thích viết của HS.

c) Đề bài chưa thể hiện rõ được các yếu tố của quan điểm giao tiếp.

d) Tất cả các ý kiến trên.

e) Ý kiến khác: ……………………………………………………………

5/ Theo Thầy/Cô, những khó khăn chủ yếu trong việc dạy TLV hiện nay là:

a) Thời lượng dành cho phân môn TLV còn quá ít.

b) HS chưa nắm vững các thao tác, kĩ năng viết văn

c) HS còn thụ động, khả năng tự làm việc và phối hợp hoạt động còn hạn chế.

d) HS còn hạn chế về vốn từ.

e) Tất cả các ý kiến trên.

f) Ý kiến khác: ………………………………………………………………

6/ Theo thầy/cô khi viết văn kể chuyện, HS thường gặp khó khăn:

a) HS kể lại được câu chuyện nhờ vào học thuộc lòng câu chuyện

b) HS kể lại cốt truyện một cách khô khan

c) Bài văn của HS chưa có sự lập luận chặt chẽ

d) Chưa thể hiện được ngoại hình, tính cách, hành động, suy nghĩ của nhân vật

e) Tất cả các ý kiến trên

f) Ý kiến khác: ……………………………………………………………

PL 7

7/ Theo thầy/cô khi viết văn miêu tả, HS thường gặp khó khăn:

a) Chưa từng gặp đối tượng miêu tả

b) Chưa có được kĩ năng quan sát thực tế

c) Quan sát hời hợt thiếu định hướng, thiếu tinh tế

d) Khả năng liên tưởng của HS còn hạn chế

e) Tất cả các ý kiến trên

f) Ý kiến khác: ……………………………………………………………

8/ Trong giờ Tập làm văn hiện nay, Thầy/ Cô nhận thấy thái độ học tập

của HS như thế nào?

a) Rất hứng thú, tích cực

b) Bình thường, không mấy hào hứng

c) Uể oải, ít hoạt động

d) Thụ động, không hợp tác

e) Ý kiến khác: ………………………………………………………

9/ Trong việc luyện viết tập làm văn cho HS, Thầy/Cô chú ý đến:

a) Lỗi chính tả, ngữ pháp

b) Lỗi diễn đạt ý

c) Xác định đúng thể loại (chỉ tả là tả, chỉ kể là kể)

d) Xác định các nhân tố giao tiếp

e) Tất cả các ý trên

f) Ý kiến khác: ……………………………………………………………

10/ Theo thầy/cô, khó khăn của GV khi dạy tiết tìm hiểu đề là:

a) HS chưa xác định đúng thể loại TLV

b) HS chưa xác định được đối tượng sẽ tả/kể

c) HS chưa lập được dàn ý của đề bài TLV

d) HS chưa xác định được nội dung sẽ tả/kể

e) Tất cả các ý kiến trên

f) Ý kiến khác: ………………………………………………………………

PL 8

PHỤ LỤC 3

GIÁO ÁN

Đề bài: Nhân dịp năm học mới, em được ba mẹ tặng cho một chiếc xe

đạp. Em rất vui và muốn viết thư để khoe cho ông em ở quê về chiếc xe đạp

mới này.

I. Mục tiêu

- Có kỹ năng phân tích đề bài, tìm ý và lập dàn bài văn tả đồ vật.

- Có kỹ năng nhận diện đặc điểm loại văn miêu tả.

- HS có kĩ năng diễn đạt văn bản.

- Có kỹ năng viết bài TLV.

- Viết bài văn đúng yêu cầu của đề bài, có đầy đủ ba phần của bài văn

miêu tả (mở bài, thân bài, kết bài), diễn đạt thành câu, lời văn tự nhiên, chân

thực.

- Kĩ năng tự kiểm tra, sửa chữa văn bản.

II. Đồ dùng dạy học

- Tranh ảnh minh họa.

- Vở tập làm văn, bút.

- Bảng phụ viết dàn ý của bài văn.

III. Hoạt động dạy – học

Thời gian Hoạt động của GV Hoạt động của HS

3 phút A. Phân tích đề bài TLV

- Yêu cầu HS đọc đề bài TLV. - Đọc đề bài TLV.

- Yêu cầu HS phân tích đề bài. - HS phân tích đề bài.

+ Viết cho ai đọc? + Viết cho ông

+ Tả về nội dung gì? + Tả chiếc xe đạp em

được bố mẹ tặng

+ Tả trong hoàn cảnh nào? + Trong hoàn cảnh ông

PL 9

em ở quê không có dịp

tận mắt nhìn thấy chiếc

xe đạp.

+ Tả với mục đích gì? + Muốn chia sẻ niềm

vui với ông khi em có

chiếc xe đạp mới.

7 phút B. Lập dàn ý

- HS tìm ý. Mở bài

- Em được ba mẹ tặng xe đạp vào dịp - HS lập dàn bài.

nào?

Thân bài

* Tả bao quát:

- Chiếc xe đạp loại gì? Kiểu gì? Được

làm bằng vật liệu gì? Hình dáng, kích

thước, đặc điểm chiếc xe đạp như thế

nào?

* Tả từng bộ phận:

- Khung xe được sơn màu gì?

- Đầu xe như thế nào?

- Tay cầm xe ra sao?

- Yên xe màu gì?

- Xe có mấy bánh? Hình dáng bánh

xe?

- Bàn đạp xe như thế nào?

- Em sẽ sử dụng chiếc xe đạp ấy vào

những hoạt động nào?

Kết bài

PL 10

- Niềm vui của em khi nhận được

chiếc xe đạp.

- Em sẽ làm như thế nào để giữ gìn

chiếc xe đạp ấy.

- HS nhận xét lẫn nhau.

- GV chỉnh sửa dàn ý của HS.

25 phút C. Viết bài TLV

- GV nhắc nhở HS trước khi viết bài.

- GV cho HS viết bài. - HS viết bài TLV.

Rút kinh nghiệm: ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………

PL 11

PHỤ LỤC 4

NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH TLV Ở TIỂU HỌC

TUẦN LỚP 2 LỚP 3 LỚP 4 LỚP 5

1 Nói về Đội TNTP

Tự giới thiệu. Câu và bài.

Điền vào giấy tờ in sẵn. Tiết 1: Thế nào là kể chuyện? Tiết 2: Nhân vật trong truyện.

Tiết 1: Cấu tạo của bài văn tả cảnh. Tiết 2: Luyện tập tả cảnh.

Viết đơn.

Chào hỏi. Tự giới thiệu.

Tiết 1: Luyện tâp tả cảnh. Tiết 2: Luyện tập làm báo cáo thống kê.

Tiết 1: Kể lại hành động của nhân vật Tiết 2: Tả ngoại hình của nhân vật trong bài văn kể chuyện.

3 Kể về gia đình.

Tiết 1: Kể lại lời nói, ý nghĩ của nhân vật. Tiết 2: Viết thư Điền vào giấy tờ in sẵn Tiết 1: Luyện tập tả cảnh. Tiết 2: Luyện tập tả cảnh.

Sắp xếp câu trong bài. Lập danh sách học sinh

4

Cảm ơn, xin lỗi

Nghe kể: Dại gì mà đổi. Điền vào giấy tờ in sẵn. Tiết 1: Kể lại lời nói, ý nghĩ của nhân vật. Tiết 2: Viết thư

Tiết 1: Luyện tập tả cảnh. Tiết 2: Tả cảnh (kiểm tra viết).

5

Tập tổ chức cuộc họp.

Trả lời câu hỏi. Đặt tên cho bài. Luyện tập về mục lục Tiết 1: Viết thư (kiểm tra viết). Tiết 2: Đoạn văn trong bài văn kể chuyện. Tiết 1: Luyện tập làm báo cáo thống kê. Tiết 2: Trả bài văn tả cảnh.

PL 12

TUẦN LỚP 2 LỚP 3 LỚP 4 LỚP 5

sách.

6

Kể lại buổi đầu em đi học.

Tiết 1: Luyện tập làm đơn. Tiết 2: Luyện tập tả cảnh.

Khẳng định, phủ định. Luyện tập về thời khóa biểu

Tiết 1: Trả bài văn viết thư. Tiết 2: Luyện tập xây dựng đoạn văn trong bài văn kể chuyện.

7

Nghe kể: Không nỡ nhìn. Tập tổ chức cuộc họp. Tiết 1: Luyện tập tả cảnh. Tiết 2: Luyện tập tả cảnh.

Kể ngắn theo tranh. Luyện tập về thời khóa biểu.

Tiết 1: Luyện tập xây dựng đoạn văn kể chuyện. Tiết 2: Luyện tập phát triển câu chuyện.

8 Mời, nhờ,

Kể về người hàng xóm.

yêu cầu, đề nghị. Kể ngắn theo câu hỏi.

Tiết 1: Luyện tập phát triển câu chuyện. Tiết 2: Luyện tập phát triển câu chuyện.

Tiết 1: Luyện tập tả cảnh. Tiết 2: Luyên tập tả cảnh. (Dựng đoạn mở bài, kế bài)

9

Ôn tập giữa học kì I Ôn tập giữa học kì I

Tiết 1: Luyện tập phát triển câu chuyện. Tiết 2: Luyện tập trao đổi ý kiến với người thân.

Tiết 1: Luyện tập thuyết trình, tranh luận. Tiết 2: Luyện tập thuyết trình, tranh luận.

PL 13

TUẦN LỚP 2 LỚP 3 LỚP 4 LỚP 5

10 Kể về người thân Tập viết thư và phong bì thư. Ôn tập giữa học kì I Ôn tập giữa học kì I

11 Chia buồn, an ủi.

Nghe kể: Tôi có đọc đâu! Nói về quê hương

Tiết 1: Trả bài văn tả cảnh. Tiết 2: Luyện tập làm đơn.

Tiết 1: Luyện tập trao đổi ý kiến với người thân. Tiết 2: Mở bài trong bài văn kể chuyện.

12 Gọi điện.

Nói về cảnh đẹp đất nước.

Tiết 1: Cấu tạo của bài văn tả người. Tiết 2: Luyện tập tả người.

Tiết 1: Kết bài trong bài văn kể chuyện. Tiết 2: Kể Chuyện (Kiểm tra viết)

Viết thư

13 Kể vê gia đình

Tiết 1: Trả bài văn kể chuyện Tiết 2: Ôn

tập văn kể chuyện

Tiết 1: Luyện tập tả người (Tả ngoại hình). Tiết 2: Luyện tập làm biên bản cuộc họp.

15 Chia vui. Kể

về anh chị em.

Nghe kể: Giấu cày. Giới thiệu về tổ em

Tiết 1: Quan sát đồ vật. Tiết 2: Luyện tập miêu tả đồ vật

Tiết 1: Luyện tập tả người (Tả hoạt động) Tiết 2: Luyện tập tả người (Tả hoạt động)

16 Khen ngợi. Kể ngắn về Nghe kể: kéo cây lúa lên. Tiết 1: Luyện tập giới thiệu Tiết 1: Tả người (Kiểm

PL 14

TUẦN LỚP 2 LỚP 3 LỚP 4 LỚP 5

Nói về thành thị, nông thôn.

con vật. Lập thời gian biểu.

tra viết) Tiết 2: Làm biên bản một vụ việc. địa phương. Tiết 2: Luyện tập miêu tả đồ vật.

17 Ngạc nhiên,

Viết về thành thị, nông thôn.

thích thú. Lập thời gian biểu. Tiết 1: Ôn tập về viết đơn Tiết 2: Trả bài văn tả người. Tiết 1: Đoạn văn trong bài văn miêu tả đồ vật.

Tiết 2: Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả đồ vật

18 Ôn tập cuối học kì I Ôn tập cuối học kì I Ôn tập cuối học kì I Ôn tập cuối học kì I

19 Đáp lời chào

Nghe kể: Chàng trai làng Phù Ủng

, lời tự giới thiệu.

Tiết 1: Luyện tập tả người (Dựng đoạn mở bài). Tiết 2: Luyện tập tả người (Dựng đoạn kết bài).

Tiết 1: Luyện tập xây dựng đoạn mở bài trong bài văn miêu tả đồ vật. Tiết 2: Luyện tập xây dựng kết bài trong bài văn miêu tả đồ vật.

20

Tả ngắn về bốn mùa. Báo cáo hoạt động

Tiết 1: Miêu tả đồ vật (Kiểm tra viết). Tiết 2: Luyện tập giới thiệu địa phương. Tiết 1: Tả người (Kiểm tra viết). Tiết 2: Lập chương trình hoạt động.

PL 15

TUẦN LỚP 2 LỚP 3 LỚP 4 LỚP 5

21 Đáp lời cảm ơn. Tả ngắn về loài chim.

Nói /về tri thức. Nghe kể: Nâng niu từng hạt giống.

Tiết 1: Lập chương trình hoạt động Tiết 2: Trả bài văn tả người.

Tiết 1: Trả bài văn miêu tả đồ vật Tiết 2: Cấu tạo bài văn miêu tả cây cối.

22 Đáp lời xin lỗi. Tả ngắn về loài chim. Kể lại một buổi biểu diễn nghệ thuật.

Tiết 1: Ôn tập văn kể chuyện. Tiết 2: Kể chuyện (Kiểm tra viết).

Tiết 1: Luyện tập miêu tả các bộ phận của cây cối. Tiết 2: Đoạn văn trong bài văn miêu tả cây cối.

23 Đáp lời

Kể lại một buổi biểu diễn nghệ thuật.

khẳng định. Viết nội quy.

Tiết 1: Lập chương trình hoạt động. Tiết 2: Trả bài văn kể chuyện.

Tiết 1: Luyện tập miêu tả các bộ phận của cây cối. Tiết 2: Đoạn văn trong bài văn miêu tả cây cối.

Nghe kể: Người bán quạt may mắn.

24 Đáp lời phủ định. Nghe – trả lời câu hỏi. Tiết 1: Ôn tập về tả đồ vật. Tiết 2: Ôn tập về tả đồ vật.

Tiết 1: Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả cây cối. Tiết 2: Tóm tắt tin tức.

Kể về lễ hội.

25 Đáp lời đồng ý. Tiết 1: Luyện tập tóm tắt tin Tiết 1: Tả đồ vật (Kiểm tra

PL 16

TUẦN LỚP 2 LỚP 3 LỚP 4 LỚP 5

Quan sát tranh, trả lời câu hỏi.

viết) Tiết 2: Tập viết đoạn đối thoại

tức Tiết 2: Luyện tập xây dựng mở bài trong bài văn miêu tả cây cối.

26 Đáp lời

Kể về một ngày hội.

đồng ý. Tả ngắn về biển.

Tiết 1: Tập viết đoạn đối thoại Tiết 2: Trả bài văn tả đồ vật.

Tiết 1: Luyện tập xây dựng kết bài trong bài văn miêu tả cây cối Tiết 2: Luyện tập miêu tả cây cối.

27 Ôn tập giữa

học kì II Ôn tập giữa học kì II

Tiết 1: Ôn tập về tả cây cối. Tiết 2: Tả cây cối (Kiểm tra viết)

Tiết 1: Miêu tả cây cối (Kiểm tra viết) Tiết 2: Trả bài văn miêu tả cây cối.

Ôn tập giữa kì II Ôn tập giữa kì II

28 Đáp lời chia vui. Tả ngắn về cây cối.

Kể lại một trận thi đấu thể thao. Viết lại một tin thể thao trên báo, đài.

Viết về một trận thi đấu thể thao.

29 Đáp lời chia vui. Nghe – trả lời câu hỏi.

Tiết 1: Luyện tập tóm tắt tin tức. Tiết 2: Cấu tạo bài văn miêu tả Tiết 1: Tập viết đoạn đối thoại. Tiết 2: Trả bài văn tả cây cối.

PL 17

TUẦN LỚP 2 LỚP 3 LỚP 4 LỚP 5

con vật

30 Nghe – trả Viết thư

mời câu hỏi

Tiết 1: Ôn tập về tả con vật. Tiết 2: Tả con vật (Kiểm tra viết) Tiết 1: Luyện tập quan sát con vật Tiết 2: Điền vào giấy tờ in sẵn

Thảo luận về bảo vệ môi trường.

31 Đáp lời khen ngợi. Tả ngắn về Bác Hồ Tiết 1: Ôn tập về tả cảnh. Tiết 2: Ôn tập về tả cảnh

Tiết 1: Luyện tập miêu tả các bộ phận của con vật Tiết 2: Luyên tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật.

32 Đáp lời từ

Nói, viết về bảo vệ môi trường.

chối. Đọc sổ liên lạc

Tiết 1: Trả bài văn tả con vật. Tiết 2: Tả cảnh (Kiểm tra viết)

Tiết 1: Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật. Tiết 2: Luyện tập xây dựng mở bài, kết bài trong bài văn miêu tả con vật.

Ghi chép sổ tay.

33 Đáp lời an ủi. Kể chuyện được chứng kiến (viết) Tiết 1: Miêu tả con vật (kiểm tra viết) Tiết 2: Điền vào giấy tờ in sẵn Tiết 1: Ôn tập về tả người. Tiết 2: Tả người (Kiểm tra viết).

34 Kể ngắn về người thân Nghe kể: Vươn tới các vì sao. Tiết 1: Trả bài văn miêu tả con Tiết 1: Trả bài văn tả cảnh.

PL 18

TUẦN LỚP 2 LỚP 3 LỚP 4 LỚP 5

(nói, viết) Ghi chép sổ tay.

Tiết 2: Trả bài văn tả người.

vật. Tiết 2: Điền vào giấy tờ in sẵn

35 Ôn tập cuối

học kì II Ôn tập cuối học kì II Ôn tập cuối học kì II Ôn tập cuối học kì II