ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
---------------
MAI THỊ HOÀN
XUNG ĐỘT VĂN HÓA TRONG THƠ NÔM
TRÀO PHÚNG NGUYỄN KHUYẾN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Thái Nguyên - 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
---------------
MAI THỊ HOÀN
XUNG ĐỘT VĂN HÓA TRONG THƠ NÔM
TRÀO PHÚNG NGUYỄN KHUYẾN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS-TS Vũ Thanh
Thái Nguyên – 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều
trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 04 năm 2018
Tác giả luận văn
Mai Thị Hoàn
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban
Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thông và Văn học,
Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực
tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên
hướng dẫn PGS.TS Vũ Thanh đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt
thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè đã giúp
đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 04 năm 2018
Tác giả luận văn
Mai Thị Hoàn
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1
1.1. Lý do khoa học ..................................................................................................... 1
1.2. Lí do thực tiễn ....................................................................................................... 2
2. Lịch sử vấn đề .......................................................................................................... 3
2.1. Lịch sử nghiên cứu thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến ................................ 3
2.2. Nghiên cứu xung đột văn hóa trong thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến ..... 6
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ......................................................................... 7
3.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................... 7
3.2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................. 7
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu .................................................................. 7
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................... 7
4.2. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 7
4.2.1. Phương pháp liên ngành ........................................................................ ...7
4.2.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp ........................................................... 8
4.2.3. Phương pháp tiếp cận thi pháp học .......................................................... 8
4.2.4. Phương pháp loại hình .............................................................................. 8
5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................. 8
5.1. Phạm vi nội dung .................................................................................................. 8
5.2. Phạm vi tư liệu ...................................................................................................... 8
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................................ 9
7. Cấu trúc của luận văn .............................................................................................. 9
Chương 1 .................................................................................................................... 10
XUNG ĐỘT VĂN HÓA GIAI ĐOẠN NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX VÀ SỰ
PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HỌC TRÀO PHÚNG .................................................. 10
1.1. Khái niệm ............................................................................................................ 10
1.1.1. Khái niệm trào phúng, tự trào và văn học trào phúng ........................... 10
1.1.2. Khái niệm văn hóa, xung đột văn hóa và xung đột văn hóa trong thơ trào
phúng ................................................................................................................. 11
1.2. Sự hình thành và phát triển xung đột văn hóa trong văn học trào phúng Việt
Nam giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX .......................................................................... 15
1.2.1. Vấn đề xung đột văn hóa giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX ........................ 15
1.2.2. Vấn đề xung đột văn hóa trong văn học trào phúng ............................... 21
1.3. Văn học trào phúng và vai trò của văn học trào phúng trong sự phát triển văn
học dân tộc .................................................................................................................. 23
1.4. Tiểu kết Chương 1 .............................................................................................. 27
Chương 2 .................................................................................................................... 29
NỘI DUNG XUNG ĐỘT VĂT HÓA TRONG THƠ NÔM TRÀO PHÚNG
NGUYỄN KHUYẾN ................................................................................................ 29
2.1. Xung đột giữa văn hóa phương Đông và phương Tây ..................................... 29
2.1.1. Giữa tinh thần yêu nước, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc với văn hóa
ngoại lai của kẻ xâm lược ................................................................................. 29
2.1.2. Giữa phong tục, tập quán và lối sống mới trong xã hội thực dân phong
kiến .................................................................................................................... 34
2.2. Sự đối lập giữa truyền thống khoa cử, học vấn lâu đời của dân tộc với thực
trạng xã hội đương thời .............................................................................................. 42
2.2.1. Truyền thống học vấn rực rỡ .................................................................. 42
2.2.2. Thực trạng của các trường thi và danh vị tiến sĩ mới. Sự xuống cấp của
Đạo học ............................................................................................................. 43
2.2.3. Xung đột giữa tầng lớp nho sĩ yêu nước và những kẻ khoác áo nhà nho
làm tay sai, bù nhìn cho kẻ thù .......................................................................... 46
2.3. Xung đột văn hóa dẫn đến những mâu thuẫn trong bản thân nhà thơ ............. 51
2.3.1. Giữa học vấn, tài năng, khát vọng và hiện thực xã hội .......................... 51
2.3.2. Hình tượng “con người thừa” và cảm giác cô độc, bất lực của nhà thơ
trước những biến động xã hội ........................................................................... 54
2.4. Tiểu kết Chương 2 .............................................................................................. 62
Chương 3 .................................................................................................................... 64
NGHỆ THUẬT THỂ BIỂU HIỆN XUNG ĐỘT VĂN HÓA QUA THƠ NÔM
NGUYỄN KHUYẾN ................................................................................................ 64
3.1. Khai thác triệt để các mâu thuẫn, xung đột của đối tượng trào phúng từ góc độ
văn hóa ........................................................................................................................ 64
3.2. Khai thác xung đột nội tâm, đối lập bản thân với thực trạng xã hội ............... 71
3.3. Các phương thức nghệ thuật trào phúng khác thể hiện xung đột văn hóa - xã
hội ................................................................................................................................ 76
3.3.1. Khai thác thế mạnh của thể loại và ngôn ngữ thơ Nôm Đường luật ...... 76
3.3.2. Xây dựng các biểu tượng mang tính xung đột, đối lập ........................... 86
3.4. Tiểu kết Chương 3 .............................................................................................. 91
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... 95
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lý do khoa học
Cuộc chiến tranh xâm lược và chính sách thuộc địa của thực dân Pháp
vào cuối thế kỉ XIX đã chuyển Việt Nam từ xã hội phong kiến thành xã hội
thực dân nửa phong kiến. Việt Nam có sự thay đổi trên rất nhiều lĩnh vực kinh
tế, chính trị, quân sự…, trong đó do sự du nhập của văn hóa phương Tây tạo ra
một xã hội “nửa ta, nửa tây” với những biểu hiện lố lăng, kệch cỡm của một
nền văn minh “rởm”. Các giá trị văn hóa truyền thống có nguy cơ bị chối bỏ
thay vào đó là sự đua đòi chạy theo phương Tây của một bộ phận người dân.
Với những diễn biến trên nền văn hóa dân tộc có quá nhiều chuyển biến phức
tạp, có sự đấu tranh giữa văn hóa Đông và Tây, và với mục đích thống trị của
mình, thực dân Pháp sẽ cố lái theo hướng có lợi cho họ vì vậy văn hóa phương
Tây dần lấn át. Nhưng một bộ phận những trí thức, người dân yêu nước sẽ
không chấp nhận thực tại, từ đó tạo nên xung đột văn hóa Đông và Tây. Đó sẽ
là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà nho yêu nước trung vua, thông qua tác
phẩm văn học của mình sẽ nói lên tiếng nói lên án, tố cáo và thể hiện niềm yêu
mến, trân trọng và tiếc nuối những gía trị văn hóa truyền thống, thầm kín bộc
lộ lòng yêu nước.
Trong tiến trình của văn học Việt Nam, văn học trào phúng phát triển
gắn với lịch sử văn hóa và văn học dân tộc. Cảm hứng trào phúng đã xuất hiện
khá sớm trong các sáng tác dân gian nhưng phải đến giai đoạn nửa cuối thế kỉ
XIX văn học trào phúng mới phát triển thành dòng rộng lớn với các tác gia tiêu
biểu như Trần Tế Xương, Nguyễn Khuyến,… Mảng thơ ca trào phúng đặc biệt
là thơ Nôm trào phúng góp một phần quan trọng làm phong phú đời sống văn
hóa tinh thần. Thông qua tiếng cười trào lộng các nhà nho lên án những bất
2
công suy thoái của xã hội, nhằm thức tỉnh con người và toàn xã hội đẩy lùi cái
xấu và thúc đẩy cái tốt.
Nguyễn Khuyến là nhà thơ lớn của giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX, một
tài năng nghệ thuật có những đóng góp to lớn cho nền văn học dân tộc, những
đóng góp đó có ý nghĩa sâu sắc và rất đáng trân trọng. Làm nên giá trị thơ văn
của ông là toàn bộ những sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, trữ tình cũng như trào
phúng. Nhưng có thể nói, làm nên nét phong cách và hồn thơ đặc sắc của
Nguyễn Khuyến chính là mảng thơ Nôm. Thơ Nôm của Nguyễn Khuyến có
sức hấp dẫn lớn đối với bạn đọc. Thơ chữ Nôm của ông bao gồm cả những bài
thơ trữ tình lẫn trào phúng, là những bài thơ đã bộc lộ được tấm lòng, tâm tư
tình cảm, những nỗi niềm trăn trở, thái độ của ông trước thời cuộc cũng như
thể hiện được nét phong cách riêng của mình. Với những vần thơ Nôm,
Nguyễn Khuyến đã tái hiện một hình ảnh thu nhỏ của xã hội Việt Nam đang
trên hành trình bị văn hóa phương Tây lấn át.
Ý thức được giá trị thơ Nôm Nguyễn Khuyến nói chung, thơ Nôm trào
phúng Nguyễn Khuyến nói riêng và mong muốn nghiên cứu mảng thơ Nôm
này trong ảnh hưởng tác động của văn hóa, người viết đã chọn đề tài Xung đột
văn hóa trong thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến để có cơ hội được tiếp cận
thơ Nôm trào phúng Tam nguyên Yên Đổ với kiến thức tổng hợp liên ngành
văn hóa và văn học. Việc tìm hiểu xung đột văn hóa trong thơ Nôm trào phúng
Nguyễn Khuyến là mong muốn chân thành của người viết nhằm phần nào bày
tỏ niềm tri ân trước nhà thơ lớn của văn học dân tộc, đồng thời hướng đến cơ
hội tìm hiểu một tác giả quen thuộc với những phát hiện từ góc nhìn văn hóa.
1.2. Lí do thực tiễn
Nghiên cứu, tìm hiểu tác phẩm văn học ở góc nhìn văn hóa là một hướng
tiếp cận còn tương đối mới mẻ với đội ngũ giáo viên làm công tác giảng dạy tại
3
các trường THPT vì vậy chúng tôi chọn đề tài này với mong muốn thực hành,
làm quen với một cách khai thác tác phẩm văn học.
Đó là những lí do chúng tôi chọn đề tài Xung đột văn hóa trong thơ Nôm
trào phúng Nguyễn Khuyến cho luận văn cao học của mình.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến là một trong những cây đại thụ của nền văn học nước
nhà. Vì vậy, thơ ông luôn là đề tài hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu văn học.
Trong suốt 100 năm qua, chúng tôi nhận thấy có rất nhiều công trình nghiên
cứu, các bài viết tập trung tìm hiểu tương đối đầy đủ giá trị thơ văn Nguyễn
Khuyến. Và sau đây chúng tôi xin trình bày khái quát về lịch sử nghiên cứu thơ
văn Nguyễn Khuyến nói chung, thơ Nôm trào phúng nói riêng. Thơ văn
Nguyễn Khuyến được đăng tải đầu tiên là trên tạp chí Nam Phong, đăng trong
mục Thơ ca Yên Đổ nhưng phải đợi đến gần hai chục năm sau thì các công
trình văn học sử trên đường hành trình mới tìm đến Nguyễn Khuyến. Dương
Quảng Hàm trong cuốn sách Việt Nam văn học sử yếu (Nha học chính Đông
Pháp xuất bản, Hà Nội, 1943) đã khẳng định giá trị nổi bật ở mảng thơ trào
phúng trong đó phải kể đến thơ Nôm và xếp Nguyễn Khuyến vào hàng ngũ các
nhà thơ trào phúng nổi tiếng.[9]
Cuốn: Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam gồm 3 tập của nhóm Lê Qúy
Đôn, Nxb Xây dựng, năm 1957 là cuốn sách văn học sử đầu tiên của chế độ
mới đã dành 20 trang để nghiên cứu về Nguyễn Khuyến, do Lê Trí Viễn viết,
đề cập chủ yếu đến phần thơ Nôm và tư cách trào phúng của ông.[6]
Đến năm 1958 Văn Tân cho ra đời cuốn Văn học trào phúng Việt Nam,
Nxb Văn Sử Địa, tác giả đã dành một phần lớn số trang đánh giá về ý nghĩa và
giá trị trào phúng của thơ văn Nguyễn Khuyến ở cả hai phương diện nội dung
và nghệ thuật. Người viết đặc biệt nhấn mạnh: “Thơ văn trào phúng của
4
Nguyễn Khuyến cũng như thơ văn của Nguyễn Khuyến nói chung có nhiều
hiện thực tính, nhiều nhân dân tính. Về nội dung, thứ thơ văn đó mang nặng
những tư tưởng yêu nước, yêu nhân dân, yêu lao động, thù ghét quân cướp
nước và bọn quan lại làm tay sai cho chúng”.[32 , tr 159-160]
Trong cuốn Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam (1978) tập IVA của tập
thể giáo sư trường Đại học Sư phạm Hà Nội, khi viết về Nguyễn Khuyến, Lê
Hoài Nam nhận định: “Nguyễn Khuyến nổi tiếng là nhà thơ châm biếm. Nội
dung châm biếm của thơ văn ông bao giờ cũng có một ý nghĩa xã hội và chính
trị phong phú. Động cơ châm biếm của ông xuất phát không phải từ sự bất mãn
về quyền lợi cá nhân mà là từ lòng yêu nước nồng nàn. Cho nên đối tượng đả
kích thường tập trung xung quanh những người, những việc gì có liên quan đến
việc nước hay việc thực dân Pháp đặt quyền thống trị trên đất nước ta” [48, tr
127].
Bài Nguyễn Khuyến trong bối cảnh văn hóa xã hội Việt Nam cuối thế kỉ
XIX – đầu thế kỉ XX của tác giả Trần Quốc Vượng (Theo Thi hào Nguyễn
Khuyến đời và thơ) khi viết về Nguyễn Khuyến có đưa ra những day dứt trong
nội tâm, và Nguyễn Khuyến giải tỏa bằng nhiều cách và từ đó ông đã trở thành
một nhà thơ châm biếm lớn.[3].
Tác giả Lê Trí Viễn, trong cuốn Thơ văn Nguyễn Khuyến – Trần Tế
Xương đã nhận xét về thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến: “Nó có tính cách là
những lời phê phán điềm đạm, bình tĩnh của một nhà nho tuổi tác, có đạo đức
và nhiều tình cảm. Nụ cười, do đó, bề ngoài chỉ nhẹ nhàng nhưng lai lắng vào
bề sâu và pha phách một tí thương hại”.[46]
Nhà thơ Xuân Diệu khi tìm hiểu phong cách thơ trào phúng Nguyễn
Khuyến, đã có những tìm tòi khá kĩ càng. Có thể nhận thấy ngôn ngữ thơ
Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng, vừa tự nhiên, vừa hiểm hóc cũng vừa độc đáo, đặc
biệt là nghệ thuật tạo tiếng cười bằng cách vận dụng điệp thanh.[5]
5
Trong Thi hào Nguyễn Khuyến đời và thơ do Nguyễn Huệ Chi chủ biên
các tác giả đã đề cập đến bút pháp trào phúng trong thơ Nguyễn Khuyến. Công
trình nghiên cứu còn cho thấy mối quan hệ đồng cảm giữa tác giả và đối tượng
nghệ thuật, điều này đã làm cho thơ trào phúng Nguyễn Khuyến trở nên chân
thực. Qua đó nhà thơ cũng gửi gắm nỗi buồn thương và tâm sự sâu kín của
mình.[3]
Trong bài nghiên cứu mở đầu cuốn sách Nguyễn Khuyến tác phẩm
(1984) do Nguyễn Văn Huyền sưu tầm, biên dịch và giới thiệu người viết đã
đem đến cho bạn đọc sự hiểu biết tương đối hoàn chỉnh về toàn bộ cuộc đời và
sự nghiệp thơ ca của nhà thơ. Ông đã khẳng định vị trí của Nguyễn Khuyến
trong làng thơ trào phúng trung đại Việt Nam.[12]
Cuối năm 1998, cuốn sách Nguyễn Khuyến, về tác gia tác phẩm do Vũ
Thanh tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Giáo dục, Hà Nội,1998, tập hợp một cách
rộng rãi những bài viết và công trình khoa học tiêu biểu về cuộc đời và sự
nghiệp của Nguyễn Khuyễn từ xưa đến nay. Trong cuốn sách này người biên
soạn khẳng định: “Nguyễn Khuyến - Về tác gia và tác phẩm chính là sự tập hợp
một cách rộng rãi những bài viết và công trình khoa học tiêu biểu về cuộc đời
và sự nghiệp của Nguyễn Khuyến từ xưa đến nay nhằm đem đến cho bạn đọc
một bức tranh toàn cảnh những thành tựu trong việc nghiên cứu một trong
những tác giả văn học lớn nhất cuối thế kỉ XIX. Cuốn sách ra đời vào những
năm cuối cùng của thế kỉ XX với mong muốn trở thành cơ sở cho những bước
tiếp theo trong việc nghiên cứu sự nghiệp của một nhà thơ được cả dân tộc yêu
mến.”[33, tr 28].
Trong tập sách trên có bài viết: Tâm trạng Nguyễn Khuyến qua thơ tự
trào. Ở đó người viết đã đề cập trực tiếp đến hình tượng trào phúng được miêu
tả bằng cách nói phủ định để khẳng định và ngược lại. Tác giả đã chỉ rõ sự biến
đổi tâm trạng Nguyễn Khuyến trong thơ văn. Từ thời điểm Nguyễn Khuyến lui
6
về ở ẩn đã có sự thay đổi cách nhìn, cách cảm. Tác giả bài viết cũng khẳng
định giá trị thơ Nôm trào phúng đặc biệt trong mảng tự trào thể hiện rõ nỗi
lòng của một nhà nho yêu nước trước tình cảnh đất nước bị quân giặc chiếm
đóng. Có thể nói đây là bài viết trực tiếp đề cập đến mảng thơ tự trào của
Nguyễn Khuyến và có những nhận định thật sâu sắc về những vần thơ này.
2.2. Nghiên cứu xung đột văn hóa trong thơ Nôm trào phúng
Nguyễn Khuyến
Các công trình nghiên cứu đã được chỉ ra ở trên được xem là nguồn tư
liệu quý báu mà người viết tham khảo trong quá trình thực hiện luận văn. Tuy
nhiên có thể nhận thấy rằng cho đến thời điểm này chưa có một công trình
nghiên cứu nào tìm hiểu về thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến ở góc độ khai
thác các xung đột văn hóa và từ việc phản ánh những xung đột văn hóa đó mà
tìm hiểu những thay đổi trong bút pháp nghệ thuật phản ánh của ông. Chỉ có
một số công trình đã chỉ ra được mối quan hệ giữa sáng tác của Nguyễn
Khuyến và cội nguồn văn hóa dân tộc. Gần đây trên tạp chí Giáo dục, số 318
tác giả Dương Thu Hằng – Hoàng Mai Quyên, (2013), có bài Giá trị văn hóa
truyền thống trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến. Bài viết chỉ ra những giá trị văn
hóa truyền thống thể hiện trong toàn bộ những sáng tác thơ Nôm của Nguyễn
Khuyến nhưng vẫn không lưu ý đến các xung đột văn hóa trong sáng tác của
ông.
Như vậy có thể nói rằng nghiên cứu xung đột văn hóa trong thơ Nôm
trào phúng Nguyễn Khuyến là một vùng đất tương đối mới mẻ. Điều đó tạo
động lực mạnh mẽ thôi thúc người viết khám phá mảnh đất này. Với góc nhìn
từ xung đột văn hóa, người viết hi vọng rằng chúng ta sẽ có được cái nhìn mới
về thơ Nôm trào phúng của Nguyễn Khuyến.
7
3. Đối tƣợng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề văn hóa được phản ánh qua văn
học. Cụ thể là xung đột văn hóa trong văn học Việt Nam cuối thế kỉ XIX qua
thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu, tìm hiểu xung đột văn hóa trong văn học Việt Nam cuối thế
kỉ XIX giúp chúng ta nhận thấy mâu thuẫn giữa văn hóa Đông – Tây, từ đó là
sự thay đổi của tất cả mọi tầng lớp trong xã hội trước sự phôi pha của những
giá trị đạo đức văn hóa truyền thống tốt đẹp qua tác phẩm thơ Nôm trào phúng
đặc sắc của Nguyễn Khuyến.
4. Nhiệm vụ và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến từ góc độ phản ánh
những xung đột văn hóa trong thời đại của mình.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn chúng tôi sử dụng một
số phương pháp:
4.2.1. Phương pháp liên ngành
Người viết sử dụng phương pháp này để tìm hiểu khái niệm và biểu hiện
xung đột văn hóa của các ngành khoa học như: triết học, nghệ thuật, xã hội
học, tâm lí học, văn hóa học… để soi chiếu vào văn học từ đó thấy được mâu
thuẫn, xung đột được nhìn từ góc độ văn hóa.
8
4.2.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp
Phương pháp này giúp chúng tôi tìm hiểu các bài thơ làm sáng tỏ xung
đột văn hóa từ đó chỉ ra được những đổi mới của Nguyễn Khuyến ở phương
diện nội dung và nghệ thuật.
4.2.3. Phương pháp tiếp cận thi pháp học
Phương pháp này người viết tìm hiểu các vấn đề của bộ môn thi pháp
học như: không - thời gian nghệ thuật, cách khai thác mâu thuẫn – xung đột,
ngôn ngữ, thủ pháp nghệ thuật… Từ đó giúp người viết thấy được cách tân
nghệ thuật trong thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến.
4.2.4. Phương pháp loại hình
Áp dụng những kiến thức lí luận về tác giả, đặc trưng thể loại, về nội
dung đề tài, các phương diện nhân vật, ngôn ngữ…Chúng tôi chỉ ra những
điểm khác biệt giữa Nguyễn Khuyến với các nhà thơ cùng thời. Đồng thời thấy
giá trị thơ văn của ông trong nền văn học Trung đại Việt Nam cả về nội dung
và nghệ thuật.
Ngoài sử dụng những phương pháp trên trong quá trình nghiên cứu
người viết còn sử dụng thêm thao tác thống kê, khảo sát và phân loại…
5. Phạm vi nghiên cứu
5.1. Phạm vi nội dung
Nghiên cứu những xung đột văn hóa thể hiện cụ thể trong thơ Nôm trào
phúng Nguyễn Khuyến.
5.2. Phạm vi tƣ liệu
Nghiên cứu toàn bộ thơ trào phúng chữ Nôm của Nguyễn Khuyến dựa
trên các tài liệu sau:
9
Tác phẩm: Nguyễn Khuyến tác phẩm. Nguyễn Văn Huyền sưu tầm, biên
dịch, giới thiệu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984.
Sách nghiên cứu:
Nguyễn Khuyến - về tác gia, tác phẩm, Vũ Thanh tập hợp, biên soạn,
giới thiêu, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007.
Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến, chuyên luận của Biện Minh
Điền, Nxb Đại học Quốc gia, 2008.
Và các tài liệu bổ trợ khác.
6. Đóng góp của luận văn
Thông qua luận văn bạn đọc có thể nhận thấy cách tiếp cận, tìm hiểu,
cảm nhận thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến ở góc nhìn văn hóa. Thấy được
những xung đột văn hóa biểu hiện trong nội dung và những tác động đến hình
thức nghệ thuật thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến. Đó là một đóng góp nhỏ
của luận văn.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, hướng triển khai Nội
dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Xung đột văn hóa giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX và sự phát
triển của văn học trào phúng.
Chương 2: Nội dung xung đột văn hóa trong thơ Nôm trào phúng
Nguyễn Khuyến.
Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện xung đột văn hóa qua thơ Nôm Nguyễn
Khuyến
10
Chƣơng 1
XUNG ĐỘT VĂN HÓA GIAI ĐOẠN NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX VÀ SỰ
PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HỌC TRÀO PHÚNG
1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái niệm trào phúng, tự trào và văn học trào phúng
1.1.1.1. Khái niệm trào phúng
Trong cuốn Từ điển Hán - Việt từ “trào phúng” là từ gốc Hán bao gồm
hai từ tố được giải nghĩa như sau: Trào nghĩa gốc là cười (cười nhạo), giễu (chế
giễu). Phúng nghĩa là nói bóng gió, nói ví. “Trào phúng” có nghĩa là nói ví để
cười nhạo, là châm biếm giễu cợt. “Trào phúng” cũng có nghĩa mượn lời bóng
gió để tạo ra tiếng cười châm biếm, giễu cợt.
Trào phúng là nói ví để cười nhạo, dùng lời nói có tác dụng gây cười
nhằm châm biếm, phê phán. Trào phúng luôn bao hàm cả hai yếu tố đan xen
lẫn nhau: yếu tố tiếng cười, cái cười và yếu tố răn bảo, đấu tranh chống lại điều
lỗi, cái xấu [49, tr.29].
1.1.1.2. Khái niệm tự trào
Cho đến hiện nay vẫn chưa có một khái niệm đầy đủ, rõ ràng và chính
xác nào về tự trào. Nhưng qua nghiên cứu và tìm hiểu có thể đưa ra cách hiểu
một cách khái quát chung nhất. “Tự trào” được xem là một mảng của thơ ca
trào phúng Việt Nam, trong đó đối tượng trào phúng là chủ thể (Chủ thể ở đây
được hiểu là chính bản thân tác giả). Muốn hiểu được khái niệm “tự trào”,
trước hết chúng ta phải thông qua khái niệm trào phúng như đã nói ở trên. Từ
đó, ta có thể suy rộng ra nghĩa của từ “tự trào”: Tự có thể hiểu là tự mình, tự
chính bản thân mình. Trào là cười (chế nhạo), giễu (chế giễu). Như vậy, “tự
trào” là tự cười mình, tự chế giễu mình. Thơ tự trào là thơ làm ra để tự cười
mình mà đối tượng được cười nhạo trong thơ tự trào chính là chủ thể. Nói cách
11
khác, đối tượng cười nhạo trong bài thơ là chính tác giả. Cũng có thể nói thơ
tự trào là thơ trào phúng mà trong đó đối tượng trào phúng chính là bản thân
chủ thể trữ tình.
1.1.1.3. Khái niệm văn học trào phúng
Trong Từ điển thuật ngữ văn học các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Trần Khắc Phi cho rằng: “Trào phúng theo nghĩa từ nguyên là dùng lời lẽ bóng
bẩy, kín đáo để cười nhạo, mỉa mai kẻ khác, song trong lĩnh vực văn học, trào
phúng gắn liền với phạm trù mĩ học cái hài với các cung bậc hài hước, châm
biếm. Văn học trào phúng bao hàm một lĩnh vực rộng lớn với những cung bậc
khác nhau” [10, tr.363].
Văn học trào phúng được coi là “một loại hình đặc biệt của sáng tác văn
học, gắn liền với phạm trù mĩ học cái hài, với các cung bậc tiếng cười, hài
hước, châm biếm, đả kích…”. Chính mối quan hệ nhân quả giữa cái hài và cái
bi sẽ tạo nên chiều sâu nhận thức trong cảm hứng trào phúng của tác phẩm văn
học.
Từ đó có thể hiểu thêm, thơ trào phúng là một loại hình đặc biệt của văn
học trào phúng, đó là “loại tác phẩm hợp nguyên các trạng thái trái ngược
nhau, những rung động cảm xúc sáng tạo, sự phê phán và tiếng cười. Các
trạng thái tâm lí này hòa trộn, thẩm thấu lẫn nhau triệt tiêu nhau tạo nên hiệu
quả Katharsis nghệ thuật. Và như vậy về mặt định vị thể loại, thơ trào phúng
mang tính phức hợp pha trộn nhiều loại hình thể loại – vừa trữ tình vừa tự sự,
vừa mang cả “chất kịch”. Trong đó, tiếng cười là yếu tố cơ bản quyết định
những loại hình (văn) thơ trào phúng khác” [22, tr.35].
1.1.2. Khái niệm văn hóa, xung đột văn hóa và xung đột văn hóa trong
thơ trào phúng
1.1.2.1. Khái niệm văn hóa
12
Thuật ngữ khoa học: văn hóa được bắt nguồn từ chữ Latinh “ Cultus” mà
nghĩa gốc gắn liền với gieo trồng, trau dồi, bồi dưỡng cây trồng, trồng người.
Con người sinh ra không phải tự nhiên mà có văn hóa, văn hóa có được nhờ
quá trình tu dưỡng, đào tạo, giáo dục. (Khái niệm văn hóa được hiểu theo nghĩa
rộng).
Thuật ngữ văn hóa với nghĩa “canh tác tinh thần” được thịnh hành vào
thế kỉ XVII- XVIII bên cạnh nghĩa gốc là quản lí canh tác nông nghiệp. Vào
thế kỉ XIX thuật ngữ “văn hóa” được các nhà nhân học phương Tây sử dụng
như một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn hóa (văn minh) thế
giới có thể phân loại từ trình độ thấp nhất đến trình độ cao nhất và văn hóa của
họ chiếm vị trí cao nhất. Bởi vì họ cho rằng bản chất văn hóa hướng về trí lực
và sự vươn lên sự phát triển này tạo thành văn minh.
Hai nhà nhân loại học Mỹ là Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn quan
niệm văn hóa là loại hành vi rõ ràng và ám thị đã được đúc kết, truyền lại bằng
biểu tượng và nó hình thành, thành quả độc đáo của nhân loại khác với các loại
hình khác trong đó bao gồm cả đồ tạo tác do con người tạo ra. Các học giả Mỹ
cho rằng “văn hóa là tấm gương nhiều mặt phản chiếu đời sống và nếp sống
của một cộng đồng dân tộc”, ở trung tâm của văn hóa quyển là hệ tư tưởng
cũng được xem là hệ văn hóa. [30, Dẫn theo tr 18]
Các học giả Việt Nam nghiên cứu về lĩnh vực văn hóa cũng đưa ra cách
phân loại văn hóa.
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì văn hóa là những giá trị vật chất, tinh
thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử [52].
Phan Ngọc đưa ra định nghĩa văn hóa theo tinh thần thao tác luận khác
biệt với định nghĩa trước đó: “Văn hóa là một quan hệ, nó là quan hệ giữa thế
giới biểu tượng với thế giới thực tại. Quan hệ ấy biểu hiện thành một kiểu lựa
chọn riêng của một dân tộc người, một cá nhân so với một dân tộc người khác,
13
một cá nhân khác. Nét khu biệt các kiểu lựa chọn làm cho chúng khác nhau tạo
thành nền văn hóa khác nhau đó là độ khúc xạ. Tất cả mọi cái mà một dân tộc
người tiếp thu hay sáng tạo riêng ở một lĩnh vực khác và rất khác độ khúc xạ ở
một dân tộc khác” [27, tr.68].
Tuy nhiên, có thể coi định nghĩa văn hóa của UNESCO là toàn diện và
sâu sắc hơn cả: “Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa hôm nay có thể coi là tổng
thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quy định tính
cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ
thuật và vật chất, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ
thống giá trị, những tập tục tín ngưỡng” [27, tr.68].
Từ nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau về văn hóa như vậy
chúng ta có thể tạm quy định có hai loại định nghĩa về văn hóa: được hiểu theo
nghĩa rộng văn hóa là lối sống, lối suy nghĩ, lối ứng xử… được hiểu theo nghĩa
hẹp là văn hóa nghệ thuật, kĩ thuật, học vấn… Tùy từng trường hợp, hoàn cảnh
chúng ta có thể có những cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau về văn hóa. Và
trong luận văn này, người viết sử dụng định nghĩa văn hóa theo nghĩa hẹp:
Văn hóa được hiểu đó là văn hóa phương Đông, văn hóa phương Tây, văn hóa
nông nghiệp, văn hóa công nghiệp, văn hóa du mục…
1.1.2.2. Khái niệm xung đột
Xung đột hiểu theo nghĩa căn bản nhất là sự đối lập tranh chấp một cách
gay gắt và quyết liệt. Theo Từ điển tiếng Việt của Hồ Ngọc Đức giải thích
“xung đột” là:
Đánh nhau, tranh chấp, chống đối lại một cách dữ dội.
Chống đối nhau do sự trái ngược hoặc có mâu thuẫn gay gắt.
Như vậy, xung đột là nói đến mâu thuẫn và khi mâu thuẫn đạt tới đỉnh
điểm thì sẽ có thoái trào giải quyết mâu thuẫn. Người ta có thể nói tới các loại
14
xung đột như: xung đột sắc tộc, tôn giáo, quyền giành lợi ích, xung đột cũ-
mới…
Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới thì cho rằng: “xung đột” là hệ quả
của sự căng thẳng mâu thuẫn ở bên trong cũng như bên ngoài, có thể đạt tới độ
nguy kịch. Xung đột biểu trưng cho khả năng chống đối từ cực mâu thuẫn này
sang cực mâu thuẫn khác, đảo lộn khuynh hướng về phía tốt hay xấu: độc lập -
nô lệ, đau khổ - vui sướng, đau ốm- khỏe mạnh, chiến tranh - hòa bình, định
kiến- sáng suốt, trả thù - tha thứ, ức chế - phấn đấu, tội lỗi – trong sáng. [2]
Triết học Macxit lại coi mâu thuẫn là mối quan hệ giữa các yếu tố,
khuynh hướng trái ngược nhau trong một đối tượng hoặc giữa các đối tượng
trong cùng một hệ thống. Và chỉ khi mâu thuẫn phát triển đến một trình độ nhất
định mới biểu hiện ra bên ngoài dưới hình thức xung đột, có thể nói xung đột là
biểu hiện “bề ngoài” là hiện tượng của mâu thuẫn.
Như vậy có thể nhận thấy, về bản chất, tất cả mọi xung đột xã hội đều
bắt nguồn từ sự khác biệt, không thể dung hòa về mặt quyền lợi giữa các chủ
thể. Và ở mỗi lĩnh vực khác nhau mà khái niệm xung đột được hiểu theo nhiều
cách khác nhau cho nên biểu hiện của xung đột hết sức đa dạng.
1.1.2.3. Khái niệm xung đột văn hóa
Tiến sĩ Phạm Thái Việt của Học viện ngoại giao, trong công trình nghiên
cứu Lí luận văn hóa về xung đột văn hóa cho rằng: Trong vòng vài ba thế kỉ trở
lại đây thuật ngữ xung đột văn hóa đã sử dụng khá nhiều, phổ biến trong các
nghiên cứu về quan hệ quốc tế, trong báo giới cũng như trong chính giới. Tuy
nhiên, khái niệm nội hàm của xung đột văn hóa chưa định hình một cách rõ
ràng bởi các thuật ngữ cấu thành như “xung đột”, “văn hóa” vẫn được luận giải
theo nhiều cách khác nhau. Văn hóa theo nghĩa rộng là toàn bộ hiện thực mang
tính người, với nghĩa đó có thể coi mọi xung đột xã hội đều được gọi là xung
đột văn hóa hay đều nhuốm màu sắc văn hóa.
15
Liên quan đến “xung đột văn hóa” hay đụng độ văn hóa học giả Trung
Quốc Guo Jiemin cho rằng “cái gọi là xung đột văn hóa nói khái quát lại chỉ là
sự mâu thuẫn gạt bỏ, phủ định lẫn nhau giữa các nền văn hóa khác nhau, thực
chất là sự đụng độ giữa các đặc tính khác nhau của loài người. Nhưng đụng độ
về văn hóa trong quan hệ quốc tế cần làm rõ sự khu biệt với nó với đụng độ
văn hóa nói chung. Bởi văn hóa là khái niệm vô cùng rộng, các loại hình đụng
độ dựa trên văn hóa là nhiều, từ góc độ địa lí có đụng độ văn hóa phương
Đông – phương Tây, từ góc độ lịch sử có sự đụng độ văn hóa truyền thống và
hiện đại, từ góc độ quốc gia có sự đụng độ văn hóa ngoại lai và bản địa, từ góc
độ phát triển xã hội có đụng độ văn hóa nông nghiệp với văn hóa công nghiệp.
Hơn thế nữa do khái niệm văn hóa và văn minh không hoàn toàn đồng nhất
hàm nghĩa đụng độ văn minh và đụng độ văn hóa cũng không hoàn toàn giống
nhau” [30, Dẫn theo tr 20].
Từ sự phức tạp và chưa rõ ràng của khái niệm “xung đột văn hóa” đã có
nhiều ý kiến khác nhau nhưng có thể phân thành hai quan điểm chính:
Thứ nhất, thừa nhận sự tồn tại của xung đột văn hóa như đối tượng có
nội dung độc lập.
Thứ hai, coi xung đột văn hóa chỉ là một chiều cạnh của xung đột nói
chung. Những người đi theo quan điểm sau cho rằng không nên chia tách xung
đột văn hóa khỏi chỉnh thể xung đột nói đúng hơn không phải xung đột văn hóa
mà xung đột từ góc nhìn văn hóa.
1.2. Sự hình thành và phát triển xung đột văn hóa trong văn học
trào phúng Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX
1.2.1. Vấn đề xung đột văn hóa giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX
1.2.1.1. Cơ sở tư tưởng và xã hội của sự xung đột
Nho giáo còn gọi là đạo Nho hay đạo Khổng, là một trong những học
thuyết triết học và chính trị xã hội lớn nhất trong lịch sử triết học của Trung
16
Quốc. Tư tưởng giáo dục của Nho giáo chứa đựng nhiều giá trị tích cực và đã
có những ảnh hưởng to lớn đến đời sống chính trị - xã hội không chỉ của Trung
Quốc mà còn với rất nhiều nước Châu Á khác, trong đó có Việt Nam. Hệ tư
tưởng Nho giáo chính thống đã trải qua hàng ngàn năm tồn tại, góp phần hình
thành nên tư tưởng của dân tộc.
Nho giáo ở Việt Nam cũng để lại dấu ấn rất lớn trong quá trình giáo dục
và lịch sử dựng nước ở các triều đình phong kiến thời trung đại. Nhờ Đạo Nho,
người Việt Nam rất coi trọng sự học hành. Văn Miếu được thành lập năm 1070
- Quốc Tử Giám lập năm 1076 có thể coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt
Nam. Nơi đây còn lưu giữ nhiều tấm bia ghi lại tên tuổi các nho sĩ đỗ đạt trong
các kỳ thi khoa bảng Việt Nam cùng nhiều bài văn bia nêu lên triết lý giáo.
Một tầng lớp nho sĩ đông đảo có mặt ở khắp nông thôn và thành thị, nho sĩ
được đề cao đến mức cao nhất. Qua giáo dục và khoa cử Nho giáo thâm nhập
vào xã hội ngày một sâu sắc hơn, tạo được truyền thống ham học, truyền thống
tôn sư trọng đạo, truyền thống coi trọng người có học. Từ đó các kiến thức học
tập được tích lũy, có điều kiện để duy trì và phát triển. Ngoài ra còn tạo cho
con người biết đạo ăn ở, biết quan tâm đến người khác, biết sống có văn hóa
và đạo đức. Tạo được cơ chế tuyển dụng người tài qua thi cử. Bất kể xuất thân
ra sao dù là nông dân, người thợ, lính tráng... chỉ cần học giỏi đỗ đạt thì có thể
ra làm quan giúp nước.
Trong khi đó ở phương Tây thời kỳ này, chức tước chỉ được chuyển
giao nội bộ trong các gia đình quý tộc, dân thường hầu như không thể có được
chức vị. Từ đó tạo nên một tâm lý xã hội: "Không tham ruộng cả ao liền, tham
vì cái bút, cái nghiên anh đồ". Nhiều thanh niên, trai tráng lấy việc học tập, thi
cử làm mục tiêu cao nhất trong cuộc đời mình. Xã hội nhờ vậy coi trọng sự học
tập và nhờ đó trình độ học vấn cũng được nâng cao. Câu châm ngôn "Tiên học
Lễ, hậu học Văn" đã ghi khắc sâu đậm vào dân tộc Việt Nam suốt hàng ngàn
năm. Chữ "Lễ" luôn nhắc nhở người dân rằng phải học sự lễ độ, thân ái, hòa
17
thuận với mọi người, tôn trọng trật tự, lễ kính với người già và phải có trên
dưới rõ ràng. Còn chữ "Văn" nhắc nhở con người phải học hành để thành người
tài đức. Câu châm ngôn này được phổ biến ở khắp các trường học tại Việt Nam
từ xưa cho đến nay.
Bên cạnh đó tư tưởng Nho giáo hun đúc tinh thần yêu nước, tinh thần
quốc gia, dân tộc. Với quan niệm và mục tiêu của giáo dục Nho giáo có nhiều
yếu tố tiến bộ hướng con người tới những phẩm chất cao quý như nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín. Đó là những giá trị chuẩn mực của con người trong xã hội phong
kiến. Mục đích chính của giáo dục theo quan điểm của Nho giáo là nhằm đào
tạo ra những con người lý tưởng, có sự hoàn thiện cả về đạo đức, nhân cách
cũng như tri thức, lối sống. Chính vì thế Nho giáo góp phần tạo ra những con
người có lòng yêu nước sâu sắc được biểu hiện qua các thời kì lịch sử khác
nhau: đó là lòng căm thù giặc khi đất nước có giặc ngoại xâm, lòng tự hào về
truyền thống của dân tộc và ý thức bảo vệ giữ gìn nền độc lập chủ quyền đất
nước trong thời bình.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực trên Nho giáo trong quá trình
hình thành phát triển không tránh khỏi những mặt hạn chế. Về nội dung học
tập, Nho giáo chỉ quan tâm đến giáo dục trí và đức vì thế ảnh hưởng tới sự phát
triển toàn diện của con người. Những kiến thức về giới tự nhiên và về sản xuất
vật chất không được Nho giáo đề cập, coi trọng. Ở thời của Khổng Tử, khoa
học kỹ thuật và nền sản xuất chưa phát triển. Do vậy, người học tuy lĩnh hội
đầy đủ tư tưởng Nho học về đạo đức, tinh thông cổ văn, nhưng các kiến thức
về khoa học tự nhiên, sản xuất thực tiễn thì lại dường như không có. Khi tiếp
xúc với nền văn minh phương Tây mạnh về khoa học kỹ thuật, nếu người xuất
thân Nho học biết tiếp thu những kiến thức khoa học và sản xuất thì sẽ khắc
phục được mặt hạn chế, trở nên "Vừa có tài vừa có đức". Ngược lại nếu không
tiếp thu được những tinh hoa tri thức phương Tây mà chỉ bắt chước lối sống,
du nhập chủ nghĩa tiêu dùng của phương Tây sẽ dẫn đến việc phủ định các giá
18
trị truyền thống, gây chia rẽ xã hội, xem thường Nho giáo vì cho rằng nó lỗi
thời, không phù hợp với điều kiện xã hội hiện đại, do đó càng không thể khắc
phục được hạn chế vốn có mà những giá trị đạo đức Nho học, đồng thời những
giá trị văn hóa dân tộc cũng bị đánh mất. Đạo đức suy đồi, văn hóa thui chột thì
xã hội hỗn loạn, xung đột nảy sinh. Đó là bi kịch chung của những nước bị
"xâm lược", bị phương Tây hóa thiếu định hướng và thiếu chiều sâu như Việt
Nam. Nho giáo Việt Nam thiếu sự vận động bên trong, thiếu sự phản tỉnh nên
trì trệ. Đaị đa số nhà nho Việt Nam chỉ đặt cho mình mục đích học là để đi thi,
thi đỗ thì ra làm quan để lại tiếng thơm với muôn đời. Khi đạt được mục đích
như vậy thì xem như việc học tập đã kết thúc. Ít người có chí cao xa, như học
để tham gia tranh luận những vấn đề học thuật, triết học, học để kinh bang tế
thế hoặc để phát triển văn hoá, để bản thân đạt đến những tầm cao về tư tưởng.
Vì học tập và tư duy như thế nên Nho giáo Việt Nam ít có cống hiến to lớn
trong lĩnh vực học thuật có thể so sánh với các nước Nho giáo khác. Hạn chế
lớn nhất là tập quán sùng bái thánh hiền, giáo điều và máy móc của giới nho sĩ
Việt Nam. Trong khi đó bên cạnh Nho giáo còn có nhiều trường phái tư tưởng
khác như Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia... Giữa các trường phái này luôn có sự
tranh luận, phản bác lẫn nhau. Điều này khiến sự phát triển của Nho giáo Việt
Nam hạn chế. Phương pháp tư duy của nó thiên về bảo thủ, giáo điều. Vì vậy
tầng lớp nho sĩ chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo cho mình là trung
tâm của vũ trụ, khép kín, ít giao thiệp với thế giới bên ngoài, cho thế giới bên
ngoài là man di mọi rợ, “bế quan tỏa cảng”, ức chế thương mại, áp chế các tư
tưởng tiến bộ đã dẫn đến sự lạc hậu, trì trệ, thủ cựu. Chúng ta không thể chối
bỏ giá trị giáo dục sâu sắc của tư tưởng Nho giáo, tuy nhiên đạo đức của
Khổng Tử trọng danh hơn thực, trọng xưa hơn nay và đã gạt ra ngoài nhiều giá
trị đạo đức nhân loại phổ biến. Chính vì vậy các nhà nho đứng trước các tư
tưởng mới luôn bày tỏ thái độ hoặc phản kháng gay gắt hoặc chọn phương cách
trốn tránh đối với hiện thực. Mặt khác quan niệm về người quân tử và kẻ tiểu
19
nhân của đạo Khổng cũng chứa đựng những hạn chế nhất định, trong đó ông
loại tầng lớp người dân lao động nghèo ra khỏi hàng ngũ người quân tử.
Cả hai mặt tiến bộ và hạn chế của Nho giáo đều để lại dấu ấn trên tầng
lớp nho sĩ. Những hạn chế trên của tư tưởng Nho giáo trong quá trình du nhập
và ảnh hưởng tới Việt Nam sẽ là cơ sở cho những xung đột văn hóa khi bối
cảnh lịch sử xã hội có nhiều biến động trong giai đoạn cuối thế kỉ XIX.
1.2.1.2. Các biểu hiện của xung đột văn hóa
Năm 1858, thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên tấn công vào nước ta
với sức mạnh quân sự, cùng với những âm mưu thâm độc trong mưu đồ xâm
lược và trước sự kháng cự yếu ớt của triều đình nhà Nguyễn, thực dân Pháp đã
nhanh chóng chiếm được nước ta bằng hàng loạt những hiệp ước kí với nhà
Nguyễn chính thức công nhận nền đô hộ của Pháp.
Về kinh tế, do sự du nhập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,
kinh tế Việt Nam có sự biến đổi: Loại hình kinh tế nông thôn bị phá vỡ, hình
thành nên những đô thị mới, những trung tâm kinh tế và tụ điểm cư dân mới.
Nhưng thực dân Pháp không du nhập một cách hoàn chỉnh phương thức tư bản
chủ nghĩa vào nước ta, mà vẫn duy trì loại hình kinh tế phong kiến. Chúng kết
hợp hai phương thức bóc lột tư bản và phong kiến để thu lợi nhuận. Chính vì
thế, nước ta không thể phát triển lên chủ nghĩa tư bản một cách bình thường
được, nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu, phát triển trong sự
phụ thuộc chặt chẽ vào kinh tế Pháp.
Về chính trị, chúng tiếp tục thi hành chính sách chuyên chế với bộ máy
đàn áp nặng nề. Thực dân Pháp tiếp tục củng cố bộ máy chính quyền, tập trung
toàn bộ quyền lực vào tay người Pháp. Bên cạnh đó, chúng còn sử dụng giai
cấp phong kiến Việt Nam làm công cụ đắc lực phục vụ những mục tiêu do
chúng đặt ra. Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm
các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu. Ngoài ra chúng còn sử dụng chính
20
sách “Chia để trị” một cách toàn diện với mục đích làm suy giảm sức mạnh
đoàn kết của dân tộc ta, ngăn chặn sức mạnh đấu tranh của nhân dân ta. Chúng
chia nước ta làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng, nhập ba kỳ đó với
nước Lào và nước Campuchia để lập ra Liên bang Đông Dương thuộc Pháp,
thực hiện mục tiêu cao nhất là xóa tên nước ta trên bản đồ thế giới. Chúng gây
chia rẽ và thù hận giữa Bắc, Trung, Nam, giữa các tôn giáo, các dân tộc, các
địa phương, thậm chí là giữa các dòng họ, giữa dân tộc Việt Nam với các dân
tộc khác trên bán đảo Đông Dương.
Về văn hóa - xã hội, chúng thi hành triệt để chính sách “ngu dân”, gây
tâm lý tự ti, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, kìm chế dân ta trong
cảnh ngu dốt để dễ bề cai trị, bóc lột. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta
đều bị cấm đoán rất gắt gao. Chúng xây dựng nhà tù nhiều hơn trường học. Các
trường học chủ yếu là những cơ sở đào tạo ra đội ngũ tay sai cho chính quyền
thực dân và những công nhân lành nghề phục vụ cho chương trình khai thác
thuộc địa. Thực dân Pháp thờ ơ trước các tệ nạn xã hội như: cờ bạc, mại dâm…
Chúng còn gieo rắc tư tư tưởng sùng bái nước Pháp, coi nước Pháp là “Mẫu
quốc”, là người đi “khai hóa văn minh”, thường xuyên tổ chức các hoạt động
văn hóa – thể thao như hô hào thể dục, thể thao để lôi cuốn nhân dân ta đặc biệt
là tầng lớp thanh thiếu niên làm cho họ quên đi nỗi nhục mất nước. Chúng tìm
mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế
giới vào Việt Nam.
Nước Việt Nam sau các cuộc bình định về quân sự, kinh tế của thưc dân
Pháp đã có những biến chuyển sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội. Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần tuý đã biến thành
một xã hội thuộc địa. Mặc dù thực dân còn duy trì một phần tính chất phong
kiến, song khi đã thành nước thuộc địa thì tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội và giai cấp ở Việt Nam đều bị đặt trong quỹ đạo chuyển động của
xã hội đó. Từ đó Việt Nam đã hình thành những mâu thuẫn, xung đột đan xen
21
nhau, song mâu thuẫn, xung đột cơ bản và chủ yếu nhất là mâu thuẫn giữa dân
tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động. Trong đó xung đột văn
hóa chỉ là một trong nhiều những xung đột ở giai đoạn lịch sử này nhưng là
xung đột quan trọng nhất, phản ánh bản chất của các xung đột xã hội khác như
tư tưởng, tâm lý, chính trị, kinh tế, an ninh quốc phòng…
Biểu hiện của xung đột văn hóa rất phong phú và đa dạng, nhưng tồn tại
chủ yếu với một số biểu hiện cụ thể sau:
Thứ nhất là xung đột giữa văn hóa phương Đông và phương Tây. Trong
đó có xung đột giữa tinh thần yêu nước, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc với
văn hóa ngoại lai của kẻ xâm lược. Đó là sự xung đột giữa hai hệ tư tưởng có
nhiều khác biệt trên nhiều phương diện. Biểu hiện cụ thể trong sự đối lập giữa
văn hóa mới của bọn thực dân xâm lược với truyền thống yêu nước của dân tộc
Việt Nam. Giữa việc bảo vệ, gìn giữ truyền thống văn hóa và chính sách “khai
hóa văn minh” hủy diệt văn hóa dân tộc và khai thác thuộc địa phản động của
kẻ thù.
Thứ hai là xung đột giữa phong tục, tập quán và lối sống mới trong xã
hội thực dân phong kiến: Cụ thể là giữa phong tục, tập quán truyền thống với
các biểu hiện của lối sống mới của kẻ xâm lược và bọn tay sai bán nước. Giữa
những kẻ rởm đời học đòi (bọn gái điếm, me Tây - những tầng lớp mới xuất
hiện trong xã hội, bọn quan lại và các đối tượng suy đồi khác) với thuần phong
mỹ tục của dân tộc. Biểu hiện cụ thể của các xung đột trên sẽ được người viết
làm rõ trong Chương 2.
1.2.2. Vấn đề xung đột văn hóa trong văn học trào phúng
Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp lấy cớ triều đình nhà Nguyễn đã bắn
giết các giáo sĩ và ngăn chặn thông thương nên đã chính thức xâm lược Việt
Nam.
22
Thực dân Pháp phải mất gần 40 năm mới đặt ách thống trị trên đất nước
ta và non một thế kỷ nhân dân ta phải sống dưới sự cai trị của Pháp. Trong điều
kiện xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX thì sự kiện Pháp xâm lược Việt
Nam là sự kiện quan trọng, nổi bật, chi phối các sự kiện khác và có ảnh hưởng
rất lớn đến sự phát triển của văn học. Tình hình thời sự chi phối toàn bộ đời
sống văn học và làm thay đổi diện mạo văn học. Văn học giai đoạn này ra đời
trong hoàn cảnh lịch sử xã hội đặc biệt có nhiều biến cố trọng đại nên văn học
gắn với chính trị và phục vụ cho cuộc đấu tranh chính trị. Trước kia chưa có
một giai đoạn nào mà sự chuyển biến về chủ đề và đề tài trong văn học lại
nhanh chóng đến vậy. Với yêu cầu phục vụ chính trị, văn học đã phản ánh
những vấn đề trung tâm nóng hổi của thời đại: Cuộc đấu tranh của nhân ta
chống thực dân Pháp. Ðây là chủ đề chính của văn học thời kỳ này. Văn học
giai đoạn này đã thể hiện sâu sắc tình cảm yêu nước của nhân dân. Do đó yếu
tố lãng mạn giữ vai trò quan trọng để đảm bảo cái nhìn vừa đúng hiện thực vừa
phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Có thể nói, văn thơ yêu nước phong
phú về trữ tình nhưng không thiếu tự sự kể cả trào phúng, tính trữ tình là yếu tố
căn bản của văn học yêu nước chống Pháp. Với sự chuyển biến sâu sắc về đề
tài, chủ đề văn học giai đoạn này cũng vận động và phân hóa theo nhiều
khuynh hướng khác nhau:
Thứ nhất là khuynh hướng yêu nước chống Pháp. Trải qua hàng chục
thế kỷ chống ngoại xâm, từ buổi đầu dựng nước cho đến khi có văn học thành
văn, nhân dân ta thể hiện lòng yêu nước mãnh liệt của mình.Và Yêu nước đã
trở thành truyền thống lâu đời của dân tộc. Ðến nửa cuối thế kỷ XIX, khi Pháp
sang, truyền thống yêu nước của dân tộc lại có cơ hội bùng lên một cách mãnh
liệt. Văn học chống Pháp ra đời đã kế thừa một cách tốt đẹp truyền thống yêu
nước trong lịch sử và và có những bước phát triển phù hợp với hoàn cảnh mới
của lịch sử. Văn thơ yêu nước đã vạch trần những luận điệu hèn nhát, bỉ ổi của
23
triều đình, bọn vua quan vô trách nhiệm, bè lũ Việt gian bán nước thành những
bản án đanh thép hoặc những trang châm biếm sắc sảo.
Thứ hai là khuynh hướng hiện thực trào phúng có mối quan hệ chặt chẽ
với khuynh hướng yêu nước chống Pháp. Các nhà thơ, nhà văn này ban đầu
sáng tác văn học yêu nước nhưng về sau khi phong trào kháng Pháp thất bại,
Pháp chiếm toàn bộ đất nước ta, xã hội bộc lộ những chướng tai gai mắt, trước
những biến động đó của xã hội các nhà thơ,nhà văn này đã dùng ngòi bút của
mình để phơi bày những mặt trái của xã hội bằng khiếu hài hước nhạy bén của
mình. Họ đã lấy việc phơi bày, tố cáo làm phương tiện để nhằm mục đích kêu
gọi tinh thần yêu nước và chiến đấu của nhân dân. Khuynh hướng này đã phát
triển thành một khuynh hướng độc lập, tuy số lượng tác giả không nhiều như
khuynh hướng yêu nước chống Pháp nhưng cũng khá đa dạng, phát triển rộng
khắp trong Nam ngoài Bắc. Các tác giả tiêu biểu nhất của khuynh hướng này
là Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương. Trong khuynh hướng hiện thực trào phúng
vấn đề quan tâm hàng đầu trong các sáng tác của tác giả là phản ánh các xung
đột trong xã hội trong đó mâu thuẫn xung đột căn bản nhất là xung đột văn hóa.
Vì vậy xung đột văn hóa trong văn học trào phúng phát triển như một điều tất
yếu thậm chí mang tính quy luật.
1.3. Văn học trào phúng và vai trò của văn học trào phúng trong sự
phát triển văn học dân tộc
Từ khái niệm văn học trào phúng đã tìm hiểu ở mục 1.1 và thông qua các
lí thuyết về văn học trào phúng của các nhà nghiên cứu có thể thống nhất cách
chia giọng điệu tiếng cười trào phúng thành ba cấp độ cơ bản sau:
Tiếng cười hài hước: hóm nhẹ, “cái cười thánh nhân” minh triết hoặc
giải trí, chủ yếu là tự trào, đùa vui hoặc có phần chế giễu nhưng ở mức độ nhẹ
của trào phúng.
24
Tiếng cười châm biếm (mỉa mai, giễu cợt, nhạo báng) thường là giễu cợt
với mục đích phê phán. Thơ châm biếm nhằm mục đích phơi bày hiện thực xã
hội và thông qua đó giáo dục xã hội, giáo dục con người bằng nụ cười dí dỏm
mà sâu sắc, nụ cười đó bao hàm cả việc phê phán lẫn tinh thần xây dựng.
Tiếng cười đả kích (phê phán, tố cáo thông qua tiếng cười) đây là loại
đánh trực diện vào kẻ thù có sức công phá, sát phạt, đấu tranh gay gắt. Thơ
nhằm mục đích lột bỏ mặt nạ kẻ thù từ đó bật lên tiếng cười mãnh liệt, ẩn chứa
hàm ý sâu xa.
Như vậy, thơ trào phúng là một loại hình đặc biệt của văn học trào
phúng, đó là “loại tác phẩm hợp nguyên các trạng thái trái ngược nhau, những
rug động cảm xúc sáng tạo, sự phê phán và tiếng cười. Trong đó, tiếng cười là
yếu tố cơ bản quyết định những loại hình (văn) thơ trào phúng khác” [49,
tr.35].
Trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam từ văn học dân gian
cho đến văn học viết với sự phát triển phong phú đa dạng về các bộ phận và
khuynh hướng văn học trong đó văn học trào phúng cũng đóng góp vào sự phát
triển của nền văn học nói riêng và lịch sử dân tộc nói chung. Xã hội Việt Nam
trong khoảng thời gian dài trải qua nhiều thăng trầm, biến đổi. Chặng đường
nghìn năm qua chất chứa nhiều mâu thuẫn như: mâu thuẫn giữa dân tộc và lực
lượng ngoại xâm từ phong kiến phương Bắc cho đến thực dân phương Tây,
mâu thuẫn giữa giai cấp phong kiến và tầng lớp nông dân, mâu thuẫn trong nội
bộ các tầng lớp thống trị, bị trị trong xã hội. Cùng với đó là sự thay đổi vương
triều, sự lung lay trong quan hệ phong kiến ở các lĩnh vực lễ giáo, đạo đức, do
tác động của nền kinh tế hàng hóa bắt đầu phát triển khi thực dân Pháp xâm
lược, các cuộc khởi nghĩa của nông dân rầm rộ kéo dài. Đồng thời xã hội khi
chịu sự tác động mạnh mẽ của các yếu tố bên ngoài sẽ còn diễn ra bao nhiêu
nỗi đảo điên, trái ngược, giả dối, bất công hoặc do sức mạnh vạn năng của
25
đồng tiền chế ngự… Những hiện tượng xã hội ấy là nguồn đề tài bất tận cho
văn thơ trào phúng ra đời và phát triển, có chỗ đứng nhất định trong dòng chảy
của văn học.
Trước tiên có thể kể đến các tác phẩm trong kho tàng văn học dân gian
đã đặt nền móng cho văn học trào phúng phát triển, đó là những câu tục ngữ, ca
dao hài hước hay câu chuyện tiếu lâm chính là sản phẩm đầu tiên. Cùng với đó
là những mẩu chuyện ngụ ngôn sinh động, những tiếng cười lí trí giòn giã ở
các truyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn về sau này.
Khi văn học viết hình thành và phát triển, văn thơ trào phúng cũng có
những sự chuyển biến nhất định cụ thể qua các giai đoạn sau: Từ thế kỉ X đến
nửa đầu thế kỉ XIX những hiện tượng xã hội được các nhà nho ghi lại nhanh
chóng tiêu biểu như trong các sáng tác của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ,… Tuy nhiên vì chịu ảnh hưởng của lễ giáo
phong kiến mà các nhà thơ chỉ đả kích, châm biếm một cách nhẹ nhàng, kín
đáo không trực diện thẳng thắn. Đặc biệt phải kể đến tiếng cười trong thơ Hồ
Xuân Hương, bà chúa thơ Nôm không e ấp, ngượng ngùng mà dám phá vỡ mọi
quy tắc của lễ giáo phong kiến, thậm chí còn vạch trần những gì linh thiêng,
tôn quý nhất. Tiếng cười ấy đã vượt ra ngoài công thức của văn chương cổ
điển. Ngoài ra thơ văn trào phúng ở chặng đường này còn đề cập đến việc
châm biếm những nhân vật lịch sử nêu cao tinh thần yêu nước, bày tỏ thái độ
căm thù giặc sâu sắc, mỉa mai, khinh ghét bọn gian tà. Có thể nói đây là những
nét nổi bật trong nền thơ văn trào phúng nước ta từ nửa đầu thế kỉ XIX trở về
trước.
Đến giai đoạn cuối thế kỉ XIX trở về sau thì diện mạo văn học trào
phúng phát triển phong phú và đa dạng hơn. So với văn học trào phúng giai
đoạn trước thì giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX đã phát triển thành một dòng văn
học lớn mạnh và trở thành một bộ phận không thể thiếu của khuynh hướng văn
26
học phê phán hiện thực. Chính sự phát triển của khuynh hướng văn học phê
phán hiện thực là một điều tất yếu trong xã hội đang có quá nhiều biến động,
khi cái mới theo gót chân của kẻ thù đang lấn át cái cũ và dần thay thế cái cũ,
khó có thể được các nhà nho chấp nhận. Đây chính là điều kiện tốt nhất cho
văn học trào phúng phát triển và nở rộ, với lối tư duy phê phán. Trong giai
đoạn này đã xuất hiện những tác giả viết thơ trào phúng chuyên nghiệp như
Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Nguyễn Thiện Kế, Kép Trà, Phan Điện.
Ngòi bút sắc sảo các tác giả đã xây dựng nên những điển hình nghệ thuật của
văn học trào phúng như hình tượng ông Tiến sĩ, ông Cử, hình tượng những tên
quan vừa dốt vừa tham, hình tượng kẻ hỏng thi, kẻ thất tiết, “con người thừa”,
con người tha hóa…
Văn học trung đại Việt Nam, do sự quy định của quan niệm văn học Nho
giáo nên hướng nhiều đến những vấn đề đạo lý, đề cao chức năng giáo huấn,
không đặt ra nhiệm vụ văn học phản ánh hiện thực. Thơ ca trữ tình trung đại
cũng chủ yếu là hướng nội, ít cọ sát, giãi bày, giao tiếp. Gắn với kiểu tư duy đó
là các hình tượng nghệ thuật mang tính ước lệ, có tính biểu tượng cao. Nhà nho
sáng tác để bộc bạch tâm sự, để ngâm ngợi, hoặc để phổ biến hạn hẹp trong
một số bạn bè biết chữ nghĩa chứ không chú tâm nhiều vào việc mô tả sự thật
khách quan, không nhằm tìm đến lớp bạn đọc phổ thông. Bên cạnh đó sự xuất
hiện của văn học trào phúng với lối tư duy hướng ngoại, giàu tính trí tuệ nhưng
lại hướng nhiều về thực tại đời sống, kích thích đầu óc phân tích, mổ xẻ hiện
thực, tìm kiếm các mâu thuẫn trào phúng, đôi khi là những xung đột gay gắt
trong những sự việc, hiện tượng xác thực của cuộc đời. Tiêu biểu các sáng tác
của Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương, với lối viết mới mẻ, sẽ góp phần tạo
nên những bức tranh giàu giá trị hiện thực trong giai đoạn văn học nửa cuối thế
kỉ XIX.
Như vậy, đi theo dòng chảy của văn học Việt Nam có thể nhận thấy đã
có cả một nền thơ văn trào phúng phát triển không phải mới ngày một ngày hai
27
mà đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử. Trong buổi sơ khai, văn học trào phúng
thể hiện sự lạc quan, vui vẻ, yêu đời, tinh thần thực tế, khoa học căn bản của
người dân lao động nghèo, đồng thời phê phán những thói hư tật xấu để góp
phần cho cuộc đời thêm tươi đẹp. Bên cạnh đó thơ văn trào phúng cũng tham
gia vào cuộc đấu tranh giai cấp, vạch trần thủ đoạn cường quyền áp chế, bênh
vực quyền sống của con người, đặc biệt là quyền lợi của người phụ nữ. Còn
đấu tranh để giữ gìn bản chất trong sáng của dân tộc Việt Nam, cự tuyệt những
thói lai căng pha tạp không cần thiết, phản đối những gì trái với đạo lý của dân
tộc. Cho đến khi cả dân tộc phải sống trong những đêm dài nô lệ thì chính văn
thơ trào phúng là ngọn lửa soi sáng nhất bên cạnh các dòng thơ văn yêu nước
khác lật tẩy được bộ mặt xảo trá, bịp bợm của bọn cướp nước, bọn bán nước
cầu vinh, chống đối lại chính sách ngu dân với mục đích thống trị, đồng thời
đòi hỏi sự đổi mới để được dứt khoát từ bỏ quá khứ nặng nề. Đã có những
tiếng cười vang lên, cuốn hút, cho chúng ta thấy một cách sâu sắc hơn ý nghĩa
của những vấn đề đã đặt ra trong hiện thực. Cái cười nghịch ngợm có phần
thách thức của Trạng Quỳnh, cái cười gay gắt dữ dội mà trong trẻo của Hồ
Xuân Hương, cái cười ngông nghênh tinh quái, đùa bỡn mà ngậm ngùi của
Trần Tế Xương, cái cười giòn giã và khinh bỉ của Nguyễn Thiện Kế. Lại còn
cái cười hài hước ngạo nghễ của Nghè Tân, cười ngất ngưởng của Nguyễn
Công Trứ…Và thấm vào cõi lòng hơn cả là cái cười bẽ bàng và chua chát của
Yên Đổ . Tuy các tiếng cười là khác nhau và cũng có giá trị khác nhau nhưng
tất cả đều hướng đến một mục đích chung cao nhất đó là sử dụng thơ văn trào
phúng như một thứ vũ khí sắc bén hiệu quả đánh trực diện vào kẻ thù xâm
lược, đồng thời bộc lộ mong muốn thay đổi cuộc sống theo hướng tích cực
hơn.
1.4. Tiểu kết Chƣơng 1
Văn học trào phúng được coi là loại hình văn học đặc biệt ra đời trong
một hoàn cảnh lịch sử có những đặc điểm riêng biệt. Sự ra đời của văn học trào
28
phúng đánh dấu sự phát triển của một xã hội mới với nhiều biến động, ghi lại
một cách trung thực những sự kiện nổi bật của một giai đoạn văn học. Vì vậy,
văn học trào phúng mang những đặc điểm riêng về nội dung và nghệ thuật
trong đó sự hài hước, sự châm biếm, thái độ phản kháng trước thực tại đóng vai
trò quan trọng phân biệt thơ văn trào phúng với các loại hình, khuynh hướng
văn học khác trong cùng thời kì.
Thông qua Chương 1 có thể nhận thấy sự hình thành và phát triển mạnh
mẽ xung đột văn hóa trong văn học trào phúng Việt Nam giai đoạn nửa cuối
thế kỉ XIX với những biểu hiện cơ bản. Trong sự phát triển của văn học nói
chung, văn hoc trào phúng có một vị trí đặc biệt, góp phần thay đổi tư duy
nghệ thuật của văn học dân tộc, chuyển dần từ văn dĩ tải đạo hướng tới văn học
phản ánh hiện thực đời sống.
Chương 1 cũng đi tìm hiểu các khái niệm xung đột, khái niệm văn hóa
và xung đột văn hóa và cho thấy những vấn đề văn hóa đã có ảnh hưởng tác
động tới văn học, đặc biệt giai đoạn văn học nửa cuối thế kỉ XIX là giai đoạn
có nhiều biến động trong đời sống xã hội. Đây là cơ hội, điều kiện tốt để các
nhà thơ, nhà văn phản ánh những xung đột văn hóa, từ đó bộc lộ thái độ phê
phán thầm kín xong không kém phần quyết liệt. Bối cảnh lịch sử - xã hội Việt
Nam nửa cuối thế kỉ XIX, khi thực dân Pháp đã thiết lập được thể chế mới mới
trên đất nước ta đã khiến nảy sinh nhiều mâu thuẫn trên mọi lĩnh vực của đời
sống trong đó rõ rệt nhất là trên phương diện văn hóa. Chính vì vậy, trong thời
điểm lịch sử ấy thông qua các tác phẩm văn học của mình, Nguyễn Khuyến đã
vẽ phác họa một bức tranh xã hội Việt Nam buổi giao thời với nhiều nét vẽ
chân thực phản ánh xã hội nhố nhăng, pha tạp, lai căng. Trong Chương 2 người
viết sẽ làm rõ hơn các biểu hiện của xung đột văn hóa trong nội dung thơ Nôm
trào phúng Nguyễn Khuyến.
29
Chƣơng 2
NỘI DUNG XUNG ĐỘT VĂT HÓA TRONG THƠ NÔM TRÀO PHÚNG
NGUYỄN KHUYẾN
2.1. Xung đột giữa văn hóa phƣơng Đông và phƣơng Tây
2.1.1. Giữa tinh thần yêu nước, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc với
văn hóa ngoại lai của kẻ xâm lược
Văn hoá phương Đông và phương Tây là hai trong số những nền văn
hoá nổi bật của nhân loại. Giữa chúng luôn chứa đựng nhiều quan niệm khác
nhau. Trước tiên cần làm rõ sự khác biệt giữa hai hệ tư tưởng trên bốn phương
diện cơ bản.
Thứ nhất về tín ngưỡng và tôn giáo: so sánh sự khác nhau về văn hóa
phương Đông và phương Tây không gì khác ngoài tín ngưỡng và tôn giáo, đó
là cái nôi, là xương sống của mọi nền văn hóa. Phương Đông huyền bí với sự
đa dạng và phong phú về tín ngưỡng và tôn giáo, là vùng đất hứa của đức tin
với nhiều tôn giáo, tín ngưỡng như Phật giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo,… và các
hệ tư tưởng và tôn giáo như Đạo giáo, Nho giáo, các tín ngưỡng như tín
ngưỡng thờ ông bà tổ tiên, tín ngưỡng dân gian, thờ mẫu. Vì thế nền văn hóa
của các nước phương Đông không thể tách biệt khỏi chùa chiền, đền miếu và
đời sống tâm linh được truyền từ đời này sang đời khác. Đó là bản chất góp
phần làm nên sự phong phú đa dạng trong văn hóa lâu đời của phương Đông.
Trong khi đó phương Tây lại đơn giản hơn, Thiên chúa giáo chiếm vị thế chủ
đạo trong phần lớn đời sống tinh thần của người dân, chốn linh thiêng của đức
tin và lời răn bên cạnh một số tín ngưỡng và tôn giáo khác. Sự khác nhau về
văn hóa phương Đông và phương Tây đã tạo nên những sự khác biệt rõ ràng
trong xã hội, từ suy nghĩ, hành động, cách sống và công việc của con người.
Thứ hai về triết học: Triết học là một hình thái ý thức xã hội, là sự phản
ánh tồn tại của xã hội và đặc biệt sự tồn tại này ở xã hội phương Đông khác
30
hẳn với phương Tây về cả điều kiện tự nhiên, địa lý dân số và hơn nữa phương
thức sản xuất của phương Đông là phương thức sản xuất nhỏ còn phương Tây
là phương thức sản xuất tư bản do vậy mà cái phản ánh ý thức cũng khác: văn
hoá phương Đông mang nặng tính chất cộng đồng còn phương Tây nghiêng về
tính cá thể. Do vậy có sự khác biệt căn bản giữa triết học phương Tây và
phương Đông. Ví dụ như trong vấn đề con người phương Đông cũng quan
niệm khác phương Tây. Ở Phương Đông người ta đặt trọng tâm nghiên cứu
mối quan hệ người với người và đời sống tâm linh, ít quan tâm đến mặt sinh
vật của con người, chỉ nghiên cứu mặt đạo đức thiện hay ác theo lập trường của
giai cấp trống trị cho nên nghiên cứu con người không phải là để giải phóng
con người mà là để cai trị con người, không thấy quan hệ giữa người với người
trong lao động sản xuất. Ở Phương Tây họ lại ít quan tâm đến mặt xã hội của
con người, đề cao cái tự nhiên – mặt sinh vật trong con người, chú ý giải phóng
con người về mặt nhận thức, ít chú ý đến nguyên nhân kinh tế – xã hội, cái gốc
để giải phóng con người.
Thứ ba về chính trị: Phương Đông với chế độ quân chủ chuyên chế, vua
tự xưng là "Thiên tử" nắm quyền hành tuyệt đối về chính trị, quân sự và cả tôn
giáo. Phương Tây với chế độ dân chủ, chính quyền thuộc về các công dân. Đại
hội công dân bầu và cử ra các cơ quan nhà nước, quyết định mọi công việc nhà
nước (tính chất dân chủ rộng rãi). Thể chế dân chủ ở các quốc gia cổ đại
phương Tây dựa trên sự bóc lột hà khắc với nô lệ cho nên chỉ là nền chuyên
chính của chủ nô.
Thứ tư về đạo đức: Phương Đông chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng
Nho giáo. Với ba cương lĩnh cơ bản của Nho giáo (Tam cương) là: Đạo vua tôi
(quân thần), Đạo cha con (phụ tử), Đạo vợ chồng (phu phụ).
Năm phép ứng xử luân lý và đạo đức (Ngũ thường ) Nhân, Nghĩa, Lễ,
Trí, Tín. Hạt nhân tư tưởng Nho giáo là Nhân và Lễ. Nho giáo coi chữ Nhân là
31
đạo đức hoàn thiện nhất “Nhân dã, Nhân giả” (kẻ có nhân ấy, ấy là con người
vậy) “nhân giả ái nhân” (người có nhân thì yêu con người). Trên cơ sở những
tư tưởng ấy đã hình thành mẫu người của Nho giáo là người quân tử mà lý
tưởng sống được thể hiện tập trung trong một hệ thống quan niệm về tu thân, tề
gia, trị quốc, bình thiên hạ. Trong khi đó ở phương Tây giai đoạn này chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ của đạo đức tư bản. Chủ nghĩa cá nhân tư sản là nguyên tắc cơ
bản của đạo đức tư sản. Quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đã kích thích
các nhà tư bản làm giàu và đã định hướng trong ý thức và hành vi đạo đức của
họ. Họ coi việc làm giàu với mọi cách và mọi giá là hoạt động chính, là mục
đích cao nhất của cuộc sống. Ngoài những mặt tích cực, giai cấp tư sản đã để
lại cho xã hội không ít những hậu quả tiêu cực như vấn đề công lý và nền đạo
đức trong xã hội không được đảm bảo bình thường, con người trở nên ích kỷ,
đạo lý trong xã hội ngày càng suy giảm.
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta mang theo một luồng tư tưởng mới
hoàn toàn đối lập với tư tưởng phương Đông, xã hội Việt Nam đã có sự thay
đổi dữ dội, làm đảo lộn mọi trật tự xã hội và đã có sự xung đột mạnh mẽ giữa
hai hệ tư tưởng này trên các phương diện. Biểu hiện cụ thể trong sự đối lập
giữa văn hóa mới của bọn thực dân xâm lược với truyền thống yêu nước của
dân tộc Việt Nam.
Vào những năm cuối thế kỉ XIX khi thực dân Pháp đặt ách đô hộ lên
nước ta kéo theo cái gọi là nền văn minh khai hóa tức là thay đổi thể chế đã cũ
của Việt Nam là chế độ phong kiến tồn tại lâu đời. Đặc biệt là chính sách phản
động của thực dân Pháp nhằm xóa bỏ nền văn hóa, khoa cử của người Việt để
dễ bề cai trị. Về mặt văn hóa, chúng thi hành triệt để chính sách văn hóa nô
dịch, gây tâm lý tự ti, vong bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan,
đồi phong bại tục, mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán.
Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ
trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu dân để dễ bề thống
32
trị. Kết quả là 90% dân ta bị mù chữ. Đồng thời thực dân Pháp một mặt tìm
mọi cách phá vỡ các truyền thống văn hóa Việt Nam, hạn chế sự ảnh hưởng từ
văn hóa Trung Quốc, mặt khác duy trì những lạc hậu, hạn chế của chế độ cũ
kết hợp với những cặn bã của văn minh phương Tây lố lăng, kệch cỡm… để
tạo nên một Việt Nam “nửa Tây, nửa Ta, nửa Tàu”. Vì vậy, đã diễn ra một
cuộc giao tranh lúc âm thầm, lúc quyết liệt giữ hai nền văn hóa Đông và Tây
theo hướng có lợi và ngày càng lấn át của văn hóa phương Tây. Về giáo dục
người Pháp đặc biệt quan tâm với mong muốn xây dựng ở đây một nền giáo
dục thuộc địa hoàn toàn phụ thuộc vào Pháp, nhưng được nguỵ biện dưới chiêu
bài “khai hoá dân trí”, “mở mang tri thức” cho dân An Nam lạc hậu. Chuyển
đổi một nền giáo dục truyền thống sang nền giáo dục của phương Tây. Người
Pháp thực thi chủ trương phát triển giáo dục để mở mang dân trí cho người bản
địa không ngoài mục đích cai trị và khai thác nguồn lợi ở thuộc địa. Đưa vào
sử dụng chữ Pháp và chữ latinh nhằm xóa bỏ chữ Nho cùng ảnh hưởng của
tầng lớp sĩ phu yêu nước. Ban hành quy chế và cải tổ lại hoàn toàn hệ thống
giáo dục. Với bản quy chế này chính quyền Pháp cấm các trường tư mở cửa
nếu không được phép của chính quyền để hạn chế nền giáo dục dân tộc của
Việt Nam và từng bước xóa bỏ nền giáo dục Nho học và truyền thống khoa cử
của ta.
Trước thực tế đó những người dân yêu nước của ta cố gắng tìm lại, gìn
giữ các giá trị văn hóa truyền thống . Bảo vệ, gìn giữ truyền thống văn hóa
trước chính sách “khai hóa văn minh” hủy diệt văn hóa dân tộc. Chưa bao giờ
lòng yêu nước lại trỗi dậy mãnh liệt đến thế bởi hơn ai hết những người dân đất
Việt hiểu rõ chỉ cần đánh mất cội nguồn văn hóa là đánh rơi cái tôi cá nhân,
cao hơn là dân tộc vĩnh viễn trong đêm dài nô lệ. Nguyễn Khuyến ngậm ngùi,
nuối tiếc và thầm kín bộc lộ lòng yêu nước, mong muốn giữ lấy những bản sắc
của dân tộc Việt Nam:
“Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,
33
Năm nay chợ họp có đông không?
Dở trời mưa bụi còn hơi rét
Nếm rượu tường đến được mấy ông?
Hàng quán người về nghe xao xác,
Nợ nần năm cũ hỏi lung tung.
Dăm ba ngày nữa tin xuân tới,
Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng.”
(Chợ Đồng)
Xưa kia chợ Đồng có tên gọi là chợ Và, họp ba phiên vào cuối năm 24,
26, 30 tháng Chạp. Bà con nô nức ra chợ sắm Tết. Chợ Đồng họp ngay ở bên
cạnh một ngôi đền ba gian lợp ngói. Hàng năm vào ba phiên chợ Tết các bô lão
coi việc tế tự trong làng ra ngồi ở tường đền để nếm rượu chọn thứ ngon để thờ
thánh ba ngày Tết. Hình ảnh về làng quê Việt Nam thật gần gũi và gắn bó với
mỗi con người chúng ta, những hình ảnh đó tạo nên sự thân thuộc và những
điều rất thiêng liêng và vô cùng đáng trân trọng, Nguyễn Khuyến đã tái hiện lại
một bức tranh thiên nhiên làng quê thật sinh động, đó là một cuộc sống yên ả
và thái bình với những khung cảnh thân thương và đầy cảm xúc. Thế nhưng
khi giặc Pháp về đóng đồn ở làng Vị Hạ thì chợ Và cũng thôi không họp nữa
và tục họp chợ Đồng vào cuối năm cũng mất. Khi hãng Phôngten của Pháp
chiếm độc quyền rượu ở Đông Dương thì tục nếm rượu cũng không còn nữa.
Không gian văn hóa đó không còn hiện diện mà thay vào đó là sự pha tạp của
văn hóa phương Tây. Những niềm vui của buổi họp chợ, giờ đây chỉ còn lại
những tiếng xao xác trống trải của buổi chợ tàn. Cuộc sống của nhân dân
nghèo khổ, mỗi năm cái đói lại hành hạ, họ rơi vào cảnh nợ nần quanh năm.
Theo bước chân của quân xâm lược phương Tây, yếu tố tư bản chủ nghĩa
cũng tràn vào nước ta, làm thay đổi diện mạo của xã hội phong kiến đã định
34
hình hàng ngàn năm. Nền tảng tư tưởng, nền tảng đạo đức truyền thống lung
lay dữ dội. Nhiều giá trị cơ bản bị đảo lộn, đồng tiền được tôn lên vị trí hàng
đầu, chi phối toàn bộ cuộc sống của con người. Chính vì thế mới có những
cảnh cười ra nước mắt trong hội Tây do thực dân Pháp tổ chức thay thế chợ
truyền thống. Đăc biệt là những người đân bản xứ tham gia các trò chơi tỏ ra
vui vẻ đến vô tâm trước nỗi nhục nô lệ:
“Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo,
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.
Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom ghé hát chèo.
Cậy sức, cây đu nhiều chị nhún
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.
Khen ai khéo vẽ trò vui thế?
Vui thế bao nhiêu, nhục bấy nhiêu!”
(Hội Tây)
Trước thực cảnh trên một nhà nho yêu nước như Nguyễn Khuyến không
thể tránh khỏi đau lòng, xót xa, căm phẫn quân xâm lược và sự bạc nhược của
triều đình cũng như sự đớn hèn của một bộ phận người dân.
2.1.2. Giữa phong tục, tập quán và lối sống mới trong xã hội thực dân
phong kiến
Văn hóa của một dân tộc thể hiện một phần trong phong tục, tập quán
của chính dân tộc đó. Xã hội thực dân phong kiến chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ
của văn hóa phương Tây, trong xã hội đó nảy sinh xung đột giữa phong tục, tập
quán truyền thống dân tộc với các biểu hiện của lối sống mới của kẻ xâm lược
và bọn tay sai bán nước diễn ra rất gay gắt. Trong thơ Nguyễn Khuyến nói
35
chung và thơ trào phúng Nguyễn Khuyến nói riêng nhiều phong tục, tập quán
truyền thống tốt đẹp được ông nhắc đến với một thái độ trân trọng, đi vào thơ
ông giản dị, tự nhiên và chân thực. Nguyễn Khuyến viết về các phong tục, tập
quán của người Việt như một ẩn ý loại bỏ lối sống kệch cỡm của kẻ xâm lược.
Ví như tục lên lão:
“ Ông chẳng hay ông tuổi đã già,
Năm mươi ông cũng lão đây mà!
Anh em, làng xóm xin mời cả,
Xôi bánh, trâu heo, cũng gọi là!
Chú Láo bên người lên với tớ,
Ông Từ ngõ chợ lại cùng ta
Bây giờ đến bậc ăn dưng nhỉ?
Có rượu thời ông chống gậy ra.”
(Lên lão)
Theo phong tục của địa phương nhà thơ trước đây, hàng năm vào ngày
mồng 6 tháng Giêng âm lịch, các cụ bô lão trong làng đến sáu mươi tuổi thì
làm lễ tế ở đình làng gọi là lễ lên lão. Còn các cụ từ năm mươi lăm tuổi trở lên
thì vào ban lão làng, trông coi việc tế lễ cho đến sáu mươi tuổi mới thôi. Lên
lão không chỉ là tin mừng của một cá nhân, đó còn là việc vui của cả làng, là cơ
hội để cả làng tề tựu chia sẻ niềm vui và gắn kết tình làng nghĩa xóm. Nhưng
thực tế nhà thơ cáo quan về ở ẩn khi mới 49 tuổi, một năm sau ông lên
lão. Như vậy so với phong tục của địa phương thì việc lên lão của Nguyễn
Khuyến là một sự việc bất thường: “Năm mươi ông cũng lão đây mà!”. Sự việc
đó khiến cho lệ làng phải thay đổi, phong tục có những nét mới trong xã hội
phong kiến nửa thực dân. Và thông qua bài thơ người đọc cũng nhận thấy thái
36
độ tự trào bản thân của Nguyễn Khuyến, từ một quan đại thần trở thành một “
lão làng”, “con người thừa”.
Một trong số những phong tục thể hiện rõ văn hóa Việt đó là phong tục
đón Tết cổ truyền của dân tộc. Ở vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ gắn liền
với đời sống nông nghiệp nên ngày Tết đối với họ là rất quan trọng, là dịp để
nghỉ ngơi, vui chơi, tạm gác lại công việc đồng áng. Nguyễn Khuyến sẻ
chia với cảnh, với người quê nét phong tục và từ đây bản sắc văn hóa độc đáo
“Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ, cây nêu cà pháo bánh chưng xanh” được bộc
lộ rõ qua không khí ngày cuối năm:
“Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng,
Ngoài ngõ bi bô rủ chung thịt.”
(Cảnh tết)
Dẫu chỉ là một chút vui nhỏ nhoi trong những ngày rộn ràng đón lễ tết
nhưng dường như không ai để tâm đến cái nghèo cái khổ nữa. Mọi nhà nhộn
nhịp cùng chung nồi bánh chưng truyền thống, âm thanh vui vẻ, xôn xao đã
xua đi bầu không khí ảm đạm của cuộc sống khốn khó thường ngày. và chính
nhà thơ cũng đang say sưa giữa không khí chan hòa tình thân ái xóm làng. Đọc
Cảnh tết của Nguyễn Khuyến yên bình, đẹp bởi nét đẹp văn hóa truyền thống
nhưng cũng sẽ bị vấy bẩn bởi lối sống mới của kẻ xâm lược. Với tác giả khi
viết về phong tục, với thái độ ca ngợi nét văn hóa cũ là cách đối lập với thực
trạng xã hội khi đó. Cũng là khung cảnh ngày Tết nhưng cảnh huống lố bịch,
nhố nhăng vì tiền mới diễn ra khiến nhà thơ Tú Xương tức giận phải bật lên
tiếng chửi phũ phàng:
“Lẳng lặng mà nghe nó chúc giàu,
Trăm nghìn vạn mớ để vào đâu.
Phen này ắt hẳn gà ăn bạc,
37
Đồng rụng đồng rơi lọ phải cầu.
Lẳng lặng, mà nghe nó chúc sang,
Đứa thời bán tước đứa mua quan,
Phen này ông quyết đi buôn lọng,
Vừa chửi vừa rao cũng đắt hàng.”…
(Năm mới chúc nhau)
Bên cạnh đó Nguyễn Khuyến còn kể đến hát chèo, hình thức diễn xướng
này phát triển mạnh ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Hát chèo là nơi người dân gửi
gắm bao nỗi niềm cảm xúc trong cuộc sống hàng ngày. Thế nhưng trước sự áp
đảo của lối sống mới của kẻ xâm lược và tay sai bán nước, loại hình văn hóa
truyền thống này đã bị bóp méo và trở thành trò mua vui giải trí cho đám quan
tham vô lại. Nguyễn Khuyến thể hiện thái độ phản kháng âm thầm nhưng rất
quyết liệt và sâu cay. Không chỉ vạch trần bộ mặt mị dân của chúng, mà còn
phê phán những con người đớn hèn, ngu muội bị chúng biến thành trò hề, con
rối mà không hề hay biết:
“Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom ghé hát chèo.”
Bằng những hình ảnh đậm sắc thái tạo hình, người đọc dễ dàng tưởng
tượng không khí vui vẻ của ngày hội, thế nhưng cũng chính bằng những cách
miêu tả ấy, giọng điệu ấy đã tỏ rõ sự lên án thói mị dân, nhố nhăng của bọn
thống trị, quan Tây và quan Ta. Bà quan thật nực cười trong cái thế “tênh
nghếch” thằng bé thì nom thật tội nghiệp trong điệu bộ “lom khom”. Với hai
hình ảnh đối xứng đã lột trần thực tại xót xa của đất nước trong cảnh nô lệ,
dưới gót giày của lũ xâm lược. Thơ Nguyễn Khuyến thâm thúy, sâu sắc về mặt
hình thức bề ngoài người đọc cảm nhận một khung cảnh hội Tây diễn ra nô
nức, vui vẻ nhưng thực chất bên trong lại chất chứa sự phẫn uất của cụ Tam
38
nguyên trước các phong tục, tập quán bị mai một. Vì vậy nhà thơ kết lại bằng
một câu khẳng định nhưng lại chứa đựng sắc thái cảm thán:
“ Khen ai khéo vẽ trò vui thế?
Vui thế bao nhiêu, nhục bấy nhiêu!”
(Hội Tây)
Xung đột văn hóa không chỉ biểu hiện ở phương diện phong tục, tập
quán mà còn xuất hiện trong mối xung đột giữa những kẻ rởm đời học đòi như
bọn gái điếm, me Tây - những tầng lớp mới xuất hiện trong xã hội, bọn quan
lại và nhiều các đối tượng suy đồi khác với thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Thơ trào phúng Nguyễn Khuyến tái hiện một cách đầy đủ, rõ ràng và sâu sắc.
Nguyễn Khuyến từng làm quan nên đã thấy rõ hiện thực quan trường và thế
giới khoa bảng nói chung là đổ nát và thảm hại. Hàng ngũ quan lại là lũ tay sai
bù nhìn, là những anh hề trên sân khấu. Phải chăng rằng ông đang khuyên bọn
quan lại ấy hãy thức tỉnh mà là chính mình, đừng chịu mãi sự sai khiến của
người khác, đừng là một con rối, một anh hề trong sự giật dây của thực dân:
“Vua chèo còn chẳng ra gì
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề”
(Lời vợ anh phường chèo)
“Vua chèo, quan chèo” chỉ là những nhân vật trên sân khấu để mua vui
cho thiên hạ chẳng “khác chi thằng hề”. Thế mà lúc nào họ cũng nghĩ rằng
trong thực tế mình cũng là quan, là vua. Lời vợ anh phường chèo hay chính là
lời của Nguyễn Khuyến muốn gửi đến bọn quan lại bù nhìn trong triều lúc bấy
giờ - Những kẻ ngu, dốt, vô liêm sỉ và không biết nỗi nhục mất nước.
Ngòi bút ông đã vạch trần nhiều mặt xấu xa thối nát của bọn quan lại
nào là bất tài, vô dụng, dốt nát chỉ là thứ phỗng đá không hơn không kém, trơ
trơ trước sự nguyền rủa của dân. Thái độ của Nguyễn Khuyến rất dứt khoát.
39
Ông mắng chúng không kiêng nể. Bằng lối nói có ẩn ý, Nguyễn Khuyến đả
kích, châm biếm rất thâm độc:
“ Ông đứng làm chi đó hỡi ông?
Trơ trơ như đá, vững như đồng.
Đêm ngày gìn giữ cho ai đó?
Non nước đầy vơi có biết không.”
(Ông phỗng đá, I)
Tương truyền khi nhà thơ ngồi dạy học ở nhà Hoàng Cao Khải, một hôm
dạo chơi ngoài vườn, thấy ông phỗng đá bên hòn non bộ, liền tức cảnh viết bài
thơ. Mượn hình ảnh ông phỗng đá để đánh một đòn trực diện vào tầng lớp quan
lại vô dụng trước cảnh nước mất nhà tan. Tiếng cười ở đây không phải để đùa
vui nữa mà là để phê phán, để tố cáo hiện thực xã hội, lên án, vạch trần chính
là bè lũ thống trị, bọn tham quan:
“Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông,
Nó lại mang ông đến giữa đồng.
Lấy của đánh người quân tệ nhỉ!
Thân già da cóc có đau không?
Bây giờ mới sẽ sầy da trán,
Ngày trước đi đâu mất mảy lông!
Thôi cũng đừng nên ky cóp nữa,
Kẻo mang tiếng dại với phường ngông.”
(Hỏi thăm quan tuần mất cướp)
Bài này nhà thơ gửi cho ông tuần phủ Trần Đích là bạn học người Bình
Lục (Hà Nam), vốn là người có tính keo kiệt bủn xỉn. Bằng những câu hỏi
40
thăm rất đỗi tận tình, một bạn quan tuần bị mất cướp, nhà thơ đã "hỏi thăm" đã
nói những điều lẽ ra theo phép lịch sự thông thường thì nên tế nhị khéo léo
nhưng đằng này ông lại hỏi thẳng, nói thẳng. Những câu thơ như những mũi
dao nhọn cứ xoáy mãi vào một vết thương. Ông quan "đáng kính" chỉ như một
món đồ để cho bọn cướp lôi từ nơi này sang nơi khác lại còn bị đánh cho "sầy
da trán", thật là đau xót! Tác giả chỉ nhắm một mục đích duy nhất là cho người
đọc bông đùa thỏa thích trước sự "xui xẻo" của tên quan để rồi chốt lại lời
châm biếm đả kích gay gắt về cái thói tham lam, hà tiện, bủn xỉn của không chỉ
tên quan tuần mà các tầng lớp quan lại thời bấy giờ. Cùng thái độ phản kháng
ấy với tầng lớp quan lại dưới cách nhìn của Tú Xương thì chúng là một lũ
tham sống, sợ chết, bản chất trơ tráo lì lợm, vô liêm sỉ thay nhau thực hiện
hành vi mua quan, bán tước bỉ ổi, tỏ rõ lòng tham vô độ mà lại keo kiệt bủn xỉn
vô cùng.
“Phố phường chật hẹp người đông đúc
Bồng bế nhau lên nó ở non.”
(Năm mới chúc nhau)
Những câu thơ chẳng khác nào những ngọn roi mạnh quất thẳng vào bọn
người đáng ghét ấy. Cho thấy thơ trào phúng của Tú Xương thật sắc sảo, thật
bốp chát chứ không thâm trầm, kín đáo như cụ Yên Đổ. Ðặc biệt, ngòi bút của
Nguyễn Khuyến bộc lộ thái độ phê phán mạnh mẽ, quyết liệt khi viết về bọn
me Tây, gái điếm. Nguyễn Khuyến buông tiếng cười mỉa mai, chua chát tới
một đối tượng mới xuất hiện trong xã hội đó là những người phụ nữ ham tiền
tài, danh vọng đi làm vợ quan Tây:
“Con gái đời này, gái mới ngoan,
Quyết lòng ẩu chiến với Tây quan.
Ba vuông phất phới cờ bay dọc,
41
Một bức tung hoành váy xắn ngang.
Trời đất khó thương chàng bạch quỷ
Giang san riêng sướng ả hồng nhan,
Nghĩ càng thêm ngán trai thời loạn,
Con gái đời nay, gái mới ngoan!”
(Lấy Tây)
Đức hạnh là điều vô cùng thiêng liêng đối với người phụ nữ, đặc biệt là
phụ nữ ở những nước phương Đông. Vậy vì tiền tài, danh vọng đã có những
người phụ nữ sẵn sang bán rẻ nhân phẩm và danh dự của mình, thờ ơ cả với nỗi
nhục của đất nước. Cách nói mỉa mai “Con gái đời này, gái mới ngoan” gái
ngoan công, dung, ngôn, hạnh theo quan điểm của Nho giáo không còn nữa
thay vào đó là một lớp gái ngoan quyết một lòng, một dạ “ẩu chiến” với quan
Tây – quân xâm lược đang giày xéo quê hương, đang trà đạp lên thuần phong
mỹ tục của dân tộc. Nguyễn Khuyến đã viết những lời châm biếm hết sức sâu
cay để phê phán sự tha hóa của những con người này. Nhưng có lẽ Đĩ cầu Nôm
là sự phê phán gay gắt nhất, có phần thô tục hướng tới đối tượng này:
“Thiên hạ bao giờ cho hết đĩ
Trời sinh ra cũng để mà chơi
Dễ mấy khi làm đĩ gặp thời
Chơi thủng trống, long dùi âu mới thích
Đĩ bao tử càng chơi càng lịch,
Tha hồ cho khúc khích chị em cười:
Người ba đấng của ba loài,
Nếu những như ai thì đĩ mốc
Đĩ mà có tàn, có tán, có hương án, có bàn độc
42
Khá khen thay làm đĩ có tông!”…
Một thái độ quyết liệt ông dành cho những kẻ không giữ được đạo đức,
nhân cách của mình trước sự cám dỗ của xã hội nửa ta, nửa Tây. Và sự xuất
hiện của kiểu người mới này khiến cho xung đột giữa phong tục, tập quán và
lối sống mới khi thực dân Pháp xâm lược không thể dung hòa.
2.2. Sự đối lập giữa truyền thống khoa cử, học vấn lâu đời của dân
tộc với thực trạng xã hội đƣơng thời
Mặc dù khoa cử và học vấn vẫn là một phương diện của văn hóa theo
nghĩa rộng nhưng chúng tôi đã tách ra thành một phần độc lập để nghiên cứu,
bởi đây là một phương diện hết sức quan trọng trong bối cảnh lịch sử có những
biến động dữ dội dẫn đến sự triệt tiêu truyền thống học hành, khoa cử hàng
ngàn năm của dân tộc.
2.2.1. Truyền thống học vấn rực rỡ
Năm 1802, Gia Long giành thắng lợi cuối cùng và lập nên Triều
Nguyễn. Đứng trước sự khủng hoảng, nhà Nguyễn ra sức chấn hưng Nho giáo.
Trong các đời Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, Nho giáo Việt
Nam giữ vai trò độc tôn trong xã hội, từ chính trị đến giáo dục. Trong giáo dục
và thi cử, thì Nho giáo càng có vị trí cao hơn nữa. Nhà Nguyễn đã cho thay đổi
hệ thống học vị. Mở rộng qui mô giáo dục, khác hẳn so với trước. Giáo dục
Nho học được áp dụng trên toàn lãnh thổ Việt Nam, từ Bắc chí Nam. Ở đây,
cũng chỉ có một nền giáo dục duy nhất, đó là giáo dục Nho học. Cả nước lúc
bấy giờ có đến 7 trường thi hương, và tất cả các khoa thi hội đều được tổ chức
ở kinh đô Huế. Nhà Nguyễn cũng đã trọng dụng những người đỗ đạt.
Bản thân Nguyễn Khuyến nổi tiếng là một người thông minh, hiếu học.
Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu cử nhân (tức Giải nguyên) trường thi Hà
Nội. Năm 1865, ông trượt thi Hội nên tu chí, ở lại kinh đô học trường Quốc Tử
Giám. Đến năm 1871, ông mới đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên (Hoàng giáp).
43
Từ đó, Nguyễn Khuyến thường được gọi là Tam nguyên Yên Đổ. Như vậy tính
từ năm 1852, đi thi hương khoa đầu tiên, cho tới năm 1871, Nguyễn Khuyến đã
bỏ ra hai mươi năm liên tục ứng thí để chinh phục đỉnh cao khoa bảng và đã
thành công trên con đường lập thân quen thuộc đã được vạch sẵn của thời
phong kiến. Nền giáo dục Nho học nói chung, con đường học vấn của Nguyễn
Khuyến nói riêng đã đạt đến đỉnh vinh quang. Dân tộc Việt Nam có quyền tự
hào về một truyền thống học vấn rực rỡ. Tuy nhiên từ khi thực dân Pháp đặt
ách đô hộ với cách chính sách phản động nhằm xóa bỏ nền văn hóa, khoa cử
của người Việt để dễ bề cai trị khiến Nho giáo sụp đổ nhanh chóng. Năm 1918,
khoa thi hương cuối cùng của nền thi cử Nho giáo Việt Nam đã được tổ chức.
Và khoa thi hội năm 1919 cũng là khoa thi hội cuối cùng của nền giáo dục Nho
giáo Việt Nam.
2.2.2. Thực trạng của các trường thi và danh vị tiến sĩ mới. Sự xuống
cấp của Đạo học
Thực trang của các trường thi xuống cấp một cách nghiêm trọng ở mọi
mặt. Thực trạng đó đã được Trần Tế Xương vẽ bởi một bức tranh sinh động và
chân thực nhất về tình hình xã hội thi cử của Việt Nam buổi giao thời trong chế
độ thực dân và phong kiến. Bức tranh miêu tả quang cảnh kì thi Hương cuối
mùa, lố lăng, trơ trẽn, bộc lộ nỗi nhục mất nước và niềm đau xót của một kẻ sĩ
đương thời:
“Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra”…
44
(Vịnh khoa thi Hương)
Nguyễn Khuyến phản ánh sự xuống dốc của Nho học đã kéo theo sự tha
hóa của những người trực tiếp làm công tác giáo dục. Họ làm đốc học mà
không quan tâm đến nhiệm vụ chính của mình, chỉ coi trọng túi tiền của mình:
“Chỉ cốt túi mình cho nặng chặt
Trăm năm mặc kệ tiếng chê khen!”
(Tặng Đốc học Hà Nam)
Đồng tiền làm con người tha hóa, không còn giữ được danh dự, thậm chí
là liêm sỉ của bản thân, mặc kệ mọi tiếng khen chê ở đời. Đến người có học và
làm trong lĩnh vực giáo dục như ông Đốc học cũng chỉ là một con rối trong xã
hội mà đồng tiền giữ vị trí độc tôn. Không chỉ dừng lại ở những ông Đốc học
mà bản thân các danh vị tiến sĩ mới cũng phản ánh sự xuống cấp của đạo học.
Đó chính là đối tượng phê phán sâu cay nhất trong các sáng tác của Nguyễn
Khuyến. Nho học suy tàn, tệ mua quan bán tước thành phổ biến làm xuất hiện
nhiều kẻ chỉ có hư danh mà không có thực học, đỗ đạt nhờ lạy, nên quan nhờ
xin. Hơn nữa, những người có tài năng thực sự và đỗ đạt cao như Nguyễn
Khuyến cũng không thể đóng vai trò quan trọng tạo nên sự hung thịnh của một
quốc gia nữa:
"Sách vở ích gì cho buổi ấy,
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già."
(Ngày xuân dặn các con)
Đối diện với sự thực ấy, nhìn món đồ chơi mà mấy đứa trẻ thường khoe
một cách hãnh diện này, nhà thơ chợt nhận ra mối liên hệ giữa hai sự vật, sự
việc vốn khác xa nhau. Từ “tiến sĩ giấy” qua đó nhằm miêu tả những “tiến sĩ
thật”, nhà thơ giễu cợt cái hư danh của ông nghè:
“Rõ chú hoa man khéo vẽ trò,
45
Bỡn ông mà lại dứ thằng cu,
Mày râu mặt đó chừng bao tuổi,
Giấy má nhà bay đáng mấy xu?
Bán tiếng mua danh thây lũ trẻ,
Bảng vàng bia đá vẫn nghìn thu.
Hỏi ai muốn ước cho con cháu,
Nghĩ lại đời xưa mấy kiếp tu.”
(Tiến sĩ giấy, I)
Không dừng lại ở Tiến sĩ giấy, I, hình tượng danh vị tiến sĩ mới tiếp tục
được hoàn thiện đầy đủ hơn trong Tiến sĩ giấy, II. Bài thơ quen thuộc hơn với
bạn đọc yêu thơ Nguyễn Khuyến:
“Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai
Cũng gọi ông nghè có kém ai
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng
Nét son điểm rõ mặt văn khôi
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,
Cái giá khoa danh thế mới hời.
Ghế tréo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ
Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi.”
(Tiến sĩ giấy, II)
Nghĩa tường minh thể hiện trên hình thức bề ngoài của bài thơ là sự
miêu tả và đánh giá một loại đồ chơi của trẻ con trong dịp Tết Trung Thu.
Cùng với lồng đèn con cá, lồng đèn ông sao, còn có lồng đèn ông Nghè. Ông
Nghè này làm bằng tre, giấy, mực, son, mang dáng vẻ một ông Tiến sĩ (ông
46
Nghè bệ vệ, uy nghi với “ghế tréo” và “lọng xanh”. Những tiến sĩ thời bấy
giờ cũng có đầy đủ từng thứ một: cờ, biển, cân đai, những thứ áo xiêm diêm
dúa. Họ cũng được gọi là những “ông nghè” chẳng kém ai, thế nhưng học vị
danh giá, vẻ vang ấy thực chất cũng chỉ là một mảnh giấy có đóng dấu son đỏ
lòe loẹt của triều đình. Hơn thế nữa, kẻ học vị tiến sĩ, ông nghè cao quý giờ
chẳng còn chút giá trị, nó mới “nhẹ” mới đơn giản làm sao khi có thể mua
được bằng tiền và thực tế chỉ là những con rối để bè lũ thực dân giật dây mà
thôi. Miêu tả món đồ chơi để đả kích đồ thật nhưng đồ thật chỉ hóa ra như đồ
chơi đó là tài châm biếm ý vị của nhà thơ Yên Đỗ. Thực hư đó đem đến cho
bài thơ sự đa nghĩa đầy bất ngờ: tiếng hư hư, thực thực lẫn lộn khó mà phân
biệt.
Quả thực, tác giả đã thấy mất lòng tin về một hình mẫu con người từng
được chế độ phong kiến để cao và ông hết sức nhạy cảm trong việc phát hiện ra
mâu thuẫn giữa cái danh và cái thực ở loại người này. Từ chùm thơ vịnh tiến sĩ
giấy hình tượng này không chỉ có ý nghĩa nhất thời, chỉ diễn ra trong thời đại
của Tam nguyên Yên Đổ mà còn là hình tượng nghệ thuật mang giá trị phổ
biến, chỉ những kẻ bề ngoài mang danh của người có học thức cao nhất nhưng
thực chất bên trong lại không tương xứng với cái nhãn mà mình đang mang.
Những nhân vật đó thời nào cũng có, đặc biệt trong những giai đoạn mà những
giá trị thật giả lẫn lộn, đồng tiền lên ngôi, thời kỳ mà con người được định giá
bằng đủ thứ danh hiệu hình thức thì loại người đó càng nhiều.
2.2.3. Xung đột giữa tầng lớp nho sĩ yêu nước và những kẻ khoác áo
nhà nho làm tay sai, bù nhìn cho kẻ thù
Trước sự thay đổi từ xã hội phong kiến sang thực dân nửa phong kiến,
với làn gió du nhập từ phương Tây làm cho tầng lớp nho sĩ có sự phân hóa rõ
rệt và luôn diễn ra sự xung đột âm thầm mà sâu sắc quyết liệt. Lúc này tầng lớp
nho sĩ chia làm ba thành phần: thứ nhất là mang danh nhà nho nhưng thực chất
47
đã phản bội lại cốt cách nho phong, có bọn còn cam tâm làm tay sai cho giặc.
Thứ hai, là tầng lớp nho sĩ giàu tinh thần bất khuất, có dũng khí đấu tranh dám
hi sinh thân mình để chiến đấu bảo vệ đất nước. Thứ ba, là tầng lớp nho sĩ, họ
có thể là những nhà nho bất đắc chí, những ông quan to ngày ngày làm việc
cho bọn thực dân nhưng bất đắc chí rời chốn quan trường lánh đời, ở ẩn hay
những nhà nho an phận thủ thường… Cả Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều
thuộc lớp nhà nho thứ ba.
Nếu Tú Xương không tham gia quan trường nhưng đứng bên ngoài với
tâm trạng của một người hỏng thi nhiều lần chứng kiến sự bất công của trường
thi, của quan lại, sự rởm hợm của bọn nho sĩ nửa mùa với cái nhìn đầy chân
thực, sinh động, thì Nguyễn Khuyến đã từng đỗ đạt cao, từng ra làm quan hơn
10 năm, nhưng vì chốn quan trường nhiều bon chen, vụ lợi và đặc biệt tầng lớp
quan lại phong kiến biến chất làm tay sai cho giặc nên Nguyễn Khuyến đã từ
bỏ áo mũ, cáo quan về ở ẩn. Nguyễn Khuyến một con người luôn giữ vững
nhân cách trong sạch, bảo toàn khí tiết. Thời cuộc không cho ông được thỏa chí
cống hiến tài năng, sức lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Trước
sự cám dỗ của xã hội thực dân phong kiến đầy nhiễu nhương, trước sự đổ vỡ
của truyền thống văn hóa, con người đứng trước bờ vực của sự tha hóa, thì
nhân cách con người được đưa ra thử thách quyết liệt. Đặc biệt là tầng lớp nhà
nho có học thức thực sự như Nguyễn Khuyến. Cùng với ông còn có rất nhiều
những nhà nho yêu nước bộc lộ thái độ bất hợp tác với triều đình. Điều đó
được chính Nguyễn Khuyến đề cập trong sáng tác của mình:
Trong thiên hạ có anh giả điếc,
Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây!
Chẳng ai ngờ “sáng tai họ, điếc tai cày”,
Lối điếc ấy sau này em muốn học.
Toạ trung đàm tiếu, nhân như mộc
48
Dạ lý phan viên, nhĩ tự hầu.
Khi vườn sau, khi ao trước; khi điếu thuốc, khi miếng trầu,
Khi chè chuyên năm bảy chén, khi Kiều lẩy một đôi câu;
Sáng một chốc, lâu lâu rồi lại điếc.
Điếc như thế ai không muốn điếc?
Điếc như anh dễ bắt chước ru mà!
Hỏi anh, anh cứ ậm à.
(Anh giả điếc)
Bài thơ viết về ông đồ Cự Lộc, bạn của nhà thơ quê Nam Định, đỗ cử
nhân đời Tự Đức và được triều đình gọi ra làm quan. Nhưng ông giả vờ điếc để
lấy cớ chối từ không chịu đi. Nhân đó nhà thơ làm bài thơ này để chế giễu. Và
đó cũng là cách mà Nguyễn Khuyến bày tỏ thái độ không hợp tác của mình đối
với bọn thực dân Pháp. Với ông, danh vị, lợi lộc chỉ là những thứ phù phiếm,
lừa gạt của bọn tay sai. Vì thế, ông lại lui về quê, từ bỏ chốn quan trường, để
nêu cao khí tiết. Thái độ ấy còn được biện bạch qua hình ảnh “ Mẹ Mốc” tuy
nhan sắc tuyệt trần nhưng giả vờ điên dại để bảo vệ sự trinh tiết, thủy chung:
“So danh giá ai bằng mẹ Mốc
Ngoài hình hài, gấm vóc chẳng thêm ra;
Tấm hồng nhan đem bôi lấm xóa nhòa,
Làm thế để cho qua mắt tục.”…
(Mẹ Mốc)
Bên cạnh đó cũng xuất hiện một tầng lớp nhà nho làm tay sai bù nhìn
cho kẻ thù, chúng làm ngơ trước khó khăn đói khổ của nhân dân cốt làm sao vơ
đầy túi tham của mình:
“Quai Mễ Thanh Liêm đã lở rồi,
49
Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi!
Gạo dăm ba bát cơ còn kém,
Thuế một vài nguyên dáng vẫn đòi,
Tiếng sáo vo ve chiều nước vọng,
Chiếc thuyền len lỏi bóng trăng trôi.
Đi đâu cũng thấy người ta nói,
Mười chín năm nay lại cát bồi.”
(Nước lụt Hà Nam)
Năm Canh Dần (1890) mưa lụt ở vùng Hà Nam, Nam Định, phá vỡ con
đê quai làng Mễ Tràng làm hư hỏng hết mùa màng gây ra nạn đói kém. Những
trận lụt tai hại cùng với chính sách sưu cao, thuế nặng đã đẩy những người dân
nơi đây đến độ cùng quẫn, buồn đau. Bài thơ như một tiếng thở dài, một sự
cam chịu. Nhà thơ không thi vị hóa sự việc, ngược lại đã thể hiện rõ nét và
chân thực tâm lý, nỗi lo lắng của người nông dân. Nguyễn Khuyến thể hiện cái
nhìn xót thương trước sự khốn cùng của nhân dân, bên cạnh đó là thái độ phê
phán, đả kích gay gắt trước những kẻ khoác áo nhà nho làm tay sai cho giặc trà
đạp lên cuộc sống của nhân dân. Cũng có những nhà nho cáo quan ở ẩn nhưng
bả vinh hoa phú quý đã làm say bao người, khiến họ không thể giữ trọn danh
tiết:
“Ông về đốc học bấy lâu nay,
Gần đó mà tôi vẫn chửa hay!
Tóc bạc răng long chừng đã cụ,
Khăn thâm áo thụng cũng ra thầy!
Học trò kẻ chợ, trầu dăm miếng,
Khảo khóa ngày xưa quyển một chầy.
50
Bổng lộc như ông không mấy nhỉ ?
Ăn tiêu nhờ được chiếc lương Tây!”
(Gửi đốc học Hà Nam)
Nhà thơ gửi cho ông Trần Nhược Sơn hiệu là Ngũ Sơn, người làng Xuân
Mai thuộc huyện Bình Lục (Hà Nam), đỗ cử nhân, làm thương tá Bắc Ninh,
sau thăng án sát Bắc Ninh, rồi cáo quan về nghỉ. Sau Hoàng Cao Khải vì có
hàm ân với ông Ngũ Sơn nên khi được thực dân Pháp cho làm Kinh lượt sứ
Bắc Kỳ. Hoàng Cao Khải bèn mời ông Ngũ Sơn lên chơi mà nói rằng: “Ông
già rồi, làm quan cai trị vất vả không làm được, nay có tỉnh Hà Nam mới mở,
tôi sẽ bổ ông làm đốc học tỉnh ấy để dưỡng lão”. Nhà thơ được tin bạn ra làm
quan bèn gửi bài thơ này. Có thể nhận thấy làm quan với một bộ phận nhà Nho
không phải để phụng sự cho sự nghiêp xây dựng, bảo về đất nước, để lại tiếng
thơm với muôn đời mà để “dưỡng lão”, hưởng bộc lộc và “Bổng lộc như ông
không mấy nhỉ?”. Câu dưới hình thức hỏi nhưng không có mục đích hỏi, mà
hướng tới mục đích phê phán, mỉa mai rất sâu cay. Thông qua đó Nguyễn
Khuyến bóc trần bộ mặt của bọn quan lại tay sai cho giặc. Như Tú Xương, với
con mắt của kẻ bất đắc chí rõ ràng đã có ý thức đầy đủ về tầng lớp, xã hội của
bản thân ông, tầng lớp nhà nho cũng gọi là làng Nho. Ông mỉa mai cay đắng nó
vì thấy nó đi vào con đường sa đọa, nó lâm vào cảnh tàn tạ, suy đồi và nhất là
nó đang bị một tầng lớp xã hội mới – bọn tư sản tấn công, bọn nhà giàu đang
đua nhau tấp tểnh mua danh, bán tước.
Bằng cái nhìn trào phúng, Nguyễn Khuyến đã cho người đọc thấy chế độ
khoa cử, thế hệ nhà nho đang dần bị thoái hóa biến chất sống vì mình, người có
tài không được trọng dụng mà chỉ có bọn có tiền, có địa vị, ô lọng được nắm
quyền làm cho cái xã hội đảo điên, giá trị tinh thần ngày càng bị lu mờ. Mâu
thuẫn xung đột giữa những nhà nho yêu nước với những kẻ khoác áo nhà nho
51
làm tay sai cho giặc diễn ra gay gắt hơn bao giờ hết. Đạo Nho học ngày càng
suy đồi, biến tướng, báo hiệu sự sụp đổ của nền Hán học là một điều tất yếu.
2.3. Xung đột văn hóa dẫn đến những mâu thuẫn trong bản thân
nhà thơ
2.3.1. Giữa học vấn, tài năng, khát vọng và hiện thực xã hội
Nguyễn Khuyến là một nho sĩ thành công trên con đường học vấn và
hoạn lộ. Ông đạt đến đỉnh cao vinh quang của sự nghiệp với con đường học, đỗ
đạt, làm quan trong lúc xã hội Việt Nam bước vào giai đoạn đầy biến động,
đau thương. Thuở nhỏ thông minh chăm học. Năm 1864 thi Hương đỗ giải
nguyên, năm 1871 đỗ đầu Hội nguyên và Đình nguyên, tên gọi Tam nguyên
Yên Đổ có từ đó. Sau khi thi đỗ, Nguyễn Khuyến ra làm quan giữ một số trọng
trách quan trọng trong triều đình. Có thể thấy, Nguyễn Khuyến là một nho sĩ
được đào tạo theo khuôn mẫu đạo đức nho giáo. Với ông, nam nhi phải có
nghĩa vụ học hành đỗ đạt làm quan để thờ vua giúp nước , thực hiện nghĩa vụ
“trí quân trạch dân” (vừa giúp vua ,vừa làm cho dân được nhờ). Nếu vận nước
bình yên, Nguyễn Khuyến với khát vọng cháy bỏng với dân, với nước chắc
chắn sẽ trở thành vị quan thanh liêm, mẫu mực. Sau khi thực dân Pháp xâm
lược nước ta ông đã cáo quan về quê với lí do đau mắt vào tuổi 49, nhưng phần
nhiều vì triều đình bạc nhược lần lượt dâng nước ta cho giặc. Chế độ phong
kiến đã trở thành gánh nặng của lịch sử, không đủ khả năng đưa dân tộc thoát
khỏi thảm họa ngoại xâm. Trong bối cảnh lịch sử đó, nếu Nguyễn Khuyến tiếp
tục làm quan chẳng khác nào tiếp tay, làm tay sai cho giặc, đó là điều mà các
nhà nho chân chính, có nhân cách không thể chấp nhận. Nguyễn Khuyến
không đủ dũng khí như các chí sĩ trong phong trào Cần Vương. Ông day dứt,
lúng túng trong thái độ ứng xử. Cuối cùng ông quyết định từ quan về quê để
giữ mình trong sạch theo cách xử thế của nho sĩ truyền thống.
52
Với Tú Xương bi kịch cuộc đời khi ước mơ chưa được thực hiện sau 24
năm đèn sách, khiến người đọc nhận thấy chân dung của kẻ hỏng thi trở nên
sầu thảm, đau đớn chua xót. Qua những bài thơ về hỏng thi ta thấy Trần Tế
Xương quả là một nạn nhân của khoa cử, cay cú nhất về lệ trường quy tàn nhẫn
mà ông uất ức nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Ngược lại, Nguyễn Khuyến là người
có học, đỗ đạt cao, có nhân cách lớn, ông không khỏi u hoài, day dứt trước hiện
thực đau lòng của đất nước:
“Ơn vua chửa chút đáp đền,
Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹn trời.”
(Di chúc)
Ơn vua, nợ nước, khát vọng lập công lập danh để lại tiếng thơm với
muôn đời còn đang dang dở. Ông cảm thấy hổ thẹn ở mọi vị trí “Cúi trông hổ
đất, ngửa lên thẹn trời.” đó chính là nỗi thẹn của một nhân cách lớn giống như
nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão trước Khổng Minh Gia Cát Lượng – một người
mưu trí tài cao trong lịch sử Trung Quốc. Về ở ẩn nơi quê nhà, tưởng chừng
được hưởng thú yên tĩnh thanh nhàn, nhưng đất nước mỗi ngày lại có nhiều
biến động, thực trạng xã hội đau lòng khiến một nhà nho chân chính như ông
không thể nhắm mắt làm ngơ. Nguyễn Khuyến nhàn thân nhưng không nhàn
tâm ông luôn mang tâm sự đau buồn u hoài. Ông hổ với đất, thẹn với trời chính
là ông đang hổ thẹn với dân với nước, hổ thẹn với chính bản thân và tự thương
thân:
“Ngần ấy năm nay vẫn ở nhà,
Nghĩ ta, ta lại chỉ thương ta.”
(Cáo quan về ở nhà)
Thậm chí nỗi buồn còn được thể hiện một cách trực tiếp, tâm hồn lúc
say, tỉnh đều hướng về một nơi xa, vẫn đau đáu một khát vọng vì dân, vì nước:
53
“Khi buồn chén rượu say không biết,
Ngửa mặt lờ mờ ngọn núi xa.”
(Cáo quan về ở nhà)
Phải có một nhân cách cao đẹp, một tấm lòng gắn bó với đất nước, nhà
thơ Nguyễn Khuyến mới mang nặng một khối đau buồn, u hoài, hổ thẹn đến
nhường vậy. Cho đến cuối đời, trong Di chúc ông muốn con cháu, hậu thế thấu
hiểu cho nỗi niềm ấy của ông qua lời thơ:
“Đề vào mấy chữ trong bia
Rằng: “quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu”.”
(Di chúc)
Là người có tài năng, học vấn, khát vọng nhưng đứng trước thực tế xã
hội qua nhiều những thăng trầm, đặc biệt xã hội đó phát triển theo hướng trái
ngược với khuôn mẫu của một nhà Nho được đào tạo ở “cửa Khổng sân
Trình”. Trước thực tế ấy ông nghĩ đời mà ngán cho đời:
“Nghĩ đời mà ngán cho đời
Co cóp làm sao được với trời,”
(Ngẫu hứng)
Rồi ngẫm về đời với cái “được, thua”, cái “hay, dở” thật đơn giản:
“Được thua hơn kém lưng bầu rượu
Hay dở khen chê một trận cười”
(Ngẫu hứng)
Mong muốn được hòa cùng với thiên nhiên, sống an nhàn, giữ mình, bảo
toàn khí tiết. Nhưng nhìn thực tế vẫn không khỏi xót xa:
“Dựa gối bên mành toan hóa bướm
54
Gió thu lạnh lẽo, lá vông rơi.”
(Ngẫu hứng)
Như vậy có thể nhận thấy mâu thuẫn giữa học vấn, tài năng, khát vọng
và hiện thực xã hội trong bản thân con người Nguyễn Khuyến là không thể
dung hòa. Mặc dù đã lựa chọn con đường “lánh đục về trong” nhưng ông vẫn
đau đáu nỗi đau của một người dân mất nước, vẫn bất bình trước hiện thực,
trước sự xuống cấp của đạo học và sự mai một các giá trị văn hóa truyền thống.
2.3.2. Hình tượng “con người thừa” và cảm giác cô độc, bất lực của
nhà thơ trước những biến động xã hội
Khi Nguyễn Khuyến bước chân vào triều đình hơn một năm thì Pháp
đánh Bắc Kì lần thứ nhất. Thế yên bình mà triều đình nhà Nguyễn đang cứ níu
giữ chỉ là tạm bợ và bị phá hủy nhanh chóng. Hoài bão phục hung đất nước của
ông và những người cùng chí hướng vấp phải thực tại gay gắt. Ông sớm nhận
ra triều đình trong thời buổi ấy đã đi đến lúc mạt vận không thể gánh vác được
sứ mệnh lịch sử. Ông ý thức được sự bất lực của tầng lớp nho sĩ. Trong thời kì
phong kiến thịnh trị, kẻ sĩ Nho học đã thực sự khẳng định được vai trò to lớn
trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhưng Nguyễn Khuyến là con người
sinh bất phùng thời, ông sống trong hoàn cảnh mà chế độ phong kiến đã bộc lộ
tất cả những mặt yếu kém. Một thể chế phong kiến suy tàn làm sao có thể gắng
gượng chống đỡ trước một kẻ thù có sức mạnh khủng khiếp, lại mang gương
mặt hoàn toàn xa lạ. Không thể đem tài năng ra cống hiến cho đời, Nguyễn
Khuyến đi tới một tâm niệm làm sao giữ được nhân cách trong sáng, không bị
hoen ố nơi quan trường quá nhiều cám dỗ, bon chen. Hơn mười năm làm quan,
cuối cùng ông chọn con đường cáo quan ở ẩn với suy nghĩ vướng vào vòng
danh lợi càng sâu, nguy cơ đánh mất đi khí tiết thanh cao buổi ban dầu càng
lớn. Nhưng mặc dù lựa chọn cho mình con đường riêng nhưng vẫn day dứt,
đau đáu về sự bất lực của mình trước hoàn cảnh thực tại.
55
Đọc các tác phẩm của Tú Xương chúng ta nhận thấy tác giả lên tiếng tự
trào về sự bất lực của mình trước cảnh gia đình. Bởi vì một người đàn ông là
trụ cột trong gia đình lại đành bất lực nhìn vợ con quay quắt, thậm chí phải hi
sinh cho mình quá nhiều vì miếng cơm manh áo. Ông tự nhận mình là một
người chồng: “Có chồng hờ hững cũng như không”. Thông qua sáng tác của
Nguyễn Khuyến đặc biệt là mảng thơ ca trào phúng sau khi ông cáo quan về ở
ẩn là tiếng nói tự trào, bất lực trước hoàn cảnh đổi thay gớm ghê của xã hội và
day dứt, đau khổ vì điều đó. Ví như khi chứng kiến cảnh nhân dân chẳng may
gặp năm mất mùa thì tết nhất cũng u ám thê thảm hơn:
“Dở trời, mưa bụi còn hơi rét
Nếm rượu, tường đền đuợc mấy ông?
Hàng quán người về nghe xao xác,
Nợ nần năm hết hỏi lung tung.”
(Chợ Đồng)
Đọc những vần thơ trên của Nguyễn Khuyến, hình ảnh người nông dân
hiện lên rõ nét hơn bao giờ hết, trước mắt chúng ta cuộc sống xơ xác tiêu điều,
nghèo khổ đến mức nghẹt thở của người nông dân vùng chiêm trũng chưa lúc
nào lại ám ảnh đến vậy. Cái "xao xác" của phiên chợ nghèo cũng chính là xao
xác trong lòng nhà thơ. Gắn bó với con người nơi đây, bản thân tác giả cảm
thấy xót xa trước cảnh sống nghèo nàn mà chính mình cũng không thể làm gì
hơn. Nhà thơ cảm thấy bất lực trước cái nghèo khó của nhân dân vì thiên tai
hoạn nạn chỉ là một phần mà sâu xa hơn là sự vơ vét bóc lột của quân xâm
lược:
“Năm nay cày cấy vẫn chân thua
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
56
Nửa công đứa ở nửa thuê bò.”
(Chốn quê)
Là một con người luôn tận tụy vì nước vì dân. Làm quan thì thanh liêm,
cương trực, thẳng thắn. Khi là kẻ thường dân vẫn luôn dõi theo vận mệnh dân
tộc. Tâm sự ấy suốt cuộc đời Nguyễn Khuyến luôn mang theo và mãi mãi như
tiếng cuốc kêu canh khuya:
“Năm canh máu chảy đem hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ,”
(Cuốc kêu cảm hứng)
Qua điển cố vua Thục mất nước, hóa thành chim cuốc kêu thán đêm
ngày, bài thơ đã khơi gợi tâm sự đau xót trước thực cảnh đất nước. Mượn hình
ảnh con cuốc kêu hè, nhà thơ đã cực tả nỗi đau rỉ máu, nổi buồn nát ruột tan
hồn của chính bản thân mình. Tiếng kêu ấy cứ vang mãi trong đêm khuya, cô
độc và lẻ loi. Điều này càng cụ thể hóa hơn sự bất lực của Nguyễn Khuyến
trước dâu bể cuộc đời. Đau lắm nỗi đau mất nước nhưng bản thân để bảo toàn
khí tiết ông không thể tiếp tục con đường hoạn lộ của mình, bởi một bậc nhà
nho chân chính như Nguyễn Khuyến nhận thức rõ hơn ai hết nếu tiếp tục sẽ chỉ
là tay sai cho giặc, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân.
Vì lẽ trên mà trong các tác phẩm của mình Nguyễn Khuyến luôn tự vấn
về sự “thoái lui”, bất lực trước hoàn cảnh lịch sử. Năm 1884, sau khi hòa ước
Patơnốt được triều Nguyễn kí, chấp nhận quyền bảo hộ của Pháp trên toàn cõi
Việt Nam, Nguyễn Khuyến đã cáo quan về làng quê Yên Đổ, chấm dứt những
tháng ngày đấu tranh giữa về hay ở. Nhưng ông không có những tháng ngày
hoàn toàn thảnh thơi nơi quê nhà để hưởng thụ cuộc sống thanh nhàn “Thu ăn
măng trúc, Đông ăn giá; Xuân tắm hồ sen, Hạ tắm ao” như Nguyễn Bỉnh
Khiêm. Ông luôn có những dằn vặt trong lòng vì không thể đứng ra ngoài nhân
tình thế thái. Từ sau khi về Yên Đổ, tiếng cười tự phê phán phủ định trong thơ
57
Nguyễn Khuyến cất lên mạnh mẽ. Là sản phẩm của nền Nho học, đã từng giữ
chức quan trong triều đình phong kiến đang đi tới diệt vong ông không thể
không bất lực thất vọng với chính mình. Bởi thế ông đánh giá mình có phần
khắt khe. Đỗ đầu cả ba kì thi lớn, được đích thân nhà vua ban danh hiệu vinh
quang, vậy mà ông chỉ coi đó là cái danh hão. Còn về tài cán ông thấy mình
chẳng làm được gì giúp dân, giúp nước, vậy nên cũng chưa bằng người đi ở.
Đó là cách nói hạ mình, giễu mình, nhưng qua đó cũng thể hiện cái nhìn
nghiêm khắc với bản thân, công nhận những điểm yếu của mình. Nguyễn
Khuyến nhận ra sự bất lực của triều đình, của nền Hán học chỉ dạy con người
ta những chuyện “kinh bang tế thế” nặng giáo điều và những người là sản
phẩm của nền Nho học đã không còn đáp ứng được những điều kiện của lịch
sử trong thời đại đầy biến động ấy. Một người từng đỗ đạt cao, giữ những trọng
trách quan trọng trong triều đình nhận ra những điều đó quả thực không phải ai
cũng có thể làm được. Ông lên án hành động “chạy làng”, thoái chí của bản
thân mình:
“Cờ đang dở cuộc không còn nước,
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.”
(Tự trào)
Nhà thơ tự lên án việc lui về ở ẩn bằng hai câu thơ trên. Như vậy,
Nguyễn Khuyến không có phong thái ung dung, tự tại của những bậc danh Nho
ở ẩn. Ông dường như không lấy việc đi ở ẩn, từ quan để chứng tỏ nhân cách,
khí tiết cao quý của mình, để tự hào với đời, với người. Nguyễn Khuyến dung
dằng mãi việc đi hay ở, và cuối cùng lựa chọn con đường trở về nhưng lại tự
trách mình là kẻ “chạy làng”. Ông đánh giá việc về Yên Đổ là một việc làm vô
trách nhiệm:
“Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ!
58
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng!”
(Tự trào)
Chân dung của một con người dở dang mọi nhẽ, công chẳng thành mà
danh chẳng toại, thật đáng buồn, đáng chán. Ngẫm trong thiên hạ nhiểu khi cụ
Tam Nguyên Yên Đổ cũng chế giễu mình bằng nụ cười nhếch mép đầy xót xa,
cay đắng. Cụ ngầm so sánh những bậc đại khoa có tiếng tăm giống như mình
nhưng cũng đành xuôi tay bất lực trước thời thế đảo điên thì chẳng khác gì mấy
ông phỗng đá vô hồn. Nguyễn Khuyến có cả một chùm thơ về “ông phỗng đá”
nhà thơ lên án gay gắt loại người “ngây ngây, dại dại”. Ông phỗng đá đó chính
là chân dung nhà thơ. Lên án ông phỗng đá cũng là lên án chính mình. Nguyễn
Khuyến có thời làm gia sư cho con Hoàng Cao Khải, nhưng khi ngồi vào bàn
tiệc, nhà thơ lại tự cảm thấy tủi hổ:
“Thấy lão đá lạ lùng muốn hỏi:
Cớ làm sao len lỏi đến chi đây?
Hay mảng vui hoa cỏ nước non này,
Chừng cũng muốn dan tay vào hội lạc?”
(Ông phỗng đá)
Nguyễn Khuyến cảm nhận thấy trong con mắt người đời, ông chủ động
len lỏi tới nơi này để làm gì, nếu chẳng phải muốn “dan tay vào hội lạc”. Muốn
mặc kệ sự đời, nhưng việc đời chẳng thể nguôi ngoai. Đó chính là nguyên nhân
làm nên bi kịch của Nguyễn Khuyến, ông luôn tự vấn về sự “thoái lui”, bất lực
trước hoàn cảnh lịch sử. Một tiếng nói khác vang lên như truy vấn nhà thơ mãi
không thôi:
“Ông đứng làm chi đó hỡi ông ?
Trơ trơ như đá,vững như đồng.
Đêm ngày gìn giữ cho ai đó ?
59
Non nước đầy vơi có biết không ?”
(Ông phỗng đá)
Qua các bài thơ chữ Nôm, đặc biệt là thơ trào phúng ông tự vẽ mình
bằng những nét nguệch ngoạc, xấu xí để qua đó tự cảnh tỉnh mình và cảnh tỉnh
người đời. Song không phải Nguyễn Khuyến tự tin hoàn toàn vào phẩm cách
của mình, ông vẫn tự cảnh tỉnh mình, tự thấy trong con người mình còn tồn tại
một kẻ cam chịu, vô trách nhiệm.
Rõ ràng ở đây đang diễn ra những xung đột mang tính xã hội. Xung đột
trong đời sống nội tâm của nhà thơ: giữa ra về và ở lại, giữa trách nhiệm và vô
trách nhiệm, giữa nhân cách và vô liêm sỉ, giữa những điều cao quý trong tâm
hồn còn đang giữ gìn được với thực tại xấu xa đang diễn ra ngoài xã hội…
Cuộc đấu tranh ấy, những xung đột nội tâm ấy không kém phần gay gắt,
quyết liệt nó chính là tiếng vọng của cuộc đấu tranh xã hội đang ngày càng gay
gắt. Nhà thơ chiến thắng được mình thì cũng chính là một biểu hiện của sự
chiến thắng của dân tộc, của tương lai, của truyền thống văn hóa trước thực tại
xếp đặt của kẻ thù.
Có lẽ như vậy nên Nguyễn Khuyến luôn cảm thấy, cảm giác về “con
người thừa”. Khi về náu mình ở chốn quê vùng chiêm trũng Hà Nam với tâm
thế và tư thế “Đời loạn đi về như hạc độc”, nhà thơ khám phá sự trống rỗng
của con người, của thời đại nước mất bấy giờ. Chính vì thế, trong thơ mình ông
đã trưng ra hình tượng nghệ thuật những con người trống rỗng, những con
người sống một cách vô nghĩa giữa thời đại trống vắng lí tưởng, một thời đại
mà lí tưởng cũ không còn có giá trị gì còn lí tưởng mới thì cũng không thấy
tăm dạng ở đâu. Con người trống rỗng là con người nhận thức được giá trị của
tài năng, nhưng không biết đem tài năng của mình đặt để ở đâu. Con người ấy
cảm thức mình còn kém thua cả những sự vật vô tri giác. Nhà thơ cảm thấy
mình thật thừa thãi giữa cuộc đời. Con người trống rỗng nên âm thầm ôm nỗi
60
buồn cô đơn, nỗi đau bất lực và cảm thấy, nghe thấy sự bất an đang dậy lên
trong tâm hồn mình. Con người ấy cảm nhận rõ sự thay đổi của mọi giá trị
trong thời đại mà mình đang sống. Ngay cả ông trời cũng rỗng không, bất lực,
thậm chí trời cũng dung tục tầm thường nữa, huống gì vua quan:
“Vua chèo còn chẳng ra gì
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề”
( Lời vợ anh phường chèo )
Trong hoàn cảnh đó làm sao con người không khỏi hoài nghi chính
mình, một khi họ ý thức sự trống rỗng của Nho học:
“Rõ chú hoa man khéo vẽ trò
Bỡn ông mà lại dứ thằng cu.”
(Tiến sĩ giấy, I )
“Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh choẹ
Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi.”
(Tiến sĩ giấy, II )
Không còn con người vũ trụ, chẳng còn con người lí tưởng Nho học mà
chỉ con con người trống rỗng, con người bất lực, con người thừa. Trong thơ với
cái nhìn sâu sắc tận ngọn nguồn bản chất con người thời đại, Nguyễn Khuyến
đã trưng ra trên bề mặt trang thơ của mình hình tượng những con người gia tộc
và con người xã hội đang có sự băng hoại mọi giá trị đạo đức và rỗng toang,
rỗng tuếch về tâm hồn và lí trí. Nguyễn Khuyến tự đem mình ra để mà cười,
cười mình có tài mà luẩn quẩn mà bế tắc. Ta nhận ra trong bài thơ Tiến sĩ giấy
chút ngậm ngùi, chua xót bởi yếu tố tự trào mà nhà thơ muốn thể hiện. Là Tam
nguyên, từng vinh quy bái tổ rất vẻ vang, vinh hiển nhưng vì thời thế không thể
giúp được gì cho dân, cho nước, ngẫm ra mình cũng chỉ là Tiến sĩ giấy với
danh vờ danh ảo mà thôi. Nguyễn khuyến bộc lộ một tiếng cười chua xót đến
61
tội nghiệp.Thậm chí đã có lúc ông còn chế giễu cái bất lực, bạc nhược của
chính mình một cách thẳng thắn:
“Nghĩ mình cũng gớm cho mình nhỉ
Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng.”
Đối với cụ Tam nguyên lúc này bia xanh, bảng vàng có ý nghĩa gì đâu
khi bản thân không thể góp sức phò vua, giúp nước, giúp dân. Điệp từ “mình”
thể hiện niềm day dứt khôn nguôi, xoáy sâu vào bản thân mình mà chế giễu,
mà trào phúng bởi thấy cuộc đời mình mới đáng cười làm sao. Cười chính
mình có lẽ cái cười sâu sắc nhất mà cũng xót xa nhất. Tú Xương cũng có bài
thơ Ông tiến sĩ nhưng hình tượng nhân vật của ông không có lớp nghĩa tự trào,
không có màu sắc bi kịch và ít chi tiết khắc họa mang tính điển hình. Con
người không có duyên phận với khoa cử này đứng ở thế đối lập với những kẻ
mang danh khoa bảng mà không phải là “người trong cuộc”, người ở trên nhìn
xuống như Nguyễn Khuyến. Vì vậy ông Tú có thể chửi thẳng mà không e dè và
cũng không hề có chút chua xót cho đối tượng bị trào phúng:
“Ông đỗ khoa nào, ở xứ nào?
Thế mà hoa hốt với trâm bào?
Mỗi năm ngày tết trung thu đến
Tôi vẫn quen ông chẳng muốn chào.”
Không dừng lại ở con người với cảm giác trống rỗng mà nỗi đau bi kịch
của Nguyễn Khuyến trở nên vô cùng nghiệt ngã khi ông tự nhìn mình như một
kẻ tha hóa trước thời cuộc, trở nên vô nghĩa. Ông tự họa mình là một kẻ ngang
ngạnh, say mèm, không có diện mạo riêng:
“Ta cũng chẳng giàu, cũng chẳng sang,
Chẳng gầy ,chẳng béo, chỉ làng nhàng…
Mở miệng nói ra gàn bát sách,
62
Mềm môi chén mãi tít cung thang…”
(Tự trào)
Con người một thời tâm huyết với nghiệp bút nghiên, đứng trên đỉnh cao
danh vọng giờ dường như đã khuất phục trước những điều kiện sống mới. Hình
ảnh con người xộc xệch về hình hài, trống rỗng về tinh thần trở đi trở lại trong
thơ ca như một bi kịch lúc nào cũng nhói buốt. Đó là một con người tìm rượu
để quên sự đời, cảm giác thừa thãi khiến ông trở thành kẻ ngây dại, cái lí tưởng
giúp dân, giúp nước giờ đã được thay thế bằng sự vô cảm, mặc kệ sự đời:
“Đắp tai ngảnh mặt làm ngơ,
Rằng khôn cũng kệ, rằng khờ cũng thây.”
(Mẹ mốc)
Chân dung Nguyễn Khuyến tự họa bằng thơ ấy là hình tượng một con
người trầm tư thế sự, đau đáu nỗi niềm dân nước. Nhà thơ tự nhận mình là
người thừa, là kẻ vô trách nhiệm, bất tài cũng chính bởi nỗi lo cho dân, cho
nước chưa lúc nào nguôi ngoai trong tâm hồn ông.
2.4. Tiểu kết Chƣơng 2
Trong Chương 2 của luận văn người viết thông qua việc tìm hiểu nội
dung biểu hiện những mâu thuẫn xung đột văn hóa trong thơ Nôm trào phúng
Nguyễn Khuyến. Chúng ta thấy cả một bức tranh chân thực về xã hội Việt
Nam cuối thế kỉ XIX hiện ra rõ nét với tất cả hình thái đa dạng của nó. Ông đã
khắc hoạ được các chân dung nhân vật điển hình đại diện cho từng tầng lớp
mang tính chất đặc trưng, mang dấu ấn riêng. Bằng tài năng trào phúng
Nguyễn Khuyến đã đưa ra ánh sáng những thói hư tật xấu từ tầng lớp vua quan,
nho sĩ, sư sãi, me Tây, cho đến tầng lớp bần cùng của xã hội. Không cần gươm
để giết giặc cứu nước, Nguyễn Khuyến chỉ sử dụng thơ văn với tiếng cười
châm biếm, đả kích như một vũ khí chiến đấu. Đối tượng châm biếm, đả kích
63
trong thơ Nguyễn Khuyến phong phú, đa dạng nhưng đều là những con người
giả dối. Ông lên án, phơi bày ra hiện thực bản chất xấu xa của họ. Sâu xa đâu
đó trong tác phẩm là nỗi đau đớn, chua chát và buồn chán của tác giả về hiện
thực xấu xa trong xã hội.Tiếng cuời trào phúng trong thơ ông như nhắc nhở
một cách nhẹ nhàng và kín đáo về cách sống, đó một lời khuyên chân thành
của nhà thơ. Ông cũng đau xót, phẫn nộ khi thấy những giá trị văn hóa, phong
tục tập quán đang bị “văn minh” phương Tây làm tha hóa, suy thoái. Có thể nói
thơ văn Nguyễn Khuyến như một cuốn lịch sử ghi chép lại giai đoạn đau khổ
của xã hội phong kiến Việt Nam trong những năm đầu mất nước. Và Nguyễn
Khuyến đã để lại cho hậu thế một bức tranh sinh động về bộ mặt của xã hội
mình. Thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến trở thành một phương diện không
thể thiếu kết tinh giá trị thơ văn Nguyễn Khuyến nói chung. Nguyễn Khuyến
chỉ trích thói đời một cách nhẹ nhàng kín đáo, thâm trầm mà sâu sắc rõ ràng
bậc đại nhân quân tử muốn dùng lời văn trào phúng để phản ánh hiện thực,
khuyên răn, giáo dục người đời.
Từ những xung đột văn hóa biểu hiện trong nội dung thơ Nôm trào
phúng Nguyễn Khuyến, sẽ có tác động, tạo nên những biến đổi trong nghệ
thuật. Điều đó sẽ được người viết làm rõ trong Chương 3 của luận văn.
64
Chƣơng 3
NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN XUNG ĐỘT VĂN HÓA QUA THƠ NÔM
NGUYỄN KHUYẾN
3.1. Khai thác triệt để các mâu thuẫn, xung đột của đối tƣợng trào
phúng từ góc độ văn hóa
Xã hội cổ truyền Việt Nam là xã hội Nho giáo nên rất trọng nhân cách,
văn hóa. Hình tượng con người theo lí tưởng của văn học trung đại là con
người vũ trụ mang tính cộng đồng, phi ngã hóa. Nhưng đến Nguyễn Khuyến
thì đã có sự phá vỡ quy phạm cảm hứng về con người lí tưởng phong kiến
trong thơ ca trung đại với chân dung con người dân dã và chân dung những kẻ
sĩ tầm thường trống rỗng. Trước cảnh xã hội lố lăng, sa đọa, đầy mâu thuẫn
Nguyễn Khuyến đã tập trung vào “hạ bệ” các đối tượng trào phúng: bọn nhà
nho biến chất, làm tay sai cho kẻ thù, bọn trí thức rởm và những nhân vật của
xã hội mới: me Tây, gái điếm, những người dân vô ý thức tham gia vào những
“trò chơi” của kẻ thù… Rõ ràng ông đã chú ý đặc biệt đến việc khai thác và
xây dựng các cặp phạm trù đối lập như: văn hóa >< vô văn hóa, nhân cách ><
mất nhân cách, liêm sỉ >< vô liêm sỉ…
Trong khuôn khổ của luận văn người viết làm rõ hai cặp phạm trù đối
lập được biểu hiện trong sáng tác của Nguyễn Khuyến. Thứ nhất là cặp phạm
trù: văn hóa >< vô văn hóa. Văn hóa ở đây được hiểu là những thuần phong mĩ
tục, những cách thức ứng xử phù hợp với quy tắc đạo đức truyền thống. Biểu
hiện của vô văn hóa là đi ngược lại với thuần phong mĩ tục, phá hủy mọi quy
tắc đạo đức Nho gia đã đề ra. Nguyễn Khuyến khi tập trung phản ánh những
mâu thuẫn, những ung nhọt của xã hội, phê phán mạnh mẽ những kẻ biến chất,
làm tay sai cho giặc… ông thường hướng đến làm nổi bật cặp phạm trù văn
hóa và vô văn hóa. Nói đến sự thay đổi theo chiều hướng đáng buồn của luân
thường đạo lý. Nếu trong thơ mình Tú Xương thường đặt câu hỏi chất vấn:
65
“Có đất nào như đất ấy không
Phố phường tiếp giáp với bờ sông
Nhà kia lỗi phép con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.”
(Đất Vị Hoàng)
Thì Nguyến Khuyến thể hiện một cách kín đáo qua việc miêu tả không
khí vui nhộn của ngày Hội Tây:
“Kìa hội Thăng bình tiếng pháo reo ,
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo…
Cậy sức, cây đu nhiều chị nhún
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo…”
(Hội Tây)
Ông đã vạch trần những trò chơi, trò vui trong ngày hội Tây với thực
chất là làm cho đồng bào ta quên đi nỗi nhục mất nước, tham gia một cách vô ý
thức vào những trò chơi hạ thấp phẩm giá của con người, không phù hợp với
văn hóa con người Việt. Chúng ta đọc để mà cười, cười một cách xót xa và đau
đớn. Tác giả xây dựng sự đối lập giữa văn hóa truyền thống và biểu hiện của
vô văn hóa đó phải chăng là một lời cảnh tỉnh của Nguyễn Khuyến cho nhân
dân ta, đồng bào ta, những con người ít hiểu biết phải nên cảnh giác trước mọi
âm mưu được gói ghém kĩ càng trong những sự việc tưởng chừng như tốt đẹp
mà bọn thực dân bày ra để lừa mị con người, để phá hủy nền văn hóa của dân
tộc.
Thứ hai là cặp phạm trù: nhân cách >< mất nhân cách. Thơ trào phúng
Nguyễn Khuyến xây dựng rất nhiều cặp đối lập nhân cách và mất nhân cách.
Trong đó với cái nhìn của một nhà nho ông đặc biệt quan tâm tới người phụ nữ
66
trước những biến động lớn của xã hội. Như hình ảnh “Mẹ Mốc” tuy nhan sắc
tuyệt trần nhưng giả vờ điên dại “bôi lấm xóa nhòa”để dành trọn tấm lòng cho
chồng con, để bảo toàn đức hạnh, phẩm giá của mình. Thông qua đó Nguyễn
Khuyến kín đáo bộc lộ nhân cách của những nhà nho yêu nước trong đó có ông
qua hình ảnh “ Mẹ Mốc”. Họ từ chối quyết liệt sự hợp tác với quân giặc, danh
vị, lợi lộc chỉ là những thứ phù phiếm, phỉnh phờ, lừa gạt của bọn tay sai. Vì
thế, những nhà nho chân chính lựa chọn cách xử thế lui về quê ở ẩn, từ bỏ
chốn quan trường, để nêu cao khí tiết. Từ đó Nguyễn Khuyến khẳng định nhân
cách cao đẹp của những bậc đại Nho. Bên cạnh những người phụ nữ giữ trọn
phẩm chất, đức hạnh như “ Mẹ Mốc”, cũng còn không ít những người phụ nữ
vì chạy theo đồng tiền, không chống đỡ nổi trước những cám dỗ của xã hội, đã
và đang đánh mất nhân cách, liêm sỉ của mình:
“Con gái đời này, gái mới ngoan,
Quyết lòng ẩu chiến với Tây quan…
Giang san riêng sướng ả hồng nhan,
Nghĩ càng thêm ngán trai thời loạn,
Con gái đời nay, gái mới ngoan!”
(Lấy Tây)
Để xây dựng thành công các đối tượng trào phúng, để đạt được mục đích
trào phúng Nguyễn Khuyến khai thác triệt để thủ pháp đối lập, tương phản
trong xây dựng nhân vật và bối cảnh trào phúng. Trước tiên trong xây dựng
nhân vật mà cụ thể là các đối tượng trào phúng là sản phẩm của đạo Nho đang
tụt dốc như “ông tiến sĩ”. Tiến sĩ giấy cũng là một bài thơ của Nguyễn Khuyến
phê phán những vị “Tiến sĩ” rởm, hữu danh vô thực đương thời, bất tài, vô
dụng:
“Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh choẹ
67
Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi.”
( Tiến sĩ giấy, II )
Thêm một lần nữa tác giả tiếp tục khắc họa sâu sắc hơn sự đối lập, tương
phản gay gắt giữa cái bên ngoài đẹp đẽ, sang trọng và bản chất thật bên trong
rỗng tuếch của ông tiến sĩ. Hình ảnh “ghế chéo lọng xanh” tạo cho người đọc
ấn tượng về dáng vẻ đường hoàng, oai vệ vốn có của một nhân vật có học vấn
vào bậc cao nhất đương thời. Nhưng với cách nâng lên này cũng sẽ là cách
Nguyễn Khuyến giáng cho đối tượng trào phúng đòn hạ bệ chí mạng nhất.
Giọng điệu mỉa mai, hài hước thông qua hai chữ “bảnh chọe” đã giết chết, đã
vạch rõ cái oai phong của vị tiến sĩ kia thực chất chỉ là cái mẽ giả dối bên
ngoài:“Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi.”
Đó là một hình ảnh thảm hại! Kẻ ngồi trên “ghế chéo lọng xanh”, ngồi
với tư thế “bảnh chọe” ấy hóa ra chỉ là một con rối để kẻ khác giật dây mà
thôi. Cái xã hội bát nháo ấy, triều đình bù nhìn chỉ toàn những “quan chèo vai
nhọ khác chi thằng hề ” nhất định chỉ có thể sản sinh ra cái thứ hàng mã, những
con rối. Mà cái kẻ đứng đằng sau giật dây từ trên xuống dưới không ai khác
chính là bè lũ thực dân cướp nước. Nguyễn Khuyến kín đáo đưa ra trào phúng
những đại diện ưu tú nhất trong xã hội nhưng đã trở nên lỗi thời của cái thể chế
đó.
Nhà thơ dựng lên một loạt biểu tượng danh giá của ông nghè, tiến sĩ xưa
nhưng thật chất đó chỉ làm bằng giấy mà thôi. Sự đối lập tương phản giữa thực
và giả “đồ thật hoá đồ chơi.” Hình ảnh thơ vừa thực, vừa tượng trưng để khẳng
định trong thời kì Âu hóa này, hầu hết ông nghè đang chễm chệ ngồi trên “ngôi
cao” đều thực chất là bọn “Tiến sĩ giấy”, chúng chỉ là thằng hề không hơn
không kém, chỉ là hữu danh vô thực, thật là đáng buồn và đáng tiếc thay. Bên
cạnh đó trong việc xây dựng bối cảnh trào phúng tác giả một lần nữa khai thác
triệt để sự tương phản đối lập. Người Pháp khi xâm lược Việt Nam họ thường
68
tổ chức ngày hội nhân Lễ Độc lập và khi miêu tả khung cảnh tưng bừng của
hội Tây, tác giả tạo nên một khung cảnh nô nức, náo nhiệt trong đó người tham
dự phần nhiều là thanh niên nam nữ Việt Nam không biết cái nhục vong quốc
lại còn hăng hái tham dự, bày cảnh lố lăng:
“Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo…
Cậy sức, cây đu nhiều chị nhún
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo…”
(Hội Tây)
Tương phản, đối lập rõ nhất giữa không gian lớn của một đất nước đang
đắm chìm trong nỗi đau mất tự do với một không gian hẹp hơn đó là hội Tây
nô nức trong ngày tết độc lập. Lời chỉ trích của thi nhân hướng đến những
người không biết đến nỗi nhục mất nước.
Ngòi bút Nguyễn Khuyến tập trung phản ánh những mâu thuẫn, những
ung nhọt của xã hội, phê phán mạnh mẽ những kẻ biến chất, làm tay sai cho
giặc. Và đặc biệt ông hướng tới phản ánh chế độ khoa cử với thái độ gay gắt,
không khoan nhượng. Đạo Nho cuối mùa đang trong cơn hấp hối nhưng bọn
thưc dân Pháp vẫn cho diễn lại cái trò lều chõng thêm vài chục năm nữa để đào
tạo một bọn tay sai cho bộ máy cai trị bù nhìn của chúng. Đạo Nho lúc này chỉ
là cái “giấy chứng nhận” cho lũ bất tài, hám danh xu thời và nếu có “tài”
nhưng lầm đường dấn thân vào chốn quan trường. Như cái nhìn của Tú Xương
về không khí học hành tẻ nhạt, nhếch nhác, ảm đạm như cái buổi chợ chiều:
“Đạo học ngày nay đã chán rồi,
Mười người đi học chín người thôi.
Cô hàng bán sách lim dim ngủ,
Thầy khóa tư lương nhấp nhổm ngồi.”
(Than đạo học)
69
Với Tú Xương cách nhìn chán ngán ảm đạm về đạo học thì với một bậc
danh Nho chân chính như Nguyễn Khuyến chế độ khoa cử đương thời sẽ là
phương diện ông phản ánh, phê phán mạnh mẽ quyết liệt nhất. Nếu mắng bọn
quan lại hống hách, thi nhân đã dùng những cười cợt nhẹ nhàng, thì đi vào
chiều sâu chúng ta mới thấy là những mạt sát, không hề khoan nhượng. Bằng
hình thức những câu hỏi tu từ, nhưng không có mục đích để hỏi, kết hợp với
những từ ngữ rất đời thường “đáng mấy xu”, ngắm nghía ông tiến sĩ giấy, thi
nhân thấy giá trị của nó hèn kém có khác chi bọn dốt nát nhờ nịnh bợ luồn cúi
mà đỗ đạt:
“Mày râu mặt đó chừng bao tuổi,
Giấy má nhà bay đáng mấy xu.”
(Tiến sĩ giấy, I)
Đọc qua nghe nhẹ nhàng, nhưng suy kỹ, biết thâm ý của Nguyễn Khuyến
mới hay đó là lời mạt sát, với một thái độ gay gắt. Rồi ngay cả việc mừng một
ông nghè mới đỗ:
“Anh mừng cho chú đỗ ông Nghè,
Chẳng đỗ thì trời cũng chẳng nghe.”
(Mừng ông nghè mới đỗ)
Cách nói của một người đứng ở vị trí cao hơn “anh” nói với “chú” về
một chuyện vui, đồng thời Nguyễn Khuyến ngầm tạo ra sự đối lập giữa “anh”
và “chú”. Đọc câu thơ chúng ta nhận thấy ý vị mỉa mai ẩn chứa bên trong
những câu tưởng chừng như hỏi thăm, như chúc mừng. Từ “chẳng” được lặp
lại hai lần trong một câu thơ tác giả ngầm khẳng định việc đỗ ông nghè của
“chú” dường như là một tất yếu đã được định sẵn nếu không “trời cũng chẳng
nghe.”.
70
Thông qua việc lấy ý từ các câu ca dao, bài ca dao, các câu tục ngữ tác
giả vạch trần bản chất thực của những ông nghè rởm chỉ biết đến hưởng lộc, sa
đọa:
“Rượu ngon ả nọ khôn đường tránh,
Hoãn đẹp nàng này khó nhẽ che.
Hiển quý đến nay đà mới rõ,
Rõ từ những lúc tổng chưa đe.”
(Mừng ông nghè mới đỗ)
Chế độ khoa cử đó sẽ sinh ra những “Tiến sĩ giấy”, những ông nghè
thoái hóa biến chất, thậm chí là những thầy đồ - một lớp người luôn được xã
hội tôn sư trọng đạo cũng không còn giữ được nhân phẩm của mình nữa.
Nguyễn Khuyến miêu tả một thầy đồ còn trẻ, ngồi dạy học ở nhà một người
đàn bà góa còn trẻ, cũng có chút “xao lòng”:
“Người bảo rằng thầy yêu cháu đây,
Thầy yêu mẹ cháu có ai hay !...
Ở goá thế gian nào mấy mụ ?
Đi ve thiên hạ thiếu chi thầy ?
Yêu thầy cũng muốn cho thầy dạy,
Dạy cháu nên rồi mẹ cháu ngây.”
(Thầy đồ ve gái góa)
Câu hỏi “Đi ve thiên hạ thiếu chi thầy ?” là lời khẳng định, lời châm
biếm sâu cay nhất, gay gắt nhất mà Nguyễn Khuyến dành cho một lớp số đông
thầy đồ biến chất.
Như vậy việc tập trung phản ánh những xung đột của xã hội, đặc biệt là
xung đột ở phương diện văn hóa đã phát huy tư duy phân tích, hướng nhà thơ
71
đến việc tìm kiếm, phát hiện và phản ánh một cách chân thực những mâu thuẫn
cơ bản trong xã hội. Trong đó lớn nhất là mâu thuẫn giữa âm mưu, chính sách
thâm độc của bọn thực dân xâm lược với truyền thống văn hóa, yêu nước của
ta. Từ đó vạch trần được bản chất lố lăng, pha tạp của xã hội thực dân phong
kiến do kẻ thù dựng lên đương thời với mục đích dễ bề cai trị.
3.2. Khai thác xung đột nội tâm, đối lập bản thân với thực trạng xã
hội
Cách thức trào phúng của thi nhân bao giờ cũng biểu lộ những sắc thái
nghệ thuật đặc biệt. Khác với Tú Xương, Nguyễn Khuyến được chứng kiến sự
biến chuyển của xã hội trong buổi giao thời một cách trọn vẹn, với tính cách
của một đồ nho hay chữ, lối trào phúng của ông già Yên Đổ không phải là trực
tiếp, thẳng thắn mà là lối trào phúng gián tiếp, với giọng điệu âm thầm mà kín
đáo và rất thâm thúy. Ý định trào phúng của người viết không bộc lộ trên bề
mặt câu chữ của văn bản mà chìm sâu sau những hình ảnh và từ ngữ. Muốn
hiểu và nhận diện được tiếng cười của ông, buộc phải qua những bước suy
đoán, bóc tách từng lớp ngôn từ, ẩn chứa bên trong.
Để nhận ra thực chất của loại tiến sĩ thật dưới chế độ phong kiến nửa
thực dân thì phải có tri thức về thứ đồ chơi trung thu của trẻ nhỏ – hình nộm
ông nghè tháng Tám. Ngày xưa, vào dịp tết Trung thu, người ta hay làm mô
hình người bằng giấy cho trẻ con chơi. Mô hình đó thường là một ông tiến sĩ,
có mũ áo chỉnh tề ngồi “ghế tréo lọng xanh”, hai bên có cờ, có biển mục đích
làm như vậy là để trẻ con có ý thức yêu văn chương, trọng khoa cử, và lấy đó
làm con đường lập thân. Như vậy phải có tri thức hiểu biết về thứ đồ chơi trung
thu đó thì mới thấy được sự thâm thúy của Nguyễn Khuyến khi xây dựng đối
tượng trào phúng “ông tiến sĩ”. Đôi lúc lại dựng lên một hoạt cảnh, một vở
kịch như Lời vợ anh phường chèo để gián tiếp mạt sát vua quan lúc bấy giờ,
72
mà tương truyền đây là bài thơ Nguyễn Khuyến ngầm đả kích Hoàng Cao
Khải:
“ Vua chèo còn chẳng ra gì.
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề.”
(Lời vợ anh phường chèo)
Chính vì thế muốn biết về thân phận vua hề, quan nhọ dưới chế độ thực
dân nô lệ thì phải hiểu nghệ thuật chèo, đặc biệt là hề chèo. Rõ ràng, để có
được sự thành công khi sử dụng lối trào phúng này, tác giả phải là người trong
cuộc, phải am hiểu đối tượng, nếu không sẽ tạo nên những “cú đánh trượt”.
Nguyễn Khuyến hiểu đối tượng sâu sắc như vậy chính vì ông là con đẻ của chế
độ khoa cử triều Nguyễn và là người đạt đến đỉnh cao vinh quang của học vấn
đương thời. Nhưng con người ấy đã dần đánh mất niềm tin vào chế độ, vào
triều đình, vào vốn học vấn của mình trước thực tế lịch sử, khi mà tất cả vũ khí
vật chất và tinh thần, tất cả thế ứng xử truyền thống tồn tại hàng ngàn năm của
dân tộc đã bị kẻ thù mới bẻ gãy một cách dễ dàng.
Nếu như nhà thơ trào phúng cùng thời – Trần Tế Xương trong sáng tác
của mình tạo nên tiếng cười dữ dội, quyết liệt, sắc sảo đến bốp chát. Thì phải
khẳng định rằng, tiếng cười trong thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến hết sức
đặc sắc, nhẹ nhàng, thâm thúy không vang lên thành tiếng nhưng hết sức sâu
cay. Với những điều ông viết ra, người đọc càng nghĩ càng thấm thía cái dụng
ý sâu sắc trong lời thơ. Bởi Nguyễn Khuyến là bậc đại nho với ba lần đỗ đầu vị
thế “Tam nguyên” vẻ vang nhất trong lịch sử khoa bảng Việt Nam. Cho nên
tiếng cười Nguyễn Khuyến là tiếng cười của bậc bề trên, luôn ý thức cái hơn
hẳn người đời về tài, đức, mang giọng nhẹ nhàng, hóm hỉnh mà lại rất thâm
thúy, chua cay.
Hơn nữa Nguyễn Khuyến lại là bậc đại Nho sống cuộc sống ở ẩn, sống
nhàn, tiếng cười của Nguyễn Khuyến thật ý nghĩa, thật kín đáo, thật “thâm
73
Nho”. Tuy nhiên Nguyễn Khuyến vẫn sáng tác trong cảm thức của một nhà
nho, vẫn là kiểu tự trào, tự giễu để đề cao, khẳng định mình, đối lập bản thân
về nhân cách, đạo đức, văn hóa với xã hội ô trọc vô văn hóa, vô đạo đức, do kẻ
thù dựng lên. Trong văn học trào phúng nói chung, Tú Xương tự trào bằng
cách tự chế giễu cái xấu của bản thân, tự phủ định bản thân, Tú Xương không
theo chuẩn mực đạo đức Nho giáo, ông tự hạ mình xuống nhưng không phải là
để tự đề cao mình. Bằng cách này ông tạo ra được một tiếng cười cho riêng
mình – một kiểu tự trào “phi ngôn chí”. Ông chế giễu cái dốt nát, nhếch nhác
thảm hại của nhà Nho phong kiến, chế giễu tính chất ăn bám của đức ông
chồng trong chế độ gia trưởng phong kiến, chế giễu sự hèn kém của một kẻ sĩ
trong tư cách công dân của một đất nước nô lệ. Như vậy, Tế Xương đã chế
giễu, đã phê phán tính chất hủ lậu của kẻ sĩ phong kiến và phủ nhận cả những
khuôn phép lỗi thời của xã hội phong kiến. Tú Xương sử dụng kiểu tự trào
khẳng định, còn Nguyễn Khuyến phê phán kết hợp với phủ định cũng chính là
cách để khẳng định, bảo vệ một chân lí tốt đẹp nào đó. Nguyễn Khuyến châm
biếm, đả phá cái giả Nho, cái vô dụng, chính là để khẳng định cái chân Nho,
khẳng định những giá trị truyền thống của dân tộc, khẳng định những phẩm
chất tốt đẹp của riêng mình để tự phản tỉnh trước thực tế của sự khủng hoảng
các giá trị đạo đức đương thời. Có thể nhận thấy Nguyễn Khuyến là một trong
vài nhà nho viết tự trào nhiều nhất, một mặt để bộc lộ tâm tư, sự bất lực của
bản thân trước thời cuộc, mặt khác cũng để chế giễu xã hội vô văn hóa, vô đạo
đức nhưng cao hơn là để tự khẳng định mình:
“Mở miệng nói ra gàn bát sách,
Mềm môi chén mãi tít cung thang.
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ!
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng!”
(Tự trào)
74
Tự ngẫm tác giả nhận thấy “gớm cho mình nhỉ!”. Mang danh là một bậc
Tam nguyên đáng lẽ thi nhân phải là một người toàn diện từ đức tính, tài ba cho
đến bổn phận nhưng Nguyễn Khuyến nhận thấy mình còn nhiều khiếm khuyết
cần phải đem ra để chỉ trích. Nhưng đằng sau thái độ tự trào đó người đọc nhận
thấy một nhân cách lớn lao. Với Nguyễn Khuyến là “bia xanh, bảng vàng” thật
được vua ban bởi trí tuệ và khát vọng cống hiến của mình. Nguyễn Khuyến
cảm thấy nghi ngờ cả tài năng, sức lực của lớp người đại diện cho tinh hoa của
chế độ ấy và nghi ngờ chính bản thân mình. Bởi trong số những ông nghè
tháng Tám hết thời ấy có cả bản thân Nguyễn Khuyến:
“Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,
Cái giá khoa danh áy mới hời
Ghế chéo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ
Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi”
(Tiến sĩ giấy, II)
Nhưng tất nhiên ông Tam nguyên Yên Đổ hoàn toàn khác với những kẻ
hữu danh vô thực đương thời. Sự nghi ngờ thậm chí là phê phán, đả kích châm
biếm một cách sâu cay đối với những người đỗ đạt cao, đứng đầu làng văn
nhưng không phải bởi tài năng mà bởi sức mạnh vạn năng của đồng tiền. Vì
đến thời đại của Nguyễn Khuyến mọi chuyện đã thay đổi, những giá trị truyền
thống đã dần mai một, hoặc đang từng bước đổ vỡ. Nho học, khoa cử đã xuống
cấp, không còn được coi trọng, mọi thứ đã có thể dùng tiền để mua bán, đổi
chác, xuất hiện trong xã hội nhiều kẻ chỉ có hư danh mà không có thực học. Kẻ
có thực tài, chữ nghĩa đầy mình thì học vị tiến sĩ chỉ còn là cái danh hão, cũng
đành khoanh tay ngồi nhìn thời cuộc xoay vần, kiến thức sách vở cũ rích không
còn có ích lợi gì trong một bối cảnh mới. Có bản thân mình trong số những
người đỗ đạt cao đó nhưng ông kín đáo đối lập mình với những kẻ hữu danh,
phần ung nhọt của xã hội, làm xấu đi hình ảnh đáng trọng của các nhà nho chân
75
chính. Bản thân Nguyễn Khuyến cũng là một thầy đồ trong xã hội thực dân
phong kiến tồn tại nhiều “ kiểu thầy đồ” khác nhau. Khi buông lời châm biếm,
phê phán, lên án gay gắt một thầy đồ ve gái mục đích cao hơn cả của ông là đề
cao, đối lập bản thân mình trước những ông đồ biến chất.
Những kẻ vô văn hóa, vô đạo đức làm tay sai cho kẻ thù dân tộc là
những kẻ đối lập hoàn toàn với những người nhân cách, đạo đức, văn hóa như
Nguyễn Khuyến. Với tư duy phê phán nhà thơ tiếp cận những mâu thuẫn từ
chính các đối tượng đó, để thông qua những ông nghè, thầy đồ, ông đốc học…
chế giễu xã hội nhiều lố lăng, thật giả lẫn lộn và ngầm khẳng định, đề cao nhân
cách của mình.
Trong thơ ca của các nhà nho, trào phúng thế sự hay tự trào đều là những
kiểu biểu hiện theo quy phạm “văn dĩ tải đạo” và “thi dĩ ngôn chí”, đều mang
đậm tính chất giáo hóa theo chuẩn mực đạo đức Nho giáo. Kiểu trào phúng
trong thơ không mang tính giáo hóa trong qui phạm văn chương nhà Nho. Nếu
kiểu trào phúng của Tú Xương vừa hướng ngoại, vừa hướng nội, tiếng cười của
Tú Xương đôi khi mang dáng vẻ của một sự cười nhạo bông phèng của nhà
nho thị dân, thì Nguyễn Khuyến sử dụng phương thức nghệ thuật tự trào vừa
hướng nội vừa hướng ngoại, nhưng chủ yếu là hướng nội, lạ hóa, phân thân, để
từ đó phát hiện và biểu hiện xung đột nội tâm, thể hiện cái tôi sắc sảo phê phán
thực trạng văn hóa - xã hội. Trong dòng thơ trào phúng nhà nho, chất tự trào
trong thơ Nguyễn Khuyến đậm nét và sinh động nhất. Nó đã trở thành một bộ
phận làm nên sự độc đáo trong thơ trào phúng nhà nho nói chung, làm nên nét
độc đáo trong thơ trào phúng Nguyễn Khuyến nói riêng. Tiến sĩ giấy là biểu
hiện rõ nhất của tiếng nói tự trào, phương thức tự trào. Nguyễn Khuyến đã lấy
việc khách thể hóa bản thân để bộc lộ tâm trạng, nỗi lòng mình. Cũng “ghế
chéo, lọng xanh” như ai cả tiến sĩ thật hay rởm đều có quy trình vinh danh như
nhau vậy. Hướng tới phê phán sự xuống cấp của Nho học nhưng cũng có cả
mình trong đó. Tiếng nói đa chiều, vừa hướng nội, vừa hướng ngoại này chỉ có
76
được khi con người tự ý thức được tình trạng bi hài của mình trước thực tế lịch
sử, nó bộc lộ những day dứt, trăn trở, những mâu thuẫn trong chính bản thân
nhà thơ, khác với kiểu con người đơn nhất trong văn chương trung đại.
Tính tự trào của bài thơ Tiến sĩ giấy cũng hé mở cho ta nhận thấy, nghe
thấy, chứng kiến một cuộc đối thoại và một cuộc tự đối thoại của nhà thơ với
chính mình. Tác giả phân thân để nói lên tiếng nói phản tỉnh của một người
trong cuộc. Đó cũng chính là tiếng nói phản chính thống, một hành vi tưởng
như là nói ngược nhưng thực chất lại phản ánh một cách chính xác nhất bản
chất của xã hội và sự tha hóa của lớp người đại diện cho tinh hoa của thể chế
đương thời. Có lẽ Nguyễn Khuyến là người trí thức đầu tiên trong thời đại ông
có được cái nhìn tỉnh táo và khách quan như vậy. Không phải người trí thức
nào trong cơn phong ba bão táp của lịch sử cũng nhận ra được những hạn chế
tất yếu của giai cấp mình, thừa nhận sự bất lực của nó trước thực tế lịch sử. Tư
tưởng, nhân cách Nguyễn Khuyến lớn lao chính vì ông đã sớm nhận ra tất cả
những hạn chế đó và phản ánh một cách trung thực.
3.3. Các phƣơng thức nghệ thuật trào phúng khác thể hiện xung đột
văn hóa - xã hội
3.3.1. Khai thác thế mạnh của thể loại và ngôn ngữ thơ Nôm Đường
luật
3.3.1.1. Thể loại
Các nhà nho thế hệ Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương đã thử sức mình
trên nhiều thể loại khác nhau để viết thơ trào phúng. Nguyễn Khuyến đã viết
trào phúng bằng thơ Hán Đường luật, thơ trường thiên, phú, hát nói, câu đối;
Trần Tế Xương làm cả hát nói và văn tế nhưng cuối cùng thơ Nôm Đường luật
mới là thể loại được các ông lựa chọn nhiều nhất (chủ yếu là thể tài thất ngôn
bát cú và tuyệt cú).
77
Các nhà trào phúng đều tập trung khai thác thế mạnh của các vế đối, các
kiểu tạo vần và nhạc điệu, tạo nên sức mạnh và sự bùng nổ của các hình ảnh
trào phúng, khiến cho các ý tưởng châm biếm trở nên hết sức mạnh mẽ, khắc
sâu vào tâm trí người đọc.
Để thể hiện mâu thuẫn xung đột văn hóa – xã hội một cách sâu sắc, rõ
nét nhất. Nguyễn Khuyến đã tận dụng triệt để các kiểu đối, vế đối của thể loại
thơ Nôm Đường luật. Một lần nữa Tiến sĩ giấy lại khẳng định giá trị cả về nội
dung và nghệ thuật:
“Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.”
(Tiến sĩ giấy, II)
Đạt đến học vị tiến sĩ là niềm vinh quang không chỉ của bản thân từng
con người mà của cả một dòng họ, một địa phương, được cả xã hội vinh danh,
khoác lên mình những ánh hào quang chói lọi. Đó vốn là những con người có
tài năng, chứa đựng trong mình những tri thức của thời đại và tất cả những tài
năng và tri thức đó sẽ được đem ra để phục vụ đất nước, phục vụ xã hội.
Nhưng trong hai câu thực này, với nghệ thuật đối được Nguyễn Khuyến sử
dụng hết sức đắc địa. Mảnh giấy đối với thân giáp bảng, nét son đối với mặt
văn khôi. Giáp bảng là bảng công bố kết quả thi cử ngày xưa, còn được gọi một
cách trang trọng là bảng rồng. Thân giáp bảng là người đỗ đạt cao nhưng thực
chất ở đây chỉ được chế tác từ một mảnh giấy vụn. Thậm chí chỉ bằng vài nét
son là có thể tạo nên mặt văn khôi - chỉ người đứng đầu làng văn. Nguyễn
Khuyến đã đặt những sự vật có giá trị khác hẳn nhau vào trong một kết cấu
song hành, đối lập, cho mọi người thấy được việc tạo ra một ông tiến sĩ giả
bằng giấy thực chẳng khó khăn gì, qua đó thể hiện tính chất rẻ mạt, vô nghĩa
của danh hiệu tiến sĩ thực của cái thời cuối phong kiến đầu thực dân này. Ông
nghè tháng Tám có diện mạo bên ngoài giống hệt như tất cả các ông tiến sĩ thật
78
nhưng cái thực học chỉ nhẹ hều như mảnh giấy và vết son mà thôi. Nhà thơ đã
mượn hình ảnh của ông tiến giấy để nói về ông tiến sĩ thật đương thời, vạch
trần bản chất giả dối của đối tượng bằng cách chỉ ra mâu thuẫn giữa hình thức
bề ngoài lộng lẫy, hào nhoáng được che giấu hết sức tinh vi và cái thực chất
bên trong sáo rỗng, đáng thương hại của nhân vật. Từ đó mâu thuẫn giữa
truyền thống học vấn rực rỡ với thực trạng các trường thi và danh vị tiến sĩ mới
bộc lộ rõ rệt. Thông qua đó cũng phản ánh sự xuống cấp của đạo học.
Trong Bồ tiên thi để mỉa mai phê phán quan huyện Thanh Liêm khéo giở
trò, tên tri huyện mở cuộc thi thơ và ra câu đề là Bồ tiên thi ngầm ý khoe mình
là người biết thương dân, nhưng thực tế là một kẻ tàn ác, tác giả khai thác triệt
để các từ ngữ đối trong hai câu:
Nghênh ngang/ võng lọng/ nhờ/ ông sứ,
Ngọng nghẹo/ văn chương/ giở/ giọng Ngô.
(Bồ tiên thi)
Hay bài thơ Lấy Tây một lần nữa Nguyễn Khuyến khai thác các vế đối
của thơ Đường luật để thể hiện kín đáo thái độ mỉa mai đối với bọn thực dân:
Ba vuông/ phấp phới/ cờ/ bay dọc,
Một bức/ tung hoành/ váy/ xắn ngang.
(Lấy Tây)
Như vậy các tác giả trào phúng trong đó có Nguyễn Khuyến đã tận dụng
một cách triệt để các vế đối và các kiểu đối trong thơ Đường luật. Đó là sự kết
hợp giữa các kiểu đối đa dạng (đối ý, đối câu, cặp câu, đối từ, đối khổ, đối
đoạn...), kết hợp các cách ngắt nhịp và gieo vần để tạo nên những hình ảnh
tương phản và đối lập dùng vào mục đích diễn tả hiện thực, khắc họa tâm
trạng, đặc biệt dùng vào mục đích trào phúng, châm biếm, khiến cho các bài
79
thơ có khả năng biểu hiện một cách sinh động và độc đáo ý tưởng của tác giả,
thông qua đó các xung đột văn hóa được thể hiện một cách rõ nét hơn.
3.3.1.2. Ngôn ngữ thể hiện sự xung đột
Thi nhân là một nhà khoa bảng cho nên không dùng những lời sỗ sàng,
gay gắt. Khi châm biếm, đùa cợt, chỉ trích thói đời, vẫn giữ được cái cười kín
đáo tế nhị và sâu xa. Nguyễn Khuyến thường dùng những lời tao nhã, lịch sự,
tế nhị nhưng càng nghĩ càng thấm thía cái dụng ý sâu sắc của nhà thơ. Không
những thế, vì hấp thu đạo đức Nho giáo lại thêm bản tính hiền hoà, lời chỉ trích
của Nguyễn Khuyến không phải là những lời trắng trợn, sỗ sàng, thi nhân cho
rằng lối răn dạy, sự sửa lỗi phải nhẹ nhàng để người lầm lỗi đủ bình tĩnh
nghiệm xét, may ra mà sửa lỗi chăng? Khi nhắm đến ông đốc Hà Nam, Nguyễn
Khuyến chỉ dùng những lời thật hiền lành:
“Ông về Đốc Học bấy lâu nay,
Gần đó mà tôi vẫn chửa hay!
Tóc bạc răng long chừng đã cụ,
Khăn thâm áo thụng cũng ra thầy!”
(Gửi Đốc học Hà Nam)
Hay trong lời tặng đốc học, Nguyễn Khuyến mặc dù mỉa mai nhưng sắc
thái rất nhẹ nhàng, giống như lời bông đùa vậy. Lời lẽ kín đáo được xem là một
đặc tính nghệ thuật trong thơ ca trào phúng của Nguyễn Khuyến. Thi nhân
thường mượn một hình thức tầm thường bên ngoài để che đậy cái nội dung sâu
kín bên trong. Mỗi lần muốn chỉ trích một đối tượng nào đó, nhà thơ thường
không nêu đích danh mà chỉ dùng lối gián tiếp. Nói đến quan lại bất tài,
Nguyễn Khuyến lại mượn hình ảnh Tiến sĩ giấy để lên tiếng công kích mỉa
mai:
„Bán tiếng mua danh thây lũ trẻ,
80
Bảng vàng bia đá vẫn nghìn thu.”…
(Tiến sĩ giấy, I)
Một trong những yếu tố tạo nên hiệu quả trào phúng của Nguyễn
Khuyến chính là thông qua hệ thống ngôn từ và cách sử dụng từ ngữ. Nguyễn
Khuyến không ngần ngại sử dụng triệt để các từ ngữ tương phản, đối lập để
làm nổi bật bản chất của đối tượng mình hướng đến:
“Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi.”
(Tiến sĩ giấy, II)
Thêm một lần nữa tác giả tiếp tục khắc họa sâu thêm sự đối lập, tương
phản gay gắt giữa cái bên ngoài và bản chất thật của ông tiến sĩ. Khai thác triệt
để hiệu quả của việc sử dụng từ ngữ phản ánh sự đối lập, tương phản trong bản
chất của đối tượng ông tiến sĩ. Tưởng “đồ thật”, hóa “đồ chơi”, cũng có dáng
vẻ oai vệ của nhân vật có học vấn cao nhất đương thời, nhưng cái oai phong
của vị tiến sĩ kia thực chất chỉ là cái mẽ giả dối bên ngoài. Bên trong thực chất
chỉ là thứ đồ chơi không hơn không kém. Hay đối tượng ông đốc học cũng
được Nguyễn Khuyến kín đáo lật tẩy bản chất thực:
“Nghĩ rằng ông dại với ông điên,
Điên dại sao ông biết lấy tiền?”
(Tặng Đốc học Hà Nam)
Từ ngữ có vần điệu kết hợp với sự đối lập bề ngoài nghĩ “ông dại với
ông điên”, nhưng thực tế không phải vậy “Điên dại sao ông biết lấy tiền?”.
Câu hỏi đặt ra với mục đích chỉ mặt, đặt tên đúng với bản chất tham lam của
ông đốc học Hà Nam.
Bên cạnh việc sử dụng từ ngữ phản ánh sự đối lập, tương phản. Trong
tiếng Việt có một hệ thống đại từ nhân xưng vô cùng phong phú mang khả
năng biểu hiện sắc thái tình cảm đặc sắc và công hiệu. Cùng với Tú Xương,
81
Nguyễn Khuyến cũng là một trong những nhà thơ phát huy xuất sắc thế mạnh
này của ngôn ngữ dân tộc trong sáng tác, thơ ông xuất hiện dày đặc đại từ nhân
xưng đủ các ngôi, các loại sắc thái khác nhau. Nếu lược đi hệ thống đại từ này
thì có lẽ tiếng cười của ông trở nên đơn điệu và không tạo được dấu ấn riêng.
Trong thơ Tú Xương có số lượng các đại từ mang sắc thái coi thường, miệt thị
chiếm tỉ lệ cao: thằng, nó, đứa, mụ, mày, con, lũ, bay, chúng mày, chúng. Xét
thấy thơ trào phúng Nguyễn Khuyến mặc dù mỉa mai phê phán tầng lớp quan
lại, thầy đồ, tiến sĩ,.. ông vẫn ưu ái gọi chúng bằng “ông”, “thầy”, “chú”.
Ông về Đốc Học bấy lâu nay,
(Gửi Đốc học Hà Nam)
“Người bảo rằng thầy yêu cháu đây,
Thầy yêu mẹ cháu có ai hay !...
Đi ve thiên hạ thiếu chi thầy ?”…
(Thầy đồ ve gái góa)
Chú huyện Thanh Liêm khéo giở trò
Tiên là ý chú muốn vời xu
(Bồ tiên thi)
Tuy nhiên cũng giống như Tú Xương, tác giả vẫn sử dụng các đại từ
nhân xưng bình dân để châm biếm, mỉa mai thậm chí là khinh miệt:
Ở góa thế gian nào mấy mụ?
(Thầy đồ ve gái góa)
Hỡi mụ hỡi, thương chi mà thương thế?
(Lời gái góa)
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
82
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo
(Hội Tây)
Cha đời con đĩ cầu Nôm
(Đĩ cầu Nôm)
Rồi cả những đại từ nhân xưng gần gũi như giao tiếp hàng ngày:
Chú Đáo làng bên lên với tớ
Ông Từ ngõ chợ lại cùng ta
(Lên lão)
Với sự phong phú trong việc sử dụng các đại từ nhân xưng Nguyễn
Khuyến đã vẽ được một bức tranh hiện thực đa sắc màu trước những biến động
thăng trầm của xã hội.
Trong thơ Nguyễn Khuyến, tỉ lệ từ láy xuất hiện khá nhiều, đa dạng và
được ông sử dụng rất thành công. Ông không cần miêu tả cụ thể nhân vật mà
chỉ thông qua các từ tượng thanh nhưng cũng giúp người đọc hình dung ra
nhân vật:
“Tha hồ cho khúc khích chị em cười”
(Đĩ cầu Nôm)
Nhưng để khắc họa rõ nét đặc điểm nhân vật thì Nguyễn Khuyến dùng từ
tượng hình :
Vả chàng vẫn lăng nhăng túng kiết
(Lời vợ anh phường chèo)
Khắc họa rõ hình tượng ông phỗng đá, anh giả điếc tác giả dùng hàng
loạt các từ láy:
Thấy lão đá lạ lùng muốn hỏi
83
Cớ làm sao len lỏi chi đây?
Thôi cũng đừng nghĩ chuyện đâu đâu,
(Ông phỗng đá)
Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây!
Tỉnh một chốc, lâu lâu rồi lại điếc
(Anh giả điếc)
Bên cạnh việc sử dụng các từ láy có ý nghĩa phê phán, ông còn dùng các
từ láy rất đỗi thông dụng để thể hiện cảnh ngộ và tâm trạng của mình:
Xuân về ngày loạn càng lơ láo
Người gặp khi cùng cũng ngẩn ngơ
(Ngày xuân dặn các con)
Cái độc đáo làm nên phong cách riêng trong ngôn ngữ và giọng điệu trào
phúng Nguyễn Khuyến đó là phương thức nhại :
Tuổi đã già sao dại như ri ?
(Lời vợ anh phường chèo)
Đối với Nguyễn Khuyến, thơ không chỉ là nơi ông bộc lộ nỗi niềm, thơ
còn là niềm vui khi ông tạo ra được những cách chơi chữ đầy bất ngờ. Nguyễn
Khuyến thâm trầm, kín đáo và vô cùng sâu sắc, đắm chìm trong suy tư chiêm
nghiệm về mình, về con người và cuộc đời. Chơi chữ không chỉ giúp ông tạo ra
niềm vui, mà đó cũng chính là một hình thức giúp ông bộc lộ tâm tư suy nghĩ
một cách kín đáo và thâm thúy nhất.
Nhà thơ phê phán, tố cáo tầng lớp quan lại tha hóa nhưng không trực
diện. Nguyễn Khuyến thể hiện sự ý nhị, thâm trầm của một nhà Nho. Muốn
cho người đọc thấy được sự nhếch nhác của triều đình bù nhìn, tác giả đã sử
dụng thủ pháp chơi chữ dựa trên hiện tượng đồng âm:
84
Vua chèo còn chẳng ra gì
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề
(Lời vợ anh phường chèo)
Thoạt tiên những tưởng đây là hai câu thơ nói về các vai diễn của
phường chèo, nhưng từ sự đồng âm của tiếng chèo, nhà thơ đã khéo léo vạch
mặt sự chèo chống con thuyền lớn là đất nước của vua quan nhà Nguyễn,
chẳng khác chi là những vai hề trên sân khấu, được diễn để mua vui.
Để phê phán đả kích quan lại tham lam, Nguyễn Khuyến chơi chữ một
cách rất sâu cay :
Tiên là ý chú muốn vời xu
(Bồ tiên thi)
Tiên nghĩa là cái roi, đồng âm với chữ tiên nghĩa là đồng xu, cũng có
nghĩa là đầu tiên. Nguyễn Khuyến dùng lối chơi chữ để đả kích tên tri huyện
tham lam, hay ăn hối lộ của dân.
Khả năng sử dụng ngôn ngữ sáng tạo, chơi chữ của Nguyễn Khuyến thật
sâu sắc :
Cờ đang dở cuộc không còn nước
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng
(Tự trào)
Với lối chơi chữ các từ nước, làng hai câu thơ tưởng như chỉ tả cảnh
thực những cuộc vui dở dang của bản thân. Nhưng ngẫm cho kĩ, nước không
chỉ là nước cờ của một ván cờ chơi dở, nước là nước không còn – nước mất.
Nguyễn Khuyến cười mình là kẻ chạy làng vô trách nhiệm trước thời cuộc.
Nhà thơ tự giễu cợt sự bất lực của bản thân, khiến cho tiếng cười thêm chua
85
xót, lời thơ không chỉ mang nỗi đau của một người dở cờ, mà là nỗi đau của
một người bất lực trước vận mệnh nước nhà.
Ngoài ra việc sử dụng kết hợp chữ Nôm với chữ Hán cũng là điểm riêng
tạo nên thành công trong thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến. Ông dùng từ
Hán để diễn tả vẻ ngây ngô, khờ khạo của ông phỗng đá :
Hỏi ra chích chích chi chi nực cười
Thậm chí Nguyễn Khuyến còn xen lẫn cả những câu thơ chữ Hán trong
bài thơ Nôm :
Thanh sơn tự tiếu đầu tương hạc,
Thương hải thuỳ tri ngã diệc âu
(Ông phỗng đá)
Toạ trung đàm tiếu, nhân như mộc
Dạ lý phan viên, nhĩ tự hầu.
(Anh giả điếc)
Thành công hơn nhất là việc sử dụng từ ngữ từ đời sống thực tế. Việc lựa
chọn và sử dụng từ ngữ từ đời sống thực tế thể hiện cái nhìn con người và hiện
thực trong đời sống với những biểu hiện sinh động, phong phú và chính xác
nhất. Hình tượng tác giả Nguyễn Khuyến trở nên gần gũi với độc giả hơn, bởi
ông diễn đạt tư tưởng của mình bằng chính lời ăn tiếng nói hàng ngày.
Làm thơ luật Đường yêu cầu chặt chẽ về luật bằng trắc, vần, đối, song
Nguyễn Khuyến vẫn có cách biến những câu thơ trở nên gần gũi, uyển chuyển.
Thậm chí tác giả còn đưa vào thơ những từ để chửi, mang ý nghĩa phê phán đả
kích trực diện, vạch rõ đối tượng:
Chém cha cái kiếp đào hồng
86
Cha đời con đĩ cầu Nôm
(Đĩ cầu Nôm)
Cách nói phủ định trong thơ Nguyễn Khuyến cũng rất đặc biệt, ông dùng
những cụm từ quen thuộc trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân để chỉ
rõ sự xuống dốc, lạc hậu của tư tưởng phong kiến:
Sách vở ích gì cho buổi ấy
(Ngày xuân dặn các con)
Có thể nhận thấy với việc sử dụng ngôn ngữ linh họat, biến đổi trong sắc
thái đã góp phần tạo nên tiếng cười chủ đạo trong thơ Nguyễn Khuyến. Đó là
tiếng cười nhẹ nhàng, thâm thúy nhưng không kém phần dữ dội, quyết liệt.
3.3.2. Xây dựng các biểu tượng mang tính xung đột, đối lập
Một trong những phương thức nghệ thuật trào phúng để thể hiện xung
đột văn hóa - xã hội một cách sắc nét là xây dựng các biểu tượng nghệ thuật thể
hiện sự xung đột, đối lập, vừa trào phúng hướng ngoại, vừa là các biểu tượng
tự trào.
Trong thơ văn Nguyễn Khuyến đặc biệt là thơ trào phúng ông xây dựng
rất nhiều các biểu tượng nghệ thuật thể hiện xung đột văn hóa. Mẹ Mốc là hình
tượng đầu tiên kể đến. Ở hình tượng này là sự đối lập giữa cái đẹp ẩn chứa bên
trong nhân cách, tâm hồn với vẻ bề ngoài xấu do tự mình bôi xấu mặt, ăn mặc
rách rưới, giả điên. Thể hiện ẩn ý nghệ thuật của Nguyễn Khuyến qua hình
tượng. Đối lập với những người phụ nữ không giữ trọn danh tiết bị cuốn theo
những cám dỗ, đổi thay của xã hội. Nguyễn Khuyến ca ngợi hình ảnh người
phụ nữ tiêu biểu nhất có bài “Mẹ Mốc”. Nhà thơ đã khắc họa hình tượng cảm
động của một người đàn bà danh tiết có thật lúc bấy giờ. Mẹ Mốc là một người
đàn bà điên ở thành Nam Định thời đó, vì chồng con bị lưu tán trong chiến
tranh, bà giả vờ điên dại và tự huỷ hoại nhan sắc để khỏi bị bọn người hay tán
87
tỉnh, chọc ghẹo, nhằm thủ tiết với chồng. Đó chỉ là vẻ bề ngoài, thực tế “So
danh giá ai bằng mẹ Mốc”, ẩn chứa bên trong là một tâm hồn, nhân cách đáng
trọng, là hình ảnh người phụ nữ theo quan điểm của Nho giáo, thông qua cái
nhìn của một bậc đại Nho như Nguyễn Khuyến thì thực sự đó là một biểu
tượng điển hình cho đức hạnh người. Nguyễn Khuyến dành trọn hai câu thơ
chữ Hán để hoàn chỉnh sự đối lập giữa vẻ bề ngoài xấu xí và phẩm chất đẹp đẽ
bên trong:
“ Ngoại mao bất cầu như mỹ ngọc
Tâm trung thường thủ tự kiên kim”
Đại ý của cả câu là mặt ngoài không cần đẹp như ngọc, nhưng trong lòng
hằng giữ bền như vàng.
Nguyễn Khuyến viết về chế độ khoa cử với tư cách là người đã đỗ đạt
làm đến quan tam phẩm trong triều khi nhìn vào sự suy vong của nền Hán học
thì ông cảm thấy cay đắng. Và để phản ánh sự suy vong đó, đồng thời thể hiện
những xung đột ở phương diện văn hóa Nguyễn Khuyến xây dựng những biểu
tượng nghệ thuật. Thành công nhất là biểu tượng ông tiến sĩ giấy với sự đối lập
giữa cái danh ở lớp vỏ bề ngoài với cái thực chất rỗng, hình thức, mẽ ngoài oai
phong nhưng nội dung xấu, đáng khinh. Vẻ bề ngoài ông tiến sĩ cũng giống
như các tiễn sĩ thật khác trong xã hội, đáng dược vinh danh bởi đó là tầng lớp
học vấn cao nhất trong xã hội:
“Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai.
Cũng gọi ông nghè có kém ai
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng
Nét son điểm rõ mặt văn khôi…
Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh choẹ”
88
Nhưng thực tế bên trong trống rỗng, được làm một cách đơn giản điểm
qua màu mè diêm dúa:
“Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi”
Nhà thơ đã mượn hình ảnh ông tiến sĩ giấy để nói về ông tiến sĩ thật
đương thời. Chỉ ra mâu thuẫn giữa hình thức bên ngoài đẹp đẽ và bản chất bên
trong trống rỗng của đối tượng. Những kẻ được vinh danh tiến sĩ nhưng không
có học thực, áo mũ xênh xang, màu mè là thế, nhưng thực chất chỉ là con rối
trong tay thực dân, và chịu sự chi phối của các thế lực.
Biểu tượng danh giá của ông nghè, người tiến sĩ xưa nhưng thật chất đó
chỉ làm bằng giấy. Hình ảnh thơ vừa thực, vừa là biểu tượng để phản ánh xung
đột và để khẳng định rằng thời kì Hán học đã tàn, hầu hết ông nghè đang chễm
chệ ngồi trên ngôi cao đều thực chất là bọn “Tiến sĩ giấy” cả, chúng chỉ là
thằng hề không hơn không kém, chỉ là hữu danh vô thực. Nguyễn Khuyến vừa
mỉa mai châm biếm, xong cũng không giấu nổi sự tiếc nuối, đau xót.
Hình tượng tiến sĩ giấy vừa là đối tượng trào phúng hướng ngoại, vừa là
đối tượng tự trào. Nhưng có lẽ biểu tượng tự trào rõ nét nhất là hình tượng Ông
Phỗng đá. Mặc cảm về sự vô trách nhiệm đối với đất nước luôn là điều trở đi
trở lại trong lòng Nguyễn Khuyến. Trong một loạt bài thơ về “Ông phỗng đá”,
Nguyễn Khuyến đả kích kín đáo lên án loại người “ngây ngây dại dại”, lạnh
lùng vô cảm trước nỗi đau dân tộc mà ông dùng một cách nói ý nhị : “non nước
đầy vơi”.
“Người đâu tên họ là gì ?
Hỏi ra chích chích chi chi nực cười !”
(Ông phỗng đá)
Tương truyền khi nhà thơ đang làm gia sư cho Hoàng Cao Khải thì y
mở tiệc mừng thọ, bọn quan lại tai to mặt lớn ở Bắc Kì đều đến dự. Khác với
89
bọn áo quần sang trọng, nói cười nịnh hót, Nguyễn Khuyến chỉ khăn thâm, áo
vải, ngồi nín lặng ở một góc. Một viên quan thấy vậy mới thì thào hỏi người
bên cạnh: ai mà ngồi như phỗng đá vậy? Nhân tình huống đó ông làm bài này.
Chân dung của một con người dở dang mọi nhẽ, công chẳng thành mà danh
chẳng toại. Ngẫm người rồi ngẫm đến ta, nhiểu lúc cụ Tam nguyên Yên Đổ
cũng chế giễu mình bằng nụ cười nhếch mép đầy xót xa, cay đắng. Cụ ngầm so
sánh những bậc đại khoa có tiếng tăm giống như mình nhưng cũng đành xuôi
tay bất lực trước thời thế đảo điên thì chẳng khác gì mấy ông phỗng đá vô hồn.
Thể hiện sự đối lập giữa nhân cách và ham muốn, nội tâm và hành động.
Tiếng cười của Nguyễn Khuyến là tiếng cười của lương tâm, của ý thức
liêm sỉ nên thâm thuý và thấm đượm nước mắt. Không chỉ cười những hiện
tượng đáng cười trong cuộc sống đương thời, nhà thơ còn dám nhìn sâu vào
bên trong con người mình để tự trào. Một nhà nho với lí tưởng, khao khát cống
hiến hết mình cho dân tộc nhưng gặp thời kì đảo điên của xã hội đành bất lực,
nhắm mắt làm ngơ. Nhân cách là vậy nhưng ông phỗng đá cũng không tránh
khỏi những cám dỗ trong cuộc sống:
“Cớ làm sao len lỏi đến chi đây?
Hay mảng vui hoa cỏ nước non này
Chừng cũng muốn dan tay vào hội lạc…
Chén chú, chén anh, chén tôi, chén bác.
Cuộc tỉnh say, say tỉnh một vài câu…”
Nội tâm như chất vấn chính mình “Cớ làm sao len lỏi đến chi đây?”
nhưng rồi hành động, suy nghĩ thôi đành phó thác hết những chuyện còn dang
dở cho thế hệ sau gánh vác:
“Thôi cũng đừng nghĩ chuyện đâu đâu,
Túi vũ trụ mặc đàn sau gánh vác.”
90
Và tự tìm cho bản thân một lí do:
“Duyên hội ngộ là duyên tuổi tác”
Như vậy thông qua hình tượng ông phỗng đá, một biểu tượng có tính tự
trào, Nguyễn Khuyến phản ánh sự đối lập trong chính con người Nguyễn
Khuyến. Nhưng chính những mâu thuẫn đối lập đó càng khắc họa rõ chân
dung, nhân cách cao đẹp của nhà thơ.
Bên cạnh đó sự đối lập giữa hiện thực với ảo tưởng hão huyền lại được
thể hiện một cách đầy đủ nhất qua hình tượng Quan chèo trong Lời vợ anh
phường chèo. Là tiếng cười chế giễu tầng lớp quan lại, những kẻ quyền cao
chức trọng nhưng lại giống như các vai vua, quan trong phường chèo vậy.
Mượn lời vợ anh phường chèo để nói lên ảo tưởng hão huyền của tầng lớp
quan lại lúc bấy giờ:
“Sống chết người, quyền ở trong tay”
Quyền trong tay nhưng thực chất chỉ là bù nhìn, tay sai đắc lực cho thực
dân Pháp, chỉ là một vai diễn mua vui trong phường chèo mà thôi:
“Rằng: “Ta thường làm quan to,
Sao người coi chẳng ra trò trống chi?...
Vua chèo còn chẳng ra gì
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề.”
Cùng với việc khai thác thế mạnh của thể loại và ngôn ngữ thơ Nôm
Đường luật, việc xây dựng các biểu tượng xung đột, đối lập cũng là một
phương thức nghệ thuật trào phúng hữu hiệu, góp phần cụ thể hóa những xung
đột văn hóa – xã hội trong thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến. Điều đó góp
phần tạo nên diện mạo riêng của thơ Tam nguyên Yên Đổ.
91
3.4. Tiểu kết Chƣơng 3
Nguyễn Khuyến tập trung phản ánh những mâu thuẫn xung đột, những
ung nhọt của xã hội, phê phán mạnh mẽ những kẻ thái hóa biến chất, làm tay
sai cho giặc từ đó phát huy tư duy phân tích, phê phán của nhà thơ. Thông qua
việc khai thác triệt để các mâu thuẫn xung đột của đối tượng trào phúng từ góc
độ văn hóa, tác giả khắc họa được sự đổi thay cả xã hội ở mọi mặt của đời sống
từ con người sự việc đến lối sống vị kỉ xô bồ, thực dụng ảnh hưởng của làn
sóng “Âu hóa” tràn vào nước ta. Nhà thơ đã thành công trong việc xây dựng
giọng điệu tự trào biểu hiện xung đột nội tâm. Vận dụng các thủ pháp trào
phúng, ngôn ngữ bình dị gần gũi với đời sống người dân lao động đã tạo ra sự
nét riêng trong giọng điệu thơ ông.
Đặc sắc thơ của Nguyễn Khuyến là khai thác thế mạnh của thể loại và
ngôn ngữ thơ Nôm Đường luật, xây dựng các biểu tượng mang tính xung đột,
đối lập, đã bình dân hóa thơ Nôm luật Đường làm cho những câu thơ luật
Đường mang đậm tính chất đời thường. Đồng thời nghệ thuật tự trào đã bộc lộ
được cái tôi vừa hướng nội, vừa hướng ngoại cho nên Nguyễn Khuyến đã thoát
ra khỏi quy phạm của thơ Trung đại. Và trong cảm thức của một nhà nho, bằng
lối tự trào thâm trầm, sâu sắc Nguyễn Khuyến đã tạo nên hình ảnh của một bậc
đại Nho chân chính.
92
KẾT LUẬN
Thơ trào phúng Việt Nam có thời gian phát triển không dài so với các bộ
phận văn học khác, mãi cho đến thế kỉ XVIII lịch sử văn học mới ghi tên tác
giả trào phúng đầu tiên là Hồ Xuân Hương. Và cho đến giai đoạn nửa cuối thế
kỉ XIX- đầu thế kỉ XX thơ ca trào phúng đã có sự phát triển nhanh chóng cả về
số lượng và chất lượng tác giả, tác phẩm. Trong giai đoạn này thơ văn trào
phúng đã từng bước khẳng định quan niệm nghệ thuật và chính là nền tảng
vững chắc cho sự phát triển của bộ phận văn học trào phúng giai đoạn đầu thế
kỉ XX. Nguyễn Khuyến là một đại biểu xuất sắc đánh dấu những bước tiến
phát triển vượt bậc này.
Xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX với sự thay đổi lớn trên mọi
phương diện từ kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội đã tạo ra nhiều sự biến động
dữ dội, làm đảo lộn mọi trật tự xã hội. Điều này đã tác động mãnh mẽ, có sức
ảnh hưởng lớn lao và được phản ánh sâu sắc trong văn học giai đoạn này.
Chính những yếu tố trên đã tạo ra những đề tài phong phú cho các nhà thơ, nhà
văn. Và Nguyễn Khuyến chính là người khai thác triệt để mọi mặt của đời sống
xã hội với những xung đột gay gắt giữa hai nền văn hóa phương Đông và
phương Tây trên cách nhìn của một nhà nho.
Xung đột văn hóa trong thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến được biểu
hiện chủ yếu trên phương diện nội dung và từ đó tác động đến hình thức nghệ
thuật. Về phương diện nội dung xung đột văn hóa trong thơ Nôm trào phúng
Nguyễn Khuyến khai thác trên các xung đột chính. Xung đột giữa văn hóa
phương Đông và văn hóa phương Tây, cụ thể là xung đột giữa tinh thần yêu
nước, giữ gìn bản sắc văn hóa của nhân dân ta với văn hóa ngoại lai của kẻ
xâm lược, đồng thời là xung đột giữa phong tục tập quán và lối sống mới trong
xã hội thực dân phong kiến. Bên cạnh đó là sự đối lập giữa truyền thống khoa
cử với thực trạng xã hội đương thời, mà tiêu biểu là thực trạng các trường thi
93
và danh vị tiến sĩ mới, sự xuống cấp nghiêm trọng của đạo học. Rõ nhất trong
thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến từ những xung đột văn hóa dẫn đến
những mâu thuẫn trong bản thân nhà thơ, hình tượng con người thừa và cảm
giác cô độc, bất lực của nhà thơ trước những biến động xã hội. Những xung đột
văn hóa trên tác động một cách mạnh mẽ, sâu sắc đến hình thức nghệ thuật thơ
Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến.
Nguyễn Khuyến chứng kiến nhiều biến cố quan trọng của lịch sử dân
tộc. Vì vậy, thơ văn của ông mang giá trị hiện thực sâu sắc, ghi lại một cách
chân thực những hình ảnh về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, sự lố lăng, bỉ ổi,
xấu xa của chế độ thực dân phong kiến. Chính những phương diện trên đã tạo
điều kiện cho nhà thơ tìm ra những mâu thuẫn xung đột từ đó vạch trần bản
chất thối nát của xã hội và sự đê hèn do triều đình phong kiến vạch ra, cái xấu
xa của bọn quan lại chỉ vì tiền mà bán rẻ lương tâm làm tay sai cho giặc đàn áp
nhân dân. Nhưng mà cái làm cho ông xót xa nhất lại là sự suy đồi về mặt đạo
đức của con người trong cái xã hội đầy rẫy cám dỗ: Nho học tàn tạ, lề lối gia
phong, truyền thống văn hóa bị lợi dụng, bị chà đạp bởi làn sóng Âu hóa.
Trong hoàn cảnh ấy Nguyễn Khuyến thể hiện thái độ phê phán với chế độ
đương thời - một xã hội giao thời đầy lố lăng, bỉ ổi, xấu xa. Dựa trên cách nhìn
của một nhà nho, kết hợp với nghệ thuật trào phúng, giàu tính chất hiện thực
tác giả đã vẽ lại bức tranh xã hội một cách chân thực và đầy sinh động, với
những mâu thuẫn xung đột cơ bản đặc biệt là xung đột trên phương diện văn
hóa.
Qua hệ thống cách tân nghệ thuật của Nguyễn Khuyến, từ việc khai thác
triệt để các mâu thuẫn làm nổi bật bản chất của đối tượng trào phúng từ góc độ
văn hóa, cho đến việc khai thác xung đột nội tâm, đối lập bản thân với thực
trạng xã hội, kết hợp với các phương thức nghệ thuật trào phúng thể hiện xung
đột văn hóa - xã hội. Khai thác thế mạnh của thể thơ Đường luật, đặc biệt là
nghệ thuật đối được sử dụng đa dạng và có hiệu quả. Ngôn ngữ thể hiện xung
94
đột văn hóa rất hữu hiệu như sử dụng từ láy, đại từ nhân xưng, lối nói nhại,
chơi chữ, thậm chí là tiếng chửi rất đỗi bình dân trong thơ. Thông qua các tác
phẩm thơ Nôm trào phúng nói riêng và thơ Nôm nói chung Nguyễn Khuyến
xây dựng được các biểu tượng mang tính xung đột, đối lập. Chúng ta đã thấy
sự thay đổi trong tư duy nghệ thuật của Nguyễn Khuyến theo xu hướng hiện
đại hóa, có sự khác biệt so với nghệ thuật truyền thống. Có thể khẳng định rằng
trong văn hoc trào phúng, Nguyễn Khuyến xứng đáng là một trong những tác
giả tiêu biểu nhất.
Qua đề tài Xung đột văn hóa trong thơ Nôm trào phúng Nguyễn Khuyến
đã giúp cho người thực hiện có một cái nhìn thấu đáo hơn về thơ Nôm trào
phúng Nguyễn Khuyến. Từ đề tài trên có thể mở rộng hướng nghiên cứu toàn
bộ sáng tác chữ Hán và chữ Nôm của Nguyễn Khuyến thông qua việc tìm hiểu,
làm rõ các xung đột văn hóa. Cũng có thể mở rộng nghiên cứu xung đột văn
hóa trong cả dòng văn học trào phúng nói chung.
95
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Nguyên Cẩn, (2014) Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
2. Jean Chevalier - Alain Gheerbrant, (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa
thế giới, Nxb Đà Nẵng.
3. Nguyễn Huệ Chi, chủ biên (1994) Thi hào Nguyễn Khuyến - đời và thơ,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Xuân Diệu, (1981) Các nhà thơ cổ điển Việt Nam tập 2, Nxb Văn học.
5. Xuân Diệu giới thiệu, (1979), Thơ văn Nguyễn Khuyến, Nxb Văn học.
6. Lê Qúy Đôn, (1957), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Xây
dựng.
7. Trịnh Bá Đĩnh, (1994), Tìm hiểu phong cách dân gian trong thơ Nôm
Nguyễn Khuyến, Tạp chí Văn học, số 1 tr 27.
8. Biện Minh Điền, (2008) Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến, Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
9. Dương Quảng Hàm, (1943), Việt Nam văn học sử yếu, Nha học chính
Đông Pháp xuất bản.
10. Lê Bá Hán – Trần Đình Sử – Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên),
(2007) Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
11. Dương Thu Hằng - Hoàng Mai Quyên, (2013) Giá trị văn hóa truyền
thống trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến, Tạp chí Giáo dục, số 318.
12. Hồ Sĩ Hiệp, (1997) Nguyễn Khuyến phê bình bình luận văn học, Nxb
Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.
96
13. Hà Ngọc Hòa (biên soạn), (2006) Nguyễn Khuyến – Nhà thơ của làng
quê Việt Nam, Nxb Trẻ, Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học Tp Hồ Chí
Minh.
14. Nguyễn Phạm Hùng, (2001) Trên hành trình văn học trung đại, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội.
15. Nguyễn Văn Huyền sưu tầm, biên dịch, giới thiệu, (1984) Nguyễn
Khuyến tác phẩm Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. Mai Hương (Tuyển chọn và biên soạn), (2000) Nguyễn Khuyến - Thơ,
lời bình và giai thoại, Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội.
17. Trần Ngọc Hưởng, (1999) Luận đề về Nguyễn Khuyến, Nxb Thanh
niên.
18. Trần Đình Hượu, (1995) Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại,
Nxb Văn hóa Thông tin.
19.Trần Đình Hượu, (1996) Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
20. Trần Đình Hượu – Lê Chí Dũng, (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn
giao thời 1900-1930, Nxb Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội
21. Nguyễn Lộc, (1971) Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, Nxb Đại
học & Trung học chuyên nghiệp.
22.Trần Thị Hoa Lê (2007), Thơ văn trào phúng Việt Nam nửa sau thế kỉ
XIX- nửa đầu thế kỉ XX (diện mạo và đặc điểm), Luận án tiến sĩ Ngữ Văn, Đại
học Sư phạm Hà Nội.
23.Phương Lựu (chủ biên) (1986, 1987, 1988), Lí luận văn học, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
24. Nguyễn Đăng Na, Lã Nhâm Thìn, Đinh Thị Khang (2007), Văn học
Việt Nam, tập 2, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
97
25. Nhóm Trí thức Việt tuyển chọn và giới thiệu (2012), Nguyễn Khuyến
thơ và đời, Nxb Văn học, Hà Nội.
26. Hoàng Nam, (2014), Văn hóa dân tộc, văn hóa Việt Nam, Nxb Khoa
học Xã hội.
27. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa – thông
tin.
28. Bùi Văn Nguyên, (1978), Lịch sử văn học Việt Nam (tập 2), Nxb Giáo
dục.
29. Hoàng Phê, chủ biên (1995), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
30. Trần Minh Phượng (2017), Xung đột văn hóa trong thơ Nôm trào
phúng Trần Tế Xương, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Đại học sư phạm Hà Nội.
31. Vũ Tiến Quỳnh (Tuyển chọn), (1992) Phê bình, bình luận văn học
Nguyễn Khuyến, Nxb Khánh Hòa.
32. Văn Tân, (1957), Văn học trào phúng Việt Nam, Nxb Văn sử địa.
33. Vũ Thanh tập hợp, biên soạn, giới thiệu, (2003) Nguyễn Khuyến - về
tác gia, tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
34. Trần Ngọc Thêm, (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.
35. Trần Ngọc Thêm, (1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam: Cái nhìn
loại hình, Nxb Giáo dục
36. Lã Nhâm Thìn, (1997) Thơ Nôm Đường luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
37. Lã Nhâm Thìn (2009), Phân tích tác phẩm văn học Việt Nam từ góc
nhìn thể loại, Nxb Giáo dục Việt Nam.
38. Lã Nhâm Thìn (chủ biên) (2011), Giáo trình văn học trung đại Việt
Nam, Tập 1, Nxb Giáo dục Việt Nam
98
39. Lã Nhâm Thìn, Vũ Thanh (Đồng chủ biên), (2015) Giáo trình văn học
trung đại Việt Nam, tập 2, Nxb Giáo dục Việt Nam
40. Trần Nho Thìn, (2007) Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa, Nxb Giáo dục, Việt Nam.
41. Thơ văn Nguyễn Khuyến, (1979) Nxb Văn học, Hà Nội.
42. Tổng tập Văn học Việt Nam, (1997) Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
43. Tủ sách đại học sư phạm, (1971) Lịch sử văn học Việt Nam (tập IV
A), Nxb Giáo dục Hà Nội.
44. Kiều Văn (Tuyển chọn), (1996) Nguyễn Khuyến thơ ca Việt Nam chọn
lọc, Nxb Đồng Nai.
45. Đoàn Thị Thu Vân, tập hợp, biên soạn, (2008) Văn học trung đại Việt
Nam (Thế kỉ X – cuối thế kỉ XIX), Nxb Giáo dục.
46. Lê Trí Viễn, (1973) Thơ văn Nguyễn Khuyến – Trần Tế Xương, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
47. Lê Trí Viễn, (1976), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
48. Lê Trí Viễn (Chủ biên ), (1978), Lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Giáo
dục.
49. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1996), Văn hóa học đại cương và cơ sở
văn hóa Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội.
50. Trần Quốc Vượng, (2000), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm,
Nxb Văn hóa Dân tộc, Tạp chí văn hóa – nghệ thuật, Hà Nội.
51. Trần Quốc Vượng (chủ biên), (2008) Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb
Giáo dục.
52. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Trung tâm ngôn ngữ và
văn học Việt Nam – Bộ giáo dục và đào tạo, Nxb Văn hóa thông tin.