VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG ANH TUẤN
XỬ LÝ CHẤT THẢI RẮN THÔNG THƯỜNG THEO PHÁP LUẬT
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM HIỆN NAY, TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG ANH TUẤN
XỬ LÝ CHẤT THẢI RẮN THÔNG THƯỜNG THEO PHÁP LUẬT
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM HIỆN NAY, TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS VŨ THỊ DUYÊN THỦY
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Xử lý chất thải rắn thông thường theo pháp
luật bảo vệ môi trường Việt Nam hiện nay từ thực tiễn huyện Vân Đồn, tỉnh
Quảng Ninh” là nghiên cứu của riêng tôi. Các nội dung kết quả nhiên cứu
trong đề tài này là trung thực và chưa công bố trong bất kỳ công trình nghiên
cứu nào khác.
Các số liệu, ví dụ trích dẫn phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh
giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau, đảm bảo tính chính
xác, trung thực và tin cậy.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã hoàn thành việc thanh toán
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Khoa học Xã hội, Viện
Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Học viện Khoa học Xã hội xem
xét để tôi có thể được bảo vệ Luận văn.
Hà Nội, ngày tháng 6 năm 2019
Học viên thực hiện
Hoàng Anh Tuấn
LỜI CẢM ƠN
Để tác giả hoàn thành công trình nghiên cứu, ngoài việc vận dụng
những kiến thức của bản thân, tác giả còn nhận được hỗ trợ của các cá nhân,
tổ chức. Vì vậy, tác giả xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất tới PGS.TS Vũ
Thị Duyên Thủy là người đã trực tiếp hướng dẫn tác giả vô cùng tận tình, tỉ
mỉ để tác giả có thể hoàn thành công trình nghiên cứu đảm bảo chất lượng
cũng như thời hạn theo quy định của Học viện.
Tác giả cũng xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến Ban lãnh đạo Học viện
Khoa học xã hội cùng tập thể các thầy cô giảng viên đã nhiệt tình giảng dạy,
truyền đạt kiến thức trong quá trình tác giả theo học tại Học viện.
Cuối cùng, tác giả nhận thấy đề tài nghiên cứu đã chọn lựa mặc dù
không phải là đề tài mới, nhưng trên thực tế rất ít công trình nghiên cứu về đề
tài cũng như liên quan đến đề tài và cũng không có nhiều văn bản quy phạm
pháp luật quy định về lĩnh vực xử lý chất thải rắn thông thường. Tác giả đã cố
gắng hoàn thiện luận văn cả về nội dung cũng như hình thức nhưng vẫn
không tránh khỏi những thiếu sót. Do vậy, tác giả kính mong nhận được sự
quan tâm, nhận xét của các Thầy, Cô trong Hội đồng bảo vệ về công trình
nghiên cứu. Thông qua đó, tác giả sẽ rút ra được những bài học kinh nghiệm,
khắc phục thiếu sót để hoàn thiện luận văn cũng như các công trình nghiên
cứu sau này.
Xin trân trọng cảm ơn! Tác giả
Hoàng Anh Tuấn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ CHẤT THẢI
RẮN THÔNG THƯỜNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ CHẤT THẢI
RẮN THÔNG THƯỜNG ............................................................................... 7
1.1.Một số vấn đề cơ bản về chất thải rắn thông thường và xử lý chất
thải rắn thông thường .................................................................................. 7
1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật xử lý chất thải rắn thông
thường ....................................................................................................... 17
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về xử lý chất thải rắn thông
thường ....................................................................................................... 27
Kết luận chương 1 ..................................................................................... 28
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT XỬ LÝ CHẤT THẢI
RẮN THÔNG THƯỜNG, TỪ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI
HUYỆN VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH ............................................... 30
2.1. Thực trạng pháp luật xử lý chất thải rắn thông thường ..................... 30
2.2 Thực trạng thực hiện pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường
tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh ....................................................... 45
Kết luận chương 2 ..................................................................................... 54
CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ
LÝ CHẤT THẢI RẮN THÔNG THƯỜNG TẠI HUYỆN VÂN ĐỒN,
TỈNH QUẢNG NINH ................................................................................... 55
3.1 Định hướng hoàn pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường ....... 55
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về xử lý chất
thải rắn thông thường tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh ................... 58
Kết luận chương 3 ..................................................................................... 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 73
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT DIỄN GIẢI
BĐKH Biến đổi khí hậu
QHBVMT Quy hoạch bảo vệ môi trường
KT-XH Kinh tế - xã hội
BVMT Bảo vệ môi trương
PTBV Phát triển bền vững
CNH,HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
TNTN Tài nguyên thiên nhiên
ĐDSH Đa dạng sinh học
CTRTT Chất thải rắn thông thường
QCVN Quy chuẩn Việt Nam
QCKT Quy chuẩn kỹ thuật
TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
BVTV Bảo vệ thực vật
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
CTR Chất thải rắn
NTTS Nuôi trồng thủy sản
KCN Khu công nghiệp
UBND Ủy ban nhân dân
ĐGTĐMT Đánh giá tác động môi trường
VSMT Vệ sinh môi trường
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Tình hình thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn huyện
năm 2017: ........................................................................................................ 50
Bảng 2.2. Thực trạng chi phí cho công tác thu gom, vận chuyển, xử lý CTR
sinh hoạt tại các đô thị trên địa bàn: ............................................................... 51
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Như chúng ta đã biết, môi trường sống là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống, sức khỏe của con người, vấn đề ô nhiễm môi trường đang là
chủ đề nóng trên các mặt báo và nhận được rất nhiều sự quan tâm của
người dân. Trong đó, đặc biệt là vấn đề gây ô nhiễm môi trường do chất
thải rắn thông thường ở Việt Nam đã và đang ngày càng trở nên nghiêm
trọng hơn. Thông qua các phương tiện truyền thông, chúng ta có thể dễ
dàng thấy được các hình ảnh, cũng như các bài báo phản ánh về thực trạng
môi trường hiện nay. Mặc dù các cơ quan có thẩm quyền, các ban ngành,
đoàn thể ra sức kêu gọi bảo vệ môi trường nhưng chưa đủ để cải thiện tình
trạng ô nhiễm môi trường, khiến ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên
báo động và trầm trọng hơn.
Tình trạng quy hoạch các khu đô thị chưa gắn liền với vấn đề xử lý chất
thải, xử lý nước thải,... vẫn còn tồn đọng nên tại các thành phố lớn, các khu
công nghiệp, khu đô thị,...ô nhiễm môi trường đang ở mức báo động. Theo
ước tính, trong tổng số 183 khu công nghiệp trong cả nước thì có trên 60%
khu công nghiệp chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Tại các đô thị,
chỉ có khoảng 60% - 70% chất thải rắn được thu gom, cơ sở hạ tầng thoát
nước và xử lý nước thải, chất thải nên chưa thể đáp ứng được các yêu cầu về
bảo vệ môi trường. Hầu hết lượng nước thải bị nhiễm dầu mỡ, hóa chất tẩy
rửa, hóa phẩm nhuộm,... chưa được xử lý đều đổ thẳng ra các sông, hồ tự
nhiên. Một ví dụ đã từng được dư luận quan tâm thì trường hợp sông Thị Vải
1
bị ô nhiễm bởi hóa chất thải ra từ nhà máy của công ty bột ngọt Vedan
suốt 14 năm liền1.
Năm 2009 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định phê duyệt quy
hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020
và tầm nhìn đến năm 2030 và Vân Đồn được làm nơi thử nghiệm mô hình
phát triển mới Khu hành chính - Kinh tế đặc biệt xuất phát từ chính ưu thế về
vị trí địa kinh tế - chính trị của Vân Đồn. Với xứ mệnh to lớn, một tương lai
về sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh của Vân Đồn trong thời gian qua và sắp
tới sẽ tác động mạnh đến tài nguyên và đặt ra nhiều vấn đề môi trường, nổi
cộm nhất là việc quản lý và xử lý chất thải rắn, đặc biệt là chất thải rắn thông
thường phát sinh từ các hoạt động sản xuất, đô thị, du lịch sẽ ngày càng nhiều
và việc thu gom, xử lý nó đang ngày càng trở nên cấp bách.
Hiện nay, các hoạt động về xử lý chất thải rắn thông thường của huyện
Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh còn nhiều bất cập, các quy định của pháp luật về
xử lý chất thải rắn thông thường còn nhiều hạn chế, chưa đầy đủ gây ra rất
nhiều khó khăn cho các chủ thể trong quá trình xử lý. Vì thế việc hoàn thiện
pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường là một nhu cầu cấp thiết trong
giai đoạn hiện nay ở Việt Nam. Chính vì những lý do trên, tác giả quyết định
lựa chọn đề tài “Xử lý chất thải rắn thông thường theo pháp luật Bảo vệ môi
trường Việt Nam hiện nay từ thực tiễn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh” làm
luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề xử lý chất thải rắn nói chung và chất thải rắn thông thường nói
1 http://socongthuong.tuyenquang.gov.vn/tin-tuc-su-kien/nang-luong-moi-truong/thuc- trang-o-nhiem-moi-truong-o-viet-nam-va-cac-giai-phap-khac-phuc-60.html
riêng đang được Nhà nước và các cơ quan tổ chức quan tâm. điều này được
2
thể hiện thông qua việc rất nhiều tác giả đã thực hiện các công trình nghiên
cứu khoa học vấn đề này, cụ thể như:
- Nguyễn Văn Phước , “Nghiên cứu, đánh giá thực trạng chất thải rắn.
Đề xuất các giải pháp quản lý phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã
hội tỉnh Bình Dương đến năm 2010” luận văn thạc sĩ ( năm 2006) .
- Lưu Việt Hùng, “ Pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường tại
việt nam” luận văn thạc sĩ ( năm 2010).
- Phan Thị Ngân “ Pháp luật về quản lý chất thải qua thực tiễn thực
hiện tại thàn phố đà nẵng” luận văn thạc sĩ ( năm 2019).
Bên cạnh đó còn có khoá luận tốt nghiệp của các sinh viên Trường Đại
học Luật Hà Nội: Phạm Thị Liễu, Đánh giá các quy định của pháp luật về
quản lý chất thải năm 2008. Ngoài ra các nhà khoa học đã có những bài viết
đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Có thể kể đến một số bài viết như: Lê
Kim Nguyệt, Một cơ chế phù hợp cho quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam
đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp tháng 11 năm 2002; Tuy nhiên, hầu
hết những bài viết này mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu, đánh giá công tác
quản lý chất thải, mà không đi sâu phân tích vào công việc xử lý chất thải.
Mặc dù giai đoạn xử lý chất thải thuộc công việc quản lý chất thải, nhưng xét
về yếu tố tác động đến môi trường thì giai đoạn xử lý chất thải trực tiếp ảnh
hưởng đến môi trường như tác động trực tiếp. Bởi, chỉ khi xử lý chất thải tốt,
đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật thì sẽ đảm bảo được chất lượng chất thải được
xử lý và đảm bảo môi trường sống tốt nhất có thể. Vì vậy với đề tài “Pháp
luật về quản lý chất thải rắn thông thường tại Việt Nam” tôi mong muốn đóng
góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào việc hoàn thiện pháp luật về
quản lý chất thải.
3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
pháp luật xử lý chất thải rắn thông thường tại huyện Vân Đồn, từ đó, đề xuất
các giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường nhằm
mục tiêu phát triển bền vững.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu luận văn có nhiệm vụ làm sáng tỏ các khái niệm
cơ bản về chất thải rắn thông thường, xử lý chất thải rắn thông thường; nghiên
cứu khái niệm pháp luật, nguyên tắc và nội dung pháp luật về xử lý chất thải
rắn thông thường, phân tích các yếu tố tác động đến pháp luật về xử lý chất
thải rắn thông thường; phân tích, đánh giá thực trạng và thực trạng thực hiện
pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường; đề xuất định hướng hoàn thiện
pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường và nêu các giải pháp hoàn thiện
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan điểm , luận điểm, các
văn bản pháp luật, các số liệu, báo cáo thực tiễn về xử lý chất thải rắn thông
thường theo pháp luật bảo vệ môi trường Việt Nam hiện nay từ thực tiễn
huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.
4.1.2. Phạm vi nghiên cứu
Chất thải rắn thông thường là loại chất thải được phát sinh từ rất nhiều
nguồn khác nhau. Song, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về xử lý hai loại
chất thải rắn hiện phát sinh nhiều nhất là: chất thải rắn công nghiệp thông
thường và chất thải rắn sinh hoạt thông thường theo pháp luật bảo vệ môi
trường Việt Nam hiện nay, đề cập đến các vấn đề pháp lý liên quan đến xử lý
4
chất thải rắn thông thường từ thực tiễn áp dụng tại địa bàn huyện Vân Đồn,
tỉnh Quảng Ninh.
Thời gian: Số liệu nghiên cứu từ năm 2016-2018, giải pháp tới 2030
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật, các quan điểm của Đảng, Nhà nước về bảo
vệ môi trường, về pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các vấn đề do đề tài đặt ra, người viết luận văn sử dụng
phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương
pháp khảo sát thực tiễn và đánh giá, phương pháp phân tích….
Cụ thể như sau:
- Phương pháp phân tích được sử dụng ở tất cả các chương, mục của
luận văn.
- Phương pháp thống kê được sử dụng để tập hợp, xử lí các tài liệu, số
liệu... phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp chứng minh được sử dụng để chứng minh các luận
điểm, các nhận định về thực trạng pháp luật, thi hành pháp luật và tác động
của nó.
- Phương pháp tổng hợp, qui nạp được sử dụng chủ yếu trong việc đưa
ra những kết luận của từng chương và kết luận chung của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn là công trình khoa học có ý nghĩa nhất định trong việc làm
sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn về xử lý chất thải rắn thông thường tại
huyện Vân Đồn hiện nay.
5
Các kết quả nghiên cứu của Luận văn này có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho các cơ sở đào tạo và nghiên cứu về Luật học. Một số kiến
nghị của đề tài có giá trị tham khảo đối với các cơ quan xây dựng và tổ chức
thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường, pháp luật về xử lý chất thải nói
chung và pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường nói riêng.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài mục lục, danh mục các từ viết tắt, lời nói đầu, kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo luận văn được kết cấu 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về xử lý chất thải rắn thông thường và
pháp luật xử lý chất thải rắn thông thường.
Chương 2: Thực trạng pháp luật xử lý chất thải rắn thông thường và
thực tiễn thực hiện tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Định hướng hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường tại huyện Vân
Đồn, tỉnh Quảng Ninh
6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ CHẤT THẢI RẮN THÔNG
THƯỜNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ CHẤT THẢI RẮN
THÔNG THƯỜNG
1.1.Những vấn đề lý luận về chất thải rắn thông thường và xử lý chất thải
rắn thông thường
1.1.1 Khái niệm chất thải rắn thông thường
- Khái niệm chất thải:
Theo cách hiểu thông thường thì Chất thải là những vật và chất mà
người dùng không còn muốn sử dụng và thải ra, tuy nhiên trong một số ngữ
cảnh nó có thể là không có ý nghĩa với người này nhưng lại là lợi ích của
người khác.Trong cuộc sống, chất thải được hình dung là những chất không
còn được sử dụng cùng với những chất độc được xuất ra từ chúng.
Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học định nghĩa “Chất thải là rác
và những đồ vật bị bỏ đi nói chung”. Khái niệm này đưa ra hai tiêu chí để
phân biệt chất thải với vật chất tồn tại dưới dạng khác, đó là Thứ nhất, chất
thải tồn tại dưới dạng vật chất; Thứ hai, các vật chất (đồ vật không có giá trị,
không có tác dụng và không bị chiếm hữu, sử dụng nữa.Từ điển môi trường
Anh - Việt và Việt Anh định nghĩa “chất thải (watste) là bất kỳ chất gì, rắn,
lỏng hoặc khí mà cơ thể hoặc hệ thống sinh ra nó không còn sử dụng được
nữa và cần có biện pháp thải bỏ”. Theo khái niệm này các yếu tố để phân biệt
chất thải, đó là: Thứ nhất, chất thải là vật chất tồn tại dưới dạng rắn, lỏng,
khí; Thứ hai, vật chất đó không còn giá trị sử dụng đối với cơ thể hoặc hệ
thống sinh ra nó; Thứ ba, phải có biện pháp thải bỏ đối với vật chất đó.
Khái niệm chất thải cũng được sử dụng trong pháp luật quốc tế về môi
trường, được đề cập tại Công ước Basel. Điều 2 khoản 1 Công ước Basel
Khái niệm chất thải còn được đề cập trong pháp luật của khối liên kết chính
7
trị - kinh tế. Liên minh Châu Âu (EU). Điều 1 Nghị định 259/93 của EU về
vận chuyển chất thải ngày 1/2/1993 có hiệu lực từ ngày 6/5/1994 và Điều 3
khoản 1 Luật khuyến khích kinh tế tuần hoàn và đảm bảo xử lý các chất thải
phù hợp với môi trường ngày 27/9/1994 được sửa đổi bổ sung ngày 25/8/1998
của CHLB Đức. Cả hai định nghĩa trên đều có một điểm chung là “vật chất
được xác định là chất thải khi nó nằm trong Phụ lục I của Luật”. Như vậy, cả
hai luật này đều quan tâm đến việc đưa vật chất nào và không đưa vật chất
nào vào trong Phụ lục của mình. Giả sử có những vật chất chưa được đưa vào
Phụ lục nhưng nó lại có nguy cơ gây ảnh hưởng đến môi trường khi chủ sở
hữu thải bỏ thì sẽ được xác định như thế nào, đây là hạn chế mà các nhà làm
luật cần phải bổ sung. Hơn nữa, điều này sẽ khó khi áp dụng vào Việt Nam
bởi chung ta chưa đảm bảo được yếu tố về mặt kỹ thuật, công nghệ khi xác
định các dạng vật chất nằm trong danh mục chất thải thuộc sở hữu của các
chủ thể khác nhau. Pháp luật Việt Nam có quy định khác so với hai văn bản
pháp luật trên, pháp luật Việt Nam đã liệt kê cụ thể các dạng vật chất phát
sinh trong các hoạt động của con người và tồn tại dưới các dang khác nhau:
Khí, lỏng, rắn… khoản 2 Điều 2 Luật bảo vệ môi trường (BVMT) 1993,
khoản 10 Điều 3 Luật BVMT 20052, khoản 12 Điều 3 Luật BVMT 2014 đều
đưa ra định nghĩa về chất thải rắn.
Khoản 12 Điều 3 Luật BVMT năm 2015 thì chất thải được định nghĩa
như sau: Chất thải là vật chất được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ,
sinh hoạt hoặc hoạt động khác.Từ những định nghĩa nêu trên, các chất được
coi là chất thải khi thoả mãn các điều kiện sau:
- Chất thải là vật chất, các yếu tố phi vật chất không thuộc phạm trù
2 Lưu Việt Hùng , Pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường tại Việt Nam ( Luận văn thạc sĩ năm 2010) , trang 3
chất thải, ví dụ: các mối quan hệ xã hội, yếu tố tinh thần;
8
- Chất thải được hiểu là các vật chất mà con người thải ra từ nhà sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác3.
Từ các định nghĩa và dựa vào các tiêu chí khác nhau ta có thể phân loại
chất thải thành các nhóm loại khác nhau:
Dựa vào dạng tồn tại của chất thải, chất thải tồn tại dưới dạng rắn (chất
thải rắn), lỏng (chất thải lỏng), khí (khí thải), nhiệt lượng, tiếng ồn…
Phụ thuộc vào sự độc hại của chất thải, chất thải bao gồm chất thải độc
hại nguy hiểm và chất thải thông thường.
Phụ thuộc vào nguồn sản sinh chất thải, chất thải được chia thành chất
thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp, chất thải y tế…
Phụ thuộc vào chu trình sản sinh ra chất thải, chất thải bao gồm
nguyên liệu thứ phẩm, phế liệu, vật liệu thứ phẩm, sản phẩm, đồ vật hư hỏng
hoặc quá hạn sử dụng
Tùy thuộc vào mức độ nguy hại của chất thải, chất thải được phân laoị
thành chất thải thông thường và chất thải nguy hại
- Khái niệm chất thải rắn
Theo cách tiếp cận chung nhất, chất thải rắn được hiểu là tất cả các chất
thải phát sinh do các hoạt động của con người và động vật tồn tại ở dạng rắn,
được thải bỏ khi không còn hữu dụng hay khi không muốn dùng nữa.
Dưới góc độ pháp lý, Chất thải rắn là chất thải ở thể rắn hoặc sệt (còn
gọi là bùn thải) được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc
các hoạt động khác (Theo quy định tại Điều 3 Khoản 1 Nghị định số
38/2015/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý chất thải và phế liệu)
Ví dụ: giấy báo, rác sân vườn, đồ đạc đã sử dụng, bì nhựa, rác sinh hoạt
3 http://khpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/hoi-dap-phap-luat-bao-ve-moi- truong.aspx?ItemID=174
và bất cứ những gì mà con người loại ra môi trường.
9
Có nhiều cách phân loại chất thải rắn, ví dụ như phân loại theo nguồn
gốc phát sinh, phân loại theo thành phần hóa học, theo tính chất độc hại, theo
khả năng công nghệ xử lý và tái chế…
Phân loại theo nguồn gốc phát sinh: Chất thải rắn đô thị: chất thải từ hộ
gia đình, chợ, trường học, cơ quan; Chất thải rắn nông nghiệp: rơm rạ, trấu,
lõi ngô, bao bì thuốc bảo vệ thực vật; …
Phân loại theo thành phần hóa học: Chất thải rắn hữu cơ: chất thải thực
phẩm, rau củ quả, phế thải nông nghiệp, chất thải chế biến thức ăn; …
Phân loại theo tính chất độc hại: Chất thải rắn thông thường: giấy, vải,
thủy tinh; Chất thải rắn nguy hại: chất thải công nghiệp nguy hại, chất thải
nông nghiệp nguy hại, chất thải y tế nguy hại…
Phân loại theo công nghệ xử lý hoặc khả năng tái chế: Chất phải phân
hủy sinh học, phân thải khó phân hủy sinh học; Chất thải cháy được, chất thải
không cháy được; Chất thải tái chế được: kim loại, cao su, giấy, gỗ…
Khi tính toán các yếu tố công nghệ cho quá trình xử lý chất thải rắn
người ta thường nói đến một số tính chất của nó như tỷ trọng,độ ẩm, độ xốp,
kích thước trung bình… Trong trường hợp công nghệ nhiệt phân được lựa
chọn người ta còn quan tâm đến các tính chất khác của chất thải như nhiệt trị,
nhiệt dung riêng, độ cháy, độ tro, thàn phần cháy4. Mỗi loại chất thải rắn sẽ có
khối lượng, nhiệt ẩm, chất trơ, độ trị và thành phần cháy khác nhau. Khi thu
gom chất thải rắn, các công ty môi trường sẽ phân loại dựa vào tính chất để dễ
dàng xử lý hơn.
- Khái niệm chất thải rắn thông thường
Như đã trình bày ở trên, nếu phân loại chất thải theo tính chất độc hại
4 http://moitruongviet.edu.vn/chat-thai-ran-va-phan-loai-chat-thai-ran/
của chúng, chất thải gồm chất thải thông thường và chất thải nguy hại. Dưới
10
góc độ pháp lý, tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP của Chính
phủ về quản lý chất thải và phế liệu có giải thích: Chất thải thông thường là
chất thải không thuộc danh mục chất thải nguy hại hoặc thuộc danh mục chất
thải nguy hại nhưng có yếu tố nguy hại dưới ngưỡng chất thải nguy hại. Như
vậy, để hiểu được rõ hơn về chất thải rắn thông thường thì trước hết tác giả
xin được đề cập khái niệm chất thải nguy hại.
Thứ nhất, khái niệm chất thải nguy hại:
Trên thế giới thì thuật ngữ chất thải nguy hại đã được đề cập đến từ rất
lâu. Tuy nhiên, tại các quốc gia khác nhau thì đều có quan điểm khác nhau về
thuật ngữ này, chẳng hạn như: Tại Philiphin: Chất thải nguy hại là những chất
có độc tính, ăn mòn, gây kích thích, họat tính,có thể cháy, nổ mà gây nguy
hiểm cho con người, và động vật.
Ở Canada: Chất thải nguy hại là những chất mà do bản chất và tính
chất của chúng có khảnăng gây nguy hại đến sức khỏe con người và/hoặc môi
trường. Và những chất này yêu cầu các kỹ thuật xử lý đặc biệt để lọai bỏ hoặc
giảm đặc tính nguy hại của nó.
Tác giả cho rằng việc quy định chất thải nguy hại phụ thuộc vào trình
độ phát triển kinh tế, các lĩnh vực kinh tế và ý chí của nhà làm luật của từng
quốc gia. Tại Việt Nam đứng trước phát triển của các ngành công nghiệp hiện
nay, kéo theo đó là sự sản sinh ra nhiều chất thải nguy hại cả về số lượng lẫn
chất lượng đòi hỏi nhà nước ta phải đưa ra khái niệm cụ thể của chất thải
nguy hại phù hợp với hoàn cảnh đất nước để có những biện pháp xử lý hợp lý.
Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định: Chất thải nguy hại là
chất thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, lây nhiễm, dễ cháy, dễ nổ, gây ăn
mòn, gây ngộ độc hoặc có đặc tính nguy hại khác. Biểu hiện cụ thể các đặc
tính của chất thải nguy hại gồm:
11
Một là, có độc tính: Đầu tiên là độc tính cấp, các chất thải có thể gây tử
vong, tổn thương nghiêm trọng hoặc có hại cho sức khỏe qua đường ăn uống,
hô hấp hoặc qua da. Độc tính từ từ hoặc mạn tính, các chất thải có thể gây ra
các ảnh hưởng từ từ hoặc mạn tính, kể cả gây ung thư, do ăn phải, hít thở phải
hoặc ngấm qua da. Sinh khí độc, các chất thải chứa các thành phần mà khi
tiếp xúc với không khí hoặc với nước sẽ giải phóng ra khí độc, gây nguy hiểm
đến con người và sinh vật. Đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước nghiêm trọng.
Hai là, có độc tính sinh thái: Các chất thải có thể gây ra các tác hại
nhanh chóng hoặc từ từ đối với môi trường thông qua tích lũy sinh học gây
tác hại đến các hệ sinh vật.
Ba là, tính dễ lây nhiễm: Chất thải nếu không được quản lý chặt chẽ,
không đảm bảo an toàn trong thu gom, lưu giữ, vận chuyển, xử lý thì các rủi
ro, sự cố sẽ gây hậu quả rất nghiêm trọng, ảnh hưởng đến môi trường sống và
sức khỏe cộng đồng. Tùy thuộc vào đặc tính và bản chất của chất thải mà khi
thải vào môi trường sẽ gây nên các tác động khác nhau, lan truyền bệnh.
Bốn là, tính ôxy hóa: Chất thải có khả năng nhanh chóng thực hiện
phản ứng ôxy hóa tỏa nhiệt mạnh khi tiếp xúc với các chất khác, có thể gây ra
hoặc góp phần đốt cháy các chất đó, sẽ gây ra cháy nổ, gây nhiễm độc nguồn
nước và không khí.
Năm là, tính ăn mòn: Các chất hoặc hỗn hợp các chất có tính axít mạnh
(pH bằng 2 hoặc nhỏ hơn 2), hoặc kiềm mạnh (pH bằng 12,5 hoặc lớn hơn
12,5). Việc ăn mòn có thể gây cháy da, ảnh hưởng đến phổi và mắt, gây hư
hại vật liệu công trình.
Sáu là, tính dễ nổ: Các chất thải ở thể rắn hoặc lỏng có thể nổ do kết
quả của phản ứng hóa học khi tiếp xúc với lửa hoặc do bị va đập, ma sát sẽ
tạo ra các loại khí ở nhiệt độ, áp suất và tốc độ gây thiệt hại cho môi trường
12
xung quanh. Chính vì dễ nổ nên chúng có thể gây tổn thương da, bỏng và
thậm chí là tử vong; phá hủy công trình và thậm chí chết người.
Bảy là, tính dễ cháy: Chất thải lỏng có nhiệt độ bắt cháy thấp hơn 60 độ
C, chất rắn có khả năng tự bốc cháy hoặc phát lửa do bị ma sát, hấp thu độ
ẩm, do thay đổi hóa học tự phát trong các điều kiện bình thường, khí nén có
thể cháy. Đặc tính dễ cháy sẽ gây ra hỏa hoạn, bỏng, làm ô nhiễm không khí
và nguồn nước.
Với những đặc tính này của chất thải nguy hại đã thấy rõ sự khác biệt
với chất thải thông thường. Trong khi chất thải nguy hại gây nguy hiểm cho
sức khỏe con người và động vật thì chất thải không thuộc danh mục chất thải
nguy hại hoặc thuộc danh mục chất thải nguy hại nhưng có yếu tố nguy hại
dưới ngưỡng chất thải nguy hại.
Thứ hai, khái niệm chất thải rắn thông thường
Thuật ngữ CTRTT được sử dụng nhiều trên thực tế và tại một số văn
bản quy phạm pháp luật. Tại Việt Nam, như đã đề cập ở trên, thuật ngữ này
được giải thích tại Nghị định số 38/2015/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý
chất thải và phế liệu. Theo đó: Chất thải thông thường là chất thải không
thuộc danh mục chất thải nguy hại hoặc thuộc danh mục chất thải nguy hại
nhưng có yếu tố nguy hại dưới ngưỡng chất thải nguy hại
Như vậy, có thể hiểu chất thải rắn thông thường trước hết phải là chất
thải rắn; CTRTT không phải là chất thải nguy hại đặc điểm này để phân biệt
với chất thải rắn nguy hại. Từ các phân tích trên, CTRTT được định nghĩa
như sau: Chất thải rắn thông thường là một dạng vật chất ở thể rắn, không
phải là thể lỏng, thể khí, không có chứa các hợp chất đến chưa đến mức có thể
gây nguy hại môi trường và sức khỏe con người. ví dụ: chất thải xây dựng -
vôi vữa, gạch ngói vỡ, bê tông, ống dẫn nước bằng sành sứ, tấm lợp, thạch
13
cao; Chất thải rắn như sắt thép kim loại bị gỉ cũ kĩ gây ít hoặc không nguy hại
nhưng chúng cần phải được xử lý dọn dẹp hay tái chế cẩn thận.
Đứng trước thực trạng về tốc độ phát triển kinh tế và ngành nghề kinh
tế hiện nay, lượng chất thải rắn trong đó có chất thải rắn thông thường ngày
càng nhiều. điều này buộc chúng ta phải có giải pháp và được thải ra từ các
hoạt động khác nhau của con người.
Theo Luật BVMT 2014, CTRTT được phân thành hai nhóm chính:
+ Chất thải có thể dùng để tái chế, tái sử dụng;
+ Chất thải phải tiêu huỷ hoặc chôn lấp.
1.1.2. Khái niệm xử lý chất thải rắn thông thường
Xử lý chất thải rắn thông thường, hiểu ở góc độ kỹ thuật, là quá trình sử
dụng các giải pháp công nghệ, kỹ thuật để làm giảm, loại bỏ, cô lập, cách ly,
thiêu đốt, tiêu hủy, chôn lấp chất thải rắn thông thường và các yếu tố có hại
trong chất thải.
Quá trình xử lý chất thải rắn thông thường là một giai đoạn thuộc công
việc quản lý chất thải. Chất thải rắn thông thường cũng như các loại chất thải
là nguyên nhân chính gây ra ô nhiễm môi trường, gây hiệu ứng nhà kính. Cho
nên việc xử lý nó bằng nhiều phương pháp khác nhau sẽ làm giảm chất độc đó
và giảm ảnh hưởng đến môi trường xung quanh. Chẳng hạn, xử lý bằng
phương pháp thiêu đốt sẽ chuyển chất thải thành dạng khí có thể kiểm soát
được nên cũng giảm thiểu nguy cơ ô nhiễm. Đây là phương pháp mang lại
hiệu quả xử lý nhanh nhất. Hay sử dụng phương pháp chôn lấp vệ sinh, nghĩa
là các chất thải được chôn sâu xuống lòng đất và được phủ lấp bên trên.
Phương pháp này cũng có khả năng kiểm soát được sự phân hủy của chất thải
nên cũng giảm thiểu nguy cơ ô nhiễm môi. Việc áp dụng các biện pháp xử lý
chất thải rắn thông thường phụ thuộc vào loại chất thải rắn, nhu cầu, mức độ
đầu tư, điều kiện kinh tế của từng địa phương.
14
Đây là cách hiểu xử lý chất thải rắn thông thường ở góc độ kỹ thuật.
Trong luận văn, tác giả tiếp cận xử lý chất thải nói chung, xử lý chất thải rắn
thông thường nói riêng như là một khâu không thể thiếu của quá trình quản lý
chất thải và được tiếp cận dưới góc độ pháp lý.
Nghị định số 38/2015/ NĐ-CP có giải thích khái niệm xử lý chất thải
như sau: Xử lý chất thải là quá trình sử dụng các giải pháp công nghệ, kỹ
thuật (khác với sơ chế) để làm giảm, loại bỏ, cô lập, cách ly, thiêu đốt, tiêu
hủy, chôn lấp chất thải và các yếu tố có hại trong chất thải. Do vậy, tôi cho
rằng, xử lý chất thải rắn thông thường là quá trình sử dụng các giải pháp
công nghệ, kỹ thuật để làm giảm, loại bỏ, cô lập, cách ly, thiêu đốt, tiêu hủy,
chôn lấp chất thải rắn thông thường và các yếu tố có hại trong chất thải rắn
thông thường nhằm phòng ngừa ô nhiễm môi trường, bảo vệ sức khỏe cộng
đồng. Khái niệm này có thể được hiểu cụ thể như sau:
* Chủ thể thực hiện xử lý chất thải rắn thông thường: là chủ nguồn thải,
các cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền. Cơ quan nhà nước có thẩm
quyền trong xử lý chất thải rắn thông thường gồm các cơ quan trung ương
như: Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục Môi trường, các Bộ
ngành liên quan. Ví dụ Bộ Y tế quản lý nhà nước về chất thải trong lĩnh vực y
tế… Các cơ quan địa phương, như: Ủy ban nhân dân các cấp, Sở, Phòng, Ban
giúp việc cho Ủy ban nhân dân các cấp trong quản lý nhà nước về môi trường.
Còn các chủ thể có thẩm quyền, như Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên và Môi trường, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, Lãnh đạo các Sở,
phòng,… Bên cạnh đó, để xử lý có hiệu quả chất thải rắn thông thường cần
nhấn mạnh đến vai trò của các chủ thể khác, như: tổ chức xã hội, cộng đồng
dân cư, truyền thông báo chí;
15
* Mục đích của xử lý chất thải rắn thông thường: nhằm bảo vệ, ngăn
ngừa ô nhiễm môi trường và bảo vệ sức khỏe cộng đồng, bảo đảm quyền
được sống trong môi trường trong lành;
* Công cụ phương tiện quản lý là: công cụ pháp lý, như: quy chuẩn kỹ
thuật đối với xử lý chất thải rắn thông thường, báo cáo đánh giá ĐTM, công
cụ quan trắc môi trường, công cụ kinh tế, như hạn ngạch phát thải, sức chịu
tải của môi trường, các yếu tố thị trường xã hội.
* Nội dung của xử lý chất thải rắn thông thường, bao gồm các hoạt
động làm giảm, loại bỏ, cô lập, cách ly, thiêu đốt, tiêu hủy, chôn lấp chất thải
rắn thông thường và các yếu tố có hại trong chất thải rắn thông thường .
1.1.3. Mục đích của việc xử lý chất thải rắn thông thường
Thứ nhất, việc xử lý chất thải làm giảm nguy cơ ô nhiễm môi trường.
Các chất thải là nguyên nhân chính gây ra ô nhiễm môi trường như hiện nay.
Cho nên việc xử lý nó bằng nhiều phương pháp khác nhau sẽ làm giảm nguy
cơ gây ô nhiễm môi trường và giảm ảnh hưởng đến môi trường xung quanh.
Với viêc xử lý bằng phương pháp thiêu đốt sẽ chuyển chất thải nguy
hại thành dạng khí có thể kiểm soát được nên cũng giảm thiểu nguy cơ ô
nhiễm. Đây là phương pháp mang lại hiệu quả xử lý nhanh nhất.
Hay sử dụng phương pháp chôn lấp vệ sinh, nghĩa là các chất thải được
chôn sâu xuống lòng đất và được phủ lấp bên trên. Phương pháp này cũng có
khả năng kiểm soát được sự phân hủy của chất thải nên cũng giảm thiểu nguy
cơ ô nhiễm môi trường.
Thứ hai, tận dụng việc xử lý chất thải phục vụ đời sống con người.
Trong quá trình xử lý chất thải người ta phân chia thành 2 loại, một loại chất
thải có thể tái chế lại và một loại không thể tái chế. Đối với những loại có thể
dùng tái chế lại thì sẽ được chuyển đến các khu tái chế hợp vệ sinh để tiến
hành xử lý và tạo ra những sản phẩm khác phục vụ đời sống của con người.
16
Còn đối với các chất thải không thể tái chế thì sẽ tiến hành xử lý để
giảm nguy cơ ảnh hưởng đến cuộc sống con người. Tuy nhiên trong quá trình
xử lý những chất thải đó con người cũng vẫn có thể tận dụng được những lợi
ích của nó mang lại. Ví dụ như trong khi sử dụng các chất thải nguy hại bằng
phương pháp thiêu đốt sẽ tận dụng được nguồn năng lượng trong quá trình đốt
để phục vụ cho các lò sưởi, các ngành công nghiệp cần nhiều nhiệt…Hay như
việc xử lý chất thải trong chăn nuôi bằng việc xây dựng hầm BIOGAS sẽ tạo
ra chất đốt dùng để nấu nướng cũng rất hiệu quả, giúp con người tiết kiệm chi
phí trả tiền khí đốt hàng tháng nếu như dùng gas.
1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật xử lý chất thải rắn thông thường
1.2.1. Khái niệm, nội dung điều chỉnh của pháp luật về xử lý chất thải rắn
thông thường
Trên cơ sở nội hàm của xử lý chất thải rắn thông thường như đã trình
bày trên, tôi cho rằng: Pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường là một hệ
thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình xử lý chất thải rắn thông thường nhằm phòng ngừa ô nhiễm
môi trường, bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Nội dung điều chỉnh của pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường
bao gồm các quy định về trách nhiệm, về nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước,
chủ nguồn thải và vai trò của các chủ thể khác trong xử lý chất thải rắn thông
thường. Trong đó cần xác lập rõ quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân
chủ nguồn thải trong suốt quá trình phòng ngừa (từ giai đoạn đầu tư, đánh giá
tác động môi trường) đến giai đoạn vận hành sản xuất kinh doanh thì chủ
nguồn thải phải phân loại, tập trung, lưu giữ, vận chuyển, tái sử dụng, xử lý
chất thải rắn thông thường. Bên cạnh đó, cũng cần có các quy định về tổ chức
và hoạt động của các cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền trong ban
hành quy chuẩn về chất thải rắn thông thường, đánh giá tác động môi trường
17
đối với chất thải, cấp, thu hồi giấy phép xả thải, giám sát, thanh tra, kiểm tra
các hoạt động của các chủ nguồn thải, khoanh vùng ngăn chặn kịp thời các ô
nhiễm môi trường, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về xả chất thải rắn
thông thường. Ngoài ra, pháp luật điều chỉnh hoạt động của các chủ thể khác
tham gia vào quá trình xử lý chất thải rắn thông thường (như các tổ chức
chính trị, tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư, truyền thông,...) trong giám sát
hoạt động đầu tư, hoạt động xả thải của các doanh nghiệp.
Như vậy, các mối quan hệ được điều chỉnh trong xử lý CTRTT bao
gồm:
Một là: Quan hệ giữa chủ xử lý CTRTT với Nhà nước. Với tư cách là
chủ thể quản lý mang tính quyền lực và đại diện cho lợi chung của cộng đồng,
Nhà nước cần kiểm soát các điều kiện đảm bảo an toàn cho môi trường và
cộng đồng trong quá trình tiến hành các hoạt động xử lý CTRTT. Sự kiểm
soát này được thực hiện thông qua hoạt động thẩm định các điều kiện xử lý
CTRTT, hay giám sát việc đảm bảo các điều kiện đó trong suốt quá trình hoạt
động tại các cơ sở xử lý CTRTT. Mối quan hệ giữa chủ xử lý CTRTT với các
cơ quan quản lý nhà nước về CTRTT phát sinh từ yêu cầu đó. Điều chỉnh mối
quan hệ này, pháp luật quản lý CTRTT thường bao gồm các quy phạm pháp
luật về về các hoạt động kiểm tra, giám sát của Nhà nước đối với các cơ sở xử
lý CTRTT thông qua chế độ báo cáo định kỳ…
Hai là: Quan hệ giữa chủ xử lý CTRTT với chủ vận chuyển CTRTT và
chủ nguồn thải CTRTT. Mối quan hệ này phát sinh trong quá trình chủ xử lý
CTRTT tiếp nhận CTRTT từ chủ vận chuyển CTRTT và hoàn tất hợp đồng
xử lý CTRTT với chủ nguồn thải CTRTT. Các mối quan hệ này được điều
chỉnh chủ yếu thông qua quy định về trách nhiệm chuyển giao CTRTT giữa
chủ vận chuyển CTRTT và chủ xử lý CTRTT.
18
Cũng giống như Việt Nam, điều chỉnh các mối quan hệ trên và đảm bảo
phù hợp với các yêu cầu về kỹ thuật của xử lý, tiêu hủy CTRTT, pháp luật về
xử lý, tiêu hủy CTRTT của nhiều quốc gia trên thế giới cũng đã có những quy
định cụ thể. Chẳng hạn như:
Từ năm 1990, Cộng hòa Liên bang Đức đã coi giảm thiểu, tái chế và tái
sử dụng chất thải (3R: Reduce – Recycle – Reuse) là khái niệm quản lý chất
thải tổng hợp. Khái niệm này sau đó đã trở thành nguyên tắc cơ bản trong
chính sách và pháp luật của quốc gia này về quản lý chất thải. Đạo luật quản
lý và khép kín vòng tuần hoàn chất thải năm 1996 đã quy định các hoạt động
quản lý, tái chế chất thải một cách an toàn, có chất lượng cao. Bên cạnh đó,
việc áp dụng các biện pháp nhằm tránh phát sinh chất thải như thu hồi sản
phẩm hết hạn sử dụng của các nhà sản xuất, tiền cược bao bì… cũng đã được
áp dụng. Đạo luật xe cộ thải loại của Đức ban hành năm 2002 còn quy định rõ
trách nhiệm thu hồi xe cũ trong cả nước của các hãng sản xuất ô tô. Theo ước
tính, tỷ lệ tái chế và tái sử dụng các vật liệu từ xe cũ ở quốc gia này đạt tới
80% (năm 2006). Mục tiêu mà người Đức đặt ra là con số này sẽ được nâng
lên là 95% vào năm 2015.
Tại Nhật Bản, Luật tái chế các thiết bị gia đình đã quy định nghĩa vụ
bắt buộc đối với các nhà sản xuất là phải thu hồi và tái chế các sản phẩm của
mình. Chi phí này do người tiêu dùng chi trả. Năm 2005, Luật tái chế các bộ
phận của xe cộ cũng bắt đầu có hiệu lực ở quốc gia này. Các hãng chế tạo ô tô
có trách nhiệm thu hồi, tái chế những bộ phận có thể tái chế của ô tô sau khi
thải loại. Bên cạnh đó, Luật tái chế bao bì và đồ đựng (1995); Luật tái chế
chất thải xây dựng (2000); Luật tái chế thức ăn thừa (2000) cũng là những văn
bản pháp luật giữ vai trò quan trọng trong tái chế và tái sử dụng chất thải ở
Nhật Bản hiện nay.
19
Tại Hàn Quốc, để khuyến khích ngành công nghiệp tái chế phát triển,
từ năm 1994, Bộ Môi trường Hàn Quốc đã cung cấp các khoản vay dài hạn
với lãi suất thấp cho các cơ sở tái chế và đầu tư công nghệ tái chế. Cho đến
năm 2004, các khoản vay hỗ trợ ngành công nghiệp tái chế ở Hàn Quốc đã lên
tới 435 triệu USD. Năm 2005, Bộ Môi trường Hàn Quốc đầu tư bổ sung 67
triệu USD cho ngành công nghiệp này
Tại Thụy Sỹ, trong Nghị định về chất thải được ban hành ngày 10
tháng 12 năm 1990, trình tự, thủ tục vận hành bãi chôn lấp chất thải và hình
thức xử lý chất thải phù hợp với tính chất của nó đã được quy định tại Điều
21. Điều 38 của Nghị định này cũng quy định cụ thể về điều kiện kỹ thuật của
cơ sở xử lý chất thải bằng phương pháp đốt.
Tại Áo, Luật về kinh tế chất thải năm 1990, sửa đổi năm 1994 cũng có
những quy định liên quan đến trình tự, thủ tục xây dựng bãi chôn lấp chất thải
rắn tại Điều 29. Ngoài ra, việc xây dựng hệ thống bãi chôn lấp chất thải phải
được thực hiện phù hợp với Quy hoạch không gian đối với bãi chôn lấp chất
thải theo quy định tại Điều 26 đạo luật này và phải được phép của Bộ trưởng
Bộ Môi trường liên bang.
1.2.2 Nguyên tắc của pháp luật xử lý chất thải rắn thông thường
- Nguyên tắc bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành.
Quyền được sống trong môi trường trong lành là một quyền con người cơ bản
đã được ghi nhận trong Tuyên bố về môi trường con người năm 1972 tại
Stockhom, Thụy Điển và được củng cố trong Tuyên bố về môi trường và phát
triển năm 1992 tại Rio de Janeiro, Braxin. Ở Việt Nam, quyền được sống
trong môi trường trong lành được nhắc đến trong Lời nói đầu của Luật Bảo vệ
Môi trường năm 1993 và lần đầu tiên được hiến định trong Hiến pháp năm
2013 và chính thức trở thành nguyên tắc của Luật bảo vệ Môi trường năm
2014. Thực tế cho thấy ở Việt Nam quyền được sống trong môi trường trong
20
lành bị đe dọa chủ yếu bởi ô nhiễm môi trường, trong đó có ô nhiễm môi
trường nước. Do vậy, ghi nhận quyền được sống trong môi trường trong lành
vừa là nguyên tắc, vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là trung tâm của quá
trình quản lý nước thải ở Việt Nam hiện nay là cấp thiết và hợp lý. Nguyên
tắc này thể hiện ở chỗ:
- Nhà nước phải ban hành và tổ chức thực hiện các quy định pháp luật
về xử lý chất thải rắn thông thường;
- Các tổ chức, cá nhân chủ nguồn thải phải thực hiện phòng ngừa, phát
hiện ngăn chặn các nguồn thải gây ô nhiễm môi trường;
- Các hành vi xả nước thải gây ô nhiễm môi trường xâm phạm đến
quyền được sống trong môi trường trong lành phải bị xử lý theo Hiến pháp và
theo pháp luật;
- Khi các chủ thể bị xâm phạm quyền này thì có thể khởi kiện ra Tòa hoặc
cơ quan quản lý nhà nước để yêu cầu bảo vệ quyền lợi của mình theo trình tự,
thủ tục luật định.
- Nguyên tắc bảo đảm phát triển bền vững
Phát triển bền vững là sự phát triển của thế hệ hiện tại mà không làm ảnh
hưởng đến sự phát triển của thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hợp lý,
hài hòa giữa phát triển kinh tế đi đôi với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
Do vậy, chỉ có thể có phát triển bền vững khi xử lý chất thải rắn thông thường
được hiệu quả đồng thời từ đó sẽ thúc đẩy phát triển xã hội. Bởi để phát triển
bền vững cần phải đưa yếu tố môi trường vào trong quá trình phát triển để đảm
bảo quá trình phát triển kinh tế sẽ không gây ô nhiễm, suy thoái môi trường,
trong đó có môi trường nước. Ngược lại phát triển bền vững cũng góp phần vào
quá trình bảo vệ môi trường trong đó có quản lý nước thải. Phát triển bền vững
bên cạnh việc quan tâm đến bảo vệ môi trường chủ động thì nó còn tạo ra các
21
nguồn lực để thúc đẩy phát triển môi trường bền vững. Do vậy kiểm soát ô
nhiễm môi trường cần dựa trên nguyên tắc bảo đảm phát triển bền vững.
- Nguyên tắc xã hội hóa các hoạt động xử lý chất thải rắn thông
thường. Chất thải rắn thông thường liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân. Do
vậy để kiểm soát được thiệt hại do ô nhiễm môi trường thì không chỉ có sự
tham gia của Nhà nước mà còn có sự tham gia của mọi tổ chức, cá nhân.
Nguyên tắc này cũng đòi hỏi sự tham gia của cả cộng đồng hoặc đại diện
cộng đồng, các tổ chức đoàn thể xã hội vào quá trình xử lý chất thải rắn thông
thường.
- Nguyên tắc xử lý chất thải rắn thông thường thải tại nguồn.. Cách hiệu
quả nhất để hạn chế ô nhiễm môi trường là kiểm soát ngay tại nguồn thải. Do
vậy, để nâng cao hiệu quả trong quản lý nước thải, việc xây dựng pháp luật về
vấn đề này cần phải dựa trên nguyên tắc đặc thù nhưng rất quan trọng đó là
quản lý chất thải rắn thông thường ngay tại nguồn thải.
- Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường
theo hướng tác động tới chi phí và lợi ích để các chủ thể tự nguyện lựa chọn
tuân thủ pháp luật. Việt Nam thuộc nhóm nước cong yếu kém về thực thi
pháp luật. Sở dĩ việc thực thi pháp luật và tuân thủ pháp luật ở Việt Nam kém
có nhiều nguyên nhân, ngoài những nguyên nhân nằm ở khâu tổ chức thực
hiện thì có nguyên nhân về xây dựng pháp luật. Đặc biệt là tư duy về xây
dựng chính sách pháp luật của Việt Nam có vấn đề gần như thông suốt đó là
tư duy cái gì không quản lý được thì cấm. Với tư duy đó việc xây dựng pháp
luật của ở Việt Nam, đa phần các lĩnh vực dựa trên các quy định cấm để quản
lý, nhưng vẫn bị vi phạm, pháp luật môi trường cũng vậy. Do vậy, tác giả cho
rằng đã đến lúc xây dựng pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường cần
phải tính đến yếu tố chi phí và lợi ích khi xây dựng pháp luật, theo đó quy
22
định theo hướng chủ thể lựa chọn tuân thủ pháp luật sẽ đạt được lợi ích cao
hơn so với việc không tuân thủ/vi phạm pháp luật.
- Nguyên tắc người gây ô nhiễm môi trường phải chịu trách nhiệm
pháp lý. Người gây ô nhiễm môi trường không chỉ phải bồi thường thiệt hại
môi trường mà còn phải chịu trách nhiệm pháp lý liên quan, như trách nhiệm
hình sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm kỷ luật.
- Nguyên tắc hợp tác quốc tế và khu vực trong bảo vệ môt trường nước.
Môi trường mang tính bao trùm toàn cầu, nó không có ranh giới. Do vậy, một
quốc gia không thể đơn phương mà kiểm soát được ô nhiễm môi trường. Hơn
nữa, ô nhiễm môi trường nước thường rất phức tạp, khó xác định thiệt hại. Do
vậy, đẩy mạnh hợp tác quốc tế sẽ giúp các quốc gia có thể hỗ trợ cho nhau về
vốn, về công nghệ, về kinh nghiệm tạo nên tính đồng bộ, tính hệ thống góp
phần xử lý chất thải rắn thông thường được hiệu quả.
1.2.3. Các yêu cầu đặt ra đối với pháp luật về xử lý chất thải rắn thông
thường
Thứ nhất, pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường phải đảm bảo
tính hoàn thiện. Tiêu chí này quan trọng hàng đầu bởi xử lý chất thải rắn
thông thường là một chu trình bao gồm từ phòng ngừa, giảm thiểu, thu gom,
phân loại, vận chuyển, lưu giữ, tái chế, tái sử dụng và xử lý xử lý chất thải rắn
thông thường và hệ thống thiết chế và các cơ sở vật chất kèm theo. Do vậy, để
bảo đảm quản lý chất thải được hiệu quả thì không thể thiếu một trong các
quy định của quá trình này.
Thứ hai, pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường phải đảm bảo dễ
hiểu, dễ tiếp cận. Xử lý chất thải rắn thông thường là một loại chất thải phổ
biến và ảnh hưởng lớn đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con
người và sinh vật. Chất thải rắn thông thường được thải ra từ quá trình sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ và các hoạt động khác của con người. Nên các quy
23
định pháp luật về vấn đề này cần phải thể hiện rõ trách nhiệm của từng chủ
thể trong xử lý chất thải rắn thông thường theo hướng dễ hiểu để mọi người
có thể thực hiện được hiệu quả.
Thứ ba, pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường phải đảm bảo
tính nhanh chóng, kịp thời. Chất thải rắn thông thường có chứa chất có thể
gây ô nhiễm là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng xấu đến con
người và sinh vật. Do vậy, các quy định về xử lý chất thải rắn thông thường
cần nhấn mạnh tính phòng ngừa khi ô nhiễm chưa xảy ra. Còn khi ô nhiễm đã
xảy ra thì các chủ thể có trách nhiệm phải nhanh chóng phát hiện và có biện
pháp ngăn chặn không cho ô nhiễm lan rộng, khắc phục ô nhiễm phục hồi
hiện trạng môi trường được kịp thời. Để làm được điều này cac quy định pháp
luật về xử lý chất thải rắn thông thường thải bên cạnh việc xác định rõ trách
nhiệm của các chủ thể, cần quy định rõ trình tự, thủ tục, thời hạn tối đa phải
thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, các biện pháp tự động bảo vệ môi
trường,….
Thứ tư, pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường phải đảm bảo tính
ngăn ngừa rủi ro phát sinh. Thực tiễn cho thấy thiệt hại do nước thải gây ra
với môi trường và con người thường rất lớn.
Thứ năm, pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường phải nhấn mạnh
đến trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền, các chủ
nguồn thải và các chủ thể có liên quan trong quản lý chất thải. Bởi đối với các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền được nhà nước đầu tư trang thiết bị, nhân
lực chuyên trách thực hiện vấn đề này. Còn đối với các chủ nguồn thải thì đó
là nguồn thải của họ do vậy trách nhiệm đặt ra họ phải quản lý theo quy định
pháp luật và không gây thiệt hại cho chủ thể khác.
24
Thứ sáu, pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường cần phải cụ thể
hóa nguyên tắc coi trọng phòng ngừa trong bảo vệ môi trường, nguyên tắc xã
hội hóa các hoạt đông bảo vệ môi trường.
1.2.4. Vai trò của pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường
Có thể thấy pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường có vai trò
quan trọng:
Một là, đặt ra những quy định cho các chủ thể phát thải chất thải rắn
thông thường, quy định các loại phí giúp cho các chủ thể có quyền dễ thực
hiện trong việc thu lệ phí đối với các chủ thể thải chất thải rắn thông thường;
quy định rõ cách thức thu gom, phân loại, giảm thiểu, dẫn chuyển, xử lý, tái
sử dụng xử lý chất thải rắn thông thường.
Hai là, góp phần không nhỏ trong việc làm trong sạch môi trường,
phòng ngừa, khắc phục ô nhiễm cũng như sự cố môi trường. pháp luật xử
lý chất thải rắn thông thường là công cụ phòng ngừa, khắc phục ô nhiễm môi
trường, sự cố môi trường, góp phần đảm bảo quyền được sống trong một môi
trường trong lành của con người.
Ô nhiễm môi trường được kiểm soát ngay từ khâu pháp luật lên các quy
hoạch xử lý CTRTT. Theo cách hiểu đó, quy hoạch xử lý CTRTT là công cụ
định hướng cho các hoạt động thu gom, xử lý, chôn lấp CTRTT được thực
hiện thống nhất theo mục tiêu định trước nhằm kiểm soát những tác động đến
môi trường của chúng trong tương lai. Thực hiện được điều đó cũng có nghĩa
là khả năng gây ô nhiễm môi trường của các loại CTRTT đã được dự tính và
phòng ngừa trước.
Pháp luật xử lý CTRTT bao gồm nhiều quy tắc xử sự chung, định
hướng cho các hoạt động xử lý, tiêu huỷ CTRTT. Các tổ chức, cá nhân phải
tuyệt đối tuân thủ theo định hướng xử sự trong các quy phạm pháp luật để
phòng ngừa ô nhiễm, sự cố môi trường cũng như các biện pháp khắc phục,
25
ứng phó với những tình trạng xấu đó, đảm bảo an toàn sức khoẻ con người.
Bên cạnh đó, pháp luật xử lý CTRTT còn quy định các chế tài hình sự, dân
sự, hành chính, buộc các tổ chức, cá nhân phải thực hiện đầy đủ các đòi hỏi
của pháp luật trong phòng ngừa ô nhiễm môi trường do CTRTT. Bằng các
chế tài này, pháp luật tác động tới các chủ thể thực hiện hành vi vi phạm,
không chỉ để trừng phạt họ mà còn có thể ngăn chặn các hành vi không thực
hiện phòng ngừa, khắc phục ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường khi tiến
hành các hoạt động có liên quan đến CTRTT, thông qua đó đảm bảo sự trong
lành cần thiết cho chất lượng môi trường sống của con người.
Trong hệ thống pháp luật xử lý CTRTT, chức năng nhiệm vụ của từng
cơ quan xử lý cũng được xác lập đầy đủ, việc này giúp cho hoạt động xử lý
được diễn ra có định hướng. hệ thống, hiệu quả. Việc kiểm soát ô nhiễm môi
trường cũng vì thế được tốt hơn.
Ba là, góp phần nâng cao ý thức của mọi người trong xử lý chất thải
rắn thông thường của người dân để đảm bảo quyền sống trong môi
trường không ô nhiễm.
Bốn là, góp phần vào quá trình sử dụng hiệu quả tài nguyên rác thải,
thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.
Năm là, Pháp luật xử lý chất thải rắn thông thường góp phần thúc đẩy
nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến để bảo vệ môi trường,
giảm thiểu ảnh hưởng xấu của CTRTT
Trong bảo vệ môi trường nói chung và xử lý chất thải nói riêng, kỹ
thuật công nghệ là một trong những yếu tố hết sức quan trọng. Trong số các
biện pháp bảo vệ môi trường đang được áp dụng trên thế giới hiện nay, biện
pháp công nghệ được coi là biện pháp hữu hiệu giải quyết tận gốc vấn đề ô
nhiễm môi trường. Thông qua việc ứng dụng các quy trình công nghệ tiên
tiến, quy trình công nghệ sạch, quy trình công nghệ ít chất thải, con người có
26
thể loại bỏ được chất gây ô nhiễm, nguyên nhân cơ bản nhất gây ô nhiễm môi
trường.
Cũng nhờ quy chế pháp lý tạo điều kiện khuyến khích cho các cơ sở
nghiên cứu ra các công nghệ, ứng dụng mới nhằm đem lại hiệu quả cao trong
hoạt động cũng như góp phần làm giảm thiếu lượng chất thải, đồng thời giúp
cho quy trình xử lý được hiệu quả, nhanh chóng.
Như vậy, pháp luật xử lý CTRTT giữ vai trò hết sức quan trọng trong
đời sống xã hội và sự phát triển bền vững ở nước ta hiện nay. Nó không chỉ là
công cụ quan trọng để điều hòa lợi ích của từng tổ chức, cá nhân với lợi ích
chung về môi trường của cộng đồng, đảm bảo chất lượng môi trường sống
cho con người, đảm bảo phát triển bền vững mà còn là một yếu tố không thể
thiếu góp phần làm thay đổi nhận thức chung của cộng đồng theo hướng có
lợi và ngày càng thân thiện hơn với môi trường.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường
Thứ nhất, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Theo Điều 4
Hiến pháp năm 2013 thì Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo nhà
nước và xã hội, sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện quản lý đội ngũ cán bộ,
công chức, qua đường lối chính sách của Đảng. Là Đảng cầm quyền nên
đường lối, quan điểm là cơ sở cho việc xây dựng hoàn thiện pháp luật. Liên
quan đến lĩnh vực môi trường, Đảng ta luôn quan tâm đến vấn đề này cụ thể
được thể hiện qua các Văn kiện Đại hội Đảng VIII, IX, X, XI, không chỉ vậy
Đảng ta còn thông qua những nghị quyết, những chỉ thị riêng để thể hiện quan
điểm của mình về bảo vệ môi trường, trong đó có quản lý chất thải, như: Chỉ
thị số 36/CT-TW của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ môi trường trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Nghị quyết số 41/NQ-TW
năm 2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường; Nghị quyết số 24/NQ-TW
về bảo vệ tài nguyên môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
27
Đây là các quan điểm cơ bản để Nhà nước ban hành các quy định pháp luật về
xử lý chất thải rắn thông thường.
Thứ hai, ý thức của người dân. Bên cạnh ý thức của người lãnh đạo,
người quản lý. Ý thức của người dân sẽ ảnh hưởng đến tính hiệu quả trong
thực hiện pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường. Nếu người dân có ý
thức tuân thủ pháp luật tốt thì sẽ góp phần quan trọng thực hiện có hiệu quả
pháp luật môi trường, còn nếu nếu không có ý thức thì sẽ ảnh hưởng đến viêc
thực hiện pháp luật môi trường.
Thứ ba, lợi ích kinh tế của doanh nghiệp. Theo số liệu báo cáo hiện
nay, có nhiều nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là nước thải từ
các nhà máy, xí nghiệp là một trong các nguyên nhân chính gây ra vấn đề này.
Sở dĩ như vậy bởi rất nhiều doanh nghiệp hiện nay cho rằng việc không tập
trung cho xử lý chất thải bảo vệ môi trường sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm
được chi phí và thu được nhiều lợi nhuận hơn. Với quan niệm như vậy sẽ dẫn
tới các doanh nghiệp sẽ tìm cách không tuân thủ nghiêm túc các quy định
pháp luật về quản lý nước thải và ảnh hưởng tới việc thực hiện các quy định
pháp luật về vấn đề này. Do vậy, việc xây dựng và thực hiện các quy định
pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường phải hướng tới coi chất thải rắn
thông thường là một loại tài nguyên, áp dụng nhiều hơn nữa công cụ kinh tế
trong quản lý chất thải rắn thông thường bên cạnh các công cụ pháp lý.
Thứ tư, trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ. Vấn đề này có ảnh
hưởng quyết định tới việc điều chỉnh pháp luật về xử lý chất thải rắn thông
thường, bởi khoa học công nghệ giúp thúc đẩy phòng ngừa ô nhiễm môi
trường do xử lý chất thải gây ra; giúp phát hiện, ngăn chặn và đặc biệt là xử lý
ô nhiễm môi trường được hiệu quả. Xây dựng các quy định pháp luật, đặc biệt
pháp luật về quản lý chất thải cần phải phù hợp với trình độ phát triển khoa
học công nghệ nhằm đảm bảo các quy định này có thể khả thi trên thực tiễn.
28
Kết luận chương 1
Cùng với sự gia tăng dân số mạnh mẽ và sự hình thành, phát triển vượt
bậc của các ngành nghề sản xuất trong thời gian qua, chất thải rắn tăng nhanh
chóng về số lượng, với thành phần ngày càng phức tạp đã và đang gây khó
khăn cho công tác quản lý, xử lý. Tuy nhiên, công tác quản lý, xử lý chất thải
rắn thông thường ở nước ta thời gian qua chưa được áp dụng theo phương
thức quản lý tổng hợp, chưa chú trọng đến các giải pháp giảm thiểu, tái sử
dụng, tái chế và thu hồi năng lượng từ chất thải dẫn đến khối lượng chất thải
rắn phải chôn lấp cao, không tiết kiệm quỹ đất, tại nhiều khu vực chất thải
chôn lấp ở các bãi chôn lấp tạm, lộ thiên, hiện đã và đang là nguồn gây ô
nhiễm môi trường. Ngoài ra, công tác triển khai các quy hoạch xử lý chất thải
rắn tại các địa phương còn chậm; việc huy động các nguồn lực đầu tư xây
dựng khu xử lý, nhà máy xử lý chất thải rắn còn gặp nhiều khó khăn; đầu tư
cho quản lý, xử lý chất thải rắn còn chưa tương xứng; nhiều công trình xử lý
chất thải rắn đã được xây dựng và vận hành, nhưng cơ sở vật chất, năng lực
và hiệu suất xử lý thải rắn chưa đạt yêu cầu. Áp lực giữa yêu cầu bảo vệ môi
trường với tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững đất nước đặt ra cho các
cơ quan quản lý cần đánh giá thực tế tình hình xử lý chất thải rắn tại Việt
Nam và đề xuất các giải pháp tăng cường hiệu quả công tác xử lý chất thải rắn
thông thường. Để hoạt động và việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý
chất thải rắn thông thường là một nhu cầu cấp thiết góp phần xây dựng các
quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý cho việc điều chỉnh các quan hệ xã hội
trong việc xử lý chất thải rắn thông thường.
29
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT XỬ LÝ CHẤT THẢI RẮN THÔNG
THƯỜNG, TỪ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI HUYỆN VÂN ĐỒN,
TỈNH QUẢNG NINH
2.1. Thực trạng pháp luật xử lý chất thải rắn thông thường
Xử lý chất thải rắn là một bài toán hóc búa đối với các chủ thể bởi đây
là giai đoạn cuối của quá trình quản lý chất thải, là giai đoạn đảm bảo cho
chất thải được đưa vào môi trường mà không gây ảnh hưởng đến môi trường
và sức khoẻ của con người. Xử lý chất thải, bao gồm các hoạt động tái sử
dụng, tái chế, tiêu huỷ. Xử lý, tiêu huỷ chất thải là khâu rất quan trọng có tính
quyết định đối với việc tạo lập một hệ thống quản lý chất thải hiệu quả, để
giảm thiểu các rủi ro đối với môi trường và sức khoẻ con người Tại Khoản 16
Điều 3 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP đưa ra định nghĩa về xử lý chất thải rắn
như sau: “Xử lý chất thải là quá trình sử dụng các giải pháp công nghệ, kỹ
thuật (khác với sơ chế) để làm giảm, loại bỏ, cô lập, cách ly, thiêu đốt, tiêu
hủy, chôn lấp chất thải và các yếu tố có hại trong chất thải”. Điều 97 Luật
BVMT 2014 quy định: “Chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, tổ chức, hộ
gia đình và cá nhân có phát sinh chất thải rắn thông thường có trách nhiệm tái
sử dụng, tái chế, thu hồi năng lượng và xử lý chất thải rắn thông thường.
Trường hợp không có khả năng tái sử dụng, tái chế, thu hồi năng lượng và xử
lý chất thải rắn thông thường phải chuyển giao cho cơ sở có chức năng phù
hợp để tái sử dụng, tái chế, thu hồi năng lượng và xử lý.”
Các chủ thể xử lý CTRTT phải có trách nhiệm lựa chọn công nghệ và
chu trình xử lý sao cho phù hợp với từng loại chất thải đã được phân loại. Khi
thực hiện việc xử lý CTRTT cần tuân thủ các giai đoạn quá trình xử lý. Xử lý
chất thải hiện nay thường được áp dụng các công nghệ: Phân loại và xử lý cơ
30
học; công nghệ thiêu đốt; công nghệ xử lý hoá lý; trích ly; chưng cất; kết tủa-
trung hoà; ô xy hoá khử; công nghệ chôn lấp hợp vệ sinh.
Chất thải rắn thông thường hay là chất thải rắn không nguy hại gồm: loại
chất thải rắn đô thị, chất thải rắn công nghiệp không chứa hoặc có chứa lượng
rất nhỏ các chất hoặc hợp chất chưa đến mức có thể gây nguy hại tới môi
trường và sức khỏe con người. Như vậy, các vấn đề về xử lý chất thải rắn
thông thường là các vấn đề về xử lý chất thải rắn đô thị và chất thải rắn công
nghiệp.
Pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường hiện quy định bốn nhóm
nội dung cơ bản: (i) Các quy định về trách nhiệm của nhà nước trong xử lý
CTRTT; (ii) Các quy định về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong xử lý
CTRTT; (iii) Chi phí xử lý CTRTT; ( iv) Các quy định xử lý vi phạm pháp
luật về xử lý CTRTT. Cụ thể như sau:
2.1.1. Trách nhiệm của Nhà nước trong xử lý chất thải rắn thông thường
Thứ nhất, trách nhiệm của Nhà nước trong xử lý chất thải rắn sinh hoạt:
Một là, trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường trong
xư lý chất thải rắn sinh hoạt: Đây là cơ quan có thẩm quyền cao nhất trong hệ
thống cơ quan trung ương trong việc xử lý chất thải rắn thông thường. Theo
đó Bộ có trách nhiệm hướng dẫn trình tự, thủ tục, hồ sơ đề nghị xác nhận,
điều chỉnh xác nhận bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường đối với cơ sở xử lý
chất thải rắn sinh hoạt; Hướng dẫn kỹ thuật, quy trình quản lý trong việc xử
lý và thu hồi năng lượng từ chất thải rắn sinh hoạt;
Đồng thời chủ trì và phối hợp với Bộ trưởng Bộ Xây dựng tổ chức xây
dựng cơ sở dữ liệu về chất thải rắn sinh hoạt, quản lý, khai thác, trao đổi, cung
cấp thông tin có liên quan đến quản lý chất thải rắn sinh hoạt.
Tại công văn số 2429/BTNMT-TCMT ngày 28 tháng 5 năm 2019 về
việc rà soát, đánh giá công tác quản lý nhà nước về chất thải rắn và kiểm tra,
31
đánh giá các cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt (thực hiện Nghị quyết
số 09/NQ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2019 của Chính phủ về Phiên họp
thường kỳ Chính phủ tháng 01 năm 2019) Bộ Tài nguyên và Môi trường đã
đã yêu cầu UBND cấp tỉnh chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường cử lãnh đạo
và cán bộ, công chức tham gia Đoàn kiểm tra, đánh giá của Bộ Tài nguyên và
Môi trường đối với hoạt động kiểm tra, đánh giá các cơ sở xử lý chất thải rắn
sinh hoạt; tổ chức điều tra, đánh giá đối với các bãi chôn lấp, các cơ sở xử lý
còn lại và gửi báo cáo về Bộ Tài nguyên và Môi trường để tổng hợp.
Hai là, trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Xây dựng: Hướng dẫn quản lý đầu
tư xây dựng cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt theo quy hoạch được phê
duyệt; phương pháp lập, quản lý chi phí và phương pháp định giá dịch vụ xử
lý chất thải rắn sinh hoạt; Công bố định mức kinh tế, kỹ thuật về thu gom, vận
chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt; suất vốn đầu tư xây dựng cơ sở xử lý
chất thải rắn sinh hoạt; Phối hợp với Bộ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường
xây dựng cơ sở dữ liệu về chất thải rắn sinh hoạt, quản lý, khai thác, trao đổi,
cung cấp thông tin có liên quan đến quản lý chất thải rắn sinh hoạt.
Ba là, trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì,
phối hợp với Bộ trưởng Bộ Xây dựng và Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi
trường thẩm định công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt mới được nghiên
cứu và áp dụng lần đầu ở Việt Nam.
Bốn là, trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong quản lý chất thải
rắn sinh hoạt: Tổ chức quản lý chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn tỉnh, phân
công, phân cấp trách nhiệm cho các cơ quan chuyên môn và phân cấp quản lý
cho Ủy ban nhân dân các cấp về quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo quy định;
Ban hành các quy định cụ thể về quản lý chất thải rắn sinh hoạt; các cơ chế
chính sách ưu đãi, hỗ trợ để khuyến khích việc thu gom, vận chuyển và đầu tư
cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế -
32
xã hội của địa phương; Tổ chức chỉ đạo lập, thẩm định, phê duyệt và tổ chức
triển khai thực hiện quy hoạch xử lý chất thải rắn, quy hoạch bảo vệ môi
trường theo thẩm quyền; lập kế hoạch hàng năm cho công tác thu gom, vận
chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt và bố trí kinh phí thực hiện phù hợp với
chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương; Định kỳ
hàng năm báo cáo Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Xây dựng về tình hình
quản lý chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn, thời điểm báo cáo trước ngày 31
tháng 3 của năm tiếp theo; Tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật về quản
lý chất thải rắn sinh hoạt; chỉ đạo công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
pháp luật về quản lý chất thải rắn trên địa bàn.
Thứ hai, trách nhiệm của Nhà nước trong việc xử lý chất thải rắn công
nghiệp:
Một là, trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường trong
quản lý chất thải rắn công nghiệp thông thường: Thống nhất thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về chất thải rắn công nghiệp thông thường và ban hành
quy định về: Yêu cầu kỹ thuật, quy trình quản lý trong việc phân loại… xử lý
và thu hồi năng lượng từ chất thải rắn công nghiệp thông thường; yêu cầu kỹ
thuật, quy trình quản lý liên quan đến các yêu cầu bảo vệ môi trường đối với
cơ sở xử lý chất thải rắn công nghiệp thông thường và việc thực hiện trách
nhiệm trong giai đoạn hoạt động của chủ nguồn thải, chủ xử lý chất thải rắn
công nghiệp thông thường; Trình tự, thủ tục xác nhận, điều chỉnh xác nhận
bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường đối với cơ sở xử lý chất thải rắn công
nghiệp thông thường; Tổ chức quản lý, kiểm tra hoạt động và các hồ sơ, hợp
đồng, báo cáo liên quan đến chủ xử lý chất thải rắn công nghiệp thông thường
theo thẩm quyền; Tổ chức xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu quốc gia về
chất thải rắn công nghiệp thông thường; tăng cường sử dụng hệ thống thông
tin hoặc thư điện tử để thông báo, hướng dẫn, trao đổi với tổ chức, cá nhân
33
trong quá trình xác nhận bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường đối với cơ sở xử
lý chất thải rắn công nghiệp thông thường; Tổ chức thực hiện các nội dung về
quản lý chất thải rắn công nghiệp thông thường phục vụ công tác lập và triển
khai quy hoạch bảo vệ môi trường theo quy định tại Điều 98 Luật Bảo vệ môi
trường.
Hai là, trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong quản lý chất thải
rắn công nghiệp thông thường: Tổ chức quản lý, kiểm tra hoạt động và các hồ
sơ, hợp đồng, báo cáo liên quan đến các chủ xử lý chất thải rắn công nghiệp
thông thường do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xác nhận bảo đảm yêu cầu bảo vệ
môi trường; Tổ chức cập nhật vào cơ sở dữ liệu quốc gia về chất thải rắn công
nghiệp thông thường; tăng cường sử dụng hệ thống thông tin hoặc thư điện tử
để thông báo, hướng dẫn, trao đổi với tổ chức, cá nhân trong quá trình xác
nhận bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường đối với cơ sở xử lý chất thải rắn
công nghiệp thông thường; Hàng năm thống kê, cập nhật về tình hình phát
sinh, quản lý chất thải rắn công nghiệp thông thường tại địa phương và báo
cáo Bộ Tài nguyên và Môi trường để tổng hợp, theo dõi; thời hạn của báo cáo
trước ngày 31 tháng 3 của năm tiếp theo.
2.1.2. Trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong xử lý chất thải rắn
thông thường
Thứ nhất, trách nhiệm của của các tổ chức, cá nhân trong xử lý chất thải
rắn sinh hoạt:
Chất thải rắn sinh hoạt là chất thải không nguy hại, tuy nhiên để đảm bảo
an toàn cho môi trường nhà nước quy định các tổ chức là chủ nguồn chất thải
phải chuyển giao chất thải rắn sinh hoạt cho các chủ thể là cơ sở tái sử dụng,
tái chế, đồng xử lý và xử lý có chức năng phù hợp và chủ thu gom, vận
chuyển chất thải rắn sinh hoạt đáp ứng quy định của pháp luật; tổ chức thực
hiện nhiệm vụ dịch vụ công ích thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt
34
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao quy định này nhằm mục đích
quản lý tốt cũng như để việc xử lý chất thải rắn sinh hoạt được hiệu quả hơn.
Trường hợp tổ chức, cá nhân là chủ nguồn thải chất thải rắn sinh hoạt tự tái sử
dụng, sơ chế, tái chế, xử lý, đồng xử lý, thu hồi năng lượng thì phải đáp ứng
các yêu cầu: Phải phù hợp với quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động
môi trường, kế hoạch bảo vệ môi trường được xác nhận hoặc giấy tờ tương
đương;Thực hiện bằng công nghệ, công trình bảo vệ môi trường, thiết bị sản
xuất sẵn có trong khuôn viên cơ sở phát sinh chất thải rắn sinh hoạt và phải
đáp ứng các yêu cầu bảo vệ môi trường (trừ chất thải rắn sinh hoạt thuộc
nhóm hữu cơ dễ phân hủy phát sinh từ các phương tiện thăm dò, khai thác dầu
khí ngoài khơi)5.
Một là, trách nhiệm của chủ xử lý chất thải rắn công nghiệp thông
thường: Lập hồ sơ đăng ký để được xác nhận bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi
trường đối với cơ sở xử lý chất thải rắn công nghiệp thông thường; Xử lý chất
thải rắn công nghiệp thông thường phù hợp với địa bàn hoạt động, công suất,
loại chất thải, các hệ thống, thiết bị xử lý chất thải đã được đầu tư xây dựng,
lắp đặt và xác nhận; Trường hợp có phát sinh chất thải nguy hại từ cơ sở xử lý
chất thải rắn công nghiệp thông thường, phải thực hiện trách nhiệm của chủ
nguồn thải chất thải nguy hại theo quy định; Thực hiện đầy đủ các nội dung
xác nhận bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường đối với cơ sở xử lý chất thải rắn
công nghiệp thông thường và hồ sơ để nghị xác nhận bảo đảm yêu cầu đối với
cơ sở xử lý chất thải rắn công nghiệp thông thường kèm theo nội dung Giấy
xác nhận. Hồ sơ này là căn cứ cụ thể cho hoạt động quản lý, giám sát môi
trường đối với chủ xử lý chất thải rắn công nghiệp thông thường; Lập, sử
5 Khoản 4 Điều 3 Nghị định số 40/2019/NĐ-CP ngày 13/5/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật bảo vệ môi trường.
dụng, lưu trữ và quản lý báo cáo, hồ sơ, tài liệu, nhật ký liên quan đến công
35
tác quản lý chất thải rắn công nghiệp thông thường theo quy định, Trường
hợp chủ xử lý chất thải rắn công nghiệp thông thường đồng thời là chủ xử lý
chất thải nguy hại hoặc chủ xử lý chất thải rắn sinh hoạt thì được tích hợp các
báo cáo, hồ sơ, tài liệu, nhật ký cho cả việc quản lý chất thải nguy hại hoặc
chất thải rắn sinh hoạt và chất thải rắn công nghiệp thông thường; Áp dụng
tiêu chuẩn quốc gia về hệ thống quản lý môi trường (TCVN ISO 14001) trong
thời hạn 24 (hai mươi bốn) tháng kể từ khi được xác nhận bảo đảm yêu cầu
bảo vệ môi trường đối với cơ sở xử lý chất thải rắn công nghiệp thông thường
hoặc 24 (hai mươi bốn) tháng kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực đối với cơ
sở đang hoạt động; Thực hiện kế hoạch kiểm soát ô nhiễm và phục hồi môi
trường, đồng thời thông báo bằng văn bản cho cơ quan có thẩm quyền xác
nhận bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường đối với cơ sở xử lý chất thải rắn
công nghiệp thông thường trong thời gian không quá 06 (sáu) tháng kể từ khi
chấm dứt hoạt động.
Hai là, trách nhiệm của chủ nguồn thải chất thải rắn công nghiệp thông
thường: Thực hiện trách nhiệm phân định, phân loại, lưu giữ chất thải rắn
công nghiệp thông thường theo quy định tại Điều 29 Nghị định số
38/2015/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2015 về quản lý chất thải và phế liệu;
Tự tái sử dụng, sơ chế, tái chế, xử lý, đồng xử lý, thu hồi năng lượng hoặc ký
hợp đồng chuyển giao cho đơn vị có chức năng vận chuyển, xử lý chất thải
rắn công nghiệp thông thường; Định kỳ báo cáo tình hình phát sinh, quản lý
chất thải rắn công nghiệp thông thường trong báo cáo giám sát môi trường
định kỳ
Thứ hai, trách nhiệm của chủ xử lý chất thải rắn sinh hoạt: Thực hiện
đầy đủ các yêu cầu về bảo vệ môi trường theo quy định tại Điều 21 Nghị định
số 38/2015/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2015 về quản lý chất thải và phế
liệu; Thực hiện đầy đủ các nội dung xác nhận bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi
36
trường đối với cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt và hồ sơ đề nghị xác nhận
bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường đối với cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt
kèm theo nội dung xác nhận. Hồ sơ này là căn cứ cụ thể cho hoạt động quản
lý, giám sát môi trường đối với chủ xử lý chất thải rắn sinh hoạt; Đối với
trường hợp được quy định tại Khoản 13 Điều 21 thì phải có phương án trình
cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại Khoản 7, 8 Điều 21 Nghị định số
38/2015/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2015 về quản lý chất thải và phế liệu
để xem xét, chấp thuận trước khi triển khai hoạt động; Có trách nhiệm thông
báo bằng văn bản đến cơ quan quản lý Nhà nước, các bên có liên quan trong
trường hợp ngừng dịch vụ xử lý để sửa chữa, cải tạo, nâng cấp dịch vụ xử lý.
Nội dung thông báo phải nêu rõ lý do, thời gian tạm ngừng dịch vụ đồng thời
phải có phương án xử lý; Khi phát hiện sự cố môi trường phải có trách nhiệm
thực hiện các biện pháp khẩn cấp để bảo đảm an toàn cho người và tài sản; tổ
chức cứu người, tài sản và kịp thời thông báo cho chủ đầu tư, chính quyền địa
phương hoặc cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường nơi xảy ra ô nhiễm
hoặc sự cố môi trường để phối hợp xử lý; Lập, sử dụng, lưu trữ và quản lý
báo cáo, hồ sơ, tài liệu, nhật ký liên quan đến công tác quản lý chất thải rắn
sinh hoạt theo quy định; Trường hợp phân loại được chất thải nguy hại từ chất
thải rắn sinh hoạt hoặc phát sinh chất thải nguy hại tại cơ sở xử lý chất thải
rắn sinh hoạt thì phải chuyển sang quản lý theo quy định về quản lý chất thải
nguy hại và thực hiện trách nhiệm của chủ nguồn thải chất thải nguy hại theo
quy định tại Chương II Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm
2015 về quản lý chất thải và phế liệu.
2.1.3. Chi phí xử lý chất thải rắn thông thường
2.1.3.1. Chi phí xử lý chất thải rắn sinh hoạt
Theo Điều 25 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2015
về quản lý chất thải và phế liệu quy định về chi phí thu gom, vận chuyển, xử
37
lý chất thải rắn sinh hoạt thì chi phí xử lý chất thải rắn sinh hoạt gồm: Chi phí
vận hành, duy trì là chi phí về nhân công, chi phí điện, nước, chi phí bảo
dưỡng máy móc; Chi phí khấu hao, máy móc, nhà xưởng, công trình được
đầu tư cho xử lý chất thải rắn sinh hoạt (bao gồm nước rỉ rác và khí thải nếu
có) đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật theo quy định; Các chi phí, thuế và phí
khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy, tùy vào từng loại máy móc, công nghệ dùng để xử lý chất thải
sinh hoạt thì sẽ có mức chi phí khác nhau. Tại tỉnh Quảng Ninh, cùng 01 kg
chất thải rắn sinh hoạt tại thị xã đối với hộ gia đình nếu sử dụng phương pháp
xử lý là đốt rác có giá dịch vụ là 10.000đ / hộ / tháng, còn sử dụng phương
pháp chôn lấp là 5000đ/ hộ/ tháng. Tuy nhiên giữa các đối tượng sử dụng dịch
vụ khác nhau cũng có mức giá khác nhau như cùng trên địa bàn thị xã nhưng
phí dịch vụ áp dụng cho đối với cá nhân (Cá nhân cư trú tại các phòng thuê
trọ), hộ độc thân hoặc thu theo nhân khẩu là 5000đ/ hộ/ tháng đối với phương
pháp đốt rác, còn phương pháp chôn lấp là 5000đ/ hộ/ tháng, đối với hộ nghèo
(được cấp có thẩm quyền công nhận) là 2.500đ/ hộ/ tháng đối với phương
pháp đốt rác, còn phương pháp chôn lấp là 1000đ/ hộ/ tháng6. Hiện nay, việc
xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại tỉnh Quảng Ninh chủ yếu được cung cấp dịch
vụ từ nguồn ngân sách nhà nước, căn cứ vào các chi phí trong quá trình xử lý
chất thải rắn sinh hoạt, Điều 26 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP quy định về
Giá dịch vụ xử lý chất thải rắn sinh hoạt cụ thể:
Về nguyên tắc và phương pháp định giá: Gắn với chất lượng dịch vụ,
công nghệ xử lý; Bảo đảm khối lượng chất thải rắn sinh hoạt được xử lý đúng
6 Phụ lục kèm theo Quyết định số 33/2018/QĐ-UBND ngày 26 tháng 10 năm 2018 của UBND tỉnh Quảng Ninh về về việc sửa đổi, bổ sung một số nội dung của quyết định số 2625/2017/QĐ-UBND ngày 06/7/2017 về việc quy định giá tối đa dịch vụ thu gom, vận chuyển rác thải sinh hoạt và dịch vụ xử lý chất thải rắn sinh hoạt sử dụng nguồn vốn ngân sách trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
quy trình kỹ thuật, đáp ứng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật môi trường,
38
góp phần nâng cao chất lượng môi trường, bảo vệ sức khỏe cộng đồng; Việc
định giá dịch vụ xử lý chất thải rắn sinh hoạt phải căn cứ theo điều kiện hạ
tầng, điều kiện kinh tế - xã hội và khả năng chi trả của ngân sách địa phương.
Cơ quan có thẩm quyền phê duyệt mức giá dịch vụ xử lý chất thải rắn
sinh hoạt là: Đối với cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt được đầu tư từ ngân
sách nhà nước trên địa bàn một tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao các sở
chuyên ngành lập phương án giá gửi Sở Tài chính chủ trì tổ chức thẩm định
trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt; Đối với cơ sở xử lý chất thải rắn
sinh hoạt được đầu tư từ các nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước, chủ đầu tư
lập và trình phương án giá, Sở Tài chính chủ trì phối hợp với các cơ quan liên
quan thẩm định, trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt; Đối với các dự án
xử lý chất thải rắn sinh hoạt liên vùng, liên tỉnh, chủ đầu tư lập phương án giá
gửi Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với Bộ, ngành liên quan thẩm định. Kết quả
thẩm định của Bộ Tài chính là cơ sở để Ủy ban nhân dân các tỉnh thuộc phạm
vi dự án phê duyệt giá xử lý chất thải rắn sinh hoạt.
Nguồn tiền chi trả cho việc xử lý chất thải rắn sinh hoạt là hoạt bao
gồm phí vệ sinh và các nguồn thu khác theo quy định của pháp luật
Về phương pháp định giá dịch vụ xử lý chất thải rắn sinh hoạt được
quy định cụ thể tại thông tư số 07/2017/TT-BXD của bộ xây dựng ngày 15
tháng 05 năm 2017 cụ thể:
Giá dịch vụ xử lý chất thải rắn sinh hoạt được xác định theo công thức
sau:
GXLCTR= ZTB + (ZTB x P) (1)
Trong đó:
- GXLCTR: là giá dịch vụ xử lý 01 tấn chất thải rắn sinh hoạt chưa bao gồm thuế
giá trị gia tăng (VAT). Đơn vị: đồng.
39
- ZTB: là giá thành toàn bộ để xử lý 01 tấn chất thải rắn sinh hoạt. Đơn vị:
đồng
- P là tỷ lệ lợi nhuận (%): không quá 5%.
2. Giá thành toàn bộ để xử lý 01 tấn chất thải rắn sinh hoạt (ZTB) được xác
định theo công thức sau:
(2)
Trong đó:
- ZTB: là giá thành toàn bộ để xử lý 01 tấn chất thải rắn sinh hoạt. Đơn vị:
đồng.
- CT: là tổng chi phí hợp lý, hợp lệ thực hiện dịch vụ xử lý chất thải rắn sinh
hoạt. Đơn vị: đồng.
- Q: là tổng khối lượng chất thải rắn sinh hoạt vận chuyển đến cơ sở xử lý để
xử lý. Đơn vị: tấn
Căn cứ vào quy định này, UBND tỉnh Quảng Ninh đã ban hành quyết
định số 2625/2017/QĐ-UBND của UBND tỉnh Quảng Ninh ngày 06 tháng 7
năm 2017 về việc quy định giá tối đa dịch vụ thu gom, vận chuyển rác thải
sinh hoạt và dịch vụ xử lý chất thải rắn sinh hoạt sử dụng nguồn vốn ngân
sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh và Quyết định số 33/2018/QĐ-
UBND ngày 26 tháng 10 năm 2018 của UBND tỉnh Quảng Ninh về về việc
sửa đổi, bổ sung một số nội dung của quyết định số 2625/2017/QĐ-UBND
ngày 06/7/2017 về việc quy định giá tối đa dịch vụ thu gom, vận chuyển rác
thải sinh hoạt và dịch vụ xử lý chất thải rắn sinh hoạt sử dụng nguồn vốn ngân
sách trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Theo đánh giá của tác giả, mức phí dịch
vụ xử lý rác thải tối đa được Nhà nước quy định là vẫn thấp so với nhu cầu
thực tế, do vậy không khuyến khích được các tổ chức tư nhân tham gia trong
lĩnh vực cung cấp dịch vụ xử lý rác thải. mặt khác, hầu hết các hộ gia đình ở
40
các địa phương như tại thị trấn, huyện vẫn còn thói quen tự ý xả rác bừa bãi,
vừa gây ô nhiễm môi trường vừa ảnh hưởng đến nguồn thu đầu vào cho nhà
máy xử lý chất thải.
2.1.3.2. Chi phí xử lý chất thải rắn công nghiệp thông thường.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 30 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày
24/4/2015 của Chính phủ về Quản lý chất thải và phế liệu, Chủ nguồn thải
chất thải rắn công nghiệp thông thường trong trường hợp không tái sử dụng,
sơ chế, tái chế, xử lý, đồng xử lý, thu hồi năng lượng thì phải “ký hợp đồng
chuyển giao cho đơn vị có chức năng vận chuyển, xử lý chất thải rắn công
nghiệp thông thường”. Như vậy, chủ nguồn thải chất thải rắn công nghiệp
thông thường nếu không phải là chủ xử lý thì phải có trách nhiệm ký hợp
đồng xử lý chất thải rắn công nghiệp thông thường với đơn vị có chức năng.
Bởi chất thải rắn công nghiệp thông thường, mặc dù không phải là chất thải
gây nguy hại cho sức khỏe con người nhưng phần lớn chất thải này khó xử lý
và phải có thời gian dài mới được phân hủy. Để bảo vệ môi trường nhà nước
cần bắt buộc chủ nguồn thải phải có trách nhiệm ký hợp đồng với đơn vị có
chức năng xử lý chất thải rắn công nghiệp thông thường.
Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại bộ xây dựng chưa có hướng dẫn chi tiết về
các chi phí xử lý cũng như giá dịch vụ xử lý chất thải rắn công nghiệp thông
thường. Tại tỉnh Quảng Ninh cũng không có văn bản nào thể hiện quy định về giá
dịch vụ xử lý chất thải rắn thông thường. Theo tác giả được biết tại tỉnh Quảng
Ninh cũng chưa có nhà máy xử lý chất thải công nghiệp thông thường nào đang
hoạt động mà chỉ có các nhà máy, khu xử lý chất thải rắn sinh hoạt.
2.1.4. Xử lý vi phạm pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường
* Về xử lý vi phạm hành chính chính
Trong những năm qua, công tác xử lý chất thải cũng như chất thải rắn
thông thường đã được quan tâm và đầu tư hơn về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, pháp
41
luật cũng có những quy định cụ thể hơn đối với việc xử lý chất thải rắn thông
thường. Để ngăn chặn cũng như giảm thiểu hành vi vi phạm trong việc xử lý
chất thải rắn thông thường, nhà nước đã ban hành những quy định xử phạt
tương ứng với từng mức độ vi phạm cụ thể tại Nghị định 155/2016/NĐ-CP
của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường 18/11/2016:
Thứ nhất, áp dụng hình thức xử phạt tiền:
Đối với hành vi vi phạm trong hoạt động xử lý chất thải rắn sinh hoạt
và hoạt động xỷ lý chất thải rắn công nghiệp thông thường bị xử phạt bằng
hình thức phạt tiền với các mức thấp nhất là 10.000.000 đồng đối với hành vi
không lập báo cáo, hồ sơ, tài liệu, nhật ký liên quan đến công tác quản lý, xử
lý chất thải rắn sinh hoạt theo quy định; và mức cao nhất là 160.000.000 đồng
đối với hành vi không có Giấy xác nhận bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường
hoặc phương án xử lý chất thải rắn sinh hoạt được cơ quan có thẩm quyền
chấp thuận theo quy định.
Thứ hai, đối với hành vi chuyển giao, cho, bán chất thải rắn sinh hoạt,
chất thải rắn công nghiệp thông thường cho đơn vị không có chức năng, năng
lực xử lý theo quy định; chôn, lấp, đổ, thải chất thải rắn sinh hoạt, chất thải
rắn công nghiệp thông thường trái quy định về bảo vệ môi trường, trừ các
trường hợp hành vi tội phạm về môi trường; tiếp nhận chất thải rắn sinh hoạt,
chất thải rắn công nghiệp thông thường nhưng không có biện pháp xử lý hoặc
không chuyển giao cho đơn vị có chức năng xử lý theo quy định bị xử phạt
mức thấp nhất là 2.000.000 đồng đối với trường hợp chuyển giao, cho, bán,
tiếp nhận, chôn, lấp, đổ, thải chất thải rắn sinh hoạt, chất thải rắn công nghiệp
thông thường dưới 1.000 kg và mức cao nhất là 250.000.000 đồng đối với
trường hợp chuyển giao, cho, bán, tiếp nhận, chôn, lấp, đổ, thải chất thải rắn
sinh hoạt, chất thải rắn công nghiệp thông thường từ 100.000 kg trở lên.
42
Mức phạt tiền có thể tăng thêm từ 40% đến 50% số tiền phạt so với
mức phạt tiền tương ứng đối với hành vi vi phạm quy định tại khoản 9 Điều 3
nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày ngày 18 tháng 11 năm 2016 quy định về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường mà gây ô nhiễm
môi trường hoặc có chứa các thông số môi trường nguy hại vượt quy chuẩn
kỹ thuật môi trường xung quanh. Tổng mức phạt đối với mỗi hành vi vi phạm
không quá 1.000.000.000 đồng, trường hợp chất thải có chứa chất phóng xạ,
gây nhiễm xạ môi trường, trừ các trường hợp hành vi tội phạm về môi trường.
Thì bị phạt tiền từ 900.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng.
Theo đánh giá của tác giả, mặc dù số tiền phạt vi phạm mức cao nhất là
1.000.000.000 đồng là số tiền lớn nhưng trên thực tế để xác định hành vi vi
phạm ở mức này còn chưa hiệu quả việc quy định chung chung không xác
định rõ mức độ gây ô nhiễm môi trường là như thế nào, mức nào? Chứa các
thông số môi trường nguy hại vượt quy chuẩn cụ thể như thế nào, nếu hành vi
đó chứa rất các thông số môi trường nguy hại nhưng chưa vượt quy chuẩn và
hành vi này xảy ra thường xuyên thì có thể hành vi này còn có thể tiềm ẩn
những hậu quả tiêu cực cho môi trường.
Thứ hai, áp dụng hình thức xử phạt bổ sung:
Đình chỉ hoạt động của cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt, chất thải rắn
công nghiệp thông thường từ 03 tháng đến 06 tháng đối với trường hợp vi
phạm quy định tại điểm đ khoản 7, điểm g khoản 8, các khoản 9, 10 và 11
Điều 3 nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày ngày 18 tháng 11 năm 2016; Tịch
thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với trường hợp vi phạm quy
định tại các khoản 9, 10 và 11 Điều Điều 3 nghị định số 155/2016/NĐ-CP
ngày ngày 18 tháng 11 năm 2016; Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc khôi
phục lại tình trạng môi trường ban đầu do hành vi vi phạm quy định tại các
khoản 9, 10 và 11 Điều 3 nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày ngày 18 tháng
43
11 năm 2016 gây ra; Buộc chi trả kinh phí trưng cầu giám định, kiểm định, đo
đạc và phân tích mẫu môi trường trong trường hợp có vi phạm về xả chất thải
vượt quy chuẩn kỹ thuật môi trường hoặc gây ô nhiễm môi trường theo định
mức, đơn giá hiện hành đối với các vi phạm quy định tại Điều 3 nghị định số
155/2016/NĐ-CP ngày ngày 18 tháng 11 năm 2016; Buộc phải thực hiện các
biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường và báo cáo kết quả đã
khắc phục xong hậu quả vi phạm trong thời hạn do người có thẩm quyền xử
phạt ấn định trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi
phạm quy định tại Điều 3 Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày ngày 18 tháng
11 năm 2016 gây ra.
* Về truy cứu trách nhiệm hình sự
Đây là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất áp dụng đối với các
hành vi vi phạm pháp luật môi trường nói chung và vi phạm pháp luật về xử
lý CTRTT nói riêng. Các hành vi này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo quy định của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi năm 2017) từ điều 235 đến
điều 237, với hình phạt tiền lên đến 03 tỷ đồng và hình phạt tù có thời hạn
lên đến 07 năm tù đối với các tội chôn lấp hoặc xả chất thải ra môi trường.
Trước đó, các quy định về trách nhiệm hình sự đối với các vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và xử lý CTRTT nói riêng đã được ban
hành tương đối đầy đủ trong lần sửa đổi bộ luật hình sự 2009, nhưng các
mức phạt tiền còn thấp, chưa đủ sức răn đe đối với các chủ thế vi phạm và
hơn thế nữa là cơ chế áp dụng chưa được triệt để. Với những quy định về
mức phạt cao hơn trong bộ luật hình sự 2015 hy vọng rằng những vi phạm
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường sẽ giảm đi.
Thực tiễn cho thấy các vi phạm trong lĩnh vực môi trường đều bị xử lý
hành chính là chủ yếu, rất ít các vụ việc xử lý vi phạm bị đưa ra tòa để chịu
trách nhiệm hình sự. Bởi thực tế công tác đánh giá mức độ nghiêm trọng, hay
44
rất nghiêm trọng đủ để cấu thành tội phạm hình sự là rất khó, bởi những
nguy cơ cho sức khỏe và môi trường do xử lý chất thải không đúng yêu cầu
là rất khó nhận biết. Nguy cơ này không diễn ra nhanh chóng mà dần dần tác
động về lâu dài.
* Về giải quyết bồi thường thiệt hại
Bồi thường thiệt hại về môi trường tự nhiên và bồi thường thiệt hại về sức
khỏe, tài sản, tính mạng của các tổ chức, cá nhân do hành vi làm ô nhiễm
môi trường tropng xử lý chất thải là dạng trách nhiệm pháp lý được áp dụng
theo quy định chung của Bộ luật dân sự 2015 và Luật Bảo vệ môi trường
2014. Theo đó, tùy thuộc vào mức độ gây thiệt hại, người gây thiệt hại có
trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại, kể cả trong trường hợp không có
lỗi.
2.2 Thực tiễn thực hiện pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường tại
huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
2.2.1. Điều kiện kinh tế, xã hội của huyện Vân Đồn ảnh hưởng đến việc
thực hiện pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường tại huyện Vân
Đồn, tỉnh Quảng Ninh
Vân Đồn là huyện đảo nằm ở phía Đông bắc của tỉnh Quảng Ninh, gồm
thị trấn Cái Rồng và 11 xã đảo, dân số trên 4 vạn người. Năm 2005, cầu Vân
Đồn được khánh thành đã mở ra một trang mới trong quá trình phát triển của
huyện. Từ chỗ cách biệt với đất liền, sau khi cầu được đưa vào sử dụng,
huyện đảo này đã có thể kết nối với các trung tâm kinh tế của tỉnh và cả nước
bằng hệ thống đường giao thông thông suốt. Với các nguồn lực tự nhiên và
tài nguyên thiên nhiên thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, tương lai
không xa, Vân Đồn sẽ là một trung tâm du lịch sinh thái biển đảo chất lượng
cao và dịch vụ cao cấp. Để xứng tầm là một khu hành chính kinh tế đặc biệt,
Vân Đồn đang nỗ lực tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và đầu tư hợp
45
tác liên doanh trong và ngoài nước. Bên cạnh sự phát triển đi lên về mọi mặt,
Vân Đồn cũng phải đối mặt với các vấn đề ô nhiễm môi trường, quản lý chất
thải rắn, bảo vệ môi trường biển.
Hiện nay, trên địa bàn huyện chỉ mới có hệ thống thu gom rác thải tập
trung cho khu vực trung tâm huyện gồm thị trấn Cái Rồng, xã Hạ Long, Đông
Xá, công nghệ xử lý là chôn lấp; địa bàn các xã còn lại chưa có hệ thống thu
gom xử lý rác thải. Đặc biệt là tuyến các xã đảo là nơi có tiềm năng phát triển
du lịch lớn, thu hút nhiều khách du lịch, thì công tác thu gom, xử lý, quản lý
chất thải gặp nhiều khó khăn do điều kiện về địa hình.
Tại cả 5 xã đảo việc thu gom, xử lý chất thải phát sinh trên địa bàn do
các tổ vệ sinh môi trường của các xã đảm nhiệm. Rác thải tại các xã đảo phát
sinh chủ yếu từ các nguồn như: Rác từ hộ gia đình( 79% là rác thực phẩm);
rác thải từ cơ quan, trường học; rác thải từ chợ; rác thải du lịch; rác thải y tế;
rác thải nông nghiệp; và đặc biệt là rác thải từ ngành kinh tế biển. Chất thải
sinh hoạt phát sinh được các hộ tự thu gom tại gia đình, cơ sở, một phần làm
thức ăn chăn nuôi, phần lớn xử lý bằng biện pháp chôn lấp hoặc đốt.
2.2.2. Thực trạng phát sinh chất thải rắn thông thường tại huyện Vân Đồn,
tỉnh Quảng Ninh
Nguồn phát sinh chất thải rắn
Khu vực nghiên cứu có thành phần rác thải khá phức tạp với nhiều
nguồn thải khác nhau từ sinh hoạt, hoạt động du lịch - thương mại, công
nghiệp, nông nghiệp và các nguồn khác.
- Nguồn phát sinh chất thải sinh hoạt: Trung bình một hộ gia đình trên
địa bàn huyện thải ra khoảng từ 3-5kg/ngày, với thành phần chủ yếu gồm thực
phẩm thừa sau quá trình chế biến thức ăn chứa chủ yếu các chất hữu cơ dễ
phân hủy, bao bì, nilon, giấy, tải, vỏ sò, hến...
46
- Nguồn thải từ khách du lịch, hộ kinh doanh du lịch, khách sạn: Thành
phần chủ yếu bao bì, nhựa, chất hữu cơ dễ phân hủy, giấy ăn... Tải lượng phát
sinh chất chất thải rắn từ khách du lịch vào khoảng 1-1,2 kg/người/ngày và
thay đổi theo mùa.
- Nguồn thải từ chợ: trên địa bàn huyện xuất hiện rải rác một số chợ lớn
đi kèm với đó là rất nhiều chợ tạm, nguồn thải từ những chợ này luôn có với
số lượng lớn, đa dạng về thành phần trong đó chủ yếu là túi nilon chiếm tới
50%, rác thải sinh hoạt từ nhà dân lân cận...;
- Nguồn thải từ trường học: nguồn thải này chủ yếu bao gồm rác túi
nilon...;
- Nguồn thải từ bệnh viện, cơ sở y tế: thành phần chủ yếu là băng gạc,
bao bì thuốc, bơm kim tiêm, chai lọ vacxin...;
Khối lượng và thành phần chất thải rắn
- Chất thải rắn sinh hoạt: Với tổng dân số hiện nay huyện Vân Đồn là
43.853 người, lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh trung bình khoảng 1-1,2
kg/người/ngày, do đó tổng tải lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh trên địa
bàn huyện Vân Đồn vào khoảng 43,8-52,6 tấn/ngày đêm với sự phân hóa về
thành phần giữa khu vực đất liền và trên các đảo.
- Trên đảo Cái Bầu: Những địa bàn như thị trấn Cái Rồng, xã Đông
Xá, Hạ Long, chất thải rắn được thu gom khoảng 22-25 tấn/ngày. Trong đó
thành phần bao gồm chất hữu cơ chiếm 50% - 60%, giấy, nilon chiếm 15 -
25%, carton chiếm 6-10%, các chất khác chiếm từ 5 - 29% (vỏ sò, chai lọ,
thủy tinh, xỉ than...). Tại các xã nông thôn như Bình Dân, Đài Xuyên... rác
thải có thành phần chủ yếu gồm chất hữu cơ khoảng 30 - 40%, nhựa, cao su,
da khoảng 10 – 20%, giấy, tải 10%, nilon 13%, gỗ 10,7%, vật liệu xây dựng
khoảng 3%, còn lại là các chất khác.
47
- Chất thải rắn từ hoạt động du lịch: Tổng số lượt khách đến Vân Đồn
năm 2013 đạt 526.500 lượt (1.443 lượt/ngày), do vậy khối lượng chất thải rắn
phát sinh từ khách du lịch khoảng 1,44 - 1,73 tấn/ngày. Thành phần rác chủ
yếu gồm bao bì, nilon, nhựa, chất hữu cơ dễ phân hủy.
- Chất thải rắn y tế:
Tổng khối lượng chất thải rắn y tế phát sinh trong huyện khoảng 36
tấn/năm (0,1 tấn/ngày) trong đó khối lượng chất thải rắn y tế nguy hại là 8,73
tấn/năm và chất thải rắn y tế không nguy hại là 27,27 tấn/năm.
Chất thải rắn y tế tại trung tâm y tế huyện được phân loại tại nguồn.
Các chất thải nguy hại được đốt bằng lò đốt thủ công, còn các chất thải còn lại
được thu gom cùng với chất thải rắn sinh hoạt.
2.2.3. Thực trạng thực hiện pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường
tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
Hiện nay, trên địa bàn huyện vân đồn đã có Khu xử lý rác thải thôn Sơn
Hào xã Quan Lạn:
- Quy mô: Công trình Lò đốt rác thải tại thôn Sơn Hào, xã Quan Lạn,
huyện Vân Đồn thuộc Dự án “Xây dựng mô hình thu gom rác thải xã Quan
Lạn - Minh Châu” đã được UBND tỉnh phê duyệt danh mục đầu tư theo
Quyết định số 2234/QĐ-UBND ngày 4/9/2012 từ nguồn kinh phí sự nghiệp
môi trường của tỉnh năm 2012. Diện tích sử dụng đất của Dự án: 22.369,3m2.
UBND tỉnh đã có Văn bản số 4652/UBND-MT ngày 07/8/2015 chấp
thuận đưa công tình lò đốt rác vào khai thác, sử dụng tạm thời để giải quyết
nhu cầu xử lý rác thải của hai xã Quan Lạn – Minh Châu. Ngày 02/9/2016,
UBND huyện đã đưa công trình vào vận hành.
- Công nghệ xử lý: phương pháp đốt. Không sử dụng nhiên liệu đốt.
Dựa trên cơ sở đối lưu tự nhiên, tạo nhiệt độ cao trong 2 buồng đốt sơ cấp và
48
thứ cấp để đốt cháy triệt để các loại rác thải sinh hoạt thông thường. Có thiết
bị xử lý khí thải gắn liền trên thân lò.
- Công suất thiết kế: Lò đốt chất thải rắn sinh hoạt BD - anpha 500 có
công suất xử lý: 500 kg/h
- Khối lượng xử lý thực tế: 3 – 4 tấn rác/ngày.
- Đơn vị quản lý: Công ty TNHH Môi trường đô thị Vân Đồn.
Từ khi đi vào vận hành, công trình cơ bản hoạt động ổn định, đáp ứng
được yêu cầu về xử lý rác thải sinh hoạt đảm bảo vệ sinh môi trường tại địa
bàn 2 xã Quan Lạn, Minh Châu. Trên thực tế, khu xử lý rác thải này vẫn còn
một số hạn chế như: nguồn kinh phí duy trì hoạt động còn hạn chế; thiết bị kỹ
thuật còn chưa đáp ứng được hết nhu cầu hiện tại, do có nhiều nguồn rác thải
khác nhau cần được xử lý theo phương thức khác nhau, chẳng hạn như rác
thải y tế, rác thải công nghiệp…
- Xử lý rác thải rắn tại khu vực đô thị: Trong những khu đô thị ở những
xã như Đông Xá, Hạ Long và TT Cái Rồng, chất thải rắn sinh hoạt hằng ngày
đã được Hợp Tác Xã Vận tải Phát triển Đô thị - Vệ sinh Môi trường huyện
Vân Đồn thu gom và vận chuyển đến khu chôn lấp chất thải rắn, tỷ lệ thu gom
chất thải khu vực đạt khoảng 80% (2017). Chất thải rắn sau khi thu gom được
vận chuyển đến khu chôn lấp, hiện tại có một địa điểm đổ thải chất thải rắn tại
xã Vạn Yên.
- Xử lý rác thải rắn tại khu vực nông thôn: Công tác thu gom và quản
lý chất thải rắn tại các xã đảo trong khu vực quy hoạch do các tổ vệ sinh môi
trường của các xã đảm nhiệm. Tại xã đảo Quan Lạn và Minh Châu, lò đốt rác
chung được xây dựng và hoàn thành vào cuối năm 2014 với công suất 5 tạ/h,
tuy nhiên vẫn chưa đi vào hoạt động do có nguy cơ ảnh hưởng lớn đến môi
trường vì quá gần khu dân cư và một số lý do khác trong quá trình giải phóng
49
mặt bằng, vì vậy hiện nay các xã đảo vẫn trong tình trạng đổ rác tập trung và
chưa qua xử lý gây ảnh hưởng đến môi trường xung quanh.
- Xử lý chất thải rắn y tế: Theo quy định của Bộ Y tế, chất thải tại các
trạm y tế có thể xử lý theo 2 cách: Đốt tại các lò đốt của bệnh viện tuyến trên
hoặc chôn lấp theo quy chuẩn. Hiện tại bệnh viên và các trạm y tế huyện Vân
Đồn đều được trang bị tủ bảo ôn để lưu giữ rác; được cấp túi, hộp đựng rác
phù hợp để phân loại rác ngay tại nguồn .Chất thải rắn y tế tại Bệnh viện Đa
khoa, Trung tâm Y tế huyện được phân loại tại nguồn, các chất thải nguy hại
được đốt bằng lò đốt thủ công, còn các chất thải còn lại được thu gom cùng
với chất thải rắn sinh hoạt.
- Tần xuất thu gom: Mỗi khu vực có thời gian thu gom riêng, tại các
khu đô thị : trung bình thời gian thu gom buổi sáng là từ 5h bằng xe đẩy tay và
khoảng 6-7h xe tải sẽ thu gom rác từ bãi tập kết; Buổi chiều từ 13h xe đẩy tay bắt
đầu thu gom, trên nhiều xã còn xảy ra hiện tượng xe thu gom rác thực hiện thu
gom 1 lần/tuần, nên lượng rác tồn đọng trong suốt thời gian đó là rất lớn.
Trên các đảo : Tại xã Quan Lạn, xe đổ rác tiến hành thu gom vào đổ
vào thứ 2 và thứ 6 hàng tuần với số lượng 2 xe/ngày đổ, ước tính lượng rác
khoảng 28 tấn/tuần. Tại các xã còn lại, hình thức xử lý rác chủ yếu bằng các
biện pháp thủ công như chôn lấp, đốt tập trung hay đổ rác bừa bãi điều này
gây ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường sống.
Bảng 2.1. Tình hình thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn
huyện năm 2017:
lệ CTR STT Tên đô thị Tỷ thu gom (%) Tổng lượng CTR thu gom (tấn/ngày)
Tỷ lệ CTR được xử lý đảm bảo vệ sinh môi trường (%) 75 01 4,12 75
Huyện Vân Đồn (Ghi chú: Số liệu căn cứ vào báo cáo của UBND huyện Vân Đồn)
50
Hiện trạng hoạt động và những khó khăn gặp phải tại huyện Vân Đồn :
- Về công tác quy hoạch: Huyện chưa có quy hoạch bãi chôn lấp rác đạt
tiêu chuẩn vệ sinh môi trường và đúng quy cách. Lựa chọn địa điểm bãi chôn
lấp là một vấn đề khó khăn của địa phương để đồng thời thoả mãn cả các điều
kiện về môi trường, hiệu quả kinh tế và được người dân địa phương đồng
thuận chấp nhận;
- Về công tác tuyên truyền và nhận thức của cộng đồng: Nhận thức của
cộng đồng về các vấn đề an toàn, sức khoẻ và môi trường trong quản lý chất
thải rắn còn chưa đầy đủ.
- Về phân loại chất thải rắn tại nguồn: Chất thải rắn sinh hoạt phát sinh
trên địa bàn huyệnhiện chưa được phân loại tại nguồn, phạm vi thu gom chủ
yếu ở các khu vực trung tâm, gần các trục đường lớn. Các khu vực cách xa trung
tâm, các ngõ, hẻm nhỏ, việc thu gom rác thải do dân tự giải quyết là chính. Mặt
khác, chất thải rắn nguy hại và chất thải rắn thông thường bị đổ xả lẫn lộn gây ra
hậu quả lâu dài và nghiêm trọng đối với môi trường và sức khoẻ con người, đặc
biệt là sức khoẻ của công nhân trực tiếp thu gom và xử lý rác.
Bảng 2.2. Thực trạng chi phí cho công tác thu gom, vận chuyển, xử lý
CTR sinh hoạt tại các đô thị trên địa bàn:
Thực trạng chi phí hàng năm cho công tác thu gom, vận
chuyển, xử lý CTR sinh hoạt tại đô thị (%)
Chi phí
Tên đô thị thu gom, Tổng vận Chi phí xử lý (%) (%) chuyển
(%)
Huyện Vân Đồn 100 80 20
(Ghi chú: Theo báo cáo của UBND huyện Vân Đồn năm 2017)
51
Tổng chi phí hàng năm cho công tác thu gom, vận chuyển, xử lý CTR
sinh hoạt của trên địa bàn huyện: 9.786 triệu đồng/năm.
Những khó khăn vướng mắc về chi phí cho công tác thu gom, vận
chuyển, xử lý CTR:
Tổng thu từ các loại phí dịch vụ quản lý chất thải rắn chỉ chiếm khoảng
60% tổng chi phí vận hành, duy tu và bảo dưỡng hệ thống quản lý, trong đó
hơn 90% là dành cho hoạt động thu gom và vận chuyển chất thải. Do vậy, chi
phí dành cho xử lý, tiêu huỷ chất thải là không hợp lý và rất thấp. Tại nhiều
đô thị, tổng thu từ các loại phí dịch vụ này còn ở mức thấp hơn nhiều (20-
30%).
Có thể thấy, công tác xử lý chất thải rắn thông thường chưa chú trọng
đến các giải pháp giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế và thu hồi năng lượng từ
chất thải dẫn đến khối lượng chất thải rắn phải chôn lấp cao, gây lãng phí tài
nguyên, quỹ đất, ngân sách và ảnh hưởng đến môi trường. Bên cạnh đó, công
tác đầu tư cho hoạt động xử lý chất thải còn chưa tương xứng và đáp ứng nhu
cầu thực tế; nhiều công trình xử lý chất thải rắn đã được xây dựng,vận hành,
nhưng cơ sở vật chấtcũ, công nghệ lạc hậu, năng lực và hiệu suất xử lý chưa
đạt yêu cầu.
- Nguyên nhân:
Việc tổ chức triển khai quy hoạch, xử lý chất thải rắn tại địa phương
còn chậm, chưa xây dựng được mô hình xử lý chất thải rắn hoàn thiện, đạt các
tiêu chí về kỹ thuật, kinh tế, môi trường, xã hội và phù hợp với xu hướng phát
triển của thế giới. Mặt khác, nhà nước chưa có định hướng về sử dụng công
nghệ, chưa có tiêu chí lựa chọn thiết bị, công nghệ phù hợp gắn với nhu cầu
thực tế và sự phát triển hiện nay.
Các văn bản vi phạm pháp luật trong hoạt động thu gom vận chuyển,
xử lý chất thải rắn đã được ban hành. Tuy nhiên việc ban hành thông tư, nghị
52
định, hướng dẫn còn chậm, một số nội dung mang tính chung chung nên gây
khó khăn cho việc triển khai và tổ chức thực hiện. Mặt khác, các quy định,
quy trình, định mức do Chính phủ, các Bộ, Sở ban hành chưa phù hợp với
tình hình thực tiễn và đặc thù của từng địa phương làm ảnh hưởng không nhỏ
đến các đơn vị thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải.
Quản lý còn chồng chéo, chưa thống nhất và chưa khoa học; một số cấp
chính quyền địa phương chưa thật sự quan tâm đến hoạt động bảo vệ môi
trường, còn hạn chế trong việc kiểm tra và xử lý các trường hợp vi phạm trên
lĩnh vực vệ sinh môi trường; hoạt động thông tin, tuyên truyền, giáo dục về
công tác bảo vệ môi trường chưa được chú trọng.
Việc triển khai thực hiện phân loại rác tại nguồn một giải pháp cần thiết
mang lại nhiều lợi ích cả về kinh tế lẫn môi trường, tạo nền tảng, cơ sở cho
các hoạt động tái sinh, tái chế, tái sử dụng giúp nhà đầu tư có nhiều lựa chọn
về giải pháp xử lý chất thải rắn tối ưu đến nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn,
vướng mắc và chưa đạt theo yêu cầu đề ra.
53
Kết luận chương 2
Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) cho thấy,
lượng chất thải rắn phát sinh khoảng 25,5 triệu tấn/năm, trong đó chất thải rắn
đô thị khoảng 38.000 tấn/ngày. Khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh
tại các đô thị trên toàn quốc tăng trung bình 10-16% mỗi năm, chiếm khoảng
60-70% tổng lượng chất thải rắn đô thị, tại một số đô thị lớn chất thải rắn sinh
hoạt phát sinh chiếm đến 90% tổng lượng chất thải rắn đô thị.
Chỉ số phát sinh chất thải rắn sinh hoạt đô thị bình quân đầu người ở
các đô thị có mức sống cao như các đô thị loại đặc biệt, đô thị loại I, chỉ số
phát sinh chất thải rắn sinh hoạt trung bình là 1,3 kg/người/ngày, lớn hơn
nhiều so với các đô thị loại IV, loại V là 0,5 kg/người/ngày.
Đứng trước thực trạng này, nhà nước cần phải có những chín sách quy
định cụ thể hơn về việc xử lý rác thải cũng như xử lý rác thải rắn thông
thường. Cần có các cơ chế chính sách về phân loại rác thải tại nguồn được
ban hành; các mô hình phân loại, thu gom và xử lý chất thải được xây dựng
và triển khai nhân rộng. Tại các khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt
động có hệ thống xử lý nước thải tập trung; Hoàn thành xây dựng và ban hành
các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường tương đương với các nước
tiên tiến trên thế giới để đảm bảo yêu cầu hội nhập quốc tế
54
CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ CHẤT THẢI RẮN
THÔNG THƯỜNG TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VÂN ĐỒN,
TỈNH QUẢNG NINH
3.1 Định hướng hoàn pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường
Một là, hoàn thiện pháp luật xử lý chất thải rắn thông thường dựa trên
quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo vệ môi trường. Bảo vệ môi trường
là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi
trường, đảm bảo cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục các hậu quả xấu do
con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý và
tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên. Theo chúng tôi quan điểm của Đảng và Nhà
nước về công tác BVMT được thể hiện như sau: Bảo vệ môi trường là một
trong những vấn đề sống còn của nhân loại; Bảo vệ môi trường vừa là mục
tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững.
Hai là, hoàn thiện pháp luật xử lý chất thải rắn thông thường dựa trên
cơ sở các điều kiện về kinh tế - xã hội Việt Nam. Tăng trưởng kinh tế có thể
gây ô nhiễm môi trường đó là điều không thể tránh khỏi ở bất kỳ quốc gia
nào. Vì vậy, bài toán đặt ra cho những người có trọng trách là, chúng ta phải
làm gì và làm thế nào để có chính sách đặc biệt vừa phát triển kinh tế vừa bảo
vệ môi trường và phát triển bền vững. Công nghiệp hóa, chúng ta đang phải
đối mặt với nhiều thách thức về bảo vệ môi trường. Do vậy, pháp luật về xử
lý CTRTT phải phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế, xã hội Việt Nam.
Bà là, hoàn thiện pháp luật xử lý chất thải rắn thông thường cần căn cứ
vào thực trạng pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật xử lý chất thải rắn
thông thường ở Việt Nam. Về cơ bản , hệ thống chính sách pháp luật về bảo
vệ môi trường đã tương đối đầy đủ và đồng bộ, tạo ra hành lang pháp lý cần
55
thiết cho công tác quản lý nhà nước về BVMT trong giai đoạn đẩy mạnh công
nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc
biệt, nhiều văn bản, nhiều quy định cụ thể về quản lý CTRTT được ban hành
đã xác định rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan cũng như
chức năng nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Các
văn bản này đã trở thành một trong những công cụ pháp lý hữu hiệu góp phần
nâng cao hiệu quả của công tác quản lý chất thải trên phạm vi cả nước. Hiện
tại hệ thống pháp luật liên quan đến chất thải nói chung và CTRTT nói riêng
tại Việt Nam còn chưa đồng bộ và không đầy đủ. Việt Nam đã ban hành
khoảng 300 văn bản pháp luật BVMT. Riêng trong lĩnh vực quản lý chất thải
còn thiếu nhiều văn bản nên gây khó khăn cho công tác quản lý. Hầu hết các
văn bản hiện hành chỉ đề cập quản lý chất thải rắn, chất thải nguy hại, chất
thải y tế …còn các chất thải khác như chất thải sinh hoạt, chất thải lỏng, chất
thải công nghiệp, chất thải phóng xạ …chưa được quan tâm thích đáng.
Bốn là, hoàn thiện pháp luật về xử lý CTRTT là một đòi hỏi tất yếu của
mọi quốc gia trong tiến trình phát triển gắn với bảo vệ môi trường theo quan
điểm phát triển bền vững. Đây là tổng hợp những hoạt động mà các cơ quan
nhà nước và các tổ chức, cá nhân thực hiện để phòng ngừa, giảm thiểu những
tác động xấu của CTRTT, đảm bảo sự an toàn cho môi trường và sức khoẻ
cộng đồng. Hoạt động này có thể được thực hiện bằng nhiều biện pháp khác
nhau, trong đó, xử lý chất thải rắn thông thường bằng pháp luật là vấn đề đã
được chú trọng ở Việt Nam.
Năm là, xây dựng và hoàn thiện pháp luật xử lý chất thải rắn thông
thường là một đòi hỏi bức thiết của Việt Nam hiện nay nhằm tăng cường hiệu
quả của công tác xử lý chất thải nói chung và xử lý chất thải rắn thông thường
nói riêng bằng pháp luật. Hoạt động này cần thực hiện trên cơ sở đảm bảo
phát triển bền vững; đảm bảo sự đồng bộ của hệ thống pháp luật môi trường;
56
đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và quan hệ hợp tác quốc tế trong
bảo vệ môi trường. Việc xử lý chất thải rắn thông thường được điều chỉnh
bằng Luật BVMT 2014, Nghị định số 19/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường, Nghị định số 38/2015/NĐ-CP
về quản lý chất thải và phế thải.
Sáu là, hoàn thiện pháp luật xử lý chất thải rắn thông thường dựa trên
cơ sở tiếp thu kinh nghiệm của các quốc gia khác Việt Nam - quốc gia với nền
kinh tế đang phát triển rất cần được sự quan tâm giúp đỡ của các quốc gia
khác trên thế giới và chúng ta cũng đang được sự quan tâm thực sự từ các
quốc gia có nền kinh tế phát triển đặc biệt là sự giúp đỡ trong hoạt động
BVMT. Môi trường trái đất đang đứng trước nguy cơ ô nhiễm nghiêm trọng.
Để giảm bớt nguy cơ đó mỗi quốc gia đã và đang tự xác định cho mình các
phương thức BVMT trong đó có hoạt động quản lý chất thải. Chúng ta có thể
tìm hiểu hoạt động xử lý chất thải ở một vài quốc gia để rút ra bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam. Có thể tìm hiểu công tác bảo vệ môi trường tại Thuỵ
Điển, Singapore; Thái Lan Từ phương thức BVMT và xử lý chất thải ở một
vài quốc gia nêu trên ta có thể rút ra kinh nghiệm để vận dụng thích hợp vào
quá trình hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về xử lý CTRTT nói
riêng ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc hoàn thiện pháp luật về xử lý CTRTT ở
Việt Nam cần chú ý những vấn đề sau: Không thể áp dụng toàn bộ các công
đoạn trong hoạt động xử lý chất thải ở một hay một vài quốc gia khác bởi nền
kinh tế Việt nam không thể đáp ứng đủ các yêu cầu đặt ra. Vì vậy, chúng ta
nên tiếp thu nhưng có chọn lọc những kinh nghiệp từ các quốc gia trên thế
giới; Tiếp thu các kinh nghiệm để hoàn thiện pháp luật về xử lý CTRTT phải
xuất phát từ các yếu tố xã hội và môi trường cũng như trình độ nắm bắt khoa
học kỹ thuật tiên tiến ở Việt Nam; Từ kinh nghiệm quốc tế, việc hoàn thiện
pháp luật về quản lý CTRTT ở Việt Nam cần phải được sự quan tâm hơn nữa
57
của Đảng, Nhà nước và các cấp có thẩm quyền như quan tâm đến việc đầu tư
cho hoạt động xử lý chất thải trong đó có CTRTT, đầu tư phương tiện để đáp
ứng như cầu thu gom và vận chuyển chất thải.
3.2. Các giải pháp cụ thể
3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật xử lý chất thải rắn thông thường
Một là, hoàn thiện hệ thống quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Tác giả
cho rằng cần phải rà soát và hoàn thiện hệ thống quy chuẩn môi trường quốc
gia đồng thời nghiên cứu kỹ lưỡng các đặc thù của từng khu vực kinh tế để
xây dựng quy chuẩn quốc gia về chất thải rắn, đặc biệt là chất thải rắn công
nghiệp cho phù hợp. Đề xuất sửa đổi các quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn về
môi trường liên quan đến quản lý chất thải cho phù hợp với Luật Bảo vệ môi
trường 2014 và điều kiện thực tế.
Hai là, hoàn thiện các quy định về xử lý các hành vi vi phạm pháp
luật quản lý CTRTT. Như đã phân tích tại phần trên, công tác xử lý vi phạm
pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường ở Việt Nam nói chung và pháp luật
quản lý CTRTT nói riêng đã được các cơ quan chức năng cố gắng thực hiện
và đã có được những kết quả nhất định. Tuy nhiên hoạt động này vẫn còn
gặp nhiều khó khăn, vướng mắc vì những nguyên nhân khách quan và chủ
quan khác nhau: Đơn cử như năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước
trong việc kiểm soát ô nhiễm môi trường do quản lý CTRTT cũng chưa đáp
ứng được yêu cầu thực tiễn nên việc kiểm tra chưa được thường xuyên, sát
sao; chưa kịp thời phát hiện và xử lý được nhiều vụ vi phạm pháp luật môi
trường mang tính nghiêm trọng; Thực tế hiện nay, các mức phạt đối với các
hành vi vi phạm pháp luật về BVMT nói chung là còn chưa phù hợp và còn
nhiều điểm quy định rất chung chung. Ngay cả các quy định về tội phạm môi
trường với các mức xử lý các cá nhân vi phạm cũng còn rất thấp… Trong khi
những tác hại lâu dài do CTRTT không được xử lý tốt có ảnh hưởng rất
58
nghiêm trọng đối với môi trường và sức khỏe. Vì vậy sự nghiêm minh và
tính răn đe của pháp luật chưa được phát huy hiệu lực. Giải pháp đề ra là
trong thời gian tới chúng ta cần sửa đổi, bổ sung các mức xử phạt đúng đắn,
sát với tình hình thực tế của công tác kiểm soát ô nhiễm môi trường - vi
phạm pháp luật xử lý CTRTT gây ra ở Việt Nam nhằm nâng cao hiệu lực
pháp lý trong vấn đề này.
Đặc biệt cần tạo hành lang pháp lý đầy đủ để các cơ quan quản lý nhà
nước về môi trường có thể chủ động, linh hoạt trong việc áp dụng các quy
phạm pháp luật này đối với các chủ thể vi phạm pháp luật về quản lý
CTRTT ở Việt Nam. Hơn nữa, thực tế cho thấy các hành vi vi phạm pháp
luật xử lý CTRTT thường chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính, nguyên nhân
do hậu quả về môi trường thường khó xác định được ngay, mà tính chất nguy
hại của nó thì luôn tiềm ẩn và tồn tại dai dẳng.
Ba là, ban hành các văn bản về định mức kinh tế kỹ thuật cho việc xử
lý CTRTT cũng như quan trắc môi trường. Chẳng hạn, các định mức kinh
tế-kỹ thuật cho hoạt động thu gom, phân loại, bao gói, vận chuyển nội bộ,
lưu giữ tạm thời tại các cơ sở xử lý CTRTT và xử lý các loại CTRTT khác
nhau, các định mức kinh tế-kỹ thuật cho hoạt động quan trắc môi trường…
3.2.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật xử lý chất thải
rắn thông thường tại Huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
Một là, nâng cao năng lực bộ máy quản lý.
Việc nâng cao năng lực quản lý là một trong những giải pháp quan trọng
hàng đầu, đảm bảo khả năng thực thi các giải pháp thực hiện quy hoạch bảo
vệ môi trường có hiệu quả và theo đúng chương trình, kế hoạch đã định sẵn.
Cần tăng cường nhân lực cho hoạt động xử lý CTRTT, cần tổ chức các buổi
tập huấn cho các cán bộ về các hoạt động xử lý CTRTT. Và có những nguồn
hỗ trợ cho các cán bộ chuyên trách để yên tâm thực hiện công tác về xử lý
59
CTRTT. Đây đã và đang là vấn đề quan tâm của toàn xã hội nói chung và của
Huyện Vân Đồn nói riêng. Chất thải tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro lây nhiễm
các mầm bệnh hoặc gây nguy hại cho cộng đồng nếu không được quản lý theo
đúng cách tương ứng với từng loại chất thải. Trong khi đó, vấn đề CTRTT
vẫn chưa được chính những người làm phát sinh chất thải và người xử lý chất
thải quan tâm đúng mức. Do đó, việc đào tạo một cách có hệ thống về quản lý
chất thải cho các cán bộ, nhân viên liên quan ở trong và ngoài ngành sẽ góp
phần quản lý hiệu quả CTRTT.
Để thực hiện tốt điều đó, cần sớm triển khai những công việc sau: Nâng
cao nhận thức và năng lực quản lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường của lãnh
đạo các ngành trong huyện; Nâng cao năng lực, nhiệm vụ quản lý môi trường
của cán bộ chuyên ngành thuộc Phòng TNMT, các phòng ban chức năng có
liên quan trực thuộc ở cấp huyện, và thị trấn/xã thông qua các lớp tập huấn,
đào tạo ngắn hạn; Tăng cường năng lực thanh tra, kiểm tra về môi trường tại
địa phương: Tăng cường, kiện toàn cán bộ có đủ trình độ và am hiểu các vấn
đề về môi trường tại các xã, thị trấn để thực hiện tốt công tác quản lý, phát
hiện và xử lý các vấn đề môi trường; Tăng cường năng lực và trang thiết bị
phục vụ thanh tra, kiểm tra, đặc biệt là thiết bị đo nhanh khí thải, nước thải.
Hai là, giải pháp quy hoạch: Khảo sát và quy hoạch chi tiết khu vực xử
lý rác thải rắn cho huyện (trên đảo Cái Bầu, khu vực Quan Lạn – Minh Châu,
Ngọc Vừng). Quy hoạch chi tiết hệ thống thu gom và xử lý nước thải khu đô
thị Cái Rồng, khu đô thị và khu công nghiệp Đoàn Kết – Bình Dân, trung tâm
các xã đảo Quan Lại, Minh Châu, Ngọc Vừng, Thắng Lợi, Bản Sen.
Quy hoạch hệ thống cảng du lịch, cảng cá.
Quy hoạch không gian cây xanh đô thị (Khu vực Cái Rồng, Đoàn Kết –
Bình Dân, Quan Lạn, Minh Châu).
60
Quy hoạch chi tiết và thực hiện quy hoạch xây dựng nghĩa trang hợp vệ
sinh cho đảo Cái Bầu và các đảo khác.
Quy hoạch và bảo vệ khu vực nuôi trồng thủy sản cao cấp (sá sùng,
nuôi lồng bè) trên vịnh Bái Tử Long.
Quy hoạch mạng lưới quan trắc môi trường và hệ thống cảnh báo.
Quy hoạch khu vực được phép khai thác cát trên đảo Cảnh Cước.
Ba là, nâng cao nhận thức và tăng cường sự tham gia của cộng đồng
trong công tác bảo vệ môi trường. Để giải quyết các vấn đề môi trường trong
giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH, cần phải có sự chuyển biến mạnh mẽ về
nhận thức, hành động hiệu quả; sự đổi mới sáng tạo và phù hợp trong lãnh
đạo, chỉ đạo, điều hành và đặc biệt là trong tổ chức, triển khai thực hiện công
tác BVMT trong toàn xã hội. Đẩy mạnh công tác truyền thông trên các
phương tiện thông tin đại chúng nhằm phổ biến pháp luật về bảo vệ môi
trường tại địa phương, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, cộng đồng,
của các cơ sở sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các cơ sở phát sinh CTRTT và
xử lý CTRTT; đồng thời có chính sách khen thưởng và nhân rộng những cơ
sở ở địa phương thực hiện tốt công tác xử lý CTRTT, bảo vệ môi trường và
xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này
Bốn là, nội dung xã hội hóa bảo vệ môi trường cho huyện Vân Đồn:
- Xác lập các cơ chế khuyến khích, các chế tài hành chính và thực hiện
một cách công bằng, hợp lý đối với tất cả các cơ sở nhà nước và tư nhân khi
tham gia hoạt động bảo vệ môi trường như khuyến khích các cơ quan tổ chức
tổ chức những buổi tuyên truyền về bảo vệ môi trường, tạo các cuộc thi đua
có tặng các phần quà thiết thực như mũ bảo hiểm có khẩu hiệu bảo vệ môi
trường, hay khuyến khích sử dụng các năng lượng tự nhiên như sử dụng pin
năng lượng mặt trời để chiếu sáng, thay bình nước nóng.
61
- Đề cao vai trò của các đoàn thể, các tổ chức xã hội tham gia vào hoạt
động BVMT. Như chúng ta đã biết sức mạnh đoàn thể mang lại rất nhiều lợi
ích, đặc biệt nên tổ chức các buổi cổ động về bảo vệ môi trường, sử dụng các
tổ chức đoàn thể nhất là tổ chức đoàn thể thanh niên tham gia dọn rác quanh
khu vực tập trung đông người như trường học, từ đó giúp chính các em học
sinh sớm có ý thức bảo vệ môi trường.
- Đưa nội dung BVMT vào nội dung hoạt động của các khu dân cư và
phát huy vai trò của các tổ chức này, đưa nội dung bảo vệ môi trường vào
cuộc vận động toàn dân xây dựng làng văn hóa và xem như một tiêu chuẩn
đánh giá, công nhận thôn, xã, khu phố văn hóa. Điều này là thực sự cần thiết,
tổ dân, khu phố nên thường xuyên có những buổi giao lưu, tuyên truyền về
tác hại của ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm của chính chất thải sinh
hoạt hàng ngày đang đe dọa đến cuộc sống chung của mọi người. Từ việc tác
động đến các hộ dân trong khu dân cư sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến con, cháu
của những người dân này, giúp họ hiểu được tính cấp bách của việc bảo vệ
môi trường nhất là bảo vệ nguồn nước và không khí. Mặt khác giải pháp này
cũng tác động trực tiếp đến tâm lý người dân muốn khu dân cư của mình luôn
xanh, sạch, đẹp và là khu dân cư kiểu mẫu nên việc đảm bảo môi trường sống
trong lành cũng phải được đảm bảo.
Năm là, các giải pháp chính thực hiện xã hội hoá công tác bảo vệ môi
trường: Giải pháp tuyên truyền nâng cao nhận thức và giáo dục ý thức bảo vệ
môi trường cho cộng đồng: Đẩy mạnh các chiến dịch tuyên truyền về môi
trường, đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền, lấy nòng cốt là các đoàn thể,
cán bộ công tác xã hội ở các phường xã... Phổ biến chính sách, chủ trương,
pháp luật và các thông tin về môi trường và PTBV đến từng cấp lãnh đạo
chính quyền địa phương và các cơ quan xí nghiệp. Giáo dục môi trường cấp
cơ sở là hình thức tuyên truyền mang lại hiệu quả cụ thể cho hiện tại và các
62
thế hệ tương lai; Giải pháp đầu tư và chế tài hành chính: Có một nguồn kinh
phí nhất định lấy từ quỹ BVMT của tỉnh, huyện, của các công ty để hỗ trợ cho
các hoạt động xã hội về BVMT.
- Xây dựng quy ước bảo vệ môi trường và phát huy truyền thống yêu
thiên nhiên: Xây dựng các phòng trào như: toàn dân không vứt rác ra đường
phố, các đoàn thể tuyên truyền và phát động hội viên tham gia phong trào thu
nhặt rác thải ở các khu dân cư, khu du lịch, danh thắng, sử dụng tiết kiệm và
có ý thức giữ gìn nguồn nước cho mọi người; Xây dựng các quy ước, hương
ước, cam kết về BVMT và các mô hình tự quản về môi trường của cộng đồng
dân cư: thành lập các tổ thu gom dịch vụ của nhân dân hoặc các công ty tư
nhân, thu gom rác đường phố, vệ sinh đô thị cuối tuần... Phát động và duy trì
các phong trào trồng bảo vệ rừng, làm sạch môi trường đầu nguồn nhằm gìn
giữ nguồn nước, bảo vệ các thuỷ vực nước mặt trong khu vực như hồ đập Khe
Mai,...Xây dựng các mô hình điển hình về bảo vệ môi trường trong quần
chúng như mô hình khu phố xanh đó là khu phố không có hiện tượng xả rác
bừa bãi, thay thế các khu đất trống công cộng bằng vườn hoa, cây trồng.
- Phát hiện các mô hình, điển hình tiên tiến trong các hoạt động bảo vệ
môi trường từ đó nhanh chóng có biện duy trì và nhân rộng mô hình, có các
hình thức khuyến khích như đăng báo tuyên dương, tuyên dương khu phố, đề
nghị cấp có thẩm quyền khen thưởng phù hợp, đồng thời phối hợp với các
đoàn thể đặc biệt là trường học về mô hình điển hình về bảo vệ môi trường từ
đó khơi gợi ý thức bảo vệ môi trường cũng như sự sáng tạo về cách thức bảo
vệ môi trường của các em.
Sáu là, giải pháp kinh tế, tài chính và đầu tư :
- Đầu tư, áp dụng công nghệ, kỹ thuật hiện đại trong hoạt động thu
gom, vận chuyển, xử lý CTRTT. Để nâng cao công tác thu gom, vận chuyển,
xử lý, tiêu huỷ CTRTT cần phải thực hiện các công việc như: Từng bước
63
hiện đại hoá công nghệ kỹ thuật tuy nhiên cần phải xem xét khía cạnh công
nghệ kỹ thuật đó có phù hợp với kinh tế của nước ta hay không; Cần sự quan
tâm của các cấp có thẩm quyền trong đầu tư nghiên cứu để trong tương lai cần
tự sản xuất các thiết bị hiện đại trong các giai đoạn của quá trình quản lý
CTRTT như: Phương tiện phân loại, thu gom, vận chuyển và xử lý; Cần cải
tiến, nâng cấp các phương tiện hiện có để tăng năng xuất, hiệu quả cho các
thiết bị để đáp ứng nhu cầu về quản lý chất thải hiện nay; Cần tăng nguồn chi
của ngân sách Nhà nước cho việc đầu tư xây dựng các khu tập trung chất thải
chuyên dụng, cũng như đầu tư xây dưng các khu xử lý chất thải tập trung,
hiện đại, đủ tiêu chuẩn; Nhà nước cần thực hiện các chính sách kinh tế xã hội
hỗ trợ cho các đơn vị xử lý CTRTT để phát triển sản xuất phân compost, vừa
giảm được diện tích bãi chôn rác, vừa có thêm lượng phân, không phải là
phân hoá học phục vụ nông nghiệp
Kiên quyết áp dụng những biện pháp Xử phạt phù hợp đối với các cơ
sở gây ô nhiễm. Để thực hiện được công việc này thì đội ngũ thanh tra môi
trường cần nâng cao kiến thức, nghiệp vụ, lắng nghe những phản ánh của
người dân và kiên quyết nói không với tiêu cực, tránh việc làm ngơ cho các cá
nhân, cơ quan, tổ chức vi phạm, bởi hậu quả do việc ô nhiễm môi trường
không chỉ tác động trong thời gian ngắn một vài ngày mà nếu hiện tượng gây
ô nhiễm không được ngăn chặn kịp thời sẽ ảnh hưởng rất lớn đến đời sống
của người dân
Có kế hoạch đầu tư các công trình xử lý chất thải thông thường và chất
thải độc hại. Mặc dù huyện Vân Đồn cũng như tỉnh Quảng Ninh đang là địa
phương có tốc độ phát triển kinh tế rất nhanh nhưng trên địa bàn huyện, tỉnh
không có nhà máy xử lý chất thải nguy hại, vậy những chất thải nguy hại từ
các khu công nghiệp, bệnh viện, cơ sở nghiên cứu hiện nay đơn vị nào đang
xử lý? Do vậy, cần nhanh chóng xây dựng nhà máy xử lý chất thải nguy hại
64
cũng như chất thải thông thường để tránh việc tự xư lý chất thải không đúng
phương pháp như việc trốn tránh cơ quan chức năng xả thải ra biển, ra con
sông, suối hoặc tự ý chôn lấp chất thải không đúng kỹ thuật gây ô nhiễm môi
trường.
Xây dựng các dự án kêu gọi đầu tư (từ nguồn TW, các tổ chức nước
ngoài, hay từ các công ty trong nước).
Bảy là, giải pháp xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu thông tin môi
trường: Tham gia xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu thông tin môi trường của
Tỉnh (thông qua Sở TNMT) như một bộ phận cấu thành.
+ Thực thi quyết định của cơ quan có thẩm quyền khi xác địch một vật
chất thuộc sở hữu của mình không còn giá trị sử dụng và có nguy cơ gây ảnh
hưởng đến môi trường. Tuy nhiên, khi thực hiện hoạt động này cũng nên quy
định rõ trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tránh việc lợi dụng, lạm dụng
quyền lực mà mình được thực hiện.
+ Thành lập đội giám sát việc thực hiện quy định của pháp luật về xử lý
CTRTT tại từng thôn, ấp, bản, tổ dân phố, khu dân cư. Nhưng với giải pháp
này lại cần có thù lao trả cho thành viên đội giám sát. Vấn đề này cần được
thương lượng trực tiếp thông qua hoạt động của tổ chức này với chủ trương
kết hợp hài hoà lợi ích BVMT với lợi ích cá nhân.
Tám là, hoàn thiện sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền trong việc hoàn thiện pháp luật về xử lý chất thải rắn thông thường. Sự
phối hợp của các cơ quan, cấp hành chính trong hoạt động quản lý và thực thi
công vụ là một nhu cầu tất yếu khách quan. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền trong việc hoàn thiện pháp luật nhất là pháp luật về xử lý
CTRTT càng quan trong hơn vì không có bất cứ cơ quan, cấp hành chính nào
thực hiện được chức năng quản lý, hoàn thành được nhiệm vụ của mình một
cách biệt lập. Đối với vấn đề phối hợp của các cơ quan nhà nước có thẩm
65
quyền trong việc hoàn thiện pháp luật về xử lý CTRTT cần xác định trách
nhiệm và phân công hợp lý nhiệm vụ quản lý chất thải nói riêng và bảo vệ
môi trường nói chung giữa các ngành, các cấp. Rà soát, làm rõ chức năng,
nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhằm khắc phục triệt để tình trạng trùng
lặp, chồng chéo, ôm đồm về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong cùng
hệ thống. Trên cơ sở đó, sắp xếp lại về tổ chức bộ máy cho phù hợp với yêu
cầu, nhiệm vụ. Cụ thể:
Tăng cường hệ thống thanh tra môi trường cả về nhân lực và trình độ
chuyên môn, tổ chức đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ cũng như pháp luật để
đội ngũ cán bộ thanh tra môi trường có đủ năng lực, trình độ thực thi hiệu quả
công tác kiểm soát việc thực hiện các quy định pháp luật về xử lý chất thải rắn
thông thường;
Kiện toàn tổ chức và tạo điều kiện để Cảnh sát Môi trường các cấp hoạt
động có hiệu quả.
Tăng cường cơ sở vật chất, kinh tế, kỹ thuật để xử lý chất thải rắn
thông thường . Muốn hoàn thiện bất kỳ lĩnh vực pháp luật nào cũng cần đến
sự quan tâm của toàn Đảng, toàn dân. Không chỉ tạo điều kiện về mặt vật chất
mà còn tạo điều kiện để nhân dân tham gia đóng góp ý kiến của mình. Với
một nền kinh tế đang phát triển như nước ta hiện nay thì việc áp dụng công
nghệ, phương tiện kỹ thuật hiên đại cho việc hoàn thiện pháp luật là khó. Vì
thế, muốn áp dụng các công nghệ kỹ thuật hiện đại vào hoàn thiện pháp luật
thì một mặt cần phát huy nội lực và một mặt cần kêu gọi sự ủng hộ, giúp đỡ
cả về nhân lực và vật lực của của các quốc gia hiện đại trên thế giới.
+ Tăng cường đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho việc nghiên cứu, triển
khai ban hành các văn bản pháp luật về xử lý CTRTT. Cần phân định rõ phạm
vi đầu tư và phân cấp giữa đầu tư trung ương và đầu tư địa phương để đầu tư
thực sự có hiệu quả.
66
+ Tổ chức các buổi hội thảo, trao đổi, học tập kinh nghiệm của các
quốc gia và tổ chức có uy tín trên thế giới trong lĩnh vực hoàn thịên BVMT và
pháp luật xử lý CTRTT để từ đó rút kinh nghiệp áp dụng vào Việt Nam.
67
Kết luận chương 3
Chất thải là sản phẩm tất yếu của cuộc sống được thải ra từ các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc các hoạt động khác như
khám chữa bệnh, vui chơi giải trí của con người. Cùng với mức sống của
nhân dân ngày càng được nâng cao và công cuộc công nghiệp hoá ngày càng
phát triển sâu rộng, rác thải cũng được tạo ra ngày càng nhiều với những
thành phần ngày càng phức tạp và đa dạng. Xử lý rác thải đã và đang trở
thành một vấn đề nóng bỏng ở các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt
Nam.
Thực tế việc quản lý và xử lý rác thải mặc dù đã có nhiều tiến bộ, cố
gắng nhưng chưa ngang tầm với nhu cầu đòi hỏi. Hiện nay, ở khu vực đô thị
mới chỉ thu gom đưa đến bãi chôn lấp tập trung đạt khoảng 60-65%, còn lại
rác thải xuống ao hồ, sông ngòi, bên đường. Còn ở khu vực nông thôn, rác
thải hầu như không được thu gom, những điểm vứt rác tràn ngập khắp nơi. Ở
khu vực khám chữa bệnh, mặc dù đã có nhiều bệnh viện đạt được những tiến
bộ đáng kể trong việc cải thiện điều kiện môi trường theo hướng xanh, sạch,
đẹp cùng với những thiết bị hiện đại để phục vụ tốt cho việc khám chữa bệnh
của nhân dân, song vẫn còn những bất cập trong việc thu gom và tiêu huỷ rác
thải, nhất là chất thải có các thành phần nguy hại. Đây cũng chính là nguy cơ
tiềm ẩn đối với môi trường và con người.
Rác thải có mối nguy cơ cao chỉ khi con người không quan tâm đến
công tác quản lý thu gom và xử lý đối với chúng. Nếu như những nhà quản lý,
nhà khoa học tạo điều kiện giúp đỡ và nâng cao nhận thức cho cộng đồng, cho
các nhà doanh nghiệp và đặc biệt là tạo điều kiện cho họ tiếp cận với công
nghệ xử lý và ứng xử với rác một cách thân thiện, thì ngược lại, rác thải sẽ là
một trong những nguồn tài nguyên quý giá phục vụ lại cho con người. Ở nước
68
ta, việc làm này còn rất mới mẻ, việc thu gom và phân loại rác để tái sử dụng
chưa được cộng đồng quan tâm.
Ở các nước phát triển việc thu gom và phân loại rác đã trở thành một
việc làm bình thường, những túi đựng rác đều do các gia đình bỏ tiền mua ở
cửa hàng. Ở những nước này dân chúng coi rác thải không phải là đồ bỏ đi mà
cố gắng tận dụng những thứ còn có ích nhằm đem lại lợi ích cho Nhà nước,
đồng thời làm trong sạch môi trường sống của họ.
Từ việc nghiên cứu tình hình chất thải rắn thông thường, thực tiễn xử lý
và thực trạng pháp luật về chất thải rắn thông thường, tác giả rút ra những kết
luận chủ yếu sau: Một là, chất thải rắn thông thường là một dạng vật chất ở
thể rắn, không phải là thể lỏng, thể khí, không phải là chất thải nguy hại và
được thải ra từ các hoạt động khác nhau của con người. Chất thải rắn thông
thường là nguồn nguyên liệu quan trọng cho sản xuất kinh doanh nhưng nếu
ta không biết cách quản lý thì sẽ gây ảnh hưởng rất xấu đến môi trường và sức
khoẻ của con người.
69
KẾT LUẬN
Ngày nay, vấn đề ô nhiễm môi trường đã và đang ngày càng trở nên
nghiêm trọng hơn ở Việt Nam. Chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những hình
ảnh, những thông tin về việc môi trường bị ô nhiễm ngay trên các phương tiện
truyền thông. Điều này khiến ta phải suy nghĩ...
Tình trạng quy hoạch các khu đô thị chưa gắn với vấn đề xử lý chất
thải, nước thải nên ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn, các khu công
nghiệp, khu đô thị đang ở mức báo động. Trong tổng số 183 khu công nghiệp
trong cả nước, có trên 60% khu công nghiệp chưa có hệ thống xử lý nước thải
tập trung. Các đô thị chỉ có khoảng 60% – 70% chất thải rắn được thu gom,
cơ sở hạ tầng thoát nước và xử lý nước thải, chất thải nên chưa đáp ứng yêu
cầu về bảo vệ môi trường... Hầu hết lượng nước thải chưa được xử lý đều đổ
thẳng ra sông, hồ và dự báo đến năm 2010 là 510.000m3/ngày. Con sông bị ô
nhiễm nghiêm trọng ảnh hưởng tới cuộc sống của nhiều người dân ở xung
quanh. Hay việc ô nhiễm hồ Hoàn Kiếm, một biểu tượng của nền văn hoá dân
tộc. Gần đây nhất là Formosa xả thải ra biển gây xa thảm họa môi trường
không thể đánh giá được..
Đó là điểm đáng báo động về công tác quản lý chất thải, cũng như xử
lý chất thải. Do công tác quản lý nguồn xả thải của địa phương còn chưa được
chặt chẽ đã tạo điều kiện cho chủ nguồn chất thải thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật. Một thực tiễn cho thấy, nước ta đang thiếu những chính sách và
quy định bảo vệ môi trường nghiêm ngặt và do đang thu hút mạnh các nguồn
vốn đầu tư để phát triển nên dễ mắc vào "cạm bẫy": trở thành nơi tiếp nhận
nhiều ngành công nghiệp "bẩn". Ví như, ngành cán thép làm tốn nhiều tài
nguyên như đất, nước, năng lượng, thải ra những chất thải nguy hại cho môi
trường. Ngoài ra, lượng xe cô lưu thông ngày càng nhiều ở nước ta cũng góp
phần không nhỏ vào việc gây ô nhiễm bầu không khí.
70
Thực tế việc quản lý và xử lý rác thải mặc dù đã có nhiều tiến bộ, cố
gắng nhưng chưa ngang tầm với nhu cầu đòi hỏi. Hiện nay, ở khu vực đô thị
mới chỉ thu gom đưa đến bãi chôn lấp tập trung đạt khoảng 60-65%, còn lại
rác thải xuống ao hồ, sông ngòi, bên đường. Còn ở khu vực nông thôn, rác
thải hầu như không được thu gom, những điểm vứt rác tràn ngập khắp nơi. Ở
khu vực khám chữa bệnh, mặc dù đã có nhiều bệnh viện đạt được những tiến
bộ đáng kể trong việc cải thiện điều kiện môi trường theo hướng xanh, sạch,
đẹp cùng với những thiết bị hiện đại để phục vụ tốt cho việc khám chữa bệnh
của nhân dân, song vẫn còn những bất cập trong việc thu gom và tiêu huỷ rác
thải, nhất là chất thải có các thành phần nguy hại. Đây cũng chính là nguy cơ
tiềm ẩn đối với môi trường và con người.
Rác thải có mối nguy cơ cao chỉ khi con người không quan tâm đến
công tác quản lý thu gom và xử lý đối với chúng. Nếu như những nhà quản lý,
nhà khoa học tạo điều kiện giúp đỡ và nâng cao nhận thức cho cộng đồng, cho
các nhà doanh nghiệp và đặc biệt là tạo điều kiện cho họ tiếp cận với công
nghệ xử lý và ứng xử với rác một cách thân thiện, thì ngược lại, rác thải sẽ là
một trong những nguồn tài nguyên quý giá phục vụ lại cho con người. Ở nước
ta, việc làm này còn rất mới mẻ, việc thu gom và phân loại rác để tái sử dụng
chưa được cộng đồng quan tâm. Ở các nước phát triển việc thu gom và phân
loại rác đã trở thành một việc làm bình thường, những túi đựng rác đều do các
gia đình bỏ tiền mua ở cửa hàng. Họ coi rác thải không phải là đồ bỏ đi mà cố
gắng tận dụng những thứ còn có ích nhằm đem lại lợi ích cho Nhà nước, đồng
thời làm trong sạch môi trường sống của họ.
Nhà nước cần phải có các hình thức xử phạt thật nặng và nghiêm minh
đối với các cá nhân, tổ chức, cơ quan có hành vi phá hoại môi trường, làm ảnh
hưởng tới cuộc sống của người dân. Bên cạnh đó, cũng cần giáo dục ý thức
cho người dân qua các hình thức tuyên truyền, cổ động như tổ chức những
71
buổi giao lưu bàn về vấn đề môi trường tại các đơn vị hành chính cấp xã,
phường... Đưa những bài viết chi tiết hơn về môi trường trong các sách giáo
khoa ngay từ cấp tiểu học, giúp học sinh có thái độ và cái nhìn đúng đắn về
môi trường và những hậu quả của việc phá hoại môi trường, từ đó giúp các
em biết yêu và bảo vệ môi trường mình đang sống. Một cách khác để giúp
bảo vệ môi trường phát động thường xuyên hơn những phong trào tình
nguyện như bảo vệ môi trường khu dân cư, dọn rác ở các khu vực công cộng,
làm sạch bãi biển...
Tình trạng môi trường ở Việt Nam tuy nghiêm trọng nhưng vẫn có thể
cứu vãn nếu mỗi người dân biết góp sức của mình, chung tay bảo vệ môi
trường. Vậy nên, chúng ta cần chung tay bảo vệ môi trường và tránh gây ô
nhiễm. Vì tương lai một Việt Nam xanh, sạch, đẹp và vì cuộc sống của chính
chúng ta cũng như của các thế hệ sau này.
72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 24/NQ-TW về bảo vệ tài
nguyên môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu;
2. Ban biên tập (2004), Pháp luật về bảo vệ môi trường ở Singapore, Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật 8/2004, Hà Nội
3. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 41/NQ-TW năm 2004 của Bộ Chính trị về
bảo vệ môi trường;
4. Bộ Tài nguyên và môi trường công văn số 2429/BTNMT-TCMT
ngày 28 tháng 5 năm 2019 về việc rà soát, đánh giá công tác quản lý
nhà nước về chất thải rắn và kiểm tra, đánh giá các cơ sở xử lý chất thải
rắn sinh hoạt;
5. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Vụ Môi trường (2004), Tổng quan các
luật liên quan đến môi trường của các nước, Hà Nội
6. Bộ Tài nguyên và Môi trường,Vụ Môi trường (2006), Báo cáo tổng
hợp điều tra nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc
ban hành chế độ phí đối với chất thải rắn, Hà Nội
7. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Cục Môi trường (1998), Các
biện pháp kiểm soát ô nhiễm và quản lý chất thải, Hà Nội
8. Các phương pháp xử lý chất thải rắn, http://www.acvn.vn/cac-phuong-
phap-xu-ly-chat-thai-ran.html, 28.01.2019 ;
9. Chỉ thị số 36/CT-TW của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ môi
trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
10. Chính phủ, Nghị định số 40/2019/NĐ-CP ngày 13/5/2019 của Chính
phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định chi tiết,
hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường;
11. Chính phủ, Nghị định 155/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường 18/11/2016:
73
12. Chính phủ (2015) Nghị định số 19/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm
2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi
trường;
13. Chính phủ (2015) Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm
2015 về quản lý chất thải và phế liệu;
14. Chính phủ, Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2019 của
Chính phủ về Phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 01 năm 2019
15. Hỏi đáp pháp luật bảo vệ môi trường;
http://khpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/hoi-dap-phap-luat-bao-ve-moi-
truong.aspx?ItemID=174;
16. Lưu Việt Hùng, “ Pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường tại
Việt Nam” Luận văn thạc sĩ ( năm 2010) , trang 3
17. Nguyễn Đình Hương (chủ biên) (2007), Giáo trình Kinh tế chất thải, Nxb
Giáo dục, Hà nội
18. Phạm Thị Liễu, “Đánh giá các quy định của pháp luật về quản lý chất
thải” khoá luận tốt nghiệp của các sinh viên Trường Đại học Luật Hà
Nội năm 2008;
19. Trần Thắng Lợi (2004), Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân vi phạm pháp
luật môi trường ở một số nước, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật 3/2004, Hà
Nội
20. Phan Thị Ngân “ Pháp luật về quản lý chất thải qua thực tiễn thực hiện
tại thành phố Đà Nẵng” luận văn thạc sĩ ( năm 2019);
21. Lê Kim Nguyệt, Một cơ chế phù hợp cho quản lý chất thải nguy hại ở
Việt Nam - Tạp chí Nghiên cứu lập pháp tháng 11 năm 2002;
22. Nguyễn Văn Phước , “Nghiên cứu, đánh giá thực trạng chất thải rắn.
Đề xuất các giải pháp quản lý phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế
- xã hội tỉnh Bình Dương đến năm 2010” luận văn thạc sĩ ( năm 2006);
74
23. Quốc hội (1993), Luật BVMT
24. Quốc hội (2005), Luật BVMT
25. Quốc hội (2015), Luật BVMT
26. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm
27. Quốc hội (2013), Luật đất đai;
28. Văn Hữu Tập, Chất thải rắn và phân loại chất thải
rắn,http://moitruongviet.edu.vn/chat-thai-ran-va-phan-loai-chat-thai-
ran/, on 24 December, 2015
29. Văn Hữu Tập, Các phương pháp xử lý chất thải rắn
http://moitruongviet.edu.vn/cac-phuong-phap-xu-ly-chat-thai-
ran/03/8/2016;
30. Thực trạng ô nhiễm môi trường ở việt nam và những giải pháp khác,
http://socongthuong.tuyenquang.gov.vn/tin-tuc-su-kien/nang-luong-
moi-truong/thuc-trang-o-nhiem-moi-truong-o-viet-nam-va-cac-giai-
phap-khac-phuc-60.html, thứ sáu, ngày 21-09-2018, 14:18;
31. Trường Đại học Luật Hà nội (2016), Giáo trình Luật môi trường, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội
32. UBND huyện Vân Đồn, báo cáo năm 2019 về Công tác quản lý chất
thải rắn trên địa bàn huyện Vân Đồn.
33. UBND tỉnh đã có Văn bản số 4652/UBND-MT ngày 07/8/2015 chấp
thuận đưa công tình lò đốt rác vào khai thác, sử dụng tạm thời để giải
quyết nhu cầu xử lý rác thải của hai xã Quan Lạn – Minh Châu