ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN QUỐC KHÁNH

Yếu tố ca dao trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn (Trên 3 bình diện: thể thơ, giọng điệu và hệ thống đề tài) LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

HÀ NỘI, 2008

Mục lục

Phần mở đầu

1. Lí do chọn đề tài 1

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 3

3. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu 8

4. Nhiệm vụ của đề tài 9

5. Đóng góp của luận văn 9

6. Cấu trúc của luận văn 10

Phần nội dung

Chương 1: Vài nét về tiến trình của thể lục bát từ ca dao đến thơ hiện đại

11 1.1 Mối liên hệ giữa văn học dân gian và văn học viết

11 1.1.1 Khái niệm văn học dân gian

13 1.1.2 Sự hình thành của dòng văn học viết

1.2 Sự xuất hiện của ca dao với tư cách là thể loại của

14 văn học dân gian

14 1.2.1 Các hình thức sinh hoạt trong ca dao, dân ca

14 1.2.1.1 Sinh hoạt lao động

16 1.2.1.2 Sinh hoạt gia đình và xã hội

17 1.2.1.3 Sinh hoạt nghi lễ

18 1.2.2 Lục bát là thể thơ được dùng chủ yếu trong ca dao

18 1.2.2.1 Thể lục bát

20 1.2.2.2 Thể song thất lục bát

21 1.2.2.3 Biến thể lục bát

21 1.2.2.3.1 Dòng lục thay đổi dòng bát giữ nguyên

1.2.2.3.2 Dòng lục giữ nguyên, dòng bát thay đổi 21

1.2.2.3.3 Cả hai dòng đều thay đổi 21

1.3 Thể lục bát từ ca dao đến thơ trung đại 22

1.3.1 Những yếu của tiếng Việt là điều kiện nội tại cho

sự hình thành thể thơ 22

1.3.2 Thể thơ lục bát trong văn học Trung đại đã đạt đến mẫu mực 25

1.3.2.1 Quá trình tìm tòi và định hình các hệ thống chuẩn mực 25

1.3.2. "Truyện Kiều" của Nguyễn Du đã đạt đến độ mẫu mực 30

1.4 Thể lục bát từ ca dao đến thơ Đồng Đức Bốn 31

Chương 2: yếu Tố ca dao trong thơ lục bát Đồng đức bốn trên bình diện giọng điệu

39 2.1 Xung quanh khái niệm giọng điệu trong văn học

39 2.1.1 Quan niệm về giọng điệu của các nhà nghiên cứu

39 2.1.1.1 Quan niệm của nhà phê bình văn học Hoài Thanh

42 2.1.1.2 Quan niệm của nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến

43 2.1.1.3 Quan niệm của nhà nghiên cứu Trần Đình Sử

45 2.1.2 Định nghĩa đầy đủ về "giọng điệu"

2.2 Một số đặc trưng trong giọng điệu thơ lục bát Đồng Đức Bốn 48

48 2.2.1 Giọng thở than, tê tái

2.2.1.1 Cơ sở của giọng thở than tê tái

48

2.2.1.2 Đồng Đức Bốn kế thừa cách tổ chức sắc điệu của giọng thở than

49 tê tái trong ca dao

2.2.1.3 Diện mạo sắc điệu thở than tê tái trong thơ

Đồng Đức Bốn 52

2.2.2 Chất "giọng quê mùa" được tạo nên bởi hệ thống thi liệu 58

Chương 3: Yếu tố ca dao trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn trên bình diện hệ thống đề tài

3.1 Thiên nhiên nơi thôn quê 64

3.1.1 Đường quê 65

3.1.2 Cánh đồng với mưa, nắng, gió chốn nhà quê 66

3.1.3 Trăng, sao chốn nhà quê 68

3.1.4 Những cánh diều quê 69

3.1.5 Sông quê, đò quê 70

3.1.6 Đình quê, chùa quê 72

3.1.7 Mái nhà và mảnh vườn quê 74

3.1.8 Cây cối, hoa, cỏ nhà quê 76

3.1.9 Những con vật gần gũi với người dân quê 78

3.2 Cuộc sống và con người nơi thôn quê 80

3.2.1 Cuộc sống lam lũ nơi làng quê 80

3.2.2 Những con người nơi thôn quê 84

Phần kết luận 92

Thư mục tài liệu tham khảo

95

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh

Phần mở đầu

1. Lý do chọn đề tài

1.1 Có thể nói rằng kho tàng ca dao là suối nguồn vô tận đối với thơ

ca hiện đại. Rất nhiều nhà thơ đã thành danh với thể thơ lục bát – một thể

thơ chủ yếu của ca dao truyền thống.

Kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là sự khẳng định ưu

thế tuyệt đối của thể thơ này trong nền thơ ca dân tộc. Trước Nguyễn Du,

thể song thất lục bát cũng đã sản sinh ra hai tác phẩm bất hủ, đó là Cung

oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều và Chinh phụ ngâm (bản dịch của Đoàn

Thị Điểm). Có lẽ vì thế mà nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng lục bát là thể

thơ thể hiện rõ nhất tinh hoa của tiếng Việt.

Đúng như nhà nghiên cứu Nguyễn Phan Cảnh trong cuốn Ngôn ngữ

thơ đã nhận xét: “… trong suốt nhiều thế hệ nghệ sĩ, văn hóa dân gian đã

luôn là nguồn cảm hứng, là tiền đề kĩ thuật cho mọi loại hình nghệ thuật…

và chẳng phải Truyện Kiều như là đỉnh cao của thi ca cổ điển đã được viết

bằng những câu ca dao dân dã đó sao” [3, 200].

1.2 Tiếp nối dòng chảy quá khứ, thơ ca hiện đại lại đóng góp những

tên tuổi lớn như: Tố Hữu, Nguyễn Bính, Nguyễn Duy, Bùi Giáng, Phạm

Công Trứ, Đồng Đức Bốn… trong đó, Đồng Đức Bốn là một cái tên xuất

hiện khá muộn trên thi đàn. Tuy xuất hiện khá muộn màng và cũng không

ồn ào nhưng Đồng Đức Bốn đã tìm cho mình một chỗ đứng riêng trong

làng thơ lục bát. Để cho thật khách quan, chúng tôi xin trích dẫn những lời

nhận xét của nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình, nghiên cứu về hiện

tượng Đồng Đức Bốn:

• “Đồng Đức Bốn là một nhà thơ khai sáng và sáng tạo ra những cái

mới trong thơ lục bát”, “Đồng Đức Bốn là người tự dưng đốn ngộ với riêng

1

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGUYỄN QUỐC KHÁNH thể thơ lục bát. Đó là ân huệ trời dành riêng cho anh”, “Đồng Đức Bốn vị

cứu tinh của thơ lục bát” – Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp [62, 533].

• “Một mình Đồng Đức Bốn đã làm một cuộc trường chinh. Gã xông

thẳng vào trận địa lục bát và chỉ một thời gian ngắn, Đồng Đức Bốn trở

thành ông vua trẻ của thể loại này” – Nhà thơ Phạm Tiến Duật [62, 695].

• “Thơ lục bát Đồng Đức Bốn đẹp vẻ đẹp rất mộc của thơ ca dân gian,

của những câu ca dao mà ta đọc trong mọi thế hệ, đọc trong cả cuộc đời mà

ta vẫn phải giật mình” – Tiến sĩ Đoàn Hương [62, 661].

• “Cái còn lại sau cuộc dấn thân ấy là những trải nghiệm… cái còn lại

sau những trải nghiệm đầy đau đắng ấy là thơ… Cái còn lại trong thơ Đồng

Đức Bốn ấy là lục bát” – Nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp [62, 465].

Qua những nhận định trên đây có thể thấy Đồng Đức Bốn là nhà thơ

có tài, đặc biệt là ở thể loại lục bát. Nhắc đến thơ Đồng Đức Bốn là người

ta nhắc đến những vần thơ lục bát độc đáo của anh.

1.3 Đồng Đức Bốn đã tìm cho mình một vị trí xứng đáng trong làng

thơ Việt Nam. Thơ anh được nhiều người đọc và thuộc làu, có lẽ cũng bởi

sự độc đáo mới lạ và tất nhiên phải hay đã. Tuy độc đáo mới lạ nhưng vẫn

chảy trong mạch nguồn thơ ca dân tộc.

Vậy điều gì đã tạo nên cho thơ lục bát Đồng Đức Bốn sự hấp dẫn đến

kì lạ ấy. Theo chúng tôi, yếu tố ca dao (thể thơ, giọng điệu, hệ thống đề tài)

chính là nền tảng tạo nên sức lôi cuốn của lục bát Đồng Đức Bốn. Nhiều

người vẫn nói đến chất dân gian hoặc cái hay của thơ lục bát Đồng Đức

Bốn nhưng chưa ai tìm hiểu cụ thể xem chất dân gian ấy là gì cũng như

những đóng góp về thể loại trong thơ anh. Trong luận văn này, chúng tôi có

tham vọng giải mã hiện tượng Đồng Đức Bốn trên cơ sở nghiên cứu yếu tố

ca dao (thể thơ, giọng điệu và hệ thống đề tài) trong thơ lục bát của anh.

Ngoài ra, chúng tôi cũng mong muốn đóng góp một hướng đi mới trong

việc giải mã những tác giả nổi tiếng khác như: Nguyễn Bính, Phạm Công

2

Luận văn thạc sĩ

Nguyễn Quốc Khánh Trứ, Nguyễn Duy… thông qua việc tìm hiểu, so sánh và đối chiếu những

bình diện này trong thơ lục bát và trong ca dao.

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Các công trình nghiên cứu về thơ lục bát Đồng Đức Bốn hiện nay chỉ

tồn tại dưới dạng các bài viết, các bài phê bình, phân tích ngắn mà chưa có

một chuyên luận hay bài nghiên cứu nào đi sâu khai thác yếu tố ca dao

(trên ba bình diện: thể thơ, giọng điệu và hệ thống đề tài) trong thơ lục bát

Đồng Đức Bốn. Trên cơ sở nguồn tư liệu bao quát được và trong phạm vi

quan tâm của đề tài, bước đầu, chúng tôi rút ra một số nhận xét sau:

2.1 Các bài viết về nhà thơ Đồng Đức Bốn chủ yếu xoay quanh một số

khía cạnh như: tài năng bẩm sinh của nhà thơ, nét độc đáo, chất thơ mộc

mạc, cá tính nghệ sĩ, giọng điệu hay chất dân gian (mới chỉ là nêu lên vấn

đề chứ chưa đi sâu vào việc nghiên cứu).

Như vậy, chưa có một chuyên luận nào hay thậm chí một bài viết nào

tìm hiểu yếu tố ca dao (thể thơ, giọng điệu và hệ thống đề tài) trong thơ lục

bát Đồng Đức Bốn.

2.2 Chúng tôi xin thống kê các bài viết về Đồng Đức Bốn được đăng

và in trên các sách báo gần đây để thấy rõ sự thiếu vắng cũng như vai trò

quan trọng của đề tài này trong việc giải mã Đồng Đức Bốn:

Đồng Đức Bốn vị cứu tinh của thơ lục bát (Nguyễn Huy Thiệp).

Đồng Đức Bốn - Kẻ mượn bút của trời (Đỗ Minh Tuấn).

Múa võ trong không gian hẹp (Lê Quang Trang).

Đồng Đức Bốn – phiêu du vào lục bát (Nguyễn Đăng Điệp).

Những câu thơ tình tang quê mùa (Đoàn Hương).

Đọc thơ lục bát của Đồng Đức Bốn (Nguyễn Thị Anh Thư).

Đồng Đức Bốn – người cày ruộng trên cánh đồng nhớ thương

(Nguyễn Văn Quân).

Đồng Đức Bốn – tiếng chuông chùa kêu trong mưa (Khánh Phương).

Đóng gạch nơi nao? (Phạm Tiến Duật).

3

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH

Nhà thơ Đồng Đức Bốn nhàu nát và trau chuốt (Trần Huy Quang).

Đồng Đức Bốn – tựa bão để sống làm người (Nguyễn Anh Quân).

Lục bát tình của Đồng Đức Bốn (Vĩnh Quang Lê).

Có phải như thế không (Thanh ứng).

Đồng Đức Bốn – thi sĩ đồng quê (Băng Sơn).

Tản mạn sau thơ Đồng Đức Bốn (Trần Thị Trường).

Lục bát Đồng Đức Bốn – còn một cõi không? (Nguyễn ánh Ngân).

Chờ đợi tháng ba Đồng Đức Bốn (Chu Nguyễn).

Đến với bài thơ hay (Chử Văn Long).

Chăn trâu đốt lửa (Nguyễn Chu Nhạc).

Đồng Đức Bốn – chàng thi sĩ đồng quê (Nguyễn Thành Phong).

Đồng Đức Bốn – một câu chuyện hoang đường (Vũ Dũng).

Nhà thơ Đồng Đức Bốn – một tài năng ngang tàng (Lê Lựu).

Đồng Đức Bốn tìm những câu thơ buồn trong gió (Văn Chinh).

Trong phần thống kê này, chúng tôi nhận thấy không có nhiều bài viết

đề cập đến chất dân gian, chất đồng quê của Đồng Đức Bốn, nếu có chỉ là

đề cập ở mức độ nêu hiện tượng chứ chưa đi sâu vào bản chất vấn đề.

Trong bài viết: Đồng Đức Bốn vị cứu tinh của thơ lục bát, tác giả

Nguyễn Huy Thiệp có viết: “Đồng Đức Bốn đã từng nhận nhiều giải

thưởng trong các cuộc thi của báo Văn nghệ, tạp chí Văn nghệ Quân đội và

báo Tiền phong. Anh là người sở trường làm thơ lục bát. Có lẽ anh là người

làm thơ lục bát hay nhất trong khoảng 50 năm trở lại đây ở nước ta, kể từ

khi Nguyễn Bính – một nhà thơ chân quê đồng thời cũng là một thi sĩ đệ

nhất lãng tử giang hồ qua đời”.

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã đánh giá Đồng Đức Bốn là người làm

thơ lục bát hay nhất trong vòng 50 năm trở lại đây, điều này chúng tôi hoàn

toàn đồng tình, không phải vì những giải thưởng danh giá mà anh đã đạt

được mà là ở chính những cảm nhận mang tính cá nhân của mình. Bài viết

còn đề cập đến hình ảnh nông thôn trong thơ Đồng Đức Bốn, vẫn là những

4

Luận văn thạc sĩ

Nguyễn Quốc Khánh thôn Đoài, thôn Đông, vẫn là cái ngậm ngùi của sự nghèo nàn và mất mát

khiến lòng ta nhói đau nhưng trong thơ Đồng Đức Bốn nó lại mang một

màu sắc khác. Trong cái chung, cái phổ biến ấy ta vẫn dễ dàng nhận thấy

cái mới lạ, độc đáo riêng biệt của thơ anh.

Trong bài viết của mình, Nguyễn Huy Thiệp đã nêu lên tính đặc trưng

của thơ lục bát là dễ làm, khó hay. “Có thể nói thơ lục bát là một thể thơ

nôm na cổ truyền đặc trưng Việt Nam. Người Việt Nam vị tình. Thơ lục bát

cũng là một thể thơ vị tình. Nó gần gũi với lối sống, nếp nghĩ của người

nông dân Việt Nam thật thà, chất phác, thơ lục bát rất dễ làm nhưng chính

vì thế mà khó hay… Đồng Đức Bốn là người tự dưng đốn ngộ với thể thơ

lục bát” – Nguyễn Huy Thiệp.

Tổng hợp lại bài viết của Nguyễn Huy Thiệp có mấy ý chính sau:

- Thơ lục bát Đồng Đức Bốn hay.

- Tài năng thơ của anh ấy giống như là trời cho cái “lộc” vậy.

- Thơ Đồng Đức Bốn thường có chủ đề quay lại với các giá trị văn hóa

cổ truyền.

- Đề tài làng quê trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn có nhiều nét mới và

độc đáo.

Như vậy, một số bài viết đã bắt đầu quan tâm đến vấn đề thể loại và

mối liên hệ mật thiết giữa thơ lục bát Đồng Đức Bốn và dòng chảy bắt

nguồn từ truyền thống. Tuy nhiên, chưa có vấn đề nào được nghiên cứu

sáng tỏ và rõ ràng, đây là những vấn đề còn để ngỏ.

Nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp cũng đánh giá rất cao thơ lục bát

Đồng Đức Bốn.

“Từ lục bát của ca dao, Nguyễn Du đã tạo nên một đột biến: “Khi

Nguyễn Du viết Truyện Kiều đất nước biến thành văn” (Chế Lan Viên).

Thể thơ dân tộc này hiện hình một cách tài hoa qua “khối tình lớn – khối

tình con” Tản Đà rồi chia thành hai ngả trong Thơ mới: Cái chân quê trong

sáu – tám của Nguyễn Bính và cái hàm súc cổ điển trong thơ Huy Cận.

5

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGUYỄN QUỐC KHÁNH Hiện giờ ngoài cái “thượng thừa” của Bùi Giáng, lục bát sống trong hồn

Nguyễn Duy, rồi Đồng Đức Bốn… Làm được lục bát hóa ra là việc khó

khăn… Là một thể loại ai cũng quen mặt, ai cũng thuộc tên, nếu không có

cái mới, lập tức kẻ làm thơ sẽ bị đuổi khỏi chiếu. May thay, Đồng Đức Bốn

đã trụ lại được”.

Trong phần đánh giá này, nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp đã lựa

chọn những tên tuổi mà ông cho là sáng giá nhất trong làng thơ lục bát Việt

Nam, trong đó có cái tên Đồng Đức Bốn. Phần cuối bài viết có nhấn mạnh,

Đồng Đức Bốn rồi cuối cùng cũng trở về với ca dao, với tình đời dù cay

đắng nhưng vẫn ngọt ngào. Cái chất dân gian trong thơ Đồng Đức Bốn cuối

cùng vẫn là cầu nối anh với thế hệ độc giả bây giờ. Dù có thế nào đi chăng

nữa thì khuynh hướng sáng tác của Đồng Đức Bốn vẫn là trở về với cội

nguồn.

Tiến sĩ Đoàn Hương thì đề cập ngay đến chất dân ca, ca dao trong thơ

lục bát Đồng Đức Bốn ở phần đầu của bài viết Những câu thơ tình tang quê

mùa. Đây là bài viết có phân tích khá kỹ những chất quê trong thơ Đồng

Đức Bốn, ấy chẳng phải là mạch nguồn cảm hứng của nhà thơ đó sao. Đọc

thơ lục bát của anh ta dễ để tâm hồn lắng đọng và miên man về quá khứ

như Tiến sĩ Đoàn Hương đã nhận xét: “Đọc thơ Đồng Đức Bốn tôi như một

kẻ đánh mất quê được trở về quê. Đọc thơ Đồng Đức Bốn để ta tìm thấy

quê, trở về với quê hương trong tâm tưởng của ta. Đây là những bài viết mà

chúng tôi cho là đã bước đầu nêu lên mối quan hệ mật thiết giữa thơ lục bát

và kho tàng ca dao, dân ca.

2.3 Từ những khảo sát trên đây, có thể thấy, cho đến nay chưa có một

công trình nghiên cứu một cách hệ thống “yếu tố ca dao trong thơ lục bát

Đồng Đức Bốn (trên ba bình diện: thể thơ, giọng điệu và hệ thống đề tài)”.

Ai cũng biết thơ lục bát thật dễ làm nhưng để hay và đi vào lòng

người đọc thì quả thực đã làm nhiều cây bút phải nản lòng vì điều đó thật

không dễ chút nào. Bằng chứng là nếu kể tên các nhà thơ hiện đại Việt

6

Luận văn thạc sĩ

Nguyễn Quốc Khánh Nam thành công ở thể loại này có lẽ chỉ đếm được trên đầu ngón tay:

Nguyễn Bính, Nguyễn Duy, Bùi Giáng, Phạm Công Trứ... Chính vì thế

mà những đóng góp của Đồng Đức Bốn cho thơ Việt Nam hiện đại là

điều hết sức đáng quý.

Đồng Đức Bốn là nhà thơ sử dụng nhiều lối nói dân gian, có cái gì vừa

thô mộc, vừa hoang dại lại rất ý tứ, ẩn chứa những triết lí sâu xa. Ta có thể

thấy rất nhiều câu thơ mà anh sử dụng nhuần nhuyễn thành ngữ như thế

nào. Bên cạnh đó, những hình ảnh quen thuộc ở vùng nông thôn như con

cò, con vạc, cánh diều, cánh đồng, đường làng xuất hiện với tần số cao

trong thơ anh:

Ngang trời tiếng vạc mảnh mai

Chém trăng đã đứt thành hai mảnh rồi

Mảnh nào em để cho tôi

Khi buồn chỉ đặt ngang môi làm kèn

(Cái đêm em ngủ với chồng)

Rồi thì:

Không em ra ngõ kéo diều

Nào ngờ được mảnh trăng chiều trong mây

Luồn kim vào nhớ để may

Chỉ yêu cứ đứt trên tay mình cầm

(Sông Thương ngày không em)

Thành ngữ là một nhóm từ có kết cấu chặt, khó phá vỡ. Đó là cách

nói ví von mà dân ta thường dùng làm cho ý diễn tả ngắn gọn, bóng bảy, cô

đọng, dễ hiểu, giàu sức thuyết phục và Đồng Đức Bốn đã sử dụng một cách

linh hoạt để những câu thơ lục bát của mình mang ý nghĩa tượng trưng cao,

và qua đó ý nghĩa của nó cũng được mở ra nhiều chiều.

Không còn nghi ngờ gì nữa, anh là nhà thơ xuất sắc của nền thi ca

Việt Nam đương đại, Đồng Đức Bốn và những dòng lục bát của mình đã lại

7

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGUYỄN QUỐC KHÁNH một lần nữa cho thấy thể thơ lục bát quả thực là ưu thế của tiếng Việt.

Những vần thơ của anh cứ như từ ca dao, dân ca mà đi ra, nó khiến người

đọc như bị bỏ bùa, bởi sự giản dị và gần gũi đầy lôi cuốn. Thơ lục bát đúng

là hồn Việt và Đồng Đức Bốn là một thi sĩ Việt Nam đến tận cùng sâu

thẳm. Anh làm thơ lục bát như rong chơi, như tình cờ, như bất chợt rút câu

thơ sáu tám ra khỏi túi áo, những câu thơ mơ ngủ được đánh thức cho bật

lên sống động, mà anh chẳng tốn bao công sức, chẳng cần gọt giũa, chẳng

cầu kì, kĩ thuật. Những câu thơ lục bát của anh cứ đọng lại và vang vọng

trong tâm hồn đến nỗi ta cứ có cảm giác đã nghe chúng ở một nơi nào đó,

nhưng thực ra lại chưa hề.

Cũng có nhiều ý kiến cho rằng thơ anh còn gai góc, còn thô mộc, còn

có vẻ gì chất phác, ngô nghê nhưng cũng phải nói rằng đó chính là điểm

mạnh trong thơ của anh. Cái mộc của vẻ đẹp văn nghệ dân gian thoáng nhìn

thì có vẻ thô mộc đấy nhưng lại không dễ dàng có được. Con người và xã

hội càng tiến lên, càng văn minh thì lại càng mơ về cái mộc tinh chất ấy của

dân tộc nếu không nói là cái mộc ấy cũng phải học mới có được. Giống

như một nhà văn lão luyện mà viết truyện thiếu nhi ấy, họ phải viết sao cho

thật hồn nhiên, ngây thơ, dễ hiểu và lúc này cái kinh nghiệm trẻ con mới

cần phát huy tối đa. Thế chẳng phải là cái hồn nhiên đầy kinh nghiệm đó

sao.

Không thể phủ nhận một điều rằng thơ của anh hay và có nói gì thì

nói một nhà thơ thành công, có nghĩa là thơ của anh ta phải được nhiều

người thuộc, nhiều người thích. Thơ Đồng Đức Bốn đã đáp ứng một cách

đầy thuyết phục tiêu chí này. Không những thế anh còn được coi là người

tiếp nối dòng chảy dân gian trong thơ ca và có những đóng góp không nhỏ

trên thi đàn.

3. Đối tƣợng, phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu

3.1 Đối tượng nghiên cứu

8

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “yếu tố ca dao trong thơ lục bát

Đồng Đức Bốn” trên ba bình diện: thể thơ, giọng điệu và hệ thống đề tài.

Như vậy, chúng tôi chỉ khảo sát thơ lục bát Đồng Đức Bốn, còn các sáng

tác của anh thuộc thể loại khác như tự do, ngũ ngôn… chúng tôi không đề

cập trong luận văn này.

3.2 Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các bài thơ lục bát của Đồng Đức

Bốn nằm rải rác trong các tập thơ mà anh đã in:

- Con ngựa trắng và rừng quả đắng (NXB Văn học, 1992)

- Chăn trâu đốt lửa (NXB Lao động, 1993)

- Trở về với mẹ ta thôi (NXB Hội nhà văn, 2000)

- Cuối cùng vẫn còn dòng sông (NXB Hội nhà văn, 2000)

- Chuông chùa kêu trong mưa (NXB Hội nhà văn, 2002)

- Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc (NXB Hội nhà văn, 2006)

3.3 Phương pháp nghiên cứu

Để giải quyết tốt nhiệm vụ khoa học của đề tài, chúng tôi sử dụng

một số phương pháp chủ yếu như:

Phương pháp thống kê

Phương pháp so sánh, đối chiếu

Phương pháp phân tích, tổng hợp

Phương pháp nghiên cứu liên ngành

Phương pháp cấu trúc hệ thống

Phương pháp phân loại

Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp khác (chủ yếu

nằm trong hệ thống các phương pháp nghiên cứu văn học), tuy nhiên chúng

tôi cũng chỉ sử dụng trong một chừng mực nhất định.

4. Nhiệm vụ của đề tài

Đề tài của luận văn đặt ra nhiệm vụ tìm hiểu yếu tố ca dao trong thơ

lục bát Đồng Đức Bốn trên ba bình diện: thể thơ, giọng điệu và hệ thống đề

9

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGUYỄN QUỐC KHÁNH tài. Qua đó, không những lí giải được hiện tượng Đồng Đức Bốn mà còn

chỉ ra sự kế thừa và cách tân so với truyền thống trong thơ lục bát của anh.

5. Đóng góp của luận văn

Mặc dù thời gian gần đây người ta đã đánh giá đúng những gì mà nhà

thơ Đồng Đức Bốn đã đóng góp trên thi đàn, hàng loạt các giải thưởng mà

anh được trao tặng đã nói lên điều đó, song nhiều vấn đề nghiên cứu về

Đồng Đức Bốn dường như vẫn còn bỏ ngỏ. Vì vậy, chúng tôi muốn tìm

hiểu tác giả này một cách hệ thống hơn và qua đó có thể thấy được phần

tinh túy nhất của thơ anh, nói cách khác là tìm ra được "chất" của Đồng

Đức Bốn. Theo hướng nghiên cứu của đề tài có thể giải mã một số tác giả

sở trường ở thể thơ lục bát khác như: Nguyễn Bính, Nguyễn Duy, Phạm

Công Trứ…

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, luận văn được

triển khai theo ba chương:

Chƣơng 1 - Vài nét về tiến trình của thể lục bát từ ca dao đến

thơ hiện đại

Chƣơng 2 - Yếu tố ca dao trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn trên bình

diện giọng điệu

Chƣơng 3 - Yếu tố ca dao trong thơ Đồng Đức Bốn trên bình diện

hệ thống đề tài

10

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh

Phần nội dung

CHƢƠNG 1

Vài nét về tiến trình của thể lục bát từ ca dao đến thơ hiện đại

1.1 Mối liên hệ giữa Văn học dân gian và Văn học viết

1.1.1 Khái niệm văn học dân gian

Theo một số nhà nghiên cứu văn học Việt Nam thì trước những năm

50 của thế kỷ XX, khái niệm Văn học dân gian được gọi là “văn chương

truyền khẩu”, “văn nghệ dân gian”, “sáng tác dân gian”… Chúng ta có thể

nhầm lẫn giữa các khái niệm mà thoạt nghe có vẻ không khác nhau là mấy

như “văn hóa dân gian”, “văn nghệ dân gian”… Tuy nhiên, giữa văn học

dân gian với văn hóa dân gian và giữa thành phần ngôn ngữ với các thành

phần nghệ thuật khác trong nội bộ văn học dân gian có những mối quan hệ

hữu cơ hết sức chặt chẽ. Vì thế, văn học dân gian có vị trí đặc biệt trong

nền văn hóa dân gian và trong hệ thống các loại hình nghệ thuật.

ở phương Tây, người ta dùng thuật ngữ Folklore dùng để chỉ những di

tích của nền văn hóa vật chất và chủ yếu là những di tích của nền văn hóa

tinh thần của nhân dân có liên quan với nền văn hóa vật chất như: phong

tục, đạo đức, ca dao, việc cúng tế… của các thời trước. Ngay cả thuật ngữ

này cũng được hiểu theo hai khuynh hướng. Khuynh hướng thứ nhất hiểu

Folklore là tất cả các hiện tượng của nền văn hóa tinh thần và thậm chí cả

một số hình thức của nền văn hóa của nhân dân. Khuynh hướng thứ hai

muốn giới hạn thuật ngữ đó và coi Folklore là những sáng tác ngôn từ

truyền miệng, tức là chỉ văn học dân gian.

Nhà nghiên cứu của Nga là V. Guxep cho rằng nếu hiểu Folklore là

văn học dân gian thì coi như ta đã cố tình thu hẹp phạm vi của khái niệm

này. Ông cho rằng phải định nghĩa Folklore như một lĩnh vực đặc biệt

trong nghệ thuật dân gian và thuật ngữ Folklore không biểu thị toàn bộ

11

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGUYỄN QUỐC KHÁNH nghệ thuật dân gian nói chung mà chỉ biểu thị cái lĩnh vực trong nghệ thuật

dân gian.

Như thế khái niệm văn học dân gian không tương đồng với thuật ngữ

Folklore mà nó chỉ là một bộ phận trong đó. Vấn đề ở đây là cả phương

Đông lẫn phương Tây nhìn nhận văn học dân gian là khởi nguồn cho sự

phát triển văn học sau này.

Các nhà nghiên cứu đều đi đến kết luận rằng, mối quan hệ thẩm mĩ

đối với thực tại nói chung và văn học nghệ thuật nói riêng ra đời và tồn tại

với tư cách là một hình thức hoạt động tinh thần tương đối độc lập, suy cho

đến cùng không đối lập mà có mối quan hệ không thể chia cắt được với

thực tiễn hoạt động và với sự nhận thức của con người về thế giới xung

quanh. ở văn học dân gian, mối quan hệ đó biểu hiện ra một cách đặc biệt

rõ ràng. Điều này có nguyên nhân ở nguồn gốc cổ sơ và điều kiện tồn tại

của văn học dân gian trong suốt quá trình phát triển lịch sử của nó.

“Văn học dân gian là sáng tác tập thể, truyền miệng của nhân dân lao

động, ra đời từ thời kỳ công xã nguyên thủy, trải qua các thời kỳ phát triển

lâu dài trong các chế độ xã hội có giai cấp, tiếp tục tồn tại trong thời đại

hiện nay” [24, 7].

Một tính chất quan trọng của văn học dân gian, đó là tính chất nhiều

chức năng. Trong văn học dân gian, chức năng “nhận thức”, chức năng

“giáo dục”, chức năng “thẩm mĩ” và chức năng “sinh hoạt” hợp thành một

thể thống nhất. Lê - nin đã chỉ ra, trong văn học dân gian có sự thể hiện

“thế giới quan”, “những mong chờ và khát vọng” của quần chúng, “tâm

hồn của nhân dân” và đã xem văn học dân gian là một trong những hình

thức biểu hiện của “những tư tưởng triết học nhân dân”.

Cho dù là dòng văn học thời kỳ sơ khai của loài người nhưng văn học

dân gian đã mang gần như đầy đủ các yếu tố và bản chất của văn học.

Chính mối quan hệ với hoạt động thực tiễn và tính nguyên hợp về hình thái

ý thức xã hội bao giờ cũng làm cho văn học dân gian sinh động và đa dạng.

12

Luận văn thạc sĩ

Nguyễn Quốc Khánh Cuộc sống văn học dân gian không phải là cuộc sống dưới hình thức văn

bản, cuộc sống của văn học dân gian phải là cuộc sống gắn liền với một

môi trường sinh hoạt nhất định của văn hóa dân gian. Do đó cuộc sống của

văn học dân gian được biểu hiện ra thành vô số hình thức sinh hoạt, những

hình thức sinh hoạt này cũng phong phú, đa dạng như bản thân những hình

thức sinh hoạt trong đời sống thực tiễn của nhân dân.

1.1.2 Sự hình thành của dòng văn học viết

Văn học dân gian luôn đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền văn

học dân tộc. Trong thời kỳ dân tộc chưa có chữ viết hoặc chữ viết chưa phổ

cập, nó có đóng góp lớn trong việc giữ gìn và phát triển ngôn ngữ dân tộc,

nuôi dưỡng tâm hồn nhân dân. Tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc của văn

học dân gian từ nội dung đến hình thức có tác dụng to lớn đến sự hình

thành và phát triển của văn học viết.

Văn học viết ra đời vào khoảng thế kỷ X như một bước nhảy vọt của

tiến trình lịch sử văn học dân tộc. Tính đến khoảng đầu thế kỷ XX, văn học

viết gồm hai thành phần song song tồn tại và cũng có quan hệ mật thiết với

nhau, đó là văn chương chữ Hán và văn học viết bằng chữ Nôm.

Ra đời ngay từ buổi đầu của nền văn học viết, văn chương chữ Hán đã

đánh dấu một bước ngoặt trong nền văn học dân tộc. Tuy viết bằng chữ

Hán, nhưng thành phần này vẫn là văn chương Việt Nam, vẫn đậm đà tính

dân tộc. Tuy có chịu ảnh hưởng của văn học Trung Quốc nhưng về cơ bản

vẫn thể hiện được tâm hồn và trí tuệ Việt.

Đến khoảng thế kỷ XIII, văn học viết bằng chữ Nôm (Chữ Nôm – một

cách ghi âm tiếng Việt bằng vật liệu chữ Hán) mới thực sự xuất hiện khi ý

thức dân tộc và tinh thần nhân dân đã phát triển cao hơn ở tầng lớp trí thức.

Thành phần văn học này đã trưởng thành nhanh chóng và sản sinh ra

nhiều tác phẩm lớn, những tên tuổi lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực thơ ca.

Từ khoảng những năm 20 của thế kỉ XX, văn học viết nước ta hầu như chỉ

13

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGUYỄN QUỐC KHÁNH còn được sáng tác bằng tiếng Việt, ghi âm bằng chữ cái Latinh, gọi là chữ

Quốc ngữ thay cho chữ Nôm.

Trong lịch sử văn học Việt Nam, hai dòng văn học dân gian và văn

học viết luôn có tác động qua lại. Sự kết hợp hài hòa giữ hai dòng văn học

này đã sản sinh ra bao tên tuổi lớn của nền thơ ca dân tộc như Nguyễn Trãi,

Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương và đến thời hiện đại là Nguyễn Bính, Nguyễn

Duy, Phạm Công Trứ, Đồng Đức Bốn (chúng tối muốn nhấn mạnh những

nhà thơ đã thành công ở thể thơ lục bát, trong những sáng tác của họ nhiều

yếu tố của ca dao truyền thống).

1.2. Sự xuất hiện của ca dao với tƣ cách là một thể loại của văn

học dân gian

1.2.1 Các hình thức sinh hoạt trong ca dao, dân ca

Ca hát dân gian là một hình thức sinh hoạt tự nhiên của nhân dân lao

động. Ca dao và dân ca bắt nguồn từ chính các hình thức sinh hoạt ca hát

dân gian. Đây là một hành động sáng tạo nghệ thuật hồn nhiên, một hành

động sáng tạo nghệ thuật mà mục đích chủ yếu là thể hiện ngay tức khắc,

một cách trực tiếp, những tình cảm tự nhiên, những ý nghĩ, thái độ nảy sinh

trực tiếp từ một hoàn cảnh sống, mối quan hệ với thiên nhiên hoặc với con

người. Trong sự đa dạng về các hình thức sinh hoạt ca hát dân gian, chúng

ta có thể phân ra làm ba mảng chính.

1.2.1.1 Sinh hoạt lao động

Các nhà nghiên cứu cho rằng trong số những thể loại dân ca mà nguồn

gốc và chức năng có mối quan hệ hữu cơ và trực tiếp nhất với sinh hoạt lao

động của nhân dân, đầu tiên phải kể đến “hò lao động”. Hoạt động thơ ca của

người nguyên thủy diễn ra trong mối liên hệ chặt chẽ với các quá trình lao

động.

Trong lao động, nhịp điệu đóng vai trò rất quan trọng. Nhịp điệu là

đặc trưng của động tác lao động. Cảm xúc về nhịp điệu nảy sinh ra từ động

14

Luận văn thạc sĩ

Nguyễn Quốc Khánh tác lao động của con người. Khi ta thành thạo một động tác lao động nào đó

thì cảm xúc về nhịp điệu của ta tăng lên.

Chúng ta có thể khẳng định rằng cảm xúc về nhịp điệu phát sinh và

phát triển trong lao động, đồng thời có tác dụng trở lại đối với lao động.

Trong lĩnh vực nghệ thuật, nhịp điệu là đặc trưng của âm nhạc, nhảy múa

và đóng vai trò quan trọng trong sự cấu thành của thơ ca. Nguyên nhân và

cơ sở ra đời của những bài ca lao động thể hiện rất rõ mối liên quan chặt

chẽ giữa lao động với hoạt động thi ca của người nguyên thủy.

Nhiều công trình nghiên cứu thơ ca các dân tộc đều chứng minh rằng

những bài ca lao động đã được coi như là một trong những phương tiện

nhịp điệu của một số quá trình lao động, nhất là đối với người thời cổ.

Tất nhiên không thể thiếu yếu tố cảm hứng, tuy cảm hứng còn thô

sơ, mộc mạc nhưng nó cũng góp phần làm cho nghệ thuật thăng hoa.

Trong những bài ca lao động không chỉ đơn giản là nhịp điệu của âm

thanh mà còn là sự thể hiện những tư tưởng và tình cảm nhất định,

không chỉ đóng vai trò chỉ huy lao động và phương tiện làm cho động

tác lao động nhịp nhàng mà còn đóng vai trò gây cảm hứng nữa. Chính

chức năng gây cảm hứng, thể hiện những tư tưởng và tình cảm của con

người làm cho những bài ca lao động không chỉ giúp cho việc cải thiện

lao động mà còn là những sáng tác nghệ thuật.

Qua những dẫn chứng trên, chúng ta có thể rút ra kết luận rằng: cũng

như hầu hết các thể loại chính của văn học dân gian, trong những giai đoạn

đầu tiên, các bài hát đã ra đời và tồn tại trong mối quan hệ hữu cơ giữa hoạt

động tinh thần và hoạt động vật chất của con người.

Điều đáng quan tâm là ngay cả trong những giai đoạn phát triển về sau

này, khi mà sinh hoạt ca hát càng được nhân dân có ý thức xem như là sinh

hoạt văn nghệ thì mối quan hệ giữa hình thức ấy của hoạt động tinh thần

với hoạt động thực tiễn vẫn không hề bị mất đi. Trong sinh hoạt lao động

đã hình thành những bài ca mang tính chất nghề nghiệp. Những bài ca nghề

15

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGUYỄN QUỐC KHÁNH nghiệp phản ánh kinh nghiệm lao động của nhân dân nhưng đồng thời cũng

thể hiện cả ước mơ trong lao động và cả những tâm tư tình cảm nhất định.

Như vậy là trong những bài ca dao nghề nghiệp có phối hợp cả chức năng

của tục ngữ lẫn chức năng của thơ ca trữ tình. Bài ca dao này là một ví dụ:

Người ta đi cấy lấy công

Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề

Trông trời trông đất trông mây

Trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm

Trông cho chân cứng đá mềm

Trời im bể lặng mới yên tấm lòng

(Ca dao)

1.2.1.2 Sinh hoạt gia đình và xã hội

Chúng ta phải công nhận một điều rằng, cơ sở cho sự phát triển của dân

ca chính là hình thức sinh hoạt lao động, sinh hoạt gia đình và xã hội. Nhiều

hình thức sinh hoạt ca hát và thể loại dân ca trữ tình có tính chất phổ biến đã

hình thành và phát triển trên cơ sở những sinh hoạt gia đình và xã hội mang

tính chất phong tục tập quán. Chính nhờ yếu tố này một loại ca dao rất phổ

biến đã ra đời, đó là những bài hát ru. Do đặc điểm của sự hình thành nội

dung những lời hát ru như vậy, mà từ chỗ chỉ hát cho những đứa trẻ nghe

những điều có liên quan tới nó, người ru đưa vào trong tiếng hát ru tất cả

những câu hát hoặc mới sáng tác thêm, hoặc đã có sẵn trong các loại dân ca

khác, nói lên tâm trạng của người ru trong mối quan hệ giữa thiên nhiên với

xã hội…

Hay việc ra đời của những bài hát vui chơi lại gắn liền với những kỉ

niệm sâu sắc về thời thơ ấu của mỗi người. Nội dung của những bài hát vui

chơi là những nhận xét, những ý nghĩ và cảm xúc ngây thơ về giới tự

nhiên, về đời sống con người và đời sống xã hội. Và tất nhiên, vừa chơi,

vừa hát không chỉ là sinh hoạt chỉ thấy ở các em nhỏ mà cả người lớn nữa.

Đây cũng là một bộ phận nhỏ trong các sáng tác dân gian. Tuy nhiên nó

16

Luận văn thạc sĩ

Nguyễn Quốc Khánh vẫn góp phần tạo nên diện mạo và sắc thái riêng cho bộ phận sáng tác dân

gian. ở những giai đoạn sau này, nó vẫn duy trì sự ảnh hưởng nhưng ở góc

độ khác.

Trong quan hệ giao tiếp ứng xử, con người phải mở rộng mối quan hệ

trước đây chủ yếu là môi trường gia đình, tất nhiên đây cũng là môi trường

quan trọng trong việc hình thành tính cách của con người:

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con

(Ca dao)

Nhưng khi con người trưởng thành thì lại tiếp xúc với nhiều môi

trường khác, lúc này nhu cầu giao lưu nảy sinh, và con người bắt đầu có

những mối quan hệ mới, như tình cảm nam nữ:

Gặp nhau giữa chuyến đò đầy

Một lòng đã hẹn, cầm tay mặn mà

(Ca dao)

hay quan hệ, quan niệm xã hội mới nảy sinh:

Ba cô đội gạo lên chùa

Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư

Sư về sư ốm tương tư

ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu

(Ca dao)

1.2.1.3 Sinh hoạt nghi lễ

Đối với người nguyên thủy và đối với một phần khá đông nhân dân

lao động trong các xã hội có giai cấp sau này nữa, việc tác động tới giới tự

nhiên không những chỉ được thực hiện với lao động của bản thân con người

mà còn được thực hiện bởi những lực lượng siêu nhiên. Do đó, trong sinh

17

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGUYỄN QUỐC KHÁNH hoạt lao động đã hình thành một loạt các hình thức nghi lễ, mà con người

tin rằng những dịp tiến hành tổ chức là những dịp tạo điều kiện cho các lực

lượng siêu nhiên, giúp đỡ con người lao động một cách có kết quả. Ví dụ

như những nghi lễ gắn liền với sản xuất nông nghiệp cũng là một biểu hiện

của mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, và những yếu tố nghệ thuật

trong các nghi lễ ấy cũng là một biểu hiện của mối quan hệ giữa văn học

dân gian với lao động.

ở hầu hết các nước trên thế giới đều có loại bài ca khẩu nguyện, phản

ánh lòng tin của con người vào những lực lượng siêu nhiên và cầu mong

được những lực lượng đó giúp đỡ trong lao động và trong đời sống.

Mảng sinh hoạt nghi lễ rất phong phú và đa dạng, ví dụ như các bài

hát trong đám tang, bài hát trong những ngày chào đời đầu tiên của em bé,

hay các bài hát vào dịp lễ tết hàng năm, rồi đến dân ca tế thần… nhưng tựu

chung, sinh hoạt nghi lễ là một biểu hiện của quan hệ giữa con người với tự

nhiên và giữa con người với nhau, thông qua quan hệ giữa con người với

những lực lượng siêu nhiên do trí tưởng tượng của chính con người tạo ra.

Giai đoạn sau này cùng với sự biến mất của nhiều hình thức sinh hoạt nghi

lễ trong đời sống nhân dân, những loại dân ca nghi lễ gắn liền với những

sinh hoạt nghi lễ ấy cũng biến mất theo, và chỉ có những hình thức nghệ

thuật nhất định nào đó của những loại dân ca nghi lễ ấy là còn tiếp tục tồn

tại và bổ sung về mặt hình thức cho các loại dân ca gắn liền với sinh hoạt

thế tục. Trong ca dao, bộ phận sáng tác theo hình thức sinh hoạt này cũng

không phải là phổ biến. Nó chỉ chiếm một phần khá khiêm tốn trong kho

tàng ca dao.

1.2.2 Lục bát là thể thơ được dùng chủ yếu trong ca dao

1.2.2.1 Thể lục bát

Trong ca dao thì thể thơ lục bát truyền thống với các quy luật thanh

điệu, vần điệu được mô tả theo bảng sau:

18

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh

1 2 3 4 5 6 7 8

bằng bằng trắc Dòng thơ Dòng 6 tiếng (vần)

bằng bằng bằng trắc Dòng 8 tiếng (vần) (vần)

Ví dụ:

Bây giờ mận mới hỏi đào

Vườn hồng đã có ai vào hay chưa

Mận hỏi thì đào xin thưa

Vườn hồng đã có nhưng chưa ai vào

(Ca dao)

Đây là khuôn hình phổ biến và điển hình nhất của thơ lục bát. Như

vậy, chúng ta thấy rằng thể lục bát gồm từng cặp (6 và 8) lặp đi lặp lại,

không thay đổi về số chữ, trong đó câu lục chỉ có một vần ở chữ sau, còn

câu bát thì có hai vần, một vần ở chữ thứ sáu hiệp với chữ thứ sáu của câu

lục ở trên và một vần ở chữ thứ tám hiệp vần với chữ thứ sáu của câu lục ở

dưới. Tất cả các vần đều là vần bằng không có vần nào trắc, câu bát như

vậy là có hai vần bằng, chữ thứ sáu nếu không có dấu thì chữ thứ tám phải

có dấu huyền hoặc ngược lại. Hai chữ này không cùng một thanh điệu

(cùng dấu không hay dấu huyền).

Ngoài ra còn có mô hình gieo vần lưng nhưng bộ phận này không

nhiều và phổ biến trong ca dao, ví dụ:

Trèo lên cây bưởi hái hoa

Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân

(Ca dao)

Theo thống kê của các nhà nghiên cứu, thể lục bát chiếm khoảng 95%

trong kho tàng ca dao dân tộc.

19

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH

Điều đó chứng tỏ lục bát là thể thơ được dùng nhiều nhất trong ca dao.

Nhắc đến ca dao là người ta nghĩ ngay tới thể thơ này. Có thể kể ra những

nguyên nhân dẫn đến những thống kê này: Đầu tiên, chúng ta thấy lục bát

là thể thơ rất uyển chuyển và linh hoạt, hơn thế nữa, độ dài ngắn của tác

phẩm không bị gò bó cho nên thể thơ này có sở trường trong việc diễn đạt

cảm xúc phong phú và đa dạng của con người.

Theo Nguyễn Phan Cảnh: “… trong từng giai đoạn tiến hóa của nó thể

loại đã không ngừng đấu tranh cho sự sinh tồn của mình. Quy luật đấu

tranh đó thể hiện trước hết trong việc tạo thành trường nét dư cho thể loại.

Số phận của lục bát là một dẫn chứng điển hình… lục bát một mặt vừa

phục vụ cho ca dao, đồng thời mặt khác vừa xây dựng được rất tốt kết quả

trường nét dư cho thể loại mình: có bất tử không thì chưa biết, nhưng chắc

chắn đấy là bí quyết trường sinh của thể loại anh minh này". [3, 213]

1.2.2.2 Thể song thất lục bát

Thể thơ này xuất hiện vào khoảng thế kỷ XV, giai đoạn từ 1780 đến

1884 là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của thể loại này với nhiều tác phẩm

nổi tiếng như Chinh phụ ngâm (Đoàn Thị Điểm dịch), Cung oán ngâm

(Nguyễn Gia Thiều)… nhưng từ khoảng sau 1930 thể thơ này ít xuất hiện

trên thi đàn. Đơn vị tế bào của thể thơ song thất lục bát là một khổ thơ gồm

4 dòng: hai dòng 7 tiếng, một dòng 6 tiếng và một dòng tám tiếng (7 + 7 +

6 + 8):

Trông bến Nam bãi che mặt nước

Cỏ biếc um, dâu biếc màu xanh

Nhà thôn mấy xóm chông chênh

Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm

Trông đường Bắc đôi chòm quán khách

Rườm rà cây xanh ngắt núi non

Lũy thành thoi thóp bên cồn

Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu

20

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh

(Chinh phụ ngâm - Đoàn Thị Điểm dịch)

Đây là thể thơ mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng hợp với thơ dịch,

bằng chứng là “Chinh phụ ngâm” (Đoàn Thị Điểm dịch), “Tỳ bà hành”

(Phan Huy Vịnh dịch).

Đối với văn học viết thì thể loại này tuy đã mai một nhưng cũng kịp

để lại trên thi đàn những áng văn chương mẫu mực. Và ca dao cũng chung

số phận bởi những câu ca dao theo thể thơ song thất lục bát chỉ chiếm

khoảng 2% trong kho tàng ca dao dân tộc. Tuy nhiên, không phải vì thế mà

những câu ca dao theo thể này lại “kém chất lượng”:

Lụa làng Trúc vừa thanh vừa bóng

May áo chàng cùng sóng áo em

Chữ tình cùng với chữ duyên

Xin đừng thay áo mà quên lời nguyền

(Ca dao)

Như vậy, ta cũng thấy rằng ở thể song thất lục bát thì cặp lục bát cũng

vẫn thể hiện rõ rệt khả năng chuyển tải cảm xúc tài tình. Nhờ vào sự linh

hoạt của cặp lục bát mà hai câu song thất cũng trở nên uyển chuyển hơn.

1.2.2.3 Biến thể lục bát

Trong ca dao thì biến thể lục bát được hiểu là hình thức không thay

đổi nhiều nhưng số tiếng ở mỗi dòng thơ co giãn nhất định chứ không

giống hệt về số tiếng ở mỗi dòng thơ như thể lục bát.

GS. Mai Ngọc Chừ đã đưa ra những nhận định rất thuyết phục về việc

phân loại biến thể lục bát. Theo ông lục bát biến thể có ba loại:

1.2.2.3.1 Dòng lục thay đổi dòng bát giữ nguyên

Ví dụ:

Tưởng giếng sâu, em nối sợi dây dài (7 tiếng)

Hay đâu giếng cạn, em tiếc hoài sợi dây (8 tiếng)

1.2.2.3.2 Dòng lục giữ nguyên, dòng bát thay đổi

Ví dụ:

21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH

Bao giờ rừng quế hết cay (6 tiếng)

Dừa Tam Quan hết nước thì em đây mới hết tình (11 tiếng)

1.2.2.3.3 Cả hai dòng đều thay đổi

Ví dụ:

Yêu nhau tam tứ núi cũng leo (7 tiếng)

Thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo cũng qua (10 tiếng)

Theo các nhà nghiên cứu thì sự xuất hiện của biến thể lục bát là do việc

đem thể lục bát phục vụ cho diễn xướng, hay cũng có thể do sự linh hoạt của

người sáng tác nhằm phục vụ yêu cầu diễn đạt một nội dung nào đó.

Chính nhờ sự thay đổi khá linh hoạt này mà nhịp thơ theo đó cũng

thay đổi, khả năng nhấn mạnh ở tiếng nào đó được tăng lên. Theo chúng

tôi đây là hình thức diễn đạt linh hoạt những hoàn cảnh, điều kiện không

thuận lợi và cũng được sử dụng khá hiệu quả trong những lời ca châm

biếm, đả kích.

Tuy nhiên, biến thể lục bát chỉ chiếm một phần rất nhỏ, gần như

không đáng kể trong kho tàng ca dao dân tộc. Sự linh hoạt về nhịp điệu khi

thay đổi số tiếng ở mỗi dòng thơ vừa có mặt tích cực lại vừa có mặt hạn

chế và theo chúng tôi mặt hạn chế nhiều hơn. Vì vậy, biến thể lục bát

không xuất hiện trong những tác phẩm lớn và sau này thơ ca hiện đại cũng

không sử dụng. Nếu có thì cũng không có những tác phẩm gây được tiếng

vang.

Ngoài ra còn thể thơ hỗn hợp nhưng cũng như song thất lục bát và

biến thể lục bát những bài ca dao sử dụng thể hỗn hợp cũng rất ít trong kho

tàng ca dao dân tộc.

1.3 Thể lục bát từ ca dao đến thơ trung đại

Thể thơ lục bát đã có khoảng hơn 500 năm, nó khẳng định vị trí của

mình trong đời sống thơ ca dân tộc. Ngay từ khi mới xuất hiện và trong cả

cuộc sống lâu bền về sau, thể thơ này đã tỏ ra có vai trò đặc biệt trong việc

thỏa mãn các nhu cầu sáng tác của người nghệ sĩ cũng như nhu cầu thưởng

22

Luận văn thạc sĩ

Nguyễn Quốc Khánh thức của đông đảo công chúng. Được hình thành từ những điều kiện ngôn

ngữ và văn hóa dân tộc, trải qua một thời gian dài trong bàn tay của các thế

hệ nhà thơ, đặc biệt là các nhà thơ tài năng của dân tộc, thể thơ lục bát đã

trở thành thể thơ cách luật hoàn chỉnh, những phương tiện biểu đạt hoàn mĩ

mà một phần nhờ đó đã có rất nhiều tác phẩm thơ ca lớn, sống mãi trong

lòng người dân nước Việt và cũng được nhân loại biết đến. Có thể nói, đó

là những thành tựu cao cả của lịch sử phát triển thơ ca dân tộc, mà công

đầu không thể không kể đến nền thơ ca trung đại.

1.3.1 Những yếu tố của tiếng Việt là điều kiện nội tại cho sự hình

thành thể thơ

Các nhà nghiên cứu đã có sự khẳng định, thể lục bát không phải là sự

vay mượn hoặc lắp ghép từ các yếu tố ngoại lai mà đây chính là thể thơ dân

tộc. Đó là một kết luận đúng đắn. Tuy nhiên, do nó chỉ mới được rút ra từ

những quan sát bên ngoài mà chưa được chứng minh bằng những điều kiện

nội tại cho sự hình thành thể thơ nên chưa thật vững chắc.

Quan điểm cho rằng ngôn ngữ và văn hóa của mỗi dân tộc là những

điều kiện nội tại cho sự hình thành các thể thơ của dân tộc đó, và quan

điểm này là một quan điểm khá thống nhất ở những nhà ngôn ngữ học có

quan tâm tới thi luật học. Khi bàn về mối quan hệ giữa thơ và ngôn ngữ,

nhà nghiên cứu người Nga Stokmar đã viết: “Hệ thống âm luật văn vần

của bất cứ dân tộc nào cũng đều được lựa chọn ra trong sự phụ thuộc trực

tiếp vào cấu trúc âm thanh của ngôn ngữ ấy, chứ không phải là ngẫu

nhiên”. Có thể dựa vào ý kiến này mà tìm hiểu mối liên hệ giữa tiếng Việt

với thể thơ lục bát.

Ta biết lục bát và song thất lục bát là loại thơ đếm tiếng, hay đếm âm

tiết. Tất cả mọi yếu tố tạo nên âm luật của chúng như tổ hợp các dòng, gieo

vần, ngắt nhịp, phối điệu đều được quyết định bằng cách đếm tiếng đó. Là

một ngôn ngữ đơn lập - âm tiết tính, tức là thứ ngôn ngữ không biến hình,

mỗi tiếng mang thanh điệu hầu như đều có nghĩa, tiếng Việt có đủ điều

23

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGUYỄN QUỐC KHÁNH kiện để đáp ứng tính chất trên đây của thể lục bát. Trong tiếng Việt, âm tiết

có vai trò quan trọng không những ở lời nói bình thường mà còn là đơn vị

quan trọng trong việc tạo thành âm luật thơ ca.

Vai trò của âm tiết được thể hiện trước tiên ở chỗ, âm tiết là đơn vị tối

thiểu đo lường độ dài của nhịp và độ dài của dòng thơ. Các nhịp thông

thường là 2 hoặc 3 âm tiết. Chính sự chuyển động các nhịp cũng là phương

thức tạo nên sự hài hòa trên dưới của các dòng thơ.

Điều được thể hiện tiếp theo là những yếu tố âm điệu trong phạm vi

một âm tiết phát huy tối đa sự khác biệt và tương đồng với nhau khi tạo nên

âm luật của thơ. Đó trước hết là sự hiệp vần chỉ diễn ra trong phạm vi âm

tiết, lấy âm tiết làm đơn vị gieo vần. Đó là thanh điệu được sử dụng đắc lực

để tạo nên sự luân phiên dài ngắn hoặc suông gãy (ngang, huyền, sắc, nặng,

hỏi, ngã) hoặc cao, thấp (ngang/ huyền) trong dòng thơ. Thế đối lập truyền

thống ở đây là đối lập bằng – trắc, cạnh đó còn có đối lập trầm – bổng.

Nhìn sơ qua, tiếng Hán có vẻ như là thứ tiếng có khả năng tạo nên các

hệ thống âm luật như trong lục bát. Đó cũng là ngôn ngữ đơn lập, âm tiết

tính và có thanh điệu, như tiếng Việt. Tuy vậy, khi xem xét kĩ, chúng ta

nhận thấy, âm luật lục bát yêu cầu có đối lập trầm – bổng. Vậy mà các nhà

ngôn ngữ học lại cho biết là tiếng Hán từ thời cận đại về sau tuy có phân

chia thành âm bằng và dương bằng nhưng đó là đối lập về đường nét,

hướng đi mà không phải là hai mức độ cao - thấp khác nhau nên không tạo

nên sự tương phản rõ rệt, và sự đối lập ấy không hề đi vào âm luật thơ ca

Trung Hoa. Cho dù thanh điệu tiếng Hán có sự đối lập trầm – bổng (như

trong một số ngôn ngữ miền Nam Trung Quốc) thì sự đối lập ấy cũng chỉ

nằm trong phạm vi ngôn ngữ mà theo truyền thống văn hóa, xu hướng thẩm

mĩ của Trung Hoa, nó vẫn không được sử dụng vào âm luật thơ ca. Còn

thanh bằng của tiếng Việt lại được chia thành hai mức độ thấp – cao, bằng

– trầm (huyền) và bằng – bổng (ngang) đã đi vào âm luật của lục bát.

24

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh

Bên cạnh tiền đề ngôn ngữ, là điều kiện đóng vai trò tiên quyết, người

Việt còn có một điều kiện khác nữa, có thể đáp ứng được yêu cầu của lục

bát. Đó là việc họ đã hình thành nên một xu hướng thẩm mĩ mang tính chất

tâm lí – xã hội riêng của dân tộc mình trong việc xây dựng âm luật thơ ca.

Điều này thể hiện khá rõ trong ý thích sử dụng vần và nhịp.

Về vần, ngay trong câu thơ cổ truyền, người Việt đã sử dụng vần chân

kết hợp với vần lưng:

Rõ ràng là lối gieo vần chân kết hợp với vần lưng trong lục bát không

nằm ngoài xu hướng thẩm mĩ chung đó của dân tộc Việt.

Trên đây là dựa vào những đặc điểm của tiếng Việt và đặc điểm mĩ

cảm có tính chất truyền thống của người Việt trong việc xây dựng âm luật

thơ ca để chứng minh nguồn gốc dân tộc của lục bát. Có những điều kiện

như vậy, người việt có thể khẳng định mình là dân tộc đã tạo ra thể thơ này.

điều khẳng định này còn được làm sáng tỏ hơn trong sự so sánh với các dân

tộc có những đặc điểm ngôn ngữ và văn hóa khác nên chỉ có thể tạo nên

những âm luật thơ ca khác.

Từ những trường hợp sẵn có trong dân gian đến những trường hợp tự

tạo theo gợi ý của dân gian, ta nhận ra một điều: lục bát rõ ràng là có mối

liên hệ hiển nhiên và tiềm tàng với văn vần dân gian mà trước hết là với

thành ngữ, tục ngữ; cặp thất ngôn trong thể song thất lục bát cũng rõ ràng

là có mối liên hệ cội nguồn với thơ ca dân gian mà trước hết là với thành

ngữ, tục ngữ của người Việt. Hay nói một cách khác, cụ thể hơn là chính

thành ngữ, tục ngữ của người Việt đã cung cấp mô thức hoặc một phần mô

thức cơ bản để từ đó có thể cải biến mà tạo nên khổ lục bát trong thể lục

bát.

Khi đã có được những khổ lục bát thì có khả năng nó đứng độc lập

hoặc tiến lên một bước nữa, tìm cách liên kết các khổ đó với nhau để tạo

nên những tác phẩm lục bát có độ dài không hạn định là điều đã diễn ra

trong thơ ca dân gian cũng như thơ ca bác học.

25

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH

Như vậy, lục bát là thể thơ dân tộc, được hình thành trên những điều

kiện cụ thể là tiếng Việt và văn hóa Việt, trong mối liên hệ rất mật thiết với

văn vần dân gian của dân tộc Việt. Có thể là nhờ có ngọn nguồn như vậy mà

thể thơ này rất gần gũi với cảm xúc âm thanh của người Việt, trở thành những

phương thức biểu đạt yêu thích của nhiều thế hệ nhà thơ dân tộc và cũng đáp

ứng được nhu cầu thưởng thức của đông đảo công chúng cả nước.

1.3.2 Thể thơ lục bát trong văn học Trung đại đã đạt đến mẫu mực

1.3.2.1 Quá trình tìm tòi và định hình các hệ thống chuẩn mực

Khái niệm âm luật dùng ở đây tương đương với khái niệm cách luật.

Vì lục bát chỉ xây dựng cách luật thuần túy theo quan hệ tương ứng giữa

các yếu tố âm thanh nên có thể gọi cách luật của chúng là âm luật. Xác lập

cấu trúc âm luật cho thể thơ có nghĩa là lập nên những quy tắc trong việc tổ

chức âm thanh, cụ thể là những quy tắc trong cách gieo vần, ngắt nhịp, phối

điệu và tổ hợp các dòng của hai thể thơ đó. Muốn xem xét vấn đề này,

trước hết phải xác định thời điểm xuất hiện của lục bát.

Để có được một cấu trúc âm luật tương đối chặt chẽ hoàn chỉnh và ổn

định, lục bát đã phải trải qua một thời gian dài vận động để tìm kiếm và lựa

chọn. Để tạo nên tác phẩm thi ca, nhất định các nhà thơ phải đầu tư công

sức, trí tuệ để từng bước đưa thể loại lục bát vào quy củ chuẩn mực. Khi

chính thức bước vào thi đàn, trong bàn tay của các nhà thơ có tên tuổi hoặc

khuyết danh ở các thế kỷ XVI - XVII, với các tác phẩm như: Tư Dung vãn

của Đào Duy Từ, Cổ Châu Phật bản hanh (giữa thế kỷ XVII) và Thiên

Nam ngữ lục (cuối thế kỷ XVII), nhìn chung lục bát lúc này vẫn còn nằm

trong tình trạng hơi tự do, lỏng lẻo, nhưng đồng thời cũng đã có những

chuyển biến trong việc tổ chức hệ thống âm luật. Trong tất cả các tác phẩm

vừa kể ra trên đây, không bao giờ còn nhìn thấy bóng dáng những dòng thơ

bị thêm bớt một cách tuỳ tiện; các khổ thơ cũng đã tăm tắp theo quy tắc kết

hợp hai dòng lục và bát, cho dù độ dài của chúng có khi lên tới hơn tám

ngàn dòng, để diễn tả những câu chuyện lịch sử khá quanh co phức tạp,

26

Luận văn thạc sĩ

Nguyễn Quốc Khánh như trong tác phẩm Thiên Nam ngữ lục. Như vậy, đến thời điểm này, đã có

2 trong 4 yếu tố tạo nên âm luật lục bát được hoàn thiện. Đây là điều hết

sức cần thiết vì như thế thể thơ đã bước đầu bảo đảm được sự luân chuyển

nhịp nhàng giữa các dòng nối tiếp nhau.

Vậy là với hai thế kỷ, kể từ lần đầu xuất hiện trên thi đàn, lục bát mới

chỉ hoàn thiện được hai yếu tố trong cơ cấu âm luật là ngắt nhịp và tổ hợp

các dòng thơ; còn lại hai yếu tố là gieo vần và phối điệu thì vẫn đang ở

trong tình trạng tranh chấp giữa các khả năng khác nhau. Tình hình này sẽ

được ngã ngũ trong thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, nhờ vào sự phát triển

khá mạnh về ý thức cách luật ở các nhà sáng tạo thơ ca. Lục bát ở giai đoạn

này đã quyết tìm kiếm và lựa chọn cho được một mô hình gieo vần và phối

điệu chuẩn mực cao nhất. Khảo sát các tác phẩm trên đây, ta thấy là đã hình

thành rõ hơn một xu hướng muốn lựa chọn dạng lục bát gieo vần ở tiếng

thứ sáu và cố gắng loại bỏ bớt dạng lục bát gieo vần ở tiếng thứ tư ra khỏi

tác phẩm. Kết quả là nhiều tác phẩm trong số đó như Hoa tiên ký, Truyện

Phương Hoa, Truyện Thạch Sanh, Sơ kính tân trang, Truyện Kiều đã hoàn

toàn không còn bóng dáng một dòng lục bát gieo vần lưng ở tiếng thứ tư

nào nữa. ở một số tác phẩm khác, tuy chưa “xoá sổ” được hoàn toàn loại

vần này, nhưng cũng chỉ có một tỉ lệ rất thấp. Các tác phẩm còn lại tuy tỉ lệ

có cao hơn, nhưng nếu đem so với các tác phẩm ở giai đoạn trước thì có thể

nhận ra một sự thay đổi rõ rệt về nhu cầu chuẩn hoá cho thể thơ.

Từ việc xem xét các tác phẩm vừa được nêu lên trên đây, chúng ta

thấy được xu hướng của lục bát này là muốn khẳng định tính nguyên tắc

trong việc sử dụng thanh điệu; cố gắng hạn chế tình trạng xáo trộn, thay đổi

như đã xảy ra tương đối thường xuyên ở thời gian trước. Hướng vươn tới ở

đây là đạt được sự thống nhất, ổn định về thanh bằng, thanh trắc cho các

tiếng thứ hai, thứ tư, thứ sáu, là những tiếng chẵn cuối nhịp (được nhấn

mạnh hơn) mà cụ thể là phải giảm tỉ lệ các dòng “vi phạm” sự thống nhất,

ổn định ấy. Tuyệt đại đa số các tác phẩm chỉ vi phạm luật bằng trắc ở tỉ lệ

27

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGUYỄN QUỐC KHÁNH rất thấp, thậm chí là không đáng kể. Đến Truyện Kiều tức là vào đầu thế kỷ

XIX thì hai yếu tố gieo vần và phối điệu đã đạt tới sự thống nhất, ổn định.

Với toàn bộ số dòng gieo vần ở tiếng thứ sáu và một tỉ lệ vô cùng nhỏ là

xấp xỉ 0,1% số dòng có “vi phạm” về luật sử dụng thanh điệu (không kể

các dòng lục có tiểu đối vì ở đây luật về âm thanh được xây dựng theo một

nguyên tắc khác, nhằm phục vụ cho nhu cầu đối, như là một đặc trưng nghệ

thuật của tác phẩm), và từ đây các nguyên tắc gieo vần, phối điệu như vậy

không còn bị xáo trộn nữa, lục bát trong Truyện Kiều trở thành mô hình lục

bát chuẩn mực:

Vân xem trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da

Trong thực tế, để đi đến những quyết định cuối cùng đối với hai yếu tố

vần và thanh điệu như vừa được thể hiện qua mô hình là điều không hề

giản đơn. Trình độ tư duy nghệ thuật của dân tộc mà người đại diện là các

thế hệ nhà thơ, đặc biệt là các nhà thơ tài năng phải đạt đến mức sâu sắc thì

mới có thể có được sự lựa chọn chính xác, bởi vì trước mặt họ không phải

chỉ có một khả năng duy nhất. Vào thời điểm đó, dạng lục bát gieo vần ở

tiếng thứ tư cũng đang cố gắng đi vào “chuẩn mực” theo một khuôn mẫu

khác để tranh chấp chỗ đứng với dạng lục bát gieo vần ở tiếng thứ sáu.

Ta thấy sự lựa chọn của các nhà thơ lớn thế kỷ XVIII – XIX là sự lựa

chọn tối ưu. ở ví dụ đầu, các hình thức phối điệu rất phong phú. Các tiếng

chẵn 2 – 4 – 6 của hai dòng, theo quan hệ chiều dọc là niêm (dính kết) với

nhau từng cặp: tiếng thứ (2) đều bằng (B), tiếng thứ (4) đều trắc (T) và

tiếng thứ sáu đều (B). Còn theo quan hệ chiều ngang, ngoài đối lập bằng –

trắc, thể hiện ở các tiếng chẵn (2), (4), (6) của mỗi dòng, việc phối điệu còn

dựa trên sự chuyển đổi trầm bổng giữa hai tiếng (6) và (8) của dòng bát.

Nghĩa là hai tiếng này tuy đều là thanh bằng, nhưng phải 1 bằng – trầm

28

Luận văn thạc sĩ

Nguyễn Quốc Khánh (huyền) và một bằng – bổng (ngang). Nếu bài thơ có trên hai dòng lục bát

thì vị trí của trầm và bổng không cố định mà phải có sự chuyển đổi. Mỗi

tiếng như vậy có khi trầm, có khi bổng, miễn là hai tiếng không cùng trầm

hoặc cùng bổng. Một cách thức phối điệu như vậy đã khiến cho âm hưởng

của thơ lục bát dồi dào hơn hẳn. Còn trong ví dụ thứ 2 việc phối điệu thật là

đơn giản: dù theo quan hệ chiều dọc hay chiều ngang thì cũng chỉ có một

sự đối lập, đó là đối lập bằng – trắc. Thêm nữa, các tiếng thứ tư được gieo

vần bao giờ cũng mang thanh huyền (một thanh điệu trầm) và tiếng cuối

cùng của dòng bát bao giờ cũng là thanh ngang (một thanh điệu bổng). Cứ

lặp đi lặp lại mãi cách thức phối điệu như vậy thì âm hưởng các dòng thơ sẽ

trở nên đơn điệu và có cơ bị lặn chìm xuống, mất đi vẻ thanh thoát, uyển

chuyển mà thơ lục bát gieo vần lưng ở tiếng thứ sáu mang lại. Với những

hạn chế như vậy nên dù có cố gắng đạt đến một sự thống nhất thì đó cũng

chỉ là cố gắng hầu như cuối cùng của dạng lục bát gieo vần ở tiếng thứ tư,

trong việc tìm kiếm cho mình một khả năng cùng tồn tại với dạng lục bát

gieo vần ở tiếng thứ sáu. Bởi vì bước sang thế kỷ XIX, với khuôn mẫu khá

hoàn thiện đã được xác lập một cách ổn định ở Truyện Kiều, nó buộc lòng

phải thừa nhận địa vị độc tôn của dạng lục bát gieo vần ở tiếng thứ sáu.

Ngoài ra ta còn thấy lục bát là thể thơ ưa chuộng trong các truyện

thơ, truyện kể lịch sử. ở đây lịch sử đã được phát triển thành những câu

chuyện nhỏ nối tiếp nhau. Nhiều truyện trong đó đã có sự kiện ít nhiều

được phát triển và có các nhân vật phần nào đã có số phận, có đầu có

đuôi, có cảnh trí và tình tiết cụ thể, như truyện về Hai Bà Trưng, truyện về

Mị Châu Trọng Thuỷ, Phù Đổng Thiên Vương, Mai Thúc Loan, Lí Công

Uẩn, Lí Chiêu Hoàng… Để diễn tả những câu chuyện như thế, tác giả đã

dùng đến thể lục bát.

Thuộc loại hình tự sự, truyện thơ có hai thành phần chủ yếu là cốt

truyện, và hệ thống nhân vật gắn liền với cốt truyện đó. Căn cứ vào điểm

xuất hiện của những truyện thơ lục bát cổ nhất, có tên tác giả còn giữ lại

29

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGUYỄN QUỐC KHÁNH được, như Truyện Song tinh (khoảng 1704) và Hoa tiên kí (khoảng 1759

đến 1768), ta có thể đưa ra kết luận bước đầu là vào khoảng đầu thế kỷ

XVIII, thể lục bát chính thức được đảm nhận chức năng kể chuyện. Từ đây

cho đến giữa thế kỉ XIX sẽ có thêm hàng loạt truyện thơ lục bát ra đời tạo

nên một dòng truyện giữ vị trí rất nổi bật trong văn học trung đại: Phạm

Công Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa, Truyện Phương

Hoa, Truyện Hoàng Trìu, Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Quan Âm Thị Kính,

Truyện nhị độ mai… Các truyện thơ được viết bằng thể lục bát có quy mô

lớn từ hàng mấy trăm đến mấy ngàn dòng. Với những quy mô như thế,

chúng bảo đảm diễn tả được một cốt truyện với một hệ thống sự kiện được

phát triển mạch lạc trong mối liên hệ khăng khít hữu cơ với nhau; đặc biệt

là với hàng loạt chi tiết cụ thể, làm cho câu chuyện trở nên sống động và

gợi cảm hơn. Cùng với điều đó, chúng còn có thể xây dựng được trong tác

phẩm các nhân vật có tính cách được bộc lộ dần trong không gian, thời gian

và qua các biến cố, xung đột cùng mọi chi tiết của đời sống. Với khả năng

diễn tả một cách tỉ mỉ, chi tiết mọi sự kiện, biến cố cũng như mọi biểu hiện

của tính cách, tâm tư nhân vật, lục bát đã giải quyết được vấn đề thể thức

cho loại truyện thơ, bảo đảm cho thể loại này tồn tại và phát triển thêm một

thời gian dài nữa.

1.3.2. "Truyện Kiều" của Nguyễn Du đã đạt đến độ mẫu mực

Trong phần này chúng tôi chỉ đề cập đến một số vấn đề về nghệ thuật

đối xứng, nhịp điệu, tính âm nhạc trong những câu thơ lục bát của Nguyễn

Du. Qua đó chúng ta sẽ thấy dấu ấn cá nhân của Nguyễn Du trong việc sử

dụng và khai thác triệt để ưu điểm của thể thơ lục bát.

Chúng ta thấy rằng trong ca dao, dân ca rất ít xuất hiện cấu trúc đối.

Mà nếu có hình thức đối chỉ là sự cân đối thôi chứ không phải là kiến trúc

đối xứng, còn trong thơ lục bát Nguyễn Du ta dễ dàng tìm ra các câu thơ có

kiến trúc đối xứng, đây cũng là cách để tạo nên sức hấp dẫn của thơ lục bát

30

Luận văn thạc sĩ

Nguyễn Quốc Khánh bởi nếu thiếu hình thức đối thì thơ lục bát càng làm dài càng khó và dễ

mang sắc thái vè.

Làn thu thủy, nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh

hay:

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Nếu trong ca dao có hình thức đối xứng thì dường như ta thấy đằng

sau câu ca dao ấy có bậc túc nho thấp thoáng.

Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần

(Ca dao)

hoặc:

Mịt mù khói tỏa ngàn sương

Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ

(Ca dao)

Hình thức đối trong thơ lục bát có liên quan mật thiết đến nhịp điệu.

Nguyễn Du làm thơ lục bát tức là thể thơ có nhịp điệu khá tẻ nhạt thế

nhưng cách sử dụng linh hoạt nhịp điệu khiến nó trở nên đa dạng đã khiến

những câu thơ lục bát của Nguyễn Du trở nên cực kỳ sinh động và cuốn

hút.

Nhịp 3 – 3, 4 – 4 ta thấy xuất hiện nhiều trong Truyện Kiều:

Mai cốt cách/ tuyết tinh thần (3/ 3)

Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười

hay:

Vầng trăng ai xẻ làm đôi

Nửa in gối chiếc/ nửa soi dặm trường (4/ 4)

31

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH

(Truyện Kiều - Nguyễn Du)

Dựa trên nền nhịp cơ bản, Nguyễn Du đã sử dụng nhiều nhịp nữa như:

nhịp 1 - 5, nhịp 2 - 6, nhịp 3 - 3 - 2, nhịp 6 - 2 tạo nên tính âm nhạc phong

phú cho từng câu lục bát. Trong những vần thơ của mình, Nguyễn Du cố ý

duy trì tính chất dân gian, vì thế ông hay sử dụng lối dùng chữ giản dị thiên

về láy âm với điệp từ, đó cũng là lý do vì sao những câu thơ lục bát của

Nguyễn Du rất cầu kỳ, công phu nhưng không mất đi tính giản dị, trong

sáng.

1.4 Thể lục bát từ ca dao đến thơ Đồng Đức Bốn

Trước Đồng Đức Bốn, trong thơ ca hiện đại cũng có những tên tuổi

lớn đã rất thành công ở thể thơ này như: Tố Hữu, Nguyễn Bính, Nguyễn

Duy, Bùi Giáng, Phạm Công Trứ... Người được coi là hậu duệ của dòng lục

bát dân gian chính là Nguyễn Bính. Trong làng Thơ mới cùng với Xuân

Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính được coi là đỉnh cao của thơ ca giai đoạn

này. “Khi chọn những gương mặt tiêu biểu nhất của Thơ mới, người ta đã

đưa ra những danh sách khác nhau… nhưng ở đâu tôi cũng thấy danh sách

không thể vắng mặt Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử. Nếu vắng họ

thì thơ mới sẽ ra sao nhỉ? Thật không thể hình dung nổi điều đó. Có thể coi

đó là ba cái chân kiềng của Thơ mới, nhưng tôi thích hình dung họ là đỉnh

“Tam Đảo”, “Ba Vì” của Thơ mới hơn”. [45, 4]

Trong ba đỉnh cao này Nguyễn Bính mới là người gọi hồn dân tộc.

Những câu lục bát của Nguyễn Bính dân dã, mộc mạc, giản dị nhưng lại

đầy lôi cuốn và không thiếu chất tài tử, tài hoa. Những làng quê với bờ tre

xanh bao phủ, cánh đồng lúa thơm hương, cánh cò trắng, những đêm hội,

đêm chèo, phiên chợ tết… tất cả đều hiện lên sinh động trong thơ Nguyễn

Bính. Trong làng thơ Mới, có thể coi thơ Nguyễn Bính là một cách tân.

Ông đã biết sáng tạo ra một cấu trúc mới cho thơ từ một mô hình có sẵn,

một khuôn thức truyền thống mang tính cố định. Chất lãng tử giang hồ

32

Luận văn thạc sĩ

Nguyễn Quốc Khánh trong Nguyễn Bính đã tạo nên một đặc điểm khá độc đáo trong thơ ông.

Chính ông cũng đã ám chỉ cuộc đời mình là "kiếp con chim lìa đàn".

Nguyễn Bính là nhà thơ hiện đại đầu tiên đã dùng hình thức của ca dao,

dân ca để chuyển tải nội dung thẩm mĩ của Thơ mới - nội dung trữ tình cá

nhân của một nhà thơ lãng mạn. Điều đặc biệt hơn là thơ Nguyễn Bính đã

chuyển tải nghệ thuật đời sống làng quê Việt Nam vào đời sống văn hóa

chung của dân tộc. Nói như Hoài Thanh: “Thơ Nguyễn Bính đã đánh thức

người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta… một điều mà người ta không thể

hiểu bằng lí trí, một điều đáng quý vô ngần: hồn xưa của đất nước” [48,

337].

Thi pháp chung của thơ Nguyễn Bính là ông đã xây dựng những cấu

trúc thơ đa nghĩa dựa trên thi pháp mang tính cụ thể giản dị của thi pháp

văn học dân gian:

Ai làm cả gió đắt cau

Mấy hôm sương muối cho giầu đổ non

(Chờ nhau – Nguyễn Bính)

Tuy nhiên thi pháp thơ Nguyễn Bính không dừng lại ở thơ ca dân gian

mà ông đã phát triển thi pháp thơ của ông để diễn tả những vấn đề phức tạp

hơn, trìu tượng hơn trong cảm xúc. Ông là người rất thành công khi đem thi

pháp của thi ca dân gian vào trong thi ca hiện đại. Ngôn ngữ, hình ảnh của

đời sống dân dã đã được ông đưa vào thơ tự nhiên như những câu ca dao,

dân ca nhưng vẫn đậm chất “cái tôi lãng mạn”. Những “bến nước”, “con

đò”, “vườn chè”, “hoa xoan”, “hoa bưởi”, “ao bèo”, “giếng thơi” được

Nguyễn Bính sử dụng để diễn tả tâm trạng:

Lợn không nuôi đặc ao bèo

Giầu không dây chẳng buồn leo vào giàn

Giếng thơi mưa ngập nước tràn

Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều

33

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH

(Qua nhà - Nguyễn Bính)

Trong đoạn thơ này chúng ta thấy rằng tính liên tưởng độc đáo, những

mã hiện thực cụ thể mang tính thẩm mĩ của tư duy dân gian được sử dụng

hết sức tài hoa trong cấu trúc của cả bài thơ và từng câu thơ đã mở ra chiều

rộng và chiều sâu mới cho thơ hiện đại.

Có thể nói rằng, Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ lục bát bậc

nhất của thi ca hiện đại. Ông đã kế thừa, vận dụng những thay đổi và giới

hạn mà luật thơ cho phép. Ông là nhà cách tân lớn của thể thơ này ở cả nội

dung lẫn hình thức. Với ông, thể thơ lục bát của dân tộc đã phát triển tới

đỉnh cao trong thi đàn hiện đại. Một minh chứng rõ nét về sự kế thừa và

cách tân từ dòng chảy văn học dân gian. Đó cũng là bí quyết sinh tồn của

thơ lục bát nói chung và của thi sĩ chân quê này nói riêng.

Cho dù Đồng Đức Bốn xuất hiện khá muộn trên thi đàn nhưng không

vì thế anh bị những cái bóng lớn khác che khuất. Có thể nói, sau Nguyễn

Bính thì dòng lục bát dân gian được Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn tiếp

nối một cách đầy thuyết phục. Nếu Nguyễn Duy thành công ở khả năng xử

lí ngôn ngữ, ở sự nhuần nhuyễn của những câu lục bát có phần “quái” thì

lục bát Đồng Đức Bốn lại hấp dẫn ở sự mộc mạc, hoang dại và đầy ám ảnh.

Chính những cá tính sáng tạo làm nên sự thành công và hấp dẫn ở từng nhà

thơ. Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn đã rất đúng khi nhận xét: “…

dù được tiếng chân quê hơn thế, nhưng thơ Nguyễn Bính nhìn kỹ còn nhiều

chữ Hán, ở đó nhan nhản những mộng viễn hành, bức ngọc thư, hàn vi, lữ

hành, tha hương, chung tình, đa đoan, tràng giang, giang hồ rồi lại cả vinh

quy, ngự uyển với mỹ nữ, lãnh cung… nữa.

Đồng Đức Bốn thì khác, cái quá khứ kia không phải trở lại nữa mà nó

là hiện tại của anh. Và nó chẳng có gì là rực rỡ, là bóng lọng là cao sang,

quý phái, tức chẳng có gì là nên thơ. Trăng trong thơ anh là trăng gãy,

trăng cong, sào là sào gãy, diều là diều đứt dây, con người xưng tôi trong

34

Luận văn thạc sĩ

Nguyễn Quốc Khánh thơ có lúc tự nhủ mình là một kẻ không quê. Dường như anh sẵn sàng nói

rằng mình chẳng có gì để khoe với mọi người cả.

Những yếu tố hoang dại ấy có mặt trong thơ Đồng Đức Bốn khắp mọi

chỗ làm nên một miền khí hậu riêng".

Thơ lục bát của Đồng Đức Bốn không nhịp nhàng nối tiếp mà cứ như

cái gì ngắc lại nghèn nghẹn. Chính cảm giác ấy góp thêm vào cái cảm giác

hoang dại quê mùa nói chung. Đôi khi những vần thơ của anh cứ trúc trắc

và ban đầu gây cho người ta có cảm giác khó chịu, nhưng chính sự khó

chịu ấy làm nên cái "chất" Đồng Đức Bốn và khi quen ta lại thấy ấn tượng:

Còng lưng gánh chịu gió mưa

Nát chân tìm cái chửa chưa có gì

Cầm lòng bán cái vàng đi

Để mua những cái nhiều khi không vàng

(Trở về với mẹ ta thôi)

hay:

Khổ thân cho cả bờ rào

Dây tơ hồng héo quắt vào mùa thu

(Cơn mưa dừng ở Sóc Sơn)

Cái cảm giác của anh chàng Đồng Đức Bốn từ thôn quê lên phố cũng

chẳng lẫn đi đâu được “Bàn chân quen xéo trên đê, Mà đi trên phố cứ ghê

ghê người”. Thế nhưng những câu thơ nghe có vẻ trúc trắc thế lâu dần ta lại

thấy hay và trở nên quen tai, quen với cái giọng gai góc của anh.

Thơ lục bát Đồng Đức Bốn chứa đựng nhiều yếu tố ca dao, trong thơ

anh tràn ngập thi liệu dân gian nhưng cho dù thế nào đi chăng nữa cái đọng

lại trong thơ anh là sự hoang dại đầy ám ảnh:

Chuồn chuồn cắn rốn biết bơi

Con tôi chết bởi lời người hát ru

Con tôi chết ở ao tù

35

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH

Mà lời người vẫn hát ru ngọt ngào

(Chuồn chuồn cắn rốn biết bơi)

Trong sáng tác của Đồng Đức Bốn có nhiều điểm tương đồng với ca

dao. Một số từ chỉ thời gian gần như là không có gì khác với ca dao, những

từ ta đã nghe từ khi còn trong nôi. Những từ trực tiếp miêu tả thời gian hiện

tại như "bây giờ", "bấy giờ":

- Bây giờ chờ đợi tháng ba

Tôi ra đứng ở cây đa đầu làng

(Chờ đợi tháng ba)

- Bây giờ quanh cây trúc xinh

Vẫn còn những bướm rập rình bay đôi

(Mây núi Thái Hàng còn giông)

- Bây giờ sóng cứ đu đưa

Làm thuyền tôi đắm sao chưa đắm thuyền

(Về Huế)

Rồi đến những thời điểm gần với hiện tại, hoặc là quá khứ gần "đêm

qua", "hôm qua", "tháng ba", "tháng mười"... hay là quá khứ xa xôi "khi

xưa", "ngày xưa"... hoặc là thời điểm thời gian ước lệ "chiều chiều", "trăm

năm", "ngàn năm"...

- Mải mê ngồi dựa cột đình

Nghe sư gõ mõ tụng kinh chiều chiều

(Lấy thơ làm một cây đàn)

- Em không còn như ngày xưa

Cho nên kẻ bão người mưa tối ngày

(Em không còn như ngày xưa)

- Đêm qua đổ trận mưa rào

Sáng nay trời đất lạc vào thiên thai

(Thế là chưa đến tháng mười)

36

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh

Trong ca dao những câu triết lí thường sử dụng chiều dài vô hạn của

thời gian hoặc gợi thời gian quá khứ xa xăm:

Trăm năm bia đá còn mòn

Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ

(Ca dao)

Thuở nào em bé cỏn con

Bây giờ em đã lớn khôn thế này

(Ca dao)

Đồng Đức Bốn cũng triết lí theo kiểu dân gian:

- Cuốc kêu như là cuốc kêu

Ngàn năm cái giọng vẫn đều thế thôi

(Cuốc kêu)

- Trăm năm tưởng gỗ hóa trầm

Nào ngờ lại đá lặng câm đứng chờ

Nghìn năm đi giữa mịt mờ

Cái gì cũng thấy ngờ ngờ lo lo

(Chín xu đổi lấy một hào)

- Lẻ loi lấy một tiếng chim

Viết câu thơ để sống nghìn năm sau

(Đời tôi)

Chính sự gần gũi với ca dao mà lục bát Đồng Đức Bốn mới hồn nhiên,

mộc mạc, giản dị như vậy. Cách dùng từ, thậm chí là bản thân từ ngữ cũng

không xa lạ với lối diễn đạt của ca dao.

Tuy nhiên, phải nói rằng sự kế thừa nào cũng phải mang đậm dấu ấn

cá nhân, ở đó người đọc thấy được tinh hoa của những người đi trước và

thấy được cái mới cái lạ được phát triển nhưng vẫn phải theo cái mạch

chung ấy chứ không phải là tiếng ca lạc điệu. Trong những cách diễn đạt

đầy chất dân gian ấy, ở Đồng Đức Bốn vẫn toát lên được chất riêng của

anh. Chính vì thế thời gian trong thơ cũng nhiều chiều, cũng phong phú

37

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGUYỄN QUỐC KHÁNH hơn so với ở trong ca dao. Có những từ miêu tả thời gian tuy gần gũi với ca

dao nhưng được diễn đạt bằng nhiều giọng điệu, nhiều chiều như "cái

đêm", "buổi ấy", "mảnh trăng chiều", "cả chiều", "con đò ban mai", "người

muôn năm", "một phút", "một giây", "chiều xa", "xuân", "hạ", "thu",

"đông"...

- Cái đêm em ở với chồng

Để ai hóa đá bên sông đợi đò

(Cái đêm em ở với chồng)

- Không em ra ngõ kéo diều

Nào ngờ được mảnh trăng chiều trong mây

(Sông Thương ngày không em)

- Đời tôi như một con diều

Đứt dây để trống cả chiều ngẩn ngơ

(Đời tôi)

- Nhuộm tôi hồng những câu thơ

Tháng năm tạc giữa vết nhơ của trời

(Trở về với mẹ ta thôi)

- Vẫn còn trong nắng thấp tho

Tôi và em xuống con đò ban mai

(Qua nhà người yêu cũ)

- Mùa xuân em đi lấy chồng

Con sông có cạn má hồng có phai

(Em đi lấy chồng)

Chính nhờ biết cách khai thác mạch nguồn truyền thống mà Đồng Đức

Bốn đã tạo nên một phong cách riêng cho mình, không lẫn với bất cứ ai. Có

nhiều nhà thơ cũng lấy cảm hứng thi ca từ ca dao, dân ca, nhưng cách thể

hiện thì có lẽ Đồng Đức Bốn mộc mạc hơn cả, quê mùa hơn cả và cũng vì

38

Luận văn thạc sĩ

Nguyễn Quốc Khánh thế thơ của anh cũng hồn nhiên hơn cả nhưng chúng tôi cũng xin nhấn

mạnh đó là cái hồn nhiên không dễ gì mà học được.

Về mặt thể thơ, lục bát Đồng Đức Bốn cũng không có nhiều điểm

khác so với thơ lục bát của các nhà thơ đi trước. Bởi xét cho đến cùng, lục

bát đến Truyện Kiều đã đạt đến trình độ mẫu mực nên các nhà thơ lục bát

sau này tuy có cách tân về hình thức nhưng nói đúng ra đó chỉ là những

phá cách mang tính cá nhân, chứ chưa được gọi là hệ thống. Trong thơ

Đồng Đức Bốn, ta thấy lối ngắt nhịp và cách sử dụng thanh điệu của anh

đôi khi hơi phá cách nhằm tạo nên cái mới lạ, nhưng nhìn chung những

câu thơ đó xuất hiện nhiều mà đa phần vẫn là cách thức tổ chức âm điệu,

vần điệu chính thống. Vì thế không thể cho đó là sự cách tân triệt để mà

đó chỉ là dấu ấn cá nhân tạo nên phong cách lục bát của từng nhà thơ.

39

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH

CHƢƠNG 2

Yếu Tố ca dao trong thơ lục bát Đồng đức bốn trên bình diện giọng điệu

2.1 Xung quanh khái niệm giọng điệu trong văn học

2.1.1 Quan niệm về giọng điệu của các nhà nghiên cứu

Trong phần này chúng tôi chỉ đề cập đến những nghiên cứu có tính

chất tiêu biểu của nhà phê bình Hoài Thanh, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử

và nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến. Những vấn đề về giọng điệu đã được

họ đem ra mổ xẻ và phân tích, chúng tôi chỉ tìm hiểu những phần có liên

quan đến đề tài trong những nghiên cứu này như là công cụ để làm sáng rõ

hơn những vấn đề về giọng điệu.

2.1.1.1 Quan niệm của nhà phê bình văn học Hoài Thanh

Trước cách mạng, khi nghiên cứu thơ mới, Hoài Thanh đã có nhận

xét đúng về các cây bút nổi bật tiêu biểu cho tính đa giọng điệu của thơ ca

lãng mạn khi cái tôi ngự trị trên thi đàn. Do hạn chế của lý luận văn học lúc

bấy giờ tác giả chưa thể giải thích nội hàm của khái niệm và các yếu tố cấu

thành giọng điệu; chưa đề cập đến vấn đề lập trường, tư tưởng, thái độ của

nhà văn chi phối giọng điệu như thế nào. Do quan niệm giọng điệu còn có

chỗ mơ hồ về lý luận nên nhiều lúc ông đồng nhất giọng điệu với phong

cách nghệ thuật của nhà thơ: “Trong lịch sử thơ ca Việt Nam chưa bao giờ

có thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất

hiện cùng một lần một hồn thơ mở rộng như Thế Lữ, mơ màng như Lưu

Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược

Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ vĩ như Chế Lan

Viên và thiết tha, rạo rực băn khoăn như Xuân Diệu”. [48, 39]

Ngay từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, trong chuyên luận

“Nói chuyện thơ kháng chiến” thông qua thẩm định giá trị thơ từ 1945 - 1951

40

Luận văn thạc sĩ

Nguyễn Quốc Khánh Hoài Thanh đã đề cập đến giọng điệu thơ ca. Quán xuyến lời bình của ông

ở phương diện giọng điệu là sự chi phối của lập trường tư tưởng nhà văn.

Trước hết tác giả coi giọng điệu là một trong bốn thành tố (Thể thơ - Điệu

thơ - Giọng thơ - Tứ thơ) mà yếu tố chi phối là lập trường tư tưởng nhà

văn: “ý nghĩa xã hội và chính trị của thể thơ trong thơ kháng chiến của ta,

trái lại, là không thể nghi ngờ. Vì các thể thơ ở đây nói chung đã kết hợp

được với điệu thơ, giọng thơ, tứ thơ làm một”.

Tác giả cho rằng việc lựa chọn thể thơ cũng phản ánh thái độ chính

trị của nhà văn mà tác giả gọi là: “ý nghĩa xã hội và chính trị của thể thơ”.

Hoài Thanh lý giải nguyên nhân của việc các nhà thơ chưa có giọng điệu

riêng còn có cái “Giọng pha” của ca dao truyền thống, của thơ ca lãng mạn

(1932 - 1945) là do nhà thơ chưa thực sự hoà vào “Tiếng nói của đại

chúng”; Tuy họ ở gần quần chúng, đứng về phía quần chúng nhưng chưa

hoà vào quần chúng. Nhận thức tư tưởng của họ còn chưa kịp với “đà tiến

chung của cách mạng”. Phê phán giọng điệu Thơ mới ông chỉ ra cái giọng

“bình yên” thực chất là thái độ thoát ly hiện thực, thoát ly cuộc đấu tranh

cách mạng sục sôi lúc bấy giờ, thái độ bàng quan trước thời cuộc: “Trở lại

câu chuyện thơ. Thơ hồi bấy giờ cũng đi theo một dòng như vậy. Dĩ vãng

không còn đủ cho nó dung thân. Nó tìm về những nơi mà nó tin rằng không

có dĩ vãng, không có hiện tại, không có tương lai, những nơi ở ngoài thời

gian và ngoài cả không gian. Thơ cũng tìm về Đạo, về vũ trụ. Cái nguy

trong lối thơ này là cái giọng bình yên của nó”.

Lý giải giọng điệu thơ Vũ Hoàng Chương sau cách mạng tháng Tám

qua bài “Nhớ về Hà Nội vàng son” vẫn còn giọng kêu than giả vờ, lối diễn

đạt còn nặng trĩu những từ cổ xa lạ với lối diễn đạt của quần chúng cách

mạng cũng là bởi lập trường tư tưởng của họ: Cái tôi chưa thực sự hoà vào

cái ta nên có giọng điệu lạc lõng: “Cũng trong bài thơ ấy, liên tưởng tới

tình cảm Hà Nội sau ngày toàn quốc kháng chiến, anh viết:

Vui mà đau đớn mà rơi lệ

41

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH

Ngọc đá thành tro ai biết không;

Câu sấm tiền triều “phi chiến địa”

Sai rồi ôi cố đô Thăng Long!

Chưa nói đến cái giọng điệu kêu rên rất vô lý, ngay chữ dùng cũng

đèo theo mỗi chữ một quá khứ nặng nề không thể chịu được: Ngọc, đá, tiền

triều, cố đô”. [49, 22]

Khen bài thơ Viếng bạn của Hoàng Lộc, Hoài Thanh cũng cắt nghĩa

cái giọng “bình tĩnh” là cách biểu hiện của tinh thần lạc quan cách mạng,

bản lĩnh của người chiến sỹ Cộng sản. “Yêu không nước mắt, giận không

chửi bới và cũng không phải yêu giận suông. Yêu giận phải đưa đến hành

động. Hành động ở đây cũng không phải là một ý thơ mơ hồ. Nó là một sự

thực mà nhà thơ đã thấy trước ngay từ giờ, một sự thực bình dị và tất nhiên:

Mai mốt bên cửa rừng

Anh có nghe súng nổ

Là chúng tôi đang cố

Tiêu diệt kẻ thù chung

Cho nên giọng thơ ở đoạn cuối này thật bình tĩnh, không phải cái bình

tĩnh của kẻ vô tâm, mà cái bình tĩnh của người biết mình muốn gì, biết

mình đi đâu, cái bình tĩnh Bôn – sê - vích". [49, 68]

Nhìn chung nhà nghiên cứu văn học Hoài Thanh tuy không đưa ra

định nghĩa về giọng điệu nhưng trong cách phê bình, thẩm định văn

chương của ông đã toát lên quan niệm: Giọng điệu là biểu hiện lập trường,

tư tưởng, thái độ của nhà văn với hiện thực của cuộc sống.

Cũng trong chuyên luận “Nói chuyện thơ kháng chiến” tuy không bàn

sâu nhưng Hoài Thanh đã đề cập mối quan hệ giữa giọng điệu và cảm xúc:

Tác giả quan niệm giọng nói trong thơ như sự hình thức hoá điệu tâm hồn:

“Từ ngày cách mạng, đại chúng đã bắt đầu lên tiếng trong thơ. Những tiếng

nói của đại chúng trong thơ giờ đây còn là những lời bập bẹ. Giọng nói

42

Luận văn thạc sĩ

Nguyễn Quốc Khánh nhiều khi còn là giọng pha; vì ngay bản thân đại chúng cũng còn vướng

nhiều ảnh hưởng phức tạp”. [49, 110]

Như vậy, nhà phê bình Hoài Thanh đã nhấn mạnh đến thái độ, quan

điểm lập trường và xúc cảm thẩm mĩ là những yếu tố cấu thành nên giọng

điệu. Ngoài ra ông cũng đề cập vấn đề thi liệu nhưng theo chúng tôi thì các

yếu tố vừa nêu trên đây bản thân nó đã có sự lựa chọn hệ thống thi liệu rồi,

nên không xét hệ thống thi liệu với tư cách là yếu tố cấu thành nên giọng

điệu được mà chỉ xem nó như là phương tiện của giọng điệu mà thôi.

Chẳng hạn ta thấy Nguyễn Bính khi miêu tả tâm trạng chờ nhau của những

đôi trai gái ở làng quê, ông đã sử dụng những thi liệu như, "miếng giầu",

"láng giếng", "đỏ đèn", "cả gió", "sương muối"... điều này đã cho chúng ta

thấy, thi liệu là phương tiện để biểu hiện xúc cảm thẩm mĩ và đề tài mà nhà

thơ hướng đến.

2.1.1.2 Quan niệm của nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến

Trong chuyên luận Văn học và học văn, ông Hoàng Ngọc Hiến đã

khẳng định sức chinh phục của văn chương một phần quan trọng là ở giọng

điệu: “Câu văn có hồn là câu văn có giọng, có ngữ điệu, bởi vì từ ngữ của

bài văn được chọn có thông báo nhiều điều quan trọng, nhưng bài văn

không có giọng đọc lên vẫn nhạt nhẽo vô vị. Sự phong phú, tính đa nghĩa, ý

vị đậm đà của bài văn trước hết ở giọng. Năng khiếu văn ở phần tinh tế

nhất là năng lực bắt được trúng cái giọng của văn bản mình đọc và tạo ra

được giọng đích đáng cho tác phẩm mình viết. Bắt được giọng đã khó, làm

cho học sinh cảm nhận được cái giọng càng khó, công việc này đòi hỏi

sáng kiến và tài tình của giáo viên”. [19, 160]

Tuy nhiên, trọng tâm của chuyên luận là vận dụng quan niệm về giọng

điệu văn chương để xác định giọng điệu văn chương của Truyện Kiều:

“Muốn hiểu Truyện Kiều phải bắt được cái giọng của tác giả trong sáu câu

triết luận mở đầu (…). Điều quan trọng hơn cả là cái giọng mỉa mai, hờn

43

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGUYỄN QUỐC KHÁNH mát, đay đả của tác giả khi nói đến những luật này (…). Từ “khéo là” có

bao nhiêu nghĩa thì cái giọng của tác giả biểu hiện ở đây có bao nhiêu sắc

thái: Mỉa mai, hờn mát, rờn rợn, châm chọc…”. “Tài mệnh tương đố”

không phải là tư tưởng của Truyện Kiều. Triết lý của Truyện Kiều là ở cái

giọng của tác giả khi nói về tư tưởng này, nói ở chữ “khéo là” xen vào câu

“tài mệnh tương đố”. Cũng như phân tích ở trên “bỉ sắc tư phong”, “hồng

nhan bạc mệnh” không phải là tư tưởng đích thực của Truyện Kiều. ở đây

cái giọng của tác giả rất rõ. Trước luật cõi đời và luật trời, Nguyễn Du là

một người đáo để, với cái giọng đay đả, đay nghiến của ông: “Lạ gì”… ở

đây bộc lộ thái độ dè bỉu, bực tức, chán ngán khi ta nói "lạ gì anh ấy” thì

hoặc là ta dè bỉu, hoặc là ta bực tức, hoặc là ta chán ngán… anh ấy, chắc

chắn không phải là một thái độ thiện cảm. Cái giọng văn của Nguyễn Du

khi nói đến luật “hồng nhan bạc mệnh” bao hàm một thái độ đối với “trời

xanh”, một cái giọng “sẵng” với thái độ “sắc”. Với cái giọng này và thái độ

ấy, nhà thơ có chửi luôn cả Trời thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Nếu

“Trời xanh quen thói” thì sự “khách má hồng đánh ghen” không thể là một

điều tốt lành". [19, 162]

Trong cách khảo sát giọng điệu Truyện Kiều tác giả đã khẳng định:

“Tài mệnh tương đố” không phải là tư tưởng Truyện Kiều, triết lý của

Truyện Kiều là ở cái giọng của tác giả khi nói về tư tưởng này. Hoàng

Ngọc Hiến cũng khẳng định giọng điệu vừa biểu hiện tư tưởng tác giả vừa

biểu hiện thái độ của nhà văn với hiện thực: “Với cái giọng này và thái độ

ấy, nhà thơ có chửi luôn cả Trời thì cũng chẳng có gì ngạc nhiên”. ý kiến

của tác giả cùng khuynh hướng với ý kiến của Hoài Thanh nhưng sự lý giải

rõ hơn, thể hiện cách nhìn có chiều sâu mới về giọng điệu văn chương. Có

lẽ nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến đã ý thức rất rõ rằng thái độ, tư tưởng

của nhà văn đã tạo nên chất giọng riêng, chính vì thế mà Nguyễn Du đã thể

hiện rõ nét cái nhìn của ông về hiện thực thông qua giọng điệu trong

Truyện Kiều.

44

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh

2.1.1.3 Quan niệm của nhà nghiên cứu Trần Đình Sử

Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử là người đầu tiên nhìn nhận giọng điệu

bằng cái nhìn hệ thống, khúc chiết theo tinh thần thi pháp học. Trong tác

phẩm lý luận: Những thế giới nghệ thuật thơ ông đã đặt vấn đề giọng điệu

với tư cách mội đối tượng nghiên cứu lý luận văn học ngang hàng với các

đối tượng khác như: Thế giới nghệ thuật, đề tài, chủ đề, phong cách nghệ

thuật của nhà văn… Tác giả đã phân biệt giọng điệu trong đời sống và

giọng điệu trong nghệ thuật; coi giọng điệu nghệ thuật là một phương diện

cấu thành hình thức của văn học. Trần Đình Sử coi giọng điệu là yếu tố

động, từ đó đi tới khẳng định sự vận động của văn học thông qua phạm trù

giọng điệu. Đặc biệt trong công trình này, ông đã chỉ ra được bản chất của

giọng điệu: giọng điệu là sự biểu thị lập trường, tư tưởng, cảm xúc của chủ

thể. Các hiện tượng ngôn ngữ được biểu hiện qua lời văn nghệ thuật nhưng

về bản chất nó là hiện tượng siêu ngôn ngữ học, nó không tồn tại như một

yếu tố cô lập mà “toát ra từ bản thân tác phẩm và nội hàm tư tưởng thẩm

mỹ” thành tựu lý luận này đã được ông vận dụng để khảo sát, xác định

giọng điệu nghệ thuật của nhà văn và tác phẩm văn học.

Trong công trình nghiên cứu của mình, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử

đã tìm hiểu "Giọng điệu nghệ thuật cảm thương trong Truyện Kiều" để

khảo sát giọng điệu Truyện Kiều. Trong tác phẩm này, tác giả đã nhiều lần

nhấn vào quan niệm giọng điệu là biểu hiện của lập trường tư tưởng, thái

độ của nhà văn đối với hiện thực của cuộc sống ở nhiều góc độ.

Có khi tác giả nhấn vào thái độ nhà văn một cách trực tiếp “Giọng

điệu là biểu hiện của thái độ, cảm xúc của chủ thể đối với đời sống''. [47,

258]

Có khi tác giả khẳng định lập trường, thái độ nhà văn ở dạng điểm

nhìn của chủ thể và quan hệ của chủ thể với đối tượng phản ánh: “giọng

điệu thể hiện ở tiếng nói và điểm nhìn của chủ thể, ở quan hệ của chủ thể

tác giả đối với cái được miêu tả''. [47, 259]. ở đoạn khác ông Trần Đình Sử

45

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGUYỄN QUỐC KHÁNH cũng nhấn vào khuynh hướng nghệ thuật của tác giả, cũng là cách khẳng

định giọng điệu chi phối bởi lập trường tư tưởng của nhà văn “giọng điệu

văn học là hiện tượng “siêu ngôn ngữ học”, phụ thuộc vào cấu trúc nghệ

thuật của tác phẩm, khuynh hướng nghệ thuật của tác giả và của thời đại”.

[47, 258]

Nhấn mạnh vào thái độ, lập trường của nhà văn là xác định yếu tố

quyết định giọng điệu nghệ thuật của tác giả. Vì vậy hầu hết các tác giả

nghiên cứu về giọng điệu văn chương đều khẳng định điều này. Và chính thái

độ và lập trường của nhà văn đã chi phối toàn bộ hệ thống đề tài mà tác giả

muốn phản ánh cũng như những phương tiện để chuyển tải tư tưởng của

mình.

2.1.2 Định nghĩa đầy đủ về "giọng điệu"

Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt do (NXB Đà Nẵng, 2006) có định

nghĩa "giọng điệu" theo lối chiết tự nên có đào sâu về ý nghĩa của thuật

ngữ. Trong cuốn từ điển này, “giọng” đã định nghĩa như sau:

Giọng:

1. Độ cao thấp, mạnh yếu của lời nói, tiếng hát

2. Cách phát âm của một địa phương

3. Cách diễn đạt bằng ngôn ngữ, biểu thị một thái độ, tình cảm nhất định

4. Gam đã xác định âm chủ

Khái niệm giọng ở đây chủ yếu nói về người chỉ giọng nói của người.

Hai nét nghĩa đầu (1 và 2) là khái niệm giọng nhìn ở góc nhìn vật lý. Nét

nghĩa thứ 2 (cách phát âm của một địa phương) diễn tả giọng điệu của địa

phương hoàn toàn khác với giọng điệu văn chương trong tác phẩm, tuy có

ảnh hưởng đến nó. Về điều này ông Trần Đình Sử đã lý giải khá rõ: “Có

khi giọng điệu được xem giản đơn là dấu hiệu cá thể hay dấu hiệu địa

phương ví như giọng Huế ở nhà thơ này, giọng Nam Bộ của nhà văn nọ”

tuy giọng cá nhân và giọng địa phương có góp phần tạo nên sắc thái, song

46

Luận văn thạc sĩ

Nguyễn Quốc Khánh giọng điệu trong văn học là một hiện tượng nghệ thuật toát ra từ bản thân

tác phẩm và mang một nội hàm tư tưởng thẩm mỹ”. [47, 258]

Chúng tôi cho rằng định nghĩa đầy đủ nhất về giọng điệu là định nghĩa

trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học. Tại mục G trong cuốn Từ điển thuật

ngữ văn học do (Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi - đồng chủ

biên, NXB Giáo dục, 2005) có ghi định nghĩa về giọng điệu như sau: “Thái

độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng

được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ,

sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã,

ngợi ca hay châm biếm (…). Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ

tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả có vai trò rất lớn trong việc tạo nên

phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc. Thiếu một giọng

điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết ra một tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài

liệu và sắp xếp trong hệ thống nhân vật. Không nên lẫn lộn giữa giọng điệu

và ngữ điệu là phương tiện biểu hiện của lời nói, thể hiện qua cách lên giọng,

xuống giọng, nhấn mạnh, nhịp điệu… chỗ ngừng. Giọng điệu là một phạm

trù thẩm mỹ của tác phẩm văn học. Nó đòi hỏi người trần thuật, kể chuyện

hay nhà thơ trữ tình phải có khẩu khí, có giọng điệu. Giọng điệu trong tác

phẩm gắn với cái giọng điệu “trời phú” của mỗi tác giả, nhưng mang nội

dung khái quát nghệ thuật, phù hợp với đối tượng thể hiện. Giọng điệu trong

tác phẩm có giá trị thường đa dạng, có nhiều sắc thái trên cơ sở một giọng

điệu cơ bản chủ đạo, chứ không đơn điệu”. [16, 134 - 135]

Trong định nghĩa này, các tác giả của cuốn Từ điển đã đề cập một

cách toàn diện, sâu sắc cả nội hàm và ngoại diên của khái niệm giọng điệu

văn chương.

Từ điển còn đưa ra các loại giọng điệu để minh hoạ:

- Trong thơ tình của Thế Lữ có giọng điệu “lẳng lơ mà xa vời, thiếu

tình ấm áp” (Hoài Thanh).

47

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH

- Giọng điệu ngọt ngào êm ái trong Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng

(tác giả Từ điển).

- Giọng điệu suồng sã, đay nghiến trong Chí Phèo (của Nam Cao)

- Giọng điệu mỉa mai châm biếm trong Thuế máu của Nguyễn ái Quốc.

- Khẳng định đúng mức vai trò của giọng điệu trong việc tạo nên

phong cách nghệ thuật của nhà văn có tác dụng truyền cảm đối với người

đọc: “Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu

thẩm mỹ của tác giả nên có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách

nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc. Thiếu một giọng điệu nhất

định, nhà văn chưa thể viết ra được tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu và

sắp xếp trong hệ thống nhân vật”. [16, 134 - 135]

Từ điển thuật ngữ văn học còn phân biệt giọng điệu với ngữ điệu là

hai yếu tố hay bị nhầm lẫn: “Không nên lẫn lộn giọng điệu với ngữ điệu là

phương tiện biểu hiện của lời nói, thể hiện qua cách lên giọng, xuống

giọng, nhấn mạnh, nhịp điệu… chỗ ngừng. Giọng điệu là một phạm trù

thẩm mỹ của tác phẩm văn học. Nó đòi hỏi người trần thuật, kể truyện hay

nhà thơ trữ tình phải có khẩu khí giọng điệu. Giọng điệu trong tác phẩm

gắn với giọng “trời phú của mỗi tác giả, nhưng mang nội dung khái quát

nghệ thuật, phù hợp với đối tượng thể hiện”. [16, 135]

Định nghĩa này cũng khẳng định giọng điệu trong tác phẩm có giá trị

như là một tiêu chí để đánh giá tầm vóc của nhà văn. Đó là hiện tượng đa

giọng điệu nhưng phải có giọng điệu cơ bản - âm chính và những bè đệm:

“Giọng điệu trong tác phẩm có giá trị thường đa dạng, có nhiều sắc thái

trên cơ sở một giọng điệu cơ bản chủ đạo, chứ không đơn điệu” [16, 135].

So với định nghĩa giọng điệu của cuốn Từ điển Tiếng Việt thì định nghĩa về

giọng điệu nghệ thuật trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học toàn diện hơn,

sâu sắc hơn - là chỗ dựa chủ yếu để khảo sát giọng điệu văn chương của

một tác giả. Định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt chỉ nhằm định nghĩa giọng

48

Luận văn thạc sĩ

Nguyễn Quốc Khánh điệu trong cuộc sống nhưng cũng cần xem xét vì giọng điệu trong cuộc

sống tác động đến giọng điệu nghệ thuật.

Vì giọng nói không chỉ tồn tại như một tín hiệu âm thanh (mang tính

Vật lý) mà còn hàm chứa thái độ người nói vì thể dẫn đến khái niệm “giọng

điệu trong đời sống”. Từ điển Tiếng Việt đã định nghĩa giọng điệu trong đời

sống một cách đơn giản hơn so với định nghĩa giọng điệu văn chương trong

Từ điển văn học. Giọng điệu là “giọng nói, lời nói biểu thị một thái độ nhất

định”. Như vậy giọng bao hàm cả góc độ vật lý và tâm lý, nhưng giọng

điệu lại được nhìn nhận từ góc độ tâm lý. Định nghĩa trùng với nét thứ ba

của định nghĩa về giọng.

Giọng điệu văn chương và giọng điệu trong cuộc sống tuy có ảnh

hưởng qua lại nhưng vẫn có những nét khác nhau thuộc về bản chất: Giọng

điệu trong đời sống mang tính khả biến do có thể căn chỉnh cho phù hợp

với đối tượng, nội dung giao tiếp. Giọng điệu trong văn chương mang tính

bất biến vì nó toát ra từ toàn bộ tác phẩm đã hoàn thành, không thể chỉnh

sửa. Muốn đổi giọng tác giả phải viết tác phẩm khác thay thế. Giọng điệu

trong đời sống thể hiện qua cách nói, mang dấu ấn nghề nghiệp, giới tính,

tuổi tác, tác phong của chủ thể phát ngôn. Giọng điệu trong văn chương

cũng thể hiện qua lời nói và cách nói của nhân vật trong tác phẩm. Tuy

nhiên định nghĩa giọng điệu trong đời sống chỉ là tham khảo, lý giải thêm

khi khảo sát giọng điệu nghệ thuật của một tác giả.

Tóm lại từ những công trình của các nhà nghiên cứu, chúng tôi đã rút

ra kết luận rằng: chất giọng riêng (có cả tính kế thừa) và ngữ điệu, sắc điệu

là những yếu tố tạo nên giọng điệu của một tác giả.

2.2 Một số đặc trƣng trong giọng điệu thơ lục bát Đồng Đức Bốn

2.2.1 Giọng thở than, tê tái

2.2.1.1 Cơ sở của giọng thở than tê tái

Những vần thơ của Đồng Đức Bốn đã cho thấy, tâm hồn chủ thể trữ

tình có điệu buồn thương tê tái: Trong cuộc trả lời phỏng vấn, chính nhà

49

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGUYỄN QUỐC KHÁNH thơ đã thừa nhận nỗi buồn hậm hực là cơ sở của giọng điệu thở than. Khi

được hỏi: “Anh muốn người ta hiểu mình như thế nào?”. Nhà thơ đã trả lời

thành thực: “Đó là kẻ khóc cái cay cực của kiếp người bằng chính cuộc dấn

thân “lăn lóc” của mình. Dù chỉ nói cái nghèo, cái buồn, cái xót xa nhưng

đằng sau đó là tấm lòng thanh thản và nỗi an nhiên tự tại của con người,

biết chấp nhận và vượt lên số phận”. Bởi nỗi đau lớn phải kìm nén nên

càng thêm tê tái. Chỉ riêng nỗi bất hạnh trong tổ ấm cũng đã quá sức tưởng

tượng nếu không phải là nhà thơ có bản lĩnh: “Khi viết Trở về với mẹ ta

thôi và Chăn trâu đốt lửa là những tháng ngày tôi nếm trải đủ nỗi cay đắng

cơ cực của đời. Tang cha, tang mẹ, con trai đứa thì chết, đứa thì phải mổ…

đó là những bài thơ rút ruột mà ra”.

Mặt khác giọng thơ này nằm trong một xu hướng thơ buồn tích cực

sau 1975. Đây là xu hướng nổi bật nhất trong thơ sau 1975. Những năm

đầu thập kỷ 80, thơ ở giai đoạn chuyển giọng: Nhà thơ nói nhiều hơn về nỗi

buồn nhân sinh, về những cảm nhận của cái tôi trước một thực tại khắc

nghiệt. Nếu như trước đây các nhà thơ e ngại nói về nỗi buồn thì trong thơ

sau 1975, nhiều nhà thơ công khai bày tỏ nỗi buồn. Đó không hẳn là nỗi

buồn kiểu Thơ mới, mà là nỗi buồn gắn chặt với thực tại mới, một cảm

quan nghệ thuật mới. Trong tuyển tập Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc chỉ

riêng những câu thơ có giọng thở than tê tái cũng đủ để lập thành một cuốn

“Từ điển buồn”. Ta ít thấy ở đâu chữ buồn lại xuất hiện với một tần suất

cao đến vậy (30 lần/192 bài thơ). Dài rộng thì có: Nhìn dọc đã chán nhìn

ngang lại buồn; Cao điểm thì có: Tự nhiên hoa nở trên cao cũng buồn;

Dưới thấp có: Vớt buồn trên mặt sông trôi… Phải chăng Đồng Đức Bốn đã

dùng chính những từ “buồn” để than cho thân phận của mình. Trong thơ ca,

chúng ta thường bắt gặp những trạng thái khác nhau của nỗi buồn được phả

vào các hình tượng, mô típ nghệ thuật nhưng với Đồng Đức Bốn bản thân

chữ buồn cũng đã trở thành một biểu tượng với nhiều phương diện khác

nhau. Bản thân chữ “buồn” như một sinh thể đã thốt lên những lời tê tái.

50

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh

2.2.1.2 Đồng Đức Bốn kế thừa cách tổ chức sắc điệu của giọng thở

than tê tái trong ca dao

Nếu ta ngược về lịch sử thì ta có thể khẳng định rằng ở phương diện

dân gian nhà thơ đã kế thừa hai điệu chính trong thơ ca dân gian mà cụ thể

là ca dao: Điệu than dùng phổ biến trong ca dao có chủ đề than thân. Điệu

ghẹo chủ yếu dùng trong ca dao giao duyên thuộc chủ đề yêu thương tình

nghĩa. ở giọng thở than tê tái nhà thơ chủ yếu sử dụng điệu than với sự cách

tân lớn lao và đạt hiệu quả thẩm mỹ cao. Xét về nghệ thuật tổ chức giọng

điệu, nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn có nhận định như sau: “Tôi cho rằng,

giọng điệu là sự hoà hợp giữa nội dung cảm xúc và hệ thống chất liệu, mà

trước hết là hệ thống sắc thái, ngữ điệu”.

Về nội dung cảm xúc: điệu than trong ca dao thường là xót thương,

hờn oán do có những bất hạnh và phải chịu những bất công trong xã hội

phong kiến. Trong ca dao chủ đề than thân, bộ phận lời ca than thân của

người phụ nữ chiếm một số lượng lớn vì họ là đối tượng đau khổ nhất.

Ngoài ách áp bức bóc lột như nam giới, họ còn chịu thêm nỗi khổ bởi chế

độ nam quyền, chế độ đa thê. Bộ phận ca dao về lời than của người phụ nữ

thường làm theo thể tỉ và mở đầu bằng các cụm từ “Em như” hoặc “Thân

em như”:

- Thân em như dải lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

(Ca dao)

- Thân em như hạt mưa sa

Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày

(Ca dao)

Do có nỗi buồn đau, hờn oán kìm nén tất phải có nhu cầu san sẻ, thở

than để vơi đi một nửa. Vì thế, thơ Đồng Đức Bốn có kế thừa hình thức

này.

51

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH

Về lối kể: Nội dung kể trong ca dao dân ca trữ tình là những tâm trạng

của nhân dân lao động. Khác với ca dao tự sự, ca dao trữ tình không có cốt

truyện, chỉ kể về tâm trạng kết hợp với hành động của nhân vật trữ tình. Có

nhiều câu ca dao than thở về tình duyên trắc trở thường có sự kết hợp như

thế.

Để thực hiện lối than vãn ca dao cũng dùng lối đay đả, chì chiết làm

cho giọng than lâm ly hơn, thống thiết hơn:

…Nói đây có chị em nhà

Còn dăm ba thúng thóc với một vài cân bông

Em bán đi trả nợ cho chồng

Còn ăn hết nhịn cho thoả lòng chồng con

(Ca dao)

* Cách tổ chức ngữ điệu trong ca dao:

Về cú pháp ca dao than thân hay sử dụng những câu hỏi để tạo giọng

thở than và tỏ thái độ của tác giả dân gian trước đối tượng trữ tình. Ca dao

hận tình hay tổ chức lời than dưới dạng câu hỏi tu từ: Hỏi để khẳng định

tâm lý tuyệt vọng và cam chịu:

Ba đồng một lá trầu cay

Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?

Bây giờ em đã có chồng

Như chim vào lồng như lá cắn câu

Cá cắn câu biết đâu mà gỡ

Chim vào lồng biết thuở nào ra

(Ca dao)

Về thể thơ, lục bát trong ca dao có nguồn gốc sâu xa từ đặc điểm ngôn

ngữ dân tộc Việt là tiếng nói cân đối nhịp nhàng. Ca dao thể lục bát là sự

phát triển ở mức hoàn chỉnh tiếng nói cân đối nhịp nhàng trong tục ngữ. ở

52

Luận văn thạc sĩ

Nguyễn Quốc Khánh thể lục bát hoàn chỉnh, lối gieo vần bằng và nhịp điệu uyển chuyển không

chỉ có khả năng diễn đạt những cảm xúc trong sáng vui tươi êm đềm mà

còn có khả năng diễn tả nỗi buồn đau triền miên, tạo giọng điệu than thở:

Người sao một hẹn thì nên

Người sao chín hẹn thì quên cả mười

(Ca dao)

Trong ca dao than thân cũng có khá nhiều trường hợp láy giai điệu

bằng cách lặp lại một từ hoặc một ngữ để tạo nên điệu than. Thể hiện giọng

chì chiết của người vợ lẽ, tác giả dân gian dùng lối láy từ trùng điệp với tần

xuất cao trên hai câu thơ:

Chia từ cây cải chia ra

Chia cửa, chia nhà, chia sáng, chia đêm

(Ca dao)

Biện pháp tu từ so sánh cũng được tác giả dân gian sử dụng sáng tạo.

Ca dao than thân cũng dùng phép so sánh để gợi buồn nhưng theo hướng

cụ thể hoá:

Em như quả ớt chín cây

Càng tươi ngoài vỏ càng cay trong lòng

(Ca dao)

Về hình tượng nghệ thuật ca dao than thân thường chọn hình tượng là

sự vật nhỏ bé, mong mang, côi cút để biểu tượng cho số phận bất hạnh: con

cò, quả ớt, tấm lụa, miếng cau khô, giếng nước giữa đàng, con rùa, con

ếch…

Là nhà thơ đương đại với xu hướng làm mới truyền thống, Đồng Đức

Bốn cũng kế thừa cách tổ chức sắc điệu thở than tê tái của các nhà thơ đàn

anh trong phong trào Thơ Mới: Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử và đặc

biệt là Nguyễn Bính.

2.2.1.3 Diện mạo sắc điệu thở than tê tái trong thơ Đồng Đức Bốn

53

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH

Trước hết Đồng Đức Bốn sử dụng điệu than để tạo dựng giọng thơ.

Nội dung cảm xúc trong thơ Đồng Đức Bốn là nỗi buồn, nỗi đau. Nỗi buồn

trong mưu sinh, trong lập nghiệp, trong sáng tạo nghệ thuật, trong đời tư.

Nguyễn Bính than về sự lỡ dở nên thường kể nhiều rồi mới than bởi kẻ lỡ

dở bao giờ cũng có xuất phát điểm rất tươi sáng: Em là cô gái trong khung

cửi; Nhà nàng ở cạnh nhà tôi… Trong khi đó Đồng Đức Bốn lại than thở,

thê thảm vì mãi mà không thấy có tia sáng nào le lói ở cuối đường hầm.

Cùng là than nhưng Nguyễn Bính là người mang đầy hi vọng đến khi mọi

sự dở dang, không thành mới thất vọng. Trong khi đó Đồng Đức Bốn là kẻ

vốn đã sống trong sự nhếch nhác, nhom nhem nên không dám hi vọng

nhiều mà chỉ than sao cái cảnh này cứ kéo dài mãi.

Kế thừa hình thức chất liệu của văn học dân gian, thơ Đồng Đức Bốn

ở giọng điệu thở than tê tái cũng dùng lối kể tâm trạng là chủ yếu kết hợp

với kể hành động nhưng kể ít mà gợi nhiều:

Chẳng ai biết đến mẹ tôi

Bạc phơ mái tóc bên trời hoa mơ

Còng lưng gánh chịu gió mưa

Nát chân tìm cái chửa chưa có gì

Cầm lòng bán cái vàng đi

Để mua những cái nhiều khi không vàng

(Trở về với mẹ ta thôi)

Nội dung kể về mẹ không nhiều (Chỉ tả về mái tóc bạc và cái lưng

còng để gợi nỗi vất vả, lam lũ). Đoạn thơ này cũng không có yếu tố tự sự

(Sự kiện). Yếu tố hiện đại nằm ở nội dung triết lí về một cuộc tìm kiếm

khác của mẹ - người mẹ văn hoá - còn vất vả hơn nhiều so với cuộc mưu

sinh. Và đây nữa là lời than thất tình của Đồng Đức Bốn với lối kể sự việc

thì ít mà kể tâm trạng thì vời vợi:

Cái đêm em ở với chồng

54

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh

Để ai hoá đá bên sông đợi đò

Cái đêm hôm ấy gió mùa

Tơ nhện giăng đến cổng chùa thì tan

(Cái đêm em ở với chồng)

Sự việc chỉ có một chi tiết là chất xúc tác cho tâm trạng (Cái đêm em

ở với chồng) còn chủ yếu kể về nỗi đau qua hình ảnh chàng trai quê “hoá

đá bên sông” nhưng điểm nhấn lại là hình ảnh triết lí, biểu tượng là “cổng

chùa” và “tơ nhện” gợi người đọc nghĩ đến cuộc đột nhập không thành của

tơ tình vào ngôi đền tình ái. Hình ảnh “cổng chùa” vừa tả thực vừa là ẩn dụ

biểu tượng: Em như một ni cô trong ngôi nhà của mình. Ngôi nhà có người

chồng có dáng vẻ tổ ấm nhưng thực chất là ngôi chùa khép kín, không cho

tơ tình anh vương đến. Than tiếc cho em đã cam chịu, sống yên phận, thoả

mãn với tổ ấm nhưng cũng là một thứ nhà tù trá hình nên tơ nhện tình anh

mãnh liệt giăng mắc vẫn phải dừng lại trước cổng chùa nghiệt ngã.

Trong một trường hợp khác khi kể về một hành trình tình yêu không

thành, Đồng Đức Bốn cũng kế thừa lối kể na ná bài ca dao. Ca dao kể rằng:

Trèo lên cây bưởi hái hoa

Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc

Em đã có chồng anh tiếc lắm thay

(Ca dao)

Còn Đồng Đức Bốn thì kể:

Thương mình lặn lội đường xa

Vào rừng tìm mãi một hoa cải ngồng

Thế rồi phải quay ra không

Tìm mình ở phía cánh đồng đang mưa

(Thương mình lặn lội đường xa)

55

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH

Nhà thơ vừa kể hành động vừa kể tâm trạng với sự ít tình nhiều.

Chàng trai trong ca dao với hành trình tình yêu gian truân qua hành động

mang tính tượng trưng, đưa đẩy (Trèo lên… bước xuống…) và tâm trạng lỡ

làng: ý định tìm kiếm một “Nụ tầm xuân” nhưng sự thực lại cay đắng: Nụ

ấy đã nở thành hoa (Nở ra xanh biếc). Có lẽ chàng trai vì cú sốc tâm lí mà

bị lẫn màu (Tầm xuân chỉ có màu trắng và màu hồng). Chàng trai họ Đồng

cũng tự kể về hành trình tình yêu nhưng là kể thực (Lặn lội đường xa – có

lẽ là tận Hải Phòng về Hà Nội) với khát vọng khiêm tốn hơn: không dám

mơ hái “Nụ tầm xuân” chỉ ước “Hoa cải ngồng” (Cải già quá lứa biểu

tượng cho cô gái lỡ duyên lỡ thì) nhưng kết cục vẫn không hơn (Phải quay

ra không). Khác với ca dao, Đồng Đức Bốn đẩy tâm trạng của nhân vật trữ

tình đến tâm thế của kẻ lẻ loi, côi cút (Tìm mình ở giữa cánh đồng đang

mưa).

Đồng Đức Bốn trong nhiều trường hợp cũng sử dụng thủ pháp trầm

trọng hoá, cường điệu hoá để tạo dựng lời than. Thủ pháp này đã giúp nhà

thơ tạo nên giọng điệu thở than tê tái trong bài thơ viết về sự kiện đưa tang

mẹ, tạo nên một đỉnh cao khó vượt của thơ ca viết về đề tài tình mẫu tử:

Đưa mẹ lần cuối qua làng

Ba hồn bảy vía con mang vào mồ

Mẹ nằm như lúc còn thơ

Mà con trước mẹ già nua thế này

(Trở về với mẹ ta thôi)

Than về nỗi đau thất tình nhà thơ cũng có lối nặng nề hoá, trên cơ sở

nỗi đau tê tái:

Suốt đời sống trên ngọn gai

Chỉ khát khao chết xem ai thương mình

Chết rồi tôi vẫn là người

Để nhận những nỗi đau đời em cho

56

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh

Chỉ mong ngày ấy mưa to

Bước chân ai có ngại dò đường trơn

(Thơ viết gửi người tình khi tôi chết)

Nhà thơ muốn đem cái chết để đo tình yêu là “dịp" để tận hưởng cái vị

đắng của tình yêu ở một số bài thơ khác nhẹ nhàng hơn do bình thường hoá

cái chết:

Yêu em nếu phải đốt trời

Cũng vui vẻ chết như chơi vườn đào

Đêm mơ đổ trận mưa sao

Cho em gội tóc bên rào tìm anh

(Gửi Tân Cương)

Thơ Đồng Đức Bốn cũng sử dụng lối chì chiết, đay đả của ca dao

nhưng có nét khác là không hướng vào đối tượng nào cụ thể. Chính vì

không hướng vào một đối tượng nào cụ thể như ca dao (Vốn cấu tứ theo lối

đối thoại để diễn xướng) mà lối than vãn chì chiết của tác giả có tính độc

thoại, tính khái quát, triết lí. Mượn độc thoại để đối thoại ngầm là nét độc

đáo trong điệu than của Đồng Đức Bốn. Có khi lối chì chiết chỉ dưới hình

thức triết lí chung chung về “Phúc” - “Hoạ” nhưng thực chất đã lọc qua trải

nghiệm của nhà thơ:

Buồn thì nín để quên đau

Sướng thì kêu để người sau chết dần

Sướng thì không được một lần

Đau thì chẳng phải đau ngần ấy đâu

(ở quán bán thịt chó về chiều)

Cổ nhân xưa có câu: “Phúc bất trùng lai hoạ vô đơn chí” (Phúc không

đến lần thứ hai, hoạ không chỉ một lần). Anh đã đảo ngược vế đầu (Không

được một lần) và giữ nguyên vế sau (chẳng phải đau ngần ấy đâu). Khổ thơ

vẫn giữ nguyên vần, không có yếu tố dư (Như ca dao) nhưng vẫn giữ lối

57

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGUYỄN QUỐC KHÁNH láy ý cần chì chiết, đay đả làm cho giọng chì chiết mềm hơn. Những điệu

thở than có thể tìm thấy rất nhiều trong thơ anh:

Đời tôi có một người thương

Đói cơm rách áo nằm sương cũng nhà

(Đời tôi)

Rồi là những câu thơ nghe mà xót xa:

Duyên mình chả bén trầu cau

Thì làm hạt muối ướp đau lòng chờ

(Mùa xuân đi phủ Tây Hồ)

Tóm lại, để thể hiện nỗi buồn đau oán giận Đồng Đức Bốn đã kế thừa

và làm mới điệu than trong ca dao với hai hình thức chất liệu phù hợp: Kể

lể và than vãn nhằm tạo ra giọng thơ thở than tê tái.

Trong việc tổ chức câu để tạo dựng diện mạo sắc điệu, nhà thơ cũng

sử dụng những câu hỏi tạo nên giọng điệu thở than tê tái khiến cho nỗi

buồn ám ảnh hơn. Có khi là nỗi cô đơn, đau khổ khi người yêu rẽ lối được

thể hiện bằng câu hỏi:

Bây giờ em đã về đâu

Để chim quên hót để dâu hết tằm

Rượu ngon rót chẳng sủi tăm

Nhìn nhau con mắt lá răm cũng buồn

Câu hỏi không nhằm mục đích nghi vấn mà lí giải cắt nghĩa nỗi buồn

khi mất người yêu: Người yêu đi không chỉ mang theo một nửa hồn nhà thơ

mà còn để lại một thế giới buồn, vô nghĩa vô vị (Chim quên hót; Dâu hết

tằm; Rượu chẳng sủi tăm).

Có những bài mật độ câu hỏi rất cao góp phần đắc lực cho lời thơ có

giọng điệu thở than tê tái. Đó là bài Tìm em ở bến sông mê: Bài thơ có 16

dòng mà chứa tới 4 câu hỏi xoáy vào cái tứ của bài thơ:

- Bây giờ áo đỏ ở đâu

58

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh

Để trời xanh thiếu một màu của em

- Rét lòng khát ngọn lửa nhen

Mà áo đỏ áo đỏ em đâu rồi

- Em bán gì đấy em ơi

Để tôi mua một nụ cười làm duyên

- Không biết em đi lối nào

Tự nhiên hoa nở trên cao cũng buồn

Cái giọng thở than tê tái trở thành cái “tông” của bản nhạc sông mê là

nhờ 4 câu hỏi ấy. Những câu hỏi trong lời thơ không chỉ để tách nhân vật

trữ tình khỏi đối tượng trữ tình mà còn tạo dựng giọng điệu thơ.

Lối cắt nhịp phá cách trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn rất đa dạng

nhưng đều tạo ra nhịp điệu trục trặc góp phần tạo nên giọng điệu thở than

tê tái. Dạng thứ nhất phá cách câu 6 chuyển từ nhịp 2 sang nhịp 3: “Ta

đánh bạc / với quỷ thần”; loại thứ hai là phá cách câu 8 chuyển từ nhịp 2

truyền thống sang nhịp 3/3/2: “Sông sâu đã / nhện nhả tơ / bắc cầu”. Dạng

thứ 3 với mật độ ít hơn: phá cách ở cả hai câu 6 và 8 chuyển từ nhịp 2

truyền thống sang phần lớn là nhịp 3:

Tôi còn nhớ / hay đã quên

áo nâu mẹ / vẫn bạc bên / nắng chờ

(Trở về với mẹ ta thôi)

ở điệu than, thơ Đồng Đức Bốn cũng có kế thừa lối láy gián cách của

ca dao đồng thời phát huy lối láy liên tiếp của Thơ mới nhưng chúng tôi

thấy ở lối láy liên tiếp, nhà thơ chỉ láy đến hai từ là tối đa để tạo ra giọng

điệu buồn. Đó là những trường hợp láy một cụm gồm hai từ:

Rét lòng khát ngọn lửa nhen

Mà áo đỏ áo đỏ em đâu rồi

Cách láy giai điệu trong thơ Đồng Đức Bốn tạo ra những ám ảnh về

giọng điệu than thở. Có khi nhấn vào một âm thanh khắc khoải đến rỉ máu

59

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGUYỄN QUỐC KHÁNH (Cuốc kêu như là cuốc kêu) hay một lời ru ngọt mà chết người (Con tôi

chết bởi lời người hát ru).

Kế thừa và đổi mới chất liệu gợi giọng điệu thở than trong ca dao và

thơ mới Đồng Đức Bốn cũng lựa chọn những hình tượng nhỏ bé biểu tượng

cho cái tôi nhỏ bé: Có khi là hạt bụi xa xôi, có khi là con thuyền trôi vô

hướng: Thuyền giữa sông trôi lững lờ; Hạt bụi xa xôi…

Khảo sát việc tổ chức các sắc điệu, chúng tôi thấy Đồng Đức Bốn đã

kế thừa điệu than trong ca dao vào giọng điệu buồn cô đơn trong Thơ mới

để tạo nên giọng thở than tê tái mang ý nghĩa nhân văn bởi đó cũng là cách

biểu hiện của lòng yêu đời yêu cuộc sống có trách nhiệm với xã hội khi mà

thực tế còn có mặt trái chưa ngang tầm với khát vọng. Đồng Đức Bốn đã

thể hiện rất rõ phong cách sáng tác của mình qua một giọng điệu đặc trưng

không lẫn với ai, chính điều này làm cho sự kế thừa càng thêm có ý nghĩa,

bởi trong thơ anh vừa có tính kế thừa vừa có tính phát triển, chính điều này

đã đem lại những đóng góp không nhỏ trong thi ca hiện đại.

2.2.2 Chất "giọng quê mùa" được tạo nên bởi hệ thống thi liệu

ở những giai đoạn trước, nhà thơ Nguyễn Khuyến được coi là nhà thơ

của làng cảnh Việt Nam ("làng cảnh" chứ không phải "làng quê"). Ba bài

thơ thu của ông đã chứng mình điều đó. Cũng không khó hiểu khi một nhà

nho uyên thâm, đã từng đỗ cao ở các kì thi, rồi ra làm quan nay về quê làm

những vần thơ về phong cảnh nông thôn lại mang tính hàn lâm, mẫu mực.

Trong chùm thơ thu có rất nhiều từ quá đỗi quen thuộc với những người

nơi thôn quê: ao thu, thuyền câu, ngõ trúc, làn ao, nhà cỏ, cần trúc...

nhưng chính cái thể thơ mà tác giả lựa chọn đã cho thấy tính hàn lâm của

nói, còn chưa nói đến cảm xúc thẩm mĩ, thái độ và quan niệm sáng tác của

Nguyễn Khuyễn.

Điều này lí giải vì sao mà với hệ thống thi liệu "đầy chất quê" như thế

nhưng ba bài thơ thu lại không phải là ba bài thơ về làng quê Việt Nam mà

chỉ là của làng cảnh Việt Nam. Còn ở Nguyễn Bính thì ta thấy rất rõ chất

60

Luận văn thạc sĩ

Nguyễn Quốc Khánh giọng quê, nôm na, giản dị được thể hiện không chỉ qua hệ thống thi liệu

đậm chất dân gian: giàn giầu, cau thôn Đoài, thôn Đông, yếm lụa sồi, áo tứ

thân, sương muối, đầu đình, bến, đò... mà còn qua giọng điệu, thái độ, quan

niệm và phong cách sáng tác của nhà thơ. Chính vì vậy, mà Nguyễn Bính

được xem là "thi sĩ của đồng quê", "nhà thơ chân quê", ông còn được đánh

giá là một trong những nhà thơ thể hiện rõ nhất tâm hồn Việt, nói như Hoài

Thanh là "hồn xưa của đất nước".

ở Đồng Đức Bốn, cái mộc mạc (đôi khi là thô mộc) được thể hiện rõ

nét hơn, thơ của anh đậm chất quê nhưng lại rất ám ảnh, bởi sự hoang dại

bản năng. Điều đó vừa làm nên sự khác biệt vừa làm nên sự thành công của

thơ anh.

Theo như chúng tôi khảo sát, thì trong thơ Đồng Đức Bốn, yếu tố dân

gian là đậm đặc: tiếng vạc, con sáo, chân lấm tay bùn, cấy lúa, tiếng gà,

giọt mưa sa, bếp lửa, buông neo, hoa cà, thân cò, chín xu, một hào, cào

cào, sông sâu, mái đình, con đò, cây đa, đường quê...

Hệ thống thi liệu mang tính chung, phổ biến ấy qua tâm hồn nhà thơ

đã trở nên hết sức sống động và ám ảnh, không những thế nó còn tạo nên

một phong cách riêng của Đồng Đức Bốn mà không lẫn với bất cứ một

phong cách thơ nào khác. Nếu không có biết bao nhà thơ cứ lấy thi liệu dân

gian làm thi liệu cho thơ ca của mình đều sẽ thành công sao. Chúng ta hãy

cùng đọc những câu thơ của anh để thấy cái chất "riêng" ấy:

Chín xu đổi lấy một hào

Đi mua cái nắng lại vào cái mưa

(Chín xu đổi lấy một hào)

Từ một câu nói dân gian, Đồng Đốn Bốn đã có một câu thơ đầy chất

triết lí sâu xa. Rồi là những khung cảnh quen thuộc nơi làng quê cũng hiện

ra trong thơ anh với vẻ tự nhiên vốn có:

- Tưởng rằng gió đến xôn xao

61

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH

Không ngờ hai chú cào cào đánh nhau

.............

Lập lòe dưới gốc cây dừa

Thuyền ai đốt lửa khi vừa buông neo

(Viết ở bờ sông)

- Lúa mùa chin chín trong sương

Chơi vơi giữa một trời hương tiếng gà

Chuông chùa đếm giọt mưa sa

Thơ tôi nhặt cái người ta vẫn buồn

(Nhà quê)

Rồi là những hình ảnh đã trở thành biểu tượng trong ca dao, dân ca đã

mang tính đa chiều hơn trong thơ Đồng Đức Bốn:

- Tẽn tò con sáo sang sông

Bờ bên này tưởng cũng không có gì

Tẽn tò con sáo bay đi

Lại bờ bên ấy có gì cũng không

(Con sáo sang sông)

- Bây giờ quanh cây trúc xinh

Vẫn còn những bướm rập rình bay đôi

Chênh vênh bên cái dốc người

Biết đâu gặp lại một trời thi ca

(Mây núi Thái Hàng còn giông)

- Chuông chùa tiếng đục tiếng trong

Thảo nào cát bụi long đong thân cò

Bờ sông có một con đò

Gác chèo ông lái nằm lo trăng buồn

(Viết ở bờ sông)

Giọng điệu văn chương là một phạm trù thẩm mỹ của tác phẩm văn

học. Giọng điệu là biểu hiện thái độ, lập trường, cảm xúc, thị hiếu thẩm mỹ

62

Luận văn thạc sĩ

Nguyễn Quốc Khánh của nhà văn. Về bản chất, giọng điệu là hiện tượng siêu ngôn ngữ học,

không tồn tại như một yếu tố riêng lẻ mà toát ra từ bản thân tác phẩm mặc

dù nó biểu hiện qua lời văn nghệ thuật. Do giọng điệu toát ra từ bản thân

tác phẩm nên giọng điệu phải được nhìn nhận từ cách tổ chức các sắc điệu.

giọng điệu văn chương khác với ngữ điệu. ngữ điệu là hiện tượng của câu,

có chức năng biểu cảm trong phạm vi chuẩn ngôn ngữ. giọng điệu văn

chương lại là hiện tượng siêu ngôn ngữ học và nó phụ thuộc vào cấu trúc

nghệ thuật của tác phẩm, khuynh hướng nghệ thuật tác giả và thời đại. Dấu

ấn địa phương có ảnh hưởng đến giọng điệu nhưng là giọng điệu trong

cuộc sống; Giọng điệu văn chương là phạm trù thẩm mỹ của tác phẩm văn

học. Những nhân tố chi phối giọng điệu là: Quan niệm nghệ thuật của nhà

thơ, số phận cá nhân và cái tôi trữ tình với tư cách là một hiện tượng nghệ

thuật độc đáo. Những nhân tố cấu thành và biểu hiện giọng điệu là: Điệu

cảm xúc (các dạng cảm xúc được hình thức hoá), ngữ điệu thơ (cách tổ

chức lời thơ, hình tượng và các mô típ nghệ thuật).

Khảo sát giọng điệu thơ nhìn từ việc tổ chức các sắc điệu, chúng tôi đi

tới kết luận: Giọng chính trong giọng điệu thơ Đồng Đức Bốn là giọng thở

than tê tái. Giọng thơ này có cơ sở từ tâm hồn chủ thể trữ tình có điệu buồn

đau tê tái. Giọng thở than tê tái mang sắc thái lỡ dở, ngang trái tạo thành

miền khí hậu riêng trong thơ Đồng Đức Bốn. Giọng thơ của thi sĩ họ Đồng

mang sắc thái dân gian hiện đại, một phần còn do kế thừa sắc điệu của thơ

ca dân gian, cụ thể là kế thừa điệu than trong ca dao (than thân). Nội dung

cảm xúc trong ca dao than thân là xót thương, hờn oán do người lao động

xưa phải chịu những bất hạnh, bất công trong xã hội phong kiến. Điệu than

trong ca dao trữ tình có hình thức chất liệu là lối kể tâm trạng kết hợp với

kể hành động của nhân vật trữ tình. Bên cạnh lối kể còn có lối than vãn với

các thủ pháp như biểu cảm trực tiếp bằng thán từ, lối trầm trọng hoá, cường

điệu hoá. Về cách tổ chức ngữ điệu, ca dao than thân có lối tổ chức câu độc

đáo: Hay sử dụng loại câu hỏi tu từ để thở than; Kiểu câu định nghĩa (Danh

63

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGUYỄN QUỐC KHÁNH từ là danh từ) để lý giải thân phận khi than thở. Sử dụng thể thơ lục bát ca

dao than thân sử dụng loại tiết điệu, nhịp điệu trục trặc để than vãn. biện

pháp tu từ so sánh theo xu hướng cụ thể hoá cũng được sử dụng trong việc

tổ chức lời thơ. Hình tượng nghệ thuật trong loại ca dao này thường là sự

vật nhỏ bé mong manh để biểu tượng cho số phận côi cút. Là nhà thơ

đương đại, Đồng Đức Bốn cũng kế thừa cách tổ chức sắc điệu buồn của các

nhà thơ đàn anh trong phong trào Thơ mới như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn

Mặc Tử và đặc biệt là nhà thơ chân quê Nguyễn Bính. Trong thơ Nguyễn

Bính nội dung cảm xúc là nỗi sót thương, hờn oán. Bao trùm thơ Nguyễn

Bính là nỗi đau lỡ dở, Nguyễn Bính thiên về kể cái sự lỡ dở mà nét đặc

trưng là trần thuật, tái hiện sự kiện, tình huống nhưng có hạn chế là hay sa

đà vào kể nên bài thơ dễ dông dài, nhạt nhẽo. Sử dụng lối than vãn để tạo

giọng thơ buồn chán lỡ dở, nhà thơ chân quê cũng hay dùng thán từ với tần

xuất cao. Lối nói đay đả, chì chiết cho lời than lâm li hơn.

Đồng Đức Bốn đã kế thừa ca dao và thơ mới trong diện mạo sắc điệu,

tạo dựng giọng điệu thở than tê tái. Cụ thể là sử dụng điệu than. Nội dung

cảm xúc trong thơ Bốn ở giọng này là nỗi buồn đau và cả hờn oán riêng tư

nhưng được kìm nén nên tê tái, hậm hực. Cũng kế thừa lối kể của ca dao và

Nguyễn Bính nhưng thiên về kể tâm trạng, ít kể sự việc, hành động và

không ham kể đến mức quá đà như nhà thơ chân quê đàn anh. Nhà thơ kể ít

mà gợi nhiều. Sử dụng lối nặng nề hoá, cường điệu hoá của ca dao và Thơ

mới, thi sĩ đất cảng sáng tạo ở chỗ nhân thêm mức độ qua những giả định

cực tả. Khác với lối đay đả, chì chiết của ca dao, Đồng Đức Bốn không

hướng vào đối tượng cụ thể nên có tính khái quát và đậm màu sắc triết lí,

có tính độc thoại để tạo nên đối thoại ngầm là nét độc đáo trong điệu than

Đồng Đức Bốn. Kế thừa kiểu câu định nghĩa trong ca dao và thơ mới nhà

thơ cũng tổ chức kiểu câu “Danh từ là danh từ” và sáng tạo ở chỗ tạo ra

nhiều biến thể làm cho giọng than tăng thêm tính lí sự. Về giọng điệu thơ,

nếu Nguyễn Bính sử dụng cả hai loại lục bát điệu ngâm và điệu nói thì

64

Luận văn thạc sĩ

Nguyễn Quốc Khánh Đồng Đức Bốn lại chuyên chú sử dụng lục bát điệu nói, phá vỡ các nhịp

điệu nhẹ nhàng êm ái chuyển sang nhịp điệu trục trặc tắc nghẽn để diễn tả

nỗi buồn đau oán hận bị kìm nén. Những câu lục bát phá cách của thi sĩ họ

Đồng tự nhiên hơn những câu thơ phá cách điêu luyện nhưng còn bộc lộ

yếu tố kỹ thuật của thi sĩ đàn anh Nguyễn Bính. Để tổ chức ngữ điệu nhà

thơ cũng phát huy lối láy, lối lặp dán cách của ca dao và lối láy liên tiếp

của Thơ mới; Sử dụng với tần xuất cao các hình tượng nhỏ bé biểu tượng

cho thân phận lam lũ. Suy cho cùng giọng điệu thở than, tê tái trong thơ

Bốn mang nhiều ý nghĩa nhân văn.

Chúng ta thấy rằng, sắc thái giọng điệu trong thơ Đồng Đức Bốn là

một trong những yếu tố tạo nên sức sống của thơ anh. Từ giọng điệu đến

thi liệu, Đồng Đức Bốn đã kế thừa triệt để những tinh hoa của ca dao

truyền thống và làm nên một phong cách thơ đặc trưng của mình. Một nghệ

sĩ tồn tại được, có nghĩa là tác phẩm của họ không giống với bất cứ ai, một

mình họ tạo nên một phong cách, một sắc thái riêng và Đồng Đức Bốn đã

làm được điều đó.

65

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH

CHƢƠNG 3

Yếu tố ca dao trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn

trên bình diện hệ thống đề tài

Hiện thực được phản ánh trong kho tàng ca dao chủ yếu là thiên nhiên

và cuộc sống sinh hoạt của người dân nơi làng quê. Đề tài về làng quê

trong thơ Đồng Đức Bốn cũng chiếm phần lớn những sáng tác thơ ca của

anh. Điều này một lần nữa khẳng định Đồng Đức Bốn đã tiếp nối dòng

chảy của quá khứ và sáng tạo cho mình một không gian thơ riêng vừa mang

đậm những yếu tố truyền thống vừa mang phong cách và hơi thở của thời

đại.

3.1 Thiên nhiên nơi thôn quê

Đồng Đức Bốn đã từng thổ lộ:

Bao nhiêu là thứ bùa mê

Cũng không bằng được nhà quê của mình

(Gửi Tân Cương)

Hai câu thơ trên đã thể hiện tình yêu đối với quê hương của Đồng Đức

Bốn. Anh viết về rất nhiều mảng đề tài khác nhau như cuộc sống chốn thị

thành (Chiều mưa phố Huế, Một thoáng đường Trung Tự, Hồ Tây… ),

nhưng gây ấn tượng nhất vẫn là những gì thuộc về chốn “nhà quê”. Cảnh

quê trong thơ Đồng Đức Bốn chỉ được anh phác họa bằng những nét vẽ

đơn giản nhưng rất chân thực và sinh động gắn với những lam lũ và khốn

khó. Như bao làng quê Bắc Bộ khác là mái gianh nghèo xơ xác mà đầm

ấm, là những con ngõ nhỏ với hoa tầm xuân, hoa râm bụt... Rồi khi ra đến

những con đường quê ngày nắng thì gan góc, ngày mưa thì lầy lội ấy vậy

mà hai bên đường lúc nào cũng đầy ắp những hoa thơm cỏ lạ của chốn quê

mùa. Phía xa là dòng sông quê với những con đò quê như chiếc lá tre thanh

mảnh chở khách qua sông sang với bờ bãi bên kia nơi có những cánh diều

66

Luận văn thạc sĩ

Nguyễn Quốc Khánh no gió. Nói đến quê cũng không thể thiếu những phiên chợ quê với những

cảnh trao đổi, bán mua đạm bạc gắn với cuộc sống bao đời nay của những

cư dân thuộc nền văn minh lúa nước. Và một phần không thể thiếu là con

vật gần gũi nhất với người quê bởi chúng mang kiếp bạc, long đong: con

cò, con cuốc, con ve, con sáo (sang sông)... Nhưng có khi chỉ là những con

vật ngộ nghĩnh, đáng yêu như: đàn chim sẻ, tiếng chim hoạ mi, cào cào áo

xanh áo đỏ... Tuy nhiên trong sáng tác của mỗi nhà văn những hình ảnh này

lại mang dáng dấp, sắc màu và hồn vía khác nhau.

Thiên nhiên nơi thôn quê bao giờ cũng đẹp và thanh bình, ở nhiều

sáng tác của các nhà thơ khác cũng vậy, nhưng đến Đồng Đức Bốn ta thấy

có một cái gì gai góc, ám ảnh trong những vần thơ của anh, đó chính là cái

độc đáo của Đồng Đức Bốn. Nhưng tựu trung vẫn là những khung cảnh

thanh bình và nên thơ.

3.1.1 Đường quê

Những con đường quê trong thơ Đồng Đức Bốn là những con đường

gập ghềnh sỏi đá, cũng có khi lại lầy lội trong những ngày mưa gió:

Đường bùn tôi lội giữa trưa

Đắng cay thì ngậm xót chua thì cầm

(Chín xu đổi lấy một hào)

Bên những con đường ấy không còn những thảm cỏ xanh và muôn

vàn loài hoa dại đua nhau khoe sắc mà là những lều quán tạm bợ được

dựng nên tạo ra cảm giác chật hẹp:

Lề đường trong những chiếc lều

Có cô hàng xén ngồi vêu cả ngày

(Chờ đợi tháng ba)

Không phải là bóng dáng con đường quen thuộc "ngõ trúc quanh co,

khách vắng teo", "đường thôn xanh thẫm một loài cỏ non", "hoa xoan lớp

lớp rụng vơi đầy", tất cả dường như có cái gì đổi khác, có cái gì đó như là

67

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGUYỄN QUỐC KHÁNH một dự cảm về cuộc đời nhiều chông gai, khó khăn. Đường quê hiện ra như

là đường đời, nó éo le, thảm thương...

3.1.2 Cánh đồng với mưa, nắng, gió chốn nhà quê

Nhà thơ Đồng Đức Bốn đã khái quát về đồng đất chốn quê nhà:

Câu ca mẹ hát như đùa

Mà làm nước mặn đồng chua đổi đời

(Câu ca mẹ hát như đùa)

ở vào từng thời điểm khác nhau cánh đồng ấy lại có một diện mạo

riêng. Đó là lúc cánh đồng thảnh thơi khi lúa má đã gặt xong chỉ còn sót lại

chút ít rơm rạ cho bầy trẻ trâu tội nghiệp:

Chăn trâu đốt lửa trên đồng

Rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều

(Chăn trâu đốt lửa)

Nhưng ở rất nhiều bài thơ của Đồng Đức Bốn là cánh đồng hiện lên

trong mùa mưa bão, với cảnh lam lũ của người dân quê. Đó là cánh đồng

mẹ đi cất vó với bước chân liêu xiêu:

Tôi còn nhớ một cánh diều

Mẹ đi cất vó lội xiêu gió đồng

(Nhớ một dòng sông)

Là cánh đồng ngập tràn nước lũ:

ối mẹ ơi đê vỡ rồi

Đồng ta trắng xoá cả trời nước trong

(Vỡ đê)

Sở dĩ mà những cách đồng quê phải hứng chịu những tai biến đó là

bởi “cái nắng, cái gió” nơi quê nhà của anh cũng rất khắc nghiệt. Khi nhớ

về mối tình cũ, Đồng Đức Bốn có nhắc đến một thứ nắng rất dịu nhẹ:

Vẫn còn trong nắng thấp tho

Tôi và em xuống con đò ban mai

(Qua nhà người yêu cũ)

68

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh

Trong khi đó mùa hạ là những trận mưa rào (Đêm qua đổ trận mưa

rào) và đặc biệt là cảnh vỡ đê đầy tang thương:

Trâu bò thất thểu long đong

Trên bè tre rối bòng bong xoong nồi

(Vỡ đê)

Đọc thơ anh người ta có cảm giác gió mưa như một thứ định mệnh

vừa có thể biết trước, vừa không thể dứt bỏ hay trốn chạy được nó:

Chốc nữa thể nào cũng giông

Sang đò tôi đến giữa đồng là mưa

(Đi đò)

Thế nhưng cũng có lúc Đồng Đức Bốn nhớ về cánh đồng quê trong

mùa thu khi cơn gió heo may thổi một trời heo may:

Hãy về đây với bến sông

Với tôi ở giữa cánh đồng heo may

(Hãy về đây với bến sông)

Hay sự lãng mạn của một thi sĩ:

Bên nhà núi đã theo sông

Anh ngồi uống cả cánh đồng heo may

(Anh ngồi uống cả cánh đồng heo may)

Trong ca dao cũng không thiếu sắc thái lãng mạn:

Trên trời mây trắng như bông

ở dưới cánh đồng bông trắng như mây

Ba cô má đỏ hây hây

Đội bông như thể đội mây về làng

(Ca dao)

Cái dự cảm về những rủi ro thiên tai và những khó khăn mà thiên

nhiên đã gây cho con người thì ở thơ Đồng Đức Bốn gần giống với ca dao:

Người ta đi cấy lấy công

Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề

69

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH

Trông trời trông đất trông mây

Trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm

(Ca dao)

Thiên nhiên trong thơ Đồng Đức Bốn rất gần gũi với những người dân

quê nhưng nó phong phú đa dạng và nhiều màu sắc hơn.

3.1.3 Trăng, sao chốn nhà quê

Từ căn nhà tồi tàn và những rào giậu, lối ngõ chật hẹp ấy người dân

quê vẫn hướng lên trời tìm kiếm ánh sáng của trăng sao như một phép màu

từ một thế giới tưởng tượng. Trong một bài thơ viết khi xa xứ Đồng Đức

Bốn không chỉ nhớ đến ngõ quê mà còn gắn liền nó với một thực thể khác

đó là trăng quê :

Tôi từ ngõ nhỏ ra đi

Gặp trăng trên sóng những khi rất buồn

(Tôi từ ngõ nhỏ ra đi)

Bởi khi còn ở quê mình anh đã gặp vầng trăng ấy:

Không em ra ngõ kéo diều

Nào ngờ được mảnh trăng chiều trên tay

(Sông Thương ngày không em)

Vầng trăng nơi quê nhà là mảnh trăng bị chém đứt trong “Cái đêm em

ở với chồng” bằng “tiếng vạc” thảm thương:

Ngang trời tiếng vạc mảnh mai

Chém trăng đã đứt làm hai mảnh rồi

(Cái đêm em ở với chồng)

Nhưng trước khi gặp phải những tổn thương ấy vầng trăng quê vẫn là

trăng của những tâm hồn thơ trẻ (Mồng một lưỡi chai, mồng hai lá lúa,

mồng ba câu liêm, mồng bốn lưỡi liềm… ):

Nếu không trả được bằng tiền

Tôi lấy trăng liềm làm bím tóc cho

(Tìm em ở bến sông Mê)

70

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh

Trong một trường hợp khác “trăng liềm” hay trăng cong ấy lại khiến

người đọc nhớ đến câu thành ngữ: “Mượn gió bẻ măng”. Tác giả thay búp

măng ấy bằng trăng:

Tôi giờ còn có ai mong

Mà người mượn gió bẻ cong trăng ngà

(Đời tôi)

“Trăng” quê mảnh mai là vậy còn những ánh “sao” quê trong thơ

Đồng Đức Bốn là những “sao dột”, “sao rơi”: Sao rơi cháy cả đôi bờ / Mà

anh thì cứ bơ vơ giữa trời; Đêm nằm sao dột tứ tung. Nhìn chung, trăng ở

thời điểm nào cũng đẹp, cũng đem đến cho con người nhiều cảm xúc, trăng

giúp cho cuộc sống thi vị hơn, ngay cả cuộc sống vất vả mà đan cài ánh

trăng cũng trở nên nhẹ nhàng, đầy lạc quan:

Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi

(Ca dao)

Trăng sao trong thơ Đồng Đức Bốn thường gợi những cảm giác cô

đơn, lẻ loi nên toàn là mảnh trăng, trăng buồn... đó là tâm trạng và nỗi niềm

của thi sĩ.

3.1.4 Những cánh diều quê

Với Đồng Đức Bốn cánh diều không mang lại sự phóng khoáng,

rộng mở cho không gian mà bao giờ cũng gắn với những tình huống khá

đặc biệt:

Không em ra ngõ kéo diều

Nào ngờ được mảnh trăng chiều trên tay

(Sông Thương ngày không em)

Hay:

Mải mê đuổi một con diều

Củ khoai nướng để cả chiều thành tro

(Chăn trâu đốt lửa)

71

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH

Một anh mang nặng chữ yêu

Một em nối gió cho diều lên cao

(Hoang vắng)

Cánh diều của Đồng Đức Bốn là cánh diều trong những tình huống trớ

trêu, éo le, bởi thế lúc nào nó cũng là cánh diều đứt của cái phiêu lưu bất

thành. Thậm chí nó còn là cánh diều tái tê, dường như thiên nhiên trong thơ

anh là thiên nhiên được nhìn từ một tâm hồn luôn đau đáu với nỗi khổ cực

mà nông dân phải chịu. Ngoài ra, thiên nhiên còn biểu hiện những tâm tư,

cảm xúc cá nhân của nhân vật trữ tình. Cánh diều trong thơ anh là minh

chứng điển hình cho điều đó.

3.1.5 Sông quê, đò quê

Hình ảnh dòng sông và con đò rất phổ biến trong ca dao, không chỉ là

hình ảnh thiên nhiên mà nó còn biểu hiện bao tâm tư, tình cảm của nhân

dân ta xưa:

Thuyền về có nhớ bến chăng

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền

(Ca dao)

Ba hình ảnh quen thuộc: cây đa, bến nước, con đò vẫn xuất hiện trong

thơ anh nhưng hiện lên bằng một nhịp sống rất nhanh:

Cây đa mong chuyến đò ngang

Đò ngang nhớ gió rộn ràng qua sông

(Đã đành ngang dọc sơn hà)

Sông quê trong thơ anh là “sông mưa” với nỗi thất vọng khi mong

ngóng người tình :

Sông mưa tầm tã trong chiều

Tôi ngồi tôi đợi người yêu tôi về

Tôi ngồi đợi chán đợi chê

Người yêu tôi vẫn chưa về sông mưa

(Viết ở bờ sông)

72

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh

Là con sông lắng đọng phù sa:

Sông giờ đã lắng phù sa

Sao mà cây cải nở hoa vẫn buồn

Nỗi buồn ấy có thể cảm nhận được bằng xúc giác khi nó hiện hữu như

thân bèo trôi dạt:

Vớt buồn trên mặt sông trôi

Bây giờ vẫn chỉ mình tôi giữa dòng

(Sang sông)

Dòng sông buồn ấy cũng là dòng sông đầy gai góc:

Là sông cứ tưởng mình dài

Hoá ra cũng chỉ bằng hai con sào

Đã nông lại lắm gai rào

Tưởng trong sạch thế làm sao vẫn bùn

(Đi qua bến lở sông bồi)

Nói đến sông quê cũng là để gợi một đêm đợi đò trên dòng sông cấm

giữa một trời đêm tê tái của người tình:

Cái đêm em ở với chồng

Để ai hoá đá bên sông đợi đò

(Cái đêm em ở với chồng)

Cùng với hình ảnh con đò quê ấy là những lúc anh muốn thâu tóm

tất cả thế giới này để không mất đi tiếng hát của cô gái như níu giữ một

con đò tình:

Sông sâu nước cả em ơi

Từ trong câu hát ai người biết cho

Rút trăng buộc lại con đò

Thu lời em hát chỉ cho riêng mình

(Đêm sông Cầu)

Đồng Đức Bốn có những câu thơ nói về con đò đầy mĩ cảm gợi cho ta

nghĩ đến con thuyền trong Đường thi:

73

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH

Lập loè dưới gốc cây dừa

Thuyền ai đốt lửa khi vừa buông neo

(Viết ở bờ sông)

Nhưng đằng sau tất cả vẻ đẹp ấy vẫn là một dòng sông và con đò

mang màu sắc tâm trạng. Nơi mà sớm chiều anh vẫn đi về:

Bây giờ sông hoá lưỡi cưa

Để tôi đi sớm về trưa nát lòng

(Sang sông)

Ta vẫn thấy phảng phất trong thơ anh một điều gì đó mong manh, lẻ

loi, buồn lặng, dường như đó là cái không khí chung hầu hết các sáng tác

của Đồng Đức Bốn.

3.1.6 Đình quê, chùa quê

Cảnh sắc làng quê trong thơ Đồng Đức Bốn cũng được tô điểm bằng

những nét truyền thống như đình làng, trúc mọc sân đình, giếng đình.

Những hình ảnh này luôn gắn với những cuộc giao duyên tình tự:

Câu thơ nấp ở sân đình

Nhuộm trăng trăng sáng nhuộm tình tình đau

(Cuối cùng vẫn còn dòng sông)

Khi nói đến sự “lây nhiễm tình yêu” của thơ mình với làng quê, anh

cũng mượn hình ảnh trúc:

Bài thơ anh viết cho mình

Mà cây trúc mọc sân đình tương tư

(Gai rào ngõ quê)

Từ hình ảnh cây trúc (hình ảnh mang tính tả thực) đứng bờ ao trong ca

dao đến hình ảnh cây trúc tương tư của Đồng Đức Bốn là cả một chặng

đường đổi mới:

Trúc xinh trúc mọc bờ ao

Em xinh em đứng nơi nào cũng xinh

(Ca dao)

74

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh

Hay giếng đình là nơi gặp gỡ của người dân quê trong đời sống sinh

hoạt (khi mọi người ra giếng lấy nước), Đồng Đức Bốn có cả một câu lục

bát để nói về hai sự vật đó:

Không em trúc vẫn sân đình

Không tôi giếng vẫn in hình núi cao

(Về lại chốn xưa)

và cũng là nơi cô gái quê thể hiện vẻ kiêu sa của mình:

Nhà quê có cái giếng đình

Trúc xinh cứ đứng một mình lẳng lơ

(Nhà quê)

Nhưng ở một bài thơ khác “trúc xinh” (Cây trúc xinh) lại là một hình

ảnh thật góp phần tạo nên cảnh sắc quê mùa: Bây giờ bên cây trúc xinh /

Vẫn còn những bướm rập rình bay đôi.

Với Đồng Đức Bốn đình quê và chùa quê không chỉ gần gũi về

khoảng cách địa lý mà còn cả sự gần gũi về không gian tâm linh. Chả thế

mà anh đã từng là vị xứ giả của hai thế giới ấy: Mải mê ngồi dựa cột đình /

Nghe sư gõ mõ tụng kinh chiều chiều. Hình ảnh chùa chiền đầu tiên được

nhắc đến trong đó chính là ngôi chùa trong đêm vắng nơi có sợi tơ nhện

giăng đến cửa chùa thì tan, nó chính là một biến thể của ngôi đền tình ái:

Cái đêm hôm ấy gió mùa

Tơ nhện giăng đến cổng chùa thì tan

(Cái đêm em ở với chồng)

Đồng Đức Bốn cũng nhận ra cái nghèo đói, tiều tuỵ đã thâm nhập vào

cả nơi cửa Phật khi thấy thiếu vắng cả tiếng chuông chùa vào mùa giáp hạt:

Tháng ba vắng tiếng chuông chùa; Còn anh đợi chán đợi chê / Vẫn câu lục

bát tái tê của nghèo; Câu thơ ngã xuống đổ xiêu mái chùa… Bởi thế:

Miếu thờ phật tượng ngồi đau

Cửa thiền rêu đã lên mầu cổ xưa

(Chờ đợi tháng ba)

75

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH

Nhiều bài trong thơ anh là nỗi xót xa, đồng cảm với thân phận của

những con người lao khổ mà anh gặp hay có lúc là anh liên tưởng đến họ ở

chốn chùa chiền:

Chuông chùa tiếng đục tiếng trong

Thảo nào cát bụi long đong thân cò

(Viết ở bờ sông)

Đồng Đức Bốn lại có những lúc gần gũi với cửa Phật một cách suồng

sã mà vẫn có phần kính nể. Sự sám hối đúng lúc ấy giúp anh không trở

thành một kẻ vô đạo:

Vào chùa gọi bụt bằng anh

Bỗng đâu sấm nổ tan tành trên không

(Vào chùa)

Tóm lại, trong thơ Đồng Đức Bốn, đình quê, chùa quê vẫn là nơi con

người tìm đến sự thanh thản, vẫn là chốn tâm linh thiêng liêng nhưng trong

con người anh luôn đau đáu về nỗi khổ cực của bao con người còn lam lũ

kiếm từng miếng ăn, nên nhiều khi những bài thơ viết về chùa chiền lại thể

hiện một cái nhìn thật nhân ái của anh về cuộc đời.

3.1.7 Mái nhà và mảnh vườn quê

Mái nhà quê trong thơ Đồng Đức Bốn cũng là mái gianh nghèo đã chở

che cho tuổi thơ anh lớn lên trong gian khó. Bởi thế nên khi xa quê cái màu

nâu xám ấy lại như một ngọn lửa nhỏ giúp anh nhận ra hơi hướng quê nhà:

Đi biển thì nhớ non xanh

Xa xứ lại nhớ mái gianh quê nhà

(Gió như Phật vẫn ngồi tu tháng ngày)

Người sống ở sơn khê khi gặp sóng bạc đầu thì nhớ về non xanh còn

kẻ xa xứ (quê người) như Đồng Đức Bốn lại nhớ mái gianh (quê mình) bởi

dưới mái nhà xơ xác ấy vừa có cái “đồng cam cộng khổ” của những người

dân quê lại vừa đầy ắp những ước mơ:

Nhà bạn cũng giống nhà tôi

76

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh

Mái gianh vách đất nhìn trời qua vung

Đêm nằm sao dột tứ tung

Tưởng đâu nước mắt người dưng lại về

(Nhà quê)

Nếu như trong thơ Nguyễn Bính quan hệ làng xóm bao giờ cũng mang

màu sắc luyến ái khi nhịp cầu bên kia phải là một “cô”, một “nàng” nào đó:

Nhà nàng ở cạnh nhà tôi (Người hàng xóm); Qua bên nhà thấy bên nhà

vắng teo (Qua nhà); Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông / Cau thôn Đoài nhớ

giầu không thôn nào (Tương tư)... Thì với Đồng Đức Bốn, chúng ta có thể

tưởng tượng ra cảnh hai người bạn nối khố nằm vắt tay lên trán cùng nhìn

lên mái nhà xơ xác với bốn bên vách đất im phăng phắc, ánh sao rớt xuống

ngập đầy gian nhà quê vắng vẻ. Những căn nhà "mái gianh vách đất" mùa

giáp hạt chỉ có những ngọn khói “mọc ngang” dật dờ của những lần nổi lửa

nấu bữa cầm hơi:

Khói nhà ai cứ mọc ngang

Con nhà ai cứ lang thang chợ chiều

(Chờ đợi tháng ba)

Vườn quê trong thơ Đồng Đức Bốn đôi khi chỉ là những hình ảnh

thoảng qua, chứ không ghi dấu ấn đậm nét trong tâm trí:

Xéo gai anh chẳng sợ đau

Bởi yêu ruộng lúa vườn cau trước nhà

(Xéo gai anh chẳng sợ đau)

Giữa các ngôi nhà quê là những hàng rào quê thanh mảnh, được tô

điểm bằng những thứ cây thanh nhã như cây rau, cây thuốc hay một vài

loài hoa: mồng tơi, cúc tần, tầm xuân, râm bụt... Còn trong thơ của thi sĩ

đất cảng này những bờ rào chỉ có những loài cây nghèo nàn:

Khổ thân cho cả bờ rào

Dây tơ hồng héo quắt vào mùa thu

(Cơn mưa dừng ở Sóc Sơn)

77

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH

Thậm chí những hàng rào quê của anh còn được rào bằng những thứ

gai góc “gai rào ngõ quê” nên mới có cảnh anh xót xa cho người con gái:

Chạy mưa không chạy qua rào

Sao áo em bị gai cào rách lưng

(Chạy mưa không chạy qua rào)

3.1.8 Cây cối, hoa, cỏ nhà quê

Hình ảnh mà chúng ta vẫn thường thấy ở những vùng nông thôn cũng

hiện ra thật hiền hòa gần gũi trong thơ Đồng Đức Bốn. Đó là cây đa đầu

làng như một dấu mốc quan trọng để nhận ra làng quê từ phía xa:

Bây giờ chờ đợi tháng ba

Tôi ra đứng ở cây đa đầu làng

(Chờ đợi tháng ba)

Những bụi tầm xuân trong những câu ca dao tình tứ cũng xuất hiện

trong thơ anh:

Vẫn còn thấy bụi tầm xuân

áo em phơi để nhạt dần nắng trưa

(Qua nhà người yêu cũ)

Ta dễ liên tưởng đến cái màu hoa tầm xuân "định mệnh" trong ca dao:

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc

Em có chồng anh tiếc lắm thay

(Ca dao)

Nhưng bên cạnh đó là những thứ cây gai góc, chống chịu được mọi

thời tiết mọc lên từ thứ đất cằn sỏi đá. Đó là: tre, rứa, dong riềng, “bồ kết

lắm gai”, xương rồng:

- Bờ tre bụi rứa tan rồi Cuốc kêu ai biết cho lời cuốc đâu

(Cuốc kêu)

- Thập thò trong bụi tre gai Hoa dong riềng của nhà ai nở hồng ...

78

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh

Cánh hoa sắc một lưỡi dao Vì yêu tôi cứ cầm vào như không

(Hoa dong riềng)

- Em như bồ kết lắm gai Mà hương vẫn để tóc ai gội đầu

(Cây bồ kết lắm gai)

Những thứ cây mọc trên mảnh đất nhà quê trong thơ Đồng Đức Bốn

còn gợi sự tàn úa, muộn màng. Đó là cây cải ra ngồng đơm hoa:

Mỗi lần cây cải nở hoa

Thì tôi lại nhớ người ta chưa về

(Chuông chùa kêu trong mưa)

Là cây lúa nghẹn đòng:

Bần thần tôi đứng nhìn ra

Khổ thân cây lúa tháng ba nghẹn đòng

(Cơn mưa dừng ở Sóc Sơn)

Thậm chí là những thứ cây dại nở ra những bông hoa cho riêng mình:

Chỉ cần cây dại nở hoa

Là tôi có được khúc ca tính tình

(Không đề)

Nhưng có thể thấy dưới những tán cây khô cằn ấy lại là một thế giới

của cỏ dại làm tươi lại mảnh đất quê, như xoa dịu đi những nỗi đau:

Nói đến cây cỏ nơi làng quê của Đồng Đức Bốn không thể không nhắc

đến một thứ cây kì lạ không có tên gọi về chủng loại, hình hài và màu sắc

cụ thể nhưng có cảm giác nó luôn rình rập ở khắp mọi nơi trên mảnh đất

quê đó là gai:

Chạy mưa không chạy qua rào

Sao áo em bị gai cào rách lưng

(Chạy mưa không chạy qua rào)

Gai cũng nằm cả dưới đáy những dòng sông:

Đã nông lại lắm gai rào

Tưởng trong sạch thế mà sao vẫn bùn

79

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH

(Đi qua bến lở sông bồi)

Trong thơ Đồng Đức Bốn những cây cỏ không còn bé bỏng, cam chịu

như trong ca dao:

Thân em như ớt trên cây

Càng tươi ngoài vỏ càng cay trong lòng

(Ca dao)

Những cành cây, ngọn cỏ trong thơ anh dường như gai góc hơn, sống

mạnh bạo hơn, nó làm cho những vần thơ của anh như có vết trầy xước,

phải chăng điều đó thể hiện quan niệm về một cuộc sống nhiều nỗi lo,

nhiều nguy cơ của anh.

3.1.9 Những con vật gần gũi với người dân quê

Thế giới các loài vật nơi làng quê khi thì là những con vật mang số

kiếp long đong, thảm thương như một biểu tượng cho thân phận người dân

quê. Bên cạnh đó là những con vật ngộ nghĩnh đem lại những niềm vui nhỏ

bé cho đời sống tâm hồn người dân quê.

Những con vật mang số kiếp long đong và thảm thương trong thơ

Đồng Đức Bốn hay nhắc đến là những cánh chim đơn lẻ, cô quạnh, tẽn tò

và mệt mỏi. Là những con vật hiền lành rơi vào hoàn cảnh trớ trêu như khi

vỡ đê, nước ngập trắng xoá cánh đồng. Tất cả đều được xây dựng từ chất

liệu quê. Đó là cánh vạc trong đêm lạnh:

Ngang trời tiếng vạc mảnh mai

Chém trăng đã đứt làm hai mảnh rồi

(Cái đêm em ở với chồng)

Thì ở trong ca dao ta cũng thường thấy:

Cá cắn câu biết đâu mà gỡ

Chim vào lồng biết thuở nào ra

(Ca dao)

Hoặc:

Ai xui con sáo sang sông

80

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh

Để cho con sáo sổ lồng bay xa

(Ca dao)

Là những con vật phải chịu chung thiên tai cùng với con người:

Trâu bò thất thểu long đong

Trên bè tre rối bòng bong xoong nồi

(Vỡ đê)

Nhưng có khi những con vật ấy lại mang một sắc thái khác đó là sự

sắc nhọn tột cùng. Chẳng hạn như tiếng ve ngày nắng hạ:

Tiếng ve xé nát đôi bờ

Chợ Thương để nắng bơ phờ trên sông

(Chợ Thương)

Còn những con vật ngộ nghĩnh, thân thuộc lại gợi niềm vui với người

dân quê.

Đó là hai chú cào cào gây xao xác cả một vùng cỏ dại:

Tưởng rằng gió đến xôn xao

Không ngờ hai chú cào cào đánh nhau

(Viết ở bờ sông)

Là những loài chim hiền lành, thản nhiên bay nhảy như không hề biết

đến một cuộc đời đầy giông bão:

Mỗi lần cỏ dại trên đê

Chim ngói đi thả bùa mê khắp đồng

(Chuông chùa kêu trong mưa)

Rồi đến những con vật mang đến âm thanh của tình yêu và nỗi nhớ:

Hàng ngày nghe tiếng hoạ mi

Là anh nhớ lại những khi chúng mình

(Gửi những ngày em ốm)

Và điều đặc biệt là một tiếng chim đánh thức những niềm hi vọng:

ở trong những bụi gai tre

Vẫn còn những tiếng chích choè gọi mưa

81

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH

(Đi tìm lại những lời ru)

Thiên nhiên trong thơ Đồng Đức Bốn thường gắn với cuộc sống nơi

làng quê, đó là những hình ảnh và âm thanh rất đỗi quen thuộc với mỗi

chúng ta, nhưng đây là một thế giới thiên nhiên tràn ngập sắc màu, chất

chứa bao tâm trạng suy nghĩ.

3.2 Cuộc sống và con ngƣời nơi thôn quê

3.2.1 Cuộc sống lam lũ nơi làng quê

Nói đến cuộc sống nhà quê bao giờ người ta cũng nghĩ đến một hoạt

động quan trong nhất, đóng vai trò trung tâm là sản xuất nông nghiệp. Tuy

nhiên trong thơ Đồng Đức Bốn hình ảnh ruộng lúa và những hoạt động cầy

cấy rất mờ nhạt. Còn lại đều thấy cây lúa vắng bóng trên cánh đồng để

nhường chỗ cho cỏ, rạ rơm, và nước lũ: Chăn trâu đốt lửa trên đồng; Đồng

ta trắng xoá cả trời nước trong; Mẹ đi cắt cỏ ngoài đồng. Chính vì thế mà

tất cả những hoạt động của người dân quê chỉ nằm bên rìa của đồng ruộng,

điều ấy báo hiệu một cuộc sống bấp bênh của một vùng quê dân cư đang

dứt áo ra đi kiếm sống. Những hoạt động chính của họ là làm nghề phụ

nhiều hơn là nghề chính (cày cấy):

Lấy mảnh chắp lại thành hoa

Bố tôi đem bán ngoài ga chợ buồn

(Bố tôi)

Và công việc của người mẹ còn lam lũ hơn:

Mẹ mua lông vịt chè chai

Trời trưa mưa nắng đôi vai lại gầy

Xóm quê còn lắm bùn lầy

Phố phường còn ít bóng cây che đường

Lời rao chìm giữa gió sương

Còn nghe cách mấy thôi đường còn đau.

(Trở về với mẹ ta thôi)

Bên cạnh đó là sự ế ẩm của cảnh buôn bán buồn tẻ nơi làng quê:

82

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh

Lề đường trong những chiếc lều

Có cô hàng xén ngồi vêu cả ngày

(Chờ đợi tháng ba)

Chợ quê của Đồng Đức Bốn được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau.

Trước hết là những nét tả thực về một cái chợ làng lèo tèo, vắng vẻ:

Chợ làng mở dưới gốc đa

Nhà quê đem mấy con gà bán chơi

(Nhà quê)

Bắt đầu từ đây nó được cụ thể hoá bằng những tên gọi khác nhau. Đó

là chợ chiều:

Khói nhà ai cứ mọc ngang

Con nhà ai cứ lang thang chợ chiều

(Chờ đợi tháng ba)

Chợ buồn:

Chợ buồn đem bán những vui

Đã mua được cái ngậm ngùi chưa em

(Chợ buồn)

Chợ nghèo, chợ chiều hay chợ buồn đều thống nhất ở một điểm đó là

một thứ chợ xơ xác, tiều tuỵ nơi làng quê của Đồng Đức Bốn.

Cảnh sắc chốn nhà quê trong thơ Đồng Đức Bốn hiện lên với rất nhiều

vẻ khác nhau nhưng đều gợi một vẻ xơ xác và nghèo nàn. Tất cả những

điều đó như làm nền cho những nhân vật chính của nơi đấy, đó là người

quê với những mảnh đời quê.

Thế nhưng thảm thương nhất vẫn là hình ảnh những anh thợ cày nhàn

rỗi vì đất chật người đông, vì làng đang dần lên phố nên quẫn bách mà cấu

xé lẫn nhau. Có thể coi đây là một trong những điểm sáng trong thơ Đồng

Đức Bốn khi anh đã khái quát được một phần rất quan trọng trong đời sống

của người dân quê bây giờ:

Ngả nghiêng mấy lão thợ cày

83

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH

Rượu say vác cả cối chày nện nhau

(Chờ đợi tháng ba)

Cuộc sống nơi làng quê của Đồng Đức Bốn khiến người đọc có cảm

giác đó là một vùng quê đang thoi thóp giữa bồn bề gió bão của cuộc sống

mới. Làng quê ấy đang thức hay đang ngủ yên, đang vùng vẫy để sinh tồn

hay đang buông xuôi để số phận đẩy đưa. Chỉ biết rằng tất cả những điều

ấy đều được anh nói đến trong một câu thơ đầy chua xót:

Bảo rằng phía trước là son

Tôi đi đến cuối đường mòn lại không

(Đường đi)

Dù có ở thời ngày xưa hay ngày nay đi chăng nữa thì người nông dân

vẫn là những người phải hai sương một nắng, vẫn là những người chạy ăn

từng bữa mướt mồ hôi. Và trong thơ Đồng Đức Bốn những điều đó cũng

không có nhiều thay đổi, anh đồng cảm với những con người lao khổ, hiểu

cuộc sống của họ nên anh xót xa, cay đắng.

Đồng Đức Bốn có khá nhiều bài thơ viết về cuộc sống nhà quê nhưng

dường như anh không tô đậm vào một hoạt động nào khác ngoài những tất

bật lo miếng cơm manh áo. Chính bản thân anh chàng đa tình và ham đi

nhất trong thơ anh có lúc cũng đã phải thốt lên cay đắng về một cuộc sống

bần hàn và lam lũ:

Tôi vừa lo được miếng cơm

Thì mất tí lửa tí rơm gầy lò

Tôi vừa vượt bão mưa to

Chân đã phải lội đi mò sông sâu

(Đời tôi)

Tìm đọc trong thơ Đồng Đức Bốn ta thấy không hề có một lễ hội nào

được diễn ra mà thay vào đó là những hoạt động âm thầm, lặng lẽ của

người nhà quê để chống chọi lại thiên tai, nhẫn nhịn để mà sống như hình

ảnh cây xương rồng vẫn nở hoa trên cát bỏng. Nhưng bao giờ cũng thế tình

84

Luận văn thạc sĩ

Nguyễn Quốc Khánh yêu trai gái vẫn nẩy nở trong gian khó như con sóng ngầm để tạo nên một

sức sống bất diệt. Nếu như những cuộc hẹn hò của trai quê, gái quê trong

thơ Nguyễn Bính đều nương vào những lễ hội, của những hoạt động thanh

nhã làm nền cho các cuộc giao duyên (chở đò, qua nhà, xem hát…) thì

trong thơ Đồng Đức Bốn để đến với tình yêu họ phải bước qua gai, vượt

lên cái nghèo khó, dưới mảnh trăng gầy và bất chấp bão giông trên đầu:

Trong những khó khăn về vật chất ấy những cuộc hẹn hò, giao duyên của

trai gái vẫn được diễn ra: Vẫn còn trong nắng thập thò / Tôi và em xuống

con đò ban mai; Tôi và em đứng đây / Tựa bão để mà sống; Đừng buông

giọt mắt xuống sông / Anh về dẫu chỉ đò không cũng chìm… Tuy không có

những lễ hội để có được cái thư thái như bao làng quê khác nhưng họ vẫn

tạo ra một không gian cho riêng mình bằng cách vượt lên chính mình để

sống và để yêu.

Những tình cảm trìu mến của chàng trai được gửi gắm vào các ví von

mang màu sắc mỹ lệ hoá:

Chạy mưa không chạy qua rào

Sao áo em bị gai cào rách lưng

………………………….

Tia chớp như sợi chỉ mềm

Anh ngồi khâu áo trả đền cho em

(Chạy mưa không chạy qua rào)

Và thậm chí đó còn là những nhớ mong âm thầm và tê tái:

Không em từ bấy đến giờ

Bàn tay cứ héo như cờ chịu tang

(Sông Thương ngày không em)

Ta còn thấy cái gai góc đến lì lợm để khẳng định cái “thế” nhà quê

không hề kém cạnh của mình:

Cho dù đấy có là sao

Thì đây vẫn cứ gai rào ngõ quê

85

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH

(Gai rào ngõ quê)

Ngoài ra, ta còn thấy những thất vọng ê chề trong chuyện tình cảm

nhưng người trong cuộc vẫn lạc quan bằng cách tự an ủi cho riêng mình:

Xui mãi gái chẳng bỏ chồng

Đành về ăn vạ cánh đồng trăng sao

(Nhớ người)

Đời quê trong thơ Đồng Đức Bốn hiện lên với hai phương diện cơ bản

là những lam lũ, vất vả để mưu sinh và đam mê, khát khao trong những

cuộc hẹn hò giao duyên thầm kín. Hai phương diện này là một sự mâu

thuẫn thống nhất bởi tình yêu, đam mê cũng là một cách tự tồn, tự trấn an

và lấy lại niềm tin cuộc sống cho riêng mình. Duy có điều những thiếu thốn

về vật chất, những bấp bênh trong cuộc sống đã tạo cho người đọc những

mối tình đầy mong manh, và tội nghiệp. Chàng trai quê, cô gái quê tuy có

ngông ngạo, kiêu kì hay lì lợm, gai góc… thì gợi cho người ta sự tái tê,

chua xót.

3.2.2 Những con người nơi thôn quê

Người quê trong thơ Đồng Đức Bốn hiện lên với nhiều lứa tuổi và

mang những tính chất khác nhau nhưng tập trung vào ba nhân vật quan

trọng là: Mẹ (Người vất vả và lam lũ, người giữ hồn vía cho quê nhà), em

(tình yêu và khát vọng sống cho chủ thể) và cuối cùng là những người dân

quê khác (những mảnh đời vụn).

Hình ảnh mẹ được tác giả xây dựng bằng hai nét đối lập cơ bản là

người mẹ thực (tội nghiệp và thảm thương) nhưng từ sự nhẫn nhịn và chịu

đựng ấy đã lắng kết để tạo nên người mẹ hiển linh với những ánh hào

quang phát ra từ giá trị con người. Nhưng trước hết sự chịu đựng và hi sinh

ấy rất đáng thương tâm. Mẹ như cá thể yếu ớt và hứng chịu gian khó nhất

của một thế giới người nhà quê:

Nhà quê chân lấm tay bùn

Mẹ đi cấy lúa rét run thân già

86

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh

(Nhà quê)

Còng lưng gánh chịu gió mưa

Nát chân tìm cái chửa chưa có gì

(Trở về với mẹ ta thôi)

Những tưởng sau bao nhiêu gian khó ấy mẹ sẽ quỵ ngã nhưng từ trong

cái cùng tắc biến, mẹ nhẫn nhịn nuốt nước mắt vào trong để làm ra nụ cười

Mẹ đau vẫn giữ tiếng cười

Mẹ vui vẫn để một đời nhớ thương

……………………….

Mẹ ra bới gió chân cầu

Tìm câu hát cũ từ lâu dập vùi

(Trở về với mẹ ta thôi)

Hình ảnh “em” chốn nhà quê trong thơ Đồng Đức Bốn không có được

một cuộc sống bình yên như các nàng thôn nữ trong thơ Nguyễn Bính: Em

là con gái trong khung cửi; Hoa chanh nở giữa vườn chanh… Cô gái trong

thơ Đồng Đức Bốn tuy đã có lúc là cô gái đồng trinh (Em là con gái đồng

trinh – Vu vơ II) kiêu sa và lẳng lơ khoe dáng vóc như cây trúc xinh mọc

sân đình nhưng đó chỉ là thời điểm diễn ra trong chốc lát:

Nhà quê có cái giếng đình

Trúc xinh cứ đứng một mình lẳng lơ

(Nhà quê)

Ngay từ cái dáng vẻ “một mình lẳng lơ” đã gợi sự tự tin, kiêu sa thì ít

mà lo lắng hay là một sự tự trấn an bằng vẻ gan góc thì nhiều. Thời hoàng

kim với những “tóc đuôi gà”, “dáng em thánh thót qua làng” không được

lâu bởi phải nhường chỗ cho những biến thể khác nhau của số phận long

đong, ê chề, lỡ dở. Âm thầm và tê tái, người con gái muộn chồng chỉ biết

87

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGUYỄN QUỐC KHÁNH chờ đợi: Mượn màu hoa để ngóng trông người về. Thậm chí còn bị giam

cầm bởi sự cô đơn:

Em nhìn đò dọc như bức tranh hoang

Em nhìn đò ngang như câu thơ cổ

Em đợi tôi mà cửa xuân để ngỏ

Em chờ tôi mà gió chẳng dám vào

(Dưới mặt trời có bão)

Nhưng gây ấn tượng nhất chính là “em” của những hoàn cảnh ngang

trái: “em” một con, “em” đã có chồng, “em” ở với chồng… Bởi thế nên

đối diện với những em đấy là một “anh” cũng táo tợn, gai góc.

Em là gái có một con thì tôi táo tợn tự nhận là mình cũng si mê em

đến mòn mỏi (mòn mắt):

Đúng là gái có một con

Để tôi ngơ ngẩn trông mòn mắt ra

(Gái một con trông mòn con mắt)

Em từng trải thì tôi cũng nhàu, cũng bụi để nhận ra cái phần thiêng

liêng nhất vẫn gìn giữ cho nhau:

Lên núi núi vẫn còn cao

Xuống khe khe vẫn ngọt ngào nước thơm

(Em như cơn bão trước giờ khoả thân)

Cũng như “mẹ”, em cũng phải hứng chịu những nỗi vất vả của nhà

quê lam lũ. Nhưng nếu như “mẹ” thiên về những nỗi khổ về vật chất thì

“em” lại vướng vào những hệ luỵ của tâm hồn. Sự cô đơn vì muộn màng

tình duyên hay việc không tìm được hạnh phúc trong hôn nhân đã tạo ra

một vẻ trơ lì, gai góc của các cô gái quê. Trong ca dao không ít những cuộc

đời và số phận éo le của người con gái:

Em như cây quế giữa rừng

Hương thơ ai biết ngát lừng ai hay

(Ca dao)

88

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh

Thân em như dải lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vài tay ai

(Ca dao)

Sau những chân dung lớn đó là mẹ và em thì những người dân quê

còn lại chỉ còn là những mảnh đời đơn lẻ. Họ tuy cũng chịu cảnh lam lũ,

vất vả nhưng lại ở vào những hoàn cảnh và diện mạo khác nhau, đó là

những trai làng - lực lượng lao động chính của một làng và cũng bản thân

họ là những người đem đến những cái lạ cho nhà quê:

Nhà quê có mấy trai tơ

Quần bò mũ cối giả vờ sang chơi

(Nhà quê)

Cánh trẻ là vậy còn những lão thợ cày đã không còn đủ ruộng đất để

quanh năm cày cấy mà quay ra rượu chè, triết lí suông để rồi lại trút những

sự quẫn bách ấy lên đầu nhau:

Ngả nghiêng mấy lão thợ cày

Rượu say vác cả cối chày nện nhau

(Chờ đợi tháng ba)

Nhưng ở một góc nhìn khác người đọc lại bắt gặp hình ảnh một người

dân quê nhẫn nại, kiên trì đan lát những thứ hàng rẻ tiền:

Lanh canh, lạch cạch ngoài hiên

Bố tôi đan chiếc trăng lên làm sàng

Có bao nhiêu những mơ màng

Bố tôi trút hết vào hàng nan thưa

(Bố tôi)

Cuối cùng phải kể đến một nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong những

bài thơ viết về nhà quê của Đồng Đức Bốn đó là người ăn mày. Tuy nhiên

ở vào từng trường hợp sự xuất hiện này lại mang những tính chất khác

nhau. Đó là bác sẩm mù như một sự day dứt tâm can với tiếng đàn ca:

Chợt đâu có tiếng ca ru

89

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH

Nhìn ra lại bác sẩm mù ăn xin

(Cơn mưa dừng ở Sóc Sơn)

Là bà lão ăn xin mon men đến quanh những hàng quán gợi nhớ đến

cái thảm thương của kiếp người sau những thăng hoa của giả tạo của men

say:

Ngậm ngùi thịt chó bánh đa

Chiều nay lại thấy bà già ăn xin

(ở quán thịt chó về chiều)

Nhưng có lẽ sự xuất hiện của kẻ “ăn mày cửa phật” là hình ảnh có tầm

triết lí cao nhất, nó như một biểu tượng của người nhà quê khi phải tha

hương, như không định liệu được số phận của bản thân mình:

Ăn mày thì phải lang thang

Quần manh áo mảnh rộn ràng khắp nơi

Chân đạp đất đầu đội trời

ở đâu không có con người thì đi

(Vào chùa)

Cuộc sống đã lam lũ vất vả là thế, lại phải chịu thiên tai nên nhiều

người nơi làng quê phải bỏ làng mà đi ăn xin, xưa nay điều này cũng không

quá xa lạ:

Ăn mày là ai ăn mày là ta

Đói cơm rách áo mới ra ăn mày

(Ca dao)

Hay:

Chó đâu chó sủa chỗ không

Chẳng thằng ăn trộm cũng ông ăn mày

(Ca dao)

Khảo sát hệ thống đề tài trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn, chúng tôi

thấy đề tài trong thơ Đồng Đức Bốn rất đa dạng, phong phú nhưng thành

công nhất, ấn tượng nhất vẫn là đề tài nhà quê. Đề tài nhà quê được nhìn từ

90

Luận văn thạc sĩ

Nguyễn Quốc Khánh góc nhìn của kẻ xa quê nên tình quê hương càng tha thiết và thấm thía.

Khác với nhiều nhà thơ xa quê, quê với Đồng Đức Bốn là quê hương bao

hàm hai ý nghĩa: Nơi nhà thơ sinh ra và cũng chính là cội nguồn để nhà thơ

tìm lại mình.

Quê trong thơ của Đồng Đức Bốn có ba mảng màu và hai sợi chỉ đỏ

sâu chuỗi tạo nên bức tranh liên hoàn: Đó là cảnh quê, đời quê, người quê

với hai nét đặc trưng gắn kết: Lam lũ khốn khó và nhẫn nhịn kiên gan. Quê

trong thơ Đồng Đức Bốn là một thế giới muôn màu, mỗi đề tài là một tiểu

thế giới cũng đa dạng nhưng đều tập trung vào những điểm nhấn ấy. Cảnh

quê trong thơ anh là những mái tranh không bình thường: Nhà tranh đã là

hiện thân của cái nghèo, mái gianh trong thơ Bốn lại “dột tứ tung” để chủ

nhân thưởng thức “sao rơi”. Vườn trong thơ Bốn ít xuất hiện nhưng đều

mang dáng vẻ cằn cỗi, không đủ màu mỡ nuôi những dây tơ hồng vốn

hoang dã. Cây cỏ nhà quê cũng mang đậm vẻ tàn úa, muộn màng, trì trệ với

“cải ngồng”, lúa “nghẹn đòng”. Bên những loài cây cối mang dáng vẻ tàn

úa héo hon là những loài cây bất tử, thích ứng với mọi môi trường nghiệt

ngã như bóng dáng con người nhẫn nhịn kiên gan: “hoa dong riềng”, “cây

bồ kết”, “cây xương rồng”.

Thế giới động vật cũng được sắp đặt vào hai điểm nhấn nên có hai

nhóm: Nhóm động vật gắn kết hay dự báo những thảm hoạ, những điềm

gở: lũ kiến “Thổi kèn đám ma” dự báo lụt lội; Chuồn chuồn gắn với lời ru

ngọt nhưng chết người (Chuồn chuồn cắn rốn biết bơi). Bên cạnh đó là

những loài vật mang lại niềm vui, an ủi con người trụ vững ở làng quê:

chim ngói, hoạ mi, chích choè đi thả những “bùa mê” cho đời. Trung tâm

cảnh quê trong thơ Đồng Đức Bốn là hình tượng ruộng đồng; cái mô típ

gắn với công việc sản xuất nặng nhọc, lam lũ của người nhà quê. Các thi sĩ

lãng mạn chuyên chú vào mô típ “vườn”; Thiên về chức năng văn hoá gắn

với thế giới của cái tôi buồn cô đơn: Vườn tình Xuân Diệu, vườn trinh Hàn

91

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGUYỄN QUỐC KHÁNH Mặc Tử, vườn mộng Nguyễn Bính. Đồng Đức Bốn lại chuyên chú vào mô

típ “ruộng” với cái nhìn hiện thực nghiêm ngặt của một lão nông: Hình

tượng ruộng đa dạng đủ toát lên cái nghèo, cái mất mát: Ruộng lúa đương

thì đã “nghẹn đòng”; Ruộng lúa vào độ chín lại bị nước lũ nhấn chìm cướp

giật những “chuông vàng” để lại những màu trắng đến rợn người “… trắng

xoá cả trời nước trong”. Cánh đồng sau mùa gặt cũng nghèo cả rơm rạ dành

để đốt bồi bổ cho vụ sau (rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều). Trăng sao cũng

méo mó để gợi điềm gở: Sao rơi, trăng bị bẻ cong. Con diều ở trạng thái

“đứt dây”. Dòng sông quê chẳng chảy êm đềm mà là sông “gai” hay biến

thể “sông hoá lưỡi cưa”. Cái nghèo tràn qua ngõ ngách của đời người lan

tới cả cửa chùa khiến cho phật cũng “héo” như cây; Cũng “đau” như người.

Cái lam lũ và kiên gan còn xuyên suốt đời quê và người quê. Đời quê

trong thơ Nguyễn Bính là một thế giới nhàn hạ ở thời điểm “nhân gian nghỉ

việc đồng” để bước vào hội hè, đình đám. ở góc nhìn hiện thực nghiêm

ngặt, thi sĩ – thợ cày Đồng Đức Bốn đã phanh phui mọi ngõ ngách của đời

quê: Đó là không khí tất bật, mệt mỏi thường nhật vì mưu sinh: Mẹ già nua

đi cấy “rét run”; Mẹ còm cõi đi buôn “lông vịt chè chai”, “cất vó liêu xiêu

gió đồng”; cha chắt chiu nan lạt để kiếm từng đồng xu; cô hàng xén ế ẩm.

Điểm xuyết vào không khí lam lũ của đời quê là bức tranh bi hài biến thể

của lam lũ: Cảnh nhàn cư do mất ruộng khiến mấy lão thợ cày “rượu say

vác cả cối chày nện nhau”. Tuy lam lũ nhếch nhác, thê thảm nhưng họ vẫn

kiên gan, đứng trên hoàn cảnh để sống bình thường. Với cái nhìn nhạy cảm

và rất động, Đồng Đức Bốn đã phát hiện nguyên cớ của tình yêu ngang trái

ở làng quê: Làng quê hiện đại, trai xa quê lang bạt, gái quê ở lại lỡ làng,

mảnh đất mỡ màu nảy sinh những mối tình gai. những người tình liều lĩnh

mạo hiểm biết bông hoa “sắc một lưỡi dao” vẫn cứ “cầm vào như không”.

người tình thất tình nhưng vẫn tự phụ vì hãy còn “duyên quê” để tiếp tục

theo đuổi cuộc tình đến “hết tuổi già mới thôi”.

92

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh

Người quê trong thơ của anh tập trung vào ba nhân vật chính: Mẹ –

hiện thân của lam lũ và hồn quê; Em - đầu mối của tình yêu; Người dân quê

- những mảnh đời hợp thành cộng đồng khốn khó. Người quê vừa đáng

thương khi nhìn ở góc độ tội nghiệp, vừa đáng phục khi nhìn ở góc độ kiên

gan đến độ “lì”. Mẹ là một nghịch lí đau lòng: Yếu ớt nhất (thân già) nhưng

lại đảm đương những công việc nặng nhọc nhất (cấy lúa) với bàn tay “rét

run”. Nhưng mẹ cũng là hiện thân của bản lĩnh kiên gan vì con cháu nên

đau khổ mà vẫn cố “giữ tiếng cười”. Nhân vật “em” cũng hiện ra ở nhiều

dáng vẻ. Em xinh tươi duyên dáng chỉ thoáng hiện rồi qua mau. Đọng lại ở

em là cảnh ngộ éo le, để lỡ làng: Em đã “một con” nhưng chưa viên mãn,

vẫn còn khát khao. Em đã có chồng mà vẫn như chưa. Em ở với chồng

trong chăn ấm mà vẫn thấy lạnh như đời của một ni cô trong ngôi đền trá

hình. Đối diện với em là những người tình dám mạo hiểm, quyết tử để

chinh phục mối tình gai. Làm nền cho hai điểm nhấn ấy là hình ảnh người

dân quê như những mảnh đời lay lắt mà cứng cỏi. Bên cạnh những gái quê

“lẳng lơ”, những trai tơ “quần bò mũ cối” đang chạy theo mốt mới, nổi cộm

lên vẫn là những hình ảnh người ăn mày như tiêu điểm của lam lũ.

Đặt trong cái nhìn so sánh, chúng tôi thấy trên bình diện hệ thống đề

tài thơ lục bát Đồng Đức Bốn có rất nhiều điểm tương đồng với ca dao.

Điều này đã tạo nên sức hấp dẫn của thơ anh, sự kế thừa những tinh hoa từ

văn hóa dân gian cũng là cách mà nhiều nhà thơ đã rất thành công như

Nguyễn Bính hay Nguyễn Duy. Đến Đồng Đức Bốn thì có nhiều phá cách,

những hình ảnh xưa nay ta quen thấy ở ca dao nay lại hiện ra với một dáng

vẻ mới trong thơ lục bát của Đồng Đức Bốn, chẳng hạn như cây trúc xinh

mọc ở bờ ao trong ca dao nay là cây trúc tương tư, lẳng lơ trong những câu

thơ của Đồng Đức Bốn. Anh đã đem đến cho cái nhìn về văn hóa truyền

thống, đó là những điều độc đáo, có thể nói đó là những thứ mới lạ nhưng

không xa lạ.

93

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGUYỄN QUỐC KHÁNH

Phần kết luận

Trên cơ sở tìm hiểu yếu tố ca dao trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn ở

ba bình diện: thể thơ, giọng điệu và hệ thống đề tài, chúng tôi rút ra một số

kết luận sau:

Trên bình diện thể thơ, về cơ bản, Đồng Đức Bốn vẫn sử dụng thể thơ

lục bát truyền thống, không có ngoại lệ. Tuy nhiên cũng phải nhìn nhận

rằng nhà thơ cũng hết sức cố gắng tạo nên một diện mạo mới cho thơ lục

bát thông qua cách ngắt nhịp và sử dụng thanh điệu phá cách, điều này đã

tạo nên một nét mới lạ trong thơ lục bát của anh. Có nhiều lúc người đọc

còn cảm thấy khó chịu, bởi những vần thơ cứ trúc trắc, gập ghềnh nhưng

yếu tố này lại tạo nên hiệu ứng nghệ thuật rõ nét và khiến những điều nhà

thơ muốn nhấn mạnh đã thực sự được người đọc chú ý. Không những thế

chính sự khó chịu ấy làm nên cái "chất" Đồng Đức Bốn và khi quen ta lại

thấy ấn tượng.

Trên bình diện giọng điệu thì Đồng Đức Bốn đã kế thừa giọng điệu

thở than tê tái trong ca dao và đây cũng là giọng điệu chủ đạo trong thơ

anh. Khi đọc Đồng Đức Bốn người ta như bước vào một thế giới riêng. Thơ

lục bát của Đồng Đức Bốn không nhịp nhàng nối tiếp mà cứ như cái gì

ngắc lại nghèn nghẹn. Chính cảm giác ấy góp thêm vào cái cảm giác hoang

dại quê mùa nói chung.

Nội dung cảm xúc trong thơ Bốn ở giọng điệu này là nỗi buồn đau và

cả hờn oán riêng tư nhưng được kìm nén nên tê tái, hậm hực. Sử dụng lối

nặng nề hoá, cường điệu hoá của ca dao và Thơ mới, Đồng Đức Bốn đã

sáng tạo ở chỗ, nhân thêm mức độ qua những giả định cực tả. Khác với lối

đay đả chì chiết của ca dao, Đồng Đức Bốn không hướng vào đối tượng cụ

thể nên có tính khái quát và đậm màu sắc triết lí, có tính độc thoại để tạo

nên đối thoại ngầm là nét độc đáo trong điệu than Đồng Đức Bốn. Kế thừa

kiểu câu định nghĩa trong ca dao và thơ mới, nhà thơ cũng tổ chức kiểu câu

94

Luận văn thạc sĩ

Nguyễn Quốc Khánh “Danh từ là danh từ” và sáng tạo ở chỗ tạo ra nhiều biến thể làm cho giọng

than tăng thêm tính lí sự. Về giọng điệu thơ, Đồng Đức Bốn chuyên chú sử

dụng lục bát điệu nói, phá vỡ các nhịp điệu nhẹ nhàng êm ái chuyển sang

nhịp điệu trục trặc tắc nghẽn để diễn tả nỗi buồn đau oán hận bị kìm nén.

Để tổ chức ngữ điệu nhà thơ cũng phát huy lối láy, lối lặp dán cách của ca

dao và lối láy liên tiếp của Thơ mới; Sử dụng các hình tượng nhỏ bé biểu

tượng cho thân phận lam lũ với tần xuất cao. Chúng ta thấy rằng, sắc thái

giọng điệu trong thơ Đồng Đức Bốn là một trong những yếu tố tạo nên sức

sống của thơ anh. Đồng Đức Bốn đã kế thừa triệt để những tinh hoa của ca

dao truyền thống và làm nên một phong cách thơ đặc trưng của mình.

Trên bình diện hệ thống đề tài, chúng tôi thấy hệ thống đề tài thơ lục

bát Đồng Đức Bốn có rất nhiều điểm tương đồng với ca dao. Trước Đồng

Đức Bốn thì Nguyễn Bính, Nguyễn Duy cũng rất thành công khi lấy cảm

hứng từ ca dao truyền thống. Đến Đồng Đức Bốn thì có nhiều phá cách,

những hình ảnh xưa nay ta quen thấy ở ca dao nay lại hiện ra với một dáng

vẻ mới trong thơ lục bát của Đồng Đức Bốn, chẳng hạn như cây trúc xinh

mọc ở bờ ao trong ca dao nay là cây trúc tương tư, lẳng lơ trong những câu

thơ của Đồng Đức Bốn. Anh đã đem đến cho cái nhìn về văn hóa truyền

thống, đó là những điều độc đáo, có thể nói đó là những thứ mới lạ nhưng

không xa lạ. Vẫn là khung cảnh làng quê, những con người nơi thôn quê

nhưng trong thơ Đồng Đức Bốn nó mang dấu ấn thời đại đậm nét. Và đặc

biệt là những hình ảnh đó vẫn thân thuộc đối với chúng ta nhưng chúng ta

không có cảm giác chúng từ đời thường bước ra nữa mà là từ thế giới của

nhà thơ bước ra. Cá tính sáng tạo của nhà thơ là ở chỗ đó, những điều mà ta

thấy rất quen thuộc nay lại được khoác một dáng vẻ mới, khó hình dung,

khó nắm bắt hơn.

Đồng Đức Bốn là nhà thơ sử dụng nhiều lối nói dân gian, có cái gì vừa

thô mộc, vừa hoang dại lại rất ý tứ, ẩn chứa những triết lí sâu xa. Nhà thơ

và những dòng lục bát của mình đã lại một lần nữa cho thấy thể thơ lục bát

95

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGUYỄN QUỐC KHÁNH quả thực là ưu thế của tiếng Việt. Những vần thơ của anh cứ như từ ca dao,

dân ca mà đi ra, nó khiến người đọc như bị bỏ bùa, bởi sự giản dị và gần

gũi đầy lôi cuốn. Thơ lục bát đúng là hồn Việt và Đồng Đức Bốn là một thi

sĩ Việt Nam đến tận cùng sâu thẳm. Những câu thơ lục bát của anh cứ đọng

lại và vang vọng trong tâm hồn đến nỗi ta cứ có cảm giác đã nghe chúng ở

một nơi nào đó, và khi đã nghe rồi thì nó cứ dư ba mãi trong lòng người.

Chính nhờ biết cách khai thác mạch nguồn truyền thống mà Đồng Đức

Bốn đã tạo nên một phong cách riêng cho mình, không lẫn với bất cứ ai. Có

nhiều nhà thơ cũng lấy cảm hứng thi ca từ ca dao, dân ca, nhưng cách thể

hiện thì có lẽ Đồng Đức Bốn mộc mạc hơn cả, quê mùa hơn cả và cũng vì

thế thơ của anh cũng hồn nhiên hơn cả nhưng chúng tôi cũng xin nhấn

mạnh đó là cái hồn nhiên không dễ gì mà học được. Anh đã biết khai thác

triệt để những ưu thế của thể thơ lục bát dân tộc và làm cho nó thăng hoa

nhờ tài năng của người nghệ sĩ. Thơ anh vẫn giữ được hồn của thơ lục bát,

vẫn rất giản dị, dân dã, trong sáng nhưng anh đã thổi một luồng gió mới

cho thể loại này. Ta thấy thể lục bát thể hiện sự linh hoạt đầy biến ảo trong

thơ lục bát Đồng Đức Bốn. Có thể khẳng định rằng thơ lục bát Đồng Đức

Bốn đã kế thừa những tinh hoa của thể thơ lục bát dân tộc, không những

thế anh đã đem đến cho ngôn ngữ của thể thơ vốn mềm mại uyển chuyển

này một sự cách tân táo bạo đó là cái gai góc, hoang dại, ám ảnh chính

những yếu tố này vừa đem đến sự hấp dẫn vừa làm nên sức sống của thơ

Đồng Đức Bốn.

Chúng tôi hy vọng luận văn này sẽ góp phần lí giải sức chinh phục của

thơ Đồng Đức Bốn ở những phương diện quan trọng nhất để có cơ sở nhận

diện đánh giá giá trị và tầm vóc của một nhà thơ lớn trong nền thi ca đương

đại. Trên cơ sở đó, tiếp tục tìm nghiên cứu và giải mã các tác giả khác có

cùng hệ quy chiếu. chúng tôi sẽ tiếp thu những góp ý chân thành để có thể

nâng cấp đề tài này trong tương lai không xa.

96

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quốc Khánh

Thƣ mục tài liệu tham khảo

1. Aristote - Lưu Hiệp - Nghệ thuật thơ ca, Văn tâm điêu long - NXB Văn học,

1999

2. Lại Nguyên Ân - Văn học và phê bình - NXB Tác phẩm mới, 1994

3. Nguyễn Phan Cảnh - Ngôn ngữ thơ - NXB Văn hoá thông tin, 2001

4. Montel, Jean - Claude - Thơ/ văn xuôi khác biệt chỗ nào? -

vietvan.org.vn

5. Nguyễn Du - Truyện Kiều - NXB Thanh niên, 1999

6. Nguyễn Văn Dân - Phương pháp luận nghiên cứu văn học - NXB

Khoa học Xã hội, 2004

7. Nguyễn Duy - Tình tang (thơ) - NXB Văn học

8. Đặng Anh Đào - Tài năng và người thưởng thức - NXB Văn nghệ TP.HCM,

2001

9. Nguyễn Đăng Điệp - Giọng điệu thơ trữ tình - NXB Văn học, 2002

10. Nguyễn Đăng Điệp - Thơ Việt Nam sau 1975 - từ cái nhìn toàn cảnh -

Tạp chí Nghiên cứu Văn học số: 11/2006

11. Trịnh Bá Đĩnh - Nguyễn Đức Mậu (tuyển chọn và giới thiệu) - Tản Đà

về tác gia và tác phẩm - NXB Giáo dục, 2000

12. Hê Ghen (Phan Ngọc dịch) - Mỹ học - NXB Văn học, 1999

13. V.Guxep - Mỹ học Folklor (Hoàng Ngọc Hiến dịch) - NXB Đà Nẵng,

1999

14. Nguyễn Bích Hà - Phác thảo diện mạo và đặc điểm văn học dân gian

sau 1975. Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và

giảng dạy - NXB Giáo dục, 2006

15. Lê Bá Hán (chủ biên) - Tinh hoa thơ mới, thẩm bình và suy ngẫm -

NXB Giáo dục, 1999

16. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) - Từ

điển thuật ngữ văn học - NXB Giáo dục, 2006

97

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGUYỄN QUỐC KHÁNH 17. Đào Duy Hiệp - Ngôn ngữ và nhà thơ - E.van, 08/ 2007

18. Đào Duy Hiệp - Thơ & truyện và cuộc đời - NXB Hội Nhà văn, 2001

19. Hoàng Ngọc Hiến - Văn học và học văn - NXB Văn học, 1997

20. Đỗ Đức Hiểu - Thi pháp hiện đại - NXB Hội Nhà văn, 2000

21. Nguyễn Hoà - Đồng Đức Bốn đã tiếp nhận 'y bát thơ lục bát' từ

Nguyễn Du ra sao?- E.van, 2004

22. Bùi Công Hùng - Quá trình sáng tạo thơ ca - NXB Văn hoá thông tin,

2000

23. Quang Huy, Nguyễn Bùi Vợi, Võ Văn Trực (tuyển chọn) - Tuyển tập

thơ lục bát Việt Nam - NXB Văn hoá thông tin, 2000

24. Đinh Gia Khánh (chủ biên) - Chu Xuân Diên - Võ Quang Nhơn - Văn

học dân gian Việt Nam - NXB Giáo dục, 2004

25. Trần Đăng Khoa (tuyển chọn) - Thơ Nguyễn Duy - NXB Giáo dục,

1998

26. Thuỵ Khuê - Cấu trúc thơ - Văn nghệ xuất bản, California USA 1996

27. Nguyễn Xuân Kính - Thi pháp ca dao - NXB Khoa học Xã hội, 1992

28. Lê Đình Kỵ - Phê bình nghiên cứu văn học - NXB Giáo dục, 1998

29. Mã Giang Lân - Nhịp điệu thơ hôm nay - Tạp chí Nghiên cứu Văn học

số 3/2007.

30. Ngô Tự Lập - Sứ mệnh của vần điệu - E.van, 03/ 2006

31. IU.M. Lotman (Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy -

Cấu trúc văn bản nghệ thuật - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004

32. Nguyễn Văn Long - Lã Nhâm Thìn (đồng chủ biên) - Văn học Việt

Nam, những vấn đề ngiên cứu và giảng dạy - NXB Giáo dục, 2006

33. Phương Lựu (chủ biên) - Giáo trình: Lí luận văn học - NXB Giáo dục,

2002

34. Đặng Thai Mai - Giảng văn 'Chinh phụ ngâm' - NXB Đại học sư phạm I,

1992

98

Luận văn thạc sĩ

Nguyễn Quốc Khánh 35. Nguyễn Đăng Mạnh - Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà

văn - NXB Giáo dục, 1996

36. Nguyễn Đăng Mạnh - Văn học Việt Nam 1945 - 1975 - NXB Giáo dục,

1998

37. Lạc Nam - Tìm hiểu các thể thơ - NXB Văn học, 1996

38. Phan Ngọc - Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều -

NXB Thanh niên, 2003

39. Phan Ngọc - Thơ là gì - Tạp chí Văn học, 1994

40. Vương Kỷ Nhân - Hướng đi của văn học thời kì mới - Tạp chí văn học

2/1994

41. Vương Trí Nhàn - Về những tìm tòi hình thức trong thơ gần đây -

Báo Văn nghệ số 32. trang 4

42. Octaviopaz - Thơ văn và tiểu luận (Nguyễn Trung Đức dịch) - NXB

Đà Nẵng, 1998

43. Vũ Quần Phương - Nhìn lại tiến trình thơ hiện đại - Báo Văn nghệ số

47, ra ngày 25/11/1995

44. Nguyễn Bảo Sinh - Huyền thi - NXB Thanh niên, 2004

45. Chu Văn Sơn - Ba đỉnh cao Thơ mới - NXB Giáo dục, 2003

46. Chu Văn Sơn - Nguyễn Duy thi sĩ thảo dân - Tạp chí Nhà văn, số 2 /

2003

47. Trần Đình Sử - Tuyển tập (Tập I, II) - NXB Giáo dục, 2005

48. Hoài Thanh - Hoài Chân - Thi nhân Việt Nam 1932 - 1941 - NXB Văn học,

1988

49. Hoài Thanh - Nói chuyện thơ kháng chiến - NXB Văn nghệ, 1951

50. Nguyễn Huy Thiệp - Nhớ bạn Đồng Đức Bốn - báo Tiền Phong

51. Bùi Đức Tịnh - Ngôn ngữ học và văn học (tập 1, 2) - NXB Văn nghệ

TP. HCM, 1999

52. Nguyễn Văn Thọ - Đồng Đức Bốn và trận mưa cuối cùng - E.Van

99

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGUYỄN QUỐC KHÁNH 53. Lê Anh Thu - Một khí chất khác người làm nên giọng điệu thơ riêng

lóng lánh vàng - ThoTre.com, cập nhật 21/12/2006

54. Lí Hoài Thu - Đồng cảm và sáng tạo - NXB Văn học, 2006

55. Đỗ Lai Thuý - Từ cái nhìn văn hoá - NXB Văn hoá dân tộc, 1999

56. Đinh Quang Tốn - Những bài thơ cuối cùng của Đồng Đức Bốn -

E.van

57. Phạm Công Trứ - Cỏ may thi tập - NXB Văn học, 2000

58. Đỗ Minh Tuấn - Ngày văn học lên ngôi - NXB Văn học, 1996

59. Phạm Công Trứ - Phồn thi (II) - NXB Hội Nhà văn, 2006

60. Vũ Thanh Việt (tuyển chọn và biên soạn) - Thơ Nguyễn Bính những

lời bình - NXB Văn hóa thông tin, 1999

61. Trần Ngọc Vương - Tính dân tộc và tính hiện đại truyền thống và

cách tân qua nhà thơ Tản Đà, Tản Đà về tác gia và tác phẩm - NXB

Giáo dục, 2000

62. Tuyển tập Đồng Đức Bốn, Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc (tác phẩm và

dư luận) - NXB Hội Nhà văn, 2006

63. Văn học Việt Nam sau 1975. Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy

- NXB Giáo dục, 2006

64. Thế nào là thơ trình diễn? Wednesday, 26th September 2007 -

Powered by Vnweblogs. com

65. Hồn quê trong thơ Bùi Giáng, cập nhật 06/10/2005 - E.Van

66. Từ điển tiếng Việt - NBX Đà Nẵng, 2006

100