1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGUYỄN THỊ NGỌC THÚY

NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG BIẾN ĐỘNG CỦA MỘT SỐ YẾU TỐ DINH DƢỠNG ĐẤT ĐẾN SINH TRƢỞNG VÀ NĂNG SUẤT LÚA TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

THÁI NGUYÊN - 2011

i

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGUYỄN THỊ NGỌC THÚY

NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG BIẾN ĐỘNG CỦA MỘT SỐ YẾU TỐ DINH DƢỠNG ĐẤT ĐẾN SINH TRƢỞNG VÀ NĂNG SUẤT LÚA TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN

Chuyên ngành: Trồng trọt Mã số: 60.62.01 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN TUẤN ANH

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

THÁI NGUYÊN - 2011

ii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng những số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận

văn này là hoàn toàn trung thực và chưa hề sử dụng để bảo vệ một học vị

nào. Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn. Các

thông tin tài liệu trình bày trong luận văn này đều đã được ghi rõ nguồn gốc.

NGƯỜI VIẾT CAM ĐOAN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nguyễn Thị Ngọc Thúy

iii

LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian thực hiện đề tài này, tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ

tận tình của các thầy giáo, cô giáo cùng các tập thể và cá nhân. Nhân dịp luận

văn hoàn thành, tôi xin chân thành cảm ơn mọi sự giúp đỡ quý báu của các

thầy, cô giáo cùng các tập thể và cá nhân đã giúp đỡ tôi hoàn thành công trình

này.

Tôi xin chân thành cảm ơn Phó Giáo Sư, tiến sỹ Nguyễn Tuấn Anh-

Trưởng P.QHQT - ĐHTN, người đã trực tiếp tận tình hướng dẫn để tôi hoàn

thành tốt được đề tài này.

Tôi xin chân thành cảm ơn chinh quyền địa phương và bà con nông dân

xã Quyết Thắng, TPTN đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện các thí

nghiệm và xây dựng mô hình thực nghiệm tại địa phương.

Tác giả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nguyễn Thị Ngọc Thuý

iv

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ lục bìa ............................................................................................... i

Lời cam đoan .................................................................................................... ii

Lời cảm ơn ...................................................................................................... iii

Mục lục ............................................................................................................ iv

Danh mục các ký hiệu, các chữ cái viết tắt ................................................... viii

Danh mục các bảng ......................................................................................... iv

Danh mục các hình vẽ, đồ thị .......................................................................... xi

MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề .................................................................................................. 1

1.2. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................. 2

1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .................................................. 3

1.3.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài ................................................................... 3

1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài .................................................................... 3

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở khoa học của đề tài .......................................................................... 4

1.2. Tình hình nghiên cứu về cây lúa trên thế giới .......................................... 6

1.3. Tình hình nghiên cứu đạm, lân và kali cho cây lúa trên thế giới .............. 8

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

1.3.1. Nghiên cứu về đạm cho cây lúa trên thế giới .............................. 9

v

1.3.2. Nghiên cứu về lân cho cây lúa trên thế giới .............................. 10

1.3.3. Nghiên cứu về kali cho cây lúa trên thế giới ............................. 13

1.4. Tình hình nghiên cứu về sử dụng phân đạm, lân, kali cho cây lúa… ...... 14

1.4.1. Những nghiên cứu về bón phân đạm cho cây lúa ở Việt Nam .. 15

1.4.2. Những nghiên cứu về phân lân ở Việt Nam .............................. 16

1.4.3. Những nghiên cứu về phân kali cho cây lúa ở Việt Nam .......... 18

1.5. Hàm lượng các yếu tố đạm, lân, kali trong đất lúa ở Việt Nam ............. 20

1.5.1. Đạm trong đât lúa nước ở Việt Nam ......................................... 20

1.5.2. Lân trong đất lúa nước ở Việt Nam ........................................... 22

1.5.3. Kali trong đất lúa nước ở Việt Nam .......................................... 24

1.6. Một số kết quả nghiên cứu phân bón đối với lúa .................................... 25

1.6.1. Phân bón và cách bón phân cho lúa ..................................................... 25

1.6.2. Nhu cầu dinh dưỡng của cây lúa và vai trò của phân bón ................... 26

1.7. Sự cần thiết phải bón phân cân đối và hợp lý cho lúa ............................ 37

1.7.1. Cân đối đạm – lân ...................................................................... 38

1.7.2. Cân đối đạm – kali ..................................................................... 39

Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng, phạm vi, thời gian và địa điểm nghiên cứu .......................... 41

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................... 41

2.1.2. Thời gian nghiên cứu ................................................................. 41

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

2.2.3. Địa điểm nghiên cứu .................................................................. 41

vi

2.2. Nội dung nghiên cứu ............................................................................... 41

2.3. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 41

2.3.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm .................................................. 41

2.3.2. Điều kiện thí nghiệm .................................................................. 41

2.3.3. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi ....................................... 42

2.3.3.1. Thời gian sinh trưởng ................................................... 42

2.3.3.2. Chỉ tiêu về khả năng đẻ nhánh ..................................... 42

2.3.3.3. Chiều cao cuối cùng ..................................................... 42

2.3.3.4. Trọng lượng khô của thân, lá và…. .............................. 42

2.3.35. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất lý thuyết ........ 43

2.3.3.6. Năng suất thực thu ........................................................ 43

3.2.4. Phương pháp lấy mẫu đất .......................................................... 43

2.3. Xử lý số liệu ............................................................................................ 44

Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

3.1. Điều kiện tự nhiên tỉnh Thái Nguyên ....................................................... 45

3.1.1. Diễn biến thời tiết khí hậu vụ Mùa 2010 và vụ Xuân 2011 tại Thái

Nguyên ............................................................................................................ 45

3.1.2. Tài nguyên đất ở Thái Nguyên .............................................................. 47

3.2. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp và hiện trạng sản xuất lúa ở Thái

Nguyên ............................................................................................................ 49

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

3.2.1. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp ở Thái Nguyên ........................... 49

vii

3.2.2. Hiện trạng sản xuất lúa ở Thái Nguyên ............................................... 52

3.3. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của biến động các yếu tố dinh dưỡng đất

đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của giống lúa KD18 ...................... 54

3.3.1. Các đặc điểm của đất thí nghiệm ......................................................... 54

3.3.2. Khả năng sinh trưởng và phát triển của cây lúa ................................... 56

3.3.3. Tương quan giữa dinh dưỡng đất với sinh trưởng và năng suất lúa .... 61

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

1. Kết luận ...................................................................................................... 72

2. Đề nghị ....................................................................................................... 73

Phụ lục ............................................................................................................ 74

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tài liệu tham khảo .......................................................................................... 78

viii

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Ký hiệu Chữ đƣợc viết tắt

Dung tích hấp thu CEC

Công thức CT

Khối lượng chất khô Dw

ĐHNL Đại học Nông Lâm

Đẻ nhánh ĐN

Đơn vị tính ĐVT

Giai đoạn sinh trưởng GĐST

Thời kỳ phân hóa đòng LĐ

NN&PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn

Năng suất NS

Năng suất lý thuyết NSLT

Phân chuồng PC

Quy trình QT

Trung bình TB

Trung tâm khuyến nông TTKN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Hàm lượng mùn OM

ix

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng: 1.1. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa của Việt Nam những năm

gần đây ......................................................................................... 7

Bảng 1.2. Mối quan hệ lân - đạm và hiệu lực phân đạm với lúa ................... 38

Bảng 1.3. Ảnh hưởng của phân kali đến hiệu lực phân đạm với lúa trên đất

bạc màu ...................................................................................... 40

Bảng 1.4. Liều lượng phân bón nông dân sử dụng cho lúa ........................... 40

Bảng 3.1: Điều kiện thời tiết khí hậu vụ Mùa năm 2010 và vụ xuân 2011 ... 46

Bảng 3.2. Hiện trạng sử dụng đất 1/1/2009 .................................................... 51

Bảng 3.3. Diễn biến diện tích và năng suất lúa ở Thái Nguyên ..................... 53

Bảng 3.4. Đặc tính đất thí nghiệm .................................................................. 54

Bảng 3.5. Khả năng sinh trưởng của cây lúa .................................................. 56

Bảng 3.6. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất ................................. 60

Bảng 3.7. Tương quan giữa dinh dưỡng đất với năng suất và các yếu tố cấu

thành năng suất ........................................................................... 61

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Bảng 3.8. Tương quan giữa các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất ..... 66

x

DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ

Đồ thị 3.1. Tương quan giữa dung tích hấp thu của đất (CEC) với số hạt

chắc/bông .................................................................................... 63

Đồ thị 3.2. Tương quan giữa dung tích hấp thu của đất (CEC) với trọng lượng

nghìn hạt ..................................................................................... 64

Đồ thị 3.3. Tương quan giữa dung tích hấp thu của đất (CEC) với năng suất

thực thu ....................................................................................... 65

Đồ thị 3.4. Tương quan giữa số hạt chắc/bông với năng suất ........................ 67

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Đồ thị 3.5. Tương quan giữa trong lượng nghìn hạt với năng suất ................ 68

1

MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề

Thái Nguyên là một tỉnh thuộc vùng núi và trung du phía Bắc, có diện

tích đất trồng lúa là 70.800 ha, tuy nhiên tình hình sản xuất lúa tại tỉnh Thái

Nguyên còn gặp nhiều khó khăn, nguyên nhân chủ yếu là do điều kiện đất đai,

khí hậu, lượng mưa hàng năm không đều, tập trung chủ yếu vào các tháng

mùa mưa (từ tháng 4 đến tháng 10), dẫn đến một thực trạng rất phổ biến trong

sản xuất đó là chỉ có những nơi chủ động được nguồn nước tưới mới có thể

sản xuất được 2 vụ lúa/năm. Vấn đề đặt ra là phải tăng hệ số sử dụng đất,

ngoài việc nghiên cứu và tuyển chọn những giống lúa năng suất cao, chất

lượng tốt để có thể đưa vào ứng dụng trong sản xuất thì việc nghiên cứu các

biện pháp kỹ thuật để thâm canh cây lúa cũng đang là một vấn đề cấp thiết mà

thực tiễn sản xuất đang đặt ra. Mặc dù trong những năm gần đây sản xuất lúa

ở Thái Nguyên đã đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên tốc độ phát

triển và năng suất lúa giữa các địa phương không đồng đều và chưa xứng với

tiềm năng của nó. Thái Nguyên có nhiều khó khăn về kinh tế, trình độ dân trí,

cơ sở hạ tầng còn thấp, đất đai xói mòn rửa trôi bạc màu nhiều. Mặt khác đất

trồng lúa ở khu vực trung du, miền núi nói chung và ở Thái Nguyên nói riêng

luôn có những tính chất đặc thù riêng do quá trình hình thành khác biệt hẳn

với các đất đồng bằng và thường thì độ phì tự nhiên ít khi đồng nhất với độ

phì nhiêu thực tế do trong đất có những yếu tố hạn chế. Ngoài ra do trình độ

thâm canh của nông dân chưa cao, việc dùng phân hoá học lại rất mất cân đối,

vừa lãng phí lại vừa không có hiệu quả, năng suất lúa vì vậy mà nhiều năm

tăng không đáng kể. Phân bón có ảnh hưởng không những tới năng suất, chất

lượng sản phẩm, hiệu quả kinh tế của sản xuất mà còn được quan tâm đến ảnh

hưởng của bón phân tới môi trường đất, nước, không khí và tới sức khỏe cộng

đồng. Hiệu quả bón phân cao hay thấp phụ thuộc nhiều vào yếu tố, trong đó

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tính chất đất bao gồm cả tính chất vật lý hóa học và thành phần dinh dưỡng

2

đất là yếu tố quan trọng bậc nhất, rất cần quan tâm trong việc việc xây dựng

chế độ bón phân hợp lý.

Biến động không gian về tính chất đất đai đã được quan tâm nghiên

cứu trong nhiều năm qua trên thế giới và ứng dụng trong việc xây dựng chế

độ phân bón cho nhiều loại cây trồng. Nhiều thuật ngữ mới ra đời phục vụ

cho phát triển lĩnh vực nghiên cứu này như: Khuyến cáo phân bón dựa vào

tính chất đất; Bón phân theo vùng đặc thù và hiện nay là nông nghiệp chính

xác.

Tuy nhiên việc nghiên cứu về bón phân theo vùng đặc thù chưa được

tiến hành nhiều ở Việt Nam. Một số nghiên cứu rất ít, chủ yếu là những dự án

nghiên cứu hợp tác nước ngoài như nghiên cứu bón phân theo vùng đặc thù

của Nguyễn Văn Bộ, Nguyễn Thúc Sơn hợp tác với PPI của Canada, Bón

phân theo vùng đặc thù cho lúa của Lê Văn Tiềm, Bùi Huy Hiều hợp tác với

Viện lúa Quốc tế (IRRI).

Trong những năm qua người dân Thái Nguyên đã không ngừng cố

gắng ứng dụng các kỹ thuật mới như: giống, phân bón, phòng trừ bệnh hại…

nên năng suất lúa tăng từ 38,7 tạ/ha (năm 2000) lên 48,6 tạ/ha (năm 2009) (Sở

Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thái Nguyên). Tuy nhiên chế độ bón

phân cho lúa còn nhiều vấn đề phải nghiên cứu. Kết quả điều tra ở 3 huyện

Đồng Hỷ, Phú Lương và Phổ Yên cho thấy: có 90% số hộ bón phân thúc đẻ

muộn; 91% số hộ bón phân thúc đòng sớm hơn từ 5-15 ngày so với quy trình

kỹ thuật hiện hành; 15,3% số hộ không bón lót phân đạm; 38,9% số hộ không

bón đạm thúc đẻ; 65,6% số hộ không bón lót phân đạm thúc đòng. Mặt khác

việc áp dụng quy trình bón phân duy nhất của Trung tâm Khuyến nông với

một liều lượng đạm cố định cho toàn bộ diện tích trồng lúa của tỉnh cũng là

một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả sử dụng phân bón thấp.

Xuất phát từ thực tế trên và yêu cầu của sản xuất nhằm không ngừng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

làm tăng năng suất lúa và hiệu quả của việc đầu tư góp phần ổn định lương

3

thực, giúp nông dân sử dụng hợp lý đất đai. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu

đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng biến động của một số yếu tố dinh dưỡng đất

đến sinh trưởng và năng suất lúa tại tỉnh Thái Nguyên”.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu

- Nghiên cứu ảnh hưởng sự biến động của một số yếu tố dinh dưỡng đất

đến các yếu tố nông học: sinh trưởng, phát triển của cây lúa, trọng lượng chất

tươi và chất khô v.v… tại các thời điểm phát triển của cây lúa. Chi tiết

phương pháp theo dõi dựa trên hướng dẫn của IRRI.

- Nghiên cứu ảnh hưởng sự biến động của một số yếu tố dinh dưỡng đất

đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất cây lúa.

1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

1.3.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài

Nghiên cứu và tìm hiểu ảnh hưởng sự biến động dinh dưỡng một số

yếu tố dinh dưỡng đất đến sinh trưởng và năng suất lúa từ đó đề xuất việc ứng

dụng rộng rãi kỹ thuật này trong sản xuất.

1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài

Từ kết quả nghiên cứu xây dựng biện pháp kỹ thuật nhằm mục tiêu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tăng năng suất lúa và giảm ô nhiễm môi trường hoá nông nghiệp.

4

Chƣơng I

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở khoa học của đề tài

Trong những năm gần đây nền móng nông nghiệp nước ta đã có những

bước nhẩy vọt, từ một nước thiếu lương thực trầm trọng đã vươn lên sản xuất

đủ nhu cầu lương thực đứng thứ 2 trên thế giới sau Thái Lan. Diện tích trồng

lúa hầu như không tăng mà có xu hướng giảm dần, do đô thị hoá và chuyển

sang đất chuyên dùng, nhưng sản lượng không ngừng tăng lên từ 25 triệu tấn

thóc năm 1995, năm 2005 sản lượng lúa nước đạt 35,8 triệu tấn. Lương thực

bình quân đầu người là 475,8kg/người/năm. Lượng gạo xuất khẩu đạt trên 4

triệu tấn. Để đạt được thành quả đó là nhờ vào yếu tố giống, phân bón tạo tiền

đề của năng suất và phẩm chất thì phương pháp thâm canh hợp lý đã làm thay

đổi cấu trúc của cây lúa như:

Quan hệ giữa năng suất và cá thể (khóm lúa, bông lúa) với năng suất

quần thể ruộng lúa là rất chặt chẽ. Trên một đơn vị diện tích nếu mật độ càng

cao (gieo cấy dày) thì số bông nhiều song số hạt trên bông càng ít (bông bé),

tốc độ giảm số hạt trên bông mạnh hơn tốc độ tăng của mật độ. Vì vậy, gieo

cấy dày quá sẽ làm giảm năng suất nghiêm trọng. Nếu gieo cấy quá thưa nhất

là những giống có thời gian sinh trưởng ngắn rất khó hoặc không thể đạt được

số bông tối ưu. Vì vậy, các khâu kỹ thuật khác được duy trì thì chọn một mật

độ vừa phải là phương án tối ưu để đạt được số lượng hạt thóc nhiều nhất trên

một đơn vị diện tích gieo cấy.

Trong quá trình sinh trưởng và phát triển của cây lúa cần một lượng

dinh dưỡng nhất định, đặc biệt là phân đạm, lượng dinh dưỡng này một phần

có sẵn ở trong đất, phần còn lại là do con người cung cấp (bón thêm). Nếu

cung cấp hợp lý sẽ làm cho cây lúa sinh trưởng tốt năng suất cao.

Khi nghiên cứu về vai trò của đạm đối với cây trông nói chung, với cây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lúa nói riêng, nhiều tác giả đã chỉ rõ: Đạm tham gia cấu thành nên cơ thể thực

5

vật, đạm có trong protein, đạm điều tiết các hoạt động sống của cây, tham gia

vào các chất kích thích sinh trưởng các Xytokinin, Vitamin. Đạm có hoạt tính

sinh học cao, làm tăng giảm các hoạt động sinh lý của cây. Người ta còn thấy

đạm có trong các enzim xúc tiến các quá trình biến đổi sinh hoá trong cơ thể

cây. Đặc biệt đạm có mặt trong diệp lục tố, vì thế lúa được bón đạm sẽ khác

hẳn như: Lá to, dài, xanh, quang hợp tốt, đẻ nhiều. Nếu thiếu đạm lá, vàng,

nhỏ, đẻ ít, bông nhỏ, nhưng nếu quá nhiều đạm lúa sẽ lốp đổ, sâu bệnh nhiều,

hạt lép (Nguyễn Thị Lẫm, 1994) [37].

Trong cây lúa, tính theo chất khô, tỉ lệ kali nguyên chất (K2O) chiếm

khoảng 0,6-1,2% trong rơm rạ khoảng 0,3-0,45% trong hạt gạo. Khác với

đạm và lân, kali không tham gia vào thành phần bất kỳ một hợp chất hữu cơ

nào mà chỉ tồn tại dưới dạng ion trong dịch bào và một phần nhỏ kết hợp với

chất hữu cơ trong tế bào chất của cây lúa. Cũng như đạm, lân và kali chiếm tỷ

lệ cao hơn tại các cơ quan non của cây lúa. Kali tồn tại dưới dạng ion nên nhờ

vậy mà kali có thể len lỏi vào giữa các bào quan, xúc tiến quá trình vận

chuyển dinh dưỡng, giúp cây lúa tăng cường hô hấp. Kali còn thúc đẩy tổng

hợp protit, do vậy nó hạn chế việc tích luỹ nitrat trong lá, hạn chế tác hại của

việc bón thừa đạm cho lúa. Ngoài ra kali còn giúp bộ rễ tăng khả năng hút

nước và cây không bị mất nước quá mức ngay cả trong lúc gặp khô hạn. Kali

làm tăng khả năng chống hạn và chống rét cho cây lúa.

Cây lúa được bón đầy đủ kali sẽ phát triển cứng cáp, không bị ngã đổ,

chịu hạn và chịu rét tốt. Cây lúa thiếu kali lá có màu lục tối, mép lá có màu

nâu hơi vàng. Thiếu kali nghiêm trọng trên đỉnh lá có vết hoại tử mầu nâu tối

trong khi các lá già phía dưới thường có vết bệnh tiêm lửa. Khi tỷ lệ kali trong

cây giảm xuống chỉ bằng 1/2-1/3 so bình thường thì mới thấy xuất hiện triệu

chứng thiếu kali trên lá, cho nên khi triệu chứng xuất hiện thì năng suất đã

giảm nên việc bón kali không thể bù đắp được. Do vậy không nên đợi đến lúc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

xuất hiện triệu chứng thiếu kali rồi mới bón bổ xung cho cây. Trong sản xuất,

6

khi bón phân kali cho lúa, lượng kali clorua bao giờ cũng ít nhất trong 3 loại

phân bón chính và thường sử dụng để bón thúc cùng với phân đạm.

1.2. Tình hình nghiên cứu về cây lúa trên thế giới

Lúa là cây lương thực chủ yếu trên thế giới và Châu Á là cái nôi của

nghề trồng lúa trên thế giới. Việt Nam là một nước nông nghiệp sản xuất lúa

gắn liền với sự phát triển nông nghiệp. Theo tài liệu khảo cổ học cho thấy lúa

được trồng ở nước ta từ 3000 – 2000 năm trước công nguyên. Nước ta nằm

trong vùng nhiệt đới nóng ẩm, lượng bức xạ mặt trời cao và đất đai phù hợp,

nên có thể trồng được nhiều vụ lúa trong năm và với nhiều giống lúa khác

nhau. Một điểm nổi bật trong nghề trồng lúa ở nước ta là áp dụng nhanh nhất

những tiến bộ kỹ thuật về giống, phân bón, phòng trừ tổng hợp, tưới tiêu hợp

lý và các biện pháp kỹ thuật khác. Nhờ vậy, trong thời gian vừa qua hàng loạt

các giống mới có năng suất cao, phẩm chất tốt, có khả năng chống chịu với

điều kiện bất lợi, thích hợp với điều kiện tự nhiên và khả năng thâm canh của

từng vùng đã được công nhận và gieo cấy trong sản xuất. Việc kết hợp gieo

cấy với các giống mới chọn tạo trong nước với việc tuyển chọn các giống từ

nước ngoài của IRRI, Trung Quốc… đã tạo ra những triển vọng to lớn trong

ngành trồng lúa của Việt Nam đặc biệt là các giống lúa lai.

Như vậy, cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp, việc

áp dụng các biện pháp kỹ thuật đã làm cho sản xuất lương thực ở Việt Nam

những năm gần đây đạt được những thành tựu to lớn và ổn định. Mặc dù bình

quân ruộng đất trên đầu người giảm nhưng bình quân lương thực trên đầu

người lại tăng. Năm 1994 là 359 kg/người/năm thì năm 2009 đạt 513

kg/người/năm. Hiện nay lúa vẫn là cây lương thực quan trọng nhất của nước

ta, cây lúa cung cấp 85-87% tổng sản lượng lương thực trong nước. Trong

những năm gần đây diện tích cây lúa không tăng nhưng năng suất lúa được

cải thiện đáng kể và sản lượng lúa không ngừng tăng lên từ 24,9 triệu tấn thóc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

năm 1995 đến năm 2009 đạt 38,9 triệu tấn. Do bước nhảy vọt về sản xuất lúa

7

trong thập kỷ vừa qua mà Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng

thứ hai trên thế giới. Năm 1989 là năm đầu tiên chúng ta xuất khẩu gạo được

1,42 triệu tấn. Từ năm 1999 đến năm 2004 chúng ta luôn đạt mức xuất khẩu

gạo trên dưới 4 triệu tấn và năm 2009 là chúng ta có số lượng suất khẩu gạo

cao đạt 6 triệu tấn.

Bảng 1.1. Diện tích, năng suất và sản lƣợng lúa của Việt Nam

những năm gần đây

Diện tích Năng suất Sản lƣợng Năm (Nghìn ha) (tạ/ha) (Nghìn tấn)

1995 6765.6 36.9 24963.7

1996 7003.8 37.7 26396.7

1997 7099.7 38.8 27523.9

1998 7362.7 39.6 29145.5

1999 7653.6 41.0 31393.8

2000 7666.3 42.4 32529.5

2001 7492.7 42.9 32108.4

2002 7504.3 45.9 34447.2

2003 7452.2 46.4 34568.8

2004 7445.3 48v.6 36148.9

2005 7329.2 48.9 35832.9

2006 7324.8 48.9 35849.5

2007 7207.4 49.9 35942.7

2008 7400.2 52.3 38729.8

2009 7440.1 52.3 38895.5

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Nguồn: tổng cục thống kê năm 2010)

8

1.3. Tình hình nghiên cứu đạm, lân và kali cho cây lúa trên thế giới

Từ khi biết trồng trọt và chăn nuôi thì con người đã biết sử dụng phân

bón, đầu tiên từ năm 900 năm trước công nguyên, người La Mã đã biết sử

dụng phân chuồng bón cho ruộng nho.

Người đầu tiên đặt nền móng cho sản xuất phân bón hoá học là Liebig

(Justusvon). Năm 1840, Liebig đã cho ra đời tác phẩm “Hoá học đối với nông

nghiệp và sinh lý thực vật” (Vũ Hữu Yêm, 1995) [54]. Với tác phẩm này ông

đã khẳng định rằng: tất cả các cây đều được nuôi dưỡng bằng các nguyên tố

vô cơ hay nguyên tố khoáng, phân bón không tác động trực tiếp đến cây qua

các chất hữu cơ trong phân bón mà gián tiếp đến cây qua các chất hữu cơ

trong phân bón mà gián tiếp qua các sản phẩm phân giải của chất hữu cơ. Với

công trình nghiên cứu của mình, Liebig đã đưa lại một bước tiến kỳ diệu cho

nông nghiệp, qua đó đã tạo cho sự tăng trưởng mạnh mẽ về sản xuất phân bón

hoá học ở Tây Âu và Bắc Mỹ trong nửa đầu thế kỷ XX cho đến những năm

60. Mức sản xuất phân bón năm 1905 của toàn thế giới chỉ có 1,9 triệu tấn

dinh dưỡng (N,P,K), đến năm 1939 lên 9,2 triệu tấn (tăng 384%), bình quân

mỗi năm tăng 11%. Do chiến tranh, mức sản xuất phân bón thế giới sản xuất

1946 chỉ có 7,5 triệu tấn dinh dưỡng. Đến năm 1961 là 30,9 triệu tấn chất

dinh dưỡng (tăng 312%), bình quân mỗi năm tăng là 20,8%. Thập kỷ 60, từ

năm 1961 đến 1971 cũng còn tăng bình quân mỗi năm được 13,7% (Vũ Hữu

Yêm, 1995) [54]. Vì những thành tựu hoá học to lớn đó con người đã lạm

dụng quá mức về phân bón hoá học, do đó đã để lại những hậu quả nghiêm

trọng đe doạ môi trường sống bị ô nhiễm và làm suy giảm sức khoẻ của con

người ở các nước công nghiệp phát triển. Nông nghiệp hoá học vì thế mà

được xem lại và nông nghiệp sinh học ra đời. Tuy nhiên, với điều kiện hiện

nay, dân số ngày càng tăng, nguồn lương thực sản xuất ra có hạn, nhất là các

nước chậm phát triển và đang phát triển, nền nông nghiệp hoá học vẫn không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thể thiếu, vấn đề là sử dụng thế nào để có thể đưa đến một nền nông nghiệp

9

bền vững cải thiện và duy trì độ phì nhiêu của đất qua việc sử dụng hợp lý và

phân phối nguồn dinh dưỡng hữu cơ và phân bón hoá học trong hệ thống dinh

dưỡng cây trồng tổng hợp.

1.3.1. Nghiên cứu về đạm cho cây lúa trên thế giới

Trong 3 yếu tố phân bón chính (đạm, lân, kali) thì phân đạm là yếu tố

hàng đầu được nhiều nhà khoa học quan tâm nhất, nó cũng là yếu tố tăng

năng suất nhanh nhất nhưng lại gây ô nhiễm môi trường nặng nhất.

Các nghiên cứu ở ruộng cao sản của Philippin cho thấy với giống lúa

IR36 sản lượng là 9,8 tấn hạt/ha và 8,3 tấn rơm/ha thì lượng đạm có trong

rơm rạ là 7,6 kg/tấn thóc (SK.De Datta, 1989) tổng số là 22,2 kg N/tấn thóc

(Hoàng Minh Châu, 1998) [10]. Nói chung ở các ruộng cao sản với năng suất

lúa là 5 tấn/ha thì có lấy đi từ đất với lượng đạm là 110 kg N (trích từ bản

dịch của Hoàng Minh Châu, 1998) [10]. Theo De Datta và Buresh (1989) [58]

thì bón đạm urê vào đất, cây lúa sử dụng rất ít do tỷ lệ mất đạm lớn ở thể bay

hơi NH3.

Vlek và Byrnes (1996) [67] cho rằng cây lúa chỉ sử dụng được từ 20 -

40% lượng phân bón đạm bón vào đất. Do vậy mặc dù cây lúa được bón một

lượng đạm khoáng khá lớn, lượng sử dụng đạm từ đất vẫn chiếm khoảng 50-

80% hoặc còn cao hơn nữa (Koyama, 1981) [61], (Broadlent, 1979) [56].

Phần lớn lượng đạm cung cấp cho cây lúa từ đất được khoáng hoá từ các hợp

chất hữu cơ. Quá trình và tốc độ khoáng hoá chất hữu cơ chịu ảnh hưởng bởi

nhiệt độ, độ ẩm, chế độ nước, số lượng và chất lượng chất hữu cơ, tỷ lệ cấp

hạt sét và nhiều yếu tố khác (Broadlent, 1979) [56].

Nghiên cứu của Hung (2006) [59] thực hiện năm 2003 và năm 2004

trên 4 giống lúa ở Hàn Quốc cho kết quả: Thời kỳ đẻ nhánh có hệ số sử dụng

phân đạm rất thấp, chỉ đạt từ 24,4% (công thức bón 72N) đến 33,1% (công

thức bón 36N), hiệu suất sử dụng đạm chỉ đạt 11,1 - 13,1 kg thóc/kg N, thấp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hơn cả bón đạm trước khi cấy (hệ số sử dụng đạm là 41,5%; hiệu suất sử dụng

10

đạm là 23,3 kg thóc/kg N). Bón đạm vào thời kỳ làm đòng có hệ số sử dụng

đạm cao nhất là 65,8% (công thức bón 72N) đến 76,1% (công thức bón 36N),

hiệu suất sử dụng đạm là 21,9 - 32,5 kg thóc/kgN.

Tuy vậy, trong đất luôn luôn xảy ra hai quá trình thuận nghịch là

khoáng hoá các hợp chất hữu cơ có chứa đạm và cố định các dạng đạm vô cơ

dưới dạng hữu cơ cây trồng khó hấp thụ. Lượng đạm khoáng bị cố định ở hữu

cơ có thể lên đến 34g N/1kg C ở rễ và gốc lúa.

1.3.2. Nghiên cứu về lân cho cây lúa trên thế giới

Yếu tố quan trọng sau đạm là lân, đây cũng là yếu tố được nhiều nhà

khoa học đặc biệt quan tâm. Đối với lân, các nghiên cứu ở ruộng cao sản ở

Philippin với giống IR36, sản lượng là 9,8 tấn/ha và 8,3 tấn rơm/ha thì hàm

lượng lân có trong rơm là 1,1 kg P2O5 (SK.DC Datta, 1989 - trích dẫn theo

bản dịch của Hoàng Minh Châu, 1998) [10].

Như vậy, cây lúa cần một lượng lân rất thấp so với đạm, dễ hiểu ở một

số giai đoạn nhất định, một số nước người ta không thấy rõ hiệu lực của phân

lân bón cho lúa nhất là hiệu lực supe lân (A 1958 Angladette, R.P.

Bazthlomew, E.1958 Shapiro, R.H Walliamion và CTV 1959 vv…Trích dẫn

theo Lê Văn Căn, 1974) [9].

Jack, D.H.Grist (1958) cho rằng: một vụ thu hoạch lúa 31,7 tạ lấy đi

của đất 27,5 kg N, 2,8 kg P2O5 và 67,5 kg K2O trong rơm rạ và 47,5 kg N;

10,7 kg P2O5 và 11,2 kg K2O trong thóc. Như vậy là: một vụ lúa, thu hoạch

hơn 30 tạ thóc mà chỉ lấy của đất có 13,5 kg P2O5 (mỗi tấn thóc thu hoạch chỉ

cần khoảng 4kg P2O5) nên có thể quan niệm được là bón phân lân vào đất

không có hiệu lực lắm (Lê Văn Căn, 1974) [9].

Đối với đất nhiệt đới giàu sắt nhôm, nhiều tác giả đã nhận định phân

supe lân bón vào ruộng lúa sẽ chuyển thành những dạng nhôm phosphat rất

khó hoà tan, cho nên cây lúa không được mạnh mẽ và do sự thu hút supe lân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bị trì hoãn (E.lapitan 1904, Lefeme, N.1964 M.O.Ghani và M.Aislam

11

1946.Y.Coyand 1950, M.Malyc 1952 vv…Trích dẫn theo Lê Văn Căn (1974)

[9].

Tuy nhiên một số nghiên cứu khác lại cho rằng bón lân có hiệu quả rất

cao: ở Thái Lan, theo A.Angladette (1960) đối với đất lúa thì giữa supe lân và

dicanxi phosphate bón với liều lượng 37,8 kg P2O5 /ha, hiệu quả hoàn toàn

như nhau, làm tăng năng suất được 28% so với đối chứng. Qua năm thứ 2,

hiệu lực còn lại làm tăng năng suất được 60% của bội thu năm thứ nhất. Theo

tài liệu của Owen (1953) do I.Nagai (1959) ghi lại, thì đất lúa Thái Lan hiệu

lực phân lân thể hiện mạnh mẽ ở hầu hết các nơi. Những loại phân khác bón

vào nếu không phối hợp với lân thì không có tác dụng, ở trại thí nghiệm

Trung ương Bankhen, chỉ bón đơn thuần supe lân đã tăng được 1,5 - 2,5 tấn

thóc/ha. Bón phân phối hợp với phân đạm lại còn tăng hơn nữa, chỉ bón đạm

bội thu rất thấp có khi năng suất không tăng (trích dẫn theo Lê Văn Căn,

1974) [9].

Ở Miến Điện, theo tài liệu của D.H.Grist (1958) trên đất ruộng lúa phân

đạm và phân lân có hiệu lực. Theo A.Angladette (1960) hiệu lực phân supe

lân bón cho lúa ở Miến Điện thể hiện không được mạnh ở vụ đầu nhưng qua

vụ sau bội thu được khá lớn, nhất là ở những chân đất thuộc khoáng sét

Montmoritonit. Hiệu lực của phân lân có thể được kéo dài tới 10 vụ. Đối với

những chân đất pH = 6 thì người ta thường bón với lượng phân khá cao để có

thể bội thu ngay vụ đầu. Những loại phân lân sử dụng rộng rãi ở Miến Điện

có thể bón cho lúa là Amofoot, supe lân và Nixifot (trích dẫn theo Lê Văn

Căn, 1974) [9].

Theo các báo cáo tại hội nghị thực phẩm Quốc tế, loại phân lân sử dụng

phổ biến nhất ở Indonexia là supe lân kép. Thường bón 1 tạ supe lân kép, bội

thu lúa từ 600-1200kg/ha, 1kgP2O5 làm bội thu từ 20-25 kg thóc. Theo tài liệu

của Y.Hoffmando Coyand (1950), ở những chân đất nghèo lân của một số

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vùng thuộc java, hiệu lực supe lân kép có khả năng bội thu đến 10 tạ thóc,

12

lượng supe lân kép thích hợp nhất với đa số chân ruộng vào khoảng 75-100kg

P2O5/ha. Một số chân ruộng đặc biệt cần thiết có thể bón 200kg P2O5/ha [9].

Đặc biệt những nghiên cứu mới đây ở Ấn Độ cho thấy bón khoảng 60

kg P2O5/ha có thể tăng sản lượng lúa trung bình 0,5 - 0,7 tạ/ha đối với những

vùng đất hay bị khô hạn thì việc bón lân là đặc biệt cần thiết [10]. Trong điều

kiện thâm canh hiện nay, việc bón phân lân lại càng hết sức cần thiết để cây

lúa sử dụng đạm tốt hơn tránh thừa đạm, bảo vệ môi trường và sức khoẻ con

người.

Sempen (1969) [9] cho rằng nếu dùng phân lân thích đáng sẽ tăng hệ số

sử dụng của cây trồng.

Nghiên cứu ở Liên Xô trước đây cho thấy đất có hàm lượng hữu cơ cao

thì càng phải bón nhiều lân. Như vậy thì đạm lân mới cân đối.

Giáo sư Dusetkin (1956) đã giải thích khi bón lân vào đất sẽ có hiện

tượng cố định lân dưới dạng hữu cơ [9]. Lân hữu cơ trong đất không có khả

năng cung cấp trực tiếp cho cây trồng mà nó chỉ trở nên hữu dụng khi đã được

khoáng hoá. Trong điều kiện ngập nước, do tốc độ giải phóng lân hàng năm

từ nguồn gốc hữu cơ trong đất chỉ đạt khoảng từ 2-4% tổng số lân hữu cơ cho

nên hữu cơ không phải là nguồn dinh dưỡng lân đối với cây trồng [65]. Quá

trình phân huỷ chất hữu cơ xảy ra với sự tham gia của các vi sinh vật đất. Tỷ

số C/P là một trong những chỉ tiêu quan trọng quyết định khả năng giải phóng

lân từ các nguồn này, vì các vi sinh vật phân giải chất hữu cơ sẽ lấy lân từ

dung dịch đất và gây hiệu quả tăng lượng lân cố định thay vì giải phóng lân

[63].

Như vậy hiệu lực bón phân lân có thể sẽ đặc biệt cao ở ruộng chân núi

của ta là do sự mất cân đối giữa lân và đạm. Mặt khác, cũng do phần lớn lân ở

dạng hữu cơ gây nên có khả năng đói lân trầm trọng.

Theo Chang, Jackson (1975) [43], lân khoáng trong đất có thể chia làm 4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhóm chính gồm phosphate canxi (Ca-P), phosphate sắt (Fe-P) và phosphate

13

không tan bị giữ chặt giữa các khoáng sắt nhôm (RS-P). Để giải phóng lân trong

PS-P phải dùng chất khử rất mạnh mới phá bỏ được các lớp áo bọc ngoài. Do

trong thực tế, nhóm RS-P đóng góp rất ít trong việc cung cấp chất dinh dưỡng

lân cho cây trồng, hơn nữa do thủ tục phân tích lại phức tạp cho nên người ta chỉ

quan tâm nhiều đến 3 nhóm phosphate khoáng đầu. Mức độ phong hoá là yếu tố

quan trọng nhất chi phối sự phân bố các nhóm lân trong đất. Ngược lại trong đất

kiềm thì các phosphats Ca-P lại chiếm ưu thế trong đất. Trong đất Fe-P tồn tại

chủ yếu dưới dạng variscit (ALPO4. 2H2O) và một phần dưới dạng wavelit

(AL3(OH)3(PO4).2H2O); các phosphat canxi tồn tại chủ yếu dưới dạng photphat

có độ hoà tan rất khác nhau trong việc cung câp dinh dưỡng lân cho cây trồng

[62].

1.3.3. Nghiên cứu về kali cho cây lúa trên thế giới

Yếu tố tiếp theo được các khoa học nghiên cứu rất nhiều đó là yếu tố

kali. Theo các nghiên cứu của Philippin đối với ruộng lúa cao sản IR36, sản

lượng 9,8 tấn thóc/ha và 8,3 tấn rơm/ha thì hàm lượng kali chứa trong rơm rạ

khi thu 1 tấn thóc là 28,4 kg, hàm lượng kali chứa trong hạt khi thu 1 tấn thóc

là 3,2 kg. Như vậy tổng lượng kali trong rơm và hạt thóc là 31,6 kg/tấn hạt.

Đối với ruộng cao sản nói chung với sản lượng là 5 tấn thóc/ha. Có thể lấy đi

từ đất khoáng 156 kg K2O. So với lượng đạm và lân do cây lấy đi thì lượng

kali là cao nhất. Tuy nhiên, hàm lượng này hầu hết là ở thân lá, rơm rạ. Vì

vậy nếu chỉ thu hạt và trả lại rơm rạ cho đất thì hàm lượng kali lấy đi là rất

thấp (chỉ 3,2 kg/1 tấn thóc). Trong khi đó đạm, lân vẫn bị mất một lượng đáng

kể (SK.DC Datta, 1989 - trích dẫn theo bản dịch của Hoàng Minh Châu,

1998) [10].

Ở Ấn Độ đã có khuyến cáo đối với việc dùng kali của các bảng như

sau: Các nghiên cứu ở Ấn Độ cho thấy khi bón kali bón vào mùa khô có hiệu

quả hơn mùa mưa. Cùng một cánh đồng canh tác, hiệu quả kali thu được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trong mùa khô là 10 kg thóc/kg K2O, trong mùa mưa là 8 kg/ kg K2O [10].

14

Mặc dù hàm lượng kali cây trồng lấy trong đất là không lớn lắm khi con

người trả lại rơm rạ cho đất.

Tuy nhiên, nếu canh tác liên tục nhiều năm mà không bón kali hợp lý thì

đất cũng sẽ bị thiếu kali. Theo Brinkman và CTV, 1985 thì mặc dù hàm lượng

kali trong đất có cao thì sự thâm canh 2-3 vụ lúa trong năm hơn 20 năm, cùng

với việc bón phân đạm cao, ít bón hoặc không bón kali và việc lấy đi không

hoàn trả lại rơm rạ cho đất có thể làm giảm lượng kali dễ tiêu và kali không

trao đổi trong đất đến mức hạn [55]. Kết quả nghiên cứu ở nhiều nước cho thấy

có sự thấy có sự đáp ứng với phân kali (Kemler, 1980) [60]. Reyes (1961) [64]

cho rằng khả năng cung cấp kali của đất có thể được đánh giá thông qua sự hấp

thụ của cây trồng qua nhiều vụ. Thật vậy các yếu tố đạm, lân, kali sẽ có hiệu

lực cao, tránh được ô nhiễm môi trường do bón phân cân đối theo nhu cầu của

cây trồng.

1.4. Tình hình nghiên cứu về sử dụng phân đạm, lân và kali cho cây lúa ở

Việt Nam

Ở Việt Nam, các yếu tố đạm, lân, kali cũng được các nhà nghiên cứu

đặc biệt quan tâm. Nhất là từ sau năm 1954, những nhà nghiên cứu đi đầu

trong lĩnh vực này là Lê Văn Căn (1974) [9], Đỗ Ánh, Bùi Đình Dinh (1992)

[1], Lê Văn Tiềm (1974) [50], Nguyễn Vy, Trần Khải (1974) [52].

Cũng như ở nước ngoài, ở Việt Nam việc sử dụng phân hoá học đã đưa

năng suất cây trồng của chúng ta tăng nhanh vượt bậc.

Bùi Đình Dinh (1999) [18] có nhận xét: ở Việt Nam trước năm 1955

nông dân chưa sử dụng phân hoá học để bón cho lúa, mà chỉ bón khoảng 5-6

tấn hữu cơ/ha với giống lúa cũ, năng suất chỉ đạt trên dưới 2 tấn/ha. Theo

thống kê từ năm 1990 trở lại đây nhờ có giống lúa mới mà áp dụng đồng bộ

các kỹ thuật canh tác, trong đó việc sử dụng phân bón hoá học tăng nhanh,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bình quân bón 127 kg NPK nguyên chất, năng suất đạt 3,9 tấn/ha, tổng số

15

lượng đạt 30 triệu tấn. Trong đó bình quân phân hữu cơ cũng chỉ bón trên

dưới 6 tấn/ha chiếm khoảng 30% trong tổng lượng dinh dưỡng bón.

Từ kết quả nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm trong sản xuất năm

1997, Bùi Đình Dinh [17] đã ước tính ở Việt Nam phân bón đóng góp vào

việc tăng tổng sản lượng từ 38-40%, trong đó phân hoá học khoảng 28-30%.

Cứ sử dụng 1 tấn NPK nguyên chất sẽ thu được 10 tấn thóc trong thí nghiệm,

13 tấn thóc trong mô hình 1998, Nguyễn Văn Bộ [6] kết luận ở miền Bắc với

lúa xuân, phân bón đóng góp khoảng 36,78%, lúa mùa khoảng 21%. Nguyễn

Văn Luật, 1998 [40] cũng đánh giá ở đồng bằng sông Cửu Long phân bón

đóng góp khoảng 37%, trong đó phân vô cơ đóng góp khoảng 33%.

Cây trồng hàng vụ, hàng năm lấy đi từ đất hàng triệu tấn nitơ, phốtpho,

kali và các nguyên tố trung, vi lượng khác. Bùi Đình Dinh, 1998 [17] ước tính

8 loại cây trồng chính (lúa, ngô, khoai lang, sắn, mía, đậu tương, lạc) trong

năm 1993 đã lấy đi khoảng 2 triệu tấn NPK nguyên chất.

Việc bù đắp các yếu tố cây trồng bị lấy đi hàng năm, duy trì độ phì

nhiêu của đất là hết sức cần thiết. Theo sự tính toán tổng toán tổng hợp lượng

dinh dưỡng từ phân hữu cơ (phân chuồng, phân xanh, phân sinh học, rơm rạ)

sử dụng trong nông nghiệp cũng chỉ đạt 20% N, 30% P, 58% K cần cho cây

trồng (Bùi Đình Dinh, 1995) [16]. Tuy vậy, nếu sử dụng phân bón hoá học

không hợp lý sẽ làm giảm hiệu quả đầu tư, lãng phí gây và ô nhiễm môi

trường, độc hại cho sức khoẻ của con người. Kết quả nghiên cứu về hiệu lực

phân khoáng của viện Thổ nhưỡng Nông hoá cho thấy nếu bón đạm không

kèm bón phân lân thì hiệu quả đầu tư giảm.

1.4.1. Những nghiên cứu về bón phân đạm cho cây lúa ở Việt Nam

Trong 3 loại phân bón trên thì phân đạm cũng là loại phân được đưa

vào Việt Nam sớm nhất. Phân đạm có vai trò làm tăng năng suất và sản lượng

lúa ở Việt Nam. Hơn 2/3 lượng phân đạm ở Việt Nam sử dụng cho bón lúa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Trần Thúc Sơn, 1996) [46].

16

Theo Ngô Ngọc Hưng, 2004 [35] đạm amon trong nước ruộng được

đưa vào Việt Nam sớm nhất. Phân đạm có vai trò quan trọng trong việc làm

tăng năng suất và sản lượng lúa ở Việt Nam. Hơn 2/3 lượng phân đạm ở Việt

Nam sử dụng cho bón lúa (Trần Thúc Sơn) [46].

Đạm amon trong nước ruộng được tạo ra từ sự thuỷ phân urê có thể tồn

tại đến 6-7 ngày sau khi bón urê. Thời gian mà lượng đạm tồn tại sau các đợt

bón urê này cần được quan tâm sự việc rửa trôi hoặc chảy tràn trong thời gian

này sẽ làm thất thoát phân đạm, đặc biệt trong vụ hè thu, mưa nhiều [35].

Đạm amon trong nước ruộng được tạo ra từ đạm trong đất lúa bị mất chủ yếu

thông qua quá trình bay hơi, các giải pháp về vùi sâu viên to, sử dụng chất ức

chế cũng như thang mầu lá đã được đề suất [28].

Theo Hoàng Thị Minh, R.Schaefer, 2006 [41], sự tích luỹ đạm khoáng

trong quá trình phân giải hữu cơ không có sự khác biệt rõ các chất hữu cơ +. Nhiệt độ, độ ẩm có liên quan thêm vào. NO3 được tích luỹ nhiều hơn NH4

đến sự tích luỹ đạm khoáng.

Tăng liều lượng đạm (0-150 kg/ha) đã làm tăng số dảnh và tăng lượng

đạm tích luỹ trong cây lúa. Lượng tăng này rõ hơn khi bón đạm với phân

chuồng và tăng liều lượng bón lân (Trần Thúc Sơn, 1996) [46].

Theo Phạm Tiến Hoàng, Trần Thúc Sơn, Phạm Quang Hà (1996) [23],

trên đất bạc màu với nền P60K60 thì lượng đạm khoáng thích hợp để đạt năng

suất cao và có hiệu quả kinh tế là N90 - 120; tỷ lệ NPK thích hợp là 1:0,5:0,5.

Tuy nhiên, khi bón với lượng đạm quá cao thì năng suất chẳng những

không tăng lên, thậm chí còn giảm xuống. Kết quả nghiên cứu cho thấy, với

đất phù sa sông Hồng khi bón lượng đạm từ 80-100 kg N/ha thì hiệu suất 1

kgN là 10 - 15 kg thóc ở vụ xuân và 6 - 9 kg ở vụ mùa. Nếu bón trên 160 kg

N/ha thì hiệu suất đạm giảm rõ rệt.

Trên đất bạc mầu, khi bón lượng đạm từ 40-80 kg N/ha hiệu suất 1 kg N

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

là 10 - 13,5 kg thóc ở vụ mùa, bón trên 120 kg N/ha hiệu suất giảm xuống còn

17

5-6 kg thóc/1kg N (Phạm Tiến Hoàng, Trần Thúc Sơn, Phạm Quang Hà, 1996)

[31].

1.4.2. Những nghiên cứu về phân lân ở Việt Nam

Yếu tố đứng thứ hai sau đạm và là yếu tố được nhiều nhà nghiên cứu

của Việt Nam quan tâm nhất đó là lân. Trước năm 1954, phân lân được sử

dụng ở nước ta là bột photphorit, tuy nhiên nó cũng chỉ mới được khai thác và

sử dụng ở một số vùng. Việc nghiên cứu về lân được thực hiện nhiều nhất chỉ

sau khi thành lập các nhà máy sản xuất supe phosphate và tecmo phosphate

(1960-1961).

Theo Bùi Đình Dinh (1999) [19] thì quá trình nghiên cứu và sử dụng

phân lân ở Việt Nam được chia ra làm 3 thời kỳ và chủ yếu tập chung cho lúa.

* Giai đoạn 1960-1970: trong giai đoạn này, các giống lúa mới đã thay

dần các giống lúa cũ trên nhiều vùng đất, kể cả trên đất có vấn đề. Các giống

lúa thấp cây Chiêm bầu, Chiêm tép… các thí nghiệm về hiệu lực phân supe

phosphate và tecmo phosphate bón với liều lượng lân trong đất còn cao, nhu

cầu dinh dưỡng N, P, K của cây lúa giống cũ còn thấp, do đó đất cũng cung

cấp đầy đủ cho lúa.

* Giai đoạn 1970 - 1990: trong giai đoạn này, các giống lúa mới đã

thay dần các giống lúa cũ trên nhiều vùng đất, kể cả trên các đất có vấn đề.

Các giống lúa mới thấp cây, năng suất cao (CR203, NN8 …) nhu cầu dinh

dưỡng trong đó có lân cao cấp 2-3 giống lúa cũ. Hiệu quả của bón lân trong

giai đoạn này cũng cao gấp 2-3 giống lúa cũ. Hiệu quả bón lân trong giai đoạn

này cũng cao gấp 2-3 lần giai đoạn trước. Nguyên nhân có thể là do yêu cầu

lân của các giống lúa mới cao hơn, mặt khác cũng do độ phì nhiêu của đất

giảm sau một thời gian không bón phân lân. Tuy vậy trong giai đoạn này,

mức sử dụng phân lân còn thấp, trung bình trong những năm 1981- 1984

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

không vượt quá 12 kg P2O5/ha.

18

* Giai đoạn 1990 đến nay: trong giai đoạn này, nhiều giống lúa mới

xuất hiện trong đó có giống có tiềm năng năng suất cao như DT10, C70, C71,

Khang Dân 18 … đặc biệt là các giống lai TG1, TG5 … các giống lúa này có

nhu cầu dinh dưỡng rất cao, không bón cân đối N, P, K sẽ dễ bị thất thu. Vì

vậy trong giai đoạn này việc sử dụng phân lân ngày càng tăng. Từ năm 1995

đến nay, số lượng supe phosphate và tecmo phosphate tiêu thụ hàng năm

trung bình 80 vạn tấn. Nguyên nhân có thể là do chính sách nhà nước, giống

cây trồng mới cần nhiều lân, hệ số quay vòng của đất tăng, nhận thức của

người dân tăng lên.

Đầu những năm bảy mươi khi phát hiện lân là yếu tố hạn chế năng suất

lúa khi mở rộng diện tích gieo trồng các giống lúa mới có nhu cầu lân cao gấp

2-3 lần giống lúa cổ truyền như IR8, IR5. Vấn đề bón lân đã trở thành tập

quán trong canh tác các giống lúa mới, lân thật sự là đòn bẩy năng suất và

cùng với giải pháp thuỷ lợi là điều kiện tiên quyết trong điều kiện mở rộng

diện tích gieo trồng lúa mới, đặc biệt là các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long,

góp phần đáng kể vào việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia [20].

Theo Nguyễn Thị Lan, 2006 [36], hiệu suất của 1kg phân lân ở mức

60kg P2O5 cho 1ha trên nền phân chuồng 9 tấn, 80kg N, 60kg K2O là 5kg

thóc/kg lân nguyên chất trên nền đất phù sa vàn chuyên lúa ở Trực Đại, huyện

Trực Ninh, tỉnh Nam Định.

1.4.3. Những nghiên cứu về bón phân kali cho cây lúa ở Việt Nam

Kali là yếu tố phân bón được các nhà nghiên cứu quan tâm rất nhiều,

nhất là trong giai đoạn hiện nay. Các giống lúa cao sản như lúa lai, nhu cầu về

kali rất cao, yếu tố kali trở thành rất quan trọng để tăng cường năng suất lúa.

So với dinh dưỡng đạm và lân thì lượng kali được hút vào cây trồng là

rất cao. Theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Bộ, Nguyễn Văn Ba, Bùi Thị Trâm

(1995) [5] với lúa thường, năng suất trung bình 50-55 tạ/ha thì lượng đạm cây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lấy đi là 100-120kg N/ha, lượng lân là 40-50kg P2O5/ha, lượng kali là 100-

19

120kg K2O/ha. Với lúa lai, năng suất trung bình là 65-70 tạ/ha thì lượng đạm

cây lấy đi theo nông sản và phế phụ phẩm là 150-180kg N/ha, lân là 70-80kg

P2O5/ha, kali là 180-200kg/ha.

Mặc dù lượng Kali lấy từ đất với lúa là cao như vậy nhưng hầu hết

lượng kali được lưu lại trong phế phụ phẩm (rơm, rạ). Trong đó nông dân hầu

hết có tập quán là trả lại phế phụ phẩm cho đồng ruộng bằng cách vùi gốc rạ,

độn chuồng, đốt thành tro bón cho ruộng. Như vậy hầu hết kali cũng được trả

lại cho đất, do đó mặc dù tính trung bình trong phân khoáng thì tỷ lệ bón N, P,

K là 1:0,17:0,06 nhưng vẫn không ảnh hưởng nhiều đến năng suất lúa

(Nguyễn Văn Bộ, Nguyễn Văn Ba, Bùi Thị Trâm, 1995) [5].

Trong điều kiện bón phân chuồng từ 10 tấn/ha trở lên, hiệu lực của Kali

không đáng kể (Nguyễn Văn Bộ, Bùi Thị Trâm, Phạm Văn Ba, 1995) [4].

Trong điều kiện không bón phân chuồng, hiệu lực kali rõ hơn, nhất là

đối với lúa lai. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Trọng Thi, Nguyễn Văn Bộ -

1992) [48], Nguyễn Văn Bộ, Bùi Thị Trâm, Phạm Văn Ba (1995) [5], [4] cho

thấy: đối với đất nghèo kali (đất bạc màu), bón kali cho năng suất tăng 6,5-

11,1 tạ/ha (hay 19-50% so với đối chứng không bón kali).

Tuỳ theo bón phân chuồng hay không bón phân, hiệu lực kali cao từ 8-

21kg thóc/kg K2O, với chỉ số VCR=3,6-6,2. Đối với đất giàu kali như đất phù

sa sông Hồng hiệu lực kali thấp, trường hợp không bón phân chuồng năng

suất cũng chỉ tăng 2,3 tạ/ha hay 5%, khi bón phân chuồng 10 tấn/ha thì hiệu

lực kali rõ hơn, với giống Tạp Giao 5 năng suất tăng 5,4-7,1tạ/ha so với đối

chứng.

Phù sa trong nước lũ đã cung cấp một lượng thấp kali ở dạng

K(NH4OAc), nhưng cung cấp một lượng Kali khá cao ở dạng K(NaTPB), và

một lượng lớn kali tổng số, tuỳ thuộc vào lượng phù sa bồi. Điều này cho thấy

sự duy trì khả năng cung cấp kali cho lúa trong thời gian qua là do sự bổ sung

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

từ nguồn phù sa trong mùa lũ. Việc bao đê ngăn lũ để canh tác 3 vụ do đó làm

20

mất đi lượng bổ xung này. Hậu quả trong tương lai có thể nguồn kali tổng số

và chậm hữu dụng trong đất giảm dần và cần bón nhiều phân hoá học để cung

cấp đủ kali cho cây trồng và duy trì độ phì kali trong đất. Điều này đã đưa đến

chi phí sản xuất tăng, thu nhập nông dân giảm. Việc cung cấp dưỡng chất,

nhất là kali từ nguồn phù xa đó cần được quan tâm trong chiến lược quản lý

độ phì nhiêu đất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long [30].

Trong thâm canh lúa lượng kali cây hút để tạo một tấn hạt khá ổn định,

trong đó vụ mùa cao hơn vụ xuân. Đất phù sa sông Hồng dễ dàng cung cấp

kali cho lúa ngắn ngày đạt năng suất 3,5 - 4,0 tấn/ha/vụ. Muốn đạt năng suất

lúa trên 5 tấn/ha/vụ mùa, 6 tấn ha/ vụ mùa, nhất thiết phải bón kali [25].

Hàm lượng các thành phần kali thường thấp trên nhóm đất phù sa cổ và

đất cát nên việc bón phân kali rất cần thiết để tăng năng suất cây trồng. Vấn

đề quan trọng cần quan tâm là việc quản lý hàm lượng kali trên nhóm đất phù

sa vì hàm lượng kali thường ở mức trung bình thấp và mức độ thâm canh lúa

và các loại cây trồng ngày càng cao khả năng thiếu kali trong tương lai có thể

xẩy ra nếu các biện pháp quản lý chất kali trong đất không được chú ý. Hàm

lượng kali cung cấp cho đất trích bằng resin cũng đạt ở mức trung bình. Sự

tương quan giữa hàm lượng kali trích bằng resin với K trao đổi và không trao

đổi cho thấy hàm lượng kali trích bằng resin có thể dùng để nghiên cứu động

thái khả năng cung cấp kali cho cây trồng [29].

1.5. Hàm lƣợng các yếu tố đạm, lân, kali trong đất lúa ở Việt Nam

Việc nghiên cứu về các yếu tố đạm, lân, kali ở trong đất trồng lúa cũng

đã được rất nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam đề cập đến.

1.5.1. Đạm trong đất lúa nước ở Việt Nam

Theo nghiên cứu của Trần Thúc Sơn (1999) [47] thì hàm lượng đạm

tổng số trong một số loại đất chính ở miền Bắc biến thiên khá rộng, từ 0,3 -

2,05g N/kg đất tuỳ thuộc vào loại đất phát sinh và hàm lượng chất hữu cơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trong đất. Hàm lượng đạm tổng số cao ở trên đất phù sa không được bồi đắp

21

hàng năm của hệ thống sông Hồng (1,25 - 2,05g/kg đất), thấp nhất ở đất ven

biển (0,135 - 0,630g/kg đất). Hàm lượng đạm tổng số trong đất trồng lúa ở

cao nguyên Sơn La là 0,24% (Lê Văn Tiềm, 1974) [49]. Đất dốc tụ Bắc Thái

hàm lượng đạm tổng số biến động từ 0,10-0,28% (Nguyễn Thế Đặng, Nguyễn

Ngọc Nông, 1995) [21]. Theo Vũ Hữu Yêm (1995) [54] trong đất Việt Nam,

hàm lượng đạm thấp nhất là đất bạc màu (0,042%) và cao nhất là đất lầy thụt

(0,62%), đất có hàm lượng đạm trung bình là đất phù sa sông Hồng ( 0,12%).

Hàm lượng đạm trong đất ít phụ thuộc vào đá mẹ mà phụ thuộc chủ yếu vào

điều kiện hình thành đất. Đạm trong đất chủ yếu ở 3 dạng:

+ bị khoáng sét giữ chặt.

+ Đạm hữu cơ nằm trong thành phần mùn.

+ Đạm - NH4

+ Muối amôn và nitrat vô cơ hoà tan.

Ngoài ra còn có một phần nhỏ là do khếch tán N2 khí quyển và sản phẩm

của quá trình phản nitrat hoá như N2, N2O, NO, NO2 nằm trong tướng khí của

đất.

Trong đất luôn xảy ra 2 quá trình ngược nhau, đó là quá trình khoáng

hoá chất hữu cơ có đạm, giải phóng đạm vô cơ và các nguyên tố khác như S,

P, K, Mg… và quá trình các muối vô cơ và các nguyên tố khác như S, P, K,

Mg… và quá trình các muối vô cơ đơn giản được cơ thể vi sinh vật hấp thụ và

tái tạo chất hữu cơ bằng cơ thể sinh vật, làm cho hàm lượng đạm vô cơ trong

đất tạm thời giảm đi.

Quá trình khoáng hoá các chất mùn được thực hiện bởi vi sinh vật hấp

thụ và tái tạo chất hữu cơ bằng các cơ thể vi sinh vật, làm cho hàm lượng đạm

vô cơ trong đất tạm thời giảm đi.

Quá trình khoáng hoá các chất mùn được thực hiện bởi vi sinh vật, một

phần đạm của quá trình này vi sinh vật sử dụng, phần còn lại giải phóng ra

cung cấp cho cây trồng. Tỷ lệ C/N là hết sức quan trọng trong quá trình này,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nó cho biết quá trình khoáng hoá xảy ra thuận lợi không, lượng đạm khoáng

22

được tạo ra trong quá trình này. Giữa hàm lượng đạm tổng số và hàm lượng

chất hữu cơ trong đất lúa có mối quan hệ chặt chẽ, tuỳ theo loại phát sinh mà

tỷ lệ C/N biến động từ 0,7 - 11,9 ( Trần Thúc Sơn, 1999) [47].

1.5.2. Lân trong đất lúa nước ở Việt Nam

Theo Nguyễn Vy, Trần Khải (1977) [53], hàm lượng lân tổng số và dễ

tiêu trong đất lúa nước vùng đất lúa nước vùng bắc Việt Nam nói chung thấp

hơn so với các loại đất ở các nước như Liên Xô cũ, Trung Quốc… Tuy nhiên,

cũng có loại đất có hàm lượng lân cao như các loại đất hình thành trên đá

bazan.

Tỷ lệ lân trong đất của Việt Nam biến động trong phạm vi 0,03 -0,12%.

Ở một số đất hình thành trên đá mẹ giàu lân, tỷ lệ lân tổng số có thể lên tới

0,6%. Tỷ lệ lân trong đất phụ thuộc vào thành phần đá mẹ. Đất hình thành

trên đá mẹ giầu lân (bazan, đá vôi…) thường giàu lân hơn đất hình thành trên

đá mẹ nghèo lân (Granit) (Nguyễn Vy, Trần Khải, 1977) [53].

Người ta chia lân trong đất thành hai nhóm chính đó là lân hữu cơ và

lân khoáng. Trong phần lớn đất Việt Nam, Hàm lượng lân hữu cơ giao động

khoảng 10- 45% so với lân tổng số tuỳ theo loại đất (Nguyễn Tử Siêm, Trần

Khải, 1997) [45]. Trong điều kiện đất phèn, giầu hữu cơ của đồng bằng sông

Cửu Long, lân hữu cơ có thể chiếm 30-64% (Đỗ Thị Thanh Ren, 1989) [44].

Mặc dù vậy nhưng do lân hữu cơ khó giải phóng ra dạng dễ tiêu để cung cấp

cho cây trồng trong điều kiện ngập nước, cho nên đất vẫn bị thiếu lân.

Đối với phân khoáng, kết quả phân tích 3 nhóm lân chính trong đất chua

Việt Nam cho thấy 45-80% lân khoáng trong đất chua Việt Nam tồn tại chủ yếu

dưới dạng Ca-P (Đỗ Ánh, Bùi Đình Dinh) [1], (Nguyễn Vy, Trần Khải, 1997)

[53].

Theo Nguyễn Vy, Trần Khải (1997) [53], song song với quá trình

phong hoá trong điều kiện nhiệt đới, nóng ẩm và trong môi trường chua, các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phosphate nhôm và phosphate caxi có xu hướng chuyển sang dạng strengit,

23

trong điều kiện ôxy hoá và vivianit trong điều kiện khử. Chính vì quá trình

tích luỹ Fe-P là quá trình chủ đạo trong phần lớn đất chua Việt Nam. Như

vậy, cho thấy tầm quan trọng của phosphate liên kết với sắt trong việc cung

cấp dinh dưỡng lân đối với cây trồng ở Việt Nam.

Trong đất lân có thể bị cố định bằng việc hấp thu lân của đất theo Võ

Đình Quang và CTV (1996) [68], khả năng hấp thu lân của đất có tương quan

chặt với pH, hàm lượng cacbon hữu cơ, hàm lượng sắt, nhôm chiết bằng

oxalat (Fe0, Al0), hàm lượng sét. Đối với đất Việt Nam, khả năng hấp thu lân

của oxit nhôm cao gấp 2 lần so với khả năng hấp thu của các oxit sắt vô định

hình. Tuy nhiên, hàm lượng nhôm chiết bằng oxalat trong đất ít hơn rất nhiều

so với sắt chiết bằng oxalat nên đóng góp của nhôm về định hình trong việc

hấp thu lân ít so với sắt vô định hình. Khả năng hấp thu lân của đất tương

đương chặt chẽ với pH của đất, hàm lượng sắt, nhôm di động, thành phần hạt

sét và cacbon hữu cơ (Nguyễn Văn Luật, 1998) [40].

Trong điều kiện pH thấp của đại đa số đất chua Việt Nam, khi bón lân

vào đất, sản phẩm tạo thành chủ yếu là phosphate sắt dạng strengit và một

phần phosphate nhôm dạng variscit [53], [42].

Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy trong đất ngập nước hàm lượng các

phosphate nhôm dạng variscit có thể chuyển qua nhóm phosphate sắt dạng

vavinit [27], [42], [14].

Hầu như tất cả các nghiên cứu về việc giải phóng lân trong quá trình

ngập nước đều có một kết luận chung là khi ngập nước, hàm lượng lân dễ tiêu

tăng mạnh (Nguyễn Vy, Trần Khải, 1997) [53], (Võ Đình Quang và CTV,

1994) [42]. Các nguyên nhân chính của việc ra tăng giải phóng lân trong qua

trình ngập nước bao gồm:

- Quá trình khử các hydroxit sắt.

- Quá trình khử và chuyển strengit, variscit khó tan sang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vivianit dễ hoá tan hơn.

24

- Tăng pH do quá trình trình khử làm tăng quá trình thuỷ phân

strengit và variscit.

- Quá trình trao đổi giữa các ion hữu cơ tạo thành do quá trình

phân giải hữu cơ và ion phosphate (Võ Đình Quang, 1999)

[43].

1.5.3. Kali trong đất lúa nước ở Việt Nam

Theo các nhà nghiên cứu của nguyễn Vy, Trần Khải (1974) [52]; Vũ

Hữu Yêm (1995) [54]; Nguyễn Văn Chiến (1999) [11], hàm lượng kali tổng

số trong đất trồng lúa ở Việt Nam biến động trung bình từ 0,5 - 3%. Trong đất

nghèo kali như đất bạc màu có thể xuống đến 0,12 - 0,26%. Đất giàu kali như

đất phù xa sông Hồng có thể lên tới 3,33%. Hàm lượng kali trong đất phụ

thuộc vào thành phần đá mẹ. Đất hình thành trên đá mẹ giàu fenpat, mica

thường chưa nhiều kali. Đất phong hoá mạnh nhiều kali hơn đất trẻ, kali trong

đất tồn tại 3 dạng.

Kali nằm trong thành phần khoáng vật như fenpat, mica, glaukonit,

nephelin và lenchite. Dưới ảnh hưởng của nước và axit cacbonic hoà tan trong

nước, nhiệt độ và vi sinh vật, các khoáng vật này sẽ cung cấp dần kali nghiền

cho cây trồng.

Khả năng cung cấp kali của các khoáng vật trên yếu dần theo thứ tự sau

đây:

Biotit> Muscovit> Nêphêlin> Ortoclas

- Kali trao đổi hấp thu trên bề mặt keo đất: hàm lượng kali dạng này chỉ

chiếm khoảng 0,8 - 1,5% K2O tổng số trong đất.

- Kali hoà tan trong nước: dạng này rất ít, chỉ chiếm 10% lượng kali trao

đổi.

Trong đất, 3 dạng này luôn chuyển hoá cho nhau tạo thành một cân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bằng động (Vũ Hữu Yêm, 1995) [54].

25

1.6. Một số kết quả nghiên cứu phân bón đối với lúa

1.6.1. Phân bón và cách bón phân cho lúa

Phân bón cho lúa chứa những chất dinh dưỡng quan trọng cần thiết cho

cây lúa phát triển, các loại dinh dưỡng này cần phải thường xuyên bổ sung

cho cây lúa. Trong đất luôn luôn dư một lượng dinh dưỡng nhất định nhưng

lượng dinh dưỡng từ đất thường không đủ cho cây lúa. Trong đất luôn tồn dư

một lượng dinh dưỡng nhất định nhưng lượng dinh dưỡng từ đất thường

không đủ cho cây lúa phát triển để đạt hiệu quả, hiệu suất cao nhất về năng

suất, chất lượng khi thu hoạch. Người ta bổ sung dinh dưỡng cho cây lúa bằng

cách bón các loại phân bón vào đất hoặc phun lên lá các loại phân bón khác

nhau, vào các giai đoạn khác nhau để đạt được kết quả sản xuất cao nhất. Có

hai cách bón phân cho cây lúa: bón vào đất và phun lên lá.

- Loại phân bón vào đất đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng cho cây lúa trong

suốt thời gian sinh trưởng và phát triển. Phân bón vào đất thường ở dạng thô

(phân hữu cơ: phân chuồng, phân rác, phân xanh, phân vi sinh), dạng bột viên

(phân bón vô cơ: phân đạm, phân lân, phân kali, vôi, phân khoáng hỗn hợp,

phân vi lượng…).

- Loại phân phun trên lá: là những loại phân đa lượng dễ tan và phân vi

lượng hay một số hoá chất kích thích khác… ở dạng bột hoặc nước. Phân

phun lên lá có đặc điểm là cây lúa dễ và nhanh hấp thu và là biện pháp kỹ

thuật rất hữu hiệu trong điều kiện đất đai và bộ rễ lúa hư hại, kém phát triển

hoặc cần bổ sung nhanh dinh dưỡng cho lúa. Phân bón qua lá có thể phun kết

hợp cùng với thuốc bảo vệ thực vật.

Đối với cây lúa người ta thường áp dụng chủ yếu biện pháp bón phân

vào đất vì nguồn dinh dưỡng chủ yếu và cần thiết cho cây lúa thường tồn tại

trong các loại phân bón vào đất. Sử dụng phân bón vào đất người ta dùng các

loại phân hữu cơ để bón lót vào đất trước khi gieo mạ hay trước khi cấy cùng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

với một lượng nhất định phân vô cơ, còn phần lớn lượng phân bón vô cơ dùng

26

để bón thúc vào các giai đoạn cần thiết bổ sung dinh dưỡng cho cây lúa. Còn

phun lên lá là biện pháp áp dụng đồng thời khi cây lúa cần bổ sung gấp một

số dinh dưỡng cần thiết. Trong sản xuất các cây trồng nói chung và sản xuất

lúa nói riêng, ngày nay người ta cũng sử dụng một số hoá chất kích thích khác

để điều tiết hoặc thúc đẩy hay hạn chế… từng giai đoạn phát triển hay bộ

phận nhất định của cây lúa trong sản xuất hạt giống lúa lai F1 như: GA3,

KH2PO4,…

Nếu tất cả các yếu tố sinh thái có liên quan đến sinh trưởng, phát triển

của cây lúa như: ánh sáng, độ ẩm, nước, nhiệt độ… đã được đáp ứng đầy đủ

mà lượng phân bón cung cấp cho cây lúa thiếu hoặc không cân đối không

đúng với nhu cầu dinh dưỡng của từng thời kỳ phát triển thì cây lúa cũng

không thể có một hiệu suất cao nhất. Và ngược lại cung cấp thừa phân bón về

chủng loại cũng như lượng bón thì không mang lại hiệu quả mà còn gây nên

những bất lợi cho sự phát triển của cây lúa và là điều kiện thuận lợi để sâu

bệnh phát sinh, phát triển.

1.6.2. Nhu cầu dinh dưỡng của cây lúa và vai trò của phân bón

Nhu cầu dinh dưỡng của cây lúa hay nói cách khác là các chất dinh

dưỡng cần thiết, không thể thiếu được đối với sự sinh trưởng và phát triển của

cây lúa bao gồm: đạm, lân, kali, vôi, sắt, kẽm, đồng, magiê, mangan, mô-lip-

đen, bo, silic, lưu huỳnh và cacbon, oxy, hyđrô. Tất cả các chất trên đây (trừ

cacbon, oxy, hyđrô) phân bón đều có thể cung cấp được. Có nhiều chất dinh

dưỡng khoáng mà cây lúa cần, nhưng 3 yếu tố dinh dưỡng mà cây lúa cần với

lượng lớn là: đạm, lân, kali là những chất cần thiết cho những quá trình sống

diễn ra trong cây lúa. Các nguyên tố khoáng còn lại cây lúa cần với lượng rất

ít và hầu như đã có sẵn ở trong đất, nếu thiếu thì tuỳ theo điều kiện cụ thể mà

bón bổ sung.

Phân bón có vai trò tối quan trọng trong quá trình sinh trưởng, phát

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

triển của cây lúa, nó cần thiết cho suốt quá trình phát triển, từ giai đoạn mạ

27

cho đến lúc thu hoạch. Cùng với các yếu tố năng lượng khác, phân bón cung

cấp cho cây là nguồn nguyên liệu để tái tạo ra các chất dinh dưỡng như: tinh

bột, chất đường, chất béo, protêin... ngoài ra chúng còn giữ vai trò duy trì sự

sống của toàn bộ cây lúa, không có nguồn dinh dưỡng thì cây lúa sẽ chết,

không thể tồn tại. Các yếu tố dinh dưỡng trong phân bón cung cấp cho cây lúa

có vai trò khác nhau, với hàm lượng cung cấp khác nhau trong quá trình sinh

trưởng, phát triển của cây lúa. Vì vậy việc bón phân, bổ sung dinh dưỡng cho

lúa người ta nghiên cứu và đưa ra những công thức bón phân hợp lý cho từng

giống lúa, cho từng giai đoạn sinh trưởng, phát triển, theo từng điều kiện đất

đai, khí hậu... cụ thể.

Theo nghiên cứu, để có năng suất 5 tấn hạt/ha/vụ thì lượng các chất

dinh dưỡng chủ yếu cây lúa hút chủ yếu từ đất và phân bón là 110kg N, 34kg

P2O5, 156kg K2O, 23kg MgO, 20kg CaO, 5kg S, 3,2kg Fe, 2kg Mn, 200g Zn,

150g B, 250g Si và 25g Cl. Tuy nhiên không phải cứ bón bao nhiêu phân bón

trong đất là cây lúa hút hết được, trong thực tế cây lúa chỉ hút được khoảng

2/3-3/4 lượng phân bón, còn lại bị trôi theo nước bốc hơi và tồn dư trong đất.

- Đối với phân đạm:

Theo Bùi Huy Đáp thì đạm là dinh dưỡng chủ yếu của lúa nó ảnh

hưởng nhiều đến số thu hoạch vì chỉ khi có đủ đạm các chất khác mới phát

huy tác dụng.

Yosida (năm 1980) đã nói: đạm là nguyên tố quan trọng đối với lúa,

nếu như không bón đạm thì ở đâu cũng thiếu đạm. Điều này rất phù hợp với

thực tiễn ở Việt Nam.

Mutara (1965); Phạm Văn Cường và cs, 2003 [57], cho thấy ảnh hưởng

của đạm đến quang hợp thông qua hàm lượng diệp lục có trong lá, nếu bón

lượng đạm cao thì cường độ quang hợp ít bị ảnh hưởng mặc dù điều kiện ánh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sáng yếu.

28

Mitsui (1973) khi nghiên cứu ảnh hưởng của đạm đến hoạt động sinh lý

của lúa đã kết luận: sau khi bón đạm cường độ quang hợp, cường độ hô hấp

và hàm lượng diệp lục tăng lên, nhịp độ quang hợp, hô hấp không khác nhau

nhiều nhưng cường độ quang hợp tăng mạnh hơn cường độ hô hấp 10 lần vì

thế đạm làm tăng tích luỹ chất khô (Nguyễn Thị Lẫm, 1994) [37].

Các công trình nghiên cứu của nhiều tác giả đều cho thấy các hoạt động

sinh lý của cây lúa thay đổi qua các giai đoạn sinh trưởng phát triển khác

nhau. Cường độ hoạt động của chúng phụ thuộc vào hàm lượng đạm của

trong đất và sự hoạt động tích cực của bộ rễ cây lúa.

Năm 1973, Xiniura và Chiba đã thí nghiệm khá công phu là bón đạm

theo 9 cách tương ứng với các giai đoạn sinh trưởng, phát triển và mỗi lần

bón với 7 mức đạm khác nhau, hai tác giả trên đã có những kết luận:

- Hiệu suất của đạm (kể cả rơm, rạ và thóc) cao khi lượng đạm bón ít.

- Có hai đỉnh về hiệu suất, đỉnh thứ nhất xuất hiện ở giai đoạn lúa đẻ

nhánh, đỉnh thứ hai xuất hiện ở 19 đến 9 ngày trước trỗ, nếu lượng đạm nhiều

thì không có đỉnh thứ hai.

Hai tác giả đã đề nghị: nếu lượng đạm ít sẽ bón vào 20 ngày trước trỗ,

khi lượng đạm trung bình bón 2 lần lúc lúa con gái và 20 trước trỗ bông, khi

lượng đạm nhiều bón vào lúc lúa con gái [66].

Ở Việt Nam, Viện Nông hoá Thổ nhưỡng cũng đã tiến hành nghiên cứu

ảnh hưởng của loại đất, mùa vụ và lượng đạm bón và tỉ lệ đạm cho cây lúa

hút.

Theo Nguyễn Thị Lẫm, 1994 [37] khi nghiên cứu về bón phân đạm cho

lúa cạn đã kết luận lượng đạm bón kết hợp cho các giống có nguồn gốc địa

phương là 60N/ha, với các giống thâm canh cao (CK136) lượng đạm thích

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hợp từ 90-120N/ha.

29

Theo Nguyễn Như Hà,1999 [24] khi nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ

và liều lượng đạm tới sinh trưởng của lúa ngắn ngày thâm canh cho thấy: tăng

bón đạm ở mật độ cấy dầy có tác dụng tăng tỷ lệ dảnh hữu hiệu.

Dinh dưỡng đạm đối với lúa lai cũng là một vấn đề quan trọng đó được

các nhà nghiên cứu về lai quan tâm tới rất sớm. Lúa lai có bộ rễ khá phát

triển, khả năng huy động dinh dưỡng của đất từ lúa lai rất lớn nên ngay

trường hợp không bón phân, năng suất của lúa lai vẫn cao hơn đối chứng lúa

thuần. Các nhà khoa học Trung Quốc đã kết luận:

Với cùng một mức năng suất, lúa lai hấp thu lượng đạm và lân thấp hơn

lúa thuần, ở mức năng suất 75 tạ/ha, lúa lai hấp thu đạm thấp hơn lúa thuần

4,8% hấp thu P2O5 thấp hơn 18,2% nhưng hấp thu K2O cao hơn 30% với

ruộng lúa cao sản thì hấp thu N cao hơn lúa thuần 10%, hấp thu K2O 45% còn

hấp thu P2O5 thì bằng lúa thuần [7].

Kết quả thí nghiệm trong chậu cho thấy: trên đất phù sa sông Hồng bón

đạm đơn độc làm tăng năng suất lúa lai 48,7%, trong khi đó năng suất giống

CR203 chỉ tăng 23,1%. Trong điều kiện thí nghiệm đồng ruộng, bón phân

đạm lân cho lúa lai có kết quả rõ rệt [7]. Nhiều thí nghiệm trong phòng cũng

như ngoài đồng ruộng cho thấy hiệu quả 1kg N bón cho lúa lai làm tăng 9-

18kg thóc, so với lúa thuần tăng từ 2-13kg thóc. Trên đất phù sa sông Hồng

bón lượng N180kg/ha trong vụ xuân và 150kg/ha trong vụ mùa cho lúa vẫn

không làm giảm năng suất.

* Phân đạm và hiệu suất của phân đạm: Đạm đóng vai trò quan trọng

trong đời sống của cây lúa, nó giữ vị trí đặc biệt trong việc tăng năng suất lúa.

Tại các bộ phân non của cây lúa có hàm lượng đạm cao hơn các bộ phận già.

Đạm là một trong những nguyên tố hoá học cơ bản của cây lúa, đồng thời

cũng là yếu tố cơ bản trong quá trình phát triển của tế bào và các cơ quan rễ,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thân, lá...

30

Đạm có tác dụng mạnh trong thời gian đầu sinh trưởng và tác dụng rõ

rệt nhất của đạm đối với cây lúa là làm tăng hệ số diện tích lá và tăng nhanh

số nhánh đẻ. Tuy nhiên hiệu suất quang hợp và hiệu suất nhánh đẻ hữu hiệu

có ngưỡng nhất định nên khi sử dụng đạm cần phải chú ý điều chỉnh lượng

bón và thời điểm bón đạm cho cây lúa. Nếu thiếu đạm cây lúa thấp đẻ nhánh

kém phiến lá nhỏ, hàm lượng diệp lục giảm lá lúa ngả mầu vàng và lúa sẽ trỗ

sớm hơn, số bông và số lượng hạt ít hơn, năng suất lúa bị giảm. Nếu bón

nhiều đạm và trong điều kiện ruộng thừa chất dinh dưỡng thì cây lúa thường

rễ hút đạm, dinh dưỡng thừa đạm sẽ làm cho lá lúa to, dài, phiến lá mỏng,

nhánh lúa đẻ vô hiệu nhiều, lúa sẽ trỗ muộn cây cao dẫn đến hiện tượng lúa

lốp, đổ non dẫn đến năng suất, hiệu suất lúa không cao. Cây lúa hút đạm

nhiều nhất vào hai thời kỳ: thời kỳ đẻ nhánh và thời kỳ làm đòng.

Có bốn dạng phân đạm đơn là: dạng nitrat; dạng amôn và amôniắc;

dạng amôn-nitrat; dạng amid.

Trên thị trường phân bón Việt Nam hiện nay có 3 dạng đạm vô cơ

chính được nông dân sử dụng là: amôn sunphat; đạm clorua; urê, trong đó

dạng đạm vô cơ được dùng bón cho lúa là urê.

Đạm bón cho lúa còn nằm trong các loại phân bón khác như trong phân

chuồng, phân hỗn hợp NPK, phân bón qua lá...[32].

* Phân đạm và mùa vụ: Nhu cầu về đạm của cây lúa ở từng mùa vụ là

khác nhau nên việc sử dụng phân đạm cũng khác nhau.

Ở vụ mùa (mùa mưa): cây lúa cao, bộ lá rậm rạp, che khuất lẫn nhau

nên việc tạo nên chất dinh dưỡng trong lá bị giảm. Vào mùa mưa, nguồn năng

lượng ánh sáng ở bên trong và trong ruộng lúa thấp nên hầu như cây không

dùng hết lượng phân bón để tạo hạt. Hơn nữa, mưa nhiều trong vụ mùa cũng

là nguồn bổ xung phân bón, phân đạm cho cây lúa, vụ mùa nên bón một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lượng phân bón vừa phải.

31

Ở vụ chiêm xuân (mùa khô): Cây lúa thấp và ít nhánh, năng lượng ánh

sáng nhiều hơn trong vụ mùa. Ngoài việc trong vụ xuân có thể cấy dày hơn

thì việc bón lượng phân đạm nhiều hơn là điều cần thiết. Với lượng ánh sáng

nhiều, bón đạm trong vụ xuân sẽ làm tăng được số nhánh đẻ, diện tích bộ lá

cao sẽ tạo sẽ tạo cho tốc độ tạo chất dinh dưỡng của cây lúa cao và hiệu quả

hơn, số nhánh đẻ thêm do bón đạm cũng thường hữu hiệu vì ít bị che rợp.

Như vậy nên bón nhiều, tăng lượng phân đạm cũng như các loại phân bón

khác cho cây lúa trong vụ xuân, nhưng vẫn phải lưu ý đến hiệu suất để cân

nhắc lượng đạm cho lúa.

Việc bón phân đúng lúc lượng sẽ cho hiệu quả thu nhập cao nhất, với

bất kỳ vụ mùa nào cũng phải cân nhắc lượng đạm bón cho lúa sao cho vừa đủ

lượng. Lượng đạm vừa đủ trong đất làm tăng diện tích lá, số chồi, làm tăng

năng suất lúa. Quá nhiều phân đạm trong đất sẽ làm cây tăng trưởng mạnh,

cây bị ngã đổ do nhận được ít ánh sáng, còn ở thời kỳ sinh sản, bón quá nhiều

sẽ làm tăng số hạt lép và tạo nhiều chồi con. Nếu không đủ lượng đạm thì cây

lúa sinh trưởng phát triển kém cũng không thể cho năng suất cao [33].

* Đạm và cách sử dụng để tăng hiệu quả: Cần chú ý rằng: lượng đạm

bón cho cây lúa chỉ được hấp thu khoảng 40%, lượng 60% còn lại thì 40% bị

mất đi do bốc hơi, rửa trôi... và 20% còn lại thì lưu giữ trong đất có thể một

phần được vụ tiếp theo sử dụng). Vì vậy, phải có cách bón để sao cho cây lúa

hấp thụ được nhiều nhất bằng cách: điều chỉnh lượng đạm bón ở các vụ mùa

khác nhau, đối với các chân đất, giống lúa khác nhau và vào thời điểm nào

cho thích hợp... Việc bón phân đạm đúng lượng sẽ cho hiệu quả cao nhất.

Lượng phân đạm cần bón phụ thuộc vào giá cả, hiệu quả tăng năng suất và

tuỳ theo từng loại giống lúa. Việc bón phân đúng lượng sẽ cho thu nhập cao

nhất. Để sử dụng phân đạm cho lúa một cách có hiệu quả nhất cần áp dụng

đồng bộ các yếu tố: Lượng phân và mùa vụ, lượng phân và giống, cách bón

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

và thời điểm bón thì chắc chắn sẽ cho một hiệu quả cao nhất.

32

Các giống lúa có tiềm năng năng suất cao, chịu thâm canh thì sử dụng

lượng đạm cao cây lúa vẫn hấp thụ, phát triển tốt và không bị lốp đổ. Theo

Bùi Huy Đáp (1981): các giống cao cây và thấp cây có nhu cầu về đạm cũng

khác nhau. Các giống cao cây cần đạm từ lúc đẻ nhánh đến khi lúa sắp trỗ,

còn các giống thấp cây thì nhu cầu về đạm tăng đều tới lúc lúa trỗ và sau khi

trỗ xong thì nhu cầu về đạm giảm rõ rệt. Với những giống lúa mới, bón phân

sẽ cho năng suất tăng lên nhiều hơn năng suất giống lúa cũ, dù là trồng vào vụ

nào, bón đạm nhiều hay ít.

Lượng phân đạm bón cho cây lúa phải thích hợp: lượng phân bón thích

hợp phụ thuộc vào mùa vụ gieo cấy, độ màu mỡ của đất, tiềm năng năng suất

của giống lúa, giá cả phân bón, thời gian và cách bón phân. Ngoài việc phải

tuân thủ quy trình kỹ thuật của các giống lúa, còn phải quan sát, cân nhắc

lượng và thời điểm bón phân đạm dựa vào chất đất, thời tiết và màu sắc của

bộ lá lúa.

Bón phân đúng giai đoạn sinh trưởng của cây lúa: Yêu cầu về đạm của

cây lúa thay đổi theo thời gian sinh trưởng. Cây lúa cần nhiều đạm trong thời

kỳ đẻ nhánh, nhất là thời kỳ đẻ nhánh cực đại. Khi kết thúc thời kỳ phân hoá

đòng, hầu như cây lúa đã hút được trên 80% tổng lượng đạm cho cả chu kỳ

sinh trưởng [32].

* Phân đạm và cách bón đạm để tăng hiệu quả: Một trong những yếu

tố quan trọng để tăng hiệu quả bón đạm cho cây lúa là cách bón, hay nói cách

khác là bón đạm như thế nào.

Thời điểm thích hợp nhất để bón đạm cho cây lúa là lúc cấy và lúc cây

lúa bắt đầu làm đòng cũng không nên bón đạm cho lúa khi vừa cấy xong.

Cách bón đạm tốt nhất là trước khi cấy phân đạm được trộn với đất để cho

phân đạm gần rễ hơn.

Khi bón phân cũng phải quan sát không nên bón khi ruộng khô nẻ rồi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cho nước vào ruộng thì một phần phân đạm sẽ biến thành khí bốc hơi bay đi.

33

Ngược lại nếu bón đạm cho đất ngập nước thường xuyên làm thay đổi dạng

đạm (dạng đạm này sẽ chuyển thành khí để bay lên). Khi quan sát thấy trời

sắp mưa không nên bón đạm vì như vậy lượng đạm vừa bón sẽ bị rửa trôi; khi

chưa nắng nóng gay gắt vào buổi trưa, đầu giờ chiều cũng không nên bón đạm

vì đạm rễ bị bay hơi. Trời quang đãng vào buổi sáng hoặc chiều tối là thời

điểm bón đạm tốt nhất.

Cần phải luôn luôn giữ cho đồng ruộng sạch cỏ dại. Trước khi bón

phân đạm cho lúa cần phải làm sạch cỏ dại bởi vì cỏ dại sẽ cạnh tranh phân

đạm với lúa. Cỏ càng mọc nhanh sẽ cạnh tranh với lúa không những chỉ phân

bón mà cả nước, ánh sáng, không gian chứa khí và điều kiện để sâu bệnh phát

sinh phát triển. Cần phải làm cỏ trong vòng 30 ngày sau khi cấy, nếu không

làm cỏ ngay trong giai đoạn này thì năng suất sẽ bị giảm rõ rệt.

Một điểm chú ý khác khi bón thúc phân đạm là không nên bón khi lá

lúa còn ướt bởi phân đạm sẽ dính lại trên lá ướt và với lượng nhiều có thể gây

cháy lá; phân đạm đã hòa tan vào những giọt nước trên lá lúa sẽ bị mất vào

không khí lái các giọt nước đó bốc hơi, khô đi. Cũng không nên bón thúc đạm

nếu thấy có mưa to vì đạm vừa bón sẽ rửa trôi đi mất [34].

- Đối với phân lân:

Theo Mai Thành Phụng (1996), khi thí nghiệm bón phân lân trên đất

phèn một số tác giả khác cho rằng trên đất phèn nặng muốn trồng cây lúa có

hiệu quả cần phải liên tục cải tạo: sử dụng nước ngọt để rửa phèn có hiệu quả

nhất kế đến là bón phân liều lượng cao trong những năm đầu để tích luỹ lân.

Còn trên đất phù sa đồng bằng song Cửu Long, do là trồng lúa trên đất phù sa

được bồi đắp hàng năm, bón lân vẫn có hiệu quả rất rõ, vụ đông xuân có bón

20kg P2O5/ha do đó tăng năng suất được 20% so với công thức không bón

lân. Tuy nhiên bón thêm với liều lượng cao hơn, năng suất lúa có tăng nhưng

không rõ. Vì vậy, trong ruộng thâm canh thường được khuyến cáo bón phối

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hợp từ 20-30kg P2O5 là đủ. Trong vụ hè thu nhận thấy nhu cầu phân lân có

34

cao hơn và có hiệu quả rõ hơn trong vụ xuân, bón 20kg P2O5 đó bội thu được

43,7% so với không bón lân, bón 40kg bội thu 62,5% bón tăng thêm năng

suất có tăng nhưng không rõ.

Các thí nghiệm trong chậu và ngoài đồng ruộng đều cho thấy hiệu suất sử

dụng lân ở lúa lai 10-12kg thóc/kg P2O5 so với lúa thuần là 6-8kg thóc/kg P2O5

[7].

* Phân lân và hiệu suất của phân lân:

Trong cây lúa, tính theo chất khô, tỉ lệ nguyên chất (P2O5) chiếm xung

quanh 0,2% trong rơm rạ và khoảng 0,48% trong hạt gạo. Phân lân tham gia

vào thành phần AND và ARN của cây lúa, lân có mối quan hệ chặt chẽ đến sự

hình thành diệp lục, prôtit và vận chuyển tinh bột; lân còn đóng góp vào quá

trình hình thành chất béo và tổng hợp prôtêin trong cây. Cũng như đạm, tỉ lệ

lân cao hơn tại các cơ quan non của cây lúa. Lân cũng làm tăng sự phát triển

của bộ rễ, thúc đẩy việc ra rễ, đặc biệt là rễ bên và lông hút. Cây lúa hút lân

trong suốt thời kỳ sinh trưởng từ cây lúc mọc đến khi lúa trỗ, nhưng lân hút

mạnh nhất vào thời kỳ đẻ nhánh và làm đòng, tuy nhiên giai đoạn đầu nhu cầu

về lân của cây lúa là rất thấp.

- Đối với phân kali:

+ Vai trò của kali đối với việc nâng cao năng suất lúa

Để nâng cao năng suất cây trồng, tăng chất lượng nông sản, nhiều nghiên

cứu về dinh dưỡng cây trồng được tiến hành theo hướng bón phân cân đối,

quản lý dinh dưỡng tổng hợp. Năng suất cây trồng nói chung và cây lúa nói

riêng phụ thuộc vào yếu tố hạn chế vì vậy xác định được yếu tố hạn chế chính

là giải pháp khắc phục sẽ là bước đột phá trong việc gia tăng năng suất. Điều

này đã được chứng minh từ đầu những năm bảy mươi khi phát hiện lân là yếu

tố hạn chế năng suất lúa khi mở rộng diện tích gieo trồng các giống lúa mới có

nhu cầu lân cao gấp 2-3 lần các giống lúa cổ truyền như IR5; IR8. Vấn đề bón

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lân đã được khuyến cáo và dần trở thành tập quán trong canh tác các giống lúa

35

mới, lân trở thành đòn bẩy năng suất và cùng với biện pháp thuỷ lợi là những

điều kiện tiên quyết trong mở rộng diện tích gieo trồng lúa mới, đặc biệt là các

tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, góp phần đáng kể vào việc đảm bảo an ninh

lương thực quốc gia.

Vào đầu những năm 1990 cùng với việc gia tăng các giống cây trồng có

ưu thế lai như lúa, ngô và nhiều giống cây trồng khác; nghiên cứu về dinh

dưỡng cây trồng đã tiếp cận và triển khai hàng loạt vấn đề mang tính toàn

diện về liều lượng phân bón, cách bón, thời điểm bón, loại phân phù hợp, tỉ lệ

phối hợp giữa các loại phân và nhu cầu phân bón của các loại cây trồng gắn

với giống. Từ những kết quả này đã phát hiện kali trở thành yếu tố hạn chế

đối với cây trồng trên nhiều loại đất, đặc biệt đối với các giống lúa lai, lúa

thuần Trung Quốc, các giống lúa chịu thâm canh có nhu cầu kali cao hơn

nhiều so với các giống lúa thuần. Cũng cần phải nói thêm rằng hạn chế do

thiếu kali trước đây chỉ được xác định trên các loại đất có thành phần cơ giới

nhẹ như đất bạc màu, đất cát biển, đất xám hoặc bạc màu trên đá cát. Việc

phát hiện kali cũng là yếu tố hạn chế năng suất cây trồng trên nhiều loại đất

khác nhau đã hình thành tiến bộ kỹ thuật bón phân cân đối N.P.K và quản lý

dinh dưỡng cây trồng tổng hợp. Tiến bộ kỹ thuật này được áp dụng rộng rãi

trong cả nước, đặc biệt là đối với vùng thâm canh, góp phần tăng năng suất

lúa 0,6-1,2 tấn/ha [3].

Thí nghiệm đồng ruộng của IRRI được tiến hành tại 3 điểm khác nhau

trong 5 năm (1968-1972) cho thấy: Phân kali có ảnh hưởng rõ tới năng suất lúa

ở cả 2 vụ trong năm. Trong mùa khô trên nền 140N; 60P2O5, bón 60K2O/ha

năng suất đạt 4,96 tấn/ha, cho bội thu năng suất bón kali 12,8kg thóc/kg K2O.

Trong mùa mưa trên nền 70N; 60P2O5, bón 60K2O/ha năng suất đạt 4,96 tấn/ha

cho bội thu năng suất do bón kali trung bình năm vụ đạt 440kg thóc, với hiệu

suất phân bón là 6,1kg thóc/kg K2O. Trên đất phù sa sông Hồng thâm canh lúa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngắn ngày, để đạt năng suất lúa trên 5 tấn/ha ở vụ mùa và trên 6 tấn/ha ở vụ

36

xuân, nhất thiết phải bón phân kali. Để đạt năng suất lúa xuân 7tấn/ha cần bón

102-135kg K2O/ha/vụ (trên nền 193kg N/ha, 120 P2O5/ha) và năng suất lúa

mùa 6 tấn cần bón 88-107kg K2O/ha/vụ (trên nền 160N, 88 P2O5). Hiệu suất

phân kali có thể đạt 6,2 – 7,2kg thóc/kg K2O [15], [24]. Vai trò cân đối đạm –

kali càng lớn khi lượng đạm sử dụng càng cao. Không bón kali hệ số sử dụng

đạm chỉ đạt 15-30%, trong khi bón kali hệ số này tăng lên đến 39-49%. Như

vậy, năng suất tăng không hẳn là do kali (bởi bón kali riêng rẽ không tăng năng

suất) mà là kali đã điều chỉnh dinh dưỡng đạm, làm cho cây hút được nhiều

đạm và chất dinh dưỡng khác hơn. Trong vụ Đông Xuân ở miền bắc, nhiệt độ

thấp, thời tiết âm u nên hiệu lực phân kali cao hơn, do đó cần bón kali nhiều

hơn ở vụ này [13].

* Đặc điểm dinh dưỡng kali của lúa

Nhu cầu kali của cây lúa rõ nhất ở hai thời kỳ đẻ nhánh và làm đòng.

Tuy nhiên, lúa hút kali nhiều nhất ở thời kỳ làm đòng, từ cuối đẻ nhánh đến

trỗ lúa lai hấp thu kali nhiều hơn lúa thuần. Sau khi trỗ bông lúa thuần hấp thu

giảm hẳn trong khi lúa lai vẫn hấp thu kali mạnh (670g/ha/ngày) chiếm 8,7%

tổng lượng hấp thu. Kali được sử dụng trong nguyên sinh chất tế bào như một

tác nhân kích thích các hoạt động chuyển hoá vật chất vô cơ thành hữu cơ

đồng thời thúc đẩy quá trình vận chuyển sản phẩm quang hợp từ lá vào hoa và

hạt. Sự có mặt của kali thời kỳ sau trỗ ở lúa lai là một ưu thế thúc đẩy quá

trình vào mẩy của hạt giúp nâng cao năng suất. Lúa lai có khả năng đồng hoá

dinh dưỡng cao nhất là đạm và kali. Lượng hút đạm thường từ 20-22kg N/tấn

thóc, và lượng hút kali cũng tương tự, trong một số trường hợp còn cao hơn.

Để đạt năng suất cao cần thiết phải bón sớm nhất là trong vụ xuân. Bón kali là

yêu cầu bắt buộc với lúa lai ngay cả trên đất giàu kali [3].

1.7. Sự cần thiết phải bón phân cân đối và hợp lý cho lúa

Bón phân cân đối được hiểu là cung cấp cho cây trồng đúng các chất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dinh dưỡng thiết yếu, đủ liều lượng, tỷ lệ thích hợp, thời gian bón hợp lý cho

37

từng đối tượng cây trồng, đất, mùa vụ, cụ thể để đảm bảo năng suất cao, chất

lượng nông sản tốt và an toàn môi trường sinh thái. Theo tổng kết của tổ chức

nông nghiệp thế giới (FAO), có 10 nguyên nhân chính làm giảm hiệu lực

phân bón, trong đó bón phân cân đối giữ vai trò quan trọng nhất.

Theo tài liệu bón phân cân đối và hợp lý cho cây trồng của cục khuyến

nông và khuyến lâm - NXBNN (1998) [12]. Cứ một tấn thóc (kèm theo rơm

rạ) lấy đi của đất và phân bón 22,2kg N; 7,1kg P2O5; 31,6kg K2O và nhiều

nguyên tố trung và vi lượng khác. Như vậy một năm 2 vụ lúa với tổng năng

suất bình quân 10 tấn/ha thì cây lúa lấy đi lượng dinh dưỡng tương đương 482

kg urê, 430 kg supelân và 528 kg kali clorua trên một sào Bắc Bộ.

Do vậy để đảm bảo đất không bị suy thoái thì phải trả lại cho đất lượng

dinh dưỡng tương đương cây đã hút. Tuy nhiên việc bón phân cho cây trồng

không chỉ hoàn toàn dựa vào lượng dinh dưỡng cây trồng hút từ đất và phân

bón mà dựa vào kho dự trữ trong đất, khả năng hút …, tất nhiên với lúa nếu

không dùng rơm rạ đun nấu mà bón lại cho cây trồng vụ sau thì chúng ta đã

trả cho đất một phần các nguyên tố như Kali, Ca, Mg, Siclic và như vậy cân

đối để bón phân sẽ khác đi. Khi bón phân cần tính đến khả năng cung cấp chất

dinh dưỡng của đất như nhu cầu cây trồng. Cây hút đi bao nhiêu, loại gì cần

phải hoàn trả lại cho đất đủ các chất dinh dưỡng đó. Cũng có những chất cây

trồng hút đi mà trong đất sẵn có thì chưa phải bón như: Si, Fe, Mn… [12].

Các cách phối hợp bón phân cho lúa không chỉ có ảnh hưởng rõ đến

năng suất mà còn ảnh hưởng đến hiệu suất phân bón. Trong đó, phân đạm có

ảnh hưởng lớn nhất nhưng rất cần được bón phân lân và kali (Nguyễn Như

Hà, 2006) [25].

Phần lớn đất Việt Nam có nguồn dinh dưỡng thấp và không thể cho

năng suất cao. Nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm chất dinh dưỡng ở trong đất

do xói mòn, rửa trôi, cây trồng lấy đi chất dinh dưỡng mà không trả lại đầy đủ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cho đất. Hơn nữa lượng dinh dưỡng ngày càng tăng nhanh do diện tích gieo

38

trồng áp dụng giống mới. Vì vậy trong việc chuyển giao những tiến bộ khoa

học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp thì vấn đề quan trọng là phải cân đối

chất dinh dưỡng cho cây trồng.

1.7.1. Cân đối đạm - lân

Việc sử dụng các giống mới, tăng vụ, sử dụng phân đạm với liều lượng

ngày càng tăng chính là nguyên nhân làm tăng hiệu lực phân lân. Bội thu do

lân có thể đạt từ 5-6 tạ trên/ha trên đất phù sa sông Hồng và 10-15 tạ/ha trên

đất phèn với liều lượng thích hợp là 90-120 kg P2O5 trong vụ xuân và 60-

90kg P2O/ha trong vụ mùa. Hiện tượng càng bón đạm cây lúa càng kém phát

triển, bị nghẹn rễ… là do đạm không cân đối lân. Ở đây cần hiểu là không có

lân thì cây lúa không hút được đạm nên hiệu quả sử dụng đạm thấp. Chính vì

vậy, với các loại đất chua thì việc bón cân đối đạm, lân là yêu cầu bắt buộc và

tất nhiên, đất càng chua thị lượng phân bón càng cao hơn.

Bảng 1.2. Mối quan hệ lân - đạm và hiệu lực phân đạm với lúa

Lƣợng đạm cần để sản xuất một tấn thóc

Loại đất Không bón lân Có bón lân

N URÊ N URÊ

Phù sa sông Hồng 23-27 50-59 19-23 41-50

Phù sa sông Cửu long 18-20 39-43 16-18 35-39

Đất phèn miền Bắc 34-36 74-78 26-28 56-61

Đất phèn miền Nam 30-34 65-74 17-20 37-43

Nguồn: Cục Khuyến nông và khuyến lâm (1998) [12]

Trên đất phù sa trung tính hoặc ít chua cũng thấy rất rõ là đạm chỉ phát

huy tốt trên đất nền cân đối với lân.

Những nghiên cứu của Liên Hiệp Quốc, 1993 [39] cho biết: Lượng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dinh dưỡng cung cấp cho đất bằng 30% lượng dinh dưỡng cây lấy đi. Vì vậy

39

để cân bằng dinh dưỡng cho đất và cây thì N và P là những chất dinh dưỡng

chủ yếu nhất cần đưa vào đất.

Theo Nguyễn Văn Bộ [2] cho rằng phần lớn đất Việt Nam có nguồn

gốc dự trữ N, P, K thấp. Do đó mà chúng ta không thể đảm bảo năng suất cao.

Để xác định được việc cân bằng dinh dưỡng, trước hết phải đánh giá được khả

năng cung cấp và hàm lượng chất dinh dưỡng dễ tiêu có trong đất.

Trong điều kiện bình thường 98% đạm tổng số nằm dưới dạng hữu cơ,

trong đó phần mùn ổn định chỉ khoảng 2-3% một năm cung cấp cho cây

trồng. Dựa vào hàm lượng thuỷ phân trong đất mà ta đánh giá được khả năng

cung cấp đạm của đất cho cây trồng. Dựa vào hàm lượng lân tổng số để đánh

giá khả năng cung cấp lân của đất cho cây lúa [54].

1.7.2. Cân đối đạm - kali

Mối quan hệ giữa đạm với kali là mối quan hệ đặc biệt và nó cũng có

tác động qua lại rất mật thiết, việc sử dụng kali như yếu tố chủ yếu để điều

chỉnh dinh dưỡng đạm cho cây trồng. Bội thu do bón đạm và lân trên đất phù

sa cho bội thu tới 11,7 tạ/ha (43kg/sào), trong khi đó đất bạc mầu cũng bón

như vậy mà chỉ bội thu 1,2 tạ/ha (4 kg/sào). Nguyên nhân ở đây là, đất phù sa

giầu kali, cây trồng khi đã đủ đạm và lân có thể tự cân đối cho mình nhu cầu

về nhân tố này từ trong đất, nên dù có bón thêm kali bội thu cũng không lớn

(2,3 tạ/ha).

Ngược lại, trên đất bạc mầu, dự trữ kali trong đất ít, nếu không có

nguồn cung cấp kali từ phân bón thì cây trồng không thể hút được đạm dẫn

đến năng suất hầu như không tăng. Trên các đất giầu kali như phù sa sông

Hồng, phù sa sông Thái Bình, phù sa sông Cửu Long thì hiệu suất sử dụng

kali chỉ đạt 1- 2,5 kg thóc/1kg kali clorua, trong khi đó trên đất bạc màu hoặc

trên đất cát ven biển trị số này có thể đạt 5-7 kg thóc/1 kg kali clorua. Chính

vì vậy, trên đất nghèo kali cân đối đạm - kali có ý nghĩa rất quan trọng. Với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

loại đất này, hiệu lực bón đạm có thể tăng gấp 2 lần khi bón kali [12].

40

Bảng 1.3. Ảnh hƣởng của phân kali đến hiệu lực phân đạm với lúa

trên đất bạc màu

Không bón kali Có bón kali Thời vụ Kg thóc/kgN Kg thóc/kgURE Kg thóc/kgN Kgthóc/kgURE

Vụ Xuân 8,1 3,7 13,2 6,1

Vụ Mùa 2,1 1,0 4,7 2,7

Nguồn: Cục Khuyến nông và khuyến lâm (1998) [12]

Vai trò của cân đối đạm - kali càng lớn khi lượng đạm sử dụng càng

cao, đặc biệt trên những đất nghèo kali. Không bón kali hệ số sử dụng đạm

chỉ đạt 15 - 30%, trong khi có bón kali hệ số này tăng lên đến 39-49%. Như

vậy, năng suất tăng không hẳn là do kali, mà là kali đã điều chỉnh dinh dưỡng

đạm, làm cho cây hút được nhiều đạm và các chất dinh dưỡng khác hơn. Để

đánh giá khả năng cung cấp kali của đất, dựa vào kali trao đổi. Cân bằng dinh

dưỡng càng ổn định khi đầu tư phân bón vào đất một cách hợp lý.

Nhiều tài liệu cho thấy lượng phân bón nông sản sử dụng cho lúa rất

thấp với lượng dinh dưỡng cây lấy đi. Với năng suất 10 tấn/ha/năm thì cây lúa

đã lấy đi lượng dinh dưỡng tương đương 477 kg urê; 444 kg supelân; 527 kg

kali clorua/ha. Trong khi đó lượng phân bón đầu tư cho lúa như sau:

Bảng 1.4. Liều lƣợng phân bón nông dân sử dụng cho lúa

Liều lƣợng bón (kg/ha) Loại đất N P2O5 K2O

Đất phù sa 100-120 30-40 2

Đất bạc màu 70-90 20-25 11

Đất phèn 80-100 60-80 0

Đất cát biển 70-90 25-30 14

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nguồn: Đề tài KN 01-10-1996 [51]

41

Chƣơng 2

ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tƣợng, phạm vi, thời gian và địa điểm nghiên cứu

2.1.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Thí nghiệm được tiến hành trên giống lúa Khang dân 18 trên đất dốc tụ

tại xã Quyết Thắng, thành phố Thái Nguyên.

2.1.2. Thời gian

- Vụ mùa năm 2010 (tháng 6 đến 12 năm 2010).

- Vụ xuân năm 2011(tháng 2 đến 6 năm 2011).

2.1.3. Địa điểm nghiên cứu

Thí nghiệm được nghiên cứu trên ruộng sản xuất lúa của nông dân xã

Quyết Thắng thành phố Thái Nguyên.

2.2. Nội dung nghiên cứu

- Khái quát điều kiện tự nhiên tỉnh Thái Nguyên.

- Nghiên cứu xác định biến động một số yếu tố dinh dưỡng của đất lúa.

- Ảnh hưởng của biến động dinh dưỡng đất lúa đến sinh trưởng và phát

triển của giống lúa Khang dân 18 tại Thái Nguyên.

2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu

2.3.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm

Thí nghiệm được bố trí trên đồng ruộng của nông dân, bao gồm 60 ô,

mỗi ô có diện tích khoảng 100m2, Tổng diện tích khu thí nghiệm là 6.000m2.

2.3.2. Điều kiện thí nghiệm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

- Lượng phân bón cho 1 ha:

42

+ Vụ mùa: 10 tấn phân chuồng + 60 kg N + 80 kg P2O5 + 60 kg K20.

+ Vụ xuân: 10 tấn phân chuồng + 80 kg N +100 kg P2O5 + 80 kg K2O

- Cách bón:

+ Bón lót 100% phân chuồng + 100% phân lân + 40% Đạm + 40%

Kali.

+ Bón thúc lần 1 khi cấy lúa bén rễ hồi xanh: Bón 40% Đạm + 30%

Kali.

+ Bón thúc lần 2 khi lúa phân hoá đòng: Bón 20% Đạm + 30% Kali.

2.3.3. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi

Theo dõi, đánh giá các chỉ tiêu theo quy phạm khảo nghiệm giá trị canh

tác và sử dụng của giống lúa 10 TCN 558 - 2002 theo quyết định số

143/2002/BNN - KHCN ngày 6/2/2002.

2.3.3.1. Chỉ tiêu về khả năng đẻ nhánh

- Mỗi ô thí nghiệm lấy 5 khóm theo 2 đường chéo góc, cứ 15 ngày theo dõi

1 lần

- Số nhánh tối đa (nhánh/khóm).

- Nhánh hữu hiệu (bông/khóm): Đếm số bông có ít nhất 10 hạt chắc của 1

cây.

2.3.3.2. Chiều cao cuối cùng

Đo từ mặt đất đến đỉnh bông cao nhất (không kể râu hạt) đo trên các

khóm theo dõi về khả năng đẻ nhánh.

2.3.3.4. Khả năng tích luỹ vật chất khô

- Nghiên cứu vào 2 thời kỳ: thời kỳ trỗ (khi lúa trỗ được 50%) và thời kỳ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chín (trước khi thu hoạch 5 ngày).

43

- Khả năng tích luỹ vật chất khô: Sấy khô toàn bộ trọng lượng thân lá

đến khối lượng không đổi rồi đem cân.

2.3.3.5. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất lý thuyết

- Số bông trên m2: Trong mỗi ô thí nghiệm lấy 15 khóm đếm tất cả các

bông có từ 10 hạt trở lên.

- Số bông hữu hiệu/khóm: đếm số bông ít nhất 10 hạt chắc của 1 cây.

- Số hạt/bông: Đếm tổng số hạt có trên bông.

- Số hạt chắc/bông: Lấy ngẫu nhiên 10 bông/điểm theo dõi (10 bông/3

khóm, 50 bông/ô). Tách thóc ra khỏi bông, đếm số hạt chắc/bông.

- Khối lượng 1000 hạt (gam): Cân 8 mẫu 100 hạt ở độ ẩm 14% nếu hệ

số biến động ≤ 4%, thì khối lượng 1000 hạt = 10 x khối lượng trung bình của

mẫu, đơn vị tính bằng gam.

2.3.3.6. Năng suất thực thu

Gặt 5 m2 ở giữa ô thí nghiệm, tuốt hạt phơi khi đến độ ẩm của hạt đạt

14% thì quét sạch và cân khối lượng (kg) rồi quy ra tạ/ha, lấy 2 chữ số sau dấu

phẩy.

2.3.4. Phương pháp phân tích mẫu đất

* Bƣớc chuẩn bị

Mẫu đất: lấy ở độ sâu (0 - 15 cm) ở giai đoạn trước khi làm thí nghiệm.

Mẫu đất cần phân tích phải được phơi khô trong không khí sau đó được

nghiền nhỏ và rây có kích thước 2mm nhằm loại bỏ các tạp chất làm ảnh

hưởng tới số liệu phân tích. Những đất mịn < 2mm được dùng để phân vật lý

và hoá học đất. Riêng trong trường hợp phân tích phosphore dễ tiêu thì phải

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lấy đất mịn qua rây 2mm, tiếp tục xay nhỏ và qua rây có kích thước 100mm.

44

* Phân tích:

- Xác định các tính chất cơ bản của đất trước khi bố trí thí nghiệm bao

gồm: CEC, OM, N, P205, K, pHKCl.

+ Hàm lượng đạm tổng số (phương pháp Kjeldahl).

+ Hàm lượng lân tổng số: Đo trên máy quang phổ tử ngoại khả kiến.

+ Hàm lượng kali tổng số: Đo trên máy quang phổ hấp thu nguyên tử.

+ Hàm lượng chất hữu cơ: Xác định theo phương pháp Walkley -

Black. - pHKCl: Xác định trên máy đo pH theo TCVN 6429:1999.

+ Hàm lượng CEC: Bằng phương pháp Acetat Amôn.

2.3. Xử lý số liệu

Số liệu được xử lý bằng các phần mềm (SAS, EXEl…) và các phương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

pháp thống kê chuyên dùng.

45

Chƣơng 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

3.1. Điều kiện tự nhiên tỉnh Thái Nguyên

3.1.1. Diễn biến thời tiết khí hậu vụ Mùa 2010 và vụ Xuân 2011 tại Thái

Nguyên

Sản xuất nông nghiệp đặc biệt là trồng trọt phụ thuộc rất nhiều vào điều

kiện tự nhiên. Trong quá trình sinh trưởng phát triển của cây trồng nói chung

và cây lúa nói riêng đều chịu sự tác động lớn của điều kiện khí hậu. Khí hậu

là yếu tố tổng hợp có tác động qua lại lẫn nhau, có lúc làm tăng tác dụng của

nhau, nhưng có lúc lại làm giảm tác dụng của nhau. Các yếu tố khí hậu bao

gồm: Nhiệt độ, lượng mưa, ẩm độ, gió, bão…Tuỳ từng vùng, từng miền khí

hậu khác nhau mà vai trò của từng yếu tố ảnh hưởng đến sản lượng cây trồng

cũng khác nhau. Ta có thể lợi dụng yếu tố này để khai thác mặt thuận lợi của

nó bằng cách bố trí mùa vụ hợp lý.

Thái Nguyên là một tỉnh trung du miền núi phía Bắc, địa hình phức tạp

và không đồng nhất, nhiều đồi núi. Khí hậu Thái Nguyên chia là m hai mùa rõ

rệt, một mùa nóng ẩm mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa đông kéo

dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, thời tiết khô rất ít mưa và chịu tác động

nhiều của gió mùa Đông Bắc. Nhìn chung, điều kiện khí hậu của tình Thái

Nguyên là khá thuận lợi cho cây trồng nói chung và cây lúa nói riêng sinh

trưởng và phát triển tốt.

Thời gian tiến hành gieo trồng các giống lúa thí nghiệm:

+ Vụ Mùa: Từ tháng 7 năm 2010 đến tháng 11 năm 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

+ Vụ Xuân: Từ tháng 2 năm 2011 đến tháng 7 năm 2011

46

Qua theo dõi diễn biến một số yếu tố khí hậu, thời tiết chính của 6 tháng

cuối năm 2010 và những tháng đầu năm 2011 được thể hiện ở bảng 3.1:

Bảng 3.1: Điều kiện thời tiết khí hậu vụ Mùa năm 2010 và vụ xuân 2011

Nhiệt độ Ẩm độ Lƣợng Tổng số giờ Năm Tháng không nắng (giờ) mƣa (mm) trung bình (0c) khí (%)

6 29,5 211 80 135

7 29,7 367 85 178

8 27,8 328 85 147

9 2010 29,7 167 83 89

10 25,1 9 77 142

11 20,9 3 74 117

12 18,5 42 79 81

1 11,9 4 73 10

2 17,3 11 82 32

3 16,7 93 80 10

4 23,4 30 83 49

5 26,3 226 80 137 2011

6 28,7 237 84 132

7 29,5 130 80 182

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Nguồn: Trung tâm khí tượng thuỷ văn Tỉnh Thái Nguyên )

47

Bảng số liệu trên cho thấy nhiệt độ trung bình cao nhất của năm 2010

và 2011 rơi vào tháng 7 và nhiệt độ trung bình thấp nhất vào tháng 1. Nhiệt độ trung bình của các tháng tiến hành thí nghiệm biến động từ 11,9oC - 29,7oC.

Trong thời gian từ tháng 6 năm 2010 đến tháng 7 năm 2011 mưa phân

bố không đều giữa thời gian làm thí nghiệm và giữa các tháng trong năm.

Mưa tập trung vào tháng 6 đến tháng 9 đạt đỉnh điểm cao nhất vào tháng 7

năm 2010 với 367 mm và tháng 6 năm 2011 với 237 mm. Độ ẩm không khí

trung bình qua các tháng biến động từ 73% đến 85% và phụ thuộc vào chế độ

mưa của các tháng.

3.1.2. Tài nguyên đất ở Thái Nguyên

Kết quả tổng hợp của tỉnh cho thấy đất đai của tỉnh chủ yếu là đất đồi

núi (chiếm đến 85,8% tổng diện tích tự nhiên). Do sự chi phối của địa hình và

khí hậu đất đồi núi của tỉnh bị phong hoá nhanh, mạnh, triệt để, đồng thời

cũng đã bị thoái hoá, rửa trôi, xói mòn mạnh một khi mất cân bằng sinh thái.

Do tính đa dạng của nền địa chất và địa hình đã tạo ra nhiều loại đất có các

đặc điểm đặc trưng khác nhau. Gồm có các loại đất chính sau:

Đất phù sa: diện tích 19.448 ha, chiếm 5,49% diện tích tự nhiên. Phân

bố tập trung chủ yếu dọc sông Cầu, sông Công và các sông suối trên địa bàn

tỉnh, trong đó có 3.961ha đất phù sa được bồi hàng năm cặp ven sông thuộc

huyện Phổ Yên, Đồng Hỷ, TX.Sông Công và TP.Thái Nguyên. Đất phù sa

của tỉnh thường có thành phần cơ giới trung bình, đất ít chua, hàm lượng dinh

dưỡng khá, rất thích hợp cho phát triển các loại cây trồng nông nghiệp, đặc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

biệt là cây trồng ngắn ngày (lúa, ngô, đậu đỗ, rau màu)

48

Đất bạc màu: diện tích chỉ có 4.331ha, chiếm 1,22% diện tích tự nhiên.

Loại đất này phân bố ở các huyện phía Nam tỉnh. Đất bằng hiện đã được sử

dụng vào sản xuất nông nghiệp.

Đất dốc tụ: diện tích 18.411ha, chiếm 5,2% diện tích tự nhiên, loại đất

này được hình thành và phát triển trên sản phẩm rửa trôi và lắng đọng của tất

cả các loại đất ở các chân sườn thoải hoặc khe dốc, nên thường có độ phì khác

nhau và phân tán, rất phân tán trên địa bàn các huyện. Đây là loại đất rất thích

hợp với trồng ngô, đậu đỗ và các cây công nghiệp ngắn ngày.

Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa: diện tích 4.380ha, chiếm 1,24% diện

tích tự nhiên. Loại đất này phân bố phân tán ở hầu khắp các thung lũng trên

địa bàn các huyện trong tỉnh, hiện đã được sử dụng trồng lúa và một số cây

trồng ngắn ngày khác.

Đất nâu đỏ trên đá vôi: diện tích 6.289ha, chiếm 1,7% diện tích tự

nhiên. Phân bố tập trung ở huyện Võ Nhai và Phú Lương. Nhìn chung đây là

loại đất tốt nhưng khô, kết cấu rời rạc, thành phần cơ giới thịt trung bình, mức

độ bão hoà bazơ khá, ít chua, trên loại đất này có khoảng 70% diện tích có độ

dốc dưới 200 thích hợp với sản xuất nông nghiệp và sản xuất theo phương

thức nông lâm kết hợp.

Đất đỏ vàng trên phiến thạch sét: diện tích 136.880ha, chiếm 38,65%

diện tích tự nhiên, đây là loại đất có diện tích lớn nhất, phân bố tập trung

thành các vùng lớn thuộc các huyện Phú Lương, Võ Nhai, Đồng Hỷ, Đại Từ,

Định Hoá. Đất có thành phần cơ giới từ thịt trung bình đến thịt nặng, cấu trúc

dạng cục, ngập nước lâu ngày sẽ có quá trình glây hoá mạnh. Trên loại đất

này có khoảng 48,5% diện tích có độ dốc từ 8 - 250 rất thích hợp với phát

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

triển cây chè và cây ăn quả.

49

Đất đỏ nâu trên đá macma bazơ trung tính: diện tích 22.035ha, chiếm

6,22% diện tích tự nhiên. Loại đất này phân bố tập trung ở các huyện Đại Từ,

Định Hoá, Phú Lương. Đây là đất chứa nhiều sắt, măng gan, khi gặp nóng ẩm

dễ phong hoá, phần trên đỉnh dễ kết von. Đây là loại đất tốt, có khoảng 63%

có độ dốc từ 8 - 250, có khả năng khai thác đưa vào sản xuất nông nghiệp và

nông lâm kết hợp.

Đất vàng nhạt phát triển trên đá cát: diện tích 42.052 ha, chiếm 11,88%

diện tích tự nhiên. Đây là loại đất đồi núi có diện tích lớn thứ hai sau đất đỏ

vàng trên phiến thạch sét, phân bố rải rác ở tất cả các huyện, thị trong tỉnh và

thường có độ dốc dưới 250, diện tích trên 250 chỉ có khoảng 23%. Loại đất

này trên tầng đất mặt thường có màu xám, thành phần cơ giới thịt nhẹ, có

nhiều sạn thạch anh, đất chua.

Đất nâu vàng trên phù sa cổ: diện tích 14.776ha, chiếm 4,17% diện tích

tự nhiên. Phân bố tập trung ở Phú Lương, Phổ Yên, Võ Nhai, Đồng Hỷ, Phú

Bình và Đại Từ. Đất thường có độ dốc thấp, 58% diện tích có độ dốc <80, rất

thích hợp với trồng màu, cây công nghiệp ngắn ngày (mía, lạc, thuốc lá...).

Đất vàng đỏ trên đá mac ma axit: diện tích 30.748ha, chiếm 8,68% diện

tích tự nhiên, phân bố tập trung ở Đại Từ và Định Hoá. Đây là loại đất dễ bị

xói mòn, rửa trôi vì lớp đất mặt có thành phần cơ giới nhẹ, tơi xốp, đất chua

và khoảng 50% diện tích có độ dốc >250.

3.2. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp và hiện trạng sản xuất lúa ở

Thái Nguyên

3.2.1. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp ở Thái Nguyên

Tổng diện tích đất nông nghiệp của tỉnh năm 2009 là 275.310,1 ha,

chiếm 78,14% diện tích tự nhiên, bình quân đất nông nghiệp trên đầu người là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

0,3-0,4 ha/hộ, quỹ đất nông nghiệp được sử dụng như sau:

50

Đất sản xuất nông nghiệp: Chiếm 36,0% đất nông nghiệp, phân bố tập

trung ở các huyện phía Nam, nằm dọc các trục đường giao thông, nơi địa hình

tương đối bằng, dân cư sống tập trung, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất tương

đối khá. Tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 99.440,7 ha, bao gồm:

Đất trồng cây hàng năm: 59.738,5 ha chiếm 60,1% diện tích đất sản

xuất nông nghiệp. Trong đó:

+ Đất trồng lúa: chiếm vị trí chủ đạo trong đất trồng cây hàng năm với

diện tích 43.191,72 ha chiếm 72,3% diện tích đất trồng cây hàng năm.

+ Đất trồng cây hàng năm còn lại: Đất trồng cây hàng năm còn lại bao

gồm diện tích trồng màu, cây công nghiệp ngắn ngày, cây rau thực phẩm, cây

làm thức ăn gia súc và đất vườn trồng cây hàng năm trong khu dân cư, diện

tích này phân bố ở hầu hết các huyện trên địa bàn tỉnh. Diện tích đất trồng cây

hàng năm còn lại là 16.241,1 ha chiếm 27,2% diện tích cây hàng năm.

Đất trồng cây lâu năm: Phân bố ở hầu hết các huyện thị trên địa bàn tỉnh

với diện tích 39.702,2 ha chiếm 39,9% diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Cây

trồng chính là chè và tập đoàn cây ăn quả như nhãn, vải, cam, quýt...

Đất lâm nghiệp: Tổng diện tích đất lâm nghiệp của tỉnh là 171.688,3 ha

chiếm 62,4% diện tích đất nông nghiệp, bao gồm 3 loại:

Đất rừng sản xuất: 91.181,5 ha chiếm 53,7% diện tích đất lâm nghiệp

Đất rừng phòng hộ: 50.902,6 ha chiếm 29,6% diện tích đất lâm nghiệp

Đất rừng đặc dụng: 28.604,1 ha chiếm 16,7% diện tích đất lâm nghiệp.

Đất nuôi trồng thuỷ sản: đạt 4.044,3 ha chiếm 1,5% diện tích đất nông

nghiệp, hiện nay được sử dụng chủ yếu để nuôi cá nhưng hiệu quả chưa cao,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tập trung ở các huyện Định Hoá, Phú Lương...

51

Đất nông nghiệp khác: chiếm 136,9 chiếm 0,04% diện tích đất sản xuất

nông nghiệp.

Vị trí ngành nông nghiệp đối với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh

Vị trí, vai trò của ngành nông nghiệp đối với phát triển kinh tế - xã hội

Thái Nguyên

Bảng 3.2. Hiện trạng sử dụng đất 1/1/2009 tỉnh Thái Nguyên

Cơ cấu (%)

Diện tích So với đất TT Hạng mục So với đất (ha) sản xuất tự nhiên NN

I Đất tự nhiên 354.110,0 100

1.1 Đất sản xuất nông nghiệp 99.577,6 28,12

1.1.1 Đất trồng lúa 43.191,4 43,37

1.1.2 Đất trồng cây lâu năm 39.702,2 39,87

1.1.3 Đất trồng cây hàng năm 16.241,1 16,3

1.1.4 Đất nông nghiệp khác 136,9 0,13

1.1.5 Đất dùng vào chăn nuôi 306,0 0.3

1.2 Đất lâm nghiệp 171.688,3 48,48

1.2.1 Đất rừng sản xuất 92.181,5

1.2.2 Đất rừng phòng hộ 50.902,6

1.2.3 Đất rừng đặc dụng 28.604,1

1.3 Đất nuôi trồng thuỷ sản 4.044,3 1,14

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Nguồn: Bộ Tài Nguyên và Môi trường)

52

Giải quyết nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho dân cư trên địa bàn:

đảm bảo an ninh lương thực, các sản phẩm như thịt các loại, cá... đủ cung cấp

trên địa bàn, ngoài ra còn xuất ra ngoài tỉnh.

Cung cấp nguyên liệu cho ngành chế biến nông sản và xuất khẩu như

chè, thịt lợn ...

Sử dụng lao động, giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho kinh tế

hộ nông thôn (lao động làm việc trong ngành nông lâm thuỷ sản chiếm 63,2%

số lao động trên toàn tỉnh).

Tạo địa bàn và môi trường để phát triển bền vững các khu đô thị, khu

công nghiệp và các cơ sở thương mại, dịch vụ, văn hoá, thể dục thể thao và du

lịch trên địa bàn.

Cung cấp nguyên liệu để sản xuất hàng hoá xuất khẩu là nông sản (chè)

Năm 2009, ngành nông nghiệp nông thôn đã đóng góp 2.540 tỷ đồng

vào sự tăng trưởng GDP của tỉnh.

3.2.2. Hiện trạng sản xuất lúa ở Thái Nguyên

Ở Thái Nguyên, lúa hầu hết cấy trên đất dốc tụ trồng lúa lâu năm có

hàm lượng dinh dưỡng không cao. Để đảm bảo an ninh lương thực khi diện

tích ít, tỉnh Thái Nguyên đã nỗ lực chỉ đạo nông dân thâm canh, mở rộng diện

tích lúa lai.

Diện tích lúa năm 2009 đạt 69.829 ha, do áp dụng tiến bộ kỹ thuật về

giống, đưa các giống có năng suất cao vào thâm canh nên năng suất lúa liên

tục tăng từ 44,6 tạ /ha năm 2003 lên 46,0 tạ/ha năm 2005 và 48,6 tạ/ha năm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

2009.

53

Bảng 3.3. Diễn biến diện tích và năng suất lúa ở Thái Nguyên

Diện tích (nghìn/ha) Năng suất (tạ/ha)

Năm Vụ Vụ Cả năm Vụ Mùa Cả năm Vụ Mùa Xuân Xuân

2003 42,0 70,4 42,9 47,0 44,6 28,4

2004 41,9 69,9 42,2 49,1 45,0 28,0

2005 41,8 70,1 44,2 48,6 46,0 28,3

2006 42,3 71,5 45,3 48,4 46,6 29,2

2007 42,0 70,8 45,6 47,2 46,3 28,8

2008 27,4 68,8 50,1 45,4 47,3 41,5

2009 28,7 69,8 50,1 47,5 48,6 41,2

TB 39,6 70,2 50,1 47,6 45,9 30,7

(Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của Sở NN&PTNT Thái Nguyên)

Phân bón ảnh hưởng đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất

lúa. Nhiều nghiên cứu đã xác định liều lượng, thời gian và hiệu quả sử dụng

phân bón trên các loại đất ở nhiều vùng sinh thái và kết luận: Liều lượng, hiệu

quả sử dụng phân bón phụ thuộc vào giống, điều kiện đất đai, khí hậu, mùa

vụ… Tuy nhiên, việc xây dựng quy trình bón phân hiện nay đều dựa trên kết

quả của các thí nghiệm nhỏ và dùng phép ngoại suy để lựa chọn lượng phân

cần bón cho những vùng rộng lớn. Mặt khác nông dân bón phân cân đối, đạm

được sử dụng nhiều mà chưa chú trọng đến kali và lân. Đó là những nguyên

nhân chính dẫn đến hiệu quả sử dụng phân bón thấp.

Thái Nguyên có diện tích trồng lúa trên 70.000 ha, trong đó có 39,7%

diện tích được cấy lúa vụ Xuân. Năng suất lúa trong những năm gần đấy đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tăng đáng kể, tuy nhiên mới bằng 94,7% năng suất lúa bình quân của cả nước.

54

Việc sử dụng phân bón cho lúa còn nhiều bất cập, đa số nông dân bón thúc đẻ

muộn, bón thúc đòng sớm, lượng đạm bón thúc đòng quá ít so với quy trình

kỹ thuật. Hiện tại người nông dân vẫn sử dụng một quy trình bón phân cho

toàn bộ diện tích trồng lúa, chưa có nghiên cứu nào về phân bón dựa trên tình

trạng dinh dưỡng của cây.

3.3. Kết quả nghiên cứu ảnh hƣởng của biến động các yếu tố dinh dƣỡng

đất đến sinh trƣởng, phát triển và năng suất của giống lúa KD18

3.3.1. Các đặc điểm của đất thí nghiệm

Xã Quyết Thắng là một xã nằm ở phía Tây thành phố Thái Nguyên với

địa hình tương đối thuận lợi cho phát triển cây lúa nước. Tuy nhiên điều kiện

đất đai xấu hoặc không chủ động nước đã ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất

lúa của xã.

Đất sản xuất lúa là loại đất đặc biệt phục vụ cho nhu cầu an ninh lương

thực mà Đảng và Nhà nước ta đang yêu cầu bảo vệ. Do vậy việc nghiên cứu

ảnh hưởng của từng yếu tố dinh dưỡng có trong đất đến sinh trưởng và phát

triển của cây trồng sẽ là tiền đề để đưa ra các biện pháp nhằm cải tạo các đặc

tính đất quan trọng nhằm duy trì diện tích đất hiện có.

Qua nghiên cứu đặc tính của đất thí nghiệm trên địa bàn xã đã thu được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

kết quả như sau:

55

Bảng 3.4. Đặc tính đất thí nghiệm

Độ lệch Chỉ tiêu Trung bình Cao nhất Thấp nhất chuẩn

CEC(lđl/100g đất) 8,79 10,19 7,29 0,77

OM (%) 2,08 2,30 1,80 0,12

N (%) 0,09 0,15 0,08 0,01

0,08 0,10 0,01 0,01 P2O5 (%)

0,31 0,57 0,22 0,05 K2O (%)

5,19 5,65 4,79 0,10 pHKCl

Qua kết quả phân tích trên cho thấy, đất thí nghiệm có các trị số dinh

dưỡng đất trung bình ở mức thấp. Cụ thể, dung tích hấp thu của đất (CEC) là

chỉ tiêu thể hiện khả năng hấp thu và giữ lại các cation trong đất nhằm giữ lại

dinh dưỡng cho đất. Qua kết quả phân tích đất cho thấy dung tích hấp thu của

đất đạt 8,79 lđl/100g đất, trong đó đạt thấp nhất là 7,29 lđl/100g đất và đạt cao

nhất là 10,19 lđl/100g đất. Sự thay đổi giá trị của dung tích hấp thu của đất

như vậy làm ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng duy trì các yếu tố dinh

dưỡng có lợi cho cây trồng ở trong đất, đặc biệt là hai yếu tố đạm và kali khi

hai yếu tố này có khả năng rửa trôi rất nhanh.

Mùn (OM) cũng là yếu tố đánh giá chất lượng đất canh tác. Mùn là chỉ

tiêu chịu ảnh hưởng nhiều bởi quá trình canh tác vá việc bổ sung phân hữu cơ

cho đất. Trong đất thí nghiệm có hàm lượng mùn trung bình là 2,08%, đạt

thấp nhất là 1,80% và cao nhất đạt 2,30%. Giá trị mùn như vậy nằm ở ngưỡng

nghèo mùn.

Hàm lượng mùn trong đất thấp đã làm ảnh hưởng tới giá trị các yếu tố

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đánh giá chất lượng khác như dung tích hấp thu và đạm, lân, kali tổng số ở

56

trong đất. Hàm lượng mùn thấp còn phản ánh trình độ canh tác của người dân

còn chưa cao, đặc biệt là tình trạng lạm dụng phân hoá học và không sử dụng

phân hữu cơ trong quá trình canh tác của người dân.

Đạm, lân, kali tổng số trong đất thí nghiệm đều nằm ở ngưỡng nghèo

với 0,09% N tổng số, 0,08% P2O5 tổng số và 0,31% K2O tổng số. Hàm lượng

của ba yếu tố này có sự thay đổi tương đối giữa các ô thí nghiệm, đặc biệt là

hai yếu tố lân và kali tổng số, cụ thể như sau: Đạm tổng số thấp nhất đạt

0,08% và cao nhất đạt 0,15%. P2O5 tổng số đạt 0,08% và cao nhất đạt 0,10%.

K2O tổng số đạt từ 0,22% - 0,57%.

Độ pH trong đất thí nghiệm (pHKCl) nằm trong khoảng từ 4,79 - 5,65 và

đạt trung bình là 5,19. Với giá trị pH như vậy là hơi thấp so với nhu cầu của

cây lúa, tuy nhiên nó không làm ảnh hưởng nhiều tới khả năng sinh trưởng và

cho năng suất của cây lúa vì vẫn nằm trong giới hạn cho phép của cây là từ

5,0-6,5.

Qua kết quả phân tích đất trên cho thấy, đất thí nghiệm thuộc nhóm đất

có độ phì trung bình, đặc biệt là ba yếu tố đa lượng là đạm, lân và kali tổng số

lại đều ở mức nghèo. Với giá trị các yếu tố dinh dưỡng trong đất như vậy, để

đảm bảo cho sản xuất lúa đạt hiệu quả thì yếu tố dinh dưỡng bổ sung cho từng

giai đoạn sinh trưởng của cây là rất quan trọng. Đặc biệt là yếu tố phân hữu

cơ, trong điều kiện dung tích hấp thu của đất thấp, nhằm đảm bảo cho cây lúa

sinh trưởng khoẻ mạnh và hạn chế được sự gây hại của dịch hại.

3.3.2. Khả năng sinh trưởng và phát triển của cây lúa

Sự sinh trưởng của cây lúa là tiền đề cho giai đoạn phát triển của cây và

khả năng cho năng suất. Sự sinh trưởng của cây lúa được thể hiện qua nhiều

chỉ tiêu sinh trưởng như: Tổng số nhánh đẻ, số nhánh hữu hiệu, chiều cao cây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cuối cùng hay khả năng tích luỹ vật chất khô ở các thời kỳ trỗ và chín. Từng

57

yếu tố sinh trưởng đều tác động đến khả năng sinh trưởng của cây và năng

suất lúc thu hoạch. Qua theo dõi một số chỉ tiêu sinh trưởng của cây lúa trong

thí nghiệm thu được kết quả như sau:

Bảng 3.5. Khả năng sinh trƣởng của cây lúa

Trung Cao Thấp Độ lệch Chỉ tiêu bình nhất nhất chuẩn

Chiều cao cây (cm) 84,49 94,00 72,00 5,26

Tổng số nhánh đẻ (nhánh) 9,37 10,80 7,50 0,68

Số nhánh hữu hiệu (nhánh) 7,70 8,70 6,50 0,40

Khả năng tích luỹ vật chất khô 8,48 9,80 6,85 0,77 giai đoạn trỗ (g/khóm)

Khả năng tích luỹ vật chất khô 13,21 14,99 12,00 0,73 giai đoạn chín (g/khóm)

Qua kết quả bảng 3.5 cho thấy, chiều cao cây trung bình đạt 84,49cm,

trong đó chiều cao cây thấp nhất là 72,00cm và chiều cao cây cao nhất đất

94,00cm.

Qua theo dõi khả năng tăng trưởng chiều cao cây trong hai vụ là vụ

mùa năm 2010 và vụ xuân năm 2011 cho thấy, do cây được sinh trưởng trong

điều kiện nhiệt độ và cường độ ánh sáng cao nên chiều cao cây cuối cùng của

vụ mùa năm 2010 đạt khá cao 88,30cm. Với chiều cao này trong điều kiện

được bón phân đầy đủ và cân đối, đặc biệt là phân kali ở giai đoạn trỗ đã giúp

cho cây lúa không bị gẫy đổ trong vụ mùa.

Khác với vụ mùa năm 2010, vụ xuân năm 2011 có thời tiết khá đặc biệt

là rét đậm kéo dài ở thời kỳ lúa con gái đã ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chiều cao cây. Kết quả theo dõi chiều cao cây lúa vụ xuân năm 2011 cho thấy

58

chiều cao cây cuối cùng chỉ đạt 80,68cm, thấp hơn nhiều so với vụ mùa năm

2010.

Chiều cao cây là chỉ tiêu thể hiện rõ nhất khả năng sinh trưởng của cây

mà chúng ta có thể quan sát bằng mắt thường. Chiều cao cây đạt giá trị cao

hay thấp thể hiện cây được cung cấp đầy đủ dinh dưỡng hay không hoặc cây

sinh trưởng trong điều kiện môi trường có thuận lợi hay khó khăn.

Khả năng đẻ nhánh là đặc tính vốn có của cây lúa, tuy nhiên khi giống lúa Khang dân 18 được cấy 3 dảnh/khóm và với mật độ 50 khóm/m2 thì khả

năng đẻ nhánh là không cao.

Qua kết quả theo dõi cho thấy khả năng đẻ nhánh của cây lúa trong thí

nghiệm đạt trung bình 2,57 nhánh trên mỗi dảnh cấy cơ bản. Tổng số nhánh

đẻ/khóm đạt trung bình là 9,37 nhánh/khóm, trong đó đạt thấp nhất là 7,50

nhánh/khóm và khả năng đẻ nhánh cao nhất đạt 10,80 nhánh/khóm.

Số nhánh đẻ hữu hiệu là chỉ tiêu ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lúc

thu hoạch do đây chính là số bông sẽ được thu hoạch. Trong thí nghiệm số

nhánh hữu hiệu đạt trung bình là 7,70 nhánh/khóm. Số nhánh hữu hiệu đạt

thấp nhất là 6,50 nhánh/khóm và đạt cao nhất là 8,70 nhánh/khóm.

Tỷ lệ nhánh hữu hiệu trên tổng số nhánh đẻ trong thí nghiệm là

82,41%, đây là tỷ lệ không thấp trong điều kiện thâm canh chưa phải ở mức

cao. Tỷ lệ này chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố trong đó có yếu tố dinh dưỡng

đất, phân bón bổ sung theo các thời kỳ, số dảnh khi cấy và mật độ cấy. Tuy

nhiên, trong thí nghiệm này chỉ có yếu tố dinh dưỡng đất là yếu tố thí nghiệm

và có sự thay đổi, còn các yếu tố còn lại là yếu tố phi thí nghiệm nên chỉ tiêu

số nhánh hữu hiệu và tỷ lệ nhánh hữu hiệu chỉ thay đổi khi yếu tố dinh dưỡng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đất thay đổi.

59

Khả năng tích luỹ vật chất khô là khả năng tích luỹ các vật chất phục

vụ cho quá trình sinh trưởng và là dinh dưỡng phục vụ cho quá trình phân hoá

mầm hoa và tạo hạt.

Trong thí nghiệm, khả năng tích luỹ vật chất khô được tính cho phần

thân, lá ở giai đoạn trỗ và phần thân, lá (đã loại bỏ phần bông lúa) ở giai đoạn

chín. Đây là hai giai đoạn quan trọng trong quá trình sinh trưởng và phát triển

của cây lúa.

Qua kết quả nghiên cứu cho thấy, khả năng tích luỹ vật chất khô giai

đoạn trỗ đạt trung bình 8,48g/khóm, trong đó ô thấp nhất đạt 6,85g/khóm và ô

cao nhất đạt 9,80g/khóm.

Đến giai đoạn chín khả năng tích luỹ vật chất khô đạt 13,21g/khóm,

trong đó đạt cao nhất là 14,99g/khóm và đạt thấp nhất là 12g/khóm.

Khả năng tích luỹ vật chất khô có sự khác nhau giữa các ô thí nghiệm

có chỉ tiêu dinh dưỡng đất khác nhau. Các chỉ tiêu dinh dưỡng đất càng cao,

đặc biệt là chỉ tiêu dung tích đất hấp thu và hàm lượng mùn trong đất, thì khả

năng tích luỹ vật chất khô ở giai đoạn sinh trưởng càng cao.

Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất là các chỉ tiêu đánh giá

cho cả quá trình thâm canh của cây lúa, qua theo dõi trong thí nghiệm thu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

được kết quả được trình bày qua bảng 3.6.

60

Bảng 3.6. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất

Độ lệch Chỉ tiêu Trung bình Cao nhất Thấp nhất chuẩn

4,11 Năng suất (tạ/ha) 49,25 61,25 39,56

3,28 Số hạt chắc/bông (hạt) 88,27 99,20 80,00

0,40 19,13 19,79 18,13 P1000 (g)

Số bông/m2 (bông) 385,12 435,00 325,00 20,05

Qua kết quả nghiên cứu trên cho thấy, số bông/m2 trong thí nghiệm đạt trung bình là 385,12 bông/m2. Số bông giữa các ô thí nghiệm với các yếu tố

dinh dưỡng đất khác nhau có sự chênh lệch nhau tương đối lớn, đạt thấp nhất là 325 bông/m2 và cao nhất là 435 bông/m2.

Số bông/m2 là chỉ tiêu có ảnh hưởng lớn đến năng suất của cây lúa. Đây

cũng là chỉ tiêu có sự thay đổi lớn khi các yếu tố dinh dưỡng đất thay đổi, đặc

biệt là dung tích hấp thu của đất.

Số hạt chắc/bông cũng chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố dinh

dưỡng đất. Số hạt chắc/bông đạt từ 80 hạt/bông đến 99,2 hạt/bông với giá trị

trung bình là 88,27 hạt/bông.

Trọng lượng nghìn hạt là chỉ tiêu ít chịu ảnh hưởng của điều kiện ngoại

cảnh. Kết quả thí nghiệm cho thấy, trọng lượng nghìn hạt đạt trung bình là

19,13g, trong đó hạt cao nhất 19,79g và đạt thấp nhất là 18,13g.

Năng suất thực thu luôn là cái đích của người sản xuất lúa. Qua kết quả

nghiên cứu sự biến động của các yếu tố dinh dưỡng đất đến năng suất của lúa

cho thấy, năng suất lúa trung bình đạt 49,25 tạ/ha. Với các yếu tố dinh dưỡng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đất thấp, đặc biệt là dung tích hấp thu của đất thấp, thì năng suất lúa đạt rất

61

thấp là 39,56 tạ/ha. Khi dung tích hấp thu của đất và các yếu tố dinh dưỡng

đất khác tăng lên thì năng suất thực thu tăng lên và đạt cao nhất là 61,25 tạ/ha.

3.3.3. Tương quan giữa dinh dưỡng đất với sinh trưởng và năng suất lúa

Các yếu cấu thành năng và năng suất lúa đều tăng khi giá trị các yếu tố

dinh dưỡng đất tăng, nhưng mức độ ảnh hưởng như thế nào và yếu tố dinh

dưỡng nào tác động mạnh? Qua theo dõi và phân tích tương quan giữa các

yếu tố dinh dưỡng đất với các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất được

thể hiện qua bảng 3.7

Bảng 3.7. Tƣơng quan giữa dinh dƣỡng đất với năng suất và các yếu tố

cấu thành năng suất

CEC OM N P2O5 K2O Chỉ tiêu

Năng suất 0,78 0,40 0,29 0,18 0,09

0,58 0,29 0,12 0,30 0,17 P1000

Số hạt chắc/bông 0,65 0,21 0,14 0,13 0,19

Số bông /m2 0,33 0,27 0,26 0,04 0,09

Qua kết quả bảng 3.7 cho thấy, tương quan của các yếu tố dinh đất với

các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất lúa là khác nhau rất nhiều. Ba yếu

tố là đạm, lân và kali tổng số trong đất có mức độ tương quan yếu đối với các

chỉ tiêu cấu thành năng suất và năng suất. Cụ thể, với kali tổng số có hệ số

tương quan r = 0,09 - 0,19. Lân tổng số có mức độ tương quan cao hơn với r =

0,04 - 0,30, trong đó lân tổng số có tương quan cao nhất với trọng lượng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nghìn hạt (r = 0,30).

62

Khác với hai yếu tố lân và kali tổng số, đạm tổng số trong đất có ảnh hưởng với chiều hướng khác, trong đó chỉ tiêu số bông/m2 và năng suất có

tương quan lớn hơn với chỉ tiêu đạm tổng số với r lần lượt là 0,26 và 0,29.

Hàm lượng mùn trong đất (OM) có mức độ tương quan lớn hơn so với

các chỉ tiêu đạm, lân, kali tổng số, xong vẫn ở mức tương quan yếu với các

chỉ tiêu cấu thành năng suất và năng suất. Trong đó các chỉ tiêu cấu thành năng suất như số bông/m2, số hạt chắc/bông và trọng lượng nghìn hạt có mức

độ tương quan thấp hơn với r = 0,21-0,29.

Với chỉ tiêu năng suất thực thu có tương quan ở mức trung bình với

OM khi có r = 0,40.

Đất thí nghiệm là loại đất có hàm lượng hàm lượng mùn thấp (2,08%) ở

ngưỡng đất nghèo mùn. Có thể có hàm lượng mùn quá thấp và sự khác nhau

giữa các ô thí nghiệm không nhiều nên chỉ tiêu hàm lượng mùn trong đất có

ảnh hưởng không nhiều đến khả năng sinh trưởng và cho năng suất của cây lúa.

Khác hẳn với các chỉ tiêu dinh dưỡng đã phân tích ở trên, chỉ tiêu dung

tích hấp thu của đất có tương quan chặt với các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất. Riêng chỉ tiêu số bông/m2, chỉ tiêu dung tích hấp thu của đất có

tương quan yếu với chỉ tiêu này với r = 0,33.

Số hạt chắc/bông là chỉ tiêu chịu ảnh hưởng nhiều của dung tích hấp

thu của đất với sự dao động của giá trị trong khoảng tương đối rộng từ 80,00

– 99,20 lđl/100g đất. Tương quan giữa hai chỉ tiêu này cũng ở mức chặt với r

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

= 0,65. Kết quả được thể hiện qua đồ thị 3.1.

63

Đồ thị 3.1. Tƣơng quan giữa dung tích hấp thu của đất (CEC) với số hạt

chắc/bông

Qua đồ thị cho thấy, chỉ tiêu số hạt chắc/bông có tương quan thuận với

dung tích hấp thu của đất (CEC) với mức độ tương tác tương đối cao theo

đường phương trình y = 2,7472x + 64,131 với r = 0,6483.

Với kết quả phân tích tương quan giữa CEC với số hạt chắc/bông cho

thấy, khi dung tích hấp thu của đất tăng thì số hạt chắc/bông cũng tăng mạnh.

Điều này cho thấy, để tăng được giá trị của chỉ tiêu số hạt chắc/bông thì ngoài

các biện pháp kỹ thuật như bón phân, làm cỏ, điều chỉnh mật độ cấy,… thì

cần quan tâm đến việc cải tạo dung tích hấp thu của đất như cày sâu để tăng tỷ

lệ sét ở trong đất hay bón phân hữu cơ thường xuyên…

Mặt khác, số hạt chắc/bông là chỉ tiêu quan trọng trong các yếu tố cấu

thành năng suất. Do vậy khi số hạt chắc/bông tăng sẽ giúp cho năng suất của

lúa tăng lên.

Mối tương quan giữa số hạt chắc/bông với dung tích hấp thu của đất sẽ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

là mối tương quan quan trọng trong quá trình thâm canh cây lúa.

64

Trọng lượng nghìn hạt cũng là chỉ tiêu có tương quan mật thiết với chỉ

tiêu dung tích hấp thu của đất nhưng với mức độ thấp hơn so với chỉ tiêu số

hạt chắc/bông, với r = 0,5762. Kết quả được thể hiện qua đồ thị 3.2.

Đồ thị 3.2. Tƣơng quan giữa dung tích hấp thu của đất (CEC) với trọng

lƣợng nghìn hạt

Qua đồ thị cho thấy, mức độ tương quan giữa hai chỉ tiêu này là thấp

hơn so với chỉ tiêu số hạt chắc/bông với r = 0,58. Tuy nhiên, khi giá trị của

chỉ tiêu CEC tăng thì xu hướng tăng và mức độ tăng của chỉ tiêu trọng lượng

nghìn hạt cao hơn nhiều so với chỉ tiêu số hạt chắc/bông, thể hiện bởi độ

nghiêng của đường phương trình tương quan y = 0,2987x + 16,502.

Năng suất thực thu có tương quan chặt chẽ nhất với chỉ tiêu dung tích

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hấp thu của đất, kết quả được thể hiện qua đồ thị 3.3.

65

Đồ thị 3.3. Tƣơng quan giữa dung tích hấp thu của đất (CEC) với năng

suất thực thu

Qua đồ thị 3.3 cho thấy, tương quan giữa CEC với năng suất thực thu là

chặt (r = 0,78), thể hiện bởi sự hội tụ của các điểm mẫu xung quanh, gần

đường phương trình tương quan y = 4,1607x + 12,689.

Năng suất thực thu là chỉ tiêu chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố trong đó

có các yếu tố cấu thành năng suất là những chỉ tiêu cũng chịu ảnh hưởng

nhiều bởi chỉ tiêu là dung tích hấp thu của đất (CEC). Do vậy, năng suất thực

thu càng chịu ảnh hưởng nhiều hơn của chỉ tiêu này.

Qua kết quả phân tích tương quan trên cho thấy, năng suất và các yếu

tố cấu thành năng suất có tương quan cùng chiều với các chỉ tiêu về dinh

dưỡng đất, từ các yếu tố đạm, lân, kali tổng số đến hàm lượng mùn ở trong

đất. Đặc biệt chỉ tiêu dung tích hấp thu của đất (CEC) hay chỉ có giá trị trung

bình trong nhiều loại đất khác nhau ở Thái Nguyên, nhưng lại có tương quan

chặt với năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất.

Mỗi yếu tố luôn chịu ảnh hưởng của một hay nhiều những yếu tố khác.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Để đánh giá sự tương tác giữa các yếu tố cấu thành năng suất với nhau và với

66

năng suất thực thu của cây lúa, chúng tôi tiến hành phân tích mối tương quan

này. Kết quả được thể hiện qua bảng 3.8.

Bảng 3.8. Tƣơng quan giữa các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất

Năng Số hạt Chiều Số bông/m2 Chỉ tiêu P1000 suất chắc/bông cao cây

0,61 P1000

0,78 0,36 Số hạt chắc/bông

0,52 0,27 0,40 Số bông/m2

0,44 0,23 0,23 - Chiều cao cây

Vật chất khô giai 0,50 0,31 0,38 0,32 0.46 đoạn trỗ

Vật chất khô giai 0,45 0,24 0,37 0,10 0.21 đoạn chín

Qua kết quả bảng 3.8 cho thấy, giữa các yếu tố cấu thành năng suất đều

có tương quan với nhau và có tương quan thuận với năng suất thực thu. Mức

độ tương quan rất đa dạng từ mức rất thấp với r = 0,10 giữa hai chỉ tiêu Vật chất khô giai đoạn chín và số bông/m2, đến mức độ tương quan rất chặt giữa

số hạt chắc/bông với năng suất thực thu (r = 0,78).

Các yếu tố cấu thành năng suất đều có tương quan với nhau ở các mức

độ khác nhau, trong đó hệ số tương quan đạt cao nhất giữa hai chỉ tiêu chiều

cao cây và khả năng tích luỹ vật chất khô giai đoạn trỗ với hệ số tương quan r

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

= 0,46. Các yếu tố cấu thành năng suất khác có tương quan với nhau ở mức

67

độ trung bình với r = 0,23 - 0,40. Riêng chỉ tiêu khả năng tích luỹ vật chất khô

giai đoạn chín với chỉ tiêu chiều cao cây có mức độ tương quan yếu với hệ số

tương quan r = 0,10.

Các yếu tố cấu thành năng suất đều có tương quan từ chặt đến rất chặt

với năng suất thực thu của cây lúa. Trong đó, có liên quan mật thiết nhất với

năng suất thực thu là chỉ tiêu số hạt chắc/bông. Kết quả được thể hiện qua đồ

thị 3.4.

Đồ thị 3.4. Tƣơng quan giữa số hạt chắc/bông với năng suất

Qua đồ thị cho thấy, tương quan giữa số hạt chắc/bông với năng suất là

tương quan rất chặt với hệ số tương quan r = 0,78. Trên đồ thị các điểm mẫu

nằm liền với đường phương trình tương quan y = 0,9864x – 37,821. Kết quả

này cho thấy, số hạt chắc/bông ảnh hưởng mạnh và quyết định đến năng suất

thực thu.

Ngoài việc có tương quan rất chặt với chỉ tiêu năng suất thực thu, số hạt

chắc/bông và trọng lượng nghìn hạt cũng có mối tương quan với nhau ở mức

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

độ trung bình.

68

Số hạt chắc/bông và trọng lượng nghìn hạt là hai chỉ tiêu có sự cạnh

tranh nhau về dinh dưỡng trong quá trình hình thành. Tuy nhiên trong thí

nghiệm khi cây lúa được bón đầy đủ và cân đối giữa các yếu tố phân bón, đặc

biệt là khi có phân hữu cơ, thì giữa hai chỉ tiêu này vẫn có sự tương tác với

nhau ở mức độ trung bình với r = 0,36.

Qua kết quả này cho thấy, khi cây lúa được chăm sóc để có thể tạo ra

số hạt/bông cao thì cây lúa cũng có khả năng duy trì được trọng lượng nghìn

hạt có tương đối cao. Điều này thuận lợi cho mục tiêu tăng năng suất lúa

trong những năm tới của chúng ta.

Sau chỉ tiêu số hạt chắc/bông, trọng lượng nghìn hạt có tương quan chặt

với năng suất thực thu khi có hệ số tương quan r = 0,61, kết quả được thể hiện

qua đồ thị 3.5.

Đồ thị 3.5. Tƣơng quan giữa trong lƣợng nghìn hạt với năng suất

Số bông/m2 là một trong những yếu tố cấu thành năng suất. Qua phân tích tương quan giữa số bông/m2 với năng suất thực thu cho thấy: Số bông/m2

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

có tương quan thuận với năng suất thực thu khi thu hoạch ở mức độ trung

69

bình với r = 0,52. Số bông/m2 có sự dao động lớn khi điều kiện dinh dưỡng đất thay đổi đã làm năng suất thực thu tăng hay giảm khi số bông/m2 thay đổi.

Khả năng tích luỹ vật chất khô của cây ở các giai đoạn đều có tương

quan ở mức độ khác nhau đến năng suất thực thu. Ở giai đoạn trỗ, khả năng

tích luỹ vật chất khô là chưa cao, trung bình đạt 8,48g/khóm. Tuy nhiên, đây lại

là giai đoạn cây cần dinh dưỡng cho quá trình trỗ và phơi màu. Do vậy với với

lượng vật chất khô tích luỹ được lại có tương quan cao hơn với năng suất thực

thu sau này.

Sang giai đoạn chín (trước khi thu hoạch 5 ngày), khả năng tích luỹ vật

chất khô cũng có tương quan với năng suất nhưng với mức độ thấp hơn so với

giai đoạn trước.

Chiều cao cây là chỉ tiêu thể hiện khả năng sinh trưởng chung của cây,

khi phân tích mối tương quan giữa chỉ tiêu này với năng suất cho thấy chiều

cao cây có tương quan với năng suất thực thu ở mức độ trung bình với hệ số

tương quan r = 0,44.

* Ảnh hƣởng của tƣơng quan đa chiều đến năng suất

Tương quan giữa các chỉ tiêu cấu thành năng suất và năng suất với nhau

thể hiện ở các mức độ khác nhau với những diễn biến không giống nhau theo

phương trình tương quan:

NS = 0,79a - 0,17b + 3,08c + 0,64d - 0,63e - 0,21f - 79,00

Với r = 0,85

Trong đó: a:

b: Số hạt chắc/bông Số bông/m2

c: Trọng lượng nghìn hạt

d: Khả năng tích luỹ vật chất khô giai đoạn chín

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

e: Chiều cao cây

70

f: Khả năng tích luỹ vật chất khô giai đoạn trỗ

Qua phân tích tổng thể kết quả tương quan giữa các chỉ tiêu này cho

thấy: Số hạt chắc/bông là chỉ tiêu có mức độ tương quan với năng suất thực thu

là lớn nhất với sự thay đổi về số hạt chắc/bông làm cho năng suất thực thu thay

đổi nhiều nhất.

Với sự ảnh hưởng với chỉ tiêu năng suất thực thu thấp hơn so với chỉ tiêu số hạt chắc/bông, chỉ tiêu số bông/m2 cũng ảnh hưởng lớn đến năng suất thu

được.

Trọng lượng nghìn hạt là yếu tố cấu thành năng suất có ảnh hưởng lớn

đến năng suất thực thu. Trọng lượng nghìn hạt có ảnh hưởng thấp hơn đến

năng suất so với các yếu tố cấu thành năng suất khác bởi vì trọng lượng nghìn

hạt có sự dao động về giá trị ít hơn do chịu sự chi phối của yếu tố giống.

Tiếp theo sau các yếu tố cấu thành năng suất, các yếu tố sinh trưởng

của cây lúa cũng ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất thu hoạch. Khả năng

tích luỹ vật chất khô ở giai đoạn chín khi phân tích tương quan đơn biến với

năng suất thực thu có hệ số tương quan thấp hơn so với khả năng tích luỹ vật

chất khô ở giai đoạn trỗ nhưng do có sự dao động lớn về giá trị nên khi phân

tích tương quan đa biến thì khả năng tích luỹ vật chất khô ở giai đoạn chín

này lại có ảnh hưởng lớn hơn đến năng suất.

Với mức độ tương quan thấp hơn tiếp theo là chỉ tiêu chiều cao cây

cuối cùng với sự tương quan ở mức độ trung bình đến năng suất. Chỉ tiêu này

do có mức độ tương quan đơn biến với các yếu tố cấu thành năng suất và các

chỉ tiêu sinh trưởng khác cũng ở mức độ trung bình nên sự ảnh hưởng của chỉ

tiêu này đến năng suất thực thu khi thu hoạch cũng không cao.

Trong các yếu tố cấu thành năng suất và các chỉ tiêu sinh trưởng có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tương quan mật thiết với năng suất thực thu thì chỉ tiêu khả năng tích luỹ vật

71

chất khô ở giai đoạn trỗ có ảnh hưởng thấp nhất đến năng suất thực thu khi

thu hoạch.

Qua kết quả phân tích này cho thấy, các chỉ tiêu có mức độ tương quan

đa chiều với năng suất thực thu theo mức độ giảm dần như sau: Chỉ tiêu số hạt chắc/bông – số bông/m2 – trọng lượng nghìn hạt – khả năng tích luỹ vật

chất khô giai đoạn chín – chiều cao cây – khả năng tích luỹ vật chất khô giai

đoạn trỗ.

Qua đây cho thấy, các yếu tố cấu thành năng suất vẫn là những chỉ tiêu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

có tương quan mật thiết nhất đến năng suất thực thu khi thu hoạch.

72

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

1. Kết luận

Qua các kết quả nghiên cứu trên có thể đưa ra một số kết luận sau:

- Đất thí nghiệm thuộc nhóm đất nghèo dinh dưỡng với sự dao động

rộng của hai chỉ tiêu cơ bản là dung tích hấp thu (CEC) và hàm lượng mùn

trong đất (OM).

- Tương quan của các yếu tố dinh đất với các yếu tố cấu thành năng

suất và năng suất lúa là khác nhau rất nhiều. Ba yếu tố là đạm, lân và kali tổng

số trong đất có mức độ tương quan yếu đối với các chỉ tiêu cấu thành năng

suất và năng suất. Cụ thể, với kali tổng số có hệ số tương quan r = 0,09 - 0,19.

Lân tổng số có mức độ tương quan cao hơn với r = 0,04 - 0,30, trong đó lân

tổng số có tương quan cao nhất với trọng lượng nghìn hạt (r = 0,30).

- Giữa các yếu tố cấu thành năng suất đều có tương quan với nhau và

có tương quan thuận với năng suất thực thu. Mức độ tương quan rất đa dạng

từ mức rất thấp với r = 0,10 giữa hai chỉ tiêu Vật chất khô giai đoạn chín và số bông/m2, đến mức độ tương quan rất chặt giữa số hạt chắc/bông với năng suất

thực thu (r = 0,78).

- Tương quan cộng hưởng của nhiều biến đến năng suất thực thu theo

- trọng lượng nghìn

thứ tự từ cao đến thấp là: Số hạt chắc/bông – số bông/m2

hạt – khả năng tích luỹ vật chất khô giai đoạn chín – chiều cao cây – khả năng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tích luỹ vật chất khô giai đoạn trỗ.

73

2. Đề nghị

Đề tài cần được tiếp tục nghiên cứu để xác định rõ quy luật tác động

giữa các yếu tố dinh dưỡng đất với các chỉ tiêu sinh trưởng và năng suất của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lúa tại xã Quyết Thắng nói riêng và tỉnh Thái Nguyên nói chung.

74

PHỤ LỤC

The SAS System 17:49 Saturday, January 13, 2001 1 The CORR Procedure 14 Variables: NS A B C D E F G I J K L M N

Simple Statistics8

Variable N Mean Std Dev Sum Minimum Maximum

NS 120 49.24900 4.11412 5910 39.56000 61.25000 A 120 84.48750 5.26023 10139 72.00000 94.00000 B 120 9.36917 0.67652 1124 7.50000 10.80000 C 120 7.70242 0.40104 924.2900 6.50000 8.70000 D 120 8.47875 0.76969 1017 6.85000 9.80000 E 120 13.20708 0.72850 1585 12.00000 14.99000 F 120 88.27083 3.27785 10593 80.00000 99.20000 G 120 19.12658 0.40015 2295 18.13000 19.79000 I 120 5.19300 0.24703 623.1600 4.79000 5.65000 J 120 8.78700 0.77182 1054 7.29000 10.19000 K 120 2.07917 0.11750 249.50000 1.80000 2.30000 L 120 0.08983 0.01076 10.78000 0.08200 0.15000 M 120 0.07972 0.01274 9.56600 0.01000 0.09900 N 120 0.31083 0.04938 37.30000 0.22000 0.57000

Pearson Correlation Coefficients, N = 120 Prob > |r| under H0: Rho=0 B C NS A D E F

0.43778 0.44033 0.52464 0.50106 0.45348

<.0001

1.00000 0.91061 0.74782 0.45873 0.20790

0.23294

<.0001 <.0001 <.0001 0.0227

0.91061 1.00000 0.77398 0.37564 0.10294

<.0001 <.0001 <.0001 0.2632

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

NS 1.00000 0.77409 <.0001 <.0001 <.0001 <.0001 <.0001 A 0.43778 <.0001 B 0.0105 0.44033 0.18804 <.0001 0.0397

75

0.74782 0.77398 1.00000 0.32262 0.09608

<.0001 <.0001 0.0003 0.2965

0.45873 0.37564 0.32262 1.00000 0.77235

<.0001 <.0001 0.0003 <.0001

0.20790 0.10294 0.09608 0.77235 1.00000

0.0227 0.2632 0.2965 <.0001

0.23294 0.18804 0.10393 0.38329 0.36814

0.0105 0.0397 0.2586 <.0001 <.0001 0.23267 0.30033 0.16471 0.31242 0.23827

0.0105 0.0009 0.0722 0.0005 0.0088

0.35914 <.0001 <.0001

C 0.52464 0.10393 <.0001 0.2586 0.50106 D 0.38329 <.0001 <.0001 0.45348 E 0.36814 <.0001 <.0001 0.77409 F 1.00000 <.0001 G 0.60395

Pearson Correlation Coefficients, N = 120 Prob > |r| under H0: Rho=0

A B C D E F

-0.00388 -0.00950 -0.08410 -0.11826 -0.15495 -

NS I -0.12276 0.06808 0.1816 0.9664 0.9180 0.3611 0.1983 0.0911 0.4600

0.55336

J 0.74573 0.45594 0.43050 0.32692 0.45610 0.33405 <.0001 <.0001 <.0001 0.0003 <.0001 0.0002 <.0001

0.20964

K 0.40230 0.23982 0.25551 0.26882 0.27052 0.19023 <.0001 0.0083 0.0049 0.0030 0.0028 0.0374 0.0216

0.13941

L 0.29024 0.02951 0.00982 0.25764 -0.08770 -0.12191 0.0013 0.7490 0.9153 0.0045 0.3409 0.1847 0.1288

-0.01259 0.04354 0.03687 0.17646 0.14481

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

M 0.17998 0.13193

76

0.0492 0.8914 0.6368 0.6893 0.0539 0.1146 0.1509

0.19143

N 0.08752 0.16731 0.10744 -0.09368 0.18787 0.19000 0.3418 0.0678 0.2428 0.3088 0.0399 0.0377 0.0362

I J K L M N

0.08752

0.16731

0.10744

-

0.18787

0.19000

0.19143

0.16755

0.0742 <.0001 0.0013 0.1898 0.0010 0.0674

L M N J K I

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Pearson Correlation Coefficients, N = 120 Prob > |r| under H0: Rho=0 G NS 0.60395 -0.12276 0.74573 0.40230 0.29024 0.17998 <.0001 0.1816 <.0001 <.0001 0.0013 0.0492 0.3418 A 0.23267 -0.00388 0.45594 0.23982 0.02951 -0.01259 0.0105 0.9664 <.0001 0.0083 0.7490 0.8914 0.0678 B 0.30033 -0.00950 0.43050 0.25551 0.00982 0.04354 0.0009 0.9180 <.0001 0.0049 0.9153 0.6368 0.2428 C 0.16471 -0.08410 0.32692 0.26882 0.25764 0.03687 0.09368 0.0722 0.3611 0.0003 0.0030 0.0045 0.6893 0.3088 D 0.31242 -0.11826 0.45610 0.27052 -0.08770 0.17646 0.0005 0.1983 <.0001 0.0028 0.3409 0.0539 0.0399 E 0.23827 -0.15495 0.33405 0.19023 -0.12191 0.14481 0.0088 0.0911 0.0002 0.0374 0.1847 0.1146 0.0377 F 0.35914 -0.06808 0.55336 0.20964 0.13941 0.13193 <.0001 0.4600 <.0001 0.0216 0.1288 0.1509 0.0362 G 1.00000 -0.16357 0.57622 0.28962 0.12052 0.29670 Pearson Correlation Coefficients, N = 120 Prob > |r| under H0: Rho=0 G

77

0.15674

0.8429 0.9907 0.1636 0.1184 0.0873

0.17140

<.0001 0.0132 0.0502 0.0612

0.20319

0.0037 0.0930 0.0260

-0.12798 0.22563 0.26337 1.00000 0.15772 -

0.0854 0.0825

-0.14330 0.17917 0.15402 0.15772 1.00000 -

0.1101

1.00000

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

I -0.16357 1.00000 0.01828 0.00107 -0.12798 -0.14330 0.0742 J 0.57622 0.01828 1.00000 0.41217 0.22563 0.17917 <.0001 0.8429 K 0.28962 0.00107 0.41217 1.00000 0.26337 0.15402 0.0013 0.9907 <.0001 L 0.12052 0.15918 0.1898 0.1636 0.0132 0.0037 M 0.29670 0.14659 0.0010 0.1184 0.0502 0.0930 0.0854 N 0.16755 0.15674 0.17140 0.20319 -0.15918 -0.14659 0.0674 0.0873 0.0612 0.0260 0.0825 0.1101

78

TÀI LỆU THAM KHẢO

I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Đỗ Ánh, Bùi Đình Dinh (1992), Đất, Phân bón, cây trồng, Khoa học đất 2,

trang 35-45.

2. Nguyễn Văn Bộ và cộng sự (1994), Một số kết quả nghiên cứu về dinh

dưỡng cho lúa lai trên đất bạc màu, Kết quả nghiên cứu khoa học,

NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

3. Nguyễn Văn Bộ (1995), “Cơ chế hiệu lực kali bón cho lúa”, Đề tài KNO1-

10, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.

4. Nguyễn Văn Bộ, Bùi Thị Trâm, Nguyễn Văn Ba (1995), Cơ chế hiệu lực

Kali bón cho lúa - Yếu tố dinh dưỡng hạn chế năng suất và chiến lược

quản lý dinh dưỡng cây trồng - Đề tài KH 01-10, Viện Thổ Nhưỡng

Nông hoá, Nhà xuất bản Nông Nghiệp, Hà Nội.

5. Nguyễn Văn Bộ, Nguyễn Văn Ba, Bùi Thị Trâm (1995), Vai trò của Kali

trong cân đối dinh dưỡng với cây lương thực trên đất có hàm lượng

kali tổng số khác nhau - Kết quả nghiên cứu khoa học quyển 1 - Viện

Thổ Nhưỡng Nông Hoá, Nhà xuất bản nông nghiệp, Hà Nội.

6. Nguyễn Văn Bộ (1998), Dự báo nhu cầu sử dụng phân bón đến năm 2010

ở Việt Nam, Tuyển tập báo cáo khoa học toàn quốc lần thứ 3, Hội hoá

học Việt Nam.

7. Bộ Nông Nghiệp và PTNT (1999), Thông tin chuyên đề lúa lai, kết quả và

triển vọng, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

8. Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Thái Nguyên, Báo cáo tổng kết

hàng năm (từ năm 2003 đến năm 2009).

9. Lê Văn Căn (1974), Tình hình sử dụng phân lân bón cho lúa ở các nước –

Nghiên cứu đất phân, tập IV – nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, Hà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nội.

79

10. Hoàng Minh Châu (1988), Cẩm nang sử dụng phân bón, dịch từ tiếng

Anh “IFA – world fertilizer use manual”, Trung tâm thông tin khoa

học kỹ thuật hoá chất.

11. Nguyễn Văn Chiến (1999), Các dạng kali trên một số loại đất chính ở

Việt Nam- Kết quả nghiên cứu khoa học, quyển 3, Viện thổ Nhưỡng

Nông Hoá – Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.

12. Cục Khuyến Nông, Khuyến lâm (1998), Bón phân cân đối và hợp lý cho

cây trồng, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

13. Cục khuyến nông và khuyến lâm (1998), Bón phân cân đối và hợp lý cho

cây trồng, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.

14. Nguyễn Xuân Cự (1992), Thành phần và động thái phốtpho trong đất phù

sa trồng lúa tỉnh Thái Bình – Khoa học Đất, 2, trang 61-66.

15. Nguyễn Thạch Cương (2000), Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật

trong sản xuất lúa lai ở miền Bắc Việt Nam, Luận án Tiến sĩ nông

nghiệp, Viện khoa học kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.

16. Bùi Đình Dinh (1995), Yếu tố dinh dưỡng hạn chế năng suất cây trồng và

chiến lược quản lý dinh dưỡng để phát triển Nông Nghiệp bền vững.

Viện Thổ Nhưỡng Nông Hoá. Đề tài cấp nhà nước KN 01-10-5. Bùi

Đình Dinh - Quản lý sử dụng phân hoá học trong hệ thống quản lý

dinh dưỡng tổng hợp cây trồng ở Việt Nam - Kết quả nghiên cứu khoa

học Viện Thổ Nhưỡng Nông Hoá, NXB Nông Nghiệp, Hà Nội.

17. Bùi Đình Dinh (1998), Vai trò phân hoá học trong quản lý tổng hợp dinh

dưỡng cây trồng ở Việt Nam - Tuyển tập báo cáo hội nghị hoá học

toàn quốc lần thứ 3, tập 3, Hội hoá học Việt Nam.

18. Bùi Đình Dinh (1999), Quản lý sử dụng phân hoá học trong hệ thống

quản lý dinh dưỡng tổng hợp cây trồng ở Việt Nam - Kết quả nghiện

cứu khoa học, quyển 3, Viện Thổ Nhưỡng Nông Hoá – Nhà xuất bản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nông Nghiệp, Hà Nội.

80

19. Bùi Đình Dinh (1999), Tổng quan về nghiên cứu, sử dụng phân lân ở Việt

Nam - Kết quả nghiên cứu khoa học, quyển 3 - Viện Thổ Nhưỡng

Nông Hoá – NXB Nông Nghiệp, Hà Nội.

20. Vũ Năng Dũng (2005), Kết quả nghiên cứu về đất – Phân bón trong hai

mươi năm đổi mới, NXB chính trị Quốc gia, Hà Nội.

21. Nguyễn Thế Đặng, Nguyễn Ngọc Nông (1995), Xác định yếu tố hạn chế

năng suất lúa ở đất dốc tụ thung lũng vùng miền núi phía Bắc. Hiệu

quả của các biện pháp khắc phục - Yếu tố dinh dưỡng hạn chế năng

suất và chiến lược quản lý dinh dưỡng cây trồng, Đề tài KN 01-10-

Viện Thổ Nhưỡng Nông Hoá, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

22. Phạm Quang Hà, Thái Phiên, J.Dufey, P.Hênnbert (1996), Nghiên cứu độc

sắt cây lúa nước ruộng dưới chân đồi vùng trung du đồng bằng Sông

Hồng - Kết quả nghiên cứu khoa học, quyển 2, Viện Thổ Nhưỡng

Nông Hoá, NXB Nông Nghiệp, Hà Nội.

23. Phạm Quang Hà (1999), Nghiên cứu định lượng sự thay đổi và phân cấp

độ phì nhiêu đất vùng đồi lưu vực sông Hồng ở quy mô thửa – Khoa

học đất 11/1999, Hội khoa học đất Việt Nam, NXB Nông Nghiệp, Hà

Nội.

24. Nguyễn Như Hà (1999), Phân bón cho lúa ngắn ngày trên đất phù sa

sông Hồng, Luận án tiến sĩ nông nghiệp, Trường Đại học Nông

nghiệp I, 37. 64. http:// Kailua. vnn /10/044_sudungphandam. him.

25. Nguyễn Như Hà, Vũ Hữu Yêm (1999), Vai trò của phân hoá học trong

thâm canh lúa ngắn ngày trên đất phù sa sông Hồng, Tạp chí khoa

học đất số 11 – 1999, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

26. Nguyễn Như Hà (2006), Xác định lượng phân bón hợp lý cho lúa tại vùng

trồng lúa chính của tỉnh Hà Giang, Tạp chí khoa học đất số 24 –

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

2006, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

81

27. Bùi Huy Hiền, Lê Văn Tiềm (1997), Tác động của chuyển dịch hệ thống

sử dụng đất đồi với bảo vệ độ phì trên đất dốc miền núi tây Bắc Việt

Nam - Kết quả nghiên cứu khoa học Nông Nghiệp 1995 – 1996, Viện

khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam, NXB Nông Nghiệp, Hà

Nội.

28. Bùi Duy Hiền (2005), Kết quả nghiên cứu dinh dưỡng cây trồng sử dụng

có hiệu quả phân bón trong thời kỳ đổi mới và kế hoạch hoạt động

giai đoạn 2006 – 2010, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.

29. Nguyễn Thị Mỹ Hoa (2005), Thành phần kali trong đất và khả năng cung

cấp kali trích bằng resin ở một số nhóm đất chính vùng đồng bằng

sông Cửu Long, Tạp chí khoa học đất số 23 – 2005, NXB Nông

nghiệp, Hà Nội.

30. Nguyễn Thị Hoa, Bert H.Janssen, Oene Onema, Achim Dobermann,

(2006), Các nguồn cung cấp thêm kali vào đất trong hệ thống thâm

canh lúa ở đồng bằng sông Cửu Long, Tạp chí khoa học đất số 24-

2006, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

31. Phạm Tiến Hoàng, Trần Thúc Sơn, Phạm Quang Hà (1996), Khả năng

thâm canh lúa trên các vùng sinh thái ở đồng bằng sông Hồng và

Trung du Bắc Bộ- Kết quả nghiên cứu khoa học, quyển 2 - Viện Thổ

Nhưỡng Nông Hoá, NXB Nông Nghiệp, Hà Nội.

32. http:// caylua. vnn /10/044_sudungphandam.htm.

33. http://www.caylua.vn/10/043_phandamvumua.htm.

34. http://caylua.vn/10/045cachbonphandam.htm

35. Ngô Ngọc Hưng (2004), Ảnh hưởng của các thời kỳ bón phân urea trên

hoạt động phiêu sinh thực vật và sự mất đạm trong ruộng lúa. Tạp chí

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

khoa học đất số 20-2004, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

82

36. Nguyễn Thị Lan (2006), Nghiên cứu hiệu quả của lân đến một số chỉ tiêu

sinh trưởng và năng suất lúa tám xoan Hải Hậu, Tỉnh Nam Định, Tạp

chí khoa học đất số 24 – 2006, NXB Nông nghiệp Hà Nội.

37. Nguyễn Thị Lẫm (1994), Nghiên cứu ảnh hưởng của đạm đến sinh

trưởng, phát triển và năng suất của một số giống lúa cạn, Viện khoa

học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội.

38. Nguyễn Thị Lẫm, Hoàng Văn Phụ, Dương Văn Sơn, Nguyễn Đức Thạnh

(2003), Giáo trình cây lương thực, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

39. Liên hợp Quốc (1993), Sử dụng phân bón cân đối.

40. Nguyễn Văn Luật (1998), Quản lý dinh dưỡng tổng hợp cho lúa, Hội thảo

quản lý dinh dưỡng tổng hợp để nâng cao năng suất và chất lượng

nông sản ở Việt Nam. Những thách thức và cơ hội. Nha Trang 16-

18/6/1998.

41. Hoàng Thị Minh, R.Schaefes, Sự thay đổi theo mùa của N khoáng trong

quá trình phân giải chất hữu cơ ở đất trồng lúa, Tạp chí khoa học đất

số 24 – 2006, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

42. Võ Đình Quang, Vũ Cao Thái, Bùi Thị Hồng Thanh, Nguyễn Thị Trà

(1994), Quan hệ giữa trạng thái ôxy hoá khử và sự vận chuyển hoá

lân trong đất phù sa hỗn hợp biển, khoa học đất 4, trang 46-54.

43. Võ Đình Quang (1999), Trạng thái lân trong đất Việt Nam, Kết quả

nghiên cứu khoa học, quyển 3, Viện Thổ Nhưỡng Nông Hoá, NXB

Nông nghiệp, Hà Nội.

44. Đỗ Thị Thanh Ren (1989), Hiệu quả của phân lân trên đất phèn mặn -

Luận án phó tiến sỹ Đại học Cần Thơ.

45. Nguyễn Tử Siêm, Trần Khải (1996), Hoá học lân trong đất Việt Nam.

Khoa học đất, 7, trang 92-97.

46. Trần Thúc Sơn (1996), Nâng cao hiệu quả phân đạm bón cho lúa nước

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thông qua quản lý dinh dưỡng tổng hợp, Kết quả nghiên cứu khoa

83

học, quyển 2, Viện Thổ Nhưỡng Nông Hoá, NXB Nông nghiệp, Hà

Nội.

47. Trần Thúc Sơn (1999), Các dạng đạm trong một số loại đất trồng lúa

chính ở miền Bắc Việt Nam, Kết quả nghiên cứu khoa học, Quyển 3 -

Viện Thổ Nhưỡng Nông Hoá, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

48. Nguyễn Trọng Thi, Nguyễn Văn Bộ (1999), Hiệu lực Kali trong mối quan

hệ bón phân cân đối cho một số cây trồng trên một số loại đất ở Việt

Nam - Kết quả nghiên cứu khoa học, quyển 3 - Viện Thổ Nhưỡng

Nông Hoá, NXB Nông Nghiêp, Hà Nội.

49. Lê Văn Tiềm (1974), Một số đặc điểm tính chất đồi núi vùng cao nguyên

Sơn La và phương hướng sử dụng, nghiên cứu đất, phân, Tập IV, Nhà

xuất bản khoa học và kỹ thuật.

50. Lê Văn Tiềm (1974), Vài nét bước đầu về sự mất cân đối giữa đạm và lân

trong đất trồng lúa – Nghiên cứu đất, phân, tập 4, NXB khoa học và

kỹ thuật, Hà Nội.

51. Viện Thổ Nhưỡng Nông Hoá, Kết quả nghiên cứu khoa học, NXB Nông

nghiệp, Hà Nội.

52. Nguyễn Vy, Trần Khải (1974), Một số kết quả nghiên cứu về kali trên đất

miền Bắc Việt Nam, nghiên cứu đất phân, Tập IV, Nhà xuất bản khoa

học Kỹ thuật.

53. Nguyễn Vy, Trần Khải (1997), Nghiên cứu hoá học vùng Bắc Việt Nam,

NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

54. Vũ Hữu Yêm (1995), Giáo trình phân bón và cách bón phân, NXB Nông

nghiệp, Hà Nội.

II. TÀI LIỆU TIẾNG ANH

55. Brinkman R,N.B.Ve, T.K.Tinh, D.P.Han, M.E.F.Mensvoort (1985). Acid

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sulfate materials in the Viet Nam. Mission report VH10 Project.

84

56. Broad lent F.E.(1979). Mineralization of organics nitrogen in pady soil.

Pp105-118. in: Nitrogen and rice IRR, PO.BOX 933. Manila,

Philippines.

57. Pham Van Cuong và cs, (2003), Heterosis for photosynthesis, dry matter

production and Grain Yield in F1 hydryd Rice from Thermo-Sensitive

Genic Male Sterile (TGMS) line – Japanese Crop Sci, P42-45.

58. De Datta S.K, Burush R.J (1989) – Inteqrated nitrogen management in

lowland rice. Adv. Soi science. 10.143-169.

59. Kemler.(1980). K.Deficiency in soil of the tropics as a constraint to food

prodution. In prozities for alleviating soil – related contraints to food

prodution in the tropics, PP.253-276. International rice reseach in

stitute los Banos, Philippines.

61. Koyama J. (1981). The tranformation and balace of nitrogen in Japanese,

paddy fields – Fert.Res 2: pp 261-278.

62. Patrick J.W.H, Mahapatra I.C (1968). Transformaties and availability to

nitrogen and phosphorus in waterlogged soils Advances in

Agronomy, 24,323-259.

63. Patrick W.H.J. (1992). Phosphorus biogiochemistry of wetlands. Proc. 4th

Inter. Imphos conf phosphorus. Life and Environmemt, Gand, Bel,

199- 205.

64. Reyes E.D(1961). An evalution of some methods for characterizing the

Kstatus of some Philippines soil. Phil. Agric 45,354-364.

65. Sanyal.S.K.,De Datte S.K. (1991). Chemistry of phosphorustraformation

in soil scien 16,1 – 119.

66. Suichi Yoshida (1985), Những kiến thức cơ bản của khoa học trồng lúa,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

NXB Nông nghiệp, Hà Nội, Mai Văn Quyền dịch.

85

67. Vlek PLG. Bume B.H (1986). The efficieenccy and loss of fertilizer – N in

lowland rice. Fert Res. 9: Pages 131-147.

68. Vo Dinh Quang, Vu Cao Thai, Tran Thi Tuong Linh, Dufey (1966).

Phospho rue sorption in soil of the mecong Detta (Vietnam) as

discribed by binary Langnuir equation. European Journal of soil

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

science. 47, 113-123.