TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
Khoá luận tốt nghiệp
VẤN ĐỀ TIÊU CHUẨN CHẤT LƯỢNG, MÔI TRƯỜNG VÀ XÃ HỘI ĐỐI VỚI HÀNG HOÁ XUẤT KHẨU SANG EU
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN :Th.s Nguyễn Thanh Bình
SINH VIÊN THỰC HIỆN : Nghiêm Quỳnh Nga
Lớp A2 – K38A – KTNT
Hà nội, năm 2003
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Em xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Th.s Nguyễn
Thanh Bình - người đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em
trong quá trình viết khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học Ngoại
Thương đã dạy dỗ em kiến thức, cách nghiên cứu, giúp em có thể
hiểu và xử lý đề tài với khả năng của mình.
Đồng thời, xin chân thành cảm ơn các cán bộ thư viện, các cán bộ
chuyên môn trong ngành và các bạn cùng khóa đã giúp tôi thu thập tài liệu để hoàn thành khóa luận này
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
MỤC LỤC
DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I: CÁC TIÊU CHUẨN VỀ CHẤT LƯỢNG, MÔI TRƯỜNG VÀ XÃ HỘI CỦA EU
ĐỐI VỚI HÀNG HOÁ LƯU THÔNG TRÊN THỊ TRƯỜNG ........................................................ 1
I. Giới thiệu chung về thị trường EU ..................................................................... 1
1. Liên minh Châu Âu (EU)........................................................................... 1
2. Đặc điểm và tập quán tiêu dùng của thị trường EU .................................... 2
II. Các quy định và tiêu chuẩn về chất lượng của thị trường EU đối với hàng hoá
lưu thông trên thị trường. ........................................................................................... 5
1. Vấn đề tiêu chuẩn hoá và bộ tiêu chuẩn EN ............................................... 5
2. Tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9000 ................................................... 7
3. Các quy định về đảm bảo sức khoẻ và an toàn cho người tiêu dùng ........... 9
III. Các tiêu chuẩn về môi trường của EU đối với hàng hoá lưu thông trên thị
trường. ..................................................................................................................... 19
1. Tiêu chuẩn quản lý môi trường ................................................................ 19
2. Bao bì và phế thải bao bì.......................................................................... 22
3. Nhãn hiệu sinh thái EU (Eco-label).......................................................... 25
4. Các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm có liên quan đến bảo vệ môi
trường .............................................................................................................. 28
IV. Vấn đề trách nhiệm xã hội của thị trường EU đối với các doanh nghiệp xuất
khẩu ......................................................................................................................... 31
1. Các bộ quy tắc ứng xử ............................................................................. 31
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương
2. Bộ tiêu chuẩn SA 8000 ............................................................................ 33
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ VIỆT NAM SANG EU DƯỚI TÁC
ĐỘNG CỦA CÁC TIÊU CHUẨN VỀ CHẤT LƯỢNG, MÔI TRƯỜNG, VÀ XÃ HỘI. .............. 36
I. Đánh giá thực trạng chung của hàng xuất khẩu Việt Nam sang EU dưới tác
động của các quy định/ tiêu chuẩn của EU về chất lượng, môi trường và xã hội ...... 36
1. Thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - EU....................................... 36
2. Đánh giá thực trạng của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam trong việc
đáp ứng các tiêu chuẩn của EU về chất lượng, môi trường & xã hội. ............... 46
II. Đánh giá thực trạng của một số ngành xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang
EU dưới tác động của các quy định/ tiêu chuẩn của EU về chất lượng, môi trường
và xã hội. ................................................................................................................. 65
1. Hàng giày dép .......................................................................................... 65
2. Hàng dệt may........................................................................................... 71
3. Hàng nông sản ......................................................................................... 78
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐÁP ỨNG CÁC QUY ĐỊNH/TIÊU CHUẨN CỦA
EU VỀ CHẤT LƯỢNG, MÔI TRƯỜNG & XÃ HỘI ................................................................... 86
4. Hàng thuỷ sản .......................................................................................... 82
I. Triển vọng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường EU ......................... 86
1. Chiến lược xuất khẩu của Việt Nam sang EU giai đoạn 2001- 2010 ........ 86
2. Triển vọng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường EU ................. 90
II. Những giải pháp chủ yếu nhằm đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn của EU về
chất lượng, môi trường và xã hội ............................................................................. 98
1. Giải pháp về phía Nhà nước..................................................................... 98
KẾT LUẬN .................................................................................................................................109
DANH MỤC TÀI LIỆU TRÍCH DẪN VÀ THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương
2. Giải pháp về phía các doanh nghiệp........................................................103
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu
Tiếng Anh
Tiếng Việt Nam
BS
British Standard
Tiêu chuẩn của Anh
CE
European Conformity
Nhãn hiệu CE
CEEC
Centre and Eastern European Countries
Các nước Trung và Đông Âu
CEN
Uỷ ban tiêu chuẩn hoá châu Âu
Comité Européen de Normalisation - European Committee for Standardization
CENELEC
Uỷ ban tiêu chuẩn hoá kỹ thuật điện tử châu Âu
Comité Européen de Normalisation - European Committee for Electrotechnical Standardization Electrotechnique
CODEX
Theo tiếng Latin là “Food Code”
Ủy ban quốc tế về thực phẩm
CoC
Code of Conduct
Quy tắc ứng xử
CSR
Corporation Social Responsibility
Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp
DIN
Tiêu chuẩn của Đức
(Deutsches Institut fuer Normung - German Institute for Standardisation)
ECB
European Central Bank
Ngân hàng Trung Ương châu Âu
ECSC
European Coal and Steel Community
Cộng đồng than thép châu Âu
EEA
European Economic Area
Khu vực kinh tế châu Âu
EEC
European Economic Community
Cộng đồng kinh tế châu Âu
EFTA
European Free Trade Association
Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu
EMAS
Ecological Management and Audit Scheme
Chương trình kiểm định và quản lý sinh thái.
EMU
European Monetary Union
Liên minh tiền tệ châu Âu
EN
European Standard
Tiêu chuẩn châu Âu
ETSI
the European Telecommunications Standards Institute
Viện tiêu chuẩn viễn thông châu Âu
EU
European Union
Liên minh châu Âu
EURATOM European Atomic Energy Community
Cộng đồng nguyên tử châu Âu
EUREP
Euro-Retailer Produce Working Group
Tổ chức các nhà bán lẻ hàng đầu châu Âu
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Ethyl Vinyl Acetate
Nhựa EVA
EVA
Frizzy
Kháng sinh FRZ
FRZ
Food and Agriculture Organization
Tổ chức nông lương quốc tế
FAO
Good Agriculture Practice
GAP
Quy trình canh tác nông nghiệp đảm bảo
GMP
Good Manufacturing Practice
Hệ thống thực hành sản xuất tốt.
GOST
Gosstandart of Russia
Tiêu chuẩn của Liên Xô
GSP
Generalised Scheme of Preferences
Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập
HACCP
Hazard Analysis and Critical Control Point
Hệ thống phân tích, xác định và tổ chức kiểm soát các mối nguy trọng yếu.
Uỷ ban điện quốc tế
IEC
International Electrotechnical Commission
International Labour Organization
Tổ chức lao động quốc tế
ILO
ISO
International Organisation for Standardization
Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá.
ITU
International Telecommunication Union Tiêu chuẩn quốc tế về viễn thông.
LEFASO
Hiệp hội da giày Việt Nam
Vietnam Leather and Footwear Association
NAFTA
North American Free Trade Agreement Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ
Necrotizing Fasciitis
Kháng sinh NF
NF
Polyurethane
Nhựa PU
PU
Social Accountability International
SAI
Tổ chức về tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SAI
TPU
Thermoplastic Polyurethane
Nhựa TPU
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
LỜI NÓI ĐẦU
Đẩy mạnh xuất khẩu là chủ trương kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước Việt
Nam. Chủ trương này đã được khẳng định trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VIII, Nghị quyết 01 NQ/TW của Bộ Chính trị và một lần nữa khẳng định
trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, nhằm thực hiện mục tiêu chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Để thực hiện chủ
trường của Đảng, chúng ta cần phải tiếp tục tăng cường mở rộng và đa dạng hoá thị
trường xuất khẩu.
Liên minh châu Âu hiện là một trong những đối tác thương mại quan trọng, là
khu vực thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam sau Mỹ (theo số liệu ước
tính năm 2003, xuất khẩu sang EU chiếm 19,2% kim ngạch xuất khẩu của cả nước) [1]. Tuy nhiên quy mô buôn bán giữa Việt Nam - EU hiện nay vẫn còn nhỏ (mới
chiếm 0,12% tổng kim ngạch ngoại thương của EU và chiếm 13,7% tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam) [2]. Đặc biệt trong những năm gần đây, tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang EU lại có xu hướng giảm sút. Một trong
những nguyên nhân là do hàng xuất khẩu của Việt Nam còn nghèo nàn về chủng
loại, tập trung cao vào một số ít mặt hàng, chất lượng hàng thấp, không đạt độ đồng
đều... Đồng thời EU lại là một trong những thị trường khó tính trên thế giới với
hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật rất cao và nghiêm ngặt.
Hơn nữa trong xu thế hiện nay, việc tiếp cận thị trường châu Âu sẽ còn khó
khăn hơn do số lượng các yêu cầu của thị trường về an toàn, sức khoẻ, chất lượng,
môi trường và các vấn đề xã hội đang tăng lên nhanh chóng, thay thế cho các biện
pháp bảo hộ bằng thuế quan, hạn ngạch... đang dần bị cắt giảm với quá trình tự do
hoá thương mại diễn ra sôi nổi khắp mọi nơi.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, em đã chọn “Vấn đề tiêu chuẩn chất
lượng, môi trường và xã hội đối với hàng hoá xuất khẩu sang EU” làm đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của khoá luận:
khoá luận tốt nghiệp của mình.
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương
- Mục tiêu tổng quát: Nghiên cứu các tiêu chuẩn về chất lượng, môi trường
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
và xã hội đối với hàng hoá khi nhập khẩu vào thị trường EU
- Mục tiêu cụ thể:
+ Làm rõ các yêu cầu về chất lượng, môi trường và xã hội của EU đối với hoạt
động sản xuất và xuất khẩu hàng hoá của các nước thứ ba (trong đó có Việt Nam)
vào thị trường EU
+ Đánh giá khả năng đáp ứng các quy định trên của hàng Việt Nam xuất khẩu
sang EU.
+ Đề xuất giải pháp đáp ứng các quy định, tiêu chuẩn về chất lượng, môi
trường và xã hội của EU nhằm nâng cao sức cạnh tranh và đẩy mạnh xuất khẩu
Đối tượng nghiên cứu:
hàng hoá của Việt Nam vào thị trường này.
Việc tuân thủ các quy định về chất lượng, môi trường và xã hội của hàng Việt
Phạm vi nghiên cứu:
Nam khi xuất khẩu sang EU
Hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang EU (giới hạn đi sâu vào 4 nhóm hàng
Nội dung của khoá luận:
chủ lực: giày dép, dệt may, nông sản và thuỷ sản)
Ngoài lời mở đầu, kết luận và các phụ lục, khoá luận được chia làm 3 chương:
Chương I: Các quy định/ tiêu chuẩn về chất lượng, môi trường và xã hội của
EU đối với hàng hoá lưu thông trên thị trường.
Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang EU dưới tác động
của các quy định/tiêu chuẩn về chất lượng, môi trường, và xã hội.
Chương III: Một số giải pháp đáp ứng các tiêu chuẩn của EU về chất lượng,
môi trường và xã hội.
Đây là một đề tài có tính thời sự và mới mẻ cả về lý luận cũng như thực tiễn,
đồng thời do kinh nghiệm và trình độ bản thân còn hạn chế nên khoá luận không
tránh khỏi những thiếu sót về nội dung cũng như hình thức. Em rất mong nhận được
sự đánh giá góp ý của các thầy cô giáo, bạn bè và những ai quan tâm đến vấn đề này
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương
để đề tài nghiên cứu được hoàn chỉnh hơn.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Hà Nội, tháng 12 năm 2003
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương
Nghiêm Quỳnh Nga
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
CHƯƠNG I: CÁC TIÊU CHUẨN VỀ CHẤT LƯỢNG, MÔI TRƯỜNG VÀ XÃ HỘI CỦA EU ĐỐI VỚI HÀNG HOÁ LƯU THÔNG TRÊN THỊ TRƯỜNG
I. Giới thiệu chung về thị trường EU
1. Liên minh Châu Âu (EU)
Ngày 18/4/1951 tại Paris, 6 nước: Pháp, Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan, Lúcxămbua
đã ký Hiệp ước thành lập Cộng đồng than thép châu Âu (ECSC) điều hành việc sản
xuất và tiêu thụ than thép của các nước thành viên nhằm đẩy mạnh tiến bộ khoa học
kỹ thuật trong sản xuất, phân phối, tiêu thụ và nâng cao năng suất lao động.
Dựa vào kết quả hợp tác đạt được, các quốc gia này đã mở rộng liên kết sang
các lĩnh vực khác. Tháng 7 năm 1957, Cộng đồng nguyên tử châu Âu (EURATOM)
và Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC) được chính thức thành lập, trong đó
EURATOM điều hành sản xuất năng lượng nguyên tử và EEC điều hành toàn bộ
các lĩnh vực sản xuất ở 6 nước. Tuy nhiên, nhằm tránh sự chống chéo trong hoạt
động của 3 cộng đồng, đến năm 1967, các quốc gia này lại nhất trí hợp nhất các
thiết chế của cả 3 cộng đồng trên thành Cộng đồng châu Âu (EC)
Trong quá trình hoạt động, EC lần lượt kết nạp thêm 6 thành viên nữa là Anh,
Ailen, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Hy Lạp. EC cũng đã xúc tiến việc
phát triển sâu hơn nữa liên kết kinh tế và ký Hiệp ước Maastricht vào tháng 2/1992
nhằm làm châu Âu thay đổi một cách căn bản, đồng thời đổi tên EC thành Liên
Minh Châu Âu (EU). Năm 1995, EU kết nạp thêm 3 thành viên mới: Áo, Phần Lan
và Thụy Điển, trở thành cộng đồng 15 quốc gia. Các quốc gia thành viên EU chia sẻ
chính sách chung về Nông nghiệp, An ninh, Đối ngoại, Hợp tác tư pháp và Nội vụ,
áp dụng một chế độ thương mại chung. Ngoài ra còn có 12 quốc gia thành viên
tham gia Liên minh tiền tệ (EMU) với đồng tiền chung Euro được chính thức lưu
hành từ 1/1/2000.
Hiện nay, EU là một trung tâm kinh tế hùng mạnh trên thế giới với GDP chiếm
khoảng 20% GDP toàn thế giới, đứng sau Mỹ (~ 11.200 tỷ USD) và trên Nhật Bản
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 1
(~ 4.500 tỷ USD). Từ 1997 đến nay, EU vẫn giữ được ổn định và duy trì tăng trưởng GDP ở mức độ tương đối cao (8.700 tỷ USD năm 2002) [3]. Giá trị thương
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
mại của EU cũng chiếm khoảng 22.6% giá trị thương mại thế giới (nếu tính cả
thương mại trong khối, EU chiếm 40% lượng hàng hoá xuất nhập khẩu trên toàn thế
giới), vượt chỉ tiêu tương ứng của Mỹ và Nhật Bản (20,47% và 8,1%). Vai trò quan
trọng của EU như một khối thương mại sẽ còn tăng lên với việc mở rộng diễn ra
trong vòng 5 - 10 năm tới, khi mà một vài nước Đông Âu được kết nạp làm thành
viên mới của EU.
2. Đặc điểm và tập quán tiêu dùng của thị trường EU
EU là một thị trường rộng lớn bao gồm 15 quốc gia với khoảng 380 triệu dân.
Điều này có nghĩa rằng thị trường EU lớn gấp ba lần thị trường Nhật Bản (với ~ 127
triệu dân), lớn hơn thị trường Mỹ khoảng 40% (với ~ 280 triệu dân) và xấp xỉ toàn bộ khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), với khoảng 400 triệu dân [3]. Thêm
vào đó, thị trường này còn mở rộng sang các nước thuộc “Hiệp hội mậu dịch tự do
châu Âu”(EFTA) gồm Na Uy, Ai-len, Thụy Sĩ và Liechtenstein, tạo thành khu vực
kinh tế châu Âu (EEA).
EU là một thị trường thống nhất cho phép tự do di chuyển hàng hoá, dịch vụ,
vốn và lao động giữa các nước thành viên. Trong thị trường thống nhất này, hàng
hoá được sản xuất tại hoặc được nhập khẩu vào một quốc gia thành viên thì cũng có
thể được di chuyển sang các quốc gia thành viên khác mà không gặp phải một hạn
chế nào. Tiền đề cho sự di chuyển tự do này là sự thống nhất về luật lệ và quy định
liên quan đến hàng hoá sản xuất trong nước hoặc hàng hoá nhập khẩu. Với đặc điểm
trên, không chỉ thương mại nội khối có điều kiện phát triển mà các nước bên ngoài
cũng gặp nhiều thuận lợi hơn trong việc thâm nhập thị trường của các nước thành
viên EU. Bên cạnh đó, đồng tiền chung Euro và các chính sách tiền tệ do Ngân hàng
Trung ương châu Âu (ECB) chỉ đạo cho thấy sự hội nhập và gắn kết vững chắc ở
đỉnh cao của nền kinh tế châu Âu.
Mặc dù Liên minh châu Âu được xem là một thị trường thống nhất nhưng về
phương diện địa lý, khí hậu, nhân khẩu học, các nét đặc trưng văn hoá xã hội, nhu
cầu tiêu dùng và hành vi tiêu dùng thì lại hoàn toàn không phải là như vậy. Khu vực
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 2
bên trong và xung quanh vùng Rhine-Ruhr thường được coi là trung tâm kinh tế của
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
EU - gồm Hà Lan, Pháp, Bỉ và Đức - là nơi tập trung chủ yếu dân số, công nghiệp
và cơ sở hạ tầng. Một số khu công nghiệp được đặt tại các khu vực khác như: miền
trung và nam nước Đức, miền bắc Tây Ban Nha, miền bắc nước Ý, trung tâm nước
Anh (bên trong và xung quanh Luân Đôn). Ở những vùng khác như miền nam Tây
Ban Nha, miền nam nước Ý, nước Hy Lạp, nước Bồ Đào Nha.... có nền sản xuất
công nghiệp tương đối thấp, hoạt động chủ yếu là nông nghiệp và du lịch. Về mặt
khí hậu cũng có sự khác biệt đáng kể. Các nước vùng Scandinavia có khí hậu lạnh,
trong khi các nước Địa Trung Hải lại có khí hậu cận nhiệt đới. Giữa hai vùng này là
các nước tây bắc EU nằm trong vùng khí hậu ôn hoà. Những đặc điểm về khí hậu là
yếu tố ảnh hưởng đến hành vi mua hàng của người tiêu dùng EU, đặc biệt đối với
những mặt hàng như may mặc, đồ đạc nội thất...
Một sự khác biệt lớn về dân số và quy mô thị trường cũng đang tồn tại ngay
chính trong bản thân EU. Các khu vực có mật độ dân số cao nằm ở vùng tây bắc của
nước Đức, Hà Lan, tây nam nước Anh và miền bắc nước Ý. Các quốc gia vùng tây
bắc EU đồng thời là những quốc gia được đô thị hoá cao độ, với mật độ dân số tại
thủ đô khá lớn. Trái lại, Bồ Đào Nha và Áo là hai quốc gia có mật độ dân số ở nông
thôn cao nhất.
Thị trường EU đa văn hoá, đa sắc tộc. Hiện tại có tất cả khoảng 10 triệu người
không có nguồn gốc EU, phần lớn đến từ Bắc Phi, Thổ Nhĩ Kỳ và Nam Tư cũ, đang
sinh sống tại đây. Sự đa dạng tương đối về văn hoá không chỉ giữa các quốc gia
thành viên mà còn nằm trong chính nội bộ mỗi quốc gia. Ví dụ như những người ở
miền Nam nước Đức có nếp sống và tư duy khác với người sống ở vùng công
nghiệp Ruhr, và những người này lại khác với người ở vùng Đông Đức cũ. Tại Tây
Ban Nha cũng vậy, người xứ Bascơ miền bắc có nền văn hoá khác căn bản với
những người ở các xứ khác....
Cùng với sự khác biệt về nhân khẩu học và văn hoá, thói quen tiêu dùng và
hành vi mua sắm cũng khác nhau giữa các nước thành viên EU. Tại những khu vực
ở phần tây bắc EU, do sung túc hơn nên người dân có thường sử dụng phần lớn thu
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 3
nhập vào việc mua sắm nhà cửa, các đồ dùng đắt tiền, giải trí, du lịch, chăm sóc y
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
tế. Vì thế mà chất lượng của hàng hoá và dịch vụ cung cấp cho các quốc gia thuộc
vùng này thường được chú trọng hơn. Tính đa dạng trong sự thống nhất của thị
trường EU cho chúng ta hiểu cụm từ “người tiêu dùng châu Âu”nói chung không
tồn tại. Các quốc gia bên ngoài khối muốn thâm nhập hiệu quả vào các thị trường
thành viên EU không thể không tính đến những nét đặc trưng của từng thị trường.
EU là thị trường có mức sống cao, yếu tố chất lượng, sức khoẻ và an toàn cho
người tiêu dùng luôn được đặt lên hàng đầu thông qua việc đặt ra những yêu cầu rất
nghiêm ngặt đối với hàng hoá lưu thông trên thị trường. Có thể lấy ví dụ về quy chế
đảm bảo an toàn của EU đối với một số sản phẩm tiêu dùng như: các loại thuỷ hải
sản phải được kiểm tra chặt chẽ thành phần tạp chất và dư lượng kháng sinh, đồng
thời quá trình nuôi trồng, khai thác, chế biến và vận chuyển cũng phải tuân thủ các
quy định nhằm không gây tác động xấu đến môi trường; đối với vải lụa, EU lập ra
một hệ thống thống nhất về mã hiệu cho biết các loại sợi cấu thành nên loại vải hay
lụa được bán ra trên thị trường, và khi đó bất cứ loại vải hay lụa nào được lưu hành
cũng phải ghi rõ mã hiệu của những loại sợi chủ yếu kèm theo tỷ lệ % hoặc cấu
thành chi tiết của sản phẩm..v..v..
Trong xu thế hiện nay, các khía cạnh môi trường và xã hội liên quan đến sản
xuất hàng hoá ngày càng được các nước phát triển chú trọng, đặc biệt là thị trường
EU. Thị phần hàng thực phẩm thân thiện với môi trường trên cả hai phương diện
(giảm lượng hoá chất trong thực phẩm và không gây ô nhiễm môi trường) dự kiến
sẽ tăng lên nhanh chóng. Bao bì có khả năng tái sinh và ngay cả việc quảng cáo
được tiến hành theo cách thức thân thiện với môi trường luôn giành được sự ưu ái
của người tiêu dùng. Bên cạnh đó, người tiêu dùng châu Âu còn trở nên khắt khe
hơn trong việc lựa chọn hàng hoá xuất phát từ quan điểm đạo đức. Hàng hoá có
được sản xuất với sự phân chia thu nhập công bằng cho người lao động thực sự,
trong những điều kiện lao động phù hợp, không lạm dụng lao động trẻ em... đang là
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 4
mối quan tâm lớn của thị trường .
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
II. Các quy định và tiêu chuẩn về chất lượng của thị trường EU đối với hàng
hoá lưu thông trên thị trường.
1. Vấn đề tiêu chuẩn hoá và bộ tiêu chuẩn EN
“Thông thường chúng ta không nghĩ đến tiêu chuẩn, trừ khi việc thiếu vắng
tiêu chuẩn gây ra những bất lợi. Nhưng trong thực tế rất khó có thể hình dung được
cuộc sống hàng ngày lại không có tiêu chuẩn. Hãy thử lấy bất kỳ tình huống nào và
bạn sẽ ngạc nhiên thấy được nhiều tiêu chuẩn hỗ trợ như thế nào đối với cuộc sống
hàng ngày... Ví dụ, hãy tưởng tượng rằng bạn không thể lấy được tiền từ máy rút
tiền tự động do thẻ ngân hàng của bạn không thể cho vừa vào được, pin không thể
lắp được vào các thiết bị điện của bạn, các cửa hàng không có mã vạch để kiểm kê và xác định giá hàng hoá...”[4]
Ngày nay không còn ai nghi ngờ khi nói rằng tiêu chuẩn đem lại lợi ích to lớn
cho cuộc sống, góp phần làm cuộc sống đơn giản hơn, tăng độ tin cậy và hiệu quả
của hàng hoá dịch vụ mà chúng ta sử dụng. Trình độ khoa học công nghệ càng phát
triển, nền sản xuất xã hội càng đạt đến trình độ cao, nhu cầu của con người càng
phức tạp... thì vấn đề tiêu chuẩn hoá lại càng trở nên cần thiết hơn. Chính vì vậy mà
hoạt động tiêu chuẩn hoá ở các quốc gia phát triển thường được tiến hành rất quy củ
và chặt chẽ.
1.1 Hoạt động tiêu chuẩn hoá tại thị trường EU
Với thị trường EU, tiêu chuẩn hoá có ý nghĩa mới từ khi Cộng đồng châu Âu
bắt đầu quá trình hoà hợp các tiêu chuẩn liên quan đến pháp luật để đảm bảo sự an
toàn, sức khoẻ người tiêu dùng, đảm bảo sản xuất thân thiện với môi trường và
trách nhiệm xã hội. Kết quả là việc đáp ứng các tiêu chuẩn đã trở thành một điều
kiện quan trọng để thâm nhập thị trường. Để thực hiện nguyên tắc tự do thương
mại, tự do lưu thông hàng hoá thì làm hoà hợp các tiêu chuẩn giữa các quốc gia trở
nên cực kỳ cần thiết. Bởi vậy, EU đang tạo ra những tiêu chuẩn thống nhất cho toàn
châu Âu trong các khu vực sản xuất sản phẩm mũi nhọn để thay thế hàng ngàn các
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 5
tiêu chuẩn khác nhau của các quốc gia. Nhìn chung các mức độ yêu cầu tối thiểu
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
cho toàn châu Âu đang và sẽ được đặt ra trong các năm tới. Mỗi nước thành viên
đều được phép đặt ra các quy định bổ sung để bảo vệ cho nền công nghiệp trong
nước. Tuy nhiên bất cứ sản phẩm nào phù hợp với các quy định tối thiểu đều được
phép tự do lưu thông trong EU.
Có thể lấy ví dụ về mức độ hài hoà tiêu chuẩn quốc gia với tiêu chuẩn EU ở
Đức - một nền kinh tế phát triển cao trong EU. Ở Đức, tất cả các tiêu chuẩn châu
Âu (EN) đều tự động trở thành tiêu chuẩn DIN EN (Deutsches Institut fuer
Normung) của nước này. Các tiêu chuẩn quốc gia lần lượt bị cắt giảm dần, thể hiện
qua biểu đồ sau:
(Nguồn: Mr. Johannes Weber - “Globalisation of Standardisation work in Germany”- Hội thảo “Tham gia hoạt động tiêu chuẩn hoá quốc tế và khu vực”- Tổng cục TCĐLCL - 2002)
Biểu đồ 1: SỐ LƯỢNG TIÊU CHUẨN CỦA ĐỨC SO SÁNH VỚI TIÊU CHUẨN EU
Như vậy là đến năm 2003, tổng số tiêu chuẩn của EU đạt con số khoảng
22.000 tiêu chuẩn. Điều đó cũng có nghĩa rằng 80% (22.000 trong số 27.500) các
tiêu chuẩn của Đức là tiêu chuẩn châu Âu.
1.2 Bộ tiêu chuẩn EN
Bộ tiêu chuẩn EN của Liên minh châu Âu do ba cơ quan tiêu chuẩn hoá châu
Âu cùng nhau xây dựng, đó là: CEN (Uỷ ban Tiêu chuẩn hoá châu Âu), CENELEC
(Uỷ ban Tiêu chuẩn hoá Kỹ thuật điện tử châu Âu), và ETSI (Viện Tiêu chuẩn Viễn
thông châu Âu). Hàng chục ngàn tiêu chuẩn chung của châu Âu được tập hợp tại
đây, quy định các đặc tính kỹ thuật, quy trình sản xuất, bao gói, phương pháp bảo
quản, vận chuyển, phương pháp thử... đối với các mặt hàng được sản xuất và tiêu Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 6
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
thụ trên thị trường. Hàng hoá nhập khẩu từ các nước bên ngoài Liên minh châu Âu
không phải là đối tượng điều chỉnh của bộ tiêu chuẩn EN, tuy nhiên vì bộ tiêu chuẩn
này phản ánh yêu cầu của thị trường đối với hàng hoá tiêu thụ, nên việc đáp ứng các
tiêu chuẩn EN sẽ tạo thuận lợi cho hàng hoá nước ngoài muốn thâm nhập và cạnh
tranh được trên thị trường EU.
Việc hoà hợp tiêu chuẩn EN với tiêu chuẩn quốc tế cũng được tiến hành mạnh
mẽ trong khối Liên minh châu Âu. “90% tiêu chuẩn của EU trong lĩnh vực kỹ thuật
điện đã được xây dựng trên cơ sở của Tiêu chuẩn Quốc tế IEC, 40% tiêu chuẩn EU
là phù hợp với tiêu chuẩn ISO, còn các tiêu chuẩn EU về viễn thông thì hầu như hoàn toàn phù hợp với ITU” [5]. Những tiêu chuẩn quốc tế mà EU lấy lại nguyên
thành tiêu chuẩn của mình mà không sửa đổi sẽ mang các tên như EN ISO, EN
IEC....cùng với số hiệu của tiêu chuẩn. Còn các quốc gia thành viên khi đưa nguyên
các tiêu chuẩn này vào thành tiêu chuẩn của mình thì các tiêu chuẩn này lúc đó sẽ
mang tên như DIN EN ISO (Đức), BS EN ISO (Anh)... cùng với số hiệu tiêu
chuẩn. Qua đó có thể thấy rằng hài hoà tiêu chuẩn với quốc tế đã và đang trở thành
xu hướng trong việc xây dựng tiêu chuẩn châu Âu. Và như vậy, con đường đúng
đắn và lâu bền cho các quốc gia muốn đẩy mạnh phát triển thương mại thông qua
việc đáp ứng được các tiêu chuẩn của các quốc gia khác nói chung và khối EU nói
riêng là hoà hợp tiêu chuẩn trong nước với các tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời đẩy
mạnh việc đưa các tiêu chuẩn đó áp dụng trong thực tiễn. Tiêu chuẩn Quốc tế có thể
được coi như một cái đích chung và càng trở nên quan trọng khi xu thế khu vực
hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra sôi nổi.
2. Tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9000
“Chất lượng là khả năng của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống hay quá trình để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan” [6].
Chất lượng không tự sinh ra, chất lượng không phải là một kết quả ngẫu nhiên, nó
là kết quả của sự tác động của hàng loạt yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau.
Muốn đạt được chất lượng mong muốn cần phải quản lý một cách đúng đắn các yếu
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 7
tố này, và hoạt động đó được gọi là “quản lý chất lượng”. Bộ tiêu chuẩn ISO 9000
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
do Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hoá (ISO) ban hành nhằm mục đích đưa ra một
mô hình được chấp nhận ở mức độ quốc tế về hệ thống đảm bảo chất lượng và có
thể áp dụng rộng rãi trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ.
Tại thị trường EU, tổ chức sản xuất kinh doanh tuân thủ bộ tiêu chuẩn ISO
9000 không phải là một điều kiện bắt buộc đối với các doanh nghiệp. Tuy nhiên, lợi
ích thiết thực mà việc thực hiện theo ISO 9000 cũng như chứng chỉ ISO 9000 đem
lại cho các doanh nghiệp đã khiến tiêu chuẩn này trở nên rất phổ biến. Các nhà sản
xuất được cấp chứng chỉ ISO 9000 thực sự sở hữu một tài sản quan trọng vì chứng
chỉ này là một đặc điểm hỗ trợ bán hàng cơ bản trong kinh doanh vốn rất cạnh tranh
tại thị trường EU. Điều này còn có nghĩa, ISO 9000 cũng cần thiết cho những doanh
nghiệp nước ngoài muốn tăng thêm lòng tin của bạn hàng EU vào năng lực quản lý
chất lượng, tính chuyên nghiệp và do đó vào chất lượng hàng hoá của mình.
Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 hiện có 3 tiêu chuẩn:
ISO 9000: 2000 (Quy định cơ bản và các thuật ngữ) -
ISO 9001: 2000 (Các quy định) -
ISO 9004: 2000 (Hướng dẫn cải tiến hoạt động) -
Nội dung cơ bản của tiêu chuẩn ISO 9001: 2000
Trong đó ISO 9001: 2000 là tiêu chuẩn cốt lõi nhất.
Nội dung của tiêu chuẩn ISO có thể được tóm tắt bằng một câu ngắn gọn, đó là
phương châm: “Ghi rõ quy trình sản xuất và thực hiện đúng điều đã cam kết”. Các
yêu cầu cụ thể của tiêu chuẩn này bao gồm:
1. Hệ thống quản lý chất lượng:
- Các yêu cầu chung: xây dựng, lập văn bản, thực hiện, duy trì và cải tiến
liên tục hệ thống quản lý chất lượng...
- Các yêu cầu chung về tài liệu.
2. Trách nhiệm của lãnh đạo:
- Cam kết triển khai và cải tiến hệ thống QLCL.
- Xác định và đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 8
- Đảm bảo có chính sách chất lượng phù hợp.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
- Lập kế hoạch để đạt được mục tiêu về chất lượng (hoạch định chất lượng)
- Các hoạt động quản trị của lãnh đạo về: thông tin nội bộ, sổ tay chất lượng,
kiểm soát tài liệu, kiểm soát hồ sơ chất lượng...
- Xem xét của lãnh đạo: xem xét định kỳ hệ thống quản lý chất lượng để đảm
bảo hệ thống luôn thích hợp, thoả đáng và có hiệu lực.
3. Quản lý nguồn lực
- Tổ chức phải xác định và cung cấp các nguồn lực cần thiết để triển khai,
cải tiến các quá trình và thoả mãn khách hàng.
- Đảm bảo cho nguồn nhân lực được phân công lao động hợp lý; được đào
tạo, cung cấp các phương tiện làm việc môi trường làm việc phù hợp.
4. Tạo sản phẩm
- Hoạch định các quá trình tạo sản phẩm
- Các quá trình liên quan đến khách hàng
- Kiểm soát quá trình mua hàng, kiểm tra xác nhận sản phẩm mua vào
- Kiểm soát hoạt động sản xuất và dịch vụ
- Kiểm soát phương tiện đo lường và theo dõi
5. Đo lường, phân tích và cải tiến
- Xác định, lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động đo lường
- Đo lường,theo dõi sự thoả mãn của khách hàng, các quá trình và sản phẩm
- Kiểm soát sự không phù hợp với các yêu cầu
- Phân tích dữ liệu để xác định sự phù hợp hay không phù hợp.
- Cải tiến: hoạch định các quá trình cải tiến, tiến hành khắc phục và có các
hành động phòng ngừa.
3. Các quy định về đảm bảo sức khoẻ và an toàn cho người tiêu dùng
3.1 Nhãn hiệu CE đối với các sản phẩm công nghiệp chế tạo
Nhãn hiệu CE là nhãn hiệu dành cho các sản phẩm trong nội bộ thị trường
hoặc bên ngoài EU được nhập vào thị trường này. Nhãn hiệu CE biểu trưng cho sự
phù hợp của hàng hoá được gắn nhãn với các yêu cầu mà
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 9
EU đặt ra cho người sản xuất loại hàng hoá đó. Đến nay,
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
quy định không bắt buộc tất cả các sản phẩm nhập vào EU đều phải có nhãn CE mà
gắn nhãn CE chỉ bắt buộc đối với 23 nhóm sản phẩm có tên trong danh sách của
“Cách tiếp cận mới”- New Approach Guide - bao gồm: các hệ thống và thiết bị
quản lý không lưu, dụng cụ đốt cháy nhiên liệu gas, sản phẩm xây dựng, thiết bị
điện, thiết bị an toàn cá nhân, thiết bị dùng cho giải trí, đồ chơi ... với mục tiêu áp
đặt một quy định chung cho các nhà sản xuất để chỉ cho phép sản phẩm an toàn mới
vào được thị trường. Còn trong đa số các trường hợp, có gắn CE lên sản phẩm hay
không là quyền của doanh nghiệp.
Gắn dấu hiệu CE trên sản phẩm có nghĩa là doanh nghiệp tuyên bố với người
tiêu dùng rằng sản phẩm của họ phù hợp với tiêu chuẩn châu Âu ấn định cho từng
loại sản phẩm cụ thể. Do đó nhãn hiệu CE có thể được coi như một loại hộ chiếu
cho phép các nhà sản xuất lưu thông hàng hoá của mình trong nội bộ thị trường
châu Âu một cách dễ dàng hơn. Thậm chí với một số sản phẩm có nguồn gốc từ
nước ngoài, nếu không có dấu hiệu CE thì người tiêu dùng hoàn toàn không lựa
chọn.
Tiêu chuẩn CE và việc công bố tiêu chuẩn CE tương tự quy định tự công bố
tiêu chuẩn chất lượng mà Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi trường của Việt Nam
(nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) ban hành năm 2001 dựa trên Pháp lệnh chất
lượng hàng hoá, theo đó TCVN là dấu hiệu của sản phẩm hợp chuẩn theo quy định
của Việt Nam. Mặc dù dấu hiệu CE do nhà sản xuất tự công bố nhưng việc này
được giám sát rất chặt chẽ bởi các cơ quan chức năng của Liên minh châu Âu cũng
như ở các nước thành viên. Nếu bị phát hiện vi phạm, toàn bộ sản phẩm sẽ bị thu
Thủ tục dán nhãn CE
hồi và cấm lưu thông.
Thủ tục dán nhãn CE có thể khác nhau đối với mỗi sản phẩm, phụ thuộc vào
độ rủi ro nội tại khi sử dụng sản phẩm. Uỷ ban châu Âu đã đưa ra một hệ thống
Modul với 8 chủng loại khác nhau từ A đến H. Modul A bao gồm những sản phẩm
có độ rủi ro nội tại thấp nhất, trong khi sản phẩm thuộc Modul H là rủi ro cao nhất.
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 10
Nếu một sản phẩm rơi vào nhóm Modul A, tức là có độ rủi ro nội tại thấp, nhà
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
sản xuất có thể quyết định sản phẩm của mình có tuân thủ các chỉ thị, quy định và
tiêu chuẩn của châu Âu đối với hàng hoá đó hay không. Khi đó, nhà sản xuất có thể
tự công bố tiêu chuẩn và gắn nhãn CE lên sản phẩm của mình theo các bước như
sau:
- Thứ nhất, xác định các yêu cầu về tiêu chuẩn EN đối với sản phẩm
- Thứ hai, xác định nội dung tiêu chuẩn sản phẩm dựa trên yêu cầu ở bước
thứ nhất. Ví dụ, sản phẩm quạt trần cần đáp ứng tối thiểu hai yêu cầu về
hiệu điện thế (LVD) và sự tương thích điện từ (EMC). Đối với hai yêu cầu
này, tiêu chuẩn mà sản phẩm quạt trần cần đáp ứng là EN 60335-1 hoặc EN
60335-2-80 (đối với LVD) và EN 55014-1 (đối với EMC).
- Thứ ba, chuẩn bị hồ sơ kỹ thuật để minh hoạ sự phù hợp tiêu chuẩn của sản
phẩm bao gồm: tài liệu thiết kế, sản xuất, báo cáo kiểm tra...
- Thứ tư, chuẩn bị bản công bố phù hợp tiêu chuẩn.
- Thứ năm, gắn dấu hiệu CE lên sản phẩm.
Nếu một sản phẩm rơi vào nhóm cao hơn Modul A, thủ tục dán nhãn phức tạp
hơn vì phải có một tổ chức chuyên nghiệp (tổ chức kiểm định) kiểm tra xem sản
phẩm có tuân thủ với các quy định căn bản không, có được dán nhãn CE lên không.
3.2 Hệ thống phân tích, xác định và tổ chức kiểm soát các mối nguy
trọng yếu (HACCP) trong quá trình sản xuất, chế biến thực phẩm:
Hiện nay, một phong trào rộng lớn bảo vệ người tiêu dùng đang phát triển ở
châu Âu. Phong trào này dựa vào việc phòng ngừa các rủi ro, bảo đảm vệ sinh an
toàn và chất lượng thực phẩm. Liên minh châu Âu đã yêu cầu các cơ sở chế biến
thực phẩm nhập khẩu vào EU từ đầu thập niên 90 phải áp dụng hệ thống thực hành
sản xuất tốt GMP (cấp độ thấp hơn HACCP) và từ năm 1996 phải áp dụng HACCP
qua Chỉ thị về vệ sinh thực phẩm 93/43/EC: “các công ty thực phẩm phải xác định
từng khía cạnh trong hoạt động của họ đều có liên quan tới an toàn thực phẩm và
việc đảm bảo thủ tục an toàn thực phẩm phải được thiết lập, áp dụng, duy trì và sửa
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 11
đổi trên cơ sở của hệ thống HACCP”. Riêng với thuỷ sản, từ năm 1992 đã buộc
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
phải tuân thủ GMP và sau đó Chỉ thị 94/356/EC ngụ ý rằng họ phải thực hiện
HACCP
Đây là quy định của EU đối với các nhà sản xuất trong nước. Tuy nhiên, vì
HACCP là một quy trình đảm bảo vệ sinh an toàn từ khâu đầu đến khâu cuối nên
các nhà sản xuất EU khi nhập khẩu nguyên liệu đầu vào cho hoạt động sản xuất của
họ thường yêu cầu nhà xuất khẩu cũng phải tuân thủ HACCP.
HACCP (Hazard Analysis and Critical Control Point) là một phương pháp cho
phép xác định các mối nguy đặc thù trong quá trình sử dụng một sản phẩm thực
phẩm, định giá chúng và xác định các biện pháp phòng ngừa để kiểm soát và hạn
chế chúng. Hiện đang tồn tại nhiều tài liệu khác nhau của hệ thống HACCP xuất
phát từ các hướng dẫn của các tổ chức quốc tế (FAO, WHO, CODEX...), khu vực
(EU, APEC...) và các quốc gia phát triển (Mỹ, Canada, Úc...). Mặt khác, công tác
chuyển dịch đôi khi cũng làm cho sự khác biệt này tăng lên, tuy nhiên về cốt lõi của
nội dung hệ thống HACCP (các nguyên tắc và các bước thực hiện) thì luôn thống
nhất giữa các tài liệu trên).
HACCP gồm hai giai đoạn:
- Phân tích mối nguy: Các mối nguy gắn liền với các giai đoạn khác nhau
trong quá trình sản xuất thực phẩm.
- Kiểm soát mối nguy và hạn chế chúng: Kiểm soát các mối nguy và xác
định biện pháp hạn chế và phòng ngừa. Giám sát các điều kiện để thực hiện
một cách có hiệu quả các biện pháp đó. Sau đó kiểm tra lại hiệu quả của cả
hệ thống.
HACCP không loại trừ được tất cả các mối nguy, tuy nhiên nó cho phép hạn
chế các rủi ro tại các điểm trọng yếu, nghĩa là những giai đoạn quyết định tính an
toàn thực phẩm trong quá trình sản xuất.
7 nguyên tắc của HACCP:
- Nguyên tắc 1: Tiến hành phân tích và xác định tất cả các nguy cơ có thể
xảy ra đối với sản phẩm tại tất cả các khâu của dây chuyền sản xuất.
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 12
- Nguyên tắc 2: Xác định các ‘điểm kiểm soát tới hạn’ (CCP - Critical
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Control Point) có khả năng xuất hiện rủi ro để hạn chế chúng hoặc giám sát
chúng.
- Nguyên tắc 3: Xác định độ sai lệch được phép tối đa theo tiêu chuẩn của
mỗi ‘điểm kiểm soát tới hạn’.
- Nguyên tắc 4: Thiết lập một hệ thống theo dõi, bao gồm cả lịch biểu, cho
phép hạn chế rủi ro một cách có hiệu quả tại từng điểm kiểm soát tới hạn.
- Nguyên tắc 5: Thiết kế và thực hiện các hành động điều chỉnh khi phát hiện
ra một mối nguy không thể hạn chế và kiểm soát nổi.
- Nguyên tắc 6: Xây dựng những biện pháp đặc hiệu đối với việc kiểm tra
hiệu quả và tác dụng của hệ thống HACCP
- Nguyên tắc 7: Xây dựng một hệ thống tài liệu thích hợp về việc áp dụng 6
nguyên tắc trên cho phép đảm bảo toàn bộ hệ thống HACCP hoạt động tốt
và hợp thức hoá.
Dựa trên 7 yếu tố đã nêu, người ta xây dựng 12 bước áp dụng cụ thể, từ việc
thành lập nhóm công tác chịu trách nhiệm chính trong việc việc áp dụng hệ thống
HACCP tại cơ sở, đến việc thiết lập các thủ tục thẩm định, thiết lập hệ thống hồ sơ,
tài liệu (xem chi tiết ở phụ lục). Có thể thấy rằng các yêu cầu đảm bảo an toàn của
HACCP rất khắt khe.
3.3 Quy trình canh tác nông nghiệp đảm bảo (GAP) đối với các sản
phẩm trồng trọt
Để đáp ứng mối quan tâm ngày càng tăng từ phía khách hàng đối với tác động
của sản xuất nông nghiệp đối với an toàn thực phẩm và môi trường, Tổ chức các
nhà sản xuất bán lẻ (EUREP - một hệ thống hợp tác các tổ chức bán lẻ hàng đầu của
châu Âu) đã và đang xây dựng các hướng dẫn về Quy trình canh tác nông nghiệp
đảm bảo (GAP) đối với các sản phảm trồng trọt. GAP bao gồm các tiêu chuẩn về
quản lý ruộng vường, sử dụng phân bón, bảo vệ mùa màng và sử dụng thuốc trừ
sâu, thu hoạch và sau thu hoạch, sức khoẻ và an toàn công nhân. Trong tương lai
gần các nhà xuất khẩu hoa quả và rau tươi, những người muốn cung cấp cho các
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 13
dây chuyền siêu thị châu Âu sẽ phải chứng minh rằng sản phẩm của họ được sản
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
xuất theo quy trình GAP. Vì thế các nhà xuất khẩu của các nước đang phát triển nên
tự có các bước chuẩn bị tìm hiểu các hướng dẫn của GAP và tiến tới tuân thủ các
quy trình này.
3.4 Hàm lượng thuốc trừ sâu tối đa có trong rau, quả
Nhằm kiểm soát hàm lượng thuốc trừ sâu có trong sản phẩm nông nghiệp để
đảm bảo sức khoẻ cộng đồng và bảo vệ môi trường, Uỷ ban châu Âu đã ban hành
Chỉ thị 76/895/EEC ngày 23/11/76. Chỉ thị này quy định việc sử dụng các loại
thuốc trừ sâu và hàm lượng tối đa cho phép trong rau, quả. Theo Chỉ thị, các cơ sở
trồng trọt, chăm sóc cây trồng phải sử dụng các loại thuốc trừ sâu với hàm lượng tối
đa cho phép theo đúng quy định (Phụ lục 1). Nếu các sản phẩm nông nghiệp sản
xuất trong khu vực EU mà sử dụng không đúng các loại thuốc trừ sâu có trong danh
mục hoặc vượt mức cho phép, Uỷ ban châu Âu sẽ không cho phép lưu thông trên
thị trường. Nếu Uỷ ban châu Âu phát hiện thấy sản phẩm vi phạm quy định có mặt
trong mạng lưới phân phối hàng trên thị trường thì sẽ lập tức thu hồi, huỷ và có biện
pháp trừng phạt đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh sản phẩm.
Chỉ thị 76/895/EEC không chỉ được EU áp dụng đối với các sản phẩm nông
nghiệp sản xuất trong khối EU mà áp dụng đối với cả sản phẩm nông nghiệp nhập
khẩu. Các nước bên ngoài muốn xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp sang thị
trường EU thì trong quá trình trồng trọt và chăm sóc cây trồng phải sử dụng các loại
thuốc trừ sâu với hàm lượng tối đa cho phép. Những sản phẩm nông nghiệp nào
nhập khẩu vào EU vi phạm quy định trên, Uỷ ban châu Âu sẽ đưa ra lệnh tạm dừng
nhập khẩu, trả lại hàng, hoặc tiêu huỷ lô hàng (biện pháp áp dụng sẽ tuỳ thuộc vào
mức độ vi phạm). Thời hạn dừng nhập khẩu dài hay ngắn còn phụ thuộc chủ yếu
vào việc chấp hành quy định này trong sản xuất nông nghiệp của các nước xuất
khẩu sang thị trường EU. Kể từ khi Chỉ thị 76/895/EEC có giá trị hiệu lực thi hành,
chưa có một lô hàng nhập khẩu nào vào EU vi phạm những quy định đề ra trong
Chỉ thị.
3.5 Kiểm tra thú y đối với thịt gia súc, gia cầm và thuỷ sản
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 14
Quy định kiểm tra thú y đối với thịt gia súc, gia cầm và thuỷ sản nhằm đảm
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
bảo vệ sinh an toàn thực phẩm được cụ thể hoá trong sáu Chỉ thị và Quyết định sau:
(1) Chỉ thị 97/78/EEC; (2) Chỉ thị 91/493/EEC; (3) Chỉ thị 91/492/EEC; (4) Chỉ thị
96/22/EEC; (5) Chỉ thị 96/23/EEC; và (6) Quyết định 97/296/EEC. Những Chỉ thị
và Quyết định này đang có giá trị hiệu lực thi hành.
Sáu Chỉ thị và Quyết định từ (2) đến (6) bao gồm những quy định mà các nước
ngoài khối khi xuất khẩu sang EU phải tuân thủ, ví dụ như: cơ quan chức năng của
các nước xuất khẩu phải tiến hành kiểm tra hàng trước khi xuất khẩu sang thị
trường EU... Chỉ có một Chỉ thị duy nhất (Chỉ thị 97/78/EEC) buộc các nước thành
viên EU phải tuân thủ và chịu trách nhiệm kiểm tra hàng nhập khẩu tại cửa khẩu
trước khi cho nhập khẩu vào lãnh thổ của mình.
Chị thị 91/493/EEC ngày 22.7.1991 đề ra các điều kiện vệ sinh đối với việc
sản xuất và đưa vào thị trường các sản phẩm thuỷ sản cho người tiêu dùng (điều 11
được sửa đổi bằng Chỉ thị 97/79/EEC) và Chỉ thị 91/492/EEC ngày 15.7.1991 về
những điều kiện vệ sinh trong việc sản xuất và đưa vào thị trường nhuyễn thể hai
mảnh vỏ sống. Theo hai Chỉ thị này, nước thứ Ba xuất khẩu thuỷ sản sang EU phải
chịu trách nhiệm kiểm tra điều kiện vệ sinh của hàng thuỷ sang trước khi xuất khẩu,
gồm 2 bước: (1) Giám sát chung: tiến hành ở tất cả các khâu từ đánh bắt, sản xuất,
vận chuyển; (2) Kiểm tra đặc biệt: tiến hành kiểm tra cảm quan, kiểm tra ký sinh
trùng, kiểm tra hoá học và phân tích vi sinh. Hai Chỉ thị trên chủ yếu nhằm mục
đích đảm bảo vệ sinh thực phẩm thuỷ sản và bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng EU.
Chỉ thị 96/22/EEC ngày 29.4.1996 quy định các doanh nghiệp nước ngoài
phải chịu trách nhiệm kiểm tra và ngăn cấm việc sử dụng các chất kích thích tăng
trưởng trong chăn nuôi. Hiện EU tiếp tục phản đối việc nhập khẩu thịt đã qua xử lý
với hormone.
Chỉ thị 96/23/EEC ngày 29.4.1996 quy định các doanh nghiệp nước ngoài
phải tuân thủ các biện pháp giám sát một số hoạt chất và dư lượng của chúng trong
nuôi trồng thuỷ sản và gia súc, gia cầm thì được xuất khẩu sản phẩm sang thị
trường EU. Hoạt chất được chia làm 2 nhóm: Nhóm A - Các hoạt chất có tác dụng
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 15
đồng hoá và các chất cấm sử dụng - gồm 5 chất. Nhóm B - Thuốc thú y và các chất
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
ô nhiễm môi trường (Veterinary drugs and environmental contaminants) - gồm: (1)
Các chất kháng thể kể cả Sulfonamide và Quinolone; (2) Các thuốc thú y khác (có 6
loại); (3) Các chất gây ô nhiễm môi trường: Các hợp chất Chlor hữu cơ kể cà PcBs
(Chloramphenocol, Chloroform, Chlorpromazine,...), các hợp chất nhóm phốt pho
hữu cơ, các nguyên tố hoá học, các độc tố nấm, thuốc nhuộm. Luật thực phẩm của
EU hiện nay cấm hoàn toàn 10 chất kháng sinh (dư lượng bằng 0) và hạn chế 10
chất (Phụ lục 2) do dư lượng những kháng sinh này có khả năng gây ung thư, hoại
tuỷ, thiếu máu ác tính và nhờn thuốc. Tới năm 2005, số lượng chất kháng sinh bị
cấm hoàn toàn sẽ tăng lên 26.
Chỉ thị 93/43/EEC ngày 14.6.1993 về vệ sinh thực phẩm. Chỉ thị này đề ra
những luật lệ chung về vệ sinh thực phẩm và các thủ tục thẩm tra việc chấp hành
các luật lệ ấy. Việc chuẩn bị, chế biến, sản xuất, bao gói, bảo quản, vận chuyển,
phân phối, lưu trữ, bán buôn và bán lẻ cần phải được tiến hành một cách vệ sinh,
được giám sát theo các nguyên tắc của HACCP.
Quyết định 97/296/EEC ngày 22/4/1997 thành lập danh sách các nước thứ
Ba được phép xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản dùng làm thực phẩm vào Cộng đồng
châu Âu. Quyết định này được sửa đổi bằng Quyết định 2002/863/EC ngày
29.10.2002, trong đó, danh sách các nước được nhập khẩu thuỷ sản vào EU được
chia làm hai nhóm: (1) Nhóm I - gồm 72 nước (ở châu Á có: Nhật Bản, Hàn Quốc,
Trung Quốc, Indonesia, Ấn Độ, Malaysia, Thailand, Việt Nam) được EU áp dụng
chế độ kiểm tra thông thường ; (2) Nhóm II - gồm 35 nước (ở châu Á có: Hồng
Kông, Myanmar) bị EU áp dụng chế độ kiểm tra 100% các lô hàng thuy sản nhập
khẩu vào EU. Tuy nhiên, nếu các nước thuộc Nhóm I vi phạm Quy định kiểm tra
thú y ở mức độ nhất định (gây ảnh hưởng tới thị trường EU) EU sẽ áp dụng biện
pháp kiểm tra 100% các lô hàng thuỷ sản nhập khẩu, thời hạn áp dụng dài hay ngắn
tuỳ thuộc vào việc chấp hành quy định kiểm tra thú y của các doanh nghiệp thuỷ sản
nước đó. Nếu vi phạm nặng, EU sẽ đưa nước đó trở lại Nhóm II và áp dụng trở lại
chế độ kiểm tra 100%.
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 16
Chỉ thị 97/78/EEC được đưa ra để tổ chức kiểm tra thú y các sản phẩm nhập
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
khẩu nhằm cung cấp một nguồn thực phẩm an toàn và ổn định, bảo vệ sức khoẻ cho
cộng đồng. Theo đó, các sản phẩm nhập khẩu từ nước thứ Ba phải được các nước
thành viên EU kiểm tra và cấp giấy chứng nhận trước đưa vào lãnh thổ của EU.
Tóm lại, Luật thực phẩm và các Chỉ thị, Quyết định của EU đã nêu rất cụ thể
các quy định về kiểm tra thú y đối với thịt gia súc, gia cầm và thuỷ sản. Đây là
những quy định bắt buộc mà các doanh nghiệp ở những nước thứ Ba muốn xuất
khẩu sang EU phải thực hiện, do đó các doanh nghiệp Việt Nam cần phải chú ý và
thực thi triệt để nhằm thoả mãn tối đa yêu cầu của thị trường này.
3.6 Chất phụ gia trong thực phẩm
Phụ gia thực phẩm là các loại nguyên liệu khác nhau dùng để thêm vào thực
phẩm với mục đích làm tăng thêm sự lôi cuốn của sản phẩm, hoặc làm đông đặc
thực phẩm. Ở các nước thuộc Liên minh châu Âu, các phụ gia thực phẩm được chấp
nhận đều mang số hiệu nhận biết, trước số hiệu là chữ E. Trên bao bì sản phẩm,
người ta nêu thành phần các chất phụ gia dưới dạng tên chất hay số hiệu E của nó.
EU đã ban hành các chỉ thị đặt ra yêu cầu đối với các chất phụ gia thực phẩm.
Quy định của EU về phụ gia thực phẩm là phẩm màu được nêu trong Chỉ thị
94/36/EEC (Phụ lục 3). Quy định của EU về chất làm ngọt được nêu trong Chỉ thị
94/35/EEC. Với quy định này, việc sản xuất, chế biến thực phẩm chỉ được sử dụng
các chất làm ngọt có thành phần là những chất không gây hại cho sức khoẻ và môi
trường, hạn chế những chất làm ngọt có nguồn gốc từ hoá học.
Hương liệu được sử dụng trong thực phẩm làm cho thực phẩm ngon và có mùi
vị hấp dẫn hơn. Hương liệu được chế biến từ các nguồn khác nhau và được chia làm
hai loại : (1) Loại được coi như thực phẩm - hương liệu làm từ thực phẩm, thảo
mộc, gia vị; (2) Loại không được coi là thực phẩm - hương liệu được làm từ rau,
nguyên liệu thô từ động vật. Quy định chi tiết về hai loại hương liệu này (theo Chỉ
thị 88/388/EEC) có thể tham khảo ở phụ lục 3.
Ngoài chất làm ngọt, phẩm màu và hương liệu, trong chế biến thực phẩm
người ta còn sử dụng một số phụ gia khác (theo Chỉ thị 95/2/EC), ví dụ như tác
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 17
nhân làm đông đặc thực phẩm. Trong các chất phụ gia đó có những chất chỉ không
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
đảm bảo sức khoẻ và an toàn cho người tiêu dùng mà không gây hại môi trường,
còn một số khác không những không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm mà còn có
tác động xấu đến môi trường nữa. Chính vì vậy, EU yêu cầu sự giám sát việc sử
dụng các loại phụ gia thực phẩm rất chặt chẽ. Các nước thành viên EU cũng đã và
đang hợp nhất các Chỉ thị này với luật thực phẩm của họ.
Trên đây là các quy định và tiêu chuẩn về chất lượng chung nhất, phổ biến
nhất của EU đối với hàng hoá lưu thông trên thị trường. Ngoài ra còn nhiều tiêu
chuẩn và yêu cầu cụ thể khác đối với từng ngành hàng, từng loại mặt hàng riêng
biệt mà trong khuôn khổ khoá luận này không thể nêu hết được. Đối tượng áp dụng
của một số tiêu chuẩn chỉ là hàng hoá được sản xuất trong nội khối (ví dụ như hệ
thống HACCP...), một số quy định khác lại là bắt buộc đối với cả hàng hoá sản xuất
trong khối và hàng nhập khẩu (ví dụ như các quy định về hàm lượng thuốc trừ sâu
trong rau quả, chất phụ gia thực phẩm...). Tuy nhiên, con đường đúng đắn nhất để
các nước đang phát triển thâm nhập được vào thị trường khó tính này là thu hẹp
khoảng cách về chất lượng giữa hàng xuất khẩu của nước mình và hàng hoá do các
nước EU sản xuất bằng cách tìm hiểu và đáp ứng tối đa các yêu cầu chất lượng của
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 18
họ.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
III. Các tiêu chuẩn về môi trường của EU đối với hàng hoá lưu thông trên thị
trường.
Từ những năm 80, các nước có nền kinh tế phát triển và công nghiệp hoá đã
không ngừng gia tăng các mối lo ngại của xã hội về các vấn đề môi trường. Cùng
thời gian đó các nước đang phát triển đang đạt được tốc tăng trưởng kinh tế cao nhờ
hoạt động đầu tư nước ngoài, sự phát triển nhanh nguồn tài nguyên, triển khai đô thị
hoá. Sự tăng trưởng kinh tế này cũng đã đem lại các hậu quả nghiêm trọng cho môi
trường, ảnh hưởng đến tính đa dạng sinh học của các hệ sinh thái tự nhiên, chất
lượng nước, tình trạng thoái hoá đất và lượng khí quyển ở đô thị.
Chính từ bối cảnh này mà khái niệm về “sự phát triển có thể chịu đựng -
sustainable development”đã nổi bật trên trường quốc tế khi báo cáo Brundtlant được
đệ trình lên Uỷ ban Thế giới về Môi trường và Phát triển của Liên Hiệp Quốc vào
năm 1987. Báo cáo đòi hỏi phải có sự cân bằng giữa yêu cầu phát triển kinh tế và
việc bảo vệ môi trường và nguồn tài nguyên. Báo cáo đã đưa ra chiều hướng mới
đối với tất cả các nước đã phát triển và đang phát triển nhằm tạo nền móng cho sự
phát triển kinh tế trong điều kiện môi trường được đảm bảo an toàn.
1. Tiêu chuẩn quản lý môi trường
Uỷ ban châu Âu là một trong những bộ phận lập chính sách đầu tiên khởi
xướng các sáng kiến bảo vệ môi trường khi đưa ra bản dự thảo về Luật Kiểm định
và Quản lý sinh thái vào năm 1990. Bộ luật này bao gồm “Chương trình kiểm định
và Quản lý sinh thái”(EMAS - Ecological Management and Audit Scheme) trong
các ngành công nghiệp hoạt động trong khối thị trường chung châu Âu. EMAS
được phát triển như một chương trình tự nguyện, đặc biệt nhằm khuyến khích các
ngành công nghiệp có khả năng gây ô nhiễm môi trường cao phát triển các hệ thống
quản lý.
Tiêu chuẩn quản lý môi trường của Anh, BS7750, là tiêu chuẩn quản lý môi
trường đầu tiên được ban hành để đáp ứng EMAS. Cùng lúc đó, người ta thúc đẩy
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 19
việc hình thành một tiêu chuẩn quốc tế về quản lý môi trường chung cho cộng đồng
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
thế giới. Tháng 9/1996, Tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hoá (ISO) công bố tiêu
chuẩn quốc tế về quản lý môi trường ISO 14001 với các quy định cụ thể có hướng
dẫn sử dụng. Như vậy, các doanh nghiệp EU hiện nay có thể lựa chọn áp dụng hai
tiêu chuẩn quản lý môi trường trên. Tuy nhiên, tiêu chuẩn ISO 14001 là tiêu chuẩn
phổ biến và đáng quan tâm nhiều hơn đối với các nhà xuất khẩu ở các nước đang
phát triển vì chỉ các doanh nghiệp có trụ sở tại EU mới được đăng ký EMAS. Cũng
cần lưu ý rằng các tiêu chuẩn quản lý môi trường được khuyến khích áp dụng tại
các cơ sở sản xuất trong khối EU, nhưng nếu doanh nghiệp nước ngoài đáp ứng
được các tiêu chuẩn đó thì sẽ rất thuận lợi khi xâm nhập vào thị trường này - nơi mà
Những nội dung cơ bản của ISO 14001:
việc giữ gìn và bảo vệ môi trường đang trở thành mối quan tâm lớn.
1. Các yêu cầu chung: Tổ chức phải thiết lập và duy trì một hệ thống quản lý
môi trường tuân thủ các yêu cầu của tiêu chuẩn này.
2. Chính sách môi trường: Lãnh đạo của tổ chức phải:
- Đề ra chính sách môi trường cho tổ chức
- Cam kết tuân thủ các luật lệ và quy định về môi trường;
- Đặt ra lịch trình thiết lập, rà soát các mục tiêu về môi trường, đồng thời
đảm bảo cho chính sách môi trường được thực hiện, duy trì và được từng
nhân viên trong công ty năm vững một cách đầy đủ....
3. Lập kế hoạch:
- Xác định các khía cạnh môi trường liên quan đến hoạt động, sản phẩm
hàng hoá và dịch vụ của tổ chức mình;
- Nắm rõ các quy định pháp lý;
- Đặt ra và duy trì các mục tiêu về môi trường cho mỗi cấp trong tổ chức;
- Lên chương trình quản lý môi trường nhằm đạt được các mục tiêu đề ra...
4. Thực hiện chương trình bao gồm:
- Phân bổ nguồn lực cần thiết để triển khai và quy rõ trách nhiệm;
- Đào tạo cán bộ, nhận thức của từng nhân viên về tầm quan trọng và vai trò,
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 20
trách nhiệm của họ trong việc thực hiện chính sách môi trường.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
- Tạo điều kiện trao đổi kiến thức và tài liệu về chính sách môi trường giữa
các cấp, các phòng ban bộ phận trong tổ chức
- Lập hệ thống tài liệu về quản lý môi trường
- Quản lý tài liệu sao cho việc cất trữ, tra cứu định kỳ... được thuận tiện nhất
5. Hoạt động kiểm tra và cải tiến
- Theo dõi và đo lường để xác định xem các hoạt động của tổ chức có tác
động tốt đến môi trường hay không
- Kiểm soát sự không phù hợp và xác định trách nhiệm trong trường hợp đó.
- Lập báo cáo về quá trình thực hiện và kết quả sau khi kiểm tra, đo lường.
- Lên kế hoạch, tiến hành sửa đổi, khắc phục.
6. Lãnh đạo cấp cao nhất xem xét lại toàn hệ thống.
Những lợi điểm của việc áp dụng hệ thống quản lý môi trường
Chúng ta có thể lấy dẫn chứng về hiệu quả của việc có một hệ thống quản lý
môi trường qua lời tuyên bố của hai công ty lớn ở Anh như sau:
“Từ khi hoàn tất BS 7750 vào 1994, nhà máy chúng tôi đã xác định được
những khu vực cần phải cải tiến về môi trường; chương trình này đã đạt được sự
tiết kiệm chi phí đáng kể, mà duy chỉ năm đầu tiên, dự án thực hiện BS 7750 đã
được hoàn vốn. Những cải tiến đáng kể là đã giảm 18% năng lượng sử dụng tại nhà
máy, giảm 28% rác rưởi thải từ trong nhà ra ngoài và vào cuối năm 1997, giảm
90% lượng chất thải hoá học từ trong nhà máy. Nhà máy đã được chứng nhận ISO
(Akzo Nobel Chemical Ltd., UK) [7]
14001 và đã đăng ký với EMAS kể từ tháng 08/1995”.
“Đa số các khách hàng lớn của chúng tôi yêu cầu một lời tuyên bố về chính
sách môi trường. Việc đạt được chứng nhận đã đóng cái dấu của giới thẩm quyền
trên sự cam kết của chúng tôi về sự cải tiến không ngừng trong công tác môi
trường. Sự chứng nhận đó đã cho thấy các lợi ích. Các khách hàng tương lai cảm
thấy tự tin vì chứng tôi đã thiết lập và đang vận hành một Hệ thống quản trị Môi
trường đúng đắn và đã qua đánh giá.
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 21
Gần đây IBM đã thắng một hợp đồng nhiều triệu Pound về máy tính cá nhân -
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
yếu tố quyết định giữa chúng tôi và các đối thủ cạnh tranh là giấy chứng nhận ISO
(IBM UK Ltd.) [7]
14001.”
2. Bao bì và phế thải bao bì
Bao bì là một bộ phận không thể thiếu của hàng hoá, đặc biệt là hàng hoá xuất
nhập khẩu và vấn đề xử lý phế thải bao bì sau khi sản phẩm được sử dụng đang
được đặt ra một cách cấp thiết nhằm mục đích hạn chế tối thiểu phế thải bao bì từ
nguồn rác sinh hoạt để bảo vệ môi trường.
Trong vấn đề quản lý bao bì và phế thải bao bì, Liên minh châu Âu quy định
rất chặt chẽ trong Chỉ thị 94/62/EEC bao gồm các quy định về thành phần của bao
bì (quan tâm chủ yếu đến tỷ lệ kim loại nặng tối đa trong bao bì) và những yêu cầu
cụ thể đối với việc sản xuất bao bì. Chỉ thị đã được chuyển vào luật quốc gia của
các nước thành viên, đồng thời cũng được áp dụng cho cả hàng nhập khẩu.
Phế thải bao bì là các loại bao bì hay vật liệu làm bao bì được bỏ ra sau khi kết
thúc quá trình vận chuyển, chuyên chở, phân phối hay tiêu dùng. Chẳng hạn như
container thải ra sau khi kết thúc quá trình vận chuyển hàng hoá, túi nilông loại ra
Quá trình sản xuất và thành phần của bao bì phải tuân theo các yêu cầu sau:
sau khi dùng sản phẩm.
- Bao bì phải được sản xuất sao cho thể tích và khối lượng được giới hạn đến
mức tối thiểu để duy trì mức an toàn, vệ sinh cần thiết đối với sản phẩm
chứa trong bao bì và đối với người tiêu dùng.
- Bao bì phải được thiết kế, sản xuất, buôn bán theo cách thức cho phép tái
sử dụng hay thu hồi, bao gồm tái chế và hạn chế đến mức tối thiểu tác động
đối với môi trường khi chất phế thải bao bì bị bỏ đi.
- Bao bì sẽ được sản xuất theo cách có thể hạn chế tối đa sự có mặt của
nguyên liệu và các chất độc hại do sự phát xạ, tro tàn khi đốt cháy hay chôn
bao bì, chất cặn bã (bảng 1).
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 22
- Trên bao bì phải ghi rõ thành phần nguyên liệu sử dụng được sử dụng chế
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 23
tạo bao bì để thuận tiện hơn trong việc thu gom, tái chế và tái sử dụng
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Bảng 1: MỨC GIỚI HẠN ĐỐI VỚI MỘT SỐ HOÁ CHẤT TRONG BAO BÌ
1
Các chất bị cấm hoặc hạn chế Giới hạn
2 Benzene
Pentachlorophenol (PCP) ≤ 0.01%
3
≤ 0.01%
4
TEPA, TRIS, PBB Cấm
5 Asbestos
Polychlorinated Biphenyles (PCBs), Terphenyles (PCTs) Cấm
6 Cadmium (Cd)
Cấm
7
≤ 0.01%
8 Nickel (Ni)
Formaldehyde 1500 ppm (Đức)
9
0.5 mg/cm2
10 Zinc (Zn)
Thuỷ ngân Cấm
11 CFC
Cấm
Cấm
12 Bao bì bằng gỗ rừng không tái sinh
(Nguồn: Chỉ thị 94/62/EEC của Liên minh châu  u về bao bì và phế thải bao bì - www.cbi.nl)
Đối với bao bì có thể tái sử dụng (Reusable nature of Packaging), ngoài việc
Cấm
tuân thủ các yêu cầu nêu trên còn phải đáp ứng các yêu cầu dưới đây:
- Tính vật lý và các đặc trưng của bao bì phải cho phép sử dụng lại một số
lần nhất định trong điều kiện sử dụng được dự đoán trước là bình thường.
- Quá trình sản xuất bao bì phải đảm bảo sức khoẻ và an toàn cho người lao
động.
- Phải đáp ứng yêu cầu đặc biệt về thu hồi bao bì khi bao bì không được tái
Đối với việc thu hồi và tái chế bao bì phải tuân theo các quy định sau:
sử dụng trong thời gian dài và thành phế thải.
- Bao bì thu hồi ở dạng vật liệu tái có thể tái sử dụng thì phải được dùng vào
việc sản xuất ra những sản phẩm có thể bán được theo một tỷ lệ phần trăm
nhất định trong tổng khối lượng vật liệu dùng để sản xuất ra sản phẩm đó,
miễn sao phù hợp với các tiêu chuẩn hiện hành của châu Âu. Việc định ra
tỷ lệ này có thể khác nhau, phụ thuộc vào loại vật liệu làm bao bì.
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 24
- Loại bao bì thu hồi dạng phế phẩm năng lượng phải thu được tổi thiểu
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
lượng calo cho phép.
- Từ 50-60% bao bì tính theo khối lượng phải được tái chế hay đốt để thu lại
năng lượng.
- Loại bao bì không thể tái sử dụng hoặc tái sinh, phải đem đốt thì phải đảm
bảo các khí độc hại thải ra không làm ảnh hưởng đến môi trường.
Đây là những yêu cầu chung nhất của Liên minh châu Âu về vấn đề bao bì và
phế thải bao bì. Tuy nhiên việc thi hành Chỉ thị trên thực tế ở các nước khác nhau
có thể dưới những hình thức khác nhau, mà điển hình nhất là chương trình “Green
Dot”được áp dụng ở Đức, Bỉ, và Pháp. Ở Đức, ngành thương mại và công nghiệp
buộc phải thu hồi lại các nguyên liệu bao bì để tái sử dụng hay tái chế. Quy định
này còn áp dụng cho cả hàng hoá nhập khẩu, tức là các công ty nước ngoài cũng
phải tuân thủ như các công ty của Đức. Các bao bì có in ký hiệu xanh “Green
Dot”là những bao bì có thể được sử dụng lại hoặc tái chế, và nhà sản xuất/nhập
khẩu sản phẩm đựng trong bao bì đó đã tham gia vào hệ thống quản lý bao bì phế
thải, đã trả phí cho việc tái chế bao bì.
Với những quy định của thị trường EU về bao bì và phế thải bao bì, các doanh
nghiệp Việt Nam muốn xuất khẩu sang EU cũng cần phải đặc biệt lưu tâm. Việc
tuân thủ các quy định này không những giúp các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu
sang EU mà còn góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường ở Việt Nam từ rác thải sinh
hoạt.
3. Nhãn hiệu sinh thái EU (Eco-label)
Hiện nay EU đang thực hiện Chương trình dán nhãn sinh thái (Eco-labelling)
cho sản phẩm. Mục đích của chương trình này là phát triển các sản phẩm thân thiện
với môi trường (sản phẩm có ảnh hưởng bất lợi ở mức thấp nhất tới môi trường).
Các nhãn hiệu sinh thái được gắn lên sản phẩm dựa trên sự đánh giá đầy đủ vòng
đời của sản phẩm để đảm bảo rằng sản phẩm được thiết kế, sản xuất, đóng gói bao
bì... sao cho có thể bị vứt bỏ khi kết thúc vòng đời mà không làm ảnh hưởng đến
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 25
môi trường. Các nhà nhập khẩu và sản xuất sử dụng dấu xác nhận tiêu chuẩn môi
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
trường châu Âu trên cơ sở tình nguyện. Chi phí trả cho việc được sử dụng các biểu
tượng môi trường này phụ thuộc vào doanh thu của sản phẩm đối với công ty nhập
khẩu hay sản xuất sản phẩm đó và có thể thay đổi đối với mỗi quốc gia thành viên.
Việc sử dụng các biểu tượng như vậy cũng khuyến khích các ngành chế biến và sản
xuất phải duy trì việc sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên.
Đến nay đã có 14 nhóm sản phẩm nằm trong phạm vi chương trình gắn nhãn
hiệu sinh thái của EU, đó là các nhóm: (1) Bột giặt; (2) Bóng điện; (3) Máy giặt; (4)
Giấy copy; (5) Tủ lạnh; (6) Giày dép; (7) Máy tính cá nhân; (8) Giấy ăn; (9) Máy
rửa bát; (10) Máy làm màu đất; (11) Nệm trải giường; (12) Sơn và vécni; (13) Sản
phẩm dệt; (14) Nước rửa bát. Uỷ ban châu Âu cũng đang xây dựng tiêu chuẩn để bổ
sung thêm 7 nhóm sản phẩm khác vào danh sách này và có dự định mở rộng thêm
cho nhiều nhóm sản phẩm nữa.
Riêng đối với thực phẩm có tính bảo vệ môi trường thì không thuộc chương
trình nhãn hiệu sinh thái EU mà thuộc chương trình “nhãn hiệu cho thực phẩm có
nguồn gốc hữu cơ”. Xuất phát điểm là từ thập kỷ 80, ở nhiều nước và khu vực trên
thế giới đã xuất hiện phương pháp sản xuất lượng thực, thực phẩm mới: Sản xuất
lượng thực, thực phẩm chỉ dùng phân bón hữu cơ đã qua chế biến, thuốc trừ sâu hữu
cơ, không dùng hoặc chỉ dùng rất ít phân bón hoá học, thuốc trừ sâu hoá học, thuốc
bảo vệ thực vật, kháng sinh, hoá chất... nhằm tạo ra thực phẩm hữu cơ đạt tiêu
chuẩn an toàn thực phẩm (ATTP) và bảo vệ môi trường (BVMT) như: an toàn với
sức khoẻ người tiêu dùng, chống thoái hoá đất, ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không
khí và giữ gìn sự trong lành của vùng nông thôn. Phương pháp sản xuất nông
nghiệp này được gọi là phương pháp sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Những thực
phẩm được sản xuất theo phương pháp hữu cơ phải là những sản phẩm đang và sẽ
đưa ra dấu hiệu về phương pháp sản xuất hữu cơ: (1) sản phẩm nông nghiệp chưa
qua chế biến, động vật và sản phẩm từ động vật chưa chế biến; (2) sản phẩm tiêu
dùng có trên một thành tố có nguồn gốc động vật, thực vật.
Tháng 6/1991, Cộng đồng châu Âu thông qua quyết định số 2092/91/EC về
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 26
tiêu chuẩn của nông nghiệp hữu cơ nhằm thúc đẩy sự phát triển của loại hình sản
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
xuất này. Như vậy, EU là nơi đi tiên phong trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ,
đồng thời cũng là thị trường tiêu thụ loại sản phẩm này lớn nhất hiện nay trên thế
giới. Các nhãn hiệu cho thực phẩm có nguồn gốc hữu cơ cũng đang nhanh chóng trở
nên phổ biến ở thị trường EU, là những nhãn hiệu đảm bảo cho người tiêu dùng về
nguồn gốc hữu cơ và chất lượng của sản phẩm nông nghiệp. Cho đến nay vẫn chưa
có nhãn hiệu chung của EU cho các sản phẩm được sản xuất theo phương pháp hữu
cơ, mà mới chỉ có tiêu chuẩn và nhãn hiệu riêng của từng quốc gia thành viên, ví dụ
như ở Đức là KRAV, ở Hà Lan là EKO... Tuy nhiên Uỷ ban châu Âu đã có quy
định cụ thể về dán nhãn cho sản phẩm được sản xuất theo phương pháp hữu cơ,
theo đó các nhãn hiệu phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Những dấu hiệu trên nhãn mác thể hiện một cách rõ ràng rằng sản phẩm
được sản xuất theo phương pháp hữu cơ. Điều đó có nghĩa là trên nhãn mác
phải ghi rõ: (1) những thành phần cấu thành sản phẩm tuân theo nguyên tắc
của sản xuất hữu cơ; (2) những thành phần cấu thành sản phẩm được nhập
khẩu từ nước thứ Ba thì phải có nguồn gốc từ nước thứ Ba và có chứng
nhận của một cơ quan có thẩm quyền về việc áp dụng các nguyên tắc của
phương pháp sản xuất nông nghiệp hữu cơ.
- Sản phẩm phải được sản xuất, nhập khẩu từ nước thứ Ba theo quy định;
- Sản phẩm được sản xuất, hay nhập khẩu bởi chủ thể kinh doanh là người
sản xuất, nhập khẩu từ nước thứ Ba;
- Thể hiện rõ ràng hướng dẫn sử dụng và hạn sử dụng.
Các nhãn hiệu môi trường (nhãn hiệu sinh thái và nhãn hiệu cho thực phẩm có
nguồn gốc hữu cơ) được in trên bao bì sản phẩm chứng minh đặc tính thân thiện với
môi trường của sản phẩm đang trở thành một quy định quan trọng của thị trường
EU, một mặt tạo ra thách thức đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam, mặt khác lại
tạo cơ hội cho Việt Nam phát triển cao hơn nữa quy trình sản xuất không gây hại
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 27
đến môi trường trong nước cũng như quốc tế.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
4. Các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm có liên quan đến bảo vệ
Quy định hàm lượng thuốc trừ sâu tối đa có trong rau quả:
môi trường
Đây là quy định về an toàn thực phẩm với mục đích bảo vệ sức khoẻ cộng
đồng. Khi xét về khía cạnh môi trường, quy định này cũng nhằm bảo vệ môi trường
vì sản xuất nông nghiệp nếu sử dụng các loại thuốc trừ sâu an toàn và với một hàm
lượng cho phép không những sẽ cung cấp một nguồn thực phẩm an toàn và đảm bảo
cho sức khoẻ người dân mà còn đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường không khí,
nguồn nước sinh hoạt. Đồng thời, quy định về hàm lượng thuốc trừ sâu tối đa không
chỉ bảo vệ môi trường ở quốc gia sản xuất sản phẩm mà còn bảo vệ môi trường ở cả
quốc gia nhập khẩu, tiêu thụ sản phẩm. Thực tế là nếu trong sản phẩm nông nghiệp
có chứa hàm lượng thuốc trừ sâu quá mức cho phép, các chất này sau quá trình tiêu
dùng sản phẩm sẽ thải ra môi trường ở nước nhập khẩu và lượng thuốc trừ sâu
không phân huỷ sẽ gây ô nhiễm môi trường nơi đây (thoái hoá đất, ô nhiễm nguồn
nước sinh hoạt...). Dư lượng thuốc trừ sâu không phân huỷ đang là một trong những
Quy định kiểm tra thú y đối với thịt gia súc, gia cầm và thuỷ sản
vấn đề nhạy cảm trong hoạt động bảo vệ môi trường mà EU đặc biệt quan tâm.
Cũng giống như quy định hàm lượng thuốc trừ sâu tối đa có trong rau quả, quy
định này là quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, nhưng lại liên quan gián tiếp
đến môi trường. Cụ thể, một số khâu trong quá trình nuôi trồng, chế biến và đưa các
sản phẩm thịt gia súc, gia cầm, thuỷ sản vào thị trường EU có ảnh hưởng tới môi
trường (nuôi trồng, khai thác, chế biến, vận chuyển). Sử dụng quá nhiều kháng sinh,
hoá chất, thuốc bảo vệ thực vật trong chăn nuôi gia súc, gia cầm và nuôi trồng thuỷ
sản, dùng nhiều kháng sinh trong bảo quản hải sản đánh bắt và xử lý chất thải của
các nhà máy chế biến thực phẩm chưa tốt sẽ gây ô nhiễm môi trường.
Cụ thể, chương VI “Những điều kiện đặc biệt để xử lý thuỷ sản trên bờ”ở Phụ
lục I thuộc Chỉ thị 91/493/EEC, phần “Điều kiện đối với sản phẩm tươi”có nêu:
“Trừ trường hợp có những phương tiện chuyên biệt để loại bỏ liên tục phế liệu, các
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 28
loại phế liệu cần được bỏ vào những thùng chứa không rò rỉ, có nắp đậy, dễ làm
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
sạch, dễ khử trùng. Không được để phế liệu tích tụ trong khu làm việc. Phế liệu
phải được chuyển đi thường xuyên, hoặc mỗi khi đầy thùng chứa, hay ít nhất sau
mỗi ngày làm việc. Các thùng, vật, hoặc phòng chứa dành riêng cho chất phế thải
phải luôn được giữ sạch, và nếu có thể, được khử trùng sau khi sử dụng. Phế thải
tồn trữ không được tạo nguồn gây nhiễm bẩn cho cơ sở sản xuất hoặc gây ô nhiễm
môi trường.”
Điều 9, Chương III “Nhập khẩu từ nước thứ Ba”thuộc Chỉ thị 91/492/EEC có
nêu: “Các nước thứ Ba xuất khẩu sang EU phải đảm bảo điều kiện vệ sinh thực tế
trong quá trình sản xuất và đưa nhuyễn thể hai mảnh vỏ sống vào thị trường, đặc
biệt phải tiến hành giám sát các khu vực sản xuất về mặt nhiễm vi sinh và gây ô
nhiễm môi trường và về sự có mặt của các độc tố sinh học biển.”
Chỉ thị 96/23/EEC ngày 29.4.1996 quy định về các biện pháp giám sát một số
hoạt chất và dư lượng của chúng trong động vật sống và các sản phẩm động vật.
Theo Chỉ thị này, các doanh nghiệp muốn xuất khẩu vào EU phải tuân thủ các biện
pháp giám sát một số hoạt chất và dư lượng của chúng trong nuôi trồng thuỷ sản và
gia súc, gia cầm. Trong số các hoạt chất cần giám sát có những chất gây ô nhiễm
môi trường như: các hợp chất Chlor hữu cơ kể cả PcBs (Chloramphenicol,
Chloroform, Chlorpromazine,...), các hợp chất nhóm phốt pho hữu cơ, các nguyên
tố hoá học, các độc tố nấm, thuốc nhuộm (Phụ lục 2)
Ngoài ra, EU còn thực hiện chính sách “dư lượng = 0”đối với 10 chất kháng
sinh bị cấm hoàn toàn vì trong đó có 07 chất gây ô nhiễm môi trường là CAP,
Chloroform, Chlorpromazine, Dimetridazole, Ronidazole, Metronidazole, FRZ hoặc
Chất phụ gia trong thực phẩm:
NF có chứa FRZ.
EU đưa ra các quy định về sử dụng chất phụ gia trong thực phẩm cũng một
phần nhằm bảo vệ môi trường. Tác động tới môi trường trong việc sử dụng chất phụ
gia nằm ở chỗ: nếu không sử dụng các chất phụ gia an toàn và đúng mức cho phép
thì chất phụ gia được thải ra môi trường trong quá trình sản xuất hoặc dư lượng phụ
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 29
gia thực phẩm không phân huỷ sau khi tiêu dùng sẽ gây thoái hoá đất, ô nhiễm
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
nguồn nước, làm giảm đa dạng sinh học. Vì vậy chỉ có những loại phụ gia (bao gồm
cả chất làm ngọt, phẩm màu, hương liệu và các phụ gia khác) an toàn cho sức khoẻ
của con người và môi trường mới được phép sử dụng (Phụ lục 3). Cũng cần lưu ý
thêm là trong 10 chất kháng sinh bị EU hoàn toàn cấm sử dụng (theo Luật thực
phẩm) có 4 chất mang màu (Dimetridazole, Metronidazole, Ronidazole, FRZ hoặc
NF có chứa FRZ) hay được sử dụng trong chế biến thực phẩm để làm cho thực
phẩm có màu sắc hấp dẫn hơn. Đây là những chất rất độc, vừa không đảm bảo an
toàn thực phẩm, vừa gây ô nhiễm môi trường. Chính vì vậy nếu sử dụng 04 chất này
trong chế biến thực phẩm, hàng hoá sẽ bị coi là vi phạm quy định về bảo vệ môi
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 30
trường.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
IV. Vấn đề trách nhiệm xã hội của thị trường EU đối với các doanh nghiệp
xuất khẩu
Bên cạnh các tiêu chí quan trọng về chất lượng, vệ sinh, độ an toàn và môi
trường đã đề cập ở trên, các vấn đề xã hội ngày càng có tầm quan trọng cao hơn
trong thương mại. Các vấn đề xã hội được nêu ra xuất phát từ quan điểm của người
tiêu dùng về đạo đức kinh doanh. Tại Liên minh châu Âu nói riêng và các nước phát
triển nói chung, ngày càng có nhiều người cho rằng các doanh nghiệp - với tư cách
là những thực thể quan trọng trong xã hội - phải có trách nhiệm về đạo đức đối với
nhân viên của họ nói riêng và toàn xã hội nói chung thông qua sản phẩm mà doanh
nghiệp cung cấp trên thị trường. Dần dần, họ đưa vấn đề đạo đức kinh doanh trở
thành tiêu chí để lựa chọn sản phẩm và bạn hàng. Các doanh nghiệp do đó hiểu rõ là
mình sẽ được đánh giá không chỉ bởi sản phẩm và dịch vụ cung cấp mà còn bởi
trách nhiệm của doanh nghiệp về mặt xã hội.
1. Các bộ quy tắc ứng xử
Theo định nghĩa của Uỷ ban châu Âu, “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp -
CSR (Corporate Social Responsibilitíe) - là khái niệm để chỉ việc các công ty đưa
ra những mối quan tâm về xã hội và môi trường vào các hoạt động kinh doanh của mình trong mối quan hệ với các bên có liên quan, trên cơ sở tự nguyện” [8]. Những
mối quan tâm này thường được cụ thể hoá trong các bộ quy tắc ứng xử (Code of
Conduct - CoC). Các bộ quy tắc ứng xử có thể do một tổ chức đưa ra, hoặc do các
công ty tự đưa ra bộ của CoC của riêng mình (hiện có khoảng trên 1000 bộ CoC
Các CoC có những đặc điểm sau:
loại này). Tuy nhiên không có một bộ CoC nào mang tính quốc tế hay quốc gia cả.
- Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được quy định trong các CoC được
hiểu là trách nhiệm của doanh nghiệp đối với toàn xã hội thông qua sản
phẩm của mình chứ không phải chỉ là trợ giúp một số nhóm người yếu thế
nhất định trong xã hội như người tàn tật, trẻ mồ côi, nạn nhân lũ lụt... và
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 31
đây là việc làm thường xuyên, liên tục chủ yếu ngay tại nơi làm việc chứ
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
không phải là công tác hỗ trợ nhân đạo làm theo phòng trào, mang tính chất
thời điểm và ở ngoài xã hội (ngoài nơi làm việc là chính).
- Các bộ CoC không phải là các Công ước Quốc tế, không phải quy định bắt
buộc của bất cứ quốc gia nào, không phải thoả thuận giữa chính phủ với
chính phủ mà chỉ là thoả thuận giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp (bên
bán và bên mua hàng hoá, dịch vụ). Do vậy, việc thực hiện các CoC là tự
nguyện, hoàn toàn không mang tính bắt buộc. Tuy vậy phải hiểu rõ hai
điểm trong tính tự nguyện. Một là những quy định nào nằm trong CoC mà
trùng với những quy định của luật pháp quốc gia thì việc thực hiện những
nội dung đó nghiễm nhiên mang tính bắt buộc. Hai là, tự nguyện ở đây
được hiểu theo nghĩa thị trường, tức là do doanh nghiệp tự quyết định có
nên cam kết áp dụng một bộ CoC nào đó không sau khi cân nhắc giữa lợi
ích và chi phí bỏ ra.
- Tuy các CoC không phải là công ước quốc tế, không phải luật quốc gia,
nhưng phần lớn nội dung của các CoC lại được chắt lọc, tóm tắc từ các
công ước và thông lệ quốc tế và luật quốc gia. Bởi vậy, thực chất các CoC
không đưa ra nhiều quy định mới. Tuy nhiên, những nội dung cần tìm hiểu
ở các CoC là cách thức quản lý, theo dõi, kiểm tra và ai sẽ là người đánh
giá việc thực hiện những quy định này. Việc kiểm tra, đánh giá việc thực
hiện các CoC phần lớn do bên thứ hai, tức bên mua hàng tiến hành hoặc
bên thứ ba, tức một công ty đánh giá độc lập tiến hành.
- Khi các CoC do các công ty đa quốc gia nước ngoài hay các tổ chức tư
nhân đưa ra được đem vào áp dụng ở một quốc gia nào đó thì các CoC này
không thay thế, không đứng trên luật quốc gia. Việc thực hiện các CoC ở
bất cứ quốc gia nào phải phù hợp với luật quốc gia và hỗ trợ việc thực hiện
Nội dung cơ bản của các CoC:
luật quốc gia tại nước sở tại.
Hiện nay có rất nhiều bộ quy tắc ứng xử hoặc của các công ty, tổ chức độc lập
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 32
đưa ra như WRAP, SA 8000, WWW, CCC, PLA,...., hoặc của chính bản thân các
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
công ty kinh doanh tự đưa ra để áp dụng riêng như tập đoàn Adidas, NIKE, Levis
Strauss, GAPS, MalMart,... (Phụ lục 4). Đặc biệt ở Châu Âu, “Chiến dịch quần áo
sạch - CCC”và quy tắc hành xử “EURATEX-ETUC/TCL Code”do Nghiệp đoàn dệt
Châu Âu và Tổ chức giới chủ thoả thuận đang được triển khai rộng rãi.
Về cơ bản, các CoC đều đề cập đến khoảng 10 nội dung chính: cấm sử dụng
lao động trẻ em; cấm sử dụng lao động cưỡng bức; chống phân biệt đối xử tại nơi
làm việc; đảm bảo cho người lao động quyền tham gia công đoàn và thoả ước lao
động tập thể; tiền lương - tiền công; thời gian làm việc; an toàn vệ sinh lao động;
khen thưởng và kỷ luật ; đào tạo, việc làm; an sinh xã hội. Tuy nhiên những quy
định chi tiết bên trong của mỗi nội dung trên có thể khác nhau.
2. Bộ tiêu chuẩn SA 8000
SA 8000 do một công ty tư nhân của Mỹ có tên là Social Accountability
International (SAI) đưa ra từ năm 1997. Cũng như các bộ quy tắc ứng xử khác, đây
là một tiêu chuẩn mang tính chất tự nguyện và có thể được áp dụng cho bất cứ
doanh nghiệp hay tổ chức nào không kể quy mô hay ngành nghề. Tiêu chuẩn này có
thể được các doanh nghiệp lựa chọn để thay thế hay bổ sung cho các quy định riêng
của ngành hay của của doanh nghiệp về trách nhiệm xã hội.
Sở dĩ SA 8000 được ưu tiên giới thiệu riêng và kỹ hơn các bộ quy tắc ứng xử
khác là vì vấn đề áp dụng tiêu chuẩn này đang nổi cộm trong các doanh nghiệp của
Việt Nam. Kể từ khi Hiệp định thương mại Việt Mỹ được ký kết, một chiến dịch
quảng bá cho SA 8000 đã được tung ra với lý lẽ rằng SA 8000 là giấy thông hành
cho các doanh nghiệp (đặc biệt là những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động)
thâm nhập vào thị trường Mỹ và EU. Xét riêng với thị trường EU thì nếu doanh
nghiệp nào có chứng chỉ SA 8000, tức là chứng tỏ được trách nhiệm của doanh
nghiệp về mặt xã hội, doanh nghiệp đó sẽ dễ dàng giành được sự ưu tiên từ phía đối
tác và do đó việc xuất khẩu hàng hoá sẽ thuận lợi hơn. Tuy nhiên cũng phải nhắc lại
rằng, SA 8000 không phải là bộ quy tắc ứng xử duy nhất và các doanh nghiệp cũng
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 33
không bị bắt buộc phải lựa chọn.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Những nội dung cơ bản của SA 8000:
Bản thân các yêu cầu trong tiêu chuẩn SA 8000 dựa trên Khuyến cáo của Tổ
chức lao động quốc tế (ILO) và các Thoả thuận và Hiệp định của Liên hợp quốc
(Nhân quyền, Quyền trẻ em), bao gồm 9 yêu cầu:
1 - Không được sử dụng hoặc khuyến khích sử dụng lao động trẻ em
2 - Không được sử dụng hoặc khuyến khích sử dụng lao động cưỡng bức.
3 - Đảm bảo sức khoẻ, vệ sinh an toàn lao động
4 - Đảm bảo quyền thành lập, tham gia công đoàn và quyền thoả ước tập thể
của người lao động.
5 - Không phần biệt đối xử về chủng tộc, đẳng cấp, dân tộc, tôn giáo, sự ốm
yếu tàn tật, giới tính, tính dục, sự tham gia nghiệp đoàn, khuynh hướng chính trị
hoặc tuổi tác
6 - Không áp dụng sự trừng phạt mang tính nhục hình, sự cưỡng bức về tinh
thần hoặc thể xác và sự lăng mạ bằng lời nói.
7 - Đảm bảo thời gian làm việc theo luật và tiêu chuẩn ngành nghề hiện hành.
Tổng số giờ làm việc trong một tuần không được thường xuyên vượt quá 48 giờ,
phải có ít nhất 1 ngày nghỉ trong mỗi tuần.
8 - Đảm bảo tiền lương tối thiểu theo quy định của pháp luật và đủ để đáp ứng
nhu cầu cơ bản của người lao động.
9 - Hệ thống quản lý việc thực hiện tiêu chuẩn: phải có sự cam kết của công ty
về trách nhiệm xã hội và điều kiện lao động, hình thành một cơ chế thực thi kiểm
soát sự đáp ứng đòi hỏi trên suốt quá trình.
Chứng chỉ SA 8000 chỉ cấp cho một cơ sở sản xuất (không phải cho toàn công
ty) và có giá trị trong 3 năm. Việc thanh tra, giám sát sẽ được tiến hành sáu tháng
một lần.
Tóm lại, tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội được đặt ra như một điều kiện thương
mại đang ngày càng trở nên phổ biến ở các nước phát triển nói chung và Liên minh
châu Âu nói riêng. Tác động của xu hướng này đối với các nhà xuất khẩu ở các
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 34
nước đang phát triển là rất rõ ràng. Vì vậy, các doanh nghiệp này phải chú trọng đến
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
yếu tố xã hội trong đạo đức kinh doanh của họ, hoặc phải tuân thủ các yêu cầu theo
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 35
tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội .
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ VIỆT NAM SANG EU DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA CÁC TIÊU CHUẨN VỀ CHẤT LƯỢNG, MÔI TRƯỜNG, VÀ XÃ HỘI.
I. Đánh giá thực trạng chung của hàng xuất khẩu Việt Nam sang EU dưới
tác động của các quy định/ tiêu chuẩn của EU về chất lượng, môi trường và xã
hội
1. Thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - EU
Mở đầu cho quan hệ hợp tác về thương mại giữa khối EU và Việt Nam là Hiệp
định buôn bán hàng dệt may được ký tắt ngày 15/12/1992 có hiệu lực trong 5 năm
bắt đầu từ năm 1992 (mà hạn ngạch và các điều khoản về tiếp cận thị trường được
điều chỉnh vào năm 1995 và Hiệp định bổ sung ký năm 1996). Bước phát triển tiếp
theo trong quan hệ hợp tác về thương mại của Việt nam và EU là việc hai bên ký
kết Hiệp định khung về hợp tác vào 17/1/1995, có hiệu lực bắt đầu vào tháng
6/1996. Các điều khoản thương mại trong Hiệp định có quy định rõ: Việt Nam và
EU sẽ cho nhau hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN), đặc biệt là chế độ ưu đãi thuế
quan phổ cập (GSP). Các bên cam kết phát triển, đa dạng hoá trao đổi thương mại
và cải thiện quá trình tiếp cận thị trường của nhau đến mức cao nhất có thể được, có
tính đến hoàn cảnh kinh tế của mỗi bên. Hai Hiệp định này cùng với những thành
tựu đạt được từ việc thực hiện kế hoạch 5 năm 1991-1995 của Việt Nam đã là động
lực thúc đẩy việc phát triển hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt nam vào thị
trường EU, đặc biệt kể từ năm 1995 đến nay.
1.1 Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang EU từ 1995 - nay
Thời kỳ trước Hiệp định khung hợp tác được ký kết (1995), kim ngạch xuất
nhập khẩu giữa Việt Nam và EU chỉ đạt ở mức độ khiêm nhường và nhập siêu luôn
nghiêng về phía Việt Nam. Buôn bán thương mại hai chiều năm 1990 mới chỉ đạt
295,2 triệu USD, dù có tăng dần qua từng năm nhưng chưa năm nào lên được tới 1
tỷ USD. Tuy nhiên, từ năm 1995 Việt Nam đã có xuất siêu và mức xuất siêu ngày
càng lớn do đã biết xúc tiến nhiều hoạt động đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 36
EU. Kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều không ngừng tăng lên hàng năm, tuy mức
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 37
tăng trưởng chưa ổn định (bảng 2).
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Bảng 2: KIM NGẠCH XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM - EU
Kim ngạch XK của Việt Nam sang EU
Kim ngạch NK của Việt Nam từ EU
Kim ngạch XNK Việt Nam - EU
Năm
Trị giá Xuất siêu
Trị giá
Trị giá
Trị giá
Tốc độ tăng (%)
Tốc độ tăng (%)
Tốc độ tăng (%)
1990
141,6
-
153,6
-
295,2
-
-12
1991
112,2
-20,8
274,5
78,7
386,7
31,0
-162,3
1992
227,9
103,1
233,2
-15
461,1
19,2
-5,3
1993
216,1
5,2
419,5
79,9
635,6
37,8
-203,4
1994
383,8
77,6
476,6
13,6
860,4
35,4
-92,8
1995
720,0
87,6
688,3
44,4
1.408,3
63,7
31,7
1996
900,5
25,1
1.134,2
64,8
2.034,7
44,5
-233,7
1997
1.608,4
78,6
1.324,4
16,8
2.032,8
44,1
284,0
1998
2.125,8
32,2
1.307,6
-1,3
3.433,4
17,1
818,2
1999
2.506,3
17,9
1.052,8
-19,5
3.559,1
3,7
1.453,5
2000*
2.845,1
13,5
1.317,4
25,1
4.153,9
16,7
1.527,7
2001*
3.002,9
5,6
1.506,3
14,3
4.509,2
8,6
1.496,6
3.149,9
4,9
1.841,1
22,2
4.991,0
10,7
1,308.8
2002* 2003#
3.840,0
21,9
-
-
-
-
-
(Nguồn: Trung tâm Tin học & Thống kê - Tổng cục Hải quan
(*) Niên giám thống kê 2002
(#) Số liệu ước tính (Tạp chí Ngoại Thương - Số 21-30/10/2003))
Đơn vị: Triệu USD
Qua bảng số liệu có thể thấy quy mô buôn bán giữa Việt Nam và EU giai đoạn
sau 1995 đã tăng lên nhanh chóng so với giai đoạn trước, đặc biệt trong ba năm
1995-1997 tốc độ tăng trưởng bình quân là 50,8%/năm. Từ năm 1998 đến tăng
trưởng thương mại bình quân đạt 11,36%/năm, tuy có thấp hơn giai đoạn 1995-1997
nhưng vì giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu đã lớn hơn nên con số trên vẫn được
đánh giá là tích cực. Năm 2002, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều đạt gần 5
tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu hơn 3,1 tỷ USD, nhập khẩu gần 1,9 tỷ USD.
Ước tính năm 2003, giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang EU đạt khoảng 3,84 tỷ USD (tăng 21,9% so với năm 2002) [1], cùng với tốc độ tăng nhập khẩu khá đều đặn
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 38
trong những năm trước thì dự đoán tổng kim ngạch xuất khẩu giữa Việt Nam và EU
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
trong năm 2003 sẽ còn cao hơn nữa. Đây là minh chứng cho sự phát triển thương
mại giữa hai bên. Tuy nhiên, bước tiến này sẽ vẫn còn gặp nhiều trắc trở và nhất là
còn cách xa tiềm năng kinh tế của cả hai bên. Trị giá thương mại Việt Nam - EU
mới chiếm khoảng 0,12% tổng kim ngạch ngoại thương của EU, và chiếm 13,7% tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam [2].
1.2 Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU từ 1995-nay
Như đã nói ở trên, kể từ năm 1995, Việt Nam liên tục đẩy mạnh xuất khẩu
hàng hoá sang thị trường EU, làm chuyển dịch cán cân xuất nhập khẩu với thị
trường này từ chỗ nhập siêu sang xuất siêu. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
tăng mạnh, nếu như trong 5 năm (1990-1995) tăng 5 lần thì sang giai đoạn 5 năm
tiếp theo, kim ngạch xuất khẩu năm 2000 đã tăng lên gấp 4 lần năm 1995, tức là gấp
20 lần năm 1990. Số liệu mới đây nhất, trong 9 tháng đầu năm 2003, kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam đã đạt được 80,7% kế hoạch cả năm, tăng 25% so với cùng
kỳ năm ngoái, trong đó thị trường EU chiếm một vị trí đáng kể. Ước tính năm 2003,
kim ngạch xuất khẩu sang EU sẽ đạt 3,84 tỷ USD (bảng 3).
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001*
2002* 2003#
720,0
900,5 1608,4
2125,8
2506,3
2845,1
3002,9
3149,9
3840
Bảng 3: KIM NGẠCH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM SANG EU TỪ 1995-NAY Đơn vị : Triệu USD
(1) Kim ngạch XK của Việt Nam sang EU
87,6
25,1
78,6
32,2
17,9
13,5
5,6
4,9
21,9
Tốc độ tăng hàng năm của (1) (%)
5448,9 7255,9 9185,0
9361,0 11135,9 14483,0 15029,0 16705,8 19950
(2) Tổng kim ngạch XK của Việt Nam
13,2
12,4
17,5
22,7
22,5
19,6
20,0
18,9
19,2
Tỷ trọng (1) trong (2) (%)
713252,4 738505 757852,2 809569,3 864536,1 923241,3 957435,1 987695,7
-
(3) Tổng kim ngạch NK của EU **
0,10
0,12
0,21
0,26
0,29
0,31
0,31
0,32
-
Tỷ trọng (1) trong (3) (%)
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 39
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
(Nguồn: Trung tâm Tin học & Thống kê - Tổng cục Hải quan
(*) Niên giám thống kê 2002)
(**) European Union and World Trade, European Commission, 1997, Tr 41
(#) Số liệu ước tính (Tạp chí Ngoại Thương - Số 21-30/10/2003))
Bảng 3 cho thấy, mặc dù nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang EU
giai đoạn 1995-2003 tăng đáng kể, nhưng tốc độ tăng hàng năm lại không ổn định.
Năm 1995, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tăng 87,6% so với năm 1994, sang năm
1996, con số này chỉ đạt 25,1% để rồi năm 1997 lại tăng lên đến 78,6%. Kể từ năm
1998, tốc độ tăng trưởng giảm dần, đỉnh điểm là hai năm 2001 và 2002 chỉ đạt trên
dưới 5%.
Những nguyên nhân dẫn tới hiện tượng này là:
- Vào năm 1996 một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam xuất sang
EU giảm mạnh như: hàng thuỷ sản giảm do lượng tôm đông lạnh giảm vì ở nhiều
khu vực trong nước tôm bị dịch bệnh, hàng cà phê giảm do giá thị trường thế giới
giảm mạnh...
- Sang năm 1998, tất cả các mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam đều
gặp trở ngại trên thị trường EU do các quy định quản lý nhập khẩu của EU gây ra.
Dệt may phải chịu mức hạn ngạch dành cho Việt Nam quá thấp, thuỷ sản gặp nhiều
khó khăn do EU chưa cho nhập nhuyễn thể hai mảnh của Việt Nam và chưa chấp
nhận đưa các nhà máy chế biến thuỷ sản của Việt Nam vào danh sách nhóm I...
- Nguyên nhân làm cho kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU trong 2
năm 2001, 2002 tăng trưởng thấp hơn nhiều so với những năm trước đó là vì Hiệp
định thương mại Việt-Mỹ ký ngày 14/7/2000 và có giá trị hiệu lực vào năm 2001 đã
đem lại cơ hội xuất khẩu lớn cho nước ta nên các doanh nghiệp Việt Nam đã tận
dụng cơ hội này đẩy mạnh xuất khẩu hàng vào Mỹ khi mà công suất sản xuất hàng
xuất khẩu không tăng hoặc tăng không đáng kể. Các mặt hàng xuất khẩu của Việt
Nam sang EU giảm mạnh phải kể đến thuỷ sản, dệt may, nông sản - là những nhóm
hàng thị trường Mỹ có nhu cầu lớn. Đồng thời, giá một số mặt hàng của Việt Nam
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 40
sang EU (chủ yếu là nông sản) sụt giảm cũng góp phần làm giảm kim ngạch xuất
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
khẩu sang thị trường này. Ngoài ra, sự kiện tôm xuất khẩu của Việt Nam vào EU kể
từ 27/3/2002 phải chịu chế độ kiểm tra hệ thống toàn bộ 100% theo quyết định
2002/250/EC khiến các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đã gặp không ít
khó khăn, dẫn đến xuất khẩu giảm đáng kể.
Trung bình giai đoạn 1995 - nay, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân của
Việt Nam sang EU là 32%, nhanh hơn số tương ứng thời kỳ 1990-1994 là 28,31%.
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường EU trong tổng kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam từ năm 1995 đến năm 2000 cũng tăng lên và khá ổn định. Mức
tăng này lớn hơn nhiều nếu so sánh với tỷ trọng của các thị trường Trung Quốc, Úc,
Mỹ (bảng 4). Năm 2000, 2001, 2002, EU đã vượt qua ASEAN trở thành thị trường
xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Tuy nhiên tác động của Hiệp định thương mại
Việt-Mỹ mở đường hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam sang Mỹ
đã nâng cao tầm quan trọng của thị trường này trong quan hệ thương mại với Việt
Nam khiến EU hiện nay chỉ đứng ở vị trí thứ hai. (Theo số liệu của Tổng cục Hải
quan, xuất khẩu 5 tháng đầu năm 2003 sang Hoa Kỳ đạt trên 1,6 tỷ USD, tăng
185% so với cùng kỳ năm 2002, trong khi xuất khẩu sang EU thấp hơn, đạt trên 1,5
tỷ USD, tăng 29% so với cùng kỳ năm ngoái). Song, xu hướng chung là thị trường
EU vẫn đóng vai trò ngày càng quan trọng trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.
95 - 03 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001* 2002* 2003#
ASEAN
19,7
18,3 22,8 19,5 24,3 27,0 18,7
16,9
14,5
15,4
EU
18,5
13,2 12,4 17,5 22,7 22,5 20,0
19,9
18,9
19,2
Nhật Bản
17,9
26,8 21,3 17,6 15,8 16,0 18,8
16,7
14,6
13,8
T.Quốc
7,4
6,6
4,7
5,7
5,1
7,7
11,0
9,4
9,0
7,7
Úc
5,2
1,0
0,9
2,0
5,0
7,3
9,1
6,9
8,0
7,0
Mỹ
7,4
3,1
2,8
3,0
5,0
4,5
5,3
7,1
14,5
21,0
(Nguồn: Trung tâm Tin học & Thống kê - Tổng cục Hải quan
(*) Niên giám thống kê 2002 Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 41
Bảng 4: TỶ TRỌNG CỦA CÁC THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CHÍNH TRONG TỔNG KIM NGẠCH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ 1995-NAY Đơn vị: %
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
(#) Số liệu ước tính (Tạp chí Ngoại Thương - Số 21-30/10/2003))
Từ một góc nhìn khác có thể thấy tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
vào EU trong tổng kim ngạch nhập khẩu của EU cũng trong xu thế gia tăng (xem
bảng 2). Chẳng hạn năm 1995 tỷ trọng này là 0,10%, năm 2000 đã tăng lên thành
0,31%. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng thị phần đó còn quá nhỏ bởi thị trường EU
được đánh giá là “khó tính”vào loại nhất nhì thế giới, trong khi hàng hoá của Việt
Nam có chất lượng chưa ổn định và đôi khi không đáp ứng được yêu cầu của bạn
hàng EU.
Về bạn hàng, trong thời kỳ 1990-1994 chỉ có 6 trong số 12 nước thành viên
EU có quan hệ buôn bán với Việt Nam là Pháp, Đức, Bỉ, Hà Lan, Italia, Anh. Kể từ
năm 1995, khi EU mở rộng thành 15 nước thì tất cả 15 nước thành viên đều có quan
hệ buôn bán với Việt Nam ở mức độ ít nhiều khác nhau, thể hiện ở bảng 5:
Tên nước
1995 1996
1997
1998
1999
2000
2001* 2002* 2003#
Đức
218,0 228,0 411,4
587,9 654,3 730,1
721,8
720,7
840
Anh
74,6 125,1 265,2
333,5 421,2 479,3
511,6
570,8
700
Pháp
169,1 145,0 238,1
307,4 354,9 379,8
467,5
438,5
500
Hà Lan
79,7 147,4 266,8
306,9 342,9 390,2
364,5
404,3
510
Bỉ
34,6
61,3
124,9
211,7 306,7 311,6
341,2
335,1
390
Italia
57,1
49,8
118,2
144,1
59,4
218,0
237,9
263,8
340
46,7
62,8
70,3
85,5
108,0 137,2
158,5
178,5
234
Tây Ban Nha
Đan Mạch
12,8
23,7
33,2
43,3
43,7
58,2
62,5
70
49,7
4,7
53,2
Thuỵ Điển
31,8
47,1
58,3
45,2
55,1
62,4
70
Hy Lạp
2,1
5,7
8,1
3,8
7,9
1,6
-
30,3
40
Aó
5,6
11,4
8,5
34,9
23,6
28,9
9,3
29,5
36
Phần Lan
10,1
13,4
20,2
16,9
22,4
4,9
-
24,2
33
Bồ Đào Nha
4,1
4,2
4,4
5,2
8,9
3,8
-
5,5
10
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 42
Bảng 5: KIM NGẠCH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM SANG EU PHÂN THEO NƯỚC Đơn vị: triệu USD
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Ai len
2,8
3,1
3,3
3,9
6,9
12,1
-
19,0
20
Luxembourg
0,3
0,6
1,5
2,1
2,3
2,5
-
4,8
5
Tổng
720,0 900,5 1608,4 2125,8 2506 2836,9 3002,9 3149,9 3840
(Nguồn: Trung tâm Tin học & Thống kê - Tổng cục Hải quan
(*) Niên giám thống kê 2002
(#) Số liệu ước tính (Tạp chí Ngoại Thương - Số 21-30/10/2003))
Có thể thấy rằng hàng năm, xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thuộc EU
nhìn chung đều tăng. Những nước có nhịp độ tăng cao là Thuỵ Điển, Anh, Hà Lan,
Bỉ, Phần Lan, Đan Mạch, Đức và Italia. Thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt
Nam trong khối EU là Đức, chiếm 22,9% kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang
EU. Kể từ năm 1998 đến nay, Anh đã vượt Pháp và Hà Lan, vươn lên chiếm vị trí
thứ hai sau Đức, tiếp theo là Pháp: 13,9%, Hà Lan: 12,8%, Bỉ: 10,64% v..v..
1.3 Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu
Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang EU gồm: giày dép, dệt may,
nông sản, sản phẩm bằng da thuộc, thuỷ sản, đồ gỗ, đồ gốm sứ, đồ chơi và dụng cụ
thể thao,... hàng năm chiếm khoảng 80% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị
trường này. Như vậy, hàng xuất khẩu của ta sang EU chủ yếu là sản phẩm của các
ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động, hoặc là hàng có mức độ gia công
chế biến thấp, nguyên nhiên liệu và nông sản. Đứng đầu là hàng giày dép và nguyên
phụ liệu, tiếp theo là dệt may, rồi đến cà phê và chè (năm 2002 chiếm tỷ lệ trong
tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU lần lượt là 45%, 15%, 4,8% ...).
Tuy nhiên các thứ tự và tỷ lệ này còn chưa thật ổn định qua các năm (biểu đồ 2).
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 43
Biểu đồ 2: BIẾN ĐỘNG CƠ CẤU CÁC MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM SANG EU THEO THỜI GIAN Đơn vị: %
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
100%
Các mặt hàng khác
90%
t ấ u x
Thiết bị điện tử
80%
70%
Thuỷ sản
60%
h c ạ g n m i k
Sản phẩm da thuộc
50%
U E g n a s
Đồ gỗ
g n ổ t
40%
u ẩ h k
Cà phê, chè
30%
20%
Dệt may
10%
Giày dép
g n o r t g n ọ r t ỷ T
0%
1995
2002
1999
Năm
(Nguồn: Cục thống kê của Liên minh Châu  u (Eurostat) - www.eu.int/eurostat.html)
Những năm gần đây đã có một vài thay đổi xuất hiện trong cơ cấu xuất khẩu
vào EU. Những mặt hàng chế biến sâu (các thiết bị điện tử, các phương tiện xe
cộ...) đã xuất hiện, đặc biệt là mặt hàng điện tử mới xuất khẩu được vài năm nhưng
đến năm 2000 đã đạt kim ngạch khích lệ (hơn 100 triệu USD). Tỷ trọng hàng xuất
khẩu qua chế biến tăng lên chiếm khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu Việt Nam-EU
và tỷ trọng hàng nguyên liệu thô giảm xuống còn 30%.
Đóng góp vào tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung của Việt Nam sang EU, kim
ngạch xuất khẩu các mặt hàng chính đã tăng tương đối nhanh, rõ rệt nhất trong giai
đoạn 1995-2000. Đặc biệt phải kể đến mặt hàng máy móc, thiết bị điện và phụ tùng
tăng trung bình 107%/năm, mặc dù sang hai năm 2001 và 2002 lại giảm cùng với sự
tăng trưởng chậm của tổng kim ngạch xuất khẩu sang EU. Các mặt hàng khác có
những năm tăng trưởng cao nhưng lại không ổn định (bảng 6).
Tên hàng
1995 1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
TT
01
481,3 664,6 1.032,3 1.043,1 1.310,5 1.683,5 1.692,1 1.730,8
Giày dép, và các bộ phận của chúng
273,9 335,8 440,2
436,9
499,7
580,9
422,2
416,2
02 Quần áo và hàng may sẵn, không
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 44
Bảng 6: CÁC MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CHÍNH CỦA VIỆT NAM SANG EU Đơn vị: triệu USD
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
thuộc hàng dệt kim
03
234,7 146,9 277,9
366,8
357,9
293,5
224,0
102,5
Cà phê, chè và các loại gia vị
04
28,2
60,5
101,3
108,1
145,5
219,3
221,3
285,6
Đồ gỗ, trang thiết bị nội thất và y tế
05
92,2 116,7 166,6
157,0
164,0
189,4
97,6
138,4
Các sản phẩm bằng da thuộc
06 Quần áo dệt kim
39,6
70,0
85,8
88,4
157,2
97.5
78,5
79,3
07 Đồ gốm, sứ
34,4
36,6
47,9
77,8
155,2
156,8
55,0
89,5
08 Thuỷ hải sản
29,1
36,1
71,3
83,1
94,7
112,3
98,2
42,4
09
3,4
10,3
24,1
46,6
65,9
108,4
92,5
80,4
Máy móc thiết bị điện tử và phụ tùng
10
20,2
28,4
53,0
58,0
59,9
78,6
57,4
57,6
Đồ chơi và dụng cụ thể thao
(Nguồn: Số liệu thống kê của Phái đoàn EU tại Hà nội - www.delvnm.cec.eu.int)
Qua đó có thể thấy rằng:
Mặt hàng giày dép xuất khẩu năm 1997/1996 tăng 55,3% nhưng năm
1998/1997 chỉ tăng hơn 1%. Tốc độ tăng trưởng trung bình của hai năm 1999 và
2000 đạt khoảng 26%, tuy nhiên sang đến năm 2001 và 2002 lại giảm xuống còn
khoảng một đến hai phần trăm.
Tương tự như giày dép, tốc độ tăng trưởng hàng dệt may (chủ yếu gồm hai
nhóm hàng: quần áo may sẵn không thuộc hàng dệt kim và quần áo dệt kim) tăng
dần từ 1995 đến 1997, giảm mạnh vào 1998, phục hồi vào hai năm 1999 và 2000 rồi
lại xuống dốc trong hai năm kế tiếp 2001, 2002 (hai năm này tăng trưởng âm).
Mặt hàng thuỷ hải sản tuy tăng trưởng khá cao trong ba năm 1996, 1997 và
1998 nhưng những năm tiếp theo lại giảm sút, thậm chí tăng trưởng âm vào năm
1999 và 2002, do vi phạm các quy định của EU về dư lượng kháng sinh và các chất
bị cấm đối với thuỷ hải sản khiến EU áp dụng các biện pháp tiêu huỷ, kiểm tra ngặt
nghèo hơn, gạt bỏ một số doanh nghiệp ra khỏi danh sách các doanh nghiệp được
phép xuất khẩu sang EU.
Hàng nông sản tăng trưởng từ 1995-1998, song liên tục giảm sút từ 1998 đến
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 45
nay, đặc biệt là cà phê do giá thị trường thế giới giảm.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Tốc độ tăng xuất khẩu của các mặt hàng còn lại cũng rất thất thường, ví dụ như
đồ gốm sứ năm 2000 tăng gần gấp đôi so với 1999, sang năm 2001 hầu như không
tăng, rồi lại giảm còn một nửa vào năm 2002; đồ chơi và dụng cụ thể thao chỉ tăng
mạnh năm 1997, các năm sau tăng chậm và có năm tăng trưởng âm....
2. Đánh giá thực trạng của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam trong
việc đáp ứng các tiêu chuẩn của EU về chất lượng, môi trường & xã hội.
2.1 Khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn về chất lượng
Từ năm 1996, Việt Nam đã nhận thức được rõ hơn tầm quan trọng của các vấn
đề thương mại đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Cũng như nhiều quốc gia
khác, xuất khẩu mạnh là mục tiêu hướng tới của Việt Nam, do đó Việt nam đã và
đang cố gắng mở rộng thị trường xuất khẩu của mình thông qua việc đề ra và thực
hiện các biện pháp nhằm đáp ứng các yêu cầu thương mại của các nước nhập khẩu
nói chung và của thị trường EU nói riêng. Trải qua một thời kỳ kinh tế non yếu và
khủng hoảng, các nhà sản xuất và xuất khẩu Việt nam hiện nay đang đứng trước
những yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng - yếu tố hết sức cần thiết cho mục tiêu mở
Hoạt động tiêu chuẩn hoá quốc gia:
rộng thị trường và đảm bảo tăng trưởng xuất khẩu một cách bền vững.
Thông thường, yêu cầu của các nước nhập khẩu đối với một loại sản phẩm nào
đó rất khác nhau, mỗi nước có một hệ thống tiêu chuẩn riêng và các doanh nghiệp
Việt Nam muốn xuất khẩu được hàng hoá phải tuân thủ để đáp ứng yêu cầu thị
trường. Tuy nhiên trong nhiều năm gần đây, với xu thế hội nhập và liên kết, nhiều
thị trường và khu vực thị trường đã dần đưa ra các bộ tiêu chuẩn áp dụng chung cho
khu vực, hoặc hài hoà tiêu chuẩn nước mình/khu vực của mình với tiêu chuẩn quốc
tế. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông hàng hoá do hàng hoá sẽ được
kiểm tra, đánh giá về mặt chất lượng căn cứ vào một hệ thống tiêu chuẩn duy nhất.
Như đã nêu trong chương I, bộ tiêu chuẩn EN của Liên minh châu Âu do ba cơ
quan tiêu chuẩn hoá châu Âu hợp tác xây dựng có mức độ hài hoà, thống nhất cao
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 46
với hệ tiêu chuẩn quốc tế. Không chỉ có vậy mà việc cải tiến và xây dựng tiêu chuẩn
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
mới của khu vực thị trường này cũng sẽ theo xu thế chung là thống nhất với các tiêu
chuẩn quốc tế, nhằm tạo điều kiện cho thương mại phát triển hơn nữa. Trước bối
cảnh đó, việc chấp nhận các tiêu chuẩn quốc tế, khu vực và nước ngoài thành tiêu
chuẩn Việt Nam hoặc hài hoà tiêu chuẩn Việt Nam với tiêu chuẩn quốc tế là một
bước đi thích hợp để tiến tới xoá bỏ các rào cản về kỹ thuật trong thương mại, làm
cho các cơ sở sản xuất - kinh doanh - dịch vụ của nước ta dễ dàng tiếp cận với thị
trường nước ngoài nói chung và thị trường EU nói riêng.
Thực tế cho thấy từ năm 1990 trở về trước, các Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN)
chủ yếu được xây dựng dựa trên sự tham khảo tiêu chuẩn GOST của Liên Xô hoặc
theo tiêu chuẩn SEV của Hội đồng tương trợ kinh tế theo phương pháp có sửa đổi,
điều chỉnh các thông số và yêu cầu kỹ thuật (thường là bỏ hoặc hạ thấp) cho phù
hợp với điều kiện thực tế nước ta. Các tiêu chuẩn này đã kịp thời phục vụ yêu cầu
quản lý, sản xuất, tiêu dùng theo cơ chế tập trung, bao cấp. Trong giai đoạn này,
việc xây dựng TCVN được tiến hành theo phương pháp “cơ quan biên soạn”, tức là
hầu hết do các nhà máy, xí nghiệp, các Viện nghiên cứu thuộc các Bộ biên soạn dự
thảo tiêu chuẩn trong đó Trung tâm tiêu chuẩn chất lượng giúp họ về nghiệp vụ biên
soạn tiêu chuẩn. Tuy nhiên kể từ khi Liên Xô và Đông Âu tan rã, Việt Nam bước
vào thời kỳ đổi mới, cải cách kinh tế và hội nhập khu vực, việc xây dựng và ban
hành tiêu chuẩn theo cách cũ cũng như hệ thống TCVN không còn phù hợp nữa.
Chính vì vậy, công tác rà soát, cải tiến, xây dựng lại hệ tiêu chuẩn và vấn đề hài hoà
tiêu chuẩn quốc gia với tiêu chuẩn quốc tế đã được chú trọng, và do đó đã đạt được
những kết quả khả quan như sau:
Tính đến hết năm 2002, tổng số TCVN được xây dựng và ban hành là khoảng 8.000, trong đó có gần 5.200 TCVN hiện hành [9, tr 41]. Cơ cấu của hệ thống TCVN
đã có những thay đổi đáng kể. Nếu như năm 1990 trong hệ thống TCVN có 75%
TCVN là chính thức áp dụng và 25% khuyến khích áp dụng, thì trong tổng số hơn
5.000 TCVN hiện hành, số lượng TCVN bắt buộc áp dụng chỉ chiếm dưới 5%, còn
lại là tự nguyện áp dụng. Đến tháng 10/2002, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 47
trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) đã công bố danh sách 95 TCVN bắt
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
buộc áp dụng trong phạm vi cả nước bao gồm các TCVN liên quan đến an toàn, vệ sinh và môi trường [9, tr 41]. Các Bộ quản lý chuyên ngành cũng ra quyết định bắt
buộc áp dụng đối với các TCVN khác trong các lĩnh vực quản lý của ngành. Đây là
một bước tiến đáng kể trong hoạt động tiêu chuẩn hoá của Việt Nam, nhưng nếu so
sánh với số tiêu chuẩn chung của EU hoặc tiêu chuẩn của mỗi nước thành viên EU
(khoảng hơn 22.000 tiêu chuẩn) và nội dung yêu cầu của mỗi tiêu chuẩn thì Việt
Nam còn thua xa. Điều này nói lên rằng mức độ bao quát của hệ thống tiêu chuẩn
Việt Nam và các yêu cầu của thị trường đối với hàng hoá tiêu thụ còn thấp, do đó
việc hàng hoá Việt Nam đáp ứng tốt các tiêu chuẩn của thị trường EU sẽ vẫn còn
gặp nhiều trở ngại.
Cũng đến cuối năm 2002, đã có 1.273 TCVN hoàn toàn tương đương với tiêu
chuẩn quốc tế (ISO, IEC, CODEX), tiêu chuẩn châu Âu EN và các tiêu chuẩn nước ngoài tiên tiến khác như (ASTM, JIS, BS, AS,...) [9, tr 41] (Phụ lục 5). Tuy số lượng
TCVN được ban hành trên cơ sở chấp nhận tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực
và tiêu chuẩn nước ngoài tăng nhanh trong những năm gần đây song vẫn còn chiếm
tỷ lệ chưa cao (24%) trong tổng số TCVN hiện hành.
Bên cạnh đó, hoạt động phổ biến, khuyến khích và kiểm tra áp dụng các tiêu
chuẩn cũng chưa thực sự đem lại nhiều hiệu quả. Cụ thể là hiện nay trên cả nước
mới có trên 200 doanh nghiệp với khoảng 20 chủng loại sản phẩm, hàng hoá được
chứng nhận và cấp dấu chất lượng phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam TCVN (bao gồm
cả những sản phẩm, hàng hoá liên quan đến an toàn, sức khoẻ... được quy định
trong danh mục sản phẩm, hàng hoá bắt buộc phải chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn).
Đến cuối năm 2002 cũng mới chỉ có 258 sản phẩm, hàng hoá của 82 doanh nghiệp ở 30 tỉnh, thành phố được công bố phù hợp tiêu chuẩn[9, tr 56].
Qua đó có thể thấy rằng, mặc dù số lượng tiêu chuẩn Việt Nam ít hơn và nội
dung quy định trong các tiêu chuẩn thường ít khắt khe hơn so với tiêu chuẩn quốc tế
cũng như tiêu chuẩn Châu Âu nhưng các doanh nghiệp Việt Nam cũng mới chỉ đạt
đến sự phù hợp tiêu chuẩn với tỷ lệ khiêm tốn. Bên cạnh đó, việc công bố hàng hoá
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 48
phù hợp tiêu chuẩn để thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp đối với chất lượng
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
hàng hoá của mình và tạo ra thế mạnh cạnh tranh vẫn còn chưa được các doanh
nghiệp chú trọng. Về phần các doanh nghiệp xuất khẩu, điều này cũng là nguyên
nhân khiến họ chưa có thói quen khẳng định chất lượng hàng hoá của mình phù hợp
Tình hình áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 tại Việt Nam:
với tiêu chuẩn của nước nhập khẩu.
Tiêu chuẩn quản lý chất lượng không phải là tiêu chuẩn bắt buộc đối với sản
phẩm thâm nhập thị trường EU, nhưng việc tuân thủ bộ tiêu chuẩn này chắc chắn sẽ
giúp cải thiện cách nhìn nhận về doanh nghiệp trên thị trường. Theo số liệu thống
kê của Tổ chức quốc tế về Tiêu chuẩn hoá (ISO), đến cuối năm 2002, số doanh
nghiệp đạt được chứng chỉ phù hợp tiêu chuẩn ISO 9000 tại 15 nước EU đạt
245.596 chứng chỉ, chiếm 43,72% tổng số chứng chỉ trên toàn thế giới. Trong khi
đó, số lượng chứng chỉ này tại 3 nước Bắc Mỹ (Canada, Hoa Kỳ, Mexico) chiếm 9,58%, còn tại 17 nước Viễn Đông chỉ chiếm 26,45% [10]. Điều này nói lên rằng,
ISO 9000 là một đặc điểm hỗ trợ bán hàng cơ bản trong kinh doanh với thị trường
nước ngoài, đặc biệt là với thị trường EU - nơi mà ISO 9000 trở nên cực kỳ phổ
biến.
Nhận thức được tầm quan trọng của bộ tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO
9000 (không chỉ nhằm phục vụ cho mục tiêu đảm bảo chất lượng hàng xuất khẩu
mà còn đem lại hiệu quả cho quản lý kinh tế trong nước), bắt đầu từ cuối năm 1995,
Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường với sự hỗ trợ tích cực của các tổ chức quốc
tế đã đưa bộ tiêu chuẩn ISO vào Việt Nam thông qua các khoá đào tạo và việc thành
lập nhiều cơ quan tư vấn. Kể từ doanh nghiệp đầu tiên được chứng nhận hệ thống
quản lý chất lượng theo ISO 9000 vào năm 1996, đến nay đã có trên 600 doanh
nghiệp có chứng chỉ này, trong đó có 354 chứng chỉ ISO 9001:2000 (phiên bản mới
nhất của chứng chỉ ISO 9000 - kể từ năm 2004 sẽ trở thành chứng chỉ duy nhất khi áp dụng hệ thống ISO 9000) [10].
Vậy là trong vòng 7 năm, số lượng doanh nghiệp Việt Nam được cấp chứng
chỉ áp dụng hệ thống ISO 9000 đã tăng với tốc độ khá nhanh: Năm 1998/1997 tăng
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 49
2,2 lần, 1999/1998 tăng 5,7 lần, 2000/1999 tăng 1,2 lần, 2001/2000 tăng 1,3 lần và
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
2002/2001 tăng 2,5 lần. Tuy nhiên về mặt số lượng, nếu mới chỉ so sánh với một số
nước trong khu vực như Singapore, Thailand, Malaysia... chứ chưa cần so sánh với
những nước phát triển cao thì chúng ta sẽ gặp phải những con số gây sốt ruột (biểu
đồ 3).
6000
Singapore
5000
Thailand
Biểu đồ 3: SỐ LƯỢNG DOANH NGHIỆP ĐẠT CHỨNG CHỈ ISO 9000 CỦA MỘT SỐ NƯỚC ĐÔNG NAM Á.
0 0 0 9 O S
4000
I ỉ
Malaysia
Indonesia
3000
Philippines
2000
Vietnam
1000
h c g n ứ h c t ạ đ
0
p ệ i
Dec-97 Dec-98 Dec-99 Dec-00 Dec-01 Dec-02
h g n
2909
3000
3140
3900
3513
5379
Singapore
1104
1236
1527
2553
3870
4556
Thailand
1610
1707
1921
2355
3195
3733
Malaysia
h n a o d
1273
1442
1525
1860
1395
1947
Indonesia
ố S
629
668
723
1027
961
766
Philippines
13
29
164
184
245
612
Vietnam
(Nguồn: "The ISO Survey of ISO 9000 and ISO 14000 - up to and including December 2002”- www.iso.org)
Thậm chí trong thực tế tại Việt Nam, sự hiểu biết về ISO 9000 trong các doanh
nghiệp vẫn còn hạn chế. Theo nghiên cứu của Trung tâm hỗ trợ các doanh nghiệp
SMEDEC, cơ quan đang tư vấn cho khoảng 12 đơn vị về ISO 9000 thì kiến thức về
quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp tư nhân hầu như không có. Các doanh
nghiệp nhà nước hiểu biết nhiều hơn nhưng số đông lại lo chạy theo những mục tiêu
trước mắt nên chưa nghĩ đến. Đồng thời, kinh phí cũng đang là vấn đề lớn đối với
các doanh nghiệp muốn áp dụng ISO. Chỉ riêng tiền tư vấn, đối với các hãng tư vấn
nước ngoài đã mất khoảng 40.000 USD (áp dụng cho một công ty khoảng 500
người), còn các công ty tư vấn trong nước thì thấp hơn, khoảng 150 triệu VND.
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 50
Cũng phải lưu ý rằng, trong số các doanh nghiệp Việt Nam đạt chứng chỉ nói
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
trên chỉ có một bộ phận là các doanh nghiệp xuất khẩu. Vì vậy có thể khẳng định số
lượng doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU áp dụng hệ thống
quản lý chất lượng ISO 9000 vẫn còn nhỏ, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của
Khả năng đáp ứng các quy định về đảm bảo sức khoẻ và an toàn cho người
thị trường.
tiêu dùng:
a. Nhãn hiệu CE
Với thực trạng cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU chủ yếu là sản
phẩm công nghiệp nhẹ gia công và nguyên nhiên liệu, nông sản, còn các sản phẩm
công nghiệp chế tạo mới chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (mặt hàng điện tử tăng trưởng
nhanh cũng mới chiếm khoảng 2.5% tổng kim ngạch, đồ chơi khoảng 2%...) nên
quy định về gắn nhãn hiệu CE không phải là một yêu cầu cấp bách. Trên thực tế,
một số doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu sản phẩm công nghiệp chế tạo sang
EU đã nhận thức được tầm quan trọng của nhãn hiệu này nên xúc tiến sản xuất hàng
hoá theo tiêu chuẩn EN của châu Âu để được gắn nhãn CE chứng minh sự phù hợp
tiêu chuẩn. Trên thị trường châu Âu đã xuất hiện các sản phẩm của Việt Nam có
gắn mác CE như sản phẩm bóng đèn của công ty Bóng đèn Điện Quang, sản phẩm
đồ chơi, thú nhồi bông của công ty Chosun International Inc.... tuy nhiên nhìn
chung thì CE vẫn còn khá lạ lẫm với nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Chính vì vậy
mà tháng 7 vừa qua, hơn 50 doanh nghiệp Tp. HCM đã dự hội thoả về nhãn CE và
các tiêu chuẩn nhập khẩu của châu Âu do công ty TUV Rheinland Vietnam tổ chức
tại Trung tâm Thông tin thương mại châu Âu (EBIC) nhằm cung cấp những hiểu
biết cơ bản cho các doanh nghiệp về tiêu chuẩn này.
b. Thực tế áp dụng hệ thống phân tích, xác định và tổ chức kiểm soát các mối
nguy trọng yếu (HACCP) tại các doanh nghiệp Việt Nam
Với thị trường EU, các yêu cầu về việc thực hiện hệ thống HACCP được nêu
trong Chỉ thị về vệ sinh thực phẩm của EU (93/43/EC), đặc biệt đối với các cơ sở
chế biến thuỷ sản, HACCP được nêu trong Chỉ thị 91/493/EEC. Đối tượng áp dụng
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 51
của những quy định này là các doanh nghiệp sản xuất và chế biến thực phẩm, thuỷ
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
hải sản trong khối Liên minh châu Âu. Bên cạnh đó, để hỗ trợ cho hoạt động thương
mại, nhiều nước thuộc EU cũng xem xét các hệ thống kiểm soát thực phẩm của
những nước xuất khẩu xem hệ thống an toàn thực phẩm có bảo đảm không, có
tương đương với nước mình không, nhằm đảm bảo chu trình kiểm soát và hạn chế
mối nguy được tiến hành từ khâu đầu đến khâu cuối.
Có thể nói chính yêu cầu khắt khe từ phía thị trường (trước hết là thị trường
EU) là áp lực quan trọng đầu tiên buộc các doanh nghiệp chế biến thực phẩm và
thuỷ sản của Việt Nam phải nâng cấp điều kiện sản xuất và đến với chương trình
quản lý chất lượng dựa trên cơ sở HACCP. HACCP đã được đưa vào giới thiệu ở
Việt Nam từ tháng 10 năm 1990 và từng bước mở rộng phạm vi ảnh hưởng (chủ
yếu trong ngành thuỷ sản). Việc triển khai áp dụng quản lý chất lượng theo HACCP
ở Việt Nam được tiến hành theo 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Áp dụng thử ở một số doanh nghiệp để đánh giá và rút kinh
nghiệm
+ Giai đoạn 2: Bắt buộc áp dụng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu vào thị
trường EU, Mỹ... Định hướng và khuyến khích áp dụng HACCP đối với các doanh
nghiệp khác.
+ Giai đoạn 3: Bắt buộc áp dụng ở tất cả các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản
trong phạm vi cả nước.
Theo tiến trình này, chương trình thử nghiệm quản lý chất lượng dựa trên
HACCP được bắt đầu tại 5 xí nghiệp ở cả ba miền theo đề tài cấp Nhà nước giai
đoạn 1991-1995 mang mã số KN 04-15 “Nâng cấp chất lượng sản phẩm thuỷ sản
đông lạnh”. Hiện nay, theo yêu cầu của nước nhập khẩu và các quy định của Bộ
Thuỷ Sản, tất cả các doanh nghiệp đăng ký xuất hàng sang EU và Mỹ đều có kế
hoạch HACCP được phê duyệt và áp dụng trên thực tiễn khá hiệu quả, điều này đã
được cơ quan thẩm quyền kiểm soát chất lượng của các nước nhập khẩu ghi nhận.
Tính đến hết năm 2002, khoảng hơn 100 doanh nghiệp đã đăng ký chứng chỉ áp
dụng hệ thống HACCP và sản phẩm của những doanh nghiệp này chiếm khoảng 80% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam [11] . Đây là một bước tiến bộ Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 52
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
đáng kể mà các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đã đạt được dưới sự chỉ đạo của
Bộ Thuỷ Sản nói riêng và các Bộ, ngành, cơ quan của Việt Nam nói chung.
Nhìn nhận một cách khách quan, bên cạnh các thành tựu còn là những hạn chế
mà các doanh nghiệp có nhu cầu xuất hàng sang EU chưa khắc phục được, đó là:
Thứ nhất, với quan niệm quản lý chất lượng là kiểm tra chất lượng ở khâu cuối
cùng đã ăn sâu vào nếp nghĩ (cụ thể là doanh nghiệp nào cũng có một bộ phận quản
lý chất lượng mang tên KCS), vẫn còn nhiều doanh nghiệp chưa thích ứng được với
việc chuyển sang quản lý chất lượng ngay từ khâu đầu thông qua việc theo dõi,
phân tích các mối nguy với những biện pháp kiểm soát, phòng ngừa... Thậm chí đối
với các cơ quan kiểm tra chất lượng, họ coi hoạt động kiểm tra chất lượng sản phẩm
chỉ là gây phiền hà, khó dễ cho họ.
Thứ hai, những doanh nghiệp đã nhận thức được sự cần thiết phải áp dụng
chương trình quản lý chất lượng theo HACCP (nhận thức này đương nhiên bắt
nguồn từ yêu cầu bắt buộc của các nước nhập khẩu) tuy đã cố gắng nâng cấp nhằm
đạt các yêu cầu tiên quyết để áp dụng HACCP nhưng một số xí nghiệp lại gặp khó
khăn do thiếu nguồn vốn cần thiết cho việc nâng cấp mặt bằng nhà xưởng, xử lý
nước, trang bị máy sản xuất đá vảy.... Còn nếu tính trung bình để đầu tư cho một
dây chuyền sản xuất mới đạt tiêu chuẩn HACCP phải cần từ 7-12 triệu USD. Đây là
một con số lớn mà nhiều doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân) còn e
ngại.
Thứ ba, ban giám đốc và cán bộ kiểm soát chất lượng tại phần lớn xí nghiệp
chưa có sự hiểu biết sâu sắc cần thiết về HACCP. Lực lượng kiểm soát chất lượng
có hiểu biết đầy đủ về HACCP còn mỏng. Việc cung cấp cho công nhân những hiểu
biết cơ bản phục vụ cho chương trình HACCP còn yếu.
Nói tóm lại, thực tế áp dụng HACCP tại các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu
sang EU đã có nhiều dấu hiệu khả quan. Riêng trong lĩnh vực thuỷ sản, các doanh
nghiệp có tên trong danh sách xuất hàng vào EU (đến tháng 8/2003 có 100 doanh nghiệp được phép xuất hàng sang EU [12]) hiện là những doanh nghiệp đi đầu trong
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 53
việc xây dựng và áp dụng chương trình quản lý chất lượng này. Mặc dù vậy, hoàn
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
tất giai đoạn 3 trong kế hoạch chỉ đạo áp dụng HACCP nói trên nhằm nâng cao
năng lực xuất khẩu của hàng hoá và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trong nước
vẫn còn là vấn đề gian nan đối với Việt Nam.
c. Đáp ứng các yêu cầu về đảm bảo sức khoẻ và an toàn khác
Ngoài những tiêu chuẩn chung về chất lượng như đã nêu ở trên thì đối với
những nhóm hàng riêng biệt, EU lại có các quy định riêng. Những nhóm sản phẩm
chứa đựng nhiều khả năng gây ảnh hưởng tới sức khoẻ và an toàn của người tiêu
dùng nhất là nhóm hàng nông thuỷ sản, thực phẩm, rau quả, trong đó các quy định
về hàm lượng thuốc trừ sâu tối đa có trong rau quả; kiểm tra thú y đối với thịt gia
súc, gia cầm và thuỷ sản; và chất phụ gia trong thực phẩm được xem là các quy định
cơ bản, điển hình nhất.
Trước khi đánh giá khả năng đáp ứng các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực
phẩm của các doanh nghiệp xuất khẩu sang EU, hãy nhìn qua thực trạng quản lý
chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm tại thị trường nội địa Việt Nam vì thực trạng
này tác động đến thói quen sản xuất của người Việt Nam, đồng thời ảnh hưởng
không nhỏ đến khả năng cung cấp nguồn hàng cho xuất khẩu:
+ Tình hình quản lý thuốc bảo vệ thực vật [13]: Theo số liệu thống kê của Cục
Bảo vệ Thực vật (BVTV) năm 2002, trên toàn quốc có 17.679 cửa hàng kinh doanh
thuốc BVTV, qua kiểm tra phát hiện 3.285 cửa hàng vi phạm (18,5%). Các vụ vi
phạm bao gồm: 1.182 trường hợp (35,9%) không đủ điều kiện kinh doanh; 4.111
trường hợp (12,5%) kinh doanh thuốc quá hạn sử dụng, kém phẩm chất. Kết quả
thanh tra năm 2002 của Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn cho thấy, trong
6.840 hộ nông dân được kiểm tra đã phát hiện 151 hộ sử dụng thuốc BVTV đã bị
cấm sử dụng, 126 hộ sử dụng ngoài danh mục, 244 hộ không đảm bảo thời gian
cách ly (3,5%), 1.020 hộ sử dụng thuốc không đúng kỹ thuật (14,9%), 1.105 hộ
phun thuốc nhiều lần trong vụ sản xuất (12,6%). Thuốc nhập lậu ngoài danh mục
quản lý, nhãn mác bằng tiếng nước ngoài vẫn được lén lút lưu hành... Do đó, riêng
qua điều tra tại một số huyện ngoại thành Hà Nội, trong số các rau quả kiểm nghiệm
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 54
thì có tới 81% số mẫu có từ một chỉ tiêu trở lên về dư lượng hoá chất BVTV, cao
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
hơn tiêu chuẩn cho phép của FAO và WHO... [14]
+ Tình hình quản lý vệ sinh thú y, vệ sinh giết mổ gia súc [13]: Theo kết quả
thanh tra, kiểm tra của Cục Thú y, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm
2001 ở 43 tỉnh, thành phố với 4.703 cơ sở giết mổ gia súc chỉ có 14,22% cơ sở đạt
tiêu chuẩn. Về kiểm soát giết mổ thú y thì trong 593 cơ sở ở 9 tỉnh, thành phố chỉ có
20,4% cơ sở được kiểm tra. Còn người giết mổ gia súc thì chỉ có 10% được khám
và có giấy chứng nhận sức khoẻ.
+ Tình hình ô nhiễm thực phẩm [13]: Qua giám sát của Bộ Y tế cho thấy, ô
nhiễm vi sinh vật dao động từ 10%-100% tuỳ loại thực phẩm, gặp nhiều nhất là các
loại thực phẩm chế bién sẵn. Về ô nhiễm hoá học, chủ yếu là sử dụng các phụ gia
ngoài danh mục, quá giới hạn cho phép dao động từ 2,2% - 100% tuỳ loại thực
phẩm, gặp nhiều là các loại thực phẩm chế biến sẵn, ăn ngay. Ô nhiễm kim loại
nặng gặp nhiều ở các tươi và rau tươi (16%-60% số mẫu). Tồn dư thuốc thú y trọng
thịt: 45,7%, thuốc BVTV trong thịt: 7,6% và kim loại nặng là 21%.
Điểm qua những con số trên cho thấy nước ta có một nền công nghiệp thực
phẩm lạc hậu, vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được quản lý chặt chẽ, và quan trọng
hơn cả là sự thiếu ý thức của người nuôi trồng, sản xuất thuộc ngành hàng này.
Chính vì vậy mà hàng nông sản, thuỷ sản và thực phẩm ở nước ta lại càng khó có
thể đáp ứng được các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm của thị trường EU -
nơi mà chất lượng cuộc sống luôn được đặt lên hàng đầu.
Cũng chính bởi sự yếu kém trong khả năng đáp ứng các quy định về sức khoẻ
và an toàn đối với các nhóm hàng nông sản, thuỷ sản, thực phẩm... nên xuất khẩu
sang thị trường EU chủ yếu chỉ tập trung vào một số mặt hàng như cà phê và một
phần không lớn là cao su và rau quả. Thực phẩm chế biến khó vượt qua rào cản vệ
sinh an toàn thực phẩm của EU; trong chăn nuôi gia súc, gia cầm và thuỷ sản sử
dụng khá phổ biến các chất kháng sinh bị EU cấm nên thịt gia súc, gia cầm cũng
không xuất khẩu được vào EU; còn các loại quả nhiệt đới và hạt có dầu của Việt
Nam như thanh long, xoài, hạt điều, lạc.... rất được thị trường EU ưa chuộng nhưng
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 55
thực trạng sản xuất và trồng trọt chưa tuân thủ quy định hàm lượng thuốc bảo vệ
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
thực vật tối đa trong rau quả đã khiến nhóm hàng này chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ
trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản sang EU.
Tóm lại, khó khăn chủ yếu đối với hoạt động xuất khẩu nông sản, thuỷ sản,
thực phẩm của Việt Nam sang EU là do các nhà sản xuất và xuất khẩu Việt Nam
chưa thực sự cố gắng hoặc chưa đủ điều kiện vật chất để tuân thủ các yêu cầu về vệ
sinh an toàn của thị trường.
2.2 Khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn về môi trường
Ý thức về vấn đề môi trường ở các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn yếu, môi
trường hầu như mới chỉ được các cấp vĩ mô quan tâm, do vậy khả năng các doanh
nghiệp xuất khẩu của Việt Nam đáp ứng những quy định của EU phụ thuộc nhiều
Pháp luật về môi trường của Việt Nam - cơ sở cho việc đáp ứng các quy định
vào luật pháp và các chính sách bảo vệ môi trường của Nhà nước.
về môi trường của EU của các doanh nghiệp xuất khẩu
Để đảm bảo phát triển bền vững, bảo vệ sức khoẻ nhân dân, bảo vệ môi trường
(BVMT) và đối phó với các quy định về môi trường của các khu vực thị trường phát
triển (EU, Mỹ, Nhật Bản...), nước ta đã ban hành Luật bảo vệ môi trường và một số
văn bản liên quan để áp dụng trong nước (Nghị định, Pháp lệnh Thú y, Pháp lệnh
Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thuỷ sản, Thông tư, Quyết định...). Các quy định
pháp luật về môi trường hiện hành đã điều chỉnh hoạt đồng sản xuất và xuất khẩu
hàng hoá của ta theo hướng bảo vệ môi trường và có nhiều điểm giống với quy định
về môi trường của EU.
Các yêu cầu của EU về môi trường như: (1) quá trình nuôi trồng, khai thác,
vận chuyển và chế biến hàng nông sản, thuỷ sản tại Việt Nam không được gây ô
nhiễm môi trường; (2) quá trình tiêu dùng sản phẩm nhập khẩu tại EU cũng không
được gây ô nhiễm môi trường; (3) những quy định về hàm lượng thuốc trừ sâu tối
đa có trong sản phẩm nông nghiệp, chất phụ gia trong thực phẩm chế biến, nuôi
trồng và khai thác nông thuỷ sản không được sử dụng các chất kháng sinh bị cấm,
vận chuyển động vật thuỷ sản phải có thiết bị thay nước hiệu quả đảm bảo an toàn
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 56
cho môi trường...v..v. có thể thấy trong Luật bảo vệ môi trường của Việt Nam (điều
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
14, 16, 19), Nghị định 175-CP hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường (điều 8),
Pháp lệnh thú y, Thông tư số 02/TS-TT ngày 25/6/1996 của Bộ Thuỷ sản và Dự án
Luật Thuỷ sản (Điều 33, 36, 38, 45, 49).
Kể từ sau khi Luật bảo vệ môi trường và các văn bản pháp luật liên quan có
hiệu lực thi hành, các doanh nghiệp Việt Nam đã quan tâm hơn đến công tác bảo vệ
môi trường. Nhiều doanh nghiệp lớn đã trang bị hệ thống xử lý môi trường, nhưng
do quản lý Nhà nước còn kém hiệu quả nên một số doanh nghiệp khác chưa nghiêm
túc thực hiện các quy định này của pháp luật. Chính vì vậy, hiệu quả xử lý môi
trường còn thấp.
Các doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường EU cũng rơi vào tình trạng chung
của doanh nghiệp Việt Nam, tức là đa phần chưa thực hiện tốt các quy định pháp
luật môi trường của Nhà nước. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện tốt các
quy định pháp luật môi trường của Nhà nước thì cũng sẽ không gặp mấy khó khăn
trong việc đáp ứng quy định của EU vì các quy định về môi trường của Việt Nam
Tình hình áp dụng tiêu chuẩn quản lý môi trường ISO 14000
phần lớn cũng tương tự các quy định về môi trường của EU.
Mặc dù “môi trường”ở các quốc gia phát triển không còn là một khuynh hướng
nữa mà đã trở thành vấn đề tiêu chuẩn, nhưng việc áp dụng Hệ thống quản lý môi
trường đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam vẫn còn là một vấn
đề mới mẻ. Các chuyên gia cho rằng ở nước ta hiện nay vẫn đang trong quá trình
phân tích các lợi ích của ISO
Biểu đồ 4: Số lượng các doanh nghiệp Việt Nam đạt chứng chỉ ISO 14001 tính đến hết năm 2002
33
33
14001 trong mối quan hệ với
kết quả hoạt động kinh
doanh bởi trong thực tế, đảm
9
9
bảo môi trường với những
N D g n ợ ư
2
l
0
chi phí không nhỏ có thể trở
ố S
35 30 25 20 15 10 5 0
1997 1998 1999 2000 2001 2002
thành các rào cản thương
mại đối với việc xuất khẩu.
Tính đến hết năm
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 57
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Tuy nhiên, Chính phủ và các ban ngành đã có những chỉ đạo và hỗ trợ tích cực, tạo
điều kiện cho việc bước đầu phát triển hệ thống tại Việt Nam. Biểu đồ 4 cho thấy từ
năm 1998 mới có 2 doanh nghiệp đạt chứng chỉ ISO 14001, đến nay đã có hơn 30 doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý môi trường ISO 14000 và có chứng chỉ [15].
Đây là một con số đáng khích lệ, nhưng nếu so sánh với các nước phát triển (thuộc
khối EU và ngoài EU) hoặc chỉ cần với một số nước trong khu vực ta đã thấy có sự
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 58
chênh lệch lớn, qua bảng 7 dưới đây:
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
12/1997
12/1998
12/1999
12/2000
12/2001
12/2002
Nhật Bản
1.542
3.015
713
5.556
8.123
10.620
Đức
352
651
962
1.260
3.380
3.700
Tây Ban Nha
92
164
573
600
2.064
3.228
Anh
644
921
1.492
2.534
2.722
2.917
Trung Quốc
22
94
222
510
1.085
2.803
Thailand
61
126
229
310
483
671
Singapore
65
78
87
100
298
441
Malaysia
36
86
117
174
367
367
Indonesia
45
55
55
77
199
229
Philippines
11
27
39
46
120
124
(Nguồn: Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá ISO - "The ISO Survey of ISO 9000 and ISO 14000 - up to and including December 2002”- www.iso.org - 2003)
Bảng 7: SỐ DOANH NGHIỆP ĐẠT CHỨNG CHỈ ISO 14001 TẠI MỘT SỐ NƯỚC
Một điều khác cũng đáng chú ý là hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đạt
chứng chỉ ISO 14001 đều là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chỉ một
số ít doanh nghiệp trong nước như Công ty Vật tư và bảo vệ thực vật I, Công ty
May 10, Công ty Giày Thuỵ Khuê... có được chứng chỉ trên. Qua đó cũng nói lên
rằng phần đông các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam sang EU chưa có chứng
chỉ ISO 14001. Sở dĩ có điều này vì nhận thức của các doanh nghiệp về hệ thống
quản lý môi trường còn chưa cao, hơn thế nữa khi chọn và áp dụng ISO 14000, các
doanh nghiệp cũng còn gặp nhiều khó khăn cả về bộ máy nhân sự lẫn trình độ công
nghệ (công nghệ trong vấn đề xử lý môi trường) và đặc biệt là khó khăn về tài
chính. Chi phí áp dụng một hệ thống quản lý môi trường theo ISO 14000 khoảng
150 triệu đồng trở lên trong khi việc áp dụng này chưa thể đem về ngay lợi nhuận.
Nhiều nhà quản lý doanh nghiệp đã lúng túng khi cân nhắc có nên đầu tư chiều sâu,
phát triển bền vững bằng cách chọn và áp dụng ISO 14000 hay không. Và trong sự
Bao bì, phế thải bao bì và nhãn hiệu sinh thái (Eco-label)
cân nhắc đó, nhiều vị lãnh đạo chưa chắc đã nhận ra được những thuận lợi.
Vấn đề bao bì và phế thải bao bì mới chỉ bắt đầu được các doanh nghiệp Việt
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 59
Nam quan tâm. Các nhà sản xuất cho rằng tiêu chuẩn về bao bì và đóng gói ảnh
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
hưởng tới khả năng cạnh tranh của hàng hoá, đặc biệt là hàng xuất khẩu và tán
thành việc áp dụng các tiêu chuẩn môi trường về nguyên liệu đóng gói. Tuy nhiên,
phần lớn các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu mới chỉ quan tâm đến vấn đề
bao bì bởi chất lượng bao bì ảnh hưởng đến giá cả và thị hiếu tiêu dùng của thị
trường xuất khẩu, mà chưa quan tâm đến khía cạnh môi trường (bao bì dễ thu gom,
dễ tái chế). Một thực tế khá phổ biến hiện nay, rất ít doanh nghiệp xuất khẩu sang
thị trường EU có được thông tin về quy định bao bì và phế thải bào bì của EU. Từ
trước tới nay, đa phần các doanh nghiệp của ta đóng gói và sử dụng bao bì theo yêu
cầu của đối tác EU, chứ chưa hề hiểu quy định bao bì và phế thải bao bì của EU cụ
thể là như thế nào.
Mặc dù vậy, thực tế cho thấy là chưa có một trường hợp nào các lô hàng xuất
khẩu của Việt Nam bị trả lại do bao bì không phù hợp với yêu cầu bảo vệ môi
trường. Có thể do hầu hết hàng xuất khẩu của Việt Nam được đóng gói trong những
loại bao bì đơn giản như thùng carton, bao PE (tại EU, bao PE cũng đang là vấn đề
cần khắc phục)... nên các doanh nghiệp xuất khẩu không vi phạm quy định bao bì
và phế thải bao bì của EU. Tuy nhiên, với mối quan tâm ngày một gia tăng của EU
đối với việc gìn giữ và bảo vệ môi trường, đồng thời xu hướng bảo hộ thương mại
bằng hàng rào kỹ thuật khắt khe và nghiêm ngặt, các doanh nghiệp Việt Nam cần
nhanh chóng nắm bắt và hiểu rõ hơn nữa các yêu cầu cụ thể của EU đối với bao bì
và phế thải bao bì để có các biện pháp ứng phó thích hợp.
Tiêu chuẩn về dán nhãn sinh thái cho sản phẩm ít được các nhà sản xuất cũng
như các nhà quản lý quan tâm. Kết quả khảo sát ở một số doanh nghiệp chế biến
hàng nông sản xuất khẩu cho thấy họ biết rất ít hoặc không biết về tiêu chuẩn này của EU, đặc biệt là yêu cầu dán nhãn cho thực phẩm có nguồn gốc hữu cơ [16, tr 66]...
Đây là khái niệm khá mới mẻ đối với nhiều doanh nghiệp chế biến nông sản xuất
khẩu Việt Nam sang EU. Hơn nữa, sản xuất nông nghiệp hữu cơ là một phương
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 60
pháp sản xuất mới, mới được áp dụng ở nước ta trên phạm vi hẹp.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Việc tuân thủ các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm có liên quan đến bảo
vệ môi trường
Như đã nêu ở Chương I, mục III.4, một số quy định của EU về an toàn vệ sinh
thực phẩm (như quy định hàm lượng thuốc trừ sâu tối đa trong rau quả, kiểm tra thú
y đối với thịt gia súc, gia cầm, thuỷ sản và quy định chất phụ gia trong thực phẩm...)
được đưa ra cũng nhằm mục đích bảo vệ môi trường. Cụ thể, một số hoá chất như
thuốc bảo vệ thực vật, chất phụ gia, kháng sinh... được sử dụng trong quá trình nuôi
trồng rau quả, gia súc, gia cầm, thuỷ sản và chế biến thực phẩm sau khi thải ra sẽ
gây ô nhiễm môi trường không chỉ ở nước sản xuất mà còn đối với nước nhập khẩu.
Theo phân tích trong Chương II, mục I.2.2.1, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn
còn rất yếu kém trong khả năng đáp ứng các yêu cầu về vệ sinh an toàn của thị
trường, vì vậy cũng có thể coi là chưa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ môi trường. Để
vượt qua rào cản này, chúng ta cần sự nỗ lực lớn từ cả hai phía Nhà nước và doanh
nghiệp.
2.3 Thực trạng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn về trách nhiệm xã
hội:
Trong những năm qua, chính sách đổi mới, hội nhập kinh tế của Đảng và Nhà
nước đã tạo điều kiện, thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh, mạnh. Tiến trình này mang lại cho các doanh
nghiệp Việt Nam nhiều cơ hội cũng như thách thức cùng với những “luật chơi”mới,
mà một trong số đó là “trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp”. Tại Việt Nam, khái
niệm này vẫn còn rất lạ lẫm, mới mẻ, chưa được nhiều tổ chức và cá nhân biết đến
mà mới chỉ được giới thiệu chủ yếu trong 2 ngành dệt may và sản xuất giày dép
xuất khẩu với tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000. Cho đến nay, SA 8000 là tiêu
chuẩn trách nhiệm xã hội duy nhất được cấp chứng chỉ tại Việt Nam mặc dù trên
thực tế có rất nhiều bộ tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội khác cho các doanh nghiệp lựa
chọn.
Dở dĩ có hiện tượng như vậy là vì sau khi Hiệp định thương mại Việt-Mỹ có
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 61
hiệu lực, một chiến dịch quảng bá cho SA 8000 đã được tung ra rầm rộ, trước hết
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
nhằm vào các cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng nhiều lao động như dệt may và
giày dép. Tính đến hết tháng 9/2003, tại Việt Nam đã có 23 doanh nghiệp đạt được
chứng chỉ này, trong đó có 17 doanh nghiệp dệt may xuất khẩu, 2 doanh nghiệp sản
xuất giày dép, túi xách, vali, 4 doanh nghiệp còn lại hoạt động trong các lĩnh vực
sản xuất hoá chất, giấy, đồ chơi, và phụ kiện cho ngành công nghiệp tự động. 23
doanh nghiệp này chiếm 8,1% tổng số doanh nghiệp đạt chứng chỉ SA 8000 trên thế giới [17]. Điều này chứng tỏ các doanh nghiệp Việt Nam đã rất nhanh chân trong
hoạt động xin cấp chứng chỉ về trách nhiệm xã hội.
Tuy nhiên hiện nay ở Việt Nam có những luồng ý kiến trái chiều về bộ tiêu
chuẩn SA 8000. Nhiều người cho rằng “hiện tiêu chuẩn SA 8000 là một trong 3 tiêu
chuẩn (ISO 9000, ISO 14000, SA 8000) được xem là bắt buộc để các doanh nghiệp
Việt Nam xuất khẩu hàng (đặc biệt là hàng dệt may) sang thị trường Mỹ và châu
Âu. Một trong những nguyên nhân khiến các doanh nghiệp dệt may, da giày Việt nam không xuất khẩu trực tiếp được vào Mỹ là do không có chứng chỉ SA 8000” [18].
Một số công ty dệt may phản ánh nhiều đối tác nước ngoài sang làm ăn đề nghị họ
phải xây dựng hệ thống tiêu chuẩn SA 8000, do đó “Tổng công ty Dệt may Việt nam
đã đề nghị các đơn vị thành viên xem xét, nghiên cứu và tìm cách có được SA 8000,
đồng thời phấn đấu đến hết năm 2003, ít nhất tất cả các doanh nghiệp làm hàng dệt may xuất khẩu sẽ có chứng chỉ này” [18]. Cũng giống như ngành dệt may, nhiều
doanh nghiệp da giày trong cả nước đang tất bật chuẩn bị để có chứng chỉ SA 8000
vì họ cho rằng, ngay cả những hãng nổi tiếng thế giới như Adidas, Nike... cũng
đang áp dụng hệ thống đó.
Bên cạnh các ý kiến ủng hộ cho SA 8000 cũng có những ý kiến trái ngược, cho
rằng các doanh nghiệp không nhất thiết phải có chứng chỉ này vì những tiêu chuẩn
này về cơ bản đã có trong quy định của bộ luật Lao động Việt Nam - khi chưa có
chứng chỉ SA 8000 thì các doanh nghiệp cũng phải tuân theo - đồng thời SA 8000
không thể thay thế việc tìm hiểu đánh giá riêng của các công ty nước ngoài với
doanh nghiệp. Hơn nữa, để có được chứng chỉ này, các doanh nghiệp phải bỏ ra
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 62
những khoản chi phí khá tốn kém, có thể ảnh hưởng đến lợi ích kinh doanh.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Trước những mâu thuẫn nói trên, điều quan trọng đối với các doanh nghiệp
xuất khẩu là cân nhắc kĩ càng cả chi phí và lợi ích mà chứng chỉ SA 8000 mang lại,
căn cứ vào những thực tế dưới đây:
Thứ nhất, SA 8000 chỉ là một trong những bộ tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội
của một công ty tư nhân có tên là Social Accountabilities International (SAI) của
Mỹ ban hành từ năm 1997 và nó đang được công ty này cố gắng xây dựng uy tín.
Tại Mỹ cũng như nhiều nước khác, chứng chỉ SA 8000 chưa được phổ biến rộng
+ Mỹ: 2 chứng chỉ (chiếm 0,7%)
rãi. Theo số liệu của SAI , tính đến ngày 30/9/2003 mới chỉ có 258 cơ sở sản xuất trên toàn thế giới có chứng chỉ SA 8000, trong đó: [17]
+ Pháp: 5 (1,8%)
+ Thuỵ Sĩ: 3 (1,1%)
+ Tây Ban Nha: 5 (1.8%)
+ Đức: 1 (0,4%)
+ Anh: 3 (1,1%)
+ Bỉ: 1 (0,4%)
+ Phần Lan: 1 (0,4%)
Thứ hai, các điều khoản chủ yếu trong SA 8000 về cơ bản cũng được quy định
trong Bộ luật Lao động (Phụ lục 6) của Việt Nam nên các doanh nghiệp nếu không
xin chứng chỉ cũng phải áp dụng. Mặt khác, khi áp dụng SA 8000, các doanh
+ Quy định giờ làm thêm không quá 12 giờ/tuần gây khó khăn rất nhiều cho các
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp trong ngành dệt, da, may mặc.
+ Hiện nay, mức lương tối thiểu áp dụng cho các doanh nghiệp tư nhân (100% vốn
Việt Nam) và nhà nước là 290.000đ/tháng, hay các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là
khoảng 45 USD/tháng. Tuy vậy, mức lương 290.000đ/tháng lại không đáp ứng được yêu cầu của
SA 8000. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp (theo công ty SGS Vietnam Ltd., thì có khoảng 50% số các doanh nghiệp được điều tra) còn không bảo đảm được mức lương này cho người lao động [19].
+ Hiện tại, về vấn đề an toàn và sức khoẻ Luật lao động Việt Nam và các quy định bổ
sung của Việt Nam rất hay, lý tưởng, nhưng để áp dụng đúng với các quy định này thì rất hiếm
các doanh nghiệp đạt được (ví dụ quy định về Phòng cháy chữa cháy...)
+ Việc kiểm soát các nhà cung cấp: Đây là một khó khăn lớn nhất và khó vượt qua
của các doanh nghiệp khi xây dựng và áp dụng SA 8000. Vì nhận thức của xã hội nói chung còn
hạn chế nên việc các doanh nghiệp yêu cầu các nhà cung cấp của mình cam kết tuân thủ theo các
yêu cầu của SA 8000 là một điều hết sức khó khăn, đôi khi còn làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 63
nghiệp sẽ gặp phải một số khó khăn như:
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
doanh nghiệp.
Thứ ba, chi phí để có được chứng chỉ SA 8000 khá lớn, trên dưới 10.000 USD
cho nhà tư vấn đánh giá, thẩm định, chưa kể phí duy trì thường xuyên vì theo
nguyên tắc SA 8000 chỉ có hiệu trong 3 năm, sau đó doanh nghiệp muốn xin cấp lại thì phải làm thủ tục lại từ đầu [20]. Đồng thời, chứng chỉ này không cấp cho công ty
mà chỉ cấp cho cơ sở sản xuất, nghĩa là một công ty nếu có 10 cơ sở sản xuất thì sẽ
phải mua 10 chứng chỉ.
Thứ tư, có chứng chỉ SA 8000 sẽ là một lợi thế cho các doanh nghiệp xuất
khẩu, tuy nhiên, các đối tác EU (và Mỹ) không đòi hỏi doanh nghiệp phải trình diện
chứng chỉ này. Chứng chỉ SA 8000 không thay thế được việc các doanh nghiệp
nhập khẩu nước ngoài tự kiểm tra đánh giá thực tế việc thực hiện trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Ngay cả với thị trường Mỹ (thị trường mà
nhiều người cho rằng yêu cầu về chứng chỉ SA 8000 hiện là vấn đề bức xúc) thì
theo lời bà phó chủ tịch Hiệp hội Dệt may và Da giày Mỹ: “các doanh nghiệp Mỹ
khi làm ăn với đối tác Việt nam quan tâm chủ yếu tới chất lượng, giá cả và thời
gian giao hàng. Chứng chỉ SA 8000 khiến doanh nghiệp được đánh giá cao hơn
nhưng đó không phải là điều kiện bắt buộc để xuất hàng sang Mỹ. Khi quyết định
làm ăn với doanh nghiệp nào, chúng tôi sẽ sang thẩm định tình hình thực tế tại công
ty. Nếu bạn có bất cứ chứng chỉ nào trong tay, nhưng khi chúng tôi đến kiểm tra
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 64
thấy điều kiện lao động của nhà xưởng tồi tàn, lao động bị đối xử không tốt... thì tất cả chỉ là con số 0. Vì thế, có chứng chỉ hay không là không quan trọng.” [18]
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
II. Đánh giá thực trạng của một số ngành xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam
sang EU dưới tác động của các quy định/ tiêu chuẩn của EU về chất lượng, môi
trường và xã hội.
Theo nhận định ở Chương II, mục I.1, khoảng 80% kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam sang EU rơi vào một ngành hàng chính như giày dép, dệt may, nông sản,
sản phẩm làm từ da thuộc, thuỷ sản, đồ gỗ, đồ gốm sứ, đồ... trong đó giày, dép, dệt
may, nông sản và thuỷ sản là 4 nhóm hàng xuất khẩu cơ bản, hàng năm đem về một
khối lượng ngoại tệ đáng kể cho Việt Nam. Mặc dù trong những năm gần đây, do sự
sụt giá trên thế giới và các quy định ngặt nghèo từ phía EU mà kim ngạch xuất khẩu
sang EU của hai ngành hàng nông sản và thuỷ sản giảm, song tiềm năng xuất khẩu
của hai ngành này vẫn rất lớn nếu chúng ta vượt qua được những trở ngại trên.
Trong giới hạn của khoá luận, xin được đánh giá thực trạng của 4 ngành xuất khẩu
chính này dưới tác động của các tiêu chuẩn của EU về chất lượng, môi trường và xã
hội.
Cũng cần lưu ý rằng, hai ngành dệt may và giày dép là hai ngành công nghiệp
nhẹ, xuất khẩu chủ yếu dưới dạng gia công cho đối tác EU vì tận dụng được ưu thế
lao động rẻ. Vì vậy, các quy định về chất lượng và trách nhiệm xã hội có tác động
trực tiếp nhất đến năng lực xuất khẩu của hai ngành này. Trong khi hàng nông sản
và thuỷ sản xuất khẩu, do tính chất đặc trưng là ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ, an
toàn của người tiêu dùng đồng thời quá trình nuôi trồng và chế biến có thể gây tác
động xấu đến môi trường, nên chủ yếu được đánh giá khả năng đáp ứng các tiêu
chuẩn về chất lượng và môi trường.
1. Hàng giày dép
1.1 Tình hình xuất khẩu giày dép sang EU từ 1995-nay
Ngành công nghiệp giày dép ở Việt nam kể từ 10 năm nay đã và đang trên đà
phát triển vượt bậc cả về số lượng lẫn chất lượng. Hiện tại, đây là một trong những
ngành mang lại nguồn ngoại tệ chính cho quốc gia. Kim ngạch xuất khẩu giày dép
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 65
Việt Nam lớn thứ tư trên thế giới, chỉ đứng sau Trung Quốc, Hồng Kông, và Italia.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Cũng trong những năm qua, EU là thị trường nhập khẩu hàng giày dép của
Việt Nam lớn nhất. Giày dép Việt Nam trước kia phải xin phép trước khi xuất khẩu
sang EU, nhưng kể từ sau hiệp định khung hợp tác năm 1995, nhóm hàng này được
nhập khẩu tự do vào EU. Chính vì vậy mà kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt
Nam sang EU kể từ đó tăng nhanh, năm 1995 đạt 481,3 triệu USD, 1996: 664,6
triệu USD, 1997: 1.032,3 triệu USD (mỗi năm gấp rưỡi năm trước). Vào năm 1998,
tuy xuất khẩu giày dép cũng chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ
khu vực nhưng vẫn tiếp tục tăng và đạt 1.043,1 triệu USD, đến năm 1999 đạt
1.310,5 triệu USD và năm 2000 lên tới 1.683,5 triệu USD, vượt xa mặt hàng dệt
may đã từng giữ vị trí thống soái trong thời kỳ 1992-1995. Năm 2001 và 2002, kim
ngạch xuất khẩu giày dép tiếp tục tăng (tuy tốc độ tăng trưởng thấp hơn các năm trước), đạt mức trung bình trên dưới 1,7 tỷ USD/năm [21]. Theo số liệu gần đây nhất
của LEFASO, xuất khẩu 5 tháng đầu năm 2003 đạt khoảng 900 triệu USD, trong đó
xuất sang EU chiếm 80%, tức đạt khoảng 720 triệu USD - tăng 23% so với cùng kỳ năm 2002 [22].
Giá trị xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang EU chiếm chừng 79% tổng giá
trị xuất khẩu của ngành, 21% còn lại xuất khẩu sang khoảng 40 nước và khu vực thị trường khác trong đó có Mỹ và Nhật Bản [21]. Qua đó có thể thấy thị trường EU
đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với ngành hàng này. Những nước nhập khẩu
chính gồm Anh, Đức, Pháp, Bỉ và Hà Lan.
Nếu xét trong thị trường EU, Việt Nam là một trong năm nước có số lượng
giày dép tiêu thụ nhiều nhất ở đây do giá rẻ, chất lượng và mẫu mã chấp nhận được
với loại sản phẩm chủ yếu là giày thể thao. Năm 1996, EU chính thức thông báo
Việt Nam đứng thứ 3 (sau Trung Quốc và Indonesia) trong số các nước xuất khẩu
giày dép nhiều nhất vào EU, với số lượng 92,8 triệu đôi. Đến nay, Việt Nam đã vươn lên đứng thứ 2 (chỉ sau Trung Quốc) về xuất khẩu giày dép sang EU [21].
Các sản phẩm giày dép của Việt Nam xuất sang EU chủ yếu là giày thể thao,
chiếm trên 40% kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang thị trường này, giày vải gần 20%, giày nữ xấp xỉ 15%, dép khoảng 17% và giày da hơn 1,5% [23]. Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 66
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Tuy kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang EU tăng nhanh, nhưng
có đến 70% kim ngạch là hàng gia công với giá trị gia tăng rất thấp, vì thế hiệu quả thực tế rất nhỏ (25%-30% tổng doanh thu xuất khẩu) [23].
Năng lực sản xuất giày dép của Việt Nam:
1.2 Năng lực sản xuất và khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn của EU
Hàng năm chỉ có khoảng 7- 8 triệu đôi giày dép da và 30 triệu đôi giày nữ, giày vải, giày thể thao... được tiêu thụ trong nước [24,tr.12]. Vì thế hoạt động sản xuất
và cơ cấu sản xuất các mặt hàng giày dép của ta đều nhằm vào đáp ứng cầu của thị
trường nước ngoài. Tuy nhiên, những mặt hàng giày dép đòi hỏi nguyên vật liệu cao
cấp, độ tinh xảo lớn, kỹ thuật phức tạp (như giày da), chúng ta lại không có khả
năng cung cấp. Do vậy, sản lượng giày dép Việt Nam chủ yếu gồm giày thể thao và
giày vải. Lượng giày ra xưởng mỗi năm ngày một tăng, đặc biệt là sau năm 1998
(bảng 8).
Chủng loại
Đến năm 1998
1999
2000
2001
2002
1. Giày thể thao
204,39
108,70
126,47
138,30
145,42
2. Giày vải
57,28
37,27
34,08
37,79
39,16
3. Giày nữ
44,45
43,26
54,71
69,50
75,58
4. Các loại khác
56,610
51,58
75,22
76,43
79,27
Tổng số:
362,72
240,81
290,48
322,02
339,43
(Nguồn: Thống kê của Hiệp hội da giày Việt Nam LEFASO1999-2002 - www.lefaso.org.vn)
Bảng 8: NĂNG LỰC SẢN XUẤT GIÀY DÉP CỦA VIỆT NAM THEO CHỦNG LOẠI Đơn vị: triệu đôi
Với sản lượng cao như vậy, Việt Nam hiện nay đứng hàng thứ 8 trên thế giới về sản xuất giày dép [21], nhưng so với năng lực thực tế thì giày vải chỉ đạt 60,57% công suất, giày thể thao đạt 67,5% công suất, giày nữ đạt 80,7% công suất [24,tr.18].
Đồng thời, sản lượng này tập trung vào giày thể thao gia công xuất khẩu nên hiệu
quả sản xuất và xuất khẩu chưa cao. Các loài giày dép hợp thời trang, chất lượng
cao vẫn do các nhà sản xuất châu Âu chiếm lĩnh như Italia, Tây Ban Nha, Bồ Đào
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 67
Nha... Điều cần thiết cho các doanh nghiệp sản xuất giày của Việt Nam là dần
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng:
chuyển đổi định hướng sản xuất để sớm bắt kịp với trình độ của thế giới.
Do tính chất của giày dép là mặt hàng tiêu dùng cá nhân phụ thuộc rất nhiều
vào thị hiếu và xu thế mốt, nên khó có thể đặt ra những tiêu chuẩn chung cho các
sản phẩm này. Tại thị trường EU cũng như ở Việt Nam, tiêu chuẩn quốc gia cho
giày dép chung chung rất ít (ví dụ như ngành giày ở Việt Nam chỉ đưa ra 3 tiêu
chuẩn Việt Nam cho giày vải xuất khẩu, đó là các tiêu chuẩn TCVN 1677-86 về
“Yêu cầu kỹ thuật”, TCVN 1678-86 về “Phương pháp thử”và TCVN 1679-75 về
“Bao gói, ghi nhãn, vận chuyển và bảo quản”). Vì thế, việc đánh giá chất lượng chủ
yếu được tiến hành theo từng lô hàng trên cơ sở phù hợp với mẫu đặt gia công. Khả
năng gia công sao cho các lô hàng đạt yêu cầu giống mẫu phụ thuộc nhiều vào trình
độ lành nghề của công nhân, trình độ máy móc thiết bị, công nghệ, năng lực quản lý
chất lượng sản phẩm..., vì vậy bức tranh tổng quát chứa đựng các yếu tố này (đã nêu
ở trên) có thể toát lên khả năng đáp ứng các yêu cầu về chất lượng của EU đối với
giày dép gia công xuất khẩu:
- Năng lực sản xuất nguyên vật liệu, phụ liệu cho ngành giày:
Trong giá thành sản phẩm của ngành hiện nay, giá trị nguyên vật liệu chiếm tới
70- 80%. Thế nhưng năng lực sản xuất nguyên vật liệu ngành giày ở Việt Nam hiện
nay lại rất yếu, là một trong những nguyên nhân khiến cho các doanh nghiệp Việt
Nam bị lệ thuộc vào đối tác nước ngoài.
+ Đế giày: Các loại đế giày thể thao, đế dép và đế giày nữ có giá trị cao (giày
da) đi từ cao su biến tính, từ PU hay TPU, đế rời EVA đều phải nhập chủ yếu của
Nhật Bản, Đài Loan... mà hiện nay do đối tác nước ngoài cung cấp.
+ Các phụ liệu khác: Việt Nam mới chỉ có thể sản xuất các loại vải làm lót
giày thể thao và dép đi trong nhà. Để sản xuất những đôi giày cao cấp, Việt Nam
vẫn phải nhập vải của nước ngoài. Vải dệt dùng trong công nghiệp giày, đồ da trong nước mới đáp ứng được 25% nhu cầu [24,tr.21]. Da thuộc để làm hàng xuất khẩu gần
như hoàn toàn nhập ngoại.
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 68
Tại Việt Nam chưa hình thành các công ty quốc doanh chuyên cung ứng tổng
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
hợp nguyên phụ liệu cho ngành giày. Các doanh nghiệp tư nhân trong nước mới chỉ
sản xuất các phụ liệu có vốn đầu tư nhỏ như dệt mark, in mark, khoen tán, dây giày,
sản xuất bao bì.... Các phụ liệu khác như keo dán, chỉ may, khuy khoá, các vật liệu trang trí, pho mũi, pho hậu, chất trau chuốt, dung môi đều phải nhập ngoài [24,tr.21].
Với phom giày, trừ Công ty giày Thượng Đình tự thiết kế phom cho giày vải
và một số công ty khác sao chép phom của nước ngoài, còn lại phần lớn các doanh nghiệp gia công khác thì đối tác trung gian nước ngoài cung cấp phom [24,tr.21].
- Trình độ công nghệ, máy móc thiết bị:
Do những hạn chế về trình độ quản lý, về khả năng tài chính và trình độ tay
nghề của lực lượng lao động, hầu hết các dây chuyền và máy móc để sản xuất giày
hiện nay nhập của Hàn Quốc và Đài Loan theo công nghệ băng tải dài, tốc độ chậm
và ít kết hợp nhiều nguyên công trên một đầu máy.
Thiết bị trong công đoạn pha cắt nguyên liệu thuộc loại trung bình tiên tiến của
khu vực, chủ yếu sử dụng máy chặt thuỷ lực khổ rộng, máy lạng, máy in các loại của Đài Loan và Hàn Quốc được chế tạo từ 5- 15 năm trở lại đây[24,tr.26]. Thiết bị
trong công đoạn may ráp cũng đều chủ yếu của Đài Loan và Hàn Quốc chế tạo từ 5-
10 năm trở lại đây, có tuổi thọ thấp. Mới chỉ có một số công ty có sử dụng máy may
của Nhật Bản có bộ phận cắt chỉ tự động, may xén lót tự động, máy may vi tính để nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động [24,tr.27]. Thiết bị trong công
đoạn gò ráp: các máy gò, máy ép, máy phun đúc... chủ yếu của Đài Loan và Hàn quốc [24,tr.27]. Công đoạn hoàn thiện được thực hiện hoàn toàn bằng thủ công. Các
thiết bị kiểm tra thì còn thiếu về số lượng, sơ sài và lạc hậu về chủng loại (trừ một
số doanh nghiệp lớn và liên doanh) nên sản phẩm làm ra chỉ được kiểm tra bằng
phương pháp cảm quan.
- Công tác quản lý chất lượng sản phẩm:
Trong ngành giày dép, hệ thống tiêu chuẩn quốc gia như đã nói hầu như không
có gì, còn hệ thống tiêu chuẩn ngành cũng chưa được kiện toàn. Đa số các cơ sở sản
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 69
xuất giày chưa có điều kiện và trang thiết bị để đo lường kiểm nghiệm tiêu chuẩn
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
chất lượng cho sản phẩm, việc kiểm tra, nghiệm thu giày xuất khẩu theo sự đánh giá
cảm nhận của các cán bộ kiểm tra có kinh nghiệm nghề nghiệp. Do đó, khâu kiểm
tra kỹ thuật, kiểm tra chất lượng sản phẩm đang phụ thuộc nhiều vào phía đối tác
nước ngoài và lợi thế cũng thuộc về họ. Hiện nay mới chỉ có 9 doanh nghiệp đã
thực hiện và được cấp chứng chỉ ISO 9000, gồm : công ty giày Thượng Đình, Bình
Tiên, Hiệp Hưng, Thuỵ Khuê, công ty cổ phần may thêu giày dép WEC Sài gòn,
công ty dệt may và giày An Phước, công ty da giày Hà Nội, công ty da giày Sagoda [25]. Qua đó có thể thấy rằng công tác quản lý chất lượng sản phẩm chưa được các
doanh nghiệp xuất khẩu giày dép của ta quan tâm đúng mức, các doanh nghiệp còn
đang ở thời kỳ học hỏi và thụ động, phụ thuộc vào sự giám sát của đối tác nước
ngoài.
Tóm lại, với hiện trạng trên, khả năng giày dép xuất khẩu của Việt Nam đáp
ứng các tiêu chuẩn chất lượng của thị trường EU chắc chắn còn chưa cao. Mặc dù
Việt Nam xếp thứ 2 trong số các nước xuất khẩu giày dép vào thị trường EU nhưng
xuất khẩu của ta phụ thuộc lớn vào đối tác nước ngoài về gần như mọi mặt: nguyên
nhiên liệu, máy móc, kiểu dáng thiết kế... nên điều đó chưa nói lên năng lực thực tế
của các doanh nghiệp.
Khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội
Theo đánh giá của tổ chức BVQI Việt Nam tại hội thảo “An sinh xã hội - SA
8000 & OHSAS 18001”, hầu như ở tất cả các doanh nghiệp sản xuất giày dép của
Việt nam đều đã thực hiện một số yêu cầu về quản lý sức khoẻ và an toàn nghề
nghiệp, ví dụ như ban hành chính sách an toàn và sức khoẻ, một số các biện pháp để
kiểm soát an toàn trong công việc như đào tạo an toàn lao động, thực hiện kiểm tra
an toàn lao động, hoặc tổ chức khám chữa bệnh nghề nghiệp định kỳ. Tuy nhiên,
đấy là những công việc cơ bản, có thể nói là tự phát hay chỉ để đáp ứng những yêu
cầu cơ bản của bộ luật lao động và tất nhiên, đó chưa thể coi là một hệ thống
“sống”thực hiện trong một hệ thống quản lý hoàn chỉnh đầy đủ.
Điều đáng mừng là vài năm gần đây, nhờ có các cuộc hội thảo giới thiệu đề tài
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 70
trách nhiệm xã hội (đặc biệt là giới thiệu tiêu chuẩn SA 8000) do Hiệp hội da giày
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Việt Nam (LEFASO) tổ chức mà các doanh nghiệp da giày cũng đã nhận thức được
trách nhiệm của mình đối với người lao động nói riêng và xã hội nói chung. Vì thế
mà cùng với ngành dệt may và chỉ đạo từ phía trên, nhiều doanh nghiệp giày dép
xuất khẩu của Việt Nam hiện đang rục rịch chuẩn bị để có được chứng chỉ SA 8000.
Tính đến 30/9/2003, trong 23 doanh nghiệp Việt Nam có chứng chỉ SA 8000 mới có
một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất giày dép, đó là công ty Legamex [17]. Tuy nhiên để có được chứng chỉ này đối với các doanh nghiệp sản
xuất giày dép hoàn toàn không đơn giản. Nguyên nhân là họ chưa đủ tiêu chuẩn về
nhà xưởng, điều kiện lao động để áp dụng. Thêm vào đó, quan niệm sai lệch coi SA
8000 như một yêu cầu tất yếu để thâm nhập thị trường Mỹ và EU cũng đang gây ra
tâm lý bất ổn cho các doanh nghiệp một cách không cần thiết.
2. Hàng dệt may
2.1 Tình hình xuất khẩu dệt may sang EU từ 1995-nay
Cho đến nay, dệt may vẫn là ngành hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn thứ hai
của Việt Nam sang EU. Kể từ khi Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam
và EU được ký kết năm 1992, kim ngạch xuất khẩu dệt may không ngừng tăng lên với tỷ lệ bình quân là 40%/năm thời kỳ 1993- 2000 [26, tr.180]. Đây cũng được xem
như là bước phát triển nhảy vọt đưa hàng dệt may Việt Nam xâm nhập vào thị
trường dệt may thế giới. Sang năm 2001 và 2002, tổng kim ngạch xuất khẩu dệt
may sang EU lại liên tiếp giảm, chỉ đạt mức 634 triệu USD và 608 triệu USD (tăng
trưởng âm). Năm 2003, xuất khẩu 6 tháng đầu năm sang EU đạt trên 208,2 triệu USD, tiếp tục giảm 23% so với cùng kỳ [27]. Sở dĩ có hiện tượng như vậy vì sau khi
Hiệp định thương mại Việt Mỹ được ký kết, thị trường Mỹ với các yêu cầu về chất
lượng và mẫu mã đơn giản hơn, đa dạng hơn đã mở ra một hướng đi mới cho hàng
dệt may xuất khẩu của Việt Nam.Tuy nhiên điều này không có nghĩa là thị trường
EU mất đi tầm quan trọng của nó. Kể từ tháng 8 năm 2003, với sự kiện EU tăng
thêm hạn ngạch dệt may cho các doanh nghiệp Việt Nam, hoạt động xuất nhập khẩu
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 71
của ngành sang EU được dự báo là sẽ dần nóng lên.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Xuất khẩu vào EU
Tăng (%)
Năm
1995
355
1996
428
20,6
1997
460
7,5
1998
546
18,7
1999
605
10,8
2000
650
7,4
2001
609
- 6,3
2002
560
- 8,1
208
2003 (6 tháng đầu năm)
- 23% so với cùng kỳ năm 02
(Nguồn: Bộ Thương mại và Tổng cục Hải Quan)
Bảng 9: KIM NGẠCH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY SANG EU Đơn vị: Triệu USD
Thị trường EU hiện chiếm khoảng 40% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
Việt Nam. Thế nhưng nếu nhìn từ phía EU, thì Việt Nam chỉ là nhà xuất khẩu lớn
thứ 16 và chiếm 0,5% kim ngạch nhập khẩu của EU. Trong đó, Đức là nước nhập
khẩu hàng dệt may của Việt Nam lớn nhất, chiếm 41% tổng giá trị xuất khẩu, bỏ xa các nước khác như Pháp (14%), Hà Lan (12%), Italia (9%),...[26, tr.180]
Về cơ cấu hàng xuất khẩu, các sản phẩm chủ lực chiếm tới 70% giá trị kim
ngạch là những hàng quen làm, dễ thu lợi nhuận như: áo Jacket (51,7%), áo sơ mi
(11%), quần âu (5%), áo len và áo dệt kim (3,9%), T-shirt và Polo shirt (3,4%). Các
sản phẩm có yêu cầu kỹ thuật phức tạp, chất lượng cao thì Việt Nam vẫn chưa sản xuất được, hoặc sản xuất với tỷ lệ rất nhỏ [26, tr.180].
Cũng giống như mặt hàng giày dép, hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam vào
thị trường EU chủ yếu theo hình thức gia công (chiếm tỷ trọng gần 80%), tức là nhà
nhập khẩu EU đặt hàng với một bên trung gian (các nước Đông Á như Đài Loan,
Hồng Kông...), sau đó những nước này cung cấp nguyên vật liệu, máy móc, thậm
chí cả chuyên gia và phương tiện quản lý cho các doanh nghiệp Việt Nam gia công.
Vì thế mà lợi nhuận Việt Nam thu về thường rất nhỏ. Nguyên nhân của thực trạng
này là do: (1) ngành dệt vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về nguyên phụ liệu cho
ngành may; (2) sự dễ dãi và ít rủi ro của phương thức gia công nên ngành may tuy Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 72
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
phát triển rất nhanh song vẫn là một khu vực sản xuất thiếu tác phong công nghiệp
và thiếu khả năng cạnh tranh; (3) phương thức phân bổ hạn ngạch chưa hợp lý cũng
đã kìm hãm tính năng động và sáng tạo của các doanh nghiệp may; (4) những rào
cản trong thương mại dệt may tại thị trường EU.
2.2 Những khó khăn trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn của EU
Về chất lượng:
Cũng như giày dép xuất khẩu, để đưa ra các tiêu chí đánh giá chung về chất
lượng cho tất cả các mặt hàng dệt may là không thể thực hiện được bởi chất lượng
của những sản phẩm này tốt hay xấu phụ thuộc nhiều vào thị hiếu và xu hướng mốt.
Đồng thời, thị hiếu của khách hàng về đồ may mặc lại thay đổi thường xuyên nên
chuẩn mực về ngành hàng này nếu có cũng sẽ không tồn tại lâu được. Chính bởi lý
do này mà việc đánh giá chất lượng hàng dệt may cũng chủ yếu được tiến hành theo
từng lô hàng trên cơ sở phù hợp với mẫu đặt gia công. Song, nếu chỉ mải mê tập
trung vào làm hàng gia công mà không chú ý phát triển toàn diện ngành thì Việt
Nam sẽ tiếp tục thua thiệt trên thị trường quốc tế. Đồng thời, ngay cả việc đáp ứng
các yêu cầu gia công cũng sẽ trở nên khó khăn nếu không được chú ý đúng mức.
Sau đây là những khó khăn mà các doanh nghiệp dệt may hiện đang gặp phải khi
đáp ứng các yêu cầu về chất lượng của các đối tác nước ngoài, đặc biệt là EU - thị
trường khó tính vào loại bậc nhất trên thế giới.
Về nguyên phụ liệu ngành dệt may -
Ngành dệt may Việt nam trong những năm qua đã có những bước tiến đáng kể,
tốc độ tăng trưởng giá trị xuất khẩu luôn đạt 25- 30%/năm, tạo công ăn việc làm cho
khoảng 1,6 triệu lao động trực tiếp và hàng vạn lao động gián tiếp trong sản xuất
nguyên liệu như trồng bông, trồng dâu nuôi tằm. Thế nhưng việc sản xuất nguyên
phụ liệu lại chưa được chú trọng đúng mức đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát
triển của ngành trong thời gian qua.
Đối với ngành dệt (mức độ tăng trưởng xuất khẩu của ngành này kém ngành
may rất nhiều), nguyên liệu phục vụ có rất nhiều loại như bông xơ, tơ, sợi... trong
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 73
đó hai loại nguyên liệu chủ yếu là bông xơ và tơ tằm. Trong vài năm gần đây, diện
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
tích và sản lượng bông tăng lên đáng kể nhưng nguyên liệu bông trong nước mới
chỉ đáp ứng 11% nhu cầu của ngành dệt may. Từ năm 1997 đến nay, trung bình
hàng năm chúng ta phải chi từ 91- 110 triệu USD để nhập khẩu từ 80- 90% nguyên liệu bông từ Trung Quốc vào Lào [26, tr.48]. Thực trạng trong ngành nuôi tằm dệt tơ
cũng vậy, với diện tích dâu tằm hiện này vào khoảng 25.000 ha, đứng thứ 2 trên thế
giới (chỉ sau Trung Quốc), hiệu quả trồng dâu ở nước ta lại rất thấp. Hiện nay Việt
Nam vẫn phải nhập tơ sống từ Trung Quốc để se tơ và dệt lụa với số lượng lên đến
trên 200 tấn/năm, do kén tằm trong nước phần lớn chỉ có độ dài chưa tới 700m nên không đảm bảo tiêu chuẩn để sản xuất tơ chất lượng cao xuất khẩu [26, tr.48].
Cũng như nguyên liệu, ngành sản xuất gia công phụ liệu cũng không được chú
ý đầu tư. Chủ một doanh nghiệp tư nhân may thuê cho biết: “Khách hàng yêu cầu
rất tỷ mỉ từng cái khuy, màu sắc và cỡ từng loại chỉ màu. Nếu doanh nghiệp không đáp ứng yêu cầu của khách là mất hợp đồng ngay”[26, tr.49]. Hiện nay ở nước ta chỉ
một vài doanh nghiệp và làng nghề như: Dây khoá kéo Nha Trang, chỉ màu của
Hợp tác xã Triều Khúc, Cơ khí Gia Lâm và một số ít doanh nghiệp sản xuất chỉ
khâu và khuy bấm ở thành phố Hồ Chí Minh. Lực lượng như vậy quá mỏng, trong
khi Trung Quốc - nước láng giềng và cũng là một cường quốc xuất khẩu hàng dệt
may thế giới - hàng năm sản xuất gần một vạn sản phẩm phụ liệu cho ngành may.
Còn với mặt hàng vải nguyên liệu cho ngành may, theo những báo cáo mới
đây của Hiệp hội Dệt may Việt Nam, các doanh nghiệp trong ngành chỉ mới sản
xuất được một số chủng loại như vải cotton, jean, vải dệt kim... nhưng chất lượng
không ổn định, giá thành lại rất cao do năng suất lao động thấp và chi phí sản xuất
lớn. Chẳng hạn, giá vải kaki trong nước là 2,5USD/mét trong khi nhập khẩu chỉ có 1,5$USD/mét [26, tr.49].
Như vậy, bức tranh toàn cảnh của ngành sản xuất phụ liệu cho ngành may ở
Việt Nam có thể nói gọn trong 4 chữ: “vừa thiếu, vừa yếu”. Nhiều nhà đầu tư nước
ngoài khi nghiên cứu thị trường phụ liệu cho ngành may đã kết luận rằng: “các sản
phẩm vải, dây khoá, kéo, cúc, nhãn mác do các doanh nghiệp trong nước sản xuất... mới đáp ứng được 10- 15% nhu cầu”[26, tr.49]. Do bị động về phụ liệu mà nhiều Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 74
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
doanh nghiệp may trong nước đã phải chi ngoại tệ mạnh để nhập khẩu, khiến giá
thành sản phẩm đội lên từ 10 đến 15% so với cùng loại của các nước trong khu vực.
Không những thế, nhiều doanh nghiệp may trong nước ký được hợp đồng gia công
rồi phải săn tìm phụ liệu đúng với mẫu mã chào hàng. Có doanh nghiệp tìm không
đủ phụ liệu, phải thay đổi mẫu mã khiến khách hàng đặt mua không hài lòng, yêu
cầu giảm giá hoặc đòi huỷ hợp đồng đã ký.
Trình độ trang thiết bị, công nghệ -
Kể từ những năm đổi mới quản lý nền kinh tế, ngành Dệt may được bổ sung
thêm các thiết bị hiện đại, công nghệ mới. Song, do vốn có hạn nên trang bị chưa
được đồng bộ, một số doanh nghiệp còn lúng túng chưa huy động máy móc vào sản
xuất được tốt. Khu vực may công nghiệp có khá hơn, các doanh nghiệp may xuất
khẩu đều đổi đã mới thiết bị chất lượng tốt nên cơ sở vật chất tăng lên nhanh chóng.
+ Dệt thoi [28, tr.4]:
Khu vực phía Bắc: Máy Trung Quốc chiếm đa số (Dệt Nam Định, Vĩnh Phú,
8/3) trang bị từ những năm 1950, khổ hẹp, nay chỉ còn sử dụng được 2.300 máy.
Khu vực miền Trung: Hoà Thọ có 200 máy dệt cũ của Nhật đã sử dụng 30
năm, Công ty Dệt 29/3, Công ty Dệt Hoà Khánh có 591 máy thuộc loại tự động thay
thoi, thay suốt cơ khí, nên chất lượng sản phẩm không đáp ứng được yêu cầu thị
trường.
Khu vực phía Nam: Chủ yếu là máy Nhật, Mỹ, Hàn Quốc đã qua sử dụng
nhiều năm từ 1964- 1974. + Dệt kim [26, tr.5]:
Ngành dệt kim còn mới mẻ với nước ta, trước năm 1986, thiết bị hầu hết của
Trung Quốc, Tiệp Khắc, CHDC Đức thuộc loại lạc hậu thời đó. Đến nay số thiết bị
đó phần lớn đã thanh lý và được thay bằng các thiết bị thế hệ mới nhập từ Nhật Bản,
Hàn quốc, Đài Loan, CHLB Đức có trang bị linh kiện điện tử... nên năng suất cao,
chất lượng tốt, tính năng sử dụng rộng.
Công nghệ Dệt kim cũng tiến bộ nhanh, sản xuất được nhiều mặt hàng mới
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 75
như Polo Shirt, T-Shirt, quần áo thể thao. Tuy nhiên, công nghệ dệt các loại vải
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
trang trí, vải bọc đệm, đồ lót nữ cao cấp... chưa được quan tâm đầu tư đầy đủ.
+ Ngành may [26, tr.5]:
Từ năm 1990 đến nay, ngành may được đầu tư mới, đổi mới thiết bị khá mạnh.
Các xí nghiệp may do Trung Ương quản lý và một số nhà máy địa phương đến nay
đã thay thế 100% bằng thiết bị của Nhật, CHLB Đức, Hàn quốc, Đài loan... nhiều
thiết bị chuyên dùng được sử dụng: máy may trang thiết bị điện tử tự động dừng
kim lại mũi, tự động cắt chỉ, các máy chuyên dùng cho các đường may 2 kim, 4
kim, máy vừa may vừa vắt sổ, máy thùa bằng, thùa tròn, đính hệ là hơi tự động, hệ
giặt mài đá, các thiết bị thêu tự động 12- 20 đầu thêu, máy may tự động một số chi
tiết (may cổ, bác tay)... bước đầu sử dụng Computer trong thiết kế, giác sơ đồ may,
thay thế lao động thủ công. Những doanh nghiệp đi đầu trong quá trình đổi mới, đầu
tư công nghệ phải kể đến là May 10, Việt Tiến, Nhà Bè... Tuy vậy, khả năng tự
động hoá trong quá trình sản xuất vẫn chỉ đạt mức trung bình. Công nghệ phục vụ,
các công đoạn phụ trợ (ví dụ như khâu giặt...) còn nhiều bất cập.
- Những vấn đề trong thiết kế mẫu mã
Hiện nay ở nước ta, các trường đào tạo về thiết kế không ít như trường ĐH Mỹ
Thuật Công nghiệp, ĐH Bách Khoa, Viện ĐH Mở, trường Cao Đẳng Nghệ Thuật
Hà nội... Mặc dù những sinh viên tốt nghiệp từ các trường này, tuy được đào tạo rất
tốt về chuyên môn nhưng ít có thực tế, do đó, khoảng cách giữa thời trang sàn diễn
đến thời trang ứng dụng là khá lớn. Bên cạnh đó, sự thiếu vắng thông tin đã dẫn đến
việc thời trang Việt nam thiếu tính hội nhập với xu thế thế giới.
Tại các công ty may xuất khẩu, khâu yếu nhất chính là thiết kế. Trong khi
chúng ta có một đội ngũ các nhà thiết kế trẻ tuổi được phát hiện hàng năm từ các
cuộc thi thiết kế thời trang trong nước như Việt Nam Collection Grand Prix do Tạp
chí Mốt tổ chức hay cuộc thi Thiết kế Mẫu thời trang do tạp chí Thời trang Trẻ tiến
hành... thì các công ty may mặc dường như vẫn thờ ơ với các hoạt động chuyên
nghiệp này. Nhà sản xuất ngày càng đầu tư cho chất liệu, kỹ thuật cắt may, nâng cao
chất lượng sản phẩm, nhưng mẫu mã vẫn chưa hề có dấu ấn của những nhà thiết kế.
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 76
Trong khi đó, kiểu dáng mẫu mã quyết định 50% đến việc mua hay không mua của
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
khách hàng. Và dĩ nhiên, khi các công ty may mặc vẫn chưa nắm được cơ hội khám
phá và sử dụng các nhà thiết kế trong việc tạo mẫu hàng may sẵn thì ngành công
nghiệp may mặc Việt Nam chỉ có thể có những “nhà may”và những đơn đặt hàng
gia công theo mẫu nước ngoài. Rất lâu nữa chúng ta mới có các đơn đặt hàng có
thiết kế riêng.
Mới nhìn qua như vậy có thể nhận thấy năng lực sản xuất của các doanh
nghiệp Dệt May Việt Nam hiện nay còn thấp. Để nâng cao tính cạnh tranh lâu dài
trên thị trường, các doanh nghiệp cần phải tăng năng suất khoảng 50%. Các doanh
nghiệp, nhà kinh doanh nước ngoài khi nhập hàng đều nhập với số lượng lớn, vì thế
với năng lực sản xuất như hiện này, các doanh nghiệp Dệt may Việt nam khó có thể
Về trách nhiệm xã hội:
đáp ứng được
Vấn đề trách nhiệm xã hội được các doanh nghiệp dệt may Việt Nam tiếp cận
sớm và sâu rộng hơn các doanh nghiệp sản xuất giày dép. Nguyên nhân ở chỗ nhiều
doanh nghiệp dệt may xuất khẩu đã phản ánh lên Tổng công ty Dệt may việt Nam
rằng “trước khi ký kết hợp đồng, một số đối tác nước ngoài đã đến kiểm tra trực
tiếp điều kiện, môi trường làm việc, lượng công nhân... của công ty họ. Không ít đối tác yêu cầu họ phải có chứng chỉ SA 8000” [18]. Do đó lãnh đạo Tổng công ty Dệt
may Việt Nam ngay từ đầu năm 2002 đã yêu cầu 51 doanh nghiệp thành viên
nghiên cứu, xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn này. Hướng phấn đấu của ngành dệt
may là đến hết 2003, ít nhất tất cả các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu sẽ có
chứng chỉ này.
Tuy nhiên tính cho đến nay, cả nước có 12 cơ sở may (của 12 công ty) và 5 cơ
sở dệt (thuộc 3 công ty) có chứng chỉ SA 8000, trong tổng số 23 cơ sở sản xuất của Việt Nam có chứng chỉ này [17]. Như vậy là chỉ tiêu phấn đấu của Tổng công ty Dệt
may vẫn chưa đạt được. Song, đây cũng không phải là một điều đáng buồn vì ngay
cả ở các nước trong khối EU, chứng chỉ này cũng chưa được phổ biến. Chỉ có 3 cơ
sở may trên toàn EU có chứng chỉ SA 8000, con số này đối với ngành dệt cũng chỉ là 4 [17]. Hơn nữa, khi quyết định làm ăn với doanh nghiệp nào, đối tác EU sẽ trực Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 77
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
tiếp sang kiểm tra điều kiện nhà xưởng và lao động chứ không chỉ dựa vào chứng
chỉ mà doanh nghiệp được cấp. Theo nhận định của Bộ lao động và thương binh xã
hội, chưa có trường hợp nào đơn hàng xuất khẩu dệt may bị huỷ bỏ vì điều kiện lao
động chưa đáp ứng tiêu chuẩn của khách hàng nước ngoài. Như vậy, có thể nói rằng
tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội hiện chưa gây ảnh hưởng lớn đến các doanh nghiệp
dệt may xuất khẩu của Việt Nam.
3. Hàng nông sản
3.1 Tình hình xuất khẩu nông sản sang EU từ 1995-nay
Nông sản là nhóm hàng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, đồng thời cũng là
nhóm hàng xuất khẩu chủ yếu sang thị trường EU. Theo số liệu thống kê của phái
đoàn EC tại Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu nông sản sang thị trường EU tăng lên
hàng năm trong thời kỳ 1996 - 1998, nhưng kể từ năm 1999 bắt đầu giảm sút, ngày
càng giảm sút mạnh, năm 2002 còn thấp hơn cả năm 1996.
Sự sụt giảm kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường EU
còn được thể hiện ở chỗ tỷ trọng của nó trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản
của Việt nam cũng tăng trong thời kỳ 1996- 1998 và giảm trong thời kỳ 1999- 2002.
Đồng thời, nhu cầu nhập khẩu nông sản của EU vẫn tiếp tục tăng trong khi tỷ trọng
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 78
nhập khẩu nông sản từ Việt Nam lại ngày càng giảm (bảng 10).
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
191,1
341,7
431,7
417,0
379,7
319,5
162,0
(1) Kim ngạch XK nông sản của VN sang EU
-
78,81
26,34
-3,41
-8,94
- 15,85
- 49,30
Tốc độ tăng trưởng của (1) (%)
2159,6 2231,4
2274,3
2545,9
2563,3
2186,6 2119,6*
(2) Tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản của VN
251987 256796 257825 249869 241790 247918 259378
(3) Tổng kim ngạch nhập khẩu nông sản của EU (**)
Tỷ trọng (1)/(2) (%)
8,84
15,31
18,98
16,37
14,81
14,61
7,64
Tỷ trọng (1)/(3) (%)
0,07
0,13
0,16
0,16
0,15
0,12
0,06
(Nguồn: Tổng cục thống kê; (*) Số liệu của Tổng cục Hải quan; (**) Số liệu thống kê của phái đoàn EC tại Hà Nội)
Bảng 10: XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM SANG EU TỪ 1996- 2002 Đơn vị: Triệu USD
Hàng nông sản xuất khẩu của Việt nam sang EU chủ yếu là cà phê, chè, hạt
tiêu, gạo, đường, cao su và một số mặt hàng khác, trong đó nhóm hàng cà phê, chè,
gia vị chiếm tuyệt đại bộ phận. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản sang EU, tỷ trọng bình quân hàng năm của nhóm hàng này là 78,90% [16, tr.46]. Tuy những năm
gần đây tỷ trọng này có giảm nhưng không có nghĩa là EU giảm nhập khẩu cà phê
của ta mà thực chất do giá cà phê xuất khẩu của ta liên tục giảm mạnh, còn khối
lượng cà phê xuất sang EU vẫn tăng, thậm chí tăng nhanh. Đến nay, Việt Nam hầu
như chưa xuất khẩu được thực phẩm chế biến sang EU, mới chỉ xuất được sang
Đông Âu. Thịt gia súc, gia cầm cũng không xuất khẩu được vì EU là thị trường khó
tính và gần như khắt khe nhất thế giới về tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn
thực phẩm (VSATTP) và môi trường.
Sự sụt giảm kim ngạch xuất khẩu trong những năm vừa qua xuất phát từ nhiều
nguyên nhân, trong đó có rào cản kỹ thuật ngày càng cao mà các nước EU đặt ra.
Thịt lợn xuất khẩu của Việt Nam rất có triển vọng thâm nhập thị trường châu ÂU
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 79
nhưng không thể vào được EU do không đáp ứng quy định môi trường và VSATTP.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Các mặt hàng nông sản khác cũng khó vượt qua những quy định này. Một số doanh
nghiệp xuất khẩu của Việt Nam khi giao hàng đã không đúng như cam kết trong
hợp đồng về chất lượng hàng và thời gian làm cho uy tín của cộng đồng Việt Nam
bị giảm sút, ảnh hưởng tới các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc. Đồng thời chất
lượng hàng lại chưa cao, nguồn cung cấp không ổn định...
3.2 Khả năng đáp ứng các yêu cầu của EU về chất lượng và môi
trường
Dưới tác động của các yêu cầu về chất lượng và môi trường của EU, nhiều mặt
hàng nông sản của Việt Nam lẽ ra rất có tiềm năng xuất khẩu lại không vào được thị
trường này:
Thứ nhất, thực phẩm chế biến là nhóm hàng mang lại kim ngạch xuất khẩu
đáng kể cho Việt Nam nhưng lại không xuất được sang EU vì phải tuân thủ những
quy định rất chặt chẽ về VSATTP và môi trường. Rào cản khó vượt qua nhất hiện
nay đối với hàng thực phẩm là Quy định kiểm tra thú y. Bên cạnh đó, quy định bao
bì và phế thải bao bì, nhãn hiệu cho thực phẩm có nguồn gốc hữu cơ, hàm lượng
thuốc trừ sâu tối đa có trong rau quả, thực phẩm cũng là những yêu cầu khó thực
hiện đối với ngành hàng này.
Thứ hai, thịt gia súc, gia cầm đông lạnh của Việt nam cũng không thể xuất
khẩu được vào thị trường EU, mặc dù hiện nay chất lượng đã được nâng lên. Lý do
chính vẫn là không đáp ứng được quy định về VSATTP và môi trường, hơn nữa
chúng ta vẫn chưa ký Hiệp định Thú ý với EU. Quy định kiểm tra thú y đối với thịt
gia súc, gia cầm và thuỷ sản nêu rõ: cấm sử dụng chất kích thích và kháng sinh bị
cấm trong chăn nuôi gia súc, gia cầm. Trong khi đó ở Việt Nam, từ năm 2000 bà
con nông dân sử dụng khá phổ biến các chất kháng sinh bị EU cấm trong chăn nuôi
gia súc, gia cầm và thuỷ sản.
Thứ ba, các loại quả nhiệt đới và hạt có dầu của Việt Nam như thanh long,
xoài, hạt điều, lạc... rất được thị trường EU ưa chuộng nhưng kim ngạch xuất khẩu
vào thị trường này lại rất nhỏ. Lý do là sản xuất nông nghiệp của ta sử dụng thuốc
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 80
bảo vệ thực vật quá liều lượng và không đúng kỹ thuật đã gây tác động xấu đến môi
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
trường (diệt sinh vật có lợi, giảm đa dạng sinh học...) đồng thời để lại dư lượng các
chất độc hại trong sản phẩm.
Ngay cả với những mặt hàng đã và đang xuất khẩu được sang EU, vấn đề đảm
bảo chất lượng và không gây ô nhiễm môi trường vẫn còn rất nan giải. Thực tế là:
- Để thực hiện sản xuất thâm canh tăng vụ, bà con nông dân sử dụng thuốc bảo
vệ thực vật quá liều lượng (1,34kg/ha diện tích gieo trồng trong cả nước năm 2002),
sử dụng tập trung ở một số vùng thâm canh cao như Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long và không đúng kỹ thuật canh tác [16, tr.65].
- Hàng năm lượng phân bón sử dụng trong cả nước khoảng 5 triệu tấn phân vô
cơ, trong đó hơn 3 triệu tấn là nhập khẩu. Quá trình cung ứng và sử dụng phân bón
có thể thường xuyên phát tán ra môi trường xung quanh các chất độc như: SO2, SO3,
H2SO4, F, CO, H2S, NH3. Ở Việt Nam, 1 ha gieo trồng bình quân sử dụng 80- 90 kg
phân vô cơ. Sử dụng phân vô cơ không theo đúng chỉ dẫn khoa học và phân hữu cơ
không qua chế biến là tình trạng phổ biến, trở thành nguồn gây ô nhiễm môi trường đáng kể [16, tr.65].
- Cà phê nước ta hiện được chế biến theo hai phương pháp ướt và khô. Chế
biến theo phương pháp khô (chiếm trên 90% sản lượng cà phê) hầu như ít tác động
xấu đến môi trường. Chế biến theo phương pháp ướt (chỉ chiếm khoảng 10% sản
lượng) nhưng lại gây tác động xấu đến môi trường vì hiện nay hầu hết các cơ sở chế
biến cà phê theo phương pháp ướt có năng suất thấp, chưa hoặc chưa có điều kiện
để xử lý nước thải.
- Ngành chế biến cao su gây nhiều ô nhiễm đến môi trường bởi các tác nhân và
phụ gia hoá chất được sử dụng trong quá trình chế biến. Hiện tại tất cả các cơ sở chế
biến cao su công nghiệp đều đã trang bị hệ thống xử lý chất thải và nhìn chung đang
hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên, các cơ sở chế biến nhỏ vẫn chưa quan tâm xử lý
môi trường.
- Ngành chế biến rau quả và chế biến tinh bột đều có nguy cơ gây ô nhiễm môi
trường cao. Ngay cả các cơ sở chế biến lớn, quốc doanh hoặc liên doanh, có cơ sở
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 81
thiết bị lạc hậu, có cơ sở đầu tư mới hệ thống xử lý môi trường song chưa triệt để và
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
hiệu quả.
Ngoài ra, các quy định của EU về bao bì và phế thải bao bì, hoặc dán nhãn sinh
thái... vẫn còn là những khái niệm mơ hồ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nông
sản. Rất ít doanh nghiệp có được thông tin về quy định bao bì và phế thải bao bì của
EU, mà từ trước đến này đa phần doanh nghiệp đóng gói và sử dụng bao bì theo tập
quán hoặc theo yêu cầu của đối tác nhập khẩu chứ không nắm được chính xác quy
định đó bao gồm những cái gì. Tiêu chuẩn về dán nhãn sinh thái cũng ít được các
nhà sản xuất quan tâm vì đây còn là một hình thức hết sức mới mẻ.
Việc áp dụng hệ thống HACCP hoặc hệ thống quản lý môi trường ISO 14000
cũng rất hạn chế. Đặc biệt là HACCP (tiêu chuẩn được các nước EU hết sức chú
trọng), số doanh nghiệp sản xuất hàng nông sản và chế biến thực phẩm xuất khẩu áp
dụng hệ thống này còn ít, ít hơn nhiều so với ngành thuỷ sản.
4. Hàng thuỷ sản
4.1 Tình hình xuất khẩu thuỷ sản sang EU từ 1995-nay
EU là một trong những thị trường xuất khẩu thuỷ sản quan trọng của Việt nam
trong những năm gần đây (cùng với Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc...) Tuy nhiên, kim
ngạch xuất khẩu tăng trưởng chậm (2,73%/năm) và tăng giảm thất thường (bảng 11)
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
36,1
71,3
98,2
83,1
94,7
112,3
42,4
(1) Kim ngạch XK thuỷ sản của VN sang EU (**)
-
97,51
37,73
-15,38
13,96
18,59
- 62,24
Tốc độ tăng trưởng của (1) (%)
696,5
782,0
858,0
973,6
1478,5
1777,6
2022,8*
(2) Tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của VN
14251,7 14613,7 16784,6 16340,3 15681,5 15591,1 15798,2
(3) Tổng kim ngạch nhập khẩu thuỷ sản của EU (**)
Tỷ trọng (1)/(2) (%)
5,18
9,11
11,44
8,53
6,40
6,32
2,09
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 82
Bảng 11: XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM SANG EU TỪ 1996-2002 Đơn vị: Triệu USD
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Tỷ trọng (1)/(3) (%)
0,25
0,48
0,58
0,50
0,60
0,72
0,26
(Nguồn: Tổng cục thống kê; (*) Số liệu của Tổng cục Hải quan; (**) Số liệu thống kê của phái đoàn EC tại Hà Nội)
Như vậy, căn cứ vào mức độ tăng trưởng, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của
Việt Nam sang thị trường EU giai đoạn 1996- 2002 được chia làm 2 thời kỳ: (1)
1996- 2001, kim ngạch tăng trưởng khá mạnh (25,49%/năm); (2) năm 2002 kim
ngạch sụt giảm mạnh (giảm 62,24% so với năm 2001).
Sự biến động thất thường nói trên còn biểu hiện ở chỗ tỷ trọng xuất khẩu thuỷ
sang của Việt Nam sang EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam
và như tỷ trọng xuất khẩu thuỷ sản sang EU trong tổng kim ngạch nhập khẩu thuỷ
sản của EU cũng diễn biến thất thường (bảng 11). Nguyên nhân dẫn đến tình trạng
này là:
Thứ nhất, hiệp định thương mại Việt-Mỹ đã mở ra cơ hội thuận lợi cho hàng
xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là thuỷ sản.
Thứ hai, các quy định ngặt nghèo về VSATTP và môi trường của EU đang là
rào cản khó vượt qua đối với thuỷ sản Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường EU,
đặc biệt là quy định kiểm tra thú y. Chính quy định này đã làm cho các doanh
nghiệp điêu đứng trong thời kỳ 2001- 2002, khi mà 72 lô hàng thuỷ sản của ta vi
phạm quy định trên, có dư lượng kháng sinh bị cấm quá mức cho phép và đã bị EU
tiêu huỷ, trả lại hàng.
Ngoài ra, còn có các nguyên nhân khác như nguồn nguyên liệu không ổn định
và chưa đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng; giá thuỷ sản nguyên liệu trong nước còn
khá cao so với các đối thủ cạnh tranh như Thái Lan, Indonesia, Trung Quốc nên
kém khả năng cạnh tranh; thiếu kinh nghiệm trong kinh doanh nên nhiều doanh
nghiệp vi phạm hợp đồng.
Các mặt hàng thuỷ sản chính Việt Nam xuất khẩu sang EU phải kể đến tôm
đông lạnh, cá đông lạnh và nhuyễn thể, ngoài ra còn một số mặt hàng thủy sản khác
(cua, ghẹ, cá rô đồng...). Tôm đông lạnh chiếm tỷ trọng lớn nhất (khoảng 60%). 3
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 83
mặt hàng tôm đông lạnh, cá đông lạnh và nhuyễn thể thường chiếm trên 80% tổng
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường này [21].
Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang EU chỉ tập trung chủ yếu vào một số thị
trường thành viên. Tỷ trọng các thị trường thành viên trong kim ngạch xuất khẩu
thuỷ sản sang EU năm 2002 như sau: Bỉ (18,6%), Đức (16,97%), Pháp (16,52%), Italia (14,65%), Hà Lan (9,99%), và 9 thị trường còn lại chỉ chiếm 7,27% [29].
4.2 Khả năng đáp ứng các yêu cầu của EU về chất lượng và môi
trường
Theo quy định kiểm tra thú y, muốn xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường EU, các
doanh nghiệp Việt Nam phải tuân thủ các yêu cầu đề ra trong quy định: nuôi trồng
thuỷ sản không được sử dụng các chất kháng sinh bị cấm; khai thác hải sản không
được sử dụng đá có chất CAP để bảo quản sản phẩm; vận chuyển thuỷ sản pải có
thiết bị để thay nước; chế biến thuỷ sản phải có hệ thống xử lý chát thải.... Trong
thực tế, các nhà sản xuất thuỷ sản Việt Nam chưa thực hiện được các yêu cầu của
EU. Cụ thể, nuôi trồng sử dụng quá nhiều kháng sinh bị cấm; đánh bắt hải sản dùng
đá có quá nhiều CAP để làm tươi sản phẩm; vận chuyển, nhiều trường hợp có thiết
bị thay nước nhưng không đáp ứng yêu cầu, một số trường hợp không có; chế biến
tính đến 31/12/2002 cả nước chỉ có 152/364 doanh nghiệp chế biến thuỷ sản đông lạnh có điều kiện sản xuất tốt [30]. Chính vì những lý do này mà 72 lô hàng thuỷ sản
Việt Nam đã bị EU tiêu huỷ và trả lại, dẫn đến tình trạng xuất khẩu thuỷ sản của
Việt Nam sang thị trường này năm 2002 giảm sút mạnh.
Sự việc cụ thể là tháng 9/2001, EU bắt đầu kiểm tra việc tuân thủ Quy định
kiểm tra thú y của hàng thuỷ sản Việt Nam và phát hiện ra hàng của ta vi phạm quy
định. EU đã đưa ra cảnh báo và tuyên bố tiêu huỷ các lô hàng thuỷ sản vi phạm Quy
định. Từ tháng 9/2001- 12/2001, qua kiểm tra EU đã phát hiện ra 23 lô hàng thuỷ
sản của Việt Nam vi phạm. Tháng 1/2002- 12/2002, EU lại phát hiện thêm 49 lô. Kể
từ 1/2003- 7/2003, EU chỉ phát hiện thêm 4 lô hàng bị vi phạm. Như vậy, tổng cộng
EU đã phát hiện ra 76 lô hàng thuỷ sản của ta vi phạm quy định kiểm tra thú y trong
vòng 2 năm. 76 lô hàng vi phạm quy định này đều chứa dư lượng kháng sinh bị cấm
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 84
quá mức cho phép. Trong 76 lô, chỉ có 9 lô chứa FRZ, 8 lô chứa NF (NF bao gồm
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
FRZ), 59 lô còn lại chứa CAP. Năm 2001 và 2003 hàng thuỷ sản Việt Nam chỉ bị nhiễm CAP, nhưng năm 2002 bị nhiễm cả CAP, NF và FRZ [16, tr.57].
Sau sự việc trên, điều đáng mừng là các Bộ, các ngành liên quan đã kịp thời
đưa ra các biện pháp quản lý chặt chẽ thông qua các chỉ thị, quyết định... nhằm lấy
lại niềm tin trong đối tác EU. Vì thế mà EU chưa đưa Việt Nam ra khỏi danh sách
các nước thuộc nhóm I (là những nước được áp dụng chế độ kiểm tra thông thường)
mà cấm một số doanh nghiệp được xuất khẩu vào EU. Cho đến nay, các doanh
nghiệp bị cấm xuất khẩu cũng đã 100% được xuất khẩu lại vào EU, đưa con số
doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản sang EU lên 100 doanh nghiệp. Phải nói đây là
một nỗ lực rất lớn của Bộ Thuỷ sản nói riêng cũng như các cơ quan liên quan khác.
Trong các quy định về VSATTP và môi trường thì quy định kiểm tra thú y vừa
trình bày là quy định khó vượt qua nhất đối với hàng thuỷ sản Việt Nam khi xâm
nhập vào thị trường EU, cũng là quy định tác động mạnh mẽ nhất tới hoạt động xuất
khẩu thuỷ sản của ta sang thị trường này. Quy định này đã gây cho các doanh
nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam một phen chao đảo. Những quy định còn lại
như hệ thống HACCP, bao bì và phế thải bao bì, hàm lượng chất phụ gia trong thực
phẩm, hàm lượng thuốc trừ sâu tối đa trong rau quả, tiêu chuẩn quản lý môi
trường... hầu như không tác động tới xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Nguyên
nhân là việc áp dụng hệ thống HACCP trong các doanh nghiệp thuỷ sản được triển
khai khá mạnh mẽ (mạnh mẽ nhất trong các ngành, nhờ có chủ trương của Bộ Thuỷ
sản) nên nhiều doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu đã có xây dựng được hệ
thống này. (chi tiết tại Chương II, mục I.2.2.2). Chúng ta lại chủ yếu xuất khẩu thuỷ
sản đông lạnh nên chưa sử dụng gì nhiều đến chất phụ gia. Bao gói sản phẩm khá
đớn giản (túi PE, thùng carton...) theo yêu cầu của Trung tâm Kiểm tra chất lượng
và vệ sinh thuỷ sản nên không bị vi phạm quy định bao bì và phế thải bao bì. Đồng
thời, kể từ khi bị cấm sử dụng kháng sinh, hoá chất trong nuôi trồng thuỷ sản, người
nuôi mới bắt đầu chuyển sang nuôi thuỷ sản sạch, do vậy chưa thể dán nhãn hiệu
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 85
cho thuỷ sản có nguồn gốc hữu cơ.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐÁP ỨNG CÁC QUY ĐỊNH/TIÊU CHUẨN CỦA EU VỀ CHẤT LƯỢNG, MÔI TRƯỜNG & XÃ HỘI
III. Triển vọng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường EU
1. Chiến lược xuất khẩu của Việt Nam sang EU giai đoạn 2001- 2010
Trước yêu cầu phát triển của nền kinh tế, trong thời gian tới công tác xuất nhập
khẩu đóng một vai trò rất quan trọng. Chính vì vậy, Chính phủ đã phê duyệt “Chiến
lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010”. Đây là điều kiện thuận lợi để
đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sang thị trường EU.
Về xuất khẩu hàng hóa:
- Tốc độ tăng xuất khẩu bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 15%/năm, trong
đó thời kỳ 2001-2005 tăng 16%/năm, thời kỳ 2006-2010 tăng 14%/năm. Giá trị xuất
khẩu tăng từ khoảng 13,5 tỷ USD năm 2000 lên 28,4 tỷ USD vào năm 2005 và 54,6
tỷ USD vào năm 2010, gấp hơn 4 lần năm 2000.
- Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu trong 10 năm tới cần được chuyển dịch theo
hướng chủ yếu sau: (1) Trước mắt huy động mọi nguồn lực hiện có để có thể đẩy
mạnh xuất khẩu, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ; (2) Đồng thời cần chủ động gia
tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến và chế tạo với giá trị gia tăng ngày càng cao, chú
trọng các sản phẩm chế biến và chế tạo với giá trị gia tăng ngày càng cao, chú trọng
các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và trí thức cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô;
(3) Mặt hàng, chất lượng và mẫu mã cần đáp ứng nhu cầu của thị trường.
- Cơ cấu thị trường xuất khẩu: tiếp tục củng cố và tăng cường chỗ đứng tại các
thị trường đã có, tới năm 2010 tỷ trọng các thị trường xuất khẩu được dự kiến như
sau: Châu Á (46-50%), trong đó Nhật Bản (17-18%), ASEAN (15-16%), v.v... ;
Châu Âu (27-30%), trong đó EU (25-27%) SNG và Đông Âu (3-5%); Bắc Mỹ (chủ
yếu là Mỹ) là 15-20%; Úc và Newzealand là 5-7%; và các khu vực khác (2-3%).
Tại Tây Âu, trọng tâm sẽ là EU mà chủ yếu là các thị trường lớn như Đức, Anh,
Pháp và Italia
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 86
Căn cứ vào mục tiêu xuất khẩu trong Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
kỳ 2001-2010 (đã trình bày tóm tắt ở trên), đối với thị trường EU - thị trường mà
Chiến lược đã xác định là rất quan trọng (hơn cả thị trường ASEAN, Nhật Bản và
Bắc Mỹ), để khẳng định được vai trò của thị trường này đối với xuất khẩu của Việt
Nam trong 10 năm tới, hay nói cách khác là muốn đẩy mạnh xuất khẩu vào thị
trường này giai đoạn 2001-2010, trước hết cần phải định hướng đúng mặt hàng xuất
khẩu và từng thị trường xuất khẩu cụ thể trong khối EU trong giai đoạn này.
1.1 Định hướng phát triển mặt hàng xuất khẩu vào thị trường EU
Đối với cơ cấu hàng xuất khẩu của một quốc gia, việc duy trì những mặt hàng
xuất khẩu chủ lực là cần thiết. Song, việc mở rộng cơ cấu hàng xuất khẩu rất quan
trọng vì nó đánh dấu sự phát triển của một nền kinh tế, đặc biệt đối với Việt Nam vì
bấy lâu nay cơ cấu xuất khẩu chủ yếu là hàng nông sản và một số hàng công nghiệp
nhẹ. Vì thế, để mở rộng và nâng cao hiệu quả xuất khẩu của Việt Nam sang EU,
chúng ta phải mở rộng và củng cố thị phần của các mặt hàng hiện có, đồng thời mở
rộng danh mục mặt hàng.
Cụ thể với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực:
Giày dép và sản phẩm da: 80% kim ngạch xuất khẩu sản phẩm da giày của
Việt Nam sang EU là làm gia công cho nước ngoài nên hiệu quả kinh tế rất thấp. Để
khắc phục tình trạng này cần phải thực hiện một số biện pháp sau: (1) Từng bước
chuyển dần sang phương thức bán trực tiếp để thu được hiệu quả cao hơn và ổn
định hơn; (2) Chú trọng đầu tư phát triển sản xuất các loại nguyên phụ liệu cho
ngành da giày để vừa nâng cao hiệu quả xuất khẩu sang EU, vừa đảm bảo chủ động
trong sản xuất, chào hàng và thiết kế mẫu mã; (3) Cần có ưu đãi cho đầu tư mở rộng
và tạo cơ chế thông thoáng trong việc cho vay đầu tư.
Hàng dệt may: Cũng như giày dép, phần lớn khối lượng hàng dệt may của Việt
Nam xuất sang EU là làm gia công cho nước ngoài, khả năng xuất khẩu trực tiếp rất
khó khăn. Để duy trì chỗ đứng hiện có và mở ra triển vọng phát triển trên thị trường
EU, Nhà nước cần phải thực hiện một số biện pháp sau: (1) Đổi mới phương thức
quản lý hạn ngạch, điều chỉnh lại cơ chế phân bổ hạn ngạch để thúc đẩy các doanh
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 87
nghiệp sử dụng nhiều hơn nữa nguyên liệu sản xuất trong nước; (2) Xác lập chế độ
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
thuế hợp lý để thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ, đặc biệt là
ngành dệt; (3) Tập trung nỗ lực để đàm phán với EU tăng thêm hạn ngạch; (4) Hỗ
trợ các doanh nghiệp trong việc khảo sát, tìm hiểu và thâm nhập thị trường EU; (5)
Hợp lý hoá công tác cấp C/O: thực hiện chế độ một cửa, giảm chi phí hành chính
cho doanh nghiệp và tăng cường công tác chống gian lận thương mại theo yêu cầu
của EU. Về phía các doanh nghiệp, cần nghiên cứu biện pháp chuyển dần sang
phương thức bán trực tiếp và phải có những nỗ lực cần thiết để nâng cao và ổn định
chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã, lưu ý hơn đến các quy định về an toàn
sức khoẻ và môi trường của EU.
Thủy hải sản: Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thuỷ sản sang EU không ổn định
và còn cách xa tiềm năng xuất khẩu của ta. Nguyên nhân là do nguồn nguyên liệu
chưa ổn định, hàng thủy hải sản chưa đáp ứng tốt tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh
thực phẩm của EU, và còn bị sức ép cạnh tranh rất mạnh từ phía Thái Lan. Cần có
các biện pháp khắc phục như: (1) Xây dựng chương trình phát triển nguồn nguyên
liệu ổn định, tăng nhanh tỷ trọng của nguyên liệu nuôi; (2) Chú trọng đầu tư để tăng
cường năng lực chế biến và cải thiện điều kiện sản xuất, đảm bảo an toàn vệ sinh
thực phẩm (nâng cấp điều kiện sản xuất và thực hiện quản lý chất lượng theo tiêu
chuẩn HACCP để tăng thêm số lượng nhà máy chế biến đủ tiêu chuẩn xuất hàng
vào EU); (3) Cổ phần hoá các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu để thu hút
vốn, nâng cao hiệu quả đầu tư và hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát huy tính năng
động trong việc đa dạng hoá sản phẩm và tìm hiểu thị trường tiêu thụ;
Nông sản: hiện nay xuất khẩu nhóm hàng này vào thị trường EU đang có xu
hướng chững lại. Nguyên nhân là do chất lượng hàng và nguồn cung cấp chưa ổn
định. Phần lớn xuất khẩu qua trung gian nên hiệu quả thấp. Để đẩy mạnh và nâng
cao hiệu quả xuất khẩu nhóm hàng này sang EU, ta cần phải phát triển những vùng
trồng chuyên canh để đảm bảo nguồn nguyên liệu lớn, ổn định và chú trọng đầu tư
công nghệ sau thu hoạch để nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng của sản phẩm.
Đặc biệt, các doanh nghiệp nên cố gắng đưa thực phẩm chế biến vào EU bằng cách
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 88
chú trọng công tác nghiên cứu nắm bắt thị hiếu tiêu dùng của thị trường, đầu tư vốn,
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
công nghệ vào sản xuất để tạo ra những sản phẩm đáp ứng thị hiếu tiêu dùng và
thoả mãn các tiêu chuẩn vể thực phẩm của EU. Nên đầu tư sản xuất mặt hàng này
cung cấp cho thị trường EU theo hai hướng: (1) Sản phẩm phục vụ cộng đồng người
Việt Nam sống ở EU, như mì ăn liền, dầu thực vật, gia vị, nước chấm,v.v...; (2) Sản
phẩm phục vụ người dân EU.
Ngoài ra, các nhóm hàng khác như hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ gia dụng,
máy móc thiết bị điện tử.... cũng cần chú trọng phát triển vì đây là những mặt hàng
mà thị trường EU có nhu cầu khá lớn. Như vậy mới có thể đẩy mạnh và nâng cao
hiệu quả xuất khẩu của Việt Nam sang EU, đồng thời góp phần thực hiện mục tiêu
“Việt Nam sẽ trở thành nước công nghiệp vào năm 2020”.
1.2 Định hướng phát triển thị trường xuất khẩu trong khối EU
Hiện tại, thị trường chung Châu Âu gồm 15 quốc gia, tuy có nhiều điểm tương
đồng về kinh tế và văn hoá, nhưng mỗi quốc gia vẫn có những nét đặc thù riêng về
thị hiếu tiêu dùng. Muốn đẩy mạnh xuất khẩu vào EU trong những năm tới thì ngay
bây giờ cần phải có định hướng phát triển của từng thị trường xuất khẩu. Đối với
một số thị trường chính, định hướng như sau:
Thị trường Đức: là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong EU. Các
mặt hàng truyền thống bao gồm: giày dép; hàng may mặc (trừ len); cà phê; chè, các
sản phẩm bằng da, đồ gốm, sứ, cao su và các sản phẩm từ cao su; các sản phẩm mây
tre đan; đồ gỗ gia dụng; thủy hải sản... Đặc biệt, hai năm trở lại đây Đức có nhu cầu
nhập khẩu rất lớn về giày dép và dụng cụ thể thao từ Việt Nam.
Thị trường Anh: là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam trong EU.
Hiện tại, các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam như: giày dép; hàng dệt may; đồ
gốm sứ; xe có động cơ không thuộc loại xe điện hoặc xe lu; nhựa và các sản phẩm
nhựa; các sản phẩm gỗ; sợi dệt; các sản phẩm bằng da thuộc; thủy hải sản; ngọc trai
thiên nhiên, đá quý..v.v. đang được tiêu thụ mạnh ở Anh. Bên cạnh đó, Anh cũng là
một thị trường đầy triển vọng cho việc tiêu thụ các mặt hàng tiêu dùng khác như: đồ
gốm sứ, đồ chơi, đồ gỗ gia dụng, thực phẩm, rau quả và đồ hộp.
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 89
Thị trường Pháp: là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba của Việt Nam trong EU.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Người tiêu dùng Pháp ưa chuộng các mặt hàng: đồ gỗ gia dụng, bột ngũ cốc và bột
sữa; lụa, sợi dệt; hàng dệt may; kính và đồ dùng thủy tinh; các sản phẩm bằng da
thuộc... Từ năm 1998, Pháp có nhu cầu rất lớn về gốm sứ, dụng cụ thể thao, nhiên
liệu khoáng, cà phê, sản phẩm da thuộc, giày dép và đồ gỗ gia dụng Việt Nam.
Thị trường Hà Lan: là thị trường xuất khẩu lớn thứ tư của Việt Nam trong khối
với những sản phẩm như: hàng điện máy; thực phẩm chế biến; rau, quả và hạt đã
qua chế biến; sợi dệt; nhựa và các sản phẩm nhựa; các sản phẩm gỗ nội thất... Đặc
biệt mấy năm gần đây, Hà Lan có nhu cầu rất lớn về các sản phẩm sữa, trứng chim
và mật ong; thực phẩm chế biến; đồ gỗ gia dụng, các sản phẩm gốm của Việt Nam.
Các thị trường còn lại cũng cần phải phân tích cơ cấu để có những biện pháp
đẩy mạnh xuất khẩu hợp lý. Thêm vào đó, với kế hoạch mở rộng sang phía Đông
của Liên minh châu Âu (ngày 1/5/2004, EU sẽ chính thức kết nạp thêm 10 nước
Trung và Đông Âu - gọi tắt là CEEC, trở thành EU25), định hướng phát triển đối
với các thị trường mới này ngay từ bây giờ là rất cần thiết. Thuế suất của các mặt
hàng cà phê, chè, gia vị ở dạng thô của EU15 rất thấp (0%), nhưng thuế suất với
CEEC là 10%. Như vậy, CEEC trở thành thành viên EU sẽ là thuận lợi lớn với các
doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm này của Việt Nam. Linh kiện điện tử và máy tính
có rất nhiều triển vọng bởi các nước CEEC có tiềm năng tiêu thụ lớn để thực hiện
mục tiêu phát triển kinh tế khi gia nhập vào EU.
2. Triển vọng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường EU
2.1 Những nhân tố tác động tới khả năng xuất khẩu hàng hoá Việt
Xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế:
Nam vào EU
Tác động tích cực của xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu
hoá kinh tế là tạo ra cơ hội lớn cho tất cả các nước, nhất là những nước đang phát
triển đẩy mạnh công nghiệp hoá trên cơ sở ứng dụng thành quả của cách mạng khoa
học công nghệ và đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, tăng doanh thu ngoại tệ làm tiền đề
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 90
phát triển kinh tế. Tuy nhiên bên cạnh những tác động tích cực, xu thế tự do hoá
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế cũng đặt ra nhiều thách thức cho
các nước này như: làm tăng sức ép cạnh tranh, dẫn tới sự lệ thuộc ngày càng nhiều
của các nước đang phát triển vào sự ổn định của nền kinh tế thế giới và dần dần rơi
vào tầm ảnh hưởng của các nước phát triển, cả về kinh tế và chính trị...
Chính vì vậy, xu thế này sẽ tạo thuận lợi cho ta mở rộng thị trường xuất khẩu
sang EU nơi thuế suất thấp và đỡ bị các hàng rào phi quan thuế ngăn cản, đồng thời
hàng xuất khẩu của ta sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị
trường EU.
Sự phát triển của Diễn đàn Hợp tác Á - Â u (ASEM):
Diễn đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM) là cơ chế đối thoại và hợp tác cấp cao giữa
Châu Âu và Châu Á, với sự tham dự của 10 nước Châu Á (là Hàn Quốc, Trung
Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Philippines, Bruney, Malaysia, Indonesia, Singapore,
Việt Nam) và 15 nước thành viên của EU. Diễn đàn Hợp tác Á-Âu đã được tổ chức
4 lần vào những năm 1996, 1998, 2000, 2002.
Trong Hội nghị ASEM II, III và IV, các nước EU đã đưa ra cam kết về thương
mại và đầu tư nhằm hỗ trợ các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Riêng về
thương mại, các nước EU đã cam kết nâng mức hạn ngạch cho hàng xuất khẩu của
các nước ASEAN vào EU và giảm các loại hàng chịu giới hạn quota. Do vậy
có thể nói rằng sự phát triển của ASEM góp phần không nhỏ làm tăng khả năng
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và EU:
xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU.
Sau 5 năm thực hiện Hiệp định Hợp tác Việt Nam-EU (1997-2000) đạt được
kết quả sau: EU đã trở thành một trong những đối tác kinh tế quan trọng của Việt
Nam, là bạn hàng thương mại lớn thứ hai, chiếm khoảng 14% kim ngạch ngoại
thương của Việt Nam. Cơ sở để phát triển quan hệ hợp tác giữa hai bên là:
Thứ nhất, chính sách đổi mới cho đến nay đã cho phép Việt Nam thu được
nhiều thành quả trong các lĩnh vực kinh tế và ngoại giao. Tỷ lệ tăng trưởng và trao
đổi thương mại đã tăng lên, lạm phát đã giảm, đất nước đang hội nhập vào cộng
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 91
đồng tài chính quốc tế, xã hội phát triển và đời sống nhân dân được nâng lên.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Thứ hai, với nhu cầu đòi hỏi từ quá trình phát triển kinh tế cao, EU rất cần
những thị trường đang phát triển và giàu tiềm năng như Việt Nam. Ngược lại, EU
lại có tiềm lực rất mạnh về vốn và công nghệ- cái mà Việt Nam đang rất cần để phát
triển kinh tế.
Thứ ba, cơ cấu kinh tế của Việt Nam và các nước thành viên EU hoàn toàn bổ
sung cho nhau. Do vậy, những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam lại là
những mặt hàng mà EU có nhu cầu nhập khẩu lớn và ngược lại.
Thứ tư, Việt Nam tự mình đang dần dần hoàn thiện cơ chế và chính sách quản
lý kinh tế, mở cửa thị trường nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, công nghiệp
hóa và hiện đại hóa đất nước để hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới. Đây chính
Trung Quốc gia nhập WTO và sức ép cạnh tranh:
là cơ sở bền vững cho quá trình đẩy mạnh hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và EU.
Kể từ 9/5/2000, EU ký Hiệp định Thương mại song phương với Trung Quốc,
hàng Trung Quốc vào thị trường này được hưởng nhiều ưu đãi hơn là do EU giảm
thuế từ 8%-10% cho khoảng 100 mặt hàng xuất khẩu của Trung Quốc. Đồng thời,
Trung Quốc đã chính thức gia nhập WTO vào tháng 12/2001 khiến cho sức ép cạnh
tranh từ hàng hoá Trung Quốc lại càng thêm khốc liệt. Tại thời điểm này, hàng
Trung Quốc không những được hưởng ưu đãi hơn hàng của ta về thuế mà khả năng
cạnh tranh mạnh hơn (hàng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng tốt, giá
Chiến lược mở rộng EU:
lại rẻ, nguồn cung cấp lớn và rất ổn định, đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường EU.
Kể từ ngày1/5/2004, 10 nước Hungary, Ba Lan, Czech, Slovakia, Slovenia,
Cyprus, Estonia, Latvia, Litva và quốc đảo Manta (gọi tắt là CEEC) sẽ chính thức
trở thành thành viên của Liên minh Châu Âu. Việc mở rộng này trước hết sẽ đem lại
những thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Nếu tính gộp cả 10
nước thành viên mới thì EU sẽ trở thành thị trường thống nhất lớn nhất thế giới với
sức mua của gần 500 triệu dân, GDP sẽ đạt hơn 10.000 tỷ USD, kim ngạch nhập
khẩu hàng hoá và dịch vụ cũng sẽ lên tới 1.800 tỷ USD/năm, chiếm 21,9% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ trên toàn thế giới [31]. Tại thị trường này, tầng Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 92
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
lớp giàu nghèo đa dạng hơn nên nhu cầu tiêu dùng sẽ phong phú hơn. Ngoài việc
hầu hết các nước CEEC đều là bạn hàng truyền thống của Việt Nam thời bao cấp,
có thể sử dụng như một khu vực kết nối để tiếp cận và đẩy mạnh xuất khẩu sang
EU, thì mức thuế nhập khẩu của các nước CEEC sau khi gia nhập EU sẽ thấp hơn
mức thuế hiện tại cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu của
ta.
Song, bên cạnh những thuận lợi còn có nhiều thách thức. Khi là thành viên
chính thức của EU, các nước CEEC buộc phải thực hiện theo cơ chế chính sách
thương mại của EU nên những hình thức buôn bán tiểu ngạch sẽ không thể tồn tại.
Đồng thời, toàn bộ các cam kết song phương giữa Việt Nam với những nước này sẽ
bị huỷ bỏ có thể gây nhiều lúng túng cho những DN Việt Nam bấy lâu nay chỉ quen
quan hệ với khu vực này mà chưa có kinh nghiệm và hiểu biết luật lệ của EU. Hàng
hoá của Việt Nam vào Trung, Đông Âu trước không bị đòi hỏi quá cao về chất
lượng, không gặp các hàng rào phi thuế quan nghiêm ngặt như tiêu chuẩn an toàn vệ
sinh thực phẩm, các tiêu chuẩn môi trường, lao động... tới đây sẽ phải tuân thủ các
tiêu chuẩn thống nhất của EU. Một số loại hàng vào thị trường 10 nước CEEC trước
đây không bị ấn định hạn ngạch thì nay sẽ bị quản lý theo hạn ngạch như dệt may,
Chương trình mở rộng hàng hoá của EU:
hoặc áp dụng hạn ngạch thuế quan cao như gạo, đường...
EU đang thực hiện chương trình mở rộng hàng hoá với nội dung là đẩy mạnh
tự do hoá thương mại thông qua việc giảm dần thuế quan đánh vào hàng hoá xuất
nhập khẩu, xoá bỏ chế độ hạn ngạch vào cuối năm 2004 và tiến tới bãi bỏ GSP. Đến
cuối năm 2004, EU sẽ chấm dứt giai đoạn 2 thực hiện GSP và tới nay EU vẫn chưa
có chương trình cụ thể thực hiện GSP cho giai đoạn sau, nhưng GSP của EU dành
cho các nước đang phát triển có xu hướng giảm dần.
Do vậy, nếu các doanh nghiệp Việt Nam không có chính sách cụ thể để cải
tiến, đa dạng hoá, nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu và có chiến lược thâm nhập
thị trường EU một cách thấu đáo ngay từ bây giờ thì hàng xuất khẩu Việt Nam khó
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 93
có thể đứng vững và có cơ hội xâm nhập sâu hơn vào thị trường này.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Nền kinh tế Việt Nam đổi mới theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, mở cửa nền kinh tế hội nhập với khu vực và thế giới, trong đó chủ trương
là thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu.
Với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu, hàng xuất khẩu
của Việt Nam sẽ được cải thiện về chất lượng và mẫu mã. Các doanh nghiệp Việt
Nam có thể cung cấp ra thị trường thế giới một khối lượng lớn hàng hoá và tương
đối ổn định. Quá trình này sẽ giúp cho hàng Việt Nam khắc phục được những
nhược điểm về chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng và đáp ứng được nhu cầu thị hiếu
khắt khe của thị trường EU, do đó làm tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam vào thị trường EU giai đoạn tới.
Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế:
Hiện nay, Việt Nam đã tham gia vào các Diễn đàn Quốc tế như: Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á-Thái Bình
Dương (APEC), Diễn đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM), và đang đàm phán gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO).
Tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam sẽ làm tăng sự cạnh tranh, cọ sát
giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp ASEAN, APEC, ASEM, từ
đó tạo cơ hội để các doanh nghiệp nước ta vươn lên và tăng cường năng lực cạnh
tranh quốc tế. Đồng thời, những lợi thế hiện có của Việt Nam do quá trình hội nhập
quốc tế mang lại sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp của ta và các doanh nghiệp nước
ngoài gia tăng mạnh đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam.
Điều này đồng nghĩa với năng lực sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ tăng
Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ:
mạnh và khả năng xuất khẩu là khá lớn.
Việt Nam đã ký Hiệp định thương mại song phương với Mỹ vào ngày
14/7/2000. Hiệp định này mở ra một chương mới trong quan hệ thương mại song
phương và từ nay hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ sẽ được hưởng chế độ ưu
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 94
đãi tối huệ quốc. Theo Hiệp định, thuế suất đánh vào hàng hóa của Việt Nam nhập
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
khẩu vào thị trường Mỹ sẽ giảm rất đáng kể, từ mức 40% hiện nay xuống còn 3%
và do đó nhiều doanh nghiệp Việt Nam sẽ chĩa mũi nhọn sang thị trường Mỹ. Việc
tập trung lực đẩy mạnh xuất khẩu sang EU khi đó bị phân tán, lực bị chia sẻ nên có
ảnh hưởng ít nhiều đến xuất khẩu sang EU.
2.2 Đánh giá triển vọng phát triển xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam
vào thị trường EU giai đoạn 2005 - 2010
Từ nay đến năm 2004 (năm cuối cùng của giai đoạn 2000 - 2004), hàng xuất
khẩu của Việt Nam vào thị trường EU tiếp tục được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan
(GSP) và chỉ riêng hàng dệt may bị quản lý bằng hạn ngạch. Xuất khẩu hàng dệt
may của Việt Nam vào thị trường này hàng năm gần như phụ thuộc hoàn toàn vào
hạn ngạch do phía EU ấn định. Tuy nhiên, theo Hiệp định bổ sung hàng dệt may với
EU được chính thức ký kết tại Hà Nội vào tháng 9/2003, EU đã đồng ý tăng hạn
ngạch dệt may cho Việt Nam từ 55% đối với các hạng mục nhạy cảm nhất (như quần âu, áo sơ mi) đến 70% [32]. Ngoài ra, trong những tới đây, Việt Nam có khả
năng tiếp tục xin được hạn ngạch dệt may của Singapore và Indonesia trị giá 6%-
10% hạn ngạch của Việt Nam. Hiện nay, một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam
vào EU như giày dép, dệt may và thủy hải sản đang có ưu thế hơn so với các mặt
hàng cùng loại của các nước ASEAN khác có trình độ phát triển kinh tế cao hơn
Việt Nam như Thái Lan, Indonesia,v.v... vì những mặt hàng của họ đã bị loại khỏi
danh sách được hưởng GSP. Thế nhưng nguy cơ đe dọa đối với hàng xuất khẩu Việt
Nam trên thị trường EU lúc này là cực kỳ lớn bởi đối thủ “nặng ký”nhất của ta lại là
Trung Quốc và sự quay trở lại của các nước ASEAN sau thời kỳ khủng hoảng. Tuy
có lợi thế về thuế quan để đẩy mạnh xuất khẩu vào EU, nhưng chúng ta lại đang ở
vào tình trạng không mấy thuận lợi trong cạnh tranh.
Đến cuối năm 2004, EU sẽ chấm dứt thực hiện giai đoạn 2 của chương trình ưu
đãi thuế quan phổ cập (GSP) và xoá bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may của các
nước là thành viên WTO, còn đối với những nước không phải là thành viên WTO
như Việt Nam thì chưa có chính sách cụ thể. Cho đến nay, EU vẫn chưa đưa ra
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 95
chương trình thực hiện GSP cho thời kỳ từ 2005 trở đi, nhưng họ đang tiến dần từng
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
bước giảm thuế quan và giảm ưu đãi GSP. Tới một thời điểm nhất định, hàng xuất
khẩu của các nước đang phát triển khi xâm nhập vào thị trường EU sẽ không được
hưởng GSP nữa và phải cạnh tranh bình đẳng với hàng của các nước phát triển, chịu
cùng một mức thuế như hàng của những nước này và không được hưởng các ưu đãi
khác.
Như vậy, thời kỳ 2005 - 2010 có thể xảy ra hai trường hợp: (1) Việt Nam tiếp
tục được hưởng GSP và riêng hàng dệt may vẫn chịu sự quản lý bằng hạn ngạch
của EU; (2) Hàng Việt Nam không được hưởng GSP nữa và hàng dệt may cũng
không bị quản lý bằng hạn ngạch. Nếu xảy ra trường hợp (1) thì theo chương trình
mở rộng hàng hoá của EU, ưu đãi thuế quan dành cho các nước đang phát triển sẽ
ngày càng giảm và tiến tới chấm dứt. Do đó, được hưởng GSP hay không được
hưởng GSP và hàng dệt may vẫn bị quản lý bằng hạn ngạch thì những năm này
cũng chẳng dễ dàng gì đối với xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU. Thời kỳ
2005-2010, hàng xuất khẩu của Việt Nam khi thâm nhập vào EU sẽ gặp khó khăn
hơn nhiều so với thời kỳ 2000-2004. Nếu Việt Nam gia nhập WTO trong thời kỳ
này thì hàng xuất khẩu của ta sẽ thuận lợi hơn khi thâm nhập vào EU so với thời kỳ
2000-2004.
EU là thị trường lớn, sức tiêu thụ ổn định, lại hứa hẹn có những khởi sắc về
kinh tế trong thời kỳ 2004-2010 nên việc đẩy mạnh xuất khẩu vào EU đang là một
trong những trọng điểm của chính sách thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Bên
cạnh những nỗ lực của Chính phủ, các ngành chủ đạo như da giày, dệt may và thủy
sản đang có những chương trình cụ thể để phát triển sản xuất và tăng cường xuất
khẩu sang EU. Còn các doanh nghiệp là nhân tố có ý nghĩa quyết định cho sự thành
công của xuất khẩu cũng đang nỗ lực vươn lên để thâm nhập và đứng vững trên thị
trường EU (cải tiến sản xuất: đẩy mạnh việc áp dụng tiêu chuẩn HACCP, ISO 9000,
ISO 14000 để nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng các tiêu chuẩn về vệ sinh
thực phẩm và môi trường; phát huy tính năng động..v.v...). Giai đoạn 2004-2010 tuy
không mấy thuận lợi, nhưng với những cố gắng của Chính phủ và các doanh
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 96
nghiệp, xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ vẫn trên đà phát triển, quy mô buôn
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
bán không ngừng gia tăng, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng có thể sẽ giảm chút ít (tăng
30%/năm) so với thời kỳ 1995-2003 (tăng 36,6%/năm). Cơ cấu hàng xuất khẩu Việt
Nam-EU sẽ chuyển biến theo hướng tích cực: tăng nhanh tỷ trọng hàng chế biến lên
90% (có nhiều mặt hàng xuất khẩu chế biến sâu và tinh) và giảm mạnh hàng nguyên
liệu thô xuống 10%. Trong nhóm hàng công nghệ phẩm, sẽ giảm mạnh tỷ lệ hàng
gia công và tăng tỷ lệ xuất khẩu trực tiếp (mua nguyên liệu của nước ngoài về sản
xuất và xuất khẩu), và tăng tỷ lệ sản phẩm sản xuất bằng nguyên liệu nội địa.
Cụ thể với ba nhóm hàng xuất khẩu truyền thống: giày dép, dệt may và nông
sản, kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng trưởng chậm lại. Riêng thủy hải sản sẽ có tốc độ
tăng trưởng kim ngạch cao hơn so với thời kỳ 1995-2003 vì mặt hàng này đang có
cơ hội thuận lợi để xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường EU (Mới đây, EU đã công
nhận 100 doanh nghiệp chế biến thủy hải sản của ta đạt tiêu chuẩn chất lượng và vệ
sinh, được xuất khẩu sang EU). Trong nhóm hàng nông sản xuất khẩu sang EU, hạt
điều sẽ có tốc độ tăng trưởng cao vì vùng nguyên liệu đang được phát triển mạnh;
còn chè, cà phê và một số mặt hàng khác sẽ tăng trưởng chậm hơn so với những
năm trước. Hai mặt hàng giày dép và dệt may sẽ có tỷ lệ xuất khẩu trực tiếp tăng lên
và tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm tăng nhanh.
Với cơ cấu kinh tế hoàn toàn bổ sung cho nhau, môi trường quốc tế thuận lợi,
xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế và nỗ lực của
Việt Nam, hoạt động xuất khẩu hàng hoá của ta vào thị trường EU sẽ có bước
chuyển biến vượt bậc và phát triển mạnh mẽ hơn trong những năm đầu thế kỷ mới.
Quy mô xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này sẽ được mở rộng tương xứng
với tiềm lực kinh tế của Việt Nam và nhu cầu nhập khẩu của EU. Thị trường EU có
thể sẽ chiếm tỷ trọng 21%-25% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thời
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 97
kỳ 2004-2010.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
IV. Những giải pháp chủ yếu nhằm đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn của
EU về chất lượng, môi trường và xã hội
1. Giải pháp về phía Nhà nước
1.1 Tổ chức xây dựng và củng cố lại hệ thống tiêu chuẩn quốc gia
Đổi mới hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam là một nhiệm vụ trọng tâm trong hội
nhập với quốc tế nhằm đẩy chất lượng hàng hoá trong nước lên mức ngang tầm với
các nước khác. Trước hết là việc loại bỏ các tiêu chuẩn Việt Nam đã quá lạc hậu
hay không phù hợp với đối tượng của tiêu chuẩn hoá theo yêu cầu mới. Mặc dù
trong thời gian qua, đến 80% TCVN mới được ban hành là hoàn toàn tương đương
với tiêu chuẩn Quốc tế, nâng tỷ lệ TCVN được hài hoà từ 15% năm 1995 đến 24%
năm 2003. Tuy nhiên con số này vẫn còn khiêm tốn nếu so sánh với mức độ hài hoà
tiêu chuẩn của các nước phát triển, đặc biệt là với Liên minh châu Âu.
Để thực hiện được mục tiêu này, Nhà nước cần tổ chức, xây dựng các ban Kỹ
thuật, cấp kinh phí đào tạo và hỗ trợ cho các nhà khoa học, các chuyên gia từ các
Viện nghiên cứu, các trường Đại học, các cơ quan quản lý và các doanh nghiệp tiến
hành triển khai những đề tài về hài hoà tiêu chuẩn Việt nam với tiêu chuẩn Quốc tế.
Bên cạnh công tác xây dựng và củng cố hệ thống TCVN, công tác phổ biến,
khuyến khích và quản lý việc áp dụng các tiêu chuẩn cũng không kém phần quan
trọng. Nếu như hoạt động hô hào kêu gọi sự hưởng ứng của các ngành, các doanh
nghiệp không đem lại nhiều hiệu quả thì nên sử dụng các biện pháp thiết thực hơn
như: đẩy mạnh hoạt động trao giải thưởng chất lượng cho các doanh nghiệp; kiểm
soát chặt chẽ, thẩm định chất lượng và áp dụng chế tài nghiêm ngặt đối với các
doanh nghiệp không đáp ứng các tiêu chuẩn mang tính bắt buộc... Hoạt động kiểm
tra chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu cũng phải cải tiến (trước đây chỉ chú trọng
kiểm tra chất lượng hàng nhập khẩu) để đảm bảo ốn định và nâng cao uy tín của
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 98
hàng Việt Nam trên trường Quốc tế.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
1.2 Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà
nước về chất lượng, môi trường và xã hội
Quản lý Nhà nước về chất lượng đã được thể chế hoá trong Pháp lệnh Chất
lượng hàng hoá được Quốc hội thông qua năm 1999 và có hiệu lực thi hành từ năm
2000. Năm 2000, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng đã thông qua Pháp lệnh Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng. Đồng thời, tại những thời điểm thích hợp, Chính phủ
cũng ban hành hàng loạt các Chỉ thị, Quyết định nhằm khắc phục tình trạng vi phạm
quy định về chất lượng của đối với hàng xuất khẩu của ta. Sự ra đời của các văn
bản pháp quy này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc đổi mới công tác quản
lý chất lượng trên toàn quốc, từ đó có thể nâng cao ý thức của các doanh nghiệp
xuất khẩu để cung cấp các sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cao. Tuy nhiên, việc
đưa các quy định này vào thực tiễn vẫn còn là một điều khó khăn, và thường là chỉ
có tác dụng trong ngày một ngày hai. Chính vì vậy mà tình trạng hàng hoá không đủ
tiêu chuẩn xuất khẩu vẫn còn phổ biến. Với tình thế như vậy, Nhà nước cần mạnh
tay hơn nữa, ban hành các quy định về xử phạt các doanh nghiệp vi phạm Pháp lệnh
và các chỉ thị, quy định đã đặt ra; đồng thời xúc tiến công tác tuyên truyền giáo dục
ý thức chấp hành pháp luật của các tổ chức, doanh nghiệp.
Đối với công tác Bảo vệ môi trường, hệ thống Pháp luật về Bảo vệ môi trường
của Việt Nam còn chưa thật hoàn chỉnh nền không khuyến khích được doanh
nghiệp thực hiện tốt công tác này. Vì thế, Nhà nước cần:
+ Trong Luật bảo vệ môi trường và Nghị định 175-CP hướng dẫn thi hành
Luật, cần có nhiều quy định cụ thể hơn nữa về Bảo vệ môi trường đối với hoạt động
sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tế là những quy định chung trong
Luật bảo vệ môi trường và Nghị định nói trên á dụng với mọi đối tượng, moi tầng
lớp xã hội. Riêng đói với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thì
sự điều chỉnh và quản lý thông qua các quy định cụ thể còn rất hạn chế. Một số biện
pháp hữu hiệu có thể tham khảo là: (1) Thu phí, thuế và các khoản thu khác liên
quan đến môi trường; (2) Hạn ngạch/giấy phép môi trường có thể trao đổi được; (3)
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 99
Đặt cọc phí tái chế đối với một số loại sản phẩm (ví dụ: các loại vỏ đồ hộp); (4) Các
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
biện pháp kiểm dịch động, thực vật và các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật đối với sản
phẩm; (5) Các yêu cầu về bao gói (hiện nay chưa có); (6) Các yêu cầu về hàm lượng
nguyện liệu được tái chế; (7) Giới thiệu và đưa ra nhãn mác sinh thái như một dấu
hiệu bảo vệ môi trường. Đồng thời củng cố nhiệm vụ và chức năng của Nhà nước
trong lĩnh vực Bảo vệ môi trường, đặc biệt là trong khâu giám sát thực hiện các quy
định.
+ Ban hành Luật Thuỷ sản và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật để thay thế
Pháp lệnh bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản (1989) do Pháp lệnh này đã bộc lộ
những hạn chế, ảnh hưởng đến quản lý và phát triển ngành.
Về vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Thực tế là Bộ luật lao động
của Việt Nam đã bao trùm các yêu cầu cơ bản của các bộ Quy tắc ứng xử mà nếu có
thì phía nước ngoài sẽ yêu cầu. Nhưng việc áp dụng đúng các quy định trong Bộ
luật lại rất hiếm. Ví dụ đơn giản như luật Phòng cháy chữa cháy. Khi các chuyên gia
đánh giá phỏng vấn ban lãnh đạo các doanh nghiệp về vấn đề kiểm tra của PCCC
đối với các doanh nghiệp, đều phát hiện ra rằng ngay cả PCCC cũng không áp dụng
đúng luật. Một trường hợp cụ thể là thời hạn kiểm tra định kỳ hệ thống PCCC, có
những công ty cả 2 năm trời không đuợc gặp PCCC đến một lần. Còn các trường
hợp vi phạm an toàn vệ sinh lao động thì rất phổ biến. Như vậy, mấu chốt ở đây là
việc thực thi Bộ luật Lao động của Việt Nam cần được Bộ lao động-Thương binh-
Xã hội giám sát chặt chẽ hơn nữa, không chỉ để cải thiện cuộc sống và môi trường
làm việc của người lao động mà còn thể hiện trách nhiệm đạo đức trước các đối tác
nước ngoài.
Ngoài ra trước hiện tượng nhiễu sóng thông tin về chứng chỉ SA 8000, Nhà
nước cần có biện pháp quản lý đối với các tổ chức môi giới, tư vấn và cấp phát
chứng chỉ, không để các doanh nghiệp rơi vào tình trạng lầm tưởng đây là chứng
chỉ tất yếu phải có khi muốn thâm nhập vào thị trường EU. Bộ Lao động-Thương
binh-Xã hội nên tổ chức các cuộc hội thảo về chủ đề này, giúp các doanh nghiệp có
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 100
định hướng cụ thể sao cho phù hợp nhất với ngành nghề và điều kiện của mình.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
1.3 Hỗ trợ doanh nghiệp đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn về chất
lượng, môi trường và xã hội của EU
Hỗ trợ tài chính: Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ (đặc biệt trong những ngành may mặc, chế biến nông sản, thuỷ sản, chế
biến gỗ, sản xuất gốm sứ....) nên rất hạn chế vốn trong việc đổi mới công nghệ sản
xuất cũng như đầu tư trang thiết bị xử lý môi trường. Chính vì vậy, nhà nước nên có
các biện pháp hỗ trợ hơn nữa về mặt tài chính như: (1) Miễn thuế thu nhập từ 2-4
năm cho các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu, đặc biệt với các doanh nghiệp sản
xuất hàng có hàm lượng giá trị gia tăng cao. Dành thuế ưu đãi đặc biệt cho các
doanh nghiệp thực hiện tốt công tác môi trường và xã hội; (2) Ưu tiên cho các
doanh nghiệp này vay vốn từ các nguồn tín dụng ưu đãi; (3) Nhà nước dành vốn
ngân sách hỗ trợ đầu tư hàng năm cho các chương trình quy hoạch vùng sản xuất,
các trung tâm giống quốc gia để tạo ra các giống sạch và có chát lượng (đối với các
ngành nông nghiệp và thuỷ sản), đầu tư xây dựng các trạm quan trắc cảnh báo môi
trường...
Hỗ trợ thông tin: Thông tin về thị trường xuất khẩu có vai trò rất quan trọng
giúp cho các doanh nghiệp biết được nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng về các
chủng loại sản phẩm và các quy định của thị trường để đáp ứng. Với hoạt động này,
Nhà nước nên chỉ đạo tích cực tạo ra nhiều kênh thông tin tới các doanh nghiệp,
như các ấn phẩm, trang Web, trung tâm cung cấp thông tin ..v.v. HIện nay đã có
không ít ấn phẩm và trang Web của các cơ quan hữu quan được xây dựng nhằm
mục đích này (như Bộ Thuỷ sản, Bộ Thương mại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam...) nhưng nội dung về thị
trường vẫn chưa đầy đủ, thiếu hệ thống và không mang tính cập nhật (đặc biệt là
các thông tin trên Web).
Bên cạnh đó, các Bộ, ngành chức năng cần phối hợp tổ chức các cuộc hội thảo
giới thiệu cho các doanh nghiệp về những quy định chất lượng, môi trường và xã
hội của EU đối với từng loại hàng hoá xuất khẩu, đặc biệt tập trung vào việc giải
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 101
thích nhưng quy định, tiêu chuẩn mới, đánh giá những ảnh hưởng của chúng đối với
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
hàng xuất khẩu. Trên cơ sở đó đưa ra định hướng, hướng dẫn cho các doanh nghiệp
khắc phục các rào cản kỹ thuật này.
Xây dựng cơ chế phối hợp hợp lý giữa các doanh nghiệp với các cơ quan quản
lý Nhà nước. Một giải pháp hữu hiệu là xây dựng các hiệp hội ngành hàng (theo
từng địa bàn hoặc theo từng lĩnh vực kinh doanh) để có thể đại diện trực tiếp cho
tiêng nói của các doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ).
Hỗ trợ đào tạo nhân lực: Đầu tư cho việc đào tạo các chuyên gia về xây dựng
và đánh giá tiêu chuẩn chất lượng, xã hội và môi trường trong mỗi ngành nghề,
nâng cấp các thiết bị chuyên dụng phục vụ cho công tác đánh giá đó. Xây dựng các
chương trình đào tạo thí điểm đối với các doanh nghiệp xuất khẩu (có nhu cầu cấp
thiết nhất). Chương trình thí điểm một mặt sẽ góp phần nâng cao kiến thức, kỹ năng
và ý thức trách nhiệm của các doanh nghiệp về quản lý chất lượng, môi trường và
xã hội, đồng thời cho phép đánh giá được nhu cầu và sự quan tâm của giới doanh
nghiệp đối với vấn đề này để có những giải pháp cụ thể hơn.
Hỗ trợ giải quyết tranh chấp vi phạm các quy định và tiêu chuẩn của EU, bảo
vệ lợi ích của các doanh nghiệp thông qua đàm phán thương mại: Với vị thế bất lợi
trong thương mại quốc tế, các doanh nghiệp thường bị thiệt thòi khi phải theo đuổi
các vụ kiện hoặc tranh chấp phát sinh do vi phạm của một trong các bên liên quan.
Hơn nữa, các nước phát triển ngày càng tìm cách tận dụng tối đa những công cụ
được coi là hợp pháp trong thương mại quốc tế để gây khó dễ cho các doanh nghiệp
xuất khẩu từ các nước đang phát triển như: áp dụng các tiêu chuẩn và các biện pháp
hạn chế thương mại vì mục đích bảo vệ môi trường, vì mục đích đạo đức xã hội...
Vì thế, vai trò của Nhà nước là (1) Có tiếng nói chính thức bảo vệ doanh nghiệp trên
trường quốc tế trong các trường hợp như phía đối tác tuyên truyền bất lợi cho ta; (2)
Tư vấn cho các doanh nghiệp về mặt chuyên môn pháp lý, cung cấp hoặc giới thiệu
những luật sư tin cậy chuyên trách về giải quyết tranh chấp thương mại; (3) Trong
quá trình đàm phán, yêu cầu các đối tác mở cửa thị trường, ví dụ như gia tăng hạn
ngạch dệt may, nâng cao ngưỡng phát hiện dư lượng kháng sinh đối với nông, thuỷ
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 102
sản...
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
1.4 Các giải pháp khác
Có chính sách quản lý chặt chẽ đối với hoạt động nhập khẩu theo hướng hạn
chế nhập khẩu những hàng hoá có khả năng gây ô nhiễm môi trường, không đảm
bảo vệ sinh an toàn và sức khoẻ của người lao động trong quá trình lao động như:
hoá chất, phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kháng sinh cấm sử
dụng, dây chuyền chế biến lạc hậu... Đồng thời khuyến khích nhập khẩu công nghệ
chế biến sạch, công nghệ ít gâyô nhiễm môi trường, thiết bị xử lý chất thải...
Cần có chính sách hình thành các tổ hợp sản xuất, chế biến khép kín (đặc biệt
trong nông nghiệp và thuỷ sản) để các doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi áp dụng
HACCP một cách triệt để. Hiện nay ở Việt Nam rất khó áp dụng HACCP một cách
triệt để và khép kín vì nuôi trồng tách riêng với chế biến. Trong khi các doanh
nghiệp áp dụng HACCP thì các hộ nông dân nuôi trồng lại không tuân thủ quy định
vì muốn thu lợi nhuận cao nên nguyên liệu cung cấp nhiều khi không đáp ứng tiêu
chuẩn chất lượng, dẫn đến sản phẩm không đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu.
2. Giải pháp về phía các doanh nghiệp
2.1 Cập nhật và hiểu rõ các quy định và tiêu chuẩn về chất lượng, môi
trường và xã hội của EU đối với sản phẩm doanh nghiệp cung cấp
Hệ thống các quy định và tiêu chuẩn của EU đối hàng hoá nhập khẩu khá phức
tạp và ngặt nghèo. Ngoài những quy định chung về an toàn sản phẩm (Product
Safety), Luật thực phẩm, Luật bảo vệ môi trường... còn có vô số các chỉ thị riêng
cho các nhóm sản phẩm khác nhau (Directives). Đa phần mỗi quy định lại được
điều chỉnh bởi nhiều chỉ thị. Vì vậy không thể chỉ đọc 01 chỉ thị trong số các chỉ thị
điều chỉnh 1 quy định mà có thể hiểu được quy định đó. Ví dụ như: quy định về
chất phụ gia trong thực phẩm được điều chỉnh bởi 04 chỉ thị: Chỉ thị 94/35/EEC đối
với chất làm ngọt, Chỉ thị 94/36/EEC đối với phẩm màu, Chỉ thị 88/388/EEC đối
với hương liệu, Chỉ thị 95/2/EC đối với các p hụ gia thực phẩm khác. Vì vậy muốn
hiểu rõ một quy định của EU phải đọc kỹ tất cả các chỉ thị liên quan đến quy định
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 103
đó. Chưa kể đến các tiêu chuẩn chất lượng EN áp dụng cho sản phẩm sản xuất và
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
lưu thông trong khối EU, nếu các doanh nghiệp Việt Nam tìm hiểu và tuân thủ sẽ là
thuận lợi lớn khi đưa hàng hoá vào thị trường này.
Một thực tế hiện nay là nhiều doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu vẫn chỉ
làm hàng theo khả năng chứ chưa đón bắt nhu cầu từ phía đối tác. Vì vậy, công tác
tìm hiểu thị trường vẫn còn rất yếu kém, nhiều doanh nghiệp không nhận thức được
tầm quan trọng của hoạt động này vì sợ tốn kém chi phí. Do đó mà hiện tượng “có
nghe nói về quy định này nhưng không biết rõ vì chưa được đọc văn bản, chỉ biết
rằng EU đưa ra yêu cầu rất khắt khe”là khá phổ biến.
2.2 Tăng cường áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn quốc tế về chất
lượng, môi trường và xã hội.
Các tiêu chuẩn quốc tế như tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9001, tiêu chuẩn
quản lý môi trường 14001, tiêu chuẩn HACCP... là những tiêu chuẩn chung được
nhiều nước hưởng ứng và khuyến khích áp dụng. Các doanh nghiệp Việt Nam -
trước hết là các doanh nghiệp xuất khẩu - cần phải nhận thức rõ được tầm quan
trọng của các tiêu chuẩn này vì khi có các chứng chỉ, doanh nghiệp không chỉ lấy
được lòng tin của các bạn hàng mà còn cải thiện quy trình quản lý sản xuất, nâng
cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động, đem lại lợi ích kinh tế về lâu dài
cho doanh nghiệp.
Cụ thể với hệ thống HACCP đòi hỏi phải áp dụng và tuân thủ triệt để các quy
định ngay từ khâu nuôi trồng, đánh bắt, cho đến khâu chế biến. Đây là một điều rất
khó thực hiện đối với các doanh nghiệp chế biến nông, thuỷ sản của ta vì người nuôi
trồng, khai thác nông, thủ sản là các hộ nông dân rất phân tán. Vì vậy, các doanh
nghiệp chế biến nên liên kết với các hợp tác xã nông nghiệp, nông trường... để hình
thành các tổ hợp sản xuất lớn và áp dụng hệ thống HACCP. Chú trọng áp dụng hệ
thống HACCP một cách thực sự, tránh tình trạng áp dụng tiêu chuẩn này mang tính
hình thức để đối phó với thị trường nhập khẩu như hiện nay đang diễn ra ở các
doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu.
Ngoài ra, nhằm vượt qua thách thức về yêu cầu ngày càng tăng của thị trường,
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 104
việc áp dụng phương pháp quản lý chất lượng tổng thể (TQM - Total Quality
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Management) có thể là một giải pháp. TQM là một phương pháp quản lý giải quyết
từng vấn đề trong đó cốt lõi là chất lượng trong mọi khía cạnh và nhiệm vụ của quá
trình hoạt động. Khi áp dụng TQM, nhà xuất khẩu không những phải trải qua các
giai đoạn như ISO 9000 và ISO 14000 và các vấn đề bắt buộc như nhãn hiệu CE,
HACCP mà còn phải chú ý tới tác động đối với xã hội. Tất nhiên, TQM không phải
là điều kiện để thành đạt ở thị trường châu Âu. Song, nó có thể cung cấp cho các
doanh nghiệp một công cụ quản lý hữu ích. Nó tạo ra một môi trường cho việc liên
tục cải tiến hoạt động mà các doanh nghiệp có thể cần để vượt qua đối thủ cạnh
tranh và đáp ứng những kỳ vọng của khách hàng và yêu cầu của thị trường ở mức
độ cao.
2.3 Đổi mới công nghệ và phương thức sản xuất
Các ngành sản xuất xuất khẩu của Việt Nam sở dĩ yếu kém về chất lượng đều
do những hạn chế về trang thiết bị và công nghệ (như đã phân tích ở phần thực
trạng). Do đó, đổi mới trang thiết bị và công nghệ là một yêu cầu tất yếu nếu các
doanh nghiệp xuất khẩu muốn vươn xa trên trên thị trường quốc tế.
Đối với các ngành công nghiệp nhẹ (dệt may, giày dép, sản xuất đồ gỗ...), máy
móc thiết bị hiện chủ yếu là những loại đã lạc hậu, năng suất thấp. Để phát triển
ngành sang một bước mới cần nỗ lực đầu tư để bắt kịp với công nghệ trong khu vực
và thế giới. Trường hợp các doanh nghiệp chưa có điều kiện tài chính, có thể sử
dụng hình thức thuê tài chính để đổi mới năng lực sản xuất của mình, tạo dựng tên
tuổi và uy tín với đối tác nước ngoài. Bên cạnh đó, phương thức gia công xuất khẩu
kéo dài không những đem lại hiệu quả kinh doanh ít mà còn làm cùn khả năng tự
vận động, tự sáng tạo của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp trong lĩnh vực này
nên từng bước vươn tới đầu tư xây dựng một hệ thống hoạt động kỹ nghệ liên hoàn
với 4 khâu: sáng tạo thiết kế, thu mua nguyên phụ liệu, tổ chức sản xuất và thương
mại trực tiếp.
Đối với các doanh nghiệp chế biến nông, thuỷ sản thì phương thức sản xuất và
công nghệ chế biến đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao chất lượng hàng
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 105
xuất khẩu. Đồng thời, nếu phương thức sản xuất và công nghệ chế biến không thích
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
hợp còn gây ô nhiễm môi trường, khiến cho các doanh nghiệp vi phạm quy định về
môi trường của EU. Do vậy, việc cần thiết là phải (1) cải tiến, nâng cao kỹ thuật các
trang thiết bị dùng trong chế biến, (2) thay đổi các công nghệ gây ô nhiễm môi
trường bằng các công nghệ sạch (với các doanh nghiệp hạn chế về tài chính không
có khẳ năng thay thế toàn bộ dây chuyền lạc hậu thì có thể lắp đặt bổ sung các thiết
bị chống và xử lý ô nhiễm môi trường cho dầy chuyền đang vận hành), (3) tìm hiểu
và từng bước tuân theo quy trình canh tác nông nghiệp đảm bảo GAP để cung cấp
các sản phẩm chế biến sạch.
Ngoài ra, một trong những phương pháp thâm nhập thị trường EU hữu hiệu
của hàng nông, thuỷ sản Việt Nam hiện nay là nuôi gia công. Với trình độ nuôi
trồng và chế biến của ngành còn thấp như hiện nay thì khi nuôi gia công, các doanh
nghiệp sẽ không chỉ được cả lợi ích kinh tế mà còn học được phương pháp nuôi
trồng nông, thuỷ sản đạt tiêu chuẩn chất lượng, từ đó tạo dựng chỗ đứng ban đầu
cho mình trên thị trường rộng lớn này. Theo phương pháp này, giống nông thuỷ sản,
kỹ thuật, chuyên gia, thức ăn và phương pháp nuôi do EU cung cấp và hướng dẫn
thực hiện. Phía EU sẽ cử chuyên gia sangViệt Nam để hướng dẫn phương pháp
nuôi, giám sát hoạt động nuôi và nghiệm thu sản phẩm, sau đó chuyên gia EU sẽ
kiểm tra chất lượng sản phẩm và dán nhãn mác hàng của EU trước khi xuất khẩu
sang thị trường này. Hiện nay, công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Seaprodex đã tiến
hành nuôi tôm gia công cho Nhật Bản, kết quả thu được rất khả quan, giá tôm xuất
khẩu và giá trị gia tăng của sản phẩm rất cao.
2.4 Phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc giải quyết
vướng mắc thị trường
Giải pháp này được đưa ra dựa trên trường hợp điển hình về xuất khẩu hàng
thuỷ sản của Việt Nam sang EU bị vi phạm quy định về dư lượng kháng sinh của
EU trong thời gian gần đây. Thời kỳ đầu chỉ có một số doanh nghiệp có lôhàng vi
phạm, các doanh nghiệp này đã không báo cáo với Bộ Thuỷ sản để được giúp đỡ
mà tự tìm cách giải quyết với đối tác EU, nhưng cuối cùng vẫn không thể giải quyết
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 106
được (không lấy được tiền mà cũng không xin lại được hàng để xuất sang các thị
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
trường khác). Cho đến khi số lô hàng thuỷ sản Việt Nam vi phạm quy định của EU
nhiều hơn, Uỷ ban châu Âu đã chính thức thông báo cho Bộ Thuỷ sản về tình trạng
này và kể từ tháng 9/2001, EU áp dụng biện pháp kiểm tra tăng cường đối với hàng
thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam (kiểm tra 100% các lô hàng xuất khẩu, trong khi
trước đây hàng thuỷ sản của ta chỉ bị EU kiểm tra xác suất 5%). Như vậy, hàng thuỷ
sản xuất khẩu của tất cả các doanh nghiệp (gồm cả doanh nghiệp chưa có lô hàng bị
vi phạm) đều bị kiểm tra 100%, gây bất lợi cho các doanh nghiệp và mất uy tín
đồng loạt trên các thị trường xuất khẩu.
Nếu như ngay từ đầu, các doanh nghiệp có lô hàng vi phạm phối hợp với các
cơ quan chức năng tỏng việc giải quyết vướng mắc thị trường (Bộ Thuỷ sản thực
hiện các biện pháp hạn chế sử dụng dư lượng kháng sinh bị cấm; Bộ Thương mại
chủ động đàm phán với phía EU để tìm cách giúp các doanh nghiệp tháo gỡ...) thì
chúng ta đã sớm ngăn chặn được tình trạng các lô hàng thủy sản liên tiếp bị EU từ
chối và tiêu huỷ
2.5 Các giải pháp khác
Thứ nhất, tích cực tham gia các cuộc hội thảo do phía Việt Nam, Liên minh
châu Âu hoặc cả hai bên phối hợp tổ chức về đẩy mạnh xuất khẩu sang EU, giới
thiệu các quy định và tiêu chuẩn về chất lượng, môi trường và xã hội của đối với
hàng nhập khẩu. Trên cơ sở nguồn thông tin này, đưa ra phương hướng thích hợp
điều chỉnh hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình để đảm bảo cung cấp cho thị
trường này các sản phẩm phù hợp, đạt yêu cầu.
Thứ hai, chủ động tiếp cận với các quy định của EU bằng nhiều cách: Thông
qua thương vụ của Việt Nam ở các nước thành viên EU; Phái đoàn EC tại Hà Nội;
Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam; Trung tâm xúc tiến thương mại; Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam; Trung tâm nghiên cứu châu Âu, đối tác EU;
mạng Internet....
Thứ ba, xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn có tính đến tác động của các
quy định và tiêu chuẩn của EU đối với hàng nhập khẩu vào thị trường này.
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 107
Thứ tư, thành lập các bộ phận quản lý chất lượng và môi trường với trách
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
nhiệm kiểm tra định kỳ, giám sát chất lượng, môi trường trong doanh nghiệp.
Thứ năm, rà soát lại hồ sơ kiểm soát nguyên liệu của các lô hàng đang trên
đường tới các nước EU để triệu hồi về nước những lô hàng được sản xuất bằng
nguồn nguyên liệu không đảm bảo.
Thứ sáu, tìm thị trường thay thế, hạn chế xuất khẩu vào EU những lô hàng
chưa được giám định chắc chắn về chất lượng và môi trường
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 108
.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
KẾT LUẬN
Số lượng hàng rào kỹ thuật trong thương mại đang tăng lên được coi là mối đe
dọa chủ yếu đối với nhà xuất khẩu ở các nước đang phát triển. Nhiều doanh nghiệp
đang bị mất cơ hội kinh doanh do những đòi hỏi ngày càng tăng về lượng, môi
trường và trách nhiệm xã hội từ phía đối tác nước ngoài. Vụ việc các lô hàng thuỷ
sản xuất khẩu của Việt Nam trong hai năm 2001, 2002 liên tiếp bị phát hiện vi
phạm quy định của EU về dư lượng kháng sinh, dẫn đến bị tiêu huỷ và phải chịu
chế độ kiểm tra 100% khiến ngành thuỷ sản gặp không ít khó khăn, đồng thời ảnh
hưởng đến uy tín tại các khu vực thị trường khác có thể coi là một bài học đắt giá.
Do đó, đáp ứng các tiêu chuẩn là điều kiện sống còn cho các doanh nghiệp Việt
Nam để trụ vững và thành công trên thị trường châu Âu.
Với quy mô giới hạn, khoá luận đã giải quyết được một số vấn đề sau:
Trình bày tóm gọn những quy định chung nhất (bắt buộc hoặc không bắt buộc)
về chất lượng, môi trường và xã hội mà EU hiện đang áp dụng cho hàng hoá lưu
thông trên thị trường, và do đó cho cả hàng hoá nhập khẩu
Đánh giá khái quát năng lực của Việt Nam đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn
đó như: mức độ hài hoà tiêu chuẩn của Việt Nam với EU nói riêng và quốc tế nói
chung, tình hình áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 và môi trường ISO
14000, thực tế áp dụng các quy định về đảm bảo sức khoẻ và an toàn cho người tiêu
dùng trong sản xuất hàng công nghiệp chế tạo, nông thuỷ sản và thực phẩm... Đồng
thời khoá luận cũng đi sâu vào phân tích khả năng đáp ứng các quy định đó của 4
ngành hàng xuất khẩu chính: da giày, dệt may, nông sản, và thuỷ sản
Đề xuất một số giải pháp khắc phục tình trạng yếu kém của các doanh nghiệp
Việt Nam trong việc đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn của EU, như: thu phí môi
trường, đặt cọc phí tái chế đối với một số loại sản phẩm; áp dụng phương pháp quản
lý chất lượng tổng thể TQM; nuôi gia công nông, thuỷ sản cho các đối tác EU...
Trên hết, các doanh nghiệp cần hiểu rằng đáp ứng các tiêu chuẩn này phải dựa
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 109
trên chiến lược lâu dài, chứ không chỉ là các biện pháp đối phó ngày một ngày hai.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 110
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
DANH MỤC TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
[1] “Kim ngạch xuất khẩu năm 2002, ước năm 2003 và dự báo năm 2004 theo thị
[2] “Làm ăn với ngôi sao “mọc muộn”“- Thời báo kinh tế Sài Gòn -29/08/2002).
[3] “European Union and World Trade”- Basic Statistic for European Union Trade
trường các nước”- Tạp chí Ngoại Thương - Số 21-30/10/2003 - Trang 6.
[4] Liew Mun Leong (chủ tịch tổ chức ISO) - “Tiêu chuẩn trong cuộc sống hàng
for years 2001, 2002.
ngày”- Hội thảo tham gia hoạt động tiêu chuẩn hoá quốc tế và khu vực - Tổng
[5] Dương Xuân Chung - “Hoà hợp về tiêu chuẩn với khu vực và thế giới”- Hội thảo
cục TCĐLCL - 2002.
“Tham gia hoạt động tiêu chuẩn hoá quốc tế và khu vực”- Tổng cục TCĐLCL -
[6] Định nghĩa của Tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hoá (ISO), trong dự thảo DIS
2002
[7] Ông I.J.Day (Chủ tịch BVQI, U.K) - “Chứng nhận EMS hệ thống quản lý môi
9000:2000
trường”- Hội nghị chất lượng Việt Nam lần thứ hai - Tổng cục tiêu chuẩn, đo
[8] Nguyễn Mạnh Cường - “Nhận biết vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
lường, chất lượng - 11/1997
trong bối cảnh Việt Nam hội nhập Quốc Tế”- Hội thảo về trách nhiệm xã hội
[9] “Kỷ yếu 40 năm hoạt động và phát triển 1962 - 2002”- Tổng cục tiêu chuẩn, đo
của doanh nghiệp CSR - Bộ LĐ-TB-XH - 2002.
[10] Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá ISO - "The ISO Survey of ISO 9000 and ISO
lường, chất lượng - NXB KH&KT
14000 - Twelfth Cycle: up to and including December 2002" - www.iso.org -
[11] Vietnam Investment Review - 21-27 December, 2002 - www.vir.com.vn
[12] “EU huỷ bỏ lệnh cấm nhập khẩu đối với 6 doanh nghiệp”- Tạp chí Thông tin
2003
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 111
Khoa học Công nghệ Thuỷ sản - số tháng 8/2003 - www.fistenet.gov.vn
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
[13] Thanh Liêm - “Thực trạng, giải pháp quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực
[14] Thanh Liêm - “Nông sản thực phẩm và hoạt động tiêu chuẩn hoá trong lĩnh
phẩm”- Tạp chí TCĐLCL - Số 8(49)/2003 - Trang 16.
[15] Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá ISO - "The ISO Survey of ISO 9000 and ISO
vực NSTP ở Việt Nam”- Tạp chí TCĐLCL - Số 7/2003 - Trang 42
[16] Phùng Thị Vân Kiều - Báo cáo tổng hợp Nhiệm vụ của Nhà nước về bảo vệ
14000 - up to and including December 2002”- www.iso.org - 2003.
môi trường: “Các quy định về môi trường của Liên minh châu  u (EU) đối với
nhập khẩu hàng nông, thuỷ sản và các giải pháp đáp ứng các quy định, tiêu
chuẩn môi trường đối với hàng xuất khẩu Việt Nam vào thị trường EU”- Viện
[17] Tổ chức SAI - “SA 8000 Certified Facilities, up dated September, 2003”-
nghiên cứu Thương mại - 09/2003.
[18] Bình Yên & Phong Lan - “Doanh nghiệp không buộc phải mua chứng chỉ SA
www.sa-intl.org/Accreditation/Certification.htm
[19] Cao Huệ Anh & Vũ Đức Thắng - “Đánh giá và chứng nhận SA 8000 - Một số
8000”- Báo điện tử VnExpress ngày 24/8/2002 - www.vnexpress.net
thuận lợi và khó khăn”- Hội nghị toàn quốc Câu lạc bộ ISO Việt Nam - kỷ niệm
[20] Phi Hùng - “Có cần tốn tiền mua SA 8000?”- Báo Doanh nghiệp - Số 34
2 năm thành lập CLB - 02/2002
[21] EU Economic and Commercial counsellors - “2003 Annual Report”- the
(22/8/02 - 28/8/02) - Trang 5
European Commision’s Delegation in Vietnam - www.delvnm.cec.eu.int - May,
[22] “Tình hình sản xuất kinh doanh 5 tháng đầu năm 2003 của ngành da giày Việt
2003.
Nam”- Bản tin hàng tháng của Hiệp hội da giày Việt Nam, số tháng 6/2003 -
[23] Thông tin chuyên đề “Thực trạng và tiềm năng trong quan hệ thương mại giữa
www.lefaso.org.vn
Việt Nam và EU”- Phòng thông tin tư liệu - Viện nghiên cứu Thương mại - Bộ
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 112
Thương mại - 2002
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
[24] Trần Khắc Kiên - “Thực trạng và định hướng phát triển ngành công nghiệp da
giày Việt Nam trong thời gian tới”- Hội thảo “Chương trình mục tiêu phát triển
[25] Số liệu thống kê của Tổng Cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng -
ngành da giày Việt Nam”- Hiệp hội da giày Việt Nam - 5/2002
[26] Công ty cổ phần thông tin kinh tế đối ngoại (Chu Viết Luân chủ biên) - “Dệt
www.tcvn.gov.vn - cập nhật đến tháng 9/2003.
[27] “Xuất khẩu dệt may sang EU sẽ nóng dần lên”- Tạp chí Ngoại Thương Số 21-
may Việt Nam - Cơ hội và thách thức”- Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - 2003.
[28] Nguyễn Cao Bình (Tổng công ty dệt may Việt Nam) - “Thực trạng thiết bị và
31/7/2003 - Trang 14.
công nghệ ngành dệt may Việt Nam”- Báo cáo tại Hội thảo xúc tiến xuất khẩu
dệt may sang EU - Trung tâm đầu tư và xúc tiến thương mại Tp. Hồ Chí Minh
[29] Số liệu thống kê của phái đoàn EC tại Việt Nam (European Commission’s
(ITPC) - 6/2003.
[30] Thu Phương - “HACCP với việc mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản”- Tạp
Delegation in Vietnam) - www.delvnm.cec.eu.int - 2002.
[31] Đình Chúc - “Liên minh châu  u mở rộng từ 15 lên 25 thành viên: Những
chí Thuỷ sản - số tháng 1/2003 - www.fistenet.gov.vn
thách thức mới đối với doanh nghiệp Việt Nam”- Báo Lao động điện tử -
[32] “Hạn ngạch dệt may của Việt Nam vào EU sẽ tăng từ 55-70%”- Báo Lao động
www.laodong.com.vn - Số 282, ngày 9/10/2003.
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 113
điện tử - www.laodong.com.vn - Số ra ngày 9/9/2003.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Danh mục Tiếng Việt
1. Đinh thị Quỳnh Anh - Khoá luận tốt nghiệp “Thực trạng và giải pháp đẩy
mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU giai
đoạn 2000 - 2010”- Trường Đại học Ngoại Thương - 2001.
2. Nguyễn Mạnh Cường - “Nhận biết vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp trong bối cảnh Việt Nam hội nhập Quốc Tế”- Hội thảo về trách nhiệm
xã hội của doanh nghiệp CSR - Bộ LĐ-TB-XH - 2002.
3. Nguyễn Thái Hùng - Báo cáo “Hài hoà tiêu chuẩn trong lĩnh vực thuỷ sản”-
Trung tâm tiêu chuẩn chất lượng - Tổng cục TCĐLCL - 2002
4. Phùng Thị Vân Kiều - Đề tài khoa học cấp Bộ “Các giải pháp đẩy mạnh hoạt
động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn 2000 -
2010”- Viện nghiên cứu Thương mại - Bộ Thương mại - 2000.
5. Phùng Thị Vân Kiều - Báo cáo tổng hợp Nhiệm vụ của Nhà nước về bảo vệ
môi trường: “Các quy định về môi trường của Liên minh châu  u (EU) đối
với nhập khẩu hàng nông, thuỷ sản và các giải pháp đáp ứng các quy định,
tiêu chuẩn môi trường đối với hàng xuất khẩu Việt Nam vào thị trường EU”-
Viện nghiên cứu Thương mại - 09/2003.
6. Chu Viết Luân (chủ biên) - Sách “Dệt may Việt Nam - Cơ hội và thách thức”-
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - 2003.
7. Đỗ Thị Ngọc - Luận án tiến sĩ khoa học kinh tế “Nghiên cứu xây dựng mô hình
quản lý chất lượng phù hợp với các doanh nghiệp Việt Nam”- Trường ĐH
Thương Mại - 2000.
8. Trần Sửu & Nguyễn Chí Tụng (Trường Đại học Ngoại Thương) - “Quản lý
chất lượng hàng hoá và dịch vụ”- NXB Khoa học Kỹ thuật - 1996.
9. Nguyễn Văn Xuân - Báo cáo “Hài hoà tiêu chuẩn trong lĩnh vực nông sản thực
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 114
phẩm”- Trung tâm tiêu chuẩn chất lượng - Tổng cục TCĐLCL - 09/ 2002
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
10. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam & Trung tâm thông tin châu Âu
tại Việt Nam - Sách “Kinh doanh với thị trường EU”- 2002.
11. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - Sách “EU- thị trường xuất
khẩu”- 2001.
12. Phòng thông tin tư liệu - Thông tin chuyên đề “Thực trạng và tiềm năng trong
quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU”- Viện nghiên cứu Thương mại - Bộ
Thương mại - 2002
13. Phòng thông tin tư liệu - Thông tin chuyên đề “Tình hình sản xuất và xuất
khẩu thuỷ sản Việt Nam năm 2002”- Viện nghiên cứu Thương mại - 12/2002.
14. Phòng thông tin tư liệu - Thông tin chuyên đề “Quan hệ thương mại của Việt
Nam với một số nước và khu vực”-- Viện nghiên cứu Thương mại - 8/2002.
15. “Niên giám thông kê 2002”- NXB Thống kê - 2002.
16. “Kỷ yếu 40 năm hoạt động và phát triển 1962 - 2002”- Tổng cục tiêu chuẩn,
đo lường, chất lượng - NXB KH&KT - 2002
17. “Luật bảo vệ môi trường và Nghị định 175 CP hướng dẫn thi hành Luật”-
NXB Chính trị Quốc gia - 1997
18. “Bộ luật lao động Việt Nam”- NXB Chính trị Quốc gia - 2002
19. “Một số văn bản qui phạm pháp luật về tiêu chuẩn đo lường chất lượng”-
Tổng cục TCĐLCL - 2002.
20. “Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000 - Các yêu cầu”- 2000
21. Báo cáo “Hội nghị chất lượng Việt Nam lần thứ 2”- Tổng cục TCĐLCL -
11/1997
22. Báo cáo “Hội nghị chất lượng Việt Nam lần thứ 4”- Tổng cục TCĐLCL - 2001
23. Báo cáo “Hội thảo về hệ thống quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm
theo HACCP”- Vụ kỹ thuật - Bộ thuỷ sản - 09/2001.
24. Báo cáo hội thảo “Tham gia hoạt động tiêu chuẩn hoá quốc tế và khu vực”-
Tổng cục TCĐLCL - 2002.
25. Báo cáo “Hội nghị toàn quốc - Câu lạc bộ ISO Việt Nam - kỷ niệm 2 năm
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 115
thành lập CLB”- 02/2002
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
26. Báo cáo “Hội nghị tổng kết hoạt động uỷ ban tiêu chuẩn hoá thực phẩm Việt
Nam”- 06/2003.
27. Tạp chí “Ngoại Thương”- Các số tháng 6, 7, 8, 9, 10 năm 2003
28. Tạp chí “Những vấn đề kinh tế thế giới”- Số 1(75) 2002; 2(82) 2003.
29. Tạp chí “Người lao động”- Số 08/2002.
30. Tạp chí “Doanh nghiệp”- Số 08/2002.
31. Tạp chí “Tạp chí TCĐLCL”- Các số 10(27) năm 2001; 3(44), 5(46), 6(47),
7(48), 8(49) năm 2003.
32. Tạp chí “Nghiên cứu châu  u ”- Số 3(51).2003
33. Các trang web www.europa.eu.int/eur-lex; www.newapproach.org;
www.eu.int/eurostat.html, www.tcvn.gov.vn; www.agroviet.gov.vn;
www.fistenet.com.vn, www.lefaso.org.vn, www.laodong.com.vn,
www.vnn.vn
II. Danh mục Tiếng Anh
1. EU Economic and Commercial counsellors - “2003 Annual Report”- the
European Commision’s Delegation in Vietnam - www.delvnm.cec.eu.int -
May, 2003.
2. International Organization for Standardardization (ISO) - “Environmental
management systems ISO 14001 - Specification with guidance for use”- First
Edition 09/1996.
3. International Organization for Standardization - "The ISO Survey of ISO 9000
and ISO 14000 - up to and including December 2002”- www.iso.org - 2003.
4. Social Accountability International (SAI) - “SA8000”- www.sa-intl.org.
5. Social Accountability International (SAI) - “SA8000 Certified Facilities”-
updated September 30, 2003 - www.sa-intl.org/Accreditation/Certification.htm
“Directive 92/2/EC on Food Additives”- www.cbi.nl 6.
“Directive 94/62/EEC on Packaging and Packaging Waste”- www.cbi.nl 7.
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 116
“Directive 2001/95/EEC on General Product Safety”- Official Journal of the 8.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
European Communities - 15/01/2002.
9. “Directive 91/493/EEC laying down the health conditions for the product and
the placing on the market of fishery products”- www.cbi.nl
10. “Guide to the implementation of Directive based on the New Approach and
the Global Approach - CE marking”- europa.eu.int/celex
11. “Pan-European Biological and Landscape Diversity Strategy: Good
Agriculture Practice”- Mrs Anneli Bamber-Jones, WWF - 2001
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 117
12. “White paper on Food Safety”- europa.eu.int/comm/
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
PHỤ LỤC 1
Danh sách các loại thuốc trừ sâu và lượng cho phép trong sản phẩm nông nghiệp
1 CHLORPYRIFOS-0.01mg/kg(1982)
31 FENSULFOTHION - 0.0003 mg/kg
2
32
CHINOMETHIONAT-0.006 mg/kg (1987)
CHLORPYRIFOS-METHYL – 0.01 mg/kg (1992)
3 2,4-D-0.01 mg/kg(1996)
33 FENTIN - 0.0005 mg/kg
4 DDT - 0.02 mg/kg
34 HIDROGEN-CYANIDE - 0.05 mg/kg
5 DIAZINON - 0.002 mg/kg
35 HEPTACHLOR - 0.0001mg/kg (1965)
6 DICHLORVOSH- 0.004 mg/kg
36 FOLPET - 0.1mg/kg (1995)
7 DICOFOL - 0.002 mg/kg
37 LINDANE - 0.001mg/kg
8 DIMETHOATE - 0.002 mg/kg
38 MALATHION - 0.3mg/kg (1997)
9 DIOXATHION - 0.00015mg/kg (1968)
39 METHIDATHION - 0.001mg/kg (1992)
10 DIPHENIL - 0.125 mg/kg (1967)
40 ETHYLENE-THIOUREA 0.004mg/kg
11
41
CHLOROTHALONIL – 0.03mg/kg (1990)
MONOCROTOPHOS - 0.0006mg/kg (1993)
12 DIPHENYLAMINE – 0.08 mg/kg (1998)
42 IMAZALIL - 0.03mg/kg (1991)
13 ENDOSULFAN – 0.006 mg/kg
43 PHENYPHENOL - 0.02mg/kg (1990)
14 ENDRIN – 0.0002 mg/kg
44 PARAQUAT - 0.004mg/kg (1986)
15 ETHION – 0.002 mg/kg (1990)
45 THIABENDAZOLE - 0.1mg/kg
16 ETHOXYQUIN – 0.005 mg/kg (1998)
46 PHOSALONE - 0.02mg/kg (1997)
17 FENCHLORPHOS – 0.1 mg/kg (1968)
47 PHOSPHAMIDON - 0.0005mg/kg (1986)
18 FENITOTHION-0.005 mg/kg(1988)
48 PIBERONYL-BUTOXIDE - 0.2mg/kg
19 PYRETHRINS - 0.04mg/kg (1972)
49 FENAMIPHOS - 0.0008mg/kg (1997)
20 QUINTOZENE - 0.01mg/kg (1995)
50 DINOCAP - 0.08mg/kg (1998)
21
51
AZINPHOS-METHYL - 0.005 mg/kg (1991)
PIRIMIPHOS-METHYL - 0.03mg/kg (1992)
22 TRICHLORFON- 0.01mg/kg (1987)
52 FENTHION - 0.007mg/kg (1995)
23 CUHEXATIN - 0.007mg/kg (1994)
53 BIORESMETHRIN - 0.03mg/kg (1991)
24 ALDRIN&DIELDRIN-0.0001mg/kg
54 METHOMYL - 0.03mg/kg (1989)
25
55
BROMOPROPYLATE - 0.03mg/kg (1993)
MALAIC-HIDRAZIDE - 0.5mg/kg (1996)
26 CARBENDAZIM -0.03mg/kg(1995)
56 CARBOFURAN - 0.002mg/kg (1996)
27 DEMETON-S-METHYL-0.0003 mg/kg
57
METHAMIDOPHOS - 0.004mg/kg (1990)
28 DISULFOTON - 0.0003mg/kg
58 EDIFENPHOS - 0.003mg/kg (1981)
29 PROPOXUR - 0.02mg/kg
59 PIRIMICARB - 0.02mg/kg (1982)
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 118
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
30 THIOPHANATE-METHYL 0.08mg/kg
60 ACEPHATE - 0.03mg/kg (1988)
61 THIOMETON - 0.003mg/kg (1979)
77 PHOSMET - 0.01mg/kg (1994)
62 VAMIDOTHION - 0.008mg/kg (1988)
78 DAMINOZIDE - 0.5mg/kg (1989)
63 AMITROLE - 0.002mg/kg (1997)
79 ETHEPHON - 0.05mg/kg
64 CRUFOMATE - 0.1mg/kg (1968)
80 ETHIOPHENCARB - 0.1mg/kg (1982)
65 DIQUAT - 0.002mg/kg (1997)
81 MEVINPHOS - 0.0008mg/kg (1996)
66
82
BROMOPHOS-METHYL - 0.003 mg/kg (1975)
FENBUTATIN-OXIDE - 0.03mg/kg (1997)
67 DICLORAN - 0.01mg/kg (1998)
83 IPRODIONE - 0.06mg/kg (1995)
68 DODINE - 0.01mg/kg (1976)
84 PHORATE - 0.0005mg/kg (1994)
69
85
PARATHION-METHYL - 0.03 mg/kg (1995)
CARBOPHENOTHION - 0.003mg/kg (1979)
70 PROPAGITE - 0.25mg/kg (1982)
86 CARBARYL - 0.003mg/kg (1996)
71 BROMOPHOS - 0.04mg/kg (1997)
87 BENOMYL - 0.1mg/kg (1995)
72 PARATHION - 0.004mg/kg (1995)
88 CHLORDANE - 0.0005mg/kg
73 DICHLOFLUANID - 0.3mg/kg (1983)
89 CHLOMEQUAT - 0.05mg/kg (1997)
74
90
ADRIL&DIELDRIN - 0.0001mg/kg (1994)
CHLORFENVINPHOS - 0.0005mg/kg (1994)
75 CAPTAN - 0.1mg/kg
91 CHLOROBENZILATE - 0.02mg/kg
76 CHLORPYRIFOS - 0.01mg/kg (1982)
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 119
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
PHỤ LỤC 2
Các chất kháng sinh bị cấm và hạn chế
1. Các chất kháng sinh EU cấm hoàn toàn (dư lượng = 0)
Tên kháng sinh EU Mỹ Nước khác Chú thích
Aristolochia spp và - Nhật, - Luật thực phẩm của
1
x các chế phẩm của Canada, Úc EU sẽ nâng số chất bị
chúng cũng cấm cấm hoàn toàn lên 26
2 Chloramphenicol
các chất chất vào năm 2005 x x
3 Chloroform
tương - Tác hại của dư x
4 Chlorpromazine
đương như lượng kháng sinh bị x x
5 Colchicine
EU và Mỹ. cấm là gây ung thư, x
6 Dapson
- Codex hoại tuỷ, thiếu máu x
7 Dimetridazole
cũng cấm ác tính, nhờn thuốc. x x
8 Metronidazole
một số chất -Chloramphenicol, x
9
trong đó có Chlorpromazine, Nitrofuran (bao gồm x x Chloram- Dimetridazole, Furazolidone)
10 Ronidazole
phenicol Metronidazole, x
11 Lpronidazone
Furazolidone, x
12 Clenbutezole
Ronidazole, x
13 Diethylstilbestrol
Lpronidazone, và x
14 Nitroimidazole
Nitroimidazole là x
những chất gây ô Sulfonamid (trừ dùng
15
nhiễm môi trường cho gia súc lấy sữa x
(07 chất đầu có trong hàng ngày)
16 Fluroquinolone
Luật Thực phẩm và x
17 Glycopeptide
Chỉ thị 96/23/EEC x
∑
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 120
của EU) 17 chất 10 chất 11 chất
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
2. Các chất kháng sinh EU hạn chế (cho phép sử dụng nhưng quy định giới hạn tối đa)
TT
Tên kháng sinh
1
Nhóm Sunfonamide
2
Benzylpenicillin
3
4
Ampicillin
Amoxicillin
5
Oxitetracycline
6
Tetracycline
7
Oxacillin
8
Cloxacillin
9
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 121
Dicloxacillin
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
PHỤ LỤC 3
Chất phụ gia trong thực phẩm
Không được cho phụ gia vào các thực phẩm sau đây (trừ trường hợp đặc biệt) 1. Thực phẩm chưa chế biến
2. Nước uống đóng chai và đóng thùng
20. Sữa chocolate
3. Sữa, pho mát tươi hay tiệt trùng
21. Sữa lên men
4. Sữa được bảo quản theo Chỉ thị 76/118/EEC
22. Bơ
5. Dỗu và mỡ có nguồn gốc động vật hay thực vật
23. Kemvà bột kem
6. TRứng và các sản phẩm từ trứng
24. Súp cà chua
7. Bột mì và các sản phẩm từ bột
25. Nước hoa quả
8. Bánh mì và các sản phẩm tương tự
26. Mứt
9. Mì ống và gnocchi
27. Dấm
10. Thức ăn cho trẻ em
11. Đường, bao gồm đường monosacarit và disaccarit
12. Bột khoai tây và đóng hộp; cà chua đóng hộp
13. Trái cây, rau (bao gồm khoai tây) và nấm sấy khô, đóng khô, đã qua chế biến
14. Thịt gia cầm, cá, động vật thân mềm, động vật có vỏ
15. Sản phẩm coca và thành phần chocolate trong sản phẩm chocolate
16. Cà phê rang, chè, rau diếp xoăn hay chất chiếttừcác loại đó
17. Muối, các sản phẩm thay thế muối, gia vị, gia vị hỗn hợp.
18. Đường malt và các sản phẩm của nó
19. Bơ được làm từ sữa cừu và sữa dê
Đối với phụ gia thực phẩm là phẩm màu
28. Mật ong
động cuả quá trình chế biến, lưu kho, đóng gói và phân phối. Đồng thời nó cũng mang lại một bề
ngoài hấp dẫn. Chỉ được dùng các chất màu đã quy định trong chỉ thị 94/36/EC để làm phụ gia trong
thực phẩm:
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 122
- Phẩm màu được thêm trong thực phẩm để giữ ổn định màu của thực phẩm khi bị sự tác
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
1. Riboflavin và Riboflavin - 5 - photphat.
2. Clophyl và Clophylin
9. Chất Caramen
3. Phức đồng Clopyl và Clophylin
10. Sulphit caramen
4. Ammonia caramen
11. Cacbon thực vật
5. Sulphit ammonia caramen
12. Carotin
6. Tinh dầu ớt, Capcxaixin, Capsorubin
13.Antoxian
7. Củ cải đường đỏ, Betanin.
14. Canxi cacbonat
8. Ion oxit và hyđroxit
Đối với phụ gia thực phẩm là chất làm ngọt
Thực phẩm có chất làm ngọt thì trên bao bì phải ghi tên chất làm ngọt đã dùng hoặc chất làm
ngọt đó phải có thành phần từ những thành tố làm ngọt ghi trên bao bì. Việc dán nhãn mác sản phẩm
có chất làm ngọt phải ghi khuyến cáo “sử dụng quá nhiều sẽ gây nên bệnh đường ruột” và phải chỉ
rõ chất làm ngọt có nguồn gốc từ đâu.
Đối với phụ gia thực phẩm là hương liệu
Hương liệu được sử dụng trong thực phẩm làm cho thực phẩm ngon hơn và thơm hơn. Hương
liệu là nguồn bổ sung vào thực phẩm. Hương liệu được chế biến từ các nguồn khác nhau và được
chia thành hai loại: loại được coi như là thực phẩm và loại không được coi như là thực phẩm. Cụ thể như sau:
15. Tio2
phẩm
- Hương liệu được làm từ thực phẩm hay từ thảo mộc hay từ gia vị được coi như là thực
thực phẩm.
- Hương liệu được làm từ rau hay nguyên liệu thô từ động vật thì không được coi như là
chế biến từ rau qua, nguyên liệu thô từ động vật có sử dụng enzim hay vi sinh vật.
- Các hợp chất làm hương liệu thu được từ các quá trình chế biến vật lý hợp lý hay quá trình
tách hóa học giống với các hợp chất hương liệu tự nhiên có trong thực phẩm hay thảo mộc hay gia vị
được coi là thực phẩm
Hương liệu dùng làm phụ gia thực phẩm phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Các hợp chất hóa học làm hương liệu được chế biến từ quá trình tổng hợp hóa học hay
tên kinh doanh và địa chỉ của nhà sản xuất, nhà đóng gói hay nhà phân phối không được ghi một
cách rõ ràng, dễ đọc và không thể tảy xóa; (2) Tên “flavouring” hay các tên đặc biệt khác không
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 123
- Hương liệu không được đưa ra thị trường để bán cho người tiêu dùng cuối cùng nếu: (1)
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
được mô tả đầy đủ và rõ ràng, chính xác; (3) Lượng các loại hương liệu chứa trong nó không được
cung cấp rõ ràng, dễ đọc và có thể tẩy xóa.
nguyên tố hay hợp chất nào có hàm lượng độc tố nguy hiểm; Phải tuân theo bất cứ một tiêu chuẩn
nào về độ tinh khiết; Không chứa hơn 3mg/kg asenic, chì không quá10mg/kg, catni không quá
1mg/kg và thủy ngân không quá 1mg/kg.
- Hương liệu dùng làm phụ gia thực phẩm phải đảm bảo rằng: Không chứa bất kỳ một
Bảng 1: Lượng tối đa chất làm hương vị có mặt trong thực phẩm và đồ uống
- Lượng hương liệu và thành phần hương liệu phải tuân theo các bảng sau:
Chất
3,4 – benzopyrene
Trong thực phẩm Trong đồ uống
Bảng 2: Lượng tối đa chất làm từ hương liệu hay một thành phần nào đó của thực phẩm có
tính chất là hương liệu có trong thực phẩm.
0,03mg/kg 0,0 mg/kg
Chất
Axit Agaric
Trường hợp đặc biệt Trong thực phẩm (mg/kg) Trong đồ uống
Aloin
20 20 100 mg/kg trong thức uống có cồn hay thực phẩm có chứa nấm.
Beta Asaron
0.1 0.1 50 mg/kg trong thức uống có cồn.
Becberin
0.1 0.1 1 mg/kg trong thức uốn có cồn và gia vị trong thức ăn snack.
0.1 0.1 10 mg/kg trong thức uống có cồn.
Cumarin
10 mg/kg trong các loại mứt kẹo caramen
2 50 mg/kg kẹo cao su 2
10 mg/kg trong thức uống có cồn.
Axit Cianua
50 mg/kg trong keo nuga, bánh hạnh nhân và các sản phẩm thay thế khác 1 1
1 mg/% thể tích cổn trong thức uống có cồn.
Hypericine
Pulegone
10 mg/kg trong thức uống có cồn 0.1 0.1 1 mg/kg trong mứt kẹo
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 124
25 100 250 mg/kg trong keo bạc hà và thức uống
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
có hương vị bạc hà
350 mg/kg trong mứt kẹo bạc hà.
Quassine
10 mg/kg trong mứt kẹo và kẹo thơm 5 5 50 mg/kg trong thức uống cóc cồn.
Safrole và Iso Safrole
1 1 2 mg/kg trong thức uống có cồn dưới 25% và 5 mg/kg trong thức uống có cồn trên 25%
Santonin
15 mg/kg trong thực phẩm.
0.1 0.1 1 mg/kg thức uống có cồn trên 25%
Alpha và Beta Thuyone
5 mg/kg trong thức uống có cồn dưới 25% và 10 mg/kg trong thức uống có cồn trên 25% 0.5 0.5
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 125
25 mg/kg trong thực phẩm có cây xô thơm. 35 mg/kg trong hương liệu đắng.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
PHỤ LỤC 5
Hệ thống Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN hiện hành (xếp theo khung phân loại quốc tế)
Số lượng tiêu chuẩn
LOẠI TIÊU CHUẨN
Mã số
Hiện hành
Hài hòa với TCQT
01 Vấn đề chung. Thuật ngữ. Tiêu chuẩn hóa. Tư liệu
398
98
03
55
30
Xã hội học. Dịch vụ. Tổ chức và quản lý công ty. Hành chính. Vận tải
07 Khoa học tự nhiên
46
20
11 Chăm sóc sức khỏe
79
34
13 Bảo vệ môi trường và sức khỏe. An toàn
570
271
17 Đo lường và phép đo. Hiện tượng vật lý
285
25
19 Thử nghiệm
27
16
21 Hệ thống và kết cấu cơ khí công dụng chung
475
1
23
225
60
Hệ thống và kết cấu truyền dẫn chất lỏng công dụng chung
25 Chế tạo
282
26
27 Năng lượng và truyền nhiệt
56
23
29 Điện
288
75
31 Điện tử
76
4
33 Viễn thông
51
12
35 Thông tin. Thiết bị văn phòng
14
4
37 Quang học. Chụp ảnh. Điện ảnh. In
8
2
39 Cơ khí chính xác. Kim hoàn
1
1
43 Đường bộ
179
51
45 Đường sắt
3
0
47 Đóng tàu và trang bị tàu biển
173
5
53 Thiết bị vận chuyển vật liệu
20
0
55 Bao gói và phân phối hàng hóa
34
5
59 Dệt và da
149
38
61 May mặc
15
0
65 Nông nghiệp
274
81
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 126
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
67 Thực phẩm
537
240
71 Hóa chất
171
26
73 Khai thác mỏ và khoáng sản
145
42
75 Dầu mỏ
193
63
77 Luyện kim
293
63
79 Gỗ
74
5
81 Thủy tinh và gốm
15
2
83 Cao su và chất dẻo
83
55
85 Giấy
63
8
87
Sơn và chất màu
30
4
91 Vật liệu xây dựng và nhà
26
16
93 Xây dựng dân dụng
11
0
97 Nội trợ. Giải trí. Thể thao
49
10
Tổng số
5197
1273
(Nguồn: Kỷ yếu 40 năm hoạt động và phát triển – Tổng cục TCĐLCL)
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương Trang 127
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Nghiªm Quúnh Nga – Anh2 K38
PHỤ LỤC 6
So sánh các tiêu chuẩn của SA 8000 với Bộ luật lao động Việt Nam
SA 8000
BỘ LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Yêu cầu 1: LAO ĐỘNG TRẺ EM
1.1 Không được thuê mướn hoặc hỗ trợ việc sử dụng lao động trẻ em (LĐTE) (dưới 15 tuổi), ở các nước đang phát triển có thể là 14 tuổi.
Cấm tuyển trẻ em dưới 15 tuổi. Cho phép một số nghề và công việc nhận trẻ em chưa đủ tuổi, nhưng phải có sự đồng ý và theo của cha mẹ hoặc người đỡ đầu (điều 16, 120)
1.2 Thiết lập, cung cấp tài liệu, duy trì, truyền đạt đến các bên về chính sách và thủ tục đền bù LĐTE.
Lao động dưới 18 tuổi là lao động chưa thành niên và p hải có chế độ theo dõi riêng (điều 119, 121, 122). Lao động chưa thành niên không làm việc quá 7 giờ/ngày (42 giờ/tuần).
1.3 Tạo điều kiện để trẻ em đến trường. Thời gian làm
việc của LĐTE dưới 10 giờ/ngày.
1.4 LĐTE hoặc lao động nhỏ tuổi (LĐNT) không được bố trí làm việc ở những nơi nguy hiểm, không an toàn,....
Luật giáo dục Việt Nam (điều 22) về độ tuổi bắt buộc ở bậc tiêu học và phổ thông cơ sở là 6- 14 tuổi. Thông tư liên bộ 09/TTLB, ngày 13/4/1995 của Bộ Y tế và Bộ Lao động thương binh xã hội qui định chi tiết 13 điều kiện lao đọngcos hại ứng với 81 công việc cấm sử dụng lao động chưa thành niên.
Yêu cầu 2: LAO ĐỘNG CƯỠNG BỨC
2.1 Không được can dự hoặc hỗ trợ việc sử dụng lao
Cấm ngược đãi người lao động; cấm cưỡng bức
động cưỡng bức, không tình nguyện.
người lao động dưới bất cứ hình thức nào (điều 5)
2.2 Không được buộc người lao động thế chấp, “đặt
cọc” hoặc ký gửi bằng giấy tờ tuỳ thân.
Yêu cầu 3: SỨC KHOẺ VÀ AN TOÀN
3.1 Đảm bảo môi trường làm việc an toàn và sức khoẻ
- Ngăn ngừa các tai nạn, thương tổn. - Giảm thiểu nguy cơ gây hiểm nguy môi
Điều 95 đến điều 101: trang bị đầy đủ những phương tiện bảo hộ lao động. Bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động, cải thiện điều kiện lao động.
trường làm việc
3.2 Chỉ định một đại diện lãnh đạo cấp cao chịu trách
nhiệ về sức khoẻ và an toàn cho moi người
Nghị định 06/NĐ-CP ngày 20-01-1995: người sử dụng lao động phải cử người giám sát việc thực hiện các qui dịnh, nội qui, biện pháp an toàn ao động, vệ sinh lao động,... thiết lập hệ thống y tế cơ quan. Điều 102: tổ chức huấn luyện về những qui định, biện pháp làm việc an toàn, vệ sinh và những khả năng tạn cần đề phòng.
3.3 Tất cả được huấn luyệnthường xuyên về sức khoẻ và an toàn, huấn luyện cho các nhân viên mới, có hồ sơ lưu trữ.
Điều 97 đến 101: Qui định tiêu chuẩn nơi làm việc, đủ các phương tiện che chắn các bộ phận dễ gây nguy hiểm,... phải bố trí đề phòng sự cố,... phải cấp đầy đủ phương tiện bảo vệ cá nhân.
3.4 Thiết lập hệ thống báo động nhằm phát hiện sớm, ngăn ngừa hoặc đáp ứng kịp thời đối với những nguy cơ tiềm ẩn đe doạ sức khoẻ và an toàn người lao động.
Điều 103: doanh nghiệp có trách nhiệm tổ chức chăm lo sức khoẻ cho người lao động, kịp thời sơ cấp cứu khi cần thiết,...
3.5 Công ty phải cung cấp đầy đủ các phòng vệ sinh, phòng tắm sạch sẽ,... nếu có thể cả thiết bị vệ sinh và bảo quan thực phẩm
3.6 Công ty đảm bảo cung cấp nhà nghỉ (nếu có) sạch sẽ, an toàn và đáp ứng các nhu cầu cơ bản của con người.
Điều 104: người làm việc trong điều kiện độc hại được bồi thường hiện vậy, chế độ ưu đãi về thời giờ nghỉ ngơi,... định kỳ khám sức khoẻ, có hồ sơ sức khoẻ.
Yêu cầu 4: TỰ DO HIỆP HỘI VÀ QUYỀN THƯƠNG LƯỢNG TẬP THỂ
4.1 Tôn trọng quyền thành lập và tham gia các nghiệp đoàn tuỳ theo sự chọn lựa cá nhân và quyền được thương lượng tập thể
Điều 69 – Hiến pháp Việt Nam – công dân có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo qui định của pháp luật.
Điều 7 – Luật lao động Việt Nam: người lao động có quyền thành lập, gia nhập hoạt động công đoàn
4.2 Khi quyền tự do hội họp và thoả ước tập thể bị giới hạn bởi pháp luật, công ty phải tạo các hình
Khoa Kinh TÕ Ngo¹i Th¬ng
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Nghiªm Quúnh Nga – Anh2 K38
thức thuận lợi song hành cho việc độc lập và tự do hội họp và thoả ước tập thể cho mọi người.
theo luật công đoàn để bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mình.
4.3 Công ty phải đảm bảo rằng, các đại diện của nhân viên không bị phân biệt đối xử, họ có thể tiếp xúc với các thành viên của hiệp hội tại nơi làm việc.
Yêu cầu 5: PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ
Điều 52 – Hiến pháp Việt Nam: mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật.
5.1 Không được can dự hoặc hỗ trợ sự phân biệt đối xử trong thuê mướn, trả thù lao, huấn luyện, thăng tiến, nghỉ việc hoặc nghỉ hưu vì bất kykf nguyên cớ nào.
Điều 63 – Hiến phép Việt Nam: nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử đối với phụ nữ (tiền lương, đề bạt, giáo dục,...)
5.2 Không được can thiệp vào việc thể hiện quyền cá nhân, quyền được đáp ứng các nhu cầu tinh thần (tín ngưỡng, thay đổi giới tính, hiệp hội,...)
Từ điều 49 đến 82 – Hiến pháp Việt Nam quy định chi tiết quyền công dân đầy đủ. Từ điều 109 đến 118, luật lao động Việt Nam qui định về quyền lợi của lao động nữ.
Điều 111 – Luật lao động Việt Nam nghiêm cấm
việc xúc phạm danh dự và nhân phẩm phụ nữ.
5.3 Không cho phép có những hành vi như điệu bộ, ngôn ngữ và những va chạm có tính cưỡng bức, đe doạ, lạm dụng hoặc khai thác về tình dục
Yêu cầu 6: THỰC HIỆN KỶ LUẬT
6.1 Công ty không được can dự hoặc hỗ trợ việc sử dụng hình phạt thể xác, cưỡng bức tinh thần hoặc thể xác và lăng mạ bằng lợi nói.
Quyền con người của công dân Việt Nam được qui định chi tiết trong hiến pháp, luật lao động, luật công đoàn,... của Việt Nam
Yêu cầu 7: GIỜ LÀM VIỆC
Điều 68 đến 70 qui định thời giờ làm việc; điều 71 đến 77 qui định thời gian nghỉ ngơi của người lao động.
7.1 Công ty phải tuân thủ theo luật thích hợp và các tiêu chuẩn ngành về thời gian làm việc. Một tuần làm việc bình thường không đuợc vượt quá 48 giờ, 1 ngày nghỉ trong chu kỳ 7 ngày. Thời gian làm thêm ngoài giời phải được trả thù lao với tỷ lệ trả thêm và không được vượt quá 12 giờ/tuần/nhân công.
Điều 69 – Làm thêm giờ không được vượt quá 200
7.2 Những điều kiện khác được cho phép trong đièu
giờ mỗi năm.
7.3 làm việc ngoài giời phải là từ nguyện.
Điều 61 – Qui định trả lương làm thêm giờ (150%,
200%, hoặc 300% nếu bố trí đi làm ban đêm)
7.3 Khi công ty tham dự vào thoả ước lao động tập thể, thương thảo tự nguyện với tổ chức công nhân,... có thể yêu cầu thời gian làm việc ngoài giời p hù hợp với thoả thuận này để đạt được nhữung đòi hỏi của kế hoạch kinh doanh ngắn hạn. Bất cứ thoả thuận nào như vậy phải phù hợp với những yêu cầu của điều 7.1
Yêu cầu 8: BỒI THƯỜNG
7.4 Phải đảm bảo mức lượng được trả trên cơ sở tuần làm việc, phải đạt những tiêu chuẩn tối thiểu theo luật định hoặc của ngành và phải luôn đủ để đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu của cá nhân và một số khoản thu nhập tuỳ ý sử dụng.
Điều 55 đến điều 60 qui định về mức lương tối thiểu để bù đắp sức lao động giản đơn và một phần tích luỹ. Người sử dụng lao động có quyền chọn hình thức trả lượng (giờ, ngày, tuần, tháng, theo sản phẩm,...)
Điều 60 qui định về việc khấu trừ lương nếu xảy ra, không được áp dụng xử phạt bằng hình thức cúp lương.
Điều 64 qui định trích thưởng từ lợi nhuận kinh
7.5 Phải đảm bảo rằng không thực hiện việc khấu trừ vào lương vì mục đích kỷ luật. Công khai các khoản chi lương cho công nhân biết. Lương vấcc khoản phụ cấp trả đúng luật.
doanh.
Điều 32 qui định thời gian thử việc từ 30 đến 60 ngày và tiền lương thử việc phải bằng 70% mức lượng chính thức.
Điều 140 đến 152 qui định về các chế độ bảo hiểm
7.6 Phải đảm bảo rằng không được kéo dài thời gian thử việc để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ của công ty đối với người lao động do luật pháp qui định liên quan đến an sinh xã hội.
Khoa Kinh TÕ Ngo¹i Th¬ng
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Nghiªm Quúnh Nga – Anh2 K38
xã hội đối với người lao động.
Khoa Kinh TÕ Ngo¹i Th¬ng