BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Thị Mai Lan

YẾU TỐ KÌ ẢO TRONG TIỂU THUYẾT, TRUYỆN NGẮN VIẾT VỀ CHIẾN TRANH GIAI ĐOẠN SAU 1975

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ MAI LAN

YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG TIỂU THUYẾT, TRUYỆN NGẮN VIẾT VỀ CHIẾN TRANH GIAI ĐOẠN SAU 1975

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Người hướng dẫn khoa học

TS. Hoàng Thị Văn

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và

kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố trong bất kì một công trình nào khác.

Tác giả luận văn

TRẦN THỊ MAI LAN

LỜI CÁM ƠN

Tôi xin chân thành cám ơn TS. Hoàng Thị Văn – giảng viên khoa ngữ văn trường đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn.

Tôi xin chân thành cám ơn các thầy cô trong khoa ngữ văn đã tận tình giảng

dạy, giúp đỡ tôi trong suốt những năm tôi học tập tại nhà trường.

Tôi xin chân thành cám ơn các cán bộ, công nhân viên trong thư viện trường

đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi có được những tài liệu phục vụ cho quá trình học tập và tìm hiểu nghiên cứu để hoàn thành tốt luận văn này.

Cuối cùng tôi xin chân thành cám ơn các bạn bè trong lớp Cao học chuyên ngành Văn học Việt Nam, khóa 19, đã cùng tôi học tập trong suốt những năm qua. Với những năm tháng đó, tôi đã học được nhiều kinh nghiệm quí báu từ các bạn.

Tác giả luận văn

TRẦN THỊ MAI LAN

MỤC LỤC

Phần mở đầu ..................................................................................................................... 7

1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................................. 7

2. Lịch sử vấn đề ...................................................................................................................... 9

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................................... 13 3.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................................................ 13 3.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................................................... 13

4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................... 14 4.1. Phương pháp khảo sát, thống kê ............................................................................................................ 14 4.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp .......................................................................................................... 14 4.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu ............................................................................................................ 14

5. Mục đích của luận văn ....................................................................................................... 14

6. Đóng góp của luận văn ....................................................................................................... 15

7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................................................ 15

Phần nội dung................................................................................................................. 17

Chương 1: Yếu tố kì ảo và các dạng thức xuất hiện của yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh giai đoạn sau 1975 ............................................................... 17 1.1. Khái niệm về yếu tố kì ảo ...................................................................................................................... 17 1.2. Các dạng thức biểu hiện của yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975 .............................................................................................................................................................. 19 1.2.1. Mô-tip giấc mơ ............................................................................................................................... 19 1.2.2. Hồn người chết trở về .................................................................................................................... 24 1.2.3. Những sự việc kinh dị, kì lạ ........................................................................................................... 28 1.2.4. Lời nói, hành động kì lạ của nhân vật ............................................................................................ 31

Chương 2: Vai trò và hiệu quả nghệ thuật của việc sử dụng yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh giai đoạn sau 1975 ............................................................... 34 2.1. Vai trò của yếu tố kì ảo trong kết cấu nghệ thuật tác phẩm ................................................................... 34 2.1.1. Yếu tố kì ảo và tình huống truyện .................................................................................................. 34 2.1.2. Yếu tố kì ảo và cốt truyện .............................................................................................................. 42 2.2. Yếu tố kì ảo và thế giới hình tượng ....................................................................................................... 53 2.2.1. Yếu tố kì ảo và nhân vật ................................................................................................................. 53 2.2.1.1. Nhân vật là những hồn ma ...................................................................................................... 53 2.2.1.2. Loại nhân vật dị thường, kì lạ ................................................................................................. 58 2.2.1.3. Loại nhân vật mang màu sắc huyền thoại, cổ tích .................................................................. 61 2.2.2. Yếu tố kì ảo và không gian - thời gian nghệ thuật ......................................................................... 63 2.2.2.1. Không gian nghệ thuật ............................................................................................................ 63 2.2.2.2. Thời gian nghệ thuật ............................................................................................................... 70

2.3. Yếu tố kì ảo và việc biểu đạt các lớp ý nghĩa trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975 .............................................................................................................................................................. 75 2.3.1. Chiến tranh – sự mất mát không gì bù đắp ..................................................................................... 75

2.3.2. Chiến tranh – nỗi cô đơn và niềm khát khao hạnh phúc ................................................................ 80 2.3.3. Người lính và sự tha hóa, biến chất ................................................................................................ 88

Chương 3: Yếu tố kì ảo từ góc nhìn thể tài, đời sống tâm linh và sắc thái thẩm mỹ ............... 91 3.1. Yếu tố kì ảo từ góc nhìn thể tài tiểu thuyết, truyện ngắn ....................................................................... 91 3.1.1. Đặc điểm thể tài tiểu thuyết, truyện ngắn ....................................................................................... 91 3.1.2. Yếu tố kì ảo - Sự giống và khác nhau trong thể tài tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975. .................................................................................................................................................. 92 3.2. Yếu tố kì ảo từ góc nhìn văn hóa tâm linh ........................................................................................... 104 3.2.1. Thuật ngữ tâm linh ....................................................................................................................... 104 3.2.2. Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975 từ góc nhìn văn hóa tâm linh .................................................................................................................................................. 105 3.3. Yếu tố kì ảo từ sắc thái thẩm mỹ ......................................................................................................... 118

KẾT LUẬN ................................................................................................................... 127

Phần mở đầu

1. Lý do chọn đề tài

Kể từ sau chiến thắng mùa xuân 1975, lịch sử dân tộc mở sang một trang mới,

dẫn đến nền văn học nước nhà cũng bước vào một chặng đường mới. Tuy vẫn tiếp

nối nền văn học Cách mạng trước đó với đề tài chủ yếu là chiến tranh và người

lính, song thông qua các trang viết, có thể thấy sự thay đổi rõ rệt trong cách thể

hiện của các tác giả về cuộc chiến đã qua. Mặc dù vẫn còn mang âm hưởng sử thi

và cảm hứng ngợi ca, tuy nhiên bức tranh đời sống lúc này không chỉ đơn điệu là

một màu hồng. Các tác phẩm giai đoạn này không còn là một dàn đồng ca ca ngợi

hùng hồn về sự vẻ vang của chiến thắng, sự anh dũng của người chiến sĩ trên mặt

trận nữa mà mỗi tác phẩm là một mảng khác nhau về chiến tranh với nhiều góc

khuất sáng tối, về cuộc sống của những người lính đã từng sống trong chiến tranh

ác liệt. Số phận của họ sẽ ra sao khi hòa bình lập lại? Họ sẽ vui mừng trong niềm

vui chiến thắng, sẽ hãnh diện với những chiến công mà mình lập được và hạnh

phúc khi được về với mái ấm gia đình mà một thời họ đã bị chia cắt bởi chiến

tranh,… Hay sẽ là một điều gì đó? Họ, những người chiến sĩ anh dũng một thời, trở

về thời bình làm thế nào để hòa nhập với cuộc sống khi mà một phần tuổi trẻ của

họ đã để lại nơi chiến trường ác liệt năm nào. Tất cả những điều này là những gì mà

các nhà văn giai đoạn sau chiến tranh quan tâm, trăn trở và tìm cách lý giải trong

các tác phẩm của mình.

Những đổi mới mạnh mẽ về mặt nội dung đã dẫn đến sự chuyển biến rõ rệt về

mặt nghệ thuật mà một trong những thay đổi đáng kể đó là yếu tố kì ảo được đưa

vào sử dụng một cách dày đặc trong các tác phẩm. Yếu tố kì ảo trở thành một công

cụ đắc dụng giúp nhà văn đi sâu khám phá thế giới tinh thần vốn đầy bí ẩn của con

người mà cụ thể là người lính với những ám ảnh về một quá khứ không thể lãng

quên và những ẩn ức bị kìm nén bên trong tâm hồn. Với vai trò là một thủ pháp

nghệ thuật, yếu tố kì ảo đã góp phần không nhỏ giúp nhà văn chuyển tải đến người

đọc những suy nghĩ, trăn trở của mình về cuộc chiến đã qua. Sự hiện diện của yếu

tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh một mặt chi phối đến các

thành tố khác của tác phẩm như cốt truyện, tình huống, nhân vật, không gian, thời

gian,... mặt khác, sự xuất hiện của nó đã góp phần không nhỏ trong việc thể hiện

chủ đề, nội dung tư tưởng của các tác phẩm. Có thể thấy các tác phẩm văn xuôi viết

về chiến tranh mang yếu tố kì ảo đã giành được một vị trí riêng, tương đối vững

vàng trong lòng độc giả. Góp phần làm mới diện mạo văn xuôi Việt Nam sau 1975.

Trong khoảng thời gian vài năm trở lại đây, yếu tố kì ảo đã thu hút nhiều sự

quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học nước ta. Nhiều hiện tượng văn

học kì ảo được giải mã trong các các bài nghiên cứu (Yếu tố kì ảo trong truyện

ngắn Việt Nam hiện đại giai đoạn từ sau 1975 đến nay – Phùng Hữu Hải, Vai trò

của yếu tố kì ảo trong truyện Việt Nam sau 1975 – Nguyễn Văn Kha, Cái kì ảo-

một phương tiện hữu hiệu trong việc thể hiện đời sống tâm linh, vô thức của con

người trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 – Nguyễn Thị Hải Phương,… ) hoặc

các sách chuyên luận, luận văn, đề tài khoa học (Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết

Nguyễn Bình Phương– Nguyễn Thị Ngọc Anh, Yếu tố kì ảo trong sáng tác Võ Thị

Hảo qua tiểu thuyết Giàn Thiêu và tập truyện ngắn Những truyện không nên đọc

lúc nửa đêm – Cao Thị Thu Hoài, Yếu tố huyền ảo trong văn xuôi nghệ thuật Việt

Nam sau 1975 – Hoàng Thị Văn,….) đã đem đến cho người đọc nhiều điều thú vị

và bổ ích, giúp người đọc hiểu rõ hơn những đóng góp to lớn về mặt nghệ thuật của

yếu tố kì ảo khi có mặt trong tác phẩm văn học.

Trên hành trình khám phá sự bí ẩn của yếu tố kì ảo trong văn xuôi Việt Nam

hiện đại nói chung, việc tìm hiểu yếu tố kì ảo trong các tác phẩm viết về chiến tranh

là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa trong nghiên cứu văn học. Vấn đề tìm nhận

vai trò của yếu tố kì ảo trong các tác phẩm viết về chiến tranh có xuất hiện trong

một số bài nghiên cứu tuy nhiên chưa đạt đến mức độ toàn diện, chuyên sâu. Vì

vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện hơn về yếu tố kì ảo trong văn

xuôi viết về chiến tranh sau 1975 là điều cần thiết. Việc nghiên cứu này nhằm đánh

giá đúng những giá trị đóng góp của các tác phẩm đề tài chiến tranh đối với nền

văn xuôi hiện đại Việt Nam, thấy được những điểm khác biệt giữa các sáng tác viết

về chiến tranh sau 1975 với các tác phẩm văn xuôi hiện đại có sử dụng yếu tố kì ảo

cũng như với những tác phẩm có cùng đề tài chiến tranh trước đây.

Khi tìm hiểu về vai trò của yếu tố kì ảo trong các tác phẩm viết về chiến tranh

giai đoạn sau 1975, chúng tôi tập trung vào mảng tiểu thuyết, truyện ngắn bởi đây

là hai thể loại tiêu biểu có khả năng giúp người đọc tìm hiểu thấu đáo vấn đề nhìn

thẳng vào sự thật và đánh giá đúng sự thật. Ngoài ra, các yếu tố kì ảo chủ yếu xuất

hiện nhiều trong các tác phẩm tiểu thuyết và truyện ngắn. Khi thực hiện đề tài,

chúng tôi sẽ đi vào trình bày những dạng thức kì ảo tiêu biểu trong tiểu thuyết,

truyện ngắn viết về chiến tranh. Xác nhận vai trò của yếu tố kì ảo trong cấu trúc

chỉnh thể tác phẩm, từ đó thấy được hiệu quả nghệ thuật mà yếu tố kì ảo đem lại

trong việc thể hiện nội dung tư tưởng tác phẩm. Bên cạnh đó chúng tôi sẽ tìm nhận

yếu tố kì ảo từ những góc nhìn khác nhau. Với những nghiên cứu này, chúng tôi

mong muốn góp phần nhận diện những nét đặc sắc của những tác phẩm viết về

chiến tranh sau 1975 có sử dụng yếu tố kì ảo. Từ đó góp phần khẳng định tác dụng

của thủ pháp nghệ thuật sử dụng yếu tố kì ảo trong việc thể hiện nội dung, tư tưởng

của tác phẩm.

2. Lịch sử vấn đề

Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu yếu tố kì ảo trong văn học thu

hút rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học nước ta. Có rất

nhiều những bài viết, các công trình nghiên cứu có giá trị đã đi vào phân tích, xem

xét yếu tố kì ảo trong văn học Việt Nam hiện đại một cách công phu, tỉ mỉ. Các

công trình nghiên cứu ấy thật sự mang đến cho người đọc một cái nhìn khá toàn

diện về diện mạo của văn học Việt Nam sau 1975 với sự đổi mới mạnh mẽ, hiểu

thêm về những giá trị và ý nghĩa của yếu tố kì ảo trong văn học Việt Nam hiện đại

sau 1975. Mỗi nhà nghiên cứu khác nhau có sự lý giải khác nhau về vấn đề này. Có

thể kể đến những công trình nghiên cứu sau:

Ở bài viết Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại giai đoạn từ sau

1975 đến nay, tác giả Phùng Hữu Hải nhận định: sau khi chiến tranh kết thúc,

những tình cảm lớn một thời đã dần nhường chỗ cho những vấn đề số phận cá

nhân. Và do đó, đề tài văn học chuyển dần sang địa hạt tâm linh với những trăn trở,

uẩn khúc đang diễn ra quyết liệt trong tâm hồn con người, đặc biệt là những số

phận vừa đi qua cuộc chiến. Theo tác giả, những diễn biến tâm linh rất khó nắm

bắt, và đó là lý do khiến các nhà văn đến với địa hạt của yếu tố kì ảo bởi “yếu tố kỳ

ảo là một hình thức đắc dụng giúp nhà văn đi sâu khám phá thế giới tinh thần hết

sức trừu tượng khó nắm bắt của con người, để từ đó “thấu” con người ở phần

nhân tính, mơ hồ và huyền diệu ấy”[27]. Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt Nam

hiện đại thể hiện ở một số phương diện như: Quan niệm của con người về thế giới

đa chiều và con người tâm linh; quan niệm về sự hữu hình hóa cái ác và giấc mơ về

những giá trị chân thiện mỹ; cảm hứng nhận thức lại thực tại và chất triết lý.

Bài viết Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Phạm Thị Thanh

Nga) tập trung trình bày mối quan hệ giữa yếu tố kì ảo với tình huống truyện. Tác

giả chỉ ra ba loại tình huống tiêu biểu trong các truyện có yếu tố kì ảo: Tình huống

kì lạ, ma quái; tình huống mang tính chất ngẫu nhiên, đột biến và tình huống căng

thẳng, kịch tính. Theo tác giả nhận định: trong các truyện ngắn, cái kì ảo đóng vai

trò như một tình huống quan trọng đối với sự chuyển biến của cốt truyện. Nó gắn

kết các nhân vật cùng tham gia một sự kiện, biến cố có ý nghĩa nào đó, góp phần

bộc lộ quan hệ và tính cách nhân vật hoặc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác

phẩm.[10]

Đi tìm nguyên nhân Sự hồi sinh của yếu tố kì ảo trong văn xuôi đương đại

Việt Nam, tác giả Bùi Thanh Truyền cho rằng: từ những thay đổi trong đời sống xã

hội – văn học, những đổi thay trong giao lưu văn học, từ sự mở rộng quan niệm về

hiện thực và đối tượng phản ánh của văn học, từ sự mở rộng quan niệm về phương

pháp sáng tác tiếp cận hiện thực và xuất phát từ truyền thống văn hóa, văn học dân

tộc là những lý do khiến yếu tố kì ảo hồi sinh trở lại trong văn xuôi Việt Nam

đương đại.[12]

Trong bài nghiên cứu Cái kì ảo - một phương tiện hữu hiệu trong việc thể

hiện đời sống tâm linh, vô thức của con người trong truyện ngắn Việt Nam sau

1975. Tác giả Nguyễn Thị Hải Phương cho rằng “các cây bút truyện ngắn đã tìm

đến cái kì ảo, đã sử dụng nó như một phương tiện hữu hiệu để hữu hình hóa thế

giới tâm linh vô thức đầy bí ẩn, mù mờ và trừu tượng” bởi con người không chỉ có

phần đời sống ý thức rõ ràng mà còn có phần trượt ra ngoài ý thức, rất khó nắm bắt.

Con người không chỉ có những hành động tuân theo quy luật tất yếu mà còn có

những hành động tuân theo sự mách bảo của bản năng, tiềm thức, của linh cảm, của

điềm báo, mộng triệu,… Trong bài viết, tác giả đã chỉ ra các dạng thức biểu hiện

của yếu tố kì ảo trong tác phẩm văn học như: Yếu tố kì ảo thể hiện ở những lời nói,

hành động kì lạ của nhân vật, Yếu tố kì ảo thể hiện qua sự hiện hồn của người chết,

hay như yếu tố kì ảo thể hiện ở hình thức hóa thân của nhân vật.

Chuyên luận Yếu tố huyền ảo trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau năm

1975 (Hoàng Thị Văn) đã đi vào trình bày những dạng thức biểu hiện của yếu tố

huyền ảo trong các tác phẩm văn xuôi sau 1975 như: những lời nói, hành động kì lạ

của con người; sự hiện hồn của người chết; hình thức biến dạng, hóa thân của nhân

vật và những việc, những sự kiện lạ, phi lý, kinh dị. Bên cạnh đó, chuyên luận cũng

nêu lên vai trò của yếu tố huyền ảo trong cấu trúc chỉnh thể tác phẩm. Từ đó, tác

giả hướng đến tìm nhận hiệu quả nghệ thuật của yếu tố huyền ảo trong việc thể hiện

nội dung tư tưởng, chủ đề tác phẩm.

Ngoài những bài nghiên cứu nêu lên những nhận định mang tính khái quát

về yếu tố kì ảo trong truyện Việt Nam hiện đại, có nhiều bài nghiên cứu đi sâu tìm

hiểu yếu tố kì ảo trong những truyện, những chùm truyện của những tác giả cụ thể

như: Thế giới kì ảo trong Mảnh đất lắm người nhiều ma từ cái nhìn văn hóa (Lê

Nguyên Cẩn), Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương (Nguyễn Thị

Ngọc Anh), Yếu tố kì ảo trong sáng tác Võ Thị Hảo qua tiểu thuyết Giàn Thiêu và

tập truyện ngắn Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm (Cao Thị Thu Hoài),…

Luận văn Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương của tác giả

Nguyễn Thị Ngọc Anh chủ yếu tập trung khảo sát, phân tích và miêu tả các dạng

thức biểu hiện của yếu tố kỳ ảo, tìm hiểu vai trò của yếu tố kì ảo trong cấu trúc

chỉnh thể tác phẩm như: không gian và thời gian kì ảo; nhân vật kì ảo và những

phương thức tạo dựng các yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Qua

đó khám phá giá trị nghệ thuật của yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình

Phương

Bài viết Thế giới nhân vật trong truyện ngắn kỳ ảo của Võ Thị Hảo, tác giả

Nguyễn Thị Xuân Quỳnh cho rằng: Thế giới nhân vật của truyện ngắn kỳ ảo hết

sức phong phú, đa dạng. Đó là thế giới của ma quỷ, thần tiên, con người khác

thường…cùng đan xen tạo thành bức tranh đa diện về hiện thực cuộc đời. Bên cạnh

các kiểu nhân vật truyền thống, trong truyện ngắn Việt Nam từ năm 1975 đến nay

với sự tham gia của yếu tố kỳ ảo vào cấu trúc tác phẩm đã tạo nên nhiều kiểu nhân

vật mới lạ. Từ đó tác giả đi đến khẳng định: với nhà văn Võ Thị Hảo, việc xây

dựng thế giới nhân vật kỳ ảo đa dạng không nằm ngoài mục đích phản ánh sự đa

chiều, sinh động của cuộc sống hiện tại. Theo tác giả thế giới nhân vật trong truyện

ngắn Võ Thị Hảo rất đa dạng, bao gồm: những ma quỷ với đủ hình dạng quái đản,

kì dị. Những nhân vật này tượng trưng cho cái ác, cái xấu, là sự huyền thoại hóa cái

ác trong bản chất cuộc sống. Bên cạnh thế giới ma quỷ hình dạng quái đản, kì dị là

thế giới đông đảo các hồn ma, linh hồn của người chết. Thế giới này sinh động,

giàu màu sắc và ẩn chứa mọi trạng thái cung bậc cảm xúc của con người. Ngoài

nhân vật hồn ma, truyện Võ Thị Hảo còn xuất hiện dạng nhân vật hóa thân và sự

hóa thân này giống như hành động giải tỏa những xót xa đau đớn mong tìm được

sự tĩnh tại trong tâm hồn.

Nhìn chung, hầu hết các nhà nghiên cứu đều dành khá nhiều thời gian và

tâm huyết để làm sáng tỏ sự biểu hiện và vai trò của yếu tố kì ảo trong các tác

phẩm văn xuôi sau 1975. Việc tìm hiểu yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn

viết về chiến tranh giai đoạn này chưa được đề cập nhiều trong các bài viết. Vì vậy

cần có một đề tài nghiên cứu mang tính hệ thống và toàn diện hơn về vấn đề này.

Trên cơ sở kế thừa những bài viết, khi thực hiện đề tài, chúng tôi sẽ đi sâu khảo sát

những biểu hiện của yếu tố kì ảo trong các tác phẩm để từ đó thấy được vị trí, vai

trò và hiệu quả nghệ thuật của yếu tố kì ảo trong cấu trúc chỉnh thể tiểu thuyết,

truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những tiểu thuyết, truyện ngắn viết về

chiến tranh giai đoạn sau 1975 có sử dụng yếu tố kì ảo. Gồm 5 tiểu thuyết: Nỗi

buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Tàn đen đốm đỏ (Phạm

Ngọc Tiến), Bến không chồng (Dương Hướng), Hồn trúc (Nguyễn Văn Thông) và

khoảng gần 50 truyện ngắn của nhiều tác giả khác nhau.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những dạng thức biểu hiện của yếu tố kì

ảo, vai trò của yếu tố kì ảo trong cấu trúc chỉnh thể tác phẩm để từ đó làm rõ tác

dụng của nó trong việc biểu đạt nội dung tư tưởng tác phẩm. Bên cạnh đó luận văn

sẽ đi sâu tìm nhận biểu hiện của yếu tố từ nhiều góc nhìn, cụ thể là góc nhìn thể tài,

góc nhìn văn hóa tâm linh và góc nhìn thẩm mỹ.

4. Phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp khảo sát, thống kê

Để thực hiện đề tài này chúng tôi khảo sát toàn bộ các tác phẩm nằm trong

phạm vi đã giới hạn nhằm nhận biết những đặc điểm của yếu tố kì ảo trong các tác

phẩm từ đó hệ thống hóa thành những nhận xét, nhận định có tính khái quát, khoa

học.

4.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp

Nhằm tìm nhận những dạng thức biểu hiện và hiệu quả nghệ thuật của yếu tố

kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975.

4.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu

Sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu nhằm thấy được nét mới mẻ, khác

biệt riêng của các tác phẩm viết về chiến tranh có dùng yếu tố kì ảo với những tác

phẩm có cùng đề tài trước đây và những tác phẩm văn xuôi kì ảo sau 1975.

5. Mục đích của luận văn

- Khảo sát sự xuất hiện của yếu tố kì ảo, các dạng thức biểu hiện chủ yếu của

yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh giai đoạn sau

1975.

- Xác định vai trò của yếu tố kì ảo trong cấu trúc chỉnh thể tác phẩm, trên cơ

sở đó luận văn làm rõ hiệu quả nghệ thuật của việc sử dụng yếu tố kì ảo

trong thể hiện chủ đề tác phẩm.

- Khảo sát yếu tố kì ảo từ nhiều góc nhìn khác nhau, cụ thể trong đề tài này là

khảo sát yếu tố kì ảo từ góc nhìn thể tài, góc nhìn văn hóa tâm linh và góc

nhìn thẩm mỹ.

6. Đóng góp của luận văn

- Có được những kết luận khoa học về yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện

ngắn viết về chiến tranh.

- Thấy được những đóng góp về mặt nghệ thuật của yếu tố kì ảo trong các

tác phẩm văn xuôi viết về chiến tranh giai đoạn sau chiến tranh.

- Bên cạnh đó luận văn cũng sẽ đi sâu khảo sát yếu tố kì ảo từ nhiều góc

nhìn khác nhau, cụ thể là góc nhìn thể tài, góc nhìn đời sống tâm linh và sắc thái

thẩm mỹ, để thấy được sự khác biệt của yếu tố kì ảo khi tham dự vào thể tài tiểu

thuyết, truyện ngắn, sự hữu hiệu của yếu tố kì ảo trong việc biểu đạt đời sống tâm

linh và những sắc thái thẩm mỹ được tạo ra bởi yếu tố kì ảo. Qua đó thấy được

những nét đặc sắc riêng của tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975.

- Phần nào bổ sung tư liệu tham khảo cho việc học tập và giảng dạy văn học

Việt Nam hiện đại, đặc biệt là giai đoạn sau 1975.

7. Cấu trúc của luận văn

Chương 1: Yếu tố kì ảo và các dạng thức xuất hiện của yếu tố kì ảo trong tiểu

thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh giai đoạn sau 1975

Trong chương này, bên cạnh việc giải thích rõ khái niệm yếu tố kì ảo, chúng

tôi sẽ tập trung khảo sát các dạng thức kì ảo xuất hiện trong tiểu thuyết, truyện ngắn

viết về chiến tranh sau 1975.

Chương 2: Vai trò và hiệu quả nghệ thuật của việc sử dụng yếu tố kì ảo trong

cấu trúc chỉnh thể của tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh giai đoạn

sau 1975

Ở chương hai, chúng tôi sẽ thực hiện những vấn đề sau:

- Tìm nhận vai trò của yếu tố kì ảo trong kết cấu nghệ thuật tác phẩm:

Trong phần này chúng tôi sẽ khảo sát những tình huống thường xuất hiện

trong các tác phẩm văn xuôi viết về chiến tranh sau 1975 có yếu tố kì ảo,

đồng thời tìm hiểu vai trò của yếu tố kì ảo khi tham dự vào cốt truyện.

- Tìm hiểu vai trò của yếu tố kì ảo với thế giới hình tượng:

Ở phần này, chúng tôi đi vào tìm hiểu thế giới nhân vật cũng như những

không gian, thời gian thường thấy trong các tiểu thuyết, truyện ngắn viết về

chiến tranh sau 1975.

Chương 3: Yếu tố kì ảo từ những góc nhìn thể tài, đời sống tâm linh, sắc thái

thẩm mỹ

Ở chương 3, nhiệm vụ của chúng tôi là sẽ đi vào tìm hiểu yếu tố kì ảo từ

những góc nhìn khác nhau, cụ thể là: góc nhìn thể tài, đời sống tâm linh và sắc thái

thẩm mỹ để thấy được sự khác biệt của yếu tố kì ảo khi tham dự vào mỗi thể tài; sự

hữu hiệu của yếu tố kì ảo trong việc biểu đạt đời sống tâm linh và những sắc thái

thẩm mỹ được tạo ra bởi yếu tố kì ảo.

Phần nội dung

Chương 1: Yếu tố kì ảo và các dạng thức xuất hiện của yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh giai đoạn sau 1975

1.1. Khái niệm về yếu tố kì ảo

Theo từ điển ngôn ngữ Pháp, “fantastique” có nghĩa là tưởng tượng, hư ảo,

quái dị, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “phantastikos” và tiếng Latinh “phantasticus” để

chỉ những cái thuộc về trí tưởng tượng chứ không tồn tại trong thực tế cuộc sống.

Trong tiếng Việt, kì ảo là từ Hán Việt. Trong đó kỳ có nghĩa là lạ lùng, ảo là không

có thực, kì ảo có nghĩa là chuyện lạ lùng, không có thực, chuyện không thể xảy ra

trong đời thực.

Trên thế giới, người đầu tiên đề cập đến thuật ngữ “cái kì ảo” là một học giả

người Anh tên là Joseph Addison (1672-1719). Theo ông, những sáng tác kì ảo

“tạo ra một khoái cảm về nỗi sợ hãi trong tâm trí độc giả và làm thỏa mãn trí

tưởng tượng của độc giả bởi những cái lạ lùng và tính chất khác thường của những

con người được miêu tả trong đó. Chúng nuôi dưỡng trong trí nhớ của chúng ta

những câu chuyện ma mà chúng ta nghe từ thuở ấu thơ và thích thú với những nỗi

khiếp sợ bí mật, những nỗi sợ hãi mà trí óc con người phải lệ thuộc vào nó một

cách tự nhiên” [8, 43]. Khi bàn về thuật ngữ kì ảo, H.Banec chủ yếu nhấn mạnh

đến tính xung đột, nửa tin nửa ngờ. Theo ông: tính chất tự nhiên và sự lạ thường

đan xen lẫn nhau sẽ gây ra cảm giác lo lắng, hồi hộp khiến người đọc do dự giữa

một sự giải thích hợp lý và một giải thích siêu nhiên về các sự kiện. Như vậy sự do

dự, hoài nghi chính là đặc trưng của yếu tố kì ảo. Trong “Từ vựng các thuật ngữ

văn chương”, M.Jarrety cho rằng: “Cái kỳ ảo đưa những sự kiện huyền bí vào

trong cuộc đời hoàn toàn hiện thực”.[14, 51]

Ở Việt Nam, bàn về thuật ngữ kì ảo trong văn học, Lê Nguyên Cẩn cho rằng

“Cái kì ảo là một phạm trù tư duy nghệ thuật, nó được tạo ra nhờ trí tưởng tượng

và được biểu hiện bằng các yếu tố siêu nhiên, khác lạ, phi thường, độc đáo… Nó có

mặt trong văn học dân gian, văn học viết qua các thời đại. Nó tồn tại trên trục thực

- ảo, và tồn tại độc lập, không hòa tan vào các dạng thức khác của trí tưởng tượng”

[43, 16]. Còn theo Phùng Văn Tửu trong bài nghiên cứu Những đổi mới trong văn

học kỳ ảo thế kỷ XX thì “kỳ ảo là cái lạ lùng, không có thật, không thể bắt gặp trên

thế gian này, nói chung là những yếu tố siêu nhiên, nếu ta hiểu siêu nhiên là những

cái gì không tồn tại trên đời” [14, 47]. Tác giả Phùng Hữu Hải nhận định: “yếu tố

kỳ ảo là sản phẩm của trí tưởng tượng, là phương thức tư duy nghệ thuật được biểu

hiện bằng những năng lực, yếu tố có tính siêu nhiên, nằm ngoài tư duy lý tính của

con người. Nó tham gia vào sự phát triển của cốt truyện và tạo nên những phản

ánh nhận thức của người tiếp nhận một cách mạnh mẽ, hay nói cách khác nó tạo

nên những cú “sốc” về tâm lý, nhận thức, làm xuất hiện những dấu hỏi về nguồn

gốc xuất hiện. Yếu tố kỳ ảo không hòa tan vào các dạng thức khác của trí tưởng

tượng, không bao gồm biện pháp nhân hóa”. [27]

Nhìn chung, những tài liệu nghiên cứu về yếu tố kì ảo đều hướng đến làm rõ

những quan niệm sau:

- Yếu tố kì ảo là sản phẩm của trí tưởng tượng, là cái không có thật, chỉ tồn tại

trong thế giới tinh thần của con người.

- Yếu tố kì ảo là những cái khác thường, phi lý, kì lạ, độc đáo.

- Trong văn học, yếu tố kì ảo là phương tiện nghệ thuật để nhà văn bộc lộ

quan niệm, tư tưởng của mình về đời sống, về con người.

- Hiệu quả nghệ thuật: yếu tố kì ảo đem đến cho người đọc sự hồi hộp, lo

lắng, dẫn đến sự phân vân, do dự giữa sự giải thích hợp lý và sự giải thích

siêu nhiên về các sự kiện. Chính điều này đã gây sự hưng phấn, thu hút, lôi

cuốn người đọc.

Hiệu quả đặc trưng của truyện kì ảo mang đến sự hồi hộp, lo lắng dẫn đến sự

phân vân, do dự giữa sự giải thích hợp lý và sự giải thích siêu nhiên chưa nổi bật

trong các truyện viết về chiến tranh sau 1975. Những yếu tố kì ảo trong các truyện

này vẫn còn mang đậm tính chất “hồn nhiên” phương Đông nói chung. Trạng thái

ám ảnh của con người trước một thế giới phi lý trong các truyện kì ảo phương Tây

hầu như không thấy xuất hiện. Ở những tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh,

người đọc phân biệt rạch ròi đâu là thế giới của sự hư huyễn, đâu là sự thật của

cuộc sống, tuy nhiên, cả người đọc lẫn người sáng tác đều mong muốn những điều

huyền bí sẽ phần nào xoa dịu được những vết thương mà chiến tranh để lại.

1.2. Các dạng thức biểu hiện của yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975

Trong các tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975, yếu tố kì ảo

được biểu hiện ở một số dạng thức tiêu biểu sau:

1.2.1. Mô-tip giấc mơ

Đây là dạng thức quen thuộc được sử dụng khá nhiều trong các tác phẩm viết

về chiến tranh với tần số xuất hiện 14 truyện (35 lần)/ 50 truyện. Giấc mơ là vấn đề

thuộc về thế giới tâm linh, nó nằm trong vùng sâu của vô thức con người, chất chứa

những khát khao thầm kín, những điều bí ẩn mà con người luôn vươn đến khám

phá “Giấc mơ là biểu tượng của cuộc phiêu lưu cá thể, được cất sâu trong tâm

khảm... Chiêm mộng hiện ra với chúng ta như một điều bí ẩn của chính mình”

[60;17]. Nếu phân loại dựa vào tiêu chí hoàn cảnh xuất hiện, có thể phân thành hai

dạng giấc mơ. Giấc mơ của người đang sống trong hoàn cảnh chiến tranh (10/ 35

lần), và giấc mơ của người sống trong hòa bình (25/35 lần). Nếu dựa vào tiêu chí

trạng thái cảm xúc khi mơ, có thể phân thành các dạng: giấc mơ chất chứa nỗi khát

khao hạnh phúc (9/35 lần), giấc mơ mang trạng thái bấn loạn, bất an (15/35 lần),

giấc mơ mang mặc cảm tội lỗi (3/35 lần), giấc mơ thanh thản, tươi vui (3/35 lần),

cảm xúc khác (5/35 lần).

Trước hết phải kể đến đó là tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh. Đây là cuốn tiểu

thuyết mà mô-tip giấc mơ xuất hiện nhiều nhất với tổng số 16/35 lần. Trong đó,

những giấc mơ của Kiên là nhiều hơn hẳn. Do đây là một tiểu thuyết tương đối dài,

để thuận tiện cho việc theo dõi, chúng tôi tạm thống kê tần số xuất hiện và nội dung

những giấc mơ chính trong truyện. Sự thống kê mang tính chất tương đối.

STT NỘI DUNG GIẤC MƠ HOÀN CẢNH XUẤT HIỆN TRANG

1 Kiên mơ về những con bài Sau chiến tranh 11

2 Kiên mơ về Hà Nội, và thấy Trong chiến tranh (khi trong trạng 14

Phương đang cùng trên thuyền thái mụ mị bởi khói hồng ma)

3 Can mộng thấy mình chết Trong chiến tranh (nói với Kiên 22

trước lúc đào ngũ)

4 Kiên mơ thấy toàn bộ quãng Sau chiến tranh (trong chuyến thu Tr27

đời chiến đấu của mình gom hài cốt) đến tr44

5 Kiên mơ về Phương Trong chiến tranh (trong những 32

giấc ngủ về đêm)

6 Mơ trở lại Truông Gọi Hồn Sau chiến tranh 48

7 Mơ thấy Truông Gọi Hồn và Sau chiến tranh 49

cô giao liên Hòa

8 Mơ thấy đang đi qua đồi “Xáo Sau chiến tranh (khi đang đi trên 50

Thịt” la liệt người chết vỉa hè)

9 Giật mình vì nghe tiếng rú rít Sau chiến tranh (tỉnh dậy khi nghe 50

của trực thăng tiếng quạt trần)

10 Kiên mơ thấy Hà Nội Trong chiến tranh (khi nghe tiếng 74

mưa sa trên vòm lá ở chiến trường)

11 Choàng tỉnh sau cơn mơ và Sau chiến tranh 76

thấy đang ở dưới sàn nhà

12 Nhìn thấy mùa mưa Cánh Bắc, Sau chiến tranh (mơ trong lúc đang 92

Ngọc Bơ Rẫy, truông Gọi Hồn đứng bên cửa sổ ngắm mưa)

13 Mơ thấy mình suýt chết Sau chiến tranh Tr135

và tr288

14 Kiên mơ thấy Phương Trong chiến tranh (khi những đồng 161

đội giấu anh bí mật đến với người

tình)

15 Kiên mơ thấy Phương Trong chiến tranh (khi đang mơ 162

màng vì bị thương)

16 Kiên mơ về Phương dù bên Sau chiến tranh (khi Phương đã bỏ 190

cạnh có cô gái khác đi)

Qua sự thống kê, có thể thấy rằng những giấc mơ sau chiến tranh chiếm số

lượng nhiều hơn cả với tổng số 10/16 lần. Trong những giấc mơ khi đang ở chiến

trường, ngoài giấc mơ duy nhất mà Can kể cho Kiên nghe, tất cả những giấc mơ

còn lại đều là của Kiên. Trong thế giới mộng mị, Kiên chỉ mơ về Phương và Hà

Nội thân yêu của anh. Những cơn mơ chỉ xuất hiện trong những trường hợp Kiên

chìm vào cõi vô thức như: đang trong trạng thái mụ mị bởi khói hồng ma, bị mê

man bởi vết thương, hoặc vào những giấc ngủ chập chờn khi ở trung đội trinh sát.

Khoảng thời gian sau chiến tranh, những giấc mơ đến với Kiên nhiều hơn. Đó

không phải là những giấc mơ ngọt ngào, êm đềm về Phương và về Hà Nội mà là

những cơn mơ mang đầy nỗi bấn loạn, bất an. Không chỉ trong giấc ngủ, cả lúc

đang tỉnh táo, Kiên vẫn có thể bị cuốn trôi vào trong giấc mơ một cách vô thức

không thể cưỡng lại. Những giấc mơ về chiến tranh, về cái chết, về đạn bom không

ngừng ám ảnh Kiên. Kiên thường mơ thấy mình trở lại truông Gọi Hồn, nơi ghi dấu

những kỉ niệm đau thương, khốc liệt của anh và những đồng đội trong chiến tranh.

Có khi, đang đi trên vỉa hè, Kiên lại thấy mình đi qua đồi “Xáo Thịt” la liệt người

chết, vỉa hè nồng nặc mùi tử khí. Như một người phát rồ, anh đưa tay lên bịt mũi

giữa phố xá đông người. Hoặc nhiều lúc, giữa đêm khuya, Kiên giật mình bởi

tưởng tiếng quạt trần là tiếng rú rít của trực thăng vũ trang. Sự khốc liệt của chiến

tranh đã ám ảnh, ăn sâu vào tiềm thức Kiên. Vì vậy mà không chỉ khi ngủ, cả lúc

đang tỉnh táo, giấc mơ về thời đại đã qua vẫn tồn tại và không ngừng chi phối cuộc

đời thực của anh sau ngày chiến thắng.

Đến với Những giấc mơ có thực - Vũ Thị Hồng, người đọc khó xác định

rạch ròi ranh giới giữa giấc mơ và đời thực. Sau khi mẩu tin nhắn “tìm những

người bạn cũ ở Trường Sơn” đăng trên báo, cuộc sống thực tại của Tuân bị xáo

trộn. Lần lượt những người năm xưa đã tìm đến chị. Tuy nhiên, những cuộc hội

ngộ ấy không phải diễn ra trong cuộc sống thực mà nó chỉ là những giấc mơ. Đến

với những giấc mơ, Tuân mới có dịp sống thực với bản thân, hiểu được những khát

khao, những mong muốn mà từ lâu chị đã chôn chặt nơi đáy lòng.

Giấc mơ cũng có mặt trong tác phẩm Hai người đàn bà xóm Trại (Nguyễn

Quang Thiều). Đến hơn ba lần, tác giả nhắc đến những giấc mơ giống nhau ở hai

nhân vật Ân và Mật. Ân cứ mơ đi mơ lại giấc mơ có vẻ kì lạ “con gà trống tía với

cái mào đỏ rực, cái ức rộng và đôi cựa bóng như ngà mổ mổ vào ngón tay của

mình”, còn Mật cô vẫn mơ những cơn mơ vừa hạnh phúc vừa lo sợ “Mật thấy

người lính trở về và ngay đêm đó Mật có mang. Và cứ tỉnh giấc, Mật mơ hồ lo lắng

khi cảm thấy bụng mình khang khác”. Những giấc mơ kì lạ của Ân và Mật chở đầy

những hi vọng về một ngày đoàn tụ với người chồng thân yêu.

Những cơn mơ cũng luôn thường trực trong giấc ngủ của Thảo (Người sót

lại của rừng cười - Võ Thị Hảo) mỗi khi đêm về. Trở về sau chiến tranh, Thảo chỉ

có hai giấc mơ duy nhất: Giấc mơ thời bé và giấc mơ tuổi thanh xuân. Nếu giấc mơ

thời bé là khoảng thời gian thanh thản, tươi vui của cô với những trò trẻ thơ nhặt

cặp ba lá, hoặc nhặt trứng vịt đẻ rơi thì trong giấc mơ tuổi thanh xuân, cô chỉ thấy

tóc rụng như trút, rụng đầy khuôn ngực đã bị đâm nát của người đồng đội. Từ đám

tóc ấy lấy ra hai giọt nước mắt trong veo, rắn như thủy tinh không gì đập vỡ.

Ông Tuyển (Trừng phạt – Đỗ Nhật Minh) đêm nào cũng nằm mơ thấy toàn

những chuyện hãi hùng. Trong giấc mơ, ông thấy Thung – người bạn thân trong

những năm kháng chiến trở về để tìm ông hỏi tội. Những ngày sau đó, Tuyển luôn

sống trong trạng thái bất an bởi giấc mơ đó vẫn không ngừng ám ảnh ông.

Khôi (Con đò và người khách lạ - Thái Sinh) đã mơ thấy Đông, người đồng

đội cùng chiến đấu với mình trong chiến tranh. Khôi đã biện hộ về hành động hèn

nhát của mình đã gây ra cái chết cho bạn trong giấc mơ “Ta có lỗi gì? Ừ lúc đó tao

đã sợ chết nên tao không dám nổ súng vào bọn lính đi tuần, nhưng sau đó tao đã

bò vào tìm mày, mày đã bị chúng nó kéo đi rồi. Mày có biết tao đã khóc bao nhiêu

ngày? Sự hi sinh của mày đã thức tỉnh tao, tao đã chiến đấu, đi suốt cuộc chiến

tranh cho tới ngày miền Nam được giải phóng”. Lời biện hộ đó cũng là sự dằn vặt,

ăn năn mà Khôi luôn giấu kín trong suốt nhiều năm.

Giấc mơ đến với hai cô gái trong Đốm lửa - Nguyễn Thị Minh Thúy thật kì

lạ. Cả hai cùng có một giấc mơ giống nhau. Ngọc thấy Thanh nheo mắt chọc cô, và

dành cho cô những cử chỉ âu yếm dịu dàng. Khi Thanh cương quyết nhấc bổng cô

lên bờ cũng là lúc cô bừng tỉnh dậy. Vừa khi đó Mỹ cũng choàng tỉnh. Cả hai cùng

kể cho nhau nghe về giấc mơ của mình. Cuối truyện, người đọc bất ngờ bởi Thanh

đã chết và xác anh nằm cạnh họ, cách nhau chỉ một tấm ván.

Người cha đáng thương (Mai-Thanh Quế) đã thấy con gái mình về báo

mộng nơi chôn cất thi hài của cô. Còn Biền (Đồng đội-Hồ Tĩnh Tâm) mơ thấy đồng

đội trở về nhắc lại lời hứa mà người còn sống chưa thực hiện. Bên cạnh đó, mô-tip

giấc mơ cũng xuất hiện trong các truyện như Truyền thuyết về quán tiên (Xuân

Thiều), Họ đã trở thành đàn ông (Phạm Ngọc Tiễn), Anh lính To-ny D (Lê Minh

Khuê), Giấc mộng cuối cùng (Triệu Huấn),… Thế giới bên trong của con người là

một thế giới mang đầy bí mật, những giấc mơ khác nhau đem đến cho người đọc

những khám phá khác nhau về thế giới ấy, giúp người đọc chạm sâu vào những góc

khuất ẩn kín trong tâm hồn người lính. Bên cạnh đó, giấc mơ còn là cầu nối giữa

người còn sống và người đã khuất, để người còn sống thực hiện những nguyện ước

mà người chết còn trăn trở.

1.2.2. Hồn người chết trở về

Hồn người chết trở về cũng là một dạng thức kì ảo tiêu biểu trong các tiểu

thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975. Thế giới kì ảo về những hồn ma

bóng quế luôn mang đến nơi người đọc sự tò mò hưng phấn, chính vì vậy, những

truyền thuyết về các hồn ma đã xuất hiện từ lâu trong các tác phẩm văn học Cổ,

Trung đại. Tiếp nối những nhà văn đi trước, thế hệ các văn nghệ sĩ trẻ sau này vẫn

tiếp tục gây hứng thú cho người đọc khi đào sâu nguồn cảm hứng với loại mô-tip kì

ảo này. Trong các tiểu thuyết, truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh tần số xuất hiện

của dạng thức này khá nhiều(17/50 truyện khảo sát). Các truyện tiêu biểu như Cặp

bồ với ma - Ngô Văn Phú, Bến trần gian- Lưu Sơn Minh, Bướm trắng - Thái Bá

Tân, Anh lính Tony D- Lê Minh Khuê, Hồn trinh nữ - Võ Thị Hảo, Đàn sẻ ri bay

ngang rừng -Võ Thị Xuân Hà, Mắt ma, Vùng sáng của kí ức - Y Ban, Vĩnh biệt

mười tám con gà trống - Nguyễn Quang Lập, Đồng đội - Hồ Tĩnh Tâm, Đốm lửa -

Nguyễn Thị Minh Thúy, Nỗi buồn chiến tranh - Bảo Ninh, Tàn đen đốm đỏ- Phạm

Ngọc Tiến, Ăn mày dĩ vãng - Chu Lai, Ám ảnh có thật – Trần Huy Quang…

Trong các truyện, thế giới hồn ma tồn tại song song với thế giới cõi dương,

linh hồn người chết vẫn thường hiện về, quanh quẩn bên cạnh người còn sống.

Trong Cặp bồ với ma, hồn ma của cô văn công Huệ đêm đêm thường hiện ra làm

bạn với anh chàng canh nghĩa trang. Giữa người và ma nảy sinh mối quan hệ gắn

bó sâu sắc với nhau. Nhờ Huệ mà chàng trai cảm thấy bớt cô độc giữa nghĩa trang

toàn mồ mả người chết. Và chàng trai chính là chỗ dựa để Huệ tâm sự, trút những

phiền muộn của cuộc sống trước kia.

Linh hồn người lính trong Bến trần gian dù hi sinh đã nhiều năm vẫn còn

quanh quẩn trong rừng. Được ông già cho chiếc lá, anh gài vào vành tai – chiếc lá

như bùa hộ mệnh giữ cho linh hồn anh không bị tan ra khi trở về. Ngay trong đêm

đó anh bắt đầu cuộc hành trình về lại quê nhà gặp lại những người thân yêu. Cuối

cùng anh đã đến được bến sông – nơi giao nhau giữa người còn sống và người đã

chết. Chỉ cần vượt qua trở ngại này, anh sẽ về được nhà. Nhưng ai sẽ là người đưa

anh qua sông? Chính Thùy- người yêu của anh ngày xưa. Hai người cùng ngồi

chung trên một con thuyền, cùng đối mặt nhau nhưng họ đã không nhận ra nhau.

Sau chiến thắng, Xuân Sinh (Bướm trắng) trở lại Cổng Trời thăm mộ Bạch

Điệp - người con gái anh yêu đã hi sinh trong lúc làm nhiệm vụ. Tại đây, anh đã

gặp lại linh hồn của nàng. Do bị trúng rốc-két nên người Bạch Điệp bị xé thành

nhiều mảnh nhỏ. Bằng tình yêu của mình, Xuân Sinh đã dùng máu trong tim chàng

vá lại những mẩu thi thể bị chiến tranh xé nát. Mất đúng một năm, chàng đã truyền

đủ sự sống cho Bạch Điệp và vá hết những mẩu thi thể nàng. Hai người sống với

nhau hạnh phúc như những đôi vợ chồng bình thường khác. Nhưng có điều họ chỉ

sinh toàn bướm và bướm.

Đọc Đàn sẻ ri bay ngang rừng, người đọc không khỏi xúc động bởi sự thông

linh giữa người còn sống và người đã khuất. Sống giữa gia đình nhà chồng, Diễm

cảm thấy lạc lõng, bơ vơ. Diễm thù ghét tất cả những người ở nhà chồng duy chỉ có

một người cô yêu thương và ao ước được gặp, đó là Nẫm – người anh chồng đã hi

sinh trong chiến tranh. Diễm mơ hồ cảm nhận được sự có mặt của anh trong nhà

cũng mơ hồ cảm nhận được có một sợi dây tình cảm đặc biệt giữa hai người.

Những dự cảm của cô, lúc đầu Thản cho bậy bạ, tuy nhiên cuối cùng anh đã tin và

đã nhờ Diễm khấn tìm hài cốt của Nẫm bởi “con người khi chết thịt da trả cốt nhục

chỉ có tâm linh thuộc về tiền duyên”.

Trong Vùng sáng của kí ức, chị Bưởi và anh Tính sắp lấy nhau thì anh phải

đi bộ đội và đã hi sinh. Bao năm, chị vẫn luôn yêu anh và theo lời chị kể thì “đêm

nào anh ấy cũng về với chị. Chị vui anh ấy cũng biết, chị buồn anh ấy cũng biết…

Chị chẳng đi lấy chồng đâu. Chị trọn đời, trọn kiếp với anh ấy”.

Chết không có nghĩa là hoàn toàn biến mất. Đôi khi vì một lý do nào đó,

người chết vẫn có thể trở về đi lại, nói chuyện với những người còn sống. Khi đã là

hồn ma, họ có thể làm những việc mà người còn sống không thể thực hiện. Hồn ma

của anh bộ đội trong truyện ngắn Đốm lửa đã hóa thành “ma trơi” dẫn Ngọc và Mỹ

đi loanh quanh trong đầm lầy. Chính vì vậy mà hai cô du kích thoát khỏi sự mai

phục của bọn giặc. Anh cũng đã “đi” vào giấc mơ để đùa vui với hai cô và kịp thời

lay hai cô thức tỉnh đúng lúc bọn giặc đi đến.

Trong truyện Tiếng chuông chiều, hồn ma anh bộ đội cũng đã nhiều lần trở

về giúp đỡ cho người lính Sài Gòn thoát khỏi lưỡi hái thần chết để trả ơn việc anh

ta đã chôn cất bộ hai cốt của mình. Một lần, trong một trận giáp lá cà, gã lính ấy bị

thương ở chân, đôi chân bị nhiễm trùng và có thể bị cưa. Trong đêm ấy, lúc mê

man, anh ta thấy một anh bộ đội còn rất trẻ hiện ra dùng tay vuốt bắp chân cho

mình “anh ta cứ vuốt vuốt, nhẹ nhàng, bắp chân gã giảm đau nhức thấy rõ”. Một

lần khác, bị một quả bom nổ tung, hất văng xuống khe núi, thế mà gã vẫn không

chết. Tỉnh dậy, gã thấy “sởn gai ốc khi chợt nhìn thấy cái dáng người quen thuộc

trong cuộc biến chuyển hình thể xanh lét kia, phải, trước mắt gã là hình người lạnh

lẽo mà thân thiết đêm nào từng vuốt vuốt bắp chân gã cho đến khi không còn đau

nhức, chợt nhoà chợt hiện hình người thần hộ mạng”.

Trong truyện Mắt ma, Huấn được Đồng- người bạn đã hi sinh trong chiến

tranh cho mượn mắt. Có đôi mắt của Đồng, Huấn nhìn thấu hết mọi việc ở đời.

Nhưng từ đó, Huấn không giống như người bình thường. Khi Huấn nhìn mâm cơm

cúng bằng đôi mắt ma, cả anh và vợ con đều kinh ngạc bởi con gà mới luộc bỗng

vừa nhớt lại vừa mủn, tanh tanh nồng nồng không ăn được. Mâm tiếp theo cũng

vậy, cơm thiu, gà hỏng phải bỏ vì không thể ăn được. Tuy nhiên, nhờ có đôi mắt

ma, Huấn có thể nói đúng chuyện quá khứ, tương lai của những người đến coi bói.

Anh quát hai cha con ông lão nọ hãy về nhà nhanh lên, không thì ông lão “lại đắp

chiếu nằm đường”. Quả nhiên về tới nhà, đến trưa ông lão đột ngột qua đời. Anh

khuyên một người đàn ông về nhà ngay sẽ bắt được đôi gian phu, dâm phụ,…

Người ta phục anh sát đất. Nhưng đến ngày thứ 10, thứ 11 anh chán nản, ai đến coi

anh chỉ phán đúng một câu “cứ như thế mà sống chẳng phải thay đổi gì cả”. Hồn

Đồng hiện về trách, Huấn giãi bày “Có đôi mắt của mày tao đã nhìn quá rõ mọi sự

việc, thành ra phán câu nào là chết câu đấy. Vì thế tao hãi quá chẳng dám phán

nữa”. Anh bảo mình không thích nói sự thật về số phận của người khác nữa, như

ông lão kia, còn sống mà “phải đội cái chết trên đầu. Cái chết đã được báo trước

thì đó là một nỗi sợ hãi lớn lắm… thôi tao trả mắt cho mày đấy”.

Chàng trai trong Hồn trinh nữ ngỡ đã nắm được hạnh phúc trong tay khi

cưới người vợ hiền chung thủy đã đợi chờ chàng suốt bao năm dài. Nhưng hạnh

phúc mong manh đó chợt tan biến bởi bóng ma một người đàn bà trong veo, tóc

xõa – chỉ có bộ tóc là còn màu sắc, mặc quần áo đại tang, tay cầm một tấm áo đẫm

máu giơ lên đòi anh trả mạng sống lại cho chồng của chị ta.

Trong Vòm đa xanh, người cha đang say giấc bỗng nhiên thấy như có ai

đang gọi mình. Lão lò dò ra cửa, bàn tay vừa đụng then cài, cánh cửa đã bật tung

như có ai đẩy. Và rõ ràng trước mắt lão, người con trai của lão cùng đồng đội của

anh ta trở về. Các anh nhắc lại điều mà lão đã hứa năm xưa, khi họ vừa nhập ngũ.

Khi đó lão đã hứa sẽ giữ gìn cây đa, nơi ghi dấu kỉ niệm thơ ấu của các anh. Thế

nhưng giờ đây, cây đã bị chặt phá, vì thế họ quay về để nhắc lại lời hứa kia.

Trong Ám ảnh có thật, một chàng trai vừa chợp mắt đã thấy một người con

gái từ dưới ao sâu đi lên, đầu tóc, quần áo ướt đẫm, rũ rượi. Cô gái vừa đi vừa hát.

Tiếng hát như tiếng dế, rên rỉ, đứt quãng và nức nở. Cô có gương mặt trắng như

sáp, đôi mắt xanh biếc, không có tròng đen. Suốt đêm anh không thể chợp mắt.

Tỉnh dậy, khi hỏi lão chăn vịt, anh mới biết đây là cô gái trong làng, là văn công, có

mối tình với một người lính. Nhưng vì bị oan uất, cô đã trầm mình tự vẫn tại nơi

anh đang nằm.

Trong Tàn đen đốm đỏ, Phạm Ngọc Tiến đã tạo ra một thế giới cõi âm - một

thế giới riêng biệt của những người lính hi sinh nhưng chưa được siêu thoát. Họ đi

lại, trò chuyện với nhau như những con người thực sự. Do hài cốt còn bị nằm ở

hang núi trong rừng nên linh hồn họ chưa thể siêu thoát. Họ chỉ lẩn quẩn trong

hang và mong đợi một ngày nào đó, người thân sẽ tìm đến mang họ trở về với quê

hương. Trong Nỗi buồn chiến tranh, người đọc ám ảnh bởi những hồn ma rách nát

tả tơi với những vết thương đỏ lòm, toác hoác do đạn bom chiến tranh. Những linh

hồn đáng thương đó thường trở về thì thào trò chuyện với Kiên mỗi khi đêm về.

1.2.3. Những sự việc kinh dị, kì lạ

Trong các tác phẩm viết về chiến tranh sau 1975, ngoài mô-tip giấc mơ,

người chết trở về, trong các tác phẩm, cũng thường xuất hiện những sự việc kinh

dị, hoang đường, kì lạ (10/50 truyện khảo sát).

Đọc Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh, ta thấy có biết bao nhiêu lạ lùng, kì

bí gây cảm giác hoang mang, sợ hãi cho những ai tiếp xúc với tác phẩm. Đó là loại

“hoa hồng ma” thường mọc ở nơi có nhiều tử khí có thể khiến người sử dụng rơi

vào trạng thái mụ mị, có thể tự chế ra những ảo giác tùy sở thích. Hay như loài

chim có tiếng khóc than như người thường chỉ kêu vào ban đêm và tuyệt nhiên

không ai nhìn thấy chúng, những loại măng nhuốm màu đỏ au như những tảng thịt

ròng ròng máu. Còn biết bao điều kì lạ khác nữa. Chẳng hạn trong một lần, Thịnh

con bắn chết một con vượn rất to,nhưng khi ngã ra, cạo sạch lông, trước mắt họ

hiện nguyên hình là một mụ đàn bà béo xệ, da sùi lở nửa xám, nửa trắng hếu, cặp

mắt trợn ngược khiến cả bọn kinh hoàng quăng cả dao thớt mà bỏ chạy. Hoặc có

khi họ tận mắt chứng kiến những quái vật lông lá có cả cánh lẫn vú với cái đuôi kì

nhông kéo lết; chưa hết, nhiều người trong họ đã nghe được âm thanh của những

tiếng cười cuồng loạn nức nở vọng lại từ trong rừng,…

Trong Người sót lại của rừng cười – Võ Thị Hảo, ba người lính đến lãnh

quần trang ở kho quân nhu không khỏi kinh sợ bởi những tiếng cười man dại vọng

lại từ khu rừng. Lúc gần đến chòi canh kho, một con vượn trắng từ chòi canh nhảy

ra ôm ghì lấy cổ một anh lính và không ngừng cất tiếng cười. Nhưng khi một người

đồng đội chạy đến giúp đỡ thì hóa ra, trước mắt anh không phải là con vượn nào cả

mà là một người con gái lõa lồ. Khi các anh đến chòi canh kho, trước mắt họ là ba

cô gái đang vừa cười vừa khóc, tay đang dứt tóc và xé quần áo trên người mình.

Cô Mùi trong Truyền thuyết về quán tiên – Xuân Thiều, thì luôn rơi vào

trạng thái bất an bởi hình ảnh một chú khỉ. Bất cứ lúc nào, chỉ cần có một mình

Mùi ngoài suối thì chú khỉ đều xuất hiện với những hành động kì lạ giống hệt một

người đàn ông. Nó giương đôi mắt hau háu nhìn Mùi tắm. Khi Mùi bắt gặp, thì nó

lim dim đôi mắt, hai tay vòng trước ngực, mồm dẩu ra, môi chu chu như người ta

hôn gió.

Ở tác phẩm Người thắng trận của Tạ Duy Anh, điều kì lạ xảy ra khi chiếc

khăn đẫm máu mà vị tướng nhận được từ một cô gái dù dùng mọi cách vẫn không

thể rửa sạch vết máu, thế nhưng khi vô tình đánh rơi chiếc khăn xuống giếng nước,

nơi nàng Đoan Trang trẫm mình, vết máu bỗng nhiên biến mất.

Trong truyện Trái tim con rắn – Nguyễn Đông Thức, trong buổi tiệc, Thuật

là người được ưu tiên uống li rượu pha trộn với máu và trái tim của rắn. Khi nhấp

môi, Thuật có cảm giác dường như trái tim con rắn ấy quẫy nhẹ. Lúc cho nó vào

miệng, rõ ràng nó lăn lên lưỡi của ông, tuột vào yết hầu và dường như dừng lại ở

thực quản. Suốt đêm hôm đó, ông luôn nghe âm thanh Ịch ình, ịch ình, ịch ình từ

lồng ngực mình dội lên đỉnh đầu rồi cứ thế bục ra. Nhìn xuống, rõ ràng ông thấy

đầu con rắn oặc qua oặc lại giữa hai đùi mình. Khi đưa tay bật đèn, con rắn biến

mất. Suốt đêm hôm đó, Thuật không thể ngủ được bởi những âm thanh kì lạ cứ

vang lên trong lồng ngực. Bất chợt, giữa lồng ngực Thuật nổi lên một khối u nhỏ.

Thật nhanh, Thuật chộp lấy nó, nghiến răng bóp mạnh. Ông cảm thấy nó đang vỡ ra

bên trong lồng ngực của mình. Sáng hôm sau, khi giải phẩu tử thi, người ta thấy

ngực ông tím bầm, nổi hằn lên những vệt móng tay do ông tự cào cấu. Từ lồng

ngực Thuật, vị bác sĩ lấy ra một trái tim nhỏ xíu, chỉ bằng đầu ngón tay, đã bị vỡ

đôi.

Trong Đốm lửa – Nguyễn Thị Minh Thúy, hai cô gái suốt đêm đi lạc trong

vùng đầm lầy. Dù là người thông thuộc vùng này, nhưng không hiểu sao đêm nay,

Mỹ không thể nào xác định được phương hướng. Như bị ma dẫn đường, cả buổi

tối, họ chỉ loanh hoanh tại một địa điểm. Trong lúc đó, hai cô gái thấy một đốm lửa

nhỏ lúc rõ lúc mờ cứ chập chờn ẩn hiện. Dường như đốm lửa ma trơi ấy đến là để

dẫn đường cho hai cô. Họ quyết định chèo xuồng đi theo đốm lửa. Có lẽ đi theo

đốm lửa đó mà cuối cùng họ đã qua khỏi khúc eo lầy.

Người đàn bà đáng thương trong Vĩnh biệt mười tám con gà trống- Nguyễn

Quang Lập, suốt mười tám năm dằng dặc sống trong cô đơn bởi người chồng đã hi

sinh nơi chiến trường ngỡ là sẽ hạnh phúc vì đã tìm được một bờ vai để nương tựa

khi gặp người hàng xóm thấu hiểu tình cảnh của mình. Thế nhưng, trong lúc hai

người đang bên cạnh nhau, ngực bà che kín mặt ông thì sự việc kì lạ xảy ra. Trước

mắt bà là bộ mặt của một người đàn ông khác, người đó đang đứng nhìn bà chằm

chằm. Bà giật thót người và đẩy ông lăn xuống đất. Ông cũng thấy mặt người đàn

ông kia, tấm ảnh chồng bà vừa tuột dây chằng đang lủng lẳng phía vách trái. Vái

lấy vái để, ông chạy vội về nhà. Bước xuống bậc thang, bà đột nhiên thấy lạnh sau

gáy. Khi quay lại, bà thấy chồng bà đang nhìn bà, cái nhìn vừa dịu dàng, vừa hờn

dỗi.

Trong truyện Kim Hà – Lê Thành Chơn, chiếc nhẫn, kỉ vật mà người lính đã

hi sinh để lại cho người vợ của mình giống như có linh hồn. Khi người vợ cầm

chiếc nhẫn ấy lên, cô cảm thấy dường như bàn tay của người lính ấy đang nắm lấy

tay của mình. Chiếc nhẫn vốn lạnh với tất cả mọi người, nhưng kì lạ thay, với

những người thân yêu của anh, nó bỗng ấm lên một cách kì lạ.

Trong Tiếng vạc sành của Phạm Trung Khâu, người dân trong một ngôi làng

đồn rằng, dạo gần đây, làng họ xuất hiện một con rắn lạ. Vết nó bò in xuống mặt

ruộng to tày cột đình. Có người còn khẳng định họ thấy nó đầu quấn gốc cây bên

này, đuôi quấn gốc cây bên kia, mình ép dẹp lép cái gàu sành sạch tát một cái ao

lớn để bắt cá; có người khác lại kể, họ thấy đuôi nó cuốn trong làm gốc, mình dựng

đứng làm thân cổ thụ, lừa thú vật và người đi ngang qua bắt ăn thịt. Một người đàn

bà trong làng đêm nào cũng nghe tiếng “tọc, tọc, tọc” phát ra từ lùm cây hoang sau

nhà. Chị đem việc này kể với chồng mình. Anh này quyết rình bắn. Khoảng chín

giờ tối hôm đó, những tiếng “crọc crọc” bắt đầu vang lên, dưới ánh trăng mờ, một

con rắn thò đầu ra toan bò qua bụi chuối phía sau nhà. Người lính ngắm kĩ, miết cò

súng. Ba tiếng nổ vang lên, người dân trong làng kéo đến. Khi đến nơi, tất cả đều

sững sờ. Đó không phải là con rắn, đó là một con người – một người giống khuôn

mặt quỷ.

1.2.4. Lời nói, hành động kì lạ của nhân vật

+ Yếu tố kì ảo trong các tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau

1975 còn được biểu hiện ở những lời nói, hành động kì lạ của các nhân vật (5/50

truyện khảo sát).

Viên (Ăn mày dĩ vãng – Chu Lai) có một khả năng đặc biệt, có thể linh cảm

trước những việc sắp xảy ra. Khi đoán số phận Hai Hùng và Sương, Viên bảo “rồi

đây số phận anh và chị Sương ràng buộc với nhau nhiều lắm. Hai người đều gặp

vô số những hoạn nạn nhưng vẫn không thể xa rời nhau. Chị ấy sẽ chết trước anh”,

quả thật sau này, trãi qua nhiều thăng trầm, xa cách nhưng cuối cùng họ vẫn gặp lại

nhau, và Sương đã chết trong vòng tay của Hai Hùng. Trước một trận đấu, Viên

bảo “có đổ máu, có người chết”, quả nhiên sau đó khi đối đầu với giặc, một người

đã hi sinh – và người duy nhất đổ máu trong trận này chính là Viên.

Tương tự, trong Đồng đội – Hồ Tĩnh Tâm, Quân bảo “Em nguyện cầu cho

đất nước hòa bình để được ngủ thẳng cẳng một năm cho đã”. Đêm hôm sau, lời

nguyện cầu của Quân linh nghiệm. Đêm đầu tiên triển khai đội hình, Quân đã nằm

xuống mãi mãi. Một mảnh 155 ly mở toang lồng ngực anh. Buồng phổi nát bấy

nhưng trái tim vẫn còn nguyên vẹn.

“Con gái tao xinh và ngoan thế này, mày không muốn lấy. Vậy thì sau này

chỉ lấy ma! Chỉ lấy được ma thôi nhé”. Câu nói của lão hàng xóm (Bướm trắng –

Thái Bá Tân) đã ứng nghiệm. Chàng Xuân Sinh sau này đã cùng với hồn ma Bạch

Điệp sống hạnh phúc với nhau như những cặp vợ chồng bình thường.

Theo lời của bà đồng, vào ban đêm, nhổ tóc của chính mình, bện chín sợi

thành một bím. Bện đủ chín trăm chín mươi chín bím rồi nối lại với nhau, quấn

xung quanh tấm ảnh rồi đặt lên bàn thờ khấn sẽ lưu giữ người con trai ở lại trần

gian. Dù không tin mấy vào lời bói toán, người con gái trong Dây neo trần gian –

Võ Thị Hảo vẫn đều đặn từng đêm, tự tay nhổ tóc của mình bện thành từng bím. Cô

làm việc đó chỉ vì một mục đích duy nhất – lưu giữ người đàn ông mà cô yêu ở lại

trên cuộc đời này. Cuối cùng dường như những hành động kì lạ ấy của cô đã ứng

nghiệm, như một phép nhiệm màu, người đàn ông ấy là người duy nhất trong đội

quân năm ấy không bị nhiễm chất độc màu da cam.

Tuy xuất hiện rất ít (4/50 truyện khảo sát) nhưng không thể không nhắc tới

dạng thức kì ảo: sự biến dạng, hóa thân của nhân vật. Trong văn xuôi hiện đại sau

1975, dạng thức biểu hiện này xuất hiện nhiều trong các tác phẩm như Món tái dê –

Hồ Anh Thái, Lên ruồi – Đoàn Lê, Phiên chợ Giát – Nguyễn Minh Châu, Tim vỡ -

Võ Thị Hảo,… Trong truyện ngắn viết về chiến tranh chỉ thấy dạng thức này biểu

hiện qua một số tác phẩm: Bướm trắng – Thái Bá Tân, Hồn trinh nữ - Võ Thị

Hảo,...

Giống như truyện cổ tích, các nhân vật thường hóa thân sau khi chết. Ở

Bướm trắng, người đọc bắt gặp sự hóa thân kì lạ của Bạch Điệp. Lúc quay trở lại

Cổng Trời thăm mộ Bạch Điệp. Bất chợt Xuân Sinh thấy một con bướm rất lớn

màu trắng bay đến lởn vởn bên anh. Khi nhìn kỹ anh thấy trên đôi cánh màu trắng

của nó có nhiều vết rách. Khi theo con bướm vào một hang đá nhỏ, sâu và tối,

Xuân Sinh bỗng thấy có một cái gì trăng trắng đang tiến đến gần anh. Nhìn kĩ hóa

ra đó là Bạch Điệp. Nàng nói do nằm dưới ngôi mộ xi măng, cứng quá, nàng phải

biến thành bướm mới có thể chui qua nổi.

Người con gái trong Hồn trinh nữ sau khi chết đã hóa thành một loài hoa

hình tròn tròn tim tím. Mỗi khi có bước chân người qua hoặc bị va chạm mạnh,

những chiếc lá lăn tăn xếp lại, xuôi xuống như bàn tay che mặt. Và người ta gọi đó

là hoa trinh nữ.

 So với các tác phẩm văn xuôi sau 1975, các dạng thức kì ảo trong tiểu

thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh không đa dạng bằng. Chủ yếu biểu hiện ở

hai dạng thức tiêu biểu là mô-tip giấc mơ và hồn người chết trở về. Ngoài ra còn có

các dạng thức như: những sự việc kinh dị, hoang đường; những lời nói, hành động

kì lạ của nhân vật; sự hóa thân của nhân vật. Các dạng thức này xuất hiện với tần số

mỏng, không tạo được nét đặc trưng riêng.

Thế giới tinh thần của con người giống như là một chiếc hộp bí mật. Chỉ có

đi vào giấc mơ, người đọc mới có thể lý giải được những nỗi niềm riêng tư, ẩn kín

trong tâm hồn con người, đặc biệt là người lính. Đó có thể là nỗi ám ảnh về chiến

tranh, ám ảnh về lỗi lầm đã cố ý hoặc vô tình tạo ra, là niềm trăn trở, sự khát khao

hạnh phúc cá nhân. Đến với mô-tip ma hiện hồn, người đọc có thể hiểu thêm về sự

khốc liệt, nỗi đau, những mất mát mà chiến tranh gây ra cho con người. Những sự

việc kinh dị, hoang đường kì lạ cũng góp phần tô đậm mảng hiện thực cuộc sống

con người trong chiến tranh và trong cuộc sống đời thường. Mô-tip những lời nói,

hành động kì lạ của nhân vật thể hiện một điều gì đó khó giải thích bằng lý thuyết

khoa học. Dường như con người có một khả năng kì lạ, có thể nhận biết những

nguy hiểm sắp xảy ra bằng trực giác, cảm giác mà ta có thể gọi đó là linh cảm.

Trong chiến tranh, cái chết kề cận, do đó linh cảm về cái chết luôn đè nặng trong

tâm hồn người lính. Nói chung, các dạng thức kì ảo đã góp phần tạo nên nét mới lạ

cho các tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975. Với yếu tố kì ảo, các

những mảng sáng tối của hiện thực chiến tranh, những vấn đề nhạy cảm thuộc về

thế giới tinh thần, tình cảm của con người hiện ra cụ thể rõ ràng qua từng trang

sách.

Chương 2: Vai trò và hiệu quả nghệ thuật của việc sử dụng yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh giai đoạn sau 1975

Yếu tố kì ảo là một trong những phương tiện nghệ thuật hữu hiệu tạo sự lôi

cuốn hấp dẫn cho tác phẩm. Bên cạnh đó, sự tham gia của yếu tố kì ảo vào tác

phẩm văn học đã chi phối nhiều đến cách thức tổ chức kết cấu của tác phẩm: tạo

nên những tình huống truyện mới lạ, độc đáo; cốt truyện hấp dẫn; góp phần dựng

nên một thế giới hình tượng đa dạng, đặc sắc.

2.1. Vai trò của yếu tố kì ảo trong kết cấu nghệ thuật tác phẩm

2.1.1. Yếu tố kì ảo và tình huống truyện

Trong truyện ngắn, tình huống đóng vai trò quan trọng, có thể xem đây là

khâu then chốt trong sáng tạo, đem đến sự thành công cho tác phẩm. Tình huống là

những thời khắc tiêu biểu (có người gọi là khoảnh khắc, chốc lát...) trong cuộc

sống của con người. Tại thời khắc đó, nó bộc lộ cái bản chất trong quan hệ giữa

các tính cách, giữa nhân vật với hoàn cảnh và thể hiện sâu sắc chủ đề của tác

phẩm. Trong một số truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975, sự xuất hiện của

yếu tố kì ảo đã góp phần tạo nên những tình huống đặc sắc, lôi cuốn. Qua khảo sát

các truyện ngắn này, ta thấy có sự xuất hiện các dạng tình huống tiêu biểu sau:

 Tình huống truyện nhuốm màu sắc hoang đường, kì lạ

Hoang đường, kì lạ là dạng tình huống quen thuộc, thường xuất hiện nhiều

trong các câu chuyện cổ tích thần kì, hoặc những truyện ngắn liêu trai, ma quái.

Trong các truyện ngắn viết về chiến tranh giai đoạn sau 1975, người đọc cũng dễ

dàng bắt gặp nhiều tình huống mà ở đó tính chất hoang đường, kì lạ thể hiện đậm

đặc, rõ nét. Có thể bắt gặp tình huống này ở một số truyện như: Bến trần gian –

Lưu Sơn Minh, Bướm trắng – Thái Bá Tân, Cặp bồ với ma – Ngô Văn Phú, Vĩnh

biệt mười tám con gà trống – Nguyễn Quang Lập, Đốm lửa – Nguyễn Thị Minh

Thúy, Trái tim con rắn – Nguyễn Đông Thức, Mai – Thanh Quế…

Bến trần gian (Bến trần gian) – một bến sông bãng lãng sương khói, hư ảo,

huyễn hoặc; là nơi giao nhau giữa cõi người và cõi ma. Chính tại nơi đây, linh hồn

của Lăng đã gặp lại người mẹ già sau bao nhiêu năm xa cách, để rồi chính anh phải

đau đớn khi nhận ra rằng mình không còn là người nữa, anh không thể trở về với

gia đình, với người thân được nữa bởi giữa người và ma vẫn là hai thế giới khác

biệt. Dù rất thương con nhưng người mẹ vẫn gạt nước mắt bảo anh đi “Người chết

thì phải đi thôi con ạ, đừng luẩn quẩn trần gian làm gì nữa. Bây giờ mày chỉ là nỗi

sợ hãi của mọi người thôi… u thương con lắm Lăng ạ, nhưng mà không thể để con

ở lại được”. Cuối cùng, Lăng đành phải ngậm ngùi lặng lẽ ra đi “Lăng dật dờ mấy

vòng, chẳng rõ anh có khóc không bởi sương đêm nay rơi nhiều quá…”. Anh phải

chấp nhận hiện thực dù đó là hiện thực đau đớn, phủ phàng. Có lẽ cuộc gặp gỡ cuối

cùng này sẽ giúp linh hồn anh được siêu thoát và có thể nằm lại nơi chiến trường

xưa.

Bướm trắng kể về mối tình giữa người lính lái xe Xuân Sinh và cô thanh

niên xung phong Bạch Điệp. Bạch Điệp đã hi sinh khi đang làm nhiệm vụ dẫn

đường cho đoàn xe vượt qua Cổng Trời. Tuy nhiên, cuối cùng cô đã sống lại và

cùng Xuân Sinh nên vợ nên chồng. Nhà văn đã dựng nên tình huống hư ảo, kì lạ.

Sau chiến tranh, Xuân Sinh đã trở lại Cổng Trời. Tại đây, nhờ sự dẫn đường của

một con bướm trắng mà Sinh đã gặp lại cô. Biết được người yêu đã hi sinh, và vì

bom đạn, nàng trở thành một hồn ma rách nát, đáng thương, Xuân Sinh đã lấy các

sợi máu của mình vá lại những vết thương trên cơ thể Bạch Điệp. Nhờ tình yêu và

sự kiên trì, cuối cùng Sinh đã thành công. Chàng đưa Bạch Điệp về quê mình ở

làng Đoài – Phú Xuyên, hai người sống với nhau như những cặp vợ chồng bình

thường khác…

Trong truyện ngắn Cặp bồ với ma, tác giả đã xây dựng một tình huống lãng

mạn nhưng đầy chất liêu trai, trong những ngày lang thang trông coi nghĩa trang,

chàng trai đã gặp một nấm mồ nhỏ đáng thương, động lòng thương cảm, chàng đã

“ngồi lại nhặt cỏ” với “lòng bùi ngùi, cảm khái”. Hành động đó đã được đáp lại

bằng tình yêu của hồn ma cô gái ma. Đêm đó, khi đang ngồi đọc sách, một làn gió

lạnh lùa qua, trước mặt chàng, một người phụ nữ mảnh mai, ăn mặc giản dị bước

vào. Cuộc gặp gỡ đó là khởi đầu tình yêu giữa người và ma. Hai người đã có những

ngày sống vui vẻ hạnh phúc bên nhau. Những ngày sống cạnh một người trần gian

xa lạ đã khiến cô gái thật sự thỏa lòng với một tình yêu thật sự mà trước đây trong

chiến tranh cô chưa một lần nếm trải.

Truyện Vĩnh biệt mười tám con gà trống, nhân vật rơi vào tình huống kì lạ.

Khi người đàn bà đang thổn thức trong lòng ông hàng xóm, tấm ảnh thờ của chồng

bà đột nhiên tuột dây chằng treo lủng lẳng trước mắt bà và người đàn ông ấy.

Người đàn ông hàng xóm hoảng sợ chạy về nhà. Riêng bà, lúc bấy giờ rơi vào tâm

trạng vừa day dứt, băn khoăn bởi cảm giác có lỗi với người chồng cũ; vừa trằn trọc,

bối rối bởi nỗi cô đơn, trống vắng suốt mười tám năm. Bà nhận ra rằng mình rất

cần được chăm sóc bởi đôi tay một người đàn ông.

Sự tham gia của yếu tố kì ảo vào tình huống truyện khiến người đọc liên

tưởng đến những câu chuyện cổ tích mà ở đó có ông bụt, bà tiên có thể dùng phép

màu giúp nhân vật thực hiện ước mơ của mình; có sự hóa thân thần kì của nhân vật

sau khi chết để họ có thể trở về sống một cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc; có sự gặp

gỡ giữa người còn sống và người đã chết. Tuy mang dáng vẻ của những câu chuyện

cổ tích, song khi khép lại câu chuyện, bao nỗi băn khoăn đặt ra: liệu những phép

màu thần kì đó đã thật sự hàn gắn được vết thương mà chiến tranh đã để lại cho con

người.

Cũng như những buổi tiệc trước, Thuật (Trái tim con rắn) là người được ưu

tiên thưởng thức ly rượu đặc biệt. Một ly rượu thuốc đã trộn đều với máu rắn, bên

trong là một trái tim nhỏ xíu vẫn còn thoi thóp thở sẽ là ly rượu bắt đầu cho buổi

tiệc. Thường, để chứng tỏ bản lĩnh của mình, Thuật sẽ dùng tay nhón lấy trái tim

con rắn nhai chóp chép một cách ngon lành. Nhưng trong buổi tiệc hôm nay, khi

kẹp lấy trái tim ở đáy ly, Thuật có cảm giác nó quẫy nhẹ như muốn tuột khỏi tay

ông. Khi cho vào miệng, trái tim ấy tự lăn lên lưỡi, tuột vào yết hầu và trôi xuống

thực quản rồi dừng lại ở đó. Ngay lúc đó nó làm ông nghẹn thở mất mấy giây. Từ

sau giây phút kì lạ đó, suốt đêm Thuật không thể nào chợp mắt bởi những âm thanh

quái lạ cứ vang lên trong lồng ngực của ông. Cũng trong đêm đó, những hành động

sai trái trước đây lần lượt hiện ra trong đầu của ông. Sáng ra, người ta thấy ông đã

chết với một trái tim nhỏ xíu đã bị vỡ đôi.

Trong một chuyến về hậu phương nhận hàng, lúc dừng chân ở một chặng

đường, bỗng dưng Quỳ (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành – Nguyễn Minh

Châu) cảm giác như có ai đó đang vẫy gọi chị từ đằng sau những cánh cửa gỗ mục

nát trong chùa. Đẩy cánh cửa bước vào, trước mắt Quỳ là một bức tượng ngàn mắt

ngàn tay ngồi chễm chệ trên tòa sen. Trong cái giây phút bàn tay chạm vào bức

tượng, chị thấy như đang chạm vào đôi bàn tay dấp dính mồ hôi của Hòa - người

yêu của chị. Chỉ đến giây phút này, chị mới chợt hiểu ra nụ cười bí ẩn luôn hiện ra

trên đôi môi của anh trước lúc vĩnh viễn ra đi. Chỉ có sự ra đi anh mới có thể mãi

mãi giữ lại hình ảnh đẹp của mình trong chị, bởi chỉ có niềm thương tiếc, người ta

mới có thể quên đi những khuyết điểm của một con người. Trong cuộc sống, không

phải điều gì cũng là hoàn hảo. Một khi đã yêu, nên biết chấp nhận những khuyết

điểm của đối phương.

Sự có mặt của yếu tố kì ảo trong tình huống truyện không chỉ gây sức hấp

dẫn mà còn góp phần bộc lộ tư tưởng tác phẩm. Tác giả đặt nhân vật vào tình

huống hoang đường, kì lạ để từ đó nhân vật bộc lộ nhận thức, suy nghĩ, tình cảm

của mình. Qua đó người đọc có thể lý giải tính cách của từng nhân vật để từ đó hiểu

thêm về số phận của những người lính.

 Trong những tác phẩm viết về chiến tranh, không hiếm để có thể tìm thấy

những tình huống hoang đường, kì lạ trong truyện. Tuy nhiên, nếu so sánh với

những tình huống hoang đường, kì lạ trong các tác phẩm trước đây, đặc biệt là

trong những truyện cổ tích thần kì, rõ ràng có một sự khác biệt rất lớn. Trong các

truyện cổ tích, sự góp mặt của yếu tố kì ảo trong tình huống truyện nhằm dẫn dắt

người nghe bước vào một thế giới hoang đường mà ở đó, nhờ sự kì ảo, con người

có thể dễ dàng thực hiện ước mơ của mình, làm thay đổi số phận của nhân vật. Cả

tác giả lẫn người đọc đều tin vào sự thần kì đó. Ở các tác phẩm văn học sau này,

yếu tố kì ảo tuy xuất hiện nhưng cái thực vẫn nổi trội, người đọc vẫn phân biệt rạch

ròi đâu là thế giới của sự hư huyễn, đâu là sự thật của cuộc sống. Sự có mặt của yếu

tố kì ảo góp phần giúp người đọc khám phá những bộ mặt khác nhau của chiến

tranh.

+ Tình huống truyện căng thẳng, kịch tính

Tình huống căng thẳng, kịch tính cũng thường được nhà văn sử dụng trong

các truyện viết về chiến tranh mang yếu tố kì ảo. Tình huống này tạo cho người

đọc cảm giác ngạt thở, xáo trộn, buộc phải đặt câu hỏi liệu nhân vật sẽ ra sao khi

đối mặt với tình huống đó.

Truyện ngắn Chuyến xe đêm – Ma Văn Kháng, kể về một người lính làm

nhiệm vụ đưa những người trên xe đến một trạm gác an toàn. Trong truyện, để

làm nổi bật lên hình ảnh người lính lái xe anh dũng, gan dạ, tác giả đã đặt nhân

vật vào một tình huống khá căng thẳng, nghẹt thở. Trong quãng hành trình, anh

bất ngờ bị trúng ba phát pháo của bọn tàn quân. Với một người bình thường, việc

có thể sống sót khi bị trúng ba phát pháo là điều không thể. Vì vậy, mọi người ai

cũng lo sợ và đinh ninh anh đã chết khi thấy máu ứa ra đen thẫm, và anh đã gục

xuống trên tay lái. Nhưng, chính trong tình huống căng thẳng, không còn hi vọng

này, chiếc xe vẫn lăn bánh tựa như có một lực đẩy vô hình, một phép màu kì lạ

trong khi anh đã rơi vào trạng thái bất tỉnh. Cuối cùng anh đã hoàn thành nhiệm

vụ, đưa những người trên xe đến được trạm gác. Ở truyện Kim Hà (Lê Thành

Chơn), tác giả cũng đã tạo nên một tình huống căng thẳng không kém. Một chiếc

xe đang trên đường trở về đơn vị, và Hà – người nhận trách nhiệm cầm tay lái đã

bị bốn trái bom dội liên tiếp vào người. Anh bị thương rất nặng và cánh tay cũng

đã đứt lìa, máu ra xối xả. Thế nhưng, vì tinh thần đồng đội, không hiểu bằng cách

nào, anh đã lái được chiếc xe về đến đơn vị. Với sự tham dự của dạng thức kì ảo:

sự việc kinh dị, kì lạ, tác giả đã tạo nên hình ảnh đẹp đẽ, phi thường của người

lính. Hơn bao giờ hết, nghĩa vụ, trách nhiệm cao hơn những lợi ích riêng tư, nguy

hiểm của cá nhân bản thân mình.

Tình huống trong Dây neo trần gian – Võ Thị Hảo, xuất hiện khi cô gái

dùng những sợi tóc của mình bện thành những bím tóc nhỏ quấn quanh bức ảnh

người đàn ông mà cô yêu. Đó là cách duy nhất mà theo lời bà đồng sẽ neo giữ

được người ấy ở lại trần gian. Dù biết đây là điều vô lý nhưng cô gái vẫn làm

theo. Kết quả kì diệu đã xảy ra. Người đàn ông cảm động và quyết định đối mặt

với sự thật – sẽ cùng nàng đến bệnh viện thử máu xem mình có bị nhiễm chất độc

da cam không. Thật kì diệu, kết quả cuối cùng anh là người duy nhất trong nhóm

không bị nhiễm chất độc chết người. Phải chăng chính tình yêu của cô đã làm nên

điều kì diệu – đã neo anh lại được với trần gian.

 Những tình huống căng thẳng, kịch tính đặt nhân vật vào những khoảnh

khắc khó khăn, gay go, quyết liệt tưởng như không thể vượt qua. Từ đó xuất hiện

những điều lạ giúp nhân vật thực hiện được những điều phi thường, khó thể xảy

ra trong đời sống thực. Để tạo nên điều lạ, các tác giả thường dùng đến dạng thức

kì ảo: Những sự việc kinh dị, kì lạ. Sự tham dự của yếu tố kì ảo vào tình huống

truyện tạo cho người đọc sự thú vị xen lẫn hồi hộp, lo lắng. Tuy số lượng tác

phẩm không nhiều, song các truyện vẫn tạo nên dấu ấn riêng. Đa số, những truyện

có tình huống này đưa người đọc quay trở lại khung cảnh chiến trường với những

trận bom ác liệt, kinh hoàng. Ở đó, người lính đối mặt với sự sinh tử trong gang

tấc từ đó người đọc thấy được sự anh hùng, quả cảm của nhân vật.

+ Tình huống truyện mang tính chất ngẫu nhiên

Tính chất ngẫu nhiên cũng thường được nhà văn sử dụng trong những

truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975. Để tạo sự li kì cho tác phẩm, đôi khi các

nhà văn tô đậm sự ngẫu nhiên đó đến mức lạ lùng, khó hiểu. Sự ngẫu nhiên này

đôi khi sẽ là tiền đề đưa nhân vật đến với những điều hư huyễn sau đó. Ở những

truyện ngắn này, yếu tố kì ảo được sử dụng nhằm tô đậm tính chất trùng hợp kì lạ

của tình huống

Một hôm, con chó tha về một khúc xương ống chân (Tiếng chuông chiều –

Lê Hoài Lương). Trong thoáng chốc, người chủ nhân nhận ra đó chính là xương

người, lập tức gã đã buộc chú chó dẫn đến nơi có xương đó. Sau một lúc hì hục

moi cát, trước mắt gã là một bộ xương người trong tư thế đang ngồi. Nhìn hộp

dầu cao sao vàng và đôi dép cao su, gã đoán là người lính Việt cộng chết vì sụp

hầm. Không nỡ để bộ xương bị chó tha đi từng mảnh, gã đem chôn cất bộ xương

cẩn thận. Từ tình huống ngẫu nhiên đó đã dẫn đến hàng loạt những điều lạ lùng

mà gã gặp sau này. Trong những lúc nguy hiểm, cận kề cái chết, linh hồn của

người lính xấu số đã về cứu gã thoát chết trong gang tấc. Chết không có nghĩa là

hoàn toàn biến mất. Người chết vẫn có thể trở về giúp đỡ cho người còn sống.

Trong thế giới của người chết, không có sự phân biệt ta và địch, chỉ cần đó là

người tốt, linh hồn người chết sẽ phù hộ, chở che cho họ.

Đến với Trừng phạt – Đỗ Nhật Minh, người đọc không khỏi ngạc nhiên

bởi sự trùng hợp lạ lùng giữa giấc mơ và cuộc đời thực của nhân vật. Trong mơ,

ông Tuyển thấy đang ngồi thì đứa cháu hớt hải chạy đến bảo về nhà có khách.

Đến nơi, ông thấy toàn bộ căn nhà ngói năm gian đột nhiên trống hoác, một người

đàn ông mặc quần kaki bộ đội ngồi xoay lưng lại với ông. Khi người khách ấy

quay lưng lại, ông kinh hoàng nhận ra đó là một người đồng đội đã hi sinh trong

chiến tranh. Và hôm sau, lúc đang ngồi bên bờ sông, cũng ngay vị trí cây ổi

(giống trong mơ), thằng cháu ông cũng hớt hải chạy đến bảo ông về nhà có khách.

Hoảng hốt, ông đã ngã xuống ngất xỉu trước sự ngỡ ngàng của đứa bé. Và sau đó,

tất cả những sự việc trước đây lần lượt hiện ra trong đầu ông như mới xảy ra ngày

hôm qua. Người đàn ông trong giấc mơ kia là ai? Giấc mơ ấy liên quan gì đến

cuộc đời ông Tuyển? Vì sao sự trùng hợp giữa giấc mơ với cuộc đời thực lại có

thể khiến ông Tuyển sợ hãi đến ngất xỉu. Chính những điều này đã lôi cuốn người

đọc tiếp tục theo dõi diễn biến tiếp theo của câu chuyện.

Nếu những con kiến đen không xuất hiện trên mâm ăn, có lẽ đây sẽ là buổi

cơm rất đầm ấm và vui vẻ đối với Nghĩa (Chiều vô danh – Hoàng Dân). Đang háo

hức nhận bát bún nóng từ tay vợ, bất chợt Nghĩa thấy nôn nao trong lòng, người

lảo đảo, quay cuồng khi nhìn thấy từng đàn kiến đang bò quanh mâm cơm. Trong

thoáng chốc, Nghĩa cảm thấy đám sinh vật li ti ấy đang nhe răng, gặm sồn sột

trong óc, khiến anh không còn bình tĩnh được nữa. Sự xuất hiện của những sinh

vật bé nhỏ nhưng đáng sợ ấy đưa anh trở về với quá khứ đạn bom ác liệt năm nào.

Trước mắt anh, khu rừng Trường Sơn hiện ra rõ ràng, rành mạch: Tiếng bom rơi,

tiếng đạn rít, những âm thanh ầm ầm náo động; và nơi đó, hàng triệu, hàng triệu

con kiến đen đang xâu xé những mẩu xương thịt của đồng đội anh. Tất cả cứ như

vừa mới hôm qua. Kiến đen vốn là những sinh vật bình thường, vô hại đối với con

người. Nhưng ở đây, sự xuất hiện tình cờ của chúng vô tình chạm vào vết thương

lòng của nhân vật. Quá khứ chiến tranh thật khốc liệt và hãi hùng, sự ám ảnh mà

nó để lại sẽ không bao giờ có thể phai mờ và chỉ cần vô tình chạm phải, nỗi ám

ảnh ấy lập tức kéo con người ra khỏi cuộc sống hiện tại, bởi giống như lời Kiên

(Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh) họ là những người “không thể nhấc chân ra

khỏi miệng hố chiến tranh”.

Trong truyện ngắn Họ đã trở thành đàn ông – Phạm Ngọc Tiến, tác giả đã

để cho nhân vật tình cờ nghe được cuộc chuyện trò giữa hai người lính. Cuộc

chuyện trò của họ vô tình đã làm thay đổi suy nghĩ của nhân vật ấy. Lúc đó, đang

giữa chiến trường ác liệt, chị - một người con gái thành phố tự nguyện tham gia

vào chiến trường. Ở sát kho chị có một con suối, chị có thói quen ra suối tắm vào

buổi sáng. Và buổi sáng hôm ấy, những lời tâm tình của hai người lính, chị đã

nghe hết không sót một lời. Đó là lời tâm sự của những chàng trai mà khi ra chiến

trường, họ chưa một lần được trở thành người đàn ông thật sự. Thậm chí đến lúc

hi sinh, họ vẫn chưa được nếm trải cái hạnh phúc mà ông trời ban cho loài người.

Đoạn đối thoại đã vô tình tác động mạnh mẽ đến người chị. Khi trở về, chị trải

qua một cơn sốt, chị mơ màng thấy lại thành phố thân yêu của mình, thấy lại anh,

thấy lại cuộc hẹn hò lần cuối của mình, và chị đã không để anh vượt quá giới hạn

trong buổi sáng ấy. Chị cảm thấy mình có lỗi với anh. Sau khi tỉnh lại, chị đưa ra

một quyết định vô cùng táo bạo, để những người con trai ấy một lần trong đời trở

thành người đàn ông, để họ khi đã vĩnh viễn nằm trong lòng đất lạnh cũng không

cảm thấy nuối tiếc cuộc đời. Chiến tranh, có những sự hi sinh mà ai cũng nhìn

thấy, nhưng cũng có những người lặng lẽ hi sinh, đem đến niềm vui cho người

khác mà không cần phải được nhớ đến.

 Bên cạnh tình huống mang tính chất hoang đường, tình huống căng thẳng,

kịch tính; tình huống mang tính chất ngẫu nhiên cũng thường có mặt trong các tác

phẩm văn xuôi viết về chiến tranh sau 1975. Sự tham dự của yếu tố kì ảo đã tạo

nên những tình huống ngẫu nhiên, trùng hợp đến mức kì lạ, khó hiểu. Những tình

huống này đóng vai trò quan trọng, gắn kết nhân vật với các sự kiện lạ lùng sau

đó, góp phần bộc lộ tính cách, tâm tư, tình cảm của nhân vật, cũng như thể hiện

chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.

2.1.2. Yếu tố kì ảo và cốt truyện

+ Yếu tố kì ảo đóng vai trò biểu tượng, xuất hiện song hành cùng cốt truyện

Ở những truyện này yếu tố kì ảo được tác giả lồng ghép một cách có ý thức,

tạo nên một kiểu thêm thắt, gia giảm; đan lồng, xen kẽ cái kì ảo và cái thực. Đặc

trưng của những truyện này là yếu tố kì ảo không đóng vai trò cốt yếu, chi phối

mạch truyện. Các truyện như Tiếng vạc sành – Phạm Trung Khâu, Cỏ lau –

Nguyễn Minh Châu, Vĩnh biệt mười tám con gà trống- Nguyễn Quang Lập, Đồng

đội – Hồ Tĩnh Tâm, Hai người đàn bà xóm Trại – Nguyễn Quang Thiều, Mai –

Thanh Quế, Truyền thuyết về quán Tiên- Xuân Thiều, Hai người trong thành phố -

Kiều Vượng, Người đàn bà – Thanh Quế,… ta có thể lược bỏ những trường đoạn

có sự hiện diện của yếu tố kì ảo mà không làm phương hại đến nội dung ý nghĩa

của truyện.

Truyện Vĩnh biệt mười tám con gà trống kể về chuyện một người đàn bà

đang đi tìm con gà thứ mười tám bị kẻ trộm bắt mất. Mười tám con gà trống cũng

chính là mười tám năm chồng bà ra đi biền biệt chưa một lần trở lại. Bà đã bỏ tiền

ra mua đúng mười tám con gà trống để đánh dấu mười tám năm thương nhớ của bà.

Cuối cùng bà đã tìm được cái kẻ đáng chết đã bắt mất mười tám con gà kỉ niệm của

bà. Khi bà đang lao vào nhà xỉa xói, nguyền rủa hắn cũng chính là lúc nhận được

giấy báo tử của chồng mình. Bà hét lên một tiếng kinh hoàng rồi rơi xuống sân như

một trái bầu khô. Lúc mơ màng, bà thấy gã hàng xóm đáng ghét bế bà lên giường,

xoa dầu rất kĩ, hình như là còn lật áo bà lên xoa vào sống lưng. Đó là đêm đầu tiên

sau mười chín năm xa chồng bà được ngủ một giấc ngon lành. Những ngày sau đó,

sự chăm sóc tận tình của kẻ hàng xóm đáng ghét đã khiến trái tim bà thổn thức.

Đêm đó, người đàn ông đó đã sang nhà bà. Khi hai người đang ghì chặt lấy nhau thì

đột nhiên bức ảnh chồng bà bỗng tuột dây chằng treo lủng lẳng trước mặt bà và

người hàng xóm. Người đàn ông ấy bỏ chạy về nhà. Còn lại một mình, bà òa khóc

van xin “anh ơi hãy để cho em… được … được …”. Khi bà định sang nhà người

hàng xóm, đột nhiên bà thấy lạnh ở gáy. Quay lại, bà thấy chồng bà nhìn bà, cái

nhìn vừa dịu dàng thông cảm, vừa hờn dỗi. Nếu lược bỏ yếu tố kì ảo ở cuối truyện,

câu chuyện vẫn không mất đi ý nghĩa của nó. Chuyện của một người đàn bà mười

tám năm đằng đẵng xa chồng, nhưng nỗi khát khao tình yêu vẫn hiển hiện trong bà

đến cháy bỏng. Sự có mặt của yếu tố kì ảo nhằm làm tô đậm nỗi dằn vặt bên trong

tâm hồn người phụ nữ. Một mặt rất muốn thỏa nguyện khao khát tình yêu mà bà đã

thiếu vắng suốt mười tám năm, mặt khác lòng bà vẫn canh cánh cảm giác có lỗi với

người chồng đã hi sinh của mình.

Với Hai người đàn bà xóm Trại, yếu tố kì ảo nằm ở những giấc mơ của hai

người phụ nữ. Ân và Mật không ngừng mơ thấy những giấc mơ kì lạ. Ân thường

mơ thấy con gà trống tía với chiếc mào đỏ rực mổ mổ vào ngón tay út của mình.

Còn Mật vẫn mơ đi mơ lại những cơn mơ vừa hạnh phúc, vừa lo sợ. Mật thấy

người lính trở về và ngay đêm đó Mật có thai. Tỉnh dậy, Mật lại dè dặt đặt tay lên

bụng mình. Nếu không có những giấc mơ của các nhân vật, Hai người đàn bà xóm

Trại vẫn là một câu chuyện cảm động về hai người phụ nữ chờ đợi chồng đi lính đã

nhiều năm. Sự chờ đợi vô vọng kéo dài suốt từ thuở còn xuân sắc đến lúc trở thành

hai bà lão già nua. Họ chưa và cũng không có dịp gặp lại người chồng thân yêu của

mình từ khi hai anh ra đi. Để rồi, hằng năm Tết đến, hai người lại lặng lẽ mong

ngóng, đợi chờ, lại tiếp tục gói bánh Tết cho người ở xa trở về - những bánh đã

mốc xanh mà người chẳng thấy quay về vẫn trở đi, trở lại. Tuy không phải là thành

phần chính của truyện, song sự có mặt của yếu tố kì ảo càng làm tô đậm thêm bi

kịch của hai người phụ nữ. Khiến người đọc không khỏi xót thương bởi cái mong

ước quá đơn giản có được với hai anh một đứa con không bao giờ có thể trở thành

sự thật với họ - những người phụ nữ đã đi qua chiến tranh.

Cũng vậy, trong Những giấc mơ có thực, yếu tố kì ảo là những giấc mơ của

người phụ nữ tên Tuân. Những giấc mơ chất chứa khát vọng hạnh phúc của người

phụ nữ một thời là “hoa khôi của rừng” được bao chàng trai đeo đuổi giờ trở thành

một chiếc bóng lẻ loi. Tước bỏ yếu tố kì ảo, người đọc vẫn có thể cảm nhận được

cuộc đời với những vết thương trong tâm hồn mà chiến tranh đã để lại cho chị.

Ngoài chứng bệnh “quên quên nhớ nhớ” chị còn thêm chứng mất ngủ triền miên

“đêm đêm thường mặc bộ quần áo ngủ may bằng thứ vải dệt gia công của địa

phương nhàu nhĩ màu nước dưa đi lang thang như một kẻ mộng du”. Yếu tố kì ảo

trong truyện đóng vai trò là một phương tiện để nhân vật bộc lộ những khát khao bị

kìm nén trong lòng. Trong những cơn mơ, nhân vật mới có thể sống thật với bản

thân mình, hiểu được tiếng lòng đang thổn thức trong tâm hồn. Yếu tố kì ảo vì thế

càng mang giá trị sâu sắc khi có mặt trong truyện.

Bến không chồng – Dương Hướng là câu chuyện về những người phụ nữ

nông thôn Việt Nam (cụ thể trong truyện là làng Đông) trong bối cảnh đất nước

vừa kết thúc cuộc chiến tranh chống Pháp và đang tiếp tục cuộc kháng chiến chống

Mỹ. Giống như Ân, Mật (Hai người đàn bà xóm Trại), Quỳ (Những giấc mơ có

thực), người đàn bà (Vĩnh biệt mười tám con gà trống) những người phụ nữ trong

tác phẩm như Hạnh, Thắm, Dâu, Cúc, Nhài,… cũng luôn trăn trở với những ước

mơ giản dị là được làm vợ, làm mẹ, có một mái ấm để yêu thương, chăm sóc; được

nâng niu trong vòng tay của một người đàn ông. Nhưng những khao khát ngỡ như

là giản dị đó lại trở nên quá xa vời với họ. Họ đều là những người phụ nữ "không

chồng" (đúng như cái tên của tác phẩm). Yếu tố kì ảo xuất hiện vào những lúc

Hạnh rơi vào trạng thái mê sảng khi mòn mỏi, đau khổ vì đợi chờ trong tuyệt vọng.

Hình ảnh Hạnh vùng vẫy như đang làm tình với dòng nước, “cơ thể như chìm dần

như thể có ba ba, thuồng luồng đang lôi tuột xuống đáy sông”, và “vầng trăng to

phình ra, đỏ lừ như con ma ở đầu cánh mả” [44, 192] sà xuống liếm lên khắp thân

thể Hạnh, làm tình với cô khiến người đọc không khỏi xót xa cho sự khát khao

hạnh phúc đến cháy bỏng trong cơ thể nhỏ bé của người phụ nữ. Trong chiến tranh,

hạnh phúc lứa đôi trở thành một ham muốn thấm đẫm nước mắt, thấm đẫm nỗi đau

của con người.

Ở Người sót lại của rừng cười - Võ Thị Hảo, yếu tố kì ảo nằm ở phần đầu

của câu chuyện. Đó là căn bệnh kì lạ chỉ có trong chiến tranh. Những người con gái

của kho quân nhu trong cánh rừng Trường Sơn bỗng nhiên trở thành những con

vượn trắng lõa lồ vừa khóc, vừa cười một cách điên dại. Chỉ khi những người lính

cất tiếng quát “Mấy con Việt cộng kia! Kho đâu? Chỉ mau không tao bắn vỡ sọ!”

họ mới bừng tỉnh. Chuyện về năm cô gái trên cánh rừng Trường Sơn năm nào trở

thành kí ức trong lòng Thảo – người con gái duy nhất còn sót lại của Rừng Cười.

Nếu không có sự hiện diện của yếu tố kì ảo, truyện cũng không thay đổi mấy về nội

dung. Câu chuyện về cuộc đời một cô gái trở về sau những năm tháng chiến đấu

nơi núi rừng Trường Sơn. Sự có mặt của yếu tố kì ảo trong câu chuyện khiến người

đọc cảm nhận sâu sắc bi kịch của những người con gái sinh ra trong chiến tranh. Bi

kịch của sự cô đơn, của nỗi khát khao rất đỗi bình thường - được yêu thương, chăm

sóc bởi đôi tay của những người đàn ông.

Trong một lần về quê bạn chơi, Khản được nghe Quát kể một truyền thuyết

liên quan đến loài vạc sành - loài chim có tiếng kêu bi thương đến não lòng (Tiếng

vạc sành – Phạm Trung Khâu). Những ngày sau đó, anh vô tình gặp và kết thân với

Nhọn, cậu bé nghèo khổ, có ngoại hình xấu xí, kì lạ. Qua những lần nói chuyện,

Khản cảm thấy rất mến người bạn nhỏ này. Buổi tối hôm Khản ở lại nhà Nhọn, tình

cờ anh gặp được bức ảnh chụp một người lính có ngoại hình giống với người đàn

ông trong câu chuyện của Quát. Tính chất kì ảo nằm ở phần đầu câu chuyện. Đó là

câu chuyện bi thương của gia đình một người lính qua lời kể của Quát. Nếu lược bỏ

phần đầu, câu chuyện không thay đổi về nội dung ý nghĩa. Tuy nhiên sự có mặt của

nó đã khiến người đọc cảm nhận được những nỗi đau, những mất mát quá lớn mà

chiến tranh đã để lại. Nếu không xảy ra chiến tranh, có lẽ đây sẽ là một gia đình rất

hạnh phúc.

Ở Người thắng trận- Tạ Duy Anh, chi tiết kì lạ nằm ở phần vĩ thanh: vết

máu trên chiếc khăn của viên tướng chỉ có thể được rửa sạch khi vô tình làm rơi

xuống giếng nơi nàng Đoan Trang trầm mình. Nếu không có phần vĩ thanh chứa

đựng yếu tố kì ảo, câu chuyện chỉ dừng lại ở cuộc tình bi thương của cô gái và

chàng đô Binh. Vì muốn đem về chiến thắng cho làng và có được người đẹp trong

tay, trong cuộc đấu vật, chàng đô Binh đã dùng ngón võ hiểm độc để hạ sát đối

phương. Vì không chịu được sự khốc liệt của trận đấu, cô gái đã trầm mình tự vẫn.

Có thêm phần vĩ thanh với chi tiết kì ảo, cái chết của cô gái không nhuốm màu bi

thảm mà mang sắc thái thiêng liêng.

Truyện Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành – Nguyễn Minh Châu kể về

cuộc đời của một người đàn bà với những sự kiện chính: Vào Trường Sơn tham gia

chiến đấu, và trở lại miền Bắc khi cuộc chiến đã kết thúc. Cuộc sống bên ngoài diễn

ra bình thường như những người khác, song cuộc sống nội tâm của Quỳ đầy mâu

thuẫn, biến động. Quỳ luôn dằn vặt, trăn trở trong những cơn mộng du để tìm đến

sự tự nhận thức, tìm đến chân lý của cuộc sống. Yếu tố kì ảo xuất hiện khi Quỳ một

mình đối mặt với bức tượng gỗ nghìn tay, nghìn mắt. Cuộc gặp gỡ kì lạ với bức

tượng đã vô tình giúp Quỳ giải mã nụ cười bí hiểm của anh (người lính đã từng yêu

và sống bên cô) trước lúc ra đi vĩnh viễn, giúp cô hình dung được cuộc đối thoại

diễn ra trong căm lặng giữa cô và “anh ấy”. Có thể lược bỏ yếu tố kì ảo này mà

không làm ảnh hưởng đến nội dung câu chuyện. Song sự có mặt của nó phần nào

giúp người đọc nhận ra ý nghĩa nhân bản của câu chuyện: trong chiến đấu, người

lính luôn xuất hiện trong tư thế đẹp đẽ, hoàn hảo song trở về với cuộc đời, họ cũng

là những con người bình thường. Với tư cách là một thực thể tự nhiên và xã hội,

người lính cũng có những mặt tốt và những mặt chưa tốt, những điều hoàn thiện và

những điều chưa hoàn thiện. Hãy biết trân trọng những mặt tốt và đồng thời chấp

nhận những điều chưa hoàn thiện ấy

Trong Chiều vô danh- Hoàng Dân, chi tiết kì lạ mang sức ám ảnh là hình

ảnh đàn kiến đen. Những đám sinh vật đen, nhỏ li ti ấy không có gì là nguy hiểm

nhưng đối với Nghĩa, nó là loại động vật gớm ghiếc, đáng ghê sợ mà mỗi khi gặp

nó, người anh lại lên cơn sốt như kẻ mắc bệnh thiếu máu não. Tuy là một chi tiết

nhỏ có vẻ không quan trọng, song không thể loại bỏ nó ra khỏi câu chuyện đơn

thuần bởi đó chính là cái cớ để Nghĩa lần hồi tìm về kí ức. Nhìn đám sinh vật li ti

ấy, như một phản xạ có điều kiện, quá khứ chiến tranh đẫm máu quay về khuấy đảo

tâm trí buộc anh phải nhớ đến kỷ niệm đau lòng về người đồng đội mà anh yêu quý

bị từng đàn kiến đen xâu xé những mẩu xương thịt của mình.

Ở tác phẩm Ăn mày dĩ vãng - Chu Lai, yếu tố kì ảo là những hồn ma của

những người đồng đội trở về ám ảnh Hai Hùng trong một lần anh đến thăm nghĩa

trang. Cuộc nói chuyện của những hồn ma ấy khơi lại trong Hùng quá khứ chiến

tranh ác liệt năm nào. Không có sự hiện diện của chi tiết này, người đọc vẫn hình

dung được nội dung cốt truyện. Đó là câu chuyện của một người lính trên cuộc

hành trình đi tìm sự thật về thân thế người phụ nữ có gương mặt giống hệt Ba

Sương – người yêu của anh đã chết trong chiến tranh. Tuy nhiên, đấy không phải là

một chi tiết dư thừa, bởi sự có mặt của nó khiến người đọc cảm nhận được sự ám

ảnh khôn nguôi của nhân vật Hai Hùng về quá khứ, những kỉ niệm về chiến tranh

luôn tồn tại trong anh dù đôi khi điều đó khiến anh trở thành một kẻ xa lạ với cuộc

sống hiện tại.

 Dạng truyện mà yếu tố kì ảo chỉ đóng vai trò là biểu tượng, song hành cùng

cốt truyện xuất hiện khá nhiều trong các tác phẩm văn xuôi viết về chiến tranh sau

1975. Sự có mặt của yếu tố kì ảo trong truyện không lấn át cái thực mà còn góp

phần soi sáng hiện thực được đề cập đến trong tác phẩm. Đó là hiện thực về cuộc

chiến tranh đã qua với số phận của những con người đã góp phần tạo nên cuộc

chiến thắng vĩ đại đó. Trong các truyện này, yếu tố kì ảo giúp người đọc cảm nhận

được thế giới nội tâm của nhân vật, không chỉ là những người lính mà còn là những

người thân yêu của họ. Chiến tranh không chỉ gieo sự chết chóc đến cho con người

mà còn để lại những nỗi đau tinh thần không gì có thể bù đắp.

+ Yếu tố kì ảo tham dự vào sự diễn biến của một cốt truyện trong tác phẩm có

hai cốt truyện đan xen

Kết cấu truyện lồng truyện là một trong những đặc điểm nổi bật của truyện

ngắn giai đoạn sau đổi mới. Nó cũng xuất hiện trong một số tác phẩm viết về chiến

tranh sau 1975. Trong những truyện ngắn có kết cấu này, yếu tố kì ảo nằm trong

câu chuyện thứ hai được kể lại bởi một nhân vật nào đó trong truyện.

Họ đã trở thành đàn ông- Phạm Ngọc Tiến có hai câu chuyện đan lồng

nhau. Chuyện của cô sinh viên khoa văn bảo vệ tham luận cuối khóa của mình và

chuyện về một người phụ nữ trong chiến tranh. Yếu tố kì ảo nằm trong cốt truyện

thứ hai, trong câu chuyện về người phụ nữ đã đem đến niềm hạnh phúc cho rất

nhiều những chàng trai. Người phụ nữ ấy tham gia chiến tranh khi vừa bước qua

tuổi đôi mươi. Cõ lẽ cuộc đời của chị sẽ giống như cuộc đời của bao người con gái

khác: chiến đấu quên mình trên mặt trận và một ngày nào đó có thể chị sẽ hi sinh

một cách anh dũng trên mảnh đất quê hương. Nhưng cuộc đời chị đổi khác khi chị

vô tình nghe được những lời tâm sự của hai người lính trẻ. Câu chuyện của những

chàng trai xông pha trên mặt trận khi mà chưa một lần trong cuộc đời họ được

hưởng cái hạnh phúc mà ông trời ban cho loài người – được trở thành ông. Người

phụ nữ có trái tim nhạy cảm ấy bàng hoàng khi nghe xong câu chuyện. Đêm đó,

như một người mộng du, chị thấy mình trôi về quá khứ, trôi qua bao nhiêu làng

mạc, trôi về bên anh - người yêu của chị - vào đêm cuối cùng trước lúc hai người

chia tay. Có lẽ đó sẽ là đêm đáng nhớ nhất trong đời anh, nhưng chị đã từ chối bởi

chị không muốn làm việc ấy trong lúc đất nước đang chiến tranh. Khi tỉnh lại, chị

luôn có cảm giác anh đang ở cạnh mình, chập chờn, ẩn hiện với những câu hỏi buốt

nhói “bao giờ thì hòa bình hả em?”. Chị nghĩ đến anh - có lẽ anh cũng giống như

những chàng trai kia, đến lúc nhắm mắt cái mong ước rất người ấy đã không thể

nào trở thành hiện thực. Phải chăng ở một nơi xa xôi nào đó anh đã ra đi trong sự

nuối tiếc khôn nguôi. Chị quyết định làm một việc rất thiêng liêng - đem đến niềm

hạnh phúc nhỏ bé cho những chàng trai để sau này, dù có hi sinh, họ cũng không

mang theo xuống lòng đất lạnh niềm tiếc nuối như anh. Sau khi chị chết, những câu

chuyện huyền thoại về chị lan truyền khắp mặt trận. Ở mặt trận phía Nam, người ta

kể rằng, khi bom tọa độ bất ngờ chụp xuống suối, xác chị văng thành ngàn vạn

mảnh. Sau đó, khu rừng ấy trở nên xanh tốt kì lạ, hoa cỏ, cây lá chim chóc chen

nhau ríu rít. Đạn bom, chất độc cũng không thể nào hủy diệt được khu rừng ấy.

Qua yếu tố kì ảo, tác giả thể hiện lòng trân trọng, cảm phục trước sự hi sinh thầm

lặng, cao đẹp của người phụ nữ mà không phải ai cũng có thể làm được.

Tiếng chuông chiều - Lê Hoài Lương, cũng có hai câu chuyện đan lồng vào

nhau. Chuyện của nhân vật “tôi” đến tìm vị sư già đàm đạo về việc vừa tìm được

hài cốt liệt sĩ nhờ vào năng lực ngoại cảm và câu chuyện của vị sư về một người

lính ngụy. Yếu tố kì ảo nằm trong câu chuyện kể của vị sư già: một người lính ngụy

đã tình cờ gặp và chôn hài cốt của người chiến sĩ Việt cộng. Sau chuyện đó, hàng

loạt những điều kì lạ xảy ra với gã. Nhiều lần cái chết chừa gã ta ra một cách khó

hiểu. Trong trận giao tranh quyết liệt, gã bị một quả bom hất tung xuống núi, khi

tỉnh lại, gã sởn gai ốc khi nhìn thấy một quầng sáng xanh ẩn hiện một dáng hình

quen thuộc, gã nhận ra quầng sáng ấy chính là người lính đã cứu gã lần nguy hiểm

trước. Biết rằng người chiến hữu linh thiêng bên kia sẽ cứu thoát mình, gã đứng

dậy và lập cập đi theo vị thần hộ mạng ấy. Đến khi nghe được tiếng lập cập của bọn

lính, quầng sáng ấy biến mất. Sau ngày hòa bình, gã không trở về mà quyết định

xuất gia đi tu. Yếu tố kì ảo trong truyện giúp người ta nghiệm ra rằng những việc kì

lạ trong luôn xảy ra đâu đó trong cuộc sống. Đôi khi, có thể những việc ta làm đều

được phán xét bởi một lực lượng siêu nhiên, vô hình nào đó. Và sự phán xét ấy rất

công bằng với tất cả mọi người.

Kết cấu truyện lồng truyện cũng xuất hiện trong tác phẩm Tiếng chuông trôi

trên sông – Vũ Hồng. Một nhà báo nhận được xấp bản thảo truyện ngắn từ tay một

người đàn ông, tuy nhiên do bận có hẹn với bạn nên anh ta quên bẵng câu chuyện.

Đến khi đọc được trên báo bản cáo phó và ảnh của người đàn ông ấy, anh mới chợt

nhớ đến xấp bản thảo kia. Đó là câu chuyện về cuộc đời của một người lính. Yếu tố

kì ảo xuất hiện trong câu chuyện kể ấy. Trong những năm tháng chiến tranh ác liệt,

người đàn ông đã phải từ biệt người vợ mới cưới đi chiến đấu. Vào lúc thập tử nhất

sinh, đối mặt với cái chết bởi cơn sốt rét rừng ác tính, hình ảnh người vợ hiện ra

chập chờn trong giấc mơ đã kéo ông về với cuộc sống. Nếu không có giấc mơ ấy,

có lẽ ông đã nằm lại ở một góc nào đó nơi cánh rừng Trường Sơn lạnh lẽo. Sự hiện

diện của yếu tố kì ảo để thấy rằng, trong những lúc yếu đuối nhất, con người cần

phải vững vàng vượt lên để tiếp tục sinh tồn. Và điểm tựa kì diệu nhất để giúp họ

có thể dựa vào chính là tình yêu với người thân.

 Với các truyện có hai cốt truyện đan xen, cốt truyện thứ nhất thường là

những câu chuyện đang diễn ra trong cuộc sống thời bình. Cốt truyện thứ hai kể về

một sự kiện xảy ra trong chiến tranh và tác giả là người được nghe lại câu chuyện

ấy. Yếu tố kì ảo trong truyện nhằm thể hiện quan niệm, thái độ, sự đánh giá của tác

giả về một nhân vật, sự kiện đã xảy ra trong chiến tranh.

+ Yếu tố kì ảo tham dự vào sự diễn biến của cốt truyện

Trong các truyện ở dạng này, yếu tố kì ảo được lồng ghép hữu cơ với cốt

truyện. Ta không thể cắt bỏ những trường đoạn có yếu tố kì ảo, nếu không sẽ làm

tổn hại đến nội dung cốt truyện, khiến câu chuyện trở nên kém sức hấp dẫn hoặc

không thể hiện được chủ đề của tác phẩm. Ví dụ những truyện như Bướm trắng -

Thái Bá Tân, Bến trần gian - Lưu Sơn Minh, Đốm lửa - Nguyễn Thị Minh Thúy,

Tàn đen đốm đỏ - Phạm Ngọc Tiến, Nỗi buồn chiến tranh - Bảo Ninh, Cặp bồ với

ma - Ngô Văn Phú, Trái tim con rắn - Nguyễn Đông Thức,.. sự tham dự của yếu tố

kì ảo tạo sức mạnh lôi cuốn sự chú ý, buộc mọi sự lý giải phải quy tụ về nó. Cái kì

ảo trở thành một phương thức khám phá hiện thực, tạo sự mới lạ, hấp dẫn cho tác

phẩm.

Trong các truyện Bến trần gian, Cặp bồ với ma, Nỗi buồn chiến tranh, Trái

tim con rắn yếu tố kì ảo giữ vai trò gợi chuyện (thắt nút), vừa tham gia vào toàn bộ

quá trình diễn biến của truyện.

Trong Nỗi buồn chiến tranh, nếu không có sự tham dự của yếu tố kì ảo, tác

phẩm chỉ là dòng tự truyện của nhân vật. Những cơn mộng du; những giấc mơ triền

miên về quá khứ, về Truông Gọi Hồn với vô số điều kì lạ, hão huyền: nơi mọc đầy

những bông hồng ma có thể giúp con người tự chế ra những ảo giác, những loại

măng đỏ “như những tảng thịt ròng ròng máu”, những linh hồn lở loét, những hồn

ma lang thang, những âm thanh kì bí vang vọng trong rừng,… tất cả tạo nên một

không khí ma quái, u ám, đáng sợ trong tác phẩm. Những điều kì bí trong truyện

vừa thể hiện nỗi trăn trở, dằn xé, ám ảnh bởi quá khứ, vừa góp phần thể hiện sự

khốc liệt của chiến tranh.

Trong Bến trần gian, nếu không nhờ có chiếc lá mà ông lão cho, hồn Lăng

sẽ mãi lang thang trong rừng. Anh sẽ không thể nào về được quê nhà và gặp lại

người thân của mình. Trái tim con rắn - yếu tố kì ảo đóng vai trò thắt nút, cái chết

của Thuật bắt nguồn từ việc ông nuốt một trái tim rắn. Sau sự viêc đó, suốt đêm,

Thuật bị trái tim ấy giày vò đau đớn trong lồng ngực, đau đớn đến độ tự tay ông

bóp vỡ nó. Huệ - cô gái đã chết trong Cặp bồ với ma, hằng đêm vẫn trở về gặp gỡ

và chung sống với chàng trai gác nghĩa trang. Sống với anh, cô mới thật sự thấy

mình tìm được hạnh phúc.

Ở tác phẩm Tàn đen đốm đỏ, yếu tố kì ảo tham dự vào diễn biến của câu

chuyện. Sau khi chết, linh hồn của Phương không thể trở về mà bị kẹt lại trong

hang núi. Tại đây, anh đã gặp gỡ và kết thân với hồn ma của những người chiến sĩ

khác tạo thành một thế giới riêng tách biệt với thế giới con người. Cuối truyện, nhờ

được những người đồng đội tìm được hài cốt mang về, Phương đã được đoàn tựu

với người thân và anh linh hồn anh đã được thanh thản ra đi.

Trong truyện Bướm trắng, yếu tố kì ảo tham gia vào toàn bộ cốt truyện và

đóng vai trò giải quyết vấn đề (tháo nút). Xuân Sinh gặp lại Bạch Điệp, khi đó nàng

đã trở thành một hồn ma rách nát. Vì quá yêu nàng, chàng đã lấy máu tim mình, vá

lại những vết thương trên cơ thể của nàng. Kết truyện, nhờ tình yêu và sự kiên trì

của Xuân Sinh, những vết thương trên cơ thể của Bạch Điệp đã lành lại. Hai người

dắt nhau về quê chàng và sống với nhau như những cặp vợ chồng bình thường

khác. Song có điều, Bạch Điệp không sinh con mà chỉ sinh toàn bướm và bướm.

 Tóm lại, đến với những truyện này, người đọc như lạc bước vào trong thế

giới cổ tích, huyền thoại xa xưa mà những điều kì diệu, nhiệm màu đều có thể xảy

ra. Người sống có thể gặp lại người thân đã mất, nhân vật khó khăn được sự giúp

đỡ của thế giới siêu nhiên, nhân vật vượt qua thử thách và kết thúc có hậu – những

chuỗi diễn tiến của truyện cổ tích thần kì đều có mặt trong các truyện kể trên. Song,

mượn cái vỏ ngoài của sự tưởng tượng bay bổng đó, tác giả muốn phô bày hiện

thực của đời sống người lính sau chiến tranh; những nỗi niềm trăn trở, những

nguyện ước khó có thể trở thành thực hiện được của họ.

2.2. Yếu tố kì ảo và thế giới hình tượng

2.2.1. Yếu tố kì ảo và nhân vật

Nhân vật là “con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học… một

đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người thật trong

đời sống… thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn về con

người… luôn gắn chặt với một chủ đề tác phẩm” [30,41]. Một tác phẩm văn học

không thể thiếu nhân vật. Nhân vật là phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện

thực, thể hiện nhận thức của mình về một cá nhân, một loại người, một vấn đề nào

đó trong hiện thực. Các tác phẩm viết về chiến tranh sau 1975 có sự thay đổi mạnh

mẽ trong quan niệm nghệ thuật về con người. Xu hướng chung khám phá hình

tượng người lính dưới góc độ cá nhân, đời tư. Yếu tố kì ảo là một thủ pháp nghệ

thuật hữu hiệu giúp nhà văn thể hiện rõ nét sự thay đổi đó. Trong văn xuôi viết về

chiến tranh sau 1975, không khó để bắt gặp những nhân vật kì lạ, ma quái, những

nhân vật mang màu sắc huyền thoại mà trước đây, ta chỉ có thể bắt gặp trong các

truyện kể dân gian.

2.2.1.1. Nhân vật là những hồn ma

Ma là hồn người chết hiện về. Có ma hay không? Đó là câu hỏi đến nay vẫn

chưa có lời giải đáp chính xác. Riêng trong tâm thức người Việt, người ta tin rằng

người chết chỉ mất đi phần xác còn phần hồn vẫn tồn tại nhưng sang một thế giới

khác, thế giới đó tồn tại song song với thế giới cõi dương mà con người đang sống.

Người ta gọi đó là cõi âm. Có quan niệm dân gian ắt sẽ có quan niệm đó trong văn

học.

Những câu chuyện về hồn ma bóng quỷ đã xuất hiện từ rất lâu đời trong các

tác phẩm văn học. Đặc biệt người ta thường viết nhiều về truyện ma. Trong văn học

trung đại, ma thường xuất hiện vào những đêm tối hoang vu, những nơi âm u thiếu

sinh khí để thực hiện ý muốn của mình. Những hồn ma bơ vơ vất vưởng ấy thường

hóa thân thành những cô gái xinh đẹp quay về dương gian hoặc để quyến rũ những

thư sinh đa tình, háo sắc, hoặc để tận hưởng tình yêu, báo ân, báo oán, hoặc để

quấy nhiễu dương gian. Thế giới ma quỷ cũng xuất hiện khá đậm đặc trong văn học

thế kỉ XX, với các tác giả tiểu biểu như Nguyễn Tuân (Xác ngọc lam, Khoa thi cuối

cùng,…), Ngô Tất Tố (Suối hoa đào), Vũ Bằng (Đám cưới hai u hồn ở chùa Dâu,

Bóng ma nhà Mệ Hoát,…), Thế Lữ (Trại Bồ Tùng Linh), Nhất Linh (Bóng người

trong sương mù),…

Tiếp nối những nhà văn đi trước, thế hệ các văn nghệ sĩ trẻ sau này vẫn tiếp

tục gây hứng thú cho người đọc khi tiếp tục đào sâu nguồn cảm hứng với loại hình

nhân vật ma quái này. Trong các tác phẩm văn xuôi viết về chiến tranh, các nhà văn

đã sử dụng bút pháp kì ảo để sáng tạo một thế giới hồn ma đầy biến ảo và kì lạ. Đó

có thể là linh hồn của người đã mất nhưng còn trăn trở bởi người thân nên quay về

gặp mặt, đôi khi các hồn ma trở về chỉ để được một lần nếm trải cảm giác yêu

thương, có khi sự quay trở về của họ là do tâm nguyện chưa hoàn thành hoặc để

giúp đỡ người còn sống, để trả ơn,...

Những hồn ma trong Bướm trắng (Thái Bá Tân), Bến trần gian (Lưu Sơn

Minh), Đàn sẻ ri bay ngang rừng (Võ Thị Xuân Hà), Cặp bồ với ma (Ngô Văn

Phú), tuy mất đã lâu nhưng vẫn còn lẩn khuất đâu đó bên cạnh người còn sống.

Trong Bướm trắng, tuy nằm dưới mồ sâu, nhưng Bạch Điệp vẫn ôm ấp “một khối

tình chưa tan” với Xuân Sinh. Linh hồn của cô cố gắng hóa thân, dẫu chỉ là một

con bướm trắng với đôi cánh rách nát, để gặp lại Sinh và nên vợ nên chồng cùng

anh. Sự khốc liệt của chiến tranh có thể đoạt đi sự sống của con người chứ không

thể lấy đi khát vọng tình yêu, khát vọng hạnh phúc trong trái tim của họ.

Người lính trong Bến trần gian sau khi nhận được chiếc lá đã bắt đầu một

cuộc hành trình trở về thăm quê hương, thăm mẹ già, thăm lại người yêu. Nhưng

không may mắn như Bạch Điệp trong Bướm trắng (nàng được sống lại bởi tình yêu

của Xuân Sinh), đã qua bao nhiêu năm, người thân của anh đã chấp nhận cái sự thật

là anh đã mất, sự trở về của anh lúc này đây có lẽ chỉ là một nhát dao cứa sâu thêm

vào nỗi đau của người ở lại bởi hiện tại anh chỉ là một hồn ma. Sự có mặt của anh

trong lúc này không phải là một sự đoàn tụ, vui vẻ. Có chăng chỉ đem lại niềm đau

khổ cho những người còn sống, đem lại sự sợ hãi cho những người xung quanh.

Nên cuối cùng anh đành phải ra đi trong âm thầm, lặng lẽ để không làm xáo trộn

cuộc sống của những người đang sống.

Trong Cặp bồ với ma, Đàn sẻ ri bay ngang rừng là hai linh hồn đáng

thương. Họ chết đi khi mà vẫn chưa một lần cảm nhận được dư vị ngọt ngào của

tình yêu, thế nên đâu đó trong cõi âm, họ vẫn thường hiện về để được tận hưởng

niềm hạnh phúc thật sự của một con người. Cô gái trong Cặp bồ với ma lúc sống là

một nữ văn công duyên dáng, cô có người yêu nhưng anh đã hi sinh trong chiến

tranh, cuộc đời sau này của cô cũng không hạnh phúc bởi chỉ gặp toàn những mối

tình “chóng tàn”, có lẽ vì thế mà cô thường hiện về vào những đêm tối để được

thỏa lòng trong tình yêu với chàng trai lạ mặt nơi trần thế. Còn Diễm trong Đàn sẻ

ri bay ngang rừng thì luôn cảm nhận có sự hiện diện của Nẫm trong nhà (Nẫm là

người anh chồng đã mất từ lâu trong chiến tranh). Nẫm thường xuất hiện thoảng

qua nhưng cô luôn cảm nhận giữa anh và cô có một tình cảm đặc biệt hơn hẳn tình

cảm mà Thản (em trai Nẫm) dành cho cô. Dường như giữa cô và Nẫm có một tình

cảm nào đó rất đậm sâu mà không thể diễn tả bằng lời. Đó là tình yêu, và Nẫm bởi

còn vương vấn một người ở lại nên hồn còn lẩn khuất mà chỉ có tình yêu chân

thành mới cảm nhận được “Con người khi chết thịt da trả cốt nhục, chỉ có tâm linh

thuộc về tiền duyên”.

Ở các truyện như Vòm đa xanh- Trần Văn Thước, Hồn trinh nữ- Võ Thị

Hảo, Trừng phạt- Đỗ Nhật Minh, Đốm lửa- Nguyễn Thị Minh Thúy, Tiếng chuông

chiều- Lê Hoài Lương, các hồn ma xuất hiện bởi nhiều lý do. Những hồn ma của

Vòm đa xanh hiện về để nhắc người cha thực hiện đúng với lời hứa năm xưa của

mình “Bác quên thật sao. Ngày bọn cháu nhập ngũ bác phụ trách tổ trồng cây. Bác

“chịu án phê bình” mài dao cho bọn cháu leo lên cây đa đầu làng khắc dấu kỷ

niệm. Bác hứa trông nom cây đa cất giữ kỷ niệm của bao nhiêu lớp người làng.

Bác quên rồi ư?”. Ma trong Hồn trinh nữ, Trừng phạt đến để đòi người còn sống

trả giá về những tội ác mà họ đã gây ra. Chàng trai trong Hồn trinh nữ ngỡ đã có

được hạnh phúc trong tầm tay, nhưng hạnh phúc đó đã chóng tan biến bởi bóng ma

của “người đàn bà trong veo tóc xõa”. Người đàn bà ấy đến để đòi lại sự công bằng

cho người chồng đã mất dưới kiếm của anh ta. Còn những hồn ma trong Trừng

phạt luôn hiện về ám ảnh ông Tuyển bởi ông đã gây ra nhiều lỗi lầm mà suốt đời

không thể xóa được. Có lúc hồn ma cũng trở về để trả ơn hoặc để giúp đỡ người

còn sống vượt qua những lúc khốn đốn, nguy hiểm (Đốm lửa, Tiếng chuông chiều).

Trong Đốm lửa, hồn thiêng của người bộ đội hiện về để giúp đỡ hai cô du kích

thoát khỏi sự phục kích của bọn giặc. Còn anh lính Việt cộng trong Tiếng chuông

chiều đã nhiều lần cứu người lính ngụy thoát chết trong gang tấc để trả ơn bởi

người lính ngụy ấy khi phát hiện bộ hài cốt của anh đã mang đi chôn cất với tấm

lòng thành kính.

Trong tiểu thuyết viết về chiến tranh, các tác giả cũng thường viết nhiều về

ma. Các hồn ma bóng quỷ trong tiểu thuyết thường miêu tả cụ thể. Đó là hồn ma

của những người lính chết trận đêm đêm trở về thì thầm trò chuyện với người còn

sống để khóc than, để tâm sự “Chẳng đêm nào mà họ không lay mình dậy để

chuyện gẫu. Phát khiếp lên được. Đủ loại. Lính cũ, lính mới. Lính sư 10, sư 2, quân

tỉnh đội, quân cơ động 320, đoàn 559. Thỉnh thoảng có các “mộng” tóc dài”

[40,44]. Hay như sự trở về của Can. Đêm đêm, Kiên nghe thấy: “Can trở về thì

thào ngay bên võng, lặp lại cuộc trò chuyện nhạt nhẽo bên bờ suối chiều hôm nào.

Tiếng thì thào chuyển dần thành tiếng nức nở, thành tiếng nấc nghẹn y như là tiếng

nước sặc lên trong cổ họng kẻ sắp sửa chết chìm” [40,26]. Có khi hồn ma không

còn hình hài cụ thể mà đó chỉ là những âm thanh hòa lẫn trong rừng núi hoang vu,

nương mình theo làn gió “hóa thành những âm thanh chứ không phải là hình bóng”

“khi bóng tối vùi kín rừng cây trong hẻm núi thì từ đáy rừng phủ lá mục tiếng hát

thì thào dâng lên, có cả tiếng đàn ghi-ta hòa theo nữa… Cuối cùng, sau mấy đêm

lắng nghe, người ta đã định vị được chỗ đất có hồn người. Trong tấm tăng bó xác

xương cốt đã hóa mùn cả, riêng cây đàn ghi-ta tự tạo của người chết vẫn còn

nguyên vẹn” [40, 99]. Đôi khi bóng ma hiện về “rách bươm, uyển chuyển và huyền

bí, lướt ngang luồng ánh sáng rồi mất hút đi với mái tóc đen dài xõa bay” [40,

104]. Trong chiến tranh có những người chết mà không có được một nấm mồ, chết

mà không còn nguyên vẹn thân xác nên hồn cứ mãi lang thang như lời kể của Can:

“hồn bơi ra khỏi xác biến thành con ma cà rồng đi hút máu người” [40, 26], và vào

những đêm giá rét, những cô hồn không nơi nương tựa quay về thì thầm trò chuyện

với Kiên, “lên tiếng rên rỉ và thở dài” [40,76] cho thân phận của chính mình.

Ma còn hiện về để người còn sống tự vấn lại lương tâm của mình (Ăn mày dĩ

vãng- Chu Lai). Khi Hai Hùng lặng lẽ đến thăm nghĩa trang, nơi an nghỉ của biết

bao con người ngã xuống trong chiến tranh. Dường như hàng loạt những âm hồn

của người chết rùng rùng sống dậy sau những năm dài nằm dưới nấm mồ lạnh lẽo

“Mắt tôi nhòa đi. Những hàng chữ khắc trên bia nhảy nhót, phồng lên, nở ra, dài

ngoẵng thành những thân người, mặt người lạ lẫm và thân thuộc. Tất cả đều còn

trẻ, rất trẻ, đều mang bộ đồ quân phục sắc xanh lá rừng, thịt da trắng như sáp,

súng đạn đầy người, chìm lút trong người, tất cả đều tráng kiện, vạm vỡ, miệng

cười tươi tỉnh, duy có đôi mắt chỉ là hai lỗ trũng sâu vô định…” [41,170]. Đó là ai,

là những người thân quen, là đồng đội trước đây của anh. Tất cả đều đã chết. Chết

bởi muôn ngàn lý do, nhưng đều chung một nguyên nhân, chết bởi chiến tranh.

Đôi khi tác giả còn xây dựng một thế giới cõi âm riêng biệt mà đó là nơi các

hồn ma trú ngụ (Tàn đen đốm đỏ- Phạm Ngọc Tiến). Trong tác phẩm này, các hồn

ma cũng giống như con người với những cảm xúc, những tình cảm cụ thể của

người bộ đội. Đó là hồn ma của Phương, người chiến sĩ đã hi sinh trong chiến

tranh, của cô gái – người nữ giao liên đã bị giặc giết hại dã man trong rừng sâu, của

“ông già chín năm”, cũng một người chiến sĩ đã hi sinh trong lúc làm nhiệm vụ.

Đặc biệt truyện còn có sự xuất hiện hồn ma của tên ngụy. Trong thế giới ấy không

có sự thù hận mà chỉ có sự tha thứ. Họ đã xóa bỏ cái ranh giới thù hận mà con

người khi sống đã tự tạo ra. Tác giả đã xây dựng cho họ một thế giới cõi âm riêng

biệt mà ở đó họ có những ngày sống chung với nhau, hiểu biết về nhau rõ hơn. Và

cũng như người đang sống, điều mà họ mong đợi nhất chính là ngày hòa bình,

chiến thắng, được về lại với gia đình, với người thân.

 Yếu tố kì ảo trong những truyện viết về chiến tranh sau 1975 đã đưa người

đọc bước vào thế giới liêu trai, huyễn hoặc với sự xuất hiện của những hồn ma,

bóng quế. Song nếu như trong các truyện liêu trai trước đây, ma thường xuất hiện

với những phép màu kì ảo, họ có thể dùng phép màu đó để biến hóa theo mục đích

của mình. Trong nhiều truyện sự quấy nhiễu của các linh hồn khi trở về dương gian

thường mang đến cho người đọc cảm giác khiếp sợ; thì thế giới hồn ma trong các

truyện viết về chiến tranh sau 1975 lại mang đến cho người đọc niềm xót xa,

thương cảm. Đa số những hồn ma ấy đều là những linh hồn bơ vơ của người chiến

sĩ anh dũng một thời. Sự khốc liệt của chiến tranh đã tước đi sinh mạng của họ khi

tuổi đời còn quá trẻ. Với bao mong ước, bao nguyện vọng ấp ủ chưa thành đã khiến

linh hồn những người lính đáng thương ấy vẫn thường xuyên quay về, hiện hữu bên

cạnh những người còn sống.

2.2.1.2. Loại nhân vật dị thường, kì lạ

Trong các tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau này, để đáp ứng

nhu cầu thị hiếu thẩm mỹ của người đọc, đặc biệt để tạo hiệu ứng cho tác phẩm, các

tác giả thường xây dựng nhiều dạng nhân vật đặc biệt, tạm gọi là nhân vật dị

thường, kì lạ. Khảo sát các truyện có thể thấy dạng nhân vật dị thường, kì lạ được

thể hiện chủ yếu qua ngoại hình (người mọc đầy lông lá, người to lớn dị thường),

hoặc người có những hành vi, khả năng kì lạ.

Người biến thành vượn, người mọc đầy lông lá xuất hiện trong các truyện

như Nỗi buồn chiến tranh- Bảo Ninh, Người sót lại của rừng cười- Võ Thị Hảo,

Truyền thuyết về quán tiên – Xuân Thiều. “Người vượn” trong Nỗi buồn chiến

tranh “hình thù lồm xồm, lông lá”, thoắt ẩn, thoắt hiện, nhanh nhẹn, uyển chuyển

mà người ta chỉ có thể nghe được những tiếng cười “kinh dị” của nó chứ không thể

nào giáp tận mặt. Người vượn trong tác phẩm này có thể gắn với những truyền

thuyết bí hiểm về những “mạch suối ma” trong rừng, nó cũng có thể gắn với câu

chuyện bi thương và kinh hoàng về cái chết trong chiến tranh “sự đau đớn như thế

có thể từ thân xác ăn vào đất mọc lên thành cây rừng, gây lên những vang âm và

những ảo hình không tan được về tấm thảm kịch” [40, 107].

Trong Người sót lại của rừng cười nhân vật người biến thành vượn khiến

người đọc xót xa bởi nỗi mất mát mà chiến tranh gây ra cho con người. Đó là

những “con vượn trắng” mà khi nhìn kỹ hóa ra lại là những “người con gái hoàn

toàn trần truồng, tóc xõa, vẻ mặt bơ phờ và đang ngửa cổ ra sau cười khanh

khách”. Họ bị nỗi cô đơn, tuyệt vọng giày vò “biến” thành những con vượn với

những tiếng cười man dại, đau đớn.

Trong Truyền thuyết về quán tiên, đó là hình ảnh một con khỉ đen to lớn “ức

có chùm lông trắng” rất láu lỉnh và luôn xuất hiện mỗi khi Mùi ra suối một mình.

Nó thường “giương đôi mắt hau háu” nhìn cô tắm và biết cách thể hiện những động

tác của con người để chòng ghẹo cô. Sự xuất hiện của con khỉ này đã làm thay đổi

rất nhiều số phận của các cô thanh niên xung phong đang làm nhiệm vụ ở quán

Tiên (cái quán nước ở núi rừng phục vụ cho anh em bộ đội).

Dạng nhân vật kì lạ, dị thường cũng xuất hiện trong những truyện như Tổ

tông truyền- Hòa Vang, Mắt ma – Y Ban, Bàn chân ma – Nguyễn Thế Tường, Họ

đã trở thành đàn ông- Phạm Ngọc Tiến, Tiếng vạc sành- Phạm Trung Khâu. Trong

Trái tim con rắn, khi giải phẩu tử thi cho Thuật, mọi người không khỏi sởn gai óc

“khi thấy ở giữa lồng ngực trái của Thuật là một trái tim nhỏ xíu, chỉ bằng đầu

ngón tay, đã bị vỡ đôi.”. Trong Mắt ma, nhân vật chính là một người lính tên Huấn,

anh được Đồng - một người bạn đã hi sinh trong chiến tranh “cho mượn đôi mắt”.

Từ đó, anh trở thành một người dương có đôi mắt âm, có thể nhìn “thấu mọi vật ở

đời”. Người đàn ông trong Bàn chân ma đã bị chiến tranh lấy mất một bàn chân,

nhưng lúc nào anh cũng có cảm giác đôi chân mình vẫn con nguyên vẹn. Vì vậy,

một lần đang ngồi ăn cơm, anh “bỗng quài tay đập mạnh vào một con ruồi đậu gần

đoạn chân cụt” bởi anh cảm nhận rằng “con ruồi ấy đã đậu vào bàn chân phải của

anh, làm nó nhồn nhột khó chịu”. Trong Tiếng vạc sành, sự xuất hiện người đàn

ông với khuôn mặt dị dạng “xương hàm dưới bị cắt một nửa. Răng trên gãy gần

hết. Cái lưỡi rụt vào trong làm lộ rõ cái miệng như một cái hang sâu hoắm, đỏ lòm

trông rõ cả cuống họng. Khi nói chuyện, lời nói chỉ phát ra những tiếng “tọc, tọc”

liên hồi cùng với đờm dãi rớt ra” khiến người đọc không khỏi bàng hoàng, khiếp

sợ. Và sau khi anh ta chết, người ta đồn rằng “hồn anh hóa thành con vạc sành,

khoác đôi cánh màu xanh của người lính. Hằng đêm, với gương mặt xấu xí anh ẩn

mình trong các lùm cây” phát ra tiếng kêu “crọc crọc” ròng rã từ chạng vạng tới

sáng”. Ở tác phẩm Tổ tông truyền là hình ảnh người đàn ông “cao – lớn dị thường”,

trãi qua những việc bình thường như lấy chặt củi, đốt than, lấy vợ, … đến những

việc cao cả như đánh giặc, ông không sao, nhưng vào “một ngày, giữa trời quang,

trong một cuộc tuần du thanh bình, ông bị sét đánh chết”. Cả người ông “bùng lên

như một bó đuốc” rồi “héo quắt, vón lại”, duy chỉ có đôi mắt là vẫn mở to “chẳng

ai vuốt cho nhắm được”, chỉ người vợ là hiểu ý ông và chỉ bà mới có thể khiến ông

nhắm mắt, và theo ý chồng, bà đã “rạch đôi mắt mình, chắt được bốn chén huyết”

bắt bốn đứa con phải uống hết và dặn dò các đời sau rằng “không được to lớn khác

thường. Phải nhỏ bé đi… để sống”. Theo lời di huấn của bà, các thế hệ sau đều có

hình dáng nhỏ bé, và thế hệ chắt của bà gần đây mang một hình thể rất lý tưởng

một anh chàng “cao 1m53, vòng ngực 53cm, cân nặng 19kg. Vai xuôi đuột như vai

lọ, lưng mỏng như lưng con gián”, hay một đứa bé to “bằng cái hạt hồng xiêm” vừa

ra đời là kết quả tuyệt vời của lời nguyền năm xưa. Người phụ nữ trong Họ đã trở

thành đàn ông là một cô gái rất bình thường, điều làm cô trở nên cao lớn, vĩ đại

chính là trái tim tràn đầy thương yêu, cao cả của cô. Cô sẵn sàng hiến dâng đời con

gái của mình cho tất cả những anh bộ đội còn rất trẻ mà phải đi đánh giặc để họ

được một lần trong đời trở thành đàn ông. Để rồi sau đó, dù có hi sinh nơi chiến

trường ác liệt, họ cũng không hối tiếc.

 Với sự tham dự của yếu tố kì ảo, những nhân vật trong truyện hiện ra trong

hình hài, dáng dấp dị thường, kì lạ. Sự khác biệt lạ kì của họ không chỉ mang đến

cảm giác tò mò, thu hút sự chú ý của người đọc mà còn thể hiện nhiều sắc thái, ý

nghĩa khác nhau. Thông qua các nhân vật, người đọc không chỉ thấy được nhiều

góc khuất khác nhau của chiến tranh mà còn có thể thấu hiểu hơn về những tâm tư,

tình cảm của con người, đặc biệt là người lính.

2.2.1.3. Loại nhân vật mang màu sắc huyền thoại, cổ tích

Nhân vật mang màu sắc huyền thoại, cổ tích cũng xuất hiện nhiều trong các

tác phẩm viết về chiến tranh sau 1975. Bước vào thế giới của những câu chuyện

này, trước mắt người đọc không chỉ là không khí chiến trường với những anh lính

cụ Hồ kiên cường dũng cảm, những cô thanh niên xung phong anh hùng quả cảm,

mà bước vào đó, người còn có cảm giác như lạc bước vào một thế giới của những

câu chuyện thần tiên với những nhân vật hư ảo có phép thần nhiệm màu giúp con

người chết đi sống lại.

Đó là ông già “râu tóc bạc phơ” giống như ông tiên trong truyện cổ tích đã

cho người lính chiếc lá thần kì giúp linh hồn anh không bị tan ra khi trở về thăm lại

người thân (Bến trần gian- Lưu Sơn Minh). Hay như Bạch Điệp trong Bướm trắng.

Bị trúng hai quả rốc-két trong lúc làm nhiệm vụ, Bạch Điệp chết với thân xác

không còn nguyên vẹn. Nhưng, sau đó cô đã hóa thân thành bướm để tiếp tục hoàn

thành nhiệm vụ của mình - dẫn các đoàn xe qua những đoạn đường nguy hiểm. Con

bướm trắng ấy cũng đã hóa thân thành người trong lần gặp gỡ với Xuân Sinh. Xuân

Sinh đã dùng “những sợi máu đỏ lấy từ tim” mình để vá lại “những mẩu thi thể bị

chiến tranh xé nát” của Bạch Điệp.

Nếu ví Bướm trắng là câu chuyện cổ tích thần kì mà ở đó nhờ phép nhiệm

màu, nhân vật chết đi sống lại, vượt qua thử thách để hoàn thành nguyện ước của

mình, thì Hồn trinh nữ của Võ Thị Hảo lại là một câu chuyện cổ tích thế sự về cuộc

đời của những người chinh phụ hóa đá chờ chồng. Người con gái trong truyện tuy

đã may mắn hơn bà và mẹ mình vì cuối cùng sự chờ đợi của nàng đã được bù đắp,

nhưng Thần hạnh phúc đã không mỉm cười với nàng. Người con trai mà nàng chờ

đợi bao năm đã trở về và một hôn lễ long trọng được cử hành. Tuy nhiên đó không

phải là hạnh phúc mà nàng mong chờ bởi: chiến tranh và giết chóc đã biến người

con trai ngày xưa trở thành người đàn ông không biết cười, với cái nhìn lạnh lẽo

như Thần Chết. Điều đó khiến cô khiếp sợ. Hạnh phúc đã vụt khỏi tầm tay ngay

trong ngày hôn lễ. Chàng trai bỏ đi. Nàng trinh nữ sống âm thầm như cái bóng “hễ

nghe có tiếng chân hay tiếng động mạnh là đưa tay lên ôm mặt”. Khi chết cô hóa

thành một loài hoa lạ mà “mỗi khi có chân bước qua hay va chạm mạnh, những

chiếc lá lăn tăn lại giật mình khép lại, xuôi xuống như bàn tay ai che mặt”. Người

ta gọi đó là “hoa trinh nữ”. Truyện viết tựa như một sự tích mới về loài hoa trinh

nữ.

Dạng nhân vật mang màu sắc huyền thoại cũng được các tác giả sử dụng

làm phong phú diện mạo của các truyện ngắn viết về chiến tranh. Ở các truyện này,

có khi nhân vật được tác giả viết lại dựa trên câu chuyện thần thoại đã lưu truyền

trong dân gian, có khi nhân vật đó do tác giả dựng ra nhưng mang dáng dấp của

những bậc anh hùng trong các huyền thoại cổ. Trong tâm thức dân gian, Thánh

Gióng là một vị thần xuống nhân gian để hoàn thành sứ mệnh đánh đuổi ngoại

xâm. Thánh Gióng là biểu tượng của sự đoàn kết, sức mạnh, và lòng yêu nước của

người Việt Nam. Được viết lại dựa vào truyền thuyết trên, truyện ngắn Gióng của

tác giả Lê Minh Hà đã để lại ấn tượng mạnh mẽ bởi ở đây, Gióng không phải là

một người dũng sĩ hiên ngang mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt hiên

ngang dũng mãnh khiến quân giặc phải khiếp sợ, mà là một đứa trẻ thơ bé bỏng

thiếu tình thương mẹ cha sau khi đất nước đã không còn bóng giặc. Trở về cuộc đời

Gióng không phải là thần thánh, Gióng chỉ là một con người như bao con người

bình thường khác.

Ở Người thắng trận, nàng Đoan Trang với trái tim nhân hậu là biểu tượng

của tình thương. Chỉ có cái giếng nơi nàng trẫm mình mới có thể xóa hết vết máu

trên chiếc khăn, hóa giải những hận thù mà con người tự mình gây ra. Câu chuyện

mang dáng dấp của những truyền thuyết xưa khiến người ta nhớ đến truyện An

Dương Vương, Mị Châu, Trọng Thủy. Ngọc trai từ máu Mị Châu sẽ sáng và đẹp

hơn nếu rửa ở giếng Trọng Thủy.

Người thủ lĩnh nghĩa quân trong Huyền thoại thìa gợi nhớ đến những chàng

dũng sĩ hiên ngang trong những truyện thần thoại. Chỉ là một thủ lĩnh nghĩa quân

bình thường, nhưng với sự kiêu hãnh, hiên ngang của một dũng tướng, “người anh

hùng sa cơ” ấy khi được rửa mặt bằng dòng nước của quê hương đã trở thành một

người có gương mặt đẹp nhất thế gian. Chết đi nhưng chàng đã kịp để lại cho đời

“chiếc thau rửa mặt tỏa ngời ánh kim sắc trắng” - đó là chiếc gương mà ai soi vào

cũng thấy “gương mặt người đẹp nhất” hiện lên. Và những kẻ xấu xa, độc ác khi

soi vào chỉ thấy được những gương mặt quái thú.

 Sử dụng loại nhân vật kì ảo, các tác giả không chỉ nhằm mục đích gây sự

hứng thú, tò mò nơi người đọc mà còn để chuyển tải những ý đồ nghệ thuật riêng

của mình. Mỗi nhân vật khác nhau là một khoảng trời riêng bí mật mà chỉ người

trong cuộc mới có thể hiểu hết. Các nhân vật này không gây cho người đọc cảm

giác sợ hãi mà khiến người đọc phải cố gắng khám phá đến tận cùng tác phẩm, phải

nhập vào nhân vật để cảm nhận những ý nghĩa sâu xa hàm ẩn bên trong nội dung

những câu chuyện.

2.2.2. Yếu tố kì ảo và không gian - thời gian nghệ thuật

2.2.2.1. Không gian nghệ thuật

Trong sáng tác văn học, không gian nghệ thuật là “một phương thức chiếm

lĩnh thực tại, một hình thức thể hiện cảm xúc và khái quát tư tưởng thẩm mĩ”.

[57,72] Đó là hình thức tồn tại của hình tượng nghệ thuật, là một phương tiện

chiếm lĩnh đời sống, triển khai hình tượng con người trong tác phẩm. Trong văn

học sau 1975, không gian nghệ thuật trong tác phẩm viết về đề tài chiến tranh được

xây dựng khá đa dạng.

Xuất hiện nhiều trong các tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau

1975 vẫn là không gian chiến trường với tiếng bom rơi, đạn nổ ác liệt, dữ dội. Đó là

những đoạn đường bị sạt lở do máy bay địch bắn phá, ngăn trở những đoàn xe ra

trận; một cung đường cheo leo trên núi mà cánh lái xe gọi là Cổng Trời, chỉ cần

một chút sơ ý là lăn ngay xuống vực (Bướm trắng). Là những cánh rừng đại ngàn

âm u ẩm ướt Nghĩa cùng đồng đội mình hành quân, đào hầm, dựng lán; là chiến địa

nóng bỏng và dữ dội ở đó anh chứng kiến những cái chết anh dũng và thương tâm

của những người lính “Không gian như vỡ toác và rung rung chuyển động. Cùng

lúc các cỡ súng của địch thi nhau khạc đạn. Cả một vùng trời đất bị nung nóng

ngùn ngụt lửa khói” (Chiều vô danh). Đó còn là không gian chiến trận với những

tiếng nổ chát chúa, những quầng lửa rừng rực và khói đen cuồn cuộn càng khép

chặt con người vào vòng vây sinh tử đầy hiểm nguy “chỉ thấy nhoằng một lằn chớp

xanh lét, khóm lồ ô ken sít dầy đặc đã bị phát gọn ghẽ tầng trên… pháo giàn cực

nhanh 175 li từ Phước Long bắn tọa độ. Không nghe thấy tiếng đề pa. Mặt đất run

bần bật. Thoáng chốc cả vạt rừng mịt mù chìm trong khói” [43, 18,]. Trong Cỏ lau-

Nguyễn Minh Châu, người đọc bắt gặp một căn hầm dã chiến trong hồi ức của

Lực- người phó chính ủy trung đoàn năm xưa. Một căn hầm nhỏ đang rung bần bật

bởi những loạt bom nổ bên ngoài. Trong không gian đầy sự căng thẳng đó, người

phó chính ủy trung đoàn vì một phút tự ái cá nhân đã chỉ thị Phi (cậu liên lạc mới

bổ sung đã có những ý kiến khá trúng về trận tập kích thất bại của anh) phải vượt

qua làn pháo tăng dày đặc lên dinh tỉnh trưởng. Vừa lao ra khỏi hầm, người lính ấy

đã gục ngã. Con người và sự sống trở nên bé nhỏ và mỏng tang như một làn khói

trước không gian đối lập to lớn và đầy bất trắc.

Trong các trang viết, người đọc không chỉ bắt gặp khung cảnh chiến trường

vang rền tiếng súng, mà còn có thể tìm thấy những không gian mang vẻ đẹp hiền

hòa, lãng mạn nơi chiến trường. Đó là bờ suối Nậm Bu hiền hòa, thơ mộng lúc

sương vừa tan. Dọc theo đó là những cây đỗ quyên nở hoa đỏ rực. Dòng suối xanh

mát rượi là nơi Mùi thỏa sức đắm mình vào những lúc tiếng súng tạm ngưng

(Truyền thuyết về quán Tiên), Là dòng suối cạnh kho quân lương, nước trong vắt,

thấy cả ánh vàng dưới đáy, nơi người phụ nữ trong Họ đã trở thành đàn ông tìm

đến tắm vào những buổi sáng tinh mơ. Song những không gian này xuất hiện khá ít

trong các tác phẩm. Trong các tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau này,

nhiều tác giả đã tạo nên một không khí chiến trường u ám, ma quái đầy rẫy sự chết

chóc. Ở truyện ngắn Tiếng chuông trôi trên sông, không gian chiến trường hiện lên

là dãy rừng Trường Sơn âm u với những cánh võng được mắc vội, và đó sẽ là nấm

mộ của những người chiến sĩ chẳng may bị cơn sốt rét rừng quật ngã trên chặng

đường hành quân. Đọc Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, không khó để tìm thấy

không gian chiến trường rợn mùi tử khí. Một Truông Gọi Hồn âm u, đầy những oan

hồn tử sĩ. Nơi diễn ra không biết bao nhiêu trận đấu ác liệt để rồi sau đó để lại nơi

đây là những xác người lềnh bềnh trên mặt nước màu nâu thẫm, nổi váng đỏ lòm.

Một Đông Sa Thầy, nơi Kiên chứng kiến cái chết kinh hoàng, dữ dội của người

đồng đội. Và nơi đây, mãi về sau này vẫn còn vang vọng tiếng cười đau đớn, cuồng

loạn, nức nở ma quái của người chiến sĩ khi chết. Trong Người sót lại của rừng

cười, không gian chiến trường ở đây là một kho quân nhu giữa cánh rừng Trường

Sơn đại ngàn, nơi mà những khe nước màu xanh đen thớ lợ đã vặt trụi tóc của

những cô gái, khiến họ trở thành những người vượn lõa thể với cái cười méo mó,

man dại đáng thương. Hoặc đó là một đơn vị đóng quân, nơi những người chiến sĩ

vừa thoáng vui mừng vì ngỡ được đón nhận những giọt sương ban mai “li ti rơi

xuống ướt đẫm cả áo”, đã chợt bàng hoàng bởi nhận ra rằng “mình vừa dầm mình

trong màn phun chất độc hóa học” (Dây neo trần gian).

Thế nhưng, đó chưa phải là không gian chủ yếu được nói đến trong các tác

phẩm này. Điểm đáng ghi nhận của văn học sau 1975 là việc đi sâu vào số phận

con người trong chiến tranh, những ưu tư, trăn trở của con người về một thời lửa

đạn. Vì thế, không gian nghệ thuật được nhắc đến trong tác phẩm còn là không gian

riêng tư của những cá nhân: một không gian của đời sống thực và một không gian

trong tâm tưởng với những giấc mơ, những điều mộng tưởng. Không gian của đời

sống thực thu vào những căn phòng nhỏ bé, chật hẹp giam hãm cuộc đời con người

trong nỗi trống vắng, buồn tủi và cách biệt với cuộc sống xung quanh. Cuộc sống

của Tuân (Những giấc mơ có thực) thu vào trong căn hộ tám mét vuông ở cuối dãy

nhà cấp bốn vắng người qua lại, và chốn tựa nương của Hai người đàn bà xóm Trại

là căn nhà nhỏ duy nhất giữa triền bãi rộng chạy ven đê làng Chùa. Sự giao tiếp của

họ với cuộc sống rộng mở, tươi vui và đầy sinh khí ngoài căn phòng nhỏ hết sức

hạn hữu. Với Tuân, người duy nhất đến với cô là Phương, người đồng đội năm xưa

nhưng Phương cũng không thể hiểu được những đau khổ dằn vặt mà Tuân đang

phải trải qua. Còn Hai người đàn bà xóm Trại, “họ vẫn ở lại ngoài bãi sông, mặc

dù gia đình khác đã dọn vào làng theo quy hoạch của chính quyền xã và để tránh

những năm nước sông lên to. Có một điều gì đó thiêng liêng và đau khổ đã gắn

chặt họ với ngôi nhà nhỏ và bến sông”. Trong căn phòng ngủ nhỏ bé, chị Bưởi

(Vùng sáng của kí ức) sống khép mình với hình ảnh người chồng quá cố. Chị luôn

tin rằng, mỗi đêm anh đều về cạnh chị, chia sẻ cùng chị những buồn vui, đau khổ

trong cuộc đời. Các nhân vật trong truyện đều không tìm được mối dây liên hệ với

cuộc đời, họ chỉ biết gói chặt đời mình trong những căn phòng chật hẹp, nơi đó họ

chìm đắm trong những gì xưa cũ, phiêu diêu trong những kỉ niệm không thể mờ

phai và lắng nghe những mất mát, khổ đau không gì có thể bù lấp được. Có thể nói

tuy không gian nhỏ nhưng các nhà văn đã có thể dùng nó để mở ra một vùng rộng

của nội tâm con người sau chiến tranh.

Cùng với không gian rất thực đó còn là không gian mộng ảo, không gian

trong tâm tưởng có thể soi tỏ cõi tâm linh sâu thẳm của con người. Đó là không

gian của một vạt cỏ xanh ven rừng Trường Sơn, một vùng rừng đẹp đẽ và linh

thiêng, nơi ấp ủ trái tim Quỳ- cô thanh niên xung phong năm xưa và là người đàn

bà mắc bệnh mộng du hôm nay (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành). Trong

những cơn mộng du, trên chuyến tàu tốc hành trong tâm tưởng, Quỳ vẫn thường

xuyên trở lại vùng rừng ấy, “chị nhẹ nhàng lật lên một vuông cỏ. Chị sẽ cầm lấy

trái tim vẫn còn hồng hào của mình lên ngắm nghía rồi để lại như cũ”. Đó còn là

không gian chứa những giấc mơ không bao giờ là hiện thực trong Hai người đàn bà

xóm Trại và Những giấc mơ có thực. Không gian trong giấc mơ của Mùi (Truyền

thuyết về quán Tiên) là vùng quê yên bình của cô, nơi có con sông La, bên bờ sông

là mái nhà ngói xinh xắn, dọc lối ngõ vào là hai bờ chè mạn hảo xén tày ngăn ngắt.

Nơi đó có Hân, người chồng mới cưới của cô với nụ cười rạng rỡ và vòng tay thô

bạo làm Mùi tức thở trong niềm rạo rực để mê. Cô thỏa sức đắm mình trong niềm

vui sướng mãn nguyện. Nhưng tất cả chỉ là một giấc mơ, điều đó không thể trở

thành sự thật khi chiến tranh ác liệt đang diễn ra hằng ngày. Đọc Họ đã trở thành

đàn ông, theo giấc mơ của nhân vật, ta trôi vào một khoảng không gian bao la. Ta

theo người phụ nữ ấy từ nơi chiến trường vang rền tiếng bom trôi đến Điện Biên,

nơi người bố đã hi sinh khi chị chưa một lần được gặp mặt. Rồi theo chị trở về

công viên khu phố, và điểm dừng cuối cùng của chị là một góc nơi sân thượng.

Giữa tiếng coi hú báo động cấp ba, chị và anh vẫn ôm xiết nhau trong vòng tay như

chưa hề có chuyện gì xảy ra. Mặc kệ, anh muốn truyền hết tình yêu rạo rực trong

mình sang chị. Trong Cỏ lau- Nguyễn Minh Châu, một không gian thực ảo đan xen

trong buổi lễ truy điệu Phi. Lực nhìn thấy Huệ (người yêu Phi), vừa nhìn thấy Phi

đang đứng trước mặt mình, Phi lao ra khỏi hầm và ngã xuống dưới làn đạn dày đặc.

Lực đã kể lại một cách thật thà lý do vì sao anh đã giết chết một con người. Trong

giây phút ấy, Lực cảm thấy hai bên má bỏng rát, mắt đổ hoa. Huệ nhảy bổ vào anh

như một con thú đầy giận dữ, vừa tát vừa nguyền rủa: “thế mà tôi cứ nhầm ông là

người tốt! Hóa ra mày là kẻ giết người!”. Những người xung quanh đều thản nhiên

đứng nhìn cảnh tượng ấy xảy ra. Tuy nhiên tất cả những điều kinh khủng ấy chỉ xảy

ra trong tâm tưởng Lực và chỉ mình anh biết. Thực tại, anh vẫn đang đứng giữa

buổi lễ truy điệu trang nghiêm. Anh vẫn là một người trung đoàn trưởng đáng kính

trong mắt mọi người. Khi đang đứng trên triền đê nhìn xuống dòng sông xanh biếc,

đột nhiên ông Tuyển (Trừng phạt) thấy mặt đất vỡ tan thành những hố sâu hoắm.

Giữa dòng nước những cái đầu nhô lên, chậm chạp trôi về phía ông. Ông thấy mình

cố nhắm mắt nhưng không thể nào nhắm được. Và rồi một cô gái áo đỏ đứng lơ

lửng trên tầng không từ từ đi tới, thét vào mặt ông. Ông lao người xuống sông,

nhưng lạ thay, dòng nước hất tung ông trở lại bờ đê. Tuy nhiên, tất cả những điều

ấy chỉ diễn ra trong đầu ông, người cháu đang cạnh bên không hề nhìn thấy. Những

không gian mộng ảo, không gian trong tâm tưởng đó mở ra một con đường để

người đọc lần bước đi vào những khúc quanh tâm trạng còn giấu kín, mà hơn hết

những khúc quanh ấy giúp ta hiểu rõ bản chất của con người.

Cùng với không gian mộng ảo, không gian tâm tưởng; không gian huyền

thoại, ma quái; không gian đan cài giữa cái thực và cái ảo cũng xuất hiện khá nhiều

trong các tác phẩm văn xuôi đề tài chiến tranh sau 1975. Đó là không gian của cõi

trần thế mang không khí “liêu trai” hư ảo để ma xuất hiện và người sống có thể gặp

lại người chết. Một bến sông nơi trần gian nhưng mờ ảo, hư huyễn. Nơi đó hai thế

giới âm dương có thể giao hòa cùng nhau và con đò sẽ là cầu nối đưa người chết trở

về gặp lại người thân của mình (Bến trần gian). Nơi Cổng trời của cánh rừng

Trường Sơn năm xưa (Bướm trắng), ở nấm mộ xi măng còn mới một con Bướm

trắng bay lên hóa thân thành người để gặp gỡ người xưa. Một dòng sông quanh co

trở nên đầy bí hiểm trong đêm tối, nơi hai cô du kích không thể nào tìm được lối ra

dù ngày thường họ rất thông thuộc vùng này. Và khi đang chèo thuyền trên dòng

sông, hai cô đã nhìn thấy những đốm lửa ma trơi lập lòe lúc ẩn, lúc hiện (Đốm lửa).

Một góc rừng thâm u bên bờ sông Sa Thầy, nơi người ta vẫn nghe thấy tiếng cười

cuồng loạn, nức nở, văng vẳng vọng ra dưới đồi 300. Tại đây, chín năm sau chiến

tranh, người ta đã tận mắt chứng kiến “một bóng ma rách bươm, uyển chuyển và

huyền bí lướt ngang luồng ánh sáng rồi mất hút đi với mái tóc đen xõa dài”

[40,109], hay truông Gọi Hồn hoang vu, nơi mọc đầy những bông hồng ma kì lạ,

những tảng măng đỏ ròng ròng như máu, nơi những toán quân đã chết thường tụ

họp lại để điểm danh vào những kì lễ lạt. Những không gian ma quái, đáng sợ

khiến người đọc không khỏi sởn tóc gáy. [40, 8]

Ở một số truyện, không gian đời thường như căn phòng, hang núi, nghĩa

trang cũng được nhắc đến. Trong căn phòng đêm tân hôn, người trinh nữ (Hồn

trinh nữ) nhìn thấy theo sau người chồng mới cưới là một người đàn bà mặc áo đại

tang. Người ấy đến để đòi lại công bằng cho chồng mình. Trong Trái tim con rắn,

người đàn ông suốt đêm không thể yên giấc vì những điều quái lạ xảy ra. Ông nghe

thấy những âm thanh quái dị vọng ra từ bên trong lồng ngực của mình. Trong

không gian tối tăm của căn phòng, Thuật đã nhìn thấy một con rắn đang oặt qua,

oặt lại giữa hai đùi mình. Sáng hôm sau, người ta nhìn thấy Thuật nằm chết cạnh

chiếc giường ngay trong phòng ngủ, ngực của ông hằn lên những vết bầm do chính

móng tay của ông cào cấu. Một hang núi sâu, quanh năm bị vây kín bởi đàn dơi

chính là không gian tồn tại của những linh hồn chiến sĩ sau khi mất (Tàn đen đốm

đỏ). Những linh hồn đó không thể rời khỏi chiếc hang tăm tối này bởi thân xác họ

đang được chôn vùi tại đây. Trong không gian đó, hồn ba người chiến sĩ gắn bó,

thân thiết với nhau. Cùng nhau trãi qua những chuỗi ngày vui buồn của kiếp cô hồn

cho đến lúc hài cốt được đưa về quê hương. Trong Truyền thuyết về quán Tiên,

người binh trạm trưởng phát hiện một chiếc hang cực kì xinh xắn. Chiếc hang đá đó

đã trở thành quán Tiên, và ba cô gái được phân công bán hàng quán cho những

chuyến xe ngày đêm ra tiền tuyến. Những biến cố lớn trong cuộc đời của ba cô gái

đã xảy ra tại chiếc hang này.

Bên cạnh đó, nhiều tác giả đã chọn nghĩa trang làm không gian để người

sống gặp lại những người đã khuất. Trong đêm khuya khoắt, một mình vật vờ đi

giữa nghĩa trang, Hai Hùng gặp lại tất cả những gương mặt đồng đội thân quen đã

nằm xuống vĩnh viễn dưới lòng đất lạnh. Trước mắt Hùng, những bóng ma “xuất

hiện mỗi lúc một nhiều, xếp hàng dọc, rùng rùng lay động, bóng thấp bóng cao, cái

nét, cái mờ” [41,107] mang hơi thở lạnh buốt phả vào người anh. Trong thế giới vô

hình và hữu hình của người chết ấy, Hai Hùng cố gắng lần tìm bóng dáng người

con gái anh yêu năm nào. Trong không gian yên ắng, tĩnh mịch của nghĩa trang vào

những ngày cuối năm, Nhân (Cặp bồ với ma) đã gặp một lượt tất cả những hồn ma

trên đời: Ma đầu trâu mặt ngựa, ma mặt trắng bệch, ma mặt đen, ma gầy, ma trẻ

con, ma mắt đỏ, ma bị cưỡng hôn, ma mặt đau đớn vì bị oan ức,… Và cũng chính

tại nơi an nghỉ của những người đã chết này, Nhân đã gặp gỡ và làm quen với một

cô gái ma. Không gian nơi nghĩa trang là nơi diễn ra mối tình sâu đậm giữa anh và

người con gái đã chết ấy. Ở truyện ngắn Mai- Thanh Quế, người cha đã đến nghĩa

trang hàng dương để tìm hài cốt của con gái mình. Rõ ràng trước mắt ông, không

gian nghĩa trang giống hệt với những gì ông đã gặp trong giấc mơ mà con gái ông

báo mộng hôm trước. Tuy nhiên, tại đây ông không chỉ gặp một mà là rất nhiều

những ngôi mộ có tên con gái ông. Giữa lúc ông phân vân, đau khổ thì một luồng

sáng kì lạ xuất hiện lướt nhanh qua đầu ông. Luồng sáng ấy đã làm thay đổi những

suy nghĩ của người cha đáng thương này.

 Có thể nhận thấy một đặc điểm khá nổi bật trong các tác phẩm văn xuôi viết

về chiến tranh sau 1975 có yếu tố kì ảo là sự đa dạng của không gian nghệ thuật.

Với sự tham dự của yếu tố kì ảo, không gian nghệ thuật trong tác phẩm không chỉ

là không gian chiến trường gắn với âm thanh vang dội của tiếng bom, mà còn là

những không gian kì bí, lạ lùng gắn với những hình ảnh ma quái, những huyền

thoại không có thật. Bên cạnh đó, những không gian đời thường, không gian riêng

tư của cá nhân, không gian huyền ảo cũng được thể hiện khá nhiều trong các

truyện. Sự đa dạng của không gian nghệ thuật góp phần không nhỏ vào việc khắc

họa chiều sâu của hiện thực và tâm trạng của con người sau chiến tranh, giúp ta

thêm một lần nhận ra sự đổi mới trong cái nhìn của các nhà văn về cuộc sống.

2.2.2.2. Thời gian nghệ thuật

Cùng với không gian, thời gian nghệ thuật cũng là phương tiện triển khai

hình tượng con người một cách hiệu quả trong tác phẩm. Thời gian nghệ thuật khác

với thời gian vật lý. Nó được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của nhân vật mà nhà

văn chủ tâm xây dựng trong tác phẩm. Nó có sự thay đổi về nhịp điệu, trình tự; gắn

với cảm xúc và tâm trạng nhân vật. Trong các truyện viết về chiến tranh có yếu tố

kì ảo, thời gian đêm tối luôn mang đến cho người ta sự bất an. Đêm tối là thời khắc

hồn ma trở về dương gian, là thời điểm xuất hiện của những giấc mơ và của bao

điều lạ lùng, huyền bí khác.

Cuộc hành trình trở về quê hương của người lính trong Bến trần gian diễn ra

trong một đêm tối “Anh đi đã mấy chục năm, vượt qua bao nhiêu khuôn mặt chỉ để

đêm nay tới đây và gọi Đò ơi!”. Dòng sông đêm nơi anh đang đứng gắn với truyền

thuyết ma gọi đò. Theo truyền thuyết thì “tiếng gọi như lời khẩn cầu tha thiết có

sức hút huyền bí đến lạ lùng. Bao nhiêu cô gái đã chạy ra bến và chèo một mạch

qua sông rồi lại chèo về, cứ thế cho đến sáng”. Đêm nay đây, chỉ cần vượt qua con

sông này, Lăng sẽ được đoàn tụ với người thân. Và anh đã cất tiếng gọi “Đò ơi!”.

Tiếng gọi đò tha thiết của Lăng dường như có tác dụng, từ bên kia sông, một con

đò nhỏ đang lững lờ trôi về phía anh. Người chèo chiếc thuyền ấy không ai khác

chính là Thùy- người yêu xưa của anh. Con đò của Thùy sẽ đưa Lăng vượt qua

chặng đường cuối cùng, giúp anh hoàn thành tâm nguyện bao nhiêu năm của mình.

Trong truyện ngắn Cặp bồ với ma, Nhân đã gặp hồn ma của Huệ vào một

đêm trăng “một đêm trăng, tôi đang ngồi đọc sách, chai rượu uống dở còn đặt trên

bàn… Chợt gáy tôi sởn lên vì chút hơi gió lạnh ào qua và khi thấy phía ngoài cửa

bước vào một dáng phụ nữ, mảnh mai ăn mặc giản dị”. Và từ đó, mỗi lần gặp

Nhân, Huệ chỉ đến vào ban đêm “đêm thứ hai, Huệ lại đến, trong bộ quần áo tím

mỏng, nhẹ nhàng”, “nàng đêm nào cũng đến, Huệ của tôi… Những đêm mưa, nàng

bắt tôi kể chuyện đời”. Trong truyện cũng có nhắc đến thời khắc giao thừa, thời

khắc giao nhau giữa năm cũ và năm mới, giữa cõi âm và cõi dương. Vào cái thời

khắc âm thịnh dương suy, Nhân ngồi trong nhà, tự nhiên thấy gió lạnh đùng đùng.

Anh nhìn thấy ở các cửa ra vào, cửa sổ dầy đặc những bóng ma đói đang nhìn anh

trừng trừng để thăm dò. Tất cả những hồn ma đó với Nhân vừa đáng sợ nhưng cũng

rất đáng thương. Chết rồi nhưng vẫn chưa thoát được sự khốn khổ của kiếp người.

Thời khắc giao thừa cũng được nhắc đến trong truyện ngắn Người bán nhang chùa

Vĩnh Nghiêm. Trong thời điểm giao nhau giữa năm cũ và năm mới, người bộ đội đã

xuất ngũ, đồng thời là người bán nhang ở chùa hiện nay đã gặp một sự việc lạ kì.

Ông nhìn thấy một đứa bé có gương mặt giống hệt với một tội phạm đã bị chính tay

ông xử bắn vào nhiều năm trước.

Theo quan niệm dân gian, giữa khuya luôn là thời khắc đáng sợ nhất, người

ta cho rằng, đây là thời khắc người chết đội mồ sống dậy. Trong Ăn mày dĩ vãng,

Hai Hùng đã gặp lại những linh hồn của đồng đội mình vào chính thời khắc ấy

“trong đêm khuya khoắt rợn mình, tôi vật vờ đi giữa cái thế giới vô hình và hữu

hình của người chết”, trước mắt anh hàng loạt “những hàng chữ khắc trên bia nhảy

nhót, phồng lên, nở ra, dài ngoẵng thành những thân người, mặt người lạ lẫm và

thân thuộc”. Tất cả những bóng ma ấy đều còn rất trẻ, họ đều đã nằm lại vĩnh viễn

nơi chiến trường năm nào. Giờ đây, xuất hiện trước mắt anh chỉ là những cái bóng

thấp thoáng, mờ ảo với “tiếng cười âm u, tiếng thở dài nhớt nhát, tiếng nói lạnh lẽo

úp chụp, đậu lên vai, luồn vào tóc, chui cả vào ngực nhồn nhột, không mùi không

vị…”[41,171].

Những giấc mơ cũng thường xuất hiện vào đêm. Ban đêm là thời gian tĩnh

lặng, không ồn ào, không tiếng động. Trong bóng đêm, con người mới có thể sống

trọn vẹn với chính mình. Bóng đêm cũng gợi nên sự suy tư, nhắc đến những kỉ

niệm và bao giờ bóng đêm cũng đem đến sự hoang mang, sợ hãi cho con người.

Trong Nỗi buồn chiến tranh, vô vàn những đêm là đêm trong tác phẩm.

Bóng đêm gợi lại bao kỉ niệm, bao suy nghĩ về một thời mà Kiên đã trải qua. Và

những giấc mơ vẫn thường trở đi trở lại trong giấc ngủ nặng nề của Kiên mỗi khi

đêm về. Những giấc mơ ấy đưa Kiên trở về quá khứ, về với truông Gọi Hồn, nơi

ghi dấu những cuộc chiến khốc liệt và đẫm máu năm nào. Với Kiên, đêm cũng là

nơi bắt đầu của những “giấc mơ dài không dứt”. Anh thích sống về đêm nhưng đôi

lúc anh lại sợ hãi cái bóng đêm đó. Trong tác phẩm có biết bao điều kì lạ xảy ra với

Kiên trong những đêm đen và trong những giấc mơ như thế. Có khi đó là tiếng hát

của những người đã chết huyền bí, thì thào như hoàn toàn hư, hoàn toàn thực từ cõi

mông lung gọi về…Có khi đó là câu chuyện về một người lính khi chết được bó

trong một tấm tăng nằm lại trên đèo “xương cốt đã hóa mùn cả, riêng cây đàn

Ghita tự tạo của người chết thì còn nguyên vẹn” [ 40,99]. Và đêm đêm, người ta lại

nghe thấy tiếng hát của những người vô danh vang vọng mãi trong lòng rừng.

Sau khi Tuyết Lan và Phượng lần lượt rời khỏi quán Tiên, chỉ còn mình Mùi

và một người chiến sĩ đã bị lãng tai ở lại tiếp tục làm nhiệm vụ. Trong đêm tối, Mùi

(Truyền thuyết về quán Tiên) thao thức không sao ngủ được bởi những nỗi niềm

trăn trở đang vây kín trong lòng, bởi nỗi sợ hãi về một chú khỉ vừa bị giết chết. Lúc

nào Mùi cũng bị ám ảnh về điều đó. Đêm càng về khuya, bên ngoài mưa vẫn rơi

lộp độp, ngọn lửa vẫn leo lét trong bếp, và ở ngăn ngoài, chiếc võng nơi người

chiến sĩ nằm vẫn đang đều đều tiếng ngáy. Tất cả làm màn đêm xung quanh Mùi

càng trở nên tĩnh mịch, đáng sợ. Mãi đến khi mệt mỏi, cô thiếp đi vào trong giấc

ngủ chập chờn. Trong giấc ngủ đầy tâm sự ấy, Mùi đã gặp lại ngôi nhà thân yêu

của cô, gặp lại người chồng mới cưới đã phải chia xa. Những nỗi sợ hãi về một chú

khỉ đã chết cũng theo Mùi vào cả trong giấc mơ. Khi đang đắm chìm trong cảm

giác hạnh phúc, bất chợt “Mùi ngờ ngợ có cái gì ram ráp cọ vào vai. Cô thảng thốt

ngồi nhổm dậy, trời đất ơi, một đôi mắt đồng thau đang nhìn mình”. Mùi hoảng hốt

tỉnh giấc, trống ngực đập thình thịch, cô mới biết mình vừa trãi qua một cơn mơ

khủng khiếp. Bên ngoài mưa vẫn rơi lộp độp, ngọn lửa trên bếp vẫn leo lét cháy.

Lúc này cô mới cảm nhận hết nỗi cô đơn, trống vắng, sợ hãi mà không biết phải

dựa vào ai.

Bóng đêm luôn chứa đựng những điều bí ẩn, và đáng sợ. Hai cô du kích

trong Đốm lửa bị lạc đường vào một đêm tối tĩnh mịch, hoang vu “Ngọc lắng nghe

tiếng thở dài của dòng sông! Nàng linh cảm thấy càng lúc càng lạc sâu vào đầm

lầy hoang. Tiếng dế rả rích, tiếng ếch nhái, ễnh ương oàm oạp kêu vang tạo thành

âm thanh buồn bã, thê lương. Đêm làm đầm lầy càng thêm âm u và rùng rợn”.

Đêm tối bị lạc trong đầm lầy thật đáng sợ. Đáng sợ hơn bởi thỉnh thoảng họ lại gặp

những đốm lửa lập lòe lúc ẩn, lúc hiện như trêu đùa hai người. Đêm đó, cả Ngọc và

Mỹ đều cùng trãi qua một giấc mơ lạ lùng mà khi trời sáng, họ phát hiện ra mình

đang nằm cạnh một người đồng đội đã chết.

Đêm cũng là thời điểm xảy ra những điều kì lạ. Trong Trái tim con rắn, sau

khi vừa cạn ly rượu, Thuật đã thấy có điều bất ổn, song tất cả mau chóng đi qua.

Chỉ đến khi tiệc tan, trở về phòng, ông mới bắt đầu cảm nhận được những thay đổi

kì lạ đang diễn ra trong người. Suốt đêm hôm đó, Thuật không thể nào chợp mắt

được bởi cảm giác lo lắng và sợ hãi. Trong đêm tối, Thuật nghe rõ ràng những âm

thanh Ịch, ình, ịch ình, ình ịch… vang lên rõ ràng từ lồng ngực mình, ông cũng

thấy rõ ràng một con rắn ngay giữa đùi mình, song khi ông bật đèn lên thì những

cảm giác và hình ảnh ấy liền biến mất. Tất cả những điều kì lạ ấy chỉ diễn ra trong

bóng đêm, và chỉ mình Thuật mới nhìn thấy và cảm nhận được điều ấy.

 Trong các truyện viết về chiến tranh sau 1975, thời gian chủ yếu để yếu tố kì

ảo xuất hiện thường là vào đêm, đặc biệt là vào những đêm khuya. Trong tâm linh

người Việt, đêm tối là khoảnh khắc mà người chết có thể trở về dương gian. Nó

cũng là thời điểm thích hợp cho sự xuất hiện của những giấc mơ. Đặc biệt trong

bóng đêm, con người thường trở nên bé nhỏ, yếu ớt, đơn côi. Vì vậy, khi viết

truyện, các tác giả đặc biệt chú ý vào những khoảnh khắc này. Tất nhiên, ngoài thời

gian đêm khuya, hoàng hôn- thời điểm giao nhau giữa ngày và đêm cũng có mặt

(trong truyện Bướm trắng, Sinh đã gặp lại hồn ma của Bạch Điệp vào khoảng thời

gian này). Tuy nhiên sự xuất hiện chỉ là thiểu số. Phần đông, các tác giả vẫn dành

nhiều ưu ái cho khoảnh khắc về đêm.

2.3. Yếu tố kì ảo và việc biểu đạt các lớp ý nghĩa trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975

Với độ lùi một vài thập niên, người ta đã có thể bình tĩnh hơn để nhìn về

cuộc chiến đã qua. Từ điểm nhìn của những người đã từng đi qua những năm tháng

khốc liệt của chiến trường, chiến tranh hiện ra không chỉ là bài ca khải hoàn, là tấm

huân chương chiến thắng vẻ vang, mà nó còn là sự chết chóc, mất mát, thương tổn

cả về thể xác lẫn tinh thần. Chiến tranh cũng không chỉ được nhìn ở phương diện

đời sống chính trị mà mở rộng vùng sóng ảnh hưởng của nó là đời tư và số phận

con người- những con người cô đơn, bất hạnh và đau khổ khi bước khỏi cuộc chiến

trở về với cuộc đời thường. Sự tham dự của yếu tố kì ảo vào cấu trúc tác phẩm đã

giúp nhà văn có thể bộc lộ hết những suy tư, chiêm nghiệm, của mình về chiến

tranh, giúp người đọc thấy được cuộc chiến ấy từ nhiều phía. Bên cạnh đó, thông

qua thế giới hình tượng hư ảo, bức chân dung của những người chiến sĩ một thời

hiện ra chân thực và sinh động trong từng trang viết.

2.3.1. Chiến tranh – sự mất mát không gì bù đắp

Các tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975 nói nhiều đến

những mất mát, đau khổ mà chiến tranh đã để lại. Thông qua yếu tố kì ảo, bức tranh

toàn cảnh của chiến tranh với những nỗi buồn sâu thẳm hiện ra đầy đủ, chân thật và

sâu sắc. Ở đó, cả người còn lại lẫn người ra đi đều có cuộc sống riêng bất hạnh và

đau khổ. Những người lính đã chết thì linh hồn lang thang vất vưởng nơi chiến

trường năm xưa với những nguyện ước ấp ủ không bao giờ thực hiện được, những

người lính còn sống thì ám ảnh không nguôi về cuộc chiến tranh đã qua. Cuộc sống

của họ bị chia làm hai nửa, một nửa thân xác trống rỗng, đau khổ hiện hữu trong

hiện tại, một nửa linh hồn bay về quá khứ kỉ niệm để thương, để nhớ; để buồn tủi

và xót xa. Một loạt tác phẩm như Bến trần gian, Nỗi buồn chiến tranh, Tiếng vạc

sành, Người sót lại của Rừng Cười, Cỏ lau, Con đò và người khách lạ, Đồng đội,

Biển cứu rỗi, Những giấc mơ có thật,… đã đưa người đọc đi từ khám phá này đến

khám phá khác, giúp người đọc cảm nhận hết những bất hạnh và khổ đau của

những người từng đi qua chiến tranh.

Chiến tranh đã qua đi, song nỗi đau mà nó để lại vẫn âm ỉ từng ngày. Trong

chiến tranh, cả người còn sống lẫn người đã khuất đều mang nỗi đau riêng không gì

có thể xóa nhòa. Có được chiếc lá thần kì ông lão cho, linh hồn của một người lính

đã thực hiện một cuộc hành trình trở về quê nhà sau bao năm lang thang trong rừng

(Bến trần gian). Sự trở về của Lăng là do sự trăn trở, đau đáu về cuộc sống không

bình yên của những người ở lại - nói cách khác anh còn quá nặng lòng với những

người còn sống nên chưa thể thanh thản ra đi. Nhưng đã qua bao nhiêu năm, người

thân của anh đã chấp nhận cái sự thực là anh đã hi sinh. Sự trở về của anh lúc này

không phải là một sự đoàn tụ vui vẻ. Có chăng chỉ đem lại niềm đau khổ cho những

người còn sống, đem lại nỗi sợ hãi cho những người xung quanh. Người yêu của

anh giờ đã có chồng, nàng đã yên bề với nghĩa vụ làm vợ, làm mẹ đã từ lâu. Nên

cuối cùng, dù đau đớn, bà cụ Lăng cũng đành khuyên anh ra đi để không làm xáo

trộn cuộc sống của người ở lại.

Cứ ngỡ tình yêu của Bạch Điệp và Xuân Sinh không thể nào trở thành hiện

thực bởi chiến tranh chia cắt, song với khát vọng hạnh phúc mãnh liệt, Bạch Điệp

dù đã chết nhưng vẫn quay về gặp lại người yêu. Xuân Sinh dù đau đớn nhưng vẫn

cố gắng dùng máu của mình cứu sống Bạch Điệp. Cuối cùng tình yêu đã chiến

thắng, những giọt máu của Sinh đã giành lại sinh mạng của Bạch Điệp từ tay thần

Chết. Anh và Bạch Điệp sống với nhau hạnh phúc như bao cặp vợ chồng khác.

Song liệu họ có hạnh phúc được không khi Bạch Điệp chỉ sinh cho anh toàn bướm

là bướm. Phép màu mang lại sự sống cho Bạch Điệp nhưng không thể trả lại cho cô

thiên chức thiêng liêng của người phụ nữ. Còn mất mát nào hơn khi tình yêu, hạnh

phúc không thể đơm hoa, kết trái. Có phải thế không mà sau này Sinh làm thơ “chỉ

toàn là hoa và bướm. Tịnh không có một từ nào về chiến tranh và đau khổ”. Chiến

tranh đã qua đi, chiến thắng đã được ghi nhận nhưng những nỗi đau, sự mất mát

của con người thì còn lại mãi, thường trực và đầy day dứt.

Chiến tranh đã đến và lấy đi hạnh phúc của biết bao gia đình. Biển cứu rỗi là

câu chuyện về một người lính trở về, nhưng số phận đã không dành cho anh người

vợ bạc tóc chờ chồng. Mà đợi anh chỉ có những đứa trẻ không cha “tàn tích của

những cuộc giao hoan vội vã”- trên con đường động mạch của chiến tranh- của

người vợ trẻ lạc loài, ngơ ngác, bán trôn nuôi miệng chờ chồng. Chờ anh còn có

đứa con gái ruột mười lăm tuổi- đồng nghiệp của mẹ- với “nụ cười chưa hết hơi

sữa nhưng đã mang hơi hướng đổi chác”, gặp bố mà không biết đó là cha mình.

Tất cả những điều ấy đã đuổi anh ra khỏi cõi người, cõi thanh bình. Anh tìm đến

với hoang đảo, tự nói chuyện với bóng mình trong gương để nghe rõ giọng nói lạ

hoắc của chính mình, giọng nói của một kẻ lạc loài sau cuộc chiến. Cuộc chiến đã

qua đi, người lính trở về trong bình yên, nhưng mái ấm gia đình hạnh phúc của anh

thì không thể như ngày nào. Chiến tranh đã đến và mang đi hạnh phúc của một gia

đình.

Niềm đau hòa lẫn với tiếng vạc sành vọng lại trong đêm vắng nhắc người ta

hãy luôn nhớ đến những đau thương, mất mát mà chiến tranh đã gây ra cho con

người (Tiếng vạc sành). Chiến tranh đã cướp đi gương mặt con người và hạnh phúc

gia đình của một người lính. Anh trở về với một gương mặt biến dạng, và người vợ

mà anh yêu thương nhất đã không nhận ra chồng mình. Nàng giờ đã yên bề gia thất

với một người đàn ông khác. Nỗi thương nhớ người vợ xưa đã khiến anh hằng đêm

trở về phía sau vườn nhà để gọi vợ, nhưng tiếng gọi ấy không mang âm thanh của

tiếng người mà chỉ là những tiếng “tọc tọc tọc” ghê sợ trong đêm tối. Âm thanh đó

khiến người vợ nghĩ là tiếng một con rắn độc. Và người chồng mới đã giúp vợ giết

chết con rắn độc sau vườn- cũng chính là người chồng năm xưa. Mang niềm đau

thương, hồn anh hóa thành con vạc sành, khoác đôi cánh màu xanh của người lính.

Hằng đêm “với gương mặt xấu xí anh ẩn mình trong các lùm cây “crọc crọc” ròng

rã từ lúc chạng vạng tới sáng, lên tiếng kêu đau thương để gọi vợ gọi con. Tiếng

kêu xé lòng của hạnh phúc bị số phận đắng cay tước đoạt”.

Trong chiến tranh, biết bao người đã hi sinh hạnh phúc, tuổi thanh xuân của

mình để rồi khi trở lại thời bình, họ không còn gì ngoài một thân xác tàn tạ và một

kí ức chất chứa buồn đau.

Những giấc mơ của Tuân trong Những giấc mơ có thực làm bật lên nỗi chua

xót, bẽ bàng của người phụ nữ từng là hoa khôi của Trường Sơn năm xưa. Người

nữ thanh niên xung phong xinh đẹp mệnh danh là “hoa khôi của rừng”, được bao

chàng trai đeo đuổi ngày nào giờ lại trở thành một chiếc bóng lẻ loi “làm nghề quét

dọn suốt ngày loay hoay với cái chổi cán dài và chiếc giẻ lau trong tay”. Ngoài

chứng bệnh “quên quên nhớ nhớ” lại còn thêm chứng mất ngủ triền miên “đêm

đêm thường mặc bộ quần áo ngủ may bằng thứ vải dệt gia công của địa phương

nhàu nhĩ màu nước dưa đi lang thang như một kẻ mộng du”. Ban ngày chị lại hiện

nguyên hình là một người đàn bà lầm lũi với cây chổi trong tay. Ban đêm chị vật vờ

với những giấc mơ không có thật. Chiến tranh đã lùi xa vào quá khứ đồng thời

cũng mang theo tuổi xuân và niềm hạnh phúc của chị. Để lại trong hiện tại là một

người đàn bà với những chuỗi ngày đau khổ cùng một thân xác tàn tạ đáng thương.

Và có lẽ chị sẽ mãi sống cô đơn, lầm lũi với niềm nuối tiếc khôn nguôi về những

năm tháng tuổi trẻ qua đi không bao giờ trở lại.

Đến với Hai người đàn bà xóm Trại, người đọc không khỏi ngậm ngùi cho

số phận hai người đàn bà lẻ loi, quạnh vắng trong căn lều nhỏ nơi bến sông. Từ lúc

thanh xuân cho đến khi trở thành hai bà lão, họ chưa bao giờ có dịp gặp lại người

chồng thân yêu của mình. Chiến tranh và những cuộc gặp gỡ hi hữu không hẹn

trước khiến họ không thể hưởng trọn vẹn hạnh phúc được làm vợ, làm mẹ. Những

giấc mơ khắc khoải nỗi chờ mong thường xuyên hiện hữu trong tác phẩm càng tô

đậm nỗi bất hạnh của những con người trong chiến tranh. Ở đâu đó khuất nẻo nơi

bến vắng vẫn còn những người vợ, người mẹ sống lầm lũi, hao gầy trong nỗi đau,

sự mất mát, chia lìa không gì có thể bù đắp. Còn bất hạnh nào hơn đối với người

phụ nữ khi mãi mãi chôn vùi thiên chức thiêng liêng làm vợ, làm mẹ dưới lòng đất

sâu của quá khứ. Hòa bình dù có trở về trong ý nghĩa niềm vui và hạnh phúc thì

cũng không thể trả lại cho những người vợ, người mẹ những khát khao dung dị,

đơn sơ mà cao cả đó.

Trở về sau chiến tranh, Thảo (Người sót lại của rừng Cười) vĩnh viễn không

thể tìm lại sự hồn nhiên, thanh thản trước đây của mình. Sự khốc liệt của chiến

tranh đã lấy mất những giấc mơ êm ái của tuổi thanh xuân và trả về cho cô những

cơn ác mộng khôn nguôi mỗi lúc đêm về. Trong những giấc mộng đau đớn ấy,

Thảo chỉ thấy “tóc rụng như trút, rụng đầy khuôn ngực đã bị đâm nát của chị

Thắm, và từ trong đám tóc rối ấy lấy ra hai giọt nước mắt trong veo và rắn câng

như thủy tinh, đập mãi không vỡ”. Mãi mãi, niềm hạnh phúc lứa đôi không bao giờ

trở lại với cô. Suốt quãng đời còn lại, người con gái duy nhất may mắn sống sót của

rừng Cười chỉ sống với nỗi cô đơn và những giấc mơ triền miên về mái tóc đã bị

rừng già cướp mất.

Trong các tác phẩm viết về chiến tranh, Nỗi buồn chiến tranh là cuốn tiểu

thuyết viết về chiến tranh gây sức ám ảnh nhất đối với người đọc. Tác phẩm không

khai thác đề tài cuộc chiến ở góc độ tập thể mà đi sâu khám phá số phận riêng của

từng cá nhân. Vì vậy, tác phẩm đề cập nhiều đến những mất mát, bi thương mà

chiến tranh để lại cho con người. Những yếu tố kì ảo trong truyện góp phần khắc

sâu những đau thương, mất mát ấy. Nhân vật chính trong tác phẩm là Kiên- một

người lính đã trở về sau những năm tháng làm bạn với khẩu súng nơi chiến trường.

Hòa bình trở về, Kiên chẳng còn gì ngoài một hình hài tiều tụy và một tâm hồn

mang đầy những vết thương. Tuổi trẻ, tình yêu, sự bình yên trong tâm hồn đã vĩnh

viễn nằm lại nơi chiến trường. Những năm tháng nơi chiến trường khốc liệt, lần

lượt chứng kiến những cái chết bi thương, kinh hoàng của những người đồng đội đã

khiến anh không thể nào quên được. Kiên luôn sống triền miên với những giấc mơ

“Đôi khi chỉ cần nhắm mắt lại là trong tôi lập tức ký ức tự nó xoay mình lui về

theo lối cũ, gạt toàn bộ cõi đời thực hôm nay ra rìa cỏ”[40,48] “Có đêm tôi giật

mình thức dậy nghe tiếng quạt trần hóa thành tiếng rú rít rợn gáy của trực thăng

vũ trang....” Trong mơ, Kiên thường thấy mình quay về Truông Gọi Hồn, nơi ghi

dấu những trận chiến khốc liệt và đau thương “Cách đây không lâu, trong mơ tôi

đã trở lại với truông Gọi Hồn [...] Một đêm khác, cũng trong mơ, tôi nhìn thấy

truông Gọi Hồn và mơ thấy Hòa, cô giao liên xinh tươi, người Hải Hậu đã hi sinh

vào thuở tối tăm mù mịt năm 68”. Kể cả lúc đang đứng bên bờ tỉnh thức, quá khứ

cũng có thể quay về ám ảnh Kiên “Trở về sau chiến tranh, cho đến tận bây giờ, tôi

đã phải chịu đựng hết hồi ức này đến hồi ức khác, ngày này qua ngày khác, đêm

thâu này thấu đêm thâu kia... thử hỏi đã bao nhiêu năm ròng. Nhiều hôm, không

đâu giữa phố xá đông người tôi đi lạc vào một giấc mơ khi tỉnh. Mùi hôi hám pha

tạp của đường phố bị cảm giác nồng lên thành mùi thối rữa. Tôi tưởng mình đang

đi qua đồi “Xáo Thịt” la liệt người chết sau trận xáp lá cà tắm máu cuối tháng

Chạp năm 1972. Tử khí xộc lên từ vỉa hè nồng nặc đến nỗi tôi phải vội đưa tay lên

bịt mũi như kẻ hóa rồ trước mắt người qua đường”. Quá khứ về một cuộc chiến

tranh đau thương và khốc liệt đã gây nên một vết thương không bao giờ lành lặn

trong tâm hồn Kiên. Chính vết thương quá sâu trong tâm hồn đã khiến cuộc đời

thực hôm nay của anh như địa ngục. Kiên sống trong thực tại nhưng tâm hồn anh là

một chuỗi dài của quá khứ với nỗi ám ảnh về cái chết. Những giấc mơ triền miên

về quá khứ tạo nên một cái nhìn mới về chiến tranh. Chiến tranh không phải chỉ có

chiến thắng, nó không hoàn toàn là màu hồng. Chiến tranh còn chứa đựng biết bao

khốc liệt và hi sinh, và di chứng mà nó để lại không chỉ là những vết thương thể

xác mà còn là những vết thương nơi tâm hồn. Những người lính đã bước qua chiến

tranh sẽ không bao giờ có thể sống thanh thản, bình yên như những người bình

thường khác.

2.3.2. Chiến tranh – nỗi cô đơn và niềm khát khao hạnh phúc

Một thời gian dài rất dài trong văn học Việt Nam, khoảng 30 năm từ 1945-

1975, văn học chỉ tồn tại con người cộng đồng, con người công dân. Chỉ đến sau

1975, đặc biệt sau 1986, những số phận cá nhân với những nỗi niềm riêng tư, thầm

kín mới xuất hiện nhiều trong những trang viết. Với đề tài chiến tranh, những sáng

tác sau 1975 cũng đã quan tâm đến thân phận người lính thời hậu chiến. Những

người lính hiện ra trong các tác phẩm không chỉ là những tấm gương anh hùng, quả

cảm mà còn xuất hiện với tư cách là một con người bình thường với những nỗi cô

đơn, bi kịch dằn xé trong tâm hồn, với những trăn trở, dằn vặt, những khát khao

ham muốn rất “con người”. Và yếu tố kì ảo chính là phương tiện hữu hiệu giúp

người đọc khám phá thế giới tâm tư tình cảm phức tạp trong mỗi con người.

Ở tác phẩm Những giấc mơ có thực, hình tượng con người cô đơn với những

khát khao hạnh phúc hiện ra thật ấn tượng trong lòng người đọc. Xuất hiện dày đặc

trong tác phẩm đó chính là những giấc mơ. Thế giới chiêm bao được ví như một

chiếc tủ bí mật mà ở đó chất chứa bao điều thầm kín. Đến với thế giới chiêm bao,

người ta như được đối diện với con người thật của chính mình, soi rọi những ẩn ức

của chính tâm hồn mình. Bằng mô-tip giấc mơ, truyện đã đưa người đọc từng bước

khám phá thế giới nội tâm của nhận vật Tuân. Sau những năm tháng hi sinh hạnh

phúc cá nhân vì lý tưởng cao cả của cộng đồng, trở về cuộc đời thực Tuân hiện ra là

một người phụ nữ bình thường với những khát khao bản năng thầm kín nhất của

con người - “khao khát yêu và được yêu”. Khao khát đơn giản, mãnh liệt bao nhiêu

năm ròng bị dồn nén trong hình hài xơ xác của người phụ nữ nhỏ bé, đột nhiên trỗi

dậy quẫy đạp mạnh mẽ trong những cơn mê sảng chập chờn của chị. Bao khát vọng

hạnh phúc mà chị cố tình che giấu, đè nén sâu trong tâm khảm nay được dịp bật

tung ra dâng trào đan xen ở đó là nỗi cay đắng, xót xa, tủi phận. Trong thế giới của

giấc mơ, Tuân mới thật sự đối diện với cảm xúc thật của chính mình, lắng nghe

tiếng lòng đang run rẩy mà trong bao nhiêu năm Tuân đã đè nén, đè nén vì một

người con trai Hà Nội chỉ gặp gỡ duy nhất một lần trong cuộc đời.

Giấc mơ đầu tiên Tuân gặp người đàn ông được xem là một bộ xương khô

với cái nhìn mờ mịt, vô hồn. Ở giấc mơ này, Tuân có dịp nhìn thẳng vào cuộc đời

trong thực tại. Lời người đàn ông đó vang lên càng khía sâu thêm nỗi chua xót,

đắng cay mà có thể ngày thường Tuân cố tình lãng quên và chối bỏ “Quanh em có

bao nhiêu chàng trai trẻ đẹp? Họ đâu cả rồi, những chàng trai trẻ ấy? Sắc đẹp của

em đâu cả rồi…? Vì sao em lại ra nông nổi này? Em hãy nhìn lại mình mà xem. Có

khác gì là bộ xương khô là tôi này không?...”. Chiến tranh với sự khắc nghiệt của

nó đã cướp đi tuổi trẻ, sức thanh xuân và cả sự kiêu hãnh vốn có trong Tuân; nó trả

lại cho chị sự héo khô, tàn tạ và tủi hờn. Giấc mơ thứ hai là giấc mơ dài nhất mà

cùng lúc ở đó, Tuân đi về giữa hai nẻo quá khứ và hiện tại. Cuộc gặp gỡ với chàng

trai trẻ tuổi tên Bạo đã quay ngược thời gian giúp Tuân sống với những kỉ niệm ở

chốn rừng sâu năm nào, kỉ niệm về nụ hôn duy nhất với Bạo trước ngày chia tay, kỉ

niệm về người con trai Hà Nội mà chị đã từng cứu và ôm ấp một lòng yêu cho đến

hiện tại. Và cũng trong giấc mơ ấy, Tuân nghe được tiếng lòng mình đang thổn

thức, thở dài đầy cam chịu “Có ai ngờ, ngoài bốn mươi tuổi chị vẫn còn là một

trinh nữ. (Thế nhưng) cái trinh tiết của một người đàn bà như chị có dành dụm nữa

cũng chẳng để làm gì. Cho ai bây giờ cũng thế thôi”. Những mảng màu sáng tối

chập chờn giữa kí ức và thực tại càng tô đậm vùng tâm tư nhiều giằng xé và đau

thương của nhân vật. Sống lại với thời gian của ngày xưa chỉ càng làm nổi rõ hơn

những mất mát, hi sinh của con người trong hiện tại. Giấc mơ cuối cùng của chị là

một cuộc gặp bất ngờ và lạ lùng với người đàn ông bí ẩn. Phải chăng đó chính là

người đàn ông mà chị từng hẹn lòng trong quá khứ? Cái khát khao, mong mỏi vẫn

từng ngày âm ỉ, quặn xé trong chính tâm can của chị khiến chị luôn mơ thấy anh

trong những giấc ngủ bất an của mình. Thế nhưng trong chị anh vẫn chỉ là một khối

mông lung mơ hồ không thể xác định, có điều gì đó uẩn khúc không thể nói ra nên

anh đã không tìm đến với chị. Phải thế không mà cuộc gặp gỡ ở đây lạ lùng và khó

hiểu hơn hết, cả Tuân và người đàn ông đều sững sờ, ngơ ngẩn? Hay chăng đó liên

quan đến vấn đề tâm linh bởi “Giấc mơ thường được coi là sự tái hiện suy nghĩ của

con người dưới dạng không tự giác, giấc mơ còn là điềm báo trước tương

lai”[30;75]. Lời của người đàn ông trong giấc mơ phải chăng là những linh cảm

trong chị về người con trai ngày xưa. Dù thế nào đi nữa thì trong tác phẩm, chính

nhờ giấc mơ và thông qua giấc mơ mà người đọc khám phá được thế giới tâm tư

của Tuân, thấy được những nỗi niềm riêng dồn nén trong tâm tư người phụ nữ bất

hạnh này.

Đến với những giấc mơ của “Hai người đàn bà xóm Trại”, người đọc không

khỏi chua xót, ngậm ngùi cho sự bẽ bàng của hai người phụ nữ bất hạnh ấy. Chiến

tranh đã đến và mang người chồng của họ ra đi khi hai anh chưa kịp để lại cho họ

giọt máu của mình. Trong đời họ, ngoài ước mong được gặp lại người chồng yêu

quý của mình còn là nỗi khao khát được có với hai anh một đứa con. Đến hơn ba

lần, tác giả nhắc đến những giấc mơ giống nhau ở mỗi nhân vật. Ân cứ mơ đi mơ

lại giấc mơ có vẻ kì lạ “con gà trống tía với cái mào đỏ rực, cái ức rộng và đôi cựa

bóng như ngà mổ mổ vào ngón tay của mình”, còn Mật cô vẫn những cơn mơ vừa

hạnh phúc vừa lo sợ “Mật thấy người lính trở về và ngay đêm đó Mật có mang. Và

cứ tỉnh giấc, Mật mơ hồ lo lắng khi cảm thấy bụng mình khang khác”. Giấc mơ vốn

là điều không có thực, nhưng những mong mỏi ẩn trong giấc mơ lại là điều thật hơn

bao giờ hết. Mong mỏi đó còn là gì khác ngoài ước muốn rất phụ nữ của những

người vợ lính trong chiến tranh, ước muốn được làm mẹ, làm vợ.

Trong Vĩnh biệt mười tám con gà trống là hình ảnh cô đơn đến tội nghiệp

của người đàn bà thiếu vắng hơi ấm của chồng đã mười tám năm. Mười tám năm

xa chồng được đánh dấu bằng hình ảnh mười tám con gà trống. Cứ mỗi sáng, tiếng

gáy râm ran của những con gà làm bà xôn xao trong dạ khi nhớ đến chồng. Mãi đến

khi gặp người đàn ông hàng xóm tốt bụng, nỗi cô đơn trống vắng của bà dường như

mới được lấp đầy. Song, khi bà cùng người đàn ông kia ở cạnh nhau, người chồng

cũ hiện ra với ánh mắt trách móc, giận hờn. Hình ảnh ấy cứ hiện ra chập chờn

khiến bà xốn xang, đau xót. Tiếng khóc nức nở của người đàn bà “anh ơi, hãy để

cho em được… được… được” khiến người đọc cảm nhận sâu sắc nỗi khát khao

hạnh phúc đến cháy bỏng sau ngần ấy năm sống âm thầm một bóng một mình.

Trong Người sót lại của Rừng cười, năm cô gái giữ kho quân nhu giữa cánh

rừng Trường Sơn bỗng hóa thành năm con vượn với tiếng cười man dại. Những

con vượn người ấy vừa cười, vừa khóc, vừa đưa tay dứt tóc và xé quần áo không

ngừng. Chỉ khi có sự giúp đỡ của những người lính, họ mới trở lại bình thường, để

rồi sau đó họ chúi vào gốc cây khóc không thành tiếng “tiếc cho lòng trinh bạch

con gái”. Phải chăng sự khắc nghiệt của núi rừng đã biến họ trở nên như vậy hay

chính nỗi cô đơn, tuyệt vọng dày vò, sự thiếu thốn tình yêu, đôi bàn chăm sóc của

người đàn ông đã khiến họ rơi vào bi kịch. Bi kịch của những người con gái sống

trong chiến tranh.

Ở cái quán Tiên (Truyền thuyết về quán Tiên) của ba cô gái làm nhiệm vụ

cung cấp lương thực cho những anh bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn xuất hiện

một con khỉ to lớn lạ kì với những hành động giống hệt với con người. Mặc dù có

Tuyết Lan, Phượng ở cùng, song chú khỉ ấy chỉ xuất hiện mỗi khi Mùi ra suối một

mình để chọc ghẹo cô. Chú khỉ ấy là nỗi khiếp sợ của Mùi, song chính cô cũng phải

thừa nhận rằng trong ba người, cô “là gái có chồng, dù chỉ ở với chồng được đúng

năm hôm trước lúc anh đi B. Mùi đã hiểu thế nào là đàn ông. Hai năm đã trôi qua,

cái cảm giác rạo rực trong vòng tay chồng, mỗi lần nhớ tới lại dậy lên trong lòng

Mùi một nỗi khát khao và bao giờ Mùi cũng cố xua đi bằng nhiều cách”. Và phải

chăng con khỉ đó “có đôi mắt thần nhìn thấy nỗi khát khao của một cô gái xa

chồng”. Nỗi khát khao được gặp chồng, được ôm ấp trong vòng tay của anh luôn

rạo rực trong lòng Mùi, song trong hoàn cảnh chiến tranh, người ta không cho phép

nhắc đến tình riêng nên Mùi đành phải tìm cách chôn chặt trong lòng. Dường như

chính chú khỉ kì lạ đó đã khơi dậy trong lòng Mùi cái khao khát bản năng bình dị

của người phụ nữ mà ngày thường cô luôn che giấu.

Tình yêu và sự khát khao hạnh phúc, gần gũi lứa đôi vốn dĩ là một mong

muốn rất đỗi bình thường của con người. Càng tìm cách kiềm nén, nỗi khao khát

càng trỗi dậy mạnh mẽ hơn, càng khiến con người rơi vào đau khổ, bế tắc. Ở tác

phẩm Bến không chồng, Hạnh tìm cách giấu diếm, không dám đối diện với tiếng

lòng mình bởi cô sợ cái nhìn nghiệt ngã của người đời: khi cả nước đang gồng

mình vì giặc dã - ai dám nghĩ đến hạnh phúc riêng tư. Hạnh chỉ thật sự đối diện với

chính mình khi cô một mình dạo bước bên bờ sông “Bến vắng. Nỗi buồn cô liêu.

Một tiếc nuối thoáng qua. Một thời xuân sắc và những phút ái ân với Nghĩa bỗng

trỗi dậy. Đầu óc Hạnh căng ra run lên ngây ngất đi tìm lạc thú trong hoang tưởng.

Hạnh lao ra dòng nước mát lạnh sóng sánh bóng trăng. Cơ thể lâu nay khô héo

bỗng rạo rực ngập tràn hưng phấn. Hạnh vùng vẫy, quẫy đạp trong ham muốn làm

tình với nước. Trong phút chốc Hạnh thấy mình đang chìm dần như thể có con ba

ba thuồng luồng đang trôi tuột xuống đáy sông. Hạnh hoảng loạn chới với cố nhoài

lên bãi cát” [44,192]. Và khi nằm lăn trên bãi cỏ, Hạnh thấy “vầng trăng cứ lớn

dần và phình to ra, đỏ lừ như mặt con ma ở đầu cánh mả…. mặt con ma đỏ lừ đang

sà xuống thấp dần, thấp dần sát mặt Hạnh. Nó thè lè chiếc lưỡi đỏ lừ liếm lên khắp

thân thể Hạnh. Hạnh cảm nhận rõ ràng con ma mặt đỏ đang làm tình với mình”

[44,192]. Thông qua những chi tiết kì lạ, người đọc càng cảm thông sâu sắc cho nỗi

khao khát đầy bản năng của một người đàn bà trẻ xa chồng. Hạnh phúc quá ít ỏi,

mong manh đã bị chiến tranh cướp mất khiến Hạnh sống trong nỗi khắc khoải, chờ

mong, nhớ nhung và khao khát. Kí ức về những ngày bên Nghĩa, được sống trọn

vẹn trong tình yêu của chồng luôn âm ỉ trong Hạnh. Khi có cơ hội, nó trỗi dậy và

quẫy đạp mạnh mẽ trong cơ thể người đàn bà tội nghiệp ấy. Chiến tranh đã đến và

cướp đi hạnh phúc chính đáng của biết bao người. Đâu chỉ người ngoài tiền tuyến

hàng ngày đối mặt với cái chết mới phải chịu đựng sự khốc liệt của chiến tranh mà

những người vợ, người mẹ ở hậu phương cũng mỏi mòn, nhức nhối với bao nỗi

đau. Chiến tranh khiến cho cả người ở lại lẫn người ra đi đều có cuộc sống riêng

đầy bất hạnh và đau khổ.

Trong hoàn cảnh khắc nghiệt, cận kề với cái chết, nỗi khát khao gần gũi lứa

đôi càng mãnh liệt hơn bao giờ hết. Trong Nỗi buồn chiến tranh, vào những đêm

khuya, đắm mình trong giấc ngủ đậm đặc mùi hương của hoa hồng ma - loại hoa

chỉ mọc ở nơi nhiều tử khí, và vào đêm, hương của nó có thể thẩm thấu vào giấc

ngủ gây ra những ảo giác, “làm thành bao nhiêu là giấc ngủ mơ kỳ lạ gây ra những

ám ảnh khoái lạc mê mẩn” - Kiên mới có thể trở về với thành phố quê hương, gặp

lại người con gái anh yêu, run lên với “nỗi khát khao thèm muốn được hưởng tới độ

tột cùng cảm giác tiếp xúc, êm ái, choáng ngợp, đáng kinh hãi với cái hình hài yêu

dấu, mong manh, mềm mại như cánh hồng ấy”. Những giấc mơ ngọt ngào và nóng

bỏng ấy đã lay thức tâm hồn Kiên, thì ra Kiên “cũng có một thời trẻ trung”, cũng

biết say sưa và si mê. Cũng trong thời kì mê lú bởi khói hồng ma, trung đội trinh

sát “nông trường 3” đã sống một thuở yêu thương, say đắm cuồng si đầy tội lỗi với

ba cô gái ở thung lũng bên kia núi. Đêm đêm, từng nhóm người lặng lẽ, kín đáo

trườn ra khỏi võng, nhẹ nhàng theo nhau mất hút trên con đường mòn dẫn vào lòng

núi tối tăm, và họ trở lại khi trời đã gần sáng. Khi đó từ bên kia núi vọng lên những

tiếng hú thê thảm, buồn bã “mà người ta bảo là của loài ma núi, nhưng Kiên biết

đấy là tiếng lòng nam nữ gọi truyền theo vách núi để tạm biệt nhau và để hẹn ước”.

[40, 31] Mỗi lần như thế Kiên - người chỉ huy trung đội đều biết, và anh chỉ “nằm

yên lặng nghe ngóng đếm từng bước chân rón rén, để rốt cục được trút một hơi thở

phào mừng rằng may thay cả bọn đã bình yên trở về”. Anh biết “lý ra là chỉ huy,

anh cần ngăn chặn hiện tượng vô kỉ luật quá quắt này, cần phải uốn nắn, chấn

chỉnh, lập lại nề nếp, khuôn khổ, đạo đức tác phong, cần phải thẳng tay kéo đội

viên của mình thoát khỏi tình trạng mê mẩn chẳng khác nào bị chài ếm, cần

phải…” Song trái tim thực thụ của một người lính chiến không cho phép anh hành

động như vậy “nó buộc anh phải im lặng, buộc anh phải hết lòng cảm thông. Chứ

còn biết làm thế nào khác được, thực thế trước tiếng gọi man sơ, hoang dã của tuổi

thanh xuân?” Kiên thấu hiểu những điều ấy bởi hơn ai hết, anh là người đã trải qua

nó. Sự “nóng ruột không chịu được” của những người lính trung đội trinh sát trước

buổi sáng ba cô gái bị bọn thám báo cưỡng hiếp và giết chết là biểu hiện của sự gắn

bó tạo nên sự thông linh giữa họ. Câu chuyện tình bi thảm và mông muội giữa các

đội viên trinh sát và ba cô gái bị chiến tranh cầm tù giữa rừng sâu tạo thêm sự kì ảo

cho truyện, hơn hết đó còn là bi kịch của những cuộc tình trong chiến tranh.

Trong Bướm trắng, tình yêu giữa Xuân Sinh và Bạch Điệp không thành bởi

chiến tranh đã chia cắt họ. Nhưng nỗi khát khao được bày tỏ và gắn bó lứa đôi lớn

lao đến độ nó xuyên thấu qua mọi trở ngại, đạp bằng mọi cách ngăn. Bạch Điệp đã

chết nhưng Sinh vẫn không nguôi quên một lời yêu thương chưa từng thổ lộ, không

ngừng khát vọng nối máu mình để hồi sinh sự sống cho người yêu. Bạch Điệp nằm

dưới nấm mồ sâu nhưng vẫn ôm ấp “một khối tình chưa tan”, cô cố gắng hóa thân,

dẫu chỉ là một con bướm trắng với đôi cánh rách nát, để gặp lại Sinh và nên vợ nên

chồng cùng anh. Hàng loạt những chi tiết lạ lùng, kì ảo xuất hiện trong tác phẩm:

Bạch Điệp chết đi hóa thành con bướm trắng dẫn các đoàn xe qua những đoạn

đường nguy hiểm, con bướm trắng lại hiện hình là người trong cuộc gặp gỡ với

Sinh, Sinh có thể dùng máu của mình để nối lại sự sống cho Bạch Điệp, giúp hai

người có thể cùng chung sống với nhau như một gia đình hạnh phúc và họ sinh

toàn bướm và bướm. Những chi tiết ấy vốn không quá xa lạ với các môtip có trong

thế giới màu nhiệm của truyện cổ tích, như môtip về sự hóa thân người chết đi hóa

thành vật, vật lại đầu thai thành người, môtip người và ma lấy nhau… Những chi

tiết kì ảo ấy là cầu nối giúp Sinh thực hiện ước mơ của mình. Anh đã gặp lại Bạch

Điệp và ngỏ lời yêu cùng cô - cái ước ao thầm kín mà chiến tranh đã chôn giấu

trong anh. Cuộc hôn nhân của họ là kết thúc có phần lí tưởng và có hậu cho những

người yêu nhau trong thời bom đạn ác liệt. Thế nhưng, chi tiết kì lạ Bạch Điệp

không thể sinh con mà chỉ sinh toàn bướm là bướm cho thấy cái phần còn lại ngoài

cái chất lí tưởng và có hậu kia là sự không trọn vẹn, những tổn thất không gì có thể

bù đắp được của chiến tranh. Dù Sinh đã cố vá víu những vết thương của nó bằng

chính xương máu và sự tận tụy hi sinh của mình thì những nỗi đau của quá khứ chỉ

có thể giảm nhẹ theo thời gian chứ không thể làm lành lặn những nỗi đau mà chiến

tranh đã để lại.

 Tóm lại, những bi thương, mất mát mà chiến tranh để lại không ngoại trừ

một ai. Không chỉ những người lính xông pha ngoài mưa bom lửa đạn mới chịu

đựng nỗi đau mà người ở lại - những người vợ, người mẹ - cũng sống triền miên

trong nỗi cô đơn, khắc khoải. Nhìn chung, những số phận đã từng bước qua chiến

tranh; có người còn sống, có người đã chết nhưng điểm chung quy tụ lại những

khát vọng, những mong mỏi về tình yêu, hạnh phúc trong quá khứ của họ lại là

những điều không tưởng và khó có thể thành hiện thực. Vì thế dù là truyện có yếu

tố kìa ảo, song không thể gọi đây là những câu truyện cổ tích bởi những yếu tố kì

ảo ấy không phải mang đến niềm hạnh phúc với một kết thúc mỹ mãn cho nhân vật

mà trái lại, nó càng làm tô đậm những bi kịch, mất mát không gì có thể bù đắp mà

chiến tranh để lại cho con người.

2.3.3. Người lính và sự tha hóa, biến chất

Trong những tác phẩm viết về chiến tranh sau 1975, bên cạnh hình tượng

những người lính cô đơn, khoắc khoải khi trở về cuộc sống đời thường, ta còn bắt

gặp hình ảnh những con người bị tha hóa, biến chất. Trong các truyện viết về chiến

tranh trước 1975, người lính bao giờ cũng hiện ra trong tư thế hiên ngang, hùng

dũng. Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. Song

trong những tác phẩm sau 1975, người lính hiện ra với bức chân dung đầy đặn,

nhiều chiều. Hiện ra trong các tác phẩm còn là những người lính với tư cách là con

người bình thường với những sai lầm, những ham muốn, dục vọng cá nhân của bản

thân. Họ - những người lính từng một thời cống hiến tuổi thanh xuân cho đất nước;

song khi trở về thời bình, trước sự thay đổi của cuộc sống, họ trở thành những con

người khác. Yếu tố kì ảo trong truyện đã góp phần bộc lộ những góc khuất ấy.

Đến với Trái tim con rắn, người đọc không khỏi ngỡ ngàng bởi những sự

việc kì lạ xảy ra với nhân vật Thuật. Với suy nghĩ “người nào đã chịu nhiều gian

khổ, sống chết, thì bây giờ phải được hưởng”, Thuật ra sức ăn chơi trác táng để bù

đắp những gian khổ đó. Trong buổi tiệc định mệnh, ông đã tự mình nuốt vào bụng

một trái tim con rắn vẫn còn đang phập phồng nhịp đập. Suốt đêm hôm đó, ông bị

đau đớn bởi một con rắn chui ra từ lồng ngực. Cuối cùng, chính tay đã bóp vỡ nó ra

“sự trác táng đã đi đến giới hạn cuối cùng của nó”. Sáng hôm sau, khi giải phẩu tử

thi, mọi người đều rởn óc khi thấy một trái tim nhỏ xíu đã bị vỡ đôi giữa lồng ngực

của ông. Cái chết của Thuật là lời cảnh báo về sự băng hoại đạo đức của một bộ

phận những người từng có những cống hiến cho Tổ quốc.

Trong Con đò và người khách lạ, vì sợ chết, Khôi đã không dám nả súng

vào bọn giặc khiến Đông - người bạn thân của mình trúng đạn. Anh che giấu điều

đó để thuận lợi đến với người yêu của Đông. Sau này, khi gặp lại người đồng đội

ấy trong hình hài dị dạng, một lần nữa anh lại tìm cách che giấu lỗi lầm trước đây

vì không muốn ảnh hưởng đến hạnh phúc của riêng mình. Chỉ trong giấc mơ, Khôi

mới sống thật với chính mình, mới dám đối mặt với tội lỗi mà mình gây ra. Những

lời Khôi nói trong giấc mơ “Ta có lỗi gì? Ừ, lúc đó tao đã sợ chết nên tao không

dám nổ súng vào bọn lính đi tuần, nhưng sau đó tao đã bò vào tìm mày, mày đã bị

chúng nó kéo đi rồi… Phải tao có tội với mày bởi tao là kẻ hèn nhát, một tên khốn

nạn đã bỏ rơi bạn bè trong lúc lâm nguy. Hãy tha thứ cho tao, Đông ơi!” thể hiện

những mặc cảm tội lỗi đè nén trong lòng của kẻ gây nên lầm lỗi, song trong cuộc

đời thực, anh vẫn không dám vượt qua sự hèn nhát của bản thân để thú nhận điều

đó với mọi người.

Cũng bằng mô-tip giấc mơ, truyện ngắn Trừng phạt đã đưa người đọc lần

vào thế giới tâm hồn với những ám ảnh tội lỗi của nhân vật Tuyển. Mỗi lần bước

vào thế giới của những cơn mộng mị là mỗi lần ông Tuyển đối diện với sự phán

quyết của chính lương tâm mình. Những giấc mơ đã đưa ông Tuyển ngược dòng

thời gian quay về những năm tháng xa xưa để ngẫm lại bao thay đổi trong cuộc đời

mình. Sau chiến tranh, trở về với vô số bằng khen, giấy khen về những thành tích

đã đóng góp cho Tổ quốc, ông nghiễm nhiên được đứng vào hàng ngũ của Đảng,

được cất nhắc nhiều chức vị quan trọng. Địa vị, tiền tài, vật chất là những chất xúc

tác nguy hiểm khiến người ta dễ bị cám dỗ và sa ngã vào vũng lầy tội ác lúc nào

không hay. Ông đã nhanh chóng biến chất thành một con người nhẫn tâm và đê

tiện, sẵn sàng ra tay hãm hại ai nghịch ý mình. Ông mất nhân tính đến nỗi ra tay

cưỡng hiếp Thanh - là con của một người đồng đội thân thiết năm xưa. Bao nhiêu

điều tội lỗi chỉ vỡ òa trước lời kết tội đanh thép của Thanh. Chính những lời kết tội

này đã không ngừng ám ảnh ông, khiến tâm hồn ông không thể nào thanh thản với

những tội lỗi đã gây nên. Sự trừng phạt về pháp luật đôi khi con người có thể thoát

khỏi, nhưng sự trừng phạt trong tâm hồn có lẽ khó khăn lắm mới có thể vượt qua.

Giấc mơ – đó chính là lời sám hối chân thành trong chính trái tim ông Tuyển, trái

tim của một người lính còn sót lại chút lương tâm con người. Giấc mơ – đó cũng

chính là sự trừng phạt đích đáng nhất mà ông phải gánh lấy để bù đắp những tội lỗi

đã gây ra.

 Tuy số lượng không nhiều, song các truyện này vẫn để lại dấu ấn trong lòng

người đọc. Những tác phẩm là lời cảnh tỉnh sâu sắc đến một bộ phận không nhỏ

những người lính trước sự cám dỗ của thế lực và đồng tiền. Đó cũng là lời nhắc

nhở đến xã hội: cần cảnh giác, và loại trừ những mầm mống xấu xa làm ảnh hưởng

đến hình tượng đẹp đẽ, thiêng liêng của những người chiến sĩ trong lòng mọi

người. Đặc biệt, bằng mô-tip giấc mơ, các tác giả đã đưa người đọc khám phá thế

giới tâm tư của những người lính, những dằn xé bên trong tâm hồn bởi những sai

lầm nghiêm trọng mà họ đã gây nên.

Chương 3: Yếu tố kì ảo từ góc nhìn thể tài, đời sống tâm linh và sắc thái thẩm mỹ

3.1. Yếu tố kì ảo từ góc nhìn thể tài tiểu thuyết, truyện ngắn

3.1.1. Đặc điểm thể tài tiểu thuyết, truyện ngắn

Tiểu thuyết và truyện ngắn là hai thể tài chính trong loại tác phẩm tự sự. Cả

hai đều chung đặc điểm là “tập trung phản ảnh đời sống, con người qua các biến

cố, sự kiện xảy ra với nó, có tác dụng phơi bày những mặt nhất định của bản chất

con người để tái hiện đời sống một cách khách quan” [63, 376]. Tuy nhiên, nếu

như tiểu thuyết là “một hình thức tự sự cỡ lớn, có khả năng trong việc tái hiện với

một quy mô lớn những bức tranh hiện thực đời sống” [36, 184], thì truyện ngắn lại

“là hình thức ngắn của tự sự”, có thể kể về một cuộc đời hay một đoạn đời, thậm

chí một sự kiện hay một “chốc lát” trong cuộc sống nhân vật. Trong truyện ngắn,

với dung lượng hạn chế, các nhân vật chỉ hiện lên vào thời điểm có ý nghĩa quyết

định tới số phận và thường chỉ gắn với một hoặc hai sự kiện tiêu biểu. Ngược lại,

trong tiểu thuyết, với khuôn khổ rộng lớn, các tác giả được tự do khai thác nhân vật

một cách toàn diện tỉ mỉ theo từng bước thăng trầm của số phận.

Có thể nói nếu ví tiểu thuyết là câu chuyện về số phận, về cuộc đời nhân vật

thì truyện ngắn là một lát cắt trong cuộc đời nhân vật. Tiểu thuyết là sự nếm trải

của nhân vật qua các sự kiện, biến cố thì ở truyện ngắn, nhân vật chỉ hiện lên trong

tác phẩm vào những thời khắc có ý nghĩa quyết định, vì lẽ đó, khi nhắc đến truyện

ngắn, ta lại nghĩ ngay đến tình huống truyện. Chính sự giống và khác nhau về đặc

điểm thể loại đã chi phối ít nhiều đến sự tham dự của yếu tố kì ảo vào tổ chức cốt

truyện, đặc điểm nhân vật của tiểu thuyết, truyện ngắn.

3.1.2. Yếu tố kì ảo - Sự giống và khác nhau trong thể tài tiểu thuyết,

truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975.

Như đã tìm hiểu ở chương I, các dạng thức kì ảo như: mô-tip giấc mơ, mô-

tip hồn người chết trở về, những sự việc kinh dị, kì lạ và những lời nói, hành động

kì lạ của nhân vật đều xuất hiện trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh

sau 1975. Tuy nhiên do sự chi phối bởi đặc điểm thể loại, sự xuất hiện của các dạng

thức kì ảo ở truyện ngắn sẽ có những điểm tương đối khác biệt so với khi xuất hiện

trong tiểu thuyết.

Bảng so sánh tần số xuất hiện các dạng thức kì ảo trong tiểu thuyết, truyện

ngắn

Dạng thức kì ảo Tiểu thuyết Truyện ngắn

(5 truyện) (45 truyện)

Tổng số truyện xuất hiện (14/50 truyện) Mô-tip giấc mơ

Tần số xuất hiện (35 lần/14 truyện)

Tổng số Tần số Tổng số Tần số

truyện truyện

1/5 truyện 16/35 13/45 truyện 19/35 lần

lần

Tổng số truyện xuất hiện (17/50 truyện) Mô-tip Hồn người

chết trở về Tần số xuất hiện (33 lần/17 truyện)

3/5 truyện 17/33 14/45 truyện 16/33 lần

lần

Tổng số truyện xuất hiện (10/50 truyện) Những sự việc kinh

dị, kì lạ Tần số xuất hiện (24 lần/10 truyện)

3/5 truyện 14/24 7/45 truyện 10/24 lần

lần

Tổng số truyện xuất hiện (5/50 truyện) Lời nói, hành động

kì lạ của nhân vật Tần số xuất hiện (6 lần/5 truyện)

1/5 truyện 2/6 lần 4/45 truyện 4/6 lần

Tổng số truyện xuất hiện (4/50 truyện) Sự biến dạng, hóa

thân của nhân vật Tần số xuất hiện (6 lần/4 truyện)

2/5 truyện 4/6 lần 2/45 truyện 2/6 lần

(Bảng khảo sát 1)

Bảng khảo sát kiểu loại cốt truyện trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về

chiến tranh sau 1975

Kiểu loại cốt truyện Tiểu thuyết Truyện ngắn

(5 truyện) (45 truyện)

3/5 truyện 9/45 truyện Yếu tố kì ảo tham dự

vào diễn biến cốt truyện.

2/5 truyện 33/45 truyện Yếu tố kì ảo đóng vai

trò biểu tượng, xuất hiện

song hành cùng cốt

truyện.

0/5 truyện 3/45 truyện Yếu tố kì ảo tham dự

vào diễn biến một cốt

truyện trong những tác

phẩm có hai cốt truyện

đan xen.

(Bảng khảo sát 2)

Theo bảng khảo sát (1) ta thấy mô-tip giấc mơ xuất hiện với tần số khá dày

đặc (35 lần/14 truyện), tuy nhiên chỉ với 1 tiểu thuyết mô-tip này đã chiếm tỉ lệ khá

lớn với tổng số lần xuất hiện 16/35 lần. Tương tự dạng thức hồn người chết trở về

xuất hiện 33 lần/17 truyện, trong đó, xuất hiện ở tiểu thuyết là 17/33 lần. Những sự

việc kinh dị, kì lạ có tần số xuất hiện là 24 lần/10 truyện, xuất hiện trong tiểu thuyết

là 14/24 lần. Ở hai dạng thức còn lại, tuy xuất hiện ít, song người đọc cũng dễ dàng

nhận thấy sự chênh lệch này ở hai thể loại. Bên cạnh đó, trong quá trình khảo sát

các tác phẩm, chúng tôi nhận thấy tần số xuất hiện các dạng thức kì ảo ở tiểu thuyết

dày đặc và đa dạng hơn so với khi xuất hiện trong truyện ngắn.

Đối với thể loại tiểu thuyết, do đặc trưng thể tài quy định, các tác giả có điều

kiện khai thác nhân vật một cách tỉ mỉ theo từng bước thăng trầm của số phận.

Trong các tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975, để tái hiện một cách chân thực

số phận cũng như những suy nghĩ, trăn trở, những nỗi niềm riêng tư của những

người lính bước ra từ cuộc chiến, các tác giả đã sử dụng yếu tố kì ảo như một công

cụ hỗ trợ đắc lực. Với dung lượng dài, số phận của những người lính không hiện ra

trong một khoảnh khắc, chốc lát như ở truyện ngắn mà nó là một quãng thời gian

kéo dài xuyên suốt từ chiến tranh đến lúc hòa bình. Ở những tiểu thuyết yếu tố kì

ảo tham dự vào sự diễn biến của cốt truyện (3/5 tác phẩm), ta thấy các dạng thức kì

ảo xuất hiện đa dạng và tần số dày đặc.Trong các tiểu thuyết, đặc biệt là ở tác phẩm

Nỗi buồn chiến tranh, người đọc có thể tiếp xúc với hàng loạt những mô-tip kì ảo

khác nhau. Tác phẩm là một sự kết hợp hài hòa giữa các dạng thức kì ảo. Chính sự

kết hợp này đã tạo sức hút, lôi kéo người đọc không ngừng theo dõi những sự kiện,

biến cố xảy ra trong cuộc đời nhân vật Kiên thông qua dòng hồi ức của anh. Bên

cạnh đó,những chi tiết kì ảo đã góp phần tạo nên không khí chết chóc, ghê rợn của

chiến tranh. Với tổng số lần xuất hiện là 16 lần, mô-tip giấc mơ đã giúp người đọc

từng bước khám phá thế giới tinh thần đầy uẩn khúc của Kiên, những giấc mơ về

một cuộc chiến tranh khốc liệt và đẫm máu trở thành một phần không thể tách rời

trong cuộc sống của anh khi hòa bình lặp lại. Điều này chứng minh quá khứ về

cuộc chiến tranh đã qua không thể nào phai nhòa trong tâm trí Kiên. Đi cùng với

mô-tip giấc mơ là mô-tip hồn người chết trở về. Với tần số xuất hiện tương đối

nhiều (12 lần), dạng thức kì ảo này đã giúp người đọc hình dung về một cuộc chiến

tranh vô cùng khốc liệt mà gắn liền với nó bao giờ cũng là cái chết. Sự xuất hiện

của dạng thức này đã góp phần giải thích rõ vì sao mà dù sống trong hòa bình, Kiên

cũng không thể nào lãng quên được những ngày tháng đã qua, và vì sao mà Kiên

luôn đắm chìm trong những giấc mơ hãi hùng, bên cạnh đó, sự xuất hiện của dạng

thức những sự việc kinh dị, kì lạ; sự hóa thân của nhân vật là cách mà tác giả giải

thích những sự bí ẩn, kì lạ trong chiến tranh, mà nguyên nhân chính là sự khốc liệt

của nó. Chính sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên những loài măng với những

tảng thịt ròng ròng máu, sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên những tiếng cười

ma quái, ghê rợn, và còn biết bao điều kì lạ nữa được tạo ra bởi sự khốc liệt của

cuộc chiến đã qua. Sự kết hợp hài hòa giữa các dạng thức kì ảo đã dẫn dắt người

đọc theo dòng hồi ức của Kiên, trở về với quá khứ, chứng kiến và thấu hiểu được

những di chứng mà chiến tranh đã để lại cho con người. Đó không chỉ là nỗi đau về

thể xác mà còn là những thương tổn về mặt tinh thần.

Đến với tiểu thuyết Tàn đen đốm đỏ, người đọc như bước vào thế giới cõi

âm, tận mắt chứng kiến cuộc sống của con người sau khi chết. Tác phẩm đã tái hiện

lại cuộc hành trình của những người còn sống tìm lại hài cốt đồng đội đã hi sinh

trong chiến tranh. Trong tác phẩm, song song với một thế giới cõi dương còn là

một thế giới cõi âm với những tâm tư, tình cảm của linh hồn những người lính đã hi

sinh. Song song với những người còn sống đang đi tìm hài cốt của đồng đội là

những linh hồn đang khao khát trở về với gia đình, bạn bè. Với độ dày 271 trang,

tác giả có đầy đủ điều kiện khai thác thế giới cõi âm một cách toàn vẹn và sinh

động. Trong tác phẩm, tác giả đã dành trọn 4/15 chương để đi sâu thể hiện cụ thể

chi tiết mô-tip hồn người chết trở về. Trong toàn bộ 4 chương, câu chuyện về anh

lính tên Phương từ lúc hi sinh, trở thành hồn ma trong hang dơi đến lúc hài cốt trở

về với gia đình và linh hồn siêu thoát được tái hiện một cách cụ thể, sinh động.

Trong suốt quá trình đó, có nhiều sự kiện, biến cố xảy đến, Phương được kết bạn

với ông già chín năm (cũng là một người lính đã hi sinh), chứng kiến cái chết của

cô thanh niên xung phong, của tên lính ngụy. Linh hồn anh cùng tồn tại với những

hồn ma đó trong hang dơi, cùng trãi qua những chuỗi ngày trăn trở, mong muốn

được quay về đoàn tụ với người thân. Với sự tham dự của yếu tố kì ảo vào cốt

truyện, câu chuyện về những người lính phải bỏ thân lại nơi chiến trường được tái

hiện cụ thể, chân thật. Người đọc cảm thông sâu sắc hơn về những tâm nguyện

chưa hoàn thành của những người lính đã ngã xuống. Trong chiến tranh, biết bao

người đã nằm lại vĩnh viễn nơi chiến trường mà đến hôm nay hài cốt của họ vẫn

còn nằm đâu đó nơi cánh rừng Trường Sơn bạt ngàn. Ở tiểu thuyết Hồn trúc, tuy

yếu tố kì ảo có tham dự vào sự diễn biến của cốt truyện (đó là việc nhân vật vô tình

có được cây sáo trúc trong tay, bắt đầu từ đó rất nhiều những việc kì lạ xảy ra trong

cuộc đời nhân vật. Một trong những việc kì lạ mà nhân vật gặp đó là trong lúc ở

chiến trường, trong tình thế vô cùng nguy hiểm ngàn cân treo sợi tóc, tiếng sáo bất

ngờ vang lên đã tạo nên sức mạnh giúp quân ta chuyển bại thành thắng). Song cốt

truyện không nói nhiều đến chiến tranh; chiến tranh chỉ là một trong những biến cố

xảy ra trong cuộc đời nhân vật.

Bên cạnh đó, trong những tiểu thuyết có yếu tố kì ảo đóng vai trò biểu tượng

(2/5 tác phẩm), ta thấy các dạng thức kì ảo xuất hiện không đa dạng như các tiểu

thuyết có yếu tố kì ảo tham dự vào diễn biến của cốt truyện. Ở những truyện này,

các dạng thức kì ảo thường chỉ xuất hiện trong một vài tình huống nhất định. Theo

kết quả khảo sát tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng, có hai dạng thức kì ảo là mô-tip hồn

người chết trở về và dạng thức những lời nói, hành động kì lạ của nhân vật. Trong

tác phẩm, hai dạng thức trên chỉ xuất hiện trong một vài tình huống nhất định. Tình

huống thứ nhất, khi nhân vật Hai Hùng một mình vào nghĩa trang, tác giả đã sử

dụng dạng thức hồn người chết trở về để tạo không khí ma quái cho tác phẩm, đồng

thời cũng tạo cơ hội để nhân vật tự vấn lương tâm; qua đó thể hiện những dằn vặt,

trăn trở nội tâm của người lính còn sống trở về sau chiến tranh. Dạng thức những

lời nói, hành động kì lạ xuất hiện lúc Viên bị trúng đạn chết sau khi có những lời

nói kì lạ như là một sự dự báo trước cho cái chết của mình. Sự xuất hiện của hai

dạng thức kì ảo trên không làm thay đổi nội dung cốt truyện. Tương tự, trong tiểu

thuyết Bến không chồng, dạng thức kì ảo xuất hiện khi Hạnh rơi vào trạng thái mê

sảng, lúc này cô có cảm giác như vầng trăng như to ra và đang sà xuống liếm khắp

cơ thể cô. Sự xuất hiện của dạng thức kì ảo trong tác phẩm không làm thay đổi nội

dung cốt truyện mà chỉ có ý nghĩa giúp người đọc cảm thông sâu sắc hơn cho tình

cảnh đáng thương của những người phụ nữ trong chiến tranh.

 Qua sự khảo sát có thể thấy tiểu thuyết viết về chiến tranh số lượng rất

nhiều, song những tiểu thuyết viết về chiến tranh có sử dụng yếu tố kì ảo lại khá

hạn chế. Ở những tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975 có yếu tố kì ảo, ta có thể

phân thành hai dạng, một dạng tiểu thuyết yếu tố kì ảo tham dự hoàn toàn vào cốt

truyện, chi phối diễn biến câu chuyện cũng như liên quan rất lớn đến cuộc đời nhân

vật. Dạng thứ hai là dạng tiểu thuyết mà yếu tố kì ảo chỉ tham dự với vai trò biểu

tượng, xuất hiện song hành cùng cốt truyện. Ở dạng thứ nhất, ta thấy các dạng thức

kì ảo tham dự vào cốt truyện đa dạng, phong phú, đặc biệt tác giả có điều kiện khai

thác sâu các dạng thức kì ảo một cách tỉ mỉ, chi tiết. Chính điều đó đã góp phần tạo

nên sức hút của câu chuyện, mang lại sự tò mò, thích thú cho độc giả khi theo dõi

câu chuyện, đồng thời cũng giúp người đọc hiểu hơn về những góc khuất của cuộc

chiến đã qua. Tuy nhiên các tiểu thuyết viết về chiến tranh có cốt truyện hoàn toàn

nhuốm màu sắc kì ảo rất ít. Theo khảo sát của chúng tôi, chỉ có 2/5 tiểu thuyết dạng

này. Ở dạng cốt truyện thứ hai, ta thấy các dạng thức kì ảo xuất hiện rất ít trong tác

phẩm, sự tham dự của các dạng thức này chủ yếu giúp người đọc hiểu rõ hơn về

hoàn cảnh hoặc những tâm sự thầm kín khó giãy bày của nhân vật. Dạng tiểu thuyết

này cũng xuất hiện rất ít. Bên cạnh đó còn một dạng tiểu thuyết có cốt truyện mang

yếu tố kì ảo, song tiểu thuyết này không đề cập nhiều đến chiến tranh, chiến tranh

chỉ được nhắc đến ở một vài trường đoạn trong cốt truyện. Chẳng hạn như tiểu

thuyết Ngồi (Nguyễn Bình Phương), hoặc Hồn trúc (Nguyễn Văn Thông).

Ở thể tài truyện ngắn, theo kết quả khảo sát chúng tôi nhận thấy so với tiểu

thuyết, các truyện ngắn viết về chiến tranh sử dụng yếu tố kì ảo có số lượng phong

phú hơn (45 truyện). Đặc biệt ở các truyện ngắn bên cạnh những dạng cốt truyện

quen thuộc như dạng truyện có yếu tố kì ảo tham dự vào diễn biến cốt truyện (9/45

truyện), hoặc có yếu tố kì ảo đóng vai trò biểu tượng, xuất hiện song hành cùng cốt

truyện (33/45 truyện), ta thấy còn xuất hiện thêm dạng truyện yếu tố kì ảo tham

gia vào diễn biến của một cốt truyện trong những tác phẩm có hai cốt truyện đan

xen (3/45 truyện).

Ở những truyện ngắn có yếu tố kì ảo tham dự vào diễn biến cốt truyện (9/45

truyện), yếu tố kì ảo cũng là một công cụ đắc lực giúp tác giả khai thác thế giới tâm

tư, tình cảm của những người lính sau chiến tranh, giúp người đọc cảm nhận được

đời sống nội tâm của họ. Tuy nhiên, các dạng thức kì ảo tham dự vào tác phẩm

không đa dạng như khi xuất hiện trong tiểu thuyết. Ở các truyện như Bến trần gian,

Bướm trắng, Cặp bồ với ma, Vòm đa xanh, Đốm lửa, Trái tim con rắn,… đều xuất

hiện duy nhất một dạng thức kì ảo. Bên cạnh đó, do đặc trưng thể tài quy định,

thông thường truyện ngắn chỉ kể về một cuộc đời hay một đoạn đời, thậm chí một

sự kiện hay một “chốc lát” trong cuộc sống nhân vật. Vì vậy cũng đồng thời xuất

hiện xuyên suốt trong tác phẩm, song các dạng thức kì ảo trong truyện ngắn không

dàn trải, kéo dài liên tục gắn bó xuyên suốt với cuộc đời của nhân vật mà chỉ hiện

lên trong một khoảnh khắc, một chốc lát. Chẳng hạn Bến trần gian là câu chuyện

về một linh hồn người lính đã hi sinh rất nhiều năm đang tìm cách trở về quê xưa.

Trong truyện cuộc hành trình trở về của Lăng xảy ra ngay trong một đêm. Cũng

trong đêm đó anh đã gặp lại người yêu xưa, gặp lại người mẹ già và hoàn thành tâm

nguyện bao nhiêu năm của mình. Câu chuyện ngắn gọn song để lại ấn tượng sâu

sắc trong lòng người đọc. Yếu tố kì ảo đã đưa người đọc bước vào thế giới tâm

linh, để hiểu hơn về những mất mát mà chiến tranh để lại, nó không chỉ là nỗi đau

của người ở lại, mà những người đã ra đi vẫn còn đau đáu không yên bởi những

nguyện vọng không thể hoàn thành. Tương tự truyện ngắn Đốm lửa kể về chuyện

hai cô gái đang đi đến nơi hẹn với một đồng đội, trong đêm ấy hai cô bị lạc đường

chỉ quanh quẩn trong một vùng đầm lầy, đến sáng hôm sau hai cô phát hiện người

đồng đội đã hi sinh và xác của anh ở nằm ngay bên cạnh hai cô. Tất cả những điều

kì lạ: những đốm lửa ma trơi, những giấc mơ kì lạ mà hai cô gặp đều diễn ra ngay

trong một đêm. Sáng hôm sau, khi hai cô gái phát hiện ra người đồng đội đã hi sinh

cũng là lúc câu chuyện kết thúc, các dạng thức kì ảo cũng hoàn thành vai trò của

nó ở đây. Người đọc không biết có phải linh hồn của Thanh đã hóa thành những

đốm lửa ma trơi dẫn đường và đã đi vào giấc mơ của hai cô hay đó chỉ là một sự

trùng hợp ngẫu nhiên. Tuy nhiên yếu tố kì ảo đã giúp người đọc hiểu hơn về những

người lính, dù đã hi sinh nhưng họ vẫn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ, dù chết song

hồn thiêng của họ vẫn luôn theo và phù hộ cho những người đồng đội của mình.

Hay như truyện Trái tim con rắn, sự vệc kì lạ mà Thuật gặp chỉ xảy ra sau khi ông

uống ly rượu máu rắn. Suốt đêm hôm đó, chỉ một mình ông đối mặt và chịu đựng

những cơn đau giày vò do trái tim con rắn mà ông uống phải. Sáng hôm sau, mọi

người chỉ thấy Thuật nằm chết mà không hề biết những điều kì lạ đã xảy ra trong

suốt đêm hôm đó. Trong truyện, dạng thức sự việc kinh dị, kì lạ đã chuyển tải đến

người đọc một thông điệp ý nghĩa sức cám dỗ của quyền lực, vật chất sẽ khiến con

người trở nên biến chất, mất nhân tính. Con người không thể tồn tại một khi sự sa

đọa đã đi đến giới hạn cuối cùng của nó.

Chiếm số lượng nhiều nhất là dạng truyện có yếu tố kì ảo đóng vai trò biểu

tượng xuất hiện song hành cùng cốt truyện (33/45 tác phẩm). Cũng giống như thể

loại tiểu thuyết, ở những truyện ngắn mà yếu tố kì ảo đóng vai trò biểu tượng các

dạng thức kì ảo chỉ xuất hiện ở một vài trường đoạn trong tác phẩm, bên cạnh đó

vai trò của nó khá mờ nhạt, người đọc có thể lược bỏ những dạng thức kì ảo này đi

mà không làm thay đổi nội dung cốt truyện. Tuy nhiên, xét về mặt ý nghĩa, sự hiện

diện của các dạng thức kì ảo này trong tác phẩm vẫn mang một giá trị nhất định.

Xuất hiện nhiều nhất trong những truyện này là dạng thức giấc mơ (16/33 truyện).

Ở tác phẩm Người sót lại của rừng Cười ta có thể lược bỏ chi tiết những giấc mơ

của Thảo mà không làm thay đổi nội dung câu chuyện. Tuy nhiên, sự hiện diện của

dạng thức kì ảo này đã giúp người đọc cảm nhận sâu sắc hơn về những vết thương

nơi tâm hồn người lính mà chiến tranh đã để lại. Trong truyện ngắn Hai người đàn

bà xóm Trại, những giấc mơ chất chứa nỗi chờ mong luôn hiện hữu trong tác phẩm.

Chính nhờ những giấc mơ ấy mà người đọc thấu hiểu và cảm thông sâu sắc cho nỗi

bất hạnh của những người vợ lính. Trong chiến tranh, một ước muốn vô cùng giản

đơn “có với hai anh một đứa con” cũng trở nên quá xa vời, không thể nào trở thành

hiện thực. Vì lẽ đó mà mặc dù không phải là thành phần chính của câu chuyện,

song nếu thiếu dạng thức kì ảo này, ý nghĩa của câu chuyện sẽ giảm đi rất nhiều.

Hay ở truyện ngắn Trừng phạt, mô-tip giấc mơ đã giúp người đọc hiểu được những

nỗi niềm ăn năn, ray rứt đang từng ngày dằn xé lương tâm của một người lính lầm

lỗi. Tuy không đóng vai trò chính chi phối cốt truyện, song nếu lược bỏ chi tiết kì

ảo này, người đọc sẽ không thể cảm nhận hết sự đau khổ, ray rứt đó. Ngoài mô-tip

giấc mơ, những dạng thức kì ảo khác như mô-tip hồn người chết trở về, dạng thức

những sự việc kinh dị, kì lạ; lời nói, hành động kì lạ của nhân vật cũng xuất hiện

khá nhiều trong những truyện ngắn có kiểu cốt truyện này. Qua sự khảo sát, chúng

tôi nhận thấy, tất cả các dạng thức kì ảo đều thấy xuất hiện trong các truyện ngắn

có yếu tố kì ảo đóng vai trò biểu tượng. Có thể nói đây là kiểu loại cốt truyện có

các dạng thức kì ảo đa dạng nhất trong các kiểu loại cốt truyện có yếu tố kì ảo. Tuy

các dạng thức kì ảo không đóng vai trò chính chi phối thành phần cốt truyện, song

hầu hết ở mỗi tác phẩm, các tác giả đều chủ tâm thêm thắt, gia giảm đan lồng các

yếu tố kì ảo vào yếu tố thực như một thủ pháp nghệ thuật nhằm chuyển tải nội dung

đến người đọc. Chính sự hiện diện của các yếu tố kì ảo này trong tác phẩm đã góp

phần tạo nên nét đặc sắc riêng cho truyện. Bên cạnh đó trong những kiểu truyện

ngắn này, ở một số tác phẩm, chúng tôi nhận thấy có sự hiện diện của nhiều dạng

thức kì ảo. Chẳng hạn ở truyện Người sót lại của rừng Cười, bên cạnh mô-tip giấc

mơ, ta còn thấy xuất hiện dạng thức những sự việc kinh dị, kì lạ. Câu chuyện về

những cô gái giữ kho quân nhu giữa cánh rừng Trường Sơn bỗng dưng biến thành

những con vượn người vừa khóc vừa cười, vừa dứt tóc, xé áo khiến người đọc

không khỏi ngậm ngùi, xót xa cho số phận của những người con gái sinh ra trong

thời chiến tranh. Đồng thời, chi tiết này cũng góp phần giải thích vì sao những cơn

ác mộng về chiến tranh luôn thường trực trong giấc ngủ của Thảo sau ngày trở về.

Tương tự, ở truyện Trừng phạt, ngoài mô-tip giấc mơ, tác giả cũng đã sử dụng

dạng thức những sự việc kinh dị, kì lạ. Cùng với giấc mơ, dạng thức kì ảo này đã

thể hiện được những trăn trở, dằn vặt nội tâm, những nỗi ân hận muộn màng về lỗi

lầm đã gây của một người lính.

Dạng truyện có hai cốt truyện đan xen cũng được tìm thấy trong các tác

phẩm viết về chiến tranh sau 1975. Qua kết quả khảo sát, ở thể tài tiểu thuyết không

có kiểu loại cốt truyện này. Ở thể tài truyện ngắn, kiểu loại cốt truyện này có xuất

hiện, song số lượng không nhiều (3/45 truyện). Ở những truyện ngắn này, các tác

giả lồng ghép hai cốt truyện vào nhau, cốt truyện thứ nhất xảy ra trong thời bình,

cốt truyện thứ hai là những sự việc xảy ra trong chiến tranh thường được kể lại từ

một nhân vật trong cốt truyện thứ nhất. Các dạng thức kì ảo xuất hiện ở cốt truyện

thứ hai. Ở truyện ngắn Tiếng chuông chiều, yếu tố kì ảo nằm trong câu chuyện kể

của vị sư già về một chuyện kì lạ xảy ra trong chiến tranh. Dạng thức kì ảo được sử

dụng trong tác phẩm là mô-tip hồn người chết trở về. Nội dung cốt truyện thứ hai là

câu chuyện về một người lính ngụy vô tình gặp được hài cốt của một người lính

Việt cộng, anh đã chôn cất bộ hài cốt cẩn thận. Kể từ đó linh hồn của người lính

này luôn theo phù hộ, giúp anh ta vượt qua rất nhiều những nguy hiểm. Trong

truyện, yếu tố kì ảo đóng vai trò chính chi phối nội dung cốt truyện. Ở hai tác phẩm

còn lại, cũng có sự hiện diện của yếu tố kì ảo, song vai trò của nó rất mờ nhạt. Ở

đây, yếu tố kì ảo chỉ đóng vai trò biểu tượng, có thể lược bỏ hoàn toàn mà không

làm phương hại đến nội dung cốt truyện. Ở truyện Tiếng chuông trôi trên sông, câu

chuyện về cuộc đời của một người lính được kể lại qua xấp bản thảo nằm trong tay

một nhà báo. Dạng thức kì ảo được sử dụng ở cốt truyện thứ 2 là mô-tip giấc mơ.

Đó là câu chuyện về cuộc đời của một người lính. Trong những năm tháng chiến

tranh ác liệt, người đàn ông đã phải từ biệt người vợ mới cưới đi chiến đấu. Vào lúc

thập tử nhất sinh, đối mặt với cái chết bởi cơn sốt rét rừng ác tính, hình ảnh người

vợ hiện ra chập chờn trong giấc mơ đã kéo ông về với cuộc sống. Lược bỏ dạng

thức kì ảo này, nội dung câu chuyện vẫn không bị ảnh hưởng nhiều. Tương tự, ở

truyện ngắn Họ đã trở thành đàn ông, dạng thức kì ảo xuất hiện trong luận văn cuối

khóa của cô sinh viên khoa văn. Đó là câu chuyện về một người phụ nữ trong chiến

tranh dám hi sinh mình để giúp những người lính trẻ trước lúc hi sinh được một lần

trở thành đàn ông. Sau khi chị chết, những câu chuyện huyền thoại về chị lan

truyền khắp mặt trận. Người ta kể rằng, khi bom tọa độ bất ngờ chụp xuống suối,

xác chị văng thành ngàn vạn mảnh. Sau đó, khu rừng ấy trở nên xanh tốt kì lạ, hoa

cỏ, cây lá chim chóc chen nhau ríu rít. Đạn bom, chất độc cũng không thể nào hủy

diệt được khu rừng ấy. Có thể lược bỏ chi tiết này mà vẫn không làm thay đổi nội

dung câu chuyện. Tuy nhiên sự có mặt của dạng thức kì ảo những sự việc kinh dị,

kì lạ đã góp phần thể hiện lòng trân trọng, cảm phục trước sự hi sinh thầm lặng, cao

đẹp của người phụ nữ mà không phải ai cũng có thể làm được.

 Như vậy, ở thể tài truyện ngắn, chúng tôi nhận thấy, bên cạnh những kiểu

dạng cốt truyện quen thuộc như kiểu truyện có sự tham dự của yếu tố kì ảo vào

diễn biến cốt truyện (1), kiểu truyện mà yếu tố kì ảo chỉ đóng vai trò biểu tượng

xuất hiện song hành cùng cốt truyện (2), còn xuất hiện thêm dạng truyện lồng

truyện (3), trong đó yếu tố kì ảo thường nằm ở cốt truyện thứ hai. Qua kết quả khảo

sát, kiểu cốt truyện thứ hai chiếm số lượng nhiều nhất trong các truyện ngắn viết về

chiến tranh có sử dụng yếu tố kì ảo sau 1975. Các dạng thức kì ảo tham dự vào kiểu

truyện này khá đa dạng, tuy nhiên các dạng thức này không đóng vai trò chính chi

phối nội dung câu chuyện. Với những truyện này tuy yếu tố kì ảo không đủ sức tạo

nên một không khí mờ ảo, liêu trai bao trùm tác phẩm, song không vì thế mà ta có

thể lược bỏ yếu tố kì ảo một cách tùy tiện. Đối với những cốt truyện có sự tham dự

của yếu tố kì ảo, các dạng thức xuất hiện trong truyện chủ yếu là mô-tip hồn người

chết trở về. Ở một vài tác phẩm còn xuất hiện dạng thức những sự việc kinh dị, kì

lạ. Kiểu cốt truyện này thường để lại ấn tượng khá sâu sắc trong lòng người đọc.

Đến với những tác phẩm này, ta như được bước vào thế giới bãng lãng sương khói

huyền ảo của thế giới cổ tích với những phép màu siêu nhiên, huyền bí. Bên cạnh

đó sự xuất hiện dạng truyện lồng truyện cũng đem lại nét mới cho các truyện ngắn

viết về chiến tranh sau 1975. Tuy nhiên, đa số các tác giả chỉ chú trọng xây dựng

những dạng cốt truyện truyền thống mà ít quan tâm đến dạng truyện có hai cốt

truyện đan xen. Có thể vì thế mà kiểu truyện này xuất hiện khá ít và không tạo

được dấu ấn nhiều so với các kiểu truyện còn lại. Do đặc trưng thể tài quy định,

truyện ngắn chỉ kể về một cuộc đời hay một đoạn đời, thậm chí một sự kiện hay

một “chốc lát” trong cuộc sống nhân vật. Vì vậy dù có mặt ở kiểu loại cốt truyện

nào đi nữa, các dạng thức kì ảo cũng không dàn trải, kéo dài liên tục, gắn bó xuyên

suốt với cuộc đời của nhân vật như ở tiểu thuyết mà chỉ hiện lên trong một khoảnh

khắc, một chốc lát. Mặc dù vậy, nó cũng đủ để người đọc thấu hiểu được những

tâm tư, tình cảm của nhân vật, những mảng màu sáng, tối của cuộc chiến đã qua.

Qua sự tìm hiểu, chúng tôi đi đến kết luận giữa tiểu thuyết và truyện ngắn có

một số điểm giống và khác nhau như sau:

+ Giống nhau:

Khi viết về đề tài chiến tranh sau 1975, cả tiểu thuyết và truyện ngắn đều

được chú trọng xây dựng những cốt truyện mang tính chất hoang đường kì ảo. Để

tạo sức hấp dẫn cho câu chuyện, quan trọng hơn nhằm thể hiện một cách sâu sắc

các tầng lớp ý nghĩa, các tác giả đã sử dụng nhiều dạng thức kì ảo trong tác phẩm.

Tính chất kì ảo, lạ lùng, ma quái không chỉ tạo cảm giác mới mẻ cho người đọc khi

tiếp xúc tác phẩm, mà quan trọng hơn, nó giúp nhà văn phản ánh một cách sâu sắc

đời sống nội tâm phức tạp của con người, đặc biệt là người lính sau những năm

tháng chiến đấu trở về với cuộc sống thời bình. Có thể thấy sự xuất hiện của yếu tố

kì ảo không khiến câu chuyện trở nên kì bí, hoang đường mà trái lại nó càng làm

nổi bật những hiện thực bộn bề trong đời sống con người.

Tuy nhiên do đặc trưng thể tài khác nhau, do đó các yếu tố kì ảo tham dự

trong tiểu thuyết sẽ khác với các yếu tố kì ảo tham dự trong truyện ngắn.

+ Khác nhau:

- Về tần số xuất hiện các dạng thức kì ảo: chúng tôi nhận thấy ở tiểu thuyết

các dạng thức kì ảo xuất hiện đa dạng, tần số dày đặc trong cùng một tác

phẩm, trong khi đó ở truyện ngắn, hầu hết mỗi tác phẩm chỉ xuất hiện duy

nhất một dạng thức kì ảo.

- Về kết cấu nghệ thuật: Nếu như tiểu thuyết chỉ xuất hiện hai kiểu loại cốt

truyện: Kiểu truyện có yếu tố kì ảo tham dự vào diễn biến cốt truyện và kiểu

truyện có yếu tố kì ảo đóng vai trò biểu tượng, xuất hiện song hành cùng tác

phẩm, thì ở truyện ngắn, bên cạnh 2 loại cốt truyện vừa nêu, còn xuất hiện

thêm kiểu truyện lồng truyện (kiểu truyện có yếu tố kì ảo tham dự vào diễn

biến một cốt truyện trong những tác phẩm có hai cốt truyện đan xen).

- Ngoài ra, qua khảo sát chúng tôi nhận thấy số lượng truyện ngắn viết về

chiến tranh sau 1975 có yếu tố kì ảo tương đối phong phú (45 truyện), trong

khi đó tiểu thuyết chỉ xuất hiện 5 tác phẩm.

3.2. Yếu tố kì ảo từ góc nhìn văn hóa tâm linh

3.2.1. Thuật ngữ tâm linh

Liên quan với đến vấn đề tâm linh, tiếng Anh có hai thuật ngữ là

spiritualism (duy linh luận) và spiritism (thông linh luận). Duy linh luận là niềm tin

tôn giáo - triết học về sự tồn tại sau cái chết, còn thông linh luận giả định về một số

hiện tượng liên quan với sự can thiệp của người chết.

Như vậy, ta có thể hiểu tâm linh là một khái niệm thuộc lĩnh vực tinh thần.

Con người luôn tin rằng có những sức mạnh siêu nhiên huyền bí vẫn tồn tại xung

quanh mình mà mắt thường không thể nhìn thấy. Có lẽ vì vậy mà hình ảnh của

Chúa, của Phật vẫn tồn tại trong tâm thức con người. Bên cạnh đó, người ta cũng

tin rằng có một thế giới khác tồn tại song song với thế giới con người. Đó là thế

giới của những người đã khuất. Con người chết rồi, linh hồn vẫn tồn tại và thường

lẩn khuất đâu đó bên cạnh những người còn sống.

Việc hướng về thế giới tâm linh là một nhu cầu tất yếu trong đời sống tinh

thần của con người. Nhu cầu này giúp con người xoa dịu nỗi đau trần thế, vượt qua

được những khó khăn, những thử thách của cuộc đời dù chỉ là về mặt tinh thần.

Đặc biệt đối với những người bị mất đi người thân yêu của mình thì việc tin vào

linh hồn người đó vẫn đang tồn tại bên cạnh mình là cách để giảm bớt những mất

mát, đau thương. Có thể thấy rằng, tất cả những hiện tượng nêu trên đều là những

biểu hiện cụ thể của một đời sống tâm linh vô cùng huyền bí. Đời sống tâm linh

chính là một hình thái đặc biệt gắn với con người khá mật thiết. Một khi còn tồn tại

con người, một khi còn tồn tại sự sống và cái chết thì khái niệm tâm linh vẫn còn là

một vấn đề mà con người luôn hướng đến tìm hiểu và khám phá.

3.2.2. Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh

sau 1975 từ góc nhìn văn hóa tâm linh

Trong đời sống người Việt, tâm linh không còn là một khái niệm xa lạ. Nó

biểu hiện ở nhiều mặt trong cuộc sống. Người ta tin rằng con người sau khi chết

linh hồn sẽ thoát ra khỏi xác hoặc về nơi cực lạc, hoặc vẫn còn quanh quẩn bên

cạnh người con sống. Tuy nhiên mắt thường không thể nhìn thấy những linh hồn

này mà chỉ có những nhà ngoại cảm, những người có khả năng đặc biệt mới có thể

gặp được. Vì vậy, khi muốn gặp mặt người thân đã mất, người ta thường tìm đến

những nhà ngoại cảm, những ông đồng, bà cốt. Những lúc gặp khó khăn, trắc trở

hoặc phải đối mặt với một việc gì đó ngoài khả năng giải quyết của mình, người ta

thường cầu xin sự trợ giúp của những thế lực siêu nhiên. Bên cạnh đó, người ta còn

tin trong những trường hợp đặc biệt, con người có khả năng dự cảm được tương lai,

vận mệnh của mình,… Có thể nói những biểu hiện tâm linh trong cuộc sống rất đa

dạng.

Trong các sáng tác văn học sau 1975, đặc biệt là trong những tác phẩm viết

về chiến tranh, người đọc dễ dàng tìm thấy những biểu hiện tâm linh trong các tác

phẩm thông qua những yếu tố kì ảo. Qua khảo sát các tác phẩm, có thể nhận thấy

những truyện viết về chiến tranh sau 1975 tập hợp khá đa dạng những biểu hiện

tâm linh thường thấy trong quan niệm dân gian của người Việt. Bảng khảo sát sau

là những biểu hiện tâm linh thường thấy trong các tác phẩm viết về chiến tranh có

yếu tố kì ảo sau 1975.

Bảng khảo sát các biểu hiện đời sống tâm linh trong tiểu thuyết, truyện ngắn

viết về chiến tranh sau 1975

Các biểu hiện tâm linh Tần số xuất hiện

(60 lần)

Hồn ma trở về 33/60 lần

Linh hồn báo mộng 9/60 lần

Tiên tri, dự báo 5/60 lần

Linh cảm về cái chết 4/60 lần

Thần giao cách cảm 3/60 lần

Điềm gỡ 2/60 lần

Lên đồng 2/60 lần

Bướm ma, ma trơi 2/60 lần

Có thể thấy những biểu hiện của đời sống tâm linh trong các tác phẩm viết

về chiến tranh sau 1975 khá đa dạng. Thế giới tâm linh trong những câu chuyện

này kì lạ và không kém phần bí ẩn như những câu chuyện liêu trai trước đây. Bên

cạnh một thế giới cõi âm với những hồn ma bóng quỷ, trong các tác phẩm, người

đọc cũng có thể thấy những hiện tượng bí ẩn, kì lạ như lời tiên tri, dự báo, những

linh tính, hiện tượng thần giao cách cảm của con người, các tác phẩm cũng có đề

cập đến hiện tượng, bướm ma, ma trơi bí ẩn. Ngoài ra hiện tượng lên đồng cũng

được nhắc đến trong một số truyện. Tuy nhiên được khai thác nhiều nhất vẫn là

mô-tip hồn ma.

Những câu chuyện về hồn ma bóng quỷ đã xuất hiện từ lâu đời trong các tác

phẩm văn học. Đặc biệt người ta thường viết nhiều về truyện ma. Mỗi thời kì khác

nhau, truyện ma có những cách thể hiện khác nhau. Trong Truyền kì mạn lục của

Nguyễn Dữ, những hồn ma thường hóa thân thành những cô gái xinh đẹp quay về

dương gian để quyến rũ những thư sinh đa tình, háo sắc, hoặc để tận hưởng tình

yêu, báo ân, báo oán, hoặc để quấy nhiễu dương gian. Ở Văn chiêu hồn của Nguyễn

Du là một thế giới hồn ma bóng quỷ bơ vơ, vất vưởng. Thế giới ấy mang đến cho

người đọc sự thương cảm, xót xa đối với những phận người lạc loài sau khi chết.

Thế giới ma quỷ cũng xuất hiện khá nhiều trong văn học thế kỉ XX. Trong Xác

ngọc lam, Khoa thi cuối cùng,… Nguyễn Tuân đã rất thành công khi xây dựng một

thế giới nhân vật ma quỷ kì ảo gây nên sự sợ hãi, tò mò nơi người đọc. Ma của

Nguyễn Tuân cũng hiện ra với những chức năng giống như những câu chuyện liêu

trai trong văn học trung đại xưa như ma hiện hồn để yêu, để báo ân, báo oán, ma

hóa thân thành người để cứu giúp dương gian,… Trong Bóng người trong sương

mù của Nhất Linh, thế giới cõi thực và ảo nhập nhòe. Dường như hình ảnh cánh

bướm đen đã giúp đoàn tàu dừng lại đúng lúc chính là sự hiện thân của người vợ

hiền chung thủy.

Sau một thời gian dài vắng bóng, các dạng thức kì ảo đã xuất hiện trở lại

trong các tác phẩm văn học sau 1975 và mô-tip hồn người chết trở về trở thành

một trong những dạng thức thường được các nhà văn khai thác trong tác phẩm của

mình. Đặc biệt sự xuất hiện của các dạng thức kì ảo trong các tiểu thuyết, truyện

ngắn viết về chiến tranh thật sự đã đem đến sự tò mò, thích thú cho người đọc khi

tiếp xúc, lý giải vấn đề. Trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975, để đáp ứng

nhu cầu bức thiết của thời đại, sự sống còn của cả dân tộc, văn học không chấp

nhận sự ủy mị, bi thương và đau khổ. Vì thế văn học không nói nhiều về cái chết

và hình ảnh người chiến sĩ bao giờ cũng hiện ra trong tư thế hiên ngang, hùng

dũng. Họ oanh liệt, hùng dũng ngay cả khi đối diện với cái chết. Tuy nhiên hiện

nay do nhu cầu nhận thức lại hiện thực chiến tranh đã qua, nhu cầu muốn nhìn

thấy con người cá nhân, con người đặt trong các mối quan hệ xã hội nên mỗi tác

phẩm phải “là một bức chân dung đầy đặn, nhiều chiều, nhiều cạnh”. Để đáp ứng

điều này, các nhà văn đã dùng nhiều phương thức khác nhau, và yếu tố kì ảo chính

là phương tiện hữu hiệu để nhà văn đạt được mục đích đó. Thế nên trong các tác

phẩm viết về chiến tranh sau này không chỉ có thế giới của sự sống mà còn có thế

giới của ma, thế giới của những con người sau khi chết. Trong những truyện viết

về chiến tranh sau 1975, sự hiện hồn của những bóng ma có thể là sự tìm về của

những linh hồn người lính đã bỏ thân lại nơi chiến trường, cũng có thể do xuất

phát từ tâm hồn bấn loạn và tình cảm tiếc thương của những người còn sống.

Trong thực tế, con người chết đi có nghĩa là không còn tồn tại trên cuộc đời,

tương tự trong tác phẩm văn học, khi nhân vật chết có nghĩa là nhân vật đó chấm

dứt vai trò trong truyện và sẽ không xuất hiện trong những phần tiếp theo, hoặc

nếu có xuất hiện thì cũng thông qua hồi ức hoặc lời kể của những nhân vật khác.

Tuy nhiên, dưới góc nhìn tâm linh, con người chết chỉ là phần xác, phần hồn vẫn

tồn tại và thoát ra khỏi xác tự do di chuyển trong không gian, và họ có thể làm

được những việc mà con người khi còn sống không thể thực hiện. Với những

truyện viết về chiến tranh có yếu tố kì ảo, những nhân vật đã chết vẫn có thể quay

trở về bên cạnh những người còn sống. Sự trở về của những linh hồn có ý nghĩa

rất quan trọng về mặt tâm linh: Trong chiến tranh, đạn bom ác liệt đã tước đi sinh

mệnh của con người, đã có biết bao người lính phải nằm lại vĩnh viễn nơi chiến

trường mà đến hôm nay vẫn còn đó những nấm mồ vô danh nơi nghĩa trang

Trường Sơn lạnh lẽo. Các anh đã ngã xuống khi tuổi đời còn rất trẻ, ra đi khi chưa

một lần gặp lại người thân, người yêu, người vợ. Đứng từ góc nhìn tâm linh để tìm

nhận vấn đề, rất có thể vì những nguyện ước không thể thực hiện đó mà hồn các

anh hiện vẫn còn lẩn khuất đâu đó nơi núi rừng âm u, vẫn đang tìm cách trở về quê

nhà, gặp lại người thân. Sau chiến tranh, vẫn còn đó những người mẹ, người vợ

lặn lội khắp nơi để tìm hài cốt của chồng, của con; Sự có mặt của yếu tố kì ảo phần

nào giúp xoa dịu nỗi đau của con người bởi: Những người mẹ, những người vợ ấy

vẫn nuôi một niềm hi vọng sẽ gặp lại người thân của mình dù đó chỉ là một nắm

xương, thậm chí đó chỉ là một linh hồn. Họ tin rằng trong cõi u linh nào đó, hồn

thiêng của các anh vẫn đang hướng về quê nhà, họ cũng tin rằng nhờ năng lực siêu

nhiên, họ sẽ mau chóng tìm được hài cốt của người thân yêu. Có lẽ nhờ niềm tin

vào những điều siêu nhiên, huyền ảo mà những nỗi đau do chiến tranh để lại đã

phần nào được xoa dịu theo năm tháng. Có thể thấy được điều này qua những

truyện như Nỗi buồn chiến tranh, Ăn mày dĩ vãng, Tàn đen đốm đỏ, Đốm lửa,

Bướm trắng, Tiếng chuông chiều, Cặp bồ với ma, Đàn sẻ ri bay ngang rừng, Mắt

ma, Hồn trinh nữ, Ám ảnh có thật, Bến trần gian, …

Ở các truyện này, bên cạnh một thế giới hiện thực còn là một thế giới siêu

nhiên huyền bí, một thế giới mà ở đó, người đọc lần lượt chứng kiến sự hiện diện

của những linh hồn người lính đã hi sinh trong chiến tranh. Đến với truyện Bến

trần gian, người đọc được chứng kiến một thế giới vừa hư vừa thực. Một cánh

rừng Trường Sơn âm u, lạnh lẽo, nơi nương náu của những hồn ma lang thang.

Nơi đây, linh hồn của một người lính đã hi sinh nhiều năm vẫn còn đang lẩn quẩn

tìm đường quay về. Một bến sông mang màu sắc huyền ảo, nơi giao nhau giữa

người sống và người chết, nơi gắn với truyền thuyết ma gọi đò vừa hư vừa thực.

Tại đây, Lăng đã gặp lại người mẹ già, hoàn thành tâm nguyện bao nhiêu năm của

mình. Đây không phải là câu chuyện về một người lính còn sống trở về đoàn tụ

với người thân sau chiến tranh mà là câu chuyện về một linh hồn người lính hi

sinh đã nhiều năm, nay trở về gặp lại người mẹ già đáng thương. Hẳn nếu không

có sự hiện diện của yếu tố kì ảo, có lẽ Lăng mãi mãi chỉ là một nắm xương nằm

đâu đó giữa cánh rừng Trường Sơn bạt ngàn; mẹ anh sẽ chẳng bao giờ được gặp

lại đứa con thân yêu của mình. Cuộc gặp gỡ giữa hai con người của hai thế giới

diễn ra trong đau đớn và xúc động. Phép màu hư ảo đã giúp Lăng được hoàn thành

tâm nguyện bao nhiêu năm, giúp bà cụ gặp lại người con trai đã hi sinh của mình.

Tuy phép màu kì ảo không mang lại sự sống cho anh, nhưng xét về mặt tâm linh,

nó đã phần nào giúp người còn sống giảm nhẹ nỗi đau, bởi dù sao bà cũng đã được

gặp lại người con trai duy nhất của mình.

Trong chiến tranh, biết bao người trẻ tuổi ra đi khi họ chưa một lần được nói

lời yêu, để rồi khi nằm lại vĩnh viễn nơi chiến trường, họ vẫn không nguôi khao

khát được thỏa nguyện hạnh phúc trong tình yêu – một thứ tình cảm thiêng liêng

mà vì chiến tranh, vì những năm tháng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc họ đành gác lại.

Đến với truyện Bướm Trắng, ta xúc động bởi mối tình giữa anh lính lái xe và cô

thanh niên xung phong Bạch Điệp. Họ yêu nhau ngay từ ánh nhìn đầu tiên nhưng

bởi chiến tranh, tình yêu ấy chưa một lần được bày tỏ. Đến khi ngã xuống, Bạch

Điệp và Xuân Sinh vẫn chưa một lần có cơ hội bày tỏ tình cảm cùng nhau. Để giúp

cô hoàn thành tâm nguyện, tác giả đã tạo nên một cốt truyện đầy màu sắc liêu trai,

huyền ảo. Những yếu tố kì ảo trong tác phẩm không hề xa lạ mà rất gần gũi với

quan niệm dân gian. Theo quan niệm dân gian bướm là những vong linh phiêu

lãng. Người ta cho rằng bướm xuất hiện có nghĩa là linh hồn của người đã khuất

về thăm. Ở truyện Bướm trắng, bướm là hiện thân của linh hồn Bạch Điệp. Sau

khi chết, để gặp lại người yêu, hồn cô đã hóa thân thành bướm. Yếu tố kì ảo không

chỉ nằm ở hình ảnh hóa thân của Bạch Điệp, để nối lại tình yêu của Xuân Sinh và

Bạch Điệp, tác giả đã tạo nên nhiều chi tiết huyền ảo, li kì tựa như một câu chuyện

cổ tích thời hiện đại. Bằng những giọt máu của mình, Sinh đã nối lại mạng sống

cho Bạch Điệp. Chuyện ngỡ chỉ xảy ra trong các truyền thuyết liêu trai, trong

những câu chuyện cổ tích dân gian lại xảy ra trong câu chuyện của những người

lính sau chiến tranh. Xét về mặt tâm linh, nhờ những yếu tố kì ảo, những điều ngỡ

như không thể xảy ra đã giúp cho Bạch Điệp và Xuân Sinh gặp lại nhau, hoàn

thành nguyện ước của mình. Không chỉ thế, phép màu đã mang lại sự sống cho

Bạch Điệp. Nếu không có sự hiện diện của yếu tố kì ảo trong truyện, có lẽ Xuân

Sinh sẽ không thể gặp lại cô, Sinh cũng sẽ không thể dùng máu tim mình để nối lại

sự sống cho Bạch Điệp và tình yêu của hai người sẽ mãi mãi vùi chôn dưới lòng

đất lạnh. Yếu tố kì ảo đã khiến những việc không thể trở thành có thể, giúp hai

người yêu nhau được toại nguyện, phần nào xoa dịu những mất mát mà chiến

tranh đã để lại.

Đến với Cặp bồ với ma, người đọc như bước vào những câu chuyện liêu trai

truyền kì, những câu chuyện về hồn ma hóa thân thành những cô gái xinh đẹp trở

về dương gian để thỏa nguyện tình yêu với những thư sinh đa tình. Tuy nhiên đây

lại là câu chuyện xảy ra trong thời bình, hồn ma trong truyện từng là một cô dân

công đáng thương. Cô chết đi khi chưa một lần gặp được tình yêu đích thực, có lẽ

vì vậy mà đã qua bao nhiêu năm, hồn cô vẫn chưa được siêu thoát. Dân gian quan

niệm những người chết mà tâm nguyện chưa hoàn thành linh hồn không thể đi đầu

thai mà sẽ thường xuyên trở về hoặc để quấy nhiễu cuộc sống của người trên

dương thế hoặc để hoàn thành tâm nguyện của mình. Trong truyện, hồn ma của

Huệ vẫn thường xuyên hiện về vào những đêm tối để hoàn thành tâm nguyện yêu

và được yêu với một người trần gian, bởi khi sống, do chiến tranh cô chưa một lần

tận hưởng tình yêu một cách trọn vẹn. Như một sự bù đắp, hồn cô đã gặp được

người đàn ông yêu cô chân thành. Những ngày sống với anh, cô đã cảm nhận được

tình yêu của con người, được hoàn thành tâm nguyện của mình.

Qua ánh mắt của Nẫm trong Đàn sẻ ri bay ngang rừng, người đọc có cảm

giác dường như giữa người sống và người chết có một sợi dây tình cảm khó thể

tách rời. Nẫm hi sinh trong chiến tranh, nhưng Diễm (vợ Thản – em trai Nẫm) vẫn

luôn có cảm giác Nẫm bên cạnh, và nhiều lần cô bắt gặp ánh mắt đau đáu của Nẫm

dõi theo mình. Dường như Nẫm luôn dành cho Diễm một sự quan tâm đặc biệt

hơn hẳn tình yêu mà Thản dành cho cô. Khi Diễm sinh, bằng ánh mắt trìu mến,

Nẫm “nhìn gương mặt võ vàng” của cô, rồi “nhìn lướt xuống bụng, nơi cái cuống

rau vừa bị cắt còn lòng thòng thò ra chỗ sinh nở”. Anh “cúi xuống hôn con bé”

như thể đó chính là con ruột của mình. Phải chăng vì Diễm mà Nẫm mới trở về

ngôi nhà mà lúc sống anh đã từng muốn rời xa nó và Diễm cũng mơ hồ có cảm

giác đặc biệt với người đàn ông “đã sờ nắm được hết những mạch máu ly ti chảy

trong cơ thể cô mà tình yêu của Thản chỉ chạm tới chứ không nắm được”. Người

con gái trong Vùng sáng của kí ức đêm nào cũng thấy người chồng chưa cưới đã hi

sinh của mình trở về bên cạnh, mà theo như lời chị thì “đêm nào anh ấy cũng về

với chị. Chị vui anh ấy cũng biết, chị buồn anh ấy cũng biết…”.

 Ở những truyện này, người đọc cảm nhận được ranh giới giữa sự sống và cái

chết, giữa cõi âm và cõi dương, giữa người và ma đã bị xóa nhòa. Chiến tranh đã

cướp đi sinh mạng của con người nhưng không thể ngăn cản những tình cảm thiêng

liêng, sâu sắc của họ. Người còn sống vẫn luôn hướng về người đã khuất, vẫn tin

rằng trong cõi u linh nào đó, linh hồn người chết vẫn còn lẩn khuất để một ngày

nào đó quay về đoàn tụ với họ. Người đã khuất vẫn còn đau đáu, trăn trở về những

người thân còn sống, chưa thể siêu thoát vì những nguyện vọng chưa thành. Thế

nên dù bị ngăn cách giữa hai thế giới, họ vẫn luôn hướng về nhau. Truyện viết về

chiến tranh có yếu tố kì ảo đã làm được những điều mà các tác phẩm khác không

làm được: quan tâm đến khía cạnh đời tư, những tình cảm những khao khát hạnh

phúc chính đáng không chỉ của người còn sống mà còn là của những người lính đã

hi sinh. Những người đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường với những nguyện

vọng không thể thực hiện.

Ở một phương diện khác của thế giới tâm linh, người ta cho rằng với những

người chết mà không được thờ cúng, họ sẽ trở thành những linh hồn lang thang,

vất vưởng, quấy nhiễu cuộc sống con người. Theo dân gian, những hồn ma này

thường lang thang khắp nơi và chỉ xuất hiện trong đêm tối vì họ rất sợ ánh sáng.

Trong một số truyện viết về chiến tranh sau 1975, ta thấy có xuất hiện loại hồn ma

này. Họ đều là những người lính đã hi sinh. Chiến tranh - đạn bom ác liệt, khắp

chiến trường là những nấm mồ vô danh, không tên, không tuổi. Xét ở khía cạnh

tâm linh, nơi nào có nhiều người chết, nơi ấy sẽ có nhiều hồn ma. Rất nhiều những

hồn ma lang thang xuất hiện trong tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh. Qua lời tâm sự

của người lái xe đồng hành cùng Kiên trong chặng đường tìm kiếm hài cốt những

người chiến sĩ đã hi sinh trong chiến tranh “Trông hoang vu thế thôi chứ dưới đất

kia người nằm đã đông chật cả rồi. Mà nói chung ở cả cái B3 này đâu đâu chả

nhiều ma quỷ. Tôi lái cho đoàn gom xương nhặt hài cốt từ hồi 73 tới giờ mà đã

quen nổi với đám hành khách từ trong mồ hiện ra kia đâu. Chẳng đêm nào mà họ

không lay mình dậy để chuyện gẫu. Phát khiếp lên được. Đủ loại. Lính cũ. Lính

mới. Lính sư 10, sư 2, quân tỉnh đội, quân cơ động 320, đoàn 559. Thỉnh thoảng

có các “mộng” tóc dài… Đôi khi chen vào vài anh ngụy” [40, 44] ta có thể thấy

rằng thế giới tâm linh vẫn đang tồn tại bên cạnh thế giới của sự sống, và người lính

lái xe tin vào điều đó. Những linh hồn bơ vơ của những người chiến sĩ đã hi sinh

kia vẫn thường hiện về có lẽ bởi họ mang một tâm nguyện nào đó vẫn chưa hoàn

thành khi ngã xuống. Họ chết trong vô danh và lặng lẽ. Họ ra đi khi tuổi còn rất

trẻ, chết mà chưa một lần được gặp lại người thân (Can là một trường hợp tiêu

biểu). Hẳn vì thế mà linh hồn không thể siêu thoát. Và Kiên, trong những chuỗi

ngày sau này, anh vẫn thường xuyên bắt gặp những linh hồn lở loét nơi góc cầu

thang tối tăm ôm những vết thương đỏ lòm toác hoác bởi đạn bom chiến tranh.

Anh cũng thường mơ thấy Can “trở về thì thào ngay bên võng, lặp lại cuộc trò

chuyện nhạt nhẽo bên bờ suối chiều hôm nào. Tiếng thì thào chuyển dần thành

tiếng nức nở, thành tiếng nấc nghẹn y như là tiếng nước sặc lên trong cổ họng kẻ

sắp sửa chết chìm” [40, 26]. Trong Ăn mày dĩ vãng, Hai Hùng cũng đã từng một

lần đối diện với hồn ma của những đồng đội đã hi sinh trong một lần ở nghĩa

trang. Nếu giải thích theo quan niệm tâm linh, có lẽ do người lính ra đi khi tuổi

còn quá trẻ, chết mà không có một nấm mồ, một nén nhang để an ủi vong linh nên

họ quay về quấy nhiễu cuộc sống của con người trên dương thế. Nhưng vượt lên

trên cả quan niệm tâm linh ấy, khi sử dụng mô-tip hồn người chết trở về, nhà văn

muốn thể hiện những dằn xé, trăn trở, cắn rứt trong tâm hồn của những người lính.

Trong chiến tranh, từng giờ từng phút người lính phải đối mặt với sinh tử sống

còn. Cái chết luôn kề bên. Chỉ cần một chút sơ suất, sinh mạng một người sẽ vĩnh

viễn ra đi. Với những người còn sống trở về, nỗi ám ảnh về đạn bom, về cái chết

của những người đồng đội vẫn mãi là kí ức kinh hoàng không thể quên. Đó là lý

do vì sau mà Kiên (Nỗi buồn chiến tranh) và Hai Hùng (Ăn mày dĩ vãng) vẫn

thường trông thấy linh hồn của những người lính, những người đồng đội đã hi sinh

.

Theo quan niệm tâm linh, người ta tin rằng con người sau khi chết sẽ có thể

thực hiện được những việc mà người sống không thể làm. Người lính trong Tiếng

chuông chiều đã nhiều lần hiện về cứu giúp một người lính Sài gòn để trả ơn anh

ta. Một lần anh đã giúp cho gã lính khỏi phải cắt bỏ đôi chân bị nhiễm trùng bằng

cách dùng tay xoa nhẹ vào vết thương; lần khác anh đã giúp hắn thoát chết trong

tích tắc khi quả bom bị nổ tung. Ở truyện Mắt ma, nhờ có đôi mắt của Đồng -

người bạn đã hi sinh trong chiến tranh - cho, mà Huấn có thể nhìn thấy trước

chuyện tương lai, và nói đúng những chuyện quá khứ. Nhưng kể từ đó, anh không

giống như những người bình thường khác. Khi anh nhìn mâm cơm cúng bằng đôi

mắt ma ấy, con gà mới luộc bỗng nhớt lại, vừa mủn, tanh tanh, nồng nồng không

thể ăn. Cho đến nay, ma vẫn còn là một điều bí ẩn đối với nhân loại. Sự bí ẩn của

ma vì vậy luôn mang đến cho con người sự sợ hãi xen lẫn tò mò, thích thú.

Người xưa thường bảo, đêm tối đi trong những vùng đầm lầy sẽ gặp ma trơi,

hay nếu đi đêm một mình ở nơi vắng vẻ sẽ bị ma dẫn đường khiến người ta bị lạc,

không tìm được lối ra. Ở truyện Đốm lửa, Ngọc và Mỹ đã gặp những chuyện vô

cùng kì lạ. Suốt đêm, hai người bị lạc trong một vùng đầm lầy mà ngày thường họ

vô cùng quen thuộc. Trong bóng đêm âm u, rùng rợn chứa đầy sự bất trắc đó, thỉnh

thoảng trước mắt hai cô gái là những đốm lửa xanh lập lòe khi ẩn khi hiện. Những

đốm lửa xanh khi ẩn khi hiện đó có thể là ma trơi. Ma trơi - theo quan niệm dân

gian là một loài ma có hình dạng giống như ngọn lửa nhỏ, có đốm xanh và hay trêu

chọc người đi đường. Loài ma này được cho là linh hồn của những đứa trẻ tinh

nghịch chết sớm. Do chưa mang nhiều nghiệp chướng nhân gian nên loài ma này

không bị đày xuống địa ngục nhưng cũng không đủ duyên phận để siêu thoát.

Trong khi chờ để đầu thai vào kiếp khác, những linh hồn tinh nghịch này rong chơi

và hù dọa người qua đường. Còn theo giải thích của các nhà khoa học, thật ra chẳng

có ma quỷ gì cả. Trong xương và não người có nhiều photpho, sau khi chết, các vi

khuẩn sẽ phân hủy xác và sinh ra photphin (PH3) và điphotphin (P2H4). PH3 chỉ

có thể bốc cháy trong không khí ở nhiệt độ 150 độ C, tuy nhiên, do có lẫn P2H4

nên cả hai sẽ tự bốc cháy trong không khí ở điều kiện thường. Dù theo quan niệm

dân gian hay khoa học đi nữa thì sự xuất hiện đúng lúc và sự dẫn đường của những

đốm lửa ấy đã giúp hai cô gái thoát khỏi sự mai phục của bọn địch. Có lẽ chính hồn

thiêng của anh bộ đội đã hóa thành những đốm sáng dẫn đường, giúp hai người

đồng đội của mình thoát khỏi nguy hiểm.

Ngoài ra, trong các tác phẩm viết về chiến tranh sau 1975 còn để cập đến

những vấn đề bí ẩn của giấc mơ. Nằm mộng, đó là một hiện tượng thường xảy ra

trong giấc ngủ của con người. Các nhà phân tâm học cho rằng giấc mơ là biểu hiện

của những ẩn ức bị kìm nén trong tỉnh thức, và nó bộc lộ mạnh mẽ khi con người

chìm vào cõi vô thức. Tuy nhiên có những giấc mơ kì lạ mà khoa học dù hiện đại

vẫn không thể giải thích được. Đó là những giấc mơ mà người mơ được gặp lại

người đã mất, nói cách khác trong những giấc mơ đó, linh hồn người đã khuất trở

về báo mộng cho những người còn sống để báo trước một điều sắp xảy ra hoặc giúp

người chết hoàn thành một tâm nguyện nào đó. Trong các truyện viết về chiến

tranh sau 1975, không hiếm để gặp những giấc mơ như thế. Ở truyện ngắn Mai,

linh hồn của cô gái về báo mộng với cha vị trí hài cốt của mình. Trong tác phẩm

Đốm lửa, hồn thiêng của anh bộ đội đã trở về báo mộng, giúp cho hai cô gái thoát

khỏi sự mai phục của bọn giặc. Hay trong truyện Đồng đội, trong giấc mơ, Biền

thấy linh hồn của những người đồng đội đã hi sinh từ lâu trong chiến tranh trở về

trách móc, than thở vì những tâm nguyện chưa được người còn sống hoàn thành.

Qua lời anh kể “Hôm qua tôi mơ thấy thằng Thái nó về. Nó xin một điếu thuốc bảo

dưới ấy lạnh lắm, ngủ không được. Nó trách đồng đội sao không lấy nòng cối lên.”

Ta thấy dường như bên cạnh thế giới cõi dương còn là một thế giới cõi âm với

nhiều điều bí ẩn. Những linh hồn ở cõi âm ấy vẫn còn lẩn khuất đâu đó và giấc mơ

– đó chính là cách để họ giao tiếp với những người còn sống.

Có thể nói thế giới tâm linh đầy huyền bí. Bên cạnh niềm tin vào cuộc sống

sau cái chết, trong quan niệm dân gian, người ta tin rằng có sự trừng phạt khi con

người phạm phải những điều ác. Những việc làm ác dù tinh vi, có thể thoát khỏi sự

trừng phạt của pháp luật vẫn khó thể thoát khỏi sự trừng phạt của một thế lực siêu

nhiên nào đó bên cạnh con người. Người đàn ông trong Trái tim con rắn đã chết

một cách kì lạ, khó hiểu. Suốt đêm trước khi chết, Thuật (tên nhân vật) phải vật vã

với những cơn đau khủng khiếp và kì lạ, với một “con rắn” chui ra từ trong lồng

ngực mà chỉ ông mới nhìn thấy. Những người còn sống không ai biết lí do vì sao

Thuật chết. Họ cho rằng ông chết vì “nhồi máu cơ tim”. Cái chết có vẻ bí ẩn, song

nếu hiểu theo quan niệm tâm linh thì đó chính là cái giá mà Thuật phải trả cho

những hành động suy đồi đạo đức của chính mình. Cái chết của Thuật trong truyện

là một lời cảnh báo sự tha hóa, suy đồi về đạo đức đang giết chết dần những con

người mà một thời họ đã có những cống hiến cho Tổ quốc. Trong truyện ngắn Hồn

trinh nữ, chàng trai đã không giữ được hạnh phúc của mình. Trong ngày thành hôn,

hồn ma của người đàn bà đã đến đòi trả lại mạng sống cho chồng chị ta. Chàng phải

trả giá cho những gì mà chàng đã gây ra. Hạnh phúc sẽ vĩnh viễn không bao giờ

mỉm cười với chàng và người con gái chàng yêu.

Hiện tượng lên đồng, tìm xác cũng được nhắc đến trong các tác phẩm viết về

chiến tranh sau 1975. Khi nói về thế giới tâm linh, người ta luôn ám ảnh bởi

những câu chuyện về việc chụp được ảnh linh hồn, về thần giao cách cảm, về gọi

hồn, lên đồng, nhập hồn, thoát xác. Hiện tại, có những người tìm được hài cốt

người thân nhờ những nhà ngoại cảm. Mặc dù còn khá nhiều những tranh luận

xung quanh vấn đề tìm hài cốt bằng năng lực ngoại cảm, nhưng tự trong tâm thức,

nhiều người vẫn tin rằng đó là cách tốt nhất để họ tìm được người thân đã mất của

mình. Ở một số truyện viết về chiến tranh sau 1975, ta dễ dàng tìm thấy những

biểu hiện tâm linh ấy như Dây neo trần gian, Đàn sẻ ri bay ngang rừng, Tàn đen

đốm đỏ, Mai,…. Người con gái trong Dây neo trần gian đã tìm đến bà đồng để

nhờ bà giữ lại người đàn ông mà cô yêu nhất ở lại cuộc đời này. Có lẽ đối với cô,

đó là cách duy nhất mà cô có thể tin tưởng. Không biết có phải vì cách của bà

đồng linh nghiệm hay một sự trùng hợp ngẫu nhiên, cuối cùng cô đã giữ được anh

ở lại trần gian. Trong Đàn sẻ ri bay ngang rừng, Diễm và Thản cũng nhờ đến sự

giúp đỡ của bà đồng để tìm hài cốt của Nẫm. Nhờ sự có mặt của yếu tố tâm linh

mà việc tìm được hài cốt của những người chiến sĩ đã hi sinh trong Tàn đen đốm

đỏ, Mai cũng trở nên dễ dàng hơn.

 Chiến tranh đã lùi xa vào quá khứ, song những vết thương mà nó để lại vẫn

còn đó với những nỗi đau âm ỉ chưa kịp phai nhòa theo năm tháng. Những người

đã hi sinh sẽ mãi mãi không thể nào sống lại để quay về với những người thân yêu.

Người còn lại vẫn tiếp tục cuộc sống, nhưng tự đáy lòng - họ vẫn mãi trăn trở, nhớ

mong và hi vọng, họ vẫn nuôi hi vọng rằng một ngày nào đó sẽ có phép màu kì ảo

đưa người thân quay về với họ. Nói như thế để hiểu, chiến tranh qua đi đã để lại

biết bao đau thương và mất mát, việc đưa yếu tố kì ảo vào trong tác phẩm là một

cách để xoa dịu những vết thương về cả thể xác lẫn tâm hồn mà chiến tranh để lại

cho con người.

Tóm lại dù hiểu theo cách nào đi nữa thì khi nói đến tâm linh, bất kì ai cũng

nghĩ đến sự tồn tại của một thế giới, mà thế giới này là một thế giới bí ẩn, luôn

khiến con người tò mò, khiến con người luôn khao khát tìm hiểu về nó. Thế giới

này có thể liên quan đến những thế lực siêu nhiên bên ngoài con người cũng có thể

liên quan đến những người đã chết. Cho đến nay, thế giới tâm linh vẫn là một thách

thức lớn đối với con người. Hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề: có ma

hay không, liệu con người có năng lực ngoại cảm hay không, việc lên đồng, thoát

xác là biểu hiện tâm linh hay mê tín,… đặc biệt trong giai đoạn khoa học kĩ thuật

phát triển, nhiều nhà khoa học cũng bắt đầu quan tâm và đi tìm cách lý giải bằng

luận chứng khoa học, song trong tâm thức nhiều người, tâm linh vẫn là một điều gì

đó rất thiêng liêng và thần bí mà dù khoa học có phát triển đến đâu chăng nữa cũng

không thể giải thích được. Đặc biệt khi trong cuộc sống còn nhiều khó khăn, đau

khổ thì việc đặt niềm tin vào thế giới tâm linh là một cách để con người vững vàng

trong cuộc sống. .

3.3. Yếu tố kì ảo từ sắc thái thẩm mỹ

Trong văn học Việt Nam giai đoạn trước 1975, trước sự khốc liệt của chiến

tranh, từng ngày phải đối mặt với sinh tử, sống còn, những người lính cần phải có

chỗ dựa vững chắc về mặt tinh thần. Để đáp ứng nhu cầu của thời đại, các tác phẩm

văn học giai đoạn này chủ yếu được xây dựng dựa trên cảm hứng anh hùng. “Cái

anh hùng” tạo nên những tác động nhất định vào lý tưởng thẩm mỹ trong văn

chương. Hình tượng người lính trong các tác phẩm hiện lên sừng sững, kì vĩ, hiên

ngang, và luôn phơi phới một tinh thần “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước- Mà lòng

phơi phới dậy tương lai”.Tất nhiên, sự đau thương, chết chóc cũng có đề cập đến

trong các tác phẩm, song đó cũng chỉ làm cái nền để nổi bật lên sự anh dũng của

người lính và không khí ngùn ngụt lửa căm hờn, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh

của đất nước giai đoạn này.

Bước sang chặng đường mới, khi cuộc sống con người trở lại bình thường,

lý tưởng thẩm mỹ trong các tác phẩm văn học cũng dần thay đổi để đáp ứng với

nhu cầu thẩm mỹ mới của thời đại. Những tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến

tranh giai đoạn này đã mang nhiều sắc thái thẩm mỹ đa dạng. Một mặt, các tác

phẩm vẫn nằm trong dòng chảy ngợi ca khi viết về chiến tranh, những người lính

anh hùng vẫn là đối tượng được các nhà văn đề cập đến. Bên cạnh sự phản ánh

quen thuộc đó, các nhà văn giai đoạn này cũng bước đầu đi vào mặt trái của tấm

huy chương, đề cập đến những góc khuất của chiến tranh để từ đó thấy được bộ

mặt thật của nó, thấy được thân phận đau thương của những con người đã qua một

thời bom đạn. Một trong những điều làm nên thành công của tiểu thuyết, truyện

ngắn viết về chiến tranh sau 1975 là việc sử dụng những chi tiết hoang đường, kì

ảo. Việc đưa các chi tiết kì ảo vào trong truyện đã góp phần xây dựng nên một bức

tranh đa diện nhiều chiều về người lính và về cuộc chiến đã qua, thể hiện sâu sắc

những sắc thái thẩm mỹ khác nhau trong tác phẩm.

Bảng khảo sát các sắc thái thẩm mỹ trong tiểu thuyết, truyện ngắn

Sắc thái thẩm mỹ Tần số xuất hiện

(50 truyện)

Cái đẹp 3/50 truyện

Cái bi 30/50 truyện

Cái hùng 3/50 truyện

Cái cao cả 1/50 truyện

Cái thấp hèn 4/50 truyện

Các sắc thái thẩm Cái bi – cái đẹp 4/50 truyện

mỹ đan xen Cái bi – cái hùng 2/50 truyện

Cái bi – cái hài 3/50 truyện

Qua khảo sát có thể thấy rằng, trong những tác phẩm văn xuôi viết về chiến

tranh sau 1975, một số tác phẩm vẫn được xây dựng dựa trên cảm hứng anh hùng,

ngợi ca. Chủ yếu xuất hiện trong những truyện này là các phạm trù thẩm mỹ: cái

đẹp (3/50 truyện), cái hùng (3/50 truyện) và cái cao cả (1/50 truyện). Yếu tố kì ảo

trở thành một công cụ đắc lực giúp nhà văn tạo nên hình ảnh đẹp đẽ anh hùng của

người lính. Nhờ đó mà hình tượng người lính trở nên hiên ngang, hùng dũng trước

mắt người đọc. Đó là anh lính lái xe dũng cảm và đầy tinh thần trách nhiệm

(Chuyến xe đêm) vẫn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ trong giây phút hấp hối. Khi bị

trúng đạn, và bất tỉnh, người lính ấy vẫn vững tay lái đưa những người trên xe đến

một trạm gác an toàn dù đang trong trạng thái hôn mê. Là hình ảnh anh lính lái xe

kiên cường (Kim Hà) mặc dù đôi tay đã bị đạn cắt gần như đứt lìa, thế nhưng

không biết nhờ phép màu nào mà anh vẫn tiếp tục cầm chắc tay lái đưa người đồng

đội đến đơn vị một cách an toàn. Yếu tố kì ảo đã tạo nên hình ảnh một người lính

phi thường, đẹp đẽ mà một người bình thường có lẽ không thể nào thực hiện được.

Hay như người chiến sĩ du kích trong truyện ngắn Đốm lửa, tuy đã bị địch giết hại,

song hồn thiêng của anh vẫn trở về giúp hai người đồng đội của mình an toàn thoát

khỏi sự mai phục của bọn địch. Trong tác phẩm Hồn trúc, giữa trận chiến sinh tử,

quân ta bị địch bao vây khắp nơi, điều kì lạ đã xảy ra. Trong lúc đối diện với hiểm

nguy, tiếng sáo trúc lạ lùng vang lên giữa bốn bề đạn bom cùng tiếng ca của chị

Bốn đã tạo nên một vẻ đẹp kì ảo. Tiếng ca thều thào của chị “tiến lên đường, tới sa

trường, ta xứng danh là cảm tử quân” hòa lẫn vào âm thanh trầm bỗng, ngân vang

của tiếng sáo vút cao đã át cả tiếng bom và làm thay đổi tình thế căng thẳng lúc bấy

giờ. Nó tạo nên một sức mạnh để những đợt xung kích của quân ta trở nên mạnh

mẽ hơn và khí thế của địch chùng xuống với “những hàng tù binh dài dằng dặc”.

Hơn bao giờ hết, nghĩa vụ, trách nhiệm cao hơn những lợi ích và mong muốn riêng

tư của những người Cách mạng. Dù trong lúc nguy nan, cận kề cái chết, thậm chí

khi đã hi sinh những người chiến sĩ ấy vẫn quyết tâm làm tròn trách nhiệm với

cộng đồng, Tổ quốc.

Những sắc thái thẩm mỹ này xuất hiện không nhiều trong các tác 

phẩm viết về chiến tranh có yếu tố kì ảo sau 1975. Tuy số lượng không nhiều, song

sự xuất hiện các sắc thái thẩm mỹ cái đẹp, cái hùng và cái cao cả đã góp phần tạo

nên những bức chân dung những người lính anh hùng, quả cảm - Những người sẵn

sàng hi sinh xương máu, hạnh phúc riêng tư của mình để chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

Song song với việc tạo dựng những hình ảnh đẹp đẽ, kì vĩ, những nhà văn

giai đoạn này cũng chú ý đi sâu vào những tấn bi kịch cá nhân của những người

chiến sĩ. Đó là cuộc đời riêng đầy những nỗi bất hạnh mà chiến tranh đã để lại trên

thể xác cũng như trong tâm hồn của họ. Cái bi vì vậy cũng trở thành một yếu tố

không thể thiếu trong các tác phẩm. Nó tạo nên một bức tranh toàn vẹn, đa diện,

nhiều chiều hơn về cuộc chiến đã qua. Chiến tranh ngày càng lùi xa nhưng những

nỗi đau mà nó để lại vẫn không thôi ám ảnh trong đời sống của mỗi con người. Với

những người lính đã từng tham gia chiến trận thì chiến tranh vẫn mãi là một kí ức

buốt nhói không thể xóa nhòa. Qua yếu tố kì ảo, những bi kịch cá nhân càng hiện rõ

trong từng trang viết.

Các tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975, sắc thái bi xuất

hiện khá nhiều (30/50 truyện).

Trong những tác phẩm viết về chiến tranh sau 1975, nhiều nhà văn đã sử

dụng mô-tip giấc mơ để đưa người đọc từng bước khám phá những bí ẩn trong tâm

lý nhân vật - một thế giới riêng với một chuỗi những bi kịch, những buồn đau mà

người ngoài khó thể nhận biết được. Trước hết đó là bi kịch của hai người phụ nữ

với khát khao cháy bỏng được làm vợ, làm mẹ, được gặp lại người chồng thân yêu

của mình (Hai người đàn bà xóm Trại). Chiến tranh đã mang hai anh ra đi và

không bao giờ trả họ về cho hai người phụ nữ đáng thương ấy. Đã bao lần họ thấy

hai anh trở về và để lại cho họ một đứa con, nhưng cuối cùng đó chỉ là một giấc

mơ. Những giấc mơ khắc khoải nỗi chờ mong, chất chứa niềm hi vọng về một ngày

đoàn tựu vẫn thường xuyên hiện hữu trong tác phẩm càng khiến nỗi đau thêm đắng

lòng, buốt nhói.

Ở truyện Người sót lại của Rừng Cười, những giấc mơ về quá khứ chiến

tranh thường xuất hiện trong giấc ngủ của Thảo. Chiến tranh đã lùi xa, song những

kỉ niệm đau thương mà nó gây ra mãi mãi là một vết thương không bao giờ có thể

lành. Nỗi ám ảnh về những tháng ngày sống giữa cánh rừng Trường Sơn khốc liệt

với “những dòng nước khe màu xanh đen thớ lợ” đã vặt trụi mái tóc của năm cô

thanh niên xung phong, nỗi ám ảnh về cái chết của bốn người đồng đội thân yêu, về

những tháng ngày mà sự khốc liệt của núi rừng, của chiến tranh, sự thiếu thốn hơi

ấm của đôi tay người đàn ông đã biến năm cô gái trở thành những con vượn người

luôn trở đi trở lại trong những giấc mơ của Thảo. Những kí ức buốt nhói, đau lòng

ấy không bao giờ có thể phai nhòa theo năm tháng. Vì thế mà những giấc mơ của

cô đem lại cho người đọc cảm giác xót xa, thương cảm. Đến với Những giấc mơ có

thực, một lần nữa người đọc cảm nhận được những khát khao hạnh phúc đang được

kìm nén trong tâm hồn của người phụ nữ bất hạnh. Đó là bi kịch của một người phụ

nữ mà chiến tranh đã lấy đi của chị tất cả những gì tốt đẹp nhất. Tuổi trẻ, sức khỏe,

tình yêu của chị đã vĩnh viễn nằm lại giữa núi rừng Trường Sơn năm nào. Cả lòng

kiêu hãnh của chị cũng đã bị chiến tranh tước lấy. Để lại trong hiện tại là một người

phụ nữ với xác thân tàn tạ, héo mòn với những giấc mơ chất chứa khát vọng hạnh

phúc không thể trở thành hiện thực.

Chiến tranh, không chỉ người ra đi, mà người ở lại, không chỉ là người còn

sống mà người đã chết cũng canh cánh, trăn trở bởi những nỗi niềm riêng. Trong

các truyện viết về chiến tranh sau 1975, bên cạnh mô-tip giấc mơ, các tác giả cũng

sử dụng mô-tip hồn người chết trở về để thể hiện những nỗi bi kịch, những nỗi đau

của con người. Trong Bến trần gian, yếu tố kì ảo có thể giúp linh hồn của một

người lính trở về quê hương chứ không thể trả lại sinh mệnh cho anh. Qua bao

nhiêu năm, vượt qua biết bao chặng đường để có thể gặp lại người thân, nhưng cuối

cùng Lăng đành phải ngậm ngùi ra đi bởi giờ đây anh chỉ là một hồn ma. Giữa

người và ma dù sao cũng là hai thế giới khác biệt. Người mẹ già sau bao năm chờ

đợi đứa con, giờ cũng đành chấp nhận hiện thực là đứa con của mình đã chết. Dù

đau đớn những bà cũng đành nén lại mà khuyên đứa con hãy ra đi. Nỗi đau của

người mẹ; nỗi buồn tủi, ngỡ ngàng của người con khi biết được thực tế đau xót

khiến tác phẩm nhuốm một nỗi buồn. Cái bi trở thành âm hưởng chủ đạo của tác

phẩm. Ở truyện Vùng sáng của kí ức, chị Bưởi và anh Tính yêu nhau, họ chưa kịp

tổ chức lễ cưới thì anh phải đi lính và đã hi sinh, Qua lời tâm sự của chị với đứa em

“đêm nào anh ấy cũng về với chị. Chị vui anh ấy cũng biết, chị buồn anh ấy cũng

biết… Chị chẳng đi lấy chồng đâu. Chị trọn đời, trọn kiếp với anh ấy”, người đọc

cảm thấy chua xót cho số phận của những người con gái sinh ra trong chiến tranh.

Cái hạnh phúc giản dị của một người con gái vĩnh viễn đã bị mất đi bởi chiến tranh.

Dù người chồng sắp cưới hằng đêm có trở về với chị thì đó cũng chỉ là một hồn ma.

Niềm hạnh phúc thật sự đã khép lại mãi mãi trước mắt chị. Tác phẩm vì vậy trở nên

bi thiết hơn, người đọc không khỏi đắng lòng trước cái hạnh phúc ảo mà chị đang

cố chấp nhận.

Bên cạnh việc dùng mô-tip giấc mơ, mô-tip hồn người chết trở về, các nhà

văn cũng sử dụng nhiều dạng thức kì ảo khác nhau để nhấn sâu vào cái bi kịch cá

nhân của con người trong chiến tranh. Truyền thuyết về loài vạc sành (Tiếng vạc

sành) có tiếng kêu xé lòng gợi nhắc đến số phận bi thương của một người lính.

Chiến tranh đã lấy đi của anh một gia đình hạnh phúc, và trả lại cho anh một hình

hài đáng sợ gương mặt không còn nguyên vẹn. Mang niềm đau hồn anh hóa thành

con vạc, hằng đêm, với gương mặt xấu xí, anh ẩn mình trong các lùm cây kêu “tọc

tọc” ròng rã từ lúc chạng vạng đến sáng để gọi vợ con. Tiếng kêu đau đớn của loài

vạc sành phải chăng là tiếng kêu bi thương của người lính mà hạnh phúc của anh đã

bị chiến tranh tước đoạt.

 Đến với những tác phẩm này, người đọc cảm nhận được những mất mát, đau

thương mà chiến tranh đã để lại cho con người. Đó không chỉ là nỗi đau về thể xác

mà còn là những thương tổn về mặt tinh thần. Mỗi người một nỗi đau riêng, nhưng

họ có cùng một điểm chung đó là không thể có được niềm vui, niềm hạnh phúc như

những người bình thường khác. Trong tận sâu đáy lòng họ vẫn mong được hạnh

phúc, thỏa mãn những khát vọng rất thực, rất con người nhưng thật tế họ vẫn sống

trong nỗi cô đơn, vẫn chịu đựng nỗi đau dày vò theo năm tháng. Nhờ yếu tố kì ảo

mà những bi kịch về khát khao được hạnh phúc và cuộc sống hiện tại đầy đau khổ

càng trở nên sâu sắc và xúc động hơn.

Ngoài ra, ở những tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975,

người đọc có thể dễ dàng tìm thấy những tác phẩm có sự kết hợp, đan xen các sắc

thái thẩm mỹ. Mặc dù là sự kết hợp của nhiều sắc thái, song âm hưởng chủ đạo của

các tác phẩm này chủ yếu vẫn là cái bi. Theo bảng khảo sát, cái bi xuất hiện trong

hầu hết các truyện đan xen sắc thái thẩm mỹ này: Cái bi – cái đẹp (4/50 truyện),

Cái bi – cái hùng (2/50 truyện), Cái bi – cái hài (3/50 truyện)

Sự kết hợp giữa cảm hứng anh hùng và cái bi cũng góp phần tạo nên sự kì vĩ,

đẹp đẽ của người lính. Đó là hình ảnh Bạch Điệp trong tác phẩm Bướm trắng. Khi

bị trúng hai quả rốc-két của giặc, cô vẫn tiếp tục hóa thân thành con bướm trắng với

đôi cánh rách nát chỉ lối dẫn đường cho những chuyến xe ra trận. Cô trở thành vị

thần Hộ mệnh, đấng cứu tinh cho những người lính lái xe vượt Cổng Trời Trường

Sơn trong những năm địch bắn phá ác liệt. Tác phẩm là một sự kết hợp hài hòa giữa

cái bi và cái hùng. Yếu tố kì ảo đã góp phần xây dựng hình ảnh đẹp đẽ, kì vĩ của

người nữ thanh niên xung phong anh hùng. Tuy nhiên âm hưởng chủ đạo của tác

phẩm vẫn là cái bi. Phép màu đã giúp Bạch Điệp hóa thân thành bướm, để cô được

tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ của mình, thế nhưng đó lại là một con bướm với đôi

cánh rách nát bởi đạn bom. Dù đã hóa kiếp thành bướm, song Bạch Điệp vẫn từng

ngày chịu đựng những cơn đau bởi những vết thương do đạn bom chiến tranh. Và

sau này, khi được Xuân Sinh dùng máu nối lại sinh mệnh, Bạch Điệp đã sống lại,

tuy nhiên di chứng mà chiến tranh để lại vẫn mãi mãi là một vết thương không thể

lành. Phép màu không thể trả lại cho Bạch Điệp cơ thể lành lặn như một người phụ

nữ bình thường. Có lẽ vì thế mà cô chỉ sinh cho anh toàn bướm và bướm. Với lòng

yêu thương và cảm thông sâu sắc, tác giả đã dùng phép màu kì ảo để xoa dịu nỗi

đau mà chiến tranh đã gây ra cho con người, để cái chết không còn là rào cản chia

cắt những lứa đôi yêu nhau. Thế nhưng những di chứng mà chiến tranh đã để lại

cho con người là quá lớn. Phép màu kì ảo chỉ có thể xoa dịu chứ không thể hàn gắn

được những vết thương ấy. Vì thế mà sự có mặt của yếu tố kì ảo càng khiến người

đọc ngậm ngùi, chua xót cho số phận bất hạnh của những con người đã bị chiến

tranh tước đoạt tuổi trẻ, tình yêu và hạnh phúc. Yếu tố kì ảo tạo nên sắc thái bi -

hùng cho tác phẩm là vì thế.

Ngoài những sắc thái thẩm mỹ vừa khảo sát trên, ở các tác phẩm viết về

chiến tranh sau 1975 còn xuất hiện cái thấp hèn (4/50 truyện). Điều này đã tạo nên

sự khác biệt hoàn toàn giữa các tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau

1975 với các tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh trước đây. Thông qua yếu

tố kì ảo, những mặt trái, những cái xấu xa, những mặt chưa tốt của những người

từng một thời là người chiến sĩ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc hiện ra rõ ràng qua từng

trang viết. Ta có thể thấy điều này trong những truyện như:, Con đò và người khách

lạ,Trừng phạt, Trái tim con rắn ,…

Ở những truyện mang sắc thái thẩm mỹ này, các tác giả cũng thường sử dụng

mô-tip giấc mơ để người đọc cảm nhận được thế giới nội tâm đầy mặc cảm tội lỗi

của nhân vật. Thế giới của giấc mơ giống như một chiếc hộp lưu giữ những điều bí

mật không thể giãy bày của con người. Đó không chỉ là những khao khát hạnh

phúc bị kìm nén mà còn chứa đựng những nỗi niềm băn khoăn, trăn trở, những dằn

vặt lương tâm vì những điều không tốt mà mình đã gây ra. Đến với giấc mơ, người

đọc có dịp hiểu thêm về những góc khuất mà các tác phẩm viết về chiến tranh

trước đây không đề cập đến. Đó là những suy nghĩ ích kỉ, những dục vọng thấp

hèn của người lính. Ở tác phẩm Con đò và người khách lạ, trước đây, vì hèn nhát,

tham sống sợ chết, Khôi đã bỏ mặc đồng đội của mình. Sau chiến tranh, gặp lại

người đồng đội ấy, Khôi không dám thú nhận điều đó mà tìm cách che giấu. Chỉ

có trong giấc mơ, những hành động hèn nhát kia mới được phơi bày. Lời Khôi nói

trong giấc mơ “Ta có lỗi gì? Ừ, lúc đó tao đã sợ chết nên tao không dám nổ súng

vào bọn lính đi tuần, nhưng sau đó tao đã bò vào tìm mày, mày đã bị chúng nó kéo

đi rồi… Phải tao có tội với mày bởi tao là kẻ hèn nhát, một tên khốn nạn đã bỏ rơi

bạn bè trong lúc lâm nguy…” cho thấy thêm về một bộ mặt khác của người chiến

sĩ. Bên cạnh những người lính anh hùng, quả cảm dám hi sinh vì đồng đội còn là

những người lính xuất hiện trong vị thế là một con người bình thường với những

sai lầm, những suy nghĩ ích kỉ cá nhân.

Bên cạnh đó, những tác phẩm mang sắc thái cái thấp hèn cũng đã đề cập đến

một bộ phận những người lính một thời là những con người anh hùng, chiến đấu

hi sinh vì Tổ quốc, song khi trở về thời bình họ cũng không thể cưỡng lại sức cám

dỗ của quyền lực, vật chất. Bằng mô-tip giấc mơ, một lần nữa người đọc cảm nhận

được thế giới nội tâm đầy hối hận của những người lính đã gây nên sai lầm, gây ra

những tổn hại đến những người thân, những người đồng đội của mình. Đó là

Tuyển trong truyện Trừng phạt. Những mặc cảm về sự sai lầm về tội lỗi đã gây

không ngừng trở đi trở lại trong những giấc mơ của ông. Ông không thể có được

cuộc sống yên vui, thanh thản bởi những sai lầm đã gây.

* Có thể nói những tác phẩm mang sắc thái cái thấp hèn đã mang đến cho

người đọc một cái nhìn mới về người lính. Họ không chỉ là những người lính anh

hùng mà còn là những con người bình thường, cũng có những sai lầm không thể tha

thứ. Sự có mặt của yếu tố kì ảo đã tạo nên một sắc thái mới cho có truyện viết về

chiến tranh sau 1975, giúp người đọc có được cái nhìn đa dạng, nhiều chiều về con

người, đặc biệt là người lính.

 Trước 1975, do đáp ứng nhu cầu sống còn của dân tộc, hầu hết tất cả các tác

phẩm đều được xây dựng dựa trên cảm hứng anh hùng ngợi ca. Tuy nhiên sau hòa

bình, lý tưởng thẩm mỹ trong các tác phẩm cũng đã dần thay đổi để đáp ứng nhu

cầu của thời đại. Vì vậy có thể thấy các tác phẩm văn xuôi viết về chiến tranh sau

1975 khá đa dạng về sắc thái thẩm mỹ. Bên cạnh một số tác phẩm vẫn nằm trong

dòng chảy ngợi ca khi viết về chiến tranh ở giai đoạn trước mà người lính anh dũng

vẫn là đối tượng trung tâm được nhiều nhà văn đề cập đến. Nhiều tác phẩm đã tập

trung thể hiện cuộc sống riêng tư của người lính sau chiến tranh mà âm hưởng chủ

đạo là cái bi. Đặc biệt các tác phẩm nhấn sâu vào cái bi kịch cá nhân của họ khi trở

về cuộc đời thường. Ngoài ra bên cạnh một số tác phẩm mang cảm hứng ngợi ca,

còn xuất hiện thêm những tác phẩm mang cảm hứng phê phán, phơi bày những mặt

trái, những điều chưa tốt của người lính. Yếu tố kì ảo trong tác phẩm trở thành công

cụ đắc lực để chuyển tải nội dung câu chuyện, giúp việc thể hiện những sắc thái

thẩm mỹ trở nên sâu sắc hơn, nhất là trong việc thể hiện những bi kịch cá nhân của

người lính. Nhờ đó mà các tác phẩm giúp cho người đọc bước đầu đi vào những

mặt trái của tấm huy chương, những góc khuất của chiến tranh để từ đó thấy được

bộ mặt thật của nó, thấy được thân phận đau thương của những con người đã qua

một thời bom đạn.

KẾT LUẬN

Trong văn xuôi nghệ thuật sau 1975, các nhà văn sử dụng yếu tố kì ảo làm

phương thức khám phá hiện thực, lý giải những bí ẩn của đời sống và thế giới tâm

hồn của con người. Tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh giai đoạn này cũng

cùng nằm trong xu hướng chung đó.

Giống như các tác phẩm văn xuôi hiện đại Việt Nam, những tiểu thuyết,

truyện ngắn viết về chiến tranh cũng sử dụng những phương thức kì ảo quen thuộc

như: hồn người chết trở về, những giấc mơ, những sự việc kinh dị, phi lý và những

lời nói, hành động kì lạ của nhân vật. Khi sử dụng các dạng thức tiêu biểu này, các

tác giả quan niệm đó không đơn thuần chỉ là một phương thức lạ hóa, “câu khách”

thông thường, mà quan trọng hơn là để tập trung thể hiện những góc khuất, những

bộ mặt khác nhau của hiện thực chiến tranh; để khám phá, lý giải những ẩn ức bên

trong tâm hồn của con người, mà ở đây là những con người từng trải qua một thời

đạn bom ác liệt, để từ đó thấy được cuộc sống của họ trong hiện tại.

Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh sau 1975 thể

hiện tập trung ở các yếu tố tình huống, cốt truyện, nhân vật, không gian và thời

gian. Về tình huống trong các truyện này, ở một số truyện ngắn, chúng tôi nhận

thấy có sự xuất hiện những tình huống tiêu biểu như: tình huống nhuốm màu sắc

hoang đường, kì lạ; tình huống căng thẳng, kịch tính; tình huống mang tính chất

ngẫu nhiên. Khi xuất hiện trong cốt truyện, ở nhiều truyện yếu tố kì ảo đóng vai trò

biểu tượng, xuất hiện song hành cùng cốt truyện tạo nên một kiểu thêm thắt, gia

giảm, đan lồng giữa cái kì ảo và cái thực. Trong một số truyện khác, yếu tố kì ảo

tham dự vào diễn biến cốt truyện, tạo nên một thế giới kì ảo thu hút sự chú ý của

người đọc. Ngoài ra yếu tố kì ảo cũng xuất hiện ở một số ít truyện có hai cốt truyện

đan xen. Tuy nhiên những cốt truyện này chiếm số lượng rất ít và không tạo được

dấu ấn đặc biệt. Khi xây dựng hình tượng nhân vật, các tác giả tạo nên một thế giới

nhân vật mang màu sắc kì ảo như nhân vật hồn ma, nhân vật dị thường, kì lạ và

nhân vật mang màu sắc huyền thoại, cổ tích. Không gian để hồn ma hoặc những

điều lạ xuất hiện là không gian chiến trường u ám, đầy rẫy sự chết chóc. Đó có thể

là một hang đá, một góc rừng Trường Sơn, một Truông Gọi Hồn âm u đầy những

oan hồn,… Bên cạnh đó, người đọc cũng thấy những không gian riêng tư của cá

nhân: không gian của gian phòng chật hẹp hay không gian của căn nhà nhỏ giữa

triền bãi rộng chạy ven đê làng. Ngoài ra trong những tác phẩm còn xuất hiện

không gian mộng ảo chất chứa những giấc mơ thầm kín của nhân vật, không gian

huyền ảo, ma quái để hồn người chết có thể quay về gặp lại người thân. Cũng giống

như những truyện kinh dị thông thường, những hồn ma hoặc những sự việc kì lạ

trong truyện chủ yếu xuất hiện vào đêm tối, đặc biệt là vào lúc nửa khuya, khi mọi

vật chìm trong bóng đêm tịch mịch.

Như vậy bằng yếu tố kì ảo, các nhà văn đã từng bước đưa người đọc khám

phá thế giới tinh thần bí ẩn và phức tạp của con người. Thông qua yếu tố kì ảo, hiện

thực chiến tranh đa diện, nhiều chiều được tái hiện một cách cụ thể, sinh động qua

từng trang viết. Từ đó người đọc sẽ có cách nhìn đúng đắn và toàn diện hơn về nó.

Qua yếu tố kì ảo, các nhà văn đã vẽ nên “khuôn mặt thực” của chiến tranh với

nhiều góc cạnh khác nhau, có hào hùng nhưng cũng có bi thương, có vinh quang

nhưng cũng không kém phần cay đắng, có chiến thắng oai hùng nhưng cũng có cả

những mất mát thương đau. Với những người đã từng sống trong chiến tranh thì đó

quả thật là một quá khứ không thể lãng quên. Qua đó, các nhà văn muốn gửi đến

thế hệ sau những thông điệp: khi nhìn về một thời máu lửa, chúng ta không nên

dừng lại ở ánh hào quang rực rỡ chung của cả cộng đồng mà hãy quan tâm đến số

phận của từng cá nhân, của từng con người. Hãy đồng cảm, chia sẻ với những mất

mát quá lớn mà những người chiến sĩ năm xưa đã và đang gánh chịu từng ngày. Để

có được những ngày hòa bình như hiện nay đã có biết bao người phải hi sinh, gánh

chịu những niềm đau, những nỗi mất mát không thể bù đắp. Vì vậy chúng ta phải

biết trân trọng những thành quả được xây dựng từ máu và nước mắt đó. Qua yếu tố

kì ảo, các nhà văn cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của xã hội, đó là sự tha hóa,

biến chất, băng hoại đạo đức của một số người đã từng là chiến sĩ, có những cống

hiến cho đất nước trong những năm chiến tranh. Các tác phẩm như một lời cảnh

tỉnh lương tâm con người, đồng thời nhắn nhủ xã hội cần phải loại trừ những “con

sâu” để không làm hoen ố hình ảnh người lính anh dũng ngày nào trong lòng mọi

người.

Xét về mặt tâm linh, yếu tố kì ảo có giá trị to lớn đối với tinh thần của con

người. Chiến tranh qua đi nhưng nỗi đau mà nó để lại vẫn còn đó chưa thể xóa

nhòa. Biết bao người lính đã nằm lại nơi cánh rừng Trường Sơn bạt ngàn, biết bao

người vợ mất chồng, mẹ lìa con vẫn đang lặn lội tìm lại hài cốt người thân, và còn

đó bao nỗi đau cả thể xác lẫn tinh thần mà người chiến sĩ năm xưa vẫn đang gánh

chịu từng ngày. Một khi chiến tranh để lại quá nhiều mất mát và đau thương thì yếu

tố kì ảo là một cách để xoa dịu nỗi đau cả thể xác lẫn tâm hồn để con người tiếp tục

vững bước trước cuộc sống, để những người mẹ, người vợ sẽ bớt đau buồn hơn khi

tin tưởng vào một ngày không xa họ sẽ tìm người thân yêu dù đó chỉ là một nắm

xương tàn.

Trước 1975, do đáp ứng nhu cầu của thời đại, các tác phẩm văn học chủ yếu

được xây dựng dựa trên cảm hứng anh hùng, ngợi ca mà cái đẹp và cái cao cả luôn

là âm hưởng chủ đạo của tác phẩm. Bước sang chặng đường mới, khi cuộc sống trở

lại bình thường, lý tưởng thẩm mỹ trong tác phẩm cũng dần thay đổi. Trong những

tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh, bên cạnh cái đẹp, cái cao cả người đọc

còn thấy sự xuất hiện của cái bi. Đó là những bi kịch cá nhân của người chiến sĩ khi

họ luôn bị ám ảnh, dằn vặt về quá khứ và trở nên lạc lõng giữa cuộc sống thực tại.

Ngoài ra, ở một số tác phẩm, ta thấy có sự xuất hiện sắc thái cái thấp hèn. Tuy số

lượng không nhiều, song sự xuất hiện của sắc thái thẩm mỹ này góp phần tạo nên

một bức chân dung đa dạng, nhiều chiều về người lính. Bên cạnh những chiến sĩ

anh hùng, quả cảm chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc còn là một bộ phận những người

chiến sĩ với những suy nghĩ ích kỉ, thấp hèn. Việc đưa yếu tố kì ảo vào tác phẩm đã

góp phần không nhỏ trong việc thể hiện sự đa dạng của các sắc thái thẩm mỹ.

Tóm lại, sự xuất hiện của yếu tố kì ảo trong các tiểu thuyết, truyện ngắn viết

về chiến tranh giai đoạn sau 1975 nằm trong dòng chảy chung của văn học Việt

Nam hiện đại. Nó đáp ứng nhu cầu nhận thức lại hiện thực chiến tranh, khám phá bí

ẩn của thế giới tinh thần con người. Những thành công của tiểu thuyết, truyện ngắn

viết về chiến tranh có sử dụng yếu tố kì ảo đã góp phần vào sự thành công chung

của văn xuôi kì ảo Việt Nam sau đổi mới đồng thời tạo nên một diện mạo mới cho

những tác phẩm viết về đề tài chiến tranh.

THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. CÁC TÁC PHẨM KHẢO SÁT

1. Vũ Thị Hồng (1994), Những giấc mơ có thực – Hồi ức binh nhì (truyện ngắn

chọn lọc 1992-1994), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

2. Thái Bá Tân (2001), Bướm trắng – Mười năm truyện ngắn Văn nghệ quân đội

(1991-2000), Nxb Văn học, Hà Nội.

3. Nguyễn Quang Thiều (1995), Hai người đàn bà xóm Trại – Năm người đàn bà

và bốn người đàn ông (Tập truyện ngắn), Nxb Thanh niên, Hà Nội.

Hoài Lương, Tiếng chuông chiều, 4. Lê

http://4phuong.net/ebook/44641937/tieng-chuong-chieu.html

5. Phạm Trung Khâu (1994), Tiếng vạc sành – Bến trần gian (Truyện ngắn chọn

lọc 1992-1994), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

6. Nguyễn Thế Tường (2009), Bàn chân ma – Hồi ức của một binh nhì (Tập

truyện ngắn), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

7. Lưu Sơn Minh (1994), Bến trần gian – Bến trần gian (Truyện ngắn chọn lọc

1992-1994), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

8. Hoàng Dân (1994), Chiều vô danh – Hồi ức binh nhì (Truyện ngắn chọn lọc

1992-1994), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

9. Thanh Quế (2006), Mai – Truyện ngắn hay về chiến tranh, Nxb Văn học, Hà

Nội.

10. XuânThiều (2006), Truyền thuyết về quán Tiên, Truyện ngắn hay về chiến

tranh, Nxb Văn học, Hà Nội.

11. Phạm Ngọc Tiến (2006), Họ đã trở thành đàn ông, Truyện ngắn hay về chiến

tranh, Nxb Văn học, Hà Nội.

12. Kiều Vượng (2006), Hai người trong thành phố, Truyện ngắn hay về chiến

tranh, Nxb Văn học, Hà Nội.

13. Cao Duy Thảo (2006), Người đàn bà, Truyện ngắn hay về chiến tranh, Nxb

Văn học, Hà Nội.

14. Võ Thị Hảo:

14.1. - (2001), Dây neo trần gian, Mười năm truyện ngắn Văn nghệ quân đội

(1991-2000), Nxb Văn học, Hà Nội.

14.2- (2001), Người sót lại của rừng Cười, Mười năm truyện ngắn Văn nghệ

quân đội (1991-2000), Nxb Văn học, Hà Nội.

14.3- (2002), Biển cứu rỗi, Truyện ngắn bốn cây bút nữ, Nxb Văn học, Hà Nội.

14.4- (2002), Hồn trinh nữ, Truyện ngắn bốn cây bút nữ, Nxb Văn học, Hà

Nội.

15. Nguyễn Quốc Trung (2001), Người bán nhang ở chùa Vĩnh Nghiêm, Mười

năm truyện ngắn Văn nghệ quân đội (1991-2000), Nxb Văn học, Hà Nội.

16. Nguyễn Thị Minh Thúy (2000), Đốm lửa - Đêm bướm ma (Tuyển tập truyện

ma Việt Nam), Nxb Văn học.

17. Nguyễn Minh Châu (1994) Cỏ lau, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,

Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nxb Văn học, Hà Nội

18. Tạ Duy Anh (1995), Người thắng trận, Truyện ngắn trên báo văn nghệ (1987-

1995), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội

19. Võ Thị Xuân Hà (2006), Đàn sẻ ri bay ngang rừng, Truyện ngắn hay về chiến

tranh, Nxb Văn học, Hà Nội.

20. Ngô Tự Lập (2000), Mùa đại bàng - Đêm bướm ma (Tuyển tập truyện ma

Việt Nam), Nxb Văn học, Hà Nội.

21. Nguyễn Đông Thức (2000), Trái tim con rắn - Đêm bướm ma (Tuyển tập

truyện ma Việt Nam), Nxb Văn học, Hà Nội.

22. Ngô Văn Phú (2000), Cặp bồ với ma - Đêm bướm ma (Tuyển tập truyện ma

Việt Nam), Nxb Văn học, Hà Nội.

23. Nguyễn Quang Lập (1997), Vĩnh biệt mười tám con gà trống, Văn nghệ quân

đội – truyện ngắn dự thi 1996, Nxb Văn học, Hà Nội.

24. Hồ Tĩnh Tâm, Đồng đội, Văn nghệ 1995, số 29 (18/7).

25. Thái Sinh, Con đò và người khách lạ, Văn nghệ 1995, số 39 (26/9).

26. Y Ban:

26.1 (2005), Mắt ma, Hồn hoa đêm tháp cổ - Truyện ngắn ly kỳ VN, Nxb

Hội nhà văn, Hà Nội.

26.2 (1997), Vùng sáng của kí ức, Văn nghệ quân đội – truyện ngắn dự thi

1996, Nxb Văn học, Hà Nội.

xanh, http://vannghequandoi.com.vn/vi- 27. Trần Văn Thước, Vòm đa

VN/News/Van-xuoi-36.vnqd.

28. Hòa Vang (1996), Tổ tông truyền, Huyền thoại thìa – Sự tích những ngày đẹp

trời (Tập truyện ngắn), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

29. Lê Minh Hà (2005), Gióng, Văn mới 5 năm đầu thế kỉ, - Hợp tuyển truyện ngắn của những tác giả đang được mến mộ, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

30. Ma Văn Kháng (1991), Chuyến xe đêm – Truyện ngắn chọn lọc 1975 – 1990,

Nxb Văn học, Hà Nội.

31. Đỗ Nhật Minh (2009), Trừng phạt – Tuyển tập truyện ngắn Quán trần gian,

Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

32. Phạm Việt Long, Lời nguyền của một bài ca, Văn nghệ 2002, số 48 (30/11)

33. Lê Minh Khuê (2000), Anh lính Tony D - Đêm bướm ma (Tuyển tập truyện

ma Việt Nam), Nxb Văn học, Hà Nội.

34. Lê Thành Chơn, Kim Hà, Văn nghệ 2002, số 30 (27/7).

35. Lê Quang Kiếm, Tiên nữ, Văn nghệ 1995, số 28 (15/7).

36. Vũ Hồng (1997), Tiếng chuông trôi trên sông, Văn nghệ quân đội – truyện

ngắn dự thi 1996, Nxb Văn học, Hà Nội.

37. Triệu Huấn (1995), Giấc mộng cuối cùng – Cuộc thi truyện ngắn trên báo Văn

nghệ 1995, Nxb Văn học, Hà Nội.

38. Trần Huy Quang (2001), Ám ảnh có thật, Mười năm truyện ngắn Văn nghệ

quân đội (1991-2000), Nxb Văn học, Hà Nội.

39. Nguyễn Thế Tường (1995), Điều không thể mất – Cuộc thi truyện ngắn trên

báo Văn nghệ 1995, Nxb Văn học, Hà Nội.

40. Bảo Ninh (2009), Nỗi buồn chiến tranh, NXB Văn học, Hà Nội.

41. Chu Lai (1995), Ăn mày dĩ vãng, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

42. Phạm Ngọc Tiến (2008), Tàn đen đốm đỏ, NXB Văn học, Hà Nội.

43. Dương Hướng (2008), Bến không chồng, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

44. Nguyễn Văn Thông (2000), Hồn trúc - Đêm bướm ma (Tuyển tập truyện ma

Việt Nam), Nxb Văn học, Hà Nội.

II. SÁCH BÁO – TẠP CHÍ, TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

1. Lê Huy Bắc (2006), “Cái kỳ ảo và văn học huyễn ảo”, Tạp chí nghiên cứu văn

học số 8 (414) tháng 8-2006, Viện văn học – Viện khoa học xã hội Việt Nam,

Hà Nội.

2. Đặng Anh Đào (2006), “Vai trò của cái kỳ ảo trong truyện và tiểu thuyết Việt

Nam”, Tạp chí nghiên cứu văn học số 8 (414) tháng 8-2006, Viện văn học –

Viện khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

3. Nguyễn Hải Hà (2006), “Cái hoang đường trong văn học Nga thế kỷ XIX”, Tạp

chí nghiên cứu văn học số 6 (412) tháng 6-2006, Viện văn học – Viện khoa học

xã hội Việt Nam, Hà Nội.

4. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), “Từ điển thuật ngữ văn

học”, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

5. Đào Duy Hiệp (2006), “Cấu trúc cái kỳ ảo trong truyện ngắn Maupassant”, Tạp

chí nghiên cứu văn học số 8 (414) tháng 8-2006, Viện văn học – Viện khoa học

xã hội Việt Nam, Hà Nội.

6. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (2004), “Từ điển

văn học”, Nxb Thế giới, Hà Nội.

7. Đỗ Đức Hiểu (1993), “Đổi mới phê bình văn học”, Nxb Khoa học xã hội – Nxb

Mũi Cà Mau.

8. Lê Nguyên Long (2006), “Về khái niệm cái kỳ ảo và văn học kỳ ảo trong

nghiên cứu văn học”, Tạp chí nghiên cứu văn học số 9 (415) tháng 9-2006, Viện

văn học – Viện khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

9. Phạm Thị Thanh Nga, “Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại từ sau

1975”, nguồn http://www.thuvienkhoahoc.com

10. Nguyễn Hải Phong (2008), Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại,

Tạp chí dạy và học ngày nay, Trung ương Hội khuyến học Việt Nam số 7.2008.

11. Bùi Thanh Truyền (2006), Sự hồi sinh của yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi đương

đại Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu văn học số 11 (417) tháng 11-2006, Viện văn

học – Viện khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

12. Phùng Văn Tửu, Phương thức huyền thoại trong sáng tác văn học, nguồn

http://www.nghiencuuvanhoc.org.vn

13. Phùng Văn Tửu (2006), Những đổi mới trong văn học kỳ ảo thế kỷ XX, Tạp chí

nghiên cứu văn học số 5 (411) tháng 5-2006, Viện văn học – Viện khoa học xã

hội Việt Nam, Hà Nội.

14. Hồ Sỹ Vịnh, Văn hóa tâm linh - Lý luận và thực tiễn, nguồn http://tuyengiao.vn.

15. Trần Lê Bảo (2009), “Liêu trai” hiện đại Việt Nam - Văn học Việt Nam sau

1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

16. Nguyễn Văn Long (2009), Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lịch sử văn

học Việt Nam giai đoạn từ sau 1975 - Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn

đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

17. Ngô Tự Lập (1999), Những đường bay của mê lộ (Về văn học kỳ ảo), Tạp chí

Sông Hương, số 127

18. Nguyễn Hào Hải, Lại bàn về vô thức, Văn nghệ 1995, số 22, (3/6)

19. Trần Thanh Mại (1961), Những câu chuyện thần linh ma quái (Nhân đọc hai

cuốn Việt điện u linh và Lĩnh nam chích quái), Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số

2.

20. Bùi Việt Thắng (1999), Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội.

21. Tzevan Todorov (2007), Dẫn luận về văn chương kỳ ảo, Nxb Đại học Sư phạm,

Hà Nội.

22. S.Iu. Nekliudov (2007), Những ảnh hưởng của thế giới bên kia trong tín

ngưỡng dân gian và văn chương cổ truyền, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 11.

23. Lã Nguyên (2001), Văn học kì ảo – nhìn từ hệ hình thế giới quan, Tạp chí Văn

học nước ngoài, số 6.

24. Phùng Văn Tửu (2007), Phương thức huyền thoại trong sáng tác văn học, Tạp

chí Nghiên cứu văn học, số 10

25. Phan Cự Đệ (2000), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

26. Phùng Hữu Hải, Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại giai đoạn từ sau

1975 đến nay, nguồn http://evan.vnexpress.net

27. Ngọc Thiện (1990) “Tiểu thuyết hướng nội” trong văn xuôi hiện đại, Tạp chí

Văn học, số 6.

28. Nguyễn Minh Châu (1995) Viết về chiến tranh, trong Trang giấy trước đèn, (Tôn

Phương Lan biên soạn và giới thiệu), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

29. Nguyễn Thị Ngọc Anh (2008), Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình

Phương, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành ngữ văn, ĐHSP Thái Nguyên.

30. Lê Nguyên Cẩn (2009), Thế giới kì ảo trong Mảnh đất lắm người nhiều ma từ

cái nhìn văn hóa – Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và

giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

31. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

32. Cao Thị Thu Hoài, Yếu tố kì ảo trong sáng tác Võ Thị Hảo qua tiểu thuyết Giàn

Thiêu và tập truyện ngắn Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm, Luận văn

thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, ĐHSP Thái Nguyên.

33. Đoàn Cầm Thi, (18/5/2004), Sáng tạo văn học, giữa mơ và điên. Đọc Thoạt kỳ

thuỷ của Nguyễn Bình Phương, nguồn www.evan.com.vn.

34. Trần Đình Sử, Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, (2008), Từ điển thuật ngữ văn

học, Nxb ĐHQG Hà Nội.

35. Hà Minh Đức (chủ biên), (2000), Lí luận văn học, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

36. Hồ Phương (2008), Có gì mới trong tiểu thuyết đề tài chiến tranh hôm nay –

Tuyển tập các bài viết về tiểu thuyết Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo Dục, Hà

Nội.

37. Phạm Xuân Nguyên (2008), Phân tích tâm lý trong tiểu thuyết – Tuyển tập các

bài viết về tiểu thuyết Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

38. Bùi Việt Thắng (2008), Mấy nhận xét về tiểu thuyết sau 1975 viết về cuộc kháng

chiến chống Mỹ – Tuyển tập các bài viết về tiểu thuyết Việt Nam thế kỷ XX,

Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

39. Bùi Việt Thắng (2009), Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 nhìn từ góc độ thể loại -

Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

40. R. Wellek và A. Warren (2009), Lý luận văn học (Nguyễn Mạnh Cường dịch),

Nxb Văn học, Hà Nội.

41. Lê Nguyên Cẩn (1990) Phương thức kì ảo và tính chân thật lịch sử trong tiểu

thuyết “Miếng da lừa” của Balzac, TCVH, số 5.

42. Lê Nguyên Cẩn (2002), Cái kỳ ảo trong tác phẩm Balzac, Nxb Đại học Sư

Phạm, Hà Nội.

43. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb KHXH

Hà Nội.

44. Phạm Quang Long (2004), Về sự hình thành của chủ nghĩa hiện thực trong văn

học Việt Nam, TCVH, số 1

45. Phương Lựu (2001) Tìm hiểu trực giác và vô thức trong tư duy nghệ thuật,

TCVH số 31.

46. Trần Thị Mai Nhân (2007), Tìm hiểu phương thức “huyền thoại hóa” trong

một số tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới – Huyền thoại và văn học, Nxb Đại

học Quốc gia TP HCM.

47. Bích Thu (1996), Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975, Tạp chí văn học,

số 9.

48. Huỳnh Như Phương (1991), Văn xuôi những năm 80 và vấn đề dân chủ hóa

nền Văn học, Tạp chí văn học, số 4.

49. Lê Thị Đức Hạnh (1999), Mấy vấn đề trong văn học hiện đại Việt Nam, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

50. Nguyễn Thị Bình (2003) Một vài nhận xét về quan niệm hiện thực trong văn

xuôi nước ta từ sau 1975, Tạp chí văn học số 4.

51. Hoàng Thị Văn (2009), Yếu tố huyền ảo trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam

sau năm 1975, Đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp bộ, trường Đại

học SP TPHCM.

52. Phùng Quý Nhâm (1998), Tinh thần phân tích tâm linh – một đặc trưng của

chủ nghĩa hiện thực, TCVH, số 4

53. E.M.Meletinsky (2004), Thi pháp của huyền thoại, Nxb Đại học quốc gia Hà

Nội,

54. Nguyễn Trường Lịch (1997), Huyền thoại và sức sống của huyền thoại trong

văn chương xưa và nay, TCVH, số 5.

55. Vũ Minh Đức, Không gian kinh dị trong văn xuôi Nguyễn Tuân trước cách

mạng tháng Tám, nguồn http://yume.vn

56. Trần Đình Sử, (2000), Thi pháp học, Nxb Văn học.)

57. Lê Thị Hường (1994), Quan niệm về con người cô đơn trong truyện ngắn hôm

nay, TCVH, số 2.

58. Hồ Bích Ngọc, (2006), Nguyễn Bình Phương với việc khai thác tiềm năng thể

loại để hiện đại hoá tiểu thuyết, Luận văn Thạc sĩ, ĐHSP Hà Nội.

59. Jean Chevalier, Alain Cheerbrant, (1999), Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới,

Nxb Đà Nẵng, Trường Viết văn Nguyễn Du.

60. Nguyễn Thị Ngọc Anh (2008), “Một số suy nghĩ về sự linh cảm trong tiểu

thuyết của Nguyễn Bình Phương”, Văn nghệ Thái Nguyên, số 17.

61. Phùng Diệu Linh, (2004), Cấu trúc tiểu thuyết Thoạt kỳ thuỷ của Nguyễn Bình

Phương, Báo cáo khoa học.

62. Phương Lựu (chủ biên), (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội

63. S. Freud, C.Jung, E.Fromm, R.Assagioli, (2004), Phân tâm học và văn hoá tâm

linh, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

64. Nguyễn Thị Bình (2007), Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 – một cái nhìn khái

quát, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 2.