Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Tr êng §¹i häc ngo¹i th ¬ng ---------***--------- LƯƠNG THỊ THANH THUỶ NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ QUYỀN CHỌN TIỀN TỆ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ Chuyên ngành: Kinh tế thế giới và Quan hệ Kinh tế quốc tế Mã số: 60.31.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS MAI THU HIỀN

Hµ Néi - 2008

Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Tr êng §¹i häc ngo¹i th ¬ng ---------***--------- LƯƠNG THỊ THANH THUỶ NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ QUYỀN CHỌN TIỀN TỆ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Hµ Néi - 2008

Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Tr êng §¹i häc ngo¹i th ¬ng ---------***--------- LƯƠNG THỊ THANH THUỶ NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ QUYỀN CHỌN TIỀN TỆ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Hµ Néi, n¨m 2008

1

MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................... 5

DANH MỤC BẢNG BIỂU .................................................................................... 6

DANH MỤC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ ...................................................................... 7

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 8

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ QUYỀN CHỌN VÀ QUYỀN

CHỌN TIỀN TỆ ...................................................................................................13

1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ THUẬT NGỮ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƢỜNG

QUYỀN CHỌN VÀ HỢP ĐỒNG QUYỀN CHỌN ............................................13

1.2. VAI TRÒ CỦA THỊ TRƢỜNG QUYỀN CHỌN TRONG NỀN KINH TẾ17

1.2.1. Phòng ngừa rủi ro ............................................................................. 17

1.2.2. Vai trò định giá .................................................................................. 18

1.2.3. Tiết kiệm chi phí giao dịch ................................................................ 18

1.2.4. Thúc đẩy thị trƣờng tài chính phát triển ......................................... 19

1.3. PHÂN LOẠI QUYỀN CHỌN .......................................................................20

1.3.1. Phân loại theo quyền của ngƣời mua................................................ 20

1.3.2. Phân loại theo thời gian thực hiện quyền chọn ................................ 20

1.3.3. Phân loại theo tài sản cơ sở ............................................................... 20

1.4. KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN CHỌN TIỀN TỆ ...............................................24

1.4.1. Khái niệm............................................................................................24

1.4.2 Các chủ thể tham gia trên thị trƣờng quyền chọn .............................25

1.4.3 Giá quyền chọn tiền tệ và các yếu tố ảnh hƣởng đến giá quyền chọn

tiền tệ ............................................................................................................25

1.4.3.1. Tỷ giá kỳ hạn (forward rates) ................................................... 26

1.4.3.2. Tỷ giá giao ngay (spot rates) .................................................... 27

1.4.3.3.Thời hạn của hợp đồng (Time to maturity) ............................... 29

1.4.3.4. Sự biến động của tỷ giá (volatility) ........................................... 30

1.4.3.5. Quyền chọn kiểu Mỹ hay kiểu châu Âu và yếu tố chênh lệch lãi

suất (interest diferentials) ..................................................................... 30

2

1.4.3.6. Tỷ giá thực hiện ( alternative option strike price) ..................... 31

1.4.4. Mô hình định giá quyền chọn tiền tệ .................................................31

1.4.4.1. Định giá quyền chọn theo mô hình Black – Scholes. ................. 31

1.4.4.2 Hạn chế của công thức Black-Scholes và công thức bổ sung ..... 33

1.4.5. Các mô hình chiến lƣợc kinh doanh quyền chọn tiền tệ ...................45

1.4.5.1.Chiến lược Short Straddle ......................................................... 45

1.4.5.2.Chiến lược Short Strangle ......................................................... 50

1.4.5.3. Chiến lược Long Put Butterfly .................................................. 54

1.4.5.4. Chiến lược Long Condor: ....................................................... 57

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI VÀ PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ

QUYỀN CHỌN TIỀN TỆ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT

NAM ......................................................................................................................61

2.1. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI VÀ PHÁT TRIỂN THỊ

TRƢỜNG QUYỀN CHỌN TIỀN TỆ TẠI VIỆT NAM .....................................61

2.1.1. Sự cần thiết của việc triển khai thị trƣờng quyền chọn tiền tệ tại

Việt Nam ...................................................................................................... 61

2.1.1.1 Nhu cầu phòng ngừa rủi ro tỷ giá của các doanh nghiệp Việt

Nam ...................................................................................................... 61

2.1.1.2. Nhu cầu đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ của các Ngân hàng

thương mại Việt Nam ............................................................................ 63

2.1.2. Thực trạng thị trƣờng quyền chọn tiền tệ tại Việt Nam hiện nay .. 64

2.1.2.1. Về thị trường công cụ phái sinh nói chung ............................... 64

2.1.2.2. Về thị trường quyền chọn tiền tệ nói riêng................................ 68

2.1.3. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình triển khai, phát triển

thị trƣờng quyền chọn tiền tệ tại Việt Nam ............................................... 73

2.1.3.1. Thuận lợi ................................................................................. 73

2.1.3.2. Khó khăn .................................................................................. 75

2.2. TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI VÀ PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ QUYỀN

CHỌN TIỀN TỆ TẠI MỘT SỐ NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM ..80

3

2.2.1. Tình hình triển khai và phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại

Ngân hàng Thƣơng mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam .................... 80

2.2.2. Tình hình triển khai và phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại

Ngân hàng Thƣơng mại cổ phần Ngoại thƣơng Việt Nam ........................ 86

2.2.3. Đánh giá chung về quá trình phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền

tệ tại một số Ngân hàng thƣơng mại Việt Nam .......................................... 91

2.2.3.1. Kết quả .................................................................................... 91

2.2.3.2. Tồn tại, hạn chế ....................................................................... 93

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ

QUYỀN CHỌN TIỀN TỆ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT

NAM ......................................................................................................................99

3.1. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƢỜNG QUYỀN CHỌN TRÊN

THẾ GIỚI VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC PHÁT TRIỂN

TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG QUYỀN CHỌN .......................99

3.1.1. Tình hình hoạt động của thị trƣờng quyền chọn trên thế giới ........ 99

3.1.2. Kinh nghiệm của một số nƣớc trong việc phát triển thị trƣờng

quyền chọn và bài học đối với Việt Nam .................................................. 105

3.1.2.1 Kinh nghiệm của Mỹ ............................................................... 105

3.1.2.2 Kinh nghiệm của Anh .............................................................. 108

3.1.2.3 Kinh nghiệm của Nhật ............................................................. 109

3.1.2.4. Bài học kinh nghiệm từ các nước phát triển đối với Việt Nam 110

3.2. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ QUYỀN CHỌN TIỀN TỆ TẠI

CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM ............................................ 112

3.2.1.Mục tiêu phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại các Ngân hàng

thƣơng mại Việt Nam ................................................................................ 123

3.2.2. Giải pháp phát triển thị trƣờng quyền chọn tiền tệ tại các Ngân

hàng thƣơng mại Việt Nam ....................................................................... 125

3.2.2.1.Tạo nhu cầu cho thị trường ..................................................... 125

3.2.2.2. Xây dựng cơ cấu bộ máy của trung tâm giao dịch ngoại tệ ... 126

4

3.2.2.3. Đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng .................................. 127

3.2.2.4. Đưa phí quyền chọn tiền tệ trở thành một lợi thế cạnh tranh .. 128

3.2.2.5. Hoàn thiện các quy trình, quy chế của nghiệp vụ quyền chọn tiền

tệ ........................................................................................................ 129

3.2.2.6. Tuyên truyền, phổ biến rộng rãi về những ưu việt của các công

cụ phái sinh trong đó có quyền chọn tiền tệ ........................................ 130

3.2.2.7. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng ........................................ 131

3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ................................................................................. 132

3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ ................................................................. 132

3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nƣớc ............................................... 137

KẾT LUẬN ......................................................................................................... 142

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 143

5

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CÁC CHỮ VIẾT TẮT

VIẾT ĐẦY ĐỦ

Thương mại Cổ phần TMCP

(Over the Counter Market) OTC

Thị trường phi tập trung

Tổ chức Tín dụng TCTD

Ngân hàng thương mại NHTM

(Foreign direct investment) FDI

Đầu tư trực tiếp của nước ngoài

(Official Development Assistance) ODA

Quỹ Hỗ trợ phát triển chính thức

Ngân hàng Thương mại cổ phần EXIMBANK

Xuất nhập khẩu Việt Nam

Ngân hàng Thương mại cổ phần VIETCOMBANK

Ngoại thương Việt Nam

Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu ACB

Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội MBANK

Ngân hàng Thương mại cổ phần SACOMBANK

Sài Gòn Thương Tín.

Ngân hàng HongKong Shanghai Banking Corp HSBC

6

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1: Lãi lỗ của chiến lược Short Straddle ...................................................... 49

Bảng 1.2: Bảng lãi lỗ chiến lược Short Strangle..................................................... 52

Bảng 1.3: Lãi lỗ của chiến lược Long Put Butterfly ............................................... 56

Bảng 2.1: Cơ cấu sản phẩm phái sinh trong tổng doanh thu và lợi nhuận của các

Ngân hàng thương mại .......................................................................................... 64

Bảng 2.2: Độ sâu tài chính M2/GDP tại một số quốc gia trong khu vực................. 79

Bảng 2.3: Doanh số thực hiện quyền chọn tiền tệ trong 2 năm 2006-2007 ............. 86

Bảng 2.4: Trạng thái ngoại tệ cuối năm của VCB .................................................. 88

Bảng 2.5: Doanh số mua bán ngoại tệ - VND của Vietcombank ............................ 88

Bảng 2.6: Doanh số mua bán Ngoại tệ - Ngoại tệ trên thị trường quốc tế của

Vietcombank ......................................................................................................... 89

Bảng 2.7: Doanh số mua bán Ngoại tệ - Ngoại tệ trên thị trường trong nước của

Vietcombank ......................................................................................................... 89

Bảng 2.8: Doanh số mua bán ngoại tệ với NHNN và phục vụ xăng dầu của

Vietcombank ......................................................................................................... 90

Bảng 3.1: Doanh số hoạt động ngoại hối và hoạt động phái sinh ngoại hối của thế

giới giai đoạn 1995 -2007 ................................................................................... 100

Bảng 3.2: Hoạt động của thị trường ngoại hối truyền thống ................................. 101

Bảng 3.3: Hoạt động của thị trường ngoại hối phái sinh ...................................... 102

Bảng 3.4: Doanh số hoạt động ngoại hối theo cặp tiền tệ ..................................... 103

Bảng 3.5: Doanh số hoạt động quyền chọn theo cặp tiền tệ.................................. 104

7

DANH MỤC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ

Hình 1.1: Biểu đồ lãi và lỗ của người mua quyền chọn mua ................................. 14

Hình 1.2: Biểu đồ lãi và lỗ của người bán quyền chọn mua ................................... 14

Hình 1.3 : Biểu đồ lãi và lỗ của người mua quyền chọn bán .................................. 15

Hình 1.4: Biểu đồ lãi và lỗ của người bán quyền chọn bán .................................... 15

Hình 1.5: Mô hình chiến lược Short Straddle ........................................................ 47

Hình 1.6: Mô hình chiến lược Short Strangle ......................................................... 52

Hình 1.7: Mô hình chiến lược Long Put Butterfly ................................................. 55

Hình 1.8: Mô hình chiến lược Long Condor .......................................................... 58

Hình 2.1: Biểu đồ Lãi từ kinh doanh ngoại hối năm 2003 – 2006 của Eximbank ... 82

Hình 2.2 : Quy trình thực hiện nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại Eximbank ............ 83

Hình 2.3: Biểu đồ tỷ trọng doanh số giao dịch quyền chọn tiền tệ của Vietcombank

.............................................................................................................................. 91

8

MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài

Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên WTO vào tháng 112006 và bắt

đầu thực hiện các cam kết với tổ chức này vào tháng 1-2007. Căn cứ theo lộ trình

gia nhập WTO, những quy định hạn chế đối với các ngân hàng nước ngoài sẽ dần

dần bị loại bỏ và một sân chơi bình đẳng đang hình thành ngày càng rõ nét. Sự cạnh

tranh trở nên gay gắt và khốc liệt hơn. Để có thể tồn tại và phát triển, các Ngân hàng

Thương mại Việt Nam phải đổi mới trên nhiều lĩnh vực, tiến tới giành thế chủ động,

nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả kinh doanh.

Đứng trước thực tiễn đó, các Ngân hàng Thương mại Việt Nam đã và đang

cố gắng đa dạng hóa hoạt động kinh doanh thể hiện qua sự phong phú về sản phẩm,

dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Bên cạnh các nghiệp vụ ngân hàng mang tính

truyền thống, các ngân hàng đã không ngừng phát triển các nghiệp vụ tài chính mới,

hiện đại, trong đó phải kể đến các nghiệp vụ tài chính phái sinh như: nghiệp vụ mua

bán ngoại tệ kỳ hạn, nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ... và nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ.

Tháng 2/2003, Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam đã chính thức cho thực hiện

thí điểm tại Eximbank nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ mà trước tiên là quyền chọn

ngoại tệ trên thị trường ngoại hối Việt Nam. Đây là một trong những nghiệp vụ phái

sinh quan trọng góp phần giảm thiểu rủi ro tỷ giá cho các doanh nghiệp và đem lại

lợi nhuận cho các ngân hàng. Hơn năm năm thực hiện, tuy đã có nhiều cố gắng

trong việc giới thiệu và đưa công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng quyền chọn tiền

tệ đến các đối tượng khách hàng nhưng nhìn chung đến nay nghiệp vụ này vẫn còn

khá mới mẻ, chưa được triển khai rộng rãi tại các Ngân hàng. Trước thực tế này,

chúng tôi đã chọn đề tài: “Nghiên cứu phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ

tại các Ngân hàng thƣơng Mại Việt Nam” để tìm ra những tồn tại, khó khăn mà

các Ngân hàng thương mại Việt Nam phải đối mặt trong quá trình triển khai nghiệp

vụ quyền chọn tiền tệ, từ đó tìm ra hướng giải quyết, cũng như đưa ra đề xuất, kiến

nghị về chính sách đối với Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước để nghiệp vụ quyền

chọn tiền tệ có thể phát triển và phổ biến hơn ở Việt Nam.

2. Tình hình nghiên cứu

9

Liên quan đến đề tài các công cụ tài chính phái sinh nói chung và đề tài

Quyền chọn tiền tệ nói riêng, trên thế giới đã có những nghiên cứu của tác giả

“Understanding Options” ... Ở Việt Nam, những nghiên cứu về đề tài quyền chọn

Robert Kolb với “How i trade options” và Giáo sư Jon Najarian với cuốn sách

tiền tệ chủ yếu mang tính lý thuyết, khả năng ứng dụng vào nền kinh tế Việt Nam

còn chưa cao. Với luận văn này, chúng tôi nghiên cứu thực tiễn triển khai nghiệp vụ

quyền chọn tiền tệ tại một số Ngân hàng thương mại Việt Nam, đánh giá những

thành tựu đã đạt được và những khó khăn, tồn tại mà các ngân hàng phải đối mặt từ

đó đề xuất giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ này tại các Ngân hàng thương mại

Việt Nam.

Luận văn nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của nghiệp vụ quyền

chọn trên thế giới, thừa nhận các kết quả nghiên cứu về định giá quyền chọn, tìm

hiểu các loại quyền chọn trong đó nghiên cứu sâu về quyền chọn tiền tệ. Trên cơ sở

đó, phân tích thực trạng triển khai và phát triển nghiệp vụ này tại Việt Nam. Từ

những những phân tích đó, đề tài rút ra những hạn chế của các ngân hàng trong quá

trình đưa nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ vào thị trường Việt Nam.

Cuối cùng, đề tài cũng đưa ra một số giải pháp thiết thực cũng như ứng dụng

các mô hình chiến lược kinh doanh quyền chọn để khắc phục những hạn chế, tạo

điều kiện phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại các Ngân hàng thương mại

Việt Nam.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại các

Formatted: Indent: First line: 0.5", Right: 0", Line spacing: Multiple 1.4 li

Ngân hàng thương mại Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu : Luận văn nghiên cứu về nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ

với vai trò là nghiệp vụ giúp phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho các doanh nghiệp Việt

Nam và đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ cho các ngân hàng thương mại. Để thực

hiện việc nghiên cứu này, chúng tôi đã lựa chọn hai Ngân hàng thương mại là Ngân

hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam và Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt

Nam là những Ngân hàng đi đầu trong việc triển khai nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ.

4. Mục đích nghiên cứu

10

Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn triển khai nghiệp vụ quyền chọn

Formatted: Indent: First line: 0.5", Right: 0", Line spacing: Multiple 1.4 li

tiền tệ các Ngân hàng thương mại Việt Nam, mục đích của luận văn là đề xuất các

nhóm giải pháp vĩ mô và vi mô nhằm tháo gỡ khó khăn mà các Ngân hàng thương

mại Việt Nam gặp phải, đưa nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ ngày càng phát triển

mạnh mẽ và phổ biến tại Việt Nam.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, chúng tôi sẽ thực hiện một số

nhiệm vụ sau: 1) Nghiên cứu cơ sở lý luận về nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ; 2)

Nghiên cứu thực tiễn việc triển khai nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại một số Ngân

hàng thương mại Việt Nam; 3) Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ

quyền chọn tiền tệ tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam.

Formatted: Bullets and Numbering

Nghiên cứu những khái niệm và thuật ngữ cơ bản về nghiệp vụ quyền chọn nói chung

và nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ nói riêng.

 Nghiên cứu thực trạng và khả năng xây dựng, phát triển thị trường quyền chọn tiền tệ

tại Việt Nam.

Nghiên cứu thực trạng quá trình triển khai và phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ

tại các Ngân hàng thương mại, những khó khăn, hạn chế và bất cập.

Nghiên cứu một số giải pháp để khắc phục những hạn chế và sử dụng các mô hình

chiến lược kinh doanh quyền chọn để phát triển nghiệp vụ này tại các ngân hàng

thương mại.

6. Phƣơng pháp nghiên cứu:

Trong quá trình thực hiện nghiên cứu, chúng tôi sử dụng các phương pháp cơ

bản như sau:

 Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: phương pháp phân tích và tổng

hợp lý thuyết, hệ thống hoá lý thuyết.

 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: phương pháp phân tích và tổng kết

kinh nghiệm, phương pháp chuyên gia.

 Nhóm phương pháp phụ trợ: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê.

7. Kết cấu của luận văn:

11

Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận

văn gồm có 3 chương như sau:

Chƣơng 1: Tổng quan về nghiệp vụ quyền chọn và quyền chọn tiền tệ.

Chƣơng 2: Thực trạng triển khai và phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại các

Ngân hàng thương mại Việt Nam.

Chƣơng 3: Một số giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại các

Ngân hàng thương mại Việt Nam.

12

13

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ QUYỀN CHỌN VÀ

QUYỀN CHỌN TIỀN TỆ

1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ THUẬT NGỮ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƢỜNG

QUYỀN CHỌN VÀ HỢP ĐỒNG QUYỀN CHỌN

Hợp đồng quyền chọn (Option Contract): là một thỏa thuận giữa bên

mua và bên bán quyền chọn, theo đó bên bán quyền đồng ý trao cho bên mua quyền

một quyền chọn, chứ không phải nghĩa vụ, để thực hiện quyền mua hoặc không

mua, bán hoặc không bán một lượng hàng hóa cơ sở nhất định, có thể là ngoại tệ,

hàng hóa, chứng khoán,…. theo một mức giá hoặc tỷ giá được thỏa thuận và định

trước trong hợp đồng, có hiệu lực trong một thời gian nhất định kể từ ngày mua

quyền chọn.

. Bên mua quyền chọn phải trả cho bên bán quyền chọn một khoản tiền

gọi là phí quyền chọn hay giá quyền chọn ngay tại thời điểm ký hợp đồng mua

quyền chọn.

Quyền chọn mua (Call Option): là quyền được mua một lượng hàng hóa

cơ sở nhất định tại một mức giá thỏa thuận trong một khoảng thời gian hoặc thời

điểm đã xác định.

Quyền chọn bán (Put Option): là quyền được bán một loại hàng hóa cơ sở

nhất định tại tỷ tại một mức giá thỏa thuận trong một khoảng thời gian hoặc thời

điểm đã xác định.

Bên bán quyền chọn (Seller of options): là bên phát hành quyền chọn, sau

khi đã thu phí quyền chọn có trách nhiệm phải thực hiện việc mua hoặc bán một

lượng hàng hóa cơ sở, tại một thời điểm trong hạn định của hợp đồng khi người

mua muốn thực hiện quyền chọn, theo tỷ giá đã được thỏa thuận trong hợp đồng.

Bên bán có vùng lời giới hạn, tối đa là phí quyền chọn, còn vùng lỗ là vô hạn (Xem

hình 1.2 và hình 1.4).

14

Trên thị trường có hai loại người bán quyền chọn : người bán quyền chọn mua

(Seller of a Call Option) và người bán quyền chọn bán (Seller of a Put Option).

Bên mua quyền chọn (Buyer of options): là bên nắm giữ quyền chọn, và

phải trả cho bên bán phí quyền chọn. Bên mua quyền chọn được quyền thực hiện

hoặc không thực hiện quyền chọn đã mua. Bên mua quyền chọn có vùng lỗ là giới

hạn, tối đa là phí quyền chọn, còn vùng lời là vô hạn (Xem hình 1.1 và hình 1.3).

Trên thị trường có hai loại người mua quyền chọn : người mua quyền chọn mua

(Buyer of a Call Option) và người mua quyền chọn bán (Buyer of a Put Option).

Nguồn : [19]

Hình 1.1: Biểu đồ lãi và lỗ của người mua quyền chọn mua

Hình 1.2: Biểu đồ lãi và lỗ của người bán quyền chọn mua

15

Nguồn : [19]

Nguồn : [19]

Hình 1.3 : Biểu đồ lãi và lỗ của người mua quyền chọn bán

Hình 1.4: Biểu đồ lãi và lỗ của người bán quyền chọn bán

16

Nguồn: [19]

Thực hiện giao dịch (exercise): bao gồm các cách thể hiện: thực hiện hay

tiến hành giao dịch, thực hiện hay tiến hành thanh toán, thực hiện hay tiến hành

thanh toán hợp đồng.

Thời hạn hết hiệu lực (Expiration date): là khoảng thời gian quyền chọn

còn giá trị thực hiện.

Tỷ giá giao dịch (Exercution price or strike sprice): tỷ giá áp dụng trong

giao dịch quyền chọn được gọi là tỷ giá giao dịch. Tỷ giá quyền chọn không chỉ phụ

thuộc vào yếu tố cung cầu mà còn phụ thuộc vào mức phí quyền chọn cao hay thấp.

Giá quyền chọn (Premium): là khoản tiền mà bên mua quyền chọn phải

trả cho bên bán quyền chọn để có được quyền chọn.

Các trạng thái của quyền chọn: có 3 trạng thái của quyền chọn[19].

- Ngang giá quyền chọn (At the money – ATM): là trạng thái mà nếu bỏ qua

phí quyền chọn, thì người nắm giữ quyền chọn dù có thực hiện hay không thực hiện

quyền chọn cũng không làm phát sinh một khoản lãi hay lỗ nào. Tức là lúc này, giá

thị trường cũng chính bằng với giá giao dịch của hợp đồng quyền chọn (Exercution

17

price or strike sprice). Quyền chọn ở trạng thái ngang giá được gọi là Quyền chọn ở

- Đƣợc giá quyền chọn (In the money – ITM): là trạng thái mà nếu bỏ qua

điểm hòa vốn.

phí quyền chọn, thì người nắm giữ quyền chọn sẽ thu lãi khi thực hiện quyền chọn.

Tức là lúc này, đối với hợp đồng quyền chọn mua thì giá thị trường cao hơn giá

giao dịch của hợp đồng quyền chọn, đối với hợp đồng quyền chọn bán thì giá thị

- Giảm giá quyền chọn (Out of the money – OTM): là trạng thái mà nếu

trường thấp hơn giá giao dịch của hợp đồng quyền chọn.

bỏ qua phí quyền chọn, thì người nắm giữ quyền chọn sẽ chịu lỗ nếu thực hiện

quyền chọn tức là lúc nay, đối với hợp đồng quyền chọn mua thì giá thị trường thấp

hơn giá giao dịch của hợp đồng quyền chọn, đối với hợp đồng quyền chọn bán thì

giá thị trường cao hơn giá giao dịch của hợp đồng quyền chọn.

1.2. VAI TRÒ CỦA THỊ TRƢỜNG QUYỀN CHỌN TRONG NỀN KINH TẾ

1.2.1. Vai trò của thị trƣờng các sản phẩm phái sinh

1.2.2.1. Phòng ngừa rủi ro

Vì giá của sản phẩm phái sinh có quan hệ chặt chẽ với giá của tài sản cơ sở

trên thị trường giao ngay, các sản phẩm phái sinh có thể được sử dụng để làm giảm

hay tăng rủi ro của việc sở hữu tài sản giao ngay. Ví dụ, mua một tài sản giao ngay

và bán một hợp đồng giao sau hay một quyền chọn mua sẽ làm giảm rủi ro của nhà

đầu tư. Nếu giá hàng hoá giảm xuống, giá của quyền chọn cũng sẽ giảm. Khi đó nhà

đầu tư có thể mua lại hợp đồng với giá thấp hơn, do đó nhận được một khoản lợi

nhuận ít nhất có thể bù đắp phần nào mức lỗ từ tài sản cơ sở. Dạng giao dịch này

gọi là phòng ngừa rủi ro.

Các hợp đồng quyền chọn cung cấp một cơ chế hiệu quả cho phép phòng tránh

rủi ro và dịch chuyển rủi ro từ những người không thích rủi ro sang những người ưa

thích mạo hiểm và chấp nhận rủi ro để kiếm lời.

18

Ngƣợc lại với phòng ngừa rủi ro là đầu cơ. Trừ khi ngƣời phòng ngừa rủi ro

tìm đƣợc một ngƣời phòng ngừa rủi ro khác có nhu cầu đối lập hoàn toàn với

mình, rủi ro của ngƣời phòng ngừa rủi ro phải đƣợc hấp thụ bởi các nhà đầu

cơ. Thay vì giao dịch cổ phiếu hoặc trái phiếu cơ sở, nhà đầu tƣ có thể giao

dịch sản phẩm phái sinh.Việc đầu cơ dễ dàng hơn bằng sản phẩm phái sinh lại

tạo điều kiện cho việc phòng ngừa rủi ro ít tốn kém hơn.

1.2.2.2. Vai trò định giá

Các thị trường quyền chọn là nguồn thông tin rất quan trọng đối với giá cả.

Đặc biệt, thị trường quyền chọn được xem như một công cụ chủ yếu để xác định giá

giao ngay của tài sản. Vàng, dầu và hàng hoá giao dịch ở nhiều nơi khác nhau và ở

các thời điểm khác nhau. Ứng với mỗi loại tài sản, có rất nhiều xếp hạng khác nhau

về chùủng loại và chất lượng. Vì vậy, có rất nhiều mức giá “giao ngay” có thể xảy

ra đối với tài sản. Thị trường quyền chọn tổng hợp tất cả các thông tin vào một dạng

thống nhất, phản ánh giá giao ngay của một tài sản riêng biệt, là cơ sở của hợp đồng

quyền chọn. Giá của hợp đồng giao sau đáo hạn sớm nhất thường được xem là giá

giao ngay.

Giá hợp đồng quyền chọn cũng chứa những thông tin về những gì mà người ta

mong đợi về giá giao ngay trong tương lai. Thị trường quyền chọn không cung cấp

những dự báo về giá giao ngay trong tương lai một cách trực tiếp. Tuy nhiên, chúng

cung cấp những thông tin quý giá về độ bất ổn, và cũng là rủi ro của tài sản cơ sở

giao ngay. Vai trò định giá: thị trường không trực tiếp phản ánh dự đoán về giá giao

ngay trong tương lai mà phản ánh sự biến động giá của hàng hóa cơ sở, điều này

cũng có nghĩa là phản ánh độ rủi ro gắn liền với mỗi tài sản cơ sở.

1.2.2.3. Tiết kiệm chi phí giao dịch

Các thị trường sản phẩm phái sinh nói chung và thị trường quyền chọn nói

riêng cung cấp rất nhiều lợi thế về hoạt động. Thứ nhất chúng có chi phí giao dịch

thấp hơn. Điều này làm cho việc sử dụng giao dịch trên các thị trường này thay thế

19

hoặc bổ sung cho các giao dịch trên thị trường giao ngay trở nên dễ dàng và hấp dẫn

hơn.

Thứ hai, thị trường quyền chọn có tính thanh khoản cao hơn so với thị trường

giao ngay. Mặc dù thị trường giao ngay nói chung có tính thanh khoản rất cao đối

với các chứng khoán của các công ty lớn, chúng không thể hấp thụ được các giao

dịch có giá trị lớn mà không gây ra biến động giá đáng kể. Tính thanh khoản cao

hơn một phần là do mức vốn yêu cầu để tham gia vào thị trường sản phẩm phái sinh

nói chung và quyền chọn nói riêng là thấp hơn. Tỷ suất sinh lợi và rủi ro có thể

được điều chỉnh ở bất cứ mức độ nào như mong muốn, nhưng vì cần ít vốn hơn nên

các thị trường này có thể hấp thu nhiều giao dịch hơn.

Thứ ba, các thị trường quyền chọn cho phép các nhà đầu tư bán khống dễ dàng

hơn. Thị trường chứng khoán áp đặt nhiều giới hạn được thiết kế để hạn chế hoặc

không khuyến khích việc bán khống, nhưng những giới hạn này thì không được áp

dụng cho giao dịch sản phẩm phái sinh.

1.2.2.4. Thúc đẩy thị trƣờng tài chính phát triển

Các thị trường giao ngay có thể vẫn hiệu quả ngay cả khi không có thị trường

sản phẩm phái sinh. Tuy nhiên một số cơ hội kinh doanh chênh lệch lãi suất có thể

đem lại lợi nhuận vẫn tồn tại, ngay cả trong thị trường thường xuyên hiệu quả. Sự

tồn tại của những cơ hội này có nghĩa là giá của một số tài sản tạm thời vi phạm các

quy luật. Các nhà đầu tư có thể kiếm được lợi nhuận vượt hơn mức hợp lý của thị

trường ứng với mức rủi ro cho trước.

Việc giao dịch dễ dàng hơn và chi phí thấp hơn trên các thị trường này tạo

điều kiện cho giao dịch kinh doanh chênh lệch giá và những điều chỉnh nhanh

chóng về giá sẽ loại trừ ngay lập tức những cơ hội lợi nhuận này.

Vai trò thúc đẩy thị trường tài chính, thị trường chứng khoán phát triển: thị

trường quyền chọn đem lại cho những nhà đầu tư thích mạo hiểm tỷ suất sinh lợi

cao, do đó có sức hấp dẫn mạnh với các nguồn vốn đầu tư mạo hiểm, giúp hình

thành các quỹ đầu tư mạo hiểm, huy động thêm nhiều nguồn lực trong xã hội. Ngoài

20

ra, việc tham gia thị trường quyền chọn không đòi hỏi chi phí quá lớn đã cho phép

các nhà đầu tư có thể dễ dàng tham gia vào thị trường, điều này khiến cho thị

trường trở nên sôi động hơn và góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài

chính và thị trường chứng khoán trong nền kinh tế.

1.3. PHÂN LOẠI QUYỀN CHỌN

1.3.1. Phân loại theo quyền của ngƣời mua

Có 2 loại quyền chọn:

Quyền chọn mua (Call Option): là hợp đồng quyền chọn trong đó bên mua

quyền chọn mua có quyền mua hoặc không mua một đồng tiền, hàng hóa, chứng

khoán… theo mức giá thỏa thuận, trong một khoảng thời gian quy định. Bên bán

quyền chọn mua phải thực hiện nghĩa vụ bán loại hàng hóa cơ sở này khi người

mua quyết định thực hiện trong thời gian quy định của hợp đồng.

Quyền chọn bán (Put Option): là hợp đồng quyền chọn trong đó người mua

quyền chọn bán có quyền bán hoặc không bán một đồng tiền, hàng hóa, chứng

khoán… theo một mức giá thỏa thuận trong một khoảng thời gian nhất định. Bên

bán quyền chọn bán phải thực hiện nghĩa vụ mua loại hàng hóa cơ sở này khi người

mua quyền chọn quyết định thực hiện trong thời gian quy định.

1.3.2. Phân loại theo thời gian thực hiện quyền chọn

Có 2 loại quyền chọn:

Quyền chọn kiểu Mỹ (American - style Option): cho phép người nắm giữ

quyền chọn thực hiện hợp đồng quyền chọn vào bất kỳ ngày nào trong thời hạn hợp

đồng đến trước ngày đáo hạn.

Quyền chọn kiểu Châu Âu (European - style Option): chỉ cho phép người

nắm giữ quyền chọn thực hiện hợp đồng quyền chọn tại đúng ngày đến hạn.

1.3.3. Phân loại theo tài sản cơ sở

Quyền chọn về chứng khoán

21

Quyền chọn chứng khoán là một hợp đồng quyền chọn kiểu Mỹ với tài sản cơ

sở là các loại chứng khoán. Người nắm giữ quyền chọn có quyền mua hay bán 100

cổ phiếu với mức giá thực hiện xác định và có hiệu lực đến ngày đáo hạn.

Quyền chọn về chỉ số chứng khoán

Một quyền chọn chỉ số chứng khoán là một hợp đồng quyền chọn với tài sản

cơ sở là các chỉ số chứng khoán phổ biến, hợp đồng quyền chọn về chỉ số chứng

khoán cho phép người nắm giữ quyền chọn được quyền mua hoặc bán một khối

lượng bằng 100 nhân với chỉ số ở mức giá thực hiện đã được thỏa thuận trong hợp

đồng và có hiệu lực trong một khoản thời gian xác định.

Quyền chọn tiền tệ

Quyền chọn tiền tệ là một hợp đồng quyền chọn với tài sản cơ sở là các loại

tiền tệ, trong đó cho phép người nắm giữ quyền chọn tiền tệ được quyền mua hoặc

bán một lượng ngoại tệ nhất định theo một tỷ giá thỏa thuận trong một khoảng thời

gian xác định.

Quyền chọn về hợp đồng tƣơng lai

Là hợp đồng quyền chọn với tài sản cơ sở là các hợp đồng tương lai. Người

nắm giữ quyền chọn về hợp đồng tương lai được quyền chứ không phải nghĩa vụ

mua hoặc bán tham hợp đồng tương lai cơ sở với mức giá tương lai xác định vào

một thời điểm nhất định. Ngày đáo hạn của hợp đồng quyền chọn này thường là

đúng hoặc trước một vài ngày so với ngày giao hàng sớm nhất của hợp đồng tương

lai.

Có 2 loại quyền chọn về hợp đồng tương lai:

− Mua quyền chọn về hợp đồng tương lai: là quyền tham gia hoặc không tham

gia hợp đồng tương lai cơ sở với vị thế là người mua, với mức giá xác định. vào

thời điểm nhất định. Khi quyền chọn loại này được thực hiện, người nắm giữ nó

thu từ người phát hành có trạng thái trường trên hợp đồng tương lai cùng với số tiền

bằng mức vượt trội giá tương lai trừ giá thực hiện.

22

− Bán quyền chọn về hợp đồng tương lai: là quyền tham gia hoặc không tham

gia hợp đồng tương lai cơ sở ở vị thế người bán, với một mức giá xác định. Khi

quyền chọn loại này được thực hiện, người nắm giữ nó thu từ người phát hành có

trạng thái đoản trên hợp đồng tương lai cộng với số tiền bằng mức vượt trội giá thực

hiện trừ giá tương lai.

Quyền chọn về hợp đồng tương lai có một số ưu điểm như sau :

 Hợp đồng tương lai có tính thanh khoản cao và dễ giao dịch hơn tài sản cơ

sở khác. Bên cạnh đó, giá tương lai được biết ngay lập tức trên thị trường tương lai,

vì thế quyền chọn về hợp đồng tương lai được các nhà đầu tư ưa chuộng hơn.

 Việc thực hiện quyền chọn về hợp đồng tương lai không dẫn đến việc giao

nhận hàng hóa vì hợp đồng tương lai được đóng trước ngày chuyển giao hàng hóa.

Do đó, quyền chọn về hợp đồng tương lai thường được thanh toán bằng tiền mặt.

Đây là điểm hấp dẫn các nhà đầu tư vì họ có thể tránh được những khó khăn trong

việc tăng vốn để mua tài sản cơ sở nếu phải thực hiện quyền chọn.

 Bên cạnh đó, các hợp đồng tương lai và quyền chọn về hợp đồng tương lai

được giao dịch trên những sàn giao dịch cạnh nhau trong cùng một trung tâm. Do

đó, tạo thuận lợi cho các hoạt động mua bán, bảo hộ, kinh doanh chênh lệch giá…

Nhờ vậy mà thị trường hoạt động có hiệu quả hơn.

− Quyền chọn về hợp đồng tương lai thường có chi phí giao dịch thấp hơn so

với quyền chọn giao ngay.

Quyền chọn về lãi suất

Đây là một dạng của quyền chọn về hợp đồng tương lai trong đó tài sản cơ sở

là các hợp đồng tương lai về lãi suất. Khi quyền chọn lãi suất được thực hiện, cùng

với thu nhập bằng tiền mặt, người nắm giữ quyền chọn sẽ có vị thế dài hạntrạng thái

trường trên hợp đồng tương lai cơ sở, và người phát hành quyền chọn thì có vị thế

ngắn hạntrạng thái đoản tương ứng.

23

Trên thị trường có tổ chức, quyền chọn lãi suất phổ biến là quyền chọn trên

hợp đồng tương lai về trái phiếu kho bạc dài hạn và quyền chọn trên hợp đồng

tương lai về Eurodollar.

Trên thị trường OTC, quyền chọn lãi suất được các NHTM và công ty tài

chính đưa ra nhằm chuyển đổi một cách hiệu quả các khoản vay và cho vay từ lãi

suất thả nổi sang lãi suất cố định; phổ biến là các loại: hợp đồng Caps – call quyền

chọn lãi suất với mức trần lãi suất, hợp đồng Floor – Put quyền chọn lãi suất với

mức sàn lãi suất, giao dịch Collars – kết hợp một hợp đồng Cap và một hợp đồng

Floor, quyền chọn hoán đổi lãi suất - Swap option.

Một số loại quyền chọn khác

- Quyền chọn linh hoạt (flex option): đúng như tên gọi, quyền chọn linh

hoạt là một loại quyền chọn trên thị trường chính thức nhưng linh hoạt về một số

điều kiện như giá thực hiện, ngày đáo hạn khác với những quy định phổ biến.

- Các loại quyền chọn ngoại lai (Exotic options):

 Quyền chọn có rào chắn (Barrier option): thường giao dịch nhiều nhất là 2

loại: Knock-Out option và Knock-In option.

o Knock-Out option: là một loại option trong đó hợp đồng quyền chọn

sẽ hết tồn tại nếu giá tài sản cơ sở trong hợp đồng đạt đến một mức cụ thể được

quy định, đó chính là rào chắn.

o Knock-In option: cũng là một loại quyền chọn trong đó hợp đồng

quyền chọn chỉ tồn tại nếu giá tài sản cơ sở trong hợp đồng đạt đến một mức rào

chắn.

 Binary option: (thường gọi là quyền chọn đôi) là loại quyền chọn có khoản

thanh toán gián đoạn. Đối với vị thế là người nắm giữ quyền chọn mua thì có 2 loại

như sau:

24

o Cash-or-nothing call option: là loại quyền chọn sẽ có khoản thanh toán

bằng một lượng tiền cố định nếu giá tài sản cơ sở cao hơn giá thực hiện của quyền

chọn và bằng zero nếu giá tài sản cố định thấp hơn giá thực hiện của hợp đồng.

o Asset-or-nothing call option: là loại quyền chọn sẽ có khoản thanh toán

bằng giá tài sản cơ sở nếu giá tài sản cơ sở cao hơn giá thực hiện của hợp đồng

quyền chọn và bằng zero nếu giá tài sản cơ sở thấp hơn giá thực hiện của hợp đồng

quyền chọn.

Đối với vị thế là người nắm giữ quyền chọn bán thì cũng có 2 loại Cash-or-

nothing put option và Asset-or-nothing put option với định nghĩa tương tự như trên.

 Quyền chọn theo người chọn (Chooser option): là loại quyền chọn mà trong

một vài ngày trước thời điểm đáo hạn, người nắm giữ có thể chọn đó là mua quyền

chọn mua hay quyền chọn bán.

 Quyền chọn kép (Compound option): là loại quyền chọn của quyền chọn,

bao gồm: quyền chọn mua để thực hiện quyền chọn mua, quyền chọn mua để thực

hiện quyền chọn bán, quyền chọn bán để thực hiện quyền chọn mua, quyền chọn

bán để thực hiện quyền chọn bán.

 Quyền chọn chứng khoán dành cho nhân viên (Employee stock option):

Đây là loại quyền chọn chứng khoán thường do các công ty cổ phần phát hành cho

các nhân viên của họ. Nhân viên có quyền mua hoặc không mua chứng khoán của

công ty theo một mức giá được xác lập trước trong một khoảng thời gian quy định.

Đây cũng là một hình thức khuyến khích các nhân viên gắn bó với công ty và thu

hút nhân tài về đây làm việc.

1.4. KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN CHỌN TIỀN TỆ

1.4.1. Khái niệm

Quyền chọn tiền tệ (foreign currency option) là một hợp đồng trong đó cho

phép người mua quyền chọn (the buyer) có quyền, chứ không phải nghĩa vụ, mua

25

hoặc bán một lượng ngoại tệ trong một khoảng thời gian nhất định (cho đến ngày

đáo hạn – time to the maturity date).

1.4.2 Các chủ thể tham gia trên thị trƣờng quyền chọn

Nhà nhập khẩu (Importer): có nhu cầu mua ngoại tệ và lo ngại sự biến động

của tỷ giá. Nhà nhập khẩu chấp nhận một khoản phí cho hợp đồng quyền chọn để

đổi lấy một tỷ giá cố định.

Nhà xuất khẩu (Exporter): có nhu cầu bán ngoại tệ và lo ngại sự biến động

về tỷ giá làm giảm giá trị lượng ngoại tệ sẽ có trong tương lai. Nhà xuất khẩu chấp

nhận một khoản phí cho hợp đồng quyền chọn để đổi lấy một tỷ giá cố định.

Các nhà đầu cơ (Speculator): là một nhóm có tính chất quyết định tham dự

thị trường quyền chọn. Họ tham dự với mục đích thu lợi nhuận chênh lệch.

Bên cạnh đó còn có sự tham gia quan trọng của các NHTM, ngân hàng đầu tư,

công ty tài chính…với vai trò là nhà phát hành quyền chọn..

1.4.3 Giá quyền chọn tiền tệ và các yếu tố ảnh hƣởng đến giá quyền chọn tiền

tệ

Như đã định nghĩa tại phần 1.1, giá quyền chọn (Premium) là khoản tiền mà

bên mua quyền chọn phải trả cho bên bán quyền chọn để có được quyền chọn. Giá

quyền chọn là tổng của 02 thành phần là giá trị nội tại (Instrinsic value) và giá trị

thời gian (Time value), ta có :

Giá quyền chọn tiền tệ (Premium)= Giá trị nội tại (Instrinsic value) + Giá trị

thời gian (Time value) [19].

Trong đó giá trị nội tại là khoản lãi có thể thu được nếu thực hiện quyền chọn

tại một thời điểm nhất định. Như vậy, đối với quyền chọn mua tiền tệ, giá trị nội tại

chính là chênh lệch tỷ giá giao ngay và tỷ giá quyền chọn tại một thời điểm nhất

định. Ngược lại, đối với hợp đồng quyền chọn bán tiền tệ, giá trị nội tại chính là

chênh lệch tỷ giá quyền chọn và tỷ giá giao ngay tại một thời điểm nhất định.

26

Đối với hợp đồng quyền chọn mua tiền tệ:

Giá trị nội tại= Tỷ giá giao ngay - Tỷ giá quyền chọn

Đối với hợp đồng quyền chọn bán tiền tệ:

Giá trị nội tại= Tỷ giá quyền chọn - Tỷ giá giao ngay

Giá trị thời gian (hay còn gọi là giá trị ngoại lai –extrinsic value): của hợp

đồng quyền chọn là hiệu số giữa phí quyền chọn và giá trị nội tại, nó phản ánh một

thực tế là hợp đồng quyền chọn có thể có giá trị lớn hơn giá trị nội tại. Điều này ngụ

ý rằng, do sự biến động của tỷ giá giao ngay trong tương lai làm cho giá trị của hợp

đồng quyền chọn cũng thay đổi, tức có giá trị thời gian. Giá trị thời gian của quyền

chọn tiền tệ thể hiện khả năng giá trị nội tại của nó sẽ tăng lên trước khi hết hiệu lực

và khả năng này phụ thuộc nhiều vào sự biến động tỷ giá.

Tuy nhiên giá của bất kỳ quyền chọn tiền tệ nào cũng gồm 6 yếu tố tác động

đến, đó là:

1.4.3.1. Tỷ giá kỳ hạn (forward rates)

Mặc dù tỷ giá giao sau ảnh hưởng không nhiều đến phí quyền chọn nhưng nó

cũng cung cấp những thông tin hữu ích để những nhà kinh doanh quyền chọn xác

định giá trị của hợp đồng quyền chọn. Nếu tỷ giá giao sau cao hơn nhiều so với tỷ

giá giao ngay, điều đó có thể ảnh hưởng đến phí hợp đồng quyền chọn mua tiền tệ

sẽ cao. Ví dụ:

Tỷ giá giao ngay USD/VNĐ= 17.000

Trường hợp 1 :Tỷ giá giao sau 3 tháng USD/VNĐ = 18.000

Trường hợp 2 : Tỷ giá giao sau 3 tháng USD/VNĐ = 17.500

Như vậy người mua quyền chọn mua USD với thời hạn 3 tháng sẽ phải trả phí

quyền chọn trong trường hợp 1 cao hơn trong trường hợp 2 vì khả năng khi mua

hợp đồng mua USD trong trường hợp 1 người mua có khả năng có lãi nhiều hơn

trong trường hợp 2 và ngược lại người bán quyền chọn mua (các ngân hàng) khả

27

năng bị lỗ ở trường hợp 1 là lớn hơn, tất nhiên còn phụ thuộc vào tỷ giá của hợp

đồng quyền chọn.

1.4.3.2. Tỷ giá giao ngay (spot rates)

Đối với một quyền chọn mua, tỷ giá giao ngay và giá của quyền chọn mua

tăng (giảm) cùng chiều. Đối với một quyền chọn bán thì ngược lại, đó là mối quan

hệ tăng giảm ngược chiều.

1.5.1. Các yếu tố cấu thành nên giá quyền chọn

Formatted: Bullets and Numbering

Giá trị nội tại của hợp đồng quyền chọn - Intrinsic Value.

Giá trị nội tại của hợp đồng quyền chọn là giá trị của hợp đồng ở trạng thái

“được giá quyền chọn” - ITM. Nói cách khác, giá trị nội tại là chênh lệch giữa tỷ

giá quyền chọn và tỷ giá hiện hành của thị trường.

Ví dụ: Hợp đồng quyền chọn mua USD với tỷ giá quyền chọn là VND/USD =

20 000, có 100 điểm giá trị nội tại so với tỷ giá kỳ hạn hiện hành là 20 100, như

sau:

Tỷ giá kỳ hạn USD hiện hành

Tỷ giá quyền chọn mua USD

Giá trị nội tại của hợp đồng Phí của hợp đồng quyền chọn sẽ là một số không

nhỏ hơn giá trị nội tại của hợp đồng, bởi vì nếu nhỏ hơn thì sẽ phát sinh hoạt động

kinh doanh chênh lệch giá (arbitrage). Thật vậy, giả sử phí của hợp đồng được yết là

40 điểm, nhỏ hơn giá trị nội tại là 100 điểm. Hoạt động kinh doanh chênh lệch giá

xảy ra như sau:

Bảng 1: Arbitrage xảy ra nếu yết phí quyền chọn nhỏ hơn giá trị nội tại.

Luồng tiền Các giao dịch VNĐ U

28

SD

1. Mua quyền chọn mua USD với phí 40

điểm VNĐ

Phí hợp đồng = 40x 1 -40

+ -20

Thực hiện quyền chọn mua USD 1 000

- +20

2.Bán kỳ hạn tại tỷ giá 20.100 1 100

Nguồn : Giao dịch quyền chọn tiền tệ - Nguyễn Văn Tiến

Lãi ròng 0 +60

Do đó, một hợp đồng quyền chọn có giá trị nội tại càng lớn thì phí hợp đồng

quyền chọn phải càng cao.

Formatted: Bullets and Numbering

Giá trị ngoại lai của hợp đồng quyền chọn - Extrinsic Value.

Giá trị ngoại lai của hợp đồng quyền chọn là giá trị còn lại của phí hợp đồng

sau khi đã trừ đi giá trị nội tại.

Giá trị ngoại lai = Phí hợp đồng - Giá trị nội tại

Giá trị ngoại lai được biết đến như là giá trị thời gian của hợp đồng quyền

chọn (Option Time Value) hay là giá trị biến thiên của quyền chọn (Option

Volatility Value). Giả sử, phí hợp đồng là 360 VND/USD và giá trị nội tại là 100

VND/USD, ta tính được giá trị thời gian của hợp đồng quyền chọn, như sau:

Phí hợp đồng (= phí quyền chọn) + 360

Trừ đi: Giá trị nội tại - 100

29

Giá trị thời gian của quyền + 260

chọn

1.4.3.3. Nếu một hợp đồng quyền chọn ở trạng thái ATM hay OTM sẽ không

có giá trị nội tại. Nếu người nắm giữ hợp đồng tiến hành quyền chọn ngay

lập tức, thì sẽ không phát sinh một khoản lãi nào. Do đó, toàn bộ phí của hợp

đồng quyền chọn ở trạng thái ATM hay OTM đều là giá trị thời gian của hợp

đồng. Rõ ràng là, giá trị thời gian là một bộ phận của phí hợp đồng quyền

chọn; và nó phát sinh từ khả năng có thể xảy ra tại một thời điểm trong tương lai

rằng, hợp đồng quyền chọn sẽ có giá trị nội tại cao hơn so với thời điểm hiện

hành. Do đó, nếu tỷ giá thị trường biến động càng mạnh thì giá trị thời gian

của hợp đồng quyền chọn càng lớn, cho nên giá trị thời gian của hợp đồng

quyền chọn còn được biết đến như là giá trị biến thiên của hợp đồng quyền

chọn (Option Volatility Value). Hơn nữa, tỷ giá thị trường biến động càng

mạnh, thì các cơ hội thực hiện quyền chọn có lợi cho người nắm giữ hợp đồng

càng lớn và chi phí mà người bán phải chịu càng tăng, bởi vì, do tỷ giá thị

trường biến động, cho nên tại một thời điểm trong tương lai nó có thể lớn hơn tỷ

giá quyền chọn của hợp đồng quyền chọn mua hoặc có thể thấp hơn tỷ giá quyền

chọn của hợp đồng quyền chọn bán. Kết quả là, người mua hợp đồng sẵn

sàng trả phí quyền chọn cao hơn và người bán cũng yêu cầu phí quyền chọn cao

hơn nếu tỷ giá thị trường biến động càng mạnh.

1.5.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến giá quyền chọn

Formatted: Bullets and Numbering

Thời hạn của hợp đồng (Time to maturity)

Thời hạn đến hạn của hợp đồng quyền chọn càng dài thì càng có nhiều khả

năng tỷ giá thị trường biến động trên mức tỷ giá quyền chọn đối với hợp đồng

quyền chọn mua và thấp hơn tỷ giá quyền chọn của hợp đồng quyền chọn bán.

Do đó, thời hạn hợp đồng càng dài, thì người mua sẵn sàng trả phí hợp đồng quyền

chọn càng lớn và người bán yêu cầu phí quyền chọn càng cao.

30

Đối với các quyền lựa chọn kiểu Mỹ (cả quyền chọn mua và chọn bán), thời

gian đáo hạn càng dài thì giá của quyền càng cao, vì giá của tài sản cơ sở có khả

năng biến động để cho quyền chọn trở thành có lãi và đem lại lợi nhuận cho người

sở hữu. Đối với các quyền chọn kiểu Châu Âu, ảnh hưởng của thời gian cho đến khi

đáo hạn phụ thuộc vào việc quyền chọn là quyền chọn mua hay quyền chọn bán.

1.4.3.4. Sự biến động của tỷ giá (volatility)

Tỷ giá của thị trường biến động càng mạnh, thì xác suất tỷ giá giao ngay vượt

tỷ giá giao dịch tại thời điểm hợp đồng đến hạn càng lớn, do vậy phí quyền chọn

mua càng cao.

Formatted: Bullets and Numbering

1.4.3.5. Quyền chọn kiểu Mỹ hay kiểu châu Âu và yếu tố chênh lệch lãi suất

(interest diferentials)

Trước hết, hợp đồng quyền chọn kiểu Mỹ là linh hoạt hơn quyền chọn kiểu

châu Âu, do đó, người mua hợp đồng kiểu Mỹ sẵn sàng trả phí quyền chọn cao hơn

cho hợp đồng quyền chọn kiểu Mỹ có cùng tỷ giá quyền chọn và kỳ hạn với hợp

đồng quyền chọn kiểu châu Âu. Thật vậy, với mức tỷ giá quyền chọn, mức độ biến

động của tỷ giá và kỳ hạn đến hạn của hợp đồng thì hợp đồng quyền chọn kiểu Mỹ

luôn được định phí cao hơn (có phí cao hơn) hợp đồng kiểu châu Âu. Hơn nữa, nếu

đồng tiền chọn mua có lãi suất cao hơn đồng tiền chọn bán, thì người nắm giữ hợp

đồng quyền chọn mua sẽ quan tâm đến việc thực hiện quyền chọn trước khi hợp

đồng đến hạn nhằm thu được lãi suất cao hơn. Lợi thế về lãi suất này khiến cho phí

của hợp đồng kiểu Mỹ cao hơn phí của hợp đồng kiểu châu Âu. Nếu lãi suất của

đồng tiền chọn mua thấp hơn lãi suất của đồng tiền chọn bán thì lợi thế về lãi suất

của quyền chọn kiểu Mỹ đối với người mua không còn nữa mà lợi thế này sẽ trở

thành lợi thế tiềm năng thuộc người bán nếu người mua tiến hành giao dịch. Do đó,

về nguyên tắc trong trường hợp đồng tiền chọn mua có lãi suất thấp hơn thì người

bán có thể giảm phí hợp đồng quyền chọn kiểu Mỹ so với hợp đồng kiểu châu Âu.

Tuy nhiên, người bán không nhất thiết phải giảm phí, bởi vì: thứ nhất, do không có

lợi thế về lãi suất nên người mua sẽ không thực hiện giao dịch và do đó lợi thế tiềm

31

năng của người bán không trở thành hiện thực; thứ hai, lãi suất là yếu tố của thị

trường nên có thể thay đổi vào bất cứ thời điểm nào trong tương lai. Điều này khiến

cho lãi suất của đồng tiền chọn mua có thể cao hơn tại một thời điểm nhất định

trong tương lai và do đó lợi thế tiềm năng của lãi suất sẽ chuyển từ người bán sang

người mua. Cho nên ảnh hưởng của sự biến động lãi suất lên phí quyền chọn có thể

được xem xét theo các góc độ sau:

Nếu người bán quyền chọn dự tính rằng lãi suất của đồng tiền trong hợp

đồng chọn mua luôn ở mức thấp hơn đồng tiền chọn bán, thì người mua tính phí

quyền chọn đối với các hợp đồng kiểu Mỹ là giống như phí quyền chọn trong các

Nếu người bán dự tính rằng lợi thế lãi suất tiềm năng sẽ chuyển từ người

hợp đồng kiểu châu Âu.

bán sang người mua trong tương lai, thì sẽ nâng mức phí quyền chọn lên cao hơn.

Ngoài ra, việc xác định một hợp đồng quyền chọn ở trạng thái ITM, ATM, hay

OTM là một phần không thể thiếu được trong khâu định phí quyền chọn. Do đó,

nếu chỉ tiến hành so sánh tỷ giá quyền chọn với tỷ giá giao ngay thì sẽ bỏ sót ảnh

hưởng của yếu tố điểm kỳ hạn lên giá cả ngoại hối. Kết quả là, phí của quyền chọn

chịu ảnh hưởng của điểm tỷ giá kỳ hạn, hay nói cách khác các mức lãi suất của

hai đồng tiền tham gia quyền chọn có ảnh hưởng lên phí quyền chọn.

Formatted: Bullets and Numbering

1.4.3.6. Tỷ giá thực hiện ( alternative option strike price)

Tại mỗi mức mức tỷ giá giao ngay, nếu tỷ giá thực hiện của hợp đồng quyền

chọn tiền tệ mua càng cao, thì xác suất xảy ra thực hiện quyền chọn càng thấp, do

đó phí quyền chọn mua càng thấp.

1.4.4. Mô hình định giá quyền chọn tiền tệ

1.4.4.1. Định giá quyền chọn theo mô hình Black – Scholes[10].

Mô hình này là do hai nhà kinh tế Fischer Black và Myron Scholes nghiên cứu

và trình bày vào năm 1973. Mô hình này đặt ra một số giả định sau:

32

- Tài sản được giao dịch liên tục với sự biến động giá ngẫu nhiên và liên tục.

Nhà đầu tư có thể tiếp tục giao dịch trên thị trường và tài sản được giao dịch liên

tục.

- Lãi suất phi rủi ro áp dụng cho các khoản vay và cho vay không thay đổi

trong suốt thời gian hiệu lực của quyền chọn. Áp dụng phân phối log chuẩn cho giá

kỳ hạn của tài sản và phân phối chuẩn cho giá giao ngay của tài sản, phương sai

hàm phân phối này không đổi trong suốt dòng đời của tài sản.

- Không có thuế và chi phí giao dịch.

-rT

Công thức Black-Scholes:

-rT

C = SN(d1) – EN(d2)e

P = e EN(-d2) – SN(-d1)

Trong đó:

C: giá trị quyền chọn mua

P: giá trị quyền chọn bán

S: tỷ giá giao ngay

E: tỷ giá thực hiện

T: thời hạn hết hiệu lực (%/năm)

e: hàm mũ e=2,71828

N(x): hàm mật độ tích lũy chuẩn

r: lãi suất phi rủi ro

:% biến động của tỷ giá

; d2=d1-

33

Theo mô hình Black-Scholes, có 5 yếu tố tác động lên giá quyền chọn đó là: tỷ

giá giao ngay, tỷ giá thực hiện của quyền chọn, thời hạn của quyền chọn, lãi suất

của 2 đồng tiền và quan trọng nhất là độ biến động của tỷ giá.

1.4.4.2 Hạn chế của công thức Black-Scholes và công thức bổ sung

Tuy nhiên, mô hình này cũng có một số hạn chế, cụ thể: các giả định của mô

hình gần như là những giả định của một thị trường vốn hiệu quả. Điều này thường

không thể xảy ra trên thực tế khi diễn ra các cuộc khủng hoảng tài chính. Lúc đó,

lạm phát của đồng tiền quốc gia đang gặp khủng hoảng sẽ tăng cao và có thể trở

thành phi mã, làm cho giả định về tính ổn định của lãi suất phi rủi ro không còn tồn

tại. Thêm vào đó, nếu việc phá giá hoặc nâng giá tiền tệ xảy ra thì có thể dẫn đến

một biến động đột ngột, điều này trái với giả thuyết tỷ giá biến động dần dần.

Dựa trên những kết quả đạt được của mô hình định giá Black-Scholes, năm

1983 hai nhà kinh tế Garman và Kohlhagen đã bổ sung vào công thức trên yếu tố lãi

suất của hai đồng tiền :

r : lãi suất ngoại tệ (%/năm tính cho kỳ hạn bằng kỳ hạn của quyền chọn) f

d

-rfT

-rdT

r : lãi suất nội tệ (%/năm tính cho kỳ hạn bằng kỳ hạn của quyền chọn)

-rdT

-rfT

C = e SN(d1) – EN(d2)e

P = e EN(-d2) – SN(-d1)e

;

d2 = d1 -

Trên thực tế, người ta đã tin học hóa các công thức trên để tiện sử dụng. Ngày

nay chúng ta chỉ cần nhập số liệu vào, chương trình sẽ tự động chạy và cho kết quả

giá quyền chọn.

34

Danh Giá trị hiện tại ST >X

mục

A S0 ST ST

T

B X Ce(S0,T,X) + X(1+r)- (ST – X) +X

= ST

Thu nhập từ danh mục B luôn ít nhất là bằng với thu nhập của danh mục A và

đôi khi còn lớn hơn. Các nhà đầu tư sẽ nhận thấy điều này và định giá danh mục B

tối thiểu cũng bằng với danh mục a, có nghĩa là:

Ce(S0,T,X) + X(1+r)-T S0

Ce(S0,T,X) S0 - X(1+r)-T

Nếu S0 - X(1+r)-T là âm, chúng ta xem giá trị thấp nhất của quyền chọn mua là

0. Kết hợp các kết quả này cho ta một giới hạn dưới:

Ce(S0,T,X) Max(0, S0 - X(1+r)-T)

Nếu giá quyền chọn mua thấp hơn giá cổ phiếu cơ sở trừ đi hiện giá của giá

thực hiện, chúng ta có thể xây dựng một danh mục kinh doanh chênh lệch giá.

Chúng ta mua quyền chọn mua và trái phiếu phi rủi ro và bán khống tài sản cơ sở.

Danh mục này có dòng tiền ban đầu dương vì giá quyền chọn cộng với giá trái

phiếu thấp hơn giá cổ phiếu. Khi đáo hạn, thu nhập của danh mục là X – ST nếu C >

ST và bằng 0 nếu ngược lại. Danh mục có dòng tiền dương ngay bây giờ và có dòng

tiền hoặc bằng không hoặc dương khi đáo hạn.

35

Max(0,S0 – X(1+r)-T)

Ce(S0,T,X)

a u m n ọ h c

n ề y u q

Max(0,S0 – X)

á i G

X

0

X(1+r)-T Giá cổ phiếu (S0)

Hình 5: Đường cong biểu diễn giá của quyền chọn mua kiểu Châu Âu

Hình 1.5 thể hiện kết quả của quyền mua kiểu Châu Âu. Đường cong là giá

quyền chọn mua, nằm trên đường giới hạn dưới. Khi thời gian đáo hạn đến gần, thời

gian đến khi đáo hạn giảm đến mức mà đường giới hạn dưới di chuyển sang bên

phải. Giá trị thời gian cũng giảm xuống đối với quyền chọn và di chuyển theo

đường giới hạn dưới, tất cả đều dần về giá trị nội tại, Max(0,S0 – X), khi đáo hạn.

Quyền chọn mua kiểu Mỹ so với kiểu Châu Âu

Ca(S0,T,X) Ce(S0,T,X)

1.6.2. Nguyên tắc định giá quyền chọn bán

1.6.2.1. Giá trị nhỏ nhất của quyền chọn bán

Một quyền chọn bán là một quyền chọn cho phép bán một cổ phiếu. Một

người sở hữu quyền chọn bán không bị bắt buộc phải thực hiện quyền chọn và sẽ

không làm vậy nếu việc thực hiện làm giảm giá trị tài sản. Vì vậy một quyền chọn

bán không bao giờ có giá trị âm:

0 P(S0,T,X)

Một quyền chọn bán kiểu Mỹ có thể thực hiện sớm. Vì vậy

36

Pa(S0,T,X) Max(0,X - S0)

Giá trị Max(0,X - S0) được gọi là giá trị nội tại của quyền chọn bán. Chênh

lệch giữa giá quyền chọn bán và giá trị nội tại là giá trị thời gian hay giá trị đầu cơ.

Giá trị thời gian được định nghĩa là Pa(S0,T,X) - Max(0,X - S0). Giá trị thời gian

phản ánh những gì mà một nhà đầu tư sẵn sàng trả cho sự không chắc chắn của kết

quả cuối cùng.

(a) Giá quyền chọn kiểu Châu Âu

n ¸ b

n ä h c

n Ò y u q

¸ i G

0

Giá cổ phiếu (S0)

(b) Giá quyền chọn kiểu Mỹ

X

n ¸ b

n ä h c

Max(0,X -S0)

n Ò y u q

¸ i G

0

X

Giá cổ phiếu (S0)

Hình 6: Giá trị tối thiểu của quyền chọn bán kiểu Châu Âu và kiểu Mỹ

37

Trong hình 1.6, giá quyền chọn bán kiểu Châu Âu nằm trong khu vực được tô

màu sậm trong đồ thị a. Giá quyền chọn bán kiểu Mỹ nằm trong khu vực được tô

màu sậm trong đồ thị b.

Đặc điểm về giá trị nội tại, Max(0,X - S0) không đúng cho quyền chọn bán

kiểu Châu Âu vì quyền chọn phải có thể được thực hiện đối với nhà đầu tư thực

hiện các giao dịch kinh doanh chênh lệch lãi suất.

1.6.2.2. Giá trị lớn nhất của quyền chọn bán

Khi đáo hạn, thu nhập từ một quyền chọn bán kiểu Châu Âu là Max(0,X - ST).

Hiện giá của giá thực hiện là giá trị lớn nhất có thể đạt được của quyền chọn bán

kiểu Châu Âu. Vì quyền chọn bán kiểu Mỹ có thể được thực hiện sớm vào bất cứ

lúc nào, giá trị lớn nhất của nó là giá thực hiện

Pe(S0,T,X)

X Pa(S0,T,X)

(a) Quyền chọn kiểu Châu Âu

X(1+r)-T

n á b

n ọ h c

n ề y u q

á i G

0

Giá cổ phiếu (S0)

Hình 7: Giá trị tối thiểu và tối đa của quyền chọn bán kiểu Châu Âu và Mỹ

38

(b) Quyền chọn kiểu Mỹ

X

n á b

n ọ h c

Max(0,X-S0)

n ề y u q

á i G

0

X Giá cổ phiếu (S0)

1.6.2.3. Giá trị của quyền chọn bán khi đáo hạn

Vào ngày đáo hạn quyền chọn bán không còn giá trị thời gian. Quyền chọn

bán kiểu Mỹ vì vậy cũng giống như quyền chọn bán kiểu Châu Âu. Giá trị của cả

hai loại quyền chọn bán này phải bằng giá trị nội tại. Vì vậy

P(ST,T,X) = Max(0,X – ST)

Nếu X>ST và giá quyền chọn bán thấp hơn X – ST, các nhà đầu tư có thể mua quyền

chọn bán và cổ phiếu, rồi thực hiện quyền chọn bán ngay lập tức để kiếm lợi nhuận phi rủi

ro. Nếu quyền chọn bán đáo hạn dưới giá (X

X

P(ST,0,X)

n á b

n ọ h c

n ề y u q

Max(0,X– ST)

á i G

X

0

Giá cổ phiếu tại thời điểm đáo hạn (ST)

Hình 8: Giá trị quyền chọn bán tại thời điểm đáo hạn

39

1.6.2.4. Tác động của thời gian đến khi đáo hạn

Xét hai quyền chọn bán kiểu Mỹ, một quyền có thời gian đáo hạn là T1 và

quyền chọn còn lại có thời gian đến khi đáo hạn là T2, với T2>T1. Bây giờ giả định

ngày hôm nay là ngày đáo hạn của quyền chọn bán có thời hạn đáo hạn ngắn hơn.

Giá cổ phiếu là . Quyền chọn bán đang đáo hạn có giá trị Max(0,X - ). Quyền

chọn bán khác, với thời gian còn lại đến khi đáo hạn là T2 – T1, có giá trị thấp nhất

là Max(0,X - ). Vì vậy, vào thời điểm 0, chúng ta phải có:

Pa(S0,T2,X) Pa(S0,T1,X)

Các nguyên tắc về giá trị thời gian của quyền chọn bán giống với các nguyên

tắc về giá trị thời gian của quyền chọn mua. Giá trị thời gian lớn nhất khi giá cổ

phiếu gần với giá thực hiện và nhỏ nhất khi giá cổ phiếu hoặc là rất cao hoặc là rất

thấp so với giá thực hiện.

X

n á b

Pa(S0,T,X)

n ọ h c

n ề y u q

Max(0,X -S0)

á i G

0

X

Giá cổ phiếu (S0)

Hình 9: Biểu diễn giá quyền chọn bán kiểu Mỹ

Mối quan hệ giữa thời gian đến khi đáo hạn và quyền chọn bán sẽ phức tạp

hơn trong trường hợp quyền chọn bán kiểu Châu Âu việc mua một quyền chọn bán

40

giống như trì hoãn việc bán cổ phiếu với giá thực hiện X. Thời gian cho đến khi

đáo hạn càng xa, người sở hữu quyền chọn bán phải chờ lâu hơn để bán cổ phiếu và

nhận được X. Điều này có thể khiến quyền chọn bán kiểu Châu Âu có thời hạn dài

hơn có giá trị thấp hơn quyền chọn ván có thời hạn ngắn hơn. Điều này không đúng

đối với quyền chọn bán kiểu Mỹ, vì người sở hữu luôn luôn được thực hiện quyền

chọn và nhận về X ngay hiện tại. Đối với quyền chọn bán kiểu Châu Âu, thời gian

đến khi đáo hạn dài hơn vừa có lợi thế - giá trị thời gian lớn hơn – và bất lợi - phải

đợi lâu hơn để nhận được khoản tiền bằng với giá thực hiện. Tuy nhiên hiệu ứng giá

trị thời gian có xu hướng vượt trội hơn và trong hầu hết các trường hợp quyền chọn

bán có thời hạn dài hơn sẽ có giá trị hơn so với quyền chọn bán có thời hạn ngắn

hơn.

1.6.2.5. Tác động của giá thực hiện

Tác động lên giá quyền chọn. Xét hai quyền chọn bán kiểu Châu Âu chỉ khác

nhau giá thực hiện. Một quyền chọn bán có giá thực hiện là X1 và phí quyền chọn là

Pe(S0,T,X1); quyền chọn còn lại có giá thực hiện là X2 và phí quyền chọn là

Pe(S0,T,X2); X2>X1.

Xét hai danh mục A và B. Danh mục A gồm một vị thế mua đối với quyền

chọn bán có giá Pe(S0,T,X2) và một vị thế bán đối với quyền chọn bán có giá trị

Pe(S0, T, X1). Danh mục B gồm một vị thế trường đối với trái phiếu phi rủi ro có mệnh giá X2 – X1 và hiện giá là (X2 – X1)(1+r)-T

Thu nhập khi đáo hạn của hai danh mục A và B

Danh Giá trị hiện ST < X1

mục tại

A 0 0 -Pe(S0,T,X1) -X1 +

ST

0 +Pe(S0,T,X2) X2 – ST X2 – ST

41

Tổng 0 X2 – X2 – ST

(A) >0 X1>0

B X2 – X2 – X2 –

(X2 – X1)(1+r)-T X1>0 X1>0 X1>0

Đối với danh mục A, tất cả thu nhập đều không âm. Vì danh mục này không

thể làm cho người sở hữu phải có dòng chi ra, giá của quyền chọn được mua phải

không nhỏ hơn giá của quyền chọn được bán đi, nghĩa là:

Pe(S0,T,X2) Pe(S0,T,X1)

Đối với quyền chọn bán kiểu Mỹ, thì quyền chọn bán có giá thực hiện thấp

hơn có thể được thực hiện sớm. Nếu giá cổ phiếu vào thời điểm t trước khi đáo hạn

là St, với St

thực hiện quyền chọn có giá thực hiện là X2. Dòng tiền từ hai giao dịch này là –(X1

– St) + (X2 – St) = X2 – X1, có giá trị dương. Việc thực hiện sớm sẽ không tạo ra

dòng tiền âm. Vì vậy kết quả đúng cho cả quyền chọn bán kiểu Mỹ cũng như quyền

chọn bán kiểu Châu Âu.

Giới hạn đối với chênh lệch phí quyền chọn. So sánh thu nhập của danh

mục A và danh mục B. Chúng ta thấy rằng thu nhập của danh mục B không bao giờ

thấp hơn danh mục A. Vì vậy không có nhà đầu tư nào trả nhiều hơn cho danh mục

A so với danh mục B. Vậy

(X2 – X1)(1+r)-T Pe(S0,T,X2) S- Pe(S0,T,X1)

Tuy nhiên kết quả không đúng với quyền chọn bán kiểu Mỹ. Nếu quyền chọn

bán này là kiểu Mỹ và đều được thực hiện, nhà đầu tư sẽ nhận được X2 – X1. Khoản

tiền này sẽ được đầu tư với trái phiếu phi rủi ro và sẽ thu được khoản lãi trong thời

hạn còn lại của quyền chọn. Khi đáo hạn nhà đầu tư sẽ nhận được nhiều hơn X2 –

X1, tức là thu nhập của danh mục B.

42

Vì chênh lệch của các giá thực hiện lớn hơn hiện giá của chênh lệch giá thực

hiện, chúng ta có thể kết luận đối với quyền chọn bán kiểu Châu Âu

X2 – X1 Pe(S0, T, X2) - Pe(S0, T, X1)

Kết quả này đúng đối với cả quyền chọn bán kiểu Mỹ và kiểu Châu Âu. Thật vậy, nếu ta xem trái phiếu của danh mục B có mệnh giá là (X2 – X1)(1+r)-T và hiện

giá là (X2 – X1). Nếu như thực hiện sớm quyền chọn tại thời điểm t, hầu hết những người sở hữu danh mục A sẽ nhận được khi đáo hạn là (X2 – X1)(1+r)T-t. Người sở hữu danh mục B sẽ thu được khoản tiền lớn hơn, (X2 – X1)(1+r)T. Điều này chứng

tỏ danh mục A sẽ không bao giờ đem lại lợi nhuận cao hơn danh mục B khi đáo

hạn. Do đó giá trị hiện tại của danh mục A, Pa(S0,T,X2) – Pa(S0,T,X1), không thể lớn

hơn giá trị hiện tại của danh mục B, X2 – X1. Do đó

X2 – X1 Pa(S0,T,X2) – Pa(S0,T,X1)

1.6.2.6.Giới hạn dưới của quyền chọn bán kiểu Châu Âu

Chúng ta đã biết rằng giá trị nhỏ nhất của một quyền chọn bán kiểu Mỹ là

Max(0,X – S0). Kết luận này không đúng đối với trường hợp quyền chọn bán kiểu

Châu Âu, vì nó không thể được thực hiện sớm.

Xét hai danh mục A và B. Danh mục A bao gồm một cổ phiếu. Danh mục B

bao gồm một vị thế bán đối với một quyền chọn bán kiểu Châu Âu được định giá là

Pe(S0,T,X) và một vị thế mua đối với một trái phiếu phi rủi ro có mệnh giá là X và giá hiện thời là X(1+r)-T.

Thu nhập khi đáo hạn của danh mục A và B

Danh Giá trị hiện tại X ST < X ST

mục

A S0 ST ST

B X X(1+r)-T- Pe(S0,T,X) X – (X – ST) = ST

43

Thu nhập danh mục A ít nhất cũng tốt như danh mục B. Vì vậy sẽ không có

người nào sẵn sàng trả cao hơn cho danh mục B so với danh mục A. Hiện giá của

danh mục A phải không thấp hơn hiện giá của danh mục B; tức là

S0 X(1+r)-T- Pe(S0,T,X)

Pe(S0,T,X) X(1+r)-T – S0

Nếu hiện giá của danh mục thực hiện thấp hơn giá cổ phiếu, giới hạn dưới này

sẽ có giá trị âm. Vì chúng ta biết quyền chọn bán không thể có giá trị thấp hơn 0,

chúng ta có thể viết

Pe(S0,T,X) Max(0,X(1+r)-T – S0)

X

X(1+r)-T

Giá

n á b

cổ

phiế

u tại

n ọ h c

Pe(S0,T,X)

thời

điể

n ề y u q

m

Giá

á i G

cổ

0

X

phi

ếu

Giá cổ phiếu (S0)

tại

thờ

i

điể

Hình 10: Đường biểu diễn giá quyền chọn bán kiểu Châu Âu

m

đáo

hạn

(ST

)

Quyền chọn bán kiểu Mỹ và quyền chọn bán kiểu Châu Âu

44

Tất cả mọi điều có thể áp dụng đối với quyền chọn bán kiểu Châu Âu đều có

thể áp dụng đối với quyền chọn bán kiểu Mỹ. Ngoài ra một quyền chọn bán kiểu

Mỹ có thể được thực hiện bất cứ lúc nào trước khi đáo hạn. Vì vậy giá quyền chọn

bán kiểu Mỹ ít nhất phải bằng với giá quyền chọn bán kiểu Châu Âu; tức là

Pa(S0,T,X) Pe(S0,T,X)

Ngang giá quyền chọn mua - Quyền chọn bán

Đối với quyền chọn về cổ phiếu, giá quyền chọn mua và quyền chọn bán với

cùng một cổ phiếu với cùng giá thực hiện và ngày đáo hạn có một mối quan hệ đặc

biệt. Giá quyền chọn bán, quyền chọn mua, giá cổ phiếu, giá thực hiện, thời gian

đến khi đáo hạn, và lãi suất phi rủi ro đều có liên hệ với nhau theo một công thức

được gọi là ngang giá quyền chọn mua - quyền chọn bán.

Có hai danh mục A và B. Danh mục A bao gồm một cổ phiếu và một quyền

chọn bán kiểu Châu Âu. Danh mục này sẽ yêu cầu một khoản đầu tư ban đầu là S0 +

Pe(S0,T,X). Danh mục B bao gồm một quyền chọn mua kiểu Châu Âu với cùng giá

thực hiện và một trái phiếu chiết khấu phi rủi ro thuần tuý có mệnh giá là X. Danh mục này sẽ yêu cầu một khoản đầu tư ban đầu là Ce(S0,T,X) + X(1+r)-T

Thu nhập khi đáo hạn của danh mục A và B

Thu nhập từ Giá trị hiện ST X ST > X

tại

A

Cổ phiếu S0 ST ST

Quyền chọn 0 Pe(S0,T,X) X – ST

bán

Cộng X ST

45

B

Quyền chọn 0 Ce(S0,T,X) ST – X

mua X(1+r)-T X X

Trái phiếu

Cộng X ST

1.4.5. Các mô hình chiến lƣợc kinh doanh quyền chọn tiền tệ [27]

1.4.5.1.Chiến lược Short Straddle

Nội dung lý thuyết chiến lược Short Straddle:

Short Straddle là chiến lược kết hợp: { 1 hợp đồng bán quyền chọn bán 1 hợp đồng bán quyền chọn mua

với cùng một số lượng ngoại tệ, cùng một mức giá (Strike price) và cùng một

ngày đáo hạn (Expiration date). Áp dụng khi dự báo tỷ giá biến động không nhiều.

Gọi:

S : là mức giá giao ngay (Spot price) hiện hành trên thị trường.

X : là mức giá thỏa thuận trên Hợp đồng quyền chọn (Strike Price)

1 hợp đồng bán quyền chọn bán

1 hợp đồng bán quyền chọn mua

1 hợp đồng bán quyền chọn mua tỷ giá Y

p1: là mức phí quyền chọn (Option Premium) của hợp đồng bán quyền chọn

bán

p2: là mức phí quyền chọn (Option Premium) của hợp đồng bán quyền chọn

mua.

46

Khi tỷ giá trên thị trường biến động:

Nếu S < X - ( p1 + p2 ) : đối tác mua quyền chọn bán sẽ thực hiện quyền chọn.

Lúc này người sử dụng chiến lược Short Straddle sẽ bị lỗ do lợi nhuận thu được từ 2

khoản phí không đủ bù lỗ cho hợp đồng bán quyền chọn bán.

Nếu S = X - ( p1 + p2 ) : đối tác mua quyền chọn bán sẽ thực hiện quyền chọn.

Lúc này người sử dụng chiến lược Short Straddle sẽ hòa vốn do lợi nhuận thu được

từ 2 khoản phí vừa bằng với khoản lỗ của hợp đồng bán quyền chọn bán.

Nếu X - ( p1 + p2 ) < S < X : đối tác mua quyền chọn bán sẽ thực hiện quyền

chọn. Lúc này người sử dụng chiến lược Short Straddle vẫn có lời do lợi nhuận thu

được từ 2 khoản phí đủ bù đắp khoản lỗ từ hợp đồng bán quyền chọn bán.

- Nếu X = S : người sử dụng chiến lược Short Straddle có lợi nhuận tối đa

bằng 2 khoản phí do cả 2 hợp đồng quyền chọn đều không thực hiện.

- Nếu X < S < X + ( p1 + p2 ) : đối tác mua quyền chọn mua sẽ thực hiện

quyền chọn. Lúc này người sử dụng chiến lược Short Straddle vẫn có lời do lợi

nhuận thu được từ 2 khoản phí đủ bù đắp khoản lỗ từ hợp đồng bán quyền chọn

mua.

- Nếu S = X + (p1+p2) : đối tác mua quyền chọn mua sẽ thực hiện quyền

chọn. Người sử dụng chiến lược Short Straddle hòa vốn do lợi nhuận thu được từ 2

khoản phí đủ bù đắp khoản lỗ từ hợp đồng bán quyền chọn mua.

- Nếu S > X +(p1+p2) : đối tác mua quyền chọn mua sẽ thực hiện quyền chọn.

Lúc này người sử dụng chiến lược Short Straddle lỗ do lợi nhuận thu được từ 2

khoản phí không đủ bù đắp khoản lỗ từ hợp đồng bán quyền chọn mua.

Tổng hợp : Người sử dụng chiến lược Short Straddle ở các trạng thái sau :

Lỗ : khi S < X – ( p1+ p2) hoặc S > X + ( p1 + p2 )

Hòa vốn : khi S = X ± (p1 + p2 )

Lãi : khi X – ( p1 + p2 ) < S < X + ( p1 + p2 )

47

Lãi tối đa : khi S = X

Nguồn: [27]

Lãi Max = p1+p2

Hình 1.5: Mô hình chiến lược Short Straddle

Ứng dụng chiến lược Short Straddle sau khi bán quyền chọn mua ngoại tệ cho

khách hàng:

Formatted: Bullets and Numbering

Khi ký kết hợp đồng bán quyền chọn mua ngoại tệ cho khách hàng, nếu

nhận định tình hình biến động không nhiều, ngoài việc mua lại hợp đồng đối ứng để

phòng ngừa rủi ro, ngân hàng có thể vận dụng lý thuyết chiến lược Short Straddle

như trên để thực hiện tiếp tục một hợp đồng bán quyền chọn bán. Tham khảo các

mức giá trên thị trường để ngân hàng có thể rao bán hợp đồng này ở thị trường

trong hoặc ngoài nước. Tất nhiên, ngân hàng sẽ phải đối mặt với rủi ro cao hơn,

mức lỗ cao hơn so với các làm truyền thống không có rủi ro. Tuy nhiên, rủi ro càng

cao thì lợi nhuận cũng càng cao.

48

Ngược lại, khi ký kết hợp đồng bán quyền chọn bán cho khách hàng, các

ngân hàng nhận định tình hình, nếu phù hợp có thể ứng dụng chiến lược này để thực

hiện tiếp tục một nghiệp vụ bán quyền chọn mua.

Ngoài ra trong trường hợp dự đoán xu hướng thích hợp, ngân hàng có thể chủ

động thực hiện chiến lược này để tối đa hóa lợi nhuận.

Ví dụ: Ngân hàng A vừa ký kết hợp đồng quyền chọn với Doanh nghiệp B có

nội dung như sau : Ngân hàng A bán quyền chọn mua (call) EUR bán (put) USD

Số lượng 100.000 EUR – tỷ giá EUR/USD : 1.3880

Kỳ hạn : 1 tháng – Thu phí quyền chọn : 0.0040USD/1EUR

Nhận định tình hình không biến động nhiều, Ngân hàng A ký kết tiếp tục một

hợp đồng bán quyền chọn bán với ngân hàng ABC cũng với nội dung:

Ngân hàng A bán quyền chọn bán EUR/USD

Số lượng 100.000 EUR – tỷ giá EUR/USD : 1.3880

Kỳ hạn : 1 tháng – Thu phí quyền chọn : 0.0035USD/1EUR

49

Bảng 1.1: Lãi lỗ của chiến lược Short Straddle

Đơn vị tính : USD

Tỷ giá Quyền chọn mua Quyền chọn mua Tổng lãi/ lỗ

- Thực hiện - Không thực hiện 1.3800 - Lãi: 350 - Lỗ 50 - Lãi: 400 - Lỗ: 800

- Thực hiện - Không thực hiện 1.3805 - Lãi: 350 - Hòa vốn - Lãi: 400 - Lỗ: 750

- Thực hiện - Không thực hiện 1.3850 - Lãi: 350 - Lãi: 450 - Lãi: 400 - Lỗ: 300

1.3880 - Không thực hiện - Không thực hiện - Lãi max:750

- Không thực hiện - Không thực hiện 1.3900 - Lãi: 400 - Lãi: 550 - Lãi: 350 - Lỗ: 200

- Không thực hiện - Không thực hiện 1.3955 - Lãi: 400 - Hòa vốn - Lãi: 350 - Lỗ: 750

- Không thực hiện - Không thực hiện 1.3970 - Lãi: 400 - Lỗ:550 - Lãi: 350 - Lỗ: 900

50

1.4.5.2.Chiến lược Short Strangle

Nội dung chiến lược Short Strangle:

1 hợp đồng bán quyền ch ọn bán tỷ giá Y Short Strangle là chiến lược kết hợp: { 1 hợp đồng bán quyền chọn mua tỷ giá Y

với cùng một số lượng ngoại tệ, cùng một ngày đáo hạn, tỷ giá hiện hành ở

khoảng giữa của X và Y. Áp dụng khi dự báo tỷ giá biến động không nhiều.

Gọi: S : là mức giá giao ngay hiện hành trên thị trường.

X < S < Y

p1: là mức phí quyền chọn (Option Premium) của hợp đồng bán quyền chọn

bán

p2: là mức phí quyền chọn (Option Premium) của hợp đồng bán quyền chọn

mua.

Khi tỷ giá trên thị trường biến động:

Nếu S < X - ( p1 + p2 ) : đối tác mua quyền chọn bán sẽ thực hiện quyền chọn.

Lúc này người sử dụng chiến lược Short Strangle sẽ bị lỗ do lợi nhuận thu được từ 2

khoản phí không đủ bù lỗ cho hợp đồng bán quyền chọn bán.

Nếu S = X - ( p1 + p2 ) : đối tác mua quyền chọn bán sẽ thực hiện quyền chọn.

Lúc này người sử dụng chiến lược Short Strangle sẽ hòa vốn do lợi nhuận thu được

từ 2 khoản phí vừa bằng với khoản lỗ của hợp đồng bán quyền chọn bán.

Nếu X - ( p1 + p2 ) < S < X : đối tác mua quyền chọn bán sẽ thực hiện quyền

chọn. Lúc này người sử dụng chiến lược Short Strangle vẫn có lời do lợi nhuận thu

được từ 2 khoản phí đủ bù đắp khoản lỗ từ hợp đồng bán quyền chọn bán.

Nếu X ≤ S ≤ Y : người sử dụng chiến lược Short Strangle có lợi nhuận tối đa

bằng 2 khoản phí do cả 2 hợp đồng quyền chọn đều không thực hiện.

51

Nếu Y < S < Y + (p1+p2) : đối tác mua quyền chọn mua sẽ thực hiện quyền

chọn. Lúc này người sử dụng chiến lược Short Strangle vẫn có lời do lợi nhuận thu

được từ 2 khoản phí đủ bù đắp khoản lỗ từ hợp đồng bán quyền chọn mua.

Nếu S = Y + (p1+ p2) : đối tác mua quyền chọn mua sẽ thực hiện quyền chọn.

Lúc này người sử dụng chiến lược Short Strangle hòa vốn do lợi nhuận thu

được từ 2 khoản phí đủ bù đắp khoản lỗ từ hợp đồng bán quyền chọn mua.

Nếu S > Y + ( p1 + p2) : đối tác mua quyền chọn mua sẽ thực hiện quyền

chọn. Lúc này người sử dụng chiến lược Short Strangle lỗ do lợi nhuận thu được từ

2 khoản phí không đủ bù đắp khoản lỗ từ hợp đồng bán quyền chọn mua.

Tổng hợp : Người sử dụng chiến lược Short Strangle ở các trạng thái sau :

Lỗ : khi S < X – ( p1+ p2) hoặc S > Y + ( p1 + p2 )

Hòa vốn : khi S = X - (p1 + p2 ) hoặc S = Y + ( p1 + p2 )

Lãi : khi X – ( p1 + p2 ) < S < Y + ( p1 + p2 )

Lãi tối đa : khi X ≤ S ≤ Y

Nguồn: [27]

Lãi Max = p1 + p2

52

Hình 1.6: Mô hình chiến lược Short Strangle

Ứng dụng chiến lược Short Strangle:

Tương tự như trong chiến lược quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán ngoại tệ

cho khách hàng, nếu nhận định tình hình thuận lợi cho sử dụng mô hình này, ngân

hàng tiến hành thực hiện tiếp một hợp đồng quyền chọn còn lại hoặc ghép 2 hợp

đồng bán quyền chọn mua và bán quyền chọn bán với khách hàng theo nội dung

như trên mà không thực hiện các hợp đồng đối ứng để phòng ngừa rủi ro. S1, S2 là

khoảng biến thiên dự báo của tỷ giá ngoại tệ. Nếu tỷ giá biến động đúng như dự

báo, ngân hàng sẽ có lợi nhuận và nếu tỷ giá biến động trong giữa khoảng X và Y

thì lợi nhuận sẽ đạt tối đa bằng 2 khoản phí của 2 hợp đồng quyền chọn. Ngoài ra

trong trường hợp dự đoán xu hướng thích hợp, ngân hàng cũng chủ động thực hiện

chiến lược này để tối đa hóa lợi nhuận. So với chiến lược Long Straddle, chiến lược

này cho khoảng biến đổi tỷ giá rộng hơn, do đó lợi nhuận tối đa của nó cũng thấp

hơn, cụ thể:

Ngân hàng A vừa ký kết hợp đồng quyền chọn với Doanh nghiệp B là Ngân

hàng A bán quyền chọn mua EUR/USD Số lượng 100.000 EUR – tỷ giá

EUR/USD

Kỳ hạn : 1 tháng – Thu phí quyền chọn : 0.0040USD

Nhận định tình hình không biến động nhiều, Ngân hàng A ký kết tiếp tục đồng

bán quyền chọn bán với ngân hàng ABC với nội dung: Ngân hàng A bán quyền

chọn bán EUR/USD

Số lượng 100.000 EUR – tỷ giá EUR/USD :

Kỳ hạn : 1 tháng – Thu phí quyền chọn : 0.0030USD

Formatted: Bullets and Numbering

Bảng 1.2: Bảng lãi lỗ chiến lược Short Strangle

Đơn vị:USD

Tỷ giá Quyền chọn mua Quyền chọn mua Tổng lãi/ lỗ

53

EUR/USD

- Thực hiện - Không thực hiện - Lãi: 300 - Lỗ 300 1.3700 - Lãi: 400 - Lỗ: 1000

- Thực hiện - Không thực hiện - Lãi: 300 - Hòa vốn 1.3730 - Lãi: 400 - Lỗ: 700

- Thực hiện - Không thực hiện - Lãi: 300 - Lãi: 200 1.3750 - Lãi: 400 - Lỗ: 500

- Không thực hiện - Không thực hiện - Lãi max:700 1.3800 - Lãi: 400 - Lãi: 300

- Không thực hiện - Không thực hiện - Lãi max:700 1.3880 - Lãi: 400 - Lãi: 300

- Không thực hiện - Thực hiện

- Lãi: 300 - Lãi: 400 - Lãi : 500 1.3900

- Lỗ: 200

- Thực hiện - Không thực hiện

- Lãi: 400 - Lãi: 300 - Hòa vốn 1.3950

- Lỗ: 700

- Thực hiện - Không thực hiện

- Lãi: 400 - Lãi: 300 Lỗ 200 1.3970

- Lỗ: 900

54

1.4.5.3. Chiến lược Long Put Butterfly

Nội dung chiến lược Long Put Butterfly

Long Put Butterfly là chiến 2 hợp đồng bán quyền chọn bán tỷ giá Y lược kết hợp:

1 hợp đồng mua quyền chọn bán tỷ giá Z

{ 1hợp đồng mua quyền chọn bán mua tỷ giá X

Với cùng một số lượng ngoại tệ, cùng một ngày đáo hạn

Gọi: S : là mức giá giao ngay hiện hành trên thị trường.

S = Y và Y = ( X + Z ) / 2

p1: là mức phí quyền chọn ( Option premium) của hợp đồng mua quyền chọn

bán tỷ giá X

p2: là mức phí quyền chọn ( Option premium) của hợp đồng bán quyền chọn

bán tỷ giá Y

p3: là mức phí quyền chọn ( Option premium) của hợp đồng mua quyền chọn

bán tỷ giá Z

p: phí ròng bao gồm tổng các khoản phí thu vào và các khoản phí chi ra

Tương tự như phương án trên, ta có thể tổng hợp : Người sử dụng chiến lược

Long Put Butterfly ở các trạng thái sau :

Lỗ giới hạn : khi S < X + /p/ hoặc S > Z – /p/

Hòa vốn : khi S = X + /p/ hoặc S = Z – /p/

Lãi : khi X +/p/ < S < Z - /p/

Lãi ti đa: khi S = Y

Lỗ Max = p

Lãi Max = Tỷ Giá hợp đồng mua quyền chọn bán lớn nhất - /p/

55

Nguồn: [27]

Hình 1.7: Mô hình chiến lược Long Put Butterfly

Ứng dụng chiến lược Long Put Butterfly :

Formatted: Bullets and Numbering

Tương tự như trong chiến lược Short Straddle, khi ký kết hợp đồng bán

quyền chọn bán ngoại tệ cho khách hàng, nếu nhận định tình hình thuận lợi cho sử

dụng mô hình này, ngân hàng tiến hành thực hiện tiếp các hợp đồng quyền chọn còn

lại để tạo ra lợi nhuận cao hơn và giới hạn khoản lỗ trong một mức cho phép. Tất

nhiên, rủi ro nhiều hơn nhưng lợi nhuận sẽ cao hơn trường hợp mà ngân hàng hay là

ký kết hợp đồng đối ứng với ngân hàng khác để phòng ngừa rủi ro và hưởng phần

chênh lệch phí. Chiến lược này sẽ cho lợi nhuận tối đa chỉ khi tỷ giá ở ngay mức giá

Y.

Ngoài ra trong trường hợp dự đoán xu hướng thích hợp, ngân hàng cũng

nên chủ động thực hiện chiến lược này để tối đa hóa lợi nhuận.

Ví dụ cụ thể :

Ngân hàng A vừa ký kết hợp đồng quyền chọn với Doanh nghiệp B có nội

dung như sau: Ngân hàng A bán quyền chọn bán EUR/USD

56

Số lượng 100.000 EUR – tỷ giá EUR/USD : 1.3950

Kỳ hạn : 1 tháng – Thu phí quyền chọn : 0.0060USD/1EUR (gọi tắt là hợp đồng

QC1)

Nhận định tình hình không biến động nhiều, Ngân hàng A ký kết tiếp tục với ngân

hàng ABC 3 hợp đồng quyền chọn khác như sau :

* 1 hợp đồng bán quyền chọn bán EUR/USD như trên:

Số lượng 100.000 EUR – tỷ giá EUR/USD : 1.3950

Kỳ hạn : 1 tháng – Thu phí quyền chọn : 0.0060USD/1EUR

(gọi tắt là hợp đồng QC 2)

* 1 hợp đồng mua quyền chọn bán EUR/USD :

Số lượng 100.000 EUR – tỷ giá EUR/USD : 1.3900

Kỳ hạn : 1 tháng – Trả phí quyền chọn : 0.0040USD/1EUR

(gọi tắt là hợp đồng QC 3)

* 1 hợp đồng mua quyền chọn bán EUR/USD :

Số lượng 100.000 EUR – tỷ giá EUR/USD : 1.4000

Kỳ hạn : 1 tháng – Trả phí quyền chọn : 0.0090USD/1EUR

(gọi tắt là hợp đồng QC 4)

Khi tỷ giá biến động, lãi lỗ của chiến lược kinh doanh này như sau:

Phí ròng = 600+600-900+400=-100

Bảng 1.3: Lãi lỗ của chiến lược Long Put Butterfly

Đơn vị tính : USD

Tỷ giá HĐQC 1 HĐQC 2 HĐQC 3 HĐQC 4 Tổng lãi/ lỗ

EUR/USD

57

1.3850 - Lỗ 100 (=p) - Thực hiện - Lỗ: 1000 - Thực hiện - Lỗ: 1000 - Thực hiện - Lãi: 500 - Thực hiện - Lãi: 1500

1.3900 - Lỗ 100 (=p) - Thực hiện - Lỗ: 500 - Thực hiện - Lỗ: 500 - Không thực hiện -Thực hiện - Lãi: 1000

1.3910 - Thực hiện - Lỗ: 400 - Thực hiện - Lỗ: 400 - Không thực hiện -Thực hiện - Lãi: 900

- Hòa vốn (=- 400- 400+900- 100)

1.3930 - Lãi :200 - Thực hiện - Lỗ: 200 - Thực hiện - Lỗ: 200 - Không thực hiện -Thực hiện - Lãi: 700

1.3950 - Không thực hiện - Không thực hiện - Không thực hiện -Thực hiện - Lãi: 500 - Lãi max :400

1.3970 - Lãi :200 - Không thực hiện - Không thực hiện - Không thực hiện -Thực hiện - Lãi: 300

1.3990 - Hòa vốn - Không thực hiện - Không thực hiện - Không thực hiện -Thực hiện - Lãi: 100

1.3995 Lỗ 50 - Không thực hiện - Không thực hiện - Không thực hiện -Thực hiện - Lãi: 50

1.4000 Lỗ 100 - Không thực hiện - Không thực hiện - Không thực hiện - Không thực hiện

1.4.5.4. Chiến lược Long Condor:

Nội dung chiến lược Long Condor:

1 hợp đồng bán quyền chọn mua tỷ giá Y

1 hợp đồng bán quyền chọn mua tỷ giá Y Long Condor là chiến lược kết hợp: { 1 hợp đồng mua quyền chọn mua tỷ giá X 1 hợp đồng bán quyền chọn mua tỷ giá W

với cùng một số lượng ngoại tệ, cùng một ngày đáo hạn.

Gọi: S là mức giá giao ngay hiện hành trên thị trường.

( X + W ) / 2 = S và (Y + Z) / 2 =S

58

X là giá nhỏ nhất so với Y, Z, W

W là giá lớn nhất so với X, Y, Z

p: phí ròng bao gồm tổng các khoản phí thu vào và các khoản phí chi ra

Đây là chiến lược kết hợp của Strangle và Butterfly. Chúng ta có thể tổng hợp

chiến lược này như sau:

Người sử dụng chiến lược Long Condor ở các trạng thái sau :

Lỗ giới hạn : khi S < X + /p/ hoặc S > W - /p/

Hòa vốn : khi S = X + /p/ hoặc S = W – /p/

Lãi : khi X +/p/ < S < W - /p/

Lỗ Max = p

Nguồn: [27]

Lãi Max = Tỷ Giá HĐ Bán QC Mua thấp – Tỷ Giá HĐ Mua QC Mua thấp -/p/

Hình 1.8: Mô hình chiến lược Long Condor

Ứng dụng chiến lược Long Condor :

59

Chiến lược Long Condor là sự kết hợp của Short Strangle và Long Butterfly,

nó giới hạn được khoản lỗ và cũng giới hạn khoản lời. Chiến lược này giúp ngân

hàng có thêm lợi nhuận, đồng thời phòng ngừa rủi ro trong một khoản lỗ xác định.

Đây là ưu điểm của chiến lược Long Butterfly. Bên cạnh đó, lợi nhuận tối đa sẽ đạt

được khi tỷ giá biến thiên trong khoảng Y đến Z. Đây là ưu điểm của chiến lược

Short Strangle. Có thể nói, chiến lược này khá tối ưu vì nó bao gồm những ưu điểm

của 2 chiến lược trên. Trong giai đoạn đầu ứng dụng các chiến lược, để phòng ngừa

được rủi ro cũng như có thêm lợi nhuận, nên chăng ngân hàng nên nghiên cứu chiến

lược này để thực hiện.

Các mô hình trên là những mô hình phát triển từ đơn giản đến phức tạp theo

một xu hướng của mô hình. Ngược lại với các chiến lược trên là các chiến lược

Long Straddle, Long Strangle, Short Butterfly, Short Condor với mô hình theo

chiều ngược lại. Tùy từng trường hợp riêng biệt với dự báo xu hướng tỷ giá mà

ngân hàng áp dụng cho từng mô hình chiến lược. Vấn đề ở đây là dựa trên các lý

thuyết này để tìm ra một chiến thuật trong kinh doanh quyền chọn hay dậm chân tại

chỗ để tránh rủi ro. Tất nhiên, rủi ro càng cao thì tỷ suất sinh lời cũng càng cao. Bên

cạnh đó, việc ứng dụng các chiến lược trên còn thể hiện tính chuyên nghiệp chứ

không chỉ đơn thuần là nhà môi giới.

Kết luận chƣơng 1

Trong chương 1, luận văn đã hệ thống hóa một số cơ sở lý luận liên quan đến

nghiệp vụ quyền chọn nói chung và nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ nói riêng. Ngoài

ra, luận văn cũng công nhận kết quả nghiên cứu của mô hình định giá quyền chọn

tiền tệ và một số chiến lược kinh doanh quyền chọn tiền tệ. Từ cơ sở lý luận ở

chương 1, chương 2 sẽ phân tích thực trạng triển khai và phát triển nghiệp vụ quyền

chọn ở các Ngân hàng thương mại Việt Nam như thế nào, để từ đó đề xuất các kiến

nghị, giải pháp ở chương 3.

Theo luật một giá thì giá trị hiện tại của hai danh mục này phải bằng nhau. Vì

vậy

60

S0 + Pe(S0,T,X) = Ce(S0,T,X) + X(1+r)-T

Kết quả này được gọi là ngang giá quyền chọn mua - quyền chọn bán.

Hình 11: Mối liên hệ giữa quyền chọn mua, quyền chọn bán, tài sản cơ sở và

Quyền chọn mua

Quyền chọn bán

Ngang giá quyền chọn mua - quyền chọn bán

Tài sản cơ sở

Trái phiếu phi rui rủi ro

trái phiếu phi rủi ro

61

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI VÀ PHÁT TRIỂN

NGHIỆP VỤ QUYỀN CHỌN TIỀN TỆ TẠI CÁC NGÂN HÀNG

THƢƠNG MẠI VIỆT NAM

2.1. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI VÀ PHÁT TRIỂN THỊ

TRƢỜNG QUYỀN CHỌN TIỀN TỆ TẠI VIỆT NAM

2.1.1. Sự cần thiết của việc triển khai thị trƣờng quyền chọn tiền tệ tại Việt

Nam

2.1.1.1 Nhu cầu phòng ngừa rủi ro tỷ giá của các doanh nghiệp Việt Nam

Sự biến động mạnh và không ổn định của tỷ giá trong thời gian qua đã ảnh

hưởng tiêu cực đến tình hình hoạt động và sản xuất kinh doanh và gây thiệt hại

không ít cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập

khẩu, khi phần lớn trong số họ đều không có được sự chuẩn bị để đối phó với các

vấn đề còn khá mới mẻ này.

Khi phạm vi giao thương ngày một rộng, sự chuyển dịch của các dòng vốn đầu

tư tự do hơn...thì vấn đề rủi ro tỷ giá hối đoái đang được coi là mối quan tâm hàng

đầu.

Trong một khoảng thời gian dài từ trước quý III/2007 trở về trước, diễn biến

của tỷ giá nói chung và tỷ giá USD/VND nói riêng rất ổn định, xu hướng diễn biến

của tỷ giá có thể dự báo được và điều này đã dẫn đến tâm lý chủ quan của doanh

nghiệp và đặt doanh nghiệp trước những rủi ro lớn một khi thị trường ngoại hối có

sự biến động mạnh.

Hiện nay, doanh nghiệp chưa quen với rủi ro tỷ giá, nhu cầu sử dụng các sản

phẩm tài chính phái sinh trong việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá chỉ ở mức độ tiềm năng

khi phần lớn các doanh nghiệp đều cho rằng biến động tỷ giá trên thị trường không

quá lớn. Doanh nghiệp chưa nhận thức thật đầy đủ về các sản phẩm mà ngân hàng

cung cấp. Các sản phẩm ngân hàng cũng còn nghèo nàn chưa đúng nhu cầu thực

tiễn.

62

Khi tỷ giá USD/VND giảm mạnh trên thị trường, đã có ít nhiều doanh nghiệp

nhập khẩu có được lợi thế tương đối. Tuy nhiên điều này lại gây thiệt hại nặng nề

cho các doanh nghiệp xuất khẩu, khi hàng hoá đã được xuất đi và doanh nghiệp

được nhận lại đồng USD.

Một hợp đồng xuất khẩu được dự kiến sẽ đem về lợi nhuận cho doanh nghiệp,

tuy nhiên sự biến động của tỷ giá như trong thời gian qua có thể làm cho doanh

nghiệp ở vào tình trạng lãi giả và lỗ thực. Ngược lại, khi tỷ giá USD/VND tăng

mạnh như thời gian vừa qua đã lại gây thiệt hại rõ ràng cho các nhà nhập khẩu, các

doanh nghiệp xuất khẩu cũng đã chịu thiệt hại trong đợt tăng giá này khi kỳ vọng

giá USD/VND sẽ tiếp tục tăng và quyết định không bán đồng USD mà thay vào đó

là gửi lại đồng USD tại các ngân hàng và chờ đợi.

Và khi tỷ giá USD/VND đã giảm mạnh trở lại, doanh nghiệp vừa phải bán

USD theo giá thấp và vừa phải mất đi phần chi phí cơ hội là phần chênh lệch lãi

suất khi lãi suất gửi USD chỉ ở mức 6%/năm, trong khi lãi suất tiền đồng đã tăng

lên mức trên 18%/năm. Thậm chí khi tính thanh khoản trên thị trường giảm mạnh,

có thời điểm doanh nghiệp nhập khẩu chấp nhận thiệt hại để mua USD, vì phải

thanh toán cho nhà xuất khẩu theo cam kết nhưng nguồn USD tại các ngân hàng lại

không đáp ứng được, điều này dẫn đến việc chậm trả và gây thiệt hại về uy tín của

doanh nghiệp.

Như vậy, khi tỷ giá lên doanh nghiệp cũng thiệt hại và khi tỷ giá xuống doanh

nghiệp cũng chịu thiệt hại.

Vì vậy, phòng ngừa rủi ro tỷ giá là một việc cần làm ngay, sự ổn định về tỷ giá

hối đoái sẽ giúp cho doanh nghiệp an tâm hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh,

nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường. Doanh nghiệp không chỉ cố định tỷ giá mà

với các sản phẩm ngoại hối của các ngân hàng cung cấp, doanh nghiệp còn có cơ

hội hưởng lợi trên sự biến động của thị trường.

Ví dụ như chỉ với một hợp đồng mua USD kỳ hạn đơn giản, với tỷ giá kỳ hạn

tương ứng với tỷ giá giao ngay được các ngân hàng công bố, doanh nghiệp có thể

63

chốt được mức tỷ giá mong muốn mà không cần quan tâm đến sự biến động của thị

trường trong một khoảng thời gian dài sau đó. Hoặc với một sản phẩm quyền chọn,

doanh nghiệp có thể chọn bất kỳ tỷ giá nào và chỉ với một khoản phí hợp lý, doanh

nghi ệp vừa bảo hiểm được tỷ giá vừa có cơ hội hưởng lợi khi tỷ giá trên thị trường

biến động theo hướng có lợi cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nên xem các sản

phẩm bảo hiểm tỷ giá như các công cụ để bảo vệ chính mình mà sự cần thiết của nó

được ví như việc mua một chiếc bình cứu hoả đặt trong nhà...

2.1.1.2. Nhu cầu đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ của các Ngân hàng thương mại

Việt Nam

Hiện nay Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), tài chính

– ngân hàng là một trong các lĩnh vực Việt Nam cam kết mở cửa. Trong tương lai

không xa, sẽ có nhiều ngân hàng 100% vốn nước ngoài hoạt động ở Việt Nam và

như vậy sự cạnh tranh trên thị trường tài chính – ngân hàng sẽ trở nên ngày càng

mạnh mẽ. Muốn tồn tại và cạnh tranh được đối với các ngân hàng nước ngoài vốn

đã có tiềm lực về tài chính, nền tảng công nghệ hiện đại và kinh nghiệm lâu đời,

một trong các biện pháp để mà các NHTM Việt Nam phải áp dụng đó là đa dạng

hóa các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng. Như chúng ta đã biết, hiện nay tại các NHTM

Việt Nam, các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng còn khá nghèo nàn, đơn giản, chưa đáp

ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng là các doanh nghiệp cũng như

khách hàng thể nhân. Vì vậy, việc triển khai và phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền

tệ là một yêu cầu bức thiết đặt ra cho các NHTM phải nỗ lực thực hiện trong tiến

trình hội nhập, đa dạng hóa các sản phẩm ngân hàng, bởi vì quyền chọn tiền tệ là

một nghiệp vụ có thể nói là rất phổ biến và được ưa chuộng trên thế giới vì tính ưu

việt và linh hoạt của nó. Bên cạnh đó, với việc triển khai thành công nghiệp vụ

quyền chọn tiền tệ, các ngân hàng sẽ thu được phí quyền chọn tiền tệ (premium) và

như vậy sẽ đem lại lợi nhuận từ nghiệp vụ này, góp phần nâng cao hiệu quả kinh

doanh của các ngân hàng. Nhìn vào bảng 2.1 ta có thể thấy vai trò của sản phẩm

phái sinh nói chung và quyền chọn tiền tệ nói riêng.

64

Bảng 2.1: Cơ cấu sản phẩm phái sinh trong tổng doanh thu và lợi

nhuận của các Ngân hàng thương mại

1995

2000

2006

2007

100

100

100

100

Tổng doanh thu thực hiện

Trong đó

Sản phẩm phái sinh

11,7

15,4

17,5

19,5

100

100

100

100

Tổng lợi nhuận

Trong đó

Sản phẩm phái sinh

10,2

16,5

19,9

21,5

Nguồn [5]

2.1.2. Thực trạng thị trƣờng quyền chọn tiền tệ tại Việt Nam hiện nay

2.1.2.1. Về thị trường công cụ phái sinh nói chung

Giao dịch tài chính tiền tệ là lĩnh vực chưa có sự xuất hiện của các nhà bảo

hiểm bởi tính biến động khôn lường của nó. Các chủ thể tham gia không còn cách

nào khác ngoài việc tự bảo hiểm cho mình bằng việc chuyển hẳn hoặc san sẻ một

phần rủi ro cho thị trường bằng các Công cụ tài chính phái sinh. Tuy nhiên, nhìn

một cách tổng quát, mức độ áp dụng các Công cụ phái sinh ở Việt Nam còn rất hạn

chế. Nhiều ý kiến cho rằng, xuất phát điểm nền kinh tế lạc hậu chưa cho phép chúng

áp dụng các kỹ thuật tài chính hiện đại. Nói cách khác, thói quen và tập quán kinh

doanh là những cản trở lớn đối với quá trình phổ biến các Công cụ tài chính phái

sinh ở Việt Nam.

Giao dịch kỳ hạn xuất hiện với tư cách là công cụ tài chính phái sinh đầu tiên

ở Việt Nam theo quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 ngày 25/2/1999. Các giao dịch

65

kỳ hạn được thực hiện trong hợp đồng mua bán USD và VND giữa NHTM với

doanh nghiệp xuất nhập khẩu hoặc với các NHTM khác được phép của Ngân hàng

nhà nước. Tuy nhiên, Hợp đồng kỳ hạn ít được sử dụng, một phần là do thị trường

liên ngân hàng ở Việt Nam chưa phát triển, một phần do những hạn chế vốn có của

nó trong việc phòng chống rủi ro tỉ giá và những hạn chế của Ngân hàng Nhà nước.

Vì thế, các giao dịch kỳ hạn chỉ chiếm khoảng 5-7% khối lượng giao dịch của thị

trường ngoại tệ liên ngân hàng [5].

Giao dịch hoán đổi cũng xuất hiện khá sớm theo quyết định số 430/QĐ-

NHNN13 ngày 24/12/1997 và sau này là quyết định số 893/2001/QĐ-NHNN ngày

17/7/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên đây chỉ là những giao

dịch hoán đổi thuận chiều giữa Ngân hàng Nhà nước và NHTM. Nó chỉ được sử

dụng trong trường hợp các NHTM dư thừa ngoại tệ và khan hiếm VND.

Các công cụ phái sinh lãi suất và tỷ giá ngoại tệ tiếp tục xuất hiện ở Việt Nam

và được các ngân hàng sử dụng do nhu cầu nội tại của các NHTM nhằm theo kịp

chuẩn mực hoạt động ngân hàng quốc tế. Ngân hàng Nhà nước đã cho phép các

NHTM thực hiện một số nghiệp vụ phái sinh nhằm phòng ngừa rủi ro lãi suất và rủi

ro tỷ giá. Theo quyết định số 1133/QĐ- NHNN ngày 30/09/2003 về quy chế thực

hiện giao dịch hoán đổi lãi suất cho phép mở rộng danh mục các NHTM và các

TCTD, các doanh nghiệp được sử dụng công cụ hoán đổi lãi suất. Hoán đổi lãi suất

được thực hiện đối với cả VND và ngoại tệ giữa các ngân hàng với doanh nghiệp

vay vốn tại ngân hàng; giữa ngân hàng với những doanh nghiệp vay vốn tại các tổ

chức TCTD khác, kể cả vay vốn nước ngoài; giữa các ngân hàng trong nước với

nhau và giữa các NHTM trong nước với các TCTD nước ngoài. Trên cơ sở nới lỏng

quản lý của Ngân hàng Nhà nước, nhiều NHTM đã triển khai cung cấp Hợp đồng

hoán đổi lãi suất cho các doanh nghiệp, tìm kiếm đối tác là các TCTD nước ngoài

để ký kết hợp tác. Tuy nhiên, giao dịch phái sinh trong đó có hoán đổi lãi suất được

coi là hoạt động ngoại bảng của ngân hàng do đó hướng dẫn hạch toán từ phía Ngân

hàng Nhà nước đối với các nghiệp vụ này đang được xem là điều kiện đủ để các

NHTM đẩy mạnh cung cấp dịch vụ này cho khách hàng.

66

Từ khi Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất

trên thị trường Việt Nam (từ tháng 1/2003), đã có một số ó ngân hàng như ABN,

Citibank thực hiện hoán đổi lãi suất trong phạm vi đồng USD từ ngày 1/3/2005 tới

2/2006. Tuy nhiên, giao dịch hoán đổi lãi suất giữa 2 đồng tiền USD và VND (hoán

đổi lãi suất chéo) đã được thực hiện, từ trước khi có quy định chính thức của ngân

hàng nhà nước. Cho tới lần đầu tiên, khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép,

HSBC đã cung cấp gói hoán đổi tiền Đồng cho một công ty đa quốc gia với số vốn

lên tới 15 triệu USD trên tại trường Việt Nam. Theo đó, HSBC sẽ đưa VND và

nhận USD từ khách hàng, tới tháng 12/2007, HSBC sẽ đưa USD và nhận lại VND

từ khách hàng. Với giao dịch này, khách đã đạt được mức lãi suất cạnh tranh nhất

trên thị trường nội địa cho việc vay vốn tiền Đồng kỳ hạn 3 năm mà không chịu bất

cứ một rủi ro nào về tỷ giá USD/VND.

Chính hành động của HSBC, tạo ra nền tảng phát triển cho các giao dịch hoán

đổi sau này. Ngân hàng Standard Chartered chi nhánh tại Việt Nam thực hiện hoán

đổi lãi suất chéo giữa hai đồng tiền chéo đối với các khoản vay ngoại tệ của khách

hàng khi khách hàng vay ngoại tệ. Và trong tương lai, Standard Chartered sẽ còn

cung cấp nhiều sản phẩm phái sinh nữa trên thị trường Việt Nam, hứa hẹn tương lai

phát triển thị trường.

Ở một mức cao hơn, các công cụ lai tạp có nguồn gốc từ hoán đổi như hoán

đổi lãi suất cộng dồn, hoán đổi lãi suất kèm theo điều kiện quyền chọn, hoán đổi lãi

suất bắt đầu thực hiện trong tương lai …cũng đã xuất hiện và triển khai trên thị

trường ngoại hối trong thời gian gần đây. Điều đặc biệt là các hợp đồng hoán đổi rủi

ro tín dụng đã được thí điểm áp dụng tại Việt Nam theo công văn 3324/NHNN-

CSTT, tháng 4/2006 Ngân hàng Nhà nước cho phép HSBC chi nhánh thành phố Hồ

Chí Minh thực hiện. Mặc dù là một loại hoán đổi nhưng hoán đổi rủi ro tín dụng

thực sự lại giống một chính sách bảo hiểm hơn. Tức một bên nắm giữ trái phiếu

hoặc các khoản vay, định kỳ sẽ thanh toán cho bên kia. Trường hợp trái phiếu bị

đánh giá thấp hay các khoản vay trên bị vỡ nợ, bên bảo hiểm ở đây là HSBC sẽ trả

cho bên đối tác, khách hàng các khoản bù trừ lỗ.

67

Sản phẩm hoán đổi rủi ro tín dụng của HSBC Việt Nam chỉ gắn với rủi ro tín

dụng của các loại trái phiếu do chính phủ hoặc các doanh nghiệp Việt Nam phát

hành trái phiếu ra thị trường quốc tế, các khoản vay dài hạn của doanh nghiệp Việt

nam tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam. Khách hàng chuyển nhượng

rủi ro tín dụng cho HSBC là các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam và bên

nhận chuyển nhượng là các chi nhánh HSBC ở nước ngoài. Thời hạn của giao dịch

không quá 5 năm. Khách hàng mua loại công cụ này cũng giống như thực hiện một

khoản đầu tư gián tiếp. Việc tiếp cận với các công cụ này cho phép nhà đầu tư có cơ

hội tìm kiếm những mức lợi nhuận cao hơn so với hoạt động tín dụng tiền gửi bình

thường, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn của các TCTD. Hơn nữa, việc sử

dụng các công cụ mới này còn góp phần nâng cao mức độ tín nhiệm của Chính phủ

và các doanh nghiệp Việt Nam khi phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế.

Quyền chọn ngoại tệ, lãi suất và vàng dường như là những công cụ phái sinh

được thị trường hoan nghênh và đón nhận nhiều nhất do những ưu điểm vốn có của

nó trong bối cảnh lãi suất và tỷ giá và giá vàng luôn ở trạng thái tăng liên tục. Ngân

hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) là ngân hàng đầu tiên được phép thực

hiện giao dịch quyền chọn lãi suất. Các giao dịch quyền chọn lãi suất được phép

thực hiện đối với những khoản cho vay và đi vay trung hạn (dưới 5 năm) bằng USD

hoặc bằng EURO và chỉ được thực hiện đối với các doanh nghiệp hoạt động tại Việt

Nam, các NHTM hoạt động ở Việt Nam được Ngân hàng Nhà nước cho phép và

các ngân hàng ở nước ngoài. Sau BIDV là hàng loạt các NHTM khác, bao gồm cả

NHTM cổ phần cũng được cho phép thực hiện nghiệp vụ này.

Bên cạnh quyền chọn lãi suất, quyền chọn ngoại tệ cũng được nhiều ngân

hàng cung cấp, điển hình là BIDV, Eximbank, ACB, Techcombank, Agribank,

Citibank, Vietcombank, ICB, và ngân hàng HSBC chi nhánh thành phố Hồ Chí

Minh. Nguyên tắc chính của loại quyền chọn này là các doanh nghiệp và cá nhân

được quyền đặt mua hay đặt bán USD với VNĐ thông qua một tỷ giá do khách

hàng tự chọn, được gọi là tỷ giá thực hiện. Tới nay, đã có rất nhiều ngân hàng được

phép của Ngân hàng nhà nước thực hiện các nghiệp vụ quyền chọn. Đặc biệt, Ngân

68

hàng nhà nước cũng đã cho phép thực hiện các quyền chọn tiền Đồng tại BIDV,

Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu, Ngân hàng Thương mại cổ phần Quốc tế.

Với nghiệp vụ này, chắc chắn tương lai sẽ được mở rộng bởi khi đó VND sẽ có cơ

hội tiếp cận với thị trường tài chính thế giới. Vị thế của VND và Việt Nam cũng qua

đó mà tăng lên. Tuy nhiên, vì đang trong giai đoạn thí điểm nên các ngân hàng này

bị giới hạn bởi thời gian thực hiện. Nhìn chung, hoạt động này đang đem lại một cơ

cấu sản phẩm hiện đại cho các ngân hàng trong điều kiện hội nhập. Hơn nữa, nhu

cầu của khách hàng đối với các giao dịch Quyền chọn đang có xu hướng tăng, do

vậy Ngân hàng nhà nước đã tiến hành gia hạn thí điểm hợp đồng các nghiệp vụ

này.Quyền chọn USD và VNĐ đáp ứng cho cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu

trong đó quyền chọn mua áp dụng cho nhà nhập khẩu và quyền chọn bán áp dụng

cho nhà xuất khẩu.

Điểm lại những mốc chính xuất hiện của các công cụ phái sinh ở Việt Nam, dễ

nhận thấy rằng nó chưa được thị trường đón nhận như là công cụ không thể thiếu

trong phòng ngừa rủi ro. Thực trạng đó đặt ra nhiều câu hỏi. Phải chăng các doanh

nghiệp chưa thực sự có nhu cầu phòng chống rủi ro? Phải chăng khoảng cách giữa

mong muốn phòng ngừa rủi ro của các doanh nghiệp và các công cụ phái sinh còn

quá lớn? Phải chăng sự hiểu biết của các doanh nghiệp đối với các công cụ phái

sinh còn hạn chế nên dẫn đến những chính sách sử dụng nó còn yếu kém? Phải

chăng điều kiện kinh tế, đặc biệt là sự phát triển ở Việt Nam còn hạn chế? Phải

chăng là việc hạch toán những nghiệp vụ ngoại bảng này còn nhiều bất cập khiến

các ngân hàng còn nhiều lúng túng trong việc triển khai các dịch vụ phái sinh? Phải

chăng những quy định pháp lý hiện nay còn hạn chế sự hoạt động của các công cụ

phái sinh?

2.1.2.2. Về thị trường quyền chọn tiền tệ nói riêng

Thị trường quyền chọn của Việt Nam được triển khai đầu tiên với quyền chọn

tiền tệ, mà cụ thể là quyền chọn ngoại tệ. Trong giai đoạn đầu, các NHTM muốn

thực hiện giao dịch quyền chọn tiền tệ phải là ngân hàng đã được phép kinh doanh

69

ngoại hối, vốn tự có tối thiểu là 200 tỷ VND, kinh doanh ngoại tệ có lãi trong 5 năm

gần nhất và doanh số mua bán ngoại tệ của năm trước tối thiểu là 1 tỷ USD. Nếu đủ

các điều kiện đó, NHTM phải lập ra quy trình nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ và

trình cho Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản cho thực hiện

thí điểm.

Theo công văn đề nghị số 395/EIB-KD/2002 của Ngân hàng TMCP Xuất

Nhập Khẩu Việt Nam, ngày 12/02/2003, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có công

văn trả lời số 135/NHNN-QLNH cho phép Eximbank là ngân hàng đầu tiên trong cả

nước được thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ với các quy định cụ

thể như sau:

Đồng tiền giao dịch: chỉ giao dịch bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Không

được giao dịch bằng đồng Việt Nam

Giới hạn số dư cao nhất: 500,000USD (Năm trăm ngàn đô la Mỹ) hoặc

ngoại tệ khác có giá trị tương đương

Chỉ thực hiện với các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam

Trường hợp thanh toán ngoại tệ cho nước ngoài, doanh nghiệp phải xuất

trình cho Ngân hàng chứng từ theo các quy định quản lý ngoại hối hiện hành.

Thời hạn của giao dịch: từ 7 ngày đến tối đa 3 tháng

Cho phép Eximbank được thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn trong

thời gian là 6 tháng.

Ngoài ra, Eximbank phải có trách nhiệm báo cáo chậm nhất là 10h sáng

ngày làm việc tiếp theo phải báo cáo đầy đủ tình hình thực hiện các giao dịch quyền

chọn và các giao dịch đối ứng phòng ngừa rủi ro của ngày hôm trước cho Ngân

hàng Nhà nước. Chậm nhất sau 5 ngày làm việc đầu tháng sau, Eximbank phải báo

cáo tổng hợp tình hình giao dịch nghiệp vụ này trong tháng trước và những kiến

nghị.

70

Sau Eximbank, tính đến tháng 6/2005, Ngân hàng Nhà nước đã lần lượt cho

phép 7 ngân hàng khác trong nước được thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn

trong đó có 2 ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam là Citibank, Ngân hàng

HSBC Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh và 5 ngân hàng trong nước là Ngân hàng

Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Việt Nam, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương

Việt Nam, Ngân hàng TMCP Á Châu. Chính sự tham gia của cả ngân hàng trong

nước và các ngân hàng nước ngoài chi nhánh tại Việt Nam với kinh nghiệm thực

hiện quyền chọn trên trường quốc tế đã tạo ra cơ hội cạnh tranh lành mạnh và trao

đổi kinh nghiệm cho các NHTM nước ta.

Ngày 10/11/2004, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ra quyết định

1452/2004/QĐ-NHNN về giao dịch hối đoái của các tổ chức tín dụng được phép

hoạt động ngoại hối. Đây được xem là một bước đột phá trên thị trường ngoại hối

với một số điểm mới như sau:

Chính thức cho phép các TCTD được phép thực hiện các giao dịch hối đoái

trong đó có giao dịch quyền chọn. Như vậy, tại thời điểm này Ngân hàng Nhà nước

đã chấm dứt thời gian thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ của các

ngân hàng tại Việt Nam.

Không chỉ các tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế, tổ chức khác, Ngân hàng

nhà nước được phép tham gia giao dịch quyền lựa chọn mà các cá nhân cũng được

phép tham gia. Đây là bước đổi mới tạo điều kiện cho giới kinh doanh đầu tư trên

thị trường tiền tệ có thêm một sân chơi mới.

Kỳ hạn của giao dịch quyền lựa chọn giữa các ngoại tệ với nhau do tổ chức

tín dụng được phép và khách hàng tự thỏa thuận. Có thể nói Ngân hàng Nhà nước

đã có sự chuyển biến lớn trong cung cách quản lý các hoạt động giao dịch ngoại hối

tạo đà cho thị trường quyền chọn tiền tệ của nước ta phát triển đa dạng, đáp ứng

được nhu cầu của nền kinh tế.

71

Tổ chức tín dụng được phép duy trì tổng giá trị hợp đồng quyền chọn không

có giao dịch đối ứng tối đa 10% vốn tự có[18]. Quy định này giúp các tổ chức tín

dụng có một biên độ rộng rãi hơn khi thực hiện nghiệp vụ này so với quy định

không quá 500,000 USD như trước đây.

Sau hơn 5 năm triển khai thực hiện, công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá quyền

chọn tiền tệ trên thị trường hối đoái Việt Nam mặc dù đã có những bước phát triển

đáng ghi nhận nhưng nhìn chung vẫn chưa thu được kết quả như mong muốn. Hầu

hết các doanh nghiệp vẫn còn ngần ngại và không mặn mà lắm với quyền chọn

ngoại tệ.

Thị trường quyền chọn tiền tệ Việt Nam bắt đầu thực hiện với công cụ quyền

chọn ngoại tệ. Sau 2 năm hoạt động, trên cơ sở những kinh nghiệm thực tế đã tích

lũy và những kết quả đã đạt được, đến giữa tháng 4/2005 Ngân hàng Nhà nước Việt

Nam đã bắt đầu cho triển khai thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn giữa ngoại

tệ và tiền đồng Việt Nam (gọi tắt là quyền chọn tiền đồng). Ngân hàng thương mại

cổ phần Á Châu (ACB) là ngân hàng đầu tiên tại nước ta được Ngân hàng Nhà nước

đồng ý cho thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn tiền đồng với mức tối đa của

giá trị một hợp đồng quyền chọn tiền đồng là 10 triệu USD và mức tối thiểu là

10,000USD cho quyền chọn giao dịch giữa USD và VND, 100,000USD (quy đổi

ngoại tệ khác tương đương) cho quyền chọn giao dịch giữa các ngoại tệ khác và

VND. Tiếp theo ACB là Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương với mức tối đa

của giá trị một hợp đồng quyền chọn tiền đồng là 8 triệu USD và mức tối thiểu là

100,000USD (hoặc ngoại tệ khác quy đổi tương đương) và chỉ thực hiện với quyền

chọn kiểu Châu Âu. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển được phép thực hiện thí điểm

từ ngày 22/08/2005 và kể từ đây không quy định giới hạn cho giá trị một hợp đồng

quyền chọn. Đầu tháng 9/2005, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam và Ngân

hàng thương mại cổ phần Quốc Tế cũng bắt đầu tham gia vào thị trường quyền chọn

với nghiệp vụ quyền chọn tiền đồng. Ngày 29/03/2006, Ngân hàng TMCP Xuất

Nhập Khẩu Việt Nam cũng có quyết định được thực hiện nghiệp vụ này. Trong giai

đoạn này, cũng giống như khi triển khai nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ, các NHTM

72

muốn thực hiện giao dịch này phải có đề án chi tiết quy trình nghiệp vụ thực hiện và

phương án phòng ngừa rủi ro và được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn

bản với một số quy định sau:

Đồng tiền giao dịch: VND và USD hoặc các ngoại tệ tự do chuyển đổi khác

như EUR, JPY, GBP, AUD…

Tỷ giá thực hiện: đối với hợp đồng quyền chọn USD/VND:không vượt quá

tỷ giá kỳ hạn USD/VND cùng thời hạn; đối với hợp đồng quyền chọn giữa các

ngoại tệ khác với VND: do ngân hàng và khách hàng tự thỏa thuận.

Phí quyền chọn tiền đồng: được tính bằng đồng Việt Nam (đồng/1 đơn vị

ngoại tệ) do ngân hàng và khách hàng tự thỏa thuận.

Thời hạn giao dịch: từ 3 đến 365 ngày.

Giới hạn trạng thái mở của các hợp đồng quyền chọn tiền đồng chưa thực

hiện (quy đổi USD) là ±12.000.000USD (Mười hai triệu Đô la Mỹ).

Đối tượng giao dịch: chỉ thực hiện với các tổ chức kinh tế hoạt động tại

Việt Nam (tổ chức kinh tế luôn là bên mua quyền chọn) và các tổ chức tín dụng ở

Việt Nam đã được Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện thí điểm nghiệp vụ

quyền chọn tiền đồng.

Bên cạnh đó các tổ chức tín dụng cũng phải tuân thủ những quy định về báo

cáo tuần: chậm nhất là 10h sáng ngày thứ 2 của tuần sau phải báo cho Vụ quản lý

ngoại hối tình hình tuần trước, tuân thủ những quy định về báo cáo tháng: chậm

nhất sau 5 ngày làm việc đầu tháng sau phải báo cáo tổng hợp tình hình giao dịch

nghiệp vụ này trong tháng trước và những kiến nghị.

Nhìn chung, quyền chọn tiền đồng ra đời cho thấy sự phát triển từng bước của

thị trường quyền chọn tiền tệ Việt Nam, góp phần tạo cơ hội cho các doanh nghiệp

phòng ngừa rủi ro tỷ giá trên thị trường.

73

2.1.3. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình triển khai, phát triển thị

trƣờng quyền chọn tiền tệ tại Việt Nam

2.1.3.1. Thuận lợi

Thứ nhất, là Việt Nam đã bắt đầu mở cửa thị trường tài chính – ngân hàng.

Những cam kết trong lĩnh vực dịch vụ tài chính sẽ mang lại cho Việt nam nhiều thời

cơ mới. Những hiệu ứng tích cực của việc gia nhập WTO lên tăng trưởng kinh tế sẽ

tạo thêm nhiều cơ hội kinh doanh cho ngành dịch vụ tài chính. Sự phát triển theo

chiều sâu của thị trường sẽ thúc đẩy hơn nữa nhờ quá trình cải cách tài chính được

tăng cường hơn, cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng gay gắt hơn sẽ kéo theo sự ra

đời của một loạt sản phẩm tài chính mới trong khuôn khổ quy định của WTO.

Ngoài ra, các tổ chức tín dụng trong nước còn có thể học hỏi được những kinh

nghiệm quản lý, kiến thức và công nghệ tài chính hiện đại từ các định chế tài chính

nước ngoài khi họ tham gia vào thị trường Việt Nam.

Việc có thêm nhiều cơ hội kinh doanh và sự cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ

sẽ tạo ra một động lực to lớn cho cải cách và đổi mới triệt để ở các tổ chức tín dụng

trong nước. Một số trong những cải cách và đổi mới này là việc thành lập các công

ty quản lý tài sản để quản lý các khoản nợ xấu do quá trình cho vay theo chỉ định, là

việc hoàn thiện các chính sách tín dụng dựa thuần túy trên các nguyên tắc thương

mại và thị trường, là sự hoàn thiện công tác kế toán, kiểm toán phù hợp với thông lệ

quốc tế. Ngoài ra, sự cạnh tranh và mở rộng thị trường dịch vụ tài chính cũng sẽ có

những ảnh hưởng to lớn lên nền tảng văn hóa và quản trị của các tổ chức tín dụng

theo hướng minh bạch hơn, đáng tin cậy hơn, đặc biệt khi những tổ chức này có cổ

phiếu hoặc trái phiếu được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Sự có mặt của các

ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam sẽ khuyến khích và kéo theo các khách hàng

truyền thống của họ đầu tư vào Việt Nam, do được những ngân hàng này cung cấp

các thông tin và dịch vụ tư vấn đầu tư thích hợp.

Thứ hai là tốc độ tăng trưởng của kim ngạch xuất nhập khẩu đang tăng bền

vững qua các năm. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2007 xấp xỉ

74

50 tỷ USD tăng khoảng 30% so với năm 2006. 11 tháng đầu năm 2008, tổng kim

ngạch xuất khẩu tăng 34%, tổng kim ngạch nhập khẩu tăng 38.8% so với cùng kỳ

năm trước. Như vậy, nhu cầu về ngoại tệ của các doanh nghiệp là rất lớn. Chính sự

phát triển này là một yếu tố tạo ra nhu cầu phòng ngừa rủi ro tỷ giá của các doanh

nghiệp xuất nhập khẩu trên thị trường.

Thứ ba, là sự đổi mới trong chính sách quản lý ngoại hối của Chính phủ mà

nổi bật là quyết định 1452/2004/QĐ-NHNN ngày 10/11/2004. Quyết định này đã

cho phép tất cả các TCTD được phép giao dịch ngoại hối được giao dịch quyền lựa

chọn. Không chỉ các tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế, tổ chức khác, Ngân hàng nhà

nước tham gia giao dịch quyền lựa chọn mà các cá nhân cũng được phép tham gia.

Điểm mới tiếp theo là kỳ hạn của giao dịch quyền lựa chọn giữa các ngoại tệ với

nhau do tổ chức tín dụng được phép và khách hàng tự thỏa thuận. Có thể nói Ngân

hàng Nhà nước đã có sự chuyển biến lớn trong cung cách quản lý các hoạt động

giao dịch ngoại hối tạo đà cho thị trường quyền chọn tiền tệ của nước ta phát triển

đa dạng, đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế. Thêm vào đó tổ chức tín dụng được

phép duy trì tổng giá trị hợp đồng quyền chọn không có giao dịch đối ứng tối đa

10% vốn tự có. Quy định giúp các tổ chức tín dụng có một biên độ rộng rãi hơn khi

thực hiện nghiệp vụ này so với quy định không quá 500,000USD như trước đây.

Nhìn chung, quyết định 1452/2004/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước đã mở

rộng thêm cánh cửa bước vào thị trường quyền chọn tiền tệ Việt Nam của các chủ

thể kinh tế nước nhà. Điểm mới tiếp theo trong chính sách quản lý thị trường ngoại

hối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đó là đã nới rộng biên độ giao dịch tỷ giá

đối với USD quy định cho các NHTM là 3% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng

do Ngân hàng Nhà nước công bố. Quyết định này có hiệu lực thi hành từ tháng

Thứ tư là do hệ thống các tổ chức tín dụng của nước ta đang trong quá

11/2008 đã tạo ra một bước đệm cho quá trình từng bước tự do hóa tỷ giá ở nước ta.

trình phát triển về cả số lượng và chất lượng. Hiện nước ta có có 5 NHTM nhà

nước (trong đó có Ngân hàng Ngoại thương mới chuyển sang mô hình cổ phần), 1

ngân hàng chính sách xã hội, 6 ngân hàng liên doanh, 38 NHTM cổ phần, 47 chi

75

nhánh ngân hàng nước ngoài. Trong tương lai khi nghiệp vụ quyền chọn được thực

hiện rộng rãi tại các tổ chức tín dụng này sẽ tạo ra sự phong phú và đa dạng hoá cho

thị trường cũng như sự cạnh tranh lành mạnh giúp thị trường quyền chọn tiền tệ

phát triển sôi động.

2.1.3.2. Khó khăn

Mặc dù ra đời trong bối cảnh nền kinh tế phát triển khả quan và có những

thuận lợi như đã phân tích trên nhưng thị trường quyền chọn Việt Nam vẫn phải đối

mặt với không ít những khó khăn trong quá trình hoạt động. Cụ thể như sau:

Những khó khăn từ phía bên bán quyền chọn (các Ngân hàng thương mại)

- Kỹ thuật mua bán quyền chọn phức tạp nên gây lúng túng cho các Ngân

hàng thương mại. Công cụ quyền chọn có những ưu thế nhất định so với các công

cụ khác như giao dịch kỳ hạn, giao dịch hoán đổi trên thị trường ngoại hối đặc biệt

là vai trò phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Tuy nhiên, có thể nói kỹ thuật mua bán của

nghiệp vụ quyền chọn phức tạp hơn nhiều. Trong khi đó, các ngân hàng Việt Nam

chưa có kinh nghiệm thực hiện và còn khá non trẻ trong hoạt động này. Ngay cả đội

ngũ nhân viên ngân hàng cũng chưa có kiến thức sâu rộng và hiểu biết thấu đáo về

nghiệp vụ này. Mặc dù hiện nay một số ngân hàng thực hiện nghiệp vụ này có tính

chuyên nghiệp hơn như ACB, Sacombank… nhưng trong quá trình thực hiện vẫn

còn nhiều lúng túng và hạn chế.

- Số lượng khách hàng còn ít gây khó khăn cho ngân hàng trong việc kinh

doanh có lãi nghiệp vụ quyền chọn. Quyền chọn là một công cụ bảo hiểm rủi ro tỷ

giá, đứng trên giác độ là người bảo hiểm, các ngân hàng khi phát hành quyền chọn

rất cần có số đông khách hàng để có thể làm trung gian cân đối hay điều hòa rủi ro

giữa những người ký kết hợp đồng quyền chọn tiền tệ với ngân hàng. Qua tổng kết

giao dịch quyền chọn tiền tệ giữa các ngân hàng thì mới chỉ có vài chục khách hàng

và trên thực tế các ngân hàng buộc phải ký lại hợp đồng quyền chọn tiền tệ nhận

được với các ngân hàng nước ngoài giống như dạng tái bảo hiểm. Sở dĩ làm như

vậy vì ngân hàng có số lượng khách hàng tham gia nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ

76

quá ít và không đủ điều hòa rủi ro tỷ giá. Thêm vào đó số lượng ngân hàng nội địa

có khả năng tham gia nghiệp vụ này còn ít nên việc tham gia quyền chọn tiền tệ với

ngân hàng nước ngoài là giải pháp tốt nhất. Tuy nhiên, làm như vậy các NHTM

Việt Nam sẽ không có lãi vì phí quyền chọn thu được từ khách hàng lại phải đóng

mức tương đương cho ngân hàng nước ngoài. Mặt khác, bản thân các ngân hàng là

người phát hành quyền chọn cũng gặp vướng mắc: khi thu phí quyền chọn ngân

hàng phải chịu khoản VAT 10%, nhưng nếu sau đó ngân hàng tham gia tái bảo

hiểm với ngân hàng nước ngoài thì không được khấu trừ khoản VAT 10% và vô

hình chung đã làm các ngân hàng lỗ ngay khoản VAT 10%.

- Hạ tầng công nghệ của các NHTM Việt Nam còn hạn chế. Do tiềm lực về

vốn của các NHTM Việt Nam chưa lớn (những NHTM có Vốn điều lệ lớn cũng chỉ

khoảng trên 10.000 tỷ đồng), vì vậy sự đầu tư cho công nghệ còn hạn chế. Đối với

nghiệp vụ đòi hỏi kỹ thuật cao như quyền chọn tiền tệ, việc có công nghệ hiện đại

để cập nhật tin tức cũng như xử lý, tính toán phí giao dịch là một yếu tố rất quan

trọng trong quá trình triển khai và phát triển. Các NHTM chưa đủ nguồn vốn để đầu

tư vào những công nghệ tiên tiến trên thế giới mà thường chỉ đầu tư vào những công

nghệ vừa phải, đơn giản hơn để phù hợp với tiềm lực tài chính của mình. Đây cũng

là một khó khăn đối với các NHTM trong việc triển khai và phát triển nghiệp vụ

quyền chọn tại các NHTM.

- Công tác tiếp thị, quảng bá không được duy trì thường xuyên, liên tục và

định kỳ. Trong thời gian đầu triển khai nghiệp vụ quyền chọn trên thị trường, công

tác tiếp thị quảng cáo sản phẩm của các ngân hàng đến các doanh nghiệp khá

thường xuyên và tích cực. Tuy nhiên, sau đó công tác này không còn được duy trì

đều đặn như trước.

Những khó khăn từ bên mua hợp đồng quyền chọn:

- Các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn chưa có Giám Đốc Tài chính riêng

chuyên nghiên cứu, quản lý và tư vấn về những rủi ro về tỷ giá, lãi suất. Do đó, các

doanh nghiệp phần lớn là có sự hạn chế nhiều về kiến thức, hiểu biết về công cụ

77

quyền chọn tiền tệ. Bên cạnh đó các doanh nghiệp nước ta thường có thói quen làm

theo truyền thống, ngại phải làm quen với những nghiệp vụ phức tạp và mới mẻ. Về

các cá nhân, thực tế cũng có nhiều trường hợp thực hiện mua bán các quyền chọn

ngoại tệ để kinh doanh, nhưng phần lớn là để làm thử, hoặc thực hành những lý

thuyết đã thu thập chứ chưa có tính chuyên nghiệp và phân tích xu hướng.

- Một số nhân viên giao dịch của doanh nghiệp thì cho rằng họ sẽ gặp khó

khăn trong việc giải thích, trình bày với lãnh đạo khi bỏ ra một khoản phí mua

quyền chọn mà nhỡ ra không sử dụng quyền chọn. Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp

hiện nay còn lúng túng không biết phải hạch toán phí Quyền chọn tiền tệ vào đâu thì

được coi là hợp lý.

- Các doanh nghiệp chưa thấy lợi ích rõ ràng của nghiệp vụ quyền chọn tiền

tệ. Mức phí quyền chọn mà các NHTM đưa ra còn cao do thường chỉ là trung gian

giữa ngân hàng nước ngoài và khách hàng nên một số ngân hàng thương mại tính

phí bằng cách cộng một khoản phí vào phí quyền chọn do các ngân hàng nước

ngoài đưa ra, các doanh nghiệp chưa thấy được lợi ích trong khi phải trả trước một

khoản tiền phí khá cao. Và chỉ khi gặp phải rủi ro họ mới thay đổi thói quen cũ. Còn

đối với các cá nhân muốn kinh doanh trên quyền chọn ngoại tệ thì mức phí cao

không có sức hấp dẫn họ vì tỷ giá trên thị trường quốc tế phải biến động mạnh thì

mới mong lấy lại mức phí đã trả và có lời.

Khó khăn từ những chính sách của cấp quản lý thị trường:

- Quy định pháp lý về hợp đồng quyền chọn tiền tệ chưa đồng bộ. Mặc dù thị

trường quyền chọn tiền tệ được hình thành từ năm 2003, nhưng đến ngày

29/08/2006, Ngân hàng Nhà nước mới có công văn số 7404/NHNN-KTTC quy định

thống nhất các hạch toán kế toán nghiệp vụ phái sinh tiền tệ. Điều này cho thấy có

sự không đồng bộ trong việc triển khai và phát triển thị trường của các cấp quản lý

làm ảnh hưởng không ít đến thị trường vốn đã non nớt.

- Chưa kết thúc thời gian thực hiện thí điểm quyền chọn tiền đồng. Quyền

chọn tiền đồng bắt đầu được thí điểm thực hiện từ tháng 4/2005, cho đến nay hơn 3

78

năm nhưng giai đoạn thí điểm này vẫn chưa kết thúc. Các NHTM khi tham gia vào

thị trường vẫn còn bị ràng buộc nhiều về điều kiện để được thực hiện giao dịch

quyền chọn như phải có vốn tự có tối thiểu 200 tỷ VND, kinh doanh có lãi trong 5

năm gần nhất, doanh số mua bán ngoại tệ/VND trong năm tối thiểu đạt 1 tỷ USD.

Và hiện nay chỉ mới được thực hiện quyền chọn tiền đồng cho các tổ chức kinh tế,

không thực hiện cho cá nhân. Quy định này đã giới hạn lại các chủ thể có thể tham

gia vào thị trường vốn đã rất ít.

- Khó khăn tiếp theo cần đề cập đến là sự quản lý thị trường ngoại hối khá

chặt của Ngân hàng Nhà nước bằng các chính sách tiền tệ. Kịch bản “biến động

trong khoảng 1%” luôn được Ngân hàng Nhà nước thực hiện để tỷ giá trong năm

chỉ biến động cao nhất là 1% (Ngân hàng Nhà nước mới nới rộng biên độ dao động

của tỷ giá lên 3% từ tháng 11/2008). Với giới hạn này thì USD trong năm biến động

không đáng kể. Mà nếu như vậy, thì thật khó để phát triển các công cụ phòng ngừa

rủi ro tỷ giá.

Khó khăn vì sự kém phát triển của thị trường tài chính - tiền tệ Việt Nam

Hiện nay, mức độ phát triển của thị trường tài chính tiền tệ của Việt Nam còn

rất hạn chế. Xét về độ sâu tài chính, mức độ tiền tệ hóa nền kinh tế, thị trường tài

chính Việt Nam vẫn còn hết sức kém phát triển và lạc hậu so với các nước trong

khu vực.

Sự nông cạn của thị trường sẽ làm cho các công cụ thị trường kém phát huy

tác dụng, trong đó bao gồm cả quyền chọn tiền tệ. Sự yếu kém của thị trường tài

chính Việt Nam được phản ánh qua các chỉ số cơ bản đo độ sâu tài chính của một

quốc gia như sau: M2/GDP, tín dụng/GDP, tiền gửi/GDP…đều ở mức thấp so với

chỉ số của một số quốc gia khác.

Sự lạc hậu sơ khai của thị trường Tài chính Việt Nam cũng bao gồm cả tình

trạng các công cụ tài chính còn nghèo nàn về chủng loại và nhỏ bé về lượng giao

dịch tại các Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội

cũng như trên thị trường tiền tệ trong những năm qua. Thị trường chứng khoán mới

79

đi vào hoạt động được hơn 7 năm và mức độ sôi động còn thấp, hàng hóa trên thị

trường còn chưa phong phú. Thực chất thì Việt Nam hiện nay chưa có một thị

trường chứng khoán theo đúng nghĩa của nó, sự tham gia của các trung gian tài

chính vào thị trường mới ở mức độ thăm dò, nhiều tổ chức còn đứng ngoài cuộc.

Bên cạnh đó, thị trường tiền tệ với sự hoạt động của thị trường mở, thị trườn liên

ngân hàng còn ít sôi động. Các giao dịch trên thị trường này còn mang tính một

chiều, tức là các ngân hàng luôn là người cung ứng vốn còn mọt số ngân hàng luôn

có nhu cầu vay vốn. Chính vì vậy thị trường tiền tệ hoạt động còn rất nhiều hạn chế,

chưa thực sự thành trung gian điều tiết vốn trên thị trường. Nhìn vào bảng 2.2 ta có

thể thấy độ sâu tài chính M2/GDP của Việt Nam còn khá thấp, thấp nhất so với một

số quốc gia trong khu vực. Ngay khi so sánh với nước láng giềng rất gần Việt Nam

là Thái Lan thì độ sâu của Việt Nam chỉ bằng xấp xỉ 1/10 so với độ sâu của Thái

Lan và hầu như chưa được cải thiện nhiều trong suốt các năm từ 2002-2007. Đây

cũng có thể coi là một trong khó khăn mà các NHTM Việt Nam gặp phải khi phát

triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ, do thị trường tài chính chưa phát triển đồng

nghĩa với việc cơ sở pháp lý và trình độ hiểu biết của các chủ thể tham gia thị

trường còn hạn chế, và như vậy khi triển khai nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ các

NHTM Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn.

Bảng 2.2: Độ sâu tài chính M2/GDP tại một số quốc gia trong khu vực

Quốc gia 2002 2003 2004 2005 2006 2007

0.58 0.61 0.67 0.75 0.68 0.71 Việt Nam

6.3 6.41 6.51 6.3 6.12 6.23 Thái Lan

5.39 5.44 5.51 5.8 5.7 5.68 Philipines

1.46 1.52 1.63 1.83 1.99 1.93 Trung quốc

1.82 2.11 2.36 2.36 2.45 2.48 Indonesia

80

Nguồn [5]

2.2. TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI VÀ PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ QUYỀN

CHỌN TIỀN TỆ TẠI MỘT SỐ NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM

2.2.1. Tình hình triển khai và phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại Ngân

hàng Thƣơng mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam

Về cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ

Eximbank là ngân hàng có tình hình hoạt động kinh doanh tiền tệ phát triển

khá cao trong số các ngân hàng TMCP ở nước ta với hệ thống giao dịch qua mạng

Reuters để thực hiện giao dịch trực tiếp với các ngân hàng trong và ngoài nước.

Thông qua mạng Reuters, Eximbank có thể giao dịch với hầu hết các ngân hàng lớn

ở các thị trường tài chính trên thế giới dựa trên bảng tỷ giá được cập nhật liên tục

theo từng giây như ngân hàng Fortis Bank….

Bên cạnh đó, hãng tin Reuters còn liên tục cung cấp những thông tin về kinh

tế, chính trị có thể ảnh hưởng đến thị trường tài chính-tiền tệ quốc tế một cách

nhanh nhất và kịp thời với những diễn biến của tỷ giá các loại ngoại tệ. Để có được

những thuận lợi trên, Eximbank đã phải chi ra 20.000 USD/quý thanh toán phí cho

Reuters. Với mức phí còn khá cao nên hiện tại Eximbank chỉ có một máy nối mạng

Reuters để thực hiện, có thể nói là quá ít để phát triển hơn nữa nghiệp vụ kinh

doanh ngoại hối.

Về kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ và đội ngũ nhân viên giao dịch

kinh doanh tiền tệ

Cũng từ mạng Reuters, các nhân viên giao dịch của Eximbank luôn được hỗ

trợ về các công cụ phân tích kỹ thuật hiện đại dựa trên các chỉ số, các số liệu thống

kê tỷ giá, mức độ biến động tỷ giá trong tương lai. Dựa trên những kiến thức và

thông tin đó cùng với kinh nghiệm trong quá trình làm việc, các nhân viên kinh

doanh ngoại tệ dự báo xu hướng, tư vấn cho khách hàng những phương pháp thực

hiện đạt hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó, các ngân hàng nước ngoài mà Eximbank

81

đã thiết lập mối quan hệ đã hỗ trợ cho Eximbank về kiến thức chuyên môn, thao tác

nghiệp vụ cũng như trao đổi thông tin trong quá trình giao dịch. Các nhân viên của

Eximbank cũng thường xuyên được tham gia các lớp đào tạo nghiệp vụ do các

chuyên gia ở ngân hàng nước ngoài trực tiếp giảng dạy. Ngoài ra, Eximbank còn

đưa một số nhân viên đi đào tạo ở nước ngoài để học hỏi và tích lũy thêm từ các

ngân hàng bạn.

Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua có thể nói phòng Kinh doanh tiền tệ của

Eximbank đã rơi vào tình huống “chảy máu chất xám”. Một số những nhân viên kỳ

cựu, người thì thuyên chuyển sang phòng nghiệp vụ khác, người thì đầu quân cho

các ngân hàng khác, trong đó hầu hết là các ngân hàng nước ngoài đang hoạt động

tại Việt Nam. Nguyên nhân có thể nói đến là rất nhiều nhưng chung quy lại thực

chất chủ yếu là chế độ đãi ngộ chưa thỏa đáng. Điều này cũng thật dễ hiểu khi mà

các dealer, những người sử dụng chất xám của mình để tìm kiếm lợi nhuận kinh

doanh tiền tệ cho ngân hàng lại có chế độ ngang bằng với các bộ phận khác tại

Eximbank và thực sự là thấp hơn so với các ngân hàng nước ngoài. Chính vì vậy

nhân sự của phòng Kinh doanh tiền tệ Eximbank luôn có sự thay đổi liên tục đặc

biệt bộ phận giao dịch mua bán ngoại tệ và thực hiện các hợp đồng kỳ hạn, quyền

chọn với khách hàng hiện nay chỉ có vài người chủ chốt thực hiện. Với số lượng ít

như thế, họ chỉ đủ thời gian để thực hiện các giao dịch với các khách hàng truyền

thống bao gồm các ngân hàng khác, các doanh nghiệp và các cá nhân. Do đó, việc

tiếp thị đến tận công ty hay tư vấn cho các khách hàng mới xem ra khó thực hiện

được một cách tích cực và thường xuyên.

Quá trình triển khai và phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ

Eximbank là ngân hàng có bề dày kinh nghiệm kinh doanh ngoại tệ so với các

ngân hàng khác trong nước. Từ đầu năm 2000 trở đi, hoạt động này bắt đầu khởi

sắc và phát triển không ngừng qua các năm. Tiếp theo bước chân của Eximbank,

một số ngân hàng khác cũng đã rất thành công trong chiến lược phát triển kinh

doanh ngoại tệ như Ngân hàng TMCP Kỹ Thương, Ngân hàng TMCP Sài Gòn

82

Thương Tín…Tuy nhiên, có thể nói Eximbank là ngân hàng mở đường cho nghiệp

vụ kinh doanh ngoại tệ phát triển rầm rộ ở Việt Nam.

Hình 2.1: Biểu đồ Lãi từ kinh doanh ngoại hối năm 2003 – 2006 của Eximbank

Nguồn:[6]

Trong thời điểm đó, Eximbank mới chỉ thực hiện chủ yếu là các giao dịch giao

ngay, kỳ hạn. Ngày 12/02/2003, được sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước,

Eximbank là ngân hàng đầu tiên thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ mà

ban đầu là quyền chọn ngoại tệ. Sau đó, đến ngày 29/03/2006, theo công văn số

2247/NHNN-QLNH, Eximbank được phép thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền

chọn giữa ngoại tệ và đồng Việt Nam.

Quy trình thực hiện nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại Eximbank có thể tóm

Ký hợp đồng

tắt như hình 2.2.

Thu thập yếu tố

Giới thiệu thông tin

Khách hàng

Bộ phận kế toán

Ngân hàng khác

Liên hệ với các NH để giao dịch đối ứng

Tính toán mức phí & trình lãnh đạo

Thống nhất với mức phí

Giao dịch viên

83

Hình 2.2 : Quy trình thực hiện nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại Eximbank

Khi có khách hàng có nhu cầu mua quyền chọn, giao dịch viên giới thiệu cho

khách hàng về quyền chọn và giải thích các thuật ngữ cũng như các điều khoản liên

quan trong thoả thuận chung và hợp đồng giao dịch quyền lựa chọn. Dựa trên đề

nghị của khách hàng, giao dịch viên thu thập đầy đủ các yếu tố của một giao dịch

như sau: số lượng ngoại tệ giao dịch, đồng tiền mua, đồng tiền bán, ngày ký kết hợp

đồng, tỷ giá thực hiện, loại quyền chọn, kiểu quyền chọn, thời hạn hiệu lực của

quyền chọn. Như đã trình bày ở chương 1, mức phí quyền chọn phụ thuộc vào khá

nhiều yếu tố, vì vậy sau khi thu thập thông tin giao dịch viên sẽ tính toán mức phí

quyền chọn dựa trên các cơ sở sau:

Đối với các hợp đồng quyền chọn ngoại tệ: tham khảo mức phí quyền chọn

của ngoại tệ giao dịch ở các ngân hàng nước ngoài cũng như ngân hàng trong nước.

Đối với các hợp đồng quyền chọn tiền đồng: ngoài mức phí quyền chọn của

ngoại tệ giao dịch ở ngân hàng trong và ngoài nước, phải tính thêm mức biến động

tỷ giá USD/VND dự kiến.

Trên cơ sở đó, tính toán thêm phần lợi nhuận của ngân hàng, giao dịch viên sẽ

trình lãnh đạo Phòng kinh doanh tiền tệ các chi tiết dự kiến giao dịch với khách

hàng, mức phí quyền lựa chọn áp dụng cho khách hàng để Lãnh đạo phòng quyết

định. Căn cứ các yếu tố của giao dịch quyền lựa chọn do khách hàng yêu cầu, giao

dịch viên tiến hành chào mức phí cho khách hàng và lưu ý khách hàng phí này chưa

bao gồm VAT, phí được thu bằng VND, và được trích trực tiếp từ tài khoản của

khách hàng.

84

Nếu khách hàng đồng ý với mức phí quyền chọn, nhân viên giao dịch lập

phiếu giao dịch gửi cho bộ phận Kế toán tiến hành ký hợp đồng với khách hàng.

Ngay khi khách hàng ký hợp đồng quyền chọn, giao dịch viên liên hệ với Ngân

hàng nước ngoài hoặc Ngân hàng trong nước được phép giao dịch nghiệp vụ quyền

chọn tiền tệ để thực hiện giao dịch đối ứng.

Thực hiện hợp đồng quyền chọn:

Đối với đối tác mua quyền chọn của Eximbank : trong thời hạn hiệu lực của

hợp đồng quyền chọn, khách hàng có yêu cầu thực hiện hợp đồng quyền lựa chọn

phải gửi giấy đề nghị thực hiện hợp đồng cho Eximbank (theo mẫu của Eximbank).

Giấy đề nghị thực hiện hợp đồng phải được đại diện hợp pháp của bên mua ký tên

và đóng dấu (nếu có). Khách hàng có thể thực hiện một trong các phương thức sau:

- Thanh toán 100% giá trị hợp đồng cho Eximbank.

- Tiến hành giao dịch đối ứng để tất toán hợp đồng quyền chọn: nếu khách

hàng không có đủ số lượng tiền tệ để tất toán hợp đồng quyền chọn hoặc khách

hàng thực hiện quyền mua ngoại tệ bằng VND nhưng không xuất trình được chứng

từ chứng minh mục đích sử dụng ngoại tệ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.

Các giao dịch đối ứng có thể là mua hoặc bán theo hợp đồng giao ngay hay mua

hoặc bán theo hợp đồng kỳ hạn.

Đối với đối tác bán quyền cho Eximbank: Căn cứ yêu cầu thực hiện hợp

đồng quyền lựa chọn của khách hàng, Eximbank gửi yêu cầu thực hiện hợp đồng

quyền chọn cho đối tác mà Eximbank đã mua quyền chọn đối ứng.

Đối với quy trình thực hiện nghiệp vụ quyền chọn như trên, ta có thể thấy chỗ

hở ở đây là khi ký kết hợp đồng quyền chọn tiền đồng, loại quyền chọn mua với

khách hàng, nhân viên giao dịch phải kiểm tra các chứng từ để đảm bảo khách hàng

được phép mua ngoại tệ theo quy định quản lý ngoại hối. Trong khi, tại Eximbank

nhân viên sẽ tiến hành kiểm tra khi khách hàng đã ký hợp đồng quyền chọn và

muốn thực hiện hợp đồng. Nếu khách hàng không xuất trình được chứng từ chứng

minh thì Eximbank sẽ tiến hành giao dịch đối ứng để tất toán hợp đồng. Như vậy,

85

phải chăng khách hàng cá nhân, hoặc các công ty muốn đầu cơ từ nghiệp vụ này cứ

việc tham gia ký kết hợp đồng mua ngoại tệ bằng VND, nếu tỷ giá biến động có lợi

thì đến ngân hàng thực hiện hợp đồng bởi vì nếu chứng từ không hợp lệ thì họ cũng

vẫn được thực hiện hợp đồng cùng với một giao dịch đối ứng như mua ngoại tệ theo

giá giao ngay trên thị trường thì cũng lợi biết bao? Đây là điểm mà Eximbank có lẽ

phải xem xét lại cho thật chặt chẽ

Để tiến hành thực hiện nghiệp vụ này, Eximbank đã chủ động ký kết với các

ngân hàng nước ngoài “Thoả thuận chung về giao dịch tiền tệ đa biên giới” của

“Hiệp hội các nhà giao dịch hoán đổi quốc tế” (ISDA – International Swaps Dealers

Association). Trong thời gian đầu, do chưa có thị trường quyền chọn liên ngân hàng

ở nước ta nên Eximbank phải thực hiện tái bảo hiểm bằng cách mua hợp đồng

quyền chọn đối ứng trên thị trường quốc tế cho những hợp đồng quyền chọn đã bán

cho doanh nghiệp trong nước. Các hợp đồng quyền chọn đối ứng, Eximbank thường

thực hiện với các ngân hàng như: Bipielle bank (Suisse), Lugano, Fortisbank

Hongkong Branch, Natixis Paris – SG Desk, City Bank Chi nhánh Việt Nam,.v.v….

Có thể nói, Eximbank mới chỉ làm vai trò của một nhà môi giới trung gian giữa nhu

cầu quyền chọn trong nước và nguồn cung quyền chọn ở thị trường nước ngoài để

hưởng phần chênh lệch giá. Chính vì thế, mức phí quyền chọn còn khá cao bởi vì nó

bao gồm mức phí của ngân hàng nước ngoài chào cộng thêm phần lợi nhuận của

Eximbank và một phần bởi vì các doanh nghiệp chưa nhận thức hết được những rủi

ro tiềm ẩn của thị trường

Về số lượng hợp đồng và doanh số quyền chọn tiền tệ: kể từ năm 2003 đến

năm 2005, Eximbank ký kết 31 hợp đồng bán quyền chọn mua với tổng trị giá là

3,6 triệu USD và 18 hợp đồng bán quyền chọn bán với tổng trị giá là 2,2 triệu USD

[6]. Bắt đầu từ năm 2006 trở đi, hoạt động này có tăng khá nhanh, về doanh số, theo

số liệu tính toán mới nhất, doanh số thực hiện quyền chọn tiền đồng năm 2006 là

71,45 triệu USD và năm 2007 là 51, 98 triệu USD. Doanh số thực hiện quyền chọn

ngoại tệ năm 2006 là 4,16 triệu USD, năm 2007 là 5,3 triệu USD [6]. Tuy số lượng

hợp đồng và doanh số thực hiện quyền chọn có tăng so với thời gian thí điểm thực

86

hiện nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ, nhưng con số này quả thật còn quá khiêm tốn

và chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với các giao dịch giao ngay.

Bảng 2.3: Doanh số thực hiện quyền chọn tiền tệ trong 2 năm 2006-2007

Phân loại

Năm 2006 Năm 2007

Quyền chọn ngoại tệ 4.160.000

Bán quyền chọn mua ngoại tệ 1.100.000

Bán quyền chọn bán ngoại tệ 1.100.000 2.200.000

Mua quyền chọn mua ngoại tệ 1.100.000

Mua quyền chọn bán ngoại tệ 960.000 1.100.000

Quyền chọn tiền đồng 71.450.000

Nguồn: [6]

Bán quyền chọn mua ngoại tệ/VNĐ 71.450.000 5.475.000

2.2.2. Tình hình triển khai và phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại

Ngân hàng Thƣơng mại cổ phần Ngoại thƣơng Việt Nam

Về cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ

Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam là một ngân hàng có nguồn vốn

ngoại tệ lớn. Trong kinh doanh, vốn là một yếu tố quan trọng, nó giúp ngân hàng

mở rộng các hoạt động kinh doanh, chiếm lĩnh thị trường. Với số vốn ngoại tệ

chiếm tỷ trọng trong tổng nguồn vốn nên có thể đáp ứng được các nhu cầu về ngoại

tệ cho các nhà xuất khẩu, nhập khẩu cả về ngắn, trung và dài hạn. Đây cũng là điều

kiện thuận lợi để ngân hàng có thể đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động của thị

trường ngoại tệ liên ngân hàng, tham gia vào thị trường hối đoái quốc tế phục vụ

cho khách hàng và tìm kiếm lợi nhuận cho ngân hàng.

Công nghệ ngân hàng được trang bị hiện đại đưa vào phục vụ các nghiệp vụ

ngân hàng, giúp tổng hợp và kịp thời cung cấp thông tin phục vụ công tác quản lý

kinh doanh, nắm bắt nhanh nhạy biến động của thị trường để có quyết định xử lý

87

linh hoạt, kịp thời, tránh tổn thất cho ngân hàng cũng như nắm bắt thời cơ đem lại

cho ngân hàng những khoản thu nhập lớn. Hiện nay Ngân hàng TMCP Ngoại

thương Việt Nam đang là ngân hàng dẫn đầu về trình độ công nghệ cao và số tiền

đầu tư cho lĩnh vực này tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ.

Về trình độ chuyên môn của cán bộ

Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam có đội ngũ cán bộ giỏi chuyên

môn, nắm vững các nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng, xử lý nhanh nhạy trước mọi

tình huống phù hợp cho các hoạt động kinh doanh tiền tệ đầy khó khăn và phức tạp.

Không chỉ có uy tín trong nước, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam cũng

được các bạn bè quốc tế đánh giá cao, vì vậy Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt

Nam đã có mối quan hệ lâu dài truyền thống với các ngân hàng tiên tiến trên thế

giới và các ngân hàng bạn cũng thường chia sẻ kinh nghiệm với Ngân hàng TMCP

Ngoại thương Việt Nam ở các nghiệp vụ, đặc biệt là nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ

trong đó có quyền chọn tiền tệ.

Quá trình triển khai và phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ

Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam bắt đầu triển khai nghiệp vụ quyền

chọn tiền tệ từ tháng 09/2005. Từ đó đến nay, do những điều kiện khó khăn về cơ

chế cũng như thị trường tài chính trong nước nên nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ vẫn

chưa được phát triển sâu rộng và doanh thu từ nghiệp vụ này mang lại còn chiếm

một tỷ trọng khá khiêm tốn trong doanh thu từ nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ của

Ngân hàng Ngoại thương. Số lượng hợp đồng tính đến thời điểm hiện tại chưa đạt

tới hai con số, giá trị hợp đồng vẫn còn khá nhỏ bé nên hiện nay Ngân hàng Ngoại

thương Việt Nam chưa chính thức ban hành quy trình của nghiệp vụ quyền chọn

tiền tệ. Đây cũng là một hạn chế mà Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam cần

sớm khắc phục. Tuy nhiên Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam cũng đang nỗ

lực để có thể ban hành quy trình nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ vào đầu năm 2009,

đây có thể coi như là một trong những cố gắng của Vietcombank để có thể đưa

nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ đến gần với khách hàng, giúp khách hàng hiểu và sử

88

dụng được những nghiệp vụ mới, hạn chế rủi ro tỷ giá và đem lại lợi nhuận cho cho

khách hàng.

Đơn vị:nguyên tệ

Bảng 2.4: Trạng thái ngoại tệ cuối năm của VCB

USD

EUR

JPY

So với

So với

So với

Số tuyệt đối

vốn tự

Số tuyệt đối

vốn tự

Số tuyệt đối

vốn tự

31.12.2002 -21705432,00

-30%

-1132111,00

-1%

18 000 000,00

-

-

31.12.2003 -33466070,11

-25,38%

-4307441,82

-3,27%

-599 650 193,06

3,87%

-

31.12.2004 -26614997,10

-16,35%

2919261,86

+2,26%

-63 648 149,54

0,37%

-

31.12.2005 -50904866,97

-27,16%

2426464,33

+1,54%

-425 027 526,54

2,07%

-

31.12.2006 -40904866,97

-20,16%

1426464,33

+0,84%

-325 027 526,54

1,07%

-

31.12.2007 -45904866,97

-22,16%

1926464,33

+1,24%

-395 027 526,54

1,87%

Nguồn: [5]

Kết quả kinh doanh ngoại tệ của Vietcombank trong ba năm vừa qua (2005-

2007) có thể nói rất khả quan, đem lại nguồn lợi nhuận lớn cho ngân hàng (xem

bảng 2.5, 2.6, 2.7, 2.8).

Bảng 2.5: Doanh số mua bán ngoại tệ - VND của Vietcombank

89

2007 2005 2006

8.964 Tổng Mua trong nƣớc 7.806 8.650

891 1.734 995 - SGD

2.507 2.074 2.375 - HCM

574 966 913 - NHNN

8.924 Tổng Bán trong nƣớc 7.805 8.513

Nguồn :Vietcombank

Tổng Doanh số 15.611 17.163 17.888

Bảng 2.6: Doanh số mua bán Ngoại tệ - Ngoại tệ trên thị trường quốc tế của

Vietcombank

2007 2005 2006

1.953 982 1.269 Tổng Mua ngoại tệ bán

1.340 698 839 USD

613 284 430 - TW mua

- HCM mua

1.485 706 1.046 Tổng Bán ngoại tệ mua

873 439 621 USD

612 267 425 - TW bán

- HCM bán

Nguồn :Vietcombank

Tổng Doanh số 1.688 2.315 3.438

Bảng 2.7: Doanh số mua bán Ngoại tệ - Ngoại tệ trên thị trường trong nước của

Vietcombank

2005 2006 2007

90

300 918 1.141 Tổng Mua ngoại tệ bán

USD 229 704 414

- TW mua 71 214 727

- HCM mua

369 992 1.275 Tổng bán ngoại tệ mua

USD 254 634 529

- TW bán 115 358 746

- HCM bán

Nguồn :Vietcombank

Tổng Doanh số 669 1910 2.416

Bảng 2.8: Doanh số mua bán ngoại tệ với NHNN và phục vụ xăng dầu của

Vietcombank

2005 2006 2007

Bán ngoại tệ phục vụ xăng dầu 1.513 2.208 1.896

Mua từ NHNN 913 574 966

Nguồn :Vietcombank

Vietcombank tự cân đối 1.295 1.322 547

Tuy nhiên đối với doanh số của nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ lại khá khiêm

tốn so với các nghiệp vụ truyền thống và các nghiệp vụ phái sinh ngoại hối khác,

chiếm tỷ trọng khá nhỏ (xem hình 2.4) cho thấy nghiệp vụ này chưa được phát triển

tương xứng với tiềm năng và nội lực của Vietcombank.

91

Hình 2.3: Biểu đồ tỷ trọng doanh số giao dịch quyền chọn tiền tệ của

Nguồn: Vietcombank

Vietcombank

2.2.3. Đánh giá chung về quá trình phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại

một số Ngân hàng thƣơng mại Việt Nam

2.2.3.1. Kết quả

Quyền chọn tiền tệ là một nghiệp vụ khá mới mẻ, phức tạp đối với khách hàng

Việt Nam nhưng qua hơn 05 năm triển khai từ thí điểm đến chính thức thực hiện

(tại Eximbank) và gần 03 năm thực hiện (tại Vietcombank), các ngân hàng này đã

đạt được những thành tựu bước đầu khả quan.

Thứ nhất, từ chỗ các nhân viên kinh doanh ngoại tệ hầu như chưa hiểu biết

gì về nghiệp vụ quyền chọn thì đến nay các nhân viên ngân hàng đã tiếp cận với

những kiến thức và kinh nghiệm của nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ trên thế giới,

nâng cao hiểu biết về nghiệp vụ và kinh nghiệm giao dịch với khách hàng, hiểu

được những chiến lược kinh doanh của nghiệp vụ này mà các ngân hàng các nước

áp dụng. Từ đó chất lượng của các nhân viên giao dịch ngoại tệ đã dần được nâng

cao.

92

Một số ngân hàng đã đầu tư công nghệ các chương trình phần mềm để tính

phí quyền chọn theo tiêu chuẩn quốc tế, từ đó có thể đưa ra mức phí hợp lý cho

khách hàng. Eximbank sử dụng mô hình tính phí của Reuters còn Vietcombank hiện

đang sử dụng mô hình Bloomber.

Công tác tuyên truyền, quảng bá rộng rãi đến khách hàng được các ngân

hàng quan tâm và thực hiện với mục đích giúp khách hàng hiểu thêm về những lợi

ích khi sử dụng công cụ quyền chọn tiền tệ. Đã có một số ngân hàng tổ chức những

buổi workshop giới thiệu miễn phí đến khách hàng những nội dung về quyền chọn

tiền tệ. Và như vậy, đến thời điểm hiện nay, nhiều doanh nghiệp đã biết đến quyền

chọn tiền tệ như một công cụ phòng ngừa rủi ro hữu hiệu.

Tính đến thời điểm hiện nay, các Ngân hàng đã ký kết với doanh nghiệp

được trên 60 hợp đồng (chủ yếu tập trung ở Eximbank), trong đó hợp đồng quyền

chọn mua ngoại tệ chiếm 68% [5]. Đây tuy là một con số còn khá khiêm tốn nhưng

cũng đã thể hiện những nỗ lực không ngừng của các ngân hàng trong việc đưa

nghiệp vụ mới mẻ này đến gần với khách hàng Việt Nam, giúp cho khách hàng nói

chung và các doanh nghiệp nói riêng được sử dụng những dịch vụ mới, hiện đại của

các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới.

Và một kết quả nữa cũng rất khả quan là một số NHTM đã được Ngân hàng

Nhà nước cho triển khai sản phẩm cơ cấu (structured product), với sự kết hợp của

nghiệp vụ tiền gửi và nghiệp quyền chọn tiền tệ. Đây là một sản phẩm được sử dụng

phổ biến và có tính thanh khoản trên thị trường tài chính quốc tế. Thực hiện nghiệp

vụ này, khách hàng và tổ chức tín dụng thoả thuận với nhau về một giao dịch tiền

gửi thông thường kèm theo một hợp đồng quyền chọn. Nghiệp vụ này giúp cho

khách hàng đa dạng hoá các hình thức đầu tư trong quá trình sử dụng nguồn vốn

ngoại tệ tạm thời nhàn rỗi, tạo ra cơ hội gia tăng lãi suất tiền gửi đồng USD, đồng

thời có khả năng đáp ứng nhu cầu chi trả ngoại tệ khác trong tương lai ở mức tỷ giá

hợp lý. Với việc thực hiện nghiệp vụ này, các NHTM có thể sẽ thu hút được nhiều

khách hàng hơn nữa, nâng cao giá trị và số lượng các hợp đồng quyền chọn tiền tệ.

93

2.2.3.2. Tồn tại, hạn chế

Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ nói chung và nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ nói

riêng là một trong những nghiệp vụ còn khá mới mẻ của các NHTM Việt Nam. Mặc

dù các ngân hàng đều có những chú trọng phát triển nhất định nhưng tỷ trọng lợi

nhuận từ nghiệp vụ này so với tổng lợi nhuận của ngân hàng còn khá nhỏ bé. Không

những thế, rất nhiều rủi ro đã xảy ra liên quan đến loại giao dịch này. Một số tồn

tại, hạn chế điển hình của các NHTM Việt Nam có thể liệt kê như sau:

Kiến thức của cán bộ ngân hàng về nghiệp vụ chuyên môn để vận hành giao

dịch và đo lường rủi ro còn yếu kém, kĩ năng xử lý dữ liệu bằng điện toán chưa cao.

Hơn nữa, các ngân hàng hiện nay chỉ tập trung đdến việc mua bán ngoại tệ nhằm

mục đích thanh toán, cho vay ngoại tệ mà quên đi yếu tố bảo hiểmphòng ngừa rủi ro

tỷ giá nên ngân hàng đóng vai trò chủ yếu là trung gian giao dịch hơn là nhà tạo lập

thị trường. Điều đó làm rủi ro trong lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng

tăng cao. Bên cạnh đó, các NHTM Việt Nam chưa có hệ thống EBS (Electronic

Brokerage System) nên tỷ giá mà các ngân hàng nhận được từ Reuters hay các hãng

tin khác cũng chỉ là tỷ giá tham khảo chứ chưa phải là tỷ giá giao dịch thật sự trên

thị trường. Giả sử theo thông tin đó thì nhân viên giao dịch có thể kiếm được lợi

nhuận nhưng khi tiến hành giao dịch thực tế thì tỷ giá lại khác gây rủi ro cho ngân

hàng. Vì vậy, các nhân viên giao dịch sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong khi thực hiện

các giao dịch quyền chọn tiền tệ.

Mặt khác hiện nay phần lớn các NHTM Việt Nam chưa có những bộ phận

nghiên cứu dự đoán sự thay đổi tỷ giá trên thị trường, từ đó xác định chiến lược

kinh doanh hiệu quả, hạn chế tối đa rủi ro. Hơn nữa, các ngân hàng rất yếu về kỹ

năng phân tích tỷ giá mà đặc biệt là yếu về phân tích kĩ thuật biến đổi cấu trúc dự

trữ giữa các loại ngoại tệ hay là danh mục ngoại tệ kinh doanh, giảm thiểu rủi ro.

Các NHTM Việt Nam hiện nay chưa có được phòng kinh doanh ngoại tệ

theo chuẩn mực thế giới. Theo chuẩn mực phòng Kinh doanh ngoại tệ bao gồm 3 bộ

phận: Bộ phận giao dịch kinh doanh (Front office), Bộ phận kiểm soát rủi ro

94

(Middle office) và Bộ phận kế toán hạch toán (Back office) nhưng hiện nay các

NHTM Việt Nam mới chỉ bao gồm Bộ phận giao dịch kinh doanh và Bộ phận kế

toán hạch toán (Back office) mà chưa có Bộ phận kiểm soát rủi ro về tỷ giá

(Middle office).

Tóm lại, mối quan tâm của doanh nghiệp – người mua quyền và ngân hàng

– người bán quyền là mối quan tâm, kỳ vọng ngược chiều nên chỉ khi nào tỷ giá

biến động với biên độ dao động lớn thì việc thực hiện giao dịch quyền lựa chọn mới

kỳ vọng mang lại hiệu quả. Vì phí giao dịch của ngân hàng luôn biến động khoảng

trên dưới 1% giá trị thực hiện, mà như trên đã đề cập, sự biến động giảm giá của

VND so với USD từ đầu năm đến tháng 3 năm 2003 chỉ có 0,33% thì chưa nhiều

(từ năm 2003-2007, mỗi năm chỉ biến động khoảng 0.5%, chỉ trong năm 2008, tỷ

giá mới bắt đầu có biến động lớn hơn, xấp xỉ 3%) nên rõ ràng việc doanh nghiệp

mua quyền chọn chưa trở thành một nhu cầu bức thiết, chưa kể tỷ giá USD/VND

chỉ có tăng (VND mất giá) chứ không giảm mấy, chỉ có vài đợt giảm nhưng rất nhẹ.

Chỉ có các đồng ngoại tệ như USD, EUR, GBP, JPY, . . . mới có biên độ gidao động

lớn.

Về mặt pháp lý, hiện chỉ có văn bản của Ngân hàng Nhà nước cho phép các

ngân hàng thực hiện thí điểm hợp đồng quyền chọn. Các cơ quan khác như Bộ

Công thương, Bộ tài chính (Tổng cục thuế) chưa có những văn bản làm rõ, xác nhận

nghiệp vụ này như một hoạt động kinh doanh tài chính của doanh nghiệp. Việc này

có thể gây khó khăn khi doanh nghiệp ghi nhận chi phí, nhất là trong trường hợp

không thực hiện quyền chọn. Việc không có các văn bản của các cơ quan khác điều

chỉnh nghiệp vụ này còn gây cản ngại tâm lý cho các doanh nghiệp nhà nước, chứ

vấn đề không nằm ở kiến thức, sự hiểu biết về nghiệp vụ giao dịch hối đoái này.

2.2.3.3. Nguyên nhân

Hiện nay, ở Việt Nam các nghiệp vụ phái sinh vẫn còn sơ khai, kém phát triển

thể hiện ở doanh số giao dịch thấp, thậm chí ở một số NHTM mặc dù đã triển khai

nghiệp vụ quyền chọn nhưng không có giao dịch. Trong khi đó trên thế giới các

95

nghiệp vụ phái sinh để phòng ngừabảo hiểm rủi ro tỷ giá như kỳ hạn, hoán đổi,

tương lai và quyền chọn đã được sử dụng phổ biến từ rất lâu với doanh số hàng

ngày lên tới hàng trăm tỷ USD, còn ở việc ứng dụng các công cụ phái sinh nhằm

bảo hiểmphòng ngừa rủi ro tỷ giá vẫn đang gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân chủ

yếu là do:

Một là, thiếu nhu cầu thực sự từ phía khách hàng.

Đây là vấn đề cốt lõi, vì trước đây tỷ giá USD/VND thường xuyên ổn định tại

mức trần so với giá Ngân hàng Nhà nước công bố, khách hàng không quan tâm tới

vấn đề phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Tuy nhiên, sang năm 2007 và đầu năm 2008, thị

trường chứng kiến sự biến động và đảo chiều mạnh mẽ của VND so với đồng Đô la

Mỹ, tỷ giá USD/VND giảm xuống giao dịch tại mức sàn. Nguyên nhân là do lượng

lớn ngoại tệ từ các hoạt động đầu tư trực tiếp, gián tiếp nước ngoài, kiều hối đổ vào

các NHTM làm xuất hiện dư thừa ngoại tệ do mất cân đối cung cầu. Nhiều doanh

nghiệp xuất khẩu hiện nay đang phải đối mặt với vấn đề rủi ro tỷ giá, đặc biệt là các

doanh nghiệp xuất khẩu trong ngành thuỷ sản, dệt may, cà phê... và các ngành sản

xuất, xuất khẩu khác. Mặc dù vậy, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa có thói

quen hay nói chính xác hơn là chưa quan tâm tới phòng chống rủi ro đối với các

hoạt động ngoại tệ của mình.

Hàng năm các doanh nghiệp Việt Nam đều phải vay ngoại tệ hàng trăm triệu

USD hoặc EUR để đầu tư vào các dự án lớn, các doanh nghiệp này sau khi vay

ngoại tệ thường bán số ngoại tệ này chuyển sang VND để tiến hành hoạt động đầu

tư dự án, đến kỳ trả nợ họ phải mua lại số ngoại tệ đó bằng VND. Trong thời gian

tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, rõ ràng sẽ có sự biến động về cả lãi suất

cho vay và cả tỷ giá hối đoái. Nếu sử dụng công cụ phái sinh như hoán đổi lãi suất

hoặc công cụ kỳ hạn hay quyền chọn về ngoại tệ thì các doanh nghiệp sẽ phòng

ngừa được rủi ro lãi suất trong trường hợp nếu lãi suất vay là thả nổi và khi lãi suất

thị trường đã tăng lên như hiện nay hoặc phòng ngừa được rủi ro tỷ giá khi ngoại tệ

có xu hướng giảm xuống vào thời điểm doanh nghiệp bán ngoại tệ.

96

Hai là, thiếu cơ sở pháp lý.

Trong vài năm trở lại đây, Ngân hàng Nhà nước đã cho phép các NHTM được

thực hiện nhiều nghiệp vụ mới như quyền chọn tiền tệ, quyền chọn vàng, hoán đổi

lãi suất. Tuy nhiên cơ sở pháp lý cho nghiệp vụ phái sinh còn chưa đầy đủ, ngoại

trừ chỉ có giao dịch hoán đổi lãi suất đã có quy chế của Ngân hàng Nhà nước là

Quyết định số 1133/2003/QĐ-NHNN, ngày 30/09/2003. Mặc dù hiện nay tất cả các

NHTM đều được thực hiện nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ, tuy nhiên chỉ được thực

hiện quyền chọn giữa ngoại tệ và ngoại tệ, còn quyền chọn giữa ngoại tệ và VND

thì phải được sự cho phép từ phía Ngân hàng Nhà nước. Trên thực tế, các doanh

nghiệp xuất nhập khẩu thường chuyển đổi ngoại tệ ra VND để phục vụ hoạt động

đầu tư sản xuất trong nước mà hầu như không chuyển đổi từ ngoại tệ ra ngoại tệ.

Đây cũng là trở ngại lớn đối với các NHTM làm cho doanh số giao dịch quyền chọn

rất thấp.

Các quy định về pháp lý về cách xác định trạng thái ngoại tệ chưa hoàn thiện

gây rủi ro tỷe giá. Như chúng ta đã biết, các giao dịch liên quan đến sự chuyển giao

quyền sở hữu về ngoại tệ sẽ làm phát sinh trạng thái ngoại tệ. Trong hoạt động kinh

doanh của NHTM không chỉ các giao dịch mua bán mới làm phát sinh trạng thái

ngoại tệ mà còn rất nhiều giao dịch khác nữa. Ở Việt Nam, khi tính trạng thái ngoại

tệ cuối ngày, các NHTM mới chỉ xét đến trạng thái ngoại tệ được hình thành do các

giao dịch mua bán ngoại tệ của ngân hàngangà mà chưa tính đến thu và chi phí trả

lãi phát sinh từ các tài sản có, tài sản nợ sinh lời bằng ngoại tệ; thu và chi phí dịch

vụ bằng ngoại tệ…Chính vì vậy, trạng thái ngoại tệ mà các ngân hàng tính toán dựa

trên doanh số mua bán ngoại tệ chưa phản ánh đúng thực chất khả năng rủi ro của

ngân hàng.

Formatted: Font: Italic

Ba là, Cơcơ chế tỷ giá hiện nay chưa phản ánh được quy luật cung cầu trên

thị trường

Formatted: Indent: Left: 0", First line: 0.39", Right: 0", Space Before: 6 pt, After: 6 pt, Picture bulleted + Level: 1 + Aligned at: 0.75" + Tab after: 1" + Indent at: 1", Tab stops: 0.25", Left + 0.59", Left

Formatted: Bullets and Numbering

97

Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đang áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi có sự điều

tiết của Chính phủ để điều hành chính sách tiền tệ (Pháp lệnh Ngoại hối). Theo đó,

tỷ giá chính thức do Ngân hàng Nhà nước được thiết lập trên cơ sở tỷ giá bình quân

của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, tỷ giá bình quân này được công bố hàng

ngày. Tỷ giá kinh doanh ngoại tệ của NHTM được xác định dựa trên tỷ giá bình

quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nhưng không được vượt quá biên độ

dao động +-0,5% (2007) và đến nay mới nâng lên +-3% (từ tháng 11/2008).. Với

cách tính này Ngân hàng nhà nước khống chế được sự biến động thất thường của tỷ

giá. Tuy nhiên, hạn chế của nó là tỷ giá không phản ánh đúng cung cầu tiền tệ trên

thị trường làm cho hoạt động kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng ngượng ép giả

tạo. Ngân hàng nhà nước sẽ phải giảm dần, tiến đến loại bỏ các biện pháp điều tiết

tỷ giá mang tính hành chính như khống chế tỷ giá kỳ hạn, giới hạn phí hoán đổi tiền

tệ, hạn chế biên độ trong xác định tỷ giá kinh doanh … để tạo điều kiện cho các

NHTM kinh doanh tiền tệ theo cơ chế thị trường và quen dần với các công cụ

phòng chống rủi ro tỷ giá. Nói cách khác, tỷ giá được thả nổi và hoàn toàn được xác

định dựa trên cung cầu tiền tệ, Ngân hàng nhà nước không nên áp đặt trực tiếp lên

tỷ giá mà chỉ được quyền tác động gián tiếp đến tỷ giá thông qua các hoạt động mua

bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.

Ba ốn là, thiếu kiến thức, hiểu biết về công cụ phái sinh.

Sản phẩm phái sinh trong phòng chống rủi ro là một sản phẩm khá mới và

phức tạp đối với thị trường Việt Nam. Đòi hỏi các doanh nghiệp cũng như các

NHTM phải có hệ thống thông tin dự báo tỷ giá quốc tế nhanh, chính xác, cập nhật

liên tục; phải có công cụ đo lường và cảnh báo rủi ro tỷ giá, lãi suất; đội ngũ các

nhà quản lý, các giao dịch viên chuyên nghiệp. Thực tế có nhiều NHTM được thực

hiện nghiệp vụ quyền chọn ngoại hối từ lâu nhưng đến nay vẫn chưa triển khai

được. Đối với các doanh nghiệp thì việc hiểu biết các công cụ phái sinh để phòng

chống rủi ro còn nhiều hạn chế.

Formatted: Font: Italic

Năm Bốn là, giá của hợp đồng quyền chọn còn khá cao,

98

So với các hình thức bảo hiểm tỷ giá khác ví dụ như hợp đồng kỳ hạn thì hợp

đồng quyền chọn khách hàng phải trả ngay phí cũng khá cao nên khách hàng thấy

không hấp dẫn, trong khi lợi ích thì chưa thấy ngay, vì vậy đây cũng là một khó

khăn cho các ngân hàng trong việc thu hút khách hàng sử dụng nghiệp vụ quyền

chọn này.

Từ những lý luận cơ bản của Chương 1, sang Chương 2, người viết đi sâu

nghiên cứu tình hình triển khai nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ ở một số Ngân hàng

thương mại Việt Nam.

Từ tình hình thực tế triển khai nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại các Ngân hàng

thương mại Việt Nam, dựa vào bối cảnh kinh tế - tài chính của Việt Nam hiện nay,

hành lang pháp lý và chính sách của Nhà nước, người viết đưa ra những đánh giá về

những thuận lợi khó khăn của các ngân hàng thương mại Việt Nam khi triển khai

nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ. Qua đó, người viết nhận thấy, để phát triển nghiệp vụ

quyền chọn tiền tệ cần phải có sự phối hợp của tất cả các chủ thể như các cơ quan

quản lý Nhà nước mà cụ thể là Ngân hàng Nhà nước, một số Bộ, ngành liên quan,

các doanh nghiệp và đặc biệt là sự nỗ lực mạnh mẽ của các Ngân hàng thương mại

trong việc phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ.

99

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ QUYỀN CHỌN TIỀN TỆ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM

3.1. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƢỜNG QUYỀN CHỌN TRÊN

THẾ GIỚI VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC PHÁT TRIỂN

TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG QUYỀN CHỌN

3.1.1. Tình hình hoạt động của thị trƣờng quyền chọn trên thế giới

Từ những thập kỷ cuối của thế kỷ 20 sự liên kết giữa các NHTM và các thị

trường tài chính khổng lồ phát triển nhanh và mạnh mẽ ở Anh và Mỹ. Trọng tâm

của sự phát triển này là các công cụ tài chính phái sinh: hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng

tương lai, hợp đồng quyền chọn và hơp đồng hoán đổi. Nhờ những công cụ này đã

tạo ra một phương thức phân tán rủi ro có hiệu quả cao và tiện lợi đối với tài sản nợ

của các công ty: các tài sản trong bảng kết toán hoặc đơn giản là những cam kết tài

chính chưa thực hiện trở thành những tài sản có giá trị ở hiện tại. Bên cạnh tính linh

họat của công cụ phái sinh trong việc phòng ngừa rủi ro tài chính các ngân hàng

thường dựa vào giá được thiết lập từ các công cụ phái sinh để định giá các sản phẩm

giao dịch trong lĩnh vực ngân hàng.

Cuối năm 1997, tại Mỹ các danh mục đầu tư ngân hàng đã đưa ra một giá trị

ước tính về các công cụ phái sinh khoảng 26 ngàn tỷ USD lớn gấp 5 lần giá trị

những bảng kết toán của ngân hàng. Trong đó khoảng 2/3 là các hợp đồng dựa vào

lãi suất và 1/3 là hợp đồng dựa trên tỷ giá hối đoái. Trong vòng 6 năm từ 1991-1997

số lượng các công cụ phái sinh đã gia tăng một cách nhanh chóng. So với năm cơ

sở tổng giá trị các công cụ phái sinh tăng khoảng 244%. Các công cụ phái sinh hầu

hết tập trung vào các ngân hàng lớn. Riêng tám NHTM lớn đã chiếm khoảng 95%

tổng khối lượng ước tính của các công cụ phái sinh trong toàn hệ thống ngân hàng

Mỹ [5]. Các ngân hàng lớn sử dụng 90% các công cụ phái sinh mà họ nắm giữ cho

các mục đích giao dịch. Còn các NHTM nhỏ thì xu hướng của họ là sử dụng các

100

công cụ phái sinh để giảm thiểu rủi ro về lãi suất và tỷ giá cho bản thân ngân hàng

và khách hàng của mình.

Theo số liệu điều tra công bố của Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS) tại thời

điểm tháng tư hàng năm giai đoạn 1995-2007, hoạt động thị trường các công cụ

phái sinh và ngoại hối thế giới được phản ánh tại các bảng 3.1, bảng 3.2, bảng 3.3.

Đơn vị tính: tỷ USD

Bảng 3.1: Doanh số hoạt động ngoại hối và hoạt động phái sinh ngoại hối của thế giới giai đoạn 1995 -2007 *(giá trị trung bình ngày)

STT

Chỉ tiêu

1995

1998

2001

2004

2007

Thị trường ngoại hối truyền thống

1190

1490

1200

1880

3210

I

Doanh số giao dịch giao ngay

494

568

837

621

1005

Doanh số giao dịch kỳ hạn

97

129

131

208

362

Doanh số giao dịch hoán đổi

546

734

656

944

1714

200

375

575

1220

2090

II

Thị trường ngoại hối phái sinh Giao dịch kỳ hạn và hoán đổi ngoại hối

129

229

460

854

1468

Hoán đổi tiền tệ

4

10

7

21

80

Giao dịch quyền chọn

41

87

60

117

212

1

0

0

2

0

Các giao dịch khác Các giao dịch phái sinh mua bán ngoại hối

III

1221

1382

2198

4547

6173

Hợp đồng tiền tệ

17

11

10

23

72

Hợp đồng lãi suất

1204

1371

2188

4524

6101

Nguồn: [5]

Formatted: Font: 12 pt, Not Bold, Italic

* giá trị trung bình ngày

101

Số liệu tại biểu số chỉ ra rằng thị trường ngoại hối truyền thống năm 2007 tăng

với tốc độ nhanh so với năm 2004 – khoảng 71%. Hoạt động của thị trường phái

sinh cũng tiếp tục mở rộng với tốc độ tăng đáng kể. Tại thời điểm tháng 4/2007 giá

trị các hợp đồng ngoại hối phái sinh đã lên tới 2090 tỷ USD cũng tăng hơn tại thời

điểm này năm 2004 tới 71%. Doanh số giao dịch của các công cụ phái sinh đều

tăng. Các giao dịch kỳ hạn, hoán đổi và quyền chọn được sử dụng là chủ yếu.

Doanh số trung bình ngày về hoạt động của thị trường ngoại hối truyền thống

và thị trường phái sinh tại một số thị trường tài chính phát triển có thể xem số liệu

tại Bảng số 3.2 và Bảng số 3.3.

Bảng 3.2: Hoạt động của thị trường ngoại hối truyền thống

2001

2004

2007

Tỷ USD %

Thị trƣờng

%

%

Thị trƣờng

Tỷ USD

Thị trƣờng

Tỷ USD

1. Anh

504

31.2 1. Anh

753

31

1. Anh

1359 43.1

2. Mỹ

254

15.7 2. Mỹ

461

19

2. Mỹ

664

16.6

3. Nhật

147

9.1

3. Nhật

199

8.3

3. Thụy Sỹ

242

6.1

4. Singapore

101

6.2

4. Singapore

125

5.2 4. Nhật Bản

238

6

5. Đức

5.5

5. Đức

118

4.9 5. Singapore 231

5.8

88

6. Thụy Sỹ

4.4

6. Hongkong

102

4.2 6. Hongkong 175

4.4

71

7. Hongkong

4.1

7. Úc

3.4

7. Úc

170

4.2

67

81

8. Úc

3.2

8. Thụy Sỹ

3.3

8. Pháp

120

3

52

79

9. Pháp

3

9. Pháp

2.7

9. Đức

99

2.5

48

64

Formatted Table

42

54

10. Canada

2.6

10. Canada

2.2 10.Đan mạch 86

2.2

Tổng số

1374

85

Tổng số

2036

85

Tổng số

3384 93.9

Toàn cầu*

1200

100

Toàn cầu*

1200 1880

3210

100

Toàn cầu*

Formatted: Font: 12 pt, Italic

Formatted: Font: 12 pt, Italic

Nguồn: [5]

Formatted: Right, Indent: First line: 0.39", Right: 0", Space Before: 6 pt, After: 6 pt, Tab stops: 0.59", Left

102

* Doanh số tại 10 thị trường chính chưa loại trừ tính trùng nên không tương

đương với số liệu toàn cầu do BIS đã điều chỉnh (áp dụng cả bảng iểu số 3.33).

Hoạt động ngoại hối truyền thống và hoạt động ngoại hối phái sinh tập trung

chủ yếu ở các thị trường phát triển. Số liệu tại biểu số 2 và số 3bảng số 3.2 và bảng

số 3.3 cho thấy chỉ riêng trong 10 thị trường đã chiếm khoảng 85 đến trên 90%

doanh số toàn cầu và chủ yếu là ở thị trường Anh và Mỹ chiếm tới trên dưới 60%

doanh số toàn cầu.

Bảng 3.3: Hoạt động của thị trường ngoại hối phái sinh

2001

2004

2007

Thị trƣờng

%

%

%

Tỷ USD

Thị trƣờng

Tỷ USD

Thị trƣờng

Tỷ USD

1. Anh

275

36

1. Anh

643

42.6 1. Anh

1081

43

2. Mỹ

135

17.7 2. Mỹ

355

23.5 2. Mỹ

607

24

3. Đức

97

12.7 3. Pháp

154

10.2 3. Pháp

183

7.2

4. Pháp

67

8.8 4. Đức

46

3

4. Đức

93

3.7

5.Hà Lan

25

3.3 5. Ý

41

2.7

88

3.5

5. Nhật Bản

6. Ý

24

3.1

37

2.6 6. Ai len

85

3.4

6. Nhật Bản

7. Nhật Bản

22

2.9 7. Bỉ

32

2.1 7. Thụy Sỹ

73

2.9

21

2.7 8. Hà Lan

22

1.5

69

2.7

8. Tây Ban Nha

8. Singapore

9. Thụy Sĩ

15

2

9. Úc

18

1.2 9. Ý

32

1.3

10. Bỉ

14

1.8

18

1.2 10.Úc

29

1.2

10.Thụy Sỹ

Tổng số

695

81

Tổng số

1368 90.6 Tổng số

2340

92

Nguồn: [5]

Formatted: Right, Indent: First line: 0.39", Right: 0.29", Space Before: 6 pt, After: 6 pt, Tab stops: 0.59", Left

Formatted: Font: 12 pt, Italic

103

Bảng 3.4: Doanh số hoạt động ngoại hối theo cặp tiền tệ

Năm 1995 Năm 1998 Số tiền %

Số tiền %

Năm 2001 Số tiền %

Năm 2004 Số tiền %

Năm 2007 Số tiền %

Cặp tiền tệ

USD/EUR

354

30

501

28

840

27

USD/DEM

244

22

290

20

USD/FRF

51

4

58

4

USD/JPY

242

21

256

18

231

20

296

17

397

13

125

11

245

14

361

12

78

7

117

8

USD/GBP

50

4

71

4

115

4

38

3

50

3

USD/CAD

47

4

90

5

175

6

29

3

42

3

USD/AUD

164

11

189

16

286

16

573

19

68

6

USD/Khác

30

3

51

3

70

2

EUR/JPY

24

2

43

2

64

2

EUR/GBP

21

2

39

2

112

4

EUR/Khác

24

2

24

2

DEM/JPY

21

2

31

2

DEM/GBP

34

3

10

1

DEM/FRF

16

1

20

1

DEM/Khác

3

38

3

26

2

41

2

122

4

Các cặp khác 30

Tất cả các

1137 100

1430

100

1174

100

1773

100

3081

100

cặp tiền tệ

Nguồn [5]

104

Bảng 3.5: Doanh số hoạt động quyền chọn theo cặp tiền tệ

68

48

92

158

USD/Tiền khác

16

31

43

EURO

17

MÁC ĐỨC

33

17

27

38

YÊN NHẬT

4

3

9

19

BẢNG ANH

8

12

26

57

KHÁC

…..

9

37

20

EURO/TIỀN KHÁC

6

16

10

YÊN NHẬT

2

4

3

BẢNG ANH

8

4

FRAN THỤY SĨ

1

10

4

KHÁC

16

DEM/TIỀN KHÁC

5

YÊN NHẬT

5

BẢNG ANH

4

KHÁC

…..

87

60

117

212

TẤT CẢ CÁC CẶP TIỀN TỆ

Nguồn: [5]

Cặp tiền tệ 1998 2001 2004 2007

Nhìn vào bảng 3.5 trên ta thấy đồng USD vẫn duy trì được vị trí dẫn đầu

doanh số từ năm 1998 cho đến năm 2007. Sau USD phải kể đến EUR và hai đồng

tiền này chiếm tỷ trọng áp đảo trong thị trường quyền chọn tiền tệ. Trong khi đó

105

theo thống kê của BIS, trung bình một ngày doanh số dự đoán của nghiệp vụ quyền

chọn trên thế giới vào khoảng 120 tỷ USD.

3.1.2. Kinh nghiệm của một số nƣớc trong việc phát triển thị trƣờng quyền

chọn và bài học đối với Việt Nam

Có thể nói, nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ là một nghiệp vụ còn khá mới mẻ đối

với Việt Nam, chính vì vậy, việc học tập kinh nghiệm của các nước có thị trường tài

chính phát triển như Mỹ, Anh, Nhật là một yêu cầu cần thiết trong việc phát triển thị

trường này ở Việt Nam. Chính vì vậy, trong phần sau đây, luận văn sẽ đề cập đến

những kinh nghiệm mà các nước Mỹ, Anh, Nhật đã áp dụng trong việc phát triển thị

trường quyền chọn tiền tệ và rút ra bài học đối với Việt Nam.

3.1.2.1 Kinh nghiệm của Mỹ

Đạo luật về mua bán hàng hóa (CEA)

Năm 1974, Mỹ thành lập Ủy ban mua bán hàng hóa (Community futures

trading Commission - CFTC). Ủy ban Ban hành đạo luật về mua bán hàng hóa

(Commodity Exchange Act - CEA) để quy định về các nguyên tắc và luật lệ mua

bán trao đổi hàng hóa.

Sau đó, sửa đổi lần thứ 1 của CEA mở rộng khái niệm về hàng hóa bao gồm:

hàng hóa, vật phẩm, dịch vụ, quyền lợi …..mà việc giao hàng xảy ra trong tương lai

nhưng các điều kiện (ví dụ giá cả) lại được xác định tại thời điểm hiện tại. Tuy

nhiên, việc xác định tiền tệ thuộc loại nào vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi, có ý kiến

cho rằng tiền tệ là một loại hàng hóa, nhưng cũng có ý kiến cho rằng tiền tệ là một

loại dịch vụ hay quyền lợi. Tuy nhiên các luồng tư tưởng thiên về ý kiến thứ hai

hơn.

Với nền tảng là khái niệm về hàng hóa đã được mở rộng, CFTC đã ban hành

các quy định giao dịch cụ thể hơn. Đồng tiền giao dịch phải là đồng nội tệ trừ

trường hợp giao dịch đó là giao dịch kỳ hạn.

106

Cấm giao dịch quyền chọn và các sửa đổi về kinh doanh tiền tệ

(treasury amendment)

Trong những năm đầu, CFTC đưa ra một loạt các quy định về việc đặt lệnh và

bán các quyền chọn hàng hóa. Nhưng năm 1978, CFTC đã cấm hầu hết các loại

hình quyền chọn hàng hóa do tệ nạn tham nhũng lan tràn. Quốc hội cũng ra lệnh

cấm sau đó nhưng tuy nhiên lại trao cho quyền miễn trừ đối với những người mua

là “người sản xuất, gia công, sử dụng hoặc vận hành loại hàng hóa đó” (quy định

trong đạo luật miễn trừ đối với quyền chọn). Một thời gian sau đó, Quốc hội đã nới

lỏng lệnh cấm. Năm 1981, các giao dịch quyền chọn tiền tệ được chuyển sang sàn

giao dịch chứng khoán. Trong một phiên tòa xử một vụ kiện của CFTC với một

công ty bán quyền chọn ngoại tệ ra công chúng, tòa án đã chấp nhận các giao dịch

liên quan đến ngoại tệ (khác với giao dịch bằng ngoại tệ). Thông qua trường hợp

này đã mở đường cho việc mở rộng phạm vị giao dịch dù các quy định về giao dịch

vẫn chưa chính thức cho phép.

Tuy nhiên ở việc sửa đổi (hay mở rộng) trong Treasury Amendment chủ yếu

diễn ra ở các hợp đồng tương lại giữa các ngân hàng và các nhà giao dịch mà không

đề cập đến các giao dịch quyền chọn ngoại tệ cũng không gây ảnh hưởng gì vì thị

trường quyền chọn tiền tệ chỉ phát triển vào 8 năm sau đó. Thị trường quyền chọn

tiền tệ khi đó hoạt động không chính thức như thị trường OTC của chứng khoán.

Điều khoản miễn trừ với các giao dịch quyền chọn:

Điều khoản miễn trừ được áp dụng với những người giao dịch mà : “có lý do

để tin rằng người mua là “người sản xuất, gia công, sử dụng hoặc vận hành loại

hàng hóa đó”. Sau đó Ủy ban thị trường (Division of Trading and Market ) cũng bổ

sung thêm rằng các ngân hàng cũng được quyền thực hiện các giao dịch quyền chọn

để phục vụ cho nhu cầu sử dụng trực tiếp cho hoạt động kinh doanh.chứ không phải

vì hoạt động đầu cơ.

Luật chứng khoán liên bang:

107

Theo đạo luật năm 1982, SEC (ủy ban chứng khoán) chứ không phải CFTC có

quyền đối với các giao dịch FCO trên sàn giao dịch chứng khoán, còn CFTC lại có

quyền với các giao dịch FCO trên sàn giao dịch hàng hóa. Tuy nhiên SEC cũng

không có thẩm quyền đối với các giao dịch FCO trên thị trường OTC.

Điều này là do trong một số vụ án về các giao dịch quyền chọn trên thị trường

OTC chỉ mang tính chất đầu cơ mà không liên quan đến hàng hóa vẫn được tòa án

công nhận nên vô hình chung đã tách bỏ quyền quản lý của SEC cũng như CFTC

đối với các giao dịch OTC.

Chứng khoán phái sinh:

Do thị trường các loại chứng khoán phái sinh chưa phát triển, nên các luật lệ

và quy định để hợp pháp hóa hoạt động của nó cũng chưa hoàn thiện, cụ thể. Do đó

dẫn đến tình trạng nếu giao dịch này tuân thủ theo quy định kia (chẳng hạn tuân thủ

theo quy định của American Stock Exchange) thì lại trái với quy định của CFTC.

Một số trường hợp phái sinh liên quan đến giá dầu, kim loại quý hoặc ngoại tệ đã

thực hiện hai năm qua, gây tranh cãi hoặc kiện tụng về mặt luật pháp, cũng chưa đi

được đến phán quyết cuối cùng.

Nhận thức được sự mâu thuẫn giữa luật pháp và thực tiễn, CFTC đã ban hành

một cuốn sách dự thảo luật và xin ý kiến về các dự luật cho các giao dịch phái sinh

này.

Dự thảo đó đưa ra định nghĩa về các loại chứng khoán phái sinh như sau:

- Chứng khoán phái sinh là một dạng hợp đồng hàng hóa kỳ hạn hoặc hợp

đồng hoặc quyền chọn hàng hóa mà không được định nghĩa tại CEA, ví dụ như tiền

thưởng, tiền lương hưu hoặc các hợp đồng lao động mà giá trị của nó phụ thuộc vào

các chỉ số kinh tế nào đó.

- Hoặc là những công cụ quyền chọn hàng hóa được định nghĩa trong CFTC

nhưng vì bản chất thứ cấp của nó hoặc là sự mở rộng phạm vi trong quá trình thực

hiện mà dẫn đến việc vượt ra ngoài quy định của CFTC.

108

- Hoặc là một số những giao dịch thương mại nhất định mà có các yếu tố của

hợp đồng kỳ hạn mà theo đó các giao dịch hàng hóa có thể không cần phải được

thực hiện thực tế.

- Hoặc cuối cùng là những giao dịch hàng hóa ngoài thị trường tự do không

rơi vào ba trường hợp trên nhưng vẫn nằm trong quy định của CFTC và sẽ được xử

lý căn cứ vào các tình huống cụ thể.

3.1.2.2 Kinh nghiệm của Anh

Năm 1986, Anh ban hành Đạo luật dịch vụ tài chính (Financial Service Act -

FSA) tạo ra khung pháp lý cho các công cụ đầu tư, đạo luật chứng tỏ sự tiến bộ hơn

hẳn so với các đạo luật Mỹ cùng thời điểm.

FSA chi phối cả các giao dịch quyền chọn và kỳ hạn thực hiện trên sàn hay

ngoài thị trường tự do. Bản phát hành đầu tiên của FSA chủ yếu quy định về các

quyền chọn tiền tệ (cũng như hợp đồng tương lai, hay các hoạt động đầu cơ ăn

chênh lệch và các giao dịch quyền chọn vàng bạc. Theo FSA, những người tham gia

giao dịch phải là những người được cho phép bởi Ủy ban Đầu tư và Chứng khoán

(SIB – Securities and Investment Board) hoặc là thành viên của một tổ chức nào đó

như Hiệp hội Môi giới (AFBD – Association of Future Broker and Dealer) hoặc

Hiệp hội chứng khoán (TSA – The Securities Association) và hoạt động theo các

nguyên tắc của Hiệp hội. Cả AFBD và TSA đều công bố tiêu chuẩn khi tham gia

giao dịch như: tiêu chuẩn về vốn, độ rủi ro, tiêu chuẩn về nguồn tài chính riêng biệt,

và yêu cầu báo cáo hàng ngày.

Chủ trương của FSA, AFBD và TSA đều hướng về bảo vệ các nhà đầu tư và

người chơi nhỏ (thị trường bán lẻ) hơn là những người chơi lớn (thị trường bán

buôn). Riêng đối với những nhà đầu tư là ngân hàng hay các quỹ tiền gửi thì vẫn

thực hiện theo Luật Ngân hàng năm 1987. Phần 43 của FSA khẳng định vai trò của

Ngân hàng Trung ương Anh đối với thị trường bán buôn và loại bỏ khỏi danh sách

các tổ chức (Listed Institution) bị chi phối bởi đạo luật cũng như các tổ chức giao

dịch tiền, vàng, bạc với số lượng lớn.

109

Bản sửa đổi lần thứ năm của FSA đặt nền móng cho các hoạt động của các tổ

chức trên cũng như quy định về các giao dịch tiền vàng bạc với số lượng lớn.

Tờ báo “Grey Paper” của Anh cũng như các bài phát biểu của giám đốc Ban

quản lý thị trường bán buôn (Whole sale market Division) của Ngân hàng Trung

ương Anh quốc đều ngụ ý rằng Ngân hàng sẽ đưa ra các quy định cụ thể về các giao

dịch tài chính bao gồm: chứng chỉ tiền gửi, giao dịch quyền chọn trên thị trường tự

do, giao dịch kỳ hạn tiền vàng bạc cũng như quyền chọn về lãi suất, thỏa thuận tỷ

giá trong tương lai hay các giao dịch mua lại (repos). Tuy nhiên, không như trước

đây, Ngân hàng Trung ương sẽ không bắt buộc yêu cầu các giao dịch phải được

thực hiện trên các thị trường được thừa nhận. Các tổ chức tham giao dịch chỉ cần

thông báo với Ngân hàng Trung ương về giao dịch của họ và đáp ứng đủ các tiêu

chuẩn về vốn.

3.1.2.3 Kinh nghiệm của Nhật

Có thể nói thị trường giao dịch tự do quyền chọn tại Nhật phát triển rất mạnh.

Các ngân hàng nước ngoài chiếm tới 45% thị trường giao dịch tiền tệ và cũng chiếm

một thị phần tương tự như thế tại thị trường quyền chọn.

Thị trường bắt đầu phát triển từ tháng 12 năm 1980 khi bản sửa đổi chính thức

của Luật điều chỉnh giao dịch ngoại thương và hối đoái (Foreign Exchange and

Foreign Trade Control Law) được ban hành, bản sửa đổi bãi bỏ lệnh cấm người cư

trú thực hiện các giao dịch hối đoái. Theo Luật này người cư trú có quyền gửi tiền

hoặc vay tiền bằng ngoại tệ. Tuy nhiên vẫn có những hạn chế nhất định như người

giao dịch phải căn cứ trên nhu cầu thực (tức là việc sử dụng ngoại tệ phải chứng

minh được nguồn gốc xuất xứ), đến năm 1984 thì hạn chế này mới bị loại bỏ.

Hầu hết các giao dịch quyền chọn tiền tệ tại Tokyo đều được hợp pháp hóa tuy

nhiên vẫn có nhiều điểm không rõ ràng. Thứ nhất, theo như giải thích của Điều 65

của Luật chứng khoán và ngoại hối (Security and Exchange Law - SEL), các công

ty chứng khoán trong nước và nước ngoài không được thực hiện các giao dịch trên

thị trường ngoại hối hoặc trên thị trường quyền chọn. Nó phù hợp với Luật về các

110

hoạt động ngoại thương và hối đoái khi Luật này không cho phép các cá nhân và

doanh nghiệp thực hiện giao dịch hối đoái mà chỉ có các ngân hàng được cấp phép

mới được thực hiện. Như vậy có vẻ như trong thực tế điều này đã bị bỏ qua. Thứ hai

là các giao dịch quyền chọn tiền tệ vẫn là bất hợp pháp cho đến năm 1988, tuy

nhiên Bộ tài chính đã cho phép 332 công ty Nhật bản thực hiện giao dịch này. Thứ

ba là các giao dịch quyền chọn tiền tệ tại thị trường trong nước cũng không hợp lệ

trừ trường hợp với ngân hàng nước ngoài. Thứ tư là Bộ tài chính vẫn đưa ra các

mệnh lệnh hành chính để hạn chế trạng thái ngoại hối của ngân hàng trong nước

trong phạm vi cho phép, và trạng thái ngoại hối đó phải được đảm bảo bằng các

giao dịch giao ngay hoặc giao dịch kỳ hạn hoặc các quyền chọn (back-back option).

Các hạn chế này đã làm chậm sự phát triển của thị trường khi ngân hàng không thể

kiếm lời từ hoạt động đầu cơ. Tuy nhiên không phải mọi ngân hàng đều thực hiện

phương pháp bảo đảm trên hoặc là có nhưng lại thực hiện trên thị trường liên ngân

hàng của London hoặc NewYork. Thứ năm, dù còn nhỏ nhưng đã bắt đầu phát triển

một thị trường thứ cấp tại tại thị trường liên ngân hàng Tokyo trong đó quyền chọn

tiền tệ được chào giá và bán dựa trên dự báo về sự biến động của chính nó.

Theo đề xuất của một công trình nghiên cứu của một nhóm chuyên gia, Chính

phủ đã sửa đổi luật Chứng khoán và ngoại hối mua bán kỳ hạn các chỉ số chứng

khoán và trái phiếu chính phủ nước ngoài để thiết lập nên một sàn giao dịch mới

dưới sự kiểm soát của ngân hàng. Bản sửa đổi này quy định phải có một trung tâm

bù trừ trên sàn giao dịch để xử lý các hợp đồng khi đến hạn. Các giao dịch tự do sẽ

bị cấm, tuy nhiên không vì thế mà ảnh hưởng đến thị trường OTC mà thị trường này

sẽ được quản lý bởi Bộ tài chính.

3.1.2.4. Bài học kinh nghiệm từ các nước phát triển đối với Việt Nam

Từ những kinh nghiệm của Mỹ, Anh, Nhật trong việc phát triển thị trường

quyền chọn tiền tệ có thể rút ra những bài học kinh nghiệm như sau đối với Việt

Nam trong việc phát triển thị trường quyền chọn tiền tệ:

111

Việc đưa ra các đạo luật điều chỉnh trực tiếp về nghiệp vụ quyền chọn tiền

tệ là một việc mà ở các nước phát triển đều làm trong giai đoạn bắt đầu triển khai,

có như vậy mới tạo một hành lang pháp lý cụ thể, điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của

cả bên mua quyền và bán quyền chọn.

Nới lỏng các quy định đối với các Ngân hàng thương mại khi thực hiện bán

quyền chọn. Có thể được đầu cơ ở một mức độ nhất định mà không cần phải thực

hiện một hợp đồng đối ứng với tổ chức tín dụng khác. Có như vậy các Ngân hàng

thương mại mới có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình khi thực hiện các

giao dịch quyền chọn khi dự đoán được mức lợi nhuận có thể đem lại không cần

phải thực hiện hợp đồng đối ứng.

Cho phép nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ được thực hiện trên cả thị trường

tập trung (Sở giao dịch) và thị trường phi tập trung (Over the Counter – OTC). Có

như vậy các chủ thể mới có được nhiều sân chơi để thực hiện kỳ vọng của mình, đối

với nhà những nhà đầu tư thích mạo hiểm, họ có thể giao dịch trên thị trường OTC.

Tất nhiên đối với Việt Nam, việc đưa nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ vào thị trường

tập trung (thị trường chính thức) còn là một mục tiêu dài hạn mà hiện nay chưa thể

thực hiện được. Tuy nhiên đó cũng là một bài học quý giá đối với Việt Nam khi

phát triển nghiệp vụ này.

Bảo vệ những nhà đầu tư nhỏ lẻ cũng là một kinh nghiệm của các nước phát

triển trong quá trình phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ. Có thể nói khi tham

gia vào bất kỳ thị trường nào, các nhà đầu tư nhỏ lẻ bao giờ cũng bị thiệt thòi và dễ

gặp rủi ro hơn các nhà đầu tư có tiềm lực tài chính lớn, dễ dàng thao túng thị

trường. Vì vậy việc bảo vệ các nhà đầu tư nhỏ lẻ đặc biệt khi thị trường mới khai

sinh là một việc chính phủ nên làm để thu hút được sự chú ý của đông đảo các nhà

đầu tư, giúp thị trường trở nên sôi động và phổ biến hơn. Việc tạo ra những sân chơi

bình đẳng, tránh cá lớn nuốt cá bé là một việc chính phủ phải nỗ lực thực hiện bằng

các chính sách vĩ mô nhằm tạo lòng tin cho các nhà đầu tư khi tham gia thị trường

còn rất mới mẻ này.

112

3.2. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ QUYỀN CHỌN TIỀN TỆ TẠI

CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM

Tỷ

Quyền chọn

Quyền chọn

Tổng lãi/ lỗ

giá

mua

mua

- Không thực

- Thực hiện

1.38

hiện

- Lãi: 350

- Lỗ 50

00

- Lãi: 400

- Lỗ: 800

- Không thực

- Thực hiện

1.38

hiện

- Lãi: 350

- Hòa vốn

05

- Lãi: 400

- Lỗ: 750

- Không thực

- Thực hiện

1.38

hiện

- Lãi: 350

- Lãi: 450

50

- Lãi: 400

- Lỗ: 300

1.38

- Không thực

- Không thực

- Lãi max:750

80

hiện

hiện

- Không thực

- Không thực

1.39

hiện

hiện

- Lãi: 550

00

- Lãi: 400

- Lãi: 350

- Lỗ: 200

- Không thực

- Không thực

1.39

hiện

hiện

- Hòa vốn

55

- Lãi: 400

- Lãi: 350

- Lỗ: 750

- Không thực

- Không thực

1.39

hiện

hiện

- Lỗ:550

70

- Lãi: 400

- Lãi: 350

- Lỗ: 900

113

Formatted: Bullets and Numbering

Ứng dụng chiến lƣợc Short Strangle:

Nội dung chiến lược Short Strangle:

Short Strangle là chiến lược kết Y

{ 1 1 hợp đồng bán quyền chọn bán mua tỷ giá

hợp: 1 hợp đồng bán quyền chọn bán tỷ giá Y

với cùng một số lượng ngoại tệ, cùng một ngày đáo hạn, tỷ giá hiện hành ở

khoảng giữa của X và Y. Áp dụng khi dự báo tỷ giá biến động không nhiều.

Gọi: S : là mức giá giao ngay hiện hành trên thị trường.

X < S < Y

p1: là mức phí quyền chọn (Option Premium) của hợp đồng bán quyền chọn

bán

p2: là mức phí quyền chọn (Option Premium) của hợp đồng bán quyền chọn

mua.

Khi tỷ giá trên thị trường biến động:

Nếu S < X - ( p1 + p2 ) : đối tác mua quyền chọn bán sẽ thực hiện quyền chọn.

Lúc này người sử dụng chiến lược Short Strangle sẽ bị lỗ do lợi nhuận thu được từ 2

khoản phí không đủ bù lỗ cho hợp đồng bán quyền chọn bán.

Nếu S = X - ( p1 + p2 ) : đối tác mua quyền chọn bán sẽ thực hiện quyền chọn.

Lúc này người sử dụng chiến lược Short Strangle sẽ hòa vốn do lợi nhuận thu được

từ 2 khoản phí vừa bằng với khoản lỗ của hợp đồng bán quyền chọn bán.

Nếu X - ( p1 + p2 ) < S < X : đối tác mua quyền chọn bán sẽ thực hiện quyền

chọn. Lúc này người sử dụng chiến lược Short Strangle vẫn có lời do lợi nhuận thu

được từ 2 khoản phí đủ bù đắp khoản lỗ từ hợp đồng bán quyền chọn bán.

Nếu X ≤ S ≤ Y : người sử dụng chiến lược Short Strangle có lợi nhuận tối đa

bằng 2 khoản phí do cả 2 hợp đồng quyền chọn đều không thực hiện.

114

Nếu Y < S < Y + (p1+p2) : đối tác mua quyền chọn mua sẽ thực hiện quyền

chọn. Lúc này người sử dụng chiến lược Short Strangle vẫn có lời do lợi nhuận thu

được từ 2 khoản phí đủ bù đắp khoản lỗ từ hợp đồng bán quyền chọn mua.

Nếu S = Y + (p1+ p2) : đối tác mua quyền chọn mua sẽ thực hiện quyền chọn.

Lúc này người sử dụng chiến lược Short Strangle hòa vốn do lợi nhuận thu

được từ 2 khoản phí đủ bù đắp khoản lỗ từ hợp đồng bán quyền chọn mua.

Nếu S > Y + ( p1 + p2) : đối tác mua quyền chọn mua sẽ thực hiện quyền

chọn. Lúc này người sử dụng chiến lược Short Strangle lỗ do lợi nhuận thu được từ

2 khoản phí không đủ bù đắp khoản lỗ từ hợp đồng bán quyền chọn mua.

Tổng hợp : Người sử dụng chiến lược Short Strangle ở các trạng thái sau :

Lỗ : khi S < X – ( p1+ p2) hoặc S > Y + ( p1 + p2 )

Hòa vốn : khi S = X - (p1 + p2 ) hoặc S = Y + ( p1 + p2 )

Lãi : khi X – ( p1 + p2 ) < S < Y + ( p1 + p2 )

Lãi tối đa : khi X ≤ S ≤ Y

Lãi Max = p1 + p2

115

Hình 15: Mô hình chiến lược Short Strangle

Ứng dụng chiến lược Short Strangle:

- Tương tự như trong chiến lược quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán ngoại

tệ cho khách hàng, nếu nhận định tình hình thuận lợi cho sử dụng mô hình này,

ngân hàng tiến hành thực hiện tiếp một hợp đồng quyền chọn còn lại hoặc ghép 2

hợp đồng bán quyền chọn mua và bán quyền chọn bán với khách hàng theo nội

dung như trên mà không thực hiện các hợp đồng đối ứng để bảo hiểm rủi ro. S1, S2

là khoảng biến thiên dự báo của tỷ giá ngoại tệ. Nếu tỷ giá biến động đúng như dự

báo, ngân hàng sẽ có lợi nhuận và nếu tỷ giá biến động trong giữa khoảng X và Y

thì lợi nhuận sẽ đạt tối đa bằng 2 khoản phí của 2 hợp đồng quyền chọn. Ngoài ra

trong trường hợp dự đoán xu hướng thích hợp, ngân hàng cũng chủ động thực hiện

chiến lược này để tối đa hóa lợi nhuận. So với chiến lược Long Straddle, chiến lược

này cho khoảng bi tỷ giá rộng hơn, do đó lợi nhuận tối đa của nó cũng thấp hơn, cụ

thể

Ngân hàng A vừa sau : Ngân hàng A bán quyền chọn mua EUR/USD Số

lượng 100.000 EUR – tỷ giá EUR/

Kỳ hạn : 1 tháng – Thu phí quyền chọn : 0.0040USD

Nhận định tình hình không biến động nhiều, Ngân hàng A ký kết tiếp tục đồng

bán quyền chọn bán với ngân hàng ABC với nội dung: Ngân hàng A bán quyền

chọn bán EUR/USD

Số lượng 100.000 EUR – tỷ giá EUR/USD :

Kỳ hạn : 1 tháng – Thu phí quyền chọn : 0.0030USD

Bảng 9: Khi tỷ giá biến động, lãi lỗ của chiến lược kinh doanh này như sau:

Đơn vị:USD

116

Tỷ

giá

Quyền chọn

Quyền chọn

Tổng lãi/ lỗ

EUR

mua

mua

/USD

- Không thực

- Thực hiện

1.37

hiện

- Lãi: 300

- Lỗ 300

00

- Lãi: 400

- Lỗ: 1000

- Không thực

- Thực hiện

1.37

hiện

- Lãi: 300

- Hòa vốn

30

- Lãi: 400

- Lỗ: 700

- Không thực

- Thực hiện

1.37

hiện

- Lãi: 300

- Lãi: 200

50

- Lãi: 400

- Lỗ: 500

- Không thực

- Không thực

1.38

hiện

hiện

- Lãi max:700

00

- Lãi: 400

- Lãi: 300

- Không thực

- Không thực

hiện

1.38

hiện

- Lãi max:700

- Lãi: 300

80

- Lãi: 400

- Không thực

- Thực hiện

hiện

1.39

- Lãi: 400

- Lãi : 500

- Lãi: 300

00

- Lỗ: 200

- Thực hiện

- Không thực

1.39

- Lãi: 400

- Hòa vốn

hiện

50

- Lỗ: 700

- Lãi: 300

117

- Không thực

- Thực hiện

1.39

hiện

- Lãi: 400

Lỗ 200

70

- Lãi: 300

- Lỗ: 900

Formatted: Bullets and Numbering

Ứng dụng chiến lƣợc Long Put Butterfly

Nội dung chiến lược Long Put Butterfly

1 1 hợp đồng mua quyền chọn bán mua tỷ giá

X Long Put Butterfly là chiến lược

kết hợp: 2 hợp đồng bán quyền chọn bán tỷ giá Y

{

1 hợp đồng mua quyền chọn bán tỷ giá Z

Với cùng một số lượng ngoại tệ, cùng một ngày đáo hạn

Gọi: S : là mức giá giao ngay hiện hành trên thị trường.

S = Y và Y = ( X + Z ) / 2

p1: là mức phí quyền chọn ( Option premium) của hợp đồng mua quyền chọn

bán tỷ giá X

p2: là mức phí quyền chọn ( Option premium) của hợp đồng bán quyền chọn

bán tỷ giá Y

p3: là mức phí quyền chọn ( Option premium) của hợp đồng mua quyền chọn

bán tỷ giá Z

p: phí ròng bao gồm tổng các khoản phí thu vào và các khoản phí chi ra

Tương tự như phương án trên, ta có thể tổng hợp : Người sử dụng chiến lược

Long Put Butterfly ở các trạng thái sau :

118

Lỗ giới hạn : khi S < X + /p/ hoặc S > Z – /p/

Hòa vốn : khi S = X + /p/ hoặc S = Z – /p/

Lãi : khi X +/p/ < S < Z - /p/

Lãi ti đa: khi S = Y

Lỗ Max = p

Lãi Max = Tỷ Giá hợp đồng mua quyền chọn bán lớn nhất - /p/

Hình 16: Mô hình chiến lược Long Put Butterfly

Ứng dụng chiến lược Long Put Butterfly :

- Tương tự như trong chiến lược Short Straddle, khi ký kết hợp đồng bán

quyền chọn bán ngoại te cho khách hàng, nếu nhận định tình hình thuận lợi cho sử

dụng mô hình này, ngân hàng tiến hành thực hiện tiếp các hợp đồng quyền chọn còn

lại để tạo ra lợi nhuận cao hơn và giới hạn khoản lỗ trong một mức cho phép. Tất

nhiên, rủi ro nhiều hơn nhưng lợi nhuận sẽ cao hơn trường hợp mà ngân hàng hay là

ký kết hợp đồng đối ứng với ngân hàng khác để bảo hiểm rủi ro và hưởng phần

119

chênh lệch phí. Chiến lược này sẽ cho lợi nhuận tối đa chỉ khi tỷ giá ở ngay mức giá

Y.

- Ngoài ra trong trường hợp dự đoán xu hướng thích hợp, ngân hàng cũng nên

chủ động thực hiện chiến lược này để tối đa hóa lợi nhuận.

Ví dụ cụ thể :

Ngân hàng A vừa ký kết hợp đồng quyền chọn với Doanh nghiệp B có nội

dung như sau: Ngân hàng A bán quyền chọn bán EUR/USD

Số lượng 100.000 EUR – tỷ giá EUR/USD : 1.3950

Kỳ hạn : 1 tháng – Thu phí quyền chọn : 0.0060USD/1EUR

(gọi tắt là hợp đồng QC1)

Nhận định tình hình không biến động nhiều, Ngân hàng A ký kết tiếp tục với

ngân hàng ABC 3 hợp đồng quyền chọn khác như sau :

* 1 hợp đồng bán quyền chọn bán EUR/USD như trên:

Số lượng 100.000 EUR – tỷ giá EUR/USD : 1.3950

Kỳ hạn : 1 tháng – Thu phí quyền chọn : 0.0060USD/1EUR

(gọi tắt là hợp đồng QC 2)

* 1 hợp đồng mua quyền chọn bán EUR/USD :

Số lượng 100.000 EUR – tỷ giá EUR/USD : 1.3900

Kỳ hạn : 1 tháng – Trả phí quyền chọn : 0.0040USD/1EUR

(gọi tắt là hợp đồng QC 3)

* 1 hợp đồng mua quyền chọn bán EUR/USD :

Số lượng 100.000 EUR – tỷ giá EUR/USD : 1.4000

Kỳ hạn : 1 tháng – Trả phí quyền chọn : 0.0090USD/1EUR

(gọi tắt là hợp đồng QC 4)

120

Khi tỷ giá biến động, lãi lỗ của chiến lược kinh doanh này như sau:

Phí ròng = 600+600-900+400=-100

Bảng 10: Lãi lỗ của chiến lược Long Put Butterfly

Đơn vị tính : USD

Tỷ

giá

QC 3

QC 4

HĐQC

HĐQC

Tổ

EUR

1

2

ng lãi/ lỗ

/USD

-

- Thực

- Thực

-

-

1.38

Thực hiện

hiện

hiện

Thực hiện

Lỗ 100

50

- Lãi:

- Lỗ: 1000

- Lỗ: 1000

- Lãi: 500

(=p)

1500

-

-

- Thực

- Thực

-

1.39

Không

Thực hiện

hiện

hiện

Lỗ 100

00

thực hiện

- Lãi:

- Lỗ: 500

- Lỗ: 500

(=p)

1000

-

-

-

- Thực

- Thực

Không

Thực hiện

Hòa vốn

1.39

hiện

hiện

thực hiện

- Lãi: 900

(=-400-

10

- Lỗ: 400

- Lỗ: 400

400+900-

100)

- Thực

- Thực

-

-

1.39

-

hiện

hiện

Không

Thực hiện

30

Lãi :200

- Lỗ: 200

- Lỗ: 200

thực hiện

- Lãi: 700

-

-

-

-

1.39

-

121

50

Không thực

Không thực

Không

Thực hiện

Lãi max

hiện

hiện

thực hiện

- Lãi: 500

:400

-

-

-

-

1.39

-

Không thực

Không thực

Không

Thực hiện

70

Lãi :200

hiện

hiện

thực hiện

- Lãi: 300

-

-

-

-

1.39

-

Không thực

Không thực

Không

Thực hiện

90

Hòa vốn

hiện

hiện

thực hiện

- Lãi: 100

-

-

-

-

1.39

Lỗ

Không thực

Không thực

Không

Thực hiện

95

50

hiện

hiện

thực hiện

- Lãi: 50

-

-

-

-

1.40

Lỗ

Không thực

Không thực

Không

Không

00

100

hiện

hiện

thực hiện

thực hiện

Formatted: Bullets and Numbering

Ứng dụng chiến lƣợc Long Condor khi :

Nội dung chiến lược Long Condor:

11 hợp đồng bán quyền chọn mua tỷ giá Y Long Condor là chiến lược kết

hợp: 1 hợp đồng bán quyền chọn mua tỷ giá Y

{ 1 1 hợp đồng mua quyền chọn mua tỷ giá X

1 hợp đồng bán quyền chọn mua tỷ giá W

với cùng một số lượng ngoại tệ, cùng một ngày đáo hạn.

Gọi: S : là mức giá giao ngay hiện hành trên thị trường.

( X + W ) / 2 = S và (Y + Z) / 2 =S

X là giá nhỏ nhất so với Y,Z,W

122

W là giá lớn nhất so với X,Y,Z

p: phí ròng bao gồm tổng các khoản phí thu vào và các khoản phí chi ra

Đây là chiến lược kết hợp của Strangle và Butterfly. Chúng ta có thể tổng hợp

chiến lược này như sau:

Người sử dụng chiến lược Long Condor ở các trạng thái sau :

Lỗ giới hạn : khi S < X + /p/ hoặc S > W - /p/

Hòa vốn : khi S = X + /p/ hoặc S = W – /p/

Lãi : khi X +/p/ < S < W - /p/

Lỗ Max = p

Lãi Max = Tỷ Giá HĐ Bán QC Mua thấp – Tỷ Giá HĐ Mua QC Mua thấp -/p/

Hình 17: Mô hình chiến lƣợc Long Condor

Ứng dụng chiến lược Long Condor :

Chiến lược Long Condor là sự kết hợp của Short Strangle và Long Butterfly, nó

giới hạn được khoản lỗ và cũng giới hạn khoản lời. Chiến lược này giúp ngân hàng

có thêm lợi nhuận, đồng thời bảo hiểm rủi ro trong một khoản lỗ xác định. Đây là

123

ưu điểm của chiến lược Long Butterfly. Bên cạnh đó, lợi nhuận tối đa sẽ đạt được

khi tỷ giá biến thiên trong khoảng Y đến Z. Đây là ưu điểm của chiến lược Short

Strangle. Có thể nói, chiến lược này khá tối ưu vì nó bao gồm những ưu điểm của 2

chiến lược trên. Trong giai đoạn đầu ứng dụng các chiến lược, để bảo hiểm được rủi

ro cũng như có thêm lợi nhuận, nên chăng ngân hàng nên nghiên cứu chiến lược

này để thực hiện.

Các mô hình trên là những mô hình phát triển từ đơn giản đến phức tạp theo một xu

hướng của mô hình. Ngược lại với các chiến lược trên là các chiến lược Long

Straddle, Long Strangle, Short Butterfly, Short Condor với mô hình theo chiều

ngược lại. Tùy từng trường hợp riêng biệt với dự báo xu hướng tỷ giá mà ngân hàng

áp dụng cho từng mô hình chiến lược. Vấn đề ở đây là dựa trên các lý thuyết này để

tìm ra một chiến thuật trong kinh doanh quyền chọn hay dặm chân tại chỗ để tránh

rủi ro. Tất nhiên, rủi ro càng cao thì tỷ suất sinh lời cũng càng cao. Bên cạnh đó,

việc ứng dụng các chiến lược trên còn thể hiện tính chuyên nghiệp chứ không chỉ

đơn thuần là nhà môi giới. Có lẽ các NHTM cũng nên cân nhắc những giải pháp

trên và chúng ta trông chờ động thái của ngân hàng trong tương lai.

3.2.1.Mục tiêu phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại các Ngân hàng

thƣơng mại Việt Nam

Như đã phân tích ở chương 2, thực trạng triển khai nghiệp vụ quyền chọn tiền

tệ tại các NHTM Việt Nam vẫn còn rất nhỏ bé về khối lượng hợp đồng cũng như

giá trị các hợp đồng quyền chọn. Vì vậy để trong tương lai không xa nghiệp vụ mới

mẻ này được triển khai và phát triển sôi động ở các Ngân hàng thương mại Việt

Nam, thì trước hết các Ngân hàng thương mại phải định hướng được mục tiêu một

cách rõ ràng và đúng đắn để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm đạt được mục tiêu đề

ra:

Hiện đại hóa công nghệ, tiếp cận với những công nghệ tiên tiến trong lĩnh

vực tài chính ngân hàng của thế giới để có thể đáp ứng những nghiệp vụ đòi hỏi kỹ

thuật cao, phức tạp. Nền tảng công nghệ là một trong những yếu tố quyết định đến

124

sự thành công của ngân hàng trong thời kỳ cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện

nay.

Tiếp tục triển khai và nâng cao chất lượng nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ để

thu hút được nhiều đối tượng khách hàng. Giữ vững và duy trì những khách hàng

truyền thống, thu hút thêm nhiều đối tượng khách hàng nhất là những khách hàng

có trình độ hiểu biết cao vì những đây là những đối tượng thường rất quan tâm đến

những dịch vụ mới, sức hấp dẫn lớn.

Nâng cao doanh thu của nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ cũng như tỷ trọng

doanh thu của nghiệp vụ phái sinh này trong doanh thu về kinh doanh ngoại hối.

Đa dạng hóa sản phẩm quyền chọn tiền tệ, áp dụng những sản phẩm mới

kết hợp giữa quyền chọn tiền tệ và các sản phẩm khác như sản phẩm cơ cấu

(structured product) để nâng cao khả năng cạnh tranh.

Phấn đấu áp dụng những chiến lược kinh doanh quyền chọn tiền tệ mà các

ngân hàng trên thế giới đã áp dụng, không chỉ còn là trung gian môi giới hợp đồng

quyền chọn tiền tệ giữa khách hàng trong nước với các ngân hàng nước ngoài. Có

như vậy, việc kinh doanh nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ mới hiệu quả, tăng lợi nhuận

và doanh thu cho ngân hàng.

Đào tạo đội ngũ nhân viên giỏi nghề, tâm huyết, am hiểu và có thể tư vấn

cho khách hàng những kiến thức chuyên sâu về tài chính nói chung và nghiệp vụ

quyền chọn tiền tệ nói riêng. Đội ngũ nhân viên này là những người đầu tiên khách

hàng được tiếp xúc để đi đến quyết định có thực hiện hợp đồng quyền chọn hay

không vì vậy nếu nguồn nhân lực có chất lượng cao là một lợi thế rất lớn cho các

ngân hàng.

125

3.2.2. Giải pháp phát triển thị trƣờng quyền chọn tiền tệ tại các Ngân hàng

thƣơng mại Việt Nam

3.2.2.1.Tạo nhu cầu cho thị trường

Có thể nói, trên thị trường ngoại hối có không nhiều người hiểu biết rõ về

nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ và số lượng những người sử dụng công cụ này lại

càng ít. Do đó, các ngân hàng cần phải tổ chức nhiều và liên tục hơn nữa các cuộc

hội thảo, trò chuyện, giải đáp thắc mắc về nội dung, ích lợi của công cụ này cho tất

cả các đối tượng khách hàng. Bên cạnh đó, sử dụng các phương tiện thông tin đại

chúng để quảng cáo về sản phẩm dịch vụ của mình. Công tác tiếp thị cần phải vạch

rõ theo từng bước, cụ thể như:

Bước một, tiếp thị để tất cả các đối tượng khách hàng đều chú ý đến. Ở bước

này, chúng ta chỉ cần khách hàng chú ý đến sản phẩm của ta thôi, chưa cần họ phải

hiểu nó hay thực hiện giao dịch. Khách hàng của chúng ta là những tổ chức, cá nhân

đang có nhu cầu cần phòng ngừa rủi ro tỷ giá hay không hề quan tâm về mảng thị

trường này, là những người nắm rõ nghiệp vụ này hay những người chưa nghe đến

khái niệm quyền chọn tiền tệ. Thành công ở bước một là phải làm cho mọi người

biết rằng ngân hàng có sản phẩm quyền chọn, mặc dù có thể họ hiểu hay không

hiểu, cần hay không cần sản phẩm này.

Bước thứ hai là làm cho khách hàng cảm thấy hứng thú với sản phẩm của

chúng ta. Phải đem đến cho khách hàng suy nghĩ rằng quyền chọn không phải chỉ

dành cho những nhà kinh doanh tài chính mà dành cho tất cả mọi người đều có thể

làm được, quyền chọn không chỉ dành cho những đối tượng có nhu cầu phòng ngừa

rủi ro về tỷ giá mà dành cho tất cả những ai muốn đầu tư kinh doanh mạo hiểm,

quyền chọn không phải chỉ dành cho những đại gia mà còn là giải pháp cho các nhà

đầu tư nhỏ kinh doanh với số vốn khiêm tốn. Bởi vì, ngân hàng luôn hỗ trợ cho

khách hàng về những phân tích kỹ thuật cũng như tư vấn cho khách hàng phương án

hiệu quả nhất.

126

Bước thứ ba chúng ta nên khuyến khích khách hàng thử nghiệm giao dịch này.

Trong các buổi hội thảo, nên cho khách hàng xem tỷ giá giao dịch trực tiếp và thử

đặt các lệnh mua bán quyền chọn ngoại tệ để họ nắm rõ lý thuyết đồng thời phân

tích những rủi ro cũng như lợi nhuận có thể đạt được khi sử dụng và kinh doanh

nghiệp vụ này. Điều quan trọng là để khách hàng thấy đựợc lợi ích cũng như khả

năng sinh lời từ nghiệp vụ này để người có nhu cầu sẽ thực hiện giao dịch và người

chưa có nhu cầu sẽ phát sinh nhu cầu.

Bước thứ tư, khi khách hàng bắt đầu thực hiện những giao dịch nghiệp vụ

quyền chọn, chúng ta luôn hợp tác khách hàng để giúp họ đạt được lợi ích cao nhất

như cung cấp những thông tin mới nhất, kịp thời nhất và tư vấn phương án hiệu quả.

Ngân hàng cần phối hợp với các chuyên gia tài chính, chuyên gia marketing,

sự hỗ trợ từ các trường đại học để có thể thực hiện tốt từng bước phát triển nhu cầu

thị trường như trên.

Các NHTM nên xác lập trong nội dung hợp đồng quyền chọn thêm quyền

được mua ngoại tệ khi doanh nghiệp không thực hiện quyền lựa chọn, do đối với

các doanh nghiệp nhập khẩu của Việt Nam khi thực hiện hợp đồng quyền lựa chọn

ngoài ý nghĩa về phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái còn có nhu cầu cần đảm bảo có

đủ số lượng ngoại tệ để thanh toán các hợp đồng nhập khẩu khi đến hạn.

3.2.2.2. Xây dựng cơ cấu bộ máy của trung tâm giao dịch ngoại tệ

Như đã trình bày ở chương 2, hiện nay các NHTM Việt Nam chưa có một

trung tâm giao dịch ngoại tệ theo đúng tiêu chuẩn quốc tế, vì vậy nên sớm xây dựng

các trung tâm giao dịch ngoại tệ với đủ 3 bộ phận như sau:

- Bộ phận giao dịch kinh doanh (front office) là bộ phận trực tiếp đưa ra những

quyết định kinh doanh và là yếu tố quyết định đến kết quả kinh doanh của trung tâm

giao dịch ngoại tệ. Những cán bộ của bộ phận giao dịch kinh doanh phải luôn theo

sát thị trường và phải có một độ nhạy bén nhất định để có thể đưa ra những quyết

định kinh doanh sáng suốt và có hiệu quả. Hơn nữa họ phải là những con người

trung thực và có ý thức kỷ luật cao.

127

- Bộ phận kiểm soát rủi ro (Middle office) là bộ phận có trách nhiệm kiểm soát

giám sát hoạt động của các giao dịch viên tại Bộ phận giao dịch kinh doanh. Một

trung tâm giao dịch ngoại tệ thương quy định rất khắt khe về quy trình thực hiện

giao dịch, về những hạn mức mà giao dịch viên được phép kinh doanh. Và bộ phận

kiểm soát rủi ro hình thành với mục tiêu đảm bảo tất cả những quy định đó được

tuân thủ một cách nghiêm túc. Trường hợp có bất cứ một sự vi phạm nào, bộ phận

kiểm soát rủi ro phải phát hiện ra và đưa ra những hình thức ngăn chặn hoặc xử lý

thích hợp.

- Bộ phận kế toán hạch toán (Back office) với chức năng hạch toán tất cả

những giao dịch kinh doanh ngoại tệ mà bộ phận giao dịch kinh doanh thực hiện.

Back office còn có chức năng đối chiếu lệnh xác nhận từ phía ngân hàng đối tác

đảm bảo khớp đúng. Bộ phận kế toán hạch toán phải theo dõi những khoản giao

dịch đó đảm bảo việc thanh toán chuyển tiền được thực hiện đúng theo hợp đồng.

Sự phối hợp giữa các bộ phận này phải nhịp nhàng và thống nhất. Sự nhịp

nhàng và thống nhất thể hiện ở chỗ khi những giao dịch phát sinh tại bộ phận giao

dịch kinh doanh thì ngay lập tức bộ phận kiểm soát phải được cập nhật và nắm bắt

để có thể kiểm định những hạn mức trong kinh doanh ngoại tệ, phục vụ khách hàng

kịp thời, nhanh chóng và vì vậy sẽ thu hút được nhiều khách hàng.

3.2.2.3. Đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng

Trong bất kỳ tình huống nào con người vẫn là nguồn nhân tố quan trọng nhất

và tiên quyết nhất đối với các hoạt động kinh tế xã hội. Đứng trước sự phát triển

như vũ bão của khoa học, công nghệ thông tin và sự cạnh tranh gay gắt giữa các tổ

chức tài chính ngân hàng, phi ngân hàng, để tận dụng được cơ hội, nắm bắt tri thức

mới của thời đại thì vấn đề có ý nghĩa quyết định chính là đội ngũ nhân lực của

ngân hàng. Việc phát triển nguồn nhân lực của các NHTM có một tầm quan trọng

đặc biệt vì đặc thù chung của hoạt động ngân hàng. Để sử dụng một cách có hiệu

quả các công cụ tài chính phái sinh trong việc phòng ngừa rủi ro tại các NHTM đòi

hỏi các ngân hàng phải thực sự quan tâm đến công tác tuyển dụng và đào tạo đội

128

ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn tốt, am hiểu những kiến thức về kinh tế, tài

chính, pháp lý, đặc biệt là kỹ thuật định giá và giao dịch các công cụ tài chính phái

sinh trong đó có quyền chọn tiền tệ.

Trước hết, các NHTM cần tổ chức các chương trình đào tạo nhằm trang bị

những kiến thức chuyên môn, kỹ thuật về các nghiệp vụ phái sinh cho nhân viên

ngân hàng, mời những chuyên gia trong và ngoài nước giỏi về nghiệp vụ này tham

gia giảng dạy. Nếu có điền kiện có thể cử một số nhân viên có khả năng đi nghiên

cứu tại nước ngoài để có điều kiện học hỏi không chỉ về lý thuyết mà cả thực tiễn

thực hiện nghiệp vụ này tại ngân hàng. Để cán bộ, nhân viên thực sự quan tâm đến

việc học tập và nâng cao trình độ chuyên môn, các ngân hàng cần có cơ chế khuyến

khích bằng cách hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ kinh phí, thực hiện chế độ khen

thưởng, đề bạt đối với những nhân viên học tập đạt kết quả tốt và có khả năng vận

dụng tốt trong thực tế công tác. Bên cạnh đó, để nhân viên ngân hàng thực hiện tốt

công việc của mình cần phải được đào tạo cả về tin học, ngoại ngữ nhằm giúp cho

nhân viên ngân hàng sớm tiếp cận nắm bắt được công nghệ tiên tiến.

Sau nữa, các ngân hàng cần có chính sách tuyển dụng đúng đắn nhằm thu hút

những sinh viên giỏi về làm việc. Để thực hiện được điều này ngân hàng nên có

những chính sách cụ thể thu hút, trọng dụng người tài (như đãi ngộ cán bộ ngân

hàng làm theo năng lực, trình độ, hiệu quả công việc…), tạo điều kiện để các sáng

kiến của nhân viên được phát huy có hiệu quả.

3.2.2.4. Đưa phí quyền chọn tiền tệ trở thành một lợi thế cạnh tranh

Như những gì đã phân tích trong chương 2 sở dĩ các doanh nghiệp, cá nhân

còn thờ ơ với công cụ quyền chọn tiền tệ một phần là vì họ cho rằng mức phí quyền

chọn còn cao do các NHTM Việt Nam chưa ứng dụng được các mô hình chiến lược

kinh doanh quyền chọn tiền tệ đã nêu ở chương 1 để có thể giảm phí quyền chọn

tương đối bằng so với các ngân hàng nước ngoài. Bên cạnh đó, trong giai đoạn đầu

tạo lập thị trường, thiết nghĩ các ngân hàng không nên đặt nặng vấn đề lợi nhuận.

Mục tiêu của chúng ta hiện nay là thu hút được khách hàng tham gia vào thị trường.

129

Chính vì vậy, mức phí thấp hơn so với các ngân hàng khác sẽ là một chiêu thức thu

hút, hấp dẫn giới doanh nghiệp, những nhà đầu tư và những ai quan tâm đến thực

hiện thử nghiệm công cụ quyền chọn tiền tệ cho mục đích phòng ngừa rủi ro và

kinh doanh sinh lời. Sau khi được tiếp cận với thực tế, khách hàng sẽ nhận thức

thêm được sự bất ổn của thị trường và những lợi ích đem lại cho họ từ nghiệp vụ

quyền chọn tiền tệ. Từ đó, nhu cầu sử dụng công cụ này sẽ cao hơn và đa dạng hơn.

Vì vậy, việc xác định một mức phí quyền chọn hấp dẫn khách hàng là việc mà ngân

hàng cần nghĩ đến.

Bên cạnh đó, việc định giá quyền chọn cũng là một khâu khá quan trọng và

phức tạp. Tuy nhiên, ứng dụng công nghệ tin học để đánh giá quyền chọn sẽ giúp

chúng ta đơn giản hóa được rất nhiều và tiết kiệm được thời gian làm việc, chúng ta

chỉ cần cung cấp những thông tin cơ bản, phần mềm sẽ tự động xử lý, phân tích và

cho kết quả chính xác. Do đó, các ngân hàng cần trang bị thêm những phần mềm

tính toán chuyên nghiệp để nhanh chóng trong quá trình tính phí quyền chọn cho

khách hàng, hỗ trợ cho việc theo dõi hạn mức giao dịch của các nhân viên kinh

doanh ngoại tệ và hạn mức khách hàng đặc biệt khi thị trường phát triển với những

quyền chọn đa dạng theo nhu cầu ngày càng nhiều của khách hàng.

3.2.2.5. Hoàn thiện các quy trình, quy chế của nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ

Các quy trình, quy chế thực hiện nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ hiện nay chưa

hoàn chỉnh và cần sớm ban hành. Như trong chương 2 đã nêu về tình hình phát triển

nghiệp vụ quyền chọn tiền ở Vietcombank, hiện nay Vietcombank vẫn đang trong

quá trình xây dựng quy trình và dự kiến phải đến đầu năm 2009 mới có thể ban

hành được quy trình về nghiệp vụ này. Tuy được bắt đầu thực hiện từ cách đây vài

năm nhưng cho đến nay mới chỉ có thỏa thuận chung về nghiệp vụ này, quy trình,

quy chế chính thức đang trong thời gian chỉnh sửa. Để phát triển hơn nữa nghiệp vụ

này, các ngân hàng cần khẩn trương hoàn thiện để có sự quản lý chặt chẽ và thống

nhất.

130

Về quyền chọn tiền đồng, do vẫn trong thời gian thực hiện thí điểm nên phạm

vi thực hiện nghiệp vụ này thường chỉ ở Hội sở chính của các ngân hàng. Trong

thời gian tới, nên cho phép thực hiện quyền chọn tiền đồng ở các chi nhánh để tìm

kiếm được nhiều khách hàng cũng như thuận lợi cho khách hàng ở các quận huyện

trong thành phố cũng như ở các tỉnh thành. Bởi vì, rủi ro tỷ giá là rủi ro mà tất cả

các doanh nghiệp, tổ chức đều phải đối mặt, vậy thì tại sao chỉ có các doanh nghiệp

ở thành phố Hồ Chí Minh mới có điều kiện thực hiện. Các doanh nghiệp ở địa

phương muốn thực hiện thì quả là vất vả khi mà nghiệp vụ này chỉ thực hiện tại Hội

Sở chính.

3.2.2.6. Tuyên truyền, phổ biến rộng rãi về những ưu việt của các công cụ phái

sinh trong đó có quyền chọn tiền tệ

Để hình thành và phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ thì điều cần thiết là

các doanh nghiệp vừa là đối tác vừa là khách hàng của các NHTM phải được trang

bị kiến thức nhất định về thị trường các công cụ phái sinh trong đó có quyền chọn

tiền tệ, định giá các công cụ phái sinh, sử dụng các công cụ đó để phòng ngừa rủi ro

nói chung và rủi ro về tỷ giá nói riêng.Vì vậy các NHTM cần phải tuyên truyền,

hướng dẫn và tư vấn cho các doanh nghiệp về vai trò và tầm quan trọng của nghiệp

vụ này cũng như các vấn đề kỹ thuật có liên quan. Trên thực tế, nhiều NHTM trên

thế giới đã giới thiệu về các sản phẩm phái sinh trên các trang web của ngân hàng

nhằm nâng cao khả năng tiếp cận của khách hàng đối với sản phẩm này. Trong điều

kiện của Việt Nam, do những hạn chế nhất định về công nghệ nên ngoài phương

pháp giới thiệu sản phẩm trên mang, các ngân hàng có thể sử dụng các hình thức

khác như xây dựng cẩm nang, tờ rơi, tổ chức hội thảo, hội nghị khách hàng…nhằm

giới thiệu về những sản phẩm mới này. Bên cạnh đó, trung tâm đào tạo của các

ngân hàng cũng có thể mở những lớp tập huấn ngắn ngày cho các khách hàng để họ

hiểu được những kiến thức cơ bản về kỹ thuật, công dụng…của các nghiệp vụ phái

sinh nói chung và nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ nói riêng.

131

Các kiến nghị trên là những điều cơ bản, cần thiết giúp cho các doanh nghiệp

Việt Nam có thêm công cụ phòng ngừa rủi ro hối đoái, cũng là bước chuẩn bị cho

các doanh nghiệp quen dần với môi trường kinh doanh tài chính quốc tế. Đây cũng

là vấn đề mang tính chất chiến lược góp phần vào việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp

trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế.

3.2.2.7. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng

Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, công nghệ ảnh hưởng quyết định tới

việc phát triển sản phẩm, chất lượng sản phẩm và phương thức phân phối sản phẩm

cũng như khả năng quản lý hoạt động kinh doanh ngân hàng. Đặc biệt trong quá

trình thực hiện nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ, công nghệ có ảnh hưởng trực tiếp đến

quá trình cung cấp, xử lý thông tin để đi đến quyết định trong các giao dịch, ảnh

hưởng đến kết quả tính toán và quá trình thanh toán, cũng như quá trình kiểm soát

rủi ro. Chính vì vậy, để hình thành và phát triển nghiệp vụ này đòi hỏi các NHTM

cần có những đầu tư nhất định để hiện đại hoá công nghệ.

Trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng, quá trình tin học hoá đang được nhanh

chóng triển khai, các hoạt động ngân hàng được nối mạng với nhau cung cấp dịch

vụ 24/24 giờ, đồng thời nâng cao được hiệu quả phục vụ khách hàng và quản lý

vốn. Tuy nhiên, cho đến nay, so với các nước trong khu vực thì công nghệ của các

NHTM Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại yếu kém. Các NHTM chưa đủ trình độ thiết

kế tổng thể, còn nhiều hệ thống ứng dụng tự phát triển và mang tính tạm thời để

phục vụ yêu cầu trước mắt, đặc biệt là các NHTM cổ phần. Do đó, việc kiểm soát

gặp nhiều khó khăn, hệ thống cơ sở dữ liệu chồng chéo và hệ thống có nhiều rủi ro.

Đặc biệt là không có nền tảng để phát triển hoặc mở rộng các ứng dụng mới. Công

nghệ lạc hậu không những hạn chế khả năng cung ứng các dịch vụ mới của các

NHTM Việt Nam mà còn làm giảm đi hiệu quả quản lý của các nhà lãnh đạo ngân

hàng. Chính vì vậy, hiện đại hoá ngân hàng là mục tiêu hết sức cấp thiết đối với

NHTM trong thời gian tới để phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ.

132

3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ

Quyền chọn tiền tệ nói riêng và các nghiệp vụ phái sinh nói chung là loại hình

kinh doanh còn nhiều mới mẻ, có những đòi hỏi khắt khe về môi trường pháp lý.

Điều này là do tính hấp dẫn của bản thân đồng tiền và mức độ rủi ro luôn đi kèm

trong hoạt động kinh doanh. Chính vì vậy, các văn bản pháp lý quản lý trong lĩnh

vực này phải xây dựng đầy đủ nhưng cũng cần phải thường xuyên điều chỉnh và

thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế.

Để góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện cán cân kinh tế, từng bước

thực hiện khả năng chuyển đổi của đồng Việt Nam trong các hoạt động ngoại hối và

hoàn thiện hệ thống quản lý ngoại hối của Việt Nam, hiện nay Pháp lệnh Ngoại hối

đã có hiệu lực thi hành từ tháng 06/2006, vì vậy các văn bản hướng dẫn như Thông

tư cũng cần nhanh chóng ra đời để tạo hành lang pháp lý cụ thể, chi tiết cho các

ngân hàng và các chủ thể tham gia trên thị trường ngoại hối Việt Nam. Vì nếu thực

hiện kéo dài sẽ ảnh hưởng tới tình hình kinh doanh, thực hiện đa dạng hóa các hình

thức giao dịch ngoại tệ của các NHTM.

Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, chính sách ngoại hối lại

càng có vị trí quan trọng, làm sao để vừa tranh thủ các nguồn vốn quốc tế, thúc đẩy

các hoạt động thương mại, du lịch, kiều hối, đầu tư… nhưng lại bảo đảm được chủ

quyền của đồng Việt Nam, thực hiện được các mục tiêu của chính sách tiền tệ.

Trong những năm gần đây, chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam đã có

những đổi mới quan trọng như giảm tỷ lệ kết hối xuống bằng 0%, các doanh nghiệp

và các tổ chức có toàn quyền sử dụng số ngoại tệ trên tài khoản, người nhận kiều

hối không bắt buộc phải bán ngoại tệ cho ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt

Nam ủy quyền cho cho chi nhánh Ngân hàng Nhà nước cấp phép cũng như tăng hạn

mức mang ngoại tệ ra nước ngoài, tự do hóa lãi suất ngoại tệ, nới lỏng biên độ giao

dịch tỷ giá giữ NHTM với khách hàng…Những thay đổi đó đã đem đến những

thành công rất ấn tượng như lượng kiều hối chuyển về nước tăng đột biến và đạt

133

gần 7 tỷ USD trong năm 2007. Dự trữ ngoại hối quốc gia được tăng cường, từ chỗ

đạt chỉ vài chục triệu USD trong những năm cuối thập kỷ 80 đến năm 2008 đã đạt

trên 20 tỷ USD đảm bảo đủ để can thiệp thị trường khi có bất trắc.

Tuy nhiên nhìn nhận lại thì chính sách quản lý ngoại hối của nước ta vẫn còn

những bất cập nhất định so với yêu cầu của thực tiễn. Yêu cầu đặt ra về hoàn thiện

chính sách quản lý ngoại hối là vừa phải khắc phục được những tồn tại, đồng thời

phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế. Trước hết cần thiết phải có biện pháp về lãi

suất, điều hành tỷ giá, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ… để tạo ra những hấp dẫn

cần thiết về lợi ích kinh tế cho các doanh nghiệp để họ thực hiện các giao dịch về

ngoại tệ với ngân hàng. Cần phải chấp thuận một thực tế là có thể giảm tình trạng

Đô la hóa trong xã hội nhưng sẽ tăng tình trạng Đô la hóa tài sản có trong các

NHTM. Tức là thu hút tối đa ngoại tệ trong xã hội vào ngân hàng và mở rộng cho

vay, còn lợi hơn là để ngoại tệ lưu thông trôi nổi trong xã hôi, ngân hàng không

quản lý được. Danh mục các đơn vị được phép bán hàng và dịch vụ thu bằng ngoại

tệ cần giảm thiểu tới mức thấp nhất, đồng thời tăng cường kiểm tra và xử phạt thật

nghiêm minh tình trạng tùy tiện mua bán bằng ngoại tệ. Giảm thiểu tới mức có thể

chấp nhận được về các loại giấy phép có liên quan đến ngoại tệ, thay vào đó bằng

điều kiện kinh doanh, Ngân hàng Nhà nước nên giao quyền chủ động hơn nữa cho

các NHTM trong kinh doanh ngoại hối, đa dạng hóa các nghiệp vụ để phòng ngừa

rủi ro tỷ giá cho doanh nghiệp.

Từng bước cải cách để thực hiện tự do hóa tài chính hơn nữa. Từ khi thực hiện

chính sách mở cửa, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong việc

ổn định và phát triển trên cơ sở từng bước thâm nhập thị trường kinh tế thế giới.

Việt nam sẽ phải mở cửa thị trường ở hầu hết các lĩnh vực, trong đó có thị trường

dịch vụ tài chính. Và chính tự do hóa tài chính sẽ là tiền đề để phát triển thị trường

các công vụ ngoại hối phái sinh. Để làm được điều cần thiết phải thực hiện từng

bước một, chậm rãi và chắc chắn, cụ thể như sau:

134

Việt Nam nên tiếp tục tiến hành việc mở cửa dần thị trường tài chính với một

phạm vi thích hợp và một trình tự hợp lý sao cho vừa đảm bảo nâng dần năng lực và

khả năng cạnh tranh vừa thích nghi và tiến gần hơn đến những tiêu chuẩn và thông

lệ quốc tế. Sự thành công về việc xúc tiến mở cửa thị trường tài chính thời gian qua

đã cho thấy rằng, sự tham gia của các hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực

dịch vụ tài chính cũng đã mang lại lợi ích đáng kể như tăng cường sự cạnh tranh, hạ

thấp chi phí, nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng cường chuyển giao công nghệ, kinh

nghiệm quản lý và tăng thêm tích luỹ vốn cho nền kinh tế.

Việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính không thể không gắn liền với một

tiến trình cải cách liên tục hệ thống dịch vụ tài chính ở nước ta hiện nay. Mặc dù đã

có 10 năm cải cách song hệ thống dịch vụ tài chính ở nước ta vẫn còn ở điểm xuất

phát thấp, kém hiệu quả và vẫn mang nặng dấu ấn của thời kỳ bao cấp. Thực trạng

đó không thể cứ tiếp tục duy trì thông qua việc bảo hộ bằng cách hạn chế sự thâm

nhập của các hoạt động đầu tư quốc tế, mà cần phải được bảo hộ thông qua những

cải cách triệt để trên cơ sở đó tạo ra năng lực tự bảo vệ trong điều kiện cạnh tranh

quốc tế khi tiến hành hội nhập. Một trong những nguyên nhân chủ yếu của các cuộc

khủng hoảng tài chính tiền tệ diễn ra trên thế giới (cùng với những nguyên nhân

khác) là sự yếu kém của chính bản thân hệ thống tài chính ngân hàng nội địa của

các nước thi hành chính sách mở cửa. Do đó, đã không đối phó nổi những trận bão

táp tài chính nảy sinh do hiệu ứng của đầu tư quốc tế mang lại. Việc mở cửa thị

trường nếu quá đột ngột do không cho sự cải cách đáng kể để nâng cao năng lực của

hệ thống tài chính nội địa trước khi tiến hành mở cửa sẽ rất dễ dẫn đến tình trạng

hỗn loạn, bất lợi và mất khả năng kiểm soát của chính phủ đối với lĩnh vực dịch vụ

tài chính. Vì vậy, cải cách và loại bỏ dần tính hành chính bao cấp của hệ thống tài

chính nội địa cho thích ứng với kinh tế thị trường trong môi trường quốc tế được coi

là một trong những chiến lược mang lại sự thành công khi tham gia hội nhập.

Cải cách hệ thống dịch vụ tài chính không có nghĩa chỉ là những cải cách về

mặt cơ cấu tổ chức, năng lực nghề nghiệp, mà phải được tiến hành toàn diện cả về

quan điểm và phương pháp điều hành vĩ mô của toàn bộ hệ thống gắn với những

135

điều kiện quốc tế. Trong đó, những cải cách về hệ điều hành chính sách tỷ giá, quản

lý ngoại tệ và chính sách lãi suất phải được coi là đặc biệt quan trọng vì chúng hết

sức nhạy cảm đối với nền kinh tế.

Cải cách tài chính song song với việc mở cửa dần dần thị trường dịch vụ tài

chính cần phải được hỗ trợ đồng thời bằng việc hoàn thiện hệ thống luật pháp, nhằm

tạo ra một hành lang pháp lý ổn định, hiệu quả và minh bạch, tạo sân chơi bình

đẳng cho các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài theo hướng đối xử quốc gia (national treatment). Trong đó, đặc biệt chú ý đến

những cơ sở pháp lý đảm bảo quyền giám sát kiểm tra của chính phủ và các cơ quan

bảo vệ pháp luật đối với các hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp, kể cả doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm đảm bảo sự khống chế của nhà nước trong

việc duy trì sự ổn định và sự lành mạnh của thị trường dịch vụ tài chính. Trước mắt

cần xoá bỏ ngay sự đối xử ưu đãi về thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ tài chính nhằm đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng

giữa doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Nói chung, đối với lĩnh vực ngân hàng và thị trường chứng khoán cần phải có

những bước đi hết sức thận trọng, bằng những biện pháp bảo vệ thận trọng để tiến

tới việc mở cửa một cách toàn diện khi đủ điều kiện cho phép.

Tiếp nữa, cần điều chỉnh cơ cấu xuất nhập khẩu, cải thiện cán cân vãng lai

hoàn thiện các chính sách quản lý vĩ mô. Trong nhiều năm qua, cán cân thương mại

của nước ta luôn trong tình trạng bội chi vì nhập khẩu cao hơn so với xuất khẩu, do

vậy ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh ngoại hối của các NHTM. Như vậy,

để củng cố và cải thiện cán cân thương mại nhằm củng cố giá trị VNĐ và tiến tới

làm cho nó có khả năng chuyển đổi thì Nhà nước cần phải đẩy mạnh các hoạt động

xuất khẩu, giảm nhập khẩu, đặc biệt giảm mạnh việc nhập các hàng hóa tiêu dùng

trên cơ sở phải đầu tư nhiều hơn vào chất lượng hàng hóa xuất khẩu, thay đổi cơ

cấu, chủng loại hàng hóa, đồng thời khai thác thị trường xuất khẩu. Để làm được

điều này, Nhà nước cần đặc biệt chú trọng đến các chính sách tài trợ xuất khẩu,

136

chính sách tỷ giá và các chính sách khác nữa. Cũng nhằm tạo điều kiện cho các

NHTM trong việc mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại hối, Chính phủ cần quan

tâm hỗ trợ một số vấn đề như: nhanh chóng giải quyết dứt điểm các khoản nợ tồn

đọng và sớm bổ sung thêm vốn điều lệ cho các NHTM và tiến hành cổ phần hóa các

doanh nghiệp nhà nước; sớm có chỉ đạo thống nhất tập trung nguồn thu chi ngoại tệ

về đầu mối Ngân hàng Nhà nước nhằm tăng cường nguồn dự trữ ngoại tệ của quốc

gia tại Việt Nam, phát huy vai trò can thiệp của Ngân hàng Nhà nước trên thị trường

ngoại hối từ đó đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của khách hàng được tốt nhất.

Nhà nước nên hoàn chỉnh khung pháp lý xác định rõ ràng nghiệp vụ giao dịch

hợp đồng Quyền chọn là một nghiệp vụ kinh doanh tài chính mang tính chất phòng

ngừa rủi ro hối đoái của các doanh nghiệp không thuộc các tổ chức tài chính – tín

dụng, bảo hiểm, kinh doanh chứng khoán. Trên cơ sở này, Bộ tài chính xác định phí

giao dịch quyền chọn là một khoản chi phí hợp lý, hợp lệ được tính vào chi phí khi

xác định thu nhập chịu thuế.

Hình thành sàn giao dịch công cụ tài chính phái sinh

Ở các nước phát triển như Mỹ, Anh, Đức, Nhật và Singapre đều có sàn giao

dịch công cụ tài chính phái sinh tập trung. Trong thời gian qua, giao dịch tài chính

phái sinh ở Việt Nam chủ yếu là giao dịch phái sinh trên thị trường ngoại hối như

Hợp đồng kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn đều được thực hiện trên thị trường phi tập

trung, dựa trên cơ sở thỏa thuận giữa khách hàng và NHTM. Do không có thị

trường tập trung hoạt động nên tính thanh khoản của các công cụ tài chính phái sinh

thấp. Khách hàng e ngại khi thấy công cụ phái sinh như Hợp đồng quyền chọn rất

khó thanh lý khi cần. Việc giao dịch phi tập trung như hiện nay có nhiều nhược

điểm và làm hạn chế nhu cầu giao dịch của khách hàng, thể hiện ở chỗ: chi phí tìm

kiếm thông tin và tìm kiếm khách hàng thường cao nhưng khách hàng giao dịch lại

không nhiều; khách hàng rất e ngại vì họ cho rằng họ không đủ mạnh về kiến thức,

chuyên môn, kinh nghiệm, thông tin …để có thể thương lượng giao dịch bình đẳng

với các ngân hàng.

137

3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nƣớc

Nếu sử dụng sai mục đích và không được giám sát chặt chẽ, các công cụ phái

sinh, từ chỗ là công cụ phòng chống rủi ro sẽ mang đến những mầm hoạ khôn lường

cho nền kinh tế. Tuy nhiên làm thế nào để vừa không quản lý quá chặt cản trở sự

phát triển của nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ vừa đưa nghiệp vụ về đúng quỹ đạo của

nó, Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng những trụ cột cơ bản đảm bảo việc triển

khai nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ được phát triển bền vững

Thứ nhất: Quy định về giới hạn và giá mua

Quy định này nhằm khống chế các nhà đầu tư đưa ra những mức giá quá cao

hay quá thấp làm cho thị trường bị xáo trộn hay bị bóp méo. Nói cách khác, đây là

những quy định nhằm kiểm soát (không ngăn cấm) các nhà đầu cơ tác động lên giá

cả. Việc kết hợp các chiến lược phòng ngừa rủi ro trong các quyền chọn tiền tệ là

rất phong phú, nó cho phép các doanh nghiệp Việt Nam kết hợp vừa phòng ngừa (tỷ

giá) vừa tiến công khi có cơ hội (đặc biệt đối với các định chế muốn tìm kiếm lợi

nhuận). Dĩ nhiên là mặt trái của quyền chọn là đầu cơ rất cao vì các nhà đầu cơ có

thể kích giá lên nhằm mục đích thu lợi nhuận cao nếu họ mua hợp đồng quyền chọn

bán với giá cao hơn giá giao ngay. Các nhà đầu cơ có thể đầu cơ giá lên hoặc đầu cơ

giá xuống bằng các quyền chọn mua và bán.

Việc đầu cơ giá trên hợp đồng quyền chọn tiền tệ có thể làm cho tỷ giá biến

động vượt ra khỏi biên độ dự kiến và do đó làm mất niềm tin của các doanh nghiệp

và các nhà đầu tư vào hệ thống tỷ giá mà chúng ta đã hoạch định. Mặc dù vậy, vẫn

chưa có những chứng cứ nào cho thấy việc đầu cơ vào các hợp đồng quyền chọn

tiền tệ dẫn tới sự sụp đổ hoặc khủng hoảng tỷ giá ở các nước trên thế giới. Chế độ tỷ

giá phụ thuộc chủ yếu vàọ sự ổn định vĩ mô của nền kinh tế quốc gia. Trong những

năm qua, Việt Nam được đánh giá rất cao về chỉ số ổn định kinh tế vĩ mô. Do đó,

nỗi lo về tính bất ổn của tỷ giá khi mở rộng biên độ sẽ giảm đi rất nhiều. Chính vì

thế, chúng ta có thể triển khai các quyền chọn có điều kiện phù hợp với điều kiện

các nước như Việt Nam đã từng áp dụng và thành công.

138

Quyền chọn có điều kiện là một dạng quyền chọn lai tạp giữa các quyền chọn

phức tạp ở các nước phát triển nhưng nó làm giảm nhẹ đi tính đầu cơ để tránh thua

lỗ tối đa cho các nhà đầu tư và thậm chí các nhà đầu cơ có ham muốn sử dụng

quyền chọn tiền tệ như một công cụ kiếm lời. Các quyền chọn tiền tệ có điều kiện

đưa ra những quy định về các mức tỷ giá trần (tối đa) và sàn (tối thiểu). Nếu tỷ giá

vượt quá các mức giá này thì quyền chọn sẽ không còn có giá trị. Những rào cản

này sẽ làm nản lòng các nhà đầu cơ và do đó giảm đi đáng kể tính bất ổn do Ngân

hàng Nhà nước mở rộng biên độ dao động tỷ giá. Các khống chế nêu trên có thể áp

dụng cho toàn bộ các hàng hoá và tài sản trên thị trường Việt Nam.

Thứ hai: Yêu cầu về vốn và thế chấp trong giao dịch

Kể từ vụ sụp đổ của công ty Enron năm 2001, một công ty có thể mở ra một

hay nhiều công ty con "dưới bóng" của mình. Công ty con dựa uy công ty mẹ để

được vay vốn, để thắng thầu, để xây dựng thương hiệu. Công ty mẹ sử dụng công ty

con để huy động vốn, để hứng chịu những hợp đồng đầy rủi ro, để giấu bớt những

trách nhiệm nợ của mình, làm cho báo cáo tài chính "đẹp đẽ" hơn..., các nhà kinh tế

đã bắt đầu thảo luận để đặt ra những qui định về thế chấp tài sản trên các hợp đồng

phái sinh. Khi một công ty có những khó khăn về mặt tài chính hoặc thậm chí đang

còn hoạt động rất tốt vẫn phải đưa ra những khoản thế chấp hay các mức duy trì đặt

cọc cao để chắc chắn công ty sẽ tuân thủ hợp đồng mỗi khi có những biến động cao

trong giá. Mức duy trì có thể là một khoản tối thiểu mà khi tài khoản ký quỹ giảm

xuống một mức nào đó, thì cách tham gia hợp đồng bổ sung vào.

Trong điều kiện Việt Nam, mức tài khoản ký quỹ và mức duy trì ắt phải là rất

cao, có thể lên tới 30% hợp đồng (so với mức 5% trên các thị trường thế giới). Đối

với các nhà môi giới trên các hợp đồng phái sinh yêu cầu đầu tiên là phải có đủ vốn,

mặc dù họ chỉ là những ngân hàng hoặc các công ty không trực tiếp tham gia vào

các giao dịch phái sinh. Yêu cầu về vốn rất quan trọng, vì chúng giúp cho hệ thống

các ngân hàng Việt Nam giảm bớt những nguy cơ về động cơ sẵn sàng chấp nhận

rủi ro để tránh tình trạng mất khả năng thanh toán của nhà môi giới.

139

Thứ ba: Yêu cầu bắt buộc về tái phòng ngừa rủi ro trên các thị trường quốc tế

Yêu cầu này nhằm khống chế và bắt buộc hệ thống NHTM trong nước không

được gánh chịu những rủi ro từ người mua các hợp đồng quyền chọn hoặc kỳ hạn.

Các ngân hàng chỉ là trung gian, đứng ra thu phí giữa người mua trong nước và sau

đó đem bán lại trên thị trường thế giới. Quy định này được áp dụng trong hầu hết

các nước phát triển, nhưng trong điều kiện Việt Nam chúng ta bắt buộc các ngân

hàng về các giao dịch này còn hạn chế nhiều, đó là chưa kể đến những yếu kém về

vốn trong hệ thống NHTM.

Thứ tư: Yêu cầu mở cửa thị trường tự do cho tất cả các định chế triển khai các

hợp đồng quyền chọn

Mở cửa thị trường các công cụ tài chính phái sinh, để tránh tình trạng phổ biến

hiện nay là chính phủ chỉ cho phép một số ngân hàng làm thí điểm. Có thể nói “thí

điểm” hiện nay là một căn bệnh của các cơ quan hoạch định chính sách. Trong

những trường hợp như thế, giá trị hợp lý của các hợp đồng phái sinh sẽ chỉ là độc

quyền của một số ngân hàng, và chắc chắn sẽ cao hơn trên thị trường thế giới. Tất

cả những bóp méo giá trị các hợp đồng phái sinh sẽ đẩy sang phía người mua gánh

chịu. Tác dụng ngược của các độc quyền là hoặc sẽ không tồn tại công cụ phòng

ngừa rủi ro trên thực tế, do giá phí quá cao làm nản lòng các nhà đầu tư, hoặc là các

nhà đầu tư sẽ càng chấp nhận mạo hiểm cùng tham gia canh bạc với cái giá phải trả

rất cao với hy vọng gỡ gặc lại bằng cách hy vọng đầu cơ trên những thị trường bất

đầu cơ trên không khí bất ổn của giá cả thị trường. Chính vì thế mà cần xem xét để

tạo ra một thị trường tự do, để các định chế tài chính có đủ các điều kiện có thể

cung cấp các hợp đồng quyền chọn. Và dĩ nhiên đi liền với đó là thiết lập khung

quản lý chung cho các định chế này.

Thứ năm: Yêu cầu về đăng ký và lập các Báo cáo tài chính

Đây là một chuẩn mực bắt buộc nhằm làm tăng tính minh bạch cho tất cả

thành viên tham gia thị trường. Tất cả các thành viên tham gia thị trường phái sinh

phải hiểu hết về nhau trước khi tiến hành các giao dịch với nhau Chẳng hạn như

140

một ngân hàng Việt nam đồng ý thực hiện một hợp đồng tương lai 1000 lượng vàng

với người mua tương lai. Trong trường hợp này người mua tương lai cần phải có

những thông tin rằng hiện nay ngân hàng Việt Nam hiện đang ký quỹ là bao nhiêu

tại một ngân hàng nước ngoài để mua vàng thế giới bán lại cho người từ trong nước.

Nói cách khác, trong cuộc chơi này trong cuộc chơi này ai cũng phải có thông tin

lẫn nhau, để cuộc chơi tăng thêm phần minh bạch và có lợi cho thị trường giao dịch.

Thứ sáu: Hoàn thiện những quy định tài chính kế toán liên quan, nâng cao

tính thanh khoản của hợp đồng quyền chọn tiền tệ

Nhà nước nên hoàn chỉnh khung pháp lý xác định rõ ràng nghiệp vụ giao dịch

hợp đồng quyền chọn là một nghiệp vụ kinh doanh tài chính mang tính chất phòng

ngừa rủi ro hối đoái của các doanh nghiệp không thuộc các tổ chức tài chính tín

dụng, bảo hiểm, kinh doanh. Trên cơ sở này, Bộ tài chính xác định phí giao dịch

quyền chọn là một khoản chi phí hợp lý, hợp lệ được tính vào chi phí khi tính vào

chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế.

Song song với việc triển khai các công cụ tài chính phái sinh thuần nhất, nên

có những tiếp cận đối với các sản phẩm lai tạp. Các sản phẩm quản trị rủi ro lãi

suất, tỷ giá, giá cả và cả rủi ro tín dụng đã xuất hiện trên thị trường Việt Nam. Thời

gian tới sẽ vẫn tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng của thị trường tài sản cơ cở. Từ

đó, sẽ là cơ sở có thể định giá các sản phẩm phái sinh hiệu quả nhất.

Thứ bảy: Chấm dứt giai đoạn thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn tiền

đồng

Cho phép các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại hối được thực hiện

nghiệp vụ quyền chọn tiền đồng. Nên tạo một sân chơi lớn, bình đẳng để các ngân

hàng cạnh tranh và phát triển, còn khách hàng mới có cơ hội lựa chọn những dịch

vụ tốt nhất cho mình, một thị trường nhiều người mua và nhiều người bán thì mới

có thể sôi động và phát triển. Ngân hàng Nhà nước sớm nghiên cứu và mở rộng

phạm vi giao dịch hợp đồng Quyền chọn, thay vì chỉ cho phép giao dịch giữa ngoại

tệ với ngoại tệ, cho phép giao dịch cả VND với ngoại tệ. Không nên quá lo lắng các

141

doanh nghiệp sẽ “đánh bạc” với nghiệp vụ giao dịch này cũng như lo lắng trình độ

hiểu biết về các giao dịch ngoại hối của doanh nghiệp. Thực tế, các doanh nghiệp

quan tâm đến nghiệp vụ này thường là các doanh nghiệp có kim ngạch xuất nhập

khẩu lớn, trong những năm gần đây các cán bộ quản lý tài chính ở những doanh

nghiệp này đa số đã có sự chuẩn bị kiến thức để thực hiện những nghiệp vụ giao

dịch hối đoái đa dạng.

Tạo điều kiện giúp hoàn chỉnh và đẩy mạnh hoạt động của thị trường liên ngân

hàng. Nới lỏng các quy định trong việc đáp ứng các nhu cầu mua ngoại tệ của các

doanh nghiệp.

Thứ tám, Ngân hàng Nhà nước nên xác định chính sách tỷ giá giữa VND và

USD một cách hợp lý

Trên cơ sở xác định ngang giá trung tâm dựa trên tỷ giá thực tế với một dải

băng có biên độ lớn hơn làm khung giao dịch Ngân hàng Nhà nước nên xác định

chính sách tỷ giá giữa VND và USD một cách hợp lý, có như vậy tỷ giá VND mới

có sự biến động theo tín hiệu của thị trường,

Trên đây là một số giải pháp mang tính vĩ mô. Đó là những công việc mà nhà

nước, chính phủ và các cơ quan liên quan cần có kế hoạch triển khai. Tuy nhiên, để

thị trường ngày càng phát triển bền vững, an toàn và hiệu quả thì cần những nỗ lực

của tất cả các chủ thể kinh tế, các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng ngân hàng,

những chủ thể cung cấp và sử dụng sản phẩm phái sinh. Và vấn đề cốt lõi chính là

nhận thức của chính các chủ thể tham gia trực tiếp chứ không phải là các chủ thể

quản lý.

142

KẾT LUẬN

Nghiệp vụ tài chính phái sinh nói chung và quyền chọn tiền tệ nói riêng vẫn

còn là một nghiệp vụ khá mới mẻ đối với các Ngân hàng thương mại và đối với

khách hàng vì đây là một nghiệp vụ phức tạp, đòi hỏi phải có sự phát triển toàn diện

về trình độ chuyên môn của các ngân hàng cũng như kiến thức về tài chính của

khách hàng. Bên cạnh đó nghiệp vụ này còn đòi hỏi được triển khai trên nền tảng

công nghệ hiện đại, hệ thống thông tin đồng bộ, xuyên suốt và cập nhập. Ngoài ra

hành lang pháp lý cũng cần thiết phải được đổi mới để hỗ trợ tối đa hoạt động kinh

doanh hợp pháp của các ngân hàng và khách hàng, không tạo ra những rào cản

không cần thiết đối với việc thực hiện các giao dịch này.

Với việc vận dụng kiến thức, hiểu biết và phương pháp nghiên cứu khoa học,

luận văn đã hoàn thành một số nội dung sau:

Thứ nhất, hệ thống hoá được các lý thuyết, mô hình về nghiệp vụ quyền chọn

và quyền chọn tiền tệ.

Thứ hai, khái quát được thực tiễn triển khai nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại

một số Ngân hàng thương mại Việt Nam.

Thứ ba, đề xuất nhóm giải pháp phù hợp với điều kiện Việt Nam để có thể

phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam.

Người viết hy vọng luận văn sẽ đóng góp được một phần nhỏ trong việc tìm ra

giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại các Ngân hàng thương

mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong nghiên cứu và hoàn thiện để có thể đạt được

những kết quả như đã trình bày, song do hạn chế về thời gian và trình độ nên luận

văn chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Người viết rất mong được sự góp

ý của các thầy cô giáo và các bạn đọc quan tâm để luận văn được hoàn thiện hơn.

143

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. TS. Bùi Lê Hà, TS. Nguyễn Văn Sơn, TS. Ngô Thị Ngọc Huyền, Ths.

Nguyễn Thị Hồng Thu (2000), Giới thiệu về thị trường Future và Option, NXB

Thống Kê.

2. TS. Nguyễn Ninh Kiều (1998), Thị trường ngoại hối, NXB Tài Chính.

3. Nguyễn Đức Lệnh (2005), “Quyền chọn tiền tệ - Công cụ hạn chế rủi ro

hối đoái đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu”, Công nghệ ngân hàng (7), tr

15-18.

4. Lê Quốc Lý (2004), Quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá hối đoái ở

Việt Nam, NXB Thống Kê.

5. Ngân hàng Nhà nước (2007), Giải pháp phát triển thị trường phái sinh ở

Việt Nam, NXB Văn hóa – Thông tin.

6. Ngân hàng Thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam (2006), Báo

cáo thường niên.

7. Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (2007), Báo

cáo thường niên.

8. Lê Hoàng Nga (2003), Thị trường tiền tệ Việt Nam trong quá trình hội

nhập, NXB Chính Trị Quốc Gia.

9. Võ Trí Thanh (2002), Exchange Rate in Vietnam, NXB Thống Kê.

10. TS. Trần Ngọc Thơ, TS. Vũ Việt Quảng (2007), Lập mô hình tài chính,

NXB Lao động – Xã hội.

11. Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Thanh Trúc, Nguyễn Thị Chiến (2001),

Giáo trình Kinh doanh Ngoại hối, NXB Thống Kê.

12. Nguyễn Văn Tiến (2004), Quyền chọn tiền tệ, NXB Thống Kê.

TIẾNG VIỆT

144

13. Nguyễn Văn Tiến (2001), Tài Chính Quốc Tế hiện đại trong nền kinh tế

mở, NXB Thống Kê, Hà Nội.

14. Hồ Viết Tiến (2005), “ Tổng quan về thị trường các sản phẩm phái

sinh”, Công nghệ ngân hàng(7), tr 18-22.

15. GS.TS. Lê Văn Tư (2004), Tiền tệ Ngân hàng-Thị trường Tài chính,

NXB Tài Chính.

16. Website: www.eximbank.com.vn

17. Website: www.vietcombank.com.vn

18. Website: www.sbv.gov.vn

TIẾNG ANH

19. David K.Eiteman, Arthur I.stonehill, Michael H. Mofett (2004),

Multinational business finance, Pearson Education, Inc.

20. F. Peter Boer (2002), The real options Solution, John Wiley & Sons,

Inc.

21. John C.Hull (2000), Option, Future & Other Derivatives, Prentice Hal

International,Inc.

22. John F.Summa, Jonathan W.Lubow (2002), Options and Future-New

trading strategies, John Wiley & Sons, Inc..

23. Jon Najarian (2002), How I trade options, John Wiley & Sons, Inc..

24. Leonard Yates (2003), High Performance Options Trading-Option

Volatility & Pricing Strategies, John Wiley & Sons, Inc.

25. Marion A.Brach (2003), Real Options in practice, John Wiley & Sons,

Inc.

26. Pilbean (1998), International Finance, London Macmillan Business.

145

27. Robert W.Kolb (2002), Understanding options, John Wiley & Sons,

Inc..

28. Stefano Lavinio (2000), The hedge fund handbook-A Definitie Guide

for Analyzing and Evaluating Alternative Investment, MC Graw-Hill.

29. Website: www.optiontradingtips.com

30. Website: www.cboe.com

31. Website: www.theoptionguide.com

32. Website: www.options.com

33. Website: www.learnmoney.co.uk

34. Website: www.investorwords.com

35. Website: www.forexnews.com

36. Website: www.netdania.com

146