BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG

NGUYỄN THÙY VÂN

THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN TUÂN THỦ VỆ SINH TAY

THƯỜNG QUY CỦA ĐIỀU DƯỠNG VIÊN TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ NĂM 2019 LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG

Hà Nội 11/2019

ii

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG KHOA: KHOA HỌC SỨC KHỎE BỘ MÔN: Y TẾ CÔNG CỘNG

NGUYỄN THÙY VÂN

THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN

ĐẾN TUÂN THỦ VỆ SINH TAY THƯỜNG QUY

CỦA ĐIỀU DƯỠNG VIÊN TẠI BỆNH VIỆN HỮU

NGHỊ NĂM 2019

Chuyên ngành: Y TẾ CÔNG CỘNG Mã số : 8 72 07 01 HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRỊNH HÙNG CƯỜNG

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Điều dưỡng là một bộ phận quan trọng trong

chăm sóc sức khoẻ y tế, là trụ cột của hệ thống y tế. Người điều dưỡng thực hiện các công việc chăm sóc từ

đơn giản đến phức tạp, đây là những người trực tiếp tiếp xúc, chăm sóc, điều trị, cho người bệnh từ lúc nhập viện cho đến khi ra viện [1].

Trong quá trình chăm sóc người bệnh, bàn tay là công cụ hàng ngày giúp người điều dưỡng thực hiện các

kỹ thuật chăm sóc, do đó bàn tay của điều dưỡng viên thường xuyên tiếp xúc với da, máu, dịch tiết của người

bệnh và các dụng cụ y tế đã qua sử dụng. Các vi sinh vật gây bệnh từ người bệnh, từ các dụng cụ đã sử dụng qua

tay của điều dưỡng viên, làm cho bàn tay của điều dưỡng viên là nguồn chứa các vi sinh vật gây bệnh [6]. Kết quả

nghiên cứu tại bệnh viện Chợ Rẫy – Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy trên bàn tay điều dưỡng chứa 126,875 vi khuẩn/cm2 [8]. Nghiên cứu phổ sinh vật trên bàn tay nhân viên y tế tại bệnh viện Đại học Y dược thành phố

Hồ Chí Minh cho kết quả có tổng cộng 11 loại vi khuẩn đã xuất hiện trên bàn tay nhân viên y tế trong nghiên cứu này, trong đó các vi khuẩn Staphylococci coagulase âm chiếm tỷ lệ 54,04%, tiếp theo là nấm (19,72%), trực khuẩn gram dương (13,21%), trực khuẩn gram âm không lên men lactose (4,73%). Một điều đáng lưu ý khác là số

2

bàn tay hiện diện cùng lúc 3 loại vi sinh vật là 6,1%, 2 loại vi sinh vật là 32,7%, 1 loại vi sinh vật là 46% [12].

Tổ chức Y tế thế giới đã phát động nhiều chiến dịch “Vệ sinh tay” trên toàn cầu và đưa ra khuyến nghị: “Vệ sinh

tay là kháng sinh tốt nhất, là biện pháp đơn giản, rẻ tiền nhưng lại phòng chống nhiễm khuẩn bệnh viện hiệu quả

nhất” [14]. Nhiễm khuẩn bệnh viện gây ra những hậu quả vô

cùng nghiêm trọng không chỉ với người bệnh mà còn đối với các nhân viên y tế. Theo thống kê của Tổ chức Y tế

thế giới, nhiễm khuẩn bệnh viện ảnh hưởng đến 10% số người nhập viện [7]. Nhiễm khuẩn bệnh viện lây truyền

qua một số đường, tuy nhiên việc lây truyền thông qua bàn tay của nhân viên y tế là phổ biến nhất [13]. Chính vì

vậy, sự tuân thủ vệ sinh tay của nhân viên y tế được coi là biện pháp đơn giản và hiệu quả nhất để phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện [13]. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cho thấy, mức độ tuân thủ vệ sinh tay thường

quy của nhân viên y tế còn chưa cao như nghiên cứu của Phùng Văn Thuỷ [9] năm 2014 cho thấy chỉ có 14,8%

nhân viên y tế có thực hành vệ sinh tay thường quy đạt hay nghiên cứu của Nguyễn Quang Toàn [11] năm 2017 tại bệnh viện Trung ương Quân đội 108 cho thấy tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay là 58,71%. Bệnh viện Hữu Nghị là bệnh viện đa khoa hạng I. Trung bình mỗi năm, bệnh viện tiếp nhận khám ngoại trú

3

cho khoảng 264.000 lượt người bệnh, điều trị nội trú cho gần 16.000 người bệnh, thực hiện trên 45.000 thủ thuật –

phẫu thuật các loại. Mặc dù, hàng năm Khoa kiểm soát nhiễm khuẩn của bệnh viện đã tiến hành giám sát vệ sinh

tay thường quy của điều dưỡng viên nhưng mới chỉ dừng lại ở việc giám sát theo chủ đề ở từng khoa riêng lẻ, chưa

có nghiên cứu nào về sự tuân thủ vệ sinh tay thường quy trên toàn bộ đối tượng điều dưỡng của cả bệnh viện [3].

Với mong muốn tìm hiểu thực trạng tuân thủ vệ sinh tay thường quy của điều dưỡng viên tại bệnh viện hiện nay

và những yếu tố liên quan đến thực trạng trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài về “Thực trạng và một số yếu

tố liên quan đến tuân thủ vệ sinh tay thường quy của điều dưỡng viên tại bệnh viện Hữu Nghị năm 2019”

với hai mục tiêu: 1. Đánh giá thực trạng tuân thủ vệ sinh tay thường quy của điều dưỡng viên tại bệnh viện Hữu Nghị năm 2019.

2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến tuân thủ

vệ sinh tay thường quy của đối tượng nghiên cứu.

4

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Một số khái niệm trong nghiên cứu

1.2. Mục đích và vai trò của vệ sinh tay thường quy trong phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện

1.2.1. Nhiễm khuẩn bệnh viện 1.2.2. Vai trò của việc vệ sinh tay thường quy

1.3. Vệ sinh tay thường quy 1.3.1. Các thời điểm vệ sinh tay [2]

1.3.2. Quy trình vệ sinh tay thường quy [2] 1.4. Nghiên cứu về tuân thủ vệ sinh tay thường quy và

một số yếu tố liên quan trên Thế giới và Việt Nam 1.4.1. Nghiên cứu tuân thủ vệ sinh tay thường quy và một

số yếu tố liên quan trên Thế giới 1.4.2. Nghiên cứu tuân thủ vệ sinh tay thường quy và một

số yếu tố liên quan tại Việt Nam 1.5. Giới thiệu về Bệnh viện Hữu Nghị 1.6. Khung lý thuyết nghiên cứu

5

CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu 2.1.1. Đối tượng nghiên cứu: Điều dưỡng viên đang

công tác tại các khoa lâm sàng và cận lâm sàng, Bệnh viện Hữu Nghị.

*Tiêu chuẩn lựa chọn : những điều dưỡng viên trực tiếp chăm sóc người bệnh tại các khoa lâm sàng và cận

lâm sàng, Bệnh viện Hữu Nghị. Điều dưỡng viên có mặt tại thời điểm nghiên cứu. Điều dưỡng viên đồng ý tham

gia nghiên cứu. *Tiêu chuẩn loại trừ: Không chọn những đối tượng

sau tham gia vào nghiên cứu: những điều dưỡng viên không trực tiếp chăm sóc người bệnh (điều dưỡng hành

chính). Những điều dưỡng viên vắng mặt tại thời điểm nghiên cứu (nghỉ ốm, thai sản, đi học hoặc nghỉ không lương). Từ chối tham gia nghiên cứu. 2.1.2. Địa điểm nghiên cứu: địa điểm nghiên cứu: tại

30 khoa lâm sàng và cận lâm sàng của Bệnh viện Hữu Nghị.

2.1.3. Thời gian nghiên cứu: từ tháng 4/2019 đến tháng 8/2019.

2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang có phân tích.

2.2.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu

6

Áp dụng công thức ước lượng 1 tỷ lệ trong nghiên

cứu mô tả:

2 (1−

)

𝑝 (1−𝑝) 𝑑2

𝛼 2

𝑛 = 𝑍 𝑥

2

: Hệ số tin cậy ứng với 95% (α=0,05), ta có - Trong đó: n: Cỡ mẫu cần nghiên cứu 𝑍1−𝛼

2

= 1,96 𝑍1−𝛼

p: Là tỷ lệ điều dưỡng tuân thủ vệ sinh tay thường quy. Theo nghiên cứu của Hoảng Thị Hiền tại bệnh viện

Hoè Nhai năm 2015, tỷ lệ điều dưỡng tuân thủ vệ sinh tay thường quy là 52,9, lấy p=0,529 [13].

d: Sai số mong muốn tuyệt đối so với p, chọn d =

0,06

Thay vào công thức trên tính được n = 266 Theo danh sách do phòng nhân sự cung cấp, có 332 điều dưỡng đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn tại 30 khoa lâm sàng và cận lâm sàng. Như vậy, nghiên cứu áp dụng

phương pháp chọn mẫu toàn bộ. Chọn toàn bộ 332 điều dưỡng vào nghiên cứu.

Đánh giá việc tuân thủ thực hành vệ sinh tay thường quy của đối tượng nghiên cứu: theo WHO, có 5 thời điểm

người điều dưỡng cần thực hiện vệ sinh tay khi chăm sóc người bệnh vì vậy mỗi điều dưỡng chúng tôi tiến hành quan sát 5 cơ hội vệ sinh tay. Tổng số cơ hội vệ sinh tay quan sát trong nghiên cứu là 332 * 5 = 1660 cơ hội.

7

2.3. Các biến số, chỉ số nghiên cứu và tiêu chuẩn đánh giá

2.3.1. Biến số, chỉ số trong nghiên cứu

- Thông tin chung: tuổi, giới, trình độ học vấn, nơi công tác, kiến thức về vệ sinh tay thường quy, thái độ về vệ sinh tay thường quy

- Thực hành tuân thủ vệ sinh tay thường quy: số cơ hội VST được tuân thủ, số quy trình được tuân thủ, tỷ lệ

điều dưỡng tuân thủ VSTTQ

- Một số yếu tố liên quan đến VSTTQ

2.3.2. Tiêu chí đánh giá trong nghiên cứu

- Đánh giá kiến thức, thái độ về VST : về kiến thức, có 17 câu hỏi đánh giá kiến thức VST, điểm tối đa cho phần đánh giá kiến thức là 17 điểm. Kiến thức được

đánh giá là đạt khi số điểm ≥ 12 điểm (2/3 tổng số điểm). Chưa đạt khi số điểm < 12 điểm. Về thái độ có 8 câu hỏi với 3 mức độ trả lời: đồng ý, không đồng ý và không có ý kiến. Tổng số điểm tối đa của phần thái độ là 8 điểm.

Thái độ được đánh giá là tích cực khi số điểm ≥ 6 điểm (2/3 tổng điểm). Chưa tích cực khi số điểm < 6 điểm.

- Đánh giá tuân thủ vệ sinh tay

 Một cơ hội VST được coi là tuân thủ khi

đảm bảo 2 yêu cầu : (1) có thực hiện VST khi có cơ hội cần VST; (2) phải VST với nước và xà phòng hoặc dung dịch VST có chứa cồn. Tỷ lệ % cơ hội tuân thủ VST =

8

(số cơ hội tuân thủ VST/ Tổng số cơ hội cần VST được quan sát) x 100% .

 Một quy trình VST được coi là tuân thủ

khi đảm bảo yêu cầu: thực hiện đúng và đủ 6 bước của quy trình VST. Tỷ lệ % tuân thủ quy trình VST = (Số

quy trình VST tuân thủ/ Tổng số quy trình VST được quan sát) x 100%.

Đánh giá thực hành tuân thủ VSTTQ của điều dưỡng: một điều dưỡng có thực hành VSTTQ

đạt khi điều dưỡng đó có vệ sinh tay với nước và xà phòng hoặc với cồn/ dung dịch VST có chứa cồn ở tất cả

các cơ hội VST được quan sát. Tỷ lệ % điều dưỡng tuân thủ VST = (Số điều dưỡng tuân thủ VST/ Tổng số điều

dưỡng tham gia) x 100%.

2.4. Phương pháp thu thập số liệu

2.4.1. Công cụ thu thập số liệu Bộ câu hỏi thiết kế sẵn

2.4.2. Kỹ thuật thu thập số liệu

- Kiến thức - thái độ tuân thủ VSTTQ : phát vấn đối

tượng bằng bộ công cụ được thiết kế sẵn.

- Thực hành vệ sinh tay của đối tượng nghiên cứu :

quan sát đánh giá bằng bảng kiểm.

2.5. Phân tích và xử lý số liệu

- Làm sạch số liệu thô trước khi nhập liệu. - Nhập số liệu bằng phần mềm Epidata 3.1. - Xử lý bằng phần mềm SPSS 18.0.

9

- Sử dụng các thuật toán trong thống kê mô tả để đưa

ra các tỷ lệ và tỷ lệ %.

- Sử dụng phương pháp kiểm định khi bình phương để so sánh hai tỷ lệ và tỷ suất chênh OR, CI 95% và p để

xác định mối liên quan.

2.6. Sai số và cách khắc phục sai số

Sai số Cách khắc phục

Do điều tra viên: sai số do Tập huấn kỹ trước khi đi

kỹ năng phỏng vấn và ghi chép thông tin không đầy phỏng vấn, thống nhất các ý kiến với nhau.

đủ.

Do đối tượng nghiên cứu: Thử nghiệm bộ câu hỏi,

không hiểu rõ câu hỏi, không nhớ chính xác thông thiết kế bộ câu hỏi dễ hiểu, ngắn gọn.

tin.

Sai số trong quá trình nhập, Làm sạch số liệu trước khi

phân tích số liệu: số liệu chưa được làm sạch, nhập nhập vào máy tính, phát hiện thiếu số liệu và số

sai, nhập thiếu thông tin.

liệu vô lý, mã hóa trước khi nhập.

2.7. Đạo đức trong nghiên cứu

- Đề cương nghiên cứu được hội đồng duyệt đề

cương Trường Đại học Thăng Long thông qua

- Được Giám đốc bệnh viện Hữu Nghị cho phép thực

hiện nghiên cứu tại bệnh viện

10

- Đối tượng tham gia nghiên cứu hoàn toàn tự

nguyện

- Các thông tin về đối tượng được giữ bí mật và chỉ

được sử dụng với mục đích nghiên cứu khoa học.

2.8. Hạn chế nghiên cứu

Do là nghiên cứu mô tả cắt ngang nên nghiên cứu

cũng có những hạn chế chung của phương pháp mô tả cắt ngang là không xác định được yếu tố nguy cơ tại thời

điểm nghiên cứu.

Điều tra viên là những cán bộ thuộc Khoa kiểm soát

nhiễm khuẩn của bệnh viện nên có thể gặp những sai số khi quan sát thực hành của điều dưỡng viên.

Do không tiến hành nghiên cứu định tính nên việc tìm hiểu những yếu tố cản trở việc tuân thủ VSTTQ của

người điều dưỡng chưa đầy đủ.

11

CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Thực trạng tuân thủ vệ sinh tay thường quy của

điều dưỡng viên bệnh viện Hữu Nghị năm 2019.

12,6%

Đạt

Không đạt

87,4%

Biểu đồ 3.1. Kiến thức chung của điều dưỡng về vệ

sinh bàn tay (n=332)

Tỷ lệ điều dưỡng có kiến thức đạt về VSTTQ là

87,4%, tỷ lệ điều dưỡng có kiến thức chưa đạt là 12,6%

2,7%

Đạt

Không đạt

97,3%

12

Biểu đồ 3.2. Thái độ chung của điều dưỡng về vệ sinh tay thường quy (n=332)

Có 97,3% điều dưỡng có thái độ đạt về vệ sinh tay thường quy, 2,7% điều dưỡng có thái độ chưa đạt

Bảng 3.1. Cơ hội vệ sinh tay được tuân thủ (n=1660)

Cơ hội VST

% cơ hội VST được tuân thủ (b/a*100)

Số cơ hội có VST (b)

Số cơ hội được quan sát (a)

332

128

38,6

1: Trước khi tiếp xúc với người bệnh

332

280

84,3

2: Trước khi làm thủ thuật vô trùng

332

218

65,7

3: Sau khi tiếp xúc với người bệnh

332

319

96,1

4: Sau khi tiếp xúc với máu và dịch cơ thể

332

148

44,6

5: Sau khi tiếp xúc với vùng xung quanh người bệnh

1660

1093

65,8

Tổng

Kết quả ở bảng 3.1 cho thấy 65,8% số cơ hội

được quan sát có tuân thủ vệ sinh tay. Cơ hội VST được tuân thủ nhiều nhất là sau khi tiếp xúc với máu và dịch cơ thể (96,1%) và trước khi làm thủ thuật vô trùng (84,3%). Thấp nhất là trước khi tiếp xúc với người bệnh (38,6%).

13

Bảng 3.2. Quy trình vệ sinh tay được tuân thủ

(n=1093)

% quy trình

Số quy trình

Số quy trình

Thời điểm VST

được

VST

VST được

quan sát (a)

tuân thủ (b)

tuân thủ (b/a*100)

27,3

1: Trước khi tiếp xúc với NB

128

35

43,2

2: Trước khi làm thủ thuật vô trùng

280

121

31,7

3: Sau khi tiếp xúc với NB

218

69

52,7

4: Sau khi tiếp xúc với máu và dịch

319

168

cơ thể

148

47

31,8

5: Sau khi tiếp xúc với vùng xung quanh người bệnh

1093

40,3

440

Tổng Kết quả bảng 3.2 cho thấy 40,3% số quy trình được quan sát có tuân thủ vệ sinh tay. Quy trình VST

được tuân thủ nhiều nhất ở thời điểm sau khi tiếp xúc với máu và dịch cơ thể (52,7%), tiếp đó là thời điểm “trước

khi làm thủ thuật vô trùng” (43,2%). Thời điểm “Trước khi tiếp xúc trực tiếp với người bệnh” có số quy trình

được tuân thủ thấp nhất 27,3%.

VST

14

Bảng 3.3. Tỷ lệ điều dưỡng viên tuân thủ VSTTQ (n=332)

Tuân thủ VSTTQ Số lượng Tỷ lệ %

Tuân thủ 47 14,2

Chưa tuân thủ 285 85,8

Tổng 332 100,0

Tỷ lệ điều dưỡng tuân thủ cả 5 thời điểm chỉ chiếm 14,2%; tỷ lệ điều dưỡng chưa tuân thủ chiếm

85,8% (Bảng 3.4).

3.2. Một số yếu tố liên quan đến tuân thủ VSTTQ của

điều dưỡng viên.

Bảng 3.4. Mối liên quan giữa tuổi với tuân thủ

VSTTQ của ĐTNC (n=332)

Không Tuân

tuân thủ thủ Nhóm tuổi OR (95%CI) p SL (%) SL (%)

30 107 (93,9) 7 (6,1) p<0,01

≤ tuổi 3,43 1,48 –

7,94 30 178 (81,7)

> tuổi 40 (18,3)

Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa nhóm tuổi với việc tuân thủ VSTTQ của điều dưỡng. Nhóm điều dưỡng trên 30 tuổi có khả năng tuân thủ VSTTQ cao gấp 3,43 lần so với

nhóm từ 30 tuổi trở xuống (OR=3,43; 95%CI: 1,48-7,94; p<0,01).

15

Bảng 3.5. Mối liên quan giữa thâm niên công tác với tuân thủ VSTTQ của ĐTNC (n=332)

Tuân thủ Thâm OR p Không tuân thủ niên (95%CI) SL (%) SL (%)

5 107 (94,7) 6(5,3) < 4,10 <0,01

năm 1,65-10,16

5 178 (81,3) 41(18,7) ≥

năm

Kết quả nghiên cứu cho thấy những điều dưỡng làm việc từ 5 năm trở lên có khả năng tuân thủ VSTTQ cao gấp 4,10 lần những điều dưỡng có kinh nghiệm dưới

5 năm. Mối liên quan này có ý nghĩa thống kê với p<0,01.

16

CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN

4.1. Thực trạng tuân thủ vệ sinh tay thường quy của điều dưỡng bệnh viện Hữu nghị năm 2019

Tổng số cơ hội vệ sinh tay quan sát trong nghiên cứu của chúng tôi là 332 * 5 = 1660 cơ hội. Kết quả nghiên

cứu cho thấy, tỷ lệ cơ hội vệ sinh tay được tuân thủ là 65,8%. Mặc dù kiến thức của điều dưỡng về thời điểm

cần vệ sinh tay cao (97,9%), tỷ lệ cơ hội vệ sinh tay được tuân thủ vẫn không cao, có thể do tâm lý e ngại việc vệ

sinh tay nhiều lần trong ngày có thể gây ảnh hưởng đến da của điều dưỡng (37,4% đồng ý quan điểm VST nhiều

lần trong ngày sẽ làm tổn thương da tay). Kết quả của chúng tôi cao hơn so với nghiên cứu của Trần Đăng Tính

năm 2013 (59,6%) [10] và Phùng Văn Thuỷ năm 2014 (39,5%) [9]; thấp hơn so với nghiên cứu của Hoàng Thị Hiền năm 2015 (84,8%) [4]. Sự khác nhau này có thể do sự khác nhau trong đối tượng nghiên cứu. Nghiên cứu

của các tác giả thực hiện trên cả bác sĩ và điều dưỡng. Còn nghiên cứu của chúng tôi chỉ tiến hành ở điều dưỡng

viên.

Trong 5 thời điểm người điều dưỡng cần vệ sinh tay thường quy, thời điểm có số cơ hội VST được tuân thủ nhiều nhất là sau khi tiếp xúc với máu và dịch cơ thể (96,1%). Kết quả của chúng tôi cao hơn so với kết quả nghiên cứu quan sát trực tiếp (84,6%) và kết quả được

17

quan sát bằng camera (63,9%) của Nguyễn Thị Thu Huyền năm 2018 tại bệnh viện Tim Hà Nội [5]. Đây là

thực hành tốt của điều dưỡng viên. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, tỷ lệ cơ hội VST được tuân

thủ thấp nhất tại thời điểm “Trước khi tiếp xúc trực tiếp với người bệnh (38,6%). Điều này cũng phản ảnh thực tế,

điều dưỡng mới chỉ quan tâm phòng tránh lây nhiễm cho bản thân mà chưa có ý thức tốt trong việc phòng tránh lây

nhiễm cho người bệnh. Qua kết quả nghiên cứu của chúng tôi và một số nghiên cứu trước đây như nghiên

cứu của Phùng Văn Thuỷ [9], của Nguyễn Thị Thu Huyền [5] có thể thấy tỷ lệ cơ hội VST tuân thủ ở các

thời điểm không giống nhau. Với những thời điểm có nguy cơ lây nhiễm cao như “trước khi làm thủ thuật vô

trùng”; “Sau khi tiếp xúc với máu và dịch cơ thể” thì tỷ lệ tuân thủ thường cao. Còn với các thời điểm ít nguy cơ hơn tỷ lệ tuân thủ cơ hội VST cũng thấp hơn. Việc này tiềm ẩn nguy cơ tăng nhiễm khuẩn chéo giữa những

người bệnh do bàn tay của người điều dưỡng. Lãnh đạo viện và khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn cần thực hiện nhiều

biện pháp tốt hơn nhằm cải thiện thực hành của điều dưỡng viên.

Trong quy trình vệ sinh tay, việc thực hiện đúng và đủ 6 bước là rất quan trọng, quyết định hiệu quả của việc làm sạch và loại bỏ các vi khuẩn gây bệnh. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ quy trình vệ sinh tay được tuân thủ không

18

cao, chỉ chiếm 40,3% tổng số quy trình VST được quan sát. Trong khi kiến thức của điều dưỡng viên về 6 bước

trong quy trình VSTTQ rất tốt (93,7% điều dưỡng có kiến thức đúng). Điều này cho thấy kiến thức đúng về

thực hiện các bước chưa đủ, vì trong thực tế, có thể có nhiều yếu tố tác động khiến họ chưa thực hành đúng. Tỷ

lệ quy trình vệ sinh tay trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Huyền với

74% [5]. Độ tuổi trong nghiên cứu của chúng tôi đa số >30 tuổi (65,7%) trong khi nghiên cứu của Nguyễn Thị

Thu Huyền tỷ lệ này là 44,3%. Có thể do độ tuổi càng cao thì việc chủ quan trong việc thực hiện đủ các bước

rửa tay càng tăng. Điều này có thể lý giải vì sao tỷ lệ thực hành quy trình VSTTQ trong nghiên cứu của chúng tôi

thấp hơn. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, tỷ lệ quy trình VST được tuân thủ cao nhất ở các thời điểm “Sau khi tiếp xúc với máu và dịch cơ thể” (52,7%) và “Trước khi làm thủ thuật vô trùng” (43,2%). Tuy nhiên, nhìn

chung tỷ lệ quy trình VST được tuân thủ tại từng thời điểm còn rất thấp (4/5 thời điểm có tỷ lệ dưới 50%).

Bệnh viện cần tập huấn và truyển thông nhiều hơn nữa để giúp các điều dưỡng hiểu hơn và nâng cao hơn nữa việc tuân thủ quy trình vệ sinh tay thường quy.

Theo hướng dẫn của Bộ Y tế, việc tuân thủ vệ sinh tay thường quy được cho là đạt yêu cầu khi thực hiện đủ cả 5 thời điểm và sử dụng dung dịch vệ sinh tay chứa

19

cồn/cồn hoặc rửa tay với nước và xà phòng. Tỷ lệ điều dưỡng tuân thủ vệ sinh tay thường quy trong nghiên cứu

của chúng tôi thấp, chỉ chiếm 14,2%. Kết quả này tương đương với kết quả nghiên cứu của Phùng Văn Thuỷ tại

bệnh viện đa khoa Vĩnh Phúc năm 2014 (14,8%) [9] và thấp hơn kết quả nghiên cứu của Hoàng Thị Hiền

(52,9%) [4]. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy mặc dù tỷ lệ điều dưỡng có kiến thức và thái độ về VSTTQ đúng

khá cao với 78% và 97,3% nhưng tỷ lệ điều dưỡng có thực hành tuân thủ VSTTQ lại rất thấp (14,2%). Điều này

cho thấy lý do dẫn đến thực trạng điều dưỡng tuân thủ VSTTQ còn thấp không phải chỉ do kiến thức hay thái độ

mà còn vì những nguyên nhân khác. Đây cũng là hạn chế của nghiên cứu khi không tiến hành nghiên cứu định tính

để tìm hiểu những yếu tố cản trở việc tuân thủ VSTTQ của người điều dưỡng. Nhóm nghiên cứu khuyến nghị lãnh đạo bệnh viện nên có những nghiên cứu sâu hơn để tìm nguyên nhân và cần phải có những giải pháp để điều

dưỡng tuân thủ việc rửa tay thường quy nhằm đảm bảo an toàn cho bệnh nhân và cho chính họ tránh phơi nhiễm

vi khuẩn gây bệnh.

4.3. Một số yếu tố liên quan đến thực trạng tuân thủ

vệ sinh tay thường quy của đối tượng nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu chúng tôi cho thấy nhóm điều dưỡng trên 30 tuổi có khả năng thực hành tuân thủ VSTTQ cao hơn 3,43 lần so với nhóm điều dưỡng từ 30

20

tuổi trở xuống (OR=3,43; 95%CI: 1,48-7,94; p<0,01). Mối liên quan giữa nhóm tuổi và thực hành tuân thủ

VSTTQ cũng được tìm thấy trong nghiên cứu của Hoàng Thị Hiền. Tuy nhiên, có sự khác biệt: kết quả của Hoàng

Thị Hiền cho thấy nhóm tuổi nhỏ hơn hoặc bằng 30 tuổi có khả năng tuân thủ vệ sinh tay cao gấp 4,6 lần so với

nhóm trên 30 tuổi (OR=4,6; 95%CI: 1,1-21,8; p<0,05) [4]. Theo chúng tôi, các điều dưỡng đã có kinh nghiệm,

được tiếp xúc với các kỹ thuật cao và phức tạp hơn nhóm điều dưỡng trẻ, họ được tập huấn, nghiên cứu thêm tài

liệu nên ý thức được tầm quan trọng của việc vệ sinh tay thường quy hơn người trẻ.

Chúng tôi cũng tìm thấy mối liên quan giữa thâm niên công tác với tuân thủ VSSTTQ của đối tượng nghiên

cứu: những điều dưỡng làm việc từ 5 năm trở lên có khả năng tuân thủ VSTTQ cao gấp 4,10 lần những điều dưỡng có kinh nghiệm dưới 5 năm. Mối liên quan này có ý nghĩa thống kê với p<0,01. Kết quả này của chúng tôi

khác với kết quả một số nghiên cứu trước đây như nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Huyền và Hoàng Thị Hiền [4]

[5]. Nghiên cứu của hai tác giả trên chưa tìm thấy mối liên quan giữa thâm niên công tác và tuân thủ vệ sinh tay thường quy.

Nghiên cứu của chúng tôi chưa tìm được mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa giới với tuân thủ VSTTQ

21

của đối tượng nghiên cứu (p>0,05). Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Phùng Văn Thuỷ năm 2014 [9].

Nghiên cứu của Hoàng Thị Hiền chỉ ra mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa thái độ và tuân thủ vệ sinh tay

thường quy. Đối tượng có thái độ không tích cực có khả năng không tuân thủ VSTTQ cao gấp 2,7 lần so với

nhóm có thái độ tích cực. (OR=2,7; 95%CI: 1,1-6,6; p<0,05) [4]. Tuy nhiên nghiên cứu của chúng tôi chưa

tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa thái độ và việc tuân thủ vệ sinh tay thường quy.

Chúng tôi cứu chưa tìm được mối liên quan giữa kiến thức với thực hành VSTTQ của đối tượng nghiên cứu.

Nghiên cứu của Phùng Văn Thuỷ cho kết quả nhân viên y tế có kiến thức về VSTTQ đạt thì có khả năng có thực

hành đạt cao hơn so với nhóm có kiến thức chưa đạt (p<0,05) [9].

Nghiên cứu chưa tìm được mối liên quan giữa nhu cầu tập huấn và khối làm việc với thực hành tuân thủ

VSTTQ của đối tượng nghiên cứu (p>0,05)

Nghiên cứu của chúng tôi chưa tìm được mối liên

quan giữa trình độ học vấn với thực hành tuân thủ VSTTQ của điều dưỡng viên. Nghiên cứu của Phùng Văn Thuỷ thấy có mối liên quan này: nhóm nhân viên y tế có trình độ đại học và sau đại học có khả năng có thực hành VSTTQ đạt cao hơn so với nhóm có trình độ học vấn khác (OR=1,99; 95%CI=1,03-3,87; p<0,05) [9].

22

KẾT LUẬN 1. Thực trạng tuân thủ vệ sinh tay thường quy của

điều dưỡng bệnh viện Hữu Nghị năm 2019 Thực hành tuân thủ vệ sinh tay thường quy của

điều dưỡng bệnh viện Hữu Nghị năm 2019 còn thấp. Tỷ lệ cơ hội vệ sinh tay được tuân thủ là 65,8%. Tỷ lệ quy

trình vệ sinh tay được tuân thủ là 40,3%. Tỷ lệ điều dưỡng tuân thủ vệ sinh tay thường quy chỉ chiếm 14,2%.

2. Một số yếu tố liên quan đến thực trạng tuân thủ vệ sinh tay thường quy của đối tượng nghiên cứu Các kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy các yếu tố liên quan đến thực trạng tuân thủ vệ sinh tay

thường quy của điều dưỡng là: - Tuổi: lứa tuổi >30 có khả năng tuân thủ vệ sinh tay

thường quy cao hơn (OR=3,43; 95%CI: 1,48-7,94; p<0,05). - Thâm niên công tác: người đã công tác >5 năm có khả năng tuân thủ vệ sinh tay thường quy cao hơn (OR=4,1;

95%CI: 1,65-10,16; p<0,05). Chúng tôi chưa tìm thấy mối liên quan giữa các

yếu tố giới, trình độ học vấn, kiến thức, thái độ, khối làm việc và buổi quan sát với thực trạng tuân thủ vệ sinh tay thường quy của điều dưỡng bệnh viện (p>0,05).

23

KHUYẾN NGHỊ

Từ kết quả nghiên cứu, để nâng cao chất lượng

thực hành về tuân thủ VSTTQ của điều dưỡng tại bệnh viện Hữu Nghị, chúng tôi đưa ra một số khuyến nghị sau: 1. Tổ chức tập huấn cho điều dưỡng viên về vệ sinh tay thường quy, tập trung vào các nội dung điều dưỡng

viên còn kiến thức chưa tốt (dung dịch rửa tay ở từng thời điểm) và thực hành chưa tốt (một số thời điểm có tỷ

lệ tuân thủ thấp)

2. Trang bị đầy đủ dung dịch vệ sinh tay tại các khu vực quy định, bổ sung kịp thời dung dịch vệ sinh tay khi đã sử dụng hết. Cung cấp nước sạch và khăn lau tay tại

các bồn rửa. Bổ sung các hướng dẫn thực hành vệ sinh tay để nhân viên chú ý khi thực hành chăm sóc người

bệnh.

3. Dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hội đồng: tổ chức kiểm tra theo kế hoạch và đột xuất ở các khoa trọng điểm có nguy cơ cao nhiễm khuẩn bệnh viện. Thành viên đoàn

kiểm tra gồm: Thành viên Hội đồng KSNK trực tiếp phụ trách, Khoa KSNK, Mạng lưới KSNK tại các khoa đi

kiểm tra chéo.

4. Lắp đặt camera giám sát tại một số vị trí để bảo đảm chất lượng tuân thủ VSTTQ, có phản hồi kết quả tới các bộ phận để chấn chỉnh, khắc phục kịp thời tình trạng tuân thủ VSTTQ.