ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM -----------------------------------

DƢƠNG THỊ THU HIỀN

TÔ HOÀI VỚI HAI THỂ VĂN: CHÂN DUNG VÀ TỰ TRUYỆN

LLUUẬẬNN VVĂĂNN TTHHẠẠCC SSĨĨ KKHHOO AA HHỌỌCC NNGGỮỮ VVĂĂNN

Thái Nguyên - Năm 2007

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

i

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM -----------------------------------

DƢƠNG THỊ THU HIỀN

TÔ HOÀI VỚI HAI THỂ VĂN: CHÂN DUNG VÀ TỰ TRUYỆN

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.34

LLUUẬẬNN VVĂĂNN TTHHẠẠCC SSĨĨ KKHHOO AA HHỌỌCC NNGGỮỮ VVĂĂNN NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. PHONG LÊ

Thái Nguyên - Năm 2007

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

ii

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1

2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 2

3. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3

4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 4

5. Phƣơng pháp nghiên cứu .............................................................................. 4

6. Đóng góp mới của luận văn .......................................................................... 8

7. Cấu trúc của luận văn ................................................................................... 8

NỘI DUNG ........................................................................................................ 9

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ NHÀ VĂN TÔ HOÀI .................................... 9

1.1. Nhà văn Tô Hoài ....................................................................................... 9

1.1.1 Tiểu sử và quá trình sáng tác................................................................... 9

1.1.2. Quan niệm về nghề văn và người viết văn ........................................... 13

1.2. Về hai thể văn chân dung và tự truyện của Tô Hoài ........................................ 15

1.2.1. Chân dung văn học của Tô Hoài .......................................................... 15

1.2.2. Tự truyện của Tô Hoài ......................................................................... 20

Chương 2: TÔ HOÀI VỚI CÁC CHÂN DUNG VĂN HỌC ....................... 23

2.1. Chung quanh khái niệm về chân dung văn học và chân dung văn học

của Tô Hoài ........................................................................................... 23

2.1.1. Khái niệm ............................................................................................. 23

2.1.2. Các đặc trưng cơ bản của thể chân dung văn học ................................ 24

2.1.3. Chân dung văn học của Tô Hoài .......................................................... 28

2.2. Đặc sắc trong chân dung văn học của Tô Hoài ....................................... 35

22.1. Khắc hoạ chân dung trong không khí văn học thời đại ................................ 35

2.2.2. Dựng chân dung theo dòng hồi tưởng .................................................. 49

2.2.4. Dựng chân dung nhà văn trên cái nền phong tục lạ ............................. 54

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

i

2.3. Chân dung một số nhà văn và bức chân dung tự hoạ ............................. 58

Chương 3: TÔ HOÀI VỚI TỰ TRUYỆN ................................................... 68

3.1. Chung quanh khái niệm về tự truyện ...................................................... 68

3.1.1. Khái niệm ............................................................................................. 68

3.1.2. Các đặc trưng cơ bản của tự truyện ..................................................... 72

3.1.3. Tự truyện trong hành trình văn xuôi Tô Hoài ...................................... 76

3.2. Đặc sắc trong nội dung của tự truyện của Tô Hoài ................................. 76

3.2.1. Nhãn quan sinh hoạt, thế sự ................................................................. 85

3.2.2. Tự truyện pha dấu ấn tiểu thuyết ......................................................... 93

3.3. Đặc sắc trong nghệ thuật viết tự truyện của Tô Hoài

3.3.1. Ngôn ngữ .............................................................................................. 93

3.3.2. Nghệ thuật trần thuật luôn mang một sắc thái riêng .......................... 106

KẾT LUẬN .................................................................................................... 119

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 122

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

ii

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1.1. Mười bảy tuổi Tô Hoài đã có một số sáng tác thơ đăng trên Tiểu

thuyết thứ Bảy (Tiếng reo, Đan áo...). Những bài thơ non nớt về nghệ thuật đã

giúp ông hiểu mình và ông sớm chuyển hướng. Từ giã vườn thơ ông đến với

cánh đồng văn xuôi, từ chân trời lãng mạn ông đến với chủ nghĩa hiện thực

tỉnh táo tuy vẫn mang chất trữ tình. Cảnh đời thường đã có sức thu hút, hấp

dẫn mãnh liệt đối với ngòi bút của nhà văn Tô Hoài. Với hơn sáu mươi năm

viết, ông đã để lại cho nền văn học hiện đại một khối lượng tác phẩm đồ sộ,

hiếm ai trong các nhà văn hiện đại so sánh được. Hầu như, ở độ tuổi nào ông

cũng có tác phẩm. Vương Trí Nhàn đã từng đánh giá về sức sáng tác của nhà

văn Tô Hoài: “Vừa vào nghề sớm lại vừa kéo dài tuổi nghề, một sự kéo dài

đàng hoàng chứ không phải lê lết trong tẻ nhạt - đời văn Tô Hoài gợi ra hình

ảnh một dòng sông miên man chảy mang trong mình cả cuộc sống bất tận”

[32,tr .180]...

1.2. Nói đến thành công trong sáng tác của Tô Hoài là nói đến những sáng

tác cho thiếu nhi đặc biệt là Dế mèn phiêu lưu ký, và những sáng tác về đề tài

miền núi… Nhưng thật là thiếu sót, nếu không nhắc đến hai thể chân dung và

tự truyện. Có thể đánh giá đây là mảng viết đặc sắc của Tô Hoài. Cho đến bây

giờ, người ta đều nhận ra rằng, cái làm nên giá trị trong văn chương Tô Hoài

là hai thể văn này. Với hai thể chân dung và tự truyện đã cho ta thấy một Tô

Hoài không lẫn với ai, hóm hỉnh, thông minh, và sống hết mình với nghề văn,

nghiệp văn. Và cũng chính với những thể văn này, lần đầu tiên Tô Hoài đã

đem lại cho độc giả hình ảnh một số “nhân vật lớn” của văn chương nước

nhà ở một cự ly gần, và thấy một sự thật về chân dung của các nhà văn.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu, chỉ ra những đặc sắc nổi bật, và khẳng

định những đóng góp, những sáng tạo độc đáo của Tô Hoài trong hai thể văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

1

này, là những vấn đề cần thiết và rất nên làm. Bởi nó là một phần tạo nên sức

sáng tạo bền bỉ của nhà văn Tô Hoài.

1.3. Cỏ dại (1944), qua Tự truyện (1977), Những gương mặt (1988), đến

Cát bụi chân ai (1992), và Chiều chiều (1999) là những mảng viết đặc sắc

của Tô Hoài về chân dung và tự truyện. Những tác phẩm này đã để lại cho

độc giả ấn tượng về sức viết của Tô Hoài thật mênh mông, đồ sộ, với một sức

trẻ kéo dài. Nghiên cứu hai thể văn chân dung và tự truyện của Tô Hoài là

nghiên cứu những phần đặc sắc, những phần tạo nên cái riêng trong phong

cách sáng tạo của nhà văn.

Tìm hiểu về nhà văn Tô Hoài ta thấy, lâu nay, các nhà nghiên cứu phê

bình văn học đã dành nhiều sức lực, tâm huyết cho những sáng tác có giá trị

của Tô Hoài. Nhưng những công trình coi hai thể chân dung và tự truyện là

đối tượng nghiên cứu chuyên biệt lại chưa được chú trọng. Cho đến nay, đây

vẫn là một khoảng trống. Nhận thấy điều đó, cho nên chúng tôi đã chọn hai

thể văn chân dung và tự truyện của Tô Hoài làm đối tượng nghiên cứu cho

luận văn. Dẫu không phải là điểm nóng, nhưng luận văn vẫn muốn đóng góp

thêm một tiếng nói trong việc nghiên cứu tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của nhà

văn Tô Hoài nói chung, và hai thể văn chân dung và tự truyện của Tô Hoài

nói riêng - những thể loại ghi dấu ấn thành công trong sự nghiệp sáng tác của

Tô Hoài, đồng thời dây còn là những thể văn tạo nên cái riêng trong phong

cách sáng tạo của ông.

2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi cần phải đọc, tham khảo các tài liệu có

liên quan đến hai thể văn: chân dung và tự truyện của Tô Hoài.

- Toàn bộ sáng tác về mảng đề tài chân dung và tự truyện của nhà văn Tô Hoài.

- Đọc tham khảo những tác phẩm chân dung và tự truyện của một số nhà

văn cùng thời.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

2

- Đọc những bài nghiên cứu, phê bình về những sáng tác của nhà văn Tô

Hoài, đặc biệt là những bài viết về mảng đề tài chân dung và tự truyện.

- Đọc và nghiên cứu một số tác phẩm lý luận làm cơ sở lý luận có liên

quan đến đề tài nghiên cứu.

3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Đương thời, khi xuất hiện, các tác phẩm của Tô Hoài đã được giới nghiên

cứu văn học chú ý. Tìm hiểu những công trình nghiên cứu văn chương Tô

Hoài, chúng tôi thấy các nhà nghiên cứu đã tập trung và hai hướng tiếp cận

chủ yếu: tiếp cận trên góc độ tổng quan và tiếp cận từ các tác phẩm cụ thể. Có

nhiều công trình nghiên cứu về Tô Hoài, nhưng nghiên cứu về hai thể văn

chân dung và tự truyện của ông thì lại có rất ít, chỉ có một vài ý kiến nằm rải

rác trong các công trình nghiên cứu mang tính khái quát, giới thiệu, mà chưa

thực sự đi sâu nghiên cứu chuyên biệt. Trong phạm vi luận văn, chúng tôi chỉ

điểm duyệt những ý kiến có liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu hai thể

chân dung và tự truyện của Tô Hoài.

Người đầu tiên nghiên cứu văn chương Tô Hoài là nhà nghiên cứu phê

bình Vũ Ngọc Phan. Trong cuốn Nhà văn hiện đại, quyển IV (1944), khi giới

thiệu về Tô Hoài, Vũ Ngọc Phan đã đánh giá về phong cách viết tiểu thuyết

của Tô Hoài.

Sau năm 1945, Tô Hoài đã cho ra đời nhiều tác phẩm. Số lượng công

trình nghiên cứu văn chương Tô Hoài cũng tăng không ngừng. Những nhà

phê bình có tên tuổi yêu thích văn chương Tô Hoài như : Nguyễn Đăng

Mạnh, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Phong Lê, Vân Thanh, Trần Hữu Tá,

Nguyễn Văn Long, Vương Trí Nhàn, Đoàn Trọng Huy, …

Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét khái quát về thể văn tự truyện

của Tô Hoài : "Hồi ký, tự truyện của Tô Hoài là thể văn sở trường nhất của

Tô Hoài… Ở thể văn này, nhân vật trung tâm chính là cái tôi của người viết.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

3

Cho nên sự hấp dẫn của văn phong Tô Hoài xét đến cùng là sự hấp dẫn của

cái tôi ấy" [43]. Trong lời nhận định của mình, giáo sư đã chỉ ra cho độc giả

thấy một trong những điều làm nên sức hấp dẫn của tự truyện Tô Hoài, đó

chính là " nhân vật trung tâm" - "cái tôi" của tác giả - cái tôi ấy được soi rọi,

được thể hiện một cách trung thực " một cái tôi khôn ngoan, tinh quái, thóc

mách, lọc lõi, rất mực hiểu mình, hiểu người và có đá chút khinh bạc" [43].

Giáo sư Hà Minh Đức trong Lời giới thiệu Tuyển tập Tô Hoài đã chỉ ra

những nét đặc sắc trong nghệ thuật viết tự truyện : "… Hồi ký và tự truyện

của ông kết hợp được dòng kể tự nhiên, xác thực với ý thức phân tích tỉnh táo

các hiện tượng và phần tâm sự của tác giả" [10].

Cùng với hướng phát hiện đó, giáo sư Phong Lê đã khẳng định sức lôi

cuốn, hấp dẫn của tự truyện Tô Hoài đối với độc giả : "Đọc tự truyện tôi bỗng

ngạc nhiên không hiểu sao người ta có thể viết hay đến thế về mình, để qua

mình mà hiểu người, hiểu đời, hơn thế hiểu cả một bầu khí quyển chung cho

bao thế hệ" [32].

Vân Thanh với bài Tô Hoài qua Tự truyện đã nói đến sự đổi mới về tư

tưởng, và phương pháp nghệ thuật tự truyện của Tô Hoài : "Tự truyện được

viết trên cả quá trình 30 năm, có bộ phận nói lên được sự đổi mới của tư

tưởng, phương pháp nghệ thuật của Tô Hoài. Nếu Cỏ dại là hồi tưởng về thời

thơ ấu được viết vào tuổi hai mươi, trước Cách mạng, thì đến…, Những người

thợ cửi, Đi làm, được viết vào tuổi đời năm mươi của nhà văn trong những

năm 70. Điều kỳ lạ là các mảng sống và chi tiết trước đây cũng như bây giờ,

vẫn cứ gần như tươi rói trong ký ức nhà văn" [32].

Phạm Việt Chương trong Những gương mặt - chân dung văn học Tô Hoài

đã từng nhận xét : "Chúng ta gặp lại Tô Hoài, tác giả của những tác phẩm

phiêu lưu kì thú, khi anh viết một loạt tác giả Việt Nam mà bạn đọc hằng yêu

mến. Một điều dễ nhận, Tô Hoài sống, lăn lóc cùng các bạn văn thơ của mình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

4

viết về họ bằng bút pháp tả thực. Hiện thực trần trụi đọng lại thành kỷ niệm.

Giọng văn hóm hỉnh mà không khinh bạc, anh điểm những câu kết gây cho

người đọc nụ cười cố quên đi nỗi buồn nào do anh vừa kể qua…"[32,tr .404].

Đây là những ý kiến đánh giá mang tính chất khái quát nhất và tiêu biểu

nhất về hai thể văn của Tô Hoài : chân dung và tự truyện. Ngoài ra còn rất

nhiều bài viết nghiên cứu, bàn luận xoay quanh những sáng tác chân dung và

tự truyện Tô Hoài của các nhà nghiên cứu như : Vương Trí Nhàn, Trần Hữu

Tá, Võ Xuân Quế, Trần Đình Nam…

Ở Cỏ dại, mặc dù không gây được tiếng vang như tập Tự truyện sau này,

song cũng được đánh dấu bằng ý kiến của nhà báo, nhà nghiên cứu Võ Xuân

Quế : "Mặc dù còn có một vài hạn chế nhất định về tư tưởng, song nó đã vẽ

lên được bức tranh chân thực về một vùng quê ở ngoại thành Hà Nội. Đó là

cảnh sống nghèo khó, khốn khổ cùng cực, những phong tục tập quán cổ hủ

với những tâm tình u uẩn của người thợ thủ công Nghĩa Đô… Tô Hoài đã

miêu tả thành công các mối quan hệ gia đình, bạn bè, trai gái, làng xóm ở

thôn quê" [45].

Khi nghiên cứu về sáng tác của Tô Hoài, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã

đặc biệt chú ý tới mảng hồi kí trong đó có Cỏ dại. Nguyễn Đăng Mạnh đã

khẳng định : "Nghiên cứu Tô Hoài, không thể không đọc Cỏ dại như một tài

liệu cơ bản, vì tác phẩm cho ta biết một cách cụ thể những gì đã tạo nên tâm

hồn ấy, cây bút ấy..." [42,tr .53].

Nhận định trên đã chỉ ra cho độc giả thấy vị trí, vai trò đặc biệt quan

trọng của tác phẩm Cỏ dại đối với sự hình thành tư tưởng và phong cách của

cây bút tài năng Tô Hoài.

Đến Tự truyện (1973), nhà nghiên cứu Vân Thanh đã đánh giá cao và

cho rằng: “Sau Cỏ dại, Trăng thề, Nhà nghèo… những năm 70, Tô Hoài tiếp

tục bổ sung để có Tự truyện như hôm nay. Theo tôi, nói Tô Hoài trong phần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

5

đặc sắc của anh là nói về mảng đề tài miền núi như ta đã thấy, nhưng đến hôm

nay không thể không nói đến phần ký ức tuổi thơ và tuổi thanh niên của

anh… Tôi cho là Tô Hoài đã thực sự đóng góp vào văn học ta mảng sống

buồn bã vật lộn của một thế hệ tuổi thơ - hoặc được nhìn qua cách nhìn trẻ thơ

đề nói một cái gì bản chất của cuộc đời cũ" [32, tr 399, 403].

Cát bụi chân ai (1990) là tác phẩm tiêu biểu cho thể loại chân dung văn

học của Tô Hoài. Cát bụi chân ai ra đời, gây xôn xao trong dư luận công

chúng, được bàn cãi nhiều, có khen, chê song điều cốt lõi là không ai không

thừa nhận giá trị nội dung và tài năng nghệ thuật của tác giả cuốn sách. Nó

vừa là tác phẩm có giá trị văn học vừa là cuốn tư liệu có giá trị lịch sử bởi đã

dựng lại đời sống tinh thần của một số cây bút lớn cũng như môi trường mà

nhà văn phản ánh trong đó. Nhà văn Xuân Sách từng nhận xét: "Tác phẩm

mang dấu ấn đậm nhất phong cách Tô Hoài - từ văn phong đến con người.

Thâm hậu mà dung dị, thì thầm và không đơn điệu nhàm chán, lan man tí chút

nhưng không kề cà vô vị. Một chút "u mặc" với cái giọng khơi khơi mà nói ai

muốn nghe thì nghe, không bắt buộc, nghe rồi hiểu đừng cật vấn… Và vì

thế… sức hấp dẫn chủ yếu là sự chân thực"[32,tr.414]. Còn nhà văn Trần Đức

Tiến thì cho rằng : "Bằng cuốn sách của mình, lần đầu tiên ông đã cho thế hệ

cầm bút chũng tôi nhìn một số "nhân vật lớn" của văn chương nước nhà từ

một cự li gần... Bây giờ qua Tô Hoài - chúng tôi được nhìn gần : một khoảng

cách khá "tàn nhẫn" nhưng vì thế mà chân thực và sâu sắc"[32, tr .413].

Nhà văn Nguyễn Văn Bổng nhận xét : Hồi ký Cát bụi chân ai "kể chuyện

những nhà văn, những người bạn mà tài năng văn học không ai chối bỏ được

nhưng đồng thời cũng là những con người bình thường với những tính tốt và

tật xấu như mọi người"[4].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

6

Cát bụi chân ai là tác phẩm được bàn cãi nhiều, có người khen kẻ chê,

song cốt lõi không ai không thể không thừa nhận giá tri nội dung và tài năng

nghệ thuật của Tô Hoài. Nhìn chung khi viết tác phẩm này nhà văn đã phát

huy được mặt mạnh sở trường của mình, trước hết đó là nghệ thuật dẫn

truyện. Hà Minh Đức đã nhận xét về mặt ngôn ngữ : "ngôn ngữ người kể

chuyện trong tác phẩm của Tô Hoài linh hoạt và nhiều màu vẻ. Ông chủ động

trong câu chuyện kể kết hợp kể chuyện và miêu tả tạo nên sự diễn biến uyển

chuyển và linh hoạt của mạch truyện"[10]

Những bài viết trên đã trở thành những ý kiến tham khảo rất hữu ích cho

chúng tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.

Với đề tài Tô Hoài với hai thể văn : chân dung và tự truyện, người viết

mong muốn có cái nhìn sâu sắc và toàn diện về chân dung và tự truyện - hai

thể văn đặc sắc của Tô Hoài, đồng thời có dịp hiểu rõ hơn cuộc đời cũng như

phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn Tô Hoài.

4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

Luận văn nhằm giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau:

- Chỉ ra những đặc sắc của thể văn chân dung và tự truyện của Tô Hoài.

- Khẳng định những đóng góp của Tô Hoài về mảng chân dung và tự

truyện trong quá trình phát triển của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam.

5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng tổng hợp các

phương pháp sau:

- Phương pháp khảo sát, thống kê.

- Phương pháp so sánh, đối chiếu.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp.

- Phương pháp hệ thống, và một số phương pháp khác.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

7

6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN

Nghiên cứu một cách có hệ thống về những đóng góp của hai thể văn

chân dung và tự truyện của Tô Hoài, qua đó, góp phần tìm hiểu phong cách

văn xuôi Tô Hoài và những đóng góp đặc sắc của ông cho nền văn xuôi Việt

Nam hiện đại.

7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN

Toàn bộ luận văn của chúng tôi ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu

tham khảo được trình bày trong 3 chương:

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NHÀ VĂN TÔ HOÀI

CHƢƠNG 2: TÔ HOÀI VỚI CÁC CHÂN DUNG VĂN HỌC

CHƢƠNG 3: TÔ HOÀI VỚI TỰ TRUYỆN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

8

NỘI DUNG

Chương 1

TỔNG QUAN VỀ NHÀ VĂN TÔ HOÀI

1.1. NHÀ VĂN TÔ HOÀI

1.1.1 Tiểu sử và quá trình sáng tác

Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh năm 1920 tại quê ngoại làng Nghĩa

Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông cũ - nay là phường Nghĩa Đô, quận Cầu

Giấy - Hà Nội. Ông sinh ra, lớn lên gắn bó mật thiết lâu dài với nơi đây. Là

con một gia đình nghèo làm nghề dệt lụa thủ công. Tô Hoài chỉ học hết bậc

tiểu học, sau đó phải làm nhiều nghề để kiếm sống: dạy học tư, thợ thủ công,

bán hàng, kế toán tiệm buôn…

Tô Hoài đã tự học để trở thành nhà văn. Ông là một nhà văn có nghề

nghiệp vững vàng với sức sáng tạo công phu dẻo dai, bền bỉ. Cũng giống như

Xuân Diệu, Tô Hoài nêu gương sáng về tinh thần “tay siêng làm lụng mắt hay

kiếm tìm”. Bằng sức lao động cần cù hiếm thấy, với hơn 60 năm viết trong

một đời người, cây bút này có những đóng góp đặc sắc trước và cả sau Cách

mạng tháng Tám năm 1945.

Trong thời kỳ Mặt trận dân chủ, Tô Hoài tham gia phong trào thanh niên

phản đế. Năm 1943, gia nhập nhóm Văn hóa cứu quốc đầu tiên ở Hà Nội. Sau

Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài tham gia phong trào Nam tiến rồi lên Việt

Bắc làm báo Cứu quốc. Từ năm 1951 về công tác ở Hội văn nghệ Việt Nam,

nhưng vẫn thường xuyên đi với bộ đội, tham gia chiến dịch Biên giới, theo bộ

đội chủ lực tiến vào giải phóng Tây Bắc… Sau hòa bình lặp lại, trong Đại hội

nhà văn lần thứ nhất, năm 1957, ông được bầu làm Tổng thư ký của Hội. Từ

năm 1958-1980 ông tiếp tục tham gia Ban chấp hành, rồi Phó Tổng thư ký

của Hội nhà văn Việt Nam. Từ năm 1966-1996 Chủ tịch Hội văn nghệ Hà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

9

Nội. Tô Hoài còn tham gia nhiều công tác xã hội khác, đại biểu Quốc hội, Phó

chủ tịch ủy ban đoàn kết Á - Phi, Phó chủ tịch Hội hữu nghị Việt Ấn, ủy viên

Ban chấp hành Hội nghị Việt Xô. Năm 1996 Tô Hoài được tặng giải thưởng

Hồ Chí Minh. Phần thưởng cao quý này đã khẳng định một tài năng, một sức

sáng tạo dồi dào phong phú, mang bản sắc dân tộc đậm đà, phong cách riêng

rõ nét của Tô Hoài.

Có thể thấy hiếm có nhà văn nào lại có tuổi đời và tuổi nghề gắn bó với

công việc sáng tạo nghệ thuật - một “công việc bình dị mà cao đẹp” chung

thủy như Tô Hoài. Tính đến nay, Tô Hoài đã có hơn 60 năm cầm bút với số

lượng tác phẩm gấp đôi tuổi đời. Ông là một trong số những những nhà văn

có những thành tựu và đóng góp hết sức to lớn cho sự trưởng thành và phát

triển của nền văn học Việt Nam hiện đại. Với sức viết bền bỉ và số lượng tác

phẩm đồ sộ, ta thấy hiếm ai trong các nhà văn hiện đại so sánh được.

Trước Cách mạng tháng Tám, những sáng tác của ông thể hiện một cây

bút sung sức, một sức viết mạnh mẽ, in đậm cảm quan nghệ thuật và giọng

điệu riêng, không lẫn với ai. Những sáng tác trong thời gian này cũng đóng

góp làm nên dấu ấn đặc trưng cho trào lưu văn học hiện thực Việt Nam.

Từ giã vườn thơ lãng mạn đến với cách đồng văn xuôi hiện thực, Tô Hoài

đã dành hết sức và quyết tâm đi vào con đường của chủ nghĩa hiện thực. Với

một thời gian ngắn, “ trong ngoài ba năm viết như chạy thi”[32,tr.19], Tô

Hoài đã để lại một khối lượng lớn các tác phẩm, làm nên một Tô Hoài mang

dấu ấn riêng. Đến với nghề văn thật tự nhiên. Ông được nhận xét là “một nhà

văn xuôi bẩm sinh” (Trần Đình Nam). Truyện Con dế mèn ra đời, đã có sức

chiếm lĩnh đối tượng độc giả rộng lớn, không chỉ có trẻ con mà ngay cả người

lớn cũng rất thích thú khi đọc nó. Với tuổi đời 20, sáng tạo “nhân vật” dế mèn

trong thế giới các sinh vật nhỏ bé, Tô Hoài đã sớm bộ lộ tài năng đột xuất về

nhiều mặt. Đọc Dế mèn, ta thấy, ở Tô Hoài khả năng hóa thân vào sự sống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

10

của vật và đồng thời đưa đến cho thế giới loài vật sự sống của con người. Sự

chung sống, sự hòa trộn, sự chuyển hóa của hai thế giới đã giúp cho bạn đọc

cảm giác mở rộng, nhân đôi các giới hạn sống. Tuổi đời còn rất trẻ nhưng ngòi

bút của Tô Hoài đã xiết bao linh hoạt. Quan sát kỹ lưỡng và tinh tế. Ngôn ngữ

tự nhiên mà giàu có, có sắc thái giọng điệu riêng, tất cả đều rất sắc nét.

Sau Dế mèn…, Tô Hoài tiếp tục khẳng định tài năng truyện ngắn của mình

trong miêu tả thế giới loài vật, trong tập truyện O chuột (gồm 8 truyện) (1942).

Xuất thân trong một gia đình nghèo, chất nhân văn trở thành yếu tố tự

nhiên căn bản trong văn chương Tô Hoài. Làng Nghĩa Đô - quê ngoại Tô

Hoài đã trở thành mảng đề tài lớn trong những sáng tác của ông. Những

truyện như Nhà nghèo (1942); Giăng thề (1941); Quê người (1942), Xóm

Giếng ngày xưa (1944), Cỏ dại (1944) đều miêu tả vùng quê thân yêu của

nhà văn.

Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, trước 1945, ngòi bút Tô Hoài đã

hướng tới hai mối quan tâm, hai đối tượng quan sát. Trong “mảnh vườn” hiện

thực ấy, ông đã dệt lên bức tranh muôn màu của cuộc sống chung quanh

mình, nơi một miền quê gần thành thị đã không còn mấy sự yên lành, thơ

mộng và bên cạnh đó ông còn khao khát cháy bỏng về một cuộc sống tốt đẹp

khi vẽ lên bức tranh về thế giới loài vật với những ước mơ, tưởng tượng cao

đẹp. Hai đối tượng tưởng như tách nhau, nhưng thực ra chúng lại hội vào

nhau tạo nên một bức tranh hoàn thiện về một thế giới nghệ thuật chung,

mang cảm quan nghệ thuật đặc sắc của nhà văn Tô Hoài. Chính vì vậy, khi

nói đến Tô Hoài, người ta nói đến sự thống nhất của thế giới nghệ thuật ấy.

Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài là một trong số ít cây bút không phải

trăn trở, ngập ngừng nhiều lắm trước trang giấy. Tác phẩm Vỡ tỉnh là tác

phẩm đầu tiên trong thời gian này.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

11

Mảng đề tài thu hút tâm lực Tô Hoài nhiều hơn và ông cũng đạt được

thành công lớn hơn trong giai đoạn này là cuộc sống con người miền núi. Ông

là người đầu tiên đặt viên gạch xây nền cho văn học viết về các dân tộc ít

người. Ông viết về sự chuyển mình, thay da của vùng đất này trong cách

mạng dân tộc dân chủ (Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc…) và trong những

năm xây dựng chủ nghĩa xã hội (Lên Sùng Đô, Nhật ký vùng cao, Miền

Tây…). Viết về miền núi, tác phẩm thành công nhất của Tô Hoài là Truyện

Tây Bắc. Tập truyện được nhận Giải thưởng của Hội văn nghệ Việt Nam năm

1954-1955. Truyện Tây Bắc gồm 3 tác phẩm: truyện Mường Giơn và hai

truyện ngắn Cứu đất cứu mường, Vợ chồng A phủ.

Tập truyện miêu tả cuộc đời thống khổ của những người dân miền núi

đưới ách thực dân Pháp và bọn thổ ti lang đạo. Nỗi khổ ấy tập trung vào

người phụ nữ. Nhờ có nhà văn Tô Hoài, người đọc có được kinh nghiệm

sống, biết được cảnh đau khổ của nhân dân miền núi, làm nảy sinh những cảm

xúc thương yêu đối với con người và vùng đất này.

Nếu như Truyện Tây Bắc ghi nhận bước đổi đời quyết định của đồng bào

Tây Bắc trong Cách mạng dân tộc dân chủ thì Miền Tây là một sự đóng góp

tích cực của Tô Hoài trong việc miêu tả những bước đi đầu tiên đầy gian khổ

của vùng đất này lên xã hội chủ nghĩa. Miền Tây được Giải thưởng Hội nhà

văn Á - Phi năm 1972.

Sau Miền Tây, đề tài về vùng cao vẫn còn được Tô Hoài tiếp tục viết:

Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ (1971); Họ Giàng ở Phìn Sa (1984); Nhớ Mai Châu

(1988). Rõ ràng Tô Hoài vẫn mệt mài theo đuổi nó với một kiên nhẫn không

nản mỏi…

Trở về với những miền thân thuộc qua mảng đề tài chân dung và tự

truyện, mảng đề tài Hà Nội - ngoại ô, quê ông vẫn là đề tài chủ yếu trong

những sáng tác của ông. Dẫu đi bất cứ đâu, Hà Nội vẫn cứ đi theo ông, để làm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

12

thành hành trang, làm nên một vóc dáng Tô Hoài, với hình ảnh “Người Hà

Nội - Văn Hà Nội” [32].

Từ Cỏ dại đến Tự truyện (1978) rồi Những gương mặt (1988), đến Cát

bụi chân ai (1992) và Chiều chiều (1999) là sự tiếp nối liền mạch hồi ức và sự

trở về trọn vẹn của Tô Hoài với những miền thân thuộc, quê hương yêu dấu

của ông.

Tóm lại, toàn bộ sáng tác của Tô Hoài đã có những đóng góp to lớn và

hết sức quan trọng cho sự phát triển của nền văn học hiện đại Việt Nam. Các

tác phẩm của Tô Hoài đưa đến người đọc những hiểu biết thêm về đời sống,

về ngôn ngữ và cũng chính những sáng tác của Tô Hoài mà người ta hiểu hơn

thế nào là văn chương chân chính, đích thực.

1.1.2. Quan niệm về nghề văn và ngƣời viết văn

Quan niệm về nghề văn:

Mọi hành động đều xuất phát từ một tư tưởng, mà mọi tư tưởng đều bắt

đầu từ một quan niệm. Trong Tự truyện Tô Hoài từng kể: “ Bây giờ khi tôi

quyết định lấy nghề viết nuôi thân tôi không nghĩ là tình cờ, nhưng thật tôi

cũng không có mục đích gì, đặt ra trước để rồi thành nghề văn và viết

văn”[19,tr.234-235]. Tô Hoài quan niệm viết văn là một nghề - một nghề

kiếm sống như bất cứ nghề nào. Không hão huyền, không viển vông và ảo

tưởng. Ông bước vào làng văn không ngẫu nhiên nhưng cũng không vì mục

đích nổi danh, thoả mãn sĩ diện của kẻ sĩ. Vì thế ông chọn nghề viết văn là

nghề để kiếm sống, cũng thật dễ hiểu bởi nó thật phù hợp và cũng hết sức

chân chính.

Bước vào nghề, Tô Hoài cũng sớm nhận ra hai mặt của một vấn đề. Ông

đã rất vui mừng nhận những đồng tiền nhuận bút đầu tiên song ông cũng ý

thức được rằng nghề viết văn là nghề hết sức nghiêm túc. Ông đã xác định:

“Nghề viết là nghề phải học suốt đời” và “sẽ không thể viết được gì nếu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

13

không có một trình độ tư tưởng và hiểu đời một cách sâu xa” ,và “nếu nhát sợ

nhu nhược, chủ quan, chỉ quanh quẩn gặm nhấm dăm ba suy nghĩ cũ, đã sẵn

trong đầu, không chịu tiếp xúc và nghiên cứu đời sống, không thể thành

cuộc sống, không xứng đáng cầm bút”[23]. Hơn bao giờ hết, Tô Hoài hiểu

được để cho ra đời những sản phẩm có giá trị, người cầm bút phải: “Rèn

luyện đem đến kết quả, đó là công lao của kiên trì, cố gắng, chịu mày mò,

nghe ngóng, tìm kiếm, thu thập, tích trữ mọi mặt vốn liếng, tư tưởng, văn

hoá, nhiệm vụ” [23].

Xuất phát từ quan niệm nghiêm túc, đúng đắn về nghề viết văn, Tô Hoài

đã dành được ưu thế cho mình trên lĩnh vực hoạt động văn học nghệ thuật nói

chung và với hai thể chân dung và tự truyện nói riêng.

Quan niệm về người viết văn:

Tô Hoài quan niệm người viết văn trước hết họ cũng là người - người lao

động, chỉ khác là họ là người lao động nghệ thuật mà thôi. Là người trong

cuộc nên ông hiểu được rất rõ các bạn đồng nghiệp của mình. Ở họ trước hết

cũng là người như bao nhiêu người bình thường khác. Họ cũng có đầy đủ mọi

vẻ đẹp cao quý và không ít những điều bình thường, thậm chí cũng tầm

thường nữa: “Ô hay, người ta ra người ta thì người ta phải là người ta đã

chứ”[22,tr.385]. Chính cái nhìn giản dị mà chân thực ấy đã khiến cho Tô Hoài

không hề giấu giếm về mình khi xây dựng bức chân dung tự hoạ. Ông ghi lại

cả những câu đùa mỉa mai của các bạn đồng nghiệp khi nhận xét về mình.

Không tô điểm, không cần cường điệu, mà ông cứ đem sự thật ra để kể:

“Chúng tôi cũng có đủ thói hư tật xấu của kiểu người như chúng tôi trong xã

hội, những ích kỉ ganh ghét nhỏ nhen”[17,tr.16]. Đối với Tô Hoài người viết

văn cũng giống như bất cứ người bình thường nào khác.

Tô Hoài không chỉ nhìn thấy ở họ một con người bình thường mà ông còn

thấy ở họ những tâm hồn nghệ sĩ, mỗi người một vẻ, có tài năng khác nhau. Ở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

14

Tô Hoài tài năng nghệ sĩ được ông rất coi trọng, song ông không cho rằng đó

là siêu phàm bởi vì theo ông trong bất cứ nghề nào thì cũng có những người

tài giỏi, chứ không cứ gì nghề viết.

Quan niệm về nghề viết văn và người viết văn như trên đã chi phối toàn

bộ tư tưởng nghệ thuật trong những sáng tác chân dung và tự truyện của Tô

Hoài, góp phần làm nên sức hấp dẫn ở những sáng tác của ông.

1.2 VỀ HAI THỂ VĂN CHÂN DUNG VÀ TỰ TRUYỆN CỦA TÔ HOÀI

1.2.1. Chân dung văn học của Tô Hoài

Chân dung văn học là một đề tài mới mẻ và khó. Sự xuất hiện và phát

triển của chân dung văn học được coi là một sự thật ngày càng có ý nghĩa

trong đời sống văn học nói chung và trong lịch sử phát triển của phê bình văn

học nói riêng. Nó đã thu hút cả giới nhà văn - những người sáng tác. Sự khởi

sắc của cả một nền văn học dân tộc đã cung cấp đối tượng, và những gương

mặt tiêu biểu trong làng văn, làng báo đã trở thành đối tượng chiếm lĩnh của

chân dung văn học.

Chân dung văn học là thể loại khá mới trong tiến trình văn học Việt Nam.

Vào khoảng những năm 30 của thế kỉ XX, nó mới bắt đầu xuất hiện trên diễn

đàn văn học Việt Nam. Còn trước đó, ở thế kỉ XIX, thời kì văn học trung đại

ta chưa thấy xuất hiện thể loại này. Có lẽ là do quan niệm, do lí tưởng thẩm

mĩ của mỗi tầng lớp giai cấp trong mỗi thời đại khác nhau. Lí tưởng thẩm mĩ

của giai cấp phong kiến thiên về vẻ đẹp truyền thống cổ điển, luôn lấy hình

mẫu những con người từ thế kỉ trước khi mà xung quanh những hình mẫu ấy

đã lấp lánh ánh hào quang, được tô vẽ bởi lòng người mến mộ, muốn nâng lên

thành mẫu hình lí tưởng nhằm phục vụ cho giáo lí phong kiến. Đối tượng

phản ánh của họ là những con người đương đại. Sang đến thời cận đại và đặc

biệt là thời hiện đại, lí tưởng thẩm mĩ của người sáng tác đã có sự đổi khác.

Người ta không thoả mãn với hình mẫu xa xưa, người ta muốn ca ngợi, tìm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

15

hiểu, phát hiện cái đẹp ngay trong cuộc sống đời thường. Không chỉ có nhu

cầu thẩm mĩ, người ta còn có nhu cầu giải quyết những vấn đề đầy tính mâu

thuẫn mà thời đại đặt ra, nhu cầu tự đánh giá và tự bộc lộ mình.

Phải chăng vì thế mà đối tượng phản ánh của thời hiện đại không chỉ là

những mẫu hình lí tưởng mà được mở rộng sang cả những người lao động nói

chung và nhà văn nói riêng. Nhà văn cũng là những người lao động - lao động

nghệ thuật. Ở họ cũng tạo ra những sản phẩm có giá trị như một hàng hoá đặc

biệt. Khi nói về họ, cũng có thể nói được cả những điều mang ý nghĩa cuộc

đời, mang hơi thở thời đại, biểu hiện suy tư của người viết một cách dễ dàng

hơn bao giờ hết. Chính họ đã trở thành đối tượng phản ánh của văn học.

Nhiều nhà văn trong quá trình hoạt động sáng tác văn học nghệ thuật, đã tạo

ra được những tác phẩm xuất sắc, họ vươn tới đỉnh cao nghệ thuật như Nam

Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Thế

Lữ, Nguyễn Bính, Xuân Diệu… Những nhà văn nổi tiếng này dễ thu hút độc

giả - người thưởng thức, và thu hút cả giới nhà văn - những người sáng tác.

Sự khởi sắc của cả một nền văn học dân tộc đã cung cấp đối tượng, và những

gương mặt tiêu biểu trong làng văn, làng báo đã trở thành đối tượng chiếm

lĩnh của chân dung văn học.

Đối tượng của thể chân dung văn học không chỉ là những nhà văn mà còn

là những nhà khoa học, các danh nhân văn hoá, những nhà hoạt động xã hội

nổi tiếng… Họ là những nguyên mẫu trong văn học.

Từ góc độ thể loại, lí luận văn học đã xác định chân dung văn học là một

thể loại đặc thù, thuộc về thể loại kí văn học. Đây là thể loại lấy từ nguyên

mẫu đời sống.

Trước khi cầm bút, Tô Hoài đã từng trải qua cuộc sống gian truân vất vả

của một người thợ, một tiểu thị dân lăn lóc trên đường đời. Nhưng chính từ

kho kinh nghiệm sống ấy, với năng khiếu quan sát, ghi nhớ đặc biệt sắc sảo,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

16

Tô Hoài đã trở thành nhà văn. Ông viết truyện ngắn, truyện dài, truyện người

lớn, truyện thiếu nhi, chân dung, tự truyện ...

Trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài thể loại chân dung văn học

chỉ chiếm một phần nhỏ, song không phải vì thế mà không có ý nghĩa. Ở

những sáng tác này đã hội tụ được cả tài năng nghệ thuật và phong cách đặc

biệt của Tô Hoài.

Từ những năm 1944, Tô Hoài viết Cỏ dại, đây là tác phẩm mà tác giả tự

dựng lên bức chân dung tự họa của mình. Sau đó đến những năm 50, 60 Tô

Hoài bắt đầu viết một số trang mà chúng tôi gọi là một thứ chân dung văn

học. Viết theo lối kí tuỳ bút có lẽ Tô Hoài có ý thức hơn ai hết về thể văn này

nên ông đã đặt tên cho tập sách của mình là Những gương mặt (NXB Tác

phẩm mới.1986). Trong không khí phát triển chung của thể chân dung văn

học, Tô Hoài lại có thêm Cát bụi chân ai (NXB Hội nhà văn. 1992).

Những tác phẩm này của Tô Hoài là những dòng hồi ký chân thực, tỉ mỉ,

trong đó tác giả đã dựng lại cả một đời sống văn học của một thời kỳ lịch sử

và trên cái nền của đời sống văn học ấy, người ta thấy hiện lên chân dung của

những nhà văn lớn, những cây bút lão thành đã quá cố hoặc đang sống, trong

đó có cả chính chân dung tác giả. Đó là cái nhìn của người trong cuộc với bao

diễn biến vui buồn, những băn khoăn trăn trở, những khát khao náo nức,

những gửi gắm lớn lao... Người ta thấy được những dòng tâm sự về mình. Về

những điều đã và chưa làm được, cũng như thấy cả một hồi ức về tuổi thơ

nhọc nhằn vất vả, quá trình khám phá và nhận thức về con người và xã hội...

Song đó không còn là suy tư của nhà văn nữa mà còn là suy nghĩ của cả một

lớp người viết thời đó.

Những tác phẩm chân dung của Tô Hoài đã cho thấy những kỷ niệm trong

đời tư của các nhà văn, quá trình sống và tồn tại của họ, có cả quá trình hình

thành và khao khát viết, những vui buồn trong sự nghiệp văn chương. Viết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

17

chân dung văn học với Tô Hoài là dịp để giãi bày lòng mình, giải phóng cho

một tâm sự để thể hiện rõ hơn một quan niệm sống, quan điểm nghệ thuật mà

ông không muốn trực tiếp bộc lộ dưới dạng kỷ niệm hay “phát biểu ý kiến".

Những nhà văn được dựng chân dung, họ không có cái độc đáo phi thường

của những bậc tài hoa tài tử mà dung dị giữa đời thường, lẫn với mọi người

trong xã hội. Hãy xem bức chân dung Nguyên Hồng mà Tô Hoài đã tạo dựng

trong tác phẩm của mình: “Chúng tôi đã thuộc tính Nguyên Hồng, cạnh chiếc

ba lô con cóc trên lưng, trong cái cặp đúp da bò nâu xỉn giữ gìn từ ngày trước

cách mạng vẫn được tha đi, Nguyên Hồng xếp từng chồng bản thảo, lại còn

lỉnh kỉnh những hộp tiêm, kim tiêm, nhiều thứ thuốc tiêm, thuốc uống. Ai nhờ

tiêm, Nguyên Hồng tiêm ngay. Lại còn hỏi bệnh, đoán bệnh, và bảo người ta

phải để mình tiêm. Như một thầy thuốc thực sự.... Như thế, nhà văn đi đường

lẫn vào đám đông. Cái quần nâu, tấm áo cánh mồ hôi muối ăn đã bạc cả hai

vai, chiếc mũ lá cọ, đôi dép lốp chẳng khác nào với màu sắc, dáng nét của

những người đi chợ, người nghỉ quán hàng, người trên đường”[17,tr.98]. Hình

ảnh Nguyên Hồng được Tô Hoài tạo dựng qua dòng hồi tưởng như một viên

chức bậc trung giữa đường công vụ - như một lão nông về quê sau chuyến đi

xa - một kẻ lang thang suốt đời đi tìm đất mới, đã phản ánh đúng quan niệm

về nhà văn và nghề văn ở Tô Hoài nói riêng và của xã hội hiện nay nói chung.

Quan niệm đó là: “Nhà văn cũng như nghề văn là cao quý, song nhà văn cũng

chính từ cuộc đời này mà ra”, cho nên Tô Hoài không ngần ngại mà đem họ

ra giữa cái bề bộn phức tạp của đời thường mà suy xét, mà tạo dựng nên. Ông

không nói quá cho ai, tô vẽ lý tưởng ai, nhưng cũng không vì thế mà làm mất

đi niềm yêu quý của độc giả đối với các đối tượng mà ông đã tạo dựng. Viết

chân dung văn học - với Tô Hoài - cũng là dịp để ông tự đánh giá về mình.

Không phải là dịp để người viết đề cao hay giới thiệu về mình trước độc giả.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

18

Mà đây là những trang hồi ức hết sức chân thành, biết tự đánh giá lấy mình

tránh sự tô vẽ bịa đặt, nhất là trong những hình ảnh mà tác giả là người duy

nhất tham gia chứng kiến sự việc.

Với Tô Hoài “hồi ký là một cuộc đấu tranh tư tưởng để viết” và trong

“cuộc đấu tranh tư tưởng” ấy, chắc chắn ngòi bút Tô Hoài đã từng có lúc

lưỡng lự “nên viết hay không nên viết”. Song cuối cùng ngòi bút đầy sức

thuyết phục ấy đã chinh phục bạn đọc chính bởi tính chân thực, khách quan

của những dòng hồi tưởng khi nhà văn dựng chân dung.

Đọc chân dung văn học của Tô Hoài, chắc chắn dư luận không thiếu

người khen kẻ chê, song điều mà không ai không thể không thừa nhận là nó

đầy sức hấp dẫn. Cách viết dí dỏm, giọng điệu tinh quái, ngòi bút Tô Hoài đi

sâu vào đời tư vào những chuyện “vụn vặt” của đời tư các nhà văn, những

mối quan hệ giữa người viết và môi trường được phản ánh, những câu chuyện

xoay quanh tác phẩm và dư luận của công chúng được phản ánh rất rõ trong

những tác phẩm chân dung văn học của Tô Hoài.

Rồi đây, khi mà các thế hệ nhà văn lão thành đã đang sắp kết thúc chặng

đường sáng tác của mình và rồi ai cũng vậy, dù không ai muốn đều phải “ra

đi” theo quy luật của tạo hóa, nền văn chương nước nhà sẽ lần lượt vắng bóng

những tên tuổi từng rạng rỡ một thời như Nam Cao, Nguyễn Tuân, Nguyên

Hồng, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Ngô Tất Tố… thì những tác phẩm chân

dung văn học, đặc biệt là chân dung văn học của các nhà văn lớn, sẽ là những

tư liệu quý giá, quan trọng giúp cho độc giả tiếp cận và hiểu hơn về giới nhà

văn. Hơn nữa, nó còn là những nguồn tư liệu quý giá, đáng tin cậy để người

nghiên cứu và giảng dạy có thêm kiến thức để bồi đắp cho thế hệ học sinh mai

sau. Chân dung văn học của Tô Hoài cũng vậy. Chắc chắn, cùng với tên tuổi

của tác giả, nó sẽ còn được nhiều thế hệ độc giả say mê, tìm đọc và trân trọng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

19

1.2.2. Tự truyện của Tô Hoài

Tô Hoài từng quan niệm viết “tự truyện là một cuộc đấu tranh tư tưởng,

nói đúng thì khoa học, làm sai thì tự đề cao hoặc minh oan… tôi thích trong

con người có nhiều hoạt động một lúc, không thần thánh hóa làm gì… Tôi

thích người bình thường và không tả thành người tầm thường”[11].

Tô Hoài sáng tác tự truyện, hồi ký từ rất sớm. Năm 1943, người đọc đã

thấy Tô Hoài có tập Cỏ dại - kể lại quãng đời thơ ấu của mình. Theo ông, dù

là sáng tác theo thể loại nào cũng phải “Nói được sự thật để khiến cho người

đọc cảm xúc từ đó gây suy nghĩ cho họ”[24].

Vì quan niệm viết tự truyện như là một cuộc đấu tranh tư tưởng nên Tô

Hoài coi tự truyện là một trong những thể loại trong đó rất cần đến sự sáng

tạo của người nghệ sỹ. Đó là những trang ghi chép những sự việc đời tư đã lùi

vào quá khứ, song ghi chép ở đây không phải là một bản sao sự việc hay cũng

không giống như chiếc máy ảnh chụp lại cảnh vật y như thật mà “trong khi

viết, khi chép vốn sống của cả một đời người có ảnh hưởng gián tiếp tới lời và

ý ghi, vì thế mới xuất hiện phong cách ghi chép”[23]. Viết tự truyện là nhằm

đáp ứng những yêu cầu của hiện tại bằng những câu chuyện kể lại về đời tư,

về người thật việc thật ngày hôm qua do chính người kể chuyện chứng kiến

và tham gia vào sự việc.

Một người có vốn sống từng trải, phong phú như Tô Hoài mới có khả

năng viết được thành công “từ những hiện tượng vừa vặt vãnh lại vừa tinh tế

ấy, đôi lúc tưởng ngẫu nhiên đến thế mà có sức ngồi dậy trong sáng tạo chỉ vì

nó đã được cái nền sống già dặn từng trải của anh xét duyệt rồi quyết định cho

trở ra sống lại một lần nữa”[23].

Với tự truyện hay hồi ký, Tô Hoài đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò chủ thể

của nhà văn, với ông đó không phải là những ghi chép đơn thuần, bởi vì “khi

viết theo lối ghi chép người thật việc thật, sự sáng tạo cũng không cho phép ta

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

20

giản đơn. Bao nhiêu công phu và tâm sức bấy lâu quanh những thông cảm và

hiểu biết rộng của chúng ta về những “mẫu” người thật việc thật ấy, nhưng

hiểu được việc thật ấy sẽ đem lại giá trị cao cho sức nghĩ lúc thể hiện ghi chép

của anh”[23].

Những hồi ức, những kỷ niệm của cả một đời người bao giờ cũng in đậm

trong trí nhớ và theo ta mãi mãi suốt cuộc đời. Với người viết văn lại càng

phải tạo cho mình những tình cảm, những kỷ niệm sâu sắc. Trong nghệ thuật

và phương pháp viết văn, Tô Hoài từng tâm sự: “Một việc, một người, một

nhận xét ở bất cứ quãng sống nào trong đời khi đạt tới mức thật thiết tha thì

có sức nhập vào, sức thúc đẩy (hoặc sức dằn vặt ta) cho ta những suy đi nghĩ

lại liên tiếp - nghĩa là những mầm mống của sự sáng tạo”. Những mầm mống

ấy phải được cất lên từ “hơi thở” từ mồ hôi và máu của cuộc sống.

Xuất phát từ quan niệm đó Tô Hoài đã viết tự truyện. Những tập Cỏ dại,

Tự truyện… là những dòng hồi ức chân thực, tỉ mỉ, trong đó tác giả đã dựng

lại cả một đời sống văn học của một thời kỳ lịch sử và trên cái nền của đời

sống văn học ấy, người ta thấy hiện lên chân dung tác giả với bao buồn vui,

những băn khoăn trăn trở, những khao khát náo nức, những gửi găm lớn lao…

Người ta thấy những dòng tâm sự của tác giả về những điều đã và chưa làm

được, cũng như thấy cả một hồi ức về tuổi thơ nhọc nhằn vất vả, và quá trình

khám phá và nhận thức về con người và xã hội… Song đó không còn là suy

tư của nhà văn nữa mà còn là suy nghĩ của cả một lớp người viết thời đó. Tự

truyện của Tô Hoài cho ta thấy được những kinh nghiệm trong đời tư của nhà

văn, quá trình sống và tồn tại của nhà văn, có cả quá trình từ nhỏ cho đến lúc

trưởng thành với những khao khát, với những buồn vui trong cuộc sống lúc

bấy giờ.

Viết Cỏ dại (1943) Tô Hoài đã viết về quãng đời thơ ấu nhọc nhằn cay

đắng của mình. Trong tác phẩm ông gửi gắm những cảm xúc về một thời đen

tối. Ngay từ khi ra đời, nó đã được dư luận chú ý.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

21

Sau Cỏ dại là tập Tự truyện viết xong năm 1973, in năm 1976, tái bản lần

thứ hai năm 1984 kể về cuộc sống của người thợ thủ công vùng ngoại ô Hà

Nội, kể về những gian truân, vất vả trên con đường đi tìm “miếng cơm manh

áo”, đi tìm lý tưởng, lẽ sống của người thanh niên trong xã hội cũ. Với giọng

điệu trầm buồn, tác giả kể chuyện mình, chuyện gia đình, làng quê và xa hơn

nữa đó chính là hình ảnh cuộc sống ngột ngạt bế tắc trong những năm trước

Cách mạng ở vùng quê của tác giả. Tô Hoài viết Cỏ dại khi ông mới hai mươi

tuổi. Chàng trai trẻ ấy cũng chỉ như bao người bình thường khác, thậm chí

cuộc sống của anh còn cơ cực, thất nghiệp triền miên, phiêu bạt nhiều nơi,

làm đủ mọi để kiếm sống như sau này nhà văn kể lại trong tác phẩm Tự

truyện của mình. Sau nay, Cỏ dại đã được gom chung vào chùm Tự truyện

làm nên vóc dáng con người của nhà văn. Nhà văn tạo được sức hấp dẫn trong

tự truyện là ở những chuyện “vụn vặt, nhem nhọ”. Với việc khai thác cuộc

sống thực - “cái mạch sống của cuộc đời tạp nham”, Tự truyện đã đem đến

cho người đọc hiểu rõ hơn về thời thơ ấu và trưởng thành của Tô Hoài. Hơn

nữa còn hiểu hơn cả một thời đại mà nhà văn đã sống. Nhà văn viết Tự truyện

nhưng không hề che giấu cái nghèo, túng quẫn của cuộc sống quẩn quanh, tù

túng của những người dân làng Nghĩa Đô, và cái nghèo khổ của cả xã hội lúc

bấy giờ. Toàn những chuyện nhỏ nhặt, vặt vãnh đều được hiện lên trong tác

phẩm của nhà văn. Những chuyện đời thường nhưng lại có sức thu hút, hấp

dẫn độc giả, bởi những chuyện nhà văn viết trong Tự truyện chính là chuyện

của họ, viết về họ, viết về những con người bình thường trong cuộc sống. Nhờ

Tô Hoài mà độc giả có cái nhìn rõ hơn về đời sống - những điều tưởng như

hàng ngày ta va chạm nhưng lại chẳng để lại ấn tượng gì, thì khi đọc chùm Tự

truyện của Tô Hoài ta lại thấy cuộc sống quanh ta tuy “vụn vặt, nhọ nhem”

nhưng cũng hết sức thú vị.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

22

Chương 2

TÔ HOÀI VỚI CÁC CHÂN DUNG VĂN HỌC

2.1. CHUNG QUANH KHÁI NIỆM VỀ CHÂN DUNG VĂN HỌC VÀ CHÂN

DUNG VĂN HỌC CỦA TÔ HOÀI

2.1.1. Khái niệm

Chân dung văn học là “thể loại văn học đặc thù có nhiệm vụ tương tự như

thể loại chân dung trong hội họa và điêu khắc, miêu tả diện mạo của một con

người cụ thể, có thật, sao cho truyền được thần thái sống động của người đó,

phát hiện đặc điểm riêng cá nhân, độc đáo, không lặp lại của một nhân cách

với thế giới tinh thần của nó.

Khác với hồi tưởng, ghi chép về một con người cụ thể, với tư cách là một

thể loại văn học, chân dung văn học miêu tả con người cụ thể với một quan

niệm xác định về nhân cách.

Phương pháp của chân dung văn học là phương pháp của thể kí. Nó không

thiên về cốt truyện.

Nhà văn phát huy sở trường về quan sát, chọn lựa chi tiết, cử chỉ ngôn

luận, kể cả tác phẩm, tư thế hồi tưởng để dựng lại bộ mặt tinh thần của con

người sao cho truyền được thần thái sống động của con người, thường là nhà

văn, nghệ sĩ hoặc các nhà hoạt động nổi tiếng”[15].

Khi dựng chân dung văn học, tài năng của người sáng tạo là cực kì quan

trọng. Không có năng lực quan sát, không có kinh nghiệm sống với vốn hiểu

biết phong phú, không có những tình cảm, xúc cảm chân chính, mạnh mẽ và

cao đẹp thì không thể tạo dựng được thể chân dung văn học. Khi đã không

sống sâu sắc với chính mình thì làm sao hiểu được sâu sắc đời sống tinh thần

của đồng nghiệp, một đối tượng miêu tả hết sức phong phú và phức tạp về

tinh thần, tình cảm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

23

Đọc các tác phẩm thuộc thể loại chân dung, có lúc ta tưởng đó là tác phẩm

thiên về phê bình sáng tác, có tác phẩm lại như cuốn tiểu sử nhân vật. Có khi

ta lại được đọc những dòng kỉ niệm đầy ấn tượng bởi những cuộc gặp gỡ

được hồi tưởng lại. Dù ở bất kì dạng nào, chúng ta cũng cảm nhận được sự

cung cấp về tư liệu thật đáng quý. Nhưng ở những nhà văn có tài năng, thì giá

trị của tác phẩm không dừng lại ở việc cung cấp tư liệu. Không thoả mãn với

điều đó, các nhà văn như Nguyễn Tuân, Tô Hoài, … trên cơ sở tư liệu sống đã

xây dựng được những hình tượng chân dung nghệ thuật giàu chất thẩm mĩ,

đạt được phẩm chất nghệ thuật cao và gây ấn tượng sâu sắc đối với độc giả.

Với tác phẩm chân dung văn học hình tượng nghệ thuật luôn được soi sáng

bởi một cái nhìn chủ quan của tác giả. Có lúc tác giả còn bộc lộ quan điểm,

tình cảm của mình.

Nếu đem so sánh giữa chân dung văn học do các nhà phê bình viết với

chân dung văn học do các nhà văn viết thì ta thấy có sự khác nhau. Đọc

những chân dung do các nhà phê bình viết, ta thấy họ thường có xu hướng

thiên về phê bình và đánh giá, nhưng đối với những nhà văn viết, khi dựng

chân dung, họ thường xem đây như là một hoạt động sáng tác.

2.1.2. Các đặc trƣng cơ bản của thể chân dung văn học

Chân dung văn học là một thể văn sáng tác thuộc loại kí văn học

Tô Hoài từng nói “ Chân dung văn học là việc dựng lại những bóng dáng

thần thái văn nhân, những câu nói cái cười, bước đi dáng đứng của họ mà

mình từng thấy từng biết”[23].

Nguyễn Đăng Mạnh định nghĩa về chân dung văn học có viết: chân dung

văn học “đúng ra, là sáng tác”. Đấy là “một thứ hồi kí, dựng lên nhân vật

sống động hẳn hoi, xuất phát từ người thật việc thật”[51].

Theo Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn

Khắc Phi đồng chủ biên có viết: “ Phương pháp của chân dung văn học là

phương pháp của thể kí. Nó không thiên về cốt truyện”[15].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

24

Những cách đánh giá trên cho thấy:

Chân dung văn học là một sáng tạo nghệ thuật. Nó là một loại kí (viết về

“người thật việc thật” hay về những điều “mình từng thấy từng biết”). Chân

dung văn học rất cần đến hư cấu tưởng tượng. Hư cấu, tưởng tượng trong

chân dung văn học dù mạnh mẽ, phóng khoáng đến đâu, cũng phải dựa trên

sự thật, tuyệt nhiên không được phép dựng chân dung văn học về một nhà văn

nào đó mà “hư cấu” và “tưởng tượng” ra những chi tiết không có thật trong

tiểu sử của nhà văn đó.

Chân dung văn học phải là một sáng tạo nghệ thuật thực sự, phải khêu

gợi trí tưởng tượng thật sự, nhưng phải sáng tạo trên cơ sở có thực, những chi

tiết có thực (trong văn, trong đời). Những kí ức, kỉ niệm, và ấn tượng bao giờ

cũng chắp cánh cho những sáng tạo khơi nguồn. Nói như Ilia Eren bua: “Kí

ức như ngọn đèn pha ô tô đang đi trong đêm, khi thì nó cho thấy một gốc cây,

khi thì một trạm gác, khi một con người. Nhằm trình bày một cách mạch lạc

và chi tiết về cuộc đời mình, người ta (đặc biệt là các nhà văn) thường lấp

đầy các khoảng trống bằng những dự đoán; thật khó phân biệt đâu là chỗ hồi

ức thực thụ kết thúc, đâu là chỗ tiểu thuyết bắt đầu”[54].

Trong khuôn khổ và giới hạn của thể kí, sự sáng tạo của các tác giả chân

dung văn học thể hiện chủ yếu ở chỗ nắm bắt và chọn lựa chi tiết có ý nghĩa

tiêu biểu và xuất thần của đối tượng. Sự sáng tạo ở đây rất gần với sự sáng tạo

của nhiếp ảnh hay hội họa trong việc dựng chân dung.

Nói tóm lại, cũng giống như bất kì tác phẩm thuộc loại văn sáng tác nào,

chân dung văn học được coi là thành công phải là những tác phẩm xây dựng

được những hình tượng chân xác và sống động như thể loại kí, vừa tô đậm

được một cách sắc sảo các nét cá tính của nhà văn được dựng chân dung, lại

vừa hàm chứa những nét chung của giới văn nhân nghệ sĩ. Nhờ thể chân dung

văn học mà các nhà văn có dịp hiểu biết nhau kĩ càng hơn, những người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

25

nghiên cứu và giảng dạy có một nguồn tư liệu tin cậy để làm tốt hơn cho quá

trình nghiên cứu.

Chân dung văn học là một thể văn bộc lộ đậm nét tính chất chủ quan

của người viết:

Nhà văn Liên Xô A.Pha-đê-ép, đã từng nói: “… Người viết văn phải thấy

được sáng tác là một hình thái lao động, dù hình thái đó có phần đặc biệt,

nhưng người viết văn chính là một hình thái lao động”. Sáng tác văn học nói

chung là một hoạt động cá nhân, cá thể. Người ta nói văn học là hình ảnh chủ

quan của thế giới khách quan. Và là một hình thái của hoạt động tư tưởng. Tư

tưởng là hoạt động của hình thái sáng tác của nhà văn. Tuy nhiên mỗi thể văn,

tính chủ quan lại có những tỷ lệ cao thấp khác nhau. Ở chân dung văn học vì

là thể bút kí văn học cho nên tính chủ quan bộc lộ đặc biệt đậm nét.

Theo Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn

Khắc Phi “Nhà văn phát huy sở trường quan sát, lựa chọn chi tiết, cử chỉ,

ngôn luận, kể cả tác phẩm, tư thế, hồi tưởng để dựng lại bộ mặt tinh thần của

một con người, thường là nhà văn, nghệ sĩ các nhà hoạt động xã hội nổi

tiếng”. Chính vì vậy, mà những nhà văn viết chân dung văn học thường quan

tâm đến những cây bút có tài năng và có cá tính, tức là quan tâm tới những

nhà văn nổi tiếng - không mấy ai lại viết chân dung của những nhà văn thiếu

cá tính và ít tài năng. Độc giả thường quan tâm tới những chân dung văn học

nổi tiếng, có cá tính, có tài năng mà họ hâm mộ. Nhưng viết về chân dung thì

bản thân người viết phải là những người có cá tính, có phong cách. Nếu

không có, thì không viết được những chân dung đặc sắc. Điều ấy khiến cho

tác phẩm chân dung văn học mang tính chủ quan.

Hơn nữa, người ta thường chỉ viết, thường chỉ có cảm hứng viết về

những cây bút mà mình ưa thích, hâm mộ và có quan hệ thân cận đặc biệt.

Điều ấy khiến cho trong các bức chân dung văn học, cái tôi của người cầm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

26

bút bao giờ cũng bộc lộ đậm nét. Cái tôi của người cầm bút bao giờ cũng bộc

lộ tính chủ quan của hoạt động sáng tạo.

Đọc những chân dung văn học xuất sắc nhất, ta còn thấy rất rõ tình cảm

nồng nhiệt của người viết đối với đối tượng của mình. Tính chủ quan của

chân dung văn học còn thể hiện rõ hơn nữa ở cách khai thác và sự phát hiện

riêng về đối tượng. Thực ra, những tác phẩm văn học đích thực, được nhiều

người thích đọc bao giờ cũng thấm đẫm tính chủ quan của người viết. Chân

dung văn học cũng vậy, ở một mức độ nào đấy, chất chủ quan càng đậm đà

được biểu hiện một cách khéo léo, thì giá trị văn chương của tác phẩm càng

cao, càng lôi cuốn người đọc. Qua chân dung văn học chẳng những biểu hiện

được cá tính, phong cách nhà văn - đối tượng dựng chân dung văn học mà còn

biểu hiện cả cá tính, phong cách nhà văn - tác giả chân dung văn học. Cái độc

đáo của thể loại chân dung văn học là ở đó.

Chân dung văn học là một dạng đặc biệt của hoạt động phê bình

văn học:

M.Gorki từng nói: “Ngôn ngữ là cái áo của mọi tư tưởng”. Đọc các tác

phẩm thuộc thể loại chân dung, có lúc ta cảm tưởng đó là một tác phẩm thiên

về phê bình chân dung, có tác phẩm lại như cuốn tiểu sử nhân vật. Có khi ta

lại được đọc những dòng kỉ niệm đầy ấn tượng bởi những cuộc gặp gỡ được

hồi tưởng lại. Dù ở bất kì dạng nào, chúng ta cũng cảm nhận được sự cung

cấp về mặt tư liệu thật đáng quý. Nhưng ở những nhà văn có tài năng, thì giá

trị của tác phẩm không dừng lại ở việc cung cấp tư liệu. Sự hấp dẫn thật sự

của chân dung văn học không phải là chỉ ở chỗ dựng chân dung sống động

của nhà văn. Nó còn giúp bạn đọc từ con người mà hiểu được văn, nói như

Nguyễn Đăng Mạnh hiểu được “Cái gốc gác, cốt lõi của nó, hay có thể gọi là

cái “thần” của văn”[37]. Hơn nữa, giúp bạn đọc hiểu được tư tưởng của nhà

văn ấy.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

27

Các nhà văn viết chân dung thường dựa vào hai cách tiếp cận để dựng

chân dung. Thứ nhất là dựa vào văn mà dựng hình tượng tác giả. Thứ hai là

chủ yếu dựa vào những chi tiết về đời sống của nhà văn được dựng chân

dung, và qua hình tượng ấy, người đọc hiểu được cái phần cốt lõi của tác

phẩm văn chương của nhà văn ấy. Thông thường người dựng chân dung phải

có khả năng thẩm văn và tổng hợp được từ văn cái thần thái chung của nghệ

thuật, hiểu được cả tư tưởng phong cách mà nhà văn - người được tác giả

dựng chân dung. Như vậy có thể nói, thể loại chân dung văn học là một dạng

đặc biệt của phê bình văn học.

2.1.3. Chân dung văn học của Tô Hoài

Những chân dung thấp thoáng trong hồi kí, tự truyện và tiểu thuyết

Mặc dù số lượng sáng tác không nhiều so với tổng số trên 160 đầu sách,

song Tô Hoài đã cắm những ngọn cờ ở những chặng đường sáng tác trên một

con đường khám phá đầy khó khăn và mới mẻ này. Tô Hoài đã từng nghĩ:

“Mỗi nhà văn bước vào nghề một cách thì mỗi nhà văn ấy cũng có một lối đi

riêng của mình”. Tô Hoài đã mạnh dạn tìm lối đi riêng cho mình ở một thể

loại mà văn học Việt Nam không chỉ chưa có nhiều thành tựu mà còn rất mới

mẻ, đó là thể loại chân dung. Chính ông từng khẳng định: “Sẽ không thể viết

được nếu không có trình độ tư tưởng và hiểu đời một cách sâu xa, nếu không

theo nhịp điệu cuộc sống một cách có ý thức và thiết tha, nếu không phát hiện

được những cái mới cho cuộc sống”[23]. Bắt nhịp với cuộc sống hiện thực

lớn lao, Tô Hoài còn “ý thức và thiết tha” tới số phận của những người lao

động nghệ thuật ở nước ta. Song chân dung văn học mà tác giả tạo dựng đầu

tiên không phải ai khác mà chính là mình. Tự truyện đã thể hiện sự tích luỹ và

chuẩn bị về tư liệu cho thể loại kí với sự thể nghiệm ban đầu ở thể loại chân

dung. Khi kể lại câu chuyện đời mình, ông cũng nhắc tới những bạn văn,

những người cùng hoạt động trong nhóm Văn hoá cứu quốc. Những tên tuổi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

28

mà ta đã gặp ở Tự truyện tuy mờ nhạt nhưng sẽ được trở lại trong những bức

chân dung sau này như: Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng,

Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân v.v…

Để rồi đến với Cát bụi chân ai Tô Hoài cũng tạo dựng được một phong

cách riêng khá độc đáo. Trong bài viết của mình tác giả Trần Đình Nam có so

sánh “Văn Nguyễn Tuân cầu kì trang nhã, sang trọng, là một thứ cao lương

mĩ vị, có lẽ không phải viết cho số đông rất khó đọc. Tô Hoài lại tự nhiên,

nhiều đoạn văn rất gần với khẩu ngữ mà vẫn là văn viết”[44,tr .13]. Với một

phong cách đặc biệt, với một vốn sống phong phú, Tô Hoài đã cho ra mắt

một tác phẩm thật sự xuất sắc, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong toàn bộ

văn nghiệp của Tô Hoài. Quả là Cát bụi chân ai có lối hành văn thật tự nhiên,

biến hoá, phức tạp một cách thú vị. Phải là một nhà văn bậc thầy mới viết

được những trang đẹp đẽ dường ấy! Ở độ tuổi 72, độ chín cả về phong cách

lẫn cái nhìn và tư tưởng nghệ thuật, lại cộng thêm một vốn sống phong phú,

thực sự Tô Hoài là một nhân chứng lịch sử hiếm hoi và vô cùng đáng quý.

Những nhà văn có tên tuổi nhất trong làng văn Việt Nam hiện đại đều xuất

hiện trong Cát bụi chân ai như: Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Xuân Diệu,

Nguyễn Bính, Nguyễn Huy Tưởng… Rồi rất nhiều những tên tuổi và gương

mặt khá quen thuộc khác hiện lên trong tác phẩm như: Vũ Hoàng Chương, Tú

Mỡ, Phan Khôi, Phùng Cung, Nguyễn Sáng, Ngô Tất Tố, Văn Cao, Trần Dần,

Lê Đạt v.v… Họ là những người có tên tuổi và có vị thế quan trọng trên văn

đàn dân tộc, lại là những con người mà cuộc đời và số phận cũng như tâm hồn

rất phong phú, đa dạng và đầy éo le xen lẫn vị cay đắng… Tác phẩm Cát bụi

chân ai thực sự gây được sự chú ý của độc giả sau một thời lắng đọng khi mà

“Mấy năm cái tên Tô Hoài không còn hấp dẫn trên thị trường chủ nghĩa như

trước đây”[4]. Với sự ra đời của Cát bụi chân ai, Tô Hoài đã trở lại vị trí một

nhà văn xuất sắc, mang trong mình dòng máu “văn xuôi bẩm sinh” và đáng là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

29

“nhân chứng của những biến cố lớn nhất của đất nước ta” trong hơn nửa thế

kỉ năm qua.

Với chân dung văn học, Tô Hoài đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò chủ thể

của nhà văn. Với ông sáng tác chân dung văn học không phải là những ghi

chép đơn thuần, bởi vì “khi viết theo lối ghi chép người thật việc thật, sự sáng

tạo cũng không cho phép ta đơn giản. Bao nhiêu công phu và tâm sức bấy lâu

quanh những thông cảm và sự hiểu biết rộng của chúng ta về những “mẫu

người thật ấy, những kiểu việc thật ấy” sẽ đem lại giá trị cao cho sức nghĩ lúc

thể hiện ghi chép của anh”[23].

Xuất phát từ quan niệm đó, Tô Hoài viết những tác phẩm chân dung văn

học. Chân dung văn học nằm trong hồi kí, tự truyện của Tô Hoài. Từ Cỏ dại,

Tự truyện đến Những gương mặt, rồi Cát bụi chân ai, và Chiều chiều đều là

những dòng chân dung văn học chân thực, tỉ mỉ, trong đó tác giả đã dựng lại

cả một đời sống văn học của một thời kì lịch sử. Hình tượng giới cầm bút

trong các trang hồi kí của ông có thể khác xa với những gì người đời tưởng

tượng, song không phải vì thế mà mất đi lòng yêu quý trân trọng của bạn đọc.

Họ không có cái độc đáo phi thường của những bậc tài hoa tài tử mà dung dị

giữa đời thường lẫn với mọi người trong xã hội.

Đọc tiểu thuyết của Tô Hoài, ta cũng thấy thấp thoáng những bức chân

dung văn học. Với đề tài Hà Nội, Hà Nội luôn gắn với ông, ở cạnh ông, dẫu đi

bất cứ nơi đâu, Hà Nội vẫn luôn trong kí ức của ông, làm thành hành trang

trong tâm hồn ông. Từ Quê nhà, Người ven thành, Chuyện cũ Hà Nội, và Cái

áo tế… tất cả những tác phẩm ấy dường đều nhằm dựng lên bức chân dung

người Hà Nội.

Ở tuổi 86, nhà văn Tô Hoài lại cho ra mắt bạn đọc cuốn tiểu thuyết Ba

người khác, không quá bất ngờ, nhưng vẫn là một sự ngỡ ngàng đối với khá

đông bạn đọc. Mỗi tác phẩm của ông bao giờ cũng có một giá trị nhất định, dù

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

30

ít hay nhiều. Nổi bật là giá trị tư liệu. Hiếm người nào có được những thông

tin chính xác và tinh tế như ông. Trong cuốn tiểu thuyết này, vượt trên những

điều đó rất nhiều là chân dung sinh động, chân thực và cuốn hút về một thời

kì không thể nào quên trong lịch sử hiện đại Việt Nam. Ông viết với tâm thế

người vừa trong cuộc, vừa có độ lùi để quan sát, chiêm nghiệm. Với cách viết

miêu tả chi tiết, ta thấy Tô Hoài vẫn trung thành với phong cách xưa, không

khác mấy so với những gì ông đã thể hiện trong Cát bụi chân ai, và nhất là

Chiều chiều. Với sự đam mê nghề nghiệp lại kết hợp với tài năng thiên phú,

Tô Hoài đã tạo được cho mình một phong cách độc đáo riêng, không lẫn với

ai, làm nên một nhà văn Tô Hoài với tên tuổi lừng lẫy trên văn đàn Việt Nam

hiện đại.

Chân dung nhà văn trong trong “Những gương mặt”

Trong cuốn Sổ tay văn học, Tô Hoài đã tự khẳng định “nghề viết là nghề

phải học suốt đời”, và ông từng quan niệm: “Có thể, sự sáng tạo ở lĩnh vực

nào cũng đòi hòi một rèn luyện ấy. Nhưng tôi nghĩ một cách chủ quan: nghề

viết đòi hỏi khắt khe hơn - Rèn luyện đem đến kết quả, đó là công lao của kiên

trì, cố gắng, chịu mày mò, nghe ngóng, tìm kiếm, thu thập, tích trữ mọi mặt

vốn liếng tư tưởng, văn hoá, nghiệp vụ”[23].

Nhìn lại quá trình sáng tác thể loại chân dung văn học của Tô Hoài, ta

thấy mỗi bước đi là một bước phát triển, không chỉ dày thêm về số lượng mà

còn mĩ mãn hơn về chất lượng nghệ thuật. Ta có thể gặp lại nhiều lần, nhiều

nhân vật ở những tác phẩm khác nhau, song không có sự trùng lặp nhàm chán

mà gần như là bổ sung, hoàn thiện, rõ nét bức chân dung hơn nữa mà thôi.

Trên một bề diện rộng, ông viết về các nhà văn nhà thơ, nhà viết kịch và cả

những người hoạt động xã hội… Họ còn hay mất, là nam hay nữ, thế hệ đàn

anh hay lớp trẻ sau này, Tô Hoài hầu như không lựa chọn đối tượng. Họ đã đi

vào tác phẩm của ông một cách tự nhiên, theo những cách thức riêng muôn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

31

màu muôn vẻ. Có người được “chụp” riêng một bức chân dung, cũng có

người hiện lên thấp thoáng suốt toàn bộ tác phẩm với những độ đậm nhạt

khác nhau.

Trước hết, các nhà văn được hiện lên thông qua những bức chân dung

độc lập. Chân dung Nguyễn Tuân trong phóng sự Ngược sông Thao (1949)

được phác thảo nhờ sự quan sát ghi chép trong những chuyến cùng nhau đi

thực tế đời sống. Tiếp đó, chân dung Nam Cao hiện lên với những nét vẽ đặc

sắc qua bài Người và tác phẩm Nam Cao in trên báo Văn nghệ số 19 năm

1956, sau khi Nam Cao hy sinh. Đây là bức chân dung đầu tiên theo đúng

nghĩa chân dung văn học của nhà văn Tô Hoài. Bài viết đó đã được tuyển

chọn vào một công trình nghiên cứu nổi tiếng về nhà văn Nam Cao với tiêu

đề Nghĩ tiếp về Nam Cao (Nhà xuất bản Hội nhà văn năm 1992). Chân dung

Nguyễn Công Hoan được ra mắt năm 1963 với tiêu đề Người bạn đọc ấy. Tô

Hoài đã chào đón sinh nhật làn thứ 60 của nhà văn Nguyên Công Hoan bằng

một món quà đặc biệt cảm động. Tác phẩm đã được Nguyễn Công Hoan lưu

giữ rồi cho in vào hồi kí Đời viết văn của tôi, nó còn khơi nguồn cho một

dòng chảy cảm hứng để rồi Nguyễn Công Hoan sáng tác thành một tiểu

thuyết dưới nhan đề Con trai người bạn đọc ấy[17].

Sau đó, chúng ta sẽ gặp 10 gương mặt văn nghệ tiêu biểu của nền văn

học Việt Nam hiện đại trong cuốn Những gương mặt in lần đầu năm 1988 dày

161 trang, gồm những gương mặt tiêu biểu như, Nam Cao, Trần Đăng,

Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Như Phong, Trúc

Đường, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân và Vũ Ngọc Phan. Lần in thứ hai nhà

văn còn sửa chữa, và bổ sung thêm tư liệu, đồng thời cho ra mắt thêm những

gương mặt mới như Nông Quốc Chấn, Vũ Bằng, Vân Đài.

Tô Hoài tập trung vào kể chuyện chân dung các nhà văn, nhằm dựng lên

một bức tranh đời sống văn học. Ông kể rất thật về những gì mình biết, đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

32

trải. Khi kể chuyện Nam Cao viết tác phẩm Một đời người, sau khi ngủ đêm

tại một nhà xăm* Đông phương gần Bến Củi. Hay khi kể chuyện Trần Khánh,

người hay hát mà chưa học hát bao giờ, lại lận đận “vì lí lịch”… Lạ hơn nữa,

khi Tô Hoài kể chuyện Nguyễn Sáng mê ăn kem hiệu Tiến Đạt phố Yết Kiêu,

phải lòng mấy cô bán kem. Cả chuyện Nguyên Hồng, với món nem đặc biệt

(làm từ rau bà đẻ) sốt sắng đãi Tô Hoài, bởi cái “thằng xơi được cả bọ hung

thì nó còn từ bỏ cái gì”. Hay cả chuyện Nguyễn Tuân với cái “tài bút” trong

thư gửi Tô Hoài nói chuyện ong đốt mà làm bận rộn cho những người làm

công việc “theo dõi”… Nhờ Tô Hoài, độc giả biết đến bao nhiêu giai thoại về

các nhà văn - những nhân vật “nổi tiếng” được người đời quan tâm.

Qua những sáng tác trong mảng chân dung văn học, ta không chỉ thấy

được những chân dung của những nhà văn, nhà thơ cùng thời, mà ta còn thấy

được bức chân dung của chính tác giả Tô Hoài. Hình tượng tác giả được phác

thảo với những nét cơ bản sau như là một nhân chứng đáng tin cậy. Điểm

đáng tin cậy đầu tiên là vì tác giả là người cùng thời. Không chỉ cùng thời mà

còn là cùng trong làng văn, làng báo, cũng đã từng nếm trải bao vinh nhục,

thăng trầm của một giai đoạn lịch sử đất nước nói chung và lịch sử văn học

Việt Nam nói riêng có nhiều biến động và không ngừng đổi thay. Là người

trong cuộc, ông am hiểu tường tận từng ngõ ngách của chuyện làng văn. Hơn

nữa ông còn là nhân chứng đáng tin cậy, một nhân cách nhà văn, nhân cách

người nghệ sỹ chân chính trong ông.

Đến với nghề văn hết sức tình cờ, coi đó là một nghề kiếm sống “cũng

không có mục đích gì đặt ra trước để rồi thành nghề văn và viết văn”. Từ một

người lao động làm thuê, Tô Hoài thực sự mang trong mình một dòng máu

của người lao động, làm việc hết mình dù là ở nghề nào. Ông đã sớm ý thức

được nghề nghiệp và đưa ra lí tưởng đứng đắn đối với nghề viết văn. Với

những suy nghĩ nghiêm túc và đúng đắn như vậy, Tô Hoài đã dày công sưu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

33

tầm và nghiên cứu tài liệu, dày công học hỏi. Những cuốn tư liệu quí giá này

là cả một quá trình tích luỹ của ông.

Với những sáng tác chân dung văn học, ta thấy Tô Hoài đã thực sự được

giải phóng, thoát khỏi những ảnh hưởng và hạn chế của cái nhìn sử thi - lí

tưởng hoá hiện thực. Ông đã từng băn khoăn day dứt “Viết văn là một nghề

mà học trò phải khác thầy, phải tới được cái chưa học đến, bao giờ tôi viết

được cái gì trên ông thầy cuộc đời” [23]. Cái trăn trở day dứt khi nhận ra nền

văn học trẻ của nước nhà - còn nhiều thiếu sót đã thôi thúc ông phải tìm ra

một phương thức mới, con đường mới để tránh sáo mòn, phải chăng đó là một

trong những lí do để ông vươn lên giải phóng mình.

Lần theo bước chân của Tô Hoài, ta sẽ thấy dấu chân ông in khắp mọi

nơi, mọi miền đất nước kể cả những miền xa xôi, miền Tây bắc của Tổ quốc.

Rồi cả những chuyến đi đến các nước bè bạn năm châu bốn bể. Trên mỗi

bước đường đi trong cuộc đời, Tô Hoài luôn luôn tìm cơ hội để thâm nhập

thực tế, để học hỏi làm giàu kho tàng tư liệu của mình. Phải chăng vì thế mà

Tô Hoài đã chọn cho mình bút pháp mới trong việc dựng chân dung văn học.

Trong những trang viết của ông, ta thấy được tấm lòng ông thổn thức cùng

cảnh đời cơ cực, những số phận oan nghiệt đắng cay.

Đối với Tô Hoài, có trái tim thương yêu chưa đủ, người nghệ sĩ cần phải

có một lí trí sáng suốt. Ở Tô Hoài ta thấy có một cái nhìn rành mạch, trắng

đen không lẫn lộn, thái độ và quan điểm rõ ràng. Ai cũng thừa nhận, Tô

Hoài không chỉ có một vốn sống dồi dào mà ở ông ta còn thấy một nhãn

quan thế sự đúng đắn. Nhãn quan thế sự đã làm làm cho Tô Hoài “sáng mắt,

sáng lòng”. Ông đã thấy được vẻ đẹp trong tâm hồn và nhân cách của người

nghệ sỹ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

34

2.2. ĐẶC SẮC TRONG CHÂN DUNG VĂN HỌC CỦA TÔ HOÀI

22.1. Khắc hoạ chân dung trong không khí văn học thời đại

M. Gorki từng nói: “Văn học là tấm gương phản ánh thời đại”. Như vậy

văn học phản ánh hiện thực cuộc sống, phản ánh tư tưởng thời đại. Hiện thực

khách quan hiện diện trong tác phẩm nghệ thuật nghệ thuật bao giờ cũng thẩm

thấu qua lăng kính chủ quan của người nghệ sỹ. Lí giải vấn đề này, Gớt đã chỉ

rõ: “Nghệ thuật không cố gắng đua với tự nhiên trong toàn bộ bề rộng và

chiều sâu của tự nhiên, nó bám vào mặt ngoài các hiện tượng của tự nhiên,

nhưng nó có cái chiều sâu của nó, cái sức mạnh riêng của nó, nó ghi lại những

khoảng khắc sâu sắc nhất của các hiện tượng bên ngoài ấy, làm phát lộ những

gì có tính quy luật ở chúng: sự hoàn thiện của những cân đối hợp lí, đỉnh cao

của cái đẹp, giá trị của ý nghĩ tư tưởng, độ mạnh của say mê. Vậy để tỏ lòng

biết ơn tự nhiên đã sản sinh ra cả bản thân mình, người nghệ sĩ dâng trả lại

cho tự nhiên một tự nhiên thứ hai nào đó. Song đây là một tự nhiên được sinh

ra từ tình cảm và tư tưởng, một tự nhiên được hoàn thiện bởi con người” [dẫn

theo 53,tr.78 -79].

Như vậy, mỗi nhà văn có sự cảm nhận về thế giới hiện thực khách quan

khác nhau nên sự tái hiện, “dâng trả” cho hiện thực khách quan cũng khác

nhau. Sự “dâng trả” ấy thể hiện trong từng tác phẩm nghệ thuật, trong cả gia

tài nghệ thuật của họ. Căn cứ duy nhất để cảm nhận hiện thực mà nhà văn tái

hiện lại là tác phẩm nghệ thuật.

Vì “Văn học là tấm gương phản ánh thời đại” nên thể loại chân dung văn

học cũng phản ánh thời đại. Như ta đã biết, bất cứ một nhân vật nào cũng phải

được đặt trong hoàn cảnh lớn, hoàn cảnh nhỏ. Viết về nhà văn mà không đặt

họ vào không khí chung thời đại thì sao có thể hiểu được họ. Cuộc sống là

tổng hòa của mọi mối quan hệ xã hội. Và đối với nhà văn thì mối quan hệ với

tác phẩm, với các nhà văn là mối quan hệ đáng quan tâm nhất, hầu như chi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

35

phối mọi đời sống tâm tư của họ. Họ đã sống và rất cần sống trong không khí

văn chương.

Với Tô Hoài, trước khi cầm bút, ông đã từng trải qua cuộc sống gian

truân vất vả của một người thợ, một tiểu thị dân lăn lóc trên đường đời.

Nhưng chính từ pho kinh nghiệm sống ấy, với năng khiếu quan sát, ghi nhớ

đặc biệt sắc sảo, Tô Hoài đã trở thành nhà văn. Tô Hoài luôn ý thức xây dựng

chân dung văn học trong không khí thời đại. Và đối với ông “quan sát và ghi

chép đi liền với lối sống cần thiết của người viết văn”, và “Người cầm bút

hiểu cuộc đời, biết những sự kiện mới, con người và hành động, những đức

tính cao cả và bóng tối ẩn nấp của tội lỗi, biết sự việc từ lúc mới nhú mầm,

mới phảng phất, để hình dung ra được quá trình phát triển và viễn tưởng của

nó”. Chính vì thế mà những tác phẩm của ông luôn sống động như cuộc đời

thực, luôn lôi cuốn và thu hút người đọc.

Khi đọc những bức chân dung văn học mà Tô Hoài dựng lên, ta có cảm

giác thật đau đớn và xúc động biết bao trước những bi kịch của cuộc đời các

nhà văn. Trước cách mạng, xã hội chìm trong đau đớn, với không khí ngột

ngạt, đói kém, cuộc sống của những nhà văn đầy những bấp bênh, đau khổ.

Tô Hoài cũng là người trong cảnh ngộ ấy, hơn ai hết, ông cũng đồng cảm sâu

sắc với nỗi đau của họ. Chính vì thấy được sự đau đớn của họ trong cảnh ngộ

ấy, nên trong tác phẩm của Tô Hoài, khi viết về các nhà văn, ông luôn thấu

hiểu về sự đau khổ của những con người tài cao mà phận thấp. Họ là những

con người tài ba, thông tuệ, đa tình nhưng “Cơm áo không đùa với khách

thơ”. Có lẽ vì cảm thông với người cùng cảnh ngộ, mà cứ lúc nào nhớ lại, Tô

Hoài không thể quên được những đời văn của một lớp người, “không bao giờ

tôi quên được những hiu hắt, những chua sót, những nỗi niềm và những mong

chờ dường như vu vơ” [17, tr6].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

36

Khi dựng lên bức chân dung Nam Cao với một cuộc đời đầy đau đớn, bất

hạnh. Tô Hoài cũng đầy xót xa cảm thông với cuộc đời của Nam Cao. Một

người có tài có trí, có kinh nghiệm , xuôi ngược khắp Bắc Nam, chăm lo cho

cây bút ngày một sắc sảo vậy mà khi đọc những lời lẽ trong bức thư báo tin

đau buồn của vợ, Nam Cao cũng đành bất lực: “Một hôm, Nam Cao nhận

được thư của vợ. Thư kể mấy tháng nay mẹ con chỉ ăn rau sam. Con bé út

được hơn một năm - còn bé, anh đặt tên là Bình Yên chê nhà đói khó, đã bỏ đi

rồi. Cái thư đau đớn đọc xong, biết làm thế nào, anh thẫn thờ nuốt nước mắt

để xuống”[19,tr.330].

Không phải một mình Nam Cao mà cả giới văn nghệ sỹ đều sống trong

không khí đói nghèo và chính sách kiểm duyệt gắt gao thời ấy. Cho dù đó là

những tâm sự đong đầy nước mắt của chính mình hay của một số phận đau

khổ nào đấy, ít ai có thể đem kể. Nhưng vào thời kì ấy, người nghệ sĩ phải

phải sống trong cuộc sống bấp bênh, trôi nổi như những cánh bèo trôi vật vờ.

Họ là những người nghệ sĩ sống bằng nghề viết văn, viết mãi thì cũng hết, họ

phải đi tìm đề tài mới. Những “sinh hoạt văn hoá tinh thần” của họ trở nên

cần thiết. Họ cũng đi giang hồ để có cơ hội nhìn ngắm, tìm kiếm đề tài. Họ

“ngất nghểu như những thằng điên” khi đi tìm cảm hứng “ở sông Thương

này”; hay lại tha thẩn đi vào xóm Thùng Đấu - ngoại ô tỉnh Bắc Giang vừa đi

vừa nghêu ngao đọc thơ. Đó là hình ảnh những người nghệ sĩ sống bằng nghề

văn - muốn có tiền phải viết đều viết khoẻ, ngừng bút là nghỉ luôn cả miệng,

đừng nói gì đến nuôi vợ con. Trong hoàn cảnh ấy, chúng ta cũng hiểu vì sao

Tô Hoài lại hết sức ngạc nhiên: “Tôi đã hết ngạc nhiên thấy nghề viết văn

cũng có chợ đen và làm xiếc”[19,tr.263]. Và rồi cũng không lấy gì làm lạ khi

đọc những dòng tâm sự này: “Cuộc sống của tôi cũng lảng vảng bên hố trụy

lạc, khi căm ghét, khi thích thú, khi buồn chán, có lúc cũng không tự phân

biệt được”[19,tr .263].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

37

Cách mạng đến mang đến cho cuộc sống “luồng gió lành”, những người

nghệ sĩ đã mở rộng tâm hồn để đón nhận với bao cảm hứng say sưa. Họ bước

vào cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện với tâm thế của người chiến sĩ trên

mặt trận văn nghệ. Cách mạng và kháng chiến đã “tập hợp và liên kết mọi

người trong một cộng đồng dân tộc, trong đoàn thể, tạo nên sức mạnh to lớn

của dân tộc và nhân dân, đặt mỗi con người vào trong cộng đồng, sống với

đời sống chung của dân tộc và đất nước, trong dòng chảy xiết của lịch sử,

thức tỉnh ở mỗi con người ý thức công dân và tinh thần dân tộc tiềm tàng.

Nhà văn là một công dân đồng thời với sự nhạy cảm của người nghệ sĩ, đã

cảm nhận được điều biến đổi lớn lao ấy”[35]. Chính họ cũng đã góp phần làm

nên chiến thắng của dân tộc. Họ hăm hở đón nhận những chuyến đi công tác.

Cách mạng và kháng chiến đã đặt nhà văn trước một hiện thực lớn lao là cuộc

đổi đời và sức mạnh vĩ đại của quần chúng nhân dân. Khám phá và miêu tả

những con người tiêu biểu của thời đại mình bao giờ cũng là khát vọng của

các nhà văn chân chính ở mọi thời đại. Chính vì vậy mà các nhà văn luôn

mong muốn được đi sâu vào thực tế để khám phá hiện thực, tạo nên những

nguồn cảm hứng cho những sáng tác của mình. Tô Hoài biết được điều ấy,

ông đã dựng lên những bức chân dung người chiến sĩ - nhà văn đầy nhiệt tình

với cách mạng, muốn đi cho thỏa “cái tưởng tượng”, nhất là bức chân dung

của Nguyễn Tuân “Nguyễn Tuân chỉ thích đi, nhưng trong mọi sửa soạn đi

còn kĩ lưỡng hơn đi” “Trong nghề đi - nghề, chứ sao, cẩn thận đã thành thói

quen và cầu kì đến đam mê. Sửa soạn cũng là khai thác để thưởng thức được

chu đáo” “Mọi cẩn thận của Nguyễn Tuân thiết thực hơn, … Ngòi bút chì gài

trên túi áo, ngồi đọc cũng ghi lên sách”. “Không biết đến thế kỉ nào có cái

hơn, chứ bút chì trên giấy thì không bao giờ phai”. Một tệp bìa cứng với cái

bút chì. Lắm lúc thấy ông bạn đường chịu khó đến vậy, mình vừa để ý, vừa

thích vừa ngán ngẩm cho những khó nhọc của nghề đi không biết thế nào là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

38

cùng”[22,tr.395]. Cách mạng đã mở ra một thời đại mới cho dân tộc, chính

các nhà nhà văn với sự nhạy cảm của người nghệ sĩ, đã cảm nhận được sự

biến đổi lớn lao ấy, và chính họ là những con người đã góp phần cho cuộc

kháng chiến giành thắng lợi.

Hoà bình lặp lại, đất nước đứng trước tình hình và nhiệm vụ mới. Biết

bao khó khăn và thử thách đặt ra với những con người đang đặt những viên

gạch đầu tiên cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Rồi thế giới biến

động, phức tạp. Tất cả những điều đó đã chi phối đời sống văn học. Quan

niệm về con người trong văn học cũng trở nên đa dạng hơn và không tránh

khỏi những khác biệt, trái ngược giữa những quan niệm của các nhà văn. Các

nhà văn vừa sống trong niềm tin tưởng lại vừa có tâm trạng lo lắng. Lo lắng

chưa được hiểu đúng đặc trưng bản chất nghệ thuật của văn học. Có nhiều nhà

văn đã ngộ nhận. Một số nhà lãnh đạo văn nghệ chỉ quan tâm đến ý nghĩa

chính trị một cách máy móc, biến văn học thành công cụ giáo dục tư tưởng,

“quy chiếu máy móc, sát phạt nặng nề”. Những cuộc họp kiểm điểm liên tiếp

diễn ra, sinh hoạt thường nhật của Hội nhà văn là “bới lông tìm vết”. Tô Hoài

viết “Người có vấn đề thì lo đối phó. Người canh gác thì canh gác “cảnh

giác”. Tập kí của Nguyễn Tuân đưa Nhà xuất bản Văn học lần nào cũng chỉ

trả lời “Phát hành người ta chưa lấy đủ số lượng”, và “ai cũng bức bối không

yên”. Người ta chỉ quan tâm chú ý đến mục tiêu chính trị là tuyên truyền, họ

chỉ thấy được chức năng văn học theo nghĩa dung tục. Khi mà cái nhìn méo

mó, tiêu chuẩn lệch lạc thì chẳng bao giờ có cái chuẩn. Vì thế “cái nhìn sự

sáng tạo cứ lên xuống theo thời tiết” ”[22]. Câu chuyện về con hổ mà mẹ

Nguyên Hồng kể cho ông nghe, đã được ông chép lại và đăng trên trang cuối

báo Văn của ông, đã bị người ta nghĩ là “có vấn đề”, họ nghĩ “đời thủa nào mà

người ta lại nuôi hổ như nuôi vịt, dễ hơn nuôi vịt. Ông này muốn nói cái gì,

nói ai? Xỏ xiên thế nào đây, không hiểu. Không hiểu tức là có vấn

đề”[22,tr.450]. Ta hình dung ra một Nguyên Hồng dằn vặt trong những cuộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

39

họp kiểm điểm với nước mắt lưng tròng, thậm chí khóc hu hu. Nguyên Hồng

vốn là người dễ khóc và mau nước mắt. Ông là người hết sức chân thành, đa

cảm khi “xoè bàn tay lên chồng báo, vuốt vuốt, mếu máo, nước mắt như

trút… tôi thức đêm thức hôm… tôi bỏ hết sáng tác, ngày đêm chỉ nghĩ đến tờ

báo… bài này đề tài công nhận… bài về kháng chiến, bài về thống nhất… bài

về sửa sai cải cách ruộng đất… tôi không… tôi không… Rồi chẳng mấy lúc

Nguyên Hồng lại khóc hu hu”[22,tr.483].

Và ta lại bắt gặp một Nguyên Hồng trong sáng, thẳng thắn đến mức cực

đoan, khi đi ăn ở quán Tiểu Lạc Viên đùm theo gói thịt chó ăn thừa ở trong

cặp, định mang ra mời bạn đồng nghiệp của mình, đã bị ông chủ quán Tiểu

Lạc Viên đuổi ra khỏi quán “Nguyên Hồng, đứng lên giơ tay:

- Phổ ky! Câm đi!

Nguyên Hồng lật đật gói lại bọc thịt chó, bỏ vào cặp. Nước mắt lưng

tròng, nói:

- Lúc nãy chúng nó đấu ông, đòi đuổi ông, bây giờ thằng Tàu này lại

đuổi ông, “tỉu cái nhà ma lớ!”[22,tr.460].

Ta lại bắt gặp hình ảnh Nguyên Hồng với sự bức xúc không thể nén lại,

khi xem tờ báo Nhân Dân có tiêu đề: Nhìn lại một số sai lầm trong bài báo và

trong công tác do Tô Hoài viết, “ Nguyên Hồng buông tờ báo xuống. Rồi

Nguyên Hồng xua xua tay, nói như hét vào mặt tôi:

- Tiên sư mày, thằng Câu Tiễn! Ông thì không, Nguyên Hồng thì

không!” [22,tr.491].

Và rồi không chịu được nữa, Nguyên Hồng đã đi đến quyết định, một

quyết định được dự tính từ trước:

“ - Tao về Nhã Nam.

… - Ừ, Nhã Nam. Đủ, đủ lắm rồi. Ông đéo chơi với chúng mày nữa.

Ông về Nhã Nam” [22,tr.492].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

40

Không phải là vô tình mà là có chủ đích, Tô Hoài đã dựng lại chân dung

các nhà văn trong không khí văn học thời đại lúc bấy giờ. Khi đặt nhân vật

vào không khí văn chương, nhân vật được đặt trong “tổng hoà mọi mối quan

hệ xã hội”, vì thế mà chân dung các nhà văn hiện lên khá đầy đủ và sinh động.

Tô Hoài đã thấy được sự trăn trở và khủng hoảng của một thời, một giai đoạn

văn học. Khi viết về Nguyễn Huy Tưởng ta thấy Tô Hoài không chỉ nhìn thấy

ở Nguyễn Huy Tưởng nghị lực, sự hào hứng thiết thực mà còn thấy một

Nguyễn Huy Tưởng băn khoăn, trăn trở trước những khủng hoảng của không

khí thời đại, Tô Hoài đã viết: “Nhưng khi về thành phố, từ lúc nào xuất hiện

một Nguyễn Huy Tưởng lầm lì đăm chiêu, ít nói và khác mọi khi”[22,tr.434].

Và có lẽ “Nguyễn Huy Tưởng băn khoăn. Nguyễn Huy Tưởng có những ý

kiến khác với những lời bình trên báo. Nguyễn Huy Tưởng vốn kỉ luật, chịu

khó viết nhật kí và sưu tầm tài liệu. Nhưng chắc Nguyễn Huy Tưởng đã

không ghi lại những trăn trở, những khủng hoảng như tôi vừa kể

trên”[22,tr.434]. Tô Hoài cũng hiểu được vì sao Nguyễn Huy Tưởng đã

không ghi lại những trăn trở, những khủng hoảng ấy, bởi vì, “Bây giờ những

ý kiến khác lạ không mấy ai dám nói ra và ghi lại. Thà chôn sâu trong

lòng”[22.tr .434].

Như vậy, qua những bức chân dung của Tô Hoài, đặc biệt trong Những

gương mặt và Cát bụi chân ai - những tác phẩm ra đời trong không khí đổi

mới của văn học nói riêng và của đất nước nói nói chung, ta thấy cả một bức

tranh về đời sống văn học dân tộc trong một không khí khủng hoảng, đầy

những trăn trở bộn bề của các nhà văn thời ấy.

Khi viết về hiện thực lịch sử, Tô Hoài đã xoá bỏ “khoảng cách sử thi”, từ

bỏ thế giới của “quá khứ tuyệt đối” như bao nhiêu người vẫn viết, để xử lí

chất liệu hiện thực hoàn toàn khác. Sự kiện và con người trong tác phẩm của

ông đều được đặt dưới cái nhìn suồng sã. Mọi cuộc sống xô bồ, đa diện, nhiều

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

41

sắc thái được thay thế cho một cuộc sống trang nghiêm, tĩnh tại và đơn giản.

Qua cái nhìn đó, cuộc sống đã bị lột mất chiếc áo khoác thiêng liêng và không

thể hồ nghi. Giờ đây, nó hiện lên gần gũi tưởng như có thể nhìn thấy, đụng

chạm tới được và xem xét từ bất cứ góc độ nào. Xuất phát từ quan niệm con

người là con người, con người không phải là thánh nhân, vì thế mà lần đầu

tiên Tô Hoài đã cho chúng ta nhìn một số nhân vật của văn chuơng nước nhà

từ một cự li gần, nói như Trần Đức Tiến: nhìn ở một “khoảng cách khá tàn

nhẫn nhưng vì thế mà chân thực và sâu sắc”. Những “nhân vật lớn” đó là cả

một thế hệ nhà văn: Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố, Xuân Diệu, Nguyễn Tuân,

Nguyễn Bính. Tô Hoài đã xây dựng chân dung văn học theo lối tiếp xúc đối

tượng một cách gần gặn suồng sã. Tô Hoài đã làm thay đổi những ấn tượng

của độc giả về họ. Ông đã vén màn sương huyền ảo để ta nhìn vào cuộc sống

đời thường của họ, thấy họ là những con người như chúng ta, có khi còn

nghèo khó, túng quẫn và nhếch nhác: một Nguyễn Tuân với cái khinh bạc và

giấc mộng văn chương hão huyền, một Nguyên Hồng với gói thịt chó ăn dở

đút trong cặp, một Xuân Diệu với bàn tay “ma chơi" quờ quạng trong đêm,

Nguyễn Bính với những mối tình trăng hoa, một bác Ngô Tất Tố bên gốc cây

xỉ đầy nước mũi…, họ cũng có những số phận, những bi kịch của mình. Họ

không chỉ là nhà văn lớn mà còn là những con người. Người với người để sẻ

chia và cảm thông với nhau hơn. Chúng ta đã yêu thơ Xuân Diệu giờ đây lại

càng yêu hơn vì xót xa cho cuộc đời ông. Hay ta còn thấy một Nguyên Hồng

cũng yếu đuối, trước những lần kiểm điểm đầy nước mắt mà càng cảm thông

hơn với ông.

Không chỉ những “nhân vật lớn” mà lịch sử của đất nước cũng được ông

cảm nhận từ nhiều phương diện đời thường. Quá khứ không phải được đo

bằng những sự kiện trọng đại mà chỉ là những ngày thường nối tiếp nhau

cùng những chuyện vui buồn lẫn lộn. “Đất nước như những cánh đồng cày

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

42

vỡ, chưa biết cấy hái như thế nào”. Vết thương cải cách ruộng đất vẫn còn

đâu đó. Lịch sử hiện thân thật cụ thể là những con người, những mối quan hệ,

những công việc thường nhật. Vụ án “Nhân văn Giai phẩm” đã từng làm chấn

động cả một thời kì văn học được ông nhớ lại: “Báo Nhân văn ra được mấy

số. Có dư luận báo chống đối. Người thành phố nghe ngóng và tò mò. Nhưng

mà những hoạt động gây sự không phải chỉ ở vài ba báo trên Nhân văn, mà

chính là ý đồ chính trị rộng ra nữa của cả một số giới không phải là những

người làm báo Nhân văn trong tình hình nhạy cảm ở các đô thị lúc

ấy”[22,tr.433].

Cùng với việc khám phá con người và lịch sử ở mọi phương diện đời

thường thì cảm hứng về cái hài cũng là một biểu hiện rất rõ trong cái nhìn của

Tô Hoài. Trong Cát bụi chân ai, khi viết về Nguyễn Bính: “Thấy gái như quạ

vào chuồng lợn, như ếch vồ hoa. Thề bồi đấy rồi lại nhăng cuội ngay đấy…

biết bao người con gái đã theo thơ đến với Nguyễn Bính. Nhưng cuộc đời hoa

thơm bướm lượn không giống thơ, không như thơ. Thế thì vứt bỏ. Người con

gái đến với Nguyễn Bính khi làm báo Trăm hoa cũng chẳng được bao lâu.

Chỉ tội đã có với nhau một mụn con.”[22,tr.432], Tô Hoài như nở một nụ cười

chua chát. Tiếng cười đó phản bác lại một ảo tưởng về cuộc đời. Thực chất

cuộc đời cũng bạc như trò “Hoa thơm bướm lượn” thôi. Ngay cả Nguyễn

Bính, “xưa nay thì cái thằng này vẫn thế. Những cùng quẫn tự chuốc, những

đau thương tự vơ vào, mình lại đầy ải mình, thân làm tội đời”[22,tr.431]. Có

một Nguyễn Bính chân quê “Hồn anh là hoa cỏ may. Một chiều cả gió găm

đầy áo em”. Nhưng cũng có một Nguyễn Bính như của Tô Hoài. Lịch sử cũng

vậy, không phải đã xong xuôi, nó còn có những điều bất hợp lí.

Cảm hứng về cái hài nảy sinh ra từ những nghịch lí của cuộc sống, tiếng

cười trong Cát bụi chân ai vì thế mà mang lại âm vị chua chát ngậm ngùi,

cười buồn, cười chấp nhận một hiện thực đã có.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

43

Dựng lên những bức chân dung trong không khí văn học thời đại, Tô

Hoài đã để lại những giá trị đầy ý nghĩa to lớn cho thể loại này.

- Ý nghĩa đầu tiên được tạo nên là ý nghĩa khai phá một lối viết mới, một

cách thức tạo dựng chân dung độc đáo, đặc sắc của Tô Hoài. Nếu đem so sánh

với các tác giả khác, thì ta thấy, các tác giả khác thiên về lối khắc hoạ chân

dung không trên một nền hiện thực nào, họ chỉ kể lại các mẩu chuyện, hay

những kỉ niệm của những bè bạn hoặc những người thân trong gia đình, để

gây được những cảm nghĩ của độc giả trong giây lát. Còn Tô Hoài lại tạo

dựng những những chân dung văn học trên một nền hiện thực sinh động,

trong không khí văn học. Nó đã giúp bạn đọc có thể nhìn thấy và hiểu biết

một cách toàn diện sâu sắc. Chính vì thế mà bức tranh đọng lại trong tâm tư

người đọc lâu bền, đầy ấn tượng. Hơn nữa, nhân vật hiện lên không bị cắt

đoạn mà trong cả một quá trình với những diễn biến phức tạp, khiến chúng ta

không mắc phải cái nhìn siêu hình, phiến diện mà có được cái nhìn tổng thể

bao quát với những hình ảnh, bức chân dung chân xác, đáng tin tưởng vì nó

thể hiện rất thật. Có lẽ Tô Hoài là một người khai phá, một người mở màn cho

một thể loại kí đặc biệt với một cách tiếp cận hiện thực với xu hướng tiếp cận

của tiểu thuyết.

- Ý nghĩa thứ hai của những sáng tác trong chân dung văn học của Tô

Hoài là sự khẳng định ý thức nhìn nhận con người ở nhiều hướng, nhiều chiều

của nhà văn. Nếu như trước đây, các nhà văn chủ yếu tái hiện, đánh giá con

người theo các biểu hiện tư tưởng, đạo đức của nó, thì bây giờ văn học đã mở

rộng tư duy sang các bình diện của sự tồn tại con người như thời gian, môi

trường và cả năng lực ý thức của nó trước thế giới, trước hoàn cảnh xã hội.

Môi trường của các nhà văn chính là không khí văn học thời đại họ đang

sống. Đặt vào “môi trường” đó, ta mới hiểu được con người, mới đi đến khám

phá được những bí ẩn và tiềm năng bên trong, ngoài lớp vỏ bao bọc hoặc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

44

cứng cỏi, dày dặn hoặc mềm mại, uyển chuyển. Khi xây dựng chân dung văn

học, Tô Hoài luôn luôn có ý thức đặt nhân vật trong không khí văn học thời

đại. Phải chăng vì thế mà ông đã dày công sưu tập tài liệu trong suốt cuộc đời.

Đối với Tô Hoài quan sát và ghi chép là kinh nghiệm quý báu của ông khi viết

văn. Có lẽ vì thế mà Tô Hoài đã viết một cách tập trung, tâm huyết trong các

tác phẩm văn học, những gì ấp ủ bấy lâu nay sau khi đã được nuôi chín, đã

được chọn lọc, sau đó bộc lộ, cung cấp cho độc giả những tư liệu quý giá, và

đầy xác thực.

Cũng giống như bất cứ nhà văn chân chính nào khác, Tô Hoài muốn

mọi người đặc biệt là những thế hệ sau hiểu đúng những nhân vật lớn trong

làng văn Việt Nam. Và muốn hiểu đúng, muốn đánh giá chính xác những con

người của một thời đại thì không gì hay bằng đặt họ đúng thời đại, đặt họ

trong môi trường sống cụ thể và gần gũi nhất của nhà văn chính là không khí

văn học thời đại họ đã sống. Rồi từ đó soi xét con người soi xét con người

theo “nhiều chiều nhiều hướng”.

- Ý nghĩa thứ ba của việc khắc hoạ chân dung trên nền không khí văn

học thời đại là đem đến cho độc giả những thông tin mới, giúp cho bạn đọc

tiếp cận và khám phá được đời sống văn học của một thời đã qua - một thời kì

mang nhiều dấu ấn lịch sử với nhiều đổi thay trên mọi mặt đời sống, xã hội và

con người. Tô Hoài là một người trong cuộc, vốn hiểu biết tận chân tơ kẽ tóc

mỗi nhân vật của mình qua mỗi giai đoạn và thời kì lịch sử. Vì thế nên việc

khắc hoạ nhân vật trong không khí văn học thời đại của ông thật thành công,

chúng ta hiểu được những tác động của “không khí” ấy đối với những bước

thăng trầm của nó.Với Cát bụi chân ai, Tô Hoài đã đề cập đến vấn đề số phận

của người nghệ sĩ. Với trái tim nóng hổi đầy nhiệt tình, ông đã giục dã chúng

ta hãy quan tâm, hãy viết tiếp, hãy nhìn lại và đánh giá chính xác về họ -

những người nghệ sĩ đầy tài năng. Nếu như đã có một thời chúng ta hiểu sai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

45

về họ thì việc nhìn lại và đánh giá lại, trả lại chân giá trị cho họ quả là một

việc làm cần thiết. Đã có một thời ta đề cao văn học cách mạng, trong giới

hạn của quan niệm “Con người sử thi”, ta chưa thấy được “tính phiến diện”,

“tính đơn điệu” trong giọng điệu khi thể hiện cuộc sống và con người. Giờ

đây, những lời nhận xét của Tô Hoài, đã phần nào giúp chúng ta nhìn nhận

lại, đánh giá những đóng góp của những người không thuộc dòng văn học

cách mạng, kể cả nhóm Nhân văn - Giai phẩm. Điều đó cũng thật có ý nghĩa

và góp phần đảm bảo tính khách quan và khoa học trong việc đánh giá giá trị

văn chương.

Như vậy, khắc họa chân dung trong không khí văn học thời đại đã góp

phần vào sự thành công đáng kể trong sự nghiệp của Tô Hoài. Nó cũng đã thể

hiện sự tìm tòi, đổi mới tư duy văn học của Tô Hoài, làm nên một Tô Hoài

với phong cách riêng, không lẫn vào ai, một Tô Hoài lực lưỡng, với một sức

trẻ kéo dài.

2.2.2. Dựng chân dung theo dòng hồi tƣởng

Khi dựng chân dung văn học, Tô Hoài thường dựng đối tượng lúc đậm

nét, lúc lung linh mờ ảo tuỳ theo sự hồi tưởng của mình. Sự hồi tưởng ấy

thường theo những ấn tượng sâu đậm của nhà văn. Có lúc được trình bày

mạch lạc men theo những dòng hồi tưởng về một số thời điểm nhất định trong

đời văn của ông và bạn làng văn. Nhưng cũng có lúc nó cũng không tuân theo

sự mạch lạc ấy, khi đứt khi nối, có lúc nhớ, lúc quên trong trí nhớ của nhà

văn, không muốn có mạch lạc rõ ràng: đang chuyện Nguyễn Tuân ham đi (lên

Tây Bắc, đến Quảng Ninh, ra nước ngoài… ) lại nhảy sang chuyện cái máy

chữ Baby cổ lỗ, mốc thếch; đang chuyện Đặng Đình Hưng đi bán rượu lậu và

uống rượu rắn lại nhảy sang chuyện Nguyễn Tuân ngược đường Pnôm Pênh -

Poipet định vượt biên giới sang Thái Lan; đang chuyện Nguyễn Tuân rồi

chuyện Nguyên Hồng ngồi trong nhà vách viết văn ở Nhã Nam; chuyện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

46

Nguyễn Bính làm báo Trăm hoa; đến chuyện Xuân Diệu đứng trên lầu khách

sạn Apôlô nhìn sông Mê Công cuồn cuộn phù sa mà nắm cổ tay Tô Hoài trầm

ngâm bảo: “Chúng mình già rồi”…[22,tr.548].

Dòng hồi tưởng nào cũng vậy, các sự kiện bao giờ cũng thấm đẫm cảm

xúc trữ tình của nhân vậy. Tô Hoài thường dựng chân dung văn học gắn với

những kỉ niệm của chính tác giả. Những kỉ niệm ấy, hầu hết Tô Hoài đã được

chứng kiến và được “mắt thấy tai nghe”, hay trực tiếp là người cùng tham dự

cho nên nó hiện rất sâu đậm, rõ ràng trong kí ức của nhà văn. Là chân dung

được dựng theo dòng hồi tưởng song chân dung của Tô Hoài khác chân dung

của các nhà văn khác ở chỗ tác giả không kể về toàn bộ cuộc đời sự nghiệp

sáng tác của họ theo một trật tự thời gian nhất định mà chỉ kể ở từng đoạn,

từng quãng đời mà nhà văn biết, thậm chí biết rất kĩ. Quả là bao nhiêu

chuyện, bao nhiêu người lúc chầm chậm hiện dần lên, qua từng trang, mà lối

suy tư cách ứng xử, thói tật vụn vặt cùng niềm khát khao sống và viết ở họ

cứ rõ dần, đậm dần; lúc lại vùn vụt chạy qua như một đoạn phim tư liệu

quay nhanh.

Quả là Tô Hoài có một trí nhớ thật tuyệt vời, ở tuổi 70 mà trí nhờ ấy

không hề bị mai một trong biển trời kí ức. Đọc Cát bụi chân ai, ta thấy có khi

chỉ là một chi tiết rất nhỏ, tưởng chừng chỉ thoáng qua, nhưng nhà văn cũng

nắm bắt được và biến nó trở thành cái “thần thái văn nhân” và người đọc

cũng không thể nào quên được, nó cứ ám ảnh trong trí nhớ của mỗi độc giả.

Đọc Những gương mặt của Tô Hoài, thấy chân dung văn học của ông mỗi

người một bức, gợi cho người ta nhớ đến lối vẽ hoặc là truyền thần tỉ mỉ, hoặc

là kí họa. Đọc sang Cát bụi chân ai thì thấy các chân dung, các gương mặt cứ

xáo trộn đan xen với nhau và lẫn với biết bao chuyện đời, chuyện phong tục

bề bộn phức tạp, và những lời trữ tình ngoại đề chịu không thể nói ngay được

là viết bằng bút pháp gì nữa. Lối viết chân dung - hồi kí - tuỳ bút này nếu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

47

không trường vốn, không đi nhiều, quen biết nhiều, và ghi chép nhiều như Tô

Hoài, chắc không viết nổi.

Dòng hồi tưởng có lúc miên man, tưởng chừng như bất tận. Bao nhiêu

người, bao nhiêu sự kiện cứ ùa về, làm sống dậy trong kí ức nhà văn về một

mảng thời gian đầy biến cố lịch sử. Cứ thế, qua mỗi trang, người đọc lại thấy

chân dung của họ hiện dần lên, từ lối suy tư ứng xử đến thói quen hay phong

cách, thậm chí cả những thói tật vụn vặt của họ cũng như niềm khao khát

sống và viết… cứ rõ dần, đậm dần. Lối viết chân dung theo dòng hồi tưởng ta

thấy đôi chỗ các gương mặt, các chân dung cứ xáo trộn, đan xen với nhau, lẫn

với bao nhiêu chuyện đời, chuyện phong tục bộn bề phức tạp và những lời trữ

tình ngoại đề. Có khi đang kể chuyện này lai nhảy sang chuyện kia. Dòng hồi

tưởng không mạch lạc mà khi đứt khi nối, có lúc chầm chậm dần dần, có lúc

lại vội vã, xô bồ, vùn vụt… Dòng hồi tưởng có lúc lại chi tiết đến kinh ngạc,

nhà văn nhớ rõ cả câu nói trong lúc bốc đồng, cả nụ cười và sắc thái của nó,

thậm chí cả dáng vẻ của nét mặt lúc bấy giờ, màu sắc quần áo mà nhân vật lúc

đó mặc, mặc dù đã trải qua hơn nửa thế kỉ. Hồi tưởng về Nguyễn Tuân thời

trai trẻ, nhà văn miêu tả rất chi tiết những nét ngoại hình. Điều đó chứng tỏ

hình ảnh Nguyễn Tuân ngay từ đầu đã gợi cho Tô Hoài một ấn tượng khác

người khó quên: “Đi bên này Hồ Gươm, thấy Nguyễn Tuân ngồi trong nhà

hàng Hoàng Gia, cái quán rượu kiểu Pháp che cánh sáo ra kín vỉa hè. Nhà văn

chơi chua khác đời khăn lượt vố, áo gấm trần, tay chống dọc chiếc quạt thước

thay ba - toong, chân bít tất dận giày mõm nhái Gia Định. Năm ấy Nguyễn

Tuân cũng chỉ khoảng trên ba mươi đôi chút”[22,tr.383].

Có một điều đáng chú ý là trong chân dung văn học của Tô Hoài đôi khi

để chất hồi kí về đời như muốn lấn át chân dung văn học, song nhờ lối văn

biến hoá, chi tiết phong phú nên người đọc luôn cảm thấy thích thú. Đọc chân

dung văn học của Tô Hoài ta thấy ông luôn nhìn người ở những chi tiết rất cụ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

48

thể, sống động, chân thực, qua đó thấy được cá tính của từng nhân vật. Đây là

khả năng tiềm ẩn vốn có của Tô Hoài. Nhà văn đã để cho nhân vật tự xuất

hiện, rồi cứ thế, bằng giọng kể đều đều, ít đánh giá, nhân vật cứ thế được bộc

lộ qua những hành vi, nói năng ứng xử. Chính điều đó đã làm nên sức hấp

dẫn, lôi cuốn người đọc.

Như một người lữ hành trên con đường mênh mang cát bụi, có lúc vừa

đi, vừa quan sát, ngó nhìn, những dòng chân dung văn học của Tô Hoài cũng

vậy cứ từ tốn, dần dần, nhà văn nhẩn nha, nhấm nháp cuộc đời, nhìn cuộc đời

bằng đôi mắt của người trải nghiệm, và cứ thế, người đọc được tiếp xúc với

đầy rẫy những cái bất ngờ thú vị, những cái “à ra thế” trong đời tư của các

nhà văn. Bởi vậy, đọc những bức chân dung văn học của Tô Hoài, người đọc

lại cảm thấy thích thú như vậy, sự thực lại được coi trọng đến thế. Thậm chí

nhiều khi sự thực lại hiện ra một cách “trần trụi”, một bức hoạ chì, không hề

tô màu, tỉa tót.

2.2.3. Dựng chân dung nhà văn trong đời thƣờng

Khi dựng chân dung các nhà văn, dường như Tô Hoài không chỉ chú

trọng đến việc dựng “chân dung tinh thần” của họ mà ông còn chú ý đến

những chuyện “vặt vãnh, nhọ nhem” đời thường, từ những vẻ bề ngoài, ăn

mặc, đi đứng, nói năng… Tô Hoài luôn để nhân vật của mình xuất hiện trong

không khí đời thường, giữa cái bộn bề phức tạp của cuộc sống.

Với một người am hiểu đủ chuyện vui có, buồn có, sang có, hèn có

của giới văn nghệ sĩ, Tô Hoài từng được nhiều người cho là khôn ngoan,

lọc lõi. Trong cặp mắt hiểu đời của ông, dường như bao giờ cũng lóe lên

một ý nghĩ với người đối thoại với mình: “ À ra thế? Tôi biết cả rồi. Nhưng

anh cứ nói đi".

Viết chân dung văn học, với Tô Hoài là để giải phóng một quan niệm

sống, một quan điểm nghệ thuật mà ông không muốn trực tiếp bộc lộ dưới

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

49

dạng lí luận. Đối với Tô Hoài, có lẽ được sống với mọi người bình thường,

sống cuộc sống bình thường đó là hạnh phúc thiết thực nhất, bởi vậy cho nên

quan điểm sáng tác của ông cũng như ông từng nói: “ Tôi thích trong con

người có nhiều hoạt động một lúc, không thích thần thánh hoá làm gì… Tôi

thích con người bình thường và không tả thành tầm thường”[23]. Chính vì

vậy mà Tô Hoài từng được coi là “nhà văn của người thường, của chuyện

thường, của đời thường”[29].

Là một người luôn trân trọng bạn văn và nghề văn cho nên Tô Hoài luôn

luôn đặt bạn văn và nghề văn vào giữa cái bộn bề phức tạp của đời thường mà

suy xét, mà tạo dựng lên. Bởi vậy, mà hình tượng giới cầm bút trong chân

dung văn học của ông luôn được đặt trong cuộc sống bình thường, nhọc nhằn,

khổ ải, nhếch nhác và bụi bặm. Tuy vậy những chân dung văn học không phải

không có cái độc đáo phi thường riêng của các bậc tài hoa, uyên bác. Tô Hoài

không tô vẽ lý tưởng hoá ai, cũng không nói quá cho ai, còn niềm yêu quý,

cảm thông của ông đối với các đối tượng mà ông dựng thành chân dung văn

học thì vẫn tự nhiên bộc lộ, thông qua chi tiết ngôn từ, và những gì nhếch

nhác của cuộc sống đời thường và giọng điệu của lời kể mang lai.

Với bạn bè, Tô Hoài luôn giữ con mắt trung thực. Viết chân dung văn

học không phải là để tô hồng kỉ niệm, không phải để khoe mình, để nịnh

người, cũng không phải để báo công. Bản thân tác giả cũng là con người với

tất cả sự ngờ nghệch, non nớt, thường tình. Nguyền Tuân nói về Tô Hoài:

“Tao ghét cái cười hiền lành, không hiền lành của mày”[22]. Cái nhìn về bản

thân Tô Hoài là cái nhìn trung thực. Có thể có rất nhiều đàm tiếu nhưng lương

tâm ông thanh thản. Ông không bao giờ nói quá về sự thật, những ảo mộng

của Nguyễn Tuân, những bê tha của Nguyễn Bính cuối cùng đã nhận ra cái

không tưởng trong ước muốn của mình: “Cái máy chữ này nhìn đến sượng cả

mặt. Máy chữ để cô thư kí tưởng tượng đánh máy bản thảo, ông xách nó đi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

50

cho tôi, tôi không gán nợ ông đâu nhé. Nhưng mà ông mang đi đâu thì mang

cho khuất mắt tôi, không có lúc tôi phải mang nó ra đập đấy. Mang đi giúp

tôi. Đả khí tự! Đả khí tự”[22]. Nguyễn Bính thì còn mãi những giọt nước mắt,

hớt hải chạy tìm con trong đêm. Đó chính là những nỗi đau những bi kịch đời

thường. Không ai là hoàn hảo cả, cả những con người vĩ đại.

Ngay cả lịch sử cũng đầy lầm lạc như cuộc chỉnh huấn 1958. Từ trước

đến giờ người ta vẫn né tránh sự kiện nhạy cảm đó. Đọc Tô Hoài ta được biết:

“Đến lượt ai cũng cứ phải suốt cả buổi ngồi nghe chịu trận nghe nói xa xả, vi

vút. Kim Lân kể: dạo ở chợ Chu trong một buổi kiểm điểm. Ngô Tất Tố bị

một anh Lưu Động nhà báo mà xưa nay bác Ngô vẫn không coi ra gì, bây giờ

phải nghe anh ấy sát phạt lên lớp, Ngô Tất Tố quyệt nước mũi vào gốc cây

nói với Kim Lân:

- Làm người khổ lắm, bác ạ.

Khổ một nỗi, có người nghe phê bình, cứ tiếp thun thút, còn minh

hoạ cho lỗi mình cho to ra thêm nữa. Thế mà cũng không được tin, lại bị tố

cáo là hời hợt, trốn đấu tranh. Có người bỗng thật thấy mình sai, nhận ngay

cũng lại bị cho là nông cạn, con vẹt, thiếu đào sâu suy nghĩ… Tôi dự các cuộc

chỉnh huấn đã nhiều, có người lo quá cả tháng không chợp mắt, như ở báo

Cứu Quốc có cậu còn trẻ đã vào rừng thắt cổ”[22,tr.473].

Cả một giai đoạn lịch sử đầy những ấu trĩ hiện lên trước mắt người đọc.

Đọc các tập Tự truyện, rồi đọc Những gương mặt, và đặc biệt, tập Cát

bụi chân ai của Tô Hoài, chúng ta thấy có không biết bao nhiêu nét đời tư của

những nhà văn Nguyên Hồng, Như Phong, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn

Bính, Nguyên Tuân, Xuân Diệu. Người đọc chân dung văn học của ông nhờ

thế mà đã có thể hiểu hơn cuộc sống của các nhà văn, hiểu hơn tính cách của

các nhà văn mà mình yêu thích. Có thể hiểu Nguyễn Tuân hơn, chỗ đáng

trọng của Nguyễn Tuân kèm theo với những cái khó tính khó nết; chất thi sĩ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

51

sôi nổi dạt dào của Xuân Diệu lẫn với cái bệnh hoạn rất đỗi phàm tục của nhà

thơ, cái bề bộn phức tạp của cuộc sống vào trong những trang chân dung văn

học của nhà văn thật ấn tượng, tạo nên một sự thật như cuộc sống vốn có. Với

Nguyên Hồng, một nhà văn đầy chất sống trong tiểu thuyết, lại có những sinh

hoạt vừa luộm thuộm, nhếch nhác vừa rất sôi nổi và đặc biệt quần chúng hoá.

Đây là một đoạn chân dung Nguyên Hồng trong Cát bụi chân ai:

“Về Hà Nội, Nguyên Hồng và vợ con thuê cái gác một ở phố Mirben

cũ bên cạnh viện Mắt gần chợ Hôm. Nhớ những lần Nguyên Hồng rủ đến

chơi nhà thường vào buổi chiều thứ bảy. Dựng xe đạp ở cái sân chung nhớp

nháp nhà dưới rồi lên gác. Nhà một buồng lủng củng ba lô, tay nải. Chẳng

khác trước kia ở dưới bãi Nghĩa Dũng. Chỉ thêm trẻ con chạy ra chạy vào lít

nhít rối cả mắt. Chị ấy đã xin được làm nhân viên cửa hàng quốc doanh

sách, đứng bán ở quầy góc nhà bách hoá tổng hợp bây giờ, phía cửa đường

Hàng Bài.

- Ngồi vào đây lấy chỗ cho mẹ nó kê cái hoả lò. Chả rán phải chén

nóng tại chỗ mới hay.

Nguyên Hồng lui cui dẹp quanh cho tôi ngồi tựa lưng vào tường trông

ra chằng chịt dây điện ngoài cửa sổ, lá xà cừ rụng bay rào rào. Nguyên Hồng

không nói, nhưng tôi đã biết cái chả rán này rồi. Nguyễn Tuân chỉ nghe, đã

lắc đầu, rủa “chả rán Nguyên Hồng” đãi “cái thằng xơi được cả bọ hung thì

nó còn từ cái gì”. Nguyên Hồng không khi nào mời Nguyễn Tuân và biết tôi

thưởng thức được món tiểu táo cao cấp ấy, chủ nhà cũng chẳng cần báo trước.

Ấy là cái “nem Sà goòng” nhân rau bà đẻ đã xin hay mua được ở nhà hộ sinh

nào đấy. Nguyên Hồng thường ca tụng sức thần kì bổ và chữa bách bệnh của

rau bà đẻ. “Khi bị đày lên Bắc Mê, tao ngồi viết được cả tập bút kí Cuộc sống

lại còn sống được mà dò được về đến Nam Định rồi lấy vợ cũng là nhờ cái phải

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

52

gió ấy của trẻ sơ sinh. Mẹ tao ngâm rượu mật ong gửi lên. Bây giờ thì một cái

rau ăn tươi cả nhà được tẩm bổ” Nguyên Hồng cười hả hê”[22,tr.422- 423].

Đó là Nguyên Hồng với sinh hoạt dân dã xô bồ. Ông còn có thể uống

rượu với ổi xanh, hành sống, với cà pháo muối xổi; sẵn sàng ngồi bắt chuyện

với tất cả mọi người trong quán ăn giữa chợ. Nhưng đối với nghề, ông lại hết

sức cẩn thận và công phu: giữ gìn từng trang bản thảo. Cẩn thận đến độ đi đâu

cũng ôm đồm vác theo. Không yên tâm để chỗ nào. Sợ lạc, sợ mất. Con mắt

tinh quái của Tô Hoài đã phát hiện thấy “trong cái cặp da bản thảo thường cắp

theo, lúc nào cũng kẹp sẵn mảnh giấy vỏ bao xi măng “Con ruồng xanh”

không thấm nước (…). Đêm ngủ đâu, nhỡ một cái(…) lần ra hiên hay cạnh

cửa sổ, trải mảnh giấy dầu nọ ra(…), rồi gói lại kĩ lưỡng bỏ vào cặp. Hôm sau

vứt xuống hố hay đống rác nào đấy. Có khi tiếc cái giấy còn tốt, lại gột sạch

đem phơi. Chẳng coi là sự bẩn thỉu dấu diếm”.

Có thể thấy, nghệ thuật xây dựng chân dung văn học của Tô Hoài tạo

cho thế hệ bạn đọc sự gần gũi với mỗi nhà văn.

Chân dung Nguyễn Tuân, thích ăn mặc khác thường - “khăn lượt vố, áo

gấm tay trần, tay chống dọc chiếc quạt thước thay ba toong, chân bít tất dận

giày mõm nhái Gia Định”, không thích cà phê nóng đầu đường, không chịu

được mùi hoa sữa, và rất kị mùi tỏi, nhưng lại có cái chu đáo rất “nền nếp nho

phong”. Mỗi năm, dịp kỉ niệm ngày vào Đảng hay tết nhất, Nguyễn Tuân đến

chơi với Tố Hữu. Thế nào cũng cầm lên mấy bông hồng vàng lòng trứng gà.

Trước sau tề chỉnh hầu như đã thành nếp”.

Với hoạ sĩ Nguyễn Sáng, con người tài hoa lại “hay để ý những cô gái

mới lớn”, phải lòng mấy cô gái bán kem hiệu Tiến Đạt phố Yết Kiêu. Hồ

Dzếnh “gọn việc. Tính anh cẩn thận, chu đáo, tính toán”…

Mỗi người một vẻ, “một mánh, một tật”, chẳng ai giống ai, nhờ Tô Hoài

mà độc giả biết đến bao cái bình thường ở những con người họ. Khắc hoạ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

53

chân dung những tên tuổi, với không ít những thói tật, không có nghĩa là Tô

Hoài đã bôi nhọ, hoặc có ý định hạ thấp đối tượng, ngược lại theo ông, dù họ

có là ai đi chăng nữa, có là những người nổi tiếng đi chăng nữa họ vẫn là

những con người, mà đã là con người thì trước hết họ cũng có diện mạo riêng,

thói tật riêng, sở thích riêng, và cũng có những đức tính của những con người

bình thường. Tô Hoài luôn trân trọng sở thích, thói quen và cá tính của mỗi

người. Đó chẳng phải là cội nguồn của mọi giá trị nhân bản đó sao. Chính nó

đã tạo nên một thế giới nhân vật riêng phong phú, sinh động, độc đáo và hấp

dẫn của Tô Hoài.

2.2.4. Dựng chân dung nhà văn trên cái nền phong tục lạ

Trong văn học hiện đại Việt Nam, Tô Hoài thường được nhắc tới như là

một nhà văn có biệt tài mô tả thiên nhiên và phong tục. Đọc những tác phẩm

của Tô Hoài người ta dễ ấn tượng với những đặc sắc của những phong cảnh,

phong tục ở miền núi Tây Bắc Việt Nam, ở những vùng ngoại ô Hà Nội. Đọc

những tác phẩm của ông ta mới thấy được hết những đặc sắc ở những vùng

miền ấy. Khi viết chân dung, Tô Hoài thể hiện rất đậm nét sở trường này.

Những chân dung văn học của ông bao giờ cũng được hiện lên giữa cái bề

bộn của cuộc sống với cái không khí của những tập quán, những phong tục.

Với ý thức sử dụng nhãn quan phong tục như một tiêu điểm để khám

phá đời sống xã hội và con người, trong sáng tác của Tô Hoài bao giờ cũng

đậm chất phong tục, các chân dung văn học bao giờ cũng hiện lên trên những

nền phong tục tập quán.

Tác phẩm của Tô Hoài thường hướng nhãn quan của mình vào các tập tục

làng quê… Tác phẩm của ông phản ánh về một vùng nông thôn ngoại thành với

nhiều khía cạnh khác nhau. Chất phong tục dày đặc trong tác phẩm góp phần

làm nên giá trị văn xuôi của Tô Hoài. Nó làm cho bức tranh đời sống xã hội trở

nên sống động, độc đáo hơn trong tính toàn vẹn của cuộc sống.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

54

Khi dựng chân dung các nhà văn, dường như Tô Hoài không chỉ chú

trọng đến việc dựng chân dung tinh thần của họ mà còn chú ý đến vẻ bề

ngoài, cách ăn mặc, đi đứng, nói năng… Tô Hoài thường cho nhân vật của

mình xuất hiện trong không khí đời thường với những phong tục tập quán

lạ. Khi dựng chân dung Nguyễn Tuân, ông chú ý xây dựng chân dung của

Nguyễn Tuân với cái thú ẩm thực cầu kì qua từng món ăn cổ truyền của

dân tộc:

“Những cái thích và vui ẩm thực của Nguyễn Tuân không chỉ dễ dãi vì

miếng ăn uống sang trọng mà phải là hợp khẩu vị theo ý mình. Lọ muối vừng

hộp nước mắm chưng, cái gặc-măng-dê trữ trên ba lô, thời chiến và thời bình,

vẫn thế. Nguyễn Tuân sành ăn và kĩ tính, tuyệt nhiên không xô

bồ…”[22,tr.403]

“Cũng lạ, cái mà bình thường. Bài bút kí Phở đã đưa tác giả vào hàng

những tay cực thạo món này. Ít ai biết Nguyễn Tuân chỉ ăn một thứ phở, phở

chín, phở thịt bò chín. Không đụng đũa vào bất cứ thứ phở nào khác. Thịt bò

chín, nạm hay mỡ, bánh vừa phải không nẫu vồng lên, không thái sẵn và thái

máy như Sài Gòn mà Nguyễn Tuân gọi đùa là vằn thắn phở. Xúc bánh xong,

thái thịt rồi bày lên rắc hành hoa và hạt tiêu, không ớt mặc dầu thích ớt cay.

“Ông nào phở xào, tái sách, tái dúng hay tái lăn, sốt vang lại đập quả trứng,

thêm một cục mọc thịt lớn, một miếng giò lụa, hay phở thịt gà, thịt ngỗng, thịt

chó rựa mận thì tuỳ. Tôi không ăn phở để tẩm bổ”. Lùa thật nhanh, ăn thật

nóng nên hết chất phở thú nhất. Không hành tây, mùi tàu, húng chó, không

thêm nước mắm, dấm ớt, tương ớt, không mỡ váng, không mỳ chính, cố

thưởng thức cái tinh tuý của nước dùng xương…”[22,tr403].

Dấu chân Tô Hoài đi đến đâu, phong tục tập quán mọi miền quê đi vào

trường nhìn của nhà văn đến đó. Chỉ với cảm quan hiện thực đời thường, với

một khả năng quan sát đặc biệt mọi phương diện phong tục trong cuộc sống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

55

sinh hoạt mới đi vào trang văn của Tô Hoài trong sự phong phú, sinh động

như thế. Với nhãn quan phong tục, Tô Hoài đã đem hương sắc riêng của đời

sống và tầm hồn dân tộc đưa vào những sáng tác của mình.

Khi miêu tả chân dung Như Phong, ta thấy, hình ảnh Như Phong dường

như bị chìm đi trong cái thế giới màu sắc phong tục riêng vô cùng phức tạp,

xô bồ, nhếch nhác của giới văn nghệ sĩ một thời:

“Những người viết văn, viết báo ở Hà Nội thời kì này sống ồ ạt, phóng

túng, làm ăn và chơi bời, không ai cho như thế là không bình thường. Nhưng

chúng tôi cũng không hẳn là những tay trác táng đến vụt mặt xuống. Sống và

sáng tác, chúng tôi vừa ngoi ngóp, lại vừa tự vượt lên. Cuộc sống thời thượng,

sa đoạ kề cạnh những hoạt động mê mải, hăng hái. Có khi thức trắng đêm viết

một một cái truyện ngắn trên gác một nhà ả đào ở dưới Ngã Tư Sở. Không thể

cắt nghĩa được, chỉ thấy là ngang tàng, tối hôm trước ngủ xăm đầu phố Sinh

Từ, sáng hôm sau xông đi gặp tờ-rốt-kít Nguyễn Tế Mĩ tranh luận lôi đình. ở

một tiệm hút cuối phố hàng Chiếu, âm thầm nghi ngút như trong cửa điện

đồng cô, cãi nhau ầm ĩ về H. Bác buýt, về Phit- ni- ê…

(…) Nghe có người kì cạch trèo lên thang gác, rồi tiếng đội nắp cửa

lên. Hẳn phải là khách quen. Rồi cũng chẳng ai để ý. Bóng tối âm u vẫn trùm

lẳng lặng.

Người ấy nhô đầu lên một lát cho lại mắt rồi vịn phải đến chỗ chúng

tôi. Chẵng rõ mặt mũi, nhưng thấy trên đầu trăng trắng vành khăn ngang. Biết

rồi cái anh này đã từng vung ba- tong giơ nắm đấm hô ủng hộ đám biểu tỉnh

của chị em tiểu thương chống thuế, ở cửa chợ Đồng Xuân, mặc với rồng đội

xếp cứ phun nước vào giữa mặt.

Như Phong “à” một cái, không nghe rõ là thở dài hay tiếng kêu nhận ra

người quen. Người chít khăn ngang ngả vào giường chúng tôi. Anh cứ tự

nhiên kéo một điếu rồi nằm yên thưởng thức hơi thuốc ngấm vào trong mình.

Nghe chừng một lát mới lại hơi, rồi rầu rầu nho nhỏ:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

56

- Bố tao chết đã được một tuần nay. Biết tin thế, mà chẳng cách nào

về được.

Im lặng.

Như Phong mở ví nói:

- Này, cầm tiền mà về làm ma cho bố mày.

Người ấy nhét tờ giấy bạc vào ngực áo, rồi ngóc cổ lên, tay đặt vào

dọc tẩu, tay xoe tiêm trên đèn sắp sửa làm điếu nữa. Cái môi thưỡi ra, nhầy

lên một màu thật đói khát trong ánh đèn dầu lạc lờ mờ.

Như Phong dằng cái tẩu rồi thong thả nói từng tiếng:

- Mày xin tiền tao để làm ma bố mày đã mấy lần, quên rồi à? Tao bảo

cho mày biết lần này là lần cuối tao thí cho, từ nay mà mày còn mở mồm ra

xin tiền làm ma bố nữa, ông đấm vỡ mặt, biết không!”[17,tr.123].

Tô Hoài thường dễ có cảm hứng trước những phong tục lạ. Ông có thể

phát hiện được những phong tục không hẳn đã quen thuộc với mọi người

ngay ở vùng nông thôn đồng bằng hay thủ đô Hà Nội. Khi dựng chân dung

Như Phong, ta thấy hình ảnh của Như Phong dường như bị chìm đi trong cái

thế giới có màu sắc phong tục riêng vô cùng phức tạp và nhếch nhác của giới

cầm bút một thời.

Khi dựng những chân dung văn học, Tô Hoài thường gắn phong tục với

những sinh hoạt đời thường trong các mối quan hệ gia đình, bạn bè, làng xóm.

Bức tranh phong tục được miêu tả gắn liền với các chân dung nhân vật làm

cho người đọc hiểu được sở thích, tâm lí, cũng như con người “tinh thần” bên

trong của họ. So với các nhà văn khác, khi dựng chân dung của nhân vật, họ

thường kể về những chiến công, những đóng góp của nhân vật đó với cuộc

đời và xã hội. Với Tô Hoài, ông không kể nhiều về sự nghiệp sáng tác của họ,

mà ngòi bút của ông thiên về cuộc sống đời thường, thậm chí cả những thói

xấu, tầm thường vặt vãnh của chính mình và các nhà văn khác. Phong tục tập

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

57

quán trong những sáng tác cuả ông bao giờ cũng gắn với những chuyện đời

thường của cuộc sống.

Chính vì vậy, khi đọc những tác phẩm chân dung văn học của Tô Hoài ta

cảm thấy những nhân vật nổi tiếng ấy thật gần gũi, thật thân thiết. Khoảng

cách giữa họ - những cây bút văn chương lớn của nước nhà - với chúng ta -

thế hệ sau này trở nên gần gũi. Những bức chân dung hết sức chân thực mà

Tô Hoài đã dựng lên trong tác phẩm thật quí giá biết bao, đây là những đóng

góp hết sức to lớn trong sự nghiệp sáng tác của ông.

2.3. CHÂN DUNG MỘT SỐ NHÀ VĂN VÀ BỨC CHÂN DUNG TỰ HOẠ

Chân dung Nguyên Tuân:

Nguyễn Tuân với vóc dáng của một chàng trai trẻ những năm 30 đỏm

dáng và ăn chơi khác người, ông xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm. Đó là một

con người tài hoa, uyên bác, và giàu lòng tự trọng, cầu kì cẩn thận trong mọi

nếp sống, không xô bồ, vồ vập mà kín đáo, thâm trầm. Với tính cách ngang

tàng, dường như không chịu khuất phục ai, Nguyễn Tuân từng quan niệm “tự

do là không bờ bến, không chính trị, nhưng cũng không bao giờ lung tung…

Cái ngang ngang Nguyễn Tuân một mình một tính làm cho người ta hiểu lầm

những chuyện khác thường nhưng tế nhị”[22,tr.485]. Con người ấy trong tác

phẩm được mệnh danh bằng một loại từ ngữ “cây sáng kiến ăn chơi", “tay

sành ăn và kĩ tính”. Cái thú đi là một trong cái thú lớn nhất trong đời ông, đó

là sở thích, là đam mê của ông. “ Cái thúc giục vẫn là những cơn đói đi của

mình”[22,tr.392], “lo cho việc đi là yêu đi và biết hưởng thụ đi. Mải mê quên

ngày tháng, nhưng tính đếm sửa soạn thì phải nhớ từng ly"[22,tr.395]. Có lẽ

vì thế mà không phải ngẫu nhiên Nguyễn Tuân mượn câu của P. Môrăng làm

đề tựa cho cuốn tiểu thuyết Thiếu quê hương của mình, đó là: “Ta muốn sau

khi chết đi rồi da ta được thuộc làm cái vali”.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

58

Con người ấy yêu ghét ai thì khó mà dấu được bởi tính tình “thẳng như

ruột ngựa”. Con người ấy không chịu được những gì giả dối vòng vèo, cho

nên đã từng nói với Tô Hoài: “Không biết thằng này thế nào là thật! Tao ghét

cái cười mủm mỉm hiền lành không hiền lành của mày”[22]. Trong đợt chỉnh

huấn, Nguyễn Tuân ngồi im nghe mọi người giúp đỡ, gợi nhớ những câu đã

chửi ai, đã nói ác với ai như thế nào mà Nguyễn Tuân không nhớ nói lúc nào.

Nhưng nghĩ chắc có nói không phải người ta vu. Chỉ không tưởng được người

ta lại đem cái câu chuyện giễu cợt ấy ra chỗ nghiêm chỉnh thành chuyện tày

trời, “chỉ Nguyễn Tuân mới nhớ lâu và để bụng những câu góp ý ấy”, không

tiếp thu, cũng chẳng nói lại, “có những người rồi Nguyễn Tuân không bao giờ

dàn mặt nữa”[22,tr.473].

Dựng chân dung Nguyễn Tuân, Tô Hoài còn nhìn thấy trong cái con

người ác khẩu đến mức nghiệt ngã ấy cũng là con người tình nghĩa với bạn

bè, bao giờ cũng gửi thiếp chúc mừng những người quen biết, tặng hoa hồng

cho những người ông quý trọng, chia sẻ từng chén rượu ngon với bạn bè. Đối

với Tô Hoài, mặc dù Nguyễn Tuân “còn nhiều cái không bằng lòng”, thậm

chí “chán chường cả năm không nhìn mặt song lâu lâu không được tào lao vài

ba câu lại thấy văng vắng”[22], và khi Tô Hoài đi công tác Hà Giang hay Lai

Châu “lâu lâu thế nào cũng được thư Nguyễn Tuân, khi gửi từ Hà Nội, khi

Lao Cai, khi Vĩnh Linh, khi Matxcơva”[22]. Yêu lớp trẻ, gọi lớp con cháu là

“anh” nhưng khi dửng nhỡ mồm, mà tâm sự vài điều “tiêu cực” mà ăn đòn.

Với chân dung Nguyễn Tuân điều rõ nhất ta thấy ở nhà văn ấy là sự độc

đáo, tài hoa trong cách sống, và cũng là con người độc đáo, tài hoa trong sự

nghiệp. “Tác phẩm của Nguyễn Tuân khiến có người mê Nguyễn Tuân như

điếu đổ, từng chữ”[22]. Song không thiếu những kẻ đố kị ganh ghét, soi

mói… vì thế mà sự sáng tạo cứ được nhìn từ góc độ chính trị “lên xuống theo

thời tiết”, khiến Nguyễn Tuân đã phải cáu kỉnh, chua chát, mà nói rằng: “Mày

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

59

bảo chúng nó viết đi để ông với mày đi chơi, thế là biên chế bớt được người

công tác theo dõi”[22]. Chân dung khép lại với cảm xúc bâng khuâng của tác

giả khi nghe đài báo về cái chết của Nguyễn Tuân: “Đêm qua nghe đài báo

ông Nguyễn Tuân chết rồi. Tôi nghĩ vẫn như buổi tôi ngồi uống một mình

nhưng Nguyễn Tuân đã nằm yên từ buổi sáng, trước hôm tôi ra đây. Nguyễn

Tuân! Nguyễn Tuân ôi! ô hô”[22,tr.663-664].

Dựng chân dung Nguyễn Tuân, Tô Hoài đã phác hoạ rất đậm nét về

những kỉ niệm giữa đời thường với Nguyễn Tuân, những chuyện vụn vặt của

cuộc sống, song không phải vì thế mà người đọc bớt đi lòng kính trọng và

cảm phục Nguyễn Tuân.

Chân dung Nguyễn Huy Tưởng:

Với Tô Hoài, tác giả của Sống mãi với Thủ đô là một con người hiền

lành, chân thực, xốc vác với công việc chung “Nguyễn Huy Tưởng vốn trầm

mặc, dẫu gặp việc vô vập, bồn chồn, anh vẫn giữ điềm nhiên”[17,tr.41]. Là

một con người có kỉ luật trong công việc, thích viết nhật kí, thích sưu tầm tài

liệu, thích ca tụng L.Tônxtôi:

“Nguyễn Huy Tưởng từng tròn mắt ca tụng khấn vái L.Tôxtôi, Ifxen…

và ở mỗi người bạn, mỗi cán bộ cấp cao, Nguyễn Huy Tưởng đều tìm ra

những ưu điểm để tô hồng. Ai nấy đều cười và quen đến độ, Nguyễn Huy

Tưởng sắp khen và biết khen thế nào rồi” [22,tr.434].

Con người ấy nghĩ thực, nói thực và bao giờ cũng nhìn người, nhìn sự

vật ở những khía cạnh tốt đẹp nhất, cho nên khi gặp cái gì tráo trở, bất thường

thì không thể thích nghi ngay được. Nguyễn Huy Tưởng không chịu tin rằng

cũng con người ấy làm gì có chuyện khi ở rừng gian khổ thì tốt đẹp, về thành

phố lại đổi thay: “Chúng nó cũng vẫn là chúng mình cả thôi, chẳng lẽ chỉ biến

đâu một lúc, trở lại là thằng khác à?”[22,tr .434].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

60

Đến thời kì Nhân văn Giai phẩm, khi gặp thời cuộc thay đổi Nguyễn

Huy Tưởng trở nên trầm mặc, buồn, dường như trong con người của nhà văn

có một sự băn khoăn, trăn trở, có những khủng hoảng trong tư tưởng. Nguyễn

Huy Tưởng trở nên “lầm lì, đăm chiêu, ít nói và có nói cũng khác hẳn mọi

khi. Nguyễn Huy Tưởng tâm sự: “Cậu bảo tớ bắt chước Titô? Không phải. Tớ

là Cộng sản Việt Nam”[22,tr .435]. Là Cộng sản Việt Nam luôn trung thành

với Đảng cho nên khi nghe tin Nam Tư bị đuổi khỏi Cục Thông tin quốc tế,

rồi năm 1956 xảy ra sự kiện Hung ga ry, Nguyễn Huy Tưởng mấy đêm không

chợp mắt. Nguyễn Huy Tưởng băn khoăn, có những ý kiến khác những lời

bình trên các báo, Nguyễn Huy Tưởng nói: “Nước Hung ga ry trong phe xã

hội chủ nghĩa, nhưng trước nhất nước Hung ga ry là nước Hung ga ry đã. Các

ông thấy thế nào? Tôi không hiểu, tôi không hiểu”[22,tr.434].

Trong công việc, Nguyễn Huy Tưởng là người say mê, giàu nghị lực, đã

chuẩn bị viết thì phải viết bằng được. Sống mãi với Thủ đô được viết trong

hoàn cảnh nhà văn đã thực sự thâm nhập với cuộc sống, đã trưởng thành cùng

với kháng chiến của dân tộc: “Nguyễn Huy Tưởng đã công phu, cẩn trọng cho

tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô. Mấy năm đầu trở về, Nguyễn Huy Tưởng đã

viết xong tập 1. Những trang bản thảo chữ rõ nét, đều đặn, được chép ra, đánh

máy cẩn thận” [17,tr.53]. Với công việc nào cũng vậy Nguyễn Huy Tưởng

cũng hết sức nhiệt tình, sôi nổi và cẩn trọng.

Chỉ vài nét thấp thoáng thôi, nhưng chân dung Nguyễn Huy Tưởng đã

để lại cho chúng ta - những độc giả những ấn tượng khá đậm nét về con

người này.

Chân dung Nguyễn Bính:

Khi đọc những vần thơ chân quê của nhà thơ Nguyễn Bính, người đọc

hình dung đó là một con người giản dị, mộc mạc, chân chất như vần thơ của

nhà thơ. Ấy thế mà ngoài đời, Nguyễn Bính lại là một con người khác, một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

61

con “ma men” tuỳ tiện và phóng túng trong lối sống sinh hoạt. Kí ức của Tô

Hoài về nhà thơ này không nhiều song người đọc nhớ mãi cái bệnh trăng hoa

của Nguyễn Bính. Có lẽ nhớ nhất kỉ niệm đau xót trong một lần say đến quên

trời đất. Say đến mức đem cho thiên hạ đứa con đẻ của mình. Và để rồi “kể

câu chuyện đau đớn ấy, mỗi khi nhắc lại lần nào Nguyễn Bính cũng

khóc”[22,tr.433]. Làm chủ nhiệm tờ báo Trăm hoa, song đối với Nguyễn

Bính “đời là một cuộc chơi dài, mà thiên hạ phải cung phụng nhà thơ”, “làm

biên tập báo như làm khoán, cốt được việc chẳng cần giờ giấc bàn giấy”,

“hứng thì làm thơ lên thì tung hê công việc, thích đi chơi thì vay tiền, “cơ

quan lúc nào chẳng có tiền, vài ba đồng bạc đáng là bao”[22,tr .429]. Mới làm

quen với Tô Hoài, Nguyễn Bính đã hỏi xin tiền:

“Bắt tay rồi, Nguyễn Bính hỏi tôi:

- Này có tiền không?

Như đã biết nhau từ bao giờ. Tôi cảm động được anh hỏi han thân tình

như thế. Tôi mỉm cuời. Thế là cũng chẳng đợi tôi trả lời, có lẽ cái cười hiền

lành của tôi đã khiến anh ấy thấy tôi sẵn sàng rồi. Anh sai luôn:

- Vào nhà bánh giò “Đờ - măng” chỗ kia, mua dăm chiếc nhé, năm

chiếc cũng không thừa đâu. Từ sáng tới giờ tớ chưa được miếng nào vào

bụng”[17,tr.141].

Những bài thơ tình của Nguyễn Bính từng được độc giả yêu quí gối đầu

giường vậy mà cũng là con người có tính trăng hoa, lăng nhăng, “biết bao

người con gái đã theo thơ đến với Nguyễn Bính. Nhưng cuộc đời hoa thơm

bướm lượn không giống như thơ, không như thơ. Thế thì lại vứt bỏ. Người

con gái đã đến với Nguyễn Bính khi làm báo Trăm hoa cũng chẳng được bao

lâu. Chỉ tội đã có với nhau một mụn con”[22,tr.432]. “Dẫu có những bức thư

tình kia là những bằng chứng sống về lời thề sông cạn đá mòn, có lúc dọa cắt

tóc đi tu và uống thuốc phiện dấm thanh cho chết, nhưng chẳng có người con

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

62

gái nào yêu thơ rồi say mê người làm thơ đến bỏ nhà đi theo

không”[17,tr.143]. “… Ở cái thời mà những thói tục phiền nhiễu và đồng tiền

to hơn nghìn vạn lần tình cảm và tóc thề, trăng thề của con người”[17,tr.143].

Nhưng trăng hoa thế mà “suốt một thời thanh xuân, tôi cũng chưa thấy anh

một lần nào lấy vợ”[17]. Ít lâu sau báo Trăm hoa bị đóng cửa, Nguyễn Bính

bị điều về Ty văn hoá Nam Định. Kỉ niệm về Nguyễn Bính trong kí ức của Tô

Hoài chỉ còn lại là hình ảnh “thỉnh thoảng chỉ thấy nhăn nhó rầu rĩ”.

Dựng chân dung Nguyễn Bính mặc dù Tô Hoài đã tạo dựng những gì

hết sức chân thực về con người này, nhưng bên cạnh đó Tô Hoài vẫn không

thể không khẳng định “tầm vóc mỗi câu thơ Nguyễn Bính”, “Trên chặng

đường ngót nửa thế kỉ đời thơ, mỗi khi những gắn bó mồ hôi nước mắt kia

đằm lên, ngây ngất, day dứt không thể yên, khi ấy xuất hiện những bài thơ

tình quê tuyệt vời của Nguyễn Bính”[17,tr.151]. Mặc dù vậy, đọc những dòng

hồi tưởng của Tô Hoài tạo dựng bức chân dung tinh thần của Nguyễn Bính

khiến cho ta có một cái nhìn không giống những gì mà ta đã hình dung được

qua những trang thơ, song vì thế mà chân dung của Nguyễn Bính trở nên chân

thực hơn, đời thường hơn. Khoảng cách giữa nhà văn và bạn đọc trở nên gần

gũi hơn, không có sự lí tưởng hoá, không phóng đại và tô hồng mà trở nên

chân thực hơn. Trong con người ấy có cả mặt tốt và mặt xấu, cái tốt cái xấu

lẫn lộn. Kỉ niệm về Nguyễn Bính tuy buồn, rất buồn, nhưng người đọc cũng

có thể chia sẻ một phần nào nỗi đau mất con - nỗi đau đã trở thành niềm nhức

nhối trong suốt cuộc đời nhà thơ. Dựng bức chân dung Nguyễn Bính ta vẫn

thấy những giá trị tuyệt vời của những vần thơ mà ông đã để lại cho bạn đọc.

Chân dung Xuân Diệu :

Bức chân dung Xuân Diệu trong tác phẩm Cát bụi chân ai của Tô Hoài

không phải được tạo dựng bởi những hồi tưởng về cuộc đời và sự nghiệp nhà

thơ, mà được tạo dựng qua nỗi đau tinh thần mà nhà thơ phải chịu đựng. Với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

63

những dòng hồi ức về nhà thơ, Tô Hoài phần nào đã hé mở nỗi đau thầm kín

của nhà thơ. Viết về Xuân Diệu, ta thấy Tô Hoài không hề ngần ngại kể về

những chuyện đời tư, những chuyện kín của Xuân Diệu, khiến ta cảm nhận

được Tô Hoài hiểu nhà thơ đến tận chân tơ kẽ tóc. Có lẽ không ai khác ngoài

Tô Hoài dám dũng cảm bộc lộ điều này: “Thỉnh thoảng Xuân Diệu lại lên nhà

tôi. Vẫn tay nắm cả buổi, nhìn nhau tha thiết, Xuân Diệu yêu tôi"[22,tr.541],

“Xuân Diệu cầm cổ tay tôi nắm chặt rồi vuốt lên vuốt xuống. Bốn mắt nhìn

nhau đắm đuối, Xuân Diệu gắp thức ăn cho tôi. Cử chỉ thân thiết

quá”[22,tr.541]. Rồi Xuân Diệu cũng bị kiểm điểm. Con người tài hoa thường

bạc mệnh. Đọc những vần thơ của ông về tuổi trẻ, tình yêu ta thấy ông yêu

đời và khát khao giao cảm với cuộc đời, khát sống như vậy mà trong hồi kí

của Tô Hoài, ta lại bắt gặp một con người cô đơn và bất hạnh. Con người

không bao giờ biết tuổi già bởi đã từng viết về mùa xuân vĩnh hằng với những

hăm hở và vồ vập ấy đã có lúc phải buột miệng thốt ra: “Chúng mình đã già

rồi”[22,tr.548]. Song trên hết, kí ức của Tô Hoài cũng tô đậm những nét đẹp

trong tâm hồn và cách sống của ông: “thắm thiết, tình nghĩa với bạn bè”.

Đọc nhưng nét phác họa về chân dung Xuân Diệu của Tô Hoài người

đọc bỗng trào lên một cảm xúc, một cảm thông chia sẻ với nỗi đau, nỗi bất

hạnh của “nhà thơ tình không tuổi” này.

Chân dung Nguyên Hồng:

Nguyên Hồng được coi là “nhà văn của người cùng khổ”, Tô Hoài đã

dựng lên một con người đa sầu, đa cảm, dễ khóc. Dựng bức chân dung về

Nguyên Hồng ta thấy Nguyên Hồng có lúc cũng thật yếu đuối: “Nguyên

Hồng quỳ xuống trước tôi, rồi cứ phủ phục thế, khóc thút thít”[22,tr.491].

Nhưng trong con người ấy cũng có lúc cứng rắn đáo để: “Ừ, Nhã Nam. Đủ,

đủ lắm rồi. Ông đéo chơi với chúng mày nữa. Ông về Nhã Nam”[22,tr.492].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

64

Đọc những dòng hồi tưởng về chân dung Nguyên Hồng, ta hình dung ra

một Nguyên Hồng dằn vặt trong những cuộc họp kiểm điểm với nước mắt

lưng tròng. Nguyên Hồng vốn dễ khóc và hay mau nước mắt. Bên cạnh đó ta

còn hình dung ra một Nguyên Hồng nhếch nhác, luộm thuộm, nhưng lại hết

sức chân tình với bạn bè, và luôn coi trọng công việc. Một con người luôn tốt

bụng và cởi mở: “Ai nhờ tiêm, Nguyên Hồng tiêm ngay. Lại còn hỏi bệnh,

đoán bệnh và bảo người ta phải để mình tiêm. Như một thầy thuốc, một y tá

thực thụ”[17,tr.98].

Nguyên Hồng sống giản dị gần gũi với mọi người. Hình ảnh Nguyên

Hồng được Tô Hoài tạo dựng qua dòng hồi tưởng “như một viên chức bậc

trung giữa đường công vụ - như một lão nông về quê sau chuyến đi xa - một

kẻ lang thang suốt đời đi tìm đất mới”. Đối với Nguyên Hồng, quần lành áo

tốt hay áo quần lôi thôi, đều chỉ như vậy”[17,tr.102]. Hình ảnh nhà văn nổi

tiếng ấy cũng hết sức bình thường giản dị như bao nhiêu con người bình

thường khác. Một nhà văn dân dã với nhiều phẩm chất nhưng cũng không ít

những cá tính, thói tật. Với cách dựng chân dung giữa cái bộn bề phức tạp của

cuộc sống, ta thấy những nhân vật - chân dung những con người nổi tiếng tuy

không được tô vẽ, không phóng đại, hay lí tưởng hoá nhưng cũng không làm

mất đi niềm yêu quý của độc giả. Với những chân thực ấy mà độc giả càng

cảm thấy gần gũi và yêu quý và tôn trọng các nhà văn hơn.

Hình tượng tác giả - Bức chân dung tự hoạ:

Người ta vẫn thường nói “Văn tức là người”. Từ những trang văn của

Tô Hoài ta có thể hình dung ra gương mặt của Tô Hoài với những đường nét

cơ bản và khá rõ ràng. Những sáng tác trong mảng chân dung văn học, ta

không chỉ thấy được những chân dung các nhà văn, nhà thơ cùng thời với Tô

Hoài, mà ta còn thấy được bức chân dung của chính tác giả - bức chân dung

tự hoạ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

65

Trong những trang viết của Tô Hoài, ta thấy được tấm lòng ông thổn

thức cùng cảnh đời cơ cực, những số phận oan nghiệt đắng cay. Tình cảm của

ông thấm đẫm từng trang văn. Câu chuyện Nguyễn Bính mất con, ông viết

với giọng điệu đầy cảm xúc, với một niềm hi vọng, hi vọng không bao giờ

cạn rằng một ngày nào đó Nguyễn Bính sẽ tìm lại được bé Hiền, để cho trái

tim đau khổ của người cha, hết đơn côi, lạnh giá và ân hận. Trái tim Tô Hoài

là trái tim yêu thương và thông cảm sâu sắc với mỗi con người, mỗi số phận

của đồng nghiệp. Ông có trái tim của người đã từng trải qua những đau khổ,

cực nhục trong bước đường thăng trầm của cuộc đời. Vì thế mà trái tim ấy

rung lên những nỗi xót thương đối với những người cùng khổ.

Có trái tim chưa đủ, người nghệ sĩ cần phải có một lí trí sáng suốt. Ở Tô

Hoài ta thấy trong ông có một cái nhìn rành mạch, trắng đen không lẫn lộn,

với một thái độ rõ ràng. Ngoài vốn sống là chất liệu vô tận, là khâu nối liền

thường xuyên nhà văn với cuộc sống, ở Tô Hoài ta còn thấy một thế giới quan

đúng đắn. Thế giới quan có thể xem là “cái đầu của bộ máy sáng tạo, là linh

hồn của toàn bộ cơ thể sáng tác”. Thế giới quan cách mạng đã làm cho Tô

Hoài “sáng mắt sáng lòng”. Ông nhận được vẻ đẹp trong tâm hồn và nhân

cách của người nghệ sĩ. Đối với Tô Hoài vẻ đẹp của người nghệ sĩ hiện lên

chân chất mà vẫn lấp lánh ánh sáng phi thường, điều đó được toát lên từ hành

động lao động, cống hiến và hi sinh. Nét đẹp ấy được toát lên từ trong cuộc

sống đời thường.

Bên cạnh thái độ ngợi ca, ông còn có thái độ phê phán ẩn dưới một

giọng điệu hóm hỉnh, giễu cợt. Một lối hành văn hết sức tự nhiên, với một sự

“biến hoá, phức tạp một cách thú vị”. Những điều giễu cợt mỉa mai không

phải dành cho những nhân vật mà ông phác hoạ chân dung. Mà là thái độ của

ông đối với một thời kì đen tối, “đêm sâu tiền cách mạng”. Không chỉ là thái

độ của riêng ông mà đây là thái độ của cả một lớp người viết thời ấy.

Tô Hoài viết chuyện đời, chuyện làng văn với một thái độ khá khách

quan, ngòi bút thoải mái tự do và biến hoá khôn lường. Thế khi xây dựng bức

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

66

chân dung về mình thì sao? Hoàn toàn nhất quán trong cách viết, không ngại

ngần phanh phui ngay cả chính bản thân mình. Ông viết cả những câu nói của

bạn văn khi nói về ông, như nhận xét của Như Phong: “Thằng ngoại ô láu cá,

văn chương thì đẽo gọt”; hay Nguyễn Tuân cũng từng nhận xét: “ Chó biết

thằng này thế nào là thật! Tao ghét cái cười mủm mỉm hiền lành, không hiền

lành của mày”[22]. Và Tô Hoài cũng nhìn nhận về mình: “Có thể thế. Tôi

sinh ra nơi thành phố và làng mạc lẫn lộn, thế lực chánh lí không khạc ra lửa

như trời đất làng Đại Hoàng của Nam Cao, ở quê tôi túi bạc đâm toạc tờ giấy,

có tiền là có cả, bấy lâu tôi lăn lóc trong khóe đời ấy”[19,tr.154]. Cái “khóe

đời”mà ông lăn lóc ấy ít nhiều đã tác động, hình thành nên nét tính cách trong

con người ông. Ngay cả việc đã từng bị Nguyên Hồng chửi thẳng vào mặt ông

cũng không hề che giấu: “Tiên sư mày, thằng Câu Tiễn!...”[22,tr.491]. Phải

chăng vì thế mà ta hình dung ra Tô Hoài như một bức chân dung được phác

thảo giống như bất cứ bức chân dung nào khác; không thiên vị, không né tránh.

Không hư cấu, chẳng cần phóng đại, những tư liệu sống của Tô Hoài giúp ta

thấy được con người ông - một con người chân thật, luôn biết nhìn lại mình.

Thái độ khách quan đúng đắn ấy lại càng làm ta thêm yêu quý ông hơn, và đặc

biệt tin tưởng hơn về những tư liệu và những câu chuyện mà ông kể lại.

Với ngôn ngữ đời thường dung dị, ta thấy Tô Hoài rất hay sử dụng

những từ ngữ giàu hình ảnh với một sự liên tưởng mạnh bạo, đầy sáng tạo,

và hơn nữa ta còn cảm nhận ở ông sự dung dị mà sâu sắc trong phẩm chất.

Ngôn ngữ của ông được chắt lọc từ những gì tinh hoa nhất trong cuộc sống

đời thường.

Để có được điều đó, Tô Hoài phải trải qua một quá trình sống và làm

việc cần cù vất vả, một quá trình lao động sáng tạo nghiêm túc, say mê. Dựng

chân dung văn học ta thấy ở Tô Hoài là con người thâm trầm mà đôn hậu, dí

dỏm mà sắc sảo, khôn ngoan mà tinh quái. Như vậy nghiên cứu về thể loại

chân dung của Tô Hoài, ta có thể xác định rõ hơn vị trí của ông trong lịch sử

văn học.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

67

Chương 3

TÔ HOÀI VỚI TỰ TRUYỆN

3.1.CHUNG QUANH KHÁI NIỆM VỀ TỰ TRUYỆN

3.1.1. Khái niệm

Theo Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn

Khắc Phi đồng chủ biên, (Nxb Giáo dục năm 2006): “Tự truyện là tác phẩm

văn học thuộc thể loại tự sự do tác giả viết về cuộc đời mình…”[15].

Cuốn 150 thuật ngữ văn học do Lại Nguyên Ân biên soạn, (Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội, năm 2004) cũng đưa ra định nghĩa: “Tự truyện là tác phẩm

văn học tự sự, thường được viết bằng văn xuôi, trong đó tác giả tự kể và miêu

tả cuộc đời của bản thân mình. ”[3].

Philippe Lejeure nhà lý thuyết Pháp về thể loại tự truyện, đã định nghĩa:

“Tự truyện đó là một câu chuyện mà một người viết có thể ngược dòng thời

gian, kể lại đời mình, nhấn mạnh tới cuộc sống cá nhân, đặc biệt tới sự hình

thành tính cách”.

Khác với bản tự thuật về tiểu sử, lí lịch của nhà văn, tự truyện là tác

phẩm nghệ thuật làm cho quá khứ tái sinh. Nhà văn viết tự truyện như được

sống lại một lần nữa đoạn đời đã qua của mình. Nhà văn ở ngôi thứ nhất số ít.

Mặc dù lấy cái tôi - tác giả làm trung tâm, song cái tôi đó chỉ là điểm tựa để

tác giả mở ra nhiều cảnh đời, nhiều số phận có liên quan trực tiếp, nghĩa là tác

giả viết về mình song đồng thời cũng mở rộng diện miêu tả để qua cái tôi nói

về nhiều mối quan hệ xã hội. Như vậy tự truyện có thể bao quát hầu hết các

phương diện của cuộc sống đời tư, thế sự và sử thi.

Khác với hồi kí, nếu tác giả hồi kí thường lưu ý trước hết đến cái thế giới

bên ngoài ấy, thì tác giả tự truyện thường tập trung vào quá trình hình thành

và lịch sử thế giới nội tâm của chính mình trong sự tương tác của nó với thế

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

68

giới bên ngoài đến những người mình đã gặp, những việc mình đã thấy hoặc

tham dự.

3.1.2. Các đặc trƣng cơ bản của tự truyện

Tự truyện là tác phẩm văn học thuộc loại tự sự do tác giả viết về cuộc

đời mình

“Tự truyện là tác phẩm văn học tự sự do tác giả viết về cuộc đời

mình”[15].Vậy tự sự là gì? Tự sự là một khái niệm rất rộng có thể xét ở hai

bình diện: bình diện thứ nhất, tự sự như sự đồng nghĩa với “câu chuyện kể”

đối lập với miêu tả; bình diện thứ hai, tự sự được xem xét theo hành động kể

chuyện. Như vậy, ít nhất, đã bao hàm vấn đề người kể chuyện (điểm nhìn,

giọng điệu) người tiếp nhận, do sự lựa chọn đối thoại của người kể chuyện

(mà không phải là “người đọc” cụ thể mở rộng với bất kỳ ai). Tự sự tái hiện

hành động diễn ra trong thời gian và không gian, tái hiện tiến trình các biến cố

trong cuộc đời các nhân vật. Nét đặc thù của tự sự là vai trò tổ chức của trần

thuật: nó thông báo về các biến cố, các tình tiết như thông báo về một cái gì

đó đã xảy ra và được nhớ lại, đồng thời mô tả hoàn cảnh hành động và dáng

nét các nhân vật, nhiều khi còn thêm cả những lời bàn luận. Trần thuật giữ vai

trò chủ đạo trong tác phẩm tự sự, gắn bó tất cả những gì được tác phẩm miêu

tả. Các đặc điểm của tự sự phần lớn quy định bởi các đặc điểm của trần thuật.

Trong luận văn này, chúng tôi chỉ xem xét tự sự như là phương thức để tác

giả sáng tạo ra tác phẩm tự truyện. Tác phẩm tự truyện lấy phương thức tự sự

để phản ánh hiện thực qua bức tranh mở rộng của đời sống trong không gian,

thời gian qua các sự kiện, biến cố xảy ra trong cuộc đời con người, để thể hiện

tư tưởng và tình cảm của mình. Chúng ta khó có thể phân biệt rõ ràng giữa

hiện tượng bên ngoài với tư tưởng nghệ thuật bên trong tác phẩm. Tình tiết

trong tác phẩm giống như hiện thực bên ngoài tồn tại như cuộc sống vốn đã

tồn tại.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

69

Bằng việc sử dụng phương thức tự sự, tác phẩm tự truyện đã phản ánh

rất thực cuộc đời đã qua của nhà văn - nhân vật tôi trong tác phẩm, nhằm tái

hiện lại cuộc sống hiện thực dưới sự quan sát, miêu tả của nhà văn ấy. Các

đặc điểm của tự truyện phần lớn bị quy định bởi các đặc điểm của trần thuật.

Hình ảnh nhân vật “tôi” trong tự truyện hiện lên với những băn khoăn trăn

trở, với những khát khao lớn lao… Bên cạnh đó, cón có những dòng tâm sự

về mình, về những điều đã xảy ra trong quá khứ, với những hồi ức về tuổi

thơ, tuổi trưởng thành với những gì đã và chưa làm được, trong quá trình nhận

thức khám phá về con người và xã hội của nhân vật tôi trong tác phẩm. Cuộc

sống của nhân vật tôi - nhà văn dường như được tái hiện lại thông qua “lăng

kính” của nhà văn.

Trong tự truyện, nhà văn cũng thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình. Tư

tưởng tình cảm ấy cũng thâm nhập sâu sắc vào sự kiện và hành động bên

ngoài của con người và dường như thâm nhập tới mức ta khó có thể phân biệt

được. Nó yêu cầu nhà văn tái hiện lại đoạn đời đã qua của mình trong tính

toàn vẹn cụ thể - cảm tính phù hợp một lý tưởng xã hội thẩm mỹ, nhất định.

Nhà văn đóng vai trò trong tác phẩm như là nhân vật “tôi” đứng ra kể lại, tả

lại những gì xảy ra bên ngoài, khiến cho người đọc có cảm giác hiện thực

cuộc sống được phản ánh trong tác phẩm là một thế giới tạo hình xác định

đang tự phát triển, tồn tại bên ngoài nhà văn, không phụ thuộc vào tình cảm ý

muốn của nhà văn.

Vì vậy, cần khẳng định tự truyện là tác phẩm văn học tự sự do tác giả

viết về cuộc đời mình.

Đời tư của nhà văn chỉ là chất liệu hiện thực được tác giả sử dụng với

nhiều mục đích nghệ thuật khác nhau

Không giống như tự thuật yêu cầu nhà văn phải trình bày một cách súc

tích những sự kiện đã xảy ra trong cuộc đời của nhà văn, tự truyện lại yêu cầu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

70

nhà văn tái hiện lại đoạn đời đã qua của mình trong tính toàn vẹn cụ thể - cảm

tính phù hợp với một lý tưởng xã hội thẩm mỹ nhất định. Nhà văn viết tự

truyện như được sống lại một lần nữa đoạn đời đã qua của mình, đời tư của

nhà văn chỉ là chất liệu hiện thực được tác giả sử dụng với nhiều mục đích

nghệ thuật khác nhau.

Cũng không giống như một cuốn nhật ký ghi lại đầy đủ những gì diễn ra

trong cuộc đời, và không có sự cách biệt giữa thời gian viết và thời gian được

nói tới. Trong khi đó ở tự truyện chính sự hiện hữu của khoảng cách thời gian

ấy lại ngăn trở việc nhìn lại cuộc đời của bản thân mình như một chỉnh thể

duy nhất. Tác phẩm tự truyện thường có thiên hướng lý giải cuộc sống đã qua

(của tác giả) như một chỉnh thể, tạo ra những đường nét mạch lạc cho cuộc

sống kinh nghiệm của mình. Người viết tự truyện nhiều khi cũng vận dụng hư

cấu “thêm thắt” “sắp xếp lại”, các chi tiết của cuộc đời mình, nhằm làm cho

sự trình bày về cuộc đời ấy trở nên hợp lý, nhất quán.

“Tự truyện luôn luôn là hành vi khắc phục các thời gian đã lùi xa, là

mưu toan quay về thời tuổi thơ, tuổi trẻ, làm sống lại những đoạn đời quý giá

nhất, nhiều kỷ niệm nhất như là “sống lại” cuộc đời của mình từ đầu”. Tô

Hoài khi viết tự truyện, cũng quay lại trở về với thời thơ ấu, tuổi trẻ để ôn lại

những vui - buồn, được - mất trong cuộc đời của mình, cũng là để ôn lại, tìm

ra những kinh nghiệm trong cuộc sống. Stendhatl từng nói về lý do khi viết tự

truyện: “Tôi phải viết về đời tôi, có thể như vậy tôi sẽ biết được tôi đã từng là

ai…” và Montaigine cũng cho rằng qua quá trình viết tự truyện, ông tự khẳng

định mình, tự đào tạo mình. Như vậy ta thấy, tự truyện còn đáp ứng lý do, ý

muốn nắm bắt những gì không có hình hài, kỷ niệm. Những kỷ niệm đó sẽ trở

thành chất liệu hiện thực để nhà văn sử dụng với nhiều mục đích nghệ thuật

khác nhau.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

71

Thế kỷ XVIII, các nhà văn lãng mạn sử dụng đời tư của bản thân như

chất liệu để nhận thức, khám phá toàn bộ sự đa dạng và phức tạp trong hoạt

động tâm lý và đời sống tình cảm của mỗi cá nhân con người.

Thế kỷ XIX, các nhà văn lại viết về bản thân để phơi bày các mối quan

hệ giữa người và người, quan hệ con người và hoàn cảnh xã hội. Ví dụ như,

Banzắc đã “rải” vào tiểu thuyết của mình, bằng cách này hay cách khác ít

nhiều che giấu, những yếu tố cuộc đời riêng.

Đến thế kỷ XX, nhiều nhà văn thuật lại cuộc đời của chính mình để qua

đó phản ánh số phận của dân tộc, cộng đồng và thời đại. Như vậy, tự truyện

có thể bao quát hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự và sử thi.

3.1.3. Tự truyện trong hành trình văn xuôi Tô Hoài

Giáo sư Phong Lê từng nhận xét: “Hồi ức và tự truyện - đó là một mảng

viết đặc sắc, nếu không nói là đặc sắc nhất của Tô Hoài, nơi một bộ nhớ tuyệt

vời và một tuổi thọ khoẻ mạnh và minh mẫn”[34,tr.61].

Đọc Cỏ dại rồi đọc Tự truyện ta thấy Tô Hoài viết rất hay về mình, đó

là một sự nối kết liền mạch. Từ thời thơ ấu, đến tuổi trưởng thành, tất cả đã

tạo nên vóc dáng nhà văn Tô Hoài. Từ cuộc đời của nhà văn mà ta có thể hiểu

đời, hiểu người, và hơn nữa là hiểu cả một thời đã qua, mà nhà văn đã sống.

Tiềm năng giàu có này ở Tô Hoài ta thấy được bộc lộ rõ rệt nhất ở Tự

truyện. Viết về tuổi thơ ở tuổi 20 trong Cỏ dại, rồi cũng lại viết về tuổi thanh

niên ở tuổi 50 trong Tự truyện… Rồi ở tuổi già ông lại mở rộng kho hồi ức để

giới thiệu cho bạn đọc những nhà văn nổi tiếng - những người cùng thời, cùng

chung nghề nghiệp trong cuốn Cát bụi chân ai và Chiều chiều. Tác phẩm cứ

đều đặn ra đời, vẫn cùng trên một nguồn mạch, mà người đọc chẳng thấy Tô

Hoài vơi đi chút nào trong trí nhớ bền bỉ của mình. “Một quá khứ luôn luôn

được ông cho dồn vào hiện tại, được hiện tại hoá; nhưng vẫn trong trang phục

của quá khứ”. Không chỉ cái nhìn sắc nét mà cái tình vẫn đầy đủ mọi cung

bậc như thủa nào.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

72

Với Tự truyện, Cát bụi chân ai, rồi Chiều chiều và Cái áo tế, người đọc

luôn bị cuốn hút bởi những gì mới mẻ không trùng lặp, không mờ nhạt, kém

sút. Đó là một cảm hứng nhất quán. Một trí nhớ tuyệt vời. Một sức sống

không chút vơi cạn. Những hồi ức, những kỷ niệm của cả một đời người bao

giờ cũng in đậm trong trí nhớ của Tô Hoài. Theo ông: “Một việc, một người,

một nhận xét ở bất cứ quãng sống nào trong đời khi đạt tới mức thật tha thiết

thì có sức nhập vào, sức thúc đẩy (hoặc sức dằn vặt ta) cho ta những suy nghĩ

liên tiếp - nghĩa là những mầm mống của sự sáng tạo”[24]. Những mầm

mống của sự sáng tạo ấy phải được cất lên từ “hơi thở, từ mồ hôi và máu của

cuộc sống” [24]. Xuất phát từ quan niệm đó, Tô Hoài đã viết tự truyện về

mình. Với Tự truyện, Tô Hoài dựng lên cả một bầu không khí thời đại với

những diễn biến vui buồn, những băn khoăn trăn trở, những khao khát náo

nức, những gửi gắm lớn lao… Đọc hồi ức đó, ta thấy cả những dòng tâm sự

của nhân vật về mình: về những điều đã và chưa thực hiện được, cũng thấy

được cả những hồi ức tuổi thơ nhọc nhằn vất vả, thấy được cả quá trình khám

phá và nhận thức về con người và xã hội… Từ một Cu Bưởi cõng em rong

chơi trong làng chỉ mong lớn lên làm anh thợ dệt cửi như những đứa trẻ khác

trong làng, Tô Hoài tiếp tục mở rộng bức tranh sống đến tuổi học đường của

Cu Bưởi trong Mùa hạ đến, mùa xuân đi, rồi Cu Bưởi “ngày sau” lại thành

người viết văn, thành nhà văn tài năng viết lại những hình ảnh tuổi thơ của

mình. Cũng như Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng hay Sống nhờ của

Mạnh Phú Tư, Tô Hoài cũng góp được một áng văn hay và cảm động là Cỏ

dại. Từ Cỏ dại được gom chung và chùm Tự truyện tạo nên một chỉnh thể hồi

ức trong cuộc đời nhà văn.

Cỏ dại giúp chúng ta hiểu một cách sinh động những gì đã tạo nên tâm

hồn cũng như những nét đặc sắc trong phẩm chất nhà văn. Tác giả kể lại một

cách xúc động về “Những ngày thơ ấu nó leo hoang trong đám cỏ bên lề

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

73

đường đi. Cái giống cỏ dại, cỏ không tên, rườm rà, chen khít bò ngẩn ngơ

trong mấy khoảng đất rác rưởi”. Những ngày sống êm đềm ở quê ngoại với

mẹ, với ông ngoại trong căn nhà gạch cổ, với mảnh vườn bé tẹo sum suê cây

quả mà chú bé Sen khéo tổ chức thành một “Sở bách thú” hấp dẫn. Hình ảnh

của những người thân bên ngoại và bên nội lần lượt hiện về: người ông lặng

lẽ, hay rượu; người mẹ hiền lành đảm đang; đứa em gái lanh lợi, láu lỉnh,

không may bị bệnh sởi chết sớm; người cha vì mất việc phải bỏ nhà, phiêu bạt

vào Nam kỳ kiếm ăn; bà Ba - bà cụ thân sinh ra “mẹ già” của tác giả - sống

hắt hiu như cái bóng nhưng hết lòng yêu quý đứa cháu hờ. Tác giả kể lại

những kỷ niệm khó quên của đời học sinh, những ngày đầu đi học ở trường

làng thật khủng khiếp và buồn cười; hơn hai năm trời ra Hà Nội với người

bạn thân của bố, tiếng là trọ học, nhưng cả ngày quần quật làm đủ thứ việc

linh tinh của một cửa hàng tạp hoá: dọn hàng, đánh giày, cọ chai, lau xe, phụ

thổi cơm, rửa bát. . .

Thông qua những hồi ức sinh động, Tô Hoài đã miêu tả xã hội vùng

ngoại thành Hà Nội với những phong tục và những con người của nó, đã ghi

nhận cảnh đời ngày một lam lũ, bần hàn của người nông dân và cuộc sống

quẩn quanh, mòn mỏi của lớp thị dân nghèo.

Sau Cỏ dại là tập Tự truyện viết xong năm 1973, in năm 1976, tái bản

lần thứ hai năm 1984. Kể về cuộc sống của người thợ mỏ thủ công vùng

ngoại ô Hà Nội, kể về những gian truân, vất vả trên con đường đi tìm “miếng

cơm manh áo”, đi tìm lý tưởng, lẽ sống của người thanh niên trong xã hội cũ.

Với giọng điệu trầm buồn, tác giả kể lại chuyện mình, chuyện gia đình, làng

quê và xa hơn nữa đó chính là hình ảnh cuộc sống ngột ngạt bế tắc những

năm trước Cách mạng ở vùng quê của tác giả.

Với Cỏ dại và Tự truyện, người đọc thấy tác giả không chỉ tái hiện lại

cuộc đời của chính mình mà còn tái hiện cả bức tranh đời sống, bức tranh sinh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

74

hoạt trong môi trường sống của cá nhân nhà văn. Một không khí u buồn, đen

tối đè nặng trong tác phẩm thông qua giọng điệu trần thuật, thông qua sự việc

và con người hiện ra qua trang sách. Tác giả không đi vào phản ánh những

mâu thuẫn giai cấp dữ dội, quyết liệt song người ta thấy được tất cả sự buồn

chán về một kiếp người, buồn về sự bần cùng, bế tắc. Đâu đó trong tác phẩm

cũng le lói một chút hy vọng và niềm tin. Hình ảnh tác giả trong những ngày

lang thang kiếm sống ở trường đời là xã hội: hết bán giầy ở hiệu giầy Bata

đến làm kế toán sổ sách giấy tờ cho hãng, rồi những ngày thất nghiệp lang

thang vất vưởng, thậm chí cả đến mức đi ăn mày ở cửa chùa để kiếm “miếng

cơm manh áo”, những ngày phiêu bạt ra Hải Phòng… Tác giả đã kể lại hết

sức chân thực cuộc đời, cảnh ngộ của mình và của những nhân vật khác…

Người đọc hồi hộp dõi theo cả một quá trình khôn lớn, trưởng thành của nhân

vật Tôi, quá trình nhận thức, khám phá xã hội, quá trình hình thành nhân cách

của Cu Bưởi - hình bóng của Tô Hoài sau này. Nhân vật tôi như một sợi dây

xâu chuỗi biết bao cảnh đời số phận. Quá trình hình thành nhân cách của Cu

Bưởi cũng vậy. Bắt đầu từ những ngày tháng đến trường, chứng kiến những

cảnh đời bất công vô lý, ngoài xã hội, rồi lớn hơn một chút cậu bé nhận thấy

rằng những người nghèo khổ sống quanh ta mặc dù sống trong đen tối song

“vẫn biết mơ ước”và “khi hiểu được nguyên nhân do những thảm hại của họ,

nhiều người trong chúng tôi đã vứt đi cái hào hoa, ngông nghênh đó, thấy ra

mình đương ở đâu và phải làm gì cho đáng là con người”[19]. Kể từ đó nhà

văn đã bước vào cuộc đời với ý thức “phải làm gì cho đáng là con người”.

Tác giả đã tham gia hoạt động văn hoá Cứu quốc, đã viết những tác phẩm với

ý thức “miêu tả xã hội đau khổ”. Như vậy, khi viết về mình, tác giả đã miêu tả

không phải như một cái gì đó hoàn tất và cố định mà như một nhân cách biến

chuyển, đổi thay, được hình thành qua quá trình dạy dỗ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

75

Nếu như chất truyện đậm đà trong Cỏ dại, Tự truyện thì chất truyện

trong Cát bụi chân ai giảm đi, song chất hồi ký tăng lên. Tác giả ít đi vào

những cảnh đời và số phận song bù lại người ta thấy đậm chất hồi ký trong

việc khai thác đời tư các nhà văn. Những mẩu chuyện nho nhỏ đầy thú vị

(Chuyện Nguyên Hồng bắt bồ với mấy con mẹ hàng xén bị vợ đánh ghen,

chuyện Xuân Diệu phàm ăn bị Tào Tháo đuổi, chuyện Nguyễn Tuân tự huyễn

hoặc mình với cái máy chữ… ) Những vui buồn của cuộc chỉnh huấn năm

1958 được phản ánh rất rõ: “Các cơ quan Hội Nhà văn và nhiều công tác bị

lũng đoạn… Tư tưởng Nhân văn và Giai phẩm vẫn tồn tại, vẫn làm lệch lạc

chúng tôi… Ngổn ngang tâm sự và tâm trạng, chua chát mỉa mai lại hài

hước… Đến lượt ai cũng cứ suốt buổi ngồi chịu trận nghe nói xa xả, vi vút…

Tôi dự các cuộc chỉnh huấn đã nhiều, có người lo quá, cảm thông không chợp

mắt, như ở báo Cứu Quốc, một cậu bé còn trẻ, đã vào rừng thắt

cổ”[22,tr.473].

Mưa gió của cuộc chỉnh huấn đã tác động đến bao người. Dưới ngòi bút

của Tô Hoài, cuộc sống với tất cả những sắc thái thẩm mỹ đa dạng của nó lần

lượt hiện lên: có cả cái bi, cái cao cả và cái thấp hèn, cái đẹp, cái xấu lẫn lộn.

Tất cả như những sợi chỉ óng ánh nhiều mầu sắc pha trộn với nhau, tạo nên

tấm thảm cuộc đời.

Đọc Cỏ dại rồi đọc Tự truyện, Cát bụi chân ai ta thấy dường như có sự

pha trộn giữa hồi ký với tự truyện. Đọc những tác phẩm này, ta phải “ngạc

nhiên không hiểu sao người ta có thể viết hay đến thế về mình, để qua mình

mà hiểu người, hiểu đời, hơn thế, hiểu cả một thời”[32].

3.2. ĐẶC SẮC TRONG NỘI DUNG CỦA TỰ TRUYỆN CỦA TÔ HOÀI

3.2.1. Nhãn quan sinh hoạt, thế sự

Theo Nguyễn Tuân, mỗi người viết đều có nhãn quan riêng. “Nó đề ra

phong cách. Do thế mà anh thích tả nắng, anh thì thích tả mây tả mưa… anh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

76

thì có sở trường này, sở đoản nọ. Rồi cách đưa vấn đề, cách nhìn vấn đề cũng

khác nhau. Tất cả những điều đó thực chất là phong cách” [41]

Nói đến nhãn quan sinh hoạt, thế sự thực chất là nói đến cách nhìn

riêng, cách cảm riêng của nhà văn về đời sống. Đối với Tô Hoài: “Cuộc đời

người viết và những trang sách liền nhau - cuộc đời mà anh đã sống, đã trải,

bây giờ, thông qua một hình thức luôn luôn mới, thật mới, bởi vì cuộc sống và

đối tượng bạn đọc đòi hỏi thế”[24].

Mỗi nghệ sĩ - nhà văn có sự cảm nhận về thế giới hiện thực khách quan

khác nhau nên sự tái hiện lại hiện thực khách quan cũng khác nhau. Sự phản

ánh hiện thực khách quan ấy được thể hiện trong cả gia tài nghệ thuật của họ.

Chính vì vậy, mỗi nhà văn có một hệ thống đề tài riêng, không ai giống ai. Hệ

thống đề tài ấy người ta gọi là những vùng thẩm mỹ riêng, họ chỉ có thể cảm

hứng về đề tài ấy. Tất cả những cái đó xét đến cùng bắt nguồn từ nhãn quan

về thế giới. Đối với Tô Hoài cũng vậy. Nếu như ở các nhà văn khác có người

chỉ quen cảm thụ với những cái cao cả, thiêng liêng, những con người và sự

vật được tôn sùng, ngưỡng mộ thì Tô Hoài lại quan tâm đến những cái đời

thường, những chi tiết trong đời sống sinh hoạt. Có thể nói nhãn quan sinh

hoạt, thế sự chi phối trong cách kể, cách tả của Tô Hoài. Trước đây khi viết tự

truyện các nhà văn thường hay thi vị hoá các sự kiện. Điều đó cũng dễ hiểu

bởi đối với mỗi người, kỷ niệm, hoặc ấn tượng sâu đậm đã trôi qua thường

không bao giờ phai mờ trong ký ức và phần nào nữa nó lại được tắm trong

màn sương của hoài niệm, của thời gian, cho nên nói tự truyện ít nhiều có

chất thơ chính là vì lý do đó. Đọc tự truyện, hồi ký của Tô Hoài, hay của

những nhà văn khác như Nguyên Hồng, Mạnh Phú Tư, Thanh Tịnh. . . ta thấy

thật xúc động với những cảnh đời tư hiện lên thật thiêng liêng tha thiết vừa

buồn, vừa vui đan xen thể hiện rất thực cuộc sống đời thường.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

77

Dưới con mắt của nhà văn mọi kỷ niệm không chỉ được biến thành

những cái vĩnh hằng, cái cao thượng mà có cả sự vật, con người gần gũi với

đời sống hàng ngày. Nhân vật không chỉ được tắm mình trong cái ánh sáng

lung linh huyền ảo của quá khứ mà hiện ra như những con người bình thường,

thậm chí tầm thường. Chính điều này làm cho tự truyện của Tô Hoài có được

cái nhìn tiểu thuyết. Tính tiểu thuyết là ở chỗ: Ông đã tiếp cận cuộc sống

trong sự xô bồ gần gặn nhất. Với giọng điệu suồng sã, thân mật, có lúc bỗ bã,

Tự truyện của Tô Hoài đã trở thành một bức tranh sinh hoạt tỉ mỉ về đời sống

xã hội xung quanh ông, về nhân tình thế thái, về một số nhà văn lớn trong

những mối quan hệ thường nhật.

Trong sáng tác của Tô Hoài, chúng tôi nhận thấy trước cuộc sống hiện

thực muôn màu muôn vẻ, nhà văn thường đặc biệt quan tâm và có niềm say

mê mãnh liệt với con người và cuộc sống đời thường - đó là một cuộc sống

trong quan hệ thế sự, là những sinh hoạt phong tục, tập quán trong cuộc sống

đời thường của lớp người lao động bình dân và lớp dân nghèo thành thị. Ý đồ

thể hiện tư tưởng nghệ thuật Tô Hoài là cảm quan hiện thực đời thường. Cảm

quan ấy đã được hình thành từ sự vận động trực tiếp của hoàn cảnh gia đình

và xã hội, từ cá tính và quan niệm về văn chương của tác giả. Chính vì vậy mà

trong tự truyện của Tô Hoài ta thấy yếu tố đời thường nhãn quan sinh hoạt thế

sự được thể hiện rất sâu sắc. Cũng chính trong Tự truyện ta thấy một bầu khí

quyển chung của xã hội, một bức tranh quá khứ buồn, với những khát khao về

một cuộc sống có lẽ phải. Hoàn cảnh gia đình, xã hội và bản thân là cơ sở để

hình thành cảm quan hiện thực tác giả và được phản ánh rất đậm nét trong tự

truyện của Tô Hoài…

Tô Hoài sinh ra và lớn lên tại quê ngoại, trong một gia đình nghèo làm

nghề thủ công ở làng Nghĩa Đô. Hoàn cảnh đó khiến những ngày thơ ấu của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

78

nhà văn được sống trong niềm vui bình dị, khi lại chứng kiến những nỗi buồn

thấm thía, xót xa. Người cha của Tô Hoài vì cuộc sống đã phải từ giã quê

hương vào đồng đất Sài Gòn kiếm sống. Cảnh chia tay thật cảm động: “Bố tôi

nhổ vào lòng bàn tay mỗi đứa một bãi nước bọt. Làm thế để đỡ nhớ cho người

đi xa”[19,tr.35]. Rồi ngày tháng trôi qua nặng nề, tin tức của người cha dần

dần thưa thớt và bặt vô âm tín. Tiền gửi về cho con ăn học cũng thưa dần, thế

là Cu Bưởi phải rời kẻ chợ quay về cõng em, tha thẩn với chú Dế Mèn, rồi

học dệt, xắm giấy giúp mẹ. . . .

Hình ảnh người mẹ hiền lành, tần tảo, suốt một đời cam chịu số phận

nhọc nhằn trong cuộc sống vật chất và tinh thần là mảnh đời sống động ảnh

hưởng sâu sắc đến đôi mắt thơ ngây của nhà văn, ám ảnh mãi trong nỗi niềm

thương cảm nhà văn. Cái nghèo, cái đói cứ bám riết lấy gia đình bé nhỏ ấy,

suốt tháng “mẹ làm đến khuya lắm. Nhiều lúc thức giấc, nhìn ra vách hãy còn

ánh đèn lung linh”[19,tr.23]. Thế mà cuộc sống vẫn túng thiếu. Những nỗi

gian truân về vật chất của mẹ chưa thấm thía bằng nỗi đau tinh thần. Bởi đứa

con gái xấu số đã chết vì bệnh sởi, lại “có mấy năm rồi không bố tôi”, “người

làng bảo bố tôi đã lấy vợ ở trên Sài Gòn”[19], để lại nỗi buồn trống trải trong

tâm hồn người mẹ đáng thương.

Tuổi thơ Tô Hoài rất gần gũi với ông bà ngoại và các dì. Ông ngoại

“nghiện rượu ngữ”, khi thì ông sinh sự đánh bà, khi thì đay nghiến chửi bà

rằng “chỉ vì “Con mẹ trời đánh kia” mà ông không có con trai”[19,tr.15], để

rồi cuối cùng ông tìm gậy vừa hét vừa đạp tất cả… ; khi lại rất hiền lành âu

yếm kể biết bao nhiều chuyện ngày xưa…

Bà ngoại vừa cam chịu, cũng vừa lắm điều nhiều lời “không bao giờ im

được”, nên cuộc sống xô xát thường xuyên xảy ra. Mặc dầu vậy với “thằng

cu” bà lại là người mát tính và chiều chuộng hết lòng. Nhớ những ngày đầu đi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

79

học, bà dỗ dành đưa cháu đến tận trường, thậm chí còn phải vào lớp ngồi cạnh

cháu đến khi trống tan, bà ngoại dắt cháu về nhà…

Với các dì, cuộc sống quẫn bách nên cũng không còn thuần khiết như

xưa, cũng cãi lại cha mẹ, cũng tình ý với thầy giáo làng để bị đánh ghen giữa

nơi Kẻ Chợ, cũng đánh chửi đay nghiến con cái… Không khí gia đình đến

ngày phiên chợ thật hãi hùng: “Nhà người ta phiên chợ được hàng thì vui, nhà

tôi ngày chợ không chuyện này thì sinh chuyện khác. Hàng ít lại hàng xấu,

không đều, mặt hàng gùn gút lên, không ai mua. Thế là xảy ra những trận xô

xát giữa bà ngoại tôi và các dì tôi”, vậy nên “nhà tôi còn êm ấm sao được nữa,

trong khi sự túng thiếu càng gồ cổ mỗi con người lại và mỗi người đều cứ

ngày càng bẳn gắt với nhau, càng lúc thương lúc ghét nhau, thật hết sức thất

thường”[19,tr.164].

Họ hàng bên nội của Tô Hoài cũng nghèo lắm, đến nỗi ngày sinh của

con cháu cũng không biết. Ông bà nội lam lũ, nghèo khó quanh năm. Vậy là,

hai bên gia đình nội ngoại của Tô Hoài đều không có truyền thống văn

chương, mà chỉ “trang bị” cho nhà văn cảnh nghèo đói, quẫn bách, tuy chưa

tận cùng dưới đáy xã hội nhưng cũng đủ thấm thía nỗi khổ vì túng thiếu cơm

áo gạo tiền.

Là người con của tầng lớp lao động bình dân, lại được chứng kiến cảnh

buồn nhiều hơn vui của gia đình mình. Tô Hoài sớm chan hoà trong cuộc

sống gian truân đời thường để cảm nhận nó. Có lẽ vì vậy mà cảm quan hiện

thực của nhà văn “thấm được và thấm nhanh cái buồn”(Vân Thanh)

Vào nghề từ đầu những năm 40 của thế kỷ XX. Tô Hoài đã sớm chứng

kiến những sự kiện lớn không thể nào quên của những năm này. Những sự

kiện ấy có buồn, có đau khổ xót xa. Những năm tháng mà không khí ngột

ngạt đã bao trùm cả xã hội và lan dần vào từng ngõ xóm. Làng quê của Tô

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

80

Hoài chưa bao giờ lại “tiêu điều khốn khổ đến như thế. Nghề dệt lụa đã lụi bại

chết hẳn. Khung cửa người ta đem chẻ củi, bán làm củi. Người tha hương bơ

vơ những đâu, vãn cả làng. Trông trước thấy cái đói, cái chết mà không biết

làm thế nào”[19]. Từ đó những nét đẹp văn hoá, những nghệ thuật xã hội của

làng quê bị xáo trộn, tàn phá dữ dội “Người ta chơi chắn cạ, xóc đĩa, thò lò

suốt ngày, suốt đêm. Sát phạt nhau từ một xu trở lên, và cái sự mất trộm vặt

thì thường xảy ra luôn. Con chó con gà tha thẩn ngoài ngõ, vô ý không ai

trông mất ngoén ngay. Cái váy, cái quần phơi ngoài sân, biến là thường.

Thậm chí, ngoài vườn có mấy quả đu đủ xanh cũng bị vặt trộm. Không hôm

nào là không có người vác gậy, cầm mõ đi dong ra dong vào để chửi những

đứa ăn cắp vặt” [Quê người]. Xã hội làng quê ngày càng xơ xác tiêu điều

“Trên chợ Bưởi, người lang thang ở đâu đến ngày càng nhiều. Buổi tối lăn

vào ngủ trong các cầu chợ. Sáng ra thì nhiều người nằm lại, không còn sức bò

đi kiếm được nữa”[19,tr.317]. Cảnh đau lòng ấy không chỉ ở một nơi nào,

một vùng quê nào mà “ở đâu bây giờ cũng giống như chợ Bưởi, những chức

việc trong làng cả đêm phải đi rình đuổi không cho người đói đứng lại ở địa

phận mình, và hễ gặp cái xác nào, lập tức kéo vứt sang làng kia. Người ta sợ

phải chôn, chôn xác trần trụi không có cả chiếu bó, cũng phải mất tiền thuê

người đào huyệt. Tiền đâu mà hôm nào cũng thuê đào hàng chục cái huyệt.

Mà người đào huyệt bây giờ cũng hiếm”[19,tr.338].

Những ngày tháng đen tối ấy đã để lại trong tâm hồn Tô Hoài những

nỗi niềm trĩu nặng, và nó trở thành những hồi ức không thể nào quên trong

tâm hồn ông. Và những hồi ức ấy được ông viết lại vào trong tác phẩm tự

truyện. Cũng trong những năm tháng đen tối ấy, “Cách mạng lan rộng, phong

trào vùn vụt lên, vươn trên cả cái chết”[19,tr.326]. Trong đau khổ, trước cái

đói nghèo, trước sự tra tấn, bắt bớ, tù đày, họ vẫn một lòng tin vào Cách

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

81

mạng. Bởi họ hiểu rằng “Cách mạng đã gắn bó tuổi trẻ chúng tôi, với làng tôi.

Cách mạng là đường sống, dù gian nguy, nhưng là đường đưa tới thay

đổi”[19,tr.311] và thế là trong mỗi con người được thắp sáng một niềm tin.

Họ vượt qua tất cả để đến với Cách mạng để tìm đến một cuộc sống với ý

nghĩa đích thực của nó.

Vốn gắn bó với làng quê, chứng kiến mọi vui buồn, hay - dở cùng

những bước thăng - trầm, thịnh - suy của làng nghề truyền thống, Tô Hoài

hơn bao giờ hết cảm nhận thấm thía về đời sống xã hội từ nhiều chiều của nó.

Ông đã từng tâm sự: “Tôi lớn lên giữa những buồn vui, những gian truân,

trong vòng mọi tập tục, thói quen của lớp tuổi trong làng. Lúc đó, đang thời

kỳ Mặt trận Bình dân. Lý tưởng Cộng sản như giấc mơ đẹp đến với những

người thanh niên cùng lứa, cùng cảnh như tôi… Từ khi biết nghĩ điều hay cho

những ao ước của mình, tôi chỉ có một mạch nghĩ theo Cách

mạng”[19,tr.271].

Cũng giống như hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh bản thân cũng có tác

động ít nhiều đến nhãn quan sinh hoạt, thế sự trong tác phẩm Tự truyện của

ông. Tô Hoài từng phải kiếm sống bằng các nghề : thợ cửi, bán hàng, phụ, kế

toán, coi kho cho hiệu buôn giày, dạy học và còn sống qua những ngày thất

nghiệp tủi nhục không có một xu dính túi. Hoàn cảnh ấy đưa Tô Hoài về với

con người và cuộc sống dân dã bình dị và hơn lúc nào hết ông đã thực sự cảm

nhận cuộc sống trong muôn mặt đời thường của nó.

Ngay từ khi đến với nghề văn, Tô Hoài đã sớm nhận ra rằng “mảnh đất”

văn xuôi là nơi ông “canh tác”, là nghề sống của mình. Ngay từ khi bắt đầu

viết, ngòi bút của Tô Hoài đã hứng thú chuyển tải mọi chuyện vui buồn lên

trang sách. Ông đã trở thành một nhà văn không thể thiếu của con người và

cuộc sống đời thường. Ông cứ bám riết lấy cuộc sống trong một cảm quan

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

82

hiện thực đời thường để tung hoành ngòi bút. Với con mắt quan sát tinh tế lại

thấm đượm tình đời cho nên nhà văn cảm nhận cuộc sống theo một lăng kính

hoàn toàn nhất quán.

Vốn có khiếu quan sát tinh tế “con ruồi bay qua không lọt khỏi mắt”, Tô

Hoài đã cảm nhận rất sâu sắc về cuộc sống đời thường mọi góc độ với chiều

nhân bản của nó. Cùng với nhu cầu thôi thúc tự bên trong, Tô Hoài còn rất

say mê học tập và ham hiểu biết để tự trau dồi kiến thức cho mình, ông rất

chăm chỉ đọc sách báo, ghi chép hàng ngày một cách tỷ mỉ, chi tiết, từ giá cả

sinh hoạt chợ búa, đến tiếng nhà nghề, tiếng địa phương… Tất cả đã giúp ông

có vốn sống ngày càng phong phú, không những thế, ông còn nhận biết rõ

tầm quan trọng của việc quan sát, tích luỹ vốn sống. Chính điều đó đã giúp

ông nắm bắt rất nhanh nhạy và chính xác hiện thực cuộc sống.

Ông còn tham gia nhiều hoạt động xã hội, các hoạt động không biết mệt

mỏi ấy đã giúp nhà văn bắt rễ sâu hơn vào cuộc sống muôn màu muôn vẻ của

chúng ta. Những hoàn cảnh ấy là cơ sở để hình thành nên cảm quan hiện thực

của nhà văn.

Do nhãn quan sinh hoạt thế sự cho nên trong những tác phẩm của Tô

Hoài cuộc sống được tiếp cận ở mọi góc độ trong sự xô bồ gần gặn nhất của

đời sống xã hội. Đối với Tô Hoài không có sự phân biệt cái cao sang với cái

tầm thường, nhiều khi cái tầm thường lại là cái thú vị. Vì vậy so sánh với các

nhà văn khác ta thấy Tô Hoài thường thiên về miêu tả cái dung tục, nét tầm

thường hơn. điều đó cũng xuất phát từ “cuộc đấu tranh tư tưởng để viết”.

Trong “cuộc đấu tranh tư tưởng” đó, ông nhận thấy rằng không thể chỉ thuần

tuý tô hồng kỷ niệm, không thể phóng đại mình hay các nhân vật sống quanh

mình bằng kích thước, bằng bút vẽ của sử thi như các nhà văn trước đây.

Theo ông viết tự truyện không phải là để kể lể, để báo công hay tự đề cao hay

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

83

thanh minh với dư luận về một lỗi lầm nào đó, mà tự truyện phải miêu tả

mình với tất cả cái ngờ nghệch, vụng dại, non nớt… Một cậu bé hiền lành

nhút nhát. Một chàng niên đi theo Cách mạng với cái nhận thức buổi đầu còn

ấu trĩ… Rồi cả những ngày Cách mạng được miêu tả trong tự truyện cũng

vậy. Đâu phải là những trang nam nhi ra đi theo Cách mạng với một quyết

tâm lớn mà thơ ca thường tô vẽ họ. Tô Hoài không miêu tả họ với vóc dáng

của các nhân vật huyền thoại, mà bên cạnh cái đáng yêu nhiệt tình, sôi nổi,

xốc vác với công việc, Tô Hoài còn thấy ở họ có nét ngờ nghệch, ngây thơ,

vụng dại, và thấp thoáng đây đó trong tác phẩm của ông còn có cả những

nhân vật xu thời theo Cách mạng, những anh Cách mạng “đầu lưỡi”.

Ngay cả trong cái làng văn mà Tô Hoài miêu tả trong Tự truyện lúc bấy

giờ cũng được miêu tả như một cái “chợ đen”, có buôn đi bán lại, có cả các

tay anh chị, người thầu, có lừa lọc, ăn miếng trả miếng, xâu xé cướp giật

nhau.

Trong cái nhìn của Tô Hoài, quá khứ hiện ra lầm than, vất vả, cơ cực,

tủi buồn có những con người nhếch nhác, lam lũ, một cuộc sống vui ít buồn

nhiều. Cái buồn thấm sâu vào từng tế bào, từng chân lông của cơ thể xã hội.

Buồn về sự quanh quẩn cùng quẫn của một kiếp người lao động, buồn về sự

thiếu thốn của tình người, buồn vì một cái gì đang chìm đi, sắp tắt, song vẫn

không mất đi cái le lói, hy vọng, cái khao khát đổi thay, cái mong muốn một

cuộc sống có lẽ phải, có công bằng, có niềm đồng cảm với những con người

cùng cảnh ngộ.

Nhãn quan sinh hoạt thế sự làm cho tự truyện của Tô Hoài vừa có nét

riêng, vừa có khả năng nắm bắt và tái hiện đời sống, vừa có cái nhìn sắc sảo,

tinh quái dễ phát hiện ra cái phần thô kệch hài hước của đời sống. Cái nhìn ấy

là một phần trong phong cách của Tô Hoài, tạo nên chân dung của ông. Một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

84

cái nhìn vừa trẻ trung vừa già dặn, giọng điệu bỗ bã mà không hề làm mất đi

tính chất nghiêm chỉnh sâu sắc các vấn đề xã hội. Nhãn quan sinh hoạt thế sự

của nhà văn đã giúp người đọc có được cái nhìn từ bên trong, thấy được con

người tư tưởng với bao diễn biến thăng trầm, những cái uốn khúc phức tạp

cũng như thái độ của họ trước các sự kiện lịch sử xã hội.

Nhãn quan sinh hoạt thế sự giúp cho ngòi bút của Tô Hoài dựng lại

được không khí cuộc sống, không phải chỉ ở những biến cố hệ trọng mà còn

dựng lại không khí của những bức tranh sinh hoạt cụ thể mang đậm dấu ấn

thời đại. Đó là nét riêng khiến cho tự truyện của Tô Hoài khác hẳn so với các

nhà văn khác.

3.2.2. Tự truyện pha dấu ấn tiểu thuyết

Giáo sư Phong Lê từng nhận xét: “Đọc Nam Cao, thấy tiểu thuyết cứ

như là tự truyện. Đọc Tô Hoài lại thấy tự truyện cứ như tiểu thuyết [32,tr.39].

Tự truyện Tô Hoài mở ra khá rộng các giới hạn sống, ông tự kể về mình lại có

một người khác đang kể về ông và đó chính là cái làm nên chất truyện trong

kí ức của ông.

Có lẽ vì nhãn quan sinh hoạt thế sự, phong tục khiến cho tác phẩm của

Tô Hoài mang đậm chất tiểu thuyết. Chất tiểu thuyết không phải được thể

hiện ở chỗ tác giả dựng được những cuộc đời, những số phận đầy éo le, bất

hạnh mà ở việc tác giả đã phản ánh trong tác phẩm của mình cuộc sống với tất

cả tính sinh động, phức tạp, nhiều màu, nhiều vẻ của nó. Chất tiểu thuyết còn

được thể hiện trong cái nhìn cuộc sống của nhà văn, đó là cách nhìn ở một cự

ly gần, cho nên người ta thấy cuộc sống trong tác phẩm như bản thân nó đang

tồn tại, có cái cao cả cái vĩnh hằng, có cái thô nhám xù xì, góc cạnh. Không

thấy những biến cố lớn lao, những bức tranh sử thi hoành tráng mà cuộc sống

hiện ra trong sự xô bồ gần gặn, có cái vất vả lam lũ, cái nhếch nhác lầm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

85

than… Đó là một bức tranh xã hội hết sức sinh động và phức tạp, một cuộc

sống chưa trọn vẹn và hoàn tất.

Tiếp cận hiện thực đời sống từ góc nhìn đời thường, Tô Hoài không chỉ

tập trung khai thác những cảnh đời thường với những chuyện “vụn vặt, nhem

nhọ” mà nhà văn còn thể hiện một niềm say mê, hứng thú khám phá đời sống

sinh hoạt phong tục của làng quê, của đất nước, của con người Việt Nam.

Những trang Tự truyện chân thực của nhà văn không chỉ có giá trị cung cấp

thông tin xác thực mà còn mang đến cho độc giả những bức tranh sinh hoạt

rất thú vị, đậm đà bản sắc và phong vị của quê hương và của dân tộc. Vũ

Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại đã nhận xét : “Tô Hoài nhận xét rất

kỹ, rất tỉ mỉ những tính tình, thói tục và cách sống của người dân quê vùng

Bưởi”.

Tự truyện hấp dẫn người đọc không chỉ bởi những trang hồi ức sinh

động, chân thực về tuổi ấu thơ, trưởng thành của nhà văn Tô Hoài mà độc giả

còn phát hiện ra nét độc đáo, thú vị, một sắc mầu hương vị rất riêng trong

sáng tác của Tô Hoài, đó là những bức tranh sinh hoạt phản ánh nếp sống,

phong tục tập quán của một làng quê ven thành Hà Nội - vùng Kẻ Bưởi nổi

tiếng bởi nghề dệt canh cửi và làm giấy dó.

Hình ảnh cận cảnh đầu tiên hiện ra trước mắt người đọc trong Tự truyện

qua tác phẩm Cỏ dại là một nếp nhà gạch rất cũ mà cả gia đình tác giả gồm ba

thế hệ ở đó. Ngôi nhà được dựng nên với vẻ đặc trưng của vùng nông thôn

Bắc bộ: nhà xây to, kiên cố, chia nhiều gian, có gian giữa giành để thờ cúng

tổ tiên ông bà, có vườn rộng, có nhiều cây cối và ngôi nhà có sự chung sống

của nhiều thế hệ.

Nhà văn cho biết ngôi nhà ấy là “cơ nghiệp hương hoả” được đời trước

để lại : “Ông tôi được ở để đèn nhang thừa tự cho một ông bác họ mất không

có con trai. Người ta đồn rằng tuổi nhà có đến ngoài trăm năm… ”[19,tr.5].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

86

Qua chi tiết về ngôi nhà và sự giải thích tưởng như rất tình cờ này, nhà

văn đã cho người đọc có thêm hiểu biết về một nét phong tục của người dân

quê: tục kế thừa, tục thờ cúng, tín ngưỡng rất riêng trong truyền thống văn

hoá nước ta.

Người đọc còn được biết về tục quét vôi lên tường thành những đường

tròn vào mỗi dịp tết Nguyên đán để trừ tà mà hi vọng những điều may mắn,

tốt lành trong năm mới: “Mỗi năm, vào dịp tết Nguyên đán, ông tôi lại sửa

soạn một chậu nước vôi và một cái thép lá thông. Ông nhúng thép vào vôi

phết lên mặt tường vẽ thành những đường vòng tròn to bằng chiếc mẹt một. . .

Ông cắt nghĩa rằng những cái vòng tròn này để trừ quỷ”[19,tr.6].

Những tục lệ này đã trở thành nét đặc trưng tạo nên bản sắc riêng lạ,

độc đáo cho mỗi miền quê khác nhau trên đất nước ta.

Làng Kẻ Bưởi - Nghĩa Đô ngày ấy trong hồi ký Cỏ dại vẫn mang đậm

chất thôn quê của một vùng ven thành Hà Nội với nhịp điệu sống tù túng,

buồn tẻ trong cái nghèo đói, cũ kỹ, lạc hậu: “Cuộc sống còm cõi của làng

ngoại tôi chỉ loanh quanh cả đời ở trong làng. Đàn bà, trẻ con đưa võng kẽo

kẹt bên khung cửu mọt. Không mấy ai đi ra ngoài”[19,tr.22]. Bức tranh đời

sống ảm đạm đượm buồn với màu xám buồn tẻ trong những trang hồi ức. Tuy

nhiên, người đọc nhận thấy một thoáng hồn quê vẫn phảng phất thấp thoáng

trên những dòng chữ đó.

Cái nghèo đói, tù túng vẫn không thể làm mất đi vẻ yên bình, êm ả, làm

mờ đi nét đẹp trong những bức tranh sum họp đầm ấm như thế này: “Những

đêm đông lạnh lẽo, u tôi ngồi xắm giấy. Hai cánh tay u tôi đưa đi đưa lại,

chiếc que dò chạy lạt xạt, lẹt quẹt dưới lòng những tờ giấy dài nháng keo. Đã

bao năm qua, tiếng que dò lạt xạt canh khuya vẫn thế, như đời u tôi vẫn thế,

cái áo nâu bạc, chân đi đất, đôi quang gánh loi thoi”[19,tr.23]. Nghề làm giấy

cực nhọc, mà thu nhập chẳng đáng là bao những tiếng “lạt xạt, lẹt quẹt” vẫn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

87

còn vọng mãi trong ký ức của tác giả để nhắc chúng ta nhớ về một thứ âm

thanh rất riêng của làng nghề Kẻ Bưởi - Nghĩa Đô.

Những trang viết như mang đậm cái yên bình, êm ả vốn có ở bất kỳ một

làng quê nào của nông thôn Việt Nam. Độc giả như đi lạc về ký ức của chính

mình với làng mạc, quê hương, với luỹ tre, cánh đồng, hàng cau quen thuộc

đến nao lòng. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh rất tinh tế khi nhận xét: “Qua

những hồi ức đầy xúc động của nhà văn ta cảm nhận được thấm thía, một cái

gì như là linh hồn của đất nước trong những phong cảnh thân thuộc, những

bờ tre, mái rạ, những dòng sông, bến nước, những câu hò, điệu hát, những

gương mặt, những tâm tình…”[43].

Nhãn quan sinh hoạt thế sự, phong tục khiến cho tác phẩm của Tô Hoài

mang đậm chất tiểu thuyết. Chất tiểu thuyết được phản ánh trong tác phẩm ở

mọi sự phức tạp, sinh động nhiều màu, nhiều vẻ của đời sống. Cuộc sống bình

thường như bản thân nó đang tồn tại, có cái cao cả, vĩnh hằng, có cái thô

nhám, xù xì, góc cạnh. Cuộc sống hiện ra trong sự xô bề gần gặn, có sự lam

lũ, vất vả, có cái nhếch nhác lầm than, một cuộc sống sinh động và phức tạp,

một cuộc sống chưa trọn vẹn và hoàn tất. Ngòi bút Tô Hoài đã không hề tránh

né tất cả những điều đó, những thói quen vụn vặt, những vất vả cơ cực, thiếu

thốn, những tiêu cực của con người. Ông đã tạo dựng nhân vật của mình như

là những con người bình thường trong xã hội, những con người đã nếm trải,

đã có va vấp với đời sống, có cả một quá trình hình thành nhân cách. Ở đây ta

bắt gặp tất cả mọi thứ trong cuộc đời: những vấn đề về văn hoá, tư tưởng,

những vấn đề về đạo đức xã hội, có cả sự phức tạp trong tâm hồn, tính cách

nhân vật hay những bi kịch cá nhân.

Đọc Tự truyện Tô Hoài người đọc thấy tác giả không chỉ tái hiện lại

cuộc đời của chính mình mà còn tái hiện cả bức tranh đời sống, bức tranh sinh

hoạt với phong tục tập quán trong môi trường sống của cá nhân nhà văn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

88

Qua giọng điệu trần thuật của Tô Hoài, một không khí u buồn, đen tối

đè nặng trong tác phẩm. Tác giả không đi vào phản ánh những mâu thuẫn giai

cấp dữ dội, quyết liệt song người ta thấy được tất cả sự buồn chán về một kiếp

người, buồn về sự cùng quẫn, bế tắc. Hình ảnh tác giả trong những ngày lang

thang kiếm sống trong trường đời, hết bán giầy Bata đến làm nghề kế toán sổ

sách giấy tờ cho hãng, rồi những ngày thất nghiệp lang thang vất vưởng, thậm

chí cả những ngày phải đi ăn mày ở cửa chùa để kiếm “miếng cơm manh áo”,

những ngày phiêu bạt ra Hải Phòng… “Tôi cũng phải đi ra Hải Phòng rồi.

Bạn bè cũng đang giúp tôi chuyến đi. Các bạn vừa muốn tôi tìm được công ăn

việc làm, vừa đỡ phải cưu mang. Bởi ai cũng đại khái túng kiết xơ mướp như

tôi cả…”, “Chẳng qua vì tôi không bấu víu vào đâu được nữa tôi phải “lên

đường” đi cầu may… ”[19,tr.201].

Tác giả đã kể lại hết sức chân thực cuộc đời, cảnh ngộ của mình và của

những nhân vật khác. Người đọc hồi hộp dõi theo cả một quá trình khôn lớn,

trưởng thành của nhân vật tôi, quá trình nhận thức, khám phá xã hội, quá trình

hình thành nhân cách của nhân vật tôi, hình ảnh của tác giả sau này. Nhân vật

tôi như sợi dây xâu chuỗi biết bao cảnh đời số phận. Khi nói về mình, tác giả

đã miêu tả không phải như một cái gì đã hoàn tất và cố định mà như là một

nhân cách biến chuyển, đổi thay được cuộc sống dạy dỗ. Điều đó cũng chính

là một trong những nét đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết mà ta tìm thấy trong

Tự truyện của Tô Hoài.

Trong Tự truyện, mặc dù không có chủ ý xây dựng những nhân vật điển

hình kiểu hư cấu trong tiểu thuyết, song trên trang sách người ta vẫn thấy

bóng dáng của những nhân vật cụ thể, những người thật việc thật với thái độ,

tâm lý, số phận của nhân vật. Ở đây người ta bắt gặp những cuộc đời thật với

tất cả những đường nét xù xì, góc cạnh và cả những tình cảm trong sáng xuất

phát từ một lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp của nhà văn. Đọc Tự truyện của Tô

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

89

Hoài, người ta bắt gặp bức tranh đời sống hiện ra trong nhiều chiều. Có những

đoạn người đọc thấy dường như cả một thời kỳ lịch sử như hiện về trong

trang sách: cảnh chết đói năm 1945 người chết đói như ngả rạ, khắp đầu

đường xó chợ, cảnh bọn thực dân Pháp, Nhật đi tuần tiễu và đàn áp đồng bào,

cảnh chuẩn bị Tổng khởi nghĩa tháng Tám với biết bao náo nức, rạo rực. Tô

Hoài đã từng viết: “Từ khi biết nghĩ điều hay cho những ao ước của mình, tôi

chỉ có một mạch nghĩ theo Cách mạng”.

“Trong tiểu thuyết, cuộc sống tự nó nói về mình bằng một thứ ngôn ngữ

nghệ thuật riêng. Chính vì thế mà tiểu thuyết là một thể loại văn học gần gũi

nhất với cuộc sống, song nhà viết tiểu thuyết không chụp ảnh cuộc sống, ông

ta bắt chước hoạt động sáng tạo của cuộc sống”[8]. Chất tiểu thuyết ở Tự

truyện của Tô Hoài còn được thể hiện ở chỗ, đọc tác phẩm của ông, người ta

thấy dường như đang bước vào một thế giới y như thật: “Một thế giới đã được

người nghệ sĩ soi sáng tận bản chất tinh tuý nhất, một cuộc sống thấm đẫm

những tình cảm và tâm hồn phong phú của người nghệ sĩ, một cuộc sống

được chiếu rọi bằng một ánh sáng đặc biệt, được quan sát dưới một góc độ

riêng”[8].

Bên cạnh những điều vừa nêu trên, cần phải thấy rằng ngôn ngữ của tác

phẩm cũng góp phần làm nên chất tiểu thuyết trong Tự truyện của Tô Hoài.

Người ta không thấy một khoảng cách nào giữa người kể và nhân vật. Đó là

thứ quan hệ thân mật, thân tình suồng sã. Giọng người kể đã hoà vào giọng

nhân vật và nói với nhân vật bằng thứ ngôn ngữ của nó. Từng trang trong tác

phẩm phản ánh bức tranh sinh hoạt phong tục, sinh hoạt thế sự với thứ ngôn

ngữ dân dã, đời thường. Tô Hoài đã từng nói: “Nhân dân chính là người thầy

của mình về tiếng nói”, do đó ngôn ngữ của ông chính là lời ăn tiếng nói hàng

ngày của nhân dân. Tính tiểu thuyết còn được thể hiện ngay cả trong ngôn

ngữ của nhân vật tạo màu sắc cá thể hoá và tăng sức biểu hiện cho nhân vật.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

90

Có thể thấy trong Tự truyện nhà văn đã học tập, vận dụng đưa vào trong

trang viết của mình một hệ thống từ ngữ mang đậm màu sắc địa phương của

vùng Kẻ Bưởi. Bởi vậy mà khi đọc Tự truyện người đọc như sống lại không

khí của đời sống sinh hoạt, phong tục với lời ăn tiếng nói hàng ngày dân dã

đời thường mà lại gần gũi, quen thuộc của một vùng quê ngoại thành Hà Nội.

Dùng lời ăn tiếng nói hàng ngày trong tác phẩm là một trong những sở

trường của Tô Hoài khiến cho mạch trần thuật trở nên hết sức dí dỏm và hấp

dẫn lôi cuốn. Khi cầm bút, Tô Hoài là nhà văn luôn ý thức được sự sáng tạo

trong việc sử dụng từ ngữ để tạo ra ngôn ngữ mới cho tác phẩm của mình.

Theo ông “tinh thông về chữ là một điều cần thiết”[23]. Nhà văn luôn ao ước

“Mỗi chữ phải là hạt ngọc buông xuống những trang bản thảo, hạt ngọc mới

nhất của mình tìm được, do phong cách văn chương của mình mà có”[23].

Trên cơ sở học tập vốn ngôn ngữ đời sống vô cùng phong phú của nhân dân,

Tô Hoài luôn có những nỗ lực để tạo ra ngôn ngữ mới mang dấu ấn phong

cách cá nhân để tự khẳng định mình. Trong những tác phẩm của ông ta thấy

không thiếu những câu nói dân dã đời thường, những thành ngữ, tục ngữ giàu

hình ảnh ví von sinh động, không thiếu những bài ca dao, đồng dao, hò vè mà

đọc lên người ta thấy được cả dấu ấn thời đại trong sự phát triển đô thị. Đó là

bài ca về chiếc tàu điện:

Ông Tây ngồi nghĩ cũng tài

Sinh ra đèn máy thắp hoài năm canh

Ông Tây ngồi nghĩ cũng sành… [19].

Ngôn ngữ của người lao động đã từ cuộc sống mà đi thẳng vào tác phẩm

của nhà văn mang theo cả cái xô bồ, gần gặm của cuộc sống đời thường. Đọc

Tự truyện của Tô Hoài, ta thấy nhà văn sử dụng những từ ngữ của người Kẻ

Bưởi vẫn quen dùng. Người đọc có thể lập ra một trường từ vựng của người

Kẻ Bưởi, từ những danh từ gọi tên đồ vật, sự vật đến những động từ, tính từ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

91

và cả những lời nói của người dân Kẻ Bưởi cũng được tác giả trích dẫn trực

tiếp vào tác phẩm. Đó là lời ăn tiếng nói hàng ngày mà khi Cu Bưởi nghe hiểu

và tập nói đã dùng tiếng nói ấy cho đến khi lớn lên, trưởng thành.

Đó là cách gọi tên những đồ vật mà người Kẻ Bưởi đã dùng, trong đó có

những cái tên lạ: “nếp nhà”, “cái chuôm nước”, “nếp răn chảy trên má”, “cái

rõi cửa”, “búng ngô”… Hay có những từ được dùng như động từ mang lại

đặc trưng của ngôn ngữ vùng Kẻ Bưởi:

- Bà tôi quẩy một gánh nồi niêu…

- Có bác cả ngày nhịn khàn nằm dài, tối mò mẫm đi ăn trộm.

- U tôi ngồi xắm giấy . [19].

Đó là những từ được dùng theo thói quen, trong tiếng nói hàng ngày của

người dân làng Nghĩa Đô. Đó là những từ mà Tô Hoài học được từ lời ăn

tiếng nói của người dân Kẻ Bưởi.

Với Tự truyện, “Tô Hoài không đề cập đến những mâu thuẫn giai cấp

sục sôi quyết liệt”, nhưng người đọc vẫn cảm nhận thấm thía bức tranh hiện

thực đen tối, ảm đạm trước Cách mạng.

Trong cảm quan của Tô Hoài, mọi quy luật của tình cảm luôn được giữ ở

mức thăng bằng, tự nhiên vốn có. Từng cuộc đời, từng số phận dẫu có muôn

ngàn cung bậc vui buồn, nhưng tất cả đều được Tô Hoài tìm thấy trong quy luật

tự nhiên của tạo hoá và trong khung cảnh giản dị đơn sơ rất đỗi Việt Nam.

Trên từng trang viết, Tô Hoài còn quan tâm đến từng mảnh đời, từng số

phận, đến “cả những cái đau khổ xót xa cũng như những niềm vui nho nhỏ mà

người dân có được trong cuộc sống hàng ngày”. Ngòi bút Tô Hoài không

ngần ngại đi vào mọi ngõ ngách nông sâu của cuộc sống, khai thác triệt để

những biểu hiện sinh hoạt đời thường để làm nên một sắc thái riêng.

Xuất phát từ cảm quan nhân bản đời thường về con người, từ sự nhạy

cảm đặc biệt trong cuộc sống vô cùng phong phú và sinh động hàng ngày, Tô

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

92

Hoài lặng lẽ, bền bỉ đi theo con đường riêng nhiều hứng thú nhưng cũng

không ít gian truân để tạo dựng thế giới nhân vật của mình.

Ngòi bút Tô Hoài không ngần ngại đi vào mọi ngõ ngách nông sâu của

cuộc sống, khai thác triệt để những biểu hiện sinh hoạt đời thường để làm nên

một sắc thái riêng. Chính vì thế, nhân vật của Tô Hoài luôn bình dị, gần gũi

với mỗi chúng ta, góp phần khẳng định phong cách nghệ thuật của nhà văn.

Chính phẩm chất nghệ thuật ấy, mà ta thấy Tự truyện của Tô Hoài mang đậm

chất tiểu thuyết.

3.3. ĐẶC SẮC TRONG NGHỆ THUẬT VIẾT TỰ TRUYỆN CỦA TÔ HOÀI

3.3.1. Ngôn ngữ

M. Gorki từng nói: “Ngôn ngữ là cái áo của mọi tư tưởng”. Chính vì ngôn

ngữ thể hiện tư tưởng, bao bọc tư tưởng cho nên vấn đề ngôn ngữ là vấn đề

hết sức quan trọng đối với mỗi người cầm bút.

Tô Hoài là một nhà văn viết khoẻ, viết nhiều. Ông đến với nghề văn

không phải từ lý luận, sách vở, từ vốn kiến thức thu nhận qua trường lớp mà

đến với nghề văn từ thực tế vốn sống của nhân dân lao động và từ chính bản

thân mình cố gắng học bằng con đường tự học. Đến với nghề văn từ thực tế

cuộc sống lao động của người dân nên Tô Hoài luôn có ý thức học tập lời ăn

tiếng nói hàng ngày của người lao động để đưa vào trong tác phẩm. Ông quan

niệm: “Ngôn ngữ quần chúng là kho của cải vô giá, là nguồn bổ sung vô tận

cho nhà viết tiểu thuyết”. Ông từng cho rằng “Có nhiều cách để học chữ và

tiếng nói. Mỗi người viết văn tự luyện một cách học khác nhau. Nhưng chắc

chắn ai cũng học chung một thầy là quần chúng nhân dân”[24]. Vì thế mà

trong tác phẩm của mình, Tô Hoài luôn tỏ ra là một người nghệ sĩ sử dụng

thành thạo và điêu luyện vốn ngôn ngữ của dân tộc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

93

Ngôn ngữ miêu tả:

Tô Hoài quan niệm: “Quan sát và ghi chép đi liền với lối sống cần thiết

của người viết văn. Quan sát bắt ta nhớ và mở rộng những điều ta biết”[23].

Chính vì thấy được vai trò vô cùng quan trọng của quan sát cho nên miêu tả là

một mặt mạnh và nổi bật của Tô Hoài. Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ từng

nhận xét: “Trong miêu tả, Tô Hoài nắm bắt rất nhạy bén những nét cô đọng,

những chi tiết điển hình. Cho nên, có khi chỉ vài nét chấm phá mà dựng nên

được cả một bức tranh. Cảnh của Tô Hoài thường có màu sắc tươi sáng. Đặc

biệt tác giả hay dừng lại ở những chi tiết ngộ nghĩnh, đứng sau những chi tiết

đó thấp thoáng một nụ cười hóm hỉnh, thông minh, nghịch ngợm”[9].

Giáo sư Hà Minh Đức cũng khẳng định mặt mạnh của Tô Hoài chính là

phương diện miêu tả: “Tô Hoài giỏi miêu tả thiên nhiên. Thiên nhiên trong

tác phẩm của ông gồm nhiều màu vẻ, từ những cảnh thơ mộng gợi cảm đến

một thiên nhiên khắc nghiệt, hung dữ” [10].

Một trong những nét nổi bật tạo nên sức hấp dẫn trong ngòi bút miêu tả

của Tô Hoài đó là trong khi miêu tả nhà văn đã vận dụng, phát huy hiệu quả

hoạt động của mọi giác quan để nắm bắt, tái tạo hiện thực nhằm đưa đến cho

người đọc những bức tranh miêu tả sống động, phong phú và độc đáo. Nói

như nhà thơ Xuân Diệu là: “thức nhọn mọi giác quan”.

Để tạo nên những trang miêu tả đặc sắc, nhà văn đã huy động mọi giác

quan của con người, thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác, vị giác nhưng

trong đó thị giác được vận dụng có hiệu quả nhất. Và trong khi miêu tả “Tô

Hoài nắm bắt rất nhạy bén những nét cô đọng, những chi tiết điển hình cho

nên có khi chỉ vài nét chấm phá mà dựng nên cả một bức tranh”.

Đây là đoạn văn miêu tả không khí mùa đông của Hà Nội những ngày

xa thẳm trong ký ức của Tô Hoài: “Ngày mùa đông thì ngắn. Ngắn nữa là

những hôm ẩm trời, phố xá âm u sắp tối. Mưa phùn rây trắng như phấn. Hai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

94

bên lề, chòm lá sấu già càng tối thẫm. Những cây dâu ta, tây cao vút chẳng

biết quả hay hoa, gió đánh rụng xuống, ruột đỏ hoe. Phố âm thầm, nhây

nhớp”[19].

Đoạn văn tái hiện một thoáng mùa đông Hà Nội với những hình ảnh rất

đỗi quen thuộc, rất đặc trưng: mưa phùn, phố xá âm u, nhây nhớp; bóng

những cây sấu già lặng lẽ; những quả dâu da tây rụng trắng đường… Người

đọc có cảm giác thấm lạnh, cái buồn rất vô cớ thấm vào lòng người khi chạm

vào khoảnh khắc mùa đông ở một góc phố Hà Nội chỉ với vài nét vẽ rất vu vơ

của nhà văn. Người Hà Nội đi xa nếu đọc được những dòng chữ này chắc hẳn

sẽ phải nhớ Hà Nội da diết, nhớ lắm cái “âm u”, “âm thầm”, “nhây nhớp” của

mỗi con phố Hà Nội khi vào đông. Đọc Tự truyện, độc giả không thể bỏ qua

đoạn văn Tô Hoài miêu tả cơn mưa đầu mùa hạ. Đoạn văn có thể coi là sự hội

tụ những tinh hoa trong bút pháp miêu tả rất tài tình, tinh tế của nhà văn:

“Gió rúc điên đảo trong cành cây. Người chạy táo tác. Ngoài đường cái,

trẻ con kêu ơi ới. Sắp được xem mưa, thích quá, gọi nhau rối rít. Mấy con chó

nhảy cỡn nhay xích ống, ăng ẳng sủa, chúng nó cũng vui ngớ ngẩn như chúng

tôi lẹt đẹt…lẹt đẹt…mưa đã giáo đầu, những giọt nước to thô lố lăn xuống

mái phên nứa. Mưa thực rồi. Mưa ào xuống, mọi người ngỡ ngàng sao mưa

đến nhanh thế. Vừa mấy giọt lách cách mà đã tuôn rào rào ngay. ánh nước

xiên xuống lao vào bụi cây. Con gà trống chạy qua, ướt lướt thướt, hai đầu

cánh nhấp nhô, còn loanh quanh tìm chỗ trú”.

Mưa sầm xập, giọt ngã, giọt bay, bụi nước toả trắng ngấn. Trong nhà

âm xầm hẳn đi. Mùi nước mưa mới ấm, ngòn ngọt, ngai ngái. Mùi man mác

xa lạ của những trận mưa đầu mùa đem về. Mưa rèo rèo trên sân, gõ lộp độp

trên phên nứa, mái dại, đập lùng tùng liên miên vào tàu lá chuối. Tiếng giọt

gianh đổ ồ ồ, sói lên những rãnh nước sâu. Bỗng một cơn gió phào đến cây

cối bị vật vã, nổi lên một hồi xa thẳm rạt rào. Mảnh sân đất đã ngập mấp mé.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

95

Nước chảy đỏ ngòn bốn bề, cuồn cuộn trong các ngách rãnh quanh lối xuống

chuộm. Nhưng mưa chỉ rào rào một lúc, bỗng trong vòm trời tối thẫm vang

lên một hồi rên rỉ ầm ĩ. Tiếng sấm mưa mới. Ngoài ngõ, nghe tiếng chân lép

nhép chạy. Bao nhiêu người vác thùng, vác rổ ra bắt cá rô rạch quanh các bờ

ao”[19, tr.36-37].

Miêu tả một cơn mưa đầu mùa hạ, Tô Hoài đã phát huy tối đa hiệu

quả của những hình ảnh trực quan để miêu tả cơn mưa. Cơn mưa đầu mùa

hạ được miêu tả với đủ mọi giác quan từ những hình ảnh, âm thanh, mùi vị

thật cụ thể, sắc nét và sống động. Tô Hoài đã miêu tả chính xác tiếng mưa

rơi với những âm thanh rất đặc trưng. Không những thế nhà văn còn lắng

nghe và phân biệt được các tầng bậc, độ mạnh - nhẹ của âm thanh ứng với

mỗi thời điểm khác nhau của cơn mưa. “Lẹt đẹt…lẹt đẹt…mưa giáo đầu”,

những âm thanh đầu tiên của loạt mưa rơi xuống một cách rụt rè, yếu ớt

trên mái phên nứa.

Âm thanh được miêu tả tiếng mưa rơi tăng cấp dần dần, mỗi lúc một

dồn dập, khẩn trương gấp gáp: Rồi “mưa buông sầm sập…từng giọt gianh đổ

ồ ồ, ào ạt, ọc lên ở những rãnh nước sâu”. Miêu tả cơn mưa đầu mùa, nhà văn

không thể quên tiếng sấm gọi mưa: “…bỗng trong vòm trời tối thẫm vang lên

một hồi rền rền ầm ĩ. Tiếng sấm mưa mới ”.

Cơn mưa không chỉ được miêu tả thông qua những âm thanh mà nó còn

được miêu tả bằng cả cái “mùi” của trận mưa mới đầu mùa hạ: “Mùi nước

mưa mới ấm, ngòn ngọt, ngai ngái. Mùi man mác, xa lạ của những trận mưa

đầu mùa đem về”.Cái độc đáo, thú vị ở chỗ miêu tả “mùi” nhưng nhà văn lại

diễn tả cái “mùi” ấy bằng sự kết hợp của nhiều giác quan, thể hiện ở vị “ngòn

ngọt”, mùi “ngai ngái”; và cảm giác “âm ấm”. Một sự miêu tả thật tài tình cho

thấy biệt tài miêu tả của nhà văn Tô Hoài. Phải có một sự quan sát kỹ càng,

một nhãn quan tinh tế thì mới có thể miêu tả đến tài tình, tinh tế như vậy.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

96

Kết hợp với miêu tả âm thanh, mùi vị, nhà văn còn tái hiện những hình

ảnh rất sinh động của mọi vật trong cơn mưa. Tô Hoài đã miêu tả rất chi tiết

về hình ảnh, hình dáng của những hạt mưa: “những giọt mưa to thô lố lăn

xuống mái phên nứa”, “xiên xuống, lao vào bụi cây”; “Mưa xầm xập, giọt

ngã, giọt bay”. Bên cạnh đó còn có hình ảnh mọi vật trong cơn mưa, hình ảnh

“con gà trống ướt lướt thướt hai đầu cánh nhấp nhô, còn loanh quanh tìm chỗ

trú”; hình ảnh “người chạy táo tác. Ngoài đường, trẻ con kêu ơi ới”, rồi hình

ảnh “bao nhiêu người vác thùng, vác rổ ra bắt cá rô rạch quanh bờ ao”. Miêu

tả cơn mưa ở vùng nông thôn mà không có những hình ảnh sống động đó thì

đoạn văn sẽ thiếu đi nét quê rất đặc trưng, gần gũi và quen thuộc.

Để có được những trang miêu tả tinh tế chi tiết, cụ thể và sinh động như

trên, nhà văn đã huy động có hiệu quả những hình ảnh trực quan đưa đến cho

độc giả những chi tiết, những hình ảnh tươi mới và sống động nhất. Trong khi

miêu tả, Tô Hoài không chỉ thiên về miêu tả cái hình ảnh được cảm nhận trực

tiếp bằng thị giác mà nhà văn còn có khả năng diễn tả những cảm nhận của

khứu giác, cảm giác…

Độc giả còn được thưởng thức “mùi quê hương” qua sự miêu tả rất cụ

thể và tinh tế của tác giả: “Tôi đã ngửi thấy mùi gì không hiểu, nhưng thật

quen thuộc. Chỉ thoáng, biết đã đương tới quê. Không bao giờ tôi phân biệt

được rành rõ cái hương vị thoang thoảng trong cánh đồng, trong bờ rào rặng ô

rô phảng phất dị kỳ thế. Tưởng như đó là mùi cỏ khô, mùi đất, mùi khói rơm

bếp. Không chắc phải. Hay nó là mùi lá muỗm nấu lẫn lá vối, mùi rau nhảy,

mùi lá trang, lá cải, mùi cỏ bồ mùng, mùi mái rạ ấm khói chuồng bò. Cơ

chừng chẳng rõ mùi gì mà là tất cả, từ mùi tóc hôi trên đầu của trẻ chăn trâu

cho tới mùi nõn cỏ gấu đắng mới nở, bốc lên mùi hương đồng cỏ nội. Cái mùi

quê đặc biệt, về gần tới làng, bao giờ cũng thoảng thấy”[19,tr.26-27].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

97

Qua đoạn văn miêu tả, tác giả đã cho chúng ta - những độc giả biết đến

khái niệm về “mùi quê hương” - một khái niệm tưởng như rất trừu tượng

nhưng qua ngòi bút miêu tả tài tình, tinh tế của Tô Hoài lại trở nên cụ thể, chi

tiết, rõ ràng. Nó không phải là cái gì quá mơ hồ, khó nắm bắt mà “nó còn là

tất cả” những gì quen thuộc, gần gũi quanh ta, là “hương đồng cỏ nội hoà vào

nhau, bốc lên một miền quê”. Đọc những lời miêu tả trên của Tô Hoài, người

đọc như lạc vào quê hương, như đang được đi giữa quê hương thưởng thức

một mùi quen thuộc của “hương đồng gió nội” một mùi quê hương không bao

giờ phai trong trí nhớ mọi người.

Với biệt tài miêu tả, nhà văn Tô Hoài đã mang đến cho độc giả những

trang hồi ức sinh động, cụ thể với những bức tranh muôn màu của cuộc sống.

Tác giả đã phát huy tối đa hiệu quả những hình ảnh trực quan, tạo nên “trang

phục” mới, độc đáo, thú vị cho những trang miêu tả. Cho nên “có thể nói văn

xuôi của Tô Hoài có chất thơ, chất nhạc và chất hoạ”. Có được những tinh tế

ấy cũng là nhờ bởi sự trau dồi vốn ngôn ngữ. Đọc những trang viết của Tô

Hoài ta có cảm giác ẩn chứa trong những trang viết ấy là sức lôi cuốn, thu hút

người đọc. Chính vì vậy mà giáo sư Phong Lê từng nhận xét về Tô Hoài:

“Lực lưỡng và liên tục cho đến tuổi già. Gắn bó và lôi cuốn người đọc cho

đến tuổi già”[32].

Với Tô Hoài, thiên nhiên là nơi bộc lộ tài năng sở trường của mình, có lẽ

vậy mà những bức tranh thiên nhiên thường trọn vẹn, sinh động, muôn màu

muôn vẻ. Thiên nhiên trong những tác phẩm của ông luôn có hồn, tươi tắn

đầy sức sống như sự tồn tại vốn có của nó. Để có được biệt tài miêu tả sống

động và tinh tế như thế, nhà văn Tô Hoài phải có sự trau dồi kho từ vựng

phong phú, đa dạng. Đối với ông, để có được kho từ vựng ấy, người viết văn

phải luôn có ý thức học tập lời ăn tiếng nói của nhân dân.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

98

Ngôn ngữ đặc tả những chi tiết:

Những trang văn miêu tả của Tô Hoài bao giờ cũng hiện lên cụ thể, chân

thực và sống động, cho dù có khi nhà văn diễn tả những cảm xúc mơ hồ của

con người. Khi miêu tả đối tượng, nhà văn luôn thể hiện sở trường trong việc

đặc tả chi tiết khiến cho sự vật, sự việc được miêu tả ở cự ly gần nhất gây

được nhiều bất ngờ thú vị tới người đọc: “Tô Hoài nắm bắt rất nhanh những

chi tiết chân thực điển hình của đối tượng miêu tả”[32] .

Nhờ khả năng đặc tả chi tiết mà Tô Hoài rất giỏi khi miêu tả ngoại hình,

chân dung của nhân vật, làm nổi bật lên đối tượng được miêu tả: “Những

nhân vật trong tác phẩm của Tô Hoài thường nhanh chóng gây được ấn tượng

ở người đọc một phần quan trọng cũng là nhờ khả năng miêu tả sắc sảo và

tinh vi đó”[10].

Ký ức tuổi thơ của Cu Bưởi luôn in đậm hình bóng, gương mặt của

người ông: “Đầu ông tôi cạo nhẵn, lơ thơ tóc bạc, ngó được cả làn da đầu

bóng đỏ… Phía má bên trái ông tôi có một cái nốt ruồi. Ở vết nốt ruồi mọc ra

mấy sợi râu dài mờ như cước, quyện lẫn cả vào chòm râu thưa bên mép. Mắt

ông tôi lúc nào cũng lờ đờ. Phía dưới mí gồ lên hai cái bọng. Những nếp răn

chảy trên má rạt quanh xuống hai bên cằm…”[19,tr.13].

Tô Hoài miêu tả gương mặt của người ông tới từng tiểu tiết trên gương

mặt, khiến cho người đọc có cảm giác như mình đang được trực tiếp quan sát

gương mặt ấy qua một tấm kính hiển vi, nhìn thấy được cả nốt ruồi nhỏ ở bên

má trái và mấy sợi râu bạc mờ trên đó. Biệt tài miêu tả của nhà văn thể hiện ở

khả năng đặc tả chi tiết khiến cho người đọc phải ngạc nhiên và thán phục.

Nhờ sự quan sát tinh tế cho nên Tô Hoài đã miêu tả hết sức chi tiết. Những

hình ảnh ấy hiện ra trước mắt độc giả là một gương mặt của người già với

những nếp nhăn khắc khổ, hằn sâu như vết chân của thời gian đã đi qua, in

dấu lại, đôi mắt dường như đã mệt mỏi, kém vẻ tinh anh “lờ đờ”, “có màng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

99

gợn trăng trắng”. Với sự miêu tả chân xác như vậy nên gương mặt người ông

đã gây ấn tượng độc đáo và rõ nét với người đọc. Trên khuôn mặt ấy vừa có

cái chung của tất cả mọi gương mặt người già nhưng lại có những điểm riêng

biệt mà chỉ nhân vật ấy mới có.

Đoạn văn miêu tả gương mặt của bà: “Bà nội tôi mắt kém. Về mùa rét,

rận bò cả ra áo. Trên khuôn mặt nhăn nheo xộc xệch, lèm nhèm hai con mắt

lờ đờ cùi nhãn. Xung quanh vành mắt lầy nhầy, lông mi đã rụng hết. Lông

mày thì bạc phơ”[19]

Trên gương mặt của bà, đôi mắt được tập trung miêu tả chi tiết nhất. Cặp

mắt “lèm nhèm”, “lờ đờ cùi nhãn”. Thậm chí nhà văn còn miêu tả tỉ mỉ hơn ở

các chi tiết: “vành mắt lầy nhầy, lông mi đã rụng hết”. Những từ láy tính từ:

lèm nhèm, lờ đờ, lầy nhầy cho thấy đôi mắt của bà rất yếu và kém rồi, khó mà

nhìn rõ được nữa.

Miêu tả gương mặt của ông, đôi mắt của bà, độc giả còn thấy nhà văn

miêu tả đôi bàn chân của bà nữa: “bàn chân bà tôi kỳ quái, khác hẳn chân mọi

người. Gót thì bè ra, nẻ khía từng múi như múi cà bát. Bà tôi đi chân đất từ

thuở bé đến già, chân lúc nào cũng có vết nứt cổ gà... Hai chiếc ngón chân cái

bà tôi dễ chừng to bằng mười ngón chân cái tôi chặp lại, lại nghẹo ngang, chìa

đầu ngón sang nhau. Ông tôi nói bà tôi là giống đời cổ, “người đời Giao Chỉ”,

nên mới ngón chân giao nhau thế” [19,tr.30-31].

Đôi bàn chân đã được đặc tả cụ thể, chính xác, tỉ mỉ đến từng chi tiết, từ

cái gót chân “nứt nẻ”, “nẻ từng khía từng múi” của người nông dân lao động

quen đi chân đất. Đặc biệt, người đọc chú ý đến chi tiết “hai chiếc ngón chân

cái” nó “nghẹo ngang chìa đầu ngón sang nhau”. Hai ngón chân “kỳ quái” ấy

là chứng tích còn lại của người đời trước “người đời giao chỉ”.

Những chi tiết miêu tả đôi bàn chân đã đem lại cho người đọc những

khám phá thú vị. Có đoạn văn Tô Hoài miêu tả thầy giáo của mình: “Thầy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

100

giáo tôi đã dậy, ngồi tựa lưng vào cái hòm phản, tôi ngắm nghía thấy thầy

giáo tôi già quá… Thầy tôi bỏ cái khăn lượt xuống, tóc thầy đã ngả màu

muối tiêu hết. Hàng ria vểnh cứ chênh vênh vàng ám khói như ai dính vào

đấy. Thầy nhom nhem gầy rộc, thầy chỉ còn hơi giống thầy mọi

khi”[19,tr.131].

Miêu tả hình ảnh thầy giáo chỉ vài nét đặc tả chi tiết mà hình ảnh người

thầy đã hiện ra trước mắt chúng ta, một người thầy đã già, mái tóc đã ngả màu

muối tiêu. Hàng ria vàng ám khói, hình dáng nhom nhem khổ sở. Những chi

tiết ấy đã đem lại cho độc giả những khám phá thú vị về cách miêu tả nhân

vật của Tô Hoài.

Khả năng đặc tả chi tiết trong khi miêu tả khiến cho những trang Tự

truyện của Tô Hoài hiện lên thật cụ thể và sinh động. Mỗi chi tiết, mỗi đường

nét như những nét vẽ vừa chân thực lại vừa rất có hồn tạo nên phong cách

riêng trong bút pháp miêu tả của nhà văn.

Ngôn ngữ giàu biểu cảm tạo liên tưởng về thân phận con người:

Khi miêu tả, ngòi bút của Tô Hoài luôn hướng về đối tượng là những

con vật, đồ vật, cảnh thiên nhiên, những con người bình dị, những gương mặt

quen thuộc gần gũi với cuộc sống của tác giả. Mỗi đối tượng lại được miêu tả

với nét vẽ riêng, đặc trưng tạo nên bức tranh sinh hoạt với những cảnh đời

thường chân thực và sinh động. Đặc biệt, từ những bức tranh miêu tả ấy đã

tạo ra cho người đọc những liên tưởng về thân phận con người - về cảnh đời

của những con người lao động chất phác, lam lũ vùng Nghĩa Đô, quê hương

tác giả.

Giáo sư Hà Minh Đức đã nhận xét: “Các nhân vật của ông không nói

nhiều, không lý thuyết dài dòng. Nhân vật được miêu tả sinh động qua ngôn

ngữ đối thoại để lại những ấn tượng khó quên”[10].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

101

Đây là đoạn văn miêu tả dáng ngồi in đậm hình bóng của người ông

trong ký ức của Cu Bưởi: “Mỗi sớm, khi tôi bừng mắt, nhìn sang ghế tràng kỷ

bên đã trông thấy đốm thuốc phập phèo sáng. Ông tôi ngồi bó gối, bao giờ

cũng một kiểu ấy, hút thuốc, nhìn ra sân.”[19,tr.14].

Những nét vẽ đã tạo nên hình dáng của người ông. Trong dáng ngồi im

lìm và lặng lẽ ấy như có cái gì đó vừa bất mãn vừa cam chịu, nhẫn nhục, suy

tư trước thời thế cuộc đời, trước cái nghèo đói tù túng như con mọt đang ăn

mòn mỗi thân phận, mỗi cuộc đời của người dân vùng Nghĩa Đô khi đó. Một

con người cũng đã từng có một thời tung hoành, lang bạt đây đó, thậm chí:

“Ông tôi đã từng đi ăn trộm. Ông tôi đã từng đi ăn cướp. Ông tôi lại đã đâm

cả kẻ cướp, đánh nhau với cướp”[19,tr.15-16]. Bây giờ khi đã về già, con

người ấy ngoài việc ngồi đăm chiêu như vậy và quét lá rụng trước sân thì

“không cất nhắc một việc gì nữa”. Trong khi cả gia đình vẫn phải bươn bả, lo

toan, kiếm miếng ăn hàng ngày nhưng cứ “nghèo dần mãi đi”. Đó là một sự

buông xuôi trước số phận, phó thác cuộc đời cho số phận; một sự cam chịu và

bất lực trước hiện thực cuộc sống. Dáng ngồi lặng lẽ, khắc khoải của người

ông như một dấu than, một dấu chấm buồn góp vào bức tranh cuộc sống

chung của những người dân trong làng. Cuộc sống bị bao phủ bởi màu xám tẻ

ngắt của cái nghèo đói, cũ kỹ và lạc hậu. Nhà văn Tô Hoài gọi đó là: “Cuộc

sống trong ao mà những con chẫu chàng thỉnh thoảng ngoi lên mặt nước, đờ

đẫn nhìn theo mấy cái bọt mình vừa thở”.

Bức tranh miêu tả chỉ vài nét phác họa về hình dáng - dáng ngồi của

người ông, một dáng ngồi duy nhất vào buổi sáng với đốm thuốc lập loè đã

lạc vào thời gian, in đậm trong ký ức của Cu Bưởi. Đằng sau những nét vẽ

của tác giả, độc giả đã được biết thêm rất nhiều về cuộc đời, về thân phận của

nhân vật, những điều có được nhờ sự liên tưởng, nhờ cảm nhận của người đọc

qua sự miêu tả rất chân thực và sinh động ấy.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

102

Khác với Nam Cao thường bộc lộ tính cách nhân vật qua nội tâm - cái

nội tâm đầy phức tạp, đầy mâu thuẫn, giằng xé - nhân vật của Tô Hoài thì

không nói nhiều, không đối thoại nhưng chỉ qua những hình dáng, cử chỉ ta

cũng có thể liên tưởng đến số phận con người, có thể thấy được những suy

nghĩ, đăm chiêu trong tâm hồn của nhân vật. Đây là hình ảnh người mẹ:

“Bóng u tôi hoà lẫn với bóng tối, vẽ lên một khuôn mặt trăng trắng với đôi

mắt nhỏ lòng đen nhuốm màu nâu đồng. Cái bóng mơ hồ trong lớp lớp những

ngày tháng ngậm ngùi, thấc thỏm đợi chờ dài dặc”[19,tr.22].

Bóng dáng người mẹ đã được khắc hoạ qua “Cái bóng hoà lẫn với bóng

tối”, “Cái bóng mơ hồ trong lớp lớp những ngày tháng ngậm ngùi, thấp thỏm

đợi chờ dài dặc”. Đó là bóng dáng của người phụ nữ đã phải chịu nhiều vất

vả, lam lũ cho cuộc sống nghèo khó, cơ cực, luôn phải sống trong những

chuỗi ngày “thắc thỏm đợi chờ dài dặc” tin tức của người chồng đi làm ăn

biền biệt ở đất Sài Gòn xa xôi không thấy trở về. Đó là bóng dáng chung cho

những người phụ nữ nông thôn trước Cách mạng. Cuộc sống của họ từ khi

sinh ra đã quen với sự chịu đựng, quen với những nỗi bất hạnh cay đắng của

cuộc đời.

Và đây là hình ảnh và thân phận của một người đàn bà: “Người đàn bà ấy

tóc xoã sau lưng, mặt xanh rớt; lúc nào cũng buồn buồn. Đôi mắt đăm đắm,

thường nhìn lơ đãng sang góc sân bên kia. Nhiều khi, mang cả gương lược ra

đứng trước cửa sổ chải đầu. Có những buổi tối, tôi xuống sân bếp, nghe văng

vẳng tiếng hát trên cửa sổ. Tiếng trầm tiếng thanh nhẹ thoảng- giọng hát buồn

não núng” [19,tr.72].

Người phụ nữ được miêu tả trong đoạn văn trên là vợ lẽ của ông Phán,

một cô nhà trò. Những đường nét miêu tả khác hẳn với bóng dáng của người

mẹ tác giả. Trong bóng dáng của người đàn bà ấy có cái vẻ phong lưu, nhàn

hạ của một người quen sống trong nhung lụa, giàu sang, được yêu chiều, cung

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

103

phụng. Tuy nhiên, trong tiếng hát và đôi mắt nhìn lơ đãng của cô chất chứa

nỗi buồn. Đó là tâm sự của một người chịu phận làm lẽ, luôn phải chịu đựng

sự ghen tuông ích kỷ, sự hành hạ của bà vợ cả và hai đứa con chồng với

những trận đòn ghen dữ dội.

Mỗi con người, mỗi gương mặt, mỗi hình bóng được miêu tả lại có

những cảnh ngộ riêng, những cảnh đời và thận phận khác nhau tạo nên bức

tranh cuộc đời chung mà trông vào đó người đọc thấy thấm thía một nỗi buồn,

buồn cho cuộc sống tù túng, quanh quẩn.

Đoạn văn sau Tô Hoài miêu tả hình dáng một cô gái: “Trong nhà bên đi

ra một người con gái, đầu tùm hụp chiếc khăn vuông lấp xuống gần kín

mắt…Cái dáng len lét vội vã đi như phải đội xếp đuổi và cái nước da xanh

nhợt sắp đem nhuộm nghệ được kia đã phơi bày tất cả sự thể thế nào rồi”

[19,tr.142].

Người phụ nữ ấy đang mang trong mình một nỗi bất hạnh. Với dáng đi

lấm lét, “nước da xanh nhợt” của người đang mang bệnh, vừa lo lắng, vừa sợ

sệt. Bước chân đi như lo sợ ai đó trông thấy, rõ ràng đã gợi lên trong lòng

người đọc một nỗi buồn, cô gái ấy có lẽ đang rất lo lắng chuyện gì chăng?

Cô gái ấy chửa hoang, Tô Hoài tâm sự “Tôi lo cho đời con gái, nếu cô ấy có

chửa thật”.

Mỗi người được miêu tả với những hình dáng riêng tạo nên những

cuộc đời, số phận riêng không ai giống ai. Nhưng chỉ với vài đường phác

họa hình dáng con người ta đã thấy và có thể liên tưởng thấy số phận và

thân phận của họ.

Đôi chỗ, trong tác phẩm miêu tả bức tranh thiên nhiên, cây cối, loài vật

nhưng độc giả vẫn thấy trong đó có bóng dáng và cuộc sống của con người.

Khi miêu tả cây đào trong cái nhìn trẻ thơ của Cu Bưởi: “Thân cây đào xù xì,

quanh năm thòi ra từng cục nhựa trong óng. Nó lão quá không đứng được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

104

thẳng, phải khom khom ngả dài nghển ra tận thành bể”[19,tr.6]. Với những từ

“lão”, “đứng”, “khom khom”, “ngả”, “nghển”, nhà văn đã miêu tả thật chính

xác, chân thật hình ảnh, dáng vẻ của cây đào lâu năm, đã già cỗi với bút pháp

nhân hoá trong miêu tả khiến cho người đọc liên tưởng tới bóng dáng của một

con người, một ông già đã trải qua bao nhiêu sóng gió của cuộc đời.

Tô Hoài là nhà văn có biệt tài trong bút pháp miêu tả loài vật. Những bức

tranh miêu tả loài vật trong tác phẩm của Tô Hoài hiện lên rất sinh động và có

hồn bởi nó như được lồng vào hình bóng cuộc sống sinh hoạt của con người.

Nhà văn miêu tả vợ chồng chim chào mào: “Năm nào cũng có đôi chào mào

đến làm tổ trong cành đào. Tháng năm, tháng sáu, những con chào mào non

đương trổ lông cánh, chen nhau đứng trên thành tổ ngóng ra. Tôi hóng xem từ

hôm chú chào mào đực quắp ở đâu về cành cây từng cuộng rạ nhỏ. Rồi những

ngày tha mồi vất vả. Hai vợ chồng nhà chim cùng gầy phờ người…”[19,tr.7].

Bức tranh sinh hoạt của gia đình nhà chim chào mào khiến người đọc

liên tưởng tới một mái ấm gia đình hạnh phúc, vợ chồng con cái sum vầy,

quấn quýt bên nhau.

Có thể thấy, dù là khi miêu tả thiên nhiên những đường nét miêu tả của

nhà văn đều hướng người đọc liên tưởng tới con người với những cảnh sinh

hoạt, những cung cách ăn ở của con người. Bởi vậy, bức tranh miêu tả của Tô

Hoài bao giờ cũng rất sinh động và có hồn.

Biệt tài miêu tả đã tạo nên thế mạnh trong các tác phẩm của Tô Hoài.

Với việc phát huy hiệu quả của những hình ảnh trực quan, đặc tả chi tiết và

tạo ra những liên tưởng về thân phận con người, những bức tranh miêu tả của

nhà văn đã tạo nên ấn tượng độc đáo, mới lạ đối với độc giả. Đặc biệt thông

qua Tự truyện, nhà văn Tô Hoài đã thể hiện xuất sắc sở trường miêu tả của

mình. Có thể nói, nhờ cách sử dụng ngôn ngữ điêu luyện mà tác phẩm của Tô

Hoài thể hiện được biệt tài miêu tả.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

105

Trong Tự truyện Tô Hoài đã bộc lộ sở trường về việc sử dụng ngôn ngữ;

nhà văn có một kho từ vựng rất giàu có và phong phú nhờ ý thức học hỏi, cóp

nhặt từ lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Đồng thời vốn ngôn từ ấy

còn ngày được bổ sung, được làm giàu thêm nhờ khả năng sáng tạo từ ngữ

mới của nhà văn cho nên mọi sự vật hiện tượng và nội dung trong tác phẩm

hiện lên thật cụ thể, sống động, giàu hình ảnh, cảm xúc và đậm chất thơ.

3.3.2. Nghệ thuật trần thuật luôn mang một sắc thái riêng

Quan điểm trần thuật:

Trong Tự truyện, Tô Hoài sử dụng quan điểm trần thuật tham dự. Ở đây,

người kể tham dự vào truyện như là một nhân vật ở ngôi thứ nhất. Quan điểm

này xuất hiện ở nước ta được gần một thế kỷ, nó không phải là quan điểm trần

thuật truyền thống. Nhưng với đặc điểm của thể loại tự truyện hay hồi ký, xưa

nay quan điểm trần thuật tham dự vẫn là quan điểm chính thống của thể loại

này. Những sáng tác theo quan điểm này thường hướng vào xây dựng nhân

vật “Tôi không hẳn là nhân vật hướng nội chưa có nhiều trăn trở suy tư mà

có thể chỉ là những gì mà bản thân nhân vật trải qua hoặc đã chứng kiến”.

Với quan điểm trần thuật tham dự, nhân vật “tôi” có điều kiện dẫn dắt

người đọc qua những chặng đường phiêu lưu, bộc lộ những trải nghiệm trong

cuộc sống, thể hiện thái độ tình cảm của mình trước từng diễn biến sự việc.

Trong Cỏ dại, Tự truyện nhân vật tôi kể về thời thơ ấu của mình, về

những người thân ruột thịt, về cuộc sống ở quê nhà - vùng ngoại ô Hà Nội:

Nghĩa Đô. Dòng hồi tưởng miên man, tưởng như bất tận. Người đọc lại được

dõi theo quá trình khôn lớn và trưởng thành của nhân vật tôi. Ký ức xa xưa

tưởng chừng như chưa hề phai nhạt, những chi tiết, sự việc xảy ra trong quá

khứ mà vẫn tươi mới, gây nhiều hứng thú như mới ngày hôm qua. Những kỷ

niệm trong quá khứ của Tô Hoài không phải là những biến cố, sự kiện lớn lao

trọng đại mà là ở những chuyện đời thường, những chuyện “vụn vặt, nhem

nhọ”. Ta hãy thử đọc một đoạn hồi tưởng được nhìn qua con mắt trẻ thơ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

106

“Mỗi năm, vào tết Nguyên Đán, ông tôi sắm một chậu nước vôi và cái

thép lá thông. Ông nhúng thép vào vôi, phết thành những đường vòng to bằng

chiếc mẹt trên mặt tường. Lạ lắm, nhưng tôi không dám hỏi. Có lần, ông tôi

cắt nghĩa: cái vòng vôi này để trừ tà. Năm mới, ma quỷ dưới âm thường lên

trần gian cướp nhà của người ta. Cái vòng vôi này làm cho ma quỷ sợ không

dám vào. Nghe thế, tôi đủ hãi. Mỗi năm, tôi ngẩn ngơ nhìn ông tôi bê chậu

nước vôi đi xung quanh nhà quét lại những hình tròn tròn. Lốt vôi tô lại mãi,

trắng rợn”[19,tr.6].

Nhà văn đi vào khai thác mạch sống thực của cuộc đời - các “mạch sống

của cuộc đời tạp nham” Tô Hoài từng tâm sự: “Đời không ở cái suông nhạt

của một mảng cổ tích nhăng cuội, ở những chuyện trai gái thói thường đem

bôi nhèm trên giấy. Tôi có thể viết vô vàn chuyện mộng mơ, hoa lá. Mà tôi

không viết được. Xưa nay tôi chỉ quen với những gì vụn vặt, nhem

nhọ…”[24].

Quan điểm trần thuật tham dự khiến cho cái tôi của nhà văn có dịp được

bày tỏ, được bộc bạch, phơi bày tâm trạng của mình. Mỗi con người chúng ta

ai cũng có một tuổi thơ để nhớ về. Trong trí óc còn non dại, tinh khôi như một

tờ giấy trắng, cuộc sống quả là thú vị và có bao điều mới lạ cần khám phá.

Cho nên tất cả những gì diễn ra quanh cuộc sống của một đứa trẻ, dù chỉ là rất

nhỏ, người lớn không để ý tới cũng sẽ để lại một ấn tượng sâu đậm trong ký

ức trẻ thơ, như nhà văn Nguyễn Công Hoan viết trong Đời viết văn của tôi:

“Nếu tờ giấy trắng được nhuộm màu nào đầu tiên thì cái mầu ấy là nền, nó rõ

mãi và bền mãi. Thì trong đời người ta những điều mắt thấy tai nghe được

nhớ lâu nhất, ảnh hưởng sâu nhất, tạo cho con người ta một nền tảng về tư

tưởng đối với sự việc, một khả năng làm cái gì sau này, cũng là ở trong thời

kỳ thanh thiếu niên, óc còn thơ ngây, trong trắng” [28].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

107

Nhân vật tôi như dẫn dắt người đọc qua những chặng đường phiêu lưu,

chứng kiến những vui buồn của nhân vật và thái độ tình cảm của nhà văn

trước từng diễn biến của sự việc. Tự truyện là tác phẩm viết thuần tuý theo

quan điểm trần thuật tham dự. Nhân vật “tôi” chính là tác giả kể lại những

bước thăng trầm của đời mình. Đó là cái tôi “hướng ngoại”, cái “tôi” từng trải

để sống và hoạt động xã hội, nó không dằn vặt, giằng xé nội tâm như nhân vật

Thứ trong Sống mòn của Nam Cao. Với giọng điệu trầm buồn, tác giả đã kể

lại chuyện cá nhân, chuyện gia đình, làng quê và xa hơn chút ít là Kẻ chợ, rồi

lần theo trường đời đi kiếm sống, tìm việc làm và miếng ăn…

Cái buồn dường như bao trùm lên cảnh vật, con người trong tác phẩm:

buồn vì sự quẩn quanh, tù túng, buồn vì cái trôi nổi bồng bềnh của một kiếp

người lúc bấy giờ. Nhân vật tôi được hiện diện thật sống động qua dòng hồi

ức của tác giả. Nhân vật tôi được hiện diện bằng xương, bằng thịt, ngoài hình

dáng, hành động, nhân vật tôi còn được khắc hoạ những cá tính, những thói

quen sinh hoạt trong cuộc sống hàng ngày - điều mà nhiều cây bút khi xây

dựng nhân vật ít để tâm tới. Trong Tự truyện “nhà văn thực sự đã đóng góp

vào văn học ta mảng sống buồn bã vật lộn của một thế hệ tuổi thơ - hoặc

được nhìn qua cái nhìn trẻ thơ để nói lên một cái gì bản chất của cuộc đời

cũ”[32]. Mảng sống ấy rất sinh động có những dáng nét, góc cạnh của cuộc

sống đời thường, có lẽ có được điều ấy, trước hết là vì khả năng nhớ dai và rất

sinh động ở ký ức của Tô Hoài. Cũng có lẽ vì lứa tuổi thiếu niên, mười tám

đôi mươi ấy của đời người lại khớp đúng vào lúc đời sống dân tộc đang

chuyển mình từ một thời kỳ tối tăm nhất để chuẩn bị cho một ngày mới - đêm

sâu Tiền Cách mạng.

Ở Tự truyện nhân vật tôi được hiện diện thật sống động. Ở đó có những

ngày thơ ấu (Cỏ dại), những ngày cắp sách đến trường (Mùa hạ đến, mùa

xuân đi), những ngày hoạt động trong nhóm ái hữu (Những ngày thơ dệt),

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

108

những ngày lang thang tìm việc làm (Đi làm), những ngày thất nghiệp (Hải

Phòng)… Một quãng đời của một đời người, tuy không phải là dài nhưng lại

chất chứa bao kỷ niệm vui buồn. Ở đó có nhân vật tôi hiện diện với những cá

tính, thói tật, thói quen sinh hoạt của cuộc sống hàng ngày.

Cảnh buồn cứ hiện ra trước mắt người đọc dường như bao trùm lên toàn

cảnh vật và con người trong cuộc sống. Bắt đầu là hình ảnh của một Cu Bưởi,

được thoát ly “nhà quê ra Kẻ Chợ học chữ. Hai năm trời trôi đi, Cu Bưởi

chẳng học được một chữ nào vào đầu, thay vào đó là bao nhiêu “kiến thức”

bếp núc, nội trợ. Buổi sáng nào “tôi” cũng hì huỵch vần từng chiếc lốp ôtô

dựng ngoài mặt tường trước cửa hàng. Tối đến, lại hì huỵch theo mé tường

vần vào. “Xong việc vần lốp ôtô là tới việc đánh giầy, xong đánh giầy, vào

rửa một chậu bát đũa rếch. Đoạn việc rửa bát rếch, tiếp đến cọ chai (…) cọ

được vài chục chai, đã đến buổi trò tan chiều. Tôi sửa soạn và phụ thổi cơm.

Nếu không, đem giẻ lau xe đạp cho chú Luyến”. Những ngày đi “du học” của

Cu Bưởi sao mà buồn tẻ và thảm thương đến thế. Bao nhiêu ngày tháng trôi đi

nơi Kẻ chợ, Cu Bưởi đâu học được chữ nào mà chỉ biết “đánh giầy, cọ chai…,

biết nhặt rau muống, ngọn dài, ngắt làm đôi. Gốc cằn và lá sâu thì bỏ”[19].

Thảm thương hơn, hai năm trở về quê là hình ảnh một Cu Bưởi bụng rỗng

chữ, cái đầu trắng mốc “hành trang” về là mấy hòn bi sắt và một cái búa đanh,

cùng việc thạo nhặt rau muống, cọ nồi và thổi cơm. Nhân vật “tôi” trong Cỏ

dại đi vào ký ức bạn đọc không phải là hình ảnh một đứa trẻ khao khát tình

mẹ như hình ảnh bé Hồng (Những ngày thơ ấu) hay hình ảnh bé Dần (Sống

nhờ - Mạnh Phú Tư), cũng không phải là hình ảnh những đứa trẻ hồn nhiên

trong sáng trong độ tuổi vô tư của mình… mà là hình ảnh Cu Bưởi sớm phải

bươn trải trong trường đời, sớm phải ý thức về bản thân trong một môi trường

buồn tẻ nghiệt ngã. Vì thế mà nhân vật tôi của Tô Hoài buồn nhiều hơn vui,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

109

nỗi buồn đi từ trường đời vào nhân vật và niềm vui cũng được chắt lọc từ

cuộc sống hết sức bình dị mà ra.

Đến tuổi đi làm tự kiếm sống, nhân vật tôi vật vã trong nhiều nghề khác

nhau, nhiều niềm vui, nỗi buồn khác nhau. Từ việc bán hàng ở hiệu giày Bata

số nhà 89 phố hàng Đào, công việc buồn tẻ và lạ lùng: “từ giờ anh phải đứng

góc ngoài này (…), phải để ý kỹ những người ra vào (…), phải trông từng

người một, trong nách trong bụng có thu thu cái gì không”, “… Thành ra bây

giờ “tôi” là người tập bán hàng, lại kiêm cả những việc của thằng bồi xăm và

thằng hề đồng” nữa. Hết ở hiệu giày Bata, lại về cửa hàng giày ở phố hàng

Khay chuyên bán cho khách hàng là tây đầm. Chẳng bao lâu bị đuổi việc, vì ở

đây “Tôi” bị quở trách “đã tây thì ra tây, đừng ăn mặc kiểu thế mà bẩn mắt

khách hàng”[19], đến việc làm ở hãng Hàng Bông thợ nhuộm, rồi đi làm kho

với công việc khuân vác nhặt nhạnh, cuối cùng bỏ việc lang thang…Thảm

thương nhất là những ngày thất nghiệp ở Hải Phòng. Trong những ngày tìm

việc nương nhờ vợ chồng người bạn nhưng họ cũng nghèo quá, nhà của Cần

được tác giả miêu tả: “có lẽ đây là cái buồng tắm cũ. Kê vừa vặn được chiếc

giường nhỏ. Thò chân ra ngoài thành giường đã đụng vào tấm cánh sào che

hiên” [19], để rồi phải thất thểu quay về Hà Nội… Khắc hoạ nhân vật từ

những chi tiết sinh động trong cuộc sống đời thường như thế, nhà văn không

có ý định làm méo mó hoặc bôi nhọ nhân vật, mà ở đây là một trong những

thủ pháp xây dựng nhân vật của nhà văn. Có lẽ trong làng văn hiện đại Việt

Nam ít ai viết về kỷ niệm tuổi thơ và những ngày bước vào tuổi trưởng thành

với nhiều chi tiết “vụn vặt” như Tô Hoài.

Như vậy, quan điểm trần thuật tham dự mặc dù là qui định trong thể

loại tự truyện song đến ngòi bút Tô Hoài người đọc vẫn cảm nhận được tính

khách quan của sự vật hiện tượng được miêu tả, cộng với cách kể chuyện hấp

dẫn có duyên, nhiều khi lan man mà vẫn kết dính, nhiều khi “vụn vặt” mà vẫn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

110

có ý nghĩa…tất cả những điều đó đã lôi cuốn người đọc làm nên sức hấp dẫn

trong Tự truyện của Tô Hoài.

Giọng điệu trần thuật:

“Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà

văn đối với hiện tượng miêu tả thể hiện trong lời văn, quy định cách xưng hô,

gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm. Cách cảm thụ xa gần, thân, sơ, thành kính

hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm”[15].

Ở mỗi tác giả trong sáng tác của mình, có chất giọng riêng khác nhau,

Sêkhốp từng nói: “Nếu tác giả nào không có lối nói riêng của mình thì người

đó không bao giờ là nhà văn cả”. Giọng điệu trần thuật phụ thuộc vào quan

điểm trần thuật. Quan điểm trần thuật khác nhau sẽ dẫn đến giọng điệu trần

thuật khác nhau. “Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và

thị hiếu thẩm mỹ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong nhà

văn và tác dụng truyền cảm tới người đọc, thiếu một giọng điệu nhất định,

nhà văn chưa thể viết ra được tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu sắp xếp

xong hệ thống nhân vật”[15].Giọng điệu trần thuật rất đa dạng phong phú như

cuộc sống vốn có của nó. Ở Tô Hoài giọng điệu trần thuật luôn giữ được bản

sắc riêng: giọng hài hước dí dỏm pha chút mỉa mai, tinh quái. Có thể nói đó là

chất giọng khá ổn định mặc dù trước và sau Cách mạng, cũng có lúc nó xuất

hiện đậm nhạt khác nhau song nhìn chung là phổ biến. Bên cạnh giọng điệu

khác, nó làm nên tính phức điệu trong giọng điệu trần thuật của tác giả.

Đọc Cỏ dại, ngay trong hồi ức về mình ta đã nhận ra chất giọng hài

hước, dí dỏm, một cái nhìn giễu cợt về mình: “Một buổi kia, đương ngồi, tôi

chợt buồn đi đái. Thôi chết. Tôi đã thấy có những đứa thường khoanh tay, thò

đầu lên bàn thầy, “xin thầy cho đi giải ạ” Tôi cũng sẽ lên thưa thầy một câu,

tôi cũng được đi. Nhưng tôi không dám lên. Tôi cứ ngồi im, chốc chốc nhăn

nhó nhìn trộm thầy…”[19,tr.45]. Hay có hôm ngủ mê Cu Bưởi đái dầm:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

111

“Một đêm kia, tôi ngủ mê thấy được về chơi nhà. Lâu lắm mới được

về. Lạ quá, trước nhà có cây cam quả chín đỏ ối. Tôi hái ăn chán chê. Rồi

tôi chạy ra ngõ. Tôi đứng trên đầu cây gỗ. Tôi vén quần cẩn thận. Tôi đái

một bãi chơi.

Tôi sực tỉnh. Quần tôi ướt hết đũng. Mặc phản ẩm nhơm nhớp. Quần ướt

quá. Tôi ngồi, hai mắt ráo hoảnh. Cơn ngủ đã tan mất. Tôi khấn thầm, cầu cho

cái quần chóng ráo…”[19,tr.78].

Trong dòng hồi tưởng về người ông, bên cạnh những tình cảm thương

yêu, kính trọng người đọc vẫn nhận ra giọng điệu tinh quái dí dỏm vốn có của

nhà văn và trong cái tinh quái dí dỏm ấy có một cái gì đó không hẳn là mỉa

mai mà là chua chát, tủi buồn, buồn vì cuộc đời kiếp người cũng quẫn, quanh

quẩn, tù túng, những kiếp người như đang sắp tắt, sắp chìm xuống, không hy

vọng vào tương lai. Vì thế mà dòng hồi tưởng thấm đẫm nỗi buồn. Dí dỏm,

hài hước, tinh quái, nghịch ngợm mà người đọc vẫn thấy thấm buồn:

“Chỉ có lúc ngồi bên mâm rượu với ông, tôi mới biết yêu ông, sợ ông và

cũng ghét ông nhất. Bởi vì, suốt ngày lầm lì, đến quãng vài ba chén cay vào,

ông tôi mới nói ra, lúc ấy ông tôi hay sinh sự đánh bà tôi.

Ông chửi bà tôi - rằng chỉ vì “con mẹ trời đánh kia” mà ông không có

con trai - lần nào cũng một câu rủa ráy ấy. Ông tôi ngồi rụt cả hai ống chân

lên phản. Hai bàn tay nắm lại, đặt xuống trước hai bàn chân, như lối ngồi của

ông Ba Mươi trong tranh thờ. Ông ngồi đợi bà nói thêm một câu. Chỉ một câu

thôi. Câu gì cũng được, miễn là có câu nói cho ngứa hai lỗ tai mà bà tôi thì

không bao giờ im được…”[19,tr.14-15].

Hình ảnh người ông trong kí ức Tô Hoài gợi ta nhớ đến người ông của

Macxim Goócki trong thời thơ ấu. Họ giống nhau bởi cùng chung số phận:

đều là những con người “dưới đáy” của sự cùng khổ, “đói cơm rách áo” thì

quay ra hành hạ người thân của mình, tìm đến rượu để vơi đi nỗi đau và trút

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

112

vào nhau tất cả sự căm tức, cứ như đó là nguyên nhân cho nỗi khổ của đời

mình. Họ đâu biết rằng họ chỉ là nạn nhân của cái xã hội bất công ấy.

Như vậy trong Tự truyện ta nhận thấy có sự đan cài, pha trộn nhiều

giọng điệu khác nhau trong cùng một tác phẩm song nổi bật lên vẫn là nụ

cười hài hước dí dỏm, có khi trong dòng hồi tưởng về mẹ, bên cạnh những

tình cảm thương yêu, kính trọng độc giả vẫn nhận ra giọng điệu tinh quái dí

dỏm vốn có của nhà văn và cũng trong cái tinh quái dí dỏm ấy là một nỗi

buồn chua chát về cuộc đời, kiếp người nghèo khổ, tù túng không có hy vọng

vào tương lai:

“Bóng u tôi hoà lẫn với bóng tối, vẽ nên một khuôn mặt trăng trắng

với đôi mắt nhỏ lòng đen nhuốm màu nâu đồng. Cái bóng mơ hồ trong lớp

lớp những ngày tháng ngậm ngùi, thấp thỏm đợi chờ dài dặc. Người ta hình

như không mấy khi tỉ mỉ nhìn ngắm những người thân. Có khi như sực nhớ

tôi bỗng giật mình ngờ ngợ như người trước mặt đây không phải là u tôi. Có

đâu u tôi đã bạc tóc đường ngôi lốm đốm, lưa thưa… Tôi còn nhớ có buổi

chiều, không biết u tôi đi đâu về. Ngoài ngõ tiếng chó sủa inh ỏi. Tôi chạy ra,

thấy u tôi đương rối rít cuống queo xua con chó vện của nhà cứ lăn xả vào

cắn. Tôi phải quát thật to, nó mới gầm gừ chịu lùi. Thì ra con chó hoa mắt.

Hôm ấy u tôi mặc áo cánh trắng. Xưa nay con chó nhà đã quen mắt với cái áo

nâu của u tôi. Chưa bao giờ u tôi có cái áo trắng”[19,tr.22-23].

Hình ảnh người mẹ lam lũ, vất vả trong con mắt nhà văn vẫn đôi chút

pha thêm sự dí dỏm, hài hước, tinh quái, nghịch ngợm mà khi đọc nên người

đọc vẫn thấy xót xa thấm buồn trước một kiếp người trong cuộc sống.

Chuyện thầy giáo Tỏi trong Mùa hạ đến, Mùa xuân đi vì sao có cái tên

Tỏi, Chuyện thầy mất chiếc roi và để bù cho cơn giận, thầy bắt học trò tát lẫn

nhau. Cảnh cả một lớp học, học trò tát lẫn nhau bôm bốp, rồi sau cơn tát, thầy

bắt học trò mỗi đứa góp một xu mua roi mới, chuyện thầy cho học trò bắn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

113

chim sẻ trong trường để thầy nhắm rượu…tất cả vẫn là bút pháp quen thuộc

của Tô Hoài… Nhưng khi Tô Hoài để cho thầy ốm bệnh nằm trong chăn, trò

rán chim mời thầy ăn, rồi trò khóc và dào lên một lòng thương cảm: “Tôi

bỗng thương xót thầy với một tình cảm lạ lùng, tôi muốn khóc”[19,tr.131].

Rồi sau đó thầy mất việc… điều ấy làm người đọc cảm thấy câu chuyện thật

ra không có gì đáng cười nữa. Vì một nỗi bất hạnh chung đã gắn bó số phận

họ với nhau: số phận thầy và trò. Vừa bi, vừa hài, cái đáng cười lại rất thương

tâm, đó chính là giọng điệu mang bản sắc riêng của Tô Hoài.

Ở đây chất giọng tinh quái và mỉa mai chỉ thể hiện rõ nét khi viết về

những tập tục trì trệ lạc hậu của làng quê, còn khi hướng tới cuộc sống lao

khổ của người dân nghèo, thì giọng trần thuật lại trở nên xót xa thương cảm.

Giọng điệu trần thuật trong tác phẩm của Tô Hoài luôn giữ được bản sắc

riêng: mỉa mai, bóng gió pha chút gai góc, tinh quái. Đó là chất giọng khá ổn

định ở cả trước và sau Cách mạng, mặc dù mức độ đậm nhạt có khác nhau.

Nhưng bên cạnh giọng điệu ấy, nhà văn còn sử dụng nhiều giọng điệu, nó làm

nên tính phức điệu trong giọng điệu trần thuật của tác giả.

Hướng ngòi bút tới người dân lao khổ thì trái tim nghệ sĩ trở nên buồn

với giọng trần thuật trở nên xót xa, thương cảm: “Mỗi lần nhớ lại những ngày

ở Cầu Am, tôi chỉ nhớ phảng phất thế, nhưng những nét xoáy cắt vào kỷ niệm

cứ long lanh như những nhát khía. Một tiếng trẻ nghiến răng. Cái gốc đa xù

xì, con trâu đến cọ lưng. Những câu hát ngẩn ngơ…Thằng Tây bắn súng…cò

què …Người con gái tùm hụp chiếc khăn vuông, bàn tay trắng xanh mà tôi

chỉ trông thấy vào lúc sẩm tối. Lão đồng cô bán bánh cuốn, bán hàng nước.

Mọi người đều tốt bụng và đều khổ mà có người khổ đến phải đi trẫm mình

vào cái ao có ma đằng sau nhà thương. Nhà bác hàng nước vẫn cãi nhau với

vợ bác cu-li san, nhưng đôi lúc lại rơm rớm nước mắt…”[19,tr.160].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

114

Đọc Tự truyện mà ta cảm thấy nhói lên nỗi buồn về cảnh vật và con

người trong tác phẩm. Ta thấy bao trùm lên toàn bộ tác phẩm là giọng điệu

trữ tình mang sắc thái bùi ngùi cảm động. Sắc thái giọng điệu này thường

bộc lộ khi nhà văn viết về những gian truân trong cuộc sống sinh hoạt và

hiện thực mà bản thân mỗi con người phải đối mặt, bởi đó là quy luật của

cuộc sống.

Đọc Tự truyện, nhân vật tôi triền miên trong những kỷ niệm buồn buồn

thời thơ ấu đến lúc trưởng thành. Giọng điệu bùi ngùi trở nên hữu hiệu đưa

người đọc trở về với những kỷ niệm xưa. Ở đó có cảnh “ông tôi hay đánh bà

tôi, các dì tôi hay cãi nhau, có cảnh bản thân nhân vật tôi những ngày Kẻ Chợ

lủi thủi cọ chai và vần lốp ôtô, có cảnh nhặt lá đa, lá muỗm ở sân đình, ở cửa

quan về cho bà đun bếp…”[19]. Giọng điệu cứ bùi ngùi xúc động không phải

được tạo ra bởi từ sự gia công của câu chữ, mà xuất phát từ tình cảm chân

thành của tác giả. Những ngày thất nghiệp lang thang kiếm việc ở Hải Phòng,

khiến nhà văn không khỏi thấm thía cảnh khổ đau của cái nghèo. Giọng điệu

ấy lại thật da diết:

“Cần bâng khuâng hỏi tôi trong bóng tối:

- Không biết đời chúng mình cứ thế này đến bao giờ”

Tôi không hiểu Cần băn khoăn về cuộc đời theo nghĩa đen hay

nghĩa bóng, còn tôi thì tôi đang nghĩ đến một cái gì mơ hồ buồn lắm

[19,tr.208-209].

Âm hưởng bùi ngùi da diết trải dài trong nhiều tác phẩm của Tô Hoài

bắt nguồn từ hiện thực của cuộc sống. Những năm trước Cách mạng, là cuộc

sống quẩn quanh tù túng khiến con người bế tắc trong mưu kế sinh nhai. Họ

lâm vào cảnh cùng đường tuyệt vọng. Sau Cách mạng, âm hưởng da diết bùi

ngùi chỉ xuất hiện khi nhà văn nhớ về những kỷ niệm buồn xưa hoặc bản thân

phải đối diện với qui luật tất yếu của một đời người.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

115

Rõ ràng, bên cạnh giọng điệu dí dỏm hài hước, giọng điệu suồng sã tự

nhiên, giọng điệu chủ đạo của Tô Hoài còn là giọng trữ tình với nhiều sắc thái

tình cảm. Tô Hoài là nhà văn của con người và cuộc sống đời thường, ở đó

ông bộc lộ thái độ trước muôn màu, muôn vẻ của cuộc sống. Cái sắc thái làm

nên giọng điệu chủ đạo của Tô Hoài trong Tự truyện đã chứng tỏ nhà văn

sống trọn vẹn với con người và cuộc đời cả lúc vui cũng như lúc buồn, cả lúc

khổ đau cũng như lúc sung sướng hạnh phúc. Nhờ giọng điệu này mà chúng

ta có thể nhận ra rằng, từ những sự việc vốn bình thường trong cuộc sống

cũng có thể trở thành chất liệu muôn đời cho văn chương.

Nhịp điệu trần thuật:

Đọc Tự truyện của Tô Hoài ta thấy nhịp điệu trần thuật nhìn chung

thường chậm rãi, nhà văn luôn hướng ngòi bút của mình đến những câu

chuyện thường ngày, ông không đi vào những vấn đề có tính chất lịch sử, xã

hội lớn lao, vì vậy mà nhịp điệu trần thuật trong các sáng tác của ông cứ lặng

lẽ dần trôi như dòng đời vốn có.

Nếu như ở Nam Cao, tài năng nổi bật là phân tích tâm lý nhân vật, bộc

lộ sự đau đớn, dằn vặt trong tâm hồn họ, các tác phẩm của ông bộc lộ những

vấn đề có tính chất xã hội lớn lao thì Tô Hoài lại thường đi vào cuộc sống với

mạch ngầm bình thường của cuộc sống như sự vốn có của nó. Những tác

phẩm của ông cứ lặng lẽ dần trôi theo mạch trần thuật của nhà văn.

Trong Tự truyện là những mảng tự truyện về quãng đời thơ ấu, thời

thanh niên của nhà văn thì nhịp điệu trần thuật nhìn chung ổn định cứ dần trôi

lặng lẽ theo một kết cấu thời gian nhất định. Những cảm nhận về cuộc đời, về

số phận con người cứ dần hiện ra theo sự trưởng thành của nhân vật tôi. Nhịp

điệu trần thuật tự nhiên, giọng điệu gần gũi, cùng với cách kể chuyện hấp dẫn,

có duyên đã lôi cuốn người đọc vào một quãng đời của tác giả. Từng bước đi

thăng trầm của cuộc đời nhà văn cứ lần lượt hiện lên trang sách. Từ chuyện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

116

của thằng Cu Bưởi kể về ngôi nhà, mảnh vườn xưa quen thuộc và những

người thân cứ lần lượt được giới thiệu. Rồi đến những ngày ở Kẻ Chợ đi học

nhưng hai năm trời không có được chữ nào vào đầu mà chỉ biết đến nghề

đánh giày, cọ ve chai, rửa bát rồi nấu cơm…Và đến khi đi học, rồi đi làm, đi

bán giày bata “số 89 phố hàng Đào” rồi về cửa hàng giày ở “phố hàng Khay”,

nào là được gọi về làm bàn giấy của hãng ở phố Giăngsole, Hàng Bông, Thợ

nhuộm…Cứ thế qua bước đi của thời gian, nhà văn trưởng thành trên trường

đời là xã hội, mỗi suy nghĩ, dự định đều chín chắn hơn. Nhìn chung nhịp điệu

trần thuật không có gì đặc sắc so với trước đây của ông: thường chậm chạp

thong thả như cuộc sống hàng ngày. Có lúc vừa kết hợp kể và tả. Đó là những

đoạn rẽ ngang trong mạch trần thuật: đoạn miêu tả thiên nhiên, đoạn phong

tục, đoạn hồi tưởng quá khứ, hoặc có đoạn là những lời bình luận ngoài đề.

Đang hồi tưởng về ông, tác giả lại đưa người đọc trở về quá khứ của ông

ngoại với những ngày tháng trai trẻ vất vả lam lũ của chàng thanh niên từng

phải ra Bắc vào Nam, từng làm phu, làm đường, đến cả việc đóng vai trò

làm thầy lang “bất đắc dĩ” để kiếm hai bữa ăn đường, rồi cả việc từng hành

nghề đi ăn trộm, ăn cướp để kiếm sống… Mạch truyện bị xen ngang và tạm

thời dừng lại song người đọc lại có điều kiện để dõi theo đường đời của từng

nhân vật hoặc lại được thưởng thức những bức tranh thiên nhiên kỳ thú.

Trong các tác phẩm của Tô Hoài ta thấy xen kẽ ngôn ngữ người trần thuật

với ngôn ngữ nhân vật góp phần tạo nên nhịp điệu cho tác phẩm, làm cho

tiến trình mạch kể, tả chậm lại. Nhịp điệu chậm góp phần giúp nhà văn thể

hiện chủ đề tác phẩm.

Đang kể về chuyện thầy giáo bắt học sinh tự tát vào mặt nhau, mỗi đứa

đóng một xu để mua roi mới, rồi nhà văn lại tả cảnh mùa hè lồng vào những

câu chuyện “Đành chịu, ngày trước học trò đi học, gặp thầy dữ đòn hay thầy

giáo hiền cũng chỉ như người đi đường gặp mưa gặp nắng, không biết thế nào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

117

mà tránh… Rồi mùa xuân đi, mùa hạ đến. Ngày tháng nhạt nhẽo, oi ả, khó

nhọc”[19,tr.121]. Mạch truyện bị xen ngang tạm dừng lại song người đọc lại

có điều kiện để theo dõi đường đời của từng nhân vật hoặc được thưởng thức

những bức tranh thiên nhiên kỳ thú. Nhãn quan sinh hoạt thế sự khiến cho

mạch trần thuật có lúc tưởng như lan man, sa đà song không hề bị mất đi cái

logic chung của tác phẩm. Mạch trần thuật hết sức chi tiết, tỉ mỉ, hiện thực

được miêu tả nhiều khi “trần trụi” từ những chuyện “vụn vặt, tủn mủn”, bằng

cái nhìn tinh quái của người trong cuộc tạo nên sức hấp dẫn, tính chân thực

của thể loại tự truyện.

Nhịp điệu trần thuật này phù hợp và giúp đỡ Tô Hoài thể hiện bức tranh

cuộc sống hiện thực bình dị, tự nhiên vốn có. Tô Hoài quan tâm đến cuộc

sống đời thường, những vui buồn, lo toan của người dân lao động nên tác

phẩm của ông giản dị, tự nhiên, gần gũi đối với mỗi người đọc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

118

KẾT LUẬN

Tô Hoài là một tấm gương sáng về tinh thần lao động sáng tạo, về công

phu rèn luyện tay nghề của một nhà văn chuyên viết về văn xuôi. Cùng với

nhiều nhà văn tài năng đương thời, ông đã có những đóng góp cho sự phát

triển của nền văn xuôi hiện đại. Với một sức lao động dẻo dai, bền bỉ, Tô

Hoài đã có số lượng lớn tác phẩm ở nhiều thể loại và điều đáng qúi hơn là có

được những nét đặc sắc riêng trong phong cách nghệ thuật của mình. Qua

mảng đề tài chân dung và tự truyện, Tô Hoài đã góp phần làm nên những áng

văn hay cho dòng văn học Việt Nam nói chung và cho thể loại chân dung văn

học và tự truyện nói riêng.

Đọc những tác phẩm thuộc thể loại chân dung văn học của Tô Hoài,

người đọc có cảm tưởng như được gặp gỡ và trò chuyện với bao gương mặt

vốn thân quen và đáng kính trọng. Họ hiện ra trước mắt chúng ta bình dị,

chân chất, và cũng nhiều cảm động. Tô Hoài đã khuấy động vào con tim khối

óc chúng ta trước những con người với những số phận lênh đênh, tài hoa

nhưng cũng lắm gian truân. Nhờ Tô Hoài chúng ta đã hiểu được những người

nghệ sĩ tài ba, và hơn hết hiểu được sâu sắc “nghề văn”- một nghề cao quí

nhưng cũng đầy gian nan.

Chọn viết về thể loại chân dung văn học, Tô Hoài đã tự nhận về mình

những khó khăn của lớp người khai phá một thể loại mới trong lịch sử văn

học dân tộc. Sự khó khăn ấy chỉ kích thích thêm ý thức sáng tạo của nhà văn

trước nhu cầu cung cấp tư liệu văn học cho độc giả. Nhờ một trí nhớ tuyệt

vời, Tô Hoài đã lưu giữ được một kho kí ức đầy giá trị. Các tác phẩm thuộc

thể loại chân dung văn học của Tô Hoài về số lượng tuy chưa nhiều nhưng lại

có ý nghĩa to lớn. Chân dung văn học không chỉ dừng lại ở việc giúp ta hiểu

biết về thế giới nghệ thuật nhà văn, mà còn giúp ích đối với sự phát triển của

thể loại chân dung văn học Việt Nam. Với ngòi bút điêu luyện đã trải qua bao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

119

khổ luyện công phu, Tô Hoài đã ghi được những thành công đáng kể trong thể

loại chân dung văn học của mình.

Bên cạnh đó, thể tự truyện của Tô Hoài cũng in dấu những thành công

đáng kể. Tự truyện của Tô Hoài cũng để lại những dấu ấn riêng với phong

cách mang đậm dấu ấn cá nhân. Đọc tự truyện của Tô Hoài, người đọc thấy

được cái “tôi” của nhà văn, thấy được những tâm sự chất chứa trong tác

phẩm, với tấm lòng yêu thương con người của nhà văn. Từ góc nhìn đời

thường, nhà văn đã viết về tuổi thơ và tuổi trưởng thành của mình với những

câu chuyện đời thường, tưởng như “vụn vặt nhem nhọ” nhưng đầy cảm xúc.

Nhà văn đã không hề né tránh hay “tô hồng” quá khứ đời tư của mình. Ông đã

tái hiện một hiện thực trong quá khứ như nó vốn tồn tại với tất cả những gì

thô ráp xù xì, tạp nham vốn có. Tự truyện vì thế đã gây cho người đọc những

bất ngờ thú vị về những câu chuyện vụn vặt đời thường. Tự truyện đã cung

cấp cho người đọc những bức tranh đời sống sinh hoạt và phong tục vô cùng

phong phú, hấp dẫn ở một vùng quê ngoại thành Hà Nội - làng Kẻ Bưởi-

Nghĩa Đô, quê ngoại tác giả, và hơn nữa hiểu được bức tranh đời sống xã hội

thời bấy giờ. Bằng cách nhìn đời sống mang dấu ấn riêng, bằng năng lực quan

sát đặc biệt tinh tế và khả năng nắm bắt đối tượng nhanh nhạy, Tô Hoài đã lựa

chọn các quan điểm trần thuật phù hợp và rất linh hoạt trong tự truyện của

mình để từ đó dựng lại bộ mặt tinh thần của nhân cách tác giả, với mục đích

nghệ thuật khác nhau. Với thể tự truyện Tô Hoài đã tạo ra được nét riêng biệt,

có sức lôi cuốn, hấp dẫn đặc biệt đối với người đọc và làm nên một Tô Hoài

với phong cách riêng.

Với tâm huyết nghề nghiệp, thái độ lao động nghiêm túc, tích cực, phát

huy cá tính sáng tạo, nhà văn Tô Hoài đã gặt được những thành công lớn

trong sự nghiệp sáng tác của mình. Với hai thể chân dung và tự truyện Tô

Hoài đã để lại cho nền văn học hiện đại Việt Nam những giá trị to lớn về thể

loại và những độc đáo ở phong cách nhà văn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

120

Với niềm đam mê, hứng thú khám phá, với sức sáng tạo bền bỉ, dẻo dai

của nhà văn Tô Hoài giữa dòng văn và cuộc đời, luận văn đã tìm đến với

mảng đề tài chân dung và tự truyện của Tô Hoài. Tìm hiểu những đặc sắc về

nội dung và nghệ thuật trong chân dung văn học và tự truyện của Tô Hoài,

chúng tôi muốn thể hiện một thái độ trân trọng của mình đối với những sáng

tạo nghệ thuật của nhà văn, đồng thời cũng hy vọng góp thêm tiếng nói - một

tiếng nói khẳng định vị trí và những đóng góp quí báu của nhà văn Tô Hoài

đối với thể chân dung văn học và tự truyện của các nhà văn nói riêng và nền

văn học hiện đại Việt Nam nói chung.

Nhân cách nhà văn trong Tô Hoài là một nhân cách đứng đắn, luôn ở

chiều hướng vươn tới cái chân, cái thiện, cái mĩ. Ở tuổi cao nhưng Tô Hoài

vẫn luôn tỏ ra sung sức với ngòi bút càng già dặn và uyển chuyển tinh tế hơn.

Chúng ta hy vọng rằng Tô Hoài sẽ tiếp tục sáng tác thêm, nhất là ở hai thể

loại chân dung văn học và tự truyện để tiếp tục thúc đẩy sự phát triển mạnh

mẽ hơn ở những thể loại này. Chúng ta hãy chờ đón những thành tựu tiếp theo

của nhà văn lão thành này với một niềm đam mê, trân trọng và yêu mến nhất.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

121

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoài An (1997), “Tô Hoài, nhà văn viết về Hà Nội đặc sắc và phong phú”,

Báo Văn hoá văn nghệ Công an, số 10.

2. Hoài An (2001), Chân dung văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

3. Lại Nguyên Ân (2004), 150 Thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc Gia,

Hà Nội.

4. Nguyễn Văn Bổng (1995), Thời đã qua, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

5. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

6. Trương Đăng Dung (chủ biên), (1990), Các vấn đề khoa học văn học, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

7. Phan Cự Đệ (2004), Tác phẩm và chân dung, Nxb Văn học., Hà Nội

8. Phan Cự Đệ ( 1974), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tập 1, Nxb Đại học và

trung học chuyên nghiệp.

9. Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức( 1979), Nhà văn Việt Nam, Nxb Đại học -

Trung học chuyên nghiệp.

10. Hà Minh Đức (1987), Tuyển tập Tô Hoài, Tập 1, Nxb Văn học Hà Nội.

11. Hà Minh Đức (2006), Tô Hoài đời văn và tác phẩm, Nxb Văn học.

12. Thu Hà (1999), “Viết nhiều và được nhiều - Đọc “Chiều chiều” của Tô

Hoài”, Báo Tuổi trẻ TP HCM.

13. Đặng Thị Hạnh (1998), “Viết về một cuộc đời và những cuộc đời (Cấu

trúc thời gian và ngôn từ trong “Cát bụi chân ai”)”, Tạp chí văn học, số 12

14. Nhiều tác giả (1996), Các vấn đề khoa học của văn học, Nxb Khoa học xã hội.

15. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ

văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

16. Tô Hoài (2004), Cái áo tế, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

17. Tô Hoài (1995), Những gương mặt, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

122

18. Tô Hoài (1999), Chiều chiều, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

19. Tô Hoài (1985), Tự truyện, Nxb Văn học, Hà Nội.

20.Tô Hoài (2004), Chuyện cũ Hà Nội - tập 1,2, Nxb Trẻ, Hà Nội.

21. Tô Hoài (2006), Ba người khác, Nxb Đà Nẵng.

22. Tô Hoài (2004), Hồi kí, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

23. Tô Hoài (1977) , Sổ tay viết văn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

24. Tô Hoài (1997), Nghệ thuật và phương pháp viết văn, Nxb Văn học, Hà Nội.

25. Tô Hoài (1994), Tuyển tập, Nxb Văn học, Hà Nội.

26. Tô Hoài (1986), Chuyện cũ Hà Nội, Nxb Văn học, Hà Nội.

27. Nguyễn Thái Hoà, Đinh Trọng Lạc (1993), Phong cách học tiếng Việt,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

28. Nguyễn Công Hoan (1997), “Trau dồi tiếng Việt”, Hỏi chuyện các nhà

văn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

29. Đoàn Trọng Huy (2002), Tô Hoài - Quá trình lịch sử văn học Việt Nam,

tập III, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

30. Nguyên Hồng (2004), Những ngày thơ ấu, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

31. Phong Lê (1999), Vẫn chuyện văn chuyện người, Nxb Văn hóa Thông tin,

Hà Nội.

32. Phong Lê - Vân Thanh (2003), (Giới thiệu và tuyển chọn), Tô Hoài về tác

gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

33. Phong Lê (1990), Các vấn đề của khoa họcvăn học, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

34. Phong Lê (2006), Người trong văn - chân dung và Tiểu luận, Nxb Văn

hoá, Sài Gòn.

35. Nguyễn Văn Long (2003), “Quan niệm nghệ thuật về con người và những

đặc điểm của sự thể hiện con người trong văn học Việt Nam giai đoạn từ

1945-1975” Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

123

36. Nguyễn Quốc Luân (1992), “Về chân dung văn học trong sách giáo

khoa”, Tạp chí NCGD, số 5.

37. Nguyễn Đăng Mạnh (1990), Chân dung văn học, Nxb Thuận Hoá.

38. Nguyễn Đăng Mạnh (1981, 1982), “Lời giới thiệu”, Tuyển tập Nguyễn

Tuân, tập 1-2, Nxb Văn học, Hà Nội.

39. Nguyễn Đăng Mạnh(2001), Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nxb Đại

học Quốc Gia, Hà Nội.

40. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của

nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

41. Nguyễn Đăng Mạnh (1990), “Tản văn về Nguyễn Tuân”, Báo Văn nghệ,

Số 32.

42. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (1975), Tổng tập văn học Việt Nam, tập

30A, Nxb Khoa học xã hội.

43. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), “Tô Hoài với quan niệm về con người”, Báo

Văn nghệ, số 25.

44. Trần Đình Nam (1995), “Nhà văn Tô Hoài”, Tạp chí văn học, số 9.

45. Võ Xuân Quế (1963), “Ngôn ngữ một vùng quê trong các tác phẩm đầu

tay của Tô Hoài”, Tạp chí văn học, số 5.

46. Trần Đình Sử (chủ biên) (2003), Tự sự học (Một số vấn đề và lịch sử),

Nxb Đại học Sư phạm.

47. Trần Đình Sử (chủ biên) (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ

giáo dục và đào tạo - Vụ giáo viên Hà Nội.

48. Trần Đình Sử (chủ biên) (1996), Lí luận và phê bình văn học, Nxb Văn

học, Hà Nội.

49. Mạnh Phú Tư (2000), Sống nhờ, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

50. Trần Hữu Tá (2001), Tô Hoài một đời văn phong phú, Nxb Trẻ Hội

nghiên cứu và giảng dạy văn học TPHCM.

51. Nguyễn Tuân (1982), Tuyển tập Nguyễn Tuân,tập 1,2, Nxb Văn học, Hà Nội.

52. Mạnh Phú Tư (2002), Sống nhờ, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

124