BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

-------------------------

Phạm Chung Thủy

YẾU TỐ ĐỊA – CHÍNH TRỊ TRONG

CHÍNH SÁCH CỦA MỸ ĐỐI VỚI KHU

VỰC NAM Á (1989 – 2009)

LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh 2011

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

-------------------------

Phạm Chung Thủy

YẾU TỐ ĐỊA – CHÍNH TRỊ TRONG

CHÍNH SÁCH CỦA MỸ ĐỐI VỚI KHU

VỰC NAM Á (1989 – 2009)

Chuyên ngành: Lịch sử thế giới

Mã số: 60 22 50

LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. NGÔ MINH OANH

Thành phố Hồ Chí Minh 2011

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của Ban Giám hiệu trường Đại học

Sư phạm TP.HCM, Phòng Sau đại học cùng tập thể Thầy Cô khoa Lịch sử .

Đặc biệt, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Ngô Minh Oanh, thầy đã dành

nhiều thời gian và tận tình hướng dẫn tôi từ lúc bắt đầu cho đến khi hoàn thành luận văn.

Cảm ơn gia đình và bạn bè đã hỗ trợ vật chất và là chỗ dựa tinh thần cho tôi trong

suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn này.

Xin chân thành cảm ơn!

MỤC LỤC

4TLỜI CẢM ƠN4T .............................................................................................................................. 3

4TMỤC LỤC4T ................................................................................................................................... 4

4TPHẦN MỞ ĐẦU4T ......................................................................................................................... 6

4T1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI4T ........................................................................................................ 6

4T2.LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ4T ..................................................................................... 7

4T3.ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU4T ......................................................................... 11

4T4.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU4T ...................................................................................... 11

4T5.ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN4T .......................................................................................... 12

4T6.BỐ CỤC LUẬN VĂN4T ......................................................................................................... 12

4TChương 1: TỔNG QUAN VỀ KHU VỰC NAM Á VÀ VỊ THẾ ĐỊA -CHÍNH TRỊ CỦA KHU

4T1.1.Sơ lược về địa lý dân cư và lịch sử hình thành khu vực4T ................................................. 13

4T1.1.1.Khái niệm Nam Á và địa lý, dân cư khu vực Nam Á4T ................................................. 13

4T1.1.2.Sơ lược lịch sử hình thành khu vực4T ........................................................................... 16

4T1.2.Những nhân tố tác động đến chiến lược địa – chính trị của Mỹ đối với khu vực Nam Á 4T

VỰC4T .......................................................................................................................................... 13

4T1.2.1.Sự trỗi dậy của Nam Á trở thành điểm nóng thu hút sự quan tâm đặc biệt của Mỹ 4T .... 18

4T1.2.2. Nhân tố thách thức từ các nước lớn4T .......................................................................... 35

4TChương 2: YẾU TỐ ĐỊA - CHÍNH TRỊ KHU VỰC NAM Á TRONG CHÍNH SÁCH CỦA MỸ

.............................................................................................................................................. 18

4T2.1.Bối cảnh lịch sử4T .............................................................................................................. 60

4T2.2.Chuyển biến của yếu tố địa – chính trị trong chính sách của Mỹ đối với Nam Á4T .......... 63

4T2.2.1.Đối với Ấn Độ4T .......................................................................................................... 63

4T2.2.2.Đối với Pakistan4T........................................................................................................ 71

4T2.2.3.Đối với các nước Nam Á khác4T .................................................................................. 74

TỪ 1989 - 20014T.......................................................................................................................... 60

4TChương 3: YẾU TỐ ĐỊA - CHÍNH TRỊ KHU VỰC NAM Á TRONG CHÍNH SÁCH CỦA MỸ

4T3.1.Bối cảnh lịch sử thế giới và khu vực4T ............................................................................... 78

4T3.2.Chính sách của Mỹ đối với Ấn Độ4T .................................................................................. 82

4T3.2.1.Thúc đẩy giải quyết nguy cơ chiến tranh giữa Ấn Độ và Pakistan 4T ............................. 83

4T3.2.2.Xúc tiến hợp tác hạt nhân dân sự với Ấn Độ4T ............................................................. 85

4T3.2.3.Tăng cường hợp tác kinh tế song phương4T .................................................................. 88

4T3.2.4.Hợp tác không gian dân sự và hợp tác công nghệ cao 4T ............................................... 92

4T3.2.5.Hợp tác an ninh quốc phòng4T...................................................................................... 94

4T3.3.Chính sách của Mỹ đối với Pakistan4T............................................................................... 96

4T3.3.1.Tăng cường quan hệ với Pakistan4T.............................................................................. 96

4T3.3.2.Cung cấp viện trợ và hợp tác kinh tế với Pakistan 4T ..................................................... 97

4T3.3.3.Hợp tác chống khủng bố4T ......................................................................................... 100

4T3.3.4.Kiểm soát chương trình phát triển vũ khí hạt nhân của Pakistan 4T .............................. 104

4T3.4.Chính sách của Mỹ đối với các nước Nam Á khác4T ....................................................... 106

4T3.4.1.Sri Lanka4T ................................................................................................................ 106

4T3.4.2.Bangladesh4T ............................................................................................................. 109

4T3.4.3.Nepal4T ...................................................................................................................... 112

4T3.4.4.Maldives và Bhutan4T ................................................................................................ 113

4TKẾT LUẬN4T ............................................................................................................................. 118

4TTÀI LIỆU THAM KHẢO4T ........................................................................................................ 125

4TPHỤ LỤC4T ................................................................................................................................ 132

TỪ 9/2001 - 20094T ...................................................................................................................... 78

PHẦN MỞ ĐẦU

1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Thế kỷ XXI, nước Mỹ đối mặt với những thách thức lớn đe dọa vị thế bá chủ thế giới mới có

được sau thời kỳ Chiến tranh lạnh. Nước Nga, Trung Quốc yếu kém ngày nào giờ đây đã trở nên

hùng mạnh cả về kinh tế, quân sự lẫn vị thế chính trị quốc tế. Có được sức mạnh trên, các cường

quốc này luôn tìm cách mở rộng phạm vi ảnh hưởng ra các nước khác để tìm kiếm lợi ích quốc

gia. Sự mở rộng của các cường quốc đó đồng nghĩa với phạm vi ảnh hưởng của Mỹ bị thu hẹp.

Tìm cách ngăn cản bước tiến của các nước vừa là đối thủ vừa là đối tác này, Mỹ không thể

theo phương pháp đối đầu trực tiếp mà phải bằng cách chạy đua giành giật, thiết lập càng nhiều

càng tốt phạm vi ảnh hưởng, mà trước hết là các khu vực kế cận các cường quốc này, trong đó có

Nam Á.

Thêm vào đó, ngay từ đầu thế kỷ XXI, Mỹ đã phải tiến hành hai cuộc chiến tranh ở Iraq và

Afganistan, những quốc gia có vị trí gần với khu vực Nam Á. Danh nghĩa của cuộc chiến là

chống khủng bố nhưng sâu xa hơn đó là tranh giành bá quyền với các cường quốc đang lên ở khu

vực này.

Hai cuộc chiến trên đều nằm gần Nam Á đã góp phần đưa vị trí địa - chính trị Nam Á trở nên

“giá trị” hơn bao giờ hết. Nắm được Nam Á, Mỹ còn có khả năng khống chế con đường biển sôi

động vào hàng bậc nhất trên thế giới. Vì vậy mà đảm bảo sự lưu thông cho hàng hóa Mỹ cũng

như con đường vận chuyển dầu về Mỹ.

Khu vực Nam Á còn được coi là nơi có vị trí địa - chính trị quan trọng đối với Mỹ trong thời

điểm này vì nằm gần quốc gia thù địch Iran. Chương trình hạt nhân gây tranh cãi nhiều năm của

Iran dù đã được chính quyền Washington liên tục gây sức ép bằng cách cấm vận, cô lập, đe dọa

tấn công phủ đầu nhưng không khiến chính quyền Tehran nao núng. Trái lại những vụ thử tên lửa

liên tiếp như một lời thách thức rằng Iran sẵn sàng cho một cuộc chiến với Mỹ và đồng minh của

họ.

Nắm được khu vực địa - chính trị quan trọng này, không chỉ phục vụ cho mục tiêu quân sự

của Mỹ mà còn phục vụ mục tiêu kinh tế khi các quốc gia này đang là thị trường tiêu thu và đầu

tư hấp dẫn với giới tư bản Mỹ.

Xác định Nam Á là khu vực có vị trí địa - chính trị quan trọng trong chính sách đối ngoại của

mình, Mỹ tìm cách liên kết đồng minh với các nước lớn, lấy lòng các nước nhỏ trong khu vực.

Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Yếu tố địa - chính trị trong chính sách của

Mỹ đối với khu vực Nam Á (1989 – 2009)” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cho mình.

Thêm vào đó, thông qua việc tìm hiểu những toan tính của giới cầm quyền Mỹ đối với khu

vực địa - chính trị Nam Á có thể thấy được phần nào bản chất thực sự của những mối quan hệ mà

các nước lớn đang tiến hành trên phạm vi toàn thế giới và rút ra bài học cho Việt Nam.

2.LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Trong những năm gần đây, có nhiều công trình nghiên cứu về quan hệ quốc tế của các tác

giả trong và ngoài nước xuất phát từ việc xem xét yếu tố địa - chính trị. Mỹ là một siêu cường.

Quyền lực và lợi ích của Mỹ hầu như có ở khắp nơi trên thế giới. Chính vì vậy có nhiều nhà

nghiên cứu lấy nước Mỹ làm điển hình trong việc nghiên cứu về địa - chính trị. Thực tế cho thấy

chưa có một nghiên cứu riêng nào về yếu tố địa chính trị khu vực Nam Á trong chính sách đối

ngoại của Mỹ được thực hiện ở Việt Nam.

Công trình nghiên cứu đầu tiên mang tính lý luận về lĩnh vực này phải kể đến “An

Introduction to Political Geography” của John Gennie Short xuất bản năm 1993. Công trình

nghiên cứu được đặt trong bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi, phân hóa giữa các khu vực với

mức độ ngày một tăng. Thúc đẩy sự biến đổi ngày một tăng đó là chủ nghĩa tư bản. Tác giả lấy

khái niệm Bắc – Nam để phân biệt các nước thuộc nhóm nước giàu và nghèo.

Năm 1996, Nguyễn Văn Hiến dịch tác phẩm “Sự đảo lộn của thế giới địa chính trị thế kỷ

XXI”của tác giả Maridon Tuareno, một chiến lược gia có tiếng ở Pháp, do Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội, xuất bản. Cuốn sách tập trung nghiên cứu những thay đổi của thế giới sau khi kết

thúc Chiến tranh lạnh. Tác phẩm cũng đề cập những thay đổi ở các khu vực khác nhau trên thế

giới. Những lý giải của tác giả cuối cùng nhằm đưa ra một lý thuyết mới về quan hệ quốc tế hiện

đại với vai trò trung tâm là châu Âu.

Zbigniew Brzezinski tham gia bàn về địa - chính trị thế giới thông qua tác phẩm “Bàn cờ

lớn” (The Grand Chessboard) được Lê Phương Thúy biên dịch vào 1999, do Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội, xuất bản. Cuốn sách đã mô tả chiến lược toàn cầu của Mỹ ở thế kỷ XXI. Tác giả

nhìn nhận những lợi ích chính trị và khả năng duy trì vị trí siêu cường mà Mỹ có được sau Chiến

tranh lạnh. Theo đó, để thực hiện được mục tiêu này, Mỹ phải ngăn chặn không để xuất hiện một

đối thủ nào ở lục địa Á – Âu có khả năng thống trị lục địa này và thách thức địa vị quốc tế của

nước Mỹ. Xuất phát từ nhận định lục địa Âu - Á sẽ là nơi diễn ra những tranh chấp chủ yếu, tác

giả cũng cho rằng Mỹ phải duy trì cho được sự hiện diện quân sự của mình tại các khu vực then

chốt Trung Đông và các quốc gia đồng minh ở Đông Á. Bên cạnh đó, tăng cường xâm nhập

những địa bàn chiến lược then chốt: Trung Á, Đông Nam Á.

Ở Việt Nam công trình nghiên cứu có tính khái quát địa – chính trị đầu tiên được nhắc đến là

“Khái quát lịch sử tư tưởng địa – chính trị thế giới” của Nguyễn Thế Lực và Nguyễn Hoàng

Giáp, đăng trên tạp chí Khoa học chính trị vào năm 2000. Trong bài viết này các tác giả đưa ra

những luận chứng cho thấy tư tưởng về địa - chính trị đã có từ lâu đời, nhưng phải đến nửa sau

thế kỷ XIX, địa – chính trị mới trở thành một khoa học độc lập. Bài viết đã giới thiệu một số nhà

tư tưởng địa – chính trị nổi tiếng cùng với những quan điểm của họ về địa – chính trị: Alfred

Thayer Haman (người đề cao quyền lực trên biển), Halford Mackinder (người đề cao quyền lực

có được ở lục địa mà trung tâm là lục địa Á –Âu), Nicholas John Spykman (người đề cao quyền

lực ở “vùng rìa” ).

Năm 2000, Aham P. Chapman, Giáo sư danh dự địa lý trường đại học Lancaster, Anh quốc,

viết cuốn “The geopolitics of South Asia: from early empires to the nuclear age”, do Ashgate

Publishing Limited xuất bản. Cuốn sách này đã được tái bản nhiều lần. Trong công trình nghiên

cứu của mình, ông có cái nhìn xuyên suốt địa – chính trị khu vực này từ đầu những đế chế xuất

hiện trên tiểu lục địa Ấn Độ cho tới khi vùng lãnh thổ này sở hữu vũ khí hạt nhân. Tác giả tập

trung vào giai đoạn từ sau thế chiến thứ hai cho đến khi Ấn Độ và Pakistan thử nghiệm thành

công vũ khí hạt nhân. Trong đó tác giả đề cập đến mối quan hệ phức tạp giữa Mỹ, Ấn Độ,

Pakistan, Trung Quốc, Nga ở khu vực địa – chính trị này. Chapman đặc biệt đưa ra các tam giác

quan hệ giữa các quốc gia Nam Á với nhau và với các cường quốc bên ngoài. Từ đó rút ra nhận

định về bản chất và chiều hướng phát triển của các mối quan hệ này có ảnh hưởng tới địa – chính

trị khu vực.

Năm 2003, Giáo sư David S. Chou thuộc trường đại học quốc gia Chengchi, Trung Quốc cho

xuất bản cuốn sách “U.S. policy toward Indian and Pakistan in the post- Cold War Era”, do

công ty phát hành sách Sheng - Chih, Đài Loan phát hành. Sau đó một phần trích được giới thiệu

trên Tạp chí Tamkang các vấn đề quốc tế. Trong công trình này, tác giả đề cập đến những chuyển

biến chính sách của Mỹ đối với Ấn Độ và Pakistan sau Chiến tranh lạnh, chuyển dịch từ cải thiện

những quan hệ với Ấn Độ tới một chính sách “Ấn Độ là trước hết”. Tác giả cũng chỉ ra rằng do

sự cân nhắc chiến lược của “mối đe doạ Trung Quốc”, Ấn Độ được Mỹ coi trọng hơn và khi nào

cái bóng của “sự đe doạ Trung Quốc” vẫn tồn tại trong trí não của các nhà hoạch định chính sách

Mỹ, Washington sẽ đối xử với Ấn Độ như một đối tác tự nhiên của họ ở Nam Á. Đồng thời,

chừng nào chiến dịch chống khủng bố còn tiếp tục và tái thiết ở Afghanistan vẫn chưa kết thúc,

Mỹ vẫn sẽ cần sự hợp tác của Pakistan, vì thế, Mỹ sẽ cố gắng duy trì chính sách cân bằng hiện

thời của họ đối với Ấn Độ và Pakistan. Từ đó tác giả kết luận lợi ích chiến lược là nhân tố quan

trọng trong chính sách của Mỹ đối với Nam Á. Chính sách đó là một phần của chính sách toàn

cầu tìm kiếm sự ngăn chặn một cường quốc thù địch từ các nước Châu Âu hay Châu Á.

Bouton, Dennis Kux and Mahnaz Ispahani, cho xuất bản ở Mỹ công trình nghiên cứu

“New Priorities in South asia: U.S. Policy toward India, Pakistan and Afghanistan” do Ủy ban

Năm 2003, Nhóm đặc Đặc nhiệm gồm Frank G.Wisner II, Nicholas Platt, Marshall M.

đối ngoại Mỹ phát hành. Các tác giả khẳng định sau sự kiện 11/9, Nam Á có tầm quan trọng then

chốt đối với an ninh toàn cầu, củng cố quan hệ chặt chẽ với Ấn Độ và đảm bảo một quốc gia Hồi

giáo Pakistan ôn hòa, tích cực khuyến khích mối quan hệ hòa bình giữa Ấn Độ và Pakistan, đảm

bảo một Afghanistan, nơi lực lượng khủng bố có thể không bao giờ giành lại nơi ẩn náu – tất cả

phải là ưu tiên của Mỹ.

Năm 2004, Rahul Roy Chaudhury cho đăng bài viết “The United States’ role and influence

on the India – Pakistan conflict” trên trang web của Cơ quan nghiên cứu giải trừ quân bị Liên

Hợp Quốc (The United Nations Institute for Disarmament Research, http://www.unidir.org). Bài

viết cho thấy Mỹ hết sức quan tâm đến những mâu thuẫn nảy sinh trong tranh chấp lãnh thổ

Jammu và Kashmir vốn đã diễn ra 3 cuộc chiến tranh quy mô và nhiều cuộc đụng độ dọc biên

giới Ấn Độ - Pakistan. Chính sách của Mỹ là theo đuổi phương án hóa giải các mâu thuẫn hai bên

để không dẫn đến chiến tranh, thúc đẩy họ giải quyết mâu thuẫn bằng đàm phán hòa bình. Bởi

Nam Á hòa bình sẽ phục vụ cho lợi ích địa – chính trị của họ ở đây.

Năm 2005, Polly Nayak công bố công trình U.S. Security Policy in South Asia Since 9/11 —

Challenges and Implications for the Future được đăng tải trên trang web của Trung tâm nghiên

cứu an ninh châu Á – Thái Bình Dương (The Asia-Pacific Center for Security

Studies, 3Twww.apcss.org3T) có cơ sở tại Honolulu, Mỹ. Tác giả cho rằng từ khi Mỹ tiến hành cuộc

chiến chống khủng bố ở Nam Á, chính sách an ninh của họ ở khu vực này được coi trọng. Mỹ đã

tiến hành những hợp tác an ninh với các quốc gia chủ chốt ở đây. Tuy nhiên chính sách này của

Mỹ đang có những thách thức lớn như sự bất lực của Pakistan trong việc ngăn chặn các phiến

quân Hồi giáo cực đoan thâm nhập vào Afghanistan; khó giải quyết mâu thuẫn khi tăng cường

quan hệ với Ấn Độ sẽ làm mất lòng Pakistan và ngược lại (đặc biệt là hoạt động quân sự); nguy

cơ xung đột Ấn Độ - Pakistan đe dọa nỗ lực chống khủng bố của Mỹ; cơ chế nào cho sự kiểm

soát vũ khí hạt nhân ở Ấn Độ và Pakistan một cách hiệu quả; sự khác biệt giữa tầm nhìn chiến

lược Washington và New Delhi là giới hạn hợp tác quốc tế đáng kể của hai nước…

Năm 2005, Hồ Châu cho đăng trên tạp chí Nghiên cứu Châu Âu bài “ Chiến lược Á – Âu của

Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh nhìn từ góc độ địa – chính trị”. Bài viết này khẳng định lục địa Á –

Âu là quan trọng đối với vị trí siêu cường của Mỹ. Mỹ đang thực hiện một chiến lược quan trọng

là ngăn chặn bất kỳ nước nào vươn lên tranh giành địa vị bá quyền của Mỹ ở đây. Mỹ đang cho

thấy sự gia tăng ảnh hưởng của mình ở các khu vực Trung Đông, Trung Á và Nam Á.

Bruce Vaughn, một Chuyên gia các vấn đề Nam Á của chính quyền Mỹ đã cho công bố trên

trang web của Cơ quan Nghiên cứu Quốc hội Mỹ (www.fas.org) các bài viết về các nước Nam Á

khác như Nepal: Background and U.S. Relations (2006); Bangladesh: Background and U.S.

Relations(2007); Sri Lanka: Background and U.S. Relations (2009)… thể hiện cái nhìn cơ bản về

mối quan hệ của Mỹ với các quốc gia này từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, qua đó có thể thấy

được chính sách của Mỹ đối với khu vực này qua từng thời kỳ. Tầm quan trọng địa – chính trị

của những nước Nam Á nhỏ nói trên được khẳng định trong bối cảnh các cường quốc mới nổi

đang cạnh tranh mạnh mẽ với Mỹ. Tác giả cho thấy ở Nam Á ngày nay, Mỹ không còn một mình

một sân khấu nữa, lợi ích của Mỹ đang bị đe dọa thường xuyên hơn.

Cũng như, Bruce Vaughn, năm 2009, K. Alan Kronstadt, chuyên gia các vấn đề Nam Á của

chính quyền Mỹ có một loạt bài viết về mối quan hệ của Mỹ với Ấn Độ, Mỹ với Pakistan (U.S. –

Indian Relations; U.S. – Pakistan Relations; Pakistan: Key current issues and devolopment) được

đăng tải trên trang web của Cơ quan nghiên cứu Quốc hội Mỹ (Congressional Research Service,

www.fas.org). Tác giả điểm lại những mốc quan trọng và sự kiện nổi bật trong quan hệ của Mỹ

từ sau sự kiện 11/9 với các quốc gia này. K. Alan Kronstadt cho thấy, khi chính quyền Mỹ tuyên

bố cuộc chiến chống khủng bố, Nam Á trở thành khu vực địa – chính trị quan trọng. Vì vậy, Mỹ

đã tiến hành chuyển hướng quan hệ với Pakistan, chấm dứt hơn một thập niên quan hệ lạnh nhạt,

trong khi tiếp tục thắt chặt quan hệ với Ấn Độ. Tác giả cũng cho thấy những mâu thuẫn khó giải

quyết trong quan hệ cùng lúc với hai quốc gia là địch thủ của nhau, sự tích cực của Mỹ tháo gỡ

ngòi nổ chiến tranh trước những âm mưu khủng bố trên đất nước Ấn Độ. Hơn lúc nào hết Mỹ cần

khu vực này hòa bình, ổn định để không gây tổn hại đến mục tiêu toàn cầu mà họ đang theo đuổi

ở đây. Kết quả nghiên cứu của những công trình này đã cung cấp nguồn tài liệu quan trọng cho

đề tài của tôi hiểu về chính sách của Mỹ đối với hai quốc gia quan trọng ở Nam Á.

Năm 2011, Nguyễn Văn Dân cho xuất bản công trình nghiên cứu Địa – chính trị trong chiến

lược và chính sách phát triển quốc gia, do nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội thực hiện. Tác

giả tập trung nghiên cứu các khái niệm khác nhau về địa – chính trị của các tác giả trong và ngoài

nước. Bên cạnh đó tác giả đi vào tìm hiểu các quan điểm địa – chính trị của các nhà địa – chính

trị cổ điển cũng như hiện đại, qua đó dựng lại bức tranh địa – chính trị toàn cầu từ trước đến nay.

Tác giả cũng quan tâm đến các lý thuyết địa – chính trị đang ảnh hưởng đến các chính sách của

Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh. Cuối cùng tác giả đưa ra những gợi ý dưới góc độ địa – chính trị cho

các nhà hoạch định chính sách Việt Nam nhằm phát triển đất nước.

Bên cạnh các công trình nghiên cứu này, các tạp chí uy tín như Nghiên cứu Quốc tế, Những

vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, Thông tin Khoa học Xã hội, Tài liệu tham khảo đặc

biệt…luôn cập nhật nhiều bài viết của các tác giả về quan hệ ngoại giao, chính trị, kinh tế có giá

trị cho đề tài. Bên cạnh đó, luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thị Kim Hằng về “Yếu tố địa – chính trị

trong chiến lược toàn cầu của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh đến nay (12/1989 – 5/2008)” đã cung

cấp cho tôi cái nhìn tổng quan về địa – chính trị và địa – chính trị có tác động thế nào đến quá

trình hoạch định chính sách của Mỹ.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này chủ yếu phản ánh quan hệ của Mỹ với các

nước Nam Á qua từng thời kỳ. Qua đó, cung cấp cho người đọc bức tranh về quan hệ kinh tế,

chính trị, ngoại giao giữa Mỹ với các nước này và là nguồn tư liệu quan trong cung cấp cho tôi

thực hiện luận văn. Tuy nhiên, vì mục đích nghiên cứu của từng tác giả trong các công trình của

họ, nên họ chưa chỉ ra yếu tố nào đã tác động đến các nhà hoạch định chính sách Mỹ trong việc

đưa ra chính sách cho từng quốc gia trong khu vực Nam Á. Đây là điểm mà tôi sẽ cố gắng chỉ ra

trong luận văn của mình.

3.ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những yếu tố địa lý, chính trị tác động đến quá trình

hoạch định chính sách và thực thi chính sách đó của Mỹ đối với khu vực Nam Á.

Về mặt thời gian đề tài tập trung tìm hiểu các chính sách của Mỹ tìm kiếm lợi ích địa – chính

trị từ sau Chiến tranh lạnh cho đến khi tổng thống Obama lên nắm quyền (1989 – 2009).

Về mặt không gian đề tài tập trung tìm hiểu các quốc gia nằm trong khu vực Nam Á. Cụ thể

là: Ấn Độ, Pakistan, 4TBangladesh4T, 4TBhutan4T, 4TMaldives4T, 4TNepal4T, 4TSri Lanka4T.

4.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong quá trình thực hiện đề tài của mình, chủ yếu tôi sử dụng các phương pháp chuyên

ngành và liên ngành như sau:

Phương pháp lịch sử, một phương pháp quan trọng, trên cơ sở các tài liệu phục dựng lại bức

tranh lịch sử về chính sách của Mỹ nhằm đạt được lợi ích địa – chính trị Nam Á trong 2 thập niên

sau Chiến tranh lạnh.

Phương pháp logic được sử dụng để lý giải những tính toán địa – chính trị, thấy được sự nhất

quán trong chính sách của Mỹ đối với thế giới và khu vực. Từ đó rút ra những gì tiềm ẩn đằng

sau toan tính địa – chính trị.

Bên cạnh đó tôi có sử dụng các phương pháp liên ngành như phương pháp quan hệ quốc tế đi

đến phân tích cái tổng thể, toàn cục trong chính sách của Mỹ, so sánh các lực lượng, để thấy được

mối quan hệ phức tạp giữa các cường quốc ở khu vực này. Ngoài ra, tôi cũng sử dụng những kiến

thức địa – văn hóa, địa - kinh tế có liên quan khi nghiên cứu đề tài.

5.ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

Cung cấp bức tranh toàn cảnh về vị thế địa – chính trị của khu vực Nam Á thu hút sự quan

tâm của các cường quốc quân sự trong đó có Mỹ.

Luận văn cung cấp cái nhìn cụ thể chính sách của Mỹ về một khu vực có giá trị địa – chính

trị quan trọng như Nam Á trong hai thập niên sau Chiến tranh lạnh. Từ đó góp thêm tư liệu hiểu

về chính sách toàn cầu của Mỹ hiện nay cũng như góp phần lấp đầy khoảng trống trong nghiên

cứu lĩnh vực địa – chính trị mà Mỹ là một chủ thể.

Từ thực tế nghiên cứu địa – chính trị Nam Á trong chính sách của Mỹ cung cấp cho chúng

ta những gợi ý về địa – chính trị Việt Nam trong quan hệ quốc tế. Bởi vì những bài học từ các

nước khác trong việc phát triển lợi thế địa – chính trị luôn có giá trị cho chúng ta trong sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Nội dung của luận văn góp phần cho việc học tập nghiên cứu và giảng dạy của bản thân

cũng như những ai quan tâm đến yếu tố địa – chính trị trong chính sách của Mỹ.

6.BỐ CỤC LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn

gồm 3 chương:

Chương 1: Tổng quan về khu vực Nam Á và vị thế địa – chính trị của khu vực

Chương 2: Yếu tố địa – chính trị khu vực Nam Á trong chính sách của Mỹ từ 1989 - 2001

Chương 3: Yếu tố địa – chính trị khu vực Nam Á trong chính sách của Mỹ từ 9/2001 -2009.

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ KHU VỰC NAM Á VÀ VỊ THẾ ĐỊA -CHÍNH TRỊ

CỦA KHU VỰC

1.1.Sơ lược về địa lý dân cư và lịch sử hình thành khu vực

1.1.1.Khái niệm Nam Á và địa lý, dân cư khu vực Nam Á

1.1.1.1.Khái niệm Nam Á

Nam Á là khái niệm địa lý chỉ các nước nằm ở phía nam châu Á, tiếp giáp với các khu vực

khác như Trung Á, Tây Á, Đông Nam Á, Bắc Á. Nam Á bao gồm một số nước có đặc điểm lãnh

thổ cùng nằm trên khu vực địa lý với những nét tương đồng nhất định về khí hậu, thổ nhưỡng,

môi trường sống…Tuy nhiên, những quốc gia nào được xác định thuộc về khu vực Nam Á thì

không phải các nhà nghiên cứu, các nhà địa lý, các nhà ngoại giao, các nhà hoạch định chính

sách, các tổ chức trên thế giới… luôn thống nhất ý kiến với nhau.

Có quan điểm cho rằng Nam Á gồm 8 nước đó là: Ấn Độ, Pakistan, Afghanistan, Bhutan,

Nepal, Sri Lanka, Bangladesh, Maldives. Bên cạnh đó lại có quan điểm cho rằng Nam Á chỉ gồm

7 nước. Quan điểm này không coi Afghanistan là một quốc gia thuộc khu vực địa lý Nam Á mà

thuộc khu vực địa lý Trung Á. Lại có quan điểm coi Nam Á là một khu vực địa lý bao gồm các

quốc gia và vùng lãnh thổ rộng lớn hơn gồm: Ấn Độ, Pakistan, Afghanistan, Bhutan, Nepal, Sri

Lanka, Bangladesh, Maldives, khu vực Tây Tạng (Trung Quốc), Myanma… Quan điểm này

không được nhiều người chấp nhận. Như vậy, Nam Á gồm 7 nước hay 8 chỉ khác biệt ở chỗ coi

Afghanistan thuộc về Nam Á hay thuộc về một khu vực địa lý khác trên thế giới.

Đại diện cho những người coi Nam Á gồm 8 quốc gia (bao gồm cả Afghanistan) có thể kể

đến như các nhà nghiên cứu Việt Nam. Trong cuốn sách có tên “Các nước Nam Á” của Nhà xuất

bản Sự Thật (sách không có tên tác giả) xuất bản năm 1976 đã trình bày nội dung khái quát về

địa lý, dân cư, lịch sử vùng đất, thể chế chính trị của 8 nước nói trên. Ở Việt Nam, cho đến nay,

nhiều nhà báo, phóng viên truyền hình, nhiều nhà khoa học vẫn theo quan điểm coi Afghanistan

thuộc khu vực Nam Á. Trên phạm vi thế giới cũng có nhiều nhà nghiên cứu cùng chung quan

điểm này. Theo cách sắp xếp của tổ chức Ngân hàng thế giới (WB), Tổ chức Trung tâm nghiên

cứu an ninh Châu Á – Thái Bình Dương (APCSS) đều cho rằng Nam Á gồm 8 quốc gia (bao

gồm cả Afghanistan). Hiệp hội Hợp tác khu vực Nam Á (SAARC) được thành lập theo sáng kiến

của Tổng thống Bangladesh, Ziaur Rahman, đã kết nạp Afghanistan làm thành viên chính thức

của hiệp hội vào năm 2005. Vậy theo quan điểm của tổ chức này, Afghanistan cũng thuộc khu

vực địa lý Nam Á. Cùng quan điểm như vậy có nhiều nhà nghiên cứu Phương Tây cho rằng

Afghanistan thuộc Nam Á. Tiêu biểu như trong bài nghiên cứu “Chủ nghĩa khu vực trong ngoại

giao Nam Á” của Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm, các tác giả của Viện này đã xem

Afghanistan thuộc về Nam Á.

Trong khi đó, tổ chức toàn cầu khác là Liên Hợp Quốc xác định có 7 nước trong khu vực này

mà không có Afghanistan. Đại diện cho những quan điểm này còn có Bộ ngoại giao Mỹ. Trong

cách phân chia khu vực của mình, Bộ Ngoại giao Mỹ coi Afghanistan thuộc về Trung Á.

Như vậy, mặc dù có sự không thống nhất trong xác định Nam Á gồm 7 hay 8 quốc gia giữa

các nhà nghiên cứu, nhưng xuất phát từ việc nghiên cứu khu vực này trong chính sách của Mỹ

nên tôi coi Nam Á có 7 quốc gia như quan điểm của Bộ Ngoại giao Mỹ và cũng là quan điểm

chính thống của chính quyền Mỹ. Tuy nhiên, Afghanistan vẫn được tôi đề cập trong đề tài như

một nhân tố có liên quan đến chính sách của Mỹ ở khu vực này.

P, chiếm 10%

2 Với 7 quốc gia chủ chốt, Nam Á là khu vực địa lý rộng khoảng 4,4 triệu kmP

1.1.1.2.Vài nét về địa lý, dân cư, kinh tế của khu vực

diện tích châu Á, 2,4% diện tích thế giới. Vùng đất này có mật độ dân cư đông đúc, chiếm

khoảng 34% dân số châu Á, 16,5% dân số thế giới.

Nam Á là khu vực địa lý cùng chung hệ sinh thái với hai hệ thống phụ: hệ thống núi

Himalaya ở phía Bắc và khu vực chịu ảnh hưởng của biển ở miền Nam. Dãy Himalaya trở thành

bức tường thành tự nhiên ngăn cách Nam Á với các khu vực khác trên thế giới trong nhiều thế

kỷ, đặc biệt trong thời kỳ phương tiện giao thông của loài người còn những hạn chế.

Nam Á nằm trong vùng khí hậu đa dạng, từ nhiệt đới gió mùa ở miền Nam đến ôn hoà ở

miền Bắc, một số nơi có nền khí hậu sa mạc khô nóng như Pakistan. Nam Á có đầy đủ các dạng

địa hình như: vùng núi, đồng bằng, thảo nguyên, sa mạc. Đặc biệt là những đồng bằng được tạo

nên bởi hai dòng sông mẹ là sông Hằng và sông Ấn. Từ những điều kiện thuận lợi ban đầu, Nam

Á đã trở thành một trong những trung tâm văn minh cổ đại kỳ vĩ của loài người.

Nam Á có những quốc gia không có đường biển, địa hình đồi núi cao chiếm đa số như Nepal,

Bhutan, lại có những quốc gia bao quanh bởi biển cả, án ngữ vị trí chiến lược quan trọng như Sri

Lanka, Maldives trong vùng Ấn Độ Dương.

Trung tâm văn minh nhân loại cổ đại này đang sở hữu nhiều tài nguyên thiên nhiên như:

thạch anh, cô ban, ở Nepal. Gỗ có nhiều ở Nepal, Bangladesh, Bhutan. Than đá ở Ấn Độ, quốc

gia được coi là đang sở hữu trữ lượng than đứng thứ tư trên thế giới. Than đá cũng có ở Pakistan

nhưng chất lượng không tốt. Quặng sắt có nhiều ở Nepal, Ấn Độ. Dầu mỏ có ở Ấn Độ, loại nhiên

liệu quan trọng này cũng có ở Pakistan nhưng không nhiều. Khí tự nhiên với trữ lượng lớn ở

Pakistan, ngoài ra cũng có ở Ấn Độ, Bangladesh. Kim loại đồng có ở Nepal, Pakistan. Mangan,

khoáng chất mi ca, bô xit, quặng titanium, crôm, kim cương có ở Ấn Độ. Thạch cao có ở Bhutan.

Sa khoáng, đá quý có ở Sri Lanka… Như vậy Nam Á sở hữu nhiều loại khoáng sản trong đó có

những loại khoáng sản giá trị cao như dầu mỏ, quặng titanium, kim cương, đá quý.

Cư dân làm nên lịch sử, văn hóa Nam Á lục địa hiện nay gồm hai chủng tộc chính là người

Dravida bản địa và người Arian di cư từ Trung Á đến, trong đó người Arian nắm vai trò chủ đạo.

Bên cạnh đó Nam Á cũng có những bộ phận dân cư mà tổ tiên của họ đến từ những vùng đất

khác như người Botia của Bhutan và một số tộc người khác của Nepal đến từ vùng Tây Tạng của

Trung Quốc. Ngày nay đa số các quốc gia Nam Á không có cư dân thuần nhất. Nhiều tộc người

khác nhau đang cùng chung sống trong lãnh thổ của mỗi nước (chẳng hạn, Ấn Độ theo thống kê

có tới hơn 2000 tộc người đang cùng sinh sống). Dù đã bước vào thế kỷ XXI với những bước tiến

dài của loài người nhưng Nam Á còn nhiều vùng đất mà ở đó xã hội vẫn được tổ chức theo kiểu

thị tộc, bộ lạc. Ở những vùng đất này pháp luật của chính quyền trung ương và nhịp sống hiện đại

chưa đủ mạnh để phá vỡ cấu trúc truyền thống của họ. Đây là một thách thức lớn đối với các

chính quyền Nam Á. Tuy nhiên, cho dù chất lượng sống chưa cao nhưng với số dân chiếm

khoảng 1/6 dân số thế giới, Nam Á đang là một thị trường tiềm năng cho các nhà tư bản trên thế

giới.

Mặc dù có lịch sử tồn tại và phát triển lâu đời nhưng các quốc gia Nam Á vẫn là những nước

có nền kinh tế kém phát triển, không ổn định, tỉ lệ người nghèo trong xã hội cao hàng đầu trên thế

giới. Nền kinh tế chủ yếu vẫn là kinh tế nông nghiệp. Nhiều nước, lực lượng lao động nông

nghiệp chiếm trên 50% như Ấn Độ (60%, 18% of GDP), Bhutan lực lượng lao động nông nghiệp

94%; (GDP chiếm 22.3%, 2006-2007), Nepal lực lượng lao động nông nghiệp 71% (32.12% of

GDP)

Bên cạnh đó là kinh tế công nghiệp. Dù ngành công nghiệp chưa chiếm tỉ trọng lớn trong cơ

cấu nền kinh tế quốc gia nhưng có một số nước đã xây dựng được những ngành kinh tế công

nghiệp mũi nhọn. Ấn Độ hiện đang có những ngành kinh tế có hàm lượng khoa học cao như công

nghệ hạt nhân, vũ trụ, công nghệ quốc phòng. Ở Nam Á, Ấn Độ còn được biết đến như một quốc

gia hàng đầu trên thế giới về gia công phần mềm công nghệ thông tin…Tiềm năng của thị trường

công nghệ cao và quyết tâm theo đuổi nền kinh tế hiện đại ở một số nước Nam Á, đang là tâm

điểm chạy đua của các cường quốc trên thế giới để có được những đơn đặt hàng từ những nước

này.

Trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng kinh tế của một số nước Nam Á khá cao. Mức

tăng trưởng của Ấn Độ năm 2008 đạt 6,6%, Bangladesh là 6,2%, Sri Lanka là 6%, Maldives là

5,8% Bhutan là 8.5%. Tuy nhiên tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của các nước Nam Á còn ở mức

thấp. GDP của Bhutan năm 2007 là 3,3 tỷ USD; Bangladesh là 79 tỷ USD, Nepal là 12,69 tỷ

USD; Ấn Độ là quốc gia có tổng sản phẩm quốc nội lớn nhất trong khu vực, nhưng cũng chỉ đạt

1.210 tỷ USD vào năm 2008, thua một bang của Mỹ (bang California là 1.500 tỷ USD vào năm

2006). Dù Nam Á đang là khu vực có tốc độ phát triển kinh tế khá nhanh trên thế giới nhưng đây

cũng là khu vực đông dân số và chất lượng sống thấp, đói nghèo vào hàng cao nhất thế giới. Theo

Ngân hàng thế giới thì Nam Á đang chiếm ½ số người nghèo nhất thế giới.

1.1.2.Sơ lược lịch sử hình thành khu vực

Nam Á là một trong những khu vực có lịch sử phát triển lâu đời nhất của nhân loại, nơi có

một trong bốn nền văn minh cổ đại của phương Đông. Trước kia Nam Á là khu vực chỉ bao gồm

quốc gia Ấn Độ cổ đại. Lịch sử vùng đất này vì vậy gắn với những thăng trầm của Ấn Độ.

Ấn Độ thời cổ trung đại có nhiều tiểu quốc cùng tồn tại. Các tiểu quốc này luôn tiến hành

các cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau. Tình hình đó khiến Ấn Độ luôn trong tình trạng hợp rồi

tan, thống nhất rồi chia cắt nhưng xu thế thống nhất luôn được các vương công của các tiểu quốc

lớn mạnh đặt ra.

Ấn Độ cổ đại từng là đối tượng xâm lược của nhiều thế lực như đế quốc Ba Tư, người Hồi

giáo, người Mông Cổ. Vào thế kỷ XV, dưới cái nhìn của các nước phương Tây, Ấn Độ là vùng

đất giàu có, vàng bạc, hương liệu, gia vị nhiều vô kể. Sức hấp dẫn của Ấn Độ nói riêng, phương

Đông nói chung đã khiến vùng đất này sớm trở thành đối tượng xâm chiếm của các cường quốc

phương Tây lúc bấy giờ như: Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp. Tuy nhiên, Ấn Độ rộng lớn

không dễ để cho các nước thực dân phương Tây biến toàn bộ quốc gia này thành thuộc địa.

Trong buổi đầu, các nước thực dân phương Tây chỉ chiếm được một số địa điểm, lập các thương

điếm để tiến hành thu mua hương liệu, gia vị và những hàng hóa có giá trị khác với lối buôn bán

bất công. Lợi ích to lớn từ vùng đất này đã khiến các nước thực dân phương Tây không từ thủ

đoạn nào có thể thu được lợi nhuận. Chúng tiến hành mua chuộc, dụ dỗ và cả bằng biện pháp

quân sự để buộc các vương công của các tiểu quốc trên đất nước Ấn Độ lúc bấy giờ thực hiện

những điều có lợi cho chúng. Khi lợi ích giữa các nước thực dân phương Tây va chạm với nhau,

chúng không ngần ngại tiến hành các biện pháp quân sự. Trong số các nước thực dân, Anh là kẻ

đến sau nhưng tỏ ra mạnh mẽ nhất trong việc đặt ách thống trị lâu dài lên đất nước Ấn Độ.

Buổi đầu cũng như nhiều nước thực dân khác, Anh tiến hành cai trị Ấn Độ thông qua

Công ty Đông Ấn. Đến thế kỷ XIX, chính quyền Anh bãi bỏ từng bước vị trí độc quyền của công

ty này và trực tiếp cai trị Ấn Độ. Giữa thế kỷ này, thực dân Anh đã hình thành bộ máy cai trị Ấn

Độ trực thuộc chính phủ Anh. Đứng đầu là một Phó vương với một hội đồng điều hành gồm 5

người. Quyền lập pháp cũng do viên Phó vương này cùng với 12 người trong hội đồng thực thi.

Năm 1877, Nữ hoàng Anh Victoria tuyên bố chính thức lên ngôi vua ở Ấn Độ, đánh dấu hoàn

thành việc chinh phục Ấn Độ thành thuộc địa Anh.

Ngay từ buổi đầu bị xâm lược, nhân dân Ấn Độ đã tiến hành các cuộc đấu tranh chống lại

thực dân phương Tây nói chung, thực dân Anh nói riêng. Nhưng thực dân Anh một mặt mua

chuộc tầng lớp quý tộc Ấn Độ, một mặt thẳng tay đàn áp các cuộc đấu tranh của quần chúng

nhân dân. Vì vậy, các cuộc đấu tranh này nhanh chóng bị dập tắt.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào đấu tranh đòi độc lập ở đây lên cao. Không

muốn mất hết, Anh tiến hành trao trả độc lập nhưng vẫn giữ lại những lợi ích quan trọng ở đây.

Năm 1947, đồng thời với việc trao trả độc lập cho vùng đất là thuộc địa của Anh hàng thế kỷ

này, trên cơ sở tôn giáo, Anh tách Ấn Độ thành hai quốc gia: Liên bang Ấn Độ thuộc về những

người theo Ấn Độ giáo và Pakistan của những người theo Hồi giáo. Trong đó, quốc gia Pakistan

tuyên bố độc lập vào năm 1947 gồm hai vùng lãnh thổ không cận kề là Đông Pakistan và Tây

Pakistan. Mâu thuẫn từ những vùng đất tranh chấp cận kề hai quốc gia mới, mà ở đó cơ sở phân

chia tôn giáo không tạo nên sự rạch ròi đã nảy sinh.

Chính sách của thực dân Anh đã nuôi mầm cho sự bất ổn của khu vực vốn từng thống nhất

này và là nguyên nhân sâu xa của ít nhất ba cuộc chiến tranh quy mô và nhiều cuộc xung đột biên

giới giữa Ấn Độ và Pakistan.

Ấn Độ và Pakistan giành được độc lập trong bối cảnh thế giới bước vào cuộc Chiến tranh

lạnh. Các cường quốc luôn lôi kéo các nước nhỏ đứng về phía mình. Mỹ đứng đầu khối các nước

tư bản đã thực hiện chính sách bao vây Liên Xô và các nước XHCN. Nam Á lúc bấy giờ nằm ở

vị trí địa lý thuận lợi cho toan tính toàn cầu này của Mỹ. Vì vậy, các quốc gia Nam Á, nổi bật là

Ấn Độ và Pakistan, luôn được Mỹ tìm cách lôi kéo. Tuy nhiên, chính sách đối ngoại của hai quốc

gia này khác nhau. Trong khi Pakistan chủ trương dựa hẳn vào Mỹ để nhận viện trợ quân sự và

ủng hộ quốc tế cho những hành động đối đầu với Ấn Độ, thì Ấn Độ chủ trương một chính sách

ngoại giao độc lập, có phần nghiêng về Liên Xô khi quốc gia này đứng đầu tổ chức Không liên

kết chống lại hành động xâm lược của các nước đế quốc.

Lợi dụng bối cảnh quốc tế nhằm giải quyết những tranh chấp lãnh thổ bằng hành động

quân sự không hiệu quả, hai nước đã đi đến đàm phán. Kết quả là những thỏa thuận và hiệp định

giữa hai bên đã được ký kết như thỏa thuận Tasken (1966), hiệp định 6 điểm Shimla (1972) có

nội dung ngăn chặn một cuộc chiến tranh quy mô mới có thể xảy ra giữa hai nước. Lịch sử cho

thấy, mọi biện pháp quân sự không giải quyết được mâu thuẫn, nhất là trong điều kiện hiện nay

khi hai nước đã có vũ khí hạt nhân. Tuy nhiên, sự phức tạp của những vấn đề tranh chấp dẫn đến

các bên không dễ chấp nhận bất kỳ thỏa thuận nào đi đến giải quyết tận gốc vấn đề. Tranh chấp

lãnh thổ giữa Ấn Độ và Pakistan vẫn còn đó, nguy cơ chiến tranh xuất phát từ những tranh chấp

trên luôn thường trực. Nền hòa bình của khu vực Nam Á hiện thời hầu như được phản ánh trong

cơn nóng lạnh của mối quan hệ Ấn Độ - Pakistan. Mâu thuẫn giữa hai quốc gia nằm ở vị trí địa –

chính trị quan trọng này đang được các cường quốc tìm cách can dự nhằm tìm kiếm lợi ích cho

mình. Do đó không dễ gì mâu thuẫn này sẽ sớm được giải quyết.

1.2.Những nhân tố tác động đến chiến lược địa – chính trị của Mỹ đối với khu vực Nam Á

1.2.1.Sự trỗi dậy của Nam Á trở thành điểm nóng thu hút sự quan tâm đặc biệt của Mỹ

 Sự trỗi dậy sau Chiến tranh lạnh

1.2.1.1.Ấn Độ

Ấn Độ là một quốc gia có diện tích lớn và số dân đông nhất Nam Á, có lịch sử tồn tại và phát

triển lâu dài. Ngày nay người ta biết đến Ấn Độ như một quốc gia hội tụ tất cả những yếu tố hiện

đại và lạc hậu, hùng mạnh và yếu kém như: nơi đây đang có nền công nghiệp phần mềm hàng

đầu thế giới, và là quê hương của nhiều nhà khoa học danh tiếng trong lĩnh vực hạt nhân, vũ

trụ…nhưng cũng là quốc gia có tỉ lệ dân số đói nghèo vào hàng lớn nhất thế giới. Cuộc cải cách

kinh tế mà quốc gia này tiến hành cách đây gần 20 năm đã đưa Ấn Độ vào nhóm các nền kinh tế

đang lên và được đánh giá là những siêu cường tiềm năng, BRIC. Thực tế đó Ấn Độ có trở thành

một thách thức với Mỹ trong khu vực và trên thế giới hay không? Nhận định về khả năng của Ấn

Độ, tác giả công trình nghiên cứu Bàn cờ lớn, Zbigniew Brzezinski, cho rằng “Có thể là đánh giá

quá cao những khả năng về lâu về dài của Ấn Độ nhưng chắc chắn Ấn Độ là quốc gia hùng mạnh

nhất Nam Á, một loại bá chủ khu vực” [2, tr 54].

Những năm Chiến tranh lạnh, Ấn Độ đi theo đường lối ngoại giao tránh bị lôi kéo đứng về

bên nào giữa hệ thống các nước XHCN và các nước TBCN. Tuy nhiên chính sách không liên kết

mà Ấn Độ theo đuổi có chiều hướng thân thiện với Liên Xô và các nước XHCN hơn. Nhờ vậy,

Ấn Độ nhận được nhiều sự ủng hộ từ khối các quốc gia này. Sau Chiến tranh lạnh, Ấn Độ đứng

trước nhiều thách thức, trong đó có những thách thức đã tồn tại từ lâu, có những thách thức mới

xuất hiện do bối cảnh quốc tế như: nguy cơ chiến tranh với nước láng giềng Pakistan luôn luôn

thường trực, sự yếu kém của nền kinh tế, sự mất đi nguồn viện trợ từ Liên Xô, tình trạng đói

nghèo, tăng dân số quá nhanh…Chính các quan chức cấp cao Ấn Độ phải thừa nhận tình trạng

đất nước họ là hết sức nguy ngập. Thủ tướng Ấn Độ lúc bấy giờ, Narasimha Rao, nói với báo chí

rằng “Ấn Độ đứng trước bờ vực”. Những thách thức đó đã đặt ra cho các nhà cầm quyền Ấn Độ

nhiệm vụ phải xem xét lại chiến lược phát triển đất nước.

Trên thế giới lúc này có nhiều quốc gia đang đối diện với những khó khăn, đặc biệt là khó

khăn từ mô hình phát triển kinh tế không phù hợp. Trước tình hình đó họ đã tiến hành cải cách,

cải tổ. Có những quốc gia thành công, có những quốc gia thất bại. Cải cách là đòi hỏi cấp thiết,

không thể đảo ngược nếu Ấn Độ muốn thoát khỏi bờ vực của sự đổ vỡ. Bài học từ các quốc gia

đang tiến hành cải cách, đổi mới đã cung cấp cho Ấn Độ một lựa chọn phù hợp với thực tế đất

nước đông dân cư vào hàng thứ hai thế giới này. Sau gần 20 năm, những chuyển biến tích cực từ

cuộc cải cách diễn ra trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, quốc phòng an ninh …đã làm thay đổi đời

sống, địa vị của Ấn Độ.

Về kinh tế: Năm 1991, Ấn Độ chính thức bước vào con đường cải cách với hai giai đoạn:

1991 – 1999 và 1999 - nay. Cuộc cải cách sâu rộng đã đưa nền kinh tế Ấn Độ chuyển mình theo

hướng “chuyển từ kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp và đóng cửa sang một nền kinh tế thị

trường, tự do hóa và mở cửa, […], từng bước hội nhập khu vực và hội nhập quốc tế”[34, tr 30].

Ấn Độ chủ trương mở cửa, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư tại quốc gia lớn

nhất Nam Á này. Trước cải cách, các nhà đầu tư nước ngoài luôn gặp trở ngại trong khâu cấp

phép, sau cải cách những thủ tục cấp phép phiền hà đã bị cắt bỏ. Nhà đầu tư nước ngoài được

phép đầu tư vốn tới 51% trong nhiều lĩnh vực, có lĩnh vực kinh tế Ấn Độ cho phép vốn đầu tư

nước ngoài là 100% như ngành điện, các dự án xuất khẩu… Đáng kể là với nỗ lực của M. Singh

(lúc này là Bộ trưởng Bộ tài chính, trợ thủ đắc lực của Thủ tướng N. Rao) chỉ trong 5 năm, dưới

sự cầm quyền của đảng Quốc Đại (1991-1996) cuộc cải cách đã mang lại kết quả rõ rệt. Ông đã

khôi phục lại dự trữ ngoại tệ của Ấn Độ từ chưa đầy 1 tỷ USD lên mức 18 tỷ USD. Các nhà đầu

tư nước ngoài hối hả đầu tư vào Ấn Độ kể cả Coca Cola và IBM đã một thời bị trục xuất. Trong

vòng 5 năm, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Ấn Độ tăng gấp 11 lần, từ 0,15 tỷ USD lên 1,7 tỷ

USD.

Chứng khoán cũng là lĩnh vực tiến hành cải cách nhằm tạo ra sự gắn bó, liên kết chặt chẽ với

cuộc cải cách tài chính, ngân hàng, tiền tệ. Thị trường chứng khoán Ấn Độ từ thập niên 90 đã

được xếp vào số 8 thị trường chứng khoán hàng đầu thế giới, nổi bật nhất là thị trường chứng

khoán Bombay. Năm 1993 đã có trên 6500 công ty đăng ký hoạt động tại thị trường này. Năm

1994, đã đạt mức giá trị 142 tỷ USD. Thập niên này Ấn Độ có 32 sở giao dịch chứng khoán với

khoảng 20 triệu nhà đầu tư [34, tr 44]. Đến 1994 đã có 20 công ty nước ngoài đăng ký hoạt động

tại Ấn Độ với giá trị khoảng 2,5 tỷ USD. Thị trường chứng khoán Ấn Độ hoạt động hiệu quả, có

sức thu hút các nhà đầu tư đã khiến Ấn Độ huy động được lượng lớn vốn từ trong dân phục vụ

cho công cuộc phát triển kinh tế đang diễn ra lúc bấy giờ.

Cải cách kinh tế của Ấn Độ đã thúc đẩy nền công nghiệp, trong đó có ngành công nghiệp

phần mềm đầy tiềm năng. Đây được coi là ngọn cờ đầu trong ngành công nghiệp Ấn Độ, đóng

góp ngân sách lớn cho quốc gia và tạo nên danh tiếng Ấn Độ trên thị trường thế giới. Trong 10

năm sau cải cách, ngành công nghiệp phần mềm Ấn Độ tăng đều đặn 10% năm [34, tr 58]. Xuất

khẩu phần mềm tăng bình quân 50% năm; hiện nay khoảng 65% nhu cầu phần mềm của Mỹ là

do Ấn Độ hoặc người Ấn Độ nói chung cung cấp. Các sản phẩm tin học của Ấn Độ chiếm 30%

thị trường thế giới và trở thành nước có phần mềm máy tính lớn thứ hai thế giới sau Mỹ [23, tr

278-279].

Tiềm năng ngành công nghiệp phần mềm của Ấn Độ là rất lớn. Ấn Độ đang sở hữu đội ngũ

lao động kỹ thuật cao được đào tạo trong hệ thống các trường đại học, cao đẳng trong nước, họ

thông thạo tiếng Anh, giỏi toán học. Ngành công nghiệp này được chính phủ quan tâm thông qua

các chính sách ưu tiên về cơ sở vật chất. Khu công nghệ cao Bangalore được ví như thung lũng

Silicon nổi tiếng thế giới của Mỹ. Tại đây, những hoạt động nghiên cứu, sản xuất công nghệ hàng

đầu thế giới đang được tiến hành. Nhờ vậy, những sản phẩm phần mềm Ấn Độ được xuất khẩu đi

nhiều nước trên thế giới (như đã đề cập ở trên), đưa xuất khẩu phần mềm nhanh chóng trở thành

một ngành xuất khẩu mũi nhọn của đất nước.

Nhìn chung cuộc cải cách đã đạt được những thành tựu lớn về kinh tế. Tính đến năm 2006,

GDP của Ấn Độ đã đạt 700 tỷ USD, kinh tế tăng trưởng liên tục trong 10 năm ở mức bình quân

là 7% năm. Dự báo trong tương lai không xa con số này sẽ là 10% năm. Ngoại tệ dự trữ Ấn Độ

đạt con số 170 tỷ USD. Đáng chú ý là tăng trưởng kinh tế Ấn Độ đang theo chiều sâu, tức là giá

trị tăng trưởng có được do tăng sản lượng chứ không phải tăng vốn đầu tư hay nhân lực lao động

(con số này đạt 30 – 40%). [29, tr 90]

Cuộc cải cách khởi đầu từ 1991 cũng đã tạo điều kiện cho Ấn Độ tham gia vào lĩnh vực hàng

không vũ trụ. Ngày 21/3/1996, Ấn Độ phóng thành công Tàu phóng vệ tinh địa cực PSLV mang

theo một vệ tinh quan sát trái đất IRS-P3. Hai năm sau, năm 1998, Ấn Độ lại phóng thành công

vệ tinh địa tĩnh nặng 2,5 tấn bằng tên lửa của mình [34, tr 78]. Thành công này đã khẳng định khả

năng của Ấn Độ trong lĩnh vực vũ trụ, đồng thời mở ra khả năng bước vào thị trường dịch vụ

phóng vệ tinh toàn cầu mà lâu nay chỉ có Nga, Mỹ, châu Âu, Trung Quốc thực hiện được.

Về quân sự: Trong thế giới đầy biến động, lại luôn trong nguy cơ chiến tranh với quốc gia

láng giềng Pakistan, hay áp lực phát triển lực lượng quân sự mạnh mẽ từ Trung Quốc, chính phủ

Ấn Độ trong bất kỳ giai đoạn nào cũng chú tâm phát triển nền quốc phòng nhằm đối phó với mọi

thách thức an ninh đến từ kẻ thù của mình. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, các lực lượng hải,

lục, không quân Ấn Độ được phát triển theo hướng hiện đại, mạnh nhất là lực lượng hải quân.

Năm 1986, hạm đội Ấn Độ được xếp vào hàng thứ 10 trên thế giới, năm 1989 vươn lên đứng thứ

6. Các trang thiết bị vũ khí hiện đại như tàu ngầm hạt nhân, tầu sân bay đã được biên chế trong

lực lượng hải quân Ấn Độ. Tuy nhiên số lượng ít và có loại phải thuê từ Nga.

Coi trọng phát triển lực lượng hải quân phù hợp với thực tế Ấn Độ nằm ở vị trí án ngữ vùng

biển Ấn Độ Dương, nơi có con đường hàng hải quốc tế vận chuyển hàng hóa, dầu lửa quan trọng

trên thế giới và ngày nay đang có sự hiện diện hải quân của nhiều cường quốc như Mỹ, Trung

Quốc.

Bước vào thế kỷ XXI, thế giới có dấu hiệu của một cuộc chạy đua vũ trang mới khi các quốc

gia lớn cũng như nhỏ liên tiếp công bố các hợp đồng mua bán vũ khí lớn bao gồm cả vũ khí tấn

công và phòng thủ, từ vũ khí thông thường dùng cho bộ binh như súng, pháo, xe tăng đến máy

bay chiến đấu các loại, tàu chiến, tàu ngầm, tên lửa…Trong số đó có các quốc gia địch thủ của

Ấn Độ như Pakistan, Trung Quốc. Không đứng ngoài cuộc, Ấn Độ tiến hành đàm phán với các

nhà cung cấp phương tiện quân sự để mua các loại vũ khí hiện đại, đồng thời các tổ hợp quân sự

quốc phòng Ấn Độ chủ động tổ chức nghiên cứu, chế tạo các loại vũ khí cung cấp cho quân đội.

Quyết tâm xây dựng nền quốc phòng đủ sức răn đe, Ấn Độ không ngừng tăng ngân sách quốc gia

hàng năm cho việc mua sắm vũ khí. Năm 2003 là 15,5 tỷ USD, năm 2004 là 19,6 tỷ USD, năm

2005 là 22 tỷ USD [43, tr 29]… Xét về mức tăng ngân sách quốc phòng với mức tăng GDP hàng

năm của Ấn Độ cũng cho thấy quốc gia này đang đẩy mạnh phát triển lực lượng quân sự bên

cạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế. Năm 1999 Ấn Độ đã tăng ngân sách quốc phòng ở mức 28,2%

trong khi đó GDP chỉ tăng 5,8%. Đứng về mặt số lượng cũng như chi phí quân sự, Ấn Độ hiện

đứng hàng thứ 4 trên thế giới [23, tr 279].

Ấn Độ đang hướng tới xây dựng nền quốc phòng tự chủ, giảm sự phụ thuộc vào nước ngoài.

Mục tiêu của nước này là tự sản xuất đảm bảo được 70% nhu cầu trong 5 năm tới [59, tr 67]. Vì

vậy, Ấn Độ cho phép các công ty tư nhân được tham gia sản xuất, nhập khẩu các thiết bị quốc

phòng. Đến nay, Ấn Độ có khoảng 5.000 công ty đang cung cấp 20 – 25% thiết bị, phụ tùng cho

các công ty nhà nước. Từ năm 2001 đến nay, ngành công nghiệp quốc phòng đã cấp 29 giấy phép

cho các công ty tư nhân tham gia sản xuất. Tiến xa hơn, Ấn Độ cho phép các công ty nước ngoài

được đầu tư vào sản xuất vũ khí tại thị trường nội địa. [59, tr 67]

Không chỉ phát triển các loại vũ khí thông thường, Ấn Độ còn đẩy mạnh phát triển các loại

vũ khí chiến lược, đặc biệt là vũ khí hạt nhân. Chương trình vũ khí hạt nhân gây tranh cãi của Ấn

Độ đã được tiến hành từ thời Chiến tranh lạnh. Năm 1974, Ấn Độ tiến hành vụ thử nghiệm hạt

nhân đầu tiên. Năm 1998, Ấn Độ đã công khai thử nghiệm thành vũ khí hạt nhân và tuyên bố vụ

thử thành công. Hành động này đã bị quốc tế lên án, ngay sau đó Ấn Độ phải đối diện với lệnh

trừng phạt của Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên, thành công của vụ thử nghiệm cho thấy trình độ của

các nhà khoa học Ấn Độ trong lĩnh vực hạt nhân và khả năng răn đe hạt nhân của Ấn Độ trong

khu vực là hiện thực. Ấn Độ “trở thành cường quốc hạt nhân không chỉ nhằm hăm dọa Pakistan

mà còn để cân bằng với kho vũ khí hạt nhân của Trung Quốc” [2, tr 54].

Chính trị ngoại giao: một Ấn Độ đang vươn mình mạnh mẽ về kinh tế, hùng mạnh về quân

sự ắt không thể cam chịu sự thấp kém về vị thế chính trị trên thế giới.

Những thành công trong cải cách kinh tế đã đưa Ấn Độ vào hàng các quốc gia có tham vọng

cường quốc sau Chiến tranh lạnh. Ấn Độ là quốc gia không chấp nhận thế đơn cực mà thúc đẩy

cho một thế giới đa cực, ở đó Ấn Độ là một cực. Để đạt được điều này, Ấn Độ đã tiến hành điều

chỉnh chính sách đối ngoại vừa để phù hợp với những chuyển biến của bối cảnh quốc tế vừa phục

vụ cho công cuộc cải cách mà Ấn Độ đang theo đuổi. Trong những mục tiêu của chính sách đối

ngoại mới, Ấn Độ xác định phải “Nâng cao vai trò, vị thế của Ấn Độ trong khu vực và trên thế

giới, đưa Ấn Độ trở thành một cường quốc ở châu Á và thế giới vào những thập kỷ đầu của thế

kỷ XXI, giành vị trí xứng đáng trong trật tự thế giới mới” [34, tr 114].

Để đạt được mục tiêu này, ngoài tiếp tục theo đuổi mục tiêu cải cách kinh tế, xây dựng đất

nước hùng mạnh, Ấn Độ phải tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế, tham gia giải quyết các

vấn đề quốc tế, qua đó nâng cao vị thế của mình. Cho đến nay, Ấn Độ là thành viên của nhiều tổ

chức quốc tế và khu vực. Tiếng nói của Ấn Độ nhận được sự quan tâm của nhiều quốc gia và tổ

chức quốc tế. Đáng kể phải kể đến là Liên Hợp Quốc, tổ chức quốc tế lớn nhất toàn cầu. Ấn Độ

luôn tích cực tham gia xây dựng tổ chức này. Không chỉ là một trong 50 quốc gia sáng lập, Ấn

Độ đã 12 lần là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an. Ngày nay, khi Chiến tranh

lạnh đã chấm dứt, nền chính trị thế giới có nhiều thay đổi, mô hình Liên Hợp Quốc trong thời kỳ

Chiến tranh lạnh không còn phù hợp, Ấn Độ cùng với các nước khác đang đấu tranh cho việc cải

tổ lại tổ chức này, trong đó có cải tổ Hội đồng Bảo an theo hướng tăng số thành viên thường trực

và Ấn Độ muốn trở thành một thành viên.

Thập niên 80 của thế kỷ trước, Ấn Độ cùng với các quốc gia khác thúc đẩy thành lập một tổ

chức khu vực. Xuất phát từ mối quan hệ gần gũi trong lịch sử, lại gặp những thách thức chung

cần phải hợp tác giải quyết, các quốc gia Nam Á đã đi đến quyết định thành lập tổ chức Hiệp hội

Hợp tác khu vực Nam Á (SAARC) vào năm 1985 với 7 thành viên ban đầu (Ấn Độ, Pakistan,

Bangladesh, Bhutan, Nepal, Maldives , Sri Lanka). Năm 2007 kết nạp thêm Afghanistan làm

thành viên thứ 8. Trong tổ chức này, Ấn Độ là quốc gia vượt trội hơn cả về dân số, diện tích lãnh

thổ, tiềm lực kinh tế, địa vị chính trị trên thế giới…Vì vậy “sự ra đời của Hiệp hội hợp tác khu

vực Nam Á là một thắng lợi quan trọng trong chính sách khu vực của Ấn Độ, nó phù hợp với ý

tưởng thiết lập một hệ thống khu vực mà Ấn Độ mong muốn” [34, tr133]. Tuy nhiên những yếu

kém đang tồn tại trong khu vực cùng với những bất đồng, tranh chấp giữa một số thành viên với

nhau đã thực sự là trở ngại lớn trên con đường hợp tác khu vực mà các quốc gia trong tổ chức

này hướng tới.

Trong chiến lược mới hướng tới mục tiêu đưa Ấn Độ trở thành một cường quốc khu vực, Ấn

Độ thực hiện chính sách hướng Đông, theo đó đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ với các nước

ASEAN. Tổ chức Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á cũng nhận thấy Ấn Độ là nước lớn, hợp

tác với Ấn Độ phù hợp với mục tiêu hợp tác đa phương mà tổ chức này đang theo đuổi. Vì vậy

Ấn Độ được ASEAN hợp tác theo phương thức ASEAN + 1. Đến nay, đã có 8 lần Hội nghị Cấp

cao giữa ASEAN với Ấn Độ. Thỏa thuận đạt được từ các Hội nghị đó đã tạo điều kiện thúc đẩy

các hoạt động hợp tác kinh tế - thương mại, khoa học công nghệ, môi trường, y tế, du lịch…giữa

các bên. Bên cạnh lợi ích kinh tế đạt được thông qua hợp tác với các quốc gia ASEAN, Ấn Độ

đạt được lợi ích chính trị ngoại giao.

Như vậy, một Ấn Độ đang trỗi dậy mạnh mẽ về kinh tế, chính trị, quốc phòng không thể

không có tham vọng tìm kiếm một vị trí xứng đáng của mình trên vai trò lãnh đạo thế giới, mà

trước hết là khu vực Nam Á. Trong bối cảnh đó, Mỹ vừa xem Ấn Độ là đối tác vừa là đối thủ

cạnh tranh ảnh hưởng trong khu vực này.

Những lợi ích địa – chính trị Ấn Độ thu hút chính sách của Mỹ

Ấn Độ có nhiều lợi ích địa – chính trị đối với Mỹ và những giá trị này đang ít nhiều tác

động đến các nhà hoạch định chính sách Mỹ. Đó như giá trị thúc đẩy Ấn Độ thành đối trọng của

Trung Quốc, Nga; xây dựng quan hệ tốt để tìm kiếm sự ủng hộ của Ấn Độ trên các vấn đề quốc

tế; thực hiện chính sách “đi cùng” để kiềm chế Ấn Độ, vừa hợp tác vừa cạnh tranh, ràng buộc

quốc gia này vào với Mỹ. Bên cạnh đó là những giá trị khác như Ấn Độ là một thị trường đầy

tiềm năng, có nhu cầu lớn về hiện đại hóa quân đội ...đang thu hút các nhà đầu tư, thương nhân

Mỹ. Các lợi ích này, ở chừng mực nào đó, góp phần củng cố những lợi ích địa – chính trị.

+ Thúc đẩy Ấn Độ thành đối trọng với Trung Quốc, Nga. Sau Chiến tranh lạnh, Mỹ là

một siêu cường duy nhất nhưng vị trí ấy luôn bị đe doạ bởi các cường quốc mới nổi. Mỹ muốn

thiết lập một trật tự thế giới mới có lợi cho mình, trật tự đơn cực. Tuy nhiên, các cường quốc

đang lên không ủng hộ quan điểm của Mỹ bởi họ không nhìn thấy chỗ đứng xứng đáng của

mình trên trường quốc tế. Họ ủng hộ cho trật tự thế giới đa cực.

Trong bối cảnh đó, các cường quốc luôn thúc đẩy thế giới vận động theo hướng có lợi

cho mình. Vì vậy, Mỹ phải lựa chọn vừa hợp tác vừa cạnh tranh với các quốc gia khác để phục

vụ cả mục tiêu phát triển kinh tế, cả mục tiêu duy trì vị trí siêu cường của mình, đồng thời kiềm

chế tham vọng bá quyền của các cường quốc trong tương lai.

Trong số các cường quốc có tham vọng cạnh tranh vị trí siêu cường của Mỹ, có khả năng

nhất là Trung Quốc. Trong vài thập kỷ gần đây, thành công từ công cuộc cải cách cùng với lòng

kiêu hãnh lịch sử của một “quốc gia thiên triều”, Trung Quốc ngày càng tỏ rõ tham vọng bá

quyền hơn. Không thể thực hiện chiến lược ngăn chặn như đã từng làm với Liên Xô thời Chiến

tranh lạnh (Mỹ vẫn cần sự hợp tác của Trung Quốc trong nhiều vấn đề quốc tế), Mỹ tiến hành

kiềm chế tham vọng chính trị của Trung Quốc, không để quốc gia này mở rộng ảnh hưởng đến

độ đe doạ vị trí quốc tế của Mỹ, trong khi thúc đẩy hợp tác kinh tế với họ.

Để thực hiện Mỹ phải tăng cường quan hệ hợp tác với các nước nhỏ, không để các quốc

gia này rơi vào quỹ đạo của “quốc gia thiên triều”. Với các nước lớn, Mỹ phải thúc đẩy họ phát

triển đủ mạnh để làm đối trọng chống lại Trung Quốc. Ấn Độ là quốc gia như vậy. Không phải

Ấn Độ không có nguy cơ thách thức vị trí siêu cường của Mỹ, mà ít nhất nguy cơ đó không đến

trong tương lai gần.

Trong lịch sử, quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc đã xảy ra chiến tranh biên giới năm 1962. Hiện

nay những tranh chấp lãnh thổ đang tồn tại luôn tiềm ẩn những nguy cơ chiến tranh khi quan hệ

hai nước trở nên xấu đi. Trong chính sách ngoại giao của mình, Trung Quốc vừa tìm cách vươn

lên vừa tìm cách kiềm chế các đối thủ khác. Họ nhìn thấy thách thức từ Ấn Độ, vì vậy Trung

Quốc tăng cường quan hệ với các nước nhỏ trong khu vực Nam Á để vừa lôi kéo họ, vừa làm

giảm ảnh hưởng của Ấn Độ lên các quốc gia này. Trung Quốc đặc biệt khai thác mối quan hệ thù

địch giữa Ấn Độ với Pakistan. Hiện thời Trung Quốc đang là nhà cung cấp vũ khí quan trọng cho

Pakistan. Mặc dù Ấn Độ luôn lên tiếng phản đối những thương vụ buôn bán vũ khí giữa hai quốc

gia này vì lo ngại làm bất ổn an ninh khu vực nhưng chúng vẫn được tiến hành. Trong những

thập kỷ gần đây, Ấn Độ cảm nhận được rõ sức ép từ phía Trung Quốc khi Trung Quốc tăng

cường sự hiện diện dưới nhiều hình thức, đặc biệt là quân sự, ở các quốc gia trong khu vực.

“Chuỗi ngọc trai” đang được thiết lập với sự hiện diện các căn cứ của Trung Quốc ở các quốc gia

Nam Á như Pakistan, Bangladesh, Sri Lanka là một minh chứng cho tham vọng và âm mưu chính

trị của Trung Quốc.

Trong tình thế này, Ấn Độ cần có sự hỗ trợ từ bên ngoài, đặc biệt là Mỹ, để kiềm chế tham

vọng của Trung Quốc. Lợi ích địa - chính trị lớn nhất có được từ quan hệ với Ấn Độ nằm ở đây.

Trong góc độ này, Mỹ và Ấn Độ có cùng chung lợi ích vì Mỹ cũng không muốn khu vực vốn

đang là khu vực chịu ảnh hưởng của mình bỗng chốc trở thành của Trung Quốc, hoặc phải chia

xẻ với họ. Các căn cứ quân sự Mỹ ở đây cũng trở nên mất an toàn, con đường thương mại quan

trọng bậc nhất thế giới trên biển Ấn Độ Dương có nguy cơ bị gián đoạn một khi quan hệ Mỹ -

Trung trở nên căng thẳng dẫn đến đụng độ quân sự.

Bên cạnh lợi ích địa - chính trị có được từ Ấn Độ trong việc kiềm chế Trung Quốc, gia tăng

quan hệ với Ấn Độ cũng đạt lợi ích kiềm chế Nga. Mặc dù tham vọng của Nga khác Trung Quốc

và mối quan hệ Nga – Ấn khác mối quan hệ Trung - Ấn, nhưng đặt trong lợi ích địa - chính trị

toàn cầu, Mỹ vẫn phải kiềm chế Nga.

Nước Nga đang hồi sinh và quyết tâm tìm lại vị trí quốc tế xứng đáng với những gì họ đang

có. Sau khi Liên Xô sụp đổ, lịch sử dân tộc Nga đã chuyển sang trang mới nhưng họ không thể

quên thực tế hào hùng dưới thời Xô Viết. Giới lãnh đạo Nga cũng quyết tâm tìm lại vị trí cường

quốc quốc tế. Chính vì vậy, Nga đã chủ động can dự tích cực vào các vấn đề quốc tế, nói tiếng

nói của mình, cùng với đó là quyết tâm mở rộng ảnh hưởng của Nga lên các khu vực có lợi ích

của họ.

Nam Á, trong lịch sử đã từng có sự hiện diện lợi ích của Liên Xô, đặc biệt là ở Ấn Độ. Nga

đã tiếp nối truyền thống đó. Xuất phát từ thực tế Nga – Ấn không có những xung đột lợi ích chiến

lược, hai nước lại có nhiều điểm tương đồng trên các vấn đề quốc tế, cho nên quan hệ Nga – Ấn

trong những thập kỷ gần đây có xu hướng được tăng cường. Hai nước đã tuyên bố là đối tác

chiến lược của nhau đồng thời tăng cường quan hệ trên nhiều các lĩnh vực, đặc biệt là hợp tác sản

xuất, buôn bán các thiết bị quốc phòng. Nga đã lên tiếng ủng hộ Ấn Độ tham gia vào thường trực

Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, một vị trí thừa nhận địa vị cường quốc của Ấn Độ.

+ Tranh thủ sự ủng hộ của Ấn Độ đối với các vấn đề quốc tế. Mỹ là một siêu cường thế

giới, có lợi ích trải rộng toàn cầu. Vì vậy, hầu như không có vấn đề nổi bật nào trên thế giới Mỹ

không tìm cách can dự. Tuy nhiên, dù mạnh, Mỹ vẫn không thể tự mình làm tất cả. Nếu trong

các vấn đề quốc tế Mỹ hành xử nước lớn quá lộ liễu, Mỹ sẽ mất đi niềm tin từ các đối tác nhỏ

yếu hơn Mỹ. Từ đó tự biến mình thành gã khổng lồ bị cô lập. Vì vậy để tìm kiếm lợi ích nhiều

hơn nữa cũng như bảo vệ những lợi ích hiện có, Mỹ cần phải có sự ủng hộ từ các nước khác,

đặc biệt là từ các cường quốc như Ấn Độ.

Ấn Độ là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế cũng như khu vực. Thời Chiến tranh lạnh,

Ấn Độ là quốc gia sáng lập và lãnh đạo Phong trào không liên kết. Hiện nay Ấn Độ là thành

viên của nhiều tổ chức, trong đó quan trọng là Liên Hợp Quốc. Trong tổ chức này Ấn Độ đã 12

lần là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an. Với vị thế đang lên của mình, tiếng

nói của Ấn Độ được nhiều quốc gia lưu tâm, đặc biệt là các nước nhỏ. Vì vậy, Mỹ cần sự ủng

hộ của Ấn Độ trên nhiều vấn đề quốc tế.

Trong nhiều trường hợp, Mỹ đã nhận được tiếng nói ủng hộ của Ấn Độ, dù xuất phát từ lợi

ích của chính Ấn Độ. Chẳng hạn trong cuộc chiến chống khủng bố ở Afghanistan, Ấn Độ không

chỉ thể hiện sự đồng tình mà còn tỏ ý cho phép Mỹ sử dụng lãnh thổ của mình làm căn cứ hậu

cần cho lực lượng Mỹ, hay như cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất (1991), Ấn Độ cho phép

máy bay Mỹ hạ cánh tiếp dầu ở sân bay của họ. Ấn Độ cũng là một trong số không nhiều nước

ủng hộ chủ trương xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ, một kế hoạch làm thay đổi cân

bằng lực lượng giữa các cường quốc…

Tóm lại, dù có sức mạnh hàng đầu thế giới nhưng không vì thế mà Mỹ không cần sự ủng hộ

từ các quốc gia khác trong những quyết định họ đưa ra. Dù là siêu cường, Mỹ cũng không thể tự

mình giải quyết mọi vấn đề.

+ Thông qua quan hệ tốt để vừa hợp tác vừa kiềm chế Ấn Độ, không để Ấn Độ đi vào

quỹ đạo của các nước khác, đặc biệt là các cường quốc có khả năng cạnh tranh vị trí siêu cường

thế giới của Mỹ.

Ấn Độ sau những năm cải cách thành công đã đưa đất nước thoát khỏi tình trạng đói

nghèo về kinh tế, yếu kém về chính trị. Hiện nay, Ấn Độ là một quốc gia đông dân thứ 2 thế

giới và là một thị trường đầy hứa hẹn cho các nhà tư bản muốn đầu tư ở đây. Tuy nhiên đó chỉ

mới là thành công bước đầu, Ấn Độ cần thúc đẩy phát triển kinh tế hơn nữa để giải quyết những

khó khăn trong nước. Chính thực tế ấy khiến Ấn Độ phải chủ động mở rộng quan hệ với các

nước để tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của họ.

Xu hướng mở rộng quan hệ với các nước khác, đặc biệt là các cường quốc, dễ dẫn đến

chỗ Ấn Độ sẽ có chính sách đối ngoại nghiêng về phía họ. Vì vậy, đe dọa đến địa –chính trị

toàn cầu của Mỹ. Sự hợp tác của các quốc gia trong tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) bao

gồm trong đó 3 cường quốc tiềm năng Nga, Trung Quốc, Ấn Độ (cương vị quan sát viên) là một

minh chứng. Những diễn biến gần đây của tổ chức này đang là một thách thức với Mỹ và các

nước phương Tây.

Bên cạnh đó, Ấn Độ cũng có tham vọng trở thành cường quốc khu vực. Thực tế phát

triển của quốc gia này cho thấy đó không phải là hão huyền. Từ sau những thành công đem lại

của cải cách, những chính sách của Ấn Độ với các quốc gia Nam Á khác cho thấy Ấn Độ tự coi

mình là một nước lớn trong khu vực.

Xem Ấn Độ là một đối thủ cạnh tranh vị trí bá quyền của Mỹ trong tương lai gần thì kém

thực tế hơn, nhưng trong tương lai xa thì không phải là không thể. Nhìn thấy hiện thực này, Mỹ

phải có chính sách “đi cùng” với Ấn Độ để vừa hợp tác vừa kiềm chế Ấn Độ, không để Ấn Độ

trở thành đối thủ như Trung Quốc. Hiện nay, Ấn Độ đã trở thành quốc gia có vũ khí hạt nhân

nhưng chưa ký vào bản Hiệp ước không phổ biến hạt nhân (NPT) và Hiệp ước cấm thử hạt nhân

toàn diện (CTBT). Ấn Độ không ký vì cho rằng hiệp ước có tính chất phân biệt đối xử, nhiều

cường quốc hạt nhân cũng chưa ký. Thuyết phục Ấn Độ ký vào NPT là việc không dễ, nên phải

thông qua mối quan hệ tích cực với quốc gia này để đảm bảo Ấn Độ không tiến hành chuyển

giao công nghệ hạt nhân cho các quốc gia có mối quan hệ “bất hảo” với Mỹ.

+ Lợi ích từ một thị trường tiềm năng. Đan xen giữa lợi ích địa – chính trị là lợi ích địa

– kinh tế mà Mỹ không thể không tính đến. Giá trị này càng có ý nghĩa với Mỹ khi Ấn Độ ngày

càng tỏ rõ là một thị trường đầy hứa hẹn cho các tập đoàn kinh tế Mỹ.

Theo kết quả điều tra dân số năm 2009, Ấn Độ có 1,17 tỷ dân. Tỷ lệ tăng dân số hàng

năm của nước này hiện là 1,55%. Dân số Ấn Độ đứng sau Trung Quốc nhưng tỷ lệ tăng dân số

của quốc gia này cao hơn gấp 3 lần Trung Quốc (0,494%). Tỷ lệ tăng ở mức cao này khiến

trong tương lai Ấn Độ sẽ là quốc gia có số dân đông nhất thế giới.

Dân số đông là một trở ngại lớn trong đảm bảo các chính sách xã hội, nhưng dân số đông

ở đất nước đang thực hiện cải cách kinh tế mạnh mẽ như Ấn Độ sẽ biến quốc gia này trở thành

một thị trường đầy hứa hẹn. Hiện nay đại bộ phận mức sống của người dân Ấn Độ chưa cao. Tỷ

lệ người nghèo cao, không có khả năng thanh toán là một trở ngại cho mở rộng thị trường tiêu

thụ hàng hoá, đặc biệt là hàng hóa đòi hỏi nhiều tiền như hàng hóa của Mỹ. Tuy nhiên, khi đạt

được những thành công từ công cuộc cải cách, Ấn Độ sẽ nâng mức sống người dân lên, khi đó

Ấn Độ sẽ là một thị trường lớn cho các công ty sản xuất hàng tiêu dùng.

Viễn cảnh trên còn trong tương lai xa nhưng không thể không tính đến đối với các công

ty Mỹ. Họ nhìn thấy những lợi ích có được từ công cuộc cải cách của Ấn Độ như: nhu cầu công

nghệ, vốn đầu tư, chính sách tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài và những cam kết của

chính quyền đang làm yên lòng các nhà tư bản Mỹ. Để đẩy nhanh tiến độ cải cách, Ấn Độ có

nhu cầu nhập khẩu công nghệ, kỹ thuật hiện đại, giáo dục đào tạo nhân lực ở Mỹ. Nhu cầu này

ngày càng cao do chiến lược cải cách mà Ấn Độ đang thực hiện thiên về “phát triển công nghệ

tối ưu” […] chọn hướng đi tắt đón đầu để trở thành nền kinh tế tri thức, với mục tiêu trở thành

trung tâm công nghệ toàn cầu [4, tr48].

Nhu cầu phát triển nền kinh tế theo hướng hiện đại hoá cao khiến Ấn Độ có nhu cầu tiếp

nhận công nghệ tiên tiến từ các quốc gia đi trước, trong đó có Mỹ. Hợp tác với Ấn Độ cho phép

Mỹ tiến hành các hoạt động chuyển giao công nghệ thu về hàng tỷ đô la. Bên cạnh đó, Ấn Độ

đang tiến hành nhiều hoạt động nghiên cứu khoa học chinh phục vũ trụ, trong khi Mỹ đi đầu

trong lĩnh vực này. Hay như hợp tác hạt nhân dân sự được xem là lĩnh vực đem lại nhiều công

ăn việc làm và nguồn thu cho ngân sách Mỹ. Ngoài ra, Ấn Độ theo đuổi phát triển nền kinh tế

tri thức sẽ cần nguồn nhân lực trình độ cao và đây là cơ hội cho các trường đại học, cao đẳng

Mỹ thu hút được nhiều sinh viên theo học.

Hiện nay Ấn Độ là quốc gia có ngành kinh tế sản xuất phần mềm hàng đầu thế giới mà

Mỹ có thể hợp tác. Điều này không chỉ có lợi cho Ấn Độ mà còn có lợi cho Mỹ, vì quốc gia này

sẽ cung cấp cho Mỹ những sản phẩm tốt phục vụ cho các ngành sản xuất công nghệ chính xác,

công nghệ tự động, hàm lượng trí tuệ cao của Mỹ.

Một trong những lợi ích kinh tế nổi lên trong giai đoạn này là nhu cầu hiện đại hóa quân

đội của Ấn Độ đem lại những cơ hội lớn cho các tập đoàn sản xuất hàng quân sự Mỹ.

Nam Á là vùng đất tiềm ẩn nhiều bất ổn bởi nơi đây đang tồn tại nhiều tranh chấp do lịch

sử để lại. Những tranh chấp lãnh thổ với các quốc gia khác khiến Ấn Độ từ khi tuyên bố độc lập

năm 1947 đến nay phải đối diện với ít nhất 4 cuộc chiến tranh quy mô với Pakistan, Trung

Quốc. Ngoài ra còn hàng loạt các cuộc đụng độ nhỏ qua biên giới.

Thực tế này khiến Ấn Độ không ngừng phát triển lực lượng quân đội của mình theo

hướng hiện đại. Sản xuất và mua sắm vũ khí hiện đại trang bị cho các quân binh chủng của

mình là nhiệm vụ sống còn của an ninh Ấn Độ. Quốc gia này đang đứng hàng đầu trong số các

quốc gia có số lượng các hợp đồng mua sắm vũ khí lớn nhất thế giới. Bạn hàng quân sự lớn

nhất của Ấn Độ là Nga. Nga đang cung cấp cho Ấn Độ nhiều chủng loại vũ khí hiện đại giá trị

cao và thu về hàng tỉ đô la hàng năm. Thực tế này khiến nhà sản xuất vũ khí hàng đầu thế giới

như Mỹ không thể bỏ qua bạn hàng tiềm năng Ấn Độ.

Như vậy Ấn Độ là nơi tập trung nhiều lợi ích địa – chính trị đòi hỏi Mỹ phải có những

chính sách phù hợp để hợp tác với quốc gia này, nhằm khai thác các lợi ích đó phục vụ cho mục

tiêu toàn cầu của mình.

1.2.1.2.Pakistan

 Pakistan sau Chiến tranh lạnh

Khác với Ấn Độ, thập niên đầu sau Chiến tranh lạnh, Pakistan đối diện với nhiều thách

thức. Vai trò địa – chính trị trong việc kiềm chế Liên Xô và các nước XHCN của quốc gia này

không còn nữa. Vì vậy, Pakistan mất đi những khoản viện trợ lớn từ các nước phương Tây. Một

thời gian dài dựa vào viện trợ Mỹ và các nước phương Tây đã làm nền kinh tế quốc gia này ít

nhiều mất đi tính năng động. Trong khi đó, bên cạnh mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế,

Pakistan tiếp tục phải chi tiêu cho các hoạt động quân sự, hiện đại hóa quân đội, chạy đua vũ

trang với nước láng giềng thù địch, Ấn Độ.

Mặc dù không được nhận viện trợ một cách hào phóng như trước, Pakistan vẫn theo đuổi

chương trình hạt nhân bí mật. Chương trình này không những làm tiêu tốn kinh tế quốc gia, mà

còn dẫn đến bị áp đặt các lệnh cấm vận kinh tế. Hai lần đối diện với lệnh cấm vận kinh tế vào

đầu và cuối thập niên 90 đã đặt quốc gia này trước những thách thức lớn đối với kế hoạch phát

triển đất nước.

Trong khi kinh tế không phát triển, nền chính trị Pakistan thập niên đầu sau Chiến tranh

lạnh cũng gặp nhiều bật ổn. Sự yếu kém trong điều hành kinh tế cùng với nạn tham nhũng của

chính phủ đã dẫn đến những đấu tranh quyết liệt giữa các đảng phái ở Pakistan. Những cuộc

đấu tranh lật đổ đã xảy ra như sự kiện lật đổ chính phủ của bà Bhutto năm 1996 với cáo buộc

tham nhũng. Chính phủ của Nawaz Sharif lên thay nhưng sau đó cũng bị phe quân đội do

Musharraf đứng đầu, tiến hành đảo chính lật đổ vào năm 1999.

Lệnh cấm vận cùng với ngưng cung cấp viện trợ đã buộc Pakistan phải tìm kiếm nguồn

cung cấp khác ngoài phương Tây. Đặc biệt trong bối cảnh quốc gia này tiếp tục cuộc chạy đua

vũ trang với Ấn Độ. Thập niên 90 tiếp tục cho thấy Pakistan hướng tới Trung Quốc để tìm kiếm

nguồn cung cấp nhằm lấp chỗ trống tạo ra do các nước phương Tây thực hiện cấm vận. Phù hợp

với toan tính của mình ở khu vực, Trung Quốc nhanh chóng đã trở thành nhà cung cấp chính

cho Pakistan trong thập niên đầu sau Chiến tranh lạnh.

Tuy nhiên, sự kiện 11/9/2001 đã đặt Pakistan một lần nữa trở lại vị trí có tầm quan trọng

lớn trong chiến lược toàn cầu của Mỹ, cuộc chiến chống khủng bố. Sự lạnh nhạt trong quan hệ

Mỹ - Pakistan thập niên đầu sau Chiến tranh lạnh được thay thế bằng mối quan hệ nồng ấm hơn.

Mỹ tiến hành gỡ bỏ những trừng phạt trước đó, đồng thời gia tăng viện trợ cho Pakistan. Mặc

dù trong thời gian gần đây, Mỹ có nhiều động thái quân sự làm chính quyền Islamabad phẫn nộ,

nhưng không phải Mỹ không cần đến Pakistan như buổi đầu tiến hành cuộc chiến chống

Taliban và Al Qeada ở khu vực này. Trong tương lai, hợp tác với chính quyền Islamabad nhằm

bảo đảm những mục tiêu chiến lược ở đây vẫn là ưu tiên, dù vẫn có những va chạm lợi ích giữa

hai quốc gia.

 Những lợi ích địa – chính trị Pakistan thu hút chính sách của Mỹ

Cũng như Ấn Độ, Mỹ nhìn thấy ở Pakistan những lợi ích địa – chính trị quan trọng như

lợi ích từ vị trí hậu cần trong cuộc chiến chống khủng bố; lợi ích kiềm chế tham vọng bá quyền

của Trung Quốc ở khu vực và trên thế giới; kiểm soát những hoạt động hạt nhân của quốc gia

Hồi giáo này; ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh trong tương lai với Ấn Độ dẫn đến phá hỏng mục

tiêu địa – chính trị của Mỹ ở khu vực…

+ Vị trí hậu cần quan trọng trong cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ ở Afghanistan.

Lợi ích địa – chính trị lớn khác mà Mỹ tìm kiếm trong quan hệ với Pakistan ngày càng trở nên

quan trọng là vị trí hậu cần và sự hợp tác đi đến phá hủy các căn cứ của tàn quân Taliban và tổ

chức khủng bố Al Qaeda trên đất Pakistan.

Sau sự kiện 11/9/2001 trấn động nước Mỹ và thế giới, Mỹ tuyên bố và tuyên chiến với

lực lượng khủng bố toàn cầu. Tiến hành các cuộc tấn công vào các quốc gia mà họ cho là nơi

trú ẩn của tổ chức khủng bố quốc tế hàng đầu thế giới, Al Qaeda. Afghanistan, dưới sự cai trị

của chế độ Taliban, được Mỹ liệt vào danh sách các quốc gia bảo trợ khủng bố cần phải tiêu

diệt. Ngày 7/10/2011, lực lượng hải lục không quân Mỹ tấn công ào ạt vào Afghanistan và

nhanh chóng lât đổ chế độ Taliban, lập ra chính quyền mới thân Mỹ. Taliban bị lật đổ nhưng đã

nhanh chóng tập hợp lại và trú ẩn ở những vùng bộ lạc hẻo lánh gần biên giới Pakistan. Lực

lượng này đã có sự liên hệ với tổ chức khủng bố Al Qaeda và tiếp tục cuộc thánh chiến chống

lại chính quyền Afghanistan và lực lượng liên quân dẫn đầu bởi Mỹ. Cho đến nay, đã gần 10

năm tiến hành cuộc chiến nhưng Mỹ, NATO và chính quyền Afghanistan vẫn không tiêu diệt

tận gốc được lực lượng này, trái lại, những bất ổn an ninh ở Afghanistan vẫn diễn ra hàng ngày.

Những vụ đánh bom tự sát nhằm vào quân đội nước ngoài, các quan chức chính quyền thân Mỹ,

dân thường… ngày càng tàn khốc. Nguy cơ sa lầy của Mỹ ngày càng cao. Mỹ muốn tiêu diệt

những nhóm tàn binh Taliban và tổ chức khủng bố quốc tế Al Qaeda nhưng không thể, vì tình

cảm chống Mỹ trong dân chúng Afghanistan ngày một tăng khiến Mỹ khó có thể phát hiện nơi

ẩn náu của chúng, hơn nữa tình báo Mỹ nghi ngờ rằng lực lượng này đang nhận được sự ủng hộ

âm thầm của cơ quan tính báo Pakistan.

Tiêu diệt Taliban và Al Qaeda hiện nay không thể tách rời nhiệm vụ hợp tác với chính

quyền Pakistan. Hợp tác để đảm bảo Pakistan không ủng hộ Taliban, không để vùng lãnh thổ

giáp biên giới Afghanistan trở thành nơi trú ẩn của chúng. Mỹ lo lắng các cuộc thâm nhập qua

đường biên giới của những nhóm quân sự Hồi giáo từ Pakistan vào Afghanistan là trở ngại

chính để đánh bại lực lượng nổi dậy Taliban [75, lời nói đầu], khiến cho những chiến dịch càn

quét tốn kém, tai tiếng của Mỹ và lực lượng NATO tiến hành không hiệu quả, khủng bố không

bị tiêu diệt tận gốc.

Cũng từ nhu cầu cuộc chiến, Mỹ phải thực hiện nhiệm vụ tiếp tế cho lực lượng Mỹ và

NATO ở chiến trường Afghanistan. Với vị trí thuận lợi của mình, Pakistan trở thành con đường

vận chuyển quan trọng vật chất chiến tranh. Theo K. Alan Kronstadt, chuyên gia các vấn đề

Nam Á trong chính quyền Mỹ, ¾ vật chất phục vụ cuộc chiến của Mỹ ở Afghanistan hiện nay

đang được chuyển qua lãnh thổ Pakistan. Tuy nhiên tuyến đường này đang ngày càng trở nên

mất an toàn bởi các cuộc tấn công của các phiến quân Hồi giáo cực đoan. Nhiều đoàn xe vận

chuyển cho chiến trường Afghanistan đã bị chặn đánh, đốt cháy. Đặc biệt từ năm 2008, những

cuộc tấn công táo bạo của các phiến quân Hồi giáo cực đoan đã phá hủy hàng trăm xe chở nhiên

liệu, vật chất phục vụ chiến tranh, gây thiệt hại không nhỏ và cản trở các hoạt động tác chiến ở

chiến trường Afghanistan.

Chính những giá trị lớn từ sự hợp tác với Pakistan trong cuộc chiến ở Afghanistan, Mỹ

không thể phản ứng mạnh mẽ với chính quyền Pakistan dù có những bất đồng và nghi ngờ cơ

quan tính báo Pakistan (ISI) đang hậu thuẫn cho phiến quân Taliban. Viện trợ vẫn được tiến

hành hàng năm và những nhận xét có tính khích lệ về sự hợp tác đang diễn ra của chính quyền

Islamabad vẫn được các viên chức hàng đầu của Mỹ đưa ra, mặc dù đã từ lâu họ có sự “nghi

ngờ về cam kết của Islamabad đối với một số lợi ích cốt lõi của Mỹ” [75, lời nói đầu]. Tầm

quan trọng của Pakistan trong cuộc chiến chống Taliban và Al Qaeda được Tổng thống Obama

khi mới đắc cử từng khẳng định, Afghanistan không thể “giải quyết” mà không “giải quyết

Pakistan” và cộng tác hiệu quả hơn với quốc gia này [75, tr4].

+ Cải thiện quan hệ để không đẩy Pakistan vào quỹ đạo Trung Quốc. Trong số các

quốc gia Nam Á, Pakistan là nước lớn thứ 2 cả về quy mô lãnh thổ, dân số, cả về vị thế chính trị

quốc tế. Được thực dân Anh trao trả độc lập vào năm 1947, Pakistan nhanh chóng đứng cùng

chiến tuyến với các nước tư bản Phương Tây chống lại các nước thuộc khối XHCN. Theo đuổi

chính sách này, Pakistan đã nhận được khối lượng viện trợ lớn từ Mỹ và trở thành thành trì

chống Liên Xô và các nước XHCN. Viện trợ mà Pakistan nhận được, đặc biệt là viện trợ quân

sự cũng được quốc gia này phục vụ cho mục tiêu chống lại quốc gia láng giềng Ấn Độ trong

cuộc chiến tranh tranh chấp vùng Jammu và Kashmir.

Chính vì vậy, lợi ích địa – chính trị mà Mỹ đạt được ở quốc gia này trong thời kỳ Chiến

tranh lạnh là rất đáng kể, đặc biệt trong bối cảnh không thuyết phục được Ấn Độ đi theo con

đường của mình. Pakistan vừa là “con đê ngăn chặn sự lan tràn của cộng sản”, vừa kiềm chế Ấn

Độ.

Cũng trong thời gian này, quan hệ Trung Quốc – Pakistan đã trở nên thân mật, đặc biệt từ

thập niên 60 của thế kỷ trước khi nhân tố Ấn Độ luôn cản trở sự hợp tác không giới hạn của Mỹ

với Pakistan. Khi đó, Mỹ vừa muốn quan hệ đồng minh với Pakistan vừa muốn lôi kéo kẻ thủ

của Pakistan là Ấn Độ chống lại Liên Xô. Vì vậy Mỹ luôn từ chối cung cấp cho Pakistan các

loại vũ khí hiện đại. Nắm bắt được mong muốn của Pakistan, Trung Quốc đã hào phóng trong

viện trợ cho Pakistan để lôi kéo quốc gia này trong cuộc cạnh tranh chống lại Ấn Độ. Trong

những năm 1956 đến 1973, “Trung Quốc đã dành gần 20% tổng số hàng viện trợ nước ngoài

(chủ yếu là viện trợ quân sự) cho các nước Nam Á, trong đó Pakistan nhận được 13,1%” [59, tr

71].

Chiến tranh lạnh kết thúc, vị trí của Pakistan trong chiến lược toàn cầu của Mỹ có sự thay

đổi, các đối thủ tiềm năng cạnh tranh vị trí siêu cường của Mỹ đang tìm cách khai thác lợi ích

địa – chính trị từ Pakistan, đặc biệt là Trung Quốc. Thập niên 90, Mỹ không coi trọng Pakistan

như đã từng coi trọng quốc gia này trước đó, dẫn đến những lệnh trừng phạt, cấm vận kinh tế,

cắt giảm viện trợ…Để tìm kiếm những khoản viện trợ, những đơn đặt hàng quân sự mới,

Pakistan đã tăng cường quan hệ với Trung Quốc.

Năm 1990, khi Mỹ ngừng giao số máy bay F-16 mà Pakistan đặt mua theo lệnh cấm vận,

Pakistan đã liên doanh với Trung Quốc nghiên cứu chế tạo máy bay chiến đấu JF -17. Tiến

thêm một bước từ giữa những năm 1990, Bắc Kinh bắt đầu chuyển giao công nghệ hạt nhân và

các loại tên lửa tầm trung cho Pakistan.

Quan hệ Trung Quốc – Pakistan đang được thúc đẩy bởi họ có những lợi ích chung như

cùng mục tiêu xem Ấn Độ là đối thủ. Trung Quốc muốn khai thác mối quan hệ thù địch giữa Ấn

Độ và Pakistan phục vụ cho mục tiêu ngoại giao vươn ra bên ngoài của mình, đặt Pakistan

thành nhân tố kiềm chế Ấn Độ. Pakistan cũng có những toan tính trong xây dựng mối quan hệ

tốt với Trung Quốc để làm đối trọng với Ấn Độ. Vì hai “gã khổng lồ” châu Á có lịch sử quan hệ

thù địch và đang có những tranh chấp lãnh thổ, cùng có tham vọng cường quốc này không thể

“hợp tác” mà không có bất hòa.

Mục đích này lại được hỗ trợ bởi thực tế quan hệ giữa Trung Quốc và Pakistan không có

những xung đột lợi ích chiến lược đáng kể. Ngày nay, Trung Quốc đang là bạn hàng lớn của

Pakistan, đặc biệt là lĩnh vực quân sự. Trung Quốc là nhà cung cấp vũ khí hiện đại hàng đầu và

ổn định cho Pakistan.

Những lý do dẫn đến sự thân mật trong quan hệ Trung Quốc – Pakistan như trên là một

thách thức lớn đối với lợi ích địa – chính trị của Mỹ ở khu vực. Muốn kiềm chế Trung Quốc,

Mỹ không thể không tính đến Pakistan. Duy trì quan hệ song phương đảm bảo không để

Pakistan rơi vào quỹ đạo của Trung Quốc.

+ Kiểm soát không để kho vũ khí hạt nhân của Pakistan rơi vào tay những kẻ khủng

bố, những quốc gia có mối quan hệ thù địch với Mỹ.

Quyết tâm tìm kiếm sự răn đe hạt nhân đã được Pakistan theo đuổi từ thời Chiến tranh

lạnh. Mặc dù coi Pakistan là đồng minh và hàng năm cung cấp viện trợ quân sự không nhỏ cho

họ, Mỹ không muốn Pakistan có vũ khí hạt nhân. Vì vậy, những phát hiện Pakistan bí mật chế

tạo vũ khí hạt nhân luôn dẫn đến phản ứng mạnh từ Washington bằng các lệnh trừng phạt kinh

tế, ngưng cung cấp viện trợ…Tuy nhiên, nỗi lo lớn đến từ quốc gia hùng mạnh đang có những

tranh chấp lãnh thổ với mình, Pakistan quyết tâm có được loại vũ khí này.

Năm 1998, sau một loạt thử nghiệm hạt nhân ngay sau những vụ thử của Ấn Độ,

Pakistan được coi là quốc gia có vũ khí hạt nhân. Nhưng là quốc gia Hồi giáo luôn tiềm ẩn

những bất ổn chính trị và những cuộc nổi dậy của lực lượng Hồi giáo cực đoan, hơn nữa, trình

độ công nghệ đảm bảo sự an toàn hạt nhân không cao, dẫn đến Mỹ lo ngại các thiết bị và

nguyên liệu hạt nhân có thể rơi vào tay những kẻ khủng bố. Nghiêm trọng hơn, sự lạnh nhạt

trong quan hệ hai nước có thể dẫn đến Pakistan bí mật chuyển giao hạt nhân cho quốc gia khác,

đặc biệt là các nước có quan hệ thù địch với Mỹ. Lo lắng của Mỹ là có cơ sở khi các tin tình báo

cho thấy những bằng chứng chuyển giao công nghệ và vật liệu hạt nhân của Pakistan cho nước

thứ ba như: Bắc Triều Tiên, Iran và Libya. Bằng chứng như vậy đã trở nên rõ rệt vào 2004 liên

quan đến mạng lưới buôn lậu bất hợp pháp có thể vẫn đang hoạt động ở Pakistan [75, lời nói

đầu]. Các căn cứ Mỹ trên khắp thế giới, thậm chí nước Mỹ sẽ không an toàn; lợi ích Mỹ trên

toàn cầu sẽ bị đe dọa bởi nguy cơ mất an toàn hạt nhân đến từ Pakistan.

Chính từ thực tế đó, chính sách của Mỹ phải hướng tới đảm bảo kiểm soát được kho hạt

nhân của Pakistan.

+ Ngăn chặn nguy cơ xung đột với Ấn Độ dẫn đến phá hỏng mục tiêu địa – chính trị

của Mỹ ở khu vực.

Những tranh chấp lãnh thổ Jammu và Kashmir từng là nguồn gốc xảy ra 3 cuộc chiến

tranh quy mô và luôn là ngòi nỗ cho cuộc xung đột mới. Sẽ là một thảm họa một khi một cuộc

chiến tranh mới xảy ra, bởi hai quốc gia này đều đã sở hữu vũ khí hạt nhân.

Đối với Mỹ, cuộc chiến sẽ phá hủy những lợi ích mà họ đang có được ở Nam Á, Mỹ

buộc phải đứng về một bên hoặc sẽ bị gạt khỏi sân khấu chính trị Nam Á. Cuộc chiến xảy ra sẽ

là những điều kiện tốt cho các đối thủ tiềm năng của họ giành lấy ảnh hưởng ở khu vực này.

Hơn nữa nếu cuộc chiến tranh Ấn Độ - Pakistan xảy ra sẽ ảnh hưởng lớn tới cuộc chiến chống

khủng bố do Mỹ dẫn đầu ở Afghanistan. Vì vậy, hơn ai hết Mỹ luôn là quốc gia sốt sắng để tháo

ngòi nổ cho nguy cơ chiến tranh mỗi khi hai quốc gia này lâm vào khủng hoảng đẩy quan hệ hai

bên đến mức xấu nhất, như: khủng hoảng Kargil năm 1999, cuộc tấn công khủng bố tòa nhà

quốc hội Ấn Độ năm 2001 và mới đây là cuộc tấn công khủng bố của những phần tử Hồi giáo

cực đoan, có căn cứ ở Pakistan, vào các vị trí nổi tiếng ở thành phố Mumbai năm 2008. Các

diễn biến trên ít nhiều đều bắt nguồn từ những tranh chấp Kashmir, khiến những nhóm Hồi giáo

có lợi ích ở đây đẩy mạnh các hành động làm mất an ninh dẫn đến đẩy hai quốc gia này đi đến

chiến tranh với nhau. Vì vậy hòa bình lâu dài ở khu vực phụ thuộc vào việc giải quyết hòa bình

vấn đề Kashmir. Thực tế đó khiến Mỹ sẽ phải “tiếp tục tác động gián tiếp hoặc thậm chí đóng

vai trò trung gian thấp nhằm giúp hai bên tìm kiếm giải pháp hòa bình lâu dài cho vấn đề

Kashmir” [24, tr 31], không để nơi này trở thành điểm xung đột tiềm tàng trong quan hệ hai

nước, đồng thời không để những kẻ Hồi giáo cực đoan biến Kashmir thành vùng đất thánh mới.

Từ những lợi ích địa – chính trị trên, Mỹ phải có những chính sách cho phù hợp với hoàn

cảnh lịch sử để phục vụ cho mục tiêu toàn cầu. Vì vậy, chính sách của Mỹ với Pakistan trong

mỗi thời kỳ luôn có những điều chỉnh. Sự nồng ấm hay lạnh nhạt trong lịch sử quan hệ hai bên

đều xuất phát từ thực tế này.

1.2.1.3.Các nước Nam Á khác

Không như Ấn Độ và Pakistan, trong giai đoạn hiện nay, các nước Nam Á như Nepal,

Bhutan, Sri Lanka, Bangladesh, Maldives có ít lợi ích địa – chính trị. Tuy nhiên, trong bối cảnh

các cường quốc mới nổi đang tìm kiếm lợi ích khắp nơi trên thế giới, các quốc gia Nam Á này

cũng được quan tâm trong chính sách của họ. Dẫn đến ở đây đang diễn ra hình thái cạnh tranh

ảnh hưởng mạnh mẽ giữa các cường quốc với nhau nhằm giành được sự hợp tác, tạo điều kiện,

ủng hộ ngoại giao từ phía các quốc gia Nam Á này. Các cường quốc thường khai thác mong

muốn vươn lên của họ bằng cách trao viện trợ kinh tế, giúp đỡ công nghệ…từ đó lôi kéo họ về

phía mình. Trong số đó hăng hái nhất là Ấn Độ và Trung Quốc.

Ấn Độ là một nước lớn trong khu vực nên luôn coi Nam Á là khu vực ảnh hưởng truyền

thống của mình. Tuy nhiên, trong quan hệ với các nước làng giềng trong khu vực Ấn Độ có quá

nhiều những vấn đề tồn tại cần phải giải quyết, đặc biệt là những tranh chấp lãnh thổ với

Pakistan, tranh chấp nguồn nước sông Hằng với Bangladesh…Những tranh chấp tồn tại trong

lịch sử luôn là nguy cơ gây bất ổn ảnh hưởng tiêu cực đến công cuộc cải cách của Ấn Độ. Các

địch thủ của Ấn Độ cũng đang khai thác các vấn đề này để tạo ra thế kiềm tỏa Ấn Độ. Vì vậy,

Ấn Độ đang theo đuổi chính sách để không đẩy các nước này rơi vào quỹ đạo của địch thủ.

Quan điểm coi trọng xây dựng quan hệ láng giềng tốt với các nước Nam Á nhỏ thể hiện

rõ trong quan điểm được Ngoại trưởng I.K.Gujral nêu lên vào năm 1997, đó là trong quan hệ

với các nước Nam Á này, Ấn Độ không theo nguyên tắc có đi có lại. Theo đó Ấn Độ đã giúp đỡ

tài chính, giúp xây dựng cơ sở hạ tầng, ký kết các hợp đồng hợp tác kinh tế với các nước như

Nepal, Bhutan, Bangladesh, Sri Lanka. Chính sách này đã nhận được sự hoan nghênh của các

nước Nam Á nhỏ. Những tranh chấp cũng được Ấn Độ cố gắng không để phát triển trở thành

mâu thuẫn đối đầu.

Bên cạnh Ấn Độ, Trung Quốc đang tăng cường mở rộng ảnh hưởng của mình ở khu vực

Nam Á, trong đó có những quan tâm tới các nước nhỏ. Nắm bắt được nỗi lo của các nước này

trước người hàng xóm khổng lồ Ấn Độ, Trung Quốc bày tỏ ý định thắt chặt quan hệ với họ, tiến

hành cung cấp viện trợ kinh tế, trợ giúp phát triển, ký kết các hiệp ước hữu nghị…Đáng kể là họ

đã thuyết phục được chính quyền ở Bangladesh, Sri Lanka, Pakistan cho họ xây dựng các cảng

biển ở đây. Theo các nhà phân tích, các cảng này không thuần tuy khai thác cho mục đích vận

chuyển hàng hóa, khi cần có thể chuyển sang phục vụ cho các tầu hải quân Trung Quốc. Liên

kết với các vị trí khác trên tuyến đường biển kéo dài từ đảo Hải Nam tới vùng giầu dầu mỏ bậc

nhất thế giới Trung Đông, có thể thấy rõ ý đồ của nhà cầm quyền Trung Quốc.

Trong bối cảnh các nước đang chạy đua để lôi kéo các nước Nam Á như trên, đặc biệt là

các nước có vị trí địa – chính trị quan trọng trong khu vực, Mỹ không thể đứng ngoài nếu không

muốn các quốc gia này rơi vào quỹ đạo của các cường quốc đối thủ, đồng thời thách thức địa vị

của Mỹ. Tuy nhiên, chính sách của Mỹ đối với từng quốc gia là khác nhau, tùy vào lợi ích chiến

lược mà họ có được từ mối quan hệ đó. Hơn nữa, tùy từng thời điểm lịch sử, chính sách của Mỹ

đối với mỗi quốc gia cũng có sự thay đổi.

1.2.2. Nhân tố thách thức từ các nước lớn

Sau Chiến tranh lạnh, Nam Á là khu vực có nhiều lợi ích địa – chính trị được Mỹ quan tâm.

Tuy nhiên, Mỹ đang phải đối diện với những thách thức đến từ các cường quốc khác trên thế giới

cũng đang tìm kiếm lợi ích địa – chính trị trong khu vực này. Đáng kể nhất phải kể đến các

cường quốc như Trung Quốc, Nga. Nhận diện các thách thức này sẽ khiến Mỹ có những sách

lược, chiến lược hiệu quả để duy trì ảnh hưởng của mình ở khu vực cũng như khai thác các lợi

ích địa – chính trị này phục vụ cho lợi ích quốc gia của Mỹ.

1.2.2.1.Trung Quốc

 Sự trỗi dậy mạnh mẽ sau Chiến tranh lạnh

Trung Quốc là quốc gia có diện tích lớn thứ 3 trên thế giới và hiện đang có dân số đông nhất

thế giới. Nằm ở Đông Á, Trung Quốc án ngữ vị trí quan trọng trên bàn cờ chính trị thế giới. Lãnh

thổ Trung Quốc có biên giới tiếp giáp với nhiều nước, trong đó có những nước lớn như Nga, Ấn

Độ, có những nước có vị trí địa – chính trị quan trọng mà nhiều cường quốc tìm cách tiếp cận

như các nước trung Á, nơi được các nhà địa – chính trị gọi là “Miền đất trái tim”.

Trong lịch sử, người Trung Quốc luôn cho mình là nước lớn, có nhiệm vụ lãnh đạo thế giới.

Các hoàng đế Trung Hoa kế tiếp nhau luôn đặt ra nhiệm vụ đó. Từ sau khi đánh bại phe Tưởng

Giới Thạch lập ra nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đến nay, nhất là sau khi tiến hành cải

cách kinh tế vào 1978, Trung Quốc đã phát triển mạnh mẽ về kinh tế, ổn định về chính trị, giải

quyết được những khó khăn trong nước. Hiện nay, sức mạnh kinh tế, khoa học kỹ thuật, quân sự

quốc phòng Trung Quốc không thua kém nhiều so với các nước có bề dày lịch sử phát triển trước

đó.

Nhà cải cách vĩ đại Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình, từng phát biểu vào năm 1994 về mục tiêu

của Trung Quốc rằng: “thứ nhất, chống chủ nghĩa bá quyền và chính trị cường quyền, bảo vệ hoà

bình thế giới; thứ hai là xây dựng trật tự chính trị và kinh tế thế giới mới” [2, tr 197]. Cả hai mục

tiêu mà Đặng Tiểu Bình nêu lên đều nhằm mục đích cuối cùng hướng tới thay đổi địa vị chính trị

quốc tế hiện thời của Trung Quốc, Trung Quốc cần phải đóng vai trò lớn hơn nữa trong nền chính

trị thế giới.

Trước câu hỏi con đường nào cho Trung Quốc trong thế kỷ này, người Trung Quốc cho rằng

“chỉ có một con đường đi đến thành công, đó là xác lập cho mình thực lực và địa vị lãnh đạo toàn

cầu trong quá trình tự phát triển và tự hoàn thiện, ngoài ra sẽ không có con đường nào khác trong

thế kỷ XXI” [21, tr 24].

Thực tế phát triển và tham vọng này khiến Trung Quốc luôn chủ động can dự vào những vấn

đề quan trọng trong đời sống chính trị thế giới và khu vực nhằm khẳng định vị trí cường quốc của

mình. Chủ trương trên được thúc đẩy và đảm bảo bởi những thành công đạt được trong công

cuộc cải cách.

Cuộc cải cách của Trung Quốc tiến hành từ cuối thập niên 70 của thế kỷ XX không chỉ đưa

quốc gia này thoát khỏi khủng hoảng mà còn vươn lên mạnh mẽ. Trung Quốc hiện đang có tốc

độ phát triển cao và ổn định về kinh tế thúc đẩy quốc gia này đạt được nhiều thành tựu trong các

lĩnh vực khác. Hơn lúc nào hết, Trung Quốc đang mong muốn trở thành một siêu cường thế giới.

Hiện thực và ước vọng của quốc gia có tư tưởng “thiên triều” này đang và sẽ là thách thức lớn

nhất tới địa vị bá chủ của Mỹ.

Từ năm 1978, cùng với sự tăng mạnh mức độ tiêu dùng của nhân dân là tốc độ phát triển

kinh tế trung bình của Trung Quốc rất cao, đạt 9,4% năm, có năm đạt hai con số. Tổng GDP năm

1978 khi Trung Quốc thực hiện cải cách chỉ có 215,3 tỷ USD nhưng vào năm 2004 con số đó là

1931,7 tỷ USD. Năm 2009, Cục Thống kê nhà nước Trung Quốc công bố: tổng sản phẩm quốc

nội (tức GDP) của nước này đạt 4916,275 tỷ USD, suýt soát bằng GDP Nhật Bản. Tháng 2/2011,

Trung Quốc đã vượt Nhật vươn lên thành nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới.

Nhiều dự đoán cho thấy GDP của Trung Quốc có thể sẽ đạt gần 13 nghìn tỷ USD vào năm

2020 và sẽ vượt Mỹ vào khoảng năm 2028. Trung Quốc sẽ sớm vượt Mỹ trở thành nước sản xuất

hàng hóa lớn nhất thế giới vào năm 2011 (chiếm khoảng 17% sản lượng toàn thế giới) [7, tr136].

Giữa thập niên này, khoảng 80% công ty cung ứng hàng hóa cho mạng lưới siêu thị Mỹ Wal-

Mart là các công ty Trung Quốc [50, tr 46].

GDP không phải là biểu hiện duy nhất khẳng định một Trung Quốc phát triển mạnh nhưng

nhìn vào tốc độ tăng ổn định hàng năm (kể cả khi thế giới đối diện với khủng hoảng, mức GDP

vẫn tăng ấn tượng), tổng số GDP có thể thấy sự chuyển mình mạnh mẽ của một quốc gia đông

dân nhất thế giới này.

Cán cân thương mại giữa Trung Quốc với các nước, khu vực trên thế giới đều có xu hướng

nghiêng về Trung Quốc. Trung Quốc xuất siêu vào nhiều thị trường, trong đó có những thị

trường lớn như Mỹ, EU. Năm 2002, thâm hụt thương mại của Mỹ với Trung Quốc là 105 tỷ

USD, năm 2005 là 200 tỷ USD đã làm cho các nhà chế tạo Mỹ lo lắng hơn nữa về sự thua thiệt

trong thương mại. Năm 2004 tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc tăng gấp đôi so với 3

năm trước đó, đạt 1154,8 tỷ USD. Năm 2009, mặc dù phải đối diện với khủng hoảng kinh tế thế

giới, Trung Quốc vẫn đạt 1201,7 tỷ USD, đứng đầu thế giới. Sự lớn mạnh về kinh tế của Trung

Quốc khiến có nhà nghiên cứu cho rằng “nước này đã trở thành một công xưởng khổng lồ sản

xuất hàng hóa xuất khẩu” [55, tr 14].

Nhiều công ty, tập đoàn kinh tế của người Trung Quốc đã ra đời và làm ăn thành công trong

nước. Theo quy luật kinh tế chung, các công ty, tập đoàn kinh tế của người Trung Quốc đã vươn

ra khỏi biên giới quốc gia hòa vào dòng chảy chung kinh tế thế giới. Cũng từ đây, lợi ích của

người Trung Quốc không còn bó hẹp trong phạm vi biên giới lãnh thổ mà trải khắp địa cầu theo

∗ nhất thế giới. 2TP0F

P2T Họ đã đủ khả năng tài chính và vị thế để mua tài sản của các tập đoàn kinh tế hàng

bước chân của họ. Ngày nay, người Trung Quốc đã có tên trong câu lạc bộ những người giàu

∗∗ P2T

∗ Theo báo An ninh Thủ đô, ngày 12/3//2010, trong 1011 tỷ phú giàu nhất thế giới, Trung Quốc có số người giàu nhất thế giới đứng thứ 2 sau Mỹ ∗∗ Năm 2004, tập đoàn Lenovo Group (nhà sản xuất máy tính cá nhân lớn nhất Trung Quốc) mua bộ phận kinh doanh của IBM với giá 1,75 tỷ USD. Ngày 24/4/2009, Sinopec - hãng lọc hóa dầu lớn nhất Trung Quốc - đã đạt thỏa thuận mua lại hãng thăm dò dầu khí Addax Petroleum có trụ sở tại Geneva, Thụy Sỹ, với giá 7,24 tỷ USD. Ngày 1/10/2010, Sinopec tuyên bố sẽ đầu tư 7,1 tỉ USD để mua lại 40% cổ phần của chi nhánh Hãng dầu khí Tây Ban Nha Repsol ở Brazi. Ngày 2/8/2010, tại London

đầu trên thế giới. 2TP1F

Không chỉ thành công trong lĩnh vực kinh tế, Trung Quốc đã và đang làm chủ những đỉnh

cao công nghệ của thế giới: công nghệ vũ trụ, công nghệ hạt nhân, công nghệ quốc phòng…Năm

2003, sau hơn 10 năm phóng thành công vệ tinh vào vũ trụ đầu tiên, Trung Quốc đã trở thành

quốc gia thứ 3 có tàu không gian đưa người vào vũ trụ. Công nghệ vũ trụ của người Trung Quốc

ngày nay có những bước tiến vượt bậc, họ liên tục phóng tàu thăm dò mặt Trăng và chuẩn bị cho

việc đưa người lên tham hiểm mặt Trăng.

Kinh tế phát triển mạnh và ổn định, nghiên cứu khoa học đạt được những thành tựu quan

trọng cho phép Trung Quốc toan tính những bước đi chiến lược trong cạnh tranh địa vị bá chủ

với Mỹ. Trong đó chú trọng xây dựng lực lượng quốc phòng. Trong những năm gần đây, sự phát

triển quân sự quốc phòng của Trung Quốc làm nhiều quốc gia lo ngại. Trung Quốc không chỉ là

cường quốc hạt nhân mà đã chế tạo được các phương tiện đưa vũ khí hạt nhân đến bất kỳ nơi nào

trên trái đất: tên lửa xuyên lục địa, tàu ngầm mang tên lửa gắn đầu đạn hạt nhân…Trung Quốc có

đủ các loại tên lửa tầm ngắn, tầm trung và tên lửa đạn đạo xuyên lục địa, trong đó có loại tên lửa

tầm xa DF-31 và tên lửa JL-2. Các loại tên lửa này không chỉ được đặt ở các căn cứ trên mặt đất

mà còn được trang bị cho tầu ngầm tấn công. Tính chính xác của loại vũ khí này được chứng

minh trong sự kiện Trung Quốc bắn hạ thành công một vệ tinh dự báo thời tiết đã qua sử dụng

vào năm 2007, khiến các đối thủ của họ lo ngại.

Sức mạnh quốc phòng của họ còn thể hiện ở lực lượng tầu ngầm. Trung Quốc được đánh giá

là quốc gia có số lượng tàu ngầm lớn nhất châu Á. Không chỉ vậy, tàu ngầm Trung Quốc đã đạt

được khả năng “che mắt” các phương tiện theo dõi hiện đại của Mỹ. Năm 2006, một tàu ngầm

hạt nhân lớp Jin đã tiếp cận 9Tmột nhóm tàu chiến của hải quân Mỹ, do hàng không mẫu hạm USS

Kitty Hawk dẫn đầu, đang triển khai đợt tập trận như thường lệ trên vùng biển Đông Trung Quốc

(gần Okinawa) mà không bị phát hiện. 9T

Về quân số, Trung Quốc có lực lượng quân đội lớn nhất thế giới với 2,5 triệu quân. Về ngân

sách quốc phòng, Trung Quốc đứng thứ 4 thế giới và vẫn đang duy trì tốc độ tăng hơn 10% năm

[21, tr 24]. Ngân sách quốc phòng luôn tăng hàng năm cho phép Trung Quốc hiện đại hóa quân

đội, trang bị những vũ khí tối tân mà quân đội các quốc gia khác có.

Đầu thế kỷ 21, tham vọng xây dựng lực lượng quốc phòng có khả năng tác chiến ở nhiều nơi

trên thế giới của Trung Quốc được thúc đẩy thông qua việc xây dựng căn cứ Tam Á trên đảo Hải

(Anh), Tập đoàn Geely Triết Giang Trung Quốc tuyên bố đã hoàn thành thủ tục mua lại toàn bộ cổ phần của công ty xe hơi Volvo thuộc sở hữu của công ty Ford – Hoa Kỳ.

Nam. Căn cứ này là nơi neo đậu của các tàu ngầm hạt nhân và các chiến hạm khác. Bên cạnh đó,

Trung Quốc cũng đang thúc đẩy chế tạo tàu sân bay. Dự kiến đến năm 2015, Trung Quốc sẽ có

tàu sân bay do mình tự đóng. Với lực lượng quốc phòng hùng hậu và không có dấu hiệu dừng lại,

Trung Quốc thực sự làm các quốc gia trong khu vực cũng như các cường quốc trên thế giới lo

ngại, dù cho Trung Quốc luôn cam kết phát triển lực lượng quốc phòng là để bảo vệ đất nước.

Chính vì vậy, Trung Quốc được xếp vào vị trí cạnh tranh bá quyền chính trị toàn cầu của Mỹ:

“Trung Quốc là một trong số ít nước có tiềm lực chính trị, kinh tế và quân sự cần thiết, sau 10 –

20 năm sẽ trở thành sự uy hiếp khu vực quan trọng đến lợi ích của Mỹ” [21, tr 23].

Tham vọng cường quốc của Trung Quốc còn thể hiện trong lĩnh vực chính trị ngoại giao khi

Trung Quốc chủ động “can dự” càng nhiều càng tốt vào các vấn đề chính trị thế giới hiện nay

như vấn đề hạt nhân ở CHDCND Triều Tiên, Iran... Các nhà nghiên cứu cho rằng, Trung Quốc

đang sử dụng vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên và Iran như những con bài chính trị với

Mỹ. Trong khi Mỹ thông qua Liên Hợp Quốc để cô lập Iran, buộc Iran phải chấm dứt chương

trình hạt nhân gây tranh cãi, Trung Quốc được cho là đang có những hợp đồng bí mật cung cấp

vũ khí cho quốc gia này. Những lệnh trừng phạt mà Liên Hợp Quốc đã thông qua đối với Iran có

nguy cơ bị vô hiệu bởi những quan hệ kinh tế của các công ty Trung Quốc với Iran vẫn được tiến

hành. Đối với CHDCND Triều Tiên, Trung Quốc có quan hệ thân mật và có khả năng ảnh hưởng

lớn tới nhiều lĩnh vực của quốc gia này. Trong những năm gần đây, Bình Nhưỡng luôn phải đối

diện với những lệnh cấm vận quốc tế. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, Trung Quốc đang là quốc

gia bí mật cung cấp cho quốc gia này những thứ mà họ không có được từ thị trường thế giới. Nói

cách khác, “vận mệnh chính trị”, nền kinh tế CHDCND Triều Tiên gắn chặt với thái độ của

Trung Quốc. Trước những trừng phạt của cộng đồng quốc tế đối với hành động theo đổi chương

trình hạt nhân của Bình Nhưỡng, Bắc Kinh thường lên tiếng bênh vực họ. Có thể thấy, quan hệ

chặt chẽ giữa hai quốc gia này đến độ, không thể giải quyết vấn đề của CHDCND Triều Tiên mà

không có sự tham gia của Trung Quốc.

Để nâng cao vị thế quốc tế, Trung Quốc tích cực tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực.

Trung Quốc đã là thành viên của hơn 130 tổ chức quốc tế toàn cầu hay khu vực, trong đó có

những tổ chức có vai trò quan trọng như Liên Hợp Quốc, APEC, WTO…Trong các tổ chức này,

Trung Quốc luôn có tiếng nói quan trọng.

Ngoại giao Trung Quốc hướng tới mở rộng quan hệ với các khu vực ảnh hưởng của Mỹ và

Phương Tây còn có những hạn chế. Tháng 10/2006, Trung Quốc làm nhiều quốc gia phải lưu tâm

khi họ đã tổ chức một Hội nghị Thượng đỉnh Trung Quốc - châu Phi lần đầu tiên tại Bắc Kinh.

Hội nghị này đã thu hút sự tham gia của hơn 40 nhà lãnh đạo từ các quốc gia châu Phi. Bên cạnh

những cam kết cho vay và viện trợ hàng tỉ đô la cho châu Phi, Trung Quốc đạt được sự nhất trí từ

các nhà lãnh đạo châu lục này qua một tuyên bố thành lập “đối tác chiến lược mới giữa Trung

Quốc- châu Phi theo tinh thần bình đẳng về chính trị, tin cậy lẫn nhau, hợp tác cùng có lợi” [30,

tr 35]. Thành công của hội nghị này và những hội nghị tiếp theo, ngoài lợi ích có thể nhìn thấy từ

kinh tế như tiếp cận nguồn dầu lửa và quặng sắt hay một thị trường tiêu thụ hàng hóa giá rẻ và

không khó tính, Trung Quốc còn đạt được mục tiêu mở rộng tầm ảnh hưởng chính trị ngoại giao

của mình lên khu vực mà Trung Quốc chưa từng có trong lịch sử.

Sự lớn mạnh nhanh chóng của Trung Quốc trong nhiều thập niên gần đây khiến các quốc gia

đứng đầu thế giới lo lắng. Đặc biệt bước vào thiên niên kỷ mới, Trung Quốc đẩy mạnh hoạt động

ngoại giao nước lớn, phát triển lực lượng quân sự hùng hậu với các loại vũ khí hiện đại không

thua kém các quốc gia quân sự hàng đầu thế giới. Thực tế này dễ khiến các quốc gia là đối thủ

hoặc có lịch sử đối đầu với Trung Quốc, các quốc gia láng giềng lo ngại. Để xoa dịu nỗi lo, làm

yên lòng các quốc gia này, Trung Quốc tuyên bố chiến lược “trỗi dậy hòa bình”. Theo đó, trước

hết trong chiến lược của Trung Quốc là tạo dựng một môi trường an ninh thuận lợi để tăng tốc

phát triển kinh tế, xây dựng Trung Quốc thành một cường quốc phát triển. Trung Quốc chủ

trương ngoại giao toàn phương vị, một mặt tăng cường quan hệ với Mỹ, Nhật Bản phục vụ cho

mục tiêu kinh tế, mặt khác tăng cường quan hệ với Nga nhằm đấu tranh với xu thế đơn cực của

Mỹ. Trung Quốc cũng chú trọng quan hệ với các nước ASEAN và ngày càng tích cực tham gia

các diễn đàn khu vực do ASEAN tổ chức.

Tuyên bố “trỗi dậy hòa bình” có thể được thực hiện trong thời gian tới nhưng không thể đảm

bảo rằng Trung Quốc mãi mãi theo chiến lược đó, khi mà thực tế và lịch sử đều cho thấy Trung

Quốc muốn nhiều hơn thế. Cường quốc toàn cầu là mục tiêu của Trung Quốc, nhưng tham vọng

đó còn bị hạn chế bởi nhiều vấn đề bất ổn tiềm ẩn trong một quốc gia mới nổi này. Cho nên, ít

nhất vài thập niên tới, thế giới tiếp tục chứng kiến sự trỗi dậy của Trung Quốc trong nhiều lĩnh

vực và sự tìm kiếm vị trí lãnh đạo toàn cầu của họ hơn là nhìn thấy một Trung Quốc trong vai trò

lãnh đạo thế giới.

 Sự can dự ngày càng tăng vào Nam Á

Nam Á là khu vực có nhiều quốc gia chung đường biên giới với Trung Quốc và là một vị trí

địa –chính trị quan trọng trên bàn cờ quyền lực thế giới như Ấn Độ, Pakistan, Nepal, Bhutan.

Theo quan điểm của nhà địa – chính trị người Mỹ gốc Hà Lan, Nicholas John Spykman, Nam Á

nằm trong khu vực “vùng rìa” hay “khu vực vành đai”. Muốn trở thành cường quốc thế giới,

trước hết Trung Quốc phải đặt được ảnh hưởng của mình lên khu vực này.

Khu vực này đang diễn ra hình thái chính trị đối đầu giữa các nước lớn có vũ khí hạt nhân

của khu vực và Trung Quốc đang xuất hiện như một nhân tố làm đối trọng trong mối quan hệ ấy.

Trong lịch sử quan hệ với các quốc gia Nam Á, Trung Quốc vừa là bạn lại vừa là thù. Năm 1962,

một cuộc chiến tranh biên giới nổ ra giữa Ấn Độ và Trung Quốc mà nguyên nhân xuất phát từ

tranh chấp một vùng đất sa mạc mà hai bên đều tuyên bố chủ quyền. Theo người Ấn, bản đồ để

lại của người Anh cho thấy vùng đất này thuộc về họ. Tuy nhiên đã hàng thập kỷ, sự hiện diện

quyền lực của người Ấn là dường như không có, trong khi đó người Trung Quốc đã có những cơ

sở ở đây [68, tr 292]. Cuộc chiến tranh kết thúc với tổn thất lớn thuộc về Ấn Độ nhưng những

vùng đất tranh chấp vẫn chưa được giải quyết. Ngày nay trong khu vực biên giới hai nước, nhiều

vùng đất được tuyên bố chủ quyền bởi cả Trung Quốc và Ấn Độ, vì vậy nguy cơ tiềm ẩn những

bất ổn vẫn đang thường trực. Nguy cơ đó có thể bùng phát thành cuộc chiến tranh bất cứ lúc nào

khi quan hệ giữa hai nước trở thành thù địch.

Hai “gã khổng lồ" châu Á có lịch sử không hòa thuận này đang gặt hái được những thành

công trong cải cách kinh tế. Vươn lên địa vị chính trị quốc tế quan trọng đang là mục tiêu của hai

nước. Trong bối cảnh đó, cạnh tranh không khoan nhượng là một hiện thực. Vì vậy, Trung Quốc

trước hết khai thác những mâu thuẫn của Ấn Độ với các quốc gia láng giềng trong khu vực Nam

Á để kiềm chế họ, đặc biệt là mâu thuẫn Ấn Độ - Pakistan.

Pakistan vốn dĩ là một phần lãnh thổ có chung lịch sử với Ấn Độ xưa (nơi được biết đến với

di chỉ khảo cổ Harapa Mohenjo- Dajo của nền văn minh sông Ấn). Họ chỉ có một khác biệt lớn là

tôn giáo. Trước làn sóng xâm lược của chủ nghĩa thực dân, Pakistan chịu chung số phận như các

quốc gia khác ở Nam Á. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, thực dân Anh tiến hành trao trả thuộc

địa. Người Anh chủ trương chia tách Ấn Độ thành hai quốc gia dựa trên cơ sở tôn giáo, Ấn Độ

thuộc về người theo Ấn Độ giáo, Pakistan thuộc về người theo Hồi giáo.

Ngay từ khi tuyên bố độc lập, Ấn Độ và Pakistan vốn cùng một quốc gia ngày nào trở thành

kẻ thù của nhau. Những mâu thuẫn về chủ quyền lãnh thổ đã dẫn đến 3 cuộc chiến tranh lớn và

nhiều cuộc đụng độ nhỏ trên vùng lãnh thổ tranh chấp. Năm 1971, sau một cuộc nội chiến có sự

giúp sức của Ấn Độ, Đông Pakistan không còn thuộc về Pakistan, vùng đất này tự tuyên bố độc

lập và thành lập nhà nước Bangladesh.

Tất cả những sự kiện trên, người Pakistan đều coi Ấn Độ là chủ mưu. Ấn Độ trở thành kẻ thù

lớn nhất, nguy hiểm nhất của quốc gia Hồi giáo này.

Những căng thẳng dẫn đến chiến tranh giữa Ấn Độ và Pakistan nổ ra trong bối cảnh Chiến

tranh lạnh. Thời kỳ mà các cường quốc luôn tìm kiếm đồng minh để chống lại địch thủ của mình.

Trong bối cảnh đó, Pakistan đã liên minh với Mỹ chống lại Liên Xô. Liên minh với Pakistan

nhưng Mỹ vẫn theo đuổi mục tiêu thuyết phục Ấn Độ, một quốc gia lớn ở Nam Á, đứng về phía

Mỹ chống lại Liên Xô. Điều này làm Pakistan không thật sự tin tưởng vào mối quan hệ đồng

minh với Mỹ, buộc họ phải tìm chỗ dựa khác.

Năm 1962, cuộc chiến tranh biên giới giữa Ấn Độ và Trung Quốc nổ ra. Hậu quả là mối quan

hệ Trung - Ấn trở nên căng thẳng và tiềm ẩn nhiều nguy cơ chiến tranh trên những vùng đất tranh

chấp. Nhìn thấy Pakistan có chung kẻ thù của mình, Trung Quốc chủ trương xây dựng quan hệ

thân thiện với Pakistan, cung cấp cho họ viện trợ kinh tế, hợp tác, trao đổi thương mại quân sự

tạo đối trọng với Ấn Độ.

Năm 1969, những mâu thuẫn gay gắt đã dẫn tới nổ ra cuộc chiến tranh biên giới giữa hai

quốc gia hàng đầu khối XHCN, Liên Xô - Trung Quốc. Sau cuộc chiến, Pakistan, một quốc gia

có chung đường biên giới với Trung Quốc, có vị trí địa –chính trị gần Liên Xô và là kẻ thù của

Liên Xô, đã được quan tâm hơn trong chính sách ngoại giao. Pakistan cũng chủ động trong mối

quan hệ này để tìm kiếm nguồn cung cấp vũ khí từ Trung Quốc. Mối quan hệ này được Graham

P. Chapman gọi là “kẻ thù của kẻ thù của tôi là bạn của tôi” trở thành một logic không lay

chuyển được [68, tr 293].

Mối quan hệ thân thiết với Trung Quốc được các chính quyền kế tiếp ở Pakistan chủ động

duy trì. Sau sự sụp đổ của chính phủ quân sự của Ayub ở Pakistan, chính phủ dân sự của Zulfikar

Ali Bhutto lên thay đã chủ trương tiếp tục ủng hộ mạnh mẽ Trung Quốc để nhận sự giúp đỡ từ

quốc gia này.

Sau Chiến tranh lạnh, các cường quốc mới nổi trên thế giới đang tìm kiếm vị trí lãnh đạo của

mình trong thế giới đa cực, vì vậy cạnh tranh địa –chính trị càng trở nên mạnh mẽ. Các cường

quốc, đặc biệt là các cường quốc mới nổi, cố gắng đặt ảnh hưởng lên các quốc gia có vị trí địa –

chính trị quan trọng. Mối quan hệ nồng ấm giữa Trung Quốc và Pakistan trong thời kỳ Chiến

tranh lạnh được Trung Quốc chủ trương tiếp tục duy trì và phát triển.

Đối với Trung Quốc, duy trì mối quan hệ tốt với Pakistan không chỉ bởi Pakistan nằm trên

con đường vận chuyển dầu lửa từ Trung Đông mà còn bởi những mục tiêu khác như: tìm kiếm

con đường ra biển cho các tỉnh và vùng tự trị phía tây, mở rộng thị trường cho hàng hóa Trung

Quốc thâm nhập vào các quốc gia Nam Á. Tuy nhiên, đường sau đó là sự chủ động cạnh tranh

vai trò lãnh đạo với Mỹ và kiềm chế Ấn Độ ở khu vực này.

Nắm được mong muốn của Pakistan là trang bị những vũ khí hiện đại để tạo nên thế cân

bằng với quốc gia thù địch Ấn Độ, Trung Quốc đã đồng ý cung cấp vũ khí cho Pakistan. Những

hợp đồng buôn bán vũ khí hai bên không dừng lại ở những loại vũ khí thông thường, tính năng

chiến đấu hạn chế mà hướng tới các loại vũ khí hiện đại, tính năng chiến đấu cao. Mối quan hệ

này được thúc đẩy trong bối cảnh đầu thập niên 90 Mỹ thực hiện cấm vận Pakistan, vì quốc gia

này đã bí mật nghiên cứu chế tạo vũ khí hạt nhân. Cấm vận đã ảnh hưởng tới những hợp đồng

mua bán vũ khí hiện đại giữa Mỹ và Pakistan khiến Pakistan phải tìm kiếm nguồn khác thay thế.

Trung Quốc đã trở thành đối tác tin cậy đảm bảo mục tiêu thay thế đó. Trong thập niên 90, Trung

Quốc đã cung cấp cho Pakistan “tên lửa M-11 và những thiết bị sản xuất tên lửa hạt nhân cho

Pakistan” [34, tr 147]. Hai nước cũng đã thỏa thuận hợp tác nghiên cứu chế tạo máy bay chiến

đấu JF-17. Gần đây, Pakistan đã đặt hàng Trung Quốc 4 chiếc khu trục có trị giá 600 – 750 triệu

USD. Nhiều máy bay loại A5 của Trung Quốc cũng được Pakistan đặt mua [59, tr71].

Bước vào thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, Trung Quốc làm bất bình cộng đồng quốc tế,

nhưng nằm trong toan tính chính trị của họ, bằng thỏa thuận cung cấp 2 lò phản ứng hạt nhân cho

Pakistan mà không tham vấn cộng đồng quốc tế. Thỏa thuận giữa hai bên được tiến hành một

cách bí mật.

Như vậy, xuất phát từ mục tiêu địa – chính trị, Trung Quốc đã từng và vẫn là quốc gia cung

cấp vũ khí chủ yếu cho Pakistan. Bởi hợp tác quân sự và buôn bán vũ khí với Pakistan, Trung

Quốc đạt được những mục tiêu lớn như tăng cường mối quan hệ với quốc gia có vị trí địa – chính

trị quan trọng trong khu vực; biến Pakistan thành đối trọng với Ấn Độ, quốc gia đang có nhiều

tranh chấp với Trung Quốc; làm suy giảm vai trò của Mỹ trong khu vực; mở rộng thị trường, tăng

lợi nhuận quốc gia thông qua buôn bán vũ khí.

Đối với Pakistan, quan hệ tốt về quân sự với Trung Quốc cũng đạt những mục đích như trang

bị được những loại vũ khí hiện đại mà họ chưa có khả năng sản xuất hay không mua được từ các

nước khác (Mỹ, Nga); bắt tay với đối thủ của Ấn Độ để chống lại họ.

Bên cạnh xây dựng mối quan hệ đặc biệt với Pakistan, Trung Quốc đã thúc đẩy quan hệ với

các quốc gia Nam Á khác thông qua các hoạt động viện trợ, hợp tác đầu tư khai thác cảng biển,

quan hệ thương mại... Trong những năm 1956 đến 1973, khi quan hệ Trung - Ấn ở vào mức thấp

nhất, Trung Quốc đã dành gần 20% tổng số hàng viện trợ nước ngoài (chủ yếu là viện trợ quân

sự) cho các nước Nam Á, trong đó Pakistan nhận được 13,1%, Sri Lanka 3,5% và Nepal 2,9%.

Trung Quốc đã trở thành nước cung cấp trang thiết bị quân sự quan trọng nhất cho Pakistan trong

giai đoạn này.

Năm 2002, Trung Quốc tham gia phát triển cảng chiến lược nước sâu Gwadar ở Pakistan,

theo đó đóng góp phần lớn chi phí xây dựng cảng này. Hành động này cho thấy Trung Quốc đang

tìm cho mình một lối đi ra biển Oman và một khả năng giám sát vịnh Persique [60, tr 5]. Sự hiện

diện của Trung Quốc ở đây đã làm Ấn Độ lo lắng thật sự. Các nhà phân tích Ấn Độ cho rằng

cảng biển này có thể nhanh chóng bị chuyển đổi mục đích sử dụng thành cảng quân sự. Không

chỉ Ấn Độ, Mỹ cũng tỏ ra lo ngại trước kế hoạch này.

Đặt trong cái nhìn rộng lớn hơn về những động thái của Trung Quốc trong khu vực có thể

thấy Trung Quốc đang quyết tâm thiết lập những cơ sở nhằm tăng cường sự hiện diện của họ ở

đây. Ngoài dự án cảng Gwadar với Pakistan, Trung Quốc đã có dự án xây dựng cảng tại các nước

Sri Lanka (cảng Hambantota), Bangladesh (cảng Chittagong), Myanmar (cảng Kyaukphyu), và

Yemen (cảng Mukkala). Ngoài ra, Chính phủ Trung Quốc luôn thúc đẩy mối quan hệ nồng ấm

với các quốc gia thuộc khu vực Ấn Độ Dương, như ký kết các hiệp ước hữu nghị và cung cấp cho

các nước này số lượng viện trợ lớn nhằm xây dựng mối quan hệ chính trị trong khu vực. Những

nỗ lực mở rộng sự hiện diện của Trung Quốc ở khu vực Ấn Độ Dương được Lầu Năm góc gọi là

chiến lược “chuỗi ngọc trai”. Việc xây dựng và phát triển các căn cứ hỗ trợ hậu cần thể hiện cho

các yếu tố cần thiết của chiến lược này.

Sự hiện diện thức tế ngày càng mạnh mẽ và đa dạng trong khu vực địa –chính trị này của

Trung Quốc khiến Ấn Độ là quốc gia lo ngại nhất. Ấn Độ cảm thấy mình như bị bao vây bởi các

căn cứ của Trung Quốc ở các quốc gia vốn không có thiện cảm với mình.

Cùng chia sẻ lợi ích và sự lo ngại không kém Ấn Độ là Mỹ. “Chuỗi ngọc trai” mà Trung

Quốc thiết lập nằm trên tuyến đường biển vận chuyển hàng hóa quốc tế quan trọng bậc nhất của

thế giới. Vì vậy những quan hệ căng thẳng trong tương lai giữa Trung Quốc và Mỹ có thể ảnh

hưởng đến con đường vận chuyển này. Hơn nữa Ấn Độ Dương đã từ lâu chỉ có sự hiện diện quân

sự của Mỹ trong tư cách quân đội nước ngoài, nay sự lớn mạnh và chủ trương vươn ra bên ngoài

của Trung Quốc khiến Mỹ phải chia sẻ không gian địa –chính trị quan trọng này. Vì vậy, trong

trường hợp quan hệ quân sự trở nên căng thẳng, các căn cứ quân sự của Mỹ ở đây có thể sẽ là

mục tiêu tấn công của quân đội Trung Quốc.

Như vậy, Trung Quốc lớn mạnh về kinh tế, quân sự và sự vươn lên về chính trị ngoại giao,

cố gắng trở thành một cường quốc trên thế giới và là một cực lãnh đạo thế giới trong thế giới đa

cực đang là một thách thức lớn và ngày càng trở nên hiện thực đối với vị trí lãnh đạo toàn cầu của

Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh. Kiềm chế Trung Quốc luôn là một nhiệm vụ bên cạnh nhiệm vụ hợp

tác với Trung Quốc trong tương lai. Hai nhiệm vụ này luôn có sự mâu thuẫn với nhau, nhưng

không còn lựa chọn nào khác nếu Mỹ muốn vừa phát triển kinh tế vừa duy trì được vị trí cường

quốc số một thế giới của mình.

1.2.2.2. Nga

 Sự trỗi dậy mạnh mẽ trong thập niên đầu thế kỷ XXI

Liên bang Nga là quốc gia có lãnh thổ rộng lớn nhất thế giới. Lãnh thổ của quốc gia này trải

dài trên hai châu lục Á, Âu và có chung đường biên giới với nhiều quốc gia thuộc nhiều khu vực

địa lý khác nhau. Kế thừa lịch sử hào hùng của nước Nga Xô Viết, người Nga muốn giành lại vị

trí siêu cường có được trước đó. Để đạt được điều này, nước Nga phải nỗ lực trên mọi lĩnh vực

kinh tế, quốc phòng, đối ngoại… trong đó tăng cường sự hiện diện của mình ở những khu vực địa

– chính trị quan trọng trên thế giới là nhiệm vụ hàng đầu. Nhiệm vụ này vừa nhằm bảo vệ lợi ích

nước Nga ở những khu vực vốn chịu ảnh hưởng của Nga, vừa ngăn chặn nguy cơ thiết lập một

khu vực mới bao vây nước Nga.

Nhìn lại thập niên đầu sau Chiến tranh lạnh, lợi dụng nước Nga suy yếu, các đối thủ cạnh

tranh của Nga đã đẩy mạnh các hoạt động nhằm tăng cường sự hiện diện của họ ở những vùng

đất vốn trước kia là khu vực ảnh hưởng của nước Nga Xô Viết. Người Nga có cảm giác mình bị

bao vây bởi Mỹ và các nước phương Tây khác.

Sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ, nước Nga thừa kế phần lớn di sản từ Liên Xô về mọi mặt

chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao. Một số quốc gia trong Liên bang Xô viết tách ra độc lập

nhưng sau đó đã tập hợp lại trong Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG). Trong cộng đồng đó,

Nga được thừa nhận là nước có vai trò quan trọng. Trong tuyên bố Alma- Ata “các nước thành

viên công nhận Nga là nước tiếp quản vị trí của Liên Xô tại Liên Hợp Quốc, tại Hội đồng bảo an

Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế khác mà Liên Xô là thành viên”[1, tr17].

Tuy nhiên sau Chiến tranh lạnh, một thập kỷ dài Nga đối diện với những bất ổn xã hội, yếu

kém về kinh tế. Vị thế chính trị ngoại giao trên trường quốc tế giảm sút nghiêm trọng. Nga không

còn được xem là cường quốc có khả năng cạnh tranh với Mỹ. Mỹ và Phương Tây không còn phải

e ngại Nga trong những quyết định can thiệp vào các vấn đề thế giới mà Nga phản đối. Chẳng

hạn sau Chiến tranh vùng vịnh, liên quân Anh, Mỹ vẫn tiến hành những cuộc chiến tranh bằng

lực lượng không quân chống Iraq. Tháng 12/1998, lực lượng này tiến hành chiến dịch “Con cáo

sa mạc” không kích dữ dội Iraq. Nga phản ứng mạnh đối với hành động quân sự đó của Anh, Mỹ

bằng cách triệu hồi đại sứ của mình khỏi Washington và London đồng thời tuyên bố hành động

của Mỹ là vi phạm Hiến chương Liên Hợp Quốc. Phản ứng mạnh mẽ của Nga không có tác động

gì đến quyết định của Anh, Mỹ. Cuộc không kích vẫn tiếp tục.

Năm 1999, cả thế giới nóng lên trước hành động quân sự của NATO chống Nam Tư, một

quốc gia có chủ quyền. Nga phản đối mạnh mẽ cuộc không kích này bằng hàng loạt những hành

động chính trị, ngoại giao. Cùng thời điểm cuộc chiến xảy ra, Thủ tướng Nga Primacov đang có

chuyến công du đến Mỹ. Ông đã thực hiện chỉ thị của Yeltsin, ra lệnh cho máy bay chở ông quay

lại như một hành động phản đối. Yeltsin cũng đã ra lệnh triệu hồi đại diện Nga tại NATO về

Moscow, hoãn các cuộc thương lượng và hoạt động của Nga trong NATO và tuyên bố trong

trường hợp xấu, Nga vẫn giữ quyền có các biện pháp thích đáng, kể cả biện pháp quân sự để tự

vệ và bảo vệ an ninh của toàn châu Âu. Tuy nhiên, NATO, đứng đầu là Mỹ, không e ngại trước

những phản ứng đó của Nga. Họ phớt lờ Nga, phớt lờ vị trí thường trực trong Hội đồng Bảo an

của Nga, tiến hành cuộc chiến khốc liệt kéo dài 78 ngày đêm với nhiều tổn thất sinh mạng, cơ sở

hạ tầng ở đây.

Từ sau Chiến tranh lạnh đến nay, Nga luôn đứng trước những thách thức đến từ việc mở rộng

NATO về hướng Đông, nơi là khu vực ảnh hưởng truyền thống của Nga. NATO đã lần lượt kết

nạp các quốc gia như Ba Lan, Séc, Hungari và nhiều quốc gia khác có biên giới với Nga. Mặc dù

Nga phản đối chủ trương này nhưng số thành viên tham gia vào tổ chức quân sự lớn nhất thế giới

này vẫn tăng.

Trong hàng loạt các hoạt động nhằm chống Nga mà Phương Tây tiến hành có những hoạt

động lật đổ thông qua các cuộc cách mạng màu ở các quốc gia nằm trong khối SNG như Gruzia,

Ucraina, 11TKyrgyzstan11T. Năm 2003, người Mỹ đã đứng đằng sau cuộc cách mạng nhung diễn ra ở

Gruzia mà thế giới gọi là “Cách mạng hoa hồng”. Cuộc cách mạng này đã lật đổ 5TEduard

Shevardnadze và đưa 5T6TMikhail Nikolozovich Saakashvili có tư tưởng thân Phương Tây lên làm

tổng thống. Một năm sau đó, cuộc “Cách mạng cam” đã diễn ra ở Ucraina đưa 6TViktor

Yushchenko lên làm tổng thống. Năm 2005, 6Tnhững cuộc biểu tình đường phố lại lặp lại ở quốc

gia vào hàng nghèo nhất trong Cộng đồng các quốc gia độc lập SNG. Thế giới gọi tên là c 6Tuộc

“Cách mạng hoa Tulip”. Cũng như các cuộc cách mạng màu trước đó, cuộc cách mạng này cũng

được Mỹ ủng hộ, nâng đỡ.

Những sự kiện trên là một minh chứng cho thấy sự yếu thế của Nga trước thế giới được lãnh

đạo bởi Mỹ.

Năm 2000, nước Nga chính thức có tổng thống mới, Putin, người mà trước đó người Nga

chưa hề nghĩ tới, nhưng chính vị tổng thống này đã đưa nước Nga thoát khỏi tình trạng khủng

hoảng, bước vào cuộc hồi sinh giành lại vị trí cường quốc hàng đầu trên thế giới.

Trong những năm cầm quyền của mình, Putin đã lựa chọn ưu tiên giải quyết những vấn đề

tối quan trọng của quốc gia. Ông đã phát huy được lợi thế quốc gia, dùng lợi thế quốc gia về dầu

lửa và khí đốt như một vũ khí chính trị để đạt mục đích trước các đối thủ. Thông qua ghế thường

trực ở Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, Nga đã tham gia tích cực vào việc giải quyết các vấn đề

trên thế giới…Dưới thời Putin không còn thấy một nước Nga lép vế trên trường quốc tế trước

Mỹ.

Cũng thời gian này, thế giới chứng kiến sự lớn mạnh trở lại của Nga về mọi mặt, trước hết là

kinh tế. Nền kinh tế luôn trong tình trạng tăng trưởng âm ở thập niên trước đó (trừ năm 1997 và

1999) đã vươn lên tăng trưởng dương ở mức cao. Một nước Nga nợ nần chồng chất đã được giải

quyết chỉ trong nhiệm kỳ đầu cầm quyền của Putin. Cũng thời gian này, dự trữ ngoại tệ từ chỗ

trống rỗng đến chỗ Nga đã có được mức dự trữ lúc cao nhất đạt 600 tỷ đô la.

Nước Nga suy yếu sau Chiến tranh lạnh là một thực tế nhưng không thể phủ nhận vị trí

cường quốc quân sự của Nga. Nước Nga chiếm 76% lãnh thổ, 52% dân số của Liên Xô trước

đây. Liên Xô tan rã, Liên bang Nga kế thừa 60% tiềm lực kinh tế mà Liên bang Xô viết tạo dựng

trong 7 thập kỷ cạnh tranh với hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa. Trong đó đáng chú ý là những

lĩnh vực công nghiệp hàng đầu thế giới như công nghiệp quốc phòng. Nga tiếp quản khoảng 80%

các xí nghiệp quốc phòng từ Liên Xô. Kho vũ khí khổng lồ (trong đó có hệ thống tên lửa và vũ

khí hạt nhân), các đơn vị hải, lục, không quân thiện chiến được trang bị hiện đại thời Liên Xô vẫn

do Nga quản lý.

Ngành công nghiệp quốc phòng Nga hiện nay vẫn không ngừng lớn mạnh. Vào thập kỷ đầu

tiên của thế kỷ XXI, khi Mỹ đã thử nghiệm thành công và triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa,

Nga đã “đưa ra kế hoạch tên lửa có thể phá vỡ hệ thống phòng ngự tên lửa của Mỹ được gọi là hệ

thống tiến công từ vũ trụ” [21, tr 28]. Cũng trong chương trình phát triển vũ khí tấn công, Nga

tiếp tục cho ra đời nhiều loại vũ khí tối tân, có khả năng tác chiến hủy diệt đối phương như tàu

ngầm “Cá mập” thế hệ thứ tư có thể phóng đồng loạt một lúc 160 đầu đạn hay tên lửa vượt đại

châu mang tên “Bạch Dương–M” và tên lửa hành trình vũ trụ “viên đạn bạc” [21, tr 28]. Với tiềm

lực quốc phòng lớn mạnh, dù cho kho vũ khí đã bị cắt giảm, Nga vẫn có sức tiêu diệt 10 lần nước

Mỹ. Chính cựu Tổng thống Mỹ, R. Nixon đã từng nói “Nước Nga, nước duy nhất có khả năng

hủy diệt nước Mỹ, chính vì vậy Nga mãi mãi là hướng ưu tiên quan trọng nhất trong chính sách

đối ngoại của Mỹ”[35, tr 72]. Tuyên bố này cho thấy vị trí cường quốc quân sự của Nga là không

thể phủ nhận ngay cả khi Nga đang ở trong tình trạng yếu kém và bất ổn nhất về mọi mặt.

Hồi phục về kinh tế, vững mạnh về quân sự, Nga đã tích cực hơn trong những hoạt động

chính trị, ngoại giao. Trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI này, thế giới chứng kiến những tiếng

nói độc lập mạnh mẽ hơn trong các vấn đề quốc tế của Nga. Trong quan hệ với các cường quốc,

đặc biệt là Mỹ, Nga đã khai thác các vấn đề mà nền chính trị ngoại giao Mỹ đang quan tâm theo

đuổi. Chẳng hạn trong vấn đề chống khủng bố, Nga có cùng quan điểm với Mỹ vì chính bản thân

Nga cũng đang phải đối mặt với những nguy cơ khủng bố từ các tổ chức khủng bố quốc tế. Trong

vấn đề hạt nhân của Iran, Triều Tiên, về nguyên tắc, Nga đồng tình với chủ trương không phổ

biến vũ khí hạt nhân, đặc biệt là với các quốc gia có yếu tố Hồi giáo như Iran, nhưng Nga không

đồng tình trong những chủ trương cứng rắn mà Mỹ muốn áp đặt với các quốc gia này. Nga đã

nhiều lần phản đối các hành động áp đặt lệnh trừng phạt nặng nề của Liên Hợp Quốc đối với Iran

khiến các nghị quyết này phải xây dựng lại. Các nhà phân tích chính trị thế giới cho rằng, Nga đã

biết nắm lấy vấn đề phổ biến hạt nhân như một con bài để thỏa thuận, mặc cả nhằm đạt được các

mục đích khác với Mỹ. Hơn nữa, Nga không muốn làm tổn thương khách hàng đang tiêu thụ vũ

khí của mình. Kết quả là mới đây Nga đã đạt được sự đồng ý quốc tế cho phép Nga là nhà cung

cấp nguyên liệu hạt nhân cho nhà máy điện nguyên tử đầu tiên của Iran, Bushehr.

Trong thập niên đầu thế kỷ XXI, Nga tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế, nơi có thể

bày tỏ quan điểm của mình cũng như thể hiện vị trí nước lớn. Trong nhiều tổ chức quốc tế và khu

vực mà Nga đã tham gia như Liên Hợp Quốc, IMF, APEC,… tiếng nói của Nga được coi trọng.

Tuy nhiên trong những tổ chức quan trọng đó luôn có Mỹ tham gia nên ít nhiều có những ảnh

hưởng đến tiếng nói của Nga. Lớn mạnh về kinh tế, quân sự, Nga muốn có tổ chức đủ mạnh mà ở

đó không có Mỹ. Năm 2001, các quốc gia có cùng mong muốn với Nga, trong đó có Trung Quốc,

đã thành lập tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) từ tổ chức tiền thân Thượng Hải 5. Đây là tổ

chức an ninh chung liên chính phủ bao gồm các nước Nga, Trung Quốc và các nước có vị trí địa

– chính trị quan trọng ở Trung Á như Kyrgyzstan, Kazakhstan, Uzbekistan, Tajikistan và

Turmenistan. Năm 2005, tổ chức này đồng ý trao quy chế quan sát viên cho Ấn Độ, Pakistan,

Iran, Mông Cổ. Mỹ có ngỏ ý muốn trở thành quan sát viên nhưng không được Nga và các nước

trong tổ chức đồng ý. Tổ chức này ngoài hợp tác kinh tế, văn hóa, nhân đạo còn thường xuyên

tiến hành các hoạt động diễn tập quân sự chung chống khủng bố, buôn lậu ma túy.

Trong các vấn đề liên quan trực tiếp đến lợi ích, an ninh quốc gia, Nga càng tỏ ra kiên quyết.

Đầu thế kỷ này, Mỹ thử nghiệm thành công hệ thống phòng thủ tên lửa và muốn thông qua

NATO để triển khai một hệ thống tên lửa đánh chặn cùng với hệ thống rada phục vụ cho hệ

thống tên lửa này ở Ba Lan và Cộng hòa Séc. Các lãnh đạo Mỹ và châu Âu luôn khẳng định hệ

thống đó là nhằm vào Iran, tuy nhiên việc triển khai chúng trên lãnh thổ các quốc gia gần biên

giới Nga, không thể không đe dọa an ninh Nga.

Phản ứng mạnh mẽ trước những hành động của các nhà cầm quyền Mỹ, Ba Lan, Cộng hòa

Séc xung quanh hệ thống phòng thủ tên lửa, ngày 14/7/2007, Tổng thống Nga V. Putin ký Sắc

lệnh tạm ngưng thực thi Hiệp ước cắt giảm lực lượng quy ước ở châu Âu (CFE), hiệp ước được

xem là hòn đá tảng của an ninh châu Âu sau Chiến tranh lạnh. Không dừng lại, Nga tuyên bố sẽ

xem xét khả năng rút khỏi Hiệp ước về các lực lượng hạt nhân tầm trung (INFT), đồng thời triển

khai tên lửa ở Kaliningrad, điều chắc chắn sẽ làm đảo lộn cân bằng chiến lược ở châu Âu. Những

phản ứng mạnh mẽ của Nga đã tác động đến Mỹ và EU. Kế hoạch triển khai tên lửa phòng thủ ở

hai quốc gia trên vì vậy bị gác lại.

Sự kiện cuộc chiến tranh chớp nhoáng diễn ra ở Gruzia như một minh chứng cho thấy nước

Nga đã trở lại vị thế quốc tế của mình. Ngày 8/8/2008, khi cả thế giới đang hướng về thế vận hội

Olympic, quân đội Gruzia đã tiến hành cuộc chiến tranh xâm chiếm vùng lãnh thổ ly khai Nam

Ossetia, chiến tranh sau đó đã 8Tlan rộng sang một vùng lãnh thổ ly khai khác là Abkhazia.

Ngay lập tức, trong cương vị người gìn giữ hòa bình ở đây, Nga đã triển khai quân đội tiến

hành cuộc chiến đáp trả mạnh mẽ không chỉ ở vùng lãnh thổ ly khai này mà vào sâu lãnh thổ

Gruzia. Máy bay Nga đã ném bom các căn cứ quân sự ở thủ đô 10TTbilisi 10Tgây tổn hại lớn cho lực

lượng quân đội Gruzia vốn yếu thế hơn. Khi cuộc chiến đang diễn ra, Mỹ và Phương Tây lớn

tiếng lên án hành động quân sự của Nga, đòi Nga ngừng chiến và rút quân khỏi khu vực này.

Cuộc chiến chỉ thật sự chấm dứt sau 5 ngày giao tranh.

Tiến thêm một bước, không lâu sau đó, Tổng thống Dmitry Medvedev ký quyết định công

nhận độc lập cho Nam Ossetia và Abkhazia. Một lần nữa, Mỹ và Phương Tây phản đối mạnh mẽ.

T8Tổng thống Mỹ Bush gọi là một “quyết định vô trách nhiệm”. Ngoại trưởng C.Rice coi đây là

một hành động “đáng tiếc” và “không thể chấp nhận được” bởi nó “vi phạm cơ bản tinh thần và

nội dung của nghị quyết LHQ”. Ngoại trưởng Anh D. Miliband thì cáo buộc hành động của Nga

là “phi pháp”. Còn Ngoại trưởng Pháp B. Kouchner thì cảnh báo hành động của Nga đã làm gia

tăng căng thẳng trong khu vực. Nhìn chung Mỹ và Phương Tây lên án Nga như Nga đã từng lên

8TGruzia nằm trong khu vực có vị trí địa – chính trị quan trọng nên 8TMỹ và Phương Tây hậu

án họ trong cuộc chiến và những gì diễn ra sau đó ở Kosovo.

thuẫn cho 8TM8Tikhail Saakashvili (người có tư tưởng thân Phương Tây) trong cuộc “Cách mạng hoa

hồng” năm 2003. Khi đã nắm quyền, chính quyền thân Phương Tây của ông nhận được sự ủng hộ

gia nhập NATO. Vì vậy trong cuộc chiến tranh Gruzia và những gì diễn ra sau đó, Mỹ và Phương

Tây có những tuyên bố bênh vực Gruzia là dễ hiểu. Tuy nhiên, những chỉ trích đó đã không lay

chuyển được người Nga, quốc gia mà ý thức về vị trí cường quốc đã “thức dậy” từ đầu thế kỷ

này. Những gì người Nga đã làm trong và sau cuộc chiến tranh Gruzia đã thật sự cho thấy Nga

không còn lép vế trước Phương Tây như đã từng thấy trong thập kỷ đầu sau Chiến tranh lạnh.

Ngày nay, Mỹ luôn xác định Nga có vị thế quan trọng trong chính sách toàn cầu chống phổ

biến hạt nhân, công nghệ tên lửa, bởi nếu Nước Nga - một cường quốc hạt nhân, có những công

nghệ quân sự tiên tiến, chuyển giao những công nghệ đó cho các nước Hồi giáo, tình hình trên

thế giới sẽ thay đổi đột ngột và mức độ đối đầu có thể trong các cuộc xung đột quân sự sẽ căng

thẳng hơn nữa. Chính vì vậy, trong tương lai cần phải tính đến nước Nga hơn bất cứ một đối tác

nào trong khối Bắc Đại Tây Dương [35, tr 65].

Cũng trong vấn đề này Mỹ xác định “hợp tác với Nga trở thành nhân tố trọng tâm trong quan

điểm của Mỹ về việc giải quyết các vấn đề không phổ biến vũ khí hạt nhân”. Nhà hoạch định

chính sách đối ngoại của Mỹ, S.Stestanovich, đã thú nhận rằng Mỹ muốn Nga ủng hộ chính sách

không phổ biến vũ khí hạt nhân và công nghệ tên lửa cũng như các biện pháp nhằm hủy bỏ vũ

khí giết người hàng loạt ở những nơi chúng xuất hiện, chẳng hạn như Iraq [35, tr 73].

Tóm lại, vượt qua thập niên đầu sau Chiến tranh lạnh với hàng loạt những yếu kém, bất ổn,

nước Nga đang hồi sinh và trỗi dậy mạnh mẽ. Người ta đang nói tới một “Con gấu Nga thức

giấc” như một cách nói hình ảnh cho một nước Nga của thế kỷ XXI. Trong bối cảnh đó, chính

sách của Mỹ đối với bất kể khu vực nào trên thế giới không thể không tính đến nước Nga.

Nước Nga đang lớn mạnh và dần lấy lại vị thế quốc tế hàng đầu của mình là một thực tế.

Trong rất nhiều những vấn đề quốc tế, tăng cường sự hiện diện của Nga trong những khu vực địa

– chính trị quan trọng trên thế giới là một nhiệm vụ quan trọng.

 Sự gia tăng quan hệ với Nam Á

Cũng như các cường quốc khác trên thế giới, Nga coi trọng vị trí Nam Á trong chính sách

của mình, bởi đây là khu vực có mối quan hệ địa lý, lịch sử, an ninh với Nga. Nằm ở phía Nam

nước Nga, Nam Á tiếp giáp với khu vực Trung Á giàu tiềm năng và đầy bất ổn. Trong lịch sử các

nước Trung Á thuộc khu vực ảnh hưởng của Nga nhưng hiện nay các đối thủ của Nga đang gia

tăng sự hiện diện ở đây. Bảo vệ vị trí được các nhà địa – chính trị coi là “Miền đất trái tim” là

nhiệm vụ quan trọng nếu Nga không muốn tương lai gần lợi ích quốc gia của Nga bị các đối thủ

đe dọa. Hơn nữa Nam Á là khu vực có những quốc gia Hồi giáo có quan hệ với lực lượng Hồi

giáo ở các nước Trung Á thuộc Nga. Những bất ổn an ninh xuất phát từ lực lượng này trong

những năm gần đây là một thách thức đối với chính quyền Nga. Gia tăng quan hệ với các chính

quyền Nam Á là lựa chọn góp phần giải quyết thách thức an ninh này.

Trong số các quốc gia Nam Á, Ấn Độ và Pakistan là hai quốc gia lớn được các nhà hoạch

định chính sách Nga quan tâm hàng đầu.

 Đối với Ấn Độ

Trước Chiến tranh lạnh, Liên Xô quan tâm đến các quốc gia này như một lợi ích an ninh toàn

cầu, phá vỡ thế bao vây mà Mỹ và các nước tư bản thiết lập xung quanh biên giới của mình.

Trong đó quan hệ với Ấn Độ, một nước lớn của thế giới thứ ba có vai trò quan trọng trong khu

vực và Phong trào không liên kết, là thân thiện hơn cả. Liên Xô luôn có quan điểm ủng hộ Ấn Độ

đối với các vấn đề tranh chấp lãnh thổ, tiến hành viện trợ kinh tế, quân sự cho quốc gia này. Liên

Xô đã chủ động làm trung gian hòa giải trong cuộc chiến tranh Ấn Độ - Pakistan lần 2 bằng cách

thu xếp để hai bên gặp nhau ở Tasken. Kết quả là bản Hiệp ước Tasken đã được ký kết giữa Ấn

Độ và Pakistan.

Năm 1991, Liên Xô sụp đổ. Nga trở thành quốc gia quan trọng thừa kế di sản của Liên Xô.

Ngay sau khi độc lập, nước Nga mới đã theo đuổi một chính sách thân Mỹ và Phương Tây. Nga

hy vọng sẽ đạt được mục tiêu chuyển sang nền kinh tế thị trường, tự do hoà nhập với nền kinh tế

thế giới cùng hệ thống chính trị dân chủ tư bản thông qua sự hỗ trợ chủ yếu từ Phương Tây. Theo

đuổi chính sách đó, Ấn Độ và khu vực Nam Á nằm ở vị trí thứ yếu trong chính sách của Nga.

Khác với Liên Xô có nhu cầu "quan hệ đặc biệt" với Ấn Độ trong chiến lược địa – chính trị nhằm

làm đối trọng với Mỹ và Trung Quốc, và coi Ấn Độ là trụ cột của các nỗ lực chính trị, ngoại giao

và kinh tế ở Nam Á, nước Nga hậu Xô viết không xem Ấn Độ như là một đồng minh chiến lược.

Trong tài liệu "Nội dung Chính sách đối ngoại của Nga" do Bộ Ngoại giao Nga xuất bản 1/1993,

Ấn Độ đứng vị trí thứ bảy trong số 10 trọng tâm đối ngoại của Nga, chỉ trên các khu vực Cận

Đông, Châu Phi và Mỹ Latinh.

Cũng thời gian này, Ấn Độ bước vào thời kỳ cải cách kinh tế theo hướng thị trường, thực

hiện chính sách tự do hoá nền kinh tế, bãi bỏ kiểm soát, mở cửa cho đầu tư nước ngoài với sự trợ

giúp của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). Chính sách mới đã khiến Ấn

Độ tiến lại gần Mỹ hơn và tăng cường quan hệ với Trung Quốc. Thay vì hướng vào một liên

minh duy nhất, Ấn Độ nỗ lực phát triển quan hệ với tất cả các trung tâm quyền lực, mở rộng hợp

tác song phương bền vững cùng lúc với cả Mỹ, Trung Quốc và Nga trên cơ sở từng vấn đề và tuỳ

lợi ích song trùng của hai bên.

Tuy nhiên, dù có những điều chỉnh chính sách, cả Ấn Độ và Nga không thể bỏ qua toàn bộ

những yếu tố địa – chính trị cơ bản vốn đã đặt nền móng cho quan hệ hữu nghị liên tục giữa hai

nước trong nhiều thập kỷ. Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, Nga và Ấn Độ vẫn có những song

trùng về lợi ích chiến lược lâu dài.

Nga và Ấn Độ cùng quan tâm đến hình thái thế giới đa cực mà ở đó họ tham gia trong cương

vị một cực. Hơn nữa, cả hai nước phải đối phó với sự gia tăng ảnh hưởng của các lực lượng Hồi

giáo cực đoan ở Tây Á và Trung Á. Cả hai cùng chia sẻ quan điểm về cuộc đấu tranh chung

chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế, bạo lực qua biên giới và các hoạt động ma tuý. Cùng là quốc

gia đa sắc tộc, họ chung quan điểm chống hành động ly khai. Theo họ "các nguyên tắc tôn trọng

toàn vẹn lãnh thổ và sự thống nhất đất nước là nhân tố chính cho sự tồn tại của các quốc gia đa

sắc tộc"[35, tr 146].

Sau một thời gian theo đuổi chính sách ngả về Phương Tây không hiệu quả, năm 1994, Nga

thay đổi chính sách theo hướng cân bằng Đông – Tây, theo đó quan tâm hơn đến các nước

Phương Đông. Thay đổi chính sách cũng nhằm chống lại các thách thức an ninh đối với Nga đến

từ các nước Phương Tây như mục tiêu làm suy yếu Nga hay những hoạt động mở rộng NATO về

Phương Đông. Trong bối cảnh đó Ấn Độ, một quốc gia có mối quan hệ truyền thống với Nga (từ

thời Liên Xô) đã được quan tâm thúc đẩy quan hệ trên mọi lĩnh vực.

Kể từ lúc này, Ấn Độ luôn nhận được sự ủng hộ từ Nga đối với các vấn đề liên quan đến lợi

ích quốc gia, đặc biệt là vấn đề Jammu và Kashmir. Trong cuộc xung đột Kargil 1998, lập trường

của Nga hoàn toàn ủng hộ lập trường của Ấn Độ. Năm 1998, Ấn Độ thử nghiệm thành công vũ

khí hạt nhân, cuộc thử nghiệm đã khiến họ đối diện với lệnh cấm vận mới của Liên Hợp Quốc.

Nga không muốn chống lại nguyên tắc quốc tế nhưng cũng không muốn trừng phạt nặng Ấn Độ

nên “ở mức độ nào đó, sau khi Ấn Độ đã thử nghiệm vũ khí hạt nhân, nước Nga đã phải có nỗ

lực rất lớn để Liên Hợp Quốc không áp dụng cấm vận toàn diện chống Ấn Độ” [35, tr 146].

Trong một diễn biến khác, Nga là nước thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên

Hợp Quốc đầu tiên ủng hộ Ấn Độ tham gia vào cơ quan này. Ngày 1/10/2000, Tổng thống Nga

Putin tuyên bố rằng Ấn Độ là "ứng cử viên thích hợp" cho ghế thành viên chính thức của Hội

đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Về phần mình, Ấn Độ đã nhiều lần phản đối việc mở rộng NATO

sang hướng Đông, hay như cùng chung quan điểm với Nga trong vấn đề Kosovo. Điều này càng

khích lệ, củng cố niềm tin của Nga với đối tác Ấn Độ.

Như vậy, nếu xem xét chính sách của Nga – Ấn Độ và Nga – Pakistan trong sự so sánh ở

thập niên này sẽ thấy, quan hệ Nga – Ấn Độ được người Nga coi trọng hơn. Điều này được Tổng

thống Putin tuyên bố như một lời đúc kết vào ngày 1/10/2000 rằng "Ấn Độ đóng một trong

những vai trò quan trọng nhất trong chính trị thế giới. Nga và Ấn Độ bổ sung một cách tự nhiên

cho nhau trong rất nhiều lĩnh vực"[35, tr 147].

Cốt lõi của quan hệ Ấn - Nga là quan hệ quốc phòng. Nga mong muốn thiết lập quan hệ quốc

phòng chặt chẽ với thị trường lớn và màu mỡ như Ấn Độ cho các tổ hợp công nghiệp - quân sự

của mình, một thế mạnh Nga có thể cạnh tranh được với Phương Tây. Nga bán cho Ấn Độ các

loại vũ khí hiện đại như máy bay MiG, Sukhoi-30, xe tăng T-72, T-90, tên lửa, tầu ngầm, tàu sân

bay ... với giá trị thương mại lớn. Buôn bán quốc phòng hai nước ngay từ thập niên 90 của thế kỷ

trước đã đạt giá trị lớn. Những năm 1992-1996, New Delhi đã nhập vũ khí của Nga trị giá 3,5 tỷ

USD, năm 1997, kim ngạch hợp tác kỹ thuật - quân sự hai nước đạt tới đạt tới 800 triệu USD.

Các hợp đồng cung cấp vũ khí của Nga cho Ấn Độ trong thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI ngày

một nhiều thêm về số lượng, đa dạng về chủng loại. Từ năm 2002 - 2006, Nga đã xuất khẩu vũ

khí sang Ấn Độ 25% tổng số vũ khí xuất ra nước ngoài của họ. Theo báo cáo của Viện nghiên

cứu hòa bình Stockholm, năm 2006, Ấn Độ có khoảng 600 máy bay chiến đấu, trong đó có 140

chiếc Sukhoi-30 MKI mua từ Nga.

Nga đang thực hiện hợp đồng cung cấp cho Ấn Độ tàu sân bay đầu tiên, Đô đốc Gorshkov.

Hai bên cũng đã đạt được thỏa thuận cho thuê tàu ngầm hạt nhân. Tháng 10-2009, Nga và Ấn Độ

đã nhất trí với bản phác thảo hợp đồng mua bán vũ khí trị giá khoảng 10 tỉ USD, trong đó có việc

hai nước sẽ hợp tác đóng một chiếc máy bay chiến đấu siêu âm hiện đại có thể tránh được các hệ

thống ra-đa, giống như loại máy bay chiến đấu tàng hình F-22 Raptor của Mỹ.

Như vậy, lợi ích từ buôn bán thiết bị quân sự của Nga với Ấn Độ là rất lớn. Các hợp đồng

mua bán quân sự khổng lồ với Ấn Độ đang góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế Nga

và “rõ ràng là công nghiệp đóng tàu và chế tạo máy bay của Nga phụ thuộc rất nhiều vào việc

xuất khẩu sang Ấn Độ”[35, tr 147].

Trong quan hệ mua bán thiết bị quân sự này, Ấn Độ cũng là quốc gia chủ động. Họ muốn

khôi phục lại nguồn cung cấp phụ tùng và thiết bị quân sự từ Nga, vì 60 - 70% vũ khí và thiết bị

quân sự Ấn Độ mua của nước ngoài là từ Liên Xô. Theo thời gian các loại vũ khí này cần phải

nâng cấp và thay thế các thiết bị từ chính quốc gia đã sản xuất ra nó. Chính Thủ tướng Mamohan

Singh, trong chuyến thăm Nga vào 2009, đã từng phát biểu trên kênh truyền hình tiếng Anh

“Russia Today” rằng "Hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng là một lĩnh vực hợp tác quan trọng giữa

Nga và Ấn Độ. Chúng tôi có thể mua những thiết bị và công nghệ từ Nga - những thứ mà chúng

tôi không thể mua được từ các nước khác" [57].

Nếu thập kỷ 90 quan hệ quân sự Nga - Ấn chỉ là mua bán, thì hiện nay hợp tác quân sự và kỹ

thuật giữa Ấn Độ và Nga phát triển theo hình thức mới là sản xuất các trang thiết bị quân sự tại

Nga và Ấn Độ. Với việc chuyển giao công nghệ và hợp tác sản xuất này, quan hệ "mua - bán" đã

được thay thế bằng quan hệ "tham dự và tương tác". Chẳng hạn Nga và Ấn Độ đang hợp tác sản

xuất tên lửa siêu thanh Brahmos, tên lửa có tốc độ bay gấp 5 – 7 lần tốc độ âm thanh và vượt qua

tất cả các hệ thống tên lửa đánh chặn hiện có. Loại tên lửa này có thể trang bị cho tầu chiến, tầu

ngầm và máy bay chiến đấu. Cùng với hợp tác sản xuất tên lửa siêu thanh Brahmos, hai bên đang

hợp tác sáng chế và chế tạo máy bay vận tải quân sự đa năng, thúc đẩy hoạt động hợp tác chế tạo

máy bay chiến đấu thế hệ 5.

Bên cạnh hợp tác quân sự, Nga – Ấn Độ còn hợp tác trong lĩnh vực điện hạt nhân, chinh

phục vũ trụ. Dưới sự hỗ trợ của Nga về kinh tế và kỹ thuật, tại Kundankulam, Ấn Độ đang xây

dựng một nhà máy điện nguyên tử. Nhà máy này có hai lò phản ứng hạt nhân, mỗi lò có công

suất là 1.000 MW đang được hoàn thành. Trong chuyến thăm Ấn Độ của Tổng thống Nga vào

tháng 12-2008, hai bên đã ký kết thỏa thuận trang bị thêm 4 lò phản ứng hạt nhân với công suất

tương tự cho nhà máy điện ở Kundankulam. Ngoài ra, nhiều đề án hợp tác khác giữa hai nước

trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân hòa bình cũng đang được triển khai một cách có hiệu quả.

Việc thực thi các đề án này giúp Ấn Độ giải quyết vấn đề an ninh năng lượng, bảo đảm phát triển

ổn định cho nền kinh tế đất nước [66].

Trong lĩnh vực nghiên cứu vũ trụ, Nga và Ấn Độ đã hoàn thành nghiên cứu đề án chung khảo

sát Mặt trăng Chandrayan-2. Hiện nay, chuyên gia vũ trụ hàng không của hai nước đang bắt tay

vào chế tạo thiết bị vũ trụ Chandrayan-2.

Nhìn chung, New Delhi và Moscow đã duy trì được truyền thống quan hệ đặc biệt trong vài

thập kỷ qua, qua các biến động từ sự tan rã của Liên bang Xô viết tới sự thay đổi bộ máy lãnh

đạo hai nước. Nga với các tiềm năng to lớn về nguồn lực, cơ sở khoa học, nhân lực, vị trí địa

chính trị và lịch sử ... vẫn là một quốc gia quan trọng trong lợi ích chiến lược lâu dài của Ấn Độ.

Một nước Nga vững mạnh sẽ đáp ứng được mong muốn và lợi ích của Ấn Độ. Cựu Thủ tướng

Ấn Độ Vajpayee từng tuyên bố Ấn Độ muốn thấy một nước Nga mạnh và tự tin có vị trí quan

trọng trong thế giới đa cực. Còn Tổng thống Nga Putin tuyên bố "Chúng tôi rất quan tâm duy trì

quan hệ với một cường quốc như Ấn Độ, đặc biệt là trong tiến trình hình thành một thế giới dân

chủ đa cực và trong các lĩnh vực song phương".

Trong bối cảnh hầu như không có những xung đột về lợi ích chiến lược, quan hệ Nga – Ấn

ngày một phát triển. Năm 2000 hai bên đã thể hiện sự nhất trí thắt chặt mối quan hệ Nga – Ấn

bằng cách ký kết Tuyên bố về Đối tác Chiến lược. Năm 2009, Tổng thống Nga và Thủ tướng Ấn

Độ thông qua Tuyên bố chung về tăng cường quan hệ đối tác chiến lược toàn diện nhằm đối phó

với những thách thức toàn cầu.

Như vậy địa – chính trị đan xen với địa – kinh tế trong quan hệ giữa hai nước trong tương lai

sẽ là cơ sở hai nước tăng cường thắt chặt quan hệ nhằm đạt mục tiêu chiến lược. Lợi ích địa –

chính trị trong quan hệ hai nước đồng thời bổ sung cho nhau trong các vấn đề quốc tế. Nước Nga

lớn mạnh ở phía Bắc sẽ luôn ủng hộ Ấn Độ đang lên ở phía Nam và ngược lại. Chẳng hạn Nga

cần Ấn Độ làm đối trọng với Mỹ và Trung Quốc trong quan hệ quốc tế cũng như Ấn Độ cần Nga

ủng hộ ngoại giao trước Trung Quốc và Pakistan.

 Đối với Pakistan:

Pakistan cũng là quốc gia có vị trí địa – chính trị quan trọng ở Nam Á. Vì vậy, Pakistan luôn

là đối tượng bị lôi kéo của các cường quốc nhằm phục vụ cho mục tiêu chiến lược của họ. Trong

lịch sử, Nga cũng muốn Pakistan đứng về phía mình nhưng chính sách quốc gia của các nhà cầm

quyền Pakistan không hướng tới kết thân với nước Nga.

Trước Chiến tranh lạnh, Nga luôn tìm kiếm mọi cơ hội có thể để tiếp cận chính quyền

Islamabad. Từ sau thành công hòa giải đi đến ký kết Hiệp ước Tasken nước Nga Xô Viết bắt đầu

những bước đi xa hơn nhằm kéo Pakistan khỏi vòng ảnh hưởng của Trung Quốc và Mỹ. Với tính

toán lợi ích toàn cầu của mình, nước Nga Xô viết quyết định chuyển từ chính sách "ủng hộ hoàn

toàn quan hệ đặc biệt với Ấn Độ" sang chính sách cân bằng hơn bao gồm thiết lập các mối quan

hệ với Pakistan. Thủ tướng Kosygin đến thăm Pakistan 4/1968 vài ngày sau khi Pakistan ra lệnh

đóng cửa căn cứ quân sự của Mỹ ở Peshawar. Tháng 7/1968, Liên Xô tuyên bố cung cấp vũ khí

cho Pakistan nhưng không quên bảo đảm với Ấn Độ rằng không có gì thay đổi trong quan hệ hợp

tác Xô – Ấn. Tuy nhiên Liên Xô đã sớm nhận ra, quan hệ với Pakistan không đạt được mục tiêu

tách Pakistan khỏi quan hệ thâm mật với Mỹ.

Vào thập niên 90, dù Ấn Độ chiếm vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của Nga, Nga

không muốn chính sách của mình là "ủng hộ Ấn Độ hoàn toàn" mà là thực tế và linh hoạt trong

từng vấn đề và hoàn cảnh cụ thể. Điều đó thể hiện rõ qua các bước đi của Nga trong quan hệ với

Pakistan.

Nằm gần các nước cộng hoà Trung Á mới độc lập và có đường biên giới chung với

Afganistan, cửa ngõ vào các nước Trung Á, Pakistan có vị trí quan trọng có thể đi đến kiểm soát

tình hình khu vực này. Bên cạnh đó, lo ngại trước ảnh hưởng của các nhân tố Hồi giáo trong khu

vực cũng là lý do khiến Nga quan tâm đến quốc gia Hồi giáo như Pakistan.

Vì vậy, thập kỷ 90 đã có sự thay đổi trong quan hệ chính trị Nga – Pakistan. Tháng 12/1991,

Phó Tổng thống Nga, Alexander Rutskoi thăm Pakistan. Không lâu sau đó, tháng 4/1992, quan

hệ này ấm lên khi Nga tổ chức hội nghị quốc tế về quan hệ của Pakistan với cộng đồng các quốc

gia độc lập tại Moscow. Về phần mình, việc Mỹ ngừng cung cấp vũ khí cho Pakistan vào năm

1990 cũng khiến Pakistan phải tìm kiếm các đồng minh và nguồn cung cấp thiết bị quân sự mới.

Trong bối cảnh đó, Pakistan cố gắng xích lại gần với Nga.

Tuy nhiên, chuyển biến đó không mang tính bền vững mà chỉ nhất thời do bối cảnh quốc tế

đã thay đổi. Pakistan cần Nga vì mong đợi từ Nga những đơn đặt hàng quân sự bù đắp vào việc

mất đi những đơn hàng quân sự từ các công ty Mỹ (theo lệnh cấm vận trừng phạt Pakistan đã bí

mật chế tạo vũ khí hạt nhân, các công ty này bị cấm cung cấp vũ khí cho Pakistan), hơn nữa

Pakistan muốn thông qua cải thiện quan hệ với Nga để kìm hãm quan hệ thân mật của Nga với kẻ

thù của mình, Ấn Độ. Nga cần Pakistan vì chính sách hướng Đông nằm trong chiến lược cân

bằng Đông – Tây của họ, hơn nữa sự ủng hộ của Pakistan cũng giúp Nga chống lại những nguy

cơ bất ổn gây nên bởi lực lượng Hồi giáo ở các nước Trung Á, khu vực địa –chính trị quan trọng

và có nhiều lợi ích chiến lược đối với Nga.

Trong thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, Pakistan tỏ ý muốn tăng cường quan hệ với Nga.

Năm 2003, Tổng thống Musharraf thăm Nga. Tại đây ông đã đề nghị Nga tăng cường quan hệ

thương mại với Pakistan. Tuy nhiên, Nga không muốn những hoạt động như vậy phương hại đến

mối quan hệ Nga - Ấn Độ. Ngay khi đồng ý đón tiếp Tổng thống Musharraf tại Moscow, Tổng

thống Putin đã điện đàm với Thủ tướng Vajpayee như một hành động bảo đảm rằng quan hệ với

Ấn Độ vẫn là một sự ưu tiên. Gần đây, khi các nhà phân tích Ấn Độ tỏ ý lo ngại Nga đang thúc

đẩy quan hệ quân sự với Pakistan. Để làm yên tâm các nhà cầm quyền Ấn Độ, Thủ tướng Nga

Putin đã khẳng định trong chuyến thăm năm 2010 rằng “Nga không thúc đẩy hợp tác quân sự với

Pakistan bởi việc này liên quan đến những lo ngại của phía đối tác Ấn Độ của chúng tôi”.

Như vậy, Nga đang là một nhân tố không thể không tính đến đối với bất kỳ cường quốc nào

muốn gây dựng ảnh hưởng của họ ở khu vực Nam Á. Niềm tự hào về một giai đoạn lịch sử

cường quốc hàng đầu thế giới đang khiến nước Nga mạnh mẽ vươn lên giành lại vị thế đó.

Những chuyển biến ở nước Nga trong thập kỷ đầu thế kỷ XXI cho phép Nga theo đuổi điều này.

Vì vậy, họ chủ động nối lại các mối quan hệ với các nước có quan hệ truyền thống tốt đẹp, trong

đó có các nước ở Nam Á. Thực tế trên khiến chính sách của Mỹ ở đây gặp phải những thách thức

đến từ đối thủ cạnh tranh đây tiềm năng là Nga.

Tiểu kết

Nam Á là khu vực được các nhà địa – chính trị cổ điển cũng như hiện đại đánh giá cao. Tuy

nhiên xác định khu vực này gồm những quốc gia nào vẫn chưa có được sự thống nhất giữa các

nhà nghiên cứu. Theo quan điểm của các nhà ngoại giao Mỹ, khu vực này gồm 7 quốc gia: Ấn

Độ, Pakistan, Bhutan, Nepal, Bangladesh, Sri Lanka, Maldives. Đây là khu vực đông dân cư, tài

nguyên thiên nhiên không nhiều nhưng có những loại có giá trị cao. Theo nhà địa – chính trị

Nicholas John Spykman Nam Á nằm trong khu vực “vùng rìa”, một khu vực quan trọng trong lý

thuyết địa – chính trị của ông. Nam Á cũng tiếp giáp với khu vực “miền đất trái tim” như cách

nhìn của nhà địa – chính trị Mackinder. Tính chất quan trọng của khu vực khiến nơi đây diễn ra

sự cạnh mạnh mẽ giữa các cường quốc.

Sau Chiến tranh lạnh, do mục tiêu toàn cầu của Mỹ đã thay đổi nên Mỹ có sự đánh giá lại giá

trị địa - chính trị các khu vực trên thế giới. Nếu trước kia Châu Âu luôn quan trọng thì hiện nay

Châu Á nổi lên chiếm vị trí quan trọng trong chính sách toàn cầu của Mỹ. Ở đó, Mỹ vừa phải

cạnh tranh, bảo vệ lợi ích vừa phải kiềm toả các cường quốc khác, không để sự nổi lên của các

cường quốc này đe dọa địa vị lãnh đạo cũng như lợi ích của Mỹ. Trong các khu vực ở Châu Á,

Nam Á là nơi có nhiều lợi ích đang hiện hữu của Mỹ như: căn cứ hậu cần lớn cung cấp cho các

đơn vị đồn trú của Mỹ ở Afghanistan; con đường vận chuyển dầu và hàng hóa quan trọng của thế

giới cần phải bảo vệ; thị trường tiềm năng cho hàng hóa quân sự cũng như dân sự của Mỹ… đặc

biệt là kiềm chế sự nổi lên của bất kỳ đối thủ nào thách thức địa vị toàn cầu của Mỹ. Nga, Trung

Quốc là những đối thủ như vậy.

Trong thập niên 90, nước Nga chìm đắm trong những khó khăn do hậu quả của sự sụp đổ mà

Liên Xô để lại. Kinh tế yếu kém, nợ nước ngoài chồng chất; bất ổn chính trị và chiến tranh ở các

vùng đất đòi li khai xảy ra thường xuyên; vị thế nước Nga trên trường quốc tế mờ nhạt, các

cường quốc khác phớt lờ những phản ứng của nước Nga đẩy mạnh các hoạt động ở các khu vực

ảnh hưởng truyền thống của Nga, đe doạ an ninh Nga…Nhưng nước Nga của 8 năm Putin cầm

quyền đã có sự thay đổi mạnh mẽ. Kinh tế khởi sắc nhờ sự kiên trì đúng hướng các mục tiêu kinh

tế; các hoạt động nghiên cứu khoa học, một thế mạnh tạo nên hình ảnh cường quốc Nga, được

thúc đẩy; nền quốc phòng được củng cố và đạt nhiều tiến bộ trong hoạt động nghiên cứu ứng

dụng nâng cao tính chiến đấu của các loại vũ khí…Trên nền tảng của sự hồi sinh, Nga đã chủ

động tham gia vào những vấn đề quốc tế với mục tiêu giành lại vị thế cường quốc.

Nằm gần một số quốc gia trong khối SNG, Nam Á là khu vực địa - chính trị được Nga coi

trọng trong chính sách đối ngoại của mình bởi ở đây Nga có được lợi ích an ninh, kinh tế, quân

sự, tạo đối trọng kiềm chế đối thủ và xây dựng hình ảnh cường quốc. Trong số các quốc gia Nam

Á, chính sách của Nga hướng tới hai quốc gia lớn nhất khu vực này là Ấn Độ và Pakistan.

Pakistan được coi là nơi trú ẩn của lực lượng Hồi giáo cực đoan mà hoạt động của chúng

đang ảnh hưởng đến lực lượng Hồi giáo ở Nga. Vì vậy, quan hệ tốt với chính quyền Islamabad

cho phép Nga có những tác động nhất định nhằm ngăn chặn nguy cơ từ xa đem đến nước Nga.

Đối với Ấn Độ, quốc gia có quan hệ truyền thống với Liên Xô và hiện đang là bạn hàng quân

sự quan trọng của Nga, Nga đang có lợi ích lớn từ quan hệ với quốc gia lớn nhất khu vực này. Ấn

Độ không chỉ là đối tác kinh tế đem lại công ăn việc làm, lợi nhuận cho các tổ hợp sản xuất quân

sự Nga, mà còn là đối tác chính trị thể hiện ở sự song trùng quan điểm trong nhiều vấn đề quốc

tế. Nga thể hiện rõ lập trường ủng hộ tăng cường vị thế của Ấn Độ trong các tổ chức quốc tế mà

Ấn Độ đang tham gia cho tương xứng với những gì Ấn Độ hiện có. Ấn Độ cũng mạnh mẽ ủng hộ

các quan điểm của Nga về các vấn đề quốc tế. Thực tế hầu như không có bất đồng lợi ích chiến

lược giữa hai nước đang là một thuận lợi lớn mà cả Nga và Ấn Độ có thể mở rộng hợp tác, nhưng

lại là thách thức lớn đối với chính sách của Mỹ ở khu vực.

Tích cực xây dựng mối quan hệ ở đây, đặc biệt là với các nước lớn, Nga còn hướng tới mục

tiêu lôi kéo họ đứng về phía mình, hoặc ít ra không nghiêng hẳn về phía các cường quốc là đối

thủ của Nga như Mỹ, Trung Quốc. Muốn đạt mục tiêu đưa Nga trở thành cường quốc, Nga không

thể không tham gia cuộc cạnh tranh này.

Thách thức thứ 2 mà Mỹ phải đương đầu ở khu vực địa - chính trị này là Trung Quốc. Có thể

thấy, Trung Quốc là một đấu thủ có sự cạnh tranh quyết liệt hơn bởi tham vọng của họ ở khu vực

này là quá lớn. Lợi ích quốc gia mà Trung Quốc tìm kiếm ở khu vực này còn đặt trong bối cảnh

họ đang muốn khẳng định mình là một siêu cường trong tương lai.

Sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc cải cách, Trung Quốc gặt hái được nhiều thành công.

Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao và ổn định đã tạo cơ sở thúc đẩy các lĩnh vực khác cùng

tăng trưởng theo. Tham vọng cường quốc thế giới càng trở nên rõ ràng khi Trung Quốc không

ngừng gia tăng lực lượng quốc phòng, đặc biệt là lực lượng hải quân, không quân, tên lửa đủ khả

năng tác chiến ở những khu vực cách xa Trung Quốc. Hoạt động ngoại giao của Trung Quốc

trong những năm gần đây cũng minh chứng cho tham vọng đó khi Trung Quốc dường như luôn

có những quan điểm đối lập về các vấn đề quốc tế với các nước khác, đặc biệt là Mỹ, như vấn đề

hạt nhân Triều Tiên, Iran... Đây cũng là cách Trung Quốc khẳng định mình.

Để trở thành cường quốc, Trung Quốc phải giải quyết nhiều vấn đề trong nước cũng như

quốc tế, đặc biệt là can dự càng nhiều càng tốt vào các vấn đề quốc tế. Trung Quốc phải tăng

cường sự hiện diện của mình dưới nhiều hình thức ở nhiều khu vực khác nhau trên thế giới, đặc

biệt là các khu vực có vị trí địa - chính trị quan trọng, mà trước hết là các khu vực lân cận có khả

năng góp phần đảm bảo an ninh quốc gia.

Nam Á là một khu vực như vậy. Trung Quốc có đường biên giới phía Tây Nam tiếp giáp với

một số nước Nam Á, trong đó có những quốc gia lớn như Ấn Độ, Pakistan. Đây cũng là khu vực

tiềm ẩn nhiều bất ổn mà Trung Quốc không thể không quan tâm, chẳng hạn những tranh chấp

lãnh thổ đã từng dẫn đến cuộc chiến tranh biên giới với Ấn Độ năm 1962. Hiện nay vấn đề tranh

chấp biên giới tạm lắng dịu do hai bên có những thoả thuận về đường biên giới, chủ động gác lại

các vấn đề tranh chấp, thúc đẩy các quan hệ khác. Tuy nhiên không thể đảm bảo rằng trong tương

lai không có sự đụng độ trở lại, thậm chí là chiến tranh nảy sinh từ những tranh chấp này.

Hơn nữa, một số quốc gia Nam Á hiện đang là nơi trú ẩn của những người chống đối Trung

Quốc về vấn đề Tân Cương. Hoạt động của những người đòi ly khai này dù đã bị chính quyền

Trung Quốc trừng trị, nhưng không thể đảm bảo rằng phong trào đã hoàn toàn bị tiêu diệt, bởi họ

luôn nhận được sự ủng hộ từ những người cùng quan điểm đang sống ở các quốc gia bên kia biên

giới.

Ngoài ra, Nam Á nằm trên con đường thương mại, vận chuyển dầu lửa quốc tế quan trọng

bậc nhất. Vì vậy, để đảm bảo mọi bất ổn trên thế giới không làm gián đoạn quá trình phát triển

của Trung Quốc, họ cần phải tăng cường sự hiện diện ở khu vực này. Bên cạnh đó là cạnh tranh

địa - chính trị với các cường quốc khác có cùng tham vọng.

Từ những lý do trên, chính sách ngoại giao Trung Quốc là coi trọng Nam Á. Tuy nhiên mỗi

quốc gia khác nhau, Trung Quốc có cách thức tiếp cận khác nhau. Đối với các nước nhỏ Trung

Quốc thực hiện lôi kéo họ đứng về phía mình thông qua hợp tác kinh tế, viện trợ kinh tế. Kết quả

là Trung Quốc thiết lập được những căn cứ quan trọng ở các nước Pakistan, Bangladesh, Sri

Lanka… tạo nên một “Chuỗi ngọc trai” bao quanh Ấn Độ, ngự trị trên con đường hàng hải sôi

động bậc nhất thế giới.

Đối với các nước lớn trong khu vực, Trung Quốc chủ trương vừa hợp tác vừa cạnh tranh. Với

Pakistan Trung Quốc nhận ra nhu cầu của Pakistan là cần đồng minh, đặc biệt là cần những hợp

đồng mua bán vũ khí để tăng cường lực lượng quốc phòng nhằm chống lại Ấn Độ. Đáp ứng nhu

cầu của Pakistan, Trung Quốc vừa có được những hợp đồng giá trị cho ngành công nghiệp quốc

phòng của họ, đồng thời thông qua tăng cường khả năng quân sự cho Pakistan sẽ góp phần kiềm

chế Ấn Độ, một quốc gia Trung Quốc xem là đối thủ hơn là đối tác.

Nhìn chung, tầm quan trọng của vị trí địa - chính trị Nam Á đối với Mỹ là không thể phủ

nhận, đặc biệt trong tình hình chính trị thế giới hiện nay. Nhưng không còn cái thời Mỹ một mình

một “sân khấu”. Ở đâu Mỹ cũng đối diện với những cạnh tranh mạnh mẽ từ các cường quốc, bất

kể là đồng minh hay kẻ thù, đối tác hay đối thủ. Coi trọng vị trí địa - chính trị Nam Á và tăng

cường quan hệ với các nước trong khu vực này là một nhiệm vụ quan trọng nhưng Mỹ cũng phải

nhận ra rằng, Nam Á cũng đang là khu vực địa - chính trị mà các cường quốc khác hướng tới,

như Nga, Trung Quốc và cả cường quốc đang lên Ấn Độ. Tuy nhiên mỗi đối thủ của Mỹ ở đây có

tính toán lợi ích khác nhau, tham vọng khác nhau, cho nên trong số những đối thủ đó vẫn có

những quốc gia Mỹ có thể có chính sách chuyển biến từ đối thủ thành đối tác.

Chương 2: YẾU TỐ ĐỊA - CHÍNH TRỊ KHU VỰC NAM Á TRONG CHÍNH SÁCH

CỦA MỸ TỪ 1989 - 2001

0TSau sự kiện “bức tường Berlin” sụp đổ không lâu, 12/1989, hai nhà lãnh đạo đứng đầu Liên

2.1.Bối cảnh lịch sử

Xô và Mỹ gặp nhau ở Maltan và đưa ra tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh với thế giới. Lịch sử

loài người bước sang một chương mới.

Sau Chiến tranh lạnh, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất trên thế giới. Sức mạnh kinh tế,

chính trị, quân sự chiếm vị trí hàng đầu thế giới. 0TTrong thập niên đầu sau Chiến tranh lạnh, kinh

tế nước Mỹ luôn có mức tăng trưởng cao. Khoảng cách giữa Mỹ và các trung tâm tài chính thế

giới khác như Nhật Bản và EU được nới rộng (hiện nay xuất hiện thêm Trung Quốc nhưng quốc

gia này phải mất nhiều năm nữa mới có thể đuổi kịp Mỹ, dù Trung Quốc đã vươn lên thành nền

kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới). Tốc độ tăng trưởng hàng năm của Mỹ cũng vượt xa các quốc gia

và tổ chức khu vực này. Từ 1990 đến 1998, kinh tế Mỹ tăng tới 27% trong khi đó EU chỉ tăng

15% và Nhật Bản là 9%. Nền kinh tế của Mỹ tiếp tục được thúc đẩy bởi những cơ sở khoa học và

công nghệ tiên tiến. Mỹ vẫn là nơi tập trung nhiều nhà khoa học hàng đầu thế giới và là nơi cho

0TCùng với sức mạnh kinh tế, sức mạnh quân sự của Mỹ cũng chiếm vị trí hàng đầu. Nền công

ra đời nhiều nhất các phát minh quan trọng của nhân loại.

nghiệp quân sự Mỹ vừa thu lợi nhuận thông qua các hợp đồng buôn bán vũ khí, vừa đảm bảo

phát triển những công nghệ quân sự hiện đại, tính năng chiến đấu cao nhằm bảo vệ ngôi vị bá chủ

của Mỹ. Nhờ vậy, hiện nay, Mỹ vẫn là cường quốc duy nhất có khả năng triển khai quân đội trên

0TNhờ những sức mạnh nổi bật trên, sau Chiến tranh lạnh, Mỹ chủ trương thúc đẩy thế giới

phạm vi toàn thế giới.

phát triển theo trật tự đơn cực đặt dưới sự lãnh đạo của Mỹ. Tuy nhiên tham vọng của Mỹ không

được các nước khác chấp thuận, đặc biệt là các cường quốc mới nổi, dẫn đến một hình thái chính

trị ngoại giao thế giới mới giằng co giữa hai xu hướng là đơn cực và đa cực. Dựa vào sức mạnh

quân sự, kinh tế, khoa học kỹ thuật, Mỹ thực thi chính sách đối ngoại đảm bảo Mỹ trở thành siêu

cường duy nhất của trật tự thế giới mới. Mỹ cho rằng phải ngăn chặn sự xuất hiện của bất kỳ

cường quốc nào thách thức vai trò bá chủ của Mỹ có được sau khi trật tự Ianta sụp đổ. Tuy nhiên

trong thế giới bao la này, Mỹ phải khống chế ai, khu vực nào để đạt các mục tiêu đó. Các nhà địa

– chính trị đã cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách Mỹ những gợi ý giá trị giải quyết khó

khăn đó. Những học thuyết địa – chính trị từ cổ điển đến hiện đại đều cho rằng lục địa Á – Âu là

quan trọng. Lục địa này không chỉ có các đối thủ tiềm năng cần phải ngăn chặn, mà còn là nơi có

nhiều lợi ích của Mỹ cần phải bảo vệ. Mỹ muốn duy trì trật tự thế giới mới có lợi cho mình

0TTrái ngược với tham vọng của Mỹ, các cường quốc mới nổi muốn vươn lên đóng vai trò quan

không thể không kiểm soát khu vực này.

trọng trong trật tự thế giới mới. Họ cổ vũ, thúc đẩy trật tự thế giới mới vận động theo hướng đa

cực mà ở đó mỗi quốc gia này là một cực. Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản…là những quốc

gia như vậy. Cùng chung quan điểm này, một số quốc gia đã đi đến tăng cường quan hệ với nhau,

0TNhư đã phân tích ở trên, Trung Quốc lớn mạnh cả về kinh tế, chính trị, quốc phòng trên

bày tỏ quan điểm trái ngược với Mỹ trong các vấn đề quốc tế, đi đầu là Trung Quốc và Nga.

trường quốc tế. Lợi ích quốc gia của họ đang ngày càng trải rộng khắp thế giới nên không tránh

khỏi sự va chạm với Mỹ, siêu cường tồn tại trong nhiều năm. Nước Nga hậu Xô viết tuy chưa

thoát khỏi khủng hoảng, trì trệ nhưng lợi ích có ở nhiều nơi trên thế giới. Nếu thế giới là đơn cực

các quốc gia này phải đặt mình dưới sự lãnh đạo của Mỹ, như vậy lợi ích của họ trên phạm vi thế

giới sẽ bị đe dọa, thu hẹp. Để chống lại xu hướng này, Trung Quốc, Nga luôn theo đuổi quan

điểm xây dựng một thế giới đa cực. Quan điểm này thể hiện rõ trong lập trường của họ trước các

vấn đề quốc tế nóng bỏng mà ở đó có sự can dự của các nước lớn như chiến tranh Kosovo, Iraq...

Trong những sự kiện này Trung Quốc và Nga thường không ủng hộ hoặc trái ngược với quan

0TBất đồng quan điểm, xung đột lợi ích là điều dễ nhận thấy trong quan hệ của các cường quốc

điểm của Mỹ.

sau Chiến tranh lạnh, nhưng những bất đồng này dẫn đến một cuộc chiến tranh thế giới trong

0TSau thời gian dài chạy đua tốn kém trong cuộc Chiến tranh lạnh, các cường quốc không

tương lai là khó xảy ra.

muốn tái diễn một cuộc chiến tranh mới. Hòa bình, hợp tác, tập trung phát triển kinh tế là xu

hướng chủ đạo của thế giới hậu Chiến tranh lạnh. Tuy nhiên không vì vậy mà thế giới trở nên an

toàn hơn. Nhiều vấn đề quốc tế mới xuất hiện như: khủng bố quốc tế, tội phạm quốc tế, những

căn bệnh thế kỷ, sự hủy hoại dẫn đến thảm họa môi trường trong tương lai, thiếu hụt tài nguyên

thiên nhiên…. Nhiều cuộc chiến tranh cục bộ vẫn tiếp diễn mà ở đó luôn có những toan tính

0TNhiều điểm nóng trên thế giới mà ở đó có sự can dự của các cường quốc như vấn đề hạt nhân

chính trị, kinh tế của các nước lớn như: Chiến tranh Vùng vịnh, Kosovo, Afghanistan...

Triều Tiên, Iran. Ở vấn đề hạt nhân Triều Tiên và Iran, thế giới đang chứng kiến sự chia ra thành

hai lực lượng có quan điểm trái ngược nhau, khối các nước ủng hộ quan điểm Mỹ và khối các

nước ủng hộ quan điểm của Nga, Trung Quốc. Can thiệp bằng chiến tranh nhằm giải quyết những

vấn đề này như đã từng xảy ra ở các nơi khác trên thế giới là khó, nhưng những căng thẳng xung

quanh chúng luôn làm biến đổi mối quan hệ giữa các cường quốc và nguy cơ bất ổn thế giới gia

0TCạnh tranh lợi ích dẫn đến các cường quốc có những bất đồng là không tránh khỏi, nhưng

tăng.

những bất đồng dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới mới khó có khả năng xảy ra, bởi dù là cường

quốc mới nổi hay siêu cường đều có lợi ích lâu dài và cơ bản trong việc duy trì hòa bình để phát

triển kinh tế. Hai cuộc chiến tranh thế giới đã cho thấy sự tàn phá ghê gớm, các bên cả thắng và

bại trận phải mất nhiều năm để hồi phục. Với trình độ chiến tranh ngày nay, mức độ tàn phá sẽ

vượt xa nhiều lần lợi ích đạt được sau cuộc chiến. Sự áp dụng các thành tựu khoa học và công

nghệ ở tất cả các cường quốc vào lực lượng quân sự quốc phòng, dẫn đến chiến tranh thế giới

mới sẽ khó có kẻ thắng người bại, vũ khí hạt nhân sẽ hủy diệt tất cả khi chiến tranh xảy ra hoặc

sau đó. Hơn nữa, trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế thế giới khiến các quốc gia, đặc biệt là các

cường quốc, phụ thuộc lẫn nhau. Sự bất ổn của bất kỳ cường quốc nào cũng sẽ tác động đến các

cường quốc còn lại (những cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trong những năm gần đây đã minh

chứng cho điều này). Vì vậy, không cường quốc nào muốn đẩy những bất đồng đến đối đầu trực

0T Cạnh tranh và hợp tác vì vậy sẽ là xu hướng chủ đạo của thế giới hậu Chiến tranh lạnh. Thời

tiếp về quân sự.

kỳ các cường quốc luôn trong tình thế đối kháng với nhau đã qua đi, dù rằng những bất đồng vẫn

còn đó. Quan hệ quốc tế sau Chiến tranh lạnh chuyển từ đối kháng sang quan hệ đối tác. Quan hệ

này ngày càng được thúc đẩy và củng cố bởi xu thế toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập khu vực và

quốc tế. Thực tế trên sẽ kìm hãm tham vọng của bất kỳ cường quốc nào bất chấp lợi ích của quốc

gia khác. Chiều hướng xấu đi trong quan hệ quốc tế sẽ không có lợi cho các quốc gia, dù đó là

0TBối cảnh quốc tế trong thời đại mới buộc Mỹ phải có những điều chỉnh chính sách cho phù

cường quốc khu vực hay siêu cường quốc tế.

hợp, trong đó có việc xác định lại những khu vực địa – chính trị được ưu tiên trên phạm vi toàn

thế giới. Nếu trong Chiến tranh lạnh, khu vực địa – chính trị được Mỹ ưu tiên là châu Âu thì hiện

nay châu Á được Mỹ coi trọng. Các quốc gia, khu vực có vị trí địa – chính trị phục vụ cho mục

tiêu ngăn chặn bất kể đối thủ nào trong tương lai thách thức vị trí siêu cường của Mỹ luôn được

ưu tiên. Bên cạnh đó là các khu vực địa – chính trị có vai trò đảm bảo lợi ích chiến lược của Mỹ.

Trên cơ sở đó, chính sách của Mỹ với các quốc gia, khu vực địa – chính trị này cũng có những

điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới.

2.2.Chuyển biến của yếu tố địa – chính trị trong chính sách của Mỹ đối với Nam Á

2.2.1.Đối với Ấn Độ

Ấn Độ là quốc gia lớn và có vai trò chính trị quan trọng nhất trong số các quốc gia ở Nam Á.

Nằm trong khu vực “vùng rìa” hay “khu vực vành đai”, dưới cách nhìn của nhà địa – chính trị

Nicholas John Spykman, Ấn Độ chiếm phần lớn diện tích tiểu lục địa này, đồng thời có biên giới

tự nhiên với tất cả các nước Nam Á còn lại. Với lịch sử phát triển và vị trí địa lý của mình, Ấn

Độ có vị trí ảnh hưởng lớn với các nước Nam Á khác, đồng thời an ninh chính trị của Ấn Độ gắn

liền với an ninh chính trị của các quốc gia Nam Á còn lại. Vì vậy, một Nam Á phát triển hòa bình

không thể không phụ thuộc vào chính sách của Ấn Độ.

Trên phạm vi toàn cầu, Ấn Độ án ngữ con đường biển quan trọng bậc nhất thế giới. Tàu bè

thương mại và quân sự phải đi qua đây để đến các khu vực quan trọng khác trên thế giới. Trong

những năm gần đây, Ấn Độ đẩy mạnh phát triển lực lượng hải quân, vừa để bảo vệ mình vừa để

bảo vệ lợi ích có được từ con đường biển ngang qua đây. Bên cạnh đó, Ấn Độ có biên giới với

Trung Quốc và nằm gần khu vực “chiến sự nóng bỏng” của thế giới cũng là một yếu tố quan

trọng đối với các nhà hoạch định chiến lược quốc gia của các cường quốc trên thế giới.

Ngoài ra, các cường quốc không thể không tính đến khả năng trỗi dậy mạnh mẽ của Ấn Độ

trong những năm gần đây, đặc biệt là sự gần gũi về địa lý và những điểm chung bên cạnh những

bất đồng giữa các cường quốc mới nổi khác như Nga và Trung Quốc, Ấn Độ có thể liên minh với

họ để trở thành một thế lực đối trọng với Mỹ và các phương Tây.

Với những lợi ích nổi bật xuất phát từ vị trí địa lý của Ấn Độ như trên, Mỹ ngày càng coi

trọng xây dựng quan hệ với Ấn Độ. Ngày 26/1/2009, ngày độc lập của Ấn Độ, Tổng thống

Obama đưa ra một lời phát biểu khẳng định rằng “tình bạn sâu sắc và gia tăng nhanh chóng của

chúng ta với Ấn Độ mang những lợi ích tới tất cả cư dân trên thế giới” và nhân dân Ấn Độ “nên

biết rằng họ không có người bạn nào tốt hơn và đối tác nào tốt hơn nhân dân Mỹ” [77, tr 2].

Trong buổi điều trần để trở thành Ngoại trưởng Mỹ, Hillary Clinton nói với các Thượng nghị

sỹ rằng bà sẽ làm việc để thi hành lời cam kết của Tổng thống Obama “thiết lập một đối tác chiến

lược chân chính với Ấn Độ, gia tăng hợp tác quân sự, thương mại, và ủng hộ dân chủ trên toàn

thế giới”. Chủ tịch Uỷ ban quan hệ đối ngoại Thượng viện, Sen. John Kerry, cũng cho rằng Mỹ

phải “tiến hành để đưa ra thoả thuận tiềm năng địa chính trị để thúc đẩy hợp tác hạt nhân dân sự

của chúng ta trong đối tác chiến lược Ấn Độ - Mỹ của thế kỷ 21” và rằng “Ấn Độ sẽ là gia tăng

chủ chốt để giải quyết những thách thức quốc tế” trong tương lai [77, tr 2].

Các tuyên bố của những người đứng đầu nước Mỹ cho thấy Ấn Độ ngày càng quan trọng

trên bàn cờ chính trị quốc tế kể từ sau Chiến tranh lạnh. Mới đây trong cuộc viếng thăm chính

thức của Tổng thống Obama tới Ấn Độ (2011), ông đã tuyên bố ủng hộ quốc gia này có một ghế

trong thường trực Hội đồng Bảo an mở rộng và coi Ấn Độ là một “đối tác toàn cầu”, điều mà

nhiều thập niên trước đây Ấn Độ muốn Mỹ ủng hộ nhưng không được họ chấp thuận. Đây là kết

quả nối tiếp của sự chuyển hướng quan hệ với Ấn Độ, xuất phát từ vai trò địa – chính trị Ấn Độ

sau Chiến tranh lạnh.

Thực tế lịch sử cho thấy, không phải vai trò địa – chính trị của Ấn Độ chỉ quan trọng với Mỹ

sau Chiến tranh lạnh. Thực hiện chính sách ngăn chặn cộng sản, Ấn Độ từng được Mỹ quan tâm

lôi kéo nhưng quốc gia này đã không đi theo quỹ đạo của Mỹ, cũng không hoàn toàn đi theo Liên

Xô. Ấn Độ chọn con đường khác, trở thành nhà lãnh đạo của thế giới thứ ba thông qua tổ chức

Không liên kết. Lựa chọn này khiến Ấn Độ thân thiện với Liên Xô hơn, vì cùng mục tiêu chống

bá quyền, chống thực dân đế quốc.

Không thuyết phục được, Mỹ quay sang chống lại quốc gia có vị trí địa – chính trị quan trọng

này. Chuyển biến trong chính sách của Mỹ đối với Ấn Độ thể hiện trong quan hệ giữa hai nước

ngay sau đó.

Quan hệ Mỹ - Ấn xuống mức thấp nhất trong thời kỳ cầm quyền của Tổng thống Nixon, khi

chính quyền Mỹ bất ngờ chấm dứt khoản viện trợ kinh tế 82 triệu USD, tham dự diễn tập hải

quân với Pakistan ở Ấn Độ Dương năm 1974. Ấn Độ đáp lại bằng việc đóng cửa văn phòng

Chương trình phát triển quốc tế của Mỹ, giới hạn cấp phép cho các nhà nghiên cứu và sinh viên

Mỹ tới Ấn Độ, chỉ trích đối với chính sách của Mỹ về Việt Nam và Campuchia.

Cuối thập niên 70, khi Jimmy Carter trở thành tổng thống của nước Mỹ, quan hệ Mỹ - Ấn có

những chuyển biến tích cực và được tiếp nối bởi Tổng thống Ronald Reagan. Chính quyền

Reagan đánh giá lại chính sách của họ về Ấn Độ và quyết định mở rộng các lĩnh vực hợp tác như

kinh tế, lĩnh vực khoa học, như một phương pháp chống lại ảnh hưởng của Liên Xô trong khu

vực. Washington cũng đánh giá địa vị của New Delhi như là quốc gia quyền lực mạnh trong một

triển vọng tươi sáng ở vùng Nam Á [72].

Không tranh thủ được sự ủng hộ của Ấn Độ, Mỹ luôn lo ngại quốc gia này ngả hẳn về Liên

Xô. Trong trường hợp đó, “con đê” ngăn chặn cộng sản ở Nam Á sẽ bị đe dọa. Để kiểm soát tình

hình, Mỹ đáp ứng các nhu cầu của Ấn Độ trong giới hạn cho phép. Năm 1985, thỏa thuận song

phương về trao đổi công nghệ và khoa học được ký kết đã thúc đầy sự hợp tác giữa Ấn Độ và Mỹ

trong nhiều lĩnh vực khoa học. Chuyển giao công nghệ phi quân sự cũng được tiến hành nhanh

chóng. Năm 1987, Mỹ đồng ý bán cho Ấn Độ một siêu máy tính Cray phục vụ nghiên cứu nông

nghiệp và dự báo thời tiết. Năm 1988, Ấn Độ cải thiện môi trường kinh tế, kết quả là hai bên đã

ký kết thỏa thuận cho một nhà máy Pepsi – Cola và ký kết thỏa thuận thuế song phương. Năm

1989, Mỹ đầu tư vào Ấn Độ lên tới 1 tỷ USD. Hợp tác quân sự cũng được thúc đẩy. Năm 1988,

Washington và New Delhi hoàn thành một hiệp định cung cấp công nghệ Mỹ cho chương trình

máy bay chiến đấu của Ấn Độ và cũng đồng ý chuyển giao công nghệ cho máy bay chiến đấu F-

5.

Mặc dù vậy mối quan hệ này đã bị hạn chế bởi hành động tăng viện trợ cho đồng minh Pakistan lên tới 3,2 tỷ USD trong 5 năm sau khi Liên Xô đưa quân vào Afghanistan. Cũng thời gian này Mỹ tăng quân số và khả năng chiến đấu ở Ấn Độ Dương, đặc biệt là căn cứ Diego

Garcia. Ấn Độ nhìn thấy một sự đe doạ an ninh đến từ Mỹ.

Xác định Nam Á là một vị trí địa – chính trị quan trọng trong chính sách đối ngoại từ sau

Chiến tranh lạnh, Mỹ đã có những chuyển hướng chính sách cho phù hợp với bối cảnh quốc tế.

Nếu trước kia Nam Á được Mỹ xem là một trong những vị trí tiền đồn chống lại Liên Xô thì khi

Chiến tranh lạnh kết thúc, Liên Xô sụp đổ, nhiệm vụ đó của Nam Á cũng không còn được tiếp

tục. Thực tế này khiến Mỹ phải xem xét lại hướng ưu tiên ngoại giao đối với các nước Nam Á.

Năm 1991, Ấn Độ tiến hành công cuộc cải cách, kêu gọi đầu tư và thay đổi chính sách nhằm

thu hút đầu tư nước ngoài. Để phục vụ công cuộc cải cách, Ấn Độ cần thiết lập quan hệ với các

nước như Mỹ nhằm tiếp nhận công nghệ, vốn, kinh nghiệm quản lý, đặc biệt là thị trường tiêu thụ

những sản phẩm hàng hóa công nghệ phần mềm… Không chỉ vậy, thông qua Mỹ, Ấn Độ có thể

tiếp cận những tổ chức tài chính quan trọng của thế giới mà tiếng nói của Mỹ đang đóng vai trò

lớn như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Lý do khác khiến Ấn Độ thay đổi

chính sách hướng tới cải thiện quan hệ Mỹ phục vụ mục tiêu phát triển đất nước là Liên Xô, một

đối tác thương mại chính của Ấn Độ và nguồn trợ giúp kinh tế, quân sự đáng tin cậy nhất trong

hầu hết thời kỳ Chiến tranh lạnh, không còn tồn tại. Ấn Độ mất bạn hàng, đối tác truyền thống.

Ngoài ra, xây dựng mối quan hệ tốt với Mỹ cũng cho phép Ấn Độ có những bước đi mạnh mẽ

trong quan hệ với các nước Phương Tây khác.

Bên cạnh đó là các lý do không kém phần quan trọng như những tranh chấp ở Jammu và

Kashmir dễ dẫn đến chiến tranh với Pakistan - điều mà Ấn Độ không mong muốn khi đang dồn

toàn lực vào công cuộc cải cách. Ấn Độ muốn thông qua sự ảnh hưởng của Mỹ với Pakistan để

kiềm chế những hành động của quốc gia này trên những vùng lãnh thổ tranh chấp.

Cải thiện quan hệ với Mỹ cũng nhằm mục tiêu đối phó với nguy cơ đến từ Trung Quốc.

Trong những thập kỷ gần đây, Trung Quốc nổi lên mạnh mẽ và gia tăng ảnh hưởng ở khu vực

Nam Á. Đáng chú ý là sự hiện diện chính trị và quân sự của Trung Quốc ở các quốc gia có vị trí

chiến lược quan trọng như Pakistan, Bangladesh, Sri Lanka và cả quốc gia kế cận khu vực này là

Myanma.

Không chỉ Ấn Độ nhìn thấy lợi ích từ quan hệ với Mỹ mà Mỹ cũng nhìn thấy những lợi ích

từ quan hệ với Ấn Độ, một quốc gia có vị trí địa – chính trị quan trọng trong khu vực (như đã

trình bày ở trên). Bên cạnh đó, cải thiện quan hệ Mỹ - Ấn sau Chiến tranh lạnh còn được thúc đẩy

bởi một lực lượng Ấn kiều lớn, có địa vị kinh tế và ảnh hưởng chính trị nhất định ở Mỹ.

Ngay sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, Mỹ đã chuyển hướng chính sách với Ấn Độ. Có 5 lý

do khiến Mỹ chuyển hướng là: Thứ nhất Chiến tranh lạnh kết thúc, Liên Xô không còn tồn tại,

Mỹ không cần thiết có thái độ nghi ngờ đối với Ấn Độ. Thứ hai sau khi quân đội Liên Xô rút

khỏi Afghanistan, giá trị chiến lược của Pakistan đối với Mỹ suy giảm. Trong khi đó Ấn Độ trội

hơn hẳn ở Nam Á, quốc gia này trở nên quan trọng hơn đối với Mỹ cho việc duy trì hoà bình và

ổn định trong khu vực. Thứ ba, cuộc cải cách của Thủ tướng N.Rao đã làm thay đổi kinh tế Ấn

Độ từ một hệ thống kế hoạch trung ương tới một nền kinh tế thị trường. Mỹ xem Ấn Độ là một

thị trường tiềm năng lớn cho tư bản, công nghệ và hàng hoá Mỹ. Thứ tư, Ấn Độ là một nền dân

chủ lớn trên thế giới cùng giá trị với Mỹ. Về mặt này, Mỹ có nhiều giá trị chia sẻ với Ấn Độ hơn

là với Pakistan. Thứ năm, Ấn Độ được xem như một đối trọng với Trung Quốc. Tuy nhiên chính

sách xem trọng Ấn Độ thực tế có nhiều thách thức.

Như vậy trong bối cảnh mới, địa – chính trị, địa – kinh tế Ấn Độ trong chiến lược toàn cầu

của Mỹ được coi trọng. Thay đổi chính sách theo hướng cải thiện quan hệ với quốc gia Ấn Độ là

một ưu tiên trong khu vực vào thời điểm kết thúc Chiến tranh lạnh.

Trong chính sách của Mỹ đối với Ấn Độ, nhân tố Pakistan luôn là trở ngại lớn. Vì mục tiêu

toàn cầu của mình, Mỹ đã từng ủng hộ lập trường của Pakistan trong các cuộc tranh chấp lãnh

thổ với Ấn Độ. Tuy nhiên, sau Chiến tranh lạnh, lợi ích từ việc ủng hộ Pakistan không phục vụ

lợi ích toàn cầu cũng như khu vực so với Ấn Độ, Mỹ đã nghiêng về ủng hộ Ấn Độ, đặc biệt là

vấn đề tranh chấp lãnh thổ Kashmir. Trước kia, Mỹ cùng quan điểm giải quyết tranh chấp này với

Pakistan khi cho rằng vấn đề phải được tiến hành thông qua cuộc trưng cầu dân ý ở bang

Kashmir với sự tiến hành của Liên Hợp Quốc, nhưng từ thập niên 90 của thế kỷ trước, quan điểm

của Mỹ về vấn đề này đã thay đổi khi cho rằng giải quyết vấn đề Kashmir bằng quan hệ song

phương trên tinh thần hiệp định Shimla ký kết giữa Ấn Độ và Pakistan năm 1972, tức phù hợp

với quan điểm từ trước đến nay của Ấn Độ. Không chỉ vậy, Mỹ thúc ép Pakistan ngưng cung cấp

viện trợ cho các tổ chức Hồi giáo cực đoan ở Kashmir và những người Sikh cực đoan ở vùng

Punjab trong các vụ bạo loạn và li khai ở Ấn Độ [34, tr 192].

Cuộc cải cách kinh tế mạnh mẽ của Ấn Độ vào năm 1991 như một luồng sinh khí mới thúc

đẩy Mỹ phải cải thiện hơn nữa quan hệ với Ấn Độ nếu không muốn đứng ngoài một thị trường

đầy tiềm năng như Ấn Độ. Chính sách mở cửa kinh tế, chấp nhận và tạo điều kiện cho khu vực

kinh tế tư nhân phát triển, chấp nhận các công ty 100% vốn nước ngoài được đăng ký hoạt động

ở Ấn Độ đã được Mỹ và các nước tư bản Phương Tây hoan nghênh. “Đích thân Tổng thống Mỹ

George H. W. Bush đã gửi lời chúc mừng đến chính phủ của Thủ tướng N. Rao về quyết định tự

do hoá nền kinh tế Ấn Độ” [34, tr193]. Sự thay đổi quan trọng trong cải cách được Mỹ đánh giá

Ấn Độ là 1 trong 10 thị trường lớn mới nổi của thế giới. Đây là lý do khác khiến Mỹ phải cải

thiện mối quan hệ với Ấn Độ từ sau Chiến tranh lạnh.

Sự chuyển hướng chính sách của Mỹ đối với Ấn Độ đã nhận được sự hoan nghênh từ Ấn Độ.

Ấn Độ đã có những động thái cho thấy sự hài lòng của mình đối với sự thay đổi này khi đồng ý

cho máy bay Mỹ từ căn cứ quân sự ở Philippines, trên đường đến tham chiến trong cuộc chiến

tranh vùng Vịnh, hạ cánh tiếp dầu tại Bombay.

Đầu thập niên 90, nhiều quan chức quân sự cấp cao Mỹ đã thực hiện các chuyến công du đến

Ấn Độ để tiến hành thảo luận hợp tác quốc phòng với quốc gia này. Đáng chú ý là chuyến thăm

của Tư lệnh lực lượng Thái Bình Dương, Tướng Kicklighter vào tháng 4/1991. Trong chuyến

thăm này Tướng Kicklighter đã đề nghị các hình thức hợp tác quốc phòng giữa Ấn Độ và Mỹ

như trao đổi các cuộc viếng thăm hàng năm của Tổng Tham mưu trưởng quân đội hai nước, tổ

chức hội thảo về các vấn đề chiến lược, tổ chức tập trận chung [34, tr 196]. Những đề nghị của

Mỹ đã được Ấn Độ đón nhận tích cực. Sau các chuyến thăm của các quan chức Mỹ, Bộ trưởng

Quốc phòng Ấn Độ tuyên bố “Ấn Độ và Mỹ có kế hoạch bước vào một kỷ nguyên mới về hợp

tác quốc phòng” [34, tr 196]. Năm 1992, lần đầu tiên Ấn Độ tuyên bố tập trận chung với Mỹ, một

hành động cho thấy tín hiệu bắt đầu thời kỳ mới với những hợp tác chặt chẽ giữa hai bên. Không

chỉ vậy, trong chuyến thăm Mỹ của Thứ trưởng Ngoại giao Ấn Độ, J.N. Dixit, vào tháng 4/1992

ông đã đề nghị thảo luận vấn đề nhạy cảm thường gây ra những bất ổn trong quan hệ hai nước,

vấn đề phổ biến hạt nhân.

Xuất phát từ lợi ích địa – chính trị, Mỹ có chính sách chủ động cải thiện với Ấn Độ, xuất

phát từ nhu cầu cải cách, Ấn Độ cũng hành động tương tự. Hai bên nhìn thấy lợi ích từ sự hợp tác

và chủ động đẩy nhanh quá trình hợp tác. Tuy nhiên những lợi ích chiến lược không song trùng

giữa hai bên vẫn là rào cản lớn trong mối quan hệ này, đặc biệt người Ấn tỏ ra nghi ngờ thiện

tình của người Mỹ trong quan hệ đang được cải thiện với họ.

Coi trọng vai trò địa – chính trị Ấn Độ trong bối cảnh mới nhưng không vì vậy Mỹ hoàn toàn

không có những hành động chống lại quốc gia này. Có thể thấy với Mỹ, đây là sự chuyển hướng

khó khăn vì Mỹ vừa phải cải thiện quan hệ với Ấn Độ vừa phải tiếp tục theo đuổi các mục tiêu

khác như không để sự chuyển hướng đó đi đến chỗ đẩy Pakistan rời xa Mỹ. Hơn nữa, Mỹ vẫn

theo đuổi mục tiêu chiến lược buộc Ấn Độ ký vào Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân,

ngoài ra Mỹ nhiều lần sử dụng vấn đề nhân quyền để mặc cả với Ấn Độ trong nhiều trường

hợp…Có thể nhận thấy trong các sự kiện sau.

Tháng 3/1993, nổ ra các vụ đánh bom khủng bố ở Bombay làm chết 251 người và làm bị

thương 1.400 người khác. Ấn Độ cho rằng những hoạt động khủng bố được xúi giục bởi Pakistan

và các hoạt động tăng cường của phiến quân Kashmir được Pakistan ủng hộ. Trong bối cảnh Ấn

Độ và Mỹ đã có những cải thiện quan hệ, các chính trị gia Ấn Độ và giới truyền thông tin tưởng

rằng Mỹ có thể tuyên bố Pakistan là nước đỡ đầu khủng bố. Tuy nhiên tuyên bố của Washington

5 tháng sau đó không cho rằng Pakistan là một nước tài trợ khủng bố. Quyết định này làm nổi lên

làn sóng bất bình ở Ấn Độ và các nhà phân tích chính trị Ấn Độ buộc tội Mỹ có “tiêu chuẩn kép”

liên quan đến các quốc gia cụ thể tài trợ cho khủng bố [90].

Bên cạnh đó, vấn đề nhân quyền luôn được Mỹ sử dụng như một sức ép chính trị đối với Ấn

Độ. Các báo cáo nhân quyền của Mỹ đối với Ấn Độ thường chỉ ra những vi phạm nhân quyền từ

sự phân biệt đẳng cấp, sự hạn chế quyền phụ nữ trong xã hội Ấn Độ, nhân quyền ở

Kashmir...Trong khi đó Ấn Độ luôn lên tiếng phản đối các nội dung đánh giá nhân quyền của

Mỹ, xem đó như một minh chứng cho sự không thật lòng trong quan hệ của Mỹ với quốc gia này.

Năm đầu tiên trong nhiệm kỳ đầu của Tổng thống Bill Clinton, quan hệ hai nước không có

nhiều tiến bộ, do Mỹ đề cao vấn đề nhân quyền trong quan hệ với Ấn Độ, chẳng hạn Mỹ yêu cầu

phải có các đại diện của dân chúng Kashmir trong các cuộc đàm phán giữa Ấn Độ và Pakistan về

số phận vùng lãnh thổ này, điều mà Ấn Độ luôn phản đối. Mỹ cũng thúc ép Ấn Độ ký vào Hiệp

ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT).

Những bất đồng chính trị lúc này đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các quan hệ khác, gây tổn hại

niềm tin cho cả hai bên trong nỗ lực xây dựng quan hệ mang tính chiến lược giữa Ấn Độ và Mỹ.

Tuy nhiên những năm sau đó, đặc biệt là từ sau chuyến thăm của Thủ tướng N.Rao tháng

5/1994, không khí chính trị đôi bên có bước cải thiện. Chính quyền của Tổng thống Bill Clinton

đã có sự thay đổi tích cực trong quan hệ với Ấn Độ như bổ nhiệm lại đại sứ tại New Delhi, hay

như các quan chức cấp cao Mỹ đã thực hiện các chuyến thăm Ấn Độ nhiều hơn. Chẳng hạn

chuyến thăm của Thứ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tài chính,

Bộ trưởng Bộ Thương mại. Đặc biệt trong chuyến thăm của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ, hai

bên đã đi đến ký kết một Hiệp ước hợp tác phòng thủ. Hiệp ước đã “xua tan mối ngờ vực trong

suốt 40 năm giữa hai nước trong thời kỳ Chiến tranh lạnh” [34, tr202]. Sự cải thiện trong quan hệ

quốc phòng mở đường cho hai bên tiến hành các cuộc tập trận chung, tiêu biểu là cuộc tập trận

hải quân trên vùng biển Ấn Độ Dương vào tháng 12/1997.

Một loạt những động thái trên của chính quyền Cliton cho thấy chính quyền của ông đã có sự

tiếp nối chính sách coi trọng Ấn Độ trong thập niên này.

Địa – chính trị được củng cố thêm bởi những quan hệ kinh tế, đồng thời thông qua kinh tế,

Mỹ hy vọng ràng buộc Ấn Độ vào với mình. Chuyến viếng thăm Ấn Độ của phái đoàn thương

mại, dẫn đầu bởi Bộ trưởng Thương mại Ronald H. Brown, vào tháng 1/1995 đã tạo điều kiện

cho các công ty Ấn Độ và Mỹ ký kết được nhiều thỏa thuận. Tổng số 7 tỷ USD cho các hợp đồng

và đầu tư trong lĩnh vực truyền thông, chăm sóc y tế, bảo hiểm xã hội, tài chính và lĩnh vực tự

động...đã được ký kết. Một số thỏa thuận xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết cho các công ty nước

ngoài tiến hành kinh doanh ở Ấn Độ cũng đã được ký kết [90]. Tháng 3/1995, Hilary Rodham

Clinton, phu nhân tổng thống Mỹ, thực hiện chuyến đi đến Ấn Độ như một phần của chuyến đi

thiện chí tới Nam Á. Tháng 4, Bộ trưởng Bộ Tài chính Robert E. Rubin viếng thăm New Delhi

đồng thời ký kết hiệp định bảo trợ đầu tư song phương với Ấn Độ, mở đường cho Ấn Độ tiếp cận

với nguồn vay từ Cơ quan phát triển quốc tế Mỹ. Hiệp định cũng cho thấy sự gia tăng đáng kể

trong đầu tư Mỹ ở Ấn Độ kể từ năm 1991.

Thành công từ cuộc cải cách và sự kiên trì chuyển hướng ngoại giao của Ấn Độ đã thúc đẩy

Mỹ, dưới thời Tổng thống Clinton, tăng cường hơn nữa gỡ bỏ những rào cản trong quan hệ giữa

hai nước. Trước những hành động của các nhóm quân sự ở Punjab, Jammu và Kashmir, Mỹ thừa

nhận quan điểm của Ấn Độ rằng Pakistan đã tiếp tay cho các lực lượng khủng bố này. Đồng thời

Mỹ cam kết sẽ cùng Ấn Độ chống chủ nghĩa khủng bố [34, tr 202]. Sự thay đổi lập trường này

của Mỹ khiến Ấn Độ hài lòng. Trước đó, Mỹ chưa từng có những tuyên bố mạnh mẽ ủng hộ Ấn

Độ chống lại Pakistan như vậy.

Sự chuyển hướng coi trọng vị trí địa – chính trị Ấn Độ trong thập niên đầu sau Chiến tranh

lạnh của Mỹ, được kiểm nghiệm trong hai sự kiện liên tiếp vào những năm cuối của thập niên

này.

Tháng 5/1998, quan hệ hai nước đứng trước thách thức lớn khi Ấn Độ tiến hành một loạt 5

vụ thử hạt nhân tại sa mạc Pokhran. Ngay lập tức, Tổng thống Mỹ Bill Clinton ký lệnh trừng phạt

Ấn Độ, theo đó Mỹ chấm dứt tất cả các khoản viện trợ, cho vay nhân đạo cũng như đảm bảo về

tín dụng, hủy bỏ các cuộc tập trận chung giữa hai nước…

Tuy nhiên sau những động thái giải thích nguyên nhân, động cơ các vụ thử hạt nhân từ phía

Ấn Độ (thể hiện nỗi lo của Ấn Độ từ phía Trung Quốc), cũng như các phản ứng không nhất trí

của Quốc hội, những nhà doanh nghiệp, các trại chủ Mỹ, đặc biệt là lệnh trừng phạt có thể tác

động xấu đến lợi ích địa –chính trị mà Mỹ đang theo đuổi đối với Ấn Độ, chính quyền Mỹ đã có

những thay đổi quan trọng trong quan điểm về vấn đề này. Hai tháng sau đó, Thượng viện Mỹ đã

bỏ phiếu tán thành nới lỏng lệnh trừng phạt Ấn Độ và được Tổng thống Clinton chấp thuận.

Không chỉ vậy, Mỹ còn từ bỏ yêu cầu Ấn Độ và Pakistan chấm dứt thử và sản xuất tên lửa đạn

đạo. Đây là một thắng lợi trong chính sách theo đuổi chương trình hạt nhân của Ấn Độ. Tuy

nhiên không phải do Mỹ chịu khuất phục trước tham vọng hạt nhân của Ấn Độ mà xuất phát từ

lợi ích toàn cầu Mỹ đạt được từ Ấn Độ trong suốt thập kỷ cuối của thế kỷ XX. Mỹ không muốn

những quyết định trừng phạt của mình với Ấn Độ làm tổn hại đến những chuyển biến tích cực mà

hai bên đã đạt được, dẫn đến đẩy quốc gia này ở vào thế đối địch với Mỹ.

Sự xích lại gần Ấn Độ hơn được thể hiện trong sự kiện Kargil xảy ra vào tháng 5/1999, khi

Pakistan huy động lực lượng quân đội lớn xâm nhập vùng núi Kargil thuộc lãnh thổ Kashmir do

Ấn Độ kiểm soát. Toan tính của Pakistan là muốn quốc tế hóa tranh chấp Jammu và Kashmir để

lực lượng bên ngoài can thiệp như đã can thiệp vào Kosovo. Tuy nhiên, ý đồ đó không được Mỹ

ủng hộ. Sau khi quân đội Pakistan thâm nhập vùng Kargil và quân đội Ấn Độ đã được triển khai

với lực lượng mạnh, nguy cơ của một cuộc chiến tranh quy mô đang hiển hiện, Mỹ đưa ra yêu

cầu với thủ tướng Pakistan rằng quân đội nước này phải rút quân khỏi đường ranh giới kiểm soát

LOC và phái một viên sỹ quan quân sự cao cấp sang Islamabad để ép Pakistan rút quân. Trái với

thái độ đối với Pakistan, Tổng thống Clinton gọi điện cho Thủ tướng Vajpayee bày tỏ sự cảm

thông với lập trường của Ấn Độ trong vấn đề Kargil [34, tr 208]. Tiếp đó, tháng 10/1999, Mỹ

xem xét bãi bỏ một phần lệnh cấm vận mà họ đã tiến hành sau vụ thử hạt nhân của Ấn Độ tháng

5/1998.

Năm cuối cùng trong nhiệm kỳ của mình, Tổng thống Clinton một lần nữa phát đi tín hiệu

cho thấy chính sách coi trọng Ấn Độ khi ông thực hiện chuyến công du tới Ấn Độ nhiều ngày

trong khi chỉ dừng lại Pakistan vài giờ đồng hồ. Đây là chuyến thăm đầu tiên trong vòng hơn hai

thập kỷ, kể từ chuyến thăm của Tổng thống J. Cater vào năm 1978. Cùng đi với Clinton là một

lực lượng hùng hậu lên tới 1.200 người, trong đó có nhiều nhà kinh doanh Mỹ muốn tìm kiếm cơ

hội kinh doanh ở Ấn Độ. Các cuộc hội đàm đã nhấn mạnh đến phương hướng hợp tác song

phương và một số vấn đề quốc tế và khu vực. Về vấn đề Kashmir, một lần nữa Mỹ khẳng định

phải do các bên liên quan giải quyết. Về vấn đề phổ biến vũ khí hạt nhân Mỹ bày tỏ “những quan

tâm thực sự về mặt an ninh” của Ấn Độ (ám chỉ đe dọa từ Trung Quốc và Pakistan) nhưng Mỹ

cũng bày tỏ mong muốn Ấn Độ ngừng chương trình hạt nhân và sớm ký Hiệp ước cấm thử vũ khí

hạt nhân toàn diện (CTBT). Trong chuyến viếng thăm này, hai bên cũng đã đưa ra bản tuyên bố

chung mang tên “Tuyên bố tầm nhìn cho thế kỷ 21” với 3 vấn đề chính: an ninh và cấm phổ biến

vũ khí hạt nhân; phổ biến dân chủ trên toàn cầu; hợp tác kinh tế [34, tr 210]. Tuyên bố cũng đã

thể hiện cam kết của hai nước “làm sâu sắc mối quan hệ đối tác Mỹ - Ấn Độ trong hiện thực”[77,

tr 14].

Trong cuộc viếng thăm ngay sau đó tới Mỹ vào cuối năm 2000, Thủ tướng Atal Bihari

Vajpayee đã phát biểu trong một phiên họp chung của Quốc hội, đồng thời nêu lên trong bản

Tuyên bố chung lần thứ hai với Tổng thống Clinton, sự đồng ý hợp tác trên vấn đề kiểm soát vũ

khí, khủng bố và HIV/AIDS.

Nhìn chung trong thập niên này, xuất phát từ lợi ích địa – chính trị và những chuyển biến tích

cực theo sau cuộc cải cách của Ấn Độ, Mỹ có sự chuyển hướng chính sách với Ấn Độ. Từ chỗ

xem trọng Pakistan, có quan điểm ủng hộ Pakistan trong nhiều vấn đề đến chỗ hành động cân

bằng hơn, thậm chí nghiêng về Ấn Độ. Các chính sách khác cũng vận động theo chiều hướng đã

thay đổi của mối quan hệ Mỹ - Ấn.

2.2.2.Đối với Pakistan

Cũng nằm trong “vùng rìa” hay “khu vực vành đai”, Pakistan là quốc gia có vị trí địa – chính

trị quan trọng trên bàn cờ chính trị khu vực Nam Á và trên thế giới. Nằm ở phía tây của khu vực,

Pakistan có biên giới tiếp giáp với Ấn Độ, Trung Quốc, Afghanistan, Iran. Ở vị trí này, Pakistan

có khoảng cách không xa “Miền đất trái tim” mà nhà địa – chính trị Mackinder đề xuất trong khi

nghiên cứu lĩnh vực này. Với những lợi thế địa lý như trên, Pakistan được đánh giá cao và luôn

được các cường quốc lôi kéo nhằm thực hiện những toan tính của họ.

Trong Chiến tranh lạnh, giá trị địa – chính trị Pakistan đã được Mỹ khai thác phục vụ chính

sách toàn cầu chống Liên Xô và các nước XHCN. Pakistan lúc này được coi là đồng minh của

Mỹ và nhận những khoản viện trợ lớn, đồng thời luôn được Mỹ lên tiếng bênh vực, đứng bên

trong những vấn đề quốc tế, tranh chấp lãnh thổ với Ấn Độ. Chiến tranh lạnh kết thúc, mục tiêu

chống cộng sản của Mỹ không còn, vai trò của Pakistan trong chính sách toàn cầu của Mỹ sụt

giảm, vì vậy trong thập niên cuối thế kỷ XX, Pakistan không còn được Mỹ coi trọng. Có thể dễ

dàng nhận thấy những chuyển biến đó thông qua những sự kiện có liên quan đến mối quan hệ của

hai nước.

Dấu hiệu cho thấy sự thay đổi là những tuyên bố cắt giảm viện trợ của Mỹ cho Pakistan, tạm

ngưng các hợp đồng quân sự với Pakistan. Tháng 10/1990 Mỹ tiến hành cắt giảm viện trợ quân

sự và kinh tế cho Pakistan 570 triệu USD/năm. Cũng thời gian này, Mỹ phát hiện Pakistan đang

bí mật theo đuổi chương trình hạt nhân. Ngay lập tức, Quốc hội Mỹ đã phê chuẩn Tu chính án

Pressler với nội dung trừng phạt quốc gia vốn là đồng minh của họ. “Dưới những điều khoản của

Tu chính án Pressler này, hầu hết những viện trợ kinh tế và quân sự song phương chấm dứt, và

những chuyển giao thiết bị quân sự cũng chấm dứt”[75, tr 32]. Điều đáng nói, không phải đến

thời điểm này Pakistan mới có chương trình hạt nhân bí mật. Chương trình đó đã được tiến hành

bí mật nhằm chống lại Ấn Độ từ thập niên 70 của thế kỷ trước, nhưng không bị Mỹ phản ứng

mạnh mẽ.

Năm 1992, Quốc hội Mỹ nới lỏng một phần những biện pháp trừng phạt, cho phép viện trợ

lương thực thực phẩm và các tổ chức phi chính phủ được phép tiếp tục trợ giúp Pakistan. Tuy

nhiên, lệnh cấm vận dẫn đến Mỹ không chuyển giao các máy bay chiến đấu F-16 mà Pakistan đã

ký hợp đồng mua năm 1989. Hậu quả đối với Pakistan đến từ Tu chính án Pressler là rất đáng kể,

đặc biệt đã làm chậm quá trình chạy đua với Ấn Độ. Vì vậy, nhìn lại quan hệ với Mỹ trong giai

đoạn này, người Pakistan có cảm giác rằng họ bị “sử dụng và bỏ rơi” [75, tr 33].

Sự sụt giảm quan hệ không chỉ thể hiện ở cắt giảm viện trợ, hay lệnh trừng phạt mà còn diễn

ra trên những khía cạnh khác. Chẳng hạn sự nghiêng về Ấn Độ trong quan điểm giải quyết vấn đề

tranh chấp Jammu và Kashmir. Mỹ đi từ chỗ ủng hộ hoàn toàn quan điểm giải quyết của Pakistan

là tiến hành trưng cầu dân ý dưới sự giám sát của Liên Hợp Quốc để quyết định số phận vùng

lãnh thổ này thuộc về ai, sang ủng hộ quan điểm của Ấn Độ là giải quyết vấn đề theo tinh thần

song phương mà không cần dựa trên những nghị quyết của Liên Hợp Quốc đã được đưa ra từ

năm 1948. Không chỉ vậy, Mỹ cũng cùng quan điểm với Ấn Độ nhìn nhận nguồn gốc của những

bất ổn xuất phát từ lực lượng Hồi giáo cực đoan ở khu vực Kashmir do Pakistan quản lý, đồng

thời yêu cầu Pakistan ngưng cung cấp viện trợ cho những tổ chức này.

Người Pakistan cũng nhận thấy sự “suy giảm” giá trị trong quan hệ với Mỹ khi Mỹ chuyển

hướng coi trọng Ấn Độ hơn mình. Tu chính án Pressler được thông qua năm 1991 để trừng phạt

Pakistan do nghi ngờ quốc gia này đang theo đuổi chương trình hạt nhân bí mật nhưng lại không

được áp dụng với Ấn Độ, quốc gia cũng đang theo đuổi chương trình này.

Tháng 5/1998, ngay sau khi Ấn Độ tiến hành 5 vụ thử hạt nhân, Pakistan tiến hành liên tiếp 6

vụ thử. Kết quả là Pakistan trở thành quốc gia có vũ khí hạt nhân nhưng cũng như Ấn Độ, quốc

gia này phải đối diện với lệnh trừng phạt của Mỹ. Cũng như lệnh trừng phạt trước đó, lệnh trừng

phạt lần này thể hiện trong Tu chính án Glenn với các điều khoản dẫn đến hạn chế cung cấp tín

dụng, buôn bán quân sự, viện trợ kinh tế và các khoản vay cho chính phủ.

Tháng 5/1999, thực hiện ý đồ quốc tế hóa vấn đề Kashmir theo kiểu Kosovo [34, tr 207],

Pakistan đã lợi dụng tình hình bất ổn chính trị ở Ấn Độ sau khi chính phủ của Mặt trận thống

nhất thất bại trong cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm, ra lệnh cho quân đội, đồng thời bật đèn xanh cho

các lực lượng Hồi giáo vũ trang đóng quân ở lãnh thổ Pakistan vượt đường kiểm soát tạm thời

(LOC) xâm nhập sâu vào một số vùng đất Kashmir do Ấn Độ kiểm soát. Phản ứng lại, Ấn Độ đã

sử dụng cả bộ binh, pháo binh, không quân để truy quét lực lượng xâm nhập. Pakistan cũng sử

dụng pháo bắn vào phía Bắc Kashmir. Sau 3 tuần giao tranh với những thiệt hại nặng nề cho cả

hai bên: hàng trăm lính bị chết và bị thương, hàng chục nghìn dân phải di dời khỏi khu vực chiến

sự [37, tr 126].

Trong cuộc chiến lần này, không những không đạt mục tiêu ban đầu mà Pakistan còn bị cộng

đồng quốc tế cô lập khi cả Mỹ, Nga, EU và nhiều nước khác lên tiếng đòi Pakistan rút quân ra

khỏi khu vực do Ấn Độ kiểm soát. Pakistan bị khai trừ khỏi khối Liên hiệp Anh, bị Mỹ và một số

nước Phương Tây cấm vận. Đây là phản ứng gây bực tức chính quyền Pakistan nhưng không bất

ngờ khi Ấn Độ đang ngày một nổi lên và Mỹ đã nhận thấy vai trò quan trọng của họ trong thời kỳ

mới.

Tiếp sau thất bại cả về quân sự và chính trị trong cuộc khủng hoảng Kargil, tình hình

Pakistan trở nên bất ổn khi tướng Musharraf tiến hành cuộc đảo chính lật đổ chính phủ dân sự

Sharif, giải tán Quốc hội, tự mình nắm quyền điều hành đất nước. Cuộc đảo chính lật đổ chính

phủ được bầu Nawaz Sharif không được người Mỹ ủng hộ. Ngay sau cuộc đảo chính, Mỹ đã

phản ứng mạnh bằng việc tiếp tục áp đặt những trừng phạt mới. Quốc hội Mỹ đã bỏ phiếu cho

phép chính phủ áp dụng điều khoản 508 của Đạo luật phân bổ nước ngoài, bao gồm hạn chế tài

chính quân sự nước ngoài và viện trợ kinh tế. Viện trợ của chính quyền Mỹ cho Pakistan ngay

sau đó bị hạn chế, chỉ còn dành cho người tị nạn và viện trợ chống buôn bán ma túy.

Chính sách coi trọng Ấn Độ hơn Pakistan tiếp tục được Tổng thống Clinton theo đuổi trong

những năm cuối nhiệm kỳ của mình. Tháng 3/2002, ông có chuyến thăm 3 nước Nam Á. Phái

đoàn của Cliton đã ở lại Ấn Độ nhiều ngày và tiến hành hội đàm những nội dung quan trọng,

trong khi đó, do không muốn mất một đồng minh cũ, ông đã dừng chân vài giờ ở Pakistan [23, tr

277].

Nhìn lại những sự kiện thể hiện chiều hướng tiến triển quan hệ hai nước Mỹ - Pakistan có thể

dễ nhận thấy, Pakistan không còn được Mỹ coi trọng như thời Chiến tranh lạnh. Chính sách của

Mỹ với quốc gia này đã thay đổi. Sự “sụt giảm” vai trò của Pakistan trong chính sách của Mỹ

xuất phát từ vai trò địa – chính trị của quốc gia này không còn như trước đó. Khi lợi ích địa –

chính trị có được từ Pakistan không phục vụ cho chiến lược toàn cầu của Mỹ, họ sẵn sàng “nói

không” với những đề nghị của Pakistan. Áp đặt lệnh trừng phạt, cắt viện trợ kinh tế, đình chỉ các

quan hệ quân sự, không ủng hộ chính trị trong những tranh chấp, xung đột giữa Pakistan với Ấn

Độ… là những hành động nổi bật trong thập niên đầu sau Chiến tranh lạnh. Trong thập kỷ này,

người Pakistan thật sự cảm thấy mình bị bỏ rơi [75, tr 33].

Như vậy, khi bối cảnh quốc tế đã thay đổi, chính sách của Mỹ với Pakistan cũng có sự điều

chỉnh. Giá trị địa – chính trị của quốc gia này trong chính sách của Mỹ có sự giảm sút mạnh.

Pakistan không còn nhận được những ưu tiên như khi còn là một phần của chiến lược toàn cầu

ngăn chặn cộng sản do Mỹ cầm đầu. Tuy nhiên, thập niên ngay sau đó, vị trí Pakistan lại được

Mỹ coi trọng khi nước Mỹ đối diện và tham gia vào cuộc chiến chống khủng bố quốc tế.

2.2.3.Đối với các nước Nam Á khác

Các nước Nam Á khác có địa vị nhỏ hơn trong khu vực như Nepal, Bhutan, Sri Lanka,

Bangladesh, Maldives. Tuy cùng nằm trong khu vực “vùng rìa”, nhưng giới hạn về lãnh thổ, dân

số, tài nguyên khiến các quốc gia này có vai trò địa – chính trị hạn chế. Dù vậy, trong thế giới

nhiều cạnh tranh, các nước nhỏ luôn là đối tượng hướng tới của các cường quốc nhằm tập hợp

đồng minh, tạo đối trọng với các đối thủ. Vai trò địa – chính trị chỉ trở nên quan trọng khi bối

cảnh quốc tế, khu vực vận động theo hướng có lợi cho các nước nhỏ.

Thập niên đầu sau Chiến tranh lạnh, Liên Xô sụp đổ, các cường quốc khác chưa phát triển đủ

tầm, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất trên thế giới. Hiện thực lịch sử trên khiến Mỹ gần như

không có đối thủ và ít có những vấn đề quốc tế hóc búa cần giải quyết như trước và sau đó. Mỹ

tập trung vào giải quyết các vấn đề trong nước, đặc biệt là dưới 2 nhiệm kỳ của Tổng thống

Clinton. Quan hệ quốc tế lúc này được tập trung vào các nước lớn, các khu vực nhiều lợi ích.

Trong bối cảnh đó, các nước nhỏ Nam Á không được Mỹ quan tâm thúc đẩy quan hệ. Tuy nhiên,

những hoạt động viện trợ kinh tế trước đó của Mỹ cho các quốc gia này thông qua chương trình

của Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ (USAID) vẫn được tiến hành ở mức độ thấp cho các nước

như Nepal, Bangladesh nhằm giải quyết những khó khăn về chăm sóc sức khỏe, giáo dục,

chương trình phát triển nông thôn và chuyển đổi dân chủ trong các quốc gia này.

Đối với các nước nhỏ, Mỹ luôn ưu tiên thúc đẩy các tiến trình dân chủ, nhân quyền theo quan

điểm của Mỹ. Điều này không ngoại lệ ở khu vực Nam Á, đặc biệt là đối với các quốc gia không

xây dựng thể chế chính trị theo quan điểm chính trị của Mỹ như Nepal.

Trong suốt thời gian vận động ủng hộ nền dân chủ Nepal, Bộ Ngoại giao Mỹ bày tỏ mối

quan tâm tới sự quay lại của bạo lực ở sự kiện 1/1990 và thúc giục chính phủ tiến hành một cuộc

đối thoại với lực lượng dân chủ để ngăn chặn bạo lực và đàn áp. Hạ nghị sĩ Stephen Solarz, chủ

tịch Tiểu ban đối ngoại của Hạ viện đại diện khu vực châu Á -Thái Bình Dương và đồng nghiệp

của ông ta hai lần viếng thăm Nepal, gặp gỡ với vua và một loạt các nhà lãnh đạo chính trị nước

này để thảo luận những sự kiện có liên quan đến sự vận động dân chủ đang diễn ra. Mỹ dựa vào

những thông tin của Nhóm theo dõi nhân quyền châu Á công bố chi tiết trong một giải trình về

tra tấn, đàn áp và đối xử phi nhân tính đối với người bị tình nghi.

Ngoài ra các quốc gia Nam Á khác hầu như Mỹ chưa có những quan tâm đặc biệt nào ngoài

duy trì những quan hệ thông thường.

Nhìn chung trong thập niên này, Mỹ chưa gặp phải sự cạnh tranh địa – chính trị mạnh mẽ từ

các cường quốc khác ở đây, nên Mỹ không có những chính sách nhằm lôi kéo các quốc gia Nam

Á như Nepal, Bhutan, Bangladesh,Sri Lanka, Maldives như giai đoạn sau đó. Điều này cũng phù

hợp với thực lực và thực tế chiến lược của Mỹ trong những năm đầu sau Chiến tranh lạnh.

 Tiểu kết

Sau sự kiện “bức tường Berlin” sụp đổ và sự tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh của hai vị

lãnh đạo đứng đầu siêu cường thế giới, Liên Xô, Mỹ, lịch sử loài người chuyển sang một trang

mới. Tập hợp đồng minh, chạy đua vũ trang chống lại đối phương dẫn đến nguy cơ bùng nổ cuộc

chiến tranh thế giới thứ 3 không còn tính thời sự, nhưng không vì thế thế giới yên bình hơn.

Nhiều vấn đề quốc tế mới đang xuất hiện và xu hướng liên kết, xu hướng toàn cầu hóa đang

khiến thế giới gần nhau hơn. Trong bối cảnh đó, sự đấu tranh quyết liệt giữa các quốc gia, các

cường quốc vẫn âm thầm diễn ra nhằm xác lập, khẳng định vị thế quốc tế mới của mình. Trật tự

thế giới mới đang hình thành. Xu hướng đấu tranh cho một thế giới đơn cực hay đa cực đang diễn

ra.

Bối cảnh thay đổi, chính sách của mọi quốc gia thay đổi xoay quanh thực tế này. Mỹ cũng là

một quốc gia như vậy. Sau Chiến tranh lạnh, Mỹ là siêu cường duy nhất còn lại nhưng luôn đứng

trước những thách thức lớn từ những cường quốc mới nổi. Mỹ muốn thiết lập trật tự thế giới mới

mà ở đó Mỹ đứng đầu, trật tự đơn cực. Trong khi các cường quốc khác muốn thế giới vận động

theo hướng đa cực. Không thuyết phục được các cường quốc theo mình nhưng cũng không muốn

địa vị siêu cường hiện có bị đe dọa, Mỹ tiến hành chính sách nhằm ngăn chặn sự xuất hiện bất kỳ

cường quốc nào thách thức địa vị này của Mỹ.

Trên cơ sở đó, chính sách của Mỹ đối với các khu vực cũng thay đổi theo. Trước kia, Mỹ tập

trung vào những khu vực địa – chính trị, những quốc gia hướng tới ngăn chặn cộng sản, bao vây

Liên Xô. Vì vậy, nếu châu Âu được đề cao trong Chiến tranh lạnh thì châu Á nổi lên trong chính

sách của Mỹ sau Chiến tranh lạnh. Bởi theo lý thuyết của các nhà địa – chính trị ai nắm được đại

lục Á – Âu sẽ lãnh đạo được thế giới, ngoài ra châu Á tập trung những cường quốc mới nổi có

khả năng nhất trong việc thách thức địa vị bá quyền của Mỹ, Mỹ phải tham dự vào các tiến trình

chính trị, kinh tế, ngoại giao ở đây càng nhiều càng tốt để kiềm chế họ, hơn nữa châu Á hiện có

nhiều lợi ích của Mỹ cần phải bảo vệ, nhiều đồng minh cần hỗ trợ nhưng cũng nhiều quốc gia thù

địch cần ngăn chặn.

Thay đổi căn bản sau Chiến tranh lạnh là thế giới không còn sự đối đầu ý thức hệ, thay vào

đó là sự đối đầu, cạnh tranh quyết liệt giữa các cường quốc nhằm áp đặt ảnh hưởng của mình lên

các khu vực địa – chính trị mà ở đó phục vụ cho lợi ích chiến lược của họ. Thay đổi đó cũng dẫn

đến những thay đổi về quan điểm bạn – thù.

Trước kia Ấn Độ đối đầu với Mỹ, nhưng sau Chiến tranh lạnh, Mỹ có chính sách tiếp cận

quan điểm về quốc gia này cởi mở hơn. Thập niên 90 cho thấy chính sách của Mỹ đối với Ấn Độ

có sự chuyển biến tích cực. Mỹ có quan điểm cân bằng hơn trong vấn đề Kashmir, đẩy mạnh các

hoạt động hợp tác kinh tế, thương mại, tăng cường hợp tác quốc phòng, tập trận chung. Những vi

phạm quốc tế của Ấn Độ trong giai đoạn này cũng không bị Mỹ “trừng trị” mạnh tay. Sự chuyển

biến xuất phát từ chỗ Mỹ nhận thấy mối đe dọa từ Liên Xô đã chuyển sang mối đe dọa từ Trung

Quốc. Tham vọng cường quốc của Trung Quốc ngày càng trở nên rõ ràng. Mỹ phải khai thác

những bất đồng, mâu thuẫn giữa hai “gã khổng lồ” châu Á này để kiềm chế Trung Quốc. Thứ

nữa, công cuộc cải cách kinh tế của Ấn Độ theo hướng thị trường tự do đang tạo cơ hội cho các

nhà tư bản Mỹ tìm kiếm lợi nhuận ở đây, thúc đẩy chính quyền Mỹ phải có những thay đổi chính

sách nhằm thâm nhập vào thị trường của quốc gia đầy tiềm năng này. Ngoài ra, thay đổi chính

sách theo hướng cởi mở hơn trong quan hệ với Ấn Độ nhằm ngăn chặn hình thành trong tương

lai một thế lực chống lại Mỹ gồm những nước lớn như Nga, Trung Quốc, Ấn Độ.

Khác với Ấn Độ, chính sách của Mỹ với Pakistan cũng có sự chuyển hướng trong thập niên

đầu sau Chiến tranh lạnh, nhưng là từ chỗ coi trọng quốc gia này sang ít coi trọng hơn, thâm chí

là lạnh nhạt. Diễn biến của các sự kiện cho thấy nếu trước kia các va chạm giữa Ấn Độ và

Pakistan về tranh chấp Kashmir, Mỹ luôn đứng về Pakistan, cùng quan điểm với họ thì lúc này,

Mỹ có cách nhìn vấn đề khác biệt, có lợi hơn cho Ấn Độ. Những sự kiện khác cũng có chuyển

biến tương tự. Chẳng hạn, trước những vụ đánh bom trong lãnh thổ Ấn Độ, Mỹ đã cùng quan

điểm với Ấn Độ trong việc lên án chính quyền Islamabad đã để cho các phần tử khủng bố tồn tại

ở Pakistan. Trước những vi phạm quốc tế của Pakistan, Mỹ tiến hành cấm vận, cắt viện trợ, đình

chỉ các hợp đồng buôn bán quân sự cho quốc gia này.

Đối các quốc gia Nam Á khác, lúc này vai trò địa – chính trị của họ không lớn. Chính sách

của Mỹ chỉ nhằm hỗ trợ họ phát triển bình thường, ngăn chặn những bất ổn bên trong mỗi quốc

gia đe dọa an ninh, ảnh hưởng đến lợi ích của Mỹ trong khu vực.

Tóm lại, bối cảnh lịch sử thay đổi dẫn đến vai trò địa – chính trị của mỗi quốc gia ở Nam Á

cũng thay đổi theo, vì vậy chính sách của Mỹ đối với các nước trong khu vực có sự chuyển

hướng.

Chương 3: YẾU TỐ ĐỊA - CHÍNH TRỊ KHU VỰC NAM Á TRONG CHÍNH SÁCH

CỦA MỸ TỪ 9/2001 - 2009

3.1.Bối cảnh lịch sử thế giới và khu vực

Không lâu sau khi bước vào thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, thế giới chấn động trước

cuộc khủng bố kinh hoàng 11/9/2001 vào nước Mỹ. Những kẻ khủng bố Hồi giáo cực đoan sau

thời gian dài huấn luyện và lên kế hoạch đã thâm nhập vào nước Mỹ mà mạng lưới an ninh nội

địa Mỹ hoàn toàn không hay biết. Đúng vào ngày 11/9/2001, những kẻ khủng bố được trang bị

tinh thần tử vì đạo tiến hành đồng thời 4 vụ bắt cóc máy bay và điều khiển chúng tiến đến các

mục tiêu đã định. Hai chiếc lao vào tòa nhà chọc trời, trung tâm tài chính thế giới, niềm tự hào

của nước Mỹ, một chiếc tiến đến Lầu Năm Góc và một chiếc được cho là tiến đến Nhà Trắng. Ba

chiếc trong số đó đã đến được mục tiêu và tạo nên thiệt hại kinh hoàng cho nước Mỹ.

Ngay sau sự kiện 11/9 không lâu, Tổng thống Bush ra lệnh cho quân đội Mỹ tấn công lật đổ

chính quyền Taliban ở Afghanistan, nơi được coi là sào huyệt của những kẻ khủng bố đã tấn

công nước Mỹ, Bin Laden và tổ chức Al Qeada của ông ta. Một lực lượng hùng hậu với các

phương tiện chiến tranh hiện đại như máy bay, tàu chiến, tên lửa cùng với bộ binh Mỹ và liên

quân đã tấn công vào Afghanistan. Chính quyền Taliban được Mỹ coi là bảo trợ khủng bố nhanh

chóng bị tiêu diệt. Một chính quyền Hồi giáo thân Mỹ được thành lập ngay sau đó. Chính quyền

mới này đã nhận được những viện trợ kinh tế, quân sự, trợ giúp ngoại giao, trợ giúp xây dựng

chính quyền, chuyển đổi nội dung chương trình giáo dục…

Chiến dịch quân sự tiêu diệt Taliban kết thúc không lâu sau đó, nhưng cuộc chiến chống tàn

binh Taliban và lực lượng Al Qeada ở quốc gia này vẫn đang tiếp diễn ngày càng phức tạp. Sau

10 năm tham chiến, quân đội Mỹ và đồng minh vẫn chưa thực hiện được mục tiêu tiêu diệt tận

gốc chủ nghĩa khủng bố như đã từng tuyên bố, dù rằng mới đây trùm khủng bố Bin Laden đã bị

tiêu diệt.

Phải chăng Mỹ tấn công Afghanistan là vì mục tiêu tiêu diệt Bin Laden và mạng lưới khủng

bố Al Qeada của ông ta. Thực chất đằng sau “ưu tiên hàng đầu” của Mỹ lúc này là nắm lấy “cơ

hội vàng” cho tham vọng thâm nhập và tạo chỗ đứng ở khu vực Trung – Nam Á, một khu vực địa

– chính trị mà dù là nhà địa – chính trị cổ điển hay hiện đại theo quan điểm nào cũng đều thừa

nhận là quan trọng bậc nhất đối với tham vọng bá chủ của các cường quốc, tuy nhiên đã nhiều

năm Mỹ chưa hề thiết lập được bất cứ căn cứ nào ở đây [8, tr 14]. Lợi ích địa – chính trị có được

xung quanh cuộc chiến ở Afghanistan là không hề nhỏ. Nhờ tiến hành cuộc chiến chống khủng

bố, Mỹ đã được các quốc gia Trung Á như đóng 1500 quân ở Uzbekistan, sử dụng sân bay quốc

tế ở Tasgikistan, xây dựng căn cứ không quân và doanh trại cho hơn 3000 quân ở Kyrgyzstan.

Hiện thời Mỹ đang có 5 căn cứ quân sự tại các quốc gia này. Ngoài ra có được căn cứ ở

Afghanistan và chính quyền thân Mỹ ở đây, Mỹ có thể tiến hành các kế hoạch chiến lược đem lại

những lợi ích kinh tế lớn lao như xây dựng con đường vận chuyển dầu lửa từ khu vực Caspi qua

Afghanistan tới các cảng ở vùng biển Ả Rập. Nhờ vậy mà Mỹ tiếp cận được khu vực giầu trữ

lượng dầu lửa vào hàng thứ 3 thế giới này. Ngoài ra đứng chân được ở quốc gia Hồi giáo này,

Mỹ có thể thực hiện chiến lược kiềm chế Trung Quốc, Nga, Iran trong tương lai.

Dù thực chất mục đích của cuộc chiến ở Afghanistan là gì, thì cuộc chiến do Mỹ và liên quân

tiến hành sau sự kiện 11/9 đã làm cục diện thế giới thay đổi nhanh chóng. Các quốc gia trong khu

vực và trên thế giới ít nhiều đều có những điều chỉnh chính sách của mình cho phù hợp với bối

cảnh lịch sử mới. Chính sách toàn cầu của Mỹ ngay sau đó cũng có những điều chỉnh. Mỹ xem

xét lại chính sách đối với các quốc gia, khu vực trên thế giới. Nhiều quốc gia, khu vực trong thập

niên đầu sau Chiến tranh lạnh không được Mỹ coi trọng, nay đã được nhìn nhận lại. Quan hệ đối

tác – đối thủ, quan hệ bạn – thù cũng có những điều chỉnh, chẳng hạn Nga, Trung Quốc,

Pakistan... Những điều chỉnh này xuất phát từ thực tế rằng dù Mỹ là siêu cường thế giới, để tiêu

diệt tận gốc khủng bố, một mình nước Mỹ không làm được, hơn nữa, như vậy sẽ tổn hại đến hình

ảnh nước Mỹ, tình cảm chống Mỹ trên thế giới sẽ tăng cao.

Trong phát biểu tại lưỡng viện Mỹ vào 21/9/2001, Tổng thống Bush tuyên bố “các quốc gia

hoặc đi với Mỹ, hoặc đi với khủng bố” [8 tr 12]. Với tuyên bố này, thế giới được Mỹ chia làm 2

phe: một bên là các quốc gia chống chủ nghĩa khủng bố và một bên là lực lượng khủng bố và các

quốc gia hậu thuẫn chúng. Một tình thế tương tự thời Chiến tranh lạnh xuất hiện nhưng khác về

bản chất.

Đối với kẻ thù, Mỹ tuyên bố sử dụng vũ lực không giới hạn để tiêu diệt đối phương, Mỹ đã

thực hiện điều này ở những quốc gia mà họ cho là chứa chấp khủng bố như Afghanistan và Iraq.

Đối với các quốc gia có cùng quan điểm, Mỹ tranh thủ sự ủng hộ của họ trong cuộc chiến chống

khủng bố để các quốc gia này chia xẻ gánh nặng chiến tranh.

Đối với các cường quốc là đối thủ cạnh tranh với Mỹ như Nga, Trung Quốc, chính sách của

Mỹ sau sự kiện này cũng có những điều chỉnh theo hướng giảm bớt những đối đầu ngoại giao,

tranh thủ sự ủng hộ từ họ cho cuộc chiến chống khủng bố. Chẳng hạn với Nga, Mỹ chuyển từ chỉ

trích những hành động của quốc gia này ở Tresnia sang thừa nhận hành động của Nga ở đây là

cuộc chiến chống các phần tử khủng bố. Với Trung Quốc từ chỗ chính quyền Bush coi Trung

Quốc là “đối thủ cạnh tranh chiến lược” trong những tháng đầu nhậm chức, sang tranh thủ sự ủng

hộ của quốc gia này trong cuộc chiến chống khủng bố. Trong chuyến công du đến Thượng Hải

dự Hội nghị APEC tháng 10/2001, Bush đã gặp và hội đàm với Chủ tịch Giang Trạch Dân. Tại

cuộc gặp hai bên đã khẳng định “tình đoàn kết mới và mục đích chung”, giải tỏa một số bất đồng

trước đó như vụ va chạm máy bay do thám EP – 3, Mỹ cam kết ủng hộ mạnh mẽ Trung Quốc gia

nhập WTO. Cũng trong thời gian này, Bush đưa ra đề nghị muốn cùng Trung Quốc xây dựng

“mối quan hệ hợp tác có tính xây dựng” [11, tr 51], một quan điểm khác hẳn với quan điểm của

ông trước sự kiện 11/9 đối với quốc gia này khi coi Trung Quốc là “đối thủ cạnh tranh chiến

lược”. Nhân tố gai góc nhất trong quan hệ Mỹ - Trung là những cam kết, hợp đồng buôn bán vũ

khí của Mỹ với Đài Loan. Bush từng tuyên bố “sẽ làm tất cả những gì cần thiết để giúp Đài Loan

tự vệ” [23, tr 46]. Nhưng sau sự kiện khủng bố nước Mỹ, Bush không chủ trương những động

thái dẫn đến gây căng thẳng với Trung Quốc trong vấn đề Đài Loan.

Sau tuyên bố “các quốc gia hoặc đi với Mỹ, hoặc đi với khủng bố” và Mỹ sẽ “đánh đòn phủ

đầu” đối với các quốc gia Mỹ xem là tài trợ khủng bố, đồng thời có những động thái thay đổi

chính sách theo hướng mềm mỏng hơn đối với nhiều quốc gia, Mỹ đã nhận được từ cộng đồng

quốc tế sự đồng tình trong cuộc chiến chống khủng bố. Chẳng hạn Trung Quốc bỏ phiếu ủng hộ

nghị quyết của Liên Hợp Quốc đồng ý cho phép Mỹ sử dụng vũ lực chống lại chính quyền

Taliban. Nga cũng tỏ tình đoàn kết với Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố, chấp thuận cho

máy bay Mỹ bay qua không phận nước này để cung cấp hậu cần cho lực lượng Mỹ và liên quân ở

chiến trường Afghanistan, chia sẻ tin tình báo và kinh nghiệm những năm chiến tranh trong thập

niên 80 ở chiến trường này với Mỹ. Các nước đồng minh của Mỹ tích cực tham gia cuộc chiến,

chia sẻ với Mỹ gánh nặng tài chính, điều động quân đội trực tiếp tham chiến ở một số nơi…

Ngoài ra, Mỹ cũng nhận được sự ủng hộ từ một số nước trong thế giới Ả Rập.

Tuy nhiên, những chuyển biến này chỉ là tức thời, không phải cuộc chiến chống khủng bố đã

hóa giải những mẫu thuẫn chiến lược giữa các cường quốc. Nga và Trung Quốc ủng hộ cuộc

chiến này bởi chính các quốc gia này cũng đang đối diện với những vấn đề khủng bố, li khai

trong chính quốc gia của họ mà phương Tây luôn lên tiếng chỉ trích. Điều này càng thể hiện rõ

trong những sự kiện sau đó.

Năm 2003 Mỹ tiến hành cuộc chiến nhằm lật đổ chính quyền Iraq của Saddam Hussen. Mặc

dù cuộc chiến này cũng lấy lý do chống lại quốc gia bảo trợ khủng bố và âm mưu phát triển

chương trình vũ khí giết người hàng loạt, Mỹ vấp phải sự phản đối của nhiều quốc gia, trong đó

có những nước đã từng ủng hộ cuộc chiến ở Afghanistan như Nga, Trung Quốc. Mặt trận chống

khủng bố mà Mỹ đã tập hợp được trong cuộc chiến ở Afghanistan hai năm trước đó không tái

hiện trong cuộc chiến lần này.

Điều này không mấy bất ngờ bởi thực chất của hai cuộc chiến mà Mỹ tiến hành không phải

như những tuyên bố công khai. Hơn nữa, các nước bày tỏ sự ủng hộ cuộc chiến của Mỹ ở

Afghanistan cũng xuất phát từ những lợi ích và toan tính của họ. Khi những lợi ích đó không còn

đảm bảo, tất yếu sẽ không ủng hộ Mỹ như họ đã từng làm.

Cuộc chiến lật đổ chính quyền Taliban ở Afghanistan và cuộc chiến lật đổ chính quyền

Saddam Hussein ở Iraq sau đó cho thấy sức mạnh quân sự của Mỹ. Nhiều loại vũ khí tinh vi, hiện

đại, độ chính xác cao đã được Mỹ sử dụng trên những chiến trường này. Mục tiêu lật đổ các

chính quyền ở những quốc gia có vị trí địa – chính trị, kinh tế quan trọng nhưng luôn có chính

sách đối đầu với Mỹ nhanh chóng hoàn thành. Mỹ đã tiến hành dựng lên và ủng hộ quân sự,

chính trị, kinh tế, ngoại giao những chính quyền thân Mỹ ở đây.

Tuy nhiên, dù những chiến dịch quân sự hùng mạnh đã kết thúc thắng lợi, Mỹ và các chính

quyền mới thành lập ở Afghanistan và Iraq vẫn chưa chấm dứt được cuộc chiến. Quân đội Mỹ

vẫn chưa thực hiện được mục tiêu tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa khủng bố, trong khi đó tình cảm

chống Mỹ ở những quốc gia này ngày càng dâng cao. Chính quyền Mỹ vẫn chưa thực hiện được

cam kết rút hết quân đội của mình ra khỏi các quốc gia này, do đó những tổn thất đối với các binh

sĩ Mỹ không ngừng gia tăng, sự an toàn của người Mỹ ở khắp nơi trên thế giới vẫn bị đe dọa.

Vì vậy, sau khi kết thúc các chiến dịch quân sự, Mỹ vẫn tiếp tục duy trì chính sách coi trọng

Afghanistan và Iraq. Đặc biệt ở Afghanistan, Mỹ vẫn phải tiến hành các hoạt đồng quân sự truy

quét tàn quân Taliban và Al Qeada, một cuộc chiến tốn kém và có nguy cơ ngày càng sa lầy. Để

tiến hành có hiệu quả, Mỹ phải tìm kiếm sự ủng hộ của các quốc gia, khu vực láng giềng. Vì vậy

khu vực Nam Á vẫn là một trong những khu vực được Mỹ coi trọng trong tương lai.

Trong thập niên này, vấn đề phát triển hạt nhân bí mật của các nước trên thế giới đã tạo nên

những căng thẳng chính trị quốc tế, đặc biệt là chương trình hạt nhân gây tranh cãi của Iran và

Triều Tiên. Những người đứng đầu các quốc gia này luôn có quan điểm chống Mỹ và phương

Tây. Họ cho rằng vũ khí hạt nhân có thể hóa giải được tình thế yếu về mọi mặt trong quan hệ

quốc tế, từ đó “bình đẳng” hơn trước các cường quốc như Mỹ. Ngược lại, Mỹ luôn muốn xóa bỏ

chương trình hạt nhân bí mật của các chính phủ thù địch với nước Mỹ này. Những lệnh cấm vận

quốc tế luôn được Mỹ khởi xướng bên cạnh những đe dọa quân sự nhắm vào các quốc gia này.

Tiến hành chiến tranh chống các quốc gia này là một quyết định mạo hiểm, nhưng tiến hành bao

vây làm suy yếu họ là một lựa chọn được cho là hiệu quả. Nam Á nằm gần Iran, chính quyền đối

đầu với Mỹ, vì vậy lợi ích có được từ vị trí địa lý này luôn được Mỹ tính đến trong tình hình mới.

Một góc độ khác của bối cảnh quốc tế và khu vực sau sự kiện 11/9 là thế giới vẫn tiếp diễn

cuộc đấu tranh giữa xu hướng đơn cực và đa cực giữa các cường quốc. Bên cạnh những tuyên bố

và việc làm tỏ tình ủng hộ, sát cánh cùng Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố, Nga, Trung

Quốc mạnh mẽ phản đối những hành động của Mỹ và phương Tây nhằm vào lợi ích của những

quốc gia này. Đối với Nga nổi bật là những vấn đề như chủ trương mở rộng NATO về hướng

Đông, thu nạp các nước nằm trong khu vực ảnh hưởng truyền thống của Nga. Hậu thuẫn và kích

động những cuộc cách mạng màu lật đổ chính quyền, thay bằng chính quyền thân phương Tây, ở

các quốc gia nằm trong khối SNG cũng như quan trọng về an ninh chiến lược đối với Nga như

Gruzia, Ucraina, 11TKyrgyzstan. Gần đây là kế hoạch phát triển hệ thống rada và tên lửa đánh chặn

đặt ở châu Âu của Mỹ mà Nga cho là nhằm vào họ…Đối với Trung Quốc, quốc gia này thực chất

vẫn bị Mỹ coi là đối thủ cạnh tranh chiến lược, là quốc gia có khả năng nhất trong việc đe dọa vị

trí siêu cường của Mỹ trong tương lai. Vì vậy, Trung Quốc vẫn là đối tượng Mỹ áp dụng chính

sách kiềm chế. Bên cạnh đó chủ trương thống nhất các vùng lãnh thổ vào Trung Quốc đại lục,

trường hợp Đài Loan, luôn bị Mỹ ngăn cản. Sự hòa dịu về vấn đề Đài Loan sau sự kiện 11/9 và

tuyên bố thừa nhận một nước Trung Quốc không đảm bảo rằng Mỹ sẽ không can dự gì trong quá

trình thống nhất hai bờ.

Sau sự kiện 11/9, chính quyền Bush đã có sự điều chỉnh chính sách cho phù hợp với diễn

biến của tình hình, phù hợp với mục tiêu từng được công khai tuyên bố và ưu tiên hàng đầu của

nước Mỹ lúc này là tiêu diệt các lực lượng khủng bố.

Tuy nhiên, đây chỉ là chính sách hiện thời phù hợp với thực tế cần sự ủng hộ quốc tế trong

cuộc chiến chống khủng bố mà Mỹ đang theo đuổi, về lâu dài Mỹ vẫn không coi nhẹ sự phát

triển mạnh mẽ của Trung Quốc. Sau những năm thành công trong chính sách đối nội, phát triển

đất nước, tham vọng trở thành một quốc gia lãnh đạo thế giới cạnh tranh với Mỹ của Trung Quốc

ngày càng khiến các nhà hoạch định chính sách, chính trị gia và giới cầm quyền Mỹ cẩn trọng

hơn với quốc gia này. Trong bối cảnh đó, Nam Á được xem xét như một bộ phận của chiến lược

mới.

3.2.Chính sách của Mỹ đối với Ấn Độ

Ngày 11/9/2001, nước Mỹ trấn động bởi vụ khủng bố kinh hoàng của những kẻ Hồi giáo cực

đoan. Chỉ ít lâu sau đó, Tổng thống Mỹ đã ra lệnh cho quân đội Mỹ ở nước ngoài thực hiện cuộc

chiến tranh tiêu diệt những kẻ khủng bố được cho là có sào huyệt tại Afghanistan. Cuộc chiến

tranh không chỉ làm thay đổi chính sách của Mỹ với khu vực này mà còn làm thay đổi hàng loạt

chính sách của Mỹ đối với các khu vực khác trên thế giới.

Trong cuộc chiến chống khủng bố, Nam Á trở thành khu vực có vị trí hậu cần quan trọng,

đặc biệt là Pakistan. Vì vậy, Mỹ đã có những thay đổi chính sách đối với Pakistan và các nước

khác ở Nam Á. Nếu thập niên 90 của thế kỷ trước, Pakistan bị giảm sút vai trò trong các chính

sách của Mỹ ở khu vực, thì ngay sau sự kiện 11/9/2001, Pakistan được Mỹ coi là “đồng minh chủ

chốt” trong cuộc chiến chống khủng bố trên thế giới.

Việc đề cao vai trò của Pakistan trong cuộc chiến chống khủng bố ít nhiều ảnh hưởng đến

chính sách của Mỹ đối với Ấn Độ trong giai đoạn này. Tuy nhiên, Mỹ không thể đánh đổi những

lợi ích địa – chính trị có được trong duy trì mối quan hệ thân thiện với Ấn Độ lấy lợi ích từ việc

chống khủng bố. Vì vậy, chính sách của Mỹ với địch thủ của Ấn Độ, Pakistan, có chuyển biến

tích cực nhưng không vì thế chính sách của Mỹ với Ấn Độ thay đổi theo chiều hướng ngược lại

như đã từng tồn tại trong thời kỳ Chiến tranh lạnh.

Hơn nữa trong giai đoạn này, Ấn Độ theo đuổi chính sách làm yên tâm các nhà hoạch địch

chính sách Mỹ. Chẳng hạn, ngay sau vụ 11/9, Ấn Độ đã tuyên bố ủng hộ cuộc chiến chống khủng

bố của Mỹ và sẵn sàng cung cấp căn cứ hậu cần cho Mỹ tiến hành cuộc chiến ở Afghanistan nếu

người Mỹ đặt vấn đề. Ngoài ra trong một diễn biến khác khi các quốc gia lên tiếng phản đối Mỹ

triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa chiến lược thì Ấn Độ tỏ ý đồng tình với Mỹ [23, tr 249].

Nhìn chung, theo đuổi mục tiêu chống khủng bố, Mỹ phải coi trọng quan hệ với Pakistan để

tranh thủ quốc gia này trong cuộc chiến tranh chưa có hồi kết. Tuy nhiên không vì mục tiêu đó,

Mỹ có những hành động làm tổn thương mối quan hệ với Ấn Độ. Vai trò địa – chính trị Ấn Độ

trong bối cảnh mới là: đối trọng kiềm chế Trung Quốc, ngăn chặn sự hình thành liên minh với

Nga, Trung Quốc, cung cấp hậu cần cho cuộc chiến chống khủng bố Mỹ đang thực hiện ở

Afghanistan, thúc ép từ bỏ các quan hệ với Iran.

Để đạt được những mục tiêu này, Mỹ phải tiến hành các chính sách nhằm thắt chặt quan hệ

với Ấn Độ, chia xẻ những thách thức mà Ấn Độ đang đối diện xuất hiện từ các nước khác như

nguy cơ chiến tranh từ quốc gia láng giềng thù địch Pakistan, sự gia tăng sức ép từ Trung Quốc...

Thập niên đầu thế kỷ XXI có thể nhận thấy những chính sách nổi bật của Mỹ đối với Ấn Độ ở

các điểm như: thúc đẩy giải quyết nguy cơ chiến tranh Ấn Độ - Pakistan, hợp tác hạt nhân dân sự,

hợp tác kinh tế, hợp tác không gian dân sự, hợp tác công nghệ cao, hợp tác an ninh quốc phòng.

3.2.1.Thúc đẩy giải quyết nguy cơ chiến tranh giữa Ấn Độ và Pakistan

Không chấp nhận vùng lãnh thổ Kashmir do Ấn Độ quản lý thuộc về Ấn Độ, lực lượng Hồi

giáo cực đoan ở Kashmir do Pakistan kiểm soát luôn thực hiện các âm mưu châm ngòi nổ cho

một cuộc chiến tranh mới. Từ năm 2001 đến nay, những kẻ Hồi giáo cực đoan đã tiến hành nhiều

cuộc khủng bố vào các cơ sở của Ấn Độ, gây tổn thất lớn về nhân mạng và tài sản, đẩy hai nước

đến trước nguy cơ đối đầu quân sự. Đáng kể là cuộc khủng bố 10/2001 của lực lượng chống đối

Hồi giáo vào văn phòng lập pháp bang ở vùng Kashmir do Ấn Độ kiểm soát làm 40 người thiệt

mạng; tháng 12/2001 vụ khủng bố Toà nhà Quốc hội Ấn Độ làm 14 người thiệt mạng; ngày

7/7/2008, một vụ đánh bom xe vào Đại sứ quán Ấn Độ ở Kabul được cả chính quyền

Afghanistan và Ấn Độ khẳng định có bằng chứng cho thấy các cơ quan tình báo Pakistan có dính

lứu đến cuộc tấn công; tháng 11/2008, một nhóm khủng bố được cho là có căn cứ ở Pakistan đã

tiến hành cuộc khủng bố kinh hoàng ở Mumbai làm khoảng 165 người thiệt mạng…Những diễn

biến đó luôn đẩy quan hệ hai nước đến chỗ đối đầu quân sự.

Sẽ là thảm họa lớn xuất phát từ mâu thuẫn không được hóa giải dẫn đến một cuộc xung đột,

mở rộng thành một cuộc chiến tranh thông thường và leo thang thành một cuộc chiến tranh hạt

nhân. Xuất phát từ mục tiêu duy trì hòa bình khu vực Nam Á, Mỹ luôn can dự tích cực để tháo

ngòi nổ cho những nguy cơ dẫn đến xung đột quân sự giữa hai nước, vì bất kể cuộc chiến nào

giữa Ấn Độ và Pakistan xảy ra lúc này sẽ gây bất lợi lớn tới nhiệm vụ chống khủng bố mà Mỹ

đang theo đuổi ở Afghanistan. Hơn nữa, chiến tranh sẽ gây mất ổn định khu vực, tổn hại đến

những lợi ích kinh tế mà người Mỹ đang có được từ khu vực này. Ngoài ra, một cuộc chiến trong

tương lai xảy ra sẽ gây khó khăn cho Mỹ trong việc ứng xử với hai bên.

Vụ khủng bố tòa nhà Quốc hội Ấn Độ tháng 12/2001 đẩy hai quốc gia thù địch ở Nam Á này

đến trước bờ vực của cuộc chiến tranh. Khoảng 700.000 quân Ấn Độ đã được chuyển đến dọc

biên giới Ấn Độ - Pakistan. Pakistan đã phản ứng tương tự khi ra lệnh điều các đơn vị từ khu vực

biên giới với Afghanistan chuyển về khu vực biên giới với Ấn Độ và đe dọa chống lại cuộc tấn

công quân sự của Ấn Độ bằng lực lượng thông thường và hạt nhân [69]. Cộng đồng quốc tế kêu

gọi hai bên kiềm chế, các quốc gia có nhiều lợi ích ở đây tiến hành hàng loạt các hoạt động ngoại

giao tháo ngòi nổ. Trong khi tiến hành các hoạt động ngoại giao, cộng đồng quốc tế gây áp lực

lên Pakistan đòi quốc gia này có những biện pháp ngăn chặn các hành động thâm nhập qua biên

giới của các phần tử Hồi giáo cực đoan, không để lãnh thổ của mình thành nơi trú ẩn an toàn cho

các tổ chức khủng bố. Trước những áp lực từ cộng đồng quốc tế và đe dọa sử dụng vũ lực của Ấn

Độ, Tổng thống Musharraf đã đưa ra cam kết chấm dứt sự tồn tại hiện thời của các tổ chức khủng

bố trên lãnh thổ Pakistan. Ông đặt ra ngoài vòng pháp luật 5 nhóm phiến quân, những nhóm

thường xuyên bị nêu tên trong những vụ tấn công trên lãnh thổ Ấn Độ.

Dù vậy, khủng bố vẫn không bị tiêu diệt hoàn toàn. Các vụ thâm nhập vào khu vực Kashmir

do Ấn Độ kiểm soát vẫn tiếp tục diễn ra. Tháng 3/2002, căng thẳng sau vụ khủng bố tòa nhà

Quốc hội Ấn Độ chưa lắng dịu, một vụ tấn công khủng bố khác vào căn cứ quân sự Ấn Độ ở

Kaluchak giết chết 34 người đã đẩy quan hệ Ấn Độ - Pakistan trở lại bờ vực của chiến tranh. Một

lần nữa những nỗ lực quốc tế làm giảm căng thẳng giữa hai bên lại diễn ra. Trong những nỗ lực

này, nhiều quan chức cao cấp của Mỹ đã tham gia vào để ngăn không cho hai bên đi đến chỗ sử

dụng vũ lực, đồng thời kêu gọi đàm phán giải quyết mâu thuẫn [75].

Bộ ba quan hệ Mỹ, Ấn Độ, Pakistan lúc này thường ở thế cân bằng. Mỹ cố gắng không

nghiêng về bên nào. Trước những sự kiện như trên, chính sách của Mỹ là chủ động tiến hành các

hoạt động ngoại giao không để mâu thuẫn đôi bên dẫn đến chiến tranh, gây bất lợi cho những

mục tiêu mà Mỹ đang theo đuổi ở khu vực này. Tuy nhiên, từ sau cuộc viếng thăm chính thức

của Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh tới Mỹ tháng 7/2005, chính sách của Mỹ đối với Ấn Độ

đã chuyển sang giai đoạn mới. Không bao lâu sau đó, tháng 3/2006, Tổng thống Bush tiến hành

chuyến thăm 3 ngày tới Ấn Độ để thảo luận tăng cường hơn nữa một “đối tác toàn cầu” song

phương. Bản Chiến lược an ninh quốc gia Mỹ năm 2006 của Mỹ khẳng định rằng “Ấn Độ hiện

nay đã sẵn sàng gánh vác nghĩa vụ toàn cầu trong việc hợp tác với Mỹ trong thẩm quyền phù hợp

với một cường quốc” [77, tr 14]. Những chuyển biến này dẫn đến Mỹ có quan điểm nghiêng về

Ấn Độ trước những vấn đề có liên quan tới Pakistan. Điều này được thể hiện trong những sự kiện

tiếp sau đó.

Tháng 11/2008, 10 tên khủng bố được trang bị vũ khí đã tiến hành những vụ khủng bố kinh

hoàng vào thành phố Mumbai ở Ấn Độ. Trước bằng chứng cho thấy cuộc khủng bố liên quan đến

nhóm Hồi giáo có căn cứ ở Pakistan, Mỹ đã tỏ thái độ lên án cuộc khủng bố. Cả Tổng thống

Bush và Tổng thống đắc cử Obama lúc bấy giờ đều đưa ra những tuyên bố ngay lập tức hỗ trợ và

chia buồn tới chính quyền và người dân Ấn Độ. Quốc hội Mỹ thông qua nghị quyết Hak 1532

vào 10/12, theo đó lên án cuộc tấn công, đồng ý chia buồn, hỗ trợ cho người dân và chính quyền

Ấn Độ, đồng thời bày tỏ mong muốn Quốc hội Mỹ cải thiện hợp tác giữa Ấn Độ với Mỹ để chiến

đấu chống khủng bố và thúc đẩy an ninh quốc tế. Nghị quyết cũng kêu gọi chính quyền Pakistan

hợp tác đầy đủ với Ấn Độ để đưa những kẻ có tội ra toà và không để lãnh thổ Pakistan trở thành

nơi “cung cấp một vùng trú ẩn và huấn luyện an toàn cho những tên khủng bố” [77, tr 6].

Tháng 12, Ấn Độ nhận được sự ủng hộ khác từ cộng đồng quốc tế, trong đó có Mỹ, khi Hội

đồng An ninh Liên Hợp Quốc đã phê chuẩn các cáo buộc liên hệ với khủng bố đối với tổ chức

Jamaat-ud-Dawa (JuD), một tổ chức từ thiện trên danh nghĩa có cơ sở tại Pakistan.

3.2.2.Xúc tiến hợp tác hạt nhân dân sự với Ấn Độ

Vấn đề phát triển hạt nhân là một trong những trở ngại lớn tới quan hệ Mỹ - Ấn. Năm 1968,

Ấn Độ được đề nghị ký Hiệp ước không phổ biến hạt nhân (NPT), nhưng Ấn Độ cho là phân biệt

đối xử nên từ chối ký kết hiệp định này. Việc từ chối đã khiến họ không tiếp cận được nhiên liệu

và những vật liệu liên quan đến hạt nhân trên thị trường quốc tế trong hơn 3 thập kỷ. Tuy nhiên,

quyết tâm có được loại năng lượng này, Ấn Độ đã bí mật nghiên cứu trong nhiều thập niên. Năm

1974, Ấn Độ đã tiến hành vụ nổ thử nghiệm đầu tiên. Năm 1998, Ấn Độ lại tiến hành 5 vụ nổ

liên tiếp. Thành công từ những vụ nổ này khiến Ấn Độ được coi như một quốc gia hạt nhân.

Sau những vụ nổ hạt nhân, Ấn Độ đối diện với những lệnh trừng phạt từ Mỹ và cộng đồng

quốc tế. Tuy nhiên, Mỹ nhận thấy biện pháp này không ngăn chặn được mong muốn sở hữu hạt

nhân của Ấn Độ, trái lại có nguy cơ đẩy Ấn Độ ra xa Mỹ khiến không kiểm soát được hoạt động

chuyển giao nguyên liệu hay công nghệ hạt nhân cho nước thứ ba. Do vậy, một mặt Mỹ vẫn thúc

đẩy Ấn Độ tham gia vào Hiệp ước không phổ biến hạt nhân (NPT), mặt khác Mỹ lựa chọn hợp

tác hạt nhân dân sự với Ấn Độ, qua đó kiểm soát hoạt động này của họ. Đây là sự chuyển biến cơ

bản trong quan điểm của Mỹ về vấn đề hạt nhân Ấn Độ trong thập kỷ này.

Trong bản Tuyên bố chung Mỹ - Ấn Độ tháng 7/2005, Mỹ đã coi Ấn Độ là “đối tác toàn

cầu”, đồng thời nhiều vấn đề hợp tác hai bên trong tương lai với Ấn Độ đã được nhắc đến. Bản

tuyên bố này cũng khẳng định rằng “như một quốc gia có trách nhiệm với công nghệ hạt nhân

tiến bộ, Ấn Độ nên có được những lợi ích và lợi thế giống như các quốc gia khác” và Tổng thống

Bush cam kết ông sẽ hành động để hoàn thành “hợp tác năng lượng hạt nhân dân sự toàn diện với

Ấn Độ”. Tuyên bố của người đứng đầu nước Mỹ được đánh giá như một sự đảo ngược trong suốt

3 thập niên theo đuổi đường lối ép buộc Ấn Độ chấp nhận chính sách không phổ biến của Mỹ.

Đổi lại, chấp nhận hợp tác hạt nhân dân sự với Mỹ, Ấn Độ phải để cho các thanh sát viên quốc tế

tiếp cận các cơ sở hạt nhân của họ. Đây là một điều kiện không dễ chấp nhận đối với Ấn Độ nên

hai bên đã đi đến đồng ý thực hiện từng giai đoạn phân loại những cơ sở hạt nhân quân sự và dân

sự, đồng thời đặt các cơ sở hạt nhân dân sự dưới sự thanh sát quốc tế.

Tháng 3/2006, Tổng thống Bush và Thủ tướng Singh đã đưa ra một Tuyên bố chung khác,

theo đó thông báo “hoàn tất thành công kế hoạch phân loại các cơ sở hạt nhân”. Đây là kết quả

của những tháng thương lượng khó khăn và phức tạp để đạt được một kế hoạch phân loại các cơ

sở hạt nhân dân sự và quân sự theo Tuyên bố chung 2005. Kế hoạch này yêu cầu, đến trước năm

2014, Ấn Độ chuyển 14 trong số 22 lò phản ứng hạt nhân vào trong sự giám sát vĩnh viễn của

quốc tế và đặt tất cả những lò phản ứng dân sự trong tương lai dưới sự bảo vệ an toàn vĩnh viễn.

Về phía Mỹ, để đạt được hợp tác hạt nhân dân sự với Ấn Độ trong thực tế Ấn Độ chưa tham

gia vào Hiệp ước không phổ biến hạt nhân, Mỹ phải có hàng loạt những thay đổi pháp lý, các

chính sách của mình đối với lĩnh vực hợp tác hạt nhân, cũng như tiếp cận Nhóm các nhà cung

cấp hạt nhân quốc tế (NSG: bao gồm 46 quốc gia tiên tiến đã tham gia NPT, thiết lập các quy tắc

thương mại hạt nhân toàn cầu) trong nỗ lực điều chỉnh những nguyên tắc của chế độ không phổ

biến, điều đã được thiết lập bởi sự nhất trí của các thành viên. Tuy nhiên vì mục tiêu chiến lược

trong vấn đề hạt nhân với Ấn Độ, chính quyền Mỹ đã chủ động tháo gỡ từng bước khó khăn để đi

đến hợp tác hạt nhân dân sự với quốc gia này.

Để đạt được sự nhất trí này, chính quyền Bush phải xua tan được những lo ngại của các nhà

lập pháp nảy sinh từ hợp tác hạt nhân với Ấn Độ. Các lo ngại tập trung ở chỗ hợp tác hạt nhân sẽ

tạo thuận lợi gia tăng quy mô kho hạt nhân của Ấn Độ, khả năng dẫn tới chạy đua vũ khí hạt

nhân ở châu Á và sẽ xói mòn chế độ không phổ biến toàn cầu, đồng thời gây thiệt hại đáng kể

đến lợi ích an ninh của Mỹ.

Trong buổi họp quan trọng của Thượng viện Mỹ vào 4/2006, Ngoại trưởng Rice đã chỉ ra 5

cái lợi trong trường hợp chính quyền Bush hợp tác hạt nhân dân sự với Ấn Độ để nhận được sự

đồng ý thay đổi luật từ các nhà làm luật Mỹ. Các lợi ích mà chính quyền Bush đưa ra là: được lợi

cho an ninh Mỹ bởi đưa Ấn Độ vào trong “xu hướng chủ đạo của không phổ biến”; được lợi cho

người tiêu dùng Mỹ bởi giảm áp lực trên thị trường năng lượng toàn cầu, đặc biệt là năng lượng

hóa thạch; được lợi cho môi trường bởi giảm khí gây hiệu ứng nhà kính; được lợi cho lợi ích

thương mại của Mỹ thông qua bán cho Ấn Độ những lò phản ứng, nhiên liệu và dịch vụ hỗ trợ

hạt nhân; được lợi từ cải thiện mở rộng “đối tác toàn cầu” Mỹ - Ấn Độ.

Mặc dù nhận thấy những lợi ích từ hợp tác hạt nhân dân sự với Ấn Độ, các nhà lập pháp Mỹ

vẫn lo ngại về khả năng Ấn Độ lợi dụng hợp tác hạt nhân với Mỹ để mở rộng kho hạt nhân của

mình khiến cơ quan hành pháp và cơ quan lập pháp Mỹ phải trải qua nhiều tranh luận, điều chỉnh

mới đi đến thông qua đạo luật cho phép chính quyền Mỹ tiến hành hợp tác hạt nhân với Ấn Độ.

Những trở ngại quan trọng là các nhà làm luật yêu cầu cơ quan hành pháp phải đảm bảo nếu Ấn

Độ tiến hành một thử nghiệm hạt nhân trong tương lai, người Mỹ sẽ thu hồi ngay lập tức các thiết

bị hạt nhân đã cung cấp cho Ấn Độ, đồng thời Mỹ cũng không đi đến cam kết cung cấp nguyên

liệu hạt nhân vĩnh viễn cho Ấn Độ, điều mà chính quyền Bush biết chắc không thể nhận được sự

chấp thuận từ Ấn Độ.

Ngày 18/9/2008, Ủy ban đối ngoại Thượng viện Mỹ tổ chức một cuộc điều trần để xem xét

bước lập pháp cuối cùng của thỏa thuận hạt nhân dân sự với Ấn Độ. Trong phát biểu khai mạc,

Quyền Chủ tịch Thượng nghị sỹ Chris Dodd thừa nhận rằng thỏa thuận đã không hoàn hảo,

nhưng cho rằng nó vẫn phải được phê chuẩn nhanh chóng như một cột mốc quan trọng trong

quan hệ Mỹ - Ấn Độ [77, tr 44]. Người đại diện của chính quyền, Thứ trưởng Ngoại giao

William Burns, trả lời các quan tâm của các thành viên Thượng viện rằng sự đảm bảo cung cấp

nguyên liệu cho Ấn Độ là cam kết mang tính chính trị hơn là pháp lý. Đối với lo ngại từ các

thành viên của Ủy ban về khả năng Ấn Độ lợi dụng thỏa thuận này để gia tăng kho hạt nhân thì

Burns cho biết New Delhi đã công khai tuyên bố họ không có “ý định gia tăng đáng kể kho vũ

khí hạt nhân của họ”[77, tr 44].

Ngày 27/9, dự luật phê chuẩn Hiệp định 123 (H.R 7081), được thông qua áp đảo ở Hạ viện

trong cuộc bỏ phiếu với 298 phiếu thuận trên 117 phiếu chống. Ở Thượng viện vẫn có những bất

đồng nhưng sau đó đã được giải quyết và ngay 1/10/2008, Thượng viện cũng đã thông qua với

kết quả áp đảo với 86 phiếu thuận trên 13 phiếu chống. Một tuần sau, Tổng thống Bush đã ký

thành luật kết thúc một thời gian dài tranh luận. Sự nỗ lực của chính quyền Bush thuyết phục

Quốc hội đồng ý thỏa thuận hạt nhân dân sự Mỹ - Ấn Độ cho thấy không chỉ lợi ích hạt nhân mà

đường sau đó là tầm quan trọng của Ấn Độ trong chính sách của Mỹ.

3.2.3.Tăng cường hợp tác kinh tế song phương

Địa – chính trị và địa – kinh tế luôn có quan hệ mật thiết và bổ sung cho nhau. Khai thác địa

– chính trị cũng nhằm đạt được những lợi ích quốc gia, trong đó có lợi ích kinh tế. Khi đặt được

những ảnh hưởng của mình ở một khu vực địa – chính trị nào đó, họ luôn tìm kiếm những lợi ích

địa – kinh tế. Ngược lại, thặt chặt quan hệ kinh tế ở một khu vực địa lý nào đó cho phép họ duy

trì ảnh hưởng lên địa – chính trị khu vực này. Chính sách của Mỹ ở Ấn Độ cũng không ngoại lệ.

Sau những thập niên căng thẳng, chính phủ Mỹ và Ấn Độ đang theo đuổi một “đối tác chiến

lược” dựa trên những lợi ích đan xen, chia xẻ giá trị và cải tiến quan hệ kinh tế thương mại. Ấn

Độ đang ở giữa thời kỳ mở rộng kinh tế nhanh chóng và nhiều công ty Mỹ xem Ấn Độ như là

một thị trường hấp dẫn và là ứng viên cho đầu tư nước ngoài. Về phần mình, chính phủ Ấn Độ

hiện thời tiếp tục kiên định cuộc cải cách kinh tế đã bắt đầu vào năm 1991, nhằm mục đích

chuyển đổi một nền kinh tế gần như Xã hội Chủ nghĩa thành một nền kinh tế mở rộng hơn, định

hướng thị trường. Tuy nhiên chính phủ Mỹ vẫn cho rằng cải cách kinh tế Ấn Độ là quá chậm

chạp và không đều.

 Thương mại và đầu tư dân sự

Thương mại buôn bán hai chiều tăng trưởng từ 6 tỷ USD năm 1990 lên 33 tỷ USD năm 2006.

Mặc dù, Ấn Độ chỉ là thị trường xuất khẩu lớn thứ 21 của Mỹ năm 2006, Mỹ đã trở thành đối tác

thương mại hàng đầu của Ấn Độ, chủ yếu là do sự tăng trưởng xuất khẩu của Ấn Độ vào Mỹ.

Tuy nhiên, sự gia tăng thương mại gần đây với Trung Quốc khiến nước này đứng thứ 2 và rất gần

với Mỹ. Năm 2006, thâm hụt thương mại song phương của Mỹ với Ấn Độ tổng cộng là 13 tỷ

USD. Năm 2006, GDP của Ấn Độ đạt 9,2%, tỷ lệ gia tăng đứng thứ hai sau Trung Quốc trong số

các quốc gia Châu Á. Hiện đang có sự gia tăng lo lắng rằng tăng trưởng kinh tế Ấn Độ là “quá

nóng”, bằng chứng là tỷ lệ tăng của lạm phát cao. Đây là nguy cơ tiềm ẩn có thể làm tổn hại công

cuộc cải cách của Ấn Độ.

Bất chấp sự tự do hóa đáng kể trong chính sách đầu tư và thương mại của Ấn Độ, vẫn có một

số những vấn đề khó khăn trong thương mại song phương và đa phương giữa Ấn Độ và Mỹ. Mỹ

tìm kiếm cách tiếp cận lớn hơn đối với thị trường nông nghiệp của Ấn Độ và những lĩnh vực dịch

vụ chủ chốt đối với xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài của họ. Mỹ cũng lo ngại về “gia

công” và cũng muốn thấy những cải thiện trong bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Về phần mình Ấn

Độ kêu gọi hạ thấp các rào cản của Mỹ đối với nhập khẩu dịch vụ và nông nghiệp cũng như mở

rộng chương trình visa H-1B.

Trong thương mại Ấn Độ đang có xu hướng xuất siêu sang thị trường Mỹ khiến các thành

viên Quốc hội Mỹ lo ngại làm mất công ăn việc làm của người Mỹ. Năm 1996, Ấn Độ là thị

trường xuất khẩu thứ 32 và thị trường nhập khẩu thứ 25 của Mỹ. Đến 2006, Ấn Độ đã vươn lên là

thị trường xuất khẩu thứ 21 và thị trường nhập khẩu lớn thứ 18 của Mỹ. Tổng thương mại của

Mỹ với Ấn Độ năm 2006 vượt quá giá trị thương mại với Irael, Nigeria và Thailand. Năm 2006,

Mỹ mua 17,4% hàng hóa xuất khẩu của Ấn Độ, nhưng Ấn Độ chỉ nhập 5,9% hàng hóa từ Mỹ.

Kết quả là Mỹ trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Ấn Độ và là thị trường nhập khẩu thứ

ba của quốc gia này.

Nhiều loại hàng hóa được đưa vào danh mục trao đổi buôn bán giữa Mỹ và Ấn Độ, nhưng có

5 loại hàng hóa xuất khẩu hàng đầu của Mỹ tới Ấn Độ lần lượt là: máy móc thiết bị nói chung,

máy móc điện tử, dụng cụ quan học, dụng cụ y tế, máy bay các loại. Tương tự hàng hóa xuất

khẩu từ Ấn Độ tới thị trường Mỹ là đồ trang sức, quần áo dệt, may mặc dệt kim và các sản phẩm

dệt khác.

Trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài, FDI của Mỹ ở Ấn Độ hiện thời gia tăng ngang

với gia tăng trong thương mại song phương. Sau thời kỳ tăng trưởng đều đặn trong những năm

1990, từ 2001 – 2005, theo nguồn dữ liệu của Mỹ, quốc gia này đã tăng đột ngột đầu tư trực tiếp

vào Ấn Độ. Nếu trong 10, năm từ 1990 đến 2000, đầu tư trực tiếp nước ngoài của Mỹ ở Ấn Độ

tăng từ 372 triệu USD lên 2,4 tỷ USD, thì trong 5 năm kế tiếp, đầu tư trực tiếp nước ngoài của

Mỹ ở quốc gia Nam Á này tăng đến 8,5 tỷ USD. Dự báo trong 15 năm tới tổng giá trị FDI của

Mỹ ở Ấn Độ sẽ tăng gấp 22 lần.

Mặc dù gia tăng nhanh trong đầu tư của Mỹ ở Ấn Độ, quốc gia này vẫn được đánh giá là

điểm đến tương đối nhỏ của các nhà đầu tư Mỹ ở nước ngoài. Đầu tư của Mỹ ở Ấn Độ bằng ½ số

lượng đầu tư của họ ở Trung Quốc, chưa bằng ¼ số lượng đầu tư ở Hong Kong và gần bằng 1/6

số lượng đầu tư của Mỹ ở Singapore. Theo thống kê của Mỹ, đến năm 2005, Ấn Độ xếp thứ 31

trong số các quốc gia có đầu tư trực tiếp của họ. Tuy nhiên, theo thống kê của Ấn Độ, cho đến

2005, Mỹ có 4,913 tỷ USD tiền trong các dự án đầu tư ở Ấn Độ, đưa Mỹ trở thành nước đứng thứ

2 trong số các quốc gia có vốn đầu tư ở Ấn Độ và chiếm tới 16,1% tổng số đầu tư nước ngoài

trực tiếp ở Ấn Độ.

Hiện nay đang có sự gia tăng quan trọng các công ty Mỹ tìm kiếm cơ hội đầu tư ở Ấn Độ.

Các công ty đa quốc gia đang làm ăn ở Trung Quốc dự đoán chi phí lao động tăng và sẽ ngày

càng thiếu lao động tại đây trong tương lai. Trong khi đó, Ấn Độ là quốc gia rộng lớn, lực lượng

lao động trẻ có giáo dục và kỹ năng nói tiếng Anh tốt, đang ngày càng trở nên hấp dẫn họ.

Cho đến năm 2007, Ấn Độ và Mỹ chưa có ký kết thỏa thuận thương mại song phương hay

hiệp định đầu tư song phương. Quan hệ thương mại song phương của họ chủ yếu bị chi phối bởi

các điều khoản đối với cương vị thành viên của họ trong các tổ chức đa phương như WTO và

IMF.

 Thương mại quốc phòng

Ấn Độ được xem như là một thị trường lớn và tiềm năng đối với các hãng xuất khẩu thiết bị

quân sự và công nghệ sử dụng hai mục đích (quân sự và dân sự) của Mỹ. Từ năm 1998 đến 2005,

Ấn Độ là nhà mua bán thiết bị quân sự hàng đầu trong số ít các quốc gia công nghiệp, ký kết các

thỏa thuận chuyển giao vũ khí trị giá 20,7 tỷ USD. Hầu hết các thỏa thuận được thực hiện với

Nga, quốc gia có quan hệ mua bán các thiết bị quân sự lâu với Ấn Độ. Ngân sách mua bán quân

sự trong tương lai của Ấn Độ có thể lên tới khoảng 35 tỷ USD trong hai thập niên tới. Các quan

chức chính quyền Ấn Độ và Mỹ khẳng định rằng thương mại quốc phòng lớn hơn trong tương lai

nên được xem là diện mạo quan trọng trong quan hệ song phương.

Theo kết quả của sự gia tăng chi phí quốc phòng của New Delhi, vấn đề bán vũ khí Mỹ - Ấn

Độ được gia tăng trong những năm gần đây. Năm 2002, Lầu Năm góc thương lượng bán cho Ấn

Độ 12 ra đa phản pháo trị giá tổng cộng 190 triệu USD. Năm 2004, một thỏa thuận được ký lên

tới 40 triệu USD cho hệ thống tự bảo vệ máy bay được gắn trên các máy bay Boeing 737 chuyên

chở các nhà lãnh đạo chính phủ Ấn Độ. Mỹ cũng cho phép Israel bán cho Ấn Độ hệ thống cảnh

báo sớm trên không Phalcon (hệ thống được hợp tác phát triển chung Mỹ - Israel), một tài sản đắt

tiền mà một số nhà phân tích cho rằng có thể làm nghiêng cân bằng chiến lược khu vực có lợi

hơn cho Ấn Độ [77, tr 49]. Năm 2006, Ấn Độ chấp thuận một kế hoạch trị giá 44 triệu USD mua

tàu đổ bộ đã ngưng hoạt động USS Trenton. Con tàu lớn thứ 2 trong lực lượng hải quân Ấn Độ

này, được tân trang lại và biên chế trong lực lượng hải quân Ấn Độ với tên gọi INS Jalashwa vào

tháng 7/2007 [77, tr 50]. Lầu Năm góc cho biết các thỏa thuận buôn bán quân sự với Ấn Độ trong

những năm tài chính từ 2002 đến 2006 trị giá 336 triệu USD.

Tháng 1/2008, Washington và New Delhi hoàn tất một thỏa thuận chuyển tới Ấn Độ 6 máy

bay vận tải quân sự C-130J Hercules. Đây là thỏa thuận buôn bán quốc phòng chưa từng thấy của

Mỹ cho Ấn Độ, thỏa thuận trị giá gần 1 tỷ USD do nhà sản xuất máy bay Lockheed Martin thực

hiện. New Delhi hi vọng sớm có được 24 tên lửa đất đối biển Harpoon Block II với giá trị lên tới

170 triệu USD và đang sắp xếp để nhận hơn 500 quả bom trọng lực trị giá 375 triệu USD. Tháng

1/2009, New Delhi đã ký một thỏa thuận trị giá 2,1 tỷ USD để mua 8 máy bay tuần duyên P-81

của hãng Boeing, dự kiến sẽ được giao năm 2013. Những chiếc máy bay này cũng cung cấp khả

năng chống tàu ngầm. Thương vụ buôn bán này sẽ lập kỷ lục mới về việc chuyển giao vũ khí Mỹ

chưa từng có cho Ấn Độ.

Tuy nhiên chính phủ Ấn Độ cho biết họ mong muốn sở hữu một loạt các loại vũ khí do Mỹ

chế tạo, bao gồm hệ thống chống tên lửa PAC – 3, hệ thống chiến tranh điện tử và thậm chí là

máy bay chiến đấu. Năm 2005, Tuyên bố của chính phủ Bush về “chiến lược mới đối với Nam

Á” bao gồm các xác nhận rằng Mỹ hoan nghênh các yêu cầu của Ấn Độ đối với thông tin có thể

mua máy bay chiến đấu F-16 hoặc máy bay chiến đấu đa chức năng F/A – 18 và chỉ ra rằng

Washington “sẵn sàng thảo luận bán các hệ thống chuyển đổi trong các lĩnh vực như chỉ huy và

kiểm soát, cảnh báo sớm và phòng thủ tên lửa”.

Mặc dù quan hệ Mỹ - Ấn Độ ngày càng tốt đẹp, các công ty sản xuất quân sự phải cạnh tranh

quyết liệt với các công ty đến từ các quốc gia khác. Hãng Lookheed Martin và hãng Boeing đang

phải cạnh tranh ở Ấn Độ với các loại máy bay được sản xuất ở Nga, Pháp, Thụy Điển. Để mở

rộng thị phần các công ty quốc phòng Mỹ tích cực tham gia giới thiệu mình. Tháng 2/2007, tại

cuộc triển lãm 2 năm một lần ở Bangalore có 52 công ty Mỹ đã trưng bày các sản phẩm của họ

để tìm kiếm các hợp đồng. Theo Đại sứ Mỹ, Mulford, Mỹ mong muốn các công ty của mình

nhận được sự “đối xử thuận lợi” sau những cử chỉ của Mỹ đối với Ấn Độ. Tuy nhiên, một số

quan chức hàng đầu của Ấn Độ bày tỏ lo ngại rằng Mỹ là một đối tác “hay thay đổi”, điều dẫn

đến không tin cậy rằng Mỹ có thể cung cấp chuyển giao công nghệ cao, nhạy cảm cho Ấn Độ.

Đối với các loại hàng hóa sử dụng hai mục đích (dân sự và quân sự), các công ty Mỹ muốn

xuất khẩu những sản phẩm này tới Ấn Độ phải có được giấy phép xuất khẩu từ Văn phòng Sở

Thương mại Công nghiệp và An ninh. Thêm vào đó, một số hàng xuất khẩu khác là đối tượng

xác minh để đảm bảo rằng các lô hàng không được tái xuất khẩu tới các quốc gia bị hạn chế khác.

Tầm quan trọng của một bạn hàng tiềm năng như Ấn Độ, đặt trong chính sách coi trọng Ấn Độ ở

thập kỷ này, Sở Thương mại Công nghiệp và An ninh đi đến chỉ duy trì một danh sách hạn chế

các đối tượng mà công nghệ sử dụng hai mục đích nói chung là bị cấm.

Tháng 2/2007, cuộc họp của Nhóm công tác Công nghệ cao Mỹ - Ấn Độ có thảo luận sâu

rộng về khả năng gỡ bỏ một số hoặc tất cả các công ty Ấn Độ từ danh sách các đối tượng của Sở

Thương mại Công nghiệp và An ninh, cũng như loại bỏ hoặc giảm các hạn chế trong thương mại

công nghệ sử dụng hai mục đích với Ấn Độ. Tuy nhiên có một số dấu hiệu cho thấy Mỹ muốn

Ấn Độ thắt chặt chế độ kiểm soát xuất khẩu trước khi họ nới lỏng kiểm soát xuất khẩu tới Ấn Độ.

Bên cạnh đó, bất chấp sự gia tăng thương mại song phương và sự cải thiện quan hệ thương

mại, vẫn có một số những vấn đề cản trở thương mại và kinh tế giữa hai nước. Hai nước tìm kiếm

sự tiếp cận thị trường của mỗi bên, đồng thời muốn đối tác hạ thấp các rào cản thương mại. Hơn

nữa, cả Ấn Độ và Mỹ muốn thấy những thay đổi trong điều chỉnh chính sách và luật pháp nhằm

bảo vệ và thúc đẩy xuất khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài của mỗi bên.

Ngoài ra, Chính phủ Bush cho rằng chính phủ Singh phải thúc đẩy hơn nữa hoạt động cải

cách kinh tế của họ. Tháng 9/2006, đại sứ Mỹ ở New Delhi cho rằng môi trường kinh doanh của

Ấn Độ hiện có những thuận lợi hơn để đầu tư và buôn bán, nhưng đã có những tín hiệu tạm

ngưng trong tiến trình cải cách. Tư nhân hóa đã dừng lại và thực tế chính trị cho thấy rằng cải

cách những lĩnh vực chủ chốt khác và những chính sách quan tâm chủ yếu tới các nhà đầu tư sẽ

mất nhiều thời gian hơn so với những gì hình dùng được.

Tóm lại, trong hai lĩnh vực thương mại, Ấn Độ là nhà xuất khẩu hàng hóa dân sự sang thị

trường Mỹ, ngược lại Mỹ xuất khẩu hàng quân sự trị giá hàng tỷ đô la sang Ấn Độ. Hoạt động

đầu tư kinh tế và thương mại ngày càng phát triển đang thắt chặt các mối quan hệ khác của hai

bên, góp phần xây dựng “đối tác chiến lược” hai bên trong thực chất.

3.2.4.Hợp tác không gian dân sự và hợp tác công nghệ cao

Vai trò địa – chính trị Ấn Độ ở Nam Á trong thế kỷ XXI được đánh giá cao, nhưng để tạo

ảnh hưởng bền lâu lên khu vực địa – chính trị này Mỹ cần đánh giá lại những chính sách gây mất

niềm tin chính trị với Ấn Độ. Tham vọng chính trị của Ấn Độ hiện thời là phát triển thành một

cường quốc khu vực vươn lên thành cường quốc trên thế giới. Nền tảng cho tham vọng đó sớm

thành hiện thực là sự phát triển trong nước, trong đó có sự phát triển các lĩnh vực có hàm lượng

khoa học cao. Muốn vậy, Ấn Độ phải thúc đẩy hợp tác với các cường quốc khoa học như Mỹ.

Tuy nhiên, trong nhiều năm, lo ngại chương trình tên lửa, hạt nhân của Ấn Độ, Mỹ tiến hành hợp

tác dè dặt với Ấn Độ trong lĩnh vực này, dẫn đến Ấn Độ tìm kiếm sự hợp tác từ các cường quốc

khác như Nga. Thực tế đó gây thiệt hại không chỉ kinh tế mà còn về chính trị ngoại giao Mỹ - Ấn

Độ. Thay đổi chính sách với Ấn Độ trong lĩnh vực này là đòi hỏi phù hợp khi bối cảnh lịch sử đã

thay đổi.

Mỹ là quốc gia có trình độ khoa học không gian phát triển bậc nhất trên thế giới, có sức hấp

dẫn lớn đối với các quốc gia đang mong muốn tiến hành khai thác không gian như Ấn Độ.

Một thời gian dài từ năm 1980, Ấn Độ tìm cách tiếp cận công nghệ không gian của Mỹ, tuy

nhiên bị Mỹ giới hạn, bởi họ muốn ngăn chặn bất kỳ sự trợ giúp nào có khả năng có lợi cho

chương trình tên lửa quân sự của Ấn Độ. Vì vậy lúc này chương trình không gian được thực hiện

bởi các tên lửa đạn đạo tầm trung Agni, bên cạnh đó là sự hỗ trợ từ chương trình tên lửa đạn đạo xuyên lục địa đáng nghi ngờ Surya của Ấn Độ.

Tuyên bố chung tháng 7/2005 cho thấy bước đi mới tiến tới quan hệ chặt chẽ hơn giữa Mỹ -

Ấn Độ trong lĩnh vực thăm dò không gian, phóng và dẫn đường vệ tinh cũng như trong lĩnh vực

không gian thương mại. Các hội nghị quan trọng về khoa học và thương mại không gian Mỹ - Ấn

Độ đã được tổ chức ở Bangalore (tổng hành dinh của Tổ chức nghiên cứu không gian Ấn Độ)

trong năm 2004 và 2005. Trong chuyến viếng thăm tới Ấn Độ năm 2006 của tổng thống Bush,

hai quốc gia đã cam kết hướng tới những thỏa thuận theo đó cho phép phóng vệ tinh của Mỹ và

vệ tinh có chứa các thiết bị của Mỹ được thực hiện bởi phương tiện phóng tàu không gian của Ấn

Độ. Sau đó họ đã đồng ý đặt 2 thiết bị khoa học của Mỹ trên tàu vũ trụ không người lái đầu tiên

của Ấn Độ được lên kế hoạch phóng vào 2008.

Năm 2007, một cuộc họp của Nhóm làm việc chung Mỹ - Ấn Độ trên vấn đề hợp tác không

gian dân sự đã được tổ chức ở Washington. Tại đây các thành viên tham dự đã bày tỏ sự hài lòng

về sự phát triển quan hệ song phương trong lĩnh vực hàng không vũ trụ của 2 quốc gia. Ngày

22/10/2008, Ấn Độ phóng tàu thăm dò Chandrayaan-1 tới quỹ đạo mặt trăng và tiến hành khảo

sát bề mặt của nó. Sự kiện này đánh dấu sự nổi lên của Ấn Độ như một quốc gia quan trọng trong

thăm dò không gian. Sứ mệnh mặt trăng thành công đã làm thay đổi vị thế quốc gia của Ấn Độ,

biến nước này trở thành một đối thủ cạnh tranh tiềm năng trong ngành kinh doanh phóng vệ tinh

béo bở.

Trong lĩnh vực công nghệ cao, Mỹ không cho phép các công ty của họ tự do buôn bán với

các quốc gia khác. Các hoạt động buôn bán này phải được sự chấp nhận của chính quyền Mỹ.

Trong một thời gian dài Ấn Độ cũng không nằm ngoài quy định đó. Bộ Thương mại Mỹ cho biết,

ít nhất 0,5% tổng giá trị thương mại với Ấn Độ hiện nay yêu cầu phải được cấp phép, trong số

đó, đại đa số những hàng hóa sử dụng hai mục đích bán cho Ấn Độ phải được phê duyệt bằng

giấy phép (khoảng 95% vào năm 2007).

Tháng 7/2003, Nhóm hợp tác công nghệ cao Mỹ - Ấn Độ tiến hành phiên khai mạc. Tại đây

các viên chức thảo luận một loạt các vấn đề mở rộng có liên quan nhằm gia tăng điều kiện cho

thương mại công nghệ cao song phương. Tại phiên họp 2007, Bộ trưởng Thương mại Mỹ Carlos

Gutierrez công bố một chương trình “khách hàng tin cậy” được thiết kế để tạo điều kiện thuận lợi

hơn cho thương mại công nghệ cao với Ấn Độ. Cuộc họp tổ chức ở New Delhi vào 2/2008 cũng

nhằm mục đích thúc đẩy hợp tác công nghệ cao Mỹ - Ấn Độ. Trước đó, tháng 10/2007, Phòng

Thương mại Công nghiệp và An ninh Mỹ chính thức chỉ định Ấn Độ như là một quốc gia đủ điều

kiện dưới chương trình “Người dùng đầu cuối hợp lệ”. Sự chỉ định này sẽ cho phép những nhà

mua bán Ấn Độ đáng tin cậy nhất được phép mua hàng hóa công nghệ cao mà không cần giấy

phép riêng biệt.

Trước đó, kể từ năm 1998, một số tổ chức của Ấn Độ bị yêu cầu phải được cấp phép từng

trường hợp cụ thể và họ có tên trong “danh sách các tổ chức” kiểm soát xuất khẩu của Mỹ, vì có

dính líu vào hoạt động phổ biến vũ khí. Năm 2004, Mỹ sửa đổi một số chính sách giấy phép xuất

khẩu và loại bỏ Cơ quan đầu não Tổ chức nghiên cứu không gian Ấn Độ (ISRO) ra khỏi danh

sách các tổ chức kiểm soát xuất khẩu. Đến năm 2005 tiến hành điều chỉnh hơn nữa khi hơn 6 đơn

vị cấp dưới đã được gỡ bỏ. Sau năm này, các tổ chức Ấn Độ vẫn còn trong danh sách các tổ chức

kiểm soát xuất khẩu là 4 cấp dưới của ISRO, 4 cấp dưới của Tổ chức phát triển và nghiên cứu

quốc phòng, 3 cơ quan năng lượng nguyên tử và công ty trách nhiệm hữu hạn Bharat Dynamics,

một công ty sản xuất tên lửa.

Hợp tác công nghệ cao trong quốc phòng giữa Mỹ và Ấn Độ cũng đang được thúc đẩy. Năm

2005 phiên khai mạc của Nhóm công tác Quốc phòng công nghệ cao Mỹ - Ấn Độ được tổ chức

dưới sự bảo trợ của Nhóm hợp tác công nghệ cao Mỹ - Ấn Độ.

3.2.5.Hợp tác an ninh quốc phòng

Một trong những lợi ích địa – chính trị Ấn Độ đối với Mỹ là thúc đẩy quốc gia này trở thành

một đối trọng kiềm chế Trung Quốc. Thập niên đầu thế kỷ XXI cho thấy, Trung Quốc đang gia

tăng ảnh hưởng nhiều nơi trên thế giới, trong đó có Nam Á. Sự hiện diện của Trung Quốc ở đây

không chỉ gây lo ngại cho Ấn Độ mà còn thách thức địa vị của Mỹ ở khu vực. Cùng chung mục

tiêu, Ấn Độ và Mỹ đã tiến hành tăng cường các hoạt động hợp tác an ninh quốc phòng. Tập trận

chung, hợp tác huấn luyện, buôn bán vũ khí hiện đại… mà Mỹ đang tiến hành với Ấn Độ nhằm

hỗ trợ Ấn Độ đủ mạnh để chống lại sự đe dọa từ Trung Quốc.

Hợp tác an ninh quốc phòng với Ấn Độ cho phép Mỹ hiện diện thường xuyên hơn mà không

gặp sự phản đối từ quốc gia này ở Ấn Độ Dương. Trong bối cảnh nước Mỹ đang tiến hành cuộc

chiến tranh chống khủng bố ở Afghanistan và mâu thuẫn chưa thể hóa giải với quốc gia Hồi giáo

Iran, sự hợp tác này càng trở nên cần thiết.

Các hoạt động hợp tác an ninh quốc phòng ban đầu giữa hai nước được tiến hành ở thập niên

90 bị hủy bỏ ngay sau sự kiện Ấn Độ thử nghiệm hạt nhân. Từ cuối năm 2001, mặc dù Mỹ xích

lại gần với Pakistan và coi Pakistan như một đồng minh quan trọng trong cuộc chiến chống

khủng bố, hợp tác an ninh Mỹ - Ấn Độ đã phát triển trở lại sau những năm Ấn Độ chịu lệnh

trừng phạt. Ngoại giao Mỹ đánh giá hợp tác quân sự với Ấn Độ là khía cạnh quan trọng nhất làm

thay đổi mối quan hệ song phương. Nhóm chính sách Quốc phòng Mỹ - Ấn Độ (DPG) ngưng

hoạt động từ sau cuộc thử nghiệm hạt nhân năm 1998 của Ấn Độ đã được phục hồi hoạt động trở

lại vào 2001 và thực hiện gặp mặt hàng năm để thúc đẩy hợp tác an ninh quốc phòng giữa hai

nước.

Tháng 6/2005, Mỹ và Ấn Độ ký hiệp định quốc phòng 10 năm, trong đó phác thảo kế

hoạch hợp tác trong các hoạt động đa phương; mở rộng thương mại quốc phòng hai chiều; gia

tăng cơ hội chuyển giao công nghệ và hợp tác sản xuất; mở rộng hợp tác liên quan tới phòng thủ

tên lửa và thành lập một Nhóm sản xuất và mua sắm quốc phòng song phương. Thỏa thuận có thể

là hiệp ước an ninh đầy tham vọng được cam kết bởi New Delhi. Năm 2006, hai nước ký Hiệp

định Hợp tác an ninh hàng hải, theo đó cam kết “hợp tác toàn diện” nhằm bảo vệ con đường

thương mại tự do trên biển và giải quyết một loạt các mối đe dọa tới an ninh hàng hải mở rộng

như cướp biển, buôn bán trái phép vũ khí hủy diệt hàng loạt và những vật liệu có liên quan. Năm

2007, Tư lệnh Thái Bình Dương, Đô đốc Tim Keating, báo cáo trước một ủy ban Thượng viện

rằng Lầu Năm góc dự định “tích cực” theo đuổi mở rộng quan hệ quân sự với Ấn Độ. Trong cuộc

viếng thăm tháng 8/2007, tới New Delhi, Đô đốc Keating ca ngợi quan hệ quốc phòng Mỹ - Ấn

Độ là hoạt động “vững chắc, tốt và cải thiện dần dần”. Trong chuyến viếng thăm 2/2008 tới thủ

đô Ấn Độ, Bộ trưởng Quốc phòng Gates khẳng định lại nhận định trên. Mỹ xem hợp tác quốc

phòng với Ấn Độ đặt trong bối cảnh “nguyên tắc chung và chia sẻ lợi ích quốc gia” nhằm đánh

bại chủ nghĩa khủng bố, ngăn chặn phổ biến vũ khí và duy trì ổn định khu vực. Bên cạnh những

lợi ích mà các bên công khai tuyên bố, có thể thấy tăng cường hợp tác an ninh quốc phòng Mỹ -

Ấn còn nhằm tạo đối trọng với ảnh hưởng đang gia tăng ở Châu Á của Trung Quốc, mặc dù cả

Washington và New Delhi đều lặp lại nhiều lần rằng giảm nhẹ động cơ có thể xảy ra như vậy [77,

tr 48].

Hợp tác an ninh quốc phòng giữa hai nước trong giai đoạn này còn được thúc đẩy bởi các

hoạt động tập trận chung. Từ năm 2002, Mỹ và Ấn Độ đã tổ chức một loạt các nội dung tập trận

chưa từng thấy và gia tăng diễn tập kết hợp các nội dung bao gồm tất cả các hoạt động phục vụ

quân sự liên quan. Lực lượng quân sự đặc biệt Ấn Độ và Mỹ đã tổ chức ít nhất 5 cuộc diễn tập

chung “Vajra Prahar” và ít nhất 133 lính đặc nhiệm của Mỹ tham gia các khóa học tại Trường

chống khủng bố Jungle Warfare của Ấn Độ.

Tuy nhiên, diễn tập quân sự chung quan trọng giữa hai quốc gia là diễn tập hải quân

“Malabar” diễn ra hàng năm ở vùng biển ngoài khơi Ấn Độ. Năm 2008 diễn ra tám cuộc diễn tập,

hầu hết được tổ chức vào tháng 10. Trong các cuộc diễn tập này tàu sân bay USS Ronald Reagan,

tàu ngầm hạt nhân USS Springfield và 5 tàu hải quân lớn khác đã tham gia tập trận với tàu hải

quân Ấn Độ ở biển Arap. Không như các năm trước, cuộc tập trận Malabar 2008 là cuộc diễn tập

song phương và không có các tàu chiến từ bất kỳ nước thứ ba nào. Các viên chức Mỹ và Ấn Độ

tuyên bố những cuộc diễn tập như vậy góp phần cải thiện khả năng tương tác của quân đội, đồng

thời là bằng chứng của mối quan hệ quốc phòng song phương sâu sắc toàn diện.

Chính sách an ninh quốc phòng của Mỹ đối với Ấn Độ luôn bị cản trở bởi Pakistan và là một

mâu thuẫn khó giải quyết. Gia tăng hợp tác an ninh quốc phòng với Pakistan sẽ bị Ấn Độ phản

đối và ngược lại. Không hợp tác quốc phòng với Ấn Độ sẽ phải đối diện với nguy cơ ngày càng

tăng từ Trung Quốc và cả Iran trong tương lai, xa hơn là Nga. Vì vậy, trong từng giai đoạn khác

nhau Mỹ lựa chọn những ưu tiên khác nhau đối với hai quốc gia thù địch này.

3.3.Chính sách của Mỹ đối với Pakistan

3.3.1.Tăng cường quan hệ với Pakistan

Nếu trong thập niên 90 của thế kỷ trước, địa – chính trị Pakistan không được Mỹ coi trọng,

thì thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI này, tình thế đã thay đổi, sự lạnh nhạt trong quan hệ Mỹ -

Pakistan ngày nào được thay thế bằng mối quan hệ nồng ấm hơn.

Ngày 11/9/2001, sự kiện khủng bố nước Mỹ làm kinh hoàng thế giới đã tạo ra sự thay đổi

nhanh chóng cấu trúc quan hệ toàn cầu. Mỹ tiến hành tập hợp các quốc gia là đồng minh cũ, mới

cũng như các quốc gia không phải đồng minh của họ trong trận tuyến chống khủng bố. Sau tuyên

bố sứ mệnh tiêu diệt khủng bố tận sào huyệt cuối, quân đội Mỹ đã đổ bộ vào Afghanistan, lật đổ

chính quyền Taliban, sau đó là chính quyền Iraq của Tổng thống Saddam Hussein. Dù đã tuyên

bố thắng trận và tiến hành các bước chuyển giao chính quyền cho lực lượng người bản xứ thân

Mỹ, nhưng Mỹ vẫn chưa đạt được mục tiêu đặt ra là tiêu diệt tận gốc khủng bố. Trái lại, ngày

càng thấy dấu hiệu sa lầy trong cuộc chiến này, đặc biệt là ở Afghanistan.

Có đường biên giới chung với Afghanistan, lại là quốc gia Hồi giáo, Pakistan đã trở thành

quốc gia không thể thiếu, thậm chí là “đồng minh chủ chốt” của Mỹ trong cuộc chiến chống

khủng bố đang diễn ra ở Afghanistan. Sau cuộc chiến lật đổ chính quyền Taliban, Mỹ rơi vào

tình thế thắng lợi quân sự nhưng không thể kết thúc chiến tranh. Lính Mỹ và quân đồng minh tử

trận tăng cao khi phải chiến đấu ở những vùng đồi núi hiểm trở có biên giới với Pakistan. Những

chiến dịch truy quét của Mỹ trở nên vô hiệu khi những phiến quân này nhanh chân chạy sang

vùng lãnh thổ Pakistan. Vì vậy, tăng cường quan hệ với quốc gia Hồi giáo này còn nhằm thúc

đẩy Pakistan tiến hành các hoạt động quân sự, các biện pháp hành chính đi đến chấm dứt hoàn

toàn việc để lãnh thổ của họ trở thành nơi trú ẩn an toàn cho các phiến quân Hồi giáo.

Để tranh thủ sự ủng hộ của Pakistan, chính quyền Mỹ quyết định dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm

vận được áp đặt lên quốc gia này từ sau những thử nghiện hạt nhân năm 1998, đồng thời tiến

hành viện trợ kinh tế, quân sự. Mỹ trực tiếp giúp đỡ huấn luyện và trang bị cho lực lượng an ninh

Pakistan cùng với các khoản viện trợ. Mỹ cũng cung cấp nguồn tài trợ, cho vay cùng với một kế

hoạch xem xét lại các khoản nợ của Pakistan từ các tổ chức tài chính quốc tế chính mà Mỹ có ảnh

hưởng, tiến hành các hoạt động ngoại giao cấp cao… Pakistan thực sự trở thành nhân tố không

thể thiếu trong cuộc chiến chống khủng bố mà Mỹ đang dẫn đầu. Tầm quan trọng này được Tổng

thống Bush chỉ rõ vào tháng 6/2004 rằng Pakistan như một đồng minh chính ngoài NATO của

Mỹ. Vì vậy, Mỹ có chính sách quan tâm đến quốc gia này.

3.3.2.Cung cấp viện trợ và hợp tác kinh tế với Pakistan

Công cụ kinh tế luôn được Mỹ ưa dùng và được đánh giá là hữu hiệu trong việc gia tăng ảnh

hưởng của họ ở bất cứ đâu trên thế giới. Trong quá khứ, nhờ vào vai trò địa – chính trị của mình,

Pakistan đã nhận được nhiều viện trợ từ Mỹ. Sau thời gian vai trò này trở nên mờ nhạt ở thập

niên cuối thế kỷ XX, Pakistan đang nhận được những khoản viện trợ trở lại nhờ vào lợi ích địa –

chính trị mới xuất hiện của quốc gia này.

Trước 2001, do tập trung nguồn lực cho cuộc chạy đua vũ trang với Ấn Độ và đối diện với

lệnh trừng phạt kinh tế xuất phát từ hành động theo đuổi chương trình hạt nhân, cùng với những

yếu kém của chính phủ trong điều hành, Pakistan gặp nhiều khó khăn về kinh tế xã hội. Năm

2003, nợ nước ngoài của Pakistan vào khoảng 33 tỷ USD. Đến năm 2008, con số này tăng lên

gần 46 tỷ USD. Dù năm 2008, số nợ nước ngoài chiếm khoảng hơn ¼ GDP nhưng vẫn giảm

khoảng ½ so với năm 2000. Báo cáo dự trữ quốc gia vào 5/2007 là 13,7 tỷ USD, cao nhất mọi

thời đại và tăng gần năm lần so với 1999. Có sự khác biệt này là do những lệnh cấm vận được rỡ

bỏ và những khoản viện trợ lớn mà Pakistan đã nhận được từ Mỹ.

Từ năm 2001 Mỹ nối lại những gói viện trợ và những khoản tiền lớn gọi là “bồi hoàn” cho

nỗ lực quân sự chống khủng bố của Pakistan. Trước khi kết thúc năm tài chính 2008, Pakistan đã

nhận khoảng 12 tỷ USD, đa số trong số này dưới dạng hỗ trợ “bồi hoàn”, 3,1 tỷ USD cho mục

đích kinh tế và gần 2,2 tỷ USD cho những chương trình có liên quan đến an ninh.

Viện trợ của Mỹ cho Pakistan trước tiên nhằm mục đích tiếp tục duy trì hỗ trợ cho nỗ lực

chống khủng bố. Viện trợ cũng khuyến khích sự tham gia của Pakistan trong nỗ lực chống khủng

bố quốc tế, ngăn chặn phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt và hỗ trợ phát triển dân chủ, thúc đẩy

tôn trọng nhân quyền và mở rộng sự tham gia của công dân trong các cơ quan chính quyền và xã

hội.

Theo yêu cầu của Chính phủ Bush, Quốc hội đã bỏ phiếu thông qua các khoản tài chính hàng

tỷ USD để “bồi hoàn” cho Pakistan và các quốc gia khác về những hoạt động và hỗ trợ hậu cần

cho những chiến dịch chống khủng bố của chính phủ Mỹ. “Quỹ hỗ trợ liên quân” thực hiện phần

lớn những vụ chuyển tài chính của Mỹ cho Pakistan từ năm 2001. Tính đến tháng 1/2009, hơn

8,3 tỷ USD “Quỹ hỗ trợ liên quân” đã được Lầu Năm góc chi cho “những quốc gia hợp tác chủ

chốt”, trong đó phần lớn được thực hiện cho Pakistan. Tài liệu Lầu Năm góc cho thấy những

khoản chi cho Islamabad – khoảng 6,7 tỷ USD (chiếm xấp xỉ 4/5 số tài chính này). Theo Bộ

trưởng Bộ Quốc phòng Robert Gates, tiền bồi thường thông qua “Quỹ hỗ trợ liên quân” được

dùng để hỗ trợ khoảng chừng gần 100 chiến dịch quân sự của người Pakistan và bằng cách trả

tiền thực phẩm, quần áo, nhà cửa để giữ chân khoảng 100.000 quân Pakistan trong vùng phía Tây

Bắc Pakistan. Số tiền này cũng dùng trả cho việc sử dụng sân bay và cảng biển của liên quân trên

lãnh thổ Pakistan.

Năm 2003, Tổng thống Bush tiếp Tổng thống Musharraf tại trại David, tại đây ông đã hứa

thúc đẩy Quốc hội thực hiện gói viện trợ 3 tỷ USD trong 5 năm cho Pakistan. Mỗi năm trao cho

Pakistan 600 triệu USD, chi cho cả quân sự và viện trợ kinh tế. Gói viện trợ này bắt đầu từ năm tài chính 2005.

Sau đó, Mỹ mở rộng các lĩnh vực được nhận viện trợ như viện trợ phát triển, viện trợ nhằm

duy trì thực thi pháp luật, và một số chương trình khác trong năm tài chính 2008 là 976 triệu

USD. Đầu năm 2008, sau cuộc bầu cử ở Pakistan, chính quyền dân sự mới cầm quyền ở

Islamabad thúc giục Mỹ đẩy mạnh hơn nữa viện trợ của họ để “tăng cường dân chủ” ở Pakistan.

Tháng 7/2008, đạo luật tăng cường hợp tác với Pakistan được đưa ra Thượng viện. Đạo luật

“khẳng định và xây dựng một mối quan hệ nhiều mặt, lâu dài, duy trì liên tục với Pakistan”[75, tr

85] theo đó, viện trợ phi quân sự được đề nghị tăng gấp 3, lên tới 1,5 tỷ USD, trong những năm

tài chính từ 2009 – 2013 và có thể duy trì tiếp tục tới 2018.

Trong cuộc chiến chống khủng bố đang theo đuổi ở Afghanistan, Mỹ xác định Pakistan là

một trong những nơi trú ẩn của các phần tử Hồi giáo cực đoan, đặc biệt là vùng FATA gần biên

giới với Afghanistan. FATA là vùng đất nghèo đói còn hoạt động theo hình thức bộ lạc. Luật

pháp và những mệnh lệnh hành chính của chính quyền Pakistan không phát huy tác dụng ở đây.

Do đó, một trong những nhiệm vụ xóa sổ vùng trú ẩn an toàn của lực lượng Hồi giáo cực đoan là

nâng cao mức sống, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật của người dân trong vùng.

Từ 2003, Mỹ tiến hành các khoản viện trợ nhằm cố gắng cải tiến chất lượng giáo dục, phát

triển các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và mở rộng cơ hội cho tăng trưởng kinh tế và doanh nghiệp

nhỏ riêng biệt trong những vùng bộ lạc miền tây Pakistan. Từ năm tài chính 2001 – 2007, khoảng

6% viện trợ kinh tế cho Pakistan đã được dùng cho các dự án ở FATA. Chính phủ Bush thúc giục

Quốc hội tiếp tục tài trợ 750 triệu USD trong 5 năm cho FATA. Năm tài chính 2007 là năm đầu

tiên Mỹ tiến hành kế hoạch này. Viện trợ phát triển FATA là cần thiết, góp phần diệt trừ tận gốc

cơ sở khủng bố ở Pakistan, nhưng những khoản viện trợ lớn cho vùng bộ lạc này bị cản trở bởi

tham nhũng và tình trạng an ninh thấp kém, khiến các nhà thầu khoán phi chính phủ Phương Tây

không hào hứng hoạt động ở đây.

Viện trợ và thúc đẩy quan hệ kinh tế là cách thức mà Mỹ thường sử dụng với các quốc gia

khác nhau. Tuy nhiên hiệu quả đem lại từ cách thức này với Pakistan chưa được như mong đợi.

Một số nghiên cứu cho thấy rằng chỉ khoảng 1/10 viện trợ Mỹ là trực tiếp hướng tới phát triển,

quản lý và chương trình nhân đạo [75, tr 88]. Phần lớn trong số đó đã bị sử dụng sai mục đích

như sử dụng cho mua sắm vũ khí phục vụ cho hành động chạy đua vũ trang chống lại Ấn Độ hơn

là chống khủng bố (chẳng hạn máy bay tuần tra biển, tên lửa chống tăng, ra-da giám sát, nâng cấp

quân trang cho máy bay chiến đấu F-16, pháo tự hành), hay bị thất thoát do tham nhũng. Viện trợ

Mỹ cho Pakistan cũng tỏ ra thất bại trong mục tiêu cải thiện hình ảnh Mỹ trong dân chúng

Pakistan, tính cảm chống Mỹ hiện thời lan tràn rộng khắp Pakistan [75, tr 90]. Để khắc phục điều

này, Mỹ có thể áp đặt thêm các điều kiện nhận viện trợ và sử dụng chúng, nhưng những điều kiện

đó lại vấp phải những phản ứng từ Pakistan. Năm 2007, Bộ Ngoại giao Pakistan nói điều kiện

viện trợ được đưa ra của Ủy ban 11/9 là “không đáp ứng mối quan tâm hợp tác song phương

trong quá khứ và có thể chứng minh cho những bất lợi trong tương lai”.

Không chỉ cung cấp viện trợ, Mỹ đẩy mạnh các hoạt động kinh tế với Pakistan nhằm gắn kết

hai nước với nhau, từ đó củng cố mối quan hệ hợp tác chống khủng bố, đồng thời không để

Pakistan rơi hẳn vào quỹ đạo của Trung Quốc. Trao đổi thương mại và đầu tư là những lĩnh vực

đang được hai bên thúc đẩy mạnh mẽ.

Dỡ bỏ lệnh cấm vận từ năm 2001 đã là thời cơ tốt cho các công ty Mỹ và Pakistan tiến hành

các hoạt động đầu tư, trao đổi thương mại. Pakistan có những mặt hàng xuất khẩu chiến lược của

đất nước cần thị trường tiêu thụ như cotton, vải dệt, đồ trang sức, gạo và sản phẩm da. Mặc dù

Trung Quốc là quốc gia dẫn đầu trong buôn bán với Pakistan (đạt hơn 5 tỷ USD giá trị xuất khẩu

tới Pakistan năm 2007), Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu hàng đầu của Pakistan, với lượng hàng

hóa xuất khẩu vào thị trường Mỹ chiếm khoảng ¼ tổng số hàng hóa xuất khẩu của Pakistan. Theo

số liệu năm 2008, tổng số hàng hóa Mỹ nhập khẩu từ Pakistan có trị giá 3,6 tỷ USD. Tuy nhiên,

theo chiều ngược lại, Pakistan không phải là thị trường xuất khẩu quan trọng của Mỹ, khi chỉ

đứng thứ 59 trong số các thị trường tiêu thụ hàng hóa Mỹ vào năm 2007. Xuất khẩu của Mỹ tới

Pakistan trong năm 2008 có trị giá khoảng 2,1 tỷ USD (tăng 1% so với 2007). Máy bay dân sự và

trang thiết bị đi kèm chiếm khoảng ¼ giá trị của năm 2007, nguyên liệu bông là hàng xuất khẩu

của Mỹ đáng kể khác.

3.3.3.Hợp tác chống khủng bố

Vai trò địa – chính trị nổi bật của Pakistan hiện thời là tạo điều kiện đi đến kết thúc chiến

thắng cuộc chiến chống khủng bố ở Afghanistan. Sau nhiều năm tiến hành cuộc chiến, Mỹ nhận

ra rằng kết quả cuối cùng của cuộc chiến có quan hệ mật thiết với hành động hợp tác chống

khủng bố của Pakistan. Chủ tịch hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mike Mullen nói ông ta đã

nhìn thấy Afghanistan và Pakistan có “mối liên kết không thể tách rời trong việc giải quyết tình

trạng nổi dậy chung”. Khi tranh cử tổng thống, Barack Obama quả quyết rằng Afghanistan không

thể được “giải quyết” mà không bao gồm Pakistan và hợp tác hành động hiệu quả hơn với quốc

gia đó. Nhiều viên chức Mỹ kỳ cựu khác, cả quân đội và dân sự, cùng chia sẻ quan điểm rằng

Pakistan và Afghanistan tốt nhất được coi như là một cặp cùng có vấn đề cần giải quyết mà Mỹ

phải quan tâm. Các nhà phân tích độc lập cũng đồng ý rằng chừng nào lực lượng Taliban còn có

được nơi trú ẩn an toàn ở Pakistan, lực lượng nổi dậy người Afghanistan sẽ còn kiên trì [75, tr

11].

Lầu Năm góc cho rằng nơi trú ẩn của lực lượng Hồi giáo cực đoan bên trong Pakistan là

“thách thức lớn nhất đối với an ninh lâu dài bên trong Afghanistan”. Chỉ huy lực lượng NATO ở

Afghanistan cũng khẳng định những vùng bộ lạc phía tây Pakistan đang cung cấp những tân binh

chủ yếu cho lực lượng nổi dậy, những người tham chiến ở Afghanistan. Những cựu chỉ huy quân

đội Mỹ khác đánh giá sự thâm nhập của các phiến quân từ Pakistan là nguyên nhân của khoảng

1/3 các cuộc tấn công vào liên quân ở Afghanistan.

Trong cuộc chiến này, chính quyền Pakistan cũng nhận thấy những nguy cơ an ninh nảy sinh

từ khủng bố, đặc biệt là khu vực các bộ lạc miền Tây giáp với Afghanistan. Các vụ khủng bố

không chỉ gây thiệt hại vật chất, nhân mạng mà còn gậy những hệ lụy lớn tới tâm lý và sự phát

triển chung của đất nước. Mục tiêu của những nhóm Hồi giáo cực đoan không chỉ người Mỹ, lợi

ích của Mỹ và phương Tây mà đã có sự dịch chuyển đến cả các mục tiêu chính quyền Pakistan,

những quan chức Pakistan có tư tưởng thân Mỹ. Bản thân Tổng thống Musharraf đã nhiều lần

thoát chết trong gang tấc bởi những âm mưu tấn công khủng bố, đặc biệt là những vụ ám sát

trong tháng 12/2003. Vì vậy, hợp tác với Mỹ chống khủng bố là cần thiết trong bối cảnh Pakistan

lúc này.

Sau sự kiện 11/9/2001, Pakistan cam kết cung cấp những hỗ trợ chính cho liên minh chống

khủng bố toàn cầu. Trong một tuyên bố vào tháng 1/2002, Tổng thống Musharraf thề không để

Pakistan trở thành một căn cứ khủng bố dưới bất kỳ hình thức nào và đưa ra lệnh cấm lượng lớn

những nhóm quân sự hoạt động trên lãnh thổ Pakistan, trong số đó có Lashkar-e-Taiba và Jaish-

e-Muhammad, hai nhóm bị Mỹ liệt vào danh sách các tổ chức khủng bố và được cho là đã thực

hiện những hành động khủng bố ở Kashmir. Sau tuyên bố của Musharraf, hàng nghìn người Hồi

giáo cực đoan đã bị bắt giữ.

Hầu như trong hai nhiệm kỳ của Bush, những viên chức cấp cao Mỹ thường khen ngợi nỗ lực

chống khủng bố của Pakistan. Năm 2002, Mỹ bắt đầu tham gia trực tiếp trong nỗ lực giúp lực

lượng an ninh Pakistan theo dõi và lùng bắt những tên lính Al Qaeda và Taliban chạy trốn trên

lãnh thổ Pakistan. Pakistan khẳng định có khoảng 700 tên Al Qaeda đáng ngờ bị bắt và chuyển

hầu hết số này đến dưới sự giam giữ của Mỹ. Trong số đó có những nhân vật quan trọng có liên

hệ với Al Qaeda như: Abu Zubaydah (bắt 3/2002), Ramzi bin al-Shibh (bắt 9/2002), Khalid

Sheik Mohammed (bắt 3/2003), and Abu Faraj al-Libbi (bắt 5/2005). Những nhân vật Al Qaeda

kì cựu khác được cho là đã bị giết trong những trận đấu súng và tấn công tên lửa, hay những cuộc

không kích của máy bay không người lái trong vùng đất Pakistan.

Năm 2003, trước những lời than phiền của Mỹ, lực lượng liên quân và chính quyền

Afghanistan về những toán quân thâm nhập vào Afghanistan từ lãnh thổ Pakistan đã gây thiệt hại

lớn cho các lực lượng này ở chiến trường Afghanistan, cũng như không thể chấm dứt thắng lợi

cuộc chiến chống khủng bố, Tổng thống Musharraf đã tiến hành một chiến dịch quân sự chưa

từng thấy bằng cách chuyển 25.000 quân Pakistan vào vùng FATA. Nửa đầu năm 2004, quân đội

Pakistan tăng cường các chiến dịch quân sự, nhiều chiến dịch trong đó có sự phối hợp với Mỹ và

quân đội Afghanistan.

Tuy nhiên, những tàn binh Al Qaeda và đồng minh Taliban của chúng vẫn hoạt động ở

Pakistan, đặc biệt ở những vùng bộ lạc trên vùng núi cao dọc theo biên giới Afghanistan. Trong

khi đó, nhiều nhóm quân sự Hồi giáo bản địa bị cấm hoạt động tiếp tục được thành lập dưới

những tên gọi mới. Chẳng hạn, Lashkar-e-Taiba đổi tên thành Jamaat al-Dawat và Jaish-e-

Mohammed đổi tên thành Khudam-ul Islam. Nỗ lực chống khủng bố của Pakistan là đáng kể

nhưng tỏ ra không hiệu quả trong việc chấm dứt để lãnh thổ phía Tây thành nơi trú ẩn an toàn của

các nhóm Hồi giáo cực đoan. Mỹ cho rằng Al Qeada đang hồi sinh ở vùng đất Pakistan và coi đó

là những nguy cơ tiềm ẩn hủy hoại lợi ích của Mỹ trong khu vực cũng như trên chính nước Mỹ.

Thực trạng này khiến Mỹ tỏ ra nghi ngờ sự hợp tác của Pakistan trong cuộc chiến chống

khủng bố đang diễn ra. Mỹ cho rằng tình báo Pakistan đã bí mật giúp đỡ chúng thay vì hợp tác

với Mỹ trong các chiến dịch truy kích. Vì vậy họ muốn triển khai quân đội trên lãnh thổ Pakistan

để tiêu diệt tàn binh Taliban và Al Qeada đang ẩn náu ở đây. Trong một tuyên bố năm 2006,

Tổng thống Bush nói ông sẽ lệnh cho quân đội Mỹ vào Pakistan nếu nhận được thông tin tình báo

đáng tin cậy về vị trí của Bin Laden [89].

Ý định sử dụng bộ binh vào lãnh thổ Pakistan gặp phải sự phản đối mạnh mẽ của chính

quyền Pakistan. Cựu Tổng thống Musharraf phủ nhận nhận định cho rằng quân đội Mỹ hiệu quả

hơn quân đội Pakistan trong cuộc chiến chống các chiến binh Hồi giáo cực đoan. Ông cũng

khẳng định sự hiện diện quân sự trực tiếp của Mỹ ở Pakistan là không cần thiết và không chấp

nhận được. Tổng thống Asif Ali Zardari sau này cũng cảnh báo rằng Pakistan “sẽ không tha thứ

sự vi phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của bất cứ thế lực nào dưới danh nghĩa chống khủng

bố” [75, tr19]. Ông cho rằng Mỹ cung cấp tin tức tình báo cho lực lượng Pakistan là phù hợp nhất

để theo dõi và bắt giữ những kẻ khủng bố ở khu vực biên giới.

Không nhận được sự hợp tác hiệu quả từ Pakistan, Mỹ sử dụng máy bay không người lái tiến

hành truy kích vượt biên giới vào lãnh thổ Pakistan. Những cuộc không kích như vậy đã bị chính

quyền Pakistan coi là xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, dẫn đến làm xói mòn mối quan hệ Mỹ -

Pakistan.

Tháng 6/2008, trong một cuộc truy kích phiến quân Hồi giáo không quân Mỹ đã ném 12 quả

bom trọng lực lên vùng đất của người Pakistan và giết chết 11 lính thuộc quân đoàn biên giới.

Islamabad lên án mạnh mẽ cuộc tấn công và gọi là “vô cớ” và “hành động bạo lực trắng trợn ở

biên giới quốc tế”, rằng “hướng tới sự suy yếu cơ bản sự hợp tác của chúng ta”. Một báo cáo của

quân đội Pakistan gọi cuộc tấn công không quân là “hèn nhát” và một số người Pakistan tin rằng

quân đội quốc gia đã là mục tiêu có chủ đích. Chính quyền Bush bày tỏ mạnh mẽ sự hối tiếc đối

với những cái chết của người Pakistan.

Tháng 9, một cuộc tấn công khác bằng máy bay trực thăng bất ngờ vào phía Nam làng

Waziristan, làm ít nhất 20 người bị giết, bao gồm cả trẻ em và phụ nữ. Chính phủ Pakistan đã lên

án mạnh mẽ cuộc không kích và coi là “hành động giết người hoàn toàn vô cớ” và trao bản kháng

nghị chính thức tới cơ quan ngoại giao Mỹ về “hành động bạo lực trắng trợn” và “khiêu khích

nghiêm trọng”. Cả hai viện của cơ quan hành pháp Pakistan đều đồng lòng đưa ra nghị quyết lên

án một cách mạnh mẽ cuộc tấn công hèn nhát.

Giới chức quân đội Mỹ cho rằng những cuộc tấn công bằng máy bay không người lái nhằm

ngăn chặn những cuộc thâm nhập của phiến quân Hồi giáo vào Afghanistan là cần thiết, nhưng

giới chức dân sự Mỹ chống lại quan điểm đó. Bộ Ngoại giao bày tỏ sự lo lắng những cuộc tấn

công bằng máy bay gây tổn thất cho dân thường tạo sự oán giận trong dân chúng Pakistan sẽ làm

tổn hại đến những lợi ích tiềm tàng to lớn hơn của Mỹ.

Bộ ngoại giao Pakistan gọi những cuộc tấn công của máy bay không người lái “làm mất ổn

định” là “giúp cho khủng bố”. Chính phủ Pakistan đã phản ứng mạnh mẽ bằng việc triệu hồi đại

sứ Mỹ đến để trao một sự phản đối và kết tội những cuộc tấn công tên lửa mà Islamabad tin là

làm “suy giảm sự ủng hộ của công chúng đối với những nỗ lực chống khủng bố của chính phủ”

và phải “dừng lại ngay lập tức”.

Bất chấp những mâu thuẫn, Mỹ và Pakistan vẫn thúc đẩy hợp tác chống khủng bố, vì cả hai

cùng nhận thấy trong cuộc chiến này họ đều cần có nhau.

Mỹ đã xây dựng một trung tâm hợp tác và chia xẻ tình báo trên khu vực đèo Khyber thuộc

Afghanistan. Mỹ đã cung cấp để đào tạo và trang bị cho hơn 8000 lính bán quân sự thuộc Quân

đoàn biên giới Pakistan vào giữa năm 2010. Khoảng 20 huấn luyện viên người Mỹ được triển

khai cho nhiệm vụ huấn luyện này.

Cuối năm 2008, lực lượng quân sự Mỹ và Pakistan đã cải thiện những nỗ lực hợp tác và chia

xẻ thông tin tình báo. Sỹ quan quân đội Pakistan đã được phép xem các video về các mục tiêu giả

lập cho các máy bay không người lái của Mỹ và tiếp cận các thông tin quân sự bị ngăn chặn của

Mỹ. Phó Tổng thống Biden sau chuyến công du tới Pakistan đã cho biết ông nhìn thấy “một sự

hợp tác lớn” giữa quân đội Mỹ và Pakistan ở khu vực biên giới. Tuy nhiên, sự hợp tác vẫn gặp

những khó khăn trên thực tế. Chẳng hạn, một Trung tâm phối hợp biên giới trị giá 3 triệu USD tại

Torkham đã được mở cửa vào tháng 3/2008 nhưng những hoạt động đã bị trì hoãn bởi các vấn đề

hậu cần và tranh cãi chính trị.

Cũng thời gian này, quân đội Pakistan đã tiến hành các chiến dịch tiêu diệt các phiến quân

Taliban đang được cho là ẩn náu ở khu vực FATA. Những nỗ lực trước đó của Pakistan đã tỏ ra

thất bại trong việc ngăn chặn các hoạt động thâm nhập của những phiến quân này từ vùng biên

giới Afghanistan. Hiện nay những phiến quân này đã được trang bị các loại vũ khí hạng nặng nên

có khả năng tấn công trực tiếp vào các đơn vị quân đội Pakistan, thay vì đánh rồi chạy như trước

kia. Hàng trăm các vụ đánh bom tự sát, bắt cóc binh lính Pakistan đã làm tổn hại không nhỏ nhân

mạng cũng như tinh thần chiến đấu của quân đội Pakistan.

Tiêu diệt phiến quân Taliban, chấm dứt để lãnh thổ của mình thành nơi trú ẩn của chúng vừa

là nhiệm vụ cần thiết của Pakistan, vừa phù hợp với yêu cầu đặt ra của Mỹ. Vì vậy, Pakistan đã

triển khai các đơn vị tinh nhuệ được huấn luyện và trang bị bởi Mỹ thay thế một số vị trí gần biên

giới Afghanistan, đồng thời tiến hành các chiến dịch quân sự tấn công tàn binh Taliban trên đất

Pakistan.

Những trận đánh kéo dài nhiều tháng tập trung vào ba mặt trận: Thung lũng Swat, vùng Nam

bộ lạc Waziristan và Bajaur. Quân đội Pakistan đã sử dụng các loại vũ khí hiện đại bao gồm cả

máy bay chiến đấu trong những chiến dịch này. Các chiến dịch được Mỹ khích lệ, tuy nhiên, hiệu

quả không như mong đợi. Các phiến quân đã được tập hợp lại với trang bị tốt chống lại quân

chính phủ.

3.3.4.Kiểm soát chương trình phát triển vũ khí hạt nhân của Pakistan

Vấn đề hạt nhân và cách thức xử lý vấn đề hạt nhân của Mỹ cho thấy chính sách của họ đối

với quốc gia có vai trò địa – chính trị quan trọng ở Nam Á này. Sau hai cuộc chiến tranh liên tiếp

ở Afghanistan và Iraq, ưu tiên trong chính sách toàn cầu của Mỹ lúc này là tiêu diệt lực lượng

khủng bố quốc tế. Lúc này tranh thủ sự ủng hộ của Pakistan được xác định là một ưu tiên. Bên

cạnh đó, chính sách của Mỹ là hướng tới kiểm soát hoạt động hạt nhân ở quốc gia có nhiều bất ổn

về chính trị và nằm trong khu vực có nguy cơ mất an toàn hạt nhân cao. Kịch bản tồi tệ là một

cuộc chiến tranh hạt nhân nổ ra hay thiết bị hạt nhân rơi vào tay khủng bố, lực lượng đồn trú của

Mỹ ở Nam Á, Trung Á, Tây Á và cả các quốc gia đồng minh của Mỹ sẽ là mục tiêu hoặc bị ảnh

hưởng. Do đó, bên cạnh vai trò địa – chính trị Pakistan không chỉ phục vụ cho cuộc chiến chống

khủng bố mà còn từ nguy cơ hạt nhân.

Pakistan đã bí mật theo đuổi chương trình hạt nhân trong nhiều thập niên, bất chấp những chỉ

trích từ cộng đồng quốc tế cũng như những lệnh trừng phạt mà quốc gia này phải đối diện. Mỹ

hết sức lo ngại về chương trình hạt nhân mà Pakistan đang theo đuổi, đặc biệt trong điều kiện

trình độ khoa học đảm bảo an toàn hạt nhân, môi trường an ninh đảm bảo các thiết bị hạt nhân

không rơi vào tay những kẻ khủng bố và sự thù địch giữa Ấn Độ, Pakistan luôn thường trực. Dù

đã thực hiện nhiều biện pháp, trong đó có cấm vận, nhưng Mỹ vẫn không ngăn cản được tham

vọng hạt nhân của Pakistan.

Cũng như Ấn Độ, Pakistan không chịu ký vào Hiệp ước cấm thử nghiệm vũ khí hạt nhân

toàn diện (CTBT) và Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT). Năm 1998, theo sau các

cuộc thử nghiệm của Ấn Độ, Pakistan tiến hành một loạt các vụ nổ hạt nhân. Các vụ nổ hạt nhân

đánh dấu thất bại của hai thập niên nỗ lực duy trì không phổ biến vũ khí hạt nhân của Mỹ ở Nam

Á. Ngày nay, Pakistan được cho là đã có đủ lượng nguyên liệu hạt nhân để sản xuất ngay khi cần

từ 55 đến 90 vũ khí hạt nhân. Quốc gia này cũng đang sở hữu các phương tiện có thể đưa vũ khí

hạt nhân đến các mục tiêu với hiệu quả cao như tên lửa đạn đạo tầm ngắn, tầm trung (được sự

giúp đỡ của Trung Quốc, Bắc Triều Tiên), máy bay F-16 mua từ Mỹ (được cho là chỉ cần điều

chỉnh là có khả năng mang bom hạt nhân)[75,tr 61].

Từ năm 2001, Mỹ phải tìm kiếm sự hợp tác với Pakistan trong cuộc chiến chống khủng bố,

vì vậy tất cả những lệnh trừng phạt áp đặt lên Pakistan do các hoạt động liên quan đến hạt nhân

đều được dỡ bỏ. Mỹ đứng trước thách thức là vừa phải duy trì hợp tác trong cuộc chiến chống

khủng bố với Pakistan, vừa phải kiểm soát chương trình hạt nhân của quốc gia này. Mâu thuẫn đó

nhiều lúc đặt Mỹ trước sự lựa chọn khó khăn giữa hợp tác hay trừng phạt.

Nhiệm vụ ngăn cản Pakistan trở thành quốc gia hạt nhân không còn mang tính thời sự, nhưng

ngăn cản hành động chuyển giao hạt nhân cho quốc gia thứ ba trở nên cấp thiết. Nguy cơ

Pakistan tiến hành phổ biến hạt nhân cho quốc gia thứ ba, đặc biệt là quốc gia có mối quan hệ thù

địch với Mỹ, không còn là huyền hoặc khi có những dấu hiệu cho thấy Bắc Triều Tiên, Iran,

Libya đã nhận được sự trợ giúp hạt nhân từ Pakistan.

Các báo cáo cuối năm 2003 cho thấy Pakistan đã trợ giúp cho chương trình hạt nhân bí mật

của Bình Nhưỡng bằng cách cung cấp cho Bắc Triều Tiên những nguyên liệu và công nghệ làm

giàu uranium vào giữa thập niên 1990. Theo nội dung báo cáo như vậy có thể dẫn đến Mỹ áp

dụng lệnh trừng phạt hạn chế như đã thực hiện trước đó, nhưng chính quyền Bush cho rằng

“không đảm bảo việc áp đặt lệnh trừng phạt theo luật pháp Mỹ” [75, tr 62].

Chính quyền Musharraf phủ nhận mọi cáo buộc trên nhưng đưa ra khẳng định điều tra các

nhà khoa học hàng đầu đối với các hoạt động phổ biến hạt nhân “độc lập” mà họ có thể đã thực

hiện. Kết quả điều tra đưa ra tháng Giêng năm 2004 cho thấy, Abdul Qadeer Khan, nhà sáng lập

chương trình hạt nhân của Pakistan, thừa nhận đã tồn tại một hệ thống buôn lậu hạt nhân trái

phép. A. Q. Khan và ít nhất 7 đồng nghiệp khác đã bị kết tội là đã bán công nghệ vũ khí hạt nhân

cốt yếu và nguyên liệu làm giàu uranium cho Bắc Triều Tiên, Iran và Libya. A. Q. Khan bị bắt, bị

thẩm vấn nhưng sau đó đã được quản thúc tại gia và cuối cùng là tha bổng. Tổng thống

Musharraf và những người cùng quan điểm cho rằng A. Q. Khan đáng được tha thứ do những

đóng góp quan trọng của ông ta với đất nước.

Phản ứng trước hành động này của chính quyền Musharraf, Mỹ cho rằng chính quyền

Islamabad đã không hay biết gì về hành động này và Washington coi hành động tha thứ là công

việc nội bộ của Pakistan. Musharraf chập thuận chia xẻ thông tin về mạng lưới phổ biến vũ khí

hạt nhân của A. Q. Khan với Mỹ nhưng không chấp thuận cho Mỹ tiến hành cuộc tiếp xúc trực

tiếp với Khan. Ít nhất 2 lần sau đó Hạ viện Mỹ đã tiến hành các cuộc hội thảo và đưa ra kêu gọi

Pakistan để cho các nhà điều tra Mỹ gặp trực tiếp A. Q. Khan nhưng không nhận được sự đồng ý

của họ. Tháng 5/2006, chính quyền Pakistan tuyên bố cuộc điều tra về mạng lưới của A. Q. Khan

chấm dứt mà không một người Pakistan nào liên quan đến vụ án này đối mặt với tội hình sự.

Phản ứng của Mỹ về mạng lưới buôn lậu hạt nhân của A. Q. Khan dường như khép lại với

quyết định vào tháng 1/2009, theo đó áp đặt biện pháp trừng phạt đối với 13 người và 3 công ty

có liên quan đến mạng lưới của A. Q. Khan. Tuy nhiên, vấn đề an ninh vũ khí hạt nhân của

Pakistan trở thành nỗi lo lắng thường trực của Mỹ.

Thực tế đặt ưu tiên chiến tranh chống khủng bố lên hàng đầu trong chính sách với Pakistan,

Mỹ đã phải có những nhượng bộ ít nhiều trong vấn đề hạt nhân. Tuy nhiên nguy cơ phát triển hạt

nhân ở một quốc gia có nhiều bất ổn như Pakistan là một thách thức lớn cho sự ổn định, hòa bình

của khu vực và thế giới. Trong tương lai, khi vấn đề khủng bố được giải quyết, Mỹ sẽ có những

điều chỉnh cứng rắn hơn trong vấn đề này với Pakistan.

3.4.Chính sách của Mỹ đối với các nước Nam Á khác

Cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu và các tính toán chiến lược nhằm kiềm chế các đối thủ

cạnh tranh tiềm tàng khiến Mỹ phải chú tâm đến các nước nhỏ nhưng có vị trí địa – chính trị

quan trọng trên thế giới, trong đó có khu vực Nam Á. Nếu thập niên 90 của thế kỷ trước các nước

nhỏ ở Nam Á không được các nhà hoạch định chính sách Mỹ lưu tâm, thì trong thập niên đầu thế

kỷ XXI này các cuộc gặp gỡ ngoại giao, các cam kết viện trợ, các hợp tác quân sự …được tiến

hành thường xuyên hơn. Chính phủ Mỹ cũng có nhiều hành động thúc đẩy quan hệ Mỹ với các

nước này. Tuy nhiên, tùy thuộc vào lợi ích địa – chính trị của mỗi nước, chính sách của Mỹ đối

với Sri Lanka, Bangladesh, Bhutan, Nepal, Maldives có sự khác biệt nhau.

3.4.1.Sri Lanka

Theo quan điểm của nhà địa – chính trị Alfred Thayer Mahan, người coi trọng sức mạnh trên

biển, ai khống chế được biển sẽ trở thành cường quốc thế giới. Tuy nhiên, biển bao la không thể

lực lượng nào độc chiếm được và cũng không cần thiết. Nên vấn đề then chốt để khống chế biển

là chiếm giữ các eo biển và khống chế các tuyến hàng hải quan trọng huyết mạch [11, Tr 16].

Trong khu vực Nam Á, Sri Lanka nổi bật lên là quốc gia có vị trí chiến lược cho phép thực hiện

mục tiêu trên.

Sri Lanka là một quốc đảo được bao bọc bởi Ấn Độ Dương. Không có biên giới đất liền với

bất cứ quốc gia nào, Sri Lanka chỉ có sự tiếp giáp với vùng biển của các quốc gia trong khu vực

như Ấn Độ, Bangladesh, Pakistan, Maldives. Những lợi ích quan trọng có thể nhìn thấy được từ

Sri Lanka như: nằm trên con đường hàng hải quốc tế quan trọng bậc nhất của thế giới, nơi diễn ra

những cạnh tranh quyết liệt giữa các cường quốc; gần với các eo biển Malacca và kênh đào Suez;

gần khu vực “điểm nóng” của thế giới. Đối với Mỹ, Sri Lanka nằm trong vùng cần được bảo vệ

an toàn cho sự hoạt động không hạn chế của lực lượng hải quân Mỹ và các căn cứ quân sự Mỹ ở

đây.

Dân số không nhiều, tài nguyên thiên nhiên không giàu có nhưng có những bến cảng quan

trọng có khả năng phục vụ cho mục đích kinh tế và quân sự, cùng với lợi ích địa – chính trị như

trên, Sri Lanka đang bị nhiều nước tìm cách đặt ảnh hưởng thông qua thắt chặt quan hệ. Các gói

viện trợ kinh tế, trợ giúp phát triển đất nước, tái thiết quốc gia, ủng hộ chính trị… luôn được các

cường quốc cam kết cung cấp để mong nhận được sự ưu ái từ chính quyền Sri Lanka. Trong số

các quốc gia này nổi bật hơn cả có Mỹ, Trung Quốc.

Trung Quốc mong muốn được chính quyền Sri Lanka cho phép đặt căn cứ hải quân trên lãnh

thổ của họ. Căn cứ này được các nhà phân tích Mỹ cho là nằm trong kế hoạch xây dựng một loạt

các căn cứ hải quân trên con đường biển từ đảo Hải Nam đến vùng dầu mỏ quan trọng trên thế

giới, kế hoạch “chuỗi ngọc trai”. Trong nhiều năm gần đây, Trung Quốc đã thực hiện nhiều hoạt

động viện trợ kinh tế như một phần kế hoạch chiếm lòng tin giới cầm quyền Sri Lanka.

Kiềm chế Trung Quốc là một trong những mục tiêu của Mỹ. Để chính sách này hiệu quả, Mỹ

phải tăng cường sự hiện diện của mình ở những nơi có sự hiện diện của Trung Quốc, đặc biệt là

những vị trí địa – chính trị quan trọng trên thế giới. Sẽ là một thất bại nếu các nước nhỏ ở Nam Á

như Pakistan, Bangladesh, Sri Lanka, Maldives rơi vào quỹ đạo Trung Quốc.

Không muốn mình là kẻ chậm chân, Mỹ đã tiến hành nhiều hoạt động gây ảnh hưởng ở Sri

Lanka. Quốc đảo nghèo đói hàng đầu Nam Á này đã chìm đắm trong cuộc nội chiến từ thập kỷ

80 giữa lực lượng chính phủ với Những con hổ giải phóng Tamil (LTTE). Thái độ của Mỹ trong

cuộc chiến này là ủng hộ lực lượng chính phủ bằng cách liệt LTTE vào danh sách những tổ chức

khủng bố quốc tế từ năm 1997. Khi cuộc nội chiến gây tổn thất trong nhiều năm không đi đến kết

thúc, chính phủ Sri Lanka chủ trương đàm phán một thỏa thuận ngừng bắn với lực lượng LTTE,

Mỹ tỏ ý ủng hộ cách giải quyết xung đột này. Mỹ cũng đồng quan điểm với chính phủ Sri Lanka

trong việc không chấp nhận thành lập một nhà nước độc lập khác trên đảo quốc này.

Khi thỏa thuận ngừng bắn bị phá vỡ, cuộc nội chiến bùng phát trở lại. Cuộc chiến đã gây

thiệt hại lớn tới nhân mạng và cơ sở vật chất của Sri Lanka. Cuộc đối đầu lần này, quân chính

phủ đã giành thắng lợi. Tháng 5/2009, thủ lĩnh của LTTE, Velupillai Prabhakaran, đã bị tiêu diệt

trong một cuộc tấn công quân sự của quân chính phủ báo hiệu chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài

hơn 30 năm. Chính phủ Sri Lanka tuyên bố kết thúc thắng lợi cuộc chiến chống lại Những con hổ

giải phóng Tamil. Tuy nhiên, hiện nay, đảm bảo cho một cuộc chiến mới không bùng phát trở lại

là một thách thức không nhỏ với chính phủ.

Mỹ bày tỏ sự quan tâm đến nền chính trị và sự ổn định xã hội của Sri Lanka sau khi lực

lượng LTTE bị đánh bại. Một số thượng nghị sĩ cùng với Thượng nghị sĩ John Kerry và Richard

Lugar tuyên bố rằng chính phủ Sri Lanka "có một cơ hội để tiến đến một giải pháp chính trị lâu

dài, trong đó thừa nhận những nguyện vọng chính đáng của tất cả người dân Sri Lanka, bao gồm

Sinhalese, Tamil, và các nhóm khác” [74]. Trước đó vào tháng 4/2009, Nhà Trắng đưa ra một

bản tuyên bố cho rằng “sẽ tệ hại thêm bi kịch hiện nay nếu kết thúc cuộc xung đột quân sự chỉ

gieo mầm thù hận hơn nữa và kết thúc hy vọng cho hòa giải" [91]. Như vậy, ổn định không chỉ là

mong muốn của chính quyền và người dân Sri Lanka mà còn là sự quan tâm của cộng đồng quốc

tế, trong đó có Mỹ. Sự bất ổn ở Sri Lanka sẽ không có lợi cho chính sách của Mỹ ở quốc gia cũng

như khu vực này. Trợ giúp của Mỹ cho Sri Lanka sau cuộc chiến được thông qua Liên Hiệp

Quốc và những nỗ lực quốc tế để giải quyết nhu cầu nhân đạo, kêu gọi chính phủ Sri Lanka cho

phép đại diện của tổ chức Chữ thập đỏ quốc tế và Liên Hiệp Quốc tiếp cận các khu vực xung đột

trước đây [80, tr 14].

Cũng như các quốc gia khác, Mỹ sử dụng viện trợ kinh tế và các quan hệ thương mại đầu tư

để tạo ảnh hưởng lên chính sách của Sri Lanka. Từ khi Sri Lanka độc lập năm 1948, Mỹ đã cung

cấp hơn 3,6 tỷ USD, khoảng hai phần ba số này dưới hình thức viện trợ lương thực. Trong những

năm gần đây, hoạt động này được đẩy mạnh.

Viện trợ trực tiếp của Hoa Kỳ, không phải viện trợ lương thực, năm 2006 là hơn 14,5 triệu

USD, 2007 khoảng 9,4 triệu USD. Khoảng một nửa số này là nhằm hỗ trợ tiến trình hòa bình.

Năm 2009, Bộ Ngoại giao Mỹ yêu cầu cung cấp cho Sri Lanka một khoản viện trợ lớn, bao gồm:

6,5 triệu USD hỗ trợ phát triển, 4 triệu USD cho Quỹ hỗ trợ kinh tế, 900.000 USD tài chính cho

quân sự nước ngoài, 350.000 USD cho kiểm soát ma túy quốc tế và thực thi pháp luật, và

650.000 USD cho không phổ biến, chống khủng bố, rà phá bom mìn và các chương trình liên

quan.

Bên cạnh viện trợ trực tiếp, Mỹ tạo điều kiện cho hàng hóa Sri Lanka thâm nhập vào thị

trường Mỹ. Năm 2002, trong chuyến thăm của Thủ tướng Wickremasinghe tới Washington, Mỹ

và Sri Lanka đã ký kết Hiệp định khung thương mại và Đầu tư mới (TIFA) thiết lập "một diễn

đàn cho Sri Lanka và Mỹ xem xét cách thức để mở rộng thương mại song phương và đầu tư" [80,

tr 15]. Cho đến nay Mỹ vẫn là đối tác thương mại quan trọng nhất của Sri Lanka. Mỹ là thị

trường xuất khẩu quan trọng của quốc gia này, chiếm hơn một phần tư tổng lượng xuất khẩu của

đất nước.

Nằm ở vị trí quan trọng trên Ấn Độ Dương, Sri Lanka có giá trị lớn trong hợp tác quân sự mà

các cường quốc hướng tới, trong đó có Mỹ. Theo Bộ Ngoại giao Mỹ, các sĩ quan quân đội cấp

cao Sri Lanka ủng hộ mạnh mẽ các chương trình và mục tiêu chiến lược của Mỹ. Sri Lanka cho

phép các chuyến bay và hạ cánh thông quan đối với máy bay quân sự Mỹ, đồng thời cho phép tàu

Mỹ tiếp cận các cảng của họ. Đổi lại, Mỹ tài trợ cho một chương trình quốc phòng và đào tạo

quân sự cho quân đội Sri Lanka. Trong những năm gần đây Mỹ đã hỗ trợ nhằm chuyên nghiệp

hóa quân đội Sri Lanka và cung cấp các trang thiết bị cơ bản cho quân đội quốc gia này như: giày

ống, mũ bảo hiểm, radio, áo Flack, kính nhìn ban đêm, cùng với các giám sát hàng hải và thiết bị

ngăn chặn cho các lực lượng hải quân… Tháng 3/2007, Mỹ và Sri Lanka đã ký một hiệp định tạo

ra một khuôn khổ cho khả năng gia tăng tương tác quân sự, cho phép chuyển và trao đổi số lượng

lớn hỗ trợ hậu cần, các dịch vụ cung cấp nhiên liệu trong các chiến dịch hoặc các cuộc diễn tập

chung.

Tháng 11/2007, Mỹ cung cấp cho Sri Lanka một hệ thống rada giám sát hàng hải và một số

tàu thuyền bơm hơi. Cũng thời gian này, Tư lệnh Thái Bình Dương Mỹ, Đô đốc Robert Willard,

thăm Sri Lanka và gặp các đối tác hải quân để xem xét hợp tác hàng hải lâu dài.

Như vây, địa – chính trị Sri Lanka đang có vai trò quan trọng trong chính sách của Mỹ ở

Nam Á. Hợp tác với quốc gia này cho phép Mỹ theo đuổi chính sách toàn cầu là cạnh tranh, ngăn

chặn đối thủ của mình, củng cố, duy trì sự an toàn giao thông trên tuyếnđường biển huyết mạch

của thế giới, hỗ trợ cho cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ ở Afghanistan.

3.4.2.Bangladesh

Bangladesh là quốc gia “sinh sau đẻ muộn” so với các quốc gia khác ở Nam Á. Nằm ở hạ lưu

sông Hằng, lãnh thổ quốc gia này không lớn, dân số không đông, tài nguyên thiên nhiên không

giàu có, ngoại trừ đất nông nghiệp và số lượng đáng kể khí đốt, than. Dù vậy, quốc gia này được

đánh giá là có vai trò địa – chính trị quan trọng trong số các nước nhỏ ở Nam Á. Cũng như Sri

Lanka, Bangladesh đang diễn ra hình thái cạnh tranh mạnh mẽ giữa các cường quốc nhằm chiếm

lĩnh niềm tin và sự ưu ái của chính quyền này, phục vụ cho mục tiêu chiến lược của họ. Trong số

đó nổi lên là Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ.

Chính sách của Mỹ sau sự kiện 11/9 đối với Bangladesh có nhiều thay đổi. Là một quốc gia

Hồi giáo nhưng Bangladesh được Mỹ đánh giá là quốc gia có tiếng nói ôn hòa trong thế giới hồi

giáo. Trong bối cảnh Mỹ đang bị người Hồi giáo trên khắp thế giới chống lại mạnh mẽ như hiện

nay, Bangladesh được xem là một quốc gia quan trọng ở châu Á mà Mỹ có thể thông qua đó tiếp

cận với thế giới Hồi giáo, khuyến khích tinh thần của họ chống lại những người Hồi giáo cực

đoan, đồng thời cải thiện hình ảnh của Mỹ trong thế giới Hồi giáo. Về phần mình vốn là một

quốc gia Hồi giáo ôn hòa, Bangladesh cũng có lợi ích chung trong việc chống lại những người

Hồi giáo có tư tưởng cực đoan [86, tr 1].

Bên cạnh đó, lợi ích Mỹ có được từ quan hệ với Bangladesh còn bao gồm thúc đẩy phát triển

thương mại và năng lượng, hỗ trợ dân chủ và cộng tác trong các hoạt động hòa bình trên thế giới.

Nổi bật hơn cả, Bangladesh là mối quan tâm của Mỹ trong những động lực lớn hơn về địa chính

trị Nam Á [86, tr 1].

Bangladesh là một quốc gia có tầm quan trọng chiến lược không chỉ đối với khu vực Nam Á

mà còn là động lực lớn về địa chính trị của châu Á nói chung. Ấn Độ đang được xem là có khả

năng cân bằng tư thế chiến lược đang nổi lên của Trung Quốc ở châu Á. Bangladesh lại là quốc

gia đang được cả Trung Quốc và Ấn Độ lôi kéo, vì vậy quốc gia này đã đóng và có thể sẽ tiếp tục

đóng vai trò cân bằng trong khu vực khi quyết định đứng về bên nào. Trong những năm gần đây,

chính sách ngoại giao Bangladesh có phần nghiêng về Trung Quốc trong khi vẫn coi trọng duy trì

quan hệ tốt với Ấn Độ. Trung Quốc đang được Bangladesh coi như một đối trọng chiến lược cho

mối quan hệ của họ với Ấn Độ.

Tháng 3/2010, Thủ tướng Hasina thăm Trung Quốc nhằm tìm kiếm sự hợp tác chặt chẽ hơn

với Trung Quốc trong một số lĩnh vực, bao gồm hợp tác với Trung Quốc để xây dựng một cảng

biển nước sâu ở Chittagong và thiết lập một tuyến đường từ Chittagong tới Côn Minh, Trung

Quốc. Cũng thời gian này hai bên đã đưa ra Tuyên bố chung về "quan hệ đối tác hợp tác toàn

diện thân thiện hơn" trong tương lai. Tuyên bố kêu gọi tăng cường hợp tác song phương trong

một số lĩnh vực bao gồm chia sẻ thông tin thủy văn trên sông Brahmaputra, tăng cường liên kết

giao thông vận tải, thương mại song phương; tăng cường trao đổi và hợp tác giữa quân đội hai

quốc gia "để bảo vệ quyền an ninh quốc gia và sự ổn định; thúc đẩy hòa bình, ổn định trong khu

vực” [86, tr 14]. Những động thái này của Trung Quốc, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển cảng

biển, đã dẫn đến sự nghi ngờ về động cơ của Trung Quốc. Phát triển cảng ở Bangladesh có thể

được xem như là một phần của một chiến lược "Chuỗi của ngọc trai".

Việc Bangladesh theo đuổi chính sách ngoại giao như hiện nay là một bất lợi không chỉ với

Ấn Độ mà còn cả với chính sách của Mỹ trong khu vực. Vì vậy, Mỹ phải có những điều chỉnh để

không đi đến chỗ đẩy Bangladesh rơi vào quỹ đạo Trung Quốc. Tăng cường quan hệ thương mại,

đầu tư và viện trợ là những biện pháp Mỹ thường lựa chọn sử dụng để thắt chặt quốc gia nào đó

vào chính sách của mình.

Quan hệ kinh tế thương mại Bangladesh – Mỹ đã được mở rộng trong những năm gần đây và

Mỹ hiện là đối tác thương mại lớn nhất của Bangladesh. Thương mại song phương đã tăng từ 1 tỷ

USD trong năm 1992 lên 4 tỷ USD năm 2009. Hai nước đã thảo luận về Hiệp định khung

Thương mại và Đầu tư (TIFA), nhưng Bangladesh miễn cưỡng hướng tới một TIFA vì những lo

ngại về lao động, môi trường và các quy định sở hữu trí tuệ có trong Hiệp định. Tháng 3/2010,

Bangladesh tuyên bố rằng họ sẽ hoan nghênh bất kỳ đề xuất nào thay thế TIFA. Mỹ cho rằng tiến

tới một Diễn đàn hợp tác Kinh tế Thương mại Mỹ - Bangladesh là một thay thế phù hợp.

Trong hoạt động đầu tư, Mỹ quan tâm đến các dự án đầu tư khai thác khí thiên nhiên được

tìm thấy ở vịnh Bengal thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Bangladesh. Những phát hiện nguồn

năng lượng đáng kể đã đưa quốc gia này vào hàng thứ 32 trên thế giới trong sản xuất khí thiên

nhiên, với sản lượng hàng năm là 17,9 tỷ mét khối và xếp thứ 48 với 141,6 tỷ mét khối dự trữ.

Bangladesh cũng ước tính có 3,3 tỷ tấn trữ lượng than. Để khai thác nguồn tài nguyên này phục

vụ cho nền kinh tế đất nước, ước tính Bangladesh cần 12 tỷ USD đầu tư trong 5 năm. Đây là số

tiền không nhỏ đối với đất nước được cho là nghèo nhất khu vực này, bởi vậy đang là cơ hội tốt

Mỹ cũng là nhà tài trợ lớn của Bangladesh. Năm 2010, Mỹ viện trợ cho Bangladesh ước

cho các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có Mỹ.

tính tổng cộng 168,5 triệu USD. Viện trợ Mỹ tập trung vào mục tiêu "ổn định tăng trưởng dân số,

bảo vệ sức khỏe con người, khuyến khích mở rộng dựa trên tăng trưởng kinh tế, và dân chủ xây

dựng"[86, tr 1].

Một Bangladesh ổn định và phát triển và có mối quan hệ tốt là mong muốn của Mỹ. Tuy

nhiên trong những năm gần đây, Bangladesh cũng như nhiều nước nghèo có đời sống kinh tế phụ

thuộc quá nhiều vào thiên nhiên đang lo lắng với những tác hại của biến đổi khí hậu. Hiện tượng

nóng lên của vỏ trái đất làm nước biển dâng đang là nguy cơ lớn nhấn chìm nhiều đồng bằng ven

biển của Bangladesh, đe dọa an ninh lương thực đối với quốc gia có nền kinh tế nông nghiệp

chiếm gần 20% GDP này.

Mỹ nhận thấy cần phải giúp đỡ Bangladesh trong lĩnh vực môi trường, nhanh chóng thích

ứng với biến đổi khí hậu và hỗ trợ đi đến giảm nhẹ những hậu quả của biến đổi khí hậu. Cơ quan

Phát triển Quốc tế Mỹ (USAID) đang hợp tác với Bangladesh giúp quốc gia này tiến tới quản lý

bền vững tài nguyên thiên nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học. Hai dự án thí điểm của USAID đã

được thực hiện. Những dự án thí điểm tập trung vào việc quản lý hệ sinh thái thủy sản thông qua

cộng đồng chăn nuôi và cộng đồng quản lý tài nguyên rừng nhiệt đới.

Nhìn chung, xuất phát từ những lợi ích địa – chính trị trong bối cảnh lịch sử thế giới có nhiều

thay đổi ở thế kỷ XXI, chính sách của Mỹ đối với Bangladesh giai đoạn này có những chuyển

biến tích cực. Mối quan hệ chặt chẽ của quốc gia này với Trung Quốc và tính ôn hòa của Hồi

giáo Bangladesh đang là những quan tâm trong chính sách của Mỹ. Vì vậy, mối quan hệ Mỹ -

Bangladesh còn tiếp tục được củng cố trong thời gian tới.

3.4.3.Nepal

Nepal là quốc gia nằm kẹt giữa hai gã “khổng lồ” châu Á là Ấn Độ và Trung Quốc. Không

có đường ra biển, quốc gia này đang gặp những khó khăn cho mục tiêu phát triển đất nước. Dân

số không đông, tài nguyên thiên nhiên có giá trị cao không nhiều. Tuy nhiên, vị trí tiếp giáp giữa

hai cường quốc khu vực lại có những quan ngại đến từ lực lượng Mao-ít đang khiến quốc gia này

được các cường quốc quan tâm trong chính sách của họ.

Chuyển sang chế độ quân chủ lập hiến từ năm 1990, Nepal vẫn phải đối diện với những bất

ổn chính trị. Một trong những bất ổn chính trị nghiêm trọng vào tháng 6/2001 là cuộc thảm sát

hoàng gia khiến 10 thành viên, trong đó có đức vua tại vị Birendra bị giết. Gyanendra, một người

hội lập hiến Nepal bỏ phiếu đồng ý chấm dứt chế độ quân chủ, chuyển sang chế độ cộng

hòa. Bên cạnh đó, từ lâu Nepal đã phải đối diện với lực lượng nỗi dậy Mao-ít, một lực lượng

em trai đức vua bị giết lên thay, nhưng chế độ này cũng chỉ tồn tại đến ngày 28/5/2008 khi quốc

hoạt động có tổ chức và có khả năng gây bất ổn đáng kể cho xã hội Nepal cả trong hiện tại và

tương lai.

Lợi ích địa – chính trị của Nepal đối với Mỹ là không nhiều như các quốc gia Nam Á khác,

nhưng Mỹ muốn hỗ trợ các tổ chức dân chủ ở đây và hỗ trợ tự do hóa kinh tế; thúc đẩy hòa bình,

ổn định ở Nam Á; hỗ trợ độc lập và toàn vẹn lãnh thổ Nepal; xoá đói giảm nghèo [87, tr 17]…để

quốc gia vào hàng nghèo nhất thế giới này không bị các cường quốc khác lôi kéo cho mục tiêu

chính trị của họ, đồng thời không để những khó khăn của Nepal đi đến chỗ trở thành nơi trú ẩn

của khủng bố quốc tế.

Mỹ hỗ trợ Nepal từ chính trị ngoại giao đến kinh tế. Về chính trị ngoại giao, Mỹ cùng quan

điểm với quốc gia này khi tỏ thái độ của mình đối với lực lượng Mao-ít. Mỹ đã xem kế hoạch của

lực lượng Mao-ít lập nên một nước cộng hòa độc đảng, tiến hành tập thể hóa nông nghiệp, giáo

dục lại "kẻ thù giai cấp" và xuất khẩu cách mạng như một nguy cơ phá hoại ổn định khu vực,

ngăn cản thúc đẩy dân chủ và phát triển ở Nepal [87, tr 18]. Mỹ đã liệt nhóm quân sự này vào

danh sách lực lượng khủng bố quốc tế, tiến hành viện trợ quân sự cho chính quyền Nepal với các

loại vũ khí hạng nhẹ như súng trường M -16, kính bắn đêm…, để quân đội của họ nâng cao khả

năng chống lại các hoạt động quân sự của lực lượng Mao-ít. Mỹ cũng đã tổ chức diễn tập chung

với quân đội Nepal nhằm nâng cao sức chiến đấu chống lực lượng nổi dậy, thực hiện chương

trình huấn luyện khoảng 200 cảnh sát và quân đội Hoàng gia chống khủng bố. Tuy nhiên sau sự

kiện Nepal trở thành nước cộng hòa với vai trò nổi bật của lực lượng Mao-ít trong nền chính trị,

Mỹ đã có sự điều chỉnh quan điểm đối với nhóm chính trị đầy quyền lực này.

Trong chuyến đến Mỹ tham dự cuộc họp của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, Thủ tướng Dahal

đã có cuộc gặp ngắn với Tổng thống Bush. Trong cuộc gặp, Thủ tướng Nepal đã đề nghị Mỹ giúp

đỡ. Sau đó ông gặp Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Richard Boucher đồng thời bày tỏ quan ngại rằng tổ

chức Mao-ít của ông vẫn nằm trong danh sách các nhóm khủng bố của Mỹ. Boucher cho biết

nhóm này đã được đưa ra khỏi danh sách khủng bố quốc tế nhưng vẫn trong 2 danh sách liên

quan đến khủng bố khác. Sau đó thủ tướng Dahal được biết thêm rằng việc đưa nhóm Mao-ít ra

khỏi 2 danh sách còn lại tùy thuộc “trực tiếp trên mức độ mà họ tiếp tục chấp nhận tiến trình

chính trị và từ bỏ bạo lực " [88, tr 11]. Từ cuối năm 2008, lệnh cấm đi lại đối với các nhà lãnh

đạo Mao-ít được nới lỏng và một cuộc đối thoại đã được thiết lập.

Về kinh tế, Mỹ tiền hành viện trợ cho Nepal. Tuy nhiên, trong bối cảnh chính phủ Nepal tiến

hành các hoạt động quân sự chống lực lượng Mao-ít, viện trợ Mỹ từ 2001 đến trước 2008 chủ

yếu là viện trợ quân sự với các gói viện trợ tài chính, vũ khí hạng nhẹ cho chính quyền Nepal,

bên cạnh đó là viện trợ nhân đạo. Hàng triệu đô la đã được cung cấp cho Nepal hàng năm. Năm

2001, Mỹ viện trợ cho Nepal tổng cộng 23.080.000 USD. Các năm tài chính tiếp theo, khoản

viện trợ cho quốc gia này luôn được điều chỉnh theo chiều hướng tăng. Năm 2007 viện trợ tăng

lên 47.476.000 USD. Sau khi Nepal chuyển sang chế độ cộng hòa với vai trò nổi bật của nhóm

Mao-ít trong quốc hội Nepal, viện trợ của Mỹ cho quốc gia này đã điều chỉnh theo hướng giảm.

Năm 2009, viện trợ cho Nepal chỉ có 38.182.000 USD.

Trong chính sách của mình đối với Nepal, Mỹ không để mối quan hệ này ảnh hưởng đến mối

quan hệ chiến lược với Ấn Độ. Các nhà lãnh đạo quân sự cũng như dân sự Mỹ luôn khẳng định

các hoạt động viện trợ quân sự, hoạt động huấn luyện quân sự hay diễn tập quân sự chung với lực

lượng quân đội Nepal chỉ nhằm mục tiêu nâng cao sức chiến đấu chống khủng bố của họ. Trong

một phát biểu vào tháng 5/2003 tại Kathmandu, Đại sứ Mỹ nói rằng Mỹ "không tìm cách thiết lập

các căn cứ Mỹ tại Nepal và Mỹ không có bất kỳ lợi ích chiến lược ở Nepal”[87, tr 19]. Tuyên bố

này cho thấy giá trị địa – chính trị của Nepal trong chính sách của Mỹ so với các quốc gia khác

trong khu vực, đồng thời cũng cho thấy sự phù hợp với những gì đang diễn ra hiện nay trong mối

quan hệ giữa Mỹ và Nepal.

3.4.4.Maldives và Bhutan

Maldives và Bhutan là hai quốc gia nhỏ ở Nam Á. Vai trò địa – chính trị không được đánh

giá cao như các quốc gia còn lại. Dân số không đông, tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn. Nếu

Bhutan không có đường ra biển, nằm kẹt giữa Ấn Độ và Trung Quốc thì Maldives được tạo nên

bởi hơn 1.000 đảo nhỏ nằm giữa biển khơi Ấn Độ Dương. Hoạt động ngoại giao của Bhutan và

Maldives với các quốc gia chưa được thúc đẩy. Nhiều cường quốc chưa đặt quan hệ ngoại giao

với các quốc gia này.

So với các quốc gia khác trong khu vực, Maldives và Bhutan chưa có vị trí đáng kể trong

chính sách của Mỹ. Mỹ không có đại sứ quán đóng trên lãnh thổ của 2 quốc gia này. Các cơ quan

ngoại giao cấp đại sứ của Mỹ được đặt ở Ấn Độ như trường hợp đối với Bhutan và Sri Lanka như

trường hợp đối với Maldives.

Cho đến nay, Bhutan không được nhận viện trợ từ Mỹ, kể cả nguồn viện trợ do Cơ quan Phát

triển Quốc tế Mỹ (USAID) đang thực hiện ở Nam Á nhằm giúp các quốc gia ở đây phát triển cơ

sở hạ tầng. Một số sỹ quan quân đội Bhutan được tham dự các khóa học tại Trung tâm nghiên

cứu an ninh châu Á – Thái Bình Dương.

Maldives là quốc gia có truyền thống theo đuổi chính sách không liên kết, cố gắng duy trì địa

vị không phụ thuộc vào một cường quốc nào trong khi duy trì lâu dài mối quan hệ thân mật với

tất cả các các nước trên thế giới. Mục đích của lập trường này là nhận thêm nhiều viện trợ và giữ

vùng Ấn Độ Dương trong hòa bình. Trong quá khứ Maldives đã từng từ chối đề nghị trợ giúp 1

triệu USD của Liên Xô vào 1977, với mong muốn quốc gia này cho Liên Xô thuê căn cứ không

quân Anh xưa ở Gan.

Bối cảnh lịch sử quốc tế và những chuyển biến chính trị trong khu vực những năm gần đây

đã khiến Mỹ quan tâm nhiều hơn đến đảo quốc này. Mỹ đã có những chương trình hỗ trợ phát

triển kinh tế cho Maldives. Tài chính cho mục tiêu này chủ yếu được thực hiện thông qua các

chương trình của tổ chức quốc tế. Sau thảm họa sóng thần năm 2004, Mỹ và Maldives đã ký một

thỏa thuận hỗ trợ song phương trị giá 8,6 triệu USD cho hỗ trợ tái thiết. Khoản tài chính này giúp

xây dựng lại bến cảng, hệ thống thoát nước... Mỹ đã trực tiếp tài trợ đào tạo về quản lý cho hải

quan sân bay, hàng năm đào tạo một số nhân viên quân sự Maldives.

Trong những năm gần đây, chính quyền Maldives cho phép tàu hải quân Mỹ thường xuyên

ghé thăm thủ đô Male. Maldives cũng đã mở rộng hỗ trợ mạnh mẽ những nỗ lực của Mỹ chống

khủng bố và các hoạt động tài trợ khủng bố trong khu vực.

Nhìn chung, xuất phát từ những giá trị địa – chính trị khác nhau, chính sách của Mỹ đối với

hai quốc gia ít được quan tâm trong lịch sử này đang có sự chuyển biến. Trong đó nổi bật lên là

 Tiểu kết

Maldives.

Thế giới bước vào thiên niên kỷ mới với sự kiện 11/9/2001 ở nước Mỹ chấn động toàn cầu.

Ngay sau đó chính quyền Mỹ tuyên bố tấn công tiêu diệt tận gốc khủng bố bằng cuộc chiến tranh

Afghanistan. Không lâu sau đó là cuộc chiến ở Iraq nhằm lật đổ chính quyền Saddam Hussen,

chính quyền được cho là tài trợ khủng bố và sở hữu vũ khí giết người hàng loạt. Thế giới sau hai

cuộc chiến này có nhiều thay đổi, đặc biệt sau khi Bush tuyên bố các nước hoặc đi theo Mỹ hoặc

đi theo khủng bố.

Nam Á nằm gần “khu vực chiến sự” của thế giới lúc bấy giờ. Với vị trí này, Nam Á được Mỹ

coi trọng, đặc biệt là nơi trú ẩn an toàn của các lực lượng khủng bố. Ngoài ra Nam Á có vai trò

quan trọng trong cung cấp hậu cần cho lực lượng Mỹ và liên quân tham chiến ở chiến trường

Afghanistan. Ngoài ra, đây là nơi tập trung nhiều lợi ích của Mỹ và tiếp giáp với những vùng lợi

ích quan trọng khác cần phải bảo vệ. Với những giá trị địa – chính trị như trên, Mỹ có chính sách

coi trọng các quốc gia Nam Á.

Trong số các quốc gia Nam Á, Pakistan có vi trí tiếp giáp với Afghanistan, một số khu vực

của quốc gia này có quan hệ chặt chẽ với lực lượng Al Qeada, Taliban và đang trở thành nơi ẩn

náu an toàn của chúng. Các chiến dịch của Mỹ và liên quân tỏ ra không hiệu quả, không tiêu diệt

được tận gốc khủng bố ở đây cũng bởi lý do này. Bên cạnh đó, Pakistan cũng là quốc gia có vị trí

hậu cần quan trọng cung cấp đến ¾ vật chất cho lực lượng Mỹ tham chiến ở chiến trường

Afghanistan. Vì vậy Pakistan trở thành nhân tố quan trọng trong cuộc chiến chống khủng bố của

Mỹ ở lục địa này. Musharraf đã biết khai thác mong muốn hợp tác của Mỹ với họ để đưa

Pakistan trở lại vị trí quan trọng trong chính sách của Mỹ.

Mỹ luôn biết sử dụng “con bài viện trợ” để thuyết phục các quốc gia khác đi theo mình.

Trong trường hợp quốc gia đang chìm ngập trong nợ nần sau những năm chạy đua phát triển vũ

trang với Ấn Độ và đối diện với lệnh cấm vận quốc tế, chính sách này tỏ ra hiệu quả. Nếu viện

trợ Mỹ trước sự kiện 11/9 phần nào như là một phương tiện giữ Pakistan khỏi trở thành một

“thùng hạt nhân”, thì viện trợ sau 11/9 là nhằm ngăn chặn khủng bố. Mỹ đang coi Pakistan như là

một đồng minh quan trọng ngoài NATO [82, tr 5]. Thực tế, Mỹ đã xem xét lại hàng loạt các

chính sách của họ với Pakistan bao gồm cả chính sách kinh tế, chính trị, quân sự,… bên cạnh

thúc đẩy quan hệ chống khủng bố. Nếu thập niên trước, các nhà tư bản quân sự Mỹ bị cấm buôn

bán vũ khí với Pakistan, thì lúc này các hoạt động buôn bán vũ khí được nối lại. Nhiều loại thiết

bị quân sự hiện đại được cung cấp cho Pakistan dù không để phục vụ cho cuộc chiến chống

khủng bố.

Mặc dù được Mỹ quan tâm nhưng sự hợp tác của Pakistan trong cuộc chiến chống khủng bố

này bị đánh giá là có giới hạn. Hoạt động ngăn chăn sự thâm nhập của lực lượng khủng bố qua

biên giới vào Afghanistan hiệu quả. Khu vực FATA của Pakistan vẫn là “vùng đất thánh” của

khủng bố. Những hành động quân sự của chính quyền Islamabad không đem lại kết quả đáng kể.

Trong khi đó những nghi ngờ về sự ủng hộ ngầm của lực lượng tính báo Pakistan với khủng bố

càng làm mâu thuẫn Mỹ - Pakistan gia tăng. Những hoạt động quân sự của Mỹ trên vùng lãnh thổ

biên giới Pakistan đã đẩy mâu thuẫn hai bên tăng cao. Tuy nhiên, Mỹ không để mâu thuẫn đến

chỗ không còn nhận được sự hợp tác của Pakistan.

Nhìn chung ở giai đoạn này, chính sách của Mỹ là dành những ưu tiên cho Pakistan. Sự xem

trọng giữ hòa khí trong quan hệ với Pakistan có thể dễ nhận thấy qua phản ứng và quan điểm xử

lý những hoạt động buôn bán trái phép hạt nhân của người được coi là cha đẻ của công nghệ hạt

nhân Pakistan, Abdul Qadeer Khan. Các nhà phân tích cho rằng, nếu là quốc gia khác hoặc là

thời kỳ khác trong quan hệ hai nước, vụ việc của Khan chắc chắn sẽ dẫn đến một hành động

trừng phạt nghiêm khắc, tuy nhiên, vụ việc đã được người Mỹ tuyên bố là “công việc nội bộ của

Pakistan” [75, tr 63].

Trong khi chính sách đối với Pakistan có sự thay đổi từ thái cực nọ sang thái cực kia, chính

sách đối với Ấn Độ trong giai đoạn này là sự phát triển tiếp tục những chuyển hướng mà Mỹ đã

theo đuổi từ đầu thập niên 90.

Khó khăn lớn nhất trong chính sách của Mỹ ở thời gian này là sự không làm mất lòng Ấn Độ

hay Pakistan khi đưa ra các quan điểm đối với các tranh chấp giữa hai bên. Lúc này Mỹ chủ

trương không nghiêng về bên nào trước các sự kiện gây căng thẳng giữa hai bên, mà cố gắng

không để quan hệ của hai quốc gia thù địch này đi đến chiến tranh, như sự kiện khủng bố

10/2001 của lực lượng chống đối Hồi giáo vào văn phòng lập pháp bang ở vùng Kashmir do Ấn

Độ kiểm soát; sự kiện khủng bố Toà nhà Quốc hội Ấn Độ tháng 12/2001.

Tuy nhiên từ sau cuộc viếng thăm của Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh tới Mỹ tháng

7/2005, đặc biệt là chuyến thăm của Tổng thống Bush vào tháng 3/2006, quan hệ Mỹ - Ấn đã

chuyển sang giai đoạn mới. Mỹ coi Ấn Độ là “đối tác toàn cầu”. Chuyển biến này dẫn đến Mỹ có

quan điểm nghiêng về Ấn Độ trước những vấn đề có liên quan tới Pakistan. Cách xử lý sự kiện

khủng bố kinh hoàng ở Mumbai tháng 11/2008 của một nhóm khủng bố được cho là có căn cứ ở

Pakistan là một ví dụ.

Nhìn chung, trong thập niên này, khi triển khai chính sách của mình ở Nam Á, Mỹ luôn gặp

khó khăn trong cân bằng quan hệ giữa Ấn Độ và Pakistan. Tăng cường quan hệ với Pakistan sẽ

dẫn đến làm tổn hại quan hệ với Ấn Độ và ngược lại, đặc biệt trong lĩnh vực hợp tác buôn bán

hàng hóa quân sự. Những hợp đồng buôn bán các loại vũ khí hiện đại cho Pakistan luôn bị Ấn Độ

phản đối kịch liệt, ngược lại, Pakistan cảm thấy mình bị nguy hiểm trước sự tăng cường hợp tác

nhiều mặt về quân sự, hạt nhân giữa Mỹ và Ấn Độ. Nhìn chung, vì mục tiêu chống khủng bố, Mỹ

phải gìn giữ mối quan hệ tốt với Pakistan và vì mục tiêu chiến lược địa – chính trị trên bàn cờ

quốc tế, Mỹ phải quan hệ tốt với Ấn Độ.

Bên cạnh đó, quan hệ thù địch Ấn Độ - Pakistan luôn tiềm ẩn nguy cơ chiến tranh bất kể lúc

nào, vì vậy Mỹ phải đóng vai trò quan trọng trong việc tháo ngòi nổ cho cuộc chiến trong tương

lai. Một khi chiến tranh Ấn Độ - Pakistan nổ ra sẽ ảnh hưởng không chỉ đến cuộc chiến chống

khủng bố của Mỹ đang theo đuổi ở Afghanistan, mà còn tạo điều kiện cho các đối thủ chiến lược

của Mỹ mở rộng ảnh hưởng ở các quốc gia này.

Chính sách của Mỹ trong giai đoạn này đối với các nước Nam Á khác cũng có sự thay đổi

tích cực. Mỹ chủ động thúc đẩy quan hệ với các nước như Sri Lanka, Nepal, Bhutan, Bangladesh,

Maldives. Nếu thập niên 90 của thế kỷ trước họ không được Mỹ quan tâm, thì sau sự kiện 11/9

cùng với thực tế ngày càng lớn mạnh của các đối thủ tiềm năng, Mỹ tăng cường quan hệ với các

quốc gia này vừa để tranh thủ sự ủng hộ của họ trong cuộc chiến chống khủng bố, vừa không để

các quốc gia này rơi vào quỹ đạo của Trung Quốc. Tuy nhiên mỗi quốc gia có giá trị địa – chính

trị khác nhau nên chính sách của Mỹ đối với họ cũng khác nhau. Nhưng nhìn chung, hầu như các

nước đã nhận được những khoản viện trợ đều đặn của Mỹ trong suốt thập niên đầu thế kỷ XXI,

nhận được sự tạo điều kiện trong mở rộng quan hệ thương mại đầu tư với Mỹ. Một số nước đã

nhận được viện trợ quân sự có giới hạn từ họ.

KẾT LUẬN

1. Sau Chiến tranh lạnh, Mỹ là siêu cường duy nhất còn lại trên thế giới. Với thế mạnh về

kinh tế, quân sự Mỹ muốn xác lập một trật tự thế giới mới có lợi cho mình, trật tự đơn cực. Tuy

nhiên, lúc này một số quốc gia nhờ tiến hành cải cách đúng hướng đã đưa đất nước vươn lên, trở

thành đối thủ tiềm năng cạnh tranh vị trí siêu cường của Mỹ. Phải làm gì để giữ vững vị trí số

một thế giới có được sau Chiến tranh lạnh là câu hỏi luôn đặt ra cho các nhà hoạch định chính

sách của Mỹ.

Nước Mỹ giàu có về kinh tế, vững mạnh về quân sự, khoa học kỹ thuật là một thực tế, nhưng

để thực hiện vai trò nhà lãnh đạo thế giới, Mỹ không thể dàn trải sức mạnh đó trên toàn cầu, nếu

có cũng không hiệu quả. Trên thế giới rộng lớn, Mỹ phải xác định các khu vực “sống còn” đối

với lợi ích và duy trì địa vị của Mỹ, đồng thời có khả năng ngăn chặn bất kỳ đổi thủ tiềm năng

nào trong tương lai, thực hiện 3 điểm quan trọng trong chính sách toàn cầu của Mỹ sau Chiến

tranh lạnh là: khống chế đồng minh; ngăn chặn đi đến tiêu diệt các nước còn lại trong hệ thống

XHCN; đàn áp phong trào giải phóng dân tộc.

Chính vì vậy, một trong những cơ sở quan trọng cho các nhà hoạch định chính sách quốc gia

Mỹ đưa ra chính sách toàn cầu trong thời đại mới là yếu tố địa – chính trị của từng khu vực. Xuất

phát từ yếu tố này, trước Chiến tranh lạnh, châu Âu là khu vực được Mỹ quan tâm nhất, sau

Chiến tranh lạnh, châu Á nổi lên trở thành nơi tập trung những chính sách của Mỹ, trong đó có

Nam Á.

2. Trong các lý thuyết địa – chính trị, các nhà địa – chính trị trên thế giới luôn xác định Nam

Á là khu vực quan trọng. Chẳng hạn theo lý thuyết “bao vây khoanh vùng” nổi tiếng của nhà địa

– chính trị Nicholas John Spykman, Nam Á nằm trong khu vực “vùng rìa” hay “khu vực vành

đai”, mà nếu “Ai kiểm soát khu vực vành đai thì sẽ cai trị được lục địa Á – Âu; cai trị được lục

địa Á – Âu thì sẽ kiểm soát được số mệnh của thế giới” [6, tr 165]. Hay theo lý thuyết địa – chính

trị của Alfred Thayer Mahan, tác giả của công trình nghiên cứu “The Influence of sea Power

upon History, 1660 - 1783” xuất bản 1890, người được mệnh danh là nhà địa – chính trị coi trọng

sức mạnh trên biển, Nam Á nổi bật ở vị trí án ngữ con đường biển quan trọng bậc nhất thế giới.

Ngoài ra theo lý thuyết của Mackinder, Nam Á là cửa ngõ quan trọng tiếp giáp với “vùng đất trái

tim”. Từ vị trí này, Nam Á có khả năng hạn chế sức mạnh của bất kỳ cường quốc nào nắm giữ

“vùng đất trái tim”. Như vậy theo quan điểm của các nhà địa – chính trị hàng đầu thế giới, Nam

Á hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp là vị trí địa – chính trị mà bất kỳ cường quốc nào muốn nắm giữ

vai trò lãnh đạo thế giới cũng không thể bỏ qua.

Những chuyển biến trong những thập niên gần đây cho thấy, Nam Á nằm gần khu vực địa –

chính trị đầy biến động như: gần khu vực Trung Đông đầy bất ổn nhưng nhiều lợi ích của các

cường quốc; tiếp giáp với chiến trường Afghanistan, đang là căn cứ hậu cần quan trọng cung cấp

cho lực lượng tham chiến của Mỹ và Liên quân; Nam Á có đường biên giới chung với Trung

Quốc, một cường quốc cộng sản đang có nhiều ảnh hưởng ở khu vực này, và là đối thủ Mỹ cần

phải kiềm chế, ngăn chặn. Đây cũng là khu vực có vị trí chiến lược quan trọng như nằm trên

tuyến đường vận tải biển sôi động bậc nhất trên thế giới, hay là nơi có các quốc gia sở hữu vũ khí

hạt nhân có nền chính trị bất ổn và chưa chịu ký vào CTBT và NPT; Nam Á còn được Mỹ nhìn

nhận là nơi có vị trí quan trọng trong trường hợp xảy ra xung đột với quốc gia thù địch Iran.

3. Không chỉ Mỹ hướng chính sách của mình đến Nam Á mà các cường quốc khác như Nga,

Trung Quốc cũng đang có những chính sách tìm kiếm lợi ích địa – chính trị ở đây. Đặc biệt là

Trung Quốc, quốc gia phát triển mạnh về kinh tế, quốc phòng và có tham vọng mạnh mẽ bá chủ

thế giới từ sau Chiến tranh lạnh. Trung Quốc có mối quan hệ truyền thống tốt đẹp với Pakistan và

đang đẩy mạnh ảnh hưởng của mình lên quốc gia Hồi giáo này nhằm khai thác mâu thuẫn Ấn Độ

- Pakistan để kiềm chế Ấn Độ, đồng thời can dự vào khu vực địa – chính trị quan trọng này.

Trung Quốc cũng thúc đẩy quan hệ với các quốc gia Nam Á khác như Bangladesh, Sri Lanka và

đạt được những thành công ban đầu trong thỏa thuận đầu tư khai thác một số cảng biển ở các

quốc gia này. Điều này khiến không chỉ Ấn Độ lo ngại bị bao vây mà Mỹ cũng bày tỏ sự lo ngại

của họ khi gọi các căn cứ này là một phần của “chuỗi ngọc trai” kéo dài từ căn cứ Tam Á trên

đảo Hải Nam đến tận vùng giầu dầu lửa Trung Đông. “Chuỗi ngọc trai” được nhìn nhận là một sự

đe dọa lợi ích của Mỹ, đặc biệt khi quan hệ hai cường quốc này trở nên xấu đi trong tương lai.

4. Vai trò địa – chính trị của một khu vực, một quốc gia không có giá trị bất biến mà luôn có

sự thay đổi khi bối cảnh thay đổi. Vì vậy, xuất phát từ vai trò địa – chính trị khu vực Nam Á, từ

sau Chiến tranh lạnh Mỹ đã có những điều chỉnh chính sách cho phù hợp với bối cảnh lịch sử.

Nếu trước Chiến tranh lạnh, chính sách của Mỹ chỉ tập trung vào 2 quốc gia là Ấn Độ và

Pakistan, thì sau đó, Mỹ hướng tới hầu khắp các nước Nam Á, đặc biệt là từ sau sự kiện

11/9/2011. Tuy nhiên, đối với mỗi quốc gia, chính sách của Mỹ cũng luôn có sự khác biệt.

Những nước lớn trong khu vực có nhiều lợi ích địa – chính trị, chính sách của Mỹ ổn định hơn,

ngược lại các nước nhỏ chính sách của Mỹ dễ thay đổi.

Tính chất dễ thay đổi trong xác định vai trò địa – chính trị của một quốc gia, từ đó có những

thay đổi trong chính sách của Mỹ thể hiện rõ ở Pakistan. Trước Chiến tranh lạnh, Mỹ áp dụng

chính sách đồng minh với Pakistan khi quốc gia này được coi như một “chiến binh” nơi tuyến

đầu chống cộng sản. Thập niên đầu sau Chiến tranh lạnh, Pakistan bị Mỹ rút hết các ưu tiên,

không tiếp tục ủng hộ chính trị trước những tranh chấp, bất đồng giữa quốc gia này với Ấn Độ

như trước đó, thậm chí Mỹ tiến hành các hành động trừng phạt, cấm vận kinh tế, cắt viện trợ, hủy

bỏ các hợp đồng buôn bán quân sự… khi phát hiện quốc gia này theo đuổi chương trình hạt nhân

bí mật.

Thập niên 90 là một trang quan hệ lạnh nhạt nhất trong lịch sử Mỹ - Pakistan. Tuy nhiên, sự

kiện 11/9/2001 và cuộc chiến chống khủng bố quốc tế sau đó của người Mỹ ở Afghanistan đã

đưa quan hệ hai bên trở lại “nồng ấm” như ngày nào. Các lệnh trừng phạt bị rỡ bỏ, các hợp đồng

chuyển giao vũ khí bị đình chỉ ngày nào được thực hiện trở lại, bất chấp sự phản đối của Ấn Độ;

hoạt động hợp tác quân sự được thúc đẩy; các gói viện trợ giá trị hàng tỉ đô la, cả về quân sự lẫn

dân sự, được thực hiện; các hoạt động đầu tư, thương mại được tiến hành với nhiều ưu tiên dành

cho Pakistan; quan điểm của Mỹ về những tranh chấp dẫn đến xung đột giữa Ấn Độ và Pakistan

trong thời gian này là cố gắng không để mâu thuẫn hai bên dẫn đến đối đầu quân sự, hành động

sẽ gây tổn hại lớn cho mục tiêu của Mỹ đang theo đuổi ở khu vực…

Sự chuyển hướng chính sách đối với Pakistan còn được thể hiện rõ trong cách hành động của

Mỹ trước các vấn đề hạt nhân của Pakistan. Nếu thập niên trước, từ lý do bí mật theo đuổi

chương trình hạt nhân, Pakistan phải đối diện với các lệnh trừng phạt, thì trong thập niên này,

trước bằng chứng rõ ràng, được thừa nhận bởi chính quyền Pakistan, về những hoạt động buôn

lậu hạt nhân của người được coi là “cha đẻ hạt nhân” Pakistan, Abdul Qadeer Khan, Mỹ không

có hành động trừng phạt khi cho rằng “không đảm bảo việc áp đặt lệnh trừng phạt theo luật pháp

Mỹ”. Thực chất là Mỹ không muốn những hành động trừng phạt này làm tổn hại đến sự hợp tác

chống khủng bố mà họ đang rất cần từ Pakistan, cũng như không muốn đẩy quốc gia này lại gần

Trung Quốc hơn như đã từng xảy ra trong lần trừng phạt trước.

5. Khác với Pakistan, Ấn Độ là một nước lớn trong khu vực, chính sách của họ có khả năng

ảnh hưởng đến nhiều quốc gia khác. Ấn Độ được xem là một trong những cường quốc trong

tương lai có khả năng thách thức vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ. Vì vậy, chính sách của Mỹ đối

với Ấn Độ có sự khác biệt so với các quốc gia khác trong khu vực.

Năm 1991, Ấn Độ theo đuổi cải cách mạnh mẽ đất nước. Cuộc cải cách đòi hỏi Ấn Độ phải

cải thiện mối quan hệ với Mỹ, phương Tây để tiếp nhận từ họ công nghệ, vốn, thị trường cho

hàng hóa xuất khẩu. Trong khi đó, Mỹ nhận thấy có thể khai thác vai trò địa – chính trị của Ấn

Độ trong việc kiềm chế Trung Quốc.

Quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc từng có những trang đen tối khi hai nước tiến hành cuộc chiến

tranh ở thập niên 60 của thế kỷ trước. Hiện thời giữa họ vẫn đang có những tranh chấp lãnh thổ

và là nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến xung đột mỗi khi quan hệ hai bên trở nên xấu đi. Hai cường quốc

mới nổi này đang chạy đua gia tăng ảnh hưởng của mình lên các quốc gia khác trong khu vực.

Trong cuộc đua này, Ấn Độ cảm thấy bị “bao vây” bởi các căn cứ của Trung Quốc và phải cạnh

tranh quyết liệt với họ ở chính khu vực ảnh hưởng truyền thống của Ấn Độ. Vì vậy, Mỹ có thể

khai thác những mâu thuẫn trên để phục vụ cho chính sách toàn cầu của mình kiềm chế các đối

thủ tiềm năng, thúc đẩy Ấn Độ trở thành đối trọng với Trung Quốc.

Ngoài ra, tham vọng cường quốc của Ấn Độ cũng là điểm phải tính đến trong lâu dài. Mỹ lựa

chọn cách “đi cùng” với người Ấn để vừa kiềm chế vừa không đẩy Ấn Độ đi đến chỗ rơi vào quỹ

đạo của các địch thủ hoặc trở nên đối đầu với Mỹ.

Muốn đạt được những mục tiêu trên ở khu vực địa – chính trị này, chính sách của Mỹ phải

đảm bảo đặt lợi ích của mình trong lợi ích của Ấn Độ. Không để Ấn Độ cảm thấy họ là đối tác

yếu, “đi cùng” Mỹ nhưng Ấn Độ phải đạt được mục tiêu chiến lược của họ.

Từ thực tế trên, trong thập niên 90, chính sách của Mỹ đối với Ấn Độ là đi từ lạnh nhạt đến

nồng ấm trong hầu hết mọi lĩnh vực. Thậm chí trong mối quan hệ với Ấn Độ và Pakistan, chính

sách của Mỹ có phần nghiêng hẳn về Ấn Độ. Ngoài thái độ của Mỹ về tranh chấp Jammu và

Kashmir có lợi cho Ấn Độ, quốc gia này còn thúc đẩy các quan hệ đầu tư, thương mại, viện trợ,

ủng hộ các khoản vay từ các tổ chức tài chính quốc tế, hợp tác quân sự, buôn bán thiết bị quân

sự, tập trận chung.

Thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, mặc dù chính sách của Mỹ có thay đổi đối với Pakistan

nhưng không vì vậy mà Mỹ đổi chiều trong chính sách với Ấn Độ. Các quan hệ tốt đẹp trên vẫn

tiếp tục được thúc đẩy ở mức độ cao hơn. Nhiều hoạt động hợp tác trước kia chưa được tiến hành

thì thập niên này đã được thúc đẩy như: hợp tác hạt nhân dân sự, hợp tác công nghệ cao, hợp tác

nghiên cứu không gian…Nổi bật là hợp tác hạt nhân dân sự. Sau nhiều năm theo đuổi chính sách

ngăn chặn Ấn Độ tiếp cận công nghệ hạt nhân không thành công, Mỹ lựa chọn cách “đi cùng”

với Ấn Độ trong lĩnh vực này để mong kiểm soát hoạt động hạt nhân của họ. Không để công

nghệ và nguyên liệu hạt nhân của quốc gia này rơi vào tay nước thứ ba, đặc biệt là các nước có

mối quan hệ thù địch với Mỹ.

Địa vị nước lớn của Ấn Độ trên trường quốc tế cũng được Mỹ thừa nhận. Bản Chiến lược an

ninh quốc gia năm 2002 của Bush tuyên bố “lợi ích của Mỹ cần đến một mối quan hệ mạnh mẽ

với Ấn Độ”. Năm 2006 ông khẳng định trong bản Chiến lược an ninh quốc gia mới rằng “Ấn Độ

hiện nay đã sẵn sàng gánh vác nghĩa vụ toàn cầu trong việc hợp tác với Mỹ trong thẩm quyền

phù hợp với một cường quốc” [77, tr 14]. Năm 2011, trong chuyến viếng thăm chính thức của

Tổng thống Obama tới Ấn Độ, ông đã tuyên bố ủng hộ quốc gia này có một ghế trong thường

trực Hội đồng Bảo an mở rộng và coi Ấn Độ là một “đối tác toàn cầu”. Dù rằng để trở thành một

cường quốc toàn cầu Ấn Độ còn phải làm nhiều hơn nữa, nhưng những động thái trên cho thấy

Mỹ đang có những chính sách cởi mở hơn với Ấn Độ.

Chính sách của Mỹ đối với Ấn Độ cũng như Pakistan không phải không có những cản trở.

Vấn đề hóc búa có nguy cơ làm sụp đổ mọi nỗ lực của Mỹ ở Nam Á là thái độ và quan điểm giải

quyết mâu thuẫn Ấn Độ - Pakistan. Trước những căng thẳng giữa hai bên, ngoại giao của Mỹ

luôn thúc đẩy đàm phán không để mâu thuẫn đi đến chỗ xung đột vũ trang. Tuy nhiên trong một

số trường hợp, Mỹ có phần nghiêng về Ấn Độ như sự kiện những kẻ hồi giáo cực đoan có căn cứ

ở Pakistan tiến hành vụ khủng bố kinh hoàng ở Mumbai năm 2008. Bên cạnh đó, cả Ấn Độ và

Pakistan đều có mục tiêu cải thiện quan hệ với Mỹ để mong nhận được những hợp đồng buôn

bán vũ khí hiện đại từ họ. Đây là thách thức lớn nhất đối với Mỹ mỗi khi thực hiện các hợp đồng

buôn bán thiết bị quốc phòng cho mỗi bên. Mỹ luôn bị phản đối từ Ấn Độ mỗi khi tiến hành các

hoạt động thương mại quốc phòng với Pakistan và ngược lại. Phản đối là dễ hiểu nhưng qua đó

niềm tin của các bên đối với Mỹ cũng suy giảm.

Bên cạnh hai quốc gia lớn ở Nam Á, chính sách của Mỹ đối với các quốc gia Nam Á nhỏ

khác cũng có những chuyển biến sau Chiến tranh lạnh, đặc biệt là từ thập niên đầu của thế kỷ

XXI. Xuất phát từ lợi ích địa – chính trị Mỹ có được ở các nước này, chính sách của Mỹ đối với

mỗi nước cũng khác nhau. Bangladesh, Sri Lanka trong số các nước nhận được nhiều sự trợ giúp

và đang có mối quan hệ nhiều mặt với Mỹ. Bhutan, Nepal, Maldives có ít lợi ích địa – chính trị

hơn nên không nhận được nhiều trợ giúp từ Mỹ và cũng có ít quan hệ hơn. Chính sách của Mỹ

đối với các quốc gia Nam Á nhỏ này là tăng cường quan hệ để các quốc gia này không rơi vào

quỹ đạo của đối thủ của Mỹ.

6. Như vậy, địa – chính trị luôn là yếu tố ngầm sau những toan tính thể hiện trong chính sách

bề nổi của Mỹ về kinh tế, thương mại đầu tư, hợp tác hạt nhân, buôn bán thiết bị quân sự... Lợi

ích địa – chính trị phản ánh lợi ích quốc gia của Mỹ, cho nên sự thực tâm, nồng ấm hay “ghẻ

lạnh” đối với một quốc gia trong quan hệ với Mỹ đều vì lợi ích quốc gia và dựa trên lợi ích quốc

gia của Mỹ. Quốc gia nào ở đó lợi ích quốc gia Mỹ thể hiện càng nhiều thì Mỹ càng coi trọng và

còn được coi trọng khi nào những lợi ích đó chưa suy giảm. Cũng xuất phát từ lợi ích quốc gia,

Mỹ sẵn sàng thay đổi quan hệ với một quốc gia nào đó một cách nhanh chóng khi nó không còn

phục vụ cho mục tiêu tối thượng của Mỹ. Điều này càng thể hiện rõ đối với các nước có vị thế

yếu hơn trong quan hệ với Mỹ.

7. Đặt trong chính sách toàn cầu, địa – chính trị khu vực này có những điểm chung, điểm

khác biệt so với các khu vực địa – chính trị khác mà Mỹ đang theo đuổi. Cùng phục vụ mục tiêu

toàn cầu của Mỹ nhưng so với các khu vực địa – chính trị khác ở châu Á như Đông Nam Á,

Đông Bắc Á, khu vực địa – chính trị Nam Á không bao gồm một nước cộng sản. Do đó, nhiệm

vụ chống cộng sản chỉ là gián tiếp. Chính sách toàn cầu ở đây là nhằm tìm kiếm lợi ích phục vụ

nước Mỹ nói chung, tư bản Mỹ nói riêng, đồng thời kiềm chế các nước đang phát triển, không để

các quốc gia này trở thành đối thủ không thể kiểm soát trong tương lai. Vì vậy, Mỹ có thể tiến

hành hợp tác trên mọi lĩnh vực với các nước này, kể cả vấn đề hạt nhân dân sự, điều mà Mỹ

không thể thực hiện ở các nước cộng sản.

8. Một câu hỏi đặt ra là tương lai địa – chính trị khu vực này trong chính sách của Mỹ sẽ như

thế nào? Nhìn chung, chính sách đối với từng nước có thể khác nhau nhưng Nam Á sẽ tiếp tục

được ưu tiên. Các nước nhỏ sẽ được quan tâm hơn nhằm không để các đối thủ của Mỹ lôi kéo về

phía họ. Với Ấn Độ, tiếp tục có chính sách thúc đẩy quan hệ, ngăn chặn khả năng hình thành

khối nước Nga – Trung - Ấn hợp tác chống Mỹ.

Đối với Pakistan. Sau sự kiện Mỹ bất ngờ tiêu diệt trùm khủng bố Osama Bin Laden nổ ra

sự tranh cãi ngoại giao giữa đôi bên. Việc trùm khủng bố trú ẩn nhiều năm liền ở Pakistan mà

không bị phát hiện khiến giới chức Mỹ nghi ngờ sự thực tâm hợp tác chống khủng bố của quốc

gia này. Vì vậy, có ý kiến cho rằng, Mỹ sẽ xem xét lại chính sách với quốc gia đang được coi là

đồng minh chống khủng bố này. Biểu hiện là không lâu sau đó chính quyền Obama đã tuyên bố

cắt 800 triệu USD viện trợ quân sự cho quốc gia này.

Tuy nhiên, nhất thời phản ứng trừng phạt của chính quyền Obama là dễ hiểu. Washington

không thể không làm gì trước dư luận giận dữ trong nước. Nhưng lâu dài, Mỹ vẫn phải tiếp tục

duy trì quan hệ với Pakistan vì: thứ nhất, ngày càng cho thấy, Pakistan không chỉ là căn cứ hậu

cần mà đang trở thành chiến trường của cuộc chiến chống khủng bố, không hợp tác với

Islamabad để xóa bỏ những cơ sở khủng bố ở khu vực gần biên giới Afghanistan, những xương

máu và tiền bạc của người Mỹ đổ vào cuộc chiến ở đây sẽ trở nên vô ích; thứ hai, nếu chính sách

của Mỹ dẫn đến làm suy yếu chính quyền Islamabad, lực lượng khủng bố sẽ nổi lên, sự an toàn

của kho hạt nhân ở đây sẽ bị đe dọa, vũ khí hạt nhân có thể rơi vào tay khủng bố, điều mà Mỹ

luôn lo sợ; thứ ba, sự trỗi dậy của Trung Quốc và mối quan hệ đặc biệt của quốc gia này với

Pakistan luôn là thách thức với Mỹ, chính sách của Mỹ không thể đi đến chỗ đẩy Pakistan lại gần

Trung Quốc; thứ tư, chính quyền Islamabad vẫn là chính quyền Hồi giáo thân Mỹ. Như vậy, địa –

chính trị Pakistan trong thời gian tới vẫn là một trong những quan tâm hàng đầu trong khu vực.

9. Những bài học từ chính sách của Mỹ đối với Nam Á và những lợi ích mà các quốc gia này

có được từ khai thác yếu tố địa – chính trị có giá trị gợi ý đáng kể đối với Việt Nam trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Chúng ta xác định chính sách ngoại giao đa phương, làm bạn

với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ,

không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Chính sách này không phải lúc nào cũng được

các nước có quan hệ với ta nhất nhất tôn trọng, đặc biệt là các cường quốc.

Đối với các cường quốc, chính sách đối ngoại của họ luôn vì lợi ích và đặt ra nhiệm vụ tìm

kiếm lợi ích quốc gia. Việt Nam được nhìn nhận là quốc gia nằm ở vị trí địa lý khá trung tâm

Đông Nam Á, trên con đường biển quan trọng, có những đảo và quần đảo tốt cho mục tiêu kinh

tế và quân sự, nhiều cảng biển đảm bảo cho chuyên chở hàng hóa, giàu tài nguyên thiên nhiên…

Chính phủ Việt Nam đã và đang thể hiện rõ quyết tâm cải cách, mở cửa và hội nhập. Do đó, Việt

Nam đang là quốc gia được nhiều cường quốc quan tâm. Ấn Độ quan tâm đến Việt Nam như một

phần quan trọng của chính sách hướng Đông. Nhật Bản quan tâm đến Việt Nam nói riêng, Đông

Nam Á nói chung, trong bối cảnh Trung Quốc nổi lên như một sự đe dọa con đường biển vận

chuyển hàng hóa, nguyên nhiên vật liệu tối quan trọng của quốc gia này tới Trung Đông, châu Âu

và ngược lại. Mỹ quan tâm đến khu vực này, trong đó có Việt Nam, như một phần của chính sách

kiềm chế Trung Quốc, đảm bảo thông thương bình thường tuyến đường biển qua Biển Đông, hỗ

trợ đồng minh…Trung Quốc coi đây là khu vực ảnh hưởng truyền thống, là “sân sau” của họ,

đồng thời là cửa ngõ quan trọng để vươn ra bá chủ thế giới. Với tiềm lực ngày càng lớn mạnh,

Trung Quốc đang thực thi chính sách nước lớn trong tuyên bố chủ quyền nhiều đảo và vùng biển

là lãnh thổ của các nước trong khu vực như Việt Nam, Philippines, tạo nên sự phức tạp, đe dọa

hòa bình và ổn định khu vực.

Vì vậy, trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay, Việt Nam phải phát huy tối đa lợi thế địa

– chính trị nhằm thu hút các cường quốc, đồng thời tranh thủ họ kiềm chế lẫn nhau. Tuy nhiên,

phải có chính sách linh hoạt, mềm dẻo, giải quyết vấn đề lợi ích một cách hài hòa, có nguyên tắc,

không để các cường quốc lợi dụng gây phương hại đến vận mệnh dân tộc.

Hơn nữa, lợi thế địa – chính trị Việt Nam phải đặt trong địa – chính trị khu vực. Do đó, phải

tạo nên sự đồng thuận khu vực ASEAN, kết hợp xu thế thế giới, giải quyết những tranh chấp giữa

các nước trong khu vực trên cơ sở đàm phán. Ổn định hay bất ổn ở khu vực này đều có ảnh

hưởng đến các quốc gia khác. Bài học về sự kém phát triển của Hiệp hội hợp tác khu vực Nam Á

(SAARC) do những tranh chấp lãnh thổ giữa Ấn Độ và Pakistan gây nên luôn phải được coi

trọng.

Ngoài ra lợi thế địa - chính trị luôn gắn với thực lực của một quốc gia. Tăng cường xây dựng

thực lực về kinh tế, chính trị, quân sự…luôn là một nhân tố quan trọng trong việc phát huy lợi thế

địa – chính trị.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Phạm Thị Ngọc Bích, “Cộng đồng các quốc gia độc lập - 10 năm nhìn lại”, Nghiên cứu

quốc tế , (39), tr 16-26.

2. Brzezinski Z. Lê Phương Thúy dịch (1999), Bàn cờ lớn (The Grand Chessboard), Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Đặng Bảo Châu (2004), “Chính phủ mới và công cuộc cải cách kinh tế Ấn Độ”, Nghiên

cứu quốc tế, (58), tr 31 – 43.

4. Đặng Bảo Châu (2004), “Liệu Ấn Độ có vượt qua Trung Quốc?”, Nghiên cứu quốc tế,

(65), tr 46 – 54.

5. Hồ Châu (2005), “Chiến lược Á – Âu của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh nhìn từ góc độ

địa chính trị”, Nghiên cứu Châu Âu, tr 19 – 26.

6. Nguyễn Văn Dân (2011), Địa chính trị trong chiến lược và chính sách phát triển quốc

gia, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

7. Nguyễn Tùng Dương (2009), “Tương lai thế và lực của Mỹ: “Khoảnh khắc đơn cực” đã

thật sự chấm dứt?”, Nghiên cứu Quốc tế, (1), tr 133 – 148.

8. Nguyễn Giáp, Phan Dân (2002), “Phác họa những nét cơ bản trong chính sách đối ngoại

của chính quyền G. W. Bush hiện nay”, Nghiên cứu Quốc tế, (44), tr 11 – 18.

9. Hanfeng, Hồng Yến (dịch)(2006), “Chính sách “Láng giềng hòa thuận, láng giềng bình

yên, láng giềng giàu có” của Trung Quốc, Thông tin Khoa học Xã hội, (7), tr 46 - 51.

10. Hà Hồng Hải (2002), “Một số điều chỉnh chính sách châu Á của Mỹ sau sự kiện 11/9”,

Nghiên cứu quốc tế, (46), tr 49 – 55.

11. Nguyễn Thị Kim Hằng (2009), Yếu tố địa – chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ

từ sau Chiến tranh lạnh đến nay (12/1989 – 5/2008), Luận văn thạc sỹ lịch sử, Trường

ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.

12. Hà Hồng Hải (2002), “Một số điều chỉnh chính sách châu Á của Mỹ sau sự kiện 11/9”,

Nghiên cứu Quốc tế, (46), tr 49 – 55.

13. Đặng Ngọc Hùng (2004), “Hòa giải giữa Ấn Độ và Pakistan”, Nghiên cứu quốc tế, (56),

tr 78 – 85.

14. Nguyễn Ngọc Hùng (2008), “Nhìn lại mối quan hệ Trung - Ấn”, Nghiên cứu Trung

Quốc, (8), tr 56 – 63.

15. Vũ Dương Huân (2008), “Về trật tự thế giới hiện nay”, Những vấn đề kinh tế và chính

trị thế giới, (11), tr 3 – 10.

16. Nguyễn Thái Yên Hương, (2008), “Mỹ và các vấn đề toàn cầu thời kỳ sau Chiến tranh

lạnh”, Nghiên cứu quốc tế, (72), tr 46 – 59.

17. Vũ Lê Thái Hoàng (2008), “Đánh giá về sức mạnh của Mỹ và những hệ lụy quốc tế

trong những thập niên đầu của thế kỷ 21”, Nghiên cứu quốc tế, (73), tr 110 – 115.

18. Vũ Lê Thái Hoàng (2008), “Quan điểm về đối ngoại của Obama và Mc Cain: Hai cam

kết một thực tiễn”, Nghiên cứu quốc tế, (74), tr 89 – 94.

19. Trịnh Thị Thu Huyền (2008), “Sức mạnh, quyền lực và bá quyền Mỹ trong cơn khủng

hoảng”, Nghiên cứu quốc tế, (74), tr 95 – 100.

20. Trần Đông Hiểu (2006), “Chính quyền Bush điều chỉnh chính sách châu Á- Thái Bình

Dương”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN, tr 12 – 26.

21. Đào Việt Hưng (2005), “Một số đặc điểm tăng trưởng kinh tế Ấn Độ hiện nay”, Những

vấn đề kinh tế thế giới, (3), tr 54 – 61.

22. Nguyễn Thanh Hiền (2006), “Bối cảnh quốc tế mới và sự điều chỉnh chiến lược quan hệ

quốc tế của các nước lớn”, Những vấn đề kinh tế thế giới, (3), tr 21 – 31.

23. Học viện quan hệ quốc tế (2003), Quan hệ của Mỹ với các nước lớn ở khu vực châu Á -

Thái Bình Dương, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

24. Nguyễn Nam Khánh (2004), “Chính sách Nam Á của Mỹ sau sự kiện 11/9: cơ hội và

thách thức”, Nghiên cứu quốc tế, (56), tr 24 – 32.

25. Phạm Kiên (2009), “Trật tự thế giới: Sự đồng thuận Bắc Kinh thế chỗ sự đồng thuận

Washington”, Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, (1), tr 64 – 66.

26. Lê Linh Lan (2001), “Quan hệ Mỹ - Trung dưới chính quyền Bush: sự khởi đầu khó

khăn”, Nghiên cứu Quốc tế, (40), tr 36 – 43.

27. Lê Linh Lan (2002), “Điều chỉnh chính sách của Mỹ một năm sau sự kiện 11/9”,

Nghiên cứu quốc tế, (48), tr 27 – 37.

28. Tú Linh (2004), “Một số nét chính trong chiến lược ngoại giao nước lớn của Trung

Quốc đầu thế kỷ XXI”, Nghiên cứu quốc tế, (56), tr 43 – 51.

29. Nguyễn Văn Lịch (2006), Vài nét về mô hình và triển vọng kinh tế Ấn Độ, Tạp chí

Nghiên cứu quốc tế, (67), tr 84 – 94.

30. Nguyễn Văn Lịch (2008), “Nhân tố Trung Quốc trong quan hệ Ấn Độ - châu Phi”,

Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, (9), tr 32 – 38.

31. Nguyễn Văn Lịch (2008), “Đặc khu kinh tế của Ấn Độ”, Những vấn đề kinh tế và chính

trị thế giới, (7), tr 41 – 47.

32. Nguyễn Văn Lịch (2009), “Tình hình thị trường vũ khí Nam Á”, Những vấn đề kinh tế

và chính trị thế giới, (1), tr 67 – 74.

33. Nguyễn Thế Lực, Nguyễn Hoàng Giáp (2000), “Khái quát lịch sử phát triển tư tưởng

địa – chính trị thế giới”, Khoa học Chính trị, tr 13 – 16

34. Trần Thị Lý (cb) (2002), Sự điều chỉnh chính sách của Cộng hòa Ấn Độ từ 1991 đến

2000, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

35. Makarenco V. (2002), Nước Nga trước thềm thế kỷ XXI, Nxb Công an Nhân dân, Hà

Nội.

36. Võ Hải Minh (2006), “Lợi ích quốc gia – Nền tảng trong quá trình hoạch định chiến

lược an ninh quốc gia Hoa Kỹ”, Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, (12), tr 35 –

46.

37. Trình Mưu, Vũ Quang Vinh (đồng chủ biên) (2005), Quan hệ quốc tế những năm đầu

thế kỷ XXI vấn đề, sự kiện và quan điểm, Nxb Lý luận Chính trị,Hà Nội.

38. Phan Doãn Nam (2002), “Quan hệ giữa các nước lớn sau Chiến tranh lạnh”, Nghiên cứu

quốc tế, (47), tr 17 – 28.

39. Phan Doãn Nam (2002), “Nước Mỹ và thế giới sau sự kiện 11/9”, Nghiên cứu quốc tế,

(48), tr 20 – 26.

40. Phan Doãn Nam (2002), “Quan hệ giữa các nước lớn sau Chiến tranh lạnh”, Nghiên cứu

Quốc tế, (47), tr 17 – 28.

41. Phan Doãn Nam (2004), “Những xu hướng chủ yếu của quan hệ hiện nay và 15 – 20

năm tới”, Nghiên cứu quốc tế, (57), tr 21 – 28.

42. Naumkin V. (2008), “Sự trỗi dậy của Nga: những tác động đối với khu vực châu Á -

Thái Bình Dương”, Nghiên cứu quốc tế, (73), Tr 66 – 79.

43. Nguyễn Nhâm (2007), “Ngân sách quốc phòng thế giới sau Chiến tranh lạnh”, Thông

tin Khoa học Xã hội, (1), tr 29 – 33.

44. Thôi Lập Như (2006), “Diễn biến của trật tự quốc tế trong thế kỷ 21”, Tài liệu tham

khảo đặc biệt, TTXVN, tr 35 - 44.

45. Phạm Cao Phong (2004), “Chính sách của Trung Quốc đối với các nước lớn trong hai

thập niên đầu thế kỷ 21”, Nghiên cứu quốc tế, (57), tr 29 – 43.

46. Dương Văn Quảng (2008), “Tính chất đan xen trong quan hệ quốc tế”, Nghiên cứu

quốc tế, (73), tr 58 – 65.

47. Nguyễn Huy Quý (2005), “Quan hệ Trung - Ấn chuyển sang giai đoạn mới”, Nghiên

cứu Trung Quốc, (5), tr 54 – 59.

48. Phan Văn Rân (2004), “Tam giác chiến lược Nga – Trung - Ấn và những trở ngại trong

việc thực hiện ý tưởng trên”, Nghiên cứu Trung Quốc, (1), tr 34 – 43.

49. Nguyễn Thiết Sơn (2004), Hoa Kỳ kinh tế và quan hệ quốc tế, Nxb Khoa học Xã hội,

Hà Nội.

50. Suetin A, Mạnh Chí (lược thuật) (2007), “Năm 2006: thế giới hôm nay và ngày mai”,

Thông tin khoa học xã hội, (1), tr 42 – 47.

51. Sutter R.G. (2008), “Mỹ và châu Á – Thái Bình Dương: vấn đề đặt ra năm 2009”,

Nghiên cứu quốc tế, (73), tr 80 – 91.

52. Nguyễn Đức Tuyến (2008), “Về sức mạnh mềm của Trung Quốc ở châu Á”, Nghiên

cứu quốc tế, (72), tr 68 – 76.

53. Duy Tân Thân (2006), “Tình hình thế giới và chiến lược đối ngoại “Trỗi dậy hòa bình”

của Trung Quốc, Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN, tr 29 – 38.

54. Du Thúy (2006), “Cục diện lớn và kế hoạch ngoại giao lớn”, Tài liệu tham khảo đặc

biệt, TTXVN, tr 44 – 51.

55. Trần Văn Tùng (2006), “Sự khác biệt giữa mô hình phát triển kinh tế Trung Quốc và

Ấn Độ”, Những vấn đề kinh tế thế giới, (6). tr 13 – 20.

56. Đặng Xuân Thanh (2008), “Sức mạnh cứng, sức mạnh mềm và cán cân quyền lực mới”,

Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, (9), tr 3 – 9.

57. Lang Trung (2009), “Chuyến thăm chiến lược của Thủ tướng Ấn Độ tới Nga”, trang

web tạp chí cộng sản điện tử. 4TUwww.tapchicongsan.org.vnU3T4T.

58. Tuareno M. Nguyễn Văn Hiến dịch (1996), Sự đảo lộn của thế giới địa – chính trị thế

kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

59. Tình hình thị trường vũ khí Nam Á, Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, (1), tr 67

– 73.

60. Tài liệu tham khảo đặc biệt (2006), “Đường lối ngoại giao biên giới mới của Trung

Quốc”, TTXVN, tr 1 – 10.

61. Tài liệu tham khảo đặc biệt(2006), “Chiến lược và chính sách quốc phòng của các nước

lớn trong thế kỷ mới”, TTXVN, tr 11 – 26.

62. Tài liệu tham khảo đặc biệt(2006), “Những thách thức đối với sự phát triển kinh tế của

Trung Quốc và Ấn Độ”, TTXVN, tr 42 – 51.

63. Phạm Ngọc Uyển (2006), “Hiệp định hạt nhân Mỹ - Ấn Độ và tác động đến nỗ lực

chống phổ biến hạt nhân toàn cầu”, Nghiên cứu quốc tế, (66), tr 28 - 38.

64. Đinh Vĩ (2004), “Sự trỗi dậy của Trung Quốc và trách nhiệm với thế giới nhìn lại và

đánh giá”, Nghiên cứu Trung Quốc, (3), (4), tr 27 – 37 và Tr 33 – 39.

65. Hồ Vũ (2008), “Thử bàn về cục diện quốc tế hiện nay”, Nghiên cứu quốc tế, (73), tr 47

– 47.

66. Tấn Vũ (2009), “Quan hệ Nga - Ấn Độ hướng tới tầm chiến lược”, trang web báo điện

tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 4TUwww.cpv.org.vnU3T4T.

67. Viện Thông tin Khoa học xã hội (2003), Khủng bố và chống khủng bố với vấn đề an

ninh quốc tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

Tiếng Anh

68. Chapman G.P. (2009), The Geopolitics of South Asia: From Early Empires to the

Nuclear Age, Ashgate Publishing Limited.

69. Chaudhury R.R. (2004), The United States’ role and influence on the India-Pakistan

conflict, United Nations Institute for disarmament research, 4TUhttp://www.unidir.orgU4T

70. Chou D.S. (2003), U.S. Policy toward India and Pakistan in the Post – Cold War era,

Taipei: Sheng - Chih Book Co. Ltd.

71. Frank G.Wisner II, Nicholas Platt, Marshall M. Bouton, Dennis Kux and Mahnaz

Ispahani (2003), New Priorities in South Asia: U.S. Policy toward India, Pakistan and

Afghanistan, The Council on Foreign Relations, Inc.

72. Heitzman J., Robert L. Worden, (1995). India: A Country Study, Washington: GPO for

the Library of Congress, 4TUhttp://countrystudies.usU4T.

73. Kerr P.K. (2010), U.S. nuclear cooperation with India: Issues for Congress,

Congressional research service, 4TUwww.crs.govU4T.

74. Kerry, Lugar, Brown, Brownback, Leahy Mark (2009), “The End to Sri Lanka’s Civil

War,” United States Senate Committee on Foreign Relations.

75. Kronstadt K. A. (2009), Pakistan - US relations, Congressional Research

Service, 4TUwww.crs.govU4T.

76. Kronstadt K. A., Kenneth Katzman (2008), “Islamist militancy in the Pakistan –

Afghanistan border region and U.S. policy”, Congressional research

service, 4TUwww.crs.govU4T.

77. Kronstadt K. A. (2009), “Indian – U.S. Relations”, Congressional research

service, 4TUwww.crs.govU4T.

issues and developments”, 78. Kronstadt K. A. (2010), “Pakistan: Key current

Congressional research service, 4TUwww.crs.govU4T.

79. Kronstadt K. A., Bruce Vaughn (2009), “Sri Lanka: Background and U.S. relations”,

Congressional research service, 4TUwww.crs.govU4T.

80. Kronstadt K. A. (2009), Sri Lanka: Background and U.S. Relations

81. Lavoy P.R. (2003), “Managing South Asia’s Nuclear rivalry: New policy challenges for

the United States”, The Nonproliferation Review, tr 84 – 93.

82. Nayak P. (2005), “U.S. Security Policy in South Asia Since 9/11 — Challenges and

Implications for the Future”, Asia – Pacific Center for Security Studies.

83. Office of the Press Secretary, The White House (2009), “Statement on Continuing

Conflict in Sri Lanka”.

84. Short J.R (1993), An Introduction to Political Geography, Routledge, New York

85. Vaughn B. (2007), “Bangladesh: Background and U.S. relations”, Congressional

research service, 4TUhttp://www.fas.orgU4T.

86. Vaughn B. (2010), “Bangladesh: Political and Strategic developments and U.S.

interests”. Congressional research service, 4TUhttp://www.fas.orgU4T

87. Vaughn B. (2006), “Nepal: Background and U.S. relations”, Congressional research

service, 4TUhttp://www.fas.orgU4T

88. Vaughn B. (2008), “Nepal: Political developments and bilateral relations with the

United States”, Congressional research service, 4TUhttp://www.fas.orgU4T.

89. Bản tin của CNN (2006), “Bush Would Send Troops Inside Pakistan to Catch bin

Laden,” 4TUwww.cnn.comU4T.

90. Trang web Thư viện quốc hội Mỹ: 4TUhttp://lcweb2.loc.gov/frd/cs/cshome.htmlU4T

hoặc 4TUhttp://www.loc.gov/rr/frdU4T.

91. Theo “Statement on Continuing Conflict in Sri Lanka,” Office of the Press Secretary,

The White House, April 24, 2009. 4TUhttp://www.whitehouse.govU4T

PHỤ LỤC

. r e d n i k c a

M

y r o t s i H _ f o _ t o v i P _ l a c i h p a r g o e G _ e h T

a ủ c m ể i đ n a u q o e h t ” i à o g n i a đ h n à v “ , ” g n o r t i a đ h n à v “ , ” m

/ i k i w / g r o . a i d e p i k i w . n e / / : p t t h n ồ u g N

i t i á r t t ấ đ n ề i

M

PHỤ LỤC

m t h . r a

n ồ u g N

W d l o C e h T / s c o d / y r a g / s u . r e g r u b n e d l o . w w w

. n a m k y p S a ủ c m ể i đ n a u q o e h t ” a ì r g n ù V “

/ / : p t t h

a i d e p i k i W

: n ồ u g n Á m a N c ớ ư n c á c ề v g n ọ r t n a u q n i t g n ô h t ố s t ộ M

Tổng thống Bill Clinton thăm Ấn Độ năm 2000. Nguồn http://www.hindustantimes.com

Tổng thống Bush thăm Ấn Độ năm 2006 http://www.hindustantimes.com

Tổng thống Musharraf thăm Mỹ năm 2001. Nguồn 4TUhttp://www.state.govU4T

Tổng thống Obama thăm Ấn Độ năm 2011. Nguồn 4TUhttp://www.the-south-asian.comU4T

Hội đàm Mỹ, Afghanistan, Pakistan hợp tác chống khủng bố năm 2009. Nguồn 4TUhttp://vietbao.vnU4T

Quân đội Pakistan tấn công Taliban tại thung lũng Swat năm 2009. Một trong những biểu hiện

4TUhttp://vietbao.vnU4T

hợp tác chống khủng bố của Pakistan với Mỹ.

Quân đội Pakistan tấn công Taliban tại thung lũng Swat năm 2009. Một trong những hoạt động

4TUhttp://www.foreignpolicyjournal.comU4T

hợp tác chống khủng bố của Pakistan với Mỹ.

Tổng thống Bush ký ban hành luật hợp tác hạt nhân dân sự với Ấn Độ năm 2008

http://www.zimbio.com