BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

VŨ ANH TUẤN

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH – TỪ THỰC TIỄN

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH MÃ SỐ: 60 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

GS.TS. PHẠM HỒNG THÁI

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự

hỗ trợ từ Giảng viên hướng dẫn là GS.TS. Phạm Hồng Thái. Các số liệu,

nội dung nghiên cứu và kết quả trong luận văn là trung thực. Những kết

luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công

trình nào khác.

Huế, ngày 19 tháng 5 năm 2017

Học viên

Vũ Anh Tuấn

Lời Cảm Ơn

Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn, ngoài sự nỗ lực cûa bân thån, em đã nhận được sự giâng däy, hướng dẫn, giúp đỡ, góp ý nhiệt tình cûa quý thæy cô täi Học viện Hành chính Quốc gia. Trước hết, em xin chån thành câm ơn Ban Giám hiệu, quý thæy cô Khoa Nhà nước và Pháp luật, Khoa Sau đäi học - Học viện Hành chính Quốc gia và quý thæy cô tham gia giâng däy đã tận tình truyền đät kiến thức, giúp đỡ em trong thời gian học tập. Đặc biệt, em xin gửi lời câm ơn såu sắc tới GS.TS. Phäm Hồng Thái đã dành nhiều thời gian, công sức trong giâng däy và hướng dẫn em hoàn thành luận văn này.

Em xin gửi lời câm ơn đến ông Phäm Trung Uy - Chánh án Tòa án nhån dån tînh Quâng Ngãi, tập thể Lãnh đäo Tòa án nhån dån tînh Quâng Ngãi; Phòng Tổ chức - Cán bộ và toàn thể cán bộ Tòa án nhån dån tînh Quâng Ngãi là nơi em công tác đã giúp đỡ, täo điều kiện thuận lợi để em hoàn thành khóa học và luận văn. Cuối cùng, em xin bày tô lời câm ơn đến gia đình, bän bè là nguồn động viên lớn, täo điều kiện và hết lòng chăm sóc, khuyến khích em tham gia học tập và nghiên cứu, để em có thể hoàn thành luận văn này. Luận văn là thành quâ sự nỗ lực cûa cá nhån tác giâ trong thời gian qua. Tuy nhiên, do kiến thức bân thån còn hän chế nên luận văn không tránh khôi những thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý quý báu cûa quý thæy cô và các bän để Luận văn này được hoàn chînh hơn.

Xin chån thành câm ơn!

Huế, ngày 19 tháng 5 năm 2017 Học Viên Vü Anh Tuçn

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA

ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH ........................................................................ 11

1.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân .................... 11

1.1.1. Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước ........ 11

1.1.2. Các nguyên tắc cơ bản tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân17

1.2. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân dân cấp

tỉnh ở Việt Nam ........................................................................................... 25

1.2.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân cấp tỉnh ..... 25

1.2.2. Nguyên tắc của tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp

tỉnh ........................................................................................................... 31

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng và mục tiêu đặt ra đối với việc đổi mới tổ chức

và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ................................................ 31

1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân

dân cấp tỉnh ............................................................................................. 31

1.3.2. Mục tiêu đặt ra đối với việc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân

dân cấp tỉnh. ............................................................................................ 33

Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 37

Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA

ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM .............................................. 38

2.1. Khái quát quá trình hình thành, phát triển về tổ chức và hoạt động của

Tòa án nhân dân cấp tỉnh từ năm 1945 đến nay ......................................... 38

2.1.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1959 ......................................................... 38

2.1.2. Giai đoạn từ 1959 đến 1980 ......................................................... 40

2.1.3. Giai đoạn từ 1980 đến 1992 ......................................................... 43

2.1.4. Giai đoạn từ 1992 đến 2002 ......................................................... 45

2.1.5. Giai đoạn từ 2002 đến 2014 ......................................................... 49

2.2. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh theo Luật Tổ chức

Tòa án nhân dân năm 2014 ......................................................................... 55

2.3. Thực trạng tổ chức và hoạt động của TAND tỉnh Quảng Ngãi ........... 63

2.3.1 Thực trạng về cơ cấu tổ chức tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi ... 63

2.3.2. Thực trạng hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng

Ngãi ......................................................................................................... 68

Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 88

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ

HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH HIỆN NAY ...... 89

3.1. Quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh . 89

3.1.1. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải

gắn liền với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam của dân, do dân, vì dân. ................................................................. 89

3.1.2. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải

được tiến hành đồng bộ với cải cách hệ thống Tòa án nhân dân, các cơ

quan tư pháp và các thiết chế khác trong bộ máy nhà nước. ................. 90

3.1.3. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải

được thực hiện một cách đồng bộ với quá trình cải cách thể chế. ......... 90

3.1.4. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải

gắn với yêu cầu hội nhập quốc tế, phục vụ cho việc xây dựng nền kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. ................................ 91

3.2. Một số giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

cấp tỉnh ........................................................................................................ 92

3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động

của Tòa án ............................................................................................... 92

3.2.2. Trong hoạt động xét xử của Tòa án phải tuyệt đối trung thành với

Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, bảo vệ

công lý, công bằng xã hội. ...................................................................... 92

3.2.3. Nghiên cứu khả năng trao cho Tòa án quyền giải thích pháp luật,

phán xét tính hợp pháp, hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật

do các cơ quan Nhà nước ban hành. ...................................................... 95

3.2.4. Nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp của

đội ngũ Thẩm phán và cán bộ của Tòa án. ............................................. 95

3.2.5. Nâng cao năng lực của Hội thẩm nhân dân. .............................. 100

3.2.6. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả xét xử của Tòa án thông qua các bản

án, quyết định đảm bảo công bằng, đúng pháp luật, khả thi. ............... 101

3.2.7. Kiện toàn đội ngũ cán bộ công chức Hệ thống Tòa án theo hướng

tinh giản, hiệu quả, bố trí sắp xếp nhân sự một cách hợp lý, sử dụng

nhân sự đúng người đúng việc, đúng sở trường; đồng thời có chính sách

phù hợp để thu hút đội ngũ những người có năng lực và phẩm chất đạo

đức tốt phục vụ cho sự phát triển của Hệ thống Tòa án. ...................... 102

3.2.8. Khẩn trương hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng thống

nhất, đồng bộ phù hợp, khả thi, dễ hiểu và dễ tiếp cận làm cơ sở pháp lý

trong hoạt động xét xử của Tòa án. ...................................................... 104

Tiểu kết chương 3 ...................................................................................... 106

KẾT LUẬN .................................................................................................. 107

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 110

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Bộ luật tố tụng hình sự : BLTTHS

Bộ luật hình sự : BLHS

Bộ luật dân sự : BLDS

Tòa án nhân dân : TAND

Xã hội chủ nghĩa : XHCN

Viện kiểm sát nhân dân : VKSND

Tòa án nhân dân : TAND

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn

Trong thời kỳ đất nước phát triển và hội nhập ngày càng sâu rộng vào

nền kinh tế khu vực và thế giới, trước nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước,

trước yêu cầu Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc đấu tranh phòng và chống tội

phạm ở nước ta hiện nay đã đặt ra yêu cầu phải đổi mới tổ chức và hoạt động

của các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó việc đổi mới tổ chức và hoạt động

của Tòa án nhân dân là một nội dung quan trọng được thể hiện trong nhiều

văn kiện Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp.

Trước hết, nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ

Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định nhiều nội

dung về đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có

đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Nghị quyết nêu rõ:

Tòa án là: “Cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam”, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội

chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của

tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.

Bên cạnh đó, Nghị quyết còn xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm

quyền và việc hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp. Triển khai

thực hiện những quy định của Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân

dân năm 2014, Tòa án nhân dân tối cao xác định rõ chức năng, nhiệm vụ,

thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp, trọng tâm là

xây dựng hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án theo chức

năng, nhiệm vụ đã được Hiến định. Theo đó, tòa án là “Cơ quan xét xử của

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” nhằm

1

đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt

Nam XHCN trong giai đoạn mới.

Mô hình hệ thống Tòa án nhân dân khi được tổ chức lại theo tinh thần

cải cách tư pháp có bốn cấp gồm: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân

cấp cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp huyện (huyện,

quận, thị xã, thành phố và tương đương). Trong đó:

Tòa án nhân dân cấp huyện có nhiệm vụ, thẩm quyền xét xử sơ thẩm

hầu hết các vụ, việc thuộc thẩm quyền theo luật định;

Tòa án nhân dân cấp tỉnh có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm các bản án,

quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện có kháng cáo, kháng nghị

và xét xử sơ thẩm một số vụ án không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân

cấp huyện, thành phố. Tuy nhiên, tòa án nhân dân cấp tỉnh không thực hiện

nhiệm vụ giám đốc thẩm và tái thẩm.

Tòa án nhân dân cấp cao có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm các bản án,

quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh có kháng cáo, kháng nghị và

giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới đã có

hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị.

Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm,

tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát

triển án lệ. Việc đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân tối cao cần thực hiện theo

hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về

pháp luật và có kinh nghiệm trong ngành.

Điều đáng lưu ý là việc thành lập Tòa chuyên trách phải căn cứ vào

thực tế xét xử của từng cấp Tòa án, ở từng địa phương. Việc nghiên cứu, xác

định phạm vi thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự cần theo hướng chủ yếu

xét xử những vụ án về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân

và những vụ án liên quan đến bí mật quân sự.

2

Đổi mới việc tổ chức phiên Tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền

hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo

hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng

tại các phiên Tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp.

Trong Văn kiện đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng

sản Việt Nam cũng nêu rõ: Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch,

vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, và quyền con người. Tiếp

tục đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải

cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ, lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng

tâm, thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra. Xây dựng cơ chế

phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động Lập pháp, Hành

pháp và Tư pháp… Đặc biệt là, Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ XI của

Đảng tiếp tục đề ra mục tiêu: “Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách

tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh,

bảo vệ công lý; tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hoàn thiện chính sách

pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp và về tổ chức bộ máy các

cơ quan tư pháp, đảm bảo tính khoa học, đồng bộ, đề cao tính độc lập, khách

quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và chức danh tư pháp. Đổi mới hệ

thống tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm cải cách hoạt động xét

xử là trọng tâm của cải cách tư pháp; mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa đối

với các khiếu kiệnhành chính” [10]. Các quan điểm, định hướng nêu trên đều

khẳng định vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống cơ quan tư pháp và

trọng tâm của công tác xét xử. Vì vậy, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của

Tòa án nhân dân các cấp được coi là một nhiệm vụ trọng tâm của quá trình cải

cách tư pháp. Tuy nhiên, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân

dân nói chung và Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói riêng trong thời gian qua cũng

đặt ra những vấn đề cần giải quyết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Cụ thể như

3

về thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, vấn đề mở rộng thẩm

quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện cũng đặt ra vấn đề thẩm quyền

xét xử phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh; vấn đề đổi mới việc tranh

tụng tại phiên Tòa… Chính vì vậy, đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án

nhân dân cấp tỉnh có ý nghĩa quan trọng cho việc nâng cao hiệu quả công tác

xét xử trong điều kiện cải cách tư pháp hiện nay.

Với lý do nêu trên, học viên đã lựa chọn đề tài: "Tổ chức và hoạt động

của Tòa án nhân dân cấp tỉnh – Từ thực tế Tòa án nhân dân tỉnh Quảng

Ngãi" có ý nghĩa cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn, nhằm góp phần hoàn

thiện pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Hệ thống Tòa án

nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói riêng để làm luận văn Thạc

sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và luật Hành chính.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, hội

thảo, các bài viết trên các tạp chí liên quan đến nội dung tổ chức hoạt động

của Tòa án nhân dân. Có thể phân loại thành hai nhóm như sau:

 Nhóm thứ nhất: Những công trình là đề tài khoa học cấp Nhà nước,

cấp Bộ, các luận án tiến sĩ, sách chuyên khảo nghiên cứu về hệ thống tư pháp

Việt Nam có liên quan đến Tòa án nhân dân như:

+ Đề tài khoa học cấp Nhà nước mã số KX.04.06 "Cải cách các cơ

quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và

hiệu lực xét xử của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

dân, do dân, vì dân".

+ Luận án tiến sĩ luật học, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật "Đổi

mới tổ chức và hoạt động Tòa án nhân dân ở nước ta trong giai đoạn hiện

nay" của tác giả Lê Thành Dương năm 2002.

4

+ Luận án tiến sĩ luật học, Đại học luật Hà nội "Đổi mới tổ chức và

hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng Nhà nước pháp

quyền" của tác giả Trần Huy Liệu năm 2003.

+ Luận án tiến sĩ luật học, Đại học quốc gia Hà nội "Những vấn đề lý luận

và thực tiễn về cải cách hệ thống cơ quan Tòa án Việt Nam theo định hướng xây

dựng Nhà nước pháp quyền" của tác giả Đỗ Thị Ngọc Tuyết năm 2005.

+ Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học Xã hội “Đổi mới tổ chức

Tòa án nhân dân cấp huyện trong quá trình cải cách tư pháp ở Việt Nam” của

tác giải Nguyễn Minh Sử năm 2011.

+ Sách tham khảo: "Một số vấn đề về Hiến pháp và bộ máy Nhà nước"

của PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, Nxb Giao thông vận tải năm 2002;

+ Sách "Hệ thống tư pháp và cái cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay"

của tập thể các tác giả do GS.TS Đào Trí Úc chủ biên, Nxb Khoa học xã hội

năm 2002;

+ “Cơ sở khoa học của việc xây dựng đội ngũ thẩm phán ở nước ta hiện

nay” của tác giả Đỗ Gia Thư (Luận án tiến sĩ luật học, Viện Khoa học xã hội

Việt Nam, 2006);

+ “Đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân cấp huyện trong quá trình cải

cách tư pháp ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Minh Sử (Luận án tiến sĩ luật

học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 2011);

+ Liên quan đến nhóm vấn đề này còn có kỷ yếu các cuộc hội thảo về

lịch sử ngành Tòa án nhân dân.

 Nhóm thứ hai: Các bài viết liên quan đến nội dung đổi mới tổ chức

và hoạt động của Tòa án nhân dân được đăng trên các tạp chí:

+ “Những vấn đề chủ yếu của công cuộc cải cách tư pháp trong giai

đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt nam” của TSKH.PGS Lê Cảm, tạp

chí Tòa án nhân dân số 3 năm 2006;

5

+ "Yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền đối với đổi mới tổ

chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp " của tác giả Nguyễn Mạnh

Cường, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 10 năm 2002;

+ “Bàn về quản lý thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp” của tác giả Đỗ

Gia Thư đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, 2005;

+ “Cải cách tư pháp trong cơ cấu tổ chức quyền lực nhà nước” của tác

giả Nguyễn Đăng Dung đăng trên đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số

chuyên đề 2011;

+ “Nguyên tắc hai cấp xét xử và việc tổ chức Tòa án theo tiêu chí chức

năng, thẩm quyền” của tác giả Nguyễn Ngọc đăng trên Tạp chí Dân chủ và

Pháp luật, Số chuyên đề 2011;

+ “Kiến nghị nhằm nâng cao vị thế độc lập của Thẩm phán trong hoạt

động xét xử” của tác giả Nguyễn Minh Sử đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân,

số tháng 7, 2011.

+ “Một vài ý kiến về hoàn thiện hệ thống Tòa án nhân dân ở nước ta”

của tác giả Nguyễn Minh Sử đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật,

số tháng 7, 2011.

+ "Cải cách tư pháp và vấn đề tranh tụng" của tác giả Nguyễn Mạnh

Kháng, tạp chí Nhà nước và pháp luật số 10.

+ Báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao từ năm 2010 đến năm 2016.

+ Bài viết về: Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của

Tòa án nhân dân, tương xứng với chức năng, nhiệm vụ “Tòa án là cơ quan xét

xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” của Đồng chí

Trương Hòa Bình, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Tòa án nhân dân tối

cao năm 2013

+ Bài viết về: “Hoạt động của Tòa án nhân dân trong thời kỳ mới” của

Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Tưởng Duy Lượng năm 2014.

6

+ Bài viết về “Thành tựu cải cách tư pháp nổi bật của Tòa án nhân dân”

của Báo Công lý năm 2016.

+ Bài viết về “Cải cách tư pháp nâng tầm vị thế của Hệ thống Tòa án

nhân dân” của Tiến sĩ Lưu Bình Nhưỡng, Phó Chánh Văn phòng, Ban Chỉ

đạo cải cách tư pháp Trung ương năm 2014.

Tuy vậy các công trình bài viết trên chủ yếu đi sâu vào lĩnh vực nghiên

cứu chung nhất về tổ chức quyền lực Nhà nước, hoặc có công trình nghiên

cứu đề cập trực tiếp về vấn đề này, nhưng khác về phạm vi nghiên cứu và thời

điểm nghiên cứu đã lâu nên không cập nhật được những vấn đề đang đặt ra

trong lý luận và thực tiễn hiện nay, đồng thời không phù hợp với Hiến pháp

2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, do đó nội dung không còn

mang tính thời sự.

Qua nghiên cứu, khái quát chung có thể thấy các công trình khoa học

trên đây đã nghiên cứu và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về tổ chức và

hoạt động của Tòa án nhân dân. Bởi vậy, luận văn tập trung nghiên cứu về tổ

chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong điều kiện xây dựng

Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay theo hướng có

hệ thống và toàn diện hơn để làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho quá trình đổi

mới và cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn dưới góc độ Luật Hiến pháp và luật

Hành chính nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động

của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của

Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói chung và Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi nói

riêng, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động của

Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

7

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:

- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động

của Tòa án như phân tích, làm rõ vị trí, vai trò, các nguyên tắc tổ chức và hoạt

động của Tòa án trong bộ máy nhà nước;

- Phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân

dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay, trong đó đánh giá những thành tựu, những

hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém;

- Xây dựng các quan điểm và đề xuất các giải pháp đổi mới tổ chức và

hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp,

xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh là vấn đề tương đối

rộng, có thể được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Trong khuôn khổ

luận văn thạc sỹ, tác giả tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về tổ chức

và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh; thực trạng và giải pháp đổi mới tổ

chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong thời

gian tới.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Nghiên cứu công tác tổ chức và hoạt động của Tòa án

nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.

- Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 2015 đến 2017.

- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu công tác tổ chức và hoạt động tại

Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói chung và tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân

tỉnh Quảng Ngãi nói riêng.

8

Trong phạm vi luận văn, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về tổ chức và

hoạt động của Tòa án nhân dân mà không nghiên cứu về tổ chức và hoạt động

của Tòa án quân sự.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của

Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của

Đảng và Nhà nước ta về lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật, về tổ chức

và hoạt động của Tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp, những

thành tựu của khoa học pháp lý trên thế giới. Đồng thời, tác giả nghiên cứu

luận văn trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, và

chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu được tác giả sử dụng

trong luận văn bao gồm:

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được sử dụng để phân tích, khái

quát các vấn đề lý luận cũng như đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp đổi

mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân

cấp tỉnh nói riêng.

- Phương pháp hệ thống: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích theo

hệ thống các vấn đề nghiên cứu đặt trong hệ thống có mối quan hệ

biện chứng, hữu cơ như một chỉnh thể thống nhất. Tổ chức và hoạt động của

Tòa án nhân dân cấp tỉnh là một nội dung của đổi mới tổ chức và hoạt động

của Tòa án nhân dân, do vậy, phương pháp hệ thống được sử dụng để nghiên cứu

tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong mối quan hệ với đổi mới

tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân và bộ máy nhà nước.

- Phương pháp lịch sử được sử dụng trong luận văn để nghiên cứu quá

trình hình thành, phát triển và yêu cầu đổi mới pháp luật về tổ chức và hoạt

động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

9

- Luận văn sử dụng phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, xem xét

từng vấn đề nghiên cứu trong mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn, các quy

định pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân.

- Phương pháp trừu tượng hóa, khái quát hóa được sử dụng trong Chương 3

nhằm đề xuất giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và

thực tiễn về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh; phát huy vai trò

của Tòa án nhân dân trong việc bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý và tuyên truyền,

giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân đối với hoạt động của Tòa án.

Các kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung vào lý luận về

tổ chức và hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân dân nói chung và Tòa án

nhân dân cấp tỉnh nói riêng nhằm thống nhất nhận thức về bản chất, vai trò

hoạt động xét xử của toà án trong đời sống xã hội, bảo vệ các quyền, lợi ích

của cá nhân, tổ chức.

- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các các Tòa án

và các cơ quan, tổ chức liên quan trong việc nghiên cứu, chỉ đạo, phối hợp trong

hoạt động của Tòa án nhân dân, đồng thời có thể sử dụng được cho việc giảng dạy

tại Học viện Tư pháp; Học viện Tòa án, Đại học Kiểm sát và các cơ sở đào tạo...

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

chính của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

cấp tỉnh

Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp

tỉnh ở Việt Nam

Chương 3: Quan điểm và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của

Tòa án nhân dân cấp tỉnh hiện nay.

10

Chương 1:

KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH

1.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

1.1.1. Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước

Nghiên cứu học thuyết Mác - Lênin cho thấy rằng, trong quá trình phát

triển của đời sống xã hội, khi chế độ tư hữu ra đời, xã hội phân chia giai cấp

và đấu tranh giai cấp không thể điều hòa được thì Nhà nước ra đời. Nhà nước

ra đời đã trở thành công cụ bạo lực của giai cấp thống trị, nhằm đàn áp, cai trị

giai cấp khác. Giai cấp thống trị đã thông qua nhà nước để thống trị về kinh

tế, nắm giữ quyền lực chính trị, quản lý xã hội, thể hiện ý chí giai cấp mình

thành pháp luật và buộc các giai cấp khác trong xã hội phải tuân thủ (lịch sử

các nhà nước quân chủ cho thấy các chiếu chỉ, mệnh lệnh của nhà vua có tính

phục tùng tuyệt đối). Tuy nhiên, ý chí của giai cấp thống trị sẽ không đạt

được, nếu ý chí đó chỉ mới dừng lại ở việc thể hiện thành những quy phạm,

những điều luật, hay bộ luật. Để ý chí của giai cấp thống trị đi vào cuộc sống,

trở thành ý chí chung của toàn xã hội thì nhà nước phải tổ chức ra bộ máy để

thực hiện nhiệm vụ này, đó chính là bộ máy hành pháp với lực lượng đàn áp,

cưỡng chế là quân đội và cảnh sát. Đồng thời, để cho pháp luật – ý chí của

giai cấp thống trị được tuân thủ trong đời sống xã hội, đòi hỏi phải hình thành

một hệ thống cơ quan bảo đảm việc giám sát, xử lý các hành vi vi phạm pháp

luật, đó là cơ quan xét xử. Hệ thống cơ quan nhân danh Nhà nước để xét xử

các hành vi vi phạm pháp luật chính là Tòa án.

Như vậy, với sự ra đời của Nhà nước thì quyền lực nhà nước được thể

hiện bởi: Quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp; trong đó quyền

tư pháp là quyền xét xử do Tòa án thực hiện và chức năng xét xử không thể

11

tách rời khỏi Nhà nước. Ở chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến, Nhà

nước chủ yếu được tổ chức theo hình thức quân chủ, nên quyền lập pháp,

hành pháp và xét xử đều tập trung vào giai cấp chủ nô và phong kiến do nhà

vua thống trị. Nhà vua vừa là người ban hành các đạo luật, vừa là người quyết

định tổ chức thực hiện và cũng là người có quyền lực xét xử cao nhất. Vì vậy,

Tòa án chưa được tổ chức thành hệ thống rõ nét và hoạt động độc lập với các

tổ chức khác trong bộ máy nhà nước chiếm hữu nô lệ và phong kiến. Vào thế

kỷ 17 và 18, với sự phát triển mạnh mẽ của giai cấp tư sản - giai cấp đại diện

cho phương thức sản xuất tiên tiến của thời đại đã có tiếng nói, trào lưu chính

trị kêu gọi, đấu tranh để hạn chế quyền lực tuyệt đối của nhà vua, tiến tới xóa

bỏ Nhà nước phong kiến. Các học giả tư sản trong thời kỳ này đã đưa ra các

luận điểm cho rằng cần phải có sự tách bạch quyền lập pháp, hành pháp và tư

pháp, trong đó điển hình là tư tưởng của John Locce, Montesquieu... Theo

Montesquieu, quyền lực nhà nước được phân chia thành quyền lập pháp, hành

pháp và tư pháp và tư tưởng phân chia quyền lực này đã trở thành hạt nhân

của học thuyết "Tam quyền phân lập". Montesquieu cho rằng khi quyền lập

pháp được sáp nhập với quyền hành pháp và tập trung trong tay một người

hay một tập đoàn người, thì sẽ không có tự do, bởi vì điều này có thể dẫn tới

việc chính nhà vua hay nghị viện ấy sẽ đưa ra những đạo luật độc đoán để thi

hành một cách vô nguyên tắc. Đồng thời, sẽ không có tự do nếu quyền xét xử

không được phân biệt với quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền xét

xử được sáp nhập vào quyền lập pháp, thì sẽ không có tự do; nếu quyền xét

xử được nhập vào quyền hành pháp thì Thẩm phán sẽ trở thành những kẻ áp

bức. Với tư tưởng này, ông cho rằng để có một Nhà Nước pháp quyền theo

quan niệm phân lập quyền lực của Nhà nước tư sản, cũng như các cơ quan

nhà nước khác, thì Tòa án phải được tổ chức độc lập, có sự tham gia đối trọng

và chế ước, kiểm soát với nhánh quyền lập pháp và hành pháp. Theo quan

12

điểm của giai cấp tư sản thì Tòa án là cơ quan bảo vệ pháp luật quan trọng

nhất, bảo vệ công lý và là người trọng tài vô tư, khách quan để đánh giá các

hành vi vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp phát sinh trong thực tiễn

đời sống xã hội. Muốn vậy, hoạt động của Tòa án phải được quy định để

không chỉ giới hạn ở việc xét xử đối với hành vi của các cá nhân mà còn đối

với hoạt động của các cơ quan nhà nước. Hay nói cách khác, sự độc lập của

Tòa án với cơ quan lập pháp và hành pháp là đảm bảo quan trọng nhất cho

việc bảo vệ các quyền con người, hạn chế sự lạm quyền, xâm hại các quyền

và lợi ích hợp pháp của cá nhân. Sự độc lập của Tòa án với hai nhánh quyền

lực lập pháp và hành pháp đã có ảnh hưởng rất lớn đến việc xác lập chế độ

dân chủ tư sản, đáp ứng những đòi hỏi chính đáng của nhân dân trong cuộc

đấu tranh chống chế độ phong kiến, hạn chế sức mạnh của nhà vua. Tuy

nhiên, tính độc lập của Tòa án trong Nhà nước tư sản cũng phụ thuộc rất

nhiều vào cách thức tổ chức hình thức chính thể (Cộng hòa Đại nghị, Cộng

hòa Tổng thống), nhưng cho dù được tổ chức theo hình thức chính thể nào thì

sự độc lập của Tòa án chính là yếu tố quan trọng nhất để bảo vệ công lý, bảo

vệ quyền và lợi ích Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Bàn về vấn đề này,

A.Hamiton cho rằng trong tất cả các yếu tố khiến cho ngành tư pháp có thể

duy trì được tính độc lập và cương quyết của mình, thì nhiệm kỳ của vị Chánh

án là yếu tố quan trọng nhất. Chính vì vậy, với sự phát triển của tinh thần dân

chủ thì hoạt động của Tòa án ngày càng mở rộng đến cả những người thực thi

pháp luật khi chính họ có những hành vi vi phạm pháp luật, thậm chí Tòa án

còn xem xét đến các hành vi vi hiến.

Ngay từ khi Nhà nước ra đời thì chức năng chung của Nhà nước là

quản lý xã hội, biến ý chí của giai cấp thống trị thành pháp luật và dùng các

công cụ, biện pháp quyền lực để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện. Để

quản lý Nhà nước, quyền lực nhà nước được thể hiện dưới các hình thức là

13

xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Các hình

thức này tương ứng với ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tư pháp là

một lĩnh vực quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua hoạt động phân

xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi, các quyết định

pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích của các chủ thể pháp

luật. Như vậy, nói đến tư pháp là nói đến việc xét xử theo pháp luật và quyền

tư pháp do hệ thống Tòa án độc lập thực hiện với chức năng đặc trưng là xét

xử, là một phương thức thực thi quyền lực nhà nước. Tòa án là cơ quan nhân

danh Nhà nước thực hiện việc xét xử, bảo vệ công lý; hiệu lực, hiệu quả xét

xử của Tòa án là thước đo tính dân chủ, công bằng và lòng tin của nhân dân.

Bản chất hoạt động xét xử của Tòa án là áp dụng pháp luật và thông qua đó

Tòa án chuyển tải, thể hiện quyền lực nhà nước, ý chí của giai cấp thống trị

vào đời sống xã hội. Vì vậy, nếu Tòa án hoạt động không minh bạch, khách

quan thì công lý không được bảo vệ, trật tự an toàn xã hội không được bảo

đảm. Đồng thời, thông qua hoạt động xét xử, các quy định pháp luật còn được

chuyển tải đến các đối tượng khác trong xã hội, giúp họ nhận thức, nâng cao ý

thức pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Bàn về vấn đề này, V.I. Lê

Nin đã viết: “Tòa án cần phải đảm đương một nhiệm vụ khác còn quan trọng

hơn nữa, đó là nhiệm vụ bảo đảm cho người lao động chấp hành một cách

nghiêm chỉnh nhất kỷ luật và kỷ luật tự giác”.[38]

Như vậy, xét xử là chức năng quan trọng nhất của Tòa án. Khi đảm

nhận chức năng xét xử, Tòa án có vai trò, vị trí nhất định trong bộ máy nhà

nước. Hoạt động xét xử là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước để xem

xét, đánh giá và phán quyết về tính đúng đắn của hành vi theo pháp luật hay

tính công bằng trong các tranh chấp giữa các bên liên quan. Đặc trưng cơ bản

của hoạt động xét xử là Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước và sự nhân

danh quyền lực nhà nước đã làm cho các bản án, quyết định do Tòa án ban

14

hành được bảo đảm thực thi bởi Nhà nước thông qua các cơ quan, tổ chức có

thẩm quyền. Tuy nhiên, ở mỗi hình thái kinh tế xã hội, kiểu Nhà nước với chế

độ chính trị khác nhau, bộ máy nhà nước được tổ chức khác nhau, trong đó

Tòa án có vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ cũng khác nhau. Ở Nhà nước

chiếm hữu nô lệ và phong kiến, quyền tư pháp không tách rời quyền lập pháp

và hành pháp và đều do giai cấp thống trị (giai cấp chủ nô và giai cấp phong

kiến) nắm giữ và sử dụng thông qua người đại diện là nhà vua. Ở Nhà nước tư

sản, để hạn chế dần khả năng thực hiện quyền lực vô hạn cũng như đảm bảo

tính dân chủ trong đời sống xã hội, các nhà tư tưởng tư sản đã đưa ra lý thuyết

về tam quyền phân lập, theo đó quyền tư pháp có sự phân lập với quyền lập

pháp và hành pháp để đảm bảo tính kiềm chế và đối trọng lẫn nhau. Tòa án

chính là một nhánh quyền lực nhà nước thực hiện chức năng xét xử các hành

vi vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp phát sinh trong đời sống xã

hội. Cùng với quá trình phát triển của xã hội, thẩm quyền của Tòa án được

mở rộng; tính dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Tòa án được nâng cao

và ngày càng có tính hệ thống.

Ở nước ta, mặc dù không áp dụng nguyên tắc tam quyền phân lập như

nhiều nước tư sản nhưng những kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của Tòa án

của các nước trên thế giới cũng là cơ sở quan trọng để chúng ta vận dụng,

tham khảo trong quá trình tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân.

Bộ máy nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc tập trung quyền lực

thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước

trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thực hiện quyền

tư pháp mà chủ yếu là quyền xét xử là một trong những chức năng rất quan

trọng của Nhà nước Việt Nam và được giao cho Tòa án nhân dân.

Do vậy, Tòa án nhân dân có vị trí rất quan trọng trong bộ máy nhà

nước; Tòa án thực hiện quyền tư pháp, là nơi thể hiện công lý trong bộ máy

15

nhà nước. Hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp là thước đo sự công

bằng trong xã hội. Hoạt động xét xử được coi là hoạt động trọng tâm trong

việc thực hiện quyền tư pháp và chức năng xét xử được Hiến pháp quy định là

chức năng riêng Tòa án, bởi vậy, tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

được quy định tương đối cụ thể trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm

pháp luật Việt Nam. Theo Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là

cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện

quyền tư pháp”.[30]. Bằng quy định này, lần đầu tiên trong Hiến pháp, cơ

quan thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam được khẳng định là Tòa án nhân

dân, theo đó, quyền tư pháp được hiểu là quyền xét xử. So với thời kỳ trước

Hiến pháp năm 2013 thì quyền tư pháp và cơ quan tư pháp có phạm vi thu

hẹp hơn, điều này nảy sinh yêu cầu đổi mới trong nhận thức về quyền tư pháp

ở Việt Nam. Với việc thực hiện chức năng xét xử, Tòa án nhân dân có vai trò

quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo

môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc; Tòa án nhân dân là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ

công lý, bảo vệ quyền con người, đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp

luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm

và hành vi vi phạm pháp luật.

Chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân được xác định là:

Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.

Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,

quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,

quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung

thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy

16

tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi

phạm pháp luật khác.

Tòa án xét xử những vụ án hình sự; những vụ án dân sự (bao gồm

những tranh chấp về dân sự; những tranh chấp về hôn nhân và gia

đình; những tranh chấp về kinh doanh, thương mại; những tranh chấp về lao

động); những vụ án hành chính; giải quyết những việc dân sự (bao gồm

những yêu cầu về dân sự; những yêu cầu về hôn nhân và gia đình; những yêu

cầu về kinh doanh, thương mại; những yêu cầu về lao động); giải quyết yêu

cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp; xem xét và kết luận cuộc đình

công hợp pháp hay không hợp pháp. Ngoài ra, Tòa án còn có thẩm quyền

giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật (ra quyết định thi

hành án hình sự; hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; ra quyết định

miễn chấp hành hình phạt hoặc giảm mức hình phạt đã tuyên; ra quyết định

xoá án tích). [31].

1.1.2. Các nguyên tắc cơ bản tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

Với tư cách là một trong các cơ quan trong bộ máy Nhà nước, để thực

hiện vai trò của cơ quan có chức năng xét xử, bảo đảm công lý, tổ chức và

hoạt động của Tòa án phải được tổ chức trên cơ sở những nguyên tắc chung

đã được Hiến pháp ghi nhận như nguyên tắc Đảng lãnh đạo (Điều 4 Hiến

pháp 2013), nguyên tắc tập trung dân chủ (Điều 6). Với chức năng riêng của

mình so với các cơ quan Nhà nước khác, TAND còn được tổ chức và hoạt

động theo những nguyên tắc đặc thù. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động

của Tòa án có tính phổ biến là:

1.1.2.1. Nguyên tắc việc xét xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm nhân dân

tham gia; khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán.

Đây là một nguyên tắc đã được ghi nhận tại khoản 1 Điều 103 Hiến

pháp năm 2013. Điều 8 Luật Tổ chức TAND 2014 đã qui định vấn đề này.

17

Theo nguyên tắc đó, khi xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, dân sự, kinh

doanh, thương mại, lao động, hành chính thì trong thành phần Hội đồng xét

xử có sự tham gia của các Hội thẩm (Hội thẩm nhân dân hoặc Hội thẩm quân

nhân). Đây là thành phần đại diện cho dư luận xã hội khi xem xét các khía

cạnh của vụ việc, góp phần bảo đảm việc xét xử có lý và có tình. Vì vậy, bên

cạnh việc nâng cao trình độ pháp lý, trình độ chuyên môn cho các Hội thẩm

nhân dân thì điều quan trọng, người Hội thẩm phải là người đại diện, nói được

tiếng nói đại diện cho dư luận xã hội tại nơi và thời điểm xảy ra vụ án. Cũng

vì vậy, tác giả cho rằng không nên quá quan tâm về vấn đề trình độ pháp lý và

trình độ chuyên môn của Hội thẩm, hay nói cách khác là không nên “thẩm

phán hoá” Hội thẩm. Với nguyên tắc hai cấp xét xử, sự tham gia của Hội thẩm

trong Hội đồng xét xử là bắt buộc trong trình tự xét xử sơ thẩm và mang tính

tuỳ nghi (khi thấy cần thiết) trong Hội đồng xét xử phúc thẩm. Để đảm bảo

tính khách quan, pháp luật đã qui định, khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với

Thẩm phán, nói cách khác là Hội thẩm có quyền độc lập so với Thẩm phán.

Pháp luật về tố tụng đã cụ thể hoá nội dung này bằng cách qui định, khi các

thành viên Hội đồng xét xử nghị án, biểu quyết về từng vấn đề cụ thể của vụ

án thì các Hội thẩm phải biểu quyết trước (với mục đích để hạn chế việc biểu

quyết của Hội thẩm bị ảnh hưởng theo ý chí của Thẩm phán). Cũng chính vì

Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán nên khi xét xử, mặc dù Thẩm phán là

người chủ toạ phiên Tòa nhưng Hội thẩm vẫn có quyền tham gia vào tất cả

các trình tự, thủ tục xét xử tại phiên Tòa.

1.1.2.2. Nguyên tắc độc lập của Tòa án, khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm xét

xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Nguyên tắc này cũng đã được ghi nhận tại khoản 2 Điều 103 Hiến pháp

2013 và được cụ thể hoá tại Điều 9 Luật Tổ chức TAND năm 2014. Nguyên

tắc này qui định khi xét xử, giữa các thành viên Hội đồng xét xử (Thẩm phán

18

và Hội thẩm) và mỗi thành viên Hội đồng xét xử đều có quyền độc lập với

nhau và chỉ tuân theo pháp luật. Cho dù Chánh án hoặc Phó Chánh án là một

thành viên Hội đồng xét xử thì khi đó, Chánh án hoặc Phó Chánh án cũng chỉ

là một người có quyền độc lập với thành viên khác, không có quyền “ra lệnh”

hay “chỉ đạo” thành viên khác trong Hội đồng xét xử. Thẩm phán chủ toạ

cũng chỉ quyền điều hành phiên Tòa là có tính riêng so với các thành viên

khác nhưng không có quyền tố tụng cao hơn thành viên khác trong Hội đồng

xét xử. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm không bị tác động bởi bất cứ áp

lực nào từ phía các cơ quan Đảng, chính quyền hoặc sự can thiệp của bất cứ

cá nhân, tổ chức nào. Khi xét xử, các thành viên Hội đồng xét xử có quyền

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật chứ không chịu sự chỉ đạo, điều hành của

Tòa án cấp trên. Khi xét xử, ngoại trừ bị tác động và chi phối bởi “giới hạn

của việc xét xử” (ở trình tự xét xử sơ thẩm) và “phạm vi xét xử phúc thẩm”,

các thành viên trong Hội đồng xét xử không bị phụ thuộc bởi những quan

điểm, những luận cứ của Viện kiểm sát. Các thành viên Hội đồng xét xử có

quyền phán xét độc lập trên cơ sở pháp luật và chứng cứ, trên cơ sở đó, họ

ban hành các quyết định pháp lý giải quyết vụ án.

Việc qui định nguyên tắc này trong các bản Hiến pháp có sự thay đổi

về ngôn ngữ diễn đạt nhưng sự thay đổi đó phản ánh sự thay đổi về nhận thức

nội dung của nguyên tắc trên. Hiến pháp năm 1959 quy định dưới hình thức

câu chữ là “Tòa án độc lập”, còn các bản Hiến pháp về sau thì đều qui định là

“Thẩm phán và Hội thẩm” xét xử độc lập. Sự thay đổi đó nói lên rằng, nguyên

tắc này không chỉ thể hiện tính độc lập của “Tòa án” khi xét xử (độc lập với

các cơ quan khác) mà điều quan trọng là nhấn mạnh tính độc lập của từng

thành viên Hội đồng xét xử với những tác động “bên ngoài” và với thành viên

khác trong cùng Hội đồng.[28].

19

Xét xử là quá trình áp dụng pháp luật để xử lý, giải quyết các tranh

chấp, hành vi vi phạm pháp luật, đảm bảo công lý. Bản chất của hoạt động xét

xử - tài phán là hoạt động đòi hỏi phải độc lập để đảm bảo công bằng, nếu

hoạt động xét xử không độc lập thì việc xét xử sẽ không khách quan, sự độc

lập của Tòa án được thể hiện cơ bản qua sự độc lập của Thẩm phán và Hội

thẩm nhân dân.

Về sự độc lập của Tòa án trong hoạt động xét xử, C.Mác đã nói: “Cấp

trên của quan Tòa là luật pháp”. Điều này đòi hỏi rằng khi xét xử, Thẩm phán

độc lập, không bị ràng buộc bởi ý kiến của bất cứ ai, không bị chi phối bởi ý

kiến của ai; không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp

luật vào hoạt động xét xử của Thẩm phán. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội

thẩm độc lập, nhưng phải tuân theo pháp luật. Thẩm phán, Hội thẩm phải căn

cứ vào các quy định của pháp luật để đưa ra ý kiến, quyết định của mình về

từng vấn đề của vụ án, không được tuỳ tiện hay bằng cảm tính. Do đó, để đảm

bảo sự độc lập của Tòa án, pháp luật cần có sự quy định rõ ràng trách nhiệm

của Tòa án, của thẩm phán và cơ chế đảm bảo không có sự tham gia, can

thiệp trái pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Muốn vậy, trong

tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, cần thiết phải có sự phân định rõ

ràng về thẩm quyền của Tòa án và các cơ quan lập pháp và hành pháp cùng

với trách nhiệm, nghĩa vụ tương ứng để ngăn ngừa sự lạm quyền và can thiệp

trái pháp luật vào hoạt động xét xử. Để đảm bảo sự độc lập của Tòa án, nhiều

nước thiết kế mô hình tổ chức Tòa án theo địa hạt mà không trùng với phạm

vi địa giới quản lý hành chính của các cơ quan quản lý hành chính địa phương

nhằm giảm thiểu sự can thiệp của cơ quan hành chính đối với hoạt động của

Tòa án; quy định những cơ chế, điều kiện đảm bảo sự độc lập của Thẩm phán

không chỉ trong hoạt động xét xử mà còn liên quan đến các vấn đề an ninh

khác đối với Thẩm phán và gia đình họ.

20

Yêu cầu đặt ra đối với Thẩm phán là phải hoạt động độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật, không chịu áp lực của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm

quyền. Bởi vậy, pháp luật tố tụng của các nước đều quy định quyền của người

tham gia tố tụng được yêu cầu thay đổi thẩm phán khi có căn cứ cho rằng họ

không vô tư, khách quan khi thực thi nhiệm vụ xét xử, đồng thời cũng quy

định trách nhiệm của Thẩm phán phải từ chối tiến hành các hoạt động tố tụng

khi có những căn cứ tương tự. Nguyên tắc này cũng được thể hiện ở sự độc

lập của Thẩm phán Tòa án cấp dưới trước sự chỉ đạo của Tòa án cấp trên và

trường hợp bản án sơ thẩm không đúng pháp luật sẽ được xem xét lại theo các

trình tự, thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.

Để có sự độc lập của Thẩm phán, ngoài việc quy định trách nhiệm của

Tòa án và Thẩm phán thì pháp luật cũng thường đặt ra yêu cầu đối với Thẩm

phán được lựa chọn, bổ nhiệm phải là những người có trình độ chuyên môn,

có hiểu biết pháp luật cao, có kinh nghiệm thực tiễn và sự công tâm, trách

nhiệm trong việc thực thi nhiệm vụ bảo vệ công lý.

Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy rằng để đảm bảo sự độc lập của

Thẩm phán, pháp luật quy định Thẩm phán được bổ nhiệm bởi nguyên thủ

quốc gia theo nhiệm kỳ hoặc suốt đời và những điều kiện đảm bảo chế độ đãi

ngộ về lương, điều kiện làm việc nhằm thể hiện sự tôn vinh và đề cao trách

nhiệm của Thẩm phán phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong thực thi

các nhiệm vụ, quyền hạn xét xử theo pháp luật.

1.1.2.3. Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử công khai, xét xử tập thể và quyết

định theo đa số

Đây là nguyên tắc đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận tại Điều 103

và được Luật Tổ chức TAND năm 2014 cụ thể hoá tại các Điều 10 và Điều

11. Nội dung của các nguyên tắc này qui định việc xét xử của Tòa án phải

công khai để mọi người có thể tham dự, trừ những trường hợp cần phải giữ

21

gìn bí mật quốc gia hoặc để đảm bảo thuần phong, mỹ tục hay để giữ bí mật

của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì xét xử kín nhưng khi tuyên

án phải tuyên công khai. Việc xét xử công khai là nhằm bảo đảm vai trò giám

sát xã hội của công dân, các cơ quan, tổ chức đối với công tác xét xử của Tòa

án. Khi xét xử, các thành viên Hội đồng xét xử phải xem xét tập thể đối với

từng vấn đề của vụ án và khi biểu quyết, ý kiến của đa số sẽ có hiệu lực pháp

lý, đồng thời ý kiến thiểu số cũng được bảo lưu, ghi vào biên bản và được coi

là một trong các cơ sở để kiểm tra, xem xét lại bản án của Tòa án khi cần

thiết. Cũng chính vì nguyên tắc nói trên, pháp luật tố tụng qui định số lượng

thành viên Hội đồng xét xử luôn luôn là số lẻ (ba hoặc 5 thành viên trong Hội

đồng xét xử sơ thẩm và phúc thẩm).

1.1.2.4. Nguyên tắc bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm.

Đây là các nguyên tắc đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận tại khoản

6 Điều 103. Nguyên tắc này được qui định rõ tại Điều 6 Luật Tổ chức TAND

năm 2014, Điều 20 Bộ luật TTHS 2003 và Điều 17 Bộ luật TTDS 2015. Nội

dung nguyên tắc này qui định Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử: xét xử

sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Vụ án được đưa ra xét xử ở cấp sơ thẩm: sau

khi xét xử sơ thẩm, bị cáo, các đương sự có quyền kháng cáo bản án và quyết

định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật, vụ án sẽ được đưa ra xét xử lại ở

cấp phúc thẩm. Sau khi xét xử phúc thẩm, bản án và quyết định của Tòa án sẽ

có hiệu lực pháp luật và có hiệu lực thi hành.

Xét xử tập thể là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và

hoạt động của Tòa án. Nguyên tắc này thể hiện việc xét xử thông qua hội

đồng (tùy vào cấp xét xử và tính chất vụ việc) nhằm phát huy trí tuệ tập thể,

đảm bảo tính dân chủ, thận trọng, khách quan khi Tòa án đưa ra phán quyết.

Việc thực hiện nguyên tắc xét xử tập thể sẽ góp phần tạo ra sự đồng thuận,

thống nhất về quan điểm, cách thức giải quyết vụ việc từ nhiều góc độ để đảm

22

bảo tính khách quan, đúng pháp luật và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp

của các bên liên quan. Đồng thời, việc xét xử theo nguyên tắc tập thể còn là

cơ chế để tạo ra sự vô tư trong hoạt động xét xử, ngăn ngừa sự tùy tiện, thiên

vị trong xét xử và điều này sẽ tạo được niềm tin cho công chúng trong việc

tôn trọng, thực hiện nghiêm chỉnh các phán quyết của Tòa án. Nguyên tắc này

ở một chừng mực nào đó cũng là rào cản để ngăn ngừa sự can thiệp trái pháp

luật vào hoạt động xét xử từ những cơ quan, tổ chức, cá nhân bên ngoài cũng

như sự e dè, ngần ngại của Thẩm phán và giảm áp lực cho Thẩm phán trong

hoạt động xét xử. Việc qui định Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử là

nhằm bảo đảm hạn chế những trường hợp xét xử thiếu khách quan, góp phần

nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xét xử của Tòa án.

1.1.2.5. Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử kịp thời, công bằng

Đây là nguyên tắc hiến định, được qui định tại khoản 3 Điều 103 Hiến

pháp 2013. Luật Tổ chức TAND 2014 đã cụ thể hóa nguyên tắc này tại Điều

11, với nội dung qui định: Tòa án xét xử theo nguyên tắc mọi công dân đều

bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn

giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội, cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ

trang nhân dân và các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế

đều bình đẳng trước pháp luật. Nguyên tắc này đòi hỏi khi xét xử, Tòa án

(Hội đồng xét xử) chỉ căn cứ vào các qui định của pháp luật (có hiệu lực

chung với tất cả mọi người), trên cơ sở các chứng cứ khách quan, có cân nhắc

đến các yếu tố riêng của vụ việc xét xử để đưa ra các phán quyết khách quan,

công bằng. Những yếu tố riêng được Tòa án cân nhắc khi xét xử cũng phải là

những yếu tố đã được pháp luật dự liệu và qui định như hoàn cảnh địa điểm,

thời gian và đặc điểm nhân thân riêng của đương sự và vụ việc tranh chấp.

1.1.2.6. Nguyên tắc đảm bảo sự bình đẳng của công dân

23

Quyền bình đẳng trước pháp luật là một trong những quyền của công

dân, được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và Hiến

pháp của các nước. Điều 7 của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người được

Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 10/12/1948 đã ghi nhận: “Mọi

người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình

đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt nào”. Như vậy, để đảm bảo mọi công

dân được bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình

đẳng mà không có sự phân biệt thì Tòa án phải trở thành công cụ hữu hiệu để

bảo vệ sự bình đẳng và không có sự phân biệt về địa vị xã hội, tôn giáo, dân

tộc, nguồn gốc xã hội, điều kiện kinh tế. Để đảm bảo sự bình đẳng của công

dân trong hoạt động xét xử, Điều 14 Luật Tổ chức TAND 2014 đã qui định:

Tòa án xét xử theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật,

không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội,

địa vị xã hội; cá nhân, cơ quan, tổ chức đều bình đẳng trước Tòa án. Nguyên

tắc này đòi hỏi khi xét xử, Tòa án (Hội đồng xét xử) chỉ căn cứ vào các qui

định của pháp luật (có hiệu lực chung với tất cả mọi người), trên cơ sở các

chứng cứ khách quan, có cân nhắc đến các yếu tố riêng của vụ việc xét xử để

đưa ra các phán quyết khách quan, công bằng.

1.1.2.7. Nguyên tắc khi xét xử, Tòa án bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị

cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

Nguyên tắc này được qui định tại khoản 7 Điều 103 Hiến pháp 2013 và

Điều 14 Luật Tổ chức TAND năm 2014. Nguyên tắc này qui định trong quá

trình xét xử, quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự luôn được bảo

đảm, thể hiện qua việc bị cáo có quyền tự mình mời người bào chữa cho

mình. Nếu người bào chữa được mời không vi phạm qui định về những

trường hợp không được bào chữa thì Tòa án phải chấp nhận người bào chữa

do bị cáo mời. Trong một số trường hợp đặc biệt, nếu bị cáo không mời người

24

bào chữa thì Tòa án (cơ quan tiến hành tố tụng nói chung) phải mời người bào

chữa cho bị cáo. Trong các quan hệ pháp luật tố tụng khác, các đương sự

được bảo đảm quyền bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, do vậy họ

có quyền tự mình bảo vệ (viện dẫn chứng cứ, cung cấp chứng cứ, tài liệu,

tranh luận khi xét xử, khiếu nại, kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án theo

qui định của pháp luật tố tụng); hoặc có quyền nhờ người khác (luật sư, người

đại diện hợp pháp) đứng ra bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tòa

án phải tôn trọng các quyền của đương sự.

Ngoài những nguyên tắc nói trên, trong tổ chức và hoạt động, Tòa án

còn thực hiện theo một số nguyên tắc khác như nguyên tắc về dùng tiếng nói,

chữ viết dùng trước Tòa án là tiếng Việt. Tòa án bảo đảm cho những người

tham gia tố tụng quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước Tòa

án nhân dân, trường hợp này phải có phiên dịch.

1.2. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân dân

cấp tỉnh ở Việt Nam

1.2.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân cấp tỉnh

1.2.1.1. Vị trí của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

Với chức năng xét xử, TAND cấp tỉnh có vị trí đặc biệt quan trọng so

với các cơ quan Nhà nước nói chung và các cơ quan tư pháp ở cấp tỉnh nói

riêng, được thể hiện qua những điểm sau:

Thứ nhất, TAND tỉnh xét xử nhân danh Nhà nước, căn cứ vào pháp luật

hiện hành của Nhà nước để đưa ra những phán quyết thể hiện trực tiếp ý chí

của Nhà nước, của nhân dân đối với từng vụ việc cụ thể. Ý chí đó phải được

thể hiện bằng những quyết định mang tính chất pháp lý cao, đánh giá khách

quan bản chất sự việc cụ thể và được thể hiện dưới hình thức là bản án hay

quyết định của Tòa án. Như vậy, hoạt động xét xử của TAND tỉnh phản ánh

một cách trực tiếp và sâu sắc bản chất của Nhà nước, ý chí của nhân dân.

25

Thứ hai, thông qua hoạt động xét xử của mình, TAND tỉnh thực hiện

được việc kiểm tra hành pháp của các cơ quan Nhà nước, quyền công dân,

quyền con người, hơn nữa là còn góp phần bảo vệ cho trật tự xã hội được an

Tòan, ổn định, phát triển lành mạnh và bền vững.

Ở nước ta, trong giai đoạn hiện nay, TAND cấp tỉnh có vị trí trung tâm

trong việc tổ chức, thực hiện quyền tư pháp ở cấp tỉnh với chức năng tổ chức

và tiến hành hoạt động xét xử là một trong những quan điểm cơ bản định

hướng hoạt động cải cách tư pháp đã được khẳng định trong Nghị quyết số

49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp

nước ta đến năm 2020 và đã được Hiến pháp năm 2013 quy định tại điều 102:

“Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Do vậy, vị trí của TAND tỉnh trong bộ máy

Nhà nước cũng như trong Hệ thống Tòa án nhân dân ở Việt Nam cũng từng

bước được xác định, được biểu hiện ngày một rõ nét hơn.

1.2.1.2. Chức năng của Tòa án nhân dân tỉnh

Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân gồm: Tòa

án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định, là cơ quan xét xử của

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Trên cơ

sở các qui định nêu trên, các đạo luật về tổ chức TAND các năm 1960, 1981,

1992, 2002 và 2014 đều khẳng định chức năng xét xử của cơ quan Tòa án.

Xuất phát từ địa vị pháp lý của Tòa án, trên cơ sở các qui định của pháp luật,

nhất là các qui định của các đạo luật về tổ chức Tòa án và các đạo luật về tố

tụng, chúng ta có thể nhận thấy rằng, chức năng xét xử của Tòa án là chức

năng xuyên suốt, thống nhất trong suốt quá trình ra đời và phát triển của Tòa

án. Tuy nhiên, về phạm vi chức năng xét xử của Tòa án thì có những thay đổi

theo hướng tăng hơn về phạm vi các loại việc được giao cho Tòa án xét xử.

Ban đầu, các TAND, trong đó có TAND cấp huyện có thẩm quyền xét xử

26

những vụ án hình sự, dân sự (hiểu với nghĩa là các vụ án về dân sự liên quan

đến tranh chấp về tài sản và những tranh chấp về nhân thân phi tài sản, các vụ

án về hôn nhân gia đình). Sau đó, trên cơ sở các Pháp lệnh Thủ tục giải quyết

các vụ án về kinh tế (năm 1993), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án về

lao động (năm 1994), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (năm

1996), Luật Phá sản doanh nghiệp (năm 1993) và sau đó là Bộ luật Tố tụng

dân sự (TTDS) năm 2004 và Bộ luật Tố tụng dân sự (TTDS) năm 2015, các

Tòa án được giao thêm có thẩm quyền xét xử các vụ án kinh tế (từ khi có Bộ

luật TTDS 2004 thì gọi là vụ án kinh doanh, thương mại), lao động, hành

chính và giải quyết đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp (đối với Tòa

án cấp tỉnh). Với tư cách là một trong các cấp của hệ thống Tòa án, TAND

tỉnh có chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh, thương mại,

lao động, hành chính thuộc thẩm quyền theo qui định của pháp luật.

Bên cạnh chức năng xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền, theo qui định

của pháp luật tố tụng, TAND tỉnh còn có trách nhiệm trong một số hoạt động

thi hành án hình sự, dân sự. Cụ thể như việc ra quyết định thi hành án hình sự,

hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành án phạt tù, xét giảm hình phạt hoặc thời gian

thử thách của án treo, xét miễn chấp hành hình phạt, ra quyết định thi hành án

và thành lập Hội đồng thi hành hình phạt tử hình. Điểm mới theo Luật Tổ

chức Tòa án nhân dân năm 2014 là thêm chức năng kiểm tra bản án, quyết

định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành

phố thuộc tỉnh và tương đương, khi phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có

tình tiết mới theo quy định của luật tố tụng thì kiến nghị với Chánh án Tòa án

nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, kháng nghị.

1.2.1.3. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân tỉnh

Với chức trách là cơ quan Nhà nước có chức năng xét xử các vụ án

hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại, hành chính và giải quyết các việc

27

khác theo qui định của pháp luật, thẩm quyền của TAND nói chung và của

TAND tỉnh nói riêng thực chất là thẩm quyền xét xử các vụ án. Phân định

thẩm quyền xét xử của Tòa án là một trong các nội dung của hệ thống pháp

luật về tổ chức và hoạt động của TAND. Theo từ điển Luật học thì “thẩm

quyền xét xử là sự phân định thẩm quyền xét xử các vụ án giữa các Tòa án

với nhau. Việc phân định thẩm quyền xét xử căn cứ vào những dấu hiệu nhất

định và tính chất của từng vụ án cụ thể; thẩm quyền xét xử theo loại việc,

thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ hoặc theo địa phương, thẩm quyền xét xử

theo vụ án có liên quan với nhau”. Đối với vấn đề thẩm quyền của TAND

tỉnh, pháp luật điều chỉnh nội dung thẩm quyền giữa Tòa án cấp tỉnh với Tòa

án cấp huyện, cấp tỉnh này với cấp tỉnh khác và TAND cấp cao.

Vấn đề thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp tỉnh là nội dung phức tạp vì

nó có liên quan đến thẩm quyền xét xử đối với các vụ án hình sự, dân sự, kinh

doanh thương mại, lao động, hành chính và các việc khác theo qui định của

pháp luật qua các thời kỳ khác nhau, đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn tư

pháp cũng như năng lực của các Thẩm phán.

- Theo pháp luật hiện hành thì thẩm quyền của TAND cấp tỉnh được

qui định như sau:

+ Điều 37 Luật Tổ chức TAND năm 2014 và khoản 2 Điều 170 Bộ luật

Tố tụng hình sự (BLTTHS) qui định TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử:

Sơ thẩm những vụ việc theo quy định của pháp luật tố tụng; sơ thẩm những

vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của TAND cấp

huyện hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà TAND

cấp tỉnh lấy lên để xét xử; phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm

của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương

đương chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của

pháp luật. Kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án

28

nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, khi phát

hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của luật tố tụng

thì kiến nghị với Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân

dân tối cao xem xét, kháng nghị; và giải quyết việc khác theo quy định của

pháp luật.

+ Theo Điều 37 BLTTDS 2015, TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử

sơ thẩm những vụ việc: Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh

doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của

BLTTDS, trừ những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân

dân cấp huyện quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 35 của BLTTDS; yêu

cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy

định tại các Điều 27, 29, 31 và 33 của BLTTDS, trừ những yêu cầu thuộc

thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 2

và khoản 4 Điều 35 của BLTTDS; tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 3

Điều 35 của Bộ luật này. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết

theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của

Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 35 của Bộ luật nà BLTTDS y

mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh tự mình lấy lên để giải quyết khi xét thấy cần

thiết hoặc theo đề nghị của Tòa án nhân dân cấp huyện.

+ Theo Điều 32 Luật Tố tụng hành chính 2015 thì Tòa án cấp tỉnh

giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây: Khiếu kiện quyết

định hành chính, hành vi hành chính của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan

thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Kiểm

toán nhà nước, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và

quyết định hành chính, hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong

cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên

cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án; trường hợp người khởi kiện

29

không có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì

thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra

quyết định hành chính, có hành vi hành chính. Khiếu kiện quyết định hành

chính, hành vi hành chính của cơ quan thuộc một trong các cơ quan nhà

nước quy định tại khoản 1 Điều này và quyết định hành chính, hành vi

hành chính của người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện

có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành

chính với Tòa án; trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi làm

việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc

Tòa án nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, có

hành vi hành chính. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính

của cơ quan nhà nước cấp tỉnh trên cùng phạm vi địa giới hành chính với

Tòa án và của người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước đó. Khiếu kiện

quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện,

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính

với Tòa án. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ

quan đại diện của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài

hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi

cư trú trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án; trường hợp người

khởi kiện không có nơi cư trú tại Việt Nam thì Tòa án có thẩm quyền là

Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân dân thành phố Hồ

Chí Minh. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng

đầu cơ quan, tổ chức cấp tỉnh, bộ, ngành trung ương mà người khởi kiện có

nơi làm việc khi bị kỷ luật trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa

án. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc

cạnh tranh mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên

cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án. Trong trường hợp cần thiết,

30

Tòa án cấp tỉnh có thể lấy lên giải quyết vụ án hành chính thuộc thẩm

quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện theo quy định tại Điều 31 của Luật

này.

1.2.2. Nguyên tắc của tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

Với tư cách là một cấp trong hệ thống tổ chức của TAND, TAND cấp

tỉnh tổ chức và hoạt động dựa trên cơ sở các nguyên tắc chung về tổ chức và

hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân. Theo đó, các nguyên tắc tổ chức và

hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh bao gồm:

- Nguyên tắc việc xét xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm nhân dân

tham gia; khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán;

- Nguyên tắc độc lập của Tòa án, khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm xét

xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;

- Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử công khai, xét xử tập thể và quyết

định theo đa số;

- Nguyên tắc bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm;

- Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử kịp thời, công bằng;

- Nguyên tắc đảm bảo sự bình đẳng của công dân;

- Nguyên tắc khi xét xử, Tòa án bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị

cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng và mục tiêu đặt ra đối với việc đổi mới tổ chức

và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân

dân cấp tỉnh

Theo các quy định trong Hiến pháp 2013 và các văn bản pháp luật hiện

hành có liên quan đến tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước và của hệ

thống cơ quan xét xử, địa vị pháp lý của TAND tỉnh chịu sự tác động của các

yếu tố khách quan và chủ quan, chẳng hạn như các quy định pháp luật, việc tổ

31

chức hệ thống các cấp chính quyền hay việc phân định địa giới hành chính ở

mỗi quốc gia, hay các nhóm quan hệ cơ bản như:

Một là: Mối quan hệ giữa TAND tỉnh với các cơ quan quyền lực khác.

Trên cơ sở nguyên tắc hiến định "Quyền lực Nhà nước thống nhất và

thuộc về nhân dân "và các nguyên tắc "Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà

nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa(CHXHCN) Việt Nam''

[30], TAND tỉnh có sự phụ thuộc vào Quốc hội, bởi vì: Quốc hội là cơ quan

có thẩm quyền ban hành ra các văn bản pháp luật có liên quan đến tổ chức và

hoạt động của Tòa án, các quy tắc tố tụng của Tòa án. Ngoài ra Quốc hội còn

có ảnh hưởng gián tiếp đến TAND tỉnh đó là Quốc hội bầu và bãi nhiệm chức

Chánh án TAND tối cao, có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với vị trí này.

Quan trọng hơn nữa là Quốc hội quyết định ngân sách hằng năm của Hệ

thống Tòa án.

Cũng trên nguyên tắc "Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà

nước ở địa phương"[30], để đảm bảo thống nhất quyền lực Nhà nước ở địa

phương, TAND tỉnh được tổ chức theo đơn vị hành chính và chịu sự giám sát

của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Chánh án TAND tỉnh phải

chịu trách nhiệm báo cáo công tác và chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân

cùng cấp.

Do đó, vị trí của Tòa án nhân dân cấp tỉnh chưa có vị trí tương xứng

trong mô hình tổ chức Tòa án; hoạt động xét xử ở một số Tòa án nhân dân cấp

tỉnh chưa thực sự độc lập, bị can thiệp, chi phối từ các cơ quan, người có thẩm

quyền; bộ máy tổ chức của Tòa án nhân dân cấp tỉnh còn thiếu thống nhất,

thiếu đồng bộ; trong tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh còn

có sự đan xen, chồng chéo giữa quan hệ tố tụng và hành chính; công tác cán

bộ và các điều kiện cơ sở vật chất chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ

của Tòa án nhân dân cấp tỉnh hiện nay.

32

Ba là: Mối quan hệ giữa TAND tỉnh với TAND tối cao, TAND tỉnh với

TAND cấp cao, TAND tỉnh với TAND cấp huyện.

Với tư cách là một trong ba cấp Tòa án theo địa giới hành chính (cấp

huyện, cấp tỉnh và cấp trung ương) và theo hai cấp theo thẩm quyền xét xử

(sơ thẩm, phúc thẩm), TAND tỉnh là một trong các cơ quan tư pháp ở cấp tỉnh

(Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án), có vị trí trung gian giữa TAND

huyện và TAND tối cao. Về mặt tổ chức TAND tỉnh có vị trí như là cơ quan

"cấp dưới' trực tiếp của TAND tối cao và là cơ quan "cấp trên" trực tiếp của

TAND huyện. Chánh án TAND tối cao có quyền hạn bổ nhiệm, miễn nhiệm,

cách chức Chánh án, Phó Chánh án; trình Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn

nhiệm, cách chức Thẩm phán các Tòa án khác. Tổ chức công tác đào tạo, bồi

dưỡng nghiệp vụ cho Thẩm phán, Hội thẩm và cán bộ TAND tỉnh.

Như vậy, theo các quy định trong pháp luật hiện hành thì TAND tỉnh có

vị trí độc lập tương đối trong bộ máy Nhà nước cũng như trong hệ thống cơ quan

xét xử của nước ta. Sự phụ thuộc của TAND tỉnh vào hệ thống các cơ quan này

là tương đối lớn. Những đặc điểm về vị trí của TAND tỉnh trong bộ máy Nhà

nước, trong hệ thống cơ quan xét xử đã ảnh hưởng đến hoạt động của TAND

tỉnh, đặc biệt là phán quyết của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc.

Chính vì vậy, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

cấp tỉnh, nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập và phát huy những kết quả

hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp

phần xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh,

từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân.

1.3.2. Mục tiêu đặt ra đối với việc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân

dân cấp tỉnh.

- Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải được tổ chức theo thẩm quyền xét xử

trong hệ thống Tòa án nhân dân nhằm nâng cao năng lực xét xử, đáp ứng các

33

yêu cầu xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa ở nước ta;

- Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải đảm

bảo hợp lý, khoa học, hiện đại về cơ cấu tổ chức; bảo đảm điều kiện vật chất,

phương tiện làm việc để Tòa án thực hiện nguyên tắc Tòa án xét xử hai cấp;

khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; khắc

phục những tồn tại, bất cập trong tổ chức và hoạt động của Tòa án hiện nay.

- Nâng cao năng lực, trách nhiệm, hiệu lực, hiệu quả xét xử; xây dựng

đội ngũ Thẩm phán trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong

tình hình mới.

Trên cơ sở các mục tiêu trên, tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

cấp tỉnh cần đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau:

Một là, cần nâng cao năng lực xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

Năng lực xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh được hiểu là khả năng thực

hiện chức năng, nhiệm vụ xét xử các vụ án, vụ việc theo thẩm quyền và các

nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Năng lực xét xử của Tòa án nhân dân cấp

tỉnh được cấu thành bởi các yếu tố cơ bản là: Cơ cấu tổ chức bộ máy của Tòa

án nhân dân cấp tỉnh; trình độ, năng lực chuyên môn của đội ngũ Thẩm phán,

Hội thẩm nhân dân, công chức Tòa án; sự phối hợp giữa Tòa án nhân dân cấp

tỉnh với các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan, tổ chức có liên quan;

các điều kiện đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

Hai là, phải bảo đảm tính độc lập của Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong

hoạt động xét xử. Hoạt động xét xử là hoạt động áp dụng pháp luật, theo đó

thông qua sự đánh giá các tình tiết, chứng cứ của vụ án và đối chiếu với các

quy định của pháp luật, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đưa ra các bản án,

quyết định nhân danh Nhà nước. Bởi vậy, muốn có sự đánh giá, áp dụng đúng

pháp luật, khách quan thì Tòa án và các Thẩm phán phải có sự độc lập cả về tổ

34

chức và ý chí quyết định. Ở nhiều nước trên thế giới, yêu cầu bảo đảm sự độc

lập của Tòa án là một nguyên tắc có tính hiến định, trong đó chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn của Thẩm phán được quy định một cách rõ ràng, độc lập và

không lệ thuộc vào các cơ quan lập pháp, hành pháp. Sự phân định rõ ràng

chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong bộ máy nhà nước và đề cao sự độc

lập của Thẩm phán là điều kiện để Thẩm phán thực hiện chức năng xét xử.

Việc quy định Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là cơ sở

pháp lý quan trọng để Thẩm phán không phải chịu áp lực từ các cơ quan,

người có thẩm quyền, đồng thời cũng nâng cao ý thức trách nhiệm của Thẩm

phán trong việc đảm bảo công lý. Chính vì vậy, để đảm bảo tính độc lập của

Thẩm phán, nhiều nước quy định Thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời hoặc

với nhiệm kỳ đặc biệt cùng với những chế độ đãi ngộ tương xứng để đảm bảo

tính liêm chính của Thẩm phán trong hoạt động xét xử. Tính độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật của Thẩm phán ở nước ta đã được ghi nhận trong Hiến

pháp. Nguyên tắc độc lập của Tòa án, khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm xét xử

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nguyên tắc này đã được ghi nhận tại khoản

2 Điều 103 Hiến pháp 2013 và được cụ thể hoá tại Điều 9 Luật Tổ chức

TAND năm 2014 là: “Khi xét xử, Thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật”. Việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này có ý nghĩa quan

trọng trong việc tổ chức và hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân dân nói

chung, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói riêng. Điều này đòi hỏi các Tòa án nhân

dân cấp tỉnh phải được tổ chức độc lập với các cơ quan, tổ chức khác tại địa

phương; hoạt động xét xử không bị can thiệp trái pháp luật từ các cơ quan, tổ

chức, cá nhân và tiến tới nghiên cứu quy định việc bổ nhiệm Thẩm phán với

nhiệm kỳ lâu dài và chế độ đãi ngộ tương xứng để Thẩm phán yên tâm, liêm

chính thực hiện nhiệm vụ của mình.

35

Ba là: Bảo đảm tính giám sát đối với hoạt động xét xử của Tòa án nhân

dân. Đây là một yêu cầu quan trọng, tất yếu ở bất kỳ nhà nước nào, bởi vì, về

bản chất quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, nên hoạt động của Tòa án

đòi hỏi có sự giám sát từ các thiết chế của nhân dân. Giám sát là một biện

pháp đảm bảo cho Tòa án phải xét xử độc lập và tuân theo pháp luật, nếu

Thẩm phán xét xử không đúng, các chủ thể giám sát sẽ có ý kiến, kiến nghị.

Cơ chế giám sát đối với hoạt động xét xử của Tòa án là cơ chế dân chủ,

bởi vì hoạt động của Tòa án liên quan đến công lý, phán xét các quyền cơ bản

của con người (quyền sống, quyền tự do thân thể, quyền sở hữu, sử dụng tài

sản của công dân…). Ở các nước, để đảm bảo tính dân chủ và giám sát hoạt

động xét xử của Tòa án, pháp luật có quy định sự tham gia của nhân dân

thông qua sự hiện diện của Bồi thẩm đoàn, Hội thẩm trong quá trình xét xử

cùng với Thẩm phán. Ở nước ta, tính nhân dân trong tổ chức và hoạt động của

Tòa án là một nguyên tắc có tính hiến định được quy định tại khoản 1 Điều

103 Hiến pháp năm 2013 và cũng được khẳng định tại Điều 8 Luật Tổ chức

Tòa án nhân dân năm 2014, theo đó thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm của

Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện có sự tham gia của Hội thẩm nhân

dân. Để đảm bảo tính khách quan, bình đẳng trong hoạt động xét xử, pháp

luật đã quy định, đảm bảo tính ngang quyền và độc lập của Hội thẩm nhân

dân với Thẩm phán; Hội thẩm nhân dân cũng là người giám sát việc tuân thủ

các trình tự, thủ tục tố tụng trong quá trình xét xử tại phiên tòa.

36

Tiểu kết chương 1

Qua nghiên cứu một số vấn đề lý luận tổ chức và hoạt động của Tòa án

và những mục tiêu, yêu cầu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp

tỉnh trong điều kiện cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta, có thể rút ra một số kết luận

sau:

Quyền Tư pháp là một trong 3 quyền quan trọng trong tổ chức quyền

lực Nhà nước, trong đó Tòa án là chủ thể được giao thực hiện quyền này. Tòa

án là cơ quan được thành lập để thực hiện chức năng xét xử. Để Tòa án thực

hiện tốt chức năng xét xử thì yêu cầu quan trọng nhất là cần có những đảm

bảo để Tòa án độc lập; khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập

và chỉ tuân theo pháp luật và bảo đảm các nguyên tắc mang tính phổ quát

trong hoạt động xét xử của Tòa án.

Ở nước ta, hệ thống Tòa án nhân dân được tổ chức theo đơn vị hành

chính lãnh thổ, thực hiện chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn

nhân và gia đình, lao động, hành chính, kinh doanh, thương mại và giải quyết

các việc khác theo quy định của pháp luật. Tòa án nhân dân cấp tỉnh là cấp

Tòa án có vai trò quan trọng, thực hiện việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm các vụ

án theo thẩm quyền.

Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực

hiện cải cách tư pháp hiện nay, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án

nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói riêng cần hướng tới các

mục tiêu cơ bản là: nâng cao năng lực xét xử; đảm bảo tính độc lập của Tòa

án và Thẩm phán trong hoạt động xét xử và bảo đảm việc giám sát đối với

hoạt động xét xử.

37

Chương 2:

THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM

2.1. Khái quát quá trình hình thành, phát triển về tổ chức và hoạt động

của Tòa án nhân dân cấp tỉnh từ năm 1945 đến nay

Trong hệ thống tổ chức Tòa án ở nước ta hiện nay, Tòa án nhân dân

cấp tỉnh giữ một vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ án sơ

thẩm và phúc thẩm. Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển, tổ chức và

hoạt động của Tòa án nhân dân có thể thấy rằng trải qua các giai đoạn lịch sử

cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã có

những bước phát triển, hoàn thiện và góp phần quan trọng vào quá trình đổi

mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

2.1.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1959

Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam

dân chủ cộng hòa được thành lập đã nhanh chóng xây dựng và củng cố bộ

máy nhà nước, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng Nhà nước của nhân

dân, vì nhân dân. Ngày 13/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ

lâm thời Việt nam dân chủ cộng hòa đã ra Sắc lệnh số 33C thành lập các Tòa

án quân sự để xét xử tất cả các người nào vi phạm vào một việc gì có phương

hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Tuy nhiên, do yêu

cầu cách mạng, Nhà nước Việt nam dân chủ cộng hòa ban đầu mới chỉ thiết

lập các Tòa án quân sự để xét xử các vụ án hình sự mà chưa tổ chức thành hệ

thống Tòa án các cấp và xét xử các vụ án dân sự. Theo Điều 1 của Sắc lệnh

này thì sẽ thiết lập các Tòa án quân sự ở Bắc bộ tại Hà Nội, Hải Phòng, Thái

Nguyên, Ninh Bình; ở Trung bộ tại Vinh, Huế, Quảng Ngãi; ở Nam bộ tại Sài

Gòn và Mỹ Tho.

38

Về thẩm quyền xét xử, Tòa án quân sự xét xử tất cả những người nào

phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam Dân

chủ Cộng hoà, trừ trường hợp phạm nhân là binh sỹ thì thuộc về nhà binh tự

xử lấy theo quân luật (Điều 2). Ngoài ra, đối với những nơi ở xa các Tòa án

quân sự đã được thành lập theo Sắc lệnh này, thì trong những trường hợp đặc

biệt, Chính phủ “có thể cho Uỷ ban nhân dân địa phương thành lập một Tòa

án quân sự có quyền xử trong một thời kỳ và theo đúng những nguyên tắc

định trong Sắc lệnh này” (Điều 7). Về thẩm quyền theo lãnh thổ trong Sắc

lệnh này chưa được đề cập đến. Ngày 26/9/1945 Chủ tịch Chính phủ lâm thời

Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ra Sắc lệnh số 37 quy định các địa phương có

thẩm quyền của các Tòa án quân sự. Theo Điều 1 của Sắc lệnh này thì thẩm

quyền theo lãnh thổ của các Tòa án quân sự được xác định như sau: Tòa án

quân sự Hà Nội xét xử các vụ án xảy ra tại Thành phố Hà Nội và các tỉnh Hoà

Bình, Phú Thọ, Sơn Tây, Hà Đông, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Hưng Yên,

Bắc Ninh, Bắc Giang; Tòa án quân sự Hải Phòng xét xử các vụ án xảy ra tại

thành phố Hải Phòng và các tỉnh Hải Dương, Kiến An, Quảng Yên, Hải Ninh;

Tòa án quân sự tỉnh Thái Nguyên xét xử các vụ án xảy ra tại Thái Nguyên,

Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai,

Lai Châu, Sơn La; Tòa án quân sự Ninh Bình xét xử các vụ án xảy ra tại Ninh

Bình, Nam Định, Hà Nam, Thái Bình; Tòa án quân sự Vinh xét xử các vụ án

xảy ra tại Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam (kể cả Đà Nẵng); Tòa án quân

sự Quảng Ngãi xét xử các vụ án xảy ra tại các tỉnh Trung Bộ ở phía Nam tỉnh

Quảng Nam; Tòa án quân sự Sài Gòn xét xử các vụ án xảy ra tại thành phố

Sài Gòn, Chợ Lớn và tỉnh Gia Định, Tân Bình, Tây Ninh, Biên Hoà, Bà Rịa,

Ô Cấp, Gò Công, Tân An, Côn Đảo; Tòa án quân sự Mỹ Tho xét xử các vụ án

xảy ra tại các tỉnh khác thuộc Nam Bộ.

39

2.1.2. Giai đoạn từ 1959 đến 1980

Ngày 31/12/1959, Quốc hội khoá I, kỳ họp thứ 11 đã thông qua Hiến

pháp mới của Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (công bố ngày 01/01/1960)

nhằm đáp ứng nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới là xây dựng chủ

nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Hiến pháp 1959

đã xác định lại vị trí, chức năng của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân

dân trong bộ máy nhà nước, theo đó hai hệ thống cơ quan này không thuộc

Hội đồng Chính phủ mà trực tiếp chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước

Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.

Trên cơ sở quy định của Hiến pháp 1959, Quốc hội đã thông qua Luật

tổ chức Tòa án nhân dân ngày 14/7/1960 và ngày 23/3/1961, Uỷ ban thường

vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức của Tòa án

nhân dân tối cao và tổ chức của các Tòa án nhân dân địa phương. Theo quy

định tại văn bản quy phạm pháp luật nêu trên thì tổ chức và hoạt động của

Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thể khái quát như sau:

- Tổ chức Tòa án nhân dân được thiết kế theo theo nguyên tắc kết hợp

thẩm quyền xét xử với đơn vị hành chính lãnh thổ.

- Tòa án nhân dân thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Điều này có nghĩa là

Nhà nước ta rất chú trọng bảo đảm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của

công dân. Theo quy định thì ngoài đương sự, bị cáo, Viện kiểm sát cũng được

quyền kháng nghị đối với bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật để yêu

cầu Tòa án cấp trên xem xét lại theo trình tự phúc thẩm.

- Nguyên tắc bổ nhiệm Thẩm phán trong giai đoạn này cũng được thay

thế bằng nguyên tắc bầu Thẩm phán. Chánh án, Phó Chánh án và các Thẩm

phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và bãi

miễn; nhiệm kỳ của Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán Tòa án nhân dân

cấp tỉnh là bốn năm.

40

- Trong tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, pháp luật có những

quy định bảo đảm tối đa sự tham gia của nhân dân, cụ thể là quy định về chế

độ bầu cử các chức vụ Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán các Tòa án nhân

dân các cấp và thực hiện nguyên tắc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm

nhân dân tham gia và chiếm đa số trong thành phần Hội đồng xét xử; Hội

thẩm nhân dân tham gia có quyền ngang với Thẩm phán.

- Về mô hình tổ chức, Tòa án nhân dân cấp tỉnh là một cấp tòa án trong

hệ thống Tòa án nhân dân được tổ chức từ trung ương đến địa phương phù

hợp với điều kiện và đặc thù của chế độ chính trị ở nước ta. Hệ thống Tòa án

nhân dân bao gồm Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương,

các Tòa án quân sự. Các Tòa án nhân dân địa phương gồm có: Tòa án nhân

dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương

đương, Tòa án nhân dân ở các khu vực tự trị. Tòa án nhân cấp tỉnh gồm có

Chánh án, một hoặc nhiều Phó Chánh án và các Thẩm phán. Cơ cấu tổ chức

của Tòa án nhân cấp tỉnh không chia thành các Tòa chuyên trách mà chỉ có

Uỷ ban Thẩm phán.

- Về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Pháp luật quy định Tòa

án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền:

+ Sơ thẩm những vụ án hình sự không thuộc thẩm quyền của Tòa án

nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương

đương và những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của các Tòa án đó, nhưng

xét thấy quan trọng hoặc phức tạp, cần lấy lên để xử. Sơ thẩm những vụ án

dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã,

huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương, nhưng xét thấy quan trọng hoặc

phức tạp, cần lấy lên để xử.

+ Phúc thẩm những bản án hoặc những quyết định sơ thẩm của Tòa án

nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương

41

đương bị chống án hoặc bị kháng nghị. Xử lại những vụ án do Tòa án mình

hoặc Tòa án cấp dưới đã xử mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp

luật, nhưng Tòa án nhân dân tối cao giao cho xử lại.

Ngoài việc thực hiện chức năng xét xử, Tòa án nhân dân cấp tỉnh còn

được giao nhiệm vụ xây dựng tổ chức tư pháp ở địa phương, huấn luyện thư

ký cho Tòa án địa phương, huấn luyện cán bộ tư pháp cho thị trấn và xã, và tổ

chức việc tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân. Bên cạnh đó, pháp

luật cũng quy định Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh có nhiệm vụ:

xét những vụ án quan trọng hoặc phức tạp; xét và báo cáo lên Tòa án nhân

dân tối cao những vụ án do Tòa án mình hoặc Tòa án cấp dưới đã xử mà bản

án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nhưng phát hiện có sai lầm;

hướng dẫn các Tòa án cấp dưới áp dụng pháp luật và đường lối, chính sách

xét xử; phân công cho các Thẩm phán trong Tòa án; tổng kết kinh nghiệm xét

xử. Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh họp ít nhất mỗi tháng hai lần

và quyết định theo đa số. Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh có nhiệm vụ:

Báo cáo công tác của Tòa án trước Hội đồng toàn thể Thẩm phán Tòa án; chủ

toạ các phiên họp của Uỷ ban Thẩm phán; chỉ định các Thẩm phán để mở

phiên tòa; lập danh sách Hội thẩm nhân dân cho các phiên tòa; chủ toạ phiên

tòa hoặc chỉ định một thẩm phán chủ toạ phiên tòa; tổ chức thống kê tư pháp;

tổ chức việc tổng kết và phổ biến kinh nghiệm xét xử; đôn đốc việc thi hành

các Nghị quyết của Uỷ ban Thẩm phán; điều hoà công tác giữa các bộ phận

của Tòa án; tổ chức việc kiểm tra công tác của các Tòa án nhân dân cấp dưới;

chỉ đạo công tác xây dựng tổ chức tư pháp ở địa phương, công tác huấn luyện

thư ký Tòa án cho địa phương, công tác huấn luyện cán bộ tư pháp cho thị

trấn và xã, và công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân.

- Về quản lý hệ thống Tòa án, do sự giải thể Bộ Tư pháp từ năm 1961

nên Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ quản lý các Tòa án nhân dân địa

42

phương. Tuy nhiên, trong giai đoạn này việc quản lý các Tòa án nhân dân địa

phương là song trùng trực thuộc, bởi vì Tòa án nhân dân tối cao chủ yếu quản

lý về công tác sắp xếp bộ máy làm việc, số lượng biên chế, trình Uỷ ban

thường vụ Quốc hội phê chuẩn tổng biên chế của các Tòa án nhân dân địa

phương, quản lý về công tác xét xử, trong khi đó Uỷ ban nhân dân địa phương

quản lý và cấp kinh phí hoạt động cũng như sắp xếp nhân sự (Chánh án, Phó

Chánh án, Thẩm phán do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu).

2.1.3. Giai đoạn từ 1980 đến 1992

Ngày 18/12/1980, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

khoá VI, kỳ họp thứ 7, đã thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam thống

nhất - Hiến pháp 1980. Các quy định của Hiến pháp năm 1980 về Tòa án

nhân dân tiếp tục được kế thừa và phát triển từ các quy định của Hiến pháp

năm 1959 về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Các quy định của

Hiến pháp năm 1980 về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân được cụ

thể hoá bằng Luật tổ chức Tòa án nhân dân, được Quốc hội nước Cộng hoà xã

hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 03/7/1981 và được sửa đổi, bổ sung

theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Tòa án nhân dân, được Quốc hội

nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 22/12/1988. Theo

quy định tại văn bản quy phạm pháp luật nêu trên thì về cơ bản, tổ chức và

hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung, của Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói

riêng không khác so với tổ chức Tòa án theo đơn vị lãnh thổ hành chính, tuy

nhiên thẩm quyền xét xử, các nguyên tắc được quy định trong Hiến pháp

1980 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 có một số điểm mới là:

- Về nhiệm kỳ của Thẩm phán: Nhiệm kỳ Thẩm phán theo Luật Tổ

chức Tòa án nhân dân năm 1960 được quy định trong thời hạn nhất định còn

trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 thì nhiệm kỳ của Thẩm phán

tính theo nhiệm kỳ của cơ quan bầu ra là Hội đồng nhân dân.

43

- Về tổ chức của Tòa án nhân dân cấp tỉnh: Tòa án nhân dân cấp tỉnh

gồm có Chánh án, các Phó Chánh án, các Thẩm phán và các Hội thẩm nhân

dân. Về cơ cấu tổ chức, Tòa án nhân dân cấp tỉnh gồm có: Uỷ ban thẩm phán;

Các Tòa chuyên trách (Tòa hình sự, Tòa dân sự); Bộ máy giúp việc của Tòa

án nhân dân. Uỷ ban Thẩm phán gồm có Chánh án, các Phó Chánh án, các

Chánh Tòa và Phó Chánh Tòa các Tòa chuyên trách. Các Tòa chuyên trách có

Chánh Tòa, Phó Chánh Tòa và các Thẩm phán.

- Về thẩm quyền xét xử:

+ Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền: Sơ thẩm những vụ án

không thuộc thẩm quyền của các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành

phố thuộc tỉnh và những vụ án thuộc thẩm quyền của các Tòa án đó, nhưng

Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương

lấy lên để xét xử; phúc thẩm những bản án và quyết định sơ thẩm của các Tòa

án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; giám đốc thẩm hoặc tái

thẩm những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Tòa án

nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

+ Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh có nhiệm vụ: Bảo đảm

việc áp dụng thống nhất pháp luật và đường lối xét xử tại các Tòa án nhân dân

ở địa phương; tổng kết kinh nghiệm xét xử; thông qua báo cáo công tác của

Tòa án trình Hội đồng nhân dân cùng cấp; giám đốc thẩm hoặc tái thẩm

những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Tòa án nhân dân

huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (Quyết định của Uỷ ban thẩm phán

phải được quá nửa tổng số thành viên tán thành).

+ Các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền: Sơ

thẩm những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực

thuộc trung ương và cấp tương đương; phúc thẩm những bản án và quyết định

sơ thẩm của các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

44

Trong thời gian này, Nhà nước cũng có sự nhận thức lại về việc quản lý

tổ chức Tòa án địa phương, cụ thể là việc tái lập lại Bộ Tư pháp. Theo Luật

Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981, Bộ Tư pháp có thẩm quyền quản lý các

Tòa án địa phương, tuy vậy, việc các Tòa án địa phương thuộc thẩm quyền

quản lý của Bộ Tư pháp cũng chỉ ở việc Bộ Tư pháp trình Ủy ban thường vụ

Quốc hội tổng biên chế, quy định biên chế cho từng Tòa án địa phương, còn

về kinh phí hoạt động của Tòa án địa phương thì vẫn do ngân sách địa

phương cấp và Hội đồng nhân dân cùng cấp vẫn là cơ quan bầu ra các chức

danh Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân; Tòa án nhân

dân tối cao thực hiện việc hướng dẫn xét xử, đảm bảo áp dụng thống nhất

pháp luật trong phạm vi toàn quốc đối với hoạt động xét xử của các Tòa án

nhân dân.

2.1.4. Giai đoạn từ 1992 đến 2002

Đường lối đổi mới mọi mặt về đời sống xã hội do Đại hội lần thứ VI

của Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng đã tạo tiền đề cho việc nghiên cứu,

xây dựng Hiến pháp năm 1992. Trước những yêu cầu thực hiện công cuộc đổi

mới, mô hình tổ chức Tòa án nhân dân theo Hiến pháp 1980 dựa trên cơ chế

quản lý nhà nước theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp không còn

phù hợp. Vì vậy, kế thừa các quy định của Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992

đã có những quy định thể hiện sự đổi mới trong tổ chức và hoạt động của Tòa

án nhân dân.

Trên cơ sở Hiến pháp 1992, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức Tòa án

nhân dân ngày 06/10/1992 và được sửa đổi, bổ sung theo các Luật sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân, được Quốc hội thông qua

ngày 28/12/1993 và ngày 28/10/1995. Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông

qua Pháp lệnh Tổ chức Tòa án quân sự ngày 19/4/1993 và Pháp lệnh về Thẩm

phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân ngày 14/5/1993. Theo các văn bản pháp

45

luật này thì tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân đã được kiện toàn và

đổi mới một bước cơ bản. Nhìn chung nhiều quy định của Hiến pháp năm

1992 về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân được kế thừa các quy định

của Hiến pháp năm 1980, tuy nhiên một số quy định của Hiến pháp năm 1992

về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và của Tòa án

nhân dân nói riêng đã thể hiện rõ nét đổi mới các nguyên tắc tổ chức và hoạt

động của các cơ quan này.

- Về tổ chức, Tòa án nhân dân cấp tỉnh tiếp tục được khẳng định là một

cấp Tòa án trong hệ thống Tòa án nhân dân. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân

dân cấp tỉnh gồm có: Uỷ ban Thẩm phán; Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh

tế, Tòa lao động, Tòa hành chính, bộ máy giúp việc; trong trường hợp cần

thiết Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập các Tòa chuyên trách

khác theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp sau khi thống nhất ý kiến với

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Như vậy, trên cơ sở Hiến pháp 1992, trong

cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã tổ chức thêm một số cơ cấu

mới, đặc biệt là một số tòa chuyên trách như Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa

hành chính. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có Chánh án, các Phó Chánh án, Thẩm

phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký Tòa án. Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân

dân cấp tỉnh gồm có Chánh án, các Phó Chánh án, Chánh tòa các tòa chuyên

trách. Đối với các tòa chuyên trách thuộc Tòa án nhân dân cấp tỉnh gồm có

Chánh tòa, các Phó Chánh tòa, các Thẩm phán và Thư ký Tòa án. Hoạt động

của Tòa án nhân dân cấp tỉnh do Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh lãnh đạo.

Theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992, Chánh án

Tòa án nhân dân cấp tỉnh có nhiệm vụ và quyền hạn như sau: Tổ chức công

tác xét xử; chủ tọa các phiên họp của Ủy ban Thẩm phán; kháng nghị theo thủ

tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của

Tòa án cấp dưới theo quy định của pháp luật tố tụng; bổ nhiệm, miễn nhiệm,

46

cách chức Chánh tòa, các Phó Chánh tòa các tòa chuyên trách và các chức vụ

khác trong Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cấp dưới; báo cáo công tác xét xử của

các Tòa án địa phương trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và Tòa án nhân dân

tối cao; các Phó Chánh án giúp Chánh án thực hiện các nhiệm vụ theo sự

phân công của Chánh án. Trong giai đoạn này, theo Nghị quyết của Quốc hội

ngày 06/10/1992, từ năm 1993 việc quản lý công tác thi hành án dân sự được

chuyển giao từ Tòa án sang cơ quan tư pháp, tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa

án tập trung hoàn thành nhiệm vụ trọng tâm là xét xử.

- Về thẩm quyền xét xử:

+ Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền: Sơ thẩm những vụ án theo

quy định của pháp luật tố tụng; phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định

sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới bị kháng cáo, kháng

nghị; giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu

lực pháp luật của Tòa án cấp dưới bị kháng nghị.

+ Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh có nhiệm vụ, quyền

hạn: Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu

lực pháp luật của Tòa án cấp dưới bị kháng nghị; bảo đảm việc áp dụng thống

nhất pháp luật tại Tòa án cấp mình và các Tòa án cấp dưới; tổng kết kinh

nghiệm xét xử; thông qua báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành

phố trực thuộc Trung ương về công tác xét xử của các Tòa án ở địa phương để

báo cáo trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và với Tòa án nhân dân tối cao.

Quyết định của Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực

thuộc trung ương phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành.

+ Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính của Tòa án nhân dân cấp

tỉnh có nhiệm vụ quyền hạn: sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp

luật tố tụng; phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có

47

hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy

định của pháp luật tố tụng.

+ Tòa kinh tế Tòa án nhân dân cấp tỉnh có nhiệm vụ, quyền hạn: sơ

thẩm những vụ án kinh tế theo quy định của pháp luật tố tụng; phúc thẩm

những vụ án kinh tế mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật

của Tòa án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố

tụng; giải quyết việc phá sản doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.

+ Tòa Lao động Tòa án nhân dân cấp tỉnh có nhiệm vụ, quyền hạn: sơ

thẩm những vụ án lao động theo quy định của pháp luật tố tụng; phúc thẩm

những vụ án lao động mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp

luật của Tòa án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp

luật tố tụng; giải quyết các cuộc đình công theo quy định của pháp luật.

- Về hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh: Để bảo vệ quyền lợi của

đương sự và bảo đảm quyền bình đẳng của mọi thành phần kinh tế, pháp luật

quy định bổ sung hai nguyên tắc trong hoạt động xét xử, đó là: Tòa án có thể

xét xử kín để giữ bí mật của các đương sự theo yêu cầu của họ và Tòa án xét

xử theo nguyên tắc các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh

tế đều bình đẳng trước pháp luật.

- Về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân: Điểm mới của Hiến pháp 1992

quy định về Tòa án nhân dân là chế độ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và

nhiệm kỳ của Thẩm phán được thay thế cho chế độ bầu cử Thẩm phán theo

quy định của Hiến pháp năm 1980. Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp của

nước ta, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành một văn bản pháp luật

riêng biệt về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân. Pháp lệnh Thẩm phán

và Hội thẩm Tòa án nhân dân đã quy định cụ thể tiêu chuẩn của Thẩm phán,

Hội thẩm Tòa án ở mỗi cấp; nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán, Hội thẩm

Tòa án; quy định cụ thể về tiêu chuẩn Thẩm phán. Đồng thời để bảo đảm cho

48

việc bổ nhiệm Thẩm phán đúng và có chất lượng, Pháp lệnh quy định về việc

thành lập Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án các cấp. Chế độ đãi ngộ

đối với Thẩm phán đã có một bước cải cách trong chế độ tiền lương thể hiện

sự đánh giá lao động xét xử là một loại lao động quan trọng, cần được sự ưu

đãi của Nhà nước.

- Về cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ cho hoạt động xét xử của Tòa

án: Cơ sở vật chất, phương tiện, điều kiện làm việc của Tòa án nhân dân đã

được chú trọng và được nâng cao lên một bước. Công tác đào tạo mới và đào

tạo lại cán bộ công tác ở các Tòa án đã được quan tâm, chú trọng và đẩy

mạnh hơn trước.

2.1.5. Giai đoạn từ 2002 đến 2014

Để cụ thể hoá các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về xây dựng

và hoàn thiện bộ máy nhà nước cũng như những yêu cầu về đổi mới tổ chức

và hoạt động của Tòa án nhân dân đã được đề ra trong các nghị quyết, văn

kiện của Đảng, đặc biệt là trong Văn kiện của Đại hội đại biểu Tòan quốc lần

thứ IX của Đảng và Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính

trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, ngày

02/4/2002, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khoá X đã thông qua Luật Tổ chức

Tòa án nhân dân mới thay thế Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 06/10/1992

đã được sửa đổi, bổ sung theo các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật

tổ chức Tòa án nhân dân ngày 28/12/1993 và ngày 28/10/1995. Theo quy định

của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002, cơ cấu tổ chức, hoạt động của Tòa

án nhân dân cấp tỉnh có những bước đổi mới và được quy định cụ thể hơn

nhằm đáp ứng yêu cầu xét xử.

- Về tổ chức: Theo quy định tại Điều 27 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân

2002, cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp tỉnh gồm có:

+ Ủy ban Thẩm phán;

49

+ Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Kinh tế, Tòa Lao động, Tòa Hành

chính; trong trường hợp cần thiết Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định

thành lập các Tòa chuyên trách khác theo đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân

tối cao;

+ Bộ máy giúp việc.

Tòa án nhân dân cấp tỉnh có Chánh án, các Phó Chánh án, Thẩm phán,

Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án. Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp

tỉnh gồm có: Chánh án, các phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh; một số

thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao

quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Tổng số thành

viên Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh không quá chín người.

- Về thẩm quyền xét xử: Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh

có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

+ Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao

động, hành chính mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án

nhân dân cấp huyện bị kháng nghị;

+ Bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật tại Tòa án cấp mình và

các Tòa án cấp dưới;

+ Tổng kết kinh nghiệm xét xử;

+ Thông qua báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố

trực thuộc Trung ương về công tác của các Tòa án ở địa phương để báo cáo

trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và với Tòa án nhân dân tối cao.

Phiên họp của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải có ít

nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia. Quyết định của Ủy ban thẩm

phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải được quá nửa tổng số thành viên biểu

quyết tán thành.

50

Tòa Hình sự Tòa án nhân dân cấp tỉnh có Chánh Tòa, Phó chánh Tòa,

Thẩm phán và Thư ký Tòa án; thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn: xét xử

sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng; phúc thẩm những

vụ án hình sự mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của

Tòa án nhân dân cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp

luật tố tụng.

Tòa dân sự Tòa án nhân dân cấp tỉnh có Chánh Tòa, các Phó chánh Tòa,

Thẩm phán và Thư ký Tòa án; có các nhiệm vụ và quyền hạn: Xét xử sơ thẩm

những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng; phúc thẩm những vụ án hình

sự mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân

dân cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng.

Tòa kinh tế Tòa án nhân dân cấp tỉnh có Chánh Tòa, các Phó chánh

Tòa, Thẩm phán và Thư ký Tòa án; có nhiệm vụ và quyền hạn: Xét xử sơ

thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng; phúc thẩm những vụ

án hình sự mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa

án nhân dân cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố

tụng ; giải quyết việc phá sản doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.

Tòa hành chính Tòa án nhân dân cấp tỉnh có Chánh Tòa, các Phó chánh

Tòa, Thẩm phán và Thư ký Tòa án; có các nhiệm vụ và quyền hạn: Xét xử sơ

thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng; phúc thẩm những vụ án

hình sự mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án

nhân dân cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng.

Tòa lao động Tòa án nhân dân cấp tỉnh có Chánh Tòa, các Phó chánh

Tòa, Thẩm phán và Thư ký Tòa án; có nhiệm vụ và quyền hạn: Xét xử sơ

thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng; phúc thẩm những vụ

án hình sự mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa

51

án nhân dân cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố

tụng; giải quyết các cuộc đình công theo quy định của pháp luật.

Bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân cấp tỉnh có nhiệm vụ, quyền

hạn trong công tác văn phòng, tổ chức cán bộ, tiếp dân, giải quyết đơn thư

khiếu nại, tố cáo và kiểm tra việc xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện...

- Về hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh:

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 tiếp tục quy định cụ thể về

các nguyên tắc xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia; khi xét xử, Thẩm phán

và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Tòa án xét xử tập thể và quyết

định theo đa số; Tòa án xét xử công khai, trừ trường hợp cần xét xử kín để giữ

gìn bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí mật của

các đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ; Tòa án xét xử theo nguyên tắc

mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân

tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội; cá nhân, cơ quan,

tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân và các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc

mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật; Tòa án bảo đảm quyền

bào chữa của bị cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự;

Tòa án bảo đảm cho những người tham gia tố tụng quyền dùng tiếng nói, chữ

viết của dân tộc mình trước Tòa án.

Về nguyên tắc xét xử, Tòa án thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử; bản

án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy

định của pháp luật tố tụng; bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo,

kháng nghị trong thời hạn do pháp luật quy định thì có hiệu lực pháp luật. Đối

với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được

xét xử phúc thẩm; bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật; đối với

bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi

52

phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo trình tự giám

đốc thẩm hoặc tái thẩm theo quy định của pháp luật.

- Về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân: Theo quy định của Luật Tổ

chức Tòa án nhân dân năm 2002 và Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm

nhân dân năm 2002 thì tiêu chuẩn chung để được bổ nhiệm Thẩm phán và bầu

làm Hội thẩm nhân dân như sau: Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc

và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất, đạo

đức tốt, liêm khiết và trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã

hội chủ nghĩa, có trình độ cử nhân luật và đã được đào tạo về nghiệp vụ xét

xử, có thời gian làm công tác thực tiễn theo quy định của pháp luật, có năng

lực làm công tác xét xử, có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao

thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán. Công dân Việt Nam

trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, có phẩm chất, đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có kiến thức pháp

lý, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có sức khỏe bảo

đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, thì có thể được bầu hoặc cử làm Hội

thẩm. Đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Pháp lệnh Thẩm phán và

Hội thẩm nhân dân quy định:

+ Người có đủ tiêu chuẩn quy định như nêu trên và đã là Thẩm phán

Tòa án nhân dân cấp huyện, Thẩm phán Tòa án quân sự khu vực ít nhất là

năm năm, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác

thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân

khu, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án nhân dân

cấp tỉnh; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn

và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu.

+ Trong trường hợp do nhu cầu cán bộ của ngành Tòa án nhân dân,

người có đủ tiêu chuẩn quy định chung nêu trên và đã có thời gian làm công

53

tác pháp luật từ mười năm trở lên, có năng lực xét xử những vụ án và giải

quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa

án quân sự cấp quân khu, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm

phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

Về trách nhiệm của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân: Thẩm phán, Hội

thẩm nhân dân chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ,

quyền hạn của mình và phải giữ bí mật công tác theo quy định của pháp luật;

nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị

xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Thẩm phán, Hội thẩm trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của

mình mà gây thiệt hại, thì Tòa án nơi Thẩm phán, Hội thẩm đó thực hiện

nhiệm vụ xét bxử phải có trách nhiệm bồi thường và Thẩm phán, Hội thẩm đã

gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Tòa án theo quy định của pháp luật.

Về những việc Thẩm phán không được làm, pháp luật quy định Thẩm

phán không được làm những việc sau: Những việc mà pháp luật quy định cán

bộ, công chức không được làm; tư vấn cho bị can, bị cáo, đương sự hoặc

người tham gia tố tụng khác làm cho việc giải quyết vụ án hoặc những việc

khác không đúng quy định của pháp luật; can thiệp trái pháp luật vào việc giải

quyết vụ án hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người có trách

nhiệm giải quyết vụ án; đem hồ sơ vụ án hoặc tài liệu trong hồ sơ vụ án ra

khỏi cơ quan, nếu không vì nhiệm vụ được giao hoặc không được sự đồng ý

của người có thẩm quyền; tiếp bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia

tố tụng khác trong vụ án mà mình có thẩm quyền giải quyết ngoài nơi quy

định. Thẩm phán phải từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay đổi trong các

trường hợp do pháp luật tố tụng quy định.

Về chế độ đãi ngộ, pháp luật quy định Thẩm phán có thang bậc lương

riêng, được hưởng phụ cấp trách nhiệm và các phụ cấp khác do pháp luật quy

54

định; Thẩm phán khi đi làm nhiệm vụ được miễn phí cầu, phà, đường theo

quy định của pháp luật; Thẩm phán được cấp trang phục, Giấy chứng minh

Thẩm phán để làm nhiệm vụ.

2.2. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh theo Luật Tổ

chức Tòa án nhân dân năm 2014

Luật Tổ chức Tòa án được Quốc hội thông qua ngày 24/11/2014 vừa

qua là một trong văn bản luật được ban hành sớm nhất để cụ thể hóa các

nguyên tắc, các qui định của Hiến pháp năm 2013, trong đó có nguyên tắc

“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát

giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành

pháp, tư pháp”.[30]. Nguyên tắc này thể hiện một tư duy đột phá của Đảng và

Nhà nước Việt Nam trong việc tổ chức bộ máy nhà nước theo các yêu cầu của

Nhà nước pháp quyền XHCN. Nguyên tắc này cho thấy quyền lực nhà nước ở

Việt Nam được phân chia giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp,

có sự kiểm soát chế ước lẫn nhau. Đây là nguyên tắc xuyên suốt để xây dựng

và ban hành các luật về tổ chức bộ máy nhà nước. Luật tổ chức Tòa án nhân

dân năm 2014 được ban hành trên nền tảng của nguyên tắc này và cũng nhằm

để chi tiết hóa nó trong tổ chức và hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân dân.

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 có khá nhiều điểm mới và đặt

trong bối cảnh hiện tại cũng có thể được coi là những bước đột phá đầu tiên

hướng đến một Hệ thống Tòa án độc lập theo tinh thần của Hiến pháp 2013.

Luật tổ chức Tòa án nhân dân đã cụ thể hóa đầy đủ các nguyên tắc cơ

bản được quy định tại Điều 103 của Hiến pháp, trong đó có những nguyên tắc

mới quan trọng như nguyên tắc tranh tụng được bảo đảm trong xét xử;

nguyên tắc suy đoán vô tội; đồng thời, bổ sung thêm nguyên tắc có tính chất

đặc thù trong tổ chức và hoạt động của Tòa án đã được ghi nhận tại các văn

kiện Đại hội Đảng gần đây và các nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị về cải

55

cách tư pháp, cụ thể là “Các Tòa án nhân dân được tổ chức độc lập theo thẩm

quyền xét xử” (Điều 5).

Theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014, cơ cấu tổ chức,

hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh có những bước đổi mới và được quy

định cụ thể hơn nhằm đáp ứng yêu cầu xét xử.

- Về tổ chức:

Theo quy định tại Điều 38 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014, cơ cấu

tổ chức của Tòa án nhân dân cấp tỉnh gồm có:

+ Ủy ban Thẩm phán;

+ Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao động,

Tòa gia đình và người chưa thành niên.

Trường hợp cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập

Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Căn cứ quy định tại điểm này và yêu cầu thực tế xét xử ở mỗi Tòa án

nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Chánh án Tòa án nhân dân

tối cao quyết định việc tổ chức các Tòa chuyên trách;

+ Bộ máy giúp việc.

Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có Chánh án,

các Phó Chánh án, Chánh tòa, các Phó Chánh tòa, Thẩm phán, Thẩm tra viên,

Thư ký Tòa án, công chức khác và người lao động.

- Về thẩm quyền xét xử: Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh có

những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

+ Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ương gồm Chánh án, Phó Chánh án và một số Thẩm phán. Số lượng thành viên

của Ủy ban Thẩm phán do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định theo

đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

56

Phiên họp Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực

thuộc trung ương do Chánh án chủ trì.

+ Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ương có nhiệm vụ, quyền hạn:

 Thảo luận về việc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác của Tòa

án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

 Thảo luận báo cáo công tác của Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương với Tòa án nhân dân tối cao và Hội đồng

nhân dân cùng cấp;

 Tổng kết kinh nghiệm xét xử;

 Thảo luận về kiến nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành

phố trực thuộc trung ương đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh

án Tòa án nhân dân tối cao xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp

luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo yêu cầu của Chánh án.

+ Nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương:

 Xét xử sơ thẩm những vụ việc theo quy định của pháp luật;

 Xét xử phúc thẩm những vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa

có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc

tỉnh và tương đương bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của luật tố tụng.

+ Bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương gồm có Văn phòng, phòng và các đơn vị tương đương.

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định thành lập và quy định

nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng, phòng và các đơn vị tương đương thuộc

bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

57

- Về hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh:

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 tiếp tục quy định cụ thể về các

nguyên tắc như xét xử có hội thẩm tham gia, nguyên tắc thẩm phán và Hội

thẩm xét xử độc lập, nguyên tắc xét xử công khai, xét xử tập thể, nguyên tắc

bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của

đương sự được tiếp tục ghi nhận và phát triển ở mức cao hơn, chính xác hơn.

Về nguyên tắc xét xử, Tòa án thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử; bản

án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy

định của pháp luật tố tụng; bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo,

kháng nghị trong thời hạn do pháp luật quy định thì có hiệu lực pháp luật. Đối

với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được

xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án không thuộc thẩm quyền

của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; không thực

hiện nhiệm vụ giám đốc thẩm, tái thẩm.

- Về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân:

Theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì tiêu

chuẩn chung để được bổ nhiệm Thẩm phán và bầu làm Hội thẩm nhân dân

như sau:

+ Tiêu chuẩn Thẩm phán: Là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ

quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất

đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần dũng cảm và kiên

quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực. Có trình độ cử nhân luật trở

lên. Đã được đào tạo nghiệp vụ xét xử. Có thời gian làm công tác thực tiễn

pháp luật. Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.

+ Tiêu chuẩn Hội thẩm nhân dân: Là công dân Việt Nam, trung thành

với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có

phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có uy tín trong cộng

58

đồng dân cư, có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết

và trung thực. Có kiến thức pháp luật. Có hiểu biết xã hội. Có sức khỏe bảo

đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh theo quy định của Luật

Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 cụ thể như sau:

+ Người có đủ tiêu chuẩn quy định như nêu trên và có đủ các điều kiện

sau đây thì có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp; nếu

là sỹ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Thẩm

phán trung cấp thuộc Tòa án quân sự.

 Đã là Thẩm phán sơ cấp từ đủ 05 năm trở lên;

 Có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc

thẩm quyền của Tòa án theo quy định của luật tố tụng;

 Đã trúng tuyển kỳ thi nâng ngạch Thẩm phán trung cấp.

+ Trường hợp do nhu cầu cán bộ của Tòa án nhân dân, người chưa là

Thẩm phán sơ cấp có đủ tiêu chuẩn, điều kiện sau đây thì có thể được tuyển

chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp; nếu là sỹ quan quân đội tại ngũ thì

có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp thuộc Tòa án

quân sự: Đã có thời gian làm công tác pháp luật từ 13 năm trở lên. Có năng

lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của

Tòa án theo quy định của luật tố tụng. Đã trúng tuyển kỳ thi tuyển chọn vào

ngạch Thẩm phán trung cấp.

Về trách nhiệm của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân:

+ Trách nhiệm của Thẩm phán: Trung thành với Tổ quốc, gương mẫu

chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân

dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của

nhân dân. Độc lập, vô tư, khách quan, bảo vệ công lý trong xét xử; chấp hành

quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán, giữ gìn uy tín của Tòa án.

59

Giữ bí mật nhà nước và bí mật công tác theo quy định của pháp luật. Học tập,

nghiên cứu để nâng cao kiến thức, trình độ chính trị và chuyên môn nghiệp vụ

Tòa án.

Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền

hạn và các quyết định của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo

tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình

sự theo quy định của luật. Thẩm phán trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền

hạn của mình mà gây thiệt hại thì Tòa án nơi Thẩm phán thực hiện nhiệm vụ

xét xử có trách nhiệm bồi thường và Thẩm phán đã gây thiệt hại có trách

nhiệm bồi hoàn cho Tòa án theo quy định của luật.

+ Trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân: Trung thành với Tổ quốc,

gương mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Tham gia xét xử theo sự phân

công của Chánh án Tòa án mà không được từ chối, trừ trường hợp có lý do

chính đáng hoặc do luật tố tụng quy định. Độc lập, vô tư, khách quan trong

xét xử, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,

bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích

hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Tôn trọng nhân dân và chịu sự

giám sát của nhân dân.Giữ bí mật nhà nước và bí mật công tác theo quy định

của pháp luật. Tích cực học tập để nâng cao kiến thức pháp luật và nghiệp vụ

xét xử. Chấp hành nội quy, quy chế của Tòa án.

Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền

hạn của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ

vi phạm mà bị xử lý kỷ luật bãi nhiệm hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo

quy định của luật.

Hội thẩm trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà gây

thiệt hại thì Tòa án nơi Hội thẩm đó thực hiện nhiệm vụ xét xử phải có trách

60

nhiệm bồi thường và Hội thẩm đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho

Tòa án theo quy định của pháp luật.

Về những việc Thẩm phán không được làm, pháp luật quy định Thẩm

phán không được làm những việc sau:

Những việc pháp luật quy định cán bộ, công chức không được làm. Tư

vấn cho bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác làm cho

việc giải quyết vụ án hoặc những việc khác không đúng quy định của pháp

luật. Can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết vụ án hoặc lợi dụng ảnh

hưởng của mình tác động đến người có trách nhiệm giải quyết vụ án. Đem hồ

sơ vụ án hoặc tài liệu trong hồ sơ vụ án ra khỏi cơ quan, nếu không vì nhiệm

vụ được giao hoặc không được sự đồng ý của người có thẩm quyền. Tiếp bị

cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác trong vụ án mà mình có thẩm

quyền giải quyết không đúng nơi quy định.

Về chế độ, chính sách đối với Thẩm phán:

Nhà nước có chính sách ưu tiên về tiền lương, phụ cấp đối với Thẩm

phán. Thẩm phán được cấp trang phục, Giấy chứng minh Thẩm phán để làm

nhiệm vụ. Thẩm phán được bảo đảm tôn trọng danh dự, uy tín; được bảo vệ

khi thi hành công vụ và trong trường hợp cần thiết. Thẩm phán được đào tạo,

bồi dưỡng để nâng cao trình độ và nghiệp vụ Tòa án. Nghiêm cấm các hành vi

cản trở, đe dọa, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của

Thẩm phán và thân nhân của Thẩm phán. Thẩm phán được tôn vinh và khen

thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng. Chế độ tiền

lương, phụ cấp; mẫu trang phục, cấp phát và sử dụng trang phục, Giấy chứng

minh Thẩm phán do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định theo đề nghị của

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

61

Như vậy, nghiên cứu các quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân

năm 2014 có thể nhận thấy một số điểm mới cơ bản sau đây:

- Bổ sung quy định về chế độ hai cấp xét xử. Theo quy định này bản án,

quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị để yêu cầu

Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử phúc thẩm.

- Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án nhân dân địa phương và

các Tòa án quân sự về tổ chức có sự phối hợp chặt chẽ với Hội đồng nhân dân

địa phương và Bộ Quốc phòng.

- Bổ sung một số nhiệm vụ và quyền hạn mới của Chánh án Tòa án

nhân dân tối cao về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chánh án, Phó Chánh

án, các Tòa án nhân dân địa phương. Thẩm phán các Tòa án đều do Chủ tịch

nước bổ nhiệm, nhiễm nhiệm, cách chức. Thư ký Tòa án và Thẩm tra viên do

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao hoặc

Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.

- Sửa đổi, bổ sung quy định về thành phần, nguyên tắc hoạt động của

Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh với lý do bảo đảm cho Ủy ban

Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh gồm những Thẩm phán có năng lực để

thực hiện tốt nhiệm vụ

- Bổ sung quy định về sự giám sát của nhân dân đối với Thẩm phán,

Hội thẩm; quy định về mối quan hệ giữa Thẩm phán, Hội thẩm với các cơ

quan, tổ chức và công dân.

Điểm mới về cơ cấu tổ chức của tòa án nhân dân tỉnh, TP trực thuộc

trung ương là thành lập thêm tòa gia đình và người chưa thành niên, tòa xử lý

hành chính. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc tổ chức Tòa

chuyên trách.

62

2.3. Thực trạng tổ chức và hoạt động của TAND tỉnh Quảng Ngãi

2.3.1 Thực trạng về cơ cấu tổ chức tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi

Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi là đơn vị trực thuộc Tòa án nhân dân

Tối cao về hành chính, là cơ quan nằm trong hệ thống các cơ quan tư pháp

tỉnh Quảng Ngãi được tái lập từ năm 1989 sau khi tách khỏi tỉnh Nghĩa Bình.

Hiện nay, tổng biên chế của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi có 47

cán bộ công chức và người lao động. Trong đó có 10 Thẩm phán trung cấp,

02 Thẩm tra viên chính, 04 Thẩm tra viên, 17 Thư ký, 03 chuyên viên và

người lao động khác. Về trình độ chuyên môn 39/47 đồng chí có trình độ cử

nhân, 11 đồng chí có trình độ cao cấp chính trị, 04 đồng chí có trình độ Thạc

sỹ Luật và có 02 đồng chí đang học cao học.

Cơ cấu tổ chức Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi gồm có Ủy Ban

Thẩm phán, 5 tòa chuyên trách (Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Kinh tế, Tòa

Hành chính, Tòa Lao động) và bộ máy giúp việc (Phòng Tổ chức cán bộ,

thanh tra và Thi đua khen thưởng; Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án

và Văn phòng).

Tòa án nhân dân tỉnh hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập

thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách do Chánh án trực tiếp điều hành. Chánh án,

Phó Chánh án, Chánh tòa, Phó chánh tòa, Trưởng phòng, Phó trưởng phòng

chịu trách nhiệm cá nhân về lĩnh vực công tác được phân công.

- Ban Cán sự Đảng gồm có Chánh án và các Phó Chánh án. Trong đó

Chánh án TAND tỉnh là người đứng đầu cơ quan, chịu trách nhiệm quản lý,

điều hành chung, hoạt động theo chức năng quy định tại Luật Tổ chức TAND

năm 2014 và Quyết định của Chánh án TAND Tối cao về phân cấp quản lý

cán bộ.

Các Phó Chánh án giúp việc cho Chánh án trên cơ sở sự phân công của

Chánh án. Phó Chánh án theo dõi, điều hành một số lĩnh vực công tác được

63

phân công phụ trách và chịu trách nhiệm trước Chánh án về những hoạt động

thuộc phạm vi của mình quản lý.

- Ủy Ban Thẩm phán TAND tỉnh Quảng Ngãi có 05 thành viên, trong

đó bao gồm Chánh án, 02 Phó Chánh án và 02 ủy viên (Chánh tòa Hành chính

và Chánh tòa Hình sự) được bổ nhiệm theo quy định pháp luật. Ủy ban Thẩm

phán hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 39 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân

năm 2014. Các phiên họp UBTP phải đảm bảo có 2/3 thành viên tham dự và

khi biểu quyết phải có 2/3 thành viên tán thành;

- Các Tòa chuyên trách: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi có 05 Tòa

chuyên trách bao gồm: Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Kinh tế, Tòa Hành

chính và Tòa Lao động. Các Tòa chuyên trách thực hiện chức năng nhiệm vụ

theo quy định tại Điều 40 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

- Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án: Là phòng chức năng trực

thuộc Tòa án tỉnh, thực hiện chức năng giúp việc cho Chánh án, kiểm tra các

bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Tòa án nhân dân cấp huyện

thuộc thẩm quyền quản lý để phát hiện, đề xuất Chánh án Tòa án nhân dân cấp

tỉnh kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao xem xét, kháng nghị theo thủ

tục giám đốc thẩm, tái thẩm khi có căn cứ theo quy định của pháp luật hoặc tổ

chức rút kinh nghiệm; tham mưu cho Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp

tỉnh tổng kết kinh nghiệm xét xử. Giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh

thực hiện công tác thi hành án hình sự, theo dõi công tác thi hành án dân sự

theo quy định của pháp luật. Là đầu mối trong việc phối hợp với cơ quan thi

hành án, Viện kiểm sát nhân dân và các cơ quan liên quan rà soát, đối chiếu,

tổng hợp và đề xuất hướng giải quyết đối với các bản án, quyết định tuyên

không rõ ràng, gây khó khăn cho công tác thi hành án. Thực hiện các công việc

khác theo sự phân công của Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

64

- Phòng Tổ chức cán bộ, thanh tra và Thi đua khen thưởng: Là phòng

chức năng trực thuộc Tòa án tỉnh có nhiệm vụ tham mưu, giúp việc cho

Chánh án, Ban Cán sự Đảng trong công tác tổ chức cán bộ. Giúp Chánh án

Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong việc quản lý tổ chức bộ máy, biên chế cán

bộ; thực hiện chính sách đối với công chức và người lao động của Tòa án

nhân dân cấp tỉnh và các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc quyền quản lý

theo quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân và quyết định phân cấp của

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh

xây dựng, thực hiện kế hoạch tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho Thẩm phán,

Hội thẩm, các chức danh công chức khác của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và

các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc quyền quản lý. Thực hiện các nhiệm

vụ về thanh tra và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật;

giải quyết tố cáo đối với Thẩm phán, Thư ký, cán bộ Tòa án nhân dân tỉnh

và các Tòa án nhân dân cấp huyện trực thuộc tỉnh theo quy định của Luật

cán bộ, công chức và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Giúp Chánh

án Tòa án nhân dân cấp tỉnh tổ chức và theo dõi hoạt động thi đua, khen

thưởng của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc

quyền quản lý. Giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh theo dõi thông tin

trên các phương tiện thông tin đại chúng liên quan tới hoạt động của Tòa án

nhân dân cấp tỉnh, các Tòa án nhân dân cấp huyện và cán bộ, công chức

thuộc thẩm quyền quản lý. Thực hiện các công việc khác theo sự phân công

của Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

- Văn phòng: Là phòng chức năng trực thuộc Tòa án tỉnh, thực hiện các

chức năng nhiệm vụ sau: Thực hiện công tác văn thư, lưu trữ, quản lý con dấu

của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Thực hiện công tác hành chính quản trị, kế toán

tài chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp

tỉnh trong việc quản lý công sản, cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí hoạt

65

động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc

quyền quản lý theo phân cấp của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Thực

hiện việc tiếp nhận, thụ lý các đơn khởi kiện, thụ lý hồ sơ vụ án thuộc thẩm

quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh; phối hợp với các đơn vị chức

năng khác của Tòa án nhân dân cấp tỉnh thực hiện công tác tiếp công dân theo

quy định của pháp luật. Tham mưu cho lãnh đạo Tòa án nhân dân cấp tỉnh

trong việc phân công các Thẩm phán giải quyết các vụ án thuộc thẩm quyền.

Tham mưu cho Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong công tác giải quyết

khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tố tụng. Thực hiện công tác tổng hợp, thống

kê tình hình hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và các Tòa án nhân dân

cấp huyện thuộc quyền quản lý. Giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh xây

dựng các báo cáo công tác của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và các Tòa án nhân

dân cấp huyện thuộc quyền quản lý để báo cáo Tòa án nhân dân tối cao, Hội

đồng nhân dân cấp tỉnh và các cơ quan hữu quan khác. Làm đầu mối thực

hiện việc rà soát, tra cứu, xác minh, cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp theo

quy định của Luật Lý lịch tư pháp. Giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh

quản lý, tổ chức áp dụng thống nhất các hoạt động ứng dụng công nghệ thông

tin. Tham mưu giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong việc xây dựng,

khai thác, duy trì và phát triển Trang thông tin điện tử. Thực hiện các công

việc khác theo sự phân công của Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

Xác định mục tiêu trọng tâm là kiện toàn cơ cấu tổ chức, xây dựng đội

ngũ cán bộ có chất lượng nhằm nâng cao chất lượng giải quyết các loại án nên

trong những năm gần đây, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi luôn quan tâm

đến việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ, công chức

trong đơn vị, nhất là đội ngũ Thẩm phán, Thư ký, Thẩm tra viên, tạo điều kiện

thuận lợi cho cán bộ, Thẩm phán tham gia các lớp đào tạo nâng cao trình độ

lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cải

66

cách tư pháp trong tình hình mới. Với cơ cấu tổ chức đảm bảo đúng quy định

pháp luật, cùng với những điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị hoạt động

ngày càng được nâng lên đã tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án nhân dân tỉnh

Quảng Ngãi hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần giữ vững tình hình

an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của địa phương.

Bên cạnh những thuận lợi, cơ cấu tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân

dân tỉnh Quảng Ngãi hiện nay cũng gặp không ít khó khăn, bất cập như số

lượng cán bộ, công chức, nhất là lực lượng Thẩm phán, Thư ký, Thẩm tra

viên mà Tòa án nhân dân tối cao phân bổ hàng năm cho đơn vị quá ít trong

khi tình hình số lượng các loại án tăng lên, tính chất ngày càng phức tạp đã

tạo áp lực lớn cho đơn vị trong việc đảm bảo tiến độ xét xử của Hệ thống Tòa

án, ảnh hưởng đến công tác bồi dưỡng, đào tạo, quy hoạch cán bộ.[34].

Qua nghiên cứu cơ cấu tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân tỉnh

Quảng Ngãi có thể rút ra một số nhận xét sau đây:

Một là, về cơ cấu tổ chức đảm bảo theo quy định của Hiến pháp và

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Hầu hết các đơn vị tòa, phòng đều

có đầy đủ các chức danh quản lý, chức danh tố tụng và bộ máy giúp việc đảm

bảo cho Tòa án nhân dân tỉnh hoạt động độc lập và có hiệu quả.

Hai là, về chất lượng đội ngũ Thẩm phán, cán bộ công chức Tòa án

nhân dân tỉnh Quảng Ngãi cơ bản có trình độ đại học trở lên và thường xuyên

được sự quan tâm đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn,

nghiệp vụ, từng bước đáp ứng yêu cầu công tác trong giai đoạn hiện nay.

Ba là, so với yêu cầu nhiệm vụ thì số lượng biên chế của Tòa án nhân

dân tối cao phân bổ cho TAND tỉnh Quảng Ngãi hiện nay vẫn còn thiếu, nhất

là số lượng Thẩm phán trung cấp.

67

2.3.2. Thực trạng hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi

Trong những năm qua, với ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, xu thế

hội nhập quốc tế và quá trình triển khai thực hiện các dự án trọng điểm như

khu kinh tế Dung Quất, cụm cảng nước sâu Dung Quất, khu kinh tế ViSip

Quảng Ngãi, công trình thủy điện Hồ Nước Trong, Đắc Rin... và nhiều công

trình trọng điểm khác đã mở ra cho tỉnh Quảng Ngãi nhiều điều kiện để phát

triển kinh tế xã hội, đẩy nhanh tiến trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, sớm đưa tỉnh Quảng Ngãi trở thành một tỉnh có công nghiệp và dịch vụ

phát triển, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.

Tuy nhiên, bên cạnh đó các vấn đề xã hội phức tạp cũng nảy sinh như

tình hình tội phạm, ô nhiểm môi trường và đặc biệt là sự gia tăng các tranh

chấp dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất từ các hoạt động đền bù, giải

phóng mặt bằng, tái định cư trong quá trình thực hiện dự án.

Vì vậy, số lượng các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại,

hành chính, lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp tỉnh, cấp

huyện ở Quảng Ngãi không ngừng tăng lên, tạo áp lực không nhỏ cho hoạt

động của Tòa án nhân dân hai cấp ở tỉnh Quảng Ngãi.[34].

Mặc dù nhiệm vụ ra đặt ra đối với Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh

Quảng Ngãi ngày càng nặng nề, song với sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo

kịp thời của Ban cán sự đảng, lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao, Ban

Thường vụ, Thường trực Tỉnh ủy Quảng Ngãi, của các cấp Ủy, Đảng,

Chính quyền các địa phương trong tỉnh và sự ủng hộ của quần chúng nhân

dân, TAND hai cấp tỉnh Quảng Ngãi đã nỗ lực vượt qua khó khăn, đẩy

nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng xét xử các loại án, hoàn thành xuất sắc

nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân đã giao phó.

Theo thống kê của Văn phòng TAND tỉnh Quảng Ngãi, từ năm 2012

đến 2016 Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ngãi thụ lý, giải quyết

68

17.970/17.180 vụ án các loại, trong đó số lượng các loại án tăng dần qua các

năm, cụ thể như sau [34]:

* Năm 2012:

Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ngãi đã thụ lý, giải quyết 2925

vụ/2682 vụ (đạt tỷ lệ 91,7%). Trong đó:

 Về án Hình sự:

+ Hình sự sơ thẩm: Tòa án hai cấp thụ lý 641 vụ với 1229 bị cáo, đã

giải quyết 632 vụ với 1212 bị cáo, đạt tỷ lệ giải quyết 98,6%.

Trong đó, Tòa án tỉnh thụ lý 36 vụ, 62 bị cáo; giải quyết 36 vụ, 62 bị

cáo, đạt tỷ lệ 100%.

+ Hình sự phúc thẩm: Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý 181 vụ, 325 bị cáo, đã

giải quyết 181 vụ, 325 bị cáo, đạt tỷ lệ 100%. Giám đốc thẩm 01 vụ/02 bị cáo,

 Về án Dân sự và Hôn nhân gia đình:

+ Dân sự sơ thẩm: Tòa án hai cấp thụ lý và giải quyết 778/644 vụ việc

dân sự, đạt tỷ lệ giải quyết 82,3%.

Trong đó Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý và giải quyết 09/02 vụ, đạt tỷ lệ

22,2%.

+ Dân sự phúc thẩm: Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý và giải quyết 60/55

vụ, đạt 91,7%.

+ Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Hai cấp đã thụ lý và giải quyết

1060/1012 vụ việc, đạt 95,5%.

Trong đó, Tòa án tỉnh thụ lý và giải quyết 05/05 vụ việc sơ thẩm, đạt tỷ

lệ 100%.

+ Hôn nhân gia đình phúc thẩm: Thụ lý và giải quyết 29/28 vụ việc sơ

thẩm, đạt tỷ lệ 96,6%.

+ Hôn nhân gia đình giám đốc thẩm: 01 vụ.

69

 Về án Hành chính, án Kinh doanh thương mại và án lao động:

+ Sơ thẩm: Hai cấp thụ lý và giải quyết 127/85 vụ việc, đạt tỷ lệ giải

quyết 67%.

Trong đó Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý và giải quyết 49/45 vụ, đạt tỷ lệ 92%.

+ Phúc thẩm: Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý và giải quyết 05/05 vụ, đạt 100%.

* Năm 2013:

Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ngãi đã thụ lý, giải quyết 3426 vụ/

3215 vụ (đạt tỷ lệ 93,8%). Trong đó:

 Về án hình sự:

+ Hình sự sơ thẩm: Tòa án hai cấp thụ lý 640 vụ với 1253 bị cáo, đã

giải quyết 632 vụ với 1227 bị cáo, đạt tỷ lệ giải quyết 99%.

Trong đó, Tòa án tỉnh thụ lý 47 vụ, 82 bị cáo; giải quyết 47 vụ, 82 bị

cáo, đạt tỷ lệ 100%.

+ Hình sự phúc thẩm: Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý 200 vụ, 324 bị cáo,

đã giải quyết 200 vụ, 324 bị cáo, đạt tỷ lệ 100%. Giám đốc thẩm 01 vụ/02 bị

cáo (tăng 19 vụ so với cùng kỳ năm 2012).

 Về án Dân sự và Hôn nhân gia đình:

+ Dân sự sơ thẩm: Tòa án hai cấp thụ lý và giải quyết 1118/989 vụ việc

dân sự, đạt tỷ lệ giải quyết 88,5%.

Trong đó Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý và giải quyết 07/06 vụ, đạt tỷ lệ 86%.

+ Dân sự phúc thẩm: Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý và giải quyết 92/88

vụ, đạt 95,7%.

+ Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Hai cấp đã thụ lý và giải quyết

1112/1072 vụ việc, đạt 96,4% (tăng 52 vụ so với năm 2012).

Trong đó, Tòa án tỉnh không có án Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm.

+ Hôn nhân gia đình phúc thẩm: Thụ lý và giải quyết 39/38 vụ, đạt tỷ

lệ 97,4%.

70

 Về án Hành chính, án Kinh doanh thương mại và án Lao động:

+ Sơ thẩm: Tòa án hai cấp thụ lý và giải quyết 225/196 vụ việc, đạt tỷ

lệ giải quyết 87,1%.

Trong đó Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý và giải quyết 09/07 vụ, đạt tỷ lệ 77,8%.

+ Phúc thẩm: Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý và giải quyết 20/20 vụ, đạt 100%.

* Năm 2014:

Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ngãi đã thụ lý, giải quyết 3497

vụ/3317 vụ (đạt tỷ lệ 95%). Trong đó:

 Về án hình sự:

+ Hình sự sơ thẩm: Tòa án hai cấp thụ lý 517 vụ với 958 bị cáo, đã giải

quyết 512 vụ với 941 bị cáo, đạt tỷ lệ giải quyết 99%.

Trong đó, Tòa án tỉnh thụ lý 19 vụ, 32 bị cáo; giải quyết 19 vụ, 32 bị

cáo, đạt tỷ lệ 100%.

+ Hình sự phúc thẩm: Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý 180 vụ, 290 bị cáo, đã

giải quyết 180 vụ, 290 bị cáo, đạt tỷ lệ 100%. Giám đốc thẩm 02 vụ/02 bị cáo.

 Về án Dân sự và Hôn nhân gia đình:

+ Dân sự sơ thẩm: Tòa án hai cấp thụ lý và giải quyết 1031/1004 vụ

việc dân sự, đạt tỷ lệ giải quyết 90%.

Trong đó Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý và giải quyết 02/02 vụ, đạt tỷ lệ 100%.

+ Dân sự phúc thẩm: Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý và giải quyết 83/83

vụ, đạt 100%.

+ Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Hai cấp đã thụ lý và giải quyết

1487/1446 vụ việc, đạt 97% (tăng 375 vụ so với năm 2013).

Trong đó, Tòa án tỉnh thụ lý và giải quyết 02/02 vụ, đạt tỷ lệ 100%.

+ Hôn nhân gia đình phúc thẩm: Thụ lý và giải quyết 29/29 vụ, đạt tỷ

lệ 100%.

71

 Về án Hành chính:

+ Sơ thẩm: Hai cấp thụ lý và giải quyết 44/37 vụ việc, đạt tỷ lệ giải

quyết 84%.

Trong đó Tòa án nhân dân tỉnh không có án Hành chính sơ thẩm.

+ Phúc thẩm: Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý và giải quyết 13/13 vụ, đạt 100%.

 Về án Kinh doanh thương mại:

+ Án KDTM: Tòa án hai cấp đã thụ lý và giải quyết 133/116 vụ về

tranh chấp kinh doanh thương mại sơ thẩm, đạt tỷ lệ 87,3%. Trong đó, TAND

tỉnh thụ lý và giải quyết 06/06 vụ, đạt tỷ lệ 100%.

+ Án KDTM phúc thẩm: TAND tỉnh thụ lý và giải quyết 07/07 vụ, đạt

tỷ lệ 100%.

 Về án Lao động:

+ Án Lao động sơ thẩm: Tòa án hai cấp đã thụ lý và giải quyết 10/09,

đạt tỷ lệ 90%. Trong đó, TAND tỉnh không có án Lao động sơ thẩm.

+ Án Lao động phúc thẩm: Tòa án tỉnh thụ lý và giải quyết 05/05 vụ về

“Tranh chấp đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động”, đạt tỷ lệ 100%.

* Năm 2015:

Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ngãi đã thụ lý, giải quyết 3862 vụ/

3752 vụ, đạt tỷ lệ 97%. Trong đó:

 Về án hình sự:

+ Hình sự sơ thẩm: Tòa án hai cấp thụ lý 534 vụ với 1059 bị cáo, đã

giải quyết 527 vụ với 1043 bị cáo, đạt tỷ lệ giải quyết 98,7%. (tăng 17 vụ so

với cùng ký năm 2014)

Trong đó, Tòa án tỉnh thụ lý 21 vụ, 38 bị cáo; giải quyết 21 vụ, 38 bị

cáo, đạt tỷ lệ 100%.

+ Hình sự phúc thẩm: Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý 164 vụ, 228 bị cáo,

đã giải quyết 164 vụ, 227 bị cáo, đạt tỷ lệ 100%.

72

 Về án Dân sự và Hôn nhân gia đình:

+ Dân sự sơ thẩm: Tòa án hai cấp thụ lý và giải quyết 1290/1212 vụ

việc dân sự, đạt tỷ lệ giải quyết 94%.

Trong đó Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý và giải quyết 04/04 vụ, đạt tỷ lệ 100%.

+ Dân sự phúc thẩm: Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý và giải quyết 167/167

vụ, đạt tỷ lệ 100%.

+ Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Hai cấp đã thụ lý và giải quyết

1456/1441 vụ việc, đạt 99%.

Trong đó, Tòa án tỉnh thụ lý và giải quyết 03/03 vụ, đạt tỷ lệ 100%.

+ Hôn nhân gia đình phúc thẩm: Thụ lý và giải quyết 21/21 vụ, đạt tỷ lệ 100%.

- Về án Hành chính:

+ Sơ thẩm: Tòa án hai cấp thụ lý và giải quyết 32/32 vụ việc, đạt tỷ lệ

giải quyết 100%.

Trong đó Tòa án nhân dân tỉnh tỉnh thụ lý và giải quyết 05/05 vụ, đạt 100%.

+ Phúc thẩm: Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý và giải quyết 10/10 vụ, đạt 100%.

 Về án Kinh doanh thương mại:

+ Án KDTM: Tòa án hai cấp đã thụ lý và giải quyết 161/151 vụ về

tranh chấp kinh doanh thương mại sơ thẩm, đạt tỷ lệ 94%.

Trong đó, TAND tỉnh thụ lý và giải quyết 08/08 vụ, đạt tỷ lệ 100%.

+ Án KDTM phúc thẩm: TAND tỉnh thụ lý và giải quyết 07/07 vụ, đạt

tỷ lệ 100%.

 Về án Lao động:

+ Án Lao động sơ thẩm: Tòa án hai cấp đã thụ lý và giải quyết 19/19, đạt

tỷ lệ 100%. Trong đó, TAND tỉnh thụ lý và giải quyết 01/01 vụ, đạt tỷ lệ 100%.

+ Án Lao động phúc thẩm: Tòa án tỉnh thụ lý và giải quyết 01/01 vụ,

đạt tỷ lệ 100%.

73

* Năm 2016:

Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ngãi đã thụ lý, giải quyết 4260 vụ/

4214 vụ, đạt tỷ lệ 99%. Trong đó:

 Về án Hình sự:

+ Hình sự sơ thẩm: Tòa án hai cấp thụ lý 493 vụ với 887 bị cáo, đã giải

quyết 489 vụ với 880 bị cáo, đạt tỷ lệ giải quyết 99,2%.

Trong đó, Tòa án tỉnh thụ lý 14 vụ, 23 bị cáo; giải quyết 14 vụ, 23 bị

cáo, đạt tỷ lệ 100%.

+ Hình sự phúc thẩm: Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý 122 vụ, 187 bị cáo,

đã giải quyết 122 vụ, 187 bị cáo, đạt tỷ lệ 100%.

 Về án Dân sự và Hôn nhân gia đình:

+ Dân sự sơ thẩm: Tòa án hai cấp thụ lý và giải quyết 1340/1314 vụ

việc dân sự, đạt tỷ lệ giải quyết 98%.

Trong đó Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý và giải quyết 20/20 vụ, đạt tỷ lệ 100%.

+ Dân sự phúc thẩm: Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý và giải quyết 106/106

vụ, đạt tỷ lệ 100%.

+ Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Tòa án hai cấp đã thụ lý và giải quyết

1942/1931 vụ việc, đạt 99,4 %.

Trong đó, Tòa án tỉnh thụ lý và giải quyết 03/03 vụ, đạt tỷ lệ 100%.

+ Hôn nhân gia đình phúc thẩm: Thụ lý và giải quyết 21/21 vụ, đạt tỷ

lệ 100%.

 Về án Hành chính:

+ Sơ thẩm: Tòa án hai cấp thụ lý và giải quyết 39/38 vụ việc, đạt tỷ lệ

giải quyết 97,4%.

Trong đó Tòa án nhân dân tỉnh tỉnh thụ lý và giải quyết 20/20 vụ, đạt

100%.

+ Phúc thẩm: Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý và giải quyết 08/08 vụ, đạt 100%.

74

 Về án kinh doanh thương mại:

+ Án KDTM: Tòa án hai cấp đã thụ lý và giải quyết 148/144 vụ về

tranh chấp kinh doanh thương mại sơ thẩm, đạt tỷ lệ 97,3%.

Trong đó, TAND tỉnh thụ lý và giải quyết 05/05 vụ, đạt tỷ lệ 100%.

+ Án KDTM phúc thẩm: TAND tỉnh thụ lý và giải quyết 15/15 vụ, đạt

tỷ lệ 100%.

 Về án Lao động:

+ Án Lao động sơ thẩm: Tòa án hai cấp đã thụ lý và giải quyết 26/26,

đạt tỷ lệ 100%. Trong năm 2016 Tòa án nhân dân tỉnh Ngãi không có án Lao

động sơ thẩm và phúc thẩm.

Đối với công tác thi hành án hình sự: hàng năm TAND tỉnh Quảng

Ngãi đã ra quyết định thi hành hàng trăm bản án, quyết định có hiệu lực pháp

luật; xét giảm thời gian chấp hành án hình phạt tù cho hàng trăm phạm nhân

có thái độ cải tạo tốt, trong đó giảm một phần thời hạn chấp hành hình phạt tù,

giảm và tha tù trước thời hạn. Các trường hợp được hoãn, tạm đình chỉ thi

hành án và xét miễn, giảm án đều đảm bảo đúng quy trình, thủ tục và điều

kiện do pháp luật quy định.[34].

Để đạt được kết quả như trên, Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng

Ngãi đã triển khai nhiều biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải

quyết, xét xử các loại vụ án như tăng cường trách nhiệm của cán bộ công

chức, Thẩm phán và kỷ luật công vụ; chú trọng công tác tập huấn, bồi dưỡng

chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức; phát động các phong trào thi

đua để động viên cán bộ, công chức nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm

vụ…, đồng thời dưới sự chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo Tòa án các cấp nên

công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án trong thời gian qua tiếp tục có sự

chuyển biến tích cực. Những hạn chế, thiếu sót trong công tác giải quyết, xét

xử các loại vụ án, như việc để các vụ án quá thời hạn xét xử; bản án tuyên

75

không rõ ràng, gây khó khăn cho công tác thi hành án dân sự; cho hưởng án

treo không đúng pháp luật đã được Tòa án các cấp tập trung khắc phục có

hiệu quả.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, tổ chức và hoạt động của

Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định,

cụ thể là:

Thứ nhất, về năng lực của Thẩm phán: Từ nhiều năm nay, vấn đề trình

độ, năng lực Thẩm phán thường xuyên được đề cập và quan tâm. Đánh giá

thực trạng đội ngũ Thẩm phán có thể thấy rằng đội ngũ Thẩm phán hầu hết

được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, được đào tạo tại chức là chủ yếu

và làm việc dựa trên nền tảng kinh nghiệm thực tế. Do bất cập, hạn chế trong

công tác cán bộ, trong đó có việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán nên đa số

các Thẩm phán vẫn được tiếp tục làm nhiệm vụ xét xử qua rất nhiều nhiệm

kỳ, nếu không bị kỷ luật thì rất khó thay thế, cho dù tuổi tác của họ hiện nay

tương đối cao; điều đáng quan tâm, do xuất phát điểm như trên, ngoài kiến

thức chuyên môn bị chắp vá, hầu hết các Thẩm phán bộc lộ khá rõ hạn chế về

năng lực xét xử, thiếu nhiều yếu tố thuộc về kỹ năng tác nghiệp, thực hành, kỹ

năng giao tiếp; thậm chí nhiều người chữ viết quá xấu, biên bản và các tài liệu

do họ thể hiện trong hồ sơ không thể đọc được.[34]. Thực tế cho thấy, xét xử

là một hoạt động đặc thù, không phải những ai có kiến thức chuyên môn về

luật đều có thể làm tốt nhiệm vụ của một Thẩm phán. Có những người làm

công tác xét xử khá lâu năm, song cách điều hành một phiên tòa vẫn thiếu sự

tôn nghiêm nơi pháp đình; có Thẩm phán được đánh giá có năng lực chuyên

môn, nhưng bản thân không thể tự hoàn chỉnh một bản án. Có những bản án

người đọc không thể nào hiểu nổi, hoặc hiểu sao cũng được. Nhiều bản án đã

có hiệu lực pháp luật nhưng nội dung không rõ ràng gây khó khăn cho công

tác thi hành án. Trong những trường hợp này, theo quy định, chấp hành viên

76

phải ban hành công văn yêu cầu giải thích và thực tế đã có những giải thích

của Thẩm phán làm thay đổi bản chất nội dung mà Hội đồng xét xử đã tuyên,

gây tranh cãi trong các cơ quan tiến hành tố tụng, dẫn đến khiếu nại kéo dài,

vượt cấp. Tất cả những yếu tố trên có liên quan trực tiếp đến chất lượng xét

xử; ảnh hưởng của quá trình nghiên cứu hồ sơ của những người tiến hành tố

tụng như Thẩm phán, Thư ký, Kiểm sát viên; những người nghiên cứu ở cấp

phúc thẩm, giám đốc thẩm khi có kháng cáo, kháng nghị.

Thứ hai, hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh còn chịu sự ảnh

hưởng của một số cơ quan khác.

- Trong mối quan hệ với tòa án nhân dân các cấp khác:

Có thể thấy, hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh chịu sự tác động

bởi các chức năng, nhiệm vụ, vị trí, vai trò của Tòa án cấp này trong hệ thống

Tòa án nhân dân nói chung. Theo quy định của Hiến pháp 2013 và Luật Tổ

chức Tòa án nhân dân năm 2014, Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.

Trên cơ sở các quy định của pháp luật, có thể thấy chức năng cơ bản,

đặc trưng nhất của Tòa án là xét xử. Tuy nhiên, chức năng xét xử cũng có

những thay đổi phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội ở từng thời kỳ

nhất định. Ban đầu, các Tòa án chỉ có thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự,

dân sự liên quan đến tranh chấp tài sản, nhân thân, hôn nhân và gia đình. Tiếp

đến, Tòa án được giao thẩm quyền xét xử các vụ án kinh tế, hành chính, lao

động. Tổ chức Tòa án nhân dân cấp tỉnh cũng được hoàn thiện dần với việc ra

đời các Tòa chuyên trách. Cùng với chức năng xét xử, Tòa án nhân dân cấp

tỉnh còn có trách nhiệm trong hoạt động thi hành án hình sự (ra quyết định thi

hành án hình sự, hoãn, tạm đình chỉ thi hành hình phạt tù, xét giảm hình phạt

hoặc miễn, giảm các khoản án phí, tiền phạt...).

77

Trong quan hệ với Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh

có mối quan hệ tố tụng và hành chính. Điều này thể hiện qua việc Tòa án

nhân dân tối cao quản lý Tòa án nhân dân cấp tỉnh về tổ chức. Luật Tổ chức

Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa

án nhân dân địa phương về tổ chức có sự phối hợp với Hội đồng nhân dân địa

phương. Bởi vậy, Tòa án nhân dân tối cao thực hiện các nhiệm vụ quản lý

Tòa án nhân dân cấp tỉnh thông qua việc phân bổ biên chế cán bộ, Thẩm

phán, Thư ký cho từng đơn vị; quy định các tiêu chuẩn, điều kiện tuyển chọn,

bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán, điều động, khen thưởng, kỷ

luật Thẩm phán; xây dựng và thực hiện các chế độ, chính sách đối với Thẩm

phán; kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với Thẩm phán Tòa

án cấp dưới. Với việc thực hiện các nhiệm vụ như vậy, công tác quản lý của

Tòa án nhân dân tối cao đối với Tòa án nhân dân cấp tỉnh không khác nhiều

so với quản lý công chức của các cơ quan hành chính cấp trên đối với cấp

dưới và tương đối khép kín. Bởi vậy, nội dung, phương pháp quản lý của Tòa

án nhân dân tối cao đối với Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện về cơ bản

vẫn chưa có sự đổi mới căn bản.

- Trong mối quan hệ với cấp Ủy, Đảng, Chính quyền địa phương:

Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì Đảng Cộng sản Việt Nam

đóng vai trò là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Do đó, tổ chức và hoạt

động của Hệ thống Tòa án nhân dân nói chung, của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

nói riêng có sự ảnh hưởng từ hoạt động của cấp Ủy, Đảng. Điều này thể hiện

ở việc Đảng cho ý kiến về việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán, bố trí các

chức vụ lãnh đạo của Tòa án, vì vậy, hoạt động của tổ chức Đảng có vai trò

nhất định đến hiệu quả hoạt động của Tòa án. Nếu vai trò của các tổ chức

Đảng đối với hoạt động của Tòa án đảm bảo tính khách quan thì hiệu quả hoạt

động của Tòa án được nâng cao. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có những trường

78

hợp tổ chức Đảng gợi ý, định hướng hoạt động xét xử cũng ảnh hưởng đến

tâm lý, thực hiện nhiệm vụ xét xử của Thẩm phán, nhất là khi những ý kiến,

định hướng đó chưa thật đúng với quy định pháp luật, cũng như Thẩm phán

còn phải có sự thận trọng khi thực hiện các ý kiến, gợi ý của tổ chức Đảng

liên quan đến việc bổ nhiệm, tái bổ nhiệm, đề bạt của mình.

Bởi vì, thực tế cho thấy đã có trường hợp Cấp Ủy can thiệp trực tiếp

vào hoạt động xét xử của Tòa án. Tuy nhiên, cũng có trường hợp Cấp Ủy có

sự can thiệp gián tiếp đến tổ chức và hoạt động của Tòa án thông qua việc

giới thiệu người để bổ nhiệm Thẩm phán hoặc vị trí lãnh đạo của Tòa án. Ở

nhiều địa phương hiện nay, khi có những vụ án liên quan đến các cán bộ

thuộc diện Cấp Ủy quản lý hoặc những vụ việc nghiêm trọng, phức tạp về

chính trị, kinh tế, xã hội hoặc tham nhũng thì Tòa án đều phải báo cáo và xin

ý kiến Cấp Ủy nên ít nhiều có ảnh hưởng nhất định đến tính độc lập trong tổ

chức và hoạt động của Tòa án.

- Trong quan hệ với Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.

Theo quy định thì Tòa án nhân dân chịu sự giám sát của Hội đồng nhân

dân cùng cấp thông qua việc xem xét báo cáo công tác xét xử Tòa án hai cấp

tại địa phương. Đồng thời, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh còn có quyền chất vấn

Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, trong khi Chánh án không do Hội đồng

nhân dân bầu ra. Điều này làm cho việc báo cáo và giám sát của Hội đồng

nhân dân có thể mang tính hình thức.

- Trong quan hệ với cơ quan hành chính địa phương:

Về nguyên tắc thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh không chịu sự quản lý của

cơ quan hành chính ở Trung ương và cấp tỉnh. Tuy vậy, trong thực tiễn thực

hiện nhiệm vụ, Tòa án nhân dân địa phương nói chung, Tòa án nhân dân cấp

tỉnh nói riêng còn phải chịu nhiều ảnh hưởng từ các quan hệ với cơ quan hành

chính địa phương, nhất là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Bởi vì, thực tế trong hoạt

79

động của mình, Tòa án nhân dân rất cần đến sự hỗ trợ, tạo điều kiện về kinh

phí, trụ sở và các điều kiện vật chất khác từ phía các cơ quan hành chính. Dù

là cơ quan độc lập nhưng đóng tại địa phương nên Tòa án nhân dân cấp tỉnh

vẫn phải chịu những ràng buộc trong quản lý hành chính tại địa phương.

Ngoài ra, về thẩm quyền xét xử, Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm

quyền xét xử các vụ kiện hành chính liên quan đến hoạt động của các cơ quan

hành chính tại địa phương, nhất là các quyết định hành chính về đất đai, nhà

ở. Do đó, việc thụ lý, giải quyết các vụ kiện hành chính gặp khó khăn cả từ

phía người khởi kiện và người bị kiện (thường là Chủ tịch Ủy ban nhân dân

cấp tỉnh, cấp huyện, thủ trưởng các cơ quan, ngành tại địa phương). Điều này

ảnh hưởng không nhỏ đến nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của

Thẩm phán. Bởi vì, trong quan hệ với Cấp ủy, Chánh án Tòa án nhân dân cấp

tỉnh nếu có thường là Tỉnh ủy viên, thành ủy viên, còn Chủ tịch Ủy ban nhân

dân cấp tỉnh thường là Thường vụ tỉnh ủy, thành ủy, do vậy, trong quá trình

thụ lý, xét xử các vụ kiện hành chính, Thẩm phán và Chánh án Tòa án nhân dân

cấp tỉnh cũng gặp nhiều khó khăn khi phải tiến hành các thủ tục triệu tập người

bị kiện, xét xử vụ việc với người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh.

Thứ ba, trong quá trình cải cách tư pháp, việc bảo đảm nguyên tắc khi

xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

là một vấn đề quan trọng cần được giải quyết.

Thực tế cho thấy, nhiều Thẩm phán khi xét xử vẫn chưa hoàn toàn độc

lập; việc báo cáo án và nhận sự định hướng xét xử từ lãnh đạo của Thẩm phán

chỉ giải quyết được mối quan hệ hành chính giữa cấp trên và cấp dưới mà

không đảm bảo được nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phán. Bên cạnh đó,

tình trạng hiệp thương án để trách nhiệm không thuộc về cơ quan nào trong

các cơ quan tiến hành tố tụng cũng đang là vấn đề cần được thực tiễn cải cách

tư pháp giải quyết.

80

- Theo quy định pháp luật về Tòa án hiện nay, vấn đề chức năng, nhiệm

vụ của Tòa án vẫn còn những bất cập, dẫn đến hiệu quả hoạt động chưa cao,

trong đó có thể nói đến chức năng giải thích pháp luật. Hiện nay, Tòa án nhân

dân tối cao có nhiều hướng dẫn không chính thức dưới dạng công văn về nội

dung một số điều luật và một số nội dung hướng dẫn đó có sự không thống

nhất với văn bản luật đã gây khó khăn cho các Thẩm phán trong quá trình áp

dụng giải quyết các vụ án. Năm 2017 là năm nhiều bộ luật, luật chính thức có

hiệu lực thi hành như Bộ luật dân sự 2015, Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Luật

Phí và Lệ phí...nhưng Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết để hướng

dẫn còn chậm, chưa có biểu mẫu áp dụng thống nhất...

- Trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, bản lĩnh chính trị của

một bộ phận cán bộ Tòa án chưa thật sự đáp ứng với yêu cầu đặt ra của chiến

lược cải cách tư pháp do Đảng ta khởi xướng, nhất là đội ngũ Thẩm phán trực

tiếp làm công tác xét xử, giải quyết án.

- Nguyên tắc việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội Thẩm nhân dân

tham gia, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán đã khẳng định vị trí, vai trò

của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động của Tòa án. Tuy nhiên, chất lượng và

thực tiễn công tác hội thẩm nhân dân hiện nay chứa đựng nhiều bất cập cần

nghiên cứu, giải quyết.

Một trong những đặc trưng của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do

dân, vì dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Bản thân chế định Hội thẩm

là sự thể hiện tư tưởng “lấy dân làm gốc”, bảo đảm nguyên tắc thực hiện

quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án. Tòa án là cơ quan

quyền lực của Nhà nước, Nhà nước thông qua Tòa án để thực hiện quyền tư

pháp của mình. Chính bằng hoạt động xét xử, Tòa án giáo dục công dân trung

thành với Tổ quốc, tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng và chống tội phạm,

bảo vệ lợi ích của nhân dân. Hội thẩm bằng sự tham gia của mình vào Hội

81

đồng xét xử mà thực hiện quyền lực tư pháp và thông qua đó để nhân dân

tham gia một cách có hiệu quả vào công tác quản lý Nhà nước nói chung, hoạt

động của Tòa án nói riêng. Tại Điều 103 Hiến pháp 2013 quy định: “Việc xét

xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử

theo thủ tục rút gọn. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử

của Thẩm phán, Hội thẩm”. Như vậy, nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có

Hội thẩm nhân dân tham gia, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán là một

nguyên tắc Hiến định, nhưng tham gia cụ thể như thế nào lại do Luật tố tụng

Hình sự, Dân sự… quy định. Vì là một nguyên tắc Hiến định nên nếu việc xét

xử của Tòa án nhân dân mà không có Hội thẩm nhân dân tham gia thì sẽ

không chỉ là vi phạm Luật tố tụng mà còn là vi phạm Hiến pháp. Nguyên tắc

này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong xét xử, bởi việc tham gia của Hội

thẩm giúp cho Tòa án xét xử không chỉ đúng pháp luật mà còn phù hợp với

nguyện vọng của nhân dân. Hội thẩm nhân dân có đời sống chung trong cộng

đồng, trong tập thể lao động, nên Hội thẩm hiểu sâu hơn tâm tư nguyện vọng

của quần chúng, nắm bắt được dư luận quần chúng nhân dân. Khi được cử

hoặc bầu làm Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm không tách khỏi hoạt động lao

động sản xuất của cơ quan, đơn vị, cơ sở của mình. Với vốn hiểu biết thực tế,

kinh nghiệm trong cuộc sống, với sự am hiểu về phong tục tập quán ở địa

phương, Hội thẩm sẽ bổ sung cho Thẩm phán những kiến thức xã hội cần

thiết trong quá trình xét xử để có được một phán quyết đúng pháp luật, được

xã hội đồng tình ủng hộ. Tại Hội nghị học tập của cán bộ Ngành Tư pháp năm

1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Trong công tác xử án phải công

bằng, liêm khiết, trong sạch. Như thế cũng chưa đủ. Không chỉ giới hạn hoạt

động của mình trong khung Tòa án mà phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học

dân…”. Muốn đưa ra phán quyết đúng, giải quyết các tranh chấp đúng pháp

82

luật, hợp với lẽ công bằng, xử phạt đúng người, đúng tội, hiển nhiên đòi hỏi

những người làm công tác xét xử phải có đạo đức trong sáng, có bản lĩnh, có

trình độ chuyên môn và nghiệp vụ vững vàng. Ngoài ra, để Hội đồng xét xử

có phán quyết đúng đắn, đòi hỏi họ cũng phải có kiến thức và vốn hiểu biết

cuộc sống, có kinh nghiệm hoạt động xã hội. Vì thế pháp luật quy định khi xét

xử có Hội thẩm nhân dân tham gia là sự bổ sung cần thiết cho những lĩnh vực

đó. Hơn nữa, Hội thẩm là đại diện của các giới, các ngành, các tổ chức xã hội,

nghề nghiệp, hội thẩm có thể phản ánh một cách khách quan cách nhìn nhận

về sự kiện, vụ việc từ suy nghĩ, tâm tư của quần chúng nhân dân, chứ không

phải từ góc độ của một luật gia thuần túy.

Thực tế cho thấy những người được bầu làm Hội thẩm là những người

có uy tín trong xã hội, được quần chúng tín nhiệm và có ảnh hưởng nhất định

trong xã hội, họ thường là những người có lối sống gương mẫu, có phẩm chất

tốt, là tấm gương trong lao động, công tác, nhân dân tin cậy vào sự công minh

và vô tư của họ. Qua sự tham gia xét xử của Hội thẩm, uy tín của cơ quan xét

xử ngày càng được nâng cao và được nhân dân tin cậy ủng hộ. Đồng thời Hội

thẩm còn đóng vai trò to lớn trong công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật.

Bằng vai trò cá nhân, Hội thẩm đóng góp nhất định trong việc giữ gìn ổn định

xã hội, phòng chống tội phạm tại cơ sở, khu dân cư.

Pháp luật không chỉ quy định khi xét xử Hội đồng xét xử phải có Hội

thẩm nhân dân tham gia mà còn quy định khi xét xử Hội thẩm ngang quyền

với Thẩm phán, tức là Hội thẩm nhân dân cùng Thẩm phán quyết định giải

quyết mọi vấn đề của vụ án không kể về nội dung hay thủ tục tố tụng. Mặc dù

Hội thẩm không phải là cán bộ trong biên chế Tòa án mà là người của cơ

quan, tổ chức được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bầu hoặc cử làm đại

diện cho nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử của Tòa án, nhưng khi tham

gia xét xử Hội thẩm lại ngang quyền với Thẩm phán, từ việc đọc hồ sơ vụ án,

83

nghiên cứu chứng cứ, cho đến việc ra quyết định giải quyết vụ án. Đây là điều

quan trọng để Hội thẩm nhân dân thực sự phát huy được vai trò là đại diện

cho quần chúng nhân dân của mình.

Tuy Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán, nhưng Hội thẩm

chỉ chính thức bắt đầu tham gia tố tụng và trở thành thành viên của Hội đồng

xét xử khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Như vậy, là một trong những

người tiến hành tố tụng, Hội thẩm nhân dân có một vị trí, vai trò pháp lý khá

quan trọng, số lượng Hội thẩm nhân dân chiếm 2/3 trong thành phần Hội

đồng xét xử sơ thẩm; đối với những vụ án phức tạp, tính chất nghiêm trọng,

số lượng Hội thẩm nhân dân có thể lên đến 3 người trong tổng số 5 thành viên

của Hội đồng xét xử; trong thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm, số lượng

Hội thẩm nhân dân bao giờ cũng chiếm tỷ lệ cao hơn so với Thẩm phán và

đây có thể coi là một lợi thế để các Hội thẩm nhân dân thể hiện sự “ngang

quyền” trên tinh thần dân chủ. Tuy nhiên, thực tế trình độ, điều kiện giữa Hội

thẩm nhân dân và Thẩm phán còn có khoảng cách quá xa thì việc thực hiện

nguyên tắc “ngang quyền” của Hội thẩm khi tham gia xét xử cũng chỉ mang

tính tượng trưng, hình thức. Bởi vì, một Thẩm phán phải có trình độ thấp nhất

là cử nhân Luật, phải qua lớp đào tạo nghiệp vụ xét xử tại Học viện tư pháp,

Học viện Tòa án, có thời gian công tác Pháp luật từ 4 năm trở lên (đối với cấp

huyện), từ 6 năm trở lên (đối với cấp tỉnh).Thẩm phán hoạt động xét xử lâu

dài, tích lũy được nhiều kinh nghiệm, Thẩm phán có nhiệm vụ thụ lý hồ sơ vụ

án, có quyền tiến hành các hoạt động theo tố tụng như: ghi lời khai, thu thập

chứng cứ và tiếp xúc với các đương sự trong thời gian khá dài. Đó là điều

kiện đưa ra những quyết định đúng đắn về vụ án. Còn đối với Hội thẩm nhân

dân chưa được đào tạo bài bản, không được trang bị kiến thức cơ bản về pháp

luật mà chỉ sau khi được bầu họ mới được tham dự một số buổi tập huấn ngắn

hạn về kiến thức pháp luật và nghiệp vụ xét xử, nên việc xem xét các vấn đề

84

đặt ra đối với họ chủ yếu bằng kinh nghiệm sống chứ không hoàn toàn dựa

trên cơ sở pháp luật. Sự tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân là cần thiết

nhưng phần lớn Hội thẩm nhân dân không có trình độ chuyên môn nghiệp vụ,

hiểu biết pháp luật không sâu thì làm sao họ có thể “ngang quyền” với Thẩm

phán khi xét xử được. Hơn nữa, quy định về chế độ nghiên cứu hồ sơ của Hội

thẩm nhân dân cũng còn nhiều bất cập, trong thời gian quá ngắn (kể từ khi

Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử thì Hội thẩm nhân dân mới chính

thức tham gia nghiên cứu, xét xử vụ án đó), hơn nữa đã là Hội thẩm nhân dân

thì sẽ được tham gia xét xử tất cả các loại án từ hình sự, dân sự, đến hành

chính, kinh tế, lao động… Với trình độ, kiến thức pháp luật của Hội thẩm

nhân dân như hiện nay, với thời gian nghiên cứu hồ sơ ít hơn Thẩm phán, thì

Hội thẩm nhân dân không có đủ điều kiện để đánh giá hết các chứng cứ trong

hồ sơ để có quyết định đúng đắn về vụ án, nhất là đối với những vụ án có

nhiều tình tiết phức tạp như án dân sự về tranh chấp đất đai, thừa kế, những

vụ án hình sự có nhiều bị cáo tham gia, hồ sơ dày đến hàng trăm, hàng ngàn

bút lục. Phải khẳng định rằng, việc xét xử các vụ án là hết sức phức tạp đòi

hỏi các thành viên Hội đồng xét xử phải tinh thông nghiệp vụ, nắm chắc pháp

luật, am hiểu xã hội. Yêu cầu đặt ra là như vậy, nhưng theo các quy định hiện

hành về tiêu chuẩn để được bầu làm Hội thẩm nhân dân thì nêu rất chung

chung là “có kiến thức pháp luật”, vậy căn cứ vào đâu để đánh giá một người

là có kiến thức pháp luật? Với quy định chưa rõ ràng này việc tham gia xét xử

của Hội thẩm nhân dân còn mang tính cơ cấu và hình thức. Số Hội thẩm nhân

dân có bằng cấp về pháp luật chiếm tỷ lệ rất thấp. Hơn nữa theo quy định của

pháp luật hiện hành thì Hội thẩm nhân dân cũng như Thẩm phán khi có tỷ lệ

vụ việc do mình tham gia xét xử, giải quyết bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của

Hội đồng xét xử thì ngoài việc không được xét thưởng, còn bị xem xét mức

độ để có thể đề nghị miễn hoặc bãi nhiệm, nhưng trên thực tế, nếu trách

85

nhiệm của Hội thẩm nhân dân được xác định một cách rõ ràng đối với các bản

án bị hủy, cải, sửa thì e rằng không ai dám chấp nhận làm Hội thẩm nhân dân

trong một điều kiện với tiêu chuẩn, chế độ như hiện nay.

Để nguyên tắc này có tính khả thi, không tượng trưng, hình thức, hơn

nữa để nâng cao chất lượng xét xử, tôi cho rằng trong thành phần Hội đồng

xét xử sơ thẩm, số lượng thành viên Hội thẩm nhân dân nên ít hơn Thẩm

phán. Đặc biệt, để Hội thẩm nhân dân đảm đương được chức trách, nhiệm vụ

của mình cần tiêu chuẩn hóa đội ngũ Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm nhân dân

phải có trình độ cử nhân Luật hoặc đã qua công tác pháp luật từ 3 – 5 năm,

phải qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ xét xử; cần quy định về mặt tổ chức, cụ thể:

Đoàn Hội thẩm nhân dân là một tổ chức chính trị xã hội không chịu

sự quản lý của Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp, có kinh phí hoạt động

riêng. Đoàn Hội thẩm có Trưởng đoàn và Phó trưởng đoàn làm việc theo

chế độ chuyên trách là người trực tiếp quản lý, phân công việc tham gia xét

xử của Hội thẩm nhân dân. Theo đó, cơ chế phối hợp với Tòa án sẽ là: Sau

khi thụ lý, Tòa án gửi thông báo thụ lý vụ án cho Trưởng đoàn Hội thẩm để

sắp xếp, phân công Hội thẩm nhân dân tham gia nghiên cứu, xét xử và gửi

văn bản phân công cho Tòa án để ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Làm như vậy, một mặt giảm bớt công việc cho Tòa án, mặt khác việc lựa

chọn Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử các vụ án cụ thể trở nên khách

quan hơn. Đặc biệt trong thời gian chuẩn bị xét xử Hội thẩm nhân dân phải

hết sức nỗ lực trong việc nghiên cứu hồ sơ, xem xét những tình tiết, tài liệu

liên quan đến vụ án, nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh vụ án, trên cơ

sở đó Hội thẩm nhân dân phải chuẩn bị cho mình một kế hoạch thẩm vấn

tại phiên tòa, có như vậy mới chủ động khi tham gia xét xử và thể hiện sự

“ngang quyền” với Thẩm phán được. Đi đôi với việc tiêu chuẩn hóa đội

ngũ Hội thẩm nhân dân, cần phải có một chính sách đãi ngộ, chế độ bồi

86

dưỡng thỏa đáng, thích hợp đối với Hội thẩm nhân dân, để tương xứng với

trọng trách mà pháp luật quy định.

Pháp luật hiện hành trao cho Hội thẩm nhân dân quyền năng pháp lý

khá lớn, song chưa có cơ chế để Hội thẩm nhân dân phát huy vai trò, trách

nhiệm của mình, do vậy hoạt động còn mang tính hình thức. Muốn giải

quyết vấn đề này, đòi hỏi phải có các phương án và giải pháp đồng bộ cùng

với sự tham gia tích cực, trách nhiệm từ nhiều phía. Do đó, trên cơ sở tổng

kết thực tiễn, chế định về Hội thẩm nhân dân cần phải được nghiên cứu,

sửa đổi để bảo đảm yếu tố khoa học và tính pháp lý trong hoạt động xét xử

của Tòa án.

87

Tiểu kết chương 2

Trong hệ thống Tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay, Tòa án nhân dân

cấp tỉnh giữ một vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ án sơ

thẩm, phúc thẩm theo thẩm quyền. Trải qua các giai đoạn lịch sử cách mạng

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã có những bước phát

triển, hoàn thiện cả về tổ chức và hoạt động, góp phần quan trọng vào quá

trình đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta.

Bên cạnh những kết quả đạt được, tổ chức và hoạt động của Tòa án

nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói riêng cũng còn những hạn

chế, bất cập trước yêu cầu cải cách tư pháp, cụ thể như: Năng lực của Thẩm

phán, Hội thẩm nhân dân không đồng đều, một bộ phận còn hạn chế; hoạt

động của Tòa án còn bị tác động, bởi những mối quan hệ từ bên ngoài (mối

quan hệ với cấp ủy, chính quyền địa phương; cơ quan giám sát...) ảnh hưởng

đến sự độc lập của Tòa án và Thẩm phán trong hoạt động xét xử; cơ sở vật

chất, điều kiện làm việc của Tòa án nhân dân còn nhiều khó khăn, chưa đáp

ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án nhân dân cấp

tỉnh trước yêu cầu cải cách tư pháp cần phải được đặt trong tổng thể đổi mới

tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân, cải cách tư pháp, cải cách

hành chính và những yêu cầu hoàn thiện thể chế trong điều kiện xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

88

Chương 3:

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH HIỆN NAY

3.1. Quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

Trong bộ máy nhà nước ta, Tòa án nhân dân có vị trí, vai trò hết sức

quan trọng. Vị trí, vai trò, chức năng của Tòa án nhân dân được quy định

trong Hiến pháp (Điều 20, Điều 31 và Điều 102 Hiến pháp 2013) đã tạo cơ sở

pháp lý quan trọng cho tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân là cơ quan

xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư

pháp. Trong lịch sử, Tòa án nhân dân đã trải qua những cuộc cải cách và đổi

mới về tổ chức và phương thức hoạt động để đáp ứng nhiệm vụ ngày càng

nặng nề trong việc bảo vệ pháp chế, bảo vệ công lý, nhất là trong giai đoạn

xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện cải cách tư

pháp hiện nay, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động xét xử, việc đổi mới

tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp

tỉnh nói riêng cần bám sát các quan điểm, mục tiêu cải cách tư pháp thể hiện

trong các văn kiện quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam thời gian gần

đây. Cụ thể là một số quan điểm cơ bản sau:

3.1.1. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải

gắn liền với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam của dân, do dân, vì dân.

Quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động Tòa án nhân dân gần đây nhất

tiếp tục được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần XI với định

hướng: Đổi mới hệ thống tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm cải

cách hoạt động xét xử là trọng tâm của cải cách tư pháp; mở rộng thẩm quyền

xét xử của Tòa án đối với các khiếu kiện hành chính.[10] Định hướng trên

89

nhằm đảm bảo sự minh bạch, sự tôn trọng pháp luật, sự độc lập và tuân theo

pháp luật của hoạt động xét xử.

3.1.2. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải

được tiến hành đồng bộ với cải cách hệ thống Tòa án nhân dân, các cơ

quan tư pháp và các thiết chế khác trong bộ máy nhà nước.

Tòa án nhân dân cấp tỉnh là một cấp Tòa án trong hệ thống Tòa án nhân

dân và cho dù yêu cầu có sự độc lập trong hoạt động xét xử nhưng không thể

tách rời với Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao và Tòa án nhân

dân cấp huyện cả về cơ cấu tổ chức và các mối liên hệ trong hoạt động xét xử,

đặc biệt là mối quan hệ theo 2 cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Điều này đòi

hỏi việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải có

sự gắn kết, tương xứng và đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ

thống Tòa án nhân dân nói chung. Bên cạnh đó, hoạt động xét xử của Tòa án

còn dựa trên pháp luật, căn cứ vào các kết quả hoạt động điều tra, truy tố, hoạt

động bổ trợ tư pháp, hoạt động hành chính của các cơ quan nhà nước và sự

lãnh đạo, phối hợp của các thiết chế chính trị khác, bởi vậy, đổi mới tổ chức

và hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói

riêng còn phải đặt trong mối quan hệ với quá trình đổi mới các thiết chế trong

hệ thống chính trị, sự lãnh đạo của Đảng và các hoạt động lập pháp, hành

pháp (hoàn thiện pháp luật, cải cách hành chính…vv).

3.1.3. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải

được thực hiện một cách đồng bộ với quá trình cải cách thể chế.

Việc cải cách thể chế không chỉ là cơ sở để thực hiện đổi mới mô hình

tổ chức, phương thức hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh mà còn là cơ sở

pháp lý để Tòa án áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử, đảm bảo kịp thời

giải quyết, xử lý nghiêm minh các hành vi phạm tội, tranh chấp phát sinh, góp

phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp

90

của Nhà nước, tổ chức và công dân. Chính vì vậy, việc cải cách, hoàn thiện

thể chế là điều kiện cơ bản cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động xét

xử của Tòa án; nâng cao trình độ Thẩm phán và ý thức chấp hành pháp luật

của công dân.

3.1.4. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải

gắn với yêu cầu hội nhập quốc tế, phục vụ cho việc xây dựng nền kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Hợp tác quốc tế là nhu cầu, xu thế tất yếu trong sự tồn tại và phát triển

của tất cả các quốc gia trong thời đại ngày nay. Nhận thức được tầm quan

trọng của hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định

chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát

huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự

chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc

gia, giữ gìn bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, bên cạnh những

cơ hội do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, quá trình hội nhập cũng đặt nền

kinh tế nước ta trước những thách thức lớn, đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu

vượt qua mới có thể tận dụng tốt cơ hội phát triển. Hội nhập, mở rộng quan

hệ quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện

chính sách thu hút đầu tư nước ngoài sẽ làm gia tăng các quan hệ dân sự,

kinh tế, lao động có yếu tố nước ngoài và đi cùng với sự gia tăng này là các

tranh chấp phát sinh. Vì vậy các Tòa án phải có sự đổi mới, thích ứng để giải

quyết các tranh chấp phát sinh có yếu tố nước ngoài, đảm bảo tôn trọng pháp

luật, các chuẩn mực tư pháp quốc tế và bảo vệ quyền bình đẳng của tất cả

các bên liên quan.

91

3.2. Một số giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

cấp tỉnh

3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của

Tòa án

Ban cán sự Đảng, lãnh đạo TAND tỉnh Quảng Ngãi cần thường xuyên

phối hợp với Tỉnh ủy Quảng Ngãi, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương

để đề xuất kịp thời xây dựng đường lối, lộ trình cải cách tư pháp phù hợp với

đặc thù tỉnh Quảng Ngãi. Bên cạnh đó các cấp ủy Đảng cần thường xuyên

giáo dục chính trị tư tưởng, quán triệt các văn kiện, nghị quyết, đường lối của

Đảng với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, cán bộ Tòa án để

họ thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.

Các cấp ủy Đảng cần thực hiện kiểm tra định kỳ đối với đối với Đảng

viên công chức Tòa án, kịp thời phát hiện, xử lý đối với những Đảng viên

không hoàn thành nhiệm vụ hoặc có sai phạm.

Ban cán sự Đảng TAND tỉnh Quảng Ngãi phải luôn phối hợp chặt chẽ

với các cấp ủy Đảng chăm lo công tác cán bộ, kịp thời phát hiện, tuyển chọn

những Đảng viên xuất sắc để đào tạo, bổ nhiệm Thẩm phán và các vị trí lãnh

đạo Tòa án. Giới thiệu các đồng chí Đảng viên đủ trình độ, năng lực, uy tín,

trách nhiệm và bản lĩnh chính trị vào cấp ủy Đảng và để giữ vị trí đứng đầu

các Tòa chuyên trách.

3.2.2. Trong hoạt động xét xử của Tòa án phải tuyệt đối trung thành với

Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, bảo vệ công

lý, công bằng xã hội.

Tòa án là cơ quan bảo vệ pháp luật nên quan trọng nhất, Tòa án phải là

chủ thể tuyệt đối trung thành với Hiến pháp và pháp luật. Đối với mỗi vụ việc

thuộc thẩm quyền xét xử của mình, Tòa án cần xem xét một cách khách quan,

toàn diện để đưa ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, hợp tình, hợp

92

lý. Với các vụ án hình sự là việc xem xét toàn diện tính chất nguy hiểm đến

khách thể mà tội phạm xâm hại, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm

hình sự, nhân thân người phạm tội khi quyết định một mức hình phạt đủ sức

răn đe và cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người công dân có ích

cho xã hội. Với các vụ án dân sự là việc xem xét loại quan hệ, mức độ lỗi, giá

trị thiệt hại, sự thỏa thuận của các bên, sự tác động của tranh chấp đến các

quan hệ xã hội khác.

Trong hoạt động xét xử của mình, Tòa án phải thật sự tôn trọng và bảo

vệ các quyền cơ bản của công dân đã được quy định trong Hiến pháp và các

văn bản pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng xét xử oan, sai trong

các loại án, mà đặc biệt là trong án hình sự. Dù với bất kỳ nguyên nhân gì dẫn

đến việc xét xử oan, sai thì đều làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền công

dân, quyền con người, từng vụ án oan, sai tăng lên sẽ tỷ lệ nghịch với lòng tin

của nhân dân vào vai trò bảo vệ công lý của Tòa án. Chính vì vậy, việc phòng

chống oan, sai phải được coi là mục tiêu quan trọng trong cải cách tư pháp nói

chung và cải cách hoạt động xét xử của Tòa án nói riêng.

Bên cạnh đó, cần hoàn thiện hơn nữa quy chế tranh tụng tại phiên

tòa, xác định đúng vị trí của Thẩm phán, Kiểm sát viên và Luật sư, tạo điều

kiện cho người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

đương sự tham gia tích cực vào quá trình xét xử, đảm bảo phán quyết của

Tòa án xuất phát từ quá trình tranh tụng công khai, minh bạch mà không

phải "án tại hồ sơ".

Xử lý nghiêm minh các biểu hiện tiêu cực trong hoạt động tố tụng.

Kiên quyết nói không với hiện tượng chạy án, nhận hối lộ trong quá trình giải

quyết án. Ngoài ra, TAND tối cao cũng cần nghiên cứu áp dụng án lệ trong

hoạt động xét xử một cách hợp lý để việc giải quyết án được thống nhất và

đảm bảo sự công bằng trong quá trình xét xử. Bởi lẽ trong thực tế hiện nay

93

mặc dù án lệ đã được ban hành, tuy nhiên có những vụ án tình tiết tương đối

giống nhau nhưng các Tòa án khác nhau, thậm chí mỗi cấp Tòa án có mức

hình phạt khác nhau, mặc dù đều trong cùng một khung, khoản hình phạt của

một tội cụ thể, cho dù phán quyết đưa ra có thể là đúng luật nhưng xét một

cách toàn diện sẽ là không công bằng. Có thể xem đây là chức năng "sáng

tạo" luật của Tòa án. Muốn vậy, Hiến pháp và pháp luật tố tụng phải quy định

làm tiền đề cho Tòa án thực hiện các biện pháp cần thiết để triển khai hiệu

quả trong việc áp dụng án lệ.

Tuy nhiên, khi Tòa án được tăng thẩm quyền, vị trí của Tòa án ngày

càng độc lập với các cơ quan Nhà nước khác, khả năng tác động của Tòa án

lên mọi mặt của đời sống xã hội được nâng cao thì cũng dễ làm cho Tòa án

trở nên chuyên quyền, độc đoán, xét xử tùy tiện nếu không có cơ chế giám sát

hữu hiệu đối với hoạt động xét xử của Tòa án. Việc giám sát chặt chẽ hoạt

động xét xử của Tòa án cũng góp phần không nhỏ vào hiệu lực và hiệu quả

của các bản án mà Tòa án đã tuyên, nâng cao uy tín của Tòa án trong quần

chúng nhân dân. Chính vì vậy, phải tăng cường hiệu quả trong hoạt động chất

vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội và Hội đồng nhân dân đối với hoạt động

xét xử của Tòa án. Đồng thời tạo cơ chế giám sát trực tiếp từ nhân dân, thiết

lập các hòm thư phản ánh, khuyến khích việc tố cáo những hành vi tiêu cực

trong xét xử của Tòa án. Sự lãnh đạo của Đảng cũng rất quan trọng để kiểm

soát việc thực hiện đúng pháp luật của Tòa án. Cần nâng cao năng lực lãnh

đạo của Đảng, xây dựng và nhân rộng các điển hình Đảng bộ Tòa án trong

sạch vững mạnh, có tinh thần phê và tự phê trong tổ chức Đảng.

94

3.2.3. Nghiên cứu khả năng trao cho Tòa án quyền giải thích pháp luật,

phán xét tính hợp pháp, hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật do

các cơ quan Nhà nước ban hành.

Chức năng giải thích pháp luật, phán xét tính hợp pháp, hợp hiến của

các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay được giao cho các cơ quan như

Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Chính phủ và các cơ quan khác. Tuy

nhiên, thực tế cho thấy, hoạt động giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của các

văn bản quy phạm pháp luật đạt hiệu quả chưa cao, biểu hiện là tình trạng các

quy định của văn bản dưới luật mâu thuẫn với các quy định của văn bản luật

diễn ra khá phổ biến. Kinh nghiệm của các nước trong việc giải quyết vấn đề

này là chuyển việc giám sát và tuyên bố tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản

quy phạm pháp luật cho Tòa án và thực tiễn cho thấy cách thức này đã đạt

được hiệu quả ở nhiều nước và có thể coi là kinh nghiệm tốt đối với nước ta.

Thực tế cho thấy Tòa án nhân dân tối cao có nhiều hướng dẫn không chính

thức dưới dạng văn bản về nội dung một số điều luật, đây thực chất là việc

giải thích pháp luật nhưng do không có chức năng giải thích pháp luật nên sự

hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao không phải là căn cứ pháp lý công

khai của việc tuyên án. Vì vậy, trong thời gian tới, cần quy định chính thức

thẩm quyền giải thích pháp luật cho Tòa án nhân dân tối cao tạo cơ sở cho

việc xét xử của hệ thống Tòa án nhân dân cũng như phù hợp với các nguyên

tắc, thông lệ quốc tế về vấn đề này.

3.2.4. Nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp của

đội ngũ Thẩm phán và cán bộ của Tòa án.

Thực tế hoạt động xét xử cho thấy, đội ngũ Thẩm phán, cán bộ của Tòa

án đã có những đóng góp đáng kể trong việc thực hiện chức năng xét xử, bảo

vệ pháp luật. Tuy nhiên, trước yêu cầu cải cách tư pháp, trình độ chuyên môn,

đạo đức nghề nghiệp, bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ Tòa án chưa

95

thật sự đáp ứng yêu cầu. Vì vậy, để nâng cao chất lượng, hiệu quả xét xử của

Tòa án nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói riêng, cần thực hiện

một số giải pháp trước mắt và mang tính chiến lược như sau:

Cần xây dựng chiến lược nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ cán

bộ Hệ thống Tòa án; trang bị cơ sở vật chất – kỹ thuật tốt hơn nữa cho Tòa án

nhân dân cấp tỉnh – với vị trí là cầu nối giữa Tòa án cấp huyện, Tòa án nhân

dân cấp cao và Tòa án nhân dân tối cao và đảm bảo tốt cho việc thực hiện

thẩm quyền xét xử theo mô hình tổ chức Tòa án mới được pháp luật quy định.

Về đổi mới cơ chế tuyển chọn Thẩm phán, cần mở rộng nguồn để tuyển

chọn. Để có được những Thẩm phán thật sự có năng lực, cần tuyển chọn

Thẩm phán không chỉ từ đội ngũ cán bộ Tòa án mà còn từ đội ngũ các chức

danh khác như Điều tra viên, Công tố viên, Luật sư, kể cả những luật gia đã

qua đào tạo nghề Thẩm phán nhưng chưa làm Thẩm phán. Để được làm Thẩm

phán, các ứng viên cần trải qua một kỳ thi quốc gia như hiện nay, nhằm tạo ra

sự cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa họ cho chức danh này. Những người

trúng tuyển kỳ thi Thẩm phán quốc gia nếu có đủ các tiêu chuẩn khác mà

pháp luật quy định sẽ được Chủ tịch nước xem xét và ra quyết định bổ nhiệm

làm Thẩm phán. Thẩm phán sẽ là thẩm phán của quốc gia, nên có thể điều

động họ dễ dàng khi thấy cần thiết. Việc bổ nhiệm Thẩm phán cần tiến hành

theo ngạch, bậc và theo nguyên tắc Thẩm phán không được bổ nhiệm ở ngạch

cao hơn nếu chưa có đủ số năm nhất định giữ chức danh thẩm phán ở ngạch

thấp hơn hoặc giữ các chức danh tư pháp khác (công tố viên, luật sư, chấp

hành viên...). Cũng cần xem xét việc kéo dài nhiệm kỳ Thẩm phán so với hiện

nay, tiến tới việc bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời, bởi vì quy định nhiệm kỳ

Thẩm phán quá ngắn (Nhiệm kỳ đầu của các Thẩm phán là 05 năm; trường

hợp được bổ nhiệm lại hoặc được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán khác thì

nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm).

96

Cần tiếp tục cải tiến chế độ sử dụng, đãi ngộ, bảo vệ Thẩm phán và

tăng cường chế độ giám sát, kỷ luật đối với Thẩm phán. Chế độ sử dụng và

đãi ngộ cần đảm bảo cho Thẩm phán không phải lo mưu sinh, đảm bảo để họ

và gia đình có thể sống đầy đủ bằng chính đồng lương, không bị phụ thuộc

vào những tác động vật chất từ phía các cá nhân, tổ chức liên quan đến công

vụ của họ. Mặt khác, cần thiết lập một chế độ giám sát chặt chẽ để kịp thời

phát hiện, cảnh báo, phòng ngừa và xử lý nghiêm minh những Thẩm phán

hành động không xứng đáng với chức danh cao quý của mình. Về mặt chuyên

môn, nghiệp vụ, các Thẩm phán sau khi được bổ nhiệm phải tham gia bắt

buộc vào các khoá bồi dưỡng định kỳ và phải trải qua các kỳ sát hạch, kiểm

tra về kiến thức, kỹ năng xét xử, tác phong làm việc. Giống như các chức

danh hành chính cao cấp, Thẩm phán phải thực hiện chế độ công khai tài sản

và tài chính cá nhân trong suốt thời kỳ giữ chức danh và một thời gian sau khi

bãi nhiệm hoặc về hưu.

Quy định và cá thể hóa trách nhiệm của Thẩm phán trong việc thực

hiện xét xử, nhất là trách nhiệm cá nhân, bồi thường nhà nước khi để xảy ra

oan, sai trong hoạt động xét xử. Vấn đề càng trở nên không rõ ràng và phức

tạp trong điều kiện thực tế của Việt Nam khi mà chế độ làm việc nội bộ của

từng cơ quan Tòa án và giữa các cấp Tòa án vẫn còn hiện tượng bàn án, thỉnh

thị án, phê duyệt án. Vấn đề đặt ra ở đây là liệu có thể truy cứu trách nhiệm cá

nhân Thẩm phán khi mà tính độc lập tự quyết, tự chịu trách nhiệm của Thẩm

phán không được bảo đảm đầy đủ trên thực tế.

Về chính trị, tư tưởng, để nâng cao trách nhiệm, ý thức chấp hành pháp

luật của đội ngũ Thẩm phán, các đơn vị trong hệ thống Tòa án nhân dân phải

thường xuyên thực hiện nghiêm túc công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho

Thẩm phán, cán bộ, công chức trong đơn vị mình; nâng cao tinh thần cảnh

giác trước âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch khi quán

97

triệt, triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội

liên quan đến cải cách tư pháp, tổ chức, hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân

dân và công tác phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng

phí, nhằm đảm bảo cho Thẩm phán, cán bộ, công chức trong đơn vị thống

nhất cao về nhận thức, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật

của Nhà nước, từ đó thực hiện tốt cuộc vận động “Nâng cao bản lĩnh chính trị,

phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức hệ

thống Tòa án nhân dân”. Thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có

liên quan ở Trung ương, cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong công tác

quản lý, giáo dục cán bộ, rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối

sống cho đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức của hệ thống Tòa án nhân

dân. Nội dung về chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống mà Thẩm phán, cán bộ,

công chức Tòa án phải thường xuyên tu dưỡng rèn luyện là: cần, kiệm, liêm,

chính, chí công vô tư, gương mẫu, tự giác; không quan liêu tham nhũng, lãng

phí; có tinh thần đoàn kết, hợp tác, có ý thức kỷ luật cao và phong cách làm

việc khoa học, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân, dám nghĩ, dám làm,

dám chịu trách nhiệm. Để từng bước cụ thể hóa các nội dung tu dưỡng, rèn

luyện đó, các đơn vị phải thực hiện việc công khai, minh bạch các hoạt động

của Tòa án theo quy định của pháp luật; thực hiện “Quy tắc ứng xử của cán

bộ, công chức hệ thống Tòa án nhân dân” theo đúng quy định của Luật

phòng, chống tham nhũng; định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ,

công chức không giữ chức vụ lãnh đạo theo đúng quy định của Chính phủ;

triển khai và thực hiện nghiêm túc Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí;

Luật phòng, chống tham nhũng và thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở.

Đẩy mạnh phong trào thi đua “Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư”

với phương châm “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”, gắn với cuộc vận

động “đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ

98

Chí Minh”, với trọng tâm là học tập và làm theo phong cách, tác phong Hồ

Chí Minh về dân chủ, nêu gương, quần chúng, khoa học, nói đi đôi với làm,

với mục tiêu tạo động lực mới trong việc đổi mới phong cách, tác phong công

tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu trong hệ thống Tòa

án nhân dân. Trong phong trào thi đua này lấy cuộc vận động “nâng cao bản

lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ,

công chức hệ thống Tòa án nhân dân” làm nòng cốt nhằm xây dựng hình ảnh

Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân thực sự gương mẫu, có

bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức lối sống trong sạch, lành mạnh ở cơ

quan và nơi cư trú, để củng cố lòng tin của nhân dân, của xã hội đối với Thẩm

phán, cán bộ, công chức Tòa án.

Giải pháp về tổ chức cán bộ: Chú trọng chất lượng cán bộ, Thẩm phán

Tòa án ngay từ khi tuyển dụng phải đảm bảo tiêu chuẩn về chính trị, chuyên

môn nghiệp vụ, sức khỏe, tư cách đạo đức, những địa phương thiếu nguồn cán

bộ tuyển dụng không phải vì lý do đó mà hạ thấp tiêu chuẩn cán bộ tuyển

dụng. Quan tâm làm tốt công tác tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ

cho cán bộ Thẩm phán; tiếp tục đổi mới công tác tập huấn, bồi dưỡng chuyên

môn nghiệp vụ trong toàn hệ thống, trong đó không chỉ tập trung vào việc bồi

dưỡng nghiệp vụ mà cần chú trọng cả việc đào tạo, bồi dưỡng về lý luận

chính trị, trình độ quản lý, tin học, ngoại ngữ và các kiến thức xã hội khác,

trong đó có kỹ năng về công tác dân vận. Đặc biệt là, để xây dựng đội ngũ

Thẩm phán đáp ứng các yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, cần

làm tốt công tác quy hoạch cán bộ để tạo nguồn nhằm bổ sung đội ngũ cán bộ

quản lý của từng đơn vị và của toàn hệ thống. Tòa án nhân dân tối cao cần

tăng cường phối hợp với cấp ủy địa phương để rà soát, đánh giá về đội ngũ

cán bộ quản lý (Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân địa phương) và

Thẩm phán các cấp theo phân cấp quản lý cán bộ. Thông qua rà soát, đánh giá

99

cán bộ có các giải pháp điều chuyển hoặc thay thế những cán bộ quản lý thiếu

năng lực, không đáp ứng được yêu cầu, những trường hợp để xảy ra mất đoàn

kết nội bộ, có biểu hiện vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống. Đồng thời,

thông qua rà soát, đánh giá cán bộ để có những chính sách sử dụng cán bộ

hợp lý, đưa những cán bộ có đủ tiêu chuẩn vào quy hoạch, bồi dưỡng tạo

nguồn cán bộ cho hệ thống Tòa án, coi đây là giải pháp vừa mang tính đột

phá, vừa mang tính chất thường xuyên. Cũng thông qua rà soát để đánh giá

kết quả xét xử của từng Thẩm phán trong năm để có biện pháp xử lý phù hợp.

Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện trách nhiệm công vụ đối với

Thẩm phán, cán bộ, công chức, trong đó trọng tâm là kiểm tra đối với Thẩm

phán trong công tác xét xử. Thông qua công tác kiểm tra kịp thời uốn nắn các

biểu hiện hoặc khuynh hướng lệch lạc như tuyệt đối hóa nguyên tắc độc lập

xét xử hoặc biểu hiện pháp lý đơn thuần; kịp thời xác minh để kết luận và xử

lý nghiêm những Thẩm phán, cán bộ, công chức có sai phạm; kiên quyết

chuyển cơ quan có thẩm quyền để xem xét trách nhiệm hình sự đối với những

trường hợp có dấu hiệu phạm tội. Công tác kiểm tra phải tiến hành đúng

phương hướng, phương châm, thủ tục và nguyên tắc, kiên quyết đưa ra khỏi

Hệ thống Tòa án những Thẩm phán, cán bộ, công chức có biểu hiện tham

nhũng, vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống.

3.2.5. Nâng cao năng lực của Hội thẩm nhân dân.

Hội thẩm là một chế định tồn tại với truyền thống hơn 60 năm trong

nền tư pháp dân chủ ở Việt Nam. Trong cải cách tư pháp, chế định Hội thẩm

tiếp tục được đặt ra. Có nhiều ý kiến về việc bỏ chế độ Hội thẩm hoặc thay

chế độ Hội thẩm bằng hình thức khác mà vẫn bảo đảm tính nhân dân trong xét

xử. Tuy nhiên, với đặc điểm chính trị, xã hội của Việt Nam, theo tác giả, cần

tiếp tục duy trì chế độ Hội thẩm tham gia xét xử nhưng với thành phần không

phải đa số như hiện nay. Nhiều ý kiến cho rằng việc Hội đồng xét xử gồm 2

100

Thẩm phán và 1 Hội thẩm (hoặc 3 Thẩm phán, 2 Hội thẩm) sẽ vừa bảo đảm

tính chuyên nghiệp, vừa bảo đảm có đại diện của nhân dân tham gia xét xử,

thể hiện và đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân; vẫn có thể sử dụng được

kinh nghiệm xã hội và khả năng phán quyết các vấn đề của những người xét

xử "không chuyên nghiệp", những người đại diện cho mức hiểu biết pháp luật

ở mức "phổ thông" của các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, cải cách tư pháp sẽ

không đi theo hướng "chuyên môn hoá", "Thẩm phán hoá" hội thẩm mà trái

lại, tiếp tục duy trì và củng cố chế định này theo hướng lựa chọn những người

có đủ khả năng, kiến thức và kinh nghiệm xã hội cần thiết để tham gia xét xử.

Hội thẩm nhân dân cần được bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ ở mức độ

cơ bản nhất để có thể tham gia có hiệu quả vào hoạt động xét xử.

3.2.6. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả xét xử của Tòa án thông qua các bản

án, quyết định đảm bảo công bằng, đúng pháp luật, khả thi.

Để đảm bảo việc xét xử khách quan, đúng pháp luật, cùng với việc

nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của Thẩm phán, cần phải

thực hiện một số giải pháp như:

Đổi mới tổ chức phiên tòa xét xử theo hướng xác định cụ thể quyền

hạn, trách nhiệm pháp lý của cả những người tiến hành tố tụng và những

người tham gia tố tụng; bảo đảm nguyên tắc tranh tụng công khai, dân chủ và

nghiêm minh trong xét xử; bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với tổ

chức và hoạt động của Tòa án trên cơ sở đổi mới sự lãnh đạo của Đảng (cần

tăng cường hoạt động kiểm tra của Đảng, công tác cán bộ Đảng, kết hợp với

hoạt động giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án; đồng

thời, nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán, của Hội thẩm nhân dân trước

nhân dân và trước Đảng);

Bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với tổ chức và hoạt động

của Tòa án trên cơ sở đổi mới sự lãnh đạo của Đảng. Muốn vậy, cần tăng

101

cường hoạt động kiểm tra của Đảng, công tác cán bộ Đảng, kết hợp với hoạt

động giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án; đồng thời,

nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán, của Hội thẩm nhân dân trước nhân dân

và trước Đảng.

Nâng cao ý thức trách nhiệm của Thẩm phán khi thực hiện nhiệm vụ

xét xử, theo đó Tòa án phải làm tốt vai trò bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng,

hợp pháp của nhân dân, của các tổ chức và cá nhân khác theo quy định của

pháp luật, nhằm khẳng định và thể hiện đúng bản chất Tòa án nhân dân đúng

với tên gọi của mình.

3.2.7. Kiện toàn đội ngũ cán bộ công chức Hệ thống Tòa án theo hướng

tinh giản, hiệu quả, bố trí sắp xếp nhân sự một cách hợp lý, sử dụng nhân

sự đúng người đúng việc, đúng sở trường; đồng thời có chính sách phù

hợp để thu hút đội ngũ những người có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt

phục vụ cho sự phát triển của Hệ thống Tòa án.

Song song với quá trình từng bước mở rộng thẩm quyền cho Tòa án,

công tác cán bộ cũng là vấn đề quan trọng bậc nhất trong quá trình xây dựng

Tòa án tương xứng với vị trí, vai trò, đáp ứng được đòi hỏi của Tòa án trong

Nhà nước. Trọng tâm của công tác cán bộ là phải thu hút được những người

thực sự có đức, có tài phục vụ cho sự nghiệp phát triển của ngành.

Phát huy những kết quả đã đạt được, trong công tác cán bộ thời gian

tới, TAND tỉnh Quảng Ngãi cần tập trung kiện toàn hơn nữa đội ngũ cán bộ,

công chức Tòa án theo hướng chuẩn hóa, đồng bộ và trọng điểm. Tích cực

đào tạo, đào tạo lại đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, nâng

cao trình độ pháp luật quốc tế, trình độ ngoại ngữ, tin học... để tạo nguồn cán

bộ tốt cung cấp cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi. Ngoài ra cần tập trung

đào tạo cho được một bộ phận cán bộ có năng lực thực sự để họ trở thành

những người đầu ngành trong hoạt động xét xử của Tòa án, có khả năng đảm

102

đương những việc khó, áp lực cao mà ít ai làm được. Thông qua việc hợp tác

tư pháp với các nước trên thế giới, TAND tỉnh Quảng Ngãi có thể gửi một số

cán bộ, công chức có năng lực sang học tập, nghiên cứu tại các nước có nền

tư pháp mạnh như Anh, Pháp, Mỹ, Nga, Trung Quốc... để nâng cao trình độ

cho cán bộ Tòa án, bổ sung nguồn cán bộ am hiểu về pháp luật quốc tế đáp

ứng với yêu cầu xét xử ngày càng gia tăng các vụ án có yếu tố nước ngoài,

liên quan đến pháp luật quốc tế.

Tỉnh ủy Quảng Ngãi, Ban cán sự Đảng và lãnh đạo Tòa án nhân dân

tỉnh Quảng Ngãi cần có chính sách trọng dụng nhân tài, khuyến khích cán bộ,

công chức cống hiến tài năng, trí tuệ bằng một mức lương tương xứng với

công sức đóng góp của họ, không mang tính chất cào bằng, đến kỳ lại lên như

hiện nay; tạo đầy đủ điều kiện thuận lợi để họ phát huy tài năng phục vụ sự

nghiệp chung của ngành. Chính sách cán bộ cũng phải có sự điều chỉnh cho

hợp lý, trong đó phải sử dụng cán bộ đúng năng lực sở trường mà họ có, sắp

xếp họ vào những vị trí phù hợp, phát huy tính chủ động sáng tạo, tinh thần tự

chủ, tự chịu trách nhiệm.

Mặt khác nên kéo dài nhiệm kỳ đầu Thẩm phán lên 10 năm so với

nhiệm kỳ 5 năm như hiện nay và dần tới bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời. Có

như vậy Thẩm phán mới yên tâm công tác, bảo đảm tính độc lập của Thẩm

phán cũng như của Tòa án trong hoạt động xét xử. Tiết kiệm được thời gian

và tiền bạc cho việc làm thủ tục tái bổ nhiệm Thẩm phán. Tuy nhiên, để chọn

được đội ngũ Thẩm phán có năng lực, có phẩm chất đạo đức tốt thì công tác

tuyển chọn phải làm hết sức cẩn trọng, có trách nhiệm với ngành, với nhân

dân. Việc bổ nhiệm Thẩm phán không nhất thiết phải là người trong Đảng mà

có thể tuyển chọn những người ngoài Đảng; bổ nhiệm cả các luật sư vào các

chức danh tư pháp, miễn là họ yêu nghề, phấn đấu cho sự nghiệp bảo vệ công

lý, tuyệt đối trung thành với Hiến pháp, tận tâm phục vụ nhân dân. Thu hút

103

thêm một số chuyên gia, những người uyên thâm trong lĩnh vực pháp luật

cộng tác với hệ thống Tòa án.

Bên cạnh đó, cũng cần xây dựng một phong cách ứng xử có văn hóa,

lịch sự, nhã nhặn nơi công sở cho đội ngũ cán bộ Tòa án nhân dân tỉnh Quảng

Ngãi, thể hiện văn hóa của cán bộ Tòa án trong Nhà nước pháp quyền: Tận

tâm, nhiệt huyết, năng động, sáng tạo.

3.2.8. Khẩn trương hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng thống nhất,

đồng bộ phù hợp, khả thi, dễ hiểu và dễ tiếp cận làm cơ sở pháp lý trong

hoạt động xét xử của Tòa án.

Quốc hội cần kiện toàn hệ thống pháp luật của Việt Nam theo hướng

thống nhất, đồng bộ, phù hợp, và có tính khả thi cao. Hệ thống pháp luật vừa

phản ánh được thái độ của Nhà nước với các quan hệ đang tồn tại trong xã hội

nhưng đồng thời nó cũng phải có tính dự báo trong một thời hạn nhất định đối

với những quan hệ xã hội có thể phát sinh, cần sự điều chỉnh bằng pháp luật

trong tương lai. Khi đó pháp luật mới đảm bảo được tính ổn định tương đối,

tránh tình trạng vừa ban hành đã dự định sửa đổi bổ sung, thiếu tính khả thi.

Pháp luật phải được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại

chúng, đưa lên Internet để người dân khi cần thì có thể đọc, tham khảo bất kỳ

ở đâu, bất cứ lúc nào. Một hệ thống pháp luật ít biến động, đồng bộ, dễ tiếp

cận, dễ hiều là điều kiện tốt nhất để Tòa án thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.

Có được một hệ thống pháp luật tốt đã khó nhưng để phát huy hiệu quả

trên thực tế lại càng khó hơn. Theo PGS-TS. Nguyễn Minh Đoan thì: "Nhiều

người dân không biết được các quyền, lợi ích hợp pháp của mình nên không

dám đòi hỏi, không dám đấu tranh"; cũng có khi "người dân biết được các

quyền và lợi ích mà mình có nhưng lại không biết làm thế nào để bảo vệ các

quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp đó. Cũng do chưa hiểu biết đầy đủ về

pháp luật mà nhiều người dân thờ ơ với pháp luật, không tin tưởng vào khả

104

năng của pháp luật, hoài nghi việc giải quyết các công việc của một số cơ quan, cán bộ Nhà nước"1. Chính vì vậy mà công tác tuyên truyền phổ biến

kiến thức pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho người dân là vô cùng quan

1 "Nâng cao hiệu quả của pháp luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", Luận án Tiến sĩ Luật học của Nguyễn Minh Đoan, tr 159.

trọng đảm bảo tính khả thi và hiệu quả tác động của pháp luật.

105

Tiểu kết chương 3

Trong điều kiện hiện nay, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động xét

xử, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân dân nói

chung, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói riêng cần bám sát các quan điểm của

Đảng và mục tiêu, yêu cầu cải cách tư pháp. Đó là việc đổi mới tổ chức và

hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải gắn liền với việc xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân; tiến

hành đồng bộ với cải cách hệ thống Tòa án nhân dân, các cơ quan tư pháp và

các thiết chế khác trong bộ máy nhà nước; thực hiện đồng bộ với quá trình cải

cách thể chế và đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế thị trường và hội nhập

quốc tế.

Trên cơ sở các quan điểm, định hướng nêu trên, một số giải pháp đổi

mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh cần thực hiện là:

- Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo cơ sở

pháp lý vững chắc cho hoạt động xét xử của Tòa án.

- Nghiên cứu khả năng trao cho Tòa án quyền giải thích pháp luật, phán

xét tính hợp pháp, hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ

quan Nhà nước ban hành.

- Nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp của đội

ngũ Thẩm phán và cán bộ của Tòa án; đổi mới cơ chế tuyển chọn Thẩm phán;

xem xét quy định kéo dài nhiệm kỳ Thẩm phán để tiến tới chế độ bổ nhiệm

Thẩm phán suốt đời; cải tiến chế độ sử dụng, đãi ngộ, bảo vệ Thẩm phán và

tăng cường chế độ giám sát, kỷ luật đối với Thẩm phán; nâng cao năng lực

của Hội thẩm nhân dân.

- Tăng cường cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện làm việc cho đội

ngũ thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án nhân dân.

106

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu một số vấn đề lý luận tổ chức và hoạt động của Tòa án

và những mục tiêu, yêu cầu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

trong điều kiện cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta, có thể rút ra một số kết luận sau:

Quyền Tư pháp là một trong 3 quyền quan trọng trong tổ chức quyền

lực Nhà nước, trong đó Tòa án là chủ thể được giao thực hiện quyền này. Tòa

án là cơ quan được thành lập để thực hiện chức năng xét xử. Để Tòa án thực

hiện tốt chức năng xét xử thì yêu cầu quan trọng nhất là cần có những đảm

bảo để Tòa án độc lập; khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập

và chỉ tuân theo pháp luật và bảo đảm các nguyên tắc mang tính phổ quát

trong hoạt động xét xử của Tòa án.

Ở nước ta, hệ thống Tòa án nhân dân được tổ chức theo đơn vị hành

chính lãnh thổ, thực hiện chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn

nhân và gia đình, lao động, hành chính, kinh doanh, thương mại và giải quyết

các việc khác theo quy định của pháp luật. Tòa án nhân dân cấp tỉnh là cấp

Tòa án có vai trò quan trọng, thực hiện việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm các vụ

án theo thẩm quyền.

Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực

hiện cải cách tư pháp hiện nay, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án

nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói riêng cần hướng tới các

mục tiêu cơ bản là: nâng cao năng lực xét xử; đảm bảo tính độc lập của Tòa

án và Thẩm phán trong hoạt động xét xử và bảo đảm việc giám sát đối với

hoạt động xét xử.

Trong hệ thống Tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay, Tòa án nhân dân

cấp tỉnh giữ một vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ án sơ

thẩm, phúc thẩm theo thẩm quyền. Trải qua các giai đoạn lịch sử cách mạng

107

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã có những bước phát

triển, hoàn thiện cả về tổ chức và hoạt động, góp phần quan trọng vào quá

trình đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta.

Bên cạnh những kết quả đạt được, tổ chức và hoạt động của Tòa án

nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói riêng cũng còn những hạn

chế, bất cập trước yêu cầu cải cách tư pháp, cụ thể như: Năng lực của Thẩm

phán, Hội thẩm nhân dân không đồng đều, một bộ phận còn hạn chế; hoạt

động của Tòa án còn bị tác động, bởi những mối quan hệ từ bên ngoài (mối

quan hệ với cấp ủy, chính quyền địa phương; cơ quan giám sát...) ảnh hưởng

đến sự độc lập của Tòa án và Thẩm phán trong hoạt động xét xử; cơ sở vật

chất, điều kiện làm việc của Tòa án nhân dân còn nhiều khó khăn, chưa đáp

ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án nhân dân cấp

tỉnh trước yêu cầu cải cách tư pháp cần phải được đặt trong tổng thể đổi mới

tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân, cải cách tư pháp, cải cách

hành chính và những yêu cầu hoàn thiện thể chế trong điều kiện xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Trong điều kiện hiện nay, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động xét

xử, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân dân nói

chung, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói riêng cần bám sát các quan điểm của

Đảng và mục tiêu, yêu cầu cải cách tư pháp. Đó là việc đổi mới tổ chức và

hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải gắn liền với việc xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân; tiến

hành đồng bộ với cải cách hệ thống Tòa án nhân dân, các cơ quan tư pháp và

các thiết chế khác trong bộ máy nhà nước; thực hiện đồng bộ với quá trình cải

cách thể chế và đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế thị trường và hội nhập

quốc tế.

108

Trên cơ sở các quan điểm, định hướng nêu trên, một số giải pháp đổi

mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh cần thực hiện là:

- Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo cơ sở

pháp lý vững chắc cho hoạt động xét xử của Tòa án.

- Nghiên cứu khả năng trao cho Tòa án quyền giải thích pháp luật, phán

xét tính hợp pháp, hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ

quan Nhà nước ban hành.

- Nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp của đội

ngũ Thẩm phán và cán bộ của Tòa án; đổi mới cơ chế tuyển chọn Thẩm phán;

xem xét quy định kéo dài nhiệm kỳ Thẩm phán để tiến tới chế độ bổ nhiệm

Thẩm phán suốt đời; cải tiến chế độ sử dụng, đãi ngộ, bảo vệ Thẩm phán và

tăng cường chế độ giám sát, kỷ luật đối với Thẩm phán; nâng cao năng lực

của Hội thẩm nhân dân.

- Tăng cường cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện làm việc cho đội

ngũ thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án nhân dân.

109

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trước Quốc hội, nhiệm kỳ

2011-2016.

2. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TƯ ngày 02/01 của Bộ Chính

trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp thời gian tới, Hà Nội.

3. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 48/NQ-TƯ ngày 24/5 của Bộ Chính trị

về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến

năm 2010, định hướng năm 2020, Hà Nội.

4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ- TƯ ngày 02/06 của Bộ Chính

trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2010, Hà Nội.

5. Bộ Chính trị (2010), Kết luận số 79 - KL/TW, ngày 28/7/2010 của Bộ

Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm

sát và cơ quan điều tra theo Nghị quyết 49 - NQ/TW của Bộ Chính trị về

Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

6. Các Sắc lệnh và Thông tư liên quan đến hoạt động xét xử sơ thẩm từ năm

1945 đến nay.

7. GS.TS Nguyễn Đăng Dung (2004), Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp

quyền”, NXB Tư pháp, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội hội nghị lần thứ IX

BCH TƯ khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016) , Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

110

12. Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

13. Đặng Quang Phương (1995), “Vài nét về quá trình hình thành và phát

triển của Tòa án nhân dân”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (06), (07), (08).

14. Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam (2006), Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội.

15. Giáo trình Luật hành chính do Gs.Ts.Phạm Hồng Thái & GS.Ts. Đinh

Văn Mậu biên soạn.

16. Giáo trình Hành chính công (2010), Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

17. Giáo trình Luật Hành chính (2008), Nxb Công an nhân dân.

18. Hồ Chí Minh (1995, 2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

19. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Học viện Hành chính (2016), Khoa quản lý nhà nước về xã hội, Bài giảng

Những vấn đề cơ bản về kiểm soát quyền lực nhà nước, Tài liệu lưu hành

nội bộ, Hà Nội.

21. Hoàng Văn Thành (2015), Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa

xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam,

Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà

Nội.

22. Khái quát hệ thống pháp luật Hoa Kỳ (2006), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

23. Lê Thành Dương (2002), Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân

dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Viện

nghiên cứu nhà nước và pháp luật, Hà Nội.

24. Lưu Tiến Dũng (2012), Độc lập xét xử trong Nhà nước pháp quyền ở Việt

Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

111

25. Nguyễn Đăng Dung (2010), Cải cách tổ chức và hoạt động hệ thống Tòa

án Việt Nam trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, Đề tài

nghiên cứu khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

26. Nguyễn Mạnh Kháng (2008), “Chức năng tố tụng của Tòa án và vấn đề

độc lập xét xử”, bài trình bày tại Hội thảo quốc tế về độc lập xét xử do

Viện Nhà nước và Pháp luật tổ chức năm 2008.

27. Nguyễn Văn Cường (2014), Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt

động của Tòa án nhân dân theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và

Hiến pháp 2013, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

28. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp

(1945, 1959, 1980, 1992), Nxb Sự thật, Hà Nội.

29. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật Tổ

chức Tòa án nhân dân (năm 1960, 1981, 1992, 2002), Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

30. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp

năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

31. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Tổ

chức Tòa án nhân dân năm 2014, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà

Nội.

32. Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt

Nam dân chủ cộng hòa về tổ chức các Tòa án và ngạch Thẩm phán.

33. Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết công tác năm 2012, 2013,

2014, 2015, 2016 và triển khai nhiệm vụ công tác năm 2017 của Hệ thống

Tòa án nhân dân.

34. Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Báo cáo tổng kết của ngành Toà án

nhân dân tỉnh Quảng Ngãi năm 2012, 2013, 2014, 2015, 2016.

35. Tòa án nhân dân tối cao (2002, 2009), Sổ tay Thẩm phán, Nxb Lao động

112

36. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm

nhân dân, Hà Nội.

37. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva

38. V.ILê Nin toàn tập (1980), tập 27 Nxb Tiến bộ, Matsxcova.

39. Trần Huy Liệu (2003), Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư

pháp theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, Luận án Tiến

sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

40. Tô Văn Hòa (2007), Tính độc lập của Tòa án – Nghiên cứu pháp lý về các

khía cạnh lý luận, thực tiễn ở Đức, Mỹ, Pháp, Việt Nam và các kiến nghị

đối với Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.

41. . Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Hiến pháp nước

ngoài, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

42. . Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt

Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

Website:

www.toaan.gov.vn

www.quangngai.toaan.gov.vn

www.thuvienphapluat.vn

www.chinhphu.vn

113

114