BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH __________________________________ ----------------------- NGUYỄN ĐỨC THIỆN NGUYỄN ĐỨC THIỆN
XÂY DỰNG MÔ HÌNH TRUNG TÂM XÂY DỰNG MÔ HÌNH TRUNG TÂM HỌC TẬP HỌC TẬP CỘNG ĐỒNG Ở HUYỆN TÂN CỘNG ĐỒNG Ở HUYỆN TÂN THÀNH, TỈNH BÀ THÀNH, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU RỊA-VŨNG TÀU
Chuyên ngành Mã số
: QUẢN LÝ GIÁO DỤC : 60 14 05
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS : LÊ XUÂN HỒNG
Thaønh phoá Hoà Chí Minh - 2008
Thaønh phoá Hoà Chí Minh - 2008
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến :
- Thầy, Cô trong khoa Tâm lý Giáo dục trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
- Cán bộ, nhân viên Phòng Khoa học Công nghệ- Sau đại học trường Đại học Sư phạm thành
phố Hồ Chí Minh.
- Quý Thầy, Cô đã giảng dạy, tư vấn và cung cấp cho tôi nhiều ý tưởng nghiên cứu và kiến
thức quý báu trong thời gian tôi học tập tại trường. Đặc bịệt là Tiến sĩ Lê Xuân Hồng, người Cô
đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ, động viên tôi hoàn thành luận văn này.
Qua đây tôi cũng xin chân thành cảm ơn:
- Lãnh đạo Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu và các cán bộ quản lý các phòng
chức năng thuộc Sở.
- Lãnh đạo UBND và các phòng chức năng huyện Tân Thành.
- Lãnh đạo UBND và các ban, ngành đoàn thể , tổ chức xã hội thị trấn Phú Mỹ.
- Ban Chủ nhiệm các TTVH-HTCĐ xã Hắc Dịch, Phước Hoà, Mỹ Xuân và đặc biệt là Ban Chủ
nhiệm TTVH-HTCĐ thị trấn Phú Mỹ.
- Gia đình thân yêu và các đồng nghiệp của tôi đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên
cứu đề tài.
Bằng hết sự nỗ lực của mình để hoàn thành đề tài đã chọn, nhưng tôi chắc chắn luận văn
cũng không tránh khỏi những thiếu sót cần bổ sung. Hằng kính mong được tiếp nhận sự góp ý
xây dựng chí tình của quý Thầy, Cô, quý bậc đàn anh đi trước và quý đồng nghiệp hầu giúp tôi
bổ sung thêm kiến thức bổ ích và sâu sắc hơn nữa về đề tài này.
Bà Rịa- Vũng Tàu, tháng 08 năm 2008
Nguyễn Đức Thiện
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục nước ta trong những thập niên qua đã đạt được một số thành tựu nhất định nhờ
sự chỉ đạo, quan tâm và đầu tư của Đảng và Chính phủ. Tính chất và nguyên lý giáo dục đã
được Luật Giáo dục 1998 và 2005 nêu rõ ở Chương I, Điều 3 “Nền giáo dục Việt Nam là nền
giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại lấy chủ nghĩa Mac-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng” “Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo
nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực
tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”.[32.tr 18]. Tuy
nhiên nền giáo dục vốn được xem là phúc lợi xã hội với cơ chế quản lý tập trung, kế hoạch hóa
trước đây đã trở nên lạc hậu và kém hiệu quả. Vấn đề ngân sách trở nên quá tải đối với Nhà
nước, không thể đáp ứng đủ nhu cầu phát triển giáo dục nước nhà. Hơn thế nữa, cơ chế quan
liêu bao cấp cũng không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội trong thời kỳ đổi
mới. Trong bối cảnh đó, chủ trương xã hội hóa giáo dục của Đảng và Nhà nước càng trở nên
đúng đắn và hợp lý hơn bao giờ hết. Xã hội hóa giáo dục (XHHGD) là một giải pháp thích hợp
với thời kỳ phát triển kinh tế thị trường - thời kỳ mà đất nước ta đang nỗ lực đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. XHHGD phù hợp với xu thế học tập thường xuyên, cập
nhật và suốt đời đang phát triển và thịnh hành trên thế giới. Điều 12 Luật Giáo dục 2005 nêu “
Phát triển giáo dục, xây dựng xã hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân. Nhà
nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục; thực hiện đa dạng hóa các loại
hình trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá
nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục.”[32,tr.22]. Một trong những phương thức
XHHGD có hiệu quả chính là mô hình Trung tâm học tập cộng đồng (TTHTCĐ) phường, xã.
TTHTCĐ có thể đáp ứng các cơ hội học tập, sinh hoạt tinh thần cho tất cả mọi người trong
cộng đồng; thu hút mọi cá nhân, mọi tổ chức tham gia vào hoạt động văn hóa, giáo dục nhằm
thỏa mãn những nhu cầu thay đổi trong đời sống cộng đồng, góp phần đưa cộng đồng trở nên
chủ động, tự lực trong giáo dục, trở thành một xã hội học tập (XHHT), góp phần thực hiện chủ
trương chiến lược “cả nước trở thành một xã hội học tập” của Đảng và Chính phủ. Những văn
bản về xã hội hóa và xây dựng XHHT gần đây đã khẳng định chủ trương nhất quán của Đảng
và Nhà nước về đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động giáo dục và chiến lược xây dựng xã hội học
tập giai đoạn 2005-2010.
Tháng 10/1999 , UNESCO đã chính thức đặt văn phòng đại diện tại Hà Nội và kể từ đó
văn phòng UNESCO Hà Nội đã hỗ trợ phát triển giáo dục nói chung và TTHTCĐ nói riêng.
Mô hình TTHTCĐ đã hình thành và phát triển từ năm 1999 đến nay và cũng đã có nhiều địa
phương tiêu biểu trong phong trào xây dựng và phát triển TTHTCĐ. Số lượng các TTHTCĐ
trên toàn quốc đã tăng nhanh từ 15 vào năm 1999 đến hơn 5000 vào năm 2006 và dự kiến 7500
đến tháng 08 năm 2008. Những địa phương đi đầu trong quá trình xây dựng và phát triển mạnh
mạng lưới TTHTCĐ là tỉnh Thái Bình, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Kon Tum,… với nhiều phương
thức hoạt động khá hiệu qủa. Tuy vậy ở nhiều tỉnh thành, hoạt động của TTHTCĐ còn mang
tính hình thức. Mô hình TTHTCĐ còn khá mới mẻ và chưa được sự quan tâm đúng mức của
lãnh đạo các cấp chính quyền, các cơ quan, ban ngành , các cấp quản lý giáo dục. Thực tế, chưa
có một công trình nghiên cứu cấp nhà nước hoàn chỉnh nào để làm cơ sở lý luận khoa học cho
hoạt động của TTHTCĐ. Nhìn từ góc độ quản lý vĩ mô, Nhà nước cũng chưa hề có sự đánh
giá, tổng kết kinh nghiệm những hoạt động giáo dục cộng đồng mà nhiều địa phương trên cả
nước đã thực hiện từ nhiều năm qua để làm cơ sở thực tiễn cho việc tiến hành xây dựng và phát
triển TTHTCĐ rộng khắp ở các tỉnh, thành trên toàn quốc.
Huyện Tân Thành thuộc tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu được thành lập từ năm 1994 trên cơ sở
tách từ huyện Châu Thành cũ. Thời điểm đó, kinh tế địa phương chủ yếu là nông nghiệp, văn
hóa, giáo dục chưa phát triển chỉ dừng lại ở mức độ học chữ chứ chưa chú trọng học nghề vì
người dân có quan điểm làm ruộng, rẫy chỉ cần có sức chứ không cần trí. Từ năm 1995, khi
Chính phủ có những dự án xây dựng các khu công nghiệp và các cụm cảng ở địa phương thì cơ
cấu kinh tế cũng thay đổi và biến động mạnh mẽ. Nhu cầu về nguồn nhân lực có trình độ và tay
nghề trở nên bức bách cả trong lĩnh vực nông nghiệp lẫn công nghiệp. Mãi đến lúc này nhận
thưc về học tập và giáo dục, đào tạo nói chung mới được đánh thức trong nhân dân.
Sau mười năm phát triển, mạng lưới trường lớp ở huyện được xây dựng đều khắp kể cả ở các
xã vùng sâu. Công tác xóa mù chữ được thực hiện rất thành công. Tuy nhiên hệ thống giáo dục
chủ yếu là hệ thống chính quy bao gồm các trường phổ thông công lập từ bậc tiểu học đến
trung học phổ thông. Trung tâm Giáo dục thường xuyên của huyện hầu như chỉ để đảm nhận
công tác xóa mù chữ, hỗ trợ phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở và tổ chức các lớp bổ
túc văn hóa dành cho các đối tượng tại chức cần bổ túc bằng tốt nghiệp trung học cơ sở hoặc
trung học phổ thông. Các TTHTCĐ chỉ mới được xây dựng ở một số nơi và giao cho cán bộ
văn hóa xã quản lý, phụ trách. Nhìn chung các TTHTCĐ này mới có hình thức chứ chưa có nội
dung, chương trình hoạt động nên chưa đáp ứng được nhu cầu học tập, cập nhật kiến thức của
nhân dân địa phương. Nhận thức của nhân dân, thậm chí của một bộ phận cán bộ lãnh đạo về
xã hội học tập còn rất hạn chế, hầu như chỉ khoán trắng cho các trường phổ thông và Trung tâm
Giáo dục thường xuyên (TTGDTX). Trong khi đó nhu cầu học tập , nhu cầu được đào tạo và
tìm việc làm của nhân dân ở từng địa bàn cơ sở là rất lớn và rất đa dạng. Thực tế đó đòi hỏi các
cấp chính quyền địa phương cần quan tâm đến thực hiện các chủ trương nhằm đẩy mạnh xã hội
hóa giáo dục, xây dựng một XHHT ở huyện nhà. Một trong những giải pháp hữu hiệu để xây
dựng XHHT theo kinh nghiệm của một số địa phương là mô hình TTHTCĐ ở xã, phường, thị
trấn và thậm chí ở thôn ấp. Đây chính là vấn đề bức bách đặt ra cho các nhà lãnh đạo, quản lý
các cấp chính quyền, các cơ quan giáo dục địa phương và cũng chính là đề tài mà người viết
quan tâm nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng xây dựng XHHT bằng mô hình TTVH-HTCĐ xã, thị trấn ở huyện
Tân Thành .
- Đề xuất một số giải pháp xây dựng và phát triển TTVH-HTCĐ ở địa phương, góp phần
xây dựng XHHT ở huyện Tân Thành trong thời gian tới.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Tìm hiểu , phân tích , đánh giá thực trạng hoạt động của các TTVH-HTCĐ các xã và
thị trấn ở huyện Tân Thành trong thời gian 2005 đến nay.
- Nghiên cứu, đánh giá hiệu quả một số hoạt động của TTVH-HTCĐ gắn liền với cuộc
sống cộng đồng ở các xã, thị trấn thuộc huyện Tân Thành .
- Nghiên cứu thử nghiệm hiệu quả của hoạt động TTVH-HTCĐ ở một xã- thị trấn ( thị
trấn Phú Mỹ)
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng và giải pháp xây dựng mô hình TTVH-HTCĐ ở huyện Tân Thành , tỉnh Bà
Rịa Vũng Tàu.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Thực trạng XHHGD và xây dựng XHHT bằng mô hình TTVH-HTCĐ ở tỉnh Bà Rịa-
Vũng Tàu và huyện Tân Thành.
5 . Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu, hệ thống hóa cơ sở lý luận về mô hình TTHTCĐ làm định hướng cho
việc nghiên cứu đề tài.
5.2. Phân tích thực trạng các TTVH-HTCĐ xã, thị trấn ở huyện Tân Thành
5.3. Đề xuất một số giải pháp xây dựng và phát triển mô hình TTVH-HTCĐ góp phần
xây dựng XHHT ở huyện Tân Thành .
6 . Giả thuyết khoa học của đề tài
Việc các cấp chính quyền địa phương quan tâm, thực hiện tốt một số giải pháp phù hợp
với thực tiễn mà đề tài nghiên cứu, đề xuất sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động TTVH-HTCĐ ở
huyện Tân Thành phát triển có chiều sâu, hiệu quả và thu hút người học hơn .
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận :
- Phân tích , tổng hợp tài liệu .
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn :
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu .
- Phương pháp phỏng vấn .
- Phương pháp chuyên gia .
- Xử lý thông tin.
- Phương pháp thực nghiệm
8. Cấu trúc của luận văn
Luận vn gồm 3 phần : Mở ðầu - Nội dung - Kết luận và kiến nghị
Mở ðầu : Một số vấn ðề chung
Nội dung : Nội dung chính của luận văn gồm 3 chương :
- Chương 1: Cơ sở lý luận về mô hình hoạt động của TTVH-HTCĐ.
- Chương 2: Thực trạng hoạt động TTVH-HTCĐ trên địa bàn huyện Tân Thành và thị
trấn Phú Mỹ.
- Chương 3: Kết quả thử nghiệm ở TTVH-HTCĐ thị trấn Phú Mỹ và một số giải pháp
tăng cường công tác quản lý và tổ chức hoạt động TTVH-HTCĐ xã .
Kết luận và kiến nghị
Danh mục tài liệu tham khảo.
Phụ lục
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử nghiên cứu đề tài
- XHHGD nói chung và giáo dục cộng đồng nói riêng đã được tiến hành một cách hiệu
quả và tiến đến xây dựng một nền giáo dục tiên tiến ở nhiều quốc gia ở Châu Á như Malaixia,
Thai lan, Indonexia, Myanma,…. Với sự hỗ trợ của tổ chức UNESCO họ rất chú trọng xây
dựng một xã hội học tập bằng mô hình TTHTCĐ xã, phường.
- Ở Việt nam, chủ trương xây dựng cả nước thành một xã hội học tập đã được Đảng và
Nhà nước khẳng định trong Nghị quyết TW4 khóa VII “ cần thực hiện một nền giáo dục
thường xuyên cho mọi người, khuyến khích các loại hình giáo dục không chính quy” và Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ IX cũng chỉ rõ “ Xây dựng một XHHT. Giáo dục và đào tạo là nền
tảng của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh
thần của người Việt nam. Mọi tổ chức chính trị, xã hội, mọi gia đình đều có trách nhiệm chăm
lo và quản lý các hoạt động giáo dục” và “ đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng
những hình thức giáo dục chính quy và không chính quy, thực hiện giáo dục cho mọi người, cả
nước thành một xã hội học tập”.
Ngày 14/04/2007, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 11-CT/TW về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Chỉ thị nêu rõ
: Ban cán sự đảng Chính phủ, các bộ, ngành, UBND các cấp trong phạm vi, quyền hạn, nhiệm
vụ của mình khẩn trương chỉ đạo việc xây dựng, ban hành các chủ trương, chính sách, kế hoạch
triển khai thực hiện đề án “xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005-2010” của Chính phủ, nhất
là các chủ trương, chính sách đảm bảo phát triển hệ thống giáo dục thường xuyên, tổ chức dạy
nghề ở các quận, huyện, tạo điều kiện cho các hoạt động của các trung tâm học tập cộng đồng ở
xã, phường, thị trấn. Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng các TTHTCĐ, phát triển nhiều loại hình
học tập đa dạng, phù hợp với điều kiện và nhu cầu học tập của cán bộ, nhân dân từng địa
phương, đơn vị. Vận động nhân dân tích cực học tập nâng cao dân trí, nghề nghiệp chuyên môn
nhằm tăng năng lực sản xuất, chất lượng công việc và chất lượng cuộc sống. Gắn việc phát
triển phong trào học tập với xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, với phong trào làm kinh
tế giỏi, xóa đói, giảm nghèo và xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
Các viện nghiên cứu khoa học và phát triển giáo dục và các nhà nghiên cứu giáo dục đã
dành nhiều tâm sức nghiên cứu loại hình giáo dục không chính quy này. Tiêu biểu có các tác
giả và tác phẩm cũng như công trình nghiên cứu:
* “Xã hội hóa công tác giáo dục” (Giáo sư Viện sĩ Phạm Minh Hạc chủ biên) nêu lên cơ sở lý
luận , cơ sở thực tiễn và cách làm XHHGD thông qua Đại hội giáo dục các cấp đồng thời nhấn
mạnh XHHGD là động lực nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài với các tiêu
chí : giáo dục hóa xã hội, dân chủ hóa giáo dục, cộng đồng hóa trách nhiệm, đa dạng hóa loại
hình giáo dục, đa phương hóa nguồn lực xã hội để phát triển giáo dục, thể chế hóa sự quản lý
của nhà nước về giáo dục. [21]
* “ Giáo dục thế giới đi vào thế kỷ XXI” -cũng do GS.TS.Phạm Minh Hạc chủ biên -tổng hợp
kinh nghiệm thế giới về XHHGD. Theo đó XHHGD chính là việc giáo dục phải thích nghi với
xã hội, phải phục vụ nền kinh tế xã hội, phục vụ cuộc sống xã hội.[23]
* “ Xã hội hóa giáo dục” (PGS. Võ Tấn Quang ) giới thiệu các quan điểm và cách làm
XHHGD ở các bậc học, cấp học , XHHGD ở địa bàn nông thôn và đề cập đến vấn đề quản lý
nhà nước trong việc thực hiện XHHGD.[31]
Ngoài ra còn nhiều bài báo, tạp chí viết về mô hình TTHTCĐ, tiêu biểu như :
* “ Thực trạng và những giải pháp xây dựng và phát triển các trung tâm học tập cộng đồng
nhằm góp phần nâng cao dân trí ở thành phố Hải Phòng” của ThS Vũ Thị Thanh Hương.[26]
* “Trung tâm học tập cộng đồng- một mô hình cần tiếp tục hoàn thiện và phát triển ở Việt
Nam” của Tạ Văn Sỹ.[33]
* “ Trung tâm học tập cộng đồng ở phường xã- hướng đi phù hợp để xây dựng xã hội học tập”
của ThS Phạm Quang Huân.[25]
* “ Những điều kiện xây dựng xã hội học tập” của PGS.TS.Mạc Văn Trang.[35]
Gần đây nhất có loạt bài viết về tiến trình xây dựng XHHT ở tỉnh Thái Bình đăng trên tạp chí
Thế giới trong ta.
Trên cơ sở lý luận được khẳng định trong các nghị quyết của Đảng, nhiều địa phương đã
bắt tay vào nghiên cứu thực hiện chiến lược xây dựng xã hội học tập. Tiêu biểu của phong trào
này là một số tỉnh ở phía bắc tổ quốc như Thái Bình, Hải Dương, Lào Cai, Hòa Bình, Bắc
Giang, Vĩnh Phúc và các tỉnh Tiền Giang, Kon Tum ... . Đặc biệt là tỉnh Thái Bình, một tỉnh có
phong trào giáo dục cộng đồng bằng mô hình TTHTCĐ được xem là điển hình trên toàn quốc.
Tỉnh Thái Bình đã thực hiện tiến trình xây dựng xã hội học tập một cách có tổ chức từ lãnh
đạo các cấp chính quyền tỉnh, huyện đến xã / phừơng, thôn xóm và thực hiện thông qua các
phong trào khuyến học “Gia đình hiếu học”, “ Dòng họ khuyến học”, “TTHTCĐ đạt chuẩn”
với sự tham mưu, góp sức của Hội Khuyến học tỉnh, huyện, xã. Đến đầu năm 2003 , Thái Bình
đã trở thành tỉnh đầu tiên trong toàn quốc hoàn thành về số lượng và quy mô xây dựng các
TTHTCĐ với 284 TTHTCĐ trên 284 xã, phường. Những xã/phường tiêu biểu trong hoạt động
này là Việt Thuận, Nguyên Xá, Hồng Phong, Tân Hòa, Song Lãng, Bách Thuận ở huyện Vũ
Thư, Thái Hồng ở huyện Thái Thụy,... . Phong trào giáo dục cộng đồng tỉnh Thái Bình đã được
Đảng và Nhà nước đánh giá cao như lời phát biểu của Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm : “Đây
là một sự kiện thành công, quan trọng của Đảng bộ và nhân dân Thái Bình trong việc xây dựng
XHHT từ cơ sơ, đã đóng góp những kinh nghiệm quý báu cho sự phát triển chung của cả
nước”. Tuy nhiên phong trào xây dựng và phát triển các THHTCĐ tỉnh Thái Bình cũng chưa
được đúc kết và nhân rộng.
Riêng ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, từ năm học 2000-2001 Sở Giáo dục và Đào tạo đã cử
các chuyên viên tham dự các lớp tập huấn, hội thảo về xây dựng và phát triển các TTHTCĐ do
Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức. Trong nội dung học nghiệp vụ hè 2001, 2002, 2003 sở Giáo
dục và Đào tạo đã hướng dẫn các cán bộ, giáo viên các TTGDTX về phương thức tổ chức hoạt
động của TTHTCĐ xã, phường và các phương pháp dạy chuyên đề. Năm 2002 Sở Giáo dục và
Đào tạo đã xây dựng đề án thành lập TTHTCĐ giai đoạn 2002-2005 trình UBND tỉnh phê
duyệt và được phép triển khai đề án. Tuy nhiên do Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa ban hành quy
chế tổ chức và hoạt động TTHTCĐ nên địa phương vẫn còn nhiều vướng mắc trong quá trình
thực hiện. Thực tiễn cho thấy rằng hoạt động của các TTHTCĐ gắn liền với hoạt động của các
trung tâm văn hóa xã, phường do đó UBND tỉnh giao cho Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với
Sở Văn hóa- Thông tin và Hội Khuyến học tỉnh xây dựng đề án mô hình Trung tâm Văn hóa-
Học tập cộng đồng (TTVH-HTCĐ). Ngày 16/07/2004 UBND tỉnh đã phê duyệt và ban hành
“Quy chế tạm thời tổ chức hoạt động Trung tâm Văn hóa- Học tập cộng đồng xã, phường tỉnh
Bà Rịa- Vũng Tàu” [37]. Quy chế gồm năm chương, mười một điều quy định rõ chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức bộ máy, điều kiện cơ sở vật chất và kinh phí hoạt động
của TTVH-HTCĐ xã, phường. Những văn bản này chính là hành lang pháp lý và là tiền đề để
các cộng đồng xã, phường, thị trấn đẩy mạnh tiến trình xây dựng và phát triển TTVH-HTCĐ ở
địa phương. Tuy vậy, vấn đề không dừng lại ở chỗ làm sao để xây dựng một TTVH-HTCĐ
khang trang về hình thức mà cốt lõi là việc làm sao để duy trì hoạt động TTVH-HTCĐ một
cách hiệu quả vẫn là vấn đề còn bỏ ngõ đối với chính quyền và ban chủ nhiệm các TTVH-
HTCĐ địa phương.
1.2. Cơ sở lý luận liên quan đến đề tài
1.2.1 Vai trò, vị trí của giáo dục, đào tạo đối với phát triển kinh tế xã hội
Từ năm 1945, trong ngày khai trường đầu tiên của nước Việt nam dân chủ cộng hoà,
trong thư gởi học sinh, Bác viết: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc
Việt Nam có được vẻ vang sánh vai các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ
một phần lớn ở công học tập của các cháu”. Sáu mươi hai năm trôi qua, đến nay câu nói đó
vẫn nhắc nhở chúng ta không thể coi thường việc học tập của thế hệ trẻ và giờ đây cả người lớn
tuổi, cả xã hội đều phải biết
nâng cao trình độ của mình để tồn tại và phát triển.
Đồng chí Lê Khả Phiêu, nguyên Tổng Bí thư Trung ương Đảng lúc phát biểu tại cuộc gặp gỡ
các đại biểu quốc tế tham dự Hội thảo “ Việt Nam trong thế kỷ XX”, vào tháng 09 năm 2000
tại Hà Nội, có nói: “ Dân tộc chúng tôi hiểu đầy đủ rằng dân tộc mình là một dân tộc nghèo,
một đất nước tuy đang phát triển nhưng ở mức thấp. Chúng tôi hiểu rõ khoảng cách của nền
kinh tế của chúng tôi và nền kinh tế của những nước phát triển trên thế giới. Chúng tôi hiểu rõ
khoa học công nghệ trong thế kỷ XXI sẽ có những bước tiến khổng lồ. Thực hiện tư tưởng vĩ
đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Lấy sức ta mà giải phóng cho ta, chúng tôi phải tri thức hoá
Đảng, tri thức hoá dân tộc, tiếp tục tri thức hoá công nông, cả nước là một xã hội học tập, phát
huy truyền thống những ngày mới giành được độc lập năm 1945, cả nước học chữ, cả nước
diệt giặc dốt, cả nước diệt giặc đói… Phải nắm lấy ngọn cờ khoa học như đã nắm ngọn cờ dân
tộc. Một dân tộc dốt, đói nghèo là một dân tộc yếu. Nhân dân Việt Nam ngày nay có câu: đã
biết cầm đũa thì biết vót chông, đã biết vót chông thì mười ngón tay ấy sẽ biết học tập, sử dụng
máy vi tính, đi vào công nghệ thông tin, cánh cửa của kinh tế tri thức …” ( Thông tin công tác
tư tưởng của Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương Đảng CSVN số 10/2000- trang 3). Hiện tại,
chúng ta đang đi vào nền kinh tế tri thức vì ta thừa hiểu rằng thế kỷ XX khoa học kỹ thuật có
những bước nhảy vọt và thế kỷ XXI sẽ nhảy vọt cao hơn, sẽ xuất hiện nền kinh tế tri thức và đó
là nền kinh tế mà tri thức chiếm ưu thế hơn ba yếu tố vốn, lao động và công nghệ tạo nên sự
tăng trưởng của nền kinh tế. Khi đi vào nền kinh tế như vậy, yếu tố trí tuệ của con người trở
nên cực kỳ quan trọng và giáo dục trở thành một lĩnh vực cơ yếu quyết định đến vấn đề dân trí,
dân sinh.
Giáo dục là một hoạt động xã hội rộng lớn có liên quan trực tiếp đến lợi ích, nghĩa vụ và quyền
lợi của mọi người dân, mọi tổ chức kinh- tế xã hội. Theo quan điểm giáo dục thuần túy, giáo
dục giúp người học mở mang trí óc, gia tăng kiến thức và khả năng suy nghĩ trừu tượng, hiểu
biết sự thật, phát triển đạo đức cá nhân và năng khiếu thưởng thức mỹ thuật, nghệ thuật và biết
sống hài hòa với mọi người chung quanh. Thực tiễn hơn, giáo dục được xem là một phương
tiện giúp người học tích lũy tri thức, tiếp cận khoa học kỹ thuật, cải thiện khả năng và chất
lượng lao động cho tương lai. Mục tiêu giáo dục Việt nam là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài hay nói cách khác giáo dục chính là quá trình tích lũy vốn con người
(human capital) cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Giáo dục tác động mạnh mẽ
đến cả quá trình phát triển nhanh hay chậm của một quốc gia vì chính nền giáo dục quốc dân là
chiếc máy cái khổng lồ chịu trách nhiệm đào tạo ra con người phục vụ cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo trong tiến trình xây
dựng đất nước đã được Đảng và Nhà nước ta đặt lên vị trí “quốc sách hàng đầu” với quan
điểm chủ đạo “ đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển” ( văn kiện Đại hội VII (1991),
VIII (1996), và IX (2001)) . Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đúc kết vấn đề này thành một chân
lý : “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”.Với triết lý đó, giáo dục và nền kinh tế-xã hội có mối
quan hệ tương tác hai chiều theo tỷ lệ thuận: giáo dục, đào tạo tốt sẽ làm tăng chất lượng vốn
con người dẫn đến kết quả tất yếu là tăng trưởng kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống
cộng đồng , đồng thời khi kinh tế tăng trưởng sẽ làm tăng thêm các nguồn lực đầu tư dành cho
giáo dục, thúc đẩy giáo dục phát triển. Có thể mượn ý câu nói của Bác để khẳng định vai trò
của giáo dục đối với nền kinh tế quốc dân : dân tộc Việt Nam có vẻ vang sánh vai các cường
quốc năm châu được hay không chính là nhờ tầm vóc của nền giáo dục nước nhà.
1.2.2. Quan điểm phát triển giáo dục thế giới trong xu thế hội nhập thế kỷ XXI
Trong bối cảnh thế giới đang phát triển như vũ bão về khoa học, kỹ thuật , công nghệ
đồng thời cũng đầy những biến động cực kỳ nhanh chóng về chính trị, văn hóa, tôn giáo và
lãnh thổ đòi hỏi mỗi quốc gia, mỗi cộng đồng muốn tồn tại và phát triển tốt phải thay đổi tư
duy và phải biết cách thích nghi. Trong xu thế đó UNESCO chủ trương phát triển giáo dục theo
chiến lược bao gồm 21 điểm, trong đó người viết chỉ đề cập đến những điểm quan trọng liên
quan đến việc hình thành và xây dựng một xã hội học tập mà giáo dục Việt nam cần vận dụng :
(1). Giáo dục thường xuyên phải là nét chủ đạo của mọi chính sách giáo dục.
(2). Giáo dục thường xuyên qua mọi lứa tuổi trong suốt cuộc đời và phải thực sự trở thành
phong trào quần chúng.
(3). Giáo dục phải được tiến hành và tiếp thu bằng nhiều cách khác nhau và phải chú trọng đến
việc học cái gì và học được cái gì.
(4). Giáo dục cơ bản phổ thông dưới nhiều hình thức khác nhau phải là mục tiêu hàng đầu của
chính sách giáo dục.
(5). Xóa bỏ sự phân biệt giữa giáo dục phổ thông và khoa học kỹ thuật và công nghệ. Giáo dục
phải kết hợp lý thuyết, công nghệ, thực hành và thủ công.
(6). Phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi nghề nghiệp; thực hiện đào tạo bổ sung
bằng hình thức tu nghiệp và học tập định kỳ.
(7). Giáo dục ngoài nhà trường, các xí nghiệp, các ngành kinh doanh cũng phải chịu trách
nhiệm về đào tạo kỹ thuật.
(8). Nhanh chóng phát triển giáo dục cho người lớn. Đây là một mục tiêu ưu tiên trong chiến
lược phát triển giáo dục.
(9). Mọi hoạt động giáo dục cộng đồng đều phải hướng vào các mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội.
(10). Khi xây dựng các hệ thống giáo dục cần tính đến những khả năng do các kỹ
thuật mới đem lại. Các chương trình đào tạo giáo viên cần triệt để sử dụng các thiết bị và
phương pháp giảng dạy mới nhất.
(11). Cần tranh thủ sự hỗ trợ của các cá nhân, tổ chức. Tạo điều kiện cho người học biết cách
tự học và giúp đỡ người khác học tập.
(12). Việc giảng dạy phải thích nghi với nhu cầu người học. Người học và công
chúng tham gia nhiều hơn trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến giáo dục.
Các quan điểm trên rất coi trọng giáo dục thường xuyên, giáo dục suốt đời cho mọi
người, không phân biệt tuổi tác. Chiến lược xây dựng cả nước thành một xã hội học tập, trong
đó xem trọng giáo dục không chính quy, giáo dục cộng đồng, của Đảng và Chính phủ rất phù
hợp với việc xây dựng nền giáo dục với các quan điểm
mới này.
1.2.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chiến lược xây dựng cả nước thành một xã hội
học tập
Thế kỷ XXI được đánh dấu cho một kỷ nguyên khoa học công nghệ phát triển cao, kỷ
nguyên của nền kinh tế tri thức và sự hội nhập toàn cầu, và tất yếu nền giáo dục nước ta sẽ
được chú trọng đổi mới một cách sâu sắc và toàn diện “ chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay
sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên
tục, liên thông giữa các cấp học, ngành học ...” (Nghị quyết Đại hội Đảng X). Trên quan điểm
đó Đảng đã định hướng giáo dục nước ta trong thế kỷ XXI phải phát triển đạt đến mức quán
triệt nguyên tắc “ Giáo dục suốt đời” theo mô hình XHHT. Đề án “Xây dựng xã hội học tập
giai đoạn 2005-2010” nêu rõ: “Xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập với tiêu chí cơ
bản là tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi để mọi người ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học tập
thường xuyên, học liên tục, học suốt đời ở mọi nơi, mọi lúc, mọi cấp, mọi trình độ; huy động
sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia xây dựng và phát triển giáo dục, mọi người, mọi tổ
chức đều có trách nhiệm, nghĩa vụ trong việc học tập và tham gia tích cực xây dựng xã hội học
tập”. “Giáo dục thường xuyên thực hiện các chương trình học tập nhằm tạo các điều kiện tốt
nhất đáp ứng mọi yêu cầu học tập suốt đời, học tập liên tục của mọi công dân” được xem là
một bộ phận có chức năng quan trọng làm tiền đề để xây dựng xã hội học tập.[18,tr.146] Các
mục tiêu và nhiệm vụ của đề án đã phê duyệt thể hiện sự quyết tâm cao của toàn Đảng toàn dân
thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng cả nước thành một xã hội học tập. Các mục tiêu với
những tiêu chí cụ thể nhằm đảm bảo tỷ lệ người biết chữ trong từng độ tuổi và giữa hai giới
nam, nữ; tỉ lệ cán bộ xã, phường, cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước
được học tập, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; tỷ lệ
người lao động được thụ hưởng các chương trình bồi dưỡng để nâng cao năng lực, năng suất
lao động và chất lượng cuộc sống. Trong đó, có mục tiêu đạt tỷ lệ 100% quận, huyện có Trung
tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện; 100% các tỉnh, thành phố có Trung tâm giáo dục
thường xuyên cấp tỉnh và trên 80% các xã, phường, thị trấn trong cả nước xây dựng được
Trung tâm học tập cộng đồng. Chỉ thị số 02/2008/CT-TTg ngày 08 tháng 01 năm 2008 của
Thủ Tướng Chính phủ về đẩy mạnh phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học
tập một lần nữa nhấn mạnh: “ Xây dựng XHHT là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, là mục
tiêu cơ bản trong chiến lược chấn hưng và phát triển giáo dục của nước ta. Cần đẩy mạnh công
tác khuyến học, khuyến tài gắn với xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, với phong trào
làm kinh tế giỏi, xoá đói, giảm nghèo và xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, học đi đôi với
hành”. Thủ Tướng cũng yêu cầu Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện các giải pháp để phát triển
và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở giáo dục thường xuyên, các TTHTCĐ, cơ sở dạy
nghề, trong đó tập trung đổi mới nội dung, chương trình, tài liệu, phương pháp học tập đáp ứng
nhu cầu học tập đa dạng của nhân dân. Bên cạnh đó, Chỉ thị cũng nêu rõ trách nhiệm của các
bộ, các tổ chức liên quan như Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính phải nghiên cứu, xây
dựng các cơ chế, chính sách hỗ trợ hợp lý tạo điều kiện đẩy mạnh sự phát triển các cơ sở giáo
dục thường xuyên, các TTHTCĐ.Như vậy, với quan điểm giáo dục cho mọi người và mọi
người đều tham gia giáo dục, bên cạnh những nhiệm vụ chủ yếu, trọng tâm, đề án “xây dựng xã
hội học tập giai đoạn 2005-2010” đã chú ý việc “phát triển bền vững và nhân rộng mô hình
Trung tâm học tập cộng đồng trên các địa bàn xã, phường, thị trấn trong cả nước nhằm thực
hiện các chương trình xóa mù chữ, giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ và các chương trình giáo
dục đáp ứng yêu cầu người học trong cộng đồng dân cư”.[18, tr.148].
1.2.4. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của mô hình TTHTCĐ xã, phường
- Nguyên lý giáo dục của Đảng ta là giáo dục nhà trường phải gắn liền với xã hội. “Phát
triển giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội, của Nhà nước và mỗi cộng đồng, của từng gia đình
và mỗi công dân. … . Phát động phong trào rộng khắp toàn dân học tập, người người đi học,
học ở trường lớp và tự học suốt đời, người biết dạy người chưa biết, người biết nhiều dạy người
biết ít, mỗi người phải không ngừng nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ” [ 16,
tr.11]. Như vậy nền giáo dục của ta là nền giáo dục của dân, do dân và vì dân nên nó phải được
triển khai đến tận từng người dân ở từng địa bàn dân cư. Do đó đơn vị xã, phường thậm chí
thôn, ấp là đơn vị cơ sở gần gũi người dân nhất và là đơn vị tổ chức học tập theo nhu cầu cộng
đồng hợp lý nhất.
- Vai trò của nhóm và tập thể trong hoạt động và tổ chức hoạt động đã được nghiên cứu,
khẳng định và ứng dụng trong lĩnh vực tâm lý học quản lý. Trong nhóm nhỏ tần số giao tiếp
của các thành viên diễn ra nhiều lần hơn so với nhóm lớn nhờ vậy mới phát huy được tính tích
cực hoạt động của mỗi chủ thể trong nhóm hoặc trong một tập thể. Vì vậy “trong bất kỳ tổ chức
vĩ mô nào hay trong lĩnh vực hoạt động phức hợp nào, để đảm bảo sự thành công của hoạt động
quản lý, nhà quản lý phải xác lập được nhóm cơ sở trong tổ chức của mình và phải xác định
được thủ lĩnh của nhóm đó. Trong lĩnh vực giáo dục xã hội, nhóm cơ sở chính là làng xã” [33].
- Kinh tế xã hội càng phát triển đòi hỏi giáo dục càng phải phát triển không những tương
xứng với nền khoa học công nghệ hiện đại mà còn phải tạo ra những bước nhảy vọt cả về
phương thức lẫn nội dung chương trình giáo dục nhằm “đi tắt đón đầu” vận hội mới, tương lai
mới của đất nước. Vấn đề đặt ra là phải phát triển đồng bộ hệ thống giáo dục chính quy và
không chính quy, giáo dục thường xuyên và giáo dục suốt đời. Các kênh giáo dục đó được triển
khai thực hiện bởi nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều tổ chức xã hội nhưng trong đó các cơ quan
quản lý giáo dục cấp cao quản lý chủ yếu hệ thống giáo dục chính quy và một số tổ chức, cơ
sở giáo dục không chính quy cấp quận, huyện trở lên mà còn bỏ ngõ việc quản lý giáo dục
cộng đồng cấp phường, xã. Tuy nhiên để tạo ra hiệu lực thực sự thì các kênh giáo dục này phải
được tổ chức thành một mạng thống nhất trong đó phải có một tổ chức có chức năng tích hợp
các loại hình giáo dục một cách đa dạng và cập nhật đồng thời có khả năng tác động trực tiếp
đến người dân, làm cầu nối giữa người dân với các tổ chức giáo dục khác cao hơn. Xét về mặt
quản lý hành chánh nhà nước thì xã, phường chính là đơn vị cơ sở đủ điều kiện tích hợp các
kênh giáo dục nói trên và mô hình giáo dục tích hợp đó hiện nay có lẽ không có mô hình nào
hiệu quả bằng TTHTCĐ xã, phường.
- Một trong những đặc trưng của nền văn hóa truyền thống nước ta là văn hóa làng, xã.
Làng, xã là tổ chức hành chính cơ sở quan trọng , có nhiệm vụ truyền tải và thực thi các chủ
trương, đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Đồng thời làng, xã cũng là tổ chức xã hội,
nơi đó diễn ra mọi hoạt động của cộng đồng trong mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo
dục ,…. với đặc thù và tập quán địa phương nhằm duy trì và phát triển đời sống của cá nhân và
của cộng đồng. Thực tế ở Việt nam có rất nhiều làng nghề truyền thống với những nét văn hóa
rất riêng, rất độc đáo. Việc giáo dục người dân nhằm duy trì và phát huy truyền thống làng, xã,
tiến tới hội nhập với cộng đồng và nâng cao chất lượng cuộc sống của họ là một trong những
nhiệm vụ quan trọng của chính quyền và của mọi người dân trong làng, xã.
Chính trên những cơ sở đó, trong Quyết định số 112/2005/QĐ-TTG ngày 18-5-2005 về việc
phê duyệt đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005-2010”, Thủ tướng Chính phủ nêu rõ
“Phát triển bền vững và nhân rộng mô hình TTHTCĐ trên các địa bàn xã, phường, thị trấn
trong cả nước nhằm thực hiện các chương trình xóa mù chữ, giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ
và các chương trình giáo dục đáp ứng yêu cầu của người học trong cộng đồng dân cư” [15, tr.4]
1.3. Các khái niệm
1.3.1. Xã hội hóa giáo dục
Từ điển Giáo dục học định nghĩa xã hội hóa giáo dục (XHHGD) là chủ trương, biện
pháp biến sự nghiệp giáo dục trong nhà trường thành công việc chung của toàn xã hội để thu
hút mọi thành phần, thành viên trong xã hội tích cực tham gia vào hoạt động giáo dục thế hệ trẻ
tùy theo chức năng, điều kiện của mình.[20]. Tư tưởng XHHGD không phải xuất phát từ các
khó khăn trước mắt của ngành giáo dục khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, mà là từ
bản chất của giáo dục, từ quy luật hình thành nhân cách con người như là một sản phẩm , một
chủ thể của xã hội vì môi trường xã hội là một yếu tố khách quan có tác dụng quyết định không
nhỏ trong việc đào tạo nhân lực, nhân tài cho xã hội. Xã hội hóa giáo dục bao gồm các hoạt
động hết sức đa dạng của các lực lượng xã hội: đó là việc tuyên truyền, vận động, huy động
nhân lực, tài lực của xã hội cùng tham gia sự nghiệp giáo dục thông qua các hình thức như hội
bảo trợ, hội khuyến học, quỹ học bỗng, quỹ sáng tạo, nhà tài trợ, cơ sở đỡ đầu, lớp học đầu bờ,
… [20,tr. 481].
Khái niệm xã hội hóa giáo dục còn được hiểu trên một số vấn đề cơ bản như :
- Làm cho xã hội nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của giáo dục, thực trạng của giáo dục địa
phương, nhận thức rõ trách nhiệm của xã hội đối với giáo dục . Giáo dục liên quan đến mọi
người, là lợi ích của mọi người, mọi cộng đồng.
- Làm cho giáo dục phù hợp với phát triển xã hội, phục vụ đắc lực sự phát triển kinh tế - xã hội
ở địa phương.
- Tạo ra nhiều nguồn để làm giáo dục, thực hiện việc giáo dục trong nhà trường và ngoài nhà
trường, kết hợp các lực lượng giáo dục, tạo ra môi trường giáo dục tốt, thuận lợi hơn cho việc
thực hiện các mục tiêu giáo dục. Muốn thưc hiện mục tiêu “giáo dục cho mọi người” thì mọi
người phải làm giáo dục chứ không thể coi đây là việc riêng của ngành giáo dục [ 21, tr.17-18].
Do đó XHHGD không chỉ là đa dạng hóa hình thức và các nguồn đầu tư cho giáo dục đào tạo
mà quan trọng nhất là đa dạng hóa nội dung hay đa dạng chương trình giáo dục thích ứng với
những đòi hỏi của xã hội, phải coi xã hội như một kho tư liệu sống luôn luôn phát triển và biến
các vấn đề xã hội thành nội dung giảng dạy.
Như vậy XHHGD là quá trình làm cho sự nghiệp giáo dục thâm nhập vào các ngành,
các cấp, các tổ chức xã hội, mọi gia đình và mỗi cá nhân đồng thời giáo dục phải trở thành
hoạt động chung của toàn xã hội, tạo ra một xã hội học tập.
Chính vì vậy XHHGD trở thành tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng với mục tiêu
huy động toàn lực trong xã hội tham gia vào công cuộc xây dựng và phát triển giáo
dục nước nhà. Mọi người phải hiểu rằng XHHGD là một giải pháp lâu dài có tính chiến lược và
quyết định trong việc làm cho hoạt động giáo dục- với tính chất chuyên ngành- trở thành một
hoạt động xã hội gắn liền với nhu cầu thực tế, thâm nhập và tác động tích cực đến mọi lĩnh vực
hoạt động của cuộc sống , thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ ngày một cao hơn của xã hội.
1.3.2. Xã hội học tập
Trong XHHT mỗi con người đều phải được giáo dục thường xuyên, đào tạo liên tục, học
tập suốt đời. Đã đến lúc phải thay đổi khẩu hiệu “Đào tạo một lần cho một đời người” thành “
Đào tạo liên tục trong suốt đời người”. Trong XHHT, các tổ chức, tập thể hoặc cá nhân theo
khả năng của mình đều có thể cung ứng cơ hội học tập cho cộng đồng , mọi người, tùy theo
nhu cầu, năng lực và điều kiện của cá nhân, đều có thể tận dụng cơ hội để học tập nâng cao
chất lượng cuộc sống của bản thân và tham gia phát triển giáo dục cộng đồng.
XHHT là một hiện tượng có tính quy luật của sự phát triển, là vấn đề chung của thời đại,
là mô hình nền giáo dục tương lai thuộc thời đại kinh tế tri thức trong đó nguyên tắc hàng đầu
là “giáo dục suốt đời cho mọi người”. XHHT vận hành với phương châm “ Giáo dục cho mọi
người và mọi người cho giáo dục” chính là một hệ thống giáo dục gắn kết và liên thông các
hình thức giáo dục chính quy, không chính quy và phi chính quy. Mục tiêu của người học
không phải chỉ để đi làm mà nhằm hoàn thiện nhân cách và cải thiện chất lượng cuộc sống.
Xã hội học tập là một xã hội ở đó ai cũng học tập , học ở mọi lứa tuổi, ở mọi nơi, mọi lúc.
Xã hội học tập chứa đựng ý tưởng về giáo dục suốt đời, học tập suốt đời .
Tùy theo sự quan tâm của người học mà mọi hiện tượng, mọi sự kiện, mọi hoạt động
đều có thể trở thành đối tượng hay nội dung học tập. Phương pháp học đa dạng, linh động tùy
theo điều kiện cụ thể của từng người : có thể học tập chính quy theo trường lớp hoặc theo
những phương thức đa dạng trong cuộc sống như trong lao động, trong giao tiếp, trong giải
trí,… và bằng mọi phương tiện thông tin. [ 20, tr.482]
Để xây dựng một XHHT, giáo dục Việt nam phải thực sự tiến hành nhiều bước thay đổi
lớn lao về nhận thức và hành động trong đó thay đổi quan trọng nhất là chú trọng việc học tập
của người lớn, chăm lo việc học tập cho mọi người thuộc mọi lứa tuổi . Mô hình XHHT của đất
nước ta phải vừa thể hiện được xu thế hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá trong lĩnh vực giáo dục
thế kỷ XXI, vừa phải phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta như các đặc điểm truyền
thống lịch sử, văn hoá, về chính trị xã hội và kinh tế của ta [4.] . Không phải chỉ có nhà nước
mới có trách nhiệm tạo điều kiện học tập cho người dân mà mọi người dân phải nhận thức
được trách nhiệm học tập, học để khỏi bị thất nghiệp , khỏi bị xã hội đào thải, không bị lạc hậu
trong thời đại khoa học công nghệ hiện đại và nền kinh tế thị trường toàn cầu hóa . Luật Giáo
dục 2005 đã thể chế hoá “ Phát triển giáo dục, xây dựng XHHT là sự nghiệp của Nhà nước và
của toàn dân” [32, Điều 12] và “ Nhà nước có chính sách phát triển giáo dục thường xuyên,
thực hiện giáo dục cho mọi người, xây dựng XHHT” [32, Điều 44]. Một trong những phương
thức giáo dục đáp ứng tốt nhất nhu cầu học tập của người dân trong XHHT là giáo dục phi
chính quy. Đó chính là phương thức giáo dục mà cá nhân người học tự đề ra chương trình và tổ
chức học tập theo những mục tiêu cụ thể, độc lập với hệ thống giáo dục chính quy ( chương
trình quy định bởi các thể chế giáo dục gồm hệ thống các loại hình trường lớp, cấp học, bậc
học) và không chính quy ( chương trình, giáo trình học ngoài hệ thống giáo dục chính quy như
các lớp tại chức, đào tạo từ xa, lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ,…) . Với
phương thức này, cá nhân hoặc một nhóm người học có nhu cầu, tự đề ra mục đích học tập, tự
tìm tài liệu học hỏi trao đổi để nâng cao sự hiểu biết và kỹ năng về lĩnh vực đang có nhu cầu
tìm hiểu [28, tr. 130-132]. Để biến mục tiêu “ cả nước trở thành một XHHT” trở thành hiện
thực thì Nhà nước và cả xã hội phải huy động được sự tự giác tự nguyện tham gia học tập và
học tập suốt đời của mọi người dân. Chúng ta phải nhanh chóng kết hợp nghiên cứu lý luận với
thực tiễn xây dựng mô hình XHHT Việt nam và tạo ra các tiền đề cho XHHT tương lai, thử
nghiệm các mô hình cụ thể và tổng kết thực tiễn để đúc kết thành lý luận về mô
hình XHHT Việt nam.
1.3.3. Trung tâm văn hóa-học tập cộng đồng
a) Khái niệm Trung tâm học tập cộng đồng :
(1) Theo tổ chức APPEAL (Asia-Pacific Programme of Education for All) của
UNESCO , trung tâm học tập cộng đồng (TTHTCĐ) là một học viện / cơ sở giáo dục địa
phương nằm ngoài hệ thống giáo dục chính quy dành cho các xã, phường hoặc các vùng nông
thôn, thường được thành lập và quản lý bởi chính quyền hoặc người dân địa phương , đem đến
cơ hội học tập đa dạng cho mọi người dân trong cộng đồng nhằm cải tiến chất lượng cuộc sống
của họ đồng thời phục vụ cho sự phát triển cộng đồng và làm thay đổi bộ mặt xã hội.
(2) Theo tài liệu của UNESCO Hanoi (Việt nam) thì TTHTCĐ là một học viện giáo dục
không chính quy cung cấp nền giáo dục cơ bản cho cộng đồng. Được trực tiếp thành lập và
quản lý bởi chính quyền địa phương xã, phường hoặc thị trấn với mục đích cung cấp cơ hội học
tập thường xuyên và suốt đời cho mọi người nhằm mở rộng kiến thức, kỹ năng và văn hóa để
nâng cao chất lượng cuộc sống.
(3) Theo các tác giả quyển Từ điển giáo dục học, “ TTHTCĐ là cơ sở giáo dục bậc tiểu
học được cộng đồng làng xã, thôn bản tự đứng ra tổ chức, quản lý, đài thọ nhằm mục đích giúp
người lớn, trẻ em tiếp thu kiến thức văn hóa, kỹ năng nghề nghiệp phổ cập theo chương trình
của bậc tiểu học và theo yêu cầu của thực tiễn địa phương”[ 24, tr.432].
Khái niệm TTHTCĐ là khá rõ ràng, tuy nhiên để kết hợp hoạt động văn hóa vốn
đã tồn tại trong cộng đồng với nhiệm vụ học tập, UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã ban hành
Quy chế thành lập và hoạt động của TTVH-HTCĐ. Để làm rõ khái niệm TTVH-HTCĐ ta cần
hiểu khái niệm văn hoá. Văn hoá được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau, người viết xin nêu
tóm tắt những khái niệm sau
b) Khái niệm văn hóa :
(1) Tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong
quá trình đấu tranh với thiên nhiên và đấu tranh xã hội để tồn tại và phát triển; những di vật,
những tinh hoa trong lịch sử dân tộc và nhân loại cần phải được giữ gìn và phát huy nhằm thúc
đẩy xã hội tiếp tục phát triển lên những trình độ cao hơn.
(2) Trình độ cao trong sinh hoạt xã hội nói chung và trong từng mặt cụ thể nói riêng,
biểu hiện qua các kỹ năng hoạt động, các hành vi ứng xử và lối sống. Là một mặt quan trọng và
tiêu biểu của nhân cách hình thành trong cả ba môi trường giáo dục : nhà trường, gia đình và xã
hội.
(3) Lĩnh vực hoạt động tạo ra những giá trị tinh thần nhằm thỏa mãn nhu cầu của đời
sống xã hội như văn học, nghệ thuật, âm nhạc, điện ảnh,…Về lĩnh vực này , giáo dục cần bồi
dưỡng cho người học thị hiếu văn hóa lành mạnh.
(4) Văn hóa còn được hiểu là trình độ học vấn của một người. Dù học vấn có
uyên thâm đến đâu cũng không thể hiểu biết hết mọi thứ trên đời, đó chính là lý do phải học tập
suốt đời và không ngừng học tập.
Như vậy, kết hợp các khái niệm về văn hóa và TTHTCĐ, ta có thể hiểu :
TTVH-HTCĐ là cơ sở giáo dục thường xuyên trong hệ thống giáo dục quốc dân, do
chính quyền và người dân địa phương thành lập và quản lý tạo ra môi trường học tập, vui
chơi lành mạnh; mang lại cơ hội, điều kiện thuận lợi cho việc học tập và các sinh hoạt văn
hóa, tinh thần hữu ích khác; cung cấp kiến thức và
kỹ năng nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống cho mọi người trong cộng đồng.
Quy chế Tổ chức và hoạt động của TTHTCĐ tại xã, phường, thị trấn ban hành kèm theo
Quyết định số 09/2008/QĐ-BGDĐT ngày 24 tháng 03 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo quy định TTHTCĐ có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng.
1.4. Những vấn đề liên quan đến hoạt động của TTVH-HTCĐ xã, phường tỉnh Bà Rịa-
Vũng Tàu ( gọi chung là TTVH-HTCĐ )
1.4.1. Mục đích của TTVH-HTCĐ
“Cung cấp và đáp ứng các cơ hội học tập, sinh hoạt tinh thần cho tất cả mọi người trong
cộng đồng, thu hút mọi cá nhân, tổ chức tại địa phương tham gia vào
công tác XHHGD, đáp ứng những nhu cầu thay đổi trong đời sống của cộng đồng, góp phần
giúp cộng đồng trở thành tự lực, chủ động trong giáo dục, trở thành một XHHT đích thực”
[37,tr.13]. Mục tiêu của TTVH-HTCĐ nhằm thỏa mãn các tiêu chí sau :
- Cải thiện việc tiếp cận trình độ giáo dục cơ bản cho mọi người trong cộng đồng.
- Phát huy chất lượng quá trình học tập chính quy và không chính quy.
- Cung cấp chương trình giáo dục thường xuyên, không chính quy và chương trình tập huấn các
kỹ năng tương thích với nhu cầu thiết thực của cộng đồng. Cung cấp phương tiện tiếp cận
thông tin về các lĩnh vực mà cộng đồng quan tâm.
- Tăng cường khả năng tự thực hiện các chương trình giáo dục phi chính quy dẫn
đến việc cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân và góp phần vào việc xóa đói giảm
nghèo trong cộng đồng.
- Bồi dưỡng thị hiếu thưởng thức văn hóa lành mạnh.
Như vậy mục tiêu của TTVH-HTCĐ là cung cấp cơ hội học tập suốt đời, cơ hội hưởng
thụ văn hóa cho mọi người dân (đặc biệt là những người ít cơ hội học tập, trẻ em bỏ học, phụ
nữ và những người lớn tuổi) nhằm cải thiện năng lực của cá nhân và tăng cường sự phát triển
của cộng đồng.
1.4.2. Nhiệm vụ của TTVH-HTCĐ
- Xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch, chương trình công tác, nội dung hoạt động thường
kỳ và từng đợt phù hợp với tình hình, nhiệm vụ của địa phương, của ngành giáo dục - đào tạo
và ngành văn hóa- thông tin.
- Phối hợp các trường tiểu học, trung học cơ sở thuộc địa bàn để điều tra, tổ chức các lớp xóa
mù chữ, sau xóa mù, các lớp phổ cập cho nhân dân địa phương.
- Phối hợp với các ngành liên quan tổ chức điều tra nhu cầu học tập của nhân dân. Lập kế
hoạch triển khai các lớp chuyên đề với nội dung và hình thức phù hợp với điều kiện học tập của
cán bộ và nhân dân .
- Tổ chức các hoạt động văn hóa quần chúng như xây dựng phong trào văn nghệ
quần chúng, các loại hình sinh hoạt câu lạc bộ, các lớp năng khiếu, đọc sách báo và
các hình thức vui chơi, giải trí khác.
- Tổ chức một số loại hình hoạt động thể dục thể thao như thể dục dưỡng sinh, bóng đá, bóng
chuyền, bóng bàn, cầu lông, cờ tướng, võ thuật, …
- Tổ chức các hoạt động giao lưu văn nghệ quần chúng, thể dục thể thao trong và ngoài địa
phương nhằm nâng cao trình độ tổ chức hoạt động chuyên môn cũng như công tác quản lý.
- Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, ban ngành, đoàn thể ở địa phương như các hội, đoàn, nhà
máy, xí nghiệp nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng của các loại hình sinh hoạt câu lạc bộ.
Cập nhật kiến thức, kỹ năng, tập huấn chuyển giao ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ để
phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng
cuộc sống như : mở lớp học nghề ngắn hạn, các câu lạc bộ khuyến nông, khuyến công, khuyến
ngư, khuyến lâm, các lớp tập huấn về kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, các buổi tham quan, trao
đổi kinh nghiệm thực tế, các “lớp học đầu bờ”, các buổi nói chuyện về sức khỏe, vệ sinh an
toàn thực phẩm, dân số, môi trường,….
- Quản lý, sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị và tài chính phù hợp với các quy định của nhà
nước và của cộng đồng.
1.4.3. Chức năng, hoạt động của TTVH-HTCĐ
“Giáo dục và đào tạo; cung cấp thông tin và tư vấn về nguồn lực; tổ chức các hoạt động
công cộng nhằm phát triển cộng đồng; phân phối và liên kết các tổ chức vì sự nghiệp giáo dục
chung; khuyến khích việc học tập suốt đời” [37,tr.13]
TTVH-HTCĐ được xem là nơi gặp gỡ của mọi người dân để trao đổi, học tập, sinh hoạt văn
hóa, thể dục thể thao. Các hoạt động ở TTVH-HTCĐ phải được chính quyền hoặc người dân
tại cộng đồng tổ chức và quản lý một cách linh động và dễ tham gia đối với mọi người qua đó
tăng cường và củng cố sự hợp tác giữa các thành viên trong cộng đồng. Bằng việc tạo ra một
không khí học tập thuận tiện và thoải mái với nhiều cơ hội học tập và sự giúp đỡ thiết thực,
TTVH-HTCĐ sẽ giúp người dân tiếp cận và đạt được mục tiêu của mình trong việc tìm ra các
giải pháp để cải
thiện kỹ năng nghề nghiệp và kỹ năng sống.
TTVH-HTCĐ xã có chức năng tổ chức nhiều hoạt động về nhiều lĩnh vực:
- Phối hợp với các đơn vị giáo dục, các tổ chức xã hội trên địa bàn thực hiện chương trình xóa
mù chữ, giáo dục tiếp tục sau biết chữ (chống tái mù), phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập trung
học cơ sở, phổ cập trung học.
- Tổ chức các hoạt động học tập cộng đồng, bồi dưỡng và phổ biến kiến thức về mọi mặt sinh
hoạt đời sống kinh tế- xã hội, góp phần xây dựng phong trào học tập suốt đời cho mọi tầng lớp
nhân dân địa phương.
- Tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin tuyên truyền, thể dục thể thao nhằm đáp
ứng nhu cầu sinh hoạt và hưởng thụ văn hóa trong cộng đồng. Tuyên truyền các chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của địa phương.
- Liên kết với các đơn vị và các tổ chức kinh tế, xã hội thực hiện các chương trình
phổ biến kiến thức thuộc các lĩnh vực chuyên ngành nhằm mục tiêu nâng cao kỹ năng, chất
lượng nghề nghiệp, thúc đẩy sự phát triển kinh tế -xã hội của địa phương.
1.4.4. Kế hoạch thành lập và tổ chức bộ máy TTVH-HTCĐ
- Tùy theo vùng, miền và nhu cầu thực tế của cộng đồng mà các cấp quản lý nhà
nước địa phương tiến hành các bước thiết lập một TTVH-HTCĐ :
(1). Tuyên truyền, vận động người dân nhận thức về học tập suốt đời nhằm nâng
cao chất lượng cuộc sống .
(2). Điều tra, thu thập các thông tin cơ bản về cộng đồng như : vị trí địa lý; diện tích; dân số;
tình hình kinh tế, văn hóa, giáo dục và đời sống của người dân; phong tục tập quán và các vấn
đề xã hội trong cộng đồng; vấn đề sức khỏe, vệ sinh, môi trường; các nguồn lực sẵn có và tiềm
năng của địa phương. Đánh giá nhu cầu học tập của các thành viên trong cộng đồng, xem xét
các điều kiện cần thiết để hình thành TTVH-HTCĐ. Thống nhất tư tưởng và quan điểm học
tập, xác lập nhu cầu
học tập của cộng đồng.
(3). Xây dựng và trang bị cơ sở hạ tầng TTVH-HTCĐ.
(4). Vận động thành lập ban quản lý, điều hành TTVH-HTCĐ.
(5). Xây dựng mục tiêu, chương trình hành động của TTVH-HTCĐ .
(6). Tổ chức đội ngũ giảng viên, hướng dẫn viên.
(7). Huy động mọi nguồn lực, tiềm năng trong cộng đồng .
(8). Thiết lập hệ thống các mối quan hệ liên kết và hỗ trợ của các tổ chức xã hội và cá nhân.
(9). Tổ chức triển khai thực hiện các chương trình hành động .
(10). Kiểm tra, đánh giá chương trình hành động .
Đến nay cũng chưa có một khuôn mẫu thống nhất nào cho việc thiết lập một TTVH-
HTCĐ. Các bước trên cũng chỉ là kết luận được đúc kết từ sự tham khảo tài liệu ( nguồn
UNESCO Bangkok’s web, Myanmar The Community Learning Centre Experience) và nghiên
cứu thực tiễn tại một số TTVH-HTCĐ ở địa phương , do đó chắc chắn thứ tự các bước không
mang tính cố định.
Ðnh gi nhu cầu
Tổng hợp & phổ biến
Ln kế hoạch
Gim st & ðnh gi
Chu trình lập kế hoạch & quản lý
Tng cýờng nng lực
Huy ðộng v quản lý nguồn lực
Mạng lýới v lin kết
Pht triển học liệu ðịa phýng
Sơ đồ biểu thị mối quan hệ giữa các bước trong kế hoạch xây dựng và tổ chức TTVH-HTCĐ
Khi hội đủ các điều kiện phù hợp với quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục của địa
phương và đáp ứng nhu cầu học tập của cộng đồng, UBND xã, thị trấn - có tham khảo ý kiến
của phòng Giáo dục-Đào tạo và phòng Văn hóa-Thông tin- trình văn bản đề nghị UBND huyện
ra quyết định thành lập TTVH-HTCĐ xã, phường. Việc bổ nhiệm các chức danh của TTVH-
HTCĐ do UBND huyện, thị xã, thành phố ra quyết định trên cơ sở tuyển dụng và đề nghị
thống nhất của UBND xã, phường, Phòng Giáo dục và Đào tạo và Phòng Văn hóa thông tin-
Thể thao. Các chức danh này có tên gọi khác nhau tùy địa phương; nơi thì gọi là Ban quản lý,
nơi gọi là Ban điều hành; có nơi gọi là giám đốc TTHTCĐ; ở Bà Rịa-Vũng Tàu thống nhất tên
gọi những cán bộ quản lý TTVH-HTCĐ là Ban chủ nhiệm. Định biên chính thức của TTVH-
HTCĐ xã ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu gồm một chủ nhiệm, hai cán bộ chuyên trách và một hợp
đồng, các định biên này được bố trí theo chế độ kiêm nhiệm. Ngoài ra ban chủ nhiệm còn có
thể bao gồm các thành viên kiêm nhiệm khác là những đại diện các ban, ngành, đoàn thể ở địa
phương.
- Ban chủ nhiệm có trách nhiệm xây dựng kế hoạch, chương trình hoạt động cụ thể
theo tháng, quý, năm của TTVH-HTCĐ, xây dựng quy chế làm việc nhằm đảm bảo
cho hoạt động của TTVH-HTCĐ.
- Mỗi trung tâm, tùy theo điều kiện, nhu cầu mà hình thành một số tiểu ban/ tổ chuyên môn như
tiểu ban tuyên truyền vận động; tiểu ban thể dục thể thao; tiểu ban văn hóa quần chúng; tiểu
ban giáo dục , học tập cộng đồng; tiểu ban khuyến học;…
1.4.5. Mối quan hệ của TTVH-HTCĐ xã
+ Đối với cấp xã, phường :
- TTVH-HTCĐ xã chịu sự chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng ủy, UBND xã, chịu sự quản lý, kiểm tra
trực tiếp về việc thực hiện chỉ tiêu kế hoạch, nội dung, hình thức tổ chức các hoạt động của
TTVH-HTCĐ.
- TTVH-HTCĐ có mối quan hệ phối hợp, vận động, hỗ trợ liên kết thực hiện nghiệp vụ với các
ban, ngành, đòan thể và các tổ chức xã hội khác tại địa phương theo chức năng, nhiệm vụ và kế
hoạch tổ chức các hoạt động tại TTVH-HTCĐ.
+ Đối với cấp huyện, thị, thành phố :
TTVH-HTCĐ chịu sự quản lý nhà nước của Phòng Giáo dục-Đào tạo và Phòng
Văn hóa-Thông tin về các mặt hoạt động giáo dục, văn hóa thông tin và chỉ tiêu hàng năm.
Được sự hướng dẫn, hỗ trợ về chuyên môn nghiệp vụ của TTGDTX huyện, thị, thành phố.
+ Đối với cấp tỉnh :
- TTVH-HTCĐ xã là đơn vị hoạt động sự nghiệp thuộc hệ thống chuyên ngành văn hóa thông
tin và giáo dục cộng đồng do Sở Văn hóa-Thông tin và Sở Giáo dục-Đào tạo quản lý và chỉ đạo
theo chức năng của nhà nước quy định.
-TTVH-HTCĐ xã nằm trong hệ thống thiết chế hoạt động của Nhà văn hóa từ tỉnh đến cơ sở,
được Trung tâm văn hóa huyện, thị, thành phố hướng dẫn về nghiệp vụ
chuyên môn và phương pháp tổ chức các hoạt động văn hóa.
- Các đơn vị như TTGDTX , phòng Giáo dục-Đào tạo huyện, thị, thành phố, Hội Khuyến học
tỉnh, Đòan ca múa nhạc, Thư viện, Bảo tàng, Công ty văn hóa tổng hợp, Công ty phát hành
phim, chiếu bóng,… có trách nhiệm hướng dẫn, hỗ trợ về
hoạt động chuyên môn đối với TTVH-HTCĐ xã, phường.
Chương 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TRUNG TÂM VĂN HOÁ-HỌC TẬP CỘNG
ĐỒNG HUYỆN TÂN THÀNH
2.1. Tình hình phát triển kinh tế, xã hội và giáo dục tỉnh Bà Rịa-Vũng tàu.
2.1.1 Tình hình kinh tế, xã hội.
Tỉnh Bà Rịa - Vũng tàu nằm ở phía Đông khu vực Đông Nam bộ được thành lập vào
ngày 12-8-1991 bao gồm đặc khu Vũng Tàu - Côn đảo và 3 huyện Long Đất, Châu Thành và
Xuyên Mộc, tách ra từ tỉnh Đồng Nai theo Nghị quyết của Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, khóa VIII, kỳ họp thứ 9. Lãnh thổ bao gồm hai phần: phần đất liền có bắc giáp
ba huyện Long Thành, Long Khánh, Xuân Lộc tỉnh Đồng Nai, phía đông giáp huyện Hàm Tân
tỉnh Bình Thuận, phía tây giáp huyện Cần Giờ thành phố Hồ Chí Minh, phía nam và đông nam
giáp biển đông. Phần hải đảo có huyện Côn Đảo cách thành phố Vũng Tàu 200 km về phía tây
nam và cách mũi Cà Mau 200km. Thềm lục địa tỉnh tiếp giáp với quần đảo Trường Sa, nơi đây
chứa đựng hai loại tài nguyên quan trọng là dầu mỏ và hải sản. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 1.975,14 km2 .
Bà Rịa-Vũng Tàu nằm ở vị trí rất đặc biệt, đây chính là cửa ngõ của các tỉnh miền Đông Nam
bộ hướng ra biển Đông, có ý nghĩa chiến lược về đường hàng hải quốc tế, có hệ thống cảng
biển là đầu mối tiếp cận với các nước Đông Nam Á. Nguồn tài nguyên thiên nhiên khá phong
phú và đa dạng có rất nhiều triển vọng hội tụ nhiều tiềm năng để phát triển nhanh và toàn diện
các ngành kinh tế biển như dầu khí, cảng và vận tải biển, hải sản, du lịch. Đây là nơi trung
chuyển đi các nơi trong nước và quốc tế vì hội đủ điều kiện phát triển đồng bộ giao thông
đường bộ, đường biển, đường sắt, đường hàng không và khả năng phát triển thương mại và hợp
tác đầu tư với nước ngoài là rất lớn.
Theo số liệu thống kê năm 2004 thì dân số của tỉnh là 908.233 người. Dân cư phân bố ở
các địa bàn không đều. Thành phố và các thị xã có mật độ dân cư khá đông đúc trong khi ở
vùng nông thôn và hải đảo thì dân cư thưa thớt. Mật độ dân cư ở thành phố Vũng Tàu là 1.793 người/km2 trong khi đó ở Côn Đảo lại là 36 người /km2. Có năm dân tộc sinh sống trên địa bàn
tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, trong đó dân tộc Kinh chiếm khoảng 97,25%, dân tộc Hoa chiếm
khoảng 1,73%, dân tộc Khơme khoảng 0,15% , dân tộc Tày chiếm khoảng 0,07% và dân tộc
Châu Ro chiếm khoảng 0,08% dân số; một số ít không đáng kể những người thuộc các dân tộc
khác.
Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu có 08 đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh, gồm 01 thành phố (
Vũng Tàu), 01 thị xã ( Bà Rịa) và 06 huyện (Long Điền, Đất Đỏ, Tân Thành, Xuyên Mộc,
Châu Đức và Côn Đảo) với 49 xã, 24 phường, 06 thị trấn .
Thế mạnh của Bà Rịa-Vũng Tàu là nông - ngư nghiệp kết hợp dịch vụ du lịch và dầu khí
và hiện nay đang có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển công nghiệp và dịch
vụ một cách tích cực. Năm 2005, tỷ trọng công nghiệp, xây dựng: 82,57% - dịch vụ: 13,64% -
nông nghiệp: 3,8%.
Công nghiệp tiếp tục phát huy được lợi thế, giá trị sản xuất công nghiệp từ năm 2001
đến 2005 tăng 1,7 lần, tốc độ tăng 11,52%/năm.
Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng, doanh thu tăng bình quân 17,1%/năm trong đó:
dịch vụ du lịch phát triển trên diện rộng, doanh thu tăng 13,29%/năm; xuất khẩu có nhiều tiến
bộ, mở rộng thị trường, kim ngạch xuất khẩu tăng 16,46%/năm, riêng xuất khẩu hải sản tăng 5
lần sau 5 năm.
Các ngành nông nghiệp, ngư nghiệp đều có bước tăng trưởng khá, trong nông nghiệp cơ
bản đã cơ giới hóa các khâu sản xuất, giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 8%/năm trong đó trồng
trọt tăng 7,92%, chăn nuôi tăng 7,92% sau 5 năm; thủy sản tăng 10,8% /năm, sản lượng hải sản
nuôi tăng 3 lần so với năm 2000.
Trình độ dân trí được nâng lên, chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện; khoa học
công nghệ được quan tâm ứng dụng.
Các lĩnh vực văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ; hoàn thành chỉ tiêu xóa đói, giảm tỷ lệ hộ
nghèo; quan tâm thực hiện các chính sách và phúc lợi xã hội .
2.1.2 Tình hình phát triển giáo dục và đào tạo.
Trong những năm qua, tình hình giáo dục và đào tạo tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu
đã có nhiều chuyển biến tích cực, đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Toàn
ngành tập trung thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm như : tiếp tục thực hiện đổi mới chương trình
giáo dục phổ thông; đẩy mạnh phổ cập giáo dục bậc trung học; thực hiện giáo dục cho mọi
người, xây dựng xã hội học tập, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân và thực hiện công bằng
xã hội trong giáo dục; tập trung xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục; tiếp tục xây dựng mạng lưới trường lớp, xây dựng cơ sở vật chất nhà trường
theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, đồng bộ hóa; đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và hội nhập
giáo dục. [ 34]. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó vẫn còn một số vấn đề cần phải có giải
pháp căn cơ nhằm hướng đến mục tiêu phát triển giáo dục lâu bền trong thời gian tới.
a) Những kết quả đạt được :
- Chất lượng giáo dục các bậc học được nâng lên đáng kể. Đến cuối năm 2004, tỉnh hoàn
thành chỉ tiêu phổ cập giáo dục trung học cơ sở (THCS). Đầu tư cho giáo dục tăng nhanh,
chiếm tỷ lệ 14,8% tổng chi ngân sách địa phương, phát triển thêm nhiều trường học phổ thông
và mầm non đạt chuẩn quốc gia. Tính đến năm học 2006, đã có 59 trường đạt chuẩn quốc gia,
trong đó: 13 trường mầm non, 24 trường tiểu học, 15 trường THCS, 7 trường THPT.
- Về quy mô: hệ thống mạng lưới trường học phát triển tương đối nhanh. Năm học
2006-2007 toàn tỉnh có tổng cộng 113 trường mầm non, mẫu giáo và nhà trẻ với 190 cơ sở;
144 trường tiểu học với 2.852 lớp và 85.243 học sinh trong đó chỉ có 886 học sinh ngoài công
lập (0,96%) ; 70 trường THCS với 70.934 học sinh trong đó có 343 học sinh ngoài công lập
(0,46%); 27 trường THPT với 37.027 học sinh trong đó số học sinh ngoài công lập là 11.225
em (29,76%). Bình quân mỗi phường, xã có 1,5 trường mẫu giáo, mầm non , 02 trường tiểu
học, ít nhất 01 trường THCS. Mỗi huyện, thị xã, thành phố có bình quân 03 trường THPT.
Tổng số người đi học trong độ tuổi của toàn tỉnh là 241.281, bình quân cứ 04 người dân có 01
người đi học.
- Về đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, theo tinh thần chỉ thị 40-CT/TW
của Ban Bí thư TW Đảng và quyết định 09/2005/QĐTTg của Thủ tướng Chính phủ,
ngành đã xây dựng đề án triển khai kế hoạch đào tạo , bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý giáo
dục trong đó có việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên chưa đạt chuẩn và nâng chuẩn. Cho đến nay
toàn ngành có 1663 đảng viên tỷ lệ 14,5% so với 12.296 cán bộ, công chức, viên chức. Đội ngũ
giáo viên của ngành nhìn chung đã đạt chuẩn trình độ chuyên môn nghiệp vụ so với quy định:
giáo viên mầm non đạt 95,56% chuẩn và 9,8% trên chuẩn; giáo viên tiểu học có 3328/3625
giáo viên đạt chuẩn tỷ lệ 91,8%, trong đó có 21,25% giáo viên trên chuẩn; giáo viên THCS có
3301/3345 giáo viên đạt chuẩn tỷ lệ 98,68% trong đó có 1.112 giáo viên trên chuẩn tỷ lệ
33,2%; giáo dục THPT có 1.534 / 1.560 giáo viên đạt chuẩn tỷ lệ 98,33% và 7,05% trên chuẩn
[34].
- Huy động được 2550 học viên tham gia lớp xoá mù và 2118 học viên ra lớp sau xoá
mù. Huy động được 53 lớp với 1514 học viên lớp phổ cập giáo dục bậc trung học trong đó
huyện Tân Thành là đơn vị huy động tốt nhất với 16 lớp và 426 học viên. Có 7749 học viên
theo học các lớp ngoại ngữ, tin học tại các cơ sở ngoại ngữ - tin học trong tỉnh. [34].
- Trên địa bàn tỉnh có 32 trường đại học, cao đẳng mở liên kết đào tạo tại tỉnh với 7.282
sinh viên và 4.011 học viên trung cấp chuyên nghiệp. Trường Đại học Bà Rịa- Vũng Tàu được
thành lập và hoạt động theo cơ chế tư thục.
- Về đầu tư cho giáo dục, trong năm học 2006-2007, bằng nguồn vốn địa phương toàn
tỉnh đã xây dựng mới 482 phòng học với tổng số kinh phí trên 200 tỷ đồng. Hiện nay, hầu hết
là lớp học kiên cố, không có lớp học ca ba. Ngành đã đầu tư 15.554 tỷ đồng để trang bị máy vi
tính cho các trường THCS và THPT.
b.Những tồn tại cần giải quyết
- Chất lượng giáo dục toàn diện ở các vùng sâu, vùng xa chưa đạt do nhiều
nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chính là trình độ dân trí và nhận thức của người dân chưa
cao, một phần cũng do đời sống kinh tế khó khăn .
- Công tác xã hội hoá giáo dục còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng, tiến độ xã hội hoá
giáo dục chưa được như dự kiến chẳng hạn như sự bế tắc trong việc thành lập các cơ sở giáo
dục ngoài công lập , sự hạn chế hoạt động của các TTVH-HTCĐ xã,… .
- Ở một số đơn vị trường học, do thiếu giáo viên nên chưa đảm bảo việc giảng dạy một
số bộ môn như giáo dục thể chất, kỹ thuật, công nghệ, nhạc họa, tin học. Đội ngũ giáo viên còn
thiếu, chưa đồng bộ cũng là một khó khăn lớn cho việc triển khai đổi mới phương pháp dạy
học.
- Một số hiện tượng tiêu cực trong ngành đã được quan tâm, chấn chỉnh nhưng chưa
được khắc phục triệt để, chẳng hạn như việc lạm thu nhiều khoản ngoài quy định ở một số đơn
vị hay việc dạy thêm học thêm vẫn còn nhiều biến tướng .
- Một bộ phận không nhỏ cán bộ quản lý đơn vị trường học chưa được đào tạo, bồi
dưỡng kiến thức, nghiệp vụ quản lý, chưa phát huy hết vai trò trách nhiệm của mình, có lúc, có
nơi còn buông lỏng trong công tác quản lý nhà trường, quản lý chuyên môn, quản lý cơ sở vật
chất và quản lý tài chính. Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới
của sự nghiệp giáo dục [34].
Nhìn chung, giáo dục tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu trong những năm gần đây đã có rất nhiều
chuyển biến tích cực, khỏang cách giữa thành thị và nông thôn, đặc biệt là các vùng sâu, vùng
xa đã được rút ngắn dần, đáp ứng được nhu cầu học tập của nhân dân, tạo nền tảng vững chắc
trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh nhà. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều yếu
kém, bất cập về đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý, về cách thức quản lý cũng như tầm nhìn
chiến lược… và đây chính là mấu chốt cần cải tiến để nâng cao chất lượng giáo dục tỉnh nhà.
2.2. Tổng quan về huyện Tân Thành
2.2.1. Vị trí địa lý
Tân Thành nằm trên tuyến quốc lộ 51 nối Đồng Nai và thành phố Vũng Tàu,
là huyện cửa ngõ của tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu về hướng nam từ thành phố Biên Hòa. Huyện được
thành lập theo nghị định 45/CP ngày 02/06/1994 của Chính phủ và chính thức đi vào hoạt động
từ ngày 15/08/1994.
Về ranh giới hành chính huyện Tân Thành :
Phía Đông giáp huyện Châu Đức thuộc tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
Phía Tây giáp thành phố Vũng Tàu và huyện Cần Giờ TP Hồ Chí Minh.
Phía Nam giáp thị xã Bà Rịa tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
Phía Bắc giáp tỉnh huyện Long Thành tỉnh Đồng Nai.
2.2.2. Đặc điểm tự nhiên
Về thời tiết khí hậu : huyện Tân Thành nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa chung
của vùng Đông Nam bộ với khí hậu phân hóa thành hai mùa rõ rệt : mùa khô từ tháng 12 đến
tháng 4 và mùa mưa từ tháng 05 đến tháng 11.
Về địa mạo, địa chính, địa chất : Diện tích tự nhiên khoảng 337,94km2 , đất đai bằng
phẳng, chủ yếu là đất pha cát nên khá thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp và công nghiệp.
Về tài nguyên thiên nhiên : tài nguyên khoáng sản của huyện Tân Thành khá đa dạng,
đáp ứng được nhu cầu xây dựng và phát triển hạ tầng cho các khu công nghiệp trên địa bàn.
Đây là một lợi thế lớn có khả năng thu hút sự quan tâm đầu tư của các thành phần kinh tế.
Về chế độ thủy văn: địa bàn huyện chịu ảnh hưởng hệ thống sông rạch Thị Vải rất thuận
lợi cho việc phát triển hệ thống các cụm cảng ven sông tạo nhiều cơ hội về phát triển dịch vụ
cảng.
2.2.3. Tình hình xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, giáo dục huyện Tân Thành
Huyện Tân Thành có quy mô dân số là 112.000 người với mật độ khoảng 317 người /km2 . Gồm có 9 xã và 1 thị trấn : thị trấn Phú Mỹ và các xã Mỹ Xuân, Hắc Dịch, Châu Pha,
Tóc Tiên, Tân Phước, Tân Hòa, Tân Hải, Phước Hòa và Sông Xoài. Trong đó các xã Hắc Dịch,
Tóc Tiên, Châu Pha, Sông Xoài là các địa phương thuộc vùng sâu, kinh tế khó khăn. Huyện
Tân Thành nằm trong vùng trọng điểm phát triển công nghiệp phía Nam của chính phủ, có điều
kiện tự nhiên thuận lợi lại nằm sát với khu vực dầu khí, có trục quốc lộ 51 nối liền với đường
xuyên Á do vậy vốn của nhà nước và của nước ngoài đầu tư vào huyện Tân Thành rất lớn. Với
tổng vốn 3.956 tỷ USD trong đó vốn trong nước đầu tư là 2.349 tỷ với 38 dự án và vốn do nước
ngoài đầu tư là 1.607 tỷ USD với 43 dự án. Đến năm 2005 cả tỉnh có 9 khu công nghiệp thì đã
có 5 khu trên địa bàn huyện gồm khu công nghiệp Phú Mỹ I (954 ha), Mỹ Xuân A1 (300ha),
Mỹ Xuân A2 (370 ha), Mỹ Xuân B1 (222 ha) và khu công nghiệp Cái Mép (660 ha). Địa bàn
huyện đã và đang hình thành khu vực hành lang phát triển kinh tế dọc quốc lộ 51 về phía tây
bao gồm cụm các khu công nghiệp và cụm cảng với tầm cỡ quốc tế. Nhiều công trình, nhà máy
lớn đã đi vào hoạt động sản xuất ổn định mà quy mô nhất là tổ hợp các nhà máy điện Phú Mỹ,
nhà máy thép Phú Mỹ, thép VinaKyoel, nhà máy nghiền klin-ke Holcim, nhà máy phân đạm
Phú Mỹ, dự án đường ống dẫn khí Nam Côn sơn. Về cảng biển hiện có cảng BaRia Serece đã
hoạt động từ năm 1997. Dự án xây dựng cảng quốc tế Cái Mép-Thị Vải và nạo vét đường tàu
vào cảng Thị Vải có tổng vốn đầu tư 6.073 tỷ đồng; dự án cảng container- cảng Sai Gòn và Tập
đoàn SSA (Mỹ) đầu tư 160 triệu USD, cảng container- cảng Sai Gòn và Tập đòan APMT (Đan
Mạch) đầu tư 187 triệu USD dự kiến hòan thành vào năm 2010. Về tiểu thủ công nghiệp, hiện
nay đã có 821 cơ sở sản xuất bao gồm các ngành nghề phục vụ cho nhu cầu sản xuất và tiêu
dùng như khai thác đá, sản xuất vật liệu xây dựng, mộc dân dụng, chế biến nông sản, lương
thực, thực phẩm.
Nếu lấy mốc từ ngày thành lập huyện (1994) đến nay thì tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện
khá cao. Trong thời gian mười năm, tổng sản phẩm xã hội tăng bình quân 31,15% / năm và thu
nhập bình quân đầu người tăng từ 78 USD/năm/người năm 1994 lên 790 USD/năm/người năm
2005 (Nguồn: Phòng Thống kê huyện. 2006). Cơ cấu kinh tế trên địa bàn chuyển dịch theo
hướng công nghiệp- dịch vụ- nông nghiệp. Phương hướng mục tiêu năm năm tới (2006-2010)
của Đảng bộ huyện Tân Thành vẫn theo hướng tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn
huyện là công nghiệp- thương mại, dịch vụ- nông nghiệp. Riêng cơ cấu kinh tế của huyện tăng
mạnh theo hướng dịch vụ- công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp.
Dự báo một số chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội huyện Tân Thành đến năm 2005
- Phấn đấu đạt mức tăng trưởng tổng sản phẩm (GDP) của huyện giai đoạn 2006-2010 đạt tốc
độ tăng bình quân hàng năm 21,5% bao gồm : Công nghiệp địa phương tăng bình quân 24% /
năm; nông , lâm, ngư nghiệp tăng 6,8% / năm trong đó trồng trọt tăng 5%, chăn nuôi tăng
10,6%; thương mại-dịch vụ tăng 25% / năm.
- Giai đọan 2011-2015 dự kiến tăng trưởng GDP của huyện đạt khoảng 20,86% / năm.
- Thực hiện đồng bộ các biện pháp giảm tỷ lệ tăng dân số thời kỳ 2006-2010 còn 0,77% / năm.
Quy mô dân số đến năm 2010 là 150 ngàn người trong đó dân cư đô thị Phú Mỹ đạt 70 ngàn.
Bằng nhiều hình thức và mọi nguồn vốn đầu tư tạo việc làm, hàng năm có kế hoạch giải quyết
tốt lao động và việc làm theo hướng phát triển thêm nhiều ngành nghề, nhiều cơ sở công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp địa phương và mở thêm nhiều cơ sở dạy nghề để đào tạo tay nghề
cho lao động.
- Đầu tư nâng cao dân trí, phấn đấu đến 2010 cải thiện đáng kể điều kiện sống của các tầng lớp
dân cư bằng việc đầu tư y tế, văn hóa, thông tin, giao thông nông thôn, hệ thống điện lưới, … .
Phấn đấu đến năm 2010 giảm tỷ lệ hộ nghèo của huyện còn dưới 10%.
Bảng 2.1 : Dự kiến cơ cấu kinh tế huyện Tân Thành giai đoạn 2006-2015
Diễn giải 2001 2005 2010 2015
100 100 100 100 Tổng số (%)
- Công nghiệp - Xây dựng 15,5 24,5 27,2 31,04
-Thương mại- Dịch vụ 52,2 51 59,4 61,94
( Nguồn : Phòng Kinh tế huyện Tân Thành, 2005)
- Nông, lâm, ngư nghiệp 32,3 24,5 13,4 7,02
Về văn hóa, giáo dục
Trong những nm qua, theo đà phát triển kinh tế xã hội, văn hoá-giáo dục huyện Tân Thành
cũng đạt nhiều thành tựu đáng kể. Công tác phổ cập và xoá mù chữ hoàn thành từ những năm
đầu của thập niên 90; dân trí được nâng cao và số người lao động đã qua đào tạo tăng rõ rệt;
các cơ sở y tế được đầu tư cả về vât chất lẫn đội ngũ y, bác sĩ ( xem bảng 2.2); TTVH-HTCĐ
được xây dựng ở tất cả mười xã, thị trấn.
2005
Bảng 2.2 : Tình hình phát triển văn hóa- xã hội nm 2005 và kế hoạch 2006-2010
Chỉ tiêu
Đ.vị
Bình quân
I
06-10 5,5 7,4
01-05 5,4 2,8
2010 88.130 1.600
2009 83.540 1.400
2008 79.180 1.300
Dự kiến kế hoạch 2006-2010 2007 75.056 1.300
2006 71.143 1.200
67.435 1.160
Người Người
II
4,4
-3
200 125
200 120
200 115
200 110
200 105
200 100
Người Hộ
Lao động - Số người trong độ tuổi lao động. - Số lao động được giải quyết việc làm/năm Tạo việc làm mới - Số người có việc làm mới trong năm - Số hộ được vay vốn III Giáo dục -Mẫu giáo - Tiểu học - THCS - THPT
2,9 2,9 11,4 3,0
IV Y tế
-3 3,6 14,6 4,0
Cháu H.sinh H.sinh H.sinh Cơ sở Giường Bác sĩ
3.714 12.330 10.420 8.640 10 6,45 2,9
3.606 11.970 10.117 7.923 10 6,45 2,96
3.501 11.620 9.823 7.119 10 6,45 3,0
3.399 11.284 9.537 6.320 10 6,45 2,85
3.298 10.956 9.260 5.572 10 6,45 2,8
3.154 10.908 8.991 4.872 8 6,45 2,8
- Cơ sở khám chữa bệnh. - Số giường bệnh trên 10.000 dân - Số bác sĩ/10.000 dân
“Nguồn : UBND huyện Tân Thành : “Quy hoạch phát triển thương mại dịch vụ thời kỳ
2006-2015 , định hướng đến 2020” 2.3. Thực trạng hoạt động TTVH-HTCĐ tại huyện Tân Thành trong thời gian qua ( từ
năm 2005 đến nay)
2.3.1. Quá trình xây dựng và phát triển mô hình TTVH-HTCĐ ở tỉnh BR-VT .
Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu gồm 8 huyện, thị, thành phố trực thuộc : thành phố Vũng Tàu,
thị xã Bà Rịa, các huyện Tân Thành, Châu Đức, Xuyên Mộc, Long Điền, Đất Đỏ và huyện Côn
Đảo. Có 82 đơn vị hành chánh cấp phường, xã, thị trấn : thành phố Vũng Tàu có 17 phường;
thị xã Bà Rịa có 11 phường; huyện Côn Đảo không có đơn vị xã; huyện Long Điền có 6 xã, 1
thị trấn; huyện Đất Đỏ có 7 xã, 1 thị trấn; huyện Xuyên Mộc có 12 xã, 1 thị trấn; huyện Châu
Đức có 15 xã, 1 thị trấn và huyện Tân Thành có 9 xã, 1 thị trấn.
Từ năm học 2000-2001, sở Giáo dục- Đào tạo ( sở GD-ĐT) đã cử các chuyên
viên tham dự các lớp tập huấn, hội thảo chuyên đề về xây dựng và phát triển các
TTHTCĐ do Bộ Giáo dục-Đào tạo tổ chức. Tháng 03/2001, sở GD-ĐT tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu
đã triển khai, tập huấn cho các cán bộ, giáo viên các TTGDTX huyện, thị để các thành viên
nắm bắt mô hình mới thuộc hệ thống giáo dục không chính quy, mô hình này đã được xây
dựng và phát triển ở nhiều nước trên thế giới và cũng đã được xây dựng thí điểm ở một số tỉnh,
thành trên toàn quốc. Sở GD-ĐT cũng đã hướng dẫn nghiệp vụ cho các cán bộ, giáo viên các
TTGDTX về phương thức tổ chức hoạt động của TTHTCĐ xã, phường và phương pháp dạy
các chuyên đề trong thời gian bồi dưỡng thường xuyên hè 2002, 2003.
Ngày 27/09/2002 UBND tỉnh có công văn số 824/VP-UB đồng ý cho phép Sở GD-ĐT triển
khai đề án xây dựng TTHTCĐ thí điểm giai đoạn 2002-2005. Sở GD-ĐT đã phối hợp với hội
Khuyến học tỉnh và UBND huyện Tân Thành để trao đổi biện pháp thực hiện. Năm 2002,
UBND tỉnh quyết định chọn hai xã Phước Hòa (huyện Tân Thành) và Phước Thạnh (huyện
Long Điền) làm thí điểm; và trên thực tế phong trào giáo dục cộng đồng ở hai địa phương này
phát triển khá tốt nhưng cũng chỉ tập trung chủ yếu vào việc huy động người dân tham gia hoạt
động xóa mù chữ, sau xóa mù chữ và hỗ trợ các trường trung học cơ sở trong công tác phổ cập
giáo dục.
Báo cáo sơ kết ba năm thực hiện đề án xây dựng TTHTCĐ giai đoạn 2002-2005 cho thấy việc
xây dựng TTHTCĐ đã được chính quyền các địa phương chú trọng, tuy nhiên do chưa có quy
chế tổ chức và hoạt động TTHTCĐ nên mỗi nơi thực hiện mỗi cách nhất là về cơ cấu tổ chức
nhân sự , nội dung học tập và nguồn kinh phí hoạt động. Tính đến tháng 12/2006, số lượng
TTHTCĐ v TTVH-HTCÐ trên toàn tỉnh như sau:
- Năm 2002 : 02 TTHTCĐ thí điểm
- Năm 2003 : 9 TTHTCĐ
- Năm 2004 : 17 TTHTCĐ
- Năm 2005 : 25 TTVH-HTCĐ
- Năm 2006 : 59 TTVH-HTCĐ
Sở dĩ số lượng TTVH-HTCĐ tăng vọt vào năm 2006 là do trong quá trình thực hiện đề án xây
dựng TTHTCĐ giai đoạn 2002-2005 lãnh đạo chính quyền và các ban, ngành nhận thấy hoạt
động giáo dục, học tập của TTHTCĐ gắn liền với các hoạt động văn hóa của các trung tâm văn
hóa ( hoặc tụ điểm văn hóa) xã, phường vốn đã và đang tồn tại ở địa phương nên UBND tỉnh
giao cho Sở GD-ĐT kết hợp với Sở Văn hóa- Thông tin và Hội Khuyến học tỉnh xây dựng đề
án xây dựng mô hình TTVH-HTCĐ và đề án đó được UBND tỉnh phê duyệt đồng thời UBND
tỉnh cũng ban hành “Quy chế tạm thời tổ chức hoạt động Trung tâm Văn hóa- Học tập cộng
đồng xã, phường tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu” kèm theo Quyết định số 5114/2004-QĐ-UB ngày
16/07/2004 của UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Trên cơ sở pháp lý đó, tiến trình xây dựng và
phát triển TTVH-HTCĐ ở Bà Rịa-Vũng Tàu đi vào hoạt động có định hướng, quy cũ hơn.
Đề án “ Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2006-2010” của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cũng
nêu rõ các chỉ tiêu cụ thể mà ngành giáo dục tỉnh cần phấn đấu để hoàn thành trong đó rất chú
trọng đến giáo dục không chính quy và hoạt động của các TTVH-HTCĐ :
- Nâng cao kết quả xóa mù chữ, phấn đấu tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi 15 trở lên từ 97%
năm 2006 tăng 98% vào năm 2010; trong số đó đạt tỷ lệ 100% đối với người dân có độ tuổi từ
15 đến 35. Huy động đối tượng trẻ em không có điều kiện theo học hệ chính quy theo học
chương trình phổ cập đạt 70% đối với trẻ từ 6 đến 10 tuổi và trên 60% đối với trẻ từ 11 đến 14
tuổi.
- Phấn đấu trên 95% số cán bộ xã, phường, thị trấn và các huyện, thị xã, thành phố được học
tập, bồi dưỡng cập nhật kiến thức về quản lý, pháp luật, kinh tế, xã hội nhằm nâng cao năng lực
công tác cho đội ngũ này.
- Phấn đấu đạt tỷ lệ 100% cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước
được tham gia các khóa đào tạo và đào tạo lại, bồi dưỡng, nâng cao trình độ về
chuyên môn, nghiệp vụ, quản lý, lý luận chính trị, tin học và ngoại ngữ.
- Phấn đấu đến 2010 đạt tỷ lệ 90% số người lao động trong các lĩnh vực nông, lâm,
ngư nghiệp được tiếp cận và thụ hưởng các chương trình bồi dưỡng giúp người lao động nâng
cao tầm hiểu biết, khả năng lao động, sản xuất, và nâng cao chất lượng cuộc sống.
- Phấn đấu huy động số thanh, thiếu niên trong độ tuổi vào học ở các trường trung
học phổ thông, trung học cơ sở, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề và bổ túc văn
hóa đạt tỷ lệ trên 90%.
- Phấn đấu đạt chuẩn công tác phổ cập giáo dục trung học cơ sở đúng độ tuổi vào năm 2009 và
phổ cập giáo dục bậc trung học vào cuối năm 2010.
Để thực hiện được các mục tiêu đó, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nói chung và nhân dân huyện Tân
Thành nói riêng còn phải nỗ lực rất nhiều, phải đầu tư cả về cơ sở vật chất lẫn đầu tư về vốn
con người cho hoạt động giáo dục địa phương. Đến nay, theo báo cáo tình hình hoạt động của
TTVH-HTCĐ năm 2006 thì đã có 37/ 67 TTVH-HTCĐ được trang bị phương tiện truyền
thông gồm hệ thống loa phát thanh, một tivi màn hình 52 inches, một dàn máy vi tính. Các
TTVH-HTCĐ được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng gồm hội trường có sức chứa tối thiểu 100
người, một vài phòng chức năng, thư viện sách báo, phòng truyền thống và một sân khấu ngoài
trời. Sự đầu tư đó góp phần tạo điều kiện tích cực thúc đẩy phong trào học tập, văn hóa, văn
nghệ ở xã, phường phát triển. Số lượng các TTVH-HTCĐ tăng nhanh và các hoạt động của
trung tâm cũng đa dạng, phong phú và thiết thực hơn. Cuối năm 2006 toàn tỉnh đã có 67
TTVH-HTCĐ, đạt 81,7% trên tổng số xã, phường, thị trấn trong tỉnh. Số chuyên đề báo cáo ở
các TTVH-HTCĐ và số người tham gia cũng tăng vọt so với những năm đầu. Chỉ tính riêng hai
năm 2005 và 2006 các TTVH-HTCĐ đã tổ chức báo cáo được 291 chuyên đề về cải tiến
phương pháp chăn nuôi, trồng trọt, cách sử dụng các loại phân bón và thuốc trừ sâu an toàn; về
an toàn vệ sinh thực phẩm; về ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường; về kế hoạch dân số,… với số
người tham dự là 22.441 lượt; bên cạnh đó việc vận động học viên tham dự các lớp xóa mù chữ
và sau xóa mù chữ cũng được thực hiện hiệu quả hơn, số người học trong toàn tỉnh là 7.921
người (nguồn: Phòng Giáo dục thường xuyên Sở GD-ĐT, 2007).
2.3.2. Thực trạng hoạt động của TTVH-HTCĐ ở huyện Tân Thành.
Huyện Tân Thành được thành lập chưa lâu (1994) và do đặc điểm là địa phương có
nhiều khu công nghiệp mới xây dựng nên tình hình dân số nhiều biến động, kinh tế - xã hội
phát triển nhanh nhưng chưa ổn định kéo theo sự phức tạp không thể tránh khỏi của hệ thống
giáo dục địa phương . Riêng về TTHTCĐ, năm 2002 trên địa bàn huyện có xã Phước Hòa được
chọn xây dựng thí điểm mô hình TTHTCĐ. Tuy nhiên lúc ấy chưa có quy chế và phương
hướng hoạt động cũng như tài liệu học tập nên hoạt động của TTHTCĐ xã Phước Hòa cũng chỉ
xoay quanh công tác xóa mù chữ và chống tái mù chữ cho nhân dân trong xã. Ngoài ra còn có
thêm một lớp phổ cập trung học cơ sở được tổ chức tại TTHTCĐ xã với sự tham gia giảng dạy
của các giáo viên đang công tác tại các trường trung học cơ sở trên địa bàn xã nhưng với mức
kinh phí bồi dưỡng quá khiêm tốn nên sự nhiệt tình lúc đầu của các giáo viên nhanh chóng
giảm sút. Để tìm hướng đi cho hoạt động TTVH-HTCĐ, huyện Tân Thành đã tổ chức đoàn cán
bộ gồm đại diện Huyện Uỷ, đại diện UBND huyện, tuyên giáo, đại diện TTGDTX huyện và hai
cán bộ chuyên trách xã Phước Hoà tham quan học tập mô hình TTHTCĐ các tỉnh phía bắc.
Tuy nhiên chuyến công tác ấy cũng không mang lại kết quả gì đáng kể vì đặc điểm vùng miền,
đặc điểm văn hoá, kinh tế, xã hội khác nhau.
Sau khi có sự sáp nhập TTHTCĐ và trung tâm văn hóa xã đồng thời có quy chế tạm thời
tổ chức hoạt động TTVH-HTCĐ được UBND tỉnh ban hành vào tháng 07 năm 2004, việc xây
dựng và tổ chức hoạt động TTVH-HTCĐ xã mới bắt đầu có chiều hướng chuyển động và phát
triển. Đến cuối năm 2006 cả mười xã, thị trấn thuộc huyện đều có TTVH-HTCĐ do UBND
huyện ra quyết định thành lập và chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng ủy, UBND xã, thị
trấn và sự quản lý nhà nước của Phòng GD-ĐT và Phòng Văn hóa-Thông tin- Thể thao huyện,
thị. Do hoạt động học tập cộng đồng là một đề tài khá mới và chưa có một quy chuẫn nào nên
hầu hết các TTVH-HTCĐ chỉ tập trung chủ yếu vào các hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục
thể thao theo từng đợt phong trào và tổ chức một số mô hình câu lạc bộ như câu lạc bộ yêu
nhạc, câu lạc bộ mỹ thuật, câu lạc bộ thơ ca cho người lớn tuổi, câu lạc bộ cầu lông... chứ chưa
có kế hoạch hoạt động học tập cộng đồng lâu dài và ổn định. Trong toàn huyện chỉ có duy nhất
TTVH-HTCĐ xã Hắc Dịch tổ chức và duy trì được hai đội bóng đá thiếu nhi, một lớp vẽ, một
lớp nhạc, một đội văn nghệ và tổ chức được vài buổi nói chuyện chuyên đề nhưng chỉ xoay
quanh chủ đề chăn nuôi (nhà máy chế biến thức ăn gia súc CP tài trợ và giới thiệu) và trồng trọt
( hướng dẫn sử dụng thuốc bảo vệ thực vật). Qua khảo sát thực tế, người viết ghi nhận thực
trạng hoạt động của các TTVH-HTCĐ tại địa phương còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu.
Khảo sát thực trạng về nhận thức của người dân và của cán bộ, giáo viên về XHHGD và
việc xây dựng XHHT, người viết hiểu ra rằng công tác tuyên truyền, vận động đóng vai trò rất
quan trọng trong công cuộc xây dựng XHHT của địa phương.
Số phiếu hỏi để thăm dò ý kiến người dân về nhận thức của họ và về hoạt động của các
TTVH-HTCĐ được phát ra là 450. Số phiếu thu về là 311 phiếu nhưng qua xử lý chỉ có 266
phiếu là có giá trị. Hầu hết những đối tượng đươc khảo sát đều nhận thức mơ hồ về khái niệm
xã hội hoá giáo dục và phong trào xây dựng xã hội học tập trên toàn quốc và tại địa phương. Tỉ
lệ người có nghe nói đến hoặc có biết về xã hội hoá giáo dục ( 54,13%) , xã hội học tập
(68,80%) và TTVH-HTCĐ (40,22%) là một tỉ lệ rất thực trong đó số người biết về hoạt động
của TTVH-HTCĐ còn hạn chế vì khái niệm TTVH-HTCĐ và thông tin về các hoạt động của
nó rất ít khi được đề cập trên các phương tiện thông tin đại chúng như hai thuật ngữ xã hội hoá
giáo dục và xã hội học tập. Đặc biệt tỉ lệ người dân có tham gia sinh hoạt, học tập tại các
TTVH-HTCĐ rất hạn chế - 11,65% số người được hỏi - ( xem bảng 2.3)
Bảng 2.3 Nhận thức của người dân về xã hội học tập
Có Nội dung câu hỏi
%
Không %
SL 144 54,13
SL 122 45,87
T T 1 Quý vị từng nghe nói đến xã hội hóa giáo dục 2 Quý vị từng nghe báo, đài tuyên truyền về phong trào xây dựng xã hội học tập trong toàn dân 3 Quý vị có biết đến TTVH-HTCĐ ở địa phương
và có quan tâm đến hoạt động của nó.
183 107 94 68.80 40,22 35,33 83 159 172 31,20 59,78 64,67 4 Chính quyền và các tổ chức đoàn thể thường tổ chức cho người dân sinh hoạt, học tập tại các TTVH-HTCĐ.
97 36,46 169 63,54
5 Các buổi học tập, trao đổi kinh nghiệm tại TTVH-HTCĐ (nếu có) đều có chủ đề và nội dung thiết thực đối với nhu cầu của người dân. 6 Bản thân quý vị đã bao giờ tham gia sinh hoạt tại 31 11,65 235 88,35 TTVH-HTCĐ.
Thực tế, việc có nghe nói đến hoặc có biết các khái niệm trên là một chuyện còn việc hiểu các
khái niệm đó như thế nào lại là chuyện khác. Để chứng minh, người viết đã khảo sát bằng
phiếu hỏi 156 đối tượng là giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, cán bộ các ban ngành trên địa
bàn huyện. Con số thu được cho thấy rằng ngay cả những người đang làm công tác giáo dục
hoặc đang chịu trách nhiệm về sự nghiệp giáo dục tại địa phương nơi mình quản lý cũng chưa
hoàn toàn thống nhất về cách hiểu khái niệm “xã hội hoá giáo dục” (xem bảng 2.4). Con số
86,54% cán bộ, giáo viên được hỏi cùng đồng ý với nội dung 1, 3 và 4 chứng tỏ rằng đa số
những người đang công tác trong ngành hoặc chịu trách nhiệm về hoạt động giáo dục đều hiểu
được ý nghĩa bao hàm của XHHGD. Tuy vậy khi được hỏi nội dung nào là đúng nhất, phù hợp
nhất với khái niệm XHHGD thì chỉ có 42/156 (26,92%) chọn nội dung 4 là nội dung được xem
là chuẩn nhất; số phiếu còn lại hoặc chọn sai lệch hoặc không trả lời. Thật đáng ngại là một số
khá đông đối tượng được khảo sát ( 53,85% và 63,46%) lại nghĩ đơn giản rằng muốn đẩy mạnh
XHHGD chỉ cần tập trung phát triển hệ thống giáo dục không chính quy (nội dung 5) hay đơn
giản hơn nữa là chỉ
cần xây càng nhiều loại trường càng đạt được mục tiêu XHHGD ( nội dung 6)
Bảng 2.4 . Nhận thức của cán bộ, giáo viên về XHHGD
Theo thầy cô, anh chị, “xã hội hoá giáo dục” là :
TT
Đồng ý
Tỉ lệ
Nội dung
135 86,54 1 Mọi người đều phải có trách nhiệm và đều được hưởng quyền lợi về giáo dục.
12 7,69 2 Nhà nước bao cấp toàn bộ về giáo dục đối với mọi cấp học, bậc học.
135 86,54 3 Mọi ngành, mọi cơ quan, tổ chức đều có nghĩa vụ tham gia hoạt động giáo dục.
42 26,92 4 Xã hội đóng góp về nhân lực, vật lực, tài lực cùng với Nhà nước chăm lo sự nghiệp giáo dục.
84 53,85 5 Xây dựng và phát triển mạnh hệ thống giáo dục thường xuyên và giáo dục không chính quy.
99 63,46 6 Xây dựng nhiều loại hình trường lớp ở khắp mọi vùng, miền.
Đáng ngại hơn nữa, còn một bộ phận không nhỏ (7,69%) cán bộ, giáo viên đến nay vẫn còn “ảo
tưởng” : XHHGD là nhà nước phải bao cấp toàn bộ, đây quả là một cách hiểu lệch lạc mà lỗi
chính là do số cán bộ, giáo viên này thiếu thông tin hoặc do thái độ chưa quan tâm thật sự đến
sự nghiệp giáo dục toàn dân.
Về khái niệm XHHT cũng được khảo sát qua đối tượng cán bộ, giáo viên. Nếu đối với
người dân, mức độ chỉ nghe nói đến phong trào xây dựng XHHT qua các phương tiện thông tin
đại chúng chiếm tỷ lệ khá cao thì ngược lại số lượng cán bộ, giáo viên hiểu đúng ý nghĩa của
cuộc vận động xây dựng XHHT ( nội dung 1 và 6) chiếm đa số với tỷ lệ 92,31% ( xem bảng
2.5). Điều này nói lên rằng công cuộc xây dựng XHHT là sự nghiệp giáo dục của toàn Đảng,
toàn dân đã được Đảng và Nhà nước triển khai rộng khắp trên toàn quốc. Người dân dù có trình
độ hay không, có việc làm hay thất nghiệp và dù thuộc lứa tuổi nào cũng ít nhiều biết đến hoặc
Bảng 2.5 . Nhận thức của cán bộ, giáo viên về XHHT
quan tâm đến công cuộc xây dựng XHHT đang diễn ra trên khắp mọi miền đất nước.
Mục đích phong trào xây dựng xã hội học tập :
TT
Đồng ý
Tỉ lệ
Nội dung
144 92,31 1 Xây dựng ý thức thường xuyên tự học, tự nâng cao trình độ nhận thức của mỗi người trong cộng đồng.
87 55,77
2 Xây dựng ý thức trách nhiệm của mỗi gia đình, dòng họ, thôn xóm, hay của mỗi cơ quan, đơn vị đối với việc học tập, nâng cao trình độ nhận thức của mọi người.
58 37,18 3 Phát huy hiệu quả hệ thống giáo dục thường xuyên và giáo dục không chính quy.
33 21,15 4 Giáo dục miễn phí cho mọi người dân.
85 54,49 5 Tạo nên sự công bằng trong giáo dục đối với mọi tầng lớp nhân dân.
144 92,31 6 Tạo điều kiện và cơ hội cho mọi người tiếp cận với giáo dục ở mọi lúc, mọi nơi, mọi cấp học, mọi trình độ.
Số liệu khảo sát trên cho thấy cả người dân và cán bộ, giáo viên đều có nghe, có biết về phong
trào xây dựng XHHT nhưng khi khảo sát về mức độ quan tâm của họ đối với hoạt động của các
TTVH-HTCĐ thì kết quả không mấy khả quan , phần lớn người dân không quan tâm hoặc
quan tâm chiếu lệ đến hoạt động của TTVH-HTCĐ tại địa phương, có lẻ một phần do sự nghèo
nàn trong các mặt hoạt động của trung tâm, trong 266 đối tượng khảo sát chỉ có 33 người
(12,40%) có thái độ quan tâm đến hoạt động của trung tâm mà thôi (xem bảng 2.6). Chính điều
này phần nào đã phản ánh thực trạng của các TTVH-HTCĐ tại địa phương. Ngay cả những
người rất quan tâm hoặc có quan tâm đến hoạt động của TTVH-HTCĐ khi được hỏi cũng chỉ
trả lời qua quít, không nêu được những hoạt động học tập có hiệu quả tích cực lẽ ra phải có của
một TTVH-HTCĐ đối với cuộc sống cộng đồng mà chủ yếu chỉ biết đến các hoạt động văn
nghệ, thể thao, giải trí. Như vậy là trong ý thức người dân thì TTVH-HTCĐ có chức năng
chẳng khác gì nhà văn hoá hoặc tụ điểm văn hoá xã phường vốn có trước đây.
Bảng 2.6 . Mức độ quan tâm của người dân đến hoạt động của TTVH-HTCĐ
Mức độ S ố lượng Tỉ lệ
Rất quan tâm 6 2,26
Quan tâm 27 10,15
Quan tâm một cách chiếu lệ 41 15,41
Không quan tâm 192 72,18
Một điều rất đáng quan tâm nữa là có lẽ những cán bộ lãnh đạo địa phương cũng có nhận thức
tương tự với người dân về khía cạnh này nếu như ta nhìn vào cơ cấu ban chủ nhiệm trung tâm
với bốn định biên ( kiêm nhiệm) chính thức : một chủ nhiệm là cán bộ phụ trách văn hoá- thông
tin xã, thị trấn; hai cán bộ chuyên trách gồm một người phụ trách mảng văn hoá, văn nghệ, một
người phụ trách mảng thể dục-thể thao, thông tin - tuyên truyền ; một nhân viên hợp đồng làm
công tác bảo vệ. Hoạt động học tập cộng đồng chỉ giao cho cán bộ phụ trách công tác phổ cập
giáo dục tại các xã, thị trấn hoặc vận động cán bộ làm công tác thanh thiếu niên xã, thị trấn
kiêm nhiệm.
Ban chủ nhiệm chủ yếu là các thành viên chuyên công tác về lĩnh vực văn hoá thông tin nên rất
ít quan tâm đến các chuyên đề cần thiết nên tổ chức cho người dân học tập tại TTVH-HTCĐ.
Bằng phương pháp phỏng vấn các cán bộ và cộng tác viên phụ trách các TTVH-HTCĐ các xã,
người viết đã ghi nhận được một thực tế ở tất cả 8 xã, thị trấn có cán bộ trung tâm được hỏi ý
kiến đều cho rằng TTVH-HTCĐ rất khó có điều kiện về nhân lực và vật lực để tổ chức lớp học
dù chỉ là ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu học tập của người dân ở địa phương. Hơn nữa, cán bộ
phụ trách các TTVH-HTCĐ cũng chưa đủ “tầm” để nghiên cứu hoặc tìm hiểu các chuyên đề
thiết thực để vận động người dân tham gia học tập. Đa số cán bộ quản lý có cùng ý kiến về việc
quản lý và điều hành hoạt động TTVH-HTCĐ là khó khăn và rất khó khăn vì nhiều nguyên
nhân, nhưng ngoài khó khăn về tài liệu, nội dung học tập thì nổi bật nhất vẫn là hai vấn đề con
người và cơ sở vật chất cũng như kinh phí hoạt động. Có 5/8 chủ nhiệm TTVH-HTCĐ không
thể đề ra kế hoạch hoạt động lâu dài cho trung tâm vì thiếu trang, thiết bị , thiếu tài liệu và kinh
phí. Không những thế, có những cán bộ phụ trách trung tâm còn làm đơn xin nghỉ công tác vì
lý do rất “nhạy cảm” : đồng lương quá thấp .
TTVH-HTCĐ xã là đơn vị sự nghiệp văn hoá giáo dục ở cơ sở thực hiện phương châm “ Nhà
nước và nhân dân cùng làm” nên khoản kinh phí được cấp hàng năm được trích từ ngân sách
nhà nước ở các địa phương còn tuỳ thuộc vào “hầu bao” của từng địa phương. Theo Đề án
nâng cao chất lượng hoạt động Trung tâm văn hoá xã, phường ban hành kèm Quyết định số
7210/QĐ.UB ngày 19/08/2002 và Quy chế tạm thời hoạt động TTVH-HTCĐ xã ban hành kèm
theo Quyết định số 5114/2004/QĐ.UB ngày 16/07/2004 của UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu,
mỗi TTVH-HTCĐ ở xã, thị trấn được chi “trọn gói” theo hai mức hoặc 55 triệu hoặc 80 -100
triệu cho một năm hoạt động tuỳ theo quy mô và tần suất hoạt động của mỗi trung tâm, trong
đó tính cả tiền lương của ban chủ nhiệm và bảo vệ. Hiện nay lương căn bản của cán bộ chuyên
trách từ 700 - 750 ngàn đồng, bảo vệ 550 - 600 ngàn đồng và tiền hỗ trợ, bồi dưỡng cho chủ
nhiệm (là cán bộ văn hoá thông tin xã kiêm nhiệm) với hệ số phụ cấp 0,3 theo mức lương cơ
bản. Chưa tính việc chi trả thù lao các giảng viên, hướng dẫn viên kiêm nhiệm, tiền điện, nước,
... thì số tiền lương của các thành viên ban chủ nhiệm của TTVH-HTCĐ xã đã chiếm gần 50%
tổng kinh phí / năm. Như vậy kinh phí chi cho hoạt động thường xuyên của các trung tâm là rất
hạn chế.
2.4. Đánh giá thực trạng hoạt động TTVH-HTCĐ ở huyện Tân Thành :
2.4.1. Những việc làm được :
- Mô hình TTHTCĐ đã là một khái niệm khá mới trong phong trào xây dựng cả nước thành xã
hội học tập , trên cả nước chưa có một điển hình nào và cũng chưa có cuộc hội thảo chính thức
nào bàn về kinh nghiệm tổ chức các TTHTCĐ. Ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu và huyện Tân Thành
nói riêng, việc sáp nhập TTHTCĐ và nhà văn hóa địa phương để thành lập một đơn vị gọi là
TTVH-HTCĐ lại càng mới mẻ hơn. Tuy nhiên với mô hình TTVH-HTCĐ các lĩnh vực hoạt
động của nó được mở rộng hơn, phong phú và đa dạng hơn. Đây cũng là một yếu tố mới của
mô hình TTHTCĐ giúp cho nhiều người, nhiều đối tượng được tiếp cận và tham gia sinh hoạt,
học tập tại trung tâm.
- Thực hiện Quy chế tạm thời tổ chức hoạt động TTVH-HTCĐ xã, phường, thực hiện Đề án
“Nâng cao chất lượng hoạt động trung tâm văn hoá xã, phường” và các văn bản chỉ đạo của
UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu , UBND huyện Tân Thành chỉ đạo đẩy mạnh việc xây dựng và tổ
chức hoạt động các TTVH-HTCĐ xã, thị trấn và giao trách nhiệm quản lý các trung tâm cho
UBND xã, thị trấn. Nếu chưa xét đến tính hiệu quả về hoạt động của các TTVH-HTCĐ , có
nghĩa là nếu chỉ tính về mặt số lượng, thì kể từ khi xã Phước Hoà được chọn xây dựng một
TTVH-HTCĐ thí điểm vào năm 2002 đến nay tuy chỉ là một khoảng thời gian ngắn không đầy
5 năm nhưng toàn huyện đã có 10 TTVH-HTCĐ ở khắp 10 xã, thị trấn trong huyện. Vật tư,
thiết bị được chú ý đầu tư cho các trung tâm tuy chưa đầy đủ và hiệu quả nhưng phần nào cũng
thể hiện được mức độ quan tâm của các cấp chính quyền đối với
mảng hoạt động này.
- UBND huyện đã ra quyết định công nhận Ban Chủ nhiệm của các TTVH-HTCĐ xã do
UBND các xã, thị trấn đề xuất có sự tham mưu của Phòng Giáo dục và Phòng Văn hoá-Thông
tin- Thể thao huyện. Hiện nay 10/10 TTVH-HTCĐ xã, thị trấn đều có ban chủ nhiệm chịu trách
nhiệm chính về kế hoạch tổ chức và điều hành hoạt động của trung tâm. Tuy năng lực của các
ban chủ nhiệm các trung tâm chưa đồng nhất nhưng việc công nhận các ban chủ nhiệm của các
trung tâm thể hiện tính chuyên môn hóa hoạt động của trung tâm đồng thời cũng thể hiện tính
trách nhiệm cao hơn của ban chủ nhiệm đối với mô hình này.
- Các TTVH-HTCĐ đã tổ chức và thực hiện nhiều hoạt động văn hoá, văn nghệ, và dù kinh
phí hạn hẹp nhưng vẫn có những trung tâm như TTVH-HTCĐ xã Hắc Dịch, xã Mỹ Xuân duy
trì được hoạt động về phong trào văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao khá bài bản và thường
xuyên góp phần vào việc tạo sân chơi lành mạnh cho trẻ trong độ tuổi vị thành niên. Sau khi
được xây dựng hạ tầng, các TTVH-HTCĐ các xã, thị trấn đều trở thành trung tâm tổ chức hoạt
động văn hoá,
văn nghệ, các buổi hội thảo chuyên đề và hoạt động hè cho thiếu nhi trên địa bàn.
- Góp sức cùng phòng Văn hoá -Thông tin -Thể thao cấp huyện đảm nhận chức năng thông tin
tuyên truyền, phổ biến pháp luật ở thôn, xã, nhất là các xã vùng sâu, nơi mà bà con còn thiếu
các phương tiện thông tin như đài, báo; tạo nên những tác động tích cực trong nhân dân về việc
nắm bắt và thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
- Các TTVH-HTCĐ xã phối hợp với Trung tâm Giáo dục thường xuyên huyện tổ chức các lớp
phổ cập, góp phần khá lớn trong việc duy trì và thực hiện tốt công tác xoá mù, công tác phổ cập
các bậc học như tiểu học, trung học cơ sở, trung học cơ sở đúng độ tuổi và phổ cập bậc trung
học.
- Một phong trào tự phát của người dân địa phương nhanh chóng lan rộng nhờ sự hiện hữu của
các TTVH-HTCĐ. Đó là số lượng người tham gia tập thể dục buổi sáng và lúc chiều tối tại các
TTVH-HTCĐ ngày càng tăng vì với khuôn viên khá
thoáng các trung tâm này tạm được xem như các công viên nhỏ ở các xã, thị trấn.
2.4.2. Những việc chưa làm được và nguyên nhân của nó:
- Công tác tuyên truyền vận động về ý nghĩa và mục đích hoạt động của TTVH-HTCĐ chưa
được các cấp chính quyền, các ban ngành đoàn thể và ngay chính ban chủ nhiệm trung tâm
quan tâm đúng mức. Hầu như người dân không được tiếp cận với hoạt động của các trung tâm
này ngoại trừ một bộ phận người dân có tham gia công tác xã hội ở địa phương. Các hoạt động
của TTVH-HTCĐ xã, thị trấn không có sức lan toả trong nhân dân vì chỉ được thực hiện đơn
lẻ, hình thức và ít nhiều mang tính chất “phong trào” mà không hề được tuyên truyền, phổ biến
rộng rãi trong cộng đồng thôn, xóm. Người dân chưa thấy được sự cần thiết về sự tồn tại của
TTVH-HTCĐ trong đời sống của ho và trong cộng đồng nơi họ sinh sống.
- Cơ cấu ban chủ nhiệm TTVH-HTCĐ chưa thật hợp lý; chưa thật sự thuyết phục
được niềm tin trong nhân dân vì đơn giản họ hiểu rằng người đứng đầu ban chủ nhiệm, phụ
trách một TTVH-HTCĐ phải là một người có trình độ và năng lực tổ chức, năng lực sư phạm
và đơn giản hơn nữa là phải có … bằng cấp cao hơn hẳn các cán bộ chuyên trách nhưng cơ cấu
thực tế thì chưa đáp ứng được tâm lý đó. Cơ cấu này cũng chưa đáp ứng được việc thực hiện
nhiệm vụ tổ chức học tập cộng đồng cho người dân mà chỉ mới dừng lại ở mảng hoạt động văn
hoá, thể thao, thông tin.
- Cơ sở hạ tầng các TTVH-HTCĐ được xây dựng chưa đồng bộ và kém hiệu năng sử dụng vì
dự án thiết kế không có ý kiến của người sử dụng, cụ thể là UBND huyện là chủ dự án, phòng
hạ tầng kinh tế chịu trách nhiệm thiết kế nhưng UBND các xã, thị trấn là người trực tiếp sử
dụng thì không được biết gì về bản vẽ chi tiết của công trình và đương nhiên cũng không được
góp ý gì về quy cách và thiết kế của các phòng chức năng của trung tâm. Khi đưa vào sử dụng,
hầu hết các TTVH-HTCĐ đều bất ổn về lối thiết kế phòng ốc và nhiều chi tiết khác. Ví dụ như
TTVH-HTCĐ xã Hắc Dịch thì không có phòng tập, không có sân khấu ngoài trời, thư viện
chưa có mà chỉ sử dụng một phòng nhỏ để chứa sách; TTVH-HTCĐ xã Phước Hoà diện tích sử
dụng quá hẹp, chỉ có một số phòng tiếp quản lại của phòng Giáo dục cũ được xây dựng như lớp
học với diện tích quá nhỏ, không có sân khấu, hội trường lớn; TTVH-HTCĐ thị trấn Phú Mỹ
mới được xây dựng vào đầu năm 2007 nhìn bề ngoài rất hoành tráng nhưng hội trường được
thiết kế hết sức lãng phí chiếm không gian rất rộng nhưng diện tích sử dụng lại quá hẹp, sức
chứa tối đa chỉ 120 người, không có nhà luyện tập, các phòng chức năng được bố trí bất hợp lý,
phòng tập văn nghệ thì quá nhỏ, thư viện lại không có phòng đọc sách …. Tất cả các TTVH-
HTCĐ trên địa bàn huyện Tân Thành đều không có phòng để tổ chức lớp học. Đây chính là
khâu yếu kém nhất trong dự án thiết kế cơ sở hạ tầng các TTVH-HTCĐ ở huyện Tân Thành và
phần nào cũng thể hiện sự bất cập khi thực hiện mô hình học tập cộng đồng tại TTVH-HTCĐ.
- Kế hoạch hoạt động của các TTVH-HTCĐ gần như được giao khoán cho ban chủ nhiệm mà
chưa có sự quan tâm, chỉ đạo sâu sắc của đảng uỷ và chính quyền địa phương. Ban chủ nhiệm
phải “đơn độc tác chiến”, chưa được sự hỗ trợ từ phía các cơ quan chuyên môn tại địa phương.
Trên thực tế phòng Giáo dục không hỗ trợ gì về tài lực, vật lực, kể cả về nhân lực cho hoạt
động học tập của TTVH-HTCĐ, và TTGDTX huyện cũng chẳng khá hơn ngoài việc kết hợp
với cán bộ phổ cập của địa phương vận động mở một số lớp phổ cập, xoá mù đặt tại các
TTVH-HTCĐ xã.
- Nguồn tài liệu phục vụ cho công tác học tập quá nghèo nàn, thiếu thốn, chưa có hệ thống ,
khoa học. Nhân lực để đáp ứng cho việc khảo cứu, thu thập tài liệu hoàn toàn không có.
Nhìn chung cái được ở các TTVH-HTCĐ còn quá nhỏ bé nhưng cái hạn chế, yếu kém
thì còn nhiều thậm chí là rất lớn nữa. Cấu trúc cơ sở vật chất, cơ cấu ban quản lý còn nhiều bất
cập, còn bỏ ngõ mảng hoạt động học tập vốn được xem là mục đích và chức năng chính của
trung tâm. Hoạt động của các trung tâm này còn mang tính phong trào thiên về mảng văn hoá,
thể thao mà chưa quan tâm đến hoạt động giáo dục cộng đồng, chưa có những tác động tích
cực, cần thiết đến chất lượng đời sống người dân như cái tên gọi “ trung tâm văn hoá - học tập”
.
2.5. Tổng quan về thị trấn Phú Mỹ
2.5.1. Sơ lược về thị trấn Phú Mỹ
Thị trấn Phú Mỹ có diện tích đất tự nhiên là 3.172,8 hecta, với số dân tính đến thời điểm
tháng 06 / 2007 là 17.466 người. Có 3 thôn là Vạn Hạnh, Quãng Phú và Ngọc Hà , đến giữa
năm 2006 các đơn vị hành chính này tách thành 6 thôn : Vạn Hạnh, Tân Hạnh, Quãng Phú, Tân
Phú, Ngọc Hà và Tân Ngọc. Trước đây , xã Phú Mỹ chỉ là một xã thuần nông, trên 90% dân số
sinh sống bằng nghề nương rẫy hoặc làm ruộng lúa, một số ít làm nghề khai thác củi, đốt than
và một số rất ít đánh bắt thuỷ sản nhưng rất nhỏ, lẻ và sản lượng chỉ đủ để tiêu thụ tại chỗ.
Trình độ dân trí thấp. Từ khi thành lập huyện, xã Phú Mỹ trở thành thị trấn và cũng là tâm điểm
của khu công nghiệp Phú Mỹ- Mỹ Xuân. Từ năm 2005 trở lại đây, cơ cấu kinh tế của thị trấn
phát triển mạnh theo định hýớng của nghị quyết hội đồng nhân dân huyện, chuyển dịch từ sản
xuất nông nghiệp sang công nghiệp - dịch vụ. Các ngành nghề thuộc lĩnh vực công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp khá phát triển tại địa phương như khai thác cát, đá xây dựng , gia công cơ khí,
sửa chữa máy móc cơ giới, chế biến thực phẩm gia súc, ... đáp ứng nhu cầu rất lớn về vật liệu
xây dựng trên địa bàn và cả khu vực. Các loại hình dịch vụ như bưu chính viễn thông, vận
chuyển hàng hoá, cho thuê nhà- đất, các tụ điểm giải trí, quán ăn, cửa hàng bán sĩ và lẻ các loại
hàng hoá mọc lên trên khắp thị trấn phục vụ đắc lực cho nhu cầu đa dạng của quá trình phát
triển, công nghiệp hoá tại địa phương nhất là nhu cầu về nhà ở và vui chơi giải trí cho số lượng
đông đảo cán bộ, công nhân các khu công nghiệp. Sản xuất nông nghiệp ngày càng thu nhỏ,
diện tích gieo trồng giảm mạnh từng năm theo các dự án quy hoạch phát triển công nghiệp và
đô thị hoá. Sản lượng nông nghiệp giảm dần. Chẳng hạn nếu tính cả trồng trọt và chăn nuôi, giá
trị sản xuất năm 2006 giảm 19,4% so với 2005 ( nguồn: UBND thị trấn Phú Mỹ, 2006)
Về giáo dục : vốn được xem là trung tâm của huyện Tân Thành nhưng trên địa bàn
thị trấn chỉ có một trường trung học cơ sở gồm 1330 học sinh, ba trường tiểu học với 1489 học
sinh và 4 trường mẫu giáo với 406 cháu trong đó có một trường mẫu giáo tư thục. (nguồn:
UBND thị trấn Phú Mỹ, 2006).Ngoài ra còn có một trường trung học phổ thông và trung tâm
giáo dục thường xuyên của huyện đóng tại thị trấn và đây cũng là một thuận lợi hết sức cơ bản
về điều kiện học tập cho con em nhân dân địa phương. Hoạt động của Hội Khuyến học được
duy trì nhưng cũng chỉ cầm chừng và không có gì nổi bật, Hội chưa tạo được động lực khuyến
học, khuyến tài; việc vận động các hộ gia đình đăng ký thi đua “gia đình hiếu học” chưa được
quan tâm đúng mức mà đơn giản chỉ là việc khen thưởng cho giáo viên, học sinh có thành tích
trong giảng dạy, học tập một cách hình thức mà chưa chú ý đến hiệu quả của việc nhân điển
hình ở địa phương. Công tác phổ cập khoán trắng cho một cán bộ phụ trách và đương nhiên
người cán bộ này phải kết hợp chặt chẽ với Trung tâm Giáo dục thường xuyên huyện để vận
động các đối tượng phổ cập ra lớp. Dân trí tuy được cải thiện đáng kể, người dân đã có ý thức
chăm lo việc học hành cho thế hệ trẻ nhưng nhìn chung mục tiêu của việc học chỉ chạy theo
mục đích làm kinh tế mà chưa quan tâm sâu sắc đến khía cạnh nhân văn cho nên số trẻ thất học
giảm đi nhưng số trẻ phạm pháp hoặc có nguy cơ phạm pháp lại tăng lên.
Về văn hoá- thông tin: công tác tuyên truyền được thực hiện qua các băng cờ, khẩu
hiệu , panô và trạm truyền thanh địa phương nhưng thường thì công tác này chỉ được thực hiện
trong các đợt lễ hội hoặc các đợt vận động do chính quyền cấp trên yêu cầu. Hoạt động văn
nghệ, thể dục thể thao được tổ chức với sự tham gia của các đoàn thể xã hội, các tổ chức và cá
nhân trên địa bàn tuy nhiên hoạt động này cũng chưa được duy trì thường xuyên. Ngoài các
tuyến đường quốc lộ, tỉnh lộ đi ngang qua thị trấn và hệ thống đường nội bộ mới chỉ được xây
dựng tạm gọi là hoàn chỉnh ở thôn Ngọc Hà, cả thị trấn không có một công viên hoặc khoảng
không gian thông thoáng nào cho người dân sinh hoạt, tập thể dục thể thao hoặc hưởng thụ
không khí trong lành. Theo thống kê của UBND thị trấn (2006), tỷ lệ dân số tập thể dục thường
xuyên khoảng 14% nhưng chủ yếu người dân chỉ đi bộ vào buổi sáng sớm hoặc chiều tối dọc
theo các con đường trong thôn xóm chứ không có hoạt động nào khác. Hai câu lạc bộ cầu lông
thu hút một số lượng hạn chế những người dân đã có tuổi không còn bận rộn với công việc
thường ngày. Câu lạc bộ thể hình do tư nhân mới thành lập cũng chưa được sự hỗ trợ nào của
chính quyền mà chỉ hoàn toàn tự phát. Việc thực hiện nếp sống văn minh, gia đình văn hoá, xây
dựng thôn văn hoá, ... được tổ chức, bình xét, công nhận. Nếu chỉ đánh giá qua số liệu có thể
thấy rằng công tác này được thực hiện rất tốt với 100% thôn đạt danh hiệu thôn văn hoá, 84,6%
gia đình là gia đình văn hoá (nguồn: UBND thị trấn Phú Mỹ, 2006), nhưng con số quá “đẹp”
này lại càng thể hiện tính hình thức của cái gọi là “thôn văn hoá” và “gia đình văn hoá” mà
thôi. Thực tế ở các thôn văn hoá vấn đề vệ sinh môi trường, tệ nạn xã hội ở tuổi vị thành niên,
hiện tượng mất an ninh trật tự công cộng vẫn còn là vấn đề nóng của các cấp chính quyền.
Về y tế , tuy là một đơn vị hành chính được chọn là trung tâm kinh tế, văn hoá của huyện Tân
Thành nhưng đến tháng 04/2007 trạm y tế thị trấn mới được xây xong và đi vào hoạt động. Có
lẽ do trên địa bàn thị trấn đã có Trung tâm y tế huyện (nay được gọi là Bệnh viện đa khoa
huyện) toạ lạc nên việc cần thiết phải có trạm y tế thị trấn bị xem nhẹ đi chăng!. Hệ thống
mạng lưới cộng tác viên ở các thôn được duy trì và hoạt động nhưng chủ yếu chỉ trong các đợt
tiêm phòng mở rộng hoặc phòng chống dịch bệnh. Công tác chăm sóc sức khoẻ cộng đồng còn
bỏ ngõ, công tác tuyên truyền chưa được chú ý đúng mức mà chỉ dựa vào Trung tâm Y tế dự
phòng tỉnh thông qua báo đài địa phương. Người dân chưa được tư vấn đầy đủ và chỉ biết tự
cứu lấy mình ở các phòng mạch tư hoặc các bệnh viện tuyến huyện, tỉnh, thành phố; trạm y tế
xã và những hoạt động quá mới mẻ của nó chưa tạo được niềm tin đối với người dân.
Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật cho người dân chưa được coi trọng, đa số
người dân vẫn chưa có thói quen sống và làm việc theo pháp luật. Trong toàn huyện, thanh,
thiếu niên phạm pháp vẫn còn nhiều và tập trung chủ yếu ở khu vực thị trấn. Hai nguyên nhân
dẫn đến tình trạng trên có thể hiểu được rõ rệt nhất là: hầu hết người dân chưa được cập nhật
thông tin và hướng dẫn thực hiện về các điều luật một cách thấu đáo cộng thêm việc địa bàn thị
trấn Phú Mỹ là nơi các dự án công nghiệp hoá diễn ra nhanh và mạnh mẽ, đa số các hộ dân đều
nhận được tiền đền bù do giải toả hoặc sang nhượng đất, quá trình đó làm cho tập quán chân
chất của người dân nhất là thanh thiếu niên thay đổi từng ngày theo hướng hưởng thụ, xa rời
lao động. Ngoài ra sự tập trung lượng công nhân đông đảo để phục vụ cho các khu công nghiệp
trọng điểm của tỉnh và của quốc gia đóng trên địa bàn cũng góp phần làm cho tình hình an ninh
chính trị, kinh tế xã hội tăng thêm sự phức tạp. Lực lượng lao động có trình độ ở địa phương
tuy không nhiều nhưng khó tìm được việc làm ở các khu công nghiệp do nhu cầu học tập của
người dân chưa tìm được tiếng nói chung với nhu cầu việc làm ở các nhà máy, công ty, xí
nghiệp đóng tại thị trấn. Một nghịch lý đang hiện hữu là các khu công nghiệp trên địa bàn
tuyển lao động có trình độ từ các địa phương khác trong khi lực lượng này tại địa phương phải
tứ phương tìm việc. Người dân địa phương làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp trong các
khu công nghiệp thường chỉ ở các vị trí lao động phổ thông như bảo vệ, công nhân sản xuất,
tạp dịch,... hay các công việc không đòi hỏi tay nghề hoặc trình độ cao.
Như vậy, tuy kinh tế phát triển nhanh nhờ sự đầu tư ồ ạt vào các khu công nghiệp
nhưng tình hình phát triển văn hoá xã hội vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá của
địa phương.
2.5.2. Thực trạng hoạt động TTVH-HTCĐ thị trấn Phú Mỹ :
Trước đây tuy là một đơn vị hành chánh cấp thị trấn nhưng Phú Mỹ chưa từng có trung
tâm hay tụ điểm văn hóa nào. Đến năm 2006, khi UBND tỉnh đã ban hành quy chế hoạt động
TTVH-HTCĐ thì chính quyền thị trấn mới vào cuộc. Khánh thành từ đầu năm 2007 với hình
thức bề ngoài khá khang trang nhưng cơ sở vật chất TTVH-HTCĐ thị trấn lại vô cùng bất cập
khi đưa vào sử dụng. Diện tích xây dựng chiếm một không gian khá lớn nhưng diện tích sử
dụng lại quá ít vì thiết kế xây dựng quá chú trọng đến hình thức trang trí phô trương với nhiều
hạng mục phụ hết sức vô ích. Hội trường chính với diện tích 12m x17m nhưng chỉ trang bị 100
ghế; các phòng chức năng quá nhỏ không thể sử dụng vào mục đích học tập được; sân khấu
ngoài trời không có mái che; không có nhà luyện tập và thư viện như quy chế quy định. Trang
thiết bị khá nghèo nàn ngoài một tivi 52 inch, một bộ thiết bị âm thanh tại hội trường.
Tháng 01/2007 TTVH-HTCĐ thị trấn Phú Mỹ đã chính thức đi vào hoạt động nhưng do
những bất, cập về cơ sở vật chất nói trên và ban chủ nhiệm trung tâm là những cán bộ phụ trách
công tác thanh thiếu niên của thị trấn và các cán bộ phụ trách văn hóa, thể thao kiêm nhiệm nên
hoạt động của trung tâm gần như chưa có gì ngoài các buổi giao lưu văn nghệ thiếu nhi và
trung tâm cũng chỉ đóng vai trò như một hội trường mở rộng của UBND thị trấn để làm nơi tổ
chức các buổi hội thảo, hội nghị phục vụ cho chính quyền địa phương.
Với thực trạng như vậy, sau khi khảo sát thực tế hoạt động của TTVH-HTCĐ tại thị trấn
Phú Mỹ, tác giả đã kết hợp với ban chủ nhiệm TTVH-HTCĐ trình bày kế hoạch thử nghiệm và
xin phép UBND thị trấn Phú Mỹ tiến hành thử nghiệm một số hoạt động nhằm góp phần tăng
cường công tác quản lý và đẩy mạnh các hoạt động TTVH-HTCĐ của thị trấn với mục đích tập
trung nhiều hơn vào chức năng học tập cộng đồng.
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
TRUNG TÂM VĂN HOÁ-HỌC TẬP CỘNG ĐỒNG
3.1. Kết quả thử nghiệm ở TTVH-HTCĐ thị trấn Phú Mỹ
3.1.1. Cách tổ chức thực hiện thí điểm mô hình hoạt động TTVH-HTCĐ
Kế hoạch thử nghiệm được tổ chức trong thời gian mười tháng từ tháng 03/ 2007 đến
tháng 12/2007.
Thời gian thực hiện kế hoạch thử nghiệm được bố trí như sau:
- Tháng 03 / 2007 : Phát và thu phiếu thăm dò, khảo sát nhu cầu học tập của người dân ở thị
trấn Phú Mỹ, tập trung ở bốn thôn gần TTVH-HTCĐ: Quảng Phú, Tân Phú, Ngọc Hà và Tân
Ngọc.
- Tháng 04/2007 : Tuyên truyền, vận động người dân tham gia lớp học. Lập danh sách học
viên tham gia các lớp học, các lớp chuyên đề: phân loại và sắp xếp lớp học. Xây dựng nội dung
tài liệu và đội ngũ giảng viên. Xây dựng kế hoạch và kinh phí hoạt động. Thông báo về việc tổ
chức lớp học và các buổi tập huấn, chuyên đề.
- Tháng 05 - tháng 12 / 2007: Thực hiện các buổi tập huấn, chuyên đề. Tổ chức giảng dạy các
lớp năng khiếu, Anh văn, Tin học, võ thuật,…
- Tháng 12/2007: tổng kết, đánh giá kế hoạch thử nghiệm. Rút ra bài học thực tiễn.
Những bước cơ bản được thực hiện :
(1) Khảo sát nhu cầu học tập của người dân
(2) Tuyên truyền, vận động người dân tham gia các lớp học ở TTVH-HTCĐ.
(3) Xây dựng nội dung học tập và đội ngũ giảng viên
(4) Huy động mọi nguồn lực tham gia hoạt động TTVH-HTCĐ
3.1.2. Biện php thực hiện cc býớc thử nghiệm
(1) Khảo sát nhu cầu học tập của người dân
- Đầu tiên là công tác tìm hiểu nhu cầu học tập của người dân thuộc thị trấn Phú Mỹ bằng
phiếu thăm dò ý kiến lần hai ( lần một thực hiện khi khảo sát chung về thực tế hoạt động
TTVH-HTCĐ của huyện Tân Thành). Việc khảo sát được thực hiện ở bốn thôn Quảng Phú,
Tân Phú, Ngọc Hà và Tân Ngọc với số phiếu hợp lý thu được là 281/ 400 phiếu phát ra. Kết
quả cho thấy người dân có nhu cầu rất cao đối với việc tìm hiểu các vấn đề về sức khoẻ, giới
tính, vấn đề tâm sinh lý và giáo dục gia đình, vệ sinh môi trường, kiến thức pháp luật, kiến thức
nhà nông.
Bảng 3.1 . Nhu cầu học tập của người dân ( số liệu / 281 phiếu)
Tỉ lệ có nhu cầu học tập
Thứ tự các nhu cầu
(1)+(2)
Nội dung Mức độ cần thiết T T đề tài hoặc chuyên đề
Không quan tâm (4)
Không cần (3)
80,78 1 Rất cần (1) 176 Cần (2) 51 36 18 1 Vệ sinh môi trường
68 93 58 62 57,29 6 2 Giới tính và Sức khoẻ sinh sản vị thành niên
119 85 16 61 75,59 2 3 Chăm sóc sức khỏe cộng đồng
89 79 77 36 59,79 5 4 Pháp luật và cuộc sống
131 74 18 58 72,95 3 5 Tâm lý giáo dục gia đình
49 62 37 133 39,50 7 6 Kiến thức nhà nông
98 74 70 39 61,21 4 7 Anh văn
38 54 146 43 32,74 8 8 Học sử dụng máy vi tính.
Do diện tích canh tác ở thị trấn ngày càng thu hẹp, số người dân sinh sống bằng nghề chăn
nuôi, trồng trọt ngày càng giảm nên đối tượng được hỏi là nông dân rất ít vì vậy tỉ lệ mức độ
quan tâm đến đề tài kiến thức nhà nông là 39,50% (111/281 người) là một thực tế dễ hiểu. Về
chuyên đề thứ 8, ngoài các cán bộ thôn, xóm, đa số các đối tượng có ý kiến tán thành và có nhu
cầu học tập đều thuộc lứa tuổi thiếu niên do đó đây cũng là một nhu cầu học tập đáng quan
tâm. Nội dung thứ 7 về việc mở lớp tiếng Anh được người dân quan tâm nhiều vì thời điểm này
các công ty, xí nghiệp liên doanh với nước ngoài được xây dựng ngày càng nhiều tại địa
phương và việc giao tiếp với người nước ngoài đang trở thành một nhu cầu cần thiết, tuy nhiên
nhiều ý kiến cho rằng việc TTVH-HTCĐ tổ chức dạy tiếng Anh sẽ không thu hút được người
học vì nhiều lý do trong đó lý do chính là thiếu phương tiện dạy học và đội ngũ giảng viên
chuyên nghiệp hơn nữa ngay trên địa bàn thị trấn Phú Mỹ đang tồn tại hai trung tâm ngoại ngữ
với phương tiện, thiết bị khá tốt.
Để có cơ sở tổ chức các buổi học tập và các lớp học một cách hợp lý cho người học tham gia
một cách thuận lợi nhất, ban chủ nhiệm trung tâm đã khảo sát về thời gian và hình thức tổ chức
lớp học hoặc các buổi nói chuyện, trao đổi chuyên đề. Số liệu thu được ( bảng 3.2) đã giúp ích
rất nhiều cho ban chủ nhiệm khi bố trí lịch học và các hoạt động khác. Tuy kết quả khảo sát
cho thấy rằng không có loại hình học tập nào được người dân cho là phù hợp tuyệt ðối vì điều
kiện của mọi người là hoàn toàn khác nhau nhưng trên cơ sở này ban chủ nhiệm TTVH-HTCĐ
thị trấn Phú Mỹ đã chọn hình thức học tập vào buổi tối và vào ngày nghỉ ( loại hình 3,4) để
triển khai thực hiện lâu dài và chọn hình thức “lớp học đầu bờ” ( hình thức 5,6) để triển khai
cho các buổi học tập kinh nghiệm thực tế được tổ chức không thường xuyên.
Bảng 3.2. Thời gian và hình thức tổ chức lớp học ( số liệu/ 281 phiếu)
Phù hợp
Không phù hợp
1 Chiêu sinh, mở lớp như các trường chính quy
2 Vận động học viên tự học ở nhà
12 4,67% 34 12,10% 76 27,05%
Hình thức tổ chức hoạt động, học tập tại TTVH-HTCĐ T T
Tương đối phù hợp 9 3,20% 39 13,88% 113 40,21%
260 92,53% 208 74,02% 92 32,74%
3 Thông qua chính quyền thôn, xã hoặc các tổ chức xã hội, vận động người dân tham dự các lớp chuyên đề tại TTVH-HTCĐ vào buổi tối
57 20,28% 88 31,32%
96 34,17% 115 40,93%
128 45,55% 78 27,75%
4 Mời các chuyên gia nói chuyện theo chuyên đề vào các ngày nghỉ trong tuần tại TTVH-HTCĐ 5 Tìm hiểu nhu cầu học tập của người dân, phân loại theo từng đề tài và mời giảng viên về tận thôn, xóm để truyền đạt kiến thức người dân cần
6 Chọn người giàu kinh nghiệm ngay trong cộng
69 24,56%
103 36,65%
109 38,79%
đồng để tổ chức kiểu “lớp học đầu bờ” ( học tập tại hiện trường nhà máy, cơ quan, đồng ruộng,...)
41 14,59%
23 8,19%
217 77,22%
7 Thông báo mở các lớp chuyên đề với thời gian biểu cụ thể, ai có nhu cầu thì tự giác đến đăng ký học
(2) Tuyên truyền, vận động người dân tham gia các lớp học ở TTVH-HTCĐ. - Trên cơ
sở xác định nhu cầu học tập của người dân, ban chủ nhiệm TTVH-HTCĐ thị trấn kết hợp với
các tổ chức đoàn thể như lực lượng đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Khuyếnhọc,
Hội Phụ nữ , Hội Cựu Chiến binh, Hội nông dân và đặc biệt với ban quản lý thôn, ấp và tổ dân
phố để tuyên truyền, vận động người dân tham gia các lớp học, các buổi nói chuyện chuyên đề.
Tuỳ nội dung của từng chuyên đề để vận động đối tượng tham gia, chẳng hạn như chuyên đề “
Sức khoẻ sinh sản vị thành niên” thì tổ chức chịu trách nhiệm vận động chính là đoàn thanh
niên và hội phụ nữ và đối tượng tham gia chủ yếu là trẻ vị thành niên từ 15 đến 18 tuổi; chuyên
đề “Rác thải sinh hoạt” thì mọi tổ chức đoàn thể và các tổ dân phố đều có trách nhiệm vận động
mọi người dân tham gia; lớp võ thuật thì đối tượng tham gia chủ yếu là thiếu niên; ... . Sau mỗi
đợt vận động học viên tham gia, đăng ký chuyên đề cần học, ban chủ nhiệm TTVH-HTCĐ thị
trấn niêm yết danh sách học viên đồng thời liên hệ với các giảng viên hoặc hướng dẫn viên và
bố trí thời gian học . Các thông tin về nội dung chuyên đề và thời gian học được công bố tại
trung tâm đồng thời tổ phát thanh thị trấn hỗ trợ thông báo rộng rãi trong cộng đồng để thông
báo cho người học tham dự lớp.
(3) Xây dựng nội dung học tập và đội ngũ giảng viên
- Sau khi đã khảo sát, nắm bắt được nhu cầu học tập và số lượng đối tượng tham gia các
chuyên đề, ban chủ nhiệm TTVH-HTCĐ thị trấn liên hệ với các cơ quan chuyên môn và các
đơn vị giáo dục trên địa bàn huyện để mời các chuyên viên, giáo viên hợp tác với TTVH-
HTCĐ làm giảng viên thỉnh giảng hoặc cộng tác viên chính thức của trung tâm. Cụ thể trong
thời gian thực nghiệm, TTVH-HTCĐ đã liên hệ với nhiều cơ quan, tổ chức trên địa bàn tỉnh để
mời nhân sự thỉnh giảng hoặc hướng dẫn:
* Phòng Y tế huyện cử chuyên gia nói chuyện về vấn đề Sức khoẻ sinh sản vị thành niên
và chuyên đề Y tế và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.
* Cán bộ Trung tâm Y tế dự phòng phụ trách chuyên đề Vệ sinh môi trường
và Vệ sinh phòng dịch.
* Mời chuyên viên Hội Khoa học Tâm lý - Giáo dục tỉnh và một giáo viên trường THPT
Phú Mỹ có bằng cấp về tâm lý giáo dục học phụ trách chuyên đề Tâm lý học giới tính và Tâm
lý giáo dục gia đình.
* Hợp tác với các đoàn thể, cảnh sát giao thông và cán bộ tư pháp huyện để tuyên truyền
về pháp luật như Luật Giao thông đường bộ, Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Hôn nhân và Gia
đình, Luật Chăm sóc và bảo vệ bà mẹ, trẻ em,…
* Liên hệ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn mời cán bộ khuyến nông giới thiệu về
kiến thức nông nghiệp trong việc nuôi trồng, chế biến và bảo quản nông sản ở địa phương. Liên
kết với nhà máy chế biến thức ăn gia súc tại địa phương để giới thiệu và hướng dẫn kỹ thuật
chăn nuôi gia súc, gia cầm; nhà máy đạm Phú Mỹ giới thiệu các loại phân bón và công dụng
của chúng trong sản xuất nông nghiệp, …
* Liên kết với Trung tâm máy tính Phước Thọ đóng tại thị trấn để mở lớp tin học căn
bản cho cán bộ thôn, xã.
Ngoài các chuyên đề và lớp Tin học, TTVH-HTCĐ thị trấn còn tổ chức chiêu sinh các
lớp Anh văn trẻ em, lớp dạy đàn Organ và lớp võ thuật Taekwondo.
Ban chủ nhiệm xếp lịch học và kinh phí tổ chức lớp học hoặc chuyên đề phù hợp theo
nguyện vọng của người học. Theo đó các chuyên đề chỉ tổ chức trong thời gian một hoặc hai
buổi cho một đợt học; các lớp Tin học căn bản, Anh văn trẻ em, nhạc, võ thuật ngắn hạn được
tổ chức vào các buổi tối và thứ bảy, chủ nhật tạo điều kiện thuận lợi nhất về thời gian cho
người học .
(4) Huy động mọi nguồn lực tham gia hoạt động TTVH-HTCĐ
- Vấn đề gai góc nhất đối với ban chủ nhiệm TTVH-HTCĐ chính là điều kiện cơ sở vật
chất chưa phù hợp với mục đích sử dụng và kinh phí tổ chức các hoạt động và tổ chức các lớp
học. Ngoài kinh phí hạn hẹp được cấp từ ngân sách địa phương là 100 triệu / năm trong đó tính
cả tiền lương cho các thành viên ban chủ nhiệm, bảo vệ trung tâm và cả tu sửa cơ sở vật chất,
ban chủ nhiệm TTVH-HTCĐ thị trấn Phú Mỹ đã phải huy động sự hỗ trợ vật chất và tiền bạc
từ các đơn vị, nhà máy đóng trên địa bàn đồng thời thu học phí từ người học các lớp đào tạo,
và đây cũng là một nguồn lực đáng kể giúp trung tâm duy trì và phát huy hiệu quả các hoạt
động.
- Một vấn đề cũng hết sức khó khăn đối với ban chủ nhiệm trung tâm là vấn đề đội ngũ giảng
viên, hướng dẫn viên các lớp học. Ban chủ nhiệm đã kiên trì vận động để liên kết với các cơ sở
giáo dục và cơ quan chuyên môn ở tỉnh, huyện cũng như ở thị trấn trong việc hỗ trợ chuyên gia
hoặc chuyên viên, giáo viên phụ trách các lớp học đồng thời cung cấp cho trung tâm nguồn tài
liệu cần thiết cho các chuyên đề hoặc giáo trình cho các lớp học.
Một thực tế khi thực hiện công tác này là việc đả thông tư tưởng cho mọi người dân và đội ngũ
hướng dẫn viên thấu hiểu triết lý “giáo dục vừa là trách nhiệm, vừa là quyền lợi của mọi người,
mọi nhà, mọi cơ quan, tổ chức” thật không dễ chút nào. Vận động người biết chỉ cho người
không biết đã khó, vận động người không biết đi học còn khó hơn.
3.1.3. Kết quả thử nghiệm các chuyên đề và các lớp học ngắn hạn
Trong thời gian vỏn vẹn mười tháng thực hiện kế hoạch thử nghiệm nhằm tăng cường năng lực
quản lý và tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng phong trào xã hội học tập trong cộng đồng.
Ban chủ nhiệm TTVH-HTCĐ thị trấn vừa tuyên truyền, vận động người học, vừa tranh thủ sự
hỗ trợ, hợp tác của chính quyền, các đòan thể, cơ quan đã tổ chức thành công khá nhiều hoạt
động học tập đồng thời cũng duy trì được các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao tại địa
phương.
Các hoạt động học tập được tổ chức tại TTVH-HTCĐ thị trấn trong thời gian tiến hành thí
điểm :
(1) Về đề tài nông nghiệp :
- Các lớp chuyển giao khoa học, tập huấn kỹ thuật về chăn nuôi gia súc, gia cầm và nuôi trồng
thủy sản : 5 buổi nói chuyện chuyên đề với 138 học viên tham dự. Các đề tài được chuyển giao
một cách thiết thực và dễ hiểu qua sự trình bày mộc mạc của các chuyên viên khuyến nông
thuộc sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh. Học viên càng hứng thú hơn khi được nhìn
tận mắt những quy trình kỹ thuật được trình chiếu trên màn hình lớn với các chủ đề chăn nuôi
mang tính thời sự: “Trồng và chế biến cỏ cho chăn nuôi”, “ Cây thức ăn gia súc giàu đạm”, “
Qui trình phòng bệnh trong chăn nuôi gà”, “ Nuôi tôm theo hướng bền vững”, “ Sử dụng hóa
chất trong thủy sản”. Hiệu quả của các buổi chuyên đề này tuy chưa thể đánh giá định lượng
được nhưng số học viên tham gia lớp sau đông hơn lớp trước ( buổi 1 có 14 người nghe, buổi 2
được 31 người và duy trì cho đến buổi thứ 5) đã là một thành công của TTVH-HTCĐ.
- Cũng với đề tài nông nghiệp, TTVH-HTCĐ thị trấn đã tổ chức được 2 lớp chuyên đề cho 41
học viên. Các chuyên đề như “ Quy trình sản xuất phân sinh hóa hữu cơ”, “ Chế phẩm giữ ẩm
đất. Cải tạo đất phèn để trồng dưa” và đặc biêt là chuyên đề “ Trồng rau sinh học - Chất điều
hòa sinh trưởng- Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật” được trình bày một cách khoa học với hình
ảnh minh họa sinh động giúp cho học viên vốn là những nông dân được “ sáng mắt sáng lòng”
với những kiến thức thu nhận được. Những chuyên đề này hết sức cần thiết cho người nông
dân trong thời điểm khắp nơi nông dân do thiếu thông tin hoặc vì nhiều lý do khác đã và đang
sử dụng tùy tiện và bừa bãi các loại phân, thuốc hóa học gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất
lượng sản phẩm, chất lượng bữa ăn hàng ngày và gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng cuộc
sống. Tuy chỉ tổ chức hướng dẫn được 2 chuyên đề nhưng cái được của nó rất cụ thể: hầu hết
học viên đều có ý thức sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất nông sản và điều đáng nói
là nhà nào cũng có một mảnh vườn nhỏ rau sạch do chính họ gieo trồng, chăm sóc.
(2) Về đề tài giáo dục gia đình và giáo dục giới tính .
- TTVH-HTCĐ thông qua các đòan thể, trường học trên địa bàn đã vận động được
96 thanh thiếu niên và 21 phụ huynh tham gia 3 buổi nói chuyện chuyên đề trực tiếp và xem
phim tình huống về giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản vị thành niên. Các chuyên đề này
được sự hỗ trợ tích cực từ trường THPT Phú Mỹ về giáo viên tâm lý và phim tư liệu , sự hỗ trợ
của phòng Y tế huyện về tài liệu. Các học viên được xem loạt phim tư liệu “Hành trình tuổi vị
thành niên gồm 4 đĩa CD và loạt phim tình huống về vấn đề sức khỏe sinh sản vị thành niên
minh họa qua các tiểu phẩm “ Chuyện con gái”, “Em không thể”, “ Lỗi tại ai”, “ Chuyện con
trai”,.. Đề tài này không những thu hút các học viên vị thành niên mà có cả một số phụ huynh
của các em cũng tham dự và đóng góp khá nhiều ý kiến cho chương trình. Vấn đề là làm sao để
duy trì hoạt động tư vấn về tâm, sinh lý lứa tuổi đã được ban chủ nhiệm đưa ra thảo luận trong
các cuộc họp giao ban để đề xuất với lãnh đạo thị trấn về kế hoạch và biện pháp thực hiện.
Được sự hỗ trợ của chính quyền và các tổ chức, đơn vị chức năng, trung tâm đã thực hiện
chuyên đề về giáo dục giới tính đều đặn hai tháng một buổi và tổ chức tư vấn tâm lý tuổi vị
thành niên mỗi tuần một lần. Các buổi sinh hoạt chuyên đề luôn luôn được các học viên mong
đợi và đã trở thành những buổi giao lưu học hỏi và trao đổi về kiến thức tâm sinh lý lứa tuổi và
kinh nghiệm ứng xử trong các mối quan hệ ở vị thành niên.
- Ngoài các buổi trao đổi trực tiếp, trung tâm còn giới thiệu tài liệu bổ ích về đề tài giáo dục
giới tính cho các bậc cha mẹ cùng tham khảo; trong số đó có những cuốn sách được nhiều
người quan tâm là “ Tâm lý gia đình” của Nguyễn Khắc Viện chủ biên, “ Giáo dục giới tính
cho con” của tiến sĩ Nguyễn Thanh Bình chủ biên và “ Tình yêu nhìn từ góc độ giáo dục” của
Lê Thị Bừng. Đề tài này không mới nhưng lại rất nhạy cảm, giúp người học hiểu đúng bản chất
vấn đề tâm, sinh lý lứa tuổi để có những hành vi ứng xử phù hợp, giúp các bậc cha mẹ nhận
thức đúng đắn và có những hiểu biết nhất định về trẻ và những biến đổi tâm sinh lý của chúng
từ đó có những đối sách phù hợp trong quá trình giáo dục con cái.
(3) Về đề tài môi trường và sức khỏe cộng đồng
Đây là một đề tài gần gũi, thiết thực mà ngày ngày mọi người đều được chứng
kiến, đều phải đối mặt dù muốn hay không. Thế nhưng không phải ai trong cộng đồng cũng có
ý thức giữ gìn, bảo vệ môi trường mình đang sống và cũng không phải ai cũng quan tâm đến
việc giữ gìn sức khỏe cho bản thân và cho cả cộng đồng. Kết quả khảo sát cho thấy tỉ lệ người
dân quan tâm đến hai vấn đề trên đạt cao nhất trong số các vấn đề được khảo sát. Điều này
chứng minh rằng dù chưa nhận thức đầy đủ và chưa có biện pháp thiết thực nào để gìn giữ vệ
sinh môi trường nhưng người dân vẫn rất quan tâm đến vấn đề này và chỉ khi có tổ chức nào
vận động là họ sẵn sàng tham gia tìm hiểu và xử lý vấn đề. Để thực hiện chuyên đề này,
TTVH-HTCĐ đã phối hợp với công ty Công trình đô thị huyện để giới thiệu và hướng dẫn
người học cách xử lý rác thải sinh hoạt trong gia đình, vận động người dân tham gia các chiến
dịch bảo vệ môi trường bằng những hành động thiết thực như : diệt lăng quăng để ngăn ngừa
bệnh sốt xuất huyết; tham gia dọn vệ sinh đường phố, khu vực công cộng trong chiến dịch
“Ngày Chủ nhật xanh”. Chuyên đề này được thực hiện khá thuận lợi một phần nhờ vào công
tác tuyên truyền thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng, một phần nữa có sự
tham gia của nhiều tổ chức, đoàn thể và phần quan trọng hơn là nó quan hệ trực tiếp đến môi
trường sống của người dân. Qua các chuyên đề này những người tham dự lớp học ý thức hơn
về trách nhiệm và quyền lợi của mình đối với môi trường sống. Tổng kết đợt thực nghiệm có
hàng trăm lượt người tham gia các hoạt động gìn giữ môi trường do TTVH-HTCĐ phát động
và tổ chức. Tuy vẫn còn nặng tính phong trào nhưng các hoạt động này đã dấy lên trong cộng
đồng ý thức bảo vệ môi trường nơi họ đang sinh sống.
(4) Các lớp đào tạo ngắn hạn:
- Lớp võ thuật Taekwondo được người dân hưởng ứng. Đối tượng tham gia đều là trẻ em có độ
tuổi từ 6 đến 15. Chỉ trong thời gian hơn một tháng chiêu sinh, TTVH-HTCĐ thị trấn Phú Mỹ
đã tổ chức được 2 lớp gồm 98 học viên học vào các buổi tối. Việc duy trì các lớp võ thuật này
cũng đòi hỏi ở người tổ chức và các huấn luyện viên sự nhiệt tình, đam mê và kiên nhẫn. Học
phí mỗi học viên phải đóng góp là 30.000 đồng / tháng đối với lớp vỡ lòng đai trắng (cấp 8) và
35.000 đồng / tháng đối với học viên đai xanh (cấp 5 trở lên). Chính các lớp võ thuật này góp
phần làm lành mạnh hoá sinh hoạt vui chơi của trẻ ở địa bàn xung quanh khu vực có trung tâm
toạ lạc đồng thời cũng góp phần nâng cao ý thức rèn luyện và giữ gìn sức khoẻ của
người dân trong cộng đồng.
- Lớp Anh văn trẻ em chưa thu hút được người học vì phương tiện dạy học tại trung tâm và đội
ngũ giáo viên không thể sánh với các trung tâm ngoại ngữ chuyên nghiệp do tư nhân tổ chức
trên địa bàn huyện, tuy vậy với sự nỗ lực vận động thông qua các đoàn thể xã hội ở thị trấn,
TTVH-HTCĐ đã tổ chức được một lớp Anh văn gồm 23 học viên nhỏ tuổi. Sở dĩ lớp học này
tồn tại được với mức học phí rất khiêm tốn thu từ học viên là nhờ vào sự nhiệt tình và sẵn lòng
góp sức với phong trào học tập của cộng đồng của chính người dạy - một giáo viên Anh văn
của trường THPT Phú Mỹ cư trú tại địa phương đã được vận động tình nguyện giúp TTVH-
HTCĐ dạy lớp tiếng Anh cho trẻ với mức thù lao chỉ để gọi là.
- Lớp Tin học văn phòng : do không được trang bị phòng máy nên ban chủ nhiệm trung tâm
phải liên kết với cơ sở dạy nghề Phước Thọ đóng tại thị trấn Phú Mỹ để mở lớp “xoá mù tin
học” cho cán bộ, nhân viên các ban ấp, ban thôn và các bộ phận hành chính cấp thị trấn dưới sự
chỉ đạo và hỗ trợ kinh phí của UBND thị trấn. Lớp học này đã quy tụ hầu hết cán bộ ban thôn
trực thuộc thị trấn Phú Mỹ. Đây là lớp học với nội dung sát thực tế, ít chú trọng lý thuyết mà
chỉ nặng về thực hành các thao tác căn bản cần cho nghiệp vụ hành chánh. Nhờ chủ trương và
sự nỗ lực thực hiện của chính quyền và TTVH-HTCĐ mà đến nay 100% cán bộ địa phương đã
khá quen với các thao tác máy tính và kỹ năng soạn thảo văn bản.
3.2. Bài học kinh nghiệm từ thực tế thử nghiệm:
Sau một năm vận động, tổ chức thực hiện kế hoạch thử nghiệm nhằm đẩy mạnh công tác tổ
chức, quản lý hoạt động học tập tại TTVH-HTCĐ thị trấn Phú Mỹ, những việc trung tâm đã
làm được không phải là nhiều so với tầm vóc cuộc vận động xây dựng cả nước thành một
XHHT hoặc so với công cuộc công nghiệp hoá địa phương đang diễn ra hết sức nhanh chóng
tại địa phương. Tuy nhiên nếu xét ở phạm vi một thị trấn mới thoát thai từ nền kinh tế nông
nghiệp thì những thành công trên rất đáng khích lệ cần được tổng kết rút kinh nghiệm và nhân
rộng trên khắp địa bàn huyện. Tuy chưa thật sự thuyết phục và chưa thể làm mẫu hình tiêu
biểu cho hình thức giáo dục phi chính quy để tiến tới xây dựng một XHHT, nhưng với tầm vóc
của một TTVH-HTCĐ xã thì những kết quả ban đầu đó rất đáng trân trọng và học tập. Những
bài học rút ra được từ cuộc thực nghiệm cho ta thấy rằng nơi nào làm tốt công tác tuyên truyền,
vận động người dân tham gia học tập và huy động được sức mạnh tổng hợp từ vật chất đến tinh
thần của chính quyền các cấp và các tổ chức, đoàn thể địa phương và toàn thể nhân dân trong
khu vực thì nơi đó có thể khơi dậy mạnh mẽ phong trào học tập và duy trì tốt hoạt động giáo
dục cộng đồng. Những bài học có ý nghĩa từ kinh nghiệm thực tiễn cần tổng kết, nhân rộng
đồng thời cũng được xem là nguyên nhân thành công của TTVH-HTCĐ thị trấn Phú Mỹ :
- Công tác tuyên truyền, vận động người dân tham gia học tập, sinh hoạt tại TTVH-HTCĐ
được coi trọng và được thực hiện bằng nhiều hình thức, do sự phối hợp của nhiều tổ chức xã
hội cùng thực hiện. Người dân được tuyên truyền trên diện rộng về ý nghĩa và hoạt động của
TTVH-HTCĐ tại địa phương giúp mọi người biết đến mô hình học tập cộng đồng này.
- Nhờ có sự thống nhất chỉ đạo của cấp uỷ và sự hỗ trợ tích cực của UBND thị trấn mà đi đầu là
vị phó chủ tịch phụ trách văn hoá xã hội và các cán bộ trong ban chủ nhiệm nên sự phối hợp
của chính quyền địa phương với các ban ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội trên địa bàn thị
trấn được thực hiện khá tốt. Nhờ có chủ trương và sự chỉ đạo phân công, phân nhiệm của chính
quyền nên các ban ngành, đoàn thể, các tổ chức thực hiện khá bài bản và có trách nhiệm các
công việc được giao nhằm củng cố và phát triển hoạt động văn hoá, học tập của TTVH-HTCĐ.
- Ban chủ nhiệm TTVH-HTCĐ phải là những thành viên nòng cốt, năng nỗ, biết quên mình vì
sự nghiệp xã hội hoá giáo dục. Bên cạnh đó, họ cũng phải là những người có uy tín về nhân
thân và về kinh nghiệm thực tiễn kể cả trình độ và bằng cấp. Ban chủ nhiệm trung tâm còn phải
biết tranh thủ mọi sự trợ giúp từ các tổ chức, cơ quan đóng tại địa phương nhằm mục đích
quãng bá hoạt động của trung tâm.
- Ban chủ nhiệm tham mưu với chính quyền địa phương vận động thành lập Ban cố
vấn gồm các thành viên là chuyên gia giàu kinh nghiệm, các thủ trưởng, phó thủ
trưởng của các đơn vị như Phòng Giáo dục và Đào tạo, TTGDTX, phòng Y tế, Y tế dự phòng,
các trường THCS và THPT đóng trên địa bàn nhằm mục đích hỗ trợ trung tâm về nhân lực, tư
liệu và nghiệp vụ. Chính ban cố vấn đã góp phần làm tăng thêm sự tin tưởng của người dân đối
với các hoạt động học tập được tổ chức tại TTVH-HTCĐ vì họ hiểu rằng các thông tin mà họ
tiếp cận được đều có cơ sở khoa học và được kiểm chứng bởi các nhà chuyên môn.
- Dù chưa thật đầy đủ và phong phú nhưng nguồn tư liệu, tài liệu của trung tâm được sưu tầm,
chuẩn bị khá chu đáo, có sự đầu tư về chuyên môn và chú trọng về nội dung người học cần tìm
hiểu. Ban chủ nhiệm và những người cộng tác rất chú tâm trong việc tìm kiếm, bổ sung nguồn
tài liệu học tập của trung tâm.
- Cơ sở vật chất và phương tiện học tập là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến
chất lượng của các buổi chuyên đề và các lớp học. Với người học thuộc nhiều đối tượng tuổi
tác, trình độ, tâm lý khác nhau thì phương pháp dạy học giúp người học dễ tiếp nhận nhất chính
là phương tiện trực quan với sự hỗ trợ đắc lực của máy móc công nghệ, màn hình,….
- Cán bộ, hướng dẫn viên và các giảng viên tận tình truyền đạt tri thức. Hình ảnh minh họa
hoặc các điển hình đều được lấy từ thực tế tại địa phương hoặc qua các
kênh thông tin khác.
3.3. Một số giải pháp :
3.3.1. Tuyên truyền vận động nhằm nâng cao nhận thức về mô hình hoạt động của THVH-
HTCĐ trong toàn Đảng, toàn dân tại địa phương.
Việc nâng cao nhận thức của người dân về giáo dục nói chung và về mô hình hoạt động
TTVH-HTCĐ nói riêng sẽ góp phần quan trọng trong việc giúp người dân chuyển đổi nhận
thức theo hướng tích cực: từ thụ động, thờ ơ chuyển sang quan tâm, chủ động , tự giác, tự
nguyện tham gia học tập và tổ chức học tập. Kết quả khảo sát 350 phiếu thăm dò ý kiến người
dân và một số cán bộ, giáo viên đương nhiệm và đã hưu trí, các cán bộ lãnh đạo Đảng, chính
quyền, đoàn thể ở địa phương cho thấy đại đa số người dân (84,15%) và một số không nhỏ cán
bộ, giáo viên (47,85%) không biết gì về hoạt động của TTVH-HTCĐ xã, thị trấn nơi mình
đang cư trú do chưa hề tiếp cận với những thông tin về các hoạt động này. Và cũng qua khảo
sát cho thấy rằng việc tuyên truyền vận động nâng cao nhận thức của người dân về giáo dục
cộng đồng là một trong những giải pháp cốt lõi có tác dụng đánh thức nhận thức của người dân,
cán bộ, công nhân, viên chức trong cộng đồng về tầm quan trọng và ý nghĩa thiết thực của mô
hình hoạt động TTVH-HTCĐ trong một xã hội học tập. Nội dung tuyên truyền cần chú trọng
làm rõ cho mọi người các vấn đề sau :
- Xây dựng xã hội học tập là một chủ trương lớn trong lĩnh vực giáo dục của Đảng và Chính
phủ. Đây là chủ trương đúng đắn và phù hợp trong giai đoạn hiện nay, giai đọan mà đất nước
ta, trong xu thế hội nhập toàn cầu, có nhiều biến đổi toàn diện về đường lối chính trị, kinh tế,
văn hóa, giáo dục, thương mại,…
- Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Mọi người dân đều phải nhận thức sâu sắc về
trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của mình đối với nền giáo dục quốc dân. Ý thức được rằng
chỉ có học tập suốt đời mới giúp con người cập nhật được kiến thức về khoa học, kỹ thuật, công
nghệ, … đã, đang và lúc nào cũng không ngừng phát triển, đổi mới. Học tập thường xuyên và
học suốt đời là cơ hội và là phương tiện tiếp cận với cuộc sống đang ngày càng hiện đại hóa, là
phương tiện để nâng cao trình độ văn hóa, trình độ nghề nghiệp và chất lượng cuộc sống.
- Tổ chức hoạt động văn hóa, hoạt động học tập tại TTVH-HTCĐ xã, phường chính là hình
thức giáo dục cộng đồng. Hình thức giáo dục này vừa chuyển tải được nội dung, kiến thức cần
thiết, hữu ích cho mọi người vừa tạo được môi trường học tập, trao đổi, giao lưu gần gũi, thân
thiện và đậm đà bản sắc văn hóa địa phương.
- TTVH-HTCĐ chính là tổ chức giáo dục cung cấp cơ hội học tập, sinh hoạt văn hóa
tốt nhất cho mọi người dân trong cộng đồng về hình thức tổ chức, về nội dung học tập, sinh
hoạt, về thời gian, địa điểm ,… tạo điều kiện thuận lợi nhất cho mọi người được tham gia hoạt
động giáo dục cộng đồng.
Để thực hiện giải pháp này, lãnh đạo đảng và chính quyền địa phương, đặc biệt là ban
chủ nhiệm TTVH-HTCĐ xã, phường phải chú trọng công tác tuyên
truyền, vận động bằng nhiều hình thức :
- Lãnh đạo các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương phải là những người ý thức sâu sắc về
tính hiệu quả của mô hình hoạt động TTVH-HTCĐ trong công cuộc xây dựng xã hội học tập ở
địa phương. Ban hành hoặc chỉ đạo ban hành những văn bản liên quan nhằm hỗ trợ tích cực
cho công tác tuyên truyền, vận động người dân tham gia sinh hoạt, học tập tại TTVH-HTCĐ xã
.
- Huy động sự phối, kết hợp của các cơ quan, ban, ngành, đòan thể ở địa phương cùng tham gia
tuyên truyền, vận động bằng tranh ảnh, panô, áp phích, bằng các buổi nói chuyện nhân các
ngày lễ hội, bằng nội dung tuyên truyền được triển khai đến từng cuộc họp tổ dân phố, các buổi
sinh hoạt đòan thể như Đoàn thanh niên, Đội thiếu niên, Hội Liên hiệp thanh niên, Hội Khuyến
học, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Người cao tuổi,… sao cho mỗi ban, ngành, đòan thể địa
phương là một kênh thông tin tuyên truyền hữu hiệu về hoạt động văn hóa, giáo dục của
TTVH-HTCĐ xã, phường.
- Xây dựng và phát triển mạng lưới TTVH-HTCĐ theo cấp thôn, liên thôn đối với những xã,
thị trấn có quy mô lớn, tạo thành một hệ thống vệ tinh của TTVH-HTCĐ xã, phường. Việc làm
này nhằm đưa hoạt động TTVH-HTCĐ đến gần người dân hơn đồng thời có tác dụng nâng cao
hiệu quả của công tác tuyên truyền, vận động nhằm trang bị tốt hơn cho người dân về nhận
thức và ý nghĩa của việc học tập suốt đời thông qua mô hình hoạt động TTVH-HTCĐ.
3.3.2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương và Đảng ủy cơ sở, sự quản lý của
chính quyền xã, thị trấn về hoạt động TTVH-HTCĐ.
Việc tăng cường sự lãnh đạo và quản lý TTVH-HTCĐ của Đảng ủy và chính
quyền địa phương là cực kỳ quan trọng, có thể xem là yếu tố sống còn của hoạt động TTVH-
HTCĐ. Thực tiễn cho thấy rằng nơi nào có sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng bộ, chính
quyền địa phương thì nơi đó phong trào hoạt động TTVH-HTCĐ phát triển mạnh và duy trì rất
tốt ngược lại nơi nào cấp ủy và chính quyền thiếu quan tâm hoặc giao trắng cho cán bộ văn
hóa xã là nơi đó hoạt động TTVH-HTCĐ chỉ mang tính hình thức và chỉ tồn tại trên văn bản
thủ tục hành chánh mà thôi. Chính vì vậy để xây dựng và phát triển TTVH-HTCĐ một cách
thực chất và hữu hiệu thì vai trò lãnh đạo, sự quan tâm chỉ đạo của đảng ủy và chính quyền địa
phương rất quan trọng nếu không muốn nói là điều kiện tiên quyết. Sự lãnh đạo của đảng bộ
địa phương và đảng ủy cơ sở thể hiện qua các chủ trương, đường lối, các nghị quyết có tính chỉ
đạo, định hướng cho sự phát triển lâu bền của TTVH-HTCĐ xã. Sự quản lý về mặt nhà nước
của chính quyền thể hiện qua việc xem xét, phê duyệt các kế hoạch hoạt động của TTVH-
HTCĐ xã, duyệt cấp kinh phí, hỗ trợ về mặt nhân sự và vận động các nguồn lực trong xã hội.
Kết quả khảo sát gần 60 cán bộ xã, thị trấn đưa ra một nhận định không mấy tích cực : chỉ
38/58 người (65,51%) quan tâm và hiểu biết về hoạt động của TTVH-HTCĐ ở địa phương
mình. Có nơi kể cả phó chủ tịch phụ trách văn xã cũng rât mơ hồ về khái niệm XHHT và khá
xa lạ với hoạt động TTVH-HTCĐ vì chủ quan giao hẳn trách nhiệm này cho cán bộ văn hóa
thông tin xã. Thực hiện giải pháp này cần chú trọng một số nội dung sau :
- Các chi, đảng bộ và các cán bộ lãnh đạo đảng, chính quyền địa phương cần nhận thức đúng
đắn về chủ trương xây dựng xã hội học tập của Đảng và Chính phủ và vai trò của TTVH-
HTCĐ trong việc thực hiện chủ trương đó.
- Cán bộ lãnh đạo đảng và chính quyền địa phương cần nhận thức nghiêm túc về vai trò chỉ
đạo, lãnh đạo và quản lý của đảng và chính quyền về sự nghiệp giáo dục nói chung và giáo dục
cộng đồng tại địa phương nói riêng.
- Nâng cao năng lực chỉ đạo, lãnh đạo và tổ chức quản lý hoạt động TTVH-HTCĐ của cán bộ
lãnh đạo đảng và chính quyền địa phương.
- Chính bản thân cán bộ lãnh đạo đảng và chính quyền địa phương phải là người tiên phong đi
đầu trong việc tự học tập, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn và kiến thức kinh tế xã hội.
Biện pháp thực hiện :
- Triển khai quán triệt nội dung đề án “Xây dựng cả nước trở thành xã hội học tập
giai đoạn 2005-2010” của Chính phủ và đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2006-2010”
của UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cho tất cả cán bộ, đảng viên các đảng bộ, chi bộ và các cán
bộ lãnh đạo chính quyền xã, thị trấn, thôn , ấp.
- Đảng bộ và chính quyền địa phương trực tiếp chỉ đạo bằng các chủ trương, nghị quyết thể
hiện đúng ý đảng lòng dân trong công cuộc xây dựng xã hội học tập trong đó đặc biệt chú trọng
hoạt động của TTVH-HTCĐ tại địa phương.
- Kết hợp với các ban, ngành liên quan để phê duyệt các kế hoạch hoạt động của TTVH-HTCĐ
và kiểm tra, giám sát nghiêm việc thực hiện kế hoạch, tài chính. Giao cho phòng Giáo dục và
Đào tạo và TTGDTX hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá hoạt động của TTVH-HTCĐ về mặt
chuyên môn.
- Tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho các thành viên ban chủ nhiệm TTVH-HTCĐ được học
tập nâng cao trình độ tổ chức và năng lực quản lý. Tổ chức lại cơ cấu ban chủ nhiệm theo
hướng chuyên môn hoá, nâng cao chất lượng công tác quản lý, chỉ đạo hoạt động TTVH-
HTCĐ.
3.3.3. Đa dạng hóa phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức học tập tại các TTHTCĐ.
Tăng cường và hiện đại hóa trang thiết bị phục vụ cho học tập cộng đồng.
- Giáo dục cộng đồng với phương châm tự học, tự bồi dưỡng là chính , người học chỉ học
những điều cần cho công việc hoặc cuộc sống của họ nên không thể tổ chức học tập theo hình
thức chính quy hay tại chức mà chỉ phù hợp với loại hình học tập phi chính quy do đó ban chủ
nhiệm TTVH-HTCĐ phải hết sức khéo léo vận động và linh hoạt trong tổ chức lớp học, thời
gian học: có thể học ban ngày hoặc học vào ban đêm , học vào các ngày nghỉ hoặc học theo
thời vụ. Phương pháp hướng dẫn, giảng dạy cũng phải sinh động, minh hoạ trực quan phải hết
sức gần gũi với thực tế cuộc sống lao động và sản xuất của người dân. Cung cấp cho người học
những tư liệu bổ ích bằng nhiều hình thức như giới thiệu những địa chỉ, những chuyên mục
trên các phương tiện thông tin đại chúng; hướng dẫn họ tìm tài liệu qua sách báo, tạp chí, các
loại ấn phẩm chuyên ngành. Một hình thức học tập khá phổ biến nhưng hiệu quả đó là việc nêu
gương điển hình hiện hữu trong cộng đồng về lĩnh vực nào đó mà người học cần tìm hiểu và
học tập kinh nghiệm, thậm chí có những buổi nói chuyện, thảo luận người hướng dẫn không ai
khác chính là những học viên giàu kinh nghiệm thực tế trong lĩnh vực đang thảo luận.
Thực hiện phương châm đưa lớp học gần với người học. Địa điểm học tập có khi không phải
tại hội trường, phòng học mà chính tại nhà máy, ruộng đồng. TTVH-HTCĐ cần duy trì các
hình thức học tập trung ngắn hạn, tập trung định kỳ, vừa làm vừa học và tự học có hướng dẫn.
- UBND các cấp tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị thiết yếu như máy
chiếu, màn hình lớn, đầu dĩa DVD phục vụ học tập cho mọi người trong cộng đồng. Tăng
cường sử dụng các phương tiện thông tin và truyền thông hiện đại, phương tiện nghe, nhìn để
phục vụ cho việc dạy và học. Xây dựng thư viện và phòng đọc nhằm phục vụ tốt nhu cầu tìm
thông tin, kiến thức qua sách báo, tài liệu viết của độc giả địa phương.
3.3.4. Cơ cấu lại nhân sự ban chủ nhiệm - Bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ cho giảng viên và hướng dẫn viên các TTVH-HTCĐ- Cải tiến chế độ chính sách
cho đội ngũ cán bộ, nhân viên TTVH-HTCĐ.
- Điều 11 Quy chế Tổ chức và hoạt động của trung tâm học tập cộng đồng tại xã, phường, thị
trấn ( ban hành kèm theo Quyết định số 09/2008/QĐ-BGDĐT ngày 24 tháng 3 năm 2008 của
Bộ trưởng Bộ GD-ĐT) quy định cán bộ quản lý TTVH-HTCĐ được bố trí theo chế độ kiêm
nhiệm gồm một cán bộ quản lý cấp xã kiêm trưởng ban chủ nhiệm, một cán bộ của Hội Khuyến
học và một cán bộ lãnh đạo của trường tiểu học hoặc trung học cơ sở trên địa bàn kiêm phó ban
chủ nhiệm. Các cán bộ này được hưởng phụ cấp từ kinh phí hỗ trợ của nhà nước. Như vậy,
ngay cả ban chủ nhiệm TTVH-HTCĐ cũng không được bố trí biên chế theo chế độ công chức,
viên chức. Điều này hạn chế khá nhiều việc điều hành hoạt động của TTVH-HTCĐ vì các
thành viên ban chủ nhiệm chỉ là những người kiêm nhiệm công tác. Để tăng cường tính trách
nhiệm và năng lực điều hành hoạt động TTVH-HTCĐ, nhà nước cần bố trí biên chế chính thức
cho các TTVH-HTCĐ, có như vậy ban chủ nhiệm mới toàn tâm, toàn ý tổ chức và quản lý hoạt
động của trung tâm theo hướng tích cực và chuyên môn hoá. Các thành viên ban chủ nhiệm nên
là những viên chức trực thuộc ngành giáo dục và văn hoá, có biên chế chính thức tại TTVH-
HTCĐ, có hệ số lương và hệ số phụ cấp chức vụ rõ ràng được thể hiện qua bảng lương độc lập
của trung tâm và được chi trả bằng ngân sách địa phương .
- Sở GD - ĐT tỉnh, phòng GDTX thuộc sở GD định kỳ tổ chức tập huấn, bồi dưỡng giáo vien,
các cán bộ hướng dẫn chuyên đề ở TTVH-HTCĐ. Tổ chức các đợt giao lưu học tập kinh
nghiệm giữa các TTVH-HTCĐ trong tỉnh và các điển hình trong nước để tận dụng mọi cơ hội
bồi dưỡng và nâng cao năng lực, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, giảng viên. Khuyến khích các
nhà giáo, các nhà khoa học, các chuyên gia giỏi, người giàu kinh nghiệm trên nhiều lĩnh vực
tham gia vào các hoạt động giáo dục, học tập tại các TTVH- HTCĐ.
- Ban hành chính sách, chế độ phụ cấp hợp lý cho đội ngũ làm công tác tuyên truyền vận động,
đội ngũ hướng dẫn, giảng dạy tại TTVH-HTCĐ, không thể kêu gọi lòng nhiệt thành của họ
bằng khẩu hiệu và triết lý giáo dục suông được. Về vấn đề này UBND tỉnh cần phải có chủ
trương bằng các thông tư hoặc nghị định khung quy định định mức cho các hoạt động của
TTVH-HTCĐ đồng thời giao nhiệm vụ cho các UBND xã, thị trấn xem xét kế hoạch và dự
toán của các TTVH-HTCĐ để cân đối kinh phí từ nguồn ngân sách địa phương. Kinh phí hoạt
động ổn định sẽ góp phần làm tăng chất lượng các hoạt động văn hoá, học tập do trung tâm tổ
chức. Không phải cứ có tiền thì mới tổ chức được các lớp học, các buổi chuyên đề, nhưng một
trong những mối lo ngại của ban chủ nhiệm trung tâm khi tổ chức các hoạt động học tập, giải
trí tại TTVH-HTCĐ lại là vấn đề kinh phí. Để giải quyết vấn đề này một cách căn cơ, ngoài các
văn bản hướng dẫn định mức của UBND tỉnh, của Sở Văn hoá-Thông tin và Du lịch thì chính
quyền xã, thị trấn phải cân đối nguồn kinh phí hỗ trợ chi cho hoạt động của TTVH-HTCĐ đối
với các trung tâm hoạt động có hiệu quả và duy trì được phong trào giáo dục cộng đồng. Một
nguồn kinh phí đáng đề cập nữa đó là nguồn kinh phí vận động từ các mạnh thường quân, các
cơ quan, nhà máy, công ty tài trợ cho TTVH-HTCĐ. Nguồn kinh phí vận động này ít hay nhiều
tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó hai yếu tố quan trọng là địa bàn nơi trung tâm toạ lạc có
nhiều khu công nghiệp, các cơ quan hành chính hay không và chất lượng hoạt động của trung
tâm có thuyết phục nhà tài trợ không; bên cạnh đó sự khéo léo của ban chủ nhiệm cũng là một
điều cần lưu ý.
3.3.5. Tổng hợp nội dung, chương trình giảng dạy và học tập tại các TTVH-HTCĐ. Sắp xếp,
hệ thống và biên tập tài liệu sử dụng tại trung tâm.
- Công tác biên tập tài liệu phải được UBND tỉnh ra quyết định và giao cho các cơ quan chuyên
môn chủ trì, tổ chức nghiên cứu, biên soạn và thẩm định chặt chẽ. Đối với việc thu thập học
liệu, cơ quan chịu trách nhiệm với UBND tỉnh trước hết phải là Sở GD-ĐT.
- Sở GD-ĐT kết hợp với các ban ngành hữu quan khác như Sở Văn hoá- Thông tin và Du lịch,
Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Khoa học- Công
nghệ và Hội Khuyến học, Hội Tâm lý giáo dục tỉnh, triển khai thực hiện công tác điều tra, tìm
hiểu nguyện vọng và nhu cầu học tập của nhân dân trên phạm vi toàn tỉnh. Sở GD-ĐT chủ trì
công việc tổng hợp và xây dựng nội dung, chương trình giảng dạy và học tập ở TTVH-HTCĐ ,
biên tập thành những chuyên đề theo phương châm “cần gì học nấy” và “ học xong áp dụng
ngay”. Tài liệu được UBND tỉnh chủ trì tổ chức biên soạn được xem là tài liệu cơ bản, định
hướng cho các nội dung cần triển khai tại các TTVH-HTCĐ cơ sở.
- Tuy vậy, mỗi khu vực xã, thị trấn sẽ có những đặc thù khác nhau cho nên không thể áp dụng
một khuôn mẫu lý thuyết chung cho tất cả các TTVH-HTCĐ được vì vậy một trong những
nhiệm vụ quan trọng của những người quản lý TTVH-HTCĐ từ cơ sở đến cấp cao hơn là phải
chú trọng việc sưu tầm, tổng hợp, chọn lọc tài liệu bổ sung phù hợp để dùng cho các lớp tập
huấn chuyên đề khác nhau ở mỗi trung tâm. Hiệu quả các hoạt động văn hoá, học tập có hay
không phần lớn dựa vào nội dung của tài liệu có cần thiết và bổ ích đến mức độ nào đối với
cộng đồng dân cư.
3.3.6. Huy động sự tham gia và phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức, lực lượng xã hội, các cơ
quan, ban ngành, các cấp chính quyền thôn, xã, huyện , tỉnh.
Tuy chủ thể quản lý TTVH-HTCĐ xã là UBND xã, thị trấn, nhưng do hoạt động của
trung tâm liên quan đến nhiều ban ngành, đoàn thể, nhiều tổ chức xã hội nên ban chủ nhiệm
phải đóng vai trò cầu nối liên kết trung tâm với các cơ quan, tổ chức tại địa phương.
- UBND các cấp giao trọng trách cho Hội khuyến học ở cac đơn vị, làm nòng cốt trong phong
trào giáo dục cộng đồng. Hội Khuyến học chủ động cùng ngành giáo dục đào tạo và các ngành
chức năng khác tham mưu, đề xuất để cấp ủy có chủ trương, biện pháp đảm bảo thường xuyên
chỉ đạo, kiểm tra, sơ kết, tổng kết hoạt động của TTVH-HTCĐ. Hội khuyến học các cấp kết
hợp với các tổ chức chính trị , các đoàn thể xã hội khác chủ động chăm lo vận động, tổ chức,
động viên mọi người, mọi tổ chức tham gia hoạt động học tập thường xuyên mọi lúc, mọi nơi
một cách cơ bản, lâu dài và hiệu quả.
- Các tổ chức, đoàn thể xã hội khác như Đoàn Thanh niên cộng sản, Hội Liên hiệp thanh niên,
Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu giáo chức, Hội Người cao tuổi, Hội Cựu chiến binh, Liên
đoàn lao động huyện, các hội đồng hương và các tổ dân phố, thôn xóm đều có trách nhiệm
tuyên truyền, vận động đối tượng người học và cung cấp sơ lược về nội dung chương trình học
tập tại TTVH-HTCĐ. Hình thức thông tin bằng tờ bướm nội dung chương trình hoạt động của
TTVH-HTCĐ đến từng tổ dân phố và được sự hỗ trợ của tổ trưởng dân phố trong việc triển
khai thông tin trong các cuộc họp khu phố đã trở thành một kênh thông tin hết sức hữu hiệu
giúp cho việc vận động tuyên truyền trở nên gần gũi với mọi người dân.
- Ban văn hoá- thông tin xã, thị trấn giúp triển khai công tác tuyên truyền, vận động đến mọi
đối tượng người dân và thông tin về tất cả các lớp học, các buổi tập huấn, các chuyên đề trên
phương tiện thông tin địa phương giúp người dân biết đến các nội dung, hình thức học tập được
tổ chức tại TTVH-HTCĐ. Ngoài việc vận động, tuyên truyền mục đích, ý nghĩa hoạt động của
TTVH-HTCĐ, ban văn hoá- thông tin xã còn giúp truyền đạt nội dung học tập một cách rộng
rãi trong cộng đồng dân cư qua các buổi truyền thanh thôn, xã.
- Chính quyền địa phương và các đoàn thể góp phần tích cực trong việc làm cầu nối giữa ban
chủ nhiệm các TTVH-HTCĐ với các cơ quan, nhà máy tại địa phương. Nhờ các mối quan hệ
này mà ban chủ nhiệm có thể thu thập được khá nhiều tài liệu hữu ích cung cấp cho người học
và vận động các mạnh thường quân tài trợ cho hoạt động của trung tâm. Và cũng chính một số
nhà máy, công trường sản xuất đã trở thành lớp học giúp người học vừa tham quan vừa học tập
được kinh nghiệm thực tế.
KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
1. Cơ sở lý luận
1.1. Cơ sở lý luận
Xã hội hoá giáo dục là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Thực hiện XHHGD
để xây dựng một XHHT là nhiệm vụ của toàn đảng, toàn dân. Mỗi quốc gia, mỗi khu vực đều
có cách làm giáo dục riêng của mình nhưng tựu trung để xây dựng một XHHT thì phương cách
phổ biến nhất là đưa giáo dục đến với mọi người, mọi nhà, mọi tầng lớp xã hội. Ở một số nước
trên thế giới, giáo dục cộng đồng được chú trọng và thực hiện rất hiệu quả bằng nhiều hình
thức, nhiều mô hình khác nhau và đó cũng là những bài học cho chúng ta tham khảo, ứng dụng.
Như đã đề cập ở trên, đề tài này tập trung nghiên cứu mô hình TTHTCĐ đối với việc tổ chức
và quản lý hoạt động học tập tại cộng đồng. Từ kết quả khảo sát, nghiên cứu thực trạng hoạt
động các TTVH-HTCĐ ở địa phương , người viết xin trình bày một số kết luận sau :
- Giáo dục cộng đồng đã được nhiều nước trên thế giới thực hiện bằng nhiều hình thức
khác nhau và đã xây dựng thành công nền giáo dục tiên tiến mà ở đó giáo dục trở thành nghĩa
vụ và quyền lợi tất yếu của mọi người dân, thế nhưng ở Việt nam giáo dục cộng đồng chưa
được xã hội quan tâm đúng mức.
- Mô hình TTHTCĐ là một hình thức học tập mới hình thành ở Việt nam từ năm 1999
dưới sự tài trợ, tư vấn của tổ chức UNESCO. Đây là một hình thức học tập phù hợp với triết lý
giáo dục thường xuyên, giáo dục suốt đời mà xu thế giáo dục thế giới thế kỷ XXI đang hướng
tới. Mô hình này đáp ứng chủ trương xây dựng cả nước thành một XHHT của Đảng và Nhà
nước, thực hiện giáo dục cho mọi người, đẩy mạnh phong trào giáo dục trong nhân dân. Mô
hình này đã được nhà nước triển khai thực hiện và nhiều tỉnh, thành trên cả nước đã bắt tay xây
dựng và phát triển từ những năm đầu của thế kỷ XXI.
1.2. Cơ sở thực tiễn chung :
Tuy có một số thành tựu nhất định về mô hình học tập cộng đồng ở một số tỉnh thành
trong cả nước nhưng cho đến nay - ngoài quy chế tổ chức và hoạt động của trung tâm học tập
cộng đồng tại xã, phường, thị trấn mới được Bộ GD-ĐT ban hành ngày 24 tháng 03 năm 2008 -
hệ thống văn bản pháp quy dành cho loại hình học tập phi chính quy này vẫn chưa hoàn chỉnh.
Nhận thức của người dân về phong trào xây dựng XHHT nói chung và mô hình học tập
TTHTCĐ còn rất mơ hồ, mờ nhạt. Đây là một trở ngại lớn cho việc xây dựng và phát triển các
TTHTCĐ xã, phường, thị trấn, trên thực tế mỗi địa phương có mỗi quy chế hoạt động
TTHTCĐ khác nhau và cách thức tổ chức, cơ cấu ban quản lý cũng khác nhau. Quy chế hoạt
động của Bộ GD-ĐT ban hành cũng chưa giúp tháo gỡ những khó khăn trong quản lý hoạt
động của các TTHTCĐ : việc bố trí cán bộ quản lý TTHTCĐ theo chế độ kiêm nhiệm và đội
ngũ cán bộ này hưởng phụ cấp từ kinh phí hỗ trợ của Nhà nước từ nguồn ngân sách địa phương
là chưa hợp lý và chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ của trung tâm.
2. Thực trạng hoạt động TTVH-HTCĐ
2.1. Thực trạng hoạt động TTVH-HTCĐ tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu:
- Trên cơ sở thực tiễn, UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu sáp nhập hoạt động của TTHTCĐ
và Trung tâm văn hoá xã, phường thành TTVH-HTCĐ và giao cho Sở GD-ĐT, Sở VH-TT và
Hội Khuyến học tỉnh xây dựng và trình UBND tỉnh ban hành “Quy chế tạm thời tổ chức hoạt
động TTVH-HTCĐ xã, phường tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu” ngày 16 tháng 07 năm 2004. Đây là
một bước đột phá, sáng tạo của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu trong phong trào xây dựng XHHT. Theo
đó TTVH-HTCĐ là cơ sở giáo dục thường xuyên do chính quyền và nhân dân địa phương
thành lập và quản lý tạo ra môi trường học tập, vui chơi lành mạnh và mang lại cơ hội, điều
kiện thuận lợi cho việc học tập và các sinh hoạt văn hoá, tinh thần hữu ích khác đồng thời cung
cấp kiến thức và kỹ năng nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống cho mọi người trong cộng đồng,
góp phần giúp cộng đồng trở thành tự lực, chủ động trong giáo dục.
- Thực hiện quy chế tạm thời hoạt động TTVH-HTCĐ của UBND tỉnh Bà Rịa-
Vũng Tàu, các TTVH-HTCĐ trên địa bàn tỉnh đã hình thành và đi vào hoạt động. Tính đến
cuối năm 2007 toàn tỉnh đã có 67 TTVH-HTCĐ / 79 xã, phường, thị trấn, được xây dựng
nhưng nhìn chung chỉ tăng về số lượng chứ chưa thật sự chú trọng phát triển về chất lượng.
Hoạt động của các TTVH-HTCĐ chỉ tập trung theo phong trào, mang tính hình thức, chú trọng
vào các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao nên chưa tạo được dấu ấn trong cộng
đồng dân cư, chưa duy trì được các hoạt động thường xuyên và chưa tổ chức được các hoạt
động học tập với mục đích nâng cao dân trí. Quy chế tạm thời hoạt động TTVH-HTCĐ của
UBND tỉnh quy định tỷ lệ hoạt động 80% dành cho sinh hoạt, giải trí và 20% cho hoạt động
học tập là không phù hợp với chức năng của trung tâm.
2.2. Thực trạng hoạt động TTVH-HTCĐ huyện Tân Thành:
Qua nhiều năm hình thành và phát triển, hoạt động của các TTVH-HTCĐ vẫn chưa được
tổng kết, đánh giá ở quy mô cấp huyện, cấp tỉnh mà chủ yếu chỉ được tổng hợp từ những thông
tin do các phòng Văn hoá-Thông tin và các TTGDTX cấp huyện báo cáo định kỳ.
Thực hiện đề án xây dựng TTVH-HTCĐ và đề án “Xây dựng XHHT giai đoạn 2006-
2010” của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, đến cuối năm 2006, huyện Tân Thành đã xúc tiến việc thành
lập các TTVH-HTCĐ trên toàn bộ 10 xã, thị trấn trong huyện. UBND huyện đầu tư kinh phí
xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị cho các TTVH-HTCĐ và ra quyết định công nhận Ban
Chủ nhiệm của các TTVH-HTCĐ xã, thị trấn. Sau khi xây dựng, các TTVH-HTCĐ trở thành
trung tâm tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao, hội nghị, hội thảo của
nhân dân và chính quyền địa phương, hỗ trợ tích cực cho TTGDTX huyện trong phong trào
phổ cập giáo dục bậc trung học cơ sở và công tác xoá mù và chống tái mù chữ. Bên cạnh các
hoạt động đã làm được, tuy rằng thị trấn và xã nào cũng có TTVH-HTCĐ nhưng hoạt động
của các trung tâm chưa đồng bộ, còn rất hạn chế về số lần tổ chức các hoạt động học tập và
sinh hoạt văn hoá, giải trí, nội dung, chương trình học tập còn
nghèo nàn vì thiếu tài liệu.
2.3. Nguyên nhân của thực trạng :
+ Do thiếu thông tin nên nhận thức và hiểu biết của người dân về khái niệm và hoạt động
của TTVH-HTCĐ còn mơ hồ. Mức độ quan tâm của người dân đối với hoạt động của TTVH-
HTCĐ rất thấp.
+ Công tác tuyên truyền, vận động người dân tham gia học tập chưa được
UBND các cấp chính quyền và ban chủ nhiệm các trung tâm chú ý đúng mức.
+ Cơ chế hoạt động của các TTVH-HTCĐ chưa được thể chế hoá một cách rõ ràng, chi
tiết. Các mối quan hệ của trung tâm đối với các cấp chính quyền, cơ quan, ban ngành khác còn
phức tạp : UBND xã, thị trấn chỉ đạo, quản lý, kiểm tra trực tiếp về việc thực hiện chỉ tiêu kế
hoạch và hình thức tổ chức các hoạt động; Phòng GD-ĐT và Phòng Văn hoá- Thông tin- Thể
thao huyện quản lý về chuyên môn, nghiệp vụ; Sở GD-ĐT và Sở Văn hoá - Thông tin quản lý
và chỉ đạo theo chức năng quản lý nhà nước theo ngành dọc.
+ Nội dung, chương trình và tài liệu học tập chưa cập nhật, còn nghèo nàn, sơ sài, chưa
có sự đầu tư chính thức từ UBND và các cơ quan, ban ngành cấp tỉnh.
+ Phương tiện, cơ sở vật chất phục vụ hoạt động văn hoá, giáo dục của trung tâm còn
thiếu thốn và chưa phù hợp.
+ Trình độ, năng lực của ban chủ nhiệm chưa đồng đều ở các trung tâm. Cơ cấu ban chủ
nhiệm chưa phù hợp với tính chất hoạt động của trung tâm.
+ Kinh phí hoạt động chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của TTVH-HTCĐ. Việc cải
thiện hoạt động TTVH-HTCĐ trên địa bàn huyện là cần thiết.
3. Các giải pháp đề xuất
Căn cứ vào kết quả thử nghiệm tại TTVH-HTCĐ thị trấn Phú Mỹ, người viết nêu lên sáu
giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý và tổ chức hoạt động TTVH-HTCĐ xã :
(1) Tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức của người dân về hình thức
và ý nghĩa của mô hình hoạt động TTVH-HTCĐ tại địa phương.
(2) Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và giám sát của Đảng bộ và chính quyền xã, thị trấn
đối với kế hoạch hoạt động, tài chính của TTVH-HTCĐ.
(3) Xây dựng cơ sở vật chất, tăng cường trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho học tập.
Đa dạng hoá phương pháp, hình thức tổ chức học tập.
(4) Cơ cấu lại các thành viên ban chủ nhiệm. Bồi dưỡng, nâng cao trình độ
nghiệp vụ cho đội ngũ quản lý, giảng viên TTVH-HTCĐ. Cân đối nguồn kinh phí hoạt động,
cải tiến chế độ đãi ngộ cho đội ngũ cán bộ, nhân viên của trung tâm.
(5) Chú trọng công tác sưu tầm, hệ thống và biên soạn tài liệu giảng dạy tại TTVH-
HTCĐ theo hướng khoa học, tinh gọn, thiết thực.
(6) Tăng cường huy động sự hợp tác, tham gia vào hoạt động TTVH-HTCĐ của chính
quyền, các ban ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội, cơ quan, công ty, nhà máy đóng trên địa
bàn.
KIẾN NGHỊ
1. Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo :
- Ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện quy chế tổ chức và hoạt động của TTVH-HTCĐ
xã, thị trấn. Cần thiết phải xoá bỏ chế độ kiêm nhiệm và bố trí biên chế theo chế độ công chức,
viên chức ở các TTVH-HTCĐ đối với cán bộ quản lý.
- Ban hành các văn bản, tài liệu tuyên truyền rộng rãi về mục đích, nhiệm vụ, chức năng và cơ
chế hoạt động của TTVH-HTCĐ.
- Phát hành tài liệu hướng dẫn tập huấn kỹ năng, nghiệp vụ cho đội ngũ cốt cán để làm cơ sở
triển khai đến tất cả các cán bộ quản lý TTVH-HTCĐ theo hướng đa dạng nội dung chương
trình giáo dục chứ không chỉ tập trung vào công tác xoá mù chữ.
2. Đối với UBND tỉnh
- Ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết việc thực hiện quy chế tổ chức, hoạt động của
TTVH-HTCĐ do Bộ GD-ĐT ban hành ngày 24 tháng 3 năm 2008 sao cho sát với tình hình
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và phù hợp với các chính sách cụ thể
ở địa phương.
- Điều chỉnh, bổ sung “Quy chế tạm thời tổ chức hoạt động TTVH-HTCĐ xã, phường tỉnh Bà
Rịa-Vũng Tàu” ngày 16 tháng 7 năm 2004 theo hướng tăng cường năng lực chuyên môn của
ban chủ nhiệm và tăng tỷ lệ hoạt động dành cho học tập
cộng đồng so với hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao ( quy chế 2004 quy định tỷ
lệ hoạt động học tập chỉ 20% so với 80% hoạt động văn hoá, giải trí là không hợp lý vì nhiệm
vụ và chức năng của TTVH-HTCĐ đều đề cập đến mục tiêu phổ biến kiến thức, tạo điều kiện
cho mọi người được học tập thường xuyên, học tập suốt đời, nâng cao nhận thức và cải thiện
chất lượng cuộc sống).
- Giao cho các cơ quan chức năng tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ, các buổi tham quan học
tập, trao đổi kinh nghiệm tổ chức, quản lý hoạt động học tập tại TTVH-HTCĐ cho đội ngũ cán
bộ cốt cán trong ban chủ nhiệm các trung tâm.
3. Đối với Sở GD-ĐT và Sở Văn hoá- Thể thao và Du lịch
- Tham mưu cho UBND tỉnh ban hành các văn bản chỉ đạo và các chính sách cụ thể hoạt động
của TTVH-HTCĐ, tạo hành lang pháp lý thông thoáng và minh bạch cho việc quản lý TTVH-
HTCĐ.
- Phối hợp với các sở, ban, ngành chức năng của tỉnh và các tổ chức hội như Khuyến học, Tâm
lý giáo dục, … trên địa bàn tổ chức biên soạn tài liệu học tập cho các TTVH-HTCĐ. Việc khảo
cứu, biên soạn tư liệu học tập phải được tổ chức một cách khoa học, có sự tham gia của nhiều
chuyên gia ở nhiều lĩnh vực.
- Chủ trì công tác tập huấn nghiệp vụ, nâng cao năng lực quản lý, tổ chức hoạt động TTVH-
HTCĐ cho đội ngũ cán bộ cốt cán của trung tâm. Hướng dẫn các phòng Giáo dục- Đào tạo, các
TTGDTX huyện cố vấn, hỗ trợ và kiểm tra các hoạt động chuyên môn của các TTVH-HTCĐ.
4. Đối với UBND huyện
- Chú ý khâu quy hoạch và thiết kế, xây dựng hạ tầng cơ sở TTVH-HTCĐ sao cho khang trang
đúng với chức năng hoạt động văn hoá và giáo dục; các phòng ốc như phòng trưng bày, phòng
học tập, phòng tập dợt, hội trường lớn, nhà luyện tập- thi đấu phải được thiết kế đúng chức
năng sử dụng, sân khấu ngoài trời phải có mái che, và nhất thiết phải có một thư viện có phòng
đọc sách ở mỗi trung tâm. Trang bị các phương tiện chuyên dùng thiết yếu như máy vi tính, bộ
video, karaoke, nhạc cụ, âm thanh, ánh sáng, bàn ghế làm việc, bảng viết, bàn ghế học viên, kệ
sách,… Có như vậy, mới đủ điều kiện cho các trung tâm tổ chức các hoạt động học tập và
sinh hoạt văn hoá một cách linh hoạt, đa dạng.
- Cấp các khoản kinh phí cho các trung tâm theo dự toán kinh phí hằng năm đủ để duy trì kế
hoạch hoạt động và phát triển trung tâm ngày càng vững chắc và lâu bền.
- Chỉ đạo cho UBND xã, thị trấn tăng cường kiểm tra, quản lý kế hoạch hoạt động
và tài chính của TTVH-HTCĐ.
5. Đối với UBND xã, thị trấn
- Đảng uỷ, UBND xã, thị trấn tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra hoạt động của các TTVH-
HTCĐ.
- Ban hành quy chế phối hợp hoạt động của TTVH-HTCĐ xã, thị trấn với các tổ chức xã hội,
các đoàn thể địa phương nhằm tăng cường hỗ trợ công tác tuyên truyền, vận động mọi người
tham gia hoạt động học tập và nâng cao ý thức tự học, cải thiện kỹ năng nghề nghiệp và kỹ
năng sống.
- Ngoài khoản kinh phí được cấp hàng năm cho trung tâm từ ngân sách nhà nước ở địa phương,
UBND xã, thị trấn cần quan tâm chỉ đạo việc vận động xây dựng phong trào XHHGD, vận
động kinh phí hỗ trợ của các tổ chức, đoàn thể, các tổ chức phi chính phủ từng bước giúp xây
dựng TTVH-HTCĐ xã phát triển phong phú, đa dạng, đảm bảo chất lượng hoạt động, không
ngừng nâng cao mức hưởng thụ đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân.
PHIẾU XIN Ý KIẾN
( Dành cho giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, cán bộ các ban ngành,UBND thôn, xã, ..)
Thưa quý thầy, cô và anh, chị ! Để hoàn thành tốt luận văn về đề tài xây dựng Trung tâm văn hóa học tập cộng đồng
Xin quý thầy cô và an,/ chị vui lòng cho biết thêm một số thông tin cá nhân:
- Nghề nghiệp : ................................................
- Tuổi : ..............
Xin chân thành cảm ơn sự cộng tác của quy thầy cô và anh/ chị.
( TTVHHTCĐ) và để đánh giá trung thực công tác này ở địa phương nhằm hướng tới những giải pháp phù hợp với nhu cầu học tập của người dân, xin quý thầy cô và anh, chị vui lòng cho biết ý kiến của mình về những vấn đề được nêu dưới đây bằng cách đánh dấu X vào những ô trả lời mà thầy cô và anh/ chị cho là thích hợp hoặc ghi tóm tắt ý kiến của mình vào những dòng chừa sẵn. - Giới tính : ............. - Chức vụ : ............................................. - Nơi làm việc : ................................................ - Hiện cư ngụ tại : tổ/ khu phố............ thôn.......................... xã/thị trấn................................
1.1. 1.2. 1.3. 1.4.
Câu 1 Theo thầy cô và anh, chị, “Xã hội hóa giáo dục” là : Mọi người đều phải có trách nhiệm và đều được hưởng quyền lợi về giáo dục. Nhà nước bao cấp toàn bộ về giáo dục đối với mọi cấp học, bậc học. Mọi ngành, mọi cơ quan, tổ chức đều có nghĩa vụ tham gia hoạt động giáo dục. Xã hội đóng góp về nhân lực, vật lực, tài lực cùng với Nhà nước chăm lo sự nghiệp giáo dục. Xây dựng và phát triển mạnh hệ thống giáo dục thường xuyên và giáo dục không chính quy. Giảm nhẹ vai trò của Nhà nước về quản lý giáo dục. Xây dựng nhiều loại hình trường lớp ở khắp mọi vùng, miền. Học sinh và học viên cấp, bậc học nào cũng phải đóng học phí.
1.5. 1.6. 1.7. 1.8. 1.9. Theo anh/ chị, nội dung nào trên đây là đúng nhất : ( ghi số câu được chọn) .................... 1.10.Ý kiến khác của anh/ chị : .......... ................................................................................. ............................................................................................................................................... ...............................................................................................................................................
2.1.
2.2.
2.3. 2.4. 2.5. 2.6. 2.7.
Câu 2 Phong trào xây dựng Xã hội học tập (XHHT) nhằm mục đích : Xây dựng ý thức thường xuyên tự học, tự nâng cao trình độ nhận thức của mỗi người trong cộng đồng. Xây dựng ý thức trách nhiệm của mỗi gia đình, dòng họ, thôn xóm, hay của mỗi cơ quan, đơn vị đối với việc học tập, nâng cao trình độ nhận thức của mọi người. Phát huy hiệu quả hệ thống giáo dục thường xuyên và giáo dục không chính quy Giáo dục miễn phí cho mọi người dân. Tạo nên sự công bằng trong giáo dục đối với mọi tầng lớp nhân dân. Cung cấp thêm kiến thức khoa học, văn hóa, xã hội cho học sinh. Tạo điều kiện và cơ hội cho mọi người tiếp cận với giáo dục ở mọi lúc, mọi nơi, mọi cấp học, mọi trình độ.
2.8. Thầy/ Cô / Anh/ Chị vui lòng xếp theo thứ tự 3 nội dung mà anh/ chị cho là quan trọng nhất: …………………................................................................................................. 2.9. Ý kiến khác của thầy/ cô/ anh/ chị :............................................................................... ...............................................................................................................................................
3.1. 3.2.
Câu 3 Theo thầy/ cô/ anh/ chị được biết thì TTVHHTCĐ ở xã, thị trấn là: Mô hình học tập phổ biến và phù hợp với mọi người dân. Nơi mọi người có thể tiếp nhận những kiến thức gần gũi và cần thiết cho cuộc sống lao động sản xuất và cuộc sống tinh thần.
Mô hình học tập do chính quyền địa phương quản lý và điều hành có sự phối hợp với ngành
3.3. giáo dục và các tổ chức chính trị, xã hội. 3.4. Nơi vui chơi, giải trí lành mạnh cho mọi tầng lớp nhân dân . 3.5. Mô hình rất quan trọng trong phong trào xây dựng XHHT ở địa phương. 3.6. Ý kiến của anh / chị về TTVHHTCĐ : :...................................................................... ............................................................................................................................................... ...............................................................................................................................................
Câu 4 Về hoạt động của TTVHHTCĐ ở địa phương, thầy/ cô/ anh/ chị đồng ý với đánh giá
hoặc nội dung khảo sát nào sau đây : 4.1. 4.2. 4.3. 4.4.
TTVHHTCĐ hoạt động thường xuyên, đều đặn. TTVHHTCĐ cung cấp cho người dân nhiều thông tin rất hữu ích. Chính quyền địa phương quản lý và điều hành TTVHHTCĐ rất tốt. Các tổ chức xã hội và cơ quan, đơn vị ở địa phương đều tham gia tích cực vào hoạt động của TTVHHTCĐ. Các chuyên đề được giảng dạy ở TTVHHTCĐ thiết thực và phong phú. Mọi người dân đều được biết đến hoạt động của TTVHHTCĐ ở địa phương. Hội khuyến học có vai trò quan trọng đ/v hoạt động của TTVHHTCĐ.
4.5. 4.6. 4.7. 4.8.Theo thầy/ cô/ anh/ chị , thái độ của người dân đối với việc tham gia hoạt động
TTVHHTCĐ là: a.
Rất quan tâm
Quan tâm
c.
Chiếu lệ d.
Không quan tâm
b. 4.9. Việc quản lý và điều hành hoạt động của TTVHHTCĐ : Khó khăn d.
Ít thuận lợi c.
Thuận lợi b.
Rất khó khăn
a.
4.10. Theo thầy/ cô/ anh/ chị , hoạt động của TTVHHTCĐ thường gặp khó khăn về :
Địa điểm học tập
a. d.
Thời gian học tập b. Đối tượng vận động
Phương thức học tập f.
Kinh phí
e.
c. Nội dung giảng dạy 4.11. Đánh giá của thầy/ cô/ anh/ chị về hoạt động của TTVHHTCĐ nơi anh/ chị đang công tác hoặc đang cư trú :................................................................................................... ...............................................................................................................................................
Câu 5 Ngoài các cơ quan quản lý giáo dục, các cơ sở giáo dục, đánh giá của thầy/ cô/ anh/ chị về mức độ tham gia của các cơ quan, ban ngành vào hoạt động giáo dục ở địa phương (đánh dấu X vào mức mà anh/ chị cho là đúng với ý kiến của mình).
TT
Tên cơ quan, đơn vị
Mức độ tham gia
Tích cực
Chiếu lệ
Theo phong trào
Không tham gia
1 Các cơ quan Đảng
2 Hội đồng nhân dân 3 Ủy ban nhân dân 4 Mặt trận Tổ quốc Việt nam 5 Đoàn Thanh niên Cộng sản HCM
6 Văn hóa thông tin 7 Hội Khuyến học
8 Hội PHHS các trường
9 Hội Phụ nữ
10 Hội Nông dân
11 Hội Cựu chiến binh
12 Hội Cựu Giáo chức
Câu 6 Thầy/ cô/ anh/ chị vui lòng cho ý kiến ngắn gọn về các vấn đề sau :
6.1. Ai hoặc cơ quan nào trực tiếp quản lý TTVHHTCĐ ở địa phương nơi cư trú : ............................................................................................................................................... 6.2.TTVHHTCĐ nơi thầy/ cô/ anh/ chị cư trú có hoạt động thường xuyên không ? .............................................................................................................................................. 6.3. Việc tổ chức học tập, sinh hoạt ở TTVHHTCĐ như thế nào ? ............................................................................................................................................... ............................................................................................................................................... 6.4. TTVHHTCĐ thường tổ chức học tập và sinh hoạt với những nội dung gì? ............................................................................................................................................... ............................................................................................................................................... 6.5. Tài liệu học tập có đầy đủ không ? ............................................................................................................................................... 6.6. Nguồn kinh phí hoạt động của TTVHHTCĐ ?
Xã, huyện cung cấp
Thu của học viên
Các tổ chức tài trợ - Những nguồn khác (nếu có) : ………….…………………………………………………
Câu 7 Thầy/ cô/ anh/ chị vui lòng cho ý kiến bằng cách đánh giá các mức độ quan trọng (
Nội dung giải pháp
giá trị) của một số giải pháp sau theo thang điểm từ 1 đến 5 ( điểm càng lớn giá trị càng cao) TT
4
2
Thang điểm chỉ giá trị 1 5 3
7.1 Nâng cao nhận thức về hoạt động của TTVHHTCĐ trong toàn
Đảng, toàn dân ở địa phương.
7.2 Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ, Đảng ủy và chính quyền
địa phương về xây dựng và phát triển TTVHHTCĐ.
7.3 Xây dựng nội dung, tài liệu học tập theo hướng “ cần gì học
nấy” và “ học xong áp dụng ngay”.
7.4 Đa dạng hóa hình thức học tập ở TTVHHTCĐ và hiện đại hóa
phương tiện, thiết bị học tập.
7.5 Bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho các
cán bộ, giảng viên, hướng dẫn viên của TTVHHTCĐ.
7.6 Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đoàn thể, các tổ chức xã
hội và các cơ sở giáo dục ở địa phương.
Ngoài các giải pháp nêu trên, theo anh / chị cần thiết phải bổ sung giải pháp nào khác : ............................................................................................................................................... ...............................................................................................................................................
Phù hợp
Câu 8 Đối với hoạt động của TTVHHTCĐ, theo thầy/ cô/ anh/ chị , hình thức tổ chức học tập nào là phù hợp với thực tế ở địa phương nơi thầy/ cô/ anh/ chị đang cư trú.(vui lòng đánh dấu X vào cột tương ứng với sự lựa chọn của thầy/ cô/ anh/ chị ) Ttự
Tương đối phù hợp
Không phù hợp
Hình thức tổ chức hoạt động, học tập tại TTVHHTCĐ
8.1 Chiêu sinh, mở lớp như các trường chính quy 8.2 8.3
Vận động học viên tự học ở nhà Thông qua chính quyền thôn, xã hoặc các tổ chức xã hội,
vận động người dân tham dự các lớp chuyên đề tại TTVHHTCĐ vào buổi tối
8.4 Mời các chuyên gia nói chuyện theo chuyên đề vào các
8.5
ngày nghỉ trong tuần tại TTVHHTCĐ Tìm hiểu nhu cầu học tập của người dân, phân loại theo từng đề tài và mời giảng viên về tận thôn, xóm để truyền đạt kiến thức người dân cần
8.7
8.6 Chọn người giàu kinh nghiệm ngay trong cộng đồng để tổ chức kiểu “lớp học đầu bờ”( học tập tại hiện trường nhà máy, cơ quan, đồng ruộng,...) Thông báo mở các lớp chuyên đề với thời gian biểu cụ thể, ai có nhu cầu thì tự giác đến đăng ký học
- Thầy/ cô/ anh/ chị vui lòng chọn ra một hình thức học tập mà Thầy/ cô/ anh/ chị cho là phù hợp nhất trong số các hình thức trên ( ghi theo số thứ tự. Ví dụ : 8.6 ) :.......................... - Đề nghị của thầy/ cô/ anh/ chị về hình thức học tập khác :............................................... .................................................................................................................................................
______&______
Xin quý thầy/ cô/ anh/ chị vui lòng đọc kỹ và trả lời “Phiếu xin ý kiến”. Một lần nữa xin chân thành cảm ơn quý thầy/ cô/ anh/ chị đã dành thời gian và tâm sức để góp những ý kiến quý báu qua phiếu xin ý kiến này. Xin trân trọng.
PHIẾU XIN Ý KIẾN (Dành cho người dân ở địa phương)
Thưa quý vị ! Để có tư liệu thực hiện đề tài xây dựng và phát triển Trung tâm Văn hóa Học tập cộng đồng (TTVHHTCĐ) ở địa phương, xin quý vị vui lòng dành chút ít thời gian trả lời các câu hỏi dưới đây bằng cách đánh dấu X vào ô trả lời mà quý vị cho là phù hợp hoặc ghi ngắn gọn ý kiến của quý vị vào những dòng chừa sẵn.
Xin quý vị vui lòng cho biết thêm một ít thông tin cá nhân:
- Tuổi : ........ - Nghề nghiệp : ...................................................
- Giới tính : ........ - Hiện cư ngụ tại : tổ/ khu phố............ thôn.......................... xã/thị trấn..............................
Xin chân thành cảm ơn sự cộng tác của quý vị. Câu 1. Xin quý vị vui lòng cho ý kiến về các vấn đề sau bằng cách đánh dấu X vào cột “Có”
hay “Không” TT
Nội dung câu hỏi
Có
Không
1.1 Quý vị từng nghe nói đến xã hội hóa giáo dục (XHHGD). 1.2 Quý vị từng nghe báo, đài tuyên truyền về phong trào xây dựng xã hội
học tập (XHHT) trong toàn dân
1.3 Quý vị có biết đến TTVHHTCĐ ở địa phương và có quan tâm đến hoạt
động của nó.
1.4 Chính quyền và các tổ chức đoàn thể thường tổ chức cho người dân
sinh hoạt, học tập tại các TTVHHTCĐ.
1.5 Các buổi học tập, trao đổi kinh nghiệm tại TTVHHTCĐ (nếu có) đều có
chủ đề và nội dung thiết thực đối với nhu cầu của người dân.
1.6 Bản thân quý vị đã bao giờ tham gia sinh hoạt tại TTVHHTCĐ.
Câu 2. Theo quý vị, những đề tài nào cần được tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân hoặc tổ chức học tập tại các TTVHHTCĐ nhằm giúp người dân nâng cao nhận thức và chất lượng cuộc sống gia đình và xã hội ( xin vui lòng đánh dấu X vào cột tương ứng với sự lựa chọn của quý vị) TT
Đề tài hoặc chuyên đề
Rất cần
Mức độ cần thiết Cần
Không cần
Có hay không cũng được
2.1 2.2
Vệ sinh môi trường Xây dựng hệ thống định hướng giá trị nhân cách cho con trẻ
2.3 Giáo dục giới tính cho con 2.4 Những điều cha mẹ cần biết về tâm, sinh lý lứa
tuổi vị thành niên
2.5 Giúp con học tập và hướng nghiệp 2.6
Vai trò của cha mẹ, vợ chồng trong gia đình. Giáo dục gia đình Y tế cộng đồng và vấn đề sức khỏe 2.7 Xây dựng thư viện thôn, xã 2.8 2.9 Pháp luật và cuộc sống 2.10 Giúp nhau làm kinh tế gia đình
Đề nghị của quý vị về những đề tài khác :
2.11 ....................................................................................................................................... 2.12........................................................................................................................................ 2.13........................................................................................................................................
Phù hợp
2.14........................................................................................................................................ Câu 3 Đối với hoạt động của TTVHHTCĐ, theo quý vị, hình thức tổ chức học tập nào là phù hợp với hoàn cảnh thực tế ở địa phương nơi quý vị đang cư trú. ( xin vui lòng đánh dấu X vào cột tương ứng với sự lựa chọn của quý vị) Ttự
Tương đối phù hợp
Không phù hợp
Hình thức tổ chức hoạt động, học tập tại TTVHHTCĐ
3.1 Chiêu sinh, mở lớp như các trường chính quy 3.2 3.3
Vận động học viên tự học ở nhà Thông qua chính quyền thôn, xã hoặc các tổ chức xã hội, vận động người dân tham dự các lớp chuyên đề tại TTVHHTCĐ vào buổi tối
3.4 Mời các chuyên gia nói chuyện theo chuyên đề vào các
3.5
ngày nghỉ trong tuần tại TTVHHTCĐ Tìm hiểu nhu cầu học tập của người dân, phân loại theo từng đề tài và mời giảng viên về tận thôn, xóm để truyền đạt kiến thức người dân cần
3.7
3.6 Chọn người giàu kinh nghiệm ngay trong cộng đồng để tổ chức kiểu “lớp học đầu bờ”( học tập tại hiện trường nhà máy, cơ quan, đồng ruộng,...) Thông báo mở các lớp chuyên đề với thời gian biểu cụ thể, ai có nhu cầu thì tự giác đến đăng ký học
- Quý vị vui lòng chọn ra một hình thức học tập mà quý vị cho là phù hợp nhất trong số các hình thức trên ( ghi theo số thứ tự. Ví dụ : hình thức 3.6 ) :................................................. - Đề nghị của quý vị về hình thức học tập khác :.................................................................. ..................................................................................................................................................
****@****
Xin quý vị vui lòng đọc kỹ và trả lời “Phiếu xin ý kiến”. Một lần nữa xin chân thành cảm ơn quý vị đã dành thời gian và công sức để đóng góp cho chúng tôi những ý kiến quý báu qua phiếu xin ý kiến này. Xin trân trọng .
_______________________________________________________________________
PHIẾU XIN Ý KIẾN ( Dành cho cán bộ quản lý, điều hành Trung tâm Văn hóa học tập cộng đồng)
Xin anh/ chị vui lòng cho biết anh / chị đang công tác tại TTVHHTCĐ xã/ thị trấn :
Thưa quý anh, chị ! Để hoàn thành tốt luận văn về đề tài xây dựng Trung tâm văn hóa học tập cộng đồng ( TTVHHTCĐ) và để đánh giá trung thực công tác này ở địa phương nhằm hướng tới những giải pháp phù hợp với nhu cầu học tập của người dân, xin quý anh/ chị vui lòng cho biết ý kiến của mình về những vấn đề được nêu dưới đây. Những thông tin của quý anh/ chị sẽ góp phần quan trọng vào nội dung đề tài mà tôi đang nghiên cứu và thử nghiệm vì vậy rất mong sự cộng tác của quý anh/ chị. ....................................................................................................................
Xin chân thành cảm ơn. Anh / chị vui lòng cho biết :
1. TTVHHTCĐ của xã/ thị trấn nơi anh / chị công tác được xây dựng và hoạt động từ năm nào :.................. . 2. Các thành viên trong Ban chủ nhiệm, điều hành gồm những ai ( xin ghi kèm chức vụ chính quyền (nếu có) ) : ...................................................................................................................... ...................................................................................................................................................................... ...................................................................................................................................................................... .......................................................................................................... Nhận xét của anh / chị về nhân sự của TTVHHTCĐ : ......................................................... ...................................................................................................................................................................... .............................................................................................................................. 3. Về cơ sở vật chất, trang thiết bị của TTVHHTCĐ : ........................................................ ...................................................................................................................................................................... ...................................................................................................................................................................... ......................................................................................................... Theo anh / chị, CSVC và trang, thiết bị mà TTVHHTCĐ cần nhất là gì ? ............................................................................................................................................... ............................................................................................................................................... 4. Các hình thức hoạt động của TTVHHTCĐ ( Tổ chức học tập ra sao? Số lượng người tham gia? Sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức xã hội khác như thế nào, ...) ...................................................................................................................................................................... ........................................................................................................................ ...................................................................................................................................................................... ........................................................................................................................ 5. Kế hoạch hoạt động của TTVHHTCĐ : ( Anh / chị vui lòng ghi vắn tắt kế hoạch trước mắt và lâu dài của TTVHHTCĐ) ...................................................................................................................................................................... .............................................................................................................................. ...................................................................................................................................................................... .............................................................................................................................. 6. Nội dung hoạt động, học tập ở TTVHHTCĐ : ( Các chuyên đề, đề tài học tập ?...) ...................................................................................................................................................................... .............................................................................................................................. ...................................................................................................................................................................... .............................................................................................................................. 7. Kinh phí hoạt động của TTVHHTCĐ : ( Ngân sách địa phương? Tự vận động?...) ...................................................................................................................................................................... ..............................................................................................................................
...................................................................................................................................................................... .............................................................................................................................. 8. Đánh giá chung của anh / chị về hoạt động của TTVHHTCĐ : ...................................................................................................................................................................... .............................................................................................................................. ...................................................................................................................................................................... .............................................................................................................................
______&______
Chân thành cảm ơn quý anh/ chị về những thông tin rất cầt thiết mà anh / chị đã cung cấp cho
chúng tôi. Một lần nữa xin trân trọng sự cộng tác của quý anh / chị.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Đỗ Thị Lan Anh (2003), Xã hội hóa hoạt động giáo dục ở Quận 12, Thành phố Hồ Chí
Minh: Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ KHGD.
2 . TS. Nguyễn Như Ất (2005), “Để xây dựng nền giáo dục Việt nam thực sự trở thành
một : “ Xã hội học tập - Giáo dục suốt đời : Quan niệm và thể chế hóa” , Tạp chí Phát
triển giáo dục ( T/c PTGD) tháng 7/2005(7), tr. 7-10.
3. TS. Nguyễn Như Ất (2005), “ Cơ chế quản lý nhà nước-xã hội đối với hoạt động giáo
dục cộng đồng”, T/c PTGD tháng 4/2005(4 ), tr. 3-6.
4. TS.Nguyễn Như Ất (2007), “ Về “Mô hình xã hội học tập Việt nam””, T/c Thế giới
trong ta, số 282, tr. 13-15.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1981), Quyết định số 1765/QĐ ngày 09 - 12 - 1981 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục về việc ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Hội đồng Giáo
dục ở các cấp chính quyền địa phương.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2003), Hướng dẫn số 3420/THPT ngày 23 tháng 04 năm 2003
của Bộ GD và ĐT về việc hướng dẫn thực hiện phổ cập bậc trung học.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2004), Chương trình hành động của ngành giáo dục thực hiện
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban CHTW Đảng khóa IX về một số chủ trương, chính
sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ 9
của Đảng ( ban hành kèm theo Quyết định số 1446/QĐ-BGD&ĐT-VP ngày 18/3/2004
của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT).
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ (2004), Thông tư liên tịch 21/2004/TTLT-
BGD&ĐT-BNV ngày23-07-2004 của Liên Bộ GDvàĐT và Bộ Nội vụ về việc hướng dẫn
chức năng,nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn giúp ủy
ban nhân dân quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo ở địa phương .
9. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Quyết định 20/2005/QĐ-BGD&ĐT ngày 24-06-2005
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc phê duyệt đề án “Quy hoạch phát triển
xã hội giáo dục giai đoạn 2005-2010”.
10. Chính phủ (1997), Nghị quyết số 90/CP ngày 21 tháng 8 năm 1997 của Chính phủ về
phương hướng và chủ trương xã hội hóa hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa.
11. Chính phủ (1999), Nghị định số 73/1999/ NĐ-CP ngày 19/08/1999 của Chính phủ về
Chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động Giáo dục,Y tế, Văn hóa.
12. Chính phủ (2001), Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 ( Ban hành kèm theo
Quyết định số 201/ 2001/QĐ-TTg ngày 28/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ).
13. Chính phủ (2004), Nghị định 166/2004/NĐ-CP ngày 16-09-2004 của Chính phủ Quy
định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục.
14. Chính phủ (2005), Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18/04/2005 của Chính phủ về
đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động Giáo dục,Y tế,Văn hóa và Thể dục thể thao .
15. Chính phủ (2005), Quyết định 112/ 2005/QĐ- TTg ngày 18-05-2005 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005-2010”.
16. Đảng Cộng sản Việt nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai,Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VIII , Nxb Chính trị Quốc gia , Hà nội.
17. Đảng Cộng sản Việt nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị Quốc gia , Hà nội.
18. Phan Bá Đạt (sưu tầm và hệ thống) (2005), Luật Giáo dục và các qui định pháp luật
mới nhất đối với ngành Giáo dục và Đào tạo, Nxb Lao động –Xã hội, Hà nội.
19. Đoàn Thị Gái (2003), Xã hội hóa hoạt động giáo dục tại tỉnh Ninh Thuận- Thực trạng
và giải pháp, Luận văn thạc sĩ KHGD.
20. Nguyễn Văn Giao-Bùi Hiền-Nguyễn Hữu Quỳnh-Vũ Văn Tảo (2001), Từ điển Giáo
dục học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
21. GS.TS. Phạm Minh Hạc (Tổng chủ biên) (1997), Xã hội hóa công tác giáo dục,
Nxb Giáo dục, Hà nội.
22. GS.TS. Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. GS.TS. Phạm Minh Hạc ( chủ biên) (2002), Giáo dục thế giới đi vào thế kỷ XXI,
Nxb Chính trị quốc gia , Hà nội, tr.91-130.
24. GS.TSKH Vũ Ngọc Hải (2004), “Xã hội hóa giáo dục-đào tạo, những giải pháp chính
ở nước ta”, T/c PTGD tháng 01/2004 (1 ), tr. 5-8.
25. Ths.Phạm Quang Huân (2004), “ Trung tâm học tập cộng đồng ở phường xã- hướng
đi phù hợp để xây dựng xã hội học tập”, T/c PTGD tháng 6/2004 (6), tr.9-12.
26. Ths. Vũ Thị Thanh Hương (2005), “ Thực trạng và những giải pháp xây dựng và phát
triển các trung tâm học tập cộng đồng nhằm góp phần nâng cao dân trí ở thành phố Hải
Phòng”, T/c PTGD tháng 6/2005(6 ), tr.29-30.
27. Nguyễn Kỳ (2004), “ Xã hội học tập trong tư tưởng Hồ Chí Minh”, T/c PTGD tháng
6/2004 (6 ), tr.1-2.
28. PGS.TS. Đặng Bá Lãm -chủ biên- (2005), Quản lý nhà nước về giáo dục: lý luận và
thực tiễn, Nxb Chính trị QG, Hà nội, Tr. 130-136 và 180-197.
29. TS. Đỗ Thị Bích Loan (2004), “Công bằng xã hội trong giáo dục ở Việt nam”,
T/c PTGD tháng 8+9/2004 (8-9 ), tr.22-23 và 26-27.
30. PGS.TS. Lê Đức Phúc (2005), “ Để có một xã hội học tập”, T/c PTGD
tháng 1/2005 (1 ), tr. 8-9.
31. PGS.Võ Tấn Quang- chủ biên- (2001), Xã hội hóa giáo dục, Nxb ĐHQG, Hà nội.
32. Quốc hội (2005), Luật Giáo dục số 38/2005/QH11 , Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.
33. Tạ Văn Sỹ (2002), “Trung tâm học tập cộng đồng- một mô hình cần tiếp tục hoàn
thiện và phát triển ở Việt Nam”, T/c PTGD tháng 2/2002 (23), Tr 13-14.
34 . Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (2007), Hội nghị Tổng kết năm học
2006- 2007. Triển khai phương hướng nhiệm vụ năm học 2007-2008.
35. PGS.TS.Mạc Văn Trang (2005), “ Những điều kiện xây dựng xã hội học tập”,
T/c PTGD tháng 7/2005 (7 ), tr.7-10.
36. Trần Hữu Trù ( 2005), “ Xã hội hóa giáo dục có cơ sở lý luận và thực tiễn”,
T/c PTGD tháng 4/2005 (4 ), tr.25.
37. UBND tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu (2004), Quy chế tạm thời tổ chức hoạt động của Trung
tâm văn hoá-học tập cộng đồng xã, phường trong tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. Ban hành
kèm theo Quyết định số 5114/2004/QĐ.UB ngày 16/07/2004 của Uỷ ban nhân dân tỉnh
Bà Rịa-Vũng Tàu.
38. UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (2006), Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2006-
2010”.
39. UBND Huyện Tân Thành (2005), Đề án “Phổ cập trung học đúng độ tuổi và phổ cập
giáo dục bậc trung học”. 40. UBND Huyện Tân Thành (2005), Đề án “Quy hoạch phát triển thương mại dịch vụ
thời kỳ 2006-2015 , định hướng đến 2020”
41. UBND Huyện Tân Thành (2006), Báo cáo tổng hợp tình hình hoạt động và sử dụng
kinh phí TTVH-HTCĐ năm 2006.
42. UBND thị trấn Phú Mỹ (2008), Báo cáo tình hình thực hiện nghị quyết HĐND về
nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội- quốc phòng an ninh năm 2007 và phương hướng
nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội - quốc phòng an ninh năm 2008.
Tiếng Anh
43. Portal.unesco.org/ education, Myanmar The Community Learning Centre Experience
44. www.cambridgema.gov/DHSP2/ CLC:CFM
45. www.clcinfo.org/ educational.php ( CLC of South central Indiana)
46. www.communitylearningcentre.org/ CLC Goals and Measures
47. www.eric.ed.gov/ ERIC Web Portal