ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN QUỐC KHÁNH
Yếu tố ca dao trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn (Trên 3 bình diện: thể thơ, giọng điệu và hệ thống đề tài) LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
HÀ NỘI, 2008
Mục lục
Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 3
3. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu 8
4. Nhiệm vụ của đề tài 9
5. Đóng góp của luận văn 9
6. Cấu trúc của luận văn 10
Phần nội dung
Chương 1: Vài nét về tiến trình của thể lục bát từ ca dao đến thơ hiện đại
11 1.1 Mối liên hệ giữa văn học dân gian và văn học viết
11 1.1.1 Khái niệm văn học dân gian
13 1.1.2 Sự hình thành của dòng văn học viết
1.2 Sự xuất hiện của ca dao với tư cách là thể loại của
14 văn học dân gian
14 1.2.1 Các hình thức sinh hoạt trong ca dao, dân ca
14 1.2.1.1 Sinh hoạt lao động
16 1.2.1.2 Sinh hoạt gia đình và xã hội
17 1.2.1.3 Sinh hoạt nghi lễ
18 1.2.2 Lục bát là thể thơ được dùng chủ yếu trong ca dao
18 1.2.2.1 Thể lục bát
20 1.2.2.2 Thể song thất lục bát
21 1.2.2.3 Biến thể lục bát
21 1.2.2.3.1 Dòng lục thay đổi dòng bát giữ nguyên
1.2.2.3.2 Dòng lục giữ nguyên, dòng bát thay đổi 21
1.2.2.3.3 Cả hai dòng đều thay đổi 21
1.3 Thể lục bát từ ca dao đến thơ trung đại 22
1.3.1 Những yếu của tiếng Việt là điều kiện nội tại cho
sự hình thành thể thơ 22
1.3.2 Thể thơ lục bát trong văn học Trung đại đã đạt đến mẫu mực 25
1.3.2.1 Quá trình tìm tòi và định hình các hệ thống chuẩn mực 25
1.3.2. "Truyện Kiều" của Nguyễn Du đã đạt đến độ mẫu mực 30
1.4 Thể lục bát từ ca dao đến thơ Đồng Đức Bốn 31
Chương 2: yếu Tố ca dao trong thơ lục bát Đồng đức bốn trên bình diện giọng điệu
39 2.1 Xung quanh khái niệm giọng điệu trong văn học
39 2.1.1 Quan niệm về giọng điệu của các nhà nghiên cứu
39 2.1.1.1 Quan niệm của nhà phê bình văn học Hoài Thanh
42 2.1.1.2 Quan niệm của nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến
43 2.1.1.3 Quan niệm của nhà nghiên cứu Trần Đình Sử
45 2.1.2 Định nghĩa đầy đủ về "giọng điệu"
2.2 Một số đặc trưng trong giọng điệu thơ lục bát Đồng Đức Bốn 48
48 2.2.1 Giọng thở than, tê tái
2.2.1.1 Cơ sở của giọng thở than tê tái
48
2.2.1.2 Đồng Đức Bốn kế thừa cách tổ chức sắc điệu của giọng thở than
49 tê tái trong ca dao
2.2.1.3 Diện mạo sắc điệu thở than tê tái trong thơ
Đồng Đức Bốn 52
2.2.2 Chất "giọng quê mùa" được tạo nên bởi hệ thống thi liệu 58
Chương 3: Yếu tố ca dao trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn trên bình diện hệ thống đề tài
3.1 Thiên nhiên nơi thôn quê 64
3.1.1 Đường quê 65
3.1.2 Cánh đồng với mưa, nắng, gió chốn nhà quê 66
3.1.3 Trăng, sao chốn nhà quê 68
3.1.4 Những cánh diều quê 69
3.1.5 Sông quê, đò quê 70
3.1.6 Đình quê, chùa quê 72
3.1.7 Mái nhà và mảnh vườn quê 74
3.1.8 Cây cối, hoa, cỏ nhà quê 76
3.1.9 Những con vật gần gũi với người dân quê 78
3.2 Cuộc sống và con người nơi thôn quê 80
3.2.1 Cuộc sống lam lũ nơi làng quê 80
3.2.2 Những con người nơi thôn quê 84
Phần kết luận 92
Thư mục tài liệu tham khảo
95
Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Có thể nói rằng kho tàng ca dao là suối nguồn vô tận đối với thơ
ca hiện đại. Rất nhiều nhà thơ đã thành danh với thể thơ lục bát – một thể
thơ chủ yếu của ca dao truyền thống.
Kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là sự khẳng định ưu
thế tuyệt đối của thể thơ này trong nền thơ ca dân tộc. Trước Nguyễn Du,
thể song thất lục bát cũng đã sản sinh ra hai tác phẩm bất hủ, đó là Cung
oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều và Chinh phụ ngâm (bản dịch của Đoàn
Thị Điểm). Có lẽ vì thế mà nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng lục bát là thể
thơ thể hiện rõ nhất tinh hoa của tiếng Việt.
Đúng như nhà nghiên cứu Nguyễn Phan Cảnh trong cuốn Ngôn ngữ
thơ đã nhận xét: “… trong suốt nhiều thế hệ nghệ sĩ, văn hóa dân gian đã
luôn là nguồn cảm hứng, là tiền đề kĩ thuật cho mọi loại hình nghệ thuật…
và chẳng phải Truyện Kiều như là đỉnh cao của thi ca cổ điển đã được viết
bằng những câu ca dao dân dã đó sao” [3, 200].
1.2 Tiếp nối dòng chảy quá khứ, thơ ca hiện đại lại đóng góp những
tên tuổi lớn như: Tố Hữu, Nguyễn Bính, Nguyễn Duy, Bùi Giáng, Phạm
Công Trứ, Đồng Đức Bốn… trong đó, Đồng Đức Bốn là một cái tên xuất
hiện khá muộn trên thi đàn. Tuy xuất hiện khá muộn màng và cũng không
ồn ào nhưng Đồng Đức Bốn đã tìm cho mình một chỗ đứng riêng trong
làng thơ lục bát. Để cho thật khách quan, chúng tôi xin trích dẫn những lời
nhận xét của nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình, nghiên cứu về hiện
tượng Đồng Đức Bốn:
• “Đồng Đức Bốn là một nhà thơ khai sáng và sáng tạo ra những cái
mới trong thơ lục bát”, “Đồng Đức Bốn là người tự dưng đốn ngộ với riêng
1
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGUYỄN QUỐC KHÁNH thể thơ lục bát. Đó là ân huệ trời dành riêng cho anh”, “Đồng Đức Bốn vị
cứu tinh của thơ lục bát” – Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp [62, 533].
• “Một mình Đồng Đức Bốn đã làm một cuộc trường chinh. Gã xông
thẳng vào trận địa lục bát và chỉ một thời gian ngắn, Đồng Đức Bốn trở
thành ông vua trẻ của thể loại này” – Nhà thơ Phạm Tiến Duật [62, 695].
• “Thơ lục bát Đồng Đức Bốn đẹp vẻ đẹp rất mộc của thơ ca dân gian,
của những câu ca dao mà ta đọc trong mọi thế hệ, đọc trong cả cuộc đời mà
ta vẫn phải giật mình” – Tiến sĩ Đoàn Hương [62, 661].
• “Cái còn lại sau cuộc dấn thân ấy là những trải nghiệm… cái còn lại
sau những trải nghiệm đầy đau đắng ấy là thơ… Cái còn lại trong thơ Đồng
Đức Bốn ấy là lục bát” – Nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp [62, 465].
Qua những nhận định trên đây có thể thấy Đồng Đức Bốn là nhà thơ
có tài, đặc biệt là ở thể loại lục bát. Nhắc đến thơ Đồng Đức Bốn là người
ta nhắc đến những vần thơ lục bát độc đáo của anh.
1.3 Đồng Đức Bốn đã tìm cho mình một vị trí xứng đáng trong làng
thơ Việt Nam. Thơ anh được nhiều người đọc và thuộc làu, có lẽ cũng bởi
sự độc đáo mới lạ và tất nhiên phải hay đã. Tuy độc đáo mới lạ nhưng vẫn
chảy trong mạch nguồn thơ ca dân tộc.
Vậy điều gì đã tạo nên cho thơ lục bát Đồng Đức Bốn sự hấp dẫn đến
kì lạ ấy. Theo chúng tôi, yếu tố ca dao (thể thơ, giọng điệu, hệ thống đề tài)
chính là nền tảng tạo nên sức lôi cuốn của lục bát Đồng Đức Bốn. Nhiều
người vẫn nói đến chất dân gian hoặc cái hay của thơ lục bát Đồng Đức
Bốn nhưng chưa ai tìm hiểu cụ thể xem chất dân gian ấy là gì cũng như
những đóng góp về thể loại trong thơ anh. Trong luận văn này, chúng tôi có
tham vọng giải mã hiện tượng Đồng Đức Bốn trên cơ sở nghiên cứu yếu tố
ca dao (thể thơ, giọng điệu và hệ thống đề tài) trong thơ lục bát của anh.
Ngoài ra, chúng tôi cũng mong muốn đóng góp một hướng đi mới trong
việc giải mã những tác giả nổi tiếng khác như: Nguyễn Bính, Phạm Công
2
Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Quốc Khánh Trứ, Nguyễn Duy… thông qua việc tìm hiểu, so sánh và đối chiếu những
bình diện này trong thơ lục bát và trong ca dao.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu về thơ lục bát Đồng Đức Bốn hiện nay chỉ
tồn tại dưới dạng các bài viết, các bài phê bình, phân tích ngắn mà chưa có
một chuyên luận hay bài nghiên cứu nào đi sâu khai thác yếu tố ca dao
(trên ba bình diện: thể thơ, giọng điệu và hệ thống đề tài) trong thơ lục bát
Đồng Đức Bốn. Trên cơ sở nguồn tư liệu bao quát được và trong phạm vi
quan tâm của đề tài, bước đầu, chúng tôi rút ra một số nhận xét sau:
2.1 Các bài viết về nhà thơ Đồng Đức Bốn chủ yếu xoay quanh một số
khía cạnh như: tài năng bẩm sinh của nhà thơ, nét độc đáo, chất thơ mộc
mạc, cá tính nghệ sĩ, giọng điệu hay chất dân gian (mới chỉ là nêu lên vấn
đề chứ chưa đi sâu vào việc nghiên cứu).
Như vậy, chưa có một chuyên luận nào hay thậm chí một bài viết nào
tìm hiểu yếu tố ca dao (thể thơ, giọng điệu và hệ thống đề tài) trong thơ lục
bát Đồng Đức Bốn.
2.2 Chúng tôi xin thống kê các bài viết về Đồng Đức Bốn được đăng
và in trên các sách báo gần đây để thấy rõ sự thiếu vắng cũng như vai trò
quan trọng của đề tài này trong việc giải mã Đồng Đức Bốn:
Đồng Đức Bốn vị cứu tinh của thơ lục bát (Nguyễn Huy Thiệp).
Đồng Đức Bốn - Kẻ mượn bút của trời (Đỗ Minh Tuấn).
Múa võ trong không gian hẹp (Lê Quang Trang).
Đồng Đức Bốn – phiêu du vào lục bát (Nguyễn Đăng Điệp).
Những câu thơ tình tang quê mùa (Đoàn Hương).
Đọc thơ lục bát của Đồng Đức Bốn (Nguyễn Thị Anh Thư).
Đồng Đức Bốn – người cày ruộng trên cánh đồng nhớ thương
(Nguyễn Văn Quân).
Đồng Đức Bốn – tiếng chuông chùa kêu trong mưa (Khánh Phương).
Đóng gạch nơi nao? (Phạm Tiến Duật).
3
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH
Nhà thơ Đồng Đức Bốn nhàu nát và trau chuốt (Trần Huy Quang).
Đồng Đức Bốn – tựa bão để sống làm người (Nguyễn Anh Quân).
Lục bát tình của Đồng Đức Bốn (Vĩnh Quang Lê).
Có phải như thế không (Thanh ứng).
Đồng Đức Bốn – thi sĩ đồng quê (Băng Sơn).
Tản mạn sau thơ Đồng Đức Bốn (Trần Thị Trường).
Lục bát Đồng Đức Bốn – còn một cõi không? (Nguyễn ánh Ngân).
Chờ đợi tháng ba Đồng Đức Bốn (Chu Nguyễn).
Đến với bài thơ hay (Chử Văn Long).
Chăn trâu đốt lửa (Nguyễn Chu Nhạc).
Đồng Đức Bốn – chàng thi sĩ đồng quê (Nguyễn Thành Phong).
Đồng Đức Bốn – một câu chuyện hoang đường (Vũ Dũng).
Nhà thơ Đồng Đức Bốn – một tài năng ngang tàng (Lê Lựu).
Đồng Đức Bốn tìm những câu thơ buồn trong gió (Văn Chinh).
Trong phần thống kê này, chúng tôi nhận thấy không có nhiều bài viết
đề cập đến chất dân gian, chất đồng quê của Đồng Đức Bốn, nếu có chỉ là
đề cập ở mức độ nêu hiện tượng chứ chưa đi sâu vào bản chất vấn đề.
Trong bài viết: Đồng Đức Bốn vị cứu tinh của thơ lục bát, tác giả
Nguyễn Huy Thiệp có viết: “Đồng Đức Bốn đã từng nhận nhiều giải
thưởng trong các cuộc thi của báo Văn nghệ, tạp chí Văn nghệ Quân đội và
báo Tiền phong. Anh là người sở trường làm thơ lục bát. Có lẽ anh là người
làm thơ lục bát hay nhất trong khoảng 50 năm trở lại đây ở nước ta, kể từ
khi Nguyễn Bính – một nhà thơ chân quê đồng thời cũng là một thi sĩ đệ
nhất lãng tử giang hồ qua đời”.
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã đánh giá Đồng Đức Bốn là người làm
thơ lục bát hay nhất trong vòng 50 năm trở lại đây, điều này chúng tôi hoàn
toàn đồng tình, không phải vì những giải thưởng danh giá mà anh đã đạt
được mà là ở chính những cảm nhận mang tính cá nhân của mình. Bài viết
còn đề cập đến hình ảnh nông thôn trong thơ Đồng Đức Bốn, vẫn là những
4
Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Quốc Khánh thôn Đoài, thôn Đông, vẫn là cái ngậm ngùi của sự nghèo nàn và mất mát
khiến lòng ta nhói đau nhưng trong thơ Đồng Đức Bốn nó lại mang một
màu sắc khác. Trong cái chung, cái phổ biến ấy ta vẫn dễ dàng nhận thấy
cái mới lạ, độc đáo riêng biệt của thơ anh.
Trong bài viết của mình, Nguyễn Huy Thiệp đã nêu lên tính đặc trưng
của thơ lục bát là dễ làm, khó hay. “Có thể nói thơ lục bát là một thể thơ
nôm na cổ truyền đặc trưng Việt Nam. Người Việt Nam vị tình. Thơ lục bát
cũng là một thể thơ vị tình. Nó gần gũi với lối sống, nếp nghĩ của người
nông dân Việt Nam thật thà, chất phác, thơ lục bát rất dễ làm nhưng chính
vì thế mà khó hay… Đồng Đức Bốn là người tự dưng đốn ngộ với thể thơ
lục bát” – Nguyễn Huy Thiệp.
Tổng hợp lại bài viết của Nguyễn Huy Thiệp có mấy ý chính sau:
- Thơ lục bát Đồng Đức Bốn hay.
- Tài năng thơ của anh ấy giống như là trời cho cái “lộc” vậy.
- Thơ Đồng Đức Bốn thường có chủ đề quay lại với các giá trị văn hóa
cổ truyền.
- Đề tài làng quê trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn có nhiều nét mới và
độc đáo.
Như vậy, một số bài viết đã bắt đầu quan tâm đến vấn đề thể loại và
mối liên hệ mật thiết giữa thơ lục bát Đồng Đức Bốn và dòng chảy bắt
nguồn từ truyền thống. Tuy nhiên, chưa có vấn đề nào được nghiên cứu
sáng tỏ và rõ ràng, đây là những vấn đề còn để ngỏ.
Nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp cũng đánh giá rất cao thơ lục bát
Đồng Đức Bốn.
“Từ lục bát của ca dao, Nguyễn Du đã tạo nên một đột biến: “Khi
Nguyễn Du viết Truyện Kiều đất nước biến thành văn” (Chế Lan Viên).
Thể thơ dân tộc này hiện hình một cách tài hoa qua “khối tình lớn – khối
tình con” Tản Đà rồi chia thành hai ngả trong Thơ mới: Cái chân quê trong
sáu – tám của Nguyễn Bính và cái hàm súc cổ điển trong thơ Huy Cận.
5
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGUYỄN QUỐC KHÁNH Hiện giờ ngoài cái “thượng thừa” của Bùi Giáng, lục bát sống trong hồn
Nguyễn Duy, rồi Đồng Đức Bốn… Làm được lục bát hóa ra là việc khó
khăn… Là một thể loại ai cũng quen mặt, ai cũng thuộc tên, nếu không có
cái mới, lập tức kẻ làm thơ sẽ bị đuổi khỏi chiếu. May thay, Đồng Đức Bốn
đã trụ lại được”.
Trong phần đánh giá này, nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp đã lựa
chọn những tên tuổi mà ông cho là sáng giá nhất trong làng thơ lục bát Việt
Nam, trong đó có cái tên Đồng Đức Bốn. Phần cuối bài viết có nhấn mạnh,
Đồng Đức Bốn rồi cuối cùng cũng trở về với ca dao, với tình đời dù cay
đắng nhưng vẫn ngọt ngào. Cái chất dân gian trong thơ Đồng Đức Bốn cuối
cùng vẫn là cầu nối anh với thế hệ độc giả bây giờ. Dù có thế nào đi chăng
nữa thì khuynh hướng sáng tác của Đồng Đức Bốn vẫn là trở về với cội
nguồn.
Tiến sĩ Đoàn Hương thì đề cập ngay đến chất dân ca, ca dao trong thơ
lục bát Đồng Đức Bốn ở phần đầu của bài viết Những câu thơ tình tang quê
mùa. Đây là bài viết có phân tích khá kỹ những chất quê trong thơ Đồng
Đức Bốn, ấy chẳng phải là mạch nguồn cảm hứng của nhà thơ đó sao. Đọc
thơ lục bát của anh ta dễ để tâm hồn lắng đọng và miên man về quá khứ
như Tiến sĩ Đoàn Hương đã nhận xét: “Đọc thơ Đồng Đức Bốn tôi như một
kẻ đánh mất quê được trở về quê. Đọc thơ Đồng Đức Bốn để ta tìm thấy
quê, trở về với quê hương trong tâm tưởng của ta. Đây là những bài viết mà
chúng tôi cho là đã bước đầu nêu lên mối quan hệ mật thiết giữa thơ lục bát
và kho tàng ca dao, dân ca.
2.3 Từ những khảo sát trên đây, có thể thấy, cho đến nay chưa có một
công trình nghiên cứu một cách hệ thống “yếu tố ca dao trong thơ lục bát
Đồng Đức Bốn (trên ba bình diện: thể thơ, giọng điệu và hệ thống đề tài)”.
Ai cũng biết thơ lục bát thật dễ làm nhưng để hay và đi vào lòng
người đọc thì quả thực đã làm nhiều cây bút phải nản lòng vì điều đó thật
không dễ chút nào. Bằng chứng là nếu kể tên các nhà thơ hiện đại Việt
6
Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Quốc Khánh Nam thành công ở thể loại này có lẽ chỉ đếm được trên đầu ngón tay:
Nguyễn Bính, Nguyễn Duy, Bùi Giáng, Phạm Công Trứ... Chính vì thế
mà những đóng góp của Đồng Đức Bốn cho thơ Việt Nam hiện đại là
điều hết sức đáng quý.
Đồng Đức Bốn là nhà thơ sử dụng nhiều lối nói dân gian, có cái gì vừa
thô mộc, vừa hoang dại lại rất ý tứ, ẩn chứa những triết lí sâu xa. Ta có thể
thấy rất nhiều câu thơ mà anh sử dụng nhuần nhuyễn thành ngữ như thế
nào. Bên cạnh đó, những hình ảnh quen thuộc ở vùng nông thôn như con
cò, con vạc, cánh diều, cánh đồng, đường làng xuất hiện với tần số cao
trong thơ anh:
Ngang trời tiếng vạc mảnh mai
Chém trăng đã đứt thành hai mảnh rồi
Mảnh nào em để cho tôi
Khi buồn chỉ đặt ngang môi làm kèn
(Cái đêm em ngủ với chồng)
Rồi thì:
Không em ra ngõ kéo diều
Nào ngờ được mảnh trăng chiều trong mây
Luồn kim vào nhớ để may
Chỉ yêu cứ đứt trên tay mình cầm
(Sông Thương ngày không em)
Thành ngữ là một nhóm từ có kết cấu chặt, khó phá vỡ. Đó là cách
nói ví von mà dân ta thường dùng làm cho ý diễn tả ngắn gọn, bóng bảy, cô
đọng, dễ hiểu, giàu sức thuyết phục và Đồng Đức Bốn đã sử dụng một cách
linh hoạt để những câu thơ lục bát của mình mang ý nghĩa tượng trưng cao,
và qua đó ý nghĩa của nó cũng được mở ra nhiều chiều.
Không còn nghi ngờ gì nữa, anh là nhà thơ xuất sắc của nền thi ca
Việt Nam đương đại, Đồng Đức Bốn và những dòng lục bát của mình đã lại
7
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGUYỄN QUỐC KHÁNH một lần nữa cho thấy thể thơ lục bát quả thực là ưu thế của tiếng Việt.
Những vần thơ của anh cứ như từ ca dao, dân ca mà đi ra, nó khiến người
đọc như bị bỏ bùa, bởi sự giản dị và gần gũi đầy lôi cuốn. Thơ lục bát đúng
là hồn Việt và Đồng Đức Bốn là một thi sĩ Việt Nam đến tận cùng sâu
thẳm. Anh làm thơ lục bát như rong chơi, như tình cờ, như bất chợt rút câu
thơ sáu tám ra khỏi túi áo, những câu thơ mơ ngủ được đánh thức cho bật
lên sống động, mà anh chẳng tốn bao công sức, chẳng cần gọt giũa, chẳng
cầu kì, kĩ thuật. Những câu thơ lục bát của anh cứ đọng lại và vang vọng
trong tâm hồn đến nỗi ta cứ có cảm giác đã nghe chúng ở một nơi nào đó,
nhưng thực ra lại chưa hề.
Cũng có nhiều ý kiến cho rằng thơ anh còn gai góc, còn thô mộc, còn
có vẻ gì chất phác, ngô nghê nhưng cũng phải nói rằng đó chính là điểm
mạnh trong thơ của anh. Cái mộc của vẻ đẹp văn nghệ dân gian thoáng nhìn
thì có vẻ thô mộc đấy nhưng lại không dễ dàng có được. Con người và xã
hội càng tiến lên, càng văn minh thì lại càng mơ về cái mộc tinh chất ấy của
dân tộc nếu không nói là cái mộc ấy cũng phải học mới có được. Giống
như một nhà văn lão luyện mà viết truyện thiếu nhi ấy, họ phải viết sao cho
thật hồn nhiên, ngây thơ, dễ hiểu và lúc này cái kinh nghiệm trẻ con mới
cần phát huy tối đa. Thế chẳng phải là cái hồn nhiên đầy kinh nghiệm đó
sao.
Không thể phủ nhận một điều rằng thơ của anh hay và có nói gì thì
nói một nhà thơ thành công, có nghĩa là thơ của anh ta phải được nhiều
người thuộc, nhiều người thích. Thơ Đồng Đức Bốn đã đáp ứng một cách
đầy thuyết phục tiêu chí này. Không những thế anh còn được coi là người
tiếp nối dòng chảy dân gian trong thơ ca và có những đóng góp không nhỏ
trên thi đàn.
3. Đối tƣợng, phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
8
Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “yếu tố ca dao trong thơ lục bát
Đồng Đức Bốn” trên ba bình diện: thể thơ, giọng điệu và hệ thống đề tài.
Như vậy, chúng tôi chỉ khảo sát thơ lục bát Đồng Đức Bốn, còn các sáng
tác của anh thuộc thể loại khác như tự do, ngũ ngôn… chúng tôi không đề
cập trong luận văn này.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các bài thơ lục bát của Đồng Đức
Bốn nằm rải rác trong các tập thơ mà anh đã in:
- Con ngựa trắng và rừng quả đắng (NXB Văn học, 1992)
- Chăn trâu đốt lửa (NXB Lao động, 1993)
- Trở về với mẹ ta thôi (NXB Hội nhà văn, 2000)
- Cuối cùng vẫn còn dòng sông (NXB Hội nhà văn, 2000)
- Chuông chùa kêu trong mưa (NXB Hội nhà văn, 2002)
- Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc (NXB Hội nhà văn, 2006)
3.3 Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết tốt nhiệm vụ khoa học của đề tài, chúng tôi sử dụng
một số phương pháp chủ yếu như:
Phương pháp thống kê
Phương pháp so sánh, đối chiếu
Phương pháp phân tích, tổng hợp
Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Phương pháp cấu trúc hệ thống
Phương pháp phân loại
Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp khác (chủ yếu
nằm trong hệ thống các phương pháp nghiên cứu văn học), tuy nhiên chúng
tôi cũng chỉ sử dụng trong một chừng mực nhất định.
4. Nhiệm vụ của đề tài
Đề tài của luận văn đặt ra nhiệm vụ tìm hiểu yếu tố ca dao trong thơ
lục bát Đồng Đức Bốn trên ba bình diện: thể thơ, giọng điệu và hệ thống đề
9
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGUYỄN QUỐC KHÁNH tài. Qua đó, không những lí giải được hiện tượng Đồng Đức Bốn mà còn
chỉ ra sự kế thừa và cách tân so với truyền thống trong thơ lục bát của anh.
5. Đóng góp của luận văn
Mặc dù thời gian gần đây người ta đã đánh giá đúng những gì mà nhà
thơ Đồng Đức Bốn đã đóng góp trên thi đàn, hàng loạt các giải thưởng mà
anh được trao tặng đã nói lên điều đó, song nhiều vấn đề nghiên cứu về
Đồng Đức Bốn dường như vẫn còn bỏ ngỏ. Vì vậy, chúng tôi muốn tìm
hiểu tác giả này một cách hệ thống hơn và qua đó có thể thấy được phần
tinh túy nhất của thơ anh, nói cách khác là tìm ra được "chất" của Đồng
Đức Bốn. Theo hướng nghiên cứu của đề tài có thể giải mã một số tác giả
sở trường ở thể thơ lục bát khác như: Nguyễn Bính, Nguyễn Duy, Phạm
Công Trứ…
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, luận văn được
triển khai theo ba chương:
Chƣơng 1 - Vài nét về tiến trình của thể lục bát từ ca dao đến
thơ hiện đại
Chƣơng 2 - Yếu tố ca dao trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn trên bình
diện giọng điệu
Chƣơng 3 - Yếu tố ca dao trong thơ Đồng Đức Bốn trên bình diện
hệ thống đề tài
10
Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh
Phần nội dung
CHƢƠNG 1
Vài nét về tiến trình của thể lục bát từ ca dao đến thơ hiện đại
1.1 Mối liên hệ giữa Văn học dân gian và Văn học viết
1.1.1 Khái niệm văn học dân gian
Theo một số nhà nghiên cứu văn học Việt Nam thì trước những năm
50 của thế kỷ XX, khái niệm Văn học dân gian được gọi là “văn chương
truyền khẩu”, “văn nghệ dân gian”, “sáng tác dân gian”… Chúng ta có thể
nhầm lẫn giữa các khái niệm mà thoạt nghe có vẻ không khác nhau là mấy
như “văn hóa dân gian”, “văn nghệ dân gian”… Tuy nhiên, giữa văn học
dân gian với văn hóa dân gian và giữa thành phần ngôn ngữ với các thành
phần nghệ thuật khác trong nội bộ văn học dân gian có những mối quan hệ
hữu cơ hết sức chặt chẽ. Vì thế, văn học dân gian có vị trí đặc biệt trong
nền văn hóa dân gian và trong hệ thống các loại hình nghệ thuật.
ở phương Tây, người ta dùng thuật ngữ Folklore dùng để chỉ những di
tích của nền văn hóa vật chất và chủ yếu là những di tích của nền văn hóa
tinh thần của nhân dân có liên quan với nền văn hóa vật chất như: phong
tục, đạo đức, ca dao, việc cúng tế… của các thời trước. Ngay cả thuật ngữ
này cũng được hiểu theo hai khuynh hướng. Khuynh hướng thứ nhất hiểu
Folklore là tất cả các hiện tượng của nền văn hóa tinh thần và thậm chí cả
một số hình thức của nền văn hóa của nhân dân. Khuynh hướng thứ hai
muốn giới hạn thuật ngữ đó và coi Folklore là những sáng tác ngôn từ
truyền miệng, tức là chỉ văn học dân gian.
Nhà nghiên cứu của Nga là V. Guxep cho rằng nếu hiểu Folklore là
văn học dân gian thì coi như ta đã cố tình thu hẹp phạm vi của khái niệm
này. Ông cho rằng phải định nghĩa Folklore như một lĩnh vực đặc biệt
trong nghệ thuật dân gian và thuật ngữ Folklore không biểu thị toàn bộ
11
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGUYỄN QUỐC KHÁNH nghệ thuật dân gian nói chung mà chỉ biểu thị cái lĩnh vực trong nghệ thuật
dân gian.
Như thế khái niệm văn học dân gian không tương đồng với thuật ngữ
Folklore mà nó chỉ là một bộ phận trong đó. Vấn đề ở đây là cả phương
Đông lẫn phương Tây nhìn nhận văn học dân gian là khởi nguồn cho sự
phát triển văn học sau này.
Các nhà nghiên cứu đều đi đến kết luận rằng, mối quan hệ thẩm mĩ
đối với thực tại nói chung và văn học nghệ thuật nói riêng ra đời và tồn tại
với tư cách là một hình thức hoạt động tinh thần tương đối độc lập, suy cho
đến cùng không đối lập mà có mối quan hệ không thể chia cắt được với
thực tiễn hoạt động và với sự nhận thức của con người về thế giới xung
quanh. ở văn học dân gian, mối quan hệ đó biểu hiện ra một cách đặc biệt
rõ ràng. Điều này có nguyên nhân ở nguồn gốc cổ sơ và điều kiện tồn tại
của văn học dân gian trong suốt quá trình phát triển lịch sử của nó.
“Văn học dân gian là sáng tác tập thể, truyền miệng của nhân dân lao
động, ra đời từ thời kỳ công xã nguyên thủy, trải qua các thời kỳ phát triển
lâu dài trong các chế độ xã hội có giai cấp, tiếp tục tồn tại trong thời đại
hiện nay” [24, 7].
Một tính chất quan trọng của văn học dân gian, đó là tính chất nhiều
chức năng. Trong văn học dân gian, chức năng “nhận thức”, chức năng
“giáo dục”, chức năng “thẩm mĩ” và chức năng “sinh hoạt” hợp thành một
thể thống nhất. Lê - nin đã chỉ ra, trong văn học dân gian có sự thể hiện
“thế giới quan”, “những mong chờ và khát vọng” của quần chúng, “tâm
hồn của nhân dân” và đã xem văn học dân gian là một trong những hình
thức biểu hiện của “những tư tưởng triết học nhân dân”.
Cho dù là dòng văn học thời kỳ sơ khai của loài người nhưng văn học
dân gian đã mang gần như đầy đủ các yếu tố và bản chất của văn học.
Chính mối quan hệ với hoạt động thực tiễn và tính nguyên hợp về hình thái
ý thức xã hội bao giờ cũng làm cho văn học dân gian sinh động và đa dạng.
12
Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Quốc Khánh Cuộc sống văn học dân gian không phải là cuộc sống dưới hình thức văn
bản, cuộc sống của văn học dân gian phải là cuộc sống gắn liền với một
môi trường sinh hoạt nhất định của văn hóa dân gian. Do đó cuộc sống của
văn học dân gian được biểu hiện ra thành vô số hình thức sinh hoạt, những
hình thức sinh hoạt này cũng phong phú, đa dạng như bản thân những hình
thức sinh hoạt trong đời sống thực tiễn của nhân dân.
1.1.2 Sự hình thành của dòng văn học viết
Văn học dân gian luôn đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền văn
học dân tộc. Trong thời kỳ dân tộc chưa có chữ viết hoặc chữ viết chưa phổ
cập, nó có đóng góp lớn trong việc giữ gìn và phát triển ngôn ngữ dân tộc,
nuôi dưỡng tâm hồn nhân dân. Tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc của văn
học dân gian từ nội dung đến hình thức có tác dụng to lớn đến sự hình
thành và phát triển của văn học viết.
Văn học viết ra đời vào khoảng thế kỷ X như một bước nhảy vọt của
tiến trình lịch sử văn học dân tộc. Tính đến khoảng đầu thế kỷ XX, văn học
viết gồm hai thành phần song song tồn tại và cũng có quan hệ mật thiết với
nhau, đó là văn chương chữ Hán và văn học viết bằng chữ Nôm.
Ra đời ngay từ buổi đầu của nền văn học viết, văn chương chữ Hán đã
đánh dấu một bước ngoặt trong nền văn học dân tộc. Tuy viết bằng chữ
Hán, nhưng thành phần này vẫn là văn chương Việt Nam, vẫn đậm đà tính
dân tộc. Tuy có chịu ảnh hưởng của văn học Trung Quốc nhưng về cơ bản
vẫn thể hiện được tâm hồn và trí tuệ Việt.
Đến khoảng thế kỷ XIII, văn học viết bằng chữ Nôm (Chữ Nôm – một
cách ghi âm tiếng Việt bằng vật liệu chữ Hán) mới thực sự xuất hiện khi ý
thức dân tộc và tinh thần nhân dân đã phát triển cao hơn ở tầng lớp trí thức.
Thành phần văn học này đã trưởng thành nhanh chóng và sản sinh ra
nhiều tác phẩm lớn, những tên tuổi lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực thơ ca.
Từ khoảng những năm 20 của thế kỉ XX, văn học viết nước ta hầu như chỉ
13
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGUYỄN QUỐC KHÁNH còn được sáng tác bằng tiếng Việt, ghi âm bằng chữ cái Latinh, gọi là chữ
Quốc ngữ thay cho chữ Nôm.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, hai dòng văn học dân gian và văn
học viết luôn có tác động qua lại. Sự kết hợp hài hòa giữ hai dòng văn học
này đã sản sinh ra bao tên tuổi lớn của nền thơ ca dân tộc như Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương và đến thời hiện đại là Nguyễn Bính, Nguyễn
Duy, Phạm Công Trứ, Đồng Đức Bốn (chúng tối muốn nhấn mạnh những
nhà thơ đã thành công ở thể thơ lục bát, trong những sáng tác của họ nhiều
yếu tố của ca dao truyền thống).
1.2. Sự xuất hiện của ca dao với tƣ cách là một thể loại của văn
học dân gian
1.2.1 Các hình thức sinh hoạt trong ca dao, dân ca
Ca hát dân gian là một hình thức sinh hoạt tự nhiên của nhân dân lao
động. Ca dao và dân ca bắt nguồn từ chính các hình thức sinh hoạt ca hát
dân gian. Đây là một hành động sáng tạo nghệ thuật hồn nhiên, một hành
động sáng tạo nghệ thuật mà mục đích chủ yếu là thể hiện ngay tức khắc,
một cách trực tiếp, những tình cảm tự nhiên, những ý nghĩ, thái độ nảy sinh
trực tiếp từ một hoàn cảnh sống, mối quan hệ với thiên nhiên hoặc với con
người. Trong sự đa dạng về các hình thức sinh hoạt ca hát dân gian, chúng
ta có thể phân ra làm ba mảng chính.
1.2.1.1 Sinh hoạt lao động
Các nhà nghiên cứu cho rằng trong số những thể loại dân ca mà nguồn
gốc và chức năng có mối quan hệ hữu cơ và trực tiếp nhất với sinh hoạt lao
động của nhân dân, đầu tiên phải kể đến “hò lao động”. Hoạt động thơ ca của
người nguyên thủy diễn ra trong mối liên hệ chặt chẽ với các quá trình lao
động.
Trong lao động, nhịp điệu đóng vai trò rất quan trọng. Nhịp điệu là
đặc trưng của động tác lao động. Cảm xúc về nhịp điệu nảy sinh ra từ động
14
Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Quốc Khánh tác lao động của con người. Khi ta thành thạo một động tác lao động nào đó
thì cảm xúc về nhịp điệu của ta tăng lên.
Chúng ta có thể khẳng định rằng cảm xúc về nhịp điệu phát sinh và
phát triển trong lao động, đồng thời có tác dụng trở lại đối với lao động.
Trong lĩnh vực nghệ thuật, nhịp điệu là đặc trưng của âm nhạc, nhảy múa
và đóng vai trò quan trọng trong sự cấu thành của thơ ca. Nguyên nhân và
cơ sở ra đời của những bài ca lao động thể hiện rất rõ mối liên quan chặt
chẽ giữa lao động với hoạt động thi ca của người nguyên thủy.
Nhiều công trình nghiên cứu thơ ca các dân tộc đều chứng minh rằng
những bài ca lao động đã được coi như là một trong những phương tiện
nhịp điệu của một số quá trình lao động, nhất là đối với người thời cổ.
Tất nhiên không thể thiếu yếu tố cảm hứng, tuy cảm hứng còn thô
sơ, mộc mạc nhưng nó cũng góp phần làm cho nghệ thuật thăng hoa.
Trong những bài ca lao động không chỉ đơn giản là nhịp điệu của âm
thanh mà còn là sự thể hiện những tư tưởng và tình cảm nhất định,
không chỉ đóng vai trò chỉ huy lao động và phương tiện làm cho động
tác lao động nhịp nhàng mà còn đóng vai trò gây cảm hứng nữa. Chính
chức năng gây cảm hứng, thể hiện những tư tưởng và tình cảm của con
người làm cho những bài ca lao động không chỉ giúp cho việc cải thiện
lao động mà còn là những sáng tác nghệ thuật.
Qua những dẫn chứng trên, chúng ta có thể rút ra kết luận rằng: cũng
như hầu hết các thể loại chính của văn học dân gian, trong những giai đoạn
đầu tiên, các bài hát đã ra đời và tồn tại trong mối quan hệ hữu cơ giữa hoạt
động tinh thần và hoạt động vật chất của con người.
Điều đáng quan tâm là ngay cả trong những giai đoạn phát triển về sau
này, khi mà sinh hoạt ca hát càng được nhân dân có ý thức xem như là sinh
hoạt văn nghệ thì mối quan hệ giữa hình thức ấy của hoạt động tinh thần
với hoạt động thực tiễn vẫn không hề bị mất đi. Trong sinh hoạt lao động
đã hình thành những bài ca mang tính chất nghề nghiệp. Những bài ca nghề
15
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGUYỄN QUỐC KHÁNH nghiệp phản ánh kinh nghiệm lao động của nhân dân nhưng đồng thời cũng
thể hiện cả ước mơ trong lao động và cả những tâm tư tình cảm nhất định.
Như vậy là trong những bài ca dao nghề nghiệp có phối hợp cả chức năng
của tục ngữ lẫn chức năng của thơ ca trữ tình. Bài ca dao này là một ví dụ:
Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Trông trời trông đất trông mây
Trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời im bể lặng mới yên tấm lòng
(Ca dao)
1.2.1.2 Sinh hoạt gia đình và xã hội
Chúng ta phải công nhận một điều rằng, cơ sở cho sự phát triển của dân
ca chính là hình thức sinh hoạt lao động, sinh hoạt gia đình và xã hội. Nhiều
hình thức sinh hoạt ca hát và thể loại dân ca trữ tình có tính chất phổ biến đã
hình thành và phát triển trên cơ sở những sinh hoạt gia đình và xã hội mang
tính chất phong tục tập quán. Chính nhờ yếu tố này một loại ca dao rất phổ
biến đã ra đời, đó là những bài hát ru. Do đặc điểm của sự hình thành nội
dung những lời hát ru như vậy, mà từ chỗ chỉ hát cho những đứa trẻ nghe
những điều có liên quan tới nó, người ru đưa vào trong tiếng hát ru tất cả
những câu hát hoặc mới sáng tác thêm, hoặc đã có sẵn trong các loại dân ca
khác, nói lên tâm trạng của người ru trong mối quan hệ giữa thiên nhiên với
xã hội…
Hay việc ra đời của những bài hát vui chơi lại gắn liền với những kỉ
niệm sâu sắc về thời thơ ấu của mỗi người. Nội dung của những bài hát vui
chơi là những nhận xét, những ý nghĩ và cảm xúc ngây thơ về giới tự
nhiên, về đời sống con người và đời sống xã hội. Và tất nhiên, vừa chơi,
vừa hát không chỉ là sinh hoạt chỉ thấy ở các em nhỏ mà cả người lớn nữa.
Đây cũng là một bộ phận nhỏ trong các sáng tác dân gian. Tuy nhiên nó
16
Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Quốc Khánh vẫn góp phần tạo nên diện mạo và sắc thái riêng cho bộ phận sáng tác dân
gian. ở những giai đoạn sau này, nó vẫn duy trì sự ảnh hưởng nhưng ở góc
độ khác.
Trong quan hệ giao tiếp ứng xử, con người phải mở rộng mối quan hệ
trước đây chủ yếu là môi trường gia đình, tất nhiên đây cũng là môi trường
quan trọng trong việc hình thành tính cách của con người:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
(Ca dao)
Nhưng khi con người trưởng thành thì lại tiếp xúc với nhiều môi
trường khác, lúc này nhu cầu giao lưu nảy sinh, và con người bắt đầu có
những mối quan hệ mới, như tình cảm nam nữ:
Gặp nhau giữa chuyến đò đầy
Một lòng đã hẹn, cầm tay mặn mà
(Ca dao)
hay quan hệ, quan niệm xã hội mới nảy sinh:
Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
Sư về sư ốm tương tư
ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu
(Ca dao)
1.2.1.3 Sinh hoạt nghi lễ
Đối với người nguyên thủy và đối với một phần khá đông nhân dân
lao động trong các xã hội có giai cấp sau này nữa, việc tác động tới giới tự
nhiên không những chỉ được thực hiện với lao động của bản thân con người
mà còn được thực hiện bởi những lực lượng siêu nhiên. Do đó, trong sinh
17
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGUYỄN QUỐC KHÁNH hoạt lao động đã hình thành một loạt các hình thức nghi lễ, mà con người
tin rằng những dịp tiến hành tổ chức là những dịp tạo điều kiện cho các lực
lượng siêu nhiên, giúp đỡ con người lao động một cách có kết quả. Ví dụ
như những nghi lễ gắn liền với sản xuất nông nghiệp cũng là một biểu hiện
của mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, và những yếu tố nghệ thuật
trong các nghi lễ ấy cũng là một biểu hiện của mối quan hệ giữa văn học
dân gian với lao động.
ở hầu hết các nước trên thế giới đều có loại bài ca khẩu nguyện, phản
ánh lòng tin của con người vào những lực lượng siêu nhiên và cầu mong
được những lực lượng đó giúp đỡ trong lao động và trong đời sống.
Mảng sinh hoạt nghi lễ rất phong phú và đa dạng, ví dụ như các bài
hát trong đám tang, bài hát trong những ngày chào đời đầu tiên của em bé,
hay các bài hát vào dịp lễ tết hàng năm, rồi đến dân ca tế thần… nhưng tựu
chung, sinh hoạt nghi lễ là một biểu hiện của quan hệ giữa con người với tự
nhiên và giữa con người với nhau, thông qua quan hệ giữa con người với
những lực lượng siêu nhiên do trí tưởng tượng của chính con người tạo ra.
Giai đoạn sau này cùng với sự biến mất của nhiều hình thức sinh hoạt nghi
lễ trong đời sống nhân dân, những loại dân ca nghi lễ gắn liền với những
sinh hoạt nghi lễ ấy cũng biến mất theo, và chỉ có những hình thức nghệ
thuật nhất định nào đó của những loại dân ca nghi lễ ấy là còn tiếp tục tồn
tại và bổ sung về mặt hình thức cho các loại dân ca gắn liền với sinh hoạt
thế tục. Trong ca dao, bộ phận sáng tác theo hình thức sinh hoạt này cũng
không phải là phổ biến. Nó chỉ chiếm một phần khá khiêm tốn trong kho
tàng ca dao.
1.2.2 Lục bát là thể thơ được dùng chủ yếu trong ca dao
1.2.2.1 Thể lục bát
Trong ca dao thì thể thơ lục bát truyền thống với các quy luật thanh
điệu, vần điệu được mô tả theo bảng sau:
18
Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh
1 2 3 4 5 6 7 8
bằng bằng trắc Dòng thơ Dòng 6 tiếng (vần)
bằng bằng bằng trắc Dòng 8 tiếng (vần) (vần)
Ví dụ:
Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng đã có nhưng chưa ai vào
(Ca dao)
Đây là khuôn hình phổ biến và điển hình nhất của thơ lục bát. Như
vậy, chúng ta thấy rằng thể lục bát gồm từng cặp (6 và 8) lặp đi lặp lại,
không thay đổi về số chữ, trong đó câu lục chỉ có một vần ở chữ sau, còn
câu bát thì có hai vần, một vần ở chữ thứ sáu hiệp với chữ thứ sáu của câu
lục ở trên và một vần ở chữ thứ tám hiệp vần với chữ thứ sáu của câu lục ở
dưới. Tất cả các vần đều là vần bằng không có vần nào trắc, câu bát như
vậy là có hai vần bằng, chữ thứ sáu nếu không có dấu thì chữ thứ tám phải
có dấu huyền hoặc ngược lại. Hai chữ này không cùng một thanh điệu
(cùng dấu không hay dấu huyền).
Ngoài ra còn có mô hình gieo vần lưng nhưng bộ phận này không
nhiều và phổ biến trong ca dao, ví dụ:
Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
(Ca dao)
Theo thống kê của các nhà nghiên cứu, thể lục bát chiếm khoảng 95%
trong kho tàng ca dao dân tộc.
19
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH
Điều đó chứng tỏ lục bát là thể thơ được dùng nhiều nhất trong ca dao.
Nhắc đến ca dao là người ta nghĩ ngay tới thể thơ này. Có thể kể ra những
nguyên nhân dẫn đến những thống kê này: Đầu tiên, chúng ta thấy lục bát
là thể thơ rất uyển chuyển và linh hoạt, hơn thế nữa, độ dài ngắn của tác
phẩm không bị gò bó cho nên thể thơ này có sở trường trong việc diễn đạt
cảm xúc phong phú và đa dạng của con người.
Theo Nguyễn Phan Cảnh: “… trong từng giai đoạn tiến hóa của nó thể
loại đã không ngừng đấu tranh cho sự sinh tồn của mình. Quy luật đấu
tranh đó thể hiện trước hết trong việc tạo thành trường nét dư cho thể loại.
Số phận của lục bát là một dẫn chứng điển hình… lục bát một mặt vừa
phục vụ cho ca dao, đồng thời mặt khác vừa xây dựng được rất tốt kết quả
trường nét dư cho thể loại mình: có bất tử không thì chưa biết, nhưng chắc
chắn đấy là bí quyết trường sinh của thể loại anh minh này". [3, 213]
1.2.2.2 Thể song thất lục bát
Thể thơ này xuất hiện vào khoảng thế kỷ XV, giai đoạn từ 1780 đến
1884 là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của thể loại này với nhiều tác phẩm
nổi tiếng như Chinh phụ ngâm (Đoàn Thị Điểm dịch), Cung oán ngâm
(Nguyễn Gia Thiều)… nhưng từ khoảng sau 1930 thể thơ này ít xuất hiện
trên thi đàn. Đơn vị tế bào của thể thơ song thất lục bát là một khổ thơ gồm
4 dòng: hai dòng 7 tiếng, một dòng 6 tiếng và một dòng tám tiếng (7 + 7 +
6 + 8):
Trông bến Nam bãi che mặt nước
Cỏ biếc um, dâu biếc màu xanh
Nhà thôn mấy xóm chông chênh
Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm
Trông đường Bắc đôi chòm quán khách
Rườm rà cây xanh ngắt núi non
Lũy thành thoi thóp bên cồn
Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu
20
Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh
(Chinh phụ ngâm - Đoàn Thị Điểm dịch)
Đây là thể thơ mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng hợp với thơ dịch,
bằng chứng là “Chinh phụ ngâm” (Đoàn Thị Điểm dịch), “Tỳ bà hành”
(Phan Huy Vịnh dịch).
Đối với văn học viết thì thể loại này tuy đã mai một nhưng cũng kịp
để lại trên thi đàn những áng văn chương mẫu mực. Và ca dao cũng chung
số phận bởi những câu ca dao theo thể thơ song thất lục bát chỉ chiếm
khoảng 2% trong kho tàng ca dao dân tộc. Tuy nhiên, không phải vì thế mà
những câu ca dao theo thể này lại “kém chất lượng”:
Lụa làng Trúc vừa thanh vừa bóng
May áo chàng cùng sóng áo em
Chữ tình cùng với chữ duyên
Xin đừng thay áo mà quên lời nguyền
(Ca dao)
Như vậy, ta cũng thấy rằng ở thể song thất lục bát thì cặp lục bát cũng
vẫn thể hiện rõ rệt khả năng chuyển tải cảm xúc tài tình. Nhờ vào sự linh
hoạt của cặp lục bát mà hai câu song thất cũng trở nên uyển chuyển hơn.
1.2.2.3 Biến thể lục bát
Trong ca dao thì biến thể lục bát được hiểu là hình thức không thay
đổi nhiều nhưng số tiếng ở mỗi dòng thơ co giãn nhất định chứ không
giống hệt về số tiếng ở mỗi dòng thơ như thể lục bát.
GS. Mai Ngọc Chừ đã đưa ra những nhận định rất thuyết phục về việc
phân loại biến thể lục bát. Theo ông lục bát biến thể có ba loại:
1.2.2.3.1 Dòng lục thay đổi dòng bát giữ nguyên
Ví dụ:
Tưởng giếng sâu, em nối sợi dây dài (7 tiếng)
Hay đâu giếng cạn, em tiếc hoài sợi dây (8 tiếng)
1.2.2.3.2 Dòng lục giữ nguyên, dòng bát thay đổi
Ví dụ:
21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH
Bao giờ rừng quế hết cay (6 tiếng)
Dừa Tam Quan hết nước thì em đây mới hết tình (11 tiếng)
1.2.2.3.3 Cả hai dòng đều thay đổi
Ví dụ:
Yêu nhau tam tứ núi cũng leo (7 tiếng)
Thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo cũng qua (10 tiếng)
Theo các nhà nghiên cứu thì sự xuất hiện của biến thể lục bát là do việc
đem thể lục bát phục vụ cho diễn xướng, hay cũng có thể do sự linh hoạt của
người sáng tác nhằm phục vụ yêu cầu diễn đạt một nội dung nào đó.
Chính nhờ sự thay đổi khá linh hoạt này mà nhịp thơ theo đó cũng
thay đổi, khả năng nhấn mạnh ở tiếng nào đó được tăng lên. Theo chúng
tôi đây là hình thức diễn đạt linh hoạt những hoàn cảnh, điều kiện không
thuận lợi và cũng được sử dụng khá hiệu quả trong những lời ca châm
biếm, đả kích.
Tuy nhiên, biến thể lục bát chỉ chiếm một phần rất nhỏ, gần như
không đáng kể trong kho tàng ca dao dân tộc. Sự linh hoạt về nhịp điệu khi
thay đổi số tiếng ở mỗi dòng thơ vừa có mặt tích cực lại vừa có mặt hạn
chế và theo chúng tôi mặt hạn chế nhiều hơn. Vì vậy, biến thể lục bát
không xuất hiện trong những tác phẩm lớn và sau này thơ ca hiện đại cũng
không sử dụng. Nếu có thì cũng không có những tác phẩm gây được tiếng
vang.
Ngoài ra còn thể thơ hỗn hợp nhưng cũng như song thất lục bát và
biến thể lục bát những bài ca dao sử dụng thể hỗn hợp cũng rất ít trong kho
tàng ca dao dân tộc.
1.3 Thể lục bát từ ca dao đến thơ trung đại
Thể thơ lục bát đã có khoảng hơn 500 năm, nó khẳng định vị trí của
mình trong đời sống thơ ca dân tộc. Ngay từ khi mới xuất hiện và trong cả
cuộc sống lâu bền về sau, thể thơ này đã tỏ ra có vai trò đặc biệt trong việc
thỏa mãn các nhu cầu sáng tác của người nghệ sĩ cũng như nhu cầu thưởng
22
Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Quốc Khánh thức của đông đảo công chúng. Được hình thành từ những điều kiện ngôn
ngữ và văn hóa dân tộc, trải qua một thời gian dài trong bàn tay của các thế
hệ nhà thơ, đặc biệt là các nhà thơ tài năng của dân tộc, thể thơ lục bát đã
trở thành thể thơ cách luật hoàn chỉnh, những phương tiện biểu đạt hoàn mĩ
mà một phần nhờ đó đã có rất nhiều tác phẩm thơ ca lớn, sống mãi trong
lòng người dân nước Việt và cũng được nhân loại biết đến. Có thể nói, đó
là những thành tựu cao cả của lịch sử phát triển thơ ca dân tộc, mà công
đầu không thể không kể đến nền thơ ca trung đại.
1.3.1 Những yếu tố của tiếng Việt là điều kiện nội tại cho sự hình
thành thể thơ
Các nhà nghiên cứu đã có sự khẳng định, thể lục bát không phải là sự
vay mượn hoặc lắp ghép từ các yếu tố ngoại lai mà đây chính là thể thơ dân
tộc. Đó là một kết luận đúng đắn. Tuy nhiên, do nó chỉ mới được rút ra từ
những quan sát bên ngoài mà chưa được chứng minh bằng những điều kiện
nội tại cho sự hình thành thể thơ nên chưa thật vững chắc.
Quan điểm cho rằng ngôn ngữ và văn hóa của mỗi dân tộc là những
điều kiện nội tại cho sự hình thành các thể thơ của dân tộc đó, và quan
điểm này là một quan điểm khá thống nhất ở những nhà ngôn ngữ học có
quan tâm tới thi luật học. Khi bàn về mối quan hệ giữa thơ và ngôn ngữ,
nhà nghiên cứu người Nga Stokmar đã viết: “Hệ thống âm luật văn vần
của bất cứ dân tộc nào cũng đều được lựa chọn ra trong sự phụ thuộc trực
tiếp vào cấu trúc âm thanh của ngôn ngữ ấy, chứ không phải là ngẫu
nhiên”. Có thể dựa vào ý kiến này mà tìm hiểu mối liên hệ giữa tiếng Việt
với thể thơ lục bát.
Ta biết lục bát và song thất lục bát là loại thơ đếm tiếng, hay đếm âm
tiết. Tất cả mọi yếu tố tạo nên âm luật của chúng như tổ hợp các dòng, gieo
vần, ngắt nhịp, phối điệu đều được quyết định bằng cách đếm tiếng đó. Là
một ngôn ngữ đơn lập - âm tiết tính, tức là thứ ngôn ngữ không biến hình,
mỗi tiếng mang thanh điệu hầu như đều có nghĩa, tiếng Việt có đủ điều
23
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGUYỄN QUỐC KHÁNH kiện để đáp ứng tính chất trên đây của thể lục bát. Trong tiếng Việt, âm tiết
có vai trò quan trọng không những ở lời nói bình thường mà còn là đơn vị
quan trọng trong việc tạo thành âm luật thơ ca.
Vai trò của âm tiết được thể hiện trước tiên ở chỗ, âm tiết là đơn vị tối
thiểu đo lường độ dài của nhịp và độ dài của dòng thơ. Các nhịp thông
thường là 2 hoặc 3 âm tiết. Chính sự chuyển động các nhịp cũng là phương
thức tạo nên sự hài hòa trên dưới của các dòng thơ.
Điều được thể hiện tiếp theo là những yếu tố âm điệu trong phạm vi
một âm tiết phát huy tối đa sự khác biệt và tương đồng với nhau khi tạo nên
âm luật của thơ. Đó trước hết là sự hiệp vần chỉ diễn ra trong phạm vi âm
tiết, lấy âm tiết làm đơn vị gieo vần. Đó là thanh điệu được sử dụng đắc lực
để tạo nên sự luân phiên dài ngắn hoặc suông gãy (ngang, huyền, sắc, nặng,
hỏi, ngã) hoặc cao, thấp (ngang/ huyền) trong dòng thơ. Thế đối lập truyền
thống ở đây là đối lập bằng – trắc, cạnh đó còn có đối lập trầm – bổng.
Nhìn sơ qua, tiếng Hán có vẻ như là thứ tiếng có khả năng tạo nên các
hệ thống âm luật như trong lục bát. Đó cũng là ngôn ngữ đơn lập, âm tiết
tính và có thanh điệu, như tiếng Việt. Tuy vậy, khi xem xét kĩ, chúng ta
nhận thấy, âm luật lục bát yêu cầu có đối lập trầm – bổng. Vậy mà các nhà
ngôn ngữ học lại cho biết là tiếng Hán từ thời cận đại về sau tuy có phân
chia thành âm bằng và dương bằng nhưng đó là đối lập về đường nét,
hướng đi mà không phải là hai mức độ cao - thấp khác nhau nên không tạo
nên sự tương phản rõ rệt, và sự đối lập ấy không hề đi vào âm luật thơ ca
Trung Hoa. Cho dù thanh điệu tiếng Hán có sự đối lập trầm – bổng (như
trong một số ngôn ngữ miền Nam Trung Quốc) thì sự đối lập ấy cũng chỉ
nằm trong phạm vi ngôn ngữ mà theo truyền thống văn hóa, xu hướng thẩm
mĩ của Trung Hoa, nó vẫn không được sử dụng vào âm luật thơ ca. Còn
thanh bằng của tiếng Việt lại được chia thành hai mức độ thấp – cao, bằng
– trầm (huyền) và bằng – bổng (ngang) đã đi vào âm luật của lục bát.
24
Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh
Bên cạnh tiền đề ngôn ngữ, là điều kiện đóng vai trò tiên quyết, người
Việt còn có một điều kiện khác nữa, có thể đáp ứng được yêu cầu của lục
bát. Đó là việc họ đã hình thành nên một xu hướng thẩm mĩ mang tính chất
tâm lí – xã hội riêng của dân tộc mình trong việc xây dựng âm luật thơ ca.
Điều này thể hiện khá rõ trong ý thích sử dụng vần và nhịp.
Về vần, ngay trong câu thơ cổ truyền, người Việt đã sử dụng vần chân
kết hợp với vần lưng:
Rõ ràng là lối gieo vần chân kết hợp với vần lưng trong lục bát không
nằm ngoài xu hướng thẩm mĩ chung đó của dân tộc Việt.
Trên đây là dựa vào những đặc điểm của tiếng Việt và đặc điểm mĩ
cảm có tính chất truyền thống của người Việt trong việc xây dựng âm luật
thơ ca để chứng minh nguồn gốc dân tộc của lục bát. Có những điều kiện
như vậy, người việt có thể khẳng định mình là dân tộc đã tạo ra thể thơ này.
điều khẳng định này còn được làm sáng tỏ hơn trong sự so sánh với các dân
tộc có những đặc điểm ngôn ngữ và văn hóa khác nên chỉ có thể tạo nên
những âm luật thơ ca khác.
Từ những trường hợp sẵn có trong dân gian đến những trường hợp tự
tạo theo gợi ý của dân gian, ta nhận ra một điều: lục bát rõ ràng là có mối
liên hệ hiển nhiên và tiềm tàng với văn vần dân gian mà trước hết là với
thành ngữ, tục ngữ; cặp thất ngôn trong thể song thất lục bát cũng rõ ràng
là có mối liên hệ cội nguồn với thơ ca dân gian mà trước hết là với thành
ngữ, tục ngữ của người Việt. Hay nói một cách khác, cụ thể hơn là chính
thành ngữ, tục ngữ của người Việt đã cung cấp mô thức hoặc một phần mô
thức cơ bản để từ đó có thể cải biến mà tạo nên khổ lục bát trong thể lục
bát.
Khi đã có được những khổ lục bát thì có khả năng nó đứng độc lập
hoặc tiến lên một bước nữa, tìm cách liên kết các khổ đó với nhau để tạo
nên những tác phẩm lục bát có độ dài không hạn định là điều đã diễn ra
trong thơ ca dân gian cũng như thơ ca bác học.
25
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH
Như vậy, lục bát là thể thơ dân tộc, được hình thành trên những điều
kiện cụ thể là tiếng Việt và văn hóa Việt, trong mối liên hệ rất mật thiết với
văn vần dân gian của dân tộc Việt. Có thể là nhờ có ngọn nguồn như vậy mà
thể thơ này rất gần gũi với cảm xúc âm thanh của người Việt, trở thành những
phương thức biểu đạt yêu thích của nhiều thế hệ nhà thơ dân tộc và cũng đáp
ứng được nhu cầu thưởng thức của đông đảo công chúng cả nước.
1.3.2 Thể thơ lục bát trong văn học Trung đại đã đạt đến mẫu mực
1.3.2.1 Quá trình tìm tòi và định hình các hệ thống chuẩn mực
Khái niệm âm luật dùng ở đây tương đương với khái niệm cách luật.
Vì lục bát chỉ xây dựng cách luật thuần túy theo quan hệ tương ứng giữa
các yếu tố âm thanh nên có thể gọi cách luật của chúng là âm luật. Xác lập
cấu trúc âm luật cho thể thơ có nghĩa là lập nên những quy tắc trong việc tổ
chức âm thanh, cụ thể là những quy tắc trong cách gieo vần, ngắt nhịp, phối
điệu và tổ hợp các dòng của hai thể thơ đó. Muốn xem xét vấn đề này,
trước hết phải xác định thời điểm xuất hiện của lục bát.
Để có được một cấu trúc âm luật tương đối chặt chẽ hoàn chỉnh và ổn
định, lục bát đã phải trải qua một thời gian dài vận động để tìm kiếm và lựa
chọn. Để tạo nên tác phẩm thi ca, nhất định các nhà thơ phải đầu tư công
sức, trí tuệ để từng bước đưa thể loại lục bát vào quy củ chuẩn mực. Khi
chính thức bước vào thi đàn, trong bàn tay của các nhà thơ có tên tuổi hoặc
khuyết danh ở các thế kỷ XVI - XVII, với các tác phẩm như: Tư Dung vãn
của Đào Duy Từ, Cổ Châu Phật bản hanh (giữa thế kỷ XVII) và Thiên
Nam ngữ lục (cuối thế kỷ XVII), nhìn chung lục bát lúc này vẫn còn nằm
trong tình trạng hơi tự do, lỏng lẻo, nhưng đồng thời cũng đã có những
chuyển biến trong việc tổ chức hệ thống âm luật. Trong tất cả các tác phẩm
vừa kể ra trên đây, không bao giờ còn nhìn thấy bóng dáng những dòng thơ
bị thêm bớt một cách tuỳ tiện; các khổ thơ cũng đã tăm tắp theo quy tắc kết
hợp hai dòng lục và bát, cho dù độ dài của chúng có khi lên tới hơn tám
ngàn dòng, để diễn tả những câu chuyện lịch sử khá quanh co phức tạp,
26
Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Quốc Khánh như trong tác phẩm Thiên Nam ngữ lục. Như vậy, đến thời điểm này, đã có
2 trong 4 yếu tố tạo nên âm luật lục bát được hoàn thiện. Đây là điều hết
sức cần thiết vì như thế thể thơ đã bước đầu bảo đảm được sự luân chuyển
nhịp nhàng giữa các dòng nối tiếp nhau.
Vậy là với hai thế kỷ, kể từ lần đầu xuất hiện trên thi đàn, lục bát mới
chỉ hoàn thiện được hai yếu tố trong cơ cấu âm luật là ngắt nhịp và tổ hợp
các dòng thơ; còn lại hai yếu tố là gieo vần và phối điệu thì vẫn đang ở
trong tình trạng tranh chấp giữa các khả năng khác nhau. Tình hình này sẽ
được ngã ngũ trong thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, nhờ vào sự phát triển
khá mạnh về ý thức cách luật ở các nhà sáng tạo thơ ca. Lục bát ở giai đoạn
này đã quyết tìm kiếm và lựa chọn cho được một mô hình gieo vần và phối
điệu chuẩn mực cao nhất. Khảo sát các tác phẩm trên đây, ta thấy là đã hình
thành rõ hơn một xu hướng muốn lựa chọn dạng lục bát gieo vần ở tiếng
thứ sáu và cố gắng loại bỏ bớt dạng lục bát gieo vần ở tiếng thứ tư ra khỏi
tác phẩm. Kết quả là nhiều tác phẩm trong số đó như Hoa tiên ký, Truyện
Phương Hoa, Truyện Thạch Sanh, Sơ kính tân trang, Truyện Kiều đã hoàn
toàn không còn bóng dáng một dòng lục bát gieo vần lưng ở tiếng thứ tư
nào nữa. ở một số tác phẩm khác, tuy chưa “xoá sổ” được hoàn toàn loại
vần này, nhưng cũng chỉ có một tỉ lệ rất thấp. Các tác phẩm còn lại tuy tỉ lệ
có cao hơn, nhưng nếu đem so với các tác phẩm ở giai đoạn trước thì có thể
nhận ra một sự thay đổi rõ rệt về nhu cầu chuẩn hoá cho thể thơ.
Từ việc xem xét các tác phẩm vừa được nêu lên trên đây, chúng ta
thấy được xu hướng của lục bát này là muốn khẳng định tính nguyên tắc
trong việc sử dụng thanh điệu; cố gắng hạn chế tình trạng xáo trộn, thay đổi
như đã xảy ra tương đối thường xuyên ở thời gian trước. Hướng vươn tới ở
đây là đạt được sự thống nhất, ổn định về thanh bằng, thanh trắc cho các
tiếng thứ hai, thứ tư, thứ sáu, là những tiếng chẵn cuối nhịp (được nhấn
mạnh hơn) mà cụ thể là phải giảm tỉ lệ các dòng “vi phạm” sự thống nhất,
ổn định ấy. Tuyệt đại đa số các tác phẩm chỉ vi phạm luật bằng trắc ở tỉ lệ
27
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGUYỄN QUỐC KHÁNH rất thấp, thậm chí là không đáng kể. Đến Truyện Kiều tức là vào đầu thế kỷ
XIX thì hai yếu tố gieo vần và phối điệu đã đạt tới sự thống nhất, ổn định.
Với toàn bộ số dòng gieo vần ở tiếng thứ sáu và một tỉ lệ vô cùng nhỏ là
xấp xỉ 0,1% số dòng có “vi phạm” về luật sử dụng thanh điệu (không kể
các dòng lục có tiểu đối vì ở đây luật về âm thanh được xây dựng theo một
nguyên tắc khác, nhằm phục vụ cho nhu cầu đối, như là một đặc trưng nghệ
thuật của tác phẩm), và từ đây các nguyên tắc gieo vần, phối điệu như vậy
không còn bị xáo trộn nữa, lục bát trong Truyện Kiều trở thành mô hình lục
bát chuẩn mực:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Trong thực tế, để đi đến những quyết định cuối cùng đối với hai yếu tố
vần và thanh điệu như vừa được thể hiện qua mô hình là điều không hề
giản đơn. Trình độ tư duy nghệ thuật của dân tộc mà người đại diện là các
thế hệ nhà thơ, đặc biệt là các nhà thơ tài năng phải đạt đến mức sâu sắc thì
mới có thể có được sự lựa chọn chính xác, bởi vì trước mặt họ không phải
chỉ có một khả năng duy nhất. Vào thời điểm đó, dạng lục bát gieo vần ở
tiếng thứ tư cũng đang cố gắng đi vào “chuẩn mực” theo một khuôn mẫu
khác để tranh chấp chỗ đứng với dạng lục bát gieo vần ở tiếng thứ sáu.
Ta thấy sự lựa chọn của các nhà thơ lớn thế kỷ XVIII – XIX là sự lựa
chọn tối ưu. ở ví dụ đầu, các hình thức phối điệu rất phong phú. Các tiếng
chẵn 2 – 4 – 6 của hai dòng, theo quan hệ chiều dọc là niêm (dính kết) với
nhau từng cặp: tiếng thứ (2) đều bằng (B), tiếng thứ (4) đều trắc (T) và
tiếng thứ sáu đều (B). Còn theo quan hệ chiều ngang, ngoài đối lập bằng –
trắc, thể hiện ở các tiếng chẵn (2), (4), (6) của mỗi dòng, việc phối điệu còn
dựa trên sự chuyển đổi trầm bổng giữa hai tiếng (6) và (8) của dòng bát.
Nghĩa là hai tiếng này tuy đều là thanh bằng, nhưng phải 1 bằng – trầm
28
Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Quốc Khánh (huyền) và một bằng – bổng (ngang). Nếu bài thơ có trên hai dòng lục bát
thì vị trí của trầm và bổng không cố định mà phải có sự chuyển đổi. Mỗi
tiếng như vậy có khi trầm, có khi bổng, miễn là hai tiếng không cùng trầm
hoặc cùng bổng. Một cách thức phối điệu như vậy đã khiến cho âm hưởng
của thơ lục bát dồi dào hơn hẳn. Còn trong ví dụ thứ 2 việc phối điệu thật là
đơn giản: dù theo quan hệ chiều dọc hay chiều ngang thì cũng chỉ có một
sự đối lập, đó là đối lập bằng – trắc. Thêm nữa, các tiếng thứ tư được gieo
vần bao giờ cũng mang thanh huyền (một thanh điệu trầm) và tiếng cuối
cùng của dòng bát bao giờ cũng là thanh ngang (một thanh điệu bổng). Cứ
lặp đi lặp lại mãi cách thức phối điệu như vậy thì âm hưởng các dòng thơ sẽ
trở nên đơn điệu và có cơ bị lặn chìm xuống, mất đi vẻ thanh thoát, uyển
chuyển mà thơ lục bát gieo vần lưng ở tiếng thứ sáu mang lại. Với những
hạn chế như vậy nên dù có cố gắng đạt đến một sự thống nhất thì đó cũng
chỉ là cố gắng hầu như cuối cùng của dạng lục bát gieo vần ở tiếng thứ tư,
trong việc tìm kiếm cho mình một khả năng cùng tồn tại với dạng lục bát
gieo vần ở tiếng thứ sáu. Bởi vì bước sang thế kỷ XIX, với khuôn mẫu khá
hoàn thiện đã được xác lập một cách ổn định ở Truyện Kiều, nó buộc lòng
phải thừa nhận địa vị độc tôn của dạng lục bát gieo vần ở tiếng thứ sáu.
Ngoài ra ta còn thấy lục bát là thể thơ ưa chuộng trong các truyện
thơ, truyện kể lịch sử. ở đây lịch sử đã được phát triển thành những câu
chuyện nhỏ nối tiếp nhau. Nhiều truyện trong đó đã có sự kiện ít nhiều
được phát triển và có các nhân vật phần nào đã có số phận, có đầu có
đuôi, có cảnh trí và tình tiết cụ thể, như truyện về Hai Bà Trưng, truyện về
Mị Châu Trọng Thuỷ, Phù Đổng Thiên Vương, Mai Thúc Loan, Lí Công
Uẩn, Lí Chiêu Hoàng… Để diễn tả những câu chuyện như thế, tác giả đã
dùng đến thể lục bát.
Thuộc loại hình tự sự, truyện thơ có hai thành phần chủ yếu là cốt
truyện, và hệ thống nhân vật gắn liền với cốt truyện đó. Căn cứ vào điểm
xuất hiện của những truyện thơ lục bát cổ nhất, có tên tác giả còn giữ lại
29
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGUYỄN QUỐC KHÁNH được, như Truyện Song tinh (khoảng 1704) và Hoa tiên kí (khoảng 1759
đến 1768), ta có thể đưa ra kết luận bước đầu là vào khoảng đầu thế kỷ
XVIII, thể lục bát chính thức được đảm nhận chức năng kể chuyện. Từ đây
cho đến giữa thế kỉ XIX sẽ có thêm hàng loạt truyện thơ lục bát ra đời tạo
nên một dòng truyện giữ vị trí rất nổi bật trong văn học trung đại: Phạm
Công Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa, Truyện Phương
Hoa, Truyện Hoàng Trìu, Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Quan Âm Thị Kính,
Truyện nhị độ mai… Các truyện thơ được viết bằng thể lục bát có quy mô
lớn từ hàng mấy trăm đến mấy ngàn dòng. Với những quy mô như thế,
chúng bảo đảm diễn tả được một cốt truyện với một hệ thống sự kiện được
phát triển mạch lạc trong mối liên hệ khăng khít hữu cơ với nhau; đặc biệt
là với hàng loạt chi tiết cụ thể, làm cho câu chuyện trở nên sống động và
gợi cảm hơn. Cùng với điều đó, chúng còn có thể xây dựng được trong tác
phẩm các nhân vật có tính cách được bộc lộ dần trong không gian, thời gian
và qua các biến cố, xung đột cùng mọi chi tiết của đời sống. Với khả năng
diễn tả một cách tỉ mỉ, chi tiết mọi sự kiện, biến cố cũng như mọi biểu hiện
của tính cách, tâm tư nhân vật, lục bát đã giải quyết được vấn đề thể thức
cho loại truyện thơ, bảo đảm cho thể loại này tồn tại và phát triển thêm một
thời gian dài nữa.
1.3.2. "Truyện Kiều" của Nguyễn Du đã đạt đến độ mẫu mực
Trong phần này chúng tôi chỉ đề cập đến một số vấn đề về nghệ thuật
đối xứng, nhịp điệu, tính âm nhạc trong những câu thơ lục bát của Nguyễn
Du. Qua đó chúng ta sẽ thấy dấu ấn cá nhân của Nguyễn Du trong việc sử
dụng và khai thác triệt để ưu điểm của thể thơ lục bát.
Chúng ta thấy rằng trong ca dao, dân ca rất ít xuất hiện cấu trúc đối.
Mà nếu có hình thức đối chỉ là sự cân đối thôi chứ không phải là kiến trúc
đối xứng, còn trong thơ lục bát Nguyễn Du ta dễ dàng tìm ra các câu thơ có
kiến trúc đối xứng, đây cũng là cách để tạo nên sức hấp dẫn của thơ lục bát
30
Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Quốc Khánh bởi nếu thiếu hình thức đối thì thơ lục bát càng làm dài càng khó và dễ
mang sắc thái vè.
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
hay:
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Nếu trong ca dao có hình thức đối xứng thì dường như ta thấy đằng
sau câu ca dao ấy có bậc túc nho thấp thoáng.
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần
(Ca dao)
hoặc:
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ
(Ca dao)
Hình thức đối trong thơ lục bát có liên quan mật thiết đến nhịp điệu.
Nguyễn Du làm thơ lục bát tức là thể thơ có nhịp điệu khá tẻ nhạt thế
nhưng cách sử dụng linh hoạt nhịp điệu khiến nó trở nên đa dạng đã khiến
những câu thơ lục bát của Nguyễn Du trở nên cực kỳ sinh động và cuốn
hút.
Nhịp 3 – 3, 4 – 4 ta thấy xuất hiện nhiều trong Truyện Kiều:
Mai cốt cách/ tuyết tinh thần (3/ 3)
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
hay:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc/ nửa soi dặm trường (4/ 4)
31
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Dựa trên nền nhịp cơ bản, Nguyễn Du đã sử dụng nhiều nhịp nữa như:
nhịp 1 - 5, nhịp 2 - 6, nhịp 3 - 3 - 2, nhịp 6 - 2 tạo nên tính âm nhạc phong
phú cho từng câu lục bát. Trong những vần thơ của mình, Nguyễn Du cố ý
duy trì tính chất dân gian, vì thế ông hay sử dụng lối dùng chữ giản dị thiên
về láy âm với điệp từ, đó cũng là lý do vì sao những câu thơ lục bát của
Nguyễn Du rất cầu kỳ, công phu nhưng không mất đi tính giản dị, trong
sáng.
1.4 Thể lục bát từ ca dao đến thơ Đồng Đức Bốn
Trước Đồng Đức Bốn, trong thơ ca hiện đại cũng có những tên tuổi
lớn đã rất thành công ở thể thơ này như: Tố Hữu, Nguyễn Bính, Nguyễn
Duy, Bùi Giáng, Phạm Công Trứ... Người được coi là hậu duệ của dòng lục
bát dân gian chính là Nguyễn Bính. Trong làng Thơ mới cùng với Xuân
Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính được coi là đỉnh cao của thơ ca giai đoạn
này. “Khi chọn những gương mặt tiêu biểu nhất của Thơ mới, người ta đã
đưa ra những danh sách khác nhau… nhưng ở đâu tôi cũng thấy danh sách
không thể vắng mặt Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử. Nếu vắng họ
thì thơ mới sẽ ra sao nhỉ? Thật không thể hình dung nổi điều đó. Có thể coi
đó là ba cái chân kiềng của Thơ mới, nhưng tôi thích hình dung họ là đỉnh
“Tam Đảo”, “Ba Vì” của Thơ mới hơn”. [45, 4]
Trong ba đỉnh cao này Nguyễn Bính mới là người gọi hồn dân tộc.
Những câu lục bát của Nguyễn Bính dân dã, mộc mạc, giản dị nhưng lại
đầy lôi cuốn và không thiếu chất tài tử, tài hoa. Những làng quê với bờ tre
xanh bao phủ, cánh đồng lúa thơm hương, cánh cò trắng, những đêm hội,
đêm chèo, phiên chợ tết… tất cả đều hiện lên sinh động trong thơ Nguyễn
Bính. Trong làng thơ Mới, có thể coi thơ Nguyễn Bính là một cách tân.
Ông đã biết sáng tạo ra một cấu trúc mới cho thơ từ một mô hình có sẵn,
một khuôn thức truyền thống mang tính cố định. Chất lãng tử giang hồ
32
Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Quốc Khánh trong Nguyễn Bính đã tạo nên một đặc điểm khá độc đáo trong thơ ông.
Chính ông cũng đã ám chỉ cuộc đời mình là "kiếp con chim lìa đàn".
Nguyễn Bính là nhà thơ hiện đại đầu tiên đã dùng hình thức của ca dao,
dân ca để chuyển tải nội dung thẩm mĩ của Thơ mới - nội dung trữ tình cá
nhân của một nhà thơ lãng mạn. Điều đặc biệt hơn là thơ Nguyễn Bính đã
chuyển tải nghệ thuật đời sống làng quê Việt Nam vào đời sống văn hóa
chung của dân tộc. Nói như Hoài Thanh: “Thơ Nguyễn Bính đã đánh thức
người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta… một điều mà người ta không thể
hiểu bằng lí trí, một điều đáng quý vô ngần: hồn xưa của đất nước” [48,
337].
Thi pháp chung của thơ Nguyễn Bính là ông đã xây dựng những cấu
trúc thơ đa nghĩa dựa trên thi pháp mang tính cụ thể giản dị của thi pháp
văn học dân gian:
Ai làm cả gió đắt cau
Mấy hôm sương muối cho giầu đổ non
(Chờ nhau – Nguyễn Bính)
Tuy nhiên thi pháp thơ Nguyễn Bính không dừng lại ở thơ ca dân gian
mà ông đã phát triển thi pháp thơ của ông để diễn tả những vấn đề phức tạp
hơn, trìu tượng hơn trong cảm xúc. Ông là người rất thành công khi đem thi
pháp của thi ca dân gian vào trong thi ca hiện đại. Ngôn ngữ, hình ảnh của
đời sống dân dã đã được ông đưa vào thơ tự nhiên như những câu ca dao,
dân ca nhưng vẫn đậm chất “cái tôi lãng mạn”. Những “bến nước”, “con
đò”, “vườn chè”, “hoa xoan”, “hoa bưởi”, “ao bèo”, “giếng thơi” được
Nguyễn Bính sử dụng để diễn tả tâm trạng:
Lợn không nuôi đặc ao bèo
Giầu không dây chẳng buồn leo vào giàn
Giếng thơi mưa ngập nước tràn
Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều
33
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH
(Qua nhà - Nguyễn Bính)
Trong đoạn thơ này chúng ta thấy rằng tính liên tưởng độc đáo, những
mã hiện thực cụ thể mang tính thẩm mĩ của tư duy dân gian được sử dụng
hết sức tài hoa trong cấu trúc của cả bài thơ và từng câu thơ đã mở ra chiều
rộng và chiều sâu mới cho thơ hiện đại.
Có thể nói rằng, Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ lục bát bậc
nhất của thi ca hiện đại. Ông đã kế thừa, vận dụng những thay đổi và giới
hạn mà luật thơ cho phép. Ông là nhà cách tân lớn của thể thơ này ở cả nội
dung lẫn hình thức. Với ông, thể thơ lục bát của dân tộc đã phát triển tới
đỉnh cao trong thi đàn hiện đại. Một minh chứng rõ nét về sự kế thừa và
cách tân từ dòng chảy văn học dân gian. Đó cũng là bí quyết sinh tồn của
thơ lục bát nói chung và của thi sĩ chân quê này nói riêng.
Cho dù Đồng Đức Bốn xuất hiện khá muộn trên thi đàn nhưng không
vì thế anh bị những cái bóng lớn khác che khuất. Có thể nói, sau Nguyễn
Bính thì dòng lục bát dân gian được Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn tiếp
nối một cách đầy thuyết phục. Nếu Nguyễn Duy thành công ở khả năng xử
lí ngôn ngữ, ở sự nhuần nhuyễn của những câu lục bát có phần “quái” thì
lục bát Đồng Đức Bốn lại hấp dẫn ở sự mộc mạc, hoang dại và đầy ám ảnh.
Chính những cá tính sáng tạo làm nên sự thành công và hấp dẫn ở từng nhà
thơ. Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn đã rất đúng khi nhận xét: “…
dù được tiếng chân quê hơn thế, nhưng thơ Nguyễn Bính nhìn kỹ còn nhiều
chữ Hán, ở đó nhan nhản những mộng viễn hành, bức ngọc thư, hàn vi, lữ
hành, tha hương, chung tình, đa đoan, tràng giang, giang hồ rồi lại cả vinh
quy, ngự uyển với mỹ nữ, lãnh cung… nữa.
Đồng Đức Bốn thì khác, cái quá khứ kia không phải trở lại nữa mà nó
là hiện tại của anh. Và nó chẳng có gì là rực rỡ, là bóng lọng là cao sang,
quý phái, tức chẳng có gì là nên thơ. Trăng trong thơ anh là trăng gãy,
trăng cong, sào là sào gãy, diều là diều đứt dây, con người xưng tôi trong
34
Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Quốc Khánh thơ có lúc tự nhủ mình là một kẻ không quê. Dường như anh sẵn sàng nói
rằng mình chẳng có gì để khoe với mọi người cả.
Những yếu tố hoang dại ấy có mặt trong thơ Đồng Đức Bốn khắp mọi
chỗ làm nên một miền khí hậu riêng".
Thơ lục bát của Đồng Đức Bốn không nhịp nhàng nối tiếp mà cứ như
cái gì ngắc lại nghèn nghẹn. Chính cảm giác ấy góp thêm vào cái cảm giác
hoang dại quê mùa nói chung. Đôi khi những vần thơ của anh cứ trúc trắc
và ban đầu gây cho người ta có cảm giác khó chịu, nhưng chính sự khó
chịu ấy làm nên cái "chất" Đồng Đức Bốn và khi quen ta lại thấy ấn tượng:
Còng lưng gánh chịu gió mưa
Nát chân tìm cái chửa chưa có gì
Cầm lòng bán cái vàng đi
Để mua những cái nhiều khi không vàng
(Trở về với mẹ ta thôi)
hay:
Khổ thân cho cả bờ rào
Dây tơ hồng héo quắt vào mùa thu
(Cơn mưa dừng ở Sóc Sơn)
Cái cảm giác của anh chàng Đồng Đức Bốn từ thôn quê lên phố cũng
chẳng lẫn đi đâu được “Bàn chân quen xéo trên đê, Mà đi trên phố cứ ghê
ghê người”. Thế nhưng những câu thơ nghe có vẻ trúc trắc thế lâu dần ta lại
thấy hay và trở nên quen tai, quen với cái giọng gai góc của anh.
Thơ lục bát Đồng Đức Bốn chứa đựng nhiều yếu tố ca dao, trong thơ
anh tràn ngập thi liệu dân gian nhưng cho dù thế nào đi chăng nữa cái đọng
lại trong thơ anh là sự hoang dại đầy ám ảnh:
Chuồn chuồn cắn rốn biết bơi
Con tôi chết bởi lời người hát ru
Con tôi chết ở ao tù
35
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH
Mà lời người vẫn hát ru ngọt ngào
(Chuồn chuồn cắn rốn biết bơi)
Trong sáng tác của Đồng Đức Bốn có nhiều điểm tương đồng với ca
dao. Một số từ chỉ thời gian gần như là không có gì khác với ca dao, những
từ ta đã nghe từ khi còn trong nôi. Những từ trực tiếp miêu tả thời gian hiện
tại như "bây giờ", "bấy giờ":
- Bây giờ chờ đợi tháng ba
Tôi ra đứng ở cây đa đầu làng
(Chờ đợi tháng ba)
- Bây giờ quanh cây trúc xinh
Vẫn còn những bướm rập rình bay đôi
(Mây núi Thái Hàng còn giông)
- Bây giờ sóng cứ đu đưa
Làm thuyền tôi đắm sao chưa đắm thuyền
(Về Huế)
Rồi đến những thời điểm gần với hiện tại, hoặc là quá khứ gần "đêm
qua", "hôm qua", "tháng ba", "tháng mười"... hay là quá khứ xa xôi "khi
xưa", "ngày xưa"... hoặc là thời điểm thời gian ước lệ "chiều chiều", "trăm
năm", "ngàn năm"...
- Mải mê ngồi dựa cột đình
Nghe sư gõ mõ tụng kinh chiều chiều
(Lấy thơ làm một cây đàn)
- Em không còn như ngày xưa
Cho nên kẻ bão người mưa tối ngày
(Em không còn như ngày xưa)
- Đêm qua đổ trận mưa rào
Sáng nay trời đất lạc vào thiên thai
(Thế là chưa đến tháng mười)
36
Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh
Trong ca dao những câu triết lí thường sử dụng chiều dài vô hạn của
thời gian hoặc gợi thời gian quá khứ xa xăm:
Trăm năm bia đá còn mòn
Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ
(Ca dao)
Thuở nào em bé cỏn con
Bây giờ em đã lớn khôn thế này
(Ca dao)
Đồng Đức Bốn cũng triết lí theo kiểu dân gian:
- Cuốc kêu như là cuốc kêu
Ngàn năm cái giọng vẫn đều thế thôi
(Cuốc kêu)
- Trăm năm tưởng gỗ hóa trầm
Nào ngờ lại đá lặng câm đứng chờ
Nghìn năm đi giữa mịt mờ
Cái gì cũng thấy ngờ ngờ lo lo
(Chín xu đổi lấy một hào)
- Lẻ loi lấy một tiếng chim
Viết câu thơ để sống nghìn năm sau
(Đời tôi)
Chính sự gần gũi với ca dao mà lục bát Đồng Đức Bốn mới hồn nhiên,
mộc mạc, giản dị như vậy. Cách dùng từ, thậm chí là bản thân từ ngữ cũng
không xa lạ với lối diễn đạt của ca dao.
Tuy nhiên, phải nói rằng sự kế thừa nào cũng phải mang đậm dấu ấn
cá nhân, ở đó người đọc thấy được tinh hoa của những người đi trước và
thấy được cái mới cái lạ được phát triển nhưng vẫn phải theo cái mạch
chung ấy chứ không phải là tiếng ca lạc điệu. Trong những cách diễn đạt
đầy chất dân gian ấy, ở Đồng Đức Bốn vẫn toát lên được chất riêng của
anh. Chính vì thế thời gian trong thơ cũng nhiều chiều, cũng phong phú
37
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGUYỄN QUỐC KHÁNH hơn so với ở trong ca dao. Có những từ miêu tả thời gian tuy gần gũi với ca
dao nhưng được diễn đạt bằng nhiều giọng điệu, nhiều chiều như "cái
đêm", "buổi ấy", "mảnh trăng chiều", "cả chiều", "con đò ban mai", "người
muôn năm", "một phút", "một giây", "chiều xa", "xuân", "hạ", "thu",
"đông"...
- Cái đêm em ở với chồng
Để ai hóa đá bên sông đợi đò
(Cái đêm em ở với chồng)
- Không em ra ngõ kéo diều
Nào ngờ được mảnh trăng chiều trong mây
(Sông Thương ngày không em)
- Đời tôi như một con diều
Đứt dây để trống cả chiều ngẩn ngơ
(Đời tôi)
- Nhuộm tôi hồng những câu thơ
Tháng năm tạc giữa vết nhơ của trời
(Trở về với mẹ ta thôi)
- Vẫn còn trong nắng thấp tho
Tôi và em xuống con đò ban mai
(Qua nhà người yêu cũ)
- Mùa xuân em đi lấy chồng
Con sông có cạn má hồng có phai
(Em đi lấy chồng)
Chính nhờ biết cách khai thác mạch nguồn truyền thống mà Đồng Đức
Bốn đã tạo nên một phong cách riêng cho mình, không lẫn với bất cứ ai. Có
nhiều nhà thơ cũng lấy cảm hứng thi ca từ ca dao, dân ca, nhưng cách thể
hiện thì có lẽ Đồng Đức Bốn mộc mạc hơn cả, quê mùa hơn cả và cũng vì
38
Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Quốc Khánh thế thơ của anh cũng hồn nhiên hơn cả nhưng chúng tôi cũng xin nhấn
mạnh đó là cái hồn nhiên không dễ gì mà học được.
Về mặt thể thơ, lục bát Đồng Đức Bốn cũng không có nhiều điểm
khác so với thơ lục bát của các nhà thơ đi trước. Bởi xét cho đến cùng, lục
bát đến Truyện Kiều đã đạt đến trình độ mẫu mực nên các nhà thơ lục bát
sau này tuy có cách tân về hình thức nhưng nói đúng ra đó chỉ là những
phá cách mang tính cá nhân, chứ chưa được gọi là hệ thống. Trong thơ
Đồng Đức Bốn, ta thấy lối ngắt nhịp và cách sử dụng thanh điệu của anh
đôi khi hơi phá cách nhằm tạo nên cái mới lạ, nhưng nhìn chung những
câu thơ đó xuất hiện nhiều mà đa phần vẫn là cách thức tổ chức âm điệu,
vần điệu chính thống. Vì thế không thể cho đó là sự cách tân triệt để mà
đó chỉ là dấu ấn cá nhân tạo nên phong cách lục bát của từng nhà thơ.
39
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH
CHƢƠNG 2
Yếu Tố ca dao trong thơ lục bát Đồng đức bốn trên bình diện giọng điệu
2.1 Xung quanh khái niệm giọng điệu trong văn học
2.1.1 Quan niệm về giọng điệu của các nhà nghiên cứu
Trong phần này chúng tôi chỉ đề cập đến những nghiên cứu có tính
chất tiêu biểu của nhà phê bình Hoài Thanh, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử
và nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến. Những vấn đề về giọng điệu đã được
họ đem ra mổ xẻ và phân tích, chúng tôi chỉ tìm hiểu những phần có liên
quan đến đề tài trong những nghiên cứu này như là công cụ để làm sáng rõ
hơn những vấn đề về giọng điệu.
2.1.1.1 Quan niệm của nhà phê bình văn học Hoài Thanh
Trước cách mạng, khi nghiên cứu thơ mới, Hoài Thanh đã có nhận
xét đúng về các cây bút nổi bật tiêu biểu cho tính đa giọng điệu của thơ ca
lãng mạn khi cái tôi ngự trị trên thi đàn. Do hạn chế của lý luận văn học lúc
bấy giờ tác giả chưa thể giải thích nội hàm của khái niệm và các yếu tố cấu
thành giọng điệu; chưa đề cập đến vấn đề lập trường, tư tưởng, thái độ của
nhà văn chi phối giọng điệu như thế nào. Do quan niệm giọng điệu còn có
chỗ mơ hồ về lý luận nên nhiều lúc ông đồng nhất giọng điệu với phong
cách nghệ thuật của nhà thơ: “Trong lịch sử thơ ca Việt Nam chưa bao giờ
có thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất
hiện cùng một lần một hồn thơ mở rộng như Thế Lữ, mơ màng như Lưu
Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược
Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ vĩ như Chế Lan
Viên và thiết tha, rạo rực băn khoăn như Xuân Diệu”. [48, 39]
Ngay từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, trong chuyên luận
“Nói chuyện thơ kháng chiến” thông qua thẩm định giá trị thơ từ 1945 - 1951
40
Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Quốc Khánh Hoài Thanh đã đề cập đến giọng điệu thơ ca. Quán xuyến lời bình của ông
ở phương diện giọng điệu là sự chi phối của lập trường tư tưởng nhà văn.
Trước hết tác giả coi giọng điệu là một trong bốn thành tố (Thể thơ - Điệu
thơ - Giọng thơ - Tứ thơ) mà yếu tố chi phối là lập trường tư tưởng nhà
văn: “ý nghĩa xã hội và chính trị của thể thơ trong thơ kháng chiến của ta,
trái lại, là không thể nghi ngờ. Vì các thể thơ ở đây nói chung đã kết hợp
được với điệu thơ, giọng thơ, tứ thơ làm một”.
Tác giả cho rằng việc lựa chọn thể thơ cũng phản ánh thái độ chính
trị của nhà văn mà tác giả gọi là: “ý nghĩa xã hội và chính trị của thể thơ”.
Hoài Thanh lý giải nguyên nhân của việc các nhà thơ chưa có giọng điệu
riêng còn có cái “Giọng pha” của ca dao truyền thống, của thơ ca lãng mạn
(1932 - 1945) là do nhà thơ chưa thực sự hoà vào “Tiếng nói của đại
chúng”; Tuy họ ở gần quần chúng, đứng về phía quần chúng nhưng chưa
hoà vào quần chúng. Nhận thức tư tưởng của họ còn chưa kịp với “đà tiến
chung của cách mạng”. Phê phán giọng điệu Thơ mới ông chỉ ra cái giọng
“bình yên” thực chất là thái độ thoát ly hiện thực, thoát ly cuộc đấu tranh
cách mạng sục sôi lúc bấy giờ, thái độ bàng quan trước thời cuộc: “Trở lại
câu chuyện thơ. Thơ hồi bấy giờ cũng đi theo một dòng như vậy. Dĩ vãng
không còn đủ cho nó dung thân. Nó tìm về những nơi mà nó tin rằng không
có dĩ vãng, không có hiện tại, không có tương lai, những nơi ở ngoài thời
gian và ngoài cả không gian. Thơ cũng tìm về Đạo, về vũ trụ. Cái nguy
trong lối thơ này là cái giọng bình yên của nó”.
Lý giải giọng điệu thơ Vũ Hoàng Chương sau cách mạng tháng Tám
qua bài “Nhớ về Hà Nội vàng son” vẫn còn giọng kêu than giả vờ, lối diễn
đạt còn nặng trĩu những từ cổ xa lạ với lối diễn đạt của quần chúng cách
mạng cũng là bởi lập trường tư tưởng của họ: Cái tôi chưa thực sự hoà vào
cái ta nên có giọng điệu lạc lõng: “Cũng trong bài thơ ấy, liên tưởng tới
tình cảm Hà Nội sau ngày toàn quốc kháng chiến, anh viết:
Vui mà đau đớn mà rơi lệ
41
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH
Ngọc đá thành tro ai biết không;
Câu sấm tiền triều “phi chiến địa”
Sai rồi ôi cố đô Thăng Long!
Chưa nói đến cái giọng điệu kêu rên rất vô lý, ngay chữ dùng cũng
đèo theo mỗi chữ một quá khứ nặng nề không thể chịu được: Ngọc, đá, tiền
triều, cố đô”. [49, 22]
Khen bài thơ Viếng bạn của Hoàng Lộc, Hoài Thanh cũng cắt nghĩa
cái giọng “bình tĩnh” là cách biểu hiện của tinh thần lạc quan cách mạng,
bản lĩnh của người chiến sỹ Cộng sản. “Yêu không nước mắt, giận không
chửi bới và cũng không phải yêu giận suông. Yêu giận phải đưa đến hành
động. Hành động ở đây cũng không phải là một ý thơ mơ hồ. Nó là một sự
thực mà nhà thơ đã thấy trước ngay từ giờ, một sự thực bình dị và tất nhiên:
Mai mốt bên cửa rừng
Anh có nghe súng nổ
Là chúng tôi đang cố
Tiêu diệt kẻ thù chung
Cho nên giọng thơ ở đoạn cuối này thật bình tĩnh, không phải cái bình
tĩnh của kẻ vô tâm, mà cái bình tĩnh của người biết mình muốn gì, biết
mình đi đâu, cái bình tĩnh Bôn – sê - vích". [49, 68]
Nhìn chung nhà nghiên cứu văn học Hoài Thanh tuy không đưa ra
định nghĩa về giọng điệu nhưng trong cách phê bình, thẩm định văn
chương của ông đã toát lên quan niệm: Giọng điệu là biểu hiện lập trường,
tư tưởng, thái độ của nhà văn với hiện thực của cuộc sống.
Cũng trong chuyên luận “Nói chuyện thơ kháng chiến” tuy không bàn
sâu nhưng Hoài Thanh đã đề cập mối quan hệ giữa giọng điệu và cảm xúc:
Tác giả quan niệm giọng nói trong thơ như sự hình thức hoá điệu tâm hồn:
“Từ ngày cách mạng, đại chúng đã bắt đầu lên tiếng trong thơ. Những tiếng
nói của đại chúng trong thơ giờ đây còn là những lời bập bẹ. Giọng nói
42
Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Quốc Khánh nhiều khi còn là giọng pha; vì ngay bản thân đại chúng cũng còn vướng
nhiều ảnh hưởng phức tạp”. [49, 110]
Như vậy, nhà phê bình Hoài Thanh đã nhấn mạnh đến thái độ, quan
điểm lập trường và xúc cảm thẩm mĩ là những yếu tố cấu thành nên giọng
điệu. Ngoài ra ông cũng đề cập vấn đề thi liệu nhưng theo chúng tôi thì các
yếu tố vừa nêu trên đây bản thân nó đã có sự lựa chọn hệ thống thi liệu rồi,
nên không xét hệ thống thi liệu với tư cách là yếu tố cấu thành nên giọng
điệu được mà chỉ xem nó như là phương tiện của giọng điệu mà thôi.
Chẳng hạn ta thấy Nguyễn Bính khi miêu tả tâm trạng chờ nhau của những
đôi trai gái ở làng quê, ông đã sử dụng những thi liệu như, "miếng giầu",
"láng giếng", "đỏ đèn", "cả gió", "sương muối"... điều này đã cho chúng ta
thấy, thi liệu là phương tiện để biểu hiện xúc cảm thẩm mĩ và đề tài mà nhà
thơ hướng đến.
2.1.1.2 Quan niệm của nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến
Trong chuyên luận Văn học và học văn, ông Hoàng Ngọc Hiến đã
khẳng định sức chinh phục của văn chương một phần quan trọng là ở giọng
điệu: “Câu văn có hồn là câu văn có giọng, có ngữ điệu, bởi vì từ ngữ của
bài văn được chọn có thông báo nhiều điều quan trọng, nhưng bài văn
không có giọng đọc lên vẫn nhạt nhẽo vô vị. Sự phong phú, tính đa nghĩa, ý
vị đậm đà của bài văn trước hết ở giọng. Năng khiếu văn ở phần tinh tế
nhất là năng lực bắt được trúng cái giọng của văn bản mình đọc và tạo ra
được giọng đích đáng cho tác phẩm mình viết. Bắt được giọng đã khó, làm
cho học sinh cảm nhận được cái giọng càng khó, công việc này đòi hỏi
sáng kiến và tài tình của giáo viên”. [19, 160]
Tuy nhiên, trọng tâm của chuyên luận là vận dụng quan niệm về giọng
điệu văn chương để xác định giọng điệu văn chương của Truyện Kiều:
“Muốn hiểu Truyện Kiều phải bắt được cái giọng của tác giả trong sáu câu
triết luận mở đầu (…). Điều quan trọng hơn cả là cái giọng mỉa mai, hờn
43
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGUYỄN QUỐC KHÁNH mát, đay đả của tác giả khi nói đến những luật này (…). Từ “khéo là” có
bao nhiêu nghĩa thì cái giọng của tác giả biểu hiện ở đây có bao nhiêu sắc
thái: Mỉa mai, hờn mát, rờn rợn, châm chọc…”. “Tài mệnh tương đố”
không phải là tư tưởng của Truyện Kiều. Triết lý của Truyện Kiều là ở cái
giọng của tác giả khi nói về tư tưởng này, nói ở chữ “khéo là” xen vào câu
“tài mệnh tương đố”. Cũng như phân tích ở trên “bỉ sắc tư phong”, “hồng
nhan bạc mệnh” không phải là tư tưởng đích thực của Truyện Kiều. ở đây
cái giọng của tác giả rất rõ. Trước luật cõi đời và luật trời, Nguyễn Du là
một người đáo để, với cái giọng đay đả, đay nghiến của ông: “Lạ gì”… ở
đây bộc lộ thái độ dè bỉu, bực tức, chán ngán khi ta nói "lạ gì anh ấy” thì
hoặc là ta dè bỉu, hoặc là ta bực tức, hoặc là ta chán ngán… anh ấy, chắc
chắn không phải là một thái độ thiện cảm. Cái giọng văn của Nguyễn Du
khi nói đến luật “hồng nhan bạc mệnh” bao hàm một thái độ đối với “trời
xanh”, một cái giọng “sẵng” với thái độ “sắc”. Với cái giọng này và thái độ
ấy, nhà thơ có chửi luôn cả Trời thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Nếu
“Trời xanh quen thói” thì sự “khách má hồng đánh ghen” không thể là một
điều tốt lành". [19, 162]
Trong cách khảo sát giọng điệu Truyện Kiều tác giả đã khẳng định:
“Tài mệnh tương đố” không phải là tư tưởng Truyện Kiều, triết lý của
Truyện Kiều là ở cái giọng của tác giả khi nói về tư tưởng này. Hoàng
Ngọc Hiến cũng khẳng định giọng điệu vừa biểu hiện tư tưởng tác giả vừa
biểu hiện thái độ của nhà văn với hiện thực: “Với cái giọng này và thái độ
ấy, nhà thơ có chửi luôn cả Trời thì cũng chẳng có gì ngạc nhiên”. ý kiến
của tác giả cùng khuynh hướng với ý kiến của Hoài Thanh nhưng sự lý giải
rõ hơn, thể hiện cách nhìn có chiều sâu mới về giọng điệu văn chương. Có
lẽ nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến đã ý thức rất rõ rằng thái độ, tư tưởng
của nhà văn đã tạo nên chất giọng riêng, chính vì thế mà Nguyễn Du đã thể
hiện rõ nét cái nhìn của ông về hiện thực thông qua giọng điệu trong
Truyện Kiều.
44
Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh
2.1.1.3 Quan niệm của nhà nghiên cứu Trần Đình Sử
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử là người đầu tiên nhìn nhận giọng điệu
bằng cái nhìn hệ thống, khúc chiết theo tinh thần thi pháp học. Trong tác
phẩm lý luận: Những thế giới nghệ thuật thơ ông đã đặt vấn đề giọng điệu
với tư cách mội đối tượng nghiên cứu lý luận văn học ngang hàng với các
đối tượng khác như: Thế giới nghệ thuật, đề tài, chủ đề, phong cách nghệ
thuật của nhà văn… Tác giả đã phân biệt giọng điệu trong đời sống và
giọng điệu trong nghệ thuật; coi giọng điệu nghệ thuật là một phương diện
cấu thành hình thức của văn học. Trần Đình Sử coi giọng điệu là yếu tố
động, từ đó đi tới khẳng định sự vận động của văn học thông qua phạm trù
giọng điệu. Đặc biệt trong công trình này, ông đã chỉ ra được bản chất của
giọng điệu: giọng điệu là sự biểu thị lập trường, tư tưởng, cảm xúc của chủ
thể. Các hiện tượng ngôn ngữ được biểu hiện qua lời văn nghệ thuật nhưng
về bản chất nó là hiện tượng siêu ngôn ngữ học, nó không tồn tại như một
yếu tố cô lập mà “toát ra từ bản thân tác phẩm và nội hàm tư tưởng thẩm
mỹ” thành tựu lý luận này đã được ông vận dụng để khảo sát, xác định
giọng điệu nghệ thuật của nhà văn và tác phẩm văn học.
Trong công trình nghiên cứu của mình, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử
đã tìm hiểu "Giọng điệu nghệ thuật cảm thương trong Truyện Kiều" để
khảo sát giọng điệu Truyện Kiều. Trong tác phẩm này, tác giả đã nhiều lần
nhấn vào quan niệm giọng điệu là biểu hiện của lập trường tư tưởng, thái
độ của nhà văn đối với hiện thực của cuộc sống ở nhiều góc độ.
Có khi tác giả nhấn vào thái độ nhà văn một cách trực tiếp “Giọng
điệu là biểu hiện của thái độ, cảm xúc của chủ thể đối với đời sống''. [47,
258]
Có khi tác giả khẳng định lập trường, thái độ nhà văn ở dạng điểm
nhìn của chủ thể và quan hệ của chủ thể với đối tượng phản ánh: “giọng
điệu thể hiện ở tiếng nói và điểm nhìn của chủ thể, ở quan hệ của chủ thể
tác giả đối với cái được miêu tả''. [47, 259]. ở đoạn khác ông Trần Đình Sử
45
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGUYỄN QUỐC KHÁNH cũng nhấn vào khuynh hướng nghệ thuật của tác giả, cũng là cách khẳng
định giọng điệu chi phối bởi lập trường tư tưởng của nhà văn “giọng điệu
văn học là hiện tượng “siêu ngôn ngữ học”, phụ thuộc vào cấu trúc nghệ
thuật của tác phẩm, khuynh hướng nghệ thuật của tác giả và của thời đại”.
[47, 258]
Nhấn mạnh vào thái độ, lập trường của nhà văn là xác định yếu tố
quyết định giọng điệu nghệ thuật của tác giả. Vì vậy hầu hết các tác giả
nghiên cứu về giọng điệu văn chương đều khẳng định điều này. Và chính thái
độ và lập trường của nhà văn đã chi phối toàn bộ hệ thống đề tài mà tác giả
muốn phản ánh cũng như những phương tiện để chuyển tải tư tưởng của
mình.
2.1.2 Định nghĩa đầy đủ về "giọng điệu"
Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt do (NXB Đà Nẵng, 2006) có định
nghĩa "giọng điệu" theo lối chiết tự nên có đào sâu về ý nghĩa của thuật
ngữ. Trong cuốn từ điển này, “giọng” đã định nghĩa như sau:
Giọng:
1. Độ cao thấp, mạnh yếu của lời nói, tiếng hát
2. Cách phát âm của một địa phương
3. Cách diễn đạt bằng ngôn ngữ, biểu thị một thái độ, tình cảm nhất định
4. Gam đã xác định âm chủ
Khái niệm giọng ở đây chủ yếu nói về người chỉ giọng nói của người.
Hai nét nghĩa đầu (1 và 2) là khái niệm giọng nhìn ở góc nhìn vật lý. Nét
nghĩa thứ 2 (cách phát âm của một địa phương) diễn tả giọng điệu của địa
phương hoàn toàn khác với giọng điệu văn chương trong tác phẩm, tuy có
ảnh hưởng đến nó. Về điều này ông Trần Đình Sử đã lý giải khá rõ: “Có
khi giọng điệu được xem giản đơn là dấu hiệu cá thể hay dấu hiệu địa
phương ví như giọng Huế ở nhà thơ này, giọng Nam Bộ của nhà văn nọ”
tuy giọng cá nhân và giọng địa phương có góp phần tạo nên sắc thái, song
46
Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Quốc Khánh giọng điệu trong văn học là một hiện tượng nghệ thuật toát ra từ bản thân
tác phẩm và mang một nội hàm tư tưởng thẩm mỹ”. [47, 258]
Chúng tôi cho rằng định nghĩa đầy đủ nhất về giọng điệu là định nghĩa
trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học. Tại mục G trong cuốn Từ điển thuật
ngữ văn học do (Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi - đồng chủ
biên, NXB Giáo dục, 2005) có ghi định nghĩa về giọng điệu như sau: “Thái
độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng
được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ,
sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã,
ngợi ca hay châm biếm (…). Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ
tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả có vai trò rất lớn trong việc tạo nên
phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc. Thiếu một giọng
điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết ra một tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài
liệu và sắp xếp trong hệ thống nhân vật. Không nên lẫn lộn giữa giọng điệu
và ngữ điệu là phương tiện biểu hiện của lời nói, thể hiện qua cách lên giọng,
xuống giọng, nhấn mạnh, nhịp điệu… chỗ ngừng. Giọng điệu là một phạm
trù thẩm mỹ của tác phẩm văn học. Nó đòi hỏi người trần thuật, kể chuyện
hay nhà thơ trữ tình phải có khẩu khí, có giọng điệu. Giọng điệu trong tác
phẩm gắn với cái giọng điệu “trời phú” của mỗi tác giả, nhưng mang nội
dung khái quát nghệ thuật, phù hợp với đối tượng thể hiện. Giọng điệu trong
tác phẩm có giá trị thường đa dạng, có nhiều sắc thái trên cơ sở một giọng
điệu cơ bản chủ đạo, chứ không đơn điệu”. [16, 134 - 135]
Trong định nghĩa này, các tác giả của cuốn Từ điển đã đề cập một
cách toàn diện, sâu sắc cả nội hàm và ngoại diên của khái niệm giọng điệu
văn chương.
Từ điển còn đưa ra các loại giọng điệu để minh hoạ:
- Trong thơ tình của Thế Lữ có giọng điệu “lẳng lơ mà xa vời, thiếu
tình ấm áp” (Hoài Thanh).
47
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH
- Giọng điệu ngọt ngào êm ái trong Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng
(tác giả Từ điển).
- Giọng điệu suồng sã, đay nghiến trong Chí Phèo (của Nam Cao)
- Giọng điệu mỉa mai châm biếm trong Thuế máu của Nguyễn ái Quốc.
- Khẳng định đúng mức vai trò của giọng điệu trong việc tạo nên
phong cách nghệ thuật của nhà văn có tác dụng truyền cảm đối với người
đọc: “Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu
thẩm mỹ của tác giả nên có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách
nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc. Thiếu một giọng điệu nhất
định, nhà văn chưa thể viết ra được tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu và
sắp xếp trong hệ thống nhân vật”. [16, 134 - 135]
Từ điển thuật ngữ văn học còn phân biệt giọng điệu với ngữ điệu là
hai yếu tố hay bị nhầm lẫn: “Không nên lẫn lộn giọng điệu với ngữ điệu là
phương tiện biểu hiện của lời nói, thể hiện qua cách lên giọng, xuống
giọng, nhấn mạnh, nhịp điệu… chỗ ngừng. Giọng điệu là một phạm trù
thẩm mỹ của tác phẩm văn học. Nó đòi hỏi người trần thuật, kể truyện hay
nhà thơ trữ tình phải có khẩu khí giọng điệu. Giọng điệu trong tác phẩm
gắn với giọng “trời phú của mỗi tác giả, nhưng mang nội dung khái quát
nghệ thuật, phù hợp với đối tượng thể hiện”. [16, 135]
Định nghĩa này cũng khẳng định giọng điệu trong tác phẩm có giá trị
như là một tiêu chí để đánh giá tầm vóc của nhà văn. Đó là hiện tượng đa
giọng điệu nhưng phải có giọng điệu cơ bản - âm chính và những bè đệm:
“Giọng điệu trong tác phẩm có giá trị thường đa dạng, có nhiều sắc thái
trên cơ sở một giọng điệu cơ bản chủ đạo, chứ không đơn điệu” [16, 135].
So với định nghĩa giọng điệu của cuốn Từ điển Tiếng Việt thì định nghĩa về
giọng điệu nghệ thuật trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học toàn diện hơn,
sâu sắc hơn - là chỗ dựa chủ yếu để khảo sát giọng điệu văn chương của
một tác giả. Định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt chỉ nhằm định nghĩa giọng
48
Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Quốc Khánh điệu trong cuộc sống nhưng cũng cần xem xét vì giọng điệu trong cuộc
sống tác động đến giọng điệu nghệ thuật.
Vì giọng nói không chỉ tồn tại như một tín hiệu âm thanh (mang tính
Vật lý) mà còn hàm chứa thái độ người nói vì thể dẫn đến khái niệm “giọng
điệu trong đời sống”. Từ điển Tiếng Việt đã định nghĩa giọng điệu trong đời
sống một cách đơn giản hơn so với định nghĩa giọng điệu văn chương trong
Từ điển văn học. Giọng điệu là “giọng nói, lời nói biểu thị một thái độ nhất
định”. Như vậy giọng bao hàm cả góc độ vật lý và tâm lý, nhưng giọng
điệu lại được nhìn nhận từ góc độ tâm lý. Định nghĩa trùng với nét thứ ba
của định nghĩa về giọng.
Giọng điệu văn chương và giọng điệu trong cuộc sống tuy có ảnh
hưởng qua lại nhưng vẫn có những nét khác nhau thuộc về bản chất: Giọng
điệu trong đời sống mang tính khả biến do có thể căn chỉnh cho phù hợp
với đối tượng, nội dung giao tiếp. Giọng điệu trong văn chương mang tính
bất biến vì nó toát ra từ toàn bộ tác phẩm đã hoàn thành, không thể chỉnh
sửa. Muốn đổi giọng tác giả phải viết tác phẩm khác thay thế. Giọng điệu
trong đời sống thể hiện qua cách nói, mang dấu ấn nghề nghiệp, giới tính,
tuổi tác, tác phong của chủ thể phát ngôn. Giọng điệu trong văn chương
cũng thể hiện qua lời nói và cách nói của nhân vật trong tác phẩm. Tuy
nhiên định nghĩa giọng điệu trong đời sống chỉ là tham khảo, lý giải thêm
khi khảo sát giọng điệu nghệ thuật của một tác giả.
Tóm lại từ những công trình của các nhà nghiên cứu, chúng tôi đã rút
ra kết luận rằng: chất giọng riêng (có cả tính kế thừa) và ngữ điệu, sắc điệu
là những yếu tố tạo nên giọng điệu của một tác giả.
2.2 Một số đặc trƣng trong giọng điệu thơ lục bát Đồng Đức Bốn
2.2.1 Giọng thở than, tê tái
2.2.1.1 Cơ sở của giọng thở than tê tái
Những vần thơ của Đồng Đức Bốn đã cho thấy, tâm hồn chủ thể trữ
tình có điệu buồn thương tê tái: Trong cuộc trả lời phỏng vấn, chính nhà
49
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGUYỄN QUỐC KHÁNH thơ đã thừa nhận nỗi buồn hậm hực là cơ sở của giọng điệu thở than. Khi
được hỏi: “Anh muốn người ta hiểu mình như thế nào?”. Nhà thơ đã trả lời
thành thực: “Đó là kẻ khóc cái cay cực của kiếp người bằng chính cuộc dấn
thân “lăn lóc” của mình. Dù chỉ nói cái nghèo, cái buồn, cái xót xa nhưng
đằng sau đó là tấm lòng thanh thản và nỗi an nhiên tự tại của con người,
biết chấp nhận và vượt lên số phận”. Bởi nỗi đau lớn phải kìm nén nên
càng thêm tê tái. Chỉ riêng nỗi bất hạnh trong tổ ấm cũng đã quá sức tưởng
tượng nếu không phải là nhà thơ có bản lĩnh: “Khi viết Trở về với mẹ ta
thôi và Chăn trâu đốt lửa là những tháng ngày tôi nếm trải đủ nỗi cay đắng
cơ cực của đời. Tang cha, tang mẹ, con trai đứa thì chết, đứa thì phải mổ…
đó là những bài thơ rút ruột mà ra”.
Mặt khác giọng thơ này nằm trong một xu hướng thơ buồn tích cực
sau 1975. Đây là xu hướng nổi bật nhất trong thơ sau 1975. Những năm
đầu thập kỷ 80, thơ ở giai đoạn chuyển giọng: Nhà thơ nói nhiều hơn về nỗi
buồn nhân sinh, về những cảm nhận của cái tôi trước một thực tại khắc
nghiệt. Nếu như trước đây các nhà thơ e ngại nói về nỗi buồn thì trong thơ
sau 1975, nhiều nhà thơ công khai bày tỏ nỗi buồn. Đó không hẳn là nỗi
buồn kiểu Thơ mới, mà là nỗi buồn gắn chặt với thực tại mới, một cảm
quan nghệ thuật mới. Trong tuyển tập Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc chỉ
riêng những câu thơ có giọng thở than tê tái cũng đủ để lập thành một cuốn
“Từ điển buồn”. Ta ít thấy ở đâu chữ buồn lại xuất hiện với một tần suất
cao đến vậy (30 lần/192 bài thơ). Dài rộng thì có: Nhìn dọc đã chán nhìn
ngang lại buồn; Cao điểm thì có: Tự nhiên hoa nở trên cao cũng buồn;
Dưới thấp có: Vớt buồn trên mặt sông trôi… Phải chăng Đồng Đức Bốn đã
dùng chính những từ “buồn” để than cho thân phận của mình. Trong thơ ca,
chúng ta thường bắt gặp những trạng thái khác nhau của nỗi buồn được phả
vào các hình tượng, mô típ nghệ thuật nhưng với Đồng Đức Bốn bản thân
chữ buồn cũng đã trở thành một biểu tượng với nhiều phương diện khác
nhau. Bản thân chữ “buồn” như một sinh thể đã thốt lên những lời tê tái.
50
Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh
2.2.1.2 Đồng Đức Bốn kế thừa cách tổ chức sắc điệu của giọng thở
than tê tái trong ca dao
Nếu ta ngược về lịch sử thì ta có thể khẳng định rằng ở phương diện
dân gian nhà thơ đã kế thừa hai điệu chính trong thơ ca dân gian mà cụ thể
là ca dao: Điệu than dùng phổ biến trong ca dao có chủ đề than thân. Điệu
ghẹo chủ yếu dùng trong ca dao giao duyên thuộc chủ đề yêu thương tình
nghĩa. ở giọng thở than tê tái nhà thơ chủ yếu sử dụng điệu than với sự cách
tân lớn lao và đạt hiệu quả thẩm mỹ cao. Xét về nghệ thuật tổ chức giọng
điệu, nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn có nhận định như sau: “Tôi cho rằng,
giọng điệu là sự hoà hợp giữa nội dung cảm xúc và hệ thống chất liệu, mà
trước hết là hệ thống sắc thái, ngữ điệu”.
Về nội dung cảm xúc: điệu than trong ca dao thường là xót thương,
hờn oán do có những bất hạnh và phải chịu những bất công trong xã hội
phong kiến. Trong ca dao chủ đề than thân, bộ phận lời ca than thân của
người phụ nữ chiếm một số lượng lớn vì họ là đối tượng đau khổ nhất.
Ngoài ách áp bức bóc lột như nam giới, họ còn chịu thêm nỗi khổ bởi chế
độ nam quyền, chế độ đa thê. Bộ phận ca dao về lời than của người phụ nữ
thường làm theo thể tỉ và mở đầu bằng các cụm từ “Em như” hoặc “Thân
em như”:
- Thân em như dải lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
(Ca dao)
- Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày
(Ca dao)
Do có nỗi buồn đau, hờn oán kìm nén tất phải có nhu cầu san sẻ, thở
than để vơi đi một nửa. Vì thế, thơ Đồng Đức Bốn có kế thừa hình thức
này.
51
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH
Về lối kể: Nội dung kể trong ca dao dân ca trữ tình là những tâm trạng
của nhân dân lao động. Khác với ca dao tự sự, ca dao trữ tình không có cốt
truyện, chỉ kể về tâm trạng kết hợp với hành động của nhân vật trữ tình. Có
nhiều câu ca dao than thở về tình duyên trắc trở thường có sự kết hợp như
thế.
Để thực hiện lối than vãn ca dao cũng dùng lối đay đả, chì chiết làm
cho giọng than lâm ly hơn, thống thiết hơn:
…Nói đây có chị em nhà
Còn dăm ba thúng thóc với một vài cân bông
Em bán đi trả nợ cho chồng
Còn ăn hết nhịn cho thoả lòng chồng con
(Ca dao)
* Cách tổ chức ngữ điệu trong ca dao:
Về cú pháp ca dao than thân hay sử dụng những câu hỏi để tạo giọng
thở than và tỏ thái độ của tác giả dân gian trước đối tượng trữ tình. Ca dao
hận tình hay tổ chức lời than dưới dạng câu hỏi tu từ: Hỏi để khẳng định
tâm lý tuyệt vọng và cam chịu:
Ba đồng một lá trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng như lá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra
(Ca dao)
Về thể thơ, lục bát trong ca dao có nguồn gốc sâu xa từ đặc điểm ngôn
ngữ dân tộc Việt là tiếng nói cân đối nhịp nhàng. Ca dao thể lục bát là sự
phát triển ở mức hoàn chỉnh tiếng nói cân đối nhịp nhàng trong tục ngữ. ở
52
Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Quốc Khánh thể lục bát hoàn chỉnh, lối gieo vần bằng và nhịp điệu uyển chuyển không
chỉ có khả năng diễn đạt những cảm xúc trong sáng vui tươi êm đềm mà
còn có khả năng diễn tả nỗi buồn đau triền miên, tạo giọng điệu than thở:
Người sao một hẹn thì nên
Người sao chín hẹn thì quên cả mười
(Ca dao)
Trong ca dao than thân cũng có khá nhiều trường hợp láy giai điệu
bằng cách lặp lại một từ hoặc một ngữ để tạo nên điệu than. Thể hiện giọng
chì chiết của người vợ lẽ, tác giả dân gian dùng lối láy từ trùng điệp với tần
xuất cao trên hai câu thơ:
Chia từ cây cải chia ra
Chia cửa, chia nhà, chia sáng, chia đêm
(Ca dao)
Biện pháp tu từ so sánh cũng được tác giả dân gian sử dụng sáng tạo.
Ca dao than thân cũng dùng phép so sánh để gợi buồn nhưng theo hướng
cụ thể hoá:
Em như quả ớt chín cây
Càng tươi ngoài vỏ càng cay trong lòng
(Ca dao)
Về hình tượng nghệ thuật ca dao than thân thường chọn hình tượng là
sự vật nhỏ bé, mong mang, côi cút để biểu tượng cho số phận bất hạnh: con
cò, quả ớt, tấm lụa, miếng cau khô, giếng nước giữa đàng, con rùa, con
ếch…
Là nhà thơ đương đại với xu hướng làm mới truyền thống, Đồng Đức
Bốn cũng kế thừa cách tổ chức sắc điệu thở than tê tái của các nhà thơ đàn
anh trong phong trào Thơ Mới: Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử và đặc
biệt là Nguyễn Bính.
2.2.1.3 Diện mạo sắc điệu thở than tê tái trong thơ Đồng Đức Bốn
53
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH
Trước hết Đồng Đức Bốn sử dụng điệu than để tạo dựng giọng thơ.
Nội dung cảm xúc trong thơ Đồng Đức Bốn là nỗi buồn, nỗi đau. Nỗi buồn
trong mưu sinh, trong lập nghiệp, trong sáng tạo nghệ thuật, trong đời tư.
Nguyễn Bính than về sự lỡ dở nên thường kể nhiều rồi mới than bởi kẻ lỡ
dở bao giờ cũng có xuất phát điểm rất tươi sáng: Em là cô gái trong khung
cửi; Nhà nàng ở cạnh nhà tôi… Trong khi đó Đồng Đức Bốn lại than thở,
thê thảm vì mãi mà không thấy có tia sáng nào le lói ở cuối đường hầm.
Cùng là than nhưng Nguyễn Bính là người mang đầy hi vọng đến khi mọi
sự dở dang, không thành mới thất vọng. Trong khi đó Đồng Đức Bốn là kẻ
vốn đã sống trong sự nhếch nhác, nhom nhem nên không dám hi vọng
nhiều mà chỉ than sao cái cảnh này cứ kéo dài mãi.
Kế thừa hình thức chất liệu của văn học dân gian, thơ Đồng Đức Bốn
ở giọng điệu thở than tê tái cũng dùng lối kể tâm trạng là chủ yếu kết hợp
với kể hành động nhưng kể ít mà gợi nhiều:
Chẳng ai biết đến mẹ tôi
Bạc phơ mái tóc bên trời hoa mơ
Còng lưng gánh chịu gió mưa
Nát chân tìm cái chửa chưa có gì
Cầm lòng bán cái vàng đi
Để mua những cái nhiều khi không vàng
(Trở về với mẹ ta thôi)
Nội dung kể về mẹ không nhiều (Chỉ tả về mái tóc bạc và cái lưng
còng để gợi nỗi vất vả, lam lũ). Đoạn thơ này cũng không có yếu tố tự sự
(Sự kiện). Yếu tố hiện đại nằm ở nội dung triết lí về một cuộc tìm kiếm
khác của mẹ - người mẹ văn hoá - còn vất vả hơn nhiều so với cuộc mưu
sinh. Và đây nữa là lời than thất tình của Đồng Đức Bốn với lối kể sự việc
thì ít mà kể tâm trạng thì vời vợi:
Cái đêm em ở với chồng
54
Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh
Để ai hoá đá bên sông đợi đò
Cái đêm hôm ấy gió mùa
Tơ nhện giăng đến cổng chùa thì tan
(Cái đêm em ở với chồng)
Sự việc chỉ có một chi tiết là chất xúc tác cho tâm trạng (Cái đêm em
ở với chồng) còn chủ yếu kể về nỗi đau qua hình ảnh chàng trai quê “hoá
đá bên sông” nhưng điểm nhấn lại là hình ảnh triết lí, biểu tượng là “cổng
chùa” và “tơ nhện” gợi người đọc nghĩ đến cuộc đột nhập không thành của
tơ tình vào ngôi đền tình ái. Hình ảnh “cổng chùa” vừa tả thực vừa là ẩn dụ
biểu tượng: Em như một ni cô trong ngôi nhà của mình. Ngôi nhà có người
chồng có dáng vẻ tổ ấm nhưng thực chất là ngôi chùa khép kín, không cho
tơ tình anh vương đến. Than tiếc cho em đã cam chịu, sống yên phận, thoả
mãn với tổ ấm nhưng cũng là một thứ nhà tù trá hình nên tơ nhện tình anh
mãnh liệt giăng mắc vẫn phải dừng lại trước cổng chùa nghiệt ngã.
Trong một trường hợp khác khi kể về một hành trình tình yêu không
thành, Đồng Đức Bốn cũng kế thừa lối kể na ná bài ca dao. Ca dao kể rằng:
Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em đã có chồng anh tiếc lắm thay
(Ca dao)
Còn Đồng Đức Bốn thì kể:
Thương mình lặn lội đường xa
Vào rừng tìm mãi một hoa cải ngồng
Thế rồi phải quay ra không
Tìm mình ở phía cánh đồng đang mưa
(Thương mình lặn lội đường xa)
55
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH
Nhà thơ vừa kể hành động vừa kể tâm trạng với sự ít tình nhiều.
Chàng trai trong ca dao với hành trình tình yêu gian truân qua hành động
mang tính tượng trưng, đưa đẩy (Trèo lên… bước xuống…) và tâm trạng lỡ
làng: ý định tìm kiếm một “Nụ tầm xuân” nhưng sự thực lại cay đắng: Nụ
ấy đã nở thành hoa (Nở ra xanh biếc). Có lẽ chàng trai vì cú sốc tâm lí mà
bị lẫn màu (Tầm xuân chỉ có màu trắng và màu hồng). Chàng trai họ Đồng
cũng tự kể về hành trình tình yêu nhưng là kể thực (Lặn lội đường xa – có
lẽ là tận Hải Phòng về Hà Nội) với khát vọng khiêm tốn hơn: không dám
mơ hái “Nụ tầm xuân” chỉ ước “Hoa cải ngồng” (Cải già quá lứa biểu
tượng cho cô gái lỡ duyên lỡ thì) nhưng kết cục vẫn không hơn (Phải quay
ra không). Khác với ca dao, Đồng Đức Bốn đẩy tâm trạng của nhân vật trữ
tình đến tâm thế của kẻ lẻ loi, côi cút (Tìm mình ở giữa cánh đồng đang
mưa).
Đồng Đức Bốn trong nhiều trường hợp cũng sử dụng thủ pháp trầm
trọng hoá, cường điệu hoá để tạo dựng lời than. Thủ pháp này đã giúp nhà
thơ tạo nên giọng điệu thở than tê tái trong bài thơ viết về sự kiện đưa tang
mẹ, tạo nên một đỉnh cao khó vượt của thơ ca viết về đề tài tình mẫu tử:
Đưa mẹ lần cuối qua làng
Ba hồn bảy vía con mang vào mồ
Mẹ nằm như lúc còn thơ
Mà con trước mẹ già nua thế này
(Trở về với mẹ ta thôi)
Than về nỗi đau thất tình nhà thơ cũng có lối nặng nề hoá, trên cơ sở
nỗi đau tê tái:
Suốt đời sống trên ngọn gai
Chỉ khát khao chết xem ai thương mình
Chết rồi tôi vẫn là người
Để nhận những nỗi đau đời em cho
56
Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh
Chỉ mong ngày ấy mưa to
Bước chân ai có ngại dò đường trơn
(Thơ viết gửi người tình khi tôi chết)
Nhà thơ muốn đem cái chết để đo tình yêu là “dịp" để tận hưởng cái vị
đắng của tình yêu ở một số bài thơ khác nhẹ nhàng hơn do bình thường hoá
cái chết:
Yêu em nếu phải đốt trời
Cũng vui vẻ chết như chơi vườn đào
Đêm mơ đổ trận mưa sao
Cho em gội tóc bên rào tìm anh
(Gửi Tân Cương)
Thơ Đồng Đức Bốn cũng sử dụng lối chì chiết, đay đả của ca dao
nhưng có nét khác là không hướng vào đối tượng nào cụ thể. Chính vì
không hướng vào một đối tượng nào cụ thể như ca dao (Vốn cấu tứ theo lối
đối thoại để diễn xướng) mà lối than vãn chì chiết của tác giả có tính độc
thoại, tính khái quát, triết lí. Mượn độc thoại để đối thoại ngầm là nét độc
đáo trong điệu than của Đồng Đức Bốn. Có khi lối chì chiết chỉ dưới hình
thức triết lí chung chung về “Phúc” - “Hoạ” nhưng thực chất đã lọc qua trải
nghiệm của nhà thơ:
Buồn thì nín để quên đau
Sướng thì kêu để người sau chết dần
Sướng thì không được một lần
Đau thì chẳng phải đau ngần ấy đâu
(ở quán bán thịt chó về chiều)
Cổ nhân xưa có câu: “Phúc bất trùng lai hoạ vô đơn chí” (Phúc không
đến lần thứ hai, hoạ không chỉ một lần). Anh đã đảo ngược vế đầu (Không
được một lần) và giữ nguyên vế sau (chẳng phải đau ngần ấy đâu). Khổ thơ
vẫn giữ nguyên vần, không có yếu tố dư (Như ca dao) nhưng vẫn giữ lối
57
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGUYỄN QUỐC KHÁNH láy ý cần chì chiết, đay đả làm cho giọng chì chiết mềm hơn. Những điệu
thở than có thể tìm thấy rất nhiều trong thơ anh:
Đời tôi có một người thương
Đói cơm rách áo nằm sương cũng nhà
(Đời tôi)
Rồi là những câu thơ nghe mà xót xa:
Duyên mình chả bén trầu cau
Thì làm hạt muối ướp đau lòng chờ
(Mùa xuân đi phủ Tây Hồ)
Tóm lại, để thể hiện nỗi buồn đau oán giận Đồng Đức Bốn đã kế thừa
và làm mới điệu than trong ca dao với hai hình thức chất liệu phù hợp: Kể
lể và than vãn nhằm tạo ra giọng thơ thở than tê tái.
Trong việc tổ chức câu để tạo dựng diện mạo sắc điệu, nhà thơ cũng
sử dụng những câu hỏi tạo nên giọng điệu thở than tê tái khiến cho nỗi
buồn ám ảnh hơn. Có khi là nỗi cô đơn, đau khổ khi người yêu rẽ lối được
thể hiện bằng câu hỏi:
Bây giờ em đã về đâu
Để chim quên hót để dâu hết tằm
Rượu ngon rót chẳng sủi tăm
Nhìn nhau con mắt lá răm cũng buồn
Câu hỏi không nhằm mục đích nghi vấn mà lí giải cắt nghĩa nỗi buồn
khi mất người yêu: Người yêu đi không chỉ mang theo một nửa hồn nhà thơ
mà còn để lại một thế giới buồn, vô nghĩa vô vị (Chim quên hót; Dâu hết
tằm; Rượu chẳng sủi tăm).
Có những bài mật độ câu hỏi rất cao góp phần đắc lực cho lời thơ có
giọng điệu thở than tê tái. Đó là bài Tìm em ở bến sông mê: Bài thơ có 16
dòng mà chứa tới 4 câu hỏi xoáy vào cái tứ của bài thơ:
- Bây giờ áo đỏ ở đâu
58
Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh
Để trời xanh thiếu một màu của em
- Rét lòng khát ngọn lửa nhen
Mà áo đỏ áo đỏ em đâu rồi
- Em bán gì đấy em ơi
Để tôi mua một nụ cười làm duyên
- Không biết em đi lối nào
Tự nhiên hoa nở trên cao cũng buồn
Cái giọng thở than tê tái trở thành cái “tông” của bản nhạc sông mê là
nhờ 4 câu hỏi ấy. Những câu hỏi trong lời thơ không chỉ để tách nhân vật
trữ tình khỏi đối tượng trữ tình mà còn tạo dựng giọng điệu thơ.
Lối cắt nhịp phá cách trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn rất đa dạng
nhưng đều tạo ra nhịp điệu trục trặc góp phần tạo nên giọng điệu thở than
tê tái. Dạng thứ nhất phá cách câu 6 chuyển từ nhịp 2 sang nhịp 3: “Ta
đánh bạc / với quỷ thần”; loại thứ hai là phá cách câu 8 chuyển từ nhịp 2
truyền thống sang nhịp 3/3/2: “Sông sâu đã / nhện nhả tơ / bắc cầu”. Dạng
thứ 3 với mật độ ít hơn: phá cách ở cả hai câu 6 và 8 chuyển từ nhịp 2
truyền thống sang phần lớn là nhịp 3:
Tôi còn nhớ / hay đã quên
áo nâu mẹ / vẫn bạc bên / nắng chờ
(Trở về với mẹ ta thôi)
ở điệu than, thơ Đồng Đức Bốn cũng có kế thừa lối láy gián cách của
ca dao đồng thời phát huy lối láy liên tiếp của Thơ mới nhưng chúng tôi
thấy ở lối láy liên tiếp, nhà thơ chỉ láy đến hai từ là tối đa để tạo ra giọng
điệu buồn. Đó là những trường hợp láy một cụm gồm hai từ:
Rét lòng khát ngọn lửa nhen
Mà áo đỏ áo đỏ em đâu rồi
Cách láy giai điệu trong thơ Đồng Đức Bốn tạo ra những ám ảnh về
giọng điệu than thở. Có khi nhấn vào một âm thanh khắc khoải đến rỉ máu
59
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGUYỄN QUỐC KHÁNH (Cuốc kêu như là cuốc kêu) hay một lời ru ngọt mà chết người (Con tôi
chết bởi lời người hát ru).
Kế thừa và đổi mới chất liệu gợi giọng điệu thở than trong ca dao và
thơ mới Đồng Đức Bốn cũng lựa chọn những hình tượng nhỏ bé biểu tượng
cho cái tôi nhỏ bé: Có khi là hạt bụi xa xôi, có khi là con thuyền trôi vô
hướng: Thuyền giữa sông trôi lững lờ; Hạt bụi xa xôi…
Khảo sát việc tổ chức các sắc điệu, chúng tôi thấy Đồng Đức Bốn đã
kế thừa điệu than trong ca dao vào giọng điệu buồn cô đơn trong Thơ mới
để tạo nên giọng thở than tê tái mang ý nghĩa nhân văn bởi đó cũng là cách
biểu hiện của lòng yêu đời yêu cuộc sống có trách nhiệm với xã hội khi mà
thực tế còn có mặt trái chưa ngang tầm với khát vọng. Đồng Đức Bốn đã
thể hiện rất rõ phong cách sáng tác của mình qua một giọng điệu đặc trưng
không lẫn với ai, chính điều này làm cho sự kế thừa càng thêm có ý nghĩa,
bởi trong thơ anh vừa có tính kế thừa vừa có tính phát triển, chính điều này
đã đem lại những đóng góp không nhỏ trong thi ca hiện đại.
2.2.2 Chất "giọng quê mùa" được tạo nên bởi hệ thống thi liệu
ở những giai đoạn trước, nhà thơ Nguyễn Khuyến được coi là nhà thơ
của làng cảnh Việt Nam ("làng cảnh" chứ không phải "làng quê"). Ba bài
thơ thu của ông đã chứng mình điều đó. Cũng không khó hiểu khi một nhà
nho uyên thâm, đã từng đỗ cao ở các kì thi, rồi ra làm quan nay về quê làm
những vần thơ về phong cảnh nông thôn lại mang tính hàn lâm, mẫu mực.
Trong chùm thơ thu có rất nhiều từ quá đỗi quen thuộc với những người
nơi thôn quê: ao thu, thuyền câu, ngõ trúc, làn ao, nhà cỏ, cần trúc...
nhưng chính cái thể thơ mà tác giả lựa chọn đã cho thấy tính hàn lâm của
nói, còn chưa nói đến cảm xúc thẩm mĩ, thái độ và quan niệm sáng tác của
Nguyễn Khuyễn.
Điều này lí giải vì sao mà với hệ thống thi liệu "đầy chất quê" như thế
nhưng ba bài thơ thu lại không phải là ba bài thơ về làng quê Việt Nam mà
chỉ là của làng cảnh Việt Nam. Còn ở Nguyễn Bính thì ta thấy rất rõ chất
60
Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Quốc Khánh giọng quê, nôm na, giản dị được thể hiện không chỉ qua hệ thống thi liệu
đậm chất dân gian: giàn giầu, cau thôn Đoài, thôn Đông, yếm lụa sồi, áo tứ
thân, sương muối, đầu đình, bến, đò... mà còn qua giọng điệu, thái độ, quan
niệm và phong cách sáng tác của nhà thơ. Chính vì vậy, mà Nguyễn Bính
được xem là "thi sĩ của đồng quê", "nhà thơ chân quê", ông còn được đánh
giá là một trong những nhà thơ thể hiện rõ nhất tâm hồn Việt, nói như Hoài
Thanh là "hồn xưa của đất nước".
ở Đồng Đức Bốn, cái mộc mạc (đôi khi là thô mộc) được thể hiện rõ
nét hơn, thơ của anh đậm chất quê nhưng lại rất ám ảnh, bởi sự hoang dại
bản năng. Điều đó vừa làm nên sự khác biệt vừa làm nên sự thành công của
thơ anh.
Theo như chúng tôi khảo sát, thì trong thơ Đồng Đức Bốn, yếu tố dân
gian là đậm đặc: tiếng vạc, con sáo, chân lấm tay bùn, cấy lúa, tiếng gà,
giọt mưa sa, bếp lửa, buông neo, hoa cà, thân cò, chín xu, một hào, cào
cào, sông sâu, mái đình, con đò, cây đa, đường quê...
Hệ thống thi liệu mang tính chung, phổ biến ấy qua tâm hồn nhà thơ
đã trở nên hết sức sống động và ám ảnh, không những thế nó còn tạo nên
một phong cách riêng của Đồng Đức Bốn mà không lẫn với bất cứ một
phong cách thơ nào khác. Nếu không có biết bao nhà thơ cứ lấy thi liệu dân
gian làm thi liệu cho thơ ca của mình đều sẽ thành công sao. Chúng ta hãy
cùng đọc những câu thơ của anh để thấy cái chất "riêng" ấy:
Chín xu đổi lấy một hào
Đi mua cái nắng lại vào cái mưa
(Chín xu đổi lấy một hào)
Từ một câu nói dân gian, Đồng Đốn Bốn đã có một câu thơ đầy chất
triết lí sâu xa. Rồi là những khung cảnh quen thuộc nơi làng quê cũng hiện
ra trong thơ anh với vẻ tự nhiên vốn có:
- Tưởng rằng gió đến xôn xao
61
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH
Không ngờ hai chú cào cào đánh nhau
.............
Lập lòe dưới gốc cây dừa
Thuyền ai đốt lửa khi vừa buông neo
(Viết ở bờ sông)
- Lúa mùa chin chín trong sương
Chơi vơi giữa một trời hương tiếng gà
Chuông chùa đếm giọt mưa sa
Thơ tôi nhặt cái người ta vẫn buồn
(Nhà quê)
Rồi là những hình ảnh đã trở thành biểu tượng trong ca dao, dân ca đã
mang tính đa chiều hơn trong thơ Đồng Đức Bốn:
- Tẽn tò con sáo sang sông
Bờ bên này tưởng cũng không có gì
Tẽn tò con sáo bay đi
Lại bờ bên ấy có gì cũng không
(Con sáo sang sông)
- Bây giờ quanh cây trúc xinh
Vẫn còn những bướm rập rình bay đôi
Chênh vênh bên cái dốc người
Biết đâu gặp lại một trời thi ca
(Mây núi Thái Hàng còn giông)
- Chuông chùa tiếng đục tiếng trong
Thảo nào cát bụi long đong thân cò
Bờ sông có một con đò
Gác chèo ông lái nằm lo trăng buồn
(Viết ở bờ sông)
Giọng điệu văn chương là một phạm trù thẩm mỹ của tác phẩm văn
học. Giọng điệu là biểu hiện thái độ, lập trường, cảm xúc, thị hiếu thẩm mỹ
62
Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Quốc Khánh của nhà văn. Về bản chất, giọng điệu là hiện tượng siêu ngôn ngữ học,
không tồn tại như một yếu tố riêng lẻ mà toát ra từ bản thân tác phẩm mặc
dù nó biểu hiện qua lời văn nghệ thuật. Do giọng điệu toát ra từ bản thân
tác phẩm nên giọng điệu phải được nhìn nhận từ cách tổ chức các sắc điệu.
giọng điệu văn chương khác với ngữ điệu. ngữ điệu là hiện tượng của câu,
có chức năng biểu cảm trong phạm vi chuẩn ngôn ngữ. giọng điệu văn
chương lại là hiện tượng siêu ngôn ngữ học và nó phụ thuộc vào cấu trúc
nghệ thuật của tác phẩm, khuynh hướng nghệ thuật tác giả và thời đại. Dấu
ấn địa phương có ảnh hưởng đến giọng điệu nhưng là giọng điệu trong
cuộc sống; Giọng điệu văn chương là phạm trù thẩm mỹ của tác phẩm văn
học. Những nhân tố chi phối giọng điệu là: Quan niệm nghệ thuật của nhà
thơ, số phận cá nhân và cái tôi trữ tình với tư cách là một hiện tượng nghệ
thuật độc đáo. Những nhân tố cấu thành và biểu hiện giọng điệu là: Điệu
cảm xúc (các dạng cảm xúc được hình thức hoá), ngữ điệu thơ (cách tổ
chức lời thơ, hình tượng và các mô típ nghệ thuật).
Khảo sát giọng điệu thơ nhìn từ việc tổ chức các sắc điệu, chúng tôi đi
tới kết luận: Giọng chính trong giọng điệu thơ Đồng Đức Bốn là giọng thở
than tê tái. Giọng thơ này có cơ sở từ tâm hồn chủ thể trữ tình có điệu buồn
đau tê tái. Giọng thở than tê tái mang sắc thái lỡ dở, ngang trái tạo thành
miền khí hậu riêng trong thơ Đồng Đức Bốn. Giọng thơ của thi sĩ họ Đồng
mang sắc thái dân gian hiện đại, một phần còn do kế thừa sắc điệu của thơ
ca dân gian, cụ thể là kế thừa điệu than trong ca dao (than thân). Nội dung
cảm xúc trong ca dao than thân là xót thương, hờn oán do người lao động
xưa phải chịu những bất hạnh, bất công trong xã hội phong kiến. Điệu than
trong ca dao trữ tình có hình thức chất liệu là lối kể tâm trạng kết hợp với
kể hành động của nhân vật trữ tình. Bên cạnh lối kể còn có lối than vãn với
các thủ pháp như biểu cảm trực tiếp bằng thán từ, lối trầm trọng hoá, cường
điệu hoá. Về cách tổ chức ngữ điệu, ca dao than thân có lối tổ chức câu độc
đáo: Hay sử dụng loại câu hỏi tu từ để thở than; Kiểu câu định nghĩa (Danh
63
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGUYỄN QUỐC KHÁNH từ là danh từ) để lý giải thân phận khi than thở. Sử dụng thể thơ lục bát ca
dao than thân sử dụng loại tiết điệu, nhịp điệu trục trặc để than vãn. biện
pháp tu từ so sánh theo xu hướng cụ thể hoá cũng được sử dụng trong việc
tổ chức lời thơ. Hình tượng nghệ thuật trong loại ca dao này thường là sự
vật nhỏ bé mong manh để biểu tượng cho số phận côi cút. Là nhà thơ
đương đại, Đồng Đức Bốn cũng kế thừa cách tổ chức sắc điệu buồn của các
nhà thơ đàn anh trong phong trào Thơ mới như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn
Mặc Tử và đặc biệt là nhà thơ chân quê Nguyễn Bính. Trong thơ Nguyễn
Bính nội dung cảm xúc là nỗi sót thương, hờn oán. Bao trùm thơ Nguyễn
Bính là nỗi đau lỡ dở, Nguyễn Bính thiên về kể cái sự lỡ dở mà nét đặc
trưng là trần thuật, tái hiện sự kiện, tình huống nhưng có hạn chế là hay sa
đà vào kể nên bài thơ dễ dông dài, nhạt nhẽo. Sử dụng lối than vãn để tạo
giọng thơ buồn chán lỡ dở, nhà thơ chân quê cũng hay dùng thán từ với tần
xuất cao. Lối nói đay đả, chì chiết cho lời than lâm li hơn.
Đồng Đức Bốn đã kế thừa ca dao và thơ mới trong diện mạo sắc điệu,
tạo dựng giọng điệu thở than tê tái. Cụ thể là sử dụng điệu than. Nội dung
cảm xúc trong thơ Bốn ở giọng này là nỗi buồn đau và cả hờn oán riêng tư
nhưng được kìm nén nên tê tái, hậm hực. Cũng kế thừa lối kể của ca dao và
Nguyễn Bính nhưng thiên về kể tâm trạng, ít kể sự việc, hành động và
không ham kể đến mức quá đà như nhà thơ chân quê đàn anh. Nhà thơ kể ít
mà gợi nhiều. Sử dụng lối nặng nề hoá, cường điệu hoá của ca dao và Thơ
mới, thi sĩ đất cảng sáng tạo ở chỗ nhân thêm mức độ qua những giả định
cực tả. Khác với lối đay đả, chì chiết của ca dao, Đồng Đức Bốn không
hướng vào đối tượng cụ thể nên có tính khái quát và đậm màu sắc triết lí,
có tính độc thoại để tạo nên đối thoại ngầm là nét độc đáo trong điệu than
Đồng Đức Bốn. Kế thừa kiểu câu định nghĩa trong ca dao và thơ mới nhà
thơ cũng tổ chức kiểu câu “Danh từ là danh từ” và sáng tạo ở chỗ tạo ra
nhiều biến thể làm cho giọng than tăng thêm tính lí sự. Về giọng điệu thơ,
nếu Nguyễn Bính sử dụng cả hai loại lục bát điệu ngâm và điệu nói thì
64
Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Quốc Khánh Đồng Đức Bốn lại chuyên chú sử dụng lục bát điệu nói, phá vỡ các nhịp
điệu nhẹ nhàng êm ái chuyển sang nhịp điệu trục trặc tắc nghẽn để diễn tả
nỗi buồn đau oán hận bị kìm nén. Những câu lục bát phá cách của thi sĩ họ
Đồng tự nhiên hơn những câu thơ phá cách điêu luyện nhưng còn bộc lộ
yếu tố kỹ thuật của thi sĩ đàn anh Nguyễn Bính. Để tổ chức ngữ điệu nhà
thơ cũng phát huy lối láy, lối lặp dán cách của ca dao và lối láy liên tiếp
của Thơ mới; Sử dụng với tần xuất cao các hình tượng nhỏ bé biểu tượng
cho thân phận lam lũ. Suy cho cùng giọng điệu thở than, tê tái trong thơ
Bốn mang nhiều ý nghĩa nhân văn.
Chúng ta thấy rằng, sắc thái giọng điệu trong thơ Đồng Đức Bốn là
một trong những yếu tố tạo nên sức sống của thơ anh. Từ giọng điệu đến
thi liệu, Đồng Đức Bốn đã kế thừa triệt để những tinh hoa của ca dao
truyền thống và làm nên một phong cách thơ đặc trưng của mình. Một nghệ
sĩ tồn tại được, có nghĩa là tác phẩm của họ không giống với bất cứ ai, một
mình họ tạo nên một phong cách, một sắc thái riêng và Đồng Đức Bốn đã
làm được điều đó.
65
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH
CHƢƠNG 3
Yếu tố ca dao trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn
trên bình diện hệ thống đề tài
Hiện thực được phản ánh trong kho tàng ca dao chủ yếu là thiên nhiên
và cuộc sống sinh hoạt của người dân nơi làng quê. Đề tài về làng quê
trong thơ Đồng Đức Bốn cũng chiếm phần lớn những sáng tác thơ ca của
anh. Điều này một lần nữa khẳng định Đồng Đức Bốn đã tiếp nối dòng
chảy của quá khứ và sáng tạo cho mình một không gian thơ riêng vừa mang
đậm những yếu tố truyền thống vừa mang phong cách và hơi thở của thời
đại.
3.1 Thiên nhiên nơi thôn quê
Đồng Đức Bốn đã từng thổ lộ:
Bao nhiêu là thứ bùa mê
Cũng không bằng được nhà quê của mình
(Gửi Tân Cương)
Hai câu thơ trên đã thể hiện tình yêu đối với quê hương của Đồng Đức
Bốn. Anh viết về rất nhiều mảng đề tài khác nhau như cuộc sống chốn thị
thành (Chiều mưa phố Huế, Một thoáng đường Trung Tự, Hồ Tây… ),
nhưng gây ấn tượng nhất vẫn là những gì thuộc về chốn “nhà quê”. Cảnh
quê trong thơ Đồng Đức Bốn chỉ được anh phác họa bằng những nét vẽ
đơn giản nhưng rất chân thực và sinh động gắn với những lam lũ và khốn
khó. Như bao làng quê Bắc Bộ khác là mái gianh nghèo xơ xác mà đầm
ấm, là những con ngõ nhỏ với hoa tầm xuân, hoa râm bụt... Rồi khi ra đến
những con đường quê ngày nắng thì gan góc, ngày mưa thì lầy lội ấy vậy
mà hai bên đường lúc nào cũng đầy ắp những hoa thơm cỏ lạ của chốn quê
mùa. Phía xa là dòng sông quê với những con đò quê như chiếc lá tre thanh
mảnh chở khách qua sông sang với bờ bãi bên kia nơi có những cánh diều
66
Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Quốc Khánh no gió. Nói đến quê cũng không thể thiếu những phiên chợ quê với những
cảnh trao đổi, bán mua đạm bạc gắn với cuộc sống bao đời nay của những
cư dân thuộc nền văn minh lúa nước. Và một phần không thể thiếu là con
vật gần gũi nhất với người quê bởi chúng mang kiếp bạc, long đong: con
cò, con cuốc, con ve, con sáo (sang sông)... Nhưng có khi chỉ là những con
vật ngộ nghĩnh, đáng yêu như: đàn chim sẻ, tiếng chim hoạ mi, cào cào áo
xanh áo đỏ... Tuy nhiên trong sáng tác của mỗi nhà văn những hình ảnh này
lại mang dáng dấp, sắc màu và hồn vía khác nhau.
Thiên nhiên nơi thôn quê bao giờ cũng đẹp và thanh bình, ở nhiều
sáng tác của các nhà thơ khác cũng vậy, nhưng đến Đồng Đức Bốn ta thấy
có một cái gì gai góc, ám ảnh trong những vần thơ của anh, đó chính là cái
độc đáo của Đồng Đức Bốn. Nhưng tựu trung vẫn là những khung cảnh
thanh bình và nên thơ.
3.1.1 Đường quê
Những con đường quê trong thơ Đồng Đức Bốn là những con đường
gập ghềnh sỏi đá, cũng có khi lại lầy lội trong những ngày mưa gió:
Đường bùn tôi lội giữa trưa
Đắng cay thì ngậm xót chua thì cầm
(Chín xu đổi lấy một hào)
Bên những con đường ấy không còn những thảm cỏ xanh và muôn
vàn loài hoa dại đua nhau khoe sắc mà là những lều quán tạm bợ được
dựng nên tạo ra cảm giác chật hẹp:
Lề đường trong những chiếc lều
Có cô hàng xén ngồi vêu cả ngày
(Chờ đợi tháng ba)
Không phải là bóng dáng con đường quen thuộc "ngõ trúc quanh co,
khách vắng teo", "đường thôn xanh thẫm một loài cỏ non", "hoa xoan lớp
lớp rụng vơi đầy", tất cả dường như có cái gì đổi khác, có cái gì đó như là
67
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGUYỄN QUỐC KHÁNH một dự cảm về cuộc đời nhiều chông gai, khó khăn. Đường quê hiện ra như
là đường đời, nó éo le, thảm thương...
3.1.2 Cánh đồng với mưa, nắng, gió chốn nhà quê
Nhà thơ Đồng Đức Bốn đã khái quát về đồng đất chốn quê nhà:
Câu ca mẹ hát như đùa
Mà làm nước mặn đồng chua đổi đời
(Câu ca mẹ hát như đùa)
ở vào từng thời điểm khác nhau cánh đồng ấy lại có một diện mạo
riêng. Đó là lúc cánh đồng thảnh thơi khi lúa má đã gặt xong chỉ còn sót lại
chút ít rơm rạ cho bầy trẻ trâu tội nghiệp:
Chăn trâu đốt lửa trên đồng
Rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều
(Chăn trâu đốt lửa)
Nhưng ở rất nhiều bài thơ của Đồng Đức Bốn là cánh đồng hiện lên
trong mùa mưa bão, với cảnh lam lũ của người dân quê. Đó là cánh đồng
mẹ đi cất vó với bước chân liêu xiêu:
Tôi còn nhớ một cánh diều
Mẹ đi cất vó lội xiêu gió đồng
(Nhớ một dòng sông)
Là cánh đồng ngập tràn nước lũ:
ối mẹ ơi đê vỡ rồi
Đồng ta trắng xoá cả trời nước trong
(Vỡ đê)
Sở dĩ mà những cách đồng quê phải hứng chịu những tai biến đó là
bởi “cái nắng, cái gió” nơi quê nhà của anh cũng rất khắc nghiệt. Khi nhớ
về mối tình cũ, Đồng Đức Bốn có nhắc đến một thứ nắng rất dịu nhẹ:
Vẫn còn trong nắng thấp tho
Tôi và em xuống con đò ban mai
(Qua nhà người yêu cũ)
68
Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh
Trong khi đó mùa hạ là những trận mưa rào (Đêm qua đổ trận mưa
rào) và đặc biệt là cảnh vỡ đê đầy tang thương:
Trâu bò thất thểu long đong
Trên bè tre rối bòng bong xoong nồi
(Vỡ đê)
Đọc thơ anh người ta có cảm giác gió mưa như một thứ định mệnh
vừa có thể biết trước, vừa không thể dứt bỏ hay trốn chạy được nó:
Chốc nữa thể nào cũng giông
Sang đò tôi đến giữa đồng là mưa
(Đi đò)
Thế nhưng cũng có lúc Đồng Đức Bốn nhớ về cánh đồng quê trong
mùa thu khi cơn gió heo may thổi một trời heo may:
Hãy về đây với bến sông
Với tôi ở giữa cánh đồng heo may
(Hãy về đây với bến sông)
Hay sự lãng mạn của một thi sĩ:
Bên nhà núi đã theo sông
Anh ngồi uống cả cánh đồng heo may
(Anh ngồi uống cả cánh đồng heo may)
Trong ca dao cũng không thiếu sắc thái lãng mạn:
Trên trời mây trắng như bông
ở dưới cánh đồng bông trắng như mây
Ba cô má đỏ hây hây
Đội bông như thể đội mây về làng
(Ca dao)
Cái dự cảm về những rủi ro thiên tai và những khó khăn mà thiên
nhiên đã gây cho con người thì ở thơ Đồng Đức Bốn gần giống với ca dao:
Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
69
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH
Trông trời trông đất trông mây
Trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm
(Ca dao)
Thiên nhiên trong thơ Đồng Đức Bốn rất gần gũi với những người dân
quê nhưng nó phong phú đa dạng và nhiều màu sắc hơn.
3.1.3 Trăng, sao chốn nhà quê
Từ căn nhà tồi tàn và những rào giậu, lối ngõ chật hẹp ấy người dân
quê vẫn hướng lên trời tìm kiếm ánh sáng của trăng sao như một phép màu
từ một thế giới tưởng tượng. Trong một bài thơ viết khi xa xứ Đồng Đức
Bốn không chỉ nhớ đến ngõ quê mà còn gắn liền nó với một thực thể khác
đó là trăng quê :
Tôi từ ngõ nhỏ ra đi
Gặp trăng trên sóng những khi rất buồn
(Tôi từ ngõ nhỏ ra đi)
Bởi khi còn ở quê mình anh đã gặp vầng trăng ấy:
Không em ra ngõ kéo diều
Nào ngờ được mảnh trăng chiều trên tay
(Sông Thương ngày không em)
Vầng trăng nơi quê nhà là mảnh trăng bị chém đứt trong “Cái đêm em
ở với chồng” bằng “tiếng vạc” thảm thương:
Ngang trời tiếng vạc mảnh mai
Chém trăng đã đứt làm hai mảnh rồi
(Cái đêm em ở với chồng)
Nhưng trước khi gặp phải những tổn thương ấy vầng trăng quê vẫn là
trăng của những tâm hồn thơ trẻ (Mồng một lưỡi chai, mồng hai lá lúa,
mồng ba câu liêm, mồng bốn lưỡi liềm… ):
Nếu không trả được bằng tiền
Tôi lấy trăng liềm làm bím tóc cho
(Tìm em ở bến sông Mê)
70
Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh
Trong một trường hợp khác “trăng liềm” hay trăng cong ấy lại khiến
người đọc nhớ đến câu thành ngữ: “Mượn gió bẻ măng”. Tác giả thay búp
măng ấy bằng trăng:
Tôi giờ còn có ai mong
Mà người mượn gió bẻ cong trăng ngà
(Đời tôi)
“Trăng” quê mảnh mai là vậy còn những ánh “sao” quê trong thơ
Đồng Đức Bốn là những “sao dột”, “sao rơi”: Sao rơi cháy cả đôi bờ / Mà
anh thì cứ bơ vơ giữa trời; Đêm nằm sao dột tứ tung. Nhìn chung, trăng ở
thời điểm nào cũng đẹp, cũng đem đến cho con người nhiều cảm xúc, trăng
giúp cho cuộc sống thi vị hơn, ngay cả cuộc sống vất vả mà đan cài ánh
trăng cũng trở nên nhẹ nhàng, đầy lạc quan:
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi
(Ca dao)
Trăng sao trong thơ Đồng Đức Bốn thường gợi những cảm giác cô
đơn, lẻ loi nên toàn là mảnh trăng, trăng buồn... đó là tâm trạng và nỗi niềm
của thi sĩ.
3.1.4 Những cánh diều quê
Với Đồng Đức Bốn cánh diều không mang lại sự phóng khoáng,
rộng mở cho không gian mà bao giờ cũng gắn với những tình huống khá
đặc biệt:
Không em ra ngõ kéo diều
Nào ngờ được mảnh trăng chiều trên tay
(Sông Thương ngày không em)
Hay:
Mải mê đuổi một con diều
Củ khoai nướng để cả chiều thành tro
(Chăn trâu đốt lửa)
71
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH
Một anh mang nặng chữ yêu
Một em nối gió cho diều lên cao
(Hoang vắng)
Cánh diều của Đồng Đức Bốn là cánh diều trong những tình huống trớ
trêu, éo le, bởi thế lúc nào nó cũng là cánh diều đứt của cái phiêu lưu bất
thành. Thậm chí nó còn là cánh diều tái tê, dường như thiên nhiên trong thơ
anh là thiên nhiên được nhìn từ một tâm hồn luôn đau đáu với nỗi khổ cực
mà nông dân phải chịu. Ngoài ra, thiên nhiên còn biểu hiện những tâm tư,
cảm xúc cá nhân của nhân vật trữ tình. Cánh diều trong thơ anh là minh
chứng điển hình cho điều đó.
3.1.5 Sông quê, đò quê
Hình ảnh dòng sông và con đò rất phổ biến trong ca dao, không chỉ là
hình ảnh thiên nhiên mà nó còn biểu hiện bao tâm tư, tình cảm của nhân
dân ta xưa:
Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
(Ca dao)
Ba hình ảnh quen thuộc: cây đa, bến nước, con đò vẫn xuất hiện trong
thơ anh nhưng hiện lên bằng một nhịp sống rất nhanh:
Cây đa mong chuyến đò ngang
Đò ngang nhớ gió rộn ràng qua sông
(Đã đành ngang dọc sơn hà)
Sông quê trong thơ anh là “sông mưa” với nỗi thất vọng khi mong
ngóng người tình :
Sông mưa tầm tã trong chiều
Tôi ngồi tôi đợi người yêu tôi về
Tôi ngồi đợi chán đợi chê
Người yêu tôi vẫn chưa về sông mưa
(Viết ở bờ sông)
72
Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh
Là con sông lắng đọng phù sa:
Sông giờ đã lắng phù sa
Sao mà cây cải nở hoa vẫn buồn
Nỗi buồn ấy có thể cảm nhận được bằng xúc giác khi nó hiện hữu như
thân bèo trôi dạt:
Vớt buồn trên mặt sông trôi
Bây giờ vẫn chỉ mình tôi giữa dòng
(Sang sông)
Dòng sông buồn ấy cũng là dòng sông đầy gai góc:
Là sông cứ tưởng mình dài
Hoá ra cũng chỉ bằng hai con sào
Đã nông lại lắm gai rào
Tưởng trong sạch thế làm sao vẫn bùn
(Đi qua bến lở sông bồi)
Nói đến sông quê cũng là để gợi một đêm đợi đò trên dòng sông cấm
giữa một trời đêm tê tái của người tình:
Cái đêm em ở với chồng
Để ai hoá đá bên sông đợi đò
(Cái đêm em ở với chồng)
Cùng với hình ảnh con đò quê ấy là những lúc anh muốn thâu tóm
tất cả thế giới này để không mất đi tiếng hát của cô gái như níu giữ một
con đò tình:
Sông sâu nước cả em ơi
Từ trong câu hát ai người biết cho
Rút trăng buộc lại con đò
Thu lời em hát chỉ cho riêng mình
(Đêm sông Cầu)
Đồng Đức Bốn có những câu thơ nói về con đò đầy mĩ cảm gợi cho ta
nghĩ đến con thuyền trong Đường thi:
73
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH
Lập loè dưới gốc cây dừa
Thuyền ai đốt lửa khi vừa buông neo
(Viết ở bờ sông)
Nhưng đằng sau tất cả vẻ đẹp ấy vẫn là một dòng sông và con đò
mang màu sắc tâm trạng. Nơi mà sớm chiều anh vẫn đi về:
Bây giờ sông hoá lưỡi cưa
Để tôi đi sớm về trưa nát lòng
(Sang sông)
Ta vẫn thấy phảng phất trong thơ anh một điều gì đó mong manh, lẻ
loi, buồn lặng, dường như đó là cái không khí chung hầu hết các sáng tác
của Đồng Đức Bốn.
3.1.6 Đình quê, chùa quê
Cảnh sắc làng quê trong thơ Đồng Đức Bốn cũng được tô điểm bằng
những nét truyền thống như đình làng, trúc mọc sân đình, giếng đình.
Những hình ảnh này luôn gắn với những cuộc giao duyên tình tự:
Câu thơ nấp ở sân đình
Nhuộm trăng trăng sáng nhuộm tình tình đau
(Cuối cùng vẫn còn dòng sông)
Khi nói đến sự “lây nhiễm tình yêu” của thơ mình với làng quê, anh
cũng mượn hình ảnh trúc:
Bài thơ anh viết cho mình
Mà cây trúc mọc sân đình tương tư
(Gai rào ngõ quê)
Từ hình ảnh cây trúc (hình ảnh mang tính tả thực) đứng bờ ao trong ca
dao đến hình ảnh cây trúc tương tư của Đồng Đức Bốn là cả một chặng
đường đổi mới:
Trúc xinh trúc mọc bờ ao
Em xinh em đứng nơi nào cũng xinh
(Ca dao)
74
Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh
Hay giếng đình là nơi gặp gỡ của người dân quê trong đời sống sinh
hoạt (khi mọi người ra giếng lấy nước), Đồng Đức Bốn có cả một câu lục
bát để nói về hai sự vật đó:
Không em trúc vẫn sân đình
Không tôi giếng vẫn in hình núi cao
(Về lại chốn xưa)
và cũng là nơi cô gái quê thể hiện vẻ kiêu sa của mình:
Nhà quê có cái giếng đình
Trúc xinh cứ đứng một mình lẳng lơ
(Nhà quê)
Nhưng ở một bài thơ khác “trúc xinh” (Cây trúc xinh) lại là một hình
ảnh thật góp phần tạo nên cảnh sắc quê mùa: Bây giờ bên cây trúc xinh /
Vẫn còn những bướm rập rình bay đôi.
Với Đồng Đức Bốn đình quê và chùa quê không chỉ gần gũi về
khoảng cách địa lý mà còn cả sự gần gũi về không gian tâm linh. Chả thế
mà anh đã từng là vị xứ giả của hai thế giới ấy: Mải mê ngồi dựa cột đình /
Nghe sư gõ mõ tụng kinh chiều chiều. Hình ảnh chùa chiền đầu tiên được
nhắc đến trong đó chính là ngôi chùa trong đêm vắng nơi có sợi tơ nhện
giăng đến cửa chùa thì tan, nó chính là một biến thể của ngôi đền tình ái:
Cái đêm hôm ấy gió mùa
Tơ nhện giăng đến cổng chùa thì tan
(Cái đêm em ở với chồng)
Đồng Đức Bốn cũng nhận ra cái nghèo đói, tiều tuỵ đã thâm nhập vào
cả nơi cửa Phật khi thấy thiếu vắng cả tiếng chuông chùa vào mùa giáp hạt:
Tháng ba vắng tiếng chuông chùa; Còn anh đợi chán đợi chê / Vẫn câu lục
bát tái tê của nghèo; Câu thơ ngã xuống đổ xiêu mái chùa… Bởi thế:
Miếu thờ phật tượng ngồi đau
Cửa thiền rêu đã lên mầu cổ xưa
(Chờ đợi tháng ba)
75
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH
Nhiều bài trong thơ anh là nỗi xót xa, đồng cảm với thân phận của
những con người lao khổ mà anh gặp hay có lúc là anh liên tưởng đến họ ở
chốn chùa chiền:
Chuông chùa tiếng đục tiếng trong
Thảo nào cát bụi long đong thân cò
(Viết ở bờ sông)
Đồng Đức Bốn lại có những lúc gần gũi với cửa Phật một cách suồng
sã mà vẫn có phần kính nể. Sự sám hối đúng lúc ấy giúp anh không trở
thành một kẻ vô đạo:
Vào chùa gọi bụt bằng anh
Bỗng đâu sấm nổ tan tành trên không
(Vào chùa)
Tóm lại, trong thơ Đồng Đức Bốn, đình quê, chùa quê vẫn là nơi con
người tìm đến sự thanh thản, vẫn là chốn tâm linh thiêng liêng nhưng trong
con người anh luôn đau đáu về nỗi khổ cực của bao con người còn lam lũ
kiếm từng miếng ăn, nên nhiều khi những bài thơ viết về chùa chiền lại thể
hiện một cái nhìn thật nhân ái của anh về cuộc đời.
3.1.7 Mái nhà và mảnh vườn quê
Mái nhà quê trong thơ Đồng Đức Bốn cũng là mái gianh nghèo đã chở
che cho tuổi thơ anh lớn lên trong gian khó. Bởi thế nên khi xa quê cái màu
nâu xám ấy lại như một ngọn lửa nhỏ giúp anh nhận ra hơi hướng quê nhà:
Đi biển thì nhớ non xanh
Xa xứ lại nhớ mái gianh quê nhà
(Gió như Phật vẫn ngồi tu tháng ngày)
Người sống ở sơn khê khi gặp sóng bạc đầu thì nhớ về non xanh còn
kẻ xa xứ (quê người) như Đồng Đức Bốn lại nhớ mái gianh (quê mình) bởi
dưới mái nhà xơ xác ấy vừa có cái “đồng cam cộng khổ” của những người
dân quê lại vừa đầy ắp những ước mơ:
Nhà bạn cũng giống nhà tôi
76
Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh
Mái gianh vách đất nhìn trời qua vung
Đêm nằm sao dột tứ tung
Tưởng đâu nước mắt người dưng lại về
(Nhà quê)
Nếu như trong thơ Nguyễn Bính quan hệ làng xóm bao giờ cũng mang
màu sắc luyến ái khi nhịp cầu bên kia phải là một “cô”, một “nàng” nào đó:
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi (Người hàng xóm); Qua bên nhà thấy bên nhà
vắng teo (Qua nhà); Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông / Cau thôn Đoài nhớ
giầu không thôn nào (Tương tư)... Thì với Đồng Đức Bốn, chúng ta có thể
tưởng tượng ra cảnh hai người bạn nối khố nằm vắt tay lên trán cùng nhìn
lên mái nhà xơ xác với bốn bên vách đất im phăng phắc, ánh sao rớt xuống
ngập đầy gian nhà quê vắng vẻ. Những căn nhà "mái gianh vách đất" mùa
giáp hạt chỉ có những ngọn khói “mọc ngang” dật dờ của những lần nổi lửa
nấu bữa cầm hơi:
Khói nhà ai cứ mọc ngang
Con nhà ai cứ lang thang chợ chiều
(Chờ đợi tháng ba)
Vườn quê trong thơ Đồng Đức Bốn đôi khi chỉ là những hình ảnh
thoảng qua, chứ không ghi dấu ấn đậm nét trong tâm trí:
Xéo gai anh chẳng sợ đau
Bởi yêu ruộng lúa vườn cau trước nhà
(Xéo gai anh chẳng sợ đau)
Giữa các ngôi nhà quê là những hàng rào quê thanh mảnh, được tô
điểm bằng những thứ cây thanh nhã như cây rau, cây thuốc hay một vài
loài hoa: mồng tơi, cúc tần, tầm xuân, râm bụt... Còn trong thơ của thi sĩ
đất cảng này những bờ rào chỉ có những loài cây nghèo nàn:
Khổ thân cho cả bờ rào
Dây tơ hồng héo quắt vào mùa thu
(Cơn mưa dừng ở Sóc Sơn)
77
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH
Thậm chí những hàng rào quê của anh còn được rào bằng những thứ
gai góc “gai rào ngõ quê” nên mới có cảnh anh xót xa cho người con gái:
Chạy mưa không chạy qua rào
Sao áo em bị gai cào rách lưng
(Chạy mưa không chạy qua rào)
3.1.8 Cây cối, hoa, cỏ nhà quê
Hình ảnh mà chúng ta vẫn thường thấy ở những vùng nông thôn cũng
hiện ra thật hiền hòa gần gũi trong thơ Đồng Đức Bốn. Đó là cây đa đầu
làng như một dấu mốc quan trọng để nhận ra làng quê từ phía xa:
Bây giờ chờ đợi tháng ba
Tôi ra đứng ở cây đa đầu làng
(Chờ đợi tháng ba)
Những bụi tầm xuân trong những câu ca dao tình tứ cũng xuất hiện
trong thơ anh:
Vẫn còn thấy bụi tầm xuân
áo em phơi để nhạt dần nắng trưa
(Qua nhà người yêu cũ)
Ta dễ liên tưởng đến cái màu hoa tầm xuân "định mệnh" trong ca dao:
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng anh tiếc lắm thay
(Ca dao)
Nhưng bên cạnh đó là những thứ cây gai góc, chống chịu được mọi
thời tiết mọc lên từ thứ đất cằn sỏi đá. Đó là: tre, rứa, dong riềng, “bồ kết
lắm gai”, xương rồng:
- Bờ tre bụi rứa tan rồi Cuốc kêu ai biết cho lời cuốc đâu
(Cuốc kêu)
- Thập thò trong bụi tre gai Hoa dong riềng của nhà ai nở hồng ...
78
Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh
Cánh hoa sắc một lưỡi dao Vì yêu tôi cứ cầm vào như không
(Hoa dong riềng)
- Em như bồ kết lắm gai Mà hương vẫn để tóc ai gội đầu
(Cây bồ kết lắm gai)
Những thứ cây mọc trên mảnh đất nhà quê trong thơ Đồng Đức Bốn
còn gợi sự tàn úa, muộn màng. Đó là cây cải ra ngồng đơm hoa:
Mỗi lần cây cải nở hoa
Thì tôi lại nhớ người ta chưa về
(Chuông chùa kêu trong mưa)
Là cây lúa nghẹn đòng:
Bần thần tôi đứng nhìn ra
Khổ thân cây lúa tháng ba nghẹn đòng
(Cơn mưa dừng ở Sóc Sơn)
Thậm chí là những thứ cây dại nở ra những bông hoa cho riêng mình:
Chỉ cần cây dại nở hoa
Là tôi có được khúc ca tính tình
(Không đề)
Nhưng có thể thấy dưới những tán cây khô cằn ấy lại là một thế giới
của cỏ dại làm tươi lại mảnh đất quê, như xoa dịu đi những nỗi đau:
Nói đến cây cỏ nơi làng quê của Đồng Đức Bốn không thể không nhắc
đến một thứ cây kì lạ không có tên gọi về chủng loại, hình hài và màu sắc
cụ thể nhưng có cảm giác nó luôn rình rập ở khắp mọi nơi trên mảnh đất
quê đó là gai:
Chạy mưa không chạy qua rào
Sao áo em bị gai cào rách lưng
(Chạy mưa không chạy qua rào)
Gai cũng nằm cả dưới đáy những dòng sông:
Đã nông lại lắm gai rào
Tưởng trong sạch thế mà sao vẫn bùn
79
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH
(Đi qua bến lở sông bồi)
Trong thơ Đồng Đức Bốn những cây cỏ không còn bé bỏng, cam chịu
như trong ca dao:
Thân em như ớt trên cây
Càng tươi ngoài vỏ càng cay trong lòng
(Ca dao)
Những cành cây, ngọn cỏ trong thơ anh dường như gai góc hơn, sống
mạnh bạo hơn, nó làm cho những vần thơ của anh như có vết trầy xước,
phải chăng điều đó thể hiện quan niệm về một cuộc sống nhiều nỗi lo,
nhiều nguy cơ của anh.
3.1.9 Những con vật gần gũi với người dân quê
Thế giới các loài vật nơi làng quê khi thì là những con vật mang số
kiếp long đong, thảm thương như một biểu tượng cho thân phận người dân
quê. Bên cạnh đó là những con vật ngộ nghĩnh đem lại những niềm vui nhỏ
bé cho đời sống tâm hồn người dân quê.
Những con vật mang số kiếp long đong và thảm thương trong thơ
Đồng Đức Bốn hay nhắc đến là những cánh chim đơn lẻ, cô quạnh, tẽn tò
và mệt mỏi. Là những con vật hiền lành rơi vào hoàn cảnh trớ trêu như khi
vỡ đê, nước ngập trắng xoá cánh đồng. Tất cả đều được xây dựng từ chất
liệu quê. Đó là cánh vạc trong đêm lạnh:
Ngang trời tiếng vạc mảnh mai
Chém trăng đã đứt làm hai mảnh rồi
(Cái đêm em ở với chồng)
Thì ở trong ca dao ta cũng thường thấy:
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra
(Ca dao)
Hoặc:
Ai xui con sáo sang sông
80
Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh
Để cho con sáo sổ lồng bay xa
(Ca dao)
Là những con vật phải chịu chung thiên tai cùng với con người:
Trâu bò thất thểu long đong
Trên bè tre rối bòng bong xoong nồi
(Vỡ đê)
Nhưng có khi những con vật ấy lại mang một sắc thái khác đó là sự
sắc nhọn tột cùng. Chẳng hạn như tiếng ve ngày nắng hạ:
Tiếng ve xé nát đôi bờ
Chợ Thương để nắng bơ phờ trên sông
(Chợ Thương)
Còn những con vật ngộ nghĩnh, thân thuộc lại gợi niềm vui với người
dân quê.
Đó là hai chú cào cào gây xao xác cả một vùng cỏ dại:
Tưởng rằng gió đến xôn xao
Không ngờ hai chú cào cào đánh nhau
(Viết ở bờ sông)
Là những loài chim hiền lành, thản nhiên bay nhảy như không hề biết
đến một cuộc đời đầy giông bão:
Mỗi lần cỏ dại trên đê
Chim ngói đi thả bùa mê khắp đồng
(Chuông chùa kêu trong mưa)
Rồi đến những con vật mang đến âm thanh của tình yêu và nỗi nhớ:
Hàng ngày nghe tiếng hoạ mi
Là anh nhớ lại những khi chúng mình
(Gửi những ngày em ốm)
Và điều đặc biệt là một tiếng chim đánh thức những niềm hi vọng:
ở trong những bụi gai tre
Vẫn còn những tiếng chích choè gọi mưa
81
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH
(Đi tìm lại những lời ru)
Thiên nhiên trong thơ Đồng Đức Bốn thường gắn với cuộc sống nơi
làng quê, đó là những hình ảnh và âm thanh rất đỗi quen thuộc với mỗi
chúng ta, nhưng đây là một thế giới thiên nhiên tràn ngập sắc màu, chất
chứa bao tâm trạng suy nghĩ.
3.2 Cuộc sống và con ngƣời nơi thôn quê
3.2.1 Cuộc sống lam lũ nơi làng quê
Nói đến cuộc sống nhà quê bao giờ người ta cũng nghĩ đến một hoạt
động quan trong nhất, đóng vai trò trung tâm là sản xuất nông nghiệp. Tuy
nhiên trong thơ Đồng Đức Bốn hình ảnh ruộng lúa và những hoạt động cầy
cấy rất mờ nhạt. Còn lại đều thấy cây lúa vắng bóng trên cánh đồng để
nhường chỗ cho cỏ, rạ rơm, và nước lũ: Chăn trâu đốt lửa trên đồng; Đồng
ta trắng xoá cả trời nước trong; Mẹ đi cắt cỏ ngoài đồng. Chính vì thế mà
tất cả những hoạt động của người dân quê chỉ nằm bên rìa của đồng ruộng,
điều ấy báo hiệu một cuộc sống bấp bênh của một vùng quê dân cư đang
dứt áo ra đi kiếm sống. Những hoạt động chính của họ là làm nghề phụ
nhiều hơn là nghề chính (cày cấy):
Lấy mảnh chắp lại thành hoa
Bố tôi đem bán ngoài ga chợ buồn
(Bố tôi)
Và công việc của người mẹ còn lam lũ hơn:
Mẹ mua lông vịt chè chai
Trời trưa mưa nắng đôi vai lại gầy
Xóm quê còn lắm bùn lầy
Phố phường còn ít bóng cây che đường
Lời rao chìm giữa gió sương
Còn nghe cách mấy thôi đường còn đau.
(Trở về với mẹ ta thôi)
Bên cạnh đó là sự ế ẩm của cảnh buôn bán buồn tẻ nơi làng quê:
82
Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh
Lề đường trong những chiếc lều
Có cô hàng xén ngồi vêu cả ngày
(Chờ đợi tháng ba)
Chợ quê của Đồng Đức Bốn được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau.
Trước hết là những nét tả thực về một cái chợ làng lèo tèo, vắng vẻ:
Chợ làng mở dưới gốc đa
Nhà quê đem mấy con gà bán chơi
(Nhà quê)
Bắt đầu từ đây nó được cụ thể hoá bằng những tên gọi khác nhau. Đó
là chợ chiều:
Khói nhà ai cứ mọc ngang
Con nhà ai cứ lang thang chợ chiều
(Chờ đợi tháng ba)
Chợ buồn:
Chợ buồn đem bán những vui
Đã mua được cái ngậm ngùi chưa em
(Chợ buồn)
Chợ nghèo, chợ chiều hay chợ buồn đều thống nhất ở một điểm đó là
một thứ chợ xơ xác, tiều tuỵ nơi làng quê của Đồng Đức Bốn.
Cảnh sắc chốn nhà quê trong thơ Đồng Đức Bốn hiện lên với rất nhiều
vẻ khác nhau nhưng đều gợi một vẻ xơ xác và nghèo nàn. Tất cả những
điều đó như làm nền cho những nhân vật chính của nơi đấy, đó là người
quê với những mảnh đời quê.
Thế nhưng thảm thương nhất vẫn là hình ảnh những anh thợ cày nhàn
rỗi vì đất chật người đông, vì làng đang dần lên phố nên quẫn bách mà cấu
xé lẫn nhau. Có thể coi đây là một trong những điểm sáng trong thơ Đồng
Đức Bốn khi anh đã khái quát được một phần rất quan trọng trong đời sống
của người dân quê bây giờ:
Ngả nghiêng mấy lão thợ cày
83
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH
Rượu say vác cả cối chày nện nhau
(Chờ đợi tháng ba)
Cuộc sống nơi làng quê của Đồng Đức Bốn khiến người đọc có cảm
giác đó là một vùng quê đang thoi thóp giữa bồn bề gió bão của cuộc sống
mới. Làng quê ấy đang thức hay đang ngủ yên, đang vùng vẫy để sinh tồn
hay đang buông xuôi để số phận đẩy đưa. Chỉ biết rằng tất cả những điều
ấy đều được anh nói đến trong một câu thơ đầy chua xót:
Bảo rằng phía trước là son
Tôi đi đến cuối đường mòn lại không
(Đường đi)
Dù có ở thời ngày xưa hay ngày nay đi chăng nữa thì người nông dân
vẫn là những người phải hai sương một nắng, vẫn là những người chạy ăn
từng bữa mướt mồ hôi. Và trong thơ Đồng Đức Bốn những điều đó cũng
không có nhiều thay đổi, anh đồng cảm với những con người lao khổ, hiểu
cuộc sống của họ nên anh xót xa, cay đắng.
Đồng Đức Bốn có khá nhiều bài thơ viết về cuộc sống nhà quê nhưng
dường như anh không tô đậm vào một hoạt động nào khác ngoài những tất
bật lo miếng cơm manh áo. Chính bản thân anh chàng đa tình và ham đi
nhất trong thơ anh có lúc cũng đã phải thốt lên cay đắng về một cuộc sống
bần hàn và lam lũ:
Tôi vừa lo được miếng cơm
Thì mất tí lửa tí rơm gầy lò
Tôi vừa vượt bão mưa to
Chân đã phải lội đi mò sông sâu
(Đời tôi)
Tìm đọc trong thơ Đồng Đức Bốn ta thấy không hề có một lễ hội nào
được diễn ra mà thay vào đó là những hoạt động âm thầm, lặng lẽ của
người nhà quê để chống chọi lại thiên tai, nhẫn nhịn để mà sống như hình
ảnh cây xương rồng vẫn nở hoa trên cát bỏng. Nhưng bao giờ cũng thế tình
84
Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Quốc Khánh yêu trai gái vẫn nẩy nở trong gian khó như con sóng ngầm để tạo nên một
sức sống bất diệt. Nếu như những cuộc hẹn hò của trai quê, gái quê trong
thơ Nguyễn Bính đều nương vào những lễ hội, của những hoạt động thanh
nhã làm nền cho các cuộc giao duyên (chở đò, qua nhà, xem hát…) thì
trong thơ Đồng Đức Bốn để đến với tình yêu họ phải bước qua gai, vượt
lên cái nghèo khó, dưới mảnh trăng gầy và bất chấp bão giông trên đầu:
Trong những khó khăn về vật chất ấy những cuộc hẹn hò, giao duyên của
trai gái vẫn được diễn ra: Vẫn còn trong nắng thập thò / Tôi và em xuống
con đò ban mai; Tôi và em đứng đây / Tựa bão để mà sống; Đừng buông
giọt mắt xuống sông / Anh về dẫu chỉ đò không cũng chìm… Tuy không có
những lễ hội để có được cái thư thái như bao làng quê khác nhưng họ vẫn
tạo ra một không gian cho riêng mình bằng cách vượt lên chính mình để
sống và để yêu.
Những tình cảm trìu mến của chàng trai được gửi gắm vào các ví von
mang màu sắc mỹ lệ hoá:
Chạy mưa không chạy qua rào
Sao áo em bị gai cào rách lưng
………………………….
Tia chớp như sợi chỉ mềm
Anh ngồi khâu áo trả đền cho em
(Chạy mưa không chạy qua rào)
Và thậm chí đó còn là những nhớ mong âm thầm và tê tái:
Không em từ bấy đến giờ
Bàn tay cứ héo như cờ chịu tang
(Sông Thương ngày không em)
Ta còn thấy cái gai góc đến lì lợm để khẳng định cái “thế” nhà quê
không hề kém cạnh của mình:
Cho dù đấy có là sao
Thì đây vẫn cứ gai rào ngõ quê
85
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH
(Gai rào ngõ quê)
Ngoài ra, ta còn thấy những thất vọng ê chề trong chuyện tình cảm
nhưng người trong cuộc vẫn lạc quan bằng cách tự an ủi cho riêng mình:
Xui mãi gái chẳng bỏ chồng
Đành về ăn vạ cánh đồng trăng sao
(Nhớ người)
Đời quê trong thơ Đồng Đức Bốn hiện lên với hai phương diện cơ bản
là những lam lũ, vất vả để mưu sinh và đam mê, khát khao trong những
cuộc hẹn hò giao duyên thầm kín. Hai phương diện này là một sự mâu
thuẫn thống nhất bởi tình yêu, đam mê cũng là một cách tự tồn, tự trấn an
và lấy lại niềm tin cuộc sống cho riêng mình. Duy có điều những thiếu thốn
về vật chất, những bấp bênh trong cuộc sống đã tạo cho người đọc những
mối tình đầy mong manh, và tội nghiệp. Chàng trai quê, cô gái quê tuy có
ngông ngạo, kiêu kì hay lì lợm, gai góc… thì gợi cho người ta sự tái tê,
chua xót.
3.2.2 Những con người nơi thôn quê
Người quê trong thơ Đồng Đức Bốn hiện lên với nhiều lứa tuổi và
mang những tính chất khác nhau nhưng tập trung vào ba nhân vật quan
trọng là: Mẹ (Người vất vả và lam lũ, người giữ hồn vía cho quê nhà), em
(tình yêu và khát vọng sống cho chủ thể) và cuối cùng là những người dân
quê khác (những mảnh đời vụn).
Hình ảnh mẹ được tác giả xây dựng bằng hai nét đối lập cơ bản là
người mẹ thực (tội nghiệp và thảm thương) nhưng từ sự nhẫn nhịn và chịu
đựng ấy đã lắng kết để tạo nên người mẹ hiển linh với những ánh hào
quang phát ra từ giá trị con người. Nhưng trước hết sự chịu đựng và hi sinh
ấy rất đáng thương tâm. Mẹ như cá thể yếu ớt và hứng chịu gian khó nhất
của một thế giới người nhà quê:
Nhà quê chân lấm tay bùn
Mẹ đi cấy lúa rét run thân già
86
Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh
(Nhà quê)
Còng lưng gánh chịu gió mưa
Nát chân tìm cái chửa chưa có gì
(Trở về với mẹ ta thôi)
Những tưởng sau bao nhiêu gian khó ấy mẹ sẽ quỵ ngã nhưng từ trong
cái cùng tắc biến, mẹ nhẫn nhịn nuốt nước mắt vào trong để làm ra nụ cười
Mẹ đau vẫn giữ tiếng cười
Mẹ vui vẫn để một đời nhớ thương
……………………….
Mẹ ra bới gió chân cầu
Tìm câu hát cũ từ lâu dập vùi
(Trở về với mẹ ta thôi)
Hình ảnh “em” chốn nhà quê trong thơ Đồng Đức Bốn không có được
một cuộc sống bình yên như các nàng thôn nữ trong thơ Nguyễn Bính: Em
là con gái trong khung cửi; Hoa chanh nở giữa vườn chanh… Cô gái trong
thơ Đồng Đức Bốn tuy đã có lúc là cô gái đồng trinh (Em là con gái đồng
trinh – Vu vơ II) kiêu sa và lẳng lơ khoe dáng vóc như cây trúc xinh mọc
sân đình nhưng đó chỉ là thời điểm diễn ra trong chốc lát:
Nhà quê có cái giếng đình
Trúc xinh cứ đứng một mình lẳng lơ
(Nhà quê)
Ngay từ cái dáng vẻ “một mình lẳng lơ” đã gợi sự tự tin, kiêu sa thì ít
mà lo lắng hay là một sự tự trấn an bằng vẻ gan góc thì nhiều. Thời hoàng
kim với những “tóc đuôi gà”, “dáng em thánh thót qua làng” không được
lâu bởi phải nhường chỗ cho những biến thể khác nhau của số phận long
đong, ê chề, lỡ dở. Âm thầm và tê tái, người con gái muộn chồng chỉ biết
87
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGUYỄN QUỐC KHÁNH chờ đợi: Mượn màu hoa để ngóng trông người về. Thậm chí còn bị giam
cầm bởi sự cô đơn:
Em nhìn đò dọc như bức tranh hoang
Em nhìn đò ngang như câu thơ cổ
Em đợi tôi mà cửa xuân để ngỏ
Em chờ tôi mà gió chẳng dám vào
(Dưới mặt trời có bão)
Nhưng gây ấn tượng nhất chính là “em” của những hoàn cảnh ngang
trái: “em” một con, “em” đã có chồng, “em” ở với chồng… Bởi thế nên
đối diện với những em đấy là một “anh” cũng táo tợn, gai góc.
Em là gái có một con thì tôi táo tợn tự nhận là mình cũng si mê em
đến mòn mỏi (mòn mắt):
Đúng là gái có một con
Để tôi ngơ ngẩn trông mòn mắt ra
(Gái một con trông mòn con mắt)
Em từng trải thì tôi cũng nhàu, cũng bụi để nhận ra cái phần thiêng
liêng nhất vẫn gìn giữ cho nhau:
Lên núi núi vẫn còn cao
Xuống khe khe vẫn ngọt ngào nước thơm
(Em như cơn bão trước giờ khoả thân)
Cũng như “mẹ”, em cũng phải hứng chịu những nỗi vất vả của nhà
quê lam lũ. Nhưng nếu như “mẹ” thiên về những nỗi khổ về vật chất thì
“em” lại vướng vào những hệ luỵ của tâm hồn. Sự cô đơn vì muộn màng
tình duyên hay việc không tìm được hạnh phúc trong hôn nhân đã tạo ra
một vẻ trơ lì, gai góc của các cô gái quê. Trong ca dao không ít những cuộc
đời và số phận éo le của người con gái:
Em như cây quế giữa rừng
Hương thơ ai biết ngát lừng ai hay
(Ca dao)
88
Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh
Thân em như dải lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vài tay ai
(Ca dao)
Sau những chân dung lớn đó là mẹ và em thì những người dân quê
còn lại chỉ còn là những mảnh đời đơn lẻ. Họ tuy cũng chịu cảnh lam lũ,
vất vả nhưng lại ở vào những hoàn cảnh và diện mạo khác nhau, đó là
những trai làng - lực lượng lao động chính của một làng và cũng bản thân
họ là những người đem đến những cái lạ cho nhà quê:
Nhà quê có mấy trai tơ
Quần bò mũ cối giả vờ sang chơi
(Nhà quê)
Cánh trẻ là vậy còn những lão thợ cày đã không còn đủ ruộng đất để
quanh năm cày cấy mà quay ra rượu chè, triết lí suông để rồi lại trút những
sự quẫn bách ấy lên đầu nhau:
Ngả nghiêng mấy lão thợ cày
Rượu say vác cả cối chày nện nhau
(Chờ đợi tháng ba)
Nhưng ở một góc nhìn khác người đọc lại bắt gặp hình ảnh một người
dân quê nhẫn nại, kiên trì đan lát những thứ hàng rẻ tiền:
Lanh canh, lạch cạch ngoài hiên
Bố tôi đan chiếc trăng lên làm sàng
Có bao nhiêu những mơ màng
Bố tôi trút hết vào hàng nan thưa
(Bố tôi)
Cuối cùng phải kể đến một nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong những
bài thơ viết về nhà quê của Đồng Đức Bốn đó là người ăn mày. Tuy nhiên
ở vào từng trường hợp sự xuất hiện này lại mang những tính chất khác
nhau. Đó là bác sẩm mù như một sự day dứt tâm can với tiếng đàn ca:
Chợt đâu có tiếng ca ru
89
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH
Nhìn ra lại bác sẩm mù ăn xin
(Cơn mưa dừng ở Sóc Sơn)
Là bà lão ăn xin mon men đến quanh những hàng quán gợi nhớ đến
cái thảm thương của kiếp người sau những thăng hoa của giả tạo của men
say:
Ngậm ngùi thịt chó bánh đa
Chiều nay lại thấy bà già ăn xin
(ở quán thịt chó về chiều)
Nhưng có lẽ sự xuất hiện của kẻ “ăn mày cửa phật” là hình ảnh có tầm
triết lí cao nhất, nó như một biểu tượng của người nhà quê khi phải tha
hương, như không định liệu được số phận của bản thân mình:
Ăn mày thì phải lang thang
Quần manh áo mảnh rộn ràng khắp nơi
Chân đạp đất đầu đội trời
ở đâu không có con người thì đi
(Vào chùa)
Cuộc sống đã lam lũ vất vả là thế, lại phải chịu thiên tai nên nhiều
người nơi làng quê phải bỏ làng mà đi ăn xin, xưa nay điều này cũng không
quá xa lạ:
Ăn mày là ai ăn mày là ta
Đói cơm rách áo mới ra ăn mày
(Ca dao)
Hay:
Chó đâu chó sủa chỗ không
Chẳng thằng ăn trộm cũng ông ăn mày
(Ca dao)
Khảo sát hệ thống đề tài trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn, chúng tôi
thấy đề tài trong thơ Đồng Đức Bốn rất đa dạng, phong phú nhưng thành
công nhất, ấn tượng nhất vẫn là đề tài nhà quê. Đề tài nhà quê được nhìn từ
90
Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Quốc Khánh góc nhìn của kẻ xa quê nên tình quê hương càng tha thiết và thấm thía.
Khác với nhiều nhà thơ xa quê, quê với Đồng Đức Bốn là quê hương bao
hàm hai ý nghĩa: Nơi nhà thơ sinh ra và cũng chính là cội nguồn để nhà thơ
tìm lại mình.
Quê trong thơ của Đồng Đức Bốn có ba mảng màu và hai sợi chỉ đỏ
sâu chuỗi tạo nên bức tranh liên hoàn: Đó là cảnh quê, đời quê, người quê
với hai nét đặc trưng gắn kết: Lam lũ khốn khó và nhẫn nhịn kiên gan. Quê
trong thơ Đồng Đức Bốn là một thế giới muôn màu, mỗi đề tài là một tiểu
thế giới cũng đa dạng nhưng đều tập trung vào những điểm nhấn ấy. Cảnh
quê trong thơ anh là những mái tranh không bình thường: Nhà tranh đã là
hiện thân của cái nghèo, mái gianh trong thơ Bốn lại “dột tứ tung” để chủ
nhân thưởng thức “sao rơi”. Vườn trong thơ Bốn ít xuất hiện nhưng đều
mang dáng vẻ cằn cỗi, không đủ màu mỡ nuôi những dây tơ hồng vốn
hoang dã. Cây cỏ nhà quê cũng mang đậm vẻ tàn úa, muộn màng, trì trệ với
“cải ngồng”, lúa “nghẹn đòng”. Bên những loài cây cối mang dáng vẻ tàn
úa héo hon là những loài cây bất tử, thích ứng với mọi môi trường nghiệt
ngã như bóng dáng con người nhẫn nhịn kiên gan: “hoa dong riềng”, “cây
bồ kết”, “cây xương rồng”.
Thế giới động vật cũng được sắp đặt vào hai điểm nhấn nên có hai
nhóm: Nhóm động vật gắn kết hay dự báo những thảm hoạ, những điềm
gở: lũ kiến “Thổi kèn đám ma” dự báo lụt lội; Chuồn chuồn gắn với lời ru
ngọt nhưng chết người (Chuồn chuồn cắn rốn biết bơi). Bên cạnh đó là
những loài vật mang lại niềm vui, an ủi con người trụ vững ở làng quê:
chim ngói, hoạ mi, chích choè đi thả những “bùa mê” cho đời. Trung tâm
cảnh quê trong thơ Đồng Đức Bốn là hình tượng ruộng đồng; cái mô típ
gắn với công việc sản xuất nặng nhọc, lam lũ của người nhà quê. Các thi sĩ
lãng mạn chuyên chú vào mô típ “vườn”; Thiên về chức năng văn hoá gắn
với thế giới của cái tôi buồn cô đơn: Vườn tình Xuân Diệu, vườn trinh Hàn
91
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGUYỄN QUỐC KHÁNH Mặc Tử, vườn mộng Nguyễn Bính. Đồng Đức Bốn lại chuyên chú vào mô
típ “ruộng” với cái nhìn hiện thực nghiêm ngặt của một lão nông: Hình
tượng ruộng đa dạng đủ toát lên cái nghèo, cái mất mát: Ruộng lúa đương
thì đã “nghẹn đòng”; Ruộng lúa vào độ chín lại bị nước lũ nhấn chìm cướp
giật những “chuông vàng” để lại những màu trắng đến rợn người “… trắng
xoá cả trời nước trong”. Cánh đồng sau mùa gặt cũng nghèo cả rơm rạ dành
để đốt bồi bổ cho vụ sau (rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều). Trăng sao cũng
méo mó để gợi điềm gở: Sao rơi, trăng bị bẻ cong. Con diều ở trạng thái
“đứt dây”. Dòng sông quê chẳng chảy êm đềm mà là sông “gai” hay biến
thể “sông hoá lưỡi cưa”. Cái nghèo tràn qua ngõ ngách của đời người lan
tới cả cửa chùa khiến cho phật cũng “héo” như cây; Cũng “đau” như người.
Cái lam lũ và kiên gan còn xuyên suốt đời quê và người quê. Đời quê
trong thơ Nguyễn Bính là một thế giới nhàn hạ ở thời điểm “nhân gian nghỉ
việc đồng” để bước vào hội hè, đình đám. ở góc nhìn hiện thực nghiêm
ngặt, thi sĩ – thợ cày Đồng Đức Bốn đã phanh phui mọi ngõ ngách của đời
quê: Đó là không khí tất bật, mệt mỏi thường nhật vì mưu sinh: Mẹ già nua
đi cấy “rét run”; Mẹ còm cõi đi buôn “lông vịt chè chai”, “cất vó liêu xiêu
gió đồng”; cha chắt chiu nan lạt để kiếm từng đồng xu; cô hàng xén ế ẩm.
Điểm xuyết vào không khí lam lũ của đời quê là bức tranh bi hài biến thể
của lam lũ: Cảnh nhàn cư do mất ruộng khiến mấy lão thợ cày “rượu say
vác cả cối chày nện nhau”. Tuy lam lũ nhếch nhác, thê thảm nhưng họ vẫn
kiên gan, đứng trên hoàn cảnh để sống bình thường. Với cái nhìn nhạy cảm
và rất động, Đồng Đức Bốn đã phát hiện nguyên cớ của tình yêu ngang trái
ở làng quê: Làng quê hiện đại, trai xa quê lang bạt, gái quê ở lại lỡ làng,
mảnh đất mỡ màu nảy sinh những mối tình gai. những người tình liều lĩnh
mạo hiểm biết bông hoa “sắc một lưỡi dao” vẫn cứ “cầm vào như không”.
người tình thất tình nhưng vẫn tự phụ vì hãy còn “duyên quê” để tiếp tục
theo đuổi cuộc tình đến “hết tuổi già mới thôi”.
92
Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh
Người quê trong thơ của anh tập trung vào ba nhân vật chính: Mẹ –
hiện thân của lam lũ và hồn quê; Em - đầu mối của tình yêu; Người dân quê
- những mảnh đời hợp thành cộng đồng khốn khó. Người quê vừa đáng
thương khi nhìn ở góc độ tội nghiệp, vừa đáng phục khi nhìn ở góc độ kiên
gan đến độ “lì”. Mẹ là một nghịch lí đau lòng: Yếu ớt nhất (thân già) nhưng
lại đảm đương những công việc nặng nhọc nhất (cấy lúa) với bàn tay “rét
run”. Nhưng mẹ cũng là hiện thân của bản lĩnh kiên gan vì con cháu nên
đau khổ mà vẫn cố “giữ tiếng cười”. Nhân vật “em” cũng hiện ra ở nhiều
dáng vẻ. Em xinh tươi duyên dáng chỉ thoáng hiện rồi qua mau. Đọng lại ở
em là cảnh ngộ éo le, để lỡ làng: Em đã “một con” nhưng chưa viên mãn,
vẫn còn khát khao. Em đã có chồng mà vẫn như chưa. Em ở với chồng
trong chăn ấm mà vẫn thấy lạnh như đời của một ni cô trong ngôi đền trá
hình. Đối diện với em là những người tình dám mạo hiểm, quyết tử để
chinh phục mối tình gai. Làm nền cho hai điểm nhấn ấy là hình ảnh người
dân quê như những mảnh đời lay lắt mà cứng cỏi. Bên cạnh những gái quê
“lẳng lơ”, những trai tơ “quần bò mũ cối” đang chạy theo mốt mới, nổi cộm
lên vẫn là những hình ảnh người ăn mày như tiêu điểm của lam lũ.
Đặt trong cái nhìn so sánh, chúng tôi thấy trên bình diện hệ thống đề
tài thơ lục bát Đồng Đức Bốn có rất nhiều điểm tương đồng với ca dao.
Điều này đã tạo nên sức hấp dẫn của thơ anh, sự kế thừa những tinh hoa từ
văn hóa dân gian cũng là cách mà nhiều nhà thơ đã rất thành công như
Nguyễn Bính hay Nguyễn Duy. Đến Đồng Đức Bốn thì có nhiều phá cách,
những hình ảnh xưa nay ta quen thấy ở ca dao nay lại hiện ra với một dáng
vẻ mới trong thơ lục bát của Đồng Đức Bốn, chẳng hạn như cây trúc xinh
mọc ở bờ ao trong ca dao nay là cây trúc tương tư, lẳng lơ trong những câu
thơ của Đồng Đức Bốn. Anh đã đem đến cho cái nhìn về văn hóa truyền
thống, đó là những điều độc đáo, có thể nói đó là những thứ mới lạ nhưng
không xa lạ.
93
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH
Phần kết luận
Trên cơ sở tìm hiểu yếu tố ca dao trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn ở
ba bình diện: thể thơ, giọng điệu và hệ thống đề tài, chúng tôi rút ra một số
kết luận sau:
Trên bình diện thể thơ, về cơ bản, Đồng Đức Bốn vẫn sử dụng thể thơ
lục bát truyền thống, không có ngoại lệ. Tuy nhiên cũng phải nhìn nhận
rằng nhà thơ cũng hết sức cố gắng tạo nên một diện mạo mới cho thơ lục
bát thông qua cách ngắt nhịp và sử dụng thanh điệu phá cách, điều này đã
tạo nên một nét mới lạ trong thơ lục bát của anh. Có nhiều lúc người đọc
còn cảm thấy khó chịu, bởi những vần thơ cứ trúc trắc, gập ghềnh nhưng
yếu tố này lại tạo nên hiệu ứng nghệ thuật rõ nét và khiến những điều nhà
thơ muốn nhấn mạnh đã thực sự được người đọc chú ý. Không những thế
chính sự khó chịu ấy làm nên cái "chất" Đồng Đức Bốn và khi quen ta lại
thấy ấn tượng.
Trên bình diện giọng điệu thì Đồng Đức Bốn đã kế thừa giọng điệu
thở than tê tái trong ca dao và đây cũng là giọng điệu chủ đạo trong thơ
anh. Khi đọc Đồng Đức Bốn người ta như bước vào một thế giới riêng. Thơ
lục bát của Đồng Đức Bốn không nhịp nhàng nối tiếp mà cứ như cái gì
ngắc lại nghèn nghẹn. Chính cảm giác ấy góp thêm vào cái cảm giác hoang
dại quê mùa nói chung.
Nội dung cảm xúc trong thơ Bốn ở giọng điệu này là nỗi buồn đau và
cả hờn oán riêng tư nhưng được kìm nén nên tê tái, hậm hực. Sử dụng lối
nặng nề hoá, cường điệu hoá của ca dao và Thơ mới, Đồng Đức Bốn đã
sáng tạo ở chỗ, nhân thêm mức độ qua những giả định cực tả. Khác với lối
đay đả chì chiết của ca dao, Đồng Đức Bốn không hướng vào đối tượng cụ
thể nên có tính khái quát và đậm màu sắc triết lí, có tính độc thoại để tạo
nên đối thoại ngầm là nét độc đáo trong điệu than Đồng Đức Bốn. Kế thừa
kiểu câu định nghĩa trong ca dao và thơ mới, nhà thơ cũng tổ chức kiểu câu
94
Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Quốc Khánh “Danh từ là danh từ” và sáng tạo ở chỗ tạo ra nhiều biến thể làm cho giọng
than tăng thêm tính lí sự. Về giọng điệu thơ, Đồng Đức Bốn chuyên chú sử
dụng lục bát điệu nói, phá vỡ các nhịp điệu nhẹ nhàng êm ái chuyển sang
nhịp điệu trục trặc tắc nghẽn để diễn tả nỗi buồn đau oán hận bị kìm nén.
Để tổ chức ngữ điệu nhà thơ cũng phát huy lối láy, lối lặp dán cách của ca
dao và lối láy liên tiếp của Thơ mới; Sử dụng các hình tượng nhỏ bé biểu
tượng cho thân phận lam lũ với tần xuất cao. Chúng ta thấy rằng, sắc thái
giọng điệu trong thơ Đồng Đức Bốn là một trong những yếu tố tạo nên sức
sống của thơ anh. Đồng Đức Bốn đã kế thừa triệt để những tinh hoa của ca
dao truyền thống và làm nên một phong cách thơ đặc trưng của mình.
Trên bình diện hệ thống đề tài, chúng tôi thấy hệ thống đề tài thơ lục
bát Đồng Đức Bốn có rất nhiều điểm tương đồng với ca dao. Trước Đồng
Đức Bốn thì Nguyễn Bính, Nguyễn Duy cũng rất thành công khi lấy cảm
hứng từ ca dao truyền thống. Đến Đồng Đức Bốn thì có nhiều phá cách,
những hình ảnh xưa nay ta quen thấy ở ca dao nay lại hiện ra với một dáng
vẻ mới trong thơ lục bát của Đồng Đức Bốn, chẳng hạn như cây trúc xinh
mọc ở bờ ao trong ca dao nay là cây trúc tương tư, lẳng lơ trong những câu
thơ của Đồng Đức Bốn. Anh đã đem đến cho cái nhìn về văn hóa truyền
thống, đó là những điều độc đáo, có thể nói đó là những thứ mới lạ nhưng
không xa lạ. Vẫn là khung cảnh làng quê, những con người nơi thôn quê
nhưng trong thơ Đồng Đức Bốn nó mang dấu ấn thời đại đậm nét. Và đặc
biệt là những hình ảnh đó vẫn thân thuộc đối với chúng ta nhưng chúng ta
không có cảm giác chúng từ đời thường bước ra nữa mà là từ thế giới của
nhà thơ bước ra. Cá tính sáng tạo của nhà thơ là ở chỗ đó, những điều mà ta
thấy rất quen thuộc nay lại được khoác một dáng vẻ mới, khó hình dung,
khó nắm bắt hơn.
Đồng Đức Bốn là nhà thơ sử dụng nhiều lối nói dân gian, có cái gì vừa
thô mộc, vừa hoang dại lại rất ý tứ, ẩn chứa những triết lí sâu xa. Nhà thơ
và những dòng lục bát của mình đã lại một lần nữa cho thấy thể thơ lục bát
95
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGUYỄN QUỐC KHÁNH quả thực là ưu thế của tiếng Việt. Những vần thơ của anh cứ như từ ca dao,
dân ca mà đi ra, nó khiến người đọc như bị bỏ bùa, bởi sự giản dị và gần
gũi đầy lôi cuốn. Thơ lục bát đúng là hồn Việt và Đồng Đức Bốn là một thi
sĩ Việt Nam đến tận cùng sâu thẳm. Những câu thơ lục bát của anh cứ đọng
lại và vang vọng trong tâm hồn đến nỗi ta cứ có cảm giác đã nghe chúng ở
một nơi nào đó, và khi đã nghe rồi thì nó cứ dư ba mãi trong lòng người.
Chính nhờ biết cách khai thác mạch nguồn truyền thống mà Đồng Đức
Bốn đã tạo nên một phong cách riêng cho mình, không lẫn với bất cứ ai. Có
nhiều nhà thơ cũng lấy cảm hứng thi ca từ ca dao, dân ca, nhưng cách thể
hiện thì có lẽ Đồng Đức Bốn mộc mạc hơn cả, quê mùa hơn cả và cũng vì
thế thơ của anh cũng hồn nhiên hơn cả nhưng chúng tôi cũng xin nhấn
mạnh đó là cái hồn nhiên không dễ gì mà học được. Anh đã biết khai thác
triệt để những ưu thế của thể thơ lục bát dân tộc và làm cho nó thăng hoa
nhờ tài năng của người nghệ sĩ. Thơ anh vẫn giữ được hồn của thơ lục bát,
vẫn rất giản dị, dân dã, trong sáng nhưng anh đã thổi một luồng gió mới
cho thể loại này. Ta thấy thể lục bát thể hiện sự linh hoạt đầy biến ảo trong
thơ lục bát Đồng Đức Bốn. Có thể khẳng định rằng thơ lục bát Đồng Đức
Bốn đã kế thừa những tinh hoa của thể thơ lục bát dân tộc, không những
thế anh đã đem đến cho ngôn ngữ của thể thơ vốn mềm mại uyển chuyển
này một sự cách tân táo bạo đó là cái gai góc, hoang dại, ám ảnh chính
những yếu tố này vừa đem đến sự hấp dẫn vừa làm nên sức sống của thơ
Đồng Đức Bốn.
Chúng tôi hy vọng luận văn này sẽ góp phần lí giải sức chinh phục của
thơ Đồng Đức Bốn ở những phương diện quan trọng nhất để có cơ sở nhận
diện đánh giá giá trị và tầm vóc của một nhà thơ lớn trong nền thi ca đương
đại. Trên cơ sở đó, tiếp tục tìm nghiên cứu và giải mã các tác giả khác có
cùng hệ quy chiếu. chúng tôi sẽ tiếp thu những góp ý chân thành để có thể
nâng cấp đề tài này trong tương lai không xa.
96
Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh
Thƣ mục tài liệu tham khảo
1. Aristote - Lưu Hiệp - Nghệ thuật thơ ca, Văn tâm điêu long - NXB Văn học,
1999
2. Lại Nguyên Ân - Văn học và phê bình - NXB Tác phẩm mới, 1994
3. Nguyễn Phan Cảnh - Ngôn ngữ thơ - NXB Văn hoá thông tin, 2001
4. Montel, Jean - Claude - Thơ/ văn xuôi khác biệt chỗ nào? -
vietvan.org.vn
5. Nguyễn Du - Truyện Kiều - NXB Thanh niên, 1999
6. Nguyễn Văn Dân - Phương pháp luận nghiên cứu văn học - NXB
Khoa học Xã hội, 2004
7. Nguyễn Duy - Tình tang (thơ) - NXB Văn học
8. Đặng Anh Đào - Tài năng và người thưởng thức - NXB Văn nghệ TP.HCM,
2001
9. Nguyễn Đăng Điệp - Giọng điệu thơ trữ tình - NXB Văn học, 2002
10. Nguyễn Đăng Điệp - Thơ Việt Nam sau 1975 - từ cái nhìn toàn cảnh -
Tạp chí Nghiên cứu Văn học số: 11/2006
11. Trịnh Bá Đĩnh - Nguyễn Đức Mậu (tuyển chọn và giới thiệu) - Tản Đà
về tác gia và tác phẩm - NXB Giáo dục, 2000
12. Hê Ghen (Phan Ngọc dịch) - Mỹ học - NXB Văn học, 1999
13. V.Guxep - Mỹ học Folklor (Hoàng Ngọc Hiến dịch) - NXB Đà Nẵng,
1999
14. Nguyễn Bích Hà - Phác thảo diện mạo và đặc điểm văn học dân gian
sau 1975. Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và
giảng dạy - NXB Giáo dục, 2006
15. Lê Bá Hán (chủ biên) - Tinh hoa thơ mới, thẩm bình và suy ngẫm -
NXB Giáo dục, 1999
16. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) - Từ
điển thuật ngữ văn học - NXB Giáo dục, 2006
97
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGUYỄN QUỐC KHÁNH 17. Đào Duy Hiệp - Ngôn ngữ và nhà thơ - E.van, 08/ 2007
18. Đào Duy Hiệp - Thơ & truyện và cuộc đời - NXB Hội Nhà văn, 2001
19. Hoàng Ngọc Hiến - Văn học và học văn - NXB Văn học, 1997
20. Đỗ Đức Hiểu - Thi pháp hiện đại - NXB Hội Nhà văn, 2000
21. Nguyễn Hoà - Đồng Đức Bốn đã tiếp nhận 'y bát thơ lục bát' từ
Nguyễn Du ra sao?- E.van, 2004
22. Bùi Công Hùng - Quá trình sáng tạo thơ ca - NXB Văn hoá thông tin,
2000
23. Quang Huy, Nguyễn Bùi Vợi, Võ Văn Trực (tuyển chọn) - Tuyển tập
thơ lục bát Việt Nam - NXB Văn hoá thông tin, 2000
24. Đinh Gia Khánh (chủ biên) - Chu Xuân Diên - Võ Quang Nhơn - Văn
học dân gian Việt Nam - NXB Giáo dục, 2004
25. Trần Đăng Khoa (tuyển chọn) - Thơ Nguyễn Duy - NXB Giáo dục,
1998
26. Thuỵ Khuê - Cấu trúc thơ - Văn nghệ xuất bản, California USA 1996
27. Nguyễn Xuân Kính - Thi pháp ca dao - NXB Khoa học Xã hội, 1992
28. Lê Đình Kỵ - Phê bình nghiên cứu văn học - NXB Giáo dục, 1998
29. Mã Giang Lân - Nhịp điệu thơ hôm nay - Tạp chí Nghiên cứu Văn học
số 3/2007.
30. Ngô Tự Lập - Sứ mệnh của vần điệu - E.van, 03/ 2006
31. IU.M. Lotman (Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy -
Cấu trúc văn bản nghệ thuật - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004
32. Nguyễn Văn Long - Lã Nhâm Thìn (đồng chủ biên) - Văn học Việt
Nam, những vấn đề ngiên cứu và giảng dạy - NXB Giáo dục, 2006
33. Phương Lựu (chủ biên) - Giáo trình: Lí luận văn học - NXB Giáo dục,
2002
34. Đặng Thai Mai - Giảng văn 'Chinh phụ ngâm' - NXB Đại học sư phạm I,
1992
98
Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Quốc Khánh 35. Nguyễn Đăng Mạnh - Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà
văn - NXB Giáo dục, 1996
36. Nguyễn Đăng Mạnh - Văn học Việt Nam 1945 - 1975 - NXB Giáo dục,
1998
37. Lạc Nam - Tìm hiểu các thể thơ - NXB Văn học, 1996
38. Phan Ngọc - Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều -
NXB Thanh niên, 2003
39. Phan Ngọc - Thơ là gì - Tạp chí Văn học, 1994
40. Vương Kỷ Nhân - Hướng đi của văn học thời kì mới - Tạp chí văn học
2/1994
41. Vương Trí Nhàn - Về những tìm tòi hình thức trong thơ gần đây -
Báo Văn nghệ số 32. trang 4
42. Octaviopaz - Thơ văn và tiểu luận (Nguyễn Trung Đức dịch) - NXB
Đà Nẵng, 1998
43. Vũ Quần Phương - Nhìn lại tiến trình thơ hiện đại - Báo Văn nghệ số
47, ra ngày 25/11/1995
44. Nguyễn Bảo Sinh - Huyền thi - NXB Thanh niên, 2004
45. Chu Văn Sơn - Ba đỉnh cao Thơ mới - NXB Giáo dục, 2003
46. Chu Văn Sơn - Nguyễn Duy thi sĩ thảo dân - Tạp chí Nhà văn, số 2 /
2003
47. Trần Đình Sử - Tuyển tập (Tập I, II) - NXB Giáo dục, 2005
48. Hoài Thanh - Hoài Chân - Thi nhân Việt Nam 1932 - 1941 - NXB Văn học,
1988
49. Hoài Thanh - Nói chuyện thơ kháng chiến - NXB Văn nghệ, 1951
50. Nguyễn Huy Thiệp - Nhớ bạn Đồng Đức Bốn - báo Tiền Phong
51. Bùi Đức Tịnh - Ngôn ngữ học và văn học (tập 1, 2) - NXB Văn nghệ
TP. HCM, 1999
52. Nguyễn Văn Thọ - Đồng Đức Bốn và trận mưa cuối cùng - E.Van
99
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGUYỄN QUỐC KHÁNH 53. Lê Anh Thu - Một khí chất khác người làm nên giọng điệu thơ riêng
lóng lánh vàng - ThoTre.com, cập nhật 21/12/2006
54. Lí Hoài Thu - Đồng cảm và sáng tạo - NXB Văn học, 2006
55. Đỗ Lai Thuý - Từ cái nhìn văn hoá - NXB Văn hoá dân tộc, 1999
56. Đinh Quang Tốn - Những bài thơ cuối cùng của Đồng Đức Bốn -
E.van
57. Phạm Công Trứ - Cỏ may thi tập - NXB Văn học, 2000
58. Đỗ Minh Tuấn - Ngày văn học lên ngôi - NXB Văn học, 1996
59. Phạm Công Trứ - Phồn thi (II) - NXB Hội Nhà văn, 2006
60. Vũ Thanh Việt (tuyển chọn và biên soạn) - Thơ Nguyễn Bính những
lời bình - NXB Văn hóa thông tin, 1999
61. Trần Ngọc Vương - Tính dân tộc và tính hiện đại truyền thống và
cách tân qua nhà thơ Tản Đà, Tản Đà về tác gia và tác phẩm - NXB
Giáo dục, 2000
62. Tuyển tập Đồng Đức Bốn, Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc (tác phẩm và
dư luận) - NXB Hội Nhà văn, 2006
63. Văn học Việt Nam sau 1975. Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy
- NXB Giáo dục, 2006
64. Thế nào là thơ trình diễn? Wednesday, 26th September 2007 -
Powered by Vnweblogs. com
65. Hồn quê trong thơ Bùi Giáng, cập nhật 06/10/2005 - E.Van
66. Từ điển tiếng Việt - NBX Đà Nẵng, 2006
100