BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thị Mai Lan
YẾU TỐ KÌ ẢO TRONG TIỂU THUYẾT, TRUYỆN NGẮN VIẾT VỀ CHIẾN TRANH GIAI ĐOẠN SAU 1975
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRẦN THỊ MAI LAN
YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG TIỂU THUYẾT, TRUYỆN NGẮN VIẾT VỀ CHIẾN TRANH GIAI ĐOẠN SAU 1975
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học
TS. Hoàng Thị Văn
Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và
kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố trong bất kì một công trình nào khác.
Tác giả luận văn
TRẦN THỊ MAI LAN
LỜI CÁM ƠN
Tôi xin chân thành cám ơn TS. Hoàng Thị Văn – giảng viên khoa ngữ văn trường đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cám ơn các thầy cô trong khoa ngữ văn đã tận tình giảng
dạy, giúp đỡ tôi trong suốt những năm tôi học tập tại nhà trường.
Tôi xin chân thành cám ơn các cán bộ, công nhân viên trong thư viện trường
đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi có được những tài liệu phục vụ cho quá trình học tập và tìm hiểu nghiên cứu để hoàn thành tốt luận văn này.
Cuối cùng tôi xin chân thành cám ơn các bạn bè trong lớp Cao học chuyên ngành Văn học Việt Nam, khóa 19, đã cùng tôi học tập trong suốt những năm qua. Với những năm tháng đó, tôi đã học được nhiều kinh nghiệm quí báu từ các bạn.
Tác giả luận văn
TRẦN THỊ MAI LAN
MỤC LỤC
Phần mở đầu ..................................................................................................................... 7
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................................. 7
2. Lịch sử vấn đề ...................................................................................................................... 9
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................................... 13 3.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................................................ 13 3.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................................................... 13
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................... 14 4.1. Phương pháp khảo sát, thống kê ............................................................................................................ 14 4.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp .......................................................................................................... 14 4.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu ............................................................................................................ 14
5. Mục đích của luận văn ....................................................................................................... 14
6. Đóng góp của luận văn ....................................................................................................... 15
7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................................................ 15
Phần nội dung................................................................................................................. 17
Chương 1: Yếu tố kì ảo và các dạng thức xuất hiện của yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh giai đoạn sau 1975 ............................................................... 17 1.1. Khái niệm về yếu tố kì ảo ...................................................................................................................... 17 1.2. Các dạng thức biểu hiện của yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975 .............................................................................................................................................................. 19 1.2.1. Mô-tip giấc mơ ............................................................................................................................... 19 1.2.2. Hồn người chết trở về .................................................................................................................... 24 1.2.3. Những sự việc kinh dị, kì lạ ........................................................................................................... 28 1.2.4. Lời nói, hành động kì lạ của nhân vật ............................................................................................ 31
Chương 2: Vai trò và hiệu quả nghệ thuật của việc sử dụng yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh giai đoạn sau 1975 ............................................................... 34 2.1. Vai trò của yếu tố kì ảo trong kết cấu nghệ thuật tác phẩm ................................................................... 34 2.1.1. Yếu tố kì ảo và tình huống truyện .................................................................................................. 34 2.1.2. Yếu tố kì ảo và cốt truyện .............................................................................................................. 42 2.2. Yếu tố kì ảo và thế giới hình tượng ....................................................................................................... 53 2.2.1. Yếu tố kì ảo và nhân vật ................................................................................................................. 53 2.2.1.1. Nhân vật là những hồn ma ...................................................................................................... 53 2.2.1.2. Loại nhân vật dị thường, kì lạ ................................................................................................. 58 2.2.1.3. Loại nhân vật mang màu sắc huyền thoại, cổ tích .................................................................. 61 2.2.2. Yếu tố kì ảo và không gian - thời gian nghệ thuật ......................................................................... 63 2.2.2.1. Không gian nghệ thuật ............................................................................................................ 63 2.2.2.2. Thời gian nghệ thuật ............................................................................................................... 70
2.3. Yếu tố kì ảo và việc biểu đạt các lớp ý nghĩa trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975 .............................................................................................................................................................. 75 2.3.1. Chiến tranh – sự mất mát không gì bù đắp ..................................................................................... 75
2.3.2. Chiến tranh – nỗi cô đơn và niềm khát khao hạnh phúc ................................................................ 80 2.3.3. Người lính và sự tha hóa, biến chất ................................................................................................ 88
Chương 3: Yếu tố kì ảo từ góc nhìn thể tài, đời sống tâm linh và sắc thái thẩm mỹ ............... 91 3.1. Yếu tố kì ảo từ góc nhìn thể tài tiểu thuyết, truyện ngắn ....................................................................... 91 3.1.1. Đặc điểm thể tài tiểu thuyết, truyện ngắn ....................................................................................... 91 3.1.2. Yếu tố kì ảo - Sự giống và khác nhau trong thể tài tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975. .................................................................................................................................................. 92 3.2. Yếu tố kì ảo từ góc nhìn văn hóa tâm linh ........................................................................................... 104 3.2.1. Thuật ngữ tâm linh ....................................................................................................................... 104 3.2.2. Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975 từ góc nhìn văn hóa tâm linh .................................................................................................................................................. 105 3.3. Yếu tố kì ảo từ sắc thái thẩm mỹ ......................................................................................................... 118
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 127
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Kể từ sau chiến thắng mùa xuân 1975, lịch sử dân tộc mở sang một trang mới,
dẫn đến nền văn học nước nhà cũng bước vào một chặng đường mới. Tuy vẫn tiếp
nối nền văn học Cách mạng trước đó với đề tài chủ yếu là chiến tranh và người
lính, song thông qua các trang viết, có thể thấy sự thay đổi rõ rệt trong cách thể
hiện của các tác giả về cuộc chiến đã qua. Mặc dù vẫn còn mang âm hưởng sử thi
và cảm hứng ngợi ca, tuy nhiên bức tranh đời sống lúc này không chỉ đơn điệu là
một màu hồng. Các tác phẩm giai đoạn này không còn là một dàn đồng ca ca ngợi
hùng hồn về sự vẻ vang của chiến thắng, sự anh dũng của người chiến sĩ trên mặt
trận nữa mà mỗi tác phẩm là một mảng khác nhau về chiến tranh với nhiều góc
khuất sáng tối, về cuộc sống của những người lính đã từng sống trong chiến tranh
ác liệt. Số phận của họ sẽ ra sao khi hòa bình lập lại? Họ sẽ vui mừng trong niềm
vui chiến thắng, sẽ hãnh diện với những chiến công mà mình lập được và hạnh
phúc khi được về với mái ấm gia đình mà một thời họ đã bị chia cắt bởi chiến
tranh,… Hay sẽ là một điều gì đó? Họ, những người chiến sĩ anh dũng một thời, trở
về thời bình làm thế nào để hòa nhập với cuộc sống khi mà một phần tuổi trẻ của
họ đã để lại nơi chiến trường ác liệt năm nào. Tất cả những điều này là những gì mà
các nhà văn giai đoạn sau chiến tranh quan tâm, trăn trở và tìm cách lý giải trong
các tác phẩm của mình.
Những đổi mới mạnh mẽ về mặt nội dung đã dẫn đến sự chuyển biến rõ rệt về
mặt nghệ thuật mà một trong những thay đổi đáng kể đó là yếu tố kì ảo được đưa
vào sử dụng một cách dày đặc trong các tác phẩm. Yếu tố kì ảo trở thành một công
cụ đắc dụng giúp nhà văn đi sâu khám phá thế giới tinh thần vốn đầy bí ẩn của con
người mà cụ thể là người lính với những ám ảnh về một quá khứ không thể lãng
quên và những ẩn ức bị kìm nén bên trong tâm hồn. Với vai trò là một thủ pháp
nghệ thuật, yếu tố kì ảo đã góp phần không nhỏ giúp nhà văn chuyển tải đến người
đọc những suy nghĩ, trăn trở của mình về cuộc chiến đã qua. Sự hiện diện của yếu
tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh một mặt chi phối đến các
thành tố khác của tác phẩm như cốt truyện, tình huống, nhân vật, không gian, thời
gian,... mặt khác, sự xuất hiện của nó đã góp phần không nhỏ trong việc thể hiện
chủ đề, nội dung tư tưởng của các tác phẩm. Có thể thấy các tác phẩm văn xuôi viết
về chiến tranh mang yếu tố kì ảo đã giành được một vị trí riêng, tương đối vững
vàng trong lòng độc giả. Góp phần làm mới diện mạo văn xuôi Việt Nam sau 1975.
Trong khoảng thời gian vài năm trở lại đây, yếu tố kì ảo đã thu hút nhiều sự
quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học nước ta. Nhiều hiện tượng văn
học kì ảo được giải mã trong các các bài nghiên cứu (Yếu tố kì ảo trong truyện
ngắn Việt Nam hiện đại giai đoạn từ sau 1975 đến nay – Phùng Hữu Hải, Vai trò
của yếu tố kì ảo trong truyện Việt Nam sau 1975 – Nguyễn Văn Kha, Cái kì ảo-
một phương tiện hữu hiệu trong việc thể hiện đời sống tâm linh, vô thức của con
người trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 – Nguyễn Thị Hải Phương,… ) hoặc
các sách chuyên luận, luận văn, đề tài khoa học (Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương– Nguyễn Thị Ngọc Anh, Yếu tố kì ảo trong sáng tác Võ Thị
Hảo qua tiểu thuyết Giàn Thiêu và tập truyện ngắn Những truyện không nên đọc
lúc nửa đêm – Cao Thị Thu Hoài, Yếu tố huyền ảo trong văn xuôi nghệ thuật Việt
Nam sau 1975 – Hoàng Thị Văn,….) đã đem đến cho người đọc nhiều điều thú vị
và bổ ích, giúp người đọc hiểu rõ hơn những đóng góp to lớn về mặt nghệ thuật của
yếu tố kì ảo khi có mặt trong tác phẩm văn học.
Trên hành trình khám phá sự bí ẩn của yếu tố kì ảo trong văn xuôi Việt Nam
hiện đại nói chung, việc tìm hiểu yếu tố kì ảo trong các tác phẩm viết về chiến tranh
là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa trong nghiên cứu văn học. Vấn đề tìm nhận
vai trò của yếu tố kì ảo trong các tác phẩm viết về chiến tranh có xuất hiện trong
một số bài nghiên cứu tuy nhiên chưa đạt đến mức độ toàn diện, chuyên sâu. Vì
vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện hơn về yếu tố kì ảo trong văn
xuôi viết về chiến tranh sau 1975 là điều cần thiết. Việc nghiên cứu này nhằm đánh
giá đúng những giá trị đóng góp của các tác phẩm đề tài chiến tranh đối với nền
văn xuôi hiện đại Việt Nam, thấy được những điểm khác biệt giữa các sáng tác viết
về chiến tranh sau 1975 với các tác phẩm văn xuôi hiện đại có sử dụng yếu tố kì ảo
cũng như với những tác phẩm có cùng đề tài chiến tranh trước đây.
Khi tìm hiểu về vai trò của yếu tố kì ảo trong các tác phẩm viết về chiến tranh
giai đoạn sau 1975, chúng tôi tập trung vào mảng tiểu thuyết, truyện ngắn bởi đây
là hai thể loại tiêu biểu có khả năng giúp người đọc tìm hiểu thấu đáo vấn đề nhìn
thẳng vào sự thật và đánh giá đúng sự thật. Ngoài ra, các yếu tố kì ảo chủ yếu xuất
hiện nhiều trong các tác phẩm tiểu thuyết và truyện ngắn. Khi thực hiện đề tài,
chúng tôi sẽ đi vào trình bày những dạng thức kì ảo tiêu biểu trong tiểu thuyết,
truyện ngắn viết về chiến tranh. Xác nhận vai trò của yếu tố kì ảo trong cấu trúc
chỉnh thể tác phẩm, từ đó thấy được hiệu quả nghệ thuật mà yếu tố kì ảo đem lại
trong việc thể hiện nội dung tư tưởng tác phẩm. Bên cạnh đó chúng tôi sẽ tìm nhận
yếu tố kì ảo từ những góc nhìn khác nhau. Với những nghiên cứu này, chúng tôi
mong muốn góp phần nhận diện những nét đặc sắc của những tác phẩm viết về
chiến tranh sau 1975 có sử dụng yếu tố kì ảo. Từ đó góp phần khẳng định tác dụng
của thủ pháp nghệ thuật sử dụng yếu tố kì ảo trong việc thể hiện nội dung, tư tưởng
của tác phẩm.
2. Lịch sử vấn đề
Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu yếu tố kì ảo trong văn học thu
hút rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học nước ta. Có rất
nhiều những bài viết, các công trình nghiên cứu có giá trị đã đi vào phân tích, xem
xét yếu tố kì ảo trong văn học Việt Nam hiện đại một cách công phu, tỉ mỉ. Các
công trình nghiên cứu ấy thật sự mang đến cho người đọc một cái nhìn khá toàn
diện về diện mạo của văn học Việt Nam sau 1975 với sự đổi mới mạnh mẽ, hiểu
thêm về những giá trị và ý nghĩa của yếu tố kì ảo trong văn học Việt Nam hiện đại
sau 1975. Mỗi nhà nghiên cứu khác nhau có sự lý giải khác nhau về vấn đề này. Có
thể kể đến những công trình nghiên cứu sau:
Ở bài viết Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại giai đoạn từ sau
1975 đến nay, tác giả Phùng Hữu Hải nhận định: sau khi chiến tranh kết thúc,
những tình cảm lớn một thời đã dần nhường chỗ cho những vấn đề số phận cá
nhân. Và do đó, đề tài văn học chuyển dần sang địa hạt tâm linh với những trăn trở,
uẩn khúc đang diễn ra quyết liệt trong tâm hồn con người, đặc biệt là những số
phận vừa đi qua cuộc chiến. Theo tác giả, những diễn biến tâm linh rất khó nắm
bắt, và đó là lý do khiến các nhà văn đến với địa hạt của yếu tố kì ảo bởi “yếu tố kỳ
ảo là một hình thức đắc dụng giúp nhà văn đi sâu khám phá thế giới tinh thần hết
sức trừu tượng khó nắm bắt của con người, để từ đó “thấu” con người ở phần
nhân tính, mơ hồ và huyền diệu ấy”[27]. Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt Nam
hiện đại thể hiện ở một số phương diện như: Quan niệm của con người về thế giới
đa chiều và con người tâm linh; quan niệm về sự hữu hình hóa cái ác và giấc mơ về
những giá trị chân thiện mỹ; cảm hứng nhận thức lại thực tại và chất triết lý.
Bài viết Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Phạm Thị Thanh
Nga) tập trung trình bày mối quan hệ giữa yếu tố kì ảo với tình huống truyện. Tác
giả chỉ ra ba loại tình huống tiêu biểu trong các truyện có yếu tố kì ảo: Tình huống
kì lạ, ma quái; tình huống mang tính chất ngẫu nhiên, đột biến và tình huống căng
thẳng, kịch tính. Theo tác giả nhận định: trong các truyện ngắn, cái kì ảo đóng vai
trò như một tình huống quan trọng đối với sự chuyển biến của cốt truyện. Nó gắn
kết các nhân vật cùng tham gia một sự kiện, biến cố có ý nghĩa nào đó, góp phần
bộc lộ quan hệ và tính cách nhân vật hoặc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác
phẩm.[10]
Đi tìm nguyên nhân Sự hồi sinh của yếu tố kì ảo trong văn xuôi đương đại
Việt Nam, tác giả Bùi Thanh Truyền cho rằng: từ những thay đổi trong đời sống xã
hội – văn học, những đổi thay trong giao lưu văn học, từ sự mở rộng quan niệm về
hiện thực và đối tượng phản ánh của văn học, từ sự mở rộng quan niệm về phương
pháp sáng tác tiếp cận hiện thực và xuất phát từ truyền thống văn hóa, văn học dân
tộc là những lý do khiến yếu tố kì ảo hồi sinh trở lại trong văn xuôi Việt Nam
đương đại.[12]
Trong bài nghiên cứu Cái kì ảo - một phương tiện hữu hiệu trong việc thể
hiện đời sống tâm linh, vô thức của con người trong truyện ngắn Việt Nam sau
1975. Tác giả Nguyễn Thị Hải Phương cho rằng “các cây bút truyện ngắn đã tìm
đến cái kì ảo, đã sử dụng nó như một phương tiện hữu hiệu để hữu hình hóa thế
giới tâm linh vô thức đầy bí ẩn, mù mờ và trừu tượng” bởi con người không chỉ có
phần đời sống ý thức rõ ràng mà còn có phần trượt ra ngoài ý thức, rất khó nắm bắt.
Con người không chỉ có những hành động tuân theo quy luật tất yếu mà còn có
những hành động tuân theo sự mách bảo của bản năng, tiềm thức, của linh cảm, của
điềm báo, mộng triệu,… Trong bài viết, tác giả đã chỉ ra các dạng thức biểu hiện
của yếu tố kì ảo trong tác phẩm văn học như: Yếu tố kì ảo thể hiện ở những lời nói,
hành động kì lạ của nhân vật, Yếu tố kì ảo thể hiện qua sự hiện hồn của người chết,
hay như yếu tố kì ảo thể hiện ở hình thức hóa thân của nhân vật.
Chuyên luận Yếu tố huyền ảo trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau năm
1975 (Hoàng Thị Văn) đã đi vào trình bày những dạng thức biểu hiện của yếu tố
huyền ảo trong các tác phẩm văn xuôi sau 1975 như: những lời nói, hành động kì lạ
của con người; sự hiện hồn của người chết; hình thức biến dạng, hóa thân của nhân
vật và những việc, những sự kiện lạ, phi lý, kinh dị. Bên cạnh đó, chuyên luận cũng
nêu lên vai trò của yếu tố huyền ảo trong cấu trúc chỉnh thể tác phẩm. Từ đó, tác
giả hướng đến tìm nhận hiệu quả nghệ thuật của yếu tố huyền ảo trong việc thể hiện
nội dung tư tưởng, chủ đề tác phẩm.
Ngoài những bài nghiên cứu nêu lên những nhận định mang tính khái quát
về yếu tố kì ảo trong truyện Việt Nam hiện đại, có nhiều bài nghiên cứu đi sâu tìm
hiểu yếu tố kì ảo trong những truyện, những chùm truyện của những tác giả cụ thể
như: Thế giới kì ảo trong Mảnh đất lắm người nhiều ma từ cái nhìn văn hóa (Lê
Nguyên Cẩn), Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương (Nguyễn Thị
Ngọc Anh), Yếu tố kì ảo trong sáng tác Võ Thị Hảo qua tiểu thuyết Giàn Thiêu và
tập truyện ngắn Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm (Cao Thị Thu Hoài),…
Luận văn Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương của tác giả
Nguyễn Thị Ngọc Anh chủ yếu tập trung khảo sát, phân tích và miêu tả các dạng
thức biểu hiện của yếu tố kỳ ảo, tìm hiểu vai trò của yếu tố kì ảo trong cấu trúc
chỉnh thể tác phẩm như: không gian và thời gian kì ảo; nhân vật kì ảo và những
phương thức tạo dựng các yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Qua
đó khám phá giá trị nghệ thuật của yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương
Bài viết Thế giới nhân vật trong truyện ngắn kỳ ảo của Võ Thị Hảo, tác giả
Nguyễn Thị Xuân Quỳnh cho rằng: Thế giới nhân vật của truyện ngắn kỳ ảo hết
sức phong phú, đa dạng. Đó là thế giới của ma quỷ, thần tiên, con người khác
thường…cùng đan xen tạo thành bức tranh đa diện về hiện thực cuộc đời. Bên cạnh
các kiểu nhân vật truyền thống, trong truyện ngắn Việt Nam từ năm 1975 đến nay
với sự tham gia của yếu tố kỳ ảo vào cấu trúc tác phẩm đã tạo nên nhiều kiểu nhân
vật mới lạ. Từ đó tác giả đi đến khẳng định: với nhà văn Võ Thị Hảo, việc xây
dựng thế giới nhân vật kỳ ảo đa dạng không nằm ngoài mục đích phản ánh sự đa
chiều, sinh động của cuộc sống hiện tại. Theo tác giả thế giới nhân vật trong truyện
ngắn Võ Thị Hảo rất đa dạng, bao gồm: những ma quỷ với đủ hình dạng quái đản,
kì dị. Những nhân vật này tượng trưng cho cái ác, cái xấu, là sự huyền thoại hóa cái
ác trong bản chất cuộc sống. Bên cạnh thế giới ma quỷ hình dạng quái đản, kì dị là
thế giới đông đảo các hồn ma, linh hồn của người chết. Thế giới này sinh động,
giàu màu sắc và ẩn chứa mọi trạng thái cung bậc cảm xúc của con người. Ngoài
nhân vật hồn ma, truyện Võ Thị Hảo còn xuất hiện dạng nhân vật hóa thân và sự
hóa thân này giống như hành động giải tỏa những xót xa đau đớn mong tìm được
sự tĩnh tại trong tâm hồn.
Nhìn chung, hầu hết các nhà nghiên cứu đều dành khá nhiều thời gian và
tâm huyết để làm sáng tỏ sự biểu hiện và vai trò của yếu tố kì ảo trong các tác
phẩm văn xuôi sau 1975. Việc tìm hiểu yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn
viết về chiến tranh giai đoạn này chưa được đề cập nhiều trong các bài viết. Vì vậy
cần có một đề tài nghiên cứu mang tính hệ thống và toàn diện hơn về vấn đề này.
Trên cơ sở kế thừa những bài viết, khi thực hiện đề tài, chúng tôi sẽ đi sâu khảo sát
những biểu hiện của yếu tố kì ảo trong các tác phẩm để từ đó thấy được vị trí, vai
trò và hiệu quả nghệ thuật của yếu tố kì ảo trong cấu trúc chỉnh thể tiểu thuyết,
truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những tiểu thuyết, truyện ngắn viết về
chiến tranh giai đoạn sau 1975 có sử dụng yếu tố kì ảo. Gồm 5 tiểu thuyết: Nỗi
buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Tàn đen đốm đỏ (Phạm
Ngọc Tiến), Bến không chồng (Dương Hướng), Hồn trúc (Nguyễn Văn Thông) và
khoảng gần 50 truyện ngắn của nhiều tác giả khác nhau.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những dạng thức biểu hiện của yếu tố kì
ảo, vai trò của yếu tố kì ảo trong cấu trúc chỉnh thể tác phẩm để từ đó làm rõ tác
dụng của nó trong việc biểu đạt nội dung tư tưởng tác phẩm. Bên cạnh đó luận văn
sẽ đi sâu tìm nhận biểu hiện của yếu tố từ nhiều góc nhìn, cụ thể là góc nhìn thể tài,
góc nhìn văn hóa tâm linh và góc nhìn thẩm mỹ.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp khảo sát, thống kê
Để thực hiện đề tài này chúng tôi khảo sát toàn bộ các tác phẩm nằm trong
phạm vi đã giới hạn nhằm nhận biết những đặc điểm của yếu tố kì ảo trong các tác
phẩm từ đó hệ thống hóa thành những nhận xét, nhận định có tính khái quát, khoa
học.
4.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Nhằm tìm nhận những dạng thức biểu hiện và hiệu quả nghệ thuật của yếu tố
kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975.
4.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu nhằm thấy được nét mới mẻ, khác
biệt riêng của các tác phẩm viết về chiến tranh có dùng yếu tố kì ảo với những tác
phẩm có cùng đề tài trước đây và những tác phẩm văn xuôi kì ảo sau 1975.
5. Mục đích của luận văn
- Khảo sát sự xuất hiện của yếu tố kì ảo, các dạng thức biểu hiện chủ yếu của
yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh giai đoạn sau
1975.
- Xác định vai trò của yếu tố kì ảo trong cấu trúc chỉnh thể tác phẩm, trên cơ
sở đó luận văn làm rõ hiệu quả nghệ thuật của việc sử dụng yếu tố kì ảo
trong thể hiện chủ đề tác phẩm.
- Khảo sát yếu tố kì ảo từ nhiều góc nhìn khác nhau, cụ thể trong đề tài này là
khảo sát yếu tố kì ảo từ góc nhìn thể tài, góc nhìn văn hóa tâm linh và góc
nhìn thẩm mỹ.
6. Đóng góp của luận văn
- Có được những kết luận khoa học về yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện
ngắn viết về chiến tranh.
- Thấy được những đóng góp về mặt nghệ thuật của yếu tố kì ảo trong các
tác phẩm văn xuôi viết về chiến tranh giai đoạn sau chiến tranh.
- Bên cạnh đó luận văn cũng sẽ đi sâu khảo sát yếu tố kì ảo từ nhiều góc
nhìn khác nhau, cụ thể là góc nhìn thể tài, góc nhìn đời sống tâm linh và sắc thái
thẩm mỹ, để thấy được sự khác biệt của yếu tố kì ảo khi tham dự vào thể tài tiểu
thuyết, truyện ngắn, sự hữu hiệu của yếu tố kì ảo trong việc biểu đạt đời sống tâm
linh và những sắc thái thẩm mỹ được tạo ra bởi yếu tố kì ảo. Qua đó thấy được
những nét đặc sắc riêng của tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975.
- Phần nào bổ sung tư liệu tham khảo cho việc học tập và giảng dạy văn học
Việt Nam hiện đại, đặc biệt là giai đoạn sau 1975.
7. Cấu trúc của luận văn
Chương 1: Yếu tố kì ảo và các dạng thức xuất hiện của yếu tố kì ảo trong tiểu
thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh giai đoạn sau 1975
Trong chương này, bên cạnh việc giải thích rõ khái niệm yếu tố kì ảo, chúng
tôi sẽ tập trung khảo sát các dạng thức kì ảo xuất hiện trong tiểu thuyết, truyện ngắn
viết về chiến tranh sau 1975.
Chương 2: Vai trò và hiệu quả nghệ thuật của việc sử dụng yếu tố kì ảo trong
cấu trúc chỉnh thể của tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh giai đoạn
sau 1975
Ở chương hai, chúng tôi sẽ thực hiện những vấn đề sau:
- Tìm nhận vai trò của yếu tố kì ảo trong kết cấu nghệ thuật tác phẩm:
Trong phần này chúng tôi sẽ khảo sát những tình huống thường xuất hiện
trong các tác phẩm văn xuôi viết về chiến tranh sau 1975 có yếu tố kì ảo,
đồng thời tìm hiểu vai trò của yếu tố kì ảo khi tham dự vào cốt truyện.
- Tìm hiểu vai trò của yếu tố kì ảo với thế giới hình tượng:
Ở phần này, chúng tôi đi vào tìm hiểu thế giới nhân vật cũng như những
không gian, thời gian thường thấy trong các tiểu thuyết, truyện ngắn viết về
chiến tranh sau 1975.
Chương 3: Yếu tố kì ảo từ những góc nhìn thể tài, đời sống tâm linh, sắc thái
thẩm mỹ
Ở chương 3, nhiệm vụ của chúng tôi là sẽ đi vào tìm hiểu yếu tố kì ảo từ
những góc nhìn khác nhau, cụ thể là: góc nhìn thể tài, đời sống tâm linh và sắc thái
thẩm mỹ để thấy được sự khác biệt của yếu tố kì ảo khi tham dự vào mỗi thể tài; sự
hữu hiệu của yếu tố kì ảo trong việc biểu đạt đời sống tâm linh và những sắc thái
thẩm mỹ được tạo ra bởi yếu tố kì ảo.
Phần nội dung
Chương 1: Yếu tố kì ảo và các dạng thức xuất hiện của yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh giai đoạn sau 1975
1.1. Khái niệm về yếu tố kì ảo
Theo từ điển ngôn ngữ Pháp, “fantastique” có nghĩa là tưởng tượng, hư ảo,
quái dị, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “phantastikos” và tiếng Latinh “phantasticus” để
chỉ những cái thuộc về trí tưởng tượng chứ không tồn tại trong thực tế cuộc sống.
Trong tiếng Việt, kì ảo là từ Hán Việt. Trong đó kỳ có nghĩa là lạ lùng, ảo là không
có thực, kì ảo có nghĩa là chuyện lạ lùng, không có thực, chuyện không thể xảy ra
trong đời thực.
Trên thế giới, người đầu tiên đề cập đến thuật ngữ “cái kì ảo” là một học giả
người Anh tên là Joseph Addison (1672-1719). Theo ông, những sáng tác kì ảo
“tạo ra một khoái cảm về nỗi sợ hãi trong tâm trí độc giả và làm thỏa mãn trí
tưởng tượng của độc giả bởi những cái lạ lùng và tính chất khác thường của những
con người được miêu tả trong đó. Chúng nuôi dưỡng trong trí nhớ của chúng ta
những câu chuyện ma mà chúng ta nghe từ thuở ấu thơ và thích thú với những nỗi
khiếp sợ bí mật, những nỗi sợ hãi mà trí óc con người phải lệ thuộc vào nó một
cách tự nhiên” [8, 43]. Khi bàn về thuật ngữ kì ảo, H.Banec chủ yếu nhấn mạnh
đến tính xung đột, nửa tin nửa ngờ. Theo ông: tính chất tự nhiên và sự lạ thường
đan xen lẫn nhau sẽ gây ra cảm giác lo lắng, hồi hộp khiến người đọc do dự giữa
một sự giải thích hợp lý và một giải thích siêu nhiên về các sự kiện. Như vậy sự do
dự, hoài nghi chính là đặc trưng của yếu tố kì ảo. Trong “Từ vựng các thuật ngữ
văn chương”, M.Jarrety cho rằng: “Cái kỳ ảo đưa những sự kiện huyền bí vào
trong cuộc đời hoàn toàn hiện thực”.[14, 51]
Ở Việt Nam, bàn về thuật ngữ kì ảo trong văn học, Lê Nguyên Cẩn cho rằng
“Cái kì ảo là một phạm trù tư duy nghệ thuật, nó được tạo ra nhờ trí tưởng tượng
và được biểu hiện bằng các yếu tố siêu nhiên, khác lạ, phi thường, độc đáo… Nó có
mặt trong văn học dân gian, văn học viết qua các thời đại. Nó tồn tại trên trục thực
- ảo, và tồn tại độc lập, không hòa tan vào các dạng thức khác của trí tưởng tượng”
[43, 16]. Còn theo Phùng Văn Tửu trong bài nghiên cứu Những đổi mới trong văn
học kỳ ảo thế kỷ XX thì “kỳ ảo là cái lạ lùng, không có thật, không thể bắt gặp trên
thế gian này, nói chung là những yếu tố siêu nhiên, nếu ta hiểu siêu nhiên là những
cái gì không tồn tại trên đời” [14, 47]. Tác giả Phùng Hữu Hải nhận định: “yếu tố
kỳ ảo là sản phẩm của trí tưởng tượng, là phương thức tư duy nghệ thuật được biểu
hiện bằng những năng lực, yếu tố có tính siêu nhiên, nằm ngoài tư duy lý tính của
con người. Nó tham gia vào sự phát triển của cốt truyện và tạo nên những phản
ánh nhận thức của người tiếp nhận một cách mạnh mẽ, hay nói cách khác nó tạo
nên những cú “sốc” về tâm lý, nhận thức, làm xuất hiện những dấu hỏi về nguồn
gốc xuất hiện. Yếu tố kỳ ảo không hòa tan vào các dạng thức khác của trí tưởng
tượng, không bao gồm biện pháp nhân hóa”. [27]
Nhìn chung, những tài liệu nghiên cứu về yếu tố kì ảo đều hướng đến làm rõ
những quan niệm sau:
- Yếu tố kì ảo là sản phẩm của trí tưởng tượng, là cái không có thật, chỉ tồn tại
trong thế giới tinh thần của con người.
- Yếu tố kì ảo là những cái khác thường, phi lý, kì lạ, độc đáo.
- Trong văn học, yếu tố kì ảo là phương tiện nghệ thuật để nhà văn bộc lộ
quan niệm, tư tưởng của mình về đời sống, về con người.
- Hiệu quả nghệ thuật: yếu tố kì ảo đem đến cho người đọc sự hồi hộp, lo
lắng, dẫn đến sự phân vân, do dự giữa sự giải thích hợp lý và sự giải thích
siêu nhiên về các sự kiện. Chính điều này đã gây sự hưng phấn, thu hút, lôi
cuốn người đọc.
Hiệu quả đặc trưng của truyện kì ảo mang đến sự hồi hộp, lo lắng dẫn đến sự
phân vân, do dự giữa sự giải thích hợp lý và sự giải thích siêu nhiên chưa nổi bật
trong các truyện viết về chiến tranh sau 1975. Những yếu tố kì ảo trong các truyện
này vẫn còn mang đậm tính chất “hồn nhiên” phương Đông nói chung. Trạng thái
ám ảnh của con người trước một thế giới phi lý trong các truyện kì ảo phương Tây
hầu như không thấy xuất hiện. Ở những tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh,
người đọc phân biệt rạch ròi đâu là thế giới của sự hư huyễn, đâu là sự thật của
cuộc sống, tuy nhiên, cả người đọc lẫn người sáng tác đều mong muốn những điều
huyền bí sẽ phần nào xoa dịu được những vết thương mà chiến tranh để lại.
1.2. Các dạng thức biểu hiện của yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975
Trong các tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975, yếu tố kì ảo
được biểu hiện ở một số dạng thức tiêu biểu sau:
1.2.1. Mô-tip giấc mơ
Đây là dạng thức quen thuộc được sử dụng khá nhiều trong các tác phẩm viết
về chiến tranh với tần số xuất hiện 14 truyện (35 lần)/ 50 truyện. Giấc mơ là vấn đề
thuộc về thế giới tâm linh, nó nằm trong vùng sâu của vô thức con người, chất chứa
những khát khao thầm kín, những điều bí ẩn mà con người luôn vươn đến khám
phá “Giấc mơ là biểu tượng của cuộc phiêu lưu cá thể, được cất sâu trong tâm
khảm... Chiêm mộng hiện ra với chúng ta như một điều bí ẩn của chính mình”
[60;17]. Nếu phân loại dựa vào tiêu chí hoàn cảnh xuất hiện, có thể phân thành hai
dạng giấc mơ. Giấc mơ của người đang sống trong hoàn cảnh chiến tranh (10/ 35
lần), và giấc mơ của người sống trong hòa bình (25/35 lần). Nếu dựa vào tiêu chí
trạng thái cảm xúc khi mơ, có thể phân thành các dạng: giấc mơ chất chứa nỗi khát
khao hạnh phúc (9/35 lần), giấc mơ mang trạng thái bấn loạn, bất an (15/35 lần),
giấc mơ mang mặc cảm tội lỗi (3/35 lần), giấc mơ thanh thản, tươi vui (3/35 lần),
cảm xúc khác (5/35 lần).
Trước hết phải kể đến đó là tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh. Đây là cuốn tiểu
thuyết mà mô-tip giấc mơ xuất hiện nhiều nhất với tổng số 16/35 lần. Trong đó,
những giấc mơ của Kiên là nhiều hơn hẳn. Do đây là một tiểu thuyết tương đối dài,
để thuận tiện cho việc theo dõi, chúng tôi tạm thống kê tần số xuất hiện và nội dung
những giấc mơ chính trong truyện. Sự thống kê mang tính chất tương đối.
STT NỘI DUNG GIẤC MƠ HOÀN CẢNH XUẤT HIỆN TRANG
1 Kiên mơ về những con bài Sau chiến tranh 11
2 Kiên mơ về Hà Nội, và thấy Trong chiến tranh (khi trong trạng 14
Phương đang cùng trên thuyền thái mụ mị bởi khói hồng ma)
3 Can mộng thấy mình chết Trong chiến tranh (nói với Kiên 22
trước lúc đào ngũ)
4 Kiên mơ thấy toàn bộ quãng Sau chiến tranh (trong chuyến thu Tr27
đời chiến đấu của mình gom hài cốt) đến tr44
5 Kiên mơ về Phương Trong chiến tranh (trong những 32
giấc ngủ về đêm)
6 Mơ trở lại Truông Gọi Hồn Sau chiến tranh 48
7 Mơ thấy Truông Gọi Hồn và Sau chiến tranh 49
cô giao liên Hòa
8 Mơ thấy đang đi qua đồi “Xáo Sau chiến tranh (khi đang đi trên 50
Thịt” la liệt người chết vỉa hè)
9 Giật mình vì nghe tiếng rú rít Sau chiến tranh (tỉnh dậy khi nghe 50
của trực thăng tiếng quạt trần)
10 Kiên mơ thấy Hà Nội Trong chiến tranh (khi nghe tiếng 74
mưa sa trên vòm lá ở chiến trường)
11 Choàng tỉnh sau cơn mơ và Sau chiến tranh 76
thấy đang ở dưới sàn nhà
12 Nhìn thấy mùa mưa Cánh Bắc, Sau chiến tranh (mơ trong lúc đang 92
Ngọc Bơ Rẫy, truông Gọi Hồn đứng bên cửa sổ ngắm mưa)
13 Mơ thấy mình suýt chết Sau chiến tranh Tr135
và tr288
14 Kiên mơ thấy Phương Trong chiến tranh (khi những đồng 161
đội giấu anh bí mật đến với người
tình)
15 Kiên mơ thấy Phương Trong chiến tranh (khi đang mơ 162
màng vì bị thương)
16 Kiên mơ về Phương dù bên Sau chiến tranh (khi Phương đã bỏ 190
cạnh có cô gái khác đi)
Qua sự thống kê, có thể thấy rằng những giấc mơ sau chiến tranh chiếm số
lượng nhiều hơn cả với tổng số 10/16 lần. Trong những giấc mơ khi đang ở chiến
trường, ngoài giấc mơ duy nhất mà Can kể cho Kiên nghe, tất cả những giấc mơ
còn lại đều là của Kiên. Trong thế giới mộng mị, Kiên chỉ mơ về Phương và Hà
Nội thân yêu của anh. Những cơn mơ chỉ xuất hiện trong những trường hợp Kiên
chìm vào cõi vô thức như: đang trong trạng thái mụ mị bởi khói hồng ma, bị mê
man bởi vết thương, hoặc vào những giấc ngủ chập chờn khi ở trung đội trinh sát.
Khoảng thời gian sau chiến tranh, những giấc mơ đến với Kiên nhiều hơn. Đó
không phải là những giấc mơ ngọt ngào, êm đềm về Phương và về Hà Nội mà là
những cơn mơ mang đầy nỗi bấn loạn, bất an. Không chỉ trong giấc ngủ, cả lúc
đang tỉnh táo, Kiên vẫn có thể bị cuốn trôi vào trong giấc mơ một cách vô thức
không thể cưỡng lại. Những giấc mơ về chiến tranh, về cái chết, về đạn bom không
ngừng ám ảnh Kiên. Kiên thường mơ thấy mình trở lại truông Gọi Hồn, nơi ghi dấu
những kỉ niệm đau thương, khốc liệt của anh và những đồng đội trong chiến tranh.
Có khi, đang đi trên vỉa hè, Kiên lại thấy mình đi qua đồi “Xáo Thịt” la liệt người
chết, vỉa hè nồng nặc mùi tử khí. Như một người phát rồ, anh đưa tay lên bịt mũi
giữa phố xá đông người. Hoặc nhiều lúc, giữa đêm khuya, Kiên giật mình bởi
tưởng tiếng quạt trần là tiếng rú rít của trực thăng vũ trang. Sự khốc liệt của chiến
tranh đã ám ảnh, ăn sâu vào tiềm thức Kiên. Vì vậy mà không chỉ khi ngủ, cả lúc
đang tỉnh táo, giấc mơ về thời đại đã qua vẫn tồn tại và không ngừng chi phối cuộc
đời thực của anh sau ngày chiến thắng.
Đến với Những giấc mơ có thực - Vũ Thị Hồng, người đọc khó xác định
rạch ròi ranh giới giữa giấc mơ và đời thực. Sau khi mẩu tin nhắn “tìm những
người bạn cũ ở Trường Sơn” đăng trên báo, cuộc sống thực tại của Tuân bị xáo
trộn. Lần lượt những người năm xưa đã tìm đến chị. Tuy nhiên, những cuộc hội
ngộ ấy không phải diễn ra trong cuộc sống thực mà nó chỉ là những giấc mơ. Đến
với những giấc mơ, Tuân mới có dịp sống thực với bản thân, hiểu được những khát
khao, những mong muốn mà từ lâu chị đã chôn chặt nơi đáy lòng.
Giấc mơ cũng có mặt trong tác phẩm Hai người đàn bà xóm Trại (Nguyễn
Quang Thiều). Đến hơn ba lần, tác giả nhắc đến những giấc mơ giống nhau ở hai
nhân vật Ân và Mật. Ân cứ mơ đi mơ lại giấc mơ có vẻ kì lạ “con gà trống tía với
cái mào đỏ rực, cái ức rộng và đôi cựa bóng như ngà mổ mổ vào ngón tay của
mình”, còn Mật cô vẫn mơ những cơn mơ vừa hạnh phúc vừa lo sợ “Mật thấy
người lính trở về và ngay đêm đó Mật có mang. Và cứ tỉnh giấc, Mật mơ hồ lo lắng
khi cảm thấy bụng mình khang khác”. Những giấc mơ kì lạ của Ân và Mật chở đầy
những hi vọng về một ngày đoàn tụ với người chồng thân yêu.
Những cơn mơ cũng luôn thường trực trong giấc ngủ của Thảo (Người sót
lại của rừng cười - Võ Thị Hảo) mỗi khi đêm về. Trở về sau chiến tranh, Thảo chỉ
có hai giấc mơ duy nhất: Giấc mơ thời bé và giấc mơ tuổi thanh xuân. Nếu giấc mơ
thời bé là khoảng thời gian thanh thản, tươi vui của cô với những trò trẻ thơ nhặt
cặp ba lá, hoặc nhặt trứng vịt đẻ rơi thì trong giấc mơ tuổi thanh xuân, cô chỉ thấy
tóc rụng như trút, rụng đầy khuôn ngực đã bị đâm nát của người đồng đội. Từ đám
tóc ấy lấy ra hai giọt nước mắt trong veo, rắn như thủy tinh không gì đập vỡ.
Ông Tuyển (Trừng phạt – Đỗ Nhật Minh) đêm nào cũng nằm mơ thấy toàn
những chuyện hãi hùng. Trong giấc mơ, ông thấy Thung – người bạn thân trong
những năm kháng chiến trở về để tìm ông hỏi tội. Những ngày sau đó, Tuyển luôn
sống trong trạng thái bất an bởi giấc mơ đó vẫn không ngừng ám ảnh ông.
Khôi (Con đò và người khách lạ - Thái Sinh) đã mơ thấy Đông, người đồng
đội cùng chiến đấu với mình trong chiến tranh. Khôi đã biện hộ về hành động hèn
nhát của mình đã gây ra cái chết cho bạn trong giấc mơ “Ta có lỗi gì? Ừ lúc đó tao
đã sợ chết nên tao không dám nổ súng vào bọn lính đi tuần, nhưng sau đó tao đã
bò vào tìm mày, mày đã bị chúng nó kéo đi rồi. Mày có biết tao đã khóc bao nhiêu
ngày? Sự hi sinh của mày đã thức tỉnh tao, tao đã chiến đấu, đi suốt cuộc chiến
tranh cho tới ngày miền Nam được giải phóng”. Lời biện hộ đó cũng là sự dằn vặt,
ăn năn mà Khôi luôn giấu kín trong suốt nhiều năm.
Giấc mơ đến với hai cô gái trong Đốm lửa - Nguyễn Thị Minh Thúy thật kì
lạ. Cả hai cùng có một giấc mơ giống nhau. Ngọc thấy Thanh nheo mắt chọc cô, và
dành cho cô những cử chỉ âu yếm dịu dàng. Khi Thanh cương quyết nhấc bổng cô
lên bờ cũng là lúc cô bừng tỉnh dậy. Vừa khi đó Mỹ cũng choàng tỉnh. Cả hai cùng
kể cho nhau nghe về giấc mơ của mình. Cuối truyện, người đọc bất ngờ bởi Thanh
đã chết và xác anh nằm cạnh họ, cách nhau chỉ một tấm ván.
Người cha đáng thương (Mai-Thanh Quế) đã thấy con gái mình về báo
mộng nơi chôn cất thi hài của cô. Còn Biền (Đồng đội-Hồ Tĩnh Tâm) mơ thấy đồng
đội trở về nhắc lại lời hứa mà người còn sống chưa thực hiện. Bên cạnh đó, mô-tip
giấc mơ cũng xuất hiện trong các truyện như Truyền thuyết về quán tiên (Xuân
Thiều), Họ đã trở thành đàn ông (Phạm Ngọc Tiễn), Anh lính To-ny D (Lê Minh
Khuê), Giấc mộng cuối cùng (Triệu Huấn),… Thế giới bên trong của con người là
một thế giới mang đầy bí mật, những giấc mơ khác nhau đem đến cho người đọc
những khám phá khác nhau về thế giới ấy, giúp người đọc chạm sâu vào những góc
khuất ẩn kín trong tâm hồn người lính. Bên cạnh đó, giấc mơ còn là cầu nối giữa
người còn sống và người đã khuất, để người còn sống thực hiện những nguyện ước
mà người chết còn trăn trở.
1.2.2. Hồn người chết trở về
Hồn người chết trở về cũng là một dạng thức kì ảo tiêu biểu trong các tiểu
thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975. Thế giới kì ảo về những hồn ma
bóng quế luôn mang đến nơi người đọc sự tò mò hưng phấn, chính vì vậy, những
truyền thuyết về các hồn ma đã xuất hiện từ lâu trong các tác phẩm văn học Cổ,
Trung đại. Tiếp nối những nhà văn đi trước, thế hệ các văn nghệ sĩ trẻ sau này vẫn
tiếp tục gây hứng thú cho người đọc khi đào sâu nguồn cảm hứng với loại mô-tip kì
ảo này. Trong các tiểu thuyết, truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh tần số xuất hiện
của dạng thức này khá nhiều(17/50 truyện khảo sát). Các truyện tiêu biểu như Cặp
bồ với ma - Ngô Văn Phú, Bến trần gian- Lưu Sơn Minh, Bướm trắng - Thái Bá
Tân, Anh lính Tony D- Lê Minh Khuê, Hồn trinh nữ - Võ Thị Hảo, Đàn sẻ ri bay
ngang rừng -Võ Thị Xuân Hà, Mắt ma, Vùng sáng của kí ức - Y Ban, Vĩnh biệt
mười tám con gà trống - Nguyễn Quang Lập, Đồng đội - Hồ Tĩnh Tâm, Đốm lửa -
Nguyễn Thị Minh Thúy, Nỗi buồn chiến tranh - Bảo Ninh, Tàn đen đốm đỏ- Phạm
Ngọc Tiến, Ăn mày dĩ vãng - Chu Lai, Ám ảnh có thật – Trần Huy Quang…
Trong các truyện, thế giới hồn ma tồn tại song song với thế giới cõi dương,
linh hồn người chết vẫn thường hiện về, quanh quẩn bên cạnh người còn sống.
Trong Cặp bồ với ma, hồn ma của cô văn công Huệ đêm đêm thường hiện ra làm
bạn với anh chàng canh nghĩa trang. Giữa người và ma nảy sinh mối quan hệ gắn
bó sâu sắc với nhau. Nhờ Huệ mà chàng trai cảm thấy bớt cô độc giữa nghĩa trang
toàn mồ mả người chết. Và chàng trai chính là chỗ dựa để Huệ tâm sự, trút những
phiền muộn của cuộc sống trước kia.
Linh hồn người lính trong Bến trần gian dù hi sinh đã nhiều năm vẫn còn
quanh quẩn trong rừng. Được ông già cho chiếc lá, anh gài vào vành tai – chiếc lá
như bùa hộ mệnh giữ cho linh hồn anh không bị tan ra khi trở về. Ngay trong đêm
đó anh bắt đầu cuộc hành trình về lại quê nhà gặp lại những người thân yêu. Cuối
cùng anh đã đến được bến sông – nơi giao nhau giữa người còn sống và người đã
chết. Chỉ cần vượt qua trở ngại này, anh sẽ về được nhà. Nhưng ai sẽ là người đưa
anh qua sông? Chính Thùy- người yêu của anh ngày xưa. Hai người cùng ngồi
chung trên một con thuyền, cùng đối mặt nhau nhưng họ đã không nhận ra nhau.
Sau chiến thắng, Xuân Sinh (Bướm trắng) trở lại Cổng Trời thăm mộ Bạch
Điệp - người con gái anh yêu đã hi sinh trong lúc làm nhiệm vụ. Tại đây, anh đã
gặp lại linh hồn của nàng. Do bị trúng rốc-két nên người Bạch Điệp bị xé thành
nhiều mảnh nhỏ. Bằng tình yêu của mình, Xuân Sinh đã dùng máu trong tim chàng
vá lại những mẩu thi thể bị chiến tranh xé nát. Mất đúng một năm, chàng đã truyền
đủ sự sống cho Bạch Điệp và vá hết những mẩu thi thể nàng. Hai người sống với
nhau hạnh phúc như những đôi vợ chồng bình thường khác. Nhưng có điều họ chỉ
sinh toàn bướm và bướm.
Đọc Đàn sẻ ri bay ngang rừng, người đọc không khỏi xúc động bởi sự thông
linh giữa người còn sống và người đã khuất. Sống giữa gia đình nhà chồng, Diễm
cảm thấy lạc lõng, bơ vơ. Diễm thù ghét tất cả những người ở nhà chồng duy chỉ có
một người cô yêu thương và ao ước được gặp, đó là Nẫm – người anh chồng đã hi
sinh trong chiến tranh. Diễm mơ hồ cảm nhận được sự có mặt của anh trong nhà
cũng mơ hồ cảm nhận được có một sợi dây tình cảm đặc biệt giữa hai người.
Những dự cảm của cô, lúc đầu Thản cho bậy bạ, tuy nhiên cuối cùng anh đã tin và
đã nhờ Diễm khấn tìm hài cốt của Nẫm bởi “con người khi chết thịt da trả cốt nhục
chỉ có tâm linh thuộc về tiền duyên”.
Trong Vùng sáng của kí ức, chị Bưởi và anh Tính sắp lấy nhau thì anh phải
đi bộ đội và đã hi sinh. Bao năm, chị vẫn luôn yêu anh và theo lời chị kể thì “đêm
nào anh ấy cũng về với chị. Chị vui anh ấy cũng biết, chị buồn anh ấy cũng biết…
Chị chẳng đi lấy chồng đâu. Chị trọn đời, trọn kiếp với anh ấy”.
Chết không có nghĩa là hoàn toàn biến mất. Đôi khi vì một lý do nào đó,
người chết vẫn có thể trở về đi lại, nói chuyện với những người còn sống. Khi đã là
hồn ma, họ có thể làm những việc mà người còn sống không thể thực hiện. Hồn ma
của anh bộ đội trong truyện ngắn Đốm lửa đã hóa thành “ma trơi” dẫn Ngọc và Mỹ
đi loanh quanh trong đầm lầy. Chính vì vậy mà hai cô du kích thoát khỏi sự mai
phục của bọn giặc. Anh cũng đã “đi” vào giấc mơ để đùa vui với hai cô và kịp thời
lay hai cô thức tỉnh đúng lúc bọn giặc đi đến.
Trong truyện Tiếng chuông chiều, hồn ma anh bộ đội cũng đã nhiều lần trở
về giúp đỡ cho người lính Sài Gòn thoát khỏi lưỡi hái thần chết để trả ơn việc anh
ta đã chôn cất bộ hai cốt của mình. Một lần, trong một trận giáp lá cà, gã lính ấy bị
thương ở chân, đôi chân bị nhiễm trùng và có thể bị cưa. Trong đêm ấy, lúc mê
man, anh ta thấy một anh bộ đội còn rất trẻ hiện ra dùng tay vuốt bắp chân cho
mình “anh ta cứ vuốt vuốt, nhẹ nhàng, bắp chân gã giảm đau nhức thấy rõ”. Một
lần khác, bị một quả bom nổ tung, hất văng xuống khe núi, thế mà gã vẫn không
chết. Tỉnh dậy, gã thấy “sởn gai ốc khi chợt nhìn thấy cái dáng người quen thuộc
trong cuộc biến chuyển hình thể xanh lét kia, phải, trước mắt gã là hình người lạnh
lẽo mà thân thiết đêm nào từng vuốt vuốt bắp chân gã cho đến khi không còn đau
nhức, chợt nhoà chợt hiện hình người thần hộ mạng”.
Trong truyện Mắt ma, Huấn được Đồng- người bạn đã hi sinh trong chiến
tranh cho mượn mắt. Có đôi mắt của Đồng, Huấn nhìn thấu hết mọi việc ở đời.
Nhưng từ đó, Huấn không giống như người bình thường. Khi Huấn nhìn mâm cơm
cúng bằng đôi mắt ma, cả anh và vợ con đều kinh ngạc bởi con gà mới luộc bỗng
vừa nhớt lại vừa mủn, tanh tanh nồng nồng không ăn được. Mâm tiếp theo cũng
vậy, cơm thiu, gà hỏng phải bỏ vì không thể ăn được. Tuy nhiên, nhờ có đôi mắt
ma, Huấn có thể nói đúng chuyện quá khứ, tương lai của những người đến coi bói.
Anh quát hai cha con ông lão nọ hãy về nhà nhanh lên, không thì ông lão “lại đắp
chiếu nằm đường”. Quả nhiên về tới nhà, đến trưa ông lão đột ngột qua đời. Anh
khuyên một người đàn ông về nhà ngay sẽ bắt được đôi gian phu, dâm phụ,…
Người ta phục anh sát đất. Nhưng đến ngày thứ 10, thứ 11 anh chán nản, ai đến coi
anh chỉ phán đúng một câu “cứ như thế mà sống chẳng phải thay đổi gì cả”. Hồn
Đồng hiện về trách, Huấn giãi bày “Có đôi mắt của mày tao đã nhìn quá rõ mọi sự
việc, thành ra phán câu nào là chết câu đấy. Vì thế tao hãi quá chẳng dám phán
nữa”. Anh bảo mình không thích nói sự thật về số phận của người khác nữa, như
ông lão kia, còn sống mà “phải đội cái chết trên đầu. Cái chết đã được báo trước
thì đó là một nỗi sợ hãi lớn lắm… thôi tao trả mắt cho mày đấy”.
Chàng trai trong Hồn trinh nữ ngỡ đã nắm được hạnh phúc trong tay khi
cưới người vợ hiền chung thủy đã đợi chờ chàng suốt bao năm dài. Nhưng hạnh
phúc mong manh đó chợt tan biến bởi bóng ma một người đàn bà trong veo, tóc
xõa – chỉ có bộ tóc là còn màu sắc, mặc quần áo đại tang, tay cầm một tấm áo đẫm
máu giơ lên đòi anh trả mạng sống lại cho chồng của chị ta.
Trong Vòm đa xanh, người cha đang say giấc bỗng nhiên thấy như có ai
đang gọi mình. Lão lò dò ra cửa, bàn tay vừa đụng then cài, cánh cửa đã bật tung
như có ai đẩy. Và rõ ràng trước mắt lão, người con trai của lão cùng đồng đội của
anh ta trở về. Các anh nhắc lại điều mà lão đã hứa năm xưa, khi họ vừa nhập ngũ.
Khi đó lão đã hứa sẽ giữ gìn cây đa, nơi ghi dấu kỉ niệm thơ ấu của các anh. Thế
nhưng giờ đây, cây đã bị chặt phá, vì thế họ quay về để nhắc lại lời hứa kia.
Trong Ám ảnh có thật, một chàng trai vừa chợp mắt đã thấy một người con
gái từ dưới ao sâu đi lên, đầu tóc, quần áo ướt đẫm, rũ rượi. Cô gái vừa đi vừa hát.
Tiếng hát như tiếng dế, rên rỉ, đứt quãng và nức nở. Cô có gương mặt trắng như
sáp, đôi mắt xanh biếc, không có tròng đen. Suốt đêm anh không thể chợp mắt.
Tỉnh dậy, khi hỏi lão chăn vịt, anh mới biết đây là cô gái trong làng, là văn công, có
mối tình với một người lính. Nhưng vì bị oan uất, cô đã trầm mình tự vẫn tại nơi
anh đang nằm.
Trong Tàn đen đốm đỏ, Phạm Ngọc Tiến đã tạo ra một thế giới cõi âm - một
thế giới riêng biệt của những người lính hi sinh nhưng chưa được siêu thoát. Họ đi
lại, trò chuyện với nhau như những con người thực sự. Do hài cốt còn bị nằm ở
hang núi trong rừng nên linh hồn họ chưa thể siêu thoát. Họ chỉ lẩn quẩn trong
hang và mong đợi một ngày nào đó, người thân sẽ tìm đến mang họ trở về với quê
hương. Trong Nỗi buồn chiến tranh, người đọc ám ảnh bởi những hồn ma rách nát
tả tơi với những vết thương đỏ lòm, toác hoác do đạn bom chiến tranh. Những linh
hồn đáng thương đó thường trở về thì thào trò chuyện với Kiên mỗi khi đêm về.
1.2.3. Những sự việc kinh dị, kì lạ
Trong các tác phẩm viết về chiến tranh sau 1975, ngoài mô-tip giấc mơ,
người chết trở về, trong các tác phẩm, cũng thường xuất hiện những sự việc kinh
dị, hoang đường, kì lạ (10/50 truyện khảo sát).
Đọc Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh, ta thấy có biết bao nhiêu lạ lùng, kì
bí gây cảm giác hoang mang, sợ hãi cho những ai tiếp xúc với tác phẩm. Đó là loại
“hoa hồng ma” thường mọc ở nơi có nhiều tử khí có thể khiến người sử dụng rơi
vào trạng thái mụ mị, có thể tự chế ra những ảo giác tùy sở thích. Hay như loài
chim có tiếng khóc than như người thường chỉ kêu vào ban đêm và tuyệt nhiên
không ai nhìn thấy chúng, những loại măng nhuốm màu đỏ au như những tảng thịt
ròng ròng máu. Còn biết bao điều kì lạ khác nữa. Chẳng hạn trong một lần, Thịnh
con bắn chết một con vượn rất to,nhưng khi ngã ra, cạo sạch lông, trước mắt họ
hiện nguyên hình là một mụ đàn bà béo xệ, da sùi lở nửa xám, nửa trắng hếu, cặp
mắt trợn ngược khiến cả bọn kinh hoàng quăng cả dao thớt mà bỏ chạy. Hoặc có
khi họ tận mắt chứng kiến những quái vật lông lá có cả cánh lẫn vú với cái đuôi kì
nhông kéo lết; chưa hết, nhiều người trong họ đã nghe được âm thanh của những
tiếng cười cuồng loạn nức nở vọng lại từ trong rừng,…
Trong Người sót lại của rừng cười – Võ Thị Hảo, ba người lính đến lãnh
quần trang ở kho quân nhu không khỏi kinh sợ bởi những tiếng cười man dại vọng
lại từ khu rừng. Lúc gần đến chòi canh kho, một con vượn trắng từ chòi canh nhảy
ra ôm ghì lấy cổ một anh lính và không ngừng cất tiếng cười. Nhưng khi một người
đồng đội chạy đến giúp đỡ thì hóa ra, trước mắt anh không phải là con vượn nào cả
mà là một người con gái lõa lồ. Khi các anh đến chòi canh kho, trước mắt họ là ba
cô gái đang vừa cười vừa khóc, tay đang dứt tóc và xé quần áo trên người mình.
Cô Mùi trong Truyền thuyết về quán tiên – Xuân Thiều, thì luôn rơi vào
trạng thái bất an bởi hình ảnh một chú khỉ. Bất cứ lúc nào, chỉ cần có một mình
Mùi ngoài suối thì chú khỉ đều xuất hiện với những hành động kì lạ giống hệt một
người đàn ông. Nó giương đôi mắt hau háu nhìn Mùi tắm. Khi Mùi bắt gặp, thì nó
lim dim đôi mắt, hai tay vòng trước ngực, mồm dẩu ra, môi chu chu như người ta
hôn gió.
Ở tác phẩm Người thắng trận của Tạ Duy Anh, điều kì lạ xảy ra khi chiếc
khăn đẫm máu mà vị tướng nhận được từ một cô gái dù dùng mọi cách vẫn không
thể rửa sạch vết máu, thế nhưng khi vô tình đánh rơi chiếc khăn xuống giếng nước,
nơi nàng Đoan Trang trẫm mình, vết máu bỗng nhiên biến mất.
Trong truyện Trái tim con rắn – Nguyễn Đông Thức, trong buổi tiệc, Thuật
là người được ưu tiên uống li rượu pha trộn với máu và trái tim của rắn. Khi nhấp
môi, Thuật có cảm giác dường như trái tim con rắn ấy quẫy nhẹ. Lúc cho nó vào
miệng, rõ ràng nó lăn lên lưỡi của ông, tuột vào yết hầu và dường như dừng lại ở
thực quản. Suốt đêm hôm đó, ông luôn nghe âm thanh Ịch ình, ịch ình, ịch ình từ
lồng ngực mình dội lên đỉnh đầu rồi cứ thế bục ra. Nhìn xuống, rõ ràng ông thấy
đầu con rắn oặc qua oặc lại giữa hai đùi mình. Khi đưa tay bật đèn, con rắn biến
mất. Suốt đêm hôm đó, Thuật không thể ngủ được bởi những âm thanh kì lạ cứ
vang lên trong lồng ngực. Bất chợt, giữa lồng ngực Thuật nổi lên một khối u nhỏ.
Thật nhanh, Thuật chộp lấy nó, nghiến răng bóp mạnh. Ông cảm thấy nó đang vỡ ra
bên trong lồng ngực của mình. Sáng hôm sau, khi giải phẩu tử thi, người ta thấy
ngực ông tím bầm, nổi hằn lên những vệt móng tay do ông tự cào cấu. Từ lồng
ngực Thuật, vị bác sĩ lấy ra một trái tim nhỏ xíu, chỉ bằng đầu ngón tay, đã bị vỡ
đôi.
Trong Đốm lửa – Nguyễn Thị Minh Thúy, hai cô gái suốt đêm đi lạc trong
vùng đầm lầy. Dù là người thông thuộc vùng này, nhưng không hiểu sao đêm nay,
Mỹ không thể nào xác định được phương hướng. Như bị ma dẫn đường, cả buổi
tối, họ chỉ loanh hoanh tại một địa điểm. Trong lúc đó, hai cô gái thấy một đốm lửa
nhỏ lúc rõ lúc mờ cứ chập chờn ẩn hiện. Dường như đốm lửa ma trơi ấy đến là để
dẫn đường cho hai cô. Họ quyết định chèo xuồng đi theo đốm lửa. Có lẽ đi theo
đốm lửa đó mà cuối cùng họ đã qua khỏi khúc eo lầy.
Người đàn bà đáng thương trong Vĩnh biệt mười tám con gà trống- Nguyễn
Quang Lập, suốt mười tám năm dằng dặc sống trong cô đơn bởi người chồng đã hi
sinh nơi chiến trường ngỡ là sẽ hạnh phúc vì đã tìm được một bờ vai để nương tựa
khi gặp người hàng xóm thấu hiểu tình cảnh của mình. Thế nhưng, trong lúc hai
người đang bên cạnh nhau, ngực bà che kín mặt ông thì sự việc kì lạ xảy ra. Trước
mắt bà là bộ mặt của một người đàn ông khác, người đó đang đứng nhìn bà chằm
chằm. Bà giật thót người và đẩy ông lăn xuống đất. Ông cũng thấy mặt người đàn
ông kia, tấm ảnh chồng bà vừa tuột dây chằng đang lủng lẳng phía vách trái. Vái
lấy vái để, ông chạy vội về nhà. Bước xuống bậc thang, bà đột nhiên thấy lạnh sau
gáy. Khi quay lại, bà thấy chồng bà đang nhìn bà, cái nhìn vừa dịu dàng, vừa hờn
dỗi.
Trong truyện Kim Hà – Lê Thành Chơn, chiếc nhẫn, kỉ vật mà người lính đã
hi sinh để lại cho người vợ của mình giống như có linh hồn. Khi người vợ cầm
chiếc nhẫn ấy lên, cô cảm thấy dường như bàn tay của người lính ấy đang nắm lấy
tay của mình. Chiếc nhẫn vốn lạnh với tất cả mọi người, nhưng kì lạ thay, với
những người thân yêu của anh, nó bỗng ấm lên một cách kì lạ.
Trong Tiếng vạc sành của Phạm Trung Khâu, người dân trong một ngôi làng
đồn rằng, dạo gần đây, làng họ xuất hiện một con rắn lạ. Vết nó bò in xuống mặt
ruộng to tày cột đình. Có người còn khẳng định họ thấy nó đầu quấn gốc cây bên
này, đuôi quấn gốc cây bên kia, mình ép dẹp lép cái gàu sành sạch tát một cái ao
lớn để bắt cá; có người khác lại kể, họ thấy đuôi nó cuốn trong làm gốc, mình dựng
đứng làm thân cổ thụ, lừa thú vật và người đi ngang qua bắt ăn thịt. Một người đàn
bà trong làng đêm nào cũng nghe tiếng “tọc, tọc, tọc” phát ra từ lùm cây hoang sau
nhà. Chị đem việc này kể với chồng mình. Anh này quyết rình bắn. Khoảng chín
giờ tối hôm đó, những tiếng “crọc crọc” bắt đầu vang lên, dưới ánh trăng mờ, một
con rắn thò đầu ra toan bò qua bụi chuối phía sau nhà. Người lính ngắm kĩ, miết cò
súng. Ba tiếng nổ vang lên, người dân trong làng kéo đến. Khi đến nơi, tất cả đều
sững sờ. Đó không phải là con rắn, đó là một con người – một người giống khuôn
mặt quỷ.
1.2.4. Lời nói, hành động kì lạ của nhân vật
+ Yếu tố kì ảo trong các tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau
1975 còn được biểu hiện ở những lời nói, hành động kì lạ của các nhân vật (5/50
truyện khảo sát).
Viên (Ăn mày dĩ vãng – Chu Lai) có một khả năng đặc biệt, có thể linh cảm
trước những việc sắp xảy ra. Khi đoán số phận Hai Hùng và Sương, Viên bảo “rồi
đây số phận anh và chị Sương ràng buộc với nhau nhiều lắm. Hai người đều gặp
vô số những hoạn nạn nhưng vẫn không thể xa rời nhau. Chị ấy sẽ chết trước anh”,
quả thật sau này, trãi qua nhiều thăng trầm, xa cách nhưng cuối cùng họ vẫn gặp lại
nhau, và Sương đã chết trong vòng tay của Hai Hùng. Trước một trận đấu, Viên
bảo “có đổ máu, có người chết”, quả nhiên sau đó khi đối đầu với giặc, một người
đã hi sinh – và người duy nhất đổ máu trong trận này chính là Viên.
Tương tự, trong Đồng đội – Hồ Tĩnh Tâm, Quân bảo “Em nguyện cầu cho
đất nước hòa bình để được ngủ thẳng cẳng một năm cho đã”. Đêm hôm sau, lời
nguyện cầu của Quân linh nghiệm. Đêm đầu tiên triển khai đội hình, Quân đã nằm
xuống mãi mãi. Một mảnh 155 ly mở toang lồng ngực anh. Buồng phổi nát bấy
nhưng trái tim vẫn còn nguyên vẹn.
“Con gái tao xinh và ngoan thế này, mày không muốn lấy. Vậy thì sau này
chỉ lấy ma! Chỉ lấy được ma thôi nhé”. Câu nói của lão hàng xóm (Bướm trắng –
Thái Bá Tân) đã ứng nghiệm. Chàng Xuân Sinh sau này đã cùng với hồn ma Bạch
Điệp sống hạnh phúc với nhau như những cặp vợ chồng bình thường.
Theo lời của bà đồng, vào ban đêm, nhổ tóc của chính mình, bện chín sợi
thành một bím. Bện đủ chín trăm chín mươi chín bím rồi nối lại với nhau, quấn
xung quanh tấm ảnh rồi đặt lên bàn thờ khấn sẽ lưu giữ người con trai ở lại trần
gian. Dù không tin mấy vào lời bói toán, người con gái trong Dây neo trần gian –
Võ Thị Hảo vẫn đều đặn từng đêm, tự tay nhổ tóc của mình bện thành từng bím. Cô
làm việc đó chỉ vì một mục đích duy nhất – lưu giữ người đàn ông mà cô yêu ở lại
trên cuộc đời này. Cuối cùng dường như những hành động kì lạ ấy của cô đã ứng
nghiệm, như một phép nhiệm màu, người đàn ông ấy là người duy nhất trong đội
quân năm ấy không bị nhiễm chất độc màu da cam.
Tuy xuất hiện rất ít (4/50 truyện khảo sát) nhưng không thể không nhắc tới
dạng thức kì ảo: sự biến dạng, hóa thân của nhân vật. Trong văn xuôi hiện đại sau
1975, dạng thức biểu hiện này xuất hiện nhiều trong các tác phẩm như Món tái dê –
Hồ Anh Thái, Lên ruồi – Đoàn Lê, Phiên chợ Giát – Nguyễn Minh Châu, Tim vỡ -
Võ Thị Hảo,… Trong truyện ngắn viết về chiến tranh chỉ thấy dạng thức này biểu
hiện qua một số tác phẩm: Bướm trắng – Thái Bá Tân, Hồn trinh nữ - Võ Thị
Hảo,...
Giống như truyện cổ tích, các nhân vật thường hóa thân sau khi chết. Ở
Bướm trắng, người đọc bắt gặp sự hóa thân kì lạ của Bạch Điệp. Lúc quay trở lại
Cổng Trời thăm mộ Bạch Điệp. Bất chợt Xuân Sinh thấy một con bướm rất lớn
màu trắng bay đến lởn vởn bên anh. Khi nhìn kỹ anh thấy trên đôi cánh màu trắng
của nó có nhiều vết rách. Khi theo con bướm vào một hang đá nhỏ, sâu và tối,
Xuân Sinh bỗng thấy có một cái gì trăng trắng đang tiến đến gần anh. Nhìn kĩ hóa
ra đó là Bạch Điệp. Nàng nói do nằm dưới ngôi mộ xi măng, cứng quá, nàng phải
biến thành bướm mới có thể chui qua nổi.
Người con gái trong Hồn trinh nữ sau khi chết đã hóa thành một loài hoa
hình tròn tròn tim tím. Mỗi khi có bước chân người qua hoặc bị va chạm mạnh,
những chiếc lá lăn tăn xếp lại, xuôi xuống như bàn tay che mặt. Và người ta gọi đó
là hoa trinh nữ.
So với các tác phẩm văn xuôi sau 1975, các dạng thức kì ảo trong tiểu
thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh không đa dạng bằng. Chủ yếu biểu hiện ở
hai dạng thức tiêu biểu là mô-tip giấc mơ và hồn người chết trở về. Ngoài ra còn có
các dạng thức như: những sự việc kinh dị, hoang đường; những lời nói, hành động
kì lạ của nhân vật; sự hóa thân của nhân vật. Các dạng thức này xuất hiện với tần số
mỏng, không tạo được nét đặc trưng riêng.
Thế giới tinh thần của con người giống như là một chiếc hộp bí mật. Chỉ có
đi vào giấc mơ, người đọc mới có thể lý giải được những nỗi niềm riêng tư, ẩn kín
trong tâm hồn con người, đặc biệt là người lính. Đó có thể là nỗi ám ảnh về chiến
tranh, ám ảnh về lỗi lầm đã cố ý hoặc vô tình tạo ra, là niềm trăn trở, sự khát khao
hạnh phúc cá nhân. Đến với mô-tip ma hiện hồn, người đọc có thể hiểu thêm về sự
khốc liệt, nỗi đau, những mất mát mà chiến tranh gây ra cho con người. Những sự
việc kinh dị, hoang đường kì lạ cũng góp phần tô đậm mảng hiện thực cuộc sống
con người trong chiến tranh và trong cuộc sống đời thường. Mô-tip những lời nói,
hành động kì lạ của nhân vật thể hiện một điều gì đó khó giải thích bằng lý thuyết
khoa học. Dường như con người có một khả năng kì lạ, có thể nhận biết những
nguy hiểm sắp xảy ra bằng trực giác, cảm giác mà ta có thể gọi đó là linh cảm.
Trong chiến tranh, cái chết kề cận, do đó linh cảm về cái chết luôn đè nặng trong
tâm hồn người lính. Nói chung, các dạng thức kì ảo đã góp phần tạo nên nét mới lạ
cho các tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975. Với yếu tố kì ảo, các
những mảng sáng tối của hiện thực chiến tranh, những vấn đề nhạy cảm thuộc về
thế giới tinh thần, tình cảm của con người hiện ra cụ thể rõ ràng qua từng trang
sách.
Chương 2: Vai trò và hiệu quả nghệ thuật của việc sử dụng yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh giai đoạn sau 1975
Yếu tố kì ảo là một trong những phương tiện nghệ thuật hữu hiệu tạo sự lôi
cuốn hấp dẫn cho tác phẩm. Bên cạnh đó, sự tham gia của yếu tố kì ảo vào tác
phẩm văn học đã chi phối nhiều đến cách thức tổ chức kết cấu của tác phẩm: tạo
nên những tình huống truyện mới lạ, độc đáo; cốt truyện hấp dẫn; góp phần dựng
nên một thế giới hình tượng đa dạng, đặc sắc.
2.1. Vai trò của yếu tố kì ảo trong kết cấu nghệ thuật tác phẩm
2.1.1. Yếu tố kì ảo và tình huống truyện
Trong truyện ngắn, tình huống đóng vai trò quan trọng, có thể xem đây là
khâu then chốt trong sáng tạo, đem đến sự thành công cho tác phẩm. Tình huống là
những thời khắc tiêu biểu (có người gọi là khoảnh khắc, chốc lát...) trong cuộc
sống của con người. Tại thời khắc đó, nó bộc lộ cái bản chất trong quan hệ giữa
các tính cách, giữa nhân vật với hoàn cảnh và thể hiện sâu sắc chủ đề của tác
phẩm. Trong một số truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975, sự xuất hiện của
yếu tố kì ảo đã góp phần tạo nên những tình huống đặc sắc, lôi cuốn. Qua khảo sát
các truyện ngắn này, ta thấy có sự xuất hiện các dạng tình huống tiêu biểu sau:
Tình huống truyện nhuốm màu sắc hoang đường, kì lạ
Hoang đường, kì lạ là dạng tình huống quen thuộc, thường xuất hiện nhiều
trong các câu chuyện cổ tích thần kì, hoặc những truyện ngắn liêu trai, ma quái.
Trong các truyện ngắn viết về chiến tranh giai đoạn sau 1975, người đọc cũng dễ
dàng bắt gặp nhiều tình huống mà ở đó tính chất hoang đường, kì lạ thể hiện đậm
đặc, rõ nét. Có thể bắt gặp tình huống này ở một số truyện như: Bến trần gian –
Lưu Sơn Minh, Bướm trắng – Thái Bá Tân, Cặp bồ với ma – Ngô Văn Phú, Vĩnh
biệt mười tám con gà trống – Nguyễn Quang Lập, Đốm lửa – Nguyễn Thị Minh
Thúy, Trái tim con rắn – Nguyễn Đông Thức, Mai – Thanh Quế…
Bến trần gian (Bến trần gian) – một bến sông bãng lãng sương khói, hư ảo,
huyễn hoặc; là nơi giao nhau giữa cõi người và cõi ma. Chính tại nơi đây, linh hồn
của Lăng đã gặp lại người mẹ già sau bao nhiêu năm xa cách, để rồi chính anh phải
đau đớn khi nhận ra rằng mình không còn là người nữa, anh không thể trở về với
gia đình, với người thân được nữa bởi giữa người và ma vẫn là hai thế giới khác
biệt. Dù rất thương con nhưng người mẹ vẫn gạt nước mắt bảo anh đi “Người chết
thì phải đi thôi con ạ, đừng luẩn quẩn trần gian làm gì nữa. Bây giờ mày chỉ là nỗi
sợ hãi của mọi người thôi… u thương con lắm Lăng ạ, nhưng mà không thể để con
ở lại được”. Cuối cùng, Lăng đành phải ngậm ngùi lặng lẽ ra đi “Lăng dật dờ mấy
vòng, chẳng rõ anh có khóc không bởi sương đêm nay rơi nhiều quá…”. Anh phải
chấp nhận hiện thực dù đó là hiện thực đau đớn, phủ phàng. Có lẽ cuộc gặp gỡ cuối
cùng này sẽ giúp linh hồn anh được siêu thoát và có thể nằm lại nơi chiến trường
xưa.
Bướm trắng kể về mối tình giữa người lính lái xe Xuân Sinh và cô thanh
niên xung phong Bạch Điệp. Bạch Điệp đã hi sinh khi đang làm nhiệm vụ dẫn
đường cho đoàn xe vượt qua Cổng Trời. Tuy nhiên, cuối cùng cô đã sống lại và
cùng Xuân Sinh nên vợ nên chồng. Nhà văn đã dựng nên tình huống hư ảo, kì lạ.
Sau chiến tranh, Xuân Sinh đã trở lại Cổng Trời. Tại đây, nhờ sự dẫn đường của
một con bướm trắng mà Sinh đã gặp lại cô. Biết được người yêu đã hi sinh, và vì
bom đạn, nàng trở thành một hồn ma rách nát, đáng thương, Xuân Sinh đã lấy các
sợi máu của mình vá lại những vết thương trên cơ thể Bạch Điệp. Nhờ tình yêu và
sự kiên trì, cuối cùng Sinh đã thành công. Chàng đưa Bạch Điệp về quê mình ở
làng Đoài – Phú Xuyên, hai người sống với nhau như những cặp vợ chồng bình
thường khác…
Trong truyện ngắn Cặp bồ với ma, tác giả đã xây dựng một tình huống lãng
mạn nhưng đầy chất liêu trai, trong những ngày lang thang trông coi nghĩa trang,
chàng trai đã gặp một nấm mồ nhỏ đáng thương, động lòng thương cảm, chàng đã
“ngồi lại nhặt cỏ” với “lòng bùi ngùi, cảm khái”. Hành động đó đã được đáp lại
bằng tình yêu của hồn ma cô gái ma. Đêm đó, khi đang ngồi đọc sách, một làn gió
lạnh lùa qua, trước mặt chàng, một người phụ nữ mảnh mai, ăn mặc giản dị bước
vào. Cuộc gặp gỡ đó là khởi đầu tình yêu giữa người và ma. Hai người đã có những
ngày sống vui vẻ hạnh phúc bên nhau. Những ngày sống cạnh một người trần gian
xa lạ đã khiến cô gái thật sự thỏa lòng với một tình yêu thật sự mà trước đây trong
chiến tranh cô chưa một lần nếm trải.
Truyện Vĩnh biệt mười tám con gà trống, nhân vật rơi vào tình huống kì lạ.
Khi người đàn bà đang thổn thức trong lòng ông hàng xóm, tấm ảnh thờ của chồng
bà đột nhiên tuột dây chằng treo lủng lẳng trước mắt bà và người đàn ông ấy.
Người đàn ông hàng xóm hoảng sợ chạy về nhà. Riêng bà, lúc bấy giờ rơi vào tâm
trạng vừa day dứt, băn khoăn bởi cảm giác có lỗi với người chồng cũ; vừa trằn trọc,
bối rối bởi nỗi cô đơn, trống vắng suốt mười tám năm. Bà nhận ra rằng mình rất
cần được chăm sóc bởi đôi tay một người đàn ông.
Sự tham gia của yếu tố kì ảo vào tình huống truyện khiến người đọc liên
tưởng đến những câu chuyện cổ tích mà ở đó có ông bụt, bà tiên có thể dùng phép
màu giúp nhân vật thực hiện ước mơ của mình; có sự hóa thân thần kì của nhân vật
sau khi chết để họ có thể trở về sống một cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc; có sự gặp
gỡ giữa người còn sống và người đã chết. Tuy mang dáng vẻ của những câu chuyện
cổ tích, song khi khép lại câu chuyện, bao nỗi băn khoăn đặt ra: liệu những phép
màu thần kì đó đã thật sự hàn gắn được vết thương mà chiến tranh đã để lại cho con
người.
Cũng như những buổi tiệc trước, Thuật (Trái tim con rắn) là người được ưu
tiên thưởng thức ly rượu đặc biệt. Một ly rượu thuốc đã trộn đều với máu rắn, bên
trong là một trái tim nhỏ xíu vẫn còn thoi thóp thở sẽ là ly rượu bắt đầu cho buổi
tiệc. Thường, để chứng tỏ bản lĩnh của mình, Thuật sẽ dùng tay nhón lấy trái tim
con rắn nhai chóp chép một cách ngon lành. Nhưng trong buổi tiệc hôm nay, khi
kẹp lấy trái tim ở đáy ly, Thuật có cảm giác nó quẫy nhẹ như muốn tuột khỏi tay
ông. Khi cho vào miệng, trái tim ấy tự lăn lên lưỡi, tuột vào yết hầu và trôi xuống
thực quản rồi dừng lại ở đó. Ngay lúc đó nó làm ông nghẹn thở mất mấy giây. Từ
sau giây phút kì lạ đó, suốt đêm Thuật không thể nào chợp mắt bởi những âm thanh
quái lạ cứ vang lên trong lồng ngực của ông. Cũng trong đêm đó, những hành động
sai trái trước đây lần lượt hiện ra trong đầu của ông. Sáng ra, người ta thấy ông đã
chết với một trái tim nhỏ xíu đã bị vỡ đôi.
Trong một chuyến về hậu phương nhận hàng, lúc dừng chân ở một chặng
đường, bỗng dưng Quỳ (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành – Nguyễn Minh
Châu) cảm giác như có ai đó đang vẫy gọi chị từ đằng sau những cánh cửa gỗ mục
nát trong chùa. Đẩy cánh cửa bước vào, trước mắt Quỳ là một bức tượng ngàn mắt
ngàn tay ngồi chễm chệ trên tòa sen. Trong cái giây phút bàn tay chạm vào bức
tượng, chị thấy như đang chạm vào đôi bàn tay dấp dính mồ hôi của Hòa - người
yêu của chị. Chỉ đến giây phút này, chị mới chợt hiểu ra nụ cười bí ẩn luôn hiện ra
trên đôi môi của anh trước lúc vĩnh viễn ra đi. Chỉ có sự ra đi anh mới có thể mãi
mãi giữ lại hình ảnh đẹp của mình trong chị, bởi chỉ có niềm thương tiếc, người ta
mới có thể quên đi những khuyết điểm của một con người. Trong cuộc sống, không
phải điều gì cũng là hoàn hảo. Một khi đã yêu, nên biết chấp nhận những khuyết
điểm của đối phương.
Sự có mặt của yếu tố kì ảo trong tình huống truyện không chỉ gây sức hấp
dẫn mà còn góp phần bộc lộ tư tưởng tác phẩm. Tác giả đặt nhân vật vào tình
huống hoang đường, kì lạ để từ đó nhân vật bộc lộ nhận thức, suy nghĩ, tình cảm
của mình. Qua đó người đọc có thể lý giải tính cách của từng nhân vật để từ đó hiểu
thêm về số phận của những người lính.
Trong những tác phẩm viết về chiến tranh, không hiếm để có thể tìm thấy
những tình huống hoang đường, kì lạ trong truyện. Tuy nhiên, nếu so sánh với
những tình huống hoang đường, kì lạ trong các tác phẩm trước đây, đặc biệt là
trong những truyện cổ tích thần kì, rõ ràng có một sự khác biệt rất lớn. Trong các
truyện cổ tích, sự góp mặt của yếu tố kì ảo trong tình huống truyện nhằm dẫn dắt
người nghe bước vào một thế giới hoang đường mà ở đó, nhờ sự kì ảo, con người
có thể dễ dàng thực hiện ước mơ của mình, làm thay đổi số phận của nhân vật. Cả
tác giả lẫn người đọc đều tin vào sự thần kì đó. Ở các tác phẩm văn học sau này,
yếu tố kì ảo tuy xuất hiện nhưng cái thực vẫn nổi trội, người đọc vẫn phân biệt rạch
ròi đâu là thế giới của sự hư huyễn, đâu là sự thật của cuộc sống. Sự có mặt của yếu
tố kì ảo góp phần giúp người đọc khám phá những bộ mặt khác nhau của chiến
tranh.
+ Tình huống truyện căng thẳng, kịch tính
Tình huống căng thẳng, kịch tính cũng thường được nhà văn sử dụng trong
các truyện viết về chiến tranh mang yếu tố kì ảo. Tình huống này tạo cho người
đọc cảm giác ngạt thở, xáo trộn, buộc phải đặt câu hỏi liệu nhân vật sẽ ra sao khi
đối mặt với tình huống đó.
Truyện ngắn Chuyến xe đêm – Ma Văn Kháng, kể về một người lính làm
nhiệm vụ đưa những người trên xe đến một trạm gác an toàn. Trong truyện, để
làm nổi bật lên hình ảnh người lính lái xe anh dũng, gan dạ, tác giả đã đặt nhân
vật vào một tình huống khá căng thẳng, nghẹt thở. Trong quãng hành trình, anh
bất ngờ bị trúng ba phát pháo của bọn tàn quân. Với một người bình thường, việc
có thể sống sót khi bị trúng ba phát pháo là điều không thể. Vì vậy, mọi người ai
cũng lo sợ và đinh ninh anh đã chết khi thấy máu ứa ra đen thẫm, và anh đã gục
xuống trên tay lái. Nhưng, chính trong tình huống căng thẳng, không còn hi vọng
này, chiếc xe vẫn lăn bánh tựa như có một lực đẩy vô hình, một phép màu kì lạ
trong khi anh đã rơi vào trạng thái bất tỉnh. Cuối cùng anh đã hoàn thành nhiệm
vụ, đưa những người trên xe đến được trạm gác. Ở truyện Kim Hà (Lê Thành
Chơn), tác giả cũng đã tạo nên một tình huống căng thẳng không kém. Một chiếc
xe đang trên đường trở về đơn vị, và Hà – người nhận trách nhiệm cầm tay lái đã
bị bốn trái bom dội liên tiếp vào người. Anh bị thương rất nặng và cánh tay cũng
đã đứt lìa, máu ra xối xả. Thế nhưng, vì tinh thần đồng đội, không hiểu bằng cách
nào, anh đã lái được chiếc xe về đến đơn vị. Với sự tham dự của dạng thức kì ảo:
sự việc kinh dị, kì lạ, tác giả đã tạo nên hình ảnh đẹp đẽ, phi thường của người
lính. Hơn bao giờ hết, nghĩa vụ, trách nhiệm cao hơn những lợi ích riêng tư, nguy
hiểm của cá nhân bản thân mình.
Tình huống trong Dây neo trần gian – Võ Thị Hảo, xuất hiện khi cô gái
dùng những sợi tóc của mình bện thành những bím tóc nhỏ quấn quanh bức ảnh
người đàn ông mà cô yêu. Đó là cách duy nhất mà theo lời bà đồng sẽ neo giữ
được người ấy ở lại trần gian. Dù biết đây là điều vô lý nhưng cô gái vẫn làm
theo. Kết quả kì diệu đã xảy ra. Người đàn ông cảm động và quyết định đối mặt
với sự thật – sẽ cùng nàng đến bệnh viện thử máu xem mình có bị nhiễm chất độc
da cam không. Thật kì diệu, kết quả cuối cùng anh là người duy nhất trong nhóm
không bị nhiễm chất độc chết người. Phải chăng chính tình yêu của cô đã làm nên
điều kì diệu – đã neo anh lại được với trần gian.
Những tình huống căng thẳng, kịch tính đặt nhân vật vào những khoảnh
khắc khó khăn, gay go, quyết liệt tưởng như không thể vượt qua. Từ đó xuất hiện
những điều lạ giúp nhân vật thực hiện được những điều phi thường, khó thể xảy
ra trong đời sống thực. Để tạo nên điều lạ, các tác giả thường dùng đến dạng thức
kì ảo: Những sự việc kinh dị, kì lạ. Sự tham dự của yếu tố kì ảo vào tình huống
truyện tạo cho người đọc sự thú vị xen lẫn hồi hộp, lo lắng. Tuy số lượng tác
phẩm không nhiều, song các truyện vẫn tạo nên dấu ấn riêng. Đa số, những truyện
có tình huống này đưa người đọc quay trở lại khung cảnh chiến trường với những
trận bom ác liệt, kinh hoàng. Ở đó, người lính đối mặt với sự sinh tử trong gang
tấc từ đó người đọc thấy được sự anh hùng, quả cảm của nhân vật.
+ Tình huống truyện mang tính chất ngẫu nhiên
Tính chất ngẫu nhiên cũng thường được nhà văn sử dụng trong những
truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975. Để tạo sự li kì cho tác phẩm, đôi khi các
nhà văn tô đậm sự ngẫu nhiên đó đến mức lạ lùng, khó hiểu. Sự ngẫu nhiên này
đôi khi sẽ là tiền đề đưa nhân vật đến với những điều hư huyễn sau đó. Ở những
truyện ngắn này, yếu tố kì ảo được sử dụng nhằm tô đậm tính chất trùng hợp kì lạ
của tình huống
Một hôm, con chó tha về một khúc xương ống chân (Tiếng chuông chiều –
Lê Hoài Lương). Trong thoáng chốc, người chủ nhân nhận ra đó chính là xương
người, lập tức gã đã buộc chú chó dẫn đến nơi có xương đó. Sau một lúc hì hục
moi cát, trước mắt gã là một bộ xương người trong tư thế đang ngồi. Nhìn hộp
dầu cao sao vàng và đôi dép cao su, gã đoán là người lính Việt cộng chết vì sụp
hầm. Không nỡ để bộ xương bị chó tha đi từng mảnh, gã đem chôn cất bộ xương
cẩn thận. Từ tình huống ngẫu nhiên đó đã dẫn đến hàng loạt những điều lạ lùng
mà gã gặp sau này. Trong những lúc nguy hiểm, cận kề cái chết, linh hồn của
người lính xấu số đã về cứu gã thoát chết trong gang tấc. Chết không có nghĩa là
hoàn toàn biến mất. Người chết vẫn có thể trở về giúp đỡ cho người còn sống.
Trong thế giới của người chết, không có sự phân biệt ta và địch, chỉ cần đó là
người tốt, linh hồn người chết sẽ phù hộ, chở che cho họ.
Đến với Trừng phạt – Đỗ Nhật Minh, người đọc không khỏi ngạc nhiên
bởi sự trùng hợp lạ lùng giữa giấc mơ và cuộc đời thực của nhân vật. Trong mơ,
ông Tuyển thấy đang ngồi thì đứa cháu hớt hải chạy đến bảo về nhà có khách.
Đến nơi, ông thấy toàn bộ căn nhà ngói năm gian đột nhiên trống hoác, một người
đàn ông mặc quần kaki bộ đội ngồi xoay lưng lại với ông. Khi người khách ấy
quay lưng lại, ông kinh hoàng nhận ra đó là một người đồng đội đã hi sinh trong
chiến tranh. Và hôm sau, lúc đang ngồi bên bờ sông, cũng ngay vị trí cây ổi
(giống trong mơ), thằng cháu ông cũng hớt hải chạy đến bảo ông về nhà có khách.
Hoảng hốt, ông đã ngã xuống ngất xỉu trước sự ngỡ ngàng của đứa bé. Và sau đó,
tất cả những sự việc trước đây lần lượt hiện ra trong đầu ông như mới xảy ra ngày
hôm qua. Người đàn ông trong giấc mơ kia là ai? Giấc mơ ấy liên quan gì đến
cuộc đời ông Tuyển? Vì sao sự trùng hợp giữa giấc mơ với cuộc đời thực lại có
thể khiến ông Tuyển sợ hãi đến ngất xỉu. Chính những điều này đã lôi cuốn người
đọc tiếp tục theo dõi diễn biến tiếp theo của câu chuyện.
Nếu những con kiến đen không xuất hiện trên mâm ăn, có lẽ đây sẽ là buổi
cơm rất đầm ấm và vui vẻ đối với Nghĩa (Chiều vô danh – Hoàng Dân). Đang háo
hức nhận bát bún nóng từ tay vợ, bất chợt Nghĩa thấy nôn nao trong lòng, người
lảo đảo, quay cuồng khi nhìn thấy từng đàn kiến đang bò quanh mâm cơm. Trong
thoáng chốc, Nghĩa cảm thấy đám sinh vật li ti ấy đang nhe răng, gặm sồn sột
trong óc, khiến anh không còn bình tĩnh được nữa. Sự xuất hiện của những sinh
vật bé nhỏ nhưng đáng sợ ấy đưa anh trở về với quá khứ đạn bom ác liệt năm nào.
Trước mắt anh, khu rừng Trường Sơn hiện ra rõ ràng, rành mạch: Tiếng bom rơi,
tiếng đạn rít, những âm thanh ầm ầm náo động; và nơi đó, hàng triệu, hàng triệu
con kiến đen đang xâu xé những mẩu xương thịt của đồng đội anh. Tất cả cứ như
vừa mới hôm qua. Kiến đen vốn là những sinh vật bình thường, vô hại đối với con
người. Nhưng ở đây, sự xuất hiện tình cờ của chúng vô tình chạm vào vết thương
lòng của nhân vật. Quá khứ chiến tranh thật khốc liệt và hãi hùng, sự ám ảnh mà
nó để lại sẽ không bao giờ có thể phai mờ và chỉ cần vô tình chạm phải, nỗi ám
ảnh ấy lập tức kéo con người ra khỏi cuộc sống hiện tại, bởi giống như lời Kiên
(Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh) họ là những người “không thể nhấc chân ra
khỏi miệng hố chiến tranh”.
Trong truyện ngắn Họ đã trở thành đàn ông – Phạm Ngọc Tiến, tác giả đã
để cho nhân vật tình cờ nghe được cuộc chuyện trò giữa hai người lính. Cuộc
chuyện trò của họ vô tình đã làm thay đổi suy nghĩ của nhân vật ấy. Lúc đó, đang
giữa chiến trường ác liệt, chị - một người con gái thành phố tự nguyện tham gia
vào chiến trường. Ở sát kho chị có một con suối, chị có thói quen ra suối tắm vào
buổi sáng. Và buổi sáng hôm ấy, những lời tâm tình của hai người lính, chị đã
nghe hết không sót một lời. Đó là lời tâm sự của những chàng trai mà khi ra chiến
trường, họ chưa một lần được trở thành người đàn ông thật sự. Thậm chí đến lúc
hi sinh, họ vẫn chưa được nếm trải cái hạnh phúc mà ông trời ban cho loài người.
Đoạn đối thoại đã vô tình tác động mạnh mẽ đến người chị. Khi trở về, chị trải
qua một cơn sốt, chị mơ màng thấy lại thành phố thân yêu của mình, thấy lại anh,
thấy lại cuộc hẹn hò lần cuối của mình, và chị đã không để anh vượt quá giới hạn
trong buổi sáng ấy. Chị cảm thấy mình có lỗi với anh. Sau khi tỉnh lại, chị đưa ra
một quyết định vô cùng táo bạo, để những người con trai ấy một lần trong đời trở
thành người đàn ông, để họ khi đã vĩnh viễn nằm trong lòng đất lạnh cũng không
cảm thấy nuối tiếc cuộc đời. Chiến tranh, có những sự hi sinh mà ai cũng nhìn
thấy, nhưng cũng có những người lặng lẽ hi sinh, đem đến niềm vui cho người
khác mà không cần phải được nhớ đến.
Bên cạnh tình huống mang tính chất hoang đường, tình huống căng thẳng,
kịch tính; tình huống mang tính chất ngẫu nhiên cũng thường có mặt trong các tác
phẩm văn xuôi viết về chiến tranh sau 1975. Sự tham dự của yếu tố kì ảo đã tạo
nên những tình huống ngẫu nhiên, trùng hợp đến mức kì lạ, khó hiểu. Những tình
huống này đóng vai trò quan trọng, gắn kết nhân vật với các sự kiện lạ lùng sau
đó, góp phần bộc lộ tính cách, tâm tư, tình cảm của nhân vật, cũng như thể hiện
chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
2.1.2. Yếu tố kì ảo và cốt truyện
+ Yếu tố kì ảo đóng vai trò biểu tượng, xuất hiện song hành cùng cốt truyện
Ở những truyện này yếu tố kì ảo được tác giả lồng ghép một cách có ý thức,
tạo nên một kiểu thêm thắt, gia giảm; đan lồng, xen kẽ cái kì ảo và cái thực. Đặc
trưng của những truyện này là yếu tố kì ảo không đóng vai trò cốt yếu, chi phối
mạch truyện. Các truyện như Tiếng vạc sành – Phạm Trung Khâu, Cỏ lau –
Nguyễn Minh Châu, Vĩnh biệt mười tám con gà trống- Nguyễn Quang Lập, Đồng
đội – Hồ Tĩnh Tâm, Hai người đàn bà xóm Trại – Nguyễn Quang Thiều, Mai –
Thanh Quế, Truyền thuyết về quán Tiên- Xuân Thiều, Hai người trong thành phố -
Kiều Vượng, Người đàn bà – Thanh Quế,… ta có thể lược bỏ những trường đoạn
có sự hiện diện của yếu tố kì ảo mà không làm phương hại đến nội dung ý nghĩa
của truyện.
Truyện Vĩnh biệt mười tám con gà trống kể về chuyện một người đàn bà
đang đi tìm con gà thứ mười tám bị kẻ trộm bắt mất. Mười tám con gà trống cũng
chính là mười tám năm chồng bà ra đi biền biệt chưa một lần trở lại. Bà đã bỏ tiền
ra mua đúng mười tám con gà trống để đánh dấu mười tám năm thương nhớ của bà.
Cuối cùng bà đã tìm được cái kẻ đáng chết đã bắt mất mười tám con gà kỉ niệm của
bà. Khi bà đang lao vào nhà xỉa xói, nguyền rủa hắn cũng chính là lúc nhận được
giấy báo tử của chồng mình. Bà hét lên một tiếng kinh hoàng rồi rơi xuống sân như
một trái bầu khô. Lúc mơ màng, bà thấy gã hàng xóm đáng ghét bế bà lên giường,
xoa dầu rất kĩ, hình như là còn lật áo bà lên xoa vào sống lưng. Đó là đêm đầu tiên
sau mười chín năm xa chồng bà được ngủ một giấc ngon lành. Những ngày sau đó,
sự chăm sóc tận tình của kẻ hàng xóm đáng ghét đã khiến trái tim bà thổn thức.
Đêm đó, người đàn ông đó đã sang nhà bà. Khi hai người đang ghì chặt lấy nhau thì
đột nhiên bức ảnh chồng bà bỗng tuột dây chằng treo lủng lẳng trước mặt bà và
người hàng xóm. Người đàn ông ấy bỏ chạy về nhà. Còn lại một mình, bà òa khóc
van xin “anh ơi hãy để cho em… được … được …”. Khi bà định sang nhà người
hàng xóm, đột nhiên bà thấy lạnh ở gáy. Quay lại, bà thấy chồng bà nhìn bà, cái
nhìn vừa dịu dàng thông cảm, vừa hờn dỗi. Nếu lược bỏ yếu tố kì ảo ở cuối truyện,
câu chuyện vẫn không mất đi ý nghĩa của nó. Chuyện của một người đàn bà mười
tám năm đằng đẵng xa chồng, nhưng nỗi khát khao tình yêu vẫn hiển hiện trong bà
đến cháy bỏng. Sự có mặt của yếu tố kì ảo nhằm làm tô đậm nỗi dằn vặt bên trong
tâm hồn người phụ nữ. Một mặt rất muốn thỏa nguyện khao khát tình yêu mà bà đã
thiếu vắng suốt mười tám năm, mặt khác lòng bà vẫn canh cánh cảm giác có lỗi với
người chồng đã hi sinh của mình.
Với Hai người đàn bà xóm Trại, yếu tố kì ảo nằm ở những giấc mơ của hai
người phụ nữ. Ân và Mật không ngừng mơ thấy những giấc mơ kì lạ. Ân thường
mơ thấy con gà trống tía với chiếc mào đỏ rực mổ mổ vào ngón tay út của mình.
Còn Mật vẫn mơ đi mơ lại những cơn mơ vừa hạnh phúc, vừa lo sợ. Mật thấy
người lính trở về và ngay đêm đó Mật có thai. Tỉnh dậy, Mật lại dè dặt đặt tay lên
bụng mình. Nếu không có những giấc mơ của các nhân vật, Hai người đàn bà xóm
Trại vẫn là một câu chuyện cảm động về hai người phụ nữ chờ đợi chồng đi lính đã
nhiều năm. Sự chờ đợi vô vọng kéo dài suốt từ thuở còn xuân sắc đến lúc trở thành
hai bà lão già nua. Họ chưa và cũng không có dịp gặp lại người chồng thân yêu của
mình từ khi hai anh ra đi. Để rồi, hằng năm Tết đến, hai người lại lặng lẽ mong
ngóng, đợi chờ, lại tiếp tục gói bánh Tết cho người ở xa trở về - những bánh đã
mốc xanh mà người chẳng thấy quay về vẫn trở đi, trở lại. Tuy không phải là thành
phần chính của truyện, song sự có mặt của yếu tố kì ảo càng làm tô đậm thêm bi
kịch của hai người phụ nữ. Khiến người đọc không khỏi xót thương bởi cái mong
ước quá đơn giản có được với hai anh một đứa con không bao giờ có thể trở thành
sự thật với họ - những người phụ nữ đã đi qua chiến tranh.
Cũng vậy, trong Những giấc mơ có thực, yếu tố kì ảo là những giấc mơ của
người phụ nữ tên Tuân. Những giấc mơ chất chứa khát vọng hạnh phúc của người
phụ nữ một thời là “hoa khôi của rừng” được bao chàng trai đeo đuổi giờ trở thành
một chiếc bóng lẻ loi. Tước bỏ yếu tố kì ảo, người đọc vẫn có thể cảm nhận được
cuộc đời với những vết thương trong tâm hồn mà chiến tranh đã để lại cho chị.
Ngoài chứng bệnh “quên quên nhớ nhớ” chị còn thêm chứng mất ngủ triền miên
“đêm đêm thường mặc bộ quần áo ngủ may bằng thứ vải dệt gia công của địa
phương nhàu nhĩ màu nước dưa đi lang thang như một kẻ mộng du”. Yếu tố kì ảo
trong truyện đóng vai trò là một phương tiện để nhân vật bộc lộ những khát khao bị
kìm nén trong lòng. Trong những cơn mơ, nhân vật mới có thể sống thật với bản
thân mình, hiểu được tiếng lòng đang thổn thức trong tâm hồn. Yếu tố kì ảo vì thế
càng mang giá trị sâu sắc khi có mặt trong truyện.
Bến không chồng – Dương Hướng là câu chuyện về những người phụ nữ
nông thôn Việt Nam (cụ thể trong truyện là làng Đông) trong bối cảnh đất nước
vừa kết thúc cuộc chiến tranh chống Pháp và đang tiếp tục cuộc kháng chiến chống
Mỹ. Giống như Ân, Mật (Hai người đàn bà xóm Trại), Quỳ (Những giấc mơ có
thực), người đàn bà (Vĩnh biệt mười tám con gà trống) những người phụ nữ trong
tác phẩm như Hạnh, Thắm, Dâu, Cúc, Nhài,… cũng luôn trăn trở với những ước
mơ giản dị là được làm vợ, làm mẹ, có một mái ấm để yêu thương, chăm sóc; được
nâng niu trong vòng tay của một người đàn ông. Nhưng những khao khát ngỡ như
là giản dị đó lại trở nên quá xa vời với họ. Họ đều là những người phụ nữ "không
chồng" (đúng như cái tên của tác phẩm). Yếu tố kì ảo xuất hiện vào những lúc
Hạnh rơi vào trạng thái mê sảng khi mòn mỏi, đau khổ vì đợi chờ trong tuyệt vọng.
Hình ảnh Hạnh vùng vẫy như đang làm tình với dòng nước, “cơ thể như chìm dần
như thể có ba ba, thuồng luồng đang lôi tuột xuống đáy sông”, và “vầng trăng to
phình ra, đỏ lừ như con ma ở đầu cánh mả” [44, 192] sà xuống liếm lên khắp thân
thể Hạnh, làm tình với cô khiến người đọc không khỏi xót xa cho sự khát khao
hạnh phúc đến cháy bỏng trong cơ thể nhỏ bé của người phụ nữ. Trong chiến tranh,
hạnh phúc lứa đôi trở thành một ham muốn thấm đẫm nước mắt, thấm đẫm nỗi đau
của con người.
Ở Người sót lại của rừng cười - Võ Thị Hảo, yếu tố kì ảo nằm ở phần đầu
của câu chuyện. Đó là căn bệnh kì lạ chỉ có trong chiến tranh. Những người con gái
của kho quân nhu trong cánh rừng Trường Sơn bỗng nhiên trở thành những con
vượn trắng lõa lồ vừa khóc, vừa cười một cách điên dại. Chỉ khi những người lính
cất tiếng quát “Mấy con Việt cộng kia! Kho đâu? Chỉ mau không tao bắn vỡ sọ!”
họ mới bừng tỉnh. Chuyện về năm cô gái trên cánh rừng Trường Sơn năm nào trở
thành kí ức trong lòng Thảo – người con gái duy nhất còn sót lại của Rừng Cười.
Nếu không có sự hiện diện của yếu tố kì ảo, truyện cũng không thay đổi mấy về nội
dung. Câu chuyện về cuộc đời một cô gái trở về sau những năm tháng chiến đấu
nơi núi rừng Trường Sơn. Sự có mặt của yếu tố kì ảo trong câu chuyện khiến người
đọc cảm nhận sâu sắc bi kịch của những người con gái sinh ra trong chiến tranh. Bi
kịch của sự cô đơn, của nỗi khát khao rất đỗi bình thường - được yêu thương, chăm
sóc bởi đôi tay của những người đàn ông.
Trong một lần về quê bạn chơi, Khản được nghe Quát kể một truyền thuyết
liên quan đến loài vạc sành - loài chim có tiếng kêu bi thương đến não lòng (Tiếng
vạc sành – Phạm Trung Khâu). Những ngày sau đó, anh vô tình gặp và kết thân với
Nhọn, cậu bé nghèo khổ, có ngoại hình xấu xí, kì lạ. Qua những lần nói chuyện,
Khản cảm thấy rất mến người bạn nhỏ này. Buổi tối hôm Khản ở lại nhà Nhọn, tình
cờ anh gặp được bức ảnh chụp một người lính có ngoại hình giống với người đàn
ông trong câu chuyện của Quát. Tính chất kì ảo nằm ở phần đầu câu chuyện. Đó là
câu chuyện bi thương của gia đình một người lính qua lời kể của Quát. Nếu lược bỏ
phần đầu, câu chuyện không thay đổi về nội dung ý nghĩa. Tuy nhiên sự có mặt của
nó đã khiến người đọc cảm nhận được những nỗi đau, những mất mát quá lớn mà
chiến tranh đã để lại. Nếu không xảy ra chiến tranh, có lẽ đây sẽ là một gia đình rất
hạnh phúc.
Ở Người thắng trận- Tạ Duy Anh, chi tiết kì lạ nằm ở phần vĩ thanh: vết
máu trên chiếc khăn của viên tướng chỉ có thể được rửa sạch khi vô tình làm rơi
xuống giếng nơi nàng Đoan Trang trầm mình. Nếu không có phần vĩ thanh chứa
đựng yếu tố kì ảo, câu chuyện chỉ dừng lại ở cuộc tình bi thương của cô gái và
chàng đô Binh. Vì muốn đem về chiến thắng cho làng và có được người đẹp trong
tay, trong cuộc đấu vật, chàng đô Binh đã dùng ngón võ hiểm độc để hạ sát đối
phương. Vì không chịu được sự khốc liệt của trận đấu, cô gái đã trầm mình tự vẫn.
Có thêm phần vĩ thanh với chi tiết kì ảo, cái chết của cô gái không nhuốm màu bi
thảm mà mang sắc thái thiêng liêng.
Truyện Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành – Nguyễn Minh Châu kể về
cuộc đời của một người đàn bà với những sự kiện chính: Vào Trường Sơn tham gia
chiến đấu, và trở lại miền Bắc khi cuộc chiến đã kết thúc. Cuộc sống bên ngoài diễn
ra bình thường như những người khác, song cuộc sống nội tâm của Quỳ đầy mâu
thuẫn, biến động. Quỳ luôn dằn vặt, trăn trở trong những cơn mộng du để tìm đến
sự tự nhận thức, tìm đến chân lý của cuộc sống. Yếu tố kì ảo xuất hiện khi Quỳ một
mình đối mặt với bức tượng gỗ nghìn tay, nghìn mắt. Cuộc gặp gỡ kì lạ với bức
tượng đã vô tình giúp Quỳ giải mã nụ cười bí hiểm của anh (người lính đã từng yêu
và sống bên cô) trước lúc ra đi vĩnh viễn, giúp cô hình dung được cuộc đối thoại
diễn ra trong căm lặng giữa cô và “anh ấy”. Có thể lược bỏ yếu tố kì ảo này mà
không làm ảnh hưởng đến nội dung câu chuyện. Song sự có mặt của nó phần nào
giúp người đọc nhận ra ý nghĩa nhân bản của câu chuyện: trong chiến đấu, người
lính luôn xuất hiện trong tư thế đẹp đẽ, hoàn hảo song trở về với cuộc đời, họ cũng
là những con người bình thường. Với tư cách là một thực thể tự nhiên và xã hội,
người lính cũng có những mặt tốt và những mặt chưa tốt, những điều hoàn thiện và
những điều chưa hoàn thiện. Hãy biết trân trọng những mặt tốt và đồng thời chấp
nhận những điều chưa hoàn thiện ấy
Trong Chiều vô danh- Hoàng Dân, chi tiết kì lạ mang sức ám ảnh là hình
ảnh đàn kiến đen. Những đám sinh vật đen, nhỏ li ti ấy không có gì là nguy hiểm
nhưng đối với Nghĩa, nó là loại động vật gớm ghiếc, đáng ghê sợ mà mỗi khi gặp
nó, người anh lại lên cơn sốt như kẻ mắc bệnh thiếu máu não. Tuy là một chi tiết
nhỏ có vẻ không quan trọng, song không thể loại bỏ nó ra khỏi câu chuyện đơn
thuần bởi đó chính là cái cớ để Nghĩa lần hồi tìm về kí ức. Nhìn đám sinh vật li ti
ấy, như một phản xạ có điều kiện, quá khứ chiến tranh đẫm máu quay về khuấy đảo
tâm trí buộc anh phải nhớ đến kỷ niệm đau lòng về người đồng đội mà anh yêu quý
bị từng đàn kiến đen xâu xé những mẩu xương thịt của mình.
Ở tác phẩm Ăn mày dĩ vãng - Chu Lai, yếu tố kì ảo là những hồn ma của
những người đồng đội trở về ám ảnh Hai Hùng trong một lần anh đến thăm nghĩa
trang. Cuộc nói chuyện của những hồn ma ấy khơi lại trong Hùng quá khứ chiến
tranh ác liệt năm nào. Không có sự hiện diện của chi tiết này, người đọc vẫn hình
dung được nội dung cốt truyện. Đó là câu chuyện của một người lính trên cuộc
hành trình đi tìm sự thật về thân thế người phụ nữ có gương mặt giống hệt Ba
Sương – người yêu của anh đã chết trong chiến tranh. Tuy nhiên, đấy không phải là
một chi tiết dư thừa, bởi sự có mặt của nó khiến người đọc cảm nhận được sự ám
ảnh khôn nguôi của nhân vật Hai Hùng về quá khứ, những kỉ niệm về chiến tranh
luôn tồn tại trong anh dù đôi khi điều đó khiến anh trở thành một kẻ xa lạ với cuộc
sống hiện tại.
Dạng truyện mà yếu tố kì ảo chỉ đóng vai trò là biểu tượng, song hành cùng
cốt truyện xuất hiện khá nhiều trong các tác phẩm văn xuôi viết về chiến tranh sau
1975. Sự có mặt của yếu tố kì ảo trong truyện không lấn át cái thực mà còn góp
phần soi sáng hiện thực được đề cập đến trong tác phẩm. Đó là hiện thực về cuộc
chiến tranh đã qua với số phận của những con người đã góp phần tạo nên cuộc
chiến thắng vĩ đại đó. Trong các truyện này, yếu tố kì ảo giúp người đọc cảm nhận
được thế giới nội tâm của nhân vật, không chỉ là những người lính mà còn là những
người thân yêu của họ. Chiến tranh không chỉ gieo sự chết chóc đến cho con người
mà còn để lại những nỗi đau tinh thần không gì có thể bù đắp.
+ Yếu tố kì ảo tham dự vào sự diễn biến của một cốt truyện trong tác phẩm có
hai cốt truyện đan xen
Kết cấu truyện lồng truyện là một trong những đặc điểm nổi bật của truyện
ngắn giai đoạn sau đổi mới. Nó cũng xuất hiện trong một số tác phẩm viết về chiến
tranh sau 1975. Trong những truyện ngắn có kết cấu này, yếu tố kì ảo nằm trong
câu chuyện thứ hai được kể lại bởi một nhân vật nào đó trong truyện.
Họ đã trở thành đàn ông- Phạm Ngọc Tiến có hai câu chuyện đan lồng
nhau. Chuyện của cô sinh viên khoa văn bảo vệ tham luận cuối khóa của mình và
chuyện về một người phụ nữ trong chiến tranh. Yếu tố kì ảo nằm trong cốt truyện
thứ hai, trong câu chuyện về người phụ nữ đã đem đến niềm hạnh phúc cho rất
nhiều những chàng trai. Người phụ nữ ấy tham gia chiến tranh khi vừa bước qua
tuổi đôi mươi. Cõ lẽ cuộc đời của chị sẽ giống như cuộc đời của bao người con gái
khác: chiến đấu quên mình trên mặt trận và một ngày nào đó có thể chị sẽ hi sinh
một cách anh dũng trên mảnh đất quê hương. Nhưng cuộc đời chị đổi khác khi chị
vô tình nghe được những lời tâm sự của hai người lính trẻ. Câu chuyện của những
chàng trai xông pha trên mặt trận khi mà chưa một lần trong cuộc đời họ được
hưởng cái hạnh phúc mà ông trời ban cho loài người – được trở thành ông. Người
phụ nữ có trái tim nhạy cảm ấy bàng hoàng khi nghe xong câu chuyện. Đêm đó,
như một người mộng du, chị thấy mình trôi về quá khứ, trôi qua bao nhiêu làng
mạc, trôi về bên anh - người yêu của chị - vào đêm cuối cùng trước lúc hai người
chia tay. Có lẽ đó sẽ là đêm đáng nhớ nhất trong đời anh, nhưng chị đã từ chối bởi
chị không muốn làm việc ấy trong lúc đất nước đang chiến tranh. Khi tỉnh lại, chị
luôn có cảm giác anh đang ở cạnh mình, chập chờn, ẩn hiện với những câu hỏi buốt
nhói “bao giờ thì hòa bình hả em?”. Chị nghĩ đến anh - có lẽ anh cũng giống như
những chàng trai kia, đến lúc nhắm mắt cái mong ước rất người ấy đã không thể
nào trở thành hiện thực. Phải chăng ở một nơi xa xôi nào đó anh đã ra đi trong sự
nuối tiếc khôn nguôi. Chị quyết định làm một việc rất thiêng liêng - đem đến niềm
hạnh phúc nhỏ bé cho những chàng trai để sau này, dù có hi sinh, họ cũng không
mang theo xuống lòng đất lạnh niềm tiếc nuối như anh. Sau khi chị chết, những câu
chuyện huyền thoại về chị lan truyền khắp mặt trận. Ở mặt trận phía Nam, người ta
kể rằng, khi bom tọa độ bất ngờ chụp xuống suối, xác chị văng thành ngàn vạn
mảnh. Sau đó, khu rừng ấy trở nên xanh tốt kì lạ, hoa cỏ, cây lá chim chóc chen
nhau ríu rít. Đạn bom, chất độc cũng không thể nào hủy diệt được khu rừng ấy.
Qua yếu tố kì ảo, tác giả thể hiện lòng trân trọng, cảm phục trước sự hi sinh thầm
lặng, cao đẹp của người phụ nữ mà không phải ai cũng có thể làm được.
Tiếng chuông chiều - Lê Hoài Lương, cũng có hai câu chuyện đan lồng vào
nhau. Chuyện của nhân vật “tôi” đến tìm vị sư già đàm đạo về việc vừa tìm được
hài cốt liệt sĩ nhờ vào năng lực ngoại cảm và câu chuyện của vị sư về một người
lính ngụy. Yếu tố kì ảo nằm trong câu chuyện kể của vị sư già: một người lính ngụy
đã tình cờ gặp và chôn hài cốt của người chiến sĩ Việt cộng. Sau chuyện đó, hàng
loạt những điều kì lạ xảy ra với gã. Nhiều lần cái chết chừa gã ta ra một cách khó
hiểu. Trong trận giao tranh quyết liệt, gã bị một quả bom hất tung xuống núi, khi
tỉnh lại, gã sởn gai ốc khi nhìn thấy một quầng sáng xanh ẩn hiện một dáng hình
quen thuộc, gã nhận ra quầng sáng ấy chính là người lính đã cứu gã lần nguy hiểm
trước. Biết rằng người chiến hữu linh thiêng bên kia sẽ cứu thoát mình, gã đứng
dậy và lập cập đi theo vị thần hộ mạng ấy. Đến khi nghe được tiếng lập cập của bọn
lính, quầng sáng ấy biến mất. Sau ngày hòa bình, gã không trở về mà quyết định
xuất gia đi tu. Yếu tố kì ảo trong truyện giúp người ta nghiệm ra rằng những việc kì
lạ trong luôn xảy ra đâu đó trong cuộc sống. Đôi khi, có thể những việc ta làm đều
được phán xét bởi một lực lượng siêu nhiên, vô hình nào đó. Và sự phán xét ấy rất
công bằng với tất cả mọi người.
Kết cấu truyện lồng truyện cũng xuất hiện trong tác phẩm Tiếng chuông trôi
trên sông – Vũ Hồng. Một nhà báo nhận được xấp bản thảo truyện ngắn từ tay một
người đàn ông, tuy nhiên do bận có hẹn với bạn nên anh ta quên bẵng câu chuyện.
Đến khi đọc được trên báo bản cáo phó và ảnh của người đàn ông ấy, anh mới chợt
nhớ đến xấp bản thảo kia. Đó là câu chuyện về cuộc đời của một người lính. Yếu tố
kì ảo xuất hiện trong câu chuyện kể ấy. Trong những năm tháng chiến tranh ác liệt,
người đàn ông đã phải từ biệt người vợ mới cưới đi chiến đấu. Vào lúc thập tử nhất
sinh, đối mặt với cái chết bởi cơn sốt rét rừng ác tính, hình ảnh người vợ hiện ra
chập chờn trong giấc mơ đã kéo ông về với cuộc sống. Nếu không có giấc mơ ấy,
có lẽ ông đã nằm lại ở một góc nào đó nơi cánh rừng Trường Sơn lạnh lẽo. Sự hiện
diện của yếu tố kì ảo để thấy rằng, trong những lúc yếu đuối nhất, con người cần
phải vững vàng vượt lên để tiếp tục sinh tồn. Và điểm tựa kì diệu nhất để giúp họ
có thể dựa vào chính là tình yêu với người thân.
Với các truyện có hai cốt truyện đan xen, cốt truyện thứ nhất thường là
những câu chuyện đang diễn ra trong cuộc sống thời bình. Cốt truyện thứ hai kể về
một sự kiện xảy ra trong chiến tranh và tác giả là người được nghe lại câu chuyện
ấy. Yếu tố kì ảo trong truyện nhằm thể hiện quan niệm, thái độ, sự đánh giá của tác
giả về một nhân vật, sự kiện đã xảy ra trong chiến tranh.
+ Yếu tố kì ảo tham dự vào sự diễn biến của cốt truyện
Trong các truyện ở dạng này, yếu tố kì ảo được lồng ghép hữu cơ với cốt
truyện. Ta không thể cắt bỏ những trường đoạn có yếu tố kì ảo, nếu không sẽ làm
tổn hại đến nội dung cốt truyện, khiến câu chuyện trở nên kém sức hấp dẫn hoặc
không thể hiện được chủ đề của tác phẩm. Ví dụ những truyện như Bướm trắng -
Thái Bá Tân, Bến trần gian - Lưu Sơn Minh, Đốm lửa - Nguyễn Thị Minh Thúy,
Tàn đen đốm đỏ - Phạm Ngọc Tiến, Nỗi buồn chiến tranh - Bảo Ninh, Cặp bồ với
ma - Ngô Văn Phú, Trái tim con rắn - Nguyễn Đông Thức,.. sự tham dự của yếu tố
kì ảo tạo sức mạnh lôi cuốn sự chú ý, buộc mọi sự lý giải phải quy tụ về nó. Cái kì
ảo trở thành một phương thức khám phá hiện thực, tạo sự mới lạ, hấp dẫn cho tác
phẩm.
Trong các truyện Bến trần gian, Cặp bồ với ma, Nỗi buồn chiến tranh, Trái
tim con rắn yếu tố kì ảo giữ vai trò gợi chuyện (thắt nút), vừa tham gia vào toàn bộ
quá trình diễn biến của truyện.
Trong Nỗi buồn chiến tranh, nếu không có sự tham dự của yếu tố kì ảo, tác
phẩm chỉ là dòng tự truyện của nhân vật. Những cơn mộng du; những giấc mơ triền
miên về quá khứ, về Truông Gọi Hồn với vô số điều kì lạ, hão huyền: nơi mọc đầy
những bông hồng ma có thể giúp con người tự chế ra những ảo giác, những loại
măng đỏ “như những tảng thịt ròng ròng máu”, những linh hồn lở loét, những hồn
ma lang thang, những âm thanh kì bí vang vọng trong rừng,… tất cả tạo nên một
không khí ma quái, u ám, đáng sợ trong tác phẩm. Những điều kì bí trong truyện
vừa thể hiện nỗi trăn trở, dằn xé, ám ảnh bởi quá khứ, vừa góp phần thể hiện sự
khốc liệt của chiến tranh.
Trong Bến trần gian, nếu không nhờ có chiếc lá mà ông lão cho, hồn Lăng
sẽ mãi lang thang trong rừng. Anh sẽ không thể nào về được quê nhà và gặp lại
người thân của mình. Trái tim con rắn - yếu tố kì ảo đóng vai trò thắt nút, cái chết
của Thuật bắt nguồn từ việc ông nuốt một trái tim rắn. Sau sự viêc đó, suốt đêm,
Thuật bị trái tim ấy giày vò đau đớn trong lồng ngực, đau đớn đến độ tự tay ông
bóp vỡ nó. Huệ - cô gái đã chết trong Cặp bồ với ma, hằng đêm vẫn trở về gặp gỡ
và chung sống với chàng trai gác nghĩa trang. Sống với anh, cô mới thật sự thấy
mình tìm được hạnh phúc.
Ở tác phẩm Tàn đen đốm đỏ, yếu tố kì ảo tham dự vào diễn biến của câu
chuyện. Sau khi chết, linh hồn của Phương không thể trở về mà bị kẹt lại trong
hang núi. Tại đây, anh đã gặp gỡ và kết thân với hồn ma của những người chiến sĩ
khác tạo thành một thế giới riêng tách biệt với thế giới con người. Cuối truyện, nhờ
được những người đồng đội tìm được hài cốt mang về, Phương đã được đoàn tựu
với người thân và anh linh hồn anh đã được thanh thản ra đi.
Trong truyện Bướm trắng, yếu tố kì ảo tham gia vào toàn bộ cốt truyện và
đóng vai trò giải quyết vấn đề (tháo nút). Xuân Sinh gặp lại Bạch Điệp, khi đó nàng
đã trở thành một hồn ma rách nát. Vì quá yêu nàng, chàng đã lấy máu tim mình, vá
lại những vết thương trên cơ thể của nàng. Kết truyện, nhờ tình yêu và sự kiên trì
của Xuân Sinh, những vết thương trên cơ thể của Bạch Điệp đã lành lại. Hai người
dắt nhau về quê chàng và sống với nhau như những cặp vợ chồng bình thường
khác. Song có điều, Bạch Điệp không sinh con mà chỉ sinh toàn bướm và bướm.
Tóm lại, đến với những truyện này, người đọc như lạc bước vào trong thế
giới cổ tích, huyền thoại xa xưa mà những điều kì diệu, nhiệm màu đều có thể xảy
ra. Người sống có thể gặp lại người thân đã mất, nhân vật khó khăn được sự giúp
đỡ của thế giới siêu nhiên, nhân vật vượt qua thử thách và kết thúc có hậu – những
chuỗi diễn tiến của truyện cổ tích thần kì đều có mặt trong các truyện kể trên. Song,
mượn cái vỏ ngoài của sự tưởng tượng bay bổng đó, tác giả muốn phô bày hiện
thực của đời sống người lính sau chiến tranh; những nỗi niềm trăn trở, những
nguyện ước khó có thể trở thành thực hiện được của họ.
2.2. Yếu tố kì ảo và thế giới hình tượng
2.2.1. Yếu tố kì ảo và nhân vật
Nhân vật là “con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học… một
đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người thật trong
đời sống… thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn về con
người… luôn gắn chặt với một chủ đề tác phẩm” [30,41]. Một tác phẩm văn học
không thể thiếu nhân vật. Nhân vật là phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện
thực, thể hiện nhận thức của mình về một cá nhân, một loại người, một vấn đề nào
đó trong hiện thực. Các tác phẩm viết về chiến tranh sau 1975 có sự thay đổi mạnh
mẽ trong quan niệm nghệ thuật về con người. Xu hướng chung khám phá hình
tượng người lính dưới góc độ cá nhân, đời tư. Yếu tố kì ảo là một thủ pháp nghệ
thuật hữu hiệu giúp nhà văn thể hiện rõ nét sự thay đổi đó. Trong văn xuôi viết về
chiến tranh sau 1975, không khó để bắt gặp những nhân vật kì lạ, ma quái, những
nhân vật mang màu sắc huyền thoại mà trước đây, ta chỉ có thể bắt gặp trong các
truyện kể dân gian.
2.2.1.1. Nhân vật là những hồn ma
Ma là hồn người chết hiện về. Có ma hay không? Đó là câu hỏi đến nay vẫn
chưa có lời giải đáp chính xác. Riêng trong tâm thức người Việt, người ta tin rằng
người chết chỉ mất đi phần xác còn phần hồn vẫn tồn tại nhưng sang một thế giới
khác, thế giới đó tồn tại song song với thế giới cõi dương mà con người đang sống.
Người ta gọi đó là cõi âm. Có quan niệm dân gian ắt sẽ có quan niệm đó trong văn
học.
Những câu chuyện về hồn ma bóng quỷ đã xuất hiện từ rất lâu đời trong các
tác phẩm văn học. Đặc biệt người ta thường viết nhiều về truyện ma. Trong văn học
trung đại, ma thường xuất hiện vào những đêm tối hoang vu, những nơi âm u thiếu
sinh khí để thực hiện ý muốn của mình. Những hồn ma bơ vơ vất vưởng ấy thường
hóa thân thành những cô gái xinh đẹp quay về dương gian hoặc để quyến rũ những
thư sinh đa tình, háo sắc, hoặc để tận hưởng tình yêu, báo ân, báo oán, hoặc để
quấy nhiễu dương gian. Thế giới ma quỷ cũng xuất hiện khá đậm đặc trong văn học
thế kỉ XX, với các tác giả tiểu biểu như Nguyễn Tuân (Xác ngọc lam, Khoa thi cuối
cùng,…), Ngô Tất Tố (Suối hoa đào), Vũ Bằng (Đám cưới hai u hồn ở chùa Dâu,
Bóng ma nhà Mệ Hoát,…), Thế Lữ (Trại Bồ Tùng Linh), Nhất Linh (Bóng người
trong sương mù),…
Tiếp nối những nhà văn đi trước, thế hệ các văn nghệ sĩ trẻ sau này vẫn tiếp
tục gây hứng thú cho người đọc khi tiếp tục đào sâu nguồn cảm hứng với loại hình
nhân vật ma quái này. Trong các tác phẩm văn xuôi viết về chiến tranh, các nhà văn
đã sử dụng bút pháp kì ảo để sáng tạo một thế giới hồn ma đầy biến ảo và kì lạ. Đó
có thể là linh hồn của người đã mất nhưng còn trăn trở bởi người thân nên quay về
gặp mặt, đôi khi các hồn ma trở về chỉ để được một lần nếm trải cảm giác yêu
thương, có khi sự quay trở về của họ là do tâm nguyện chưa hoàn thành hoặc để
giúp đỡ người còn sống, để trả ơn,...
Những hồn ma trong Bướm trắng (Thái Bá Tân), Bến trần gian (Lưu Sơn
Minh), Đàn sẻ ri bay ngang rừng (Võ Thị Xuân Hà), Cặp bồ với ma (Ngô Văn
Phú), tuy mất đã lâu nhưng vẫn còn lẩn khuất đâu đó bên cạnh người còn sống.
Trong Bướm trắng, tuy nằm dưới mồ sâu, nhưng Bạch Điệp vẫn ôm ấp “một khối
tình chưa tan” với Xuân Sinh. Linh hồn của cô cố gắng hóa thân, dẫu chỉ là một
con bướm trắng với đôi cánh rách nát, để gặp lại Sinh và nên vợ nên chồng cùng
anh. Sự khốc liệt của chiến tranh có thể đoạt đi sự sống của con người chứ không
thể lấy đi khát vọng tình yêu, khát vọng hạnh phúc trong trái tim của họ.
Người lính trong Bến trần gian sau khi nhận được chiếc lá đã bắt đầu một
cuộc hành trình trở về thăm quê hương, thăm mẹ già, thăm lại người yêu. Nhưng
không may mắn như Bạch Điệp trong Bướm trắng (nàng được sống lại bởi tình yêu
của Xuân Sinh), đã qua bao nhiêu năm, người thân của anh đã chấp nhận cái sự thật
là anh đã mất, sự trở về của anh lúc này đây có lẽ chỉ là một nhát dao cứa sâu thêm
vào nỗi đau của người ở lại bởi hiện tại anh chỉ là một hồn ma. Sự có mặt của anh
trong lúc này không phải là một sự đoàn tụ, vui vẻ. Có chăng chỉ đem lại niềm đau
khổ cho những người còn sống, đem lại sự sợ hãi cho những người xung quanh.
Nên cuối cùng anh đành phải ra đi trong âm thầm, lặng lẽ để không làm xáo trộn
cuộc sống của những người đang sống.
Trong Cặp bồ với ma, Đàn sẻ ri bay ngang rừng là hai linh hồn đáng
thương. Họ chết đi khi mà vẫn chưa một lần cảm nhận được dư vị ngọt ngào của
tình yêu, thế nên đâu đó trong cõi âm, họ vẫn thường hiện về để được tận hưởng
niềm hạnh phúc thật sự của một con người. Cô gái trong Cặp bồ với ma lúc sống là
một nữ văn công duyên dáng, cô có người yêu nhưng anh đã hi sinh trong chiến
tranh, cuộc đời sau này của cô cũng không hạnh phúc bởi chỉ gặp toàn những mối
tình “chóng tàn”, có lẽ vì thế mà cô thường hiện về vào những đêm tối để được
thỏa lòng trong tình yêu với chàng trai lạ mặt nơi trần thế. Còn Diễm trong Đàn sẻ
ri bay ngang rừng thì luôn cảm nhận có sự hiện diện của Nẫm trong nhà (Nẫm là
người anh chồng đã mất từ lâu trong chiến tranh). Nẫm thường xuất hiện thoảng
qua nhưng cô luôn cảm nhận giữa anh và cô có một tình cảm đặc biệt hơn hẳn tình
cảm mà Thản (em trai Nẫm) dành cho cô. Dường như giữa cô và Nẫm có một tình
cảm nào đó rất đậm sâu mà không thể diễn tả bằng lời. Đó là tình yêu, và Nẫm bởi
còn vương vấn một người ở lại nên hồn còn lẩn khuất mà chỉ có tình yêu chân
thành mới cảm nhận được “Con người khi chết thịt da trả cốt nhục, chỉ có tâm linh
thuộc về tiền duyên”.
Ở các truyện như Vòm đa xanh- Trần Văn Thước, Hồn trinh nữ- Võ Thị
Hảo, Trừng phạt- Đỗ Nhật Minh, Đốm lửa- Nguyễn Thị Minh Thúy, Tiếng chuông
chiều- Lê Hoài Lương, các hồn ma xuất hiện bởi nhiều lý do. Những hồn ma của
Vòm đa xanh hiện về để nhắc người cha thực hiện đúng với lời hứa năm xưa của
mình “Bác quên thật sao. Ngày bọn cháu nhập ngũ bác phụ trách tổ trồng cây. Bác
“chịu án phê bình” mài dao cho bọn cháu leo lên cây đa đầu làng khắc dấu kỷ
niệm. Bác hứa trông nom cây đa cất giữ kỷ niệm của bao nhiêu lớp người làng.
Bác quên rồi ư?”. Ma trong Hồn trinh nữ, Trừng phạt đến để đòi người còn sống
trả giá về những tội ác mà họ đã gây ra. Chàng trai trong Hồn trinh nữ ngỡ đã có
được hạnh phúc trong tầm tay, nhưng hạnh phúc đó đã chóng tan biến bởi bóng ma
của “người đàn bà trong veo tóc xõa”. Người đàn bà ấy đến để đòi lại sự công bằng
cho người chồng đã mất dưới kiếm của anh ta. Còn những hồn ma trong Trừng
phạt luôn hiện về ám ảnh ông Tuyển bởi ông đã gây ra nhiều lỗi lầm mà suốt đời
không thể xóa được. Có lúc hồn ma cũng trở về để trả ơn hoặc để giúp đỡ người
còn sống vượt qua những lúc khốn đốn, nguy hiểm (Đốm lửa, Tiếng chuông chiều).
Trong Đốm lửa, hồn thiêng của người bộ đội hiện về để giúp đỡ hai cô du kích
thoát khỏi sự phục kích của bọn giặc. Còn anh lính Việt cộng trong Tiếng chuông
chiều đã nhiều lần cứu người lính ngụy thoát chết trong gang tấc để trả ơn bởi
người lính ngụy ấy khi phát hiện bộ hài cốt của anh đã mang đi chôn cất với tấm
lòng thành kính.
Trong tiểu thuyết viết về chiến tranh, các tác giả cũng thường viết nhiều về
ma. Các hồn ma bóng quỷ trong tiểu thuyết thường miêu tả cụ thể. Đó là hồn ma
của những người lính chết trận đêm đêm trở về thì thầm trò chuyện với người còn
sống để khóc than, để tâm sự “Chẳng đêm nào mà họ không lay mình dậy để
chuyện gẫu. Phát khiếp lên được. Đủ loại. Lính cũ, lính mới. Lính sư 10, sư 2, quân
tỉnh đội, quân cơ động 320, đoàn 559. Thỉnh thoảng có các “mộng” tóc dài”
[40,44]. Hay như sự trở về của Can. Đêm đêm, Kiên nghe thấy: “Can trở về thì
thào ngay bên võng, lặp lại cuộc trò chuyện nhạt nhẽo bên bờ suối chiều hôm nào.
Tiếng thì thào chuyển dần thành tiếng nức nở, thành tiếng nấc nghẹn y như là tiếng
nước sặc lên trong cổ họng kẻ sắp sửa chết chìm” [40,26]. Có khi hồn ma không
còn hình hài cụ thể mà đó chỉ là những âm thanh hòa lẫn trong rừng núi hoang vu,
nương mình theo làn gió “hóa thành những âm thanh chứ không phải là hình bóng”
“khi bóng tối vùi kín rừng cây trong hẻm núi thì từ đáy rừng phủ lá mục tiếng hát
thì thào dâng lên, có cả tiếng đàn ghi-ta hòa theo nữa… Cuối cùng, sau mấy đêm
lắng nghe, người ta đã định vị được chỗ đất có hồn người. Trong tấm tăng bó xác
xương cốt đã hóa mùn cả, riêng cây đàn ghi-ta tự tạo của người chết vẫn còn
nguyên vẹn” [40, 99]. Đôi khi bóng ma hiện về “rách bươm, uyển chuyển và huyền
bí, lướt ngang luồng ánh sáng rồi mất hút đi với mái tóc đen dài xõa bay” [40,
104]. Trong chiến tranh có những người chết mà không có được một nấm mồ, chết
mà không còn nguyên vẹn thân xác nên hồn cứ mãi lang thang như lời kể của Can:
“hồn bơi ra khỏi xác biến thành con ma cà rồng đi hút máu người” [40, 26], và vào
những đêm giá rét, những cô hồn không nơi nương tựa quay về thì thầm trò chuyện
với Kiên, “lên tiếng rên rỉ và thở dài” [40,76] cho thân phận của chính mình.
Ma còn hiện về để người còn sống tự vấn lại lương tâm của mình (Ăn mày dĩ
vãng- Chu Lai). Khi Hai Hùng lặng lẽ đến thăm nghĩa trang, nơi an nghỉ của biết
bao con người ngã xuống trong chiến tranh. Dường như hàng loạt những âm hồn
của người chết rùng rùng sống dậy sau những năm dài nằm dưới nấm mồ lạnh lẽo
“Mắt tôi nhòa đi. Những hàng chữ khắc trên bia nhảy nhót, phồng lên, nở ra, dài
ngoẵng thành những thân người, mặt người lạ lẫm và thân thuộc. Tất cả đều còn
trẻ, rất trẻ, đều mang bộ đồ quân phục sắc xanh lá rừng, thịt da trắng như sáp,
súng đạn đầy người, chìm lút trong người, tất cả đều tráng kiện, vạm vỡ, miệng
cười tươi tỉnh, duy có đôi mắt chỉ là hai lỗ trũng sâu vô định…” [41,170]. Đó là ai,
là những người thân quen, là đồng đội trước đây của anh. Tất cả đều đã chết. Chết
bởi muôn ngàn lý do, nhưng đều chung một nguyên nhân, chết bởi chiến tranh.
Đôi khi tác giả còn xây dựng một thế giới cõi âm riêng biệt mà đó là nơi các
hồn ma trú ngụ (Tàn đen đốm đỏ- Phạm Ngọc Tiến). Trong tác phẩm này, các hồn
ma cũng giống như con người với những cảm xúc, những tình cảm cụ thể của
người bộ đội. Đó là hồn ma của Phương, người chiến sĩ đã hi sinh trong chiến
tranh, của cô gái – người nữ giao liên đã bị giặc giết hại dã man trong rừng sâu, của
“ông già chín năm”, cũng một người chiến sĩ đã hi sinh trong lúc làm nhiệm vụ.
Đặc biệt truyện còn có sự xuất hiện hồn ma của tên ngụy. Trong thế giới ấy không
có sự thù hận mà chỉ có sự tha thứ. Họ đã xóa bỏ cái ranh giới thù hận mà con
người khi sống đã tự tạo ra. Tác giả đã xây dựng cho họ một thế giới cõi âm riêng
biệt mà ở đó họ có những ngày sống chung với nhau, hiểu biết về nhau rõ hơn. Và
cũng như người đang sống, điều mà họ mong đợi nhất chính là ngày hòa bình,
chiến thắng, được về lại với gia đình, với người thân.
Yếu tố kì ảo trong những truyện viết về chiến tranh sau 1975 đã đưa người
đọc bước vào thế giới liêu trai, huyễn hoặc với sự xuất hiện của những hồn ma,
bóng quế. Song nếu như trong các truyện liêu trai trước đây, ma thường xuất hiện
với những phép màu kì ảo, họ có thể dùng phép màu đó để biến hóa theo mục đích
của mình. Trong nhiều truyện sự quấy nhiễu của các linh hồn khi trở về dương gian
thường mang đến cho người đọc cảm giác khiếp sợ; thì thế giới hồn ma trong các
truyện viết về chiến tranh sau 1975 lại mang đến cho người đọc niềm xót xa,
thương cảm. Đa số những hồn ma ấy đều là những linh hồn bơ vơ của người chiến
sĩ anh dũng một thời. Sự khốc liệt của chiến tranh đã tước đi sinh mạng của họ khi
tuổi đời còn quá trẻ. Với bao mong ước, bao nguyện vọng ấp ủ chưa thành đã khiến
linh hồn những người lính đáng thương ấy vẫn thường xuyên quay về, hiện hữu bên
cạnh những người còn sống.
2.2.1.2. Loại nhân vật dị thường, kì lạ
Trong các tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau này, để đáp ứng
nhu cầu thị hiếu thẩm mỹ của người đọc, đặc biệt để tạo hiệu ứng cho tác phẩm, các
tác giả thường xây dựng nhiều dạng nhân vật đặc biệt, tạm gọi là nhân vật dị
thường, kì lạ. Khảo sát các truyện có thể thấy dạng nhân vật dị thường, kì lạ được
thể hiện chủ yếu qua ngoại hình (người mọc đầy lông lá, người to lớn dị thường),
hoặc người có những hành vi, khả năng kì lạ.
Người biến thành vượn, người mọc đầy lông lá xuất hiện trong các truyện
như Nỗi buồn chiến tranh- Bảo Ninh, Người sót lại của rừng cười- Võ Thị Hảo,
Truyền thuyết về quán tiên – Xuân Thiều. “Người vượn” trong Nỗi buồn chiến
tranh “hình thù lồm xồm, lông lá”, thoắt ẩn, thoắt hiện, nhanh nhẹn, uyển chuyển
mà người ta chỉ có thể nghe được những tiếng cười “kinh dị” của nó chứ không thể
nào giáp tận mặt. Người vượn trong tác phẩm này có thể gắn với những truyền
thuyết bí hiểm về những “mạch suối ma” trong rừng, nó cũng có thể gắn với câu
chuyện bi thương và kinh hoàng về cái chết trong chiến tranh “sự đau đớn như thế
có thể từ thân xác ăn vào đất mọc lên thành cây rừng, gây lên những vang âm và
những ảo hình không tan được về tấm thảm kịch” [40, 107].
Trong Người sót lại của rừng cười nhân vật người biến thành vượn khiến
người đọc xót xa bởi nỗi mất mát mà chiến tranh gây ra cho con người. Đó là
những “con vượn trắng” mà khi nhìn kỹ hóa ra lại là những “người con gái hoàn
toàn trần truồng, tóc xõa, vẻ mặt bơ phờ và đang ngửa cổ ra sau cười khanh
khách”. Họ bị nỗi cô đơn, tuyệt vọng giày vò “biến” thành những con vượn với
những tiếng cười man dại, đau đớn.
Trong Truyền thuyết về quán tiên, đó là hình ảnh một con khỉ đen to lớn “ức
có chùm lông trắng” rất láu lỉnh và luôn xuất hiện mỗi khi Mùi ra suối một mình.
Nó thường “giương đôi mắt hau háu” nhìn cô tắm và biết cách thể hiện những động
tác của con người để chòng ghẹo cô. Sự xuất hiện của con khỉ này đã làm thay đổi
rất nhiều số phận của các cô thanh niên xung phong đang làm nhiệm vụ ở quán
Tiên (cái quán nước ở núi rừng phục vụ cho anh em bộ đội).
Dạng nhân vật kì lạ, dị thường cũng xuất hiện trong những truyện như Tổ
tông truyền- Hòa Vang, Mắt ma – Y Ban, Bàn chân ma – Nguyễn Thế Tường, Họ
đã trở thành đàn ông- Phạm Ngọc Tiến, Tiếng vạc sành- Phạm Trung Khâu. Trong
Trái tim con rắn, khi giải phẩu tử thi cho Thuật, mọi người không khỏi sởn gai óc
“khi thấy ở giữa lồng ngực trái của Thuật là một trái tim nhỏ xíu, chỉ bằng đầu
ngón tay, đã bị vỡ đôi.”. Trong Mắt ma, nhân vật chính là một người lính tên Huấn,
anh được Đồng - một người bạn đã hi sinh trong chiến tranh “cho mượn đôi mắt”.
Từ đó, anh trở thành một người dương có đôi mắt âm, có thể nhìn “thấu mọi vật ở
đời”. Người đàn ông trong Bàn chân ma đã bị chiến tranh lấy mất một bàn chân,
nhưng lúc nào anh cũng có cảm giác đôi chân mình vẫn con nguyên vẹn. Vì vậy,
một lần đang ngồi ăn cơm, anh “bỗng quài tay đập mạnh vào một con ruồi đậu gần
đoạn chân cụt” bởi anh cảm nhận rằng “con ruồi ấy đã đậu vào bàn chân phải của
anh, làm nó nhồn nhột khó chịu”. Trong Tiếng vạc sành, sự xuất hiện người đàn
ông với khuôn mặt dị dạng “xương hàm dưới bị cắt một nửa. Răng trên gãy gần
hết. Cái lưỡi rụt vào trong làm lộ rõ cái miệng như một cái hang sâu hoắm, đỏ lòm
trông rõ cả cuống họng. Khi nói chuyện, lời nói chỉ phát ra những tiếng “tọc, tọc”
liên hồi cùng với đờm dãi rớt ra” khiến người đọc không khỏi bàng hoàng, khiếp
sợ. Và sau khi anh ta chết, người ta đồn rằng “hồn anh hóa thành con vạc sành,
khoác đôi cánh màu xanh của người lính. Hằng đêm, với gương mặt xấu xí anh ẩn
mình trong các lùm cây” phát ra tiếng kêu “crọc crọc” ròng rã từ chạng vạng tới
sáng”. Ở tác phẩm Tổ tông truyền là hình ảnh người đàn ông “cao – lớn dị thường”,
trãi qua những việc bình thường như lấy chặt củi, đốt than, lấy vợ, … đến những
việc cao cả như đánh giặc, ông không sao, nhưng vào “một ngày, giữa trời quang,
trong một cuộc tuần du thanh bình, ông bị sét đánh chết”. Cả người ông “bùng lên
như một bó đuốc” rồi “héo quắt, vón lại”, duy chỉ có đôi mắt là vẫn mở to “chẳng
ai vuốt cho nhắm được”, chỉ người vợ là hiểu ý ông và chỉ bà mới có thể khiến ông
nhắm mắt, và theo ý chồng, bà đã “rạch đôi mắt mình, chắt được bốn chén huyết”
bắt bốn đứa con phải uống hết và dặn dò các đời sau rằng “không được to lớn khác
thường. Phải nhỏ bé đi… để sống”. Theo lời di huấn của bà, các thế hệ sau đều có
hình dáng nhỏ bé, và thế hệ chắt của bà gần đây mang một hình thể rất lý tưởng
một anh chàng “cao 1m53, vòng ngực 53cm, cân nặng 19kg. Vai xuôi đuột như vai
lọ, lưng mỏng như lưng con gián”, hay một đứa bé to “bằng cái hạt hồng xiêm” vừa
ra đời là kết quả tuyệt vời của lời nguyền năm xưa. Người phụ nữ trong Họ đã trở
thành đàn ông là một cô gái rất bình thường, điều làm cô trở nên cao lớn, vĩ đại
chính là trái tim tràn đầy thương yêu, cao cả của cô. Cô sẵn sàng hiến dâng đời con
gái của mình cho tất cả những anh bộ đội còn rất trẻ mà phải đi đánh giặc để họ
được một lần trong đời trở thành đàn ông. Để rồi sau đó, dù có hi sinh nơi chiến
trường ác liệt, họ cũng không hối tiếc.
Với sự tham dự của yếu tố kì ảo, những nhân vật trong truyện hiện ra trong
hình hài, dáng dấp dị thường, kì lạ. Sự khác biệt lạ kì của họ không chỉ mang đến
cảm giác tò mò, thu hút sự chú ý của người đọc mà còn thể hiện nhiều sắc thái, ý
nghĩa khác nhau. Thông qua các nhân vật, người đọc không chỉ thấy được nhiều
góc khuất khác nhau của chiến tranh mà còn có thể thấu hiểu hơn về những tâm tư,
tình cảm của con người, đặc biệt là người lính.
2.2.1.3. Loại nhân vật mang màu sắc huyền thoại, cổ tích
Nhân vật mang màu sắc huyền thoại, cổ tích cũng xuất hiện nhiều trong các
tác phẩm viết về chiến tranh sau 1975. Bước vào thế giới của những câu chuyện
này, trước mắt người đọc không chỉ là không khí chiến trường với những anh lính
cụ Hồ kiên cường dũng cảm, những cô thanh niên xung phong anh hùng quả cảm,
mà bước vào đó, người còn có cảm giác như lạc bước vào một thế giới của những
câu chuyện thần tiên với những nhân vật hư ảo có phép thần nhiệm màu giúp con
người chết đi sống lại.
Đó là ông già “râu tóc bạc phơ” giống như ông tiên trong truyện cổ tích đã
cho người lính chiếc lá thần kì giúp linh hồn anh không bị tan ra khi trở về thăm lại
người thân (Bến trần gian- Lưu Sơn Minh). Hay như Bạch Điệp trong Bướm trắng.
Bị trúng hai quả rốc-két trong lúc làm nhiệm vụ, Bạch Điệp chết với thân xác
không còn nguyên vẹn. Nhưng, sau đó cô đã hóa thân thành bướm để tiếp tục hoàn
thành nhiệm vụ của mình - dẫn các đoàn xe qua những đoạn đường nguy hiểm. Con
bướm trắng ấy cũng đã hóa thân thành người trong lần gặp gỡ với Xuân Sinh. Xuân
Sinh đã dùng “những sợi máu đỏ lấy từ tim” mình để vá lại “những mẩu thi thể bị
chiến tranh xé nát” của Bạch Điệp.
Nếu ví Bướm trắng là câu chuyện cổ tích thần kì mà ở đó nhờ phép nhiệm
màu, nhân vật chết đi sống lại, vượt qua thử thách để hoàn thành nguyện ước của
mình, thì Hồn trinh nữ của Võ Thị Hảo lại là một câu chuyện cổ tích thế sự về cuộc
đời của những người chinh phụ hóa đá chờ chồng. Người con gái trong truyện tuy
đã may mắn hơn bà và mẹ mình vì cuối cùng sự chờ đợi của nàng đã được bù đắp,
nhưng Thần hạnh phúc đã không mỉm cười với nàng. Người con trai mà nàng chờ
đợi bao năm đã trở về và một hôn lễ long trọng được cử hành. Tuy nhiên đó không
phải là hạnh phúc mà nàng mong chờ bởi: chiến tranh và giết chóc đã biến người
con trai ngày xưa trở thành người đàn ông không biết cười, với cái nhìn lạnh lẽo
như Thần Chết. Điều đó khiến cô khiếp sợ. Hạnh phúc đã vụt khỏi tầm tay ngay
trong ngày hôn lễ. Chàng trai bỏ đi. Nàng trinh nữ sống âm thầm như cái bóng “hễ
nghe có tiếng chân hay tiếng động mạnh là đưa tay lên ôm mặt”. Khi chết cô hóa
thành một loài hoa lạ mà “mỗi khi có chân bước qua hay va chạm mạnh, những
chiếc lá lăn tăn lại giật mình khép lại, xuôi xuống như bàn tay ai che mặt”. Người
ta gọi đó là “hoa trinh nữ”. Truyện viết tựa như một sự tích mới về loài hoa trinh
nữ.
Dạng nhân vật mang màu sắc huyền thoại cũng được các tác giả sử dụng
làm phong phú diện mạo của các truyện ngắn viết về chiến tranh. Ở các truyện này,
có khi nhân vật được tác giả viết lại dựa trên câu chuyện thần thoại đã lưu truyền
trong dân gian, có khi nhân vật đó do tác giả dựng ra nhưng mang dáng dấp của
những bậc anh hùng trong các huyền thoại cổ. Trong tâm thức dân gian, Thánh
Gióng là một vị thần xuống nhân gian để hoàn thành sứ mệnh đánh đuổi ngoại
xâm. Thánh Gióng là biểu tượng của sự đoàn kết, sức mạnh, và lòng yêu nước của
người Việt Nam. Được viết lại dựa vào truyền thuyết trên, truyện ngắn Gióng của
tác giả Lê Minh Hà đã để lại ấn tượng mạnh mẽ bởi ở đây, Gióng không phải là
một người dũng sĩ hiên ngang mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt hiên
ngang dũng mãnh khiến quân giặc phải khiếp sợ, mà là một đứa trẻ thơ bé bỏng
thiếu tình thương mẹ cha sau khi đất nước đã không còn bóng giặc. Trở về cuộc đời
Gióng không phải là thần thánh, Gióng chỉ là một con người như bao con người
bình thường khác.
Ở Người thắng trận, nàng Đoan Trang với trái tim nhân hậu là biểu tượng
của tình thương. Chỉ có cái giếng nơi nàng trẫm mình mới có thể xóa hết vết máu
trên chiếc khăn, hóa giải những hận thù mà con người tự mình gây ra. Câu chuyện
mang dáng dấp của những truyền thuyết xưa khiến người ta nhớ đến truyện An
Dương Vương, Mị Châu, Trọng Thủy. Ngọc trai từ máu Mị Châu sẽ sáng và đẹp
hơn nếu rửa ở giếng Trọng Thủy.
Người thủ lĩnh nghĩa quân trong Huyền thoại thìa gợi nhớ đến những chàng
dũng sĩ hiên ngang trong những truyện thần thoại. Chỉ là một thủ lĩnh nghĩa quân
bình thường, nhưng với sự kiêu hãnh, hiên ngang của một dũng tướng, “người anh
hùng sa cơ” ấy khi được rửa mặt bằng dòng nước của quê hương đã trở thành một
người có gương mặt đẹp nhất thế gian. Chết đi nhưng chàng đã kịp để lại cho đời
“chiếc thau rửa mặt tỏa ngời ánh kim sắc trắng” - đó là chiếc gương mà ai soi vào
cũng thấy “gương mặt người đẹp nhất” hiện lên. Và những kẻ xấu xa, độc ác khi
soi vào chỉ thấy được những gương mặt quái thú.
Sử dụng loại nhân vật kì ảo, các tác giả không chỉ nhằm mục đích gây sự
hứng thú, tò mò nơi người đọc mà còn để chuyển tải những ý đồ nghệ thuật riêng
của mình. Mỗi nhân vật khác nhau là một khoảng trời riêng bí mật mà chỉ người
trong cuộc mới có thể hiểu hết. Các nhân vật này không gây cho người đọc cảm
giác sợ hãi mà khiến người đọc phải cố gắng khám phá đến tận cùng tác phẩm, phải
nhập vào nhân vật để cảm nhận những ý nghĩa sâu xa hàm ẩn bên trong nội dung
những câu chuyện.
2.2.2. Yếu tố kì ảo và không gian - thời gian nghệ thuật
2.2.2.1. Không gian nghệ thuật
Trong sáng tác văn học, không gian nghệ thuật là “một phương thức chiếm
lĩnh thực tại, một hình thức thể hiện cảm xúc và khái quát tư tưởng thẩm mĩ”.
[57,72] Đó là hình thức tồn tại của hình tượng nghệ thuật, là một phương tiện
chiếm lĩnh đời sống, triển khai hình tượng con người trong tác phẩm. Trong văn
học sau 1975, không gian nghệ thuật trong tác phẩm viết về đề tài chiến tranh được
xây dựng khá đa dạng.
Xuất hiện nhiều trong các tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau
1975 vẫn là không gian chiến trường với tiếng bom rơi, đạn nổ ác liệt, dữ dội. Đó là
những đoạn đường bị sạt lở do máy bay địch bắn phá, ngăn trở những đoàn xe ra
trận; một cung đường cheo leo trên núi mà cánh lái xe gọi là Cổng Trời, chỉ cần
một chút sơ ý là lăn ngay xuống vực (Bướm trắng). Là những cánh rừng đại ngàn
âm u ẩm ướt Nghĩa cùng đồng đội mình hành quân, đào hầm, dựng lán; là chiến địa
nóng bỏng và dữ dội ở đó anh chứng kiến những cái chết anh dũng và thương tâm
của những người lính “Không gian như vỡ toác và rung rung chuyển động. Cùng
lúc các cỡ súng của địch thi nhau khạc đạn. Cả một vùng trời đất bị nung nóng
ngùn ngụt lửa khói” (Chiều vô danh). Đó còn là không gian chiến trận với những
tiếng nổ chát chúa, những quầng lửa rừng rực và khói đen cuồn cuộn càng khép
chặt con người vào vòng vây sinh tử đầy hiểm nguy “chỉ thấy nhoằng một lằn chớp
xanh lét, khóm lồ ô ken sít dầy đặc đã bị phát gọn ghẽ tầng trên… pháo giàn cực
nhanh 175 li từ Phước Long bắn tọa độ. Không nghe thấy tiếng đề pa. Mặt đất run
bần bật. Thoáng chốc cả vạt rừng mịt mù chìm trong khói” [43, 18,]. Trong Cỏ lau-
Nguyễn Minh Châu, người đọc bắt gặp một căn hầm dã chiến trong hồi ức của
Lực- người phó chính ủy trung đoàn năm xưa. Một căn hầm nhỏ đang rung bần bật
bởi những loạt bom nổ bên ngoài. Trong không gian đầy sự căng thẳng đó, người
phó chính ủy trung đoàn vì một phút tự ái cá nhân đã chỉ thị Phi (cậu liên lạc mới
bổ sung đã có những ý kiến khá trúng về trận tập kích thất bại của anh) phải vượt
qua làn pháo tăng dày đặc lên dinh tỉnh trưởng. Vừa lao ra khỏi hầm, người lính ấy
đã gục ngã. Con người và sự sống trở nên bé nhỏ và mỏng tang như một làn khói
trước không gian đối lập to lớn và đầy bất trắc.
Trong các trang viết, người đọc không chỉ bắt gặp khung cảnh chiến trường
vang rền tiếng súng, mà còn có thể tìm thấy những không gian mang vẻ đẹp hiền
hòa, lãng mạn nơi chiến trường. Đó là bờ suối Nậm Bu hiền hòa, thơ mộng lúc
sương vừa tan. Dọc theo đó là những cây đỗ quyên nở hoa đỏ rực. Dòng suối xanh
mát rượi là nơi Mùi thỏa sức đắm mình vào những lúc tiếng súng tạm ngưng
(Truyền thuyết về quán Tiên), Là dòng suối cạnh kho quân lương, nước trong vắt,
thấy cả ánh vàng dưới đáy, nơi người phụ nữ trong Họ đã trở thành đàn ông tìm
đến tắm vào những buổi sáng tinh mơ. Song những không gian này xuất hiện khá ít
trong các tác phẩm. Trong các tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau này,
nhiều tác giả đã tạo nên một không khí chiến trường u ám, ma quái đầy rẫy sự chết
chóc. Ở truyện ngắn Tiếng chuông trôi trên sông, không gian chiến trường hiện lên
là dãy rừng Trường Sơn âm u với những cánh võng được mắc vội, và đó sẽ là nấm
mộ của những người chiến sĩ chẳng may bị cơn sốt rét rừng quật ngã trên chặng
đường hành quân. Đọc Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, không khó để tìm thấy
không gian chiến trường rợn mùi tử khí. Một Truông Gọi Hồn âm u, đầy những oan
hồn tử sĩ. Nơi diễn ra không biết bao nhiêu trận đấu ác liệt để rồi sau đó để lại nơi
đây là những xác người lềnh bềnh trên mặt nước màu nâu thẫm, nổi váng đỏ lòm.
Một Đông Sa Thầy, nơi Kiên chứng kiến cái chết kinh hoàng, dữ dội của người
đồng đội. Và nơi đây, mãi về sau này vẫn còn vang vọng tiếng cười đau đớn, cuồng
loạn, nức nở ma quái của người chiến sĩ khi chết. Trong Người sót lại của rừng
cười, không gian chiến trường ở đây là một kho quân nhu giữa cánh rừng Trường
Sơn đại ngàn, nơi mà những khe nước màu xanh đen thớ lợ đã vặt trụi tóc của
những cô gái, khiến họ trở thành những người vượn lõa thể với cái cười méo mó,
man dại đáng thương. Hoặc đó là một đơn vị đóng quân, nơi những người chiến sĩ
vừa thoáng vui mừng vì ngỡ được đón nhận những giọt sương ban mai “li ti rơi
xuống ướt đẫm cả áo”, đã chợt bàng hoàng bởi nhận ra rằng “mình vừa dầm mình
trong màn phun chất độc hóa học” (Dây neo trần gian).
Thế nhưng, đó chưa phải là không gian chủ yếu được nói đến trong các tác
phẩm này. Điểm đáng ghi nhận của văn học sau 1975 là việc đi sâu vào số phận
con người trong chiến tranh, những ưu tư, trăn trở của con người về một thời lửa
đạn. Vì thế, không gian nghệ thuật được nhắc đến trong tác phẩm còn là không gian
riêng tư của những cá nhân: một không gian của đời sống thực và một không gian
trong tâm tưởng với những giấc mơ, những điều mộng tưởng. Không gian của đời
sống thực thu vào những căn phòng nhỏ bé, chật hẹp giam hãm cuộc đời con người
trong nỗi trống vắng, buồn tủi và cách biệt với cuộc sống xung quanh. Cuộc sống
của Tuân (Những giấc mơ có thực) thu vào trong căn hộ tám mét vuông ở cuối dãy
nhà cấp bốn vắng người qua lại, và chốn tựa nương của Hai người đàn bà xóm Trại
là căn nhà nhỏ duy nhất giữa triền bãi rộng chạy ven đê làng Chùa. Sự giao tiếp của
họ với cuộc sống rộng mở, tươi vui và đầy sinh khí ngoài căn phòng nhỏ hết sức
hạn hữu. Với Tuân, người duy nhất đến với cô là Phương, người đồng đội năm xưa
nhưng Phương cũng không thể hiểu được những đau khổ dằn vặt mà Tuân đang
phải trải qua. Còn Hai người đàn bà xóm Trại, “họ vẫn ở lại ngoài bãi sông, mặc
dù gia đình khác đã dọn vào làng theo quy hoạch của chính quyền xã và để tránh
những năm nước sông lên to. Có một điều gì đó thiêng liêng và đau khổ đã gắn
chặt họ với ngôi nhà nhỏ và bến sông”. Trong căn phòng ngủ nhỏ bé, chị Bưởi
(Vùng sáng của kí ức) sống khép mình với hình ảnh người chồng quá cố. Chị luôn
tin rằng, mỗi đêm anh đều về cạnh chị, chia sẻ cùng chị những buồn vui, đau khổ
trong cuộc đời. Các nhân vật trong truyện đều không tìm được mối dây liên hệ với
cuộc đời, họ chỉ biết gói chặt đời mình trong những căn phòng chật hẹp, nơi đó họ
chìm đắm trong những gì xưa cũ, phiêu diêu trong những kỉ niệm không thể mờ
phai và lắng nghe những mất mát, khổ đau không gì có thể bù lấp được. Có thể nói
tuy không gian nhỏ nhưng các nhà văn đã có thể dùng nó để mở ra một vùng rộng
của nội tâm con người sau chiến tranh.
Cùng với không gian rất thực đó còn là không gian mộng ảo, không gian
trong tâm tưởng có thể soi tỏ cõi tâm linh sâu thẳm của con người. Đó là không
gian của một vạt cỏ xanh ven rừng Trường Sơn, một vùng rừng đẹp đẽ và linh
thiêng, nơi ấp ủ trái tim Quỳ- cô thanh niên xung phong năm xưa và là người đàn
bà mắc bệnh mộng du hôm nay (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành). Trong
những cơn mộng du, trên chuyến tàu tốc hành trong tâm tưởng, Quỳ vẫn thường
xuyên trở lại vùng rừng ấy, “chị nhẹ nhàng lật lên một vuông cỏ. Chị sẽ cầm lấy
trái tim vẫn còn hồng hào của mình lên ngắm nghía rồi để lại như cũ”. Đó còn là
không gian chứa những giấc mơ không bao giờ là hiện thực trong Hai người đàn bà
xóm Trại và Những giấc mơ có thực. Không gian trong giấc mơ của Mùi (Truyền
thuyết về quán Tiên) là vùng quê yên bình của cô, nơi có con sông La, bên bờ sông
là mái nhà ngói xinh xắn, dọc lối ngõ vào là hai bờ chè mạn hảo xén tày ngăn ngắt.
Nơi đó có Hân, người chồng mới cưới của cô với nụ cười rạng rỡ và vòng tay thô
bạo làm Mùi tức thở trong niềm rạo rực để mê. Cô thỏa sức đắm mình trong niềm
vui sướng mãn nguyện. Nhưng tất cả chỉ là một giấc mơ, điều đó không thể trở
thành sự thật khi chiến tranh ác liệt đang diễn ra hằng ngày. Đọc Họ đã trở thành
đàn ông, theo giấc mơ của nhân vật, ta trôi vào một khoảng không gian bao la. Ta
theo người phụ nữ ấy từ nơi chiến trường vang rền tiếng bom trôi đến Điện Biên,
nơi người bố đã hi sinh khi chị chưa một lần được gặp mặt. Rồi theo chị trở về
công viên khu phố, và điểm dừng cuối cùng của chị là một góc nơi sân thượng.
Giữa tiếng coi hú báo động cấp ba, chị và anh vẫn ôm xiết nhau trong vòng tay như
chưa hề có chuyện gì xảy ra. Mặc kệ, anh muốn truyền hết tình yêu rạo rực trong
mình sang chị. Trong Cỏ lau- Nguyễn Minh Châu, một không gian thực ảo đan xen
trong buổi lễ truy điệu Phi. Lực nhìn thấy Huệ (người yêu Phi), vừa nhìn thấy Phi
đang đứng trước mặt mình, Phi lao ra khỏi hầm và ngã xuống dưới làn đạn dày đặc.
Lực đã kể lại một cách thật thà lý do vì sao anh đã giết chết một con người. Trong
giây phút ấy, Lực cảm thấy hai bên má bỏng rát, mắt đổ hoa. Huệ nhảy bổ vào anh
như một con thú đầy giận dữ, vừa tát vừa nguyền rủa: “thế mà tôi cứ nhầm ông là
người tốt! Hóa ra mày là kẻ giết người!”. Những người xung quanh đều thản nhiên
đứng nhìn cảnh tượng ấy xảy ra. Tuy nhiên tất cả những điều kinh khủng ấy chỉ xảy
ra trong tâm tưởng Lực và chỉ mình anh biết. Thực tại, anh vẫn đang đứng giữa
buổi lễ truy điệu trang nghiêm. Anh vẫn là một người trung đoàn trưởng đáng kính
trong mắt mọi người. Khi đang đứng trên triền đê nhìn xuống dòng sông xanh biếc,
đột nhiên ông Tuyển (Trừng phạt) thấy mặt đất vỡ tan thành những hố sâu hoắm.
Giữa dòng nước những cái đầu nhô lên, chậm chạp trôi về phía ông. Ông thấy mình
cố nhắm mắt nhưng không thể nào nhắm được. Và rồi một cô gái áo đỏ đứng lơ
lửng trên tầng không từ từ đi tới, thét vào mặt ông. Ông lao người xuống sông,
nhưng lạ thay, dòng nước hất tung ông trở lại bờ đê. Tuy nhiên, tất cả những điều
ấy chỉ diễn ra trong đầu ông, người cháu đang cạnh bên không hề nhìn thấy. Những
không gian mộng ảo, không gian trong tâm tưởng đó mở ra một con đường để
người đọc lần bước đi vào những khúc quanh tâm trạng còn giấu kín, mà hơn hết
những khúc quanh ấy giúp ta hiểu rõ bản chất của con người.
Cùng với không gian mộng ảo, không gian tâm tưởng; không gian huyền
thoại, ma quái; không gian đan cài giữa cái thực và cái ảo cũng xuất hiện khá nhiều
trong các tác phẩm văn xuôi đề tài chiến tranh sau 1975. Đó là không gian của cõi
trần thế mang không khí “liêu trai” hư ảo để ma xuất hiện và người sống có thể gặp
lại người chết. Một bến sông nơi trần gian nhưng mờ ảo, hư huyễn. Nơi đó hai thế
giới âm dương có thể giao hòa cùng nhau và con đò sẽ là cầu nối đưa người chết trở
về gặp lại người thân của mình (Bến trần gian). Nơi Cổng trời của cánh rừng
Trường Sơn năm xưa (Bướm trắng), ở nấm mộ xi măng còn mới một con Bướm
trắng bay lên hóa thân thành người để gặp gỡ người xưa. Một dòng sông quanh co
trở nên đầy bí hiểm trong đêm tối, nơi hai cô du kích không thể nào tìm được lối ra
dù ngày thường họ rất thông thuộc vùng này. Và khi đang chèo thuyền trên dòng
sông, hai cô đã nhìn thấy những đốm lửa ma trơi lập lòe lúc ẩn, lúc hiện (Đốm lửa).
Một góc rừng thâm u bên bờ sông Sa Thầy, nơi người ta vẫn nghe thấy tiếng cười
cuồng loạn, nức nở, văng vẳng vọng ra dưới đồi 300. Tại đây, chín năm sau chiến
tranh, người ta đã tận mắt chứng kiến “một bóng ma rách bươm, uyển chuyển và
huyền bí lướt ngang luồng ánh sáng rồi mất hút đi với mái tóc đen xõa dài”
[40,109], hay truông Gọi Hồn hoang vu, nơi mọc đầy những bông hồng ma kì lạ,
những tảng măng đỏ ròng ròng như máu, nơi những toán quân đã chết thường tụ
họp lại để điểm danh vào những kì lễ lạt. Những không gian ma quái, đáng sợ
khiến người đọc không khỏi sởn tóc gáy. [40, 8]
Ở một số truyện, không gian đời thường như căn phòng, hang núi, nghĩa
trang cũng được nhắc đến. Trong căn phòng đêm tân hôn, người trinh nữ (Hồn
trinh nữ) nhìn thấy theo sau người chồng mới cưới là một người đàn bà mặc áo đại
tang. Người ấy đến để đòi lại công bằng cho chồng mình. Trong Trái tim con rắn,
người đàn ông suốt đêm không thể yên giấc vì những điều quái lạ xảy ra. Ông nghe
thấy những âm thanh quái dị vọng ra từ bên trong lồng ngực của mình. Trong
không gian tối tăm của căn phòng, Thuật đã nhìn thấy một con rắn đang oặt qua,
oặt lại giữa hai đùi mình. Sáng hôm sau, người ta nhìn thấy Thuật nằm chết cạnh
chiếc giường ngay trong phòng ngủ, ngực của ông hằn lên những vết bầm do chính
móng tay của ông cào cấu. Một hang núi sâu, quanh năm bị vây kín bởi đàn dơi
chính là không gian tồn tại của những linh hồn chiến sĩ sau khi mất (Tàn đen đốm
đỏ). Những linh hồn đó không thể rời khỏi chiếc hang tăm tối này bởi thân xác họ
đang được chôn vùi tại đây. Trong không gian đó, hồn ba người chiến sĩ gắn bó,
thân thiết với nhau. Cùng nhau trãi qua những chuỗi ngày vui buồn của kiếp cô hồn
cho đến lúc hài cốt được đưa về quê hương. Trong Truyền thuyết về quán Tiên,
người binh trạm trưởng phát hiện một chiếc hang cực kì xinh xắn. Chiếc hang đá đó
đã trở thành quán Tiên, và ba cô gái được phân công bán hàng quán cho những
chuyến xe ngày đêm ra tiền tuyến. Những biến cố lớn trong cuộc đời của ba cô gái
đã xảy ra tại chiếc hang này.
Bên cạnh đó, nhiều tác giả đã chọn nghĩa trang làm không gian để người
sống gặp lại những người đã khuất. Trong đêm khuya khoắt, một mình vật vờ đi
giữa nghĩa trang, Hai Hùng gặp lại tất cả những gương mặt đồng đội thân quen đã
nằm xuống vĩnh viễn dưới lòng đất lạnh. Trước mắt Hùng, những bóng ma “xuất
hiện mỗi lúc một nhiều, xếp hàng dọc, rùng rùng lay động, bóng thấp bóng cao, cái
nét, cái mờ” [41,107] mang hơi thở lạnh buốt phả vào người anh. Trong thế giới vô
hình và hữu hình của người chết ấy, Hai Hùng cố gắng lần tìm bóng dáng người
con gái anh yêu năm nào. Trong không gian yên ắng, tĩnh mịch của nghĩa trang vào
những ngày cuối năm, Nhân (Cặp bồ với ma) đã gặp một lượt tất cả những hồn ma
trên đời: Ma đầu trâu mặt ngựa, ma mặt trắng bệch, ma mặt đen, ma gầy, ma trẻ
con, ma mắt đỏ, ma bị cưỡng hôn, ma mặt đau đớn vì bị oan ức,… Và cũng chính
tại nơi an nghỉ của những người đã chết này, Nhân đã gặp gỡ và làm quen với một
cô gái ma. Không gian nơi nghĩa trang là nơi diễn ra mối tình sâu đậm giữa anh và
người con gái đã chết ấy. Ở truyện ngắn Mai- Thanh Quế, người cha đã đến nghĩa
trang hàng dương để tìm hài cốt của con gái mình. Rõ ràng trước mắt ông, không
gian nghĩa trang giống hệt với những gì ông đã gặp trong giấc mơ mà con gái ông
báo mộng hôm trước. Tuy nhiên, tại đây ông không chỉ gặp một mà là rất nhiều
những ngôi mộ có tên con gái ông. Giữa lúc ông phân vân, đau khổ thì một luồng
sáng kì lạ xuất hiện lướt nhanh qua đầu ông. Luồng sáng ấy đã làm thay đổi những
suy nghĩ của người cha đáng thương này.
Có thể nhận thấy một đặc điểm khá nổi bật trong các tác phẩm văn xuôi viết
về chiến tranh sau 1975 có yếu tố kì ảo là sự đa dạng của không gian nghệ thuật.
Với sự tham dự của yếu tố kì ảo, không gian nghệ thuật trong tác phẩm không chỉ
là không gian chiến trường gắn với âm thanh vang dội của tiếng bom, mà còn là
những không gian kì bí, lạ lùng gắn với những hình ảnh ma quái, những huyền
thoại không có thật. Bên cạnh đó, những không gian đời thường, không gian riêng
tư của cá nhân, không gian huyền ảo cũng được thể hiện khá nhiều trong các
truyện. Sự đa dạng của không gian nghệ thuật góp phần không nhỏ vào việc khắc
họa chiều sâu của hiện thực và tâm trạng của con người sau chiến tranh, giúp ta
thêm một lần nhận ra sự đổi mới trong cái nhìn của các nhà văn về cuộc sống.
2.2.2.2. Thời gian nghệ thuật
Cùng với không gian, thời gian nghệ thuật cũng là phương tiện triển khai
hình tượng con người một cách hiệu quả trong tác phẩm. Thời gian nghệ thuật khác
với thời gian vật lý. Nó được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của nhân vật mà nhà
văn chủ tâm xây dựng trong tác phẩm. Nó có sự thay đổi về nhịp điệu, trình tự; gắn
với cảm xúc và tâm trạng nhân vật. Trong các truyện viết về chiến tranh có yếu tố
kì ảo, thời gian đêm tối luôn mang đến cho người ta sự bất an. Đêm tối là thời khắc
hồn ma trở về dương gian, là thời điểm xuất hiện của những giấc mơ và của bao
điều lạ lùng, huyền bí khác.
Cuộc hành trình trở về quê hương của người lính trong Bến trần gian diễn ra
trong một đêm tối “Anh đi đã mấy chục năm, vượt qua bao nhiêu khuôn mặt chỉ để
đêm nay tới đây và gọi Đò ơi!”. Dòng sông đêm nơi anh đang đứng gắn với truyền
thuyết ma gọi đò. Theo truyền thuyết thì “tiếng gọi như lời khẩn cầu tha thiết có
sức hút huyền bí đến lạ lùng. Bao nhiêu cô gái đã chạy ra bến và chèo một mạch
qua sông rồi lại chèo về, cứ thế cho đến sáng”. Đêm nay đây, chỉ cần vượt qua con
sông này, Lăng sẽ được đoàn tụ với người thân. Và anh đã cất tiếng gọi “Đò ơi!”.
Tiếng gọi đò tha thiết của Lăng dường như có tác dụng, từ bên kia sông, một con
đò nhỏ đang lững lờ trôi về phía anh. Người chèo chiếc thuyền ấy không ai khác
chính là Thùy- người yêu xưa của anh. Con đò của Thùy sẽ đưa Lăng vượt qua
chặng đường cuối cùng, giúp anh hoàn thành tâm nguyện bao nhiêu năm của mình.
Trong truyện ngắn Cặp bồ với ma, Nhân đã gặp hồn ma của Huệ vào một
đêm trăng “một đêm trăng, tôi đang ngồi đọc sách, chai rượu uống dở còn đặt trên
bàn… Chợt gáy tôi sởn lên vì chút hơi gió lạnh ào qua và khi thấy phía ngoài cửa
bước vào một dáng phụ nữ, mảnh mai ăn mặc giản dị”. Và từ đó, mỗi lần gặp
Nhân, Huệ chỉ đến vào ban đêm “đêm thứ hai, Huệ lại đến, trong bộ quần áo tím
mỏng, nhẹ nhàng”, “nàng đêm nào cũng đến, Huệ của tôi… Những đêm mưa, nàng
bắt tôi kể chuyện đời”. Trong truyện cũng có nhắc đến thời khắc giao thừa, thời
khắc giao nhau giữa năm cũ và năm mới, giữa cõi âm và cõi dương. Vào cái thời
khắc âm thịnh dương suy, Nhân ngồi trong nhà, tự nhiên thấy gió lạnh đùng đùng.
Anh nhìn thấy ở các cửa ra vào, cửa sổ dầy đặc những bóng ma đói đang nhìn anh
trừng trừng để thăm dò. Tất cả những hồn ma đó với Nhân vừa đáng sợ nhưng cũng
rất đáng thương. Chết rồi nhưng vẫn chưa thoát được sự khốn khổ của kiếp người.
Thời khắc giao thừa cũng được nhắc đến trong truyện ngắn Người bán nhang chùa
Vĩnh Nghiêm. Trong thời điểm giao nhau giữa năm cũ và năm mới, người bộ đội đã
xuất ngũ, đồng thời là người bán nhang ở chùa hiện nay đã gặp một sự việc lạ kì.
Ông nhìn thấy một đứa bé có gương mặt giống hệt với một tội phạm đã bị chính tay
ông xử bắn vào nhiều năm trước.
Theo quan niệm dân gian, giữa khuya luôn là thời khắc đáng sợ nhất, người
ta cho rằng, đây là thời khắc người chết đội mồ sống dậy. Trong Ăn mày dĩ vãng,
Hai Hùng đã gặp lại những linh hồn của đồng đội mình vào chính thời khắc ấy
“trong đêm khuya khoắt rợn mình, tôi vật vờ đi giữa cái thế giới vô hình và hữu
hình của người chết”, trước mắt anh hàng loạt “những hàng chữ khắc trên bia nhảy
nhót, phồng lên, nở ra, dài ngoẵng thành những thân người, mặt người lạ lẫm và
thân thuộc”. Tất cả những bóng ma ấy đều còn rất trẻ, họ đều đã nằm lại vĩnh viễn
nơi chiến trường năm nào. Giờ đây, xuất hiện trước mắt anh chỉ là những cái bóng
thấp thoáng, mờ ảo với “tiếng cười âm u, tiếng thở dài nhớt nhát, tiếng nói lạnh lẽo
úp chụp, đậu lên vai, luồn vào tóc, chui cả vào ngực nhồn nhột, không mùi không
vị…”[41,171].
Những giấc mơ cũng thường xuất hiện vào đêm. Ban đêm là thời gian tĩnh
lặng, không ồn ào, không tiếng động. Trong bóng đêm, con người mới có thể sống
trọn vẹn với chính mình. Bóng đêm cũng gợi nên sự suy tư, nhắc đến những kỉ
niệm và bao giờ bóng đêm cũng đem đến sự hoang mang, sợ hãi cho con người.
Trong Nỗi buồn chiến tranh, vô vàn những đêm là đêm trong tác phẩm.
Bóng đêm gợi lại bao kỉ niệm, bao suy nghĩ về một thời mà Kiên đã trải qua. Và
những giấc mơ vẫn thường trở đi trở lại trong giấc ngủ nặng nề của Kiên mỗi khi
đêm về. Những giấc mơ ấy đưa Kiên trở về quá khứ, về với truông Gọi Hồn, nơi
ghi dấu những cuộc chiến khốc liệt và đẫm máu năm nào. Với Kiên, đêm cũng là
nơi bắt đầu của những “giấc mơ dài không dứt”. Anh thích sống về đêm nhưng đôi
lúc anh lại sợ hãi cái bóng đêm đó. Trong tác phẩm có biết bao điều kì lạ xảy ra với
Kiên trong những đêm đen và trong những giấc mơ như thế. Có khi đó là tiếng hát
của những người đã chết huyền bí, thì thào như hoàn toàn hư, hoàn toàn thực từ cõi
mông lung gọi về…Có khi đó là câu chuyện về một người lính khi chết được bó
trong một tấm tăng nằm lại trên đèo “xương cốt đã hóa mùn cả, riêng cây đàn
Ghita tự tạo của người chết thì còn nguyên vẹn” [ 40,99]. Và đêm đêm, người ta lại
nghe thấy tiếng hát của những người vô danh vang vọng mãi trong lòng rừng.
Sau khi Tuyết Lan và Phượng lần lượt rời khỏi quán Tiên, chỉ còn mình Mùi
và một người chiến sĩ đã bị lãng tai ở lại tiếp tục làm nhiệm vụ. Trong đêm tối, Mùi
(Truyền thuyết về quán Tiên) thao thức không sao ngủ được bởi những nỗi niềm
trăn trở đang vây kín trong lòng, bởi nỗi sợ hãi về một chú khỉ vừa bị giết chết. Lúc
nào Mùi cũng bị ám ảnh về điều đó. Đêm càng về khuya, bên ngoài mưa vẫn rơi
lộp độp, ngọn lửa vẫn leo lét trong bếp, và ở ngăn ngoài, chiếc võng nơi người
chiến sĩ nằm vẫn đang đều đều tiếng ngáy. Tất cả làm màn đêm xung quanh Mùi
càng trở nên tĩnh mịch, đáng sợ. Mãi đến khi mệt mỏi, cô thiếp đi vào trong giấc
ngủ chập chờn. Trong giấc ngủ đầy tâm sự ấy, Mùi đã gặp lại ngôi nhà thân yêu
của cô, gặp lại người chồng mới cưới đã phải chia xa. Những nỗi sợ hãi về một chú
khỉ đã chết cũng theo Mùi vào cả trong giấc mơ. Khi đang đắm chìm trong cảm
giác hạnh phúc, bất chợt “Mùi ngờ ngợ có cái gì ram ráp cọ vào vai. Cô thảng thốt
ngồi nhổm dậy, trời đất ơi, một đôi mắt đồng thau đang nhìn mình”. Mùi hoảng hốt
tỉnh giấc, trống ngực đập thình thịch, cô mới biết mình vừa trãi qua một cơn mơ
khủng khiếp. Bên ngoài mưa vẫn rơi lộp độp, ngọn lửa trên bếp vẫn leo lét cháy.
Lúc này cô mới cảm nhận hết nỗi cô đơn, trống vắng, sợ hãi mà không biết phải
dựa vào ai.
Bóng đêm luôn chứa đựng những điều bí ẩn, và đáng sợ. Hai cô du kích
trong Đốm lửa bị lạc đường vào một đêm tối tĩnh mịch, hoang vu “Ngọc lắng nghe
tiếng thở dài của dòng sông! Nàng linh cảm thấy càng lúc càng lạc sâu vào đầm
lầy hoang. Tiếng dế rả rích, tiếng ếch nhái, ễnh ương oàm oạp kêu vang tạo thành
âm thanh buồn bã, thê lương. Đêm làm đầm lầy càng thêm âm u và rùng rợn”.
Đêm tối bị lạc trong đầm lầy thật đáng sợ. Đáng sợ hơn bởi thỉnh thoảng họ lại gặp
những đốm lửa lập lòe lúc ẩn, lúc hiện như trêu đùa hai người. Đêm đó, cả Ngọc và
Mỹ đều cùng trãi qua một giấc mơ lạ lùng mà khi trời sáng, họ phát hiện ra mình
đang nằm cạnh một người đồng đội đã chết.
Đêm cũng là thời điểm xảy ra những điều kì lạ. Trong Trái tim con rắn, sau
khi vừa cạn ly rượu, Thuật đã thấy có điều bất ổn, song tất cả mau chóng đi qua.
Chỉ đến khi tiệc tan, trở về phòng, ông mới bắt đầu cảm nhận được những thay đổi
kì lạ đang diễn ra trong người. Suốt đêm hôm đó, Thuật không thể nào chợp mắt
được bởi cảm giác lo lắng và sợ hãi. Trong đêm tối, Thuật nghe rõ ràng những âm
thanh Ịch, ình, ịch ình, ình ịch… vang lên rõ ràng từ lồng ngực mình, ông cũng
thấy rõ ràng một con rắn ngay giữa đùi mình, song khi ông bật đèn lên thì những
cảm giác và hình ảnh ấy liền biến mất. Tất cả những điều kì lạ ấy chỉ diễn ra trong
bóng đêm, và chỉ mình Thuật mới nhìn thấy và cảm nhận được điều ấy.
Trong các truyện viết về chiến tranh sau 1975, thời gian chủ yếu để yếu tố kì
ảo xuất hiện thường là vào đêm, đặc biệt là vào những đêm khuya. Trong tâm linh
người Việt, đêm tối là khoảnh khắc mà người chết có thể trở về dương gian. Nó
cũng là thời điểm thích hợp cho sự xuất hiện của những giấc mơ. Đặc biệt trong
bóng đêm, con người thường trở nên bé nhỏ, yếu ớt, đơn côi. Vì vậy, khi viết
truyện, các tác giả đặc biệt chú ý vào những khoảnh khắc này. Tất nhiên, ngoài thời
gian đêm khuya, hoàng hôn- thời điểm giao nhau giữa ngày và đêm cũng có mặt
(trong truyện Bướm trắng, Sinh đã gặp lại hồn ma của Bạch Điệp vào khoảng thời
gian này). Tuy nhiên sự xuất hiện chỉ là thiểu số. Phần đông, các tác giả vẫn dành
nhiều ưu ái cho khoảnh khắc về đêm.
2.3. Yếu tố kì ảo và việc biểu đạt các lớp ý nghĩa trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975
Với độ lùi một vài thập niên, người ta đã có thể bình tĩnh hơn để nhìn về
cuộc chiến đã qua. Từ điểm nhìn của những người đã từng đi qua những năm tháng
khốc liệt của chiến trường, chiến tranh hiện ra không chỉ là bài ca khải hoàn, là tấm
huân chương chiến thắng vẻ vang, mà nó còn là sự chết chóc, mất mát, thương tổn
cả về thể xác lẫn tinh thần. Chiến tranh cũng không chỉ được nhìn ở phương diện
đời sống chính trị mà mở rộng vùng sóng ảnh hưởng của nó là đời tư và số phận
con người- những con người cô đơn, bất hạnh và đau khổ khi bước khỏi cuộc chiến
trở về với cuộc đời thường. Sự tham dự của yếu tố kì ảo vào cấu trúc tác phẩm đã
giúp nhà văn có thể bộc lộ hết những suy tư, chiêm nghiệm, của mình về chiến
tranh, giúp người đọc thấy được cuộc chiến ấy từ nhiều phía. Bên cạnh đó, thông
qua thế giới hình tượng hư ảo, bức chân dung của những người chiến sĩ một thời
hiện ra chân thực và sinh động trong từng trang viết.
2.3.1. Chiến tranh – sự mất mát không gì bù đắp
Các tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975 nói nhiều đến
những mất mát, đau khổ mà chiến tranh đã để lại. Thông qua yếu tố kì ảo, bức tranh
toàn cảnh của chiến tranh với những nỗi buồn sâu thẳm hiện ra đầy đủ, chân thật và
sâu sắc. Ở đó, cả người còn lại lẫn người ra đi đều có cuộc sống riêng bất hạnh và
đau khổ. Những người lính đã chết thì linh hồn lang thang vất vưởng nơi chiến
trường năm xưa với những nguyện ước ấp ủ không bao giờ thực hiện được, những
người lính còn sống thì ám ảnh không nguôi về cuộc chiến tranh đã qua. Cuộc sống
của họ bị chia làm hai nửa, một nửa thân xác trống rỗng, đau khổ hiện hữu trong
hiện tại, một nửa linh hồn bay về quá khứ kỉ niệm để thương, để nhớ; để buồn tủi
và xót xa. Một loạt tác phẩm như Bến trần gian, Nỗi buồn chiến tranh, Tiếng vạc
sành, Người sót lại của Rừng Cười, Cỏ lau, Con đò và người khách lạ, Đồng đội,
Biển cứu rỗi, Những giấc mơ có thật,… đã đưa người đọc đi từ khám phá này đến
khám phá khác, giúp người đọc cảm nhận hết những bất hạnh và khổ đau của
những người từng đi qua chiến tranh.
Chiến tranh đã qua đi, song nỗi đau mà nó để lại vẫn âm ỉ từng ngày. Trong
chiến tranh, cả người còn sống lẫn người đã khuất đều mang nỗi đau riêng không gì
có thể xóa nhòa. Có được chiếc lá thần kì ông lão cho, linh hồn của một người lính
đã thực hiện một cuộc hành trình trở về quê nhà sau bao năm lang thang trong rừng
(Bến trần gian). Sự trở về của Lăng là do sự trăn trở, đau đáu về cuộc sống không
bình yên của những người ở lại - nói cách khác anh còn quá nặng lòng với những
người còn sống nên chưa thể thanh thản ra đi. Nhưng đã qua bao nhiêu năm, người
thân của anh đã chấp nhận cái sự thực là anh đã hi sinh. Sự trở về của anh lúc này
không phải là một sự đoàn tụ vui vẻ. Có chăng chỉ đem lại niềm đau khổ cho những
người còn sống, đem lại nỗi sợ hãi cho những người xung quanh. Người yêu của
anh giờ đã có chồng, nàng đã yên bề với nghĩa vụ làm vợ, làm mẹ đã từ lâu. Nên
cuối cùng, dù đau đớn, bà cụ Lăng cũng đành khuyên anh ra đi để không làm xáo
trộn cuộc sống của người ở lại.
Cứ ngỡ tình yêu của Bạch Điệp và Xuân Sinh không thể nào trở thành hiện
thực bởi chiến tranh chia cắt, song với khát vọng hạnh phúc mãnh liệt, Bạch Điệp
dù đã chết nhưng vẫn quay về gặp lại người yêu. Xuân Sinh dù đau đớn nhưng vẫn
cố gắng dùng máu của mình cứu sống Bạch Điệp. Cuối cùng tình yêu đã chiến
thắng, những giọt máu của Sinh đã giành lại sinh mạng của Bạch Điệp từ tay thần
Chết. Anh và Bạch Điệp sống với nhau hạnh phúc như bao cặp vợ chồng khác.
Song liệu họ có hạnh phúc được không khi Bạch Điệp chỉ sinh cho anh toàn bướm
là bướm. Phép màu mang lại sự sống cho Bạch Điệp nhưng không thể trả lại cho cô
thiên chức thiêng liêng của người phụ nữ. Còn mất mát nào hơn khi tình yêu, hạnh
phúc không thể đơm hoa, kết trái. Có phải thế không mà sau này Sinh làm thơ “chỉ
toàn là hoa và bướm. Tịnh không có một từ nào về chiến tranh và đau khổ”. Chiến
tranh đã qua đi, chiến thắng đã được ghi nhận nhưng những nỗi đau, sự mất mát
của con người thì còn lại mãi, thường trực và đầy day dứt.
Chiến tranh đã đến và lấy đi hạnh phúc của biết bao gia đình. Biển cứu rỗi là
câu chuyện về một người lính trở về, nhưng số phận đã không dành cho anh người
vợ bạc tóc chờ chồng. Mà đợi anh chỉ có những đứa trẻ không cha “tàn tích của
những cuộc giao hoan vội vã”- trên con đường động mạch của chiến tranh- của
người vợ trẻ lạc loài, ngơ ngác, bán trôn nuôi miệng chờ chồng. Chờ anh còn có
đứa con gái ruột mười lăm tuổi- đồng nghiệp của mẹ- với “nụ cười chưa hết hơi
sữa nhưng đã mang hơi hướng đổi chác”, gặp bố mà không biết đó là cha mình.
Tất cả những điều ấy đã đuổi anh ra khỏi cõi người, cõi thanh bình. Anh tìm đến
với hoang đảo, tự nói chuyện với bóng mình trong gương để nghe rõ giọng nói lạ
hoắc của chính mình, giọng nói của một kẻ lạc loài sau cuộc chiến. Cuộc chiến đã
qua đi, người lính trở về trong bình yên, nhưng mái ấm gia đình hạnh phúc của anh
thì không thể như ngày nào. Chiến tranh đã đến và mang đi hạnh phúc của một gia
đình.
Niềm đau hòa lẫn với tiếng vạc sành vọng lại trong đêm vắng nhắc người ta
hãy luôn nhớ đến những đau thương, mất mát mà chiến tranh đã gây ra cho con
người (Tiếng vạc sành). Chiến tranh đã cướp đi gương mặt con người và hạnh phúc
gia đình của một người lính. Anh trở về với một gương mặt biến dạng, và người vợ
mà anh yêu thương nhất đã không nhận ra chồng mình. Nàng giờ đã yên bề gia thất
với một người đàn ông khác. Nỗi thương nhớ người vợ xưa đã khiến anh hằng đêm
trở về phía sau vườn nhà để gọi vợ, nhưng tiếng gọi ấy không mang âm thanh của
tiếng người mà chỉ là những tiếng “tọc tọc tọc” ghê sợ trong đêm tối. Âm thanh đó
khiến người vợ nghĩ là tiếng một con rắn độc. Và người chồng mới đã giúp vợ giết
chết con rắn độc sau vườn- cũng chính là người chồng năm xưa. Mang niềm đau
thương, hồn anh hóa thành con vạc sành, khoác đôi cánh màu xanh của người lính.
Hằng đêm “với gương mặt xấu xí anh ẩn mình trong các lùm cây “crọc crọc” ròng
rã từ lúc chạng vạng tới sáng, lên tiếng kêu đau thương để gọi vợ gọi con. Tiếng
kêu xé lòng của hạnh phúc bị số phận đắng cay tước đoạt”.
Trong chiến tranh, biết bao người đã hi sinh hạnh phúc, tuổi thanh xuân của
mình để rồi khi trở lại thời bình, họ không còn gì ngoài một thân xác tàn tạ và một
kí ức chất chứa buồn đau.
Những giấc mơ của Tuân trong Những giấc mơ có thực làm bật lên nỗi chua
xót, bẽ bàng của người phụ nữ từng là hoa khôi của Trường Sơn năm xưa. Người
nữ thanh niên xung phong xinh đẹp mệnh danh là “hoa khôi của rừng”, được bao
chàng trai đeo đuổi ngày nào giờ lại trở thành một chiếc bóng lẻ loi “làm nghề quét
dọn suốt ngày loay hoay với cái chổi cán dài và chiếc giẻ lau trong tay”. Ngoài
chứng bệnh “quên quên nhớ nhớ” lại còn thêm chứng mất ngủ triền miên “đêm
đêm thường mặc bộ quần áo ngủ may bằng thứ vải dệt gia công của địa phương
nhàu nhĩ màu nước dưa đi lang thang như một kẻ mộng du”. Ban ngày chị lại hiện
nguyên hình là một người đàn bà lầm lũi với cây chổi trong tay. Ban đêm chị vật vờ
với những giấc mơ không có thật. Chiến tranh đã lùi xa vào quá khứ đồng thời
cũng mang theo tuổi xuân và niềm hạnh phúc của chị. Để lại trong hiện tại là một
người đàn bà với những chuỗi ngày đau khổ cùng một thân xác tàn tạ đáng thương.
Và có lẽ chị sẽ mãi sống cô đơn, lầm lũi với niềm nuối tiếc khôn nguôi về những
năm tháng tuổi trẻ qua đi không bao giờ trở lại.
Đến với Hai người đàn bà xóm Trại, người đọc không khỏi ngậm ngùi cho
số phận hai người đàn bà lẻ loi, quạnh vắng trong căn lều nhỏ nơi bến sông. Từ lúc
thanh xuân cho đến khi trở thành hai bà lão, họ chưa bao giờ có dịp gặp lại người
chồng thân yêu của mình. Chiến tranh và những cuộc gặp gỡ hi hữu không hẹn
trước khiến họ không thể hưởng trọn vẹn hạnh phúc được làm vợ, làm mẹ. Những
giấc mơ khắc khoải nỗi chờ mong thường xuyên hiện hữu trong tác phẩm càng tô
đậm nỗi bất hạnh của những con người trong chiến tranh. Ở đâu đó khuất nẻo nơi
bến vắng vẫn còn những người vợ, người mẹ sống lầm lũi, hao gầy trong nỗi đau,
sự mất mát, chia lìa không gì có thể bù đắp. Còn bất hạnh nào hơn đối với người
phụ nữ khi mãi mãi chôn vùi thiên chức thiêng liêng làm vợ, làm mẹ dưới lòng đất
sâu của quá khứ. Hòa bình dù có trở về trong ý nghĩa niềm vui và hạnh phúc thì
cũng không thể trả lại cho những người vợ, người mẹ những khát khao dung dị,
đơn sơ mà cao cả đó.
Trở về sau chiến tranh, Thảo (Người sót lại của rừng Cười) vĩnh viễn không
thể tìm lại sự hồn nhiên, thanh thản trước đây của mình. Sự khốc liệt của chiến
tranh đã lấy mất những giấc mơ êm ái của tuổi thanh xuân và trả về cho cô những
cơn ác mộng khôn nguôi mỗi lúc đêm về. Trong những giấc mộng đau đớn ấy,
Thảo chỉ thấy “tóc rụng như trút, rụng đầy khuôn ngực đã bị đâm nát của chị
Thắm, và từ trong đám tóc rối ấy lấy ra hai giọt nước mắt trong veo và rắn câng
như thủy tinh, đập mãi không vỡ”. Mãi mãi, niềm hạnh phúc lứa đôi không bao giờ
trở lại với cô. Suốt quãng đời còn lại, người con gái duy nhất may mắn sống sót của
rừng Cười chỉ sống với nỗi cô đơn và những giấc mơ triền miên về mái tóc đã bị
rừng già cướp mất.
Trong các tác phẩm viết về chiến tranh, Nỗi buồn chiến tranh là cuốn tiểu
thuyết viết về chiến tranh gây sức ám ảnh nhất đối với người đọc. Tác phẩm không
khai thác đề tài cuộc chiến ở góc độ tập thể mà đi sâu khám phá số phận riêng của
từng cá nhân. Vì vậy, tác phẩm đề cập nhiều đến những mất mát, bi thương mà
chiến tranh để lại cho con người. Những yếu tố kì ảo trong truyện góp phần khắc
sâu những đau thương, mất mát ấy. Nhân vật chính trong tác phẩm là Kiên- một
người lính đã trở về sau những năm tháng làm bạn với khẩu súng nơi chiến trường.
Hòa bình trở về, Kiên chẳng còn gì ngoài một hình hài tiều tụy và một tâm hồn
mang đầy những vết thương. Tuổi trẻ, tình yêu, sự bình yên trong tâm hồn đã vĩnh
viễn nằm lại nơi chiến trường. Những năm tháng nơi chiến trường khốc liệt, lần
lượt chứng kiến những cái chết bi thương, kinh hoàng của những người đồng đội đã
khiến anh không thể nào quên được. Kiên luôn sống triền miên với những giấc mơ
“Đôi khi chỉ cần nhắm mắt lại là trong tôi lập tức ký ức tự nó xoay mình lui về
theo lối cũ, gạt toàn bộ cõi đời thực hôm nay ra rìa cỏ”[40,48] “Có đêm tôi giật
mình thức dậy nghe tiếng quạt trần hóa thành tiếng rú rít rợn gáy của trực thăng
vũ trang....” Trong mơ, Kiên thường thấy mình quay về Truông Gọi Hồn, nơi ghi
dấu những trận chiến khốc liệt và đau thương “Cách đây không lâu, trong mơ tôi
đã trở lại với truông Gọi Hồn [...] Một đêm khác, cũng trong mơ, tôi nhìn thấy
truông Gọi Hồn và mơ thấy Hòa, cô giao liên xinh tươi, người Hải Hậu đã hi sinh
vào thuở tối tăm mù mịt năm 68”. Kể cả lúc đang đứng bên bờ tỉnh thức, quá khứ
cũng có thể quay về ám ảnh Kiên “Trở về sau chiến tranh, cho đến tận bây giờ, tôi
đã phải chịu đựng hết hồi ức này đến hồi ức khác, ngày này qua ngày khác, đêm
thâu này thấu đêm thâu kia... thử hỏi đã bao nhiêu năm ròng. Nhiều hôm, không
đâu giữa phố xá đông người tôi đi lạc vào một giấc mơ khi tỉnh. Mùi hôi hám pha
tạp của đường phố bị cảm giác nồng lên thành mùi thối rữa. Tôi tưởng mình đang
đi qua đồi “Xáo Thịt” la liệt người chết sau trận xáp lá cà tắm máu cuối tháng
Chạp năm 1972. Tử khí xộc lên từ vỉa hè nồng nặc đến nỗi tôi phải vội đưa tay lên
bịt mũi như kẻ hóa rồ trước mắt người qua đường”. Quá khứ về một cuộc chiến
tranh đau thương và khốc liệt đã gây nên một vết thương không bao giờ lành lặn
trong tâm hồn Kiên. Chính vết thương quá sâu trong tâm hồn đã khiến cuộc đời
thực hôm nay của anh như địa ngục. Kiên sống trong thực tại nhưng tâm hồn anh là
một chuỗi dài của quá khứ với nỗi ám ảnh về cái chết. Những giấc mơ triền miên
về quá khứ tạo nên một cái nhìn mới về chiến tranh. Chiến tranh không phải chỉ có
chiến thắng, nó không hoàn toàn là màu hồng. Chiến tranh còn chứa đựng biết bao
khốc liệt và hi sinh, và di chứng mà nó để lại không chỉ là những vết thương thể
xác mà còn là những vết thương nơi tâm hồn. Những người lính đã bước qua chiến
tranh sẽ không bao giờ có thể sống thanh thản, bình yên như những người bình
thường khác.
2.3.2. Chiến tranh – nỗi cô đơn và niềm khát khao hạnh phúc
Một thời gian dài rất dài trong văn học Việt Nam, khoảng 30 năm từ 1945-
1975, văn học chỉ tồn tại con người cộng đồng, con người công dân. Chỉ đến sau
1975, đặc biệt sau 1986, những số phận cá nhân với những nỗi niềm riêng tư, thầm
kín mới xuất hiện nhiều trong những trang viết. Với đề tài chiến tranh, những sáng
tác sau 1975 cũng đã quan tâm đến thân phận người lính thời hậu chiến. Những
người lính hiện ra trong các tác phẩm không chỉ là những tấm gương anh hùng, quả
cảm mà còn xuất hiện với tư cách là một con người bình thường với những nỗi cô
đơn, bi kịch dằn xé trong tâm hồn, với những trăn trở, dằn vặt, những khát khao
ham muốn rất “con người”. Và yếu tố kì ảo chính là phương tiện hữu hiệu giúp
người đọc khám phá thế giới tâm tư tình cảm phức tạp trong mỗi con người.
Ở tác phẩm Những giấc mơ có thực, hình tượng con người cô đơn với những
khát khao hạnh phúc hiện ra thật ấn tượng trong lòng người đọc. Xuất hiện dày đặc
trong tác phẩm đó chính là những giấc mơ. Thế giới chiêm bao được ví như một
chiếc tủ bí mật mà ở đó chất chứa bao điều thầm kín. Đến với thế giới chiêm bao,
người ta như được đối diện với con người thật của chính mình, soi rọi những ẩn ức
của chính tâm hồn mình. Bằng mô-tip giấc mơ, truyện đã đưa người đọc từng bước
khám phá thế giới nội tâm của nhận vật Tuân. Sau những năm tháng hi sinh hạnh
phúc cá nhân vì lý tưởng cao cả của cộng đồng, trở về cuộc đời thực Tuân hiện ra là
một người phụ nữ bình thường với những khát khao bản năng thầm kín nhất của
con người - “khao khát yêu và được yêu”. Khao khát đơn giản, mãnh liệt bao nhiêu
năm ròng bị dồn nén trong hình hài xơ xác của người phụ nữ nhỏ bé, đột nhiên trỗi
dậy quẫy đạp mạnh mẽ trong những cơn mê sảng chập chờn của chị. Bao khát vọng
hạnh phúc mà chị cố tình che giấu, đè nén sâu trong tâm khảm nay được dịp bật
tung ra dâng trào đan xen ở đó là nỗi cay đắng, xót xa, tủi phận. Trong thế giới của
giấc mơ, Tuân mới thật sự đối diện với cảm xúc thật của chính mình, lắng nghe
tiếng lòng đang run rẩy mà trong bao nhiêu năm Tuân đã đè nén, đè nén vì một
người con trai Hà Nội chỉ gặp gỡ duy nhất một lần trong cuộc đời.
Giấc mơ đầu tiên Tuân gặp người đàn ông được xem là một bộ xương khô
với cái nhìn mờ mịt, vô hồn. Ở giấc mơ này, Tuân có dịp nhìn thẳng vào cuộc đời
trong thực tại. Lời người đàn ông đó vang lên càng khía sâu thêm nỗi chua xót,
đắng cay mà có thể ngày thường Tuân cố tình lãng quên và chối bỏ “Quanh em có
bao nhiêu chàng trai trẻ đẹp? Họ đâu cả rồi, những chàng trai trẻ ấy? Sắc đẹp của
em đâu cả rồi…? Vì sao em lại ra nông nổi này? Em hãy nhìn lại mình mà xem. Có
khác gì là bộ xương khô là tôi này không?...”. Chiến tranh với sự khắc nghiệt của
nó đã cướp đi tuổi trẻ, sức thanh xuân và cả sự kiêu hãnh vốn có trong Tuân; nó trả
lại cho chị sự héo khô, tàn tạ và tủi hờn. Giấc mơ thứ hai là giấc mơ dài nhất mà
cùng lúc ở đó, Tuân đi về giữa hai nẻo quá khứ và hiện tại. Cuộc gặp gỡ với chàng
trai trẻ tuổi tên Bạo đã quay ngược thời gian giúp Tuân sống với những kỉ niệm ở
chốn rừng sâu năm nào, kỉ niệm về nụ hôn duy nhất với Bạo trước ngày chia tay, kỉ
niệm về người con trai Hà Nội mà chị đã từng cứu và ôm ấp một lòng yêu cho đến
hiện tại. Và cũng trong giấc mơ ấy, Tuân nghe được tiếng lòng mình đang thổn
thức, thở dài đầy cam chịu “Có ai ngờ, ngoài bốn mươi tuổi chị vẫn còn là một
trinh nữ. (Thế nhưng) cái trinh tiết của một người đàn bà như chị có dành dụm nữa
cũng chẳng để làm gì. Cho ai bây giờ cũng thế thôi”. Những mảng màu sáng tối
chập chờn giữa kí ức và thực tại càng tô đậm vùng tâm tư nhiều giằng xé và đau
thương của nhân vật. Sống lại với thời gian của ngày xưa chỉ càng làm nổi rõ hơn
những mất mát, hi sinh của con người trong hiện tại. Giấc mơ cuối cùng của chị là
một cuộc gặp bất ngờ và lạ lùng với người đàn ông bí ẩn. Phải chăng đó chính là
người đàn ông mà chị từng hẹn lòng trong quá khứ? Cái khát khao, mong mỏi vẫn
từng ngày âm ỉ, quặn xé trong chính tâm can của chị khiến chị luôn mơ thấy anh
trong những giấc ngủ bất an của mình. Thế nhưng trong chị anh vẫn chỉ là một khối
mông lung mơ hồ không thể xác định, có điều gì đó uẩn khúc không thể nói ra nên
anh đã không tìm đến với chị. Phải thế không mà cuộc gặp gỡ ở đây lạ lùng và khó
hiểu hơn hết, cả Tuân và người đàn ông đều sững sờ, ngơ ngẩn? Hay chăng đó liên
quan đến vấn đề tâm linh bởi “Giấc mơ thường được coi là sự tái hiện suy nghĩ của
con người dưới dạng không tự giác, giấc mơ còn là điềm báo trước tương
lai”[30;75]. Lời của người đàn ông trong giấc mơ phải chăng là những linh cảm
trong chị về người con trai ngày xưa. Dù thế nào đi nữa thì trong tác phẩm, chính
nhờ giấc mơ và thông qua giấc mơ mà người đọc khám phá được thế giới tâm tư
của Tuân, thấy được những nỗi niềm riêng dồn nén trong tâm tư người phụ nữ bất
hạnh này.
Đến với những giấc mơ của “Hai người đàn bà xóm Trại”, người đọc không
khỏi chua xót, ngậm ngùi cho sự bẽ bàng của hai người phụ nữ bất hạnh ấy. Chiến
tranh đã đến và mang người chồng của họ ra đi khi hai anh chưa kịp để lại cho họ
giọt máu của mình. Trong đời họ, ngoài ước mong được gặp lại người chồng yêu
quý của mình còn là nỗi khao khát được có với hai anh một đứa con. Đến hơn ba
lần, tác giả nhắc đến những giấc mơ giống nhau ở mỗi nhân vật. Ân cứ mơ đi mơ
lại giấc mơ có vẻ kì lạ “con gà trống tía với cái mào đỏ rực, cái ức rộng và đôi cựa
bóng như ngà mổ mổ vào ngón tay của mình”, còn Mật cô vẫn những cơn mơ vừa
hạnh phúc vừa lo sợ “Mật thấy người lính trở về và ngay đêm đó Mật có mang. Và
cứ tỉnh giấc, Mật mơ hồ lo lắng khi cảm thấy bụng mình khang khác”. Giấc mơ vốn
là điều không có thực, nhưng những mong mỏi ẩn trong giấc mơ lại là điều thật hơn
bao giờ hết. Mong mỏi đó còn là gì khác ngoài ước muốn rất phụ nữ của những
người vợ lính trong chiến tranh, ước muốn được làm mẹ, làm vợ.
Trong Vĩnh biệt mười tám con gà trống là hình ảnh cô đơn đến tội nghiệp
của người đàn bà thiếu vắng hơi ấm của chồng đã mười tám năm. Mười tám năm
xa chồng được đánh dấu bằng hình ảnh mười tám con gà trống. Cứ mỗi sáng, tiếng
gáy râm ran của những con gà làm bà xôn xao trong dạ khi nhớ đến chồng. Mãi đến
khi gặp người đàn ông hàng xóm tốt bụng, nỗi cô đơn trống vắng của bà dường như
mới được lấp đầy. Song, khi bà cùng người đàn ông kia ở cạnh nhau, người chồng
cũ hiện ra với ánh mắt trách móc, giận hờn. Hình ảnh ấy cứ hiện ra chập chờn
khiến bà xốn xang, đau xót. Tiếng khóc nức nở của người đàn bà “anh ơi, hãy để
cho em được… được… được” khiến người đọc cảm nhận sâu sắc nỗi khát khao
hạnh phúc đến cháy bỏng sau ngần ấy năm sống âm thầm một bóng một mình.
Trong Người sót lại của Rừng cười, năm cô gái giữ kho quân nhu giữa cánh
rừng Trường Sơn bỗng hóa thành năm con vượn với tiếng cười man dại. Những
con vượn người ấy vừa cười, vừa khóc, vừa đưa tay dứt tóc và xé quần áo không
ngừng. Chỉ khi có sự giúp đỡ của những người lính, họ mới trở lại bình thường, để
rồi sau đó họ chúi vào gốc cây khóc không thành tiếng “tiếc cho lòng trinh bạch
con gái”. Phải chăng sự khắc nghiệt của núi rừng đã biến họ trở nên như vậy hay
chính nỗi cô đơn, tuyệt vọng dày vò, sự thiếu thốn tình yêu, đôi bàn chăm sóc của
người đàn ông đã khiến họ rơi vào bi kịch. Bi kịch của những người con gái sống
trong chiến tranh.
Ở cái quán Tiên (Truyền thuyết về quán Tiên) của ba cô gái làm nhiệm vụ
cung cấp lương thực cho những anh bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn xuất hiện
một con khỉ to lớn lạ kì với những hành động giống hệt với con người. Mặc dù có
Tuyết Lan, Phượng ở cùng, song chú khỉ ấy chỉ xuất hiện mỗi khi Mùi ra suối một
mình để chọc ghẹo cô. Chú khỉ ấy là nỗi khiếp sợ của Mùi, song chính cô cũng phải
thừa nhận rằng trong ba người, cô “là gái có chồng, dù chỉ ở với chồng được đúng
năm hôm trước lúc anh đi B. Mùi đã hiểu thế nào là đàn ông. Hai năm đã trôi qua,
cái cảm giác rạo rực trong vòng tay chồng, mỗi lần nhớ tới lại dậy lên trong lòng
Mùi một nỗi khát khao và bao giờ Mùi cũng cố xua đi bằng nhiều cách”. Và phải
chăng con khỉ đó “có đôi mắt thần nhìn thấy nỗi khát khao của một cô gái xa
chồng”. Nỗi khát khao được gặp chồng, được ôm ấp trong vòng tay của anh luôn
rạo rực trong lòng Mùi, song trong hoàn cảnh chiến tranh, người ta không cho phép
nhắc đến tình riêng nên Mùi đành phải tìm cách chôn chặt trong lòng. Dường như
chính chú khỉ kì lạ đó đã khơi dậy trong lòng Mùi cái khao khát bản năng bình dị
của người phụ nữ mà ngày thường cô luôn che giấu.
Tình yêu và sự khát khao hạnh phúc, gần gũi lứa đôi vốn dĩ là một mong
muốn rất đỗi bình thường của con người. Càng tìm cách kiềm nén, nỗi khao khát
càng trỗi dậy mạnh mẽ hơn, càng khiến con người rơi vào đau khổ, bế tắc. Ở tác
phẩm Bến không chồng, Hạnh tìm cách giấu diếm, không dám đối diện với tiếng
lòng mình bởi cô sợ cái nhìn nghiệt ngã của người đời: khi cả nước đang gồng
mình vì giặc dã - ai dám nghĩ đến hạnh phúc riêng tư. Hạnh chỉ thật sự đối diện với
chính mình khi cô một mình dạo bước bên bờ sông “Bến vắng. Nỗi buồn cô liêu.
Một tiếc nuối thoáng qua. Một thời xuân sắc và những phút ái ân với Nghĩa bỗng
trỗi dậy. Đầu óc Hạnh căng ra run lên ngây ngất đi tìm lạc thú trong hoang tưởng.
Hạnh lao ra dòng nước mát lạnh sóng sánh bóng trăng. Cơ thể lâu nay khô héo
bỗng rạo rực ngập tràn hưng phấn. Hạnh vùng vẫy, quẫy đạp trong ham muốn làm
tình với nước. Trong phút chốc Hạnh thấy mình đang chìm dần như thể có con ba
ba thuồng luồng đang trôi tuột xuống đáy sông. Hạnh hoảng loạn chới với cố nhoài
lên bãi cát” [44,192]. Và khi nằm lăn trên bãi cỏ, Hạnh thấy “vầng trăng cứ lớn
dần và phình to ra, đỏ lừ như mặt con ma ở đầu cánh mả…. mặt con ma đỏ lừ đang
sà xuống thấp dần, thấp dần sát mặt Hạnh. Nó thè lè chiếc lưỡi đỏ lừ liếm lên khắp
thân thể Hạnh. Hạnh cảm nhận rõ ràng con ma mặt đỏ đang làm tình với mình”
[44,192]. Thông qua những chi tiết kì lạ, người đọc càng cảm thông sâu sắc cho nỗi
khao khát đầy bản năng của một người đàn bà trẻ xa chồng. Hạnh phúc quá ít ỏi,
mong manh đã bị chiến tranh cướp mất khiến Hạnh sống trong nỗi khắc khoải, chờ
mong, nhớ nhung và khao khát. Kí ức về những ngày bên Nghĩa, được sống trọn
vẹn trong tình yêu của chồng luôn âm ỉ trong Hạnh. Khi có cơ hội, nó trỗi dậy và
quẫy đạp mạnh mẽ trong cơ thể người đàn bà tội nghiệp ấy. Chiến tranh đã đến và
cướp đi hạnh phúc chính đáng của biết bao người. Đâu chỉ người ngoài tiền tuyến
hàng ngày đối mặt với cái chết mới phải chịu đựng sự khốc liệt của chiến tranh mà
những người vợ, người mẹ ở hậu phương cũng mỏi mòn, nhức nhối với bao nỗi
đau. Chiến tranh khiến cho cả người ở lại lẫn người ra đi đều có cuộc sống riêng
đầy bất hạnh và đau khổ.
Trong hoàn cảnh khắc nghiệt, cận kề với cái chết, nỗi khát khao gần gũi lứa
đôi càng mãnh liệt hơn bao giờ hết. Trong Nỗi buồn chiến tranh, vào những đêm
khuya, đắm mình trong giấc ngủ đậm đặc mùi hương của hoa hồng ma - loại hoa
chỉ mọc ở nơi nhiều tử khí, và vào đêm, hương của nó có thể thẩm thấu vào giấc
ngủ gây ra những ảo giác, “làm thành bao nhiêu là giấc ngủ mơ kỳ lạ gây ra những
ám ảnh khoái lạc mê mẩn” - Kiên mới có thể trở về với thành phố quê hương, gặp
lại người con gái anh yêu, run lên với “nỗi khát khao thèm muốn được hưởng tới độ
tột cùng cảm giác tiếp xúc, êm ái, choáng ngợp, đáng kinh hãi với cái hình hài yêu
dấu, mong manh, mềm mại như cánh hồng ấy”. Những giấc mơ ngọt ngào và nóng
bỏng ấy đã lay thức tâm hồn Kiên, thì ra Kiên “cũng có một thời trẻ trung”, cũng
biết say sưa và si mê. Cũng trong thời kì mê lú bởi khói hồng ma, trung đội trinh
sát “nông trường 3” đã sống một thuở yêu thương, say đắm cuồng si đầy tội lỗi với
ba cô gái ở thung lũng bên kia núi. Đêm đêm, từng nhóm người lặng lẽ, kín đáo
trườn ra khỏi võng, nhẹ nhàng theo nhau mất hút trên con đường mòn dẫn vào lòng
núi tối tăm, và họ trở lại khi trời đã gần sáng. Khi đó từ bên kia núi vọng lên những
tiếng hú thê thảm, buồn bã “mà người ta bảo là của loài ma núi, nhưng Kiên biết
đấy là tiếng lòng nam nữ gọi truyền theo vách núi để tạm biệt nhau và để hẹn ước”.
[40, 31] Mỗi lần như thế Kiên - người chỉ huy trung đội đều biết, và anh chỉ “nằm
yên lặng nghe ngóng đếm từng bước chân rón rén, để rốt cục được trút một hơi thở
phào mừng rằng may thay cả bọn đã bình yên trở về”. Anh biết “lý ra là chỉ huy,
anh cần ngăn chặn hiện tượng vô kỉ luật quá quắt này, cần phải uốn nắn, chấn
chỉnh, lập lại nề nếp, khuôn khổ, đạo đức tác phong, cần phải thẳng tay kéo đội
viên của mình thoát khỏi tình trạng mê mẩn chẳng khác nào bị chài ếm, cần
phải…” Song trái tim thực thụ của một người lính chiến không cho phép anh hành
động như vậy “nó buộc anh phải im lặng, buộc anh phải hết lòng cảm thông. Chứ
còn biết làm thế nào khác được, thực thế trước tiếng gọi man sơ, hoang dã của tuổi
thanh xuân?” Kiên thấu hiểu những điều ấy bởi hơn ai hết, anh là người đã trải qua
nó. Sự “nóng ruột không chịu được” của những người lính trung đội trinh sát trước
buổi sáng ba cô gái bị bọn thám báo cưỡng hiếp và giết chết là biểu hiện của sự gắn
bó tạo nên sự thông linh giữa họ. Câu chuyện tình bi thảm và mông muội giữa các
đội viên trinh sát và ba cô gái bị chiến tranh cầm tù giữa rừng sâu tạo thêm sự kì ảo
cho truyện, hơn hết đó còn là bi kịch của những cuộc tình trong chiến tranh.
Trong Bướm trắng, tình yêu giữa Xuân Sinh và Bạch Điệp không thành bởi
chiến tranh đã chia cắt họ. Nhưng nỗi khát khao được bày tỏ và gắn bó lứa đôi lớn
lao đến độ nó xuyên thấu qua mọi trở ngại, đạp bằng mọi cách ngăn. Bạch Điệp đã
chết nhưng Sinh vẫn không nguôi quên một lời yêu thương chưa từng thổ lộ, không
ngừng khát vọng nối máu mình để hồi sinh sự sống cho người yêu. Bạch Điệp nằm
dưới nấm mồ sâu nhưng vẫn ôm ấp “một khối tình chưa tan”, cô cố gắng hóa thân,
dẫu chỉ là một con bướm trắng với đôi cánh rách nát, để gặp lại Sinh và nên vợ nên
chồng cùng anh. Hàng loạt những chi tiết lạ lùng, kì ảo xuất hiện trong tác phẩm:
Bạch Điệp chết đi hóa thành con bướm trắng dẫn các đoàn xe qua những đoạn
đường nguy hiểm, con bướm trắng lại hiện hình là người trong cuộc gặp gỡ với
Sinh, Sinh có thể dùng máu của mình để nối lại sự sống cho Bạch Điệp, giúp hai
người có thể cùng chung sống với nhau như một gia đình hạnh phúc và họ sinh
toàn bướm và bướm. Những chi tiết ấy vốn không quá xa lạ với các môtip có trong
thế giới màu nhiệm của truyện cổ tích, như môtip về sự hóa thân người chết đi hóa
thành vật, vật lại đầu thai thành người, môtip người và ma lấy nhau… Những chi
tiết kì ảo ấy là cầu nối giúp Sinh thực hiện ước mơ của mình. Anh đã gặp lại Bạch
Điệp và ngỏ lời yêu cùng cô - cái ước ao thầm kín mà chiến tranh đã chôn giấu
trong anh. Cuộc hôn nhân của họ là kết thúc có phần lí tưởng và có hậu cho những
người yêu nhau trong thời bom đạn ác liệt. Thế nhưng, chi tiết kì lạ Bạch Điệp
không thể sinh con mà chỉ sinh toàn bướm là bướm cho thấy cái phần còn lại ngoài
cái chất lí tưởng và có hậu kia là sự không trọn vẹn, những tổn thất không gì có thể
bù đắp được của chiến tranh. Dù Sinh đã cố vá víu những vết thương của nó bằng
chính xương máu và sự tận tụy hi sinh của mình thì những nỗi đau của quá khứ chỉ
có thể giảm nhẹ theo thời gian chứ không thể làm lành lặn những nỗi đau mà chiến
tranh đã để lại.
Tóm lại, những bi thương, mất mát mà chiến tranh để lại không ngoại trừ
một ai. Không chỉ những người lính xông pha ngoài mưa bom lửa đạn mới chịu
đựng nỗi đau mà người ở lại - những người vợ, người mẹ - cũng sống triền miên
trong nỗi cô đơn, khắc khoải. Nhìn chung, những số phận đã từng bước qua chiến
tranh; có người còn sống, có người đã chết nhưng điểm chung quy tụ lại những
khát vọng, những mong mỏi về tình yêu, hạnh phúc trong quá khứ của họ lại là
những điều không tưởng và khó có thể thành hiện thực. Vì thế dù là truyện có yếu
tố kìa ảo, song không thể gọi đây là những câu truyện cổ tích bởi những yếu tố kì
ảo ấy không phải mang đến niềm hạnh phúc với một kết thúc mỹ mãn cho nhân vật
mà trái lại, nó càng làm tô đậm những bi kịch, mất mát không gì có thể bù đắp mà
chiến tranh để lại cho con người.
2.3.3. Người lính và sự tha hóa, biến chất
Trong những tác phẩm viết về chiến tranh sau 1975, bên cạnh hình tượng
những người lính cô đơn, khoắc khoải khi trở về cuộc sống đời thường, ta còn bắt
gặp hình ảnh những con người bị tha hóa, biến chất. Trong các truyện viết về chiến
tranh trước 1975, người lính bao giờ cũng hiện ra trong tư thế hiên ngang, hùng
dũng. Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. Song
trong những tác phẩm sau 1975, người lính hiện ra với bức chân dung đầy đặn,
nhiều chiều. Hiện ra trong các tác phẩm còn là những người lính với tư cách là con
người bình thường với những sai lầm, những ham muốn, dục vọng cá nhân của bản
thân. Họ - những người lính từng một thời cống hiến tuổi thanh xuân cho đất nước;
song khi trở về thời bình, trước sự thay đổi của cuộc sống, họ trở thành những con
người khác. Yếu tố kì ảo trong truyện đã góp phần bộc lộ những góc khuất ấy.
Đến với Trái tim con rắn, người đọc không khỏi ngỡ ngàng bởi những sự
việc kì lạ xảy ra với nhân vật Thuật. Với suy nghĩ “người nào đã chịu nhiều gian
khổ, sống chết, thì bây giờ phải được hưởng”, Thuật ra sức ăn chơi trác táng để bù
đắp những gian khổ đó. Trong buổi tiệc định mệnh, ông đã tự mình nuốt vào bụng
một trái tim con rắn vẫn còn đang phập phồng nhịp đập. Suốt đêm hôm đó, ông bị
đau đớn bởi một con rắn chui ra từ lồng ngực. Cuối cùng, chính tay đã bóp vỡ nó ra
“sự trác táng đã đi đến giới hạn cuối cùng của nó”. Sáng hôm sau, khi giải phẩu tử
thi, mọi người đều rởn óc khi thấy một trái tim nhỏ xíu đã bị vỡ đôi giữa lồng ngực
của ông. Cái chết của Thuật là lời cảnh báo về sự băng hoại đạo đức của một bộ
phận những người từng có những cống hiến cho Tổ quốc.
Trong Con đò và người khách lạ, vì sợ chết, Khôi đã không dám nả súng
vào bọn giặc khiến Đông - người bạn thân của mình trúng đạn. Anh che giấu điều
đó để thuận lợi đến với người yêu của Đông. Sau này, khi gặp lại người đồng đội
ấy trong hình hài dị dạng, một lần nữa anh lại tìm cách che giấu lỗi lầm trước đây
vì không muốn ảnh hưởng đến hạnh phúc của riêng mình. Chỉ trong giấc mơ, Khôi
mới sống thật với chính mình, mới dám đối mặt với tội lỗi mà mình gây ra. Những
lời Khôi nói trong giấc mơ “Ta có lỗi gì? Ừ, lúc đó tao đã sợ chết nên tao không
dám nổ súng vào bọn lính đi tuần, nhưng sau đó tao đã bò vào tìm mày, mày đã bị
chúng nó kéo đi rồi… Phải tao có tội với mày bởi tao là kẻ hèn nhát, một tên khốn
nạn đã bỏ rơi bạn bè trong lúc lâm nguy. Hãy tha thứ cho tao, Đông ơi!” thể hiện
những mặc cảm tội lỗi đè nén trong lòng của kẻ gây nên lầm lỗi, song trong cuộc
đời thực, anh vẫn không dám vượt qua sự hèn nhát của bản thân để thú nhận điều
đó với mọi người.
Cũng bằng mô-tip giấc mơ, truyện ngắn Trừng phạt đã đưa người đọc lần
vào thế giới tâm hồn với những ám ảnh tội lỗi của nhân vật Tuyển. Mỗi lần bước
vào thế giới của những cơn mộng mị là mỗi lần ông Tuyển đối diện với sự phán
quyết của chính lương tâm mình. Những giấc mơ đã đưa ông Tuyển ngược dòng
thời gian quay về những năm tháng xa xưa để ngẫm lại bao thay đổi trong cuộc đời
mình. Sau chiến tranh, trở về với vô số bằng khen, giấy khen về những thành tích
đã đóng góp cho Tổ quốc, ông nghiễm nhiên được đứng vào hàng ngũ của Đảng,
được cất nhắc nhiều chức vị quan trọng. Địa vị, tiền tài, vật chất là những chất xúc
tác nguy hiểm khiến người ta dễ bị cám dỗ và sa ngã vào vũng lầy tội ác lúc nào
không hay. Ông đã nhanh chóng biến chất thành một con người nhẫn tâm và đê
tiện, sẵn sàng ra tay hãm hại ai nghịch ý mình. Ông mất nhân tính đến nỗi ra tay
cưỡng hiếp Thanh - là con của một người đồng đội thân thiết năm xưa. Bao nhiêu
điều tội lỗi chỉ vỡ òa trước lời kết tội đanh thép của Thanh. Chính những lời kết tội
này đã không ngừng ám ảnh ông, khiến tâm hồn ông không thể nào thanh thản với
những tội lỗi đã gây nên. Sự trừng phạt về pháp luật đôi khi con người có thể thoát
khỏi, nhưng sự trừng phạt trong tâm hồn có lẽ khó khăn lắm mới có thể vượt qua.
Giấc mơ – đó chính là lời sám hối chân thành trong chính trái tim ông Tuyển, trái
tim của một người lính còn sót lại chút lương tâm con người. Giấc mơ – đó cũng
chính là sự trừng phạt đích đáng nhất mà ông phải gánh lấy để bù đắp những tội lỗi
đã gây ra.
Tuy số lượng không nhiều, song các truyện này vẫn để lại dấu ấn trong lòng
người đọc. Những tác phẩm là lời cảnh tỉnh sâu sắc đến một bộ phận không nhỏ
những người lính trước sự cám dỗ của thế lực và đồng tiền. Đó cũng là lời nhắc
nhở đến xã hội: cần cảnh giác, và loại trừ những mầm mống xấu xa làm ảnh hưởng
đến hình tượng đẹp đẽ, thiêng liêng của những người chiến sĩ trong lòng mọi
người. Đặc biệt, bằng mô-tip giấc mơ, các tác giả đã đưa người đọc khám phá thế
giới tâm tư của những người lính, những dằn xé bên trong tâm hồn bởi những sai
lầm nghiêm trọng mà họ đã gây nên.
Chương 3: Yếu tố kì ảo từ góc nhìn thể tài, đời sống tâm linh và sắc thái thẩm mỹ
3.1. Yếu tố kì ảo từ góc nhìn thể tài tiểu thuyết, truyện ngắn
3.1.1. Đặc điểm thể tài tiểu thuyết, truyện ngắn
Tiểu thuyết và truyện ngắn là hai thể tài chính trong loại tác phẩm tự sự. Cả
hai đều chung đặc điểm là “tập trung phản ảnh đời sống, con người qua các biến
cố, sự kiện xảy ra với nó, có tác dụng phơi bày những mặt nhất định của bản chất
con người để tái hiện đời sống một cách khách quan” [63, 376]. Tuy nhiên, nếu
như tiểu thuyết là “một hình thức tự sự cỡ lớn, có khả năng trong việc tái hiện với
một quy mô lớn những bức tranh hiện thực đời sống” [36, 184], thì truyện ngắn lại
“là hình thức ngắn của tự sự”, có thể kể về một cuộc đời hay một đoạn đời, thậm
chí một sự kiện hay một “chốc lát” trong cuộc sống nhân vật. Trong truyện ngắn,
với dung lượng hạn chế, các nhân vật chỉ hiện lên vào thời điểm có ý nghĩa quyết
định tới số phận và thường chỉ gắn với một hoặc hai sự kiện tiêu biểu. Ngược lại,
trong tiểu thuyết, với khuôn khổ rộng lớn, các tác giả được tự do khai thác nhân vật
một cách toàn diện tỉ mỉ theo từng bước thăng trầm của số phận.
Có thể nói nếu ví tiểu thuyết là câu chuyện về số phận, về cuộc đời nhân vật
thì truyện ngắn là một lát cắt trong cuộc đời nhân vật. Tiểu thuyết là sự nếm trải
của nhân vật qua các sự kiện, biến cố thì ở truyện ngắn, nhân vật chỉ hiện lên trong
tác phẩm vào những thời khắc có ý nghĩa quyết định, vì lẽ đó, khi nhắc đến truyện
ngắn, ta lại nghĩ ngay đến tình huống truyện. Chính sự giống và khác nhau về đặc
điểm thể loại đã chi phối ít nhiều đến sự tham dự của yếu tố kì ảo vào tổ chức cốt
truyện, đặc điểm nhân vật của tiểu thuyết, truyện ngắn.
3.1.2. Yếu tố kì ảo - Sự giống và khác nhau trong thể tài tiểu thuyết,
truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975.
Như đã tìm hiểu ở chương I, các dạng thức kì ảo như: mô-tip giấc mơ, mô-
tip hồn người chết trở về, những sự việc kinh dị, kì lạ và những lời nói, hành động
kì lạ của nhân vật đều xuất hiện trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh
sau 1975. Tuy nhiên do sự chi phối bởi đặc điểm thể loại, sự xuất hiện của các dạng
thức kì ảo ở truyện ngắn sẽ có những điểm tương đối khác biệt so với khi xuất hiện
trong tiểu thuyết.
Bảng so sánh tần số xuất hiện các dạng thức kì ảo trong tiểu thuyết, truyện
ngắn
Dạng thức kì ảo Tiểu thuyết Truyện ngắn
(5 truyện) (45 truyện)
Tổng số truyện xuất hiện (14/50 truyện) Mô-tip giấc mơ
Tần số xuất hiện (35 lần/14 truyện)
Tổng số Tần số Tổng số Tần số
truyện truyện
1/5 truyện 16/35 13/45 truyện 19/35 lần
lần
Tổng số truyện xuất hiện (17/50 truyện) Mô-tip Hồn người
chết trở về Tần số xuất hiện (33 lần/17 truyện)
3/5 truyện 17/33 14/45 truyện 16/33 lần
lần
Tổng số truyện xuất hiện (10/50 truyện) Những sự việc kinh
dị, kì lạ Tần số xuất hiện (24 lần/10 truyện)
3/5 truyện 14/24 7/45 truyện 10/24 lần
lần
Tổng số truyện xuất hiện (5/50 truyện) Lời nói, hành động
kì lạ của nhân vật Tần số xuất hiện (6 lần/5 truyện)
1/5 truyện 2/6 lần 4/45 truyện 4/6 lần
Tổng số truyện xuất hiện (4/50 truyện) Sự biến dạng, hóa
thân của nhân vật Tần số xuất hiện (6 lần/4 truyện)
2/5 truyện 4/6 lần 2/45 truyện 2/6 lần
(Bảng khảo sát 1)
Bảng khảo sát kiểu loại cốt truyện trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về
chiến tranh sau 1975
Kiểu loại cốt truyện Tiểu thuyết Truyện ngắn
(5 truyện) (45 truyện)
3/5 truyện 9/45 truyện Yếu tố kì ảo tham dự
vào diễn biến cốt truyện.
2/5 truyện 33/45 truyện Yếu tố kì ảo đóng vai
trò biểu tượng, xuất hiện
song hành cùng cốt
truyện.
0/5 truyện 3/45 truyện Yếu tố kì ảo tham dự
vào diễn biến một cốt
truyện trong những tác
phẩm có hai cốt truyện
đan xen.
(Bảng khảo sát 2)
Theo bảng khảo sát (1) ta thấy mô-tip giấc mơ xuất hiện với tần số khá dày
đặc (35 lần/14 truyện), tuy nhiên chỉ với 1 tiểu thuyết mô-tip này đã chiếm tỉ lệ khá
lớn với tổng số lần xuất hiện 16/35 lần. Tương tự dạng thức hồn người chết trở về
xuất hiện 33 lần/17 truyện, trong đó, xuất hiện ở tiểu thuyết là 17/33 lần. Những sự
việc kinh dị, kì lạ có tần số xuất hiện là 24 lần/10 truyện, xuất hiện trong tiểu thuyết
là 14/24 lần. Ở hai dạng thức còn lại, tuy xuất hiện ít, song người đọc cũng dễ dàng
nhận thấy sự chênh lệch này ở hai thể loại. Bên cạnh đó, trong quá trình khảo sát
các tác phẩm, chúng tôi nhận thấy tần số xuất hiện các dạng thức kì ảo ở tiểu thuyết
dày đặc và đa dạng hơn so với khi xuất hiện trong truyện ngắn.
Đối với thể loại tiểu thuyết, do đặc trưng thể tài quy định, các tác giả có điều
kiện khai thác nhân vật một cách tỉ mỉ theo từng bước thăng trầm của số phận.
Trong các tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975, để tái hiện một cách chân thực
số phận cũng như những suy nghĩ, trăn trở, những nỗi niềm riêng tư của những
người lính bước ra từ cuộc chiến, các tác giả đã sử dụng yếu tố kì ảo như một công
cụ hỗ trợ đắc lực. Với dung lượng dài, số phận của những người lính không hiện ra
trong một khoảnh khắc, chốc lát như ở truyện ngắn mà nó là một quãng thời gian
kéo dài xuyên suốt từ chiến tranh đến lúc hòa bình. Ở những tiểu thuyết yếu tố kì
ảo tham dự vào sự diễn biến của cốt truyện (3/5 tác phẩm), ta thấy các dạng thức kì
ảo xuất hiện đa dạng và tần số dày đặc.Trong các tiểu thuyết, đặc biệt là ở tác phẩm
Nỗi buồn chiến tranh, người đọc có thể tiếp xúc với hàng loạt những mô-tip kì ảo
khác nhau. Tác phẩm là một sự kết hợp hài hòa giữa các dạng thức kì ảo. Chính sự
kết hợp này đã tạo sức hút, lôi kéo người đọc không ngừng theo dõi những sự kiện,
biến cố xảy ra trong cuộc đời nhân vật Kiên thông qua dòng hồi ức của anh. Bên
cạnh đó,những chi tiết kì ảo đã góp phần tạo nên không khí chết chóc, ghê rợn của
chiến tranh. Với tổng số lần xuất hiện là 16 lần, mô-tip giấc mơ đã giúp người đọc
từng bước khám phá thế giới tinh thần đầy uẩn khúc của Kiên, những giấc mơ về
một cuộc chiến tranh khốc liệt và đẫm máu trở thành một phần không thể tách rời
trong cuộc sống của anh khi hòa bình lặp lại. Điều này chứng minh quá khứ về
cuộc chiến tranh đã qua không thể nào phai nhòa trong tâm trí Kiên. Đi cùng với
mô-tip giấc mơ là mô-tip hồn người chết trở về. Với tần số xuất hiện tương đối
nhiều (12 lần), dạng thức kì ảo này đã giúp người đọc hình dung về một cuộc chiến
tranh vô cùng khốc liệt mà gắn liền với nó bao giờ cũng là cái chết. Sự xuất hiện
của dạng thức này đã góp phần giải thích rõ vì sao mà dù sống trong hòa bình, Kiên
cũng không thể nào lãng quên được những ngày tháng đã qua, và vì sao mà Kiên
luôn đắm chìm trong những giấc mơ hãi hùng, bên cạnh đó, sự xuất hiện của dạng
thức những sự việc kinh dị, kì lạ; sự hóa thân của nhân vật là cách mà tác giả giải
thích những sự bí ẩn, kì lạ trong chiến tranh, mà nguyên nhân chính là sự khốc liệt
của nó. Chính sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên những loài măng với những
tảng thịt ròng ròng máu, sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên những tiếng cười
ma quái, ghê rợn, và còn biết bao điều kì lạ nữa được tạo ra bởi sự khốc liệt của
cuộc chiến đã qua. Sự kết hợp hài hòa giữa các dạng thức kì ảo đã dẫn dắt người
đọc theo dòng hồi ức của Kiên, trở về với quá khứ, chứng kiến và thấu hiểu được
những di chứng mà chiến tranh đã để lại cho con người. Đó không chỉ là nỗi đau về
thể xác mà còn là những thương tổn về mặt tinh thần.
Đến với tiểu thuyết Tàn đen đốm đỏ, người đọc như bước vào thế giới cõi
âm, tận mắt chứng kiến cuộc sống của con người sau khi chết. Tác phẩm đã tái hiện
lại cuộc hành trình của những người còn sống tìm lại hài cốt đồng đội đã hi sinh
trong chiến tranh. Trong tác phẩm, song song với một thế giới cõi dương còn là
một thế giới cõi âm với những tâm tư, tình cảm của linh hồn những người lính đã hi
sinh. Song song với những người còn sống đang đi tìm hài cốt của đồng đội là
những linh hồn đang khao khát trở về với gia đình, bạn bè. Với độ dày 271 trang,
tác giả có đầy đủ điều kiện khai thác thế giới cõi âm một cách toàn vẹn và sinh
động. Trong tác phẩm, tác giả đã dành trọn 4/15 chương để đi sâu thể hiện cụ thể
chi tiết mô-tip hồn người chết trở về. Trong toàn bộ 4 chương, câu chuyện về anh
lính tên Phương từ lúc hi sinh, trở thành hồn ma trong hang dơi đến lúc hài cốt trở
về với gia đình và linh hồn siêu thoát được tái hiện một cách cụ thể, sinh động.
Trong suốt quá trình đó, có nhiều sự kiện, biến cố xảy đến, Phương được kết bạn
với ông già chín năm (cũng là một người lính đã hi sinh), chứng kiến cái chết của
cô thanh niên xung phong, của tên lính ngụy. Linh hồn anh cùng tồn tại với những
hồn ma đó trong hang dơi, cùng trãi qua những chuỗi ngày trăn trở, mong muốn
được quay về đoàn tụ với người thân. Với sự tham dự của yếu tố kì ảo vào cốt
truyện, câu chuyện về những người lính phải bỏ thân lại nơi chiến trường được tái
hiện cụ thể, chân thật. Người đọc cảm thông sâu sắc hơn về những tâm nguyện
chưa hoàn thành của những người lính đã ngã xuống. Trong chiến tranh, biết bao
người đã nằm lại vĩnh viễn nơi chiến trường mà đến hôm nay hài cốt của họ vẫn
còn nằm đâu đó nơi cánh rừng Trường Sơn bạt ngàn. Ở tiểu thuyết Hồn trúc, tuy
yếu tố kì ảo có tham dự vào sự diễn biến của cốt truyện (đó là việc nhân vật vô tình
có được cây sáo trúc trong tay, bắt đầu từ đó rất nhiều những việc kì lạ xảy ra trong
cuộc đời nhân vật. Một trong những việc kì lạ mà nhân vật gặp đó là trong lúc ở
chiến trường, trong tình thế vô cùng nguy hiểm ngàn cân treo sợi tóc, tiếng sáo bất
ngờ vang lên đã tạo nên sức mạnh giúp quân ta chuyển bại thành thắng). Song cốt
truyện không nói nhiều đến chiến tranh; chiến tranh chỉ là một trong những biến cố
xảy ra trong cuộc đời nhân vật.
Bên cạnh đó, trong những tiểu thuyết có yếu tố kì ảo đóng vai trò biểu tượng
(2/5 tác phẩm), ta thấy các dạng thức kì ảo xuất hiện không đa dạng như các tiểu
thuyết có yếu tố kì ảo tham dự vào diễn biến của cốt truyện. Ở những truyện này,
các dạng thức kì ảo thường chỉ xuất hiện trong một vài tình huống nhất định. Theo
kết quả khảo sát tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng, có hai dạng thức kì ảo là mô-tip hồn
người chết trở về và dạng thức những lời nói, hành động kì lạ của nhân vật. Trong
tác phẩm, hai dạng thức trên chỉ xuất hiện trong một vài tình huống nhất định. Tình
huống thứ nhất, khi nhân vật Hai Hùng một mình vào nghĩa trang, tác giả đã sử
dụng dạng thức hồn người chết trở về để tạo không khí ma quái cho tác phẩm, đồng
thời cũng tạo cơ hội để nhân vật tự vấn lương tâm; qua đó thể hiện những dằn vặt,
trăn trở nội tâm của người lính còn sống trở về sau chiến tranh. Dạng thức những
lời nói, hành động kì lạ xuất hiện lúc Viên bị trúng đạn chết sau khi có những lời
nói kì lạ như là một sự dự báo trước cho cái chết của mình. Sự xuất hiện của hai
dạng thức kì ảo trên không làm thay đổi nội dung cốt truyện. Tương tự, trong tiểu
thuyết Bến không chồng, dạng thức kì ảo xuất hiện khi Hạnh rơi vào trạng thái mê
sảng, lúc này cô có cảm giác như vầng trăng như to ra và đang sà xuống liếm khắp
cơ thể cô. Sự xuất hiện của dạng thức kì ảo trong tác phẩm không làm thay đổi nội
dung cốt truyện mà chỉ có ý nghĩa giúp người đọc cảm thông sâu sắc hơn cho tình
cảnh đáng thương của những người phụ nữ trong chiến tranh.
Qua sự khảo sát có thể thấy tiểu thuyết viết về chiến tranh số lượng rất
nhiều, song những tiểu thuyết viết về chiến tranh có sử dụng yếu tố kì ảo lại khá
hạn chế. Ở những tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975 có yếu tố kì ảo, ta có thể
phân thành hai dạng, một dạng tiểu thuyết yếu tố kì ảo tham dự hoàn toàn vào cốt
truyện, chi phối diễn biến câu chuyện cũng như liên quan rất lớn đến cuộc đời nhân
vật. Dạng thứ hai là dạng tiểu thuyết mà yếu tố kì ảo chỉ tham dự với vai trò biểu
tượng, xuất hiện song hành cùng cốt truyện. Ở dạng thứ nhất, ta thấy các dạng thức
kì ảo tham dự vào cốt truyện đa dạng, phong phú, đặc biệt tác giả có điều kiện khai
thác sâu các dạng thức kì ảo một cách tỉ mỉ, chi tiết. Chính điều đó đã góp phần tạo
nên sức hút của câu chuyện, mang lại sự tò mò, thích thú cho độc giả khi theo dõi
câu chuyện, đồng thời cũng giúp người đọc hiểu hơn về những góc khuất của cuộc
chiến đã qua. Tuy nhiên các tiểu thuyết viết về chiến tranh có cốt truyện hoàn toàn
nhuốm màu sắc kì ảo rất ít. Theo khảo sát của chúng tôi, chỉ có 2/5 tiểu thuyết dạng
này. Ở dạng cốt truyện thứ hai, ta thấy các dạng thức kì ảo xuất hiện rất ít trong tác
phẩm, sự tham dự của các dạng thức này chủ yếu giúp người đọc hiểu rõ hơn về
hoàn cảnh hoặc những tâm sự thầm kín khó giãy bày của nhân vật. Dạng tiểu thuyết
này cũng xuất hiện rất ít. Bên cạnh đó còn một dạng tiểu thuyết có cốt truyện mang
yếu tố kì ảo, song tiểu thuyết này không đề cập nhiều đến chiến tranh, chiến tranh
chỉ được nhắc đến ở một vài trường đoạn trong cốt truyện. Chẳng hạn như tiểu
thuyết Ngồi (Nguyễn Bình Phương), hoặc Hồn trúc (Nguyễn Văn Thông).
Ở thể tài truyện ngắn, theo kết quả khảo sát chúng tôi nhận thấy so với tiểu
thuyết, các truyện ngắn viết về chiến tranh sử dụng yếu tố kì ảo có số lượng phong
phú hơn (45 truyện). Đặc biệt ở các truyện ngắn bên cạnh những dạng cốt truyện
quen thuộc như dạng truyện có yếu tố kì ảo tham dự vào diễn biến cốt truyện (9/45
truyện), hoặc có yếu tố kì ảo đóng vai trò biểu tượng, xuất hiện song hành cùng cốt
truyện (33/45 truyện), ta thấy còn xuất hiện thêm dạng truyện yếu tố kì ảo tham
gia vào diễn biến của một cốt truyện trong những tác phẩm có hai cốt truyện đan
xen (3/45 truyện).
Ở những truyện ngắn có yếu tố kì ảo tham dự vào diễn biến cốt truyện (9/45
truyện), yếu tố kì ảo cũng là một công cụ đắc lực giúp tác giả khai thác thế giới tâm
tư, tình cảm của những người lính sau chiến tranh, giúp người đọc cảm nhận được
đời sống nội tâm của họ. Tuy nhiên, các dạng thức kì ảo tham dự vào tác phẩm
không đa dạng như khi xuất hiện trong tiểu thuyết. Ở các truyện như Bến trần gian,
Bướm trắng, Cặp bồ với ma, Vòm đa xanh, Đốm lửa, Trái tim con rắn,… đều xuất
hiện duy nhất một dạng thức kì ảo. Bên cạnh đó, do đặc trưng thể tài quy định,
thông thường truyện ngắn chỉ kể về một cuộc đời hay một đoạn đời, thậm chí một
sự kiện hay một “chốc lát” trong cuộc sống nhân vật. Vì vậy cũng đồng thời xuất
hiện xuyên suốt trong tác phẩm, song các dạng thức kì ảo trong truyện ngắn không
dàn trải, kéo dài liên tục gắn bó xuyên suốt với cuộc đời của nhân vật mà chỉ hiện
lên trong một khoảnh khắc, một chốc lát. Chẳng hạn Bến trần gian là câu chuyện
về một linh hồn người lính đã hi sinh rất nhiều năm đang tìm cách trở về quê xưa.
Trong truyện cuộc hành trình trở về của Lăng xảy ra ngay trong một đêm. Cũng
trong đêm đó anh đã gặp lại người yêu xưa, gặp lại người mẹ già và hoàn thành tâm
nguyện bao nhiêu năm của mình. Câu chuyện ngắn gọn song để lại ấn tượng sâu
sắc trong lòng người đọc. Yếu tố kì ảo đã đưa người đọc bước vào thế giới tâm
linh, để hiểu hơn về những mất mát mà chiến tranh để lại, nó không chỉ là nỗi đau
của người ở lại, mà những người đã ra đi vẫn còn đau đáu không yên bởi những
nguyện vọng không thể hoàn thành. Tương tự truyện ngắn Đốm lửa kể về chuyện
hai cô gái đang đi đến nơi hẹn với một đồng đội, trong đêm ấy hai cô bị lạc đường
chỉ quanh quẩn trong một vùng đầm lầy, đến sáng hôm sau hai cô phát hiện người
đồng đội đã hi sinh và xác của anh ở nằm ngay bên cạnh hai cô. Tất cả những điều
kì lạ: những đốm lửa ma trơi, những giấc mơ kì lạ mà hai cô gặp đều diễn ra ngay
trong một đêm. Sáng hôm sau, khi hai cô gái phát hiện ra người đồng đội đã hi sinh
cũng là lúc câu chuyện kết thúc, các dạng thức kì ảo cũng hoàn thành vai trò của
nó ở đây. Người đọc không biết có phải linh hồn của Thanh đã hóa thành những
đốm lửa ma trơi dẫn đường và đã đi vào giấc mơ của hai cô hay đó chỉ là một sự
trùng hợp ngẫu nhiên. Tuy nhiên yếu tố kì ảo đã giúp người đọc hiểu hơn về những
người lính, dù đã hi sinh nhưng họ vẫn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ, dù chết song
hồn thiêng của họ vẫn luôn theo và phù hộ cho những người đồng đội của mình.
Hay như truyện Trái tim con rắn, sự vệc kì lạ mà Thuật gặp chỉ xảy ra sau khi ông
uống ly rượu máu rắn. Suốt đêm hôm đó, chỉ một mình ông đối mặt và chịu đựng
những cơn đau giày vò do trái tim con rắn mà ông uống phải. Sáng hôm sau, mọi
người chỉ thấy Thuật nằm chết mà không hề biết những điều kì lạ đã xảy ra trong
suốt đêm hôm đó. Trong truyện, dạng thức sự việc kinh dị, kì lạ đã chuyển tải đến
người đọc một thông điệp ý nghĩa sức cám dỗ của quyền lực, vật chất sẽ khiến con
người trở nên biến chất, mất nhân tính. Con người không thể tồn tại một khi sự sa
đọa đã đi đến giới hạn cuối cùng của nó.
Chiếm số lượng nhiều nhất là dạng truyện có yếu tố kì ảo đóng vai trò biểu
tượng xuất hiện song hành cùng cốt truyện (33/45 tác phẩm). Cũng giống như thể
loại tiểu thuyết, ở những truyện ngắn mà yếu tố kì ảo đóng vai trò biểu tượng các
dạng thức kì ảo chỉ xuất hiện ở một vài trường đoạn trong tác phẩm, bên cạnh đó
vai trò của nó khá mờ nhạt, người đọc có thể lược bỏ những dạng thức kì ảo này đi
mà không làm thay đổi nội dung cốt truyện. Tuy nhiên, xét về mặt ý nghĩa, sự hiện
diện của các dạng thức kì ảo này trong tác phẩm vẫn mang một giá trị nhất định.
Xuất hiện nhiều nhất trong những truyện này là dạng thức giấc mơ (16/33 truyện).
Ở tác phẩm Người sót lại của rừng Cười ta có thể lược bỏ chi tiết những giấc mơ
của Thảo mà không làm thay đổi nội dung câu chuyện. Tuy nhiên, sự hiện diện của
dạng thức kì ảo này đã giúp người đọc cảm nhận sâu sắc hơn về những vết thương
nơi tâm hồn người lính mà chiến tranh đã để lại. Trong truyện ngắn Hai người đàn
bà xóm Trại, những giấc mơ chất chứa nỗi chờ mong luôn hiện hữu trong tác phẩm.
Chính nhờ những giấc mơ ấy mà người đọc thấu hiểu và cảm thông sâu sắc cho nỗi
bất hạnh của những người vợ lính. Trong chiến tranh, một ước muốn vô cùng giản
đơn “có với hai anh một đứa con” cũng trở nên quá xa vời, không thể nào trở thành
hiện thực. Vì lẽ đó mà mặc dù không phải là thành phần chính của câu chuyện,
song nếu thiếu dạng thức kì ảo này, ý nghĩa của câu chuyện sẽ giảm đi rất nhiều.
Hay ở truyện ngắn Trừng phạt, mô-tip giấc mơ đã giúp người đọc hiểu được những
nỗi niềm ăn năn, ray rứt đang từng ngày dằn xé lương tâm của một người lính lầm
lỗi. Tuy không đóng vai trò chính chi phối cốt truyện, song nếu lược bỏ chi tiết kì
ảo này, người đọc sẽ không thể cảm nhận hết sự đau khổ, ray rứt đó. Ngoài mô-tip
giấc mơ, những dạng thức kì ảo khác như mô-tip hồn người chết trở về, dạng thức
những sự việc kinh dị, kì lạ; lời nói, hành động kì lạ của nhân vật cũng xuất hiện
khá nhiều trong những truyện ngắn có kiểu cốt truyện này. Qua sự khảo sát, chúng
tôi nhận thấy, tất cả các dạng thức kì ảo đều thấy xuất hiện trong các truyện ngắn
có yếu tố kì ảo đóng vai trò biểu tượng. Có thể nói đây là kiểu loại cốt truyện có
các dạng thức kì ảo đa dạng nhất trong các kiểu loại cốt truyện có yếu tố kì ảo. Tuy
các dạng thức kì ảo không đóng vai trò chính chi phối thành phần cốt truyện, song
hầu hết ở mỗi tác phẩm, các tác giả đều chủ tâm thêm thắt, gia giảm đan lồng các
yếu tố kì ảo vào yếu tố thực như một thủ pháp nghệ thuật nhằm chuyển tải nội dung
đến người đọc. Chính sự hiện diện của các yếu tố kì ảo này trong tác phẩm đã góp
phần tạo nên nét đặc sắc riêng cho truyện. Bên cạnh đó trong những kiểu truyện
ngắn này, ở một số tác phẩm, chúng tôi nhận thấy có sự hiện diện của nhiều dạng
thức kì ảo. Chẳng hạn ở truyện Người sót lại của rừng Cười, bên cạnh mô-tip giấc
mơ, ta còn thấy xuất hiện dạng thức những sự việc kinh dị, kì lạ. Câu chuyện về
những cô gái giữ kho quân nhu giữa cánh rừng Trường Sơn bỗng dưng biến thành
những con vượn người vừa khóc vừa cười, vừa dứt tóc, xé áo khiến người đọc
không khỏi ngậm ngùi, xót xa cho số phận của những người con gái sinh ra trong
thời chiến tranh. Đồng thời, chi tiết này cũng góp phần giải thích vì sao những cơn
ác mộng về chiến tranh luôn thường trực trong giấc ngủ của Thảo sau ngày trở về.
Tương tự, ở truyện Trừng phạt, ngoài mô-tip giấc mơ, tác giả cũng đã sử dụng
dạng thức những sự việc kinh dị, kì lạ. Cùng với giấc mơ, dạng thức kì ảo này đã
thể hiện được những trăn trở, dằn vặt nội tâm, những nỗi ân hận muộn màng về lỗi
lầm đã gây của một người lính.
Dạng truyện có hai cốt truyện đan xen cũng được tìm thấy trong các tác
phẩm viết về chiến tranh sau 1975. Qua kết quả khảo sát, ở thể tài tiểu thuyết không
có kiểu loại cốt truyện này. Ở thể tài truyện ngắn, kiểu loại cốt truyện này có xuất
hiện, song số lượng không nhiều (3/45 truyện). Ở những truyện ngắn này, các tác
giả lồng ghép hai cốt truyện vào nhau, cốt truyện thứ nhất xảy ra trong thời bình,
cốt truyện thứ hai là những sự việc xảy ra trong chiến tranh thường được kể lại từ
một nhân vật trong cốt truyện thứ nhất. Các dạng thức kì ảo xuất hiện ở cốt truyện
thứ hai. Ở truyện ngắn Tiếng chuông chiều, yếu tố kì ảo nằm trong câu chuyện kể
của vị sư già về một chuyện kì lạ xảy ra trong chiến tranh. Dạng thức kì ảo được sử
dụng trong tác phẩm là mô-tip hồn người chết trở về. Nội dung cốt truyện thứ hai là
câu chuyện về một người lính ngụy vô tình gặp được hài cốt của một người lính
Việt cộng, anh đã chôn cất bộ hài cốt cẩn thận. Kể từ đó linh hồn của người lính
này luôn theo phù hộ, giúp anh ta vượt qua rất nhiều những nguy hiểm. Trong
truyện, yếu tố kì ảo đóng vai trò chính chi phối nội dung cốt truyện. Ở hai tác phẩm
còn lại, cũng có sự hiện diện của yếu tố kì ảo, song vai trò của nó rất mờ nhạt. Ở
đây, yếu tố kì ảo chỉ đóng vai trò biểu tượng, có thể lược bỏ hoàn toàn mà không
làm phương hại đến nội dung cốt truyện. Ở truyện Tiếng chuông trôi trên sông, câu
chuyện về cuộc đời của một người lính được kể lại qua xấp bản thảo nằm trong tay
một nhà báo. Dạng thức kì ảo được sử dụng ở cốt truyện thứ 2 là mô-tip giấc mơ.
Đó là câu chuyện về cuộc đời của một người lính. Trong những năm tháng chiến
tranh ác liệt, người đàn ông đã phải từ biệt người vợ mới cưới đi chiến đấu. Vào lúc
thập tử nhất sinh, đối mặt với cái chết bởi cơn sốt rét rừng ác tính, hình ảnh người
vợ hiện ra chập chờn trong giấc mơ đã kéo ông về với cuộc sống. Lược bỏ dạng
thức kì ảo này, nội dung câu chuyện vẫn không bị ảnh hưởng nhiều. Tương tự, ở
truyện ngắn Họ đã trở thành đàn ông, dạng thức kì ảo xuất hiện trong luận văn cuối
khóa của cô sinh viên khoa văn. Đó là câu chuyện về một người phụ nữ trong chiến
tranh dám hi sinh mình để giúp những người lính trẻ trước lúc hi sinh được một lần
trở thành đàn ông. Sau khi chị chết, những câu chuyện huyền thoại về chị lan
truyền khắp mặt trận. Người ta kể rằng, khi bom tọa độ bất ngờ chụp xuống suối,
xác chị văng thành ngàn vạn mảnh. Sau đó, khu rừng ấy trở nên xanh tốt kì lạ, hoa
cỏ, cây lá chim chóc chen nhau ríu rít. Đạn bom, chất độc cũng không thể nào hủy
diệt được khu rừng ấy. Có thể lược bỏ chi tiết này mà vẫn không làm thay đổi nội
dung câu chuyện. Tuy nhiên sự có mặt của dạng thức kì ảo những sự việc kinh dị,
kì lạ đã góp phần thể hiện lòng trân trọng, cảm phục trước sự hi sinh thầm lặng, cao
đẹp của người phụ nữ mà không phải ai cũng có thể làm được.
Như vậy, ở thể tài truyện ngắn, chúng tôi nhận thấy, bên cạnh những kiểu
dạng cốt truyện quen thuộc như kiểu truyện có sự tham dự của yếu tố kì ảo vào
diễn biến cốt truyện (1), kiểu truyện mà yếu tố kì ảo chỉ đóng vai trò biểu tượng
xuất hiện song hành cùng cốt truyện (2), còn xuất hiện thêm dạng truyện lồng
truyện (3), trong đó yếu tố kì ảo thường nằm ở cốt truyện thứ hai. Qua kết quả khảo
sát, kiểu cốt truyện thứ hai chiếm số lượng nhiều nhất trong các truyện ngắn viết về
chiến tranh có sử dụng yếu tố kì ảo sau 1975. Các dạng thức kì ảo tham dự vào kiểu
truyện này khá đa dạng, tuy nhiên các dạng thức này không đóng vai trò chính chi
phối nội dung câu chuyện. Với những truyện này tuy yếu tố kì ảo không đủ sức tạo
nên một không khí mờ ảo, liêu trai bao trùm tác phẩm, song không vì thế mà ta có
thể lược bỏ yếu tố kì ảo một cách tùy tiện. Đối với những cốt truyện có sự tham dự
của yếu tố kì ảo, các dạng thức xuất hiện trong truyện chủ yếu là mô-tip hồn người
chết trở về. Ở một vài tác phẩm còn xuất hiện dạng thức những sự việc kinh dị, kì
lạ. Kiểu cốt truyện này thường để lại ấn tượng khá sâu sắc trong lòng người đọc.
Đến với những tác phẩm này, ta như được bước vào thế giới bãng lãng sương khói
huyền ảo của thế giới cổ tích với những phép màu siêu nhiên, huyền bí. Bên cạnh
đó sự xuất hiện dạng truyện lồng truyện cũng đem lại nét mới cho các truyện ngắn
viết về chiến tranh sau 1975. Tuy nhiên, đa số các tác giả chỉ chú trọng xây dựng
những dạng cốt truyện truyền thống mà ít quan tâm đến dạng truyện có hai cốt
truyện đan xen. Có thể vì thế mà kiểu truyện này xuất hiện khá ít và không tạo
được dấu ấn nhiều so với các kiểu truyện còn lại. Do đặc trưng thể tài quy định,
truyện ngắn chỉ kể về một cuộc đời hay một đoạn đời, thậm chí một sự kiện hay
một “chốc lát” trong cuộc sống nhân vật. Vì vậy dù có mặt ở kiểu loại cốt truyện
nào đi nữa, các dạng thức kì ảo cũng không dàn trải, kéo dài liên tục, gắn bó xuyên
suốt với cuộc đời của nhân vật như ở tiểu thuyết mà chỉ hiện lên trong một khoảnh
khắc, một chốc lát. Mặc dù vậy, nó cũng đủ để người đọc thấu hiểu được những
tâm tư, tình cảm của nhân vật, những mảng màu sáng, tối của cuộc chiến đã qua.
Qua sự tìm hiểu, chúng tôi đi đến kết luận giữa tiểu thuyết và truyện ngắn có
một số điểm giống và khác nhau như sau:
+ Giống nhau:
Khi viết về đề tài chiến tranh sau 1975, cả tiểu thuyết và truyện ngắn đều
được chú trọng xây dựng những cốt truyện mang tính chất hoang đường kì ảo. Để
tạo sức hấp dẫn cho câu chuyện, quan trọng hơn nhằm thể hiện một cách sâu sắc
các tầng lớp ý nghĩa, các tác giả đã sử dụng nhiều dạng thức kì ảo trong tác phẩm.
Tính chất kì ảo, lạ lùng, ma quái không chỉ tạo cảm giác mới mẻ cho người đọc khi
tiếp xúc tác phẩm, mà quan trọng hơn, nó giúp nhà văn phản ánh một cách sâu sắc
đời sống nội tâm phức tạp của con người, đặc biệt là người lính sau những năm
tháng chiến đấu trở về với cuộc sống thời bình. Có thể thấy sự xuất hiện của yếu tố
kì ảo không khiến câu chuyện trở nên kì bí, hoang đường mà trái lại nó càng làm
nổi bật những hiện thực bộn bề trong đời sống con người.
Tuy nhiên do đặc trưng thể tài khác nhau, do đó các yếu tố kì ảo tham dự
trong tiểu thuyết sẽ khác với các yếu tố kì ảo tham dự trong truyện ngắn.
+ Khác nhau:
- Về tần số xuất hiện các dạng thức kì ảo: chúng tôi nhận thấy ở tiểu thuyết
các dạng thức kì ảo xuất hiện đa dạng, tần số dày đặc trong cùng một tác
phẩm, trong khi đó ở truyện ngắn, hầu hết mỗi tác phẩm chỉ xuất hiện duy
nhất một dạng thức kì ảo.
- Về kết cấu nghệ thuật: Nếu như tiểu thuyết chỉ xuất hiện hai kiểu loại cốt
truyện: Kiểu truyện có yếu tố kì ảo tham dự vào diễn biến cốt truyện và kiểu
truyện có yếu tố kì ảo đóng vai trò biểu tượng, xuất hiện song hành cùng tác
phẩm, thì ở truyện ngắn, bên cạnh 2 loại cốt truyện vừa nêu, còn xuất hiện
thêm kiểu truyện lồng truyện (kiểu truyện có yếu tố kì ảo tham dự vào diễn
biến một cốt truyện trong những tác phẩm có hai cốt truyện đan xen).
- Ngoài ra, qua khảo sát chúng tôi nhận thấy số lượng truyện ngắn viết về
chiến tranh sau 1975 có yếu tố kì ảo tương đối phong phú (45 truyện), trong
khi đó tiểu thuyết chỉ xuất hiện 5 tác phẩm.
3.2. Yếu tố kì ảo từ góc nhìn văn hóa tâm linh
3.2.1. Thuật ngữ tâm linh
Liên quan với đến vấn đề tâm linh, tiếng Anh có hai thuật ngữ là
spiritualism (duy linh luận) và spiritism (thông linh luận). Duy linh luận là niềm tin
tôn giáo - triết học về sự tồn tại sau cái chết, còn thông linh luận giả định về một số
hiện tượng liên quan với sự can thiệp của người chết.
Như vậy, ta có thể hiểu tâm linh là một khái niệm thuộc lĩnh vực tinh thần.
Con người luôn tin rằng có những sức mạnh siêu nhiên huyền bí vẫn tồn tại xung
quanh mình mà mắt thường không thể nhìn thấy. Có lẽ vì vậy mà hình ảnh của
Chúa, của Phật vẫn tồn tại trong tâm thức con người. Bên cạnh đó, người ta cũng
tin rằng có một thế giới khác tồn tại song song với thế giới con người. Đó là thế
giới của những người đã khuất. Con người chết rồi, linh hồn vẫn tồn tại và thường
lẩn khuất đâu đó bên cạnh những người còn sống.
Việc hướng về thế giới tâm linh là một nhu cầu tất yếu trong đời sống tinh
thần của con người. Nhu cầu này giúp con người xoa dịu nỗi đau trần thế, vượt qua
được những khó khăn, những thử thách của cuộc đời dù chỉ là về mặt tinh thần.
Đặc biệt đối với những người bị mất đi người thân yêu của mình thì việc tin vào
linh hồn người đó vẫn đang tồn tại bên cạnh mình là cách để giảm bớt những mất
mát, đau thương. Có thể thấy rằng, tất cả những hiện tượng nêu trên đều là những
biểu hiện cụ thể của một đời sống tâm linh vô cùng huyền bí. Đời sống tâm linh
chính là một hình thái đặc biệt gắn với con người khá mật thiết. Một khi còn tồn tại
con người, một khi còn tồn tại sự sống và cái chết thì khái niệm tâm linh vẫn còn là
một vấn đề mà con người luôn hướng đến tìm hiểu và khám phá.
3.2.2. Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh
sau 1975 từ góc nhìn văn hóa tâm linh
Trong đời sống người Việt, tâm linh không còn là một khái niệm xa lạ. Nó
biểu hiện ở nhiều mặt trong cuộc sống. Người ta tin rằng con người sau khi chết
linh hồn sẽ thoát ra khỏi xác hoặc về nơi cực lạc, hoặc vẫn còn quanh quẩn bên
cạnh người con sống. Tuy nhiên mắt thường không thể nhìn thấy những linh hồn
này mà chỉ có những nhà ngoại cảm, những người có khả năng đặc biệt mới có thể
gặp được. Vì vậy, khi muốn gặp mặt người thân đã mất, người ta thường tìm đến
những nhà ngoại cảm, những ông đồng, bà cốt. Những lúc gặp khó khăn, trắc trở
hoặc phải đối mặt với một việc gì đó ngoài khả năng giải quyết của mình, người ta
thường cầu xin sự trợ giúp của những thế lực siêu nhiên. Bên cạnh đó, người ta còn
tin trong những trường hợp đặc biệt, con người có khả năng dự cảm được tương lai,
vận mệnh của mình,… Có thể nói những biểu hiện tâm linh trong cuộc sống rất đa
dạng.
Trong các sáng tác văn học sau 1975, đặc biệt là trong những tác phẩm viết
về chiến tranh, người đọc dễ dàng tìm thấy những biểu hiện tâm linh trong các tác
phẩm thông qua những yếu tố kì ảo. Qua khảo sát các tác phẩm, có thể nhận thấy
những truyện viết về chiến tranh sau 1975 tập hợp khá đa dạng những biểu hiện
tâm linh thường thấy trong quan niệm dân gian của người Việt. Bảng khảo sát sau
là những biểu hiện tâm linh thường thấy trong các tác phẩm viết về chiến tranh có
yếu tố kì ảo sau 1975.
Bảng khảo sát các biểu hiện đời sống tâm linh trong tiểu thuyết, truyện ngắn
viết về chiến tranh sau 1975
Các biểu hiện tâm linh Tần số xuất hiện
(60 lần)
Hồn ma trở về 33/60 lần
Linh hồn báo mộng 9/60 lần
Tiên tri, dự báo 5/60 lần
Linh cảm về cái chết 4/60 lần
Thần giao cách cảm 3/60 lần
Điềm gỡ 2/60 lần
Lên đồng 2/60 lần
Bướm ma, ma trơi 2/60 lần
Có thể thấy những biểu hiện của đời sống tâm linh trong các tác phẩm viết
về chiến tranh sau 1975 khá đa dạng. Thế giới tâm linh trong những câu chuyện
này kì lạ và không kém phần bí ẩn như những câu chuyện liêu trai trước đây. Bên
cạnh một thế giới cõi âm với những hồn ma bóng quỷ, trong các tác phẩm, người
đọc cũng có thể thấy những hiện tượng bí ẩn, kì lạ như lời tiên tri, dự báo, những
linh tính, hiện tượng thần giao cách cảm của con người, các tác phẩm cũng có đề
cập đến hiện tượng, bướm ma, ma trơi bí ẩn. Ngoài ra hiện tượng lên đồng cũng
được nhắc đến trong một số truyện. Tuy nhiên được khai thác nhiều nhất vẫn là
mô-tip hồn ma.
Những câu chuyện về hồn ma bóng quỷ đã xuất hiện từ lâu đời trong các tác
phẩm văn học. Đặc biệt người ta thường viết nhiều về truyện ma. Mỗi thời kì khác
nhau, truyện ma có những cách thể hiện khác nhau. Trong Truyền kì mạn lục của
Nguyễn Dữ, những hồn ma thường hóa thân thành những cô gái xinh đẹp quay về
dương gian để quyến rũ những thư sinh đa tình, háo sắc, hoặc để tận hưởng tình
yêu, báo ân, báo oán, hoặc để quấy nhiễu dương gian. Ở Văn chiêu hồn của Nguyễn
Du là một thế giới hồn ma bóng quỷ bơ vơ, vất vưởng. Thế giới ấy mang đến cho
người đọc sự thương cảm, xót xa đối với những phận người lạc loài sau khi chết.
Thế giới ma quỷ cũng xuất hiện khá nhiều trong văn học thế kỉ XX. Trong Xác
ngọc lam, Khoa thi cuối cùng,… Nguyễn Tuân đã rất thành công khi xây dựng một
thế giới nhân vật ma quỷ kì ảo gây nên sự sợ hãi, tò mò nơi người đọc. Ma của
Nguyễn Tuân cũng hiện ra với những chức năng giống như những câu chuyện liêu
trai trong văn học trung đại xưa như ma hiện hồn để yêu, để báo ân, báo oán, ma
hóa thân thành người để cứu giúp dương gian,… Trong Bóng người trong sương
mù của Nhất Linh, thế giới cõi thực và ảo nhập nhòe. Dường như hình ảnh cánh
bướm đen đã giúp đoàn tàu dừng lại đúng lúc chính là sự hiện thân của người vợ
hiền chung thủy.
Sau một thời gian dài vắng bóng, các dạng thức kì ảo đã xuất hiện trở lại
trong các tác phẩm văn học sau 1975 và mô-tip hồn người chết trở về trở thành
một trong những dạng thức thường được các nhà văn khai thác trong tác phẩm của
mình. Đặc biệt sự xuất hiện của các dạng thức kì ảo trong các tiểu thuyết, truyện
ngắn viết về chiến tranh thật sự đã đem đến sự tò mò, thích thú cho người đọc khi
tiếp xúc, lý giải vấn đề. Trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975, để đáp ứng
nhu cầu bức thiết của thời đại, sự sống còn của cả dân tộc, văn học không chấp
nhận sự ủy mị, bi thương và đau khổ. Vì thế văn học không nói nhiều về cái chết
và hình ảnh người chiến sĩ bao giờ cũng hiện ra trong tư thế hiên ngang, hùng
dũng. Họ oanh liệt, hùng dũng ngay cả khi đối diện với cái chết. Tuy nhiên hiện
nay do nhu cầu nhận thức lại hiện thực chiến tranh đã qua, nhu cầu muốn nhìn
thấy con người cá nhân, con người đặt trong các mối quan hệ xã hội nên mỗi tác
phẩm phải “là một bức chân dung đầy đặn, nhiều chiều, nhiều cạnh”. Để đáp ứng
điều này, các nhà văn đã dùng nhiều phương thức khác nhau, và yếu tố kì ảo chính
là phương tiện hữu hiệu để nhà văn đạt được mục đích đó. Thế nên trong các tác
phẩm viết về chiến tranh sau này không chỉ có thế giới của sự sống mà còn có thế
giới của ma, thế giới của những con người sau khi chết. Trong những truyện viết
về chiến tranh sau 1975, sự hiện hồn của những bóng ma có thể là sự tìm về của
những linh hồn người lính đã bỏ thân lại nơi chiến trường, cũng có thể do xuất
phát từ tâm hồn bấn loạn và tình cảm tiếc thương của những người còn sống.
Trong thực tế, con người chết đi có nghĩa là không còn tồn tại trên cuộc đời,
tương tự trong tác phẩm văn học, khi nhân vật chết có nghĩa là nhân vật đó chấm
dứt vai trò trong truyện và sẽ không xuất hiện trong những phần tiếp theo, hoặc
nếu có xuất hiện thì cũng thông qua hồi ức hoặc lời kể của những nhân vật khác.
Tuy nhiên, dưới góc nhìn tâm linh, con người chết chỉ là phần xác, phần hồn vẫn
tồn tại và thoát ra khỏi xác tự do di chuyển trong không gian, và họ có thể làm
được những việc mà con người khi còn sống không thể thực hiện. Với những
truyện viết về chiến tranh có yếu tố kì ảo, những nhân vật đã chết vẫn có thể quay
trở về bên cạnh những người còn sống. Sự trở về của những linh hồn có ý nghĩa
rất quan trọng về mặt tâm linh: Trong chiến tranh, đạn bom ác liệt đã tước đi sinh
mệnh của con người, đã có biết bao người lính phải nằm lại vĩnh viễn nơi chiến
trường mà đến hôm nay vẫn còn đó những nấm mồ vô danh nơi nghĩa trang
Trường Sơn lạnh lẽo. Các anh đã ngã xuống khi tuổi đời còn rất trẻ, ra đi khi chưa
một lần gặp lại người thân, người yêu, người vợ. Đứng từ góc nhìn tâm linh để tìm
nhận vấn đề, rất có thể vì những nguyện ước không thể thực hiện đó mà hồn các
anh hiện vẫn còn lẩn khuất đâu đó nơi núi rừng âm u, vẫn đang tìm cách trở về quê
nhà, gặp lại người thân. Sau chiến tranh, vẫn còn đó những người mẹ, người vợ
lặn lội khắp nơi để tìm hài cốt của chồng, của con; Sự có mặt của yếu tố kì ảo phần
nào giúp xoa dịu nỗi đau của con người bởi: Những người mẹ, những người vợ ấy
vẫn nuôi một niềm hi vọng sẽ gặp lại người thân của mình dù đó chỉ là một nắm
xương, thậm chí đó chỉ là một linh hồn. Họ tin rằng trong cõi u linh nào đó, hồn
thiêng của các anh vẫn đang hướng về quê nhà, họ cũng tin rằng nhờ năng lực siêu
nhiên, họ sẽ mau chóng tìm được hài cốt của người thân yêu. Có lẽ nhờ niềm tin
vào những điều siêu nhiên, huyền ảo mà những nỗi đau do chiến tranh để lại đã
phần nào được xoa dịu theo năm tháng. Có thể thấy được điều này qua những
truyện như Nỗi buồn chiến tranh, Ăn mày dĩ vãng, Tàn đen đốm đỏ, Đốm lửa,
Bướm trắng, Tiếng chuông chiều, Cặp bồ với ma, Đàn sẻ ri bay ngang rừng, Mắt
ma, Hồn trinh nữ, Ám ảnh có thật, Bến trần gian, …
Ở các truyện này, bên cạnh một thế giới hiện thực còn là một thế giới siêu
nhiên huyền bí, một thế giới mà ở đó, người đọc lần lượt chứng kiến sự hiện diện
của những linh hồn người lính đã hi sinh trong chiến tranh. Đến với truyện Bến
trần gian, người đọc được chứng kiến một thế giới vừa hư vừa thực. Một cánh
rừng Trường Sơn âm u, lạnh lẽo, nơi nương náu của những hồn ma lang thang.
Nơi đây, linh hồn của một người lính đã hi sinh nhiều năm vẫn còn đang lẩn quẩn
tìm đường quay về. Một bến sông mang màu sắc huyền ảo, nơi giao nhau giữa
người sống và người chết, nơi gắn với truyền thuyết ma gọi đò vừa hư vừa thực.
Tại đây, Lăng đã gặp lại người mẹ già, hoàn thành tâm nguyện bao nhiêu năm của
mình. Đây không phải là câu chuyện về một người lính còn sống trở về đoàn tụ
với người thân sau chiến tranh mà là câu chuyện về một linh hồn người lính hi
sinh đã nhiều năm, nay trở về gặp lại người mẹ già đáng thương. Hẳn nếu không
có sự hiện diện của yếu tố kì ảo, có lẽ Lăng mãi mãi chỉ là một nắm xương nằm
đâu đó giữa cánh rừng Trường Sơn bạt ngàn; mẹ anh sẽ chẳng bao giờ được gặp
lại đứa con thân yêu của mình. Cuộc gặp gỡ giữa hai con người của hai thế giới
diễn ra trong đau đớn và xúc động. Phép màu hư ảo đã giúp Lăng được hoàn thành
tâm nguyện bao nhiêu năm, giúp bà cụ gặp lại người con trai đã hi sinh của mình.
Tuy phép màu kì ảo không mang lại sự sống cho anh, nhưng xét về mặt tâm linh,
nó đã phần nào giúp người còn sống giảm nhẹ nỗi đau, bởi dù sao bà cũng đã được
gặp lại người con trai duy nhất của mình.
Trong chiến tranh, biết bao người trẻ tuổi ra đi khi họ chưa một lần được nói
lời yêu, để rồi khi nằm lại vĩnh viễn nơi chiến trường, họ vẫn không nguôi khao
khát được thỏa nguyện hạnh phúc trong tình yêu – một thứ tình cảm thiêng liêng
mà vì chiến tranh, vì những năm tháng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc họ đành gác lại.
Đến với truyện Bướm Trắng, ta xúc động bởi mối tình giữa anh lính lái xe và cô
thanh niên xung phong Bạch Điệp. Họ yêu nhau ngay từ ánh nhìn đầu tiên nhưng
bởi chiến tranh, tình yêu ấy chưa một lần được bày tỏ. Đến khi ngã xuống, Bạch
Điệp và Xuân Sinh vẫn chưa một lần có cơ hội bày tỏ tình cảm cùng nhau. Để giúp
cô hoàn thành tâm nguyện, tác giả đã tạo nên một cốt truyện đầy màu sắc liêu trai,
huyền ảo. Những yếu tố kì ảo trong tác phẩm không hề xa lạ mà rất gần gũi với
quan niệm dân gian. Theo quan niệm dân gian bướm là những vong linh phiêu
lãng. Người ta cho rằng bướm xuất hiện có nghĩa là linh hồn của người đã khuất
về thăm. Ở truyện Bướm trắng, bướm là hiện thân của linh hồn Bạch Điệp. Sau
khi chết, để gặp lại người yêu, hồn cô đã hóa thân thành bướm. Yếu tố kì ảo không
chỉ nằm ở hình ảnh hóa thân của Bạch Điệp, để nối lại tình yêu của Xuân Sinh và
Bạch Điệp, tác giả đã tạo nên nhiều chi tiết huyền ảo, li kì tựa như một câu chuyện
cổ tích thời hiện đại. Bằng những giọt máu của mình, Sinh đã nối lại mạng sống
cho Bạch Điệp. Chuyện ngỡ chỉ xảy ra trong các truyền thuyết liêu trai, trong
những câu chuyện cổ tích dân gian lại xảy ra trong câu chuyện của những người
lính sau chiến tranh. Xét về mặt tâm linh, nhờ những yếu tố kì ảo, những điều ngỡ
như không thể xảy ra đã giúp cho Bạch Điệp và Xuân Sinh gặp lại nhau, hoàn
thành nguyện ước của mình. Không chỉ thế, phép màu đã mang lại sự sống cho
Bạch Điệp. Nếu không có sự hiện diện của yếu tố kì ảo trong truyện, có lẽ Xuân
Sinh sẽ không thể gặp lại cô, Sinh cũng sẽ không thể dùng máu tim mình để nối lại
sự sống cho Bạch Điệp và tình yêu của hai người sẽ mãi mãi vùi chôn dưới lòng
đất lạnh. Yếu tố kì ảo đã khiến những việc không thể trở thành có thể, giúp hai
người yêu nhau được toại nguyện, phần nào xoa dịu những mất mát mà chiến
tranh đã để lại.
Đến với Cặp bồ với ma, người đọc như bước vào những câu chuyện liêu trai
truyền kì, những câu chuyện về hồn ma hóa thân thành những cô gái xinh đẹp trở
về dương gian để thỏa nguyện tình yêu với những thư sinh đa tình. Tuy nhiên đây
lại là câu chuyện xảy ra trong thời bình, hồn ma trong truyện từng là một cô dân
công đáng thương. Cô chết đi khi chưa một lần gặp được tình yêu đích thực, có lẽ
vì vậy mà đã qua bao nhiêu năm, hồn cô vẫn chưa được siêu thoát. Dân gian quan
niệm những người chết mà tâm nguyện chưa hoàn thành linh hồn không thể đi đầu
thai mà sẽ thường xuyên trở về hoặc để quấy nhiễu cuộc sống của người trên
dương thế hoặc để hoàn thành tâm nguyện của mình. Trong truyện, hồn ma của
Huệ vẫn thường xuyên hiện về vào những đêm tối để hoàn thành tâm nguyện yêu
và được yêu với một người trần gian, bởi khi sống, do chiến tranh cô chưa một lần
tận hưởng tình yêu một cách trọn vẹn. Như một sự bù đắp, hồn cô đã gặp được
người đàn ông yêu cô chân thành. Những ngày sống với anh, cô đã cảm nhận được
tình yêu của con người, được hoàn thành tâm nguyện của mình.
Qua ánh mắt của Nẫm trong Đàn sẻ ri bay ngang rừng, người đọc có cảm
giác dường như giữa người sống và người chết có một sợi dây tình cảm khó thể
tách rời. Nẫm hi sinh trong chiến tranh, nhưng Diễm (vợ Thản – em trai Nẫm) vẫn
luôn có cảm giác Nẫm bên cạnh, và nhiều lần cô bắt gặp ánh mắt đau đáu của Nẫm
dõi theo mình. Dường như Nẫm luôn dành cho Diễm một sự quan tâm đặc biệt
hơn hẳn tình yêu mà Thản dành cho cô. Khi Diễm sinh, bằng ánh mắt trìu mến,
Nẫm “nhìn gương mặt võ vàng” của cô, rồi “nhìn lướt xuống bụng, nơi cái cuống
rau vừa bị cắt còn lòng thòng thò ra chỗ sinh nở”. Anh “cúi xuống hôn con bé”
như thể đó chính là con ruột của mình. Phải chăng vì Diễm mà Nẫm mới trở về
ngôi nhà mà lúc sống anh đã từng muốn rời xa nó và Diễm cũng mơ hồ có cảm
giác đặc biệt với người đàn ông “đã sờ nắm được hết những mạch máu ly ti chảy
trong cơ thể cô mà tình yêu của Thản chỉ chạm tới chứ không nắm được”. Người
con gái trong Vùng sáng của kí ức đêm nào cũng thấy người chồng chưa cưới đã hi
sinh của mình trở về bên cạnh, mà theo như lời chị thì “đêm nào anh ấy cũng về
với chị. Chị vui anh ấy cũng biết, chị buồn anh ấy cũng biết…”.
Ở những truyện này, người đọc cảm nhận được ranh giới giữa sự sống và cái
chết, giữa cõi âm và cõi dương, giữa người và ma đã bị xóa nhòa. Chiến tranh đã
cướp đi sinh mạng của con người nhưng không thể ngăn cản những tình cảm thiêng
liêng, sâu sắc của họ. Người còn sống vẫn luôn hướng về người đã khuất, vẫn tin
rằng trong cõi u linh nào đó, linh hồn người chết vẫn còn lẩn khuất để một ngày
nào đó quay về đoàn tụ với họ. Người đã khuất vẫn còn đau đáu, trăn trở về những
người thân còn sống, chưa thể siêu thoát vì những nguyện vọng chưa thành. Thế
nên dù bị ngăn cách giữa hai thế giới, họ vẫn luôn hướng về nhau. Truyện viết về
chiến tranh có yếu tố kì ảo đã làm được những điều mà các tác phẩm khác không
làm được: quan tâm đến khía cạnh đời tư, những tình cảm những khao khát hạnh
phúc chính đáng không chỉ của người còn sống mà còn là của những người lính đã
hi sinh. Những người đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường với những nguyện
vọng không thể thực hiện.
Ở một phương diện khác của thế giới tâm linh, người ta cho rằng với những
người chết mà không được thờ cúng, họ sẽ trở thành những linh hồn lang thang,
vất vưởng, quấy nhiễu cuộc sống con người. Theo dân gian, những hồn ma này
thường lang thang khắp nơi và chỉ xuất hiện trong đêm tối vì họ rất sợ ánh sáng.
Trong một số truyện viết về chiến tranh sau 1975, ta thấy có xuất hiện loại hồn ma
này. Họ đều là những người lính đã hi sinh. Chiến tranh - đạn bom ác liệt, khắp
chiến trường là những nấm mồ vô danh, không tên, không tuổi. Xét ở khía cạnh
tâm linh, nơi nào có nhiều người chết, nơi ấy sẽ có nhiều hồn ma. Rất nhiều những
hồn ma lang thang xuất hiện trong tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh. Qua lời tâm sự
của người lái xe đồng hành cùng Kiên trong chặng đường tìm kiếm hài cốt những
người chiến sĩ đã hi sinh trong chiến tranh “Trông hoang vu thế thôi chứ dưới đất
kia người nằm đã đông chật cả rồi. Mà nói chung ở cả cái B3 này đâu đâu chả
nhiều ma quỷ. Tôi lái cho đoàn gom xương nhặt hài cốt từ hồi 73 tới giờ mà đã
quen nổi với đám hành khách từ trong mồ hiện ra kia đâu. Chẳng đêm nào mà họ
không lay mình dậy để chuyện gẫu. Phát khiếp lên được. Đủ loại. Lính cũ. Lính
mới. Lính sư 10, sư 2, quân tỉnh đội, quân cơ động 320, đoàn 559. Thỉnh thoảng
có các “mộng” tóc dài… Đôi khi chen vào vài anh ngụy” [40, 44] ta có thể thấy
rằng thế giới tâm linh vẫn đang tồn tại bên cạnh thế giới của sự sống, và người lính
lái xe tin vào điều đó. Những linh hồn bơ vơ của những người chiến sĩ đã hi sinh
kia vẫn thường hiện về có lẽ bởi họ mang một tâm nguyện nào đó vẫn chưa hoàn
thành khi ngã xuống. Họ chết trong vô danh và lặng lẽ. Họ ra đi khi tuổi còn rất
trẻ, chết mà chưa một lần được gặp lại người thân (Can là một trường hợp tiêu
biểu). Hẳn vì thế mà linh hồn không thể siêu thoát. Và Kiên, trong những chuỗi
ngày sau này, anh vẫn thường xuyên bắt gặp những linh hồn lở loét nơi góc cầu
thang tối tăm ôm những vết thương đỏ lòm toác hoác bởi đạn bom chiến tranh.
Anh cũng thường mơ thấy Can “trở về thì thào ngay bên võng, lặp lại cuộc trò
chuyện nhạt nhẽo bên bờ suối chiều hôm nào. Tiếng thì thào chuyển dần thành
tiếng nức nở, thành tiếng nấc nghẹn y như là tiếng nước sặc lên trong cổ họng kẻ
sắp sửa chết chìm” [40, 26]. Trong Ăn mày dĩ vãng, Hai Hùng cũng đã từng một
lần đối diện với hồn ma của những đồng đội đã hi sinh trong một lần ở nghĩa
trang. Nếu giải thích theo quan niệm tâm linh, có lẽ do người lính ra đi khi tuổi
còn quá trẻ, chết mà không có một nấm mồ, một nén nhang để an ủi vong linh nên
họ quay về quấy nhiễu cuộc sống của con người trên dương thế. Nhưng vượt lên
trên cả quan niệm tâm linh ấy, khi sử dụng mô-tip hồn người chết trở về, nhà văn
muốn thể hiện những dằn xé, trăn trở, cắn rứt trong tâm hồn của những người lính.
Trong chiến tranh, từng giờ từng phút người lính phải đối mặt với sinh tử sống
còn. Cái chết luôn kề bên. Chỉ cần một chút sơ suất, sinh mạng một người sẽ vĩnh
viễn ra đi. Với những người còn sống trở về, nỗi ám ảnh về đạn bom, về cái chết
của những người đồng đội vẫn mãi là kí ức kinh hoàng không thể quên. Đó là lý
do vì sau mà Kiên (Nỗi buồn chiến tranh) và Hai Hùng (Ăn mày dĩ vãng) vẫn
thường trông thấy linh hồn của những người lính, những người đồng đội đã hi sinh
.
Theo quan niệm tâm linh, người ta tin rằng con người sau khi chết sẽ có thể
thực hiện được những việc mà người sống không thể làm. Người lính trong Tiếng
chuông chiều đã nhiều lần hiện về cứu giúp một người lính Sài gòn để trả ơn anh
ta. Một lần anh đã giúp cho gã lính khỏi phải cắt bỏ đôi chân bị nhiễm trùng bằng
cách dùng tay xoa nhẹ vào vết thương; lần khác anh đã giúp hắn thoát chết trong
tích tắc khi quả bom bị nổ tung. Ở truyện Mắt ma, nhờ có đôi mắt của Đồng -
người bạn đã hi sinh trong chiến tranh - cho, mà Huấn có thể nhìn thấy trước
chuyện tương lai, và nói đúng những chuyện quá khứ. Nhưng kể từ đó, anh không
giống như những người bình thường khác. Khi anh nhìn mâm cơm cúng bằng đôi
mắt ma ấy, con gà mới luộc bỗng nhớt lại, vừa mủn, tanh tanh, nồng nồng không
thể ăn. Cho đến nay, ma vẫn còn là một điều bí ẩn đối với nhân loại. Sự bí ẩn của
ma vì vậy luôn mang đến cho con người sự sợ hãi xen lẫn tò mò, thích thú.
Người xưa thường bảo, đêm tối đi trong những vùng đầm lầy sẽ gặp ma trơi,
hay nếu đi đêm một mình ở nơi vắng vẻ sẽ bị ma dẫn đường khiến người ta bị lạc,
không tìm được lối ra. Ở truyện Đốm lửa, Ngọc và Mỹ đã gặp những chuyện vô
cùng kì lạ. Suốt đêm, hai người bị lạc trong một vùng đầm lầy mà ngày thường họ
vô cùng quen thuộc. Trong bóng đêm âm u, rùng rợn chứa đầy sự bất trắc đó, thỉnh
thoảng trước mắt hai cô gái là những đốm lửa xanh lập lòe khi ẩn khi hiện. Những
đốm lửa xanh khi ẩn khi hiện đó có thể là ma trơi. Ma trơi - theo quan niệm dân
gian là một loài ma có hình dạng giống như ngọn lửa nhỏ, có đốm xanh và hay trêu
chọc người đi đường. Loài ma này được cho là linh hồn của những đứa trẻ tinh
nghịch chết sớm. Do chưa mang nhiều nghiệp chướng nhân gian nên loài ma này
không bị đày xuống địa ngục nhưng cũng không đủ duyên phận để siêu thoát.
Trong khi chờ để đầu thai vào kiếp khác, những linh hồn tinh nghịch này rong chơi
và hù dọa người qua đường. Còn theo giải thích của các nhà khoa học, thật ra chẳng
có ma quỷ gì cả. Trong xương và não người có nhiều photpho, sau khi chết, các vi
khuẩn sẽ phân hủy xác và sinh ra photphin (PH3) và điphotphin (P2H4). PH3 chỉ
có thể bốc cháy trong không khí ở nhiệt độ 150 độ C, tuy nhiên, do có lẫn P2H4
nên cả hai sẽ tự bốc cháy trong không khí ở điều kiện thường. Dù theo quan niệm
dân gian hay khoa học đi nữa thì sự xuất hiện đúng lúc và sự dẫn đường của những
đốm lửa ấy đã giúp hai cô gái thoát khỏi sự mai phục của bọn địch. Có lẽ chính hồn
thiêng của anh bộ đội đã hóa thành những đốm sáng dẫn đường, giúp hai người
đồng đội của mình thoát khỏi nguy hiểm.
Ngoài ra, trong các tác phẩm viết về chiến tranh sau 1975 còn để cập đến
những vấn đề bí ẩn của giấc mơ. Nằm mộng, đó là một hiện tượng thường xảy ra
trong giấc ngủ của con người. Các nhà phân tâm học cho rằng giấc mơ là biểu hiện
của những ẩn ức bị kìm nén trong tỉnh thức, và nó bộc lộ mạnh mẽ khi con người
chìm vào cõi vô thức. Tuy nhiên có những giấc mơ kì lạ mà khoa học dù hiện đại
vẫn không thể giải thích được. Đó là những giấc mơ mà người mơ được gặp lại
người đã mất, nói cách khác trong những giấc mơ đó, linh hồn người đã khuất trở
về báo mộng cho những người còn sống để báo trước một điều sắp xảy ra hoặc giúp
người chết hoàn thành một tâm nguyện nào đó. Trong các truyện viết về chiến
tranh sau 1975, không hiếm để gặp những giấc mơ như thế. Ở truyện ngắn Mai,
linh hồn của cô gái về báo mộng với cha vị trí hài cốt của mình. Trong tác phẩm
Đốm lửa, hồn thiêng của anh bộ đội đã trở về báo mộng, giúp cho hai cô gái thoát
khỏi sự mai phục của bọn giặc. Hay trong truyện Đồng đội, trong giấc mơ, Biền
thấy linh hồn của những người đồng đội đã hi sinh từ lâu trong chiến tranh trở về
trách móc, than thở vì những tâm nguyện chưa được người còn sống hoàn thành.
Qua lời anh kể “Hôm qua tôi mơ thấy thằng Thái nó về. Nó xin một điếu thuốc bảo
dưới ấy lạnh lắm, ngủ không được. Nó trách đồng đội sao không lấy nòng cối lên.”
Ta thấy dường như bên cạnh thế giới cõi dương còn là một thế giới cõi âm với
nhiều điều bí ẩn. Những linh hồn ở cõi âm ấy vẫn còn lẩn khuất đâu đó và giấc mơ
– đó chính là cách để họ giao tiếp với những người còn sống.
Có thể nói thế giới tâm linh đầy huyền bí. Bên cạnh niềm tin vào cuộc sống
sau cái chết, trong quan niệm dân gian, người ta tin rằng có sự trừng phạt khi con
người phạm phải những điều ác. Những việc làm ác dù tinh vi, có thể thoát khỏi sự
trừng phạt của pháp luật vẫn khó thể thoát khỏi sự trừng phạt của một thế lực siêu
nhiên nào đó bên cạnh con người. Người đàn ông trong Trái tim con rắn đã chết
một cách kì lạ, khó hiểu. Suốt đêm trước khi chết, Thuật (tên nhân vật) phải vật vã
với những cơn đau khủng khiếp và kì lạ, với một “con rắn” chui ra từ trong lồng
ngực mà chỉ ông mới nhìn thấy. Những người còn sống không ai biết lí do vì sao
Thuật chết. Họ cho rằng ông chết vì “nhồi máu cơ tim”. Cái chết có vẻ bí ẩn, song
nếu hiểu theo quan niệm tâm linh thì đó chính là cái giá mà Thuật phải trả cho
những hành động suy đồi đạo đức của chính mình. Cái chết của Thuật trong truyện
là một lời cảnh báo sự tha hóa, suy đồi về đạo đức đang giết chết dần những con
người mà một thời họ đã có những cống hiến cho Tổ quốc. Trong truyện ngắn Hồn
trinh nữ, chàng trai đã không giữ được hạnh phúc của mình. Trong ngày thành hôn,
hồn ma của người đàn bà đã đến đòi trả lại mạng sống cho chồng chị ta. Chàng phải
trả giá cho những gì mà chàng đã gây ra. Hạnh phúc sẽ vĩnh viễn không bao giờ
mỉm cười với chàng và người con gái chàng yêu.
Hiện tượng lên đồng, tìm xác cũng được nhắc đến trong các tác phẩm viết về
chiến tranh sau 1975. Khi nói về thế giới tâm linh, người ta luôn ám ảnh bởi
những câu chuyện về việc chụp được ảnh linh hồn, về thần giao cách cảm, về gọi
hồn, lên đồng, nhập hồn, thoát xác. Hiện tại, có những người tìm được hài cốt
người thân nhờ những nhà ngoại cảm. Mặc dù còn khá nhiều những tranh luận
xung quanh vấn đề tìm hài cốt bằng năng lực ngoại cảm, nhưng tự trong tâm thức,
nhiều người vẫn tin rằng đó là cách tốt nhất để họ tìm được người thân đã mất của
mình. Ở một số truyện viết về chiến tranh sau 1975, ta dễ dàng tìm thấy những
biểu hiện tâm linh ấy như Dây neo trần gian, Đàn sẻ ri bay ngang rừng, Tàn đen
đốm đỏ, Mai,…. Người con gái trong Dây neo trần gian đã tìm đến bà đồng để
nhờ bà giữ lại người đàn ông mà cô yêu nhất ở lại cuộc đời này. Có lẽ đối với cô,
đó là cách duy nhất mà cô có thể tin tưởng. Không biết có phải vì cách của bà
đồng linh nghiệm hay một sự trùng hợp ngẫu nhiên, cuối cùng cô đã giữ được anh
ở lại trần gian. Trong Đàn sẻ ri bay ngang rừng, Diễm và Thản cũng nhờ đến sự
giúp đỡ của bà đồng để tìm hài cốt của Nẫm. Nhờ sự có mặt của yếu tố tâm linh
mà việc tìm được hài cốt của những người chiến sĩ đã hi sinh trong Tàn đen đốm
đỏ, Mai cũng trở nên dễ dàng hơn.
Chiến tranh đã lùi xa vào quá khứ, song những vết thương mà nó để lại vẫn
còn đó với những nỗi đau âm ỉ chưa kịp phai nhòa theo năm tháng. Những người
đã hi sinh sẽ mãi mãi không thể nào sống lại để quay về với những người thân yêu.
Người còn lại vẫn tiếp tục cuộc sống, nhưng tự đáy lòng - họ vẫn mãi trăn trở, nhớ
mong và hi vọng, họ vẫn nuôi hi vọng rằng một ngày nào đó sẽ có phép màu kì ảo
đưa người thân quay về với họ. Nói như thế để hiểu, chiến tranh qua đi đã để lại
biết bao đau thương và mất mát, việc đưa yếu tố kì ảo vào trong tác phẩm là một
cách để xoa dịu những vết thương về cả thể xác lẫn tâm hồn mà chiến tranh để lại
cho con người.
Tóm lại dù hiểu theo cách nào đi nữa thì khi nói đến tâm linh, bất kì ai cũng
nghĩ đến sự tồn tại của một thế giới, mà thế giới này là một thế giới bí ẩn, luôn
khiến con người tò mò, khiến con người luôn khao khát tìm hiểu về nó. Thế giới
này có thể liên quan đến những thế lực siêu nhiên bên ngoài con người cũng có thể
liên quan đến những người đã chết. Cho đến nay, thế giới tâm linh vẫn là một thách
thức lớn đối với con người. Hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề: có ma
hay không, liệu con người có năng lực ngoại cảm hay không, việc lên đồng, thoát
xác là biểu hiện tâm linh hay mê tín,… đặc biệt trong giai đoạn khoa học kĩ thuật
phát triển, nhiều nhà khoa học cũng bắt đầu quan tâm và đi tìm cách lý giải bằng
luận chứng khoa học, song trong tâm thức nhiều người, tâm linh vẫn là một điều gì
đó rất thiêng liêng và thần bí mà dù khoa học có phát triển đến đâu chăng nữa cũng
không thể giải thích được. Đặc biệt khi trong cuộc sống còn nhiều khó khăn, đau
khổ thì việc đặt niềm tin vào thế giới tâm linh là một cách để con người vững vàng
trong cuộc sống. .
3.3. Yếu tố kì ảo từ sắc thái thẩm mỹ
Trong văn học Việt Nam giai đoạn trước 1975, trước sự khốc liệt của chiến
tranh, từng ngày phải đối mặt với sinh tử, sống còn, những người lính cần phải có
chỗ dựa vững chắc về mặt tinh thần. Để đáp ứng nhu cầu của thời đại, các tác phẩm
văn học giai đoạn này chủ yếu được xây dựng dựa trên cảm hứng anh hùng. “Cái
anh hùng” tạo nên những tác động nhất định vào lý tưởng thẩm mỹ trong văn
chương. Hình tượng người lính trong các tác phẩm hiện lên sừng sững, kì vĩ, hiên
ngang, và luôn phơi phới một tinh thần “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước- Mà lòng
phơi phới dậy tương lai”.Tất nhiên, sự đau thương, chết chóc cũng có đề cập đến
trong các tác phẩm, song đó cũng chỉ làm cái nền để nổi bật lên sự anh dũng của
người lính và không khí ngùn ngụt lửa căm hờn, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh
của đất nước giai đoạn này.
Bước sang chặng đường mới, khi cuộc sống con người trở lại bình thường,
lý tưởng thẩm mỹ trong các tác phẩm văn học cũng dần thay đổi để đáp ứng với
nhu cầu thẩm mỹ mới của thời đại. Những tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến
tranh giai đoạn này đã mang nhiều sắc thái thẩm mỹ đa dạng. Một mặt, các tác
phẩm vẫn nằm trong dòng chảy ngợi ca khi viết về chiến tranh, những người lính
anh hùng vẫn là đối tượng được các nhà văn đề cập đến. Bên cạnh sự phản ánh
quen thuộc đó, các nhà văn giai đoạn này cũng bước đầu đi vào mặt trái của tấm
huy chương, đề cập đến những góc khuất của chiến tranh để từ đó thấy được bộ
mặt thật của nó, thấy được thân phận đau thương của những con người đã qua một
thời bom đạn. Một trong những điều làm nên thành công của tiểu thuyết, truyện
ngắn viết về chiến tranh sau 1975 là việc sử dụng những chi tiết hoang đường, kì
ảo. Việc đưa các chi tiết kì ảo vào trong truyện đã góp phần xây dựng nên một bức
tranh đa diện nhiều chiều về người lính và về cuộc chiến đã qua, thể hiện sâu sắc
những sắc thái thẩm mỹ khác nhau trong tác phẩm.
Bảng khảo sát các sắc thái thẩm mỹ trong tiểu thuyết, truyện ngắn
Sắc thái thẩm mỹ Tần số xuất hiện
(50 truyện)
Cái đẹp 3/50 truyện
Cái bi 30/50 truyện
Cái hùng 3/50 truyện
Cái cao cả 1/50 truyện
Cái thấp hèn 4/50 truyện
Các sắc thái thẩm Cái bi – cái đẹp 4/50 truyện
mỹ đan xen Cái bi – cái hùng 2/50 truyện
Cái bi – cái hài 3/50 truyện
Qua khảo sát có thể thấy rằng, trong những tác phẩm văn xuôi viết về chiến
tranh sau 1975, một số tác phẩm vẫn được xây dựng dựa trên cảm hứng anh hùng,
ngợi ca. Chủ yếu xuất hiện trong những truyện này là các phạm trù thẩm mỹ: cái
đẹp (3/50 truyện), cái hùng (3/50 truyện) và cái cao cả (1/50 truyện). Yếu tố kì ảo
trở thành một công cụ đắc lực giúp nhà văn tạo nên hình ảnh đẹp đẽ anh hùng của
người lính. Nhờ đó mà hình tượng người lính trở nên hiên ngang, hùng dũng trước
mắt người đọc. Đó là anh lính lái xe dũng cảm và đầy tinh thần trách nhiệm
(Chuyến xe đêm) vẫn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ trong giây phút hấp hối. Khi bị
trúng đạn, và bất tỉnh, người lính ấy vẫn vững tay lái đưa những người trên xe đến
một trạm gác an toàn dù đang trong trạng thái hôn mê. Là hình ảnh anh lính lái xe
kiên cường (Kim Hà) mặc dù đôi tay đã bị đạn cắt gần như đứt lìa, thế nhưng
không biết nhờ phép màu nào mà anh vẫn tiếp tục cầm chắc tay lái đưa người đồng
đội đến đơn vị một cách an toàn. Yếu tố kì ảo đã tạo nên hình ảnh một người lính
phi thường, đẹp đẽ mà một người bình thường có lẽ không thể nào thực hiện được.
Hay như người chiến sĩ du kích trong truyện ngắn Đốm lửa, tuy đã bị địch giết hại,
song hồn thiêng của anh vẫn trở về giúp hai người đồng đội của mình an toàn thoát
khỏi sự mai phục của bọn địch. Trong tác phẩm Hồn trúc, giữa trận chiến sinh tử,
quân ta bị địch bao vây khắp nơi, điều kì lạ đã xảy ra. Trong lúc đối diện với hiểm
nguy, tiếng sáo trúc lạ lùng vang lên giữa bốn bề đạn bom cùng tiếng ca của chị
Bốn đã tạo nên một vẻ đẹp kì ảo. Tiếng ca thều thào của chị “tiến lên đường, tới sa
trường, ta xứng danh là cảm tử quân” hòa lẫn vào âm thanh trầm bỗng, ngân vang
của tiếng sáo vút cao đã át cả tiếng bom và làm thay đổi tình thế căng thẳng lúc bấy
giờ. Nó tạo nên một sức mạnh để những đợt xung kích của quân ta trở nên mạnh
mẽ hơn và khí thế của địch chùng xuống với “những hàng tù binh dài dằng dặc”.
Hơn bao giờ hết, nghĩa vụ, trách nhiệm cao hơn những lợi ích và mong muốn riêng
tư của những người Cách mạng. Dù trong lúc nguy nan, cận kề cái chết, thậm chí
khi đã hi sinh những người chiến sĩ ấy vẫn quyết tâm làm tròn trách nhiệm với
cộng đồng, Tổ quốc.
Những sắc thái thẩm mỹ này xuất hiện không nhiều trong các tác
phẩm viết về chiến tranh có yếu tố kì ảo sau 1975. Tuy số lượng không nhiều, song
sự xuất hiện các sắc thái thẩm mỹ cái đẹp, cái hùng và cái cao cả đã góp phần tạo
nên những bức chân dung những người lính anh hùng, quả cảm - Những người sẵn
sàng hi sinh xương máu, hạnh phúc riêng tư của mình để chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Song song với việc tạo dựng những hình ảnh đẹp đẽ, kì vĩ, những nhà văn
giai đoạn này cũng chú ý đi sâu vào những tấn bi kịch cá nhân của những người
chiến sĩ. Đó là cuộc đời riêng đầy những nỗi bất hạnh mà chiến tranh đã để lại trên
thể xác cũng như trong tâm hồn của họ. Cái bi vì vậy cũng trở thành một yếu tố
không thể thiếu trong các tác phẩm. Nó tạo nên một bức tranh toàn vẹn, đa diện,
nhiều chiều hơn về cuộc chiến đã qua. Chiến tranh ngày càng lùi xa nhưng những
nỗi đau mà nó để lại vẫn không thôi ám ảnh trong đời sống của mỗi con người. Với
những người lính đã từng tham gia chiến trận thì chiến tranh vẫn mãi là một kí ức
buốt nhói không thể xóa nhòa. Qua yếu tố kì ảo, những bi kịch cá nhân càng hiện rõ
trong từng trang viết.
Các tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975, sắc thái bi xuất
hiện khá nhiều (30/50 truyện).
Trong những tác phẩm viết về chiến tranh sau 1975, nhiều nhà văn đã sử
dụng mô-tip giấc mơ để đưa người đọc từng bước khám phá những bí ẩn trong tâm
lý nhân vật - một thế giới riêng với một chuỗi những bi kịch, những buồn đau mà
người ngoài khó thể nhận biết được. Trước hết đó là bi kịch của hai người phụ nữ
với khát khao cháy bỏng được làm vợ, làm mẹ, được gặp lại người chồng thân yêu
của mình (Hai người đàn bà xóm Trại). Chiến tranh đã mang hai anh ra đi và
không bao giờ trả họ về cho hai người phụ nữ đáng thương ấy. Đã bao lần họ thấy
hai anh trở về và để lại cho họ một đứa con, nhưng cuối cùng đó chỉ là một giấc
mơ. Những giấc mơ khắc khoải nỗi chờ mong, chất chứa niềm hi vọng về một ngày
đoàn tựu vẫn thường xuyên hiện hữu trong tác phẩm càng khiến nỗi đau thêm đắng
lòng, buốt nhói.
Ở truyện Người sót lại của Rừng Cười, những giấc mơ về quá khứ chiến
tranh thường xuất hiện trong giấc ngủ của Thảo. Chiến tranh đã lùi xa, song những
kỉ niệm đau thương mà nó gây ra mãi mãi là một vết thương không bao giờ có thể
lành. Nỗi ám ảnh về những tháng ngày sống giữa cánh rừng Trường Sơn khốc liệt
với “những dòng nước khe màu xanh đen thớ lợ” đã vặt trụi mái tóc của năm cô
thanh niên xung phong, nỗi ám ảnh về cái chết của bốn người đồng đội thân yêu, về
những tháng ngày mà sự khốc liệt của núi rừng, của chiến tranh, sự thiếu thốn hơi
ấm của đôi tay người đàn ông đã biến năm cô gái trở thành những con vượn người
luôn trở đi trở lại trong những giấc mơ của Thảo. Những kí ức buốt nhói, đau lòng
ấy không bao giờ có thể phai nhòa theo năm tháng. Vì thế mà những giấc mơ của
cô đem lại cho người đọc cảm giác xót xa, thương cảm. Đến với Những giấc mơ có
thực, một lần nữa người đọc cảm nhận được những khát khao hạnh phúc đang được
kìm nén trong tâm hồn của người phụ nữ bất hạnh. Đó là bi kịch của một người phụ
nữ mà chiến tranh đã lấy đi của chị tất cả những gì tốt đẹp nhất. Tuổi trẻ, sức khỏe,
tình yêu của chị đã vĩnh viễn nằm lại giữa núi rừng Trường Sơn năm nào. Cả lòng
kiêu hãnh của chị cũng đã bị chiến tranh tước lấy. Để lại trong hiện tại là một người
phụ nữ với xác thân tàn tạ, héo mòn với những giấc mơ chất chứa khát vọng hạnh
phúc không thể trở thành hiện thực.
Chiến tranh, không chỉ người ra đi, mà người ở lại, không chỉ là người còn
sống mà người đã chết cũng canh cánh, trăn trở bởi những nỗi niềm riêng. Trong
các truyện viết về chiến tranh sau 1975, bên cạnh mô-tip giấc mơ, các tác giả cũng
sử dụng mô-tip hồn người chết trở về để thể hiện những nỗi bi kịch, những nỗi đau
của con người. Trong Bến trần gian, yếu tố kì ảo có thể giúp linh hồn của một
người lính trở về quê hương chứ không thể trả lại sinh mệnh cho anh. Qua bao
nhiêu năm, vượt qua biết bao chặng đường để có thể gặp lại người thân, nhưng cuối
cùng Lăng đành phải ngậm ngùi ra đi bởi giờ đây anh chỉ là một hồn ma. Giữa
người và ma dù sao cũng là hai thế giới khác biệt. Người mẹ già sau bao năm chờ
đợi đứa con, giờ cũng đành chấp nhận hiện thực là đứa con của mình đã chết. Dù
đau đớn những bà cũng đành nén lại mà khuyên đứa con hãy ra đi. Nỗi đau của
người mẹ; nỗi buồn tủi, ngỡ ngàng của người con khi biết được thực tế đau xót
khiến tác phẩm nhuốm một nỗi buồn. Cái bi trở thành âm hưởng chủ đạo của tác
phẩm. Ở truyện Vùng sáng của kí ức, chị Bưởi và anh Tính yêu nhau, họ chưa kịp
tổ chức lễ cưới thì anh phải đi lính và đã hi sinh, Qua lời tâm sự của chị với đứa em
“đêm nào anh ấy cũng về với chị. Chị vui anh ấy cũng biết, chị buồn anh ấy cũng
biết… Chị chẳng đi lấy chồng đâu. Chị trọn đời, trọn kiếp với anh ấy”, người đọc
cảm thấy chua xót cho số phận của những người con gái sinh ra trong chiến tranh.
Cái hạnh phúc giản dị của một người con gái vĩnh viễn đã bị mất đi bởi chiến tranh.
Dù người chồng sắp cưới hằng đêm có trở về với chị thì đó cũng chỉ là một hồn ma.
Niềm hạnh phúc thật sự đã khép lại mãi mãi trước mắt chị. Tác phẩm vì vậy trở nên
bi thiết hơn, người đọc không khỏi đắng lòng trước cái hạnh phúc ảo mà chị đang
cố chấp nhận.
Bên cạnh việc dùng mô-tip giấc mơ, mô-tip hồn người chết trở về, các nhà
văn cũng sử dụng nhiều dạng thức kì ảo khác nhau để nhấn sâu vào cái bi kịch cá
nhân của con người trong chiến tranh. Truyền thuyết về loài vạc sành (Tiếng vạc
sành) có tiếng kêu xé lòng gợi nhắc đến số phận bi thương của một người lính.
Chiến tranh đã lấy đi của anh một gia đình hạnh phúc, và trả lại cho anh một hình
hài đáng sợ gương mặt không còn nguyên vẹn. Mang niềm đau hồn anh hóa thành
con vạc, hằng đêm, với gương mặt xấu xí, anh ẩn mình trong các lùm cây kêu “tọc
tọc” ròng rã từ lúc chạng vạng đến sáng để gọi vợ con. Tiếng kêu đau đớn của loài
vạc sành phải chăng là tiếng kêu bi thương của người lính mà hạnh phúc của anh đã
bị chiến tranh tước đoạt.
Đến với những tác phẩm này, người đọc cảm nhận được những mất mát, đau
thương mà chiến tranh đã để lại cho con người. Đó không chỉ là nỗi đau về thể xác
mà còn là những thương tổn về mặt tinh thần. Mỗi người một nỗi đau riêng, nhưng
họ có cùng một điểm chung đó là không thể có được niềm vui, niềm hạnh phúc như
những người bình thường khác. Trong tận sâu đáy lòng họ vẫn mong được hạnh
phúc, thỏa mãn những khát vọng rất thực, rất con người nhưng thật tế họ vẫn sống
trong nỗi cô đơn, vẫn chịu đựng nỗi đau dày vò theo năm tháng. Nhờ yếu tố kì ảo
mà những bi kịch về khát khao được hạnh phúc và cuộc sống hiện tại đầy đau khổ
càng trở nên sâu sắc và xúc động hơn.
Ngoài ra, ở những tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975,
người đọc có thể dễ dàng tìm thấy những tác phẩm có sự kết hợp, đan xen các sắc
thái thẩm mỹ. Mặc dù là sự kết hợp của nhiều sắc thái, song âm hưởng chủ đạo của
các tác phẩm này chủ yếu vẫn là cái bi. Theo bảng khảo sát, cái bi xuất hiện trong
hầu hết các truyện đan xen sắc thái thẩm mỹ này: Cái bi – cái đẹp (4/50 truyện),
Cái bi – cái hùng (2/50 truyện), Cái bi – cái hài (3/50 truyện)
Sự kết hợp giữa cảm hứng anh hùng và cái bi cũng góp phần tạo nên sự kì vĩ,
đẹp đẽ của người lính. Đó là hình ảnh Bạch Điệp trong tác phẩm Bướm trắng. Khi
bị trúng hai quả rốc-két của giặc, cô vẫn tiếp tục hóa thân thành con bướm trắng với
đôi cánh rách nát chỉ lối dẫn đường cho những chuyến xe ra trận. Cô trở thành vị
thần Hộ mệnh, đấng cứu tinh cho những người lính lái xe vượt Cổng Trời Trường
Sơn trong những năm địch bắn phá ác liệt. Tác phẩm là một sự kết hợp hài hòa giữa
cái bi và cái hùng. Yếu tố kì ảo đã góp phần xây dựng hình ảnh đẹp đẽ, kì vĩ của
người nữ thanh niên xung phong anh hùng. Tuy nhiên âm hưởng chủ đạo của tác
phẩm vẫn là cái bi. Phép màu đã giúp Bạch Điệp hóa thân thành bướm, để cô được
tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ của mình, thế nhưng đó lại là một con bướm với đôi
cánh rách nát bởi đạn bom. Dù đã hóa kiếp thành bướm, song Bạch Điệp vẫn từng
ngày chịu đựng những cơn đau bởi những vết thương do đạn bom chiến tranh. Và
sau này, khi được Xuân Sinh dùng máu nối lại sinh mệnh, Bạch Điệp đã sống lại,
tuy nhiên di chứng mà chiến tranh để lại vẫn mãi mãi là một vết thương không thể
lành. Phép màu không thể trả lại cho Bạch Điệp cơ thể lành lặn như một người phụ
nữ bình thường. Có lẽ vì thế mà cô chỉ sinh cho anh toàn bướm và bướm. Với lòng
yêu thương và cảm thông sâu sắc, tác giả đã dùng phép màu kì ảo để xoa dịu nỗi
đau mà chiến tranh đã gây ra cho con người, để cái chết không còn là rào cản chia
cắt những lứa đôi yêu nhau. Thế nhưng những di chứng mà chiến tranh đã để lại
cho con người là quá lớn. Phép màu kì ảo chỉ có thể xoa dịu chứ không thể hàn gắn
được những vết thương ấy. Vì thế mà sự có mặt của yếu tố kì ảo càng khiến người
đọc ngậm ngùi, chua xót cho số phận bất hạnh của những con người đã bị chiến
tranh tước đoạt tuổi trẻ, tình yêu và hạnh phúc. Yếu tố kì ảo tạo nên sắc thái bi -
hùng cho tác phẩm là vì thế.
Ngoài những sắc thái thẩm mỹ vừa khảo sát trên, ở các tác phẩm viết về
chiến tranh sau 1975 còn xuất hiện cái thấp hèn (4/50 truyện). Điều này đã tạo nên
sự khác biệt hoàn toàn giữa các tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau
1975 với các tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh trước đây. Thông qua yếu
tố kì ảo, những mặt trái, những cái xấu xa, những mặt chưa tốt của những người
từng một thời là người chiến sĩ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc hiện ra rõ ràng qua từng
trang viết. Ta có thể thấy điều này trong những truyện như:, Con đò và người khách
lạ,Trừng phạt, Trái tim con rắn ,…
Ở những truyện mang sắc thái thẩm mỹ này, các tác giả cũng thường sử dụng
mô-tip giấc mơ để người đọc cảm nhận được thế giới nội tâm đầy mặc cảm tội lỗi
của nhân vật. Thế giới của giấc mơ giống như một chiếc hộp lưu giữ những điều bí
mật không thể giãy bày của con người. Đó không chỉ là những khao khát hạnh
phúc bị kìm nén mà còn chứa đựng những nỗi niềm băn khoăn, trăn trở, những dằn
vặt lương tâm vì những điều không tốt mà mình đã gây ra. Đến với giấc mơ, người
đọc có dịp hiểu thêm về những góc khuất mà các tác phẩm viết về chiến tranh
trước đây không đề cập đến. Đó là những suy nghĩ ích kỉ, những dục vọng thấp
hèn của người lính. Ở tác phẩm Con đò và người khách lạ, trước đây, vì hèn nhát,
tham sống sợ chết, Khôi đã bỏ mặc đồng đội của mình. Sau chiến tranh, gặp lại
người đồng đội ấy, Khôi không dám thú nhận điều đó mà tìm cách che giấu. Chỉ
có trong giấc mơ, những hành động hèn nhát kia mới được phơi bày. Lời Khôi nói
trong giấc mơ “Ta có lỗi gì? Ừ, lúc đó tao đã sợ chết nên tao không dám nổ súng
vào bọn lính đi tuần, nhưng sau đó tao đã bò vào tìm mày, mày đã bị chúng nó kéo
đi rồi… Phải tao có tội với mày bởi tao là kẻ hèn nhát, một tên khốn nạn đã bỏ rơi
bạn bè trong lúc lâm nguy…” cho thấy thêm về một bộ mặt khác của người chiến
sĩ. Bên cạnh những người lính anh hùng, quả cảm dám hi sinh vì đồng đội còn là
những người lính xuất hiện trong vị thế là một con người bình thường với những
sai lầm, những suy nghĩ ích kỉ cá nhân.
Bên cạnh đó, những tác phẩm mang sắc thái cái thấp hèn cũng đã đề cập đến
một bộ phận những người lính một thời là những con người anh hùng, chiến đấu
hi sinh vì Tổ quốc, song khi trở về thời bình họ cũng không thể cưỡng lại sức cám
dỗ của quyền lực, vật chất. Bằng mô-tip giấc mơ, một lần nữa người đọc cảm nhận
được thế giới nội tâm đầy hối hận của những người lính đã gây nên sai lầm, gây ra
những tổn hại đến những người thân, những người đồng đội của mình. Đó là
Tuyển trong truyện Trừng phạt. Những mặc cảm về sự sai lầm về tội lỗi đã gây
không ngừng trở đi trở lại trong những giấc mơ của ông. Ông không thể có được
cuộc sống yên vui, thanh thản bởi những sai lầm đã gây.
* Có thể nói những tác phẩm mang sắc thái cái thấp hèn đã mang đến cho
người đọc một cái nhìn mới về người lính. Họ không chỉ là những người lính anh
hùng mà còn là những con người bình thường, cũng có những sai lầm không thể tha
thứ. Sự có mặt của yếu tố kì ảo đã tạo nên một sắc thái mới cho có truyện viết về
chiến tranh sau 1975, giúp người đọc có được cái nhìn đa dạng, nhiều chiều về con
người, đặc biệt là người lính.
Trước 1975, do đáp ứng nhu cầu sống còn của dân tộc, hầu hết tất cả các tác
phẩm đều được xây dựng dựa trên cảm hứng anh hùng ngợi ca. Tuy nhiên sau hòa
bình, lý tưởng thẩm mỹ trong các tác phẩm cũng đã dần thay đổi để đáp ứng nhu
cầu của thời đại. Vì vậy có thể thấy các tác phẩm văn xuôi viết về chiến tranh sau
1975 khá đa dạng về sắc thái thẩm mỹ. Bên cạnh một số tác phẩm vẫn nằm trong
dòng chảy ngợi ca khi viết về chiến tranh ở giai đoạn trước mà người lính anh dũng
vẫn là đối tượng trung tâm được nhiều nhà văn đề cập đến. Nhiều tác phẩm đã tập
trung thể hiện cuộc sống riêng tư của người lính sau chiến tranh mà âm hưởng chủ
đạo là cái bi. Đặc biệt các tác phẩm nhấn sâu vào cái bi kịch cá nhân của họ khi trở
về cuộc đời thường. Ngoài ra bên cạnh một số tác phẩm mang cảm hứng ngợi ca,
còn xuất hiện thêm những tác phẩm mang cảm hứng phê phán, phơi bày những mặt
trái, những điều chưa tốt của người lính. Yếu tố kì ảo trong tác phẩm trở thành công
cụ đắc lực để chuyển tải nội dung câu chuyện, giúp việc thể hiện những sắc thái
thẩm mỹ trở nên sâu sắc hơn, nhất là trong việc thể hiện những bi kịch cá nhân của
người lính. Nhờ đó mà các tác phẩm giúp cho người đọc bước đầu đi vào những
mặt trái của tấm huy chương, những góc khuất của chiến tranh để từ đó thấy được
bộ mặt thật của nó, thấy được thân phận đau thương của những con người đã qua
một thời bom đạn.
KẾT LUẬN
Trong văn xuôi nghệ thuật sau 1975, các nhà văn sử dụng yếu tố kì ảo làm
phương thức khám phá hiện thực, lý giải những bí ẩn của đời sống và thế giới tâm
hồn của con người. Tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh giai đoạn này cũng
cùng nằm trong xu hướng chung đó.
Giống như các tác phẩm văn xuôi hiện đại Việt Nam, những tiểu thuyết,
truyện ngắn viết về chiến tranh cũng sử dụng những phương thức kì ảo quen thuộc
như: hồn người chết trở về, những giấc mơ, những sự việc kinh dị, phi lý và những
lời nói, hành động kì lạ của nhân vật. Khi sử dụng các dạng thức tiêu biểu này, các
tác giả quan niệm đó không đơn thuần chỉ là một phương thức lạ hóa, “câu khách”
thông thường, mà quan trọng hơn là để tập trung thể hiện những góc khuất, những
bộ mặt khác nhau của hiện thực chiến tranh; để khám phá, lý giải những ẩn ức bên
trong tâm hồn của con người, mà ở đây là những con người từng trải qua một thời
đạn bom ác liệt, để từ đó thấy được cuộc sống của họ trong hiện tại.
Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975 thể
hiện tập trung ở các yếu tố tình huống, cốt truyện, nhân vật, không gian và thời
gian. Về tình huống trong các truyện này, ở một số truyện ngắn, chúng tôi nhận
thấy có sự xuất hiện những tình huống tiêu biểu như: tình huống nhuốm màu sắc
hoang đường, kì lạ; tình huống căng thẳng, kịch tính; tình huống mang tính chất
ngẫu nhiên. Khi xuất hiện trong cốt truyện, ở nhiều truyện yếu tố kì ảo đóng vai trò
biểu tượng, xuất hiện song hành cùng cốt truyện tạo nên một kiểu thêm thắt, gia
giảm, đan lồng giữa cái kì ảo và cái thực. Trong một số truyện khác, yếu tố kì ảo
tham dự vào diễn biến cốt truyện, tạo nên một thế giới kì ảo thu hút sự chú ý của
người đọc. Ngoài ra yếu tố kì ảo cũng xuất hiện ở một số ít truyện có hai cốt truyện
đan xen. Tuy nhiên những cốt truyện này chiếm số lượng rất ít và không tạo được
dấu ấn đặc biệt. Khi xây dựng hình tượng nhân vật, các tác giả tạo nên một thế giới
nhân vật mang màu sắc kì ảo như nhân vật hồn ma, nhân vật dị thường, kì lạ và
nhân vật mang màu sắc huyền thoại, cổ tích. Không gian để hồn ma hoặc những
điều lạ xuất hiện là không gian chiến trường u ám, đầy rẫy sự chết chóc. Đó có thể
là một hang đá, một góc rừng Trường Sơn, một Truông Gọi Hồn âm u đầy những
oan hồn,… Bên cạnh đó, người đọc cũng thấy những không gian riêng tư của cá
nhân: không gian của gian phòng chật hẹp hay không gian của căn nhà nhỏ giữa
triền bãi rộng chạy ven đê làng. Ngoài ra trong những tác phẩm còn xuất hiện
không gian mộng ảo chất chứa những giấc mơ thầm kín của nhân vật, không gian
huyền ảo, ma quái để hồn người chết có thể quay về gặp lại người thân. Cũng giống
như những truyện kinh dị thông thường, những hồn ma hoặc những sự việc kì lạ
trong truyện chủ yếu xuất hiện vào đêm tối, đặc biệt là vào lúc nửa khuya, khi mọi
vật chìm trong bóng đêm tịch mịch.
Như vậy bằng yếu tố kì ảo, các nhà văn đã từng bước đưa người đọc khám
phá thế giới tinh thần bí ẩn và phức tạp của con người. Thông qua yếu tố kì ảo, hiện
thực chiến tranh đa diện, nhiều chiều được tái hiện một cách cụ thể, sinh động qua
từng trang viết. Từ đó người đọc sẽ có cách nhìn đúng đắn và toàn diện hơn về nó.
Qua yếu tố kì ảo, các nhà văn đã vẽ nên “khuôn mặt thực” của chiến tranh với
nhiều góc cạnh khác nhau, có hào hùng nhưng cũng có bi thương, có vinh quang
nhưng cũng không kém phần cay đắng, có chiến thắng oai hùng nhưng cũng có cả
những mất mát thương đau. Với những người đã từng sống trong chiến tranh thì đó
quả thật là một quá khứ không thể lãng quên. Qua đó, các nhà văn muốn gửi đến
thế hệ sau những thông điệp: khi nhìn về một thời máu lửa, chúng ta không nên
dừng lại ở ánh hào quang rực rỡ chung của cả cộng đồng mà hãy quan tâm đến số
phận của từng cá nhân, của từng con người. Hãy đồng cảm, chia sẻ với những mất
mát quá lớn mà những người chiến sĩ năm xưa đã và đang gánh chịu từng ngày. Để
có được những ngày hòa bình như hiện nay đã có biết bao người phải hi sinh, gánh
chịu những niềm đau, những nỗi mất mát không thể bù đắp. Vì vậy chúng ta phải
biết trân trọng những thành quả được xây dựng từ máu và nước mắt đó. Qua yếu tố
kì ảo, các nhà văn cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của xã hội, đó là sự tha hóa,
biến chất, băng hoại đạo đức của một số người đã từng là chiến sĩ, có những cống
hiến cho đất nước trong những năm chiến tranh. Các tác phẩm như một lời cảnh
tỉnh lương tâm con người, đồng thời nhắn nhủ xã hội cần phải loại trừ những “con
sâu” để không làm hoen ố hình ảnh người lính anh dũng ngày nào trong lòng mọi
người.
Xét về mặt tâm linh, yếu tố kì ảo có giá trị to lớn đối với tinh thần của con
người. Chiến tranh qua đi nhưng nỗi đau mà nó để lại vẫn còn đó chưa thể xóa
nhòa. Biết bao người lính đã nằm lại nơi cánh rừng Trường Sơn bạt ngàn, biết bao
người vợ mất chồng, mẹ lìa con vẫn đang lặn lội tìm lại hài cốt người thân, và còn
đó bao nỗi đau cả thể xác lẫn tinh thần mà người chiến sĩ năm xưa vẫn đang gánh
chịu từng ngày. Một khi chiến tranh để lại quá nhiều mất mát và đau thương thì yếu
tố kì ảo là một cách để xoa dịu nỗi đau cả thể xác lẫn tâm hồn để con người tiếp tục
vững bước trước cuộc sống, để những người mẹ, người vợ sẽ bớt đau buồn hơn khi
tin tưởng vào một ngày không xa họ sẽ tìm người thân yêu dù đó chỉ là một nắm
xương tàn.
Trước 1975, do đáp ứng nhu cầu của thời đại, các tác phẩm văn học chủ yếu
được xây dựng dựa trên cảm hứng anh hùng, ngợi ca mà cái đẹp và cái cao cả luôn
là âm hưởng chủ đạo của tác phẩm. Bước sang chặng đường mới, khi cuộc sống trở
lại bình thường, lý tưởng thẩm mỹ trong tác phẩm cũng dần thay đổi. Trong những
tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh, bên cạnh cái đẹp, cái cao cả người đọc
còn thấy sự xuất hiện của cái bi. Đó là những bi kịch cá nhân của người chiến sĩ khi
họ luôn bị ám ảnh, dằn vặt về quá khứ và trở nên lạc lõng giữa cuộc sống thực tại.
Ngoài ra, ở một số tác phẩm, ta thấy có sự xuất hiện sắc thái cái thấp hèn. Tuy số
lượng không nhiều, song sự xuất hiện của sắc thái thẩm mỹ này góp phần tạo nên
một bức chân dung đa dạng, nhiều chiều về người lính. Bên cạnh những chiến sĩ
anh hùng, quả cảm chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc còn là một bộ phận những người
chiến sĩ với những suy nghĩ ích kỉ, thấp hèn. Việc đưa yếu tố kì ảo vào tác phẩm đã
góp phần không nhỏ trong việc thể hiện sự đa dạng của các sắc thái thẩm mỹ.
Tóm lại, sự xuất hiện của yếu tố kì ảo trong các tiểu thuyết, truyện ngắn viết
về chiến tranh giai đoạn sau 1975 nằm trong dòng chảy chung của văn học Việt
Nam hiện đại. Nó đáp ứng nhu cầu nhận thức lại hiện thực chiến tranh, khám phá bí
ẩn của thế giới tinh thần con người. Những thành công của tiểu thuyết, truyện ngắn
viết về chiến tranh có sử dụng yếu tố kì ảo đã góp phần vào sự thành công chung
của văn xuôi kì ảo Việt Nam sau đổi mới đồng thời tạo nên một diện mạo mới cho
những tác phẩm viết về đề tài chiến tranh.
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. CÁC TÁC PHẨM KHẢO SÁT
1. Vũ Thị Hồng (1994), Những giấc mơ có thực – Hồi ức binh nhì (truyện ngắn
chọn lọc 1992-1994), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
2. Thái Bá Tân (2001), Bướm trắng – Mười năm truyện ngắn Văn nghệ quân đội
(1991-2000), Nxb Văn học, Hà Nội.
3. Nguyễn Quang Thiều (1995), Hai người đàn bà xóm Trại – Năm người đàn bà
và bốn người đàn ông (Tập truyện ngắn), Nxb Thanh niên, Hà Nội.
Hoài Lương, Tiếng chuông chiều, 4. Lê
http://4phuong.net/ebook/44641937/tieng-chuong-chieu.html
5. Phạm Trung Khâu (1994), Tiếng vạc sành – Bến trần gian (Truyện ngắn chọn
lọc 1992-1994), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
6. Nguyễn Thế Tường (2009), Bàn chân ma – Hồi ức của một binh nhì (Tập
truyện ngắn), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
7. Lưu Sơn Minh (1994), Bến trần gian – Bến trần gian (Truyện ngắn chọn lọc
1992-1994), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
8. Hoàng Dân (1994), Chiều vô danh – Hồi ức binh nhì (Truyện ngắn chọn lọc
1992-1994), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
9. Thanh Quế (2006), Mai – Truyện ngắn hay về chiến tranh, Nxb Văn học, Hà
Nội.
10. XuânThiều (2006), Truyền thuyết về quán Tiên, Truyện ngắn hay về chiến
tranh, Nxb Văn học, Hà Nội.
11. Phạm Ngọc Tiến (2006), Họ đã trở thành đàn ông, Truyện ngắn hay về chiến
tranh, Nxb Văn học, Hà Nội.
12. Kiều Vượng (2006), Hai người trong thành phố, Truyện ngắn hay về chiến
tranh, Nxb Văn học, Hà Nội.
13. Cao Duy Thảo (2006), Người đàn bà, Truyện ngắn hay về chiến tranh, Nxb
Văn học, Hà Nội.
14. Võ Thị Hảo:
14.1. - (2001), Dây neo trần gian, Mười năm truyện ngắn Văn nghệ quân đội
(1991-2000), Nxb Văn học, Hà Nội.
14.2- (2001), Người sót lại của rừng Cười, Mười năm truyện ngắn Văn nghệ
quân đội (1991-2000), Nxb Văn học, Hà Nội.
14.3- (2002), Biển cứu rỗi, Truyện ngắn bốn cây bút nữ, Nxb Văn học, Hà Nội.
14.4- (2002), Hồn trinh nữ, Truyện ngắn bốn cây bút nữ, Nxb Văn học, Hà
Nội.
15. Nguyễn Quốc Trung (2001), Người bán nhang ở chùa Vĩnh Nghiêm, Mười
năm truyện ngắn Văn nghệ quân đội (1991-2000), Nxb Văn học, Hà Nội.
16. Nguyễn Thị Minh Thúy (2000), Đốm lửa - Đêm bướm ma (Tuyển tập truyện
ma Việt Nam), Nxb Văn học.
17. Nguyễn Minh Châu (1994) Cỏ lau, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,
Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nxb Văn học, Hà Nội
18. Tạ Duy Anh (1995), Người thắng trận, Truyện ngắn trên báo văn nghệ (1987-
1995), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
19. Võ Thị Xuân Hà (2006), Đàn sẻ ri bay ngang rừng, Truyện ngắn hay về chiến
tranh, Nxb Văn học, Hà Nội.
20. Ngô Tự Lập (2000), Mùa đại bàng - Đêm bướm ma (Tuyển tập truyện ma
Việt Nam), Nxb Văn học, Hà Nội.
21. Nguyễn Đông Thức (2000), Trái tim con rắn - Đêm bướm ma (Tuyển tập
truyện ma Việt Nam), Nxb Văn học, Hà Nội.
22. Ngô Văn Phú (2000), Cặp bồ với ma - Đêm bướm ma (Tuyển tập truyện ma
Việt Nam), Nxb Văn học, Hà Nội.
23. Nguyễn Quang Lập (1997), Vĩnh biệt mười tám con gà trống, Văn nghệ quân
đội – truyện ngắn dự thi 1996, Nxb Văn học, Hà Nội.
24. Hồ Tĩnh Tâm, Đồng đội, Văn nghệ 1995, số 29 (18/7).
25. Thái Sinh, Con đò và người khách lạ, Văn nghệ 1995, số 39 (26/9).
26. Y Ban:
26.1 (2005), Mắt ma, Hồn hoa đêm tháp cổ - Truyện ngắn ly kỳ VN, Nxb
Hội nhà văn, Hà Nội.
26.2 (1997), Vùng sáng của kí ức, Văn nghệ quân đội – truyện ngắn dự thi
1996, Nxb Văn học, Hà Nội.
xanh, http://vannghequandoi.com.vn/vi- 27. Trần Văn Thước, Vòm đa
VN/News/Van-xuoi-36.vnqd.
28. Hòa Vang (1996), Tổ tông truyền, Huyền thoại thìa – Sự tích những ngày đẹp
trời (Tập truyện ngắn), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
29. Lê Minh Hà (2005), Gióng, Văn mới 5 năm đầu thế kỉ, - Hợp tuyển truyện ngắn của những tác giả đang được mến mộ, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
30. Ma Văn Kháng (1991), Chuyến xe đêm – Truyện ngắn chọn lọc 1975 – 1990,
Nxb Văn học, Hà Nội.
31. Đỗ Nhật Minh (2009), Trừng phạt – Tuyển tập truyện ngắn Quán trần gian,
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
32. Phạm Việt Long, Lời nguyền của một bài ca, Văn nghệ 2002, số 48 (30/11)
33. Lê Minh Khuê (2000), Anh lính Tony D - Đêm bướm ma (Tuyển tập truyện
ma Việt Nam), Nxb Văn học, Hà Nội.
34. Lê Thành Chơn, Kim Hà, Văn nghệ 2002, số 30 (27/7).
35. Lê Quang Kiếm, Tiên nữ, Văn nghệ 1995, số 28 (15/7).
36. Vũ Hồng (1997), Tiếng chuông trôi trên sông, Văn nghệ quân đội – truyện
ngắn dự thi 1996, Nxb Văn học, Hà Nội.
37. Triệu Huấn (1995), Giấc mộng cuối cùng – Cuộc thi truyện ngắn trên báo Văn
nghệ 1995, Nxb Văn học, Hà Nội.
38. Trần Huy Quang (2001), Ám ảnh có thật, Mười năm truyện ngắn Văn nghệ
quân đội (1991-2000), Nxb Văn học, Hà Nội.
39. Nguyễn Thế Tường (1995), Điều không thể mất – Cuộc thi truyện ngắn trên
báo Văn nghệ 1995, Nxb Văn học, Hà Nội.
40. Bảo Ninh (2009), Nỗi buồn chiến tranh, NXB Văn học, Hà Nội.
41. Chu Lai (1995), Ăn mày dĩ vãng, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
42. Phạm Ngọc Tiến (2008), Tàn đen đốm đỏ, NXB Văn học, Hà Nội.
43. Dương Hướng (2008), Bến không chồng, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
44. Nguyễn Văn Thông (2000), Hồn trúc - Đêm bướm ma (Tuyển tập truyện ma
Việt Nam), Nxb Văn học, Hà Nội.
II. SÁCH BÁO – TẠP CHÍ, TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1. Lê Huy Bắc (2006), “Cái kỳ ảo và văn học huyễn ảo”, Tạp chí nghiên cứu văn
học số 8 (414) tháng 8-2006, Viện văn học – Viện khoa học xã hội Việt Nam,
Hà Nội.
2. Đặng Anh Đào (2006), “Vai trò của cái kỳ ảo trong truyện và tiểu thuyết Việt
Nam”, Tạp chí nghiên cứu văn học số 8 (414) tháng 8-2006, Viện văn học –
Viện khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
3. Nguyễn Hải Hà (2006), “Cái hoang đường trong văn học Nga thế kỷ XIX”, Tạp
chí nghiên cứu văn học số 6 (412) tháng 6-2006, Viện văn học – Viện khoa học
xã hội Việt Nam, Hà Nội.
4. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), “Từ điển thuật ngữ văn
học”, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
5. Đào Duy Hiệp (2006), “Cấu trúc cái kỳ ảo trong truyện ngắn Maupassant”, Tạp
chí nghiên cứu văn học số 8 (414) tháng 8-2006, Viện văn học – Viện khoa học
xã hội Việt Nam, Hà Nội.
6. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (2004), “Từ điển
văn học”, Nxb Thế giới, Hà Nội.
7. Đỗ Đức Hiểu (1993), “Đổi mới phê bình văn học”, Nxb Khoa học xã hội – Nxb
Mũi Cà Mau.
8. Lê Nguyên Long (2006), “Về khái niệm cái kỳ ảo và văn học kỳ ảo trong
nghiên cứu văn học”, Tạp chí nghiên cứu văn học số 9 (415) tháng 9-2006, Viện
văn học – Viện khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
9. Phạm Thị Thanh Nga, “Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại từ sau
1975”, nguồn http://www.thuvienkhoahoc.com
10. Nguyễn Hải Phong (2008), Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại,
Tạp chí dạy và học ngày nay, Trung ương Hội khuyến học Việt Nam số 7.2008.
11. Bùi Thanh Truyền (2006), Sự hồi sinh của yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi đương
đại Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu văn học số 11 (417) tháng 11-2006, Viện văn
học – Viện khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
12. Phùng Văn Tửu, Phương thức huyền thoại trong sáng tác văn học, nguồn
http://www.nghiencuuvanhoc.org.vn
13. Phùng Văn Tửu (2006), Những đổi mới trong văn học kỳ ảo thế kỷ XX, Tạp chí
nghiên cứu văn học số 5 (411) tháng 5-2006, Viện văn học – Viện khoa học xã
hội Việt Nam, Hà Nội.
14. Hồ Sỹ Vịnh, Văn hóa tâm linh - Lý luận và thực tiễn, nguồn http://tuyengiao.vn.
15. Trần Lê Bảo (2009), “Liêu trai” hiện đại Việt Nam - Văn học Việt Nam sau
1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
16. Nguyễn Văn Long (2009), Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lịch sử văn
học Việt Nam giai đoạn từ sau 1975 - Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn
đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Ngô Tự Lập (1999), Những đường bay của mê lộ (Về văn học kỳ ảo), Tạp chí
Sông Hương, số 127
18. Nguyễn Hào Hải, Lại bàn về vô thức, Văn nghệ 1995, số 22, (3/6)
19. Trần Thanh Mại (1961), Những câu chuyện thần linh ma quái (Nhân đọc hai
cuốn Việt điện u linh và Lĩnh nam chích quái), Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số
2.
20. Bùi Việt Thắng (1999), Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội.
21. Tzevan Todorov (2007), Dẫn luận về văn chương kỳ ảo, Nxb Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
22. S.Iu. Nekliudov (2007), Những ảnh hưởng của thế giới bên kia trong tín
ngưỡng dân gian và văn chương cổ truyền, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 11.
23. Lã Nguyên (2001), Văn học kì ảo – nhìn từ hệ hình thế giới quan, Tạp chí Văn
học nước ngoài, số 6.
24. Phùng Văn Tửu (2007), Phương thức huyền thoại trong sáng tác văn học, Tạp
chí Nghiên cứu văn học, số 10
25. Phan Cự Đệ (2000), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
26. Phùng Hữu Hải, Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại giai đoạn từ sau
1975 đến nay, nguồn http://evan.vnexpress.net
27. Ngọc Thiện (1990) “Tiểu thuyết hướng nội” trong văn xuôi hiện đại, Tạp chí
Văn học, số 6.
28. Nguyễn Minh Châu (1995) Viết về chiến tranh, trong Trang giấy trước đèn, (Tôn
Phương Lan biên soạn và giới thiệu), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
29. Nguyễn Thị Ngọc Anh (2008), Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành ngữ văn, ĐHSP Thái Nguyên.
30. Lê Nguyên Cẩn (2009), Thế giới kì ảo trong Mảnh đất lắm người nhiều ma từ
cái nhìn văn hóa – Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và
giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
31. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
32. Cao Thị Thu Hoài, Yếu tố kì ảo trong sáng tác Võ Thị Hảo qua tiểu thuyết Giàn
Thiêu và tập truyện ngắn Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm, Luận văn
thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, ĐHSP Thái Nguyên.
33. Đoàn Cầm Thi, (18/5/2004), Sáng tạo văn học, giữa mơ và điên. Đọc Thoạt kỳ
thuỷ của Nguyễn Bình Phương, nguồn www.evan.com.vn.
34. Trần Đình Sử, Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, (2008), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb ĐHQG Hà Nội.
35. Hà Minh Đức (chủ biên), (2000), Lí luận văn học, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
36. Hồ Phương (2008), Có gì mới trong tiểu thuyết đề tài chiến tranh hôm nay –
Tuyển tập các bài viết về tiểu thuyết Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo Dục, Hà
Nội.
37. Phạm Xuân Nguyên (2008), Phân tích tâm lý trong tiểu thuyết – Tuyển tập các
bài viết về tiểu thuyết Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
38. Bùi Việt Thắng (2008), Mấy nhận xét về tiểu thuyết sau 1975 viết về cuộc kháng
chiến chống Mỹ – Tuyển tập các bài viết về tiểu thuyết Việt Nam thế kỷ XX,
Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
39. Bùi Việt Thắng (2009), Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 nhìn từ góc độ thể loại -
Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
40. R. Wellek và A. Warren (2009), Lý luận văn học (Nguyễn Mạnh Cường dịch),
Nxb Văn học, Hà Nội.
41. Lê Nguyên Cẩn (1990) Phương thức kì ảo và tính chân thật lịch sử trong tiểu
thuyết “Miếng da lừa” của Balzac, TCVH, số 5.
42. Lê Nguyên Cẩn (2002), Cái kỳ ảo trong tác phẩm Balzac, Nxb Đại học Sư
Phạm, Hà Nội.
43. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb KHXH
Hà Nội.
44. Phạm Quang Long (2004), Về sự hình thành của chủ nghĩa hiện thực trong văn
học Việt Nam, TCVH, số 1
45. Phương Lựu (2001) Tìm hiểu trực giác và vô thức trong tư duy nghệ thuật,
TCVH số 31.
46. Trần Thị Mai Nhân (2007), Tìm hiểu phương thức “huyền thoại hóa” trong
một số tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới – Huyền thoại và văn học, Nxb Đại
học Quốc gia TP HCM.
47. Bích Thu (1996), Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975, Tạp chí văn học,
số 9.
48. Huỳnh Như Phương (1991), Văn xuôi những năm 80 và vấn đề dân chủ hóa
nền Văn học, Tạp chí văn học, số 4.
49. Lê Thị Đức Hạnh (1999), Mấy vấn đề trong văn học hiện đại Việt Nam, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
50. Nguyễn Thị Bình (2003) Một vài nhận xét về quan niệm hiện thực trong văn
xuôi nước ta từ sau 1975, Tạp chí văn học số 4.
51. Hoàng Thị Văn (2009), Yếu tố huyền ảo trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam
sau năm 1975, Đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp bộ, trường Đại
học SP TPHCM.
52. Phùng Quý Nhâm (1998), Tinh thần phân tích tâm linh – một đặc trưng của
chủ nghĩa hiện thực, TCVH, số 4
53. E.M.Meletinsky (2004), Thi pháp của huyền thoại, Nxb Đại học quốc gia Hà
Nội,
54. Nguyễn Trường Lịch (1997), Huyền thoại và sức sống của huyền thoại trong
văn chương xưa và nay, TCVH, số 5.
55. Vũ Minh Đức, Không gian kinh dị trong văn xuôi Nguyễn Tuân trước cách
mạng tháng Tám, nguồn http://yume.vn
56. Trần Đình Sử, (2000), Thi pháp học, Nxb Văn học.)
57. Lê Thị Hường (1994), Quan niệm về con người cô đơn trong truyện ngắn hôm
nay, TCVH, số 2.
58. Hồ Bích Ngọc, (2006), Nguyễn Bình Phương với việc khai thác tiềm năng thể
loại để hiện đại hoá tiểu thuyết, Luận văn Thạc sĩ, ĐHSP Hà Nội.
59. Jean Chevalier, Alain Cheerbrant, (1999), Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới,
Nxb Đà Nẵng, Trường Viết văn Nguyễn Du.
60. Nguyễn Thị Ngọc Anh (2008), “Một số suy nghĩ về sự linh cảm trong tiểu
thuyết của Nguyễn Bình Phương”, Văn nghệ Thái Nguyên, số 17.
61. Phùng Diệu Linh, (2004), Cấu trúc tiểu thuyết Thoạt kỳ thuỷ của Nguyễn Bình
Phương, Báo cáo khoa học.
62. Phương Lựu (chủ biên), (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội
63. S. Freud, C.Jung, E.Fromm, R.Assagioli, (2004), Phân tâm học và văn hoá tâm
linh, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
64. Nguyễn Thị Bình (2007), Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 – một cái nhìn khái
quát, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 2.