BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-------------------------
Phạm Chung Thủy
YẾU TỐ ĐỊA – CHÍNH TRỊ TRONG
CHÍNH SÁCH CỦA MỸ ĐỐI VỚI KHU
VỰC NAM Á (1989 – 2009)
LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ
Thành phố Hồ Chí Minh 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-------------------------
Phạm Chung Thủy
YẾU TỐ ĐỊA – CHÍNH TRỊ TRONG
CHÍNH SÁCH CỦA MỸ ĐỐI VỚI KHU
VỰC NAM Á (1989 – 2009)
Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số: 60 22 50
LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGÔ MINH OANH
Thành phố Hồ Chí Minh 2011
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của Ban Giám hiệu trường Đại học
Sư phạm TP.HCM, Phòng Sau đại học cùng tập thể Thầy Cô khoa Lịch sử .
Đặc biệt, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Ngô Minh Oanh, thầy đã dành
nhiều thời gian và tận tình hướng dẫn tôi từ lúc bắt đầu cho đến khi hoàn thành luận văn.
Cảm ơn gia đình và bạn bè đã hỗ trợ vật chất và là chỗ dựa tinh thần cho tôi trong
suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
4TLỜI CẢM ƠN4T .............................................................................................................................. 3
4TMỤC LỤC4T ................................................................................................................................... 4
4TPHẦN MỞ ĐẦU4T ......................................................................................................................... 6
4T1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI4T ........................................................................................................ 6
4T2.LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ4T ..................................................................................... 7
4T3.ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU4T ......................................................................... 11
4T4.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU4T ...................................................................................... 11
4T5.ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN4T .......................................................................................... 12
4T6.BỐ CỤC LUẬN VĂN4T ......................................................................................................... 12
4TChương 1: TỔNG QUAN VỀ KHU VỰC NAM Á VÀ VỊ THẾ ĐỊA -CHÍNH TRỊ CỦA KHU
4T1.1.Sơ lược về địa lý dân cư và lịch sử hình thành khu vực4T ................................................. 13
4T1.1.1.Khái niệm Nam Á và địa lý, dân cư khu vực Nam Á4T ................................................. 13
4T1.1.2.Sơ lược lịch sử hình thành khu vực4T ........................................................................... 16
4T1.2.Những nhân tố tác động đến chiến lược địa – chính trị của Mỹ đối với khu vực Nam Á 4T
VỰC4T .......................................................................................................................................... 13
4T1.2.1.Sự trỗi dậy của Nam Á trở thành điểm nóng thu hút sự quan tâm đặc biệt của Mỹ 4T .... 18
4T1.2.2. Nhân tố thách thức từ các nước lớn4T .......................................................................... 35
4TChương 2: YẾU TỐ ĐỊA - CHÍNH TRỊ KHU VỰC NAM Á TRONG CHÍNH SÁCH CỦA MỸ
.............................................................................................................................................. 18
4T2.1.Bối cảnh lịch sử4T .............................................................................................................. 60
4T2.2.Chuyển biến của yếu tố địa – chính trị trong chính sách của Mỹ đối với Nam Á4T .......... 63
4T2.2.1.Đối với Ấn Độ4T .......................................................................................................... 63
4T2.2.2.Đối với Pakistan4T........................................................................................................ 71
4T2.2.3.Đối với các nước Nam Á khác4T .................................................................................. 74
TỪ 1989 - 20014T.......................................................................................................................... 60
4TChương 3: YẾU TỐ ĐỊA - CHÍNH TRỊ KHU VỰC NAM Á TRONG CHÍNH SÁCH CỦA MỸ
4T3.1.Bối cảnh lịch sử thế giới và khu vực4T ............................................................................... 78
4T3.2.Chính sách của Mỹ đối với Ấn Độ4T .................................................................................. 82
4T3.2.1.Thúc đẩy giải quyết nguy cơ chiến tranh giữa Ấn Độ và Pakistan 4T ............................. 83
4T3.2.2.Xúc tiến hợp tác hạt nhân dân sự với Ấn Độ4T ............................................................. 85
4T3.2.3.Tăng cường hợp tác kinh tế song phương4T .................................................................. 88
4T3.2.4.Hợp tác không gian dân sự và hợp tác công nghệ cao 4T ............................................... 92
4T3.2.5.Hợp tác an ninh quốc phòng4T...................................................................................... 94
4T3.3.Chính sách của Mỹ đối với Pakistan4T............................................................................... 96
4T3.3.1.Tăng cường quan hệ với Pakistan4T.............................................................................. 96
4T3.3.2.Cung cấp viện trợ và hợp tác kinh tế với Pakistan 4T ..................................................... 97
4T3.3.3.Hợp tác chống khủng bố4T ......................................................................................... 100
4T3.3.4.Kiểm soát chương trình phát triển vũ khí hạt nhân của Pakistan 4T .............................. 104
4T3.4.Chính sách của Mỹ đối với các nước Nam Á khác4T ....................................................... 106
4T3.4.1.Sri Lanka4T ................................................................................................................ 106
4T3.4.2.Bangladesh4T ............................................................................................................. 109
4T3.4.3.Nepal4T ...................................................................................................................... 112
4T3.4.4.Maldives và Bhutan4T ................................................................................................ 113
4TKẾT LUẬN4T ............................................................................................................................. 118
4TTÀI LIỆU THAM KHẢO4T ........................................................................................................ 125
4TPHỤ LỤC4T ................................................................................................................................ 132
TỪ 9/2001 - 20094T ...................................................................................................................... 78
PHẦN MỞ ĐẦU
1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thế kỷ XXI, nước Mỹ đối mặt với những thách thức lớn đe dọa vị thế bá chủ thế giới mới có
được sau thời kỳ Chiến tranh lạnh. Nước Nga, Trung Quốc yếu kém ngày nào giờ đây đã trở nên
hùng mạnh cả về kinh tế, quân sự lẫn vị thế chính trị quốc tế. Có được sức mạnh trên, các cường
quốc này luôn tìm cách mở rộng phạm vi ảnh hưởng ra các nước khác để tìm kiếm lợi ích quốc
gia. Sự mở rộng của các cường quốc đó đồng nghĩa với phạm vi ảnh hưởng của Mỹ bị thu hẹp.
Tìm cách ngăn cản bước tiến của các nước vừa là đối thủ vừa là đối tác này, Mỹ không thể
theo phương pháp đối đầu trực tiếp mà phải bằng cách chạy đua giành giật, thiết lập càng nhiều
càng tốt phạm vi ảnh hưởng, mà trước hết là các khu vực kế cận các cường quốc này, trong đó có
Nam Á.
Thêm vào đó, ngay từ đầu thế kỷ XXI, Mỹ đã phải tiến hành hai cuộc chiến tranh ở Iraq và
Afganistan, những quốc gia có vị trí gần với khu vực Nam Á. Danh nghĩa của cuộc chiến là
chống khủng bố nhưng sâu xa hơn đó là tranh giành bá quyền với các cường quốc đang lên ở khu
vực này.
Hai cuộc chiến trên đều nằm gần Nam Á đã góp phần đưa vị trí địa - chính trị Nam Á trở nên
“giá trị” hơn bao giờ hết. Nắm được Nam Á, Mỹ còn có khả năng khống chế con đường biển sôi
động vào hàng bậc nhất trên thế giới. Vì vậy mà đảm bảo sự lưu thông cho hàng hóa Mỹ cũng
như con đường vận chuyển dầu về Mỹ.
Khu vực Nam Á còn được coi là nơi có vị trí địa - chính trị quan trọng đối với Mỹ trong thời
điểm này vì nằm gần quốc gia thù địch Iran. Chương trình hạt nhân gây tranh cãi nhiều năm của
Iran dù đã được chính quyền Washington liên tục gây sức ép bằng cách cấm vận, cô lập, đe dọa
tấn công phủ đầu nhưng không khiến chính quyền Tehran nao núng. Trái lại những vụ thử tên lửa
liên tiếp như một lời thách thức rằng Iran sẵn sàng cho một cuộc chiến với Mỹ và đồng minh của
họ.
Nắm được khu vực địa - chính trị quan trọng này, không chỉ phục vụ cho mục tiêu quân sự
của Mỹ mà còn phục vụ mục tiêu kinh tế khi các quốc gia này đang là thị trường tiêu thu và đầu
tư hấp dẫn với giới tư bản Mỹ.
Xác định Nam Á là khu vực có vị trí địa - chính trị quan trọng trong chính sách đối ngoại của
mình, Mỹ tìm cách liên kết đồng minh với các nước lớn, lấy lòng các nước nhỏ trong khu vực.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Yếu tố địa - chính trị trong chính sách của
Mỹ đối với khu vực Nam Á (1989 – 2009)” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cho mình.
Thêm vào đó, thông qua việc tìm hiểu những toan tính của giới cầm quyền Mỹ đối với khu
vực địa - chính trị Nam Á có thể thấy được phần nào bản chất thực sự của những mối quan hệ mà
các nước lớn đang tiến hành trên phạm vi toàn thế giới và rút ra bài học cho Việt Nam.
2.LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, có nhiều công trình nghiên cứu về quan hệ quốc tế của các tác
giả trong và ngoài nước xuất phát từ việc xem xét yếu tố địa - chính trị. Mỹ là một siêu cường.
Quyền lực và lợi ích của Mỹ hầu như có ở khắp nơi trên thế giới. Chính vì vậy có nhiều nhà
nghiên cứu lấy nước Mỹ làm điển hình trong việc nghiên cứu về địa - chính trị. Thực tế cho thấy
chưa có một nghiên cứu riêng nào về yếu tố địa chính trị khu vực Nam Á trong chính sách đối
ngoại của Mỹ được thực hiện ở Việt Nam.
Công trình nghiên cứu đầu tiên mang tính lý luận về lĩnh vực này phải kể đến “An
Introduction to Political Geography” của John Gennie Short xuất bản năm 1993. Công trình
nghiên cứu được đặt trong bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi, phân hóa giữa các khu vực với
mức độ ngày một tăng. Thúc đẩy sự biến đổi ngày một tăng đó là chủ nghĩa tư bản. Tác giả lấy
khái niệm Bắc – Nam để phân biệt các nước thuộc nhóm nước giàu và nghèo.
Năm 1996, Nguyễn Văn Hiến dịch tác phẩm “Sự đảo lộn của thế giới địa chính trị thế kỷ
XXI”của tác giả Maridon Tuareno, một chiến lược gia có tiếng ở Pháp, do Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, xuất bản. Cuốn sách tập trung nghiên cứu những thay đổi của thế giới sau khi kết
thúc Chiến tranh lạnh. Tác phẩm cũng đề cập những thay đổi ở các khu vực khác nhau trên thế
giới. Những lý giải của tác giả cuối cùng nhằm đưa ra một lý thuyết mới về quan hệ quốc tế hiện
đại với vai trò trung tâm là châu Âu.
Zbigniew Brzezinski tham gia bàn về địa - chính trị thế giới thông qua tác phẩm “Bàn cờ
lớn” (The Grand Chessboard) được Lê Phương Thúy biên dịch vào 1999, do Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, xuất bản. Cuốn sách đã mô tả chiến lược toàn cầu của Mỹ ở thế kỷ XXI. Tác giả
nhìn nhận những lợi ích chính trị và khả năng duy trì vị trí siêu cường mà Mỹ có được sau Chiến
tranh lạnh. Theo đó, để thực hiện được mục tiêu này, Mỹ phải ngăn chặn không để xuất hiện một
đối thủ nào ở lục địa Á – Âu có khả năng thống trị lục địa này và thách thức địa vị quốc tế của
nước Mỹ. Xuất phát từ nhận định lục địa Âu - Á sẽ là nơi diễn ra những tranh chấp chủ yếu, tác
giả cũng cho rằng Mỹ phải duy trì cho được sự hiện diện quân sự của mình tại các khu vực then
chốt Trung Đông và các quốc gia đồng minh ở Đông Á. Bên cạnh đó, tăng cường xâm nhập
những địa bàn chiến lược then chốt: Trung Á, Đông Nam Á.
Ở Việt Nam công trình nghiên cứu có tính khái quát địa – chính trị đầu tiên được nhắc đến là
“Khái quát lịch sử tư tưởng địa – chính trị thế giới” của Nguyễn Thế Lực và Nguyễn Hoàng
Giáp, đăng trên tạp chí Khoa học chính trị vào năm 2000. Trong bài viết này các tác giả đưa ra
những luận chứng cho thấy tư tưởng về địa - chính trị đã có từ lâu đời, nhưng phải đến nửa sau
thế kỷ XIX, địa – chính trị mới trở thành một khoa học độc lập. Bài viết đã giới thiệu một số nhà
tư tưởng địa – chính trị nổi tiếng cùng với những quan điểm của họ về địa – chính trị: Alfred
Thayer Haman (người đề cao quyền lực trên biển), Halford Mackinder (người đề cao quyền lực
có được ở lục địa mà trung tâm là lục địa Á –Âu), Nicholas John Spykman (người đề cao quyền
lực ở “vùng rìa” ).
Năm 2000, Aham P. Chapman, Giáo sư danh dự địa lý trường đại học Lancaster, Anh quốc,
viết cuốn “The geopolitics of South Asia: from early empires to the nuclear age”, do Ashgate
Publishing Limited xuất bản. Cuốn sách này đã được tái bản nhiều lần. Trong công trình nghiên
cứu của mình, ông có cái nhìn xuyên suốt địa – chính trị khu vực này từ đầu những đế chế xuất
hiện trên tiểu lục địa Ấn Độ cho tới khi vùng lãnh thổ này sở hữu vũ khí hạt nhân. Tác giả tập
trung vào giai đoạn từ sau thế chiến thứ hai cho đến khi Ấn Độ và Pakistan thử nghiệm thành
công vũ khí hạt nhân. Trong đó tác giả đề cập đến mối quan hệ phức tạp giữa Mỹ, Ấn Độ,
Pakistan, Trung Quốc, Nga ở khu vực địa – chính trị này. Chapman đặc biệt đưa ra các tam giác
quan hệ giữa các quốc gia Nam Á với nhau và với các cường quốc bên ngoài. Từ đó rút ra nhận
định về bản chất và chiều hướng phát triển của các mối quan hệ này có ảnh hưởng tới địa – chính
trị khu vực.
Năm 2003, Giáo sư David S. Chou thuộc trường đại học quốc gia Chengchi, Trung Quốc cho
xuất bản cuốn sách “U.S. policy toward Indian and Pakistan in the post- Cold War Era”, do
công ty phát hành sách Sheng - Chih, Đài Loan phát hành. Sau đó một phần trích được giới thiệu
trên Tạp chí Tamkang các vấn đề quốc tế. Trong công trình này, tác giả đề cập đến những chuyển
biến chính sách của Mỹ đối với Ấn Độ và Pakistan sau Chiến tranh lạnh, chuyển dịch từ cải thiện
những quan hệ với Ấn Độ tới một chính sách “Ấn Độ là trước hết”. Tác giả cũng chỉ ra rằng do
sự cân nhắc chiến lược của “mối đe doạ Trung Quốc”, Ấn Độ được Mỹ coi trọng hơn và khi nào
cái bóng của “sự đe doạ Trung Quốc” vẫn tồn tại trong trí não của các nhà hoạch định chính sách
Mỹ, Washington sẽ đối xử với Ấn Độ như một đối tác tự nhiên của họ ở Nam Á. Đồng thời,
chừng nào chiến dịch chống khủng bố còn tiếp tục và tái thiết ở Afghanistan vẫn chưa kết thúc,
Mỹ vẫn sẽ cần sự hợp tác của Pakistan, vì thế, Mỹ sẽ cố gắng duy trì chính sách cân bằng hiện
thời của họ đối với Ấn Độ và Pakistan. Từ đó tác giả kết luận lợi ích chiến lược là nhân tố quan
trọng trong chính sách của Mỹ đối với Nam Á. Chính sách đó là một phần của chính sách toàn
cầu tìm kiếm sự ngăn chặn một cường quốc thù địch từ các nước Châu Âu hay Châu Á.
Bouton, Dennis Kux and Mahnaz Ispahani, cho xuất bản ở Mỹ công trình nghiên cứu
“New Priorities in South asia: U.S. Policy toward India, Pakistan and Afghanistan” do Ủy ban
Năm 2003, Nhóm đặc Đặc nhiệm gồm Frank G.Wisner II, Nicholas Platt, Marshall M.
đối ngoại Mỹ phát hành. Các tác giả khẳng định sau sự kiện 11/9, Nam Á có tầm quan trọng then
chốt đối với an ninh toàn cầu, củng cố quan hệ chặt chẽ với Ấn Độ và đảm bảo một quốc gia Hồi
giáo Pakistan ôn hòa, tích cực khuyến khích mối quan hệ hòa bình giữa Ấn Độ và Pakistan, đảm
bảo một Afghanistan, nơi lực lượng khủng bố có thể không bao giờ giành lại nơi ẩn náu – tất cả
phải là ưu tiên của Mỹ.
Năm 2004, Rahul Roy Chaudhury cho đăng bài viết “The United States’ role and influence
on the India – Pakistan conflict” trên trang web của Cơ quan nghiên cứu giải trừ quân bị Liên
Hợp Quốc (The United Nations Institute for Disarmament Research, http://www.unidir.org). Bài
viết cho thấy Mỹ hết sức quan tâm đến những mâu thuẫn nảy sinh trong tranh chấp lãnh thổ
Jammu và Kashmir vốn đã diễn ra 3 cuộc chiến tranh quy mô và nhiều cuộc đụng độ dọc biên
giới Ấn Độ - Pakistan. Chính sách của Mỹ là theo đuổi phương án hóa giải các mâu thuẫn hai bên
để không dẫn đến chiến tranh, thúc đẩy họ giải quyết mâu thuẫn bằng đàm phán hòa bình. Bởi
Nam Á hòa bình sẽ phục vụ cho lợi ích địa – chính trị của họ ở đây.
Năm 2005, Polly Nayak công bố công trình U.S. Security Policy in South Asia Since 9/11 —
Challenges and Implications for the Future được đăng tải trên trang web của Trung tâm nghiên
cứu an ninh châu Á – Thái Bình Dương (The Asia-Pacific Center for Security
Studies, 3Twww.apcss.org3T) có cơ sở tại Honolulu, Mỹ. Tác giả cho rằng từ khi Mỹ tiến hành cuộc
chiến chống khủng bố ở Nam Á, chính sách an ninh của họ ở khu vực này được coi trọng. Mỹ đã
tiến hành những hợp tác an ninh với các quốc gia chủ chốt ở đây. Tuy nhiên chính sách này của
Mỹ đang có những thách thức lớn như sự bất lực của Pakistan trong việc ngăn chặn các phiến
quân Hồi giáo cực đoan thâm nhập vào Afghanistan; khó giải quyết mâu thuẫn khi tăng cường
quan hệ với Ấn Độ sẽ làm mất lòng Pakistan và ngược lại (đặc biệt là hoạt động quân sự); nguy
cơ xung đột Ấn Độ - Pakistan đe dọa nỗ lực chống khủng bố của Mỹ; cơ chế nào cho sự kiểm
soát vũ khí hạt nhân ở Ấn Độ và Pakistan một cách hiệu quả; sự khác biệt giữa tầm nhìn chiến
lược Washington và New Delhi là giới hạn hợp tác quốc tế đáng kể của hai nước…
Năm 2005, Hồ Châu cho đăng trên tạp chí Nghiên cứu Châu Âu bài “ Chiến lược Á – Âu của
Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh nhìn từ góc độ địa – chính trị”. Bài viết này khẳng định lục địa Á –
Âu là quan trọng đối với vị trí siêu cường của Mỹ. Mỹ đang thực hiện một chiến lược quan trọng
là ngăn chặn bất kỳ nước nào vươn lên tranh giành địa vị bá quyền của Mỹ ở đây. Mỹ đang cho
thấy sự gia tăng ảnh hưởng của mình ở các khu vực Trung Đông, Trung Á và Nam Á.
Bruce Vaughn, một Chuyên gia các vấn đề Nam Á của chính quyền Mỹ đã cho công bố trên
trang web của Cơ quan Nghiên cứu Quốc hội Mỹ (www.fas.org) các bài viết về các nước Nam Á
khác như Nepal: Background and U.S. Relations (2006); Bangladesh: Background and U.S.
Relations(2007); Sri Lanka: Background and U.S. Relations (2009)… thể hiện cái nhìn cơ bản về
mối quan hệ của Mỹ với các quốc gia này từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, qua đó có thể thấy
được chính sách của Mỹ đối với khu vực này qua từng thời kỳ. Tầm quan trọng địa – chính trị
của những nước Nam Á nhỏ nói trên được khẳng định trong bối cảnh các cường quốc mới nổi
đang cạnh tranh mạnh mẽ với Mỹ. Tác giả cho thấy ở Nam Á ngày nay, Mỹ không còn một mình
một sân khấu nữa, lợi ích của Mỹ đang bị đe dọa thường xuyên hơn.
Cũng như, Bruce Vaughn, năm 2009, K. Alan Kronstadt, chuyên gia các vấn đề Nam Á của
chính quyền Mỹ có một loạt bài viết về mối quan hệ của Mỹ với Ấn Độ, Mỹ với Pakistan (U.S. –
Indian Relations; U.S. – Pakistan Relations; Pakistan: Key current issues and devolopment) được
đăng tải trên trang web của Cơ quan nghiên cứu Quốc hội Mỹ (Congressional Research Service,
www.fas.org). Tác giả điểm lại những mốc quan trọng và sự kiện nổi bật trong quan hệ của Mỹ
từ sau sự kiện 11/9 với các quốc gia này. K. Alan Kronstadt cho thấy, khi chính quyền Mỹ tuyên
bố cuộc chiến chống khủng bố, Nam Á trở thành khu vực địa – chính trị quan trọng. Vì vậy, Mỹ
đã tiến hành chuyển hướng quan hệ với Pakistan, chấm dứt hơn một thập niên quan hệ lạnh nhạt,
trong khi tiếp tục thắt chặt quan hệ với Ấn Độ. Tác giả cũng cho thấy những mâu thuẫn khó giải
quyết trong quan hệ cùng lúc với hai quốc gia là địch thủ của nhau, sự tích cực của Mỹ tháo gỡ
ngòi nổ chiến tranh trước những âm mưu khủng bố trên đất nước Ấn Độ. Hơn lúc nào hết Mỹ cần
khu vực này hòa bình, ổn định để không gây tổn hại đến mục tiêu toàn cầu mà họ đang theo đuổi
ở đây. Kết quả nghiên cứu của những công trình này đã cung cấp nguồn tài liệu quan trọng cho
đề tài của tôi hiểu về chính sách của Mỹ đối với hai quốc gia quan trọng ở Nam Á.
Năm 2011, Nguyễn Văn Dân cho xuất bản công trình nghiên cứu Địa – chính trị trong chiến
lược và chính sách phát triển quốc gia, do nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội thực hiện. Tác
giả tập trung nghiên cứu các khái niệm khác nhau về địa – chính trị của các tác giả trong và ngoài
nước. Bên cạnh đó tác giả đi vào tìm hiểu các quan điểm địa – chính trị của các nhà địa – chính
trị cổ điển cũng như hiện đại, qua đó dựng lại bức tranh địa – chính trị toàn cầu từ trước đến nay.
Tác giả cũng quan tâm đến các lý thuyết địa – chính trị đang ảnh hưởng đến các chính sách của
Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh. Cuối cùng tác giả đưa ra những gợi ý dưới góc độ địa – chính trị cho
các nhà hoạch định chính sách Việt Nam nhằm phát triển đất nước.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu này, các tạp chí uy tín như Nghiên cứu Quốc tế, Những
vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, Thông tin Khoa học Xã hội, Tài liệu tham khảo đặc
biệt…luôn cập nhật nhiều bài viết của các tác giả về quan hệ ngoại giao, chính trị, kinh tế có giá
trị cho đề tài. Bên cạnh đó, luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thị Kim Hằng về “Yếu tố địa – chính trị
trong chiến lược toàn cầu của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh đến nay (12/1989 – 5/2008)” đã cung
cấp cho tôi cái nhìn tổng quan về địa – chính trị và địa – chính trị có tác động thế nào đến quá
trình hoạch định chính sách của Mỹ.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này chủ yếu phản ánh quan hệ của Mỹ với các
nước Nam Á qua từng thời kỳ. Qua đó, cung cấp cho người đọc bức tranh về quan hệ kinh tế,
chính trị, ngoại giao giữa Mỹ với các nước này và là nguồn tư liệu quan trong cung cấp cho tôi
thực hiện luận văn. Tuy nhiên, vì mục đích nghiên cứu của từng tác giả trong các công trình của
họ, nên họ chưa chỉ ra yếu tố nào đã tác động đến các nhà hoạch định chính sách Mỹ trong việc
đưa ra chính sách cho từng quốc gia trong khu vực Nam Á. Đây là điểm mà tôi sẽ cố gắng chỉ ra
trong luận văn của mình.
3.ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những yếu tố địa lý, chính trị tác động đến quá trình
hoạch định chính sách và thực thi chính sách đó của Mỹ đối với khu vực Nam Á.
Về mặt thời gian đề tài tập trung tìm hiểu các chính sách của Mỹ tìm kiếm lợi ích địa – chính
trị từ sau Chiến tranh lạnh cho đến khi tổng thống Obama lên nắm quyền (1989 – 2009).
Về mặt không gian đề tài tập trung tìm hiểu các quốc gia nằm trong khu vực Nam Á. Cụ thể
là: Ấn Độ, Pakistan, 4TBangladesh4T, 4TBhutan4T, 4TMaldives4T, 4TNepal4T, 4TSri Lanka4T.
4.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình thực hiện đề tài của mình, chủ yếu tôi sử dụng các phương pháp chuyên
ngành và liên ngành như sau:
Phương pháp lịch sử, một phương pháp quan trọng, trên cơ sở các tài liệu phục dựng lại bức
tranh lịch sử về chính sách của Mỹ nhằm đạt được lợi ích địa – chính trị Nam Á trong 2 thập niên
sau Chiến tranh lạnh.
Phương pháp logic được sử dụng để lý giải những tính toán địa – chính trị, thấy được sự nhất
quán trong chính sách của Mỹ đối với thế giới và khu vực. Từ đó rút ra những gì tiềm ẩn đằng
sau toan tính địa – chính trị.
Bên cạnh đó tôi có sử dụng các phương pháp liên ngành như phương pháp quan hệ quốc tế đi
đến phân tích cái tổng thể, toàn cục trong chính sách của Mỹ, so sánh các lực lượng, để thấy được
mối quan hệ phức tạp giữa các cường quốc ở khu vực này. Ngoài ra, tôi cũng sử dụng những kiến
thức địa – văn hóa, địa - kinh tế có liên quan khi nghiên cứu đề tài.
5.ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Cung cấp bức tranh toàn cảnh về vị thế địa – chính trị của khu vực Nam Á thu hút sự quan
tâm của các cường quốc quân sự trong đó có Mỹ.
Luận văn cung cấp cái nhìn cụ thể chính sách của Mỹ về một khu vực có giá trị địa – chính
trị quan trọng như Nam Á trong hai thập niên sau Chiến tranh lạnh. Từ đó góp thêm tư liệu hiểu
về chính sách toàn cầu của Mỹ hiện nay cũng như góp phần lấp đầy khoảng trống trong nghiên
cứu lĩnh vực địa – chính trị mà Mỹ là một chủ thể.
Từ thực tế nghiên cứu địa – chính trị Nam Á trong chính sách của Mỹ cung cấp cho chúng
ta những gợi ý về địa – chính trị Việt Nam trong quan hệ quốc tế. Bởi vì những bài học từ các
nước khác trong việc phát triển lợi thế địa – chính trị luôn có giá trị cho chúng ta trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Nội dung của luận văn góp phần cho việc học tập nghiên cứu và giảng dạy của bản thân
cũng như những ai quan tâm đến yếu tố địa – chính trị trong chính sách của Mỹ.
6.BỐ CỤC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về khu vực Nam Á và vị thế địa – chính trị của khu vực
Chương 2: Yếu tố địa – chính trị khu vực Nam Á trong chính sách của Mỹ từ 1989 - 2001
Chương 3: Yếu tố địa – chính trị khu vực Nam Á trong chính sách của Mỹ từ 9/2001 -2009.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ KHU VỰC NAM Á VÀ VỊ THẾ ĐỊA -CHÍNH TRỊ
CỦA KHU VỰC
1.1.Sơ lược về địa lý dân cư và lịch sử hình thành khu vực
1.1.1.Khái niệm Nam Á và địa lý, dân cư khu vực Nam Á
1.1.1.1.Khái niệm Nam Á
Nam Á là khái niệm địa lý chỉ các nước nằm ở phía nam châu Á, tiếp giáp với các khu vực
khác như Trung Á, Tây Á, Đông Nam Á, Bắc Á. Nam Á bao gồm một số nước có đặc điểm lãnh
thổ cùng nằm trên khu vực địa lý với những nét tương đồng nhất định về khí hậu, thổ nhưỡng,
môi trường sống…Tuy nhiên, những quốc gia nào được xác định thuộc về khu vực Nam Á thì
không phải các nhà nghiên cứu, các nhà địa lý, các nhà ngoại giao, các nhà hoạch định chính
sách, các tổ chức trên thế giới… luôn thống nhất ý kiến với nhau.
Có quan điểm cho rằng Nam Á gồm 8 nước đó là: Ấn Độ, Pakistan, Afghanistan, Bhutan,
Nepal, Sri Lanka, Bangladesh, Maldives. Bên cạnh đó lại có quan điểm cho rằng Nam Á chỉ gồm
7 nước. Quan điểm này không coi Afghanistan là một quốc gia thuộc khu vực địa lý Nam Á mà
thuộc khu vực địa lý Trung Á. Lại có quan điểm coi Nam Á là một khu vực địa lý bao gồm các
quốc gia và vùng lãnh thổ rộng lớn hơn gồm: Ấn Độ, Pakistan, Afghanistan, Bhutan, Nepal, Sri
Lanka, Bangladesh, Maldives, khu vực Tây Tạng (Trung Quốc), Myanma… Quan điểm này
không được nhiều người chấp nhận. Như vậy, Nam Á gồm 7 nước hay 8 chỉ khác biệt ở chỗ coi
Afghanistan thuộc về Nam Á hay thuộc về một khu vực địa lý khác trên thế giới.
Đại diện cho những người coi Nam Á gồm 8 quốc gia (bao gồm cả Afghanistan) có thể kể
đến như các nhà nghiên cứu Việt Nam. Trong cuốn sách có tên “Các nước Nam Á” của Nhà xuất
bản Sự Thật (sách không có tên tác giả) xuất bản năm 1976 đã trình bày nội dung khái quát về
địa lý, dân cư, lịch sử vùng đất, thể chế chính trị của 8 nước nói trên. Ở Việt Nam, cho đến nay,
nhiều nhà báo, phóng viên truyền hình, nhiều nhà khoa học vẫn theo quan điểm coi Afghanistan
thuộc khu vực Nam Á. Trên phạm vi thế giới cũng có nhiều nhà nghiên cứu cùng chung quan
điểm này. Theo cách sắp xếp của tổ chức Ngân hàng thế giới (WB), Tổ chức Trung tâm nghiên
cứu an ninh Châu Á – Thái Bình Dương (APCSS) đều cho rằng Nam Á gồm 8 quốc gia (bao
gồm cả Afghanistan). Hiệp hội Hợp tác khu vực Nam Á (SAARC) được thành lập theo sáng kiến
của Tổng thống Bangladesh, Ziaur Rahman, đã kết nạp Afghanistan làm thành viên chính thức
của hiệp hội vào năm 2005. Vậy theo quan điểm của tổ chức này, Afghanistan cũng thuộc khu
vực địa lý Nam Á. Cùng quan điểm như vậy có nhiều nhà nghiên cứu Phương Tây cho rằng
Afghanistan thuộc Nam Á. Tiêu biểu như trong bài nghiên cứu “Chủ nghĩa khu vực trong ngoại
giao Nam Á” của Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm, các tác giả của Viện này đã xem
Afghanistan thuộc về Nam Á.
Trong khi đó, tổ chức toàn cầu khác là Liên Hợp Quốc xác định có 7 nước trong khu vực này
mà không có Afghanistan. Đại diện cho những quan điểm này còn có Bộ ngoại giao Mỹ. Trong
cách phân chia khu vực của mình, Bộ Ngoại giao Mỹ coi Afghanistan thuộc về Trung Á.
Như vậy, mặc dù có sự không thống nhất trong xác định Nam Á gồm 7 hay 8 quốc gia giữa
các nhà nghiên cứu, nhưng xuất phát từ việc nghiên cứu khu vực này trong chính sách của Mỹ
nên tôi coi Nam Á có 7 quốc gia như quan điểm của Bộ Ngoại giao Mỹ và cũng là quan điểm
chính thống của chính quyền Mỹ. Tuy nhiên, Afghanistan vẫn được tôi đề cập trong đề tài như
một nhân tố có liên quan đến chính sách của Mỹ ở khu vực này.
P, chiếm 10%
2 Với 7 quốc gia chủ chốt, Nam Á là khu vực địa lý rộng khoảng 4,4 triệu kmP
1.1.1.2.Vài nét về địa lý, dân cư, kinh tế của khu vực
diện tích châu Á, 2,4% diện tích thế giới. Vùng đất này có mật độ dân cư đông đúc, chiếm
khoảng 34% dân số châu Á, 16,5% dân số thế giới.
Nam Á là khu vực địa lý cùng chung hệ sinh thái với hai hệ thống phụ: hệ thống núi
Himalaya ở phía Bắc và khu vực chịu ảnh hưởng của biển ở miền Nam. Dãy Himalaya trở thành
bức tường thành tự nhiên ngăn cách Nam Á với các khu vực khác trên thế giới trong nhiều thế
kỷ, đặc biệt trong thời kỳ phương tiện giao thông của loài người còn những hạn chế.
Nam Á nằm trong vùng khí hậu đa dạng, từ nhiệt đới gió mùa ở miền Nam đến ôn hoà ở
miền Bắc, một số nơi có nền khí hậu sa mạc khô nóng như Pakistan. Nam Á có đầy đủ các dạng
địa hình như: vùng núi, đồng bằng, thảo nguyên, sa mạc. Đặc biệt là những đồng bằng được tạo
nên bởi hai dòng sông mẹ là sông Hằng và sông Ấn. Từ những điều kiện thuận lợi ban đầu, Nam
Á đã trở thành một trong những trung tâm văn minh cổ đại kỳ vĩ của loài người.
Nam Á có những quốc gia không có đường biển, địa hình đồi núi cao chiếm đa số như Nepal,
Bhutan, lại có những quốc gia bao quanh bởi biển cả, án ngữ vị trí chiến lược quan trọng như Sri
Lanka, Maldives trong vùng Ấn Độ Dương.
Trung tâm văn minh nhân loại cổ đại này đang sở hữu nhiều tài nguyên thiên nhiên như:
thạch anh, cô ban, ở Nepal. Gỗ có nhiều ở Nepal, Bangladesh, Bhutan. Than đá ở Ấn Độ, quốc
gia được coi là đang sở hữu trữ lượng than đứng thứ tư trên thế giới. Than đá cũng có ở Pakistan
nhưng chất lượng không tốt. Quặng sắt có nhiều ở Nepal, Ấn Độ. Dầu mỏ có ở Ấn Độ, loại nhiên
liệu quan trọng này cũng có ở Pakistan nhưng không nhiều. Khí tự nhiên với trữ lượng lớn ở
Pakistan, ngoài ra cũng có ở Ấn Độ, Bangladesh. Kim loại đồng có ở Nepal, Pakistan. Mangan,
khoáng chất mi ca, bô xit, quặng titanium, crôm, kim cương có ở Ấn Độ. Thạch cao có ở Bhutan.
Sa khoáng, đá quý có ở Sri Lanka… Như vậy Nam Á sở hữu nhiều loại khoáng sản trong đó có
những loại khoáng sản giá trị cao như dầu mỏ, quặng titanium, kim cương, đá quý.
Cư dân làm nên lịch sử, văn hóa Nam Á lục địa hiện nay gồm hai chủng tộc chính là người
Dravida bản địa và người Arian di cư từ Trung Á đến, trong đó người Arian nắm vai trò chủ đạo.
Bên cạnh đó Nam Á cũng có những bộ phận dân cư mà tổ tiên của họ đến từ những vùng đất
khác như người Botia của Bhutan và một số tộc người khác của Nepal đến từ vùng Tây Tạng của
Trung Quốc. Ngày nay đa số các quốc gia Nam Á không có cư dân thuần nhất. Nhiều tộc người
khác nhau đang cùng chung sống trong lãnh thổ của mỗi nước (chẳng hạn, Ấn Độ theo thống kê
có tới hơn 2000 tộc người đang cùng sinh sống). Dù đã bước vào thế kỷ XXI với những bước tiến
dài của loài người nhưng Nam Á còn nhiều vùng đất mà ở đó xã hội vẫn được tổ chức theo kiểu
thị tộc, bộ lạc. Ở những vùng đất này pháp luật của chính quyền trung ương và nhịp sống hiện đại
chưa đủ mạnh để phá vỡ cấu trúc truyền thống của họ. Đây là một thách thức lớn đối với các
chính quyền Nam Á. Tuy nhiên, cho dù chất lượng sống chưa cao nhưng với số dân chiếm
khoảng 1/6 dân số thế giới, Nam Á đang là một thị trường tiềm năng cho các nhà tư bản trên thế
giới.
Mặc dù có lịch sử tồn tại và phát triển lâu đời nhưng các quốc gia Nam Á vẫn là những nước
có nền kinh tế kém phát triển, không ổn định, tỉ lệ người nghèo trong xã hội cao hàng đầu trên thế
giới. Nền kinh tế chủ yếu vẫn là kinh tế nông nghiệp. Nhiều nước, lực lượng lao động nông
nghiệp chiếm trên 50% như Ấn Độ (60%, 18% of GDP), Bhutan lực lượng lao động nông nghiệp
94%; (GDP chiếm 22.3%, 2006-2007), Nepal lực lượng lao động nông nghiệp 71% (32.12% of
GDP)
Bên cạnh đó là kinh tế công nghiệp. Dù ngành công nghiệp chưa chiếm tỉ trọng lớn trong cơ
cấu nền kinh tế quốc gia nhưng có một số nước đã xây dựng được những ngành kinh tế công
nghiệp mũi nhọn. Ấn Độ hiện đang có những ngành kinh tế có hàm lượng khoa học cao như công
nghệ hạt nhân, vũ trụ, công nghệ quốc phòng. Ở Nam Á, Ấn Độ còn được biết đến như một quốc
gia hàng đầu trên thế giới về gia công phần mềm công nghệ thông tin…Tiềm năng của thị trường
công nghệ cao và quyết tâm theo đuổi nền kinh tế hiện đại ở một số nước Nam Á, đang là tâm
điểm chạy đua của các cường quốc trên thế giới để có được những đơn đặt hàng từ những nước
này.
Trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng kinh tế của một số nước Nam Á khá cao. Mức
tăng trưởng của Ấn Độ năm 2008 đạt 6,6%, Bangladesh là 6,2%, Sri Lanka là 6%, Maldives là
5,8% Bhutan là 8.5%. Tuy nhiên tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của các nước Nam Á còn ở mức
thấp. GDP của Bhutan năm 2007 là 3,3 tỷ USD; Bangladesh là 79 tỷ USD, Nepal là 12,69 tỷ
USD; Ấn Độ là quốc gia có tổng sản phẩm quốc nội lớn nhất trong khu vực, nhưng cũng chỉ đạt
1.210 tỷ USD vào năm 2008, thua một bang của Mỹ (bang California là 1.500 tỷ USD vào năm
2006). Dù Nam Á đang là khu vực có tốc độ phát triển kinh tế khá nhanh trên thế giới nhưng đây
cũng là khu vực đông dân số và chất lượng sống thấp, đói nghèo vào hàng cao nhất thế giới. Theo
Ngân hàng thế giới thì Nam Á đang chiếm ½ số người nghèo nhất thế giới.
1.1.2.Sơ lược lịch sử hình thành khu vực
Nam Á là một trong những khu vực có lịch sử phát triển lâu đời nhất của nhân loại, nơi có
một trong bốn nền văn minh cổ đại của phương Đông. Trước kia Nam Á là khu vực chỉ bao gồm
quốc gia Ấn Độ cổ đại. Lịch sử vùng đất này vì vậy gắn với những thăng trầm của Ấn Độ.
Ấn Độ thời cổ trung đại có nhiều tiểu quốc cùng tồn tại. Các tiểu quốc này luôn tiến hành
các cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau. Tình hình đó khiến Ấn Độ luôn trong tình trạng hợp rồi
tan, thống nhất rồi chia cắt nhưng xu thế thống nhất luôn được các vương công của các tiểu quốc
lớn mạnh đặt ra.
Ấn Độ cổ đại từng là đối tượng xâm lược của nhiều thế lực như đế quốc Ba Tư, người Hồi
giáo, người Mông Cổ. Vào thế kỷ XV, dưới cái nhìn của các nước phương Tây, Ấn Độ là vùng
đất giàu có, vàng bạc, hương liệu, gia vị nhiều vô kể. Sức hấp dẫn của Ấn Độ nói riêng, phương
Đông nói chung đã khiến vùng đất này sớm trở thành đối tượng xâm chiếm của các cường quốc
phương Tây lúc bấy giờ như: Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp. Tuy nhiên, Ấn Độ rộng lớn
không dễ để cho các nước thực dân phương Tây biến toàn bộ quốc gia này thành thuộc địa.
Trong buổi đầu, các nước thực dân phương Tây chỉ chiếm được một số địa điểm, lập các thương
điếm để tiến hành thu mua hương liệu, gia vị và những hàng hóa có giá trị khác với lối buôn bán
bất công. Lợi ích to lớn từ vùng đất này đã khiến các nước thực dân phương Tây không từ thủ
đoạn nào có thể thu được lợi nhuận. Chúng tiến hành mua chuộc, dụ dỗ và cả bằng biện pháp
quân sự để buộc các vương công của các tiểu quốc trên đất nước Ấn Độ lúc bấy giờ thực hiện
những điều có lợi cho chúng. Khi lợi ích giữa các nước thực dân phương Tây va chạm với nhau,
chúng không ngần ngại tiến hành các biện pháp quân sự. Trong số các nước thực dân, Anh là kẻ
đến sau nhưng tỏ ra mạnh mẽ nhất trong việc đặt ách thống trị lâu dài lên đất nước Ấn Độ.
Buổi đầu cũng như nhiều nước thực dân khác, Anh tiến hành cai trị Ấn Độ thông qua
Công ty Đông Ấn. Đến thế kỷ XIX, chính quyền Anh bãi bỏ từng bước vị trí độc quyền của công
ty này và trực tiếp cai trị Ấn Độ. Giữa thế kỷ này, thực dân Anh đã hình thành bộ máy cai trị Ấn
Độ trực thuộc chính phủ Anh. Đứng đầu là một Phó vương với một hội đồng điều hành gồm 5
người. Quyền lập pháp cũng do viên Phó vương này cùng với 12 người trong hội đồng thực thi.
Năm 1877, Nữ hoàng Anh Victoria tuyên bố chính thức lên ngôi vua ở Ấn Độ, đánh dấu hoàn
thành việc chinh phục Ấn Độ thành thuộc địa Anh.
Ngay từ buổi đầu bị xâm lược, nhân dân Ấn Độ đã tiến hành các cuộc đấu tranh chống lại
thực dân phương Tây nói chung, thực dân Anh nói riêng. Nhưng thực dân Anh một mặt mua
chuộc tầng lớp quý tộc Ấn Độ, một mặt thẳng tay đàn áp các cuộc đấu tranh của quần chúng
nhân dân. Vì vậy, các cuộc đấu tranh này nhanh chóng bị dập tắt.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào đấu tranh đòi độc lập ở đây lên cao. Không
muốn mất hết, Anh tiến hành trao trả độc lập nhưng vẫn giữ lại những lợi ích quan trọng ở đây.
Năm 1947, đồng thời với việc trao trả độc lập cho vùng đất là thuộc địa của Anh hàng thế kỷ
này, trên cơ sở tôn giáo, Anh tách Ấn Độ thành hai quốc gia: Liên bang Ấn Độ thuộc về những
người theo Ấn Độ giáo và Pakistan của những người theo Hồi giáo. Trong đó, quốc gia Pakistan
tuyên bố độc lập vào năm 1947 gồm hai vùng lãnh thổ không cận kề là Đông Pakistan và Tây
Pakistan. Mâu thuẫn từ những vùng đất tranh chấp cận kề hai quốc gia mới, mà ở đó cơ sở phân
chia tôn giáo không tạo nên sự rạch ròi đã nảy sinh.
Chính sách của thực dân Anh đã nuôi mầm cho sự bất ổn của khu vực vốn từng thống nhất
này và là nguyên nhân sâu xa của ít nhất ba cuộc chiến tranh quy mô và nhiều cuộc xung đột biên
giới giữa Ấn Độ và Pakistan.
Ấn Độ và Pakistan giành được độc lập trong bối cảnh thế giới bước vào cuộc Chiến tranh
lạnh. Các cường quốc luôn lôi kéo các nước nhỏ đứng về phía mình. Mỹ đứng đầu khối các nước
tư bản đã thực hiện chính sách bao vây Liên Xô và các nước XHCN. Nam Á lúc bấy giờ nằm ở
vị trí địa lý thuận lợi cho toan tính toàn cầu này của Mỹ. Vì vậy, các quốc gia Nam Á, nổi bật là
Ấn Độ và Pakistan, luôn được Mỹ tìm cách lôi kéo. Tuy nhiên, chính sách đối ngoại của hai quốc
gia này khác nhau. Trong khi Pakistan chủ trương dựa hẳn vào Mỹ để nhận viện trợ quân sự và
ủng hộ quốc tế cho những hành động đối đầu với Ấn Độ, thì Ấn Độ chủ trương một chính sách
ngoại giao độc lập, có phần nghiêng về Liên Xô khi quốc gia này đứng đầu tổ chức Không liên
kết chống lại hành động xâm lược của các nước đế quốc.
Lợi dụng bối cảnh quốc tế nhằm giải quyết những tranh chấp lãnh thổ bằng hành động
quân sự không hiệu quả, hai nước đã đi đến đàm phán. Kết quả là những thỏa thuận và hiệp định
giữa hai bên đã được ký kết như thỏa thuận Tasken (1966), hiệp định 6 điểm Shimla (1972) có
nội dung ngăn chặn một cuộc chiến tranh quy mô mới có thể xảy ra giữa hai nước. Lịch sử cho
thấy, mọi biện pháp quân sự không giải quyết được mâu thuẫn, nhất là trong điều kiện hiện nay
khi hai nước đã có vũ khí hạt nhân. Tuy nhiên, sự phức tạp của những vấn đề tranh chấp dẫn đến
các bên không dễ chấp nhận bất kỳ thỏa thuận nào đi đến giải quyết tận gốc vấn đề. Tranh chấp
lãnh thổ giữa Ấn Độ và Pakistan vẫn còn đó, nguy cơ chiến tranh xuất phát từ những tranh chấp
trên luôn thường trực. Nền hòa bình của khu vực Nam Á hiện thời hầu như được phản ánh trong
cơn nóng lạnh của mối quan hệ Ấn Độ - Pakistan. Mâu thuẫn giữa hai quốc gia nằm ở vị trí địa –
chính trị quan trọng này đang được các cường quốc tìm cách can dự nhằm tìm kiếm lợi ích cho
mình. Do đó không dễ gì mâu thuẫn này sẽ sớm được giải quyết.
1.2.Những nhân tố tác động đến chiến lược địa – chính trị của Mỹ đối với khu vực Nam Á
1.2.1.Sự trỗi dậy của Nam Á trở thành điểm nóng thu hút sự quan tâm đặc biệt của Mỹ
Sự trỗi dậy sau Chiến tranh lạnh
1.2.1.1.Ấn Độ
Ấn Độ là một quốc gia có diện tích lớn và số dân đông nhất Nam Á, có lịch sử tồn tại và phát
triển lâu dài. Ngày nay người ta biết đến Ấn Độ như một quốc gia hội tụ tất cả những yếu tố hiện
đại và lạc hậu, hùng mạnh và yếu kém như: nơi đây đang có nền công nghiệp phần mềm hàng
đầu thế giới, và là quê hương của nhiều nhà khoa học danh tiếng trong lĩnh vực hạt nhân, vũ
trụ…nhưng cũng là quốc gia có tỉ lệ dân số đói nghèo vào hàng lớn nhất thế giới. Cuộc cải cách
kinh tế mà quốc gia này tiến hành cách đây gần 20 năm đã đưa Ấn Độ vào nhóm các nền kinh tế
đang lên và được đánh giá là những siêu cường tiềm năng, BRIC. Thực tế đó Ấn Độ có trở thành
một thách thức với Mỹ trong khu vực và trên thế giới hay không? Nhận định về khả năng của Ấn
Độ, tác giả công trình nghiên cứu Bàn cờ lớn, Zbigniew Brzezinski, cho rằng “Có thể là đánh giá
quá cao những khả năng về lâu về dài của Ấn Độ nhưng chắc chắn Ấn Độ là quốc gia hùng mạnh
nhất Nam Á, một loại bá chủ khu vực” [2, tr 54].
Những năm Chiến tranh lạnh, Ấn Độ đi theo đường lối ngoại giao tránh bị lôi kéo đứng về
bên nào giữa hệ thống các nước XHCN và các nước TBCN. Tuy nhiên chính sách không liên kết
mà Ấn Độ theo đuổi có chiều hướng thân thiện với Liên Xô và các nước XHCN hơn. Nhờ vậy,
Ấn Độ nhận được nhiều sự ủng hộ từ khối các quốc gia này. Sau Chiến tranh lạnh, Ấn Độ đứng
trước nhiều thách thức, trong đó có những thách thức đã tồn tại từ lâu, có những thách thức mới
xuất hiện do bối cảnh quốc tế như: nguy cơ chiến tranh với nước láng giềng Pakistan luôn luôn
thường trực, sự yếu kém của nền kinh tế, sự mất đi nguồn viện trợ từ Liên Xô, tình trạng đói
nghèo, tăng dân số quá nhanh…Chính các quan chức cấp cao Ấn Độ phải thừa nhận tình trạng
đất nước họ là hết sức nguy ngập. Thủ tướng Ấn Độ lúc bấy giờ, Narasimha Rao, nói với báo chí
rằng “Ấn Độ đứng trước bờ vực”. Những thách thức đó đã đặt ra cho các nhà cầm quyền Ấn Độ
nhiệm vụ phải xem xét lại chiến lược phát triển đất nước.
Trên thế giới lúc này có nhiều quốc gia đang đối diện với những khó khăn, đặc biệt là khó
khăn từ mô hình phát triển kinh tế không phù hợp. Trước tình hình đó họ đã tiến hành cải cách,
cải tổ. Có những quốc gia thành công, có những quốc gia thất bại. Cải cách là đòi hỏi cấp thiết,
không thể đảo ngược nếu Ấn Độ muốn thoát khỏi bờ vực của sự đổ vỡ. Bài học từ các quốc gia
đang tiến hành cải cách, đổi mới đã cung cấp cho Ấn Độ một lựa chọn phù hợp với thực tế đất
nước đông dân cư vào hàng thứ hai thế giới này. Sau gần 20 năm, những chuyển biến tích cực từ
cuộc cải cách diễn ra trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, quốc phòng an ninh …đã làm thay đổi đời
sống, địa vị của Ấn Độ.
Về kinh tế: Năm 1991, Ấn Độ chính thức bước vào con đường cải cách với hai giai đoạn:
1991 – 1999 và 1999 - nay. Cuộc cải cách sâu rộng đã đưa nền kinh tế Ấn Độ chuyển mình theo
hướng “chuyển từ kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp và đóng cửa sang một nền kinh tế thị
trường, tự do hóa và mở cửa, […], từng bước hội nhập khu vực và hội nhập quốc tế”[34, tr 30].
Ấn Độ chủ trương mở cửa, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư tại quốc gia lớn
nhất Nam Á này. Trước cải cách, các nhà đầu tư nước ngoài luôn gặp trở ngại trong khâu cấp
phép, sau cải cách những thủ tục cấp phép phiền hà đã bị cắt bỏ. Nhà đầu tư nước ngoài được
phép đầu tư vốn tới 51% trong nhiều lĩnh vực, có lĩnh vực kinh tế Ấn Độ cho phép vốn đầu tư
nước ngoài là 100% như ngành điện, các dự án xuất khẩu… Đáng kể là với nỗ lực của M. Singh
(lúc này là Bộ trưởng Bộ tài chính, trợ thủ đắc lực của Thủ tướng N. Rao) chỉ trong 5 năm, dưới
sự cầm quyền của đảng Quốc Đại (1991-1996) cuộc cải cách đã mang lại kết quả rõ rệt. Ông đã
khôi phục lại dự trữ ngoại tệ của Ấn Độ từ chưa đầy 1 tỷ USD lên mức 18 tỷ USD. Các nhà đầu
tư nước ngoài hối hả đầu tư vào Ấn Độ kể cả Coca Cola và IBM đã một thời bị trục xuất. Trong
vòng 5 năm, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Ấn Độ tăng gấp 11 lần, từ 0,15 tỷ USD lên 1,7 tỷ
USD.
Chứng khoán cũng là lĩnh vực tiến hành cải cách nhằm tạo ra sự gắn bó, liên kết chặt chẽ với
cuộc cải cách tài chính, ngân hàng, tiền tệ. Thị trường chứng khoán Ấn Độ từ thập niên 90 đã
được xếp vào số 8 thị trường chứng khoán hàng đầu thế giới, nổi bật nhất là thị trường chứng
khoán Bombay. Năm 1993 đã có trên 6500 công ty đăng ký hoạt động tại thị trường này. Năm
1994, đã đạt mức giá trị 142 tỷ USD. Thập niên này Ấn Độ có 32 sở giao dịch chứng khoán với
khoảng 20 triệu nhà đầu tư [34, tr 44]. Đến 1994 đã có 20 công ty nước ngoài đăng ký hoạt động
tại Ấn Độ với giá trị khoảng 2,5 tỷ USD. Thị trường chứng khoán Ấn Độ hoạt động hiệu quả, có
sức thu hút các nhà đầu tư đã khiến Ấn Độ huy động được lượng lớn vốn từ trong dân phục vụ
cho công cuộc phát triển kinh tế đang diễn ra lúc bấy giờ.
Cải cách kinh tế của Ấn Độ đã thúc đẩy nền công nghiệp, trong đó có ngành công nghiệp
phần mềm đầy tiềm năng. Đây được coi là ngọn cờ đầu trong ngành công nghiệp Ấn Độ, đóng
góp ngân sách lớn cho quốc gia và tạo nên danh tiếng Ấn Độ trên thị trường thế giới. Trong 10
năm sau cải cách, ngành công nghiệp phần mềm Ấn Độ tăng đều đặn 10% năm [34, tr 58]. Xuất
khẩu phần mềm tăng bình quân 50% năm; hiện nay khoảng 65% nhu cầu phần mềm của Mỹ là
do Ấn Độ hoặc người Ấn Độ nói chung cung cấp. Các sản phẩm tin học của Ấn Độ chiếm 30%
thị trường thế giới và trở thành nước có phần mềm máy tính lớn thứ hai thế giới sau Mỹ [23, tr
278-279].
Tiềm năng ngành công nghiệp phần mềm của Ấn Độ là rất lớn. Ấn Độ đang sở hữu đội ngũ
lao động kỹ thuật cao được đào tạo trong hệ thống các trường đại học, cao đẳng trong nước, họ
thông thạo tiếng Anh, giỏi toán học. Ngành công nghiệp này được chính phủ quan tâm thông qua
các chính sách ưu tiên về cơ sở vật chất. Khu công nghệ cao Bangalore được ví như thung lũng
Silicon nổi tiếng thế giới của Mỹ. Tại đây, những hoạt động nghiên cứu, sản xuất công nghệ hàng
đầu thế giới đang được tiến hành. Nhờ vậy, những sản phẩm phần mềm Ấn Độ được xuất khẩu đi
nhiều nước trên thế giới (như đã đề cập ở trên), đưa xuất khẩu phần mềm nhanh chóng trở thành
một ngành xuất khẩu mũi nhọn của đất nước.
Nhìn chung cuộc cải cách đã đạt được những thành tựu lớn về kinh tế. Tính đến năm 2006,
GDP của Ấn Độ đã đạt 700 tỷ USD, kinh tế tăng trưởng liên tục trong 10 năm ở mức bình quân
là 7% năm. Dự báo trong tương lai không xa con số này sẽ là 10% năm. Ngoại tệ dự trữ Ấn Độ
đạt con số 170 tỷ USD. Đáng chú ý là tăng trưởng kinh tế Ấn Độ đang theo chiều sâu, tức là giá
trị tăng trưởng có được do tăng sản lượng chứ không phải tăng vốn đầu tư hay nhân lực lao động
(con số này đạt 30 – 40%). [29, tr 90]
Cuộc cải cách khởi đầu từ 1991 cũng đã tạo điều kiện cho Ấn Độ tham gia vào lĩnh vực hàng
không vũ trụ. Ngày 21/3/1996, Ấn Độ phóng thành công Tàu phóng vệ tinh địa cực PSLV mang
theo một vệ tinh quan sát trái đất IRS-P3. Hai năm sau, năm 1998, Ấn Độ lại phóng thành công
vệ tinh địa tĩnh nặng 2,5 tấn bằng tên lửa của mình [34, tr 78]. Thành công này đã khẳng định khả
năng của Ấn Độ trong lĩnh vực vũ trụ, đồng thời mở ra khả năng bước vào thị trường dịch vụ
phóng vệ tinh toàn cầu mà lâu nay chỉ có Nga, Mỹ, châu Âu, Trung Quốc thực hiện được.
Về quân sự: Trong thế giới đầy biến động, lại luôn trong nguy cơ chiến tranh với quốc gia
láng giềng Pakistan, hay áp lực phát triển lực lượng quân sự mạnh mẽ từ Trung Quốc, chính phủ
Ấn Độ trong bất kỳ giai đoạn nào cũng chú tâm phát triển nền quốc phòng nhằm đối phó với mọi
thách thức an ninh đến từ kẻ thù của mình. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, các lực lượng hải,
lục, không quân Ấn Độ được phát triển theo hướng hiện đại, mạnh nhất là lực lượng hải quân.
Năm 1986, hạm đội Ấn Độ được xếp vào hàng thứ 10 trên thế giới, năm 1989 vươn lên đứng thứ
6. Các trang thiết bị vũ khí hiện đại như tàu ngầm hạt nhân, tầu sân bay đã được biên chế trong
lực lượng hải quân Ấn Độ. Tuy nhiên số lượng ít và có loại phải thuê từ Nga.
Coi trọng phát triển lực lượng hải quân phù hợp với thực tế Ấn Độ nằm ở vị trí án ngữ vùng
biển Ấn Độ Dương, nơi có con đường hàng hải quốc tế vận chuyển hàng hóa, dầu lửa quan trọng
trên thế giới và ngày nay đang có sự hiện diện hải quân của nhiều cường quốc như Mỹ, Trung
Quốc.
Bước vào thế kỷ XXI, thế giới có dấu hiệu của một cuộc chạy đua vũ trang mới khi các quốc
gia lớn cũng như nhỏ liên tiếp công bố các hợp đồng mua bán vũ khí lớn bao gồm cả vũ khí tấn
công và phòng thủ, từ vũ khí thông thường dùng cho bộ binh như súng, pháo, xe tăng đến máy
bay chiến đấu các loại, tàu chiến, tàu ngầm, tên lửa…Trong số đó có các quốc gia địch thủ của
Ấn Độ như Pakistan, Trung Quốc. Không đứng ngoài cuộc, Ấn Độ tiến hành đàm phán với các
nhà cung cấp phương tiện quân sự để mua các loại vũ khí hiện đại, đồng thời các tổ hợp quân sự
quốc phòng Ấn Độ chủ động tổ chức nghiên cứu, chế tạo các loại vũ khí cung cấp cho quân đội.
Quyết tâm xây dựng nền quốc phòng đủ sức răn đe, Ấn Độ không ngừng tăng ngân sách quốc gia
hàng năm cho việc mua sắm vũ khí. Năm 2003 là 15,5 tỷ USD, năm 2004 là 19,6 tỷ USD, năm
2005 là 22 tỷ USD [43, tr 29]… Xét về mức tăng ngân sách quốc phòng với mức tăng GDP hàng
năm của Ấn Độ cũng cho thấy quốc gia này đang đẩy mạnh phát triển lực lượng quân sự bên
cạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế. Năm 1999 Ấn Độ đã tăng ngân sách quốc phòng ở mức 28,2%
trong khi đó GDP chỉ tăng 5,8%. Đứng về mặt số lượng cũng như chi phí quân sự, Ấn Độ hiện
đứng hàng thứ 4 trên thế giới [23, tr 279].
Ấn Độ đang hướng tới xây dựng nền quốc phòng tự chủ, giảm sự phụ thuộc vào nước ngoài.
Mục tiêu của nước này là tự sản xuất đảm bảo được 70% nhu cầu trong 5 năm tới [59, tr 67]. Vì
vậy, Ấn Độ cho phép các công ty tư nhân được tham gia sản xuất, nhập khẩu các thiết bị quốc
phòng. Đến nay, Ấn Độ có khoảng 5.000 công ty đang cung cấp 20 – 25% thiết bị, phụ tùng cho
các công ty nhà nước. Từ năm 2001 đến nay, ngành công nghiệp quốc phòng đã cấp 29 giấy phép
cho các công ty tư nhân tham gia sản xuất. Tiến xa hơn, Ấn Độ cho phép các công ty nước ngoài
được đầu tư vào sản xuất vũ khí tại thị trường nội địa. [59, tr 67]
Không chỉ phát triển các loại vũ khí thông thường, Ấn Độ còn đẩy mạnh phát triển các loại
vũ khí chiến lược, đặc biệt là vũ khí hạt nhân. Chương trình vũ khí hạt nhân gây tranh cãi của Ấn
Độ đã được tiến hành từ thời Chiến tranh lạnh. Năm 1974, Ấn Độ tiến hành vụ thử nghiệm hạt
nhân đầu tiên. Năm 1998, Ấn Độ đã công khai thử nghiệm thành vũ khí hạt nhân và tuyên bố vụ
thử thành công. Hành động này đã bị quốc tế lên án, ngay sau đó Ấn Độ phải đối diện với lệnh
trừng phạt của Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên, thành công của vụ thử nghiệm cho thấy trình độ của
các nhà khoa học Ấn Độ trong lĩnh vực hạt nhân và khả năng răn đe hạt nhân của Ấn Độ trong
khu vực là hiện thực. Ấn Độ “trở thành cường quốc hạt nhân không chỉ nhằm hăm dọa Pakistan
mà còn để cân bằng với kho vũ khí hạt nhân của Trung Quốc” [2, tr 54].
Chính trị ngoại giao: một Ấn Độ đang vươn mình mạnh mẽ về kinh tế, hùng mạnh về quân
sự ắt không thể cam chịu sự thấp kém về vị thế chính trị trên thế giới.
Những thành công trong cải cách kinh tế đã đưa Ấn Độ vào hàng các quốc gia có tham vọng
cường quốc sau Chiến tranh lạnh. Ấn Độ là quốc gia không chấp nhận thế đơn cực mà thúc đẩy
cho một thế giới đa cực, ở đó Ấn Độ là một cực. Để đạt được điều này, Ấn Độ đã tiến hành điều
chỉnh chính sách đối ngoại vừa để phù hợp với những chuyển biến của bối cảnh quốc tế vừa phục
vụ cho công cuộc cải cách mà Ấn Độ đang theo đuổi. Trong những mục tiêu của chính sách đối
ngoại mới, Ấn Độ xác định phải “Nâng cao vai trò, vị thế của Ấn Độ trong khu vực và trên thế
giới, đưa Ấn Độ trở thành một cường quốc ở châu Á và thế giới vào những thập kỷ đầu của thế
kỷ XXI, giành vị trí xứng đáng trong trật tự thế giới mới” [34, tr 114].
Để đạt được mục tiêu này, ngoài tiếp tục theo đuổi mục tiêu cải cách kinh tế, xây dựng đất
nước hùng mạnh, Ấn Độ phải tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế, tham gia giải quyết các
vấn đề quốc tế, qua đó nâng cao vị thế của mình. Cho đến nay, Ấn Độ là thành viên của nhiều tổ
chức quốc tế và khu vực. Tiếng nói của Ấn Độ nhận được sự quan tâm của nhiều quốc gia và tổ
chức quốc tế. Đáng kể phải kể đến là Liên Hợp Quốc, tổ chức quốc tế lớn nhất toàn cầu. Ấn Độ
luôn tích cực tham gia xây dựng tổ chức này. Không chỉ là một trong 50 quốc gia sáng lập, Ấn
Độ đã 12 lần là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an. Ngày nay, khi Chiến tranh
lạnh đã chấm dứt, nền chính trị thế giới có nhiều thay đổi, mô hình Liên Hợp Quốc trong thời kỳ
Chiến tranh lạnh không còn phù hợp, Ấn Độ cùng với các nước khác đang đấu tranh cho việc cải
tổ lại tổ chức này, trong đó có cải tổ Hội đồng Bảo an theo hướng tăng số thành viên thường trực
và Ấn Độ muốn trở thành một thành viên.
Thập niên 80 của thế kỷ trước, Ấn Độ cùng với các quốc gia khác thúc đẩy thành lập một tổ
chức khu vực. Xuất phát từ mối quan hệ gần gũi trong lịch sử, lại gặp những thách thức chung
cần phải hợp tác giải quyết, các quốc gia Nam Á đã đi đến quyết định thành lập tổ chức Hiệp hội
Hợp tác khu vực Nam Á (SAARC) vào năm 1985 với 7 thành viên ban đầu (Ấn Độ, Pakistan,
Bangladesh, Bhutan, Nepal, Maldives , Sri Lanka). Năm 2007 kết nạp thêm Afghanistan làm
thành viên thứ 8. Trong tổ chức này, Ấn Độ là quốc gia vượt trội hơn cả về dân số, diện tích lãnh
thổ, tiềm lực kinh tế, địa vị chính trị trên thế giới…Vì vậy “sự ra đời của Hiệp hội hợp tác khu
vực Nam Á là một thắng lợi quan trọng trong chính sách khu vực của Ấn Độ, nó phù hợp với ý
tưởng thiết lập một hệ thống khu vực mà Ấn Độ mong muốn” [34, tr133]. Tuy nhiên những yếu
kém đang tồn tại trong khu vực cùng với những bất đồng, tranh chấp giữa một số thành viên với
nhau đã thực sự là trở ngại lớn trên con đường hợp tác khu vực mà các quốc gia trong tổ chức
này hướng tới.
Trong chiến lược mới hướng tới mục tiêu đưa Ấn Độ trở thành một cường quốc khu vực, Ấn
Độ thực hiện chính sách hướng Đông, theo đó đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ với các nước
ASEAN. Tổ chức Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á cũng nhận thấy Ấn Độ là nước lớn, hợp
tác với Ấn Độ phù hợp với mục tiêu hợp tác đa phương mà tổ chức này đang theo đuổi. Vì vậy
Ấn Độ được ASEAN hợp tác theo phương thức ASEAN + 1. Đến nay, đã có 8 lần Hội nghị Cấp
cao giữa ASEAN với Ấn Độ. Thỏa thuận đạt được từ các Hội nghị đó đã tạo điều kiện thúc đẩy
các hoạt động hợp tác kinh tế - thương mại, khoa học công nghệ, môi trường, y tế, du lịch…giữa
các bên. Bên cạnh lợi ích kinh tế đạt được thông qua hợp tác với các quốc gia ASEAN, Ấn Độ
đạt được lợi ích chính trị ngoại giao.
Như vậy, một Ấn Độ đang trỗi dậy mạnh mẽ về kinh tế, chính trị, quốc phòng không thể
không có tham vọng tìm kiếm một vị trí xứng đáng của mình trên vai trò lãnh đạo thế giới, mà
trước hết là khu vực Nam Á. Trong bối cảnh đó, Mỹ vừa xem Ấn Độ là đối tác vừa là đối thủ
cạnh tranh ảnh hưởng trong khu vực này.
Những lợi ích địa – chính trị Ấn Độ thu hút chính sách của Mỹ
Ấn Độ có nhiều lợi ích địa – chính trị đối với Mỹ và những giá trị này đang ít nhiều tác
động đến các nhà hoạch định chính sách Mỹ. Đó như giá trị thúc đẩy Ấn Độ thành đối trọng của
Trung Quốc, Nga; xây dựng quan hệ tốt để tìm kiếm sự ủng hộ của Ấn Độ trên các vấn đề quốc
tế; thực hiện chính sách “đi cùng” để kiềm chế Ấn Độ, vừa hợp tác vừa cạnh tranh, ràng buộc
quốc gia này vào với Mỹ. Bên cạnh đó là những giá trị khác như Ấn Độ là một thị trường đầy
tiềm năng, có nhu cầu lớn về hiện đại hóa quân đội ...đang thu hút các nhà đầu tư, thương nhân
Mỹ. Các lợi ích này, ở chừng mực nào đó, góp phần củng cố những lợi ích địa – chính trị.
+ Thúc đẩy Ấn Độ thành đối trọng với Trung Quốc, Nga. Sau Chiến tranh lạnh, Mỹ là
một siêu cường duy nhất nhưng vị trí ấy luôn bị đe doạ bởi các cường quốc mới nổi. Mỹ muốn
thiết lập một trật tự thế giới mới có lợi cho mình, trật tự đơn cực. Tuy nhiên, các cường quốc
đang lên không ủng hộ quan điểm của Mỹ bởi họ không nhìn thấy chỗ đứng xứng đáng của
mình trên trường quốc tế. Họ ủng hộ cho trật tự thế giới đa cực.
Trong bối cảnh đó, các cường quốc luôn thúc đẩy thế giới vận động theo hướng có lợi
cho mình. Vì vậy, Mỹ phải lựa chọn vừa hợp tác vừa cạnh tranh với các quốc gia khác để phục
vụ cả mục tiêu phát triển kinh tế, cả mục tiêu duy trì vị trí siêu cường của mình, đồng thời kiềm
chế tham vọng bá quyền của các cường quốc trong tương lai.
Trong số các cường quốc có tham vọng cạnh tranh vị trí siêu cường của Mỹ, có khả năng
nhất là Trung Quốc. Trong vài thập kỷ gần đây, thành công từ công cuộc cải cách cùng với lòng
kiêu hãnh lịch sử của một “quốc gia thiên triều”, Trung Quốc ngày càng tỏ rõ tham vọng bá
quyền hơn. Không thể thực hiện chiến lược ngăn chặn như đã từng làm với Liên Xô thời Chiến
tranh lạnh (Mỹ vẫn cần sự hợp tác của Trung Quốc trong nhiều vấn đề quốc tế), Mỹ tiến hành
kiềm chế tham vọng chính trị của Trung Quốc, không để quốc gia này mở rộng ảnh hưởng đến
độ đe doạ vị trí quốc tế của Mỹ, trong khi thúc đẩy hợp tác kinh tế với họ.
Để thực hiện Mỹ phải tăng cường quan hệ hợp tác với các nước nhỏ, không để các quốc
gia này rơi vào quỹ đạo của “quốc gia thiên triều”. Với các nước lớn, Mỹ phải thúc đẩy họ phát
triển đủ mạnh để làm đối trọng chống lại Trung Quốc. Ấn Độ là quốc gia như vậy. Không phải
Ấn Độ không có nguy cơ thách thức vị trí siêu cường của Mỹ, mà ít nhất nguy cơ đó không đến
trong tương lai gần.
Trong lịch sử, quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc đã xảy ra chiến tranh biên giới năm 1962. Hiện
nay những tranh chấp lãnh thổ đang tồn tại luôn tiềm ẩn những nguy cơ chiến tranh khi quan hệ
hai nước trở nên xấu đi. Trong chính sách ngoại giao của mình, Trung Quốc vừa tìm cách vươn
lên vừa tìm cách kiềm chế các đối thủ khác. Họ nhìn thấy thách thức từ Ấn Độ, vì vậy Trung
Quốc tăng cường quan hệ với các nước nhỏ trong khu vực Nam Á để vừa lôi kéo họ, vừa làm
giảm ảnh hưởng của Ấn Độ lên các quốc gia này. Trung Quốc đặc biệt khai thác mối quan hệ thù
địch giữa Ấn Độ với Pakistan. Hiện thời Trung Quốc đang là nhà cung cấp vũ khí quan trọng cho
Pakistan. Mặc dù Ấn Độ luôn lên tiếng phản đối những thương vụ buôn bán vũ khí giữa hai quốc
gia này vì lo ngại làm bất ổn an ninh khu vực nhưng chúng vẫn được tiến hành. Trong những
thập kỷ gần đây, Ấn Độ cảm nhận được rõ sức ép từ phía Trung Quốc khi Trung Quốc tăng
cường sự hiện diện dưới nhiều hình thức, đặc biệt là quân sự, ở các quốc gia trong khu vực.
“Chuỗi ngọc trai” đang được thiết lập với sự hiện diện các căn cứ của Trung Quốc ở các quốc gia
Nam Á như Pakistan, Bangladesh, Sri Lanka là một minh chứng cho tham vọng và âm mưu chính
trị của Trung Quốc.
Trong tình thế này, Ấn Độ cần có sự hỗ trợ từ bên ngoài, đặc biệt là Mỹ, để kiềm chế tham
vọng của Trung Quốc. Lợi ích địa - chính trị lớn nhất có được từ quan hệ với Ấn Độ nằm ở đây.
Trong góc độ này, Mỹ và Ấn Độ có cùng chung lợi ích vì Mỹ cũng không muốn khu vực vốn
đang là khu vực chịu ảnh hưởng của mình bỗng chốc trở thành của Trung Quốc, hoặc phải chia
xẻ với họ. Các căn cứ quân sự Mỹ ở đây cũng trở nên mất an toàn, con đường thương mại quan
trọng bậc nhất thế giới trên biển Ấn Độ Dương có nguy cơ bị gián đoạn một khi quan hệ Mỹ -
Trung trở nên căng thẳng dẫn đến đụng độ quân sự.
Bên cạnh lợi ích địa - chính trị có được từ Ấn Độ trong việc kiềm chế Trung Quốc, gia tăng
quan hệ với Ấn Độ cũng đạt lợi ích kiềm chế Nga. Mặc dù tham vọng của Nga khác Trung Quốc
và mối quan hệ Nga – Ấn khác mối quan hệ Trung - Ấn, nhưng đặt trong lợi ích địa - chính trị
toàn cầu, Mỹ vẫn phải kiềm chế Nga.
Nước Nga đang hồi sinh và quyết tâm tìm lại vị trí quốc tế xứng đáng với những gì họ đang
có. Sau khi Liên Xô sụp đổ, lịch sử dân tộc Nga đã chuyển sang trang mới nhưng họ không thể
quên thực tế hào hùng dưới thời Xô Viết. Giới lãnh đạo Nga cũng quyết tâm tìm lại vị trí cường
quốc quốc tế. Chính vì vậy, Nga đã chủ động can dự tích cực vào các vấn đề quốc tế, nói tiếng
nói của mình, cùng với đó là quyết tâm mở rộng ảnh hưởng của Nga lên các khu vực có lợi ích
của họ.
Nam Á, trong lịch sử đã từng có sự hiện diện lợi ích của Liên Xô, đặc biệt là ở Ấn Độ. Nga
đã tiếp nối truyền thống đó. Xuất phát từ thực tế Nga – Ấn không có những xung đột lợi ích chiến
lược, hai nước lại có nhiều điểm tương đồng trên các vấn đề quốc tế, cho nên quan hệ Nga – Ấn
trong những thập kỷ gần đây có xu hướng được tăng cường. Hai nước đã tuyên bố là đối tác
chiến lược của nhau đồng thời tăng cường quan hệ trên nhiều các lĩnh vực, đặc biệt là hợp tác sản
xuất, buôn bán các thiết bị quốc phòng. Nga đã lên tiếng ủng hộ Ấn Độ tham gia vào thường trực
Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, một vị trí thừa nhận địa vị cường quốc của Ấn Độ.
+ Tranh thủ sự ủng hộ của Ấn Độ đối với các vấn đề quốc tế. Mỹ là một siêu cường thế
giới, có lợi ích trải rộng toàn cầu. Vì vậy, hầu như không có vấn đề nổi bật nào trên thế giới Mỹ
không tìm cách can dự. Tuy nhiên, dù mạnh, Mỹ vẫn không thể tự mình làm tất cả. Nếu trong
các vấn đề quốc tế Mỹ hành xử nước lớn quá lộ liễu, Mỹ sẽ mất đi niềm tin từ các đối tác nhỏ
yếu hơn Mỹ. Từ đó tự biến mình thành gã khổng lồ bị cô lập. Vì vậy để tìm kiếm lợi ích nhiều
hơn nữa cũng như bảo vệ những lợi ích hiện có, Mỹ cần phải có sự ủng hộ từ các nước khác,
đặc biệt là từ các cường quốc như Ấn Độ.
Ấn Độ là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế cũng như khu vực. Thời Chiến tranh lạnh,
Ấn Độ là quốc gia sáng lập và lãnh đạo Phong trào không liên kết. Hiện nay Ấn Độ là thành
viên của nhiều tổ chức, trong đó quan trọng là Liên Hợp Quốc. Trong tổ chức này Ấn Độ đã 12
lần là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an. Với vị thế đang lên của mình, tiếng
nói của Ấn Độ được nhiều quốc gia lưu tâm, đặc biệt là các nước nhỏ. Vì vậy, Mỹ cần sự ủng
hộ của Ấn Độ trên nhiều vấn đề quốc tế.
Trong nhiều trường hợp, Mỹ đã nhận được tiếng nói ủng hộ của Ấn Độ, dù xuất phát từ lợi
ích của chính Ấn Độ. Chẳng hạn trong cuộc chiến chống khủng bố ở Afghanistan, Ấn Độ không
chỉ thể hiện sự đồng tình mà còn tỏ ý cho phép Mỹ sử dụng lãnh thổ của mình làm căn cứ hậu
cần cho lực lượng Mỹ, hay như cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất (1991), Ấn Độ cho phép
máy bay Mỹ hạ cánh tiếp dầu ở sân bay của họ. Ấn Độ cũng là một trong số không nhiều nước
ủng hộ chủ trương xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ, một kế hoạch làm thay đổi cân
bằng lực lượng giữa các cường quốc…
Tóm lại, dù có sức mạnh hàng đầu thế giới nhưng không vì thế mà Mỹ không cần sự ủng hộ
từ các quốc gia khác trong những quyết định họ đưa ra. Dù là siêu cường, Mỹ cũng không thể tự
mình giải quyết mọi vấn đề.
+ Thông qua quan hệ tốt để vừa hợp tác vừa kiềm chế Ấn Độ, không để Ấn Độ đi vào
quỹ đạo của các nước khác, đặc biệt là các cường quốc có khả năng cạnh tranh vị trí siêu cường
thế giới của Mỹ.
Ấn Độ sau những năm cải cách thành công đã đưa đất nước thoát khỏi tình trạng đói
nghèo về kinh tế, yếu kém về chính trị. Hiện nay, Ấn Độ là một quốc gia đông dân thứ 2 thế
giới và là một thị trường đầy hứa hẹn cho các nhà tư bản muốn đầu tư ở đây. Tuy nhiên đó chỉ
mới là thành công bước đầu, Ấn Độ cần thúc đẩy phát triển kinh tế hơn nữa để giải quyết những
khó khăn trong nước. Chính thực tế ấy khiến Ấn Độ phải chủ động mở rộng quan hệ với các
nước để tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của họ.
Xu hướng mở rộng quan hệ với các nước khác, đặc biệt là các cường quốc, dễ dẫn đến
chỗ Ấn Độ sẽ có chính sách đối ngoại nghiêng về phía họ. Vì vậy, đe dọa đến địa –chính trị
toàn cầu của Mỹ. Sự hợp tác của các quốc gia trong tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) bao
gồm trong đó 3 cường quốc tiềm năng Nga, Trung Quốc, Ấn Độ (cương vị quan sát viên) là một
minh chứng. Những diễn biến gần đây của tổ chức này đang là một thách thức với Mỹ và các
nước phương Tây.
Bên cạnh đó, Ấn Độ cũng có tham vọng trở thành cường quốc khu vực. Thực tế phát
triển của quốc gia này cho thấy đó không phải là hão huyền. Từ sau những thành công đem lại
của cải cách, những chính sách của Ấn Độ với các quốc gia Nam Á khác cho thấy Ấn Độ tự coi
mình là một nước lớn trong khu vực.
Xem Ấn Độ là một đối thủ cạnh tranh vị trí bá quyền của Mỹ trong tương lai gần thì kém
thực tế hơn, nhưng trong tương lai xa thì không phải là không thể. Nhìn thấy hiện thực này, Mỹ
phải có chính sách “đi cùng” với Ấn Độ để vừa hợp tác vừa kiềm chế Ấn Độ, không để Ấn Độ
trở thành đối thủ như Trung Quốc. Hiện nay, Ấn Độ đã trở thành quốc gia có vũ khí hạt nhân
nhưng chưa ký vào bản Hiệp ước không phổ biến hạt nhân (NPT) và Hiệp ước cấm thử hạt nhân
toàn diện (CTBT). Ấn Độ không ký vì cho rằng hiệp ước có tính chất phân biệt đối xử, nhiều
cường quốc hạt nhân cũng chưa ký. Thuyết phục Ấn Độ ký vào NPT là việc không dễ, nên phải
thông qua mối quan hệ tích cực với quốc gia này để đảm bảo Ấn Độ không tiến hành chuyển
giao công nghệ hạt nhân cho các quốc gia có mối quan hệ “bất hảo” với Mỹ.
+ Lợi ích từ một thị trường tiềm năng. Đan xen giữa lợi ích địa – chính trị là lợi ích địa
– kinh tế mà Mỹ không thể không tính đến. Giá trị này càng có ý nghĩa với Mỹ khi Ấn Độ ngày
càng tỏ rõ là một thị trường đầy hứa hẹn cho các tập đoàn kinh tế Mỹ.
Theo kết quả điều tra dân số năm 2009, Ấn Độ có 1,17 tỷ dân. Tỷ lệ tăng dân số hàng
năm của nước này hiện là 1,55%. Dân số Ấn Độ đứng sau Trung Quốc nhưng tỷ lệ tăng dân số
của quốc gia này cao hơn gấp 3 lần Trung Quốc (0,494%). Tỷ lệ tăng ở mức cao này khiến
trong tương lai Ấn Độ sẽ là quốc gia có số dân đông nhất thế giới.
Dân số đông là một trở ngại lớn trong đảm bảo các chính sách xã hội, nhưng dân số đông
ở đất nước đang thực hiện cải cách kinh tế mạnh mẽ như Ấn Độ sẽ biến quốc gia này trở thành
một thị trường đầy hứa hẹn. Hiện nay đại bộ phận mức sống của người dân Ấn Độ chưa cao. Tỷ
lệ người nghèo cao, không có khả năng thanh toán là một trở ngại cho mở rộng thị trường tiêu
thụ hàng hoá, đặc biệt là hàng hóa đòi hỏi nhiều tiền như hàng hóa của Mỹ. Tuy nhiên, khi đạt
được những thành công từ công cuộc cải cách, Ấn Độ sẽ nâng mức sống người dân lên, khi đó
Ấn Độ sẽ là một thị trường lớn cho các công ty sản xuất hàng tiêu dùng.
Viễn cảnh trên còn trong tương lai xa nhưng không thể không tính đến đối với các công
ty Mỹ. Họ nhìn thấy những lợi ích có được từ công cuộc cải cách của Ấn Độ như: nhu cầu công
nghệ, vốn đầu tư, chính sách tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài và những cam kết của
chính quyền đang làm yên lòng các nhà tư bản Mỹ. Để đẩy nhanh tiến độ cải cách, Ấn Độ có
nhu cầu nhập khẩu công nghệ, kỹ thuật hiện đại, giáo dục đào tạo nhân lực ở Mỹ. Nhu cầu này
ngày càng cao do chiến lược cải cách mà Ấn Độ đang thực hiện thiên về “phát triển công nghệ
tối ưu” […] chọn hướng đi tắt đón đầu để trở thành nền kinh tế tri thức, với mục tiêu trở thành
trung tâm công nghệ toàn cầu [4, tr48].
Nhu cầu phát triển nền kinh tế theo hướng hiện đại hoá cao khiến Ấn Độ có nhu cầu tiếp
nhận công nghệ tiên tiến từ các quốc gia đi trước, trong đó có Mỹ. Hợp tác với Ấn Độ cho phép
Mỹ tiến hành các hoạt động chuyển giao công nghệ thu về hàng tỷ đô la. Bên cạnh đó, Ấn Độ
đang tiến hành nhiều hoạt động nghiên cứu khoa học chinh phục vũ trụ, trong khi Mỹ đi đầu
trong lĩnh vực này. Hay như hợp tác hạt nhân dân sự được xem là lĩnh vực đem lại nhiều công
ăn việc làm và nguồn thu cho ngân sách Mỹ. Ngoài ra, Ấn Độ theo đuổi phát triển nền kinh tế
tri thức sẽ cần nguồn nhân lực trình độ cao và đây là cơ hội cho các trường đại học, cao đẳng
Mỹ thu hút được nhiều sinh viên theo học.
Hiện nay Ấn Độ là quốc gia có ngành kinh tế sản xuất phần mềm hàng đầu thế giới mà
Mỹ có thể hợp tác. Điều này không chỉ có lợi cho Ấn Độ mà còn có lợi cho Mỹ, vì quốc gia này
sẽ cung cấp cho Mỹ những sản phẩm tốt phục vụ cho các ngành sản xuất công nghệ chính xác,
công nghệ tự động, hàm lượng trí tuệ cao của Mỹ.
Một trong những lợi ích kinh tế nổi lên trong giai đoạn này là nhu cầu hiện đại hóa quân
đội của Ấn Độ đem lại những cơ hội lớn cho các tập đoàn sản xuất hàng quân sự Mỹ.
Nam Á là vùng đất tiềm ẩn nhiều bất ổn bởi nơi đây đang tồn tại nhiều tranh chấp do lịch
sử để lại. Những tranh chấp lãnh thổ với các quốc gia khác khiến Ấn Độ từ khi tuyên bố độc lập
năm 1947 đến nay phải đối diện với ít nhất 4 cuộc chiến tranh quy mô với Pakistan, Trung
Quốc. Ngoài ra còn hàng loạt các cuộc đụng độ nhỏ qua biên giới.
Thực tế này khiến Ấn Độ không ngừng phát triển lực lượng quân đội của mình theo
hướng hiện đại. Sản xuất và mua sắm vũ khí hiện đại trang bị cho các quân binh chủng của
mình là nhiệm vụ sống còn của an ninh Ấn Độ. Quốc gia này đang đứng hàng đầu trong số các
quốc gia có số lượng các hợp đồng mua sắm vũ khí lớn nhất thế giới. Bạn hàng quân sự lớn
nhất của Ấn Độ là Nga. Nga đang cung cấp cho Ấn Độ nhiều chủng loại vũ khí hiện đại giá trị
cao và thu về hàng tỉ đô la hàng năm. Thực tế này khiến nhà sản xuất vũ khí hàng đầu thế giới
như Mỹ không thể bỏ qua bạn hàng tiềm năng Ấn Độ.
Như vậy Ấn Độ là nơi tập trung nhiều lợi ích địa – chính trị đòi hỏi Mỹ phải có những
chính sách phù hợp để hợp tác với quốc gia này, nhằm khai thác các lợi ích đó phục vụ cho mục
tiêu toàn cầu của mình.
1.2.1.2.Pakistan
Pakistan sau Chiến tranh lạnh
Khác với Ấn Độ, thập niên đầu sau Chiến tranh lạnh, Pakistan đối diện với nhiều thách
thức. Vai trò địa – chính trị trong việc kiềm chế Liên Xô và các nước XHCN của quốc gia này
không còn nữa. Vì vậy, Pakistan mất đi những khoản viện trợ lớn từ các nước phương Tây. Một
thời gian dài dựa vào viện trợ Mỹ và các nước phương Tây đã làm nền kinh tế quốc gia này ít
nhiều mất đi tính năng động. Trong khi đó, bên cạnh mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế,
Pakistan tiếp tục phải chi tiêu cho các hoạt động quân sự, hiện đại hóa quân đội, chạy đua vũ
trang với nước láng giềng thù địch, Ấn Độ.
Mặc dù không được nhận viện trợ một cách hào phóng như trước, Pakistan vẫn theo đuổi
chương trình hạt nhân bí mật. Chương trình này không những làm tiêu tốn kinh tế quốc gia, mà
còn dẫn đến bị áp đặt các lệnh cấm vận kinh tế. Hai lần đối diện với lệnh cấm vận kinh tế vào
đầu và cuối thập niên 90 đã đặt quốc gia này trước những thách thức lớn đối với kế hoạch phát
triển đất nước.
Trong khi kinh tế không phát triển, nền chính trị Pakistan thập niên đầu sau Chiến tranh
lạnh cũng gặp nhiều bật ổn. Sự yếu kém trong điều hành kinh tế cùng với nạn tham nhũng của
chính phủ đã dẫn đến những đấu tranh quyết liệt giữa các đảng phái ở Pakistan. Những cuộc
đấu tranh lật đổ đã xảy ra như sự kiện lật đổ chính phủ của bà Bhutto năm 1996 với cáo buộc
tham nhũng. Chính phủ của Nawaz Sharif lên thay nhưng sau đó cũng bị phe quân đội do
Musharraf đứng đầu, tiến hành đảo chính lật đổ vào năm 1999.
Lệnh cấm vận cùng với ngưng cung cấp viện trợ đã buộc Pakistan phải tìm kiếm nguồn
cung cấp khác ngoài phương Tây. Đặc biệt trong bối cảnh quốc gia này tiếp tục cuộc chạy đua
vũ trang với Ấn Độ. Thập niên 90 tiếp tục cho thấy Pakistan hướng tới Trung Quốc để tìm kiếm
nguồn cung cấp nhằm lấp chỗ trống tạo ra do các nước phương Tây thực hiện cấm vận. Phù hợp
với toan tính của mình ở khu vực, Trung Quốc nhanh chóng đã trở thành nhà cung cấp chính
cho Pakistan trong thập niên đầu sau Chiến tranh lạnh.
Tuy nhiên, sự kiện 11/9/2001 đã đặt Pakistan một lần nữa trở lại vị trí có tầm quan trọng
lớn trong chiến lược toàn cầu của Mỹ, cuộc chiến chống khủng bố. Sự lạnh nhạt trong quan hệ
Mỹ - Pakistan thập niên đầu sau Chiến tranh lạnh được thay thế bằng mối quan hệ nồng ấm hơn.
Mỹ tiến hành gỡ bỏ những trừng phạt trước đó, đồng thời gia tăng viện trợ cho Pakistan. Mặc
dù trong thời gian gần đây, Mỹ có nhiều động thái quân sự làm chính quyền Islamabad phẫn nộ,
nhưng không phải Mỹ không cần đến Pakistan như buổi đầu tiến hành cuộc chiến chống
Taliban và Al Qeada ở khu vực này. Trong tương lai, hợp tác với chính quyền Islamabad nhằm
bảo đảm những mục tiêu chiến lược ở đây vẫn là ưu tiên, dù vẫn có những va chạm lợi ích giữa
hai quốc gia.
Những lợi ích địa – chính trị Pakistan thu hút chính sách của Mỹ
Cũng như Ấn Độ, Mỹ nhìn thấy ở Pakistan những lợi ích địa – chính trị quan trọng như
lợi ích từ vị trí hậu cần trong cuộc chiến chống khủng bố; lợi ích kiềm chế tham vọng bá quyền
của Trung Quốc ở khu vực và trên thế giới; kiểm soát những hoạt động hạt nhân của quốc gia
Hồi giáo này; ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh trong tương lai với Ấn Độ dẫn đến phá hỏng mục
tiêu địa – chính trị của Mỹ ở khu vực…
+ Vị trí hậu cần quan trọng trong cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ ở Afghanistan.
Lợi ích địa – chính trị lớn khác mà Mỹ tìm kiếm trong quan hệ với Pakistan ngày càng trở nên
quan trọng là vị trí hậu cần và sự hợp tác đi đến phá hủy các căn cứ của tàn quân Taliban và tổ
chức khủng bố Al Qaeda trên đất Pakistan.
Sau sự kiện 11/9/2001 trấn động nước Mỹ và thế giới, Mỹ tuyên bố và tuyên chiến với
lực lượng khủng bố toàn cầu. Tiến hành các cuộc tấn công vào các quốc gia mà họ cho là nơi
trú ẩn của tổ chức khủng bố quốc tế hàng đầu thế giới, Al Qaeda. Afghanistan, dưới sự cai trị
của chế độ Taliban, được Mỹ liệt vào danh sách các quốc gia bảo trợ khủng bố cần phải tiêu
diệt. Ngày 7/10/2011, lực lượng hải lục không quân Mỹ tấn công ào ạt vào Afghanistan và
nhanh chóng lât đổ chế độ Taliban, lập ra chính quyền mới thân Mỹ. Taliban bị lật đổ nhưng đã
nhanh chóng tập hợp lại và trú ẩn ở những vùng bộ lạc hẻo lánh gần biên giới Pakistan. Lực
lượng này đã có sự liên hệ với tổ chức khủng bố Al Qaeda và tiếp tục cuộc thánh chiến chống
lại chính quyền Afghanistan và lực lượng liên quân dẫn đầu bởi Mỹ. Cho đến nay, đã gần 10
năm tiến hành cuộc chiến nhưng Mỹ, NATO và chính quyền Afghanistan vẫn không tiêu diệt
tận gốc được lực lượng này, trái lại, những bất ổn an ninh ở Afghanistan vẫn diễn ra hàng ngày.
Những vụ đánh bom tự sát nhằm vào quân đội nước ngoài, các quan chức chính quyền thân Mỹ,
dân thường… ngày càng tàn khốc. Nguy cơ sa lầy của Mỹ ngày càng cao. Mỹ muốn tiêu diệt
những nhóm tàn binh Taliban và tổ chức khủng bố quốc tế Al Qaeda nhưng không thể, vì tình
cảm chống Mỹ trong dân chúng Afghanistan ngày một tăng khiến Mỹ khó có thể phát hiện nơi
ẩn náu của chúng, hơn nữa tình báo Mỹ nghi ngờ rằng lực lượng này đang nhận được sự ủng hộ
âm thầm của cơ quan tính báo Pakistan.
Tiêu diệt Taliban và Al Qaeda hiện nay không thể tách rời nhiệm vụ hợp tác với chính
quyền Pakistan. Hợp tác để đảm bảo Pakistan không ủng hộ Taliban, không để vùng lãnh thổ
giáp biên giới Afghanistan trở thành nơi trú ẩn của chúng. Mỹ lo lắng các cuộc thâm nhập qua
đường biên giới của những nhóm quân sự Hồi giáo từ Pakistan vào Afghanistan là trở ngại
chính để đánh bại lực lượng nổi dậy Taliban [75, lời nói đầu], khiến cho những chiến dịch càn
quét tốn kém, tai tiếng của Mỹ và lực lượng NATO tiến hành không hiệu quả, khủng bố không
bị tiêu diệt tận gốc.
Cũng từ nhu cầu cuộc chiến, Mỹ phải thực hiện nhiệm vụ tiếp tế cho lực lượng Mỹ và
NATO ở chiến trường Afghanistan. Với vị trí thuận lợi của mình, Pakistan trở thành con đường
vận chuyển quan trọng vật chất chiến tranh. Theo K. Alan Kronstadt, chuyên gia các vấn đề
Nam Á trong chính quyền Mỹ, ¾ vật chất phục vụ cuộc chiến của Mỹ ở Afghanistan hiện nay
đang được chuyển qua lãnh thổ Pakistan. Tuy nhiên tuyến đường này đang ngày càng trở nên
mất an toàn bởi các cuộc tấn công của các phiến quân Hồi giáo cực đoan. Nhiều đoàn xe vận
chuyển cho chiến trường Afghanistan đã bị chặn đánh, đốt cháy. Đặc biệt từ năm 2008, những
cuộc tấn công táo bạo của các phiến quân Hồi giáo cực đoan đã phá hủy hàng trăm xe chở nhiên
liệu, vật chất phục vụ chiến tranh, gây thiệt hại không nhỏ và cản trở các hoạt động tác chiến ở
chiến trường Afghanistan.
Chính những giá trị lớn từ sự hợp tác với Pakistan trong cuộc chiến ở Afghanistan, Mỹ
không thể phản ứng mạnh mẽ với chính quyền Pakistan dù có những bất đồng và nghi ngờ cơ
quan tính báo Pakistan (ISI) đang hậu thuẫn cho phiến quân Taliban. Viện trợ vẫn được tiến
hành hàng năm và những nhận xét có tính khích lệ về sự hợp tác đang diễn ra của chính quyền
Islamabad vẫn được các viên chức hàng đầu của Mỹ đưa ra, mặc dù đã từ lâu họ có sự “nghi
ngờ về cam kết của Islamabad đối với một số lợi ích cốt lõi của Mỹ” [75, lời nói đầu]. Tầm
quan trọng của Pakistan trong cuộc chiến chống Taliban và Al Qaeda được Tổng thống Obama
khi mới đắc cử từng khẳng định, Afghanistan không thể “giải quyết” mà không “giải quyết
Pakistan” và cộng tác hiệu quả hơn với quốc gia này [75, tr4].
+ Cải thiện quan hệ để không đẩy Pakistan vào quỹ đạo Trung Quốc. Trong số các
quốc gia Nam Á, Pakistan là nước lớn thứ 2 cả về quy mô lãnh thổ, dân số, cả về vị thế chính trị
quốc tế. Được thực dân Anh trao trả độc lập vào năm 1947, Pakistan nhanh chóng đứng cùng
chiến tuyến với các nước tư bản Phương Tây chống lại các nước thuộc khối XHCN. Theo đuổi
chính sách này, Pakistan đã nhận được khối lượng viện trợ lớn từ Mỹ và trở thành thành trì
chống Liên Xô và các nước XHCN. Viện trợ mà Pakistan nhận được, đặc biệt là viện trợ quân
sự cũng được quốc gia này phục vụ cho mục tiêu chống lại quốc gia láng giềng Ấn Độ trong
cuộc chiến tranh tranh chấp vùng Jammu và Kashmir.
Chính vì vậy, lợi ích địa – chính trị mà Mỹ đạt được ở quốc gia này trong thời kỳ Chiến
tranh lạnh là rất đáng kể, đặc biệt trong bối cảnh không thuyết phục được Ấn Độ đi theo con
đường của mình. Pakistan vừa là “con đê ngăn chặn sự lan tràn của cộng sản”, vừa kiềm chế Ấn
Độ.
Cũng trong thời gian này, quan hệ Trung Quốc – Pakistan đã trở nên thân mật, đặc biệt từ
thập niên 60 của thế kỷ trước khi nhân tố Ấn Độ luôn cản trở sự hợp tác không giới hạn của Mỹ
với Pakistan. Khi đó, Mỹ vừa muốn quan hệ đồng minh với Pakistan vừa muốn lôi kéo kẻ thủ
của Pakistan là Ấn Độ chống lại Liên Xô. Vì vậy Mỹ luôn từ chối cung cấp cho Pakistan các
loại vũ khí hiện đại. Nắm bắt được mong muốn của Pakistan, Trung Quốc đã hào phóng trong
viện trợ cho Pakistan để lôi kéo quốc gia này trong cuộc cạnh tranh chống lại Ấn Độ. Trong
những năm 1956 đến 1973, “Trung Quốc đã dành gần 20% tổng số hàng viện trợ nước ngoài
(chủ yếu là viện trợ quân sự) cho các nước Nam Á, trong đó Pakistan nhận được 13,1%” [59, tr
71].
Chiến tranh lạnh kết thúc, vị trí của Pakistan trong chiến lược toàn cầu của Mỹ có sự thay
đổi, các đối thủ tiềm năng cạnh tranh vị trí siêu cường của Mỹ đang tìm cách khai thác lợi ích
địa – chính trị từ Pakistan, đặc biệt là Trung Quốc. Thập niên 90, Mỹ không coi trọng Pakistan
như đã từng coi trọng quốc gia này trước đó, dẫn đến những lệnh trừng phạt, cấm vận kinh tế,
cắt giảm viện trợ…Để tìm kiếm những khoản viện trợ, những đơn đặt hàng quân sự mới,
Pakistan đã tăng cường quan hệ với Trung Quốc.
Năm 1990, khi Mỹ ngừng giao số máy bay F-16 mà Pakistan đặt mua theo lệnh cấm vận,
Pakistan đã liên doanh với Trung Quốc nghiên cứu chế tạo máy bay chiến đấu JF -17. Tiến
thêm một bước từ giữa những năm 1990, Bắc Kinh bắt đầu chuyển giao công nghệ hạt nhân và
các loại tên lửa tầm trung cho Pakistan.
Quan hệ Trung Quốc – Pakistan đang được thúc đẩy bởi họ có những lợi ích chung như
cùng mục tiêu xem Ấn Độ là đối thủ. Trung Quốc muốn khai thác mối quan hệ thù địch giữa Ấn
Độ và Pakistan phục vụ cho mục tiêu ngoại giao vươn ra bên ngoài của mình, đặt Pakistan
thành nhân tố kiềm chế Ấn Độ. Pakistan cũng có những toan tính trong xây dựng mối quan hệ
tốt với Trung Quốc để làm đối trọng với Ấn Độ. Vì hai “gã khổng lồ” châu Á có lịch sử quan hệ
thù địch và đang có những tranh chấp lãnh thổ, cùng có tham vọng cường quốc này không thể
“hợp tác” mà không có bất hòa.
Mục đích này lại được hỗ trợ bởi thực tế quan hệ giữa Trung Quốc và Pakistan không có
những xung đột lợi ích chiến lược đáng kể. Ngày nay, Trung Quốc đang là bạn hàng lớn của
Pakistan, đặc biệt là lĩnh vực quân sự. Trung Quốc là nhà cung cấp vũ khí hiện đại hàng đầu và
ổn định cho Pakistan.
Những lý do dẫn đến sự thân mật trong quan hệ Trung Quốc – Pakistan như trên là một
thách thức lớn đối với lợi ích địa – chính trị của Mỹ ở khu vực. Muốn kiềm chế Trung Quốc,
Mỹ không thể không tính đến Pakistan. Duy trì quan hệ song phương đảm bảo không để
Pakistan rơi vào quỹ đạo của Trung Quốc.
+ Kiểm soát không để kho vũ khí hạt nhân của Pakistan rơi vào tay những kẻ khủng
bố, những quốc gia có mối quan hệ thù địch với Mỹ.
Quyết tâm tìm kiếm sự răn đe hạt nhân đã được Pakistan theo đuổi từ thời Chiến tranh
lạnh. Mặc dù coi Pakistan là đồng minh và hàng năm cung cấp viện trợ quân sự không nhỏ cho
họ, Mỹ không muốn Pakistan có vũ khí hạt nhân. Vì vậy, những phát hiện Pakistan bí mật chế
tạo vũ khí hạt nhân luôn dẫn đến phản ứng mạnh từ Washington bằng các lệnh trừng phạt kinh
tế, ngưng cung cấp viện trợ…Tuy nhiên, nỗi lo lớn đến từ quốc gia hùng mạnh đang có những
tranh chấp lãnh thổ với mình, Pakistan quyết tâm có được loại vũ khí này.
Năm 1998, sau một loạt thử nghiệm hạt nhân ngay sau những vụ thử của Ấn Độ,
Pakistan được coi là quốc gia có vũ khí hạt nhân. Nhưng là quốc gia Hồi giáo luôn tiềm ẩn
những bất ổn chính trị và những cuộc nổi dậy của lực lượng Hồi giáo cực đoan, hơn nữa, trình
độ công nghệ đảm bảo sự an toàn hạt nhân không cao, dẫn đến Mỹ lo ngại các thiết bị và
nguyên liệu hạt nhân có thể rơi vào tay những kẻ khủng bố. Nghiêm trọng hơn, sự lạnh nhạt
trong quan hệ hai nước có thể dẫn đến Pakistan bí mật chuyển giao hạt nhân cho quốc gia khác,
đặc biệt là các nước có quan hệ thù địch với Mỹ. Lo lắng của Mỹ là có cơ sở khi các tin tình báo
cho thấy những bằng chứng chuyển giao công nghệ và vật liệu hạt nhân của Pakistan cho nước
thứ ba như: Bắc Triều Tiên, Iran và Libya. Bằng chứng như vậy đã trở nên rõ rệt vào 2004 liên
quan đến mạng lưới buôn lậu bất hợp pháp có thể vẫn đang hoạt động ở Pakistan [75, lời nói
đầu]. Các căn cứ Mỹ trên khắp thế giới, thậm chí nước Mỹ sẽ không an toàn; lợi ích Mỹ trên
toàn cầu sẽ bị đe dọa bởi nguy cơ mất an toàn hạt nhân đến từ Pakistan.
Chính từ thực tế đó, chính sách của Mỹ phải hướng tới đảm bảo kiểm soát được kho hạt
nhân của Pakistan.
+ Ngăn chặn nguy cơ xung đột với Ấn Độ dẫn đến phá hỏng mục tiêu địa – chính trị
của Mỹ ở khu vực.
Những tranh chấp lãnh thổ Jammu và Kashmir từng là nguồn gốc xảy ra 3 cuộc chiến
tranh quy mô và luôn là ngòi nỗ cho cuộc xung đột mới. Sẽ là một thảm họa một khi một cuộc
chiến tranh mới xảy ra, bởi hai quốc gia này đều đã sở hữu vũ khí hạt nhân.
Đối với Mỹ, cuộc chiến sẽ phá hủy những lợi ích mà họ đang có được ở Nam Á, Mỹ
buộc phải đứng về một bên hoặc sẽ bị gạt khỏi sân khấu chính trị Nam Á. Cuộc chiến xảy ra sẽ
là những điều kiện tốt cho các đối thủ tiềm năng của họ giành lấy ảnh hưởng ở khu vực này.
Hơn nữa nếu cuộc chiến tranh Ấn Độ - Pakistan xảy ra sẽ ảnh hưởng lớn tới cuộc chiến chống
khủng bố do Mỹ dẫn đầu ở Afghanistan. Vì vậy, hơn ai hết Mỹ luôn là quốc gia sốt sắng để tháo
ngòi nổ cho nguy cơ chiến tranh mỗi khi hai quốc gia này lâm vào khủng hoảng đẩy quan hệ hai
bên đến mức xấu nhất, như: khủng hoảng Kargil năm 1999, cuộc tấn công khủng bố tòa nhà
quốc hội Ấn Độ năm 2001 và mới đây là cuộc tấn công khủng bố của những phần tử Hồi giáo
cực đoan, có căn cứ ở Pakistan, vào các vị trí nổi tiếng ở thành phố Mumbai năm 2008. Các
diễn biến trên ít nhiều đều bắt nguồn từ những tranh chấp Kashmir, khiến những nhóm Hồi giáo
có lợi ích ở đây đẩy mạnh các hành động làm mất an ninh dẫn đến đẩy hai quốc gia này đi đến
chiến tranh với nhau. Vì vậy hòa bình lâu dài ở khu vực phụ thuộc vào việc giải quyết hòa bình
vấn đề Kashmir. Thực tế đó khiến Mỹ sẽ phải “tiếp tục tác động gián tiếp hoặc thậm chí đóng
vai trò trung gian thấp nhằm giúp hai bên tìm kiếm giải pháp hòa bình lâu dài cho vấn đề
Kashmir” [24, tr 31], không để nơi này trở thành điểm xung đột tiềm tàng trong quan hệ hai
nước, đồng thời không để những kẻ Hồi giáo cực đoan biến Kashmir thành vùng đất thánh mới.
Từ những lợi ích địa – chính trị trên, Mỹ phải có những chính sách cho phù hợp với hoàn
cảnh lịch sử để phục vụ cho mục tiêu toàn cầu. Vì vậy, chính sách của Mỹ với Pakistan trong
mỗi thời kỳ luôn có những điều chỉnh. Sự nồng ấm hay lạnh nhạt trong lịch sử quan hệ hai bên
đều xuất phát từ thực tế này.
1.2.1.3.Các nước Nam Á khác
Không như Ấn Độ và Pakistan, trong giai đoạn hiện nay, các nước Nam Á như Nepal,
Bhutan, Sri Lanka, Bangladesh, Maldives có ít lợi ích địa – chính trị. Tuy nhiên, trong bối cảnh
các cường quốc mới nổi đang tìm kiếm lợi ích khắp nơi trên thế giới, các quốc gia Nam Á này
cũng được quan tâm trong chính sách của họ. Dẫn đến ở đây đang diễn ra hình thái cạnh tranh
ảnh hưởng mạnh mẽ giữa các cường quốc với nhau nhằm giành được sự hợp tác, tạo điều kiện,
ủng hộ ngoại giao từ phía các quốc gia Nam Á này. Các cường quốc thường khai thác mong
muốn vươn lên của họ bằng cách trao viện trợ kinh tế, giúp đỡ công nghệ…từ đó lôi kéo họ về
phía mình. Trong số đó hăng hái nhất là Ấn Độ và Trung Quốc.
Ấn Độ là một nước lớn trong khu vực nên luôn coi Nam Á là khu vực ảnh hưởng truyền
thống của mình. Tuy nhiên, trong quan hệ với các nước làng giềng trong khu vực Ấn Độ có quá
nhiều những vấn đề tồn tại cần phải giải quyết, đặc biệt là những tranh chấp lãnh thổ với
Pakistan, tranh chấp nguồn nước sông Hằng với Bangladesh…Những tranh chấp tồn tại trong
lịch sử luôn là nguy cơ gây bất ổn ảnh hưởng tiêu cực đến công cuộc cải cách của Ấn Độ. Các
địch thủ của Ấn Độ cũng đang khai thác các vấn đề này để tạo ra thế kiềm tỏa Ấn Độ. Vì vậy,
Ấn Độ đang theo đuổi chính sách để không đẩy các nước này rơi vào quỹ đạo của địch thủ.
Quan điểm coi trọng xây dựng quan hệ láng giềng tốt với các nước Nam Á nhỏ thể hiện
rõ trong quan điểm được Ngoại trưởng I.K.Gujral nêu lên vào năm 1997, đó là trong quan hệ
với các nước Nam Á này, Ấn Độ không theo nguyên tắc có đi có lại. Theo đó Ấn Độ đã giúp đỡ
tài chính, giúp xây dựng cơ sở hạ tầng, ký kết các hợp đồng hợp tác kinh tế với các nước như
Nepal, Bhutan, Bangladesh, Sri Lanka. Chính sách này đã nhận được sự hoan nghênh của các
nước Nam Á nhỏ. Những tranh chấp cũng được Ấn Độ cố gắng không để phát triển trở thành
mâu thuẫn đối đầu.
Bên cạnh Ấn Độ, Trung Quốc đang tăng cường mở rộng ảnh hưởng của mình ở khu vực
Nam Á, trong đó có những quan tâm tới các nước nhỏ. Nắm bắt được nỗi lo của các nước này
trước người hàng xóm khổng lồ Ấn Độ, Trung Quốc bày tỏ ý định thắt chặt quan hệ với họ, tiến
hành cung cấp viện trợ kinh tế, trợ giúp phát triển, ký kết các hiệp ước hữu nghị…Đáng kể là họ
đã thuyết phục được chính quyền ở Bangladesh, Sri Lanka, Pakistan cho họ xây dựng các cảng
biển ở đây. Theo các nhà phân tích, các cảng này không thuần tuy khai thác cho mục đích vận
chuyển hàng hóa, khi cần có thể chuyển sang phục vụ cho các tầu hải quân Trung Quốc. Liên
kết với các vị trí khác trên tuyến đường biển kéo dài từ đảo Hải Nam tới vùng giầu dầu mỏ bậc
nhất thế giới Trung Đông, có thể thấy rõ ý đồ của nhà cầm quyền Trung Quốc.
Trong bối cảnh các nước đang chạy đua để lôi kéo các nước Nam Á như trên, đặc biệt là
các nước có vị trí địa – chính trị quan trọng trong khu vực, Mỹ không thể đứng ngoài nếu không
muốn các quốc gia này rơi vào quỹ đạo của các cường quốc đối thủ, đồng thời thách thức địa vị
của Mỹ. Tuy nhiên, chính sách của Mỹ đối với từng quốc gia là khác nhau, tùy vào lợi ích chiến
lược mà họ có được từ mối quan hệ đó. Hơn nữa, tùy từng thời điểm lịch sử, chính sách của Mỹ
đối với mỗi quốc gia cũng có sự thay đổi.
1.2.2. Nhân tố thách thức từ các nước lớn
Sau Chiến tranh lạnh, Nam Á là khu vực có nhiều lợi ích địa – chính trị được Mỹ quan tâm.
Tuy nhiên, Mỹ đang phải đối diện với những thách thức đến từ các cường quốc khác trên thế giới
cũng đang tìm kiếm lợi ích địa – chính trị trong khu vực này. Đáng kể nhất phải kể đến các
cường quốc như Trung Quốc, Nga. Nhận diện các thách thức này sẽ khiến Mỹ có những sách
lược, chiến lược hiệu quả để duy trì ảnh hưởng của mình ở khu vực cũng như khai thác các lợi
ích địa – chính trị này phục vụ cho lợi ích quốc gia của Mỹ.
1.2.2.1.Trung Quốc
Sự trỗi dậy mạnh mẽ sau Chiến tranh lạnh
Trung Quốc là quốc gia có diện tích lớn thứ 3 trên thế giới và hiện đang có dân số đông nhất
thế giới. Nằm ở Đông Á, Trung Quốc án ngữ vị trí quan trọng trên bàn cờ chính trị thế giới. Lãnh
thổ Trung Quốc có biên giới tiếp giáp với nhiều nước, trong đó có những nước lớn như Nga, Ấn
Độ, có những nước có vị trí địa – chính trị quan trọng mà nhiều cường quốc tìm cách tiếp cận
như các nước trung Á, nơi được các nhà địa – chính trị gọi là “Miền đất trái tim”.
Trong lịch sử, người Trung Quốc luôn cho mình là nước lớn, có nhiệm vụ lãnh đạo thế giới.
Các hoàng đế Trung Hoa kế tiếp nhau luôn đặt ra nhiệm vụ đó. Từ sau khi đánh bại phe Tưởng
Giới Thạch lập ra nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đến nay, nhất là sau khi tiến hành cải
cách kinh tế vào 1978, Trung Quốc đã phát triển mạnh mẽ về kinh tế, ổn định về chính trị, giải
quyết được những khó khăn trong nước. Hiện nay, sức mạnh kinh tế, khoa học kỹ thuật, quân sự
quốc phòng Trung Quốc không thua kém nhiều so với các nước có bề dày lịch sử phát triển trước
đó.
Nhà cải cách vĩ đại Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình, từng phát biểu vào năm 1994 về mục tiêu
của Trung Quốc rằng: “thứ nhất, chống chủ nghĩa bá quyền và chính trị cường quyền, bảo vệ hoà
bình thế giới; thứ hai là xây dựng trật tự chính trị và kinh tế thế giới mới” [2, tr 197]. Cả hai mục
tiêu mà Đặng Tiểu Bình nêu lên đều nhằm mục đích cuối cùng hướng tới thay đổi địa vị chính trị
quốc tế hiện thời của Trung Quốc, Trung Quốc cần phải đóng vai trò lớn hơn nữa trong nền chính
trị thế giới.
Trước câu hỏi con đường nào cho Trung Quốc trong thế kỷ này, người Trung Quốc cho rằng
“chỉ có một con đường đi đến thành công, đó là xác lập cho mình thực lực và địa vị lãnh đạo toàn
cầu trong quá trình tự phát triển và tự hoàn thiện, ngoài ra sẽ không có con đường nào khác trong
thế kỷ XXI” [21, tr 24].
Thực tế phát triển và tham vọng này khiến Trung Quốc luôn chủ động can dự vào những vấn
đề quan trọng trong đời sống chính trị thế giới và khu vực nhằm khẳng định vị trí cường quốc của
mình. Chủ trương trên được thúc đẩy và đảm bảo bởi những thành công đạt được trong công
cuộc cải cách.
Cuộc cải cách của Trung Quốc tiến hành từ cuối thập niên 70 của thế kỷ XX không chỉ đưa
quốc gia này thoát khỏi khủng hoảng mà còn vươn lên mạnh mẽ. Trung Quốc hiện đang có tốc
độ phát triển cao và ổn định về kinh tế thúc đẩy quốc gia này đạt được nhiều thành tựu trong các
lĩnh vực khác. Hơn lúc nào hết, Trung Quốc đang mong muốn trở thành một siêu cường thế giới.
Hiện thực và ước vọng của quốc gia có tư tưởng “thiên triều” này đang và sẽ là thách thức lớn
nhất tới địa vị bá chủ của Mỹ.
Từ năm 1978, cùng với sự tăng mạnh mức độ tiêu dùng của nhân dân là tốc độ phát triển
kinh tế trung bình của Trung Quốc rất cao, đạt 9,4% năm, có năm đạt hai con số. Tổng GDP năm
1978 khi Trung Quốc thực hiện cải cách chỉ có 215,3 tỷ USD nhưng vào năm 2004 con số đó là
1931,7 tỷ USD. Năm 2009, Cục Thống kê nhà nước Trung Quốc công bố: tổng sản phẩm quốc
nội (tức GDP) của nước này đạt 4916,275 tỷ USD, suýt soát bằng GDP Nhật Bản. Tháng 2/2011,
Trung Quốc đã vượt Nhật vươn lên thành nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới.
Nhiều dự đoán cho thấy GDP của Trung Quốc có thể sẽ đạt gần 13 nghìn tỷ USD vào năm
2020 và sẽ vượt Mỹ vào khoảng năm 2028. Trung Quốc sẽ sớm vượt Mỹ trở thành nước sản xuất
hàng hóa lớn nhất thế giới vào năm 2011 (chiếm khoảng 17% sản lượng toàn thế giới) [7, tr136].
Giữa thập niên này, khoảng 80% công ty cung ứng hàng hóa cho mạng lưới siêu thị Mỹ Wal-
Mart là các công ty Trung Quốc [50, tr 46].
GDP không phải là biểu hiện duy nhất khẳng định một Trung Quốc phát triển mạnh nhưng
nhìn vào tốc độ tăng ổn định hàng năm (kể cả khi thế giới đối diện với khủng hoảng, mức GDP
vẫn tăng ấn tượng), tổng số GDP có thể thấy sự chuyển mình mạnh mẽ của một quốc gia đông
dân nhất thế giới này.
Cán cân thương mại giữa Trung Quốc với các nước, khu vực trên thế giới đều có xu hướng
nghiêng về Trung Quốc. Trung Quốc xuất siêu vào nhiều thị trường, trong đó có những thị
trường lớn như Mỹ, EU. Năm 2002, thâm hụt thương mại của Mỹ với Trung Quốc là 105 tỷ
USD, năm 2005 là 200 tỷ USD đã làm cho các nhà chế tạo Mỹ lo lắng hơn nữa về sự thua thiệt
trong thương mại. Năm 2004 tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc tăng gấp đôi so với 3
năm trước đó, đạt 1154,8 tỷ USD. Năm 2009, mặc dù phải đối diện với khủng hoảng kinh tế thế
giới, Trung Quốc vẫn đạt 1201,7 tỷ USD, đứng đầu thế giới. Sự lớn mạnh về kinh tế của Trung
Quốc khiến có nhà nghiên cứu cho rằng “nước này đã trở thành một công xưởng khổng lồ sản
xuất hàng hóa xuất khẩu” [55, tr 14].
Nhiều công ty, tập đoàn kinh tế của người Trung Quốc đã ra đời và làm ăn thành công trong
nước. Theo quy luật kinh tế chung, các công ty, tập đoàn kinh tế của người Trung Quốc đã vươn
ra khỏi biên giới quốc gia hòa vào dòng chảy chung kinh tế thế giới. Cũng từ đây, lợi ích của
người Trung Quốc không còn bó hẹp trong phạm vi biên giới lãnh thổ mà trải khắp địa cầu theo
∗ nhất thế giới. 2TP0F
P2T Họ đã đủ khả năng tài chính và vị thế để mua tài sản của các tập đoàn kinh tế hàng
bước chân của họ. Ngày nay, người Trung Quốc đã có tên trong câu lạc bộ những người giàu
∗∗ P2T
∗ Theo báo An ninh Thủ đô, ngày 12/3//2010, trong 1011 tỷ phú giàu nhất thế giới, Trung Quốc có số người giàu nhất thế giới đứng thứ 2 sau Mỹ ∗∗ Năm 2004, tập đoàn Lenovo Group (nhà sản xuất máy tính cá nhân lớn nhất Trung Quốc) mua bộ phận kinh doanh của IBM với giá 1,75 tỷ USD. Ngày 24/4/2009, Sinopec - hãng lọc hóa dầu lớn nhất Trung Quốc - đã đạt thỏa thuận mua lại hãng thăm dò dầu khí Addax Petroleum có trụ sở tại Geneva, Thụy Sỹ, với giá 7,24 tỷ USD. Ngày 1/10/2010, Sinopec tuyên bố sẽ đầu tư 7,1 tỉ USD để mua lại 40% cổ phần của chi nhánh Hãng dầu khí Tây Ban Nha Repsol ở Brazi. Ngày 2/8/2010, tại London
đầu trên thế giới. 2TP1F
Không chỉ thành công trong lĩnh vực kinh tế, Trung Quốc đã và đang làm chủ những đỉnh
cao công nghệ của thế giới: công nghệ vũ trụ, công nghệ hạt nhân, công nghệ quốc phòng…Năm
2003, sau hơn 10 năm phóng thành công vệ tinh vào vũ trụ đầu tiên, Trung Quốc đã trở thành
quốc gia thứ 3 có tàu không gian đưa người vào vũ trụ. Công nghệ vũ trụ của người Trung Quốc
ngày nay có những bước tiến vượt bậc, họ liên tục phóng tàu thăm dò mặt Trăng và chuẩn bị cho
việc đưa người lên tham hiểm mặt Trăng.
Kinh tế phát triển mạnh và ổn định, nghiên cứu khoa học đạt được những thành tựu quan
trọng cho phép Trung Quốc toan tính những bước đi chiến lược trong cạnh tranh địa vị bá chủ
với Mỹ. Trong đó chú trọng xây dựng lực lượng quốc phòng. Trong những năm gần đây, sự phát
triển quân sự quốc phòng của Trung Quốc làm nhiều quốc gia lo ngại. Trung Quốc không chỉ là
cường quốc hạt nhân mà đã chế tạo được các phương tiện đưa vũ khí hạt nhân đến bất kỳ nơi nào
trên trái đất: tên lửa xuyên lục địa, tàu ngầm mang tên lửa gắn đầu đạn hạt nhân…Trung Quốc có
đủ các loại tên lửa tầm ngắn, tầm trung và tên lửa đạn đạo xuyên lục địa, trong đó có loại tên lửa
tầm xa DF-31 và tên lửa JL-2. Các loại tên lửa này không chỉ được đặt ở các căn cứ trên mặt đất
mà còn được trang bị cho tầu ngầm tấn công. Tính chính xác của loại vũ khí này được chứng
minh trong sự kiện Trung Quốc bắn hạ thành công một vệ tinh dự báo thời tiết đã qua sử dụng
vào năm 2007, khiến các đối thủ của họ lo ngại.
Sức mạnh quốc phòng của họ còn thể hiện ở lực lượng tầu ngầm. Trung Quốc được đánh giá
là quốc gia có số lượng tàu ngầm lớn nhất châu Á. Không chỉ vậy, tàu ngầm Trung Quốc đã đạt
được khả năng “che mắt” các phương tiện theo dõi hiện đại của Mỹ. Năm 2006, một tàu ngầm
hạt nhân lớp Jin đã tiếp cận 9Tmột nhóm tàu chiến của hải quân Mỹ, do hàng không mẫu hạm USS
Kitty Hawk dẫn đầu, đang triển khai đợt tập trận như thường lệ trên vùng biển Đông Trung Quốc
(gần Okinawa) mà không bị phát hiện. 9T
Về quân số, Trung Quốc có lực lượng quân đội lớn nhất thế giới với 2,5 triệu quân. Về ngân
sách quốc phòng, Trung Quốc đứng thứ 4 thế giới và vẫn đang duy trì tốc độ tăng hơn 10% năm
[21, tr 24]. Ngân sách quốc phòng luôn tăng hàng năm cho phép Trung Quốc hiện đại hóa quân
đội, trang bị những vũ khí tối tân mà quân đội các quốc gia khác có.
Đầu thế kỷ 21, tham vọng xây dựng lực lượng quốc phòng có khả năng tác chiến ở nhiều nơi
trên thế giới của Trung Quốc được thúc đẩy thông qua việc xây dựng căn cứ Tam Á trên đảo Hải
(Anh), Tập đoàn Geely Triết Giang Trung Quốc tuyên bố đã hoàn thành thủ tục mua lại toàn bộ cổ phần của công ty xe hơi Volvo thuộc sở hữu của công ty Ford – Hoa Kỳ.
Nam. Căn cứ này là nơi neo đậu của các tàu ngầm hạt nhân và các chiến hạm khác. Bên cạnh đó,
Trung Quốc cũng đang thúc đẩy chế tạo tàu sân bay. Dự kiến đến năm 2015, Trung Quốc sẽ có
tàu sân bay do mình tự đóng. Với lực lượng quốc phòng hùng hậu và không có dấu hiệu dừng lại,
Trung Quốc thực sự làm các quốc gia trong khu vực cũng như các cường quốc trên thế giới lo
ngại, dù cho Trung Quốc luôn cam kết phát triển lực lượng quốc phòng là để bảo vệ đất nước.
Chính vì vậy, Trung Quốc được xếp vào vị trí cạnh tranh bá quyền chính trị toàn cầu của Mỹ:
“Trung Quốc là một trong số ít nước có tiềm lực chính trị, kinh tế và quân sự cần thiết, sau 10 –
20 năm sẽ trở thành sự uy hiếp khu vực quan trọng đến lợi ích của Mỹ” [21, tr 23].
Tham vọng cường quốc của Trung Quốc còn thể hiện trong lĩnh vực chính trị ngoại giao khi
Trung Quốc chủ động “can dự” càng nhiều càng tốt vào các vấn đề chính trị thế giới hiện nay
như vấn đề hạt nhân ở CHDCND Triều Tiên, Iran... Các nhà nghiên cứu cho rằng, Trung Quốc
đang sử dụng vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên và Iran như những con bài chính trị với
Mỹ. Trong khi Mỹ thông qua Liên Hợp Quốc để cô lập Iran, buộc Iran phải chấm dứt chương
trình hạt nhân gây tranh cãi, Trung Quốc được cho là đang có những hợp đồng bí mật cung cấp
vũ khí cho quốc gia này. Những lệnh trừng phạt mà Liên Hợp Quốc đã thông qua đối với Iran có
nguy cơ bị vô hiệu bởi những quan hệ kinh tế của các công ty Trung Quốc với Iran vẫn được tiến
hành. Đối với CHDCND Triều Tiên, Trung Quốc có quan hệ thân mật và có khả năng ảnh hưởng
lớn tới nhiều lĩnh vực của quốc gia này. Trong những năm gần đây, Bình Nhưỡng luôn phải đối
diện với những lệnh cấm vận quốc tế. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, Trung Quốc đang là quốc
gia bí mật cung cấp cho quốc gia này những thứ mà họ không có được từ thị trường thế giới. Nói
cách khác, “vận mệnh chính trị”, nền kinh tế CHDCND Triều Tiên gắn chặt với thái độ của
Trung Quốc. Trước những trừng phạt của cộng đồng quốc tế đối với hành động theo đổi chương
trình hạt nhân của Bình Nhưỡng, Bắc Kinh thường lên tiếng bênh vực họ. Có thể thấy, quan hệ
chặt chẽ giữa hai quốc gia này đến độ, không thể giải quyết vấn đề của CHDCND Triều Tiên mà
không có sự tham gia của Trung Quốc.
Để nâng cao vị thế quốc tế, Trung Quốc tích cực tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực.
Trung Quốc đã là thành viên của hơn 130 tổ chức quốc tế toàn cầu hay khu vực, trong đó có
những tổ chức có vai trò quan trọng như Liên Hợp Quốc, APEC, WTO…Trong các tổ chức này,
Trung Quốc luôn có tiếng nói quan trọng.
Ngoại giao Trung Quốc hướng tới mở rộng quan hệ với các khu vực ảnh hưởng của Mỹ và
Phương Tây còn có những hạn chế. Tháng 10/2006, Trung Quốc làm nhiều quốc gia phải lưu tâm
khi họ đã tổ chức một Hội nghị Thượng đỉnh Trung Quốc - châu Phi lần đầu tiên tại Bắc Kinh.
Hội nghị này đã thu hút sự tham gia của hơn 40 nhà lãnh đạo từ các quốc gia châu Phi. Bên cạnh
những cam kết cho vay và viện trợ hàng tỉ đô la cho châu Phi, Trung Quốc đạt được sự nhất trí từ
các nhà lãnh đạo châu lục này qua một tuyên bố thành lập “đối tác chiến lược mới giữa Trung
Quốc- châu Phi theo tinh thần bình đẳng về chính trị, tin cậy lẫn nhau, hợp tác cùng có lợi” [30,
tr 35]. Thành công của hội nghị này và những hội nghị tiếp theo, ngoài lợi ích có thể nhìn thấy từ
kinh tế như tiếp cận nguồn dầu lửa và quặng sắt hay một thị trường tiêu thụ hàng hóa giá rẻ và
không khó tính, Trung Quốc còn đạt được mục tiêu mở rộng tầm ảnh hưởng chính trị ngoại giao
của mình lên khu vực mà Trung Quốc chưa từng có trong lịch sử.
Sự lớn mạnh nhanh chóng của Trung Quốc trong nhiều thập niên gần đây khiến các quốc gia
đứng đầu thế giới lo lắng. Đặc biệt bước vào thiên niên kỷ mới, Trung Quốc đẩy mạnh hoạt động
ngoại giao nước lớn, phát triển lực lượng quân sự hùng hậu với các loại vũ khí hiện đại không
thua kém các quốc gia quân sự hàng đầu thế giới. Thực tế này dễ khiến các quốc gia là đối thủ
hoặc có lịch sử đối đầu với Trung Quốc, các quốc gia láng giềng lo ngại. Để xoa dịu nỗi lo, làm
yên lòng các quốc gia này, Trung Quốc tuyên bố chiến lược “trỗi dậy hòa bình”. Theo đó, trước
hết trong chiến lược của Trung Quốc là tạo dựng một môi trường an ninh thuận lợi để tăng tốc
phát triển kinh tế, xây dựng Trung Quốc thành một cường quốc phát triển. Trung Quốc chủ
trương ngoại giao toàn phương vị, một mặt tăng cường quan hệ với Mỹ, Nhật Bản phục vụ cho
mục tiêu kinh tế, mặt khác tăng cường quan hệ với Nga nhằm đấu tranh với xu thế đơn cực của
Mỹ. Trung Quốc cũng chú trọng quan hệ với các nước ASEAN và ngày càng tích cực tham gia
các diễn đàn khu vực do ASEAN tổ chức.
Tuyên bố “trỗi dậy hòa bình” có thể được thực hiện trong thời gian tới nhưng không thể đảm
bảo rằng Trung Quốc mãi mãi theo chiến lược đó, khi mà thực tế và lịch sử đều cho thấy Trung
Quốc muốn nhiều hơn thế. Cường quốc toàn cầu là mục tiêu của Trung Quốc, nhưng tham vọng
đó còn bị hạn chế bởi nhiều vấn đề bất ổn tiềm ẩn trong một quốc gia mới nổi này. Cho nên, ít
nhất vài thập niên tới, thế giới tiếp tục chứng kiến sự trỗi dậy của Trung Quốc trong nhiều lĩnh
vực và sự tìm kiếm vị trí lãnh đạo toàn cầu của họ hơn là nhìn thấy một Trung Quốc trong vai trò
lãnh đạo thế giới.
Sự can dự ngày càng tăng vào Nam Á
Nam Á là khu vực có nhiều quốc gia chung đường biên giới với Trung Quốc và là một vị trí
địa –chính trị quan trọng trên bàn cờ quyền lực thế giới như Ấn Độ, Pakistan, Nepal, Bhutan.
Theo quan điểm của nhà địa – chính trị người Mỹ gốc Hà Lan, Nicholas John Spykman, Nam Á
nằm trong khu vực “vùng rìa” hay “khu vực vành đai”. Muốn trở thành cường quốc thế giới,
trước hết Trung Quốc phải đặt được ảnh hưởng của mình lên khu vực này.
Khu vực này đang diễn ra hình thái chính trị đối đầu giữa các nước lớn có vũ khí hạt nhân
của khu vực và Trung Quốc đang xuất hiện như một nhân tố làm đối trọng trong mối quan hệ ấy.
Trong lịch sử quan hệ với các quốc gia Nam Á, Trung Quốc vừa là bạn lại vừa là thù. Năm 1962,
một cuộc chiến tranh biên giới nổ ra giữa Ấn Độ và Trung Quốc mà nguyên nhân xuất phát từ
tranh chấp một vùng đất sa mạc mà hai bên đều tuyên bố chủ quyền. Theo người Ấn, bản đồ để
lại của người Anh cho thấy vùng đất này thuộc về họ. Tuy nhiên đã hàng thập kỷ, sự hiện diện
quyền lực của người Ấn là dường như không có, trong khi đó người Trung Quốc đã có những cơ
sở ở đây [68, tr 292]. Cuộc chiến tranh kết thúc với tổn thất lớn thuộc về Ấn Độ nhưng những
vùng đất tranh chấp vẫn chưa được giải quyết. Ngày nay trong khu vực biên giới hai nước, nhiều
vùng đất được tuyên bố chủ quyền bởi cả Trung Quốc và Ấn Độ, vì vậy nguy cơ tiềm ẩn những
bất ổn vẫn đang thường trực. Nguy cơ đó có thể bùng phát thành cuộc chiến tranh bất cứ lúc nào
khi quan hệ giữa hai nước trở thành thù địch.
Hai “gã khổng lồ" châu Á có lịch sử không hòa thuận này đang gặt hái được những thành
công trong cải cách kinh tế. Vươn lên địa vị chính trị quốc tế quan trọng đang là mục tiêu của hai
nước. Trong bối cảnh đó, cạnh tranh không khoan nhượng là một hiện thực. Vì vậy, Trung Quốc
trước hết khai thác những mâu thuẫn của Ấn Độ với các quốc gia láng giềng trong khu vực Nam
Á để kiềm chế họ, đặc biệt là mâu thuẫn Ấn Độ - Pakistan.
Pakistan vốn dĩ là một phần lãnh thổ có chung lịch sử với Ấn Độ xưa (nơi được biết đến với
di chỉ khảo cổ Harapa Mohenjo- Dajo của nền văn minh sông Ấn). Họ chỉ có một khác biệt lớn là
tôn giáo. Trước làn sóng xâm lược của chủ nghĩa thực dân, Pakistan chịu chung số phận như các
quốc gia khác ở Nam Á. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, thực dân Anh tiến hành trao trả thuộc
địa. Người Anh chủ trương chia tách Ấn Độ thành hai quốc gia dựa trên cơ sở tôn giáo, Ấn Độ
thuộc về người theo Ấn Độ giáo, Pakistan thuộc về người theo Hồi giáo.
Ngay từ khi tuyên bố độc lập, Ấn Độ và Pakistan vốn cùng một quốc gia ngày nào trở thành
kẻ thù của nhau. Những mâu thuẫn về chủ quyền lãnh thổ đã dẫn đến 3 cuộc chiến tranh lớn và
nhiều cuộc đụng độ nhỏ trên vùng lãnh thổ tranh chấp. Năm 1971, sau một cuộc nội chiến có sự
giúp sức của Ấn Độ, Đông Pakistan không còn thuộc về Pakistan, vùng đất này tự tuyên bố độc
lập và thành lập nhà nước Bangladesh.
Tất cả những sự kiện trên, người Pakistan đều coi Ấn Độ là chủ mưu. Ấn Độ trở thành kẻ thù
lớn nhất, nguy hiểm nhất của quốc gia Hồi giáo này.
Những căng thẳng dẫn đến chiến tranh giữa Ấn Độ và Pakistan nổ ra trong bối cảnh Chiến
tranh lạnh. Thời kỳ mà các cường quốc luôn tìm kiếm đồng minh để chống lại địch thủ của mình.
Trong bối cảnh đó, Pakistan đã liên minh với Mỹ chống lại Liên Xô. Liên minh với Pakistan
nhưng Mỹ vẫn theo đuổi mục tiêu thuyết phục Ấn Độ, một quốc gia lớn ở Nam Á, đứng về phía
Mỹ chống lại Liên Xô. Điều này làm Pakistan không thật sự tin tưởng vào mối quan hệ đồng
minh với Mỹ, buộc họ phải tìm chỗ dựa khác.
Năm 1962, cuộc chiến tranh biên giới giữa Ấn Độ và Trung Quốc nổ ra. Hậu quả là mối quan
hệ Trung - Ấn trở nên căng thẳng và tiềm ẩn nhiều nguy cơ chiến tranh trên những vùng đất tranh
chấp. Nhìn thấy Pakistan có chung kẻ thù của mình, Trung Quốc chủ trương xây dựng quan hệ
thân thiện với Pakistan, cung cấp cho họ viện trợ kinh tế, hợp tác, trao đổi thương mại quân sự
tạo đối trọng với Ấn Độ.
Năm 1969, những mâu thuẫn gay gắt đã dẫn tới nổ ra cuộc chiến tranh biên giới giữa hai
quốc gia hàng đầu khối XHCN, Liên Xô - Trung Quốc. Sau cuộc chiến, Pakistan, một quốc gia
có chung đường biên giới với Trung Quốc, có vị trí địa –chính trị gần Liên Xô và là kẻ thù của
Liên Xô, đã được quan tâm hơn trong chính sách ngoại giao. Pakistan cũng chủ động trong mối
quan hệ này để tìm kiếm nguồn cung cấp vũ khí từ Trung Quốc. Mối quan hệ này được Graham
P. Chapman gọi là “kẻ thù của kẻ thù của tôi là bạn của tôi” trở thành một logic không lay
chuyển được [68, tr 293].
Mối quan hệ thân thiết với Trung Quốc được các chính quyền kế tiếp ở Pakistan chủ động
duy trì. Sau sự sụp đổ của chính phủ quân sự của Ayub ở Pakistan, chính phủ dân sự của Zulfikar
Ali Bhutto lên thay đã chủ trương tiếp tục ủng hộ mạnh mẽ Trung Quốc để nhận sự giúp đỡ từ
quốc gia này.
Sau Chiến tranh lạnh, các cường quốc mới nổi trên thế giới đang tìm kiếm vị trí lãnh đạo của
mình trong thế giới đa cực, vì vậy cạnh tranh địa –chính trị càng trở nên mạnh mẽ. Các cường
quốc, đặc biệt là các cường quốc mới nổi, cố gắng đặt ảnh hưởng lên các quốc gia có vị trí địa –
chính trị quan trọng. Mối quan hệ nồng ấm giữa Trung Quốc và Pakistan trong thời kỳ Chiến
tranh lạnh được Trung Quốc chủ trương tiếp tục duy trì và phát triển.
Đối với Trung Quốc, duy trì mối quan hệ tốt với Pakistan không chỉ bởi Pakistan nằm trên
con đường vận chuyển dầu lửa từ Trung Đông mà còn bởi những mục tiêu khác như: tìm kiếm
con đường ra biển cho các tỉnh và vùng tự trị phía tây, mở rộng thị trường cho hàng hóa Trung
Quốc thâm nhập vào các quốc gia Nam Á. Tuy nhiên, đường sau đó là sự chủ động cạnh tranh
vai trò lãnh đạo với Mỹ và kiềm chế Ấn Độ ở khu vực này.
Nắm được mong muốn của Pakistan là trang bị những vũ khí hiện đại để tạo nên thế cân
bằng với quốc gia thù địch Ấn Độ, Trung Quốc đã đồng ý cung cấp vũ khí cho Pakistan. Những
hợp đồng buôn bán vũ khí hai bên không dừng lại ở những loại vũ khí thông thường, tính năng
chiến đấu hạn chế mà hướng tới các loại vũ khí hiện đại, tính năng chiến đấu cao. Mối quan hệ
này được thúc đẩy trong bối cảnh đầu thập niên 90 Mỹ thực hiện cấm vận Pakistan, vì quốc gia
này đã bí mật nghiên cứu chế tạo vũ khí hạt nhân. Cấm vận đã ảnh hưởng tới những hợp đồng
mua bán vũ khí hiện đại giữa Mỹ và Pakistan khiến Pakistan phải tìm kiếm nguồn khác thay thế.
Trung Quốc đã trở thành đối tác tin cậy đảm bảo mục tiêu thay thế đó. Trong thập niên 90, Trung
Quốc đã cung cấp cho Pakistan “tên lửa M-11 và những thiết bị sản xuất tên lửa hạt nhân cho
Pakistan” [34, tr 147]. Hai nước cũng đã thỏa thuận hợp tác nghiên cứu chế tạo máy bay chiến
đấu JF-17. Gần đây, Pakistan đã đặt hàng Trung Quốc 4 chiếc khu trục có trị giá 600 – 750 triệu
USD. Nhiều máy bay loại A5 của Trung Quốc cũng được Pakistan đặt mua [59, tr71].
Bước vào thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, Trung Quốc làm bất bình cộng đồng quốc tế,
nhưng nằm trong toan tính chính trị của họ, bằng thỏa thuận cung cấp 2 lò phản ứng hạt nhân cho
Pakistan mà không tham vấn cộng đồng quốc tế. Thỏa thuận giữa hai bên được tiến hành một
cách bí mật.
Như vậy, xuất phát từ mục tiêu địa – chính trị, Trung Quốc đã từng và vẫn là quốc gia cung
cấp vũ khí chủ yếu cho Pakistan. Bởi hợp tác quân sự và buôn bán vũ khí với Pakistan, Trung
Quốc đạt được những mục tiêu lớn như tăng cường mối quan hệ với quốc gia có vị trí địa – chính
trị quan trọng trong khu vực; biến Pakistan thành đối trọng với Ấn Độ, quốc gia đang có nhiều
tranh chấp với Trung Quốc; làm suy giảm vai trò của Mỹ trong khu vực; mở rộng thị trường, tăng
lợi nhuận quốc gia thông qua buôn bán vũ khí.
Đối với Pakistan, quan hệ tốt về quân sự với Trung Quốc cũng đạt những mục đích như trang
bị được những loại vũ khí hiện đại mà họ chưa có khả năng sản xuất hay không mua được từ các
nước khác (Mỹ, Nga); bắt tay với đối thủ của Ấn Độ để chống lại họ.
Bên cạnh xây dựng mối quan hệ đặc biệt với Pakistan, Trung Quốc đã thúc đẩy quan hệ với
các quốc gia Nam Á khác thông qua các hoạt động viện trợ, hợp tác đầu tư khai thác cảng biển,
quan hệ thương mại... Trong những năm 1956 đến 1973, khi quan hệ Trung - Ấn ở vào mức thấp
nhất, Trung Quốc đã dành gần 20% tổng số hàng viện trợ nước ngoài (chủ yếu là viện trợ quân
sự) cho các nước Nam Á, trong đó Pakistan nhận được 13,1%, Sri Lanka 3,5% và Nepal 2,9%.
Trung Quốc đã trở thành nước cung cấp trang thiết bị quân sự quan trọng nhất cho Pakistan trong
giai đoạn này.
Năm 2002, Trung Quốc tham gia phát triển cảng chiến lược nước sâu Gwadar ở Pakistan,
theo đó đóng góp phần lớn chi phí xây dựng cảng này. Hành động này cho thấy Trung Quốc đang
tìm cho mình một lối đi ra biển Oman và một khả năng giám sát vịnh Persique [60, tr 5]. Sự hiện
diện của Trung Quốc ở đây đã làm Ấn Độ lo lắng thật sự. Các nhà phân tích Ấn Độ cho rằng
cảng biển này có thể nhanh chóng bị chuyển đổi mục đích sử dụng thành cảng quân sự. Không
chỉ Ấn Độ, Mỹ cũng tỏ ra lo ngại trước kế hoạch này.
Đặt trong cái nhìn rộng lớn hơn về những động thái của Trung Quốc trong khu vực có thể
thấy Trung Quốc đang quyết tâm thiết lập những cơ sở nhằm tăng cường sự hiện diện của họ ở
đây. Ngoài dự án cảng Gwadar với Pakistan, Trung Quốc đã có dự án xây dựng cảng tại các nước
Sri Lanka (cảng Hambantota), Bangladesh (cảng Chittagong), Myanmar (cảng Kyaukphyu), và
Yemen (cảng Mukkala). Ngoài ra, Chính phủ Trung Quốc luôn thúc đẩy mối quan hệ nồng ấm
với các quốc gia thuộc khu vực Ấn Độ Dương, như ký kết các hiệp ước hữu nghị và cung cấp cho
các nước này số lượng viện trợ lớn nhằm xây dựng mối quan hệ chính trị trong khu vực. Những
nỗ lực mở rộng sự hiện diện của Trung Quốc ở khu vực Ấn Độ Dương được Lầu Năm góc gọi là
chiến lược “chuỗi ngọc trai”. Việc xây dựng và phát triển các căn cứ hỗ trợ hậu cần thể hiện cho
các yếu tố cần thiết của chiến lược này.
Sự hiện diện thức tế ngày càng mạnh mẽ và đa dạng trong khu vực địa –chính trị này của
Trung Quốc khiến Ấn Độ là quốc gia lo ngại nhất. Ấn Độ cảm thấy mình như bị bao vây bởi các
căn cứ của Trung Quốc ở các quốc gia vốn không có thiện cảm với mình.
Cùng chia sẻ lợi ích và sự lo ngại không kém Ấn Độ là Mỹ. “Chuỗi ngọc trai” mà Trung
Quốc thiết lập nằm trên tuyến đường biển vận chuyển hàng hóa quốc tế quan trọng bậc nhất của
thế giới. Vì vậy những quan hệ căng thẳng trong tương lai giữa Trung Quốc và Mỹ có thể ảnh
hưởng đến con đường vận chuyển này. Hơn nữa Ấn Độ Dương đã từ lâu chỉ có sự hiện diện quân
sự của Mỹ trong tư cách quân đội nước ngoài, nay sự lớn mạnh và chủ trương vươn ra bên ngoài
của Trung Quốc khiến Mỹ phải chia sẻ không gian địa –chính trị quan trọng này. Vì vậy, trong
trường hợp quan hệ quân sự trở nên căng thẳng, các căn cứ quân sự của Mỹ ở đây có thể sẽ là
mục tiêu tấn công của quân đội Trung Quốc.
Như vậy, Trung Quốc lớn mạnh về kinh tế, quân sự và sự vươn lên về chính trị ngoại giao,
cố gắng trở thành một cường quốc trên thế giới và là một cực lãnh đạo thế giới trong thế giới đa
cực đang là một thách thức lớn và ngày càng trở nên hiện thực đối với vị trí lãnh đạo toàn cầu của
Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh. Kiềm chế Trung Quốc luôn là một nhiệm vụ bên cạnh nhiệm vụ hợp
tác với Trung Quốc trong tương lai. Hai nhiệm vụ này luôn có sự mâu thuẫn với nhau, nhưng
không còn lựa chọn nào khác nếu Mỹ muốn vừa phát triển kinh tế vừa duy trì được vị trí cường
quốc số một thế giới của mình.
1.2.2.2. Nga
Sự trỗi dậy mạnh mẽ trong thập niên đầu thế kỷ XXI
Liên bang Nga là quốc gia có lãnh thổ rộng lớn nhất thế giới. Lãnh thổ của quốc gia này trải
dài trên hai châu lục Á, Âu và có chung đường biên giới với nhiều quốc gia thuộc nhiều khu vực
địa lý khác nhau. Kế thừa lịch sử hào hùng của nước Nga Xô Viết, người Nga muốn giành lại vị
trí siêu cường có được trước đó. Để đạt được điều này, nước Nga phải nỗ lực trên mọi lĩnh vực
kinh tế, quốc phòng, đối ngoại… trong đó tăng cường sự hiện diện của mình ở những khu vực địa
– chính trị quan trọng trên thế giới là nhiệm vụ hàng đầu. Nhiệm vụ này vừa nhằm bảo vệ lợi ích
nước Nga ở những khu vực vốn chịu ảnh hưởng của Nga, vừa ngăn chặn nguy cơ thiết lập một
khu vực mới bao vây nước Nga.
Nhìn lại thập niên đầu sau Chiến tranh lạnh, lợi dụng nước Nga suy yếu, các đối thủ cạnh
tranh của Nga đã đẩy mạnh các hoạt động nhằm tăng cường sự hiện diện của họ ở những vùng
đất vốn trước kia là khu vực ảnh hưởng của nước Nga Xô Viết. Người Nga có cảm giác mình bị
bao vây bởi Mỹ và các nước phương Tây khác.
Sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ, nước Nga thừa kế phần lớn di sản từ Liên Xô về mọi mặt
chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao. Một số quốc gia trong Liên bang Xô viết tách ra độc lập
nhưng sau đó đã tập hợp lại trong Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG). Trong cộng đồng đó,
Nga được thừa nhận là nước có vai trò quan trọng. Trong tuyên bố Alma- Ata “các nước thành
viên công nhận Nga là nước tiếp quản vị trí của Liên Xô tại Liên Hợp Quốc, tại Hội đồng bảo an
Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế khác mà Liên Xô là thành viên”[1, tr17].
Tuy nhiên sau Chiến tranh lạnh, một thập kỷ dài Nga đối diện với những bất ổn xã hội, yếu
kém về kinh tế. Vị thế chính trị ngoại giao trên trường quốc tế giảm sút nghiêm trọng. Nga không
còn được xem là cường quốc có khả năng cạnh tranh với Mỹ. Mỹ và Phương Tây không còn phải
e ngại Nga trong những quyết định can thiệp vào các vấn đề thế giới mà Nga phản đối. Chẳng
hạn sau Chiến tranh vùng vịnh, liên quân Anh, Mỹ vẫn tiến hành những cuộc chiến tranh bằng
lực lượng không quân chống Iraq. Tháng 12/1998, lực lượng này tiến hành chiến dịch “Con cáo
sa mạc” không kích dữ dội Iraq. Nga phản ứng mạnh đối với hành động quân sự đó của Anh, Mỹ
bằng cách triệu hồi đại sứ của mình khỏi Washington và London đồng thời tuyên bố hành động
của Mỹ là vi phạm Hiến chương Liên Hợp Quốc. Phản ứng mạnh mẽ của Nga không có tác động
gì đến quyết định của Anh, Mỹ. Cuộc không kích vẫn tiếp tục.
Năm 1999, cả thế giới nóng lên trước hành động quân sự của NATO chống Nam Tư, một
quốc gia có chủ quyền. Nga phản đối mạnh mẽ cuộc không kích này bằng hàng loạt những hành
động chính trị, ngoại giao. Cùng thời điểm cuộc chiến xảy ra, Thủ tướng Nga Primacov đang có
chuyến công du đến Mỹ. Ông đã thực hiện chỉ thị của Yeltsin, ra lệnh cho máy bay chở ông quay
lại như một hành động phản đối. Yeltsin cũng đã ra lệnh triệu hồi đại diện Nga tại NATO về
Moscow, hoãn các cuộc thương lượng và hoạt động của Nga trong NATO và tuyên bố trong
trường hợp xấu, Nga vẫn giữ quyền có các biện pháp thích đáng, kể cả biện pháp quân sự để tự
vệ và bảo vệ an ninh của toàn châu Âu. Tuy nhiên, NATO, đứng đầu là Mỹ, không e ngại trước
những phản ứng đó của Nga. Họ phớt lờ Nga, phớt lờ vị trí thường trực trong Hội đồng Bảo an
của Nga, tiến hành cuộc chiến khốc liệt kéo dài 78 ngày đêm với nhiều tổn thất sinh mạng, cơ sở
hạ tầng ở đây.
Từ sau Chiến tranh lạnh đến nay, Nga luôn đứng trước những thách thức đến từ việc mở rộng
NATO về hướng Đông, nơi là khu vực ảnh hưởng truyền thống của Nga. NATO đã lần lượt kết
nạp các quốc gia như Ba Lan, Séc, Hungari và nhiều quốc gia khác có biên giới với Nga. Mặc dù
Nga phản đối chủ trương này nhưng số thành viên tham gia vào tổ chức quân sự lớn nhất thế giới
này vẫn tăng.
Trong hàng loạt các hoạt động nhằm chống Nga mà Phương Tây tiến hành có những hoạt
động lật đổ thông qua các cuộc cách mạng màu ở các quốc gia nằm trong khối SNG như Gruzia,
Ucraina, 11TKyrgyzstan11T. Năm 2003, người Mỹ đã đứng đằng sau cuộc cách mạng nhung diễn ra ở
Gruzia mà thế giới gọi là “Cách mạng hoa hồng”. Cuộc cách mạng này đã lật đổ 5TEduard
Shevardnadze và đưa 5T6TMikhail Nikolozovich Saakashvili có tư tưởng thân Phương Tây lên làm
tổng thống. Một năm sau đó, cuộc “Cách mạng cam” đã diễn ra ở Ucraina đưa 6TViktor
Yushchenko lên làm tổng thống. Năm 2005, 6Tnhững cuộc biểu tình đường phố lại lặp lại ở quốc
gia vào hàng nghèo nhất trong Cộng đồng các quốc gia độc lập SNG. Thế giới gọi tên là c 6Tuộc
“Cách mạng hoa Tulip”. Cũng như các cuộc cách mạng màu trước đó, cuộc cách mạng này cũng
được Mỹ ủng hộ, nâng đỡ.
Những sự kiện trên là một minh chứng cho thấy sự yếu thế của Nga trước thế giới được lãnh
đạo bởi Mỹ.
Năm 2000, nước Nga chính thức có tổng thống mới, Putin, người mà trước đó người Nga
chưa hề nghĩ tới, nhưng chính vị tổng thống này đã đưa nước Nga thoát khỏi tình trạng khủng
hoảng, bước vào cuộc hồi sinh giành lại vị trí cường quốc hàng đầu trên thế giới.
Trong những năm cầm quyền của mình, Putin đã lựa chọn ưu tiên giải quyết những vấn đề
tối quan trọng của quốc gia. Ông đã phát huy được lợi thế quốc gia, dùng lợi thế quốc gia về dầu
lửa và khí đốt như một vũ khí chính trị để đạt mục đích trước các đối thủ. Thông qua ghế thường
trực ở Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, Nga đã tham gia tích cực vào việc giải quyết các vấn đề
trên thế giới…Dưới thời Putin không còn thấy một nước Nga lép vế trên trường quốc tế trước
Mỹ.
Cũng thời gian này, thế giới chứng kiến sự lớn mạnh trở lại của Nga về mọi mặt, trước hết là
kinh tế. Nền kinh tế luôn trong tình trạng tăng trưởng âm ở thập niên trước đó (trừ năm 1997 và
1999) đã vươn lên tăng trưởng dương ở mức cao. Một nước Nga nợ nần chồng chất đã được giải
quyết chỉ trong nhiệm kỳ đầu cầm quyền của Putin. Cũng thời gian này, dự trữ ngoại tệ từ chỗ
trống rỗng đến chỗ Nga đã có được mức dự trữ lúc cao nhất đạt 600 tỷ đô la.
Nước Nga suy yếu sau Chiến tranh lạnh là một thực tế nhưng không thể phủ nhận vị trí
cường quốc quân sự của Nga. Nước Nga chiếm 76% lãnh thổ, 52% dân số của Liên Xô trước
đây. Liên Xô tan rã, Liên bang Nga kế thừa 60% tiềm lực kinh tế mà Liên bang Xô viết tạo dựng
trong 7 thập kỷ cạnh tranh với hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa. Trong đó đáng chú ý là những
lĩnh vực công nghiệp hàng đầu thế giới như công nghiệp quốc phòng. Nga tiếp quản khoảng 80%
các xí nghiệp quốc phòng từ Liên Xô. Kho vũ khí khổng lồ (trong đó có hệ thống tên lửa và vũ
khí hạt nhân), các đơn vị hải, lục, không quân thiện chiến được trang bị hiện đại thời Liên Xô vẫn
do Nga quản lý.
Ngành công nghiệp quốc phòng Nga hiện nay vẫn không ngừng lớn mạnh. Vào thập kỷ đầu
tiên của thế kỷ XXI, khi Mỹ đã thử nghiệm thành công và triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa,
Nga đã “đưa ra kế hoạch tên lửa có thể phá vỡ hệ thống phòng ngự tên lửa của Mỹ được gọi là hệ
thống tiến công từ vũ trụ” [21, tr 28]. Cũng trong chương trình phát triển vũ khí tấn công, Nga
tiếp tục cho ra đời nhiều loại vũ khí tối tân, có khả năng tác chiến hủy diệt đối phương như tàu
ngầm “Cá mập” thế hệ thứ tư có thể phóng đồng loạt một lúc 160 đầu đạn hay tên lửa vượt đại
châu mang tên “Bạch Dương–M” và tên lửa hành trình vũ trụ “viên đạn bạc” [21, tr 28]. Với tiềm
lực quốc phòng lớn mạnh, dù cho kho vũ khí đã bị cắt giảm, Nga vẫn có sức tiêu diệt 10 lần nước
Mỹ. Chính cựu Tổng thống Mỹ, R. Nixon đã từng nói “Nước Nga, nước duy nhất có khả năng
hủy diệt nước Mỹ, chính vì vậy Nga mãi mãi là hướng ưu tiên quan trọng nhất trong chính sách
đối ngoại của Mỹ”[35, tr 72]. Tuyên bố này cho thấy vị trí cường quốc quân sự của Nga là không
thể phủ nhận ngay cả khi Nga đang ở trong tình trạng yếu kém và bất ổn nhất về mọi mặt.
Hồi phục về kinh tế, vững mạnh về quân sự, Nga đã tích cực hơn trong những hoạt động
chính trị, ngoại giao. Trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI này, thế giới chứng kiến những tiếng
nói độc lập mạnh mẽ hơn trong các vấn đề quốc tế của Nga. Trong quan hệ với các cường quốc,
đặc biệt là Mỹ, Nga đã khai thác các vấn đề mà nền chính trị ngoại giao Mỹ đang quan tâm theo
đuổi. Chẳng hạn trong vấn đề chống khủng bố, Nga có cùng quan điểm với Mỹ vì chính bản thân
Nga cũng đang phải đối mặt với những nguy cơ khủng bố từ các tổ chức khủng bố quốc tế. Trong
vấn đề hạt nhân của Iran, Triều Tiên, về nguyên tắc, Nga đồng tình với chủ trương không phổ
biến vũ khí hạt nhân, đặc biệt là với các quốc gia có yếu tố Hồi giáo như Iran, nhưng Nga không
đồng tình trong những chủ trương cứng rắn mà Mỹ muốn áp đặt với các quốc gia này. Nga đã
nhiều lần phản đối các hành động áp đặt lệnh trừng phạt nặng nề của Liên Hợp Quốc đối với Iran
khiến các nghị quyết này phải xây dựng lại. Các nhà phân tích chính trị thế giới cho rằng, Nga đã
biết nắm lấy vấn đề phổ biến hạt nhân như một con bài để thỏa thuận, mặc cả nhằm đạt được các
mục đích khác với Mỹ. Hơn nữa, Nga không muốn làm tổn thương khách hàng đang tiêu thụ vũ
khí của mình. Kết quả là mới đây Nga đã đạt được sự đồng ý quốc tế cho phép Nga là nhà cung
cấp nguyên liệu hạt nhân cho nhà máy điện nguyên tử đầu tiên của Iran, Bushehr.
Trong thập niên đầu thế kỷ XXI, Nga tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế, nơi có thể
bày tỏ quan điểm của mình cũng như thể hiện vị trí nước lớn. Trong nhiều tổ chức quốc tế và khu
vực mà Nga đã tham gia như Liên Hợp Quốc, IMF, APEC,… tiếng nói của Nga được coi trọng.
Tuy nhiên trong những tổ chức quan trọng đó luôn có Mỹ tham gia nên ít nhiều có những ảnh
hưởng đến tiếng nói của Nga. Lớn mạnh về kinh tế, quân sự, Nga muốn có tổ chức đủ mạnh mà ở
đó không có Mỹ. Năm 2001, các quốc gia có cùng mong muốn với Nga, trong đó có Trung Quốc,
đã thành lập tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) từ tổ chức tiền thân Thượng Hải 5. Đây là tổ
chức an ninh chung liên chính phủ bao gồm các nước Nga, Trung Quốc và các nước có vị trí địa
– chính trị quan trọng ở Trung Á như Kyrgyzstan, Kazakhstan, Uzbekistan, Tajikistan và
Turmenistan. Năm 2005, tổ chức này đồng ý trao quy chế quan sát viên cho Ấn Độ, Pakistan,
Iran, Mông Cổ. Mỹ có ngỏ ý muốn trở thành quan sát viên nhưng không được Nga và các nước
trong tổ chức đồng ý. Tổ chức này ngoài hợp tác kinh tế, văn hóa, nhân đạo còn thường xuyên
tiến hành các hoạt động diễn tập quân sự chung chống khủng bố, buôn lậu ma túy.
Trong các vấn đề liên quan trực tiếp đến lợi ích, an ninh quốc gia, Nga càng tỏ ra kiên quyết.
Đầu thế kỷ này, Mỹ thử nghiệm thành công hệ thống phòng thủ tên lửa và muốn thông qua
NATO để triển khai một hệ thống tên lửa đánh chặn cùng với hệ thống rada phục vụ cho hệ
thống tên lửa này ở Ba Lan và Cộng hòa Séc. Các lãnh đạo Mỹ và châu Âu luôn khẳng định hệ
thống đó là nhằm vào Iran, tuy nhiên việc triển khai chúng trên lãnh thổ các quốc gia gần biên
giới Nga, không thể không đe dọa an ninh Nga.
Phản ứng mạnh mẽ trước những hành động của các nhà cầm quyền Mỹ, Ba Lan, Cộng hòa
Séc xung quanh hệ thống phòng thủ tên lửa, ngày 14/7/2007, Tổng thống Nga V. Putin ký Sắc
lệnh tạm ngưng thực thi Hiệp ước cắt giảm lực lượng quy ước ở châu Âu (CFE), hiệp ước được
xem là hòn đá tảng của an ninh châu Âu sau Chiến tranh lạnh. Không dừng lại, Nga tuyên bố sẽ
xem xét khả năng rút khỏi Hiệp ước về các lực lượng hạt nhân tầm trung (INFT), đồng thời triển
khai tên lửa ở Kaliningrad, điều chắc chắn sẽ làm đảo lộn cân bằng chiến lược ở châu Âu. Những
phản ứng mạnh mẽ của Nga đã tác động đến Mỹ và EU. Kế hoạch triển khai tên lửa phòng thủ ở
hai quốc gia trên vì vậy bị gác lại.
Sự kiện cuộc chiến tranh chớp nhoáng diễn ra ở Gruzia như một minh chứng cho thấy nước
Nga đã trở lại vị thế quốc tế của mình. Ngày 8/8/2008, khi cả thế giới đang hướng về thế vận hội
Olympic, quân đội Gruzia đã tiến hành cuộc chiến tranh xâm chiếm vùng lãnh thổ ly khai Nam
Ossetia, chiến tranh sau đó đã 8Tlan rộng sang một vùng lãnh thổ ly khai khác là Abkhazia.
Ngay lập tức, trong cương vị người gìn giữ hòa bình ở đây, Nga đã triển khai quân đội tiến
hành cuộc chiến đáp trả mạnh mẽ không chỉ ở vùng lãnh thổ ly khai này mà vào sâu lãnh thổ
Gruzia. Máy bay Nga đã ném bom các căn cứ quân sự ở thủ đô 10TTbilisi 10Tgây tổn hại lớn cho lực
lượng quân đội Gruzia vốn yếu thế hơn. Khi cuộc chiến đang diễn ra, Mỹ và Phương Tây lớn
tiếng lên án hành động quân sự của Nga, đòi Nga ngừng chiến và rút quân khỏi khu vực này.
Cuộc chiến chỉ thật sự chấm dứt sau 5 ngày giao tranh.
Tiến thêm một bước, không lâu sau đó, Tổng thống Dmitry Medvedev ký quyết định công
nhận độc lập cho Nam Ossetia và Abkhazia. Một lần nữa, Mỹ và Phương Tây phản đối mạnh mẽ.
T8Tổng thống Mỹ Bush gọi là một “quyết định vô trách nhiệm”. Ngoại trưởng C.Rice coi đây là
một hành động “đáng tiếc” và “không thể chấp nhận được” bởi nó “vi phạm cơ bản tinh thần và
nội dung của nghị quyết LHQ”. Ngoại trưởng Anh D. Miliband thì cáo buộc hành động của Nga
là “phi pháp”. Còn Ngoại trưởng Pháp B. Kouchner thì cảnh báo hành động của Nga đã làm gia
tăng căng thẳng trong khu vực. Nhìn chung Mỹ và Phương Tây lên án Nga như Nga đã từng lên
8TGruzia nằm trong khu vực có vị trí địa – chính trị quan trọng nên 8TMỹ và Phương Tây hậu
án họ trong cuộc chiến và những gì diễn ra sau đó ở Kosovo.
thuẫn cho 8TM8Tikhail Saakashvili (người có tư tưởng thân Phương Tây) trong cuộc “Cách mạng hoa
hồng” năm 2003. Khi đã nắm quyền, chính quyền thân Phương Tây của ông nhận được sự ủng hộ
gia nhập NATO. Vì vậy trong cuộc chiến tranh Gruzia và những gì diễn ra sau đó, Mỹ và Phương
Tây có những tuyên bố bênh vực Gruzia là dễ hiểu. Tuy nhiên, những chỉ trích đó đã không lay
chuyển được người Nga, quốc gia mà ý thức về vị trí cường quốc đã “thức dậy” từ đầu thế kỷ
này. Những gì người Nga đã làm trong và sau cuộc chiến tranh Gruzia đã thật sự cho thấy Nga
không còn lép vế trước Phương Tây như đã từng thấy trong thập kỷ đầu sau Chiến tranh lạnh.
Ngày nay, Mỹ luôn xác định Nga có vị thế quan trọng trong chính sách toàn cầu chống phổ
biến hạt nhân, công nghệ tên lửa, bởi nếu Nước Nga - một cường quốc hạt nhân, có những công
nghệ quân sự tiên tiến, chuyển giao những công nghệ đó cho các nước Hồi giáo, tình hình trên
thế giới sẽ thay đổi đột ngột và mức độ đối đầu có thể trong các cuộc xung đột quân sự sẽ căng
thẳng hơn nữa. Chính vì vậy, trong tương lai cần phải tính đến nước Nga hơn bất cứ một đối tác
nào trong khối Bắc Đại Tây Dương [35, tr 65].
Cũng trong vấn đề này Mỹ xác định “hợp tác với Nga trở thành nhân tố trọng tâm trong quan
điểm của Mỹ về việc giải quyết các vấn đề không phổ biến vũ khí hạt nhân”. Nhà hoạch định
chính sách đối ngoại của Mỹ, S.Stestanovich, đã thú nhận rằng Mỹ muốn Nga ủng hộ chính sách
không phổ biến vũ khí hạt nhân và công nghệ tên lửa cũng như các biện pháp nhằm hủy bỏ vũ
khí giết người hàng loạt ở những nơi chúng xuất hiện, chẳng hạn như Iraq [35, tr 73].
Tóm lại, vượt qua thập niên đầu sau Chiến tranh lạnh với hàng loạt những yếu kém, bất ổn,
nước Nga đang hồi sinh và trỗi dậy mạnh mẽ. Người ta đang nói tới một “Con gấu Nga thức
giấc” như một cách nói hình ảnh cho một nước Nga của thế kỷ XXI. Trong bối cảnh đó, chính
sách của Mỹ đối với bất kể khu vực nào trên thế giới không thể không tính đến nước Nga.
Nước Nga đang lớn mạnh và dần lấy lại vị thế quốc tế hàng đầu của mình là một thực tế.
Trong rất nhiều những vấn đề quốc tế, tăng cường sự hiện diện của Nga trong những khu vực địa
– chính trị quan trọng trên thế giới là một nhiệm vụ quan trọng.
Sự gia tăng quan hệ với Nam Á
Cũng như các cường quốc khác trên thế giới, Nga coi trọng vị trí Nam Á trong chính sách
của mình, bởi đây là khu vực có mối quan hệ địa lý, lịch sử, an ninh với Nga. Nằm ở phía Nam
nước Nga, Nam Á tiếp giáp với khu vực Trung Á giàu tiềm năng và đầy bất ổn. Trong lịch sử các
nước Trung Á thuộc khu vực ảnh hưởng của Nga nhưng hiện nay các đối thủ của Nga đang gia
tăng sự hiện diện ở đây. Bảo vệ vị trí được các nhà địa – chính trị coi là “Miền đất trái tim” là
nhiệm vụ quan trọng nếu Nga không muốn tương lai gần lợi ích quốc gia của Nga bị các đối thủ
đe dọa. Hơn nữa Nam Á là khu vực có những quốc gia Hồi giáo có quan hệ với lực lượng Hồi
giáo ở các nước Trung Á thuộc Nga. Những bất ổn an ninh xuất phát từ lực lượng này trong
những năm gần đây là một thách thức đối với chính quyền Nga. Gia tăng quan hệ với các chính
quyền Nam Á là lựa chọn góp phần giải quyết thách thức an ninh này.
Trong số các quốc gia Nam Á, Ấn Độ và Pakistan là hai quốc gia lớn được các nhà hoạch
định chính sách Nga quan tâm hàng đầu.
Đối với Ấn Độ
Trước Chiến tranh lạnh, Liên Xô quan tâm đến các quốc gia này như một lợi ích an ninh toàn
cầu, phá vỡ thế bao vây mà Mỹ và các nước tư bản thiết lập xung quanh biên giới của mình.
Trong đó quan hệ với Ấn Độ, một nước lớn của thế giới thứ ba có vai trò quan trọng trong khu
vực và Phong trào không liên kết, là thân thiện hơn cả. Liên Xô luôn có quan điểm ủng hộ Ấn Độ
đối với các vấn đề tranh chấp lãnh thổ, tiến hành viện trợ kinh tế, quân sự cho quốc gia này. Liên
Xô đã chủ động làm trung gian hòa giải trong cuộc chiến tranh Ấn Độ - Pakistan lần 2 bằng cách
thu xếp để hai bên gặp nhau ở Tasken. Kết quả là bản Hiệp ước Tasken đã được ký kết giữa Ấn
Độ và Pakistan.
Năm 1991, Liên Xô sụp đổ. Nga trở thành quốc gia quan trọng thừa kế di sản của Liên Xô.
Ngay sau khi độc lập, nước Nga mới đã theo đuổi một chính sách thân Mỹ và Phương Tây. Nga
hy vọng sẽ đạt được mục tiêu chuyển sang nền kinh tế thị trường, tự do hoà nhập với nền kinh tế
thế giới cùng hệ thống chính trị dân chủ tư bản thông qua sự hỗ trợ chủ yếu từ Phương Tây. Theo
đuổi chính sách đó, Ấn Độ và khu vực Nam Á nằm ở vị trí thứ yếu trong chính sách của Nga.
Khác với Liên Xô có nhu cầu "quan hệ đặc biệt" với Ấn Độ trong chiến lược địa – chính trị nhằm
làm đối trọng với Mỹ và Trung Quốc, và coi Ấn Độ là trụ cột của các nỗ lực chính trị, ngoại giao
và kinh tế ở Nam Á, nước Nga hậu Xô viết không xem Ấn Độ như là một đồng minh chiến lược.
Trong tài liệu "Nội dung Chính sách đối ngoại của Nga" do Bộ Ngoại giao Nga xuất bản 1/1993,
Ấn Độ đứng vị trí thứ bảy trong số 10 trọng tâm đối ngoại của Nga, chỉ trên các khu vực Cận
Đông, Châu Phi và Mỹ Latinh.
Cũng thời gian này, Ấn Độ bước vào thời kỳ cải cách kinh tế theo hướng thị trường, thực
hiện chính sách tự do hoá nền kinh tế, bãi bỏ kiểm soát, mở cửa cho đầu tư nước ngoài với sự trợ
giúp của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). Chính sách mới đã khiến Ấn
Độ tiến lại gần Mỹ hơn và tăng cường quan hệ với Trung Quốc. Thay vì hướng vào một liên
minh duy nhất, Ấn Độ nỗ lực phát triển quan hệ với tất cả các trung tâm quyền lực, mở rộng hợp
tác song phương bền vững cùng lúc với cả Mỹ, Trung Quốc và Nga trên cơ sở từng vấn đề và tuỳ
lợi ích song trùng của hai bên.
Tuy nhiên, dù có những điều chỉnh chính sách, cả Ấn Độ và Nga không thể bỏ qua toàn bộ
những yếu tố địa – chính trị cơ bản vốn đã đặt nền móng cho quan hệ hữu nghị liên tục giữa hai
nước trong nhiều thập kỷ. Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, Nga và Ấn Độ vẫn có những song
trùng về lợi ích chiến lược lâu dài.
Nga và Ấn Độ cùng quan tâm đến hình thái thế giới đa cực mà ở đó họ tham gia trong cương
vị một cực. Hơn nữa, cả hai nước phải đối phó với sự gia tăng ảnh hưởng của các lực lượng Hồi
giáo cực đoan ở Tây Á và Trung Á. Cả hai cùng chia sẻ quan điểm về cuộc đấu tranh chung
chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế, bạo lực qua biên giới và các hoạt động ma tuý. Cùng là quốc
gia đa sắc tộc, họ chung quan điểm chống hành động ly khai. Theo họ "các nguyên tắc tôn trọng
toàn vẹn lãnh thổ và sự thống nhất đất nước là nhân tố chính cho sự tồn tại của các quốc gia đa
sắc tộc"[35, tr 146].
Sau một thời gian theo đuổi chính sách ngả về Phương Tây không hiệu quả, năm 1994, Nga
thay đổi chính sách theo hướng cân bằng Đông – Tây, theo đó quan tâm hơn đến các nước
Phương Đông. Thay đổi chính sách cũng nhằm chống lại các thách thức an ninh đối với Nga đến
từ các nước Phương Tây như mục tiêu làm suy yếu Nga hay những hoạt động mở rộng NATO về
Phương Đông. Trong bối cảnh đó Ấn Độ, một quốc gia có mối quan hệ truyền thống với Nga (từ
thời Liên Xô) đã được quan tâm thúc đẩy quan hệ trên mọi lĩnh vực.
Kể từ lúc này, Ấn Độ luôn nhận được sự ủng hộ từ Nga đối với các vấn đề liên quan đến lợi
ích quốc gia, đặc biệt là vấn đề Jammu và Kashmir. Trong cuộc xung đột Kargil 1998, lập trường
của Nga hoàn toàn ủng hộ lập trường của Ấn Độ. Năm 1998, Ấn Độ thử nghiệm thành công vũ
khí hạt nhân, cuộc thử nghiệm đã khiến họ đối diện với lệnh cấm vận mới của Liên Hợp Quốc.
Nga không muốn chống lại nguyên tắc quốc tế nhưng cũng không muốn trừng phạt nặng Ấn Độ
nên “ở mức độ nào đó, sau khi Ấn Độ đã thử nghiệm vũ khí hạt nhân, nước Nga đã phải có nỗ
lực rất lớn để Liên Hợp Quốc không áp dụng cấm vận toàn diện chống Ấn Độ” [35, tr 146].
Trong một diễn biến khác, Nga là nước thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên
Hợp Quốc đầu tiên ủng hộ Ấn Độ tham gia vào cơ quan này. Ngày 1/10/2000, Tổng thống Nga
Putin tuyên bố rằng Ấn Độ là "ứng cử viên thích hợp" cho ghế thành viên chính thức của Hội
đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Về phần mình, Ấn Độ đã nhiều lần phản đối việc mở rộng NATO
sang hướng Đông, hay như cùng chung quan điểm với Nga trong vấn đề Kosovo. Điều này càng
khích lệ, củng cố niềm tin của Nga với đối tác Ấn Độ.
Như vậy, nếu xem xét chính sách của Nga – Ấn Độ và Nga – Pakistan trong sự so sánh ở
thập niên này sẽ thấy, quan hệ Nga – Ấn Độ được người Nga coi trọng hơn. Điều này được Tổng
thống Putin tuyên bố như một lời đúc kết vào ngày 1/10/2000 rằng "Ấn Độ đóng một trong
những vai trò quan trọng nhất trong chính trị thế giới. Nga và Ấn Độ bổ sung một cách tự nhiên
cho nhau trong rất nhiều lĩnh vực"[35, tr 147].
Cốt lõi của quan hệ Ấn - Nga là quan hệ quốc phòng. Nga mong muốn thiết lập quan hệ quốc
phòng chặt chẽ với thị trường lớn và màu mỡ như Ấn Độ cho các tổ hợp công nghiệp - quân sự
của mình, một thế mạnh Nga có thể cạnh tranh được với Phương Tây. Nga bán cho Ấn Độ các
loại vũ khí hiện đại như máy bay MiG, Sukhoi-30, xe tăng T-72, T-90, tên lửa, tầu ngầm, tàu sân
bay ... với giá trị thương mại lớn. Buôn bán quốc phòng hai nước ngay từ thập niên 90 của thế kỷ
trước đã đạt giá trị lớn. Những năm 1992-1996, New Delhi đã nhập vũ khí của Nga trị giá 3,5 tỷ
USD, năm 1997, kim ngạch hợp tác kỹ thuật - quân sự hai nước đạt tới đạt tới 800 triệu USD.
Các hợp đồng cung cấp vũ khí của Nga cho Ấn Độ trong thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI ngày
một nhiều thêm về số lượng, đa dạng về chủng loại. Từ năm 2002 - 2006, Nga đã xuất khẩu vũ
khí sang Ấn Độ 25% tổng số vũ khí xuất ra nước ngoài của họ. Theo báo cáo của Viện nghiên
cứu hòa bình Stockholm, năm 2006, Ấn Độ có khoảng 600 máy bay chiến đấu, trong đó có 140
chiếc Sukhoi-30 MKI mua từ Nga.
Nga đang thực hiện hợp đồng cung cấp cho Ấn Độ tàu sân bay đầu tiên, Đô đốc Gorshkov.
Hai bên cũng đã đạt được thỏa thuận cho thuê tàu ngầm hạt nhân. Tháng 10-2009, Nga và Ấn Độ
đã nhất trí với bản phác thảo hợp đồng mua bán vũ khí trị giá khoảng 10 tỉ USD, trong đó có việc
hai nước sẽ hợp tác đóng một chiếc máy bay chiến đấu siêu âm hiện đại có thể tránh được các hệ
thống ra-đa, giống như loại máy bay chiến đấu tàng hình F-22 Raptor của Mỹ.
Như vậy, lợi ích từ buôn bán thiết bị quân sự của Nga với Ấn Độ là rất lớn. Các hợp đồng
mua bán quân sự khổng lồ với Ấn Độ đang góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế Nga
và “rõ ràng là công nghiệp đóng tàu và chế tạo máy bay của Nga phụ thuộc rất nhiều vào việc
xuất khẩu sang Ấn Độ”[35, tr 147].
Trong quan hệ mua bán thiết bị quân sự này, Ấn Độ cũng là quốc gia chủ động. Họ muốn
khôi phục lại nguồn cung cấp phụ tùng và thiết bị quân sự từ Nga, vì 60 - 70% vũ khí và thiết bị
quân sự Ấn Độ mua của nước ngoài là từ Liên Xô. Theo thời gian các loại vũ khí này cần phải
nâng cấp và thay thế các thiết bị từ chính quốc gia đã sản xuất ra nó. Chính Thủ tướng Mamohan
Singh, trong chuyến thăm Nga vào 2009, đã từng phát biểu trên kênh truyền hình tiếng Anh
“Russia Today” rằng "Hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng là một lĩnh vực hợp tác quan trọng giữa
Nga và Ấn Độ. Chúng tôi có thể mua những thiết bị và công nghệ từ Nga - những thứ mà chúng
tôi không thể mua được từ các nước khác" [57].
Nếu thập kỷ 90 quan hệ quân sự Nga - Ấn chỉ là mua bán, thì hiện nay hợp tác quân sự và kỹ
thuật giữa Ấn Độ và Nga phát triển theo hình thức mới là sản xuất các trang thiết bị quân sự tại
Nga và Ấn Độ. Với việc chuyển giao công nghệ và hợp tác sản xuất này, quan hệ "mua - bán" đã
được thay thế bằng quan hệ "tham dự và tương tác". Chẳng hạn Nga và Ấn Độ đang hợp tác sản
xuất tên lửa siêu thanh Brahmos, tên lửa có tốc độ bay gấp 5 – 7 lần tốc độ âm thanh và vượt qua
tất cả các hệ thống tên lửa đánh chặn hiện có. Loại tên lửa này có thể trang bị cho tầu chiến, tầu
ngầm và máy bay chiến đấu. Cùng với hợp tác sản xuất tên lửa siêu thanh Brahmos, hai bên đang
hợp tác sáng chế và chế tạo máy bay vận tải quân sự đa năng, thúc đẩy hoạt động hợp tác chế tạo
máy bay chiến đấu thế hệ 5.
Bên cạnh hợp tác quân sự, Nga – Ấn Độ còn hợp tác trong lĩnh vực điện hạt nhân, chinh
phục vũ trụ. Dưới sự hỗ trợ của Nga về kinh tế và kỹ thuật, tại Kundankulam, Ấn Độ đang xây
dựng một nhà máy điện nguyên tử. Nhà máy này có hai lò phản ứng hạt nhân, mỗi lò có công
suất là 1.000 MW đang được hoàn thành. Trong chuyến thăm Ấn Độ của Tổng thống Nga vào
tháng 12-2008, hai bên đã ký kết thỏa thuận trang bị thêm 4 lò phản ứng hạt nhân với công suất
tương tự cho nhà máy điện ở Kundankulam. Ngoài ra, nhiều đề án hợp tác khác giữa hai nước
trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân hòa bình cũng đang được triển khai một cách có hiệu quả.
Việc thực thi các đề án này giúp Ấn Độ giải quyết vấn đề an ninh năng lượng, bảo đảm phát triển
ổn định cho nền kinh tế đất nước [66].
Trong lĩnh vực nghiên cứu vũ trụ, Nga và Ấn Độ đã hoàn thành nghiên cứu đề án chung khảo
sát Mặt trăng Chandrayan-2. Hiện nay, chuyên gia vũ trụ hàng không của hai nước đang bắt tay
vào chế tạo thiết bị vũ trụ Chandrayan-2.
Nhìn chung, New Delhi và Moscow đã duy trì được truyền thống quan hệ đặc biệt trong vài
thập kỷ qua, qua các biến động từ sự tan rã của Liên bang Xô viết tới sự thay đổi bộ máy lãnh
đạo hai nước. Nga với các tiềm năng to lớn về nguồn lực, cơ sở khoa học, nhân lực, vị trí địa
chính trị và lịch sử ... vẫn là một quốc gia quan trọng trong lợi ích chiến lược lâu dài của Ấn Độ.
Một nước Nga vững mạnh sẽ đáp ứng được mong muốn và lợi ích của Ấn Độ. Cựu Thủ tướng
Ấn Độ Vajpayee từng tuyên bố Ấn Độ muốn thấy một nước Nga mạnh và tự tin có vị trí quan
trọng trong thế giới đa cực. Còn Tổng thống Nga Putin tuyên bố "Chúng tôi rất quan tâm duy trì
quan hệ với một cường quốc như Ấn Độ, đặc biệt là trong tiến trình hình thành một thế giới dân
chủ đa cực và trong các lĩnh vực song phương".
Trong bối cảnh hầu như không có những xung đột về lợi ích chiến lược, quan hệ Nga – Ấn
ngày một phát triển. Năm 2000 hai bên đã thể hiện sự nhất trí thắt chặt mối quan hệ Nga – Ấn
bằng cách ký kết Tuyên bố về Đối tác Chiến lược. Năm 2009, Tổng thống Nga và Thủ tướng Ấn
Độ thông qua Tuyên bố chung về tăng cường quan hệ đối tác chiến lược toàn diện nhằm đối phó
với những thách thức toàn cầu.
Như vậy địa – chính trị đan xen với địa – kinh tế trong quan hệ giữa hai nước trong tương lai
sẽ là cơ sở hai nước tăng cường thắt chặt quan hệ nhằm đạt mục tiêu chiến lược. Lợi ích địa –
chính trị trong quan hệ hai nước đồng thời bổ sung cho nhau trong các vấn đề quốc tế. Nước Nga
lớn mạnh ở phía Bắc sẽ luôn ủng hộ Ấn Độ đang lên ở phía Nam và ngược lại. Chẳng hạn Nga
cần Ấn Độ làm đối trọng với Mỹ và Trung Quốc trong quan hệ quốc tế cũng như Ấn Độ cần Nga
ủng hộ ngoại giao trước Trung Quốc và Pakistan.
Đối với Pakistan:
Pakistan cũng là quốc gia có vị trí địa – chính trị quan trọng ở Nam Á. Vì vậy, Pakistan luôn
là đối tượng bị lôi kéo của các cường quốc nhằm phục vụ cho mục tiêu chiến lược của họ. Trong
lịch sử, Nga cũng muốn Pakistan đứng về phía mình nhưng chính sách quốc gia của các nhà cầm
quyền Pakistan không hướng tới kết thân với nước Nga.
Trước Chiến tranh lạnh, Nga luôn tìm kiếm mọi cơ hội có thể để tiếp cận chính quyền
Islamabad. Từ sau thành công hòa giải đi đến ký kết Hiệp ước Tasken nước Nga Xô Viết bắt đầu
những bước đi xa hơn nhằm kéo Pakistan khỏi vòng ảnh hưởng của Trung Quốc và Mỹ. Với tính
toán lợi ích toàn cầu của mình, nước Nga Xô viết quyết định chuyển từ chính sách "ủng hộ hoàn
toàn quan hệ đặc biệt với Ấn Độ" sang chính sách cân bằng hơn bao gồm thiết lập các mối quan
hệ với Pakistan. Thủ tướng Kosygin đến thăm Pakistan 4/1968 vài ngày sau khi Pakistan ra lệnh
đóng cửa căn cứ quân sự của Mỹ ở Peshawar. Tháng 7/1968, Liên Xô tuyên bố cung cấp vũ khí
cho Pakistan nhưng không quên bảo đảm với Ấn Độ rằng không có gì thay đổi trong quan hệ hợp
tác Xô – Ấn. Tuy nhiên Liên Xô đã sớm nhận ra, quan hệ với Pakistan không đạt được mục tiêu
tách Pakistan khỏi quan hệ thâm mật với Mỹ.
Vào thập niên 90, dù Ấn Độ chiếm vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của Nga, Nga
không muốn chính sách của mình là "ủng hộ Ấn Độ hoàn toàn" mà là thực tế và linh hoạt trong
từng vấn đề và hoàn cảnh cụ thể. Điều đó thể hiện rõ qua các bước đi của Nga trong quan hệ với
Pakistan.
Nằm gần các nước cộng hoà Trung Á mới độc lập và có đường biên giới chung với
Afganistan, cửa ngõ vào các nước Trung Á, Pakistan có vị trí quan trọng có thể đi đến kiểm soát
tình hình khu vực này. Bên cạnh đó, lo ngại trước ảnh hưởng của các nhân tố Hồi giáo trong khu
vực cũng là lý do khiến Nga quan tâm đến quốc gia Hồi giáo như Pakistan.
Vì vậy, thập kỷ 90 đã có sự thay đổi trong quan hệ chính trị Nga – Pakistan. Tháng 12/1991,
Phó Tổng thống Nga, Alexander Rutskoi thăm Pakistan. Không lâu sau đó, tháng 4/1992, quan
hệ này ấm lên khi Nga tổ chức hội nghị quốc tế về quan hệ của Pakistan với cộng đồng các quốc
gia độc lập tại Moscow. Về phần mình, việc Mỹ ngừng cung cấp vũ khí cho Pakistan vào năm
1990 cũng khiến Pakistan phải tìm kiếm các đồng minh và nguồn cung cấp thiết bị quân sự mới.
Trong bối cảnh đó, Pakistan cố gắng xích lại gần với Nga.
Tuy nhiên, chuyển biến đó không mang tính bền vững mà chỉ nhất thời do bối cảnh quốc tế
đã thay đổi. Pakistan cần Nga vì mong đợi từ Nga những đơn đặt hàng quân sự bù đắp vào việc
mất đi những đơn hàng quân sự từ các công ty Mỹ (theo lệnh cấm vận trừng phạt Pakistan đã bí
mật chế tạo vũ khí hạt nhân, các công ty này bị cấm cung cấp vũ khí cho Pakistan), hơn nữa
Pakistan muốn thông qua cải thiện quan hệ với Nga để kìm hãm quan hệ thân mật của Nga với kẻ
thù của mình, Ấn Độ. Nga cần Pakistan vì chính sách hướng Đông nằm trong chiến lược cân
bằng Đông – Tây của họ, hơn nữa sự ủng hộ của Pakistan cũng giúp Nga chống lại những nguy
cơ bất ổn gây nên bởi lực lượng Hồi giáo ở các nước Trung Á, khu vực địa –chính trị quan trọng
và có nhiều lợi ích chiến lược đối với Nga.
Trong thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, Pakistan tỏ ý muốn tăng cường quan hệ với Nga.
Năm 2003, Tổng thống Musharraf thăm Nga. Tại đây ông đã đề nghị Nga tăng cường quan hệ
thương mại với Pakistan. Tuy nhiên, Nga không muốn những hoạt động như vậy phương hại đến
mối quan hệ Nga - Ấn Độ. Ngay khi đồng ý đón tiếp Tổng thống Musharraf tại Moscow, Tổng
thống Putin đã điện đàm với Thủ tướng Vajpayee như một hành động bảo đảm rằng quan hệ với
Ấn Độ vẫn là một sự ưu tiên. Gần đây, khi các nhà phân tích Ấn Độ tỏ ý lo ngại Nga đang thúc
đẩy quan hệ quân sự với Pakistan. Để làm yên tâm các nhà cầm quyền Ấn Độ, Thủ tướng Nga
Putin đã khẳng định trong chuyến thăm năm 2010 rằng “Nga không thúc đẩy hợp tác quân sự với
Pakistan bởi việc này liên quan đến những lo ngại của phía đối tác Ấn Độ của chúng tôi”.
Như vậy, Nga đang là một nhân tố không thể không tính đến đối với bất kỳ cường quốc nào
muốn gây dựng ảnh hưởng của họ ở khu vực Nam Á. Niềm tự hào về một giai đoạn lịch sử
cường quốc hàng đầu thế giới đang khiến nước Nga mạnh mẽ vươn lên giành lại vị thế đó.
Những chuyển biến ở nước Nga trong thập kỷ đầu thế kỷ XXI cho phép Nga theo đuổi điều này.
Vì vậy, họ chủ động nối lại các mối quan hệ với các nước có quan hệ truyền thống tốt đẹp, trong
đó có các nước ở Nam Á. Thực tế trên khiến chính sách của Mỹ ở đây gặp phải những thách thức
đến từ đối thủ cạnh tranh đây tiềm năng là Nga.
Tiểu kết
Nam Á là khu vực được các nhà địa – chính trị cổ điển cũng như hiện đại đánh giá cao. Tuy
nhiên xác định khu vực này gồm những quốc gia nào vẫn chưa có được sự thống nhất giữa các
nhà nghiên cứu. Theo quan điểm của các nhà ngoại giao Mỹ, khu vực này gồm 7 quốc gia: Ấn
Độ, Pakistan, Bhutan, Nepal, Bangladesh, Sri Lanka, Maldives. Đây là khu vực đông dân cư, tài
nguyên thiên nhiên không nhiều nhưng có những loại có giá trị cao. Theo nhà địa – chính trị
Nicholas John Spykman Nam Á nằm trong khu vực “vùng rìa”, một khu vực quan trọng trong lý
thuyết địa – chính trị của ông. Nam Á cũng tiếp giáp với khu vực “miền đất trái tim” như cách
nhìn của nhà địa – chính trị Mackinder. Tính chất quan trọng của khu vực khiến nơi đây diễn ra
sự cạnh mạnh mẽ giữa các cường quốc.
Sau Chiến tranh lạnh, do mục tiêu toàn cầu của Mỹ đã thay đổi nên Mỹ có sự đánh giá lại giá
trị địa - chính trị các khu vực trên thế giới. Nếu trước kia Châu Âu luôn quan trọng thì hiện nay
Châu Á nổi lên chiếm vị trí quan trọng trong chính sách toàn cầu của Mỹ. Ở đó, Mỹ vừa phải
cạnh tranh, bảo vệ lợi ích vừa phải kiềm toả các cường quốc khác, không để sự nổi lên của các
cường quốc này đe dọa địa vị lãnh đạo cũng như lợi ích của Mỹ. Trong các khu vực ở Châu Á,
Nam Á là nơi có nhiều lợi ích đang hiện hữu của Mỹ như: căn cứ hậu cần lớn cung cấp cho các
đơn vị đồn trú của Mỹ ở Afghanistan; con đường vận chuyển dầu và hàng hóa quan trọng của thế
giới cần phải bảo vệ; thị trường tiềm năng cho hàng hóa quân sự cũng như dân sự của Mỹ… đặc
biệt là kiềm chế sự nổi lên của bất kỳ đối thủ nào thách thức địa vị toàn cầu của Mỹ. Nga, Trung
Quốc là những đối thủ như vậy.
Trong thập niên 90, nước Nga chìm đắm trong những khó khăn do hậu quả của sự sụp đổ mà
Liên Xô để lại. Kinh tế yếu kém, nợ nước ngoài chồng chất; bất ổn chính trị và chiến tranh ở các
vùng đất đòi li khai xảy ra thường xuyên; vị thế nước Nga trên trường quốc tế mờ nhạt, các
cường quốc khác phớt lờ những phản ứng của nước Nga đẩy mạnh các hoạt động ở các khu vực
ảnh hưởng truyền thống của Nga, đe doạ an ninh Nga…Nhưng nước Nga của 8 năm Putin cầm
quyền đã có sự thay đổi mạnh mẽ. Kinh tế khởi sắc nhờ sự kiên trì đúng hướng các mục tiêu kinh
tế; các hoạt động nghiên cứu khoa học, một thế mạnh tạo nên hình ảnh cường quốc Nga, được
thúc đẩy; nền quốc phòng được củng cố và đạt nhiều tiến bộ trong hoạt động nghiên cứu ứng
dụng nâng cao tính chiến đấu của các loại vũ khí…Trên nền tảng của sự hồi sinh, Nga đã chủ
động tham gia vào những vấn đề quốc tế với mục tiêu giành lại vị thế cường quốc.
Nằm gần một số quốc gia trong khối SNG, Nam Á là khu vực địa - chính trị được Nga coi
trọng trong chính sách đối ngoại của mình bởi ở đây Nga có được lợi ích an ninh, kinh tế, quân
sự, tạo đối trọng kiềm chế đối thủ và xây dựng hình ảnh cường quốc. Trong số các quốc gia Nam
Á, chính sách của Nga hướng tới hai quốc gia lớn nhất khu vực này là Ấn Độ và Pakistan.
Pakistan được coi là nơi trú ẩn của lực lượng Hồi giáo cực đoan mà hoạt động của chúng
đang ảnh hưởng đến lực lượng Hồi giáo ở Nga. Vì vậy, quan hệ tốt với chính quyền Islamabad
cho phép Nga có những tác động nhất định nhằm ngăn chặn nguy cơ từ xa đem đến nước Nga.
Đối với Ấn Độ, quốc gia có quan hệ truyền thống với Liên Xô và hiện đang là bạn hàng quân
sự quan trọng của Nga, Nga đang có lợi ích lớn từ quan hệ với quốc gia lớn nhất khu vực này. Ấn
Độ không chỉ là đối tác kinh tế đem lại công ăn việc làm, lợi nhuận cho các tổ hợp sản xuất quân
sự Nga, mà còn là đối tác chính trị thể hiện ở sự song trùng quan điểm trong nhiều vấn đề quốc
tế. Nga thể hiện rõ lập trường ủng hộ tăng cường vị thế của Ấn Độ trong các tổ chức quốc tế mà
Ấn Độ đang tham gia cho tương xứng với những gì Ấn Độ hiện có. Ấn Độ cũng mạnh mẽ ủng hộ
các quan điểm của Nga về các vấn đề quốc tế. Thực tế hầu như không có bất đồng lợi ích chiến
lược giữa hai nước đang là một thuận lợi lớn mà cả Nga và Ấn Độ có thể mở rộng hợp tác, nhưng
lại là thách thức lớn đối với chính sách của Mỹ ở khu vực.
Tích cực xây dựng mối quan hệ ở đây, đặc biệt là với các nước lớn, Nga còn hướng tới mục
tiêu lôi kéo họ đứng về phía mình, hoặc ít ra không nghiêng hẳn về phía các cường quốc là đối
thủ của Nga như Mỹ, Trung Quốc. Muốn đạt mục tiêu đưa Nga trở thành cường quốc, Nga không
thể không tham gia cuộc cạnh tranh này.
Thách thức thứ 2 mà Mỹ phải đương đầu ở khu vực địa - chính trị này là Trung Quốc. Có thể
thấy, Trung Quốc là một đấu thủ có sự cạnh tranh quyết liệt hơn bởi tham vọng của họ ở khu vực
này là quá lớn. Lợi ích quốc gia mà Trung Quốc tìm kiếm ở khu vực này còn đặt trong bối cảnh
họ đang muốn khẳng định mình là một siêu cường trong tương lai.
Sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc cải cách, Trung Quốc gặt hái được nhiều thành công.
Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao và ổn định đã tạo cơ sở thúc đẩy các lĩnh vực khác cùng
tăng trưởng theo. Tham vọng cường quốc thế giới càng trở nên rõ ràng khi Trung Quốc không
ngừng gia tăng lực lượng quốc phòng, đặc biệt là lực lượng hải quân, không quân, tên lửa đủ khả
năng tác chiến ở những khu vực cách xa Trung Quốc. Hoạt động ngoại giao của Trung Quốc
trong những năm gần đây cũng minh chứng cho tham vọng đó khi Trung Quốc dường như luôn
có những quan điểm đối lập về các vấn đề quốc tế với các nước khác, đặc biệt là Mỹ, như vấn đề
hạt nhân Triều Tiên, Iran... Đây cũng là cách Trung Quốc khẳng định mình.
Để trở thành cường quốc, Trung Quốc phải giải quyết nhiều vấn đề trong nước cũng như
quốc tế, đặc biệt là can dự càng nhiều càng tốt vào các vấn đề quốc tế. Trung Quốc phải tăng
cường sự hiện diện của mình dưới nhiều hình thức ở nhiều khu vực khác nhau trên thế giới, đặc
biệt là các khu vực có vị trí địa - chính trị quan trọng, mà trước hết là các khu vực lân cận có khả
năng góp phần đảm bảo an ninh quốc gia.
Nam Á là một khu vực như vậy. Trung Quốc có đường biên giới phía Tây Nam tiếp giáp với
một số nước Nam Á, trong đó có những quốc gia lớn như Ấn Độ, Pakistan. Đây cũng là khu vực
tiềm ẩn nhiều bất ổn mà Trung Quốc không thể không quan tâm, chẳng hạn những tranh chấp
lãnh thổ đã từng dẫn đến cuộc chiến tranh biên giới với Ấn Độ năm 1962. Hiện nay vấn đề tranh
chấp biên giới tạm lắng dịu do hai bên có những thoả thuận về đường biên giới, chủ động gác lại
các vấn đề tranh chấp, thúc đẩy các quan hệ khác. Tuy nhiên không thể đảm bảo rằng trong tương
lai không có sự đụng độ trở lại, thậm chí là chiến tranh nảy sinh từ những tranh chấp này.
Hơn nữa, một số quốc gia Nam Á hiện đang là nơi trú ẩn của những người chống đối Trung
Quốc về vấn đề Tân Cương. Hoạt động của những người đòi ly khai này dù đã bị chính quyền
Trung Quốc trừng trị, nhưng không thể đảm bảo rằng phong trào đã hoàn toàn bị tiêu diệt, bởi họ
luôn nhận được sự ủng hộ từ những người cùng quan điểm đang sống ở các quốc gia bên kia biên
giới.
Ngoài ra, Nam Á nằm trên con đường thương mại, vận chuyển dầu lửa quốc tế quan trọng
bậc nhất. Vì vậy, để đảm bảo mọi bất ổn trên thế giới không làm gián đoạn quá trình phát triển
của Trung Quốc, họ cần phải tăng cường sự hiện diện ở khu vực này. Bên cạnh đó là cạnh tranh
địa - chính trị với các cường quốc khác có cùng tham vọng.
Từ những lý do trên, chính sách ngoại giao Trung Quốc là coi trọng Nam Á. Tuy nhiên mỗi
quốc gia khác nhau, Trung Quốc có cách thức tiếp cận khác nhau. Đối với các nước nhỏ Trung
Quốc thực hiện lôi kéo họ đứng về phía mình thông qua hợp tác kinh tế, viện trợ kinh tế. Kết quả
là Trung Quốc thiết lập được những căn cứ quan trọng ở các nước Pakistan, Bangladesh, Sri
Lanka… tạo nên một “Chuỗi ngọc trai” bao quanh Ấn Độ, ngự trị trên con đường hàng hải sôi
động bậc nhất thế giới.
Đối với các nước lớn trong khu vực, Trung Quốc chủ trương vừa hợp tác vừa cạnh tranh. Với
Pakistan Trung Quốc nhận ra nhu cầu của Pakistan là cần đồng minh, đặc biệt là cần những hợp
đồng mua bán vũ khí để tăng cường lực lượng quốc phòng nhằm chống lại Ấn Độ. Đáp ứng nhu
cầu của Pakistan, Trung Quốc vừa có được những hợp đồng giá trị cho ngành công nghiệp quốc
phòng của họ, đồng thời thông qua tăng cường khả năng quân sự cho Pakistan sẽ góp phần kiềm
chế Ấn Độ, một quốc gia Trung Quốc xem là đối thủ hơn là đối tác.
Nhìn chung, tầm quan trọng của vị trí địa - chính trị Nam Á đối với Mỹ là không thể phủ
nhận, đặc biệt trong tình hình chính trị thế giới hiện nay. Nhưng không còn cái thời Mỹ một mình
một “sân khấu”. Ở đâu Mỹ cũng đối diện với những cạnh tranh mạnh mẽ từ các cường quốc, bất
kể là đồng minh hay kẻ thù, đối tác hay đối thủ. Coi trọng vị trí địa - chính trị Nam Á và tăng
cường quan hệ với các nước trong khu vực này là một nhiệm vụ quan trọng nhưng Mỹ cũng phải
nhận ra rằng, Nam Á cũng đang là khu vực địa - chính trị mà các cường quốc khác hướng tới,
như Nga, Trung Quốc và cả cường quốc đang lên Ấn Độ. Tuy nhiên mỗi đối thủ của Mỹ ở đây có
tính toán lợi ích khác nhau, tham vọng khác nhau, cho nên trong số những đối thủ đó vẫn có
những quốc gia Mỹ có thể có chính sách chuyển biến từ đối thủ thành đối tác.
Chương 2: YẾU TỐ ĐỊA - CHÍNH TRỊ KHU VỰC NAM Á TRONG CHÍNH SÁCH
CỦA MỸ TỪ 1989 - 2001
0TSau sự kiện “bức tường Berlin” sụp đổ không lâu, 12/1989, hai nhà lãnh đạo đứng đầu Liên
2.1.Bối cảnh lịch sử
Xô và Mỹ gặp nhau ở Maltan và đưa ra tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh với thế giới. Lịch sử
loài người bước sang một chương mới.
Sau Chiến tranh lạnh, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất trên thế giới. Sức mạnh kinh tế,
chính trị, quân sự chiếm vị trí hàng đầu thế giới. 0TTrong thập niên đầu sau Chiến tranh lạnh, kinh
tế nước Mỹ luôn có mức tăng trưởng cao. Khoảng cách giữa Mỹ và các trung tâm tài chính thế
giới khác như Nhật Bản và EU được nới rộng (hiện nay xuất hiện thêm Trung Quốc nhưng quốc
gia này phải mất nhiều năm nữa mới có thể đuổi kịp Mỹ, dù Trung Quốc đã vươn lên thành nền
kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới). Tốc độ tăng trưởng hàng năm của Mỹ cũng vượt xa các quốc gia
và tổ chức khu vực này. Từ 1990 đến 1998, kinh tế Mỹ tăng tới 27% trong khi đó EU chỉ tăng
15% và Nhật Bản là 9%. Nền kinh tế của Mỹ tiếp tục được thúc đẩy bởi những cơ sở khoa học và
công nghệ tiên tiến. Mỹ vẫn là nơi tập trung nhiều nhà khoa học hàng đầu thế giới và là nơi cho
0TCùng với sức mạnh kinh tế, sức mạnh quân sự của Mỹ cũng chiếm vị trí hàng đầu. Nền công
ra đời nhiều nhất các phát minh quan trọng của nhân loại.
nghiệp quân sự Mỹ vừa thu lợi nhuận thông qua các hợp đồng buôn bán vũ khí, vừa đảm bảo
phát triển những công nghệ quân sự hiện đại, tính năng chiến đấu cao nhằm bảo vệ ngôi vị bá chủ
của Mỹ. Nhờ vậy, hiện nay, Mỹ vẫn là cường quốc duy nhất có khả năng triển khai quân đội trên
0TNhờ những sức mạnh nổi bật trên, sau Chiến tranh lạnh, Mỹ chủ trương thúc đẩy thế giới
phạm vi toàn thế giới.
phát triển theo trật tự đơn cực đặt dưới sự lãnh đạo của Mỹ. Tuy nhiên tham vọng của Mỹ không
được các nước khác chấp thuận, đặc biệt là các cường quốc mới nổi, dẫn đến một hình thái chính
trị ngoại giao thế giới mới giằng co giữa hai xu hướng là đơn cực và đa cực. Dựa vào sức mạnh
quân sự, kinh tế, khoa học kỹ thuật, Mỹ thực thi chính sách đối ngoại đảm bảo Mỹ trở thành siêu
cường duy nhất của trật tự thế giới mới. Mỹ cho rằng phải ngăn chặn sự xuất hiện của bất kỳ
cường quốc nào thách thức vai trò bá chủ của Mỹ có được sau khi trật tự Ianta sụp đổ. Tuy nhiên
trong thế giới bao la này, Mỹ phải khống chế ai, khu vực nào để đạt các mục tiêu đó. Các nhà địa
– chính trị đã cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách Mỹ những gợi ý giá trị giải quyết khó
khăn đó. Những học thuyết địa – chính trị từ cổ điển đến hiện đại đều cho rằng lục địa Á – Âu là
quan trọng. Lục địa này không chỉ có các đối thủ tiềm năng cần phải ngăn chặn, mà còn là nơi có
nhiều lợi ích của Mỹ cần phải bảo vệ. Mỹ muốn duy trì trật tự thế giới mới có lợi cho mình
0TTrái ngược với tham vọng của Mỹ, các cường quốc mới nổi muốn vươn lên đóng vai trò quan
không thể không kiểm soát khu vực này.
trọng trong trật tự thế giới mới. Họ cổ vũ, thúc đẩy trật tự thế giới mới vận động theo hướng đa
cực mà ở đó mỗi quốc gia này là một cực. Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản…là những quốc
gia như vậy. Cùng chung quan điểm này, một số quốc gia đã đi đến tăng cường quan hệ với nhau,
0TNhư đã phân tích ở trên, Trung Quốc lớn mạnh cả về kinh tế, chính trị, quốc phòng trên
bày tỏ quan điểm trái ngược với Mỹ trong các vấn đề quốc tế, đi đầu là Trung Quốc và Nga.
trường quốc tế. Lợi ích quốc gia của họ đang ngày càng trải rộng khắp thế giới nên không tránh
khỏi sự va chạm với Mỹ, siêu cường tồn tại trong nhiều năm. Nước Nga hậu Xô viết tuy chưa
thoát khỏi khủng hoảng, trì trệ nhưng lợi ích có ở nhiều nơi trên thế giới. Nếu thế giới là đơn cực
các quốc gia này phải đặt mình dưới sự lãnh đạo của Mỹ, như vậy lợi ích của họ trên phạm vi thế
giới sẽ bị đe dọa, thu hẹp. Để chống lại xu hướng này, Trung Quốc, Nga luôn theo đuổi quan
điểm xây dựng một thế giới đa cực. Quan điểm này thể hiện rõ trong lập trường của họ trước các
vấn đề quốc tế nóng bỏng mà ở đó có sự can dự của các nước lớn như chiến tranh Kosovo, Iraq...
Trong những sự kiện này Trung Quốc và Nga thường không ủng hộ hoặc trái ngược với quan
0TBất đồng quan điểm, xung đột lợi ích là điều dễ nhận thấy trong quan hệ của các cường quốc
điểm của Mỹ.
sau Chiến tranh lạnh, nhưng những bất đồng này dẫn đến một cuộc chiến tranh thế giới trong
0TSau thời gian dài chạy đua tốn kém trong cuộc Chiến tranh lạnh, các cường quốc không
tương lai là khó xảy ra.
muốn tái diễn một cuộc chiến tranh mới. Hòa bình, hợp tác, tập trung phát triển kinh tế là xu
hướng chủ đạo của thế giới hậu Chiến tranh lạnh. Tuy nhiên không vì vậy mà thế giới trở nên an
toàn hơn. Nhiều vấn đề quốc tế mới xuất hiện như: khủng bố quốc tế, tội phạm quốc tế, những
căn bệnh thế kỷ, sự hủy hoại dẫn đến thảm họa môi trường trong tương lai, thiếu hụt tài nguyên
thiên nhiên…. Nhiều cuộc chiến tranh cục bộ vẫn tiếp diễn mà ở đó luôn có những toan tính
0TNhiều điểm nóng trên thế giới mà ở đó có sự can dự của các cường quốc như vấn đề hạt nhân
chính trị, kinh tế của các nước lớn như: Chiến tranh Vùng vịnh, Kosovo, Afghanistan...
Triều Tiên, Iran. Ở vấn đề hạt nhân Triều Tiên và Iran, thế giới đang chứng kiến sự chia ra thành
hai lực lượng có quan điểm trái ngược nhau, khối các nước ủng hộ quan điểm Mỹ và khối các
nước ủng hộ quan điểm của Nga, Trung Quốc. Can thiệp bằng chiến tranh nhằm giải quyết những
vấn đề này như đã từng xảy ra ở các nơi khác trên thế giới là khó, nhưng những căng thẳng xung
quanh chúng luôn làm biến đổi mối quan hệ giữa các cường quốc và nguy cơ bất ổn thế giới gia
0TCạnh tranh lợi ích dẫn đến các cường quốc có những bất đồng là không tránh khỏi, nhưng
tăng.
những bất đồng dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới mới khó có khả năng xảy ra, bởi dù là cường
quốc mới nổi hay siêu cường đều có lợi ích lâu dài và cơ bản trong việc duy trì hòa bình để phát
triển kinh tế. Hai cuộc chiến tranh thế giới đã cho thấy sự tàn phá ghê gớm, các bên cả thắng và
bại trận phải mất nhiều năm để hồi phục. Với trình độ chiến tranh ngày nay, mức độ tàn phá sẽ
vượt xa nhiều lần lợi ích đạt được sau cuộc chiến. Sự áp dụng các thành tựu khoa học và công
nghệ ở tất cả các cường quốc vào lực lượng quân sự quốc phòng, dẫn đến chiến tranh thế giới
mới sẽ khó có kẻ thắng người bại, vũ khí hạt nhân sẽ hủy diệt tất cả khi chiến tranh xảy ra hoặc
sau đó. Hơn nữa, trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế thế giới khiến các quốc gia, đặc biệt là các
cường quốc, phụ thuộc lẫn nhau. Sự bất ổn của bất kỳ cường quốc nào cũng sẽ tác động đến các
cường quốc còn lại (những cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trong những năm gần đây đã minh
chứng cho điều này). Vì vậy, không cường quốc nào muốn đẩy những bất đồng đến đối đầu trực
0T Cạnh tranh và hợp tác vì vậy sẽ là xu hướng chủ đạo của thế giới hậu Chiến tranh lạnh. Thời
tiếp về quân sự.
kỳ các cường quốc luôn trong tình thế đối kháng với nhau đã qua đi, dù rằng những bất đồng vẫn
còn đó. Quan hệ quốc tế sau Chiến tranh lạnh chuyển từ đối kháng sang quan hệ đối tác. Quan hệ
này ngày càng được thúc đẩy và củng cố bởi xu thế toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập khu vực và
quốc tế. Thực tế trên sẽ kìm hãm tham vọng của bất kỳ cường quốc nào bất chấp lợi ích của quốc
gia khác. Chiều hướng xấu đi trong quan hệ quốc tế sẽ không có lợi cho các quốc gia, dù đó là
0TBối cảnh quốc tế trong thời đại mới buộc Mỹ phải có những điều chỉnh chính sách cho phù
cường quốc khu vực hay siêu cường quốc tế.
hợp, trong đó có việc xác định lại những khu vực địa – chính trị được ưu tiên trên phạm vi toàn
thế giới. Nếu trong Chiến tranh lạnh, khu vực địa – chính trị được Mỹ ưu tiên là châu Âu thì hiện
nay châu Á được Mỹ coi trọng. Các quốc gia, khu vực có vị trí địa – chính trị phục vụ cho mục
tiêu ngăn chặn bất kể đối thủ nào trong tương lai thách thức vị trí siêu cường của Mỹ luôn được
ưu tiên. Bên cạnh đó là các khu vực địa – chính trị có vai trò đảm bảo lợi ích chiến lược của Mỹ.
Trên cơ sở đó, chính sách của Mỹ với các quốc gia, khu vực địa – chính trị này cũng có những
điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới.
2.2.Chuyển biến của yếu tố địa – chính trị trong chính sách của Mỹ đối với Nam Á
2.2.1.Đối với Ấn Độ
Ấn Độ là quốc gia lớn và có vai trò chính trị quan trọng nhất trong số các quốc gia ở Nam Á.
Nằm trong khu vực “vùng rìa” hay “khu vực vành đai”, dưới cách nhìn của nhà địa – chính trị
Nicholas John Spykman, Ấn Độ chiếm phần lớn diện tích tiểu lục địa này, đồng thời có biên giới
tự nhiên với tất cả các nước Nam Á còn lại. Với lịch sử phát triển và vị trí địa lý của mình, Ấn
Độ có vị trí ảnh hưởng lớn với các nước Nam Á khác, đồng thời an ninh chính trị của Ấn Độ gắn
liền với an ninh chính trị của các quốc gia Nam Á còn lại. Vì vậy, một Nam Á phát triển hòa bình
không thể không phụ thuộc vào chính sách của Ấn Độ.
Trên phạm vi toàn cầu, Ấn Độ án ngữ con đường biển quan trọng bậc nhất thế giới. Tàu bè
thương mại và quân sự phải đi qua đây để đến các khu vực quan trọng khác trên thế giới. Trong
những năm gần đây, Ấn Độ đẩy mạnh phát triển lực lượng hải quân, vừa để bảo vệ mình vừa để
bảo vệ lợi ích có được từ con đường biển ngang qua đây. Bên cạnh đó, Ấn Độ có biên giới với
Trung Quốc và nằm gần khu vực “chiến sự nóng bỏng” của thế giới cũng là một yếu tố quan
trọng đối với các nhà hoạch định chiến lược quốc gia của các cường quốc trên thế giới.
Ngoài ra, các cường quốc không thể không tính đến khả năng trỗi dậy mạnh mẽ của Ấn Độ
trong những năm gần đây, đặc biệt là sự gần gũi về địa lý và những điểm chung bên cạnh những
bất đồng giữa các cường quốc mới nổi khác như Nga và Trung Quốc, Ấn Độ có thể liên minh với
họ để trở thành một thế lực đối trọng với Mỹ và các phương Tây.
Với những lợi ích nổi bật xuất phát từ vị trí địa lý của Ấn Độ như trên, Mỹ ngày càng coi
trọng xây dựng quan hệ với Ấn Độ. Ngày 26/1/2009, ngày độc lập của Ấn Độ, Tổng thống
Obama đưa ra một lời phát biểu khẳng định rằng “tình bạn sâu sắc và gia tăng nhanh chóng của
chúng ta với Ấn Độ mang những lợi ích tới tất cả cư dân trên thế giới” và nhân dân Ấn Độ “nên
biết rằng họ không có người bạn nào tốt hơn và đối tác nào tốt hơn nhân dân Mỹ” [77, tr 2].
Trong buổi điều trần để trở thành Ngoại trưởng Mỹ, Hillary Clinton nói với các Thượng nghị
sỹ rằng bà sẽ làm việc để thi hành lời cam kết của Tổng thống Obama “thiết lập một đối tác chiến
lược chân chính với Ấn Độ, gia tăng hợp tác quân sự, thương mại, và ủng hộ dân chủ trên toàn
thế giới”. Chủ tịch Uỷ ban quan hệ đối ngoại Thượng viện, Sen. John Kerry, cũng cho rằng Mỹ
phải “tiến hành để đưa ra thoả thuận tiềm năng địa chính trị để thúc đẩy hợp tác hạt nhân dân sự
của chúng ta trong đối tác chiến lược Ấn Độ - Mỹ của thế kỷ 21” và rằng “Ấn Độ sẽ là gia tăng
chủ chốt để giải quyết những thách thức quốc tế” trong tương lai [77, tr 2].
Các tuyên bố của những người đứng đầu nước Mỹ cho thấy Ấn Độ ngày càng quan trọng
trên bàn cờ chính trị quốc tế kể từ sau Chiến tranh lạnh. Mới đây trong cuộc viếng thăm chính
thức của Tổng thống Obama tới Ấn Độ (2011), ông đã tuyên bố ủng hộ quốc gia này có một ghế
trong thường trực Hội đồng Bảo an mở rộng và coi Ấn Độ là một “đối tác toàn cầu”, điều mà
nhiều thập niên trước đây Ấn Độ muốn Mỹ ủng hộ nhưng không được họ chấp thuận. Đây là kết
quả nối tiếp của sự chuyển hướng quan hệ với Ấn Độ, xuất phát từ vai trò địa – chính trị Ấn Độ
sau Chiến tranh lạnh.
Thực tế lịch sử cho thấy, không phải vai trò địa – chính trị của Ấn Độ chỉ quan trọng với Mỹ
sau Chiến tranh lạnh. Thực hiện chính sách ngăn chặn cộng sản, Ấn Độ từng được Mỹ quan tâm
lôi kéo nhưng quốc gia này đã không đi theo quỹ đạo của Mỹ, cũng không hoàn toàn đi theo Liên
Xô. Ấn Độ chọn con đường khác, trở thành nhà lãnh đạo của thế giới thứ ba thông qua tổ chức
Không liên kết. Lựa chọn này khiến Ấn Độ thân thiện với Liên Xô hơn, vì cùng mục tiêu chống
bá quyền, chống thực dân đế quốc.
Không thuyết phục được, Mỹ quay sang chống lại quốc gia có vị trí địa – chính trị quan trọng
này. Chuyển biến trong chính sách của Mỹ đối với Ấn Độ thể hiện trong quan hệ giữa hai nước
ngay sau đó.
Quan hệ Mỹ - Ấn xuống mức thấp nhất trong thời kỳ cầm quyền của Tổng thống Nixon, khi
chính quyền Mỹ bất ngờ chấm dứt khoản viện trợ kinh tế 82 triệu USD, tham dự diễn tập hải
quân với Pakistan ở Ấn Độ Dương năm 1974. Ấn Độ đáp lại bằng việc đóng cửa văn phòng
Chương trình phát triển quốc tế của Mỹ, giới hạn cấp phép cho các nhà nghiên cứu và sinh viên
Mỹ tới Ấn Độ, chỉ trích đối với chính sách của Mỹ về Việt Nam và Campuchia.
Cuối thập niên 70, khi Jimmy Carter trở thành tổng thống của nước Mỹ, quan hệ Mỹ - Ấn có
những chuyển biến tích cực và được tiếp nối bởi Tổng thống Ronald Reagan. Chính quyền
Reagan đánh giá lại chính sách của họ về Ấn Độ và quyết định mở rộng các lĩnh vực hợp tác như
kinh tế, lĩnh vực khoa học, như một phương pháp chống lại ảnh hưởng của Liên Xô trong khu
vực. Washington cũng đánh giá địa vị của New Delhi như là quốc gia quyền lực mạnh trong một
triển vọng tươi sáng ở vùng Nam Á [72].
Không tranh thủ được sự ủng hộ của Ấn Độ, Mỹ luôn lo ngại quốc gia này ngả hẳn về Liên
Xô. Trong trường hợp đó, “con đê” ngăn chặn cộng sản ở Nam Á sẽ bị đe dọa. Để kiểm soát tình
hình, Mỹ đáp ứng các nhu cầu của Ấn Độ trong giới hạn cho phép. Năm 1985, thỏa thuận song
phương về trao đổi công nghệ và khoa học được ký kết đã thúc đầy sự hợp tác giữa Ấn Độ và Mỹ
trong nhiều lĩnh vực khoa học. Chuyển giao công nghệ phi quân sự cũng được tiến hành nhanh
chóng. Năm 1987, Mỹ đồng ý bán cho Ấn Độ một siêu máy tính Cray phục vụ nghiên cứu nông
nghiệp và dự báo thời tiết. Năm 1988, Ấn Độ cải thiện môi trường kinh tế, kết quả là hai bên đã
ký kết thỏa thuận cho một nhà máy Pepsi – Cola và ký kết thỏa thuận thuế song phương. Năm
1989, Mỹ đầu tư vào Ấn Độ lên tới 1 tỷ USD. Hợp tác quân sự cũng được thúc đẩy. Năm 1988,
Washington và New Delhi hoàn thành một hiệp định cung cấp công nghệ Mỹ cho chương trình
máy bay chiến đấu của Ấn Độ và cũng đồng ý chuyển giao công nghệ cho máy bay chiến đấu F-
5.
Mặc dù vậy mối quan hệ này đã bị hạn chế bởi hành động tăng viện trợ cho đồng minh Pakistan lên tới 3,2 tỷ USD trong 5 năm sau khi Liên Xô đưa quân vào Afghanistan. Cũng thời gian này Mỹ tăng quân số và khả năng chiến đấu ở Ấn Độ Dương, đặc biệt là căn cứ Diego
Garcia. Ấn Độ nhìn thấy một sự đe doạ an ninh đến từ Mỹ.
Xác định Nam Á là một vị trí địa – chính trị quan trọng trong chính sách đối ngoại từ sau
Chiến tranh lạnh, Mỹ đã có những chuyển hướng chính sách cho phù hợp với bối cảnh quốc tế.
Nếu trước kia Nam Á được Mỹ xem là một trong những vị trí tiền đồn chống lại Liên Xô thì khi
Chiến tranh lạnh kết thúc, Liên Xô sụp đổ, nhiệm vụ đó của Nam Á cũng không còn được tiếp
tục. Thực tế này khiến Mỹ phải xem xét lại hướng ưu tiên ngoại giao đối với các nước Nam Á.
Năm 1991, Ấn Độ tiến hành công cuộc cải cách, kêu gọi đầu tư và thay đổi chính sách nhằm
thu hút đầu tư nước ngoài. Để phục vụ công cuộc cải cách, Ấn Độ cần thiết lập quan hệ với các
nước như Mỹ nhằm tiếp nhận công nghệ, vốn, kinh nghiệm quản lý, đặc biệt là thị trường tiêu thụ
những sản phẩm hàng hóa công nghệ phần mềm… Không chỉ vậy, thông qua Mỹ, Ấn Độ có thể
tiếp cận những tổ chức tài chính quan trọng của thế giới mà tiếng nói của Mỹ đang đóng vai trò
lớn như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Lý do khác khiến Ấn Độ thay đổi
chính sách hướng tới cải thiện quan hệ Mỹ phục vụ mục tiêu phát triển đất nước là Liên Xô, một
đối tác thương mại chính của Ấn Độ và nguồn trợ giúp kinh tế, quân sự đáng tin cậy nhất trong
hầu hết thời kỳ Chiến tranh lạnh, không còn tồn tại. Ấn Độ mất bạn hàng, đối tác truyền thống.
Ngoài ra, xây dựng mối quan hệ tốt với Mỹ cũng cho phép Ấn Độ có những bước đi mạnh mẽ
trong quan hệ với các nước Phương Tây khác.
Bên cạnh đó là các lý do không kém phần quan trọng như những tranh chấp ở Jammu và
Kashmir dễ dẫn đến chiến tranh với Pakistan - điều mà Ấn Độ không mong muốn khi đang dồn
toàn lực vào công cuộc cải cách. Ấn Độ muốn thông qua sự ảnh hưởng của Mỹ với Pakistan để
kiềm chế những hành động của quốc gia này trên những vùng lãnh thổ tranh chấp.
Cải thiện quan hệ với Mỹ cũng nhằm mục tiêu đối phó với nguy cơ đến từ Trung Quốc.
Trong những thập kỷ gần đây, Trung Quốc nổi lên mạnh mẽ và gia tăng ảnh hưởng ở khu vực
Nam Á. Đáng chú ý là sự hiện diện chính trị và quân sự của Trung Quốc ở các quốc gia có vị trí
chiến lược quan trọng như Pakistan, Bangladesh, Sri Lanka và cả quốc gia kế cận khu vực này là
Myanma.
Không chỉ Ấn Độ nhìn thấy lợi ích từ quan hệ với Mỹ mà Mỹ cũng nhìn thấy những lợi ích
từ quan hệ với Ấn Độ, một quốc gia có vị trí địa – chính trị quan trọng trong khu vực (như đã
trình bày ở trên). Bên cạnh đó, cải thiện quan hệ Mỹ - Ấn sau Chiến tranh lạnh còn được thúc đẩy
bởi một lực lượng Ấn kiều lớn, có địa vị kinh tế và ảnh hưởng chính trị nhất định ở Mỹ.
Ngay sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, Mỹ đã chuyển hướng chính sách với Ấn Độ. Có 5 lý
do khiến Mỹ chuyển hướng là: Thứ nhất Chiến tranh lạnh kết thúc, Liên Xô không còn tồn tại,
Mỹ không cần thiết có thái độ nghi ngờ đối với Ấn Độ. Thứ hai sau khi quân đội Liên Xô rút
khỏi Afghanistan, giá trị chiến lược của Pakistan đối với Mỹ suy giảm. Trong khi đó Ấn Độ trội
hơn hẳn ở Nam Á, quốc gia này trở nên quan trọng hơn đối với Mỹ cho việc duy trì hoà bình và
ổn định trong khu vực. Thứ ba, cuộc cải cách của Thủ tướng N.Rao đã làm thay đổi kinh tế Ấn
Độ từ một hệ thống kế hoạch trung ương tới một nền kinh tế thị trường. Mỹ xem Ấn Độ là một
thị trường tiềm năng lớn cho tư bản, công nghệ và hàng hoá Mỹ. Thứ tư, Ấn Độ là một nền dân
chủ lớn trên thế giới cùng giá trị với Mỹ. Về mặt này, Mỹ có nhiều giá trị chia sẻ với Ấn Độ hơn
là với Pakistan. Thứ năm, Ấn Độ được xem như một đối trọng với Trung Quốc. Tuy nhiên chính
sách xem trọng Ấn Độ thực tế có nhiều thách thức.
Như vậy trong bối cảnh mới, địa – chính trị, địa – kinh tế Ấn Độ trong chiến lược toàn cầu
của Mỹ được coi trọng. Thay đổi chính sách theo hướng cải thiện quan hệ với quốc gia Ấn Độ là
một ưu tiên trong khu vực vào thời điểm kết thúc Chiến tranh lạnh.
Trong chính sách của Mỹ đối với Ấn Độ, nhân tố Pakistan luôn là trở ngại lớn. Vì mục tiêu
toàn cầu của mình, Mỹ đã từng ủng hộ lập trường của Pakistan trong các cuộc tranh chấp lãnh
thổ với Ấn Độ. Tuy nhiên, sau Chiến tranh lạnh, lợi ích từ việc ủng hộ Pakistan không phục vụ
lợi ích toàn cầu cũng như khu vực so với Ấn Độ, Mỹ đã nghiêng về ủng hộ Ấn Độ, đặc biệt là
vấn đề tranh chấp lãnh thổ Kashmir. Trước kia, Mỹ cùng quan điểm giải quyết tranh chấp này với
Pakistan khi cho rằng vấn đề phải được tiến hành thông qua cuộc trưng cầu dân ý ở bang
Kashmir với sự tiến hành của Liên Hợp Quốc, nhưng từ thập niên 90 của thế kỷ trước, quan điểm
của Mỹ về vấn đề này đã thay đổi khi cho rằng giải quyết vấn đề Kashmir bằng quan hệ song
phương trên tinh thần hiệp định Shimla ký kết giữa Ấn Độ và Pakistan năm 1972, tức phù hợp
với quan điểm từ trước đến nay của Ấn Độ. Không chỉ vậy, Mỹ thúc ép Pakistan ngưng cung cấp
viện trợ cho các tổ chức Hồi giáo cực đoan ở Kashmir và những người Sikh cực đoan ở vùng
Punjab trong các vụ bạo loạn và li khai ở Ấn Độ [34, tr 192].
Cuộc cải cách kinh tế mạnh mẽ của Ấn Độ vào năm 1991 như một luồng sinh khí mới thúc
đẩy Mỹ phải cải thiện hơn nữa quan hệ với Ấn Độ nếu không muốn đứng ngoài một thị trường
đầy tiềm năng như Ấn Độ. Chính sách mở cửa kinh tế, chấp nhận và tạo điều kiện cho khu vực
kinh tế tư nhân phát triển, chấp nhận các công ty 100% vốn nước ngoài được đăng ký hoạt động
ở Ấn Độ đã được Mỹ và các nước tư bản Phương Tây hoan nghênh. “Đích thân Tổng thống Mỹ
George H. W. Bush đã gửi lời chúc mừng đến chính phủ của Thủ tướng N. Rao về quyết định tự
do hoá nền kinh tế Ấn Độ” [34, tr193]. Sự thay đổi quan trọng trong cải cách được Mỹ đánh giá
Ấn Độ là 1 trong 10 thị trường lớn mới nổi của thế giới. Đây là lý do khác khiến Mỹ phải cải
thiện mối quan hệ với Ấn Độ từ sau Chiến tranh lạnh.
Sự chuyển hướng chính sách của Mỹ đối với Ấn Độ đã nhận được sự hoan nghênh từ Ấn Độ.
Ấn Độ đã có những động thái cho thấy sự hài lòng của mình đối với sự thay đổi này khi đồng ý
cho máy bay Mỹ từ căn cứ quân sự ở Philippines, trên đường đến tham chiến trong cuộc chiến
tranh vùng Vịnh, hạ cánh tiếp dầu tại Bombay.
Đầu thập niên 90, nhiều quan chức quân sự cấp cao Mỹ đã thực hiện các chuyến công du đến
Ấn Độ để tiến hành thảo luận hợp tác quốc phòng với quốc gia này. Đáng chú ý là chuyến thăm
của Tư lệnh lực lượng Thái Bình Dương, Tướng Kicklighter vào tháng 4/1991. Trong chuyến
thăm này Tướng Kicklighter đã đề nghị các hình thức hợp tác quốc phòng giữa Ấn Độ và Mỹ
như trao đổi các cuộc viếng thăm hàng năm của Tổng Tham mưu trưởng quân đội hai nước, tổ
chức hội thảo về các vấn đề chiến lược, tổ chức tập trận chung [34, tr 196]. Những đề nghị của
Mỹ đã được Ấn Độ đón nhận tích cực. Sau các chuyến thăm của các quan chức Mỹ, Bộ trưởng
Quốc phòng Ấn Độ tuyên bố “Ấn Độ và Mỹ có kế hoạch bước vào một kỷ nguyên mới về hợp
tác quốc phòng” [34, tr 196]. Năm 1992, lần đầu tiên Ấn Độ tuyên bố tập trận chung với Mỹ, một
hành động cho thấy tín hiệu bắt đầu thời kỳ mới với những hợp tác chặt chẽ giữa hai bên. Không
chỉ vậy, trong chuyến thăm Mỹ của Thứ trưởng Ngoại giao Ấn Độ, J.N. Dixit, vào tháng 4/1992
ông đã đề nghị thảo luận vấn đề nhạy cảm thường gây ra những bất ổn trong quan hệ hai nước,
vấn đề phổ biến hạt nhân.
Xuất phát từ lợi ích địa – chính trị, Mỹ có chính sách chủ động cải thiện với Ấn Độ, xuất
phát từ nhu cầu cải cách, Ấn Độ cũng hành động tương tự. Hai bên nhìn thấy lợi ích từ sự hợp tác
và chủ động đẩy nhanh quá trình hợp tác. Tuy nhiên những lợi ích chiến lược không song trùng
giữa hai bên vẫn là rào cản lớn trong mối quan hệ này, đặc biệt người Ấn tỏ ra nghi ngờ thiện
tình của người Mỹ trong quan hệ đang được cải thiện với họ.
Coi trọng vai trò địa – chính trị Ấn Độ trong bối cảnh mới nhưng không vì vậy Mỹ hoàn toàn
không có những hành động chống lại quốc gia này. Có thể thấy với Mỹ, đây là sự chuyển hướng
khó khăn vì Mỹ vừa phải cải thiện quan hệ với Ấn Độ vừa phải tiếp tục theo đuổi các mục tiêu
khác như không để sự chuyển hướng đó đi đến chỗ đẩy Pakistan rời xa Mỹ. Hơn nữa, Mỹ vẫn
theo đuổi mục tiêu chiến lược buộc Ấn Độ ký vào Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân,
ngoài ra Mỹ nhiều lần sử dụng vấn đề nhân quyền để mặc cả với Ấn Độ trong nhiều trường
hợp…Có thể nhận thấy trong các sự kiện sau.
Tháng 3/1993, nổ ra các vụ đánh bom khủng bố ở Bombay làm chết 251 người và làm bị
thương 1.400 người khác. Ấn Độ cho rằng những hoạt động khủng bố được xúi giục bởi Pakistan
và các hoạt động tăng cường của phiến quân Kashmir được Pakistan ủng hộ. Trong bối cảnh Ấn
Độ và Mỹ đã có những cải thiện quan hệ, các chính trị gia Ấn Độ và giới truyền thông tin tưởng
rằng Mỹ có thể tuyên bố Pakistan là nước đỡ đầu khủng bố. Tuy nhiên tuyên bố của Washington
5 tháng sau đó không cho rằng Pakistan là một nước tài trợ khủng bố. Quyết định này làm nổi lên
làn sóng bất bình ở Ấn Độ và các nhà phân tích chính trị Ấn Độ buộc tội Mỹ có “tiêu chuẩn kép”
liên quan đến các quốc gia cụ thể tài trợ cho khủng bố [90].
Bên cạnh đó, vấn đề nhân quyền luôn được Mỹ sử dụng như một sức ép chính trị đối với Ấn
Độ. Các báo cáo nhân quyền của Mỹ đối với Ấn Độ thường chỉ ra những vi phạm nhân quyền từ
sự phân biệt đẳng cấp, sự hạn chế quyền phụ nữ trong xã hội Ấn Độ, nhân quyền ở
Kashmir...Trong khi đó Ấn Độ luôn lên tiếng phản đối các nội dung đánh giá nhân quyền của
Mỹ, xem đó như một minh chứng cho sự không thật lòng trong quan hệ của Mỹ với quốc gia này.
Năm đầu tiên trong nhiệm kỳ đầu của Tổng thống Bill Clinton, quan hệ hai nước không có
nhiều tiến bộ, do Mỹ đề cao vấn đề nhân quyền trong quan hệ với Ấn Độ, chẳng hạn Mỹ yêu cầu
phải có các đại diện của dân chúng Kashmir trong các cuộc đàm phán giữa Ấn Độ và Pakistan về
số phận vùng lãnh thổ này, điều mà Ấn Độ luôn phản đối. Mỹ cũng thúc ép Ấn Độ ký vào Hiệp
ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT).
Những bất đồng chính trị lúc này đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các quan hệ khác, gây tổn hại
niềm tin cho cả hai bên trong nỗ lực xây dựng quan hệ mang tính chiến lược giữa Ấn Độ và Mỹ.
Tuy nhiên những năm sau đó, đặc biệt là từ sau chuyến thăm của Thủ tướng N.Rao tháng
5/1994, không khí chính trị đôi bên có bước cải thiện. Chính quyền của Tổng thống Bill Clinton
đã có sự thay đổi tích cực trong quan hệ với Ấn Độ như bổ nhiệm lại đại sứ tại New Delhi, hay
như các quan chức cấp cao Mỹ đã thực hiện các chuyến thăm Ấn Độ nhiều hơn. Chẳng hạn
chuyến thăm của Thứ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tài chính,
Bộ trưởng Bộ Thương mại. Đặc biệt trong chuyến thăm của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ, hai
bên đã đi đến ký kết một Hiệp ước hợp tác phòng thủ. Hiệp ước đã “xua tan mối ngờ vực trong
suốt 40 năm giữa hai nước trong thời kỳ Chiến tranh lạnh” [34, tr202]. Sự cải thiện trong quan hệ
quốc phòng mở đường cho hai bên tiến hành các cuộc tập trận chung, tiêu biểu là cuộc tập trận
hải quân trên vùng biển Ấn Độ Dương vào tháng 12/1997.
Một loạt những động thái trên của chính quyền Cliton cho thấy chính quyền của ông đã có sự
tiếp nối chính sách coi trọng Ấn Độ trong thập niên này.
Địa – chính trị được củng cố thêm bởi những quan hệ kinh tế, đồng thời thông qua kinh tế,
Mỹ hy vọng ràng buộc Ấn Độ vào với mình. Chuyến viếng thăm Ấn Độ của phái đoàn thương
mại, dẫn đầu bởi Bộ trưởng Thương mại Ronald H. Brown, vào tháng 1/1995 đã tạo điều kiện
cho các công ty Ấn Độ và Mỹ ký kết được nhiều thỏa thuận. Tổng số 7 tỷ USD cho các hợp đồng
và đầu tư trong lĩnh vực truyền thông, chăm sóc y tế, bảo hiểm xã hội, tài chính và lĩnh vực tự
động...đã được ký kết. Một số thỏa thuận xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết cho các công ty nước
ngoài tiến hành kinh doanh ở Ấn Độ cũng đã được ký kết [90]. Tháng 3/1995, Hilary Rodham
Clinton, phu nhân tổng thống Mỹ, thực hiện chuyến đi đến Ấn Độ như một phần của chuyến đi
thiện chí tới Nam Á. Tháng 4, Bộ trưởng Bộ Tài chính Robert E. Rubin viếng thăm New Delhi
đồng thời ký kết hiệp định bảo trợ đầu tư song phương với Ấn Độ, mở đường cho Ấn Độ tiếp cận
với nguồn vay từ Cơ quan phát triển quốc tế Mỹ. Hiệp định cũng cho thấy sự gia tăng đáng kể
trong đầu tư Mỹ ở Ấn Độ kể từ năm 1991.
Thành công từ cuộc cải cách và sự kiên trì chuyển hướng ngoại giao của Ấn Độ đã thúc đẩy
Mỹ, dưới thời Tổng thống Clinton, tăng cường hơn nữa gỡ bỏ những rào cản trong quan hệ giữa
hai nước. Trước những hành động của các nhóm quân sự ở Punjab, Jammu và Kashmir, Mỹ thừa
nhận quan điểm của Ấn Độ rằng Pakistan đã tiếp tay cho các lực lượng khủng bố này. Đồng thời
Mỹ cam kết sẽ cùng Ấn Độ chống chủ nghĩa khủng bố [34, tr 202]. Sự thay đổi lập trường này
của Mỹ khiến Ấn Độ hài lòng. Trước đó, Mỹ chưa từng có những tuyên bố mạnh mẽ ủng hộ Ấn
Độ chống lại Pakistan như vậy.
Sự chuyển hướng coi trọng vị trí địa – chính trị Ấn Độ trong thập niên đầu sau Chiến tranh
lạnh của Mỹ, được kiểm nghiệm trong hai sự kiện liên tiếp vào những năm cuối của thập niên
này.
Tháng 5/1998, quan hệ hai nước đứng trước thách thức lớn khi Ấn Độ tiến hành một loạt 5
vụ thử hạt nhân tại sa mạc Pokhran. Ngay lập tức, Tổng thống Mỹ Bill Clinton ký lệnh trừng phạt
Ấn Độ, theo đó Mỹ chấm dứt tất cả các khoản viện trợ, cho vay nhân đạo cũng như đảm bảo về
tín dụng, hủy bỏ các cuộc tập trận chung giữa hai nước…
Tuy nhiên sau những động thái giải thích nguyên nhân, động cơ các vụ thử hạt nhân từ phía
Ấn Độ (thể hiện nỗi lo của Ấn Độ từ phía Trung Quốc), cũng như các phản ứng không nhất trí
của Quốc hội, những nhà doanh nghiệp, các trại chủ Mỹ, đặc biệt là lệnh trừng phạt có thể tác
động xấu đến lợi ích địa –chính trị mà Mỹ đang theo đuổi đối với Ấn Độ, chính quyền Mỹ đã có
những thay đổi quan trọng trong quan điểm về vấn đề này. Hai tháng sau đó, Thượng viện Mỹ đã
bỏ phiếu tán thành nới lỏng lệnh trừng phạt Ấn Độ và được Tổng thống Clinton chấp thuận.
Không chỉ vậy, Mỹ còn từ bỏ yêu cầu Ấn Độ và Pakistan chấm dứt thử và sản xuất tên lửa đạn
đạo. Đây là một thắng lợi trong chính sách theo đuổi chương trình hạt nhân của Ấn Độ. Tuy
nhiên không phải do Mỹ chịu khuất phục trước tham vọng hạt nhân của Ấn Độ mà xuất phát từ
lợi ích toàn cầu Mỹ đạt được từ Ấn Độ trong suốt thập kỷ cuối của thế kỷ XX. Mỹ không muốn
những quyết định trừng phạt của mình với Ấn Độ làm tổn hại đến những chuyển biến tích cực mà
hai bên đã đạt được, dẫn đến đẩy quốc gia này ở vào thế đối địch với Mỹ.
Sự xích lại gần Ấn Độ hơn được thể hiện trong sự kiện Kargil xảy ra vào tháng 5/1999, khi
Pakistan huy động lực lượng quân đội lớn xâm nhập vùng núi Kargil thuộc lãnh thổ Kashmir do
Ấn Độ kiểm soát. Toan tính của Pakistan là muốn quốc tế hóa tranh chấp Jammu và Kashmir để
lực lượng bên ngoài can thiệp như đã can thiệp vào Kosovo. Tuy nhiên, ý đồ đó không được Mỹ
ủng hộ. Sau khi quân đội Pakistan thâm nhập vùng Kargil và quân đội Ấn Độ đã được triển khai
với lực lượng mạnh, nguy cơ của một cuộc chiến tranh quy mô đang hiển hiện, Mỹ đưa ra yêu
cầu với thủ tướng Pakistan rằng quân đội nước này phải rút quân khỏi đường ranh giới kiểm soát
LOC và phái một viên sỹ quan quân sự cao cấp sang Islamabad để ép Pakistan rút quân. Trái với
thái độ đối với Pakistan, Tổng thống Clinton gọi điện cho Thủ tướng Vajpayee bày tỏ sự cảm
thông với lập trường của Ấn Độ trong vấn đề Kargil [34, tr 208]. Tiếp đó, tháng 10/1999, Mỹ
xem xét bãi bỏ một phần lệnh cấm vận mà họ đã tiến hành sau vụ thử hạt nhân của Ấn Độ tháng
5/1998.
Năm cuối cùng trong nhiệm kỳ của mình, Tổng thống Clinton một lần nữa phát đi tín hiệu
cho thấy chính sách coi trọng Ấn Độ khi ông thực hiện chuyến công du tới Ấn Độ nhiều ngày
trong khi chỉ dừng lại Pakistan vài giờ đồng hồ. Đây là chuyến thăm đầu tiên trong vòng hơn hai
thập kỷ, kể từ chuyến thăm của Tổng thống J. Cater vào năm 1978. Cùng đi với Clinton là một
lực lượng hùng hậu lên tới 1.200 người, trong đó có nhiều nhà kinh doanh Mỹ muốn tìm kiếm cơ
hội kinh doanh ở Ấn Độ. Các cuộc hội đàm đã nhấn mạnh đến phương hướng hợp tác song
phương và một số vấn đề quốc tế và khu vực. Về vấn đề Kashmir, một lần nữa Mỹ khẳng định
phải do các bên liên quan giải quyết. Về vấn đề phổ biến vũ khí hạt nhân Mỹ bày tỏ “những quan
tâm thực sự về mặt an ninh” của Ấn Độ (ám chỉ đe dọa từ Trung Quốc và Pakistan) nhưng Mỹ
cũng bày tỏ mong muốn Ấn Độ ngừng chương trình hạt nhân và sớm ký Hiệp ước cấm thử vũ khí
hạt nhân toàn diện (CTBT). Trong chuyến viếng thăm này, hai bên cũng đã đưa ra bản tuyên bố
chung mang tên “Tuyên bố tầm nhìn cho thế kỷ 21” với 3 vấn đề chính: an ninh và cấm phổ biến
vũ khí hạt nhân; phổ biến dân chủ trên toàn cầu; hợp tác kinh tế [34, tr 210]. Tuyên bố cũng đã
thể hiện cam kết của hai nước “làm sâu sắc mối quan hệ đối tác Mỹ - Ấn Độ trong hiện thực”[77,
tr 14].
Trong cuộc viếng thăm ngay sau đó tới Mỹ vào cuối năm 2000, Thủ tướng Atal Bihari
Vajpayee đã phát biểu trong một phiên họp chung của Quốc hội, đồng thời nêu lên trong bản
Tuyên bố chung lần thứ hai với Tổng thống Clinton, sự đồng ý hợp tác trên vấn đề kiểm soát vũ
khí, khủng bố và HIV/AIDS.
Nhìn chung trong thập niên này, xuất phát từ lợi ích địa – chính trị và những chuyển biến tích
cực theo sau cuộc cải cách của Ấn Độ, Mỹ có sự chuyển hướng chính sách với Ấn Độ. Từ chỗ
xem trọng Pakistan, có quan điểm ủng hộ Pakistan trong nhiều vấn đề đến chỗ hành động cân
bằng hơn, thậm chí nghiêng về Ấn Độ. Các chính sách khác cũng vận động theo chiều hướng đã
thay đổi của mối quan hệ Mỹ - Ấn.
2.2.2.Đối với Pakistan
Cũng nằm trong “vùng rìa” hay “khu vực vành đai”, Pakistan là quốc gia có vị trí địa – chính
trị quan trọng trên bàn cờ chính trị khu vực Nam Á và trên thế giới. Nằm ở phía tây của khu vực,
Pakistan có biên giới tiếp giáp với Ấn Độ, Trung Quốc, Afghanistan, Iran. Ở vị trí này, Pakistan
có khoảng cách không xa “Miền đất trái tim” mà nhà địa – chính trị Mackinder đề xuất trong khi
nghiên cứu lĩnh vực này. Với những lợi thế địa lý như trên, Pakistan được đánh giá cao và luôn
được các cường quốc lôi kéo nhằm thực hiện những toan tính của họ.
Trong Chiến tranh lạnh, giá trị địa – chính trị Pakistan đã được Mỹ khai thác phục vụ chính
sách toàn cầu chống Liên Xô và các nước XHCN. Pakistan lúc này được coi là đồng minh của
Mỹ và nhận những khoản viện trợ lớn, đồng thời luôn được Mỹ lên tiếng bênh vực, đứng bên
trong những vấn đề quốc tế, tranh chấp lãnh thổ với Ấn Độ. Chiến tranh lạnh kết thúc, mục tiêu
chống cộng sản của Mỹ không còn, vai trò của Pakistan trong chính sách toàn cầu của Mỹ sụt
giảm, vì vậy trong thập niên cuối thế kỷ XX, Pakistan không còn được Mỹ coi trọng. Có thể dễ
dàng nhận thấy những chuyển biến đó thông qua những sự kiện có liên quan đến mối quan hệ của
hai nước.
Dấu hiệu cho thấy sự thay đổi là những tuyên bố cắt giảm viện trợ của Mỹ cho Pakistan, tạm
ngưng các hợp đồng quân sự với Pakistan. Tháng 10/1990 Mỹ tiến hành cắt giảm viện trợ quân
sự và kinh tế cho Pakistan 570 triệu USD/năm. Cũng thời gian này, Mỹ phát hiện Pakistan đang
bí mật theo đuổi chương trình hạt nhân. Ngay lập tức, Quốc hội Mỹ đã phê chuẩn Tu chính án
Pressler với nội dung trừng phạt quốc gia vốn là đồng minh của họ. “Dưới những điều khoản của
Tu chính án Pressler này, hầu hết những viện trợ kinh tế và quân sự song phương chấm dứt, và
những chuyển giao thiết bị quân sự cũng chấm dứt”[75, tr 32]. Điều đáng nói, không phải đến
thời điểm này Pakistan mới có chương trình hạt nhân bí mật. Chương trình đó đã được tiến hành
bí mật nhằm chống lại Ấn Độ từ thập niên 70 của thế kỷ trước, nhưng không bị Mỹ phản ứng
mạnh mẽ.
Năm 1992, Quốc hội Mỹ nới lỏng một phần những biện pháp trừng phạt, cho phép viện trợ
lương thực thực phẩm và các tổ chức phi chính phủ được phép tiếp tục trợ giúp Pakistan. Tuy
nhiên, lệnh cấm vận dẫn đến Mỹ không chuyển giao các máy bay chiến đấu F-16 mà Pakistan đã
ký hợp đồng mua năm 1989. Hậu quả đối với Pakistan đến từ Tu chính án Pressler là rất đáng kể,
đặc biệt đã làm chậm quá trình chạy đua với Ấn Độ. Vì vậy, nhìn lại quan hệ với Mỹ trong giai
đoạn này, người Pakistan có cảm giác rằng họ bị “sử dụng và bỏ rơi” [75, tr 33].
Sự sụt giảm quan hệ không chỉ thể hiện ở cắt giảm viện trợ, hay lệnh trừng phạt mà còn diễn
ra trên những khía cạnh khác. Chẳng hạn sự nghiêng về Ấn Độ trong quan điểm giải quyết vấn đề
tranh chấp Jammu và Kashmir. Mỹ đi từ chỗ ủng hộ hoàn toàn quan điểm giải quyết của Pakistan
là tiến hành trưng cầu dân ý dưới sự giám sát của Liên Hợp Quốc để quyết định số phận vùng
lãnh thổ này thuộc về ai, sang ủng hộ quan điểm của Ấn Độ là giải quyết vấn đề theo tinh thần
song phương mà không cần dựa trên những nghị quyết của Liên Hợp Quốc đã được đưa ra từ
năm 1948. Không chỉ vậy, Mỹ cũng cùng quan điểm với Ấn Độ nhìn nhận nguồn gốc của những
bất ổn xuất phát từ lực lượng Hồi giáo cực đoan ở khu vực Kashmir do Pakistan quản lý, đồng
thời yêu cầu Pakistan ngưng cung cấp viện trợ cho những tổ chức này.
Người Pakistan cũng nhận thấy sự “suy giảm” giá trị trong quan hệ với Mỹ khi Mỹ chuyển
hướng coi trọng Ấn Độ hơn mình. Tu chính án Pressler được thông qua năm 1991 để trừng phạt
Pakistan do nghi ngờ quốc gia này đang theo đuổi chương trình hạt nhân bí mật nhưng lại không
được áp dụng với Ấn Độ, quốc gia cũng đang theo đuổi chương trình này.
Tháng 5/1998, ngay sau khi Ấn Độ tiến hành 5 vụ thử hạt nhân, Pakistan tiến hành liên tiếp 6
vụ thử. Kết quả là Pakistan trở thành quốc gia có vũ khí hạt nhân nhưng cũng như Ấn Độ, quốc
gia này phải đối diện với lệnh trừng phạt của Mỹ. Cũng như lệnh trừng phạt trước đó, lệnh trừng
phạt lần này thể hiện trong Tu chính án Glenn với các điều khoản dẫn đến hạn chế cung cấp tín
dụng, buôn bán quân sự, viện trợ kinh tế và các khoản vay cho chính phủ.
Tháng 5/1999, thực hiện ý đồ quốc tế hóa vấn đề Kashmir theo kiểu Kosovo [34, tr 207],
Pakistan đã lợi dụng tình hình bất ổn chính trị ở Ấn Độ sau khi chính phủ của Mặt trận thống
nhất thất bại trong cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm, ra lệnh cho quân đội, đồng thời bật đèn xanh cho
các lực lượng Hồi giáo vũ trang đóng quân ở lãnh thổ Pakistan vượt đường kiểm soát tạm thời
(LOC) xâm nhập sâu vào một số vùng đất Kashmir do Ấn Độ kiểm soát. Phản ứng lại, Ấn Độ đã
sử dụng cả bộ binh, pháo binh, không quân để truy quét lực lượng xâm nhập. Pakistan cũng sử
dụng pháo bắn vào phía Bắc Kashmir. Sau 3 tuần giao tranh với những thiệt hại nặng nề cho cả
hai bên: hàng trăm lính bị chết và bị thương, hàng chục nghìn dân phải di dời khỏi khu vực chiến
sự [37, tr 126].
Trong cuộc chiến lần này, không những không đạt mục tiêu ban đầu mà Pakistan còn bị cộng
đồng quốc tế cô lập khi cả Mỹ, Nga, EU và nhiều nước khác lên tiếng đòi Pakistan rút quân ra
khỏi khu vực do Ấn Độ kiểm soát. Pakistan bị khai trừ khỏi khối Liên hiệp Anh, bị Mỹ và một số
nước Phương Tây cấm vận. Đây là phản ứng gây bực tức chính quyền Pakistan nhưng không bất
ngờ khi Ấn Độ đang ngày một nổi lên và Mỹ đã nhận thấy vai trò quan trọng của họ trong thời kỳ
mới.
Tiếp sau thất bại cả về quân sự và chính trị trong cuộc khủng hoảng Kargil, tình hình
Pakistan trở nên bất ổn khi tướng Musharraf tiến hành cuộc đảo chính lật đổ chính phủ dân sự
Sharif, giải tán Quốc hội, tự mình nắm quyền điều hành đất nước. Cuộc đảo chính lật đổ chính
phủ được bầu Nawaz Sharif không được người Mỹ ủng hộ. Ngay sau cuộc đảo chính, Mỹ đã
phản ứng mạnh bằng việc tiếp tục áp đặt những trừng phạt mới. Quốc hội Mỹ đã bỏ phiếu cho
phép chính phủ áp dụng điều khoản 508 của Đạo luật phân bổ nước ngoài, bao gồm hạn chế tài
chính quân sự nước ngoài và viện trợ kinh tế. Viện trợ của chính quyền Mỹ cho Pakistan ngay
sau đó bị hạn chế, chỉ còn dành cho người tị nạn và viện trợ chống buôn bán ma túy.
Chính sách coi trọng Ấn Độ hơn Pakistan tiếp tục được Tổng thống Clinton theo đuổi trong
những năm cuối nhiệm kỳ của mình. Tháng 3/2002, ông có chuyến thăm 3 nước Nam Á. Phái
đoàn của Cliton đã ở lại Ấn Độ nhiều ngày và tiến hành hội đàm những nội dung quan trọng,
trong khi đó, do không muốn mất một đồng minh cũ, ông đã dừng chân vài giờ ở Pakistan [23, tr
277].
Nhìn lại những sự kiện thể hiện chiều hướng tiến triển quan hệ hai nước Mỹ - Pakistan có thể
dễ nhận thấy, Pakistan không còn được Mỹ coi trọng như thời Chiến tranh lạnh. Chính sách của
Mỹ với quốc gia này đã thay đổi. Sự “sụt giảm” vai trò của Pakistan trong chính sách của Mỹ
xuất phát từ vai trò địa – chính trị của quốc gia này không còn như trước đó. Khi lợi ích địa –
chính trị có được từ Pakistan không phục vụ cho chiến lược toàn cầu của Mỹ, họ sẵn sàng “nói
không” với những đề nghị của Pakistan. Áp đặt lệnh trừng phạt, cắt viện trợ kinh tế, đình chỉ các
quan hệ quân sự, không ủng hộ chính trị trong những tranh chấp, xung đột giữa Pakistan với Ấn
Độ… là những hành động nổi bật trong thập niên đầu sau Chiến tranh lạnh. Trong thập kỷ này,
người Pakistan thật sự cảm thấy mình bị bỏ rơi [75, tr 33].
Như vậy, khi bối cảnh quốc tế đã thay đổi, chính sách của Mỹ với Pakistan cũng có sự điều
chỉnh. Giá trị địa – chính trị của quốc gia này trong chính sách của Mỹ có sự giảm sút mạnh.
Pakistan không còn nhận được những ưu tiên như khi còn là một phần của chiến lược toàn cầu
ngăn chặn cộng sản do Mỹ cầm đầu. Tuy nhiên, thập niên ngay sau đó, vị trí Pakistan lại được
Mỹ coi trọng khi nước Mỹ đối diện và tham gia vào cuộc chiến chống khủng bố quốc tế.
2.2.3.Đối với các nước Nam Á khác
Các nước Nam Á khác có địa vị nhỏ hơn trong khu vực như Nepal, Bhutan, Sri Lanka,
Bangladesh, Maldives. Tuy cùng nằm trong khu vực “vùng rìa”, nhưng giới hạn về lãnh thổ, dân
số, tài nguyên khiến các quốc gia này có vai trò địa – chính trị hạn chế. Dù vậy, trong thế giới
nhiều cạnh tranh, các nước nhỏ luôn là đối tượng hướng tới của các cường quốc nhằm tập hợp
đồng minh, tạo đối trọng với các đối thủ. Vai trò địa – chính trị chỉ trở nên quan trọng khi bối
cảnh quốc tế, khu vực vận động theo hướng có lợi cho các nước nhỏ.
Thập niên đầu sau Chiến tranh lạnh, Liên Xô sụp đổ, các cường quốc khác chưa phát triển đủ
tầm, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất trên thế giới. Hiện thực lịch sử trên khiến Mỹ gần như
không có đối thủ và ít có những vấn đề quốc tế hóc búa cần giải quyết như trước và sau đó. Mỹ
tập trung vào giải quyết các vấn đề trong nước, đặc biệt là dưới 2 nhiệm kỳ của Tổng thống
Clinton. Quan hệ quốc tế lúc này được tập trung vào các nước lớn, các khu vực nhiều lợi ích.
Trong bối cảnh đó, các nước nhỏ Nam Á không được Mỹ quan tâm thúc đẩy quan hệ. Tuy nhiên,
những hoạt động viện trợ kinh tế trước đó của Mỹ cho các quốc gia này thông qua chương trình
của Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ (USAID) vẫn được tiến hành ở mức độ thấp cho các nước
như Nepal, Bangladesh nhằm giải quyết những khó khăn về chăm sóc sức khỏe, giáo dục,
chương trình phát triển nông thôn và chuyển đổi dân chủ trong các quốc gia này.
Đối với các nước nhỏ, Mỹ luôn ưu tiên thúc đẩy các tiến trình dân chủ, nhân quyền theo quan
điểm của Mỹ. Điều này không ngoại lệ ở khu vực Nam Á, đặc biệt là đối với các quốc gia không
xây dựng thể chế chính trị theo quan điểm chính trị của Mỹ như Nepal.
Trong suốt thời gian vận động ủng hộ nền dân chủ Nepal, Bộ Ngoại giao Mỹ bày tỏ mối
quan tâm tới sự quay lại của bạo lực ở sự kiện 1/1990 và thúc giục chính phủ tiến hành một cuộc
đối thoại với lực lượng dân chủ để ngăn chặn bạo lực và đàn áp. Hạ nghị sĩ Stephen Solarz, chủ
tịch Tiểu ban đối ngoại của Hạ viện đại diện khu vực châu Á -Thái Bình Dương và đồng nghiệp
của ông ta hai lần viếng thăm Nepal, gặp gỡ với vua và một loạt các nhà lãnh đạo chính trị nước
này để thảo luận những sự kiện có liên quan đến sự vận động dân chủ đang diễn ra. Mỹ dựa vào
những thông tin của Nhóm theo dõi nhân quyền châu Á công bố chi tiết trong một giải trình về
tra tấn, đàn áp và đối xử phi nhân tính đối với người bị tình nghi.
Ngoài ra các quốc gia Nam Á khác hầu như Mỹ chưa có những quan tâm đặc biệt nào ngoài
duy trì những quan hệ thông thường.
Nhìn chung trong thập niên này, Mỹ chưa gặp phải sự cạnh tranh địa – chính trị mạnh mẽ từ
các cường quốc khác ở đây, nên Mỹ không có những chính sách nhằm lôi kéo các quốc gia Nam
Á như Nepal, Bhutan, Bangladesh,Sri Lanka, Maldives như giai đoạn sau đó. Điều này cũng phù
hợp với thực lực và thực tế chiến lược của Mỹ trong những năm đầu sau Chiến tranh lạnh.
Tiểu kết
Sau sự kiện “bức tường Berlin” sụp đổ và sự tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh của hai vị
lãnh đạo đứng đầu siêu cường thế giới, Liên Xô, Mỹ, lịch sử loài người chuyển sang một trang
mới. Tập hợp đồng minh, chạy đua vũ trang chống lại đối phương dẫn đến nguy cơ bùng nổ cuộc
chiến tranh thế giới thứ 3 không còn tính thời sự, nhưng không vì thế thế giới yên bình hơn.
Nhiều vấn đề quốc tế mới đang xuất hiện và xu hướng liên kết, xu hướng toàn cầu hóa đang
khiến thế giới gần nhau hơn. Trong bối cảnh đó, sự đấu tranh quyết liệt giữa các quốc gia, các
cường quốc vẫn âm thầm diễn ra nhằm xác lập, khẳng định vị thế quốc tế mới của mình. Trật tự
thế giới mới đang hình thành. Xu hướng đấu tranh cho một thế giới đơn cực hay đa cực đang diễn
ra.
Bối cảnh thay đổi, chính sách của mọi quốc gia thay đổi xoay quanh thực tế này. Mỹ cũng là
một quốc gia như vậy. Sau Chiến tranh lạnh, Mỹ là siêu cường duy nhất còn lại nhưng luôn đứng
trước những thách thức lớn từ những cường quốc mới nổi. Mỹ muốn thiết lập trật tự thế giới mới
mà ở đó Mỹ đứng đầu, trật tự đơn cực. Trong khi các cường quốc khác muốn thế giới vận động
theo hướng đa cực. Không thuyết phục được các cường quốc theo mình nhưng cũng không muốn
địa vị siêu cường hiện có bị đe dọa, Mỹ tiến hành chính sách nhằm ngăn chặn sự xuất hiện bất kỳ
cường quốc nào thách thức địa vị này của Mỹ.
Trên cơ sở đó, chính sách của Mỹ đối với các khu vực cũng thay đổi theo. Trước kia, Mỹ tập
trung vào những khu vực địa – chính trị, những quốc gia hướng tới ngăn chặn cộng sản, bao vây
Liên Xô. Vì vậy, nếu châu Âu được đề cao trong Chiến tranh lạnh thì châu Á nổi lên trong chính
sách của Mỹ sau Chiến tranh lạnh. Bởi theo lý thuyết của các nhà địa – chính trị ai nắm được đại
lục Á – Âu sẽ lãnh đạo được thế giới, ngoài ra châu Á tập trung những cường quốc mới nổi có
khả năng nhất trong việc thách thức địa vị bá quyền của Mỹ, Mỹ phải tham dự vào các tiến trình
chính trị, kinh tế, ngoại giao ở đây càng nhiều càng tốt để kiềm chế họ, hơn nữa châu Á hiện có
nhiều lợi ích của Mỹ cần phải bảo vệ, nhiều đồng minh cần hỗ trợ nhưng cũng nhiều quốc gia thù
địch cần ngăn chặn.
Thay đổi căn bản sau Chiến tranh lạnh là thế giới không còn sự đối đầu ý thức hệ, thay vào
đó là sự đối đầu, cạnh tranh quyết liệt giữa các cường quốc nhằm áp đặt ảnh hưởng của mình lên
các khu vực địa – chính trị mà ở đó phục vụ cho lợi ích chiến lược của họ. Thay đổi đó cũng dẫn
đến những thay đổi về quan điểm bạn – thù.
Trước kia Ấn Độ đối đầu với Mỹ, nhưng sau Chiến tranh lạnh, Mỹ có chính sách tiếp cận
quan điểm về quốc gia này cởi mở hơn. Thập niên 90 cho thấy chính sách của Mỹ đối với Ấn Độ
có sự chuyển biến tích cực. Mỹ có quan điểm cân bằng hơn trong vấn đề Kashmir, đẩy mạnh các
hoạt động hợp tác kinh tế, thương mại, tăng cường hợp tác quốc phòng, tập trận chung. Những vi
phạm quốc tế của Ấn Độ trong giai đoạn này cũng không bị Mỹ “trừng trị” mạnh tay. Sự chuyển
biến xuất phát từ chỗ Mỹ nhận thấy mối đe dọa từ Liên Xô đã chuyển sang mối đe dọa từ Trung
Quốc. Tham vọng cường quốc của Trung Quốc ngày càng trở nên rõ ràng. Mỹ phải khai thác
những bất đồng, mâu thuẫn giữa hai “gã khổng lồ” châu Á này để kiềm chế Trung Quốc. Thứ
nữa, công cuộc cải cách kinh tế của Ấn Độ theo hướng thị trường tự do đang tạo cơ hội cho các
nhà tư bản Mỹ tìm kiếm lợi nhuận ở đây, thúc đẩy chính quyền Mỹ phải có những thay đổi chính
sách nhằm thâm nhập vào thị trường của quốc gia đầy tiềm năng này. Ngoài ra, thay đổi chính
sách theo hướng cởi mở hơn trong quan hệ với Ấn Độ nhằm ngăn chặn hình thành trong tương
lai một thế lực chống lại Mỹ gồm những nước lớn như Nga, Trung Quốc, Ấn Độ.
Khác với Ấn Độ, chính sách của Mỹ với Pakistan cũng có sự chuyển hướng trong thập niên
đầu sau Chiến tranh lạnh, nhưng là từ chỗ coi trọng quốc gia này sang ít coi trọng hơn, thâm chí
là lạnh nhạt. Diễn biến của các sự kiện cho thấy nếu trước kia các va chạm giữa Ấn Độ và
Pakistan về tranh chấp Kashmir, Mỹ luôn đứng về Pakistan, cùng quan điểm với họ thì lúc này,
Mỹ có cách nhìn vấn đề khác biệt, có lợi hơn cho Ấn Độ. Những sự kiện khác cũng có chuyển
biến tương tự. Chẳng hạn, trước những vụ đánh bom trong lãnh thổ Ấn Độ, Mỹ đã cùng quan
điểm với Ấn Độ trong việc lên án chính quyền Islamabad đã để cho các phần tử khủng bố tồn tại
ở Pakistan. Trước những vi phạm quốc tế của Pakistan, Mỹ tiến hành cấm vận, cắt viện trợ, đình
chỉ các hợp đồng buôn bán quân sự cho quốc gia này.
Đối các quốc gia Nam Á khác, lúc này vai trò địa – chính trị của họ không lớn. Chính sách
của Mỹ chỉ nhằm hỗ trợ họ phát triển bình thường, ngăn chặn những bất ổn bên trong mỗi quốc
gia đe dọa an ninh, ảnh hưởng đến lợi ích của Mỹ trong khu vực.
Tóm lại, bối cảnh lịch sử thay đổi dẫn đến vai trò địa – chính trị của mỗi quốc gia ở Nam Á
cũng thay đổi theo, vì vậy chính sách của Mỹ đối với các nước trong khu vực có sự chuyển
hướng.
Chương 3: YẾU TỐ ĐỊA - CHÍNH TRỊ KHU VỰC NAM Á TRONG CHÍNH SÁCH
CỦA MỸ TỪ 9/2001 - 2009
3.1.Bối cảnh lịch sử thế giới và khu vực
Không lâu sau khi bước vào thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, thế giới chấn động trước
cuộc khủng bố kinh hoàng 11/9/2001 vào nước Mỹ. Những kẻ khủng bố Hồi giáo cực đoan sau
thời gian dài huấn luyện và lên kế hoạch đã thâm nhập vào nước Mỹ mà mạng lưới an ninh nội
địa Mỹ hoàn toàn không hay biết. Đúng vào ngày 11/9/2001, những kẻ khủng bố được trang bị
tinh thần tử vì đạo tiến hành đồng thời 4 vụ bắt cóc máy bay và điều khiển chúng tiến đến các
mục tiêu đã định. Hai chiếc lao vào tòa nhà chọc trời, trung tâm tài chính thế giới, niềm tự hào
của nước Mỹ, một chiếc tiến đến Lầu Năm Góc và một chiếc được cho là tiến đến Nhà Trắng. Ba
chiếc trong số đó đã đến được mục tiêu và tạo nên thiệt hại kinh hoàng cho nước Mỹ.
Ngay sau sự kiện 11/9 không lâu, Tổng thống Bush ra lệnh cho quân đội Mỹ tấn công lật đổ
chính quyền Taliban ở Afghanistan, nơi được coi là sào huyệt của những kẻ khủng bố đã tấn
công nước Mỹ, Bin Laden và tổ chức Al Qeada của ông ta. Một lực lượng hùng hậu với các
phương tiện chiến tranh hiện đại như máy bay, tàu chiến, tên lửa cùng với bộ binh Mỹ và liên
quân đã tấn công vào Afghanistan. Chính quyền Taliban được Mỹ coi là bảo trợ khủng bố nhanh
chóng bị tiêu diệt. Một chính quyền Hồi giáo thân Mỹ được thành lập ngay sau đó. Chính quyền
mới này đã nhận được những viện trợ kinh tế, quân sự, trợ giúp ngoại giao, trợ giúp xây dựng
chính quyền, chuyển đổi nội dung chương trình giáo dục…
Chiến dịch quân sự tiêu diệt Taliban kết thúc không lâu sau đó, nhưng cuộc chiến chống tàn
binh Taliban và lực lượng Al Qeada ở quốc gia này vẫn đang tiếp diễn ngày càng phức tạp. Sau
10 năm tham chiến, quân đội Mỹ và đồng minh vẫn chưa thực hiện được mục tiêu tiêu diệt tận
gốc chủ nghĩa khủng bố như đã từng tuyên bố, dù rằng mới đây trùm khủng bố Bin Laden đã bị
tiêu diệt.
Phải chăng Mỹ tấn công Afghanistan là vì mục tiêu tiêu diệt Bin Laden và mạng lưới khủng
bố Al Qeada của ông ta. Thực chất đằng sau “ưu tiên hàng đầu” của Mỹ lúc này là nắm lấy “cơ
hội vàng” cho tham vọng thâm nhập và tạo chỗ đứng ở khu vực Trung – Nam Á, một khu vực địa
– chính trị mà dù là nhà địa – chính trị cổ điển hay hiện đại theo quan điểm nào cũng đều thừa
nhận là quan trọng bậc nhất đối với tham vọng bá chủ của các cường quốc, tuy nhiên đã nhiều
năm Mỹ chưa hề thiết lập được bất cứ căn cứ nào ở đây [8, tr 14]. Lợi ích địa – chính trị có được
xung quanh cuộc chiến ở Afghanistan là không hề nhỏ. Nhờ tiến hành cuộc chiến chống khủng
bố, Mỹ đã được các quốc gia Trung Á như đóng 1500 quân ở Uzbekistan, sử dụng sân bay quốc
tế ở Tasgikistan, xây dựng căn cứ không quân và doanh trại cho hơn 3000 quân ở Kyrgyzstan.
Hiện thời Mỹ đang có 5 căn cứ quân sự tại các quốc gia này. Ngoài ra có được căn cứ ở
Afghanistan và chính quyền thân Mỹ ở đây, Mỹ có thể tiến hành các kế hoạch chiến lược đem lại
những lợi ích kinh tế lớn lao như xây dựng con đường vận chuyển dầu lửa từ khu vực Caspi qua
Afghanistan tới các cảng ở vùng biển Ả Rập. Nhờ vậy mà Mỹ tiếp cận được khu vực giầu trữ
lượng dầu lửa vào hàng thứ 3 thế giới này. Ngoài ra đứng chân được ở quốc gia Hồi giáo này,
Mỹ có thể thực hiện chiến lược kiềm chế Trung Quốc, Nga, Iran trong tương lai.
Dù thực chất mục đích của cuộc chiến ở Afghanistan là gì, thì cuộc chiến do Mỹ và liên quân
tiến hành sau sự kiện 11/9 đã làm cục diện thế giới thay đổi nhanh chóng. Các quốc gia trong khu
vực và trên thế giới ít nhiều đều có những điều chỉnh chính sách của mình cho phù hợp với bối
cảnh lịch sử mới. Chính sách toàn cầu của Mỹ ngay sau đó cũng có những điều chỉnh. Mỹ xem
xét lại chính sách đối với các quốc gia, khu vực trên thế giới. Nhiều quốc gia, khu vực trong thập
niên đầu sau Chiến tranh lạnh không được Mỹ coi trọng, nay đã được nhìn nhận lại. Quan hệ đối
tác – đối thủ, quan hệ bạn – thù cũng có những điều chỉnh, chẳng hạn Nga, Trung Quốc,
Pakistan... Những điều chỉnh này xuất phát từ thực tế rằng dù Mỹ là siêu cường thế giới, để tiêu
diệt tận gốc khủng bố, một mình nước Mỹ không làm được, hơn nữa, như vậy sẽ tổn hại đến hình
ảnh nước Mỹ, tình cảm chống Mỹ trên thế giới sẽ tăng cao.
Trong phát biểu tại lưỡng viện Mỹ vào 21/9/2001, Tổng thống Bush tuyên bố “các quốc gia
hoặc đi với Mỹ, hoặc đi với khủng bố” [8 tr 12]. Với tuyên bố này, thế giới được Mỹ chia làm 2
phe: một bên là các quốc gia chống chủ nghĩa khủng bố và một bên là lực lượng khủng bố và các
quốc gia hậu thuẫn chúng. Một tình thế tương tự thời Chiến tranh lạnh xuất hiện nhưng khác về
bản chất.
Đối với kẻ thù, Mỹ tuyên bố sử dụng vũ lực không giới hạn để tiêu diệt đối phương, Mỹ đã
thực hiện điều này ở những quốc gia mà họ cho là chứa chấp khủng bố như Afghanistan và Iraq.
Đối với các quốc gia có cùng quan điểm, Mỹ tranh thủ sự ủng hộ của họ trong cuộc chiến chống
khủng bố để các quốc gia này chia xẻ gánh nặng chiến tranh.
Đối với các cường quốc là đối thủ cạnh tranh với Mỹ như Nga, Trung Quốc, chính sách của
Mỹ sau sự kiện này cũng có những điều chỉnh theo hướng giảm bớt những đối đầu ngoại giao,
tranh thủ sự ủng hộ từ họ cho cuộc chiến chống khủng bố. Chẳng hạn với Nga, Mỹ chuyển từ chỉ
trích những hành động của quốc gia này ở Tresnia sang thừa nhận hành động của Nga ở đây là
cuộc chiến chống các phần tử khủng bố. Với Trung Quốc từ chỗ chính quyền Bush coi Trung
Quốc là “đối thủ cạnh tranh chiến lược” trong những tháng đầu nhậm chức, sang tranh thủ sự ủng
hộ của quốc gia này trong cuộc chiến chống khủng bố. Trong chuyến công du đến Thượng Hải
dự Hội nghị APEC tháng 10/2001, Bush đã gặp và hội đàm với Chủ tịch Giang Trạch Dân. Tại
cuộc gặp hai bên đã khẳng định “tình đoàn kết mới và mục đích chung”, giải tỏa một số bất đồng
trước đó như vụ va chạm máy bay do thám EP – 3, Mỹ cam kết ủng hộ mạnh mẽ Trung Quốc gia
nhập WTO. Cũng trong thời gian này, Bush đưa ra đề nghị muốn cùng Trung Quốc xây dựng
“mối quan hệ hợp tác có tính xây dựng” [11, tr 51], một quan điểm khác hẳn với quan điểm của
ông trước sự kiện 11/9 đối với quốc gia này khi coi Trung Quốc là “đối thủ cạnh tranh chiến
lược”. Nhân tố gai góc nhất trong quan hệ Mỹ - Trung là những cam kết, hợp đồng buôn bán vũ
khí của Mỹ với Đài Loan. Bush từng tuyên bố “sẽ làm tất cả những gì cần thiết để giúp Đài Loan
tự vệ” [23, tr 46]. Nhưng sau sự kiện khủng bố nước Mỹ, Bush không chủ trương những động
thái dẫn đến gây căng thẳng với Trung Quốc trong vấn đề Đài Loan.
Sau tuyên bố “các quốc gia hoặc đi với Mỹ, hoặc đi với khủng bố” và Mỹ sẽ “đánh đòn phủ
đầu” đối với các quốc gia Mỹ xem là tài trợ khủng bố, đồng thời có những động thái thay đổi
chính sách theo hướng mềm mỏng hơn đối với nhiều quốc gia, Mỹ đã nhận được từ cộng đồng
quốc tế sự đồng tình trong cuộc chiến chống khủng bố. Chẳng hạn Trung Quốc bỏ phiếu ủng hộ
nghị quyết của Liên Hợp Quốc đồng ý cho phép Mỹ sử dụng vũ lực chống lại chính quyền
Taliban. Nga cũng tỏ tình đoàn kết với Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố, chấp thuận cho
máy bay Mỹ bay qua không phận nước này để cung cấp hậu cần cho lực lượng Mỹ và liên quân ở
chiến trường Afghanistan, chia sẻ tin tình báo và kinh nghiệm những năm chiến tranh trong thập
niên 80 ở chiến trường này với Mỹ. Các nước đồng minh của Mỹ tích cực tham gia cuộc chiến,
chia sẻ với Mỹ gánh nặng tài chính, điều động quân đội trực tiếp tham chiến ở một số nơi…
Ngoài ra, Mỹ cũng nhận được sự ủng hộ từ một số nước trong thế giới Ả Rập.
Tuy nhiên, những chuyển biến này chỉ là tức thời, không phải cuộc chiến chống khủng bố đã
hóa giải những mẫu thuẫn chiến lược giữa các cường quốc. Nga và Trung Quốc ủng hộ cuộc
chiến này bởi chính các quốc gia này cũng đang đối diện với những vấn đề khủng bố, li khai
trong chính quốc gia của họ mà phương Tây luôn lên tiếng chỉ trích. Điều này càng thể hiện rõ
trong những sự kiện sau đó.
Năm 2003 Mỹ tiến hành cuộc chiến nhằm lật đổ chính quyền Iraq của Saddam Hussen. Mặc
dù cuộc chiến này cũng lấy lý do chống lại quốc gia bảo trợ khủng bố và âm mưu phát triển
chương trình vũ khí giết người hàng loạt, Mỹ vấp phải sự phản đối của nhiều quốc gia, trong đó
có những nước đã từng ủng hộ cuộc chiến ở Afghanistan như Nga, Trung Quốc. Mặt trận chống
khủng bố mà Mỹ đã tập hợp được trong cuộc chiến ở Afghanistan hai năm trước đó không tái
hiện trong cuộc chiến lần này.
Điều này không mấy bất ngờ bởi thực chất của hai cuộc chiến mà Mỹ tiến hành không phải
như những tuyên bố công khai. Hơn nữa, các nước bày tỏ sự ủng hộ cuộc chiến của Mỹ ở
Afghanistan cũng xuất phát từ những lợi ích và toan tính của họ. Khi những lợi ích đó không còn
đảm bảo, tất yếu sẽ không ủng hộ Mỹ như họ đã từng làm.
Cuộc chiến lật đổ chính quyền Taliban ở Afghanistan và cuộc chiến lật đổ chính quyền
Saddam Hussein ở Iraq sau đó cho thấy sức mạnh quân sự của Mỹ. Nhiều loại vũ khí tinh vi, hiện
đại, độ chính xác cao đã được Mỹ sử dụng trên những chiến trường này. Mục tiêu lật đổ các
chính quyền ở những quốc gia có vị trí địa – chính trị, kinh tế quan trọng nhưng luôn có chính
sách đối đầu với Mỹ nhanh chóng hoàn thành. Mỹ đã tiến hành dựng lên và ủng hộ quân sự,
chính trị, kinh tế, ngoại giao những chính quyền thân Mỹ ở đây.
Tuy nhiên, dù những chiến dịch quân sự hùng mạnh đã kết thúc thắng lợi, Mỹ và các chính
quyền mới thành lập ở Afghanistan và Iraq vẫn chưa chấm dứt được cuộc chiến. Quân đội Mỹ
vẫn chưa thực hiện được mục tiêu tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa khủng bố, trong khi đó tình cảm
chống Mỹ ở những quốc gia này ngày càng dâng cao. Chính quyền Mỹ vẫn chưa thực hiện được
cam kết rút hết quân đội của mình ra khỏi các quốc gia này, do đó những tổn thất đối với các binh
sĩ Mỹ không ngừng gia tăng, sự an toàn của người Mỹ ở khắp nơi trên thế giới vẫn bị đe dọa.
Vì vậy, sau khi kết thúc các chiến dịch quân sự, Mỹ vẫn tiếp tục duy trì chính sách coi trọng
Afghanistan và Iraq. Đặc biệt ở Afghanistan, Mỹ vẫn phải tiến hành các hoạt đồng quân sự truy
quét tàn quân Taliban và Al Qeada, một cuộc chiến tốn kém và có nguy cơ ngày càng sa lầy. Để
tiến hành có hiệu quả, Mỹ phải tìm kiếm sự ủng hộ của các quốc gia, khu vực láng giềng. Vì vậy
khu vực Nam Á vẫn là một trong những khu vực được Mỹ coi trọng trong tương lai.
Trong thập niên này, vấn đề phát triển hạt nhân bí mật của các nước trên thế giới đã tạo nên
những căng thẳng chính trị quốc tế, đặc biệt là chương trình hạt nhân gây tranh cãi của Iran và
Triều Tiên. Những người đứng đầu các quốc gia này luôn có quan điểm chống Mỹ và phương
Tây. Họ cho rằng vũ khí hạt nhân có thể hóa giải được tình thế yếu về mọi mặt trong quan hệ
quốc tế, từ đó “bình đẳng” hơn trước các cường quốc như Mỹ. Ngược lại, Mỹ luôn muốn xóa bỏ
chương trình hạt nhân bí mật của các chính phủ thù địch với nước Mỹ này. Những lệnh cấm vận
quốc tế luôn được Mỹ khởi xướng bên cạnh những đe dọa quân sự nhắm vào các quốc gia này.
Tiến hành chiến tranh chống các quốc gia này là một quyết định mạo hiểm, nhưng tiến hành bao
vây làm suy yếu họ là một lựa chọn được cho là hiệu quả. Nam Á nằm gần Iran, chính quyền đối
đầu với Mỹ, vì vậy lợi ích có được từ vị trí địa lý này luôn được Mỹ tính đến trong tình hình mới.
Một góc độ khác của bối cảnh quốc tế và khu vực sau sự kiện 11/9 là thế giới vẫn tiếp diễn
cuộc đấu tranh giữa xu hướng đơn cực và đa cực giữa các cường quốc. Bên cạnh những tuyên bố
và việc làm tỏ tình ủng hộ, sát cánh cùng Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố, Nga, Trung
Quốc mạnh mẽ phản đối những hành động của Mỹ và phương Tây nhằm vào lợi ích của những
quốc gia này. Đối với Nga nổi bật là những vấn đề như chủ trương mở rộng NATO về hướng
Đông, thu nạp các nước nằm trong khu vực ảnh hưởng truyền thống của Nga. Hậu thuẫn và kích
động những cuộc cách mạng màu lật đổ chính quyền, thay bằng chính quyền thân phương Tây, ở
các quốc gia nằm trong khối SNG cũng như quan trọng về an ninh chiến lược đối với Nga như
Gruzia, Ucraina, 11TKyrgyzstan. Gần đây là kế hoạch phát triển hệ thống rada và tên lửa đánh chặn
đặt ở châu Âu của Mỹ mà Nga cho là nhằm vào họ…Đối với Trung Quốc, quốc gia này thực chất
vẫn bị Mỹ coi là đối thủ cạnh tranh chiến lược, là quốc gia có khả năng nhất trong việc đe dọa vị
trí siêu cường của Mỹ trong tương lai. Vì vậy, Trung Quốc vẫn là đối tượng Mỹ áp dụng chính
sách kiềm chế. Bên cạnh đó chủ trương thống nhất các vùng lãnh thổ vào Trung Quốc đại lục,
trường hợp Đài Loan, luôn bị Mỹ ngăn cản. Sự hòa dịu về vấn đề Đài Loan sau sự kiện 11/9 và
tuyên bố thừa nhận một nước Trung Quốc không đảm bảo rằng Mỹ sẽ không can dự gì trong quá
trình thống nhất hai bờ.
Sau sự kiện 11/9, chính quyền Bush đã có sự điều chỉnh chính sách cho phù hợp với diễn
biến của tình hình, phù hợp với mục tiêu từng được công khai tuyên bố và ưu tiên hàng đầu của
nước Mỹ lúc này là tiêu diệt các lực lượng khủng bố.
Tuy nhiên, đây chỉ là chính sách hiện thời phù hợp với thực tế cần sự ủng hộ quốc tế trong
cuộc chiến chống khủng bố mà Mỹ đang theo đuổi, về lâu dài Mỹ vẫn không coi nhẹ sự phát
triển mạnh mẽ của Trung Quốc. Sau những năm thành công trong chính sách đối nội, phát triển
đất nước, tham vọng trở thành một quốc gia lãnh đạo thế giới cạnh tranh với Mỹ của Trung Quốc
ngày càng khiến các nhà hoạch định chính sách, chính trị gia và giới cầm quyền Mỹ cẩn trọng
hơn với quốc gia này. Trong bối cảnh đó, Nam Á được xem xét như một bộ phận của chiến lược
mới.
3.2.Chính sách của Mỹ đối với Ấn Độ
Ngày 11/9/2001, nước Mỹ trấn động bởi vụ khủng bố kinh hoàng của những kẻ Hồi giáo cực
đoan. Chỉ ít lâu sau đó, Tổng thống Mỹ đã ra lệnh cho quân đội Mỹ ở nước ngoài thực hiện cuộc
chiến tranh tiêu diệt những kẻ khủng bố được cho là có sào huyệt tại Afghanistan. Cuộc chiến
tranh không chỉ làm thay đổi chính sách của Mỹ với khu vực này mà còn làm thay đổi hàng loạt
chính sách của Mỹ đối với các khu vực khác trên thế giới.
Trong cuộc chiến chống khủng bố, Nam Á trở thành khu vực có vị trí hậu cần quan trọng,
đặc biệt là Pakistan. Vì vậy, Mỹ đã có những thay đổi chính sách đối với Pakistan và các nước
khác ở Nam Á. Nếu thập niên 90 của thế kỷ trước, Pakistan bị giảm sút vai trò trong các chính
sách của Mỹ ở khu vực, thì ngay sau sự kiện 11/9/2001, Pakistan được Mỹ coi là “đồng minh chủ
chốt” trong cuộc chiến chống khủng bố trên thế giới.
Việc đề cao vai trò của Pakistan trong cuộc chiến chống khủng bố ít nhiều ảnh hưởng đến
chính sách của Mỹ đối với Ấn Độ trong giai đoạn này. Tuy nhiên, Mỹ không thể đánh đổi những
lợi ích địa – chính trị có được trong duy trì mối quan hệ thân thiện với Ấn Độ lấy lợi ích từ việc
chống khủng bố. Vì vậy, chính sách của Mỹ với địch thủ của Ấn Độ, Pakistan, có chuyển biến
tích cực nhưng không vì thế chính sách của Mỹ với Ấn Độ thay đổi theo chiều hướng ngược lại
như đã từng tồn tại trong thời kỳ Chiến tranh lạnh.
Hơn nữa trong giai đoạn này, Ấn Độ theo đuổi chính sách làm yên tâm các nhà hoạch địch
chính sách Mỹ. Chẳng hạn, ngay sau vụ 11/9, Ấn Độ đã tuyên bố ủng hộ cuộc chiến chống khủng
bố của Mỹ và sẵn sàng cung cấp căn cứ hậu cần cho Mỹ tiến hành cuộc chiến ở Afghanistan nếu
người Mỹ đặt vấn đề. Ngoài ra trong một diễn biến khác khi các quốc gia lên tiếng phản đối Mỹ
triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa chiến lược thì Ấn Độ tỏ ý đồng tình với Mỹ [23, tr 249].
Nhìn chung, theo đuổi mục tiêu chống khủng bố, Mỹ phải coi trọng quan hệ với Pakistan để
tranh thủ quốc gia này trong cuộc chiến tranh chưa có hồi kết. Tuy nhiên không vì mục tiêu đó,
Mỹ có những hành động làm tổn thương mối quan hệ với Ấn Độ. Vai trò địa – chính trị Ấn Độ
trong bối cảnh mới là: đối trọng kiềm chế Trung Quốc, ngăn chặn sự hình thành liên minh với
Nga, Trung Quốc, cung cấp hậu cần cho cuộc chiến chống khủng bố Mỹ đang thực hiện ở
Afghanistan, thúc ép từ bỏ các quan hệ với Iran.
Để đạt được những mục tiêu này, Mỹ phải tiến hành các chính sách nhằm thắt chặt quan hệ
với Ấn Độ, chia xẻ những thách thức mà Ấn Độ đang đối diện xuất hiện từ các nước khác như
nguy cơ chiến tranh từ quốc gia láng giềng thù địch Pakistan, sự gia tăng sức ép từ Trung Quốc...
Thập niên đầu thế kỷ XXI có thể nhận thấy những chính sách nổi bật của Mỹ đối với Ấn Độ ở
các điểm như: thúc đẩy giải quyết nguy cơ chiến tranh Ấn Độ - Pakistan, hợp tác hạt nhân dân sự,
hợp tác kinh tế, hợp tác không gian dân sự, hợp tác công nghệ cao, hợp tác an ninh quốc phòng.
3.2.1.Thúc đẩy giải quyết nguy cơ chiến tranh giữa Ấn Độ và Pakistan
Không chấp nhận vùng lãnh thổ Kashmir do Ấn Độ quản lý thuộc về Ấn Độ, lực lượng Hồi
giáo cực đoan ở Kashmir do Pakistan kiểm soát luôn thực hiện các âm mưu châm ngòi nổ cho
một cuộc chiến tranh mới. Từ năm 2001 đến nay, những kẻ Hồi giáo cực đoan đã tiến hành nhiều
cuộc khủng bố vào các cơ sở của Ấn Độ, gây tổn thất lớn về nhân mạng và tài sản, đẩy hai nước
đến trước nguy cơ đối đầu quân sự. Đáng kể là cuộc khủng bố 10/2001 của lực lượng chống đối
Hồi giáo vào văn phòng lập pháp bang ở vùng Kashmir do Ấn Độ kiểm soát làm 40 người thiệt
mạng; tháng 12/2001 vụ khủng bố Toà nhà Quốc hội Ấn Độ làm 14 người thiệt mạng; ngày
7/7/2008, một vụ đánh bom xe vào Đại sứ quán Ấn Độ ở Kabul được cả chính quyền
Afghanistan và Ấn Độ khẳng định có bằng chứng cho thấy các cơ quan tình báo Pakistan có dính
lứu đến cuộc tấn công; tháng 11/2008, một nhóm khủng bố được cho là có căn cứ ở Pakistan đã
tiến hành cuộc khủng bố kinh hoàng ở Mumbai làm khoảng 165 người thiệt mạng…Những diễn
biến đó luôn đẩy quan hệ hai nước đến chỗ đối đầu quân sự.
Sẽ là thảm họa lớn xuất phát từ mâu thuẫn không được hóa giải dẫn đến một cuộc xung đột,
mở rộng thành một cuộc chiến tranh thông thường và leo thang thành một cuộc chiến tranh hạt
nhân. Xuất phát từ mục tiêu duy trì hòa bình khu vực Nam Á, Mỹ luôn can dự tích cực để tháo
ngòi nổ cho những nguy cơ dẫn đến xung đột quân sự giữa hai nước, vì bất kể cuộc chiến nào
giữa Ấn Độ và Pakistan xảy ra lúc này sẽ gây bất lợi lớn tới nhiệm vụ chống khủng bố mà Mỹ
đang theo đuổi ở Afghanistan. Hơn nữa, chiến tranh sẽ gây mất ổn định khu vực, tổn hại đến
những lợi ích kinh tế mà người Mỹ đang có được từ khu vực này. Ngoài ra, một cuộc chiến trong
tương lai xảy ra sẽ gây khó khăn cho Mỹ trong việc ứng xử với hai bên.
Vụ khủng bố tòa nhà Quốc hội Ấn Độ tháng 12/2001 đẩy hai quốc gia thù địch ở Nam Á này
đến trước bờ vực của cuộc chiến tranh. Khoảng 700.000 quân Ấn Độ đã được chuyển đến dọc
biên giới Ấn Độ - Pakistan. Pakistan đã phản ứng tương tự khi ra lệnh điều các đơn vị từ khu vực
biên giới với Afghanistan chuyển về khu vực biên giới với Ấn Độ và đe dọa chống lại cuộc tấn
công quân sự của Ấn Độ bằng lực lượng thông thường và hạt nhân [69]. Cộng đồng quốc tế kêu
gọi hai bên kiềm chế, các quốc gia có nhiều lợi ích ở đây tiến hành hàng loạt các hoạt động ngoại
giao tháo ngòi nổ. Trong khi tiến hành các hoạt động ngoại giao, cộng đồng quốc tế gây áp lực
lên Pakistan đòi quốc gia này có những biện pháp ngăn chặn các hành động thâm nhập qua biên
giới của các phần tử Hồi giáo cực đoan, không để lãnh thổ của mình thành nơi trú ẩn an toàn cho
các tổ chức khủng bố. Trước những áp lực từ cộng đồng quốc tế và đe dọa sử dụng vũ lực của Ấn
Độ, Tổng thống Musharraf đã đưa ra cam kết chấm dứt sự tồn tại hiện thời của các tổ chức khủng
bố trên lãnh thổ Pakistan. Ông đặt ra ngoài vòng pháp luật 5 nhóm phiến quân, những nhóm
thường xuyên bị nêu tên trong những vụ tấn công trên lãnh thổ Ấn Độ.
Dù vậy, khủng bố vẫn không bị tiêu diệt hoàn toàn. Các vụ thâm nhập vào khu vực Kashmir
do Ấn Độ kiểm soát vẫn tiếp tục diễn ra. Tháng 3/2002, căng thẳng sau vụ khủng bố tòa nhà
Quốc hội Ấn Độ chưa lắng dịu, một vụ tấn công khủng bố khác vào căn cứ quân sự Ấn Độ ở
Kaluchak giết chết 34 người đã đẩy quan hệ Ấn Độ - Pakistan trở lại bờ vực của chiến tranh. Một
lần nữa những nỗ lực quốc tế làm giảm căng thẳng giữa hai bên lại diễn ra. Trong những nỗ lực
này, nhiều quan chức cao cấp của Mỹ đã tham gia vào để ngăn không cho hai bên đi đến chỗ sử
dụng vũ lực, đồng thời kêu gọi đàm phán giải quyết mâu thuẫn [75].
Bộ ba quan hệ Mỹ, Ấn Độ, Pakistan lúc này thường ở thế cân bằng. Mỹ cố gắng không
nghiêng về bên nào. Trước những sự kiện như trên, chính sách của Mỹ là chủ động tiến hành các
hoạt động ngoại giao không để mâu thuẫn đôi bên dẫn đến chiến tranh, gây bất lợi cho những
mục tiêu mà Mỹ đang theo đuổi ở khu vực này. Tuy nhiên, từ sau cuộc viếng thăm chính thức
của Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh tới Mỹ tháng 7/2005, chính sách của Mỹ đối với Ấn Độ
đã chuyển sang giai đoạn mới. Không bao lâu sau đó, tháng 3/2006, Tổng thống Bush tiến hành
chuyến thăm 3 ngày tới Ấn Độ để thảo luận tăng cường hơn nữa một “đối tác toàn cầu” song
phương. Bản Chiến lược an ninh quốc gia Mỹ năm 2006 của Mỹ khẳng định rằng “Ấn Độ hiện
nay đã sẵn sàng gánh vác nghĩa vụ toàn cầu trong việc hợp tác với Mỹ trong thẩm quyền phù hợp
với một cường quốc” [77, tr 14]. Những chuyển biến này dẫn đến Mỹ có quan điểm nghiêng về
Ấn Độ trước những vấn đề có liên quan tới Pakistan. Điều này được thể hiện trong những sự kiện
tiếp sau đó.
Tháng 11/2008, 10 tên khủng bố được trang bị vũ khí đã tiến hành những vụ khủng bố kinh
hoàng vào thành phố Mumbai ở Ấn Độ. Trước bằng chứng cho thấy cuộc khủng bố liên quan đến
nhóm Hồi giáo có căn cứ ở Pakistan, Mỹ đã tỏ thái độ lên án cuộc khủng bố. Cả Tổng thống
Bush và Tổng thống đắc cử Obama lúc bấy giờ đều đưa ra những tuyên bố ngay lập tức hỗ trợ và
chia buồn tới chính quyền và người dân Ấn Độ. Quốc hội Mỹ thông qua nghị quyết Hak 1532
vào 10/12, theo đó lên án cuộc tấn công, đồng ý chia buồn, hỗ trợ cho người dân và chính quyền
Ấn Độ, đồng thời bày tỏ mong muốn Quốc hội Mỹ cải thiện hợp tác giữa Ấn Độ với Mỹ để chiến
đấu chống khủng bố và thúc đẩy an ninh quốc tế. Nghị quyết cũng kêu gọi chính quyền Pakistan
hợp tác đầy đủ với Ấn Độ để đưa những kẻ có tội ra toà và không để lãnh thổ Pakistan trở thành
nơi “cung cấp một vùng trú ẩn và huấn luyện an toàn cho những tên khủng bố” [77, tr 6].
Tháng 12, Ấn Độ nhận được sự ủng hộ khác từ cộng đồng quốc tế, trong đó có Mỹ, khi Hội
đồng An ninh Liên Hợp Quốc đã phê chuẩn các cáo buộc liên hệ với khủng bố đối với tổ chức
Jamaat-ud-Dawa (JuD), một tổ chức từ thiện trên danh nghĩa có cơ sở tại Pakistan.
3.2.2.Xúc tiến hợp tác hạt nhân dân sự với Ấn Độ
Vấn đề phát triển hạt nhân là một trong những trở ngại lớn tới quan hệ Mỹ - Ấn. Năm 1968,
Ấn Độ được đề nghị ký Hiệp ước không phổ biến hạt nhân (NPT), nhưng Ấn Độ cho là phân biệt
đối xử nên từ chối ký kết hiệp định này. Việc từ chối đã khiến họ không tiếp cận được nhiên liệu
và những vật liệu liên quan đến hạt nhân trên thị trường quốc tế trong hơn 3 thập kỷ. Tuy nhiên,
quyết tâm có được loại năng lượng này, Ấn Độ đã bí mật nghiên cứu trong nhiều thập niên. Năm
1974, Ấn Độ đã tiến hành vụ nổ thử nghiệm đầu tiên. Năm 1998, Ấn Độ lại tiến hành 5 vụ nổ
liên tiếp. Thành công từ những vụ nổ này khiến Ấn Độ được coi như một quốc gia hạt nhân.
Sau những vụ nổ hạt nhân, Ấn Độ đối diện với những lệnh trừng phạt từ Mỹ và cộng đồng
quốc tế. Tuy nhiên, Mỹ nhận thấy biện pháp này không ngăn chặn được mong muốn sở hữu hạt
nhân của Ấn Độ, trái lại có nguy cơ đẩy Ấn Độ ra xa Mỹ khiến không kiểm soát được hoạt động
chuyển giao nguyên liệu hay công nghệ hạt nhân cho nước thứ ba. Do vậy, một mặt Mỹ vẫn thúc
đẩy Ấn Độ tham gia vào Hiệp ước không phổ biến hạt nhân (NPT), mặt khác Mỹ lựa chọn hợp
tác hạt nhân dân sự với Ấn Độ, qua đó kiểm soát hoạt động này của họ. Đây là sự chuyển biến cơ
bản trong quan điểm của Mỹ về vấn đề hạt nhân Ấn Độ trong thập kỷ này.
Trong bản Tuyên bố chung Mỹ - Ấn Độ tháng 7/2005, Mỹ đã coi Ấn Độ là “đối tác toàn
cầu”, đồng thời nhiều vấn đề hợp tác hai bên trong tương lai với Ấn Độ đã được nhắc đến. Bản
tuyên bố này cũng khẳng định rằng “như một quốc gia có trách nhiệm với công nghệ hạt nhân
tiến bộ, Ấn Độ nên có được những lợi ích và lợi thế giống như các quốc gia khác” và Tổng thống
Bush cam kết ông sẽ hành động để hoàn thành “hợp tác năng lượng hạt nhân dân sự toàn diện với
Ấn Độ”. Tuyên bố của người đứng đầu nước Mỹ được đánh giá như một sự đảo ngược trong suốt
3 thập niên theo đuổi đường lối ép buộc Ấn Độ chấp nhận chính sách không phổ biến của Mỹ.
Đổi lại, chấp nhận hợp tác hạt nhân dân sự với Mỹ, Ấn Độ phải để cho các thanh sát viên quốc tế
tiếp cận các cơ sở hạt nhân của họ. Đây là một điều kiện không dễ chấp nhận đối với Ấn Độ nên
hai bên đã đi đến đồng ý thực hiện từng giai đoạn phân loại những cơ sở hạt nhân quân sự và dân
sự, đồng thời đặt các cơ sở hạt nhân dân sự dưới sự thanh sát quốc tế.
Tháng 3/2006, Tổng thống Bush và Thủ tướng Singh đã đưa ra một Tuyên bố chung khác,
theo đó thông báo “hoàn tất thành công kế hoạch phân loại các cơ sở hạt nhân”. Đây là kết quả
của những tháng thương lượng khó khăn và phức tạp để đạt được một kế hoạch phân loại các cơ
sở hạt nhân dân sự và quân sự theo Tuyên bố chung 2005. Kế hoạch này yêu cầu, đến trước năm
2014, Ấn Độ chuyển 14 trong số 22 lò phản ứng hạt nhân vào trong sự giám sát vĩnh viễn của
quốc tế và đặt tất cả những lò phản ứng dân sự trong tương lai dưới sự bảo vệ an toàn vĩnh viễn.
Về phía Mỹ, để đạt được hợp tác hạt nhân dân sự với Ấn Độ trong thực tế Ấn Độ chưa tham
gia vào Hiệp ước không phổ biến hạt nhân, Mỹ phải có hàng loạt những thay đổi pháp lý, các
chính sách của mình đối với lĩnh vực hợp tác hạt nhân, cũng như tiếp cận Nhóm các nhà cung
cấp hạt nhân quốc tế (NSG: bao gồm 46 quốc gia tiên tiến đã tham gia NPT, thiết lập các quy tắc
thương mại hạt nhân toàn cầu) trong nỗ lực điều chỉnh những nguyên tắc của chế độ không phổ
biến, điều đã được thiết lập bởi sự nhất trí của các thành viên. Tuy nhiên vì mục tiêu chiến lược
trong vấn đề hạt nhân với Ấn Độ, chính quyền Mỹ đã chủ động tháo gỡ từng bước khó khăn để đi
đến hợp tác hạt nhân dân sự với quốc gia này.
Để đạt được sự nhất trí này, chính quyền Bush phải xua tan được những lo ngại của các nhà
lập pháp nảy sinh từ hợp tác hạt nhân với Ấn Độ. Các lo ngại tập trung ở chỗ hợp tác hạt nhân sẽ
tạo thuận lợi gia tăng quy mô kho hạt nhân của Ấn Độ, khả năng dẫn tới chạy đua vũ khí hạt
nhân ở châu Á và sẽ xói mòn chế độ không phổ biến toàn cầu, đồng thời gây thiệt hại đáng kể
đến lợi ích an ninh của Mỹ.
Trong buổi họp quan trọng của Thượng viện Mỹ vào 4/2006, Ngoại trưởng Rice đã chỉ ra 5
cái lợi trong trường hợp chính quyền Bush hợp tác hạt nhân dân sự với Ấn Độ để nhận được sự
đồng ý thay đổi luật từ các nhà làm luật Mỹ. Các lợi ích mà chính quyền Bush đưa ra là: được lợi
cho an ninh Mỹ bởi đưa Ấn Độ vào trong “xu hướng chủ đạo của không phổ biến”; được lợi cho
người tiêu dùng Mỹ bởi giảm áp lực trên thị trường năng lượng toàn cầu, đặc biệt là năng lượng
hóa thạch; được lợi cho môi trường bởi giảm khí gây hiệu ứng nhà kính; được lợi cho lợi ích
thương mại của Mỹ thông qua bán cho Ấn Độ những lò phản ứng, nhiên liệu và dịch vụ hỗ trợ
hạt nhân; được lợi từ cải thiện mở rộng “đối tác toàn cầu” Mỹ - Ấn Độ.
Mặc dù nhận thấy những lợi ích từ hợp tác hạt nhân dân sự với Ấn Độ, các nhà lập pháp Mỹ
vẫn lo ngại về khả năng Ấn Độ lợi dụng hợp tác hạt nhân với Mỹ để mở rộng kho hạt nhân của
mình khiến cơ quan hành pháp và cơ quan lập pháp Mỹ phải trải qua nhiều tranh luận, điều chỉnh
mới đi đến thông qua đạo luật cho phép chính quyền Mỹ tiến hành hợp tác hạt nhân với Ấn Độ.
Những trở ngại quan trọng là các nhà làm luật yêu cầu cơ quan hành pháp phải đảm bảo nếu Ấn
Độ tiến hành một thử nghiệm hạt nhân trong tương lai, người Mỹ sẽ thu hồi ngay lập tức các thiết
bị hạt nhân đã cung cấp cho Ấn Độ, đồng thời Mỹ cũng không đi đến cam kết cung cấp nguyên
liệu hạt nhân vĩnh viễn cho Ấn Độ, điều mà chính quyền Bush biết chắc không thể nhận được sự
chấp thuận từ Ấn Độ.
Ngày 18/9/2008, Ủy ban đối ngoại Thượng viện Mỹ tổ chức một cuộc điều trần để xem xét
bước lập pháp cuối cùng của thỏa thuận hạt nhân dân sự với Ấn Độ. Trong phát biểu khai mạc,
Quyền Chủ tịch Thượng nghị sỹ Chris Dodd thừa nhận rằng thỏa thuận đã không hoàn hảo,
nhưng cho rằng nó vẫn phải được phê chuẩn nhanh chóng như một cột mốc quan trọng trong
quan hệ Mỹ - Ấn Độ [77, tr 44]. Người đại diện của chính quyền, Thứ trưởng Ngoại giao
William Burns, trả lời các quan tâm của các thành viên Thượng viện rằng sự đảm bảo cung cấp
nguyên liệu cho Ấn Độ là cam kết mang tính chính trị hơn là pháp lý. Đối với lo ngại từ các
thành viên của Ủy ban về khả năng Ấn Độ lợi dụng thỏa thuận này để gia tăng kho hạt nhân thì
Burns cho biết New Delhi đã công khai tuyên bố họ không có “ý định gia tăng đáng kể kho vũ
khí hạt nhân của họ”[77, tr 44].
Ngày 27/9, dự luật phê chuẩn Hiệp định 123 (H.R 7081), được thông qua áp đảo ở Hạ viện
trong cuộc bỏ phiếu với 298 phiếu thuận trên 117 phiếu chống. Ở Thượng viện vẫn có những bất
đồng nhưng sau đó đã được giải quyết và ngay 1/10/2008, Thượng viện cũng đã thông qua với
kết quả áp đảo với 86 phiếu thuận trên 13 phiếu chống. Một tuần sau, Tổng thống Bush đã ký
thành luật kết thúc một thời gian dài tranh luận. Sự nỗ lực của chính quyền Bush thuyết phục
Quốc hội đồng ý thỏa thuận hạt nhân dân sự Mỹ - Ấn Độ cho thấy không chỉ lợi ích hạt nhân mà
đường sau đó là tầm quan trọng của Ấn Độ trong chính sách của Mỹ.
3.2.3.Tăng cường hợp tác kinh tế song phương
Địa – chính trị và địa – kinh tế luôn có quan hệ mật thiết và bổ sung cho nhau. Khai thác địa
– chính trị cũng nhằm đạt được những lợi ích quốc gia, trong đó có lợi ích kinh tế. Khi đặt được
những ảnh hưởng của mình ở một khu vực địa – chính trị nào đó, họ luôn tìm kiếm những lợi ích
địa – kinh tế. Ngược lại, thặt chặt quan hệ kinh tế ở một khu vực địa lý nào đó cho phép họ duy
trì ảnh hưởng lên địa – chính trị khu vực này. Chính sách của Mỹ ở Ấn Độ cũng không ngoại lệ.
Sau những thập niên căng thẳng, chính phủ Mỹ và Ấn Độ đang theo đuổi một “đối tác chiến
lược” dựa trên những lợi ích đan xen, chia xẻ giá trị và cải tiến quan hệ kinh tế thương mại. Ấn
Độ đang ở giữa thời kỳ mở rộng kinh tế nhanh chóng và nhiều công ty Mỹ xem Ấn Độ như là
một thị trường hấp dẫn và là ứng viên cho đầu tư nước ngoài. Về phần mình, chính phủ Ấn Độ
hiện thời tiếp tục kiên định cuộc cải cách kinh tế đã bắt đầu vào năm 1991, nhằm mục đích
chuyển đổi một nền kinh tế gần như Xã hội Chủ nghĩa thành một nền kinh tế mở rộng hơn, định
hướng thị trường. Tuy nhiên chính phủ Mỹ vẫn cho rằng cải cách kinh tế Ấn Độ là quá chậm
chạp và không đều.
Thương mại và đầu tư dân sự
Thương mại buôn bán hai chiều tăng trưởng từ 6 tỷ USD năm 1990 lên 33 tỷ USD năm 2006.
Mặc dù, Ấn Độ chỉ là thị trường xuất khẩu lớn thứ 21 của Mỹ năm 2006, Mỹ đã trở thành đối tác
thương mại hàng đầu của Ấn Độ, chủ yếu là do sự tăng trưởng xuất khẩu của Ấn Độ vào Mỹ.
Tuy nhiên, sự gia tăng thương mại gần đây với Trung Quốc khiến nước này đứng thứ 2 và rất gần
với Mỹ. Năm 2006, thâm hụt thương mại song phương của Mỹ với Ấn Độ tổng cộng là 13 tỷ
USD. Năm 2006, GDP của Ấn Độ đạt 9,2%, tỷ lệ gia tăng đứng thứ hai sau Trung Quốc trong số
các quốc gia Châu Á. Hiện đang có sự gia tăng lo lắng rằng tăng trưởng kinh tế Ấn Độ là “quá
nóng”, bằng chứng là tỷ lệ tăng của lạm phát cao. Đây là nguy cơ tiềm ẩn có thể làm tổn hại công
cuộc cải cách của Ấn Độ.
Bất chấp sự tự do hóa đáng kể trong chính sách đầu tư và thương mại của Ấn Độ, vẫn có một
số những vấn đề khó khăn trong thương mại song phương và đa phương giữa Ấn Độ và Mỹ. Mỹ
tìm kiếm cách tiếp cận lớn hơn đối với thị trường nông nghiệp của Ấn Độ và những lĩnh vực dịch
vụ chủ chốt đối với xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài của họ. Mỹ cũng lo ngại về “gia
công” và cũng muốn thấy những cải thiện trong bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Về phần mình Ấn
Độ kêu gọi hạ thấp các rào cản của Mỹ đối với nhập khẩu dịch vụ và nông nghiệp cũng như mở
rộng chương trình visa H-1B.
Trong thương mại Ấn Độ đang có xu hướng xuất siêu sang thị trường Mỹ khiến các thành
viên Quốc hội Mỹ lo ngại làm mất công ăn việc làm của người Mỹ. Năm 1996, Ấn Độ là thị
trường xuất khẩu thứ 32 và thị trường nhập khẩu thứ 25 của Mỹ. Đến 2006, Ấn Độ đã vươn lên là
thị trường xuất khẩu thứ 21 và thị trường nhập khẩu lớn thứ 18 của Mỹ. Tổng thương mại của
Mỹ với Ấn Độ năm 2006 vượt quá giá trị thương mại với Irael, Nigeria và Thailand. Năm 2006,
Mỹ mua 17,4% hàng hóa xuất khẩu của Ấn Độ, nhưng Ấn Độ chỉ nhập 5,9% hàng hóa từ Mỹ.
Kết quả là Mỹ trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Ấn Độ và là thị trường nhập khẩu thứ
ba của quốc gia này.
Nhiều loại hàng hóa được đưa vào danh mục trao đổi buôn bán giữa Mỹ và Ấn Độ, nhưng có
5 loại hàng hóa xuất khẩu hàng đầu của Mỹ tới Ấn Độ lần lượt là: máy móc thiết bị nói chung,
máy móc điện tử, dụng cụ quan học, dụng cụ y tế, máy bay các loại. Tương tự hàng hóa xuất
khẩu từ Ấn Độ tới thị trường Mỹ là đồ trang sức, quần áo dệt, may mặc dệt kim và các sản phẩm
dệt khác.
Trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài, FDI của Mỹ ở Ấn Độ hiện thời gia tăng ngang
với gia tăng trong thương mại song phương. Sau thời kỳ tăng trưởng đều đặn trong những năm
1990, từ 2001 – 2005, theo nguồn dữ liệu của Mỹ, quốc gia này đã tăng đột ngột đầu tư trực tiếp
vào Ấn Độ. Nếu trong 10, năm từ 1990 đến 2000, đầu tư trực tiếp nước ngoài của Mỹ ở Ấn Độ
tăng từ 372 triệu USD lên 2,4 tỷ USD, thì trong 5 năm kế tiếp, đầu tư trực tiếp nước ngoài của
Mỹ ở quốc gia Nam Á này tăng đến 8,5 tỷ USD. Dự báo trong 15 năm tới tổng giá trị FDI của
Mỹ ở Ấn Độ sẽ tăng gấp 22 lần.
Mặc dù gia tăng nhanh trong đầu tư của Mỹ ở Ấn Độ, quốc gia này vẫn được đánh giá là
điểm đến tương đối nhỏ của các nhà đầu tư Mỹ ở nước ngoài. Đầu tư của Mỹ ở Ấn Độ bằng ½ số
lượng đầu tư của họ ở Trung Quốc, chưa bằng ¼ số lượng đầu tư ở Hong Kong và gần bằng 1/6
số lượng đầu tư của Mỹ ở Singapore. Theo thống kê của Mỹ, đến năm 2005, Ấn Độ xếp thứ 31
trong số các quốc gia có đầu tư trực tiếp của họ. Tuy nhiên, theo thống kê của Ấn Độ, cho đến
2005, Mỹ có 4,913 tỷ USD tiền trong các dự án đầu tư ở Ấn Độ, đưa Mỹ trở thành nước đứng thứ
2 trong số các quốc gia có vốn đầu tư ở Ấn Độ và chiếm tới 16,1% tổng số đầu tư nước ngoài
trực tiếp ở Ấn Độ.
Hiện nay đang có sự gia tăng quan trọng các công ty Mỹ tìm kiếm cơ hội đầu tư ở Ấn Độ.
Các công ty đa quốc gia đang làm ăn ở Trung Quốc dự đoán chi phí lao động tăng và sẽ ngày
càng thiếu lao động tại đây trong tương lai. Trong khi đó, Ấn Độ là quốc gia rộng lớn, lực lượng
lao động trẻ có giáo dục và kỹ năng nói tiếng Anh tốt, đang ngày càng trở nên hấp dẫn họ.
Cho đến năm 2007, Ấn Độ và Mỹ chưa có ký kết thỏa thuận thương mại song phương hay
hiệp định đầu tư song phương. Quan hệ thương mại song phương của họ chủ yếu bị chi phối bởi
các điều khoản đối với cương vị thành viên của họ trong các tổ chức đa phương như WTO và
IMF.
Thương mại quốc phòng
Ấn Độ được xem như là một thị trường lớn và tiềm năng đối với các hãng xuất khẩu thiết bị
quân sự và công nghệ sử dụng hai mục đích (quân sự và dân sự) của Mỹ. Từ năm 1998 đến 2005,
Ấn Độ là nhà mua bán thiết bị quân sự hàng đầu trong số ít các quốc gia công nghiệp, ký kết các
thỏa thuận chuyển giao vũ khí trị giá 20,7 tỷ USD. Hầu hết các thỏa thuận được thực hiện với
Nga, quốc gia có quan hệ mua bán các thiết bị quân sự lâu với Ấn Độ. Ngân sách mua bán quân
sự trong tương lai của Ấn Độ có thể lên tới khoảng 35 tỷ USD trong hai thập niên tới. Các quan
chức chính quyền Ấn Độ và Mỹ khẳng định rằng thương mại quốc phòng lớn hơn trong tương lai
nên được xem là diện mạo quan trọng trong quan hệ song phương.
Theo kết quả của sự gia tăng chi phí quốc phòng của New Delhi, vấn đề bán vũ khí Mỹ - Ấn
Độ được gia tăng trong những năm gần đây. Năm 2002, Lầu Năm góc thương lượng bán cho Ấn
Độ 12 ra đa phản pháo trị giá tổng cộng 190 triệu USD. Năm 2004, một thỏa thuận được ký lên
tới 40 triệu USD cho hệ thống tự bảo vệ máy bay được gắn trên các máy bay Boeing 737 chuyên
chở các nhà lãnh đạo chính phủ Ấn Độ. Mỹ cũng cho phép Israel bán cho Ấn Độ hệ thống cảnh
báo sớm trên không Phalcon (hệ thống được hợp tác phát triển chung Mỹ - Israel), một tài sản đắt
tiền mà một số nhà phân tích cho rằng có thể làm nghiêng cân bằng chiến lược khu vực có lợi
hơn cho Ấn Độ [77, tr 49]. Năm 2006, Ấn Độ chấp thuận một kế hoạch trị giá 44 triệu USD mua
tàu đổ bộ đã ngưng hoạt động USS Trenton. Con tàu lớn thứ 2 trong lực lượng hải quân Ấn Độ
này, được tân trang lại và biên chế trong lực lượng hải quân Ấn Độ với tên gọi INS Jalashwa vào
tháng 7/2007 [77, tr 50]. Lầu Năm góc cho biết các thỏa thuận buôn bán quân sự với Ấn Độ trong
những năm tài chính từ 2002 đến 2006 trị giá 336 triệu USD.
Tháng 1/2008, Washington và New Delhi hoàn tất một thỏa thuận chuyển tới Ấn Độ 6 máy
bay vận tải quân sự C-130J Hercules. Đây là thỏa thuận buôn bán quốc phòng chưa từng thấy của
Mỹ cho Ấn Độ, thỏa thuận trị giá gần 1 tỷ USD do nhà sản xuất máy bay Lockheed Martin thực
hiện. New Delhi hi vọng sớm có được 24 tên lửa đất đối biển Harpoon Block II với giá trị lên tới
170 triệu USD và đang sắp xếp để nhận hơn 500 quả bom trọng lực trị giá 375 triệu USD. Tháng
1/2009, New Delhi đã ký một thỏa thuận trị giá 2,1 tỷ USD để mua 8 máy bay tuần duyên P-81
của hãng Boeing, dự kiến sẽ được giao năm 2013. Những chiếc máy bay này cũng cung cấp khả
năng chống tàu ngầm. Thương vụ buôn bán này sẽ lập kỷ lục mới về việc chuyển giao vũ khí Mỹ
chưa từng có cho Ấn Độ.
Tuy nhiên chính phủ Ấn Độ cho biết họ mong muốn sở hữu một loạt các loại vũ khí do Mỹ
chế tạo, bao gồm hệ thống chống tên lửa PAC – 3, hệ thống chiến tranh điện tử và thậm chí là
máy bay chiến đấu. Năm 2005, Tuyên bố của chính phủ Bush về “chiến lược mới đối với Nam
Á” bao gồm các xác nhận rằng Mỹ hoan nghênh các yêu cầu của Ấn Độ đối với thông tin có thể
mua máy bay chiến đấu F-16 hoặc máy bay chiến đấu đa chức năng F/A – 18 và chỉ ra rằng
Washington “sẵn sàng thảo luận bán các hệ thống chuyển đổi trong các lĩnh vực như chỉ huy và
kiểm soát, cảnh báo sớm và phòng thủ tên lửa”.
Mặc dù quan hệ Mỹ - Ấn Độ ngày càng tốt đẹp, các công ty sản xuất quân sự phải cạnh tranh
quyết liệt với các công ty đến từ các quốc gia khác. Hãng Lookheed Martin và hãng Boeing đang
phải cạnh tranh ở Ấn Độ với các loại máy bay được sản xuất ở Nga, Pháp, Thụy Điển. Để mở
rộng thị phần các công ty quốc phòng Mỹ tích cực tham gia giới thiệu mình. Tháng 2/2007, tại
cuộc triển lãm 2 năm một lần ở Bangalore có 52 công ty Mỹ đã trưng bày các sản phẩm của họ
để tìm kiếm các hợp đồng. Theo Đại sứ Mỹ, Mulford, Mỹ mong muốn các công ty của mình
nhận được sự “đối xử thuận lợi” sau những cử chỉ của Mỹ đối với Ấn Độ. Tuy nhiên, một số
quan chức hàng đầu của Ấn Độ bày tỏ lo ngại rằng Mỹ là một đối tác “hay thay đổi”, điều dẫn
đến không tin cậy rằng Mỹ có thể cung cấp chuyển giao công nghệ cao, nhạy cảm cho Ấn Độ.
Đối với các loại hàng hóa sử dụng hai mục đích (dân sự và quân sự), các công ty Mỹ muốn
xuất khẩu những sản phẩm này tới Ấn Độ phải có được giấy phép xuất khẩu từ Văn phòng Sở
Thương mại Công nghiệp và An ninh. Thêm vào đó, một số hàng xuất khẩu khác là đối tượng
xác minh để đảm bảo rằng các lô hàng không được tái xuất khẩu tới các quốc gia bị hạn chế khác.
Tầm quan trọng của một bạn hàng tiềm năng như Ấn Độ, đặt trong chính sách coi trọng Ấn Độ ở
thập kỷ này, Sở Thương mại Công nghiệp và An ninh đi đến chỉ duy trì một danh sách hạn chế
các đối tượng mà công nghệ sử dụng hai mục đích nói chung là bị cấm.
Tháng 2/2007, cuộc họp của Nhóm công tác Công nghệ cao Mỹ - Ấn Độ có thảo luận sâu
rộng về khả năng gỡ bỏ một số hoặc tất cả các công ty Ấn Độ từ danh sách các đối tượng của Sở
Thương mại Công nghiệp và An ninh, cũng như loại bỏ hoặc giảm các hạn chế trong thương mại
công nghệ sử dụng hai mục đích với Ấn Độ. Tuy nhiên có một số dấu hiệu cho thấy Mỹ muốn
Ấn Độ thắt chặt chế độ kiểm soát xuất khẩu trước khi họ nới lỏng kiểm soát xuất khẩu tới Ấn Độ.
Bên cạnh đó, bất chấp sự gia tăng thương mại song phương và sự cải thiện quan hệ thương
mại, vẫn có một số những vấn đề cản trở thương mại và kinh tế giữa hai nước. Hai nước tìm kiếm
sự tiếp cận thị trường của mỗi bên, đồng thời muốn đối tác hạ thấp các rào cản thương mại. Hơn
nữa, cả Ấn Độ và Mỹ muốn thấy những thay đổi trong điều chỉnh chính sách và luật pháp nhằm
bảo vệ và thúc đẩy xuất khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài của mỗi bên.
Ngoài ra, Chính phủ Bush cho rằng chính phủ Singh phải thúc đẩy hơn nữa hoạt động cải
cách kinh tế của họ. Tháng 9/2006, đại sứ Mỹ ở New Delhi cho rằng môi trường kinh doanh của
Ấn Độ hiện có những thuận lợi hơn để đầu tư và buôn bán, nhưng đã có những tín hiệu tạm
ngưng trong tiến trình cải cách. Tư nhân hóa đã dừng lại và thực tế chính trị cho thấy rằng cải
cách những lĩnh vực chủ chốt khác và những chính sách quan tâm chủ yếu tới các nhà đầu tư sẽ
mất nhiều thời gian hơn so với những gì hình dùng được.
Tóm lại, trong hai lĩnh vực thương mại, Ấn Độ là nhà xuất khẩu hàng hóa dân sự sang thị
trường Mỹ, ngược lại Mỹ xuất khẩu hàng quân sự trị giá hàng tỷ đô la sang Ấn Độ. Hoạt động
đầu tư kinh tế và thương mại ngày càng phát triển đang thắt chặt các mối quan hệ khác của hai
bên, góp phần xây dựng “đối tác chiến lược” hai bên trong thực chất.
3.2.4.Hợp tác không gian dân sự và hợp tác công nghệ cao
Vai trò địa – chính trị Ấn Độ ở Nam Á trong thế kỷ XXI được đánh giá cao, nhưng để tạo
ảnh hưởng bền lâu lên khu vực địa – chính trị này Mỹ cần đánh giá lại những chính sách gây mất
niềm tin chính trị với Ấn Độ. Tham vọng chính trị của Ấn Độ hiện thời là phát triển thành một
cường quốc khu vực vươn lên thành cường quốc trên thế giới. Nền tảng cho tham vọng đó sớm
thành hiện thực là sự phát triển trong nước, trong đó có sự phát triển các lĩnh vực có hàm lượng
khoa học cao. Muốn vậy, Ấn Độ phải thúc đẩy hợp tác với các cường quốc khoa học như Mỹ.
Tuy nhiên, trong nhiều năm, lo ngại chương trình tên lửa, hạt nhân của Ấn Độ, Mỹ tiến hành hợp
tác dè dặt với Ấn Độ trong lĩnh vực này, dẫn đến Ấn Độ tìm kiếm sự hợp tác từ các cường quốc
khác như Nga. Thực tế đó gây thiệt hại không chỉ kinh tế mà còn về chính trị ngoại giao Mỹ - Ấn
Độ. Thay đổi chính sách với Ấn Độ trong lĩnh vực này là đòi hỏi phù hợp khi bối cảnh lịch sử đã
thay đổi.
Mỹ là quốc gia có trình độ khoa học không gian phát triển bậc nhất trên thế giới, có sức hấp
dẫn lớn đối với các quốc gia đang mong muốn tiến hành khai thác không gian như Ấn Độ.
Một thời gian dài từ năm 1980, Ấn Độ tìm cách tiếp cận công nghệ không gian của Mỹ, tuy
nhiên bị Mỹ giới hạn, bởi họ muốn ngăn chặn bất kỳ sự trợ giúp nào có khả năng có lợi cho
chương trình tên lửa quân sự của Ấn Độ. Vì vậy lúc này chương trình không gian được thực hiện
bởi các tên lửa đạn đạo tầm trung Agni, bên cạnh đó là sự hỗ trợ từ chương trình tên lửa đạn đạo xuyên lục địa đáng nghi ngờ Surya của Ấn Độ.
Tuyên bố chung tháng 7/2005 cho thấy bước đi mới tiến tới quan hệ chặt chẽ hơn giữa Mỹ -
Ấn Độ trong lĩnh vực thăm dò không gian, phóng và dẫn đường vệ tinh cũng như trong lĩnh vực
không gian thương mại. Các hội nghị quan trọng về khoa học và thương mại không gian Mỹ - Ấn
Độ đã được tổ chức ở Bangalore (tổng hành dinh của Tổ chức nghiên cứu không gian Ấn Độ)
trong năm 2004 và 2005. Trong chuyến viếng thăm tới Ấn Độ năm 2006 của tổng thống Bush,
hai quốc gia đã cam kết hướng tới những thỏa thuận theo đó cho phép phóng vệ tinh của Mỹ và
vệ tinh có chứa các thiết bị của Mỹ được thực hiện bởi phương tiện phóng tàu không gian của Ấn
Độ. Sau đó họ đã đồng ý đặt 2 thiết bị khoa học của Mỹ trên tàu vũ trụ không người lái đầu tiên
của Ấn Độ được lên kế hoạch phóng vào 2008.
Năm 2007, một cuộc họp của Nhóm làm việc chung Mỹ - Ấn Độ trên vấn đề hợp tác không
gian dân sự đã được tổ chức ở Washington. Tại đây các thành viên tham dự đã bày tỏ sự hài lòng
về sự phát triển quan hệ song phương trong lĩnh vực hàng không vũ trụ của 2 quốc gia. Ngày
22/10/2008, Ấn Độ phóng tàu thăm dò Chandrayaan-1 tới quỹ đạo mặt trăng và tiến hành khảo
sát bề mặt của nó. Sự kiện này đánh dấu sự nổi lên của Ấn Độ như một quốc gia quan trọng trong
thăm dò không gian. Sứ mệnh mặt trăng thành công đã làm thay đổi vị thế quốc gia của Ấn Độ,
biến nước này trở thành một đối thủ cạnh tranh tiềm năng trong ngành kinh doanh phóng vệ tinh
béo bở.
Trong lĩnh vực công nghệ cao, Mỹ không cho phép các công ty của họ tự do buôn bán với
các quốc gia khác. Các hoạt động buôn bán này phải được sự chấp nhận của chính quyền Mỹ.
Trong một thời gian dài Ấn Độ cũng không nằm ngoài quy định đó. Bộ Thương mại Mỹ cho biết,
ít nhất 0,5% tổng giá trị thương mại với Ấn Độ hiện nay yêu cầu phải được cấp phép, trong số
đó, đại đa số những hàng hóa sử dụng hai mục đích bán cho Ấn Độ phải được phê duyệt bằng
giấy phép (khoảng 95% vào năm 2007).
Tháng 7/2003, Nhóm hợp tác công nghệ cao Mỹ - Ấn Độ tiến hành phiên khai mạc. Tại đây
các viên chức thảo luận một loạt các vấn đề mở rộng có liên quan nhằm gia tăng điều kiện cho
thương mại công nghệ cao song phương. Tại phiên họp 2007, Bộ trưởng Thương mại Mỹ Carlos
Gutierrez công bố một chương trình “khách hàng tin cậy” được thiết kế để tạo điều kiện thuận lợi
hơn cho thương mại công nghệ cao với Ấn Độ. Cuộc họp tổ chức ở New Delhi vào 2/2008 cũng
nhằm mục đích thúc đẩy hợp tác công nghệ cao Mỹ - Ấn Độ. Trước đó, tháng 10/2007, Phòng
Thương mại Công nghiệp và An ninh Mỹ chính thức chỉ định Ấn Độ như là một quốc gia đủ điều
kiện dưới chương trình “Người dùng đầu cuối hợp lệ”. Sự chỉ định này sẽ cho phép những nhà
mua bán Ấn Độ đáng tin cậy nhất được phép mua hàng hóa công nghệ cao mà không cần giấy
phép riêng biệt.
Trước đó, kể từ năm 1998, một số tổ chức của Ấn Độ bị yêu cầu phải được cấp phép từng
trường hợp cụ thể và họ có tên trong “danh sách các tổ chức” kiểm soát xuất khẩu của Mỹ, vì có
dính líu vào hoạt động phổ biến vũ khí. Năm 2004, Mỹ sửa đổi một số chính sách giấy phép xuất
khẩu và loại bỏ Cơ quan đầu não Tổ chức nghiên cứu không gian Ấn Độ (ISRO) ra khỏi danh
sách các tổ chức kiểm soát xuất khẩu. Đến năm 2005 tiến hành điều chỉnh hơn nữa khi hơn 6 đơn
vị cấp dưới đã được gỡ bỏ. Sau năm này, các tổ chức Ấn Độ vẫn còn trong danh sách các tổ chức
kiểm soát xuất khẩu là 4 cấp dưới của ISRO, 4 cấp dưới của Tổ chức phát triển và nghiên cứu
quốc phòng, 3 cơ quan năng lượng nguyên tử và công ty trách nhiệm hữu hạn Bharat Dynamics,
một công ty sản xuất tên lửa.
Hợp tác công nghệ cao trong quốc phòng giữa Mỹ và Ấn Độ cũng đang được thúc đẩy. Năm
2005 phiên khai mạc của Nhóm công tác Quốc phòng công nghệ cao Mỹ - Ấn Độ được tổ chức
dưới sự bảo trợ của Nhóm hợp tác công nghệ cao Mỹ - Ấn Độ.
3.2.5.Hợp tác an ninh quốc phòng
Một trong những lợi ích địa – chính trị Ấn Độ đối với Mỹ là thúc đẩy quốc gia này trở thành
một đối trọng kiềm chế Trung Quốc. Thập niên đầu thế kỷ XXI cho thấy, Trung Quốc đang gia
tăng ảnh hưởng nhiều nơi trên thế giới, trong đó có Nam Á. Sự hiện diện của Trung Quốc ở đây
không chỉ gây lo ngại cho Ấn Độ mà còn thách thức địa vị của Mỹ ở khu vực. Cùng chung mục
tiêu, Ấn Độ và Mỹ đã tiến hành tăng cường các hoạt động hợp tác an ninh quốc phòng. Tập trận
chung, hợp tác huấn luyện, buôn bán vũ khí hiện đại… mà Mỹ đang tiến hành với Ấn Độ nhằm
hỗ trợ Ấn Độ đủ mạnh để chống lại sự đe dọa từ Trung Quốc.
Hợp tác an ninh quốc phòng với Ấn Độ cho phép Mỹ hiện diện thường xuyên hơn mà không
gặp sự phản đối từ quốc gia này ở Ấn Độ Dương. Trong bối cảnh nước Mỹ đang tiến hành cuộc
chiến tranh chống khủng bố ở Afghanistan và mâu thuẫn chưa thể hóa giải với quốc gia Hồi giáo
Iran, sự hợp tác này càng trở nên cần thiết.
Các hoạt động hợp tác an ninh quốc phòng ban đầu giữa hai nước được tiến hành ở thập niên
90 bị hủy bỏ ngay sau sự kiện Ấn Độ thử nghiệm hạt nhân. Từ cuối năm 2001, mặc dù Mỹ xích
lại gần với Pakistan và coi Pakistan như một đồng minh quan trọng trong cuộc chiến chống
khủng bố, hợp tác an ninh Mỹ - Ấn Độ đã phát triển trở lại sau những năm Ấn Độ chịu lệnh
trừng phạt. Ngoại giao Mỹ đánh giá hợp tác quân sự với Ấn Độ là khía cạnh quan trọng nhất làm
thay đổi mối quan hệ song phương. Nhóm chính sách Quốc phòng Mỹ - Ấn Độ (DPG) ngưng
hoạt động từ sau cuộc thử nghiệm hạt nhân năm 1998 của Ấn Độ đã được phục hồi hoạt động trở
lại vào 2001 và thực hiện gặp mặt hàng năm để thúc đẩy hợp tác an ninh quốc phòng giữa hai
nước.
Tháng 6/2005, Mỹ và Ấn Độ ký hiệp định quốc phòng 10 năm, trong đó phác thảo kế
hoạch hợp tác trong các hoạt động đa phương; mở rộng thương mại quốc phòng hai chiều; gia
tăng cơ hội chuyển giao công nghệ và hợp tác sản xuất; mở rộng hợp tác liên quan tới phòng thủ
tên lửa và thành lập một Nhóm sản xuất và mua sắm quốc phòng song phương. Thỏa thuận có thể
là hiệp ước an ninh đầy tham vọng được cam kết bởi New Delhi. Năm 2006, hai nước ký Hiệp
định Hợp tác an ninh hàng hải, theo đó cam kết “hợp tác toàn diện” nhằm bảo vệ con đường
thương mại tự do trên biển và giải quyết một loạt các mối đe dọa tới an ninh hàng hải mở rộng
như cướp biển, buôn bán trái phép vũ khí hủy diệt hàng loạt và những vật liệu có liên quan. Năm
2007, Tư lệnh Thái Bình Dương, Đô đốc Tim Keating, báo cáo trước một ủy ban Thượng viện
rằng Lầu Năm góc dự định “tích cực” theo đuổi mở rộng quan hệ quân sự với Ấn Độ. Trong cuộc
viếng thăm tháng 8/2007, tới New Delhi, Đô đốc Keating ca ngợi quan hệ quốc phòng Mỹ - Ấn
Độ là hoạt động “vững chắc, tốt và cải thiện dần dần”. Trong chuyến viếng thăm 2/2008 tới thủ
đô Ấn Độ, Bộ trưởng Quốc phòng Gates khẳng định lại nhận định trên. Mỹ xem hợp tác quốc
phòng với Ấn Độ đặt trong bối cảnh “nguyên tắc chung và chia sẻ lợi ích quốc gia” nhằm đánh
bại chủ nghĩa khủng bố, ngăn chặn phổ biến vũ khí và duy trì ổn định khu vực. Bên cạnh những
lợi ích mà các bên công khai tuyên bố, có thể thấy tăng cường hợp tác an ninh quốc phòng Mỹ -
Ấn còn nhằm tạo đối trọng với ảnh hưởng đang gia tăng ở Châu Á của Trung Quốc, mặc dù cả
Washington và New Delhi đều lặp lại nhiều lần rằng giảm nhẹ động cơ có thể xảy ra như vậy [77,
tr 48].
Hợp tác an ninh quốc phòng giữa hai nước trong giai đoạn này còn được thúc đẩy bởi các
hoạt động tập trận chung. Từ năm 2002, Mỹ và Ấn Độ đã tổ chức một loạt các nội dung tập trận
chưa từng thấy và gia tăng diễn tập kết hợp các nội dung bao gồm tất cả các hoạt động phục vụ
quân sự liên quan. Lực lượng quân sự đặc biệt Ấn Độ và Mỹ đã tổ chức ít nhất 5 cuộc diễn tập
chung “Vajra Prahar” và ít nhất 133 lính đặc nhiệm của Mỹ tham gia các khóa học tại Trường
chống khủng bố Jungle Warfare của Ấn Độ.
Tuy nhiên, diễn tập quân sự chung quan trọng giữa hai quốc gia là diễn tập hải quân
“Malabar” diễn ra hàng năm ở vùng biển ngoài khơi Ấn Độ. Năm 2008 diễn ra tám cuộc diễn tập,
hầu hết được tổ chức vào tháng 10. Trong các cuộc diễn tập này tàu sân bay USS Ronald Reagan,
tàu ngầm hạt nhân USS Springfield và 5 tàu hải quân lớn khác đã tham gia tập trận với tàu hải
quân Ấn Độ ở biển Arap. Không như các năm trước, cuộc tập trận Malabar 2008 là cuộc diễn tập
song phương và không có các tàu chiến từ bất kỳ nước thứ ba nào. Các viên chức Mỹ và Ấn Độ
tuyên bố những cuộc diễn tập như vậy góp phần cải thiện khả năng tương tác của quân đội, đồng
thời là bằng chứng của mối quan hệ quốc phòng song phương sâu sắc toàn diện.
Chính sách an ninh quốc phòng của Mỹ đối với Ấn Độ luôn bị cản trở bởi Pakistan và là một
mâu thuẫn khó giải quyết. Gia tăng hợp tác an ninh quốc phòng với Pakistan sẽ bị Ấn Độ phản
đối và ngược lại. Không hợp tác quốc phòng với Ấn Độ sẽ phải đối diện với nguy cơ ngày càng
tăng từ Trung Quốc và cả Iran trong tương lai, xa hơn là Nga. Vì vậy, trong từng giai đoạn khác
nhau Mỹ lựa chọn những ưu tiên khác nhau đối với hai quốc gia thù địch này.
3.3.Chính sách của Mỹ đối với Pakistan
3.3.1.Tăng cường quan hệ với Pakistan
Nếu trong thập niên 90 của thế kỷ trước, địa – chính trị Pakistan không được Mỹ coi trọng,
thì thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI này, tình thế đã thay đổi, sự lạnh nhạt trong quan hệ Mỹ -
Pakistan ngày nào được thay thế bằng mối quan hệ nồng ấm hơn.
Ngày 11/9/2001, sự kiện khủng bố nước Mỹ làm kinh hoàng thế giới đã tạo ra sự thay đổi
nhanh chóng cấu trúc quan hệ toàn cầu. Mỹ tiến hành tập hợp các quốc gia là đồng minh cũ, mới
cũng như các quốc gia không phải đồng minh của họ trong trận tuyến chống khủng bố. Sau tuyên
bố sứ mệnh tiêu diệt khủng bố tận sào huyệt cuối, quân đội Mỹ đã đổ bộ vào Afghanistan, lật đổ
chính quyền Taliban, sau đó là chính quyền Iraq của Tổng thống Saddam Hussein. Dù đã tuyên
bố thắng trận và tiến hành các bước chuyển giao chính quyền cho lực lượng người bản xứ thân
Mỹ, nhưng Mỹ vẫn chưa đạt được mục tiêu đặt ra là tiêu diệt tận gốc khủng bố. Trái lại, ngày
càng thấy dấu hiệu sa lầy trong cuộc chiến này, đặc biệt là ở Afghanistan.
Có đường biên giới chung với Afghanistan, lại là quốc gia Hồi giáo, Pakistan đã trở thành
quốc gia không thể thiếu, thậm chí là “đồng minh chủ chốt” của Mỹ trong cuộc chiến chống
khủng bố đang diễn ra ở Afghanistan. Sau cuộc chiến lật đổ chính quyền Taliban, Mỹ rơi vào
tình thế thắng lợi quân sự nhưng không thể kết thúc chiến tranh. Lính Mỹ và quân đồng minh tử
trận tăng cao khi phải chiến đấu ở những vùng đồi núi hiểm trở có biên giới với Pakistan. Những
chiến dịch truy quét của Mỹ trở nên vô hiệu khi những phiến quân này nhanh chân chạy sang
vùng lãnh thổ Pakistan. Vì vậy, tăng cường quan hệ với quốc gia Hồi giáo này còn nhằm thúc
đẩy Pakistan tiến hành các hoạt động quân sự, các biện pháp hành chính đi đến chấm dứt hoàn
toàn việc để lãnh thổ của họ trở thành nơi trú ẩn an toàn cho các phiến quân Hồi giáo.
Để tranh thủ sự ủng hộ của Pakistan, chính quyền Mỹ quyết định dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm
vận được áp đặt lên quốc gia này từ sau những thử nghiện hạt nhân năm 1998, đồng thời tiến
hành viện trợ kinh tế, quân sự. Mỹ trực tiếp giúp đỡ huấn luyện và trang bị cho lực lượng an ninh
Pakistan cùng với các khoản viện trợ. Mỹ cũng cung cấp nguồn tài trợ, cho vay cùng với một kế
hoạch xem xét lại các khoản nợ của Pakistan từ các tổ chức tài chính quốc tế chính mà Mỹ có ảnh
hưởng, tiến hành các hoạt động ngoại giao cấp cao… Pakistan thực sự trở thành nhân tố không
thể thiếu trong cuộc chiến chống khủng bố mà Mỹ đang dẫn đầu. Tầm quan trọng này được Tổng
thống Bush chỉ rõ vào tháng 6/2004 rằng Pakistan như một đồng minh chính ngoài NATO của
Mỹ. Vì vậy, Mỹ có chính sách quan tâm đến quốc gia này.
3.3.2.Cung cấp viện trợ và hợp tác kinh tế với Pakistan
Công cụ kinh tế luôn được Mỹ ưa dùng và được đánh giá là hữu hiệu trong việc gia tăng ảnh
hưởng của họ ở bất cứ đâu trên thế giới. Trong quá khứ, nhờ vào vai trò địa – chính trị của mình,
Pakistan đã nhận được nhiều viện trợ từ Mỹ. Sau thời gian vai trò này trở nên mờ nhạt ở thập
niên cuối thế kỷ XX, Pakistan đang nhận được những khoản viện trợ trở lại nhờ vào lợi ích địa –
chính trị mới xuất hiện của quốc gia này.
Trước 2001, do tập trung nguồn lực cho cuộc chạy đua vũ trang với Ấn Độ và đối diện với
lệnh trừng phạt kinh tế xuất phát từ hành động theo đuổi chương trình hạt nhân, cùng với những
yếu kém của chính phủ trong điều hành, Pakistan gặp nhiều khó khăn về kinh tế xã hội. Năm
2003, nợ nước ngoài của Pakistan vào khoảng 33 tỷ USD. Đến năm 2008, con số này tăng lên
gần 46 tỷ USD. Dù năm 2008, số nợ nước ngoài chiếm khoảng hơn ¼ GDP nhưng vẫn giảm
khoảng ½ so với năm 2000. Báo cáo dự trữ quốc gia vào 5/2007 là 13,7 tỷ USD, cao nhất mọi
thời đại và tăng gần năm lần so với 1999. Có sự khác biệt này là do những lệnh cấm vận được rỡ
bỏ và những khoản viện trợ lớn mà Pakistan đã nhận được từ Mỹ.
Từ năm 2001 Mỹ nối lại những gói viện trợ và những khoản tiền lớn gọi là “bồi hoàn” cho
nỗ lực quân sự chống khủng bố của Pakistan. Trước khi kết thúc năm tài chính 2008, Pakistan đã
nhận khoảng 12 tỷ USD, đa số trong số này dưới dạng hỗ trợ “bồi hoàn”, 3,1 tỷ USD cho mục
đích kinh tế và gần 2,2 tỷ USD cho những chương trình có liên quan đến an ninh.
Viện trợ của Mỹ cho Pakistan trước tiên nhằm mục đích tiếp tục duy trì hỗ trợ cho nỗ lực
chống khủng bố. Viện trợ cũng khuyến khích sự tham gia của Pakistan trong nỗ lực chống khủng
bố quốc tế, ngăn chặn phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt và hỗ trợ phát triển dân chủ, thúc đẩy
tôn trọng nhân quyền và mở rộng sự tham gia của công dân trong các cơ quan chính quyền và xã
hội.
Theo yêu cầu của Chính phủ Bush, Quốc hội đã bỏ phiếu thông qua các khoản tài chính hàng
tỷ USD để “bồi hoàn” cho Pakistan và các quốc gia khác về những hoạt động và hỗ trợ hậu cần
cho những chiến dịch chống khủng bố của chính phủ Mỹ. “Quỹ hỗ trợ liên quân” thực hiện phần
lớn những vụ chuyển tài chính của Mỹ cho Pakistan từ năm 2001. Tính đến tháng 1/2009, hơn
8,3 tỷ USD “Quỹ hỗ trợ liên quân” đã được Lầu Năm góc chi cho “những quốc gia hợp tác chủ
chốt”, trong đó phần lớn được thực hiện cho Pakistan. Tài liệu Lầu Năm góc cho thấy những
khoản chi cho Islamabad – khoảng 6,7 tỷ USD (chiếm xấp xỉ 4/5 số tài chính này). Theo Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng Robert Gates, tiền bồi thường thông qua “Quỹ hỗ trợ liên quân” được
dùng để hỗ trợ khoảng chừng gần 100 chiến dịch quân sự của người Pakistan và bằng cách trả
tiền thực phẩm, quần áo, nhà cửa để giữ chân khoảng 100.000 quân Pakistan trong vùng phía Tây
Bắc Pakistan. Số tiền này cũng dùng trả cho việc sử dụng sân bay và cảng biển của liên quân trên
lãnh thổ Pakistan.
Năm 2003, Tổng thống Bush tiếp Tổng thống Musharraf tại trại David, tại đây ông đã hứa
thúc đẩy Quốc hội thực hiện gói viện trợ 3 tỷ USD trong 5 năm cho Pakistan. Mỗi năm trao cho
Pakistan 600 triệu USD, chi cho cả quân sự và viện trợ kinh tế. Gói viện trợ này bắt đầu từ năm tài chính 2005.
Sau đó, Mỹ mở rộng các lĩnh vực được nhận viện trợ như viện trợ phát triển, viện trợ nhằm
duy trì thực thi pháp luật, và một số chương trình khác trong năm tài chính 2008 là 976 triệu
USD. Đầu năm 2008, sau cuộc bầu cử ở Pakistan, chính quyền dân sự mới cầm quyền ở
Islamabad thúc giục Mỹ đẩy mạnh hơn nữa viện trợ của họ để “tăng cường dân chủ” ở Pakistan.
Tháng 7/2008, đạo luật tăng cường hợp tác với Pakistan được đưa ra Thượng viện. Đạo luật
“khẳng định và xây dựng một mối quan hệ nhiều mặt, lâu dài, duy trì liên tục với Pakistan”[75, tr
85] theo đó, viện trợ phi quân sự được đề nghị tăng gấp 3, lên tới 1,5 tỷ USD, trong những năm
tài chính từ 2009 – 2013 và có thể duy trì tiếp tục tới 2018.
Trong cuộc chiến chống khủng bố đang theo đuổi ở Afghanistan, Mỹ xác định Pakistan là
một trong những nơi trú ẩn của các phần tử Hồi giáo cực đoan, đặc biệt là vùng FATA gần biên
giới với Afghanistan. FATA là vùng đất nghèo đói còn hoạt động theo hình thức bộ lạc. Luật
pháp và những mệnh lệnh hành chính của chính quyền Pakistan không phát huy tác dụng ở đây.
Do đó, một trong những nhiệm vụ xóa sổ vùng trú ẩn an toàn của lực lượng Hồi giáo cực đoan là
nâng cao mức sống, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật của người dân trong vùng.
Từ 2003, Mỹ tiến hành các khoản viện trợ nhằm cố gắng cải tiến chất lượng giáo dục, phát
triển các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và mở rộng cơ hội cho tăng trưởng kinh tế và doanh nghiệp
nhỏ riêng biệt trong những vùng bộ lạc miền tây Pakistan. Từ năm tài chính 2001 – 2007, khoảng
6% viện trợ kinh tế cho Pakistan đã được dùng cho các dự án ở FATA. Chính phủ Bush thúc giục
Quốc hội tiếp tục tài trợ 750 triệu USD trong 5 năm cho FATA. Năm tài chính 2007 là năm đầu
tiên Mỹ tiến hành kế hoạch này. Viện trợ phát triển FATA là cần thiết, góp phần diệt trừ tận gốc
cơ sở khủng bố ở Pakistan, nhưng những khoản viện trợ lớn cho vùng bộ lạc này bị cản trở bởi
tham nhũng và tình trạng an ninh thấp kém, khiến các nhà thầu khoán phi chính phủ Phương Tây
không hào hứng hoạt động ở đây.
Viện trợ và thúc đẩy quan hệ kinh tế là cách thức mà Mỹ thường sử dụng với các quốc gia
khác nhau. Tuy nhiên hiệu quả đem lại từ cách thức này với Pakistan chưa được như mong đợi.
Một số nghiên cứu cho thấy rằng chỉ khoảng 1/10 viện trợ Mỹ là trực tiếp hướng tới phát triển,
quản lý và chương trình nhân đạo [75, tr 88]. Phần lớn trong số đó đã bị sử dụng sai mục đích
như sử dụng cho mua sắm vũ khí phục vụ cho hành động chạy đua vũ trang chống lại Ấn Độ hơn
là chống khủng bố (chẳng hạn máy bay tuần tra biển, tên lửa chống tăng, ra-da giám sát, nâng cấp
quân trang cho máy bay chiến đấu F-16, pháo tự hành), hay bị thất thoát do tham nhũng. Viện trợ
Mỹ cho Pakistan cũng tỏ ra thất bại trong mục tiêu cải thiện hình ảnh Mỹ trong dân chúng
Pakistan, tính cảm chống Mỹ hiện thời lan tràn rộng khắp Pakistan [75, tr 90]. Để khắc phục điều
này, Mỹ có thể áp đặt thêm các điều kiện nhận viện trợ và sử dụng chúng, nhưng những điều kiện
đó lại vấp phải những phản ứng từ Pakistan. Năm 2007, Bộ Ngoại giao Pakistan nói điều kiện
viện trợ được đưa ra của Ủy ban 11/9 là “không đáp ứng mối quan tâm hợp tác song phương
trong quá khứ và có thể chứng minh cho những bất lợi trong tương lai”.
Không chỉ cung cấp viện trợ, Mỹ đẩy mạnh các hoạt động kinh tế với Pakistan nhằm gắn kết
hai nước với nhau, từ đó củng cố mối quan hệ hợp tác chống khủng bố, đồng thời không để
Pakistan rơi hẳn vào quỹ đạo của Trung Quốc. Trao đổi thương mại và đầu tư là những lĩnh vực
đang được hai bên thúc đẩy mạnh mẽ.
Dỡ bỏ lệnh cấm vận từ năm 2001 đã là thời cơ tốt cho các công ty Mỹ và Pakistan tiến hành
các hoạt động đầu tư, trao đổi thương mại. Pakistan có những mặt hàng xuất khẩu chiến lược của
đất nước cần thị trường tiêu thụ như cotton, vải dệt, đồ trang sức, gạo và sản phẩm da. Mặc dù
Trung Quốc là quốc gia dẫn đầu trong buôn bán với Pakistan (đạt hơn 5 tỷ USD giá trị xuất khẩu
tới Pakistan năm 2007), Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu hàng đầu của Pakistan, với lượng hàng
hóa xuất khẩu vào thị trường Mỹ chiếm khoảng ¼ tổng số hàng hóa xuất khẩu của Pakistan. Theo
số liệu năm 2008, tổng số hàng hóa Mỹ nhập khẩu từ Pakistan có trị giá 3,6 tỷ USD. Tuy nhiên,
theo chiều ngược lại, Pakistan không phải là thị trường xuất khẩu quan trọng của Mỹ, khi chỉ
đứng thứ 59 trong số các thị trường tiêu thụ hàng hóa Mỹ vào năm 2007. Xuất khẩu của Mỹ tới
Pakistan trong năm 2008 có trị giá khoảng 2,1 tỷ USD (tăng 1% so với 2007). Máy bay dân sự và
trang thiết bị đi kèm chiếm khoảng ¼ giá trị của năm 2007, nguyên liệu bông là hàng xuất khẩu
của Mỹ đáng kể khác.
3.3.3.Hợp tác chống khủng bố
Vai trò địa – chính trị nổi bật của Pakistan hiện thời là tạo điều kiện đi đến kết thúc chiến
thắng cuộc chiến chống khủng bố ở Afghanistan. Sau nhiều năm tiến hành cuộc chiến, Mỹ nhận
ra rằng kết quả cuối cùng của cuộc chiến có quan hệ mật thiết với hành động hợp tác chống
khủng bố của Pakistan. Chủ tịch hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mike Mullen nói ông ta đã
nhìn thấy Afghanistan và Pakistan có “mối liên kết không thể tách rời trong việc giải quyết tình
trạng nổi dậy chung”. Khi tranh cử tổng thống, Barack Obama quả quyết rằng Afghanistan không
thể được “giải quyết” mà không bao gồm Pakistan và hợp tác hành động hiệu quả hơn với quốc
gia đó. Nhiều viên chức Mỹ kỳ cựu khác, cả quân đội và dân sự, cùng chia sẻ quan điểm rằng
Pakistan và Afghanistan tốt nhất được coi như là một cặp cùng có vấn đề cần giải quyết mà Mỹ
phải quan tâm. Các nhà phân tích độc lập cũng đồng ý rằng chừng nào lực lượng Taliban còn có
được nơi trú ẩn an toàn ở Pakistan, lực lượng nổi dậy người Afghanistan sẽ còn kiên trì [75, tr
11].
Lầu Năm góc cho rằng nơi trú ẩn của lực lượng Hồi giáo cực đoan bên trong Pakistan là
“thách thức lớn nhất đối với an ninh lâu dài bên trong Afghanistan”. Chỉ huy lực lượng NATO ở
Afghanistan cũng khẳng định những vùng bộ lạc phía tây Pakistan đang cung cấp những tân binh
chủ yếu cho lực lượng nổi dậy, những người tham chiến ở Afghanistan. Những cựu chỉ huy quân
đội Mỹ khác đánh giá sự thâm nhập của các phiến quân từ Pakistan là nguyên nhân của khoảng
1/3 các cuộc tấn công vào liên quân ở Afghanistan.
Trong cuộc chiến này, chính quyền Pakistan cũng nhận thấy những nguy cơ an ninh nảy sinh
từ khủng bố, đặc biệt là khu vực các bộ lạc miền Tây giáp với Afghanistan. Các vụ khủng bố
không chỉ gây thiệt hại vật chất, nhân mạng mà còn gậy những hệ lụy lớn tới tâm lý và sự phát
triển chung của đất nước. Mục tiêu của những nhóm Hồi giáo cực đoan không chỉ người Mỹ, lợi
ích của Mỹ và phương Tây mà đã có sự dịch chuyển đến cả các mục tiêu chính quyền Pakistan,
những quan chức Pakistan có tư tưởng thân Mỹ. Bản thân Tổng thống Musharraf đã nhiều lần
thoát chết trong gang tấc bởi những âm mưu tấn công khủng bố, đặc biệt là những vụ ám sát
trong tháng 12/2003. Vì vậy, hợp tác với Mỹ chống khủng bố là cần thiết trong bối cảnh Pakistan
lúc này.
Sau sự kiện 11/9/2001, Pakistan cam kết cung cấp những hỗ trợ chính cho liên minh chống
khủng bố toàn cầu. Trong một tuyên bố vào tháng 1/2002, Tổng thống Musharraf thề không để
Pakistan trở thành một căn cứ khủng bố dưới bất kỳ hình thức nào và đưa ra lệnh cấm lượng lớn
những nhóm quân sự hoạt động trên lãnh thổ Pakistan, trong số đó có Lashkar-e-Taiba và Jaish-
e-Muhammad, hai nhóm bị Mỹ liệt vào danh sách các tổ chức khủng bố và được cho là đã thực
hiện những hành động khủng bố ở Kashmir. Sau tuyên bố của Musharraf, hàng nghìn người Hồi
giáo cực đoan đã bị bắt giữ.
Hầu như trong hai nhiệm kỳ của Bush, những viên chức cấp cao Mỹ thường khen ngợi nỗ lực
chống khủng bố của Pakistan. Năm 2002, Mỹ bắt đầu tham gia trực tiếp trong nỗ lực giúp lực
lượng an ninh Pakistan theo dõi và lùng bắt những tên lính Al Qaeda và Taliban chạy trốn trên
lãnh thổ Pakistan. Pakistan khẳng định có khoảng 700 tên Al Qaeda đáng ngờ bị bắt và chuyển
hầu hết số này đến dưới sự giam giữ của Mỹ. Trong số đó có những nhân vật quan trọng có liên
hệ với Al Qaeda như: Abu Zubaydah (bắt 3/2002), Ramzi bin al-Shibh (bắt 9/2002), Khalid
Sheik Mohammed (bắt 3/2003), and Abu Faraj al-Libbi (bắt 5/2005). Những nhân vật Al Qaeda
kì cựu khác được cho là đã bị giết trong những trận đấu súng và tấn công tên lửa, hay những cuộc
không kích của máy bay không người lái trong vùng đất Pakistan.
Năm 2003, trước những lời than phiền của Mỹ, lực lượng liên quân và chính quyền
Afghanistan về những toán quân thâm nhập vào Afghanistan từ lãnh thổ Pakistan đã gây thiệt hại
lớn cho các lực lượng này ở chiến trường Afghanistan, cũng như không thể chấm dứt thắng lợi
cuộc chiến chống khủng bố, Tổng thống Musharraf đã tiến hành một chiến dịch quân sự chưa
từng thấy bằng cách chuyển 25.000 quân Pakistan vào vùng FATA. Nửa đầu năm 2004, quân đội
Pakistan tăng cường các chiến dịch quân sự, nhiều chiến dịch trong đó có sự phối hợp với Mỹ và
quân đội Afghanistan.
Tuy nhiên, những tàn binh Al Qaeda và đồng minh Taliban của chúng vẫn hoạt động ở
Pakistan, đặc biệt ở những vùng bộ lạc trên vùng núi cao dọc theo biên giới Afghanistan. Trong
khi đó, nhiều nhóm quân sự Hồi giáo bản địa bị cấm hoạt động tiếp tục được thành lập dưới
những tên gọi mới. Chẳng hạn, Lashkar-e-Taiba đổi tên thành Jamaat al-Dawat và Jaish-e-
Mohammed đổi tên thành Khudam-ul Islam. Nỗ lực chống khủng bố của Pakistan là đáng kể
nhưng tỏ ra không hiệu quả trong việc chấm dứt để lãnh thổ phía Tây thành nơi trú ẩn an toàn của
các nhóm Hồi giáo cực đoan. Mỹ cho rằng Al Qeada đang hồi sinh ở vùng đất Pakistan và coi đó
là những nguy cơ tiềm ẩn hủy hoại lợi ích của Mỹ trong khu vực cũng như trên chính nước Mỹ.
Thực trạng này khiến Mỹ tỏ ra nghi ngờ sự hợp tác của Pakistan trong cuộc chiến chống
khủng bố đang diễn ra. Mỹ cho rằng tình báo Pakistan đã bí mật giúp đỡ chúng thay vì hợp tác
với Mỹ trong các chiến dịch truy kích. Vì vậy họ muốn triển khai quân đội trên lãnh thổ Pakistan
để tiêu diệt tàn binh Taliban và Al Qeada đang ẩn náu ở đây. Trong một tuyên bố năm 2006,
Tổng thống Bush nói ông sẽ lệnh cho quân đội Mỹ vào Pakistan nếu nhận được thông tin tình báo
đáng tin cậy về vị trí của Bin Laden [89].
Ý định sử dụng bộ binh vào lãnh thổ Pakistan gặp phải sự phản đối mạnh mẽ của chính
quyền Pakistan. Cựu Tổng thống Musharraf phủ nhận nhận định cho rằng quân đội Mỹ hiệu quả
hơn quân đội Pakistan trong cuộc chiến chống các chiến binh Hồi giáo cực đoan. Ông cũng
khẳng định sự hiện diện quân sự trực tiếp của Mỹ ở Pakistan là không cần thiết và không chấp
nhận được. Tổng thống Asif Ali Zardari sau này cũng cảnh báo rằng Pakistan “sẽ không tha thứ
sự vi phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của bất cứ thế lực nào dưới danh nghĩa chống khủng
bố” [75, tr19]. Ông cho rằng Mỹ cung cấp tin tức tình báo cho lực lượng Pakistan là phù hợp nhất
để theo dõi và bắt giữ những kẻ khủng bố ở khu vực biên giới.
Không nhận được sự hợp tác hiệu quả từ Pakistan, Mỹ sử dụng máy bay không người lái tiến
hành truy kích vượt biên giới vào lãnh thổ Pakistan. Những cuộc không kích như vậy đã bị chính
quyền Pakistan coi là xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, dẫn đến làm xói mòn mối quan hệ Mỹ -
Pakistan.
Tháng 6/2008, trong một cuộc truy kích phiến quân Hồi giáo không quân Mỹ đã ném 12 quả
bom trọng lực lên vùng đất của người Pakistan và giết chết 11 lính thuộc quân đoàn biên giới.
Islamabad lên án mạnh mẽ cuộc tấn công và gọi là “vô cớ” và “hành động bạo lực trắng trợn ở
biên giới quốc tế”, rằng “hướng tới sự suy yếu cơ bản sự hợp tác của chúng ta”. Một báo cáo của
quân đội Pakistan gọi cuộc tấn công không quân là “hèn nhát” và một số người Pakistan tin rằng
quân đội quốc gia đã là mục tiêu có chủ đích. Chính quyền Bush bày tỏ mạnh mẽ sự hối tiếc đối
với những cái chết của người Pakistan.
Tháng 9, một cuộc tấn công khác bằng máy bay trực thăng bất ngờ vào phía Nam làng
Waziristan, làm ít nhất 20 người bị giết, bao gồm cả trẻ em và phụ nữ. Chính phủ Pakistan đã lên
án mạnh mẽ cuộc không kích và coi là “hành động giết người hoàn toàn vô cớ” và trao bản kháng
nghị chính thức tới cơ quan ngoại giao Mỹ về “hành động bạo lực trắng trợn” và “khiêu khích
nghiêm trọng”. Cả hai viện của cơ quan hành pháp Pakistan đều đồng lòng đưa ra nghị quyết lên
án một cách mạnh mẽ cuộc tấn công hèn nhát.
Giới chức quân đội Mỹ cho rằng những cuộc tấn công bằng máy bay không người lái nhằm
ngăn chặn những cuộc thâm nhập của phiến quân Hồi giáo vào Afghanistan là cần thiết, nhưng
giới chức dân sự Mỹ chống lại quan điểm đó. Bộ Ngoại giao bày tỏ sự lo lắng những cuộc tấn
công bằng máy bay gây tổn thất cho dân thường tạo sự oán giận trong dân chúng Pakistan sẽ làm
tổn hại đến những lợi ích tiềm tàng to lớn hơn của Mỹ.
Bộ ngoại giao Pakistan gọi những cuộc tấn công của máy bay không người lái “làm mất ổn
định” là “giúp cho khủng bố”. Chính phủ Pakistan đã phản ứng mạnh mẽ bằng việc triệu hồi đại
sứ Mỹ đến để trao một sự phản đối và kết tội những cuộc tấn công tên lửa mà Islamabad tin là
làm “suy giảm sự ủng hộ của công chúng đối với những nỗ lực chống khủng bố của chính phủ”
và phải “dừng lại ngay lập tức”.
Bất chấp những mâu thuẫn, Mỹ và Pakistan vẫn thúc đẩy hợp tác chống khủng bố, vì cả hai
cùng nhận thấy trong cuộc chiến này họ đều cần có nhau.
Mỹ đã xây dựng một trung tâm hợp tác và chia xẻ tình báo trên khu vực đèo Khyber thuộc
Afghanistan. Mỹ đã cung cấp để đào tạo và trang bị cho hơn 8000 lính bán quân sự thuộc Quân
đoàn biên giới Pakistan vào giữa năm 2010. Khoảng 20 huấn luyện viên người Mỹ được triển
khai cho nhiệm vụ huấn luyện này.
Cuối năm 2008, lực lượng quân sự Mỹ và Pakistan đã cải thiện những nỗ lực hợp tác và chia
xẻ thông tin tình báo. Sỹ quan quân đội Pakistan đã được phép xem các video về các mục tiêu giả
lập cho các máy bay không người lái của Mỹ và tiếp cận các thông tin quân sự bị ngăn chặn của
Mỹ. Phó Tổng thống Biden sau chuyến công du tới Pakistan đã cho biết ông nhìn thấy “một sự
hợp tác lớn” giữa quân đội Mỹ và Pakistan ở khu vực biên giới. Tuy nhiên, sự hợp tác vẫn gặp
những khó khăn trên thực tế. Chẳng hạn, một Trung tâm phối hợp biên giới trị giá 3 triệu USD tại
Torkham đã được mở cửa vào tháng 3/2008 nhưng những hoạt động đã bị trì hoãn bởi các vấn đề
hậu cần và tranh cãi chính trị.
Cũng thời gian này, quân đội Pakistan đã tiến hành các chiến dịch tiêu diệt các phiến quân
Taliban đang được cho là ẩn náu ở khu vực FATA. Những nỗ lực trước đó của Pakistan đã tỏ ra
thất bại trong việc ngăn chặn các hoạt động thâm nhập của những phiến quân này từ vùng biên
giới Afghanistan. Hiện nay những phiến quân này đã được trang bị các loại vũ khí hạng nặng nên
có khả năng tấn công trực tiếp vào các đơn vị quân đội Pakistan, thay vì đánh rồi chạy như trước
kia. Hàng trăm các vụ đánh bom tự sát, bắt cóc binh lính Pakistan đã làm tổn hại không nhỏ nhân
mạng cũng như tinh thần chiến đấu của quân đội Pakistan.
Tiêu diệt phiến quân Taliban, chấm dứt để lãnh thổ của mình thành nơi trú ẩn của chúng vừa
là nhiệm vụ cần thiết của Pakistan, vừa phù hợp với yêu cầu đặt ra của Mỹ. Vì vậy, Pakistan đã
triển khai các đơn vị tinh nhuệ được huấn luyện và trang bị bởi Mỹ thay thế một số vị trí gần biên
giới Afghanistan, đồng thời tiến hành các chiến dịch quân sự tấn công tàn binh Taliban trên đất
Pakistan.
Những trận đánh kéo dài nhiều tháng tập trung vào ba mặt trận: Thung lũng Swat, vùng Nam
bộ lạc Waziristan và Bajaur. Quân đội Pakistan đã sử dụng các loại vũ khí hiện đại bao gồm cả
máy bay chiến đấu trong những chiến dịch này. Các chiến dịch được Mỹ khích lệ, tuy nhiên, hiệu
quả không như mong đợi. Các phiến quân đã được tập hợp lại với trang bị tốt chống lại quân
chính phủ.
3.3.4.Kiểm soát chương trình phát triển vũ khí hạt nhân của Pakistan
Vấn đề hạt nhân và cách thức xử lý vấn đề hạt nhân của Mỹ cho thấy chính sách của họ đối
với quốc gia có vai trò địa – chính trị quan trọng ở Nam Á này. Sau hai cuộc chiến tranh liên tiếp
ở Afghanistan và Iraq, ưu tiên trong chính sách toàn cầu của Mỹ lúc này là tiêu diệt lực lượng
khủng bố quốc tế. Lúc này tranh thủ sự ủng hộ của Pakistan được xác định là một ưu tiên. Bên
cạnh đó, chính sách của Mỹ là hướng tới kiểm soát hoạt động hạt nhân ở quốc gia có nhiều bất ổn
về chính trị và nằm trong khu vực có nguy cơ mất an toàn hạt nhân cao. Kịch bản tồi tệ là một
cuộc chiến tranh hạt nhân nổ ra hay thiết bị hạt nhân rơi vào tay khủng bố, lực lượng đồn trú của
Mỹ ở Nam Á, Trung Á, Tây Á và cả các quốc gia đồng minh của Mỹ sẽ là mục tiêu hoặc bị ảnh
hưởng. Do đó, bên cạnh vai trò địa – chính trị Pakistan không chỉ phục vụ cho cuộc chiến chống
khủng bố mà còn từ nguy cơ hạt nhân.
Pakistan đã bí mật theo đuổi chương trình hạt nhân trong nhiều thập niên, bất chấp những chỉ
trích từ cộng đồng quốc tế cũng như những lệnh trừng phạt mà quốc gia này phải đối diện. Mỹ
hết sức lo ngại về chương trình hạt nhân mà Pakistan đang theo đuổi, đặc biệt trong điều kiện
trình độ khoa học đảm bảo an toàn hạt nhân, môi trường an ninh đảm bảo các thiết bị hạt nhân
không rơi vào tay những kẻ khủng bố và sự thù địch giữa Ấn Độ, Pakistan luôn thường trực. Dù
đã thực hiện nhiều biện pháp, trong đó có cấm vận, nhưng Mỹ vẫn không ngăn cản được tham
vọng hạt nhân của Pakistan.
Cũng như Ấn Độ, Pakistan không chịu ký vào Hiệp ước cấm thử nghiệm vũ khí hạt nhân
toàn diện (CTBT) và Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT). Năm 1998, theo sau các
cuộc thử nghiệm của Ấn Độ, Pakistan tiến hành một loạt các vụ nổ hạt nhân. Các vụ nổ hạt nhân
đánh dấu thất bại của hai thập niên nỗ lực duy trì không phổ biến vũ khí hạt nhân của Mỹ ở Nam
Á. Ngày nay, Pakistan được cho là đã có đủ lượng nguyên liệu hạt nhân để sản xuất ngay khi cần
từ 55 đến 90 vũ khí hạt nhân. Quốc gia này cũng đang sở hữu các phương tiện có thể đưa vũ khí
hạt nhân đến các mục tiêu với hiệu quả cao như tên lửa đạn đạo tầm ngắn, tầm trung (được sự
giúp đỡ của Trung Quốc, Bắc Triều Tiên), máy bay F-16 mua từ Mỹ (được cho là chỉ cần điều
chỉnh là có khả năng mang bom hạt nhân)[75,tr 61].
Từ năm 2001, Mỹ phải tìm kiếm sự hợp tác với Pakistan trong cuộc chiến chống khủng bố,
vì vậy tất cả những lệnh trừng phạt áp đặt lên Pakistan do các hoạt động liên quan đến hạt nhân
đều được dỡ bỏ. Mỹ đứng trước thách thức là vừa phải duy trì hợp tác trong cuộc chiến chống
khủng bố với Pakistan, vừa phải kiểm soát chương trình hạt nhân của quốc gia này. Mâu thuẫn đó
nhiều lúc đặt Mỹ trước sự lựa chọn khó khăn giữa hợp tác hay trừng phạt.
Nhiệm vụ ngăn cản Pakistan trở thành quốc gia hạt nhân không còn mang tính thời sự, nhưng
ngăn cản hành động chuyển giao hạt nhân cho quốc gia thứ ba trở nên cấp thiết. Nguy cơ
Pakistan tiến hành phổ biến hạt nhân cho quốc gia thứ ba, đặc biệt là quốc gia có mối quan hệ thù
địch với Mỹ, không còn là huyền hoặc khi có những dấu hiệu cho thấy Bắc Triều Tiên, Iran,
Libya đã nhận được sự trợ giúp hạt nhân từ Pakistan.
Các báo cáo cuối năm 2003 cho thấy Pakistan đã trợ giúp cho chương trình hạt nhân bí mật
của Bình Nhưỡng bằng cách cung cấp cho Bắc Triều Tiên những nguyên liệu và công nghệ làm
giàu uranium vào giữa thập niên 1990. Theo nội dung báo cáo như vậy có thể dẫn đến Mỹ áp
dụng lệnh trừng phạt hạn chế như đã thực hiện trước đó, nhưng chính quyền Bush cho rằng
“không đảm bảo việc áp đặt lệnh trừng phạt theo luật pháp Mỹ” [75, tr 62].
Chính quyền Musharraf phủ nhận mọi cáo buộc trên nhưng đưa ra khẳng định điều tra các
nhà khoa học hàng đầu đối với các hoạt động phổ biến hạt nhân “độc lập” mà họ có thể đã thực
hiện. Kết quả điều tra đưa ra tháng Giêng năm 2004 cho thấy, Abdul Qadeer Khan, nhà sáng lập
chương trình hạt nhân của Pakistan, thừa nhận đã tồn tại một hệ thống buôn lậu hạt nhân trái
phép. A. Q. Khan và ít nhất 7 đồng nghiệp khác đã bị kết tội là đã bán công nghệ vũ khí hạt nhân
cốt yếu và nguyên liệu làm giàu uranium cho Bắc Triều Tiên, Iran và Libya. A. Q. Khan bị bắt, bị
thẩm vấn nhưng sau đó đã được quản thúc tại gia và cuối cùng là tha bổng. Tổng thống
Musharraf và những người cùng quan điểm cho rằng A. Q. Khan đáng được tha thứ do những
đóng góp quan trọng của ông ta với đất nước.
Phản ứng trước hành động này của chính quyền Musharraf, Mỹ cho rằng chính quyền
Islamabad đã không hay biết gì về hành động này và Washington coi hành động tha thứ là công
việc nội bộ của Pakistan. Musharraf chập thuận chia xẻ thông tin về mạng lưới phổ biến vũ khí
hạt nhân của A. Q. Khan với Mỹ nhưng không chấp thuận cho Mỹ tiến hành cuộc tiếp xúc trực
tiếp với Khan. Ít nhất 2 lần sau đó Hạ viện Mỹ đã tiến hành các cuộc hội thảo và đưa ra kêu gọi
Pakistan để cho các nhà điều tra Mỹ gặp trực tiếp A. Q. Khan nhưng không nhận được sự đồng ý
của họ. Tháng 5/2006, chính quyền Pakistan tuyên bố cuộc điều tra về mạng lưới của A. Q. Khan
chấm dứt mà không một người Pakistan nào liên quan đến vụ án này đối mặt với tội hình sự.
Phản ứng của Mỹ về mạng lưới buôn lậu hạt nhân của A. Q. Khan dường như khép lại với
quyết định vào tháng 1/2009, theo đó áp đặt biện pháp trừng phạt đối với 13 người và 3 công ty
có liên quan đến mạng lưới của A. Q. Khan. Tuy nhiên, vấn đề an ninh vũ khí hạt nhân của
Pakistan trở thành nỗi lo lắng thường trực của Mỹ.
Thực tế đặt ưu tiên chiến tranh chống khủng bố lên hàng đầu trong chính sách với Pakistan,
Mỹ đã phải có những nhượng bộ ít nhiều trong vấn đề hạt nhân. Tuy nhiên nguy cơ phát triển hạt
nhân ở một quốc gia có nhiều bất ổn như Pakistan là một thách thức lớn cho sự ổn định, hòa bình
của khu vực và thế giới. Trong tương lai, khi vấn đề khủng bố được giải quyết, Mỹ sẽ có những
điều chỉnh cứng rắn hơn trong vấn đề này với Pakistan.
3.4.Chính sách của Mỹ đối với các nước Nam Á khác
Cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu và các tính toán chiến lược nhằm kiềm chế các đối thủ
cạnh tranh tiềm tàng khiến Mỹ phải chú tâm đến các nước nhỏ nhưng có vị trí địa – chính trị
quan trọng trên thế giới, trong đó có khu vực Nam Á. Nếu thập niên 90 của thế kỷ trước các nước
nhỏ ở Nam Á không được các nhà hoạch định chính sách Mỹ lưu tâm, thì trong thập niên đầu thế
kỷ XXI này các cuộc gặp gỡ ngoại giao, các cam kết viện trợ, các hợp tác quân sự …được tiến
hành thường xuyên hơn. Chính phủ Mỹ cũng có nhiều hành động thúc đẩy quan hệ Mỹ với các
nước này. Tuy nhiên, tùy thuộc vào lợi ích địa – chính trị của mỗi nước, chính sách của Mỹ đối
với Sri Lanka, Bangladesh, Bhutan, Nepal, Maldives có sự khác biệt nhau.
3.4.1.Sri Lanka
Theo quan điểm của nhà địa – chính trị Alfred Thayer Mahan, người coi trọng sức mạnh trên
biển, ai khống chế được biển sẽ trở thành cường quốc thế giới. Tuy nhiên, biển bao la không thể
lực lượng nào độc chiếm được và cũng không cần thiết. Nên vấn đề then chốt để khống chế biển
là chiếm giữ các eo biển và khống chế các tuyến hàng hải quan trọng huyết mạch [11, Tr 16].
Trong khu vực Nam Á, Sri Lanka nổi bật lên là quốc gia có vị trí chiến lược cho phép thực hiện
mục tiêu trên.
Sri Lanka là một quốc đảo được bao bọc bởi Ấn Độ Dương. Không có biên giới đất liền với
bất cứ quốc gia nào, Sri Lanka chỉ có sự tiếp giáp với vùng biển của các quốc gia trong khu vực
như Ấn Độ, Bangladesh, Pakistan, Maldives. Những lợi ích quan trọng có thể nhìn thấy được từ
Sri Lanka như: nằm trên con đường hàng hải quốc tế quan trọng bậc nhất của thế giới, nơi diễn ra
những cạnh tranh quyết liệt giữa các cường quốc; gần với các eo biển Malacca và kênh đào Suez;
gần khu vực “điểm nóng” của thế giới. Đối với Mỹ, Sri Lanka nằm trong vùng cần được bảo vệ
an toàn cho sự hoạt động không hạn chế của lực lượng hải quân Mỹ và các căn cứ quân sự Mỹ ở
đây.
Dân số không nhiều, tài nguyên thiên nhiên không giàu có nhưng có những bến cảng quan
trọng có khả năng phục vụ cho mục đích kinh tế và quân sự, cùng với lợi ích địa – chính trị như
trên, Sri Lanka đang bị nhiều nước tìm cách đặt ảnh hưởng thông qua thắt chặt quan hệ. Các gói
viện trợ kinh tế, trợ giúp phát triển đất nước, tái thiết quốc gia, ủng hộ chính trị… luôn được các
cường quốc cam kết cung cấp để mong nhận được sự ưu ái từ chính quyền Sri Lanka. Trong số
các quốc gia này nổi bật hơn cả có Mỹ, Trung Quốc.
Trung Quốc mong muốn được chính quyền Sri Lanka cho phép đặt căn cứ hải quân trên lãnh
thổ của họ. Căn cứ này được các nhà phân tích Mỹ cho là nằm trong kế hoạch xây dựng một loạt
các căn cứ hải quân trên con đường biển từ đảo Hải Nam đến vùng dầu mỏ quan trọng trên thế
giới, kế hoạch “chuỗi ngọc trai”. Trong nhiều năm gần đây, Trung Quốc đã thực hiện nhiều hoạt
động viện trợ kinh tế như một phần kế hoạch chiếm lòng tin giới cầm quyền Sri Lanka.
Kiềm chế Trung Quốc là một trong những mục tiêu của Mỹ. Để chính sách này hiệu quả, Mỹ
phải tăng cường sự hiện diện của mình ở những nơi có sự hiện diện của Trung Quốc, đặc biệt là
những vị trí địa – chính trị quan trọng trên thế giới. Sẽ là một thất bại nếu các nước nhỏ ở Nam Á
như Pakistan, Bangladesh, Sri Lanka, Maldives rơi vào quỹ đạo Trung Quốc.
Không muốn mình là kẻ chậm chân, Mỹ đã tiến hành nhiều hoạt động gây ảnh hưởng ở Sri
Lanka. Quốc đảo nghèo đói hàng đầu Nam Á này đã chìm đắm trong cuộc nội chiến từ thập kỷ
80 giữa lực lượng chính phủ với Những con hổ giải phóng Tamil (LTTE). Thái độ của Mỹ trong
cuộc chiến này là ủng hộ lực lượng chính phủ bằng cách liệt LTTE vào danh sách những tổ chức
khủng bố quốc tế từ năm 1997. Khi cuộc nội chiến gây tổn thất trong nhiều năm không đi đến kết
thúc, chính phủ Sri Lanka chủ trương đàm phán một thỏa thuận ngừng bắn với lực lượng LTTE,
Mỹ tỏ ý ủng hộ cách giải quyết xung đột này. Mỹ cũng đồng quan điểm với chính phủ Sri Lanka
trong việc không chấp nhận thành lập một nhà nước độc lập khác trên đảo quốc này.
Khi thỏa thuận ngừng bắn bị phá vỡ, cuộc nội chiến bùng phát trở lại. Cuộc chiến đã gây
thiệt hại lớn tới nhân mạng và cơ sở vật chất của Sri Lanka. Cuộc đối đầu lần này, quân chính
phủ đã giành thắng lợi. Tháng 5/2009, thủ lĩnh của LTTE, Velupillai Prabhakaran, đã bị tiêu diệt
trong một cuộc tấn công quân sự của quân chính phủ báo hiệu chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài
hơn 30 năm. Chính phủ Sri Lanka tuyên bố kết thúc thắng lợi cuộc chiến chống lại Những con hổ
giải phóng Tamil. Tuy nhiên, hiện nay, đảm bảo cho một cuộc chiến mới không bùng phát trở lại
là một thách thức không nhỏ với chính phủ.
Mỹ bày tỏ sự quan tâm đến nền chính trị và sự ổn định xã hội của Sri Lanka sau khi lực
lượng LTTE bị đánh bại. Một số thượng nghị sĩ cùng với Thượng nghị sĩ John Kerry và Richard
Lugar tuyên bố rằng chính phủ Sri Lanka "có một cơ hội để tiến đến một giải pháp chính trị lâu
dài, trong đó thừa nhận những nguyện vọng chính đáng của tất cả người dân Sri Lanka, bao gồm
Sinhalese, Tamil, và các nhóm khác” [74]. Trước đó vào tháng 4/2009, Nhà Trắng đưa ra một
bản tuyên bố cho rằng “sẽ tệ hại thêm bi kịch hiện nay nếu kết thúc cuộc xung đột quân sự chỉ
gieo mầm thù hận hơn nữa và kết thúc hy vọng cho hòa giải" [91]. Như vậy, ổn định không chỉ là
mong muốn của chính quyền và người dân Sri Lanka mà còn là sự quan tâm của cộng đồng quốc
tế, trong đó có Mỹ. Sự bất ổn ở Sri Lanka sẽ không có lợi cho chính sách của Mỹ ở quốc gia cũng
như khu vực này. Trợ giúp của Mỹ cho Sri Lanka sau cuộc chiến được thông qua Liên Hiệp
Quốc và những nỗ lực quốc tế để giải quyết nhu cầu nhân đạo, kêu gọi chính phủ Sri Lanka cho
phép đại diện của tổ chức Chữ thập đỏ quốc tế và Liên Hiệp Quốc tiếp cận các khu vực xung đột
trước đây [80, tr 14].
Cũng như các quốc gia khác, Mỹ sử dụng viện trợ kinh tế và các quan hệ thương mại đầu tư
để tạo ảnh hưởng lên chính sách của Sri Lanka. Từ khi Sri Lanka độc lập năm 1948, Mỹ đã cung
cấp hơn 3,6 tỷ USD, khoảng hai phần ba số này dưới hình thức viện trợ lương thực. Trong những
năm gần đây, hoạt động này được đẩy mạnh.
Viện trợ trực tiếp của Hoa Kỳ, không phải viện trợ lương thực, năm 2006 là hơn 14,5 triệu
USD, 2007 khoảng 9,4 triệu USD. Khoảng một nửa số này là nhằm hỗ trợ tiến trình hòa bình.
Năm 2009, Bộ Ngoại giao Mỹ yêu cầu cung cấp cho Sri Lanka một khoản viện trợ lớn, bao gồm:
6,5 triệu USD hỗ trợ phát triển, 4 triệu USD cho Quỹ hỗ trợ kinh tế, 900.000 USD tài chính cho
quân sự nước ngoài, 350.000 USD cho kiểm soát ma túy quốc tế và thực thi pháp luật, và
650.000 USD cho không phổ biến, chống khủng bố, rà phá bom mìn và các chương trình liên
quan.
Bên cạnh viện trợ trực tiếp, Mỹ tạo điều kiện cho hàng hóa Sri Lanka thâm nhập vào thị
trường Mỹ. Năm 2002, trong chuyến thăm của Thủ tướng Wickremasinghe tới Washington, Mỹ
và Sri Lanka đã ký kết Hiệp định khung thương mại và Đầu tư mới (TIFA) thiết lập "một diễn
đàn cho Sri Lanka và Mỹ xem xét cách thức để mở rộng thương mại song phương và đầu tư" [80,
tr 15]. Cho đến nay Mỹ vẫn là đối tác thương mại quan trọng nhất của Sri Lanka. Mỹ là thị
trường xuất khẩu quan trọng của quốc gia này, chiếm hơn một phần tư tổng lượng xuất khẩu của
đất nước.
Nằm ở vị trí quan trọng trên Ấn Độ Dương, Sri Lanka có giá trị lớn trong hợp tác quân sự mà
các cường quốc hướng tới, trong đó có Mỹ. Theo Bộ Ngoại giao Mỹ, các sĩ quan quân đội cấp
cao Sri Lanka ủng hộ mạnh mẽ các chương trình và mục tiêu chiến lược của Mỹ. Sri Lanka cho
phép các chuyến bay và hạ cánh thông quan đối với máy bay quân sự Mỹ, đồng thời cho phép tàu
Mỹ tiếp cận các cảng của họ. Đổi lại, Mỹ tài trợ cho một chương trình quốc phòng và đào tạo
quân sự cho quân đội Sri Lanka. Trong những năm gần đây Mỹ đã hỗ trợ nhằm chuyên nghiệp
hóa quân đội Sri Lanka và cung cấp các trang thiết bị cơ bản cho quân đội quốc gia này như: giày
ống, mũ bảo hiểm, radio, áo Flack, kính nhìn ban đêm, cùng với các giám sát hàng hải và thiết bị
ngăn chặn cho các lực lượng hải quân… Tháng 3/2007, Mỹ và Sri Lanka đã ký một hiệp định tạo
ra một khuôn khổ cho khả năng gia tăng tương tác quân sự, cho phép chuyển và trao đổi số lượng
lớn hỗ trợ hậu cần, các dịch vụ cung cấp nhiên liệu trong các chiến dịch hoặc các cuộc diễn tập
chung.
Tháng 11/2007, Mỹ cung cấp cho Sri Lanka một hệ thống rada giám sát hàng hải và một số
tàu thuyền bơm hơi. Cũng thời gian này, Tư lệnh Thái Bình Dương Mỹ, Đô đốc Robert Willard,
thăm Sri Lanka và gặp các đối tác hải quân để xem xét hợp tác hàng hải lâu dài.
Như vây, địa – chính trị Sri Lanka đang có vai trò quan trọng trong chính sách của Mỹ ở
Nam Á. Hợp tác với quốc gia này cho phép Mỹ theo đuổi chính sách toàn cầu là cạnh tranh, ngăn
chặn đối thủ của mình, củng cố, duy trì sự an toàn giao thông trên tuyếnđường biển huyết mạch
của thế giới, hỗ trợ cho cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ ở Afghanistan.
3.4.2.Bangladesh
Bangladesh là quốc gia “sinh sau đẻ muộn” so với các quốc gia khác ở Nam Á. Nằm ở hạ lưu
sông Hằng, lãnh thổ quốc gia này không lớn, dân số không đông, tài nguyên thiên nhiên không
giàu có, ngoại trừ đất nông nghiệp và số lượng đáng kể khí đốt, than. Dù vậy, quốc gia này được
đánh giá là có vai trò địa – chính trị quan trọng trong số các nước nhỏ ở Nam Á. Cũng như Sri
Lanka, Bangladesh đang diễn ra hình thái cạnh tranh mạnh mẽ giữa các cường quốc nhằm chiếm
lĩnh niềm tin và sự ưu ái của chính quyền này, phục vụ cho mục tiêu chiến lược của họ. Trong số
đó nổi lên là Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ.
Chính sách của Mỹ sau sự kiện 11/9 đối với Bangladesh có nhiều thay đổi. Là một quốc gia
Hồi giáo nhưng Bangladesh được Mỹ đánh giá là quốc gia có tiếng nói ôn hòa trong thế giới hồi
giáo. Trong bối cảnh Mỹ đang bị người Hồi giáo trên khắp thế giới chống lại mạnh mẽ như hiện
nay, Bangladesh được xem là một quốc gia quan trọng ở châu Á mà Mỹ có thể thông qua đó tiếp
cận với thế giới Hồi giáo, khuyến khích tinh thần của họ chống lại những người Hồi giáo cực
đoan, đồng thời cải thiện hình ảnh của Mỹ trong thế giới Hồi giáo. Về phần mình vốn là một
quốc gia Hồi giáo ôn hòa, Bangladesh cũng có lợi ích chung trong việc chống lại những người
Hồi giáo có tư tưởng cực đoan [86, tr 1].
Bên cạnh đó, lợi ích Mỹ có được từ quan hệ với Bangladesh còn bao gồm thúc đẩy phát triển
thương mại và năng lượng, hỗ trợ dân chủ và cộng tác trong các hoạt động hòa bình trên thế giới.
Nổi bật hơn cả, Bangladesh là mối quan tâm của Mỹ trong những động lực lớn hơn về địa chính
trị Nam Á [86, tr 1].
Bangladesh là một quốc gia có tầm quan trọng chiến lược không chỉ đối với khu vực Nam Á
mà còn là động lực lớn về địa chính trị của châu Á nói chung. Ấn Độ đang được xem là có khả
năng cân bằng tư thế chiến lược đang nổi lên của Trung Quốc ở châu Á. Bangladesh lại là quốc
gia đang được cả Trung Quốc và Ấn Độ lôi kéo, vì vậy quốc gia này đã đóng và có thể sẽ tiếp tục
đóng vai trò cân bằng trong khu vực khi quyết định đứng về bên nào. Trong những năm gần đây,
chính sách ngoại giao Bangladesh có phần nghiêng về Trung Quốc trong khi vẫn coi trọng duy trì
quan hệ tốt với Ấn Độ. Trung Quốc đang được Bangladesh coi như một đối trọng chiến lược cho
mối quan hệ của họ với Ấn Độ.
Tháng 3/2010, Thủ tướng Hasina thăm Trung Quốc nhằm tìm kiếm sự hợp tác chặt chẽ hơn
với Trung Quốc trong một số lĩnh vực, bao gồm hợp tác với Trung Quốc để xây dựng một cảng
biển nước sâu ở Chittagong và thiết lập một tuyến đường từ Chittagong tới Côn Minh, Trung
Quốc. Cũng thời gian này hai bên đã đưa ra Tuyên bố chung về "quan hệ đối tác hợp tác toàn
diện thân thiện hơn" trong tương lai. Tuyên bố kêu gọi tăng cường hợp tác song phương trong
một số lĩnh vực bao gồm chia sẻ thông tin thủy văn trên sông Brahmaputra, tăng cường liên kết
giao thông vận tải, thương mại song phương; tăng cường trao đổi và hợp tác giữa quân đội hai
quốc gia "để bảo vệ quyền an ninh quốc gia và sự ổn định; thúc đẩy hòa bình, ổn định trong khu
vực” [86, tr 14]. Những động thái này của Trung Quốc, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển cảng
biển, đã dẫn đến sự nghi ngờ về động cơ của Trung Quốc. Phát triển cảng ở Bangladesh có thể
được xem như là một phần của một chiến lược "Chuỗi của ngọc trai".
Việc Bangladesh theo đuổi chính sách ngoại giao như hiện nay là một bất lợi không chỉ với
Ấn Độ mà còn cả với chính sách của Mỹ trong khu vực. Vì vậy, Mỹ phải có những điều chỉnh để
không đi đến chỗ đẩy Bangladesh rơi vào quỹ đạo Trung Quốc. Tăng cường quan hệ thương mại,
đầu tư và viện trợ là những biện pháp Mỹ thường lựa chọn sử dụng để thắt chặt quốc gia nào đó
vào chính sách của mình.
Quan hệ kinh tế thương mại Bangladesh – Mỹ đã được mở rộng trong những năm gần đây và
Mỹ hiện là đối tác thương mại lớn nhất của Bangladesh. Thương mại song phương đã tăng từ 1 tỷ
USD trong năm 1992 lên 4 tỷ USD năm 2009. Hai nước đã thảo luận về Hiệp định khung
Thương mại và Đầu tư (TIFA), nhưng Bangladesh miễn cưỡng hướng tới một TIFA vì những lo
ngại về lao động, môi trường và các quy định sở hữu trí tuệ có trong Hiệp định. Tháng 3/2010,
Bangladesh tuyên bố rằng họ sẽ hoan nghênh bất kỳ đề xuất nào thay thế TIFA. Mỹ cho rằng tiến
tới một Diễn đàn hợp tác Kinh tế Thương mại Mỹ - Bangladesh là một thay thế phù hợp.
Trong hoạt động đầu tư, Mỹ quan tâm đến các dự án đầu tư khai thác khí thiên nhiên được
tìm thấy ở vịnh Bengal thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Bangladesh. Những phát hiện nguồn
năng lượng đáng kể đã đưa quốc gia này vào hàng thứ 32 trên thế giới trong sản xuất khí thiên
nhiên, với sản lượng hàng năm là 17,9 tỷ mét khối và xếp thứ 48 với 141,6 tỷ mét khối dự trữ.
Bangladesh cũng ước tính có 3,3 tỷ tấn trữ lượng than. Để khai thác nguồn tài nguyên này phục
vụ cho nền kinh tế đất nước, ước tính Bangladesh cần 12 tỷ USD đầu tư trong 5 năm. Đây là số
tiền không nhỏ đối với đất nước được cho là nghèo nhất khu vực này, bởi vậy đang là cơ hội tốt
Mỹ cũng là nhà tài trợ lớn của Bangladesh. Năm 2010, Mỹ viện trợ cho Bangladesh ước
cho các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có Mỹ.
tính tổng cộng 168,5 triệu USD. Viện trợ Mỹ tập trung vào mục tiêu "ổn định tăng trưởng dân số,
bảo vệ sức khỏe con người, khuyến khích mở rộng dựa trên tăng trưởng kinh tế, và dân chủ xây
dựng"[86, tr 1].
Một Bangladesh ổn định và phát triển và có mối quan hệ tốt là mong muốn của Mỹ. Tuy
nhiên trong những năm gần đây, Bangladesh cũng như nhiều nước nghèo có đời sống kinh tế phụ
thuộc quá nhiều vào thiên nhiên đang lo lắng với những tác hại của biến đổi khí hậu. Hiện tượng
nóng lên của vỏ trái đất làm nước biển dâng đang là nguy cơ lớn nhấn chìm nhiều đồng bằng ven
biển của Bangladesh, đe dọa an ninh lương thực đối với quốc gia có nền kinh tế nông nghiệp
chiếm gần 20% GDP này.
Mỹ nhận thấy cần phải giúp đỡ Bangladesh trong lĩnh vực môi trường, nhanh chóng thích
ứng với biến đổi khí hậu và hỗ trợ đi đến giảm nhẹ những hậu quả của biến đổi khí hậu. Cơ quan
Phát triển Quốc tế Mỹ (USAID) đang hợp tác với Bangladesh giúp quốc gia này tiến tới quản lý
bền vững tài nguyên thiên nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học. Hai dự án thí điểm của USAID đã
được thực hiện. Những dự án thí điểm tập trung vào việc quản lý hệ sinh thái thủy sản thông qua
cộng đồng chăn nuôi và cộng đồng quản lý tài nguyên rừng nhiệt đới.
Nhìn chung, xuất phát từ những lợi ích địa – chính trị trong bối cảnh lịch sử thế giới có nhiều
thay đổi ở thế kỷ XXI, chính sách của Mỹ đối với Bangladesh giai đoạn này có những chuyển
biến tích cực. Mối quan hệ chặt chẽ của quốc gia này với Trung Quốc và tính ôn hòa của Hồi
giáo Bangladesh đang là những quan tâm trong chính sách của Mỹ. Vì vậy, mối quan hệ Mỹ -
Bangladesh còn tiếp tục được củng cố trong thời gian tới.
3.4.3.Nepal
Nepal là quốc gia nằm kẹt giữa hai gã “khổng lồ” châu Á là Ấn Độ và Trung Quốc. Không
có đường ra biển, quốc gia này đang gặp những khó khăn cho mục tiêu phát triển đất nước. Dân
số không đông, tài nguyên thiên nhiên có giá trị cao không nhiều. Tuy nhiên, vị trí tiếp giáp giữa
hai cường quốc khu vực lại có những quan ngại đến từ lực lượng Mao-ít đang khiến quốc gia này
được các cường quốc quan tâm trong chính sách của họ.
Chuyển sang chế độ quân chủ lập hiến từ năm 1990, Nepal vẫn phải đối diện với những bất
ổn chính trị. Một trong những bất ổn chính trị nghiêm trọng vào tháng 6/2001 là cuộc thảm sát
hoàng gia khiến 10 thành viên, trong đó có đức vua tại vị Birendra bị giết. Gyanendra, một người
hội lập hiến Nepal bỏ phiếu đồng ý chấm dứt chế độ quân chủ, chuyển sang chế độ cộng
hòa. Bên cạnh đó, từ lâu Nepal đã phải đối diện với lực lượng nỗi dậy Mao-ít, một lực lượng
em trai đức vua bị giết lên thay, nhưng chế độ này cũng chỉ tồn tại đến ngày 28/5/2008 khi quốc
hoạt động có tổ chức và có khả năng gây bất ổn đáng kể cho xã hội Nepal cả trong hiện tại và
tương lai.
Lợi ích địa – chính trị của Nepal đối với Mỹ là không nhiều như các quốc gia Nam Á khác,
nhưng Mỹ muốn hỗ trợ các tổ chức dân chủ ở đây và hỗ trợ tự do hóa kinh tế; thúc đẩy hòa bình,
ổn định ở Nam Á; hỗ trợ độc lập và toàn vẹn lãnh thổ Nepal; xoá đói giảm nghèo [87, tr 17]…để
quốc gia vào hàng nghèo nhất thế giới này không bị các cường quốc khác lôi kéo cho mục tiêu
chính trị của họ, đồng thời không để những khó khăn của Nepal đi đến chỗ trở thành nơi trú ẩn
của khủng bố quốc tế.
Mỹ hỗ trợ Nepal từ chính trị ngoại giao đến kinh tế. Về chính trị ngoại giao, Mỹ cùng quan
điểm với quốc gia này khi tỏ thái độ của mình đối với lực lượng Mao-ít. Mỹ đã xem kế hoạch của
lực lượng Mao-ít lập nên một nước cộng hòa độc đảng, tiến hành tập thể hóa nông nghiệp, giáo
dục lại "kẻ thù giai cấp" và xuất khẩu cách mạng như một nguy cơ phá hoại ổn định khu vực,
ngăn cản thúc đẩy dân chủ và phát triển ở Nepal [87, tr 18]. Mỹ đã liệt nhóm quân sự này vào
danh sách lực lượng khủng bố quốc tế, tiến hành viện trợ quân sự cho chính quyền Nepal với các
loại vũ khí hạng nhẹ như súng trường M -16, kính bắn đêm…, để quân đội của họ nâng cao khả
năng chống lại các hoạt động quân sự của lực lượng Mao-ít. Mỹ cũng đã tổ chức diễn tập chung
với quân đội Nepal nhằm nâng cao sức chiến đấu chống lực lượng nổi dậy, thực hiện chương
trình huấn luyện khoảng 200 cảnh sát và quân đội Hoàng gia chống khủng bố. Tuy nhiên sau sự
kiện Nepal trở thành nước cộng hòa với vai trò nổi bật của lực lượng Mao-ít trong nền chính trị,
Mỹ đã có sự điều chỉnh quan điểm đối với nhóm chính trị đầy quyền lực này.
Trong chuyến đến Mỹ tham dự cuộc họp của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, Thủ tướng Dahal
đã có cuộc gặp ngắn với Tổng thống Bush. Trong cuộc gặp, Thủ tướng Nepal đã đề nghị Mỹ giúp
đỡ. Sau đó ông gặp Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Richard Boucher đồng thời bày tỏ quan ngại rằng tổ
chức Mao-ít của ông vẫn nằm trong danh sách các nhóm khủng bố của Mỹ. Boucher cho biết
nhóm này đã được đưa ra khỏi danh sách khủng bố quốc tế nhưng vẫn trong 2 danh sách liên
quan đến khủng bố khác. Sau đó thủ tướng Dahal được biết thêm rằng việc đưa nhóm Mao-ít ra
khỏi 2 danh sách còn lại tùy thuộc “trực tiếp trên mức độ mà họ tiếp tục chấp nhận tiến trình
chính trị và từ bỏ bạo lực " [88, tr 11]. Từ cuối năm 2008, lệnh cấm đi lại đối với các nhà lãnh
đạo Mao-ít được nới lỏng và một cuộc đối thoại đã được thiết lập.
Về kinh tế, Mỹ tiền hành viện trợ cho Nepal. Tuy nhiên, trong bối cảnh chính phủ Nepal tiến
hành các hoạt động quân sự chống lực lượng Mao-ít, viện trợ Mỹ từ 2001 đến trước 2008 chủ
yếu là viện trợ quân sự với các gói viện trợ tài chính, vũ khí hạng nhẹ cho chính quyền Nepal,
bên cạnh đó là viện trợ nhân đạo. Hàng triệu đô la đã được cung cấp cho Nepal hàng năm. Năm
2001, Mỹ viện trợ cho Nepal tổng cộng 23.080.000 USD. Các năm tài chính tiếp theo, khoản
viện trợ cho quốc gia này luôn được điều chỉnh theo chiều hướng tăng. Năm 2007 viện trợ tăng
lên 47.476.000 USD. Sau khi Nepal chuyển sang chế độ cộng hòa với vai trò nổi bật của nhóm
Mao-ít trong quốc hội Nepal, viện trợ của Mỹ cho quốc gia này đã điều chỉnh theo hướng giảm.
Năm 2009, viện trợ cho Nepal chỉ có 38.182.000 USD.
Trong chính sách của mình đối với Nepal, Mỹ không để mối quan hệ này ảnh hưởng đến mối
quan hệ chiến lược với Ấn Độ. Các nhà lãnh đạo quân sự cũng như dân sự Mỹ luôn khẳng định
các hoạt động viện trợ quân sự, hoạt động huấn luyện quân sự hay diễn tập quân sự chung với lực
lượng quân đội Nepal chỉ nhằm mục tiêu nâng cao sức chiến đấu chống khủng bố của họ. Trong
một phát biểu vào tháng 5/2003 tại Kathmandu, Đại sứ Mỹ nói rằng Mỹ "không tìm cách thiết lập
các căn cứ Mỹ tại Nepal và Mỹ không có bất kỳ lợi ích chiến lược ở Nepal”[87, tr 19]. Tuyên bố
này cho thấy giá trị địa – chính trị của Nepal trong chính sách của Mỹ so với các quốc gia khác
trong khu vực, đồng thời cũng cho thấy sự phù hợp với những gì đang diễn ra hiện nay trong mối
quan hệ giữa Mỹ và Nepal.
3.4.4.Maldives và Bhutan
Maldives và Bhutan là hai quốc gia nhỏ ở Nam Á. Vai trò địa – chính trị không được đánh
giá cao như các quốc gia còn lại. Dân số không đông, tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn. Nếu
Bhutan không có đường ra biển, nằm kẹt giữa Ấn Độ và Trung Quốc thì Maldives được tạo nên
bởi hơn 1.000 đảo nhỏ nằm giữa biển khơi Ấn Độ Dương. Hoạt động ngoại giao của Bhutan và
Maldives với các quốc gia chưa được thúc đẩy. Nhiều cường quốc chưa đặt quan hệ ngoại giao
với các quốc gia này.
So với các quốc gia khác trong khu vực, Maldives và Bhutan chưa có vị trí đáng kể trong
chính sách của Mỹ. Mỹ không có đại sứ quán đóng trên lãnh thổ của 2 quốc gia này. Các cơ quan
ngoại giao cấp đại sứ của Mỹ được đặt ở Ấn Độ như trường hợp đối với Bhutan và Sri Lanka như
trường hợp đối với Maldives.
Cho đến nay, Bhutan không được nhận viện trợ từ Mỹ, kể cả nguồn viện trợ do Cơ quan Phát
triển Quốc tế Mỹ (USAID) đang thực hiện ở Nam Á nhằm giúp các quốc gia ở đây phát triển cơ
sở hạ tầng. Một số sỹ quan quân đội Bhutan được tham dự các khóa học tại Trung tâm nghiên
cứu an ninh châu Á – Thái Bình Dương.
Maldives là quốc gia có truyền thống theo đuổi chính sách không liên kết, cố gắng duy trì địa
vị không phụ thuộc vào một cường quốc nào trong khi duy trì lâu dài mối quan hệ thân mật với
tất cả các các nước trên thế giới. Mục đích của lập trường này là nhận thêm nhiều viện trợ và giữ
vùng Ấn Độ Dương trong hòa bình. Trong quá khứ Maldives đã từng từ chối đề nghị trợ giúp 1
triệu USD của Liên Xô vào 1977, với mong muốn quốc gia này cho Liên Xô thuê căn cứ không
quân Anh xưa ở Gan.
Bối cảnh lịch sử quốc tế và những chuyển biến chính trị trong khu vực những năm gần đây
đã khiến Mỹ quan tâm nhiều hơn đến đảo quốc này. Mỹ đã có những chương trình hỗ trợ phát
triển kinh tế cho Maldives. Tài chính cho mục tiêu này chủ yếu được thực hiện thông qua các
chương trình của tổ chức quốc tế. Sau thảm họa sóng thần năm 2004, Mỹ và Maldives đã ký một
thỏa thuận hỗ trợ song phương trị giá 8,6 triệu USD cho hỗ trợ tái thiết. Khoản tài chính này giúp
xây dựng lại bến cảng, hệ thống thoát nước... Mỹ đã trực tiếp tài trợ đào tạo về quản lý cho hải
quan sân bay, hàng năm đào tạo một số nhân viên quân sự Maldives.
Trong những năm gần đây, chính quyền Maldives cho phép tàu hải quân Mỹ thường xuyên
ghé thăm thủ đô Male. Maldives cũng đã mở rộng hỗ trợ mạnh mẽ những nỗ lực của Mỹ chống
khủng bố và các hoạt động tài trợ khủng bố trong khu vực.
Nhìn chung, xuất phát từ những giá trị địa – chính trị khác nhau, chính sách của Mỹ đối với
hai quốc gia ít được quan tâm trong lịch sử này đang có sự chuyển biến. Trong đó nổi bật lên là
Tiểu kết
Maldives.
Thế giới bước vào thiên niên kỷ mới với sự kiện 11/9/2001 ở nước Mỹ chấn động toàn cầu.
Ngay sau đó chính quyền Mỹ tuyên bố tấn công tiêu diệt tận gốc khủng bố bằng cuộc chiến tranh
Afghanistan. Không lâu sau đó là cuộc chiến ở Iraq nhằm lật đổ chính quyền Saddam Hussen,
chính quyền được cho là tài trợ khủng bố và sở hữu vũ khí giết người hàng loạt. Thế giới sau hai
cuộc chiến này có nhiều thay đổi, đặc biệt sau khi Bush tuyên bố các nước hoặc đi theo Mỹ hoặc
đi theo khủng bố.
Nam Á nằm gần “khu vực chiến sự” của thế giới lúc bấy giờ. Với vị trí này, Nam Á được Mỹ
coi trọng, đặc biệt là nơi trú ẩn an toàn của các lực lượng khủng bố. Ngoài ra Nam Á có vai trò
quan trọng trong cung cấp hậu cần cho lực lượng Mỹ và liên quân tham chiến ở chiến trường
Afghanistan. Ngoài ra, đây là nơi tập trung nhiều lợi ích của Mỹ và tiếp giáp với những vùng lợi
ích quan trọng khác cần phải bảo vệ. Với những giá trị địa – chính trị như trên, Mỹ có chính sách
coi trọng các quốc gia Nam Á.
Trong số các quốc gia Nam Á, Pakistan có vi trí tiếp giáp với Afghanistan, một số khu vực
của quốc gia này có quan hệ chặt chẽ với lực lượng Al Qeada, Taliban và đang trở thành nơi ẩn
náu an toàn của chúng. Các chiến dịch của Mỹ và liên quân tỏ ra không hiệu quả, không tiêu diệt
được tận gốc khủng bố ở đây cũng bởi lý do này. Bên cạnh đó, Pakistan cũng là quốc gia có vị trí
hậu cần quan trọng cung cấp đến ¾ vật chất cho lực lượng Mỹ tham chiến ở chiến trường
Afghanistan. Vì vậy Pakistan trở thành nhân tố quan trọng trong cuộc chiến chống khủng bố của
Mỹ ở lục địa này. Musharraf đã biết khai thác mong muốn hợp tác của Mỹ với họ để đưa
Pakistan trở lại vị trí quan trọng trong chính sách của Mỹ.
Mỹ luôn biết sử dụng “con bài viện trợ” để thuyết phục các quốc gia khác đi theo mình.
Trong trường hợp quốc gia đang chìm ngập trong nợ nần sau những năm chạy đua phát triển vũ
trang với Ấn Độ và đối diện với lệnh cấm vận quốc tế, chính sách này tỏ ra hiệu quả. Nếu viện
trợ Mỹ trước sự kiện 11/9 phần nào như là một phương tiện giữ Pakistan khỏi trở thành một
“thùng hạt nhân”, thì viện trợ sau 11/9 là nhằm ngăn chặn khủng bố. Mỹ đang coi Pakistan như là
một đồng minh quan trọng ngoài NATO [82, tr 5]. Thực tế, Mỹ đã xem xét lại hàng loạt các
chính sách của họ với Pakistan bao gồm cả chính sách kinh tế, chính trị, quân sự,… bên cạnh
thúc đẩy quan hệ chống khủng bố. Nếu thập niên trước, các nhà tư bản quân sự Mỹ bị cấm buôn
bán vũ khí với Pakistan, thì lúc này các hoạt động buôn bán vũ khí được nối lại. Nhiều loại thiết
bị quân sự hiện đại được cung cấp cho Pakistan dù không để phục vụ cho cuộc chiến chống
khủng bố.
Mặc dù được Mỹ quan tâm nhưng sự hợp tác của Pakistan trong cuộc chiến chống khủng bố
này bị đánh giá là có giới hạn. Hoạt động ngăn chăn sự thâm nhập của lực lượng khủng bố qua
biên giới vào Afghanistan hiệu quả. Khu vực FATA của Pakistan vẫn là “vùng đất thánh” của
khủng bố. Những hành động quân sự của chính quyền Islamabad không đem lại kết quả đáng kể.
Trong khi đó những nghi ngờ về sự ủng hộ ngầm của lực lượng tính báo Pakistan với khủng bố
càng làm mâu thuẫn Mỹ - Pakistan gia tăng. Những hoạt động quân sự của Mỹ trên vùng lãnh thổ
biên giới Pakistan đã đẩy mâu thuẫn hai bên tăng cao. Tuy nhiên, Mỹ không để mâu thuẫn đến
chỗ không còn nhận được sự hợp tác của Pakistan.
Nhìn chung ở giai đoạn này, chính sách của Mỹ là dành những ưu tiên cho Pakistan. Sự xem
trọng giữ hòa khí trong quan hệ với Pakistan có thể dễ nhận thấy qua phản ứng và quan điểm xử
lý những hoạt động buôn bán trái phép hạt nhân của người được coi là cha đẻ của công nghệ hạt
nhân Pakistan, Abdul Qadeer Khan. Các nhà phân tích cho rằng, nếu là quốc gia khác hoặc là
thời kỳ khác trong quan hệ hai nước, vụ việc của Khan chắc chắn sẽ dẫn đến một hành động
trừng phạt nghiêm khắc, tuy nhiên, vụ việc đã được người Mỹ tuyên bố là “công việc nội bộ của
Pakistan” [75, tr 63].
Trong khi chính sách đối với Pakistan có sự thay đổi từ thái cực nọ sang thái cực kia, chính
sách đối với Ấn Độ trong giai đoạn này là sự phát triển tiếp tục những chuyển hướng mà Mỹ đã
theo đuổi từ đầu thập niên 90.
Khó khăn lớn nhất trong chính sách của Mỹ ở thời gian này là sự không làm mất lòng Ấn Độ
hay Pakistan khi đưa ra các quan điểm đối với các tranh chấp giữa hai bên. Lúc này Mỹ chủ
trương không nghiêng về bên nào trước các sự kiện gây căng thẳng giữa hai bên, mà cố gắng
không để quan hệ của hai quốc gia thù địch này đi đến chiến tranh, như sự kiện khủng bố
10/2001 của lực lượng chống đối Hồi giáo vào văn phòng lập pháp bang ở vùng Kashmir do Ấn
Độ kiểm soát; sự kiện khủng bố Toà nhà Quốc hội Ấn Độ tháng 12/2001.
Tuy nhiên từ sau cuộc viếng thăm của Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh tới Mỹ tháng
7/2005, đặc biệt là chuyến thăm của Tổng thống Bush vào tháng 3/2006, quan hệ Mỹ - Ấn đã
chuyển sang giai đoạn mới. Mỹ coi Ấn Độ là “đối tác toàn cầu”. Chuyển biến này dẫn đến Mỹ có
quan điểm nghiêng về Ấn Độ trước những vấn đề có liên quan tới Pakistan. Cách xử lý sự kiện
khủng bố kinh hoàng ở Mumbai tháng 11/2008 của một nhóm khủng bố được cho là có căn cứ ở
Pakistan là một ví dụ.
Nhìn chung, trong thập niên này, khi triển khai chính sách của mình ở Nam Á, Mỹ luôn gặp
khó khăn trong cân bằng quan hệ giữa Ấn Độ và Pakistan. Tăng cường quan hệ với Pakistan sẽ
dẫn đến làm tổn hại quan hệ với Ấn Độ và ngược lại, đặc biệt trong lĩnh vực hợp tác buôn bán
hàng hóa quân sự. Những hợp đồng buôn bán các loại vũ khí hiện đại cho Pakistan luôn bị Ấn Độ
phản đối kịch liệt, ngược lại, Pakistan cảm thấy mình bị nguy hiểm trước sự tăng cường hợp tác
nhiều mặt về quân sự, hạt nhân giữa Mỹ và Ấn Độ. Nhìn chung, vì mục tiêu chống khủng bố, Mỹ
phải gìn giữ mối quan hệ tốt với Pakistan và vì mục tiêu chiến lược địa – chính trị trên bàn cờ
quốc tế, Mỹ phải quan hệ tốt với Ấn Độ.
Bên cạnh đó, quan hệ thù địch Ấn Độ - Pakistan luôn tiềm ẩn nguy cơ chiến tranh bất kể lúc
nào, vì vậy Mỹ phải đóng vai trò quan trọng trong việc tháo ngòi nổ cho cuộc chiến trong tương
lai. Một khi chiến tranh Ấn Độ - Pakistan nổ ra sẽ ảnh hưởng không chỉ đến cuộc chiến chống
khủng bố của Mỹ đang theo đuổi ở Afghanistan, mà còn tạo điều kiện cho các đối thủ chiến lược
của Mỹ mở rộng ảnh hưởng ở các quốc gia này.
Chính sách của Mỹ trong giai đoạn này đối với các nước Nam Á khác cũng có sự thay đổi
tích cực. Mỹ chủ động thúc đẩy quan hệ với các nước như Sri Lanka, Nepal, Bhutan, Bangladesh,
Maldives. Nếu thập niên 90 của thế kỷ trước họ không được Mỹ quan tâm, thì sau sự kiện 11/9
cùng với thực tế ngày càng lớn mạnh của các đối thủ tiềm năng, Mỹ tăng cường quan hệ với các
quốc gia này vừa để tranh thủ sự ủng hộ của họ trong cuộc chiến chống khủng bố, vừa không để
các quốc gia này rơi vào quỹ đạo của Trung Quốc. Tuy nhiên mỗi quốc gia có giá trị địa – chính
trị khác nhau nên chính sách của Mỹ đối với họ cũng khác nhau. Nhưng nhìn chung, hầu như các
nước đã nhận được những khoản viện trợ đều đặn của Mỹ trong suốt thập niên đầu thế kỷ XXI,
nhận được sự tạo điều kiện trong mở rộng quan hệ thương mại đầu tư với Mỹ. Một số nước đã
nhận được viện trợ quân sự có giới hạn từ họ.
KẾT LUẬN
1. Sau Chiến tranh lạnh, Mỹ là siêu cường duy nhất còn lại trên thế giới. Với thế mạnh về
kinh tế, quân sự Mỹ muốn xác lập một trật tự thế giới mới có lợi cho mình, trật tự đơn cực. Tuy
nhiên, lúc này một số quốc gia nhờ tiến hành cải cách đúng hướng đã đưa đất nước vươn lên, trở
thành đối thủ tiềm năng cạnh tranh vị trí siêu cường của Mỹ. Phải làm gì để giữ vững vị trí số
một thế giới có được sau Chiến tranh lạnh là câu hỏi luôn đặt ra cho các nhà hoạch định chính
sách của Mỹ.
Nước Mỹ giàu có về kinh tế, vững mạnh về quân sự, khoa học kỹ thuật là một thực tế, nhưng
để thực hiện vai trò nhà lãnh đạo thế giới, Mỹ không thể dàn trải sức mạnh đó trên toàn cầu, nếu
có cũng không hiệu quả. Trên thế giới rộng lớn, Mỹ phải xác định các khu vực “sống còn” đối
với lợi ích và duy trì địa vị của Mỹ, đồng thời có khả năng ngăn chặn bất kỳ đổi thủ tiềm năng
nào trong tương lai, thực hiện 3 điểm quan trọng trong chính sách toàn cầu của Mỹ sau Chiến
tranh lạnh là: khống chế đồng minh; ngăn chặn đi đến tiêu diệt các nước còn lại trong hệ thống
XHCN; đàn áp phong trào giải phóng dân tộc.
Chính vì vậy, một trong những cơ sở quan trọng cho các nhà hoạch định chính sách quốc gia
Mỹ đưa ra chính sách toàn cầu trong thời đại mới là yếu tố địa – chính trị của từng khu vực. Xuất
phát từ yếu tố này, trước Chiến tranh lạnh, châu Âu là khu vực được Mỹ quan tâm nhất, sau
Chiến tranh lạnh, châu Á nổi lên trở thành nơi tập trung những chính sách của Mỹ, trong đó có
Nam Á.
2. Trong các lý thuyết địa – chính trị, các nhà địa – chính trị trên thế giới luôn xác định Nam
Á là khu vực quan trọng. Chẳng hạn theo lý thuyết “bao vây khoanh vùng” nổi tiếng của nhà địa
– chính trị Nicholas John Spykman, Nam Á nằm trong khu vực “vùng rìa” hay “khu vực vành
đai”, mà nếu “Ai kiểm soát khu vực vành đai thì sẽ cai trị được lục địa Á – Âu; cai trị được lục
địa Á – Âu thì sẽ kiểm soát được số mệnh của thế giới” [6, tr 165]. Hay theo lý thuyết địa – chính
trị của Alfred Thayer Mahan, tác giả của công trình nghiên cứu “The Influence of sea Power
upon History, 1660 - 1783” xuất bản 1890, người được mệnh danh là nhà địa – chính trị coi trọng
sức mạnh trên biển, Nam Á nổi bật ở vị trí án ngữ con đường biển quan trọng bậc nhất thế giới.
Ngoài ra theo lý thuyết của Mackinder, Nam Á là cửa ngõ quan trọng tiếp giáp với “vùng đất trái
tim”. Từ vị trí này, Nam Á có khả năng hạn chế sức mạnh của bất kỳ cường quốc nào nắm giữ
“vùng đất trái tim”. Như vậy theo quan điểm của các nhà địa – chính trị hàng đầu thế giới, Nam
Á hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp là vị trí địa – chính trị mà bất kỳ cường quốc nào muốn nắm giữ
vai trò lãnh đạo thế giới cũng không thể bỏ qua.
Những chuyển biến trong những thập niên gần đây cho thấy, Nam Á nằm gần khu vực địa –
chính trị đầy biến động như: gần khu vực Trung Đông đầy bất ổn nhưng nhiều lợi ích của các
cường quốc; tiếp giáp với chiến trường Afghanistan, đang là căn cứ hậu cần quan trọng cung cấp
cho lực lượng tham chiến của Mỹ và Liên quân; Nam Á có đường biên giới chung với Trung
Quốc, một cường quốc cộng sản đang có nhiều ảnh hưởng ở khu vực này, và là đối thủ Mỹ cần
phải kiềm chế, ngăn chặn. Đây cũng là khu vực có vị trí chiến lược quan trọng như nằm trên
tuyến đường vận tải biển sôi động bậc nhất trên thế giới, hay là nơi có các quốc gia sở hữu vũ khí
hạt nhân có nền chính trị bất ổn và chưa chịu ký vào CTBT và NPT; Nam Á còn được Mỹ nhìn
nhận là nơi có vị trí quan trọng trong trường hợp xảy ra xung đột với quốc gia thù địch Iran.
3. Không chỉ Mỹ hướng chính sách của mình đến Nam Á mà các cường quốc khác như Nga,
Trung Quốc cũng đang có những chính sách tìm kiếm lợi ích địa – chính trị ở đây. Đặc biệt là
Trung Quốc, quốc gia phát triển mạnh về kinh tế, quốc phòng và có tham vọng mạnh mẽ bá chủ
thế giới từ sau Chiến tranh lạnh. Trung Quốc có mối quan hệ truyền thống tốt đẹp với Pakistan và
đang đẩy mạnh ảnh hưởng của mình lên quốc gia Hồi giáo này nhằm khai thác mâu thuẫn Ấn Độ
- Pakistan để kiềm chế Ấn Độ, đồng thời can dự vào khu vực địa – chính trị quan trọng này.
Trung Quốc cũng thúc đẩy quan hệ với các quốc gia Nam Á khác như Bangladesh, Sri Lanka và
đạt được những thành công ban đầu trong thỏa thuận đầu tư khai thác một số cảng biển ở các
quốc gia này. Điều này khiến không chỉ Ấn Độ lo ngại bị bao vây mà Mỹ cũng bày tỏ sự lo ngại
của họ khi gọi các căn cứ này là một phần của “chuỗi ngọc trai” kéo dài từ căn cứ Tam Á trên
đảo Hải Nam đến tận vùng giầu dầu lửa Trung Đông. “Chuỗi ngọc trai” được nhìn nhận là một sự
đe dọa lợi ích của Mỹ, đặc biệt khi quan hệ hai cường quốc này trở nên xấu đi trong tương lai.
4. Vai trò địa – chính trị của một khu vực, một quốc gia không có giá trị bất biến mà luôn có
sự thay đổi khi bối cảnh thay đổi. Vì vậy, xuất phát từ vai trò địa – chính trị khu vực Nam Á, từ
sau Chiến tranh lạnh Mỹ đã có những điều chỉnh chính sách cho phù hợp với bối cảnh lịch sử.
Nếu trước Chiến tranh lạnh, chính sách của Mỹ chỉ tập trung vào 2 quốc gia là Ấn Độ và
Pakistan, thì sau đó, Mỹ hướng tới hầu khắp các nước Nam Á, đặc biệt là từ sau sự kiện
11/9/2011. Tuy nhiên, đối với mỗi quốc gia, chính sách của Mỹ cũng luôn có sự khác biệt.
Những nước lớn trong khu vực có nhiều lợi ích địa – chính trị, chính sách của Mỹ ổn định hơn,
ngược lại các nước nhỏ chính sách của Mỹ dễ thay đổi.
Tính chất dễ thay đổi trong xác định vai trò địa – chính trị của một quốc gia, từ đó có những
thay đổi trong chính sách của Mỹ thể hiện rõ ở Pakistan. Trước Chiến tranh lạnh, Mỹ áp dụng
chính sách đồng minh với Pakistan khi quốc gia này được coi như một “chiến binh” nơi tuyến
đầu chống cộng sản. Thập niên đầu sau Chiến tranh lạnh, Pakistan bị Mỹ rút hết các ưu tiên,
không tiếp tục ủng hộ chính trị trước những tranh chấp, bất đồng giữa quốc gia này với Ấn Độ
như trước đó, thậm chí Mỹ tiến hành các hành động trừng phạt, cấm vận kinh tế, cắt viện trợ, hủy
bỏ các hợp đồng buôn bán quân sự… khi phát hiện quốc gia này theo đuổi chương trình hạt nhân
bí mật.
Thập niên 90 là một trang quan hệ lạnh nhạt nhất trong lịch sử Mỹ - Pakistan. Tuy nhiên, sự
kiện 11/9/2001 và cuộc chiến chống khủng bố quốc tế sau đó của người Mỹ ở Afghanistan đã
đưa quan hệ hai bên trở lại “nồng ấm” như ngày nào. Các lệnh trừng phạt bị rỡ bỏ, các hợp đồng
chuyển giao vũ khí bị đình chỉ ngày nào được thực hiện trở lại, bất chấp sự phản đối của Ấn Độ;
hoạt động hợp tác quân sự được thúc đẩy; các gói viện trợ giá trị hàng tỉ đô la, cả về quân sự lẫn
dân sự, được thực hiện; các hoạt động đầu tư, thương mại được tiến hành với nhiều ưu tiên dành
cho Pakistan; quan điểm của Mỹ về những tranh chấp dẫn đến xung đột giữa Ấn Độ và Pakistan
trong thời gian này là cố gắng không để mâu thuẫn hai bên dẫn đến đối đầu quân sự, hành động
sẽ gây tổn hại lớn cho mục tiêu của Mỹ đang theo đuổi ở khu vực…
Sự chuyển hướng chính sách đối với Pakistan còn được thể hiện rõ trong cách hành động của
Mỹ trước các vấn đề hạt nhân của Pakistan. Nếu thập niên trước, từ lý do bí mật theo đuổi
chương trình hạt nhân, Pakistan phải đối diện với các lệnh trừng phạt, thì trong thập niên này,
trước bằng chứng rõ ràng, được thừa nhận bởi chính quyền Pakistan, về những hoạt động buôn
lậu hạt nhân của người được coi là “cha đẻ hạt nhân” Pakistan, Abdul Qadeer Khan, Mỹ không
có hành động trừng phạt khi cho rằng “không đảm bảo việc áp đặt lệnh trừng phạt theo luật pháp
Mỹ”. Thực chất là Mỹ không muốn những hành động trừng phạt này làm tổn hại đến sự hợp tác
chống khủng bố mà họ đang rất cần từ Pakistan, cũng như không muốn đẩy quốc gia này lại gần
Trung Quốc hơn như đã từng xảy ra trong lần trừng phạt trước.
5. Khác với Pakistan, Ấn Độ là một nước lớn trong khu vực, chính sách của họ có khả năng
ảnh hưởng đến nhiều quốc gia khác. Ấn Độ được xem là một trong những cường quốc trong
tương lai có khả năng thách thức vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ. Vì vậy, chính sách của Mỹ đối
với Ấn Độ có sự khác biệt so với các quốc gia khác trong khu vực.
Năm 1991, Ấn Độ theo đuổi cải cách mạnh mẽ đất nước. Cuộc cải cách đòi hỏi Ấn Độ phải
cải thiện mối quan hệ với Mỹ, phương Tây để tiếp nhận từ họ công nghệ, vốn, thị trường cho
hàng hóa xuất khẩu. Trong khi đó, Mỹ nhận thấy có thể khai thác vai trò địa – chính trị của Ấn
Độ trong việc kiềm chế Trung Quốc.
Quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc từng có những trang đen tối khi hai nước tiến hành cuộc chiến
tranh ở thập niên 60 của thế kỷ trước. Hiện thời giữa họ vẫn đang có những tranh chấp lãnh thổ
và là nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến xung đột mỗi khi quan hệ hai bên trở nên xấu đi. Hai cường quốc
mới nổi này đang chạy đua gia tăng ảnh hưởng của mình lên các quốc gia khác trong khu vực.
Trong cuộc đua này, Ấn Độ cảm thấy bị “bao vây” bởi các căn cứ của Trung Quốc và phải cạnh
tranh quyết liệt với họ ở chính khu vực ảnh hưởng truyền thống của Ấn Độ. Vì vậy, Mỹ có thể
khai thác những mâu thuẫn trên để phục vụ cho chính sách toàn cầu của mình kiềm chế các đối
thủ tiềm năng, thúc đẩy Ấn Độ trở thành đối trọng với Trung Quốc.
Ngoài ra, tham vọng cường quốc của Ấn Độ cũng là điểm phải tính đến trong lâu dài. Mỹ lựa
chọn cách “đi cùng” với người Ấn để vừa kiềm chế vừa không đẩy Ấn Độ đi đến chỗ rơi vào quỹ
đạo của các địch thủ hoặc trở nên đối đầu với Mỹ.
Muốn đạt được những mục tiêu trên ở khu vực địa – chính trị này, chính sách của Mỹ phải
đảm bảo đặt lợi ích của mình trong lợi ích của Ấn Độ. Không để Ấn Độ cảm thấy họ là đối tác
yếu, “đi cùng” Mỹ nhưng Ấn Độ phải đạt được mục tiêu chiến lược của họ.
Từ thực tế trên, trong thập niên 90, chính sách của Mỹ đối với Ấn Độ là đi từ lạnh nhạt đến
nồng ấm trong hầu hết mọi lĩnh vực. Thậm chí trong mối quan hệ với Ấn Độ và Pakistan, chính
sách của Mỹ có phần nghiêng hẳn về Ấn Độ. Ngoài thái độ của Mỹ về tranh chấp Jammu và
Kashmir có lợi cho Ấn Độ, quốc gia này còn thúc đẩy các quan hệ đầu tư, thương mại, viện trợ,
ủng hộ các khoản vay từ các tổ chức tài chính quốc tế, hợp tác quân sự, buôn bán thiết bị quân
sự, tập trận chung.
Thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, mặc dù chính sách của Mỹ có thay đổi đối với Pakistan
nhưng không vì vậy mà Mỹ đổi chiều trong chính sách với Ấn Độ. Các quan hệ tốt đẹp trên vẫn
tiếp tục được thúc đẩy ở mức độ cao hơn. Nhiều hoạt động hợp tác trước kia chưa được tiến hành
thì thập niên này đã được thúc đẩy như: hợp tác hạt nhân dân sự, hợp tác công nghệ cao, hợp tác
nghiên cứu không gian…Nổi bật là hợp tác hạt nhân dân sự. Sau nhiều năm theo đuổi chính sách
ngăn chặn Ấn Độ tiếp cận công nghệ hạt nhân không thành công, Mỹ lựa chọn cách “đi cùng”
với Ấn Độ trong lĩnh vực này để mong kiểm soát hoạt động hạt nhân của họ. Không để công
nghệ và nguyên liệu hạt nhân của quốc gia này rơi vào tay nước thứ ba, đặc biệt là các nước có
mối quan hệ thù địch với Mỹ.
Địa vị nước lớn của Ấn Độ trên trường quốc tế cũng được Mỹ thừa nhận. Bản Chiến lược an
ninh quốc gia năm 2002 của Bush tuyên bố “lợi ích của Mỹ cần đến một mối quan hệ mạnh mẽ
với Ấn Độ”. Năm 2006 ông khẳng định trong bản Chiến lược an ninh quốc gia mới rằng “Ấn Độ
hiện nay đã sẵn sàng gánh vác nghĩa vụ toàn cầu trong việc hợp tác với Mỹ trong thẩm quyền
phù hợp với một cường quốc” [77, tr 14]. Năm 2011, trong chuyến viếng thăm chính thức của
Tổng thống Obama tới Ấn Độ, ông đã tuyên bố ủng hộ quốc gia này có một ghế trong thường
trực Hội đồng Bảo an mở rộng và coi Ấn Độ là một “đối tác toàn cầu”. Dù rằng để trở thành một
cường quốc toàn cầu Ấn Độ còn phải làm nhiều hơn nữa, nhưng những động thái trên cho thấy
Mỹ đang có những chính sách cởi mở hơn với Ấn Độ.
Chính sách của Mỹ đối với Ấn Độ cũng như Pakistan không phải không có những cản trở.
Vấn đề hóc búa có nguy cơ làm sụp đổ mọi nỗ lực của Mỹ ở Nam Á là thái độ và quan điểm giải
quyết mâu thuẫn Ấn Độ - Pakistan. Trước những căng thẳng giữa hai bên, ngoại giao của Mỹ
luôn thúc đẩy đàm phán không để mâu thuẫn đi đến chỗ xung đột vũ trang. Tuy nhiên trong một
số trường hợp, Mỹ có phần nghiêng về Ấn Độ như sự kiện những kẻ hồi giáo cực đoan có căn cứ
ở Pakistan tiến hành vụ khủng bố kinh hoàng ở Mumbai năm 2008. Bên cạnh đó, cả Ấn Độ và
Pakistan đều có mục tiêu cải thiện quan hệ với Mỹ để mong nhận được những hợp đồng buôn
bán vũ khí hiện đại từ họ. Đây là thách thức lớn nhất đối với Mỹ mỗi khi thực hiện các hợp đồng
buôn bán thiết bị quốc phòng cho mỗi bên. Mỹ luôn bị phản đối từ Ấn Độ mỗi khi tiến hành các
hoạt động thương mại quốc phòng với Pakistan và ngược lại. Phản đối là dễ hiểu nhưng qua đó
niềm tin của các bên đối với Mỹ cũng suy giảm.
Bên cạnh hai quốc gia lớn ở Nam Á, chính sách của Mỹ đối với các quốc gia Nam Á nhỏ
khác cũng có những chuyển biến sau Chiến tranh lạnh, đặc biệt là từ thập niên đầu của thế kỷ
XXI. Xuất phát từ lợi ích địa – chính trị Mỹ có được ở các nước này, chính sách của Mỹ đối với
mỗi nước cũng khác nhau. Bangladesh, Sri Lanka trong số các nước nhận được nhiều sự trợ giúp
và đang có mối quan hệ nhiều mặt với Mỹ. Bhutan, Nepal, Maldives có ít lợi ích địa – chính trị
hơn nên không nhận được nhiều trợ giúp từ Mỹ và cũng có ít quan hệ hơn. Chính sách của Mỹ
đối với các quốc gia Nam Á nhỏ này là tăng cường quan hệ để các quốc gia này không rơi vào
quỹ đạo của đối thủ của Mỹ.
6. Như vậy, địa – chính trị luôn là yếu tố ngầm sau những toan tính thể hiện trong chính sách
bề nổi của Mỹ về kinh tế, thương mại đầu tư, hợp tác hạt nhân, buôn bán thiết bị quân sự... Lợi
ích địa – chính trị phản ánh lợi ích quốc gia của Mỹ, cho nên sự thực tâm, nồng ấm hay “ghẻ
lạnh” đối với một quốc gia trong quan hệ với Mỹ đều vì lợi ích quốc gia và dựa trên lợi ích quốc
gia của Mỹ. Quốc gia nào ở đó lợi ích quốc gia Mỹ thể hiện càng nhiều thì Mỹ càng coi trọng và
còn được coi trọng khi nào những lợi ích đó chưa suy giảm. Cũng xuất phát từ lợi ích quốc gia,
Mỹ sẵn sàng thay đổi quan hệ với một quốc gia nào đó một cách nhanh chóng khi nó không còn
phục vụ cho mục tiêu tối thượng của Mỹ. Điều này càng thể hiện rõ đối với các nước có vị thế
yếu hơn trong quan hệ với Mỹ.
7. Đặt trong chính sách toàn cầu, địa – chính trị khu vực này có những điểm chung, điểm
khác biệt so với các khu vực địa – chính trị khác mà Mỹ đang theo đuổi. Cùng phục vụ mục tiêu
toàn cầu của Mỹ nhưng so với các khu vực địa – chính trị khác ở châu Á như Đông Nam Á,
Đông Bắc Á, khu vực địa – chính trị Nam Á không bao gồm một nước cộng sản. Do đó, nhiệm
vụ chống cộng sản chỉ là gián tiếp. Chính sách toàn cầu ở đây là nhằm tìm kiếm lợi ích phục vụ
nước Mỹ nói chung, tư bản Mỹ nói riêng, đồng thời kiềm chế các nước đang phát triển, không để
các quốc gia này trở thành đối thủ không thể kiểm soát trong tương lai. Vì vậy, Mỹ có thể tiến
hành hợp tác trên mọi lĩnh vực với các nước này, kể cả vấn đề hạt nhân dân sự, điều mà Mỹ
không thể thực hiện ở các nước cộng sản.
8. Một câu hỏi đặt ra là tương lai địa – chính trị khu vực này trong chính sách của Mỹ sẽ như
thế nào? Nhìn chung, chính sách đối với từng nước có thể khác nhau nhưng Nam Á sẽ tiếp tục
được ưu tiên. Các nước nhỏ sẽ được quan tâm hơn nhằm không để các đối thủ của Mỹ lôi kéo về
phía họ. Với Ấn Độ, tiếp tục có chính sách thúc đẩy quan hệ, ngăn chặn khả năng hình thành
khối nước Nga – Trung - Ấn hợp tác chống Mỹ.
Đối với Pakistan. Sau sự kiện Mỹ bất ngờ tiêu diệt trùm khủng bố Osama Bin Laden nổ ra
sự tranh cãi ngoại giao giữa đôi bên. Việc trùm khủng bố trú ẩn nhiều năm liền ở Pakistan mà
không bị phát hiện khiến giới chức Mỹ nghi ngờ sự thực tâm hợp tác chống khủng bố của quốc
gia này. Vì vậy, có ý kiến cho rằng, Mỹ sẽ xem xét lại chính sách với quốc gia đang được coi là
đồng minh chống khủng bố này. Biểu hiện là không lâu sau đó chính quyền Obama đã tuyên bố
cắt 800 triệu USD viện trợ quân sự cho quốc gia này.
Tuy nhiên, nhất thời phản ứng trừng phạt của chính quyền Obama là dễ hiểu. Washington
không thể không làm gì trước dư luận giận dữ trong nước. Nhưng lâu dài, Mỹ vẫn phải tiếp tục
duy trì quan hệ với Pakistan vì: thứ nhất, ngày càng cho thấy, Pakistan không chỉ là căn cứ hậu
cần mà đang trở thành chiến trường của cuộc chiến chống khủng bố, không hợp tác với
Islamabad để xóa bỏ những cơ sở khủng bố ở khu vực gần biên giới Afghanistan, những xương
máu và tiền bạc của người Mỹ đổ vào cuộc chiến ở đây sẽ trở nên vô ích; thứ hai, nếu chính sách
của Mỹ dẫn đến làm suy yếu chính quyền Islamabad, lực lượng khủng bố sẽ nổi lên, sự an toàn
của kho hạt nhân ở đây sẽ bị đe dọa, vũ khí hạt nhân có thể rơi vào tay khủng bố, điều mà Mỹ
luôn lo sợ; thứ ba, sự trỗi dậy của Trung Quốc và mối quan hệ đặc biệt của quốc gia này với
Pakistan luôn là thách thức với Mỹ, chính sách của Mỹ không thể đi đến chỗ đẩy Pakistan lại gần
Trung Quốc; thứ tư, chính quyền Islamabad vẫn là chính quyền Hồi giáo thân Mỹ. Như vậy, địa –
chính trị Pakistan trong thời gian tới vẫn là một trong những quan tâm hàng đầu trong khu vực.
9. Những bài học từ chính sách của Mỹ đối với Nam Á và những lợi ích mà các quốc gia này
có được từ khai thác yếu tố địa – chính trị có giá trị gợi ý đáng kể đối với Việt Nam trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Chúng ta xác định chính sách ngoại giao đa phương, làm bạn
với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Chính sách này không phải lúc nào cũng được
các nước có quan hệ với ta nhất nhất tôn trọng, đặc biệt là các cường quốc.
Đối với các cường quốc, chính sách đối ngoại của họ luôn vì lợi ích và đặt ra nhiệm vụ tìm
kiếm lợi ích quốc gia. Việt Nam được nhìn nhận là quốc gia nằm ở vị trí địa lý khá trung tâm
Đông Nam Á, trên con đường biển quan trọng, có những đảo và quần đảo tốt cho mục tiêu kinh
tế và quân sự, nhiều cảng biển đảm bảo cho chuyên chở hàng hóa, giàu tài nguyên thiên nhiên…
Chính phủ Việt Nam đã và đang thể hiện rõ quyết tâm cải cách, mở cửa và hội nhập. Do đó, Việt
Nam đang là quốc gia được nhiều cường quốc quan tâm. Ấn Độ quan tâm đến Việt Nam như một
phần quan trọng của chính sách hướng Đông. Nhật Bản quan tâm đến Việt Nam nói riêng, Đông
Nam Á nói chung, trong bối cảnh Trung Quốc nổi lên như một sự đe dọa con đường biển vận
chuyển hàng hóa, nguyên nhiên vật liệu tối quan trọng của quốc gia này tới Trung Đông, châu Âu
và ngược lại. Mỹ quan tâm đến khu vực này, trong đó có Việt Nam, như một phần của chính sách
kiềm chế Trung Quốc, đảm bảo thông thương bình thường tuyến đường biển qua Biển Đông, hỗ
trợ đồng minh…Trung Quốc coi đây là khu vực ảnh hưởng truyền thống, là “sân sau” của họ,
đồng thời là cửa ngõ quan trọng để vươn ra bá chủ thế giới. Với tiềm lực ngày càng lớn mạnh,
Trung Quốc đang thực thi chính sách nước lớn trong tuyên bố chủ quyền nhiều đảo và vùng biển
là lãnh thổ của các nước trong khu vực như Việt Nam, Philippines, tạo nên sự phức tạp, đe dọa
hòa bình và ổn định khu vực.
Vì vậy, trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay, Việt Nam phải phát huy tối đa lợi thế địa
– chính trị nhằm thu hút các cường quốc, đồng thời tranh thủ họ kiềm chế lẫn nhau. Tuy nhiên,
phải có chính sách linh hoạt, mềm dẻo, giải quyết vấn đề lợi ích một cách hài hòa, có nguyên tắc,
không để các cường quốc lợi dụng gây phương hại đến vận mệnh dân tộc.
Hơn nữa, lợi thế địa – chính trị Việt Nam phải đặt trong địa – chính trị khu vực. Do đó, phải
tạo nên sự đồng thuận khu vực ASEAN, kết hợp xu thế thế giới, giải quyết những tranh chấp giữa
các nước trong khu vực trên cơ sở đàm phán. Ổn định hay bất ổn ở khu vực này đều có ảnh
hưởng đến các quốc gia khác. Bài học về sự kém phát triển của Hiệp hội hợp tác khu vực Nam Á
(SAARC) do những tranh chấp lãnh thổ giữa Ấn Độ và Pakistan gây nên luôn phải được coi
trọng.
Ngoài ra lợi thế địa - chính trị luôn gắn với thực lực của một quốc gia. Tăng cường xây dựng
thực lực về kinh tế, chính trị, quân sự…luôn là một nhân tố quan trọng trong việc phát huy lợi thế
địa – chính trị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Phạm Thị Ngọc Bích, “Cộng đồng các quốc gia độc lập - 10 năm nhìn lại”, Nghiên cứu
quốc tế , (39), tr 16-26.
2. Brzezinski Z. Lê Phương Thúy dịch (1999), Bàn cờ lớn (The Grand Chessboard), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đặng Bảo Châu (2004), “Chính phủ mới và công cuộc cải cách kinh tế Ấn Độ”, Nghiên
cứu quốc tế, (58), tr 31 – 43.
4. Đặng Bảo Châu (2004), “Liệu Ấn Độ có vượt qua Trung Quốc?”, Nghiên cứu quốc tế,
(65), tr 46 – 54.
5. Hồ Châu (2005), “Chiến lược Á – Âu của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh nhìn từ góc độ
địa chính trị”, Nghiên cứu Châu Âu, tr 19 – 26.
6. Nguyễn Văn Dân (2011), Địa chính trị trong chiến lược và chính sách phát triển quốc
gia, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
7. Nguyễn Tùng Dương (2009), “Tương lai thế và lực của Mỹ: “Khoảnh khắc đơn cực” đã
thật sự chấm dứt?”, Nghiên cứu Quốc tế, (1), tr 133 – 148.
8. Nguyễn Giáp, Phan Dân (2002), “Phác họa những nét cơ bản trong chính sách đối ngoại
của chính quyền G. W. Bush hiện nay”, Nghiên cứu Quốc tế, (44), tr 11 – 18.
9. Hanfeng, Hồng Yến (dịch)(2006), “Chính sách “Láng giềng hòa thuận, láng giềng bình
yên, láng giềng giàu có” của Trung Quốc, Thông tin Khoa học Xã hội, (7), tr 46 - 51.
10. Hà Hồng Hải (2002), “Một số điều chỉnh chính sách châu Á của Mỹ sau sự kiện 11/9”,
Nghiên cứu quốc tế, (46), tr 49 – 55.
11. Nguyễn Thị Kim Hằng (2009), Yếu tố địa – chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ
từ sau Chiến tranh lạnh đến nay (12/1989 – 5/2008), Luận văn thạc sỹ lịch sử, Trường
ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
12. Hà Hồng Hải (2002), “Một số điều chỉnh chính sách châu Á của Mỹ sau sự kiện 11/9”,
Nghiên cứu Quốc tế, (46), tr 49 – 55.
13. Đặng Ngọc Hùng (2004), “Hòa giải giữa Ấn Độ và Pakistan”, Nghiên cứu quốc tế, (56),
tr 78 – 85.
14. Nguyễn Ngọc Hùng (2008), “Nhìn lại mối quan hệ Trung - Ấn”, Nghiên cứu Trung
Quốc, (8), tr 56 – 63.
15. Vũ Dương Huân (2008), “Về trật tự thế giới hiện nay”, Những vấn đề kinh tế và chính
trị thế giới, (11), tr 3 – 10.
16. Nguyễn Thái Yên Hương, (2008), “Mỹ và các vấn đề toàn cầu thời kỳ sau Chiến tranh
lạnh”, Nghiên cứu quốc tế, (72), tr 46 – 59.
17. Vũ Lê Thái Hoàng (2008), “Đánh giá về sức mạnh của Mỹ và những hệ lụy quốc tế
trong những thập niên đầu của thế kỷ 21”, Nghiên cứu quốc tế, (73), tr 110 – 115.
18. Vũ Lê Thái Hoàng (2008), “Quan điểm về đối ngoại của Obama và Mc Cain: Hai cam
kết một thực tiễn”, Nghiên cứu quốc tế, (74), tr 89 – 94.
19. Trịnh Thị Thu Huyền (2008), “Sức mạnh, quyền lực và bá quyền Mỹ trong cơn khủng
hoảng”, Nghiên cứu quốc tế, (74), tr 95 – 100.
20. Trần Đông Hiểu (2006), “Chính quyền Bush điều chỉnh chính sách châu Á- Thái Bình
Dương”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN, tr 12 – 26.
21. Đào Việt Hưng (2005), “Một số đặc điểm tăng trưởng kinh tế Ấn Độ hiện nay”, Những
vấn đề kinh tế thế giới, (3), tr 54 – 61.
22. Nguyễn Thanh Hiền (2006), “Bối cảnh quốc tế mới và sự điều chỉnh chiến lược quan hệ
quốc tế của các nước lớn”, Những vấn đề kinh tế thế giới, (3), tr 21 – 31.
23. Học viện quan hệ quốc tế (2003), Quan hệ của Mỹ với các nước lớn ở khu vực châu Á -
Thái Bình Dương, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
24. Nguyễn Nam Khánh (2004), “Chính sách Nam Á của Mỹ sau sự kiện 11/9: cơ hội và
thách thức”, Nghiên cứu quốc tế, (56), tr 24 – 32.
25. Phạm Kiên (2009), “Trật tự thế giới: Sự đồng thuận Bắc Kinh thế chỗ sự đồng thuận
Washington”, Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, (1), tr 64 – 66.
26. Lê Linh Lan (2001), “Quan hệ Mỹ - Trung dưới chính quyền Bush: sự khởi đầu khó
khăn”, Nghiên cứu Quốc tế, (40), tr 36 – 43.
27. Lê Linh Lan (2002), “Điều chỉnh chính sách của Mỹ một năm sau sự kiện 11/9”,
Nghiên cứu quốc tế, (48), tr 27 – 37.
28. Tú Linh (2004), “Một số nét chính trong chiến lược ngoại giao nước lớn của Trung
Quốc đầu thế kỷ XXI”, Nghiên cứu quốc tế, (56), tr 43 – 51.
29. Nguyễn Văn Lịch (2006), Vài nét về mô hình và triển vọng kinh tế Ấn Độ, Tạp chí
Nghiên cứu quốc tế, (67), tr 84 – 94.
30. Nguyễn Văn Lịch (2008), “Nhân tố Trung Quốc trong quan hệ Ấn Độ - châu Phi”,
Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, (9), tr 32 – 38.
31. Nguyễn Văn Lịch (2008), “Đặc khu kinh tế của Ấn Độ”, Những vấn đề kinh tế và chính
trị thế giới, (7), tr 41 – 47.
32. Nguyễn Văn Lịch (2009), “Tình hình thị trường vũ khí Nam Á”, Những vấn đề kinh tế
và chính trị thế giới, (1), tr 67 – 74.
33. Nguyễn Thế Lực, Nguyễn Hoàng Giáp (2000), “Khái quát lịch sử phát triển tư tưởng
địa – chính trị thế giới”, Khoa học Chính trị, tr 13 – 16
34. Trần Thị Lý (cb) (2002), Sự điều chỉnh chính sách của Cộng hòa Ấn Độ từ 1991 đến
2000, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
35. Makarenco V. (2002), Nước Nga trước thềm thế kỷ XXI, Nxb Công an Nhân dân, Hà
Nội.
36. Võ Hải Minh (2006), “Lợi ích quốc gia – Nền tảng trong quá trình hoạch định chiến
lược an ninh quốc gia Hoa Kỹ”, Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, (12), tr 35 –
46.
37. Trình Mưu, Vũ Quang Vinh (đồng chủ biên) (2005), Quan hệ quốc tế những năm đầu
thế kỷ XXI vấn đề, sự kiện và quan điểm, Nxb Lý luận Chính trị,Hà Nội.
38. Phan Doãn Nam (2002), “Quan hệ giữa các nước lớn sau Chiến tranh lạnh”, Nghiên cứu
quốc tế, (47), tr 17 – 28.
39. Phan Doãn Nam (2002), “Nước Mỹ và thế giới sau sự kiện 11/9”, Nghiên cứu quốc tế,
(48), tr 20 – 26.
40. Phan Doãn Nam (2002), “Quan hệ giữa các nước lớn sau Chiến tranh lạnh”, Nghiên cứu
Quốc tế, (47), tr 17 – 28.
41. Phan Doãn Nam (2004), “Những xu hướng chủ yếu của quan hệ hiện nay và 15 – 20
năm tới”, Nghiên cứu quốc tế, (57), tr 21 – 28.
42. Naumkin V. (2008), “Sự trỗi dậy của Nga: những tác động đối với khu vực châu Á -
Thái Bình Dương”, Nghiên cứu quốc tế, (73), Tr 66 – 79.
43. Nguyễn Nhâm (2007), “Ngân sách quốc phòng thế giới sau Chiến tranh lạnh”, Thông
tin Khoa học Xã hội, (1), tr 29 – 33.
44. Thôi Lập Như (2006), “Diễn biến của trật tự quốc tế trong thế kỷ 21”, Tài liệu tham
khảo đặc biệt, TTXVN, tr 35 - 44.
45. Phạm Cao Phong (2004), “Chính sách của Trung Quốc đối với các nước lớn trong hai
thập niên đầu thế kỷ 21”, Nghiên cứu quốc tế, (57), tr 29 – 43.
46. Dương Văn Quảng (2008), “Tính chất đan xen trong quan hệ quốc tế”, Nghiên cứu
quốc tế, (73), tr 58 – 65.
47. Nguyễn Huy Quý (2005), “Quan hệ Trung - Ấn chuyển sang giai đoạn mới”, Nghiên
cứu Trung Quốc, (5), tr 54 – 59.
48. Phan Văn Rân (2004), “Tam giác chiến lược Nga – Trung - Ấn và những trở ngại trong
việc thực hiện ý tưởng trên”, Nghiên cứu Trung Quốc, (1), tr 34 – 43.
49. Nguyễn Thiết Sơn (2004), Hoa Kỳ kinh tế và quan hệ quốc tế, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
50. Suetin A, Mạnh Chí (lược thuật) (2007), “Năm 2006: thế giới hôm nay và ngày mai”,
Thông tin khoa học xã hội, (1), tr 42 – 47.
51. Sutter R.G. (2008), “Mỹ và châu Á – Thái Bình Dương: vấn đề đặt ra năm 2009”,
Nghiên cứu quốc tế, (73), tr 80 – 91.
52. Nguyễn Đức Tuyến (2008), “Về sức mạnh mềm của Trung Quốc ở châu Á”, Nghiên
cứu quốc tế, (72), tr 68 – 76.
53. Duy Tân Thân (2006), “Tình hình thế giới và chiến lược đối ngoại “Trỗi dậy hòa bình”
của Trung Quốc, Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN, tr 29 – 38.
54. Du Thúy (2006), “Cục diện lớn và kế hoạch ngoại giao lớn”, Tài liệu tham khảo đặc
biệt, TTXVN, tr 44 – 51.
55. Trần Văn Tùng (2006), “Sự khác biệt giữa mô hình phát triển kinh tế Trung Quốc và
Ấn Độ”, Những vấn đề kinh tế thế giới, (6). tr 13 – 20.
56. Đặng Xuân Thanh (2008), “Sức mạnh cứng, sức mạnh mềm và cán cân quyền lực mới”,
Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, (9), tr 3 – 9.
57. Lang Trung (2009), “Chuyến thăm chiến lược của Thủ tướng Ấn Độ tới Nga”, trang
web tạp chí cộng sản điện tử. 4TUwww.tapchicongsan.org.vnU3T4T.
58. Tuareno M. Nguyễn Văn Hiến dịch (1996), Sự đảo lộn của thế giới địa – chính trị thế
kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Tình hình thị trường vũ khí Nam Á, Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, (1), tr 67
– 73.
60. Tài liệu tham khảo đặc biệt (2006), “Đường lối ngoại giao biên giới mới của Trung
Quốc”, TTXVN, tr 1 – 10.
61. Tài liệu tham khảo đặc biệt(2006), “Chiến lược và chính sách quốc phòng của các nước
lớn trong thế kỷ mới”, TTXVN, tr 11 – 26.
62. Tài liệu tham khảo đặc biệt(2006), “Những thách thức đối với sự phát triển kinh tế của
Trung Quốc và Ấn Độ”, TTXVN, tr 42 – 51.
63. Phạm Ngọc Uyển (2006), “Hiệp định hạt nhân Mỹ - Ấn Độ và tác động đến nỗ lực
chống phổ biến hạt nhân toàn cầu”, Nghiên cứu quốc tế, (66), tr 28 - 38.
64. Đinh Vĩ (2004), “Sự trỗi dậy của Trung Quốc và trách nhiệm với thế giới nhìn lại và
đánh giá”, Nghiên cứu Trung Quốc, (3), (4), tr 27 – 37 và Tr 33 – 39.
65. Hồ Vũ (2008), “Thử bàn về cục diện quốc tế hiện nay”, Nghiên cứu quốc tế, (73), tr 47
– 47.
66. Tấn Vũ (2009), “Quan hệ Nga - Ấn Độ hướng tới tầm chiến lược”, trang web báo điện
tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 4TUwww.cpv.org.vnU3T4T.
67. Viện Thông tin Khoa học xã hội (2003), Khủng bố và chống khủng bố với vấn đề an
ninh quốc tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Tiếng Anh
68. Chapman G.P. (2009), The Geopolitics of South Asia: From Early Empires to the
Nuclear Age, Ashgate Publishing Limited.
69. Chaudhury R.R. (2004), The United States’ role and influence on the India-Pakistan
conflict, United Nations Institute for disarmament research, 4TUhttp://www.unidir.orgU4T
70. Chou D.S. (2003), U.S. Policy toward India and Pakistan in the Post – Cold War era,
Taipei: Sheng - Chih Book Co. Ltd.
71. Frank G.Wisner II, Nicholas Platt, Marshall M. Bouton, Dennis Kux and Mahnaz
Ispahani (2003), New Priorities in South Asia: U.S. Policy toward India, Pakistan and
Afghanistan, The Council on Foreign Relations, Inc.
72. Heitzman J., Robert L. Worden, (1995). India: A Country Study, Washington: GPO for
the Library of Congress, 4TUhttp://countrystudies.usU4T.
73. Kerr P.K. (2010), U.S. nuclear cooperation with India: Issues for Congress,
Congressional research service, 4TUwww.crs.govU4T.
74. Kerry, Lugar, Brown, Brownback, Leahy Mark (2009), “The End to Sri Lanka’s Civil
War,” United States Senate Committee on Foreign Relations.
75. Kronstadt K. A. (2009), Pakistan - US relations, Congressional Research
Service, 4TUwww.crs.govU4T.
76. Kronstadt K. A., Kenneth Katzman (2008), “Islamist militancy in the Pakistan –
Afghanistan border region and U.S. policy”, Congressional research
service, 4TUwww.crs.govU4T.
77. Kronstadt K. A. (2009), “Indian – U.S. Relations”, Congressional research
service, 4TUwww.crs.govU4T.
issues and developments”, 78. Kronstadt K. A. (2010), “Pakistan: Key current
Congressional research service, 4TUwww.crs.govU4T.
79. Kronstadt K. A., Bruce Vaughn (2009), “Sri Lanka: Background and U.S. relations”,
Congressional research service, 4TUwww.crs.govU4T.
80. Kronstadt K. A. (2009), Sri Lanka: Background and U.S. Relations
81. Lavoy P.R. (2003), “Managing South Asia’s Nuclear rivalry: New policy challenges for
the United States”, The Nonproliferation Review, tr 84 – 93.
82. Nayak P. (2005), “U.S. Security Policy in South Asia Since 9/11 — Challenges and
Implications for the Future”, Asia – Pacific Center for Security Studies.
83. Office of the Press Secretary, The White House (2009), “Statement on Continuing
Conflict in Sri Lanka”.
84. Short J.R (1993), An Introduction to Political Geography, Routledge, New York
85. Vaughn B. (2007), “Bangladesh: Background and U.S. relations”, Congressional
research service, 4TUhttp://www.fas.orgU4T.
86. Vaughn B. (2010), “Bangladesh: Political and Strategic developments and U.S.
interests”. Congressional research service, 4TUhttp://www.fas.orgU4T
87. Vaughn B. (2006), “Nepal: Background and U.S. relations”, Congressional research
service, 4TUhttp://www.fas.orgU4T
88. Vaughn B. (2008), “Nepal: Political developments and bilateral relations with the
United States”, Congressional research service, 4TUhttp://www.fas.orgU4T.
89. Bản tin của CNN (2006), “Bush Would Send Troops Inside Pakistan to Catch bin
Laden,” 4TUwww.cnn.comU4T.
90. Trang web Thư viện quốc hội Mỹ: 4TUhttp://lcweb2.loc.gov/frd/cs/cshome.htmlU4T
hoặc 4TUhttp://www.loc.gov/rr/frdU4T.
91. Theo “Statement on Continuing Conflict in Sri Lanka,” Office of the Press Secretary,
The White House, April 24, 2009. 4TUhttp://www.whitehouse.govU4T
PHỤ LỤC
. r e d n i k c a
M
y r o t s i H _ f o _ t o v i P _ l a c i h p a r g o e G _ e h T
a ủ c m ể i đ n a u q o e h t ” i à o g n i a đ h n à v “ , ” g n o r t i a đ h n à v “ , ” m
/ i k i w / g r o . a i d e p i k i w . n e / / : p t t h n ồ u g N
i t i á r t t ấ đ n ề i
M
“
PHỤ LỤC
m t h . r a
n ồ u g N
W d l o C e h T / s c o d / y r a g / s u . r e g r u b n e d l o . w w w
. n a m k y p S a ủ c m ể i đ n a u q o e h t ” a ì r g n ù V “
/ / : p t t h
a i d e p i k i W
: n ồ u g n Á m a N c ớ ư n c á c ề v g n ọ r t n a u q n i t g n ô h t ố s t ộ M
Tổng thống Bill Clinton thăm Ấn Độ năm 2000. Nguồn http://www.hindustantimes.com
Tổng thống Bush thăm Ấn Độ năm 2006 http://www.hindustantimes.com
Tổng thống Musharraf thăm Mỹ năm 2001. Nguồn 4TUhttp://www.state.govU4T
Tổng thống Obama thăm Ấn Độ năm 2011. Nguồn 4TUhttp://www.the-south-asian.comU4T
Hội đàm Mỹ, Afghanistan, Pakistan hợp tác chống khủng bố năm 2009. Nguồn 4TUhttp://vietbao.vnU4T
Quân đội Pakistan tấn công Taliban tại thung lũng Swat năm 2009. Một trong những biểu hiện
4TUhttp://vietbao.vnU4T
hợp tác chống khủng bố của Pakistan với Mỹ.
Quân đội Pakistan tấn công Taliban tại thung lũng Swat năm 2009. Một trong những hoạt động
4TUhttp://www.foreignpolicyjournal.comU4T
hợp tác chống khủng bố của Pakistan với Mỹ.
Tổng thống Bush ký ban hành luật hợp tác hạt nhân dân sự với Ấn Độ năm 2008
http://www.zimbio.com