Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN BỘ MÔN NGỮ VĂN

-----(cid:61594)(cid:61595)(cid:61478)(cid:61594)(cid:61595)-----

DƯƠNG THÙY LINH

ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN THƠ LỤC VÂN TIÊN

CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

Luận văn tốt nghiệp đại học Ngành Ngữ Văn

Cán bộ hướng dẫn: Ths. GVC. PHAN THỊ MỸ HẰNG

Cần Thơ, 5/2011

1

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT

(cid:61596) (cid:61478) (cid:61597)

PHẦN 1: MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

2. Lịch sử vấn đề

3. Mục đích nghiên cứu

4. Phạm vi nghiên cứu

5. Phương pháp nghiên cứu

PHẦN 2: NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Khái quát truyện thơ

1.1.1. Khái niệm

1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của truyện thơ

1.1.3. Phân loại truyện thơ

1.2. Khái quát truyện thơ Lục Vân Tiên

1.2.1. Hoàn cảnh sáng tác

1.2.2. Tóm tắt cốt truyện

1.2.3. Ý nghĩa truyện thơ Lục Vân Tiên

CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TRUYỆN THƠ LỤC VÂN

TIÊN

2.1. Truyện thơ Lục Vân Tiên ca ngợi công lý, chính nghĩa

2.1.1. Nhân nghĩa

2.1.2. Hiếu nghĩa

2.1.3. Tình nghĩa

2.1.4. Ơn nghĩa

2.2. Truyện thơ Lục Vân Tiên phê phán bất nhân, bất nghĩa

2.2.1. Sự nham hiểm, gian trá

2.2.2. Sự mù quáng, bất công

2.3. Truyện thơ Lục Vân Tiên thể hiện khát vọng lý tưởng của nhân dân

2.3.1. Niềm tin về sự thắng lợi của đạo lý- chính nghĩa thắng gian tà

2

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

2.3.2. Niềm tin về một xã hội phong kiến lý tưởng- vua sáng, tôi hiền

CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC TRUYỆN THƠ LỤC VÂN TIÊN

3.1. Sự kết hợp nhiều hình thức ngôn ngữ

3.1.1. Ngôn ngữ bình dân

3.1.2. Ngôn ngữ bác học

3.1.3. Ngôn ngữ địa phương

3.2. Một số phương diện nghệ thuật xây dựng nhân vật

3.2.1. Ngoại hình

3.2.2. Tính cách

3.2.3. Hành động

3.2.4. Tâm trạng

3.3. Vận dụng sáng tạo một số thể loại của văn học dân gian

3.3.1. Thành ngữ, tục ngữ

3.3.2. Ca dao, dân ca

3.3.3. Truyện cổ tích

3.4. Nghệ thuật sử dụng điển tích, điển cố

3.4.1. Điển cố mượn những câu chuyện về những nhân vật lịch sử và các triều

đại

3.4.2. Điển cố mượn những dẫn chứng tích cũ, lời xưa trong thơ cổ Trung Quốc

3.4.3. Điển cố mượn những địa danh trong văn chương Trung Quốc

3.4.4. Điển cố mượn từ Hán Việt kết hợp với từ Thuần Việt

PHẦN 3: KẾT LUẬN

3

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

LỜI CẢM ƠN

(cid:61596) (cid:61478) (cid:61597)

Bốn năm ngồi trên giảng đường đại học đã cho chúng tôi nhiều kiến thức mới

mẻ mà lúc còn phổ thông chưa có dịp tiếp cận. Và cho đến khi nhận đề tài nghiên cứu

về Đặc điểm truyện thơ Lục Vân Tiên chính là bước thử thách sau cùng để chúng tôi

hoàn thành khóa học. Từ lâu rồi ba chữ Lục Vân Tiên cùng với cái tên Nguyễn Đình

Chiểu đã trở nên quen thuộc với chúng tôi, thế nên khi tiếp xúc đề tài đã tạo nên một

tâm trạng khó tả. Chúng tôi mừng vì được trực tiếp nghiên cứu một tác phẩm có ảnh

hưởng sâu rộng trong quần chúng cũng như nền văn học Việt Nam. Tuy nhiên, nỗi lo

vẫn có vì kiến thức của chúng tôi phần nào đó còn bị hạn chế. Thế nhưng, nhờ vào sự

hướng dẫn tận tình của giáo viên hướng dẫn Phan Thị Mỹ Hằng chính là niềm tin, và

điều kiện để chúng tôi hoàn thành đề tài. Một lần nữa xin chân thành cảm ơn cô vì sự

giúp đỡ trong suốt thời gian qua. Cũng không quên cảm ơn tất cả các thầy cô của hai

bộ môn Ngữ Văn thuộc Khoa Khoa học Xã Hội và Nhân Văn cùng Khoa Sư Phạm đã

cho chúng tôi những kiến thức vô cùng quý báu từ khi bước vào trường Đại Học Cần

Thơ. Gởi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và người thân luôn ở bên, ủng hộ, động viên

và giúp chúng tôi trong quá trình thực hiện.

Rất mong nhận được sự đóng góp của thầy cô, bạn bè để khắc phục những thiếu

sót của đề tài.

Chân thành cảm ơn!

Cần Thơ, ngày 05 tháng 5 năm 2011

Sinh viên thực hiện

Dương Thùy Linh

4

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

PHẦN MỞ ĐẦU

5

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

1. Lí do chọn đề tài

Nam Bộ - một miền đất mới của đất nước Việt Nam - ở đây không chỉ có những

cánh đồng lộng gió, có tôm, có cá, có nhiều đặc sản quý báu, mà vùng đất đã nuôi

dưỡng biết bao tâm hồn của những người con tận cùng của Tổ quốc. Và đặc biệt nơi

đó còn có những con người hào sảng, biết sống vì nghĩa, chết vì tình. Cũng chính miền

đất thành đồng ấy đã sinh ra một người con ưu tú, người đã vượt qua số phận bất hạnh

của bản thân để phục vụ cho đời. Có thể nói khi nhắc đến miền Nam ta không nhắc

đến tên của ông, một chí sĩ yêu nước đã dùng ngòi bút chống lại những bất công trong

cuộc sống, giành lại những giá trị tốt đẹp có từ ngàn xưa của dân tộc là một điều thiếu

sót. Cái tên ấy đã trở thành niềm tự hào của con người miền Nam, đó không ai khác

chính là nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, được nhân dân Nam Bộ gọi bằng một cái tên trìu

mến: cụ Đồ Chiểu. Nghe cách gọi ta cũng biết được những con người nơi đây yêu mến

Nguyễn Đình Chiểu như thế nào, họ đã xem ông như thầy, và là một trong số ít người

có ảnh hưởng lớn đối với quê hương miền Nam. Không chỉ người dân nơi này ngưỡng

mộ cụ mà hầu như những ai yêu thích văn chương, có hứng thú trong việc tìm hiểu về

văn học Việt Nam đều có chung một nhận định: “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng

trong văn nghệ của dân tộc” (Phạm Văn Đồng). Người ta yêu mến cụ Đồ Chiểu không

chỉ vì ông là người Nam Bộ mà còn là một con người đã hiểu thấu tình cảm của họ.

Người đọc tìm thấy trong tác phẩm của cụ những giá trị không gì thay thế được, họ

còn lấy những tác phẩm đó làm nền tảng cho mọi hành động của mình. Nổi bật là

truyện thơ Lục Vân Tiên. Có thể nói sau Truyện Kiều của Nguyễn Du thì Lục Vân Tiên

xứng đáng xếp hàng thứ hai trong kho tàng truyện Nôm của dân tộc Việt Nam.

Yêu mến Nguyễn Đình Chiểu bao nhiêu thì ta không thể nào quên được chàng

Lục Vân Tiên và nàng Kiều Nguyệt Nga của ông - hai con người trong truyện thơ Lục

Vân Tiên - chính là tấm gương cho những thanh niên miền Nam bấy giờ noi theo.

Ngoài ra những con người lao động yêu nó cũng bởi vì chính Lục Vân Tiên nói lên

những gì mà họ mong ước. Cho nên sức sống của tác phẩm đối với người dân Nam Bộ

nói riêng, và những người con của Việt Nam nói chung vẫn còn mãi đến ngày nay.

Nếu như Truyện Kiều được xem là tác phẩm làm nên ngôn ngữ thơ ca dân tộc thì Lục

Vân Tiên là bức tranh về con người Việt Nam nhân nghĩa, tiết hạnh, trọng nghĩa khinh

tài… Vì thế là những người con của đất nước ngàn năm văn hiến, đặc biệt là một

6

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

người đã sinh ra và lớn lên ở vùng cực Nam của Tổ quốc, chúng tôi càng thêm yêu quý

những giá trị mà cha ông ta để lại trong đó có nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu.

Và cũng chính vì sự yêu mến tác phẩm Lục Vân Tiên đã thôi thúc chúng tôi tìm hiểu

những đặc điểm của nó.

Như chúng ta đã biết truyện thơ Lục Vân Tiên có những giá trị vô giá đã được

cụ Đồ Chiểu viết lên bằng cả tâm huyết. Những vẻ đẹp tiềm tàng ấy không phải chỉ

trong một thời gian ngắn mà ta có thể hiểu hết. Vì thế chọn đề tài “Đặc điểm truyện

thơ Lục Vân Tiên” chúng tôi hi vọng góp một phần nhỏ vào công việc nghiên cứu và

bảo tồn tác phẩm quý báu này.

2. Lịch sử vấn đề

Nguyễn Đình Chiểu - nhà thơ lớn của Việt Nam, tác phẩm của cụ có ảnh hưởng

không nhỏ đến đời sống và lịch sử văn học dân tộc. Vì thế, như những ngôi sao trên

trời ta không thể chỉ nhìn mà phải biết đi sâu tận bên trong mới hiểu được hết nội tại

của nó. Văn thơ của cụ cũng là một ngôi sao, rất cần có những con người tâm huyết đi

tìm những giá trị ẩn bên trong mà không dễ gì chúng ta có thể nhìn thấy. Trong đó nổi

bật là truyện thơ Lục Vân Tiên. Từ khi Lục Vân Tiên ra đời cho đến nay các tác giả

như: Hà Như Chi, Xuân Diệu, Dương Quảng Hàm, Nguyễn Lộc, Phong Nam, Trần

Nghĩa, Hoài Thanh, Lê Trí Viễn, Nguyễn Quang Vinh… đã cùng tham gia tìm hiểu về

tác phẩm. Ngoài ra truyện đã thu hút sự chú ý của giới phê bình, nghiên cứu nước

ngoài đặc biệt là người Pháp. Từ đó thấy được giá trị quý báu của Lục Vân Tiên đối

với văn học và con người là không phủ nhận. Tuy các bài viết của những tác giả chỉ

bàn vài khía cạnh về Lục Vân Tiên nhưng qua đó thấu hiểu nỗi lòng của Đồ Chiểu gởi

gắm qua từng câu chữ của tác phẩm.

Quyển Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm [39], có các bài viết của

nhiều tác giả bàn về Lục Vân Tiên như: Dương Quảng Hàm, Trần Nghĩa, Nguyễn

Quang Vinh, Lâm Vinh… Các nhà nghiên cứu tuy có những cách viết khác nhau và

vấn đề bàn luận nhiều khía cạnh nhưng nhìn chung đều có những đánh giá cao giá trị

của tác phẩm. Họ xem Lục Vân Tiên là một vũ khí để chống lại những bất công, cái

phi nghĩa hành hạ con người.

Quyển Nguyễn Đình Chiểu tác phẩm và lời bình [37], tập hợp nhiều bài viết

nghiên cứu về Lục Vân Tiên. Chẳng hạn Lục Vân Tiên trong hát hò Nam Trung Bộ

7

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

[37;351], Nguyễn Quý Thành đã nhấn mạnh sức ảnh hưởng của truyện thơ đối với

cuộc sống sinh hoạt cộng đồng của nhân dân lao động. Bảo Định Giang trong bài viết

Trở lại truyện thơ Lục Vân Tiên [37;357] giải thích được lí do quần chúng lao động

yêu thích và say mê Lục Vân Tiên đến như vậy.

Quyển Lịch sử văn học Việt Nam tập 4A [33], có giới thiệu bài viết của Phan

Côn và Lê Trí Viễn về đạo đức trong truyện thơ Lục Vân Tiên: “ Người ta thấy rằng lý

tưởng mà các nhân vật mang trong tim trong óc đã được bộc lộ dưới những khái niệm

đạo đức nhân nghĩa của nhà nho nhưng bản chất lại chính là lý tưởng đạo đức của

nhân dân, của dân tộc. Ai nấy đều biết: đối với giai cấp thống trị, nhân nghĩa chẳng

qua là chiêu bài để lừa bịp, nhất là giai cấp thống trị trong thời kỳ phản động của nó.

Nhưng ở trong những con người ưu tú của thời đại, những con người tuy xuất thân từ

hàng ngũ phong kiến hoặc chịu ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến, của Nho giáo,

nhưng lại tiếp nhận được truyền thống đạo đức nhân dân thì nhân nghĩa đạo đức vẫn

có ý nghĩa thực tiễn.”[33;51]. Qua đó ta thấy được nhân nghĩa trong tác phẩm nó

không xa rời mà rất gần với cuộc sống thường nhật của quần chúng.

Quyển Lục Vân Tiên tác phẩm và lời bình [27] đã tập hợp nhiều bài viết bình

luận và phê bình về tác phẩm. Bài viết Lục Vân Tiên [27;215] của Phong Nam có viết:

“Truyện Lục Vân Tiên sở dĩ được quần chúng mến mộ vì bản thân nó có sức hấp dẫn

lớn. Sức hấp dẫn đó nằm cả trong sự phong phú của nội dung lẫn nghệ thuật thể hiện

đặc sắc” [27;215]. Ý kiến ấy đã phần nào xóa bỏ những nhận định cho rằng Lục Vân

Tiên chỉ đặc sắc về nội dung nhưng về nghệ thuật còn hạn chế.

Nhìn chung, có rất nhiều công trình nghiên cứu về Lục Vân Tiên ở hai mặt nội

dung và hình thức. Nhưng mỗi phương diện chỉ đi sâu đề cập đến một số lĩnh vực của

tác phẩm. Các cứ liệu trên là nguồn tài liệu phong phú cho những ai muốn đi sâu khám

phá truyện thơ Lục Vân Tiên một cách toàn diện. Mặc dù kiến thức còn hạn hẹp, sự

hiểu biết chưa thật vững vàng như các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp nhưng chúng tôi

hy vọng với đề tài này sẽ góp phần vào kho tài liệu tìm hiểu và nghiên cứu về tác

phẩm Lục Vân Tiên của nhà thơ, nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu.

3. Mục đích nghiên cứu

Như đã trình bày ở trên, Nguyễn Đình Chiểu cùng với truyện thơ Lục Vân Tiên

đã có ảnh hưởng sâu rộng trong nền văn học cũng như quần chúng nhân dân. Người

8

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

dân lao động chẳng những yêu thích tác phẩm mà còn xem nó là kim chỉ nam trong

nếp sống của mình. Do đó, với đề tài “Đặc điểm truyện thơ Lục Vân Tiên” chúng tôi

thử tìm hiểu và làm sáng tỏ những giá trị thuộc về nội dung và hình thức của tác phẩm.

Qua đó phần nào xác định sức sống lâu bền của truyện thơ trong lòng quần chúng lao

động, đồng thời khẳng định sức ảnh hưởng của nó trong nền văn học Việt Nam.

Bên cạnh đó, bài viết cũng góp một phần tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề

liên quan đến Lục Vân Tiên. Đồng thời bổ sung thêm những kiến thức để nâng cao khi

tìm hiểu chuyên sâu về tác giả trong chương trình giảng dạy và nghiên cứu văn học

sau này của chúng tôi.

4. Phạm vi nghiên cứu

Trong phạm vi đề tài “Đặc điểm truyện thơ Lục Vân Tiên”, đối tượng khảo sát

chủ yếu thuộc về hai phương diện nội dung và hình thức thể hiện trong tác phẩm.

Dẫn chứng tác phẩm được vận dụng chủ yếu trong quyển Nguyễn Đình Chiểu

tác phẩm và lời bình [37] và một số tư liệu có liên quan như quyển: Nguyễn Đình

Chiểu về tác gia và tác phẩm [39], Mấy vấn đề về thi pháp văn học trung đại [36], Văn

học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX [25]…

Cấu trúc luận văn gồm ba phần: ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung gồm

ba chương:

Chương 1 - Một số vấn đề chung.

Chương 2 - Đặc điểm nội dung truyện thơ Lục Vân Tiên.

Chương 3 - Đặc điểm hình thức truyện thơ Lục Vân Tiên.

5. Phương pháp nghiên cứu

Để hoàn thành đề tài chúng tôi đã tổng hợp các bài nghiên cứu, phê bình của

các tác giả trong và ngoài nước viết về Lục Vân Tiên. Trong đó có sự chọn lọc một số

ý kiến có liên quan đến đề tài để lập luận thêm sức thuyết phục.

Chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử để dễ dàng liên hệ giữa thực

tiễn với tác phẩm. Phương pháp trực giác nhằm đưa ra nhận định, đánh giá những

đóng góp của Lục Vân Tiên. Sử dụng phương pháp lôgic giúp cho chúng tôi có những

đánh giá đúng theo bản chất của truyện.

Ngoài ra chúng tôi đã kết hợp các thao tác so sánh, chứng minh, bình luận, tổng

hợp. Thao tác so sánh nhằm làm nổi bật những điểm tương đồng và dị biệt của Lục 9

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

Vân Tiên với những truyện thơ khác. Chứng minh để thấy rằng quan điểm, nhận định

ấy của tác giả là chính xác trong mọi hoàn cảnh. Thao tác bình luận và tổng hợp giúp

chúng tôi rút ra được những nhận xét đúng theo bản chất của sự việc, đồng thời biết

tổng kết những ý kiến từ bên ngoài với tác phẩm.

10

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

PHẦN NỘI DUNG

11

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Khái quát truyện thơ

Truyện thơ là một khái niệm được nhắc nhiều trong các lĩnh vực nghiên cứu thể

loại văn học trung đại cũng như văn học dân gian. Nó xuất hiện ở Việt Nam từ rất lâu,

trong môi trường sinh hoạt văn hóa của các dân tộc ít người, dần dần lan truyền xuống

dân tộc Kinh. Từ khi ra đời cho đến nay, truyện thơ có một ảnh hưởng nhất định đối

với nền văn học của nước nhà, đặc biệt quần chúng nhân dân lao động cũng dễ dàng

thuộc vài ba câu trong một tác phẩm. Và cũng vì nhiều nguyên nhân nên truyện thơ

được nhìn nhận ở nhiều góc độ, song các ý kiến đó không đối nghịch mà bổ sung cho

nhau. Tùy theo các lĩnh vực mà khái niệm truyện thơ được khai thác theo các hướng

không giống nhau. Điều đáng lưu ý là thuật ngữ truyện thơ không được dùng phổ biến

mà thay vào đó là thuật ngữ truyện Nôm. Nguyên nhân của tên gọi truyện Nôm “thiết

nghĩ là cách rút gọn của khái niệm truyện thơ Nôm, và cũng do điều kiện lịch sử văn

xuôi Nôm không phát triển, nghĩa là văn Nôm chỉ tồn tại dưới dạng văn vần và biền

ngẫu, cho nên gọi như vậy mà không sợ nhầm lẫn là truyện văn xuôi Nôm”[36;395].

Đồng thời do ở Việt Nam truyện thơ viết bằng chữ Hán không phổ biến nên tên gọi

truyện Nôm được dùng để chỉ thể loại này. Nhìn chung về khái quát truyện thơ là một

công việc tốn rất nhiều công sức của giới phê bình.

1.1.1. Khái niệm

Trần Đình Sử cho rằng “Truyện thơ Nôm là một sáng tạo độc đáo của văn

học dân tộc”[36;394]. Vì thế không nên đánh đồng truyện Nôm với thể loại truyện cổ

tích vì đơn giản nó là “xu hướng tiểu thuyết hóa truyện dân gian”[36;396]. Truyện thơ

Nôm có nhiều điểm rất khác với truyện cổ tích dân gian, về cách xây dựng nhân vật,

yếu tố tự sự trong truyện Nôm được tăng cường, yếu tố trữ tình phong phú, sự kịch

tính, lời thoại của các nhân vật đặc biệt ở thể loại này còn xuất hiện những lời bình

triết lý hoặc lời bình về trữ tình.

Phương Lựu nhận xét: truyện thơ “Là thể loại tự sự bằng thơ. Người

phương Tây gọi là “poème” - thường dịch là trường ca. Người Trung Quốc gọi là “tự

sự thi” hoặc “trường thiên tự sự thi”[26;383]. Từ đó ông cho rằng truyện thơ cũng là

một loại tiểu thuyết do nó nghiêng về thể loại và bút pháp tiểu thuyết, tiêu biểu đó

chính là Truyện Kiều, Lục Vân Tiên. Do vậy truyện thơ không lấy vua, quan, tướng

12

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

hay những nhà hoạt động cho nhà nước làm đối tượng miêu tả mà thể loại này tập

trung miêu tả những con người bình thường, khắc họa những tính cách của người dân

lao động.

Đặng Thanh Lê nhận định truyện Nôm là một thể loại tiểu thuyết cổ điển

Việt Nam, “là tác phẩm chính thống của các nhà Nho viết ra để giải thích minh họa

các sách kinh của tiên thánh như họ định nghĩa” [23;65].

Hà Minh Đức và Bùi Văn Nguyên cho rằng: “truyện thơ có khả năng phản

ánh những mặt phong phú của đời sống xã hội. Trên ý nghĩa đó truyện thơ có thể được

xem như một tiểu thuyết. Một mặt khác do chỗ vận dụng ngôn ngữ thơ ca để diễn đạt

nên từ hình ảnh, nhịp điệu đến cú pháp thơ ca, truyện thơ tự xác định chỗ khác nhau

với tiểu thuyết”. [9;329]

Lê Hoài Nam cũng nhận định: “Truyện Nôm là một loại hình văn học đã có

từ lâu. Đó là những sáng tác văn học hầu hết có tính chất trung thiên tiểu thuyết, và

viết bằng thể thơ lục bát, có khi bằng thất ngôn bát cú. Mặc dù trải qua thời gian,

nhiều truyện Nôm đã bị mất mát thất truyền, nhưng số còn lại hiện nay cũng khá

nhiều. Xét về mặt nội dung cũng như mặt hình thức, truyện Nôm có nhiều yếu tố phức

tạp. Nhiều tác giả thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác nhau ở vào nhiều giai đoạn lịch sử

khác nhau, đã chung sức xây dựng nên cái gia tài to lớn ấy.” [32;170]

Lại Nguyên Ân và Bùi Văn Trọng Cường cũng có chung nhận xét với nhiều

tác giả và rút ra kết luận về truyện thơ: “một thể loại sáng tác Tiếng Việt (chữ Nôm)

thời trung đại” [1;664] và được sáng tác chủ yếu với hai thể thơ là Đường luật với lục

bát.

Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong Từ điển thuật ngữ văn

học [17] cũng cho rằng đây là thể loại tự sự bằng thơ dài tiêu biểu trong nền văn học

cổ điển Việt Nam.

Nguyễn Lộc đã gọi truyện thơ là truyện Nôm và khái niệm của ông mang vẻ

tổng hợp hơn: “một thể loại văn học viết dưới hình thức văn vần, có cốt truyện trong

văn học cổ Việt Nam”. [20;1847]

Tóm lại truyện thơ là một thể loại văn học phổ biến trong nền văn học trung

đại Việt Nam, được các tác giả sáng tác nhằm phục vụ nhu cầu xã hội, lấy đối tượng

13

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

miêu tả là những con người bình thường, hình thức sáng tác là chữ Nôm - một loại chữ

viết của dân tộc và thể thơ được dùng chủ yếu là lục bát cùng Đường luật.

Với sự ra đời của truyện Nôm đã xóa tan đi ý kiến “nôm na là cha mách

qué”, một nhận định sai lệch về chữ viết dân tộc. Thể loại này đã khẳng định được vẻ

đẹp chữ Nôm mà đặc biệt là kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Tác

phẩm này mang trong mình một vẻ đẹp của một loại hình văn học dân tộc với chữ viết

của nó.

“Với truyện Nôm, đặc biệt là truyện Nôm có tên tác giả, nhất là Truyện

Kiều của Nguyễn Du con người trong văn học Việt Nam đã được ý thức một cách sâu

sắc, mới mẻ”. [36;433]

1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển truyện thơ

Truyện thơ là một thể loại khá quan trọng trong sự phát triển của văn học

các nước trên thế giới. Khu vực Châu Á và đặc biệt là Việt Nam không nằm ngoài

khuôn khổ đó. Bởi vậy, quá trình hình thành và phát triển của truyện thơ ở nước ta là

một đề tài thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu văn học.

Trong công trình Mấy vấn đề Thi pháp văn học trung đại Việt Nam [36],

Trần Đình Sử đã trình bày khá đầy đủ lịch sử của truyện thơ.

Cũng theo Trần Đình Sử truyện thơ là một thể loại rất phát triển trong nền

văn học trung đại Việt Nam. Từ trước đến nay khi tìm hiểu về truyện thơ ở nước ta,

giới nghiên cứu đều cho rằng chất liệu ngôn ngữ tạo nên các tác phẩm đa phần là chữ

Nôm. Tuy nhiên, truyện thơ viết bằng chữ Hán cũng xuất hiện một ít, minh chứng là

tác phẩm Hương miệt hành của tác giả khuyết danh được cho là ra đời từ thời Trần,

nhưng cũng có ý kiến cho rằng nó ra đời từ thời Lê. Cũng chính vì sự ít ỏi của các

truyện thơ viết bằng chữ Hán ở nước ta mà thuật ngữ truyện Nôm cũng dùng để chỉ thể

loại truyện thơ. Cho đến nay các nhà nghiên cứu đã tìm thấy: “hiện có ở Việt Nam

khoảng trên 100 truyện Nôm. Truyện thơ Nôm Việt Nam phát triển rầm rộ trong suốt

hai thế kỷ XVII - XVIII, nhưng truyện thơ Nôm thế kỷ XVII còn lại không nhiều, phần

lớn truyện thơ Nôm hiện còn là từ thế kỷ XVIII - XIX. Tiến trình hình thành truyện thơ

Nôm được Kiều Thu Hoạch trình bày rất chi tiết. Giai đoạn đầu tiên là các truyện thơ

cấu tạo bằng một chuỗi thơ Đường luật như Tô Công phụng sứ, Vương Tường, Lâm

Tuyền kỳ ngộ và Tam Quốc thi mà người ta thấy gần gũi với thơ Hồng Đức quốc âm

14

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

thi tập xuất hiện khoảng thế kỷ XVI - XVII. Giai đoạn hai là xuất hiện diễn ca lịch sử

như Thiên Nam ngữ lục, tiếp đến là xuất hiện các truyện thơ Nôm bình dân như Quan

Thế Âm, Phạm Công Cúc Hoa, Lý Công Cúc Hoa… - các tác phẩm này có “mẫu câu”

và cách gieo vần gần gũi với Thiên Nam ngữ lục, ra đời vào cuối thế kỷ XVII - XVIII.

Giai đoạn cao trào là xuất hiện truyện thơ Nôm bác học mà bắt đầu với

truyện của Nguyễn Hữu Hào, Nguyễn Thiện… Truyện thơ Nôm thế kỷ XVIII đã mượt

mà và cách gieo vần, kể chuyện, miêu tả đã khác với lối bình dân ở thế kỷ trước”.

[36;394]

Theo Lại Nguyên Ân cho rằng truyện thơ Nôm được quốc ngữ hóa vào cuối

thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Chính đều này làm cho các tác phẩm viết theo thể loại này

có điều kiện để phát triển và tồn tại trên văn bản. Cũng chính dấu ấn ấy làm cho nhiều

nhà nghiên cứu có điều kiện tiếp nhận và đi sâu tìm hiểu truyện thơ.

Trong quyển Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm [23] tác giả Đặng Thanh

Lê cũng trình bày khá đầy đủ về lịch sử hình thành và phát triển của truyện thơ Nôm.

Cũng theo ông sự ra đời của nó là do “một yêu cầu phản ánh xã hội với những nội

dung thời đại cũng như với những điều kiện thực tiễn của bản thân thời đại ấy”

[23;50]. Do vậy cuộc khủng hoảng của chế độ phong kiến Việt Nam trong ba thế kỷ

XVI, XVII, XVIII ngày một trầm trọng với nhiều mâu thuẫn nảy sinh làm nền cho một

thể loại sáng tác mới ra đời. Truyện Nôm nó phản ánh phần nào mâu thuẫn xã hội, tinh

thần nhân đạo, đấu tranh giai cấp đồng thời cũng thể hiện quan niệm sống bình dân

của các hàn sĩ. “Có thể nói, truyện Nôm là sản phẩm văn học vào thời kỳ phong kiến

suy tàn, mang ý nghĩa phản ánh một thời kỳ bùng nổ mạnh mẽ của đấu tranh giai cấp

dưới chế độ phong kiến”. [23;57]

Các công trình nghiên cứu về truyện Nôm khác như Từ điển Văn học [18],

Từ điển thuật ngữ văn học [17], Lịch sử văn học Việt Nam tập 3 [32], Từ điển Văn học

Việt Nam từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX [1] đều có chung ý kiến với các nhận định

trên khi cho rằng thể loại văn học này ra đời từ lâu và phát triển rầm rộ vào hai thế kỷ

XVII, XVIII. Theo đó, qua nhiều biến cố của thời gian các tác phẩm truyện Nôm còn

lại đến nay không nhiều.

Tóm lại, cho dù truyện Nôm được hình thành như thế nào và sự tồn tại của

các tác phẩm không nhiều nhưng có thể nói thể loại này đã thổi một ngọn lửa mới vào

15

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

trong kho tàng văn học dân tộc. Cũng vì thế mà bạn bè quốc tế đã tiếp xúc với nền văn

học Việt Nam qua hai tác phẩm kiệt tác của truyện thơ Nôm là Truyện Kiều và Lục

Vân Tiên của hai tác giả Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu.

1.1.3. Phân loại truyện thơ

Như đã biết truyện thơ là một thể loại tiểu thuyết viết bằng thơ dưới thể văn

vần. Để phân loại nó giới nghiên cứu đã dựa chủ yếu vào các tiêu chí sau:

Tiêu chí thứ nhất thì Lại Nguyên Ân và Bùi Văn Trọng Cường dựa vào thể

thơ dùng để sáng tác, lúc đó hai ông phân truyện thơ thành hai loại: truyện thơ Đường

luật và truyện thơ lục bát. Tác phẩm ở thể loại thứ nhất “là một liên hoàn gồm một loạt

bài thơ thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt. Ví dụ: Tô Công phụng sứ gồm 24 bài, Vương

Tường 49 bài (39 bài bát cú, 10 bài tứ tuyệt), Lâm Tuyền kỳ ngộ - 146 bài bát cú, 1 bài

tứ tuyệt, 1 bài ca khúc…” [1;664]. Do việc cố tìm xem có phải truyện thơ Đường luật

là một dạng xuất hiện sớm của truyện Nôm và cũng có nhiều người lại muốn tìm kiếm

niên đại của nó nên vô hình chung họ đã “coi truyện thơ Đường luật chỉ là dạng ít

thuận lợi nên ít được dùng cho truyện thơ Nôm” [1;665]. Ở thể loại truyện thơ lục bát

“hầu như hoàn toàn dùng thơ lục bát, chỉ đôi khi mới xen một vài đoạn ngắn các thể

khác (như nói lối, thơ Đường luật, từ khúc)” [1;665].

Tiêu chí thứ hai để phân loại truyện Nôm là dựa vào tác giả sáng tác thì các

nhà nghiên cứu đều thống nhất phân thành hai loại với các thuật ngữ: truyện Nôm hữu

danh và truyện Nôm khuyết danh, hoặc truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học.

Trong công trình Mấy vấn đề về thi pháp văn học trung đại [36], Trần Đình

Sử cho rằng: “Mặc dù giữa hai loại truyện Nôm có nhiều mối liên hệ sâu sắc, song

việc phân loại như vậy là phù hợp thực tế và thuận lợi cho nghiên cứu. Truyện Nôm

khuyết danh phần lớn sử dụng cốt truyện dân gian, hãn hữu sử dụng cốt truyện nước

ngoài. Phần lớn truyện Nôm có tên tác giả, bác học vay mượn cốt truyện Trung Quốc

hoặc tự sáng tác. Do truyện khuyết danh có khi vì chưa tìm ra tên tác giả, cho nên

đúng hơn nên phân loại truyện Nôm thành hai loại bình dân và bác học”. [36;395]

Cũng theo Trần Đình Sử: “Đối với truyện Nôm bác học - truyện Nôm của

văn nhân - lấy đề tài từ các tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc như Song Tinh, Hoa

Tiên, Truyện Kiều, Ngọc Kiều Lê… vốn đầy rẫy chi tiết, tình tiết thì tác giả truyện

Nôm lại tướt bỏ bớt chi tiết rườm rà cụ thể để làm nhạt đi màu sắc Trung Quốc, mà

16

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

tôn lên những tính chất chung về con người, hoặc thay vào đó các chi tiết, cảnh gợi

nhớ đến làng quê hoặc kinh kỳ Việt Nam”. [36;408]

Còn truyện Nôm bình dân gồm các tác phẩm như: Phạm Tải Ngọc Hoa,

Tống Trân Cúc Hoa, Phương Hoa, Hoàng Trừu, Thạch Sanh, Thoại Khanh Châu

Tuấn… Trong Từ điển Văn học [20] có đề cập đến loại này như sau: “Đó là những

truyện được viết lại trên cơ sở truyện cổ tích hay diễn ca truyện cổ tích. Tất cả đều

khuyết tên tác giả” [20;1847]. Nguyễn Lộc còn dự đoán rằng tác giả của loại truyện

này là những Nho sĩ bình dân như các ông đồ. Loại truyện này thể hiện rõ quan niệm

của người lao động với ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu.

Trong Lịch sử Văn học Việt Nam tập 3 [32], tác giả Lê Hoài Nam đã dựa

vào hai tiêu chí để phân loại truyện Nôm, đó là:

Dựa vào nguồn gốc trực tiếp của đề tài thì truyện Nôm được phân thành 3

loại. Thứ nhất: Dựa vào truyện cổ tích, thần thoại, hay sự tích thần thoại với các tác

phẩm Trương Chi, Tấm Cám…; thứ hai: dựa vào các tiểu thuyết Trung Quốc gồm

những tác phẩm như Nhị độ mai, Hoa Tiên, Vương Tường, Tô công phụng sứ, Bạch

Vân Tôn Các, Hoàng Trừu, Truyện Kiều…; cuối cùng là loại hoàn toàn sáng tác dựa

vào thực tế Việt Nam đó là truyện Lục Vân Tiên .

Còn “nếu xét về các mặt nội dung và hình thức thì đại loại có thể phân

truyện Nôm ra làm hai loại rõ ràng do hai hạng người sáng tác khác nhau” [32;179]

lúc đó có hai loại truyện Nôm tồn tại là loại có tính chất ít quần chúng và loại có tính

quần chúng nhiều hơn.

Cho dù theo tiêu chí phân loại nào các tác giả cũng đảm bảo được nội dung

mà từng thể loại truyện Nôm đề cập. Và một lần nữa khẳng định rằng thể loại văn học

cổ đặc sắc này đã có ảnh hưởng không nhỏ trong nền văn học dân tộc.

1.2. Khái quát truyện thơ Lục Vân Tiên

1.2.1. Hoàn cảnh sáng tác

Lục Vân Tiên là một trong những truyện thơ có ảnh hưởng đến sự phát triển

văn học ở Việt Nam, đây cũng là tác phẩm truyện Nôm bác học có nhiều dị bản nhất.

Có thể nói việc tìm hiểu nguồn gốc văn bản cũng như xuất xứ của truyện là cả một vấn

đề đối với giới nghiên cứu. Tuy nhiên đa số các ý kiến đều có một nhận xét chung về

thời gian ra đời cũng như hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm.

17

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

Theo đó truyện được sáng tác sau khoảng thời gian tác giả bị mù tức là sau

năm 1848. Và theo nhiều tài liệu nghiên cứu đều thống nhất cho rằng Lục Vân Tiên

được sáng tác trong khoảng từ năm 1850 trở về sau, khi Nguyễn Đình Chiểu bị mù.

Theo Nguyễn Phong Nam, tác giả cuốn Nguyễn Đình Chiểu từ quan điểm thi pháp học

[29] thì năm 1864 tác phẩm đã được một người Pháp tên là Gabriel Aubaret sưu tập và

cho in lần đầu trên Kỷ yếu châu Á.

Có rất nhiều ý kiến xoay quanh về nguồn gốc ra đời của tác phẩm. Nguyên

nhân là do ở câu thơ mở đầu tác giả đã viết: “Trước đèn xem truyện Tây minh” (Câu

1). Hai chữ Tây minh dường như cho người đọc biết nguồn gốc thật sự của tác phẩm là

xuất phát từ một truyện Tây minh bên Trung Quốc. Việc lấy một cốt truyện có sẵn để

viết lại thành một truyện thơ là việc không lạ gì đối với nền văn học Việt Nam. Đại thi

hào Nguyễn Du lấy Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân bên Trung Quốc

để viết nên Truyện Kiều thì việc Nguyễn Đình Chiểu lấy truyện Tây minh sáng tạo ra

truyện thơ Lục Vân Tiên thì không có gì đáng bàn luận cả. Trong bài viết Thử bàn về

nguồn gốc truyện Lục Vân Tiên [39;435], Trần Nghĩa đưa ra nhiều ý kiến xoay quanh

nguồn gốc của truyện. Cũng theo công trình đó tác giả đã dẫn ra ý kiến của Trần

Nguyên Hanh cho rằng hai chữ Tây minh là tên một tủ sách Tô Đông Pha thời Tống,

xem như đã chứng minh rằng truyện có nguồn gốc bên Trung Quốc. Tuy nhiên, Aben

đê Misen thì cho rằng Tây minh không phải tên một tủ sách, “mà tên một triều đại do

Nguyễn Đình Chiểu tưởng tượng ra. Và truyện Tây minh, có nghĩa là một câu chuyện

xảy ra trong triều đại tưởng tượng đó” [39;435]. Tiếp theo hai người trên là Bajô cũng

quan niệm cho rằng Tây minh là tên một cuốn truyện. Và khi bàn về nguồn gốc truyện

Lục Vân Tiên, Hoàng Ngọc Phách, Lê Trí Viễn, Vũ Đình Liên có nói: “Cứ theo

Nguyễn Đình Chiểu thì Lục Vân Tiên nguồn gốc ở một cuốn tiểu thuyết Trung Quốc

nhan đề là truyện Tây minh…Nhưng truyện Tây minh thì đến nay vẫn chưa biết là có

hay không vì những bảng kê tác phẩm trong các văn học sử Trung Quốc không thấy

đâu nói đến. Cũng có thể là không có cuốn Tây minh nào cả và cốt truyện Lục Vân

Tiên là do tác giả dựa vào thân thế mình và những hiểu biết của mình về truyện Nôm

của ta và các tiểu thuyết Trung Quốc mà sáng tạo ra” [39;435].

Có thể nói nếu cho rằng tác phẩm có nguồn gốc cốt truyện từ Trung Quốc

thì còn rất nhiều điều cần xem xét vì rằng ở đó có những chỗ không hợp với thực tế

18

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

bên Trung Quốc, mặc dù truyện được lấy bối cảnh ở nước Sở. Và những chi tiết trong

tác phẩm cần phải bàn lại vì nó không hợp với thực tế. Ở đây chúng tôi không đi sâu

vào nguồn gốc của truyện mà chỉ dừng lại ở hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Cho dù

Lục Vân Tiên có nguồn gốc từ Trung Quốc hay không thì đây được xem là bản tự

truyện của bản thân tác giả. Sau khi đường công danh bị gián đoạn vì cụ gặp phải

những bất hạnh lớn trong cuộc đời, Nguyễn Đình Chiểu dạy học và làm thuốc với hy

vọng bản thân sẽ giúp ích cho đời. Với một tác phẩm mang dáng dấp tự truyện,

Nguyễn Đình Chiểu đã mang đến cho đời một tác phẩm có giá trị nhiều mặt mà đến

giờ vẫn còn nguyên. Đồng thời cần nhìn nhận Lục Vân Tiên được cụ Đồ Chiểu viết ra

bằng cả tâm huyết của mình trong giai đoạn đầu và là một trong những sáng tác tiêu

biểu nhất trong văn thơ trung đại. Tác phẩm là lời tâm sự của chính tác giả đối với

cuộc đời cũng như hy vọng của ông về sự hồi phục nền tảng Nho giáo đang có dấu

hiệu suy tàn.

1.2.2. Tóm tắt cốt truyện

Truyện thơ Lục Vân Tiên bao gồm 2082 câu thơ lục bát, được phân thành 4

đoạn. Sự phân đoạn này dựa vào diễn biến của truyện.

Đoạn 1 (từ câu 1 đến câu 286): Lục Vân Tiên có quê quán ở quận Đông

Thành, là một chàng trai khôi ngô tuấn tú, sau một thời gian “Theo thầy nấu sử sôi

kinh”(Câu 11) nhân khi kinh thành có mở khoa thi chàng từ biệt thầy để lên đường

ứng thí. Trên đường về nhà chàng gặp bọn cướp Phong Lai đang ức hiếp dân lành, Lục

Vân Tiên bèn ra tay nghĩa hiệp đập tan bọn cướp, cứu được Kiều Nguyệt Nga. Cảm

kích trước tấm lòng hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài của Vân Tiên, nàng đã làm một bài

thơ để tiễn chân quân tử lên đường. Nhìn thơ biết ý, chàng đã họa lại một bài thơ.

Cuộc gặp gỡ lần đầu giữa người tài tử - kẻ giai nhân đã để lại những ấn tượng khó phai

trong lòng Kiều Nguyệt Nga, không kìm nén được tình cảm của mình nàng tự nhủ với

lòng “trăm năm cho vẹn chữ tòng” với Lục Vân Tiên.

Đoạn 2 (từ câu 287 đến câu 1264): Đánh tan bọn cướp, cứu Kiều Nguyệt

Nga, Lục Vân Tiên tiếp tục lên đường, trên đường đi, chàng gặp và kết bạn với một sĩ

tử khác là Hớn Minh. Hai người cùng kết nghĩa anh em, Hớn Minh tiếp tục lên đường,

Vân Tiên phải ghé lại thăm nhà.

19

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

Sau khi về thăm cha mẹ, Vân Tiên cùng Tiểu đồng khăn gối lên kinh. Nhớ

lời cha dặn, chàng ghé vào nhà Võ Công - người đã cùng cha chàng ước hẹn - để thăm

hỏi. Thấy Vân Tiên khôi ngô tuấn tú Võ Công lấy làm ưng ý. Cũng tại nơi đây chàng

quen và kết làm anh em với Vương Tử Trực. Hai người cùng lên kinh ứng thí, khi lên

gần tới thì hai chàng gặp Trịnh Hâm và Bùi Kiệm, bốn người cùng nhau làm thơ tại

một quán ven đường. Trịnh Hâm và Bùi Kiệm làm thơ bị chê, thấy Vân Tiên tài cao

nên đem lòng đố kỵ. Lúc sắp vào trường thi, Vân Tiên nhận được thư báo tin mẹ mất,

chàng quyết định bỏ thi về nhà chịu tang. Trên đường về, vì thương khóc mẹ, Vân

Tiên bị nhuốm bệnh, lại gặp phải toàn hạng lang băm nên bệnh ngày càng thêm nặng

rồi bị mù hai mắt. Nhân gặp Trịnh Hâm trên đường đi thi về, Hâm lừa Tiểu đồng vào

trong rừng, bắt trói lại, nói dối là Tiểu đồng đã bị cọp ăn thịt, rồi lừa đẩy Vân Tiên

xuống biển. Tiểu đồng được Sơn quân cởi trói, lầm tưởng là chủ đã chết nên dựng chòi

ở lại trông coi phần mộ. Vân Tiên bị đẩy xuống biển được giao long dìu vào bờ và

được ông chài cứu sống. Chàng nhờ ông chài đưa mình sang nhà họ Võ, thấy Tiên bị

mù nhà họ Võ bội ước, lừa bỏ vào hang Thương Tòng. Vân Tiên được Du thần và ông

Tiều đem ra khỏi hang, lại gặp Hớn Minh vì trừng trị con một vị quan huyện cậy thế

làm càng nên phải bỏ thi, đang sống lẩn lút trong rừng, chàng đưa Vân Tiên về cùng

sống tại một am vắng để dễ bề chăm sóc.

Khoa thi năm ấy Tử Trực đỗ đầu, nhân qua nhà họ Võ hỏi han tin tức của

Vân Tiên. Võ Công ngõ ý gả con gái cho, Tử Trực cự tuyệt, mắng cho một trận, y hổ

thẹn ốm chết.

Đoạn 3 (từ câu 1265 đến câu 1664): Nghe tin Lục Vân Tiên chết, Nguyệt

Nga vô cùng đau đớn và nguyện suốt đời thủ tiết để thờ chàng. Biết nàng xinh đẹp,

Thái sư đương triều đưa sính lễ cưới cho con trai mình. Bị cự tuyệt, Thái sư ôm lòng

oán hận. Nghe tin giặc Ô Qua xâm lược, Thái sư tâu vua cho Nguyệt Nga dâng cống

để giảng hòa. Thuyền cống đến ải Đồng, gần nước Ô Qua, Nguyệt Nga ôm bức tranh

vẽ hình Vân Tiên nhảy xuống biển tự tử. Nàng được sóng đưa vào bãi. Phật Bà Quan

Âm thác mộng, căn dặn nàng “ tìm nơi nương náu cho qua tháng ngày” (Câu 1526)

và nói rằng thời gian gặp Vân Tiên chỉ trong vòng đôi ba năm trở lại. Kế đó Nguyệt

Nga dạt vào nhà Bùi Công và được nhận làm con nuôi. Không ngờ Bùi Công chính là

cha Bùi Kiệm. Kiệm về nhà, thấy nàng xinh đẹp, muốn lấy làm vợ bất chấp biết rõ đây

20

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

là vợ của Vân Tiên. Nguyệt Nga tìm cách trốn đi, nàng vào rừng, nương nhờ một bà

lão dệt vải.

Đoạn 4 (từ câu 1665 đến câu 2082): Vân Tiên ở tại chùa với Hớn Minh, một

hôm nằm mơ thấy một ông Tiên cho thuốc chữa bệnh, kết quả mắt của chàng được

sáng trở lại bình thường. Sau khi sáng mắt trở lại, chàng liền về nhà thăm gia đình.

Nghe Lục ông kể lại tình cảm của Nguyệt Nga dành cho mình, chàng đã tìm đến thăm

Kiều ông, biết hết mọi sự của nàng. Vân Tiên đi thi, đỗ trạng nguyên, được nhà vua cử

đi dẹp giặc Ô Qua. Vân Tiên tiến cử Hớn Minh làm phó tướng đi diệt giặc, được chấp

nhận. Hai người ra trận, đánh tan quân giặc. Vân Tiên do đuổi theo tướng giặc một

mình lạc vào rừng sâu. Nhân vào nhà bà lão dệt vải hỏi thăm đường, chàng gặp lại

Nguyệt Nga. Vân Tiên về triều tâu rõ mọi sự với vua, kẻ gian ác bị trị tội, người nhân

nghĩa được đền đáp. Lục Vân Tiên - Kiều Nguyệt Nga sum vầy, hạnh phúc.

1.2.3. Ý nghĩa truyện thơ Lục Vân Tiên

Truyện thơ Lục Vân Tiên là một hiện tượng văn học đáng chú ý. Tác giả là

một con người phải gánh chịu biết bao bất hạnh của cuộc đời, chứng kiến nhiều cảnh

ngang trái mà lòng không thể thốt nên thành lời đã để lại cho đời một kiệt tác vô giá.

Tác phẩm còn đặc biệt ở chỗ sự tồn tại. Truyện không sống trên trang giấy mà nó sống

trong lòng người dân lao động. Hiếm có một tác phẩm nào mà chiếm được sự ưu ái

lớn như vậy. Người dân lao động miền Nam hầu như ai cũng thuộc nằm lòng vài ba

câu thơ trong truyện. Những em bé mới sinh ra đời đã được mẹ chúng hát ru bằng

những vần thơ Lục Vân Tiên. Khó mà giải thích hết sự yêu thích của người dân Nam

Bộ nói riêng và nhân dân cả nước nói chung đối với tác phẩm. Giải thích sự yêu mến

của quần chúng cần lao đối với Lục Vân Tiên, Hà Huy Giáp nhận xét: “chưa nói đến

tính bình dị, trong sáng của ngôn ngữ, tính dân tộc và đại chúng trong các hình tượng

nghệ thuật, cái chủ yếu là tác phẩm Lục Vân Tiên đã đáp ứng được cái tinh thần dũng

cảm, trọng nghĩa khinh tài, ghét gian ác, “kiến ngãi bất vi vô dũng giả” của người

nông dân miền Nam mà cũng là của mọi người dân Việt Nam chúng ta” [11;40].

Quả đúng như vậy, người ta yêu mến Lục Vân Tiên không phải ở ngôn ngữ

mà ở nội dung của nó. Ta không thể phủ nhận tác phẩm được Nguyễn Đình Chiểu viết

ra chủ yếu để giáo dục đạo lý làm người. Ông đem vào trong thơ mình hình ảnh, tấm

gương của người đời xưa mà khuyên người đời nay biết sống nhân nghĩa, thủy chung,

21

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

không gian trá. Người đọc tác phẩm như thấy mình trong gương, họ rất sợ “luật nhân

quả” vì vốn người dân sống theo phương châm “gieo nhân nào gặp quả đó”, bởi thế

họ rất yêu mến chàng Lục Vân Tiên biết sống vì nghĩa, ra tay cứu người không mong

gì đến đền đáp và đặc biệt chàng còn là một con người trung hiếu vẹn toàn; khâm phục

tấm lòng chung thủy kiên trinh của nàng Nguyệt Nga; một Tử Trực, Hớn Minh tận tụy

hết lòng vì bạn, không bỏ bạn lúc bạn gặp nguy, biết phân định đúng sai, không sợ

cường quyền; những ông Ngư, ông Quán, ông Tiều thà nghèo vật chất nhưng lại biết

sống vì tình.

Lục Vân Tiên ca ngợi chính nghĩa, phê phán sự bất nhân bất nghĩa. Tác

phẩm là ngọn cờ đầu trong phong trào chống lại những bất công, bảo vệ cho nền tảng

đạo đức đã có từ lâu đời. Nói như vậy không có nghĩa nó chỉ có nội dung hay mà Lục

Vân Tiên còn có ý nghĩa ở mặt hình thức. Cụ Đồ Chiểu đã tận dụng triệt để chất liệu

dân gian vào tác phẩm của mình. Những ngôn ngữ trong truyện không cao sang, xa vời

với quần chúng mà nó dường như rất gần gũi, như chính lời ăn tiếng nói của người lao

động.

Như vậy, ý nghĩa truyện thơ Lục Vân Tiên nằm cả ở nội dung và hình thức.

Cả hai phần này bổ sung và tác động qua lại lẫn nhau. Nếu tìm hiểu truyện Lục Vân

Tiên mà chỉ đi một khía cạnh thì tin chắc rằng chúng ta sẽ không thấy hết giá trị của

tác phẩm này. Hãy hiểu rằng tác giả xây dựng nhân vật, sử dụng ngôn ngữ bình dân,

dùng các điển tích, điển cố chỉ nhằm nêu bật lên phần nội dung của tác phẩm mà thôi.

22

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

CHƯƠNG 2

ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TRUYỆN THƠ LỤC VÂN TIÊN

2.1. Truyện thơ Lục Vân Tiên ca ngợi công lý, chính nghĩa

Là truyện thơ được tác giả Nguyễn Đình Chiểu xây dựng trên nền tảng đạo đức

Nho giáo, nên mỗi hành động, cử chỉ hay lời nói của các nhân vật chính diện đều là

những tấm gương về trung - hiếu - tiết - nghĩa. Vì thế thật không khó hiểu khi tác giả

xây dựng cho các nhân vật của mình giống như một bậc thánh nhân, luôn luôn hành

động theo phương châm đạo đức có sẵn trong xã hội. Họ là những ngọn cờ đại diện

cho nhân nghĩa đạo đức, đấu tranh không mệt mỏi vì một lý tưởng tốt đẹp.

2.1.1. Nhân nghĩa

Nhân nghĩa là đạo đức của nhân dân, là gốc rễ để trau dồi, rèn giũa con

người. Một người không thể sống không có lòng nhân việc nghĩa, nền tảng đạo đức

này xuyên suốt truyền thống văn hóa của người dân Á Đông trong đó có người dân

Việt Nam. Tư tưởng cao đẹp ấy được Nguyễn Đình Chiểu chuyển tải vào trong truyện

thơ Lục Vân Tiên và trở thành sợi chỉ xuyên suốt tác phẩm. Mỗi nhân vật đều hành

động theo phương châm:

Nhớ câu kiến ngãi bất vi

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.

(179 - 180)

Nhân vật trong tác phẩm từ những con người được ăn học đàng hoàng như

Lục Vân Tiên, Hớn Minh đến những con người “vô danh tiểu tốt”, không có tên tuổi

và được gọi bằng nghề nghiệp của mình, thế mà tất cả họ đều ra tay hiệp nghĩa khi có

cơ hội. Họ có một tấm lòng thương người vô hạn, sẵn sàng làm mọi chuyện vì tình

thương ấy cho dù có hại đến bản thân mình.

Khi biết bọn cướp đang ra tay làm hại dân chàng tỏ ra rất dứt khoát, không

có vẻ gì là sợ hãi trước những lời khuyên cũng như cảnh báo của người dân và ra tay

dẹp yên lũ cướp giống như một dũng sĩ. Vân Tiên không chỉ hiện thân cho một anh

học trò siêng năng mà chàng là đại biểu cho những con người biết sống vì lòng thương

người. Lòng nhân nghĩa ấy không có một chút gì vụ lợi, làm ơn chỉ vì “kiến ngãi bất

23

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

vi vô dũng giả”, để rồi khi được trả ơn chàng thẳng thừng từ chối không hề do dự:

“Làm ơn há dễ trông người trả ơn”.(Câu 176)

Ơn nghĩa là việc thường tình ở đời, ta làm việc nghĩa người nhớ ơn cũng là

việc bình thường ở đời nhưng nếu nhận sự trả ơn ấy thì cũng không phải là một người

quân tử thật sự, đấy không phải là hành vi của một thanh niên có học. Lục Vân Tiên

được theo học dưới nền đạo đức Khổng Mạnh vì thế mỗi việc làm của chàng đều tựu

trung trong hai chữ nhân nghĩa.

Hớn Minh cũng là một trường hợp giống như vậy. Chàng trai có thân hình

“dị thường” này cũng hành động vì lòng thương người, vừa thấy chuyện bất bình là ra

tay cứu ngay. Trên đường đi thi thấy tên con quan huyện đang giở trò tồi tệ với gái nhà

lành chàng liền “vật ngay xuống đất bẻ đi một giò” (Câu 1162). Biết rằng việc mình

làm sẽ gây liên lụy cho người khác nếu như chàng không tự mình ra nhận tội. Và thế là

Hớn Minh đã “Bó tay chịu trói nộp cho huyện đàng. (Câu 1164)

Việc làm của Hớn Minh nếu chỉ nghĩ đơn giản là “dám làm dám chịu” thì

không thể hiểu hết được ý nghĩa của “việc bó tay chịu trói” ấy. Hai việc làm liên tiếp

của chàng đều xuất phát từ tấm lòng thương người, việc làm thứ nhất chàng thương

người thế cô phải chịu áp bức của những tên công tử con nhà quan “ăn không ngồi

rồi”, việc làm thứ hai tưởng chừng thể hiện sự anh hùng trong việc mình gây ra nhưng

không chỉ vậy mà còn xuất phát từ việc chàng lo lắng cho số phận của những con

người vô tội vì việc mình làm mà họ phải gánh lấy, khi đó giúp người không vẹn mà

còn làm hại tới những người vô can khác.

Chàng họ Lục cùng với Hớn Minh đều ra tay nghĩa hiệp cho dù hậu quả

mình gánh lấy có thể là vô cùng lớn lao. Ta có thể cho rằng hai chàng trai khác nhau

nhưng có cùng một quan điểm sống hết mình vì lý tưởng nhân nghĩa là do họ được

theo học nền đạo đức Nho giáo. Tuy nhiên, nên nhớ rằng trong tác phẩm Nguyễn Đình

Chiểu đã cho xây dựng những nhân vật rất bình thường. Họ không giàu về vật chất,

không phải là những người có địa vị trong xã hội mà họ rất bình thường, sống bằng

chính sức lao động của mình những cũng sẵn sàng ra tay cứu giúp người hoạn nạn qua

cơn khốn cùng.

Ông Ngư thấy Vân Tiên bị trôi sông, liền không do dự mà vớt ngay lên bờ,

trong đầu ông chẳng hề lo sợ về lai lịch của chàng mà chỉ muốn nhanh chóng cứu

24

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

người thoát cơn hoạn nạn. Cả nhà ông Ngư xúm xít với nhau cùng cứu Vân Tiên một

cách tích cực, đầy nhiệt tình:

Hối con vầy lửa một giờ,

Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.

(949 - 950)

Cả nhà cứu Vân Tiên giống như chính người thân của họ gặp nạn. Sau khi

cứu sống ông còn khuyên chàng ở lại cùng gia đình, cùng chung sống dưới mái nhà

như một thành viên. Không riêng gì ông Ngư mà ông Tiều cũng vậy, cũng cứu giúp

Lục Vân Tiên qua cơn khốn cùng. Sau khi chàng bị gia đình họ Võ bội ước và bị bỏ

vào hang, đang trong cơn đói khát, tưởng chừng mình sẽ chết nhưng không ngờ có một

ông Tiều xuất hiện. Lão Tiều cũng giống như ông Ngư, cũng sẵn sàng cứu giúp người

qua cơn hoạn nạn. Lão lên núi đốn củi chỉ có đem theo nắm cơm để ăn, thế mà khi

nghe Vân Tiên kể lại sự tình của chàng thì ông Tiều liền: “ Mở cơm trong gói miệng

mời Vân Tiên. (Câu 1116)

Cũng giống như ông Ngư, ông Tiều đã cứu giúp Lục Vân Tiên thì lão bà ra

tay che chở cho Kiều Nguyệt Nga khi nàng trốn khỏi nhà Bùi Kiệm cũng là một tấm

lòng thương người và hành động vì tình thương đó. Theo như lời giải thích về sự tình

cờ của mình là do lời dạy bảo của Phật bà Quan Âm, nhưng thiết nghĩ nếu như bà lão

không có một tấm lòng thương người hoạn nạn thì làm sao bà lại tìm đến Nguyệt Nga

để dắt nàng về chung sống với mình cho được. Hành động ấy của bà có khác nào ông

Ngư, ông Tiều khi cứu giúp Lục Vân Tiên.

Khác với những nhân vật trên, ông Quán cũng là điển hình của lòng thương

người. Ông không cứu Vân Tiên thoát dòng nước như ông Ngư, không cưu mang

người hoạn nạn như ông Tiều, hay che chở cho người không nơi nương thân như bà

lão mà ông chỉ nêu lên quan điểm ghét thương ở đời. Tuy nhiên cũng từ những quan

điểm đó ta thấy ở ông một tấm lòng dành cho nhân loại. Ông thương những ai? Đó là

những bậc quân tử, minh quân, thương những con người biết nghĩa nhân, biết đạo

nghĩa ở đời. Ông ghét ai? Đó là những tên hôn quân bạo chúa, những tên quan tham,

những tên lừa thầy phản bạn. Ta nhớ lại lúc Vân Tiên lên đường ông Quán đã tận tay

đưa cho chàng ba hườn thuốc để dành hộ thân. Ông không biết việc tương lai nhưng gì

mến mộ tài năng của chàng họ Lục, lo cho Tiên bị những kẻ tiểu nhân hãm hại, lại có

25

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

lòng thương người nên ông đã thẳng thắn mắng vào bọn người Trịnh Hâm, Bùi Kiệm.

Có lẽ ông Quán hay ông Ngư và ông Tiều đều là những người lao động làm nghề bình

thường nhưng cách cư xử của họ khác lẽ thường. Bởi lẽ người ta lao động là mong tìm

kiếm lợi nhuận cho bản thân nhưng ông Ngư bỏ cả việc chài lưới, cả gia đình tập trung

cứu Vân Tiên, rồi ông Tiều lên rừng đốn củi với vắt cơm thế mà ông đã cho chàng cả

cơm lại còn bỏ giở công việc để cõng chàng về nhà, rồi đến ông Quán sẵn sàng làm

mất lòng khách. Có thể nói hiếm thấy đâu những con người đầy lòng nghĩa hiệp như

thế trong cuộc sống.

Hầu như tất cả những nhân vật chính diện trong tác phẩm đều hành động và

cư xử theo tiêu chuẩn nhân nghĩa. Tuy nhiên cần nhận thấy rằng nhân nghĩa ở đây

không theo một chuẩn mực có sẵn nào, những người thi hành nó không có chức cao,

quyền trọng hay giàu sang phú quý mà họ là người lao động bình thường trong xã hội,

những người học trò nghèo chưa lập nên công danh sự nghiệp. Nhân nghĩa ở đây nói

một cách nôm na, dễ hiểu đó chính là nó xuất phát từ nhân dân, lấy lợi ích nhân dân

làm trọng, nó không phục vụ bất cứ lợi ích nào mà ngược lại. Người ra tay thi hành tư

tưởng cao quý ấy không mong gì đền đáp, họ chỉ mong giúp người qua cơn hoạn nạn.

Hành động ấy chỉ có thể xuất phát từ những người lao động bình thường, bởi vì ở

trong họ tình nghĩa là cao quý nhất.

2.1.2. Hiếu nghĩa

Trong kho tàng truyện thơ Nôm nước ta không thiếu chi tấm gương của

những trang hiếu tử. Nếu như nàng Thoại Khanh trong Thoại Khanh - Châu Tuấn cắt

thịt cho mẹ chồng ăn qua cơn đói thì nàng Kiều trong Truyện Kiều - một kiệt tác của

đại thi hào Nguyễn Du - đã hy sinh một tình yêu đẹp để cứu cho cha và em khỏi vòng

lao lý, đồng thời nàng đã bảo đảm cho gia đình mình luôn bình an. Hai tấm gương về

tấm lòng hiếu thảo đối với đấng sinh thành cũng như hàng loạt tấm gương sáng khác

mà truyện Nôm đề cập. Tuy nhiên chưa bao giờ tấm lòng hiếu thảo của một người con

lại trở thành một hình tượng đẹp như trong truyện thơ Lục Vân Tiên.

Có thể nói chữ hiếu trong tác phẩm này được cụ Đồ Chiểu khắc họa đậm nét

với nhiều chi tiết đi sâu vào lòng người. Vân Tiên của chúng ta sinh ra trong một gia

đình “tu nhơn tích đức”, cha mẹ không cho chàng về mặt vật chất nhiều nhưng ngược

lại họ đã cho chàng một hình hài, dạy dỗ chàng nên người. Họ gửi Vân Tiên theo học

26

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

với một người thầy đức độ với hy vọng con mình có thể lập nên công danh, tạo dựng

sự nghiệp. Ngày đêm Tiên “nấu sử sôi kinh” chỉ mong không phụ tấm lòng của cha

mẹ dành cho mình. Vân Tiên vâng lời cha mẹ ngày đêm học hành, đến cả việc hôn

nhân đại sự của mình chàng cũng vâng theo lời sắp đặt của phụ mẫu cho dù người vợ

đó có thể bản thân không có tình cảm. Nếu cho rằng việc Vân Tiên vâng lời cha mẹ

cưới Võ Thể Loan là một lẽ thường trong đạo đức phong kiến đã có từ lâu đời ở nước

ta thì không sai chút nào. Nhưng ở đây nên xét ở mức độ chữ hiếu. Nếu như Vân Tiên

không đồng ý cuộc hôn nhân này thì có thể thuyết phục song thân hủy bỏ hôn ước với

gia đình họ Võ. Vậy mà Lục Vân Tiên không làm như vậy vì đơn giản đây là một

người con biết bảo vệ chữ tín cho đấng sinh thành của mình.

Lên đường đi thi mong lập công danh, trước là muốn giúp ích cho nước nhà,

sau là đền ơn của phụ mẫu thế nhưng khi vừa bước vào trường thi hay tin mẹ qua đời

Vân Tiên không hề do dự mà quyết định về quê chịu tang mẫu từ ngay. Trong trái tim

của chàng lúc này chỉ còn có hình ảnh người mẹ già không may qua đời sớm mà thôi.

Lục Vân Tiên vẫn còn một con đường, đó chính là tiếp tục đi thi vì cơ hội lập thân

đang trước mặt, chàng có thể đỗ đạt tiếp đó vinh hiển về chịu tang mẹ sau cũng được.

Nhưng Nguyễn Đình Chiểu không để cho nhân vật mình làm như thế. Vì đơn giản

nhân vật của ông biết suy nghĩ thiệt hơn. Hành động bỏ thi về quê chịu tang mẹ chứng

tỏ chàng là con người biết điều gì là quan trọng đối với mình hiện tại. Ta thử nghĩ nếu

như chàng vẫn tiếp tục thi sau đó về chịu tang thì sẽ đi ngược lại với đạo nghĩa một

người hiếu tử. Bởi đơn giản tang mẹ thì chỉ có một, không thể đợi chờ nhưng khoa thi

lần này không thi được thì lần sau cũng có thể đỗ đạt vinh hiển. Chàng đã bỏ cả cơ hội

tốt để tạo dựng sự nghiệp chỉ để về chịu tang mẫu thân đủ thấy Lục Vân Tiên là con

người như thế nào rồi. Có người cho rằng hành động này của chàng có vẻ yếu đuối

không hợp với chí khí nam nhi. Nhưng hãy nghĩ kỹ xem chàng có bao nhiêu người mẹ

và khi mẹ qua đời thì việc gì là cần kíp hơn là lo cho hậu sự, huống hồ Vân Tiên của

chúng ta là đứa con trai duy nhất của gia đình học Lục thì việc chàng về chịu tang lập

tức là đều tất yếu. Còn công danh thì vẫn ở đó đợi vì Vân Tiên là con người “văn võ

toàn tài” nên vấn đề thi đậu là sớm muộn.

Bỏ thi về chịu tang đã là biểu hiện của một tấm lòng hiếu tử. Nhưng trong

trái tim của người con đó luôn nghĩ về “chín chữ cù lao” của cha mẹ dành cho mình.

27

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

Và khi nhắc đến công lao sinh thành dưỡng dục đó chàng luôn tự trách

mình:

Mang câu bất hiếu đã đành,

Nghĩ mình mà thẹn cho mình làm con.

(625 - 626)

Lục Vân Tiên luôn tự trách bản thân mình chưa làm được gì cho cha mẹ đã

đành, vậy mà đến lúc mẹ qua đời cũng không có mặt mình ở bên cạnh để sớm hôm lo

cho mẹ già. Những việc Tiên làm để mong báo hiếu với cha mẹ tự bản thân cho là

không đủ hay nói đúng hơn chàng xem mình chưa phải là một trang hiếu tử. Cho nên

chàng đã khóc thương mẫu từ để rồi phải mang bệnh vào mình và “Ôi thôi con mắt đã

mang lấy sầu” (Câu 642). Ở đây tình tiết chàng bị mù vì khóc thương mẹ theo nhiều

nhà nghiên cứu nhận định đều cho rằng rất giống với cuộc đời của tác giả. Đến khi đỗ

đạt việc đầu tiên chàng làm chính là về quê tạ lỗi trước mộ của mẹ. Lời thơ tế mẹ của

Vân Tiên và tình mẫu tử thiêng liêng trong truyện này một lần nữa minh chứng rằng

ông không lấy một thứ lễ giáo phong kiến nào để làm khuôn mẫu cả mà nó xuất phát

từ trong trái tim của mỗi người con.

Trong tác phẩm Lục Vân Tiên còn có một nhân vật cũng xem là một tấm

gương hiếu thảo, tuy rằng những chi tiết thể hiện đều đó không rõ nét như Lục Vân

Tiên nhưng cũng đủ thấy nàng là một người con chí hiếu, đó không phải ai khác mà

chính là nàng Kiều Nguyệt Nga. Ta nhớ lại cảnh nàng và Vân Tiên gặp nhau là lúc

chàng cứu Nguyệt Nga khỏi tay bọn cướp thế nhưng nguyên nhân xảy ra việc cướp

kiệu giữa đường là do nàng vâng lời cha về phủ đường tính chuyện trăm năm. Nếu như

nàng không phải là một người con biết suy nghĩ về câu “dưỡng dục sinh thành” thì

nàng không nghe lời cha dạy bảo. Câu nói sau của Nguyệt Nga chứng tỏ tấm lòng hiếu

thảo của nàng đối với đấng sinh thành:

Làm con đâu dám cãi cha,

Ví dầu ngàn dặm đường xa cũng đành.

(159 - 160)

Nàng không dám hay đúng hơn nàng không bao giờ muốn cãi lại lời cha.

Lời cha là mệnh lệnh cho dù khó khăn, vất vả nàng cũng muốn vâng lời để thân phụ

vui lòng. Cũng vì nghĩ đến cha già nên dù chung thủy với Vân Tiên nàng cũng chấp

28

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

nhận lệnh vua đi cống Ô Qua, trước muốn giữ cho đất nước khỏi ngoại xâm, sau là giữ

cho cha nàng khỏi mắc tội danh chống lại chiếu vua. Việc làm ấy của nàng tưởng

chừng chỉ biểu hiện cho chữ trung nhưng thực chất nó thể hiện chữ hiếu đối với đấng

sinh thành. Những lời nàng nói với cha khi nghe tin triều đình lệnh bảo nàng sang Ô

Qua như lấy biết bao nước mắt của người nghe, cha nàng cũng đang đứt từng khúc

ruột khi biết con luôn nghĩ tới:

Tuổi già bóng xế nhành dâu,

Sớm xem tối xét, ai hầu cho cha?

(1429 - 1430)

Chàng Lục Vân Tiên vì tang mẹ mà bỏ thi, khóc thương mẹ đến nỗi bị mù

mắt. Nàng Kiều Nguyệt Nga nghe lời cha không ngại khó khăn, đường xa vất vả, sợ

cho cha bị triều đình trách phạt nên phải sang cống Ô Qua. Những việc làm của đôi

trai tài gái sắc ấy rất bình thường và ta dường như có thể bắt gặp những hành động

tương tự như vậy trong cuộc sống thường nhật của người dân lao động. Con khóc

thương mẹ khi mẹ qua đời, biết vâng lời cha mẹ không ngại gian lao khổ cực hay còn

nhiều cách làm khác để thể hiện một người con có hiếu với đấng sinh thành. Chữ hiếu

không được nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu miêu tả giống các tấm gương của Nhị thập tứ

hiếu mà nó rất bình dị nhưng lại phù hợp với nền văn hóa đạo đức của Việt Nam, được

dân tộc ta chấp nhận. Nó không xa rời nhân dân mà rất gần gũi như chính cuộc sống

của họ.

2.1.3. Tình nghĩa

Tình nghĩa không phải là con số cộng tình với nghĩa mà là một phức hợp xã

hội đạo lý làm người của dân tộc Việt Nam. Đó không đơn giản là ứng xử, sống theo

nghĩa vụ - thuần lý trí hoặc nặng tình cảm. Mà ở đấy con người sống với nhau bằng cả

lý trí và tình cảm. Trong truyện thơ Lục Vân Tiên là một ví dụ điển hình của hai chữ

tình cộng nghĩa, tất cả các nhân vật ở đấy đều sống với nhau bằng cả tình cảm và nghĩa

vụ. Đó là tình nghĩa cha mẹ với con cái, thầy trò, bạn bè, vợ chồng, những con người

cùng sống trong một cộng đồng, họ sống tựu trung với nhau bằng hai chữ tình nghĩa.

Trong cuộc sống này mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái không chỉ là mối

quan hệ một chiều. Họ sinh ra con cái, nuôi dưỡng, dạy dỗ cho chúng không chỉ có

trách nhiệm mà còn chan chứa một tình cảm yêu thương trong đó. Tuy nhiên con cái

29

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

cũng phải biết vâng lời và lo nghĩ đến đấng sinh thành của mình. Lục Vân Tiên đã đề

cập tương đối đầy đủ mối quan hệ đó. Cha mẹ Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga cho

con ăn học đến nơi đến chốn, luôn cả việc chung thân đại sự của con mình họ cũng đã

lo từ lúc con còn nhỏ. Họ lúc nào cũng mong cho con những điều tốt đẹp nhất. Còn

những đứa con yêu quý của họ chẳng những kính cha, mến mẹ mà luôn thực hiện

nghĩa vụ và trách nhiệm của người làm con với cha mẹ.

Tình cảm giữa thầy và trò trong Lục Vân Tiên cũng là một điển hình sinh

động của tình nghĩa. Thầy của Vân Tiên không những dạy cho chàng chữ nghĩa mà

người thầy ấy luôn trăn trở lo lắng cho tương lai của đứa học trò của mình. Người thầy

trong tác phẩm dường như chính là hình ảnh của cụ Đồ Chiểu - một người thầy lấy

nhân nghĩa, đạo đức dạy cho những người học trò của mình. Người thầy đấy không chỉ

cho Vân Tiên đạo đức thánh hiền, dạy cho trò mình biết đạo nghĩa ở đời mà còn lo cho

con đường công danh của người học trò đó. Biết trò mình sẽ gặp điều không may nên

“Thầy cho hai đạo phù thần đem theo.” (Câu 32)

Dạy cho trò nên người nhưng lòng thầy có bao giờ quên được đứa học trò

ngoan của mình đâu, thầy luôn muốn dõi theo từng bước chân của nó. Thầy luôn nghĩ

về trò, còn trò thì sao? Có phải họ đã đủ đầy kiến thức rồi thì sẽ quên đi hình ảnh

người đã đưa mình đến bến bờ công danh hay không? Hoàn toàn không vì người học

trò mang tên Lục Vân Tiên lúc nào cũng nghĩ đến ân sư đã dạy dỗ chàng nên người.

Dù rằng ta biết Tiên đi thi là muốn đỗ đạt, tạo lập công danh cho bản thân nhưng mục

đích đỗ đạt cũng nhằm làm “tiếng thầy bay xa”. Điều này chứng minh một người thầy

có tiếng tăm hay không, có được sự xem trọng của xã hội thì một phần phụ thuộc vào

trình độ của người ấy nhưng phần lớn dựa vào trình độ của những người học trò mà

người đó dạy. Nếu như một người thầy có tài sẽ đào tạo nên những thế hệ học trò giỏi

giang, có cả kiến thức và đạo đức, nhưng ngược lại nếu người học trò ấy dốt nát,

không lập nên sự nghiệp gì vinh hiển người ta sẽ cho rằng do chính thầy dạy họ mà ra.

Thứ hai, cho dù sau này người học trò có đỗ đạt thì cũng không quên công ơn của thầy

dạy dỗ mà lúc đó họ sẽ làm tiếng thầy vang xa vì nhờ thầy mà những con người đó có

được tương lai tươi sáng. Cho dù hiểu theo nghĩa nào đi nữa thì mối quan hệ thầy trò ở

đây là hai chiều, thầy cho trò cả đạo lý làm người, trò học thành đạt làm rạng danh của

thầy. Tiếp theo tình thầy trò đó là tình bạn bè gắn bó thủy chung với nhau. Tình bạn

30

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

giữa Lục Vân Tiên, Hớn Minh và Vương Tử Trực là của những con người tài hoa, biết

trọng nhân nghĩa đạo đức. Cuộc gặp gỡ giữa Vân Tiên và Hớn Minh thật là “bình thủy

tương phùng” và là cuộc hội ngộ giữa hai con người anh hùng trên bước đường vạn lý.

Vân Tiên thấy diện mạo của Hớn Minh “dị tướng” nên đem lòng ngưỡng mộ, có ý

muốn kết làm bằng hữu, muốn cùng nhau lập nên sự nghiệp lớn. Nếu Hớn Minh và

Vân Tiên gặp nhau là cuộc tri ngộ của những con người chí khí, có lòng hào hiệp thì

Tiên và Trực là cuộc hạnh ngộ của hai con người tài hoa, biết nhân nghĩa thủy chung.

Vì mến tài thơ văn của nhau mà chàng họ Lục đã kết bái anh em với họ Vương. Sự hội

ngộ của ba con người kể trên rất ngắn ngủi, họ hoàn toàn chưa hiểu hết về nhau thế

nhưng khi Vân Tiên gặp nạn hai người bạn ấy không hề bỏ rơi chàng.

Sau khi Vân Tiên bị gia đình họ Võ bội hôn và đem bỏ vào hang Thương

Tòng được Du thần cùng với ông Tiều cứu giúp chàng gặp lại Hớn Minh trong rừng.

Ta lo sợ cho họ Lục gặp phải một người bạn phản trắc như Trịnh Hâm nhưng không,

Hớn Minh đã làm đều ngược lại hành động của tên họ Trịnh. Minh gặp Tiên khi chàng

vừa thoát khỏi cơn ác mộng của năm ngày trong hang núi không có gì ăn cùng với đôi

mắt đã bị mù lòa. Thấy bạn mình gặp nạn Hớn Minh vội hỏi qua cớ sự và biết được

chính ông Tiều là người cứu giúp bạn qua cơn hoạn nạn, thì “Hớn Minh quỳ gối lạy

liền” (Câu 1135), lại còn muốn thay bạn trả ơn. Chàng xem ông Tiều cũng là ân nhân

của mình khi cứu Vân Tiên. Hành động “quỳ gối lạy liền” chỉ sự dứt khoát, không có

gì e ngại khi tạ ơn ông Tiều. Nên nhớ rằng lúc này chàng phải sống lén lút trong rừng

vì việc mình làm nhưng không hề do dự khi nhận Vân Tiên về chăm sóc. Dân gian ta

có câu: “Trong khó khăn mới biết ai là bạn hiền” thật đúng với trường hợp của Vân

Tiên và Hớn Minh lúc bấy giờ.

Khi Vân Tiên được một ông Tiên cho thuốc chữa hết bệnh và thi đỗ trạng

nguyên. Lúc ấy chàng cũng không quên người bạn đã cưu mang mình khi hoạn nạn.

Được chiếu vua đi dẹp giặc, Lục Vân Tiên đã nhân cơ hội đó xin tha tội cho Hớn Minh

lại còn phong cho bạn mình làm phó tướng cùng đi diệt giặc.

Nói về tình bạn của Vương Tử Trực đối với Vân Tiên cũng không kém gì

Hớn Minh. Mặc dù chàng không chăm sóc bạn trong lúc khó khăn, bệnh tật nhưng

những việc làm của chàng cũng minh chứng được tấm lòng thủy chung với bạn hiền.

Việc đầu tiên sau khi đỗ đạt của Tử Trực là tìm kiếm tin tức của bạn mình. Khi gia

31

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

đình họ Võ dối gạt là bạn mình qua đời vì bệnh tật chàng không khỏi xót xa, thương

mến:

Nghe qua Tử Trực chạnh lòng,

Hai hàng nước mắt ròng ròng như mưa.

(1209 - 1210)

Thương bạn bao nhiêu chàng không thể chấp nhận được hành động của cha

con Võ Thể Loan đối với Vân Tiên bấy nhiêu. Những câu chửi của Tử Trực dành cho

cha con họ Võ thể hiện tính cương trực trong con người chàng và đồng thời cũng minh

chứng được tấm lòng gắn bó keo sơn của Trực với bạn. Hai người biết nhau chưa lâu

nhưng vì mến tài của nhau nên cả hai đã kết giao thành tri kỷ, tri âm. Người kia không

may gặp nạn người còn lại xót xa, đau đớn.

Tình bạn của ba người không khác gì so với những bậc cố nhân trong lịch

sử. Nguyễn Đình Chiểu miêu tả tình bạn của họ hay cũng chính là muốn nói về những

người bạn của chính bản thân mình. Lục Vân Tiên và cụ Đồ Chiểu gặp những điều

không may trong cuộc sống nhưng bù lại cả hai còn có những người bạn luôn sẵn sàng

có mặt khi cần. Tình bạn là sự cho đi không nhận lại bao giờ nhưng tình cảm của họ

lại có sự qua lại lẫn nhau. Vân Tiên được bạn giúp đỡ trong những lúc khó khăn, hoạn

nạn, những người bạn ấy không cần sự đền đáp nhưng khi chàng vượt qua tất cả những

khó khăn, được vinh hiển thì họ Lục vẫn không quên cái ơn cưu mang của bạn hiền.

Khi miêu tả tình cảm vợ chồng, Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa một bức

tranh sinh động của tình vợ nghĩa chồng gắn bó, thủy chung không gì có thể xóa đi

hoặc ngăn cản. Đó là tình cảm của Kiều Nguyệt Nga dành cho Lục Vân Tiên, nàng

thủy chung giữ mãi hình bóng của chàng cho dù Tiên không hề có một lời đính ước

hay thề nguyền. Thế nhưng qua bao nhiêu sóng gió nàng vẫn giữ nguyên tấm lòng

trinh nguyên ấy. Cuộc gặp gỡ giữa đường ngày nào làm cho Nguyệt Nga giữ mãi hình

bóng của một chàng trai đầy lòng hào hiệp nhưng không bao giờ nhận sự trả ơn. Để rồi

từ đó Nguyệt Nga giữ mãi tình cảm, vượt qua bao khó khăn, cám dỗ trước cuộc đời

đầy sóng gió.

Là phận nữ nhi giữ chữ tiết hạnh là đều bình thường vào thời phong kiến

ngày xưa nhưng đó là giành cho những người được cưới hỏi hoặc ít nhất cũng có đính

ước đàng hoàng, còn Nguyệt Nga của chúng ta gắn bó với Vân Tiên là do chính nàng

32

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

tự nguyện, không có sự ràng buộc nào cả. Còn chàng Lục Vân Tiên khi gặp lại nàng

sau bao năm xa cách và được kể lại tất cả mọi việc mà Nguyệt Nga đã làm vì mình thì

“Vân Tiên vội vã xuống quỳ vòng tay”.(Câu 1185)

Ngày xưa đạo đức truyền thống không cho phép người nam quỳ xuống chân

người nữ nhưng ở đây Nguyễn Đình Chiểu đã để cho chàng làm đều đó. Hành động đó

của Lục Vân Tiên, chúng ta không thể trách được bởi vì lúc này Nguyệt Nga không

còn là người chịu ơn nữa mà đã trở thành người gia ơn đối với chàng. Trong lòng họ

Lục không chỉ có tình cảm đơn thuần là yêu mến mà chàng cảm thấy mình đã chịu ơn

rất nhiều trước người con gái ấy. Lúc này Lục Vân Tiên gắn bó với Kiều Nguyệt Nga

không chỉ có tình mà còn có cái nghĩa lớn lao hơn.

Một loại tình cảm đặc biệt của truyện Lục Vân Tiên là tình chủ tớ. Trong các

truyện Nôm bác học cũng như bình dân loại tình cảm này không được các tác giả đem

ra miêu tả. Họ chỉ tập trung thể hiện tình cảm vợ chồng, cha mẹ với con cái nhưng

chưa có ai đi sâu vào vấn đề này. Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa loại tình cảm đó

một cách đặc sắc, nó khác với quan hệ chủ tớ trong giai cấp thống trị. Ở đây mối quan

hệ chủ tớ giống như những người thân trong gia đình, họ không phân biệt nhiều về địa

vị mà ngược lại tất cả lấy tình cảm để đối đãi với nhau.

Lục Vân Tiên có một anh Tiểu đồng, người này có thể xem như là một

người bạn, một người thân của chàng. Ta không bàn về cái nghĩa cái tình chủ tớ theo

lối phong kiến xưa, bởi vì tác giả không thể vượt qua khỏi thời đại của mình; ta nên

nhìn cái khía cạnh hy sinh của Tiểu đồng. Lục Vân Tiên và Tiểu đồng đùm bọc, che

chở cho nhau lúc hoạn nạn, khó khăn. Khi Vân Tiên đau ốm, Tiểu đồng tận tụy vất vả

chạy tìm thầy, kiếm thuốc, chú thực thà, dễ bị bọn thầy bói, thầy pháp lừa. Và cũng

chính vì điều này càng làm bật lên nhân cách của Tiểu đồng. Hình ảnh chú chạy khắp

nơi tìm thầy để chữa bệnh cho chủ không còn là bổn phận của người đầy tớ mà nó trở

thành cái tình của con người với nhau. Chú không hề nghĩ tới thân mình sẽ vất vả bao

nhiêu chỉ mong cho chủ hết bệnh. Cũng vì thế mà Tiểu đồng bị Trịnh Hâm lừa vào

rừng. Khi bị trói giữa rừng chú không hề suy nghĩ đến tính mạng của mình có được

bảo toàn hay không mà chỉ nghĩ đến số phận của Vân Tiên và nguyện xuống suối vàng

để “đỡ tay chơn cùng”. Khi được Sơn thần cứu sống chú lập tức đi tìm chủ, lầm tưởng

Tiên đã chết thì:

33

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

Tiểu đồng nằm giữa rừng hoang,

Che chòi giữ mả lòng toan trọn bề.

(925 - 926)

Suốt bao năm tháng chú che chòi giữ mả cho chủ mà không hề kêu than một

tiếng nào. Hành động tự nguyện đáng khen này càng làm cho nhân cách của Tiểu đồng

trở nên trong sáng hơn. Bởi vậy mới nói Nguyễn Đình Chiểu miêu tả những nhân vật

có tình có nghĩa không hạn chế ở hạng người nào cả trong xã hội, từ một anh Tiểu

đồng vô danh cũng biết sống vì nghĩa vì tình với chủ thì không lý gì những con người

còn lại trong xã hội không biết sống lấy nhân nghĩa làm đầu.

Tuy nhiên mối quan hệ chủ tớ nếu chỉ dừng lại ở đó thì không có gì đáng

nói, bởi đơn giản Tiểu đồng trung thành với chủ là một điều tất yếu trong xã hội phong

kiến bấy giờ. Mà điều đáng chú ý ở đây là mối quan hệ hai chiều của chủ và tớ. Tớ đối

với chủ hết lòng nhưng chủ không bao giờ xem tớ là hạng nô lệ mà ngược lại Vân

Tiên cư xử với Tiểu đồng giống như một người thân của chàng. Khi Trịnh Hâm lừa

chàng rằng Tiểu đồng bị cọp ăn thì: “Vân Tiên than khóc nằm lăn” (Câu 877)

Chàng khóc thương Tiểu đồng không chỉ là một người đầy tớ trung thành

với chủ mà Vân Tiên còn khóc cho một người bạn đã cùng mình qua biết bao hoạn

nạn. Đến khi đỗ đạt, về lại chốn cũ Lục Vân Tiên đã lập đàn tế Tiểu đồng, lời chàng

gởi đến Tiểu đồng sao mà da diết đến thế:

Tiểu đồng hồn bậu có thiêng

Thỏa tình thầy tớ lòng thiềng ngày nay?

(2003 - 2004)

Cũng chính vì hai người có tình cảm gắn bó như anh em nên mới có cuộc

đoàn tụ ngoài sự mong đợi của cả hai.

Nói về tình chủ tớ trong tác phẩm cụ Đồ Chiểu còn miêu tả mối quan hệ

giữa Kiều Nguyệt Nga và Kim Liên. Tuy rằng Kim Liên không cùng tiểu thơ của mình

vượt qua những gian nan như Lục Vân Tiên và Tiểu đồng nhưng hành động hy sinh

của cô hầu gái ấy cũng khiến ta khâm phục. Khi Kiều Nguyệt Nga quyết định trầm

mình để giữ tròn chữ tiết hạnh đối với Vân Tiên thì Kim Liên đã nhanh trí đem mình

thay vào chỗ của tiểu thơ nàng để về làm vợ vua Phiên. Lúc này Kim Liên hoàn toàn

không nghĩ đến bản thân sau này sẽ ra sao, chỉ cần biết hiện tại làm sao cho vẹn cả đôi

34

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

đường nếu không triều đình biết được thì còn rất nhiều người thác oan, thế là “Kim

Liên thế lấy làm nàng Nguyệt Nga.” (Câu 1508)

Tác giả không miêu tả về tình cảm của Nguyệt Nga và Kim Liên nhưng nếu

gia đình họ Kiều không có đối đãi tốt với nàng thì không dễ gì nàng lại hành động như

vậy. Tuy sau này Kim Liên được làm hoàng hậu vua Phiên nhưng thử hỏi nếu như

ngày ấy mọi chuyện bị bại lộ thì hoàng hậu đâu chưa thấy chỉ biết nàng sẽ bị trị tội rất

nặng.

Cho dù tác giả miêu tả mối quan hệ nào của các nhân vật đều đáng chú ý

nhất chính là nó diễn ra hai chiều chứ không theo một chiều. Cha mẹ, vợ chồng, thầy

trò, bạn bè rồi đến mối quan hệ chủ tớ, Nguyễn Đình Chiểu đều lột tả được sự tác động

qua lại của các nhân vật, nó không cho theo một chiều như ta thường thấy ở giai cấp

“ngồi trên xã hội”. Chính vì điều này mà Lục Vân Tiên mới là tác phẩm của quần

chúng vì tự bản thân nó đang miêu tả những việc xảy ra của người lao động, những

việc mà giai cấp thống trị tự nó không có được.

2.1.4. Ơn nghĩa

Người Việt Nam ta thường dạy con cháu rằng: ăn quả nhớ kẻ trồng cây hay

uống nước nhớ nguồn. Không biết tự bao giờ truyền thống ơn nghĩa ấy đã ăn sâu vào

kí ức của mỗi nguời Việt như vậy. Một hành động nhỏ giúp người trong lúc hoạn nạn,

gian truân cũng làm ta nhớ mãi không nguôi và quyết lòng tìm mọi cách để báo đền ơn

đức ấy. Và rồi cụ Nguyễn Đình Chiểu đã mang vào kiệt tác của mình truyền thống ấy

với nguyên giá trị bản thể của nó. Chưa bao giờ nền tảng đạo đức tốt đẹp này được cụ

tiếp thu một cách chặt chẽ đến như thế.

Mối tình của nàng Kiều Nguyệt Nga tài sắc và chàng Lục Vân Tiên hào hiệp

cũng bắt đầu từ sự ghi ơn tạc nghĩa. Trong một lần ra tay đánh tan bọn cướp không

ngờ vô tình chàng đã gieo trong lòng cô gái ấy mối ân tình sâu nặng. Tìm mọi cách để

muốn trả ơn thế nhưng đều bị chàng từ chối, thế là từ đó nàng đã trả ơn cho Lục Vân

Tiên bằng cả tấm chân tình của một người con gái.

Trong truyện Lục Vân Tiên mối quan hệ của các nhân vật chính diện trở nên

tốt đẹp cũng một phần do họ biết sống ơn nghĩa, không lấy oán báo ân hoặc quên hẳn

những việc người khác giúp mình trong lúc khốn khó. Đó là sự ghi nhớ công ơn gia

đình ông Ngư, ông Tiều của Lục Vân Tiên. Việc quay lại trả ơn sau khi thi đỗ không

35

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

chỉ là bổn phận mà còn là đạo đức của bậc quân tử. Nguyễn Đình Chiểu thật thiếu sót

nếu như không cho chàng thực hiện việc trả ơn, trả nghĩa của mình. Không chỉ quay

lại đền ơn cho mình mà Lục Vân Tiên còn giúp Kiều Nguyệt Nga trả ơn cho lão bà.

Như ta biết Tiểu đồng vì trung thành với chủ nên mới bị Trịnh Hâm lừa vào

rừng. Suốt bao năm dài Vân Tiên tưởng rằng chú đã chết nên khi được khỏi bệnh và

đỗ đạt chàng đã quay về chốn cũ lập đàn cúng tế cho người đầy tớ trung thành của

mình. Lúc này Tiểu đồng không còn là người đầy tớ mà là người cứu giúp Vân Tiên,

là người không bỏ chàng trong lúc khó khăn, là cây gậy dẫn đường cho Tiên khi mắt

chàng bị bệnh. Những việc làm của Tiểu đồng đều được Lục Vân Tiên khắc cốt ghi

tâm.

Hành động của các nhân vật để đền ơn cho ân nhân của mình rất phù hợp

với truyền thống đạo đức của người dân, được nhân dân chấp nhận vì nó là cội nguồn

để đánh giá nhân cách của một con người. Một người tốt không chỉ biết gia ơn cho

người mà còn biết nhớ đến ơn nghĩa mà người khác tạo cho mình. Bởi vì không một ai

trong cuộc sống này mà không cần sự giúp đỡ của người khác.

2.2. Truyện thơ Lục Vân Tiên phê phán bất nhân, bất nghĩa

Không chỉ ngợi ca chính nghĩa, miêu tả nhân vật chính diện một cách đặc sắc,

tiêu biểu mà tác giả của truyện thơ Lục Vân Tiên còn lột tả những con người chỉ biết

sống cho mình, lúc nào cũng sẵn tâm hại người cho dù đó là bạn, là người thân. Sự

nham hiểm, mù quáng đã được Nguyễn Đình Chiểu đem ra phơi bày dưới ngòi bút

một cách tự nhiên. Những hiện tượng bất nhân, bất nghĩa được tác giả đặt cạnh chính

nghĩa, nhân vật phản diện được đặt cạnh các nhân vật chính diện càng làm tôn lên vẻ

đẹp trong tâm hồn của những con người biết sống vì đạo nghĩa. Hai tuyến nhân vật đặt

cạnh nhau với hai mục đích khác nhau nhưng cuối cùng cụ Đồ Chiểu chỉ thực hiện

một mục đích chung nhất đó chính là nêu cao ngọn cờ đạo nghĩa, phê phán tính bất

nhân, bất nghĩa.

2.2.1. Sự nham hiểm, gian trá

Thói đời bạc bẽo, tình đời thay đổi là đều thường tình trong xã hội. Nhưng

đau đớn hơn nếu như người mang tính phản trắc lại là bạn, là vợ, là người thân của

mình. Lục Vân Tiên bị bệnh về thể xác nhưng nỗi đau đó không bằng sự buồn đau về

tinh thần. Những người đã cùng góp tay với nhau dìm chàng xuống sâu trong cái khổ

36

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

đó không phải ai khác chính là bạn, là gia đình bên vợ của Tiên và đặc biệt là người vợ

đã có hôn ước với chàng từ bé.

Hay tin mẹ mất Lục Vân Tiên khóc nức nở, ai nấy đều thương cảm trong đó

có Trịnh Hâm. Tưởng chừng người bạn biết nói những câu khuyên nhủ:

Thấy nhau khó nổi giúp nhau,

Một vừng mây bạc dàu dàu khá thương.

(601 - 602)

Và lúc ấy người đọc đều cho rằng hắn ta đã quên hết những chuyện xảy ra

trong quán. Ai ngờ Trịnh chỉ là người giả nhân giả nghĩa. Ngoài miệng nói những câu

nhân nghĩa, chí tình đâu ai ngờ tận trong tâm hắn rất mừng thầm khi Vân Tiên gặp

chuyện. Hắn không kết bạn với Tiên vì mến mộ tài nhau mà ngược lại Trịnh đang rắp

tâm hãm hại bạn. Tưởng rằng khi Vân Tiên không tiếp tục đi thi mọi chuyện đã chấm

dứt nào ngờ lúc tình cờ gặp lại họ Lục bị mù và cũng chính lúc đó bao nhiêu chuyện

hại người hắn sẵn sàng đem ra hại bạn. Nhân đó hắn giả bộ tốt bụng tỏ ý giúp chàng về

tới Đông Thành, đâu ngờ “Trịnh Hâm trong dạ gươm đao” (Câu 871) đang có mưu đồ

lớn. Đầu tiên hắn bắt trói Tiểu đồng cho thú dữ ăn thịt sau đó hắn lừa Vân Tiên xuống

thuyền rồi đẩy xuống biển làm mồi cho cá. Kế hoạch của hắn rất hoàn mĩ, không ai có

thể ngờ được sự phản trắc của y. Hai tai nạn của chủ tớ họ Lục đều được xem bất ngờ,

hoàn toàn không có sự sắp đặt của người bạn đi bên cạnh Vân Tiên.

Nếu như Nguyễn Đình Chiểu xây dựng một Hớn Minh hết lòng vì bạn,

không bỏ bạn trong lúc bệnh tật thì Trịnh Hâm là đại diện cho những tên phản bạn.

Không ra tay giúp đỡ khi bạn cùng đường thì thôi còn nhẫn tâm xô bạn mình xuống

biển giữa đêm khuya. Hành động của hắn khiến ta câm phẫn biết bao một con người

nham hiểm, lúc nào miệng cũng nói nhân nghĩa nhưng trong đầu luôn đầy gươm đao

hại người. Hắn là tiêu biểu cho những nhân vật đội lớp học trò Nho giáo nhưng hành

động không khác nào những người thô lỗ, không học thức. Bởi nói không thể đánh giá

một con người bằng vẻ bề ngoài, học thức, hay những lời nói ngọt ngào vì như vậy ta

không hiểu hết được giá trị ẩn bên trong của họ.

Ngoài Trịnh Hâm nham hiểm, gian trá hại bạn trong lúc khốn cùng thì Bùi

Kiệm là điển hình cho những tên háo sắc, không biết phân định đâu là lẽ phải. Hắn

cũng là tên có học sách thánh hiền nhưng việc làm của bản thân còn tệ hơn một người

37

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

thất học. Khi gặp Nguyệt Nga là cô gái đẹp, nết na hắn “đêm đêm trằn trọc phòng hoa

mấy lần” (Câu 1562) và biết được nàng là vợ của Vân Tiên, Bùi Kiệm cũng không từ

bỏ ý nghĩ của mình mà còn xúi giục người con gái đáng thương ấy lãng quên chữ tiết

hạnh.

Nếu Vương Tử Trực không chịu được con người phản trắc của Võ Thể

Loan cũng như không có ý cưới vợ bạn thì Bùi Kiệm ngược lại. Hắn nêu ra một loạt

tấm gương của người xưa và những câu khuyên nhủ, biện minh cho lời khuyên của y

dành cho Nguyệt Nga. Một họ Vương không chấp nhận đề nghị lấy chị dâu làm vợ thì

họ Bùi này biết rất rõ sự tình của Vân Tiên cũng như tình cảm thủy chung của Nguyệt

Nga thế mà hắn chủ động đưa ra hàng loạt đạo lý tất yếu ở đời cũng chỉ muốn lấy Nga

làm vợ. Và điều đó rất hợp lý nếu như người đó không phải Nguyệt Nga hoặc tốt nhất

là bất cứ người con gái nào có hoàn cảnh như thế. Đằng này Bùi Kiệm lại mang danh

nghĩa là bạn của Lục Vân Tiên thì những lời hắn nói làm sao đi vào lòng người được.

Một con người đã đỗ được cử nhân thế nhưng lời nói và việc làm của y có giống học

trò “cửa Khổng sân Trình” chút nào đâu.

Nếu như gia đình họ Kiều trọng đạo nghĩa trước sau thì thay vào đó là gia

đình họ Võ với bộ ba Võ Công, Quỳnh Trang và Võ Thể Loan là đại diện cho những

con người lọc lừa, phản trắc, ăn ở hai lòng. Ngày Vân Tiên lại nhà để nhắc lại chuyện

xưa thì bộ ba này tiếp đoán niềm nở bởi thấy chàng là một người có diện mạo khôi

ngô, tuấn tú.

Đến khi biết được tài nghệ của chàng thì Võ Công lấy làm vui vẻ vì mình đã

chọn được chàng rể quý. Nhưng đâu ngờ số phận đẩy đưa, bất hạnh không chừa bất kể

ai cho dù người đó có tài hoa và Lục Vân Tiên là người rơi vào trường hợp như vậy.

Chàng đi thi bị gãy gánh giữa đường lại còn bị mù mắt nữa, tưởng chừng niềm an ủi

cuối cùng của Tiên chính là gia đình họ Võ này. Nhưng đâu ai ngờ con người dễ thay

đổi tình cảm và thái độ đến như thế. Nếu lúc trước là sự niềm nở tiếp đoán thì nay Võ

Công đổi nhanh cách cư xử với chàng: “Một lòng gượng gạo: “Chào người ngày

xưa!”” (Câu 1006)

Thái độ ấy nó khác hoàn toàn so với sự niềm nở trước đó, bởi đơn giản ai

chấp nhận một chàng rể đui mù lại không có sự nghiệp gì trong tay. Chồng đã vậy mà

38

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

vợ cũng có khác gì. Cha mẹ như thế thì đứa con như Võ Thể Loan tráo trở cũng không

thua gì đấng sinh thành của ả. Tiễn Vân Tiên lên đường, cô ta:

Thưa rằng: “Quân tử phó công,

Xin thương bồ liễu chữ tòng ngây thơ.

(Câu 401 đến câu 402)

Lại còn cầu mong ngày Tiên đỗ đạt, vinh hiển cũng đừng bao giờ quên

người vợ đang ở nhà chờ đợi. Đúng là tâm trạng của người đưa tiễn luôn lo sợ cho

người ra đi trên vạn lý trường đồ gặp nhiều trở ngại nhưng Thể Loan không lo gì hơn

ngoài sợ Vân Tiên quên lời ước hẹn khi công thành danh toại. Chúng ta không ngạc

nhiên lắm nếu như Võ Thể Loan có tâm trạng đó bởi truyền thống từ xưa đến nay

người phụ nữ luôn chịu thiệt thòi trong chuyện hôn nhân, mặt khác Vân Tiên là người

tài cao thì việc đỗ đạt không khó đối với chàng và lúc ấy sự thay lòng đổi dạ có thể

xảy ra. Nếu câu chuyện chỉ dừng lại đây chắc người đọc sẽ nghĩ Thể Loan cũng giống

như bao nhiêu người con gái chung thủy khác nhưng tác giả đã phơi bày ra ánh sáng

tất cả những nhân vật ăn ở hai lòng.

Biết Vân Tiên bị mù tưởng chừng cô ta sẽ chăm sóc chồng chưa cưới của

mình, cũng như không vì thế mà phụ chàng. Đâu ngờ con người ấy đã lộ nguyên bản

chất xấu xa của mình khi hoàn cảnh hiện tại nó khác với quá khứ. Cô ta không chấp

nhận lấy một người chồng “thất phu”, bởi gia đình này không thể có “Rễ đâu có rễ

đui mù thể ni.”(Câu 1034)

Thật bất ngờ xiết bao vì những lời nói ấy. Nó khác lắm so với sự thắm thiết

ban đầu, vậy là người ra đi không thay lòng đổi dạ nhưng người ở lại đã đổi thay. Đã

vậy mà cô ta còn tự mình mơ tới một cuộc hôn nhân mới mà người Võ Thể Loan nghĩ

tới không phải ai khác chính là Vương Tử Trực. Phụ bạc người chồng bất hạnh lại mơ

tới người khác một cách nhanh chóng thì người có thể làm được chuyện đó không ai

khác chính là Võ Thể Loan. Nguyễn Đình Chiểu không hề bình luận đều gì cả nhưng

các chi tiết mà ông diễn tả đã phơi bày tất cả sự gian trá của con người ả. Nếu nàng

Kiều Nguyệt Nga chung thủy, nguyện sống chết vì người chồng mà mình chả có chút

gì danh phận thì cô con gái họ Võ kia lại lọc lừa phản trắc, bội ước. Việc sắp xếp hai

tuyến nhân vật đối nghịch nhau hoàn toàn về tính cách và hoàn cảnh càng làm cho giá

39

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

trị phê phán của truyện lên cao độ, điều đó không làm cho các nhân vật cũng như vấn

đề tác giả nêu ra quá cứng nhắc mà ngược lại rất dễ đi vào lòng người.

Một hạng người nữa cũng bị cụ Đồ Chiểu đem ra phơi bày trước ánh sáng

đó chính là bọn thầy bói, lang băm. Bọn này là đại diện cho những tên thực dụng,

nhiễu đòi, hại dân. Trước số phận của chàng trai bạc phước vậy mà chúng hiển nhiên

bắt tay nhau thử thách bệnh tật của Vân Tiên.

Người đầu tiên thầy trò Tiên gặp chính là thầy thuốc tên Triệu Ngang. Gặp

bệnh nhân câu đầu tiên thầy thuốc hỏi không phải là tình trạng của họ mà lại hỏi: “Bạc

tiền trong gói sẵn dành bao nhiêu? (Câu 660)

Thế là hiểu ngay người thầy thuốc này chữa bệnh chỉ vì tiền, bệnh nhân có

khỏi hay không cũng kệ miễn là người trị có tiền. Thế mà người này còn ba hoa khoác

lác về tài xem bệnh của mình. Đến khi lộ nguyên bản chất bất tài của hắn vì bệnh của

Vân Tiên sau mười ngày chữa trị không hết mà lại còn nặng hơn lúc chưa chữa, thầy

liền khuyên Tiểu đồng đi kiếm thầy bói để tìm hiểu sự tình về bệnh tật của chủ. Thử

hỏi người ta bệnh thì lại kiếm thầy bốc thuốc thế nhưng thuốc không có tác dụng bởi

thầy là con người chỉ biết ba hoa chứ đâu có tài như thầy tự giới thiệu. Nhưng Triệu

còn làm ra vẻ đạo đức khi nói với Tiểu đồng là Vân Tiên bị quỷ thần ám, ông lang ấy

nói có bằng chứng đàng hoàng chứ không bịa đặt vì hắn được tiên sư mách bảo. Lúc

đó y chỉ thầy trò Vân Tiên tìm đến thầy bói “ở đầu Tây Viên”, hình như ta có cảm giác

hai ông thầy này có thông đồng với nhau thì phải.

Tiểu đồng thật thà nên bị lừa một lần nữa, tính tình của chú chính là nơi

kiếm ăn cho chúng. Ông thầy ở Tây Viên này cũng cùng một ruột với thầy lang vì hắn

cũng là tên khoác lác không kém. Gặp Tiểu đồng hắn liền ba hoa về tài năng và đạo

đức của mình. Và cuối cùng hắn cũng chỉ là tên xảo trá, ham tiền, xem mạng người

như không. Lấy tiền xong hắn liền tạo cơ hội cho thầy pháp “kiếm ăn” và truyền

“Phải tìm thầy pháp chữa chuyên ít ngày.” (Câu 750)

Đúng là thầy đã cho thân chủ biết hết mọi đường và phương thức chữa trị.

Tiểu đồng nhẹ dạ đâu thấy được bản chất của bọn chúng, chú chỉ mong chữa hết bệnh

cho chủ nên ai nói sao nghe vậy với lại người chỉ biện pháp chữa trị bệnh lại là ông

thầy có tài biết thuật bói toán thì làm sao chú không tin cho được. Thầy lang giới thiệu

thầy bói, thầy bói giới thiệu thầy pháp ta có cảm giác cả ba người này là một hội đồng

40

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

hãm hại người hoạn nạn. Cả thầy lang lẫn thầy bói bay xa tiếng tăm cũng chỉ vì sự

khoác lác và cách lừa gạt của họ quá tinh vi không ai có thể nhận thấy dễ dàng được.

Còn thầy pháp bản chất thật sự của hắn là gì chắc ai cũng dễ dàng đoán ra nhưng cách

làm của hắn có khác hai người bạn của y không, đó còn phụ thuộc vào cái tài của

Nguyễn Đình Chiểu. Không khác gì hai người thầy trước vị thầy pháp này cũng có

một bài giới thiệu về tài năng xuất chúng của bản thân, nào là biết gọi gió kêu mưa,

biết điều khiển muôn thú, có tài thâu tóm muôn vật, lại còn có khả năng “phá thành

Diêm Vương”, nói chung thầy biết tất cả mọi việc trên đời. Tội nghiệp chú Tiểu đồng

đi đâu cũng gặp bọn chỉ có tài cái miệng, tận sâu bản chất của chúng là tiền. Thầy

pháp cũng không ngoại lệ, một bài trình diễn về tài nghệ xong y liền:

Có ba lượng bạc trao sang,

Ðặng thầy sắm sửa lập đàng chữa cho.

(Câu 775 đến câu 776)

Tiếp đó hắn không quan tâm người nào là bệnh nhân, chỉ cần biết có tiền.

Nghe Tiểu đồng trình bày mọi chuyện hắn liền ra tay chữa bệnh bằng cách: “Ðau Nam

chữa Bắc mà thuyên mới tài”. (Câu 794)

Đúng là thầy có tài mà cái tài đó lại nằm ở miệng lưỡi của y chứ không phải

cách chữa trị. Người bệnh một nơi, người chữa một nẻo lại còn nói rằng mình có tài

nữa. Quả là trên đời này chỉ có mình thầy mà thôi. Bộ mặt của hắn đã dần hiện ra thế

mà y ta lại còn cố khoe cái tài có một không hai của mình. Đúng là Nguyễn Đình

Chiểu rất am hiểu bọn lang băm thầy pháp nên cụ dùng ngòi bút của mình đem chúng

ra trước ánh sáng. Tác giả chỉ bằng vài chi tiết nhỏ mà lột tả hết bộ mặt giả tạo, tài ba

hoa của bọn chúng. Bộ ba đấy là đại diện cho những u nhọt của xã hội đang ngày ngày

hành hạ những người dân lương thiện như thầy trò Lục Vân Tiên.

Đúng như Xuân Diệu nhận xét về Lục Vân Tiên: “Tác giả tả được tính nết,

thần thái, ngôn ngữ của nhiều hạng người có thật trong xã hội, người đọc người nghe

liên hệ được người trong truyện với kẻ trong đời, mà liên hệ một cách thiết thực, nôm

na. Những Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, người ta gặp hàng ngày trong xã hội miền Nam. Văn

Nguyễn Đình Chiểu tả bọn thầy lang băm, thầy bói, thầy phù thủy thật là đáng tức

cười”[19;111]. Những con người xảo trá, nham hiểm, ăn ở hai lòng ấy không ở tận

đâu bên nước Sở mà nó ở ngay trong xã hội miền Nam lúc bấy giờ, ta dễ dàng gặp bất

41

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

cứ một nhân vật nào trong truyện ở ngoài đời, cũng chính điều này làm cho tác phẩm

của Đồ Chiểu dễ đi vào lòng người với tính giáo dục và phê phán cao. Tác giả phô bày

sự nhố nhăng của bọn chúng ra nhưng hoàn toàn không có một sự nhận xét hay phê

bình nào mà việc đó cụ đã giao lại cho người đọc, người nghe. Nguyễn Đình Chiểu

cũng không nói về kết cục của chúng nhưng bản án mà quần chúng phán xét còn quan

trọng hơn bất cứ sự can thiệp nào của công lý. Trong Truyện Kiều Nguyễn Du còn có

lúc để cho nhân vật chính, người bị hại đền ơn báo oán nhưng Nguyễn Đình Chiểu

không làm như vậy. Chính điều đó làm cho giá trị giáo huấn của tác phẩm và quan

điểm “thiện ác đáo đầu chung hữu báo” có ý nghĩa nhưng không quá khô cứng, nó

không làm cho người đọc rơi vào cảm giác đang xem một phiên tòa xét xử mà bản án

thật sự để cho người ngoài cuộc phán xét.

Đúng như vậy, đến bây giờ những người có tính Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, hay

Võ Thể Loan đâu được người dân chấp nhận, họ quyết không chung sống với những

con người như thế. Cũng từ đó những nhân vật ấy đã trở thành điển cố hay nói đúng

hơn là biểu tượng của những cái xấu xa trong đức tính của một con người. Một lần nữa

điều này chứng minh được sức sống dẻo dai của tác phẩm được xem là kiệt tác của thể

loại truyện Nôm.

Mặt khác miêu tả các nhân vật bất nhân, bất nghĩa, phản trắc để tác giả làm

nổi bật lên những con người trung trinh, tiết liệt. Chẳng hạn, khi nói đến những Trịnh

Hâm, Bùi Kiệm nham hiểm, phản bạn thì càng làm tôn lên vẻ trung trực, sự thủy

chung, gắn bó keo sơn, không bỏ bạn trong lúc khốn cùng của Hớn Minh và Vương

Tử Trực. Nếu như nói về Võ Thể Loan phụ bạc, trọng phú khinh bần thì người ta sẽ

nghĩ ngay đến một Kiều Nguyệt Nga chung thủy, nguyện sống chết vì chồng cho dù

nàng chưa có danh phận với Lục Vân Tiên. Tóm lại miêu tả, phê phán nhân vật phản

diện cũng nhằm mục đích làm tôn lên tính cách của nhân vật chính diện. Cũng vì thế

giá trị của các nhân vật đó càng được nâng lên hơn so với bình thường do lúc này

những con người này có các tấm gương phản chiếu.

2.2.2. Sự mù quáng, bất công

Lục Vân Tiên là tác phẩm phản ánh đầy đủ và sinh động nhất những hiện

tượng của xã hội Việt Nam bấy giờ. Từng con người trong đó là đại diện cho một loại

tính cách điển hình. Và đặc biệt ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu không loại trừ bất cứ

42

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

một dạng người nào cho dù họ là nhà giàu, là quan hay là vua đi nữa thì tác giả cũng

đem ra phê phán nếu như họ không biết sống theo lẽ phải, cứ cậy quyền làm đều xằng

bậy.

Đó chính là Bùi ông - một người giàu có nhưng lại chỉ nghe theo lời xúi

giục của con cho dù y biết rất rõ đều đó là sai. Sau khi nhảy xuống biển tự tận, Kiều

Nguyệt Nga may mắn được cứu sống và trôi giạt vào nương nhờ nhà Bùi ông rồi được

nhận làm con nuôi.

Tưởng chừng Bùi là một ông lão biết đều nghĩa nhân, cưu mang người lúc

hoạn nạn nhưng cuối cùng y cũng chỉ là một đại diện của lối sống gấp, ích kỷ, hưởng

lạc. Khi con trai của Bùi là Bùi Kiệm về và có ý với Nguyệt Nga, chẳng những y

không khuyên ngăn con mình nhận ra đều sai trái đằng này còn hùa theo con làm đều

xằng bậy. Giọng điệu của Bùi ông khuyên Nguyệt Nga kết duyên cùng con trai hắn nó

không khác gì so với Bùi Kiệm:

Làm chi thiệt phận hồng nhan,

Năm canh gối phụng màn loan lạnh lùng.

Vọng phu xưa cũng trông chồng,

Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.

(1621 - 1624)

Con người ấy đã từng cứu vớt Nguyệt Nga thế nhưng cuối cùng hắn cũng là

một tên không hiểu luân thường đạo lý ở đời. Thử hỏi, nếu như hắn biết liêm sỉ, biết

sống theo khuôn khổ đạo đức có lẽ Bùi ông sẽ là một con người đáng trọng bởi y

thuộc tầng lớp trên của xã hội, có tiền nhưng sống không quên đạo nghĩa ở đời. Thế

nhưng Nguyễn Đình Chiểu đã trả về cho y nguyên bản chất vốn có của những tên trọc

phú. Bàn tay của Bùi ông cùng với những suy nghĩ thực dụng đã đẩy Kiều Nguyệt Nga

phải bỏ nhà đi trong đêm khuya mà không biết đâu là bến trú ngụ. Nhưng suy cho

cùng cũng nhờ bản chất xấu xa của cha con họ Bùi mà nhân cách của Kiều Nguyệt

Nga càng sáng ngời.

Một hạng người nữa mà Nguyễn Đình Chiểu cũng không bỏ qua đó chính là

những tên quan lại, có chức trọng nhưng không phục vụ cho dân, cho nước mà lại đáp

ứng nhu cầu của bản thân. Hay nói đúng hơn trong Lục Vân Tiên, tác giả đã tố cáo

43

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

tầng lớp quan lại bất tài, vô dụng nhưng lại là những con người nắm quyền sinh sát

trong tay.

Vị quan Thái sư trong truyện thay vì lo cho dân, bảo vệ dân nhưng chính

hắn lại đẩy dân xuống nỗi bất hạnh nhất. Chỉ vì không cưới được Kiều Nguyệt Nga

cho con trai mình nên từ đó đã ôm hận và mong chờ cơ hội trả thù. Đến khi nước Ô

Qua sang xâm chiếm lãnh thổ thay vì cùng vua bàn kế diệt giặc để giữ an bờ cõi, đằng

này hắn lại tâu với vua cho nàng đi cống Phiên. Vị quan đã đưa ra kế sách không mới

so với lịch sử. Nhưng kế này cũng chứng minh được con người Thái sư, hắn là một kẻ

sống chỉ vì quyền lợi của bản thân, sợ chiến tranh xảy ra nhưng không phải lo cho dân

mà lo cho chức vị cũng như tiền tài của y. Tính ra con người có chức quan cao nhất

trong triều lúc bấy giờ không bằng cô tì tất Kim Liên. Nếu Kim Liên vì chủ, vì đất

nước sẵn sàng thay Kiều Nguyệt Nga đi cống Hồ thì Thái sư là vị quan đã hưởng biết

bao nhiêu bổng lộc của triều đình nhưng khi đất nước cần hắn liền đẩy trách nhiệm

nặng nề đó sang vai người con gái “chân yếu tay mềm” như thế.

Cùng với Thái sư chức trọng quyền cao thì quan huyện tên Đặng Sinh cũng

được cụ Đồ Chiểu lấy làm điển hình cho những con người mang danh là phụ mẫu của

dân nhưng những việc làm của chúng lại ngược với chức phận của mình. Vị quan này

có một đứa con là nạn nhân của Hớn Minh, con hắn bị chàng bẻ đi một giò. Thế là hắn

đã xử chàng lưu đày biệt xứ vì dám làm hại đến con trai của y. Việc làm đó của Đặng

Sinh có thể phần nào giải thích được là do cha mẹ luôn muốn bảo vệ con nên sẵn tay

trừng trị những ai làm hại đến con họ. Thế nhưng hắn chỉ biết sinh mà không biết dạy

nên để cho con trai hắn lộng hành, làm hại gái nhà lành. Sự việc xảy ra đáng lẽ Đặng

Sinh phải tìm hiểu nguyên nhân rồi hãy kết tội của Hớn Minh, nhưng cho dù biết rõ tại

sao chàng họ Hớn lại hành động như vậy thì liệu quan huyện có thể tha cho chàng hay

vẫn giữ nguyên bản án? Chắc chắn là y sẽ giữ y án vì đơn giản Đặng Sinh là tên quan

giống như đại đa số quan lại thời bấy giờ chỉ biết hách dịch, nhiễu dân.

Nếu như các truyện thơ trong lịch sử không miêu tả nhiều đến những vị vua

thì trong Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã mang đến cho người đọc hình ảnh một

ông vua nước Sở, là bậc chí tôn nắm quyền sinh sát trong tay của một nước. Thế

nhưng cụ không ca ngợi vị vua này mà phê phán y là một kẻ mù quáng, chỉ biết nghe

lời xu nịnh của gian thần để dân mang bao nhiêu điều oan trái. Vua nước Sở sau khi

44

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

nghe lời xàm tấu của Thái sư liền chấp nhận cách làm ấy để giữ yên bờ cõi hay nói

đúng hơn là giữ nguyên ngai vàng mà y đang ngồi. Dưới quyền cai trị của hắn làm cho

nịnh thần lộng quyền, đất nước rơi vào thảm cảnh. Chính chiếu chỉ của y đã kết liễu

cuộc đời của Kiều Nguyệt Nga làm nàng phải tìm con đường cùng. Nếu như vua nước

Sở là một minh quân thì ngài sẽ không đưa ra một quyết định vội vàng như thế, dẫu

biết rằng việc ấy không mới trong lịch sử nhưng các vị vua thời trước nếu dùng kế

sách này là lúc họ không tìm ra cách khác để giải quyết nạn ngoại xâm. Đến kết thúc

tác phẩm nhà vua đã nhận mình có lỗi khi nghe lời của Thái sư. Cho dù tác giả cho nhà

vua nhận ra lỗi lầm của mình nhưng cũng không thể nào xóa đi những việc mà ngài

gây ra cho người dân nước Sở.

Nguyễn Đình Chiểu đem vào trong trang viết của mình hình ảnh vua quan,

những nhà giàu có để phê phán sự bất công trong cuộc sống. Những con người này có

quyền hành trong tay nhưng hành động không vì mục đích chung mà chỉ phục vụ cho

bản thân họ. Đất nước mà có vua chỉ biết nghe lời nịnh thần, còn quan lại đa phần

cũng là bọn gian tham, bọn trọc phú có tiền trong tay nhưng không biết nhân nghĩa ở

đời mà chỉ biết sống hưởng lạc thì người chịu khổ cũng chỉ là những người dân lương

thiện. Bởi vậy, tuy phê phán nhưng tác giả cũng hàm chứa tâm sự của mình trong đó.

Ông không khỏi gay gứt về xã hội trong truyện hay nói đúng hơn lúc nào tấm lòng

người thầy ấy cũng lo cho xã hội Việt Nam bấy giờ.

2.3. Truyện thơ Lục Vân Tiên thể hiện khát vọng lý tưởng của nhân dân

Lục Vân Tiên mang đến cho người đọc một thế giới nhân vật biết sống vì nhân

nghĩa nhưng cũng cho ta thấy được những con người chỉ biết sống vì quyền lợi của

bản thân họ mà thôi. Cho dù miêu tả nhân vật chính diện hay phản diện cụ Đồ Chiểu

cũng nhằm vào một mục đích là thể hiện khát vọng lý tưởng của nhân dân. Đó là niềm

tin của quần chúng lao động vào một xã hội trong sáng hơn, ở đó họ sẽ được sống an

lành không phải lo sợ bọn bất nhân bất nghĩa làm hại.

2.3.1. Niềm tin về sự thắng lợi của đạo lý - chính nghĩa thắng gian tà

Trong truyện có những lúc nhân vật chính nghĩa bị bọn gian tà hãm hại,

người thì bị thất lạc, bị bệnh, người thì mất tin tức nhưng cuối cùng họ vẫn có một kết

thúc tươi sáng. Bởi điều quan trọng ở đây tác giả muốn khẳng định một cách triệt để

rằng: cái thiện, cái tốt, cái chính nghĩa, dù có phải trải qua muôn vàn khó khăn, muôn

45

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

vàn trở ngại thì cuối cùng mọi chuyện cũng đâu vào đấy, người hiền thì được hưởng

cuộc sống sung túc về sau; cái ác, cái phi nghĩa rốt cuộc cũng bị trừng trị thích đáng.

Ta không khỏi lo lắng cho số phận của chàng Lục Vân Tiên khi con đường

công danh bị chặn giữa đường, rồi lại lâm bệnh nặng đến nỗi mù mắt. Từ lúc đó chàng

gặp không ít sống gió: khi thì bị bọn lang băm, thầy bói lừa gạt hết tiền nhưng bệnh

tình thì ngày càng nặng hơn; rồi lại gặp người bạn phản trắc Trịnh Hâm không hề nghĩ

chút tình thẳng tay hại bạn; và còn gì oán than hơn khi gia đình bên vợ lọc lừa, tham

sang phụ bần nỡ bỏ chàng vào hang núi. Những sóng gió ấy đối với một người bình

thường đã quá sức chịu đựng huống chi ở đây Lục Vân Tiên đang bị mù cả hai mắt.

Thế nhưng người thanh niên ấy cũng vượt qua mọi trở ngại để trở thành trạng nguyên.

Kết quả cuối cùng Lục Vân Tiên đạt được chính là bằng chứng về nghị lực của bản

thân chàng nhưng cũng đồng thời thể hiện quan điểm “ở hiền gặp lành” của ông cha

ta. Nên nhớ rằng mỗi lần chàng gặp hoạn nạn đều có bàn tay thần linh giúp đỡ rồi việc

Tiên sáng mắt cũng nhờ vào thuốc của một ông Tiên cho. Tuy rằng những chi tiết này

thể hiện tính hoang đường nhưng cũng chứng minh được rằng bất kỳ ai có tấm lòng

ngay thẳng đều được sự trợ giúp cho dù đó là đều khó tin.

Trong truyện còn có những con người khác cũng gặp không ít trở ngại,

chẳng hạn như nàng Kiều Nguyệt Nga chung thủy. Tấm lòng trung trinh ấy khiến ta

khâm phục, thế nhưng các thế lực trong xã hội không cho phép nàng giữ mãi tình cảm

đó với Vân Tiên. Bước đường gian truân của nàng bắt đầu từ sự oán thù vô lý của lão

Thái sư đương triều, bị triều đình bắt làm vật cống nạp sang nước Phiên; rồi nhảy

xuống biển tự tận mong giữ được tấm lòng dành cho người chồng của mình nhưng nào

ngờ lại rơi vào tay của cha con Bùi Kiệm. Một lần nữa người con gái ấy ra đi trên con

đường với:

Hai bên bờ bụi rậm rì,

Ðêm khuya vắng vẻ gặp khi trăng lờ.

(1641 - 1642)

Nàng ra đi trong đêm tối cũng như không biết rồi đây tương lai của mình về

đâu nhưng may mắn là Nguyệt Nga được một cụ bà giúp đỡ, cưu mang. Bà đã che chở

cho nàng để nàng an tâm thờ người chồng mà mình đã nguyện hai chữ thủy chung.

Nhưng cuối cùng tác giả không để cho người con gái ấy thờ chồng một cách vô lý khi

46

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

mà Vân Tiên vẫn còn sống. Cuộc gặp gỡ giữa hai người trong khu rừng ấy một lần nữa

chứng minh được những con người trung kiên, tiết liệt thế nào cũng được đền đáp

xứng đáng.

Một lần nữa ta không bao giờ quên hình ảnh chàng trai có vẻ ngoài dị

thường Hớn Minh không hề sợ cường quyền, ra tay trừng trị kẻ gian; rồi hình ảnh

Vương Tử Trực lúc nào cũng nghĩ tới bạn; một Tiểu đồng, Kim Liên hết lòng vì chủ;

gia đình ông Ngư, ông Tiều, bà lão hay ông Quán biết trọng nhân nghĩa, cứu người

qua cơn hoạn nạn không mong gì đền đáp. Tất cả họ cũng được vinh hiển giống như

hai nhân vật chính. Hớn Minh vì có lòng hiệp nghĩa lại là con người không bỏ bạn lúc

gian khó nên chàng chẳng những được minh oan mà lại còn được vua phong là phó

tướng đi giệt giặc; Vương Tử Trực không vì phú quý mà làm chuyện đi ngược với đạo

lý bạn bè nên chàng cũng được an hưởng vinh hoa sau này; Tiểu đồng vì trung thành

với chủ về sau cũng được giàu sang, Kim Liên thì được làm hoàng hậu bên Phiên

quốc; những ông Ngư, ông Tiều, ông Quán, bà lão cũng được phú quý.

Đó là số phận của những nhân vật chính diện còn những con người sống bất

nhân, bất nghĩa cũng nhận được kết thúc cho riêng mình. Trịnh Hâm xô bạn xuống

biển nhưng Lục Vân Tiên không nhớ thù xưa mà tha tội cho y, tuy nhiên đấng vô hình

không buông tha kẻ mang lòng phản trắc nên ngày trước hắn xô bạn xuống biển nay bị

Sóng thần nổi dậy thuyền chàng chìm ngay

Trịnh Hâm bị cá nuốt rày

(1990 - 1991)

Bùi Kiệm mang trong mình “máu dê” làm cho y không phân định đâu là lẽ

phải nên cuối cùng tự trong lòng hổ thẹn vì tật xấu của mình.

Đặc biệt gia đình họ Võ với bộ ba Võ Công, mụ Quỳnh Trang, Võ Thể Loan

cũng nhận được kết quả mà họ đáng nhận. Võ Công bị Tử Trực mắng đến nỗi mang hổ

thẹn mà chết, đáng trách nhất là mẹ con Võ Thể Loan. Khi biết được Vân Tiên đỗ

trạng cả hai lại bày mưu hàn gắn lại chuyện cũ và đổ lỗi những chuyện đã qua cho Võ

Công để mong chàng cưới Thể Loan làm vợ. Khi bị Lục Vân Tiên từ chối, lại gặp

Vương Tử Trực và Hớn Minh cười nhạo nên quay lưng về nhà nhưng chưa kịp về tới

nhà thì “Thấy hai con cọp chạy ra đón đường” (Câu 2064) bắt mẹ con nhà họ Võ “bỏ

47

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

trong hang Thương tòng”. Cả hai đã nhận lại cái mà họ đã gieo cho chàng trai đáng

thương ngày trước.

Tóm lại, song song với tư tưởng nhân nghĩa, đề cao đạo lý của dân tộc, Lục

Vân Tiên còn thể hiện tư tưởng nhân - quả, nó dựa trên nền tư tưởng của Phật giáo.

Nhưng nhân quả trong truyện rất gần với cuộc sống và ước mơ của nhân dân, không

cao siêu, huyền bí mà nó rất thực tại. Bởi trong tư tưởng Phật giáo là khổ kiếp này,

kiếp sau được hưởng hạnh phúc, còn với tác phẩm kẻ ác bị trừng trị đích đáng và một

kết thúc có hậu ngay sau những gian truân khổ cực cho những người hiền lành, ăn ở

ngay thẳng. Đó cũng là đạo lý sống ở đời của dân tộc ta. Truyện là bản án kết tội

những kẻ bất nhân, lòng lang dạ sói. Những con người được đời yêu quý bởi phẩm

chất sáng ngời của họ sau khi trải qua bao sóng gió, gian truân cũng được hưởng hạnh

phúc dài lâu. Tư tưởng ác giả ác báo, gieo gió gặp bão, ở hiền gặp lành đã có từ trong

dân gian, trong truyền thống cổ truyền của dân tộc nhưng được Nguyễn Đình Chiểu

đưa vào tác phẩm một cách rất sáng tạo, không gập khuôn nguyên mẫu. Ông dùng lá

cờ đạo đức Nho giáo nhưng không để bảo vệ tư tưởng của nó mà cốt để bênh vực cho

tình cha con, nghĩa vợ chồng, tình bạn bè, tinh thần trọng nghĩa khinh tài và cứu giúp

người trong cơn hoạn nạn không câu nệ. Trận đấu giữa Lục Vân Tiên và Phong Lai

chính là một minh chứng quan niệm gian tà không chiến thắng được chính nghĩa cho

dù người đại diện cho nó chiến đấu bằng vũ khí thô sơ. Cũng chính điểm tựa:

Trong cơ bĩ cực thới lai

Giữ mình cho trọn việc ai chớ sờn

(73 - 74)

mà họ vui sống qua ngày tháng vì trong tâm trí lúc nào cũng tin rằng bản thân cứ sống

theo đúng những khuôn mẫu đạo đức cho dù hiện tại bản thân gặp trở ngại thì cuối

cùng tương lai cũng trở lại tươi sáng với chính những con người biết sống vì nghĩa

nhân mà thôi.

2.3.2. Niềm tin về một xã hội phong kiến lý tưởng - vua sáng, tôi hiền

Xã hội trong truyện Lục Vân Tiên cho dù nó gần gũi với quần chúng đi nữa

nhưng cuối cùng nó cũng xuất phát từ mối quan hệ phong kiến. Vì thế cho dù thể hiện

lý tưởng, niềm tin của nhân dân thì ước mơ cuối cùng của tác giả chỉ mong có một xã

hội mà ở đó có vua sáng trị vì, quần thần là những bậc trung quân.

48

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

Ta nhớ rằng quãng đời thanh niên của cụ Đồ Chiểu là muốn đi thi đỗ đạt

mong có thể giúp ích được cho đất nước, nhưng rồi ước mơ ấy không thực hiện được

cụ đành đặt niềm hy vọng ấy vào nhân vật chính của mình là chàng trai Lục Vân Tiên.

Không ai có thể phủ nhận rằng chính chàng trai họ Lục ấy là bản sao của thầy đồ

Nguyễn, hay nói đúng hơn Lục Vân Tiên là người thay Nguyễn Đình Chiểu thực hiện

hoài bão mà thời niên thiếu cụ đã không làm được.

Như đã biết Lục Vân Tiên là tác phẩm tiêu biểu cho giai đoạn đầu trong sự

nghiệp sáng tác của cụ Đồ Chiểu, nó ra đời khi mà xã hội phong kiến đang trượt dài

trên con đường suy vong, mọi giá trị đạo đức có từ lâu đời của Việt Nam dường như

đang dần bị mất đi. Mở đầu tác phẩm ta thấy rõ rằng Nguyễn Đình Chiểu muốn một

điều cho dù trong xã hội mà “nhơn tình éo le” càng phô bày thì càng phải giữ lấy cội

nguồn của đạo lý:

Trai thời trung hiếu làm đầu

Gái thời tiết hạnh là câu trau mình

(5 - 6)

Một người thanh niên đứng trong trời đất là “Phải có danh gì với núi sông”.

Lục Vân Tiên là một thanh niên mang đầy đủ những gì là tốt đẹp nhất của một học trò

Nho giáo. Chàng trai ấy là một người con chí hiếu nhưng cũng không quên bổn phận

với đất nước. Chính vì muốn thực hiện hoài bão giúp đời nên từ bé Tiên đã theo thầy

ngày đêm khổ luyện để mong lập được chút công danh sự nghiệp. Chàng lên kinh đi

thi lần thứ nhất không thành, tiếp tục lần thứ hai chàng đã thành công trở thành quốc

trạng. Sau khi thành trạng nguyên của nước Sở việc đầu tiên chàng làm không phải là

nghỉ ngơi sau bao sóng gió mà là đi diệt giặc cứu nguy cho đất nước. Không ai phủ

nhận các nhân vật chính diện trong Lục Vân Tiên là miêu tả một thế giới nhân vật với

những con người trung quân, ái quốc nhưng chữ trung ở đây không có nghĩa là vô

điều kiện. Nó chỉ thật sự được thực hiện khi người trị vì là một minh quân.

Trong truyện có lúc nhân vật chính đã chấp nhận lấy chữ trung làm đầu

nhưng cuối cùng nó cũng nhường lại vị trí cho những chữ khác tồn tại. Hành động

Kiều Nguyệt Nga nhảy xuống sông tự tận là một minh chứng cho việc làm đi ngược

lại với chữ trung. Lệnh vua ban ra buộc nàng phải sang cống Phiên để mong giữ bình

an cho cha già, nhưng trên đường đi chữ tiết và tình cảm mà Nguyệt Nga giành cho

49

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

Vân Tiên đã lấn át hết lý trí cùng với trái tim người con gái ấy. Thế là trong giây phút

bốn bề vắng lặng nàng đã nhảy xuống biển tự tận mong giữ tròn chữ thủy chung với

chồng. Lúc này không ai có thể nói rằng Kiều Nguyệt Nga đã hy sinh thân mình để

đền ơn chúa.

Dù biết rằng trong xã hội phong kiến vua là bậc chí tôn không ai dám xúc

phạm. Nếu như gặp phải hôn quân thì người dân chỉ biết trách than một cách kín đáo

chứ không dám bình phẩm một cách công khai. Tuy nhiên trong tác phẩm này Nguyễn

Đình Chiểu đã cho phép nhân vật của mình bình giá về các vị hôn quân, bạo chúa. Lời

ông Quán hay chính là lời của cụ khi chứng kiến biết bao cảnh ngang trái do những tên

vua khiếp nhược gây ra. Những người ông Quán ghét không ai khác chính là những

tên vua nổi tiếng là bất tài, vô dụng trong lịch sử Trung Hoa như Kiệt, Trụ, U, Lệ…

Những nhân vật mà ông ghét không xa lạ với chúng ta, lời ông đã thay mặt biết bao

con người đã và đang chịu dày vò bởi người trị vì. Nhưng suy cho cùng qua những lời

ghét đó cũng chính là ước mơ của ông Quán hay đúng hơn là bản thân Nguyễn Đình

Chiểu về một xã hội phong kiến tốt đẹp, ở nơi đó sẽ do một minh quân trị vị, và được

sự trợ giúp của những bậc tôi trung.

Lục Vân Tiên sau khi được sáng mắt trở lại đã ra tay cứu đất nước khỏi nạn

ngoại xâm, những người bạn của chàng là bậc tướng tài. Tất cả họ đã được vua Sở

trọng dụng, cho dù có lúc vị vua này nghe theo lời xu nịnh của gian thần. Lời thú tội

về sai lầm của vua cũng chính là tư tưởng Nho giáo đang tồn tại trong con người tác

giả nhưng không vì thế mà niềm tin về xã hội phong kiến lý tưởng bị ảnh hưởng.

Nguyễn Đình Chiểu đang muốn cho ông vua của mình tự nhận ra sai lầm để từ đó ngài

biết cách trị vì, biết trọng dụng người tài. Cũng chính điểm này đã biến một tên vua

khiếp nhược trở thành một vị minh quân. Ngài đã làm những việc vừa lòng dân chúng

như: xóa tội cho Hớn Minh rồi phong cho chàng là phó tướng đi diệt giặc; cách chức

Thái sư - tên gian thần làm hại triều đình, nhiễu dân; giao tên bạo thần Trịnh Hâm lại

cho Lục Vân Tiên để chàng xử tội hắn; sắc phong cho Nguyệt Nga là quận chúa và

phục lại quan quyền cho Kiều Công… Tất cả hành động ấy của vua không chỉ là đền

bù lại lỗi lầm mà ngài gây ra mà còn chứng minh được bản chất một vị minh quân biết

phân xử một cách công bằng nhằm làm cho quần thần cũng như nhân dân tin yêu.

50

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

Mặc dù trong thực tế cuối cùng xã hội Việt Nam cũng không có nhiều minh

quân như vua Nghiêu, vua Thuấn nhưng tận sâu trong mong ước của cụ Đồ Chiểu

cũng đang trông chờ một vị vua có thể đứng ra ổn định xã tắc, biết trọng dụng những

bậc tài danh như Lục Vân Tiên, Hớn Minh hay Vương Tử Trực. Nếu cho rằng cách

giải quyết này của cụ có vẻ thiên về bậc minh quân thì cũng không có gì là sai, bởi

nguyên nhân là do Nguyễn Đình Chiểu lớn lên và trưởng thành trong môi trường

phong kiến, nó đã thấm sâu vào cách sống, cách nghĩ của người dân ta nhưng suy cho

cùng ở tư tưởng của cụ đã có nhiều tiến bộ hơn so với thế hệ trước. Ở cụ chữ trung

không có nghĩa chỉ phục vụ vua mà là những gì có lợi cho dân, cho nước thì bất cứ ai

cũng có thể làm được. Cũng chính điều đó góp phần làm thay đổi niềm tin về xã hội

phong kiến lý tưởng. Nếu lúc trước vua là bạo chúa thì thần cũng không dám cãi lại

mà tuân theo một cách nhất nhất, ngược lại không tuân theo sẽ bị khép vào tội khi

quân và chắc chắn họ cùng gia đình không tránh khỏi tội chết. Còn ở Nguyễn Đình

Chiểu thì ngược lại, tướng tài chỉ có thể phục vụ cho minh quân nếu vua đấy không

biết nghĩ đến xã tắc thì khó mà tướng theo cho được. Đấy cũng chính là tư tưởng hay

niềm tin của cụ dành cho xã hội mà mình đang sống, ước mơ của cụ chỉ đơn giản là có

một xã hội người trị vì là minh quân, quần thần là bậc tôi hiền.

51

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

CHƯƠNG 3

ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC TRUYỆN THƠ LỤC VÂN TIÊN

Có nhiều ý kiến cho rằng Lục Vân Tiên chỉ thật sự hấp dẫn đối với bao thế hệ độc

giả là do nó có nội dung đặc sắc. Nhận định này hoàn toàn không sai nhưng nếu nói

như thế cũng đồng nghĩa với ý kiến rằng truyện thơ không có phần nghệ thuật thu hút

độc giả. Và lúc đó có vẻ như chúng ta chưa thật sự hiểu hết giá trị của tác phẩm đem

lại. Đúng là nghệ thuật của Lục Vân Tiên còn nhiều điều cần phải bàn nhưng những

giá trị hình thức mà tác phẩm mang lại không nhỏ so với nội dung. Việc cần làm là cần

nhìn nhận đúng và khách quan về nghệ thuật của Lục Vân Tiên.

3.1. Sự kết hợp nhiều hình thức ngôn ngữ

Điều đáng ghi nhận của cụ Đồ Chiểu trong Lục Vân Tiên chính là ngôn ngữ của

truyện. Trong tác phẩm cụ đã vận dụng và kết hợp nhiều yếu tố khác nhau nhằm làm

cho truyện có sự phong phú nhưng không kém phần hấp dẫn với người đọc. Cái hay

của Nguyễn Đình Chiểu là không gập khuôn theo một khuôn mẫu nào mà vận dụng

một cách sáng tạo, cộng với việc kết hợp tài tình của nhiều yếu tố ngôn ngữ đã làm

cho truyện được nhiều tầng lớp nhân dân yêu thích.

3.1.1. Ngôn ngữ bình dân

Lục Vân Tiên được tác giả viết ra nhằm mục đích giáo huấn, răn đời chứ

không phải sáng tác để giải trí, tiêu khiển. Chính vì vậy mà Nguyễn Đình Chiểu sử

dụng trong tác phẩm của mình những từ ngữ đại chúng, bình dân, dễ đi vào lòng

người. Qua một hệ thống từ như: thuyền, chìm, cá nuốt, giữa dòng, hai tám, lao đao,

đà, đục trong, mây trời, nên hư, nguồn cơn, chẳng phen, hai bảy, thang mây, dồi, đó,

đăng, chớ nghi, … người đọc dễ dàng nhận ra những gì tác giả muốn truyền tải trong

tác phẩm, từng câu, từng ý nhỏ một phần do cụ biết dùng từ ngữ phù hợp với mục đích

kể của mình.

Cho dù sử dụng nhiều ngôn ngữ bình dân vào Lục Vân Tiên nhưng không vì

thế làm cho tác phẩm của mình mất đi giá trị giáo dục đạo đức mà ngược lại nhờ vào

ngôn từ giản dị, mộc mạc mà người đọc có thể hiểu ngay tức khắc những vấn đề tác

giả muốn truyền tải. Chẳng hạn qua lời xưng hô của Kiều Nguyệt Nga với Kim Liên ta

52

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

dễ dàng nhận thấy mối quan hệ của hai người không đơn giản là chủ với tớ mà nó

giống như của một người chị và một người em:

Thôi thôi em hỡi Kim Liên!

Ðẩy xe cho chị qua miền Hà Khê.

(47 - 48)

Nó nghe sao quá thiết tha, đáng nhẽ một người chủ có quyền ra lệnh cho tì

tất của mình làm việc chứ việc gì Nguyệt Nga phải tha thiết như thế. Câu thơ ấy không

phải ra lệnh mà là nài nỉ, mang luôn cả nỗi niềm tâm sự trong đó. Từ cách xưng hô này

chứng minh được tình cảm của hai người thân thiết như chị em và cũng giải thích được

tại sao Kim Liên dễ dàng thay Nguyệt Nga sang cống Hồ.

Vì sáng tác trong điều kiện đặc biệt nên có lúc từ ngữ trong Lục Vân Tiên có

khi bị vụng về, không trau chuốt nhưng cũng chính điều này làm cho tác phẩm có sức

sống lâu bền trong quần chúng nhân dân. Bởi vì những con người lao động chân tay ấy

dễ dàng thấu hiểu được những gì mà tác giả truyền đạt qua ngôn từ của mình. Thử hỏi

nếu như tác giả dùng một hệ thống ngôn ngữ trừu tượng, khó hiểu thì có lẽ sức sống

của tác phẩm trong nhân dân lao động không lâu như thế cho dù đề tài cũng vẫn không

thay đổi.

3.1.2. Ngôn ngữ bác học

Mặc dù ngôn ngữ chính của Nguyễn Đình Chiểu sử dụng trong tác phẩm

Lục Vân Tiên mang tính bình dân. Nhưng vốn xuất thân từ tầng lớp Nho giáo, từ nhỏ

những lời ăn tiếng nói của những người theo học dưới “cửa Khổng sân Trình” đã

thấm vào con người Nguyễn Đình Chiểu. Bởi vậy trong tác phẩm ông sử dụng khá

nhiều từ ngữ bác học vì cuối cùng thì Lục Vân Tiên được viết dựa trên nền tảng đạo

đức Nho giáo là chính.

Một hệ thống từ Hán đã được tác giả sử dụng cách xưng hô của vua, quan,

mối quan hệ vợ chồng, thầy trò, bạn bè, chủ tớ như: trẫm, nàng, chàng, thiếp, quân tử,

bằng hữu, tiểu sanh, tôn sư… Chính những từ này làm cho mối quan hệ của các nhân

vật có vẻ trang trọng, đượm màu sắc phong kiến. Đồng thời qua ngôn ngữ bác học

chúng ta biết được xuất thân và nghề nghiệp từng con người trong tác phẩm. Ngoài ra,

dùng những từ ngữ bác học Nguyễn Đình Chiểu còn muốn thể hiện quan điểm sống,

53

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

khuyên con người biết nhân nghĩa, đạo đức không làm điều sai chẳng hạn như: điểm

phấn, ngãi sâu, hoạn nạn, thác đà, bia danh...

Hay khi nói lên quan điểm sống của đấng nam nhi trong xã hội, cụ đã dùng:

Làm trai ơn nước nợ nhà

Thảo cha ngay chúa mới là tài danh.

(1765 - 1766)

Hệ thống từ bác học hay đúng hơn là những từ Hán được Nguyễn Đình

Chiểu sử dụng một cách thuần phục. Ông đã cố gắng làm chuyển đổi ngôn ngữ đó

sang những từ ngữ thuần Việt dễ hiểu, nhằm làm cho người nghe không có cảm giác

khô cứng khi đọc tới những đoạn triết lý, hoặc là khi nói về các vị vua bên Trung Hoa,

những vị thần linh.

Hệ thống từ bác học như: trau mình, cửa Thánh, sân Trình, hội long vân,

khoa tràng, danh tánh, tánh tự, đại khoa, ngãi tế, nhạc gia, cốt cách, Nam giản, tiểu

nhi… để miêu tả xuất thân, chức năng của nhân vật hay tính tình cũng chính là mục

đích của cụ Đồ Chiểu. Qua đó ta nhận thấy được sự tôn trọng của tác giả đối với

những nhân vật đó. Chẳng hạn, khi nói đến thầy dạy học của Lục Vân Tiên, ông có thể

dùng ngắn ngọn một từ thầy nhưng Nguyễn Đình Chiểu đã thay bằng cách gọi đầy sự

kính trọng đó là “tôn sư”. Hai từ ấy xuất hiện tới 6 lần chỉ trong 60 câu thơ đầu của

truyện đã chứng minh được sự tôn kính của tác giả đối với thầy. Có lẽ trong cuộc đời

của cụ cũng đã từng gặp một người dạy mình giống như thầy của Lục Vân Tiên.

Cho dù dùng ngôn ngữ chính là bình dân nhưng nếu cần ông cũng vẫn sử

dụng một hệ thống từ bác học để làm cho tác phẩm vừa mang tính đại chúng nhưng

cũng không mất đi vẻ nho phong của nó. Điều đó chứng minh được sự tài tình của tác

giả trong việc sử dụng ngôn ngữ nào phù hợp trong mọi hoàn cảnh. Những đoạn cần từ

bình dân thì ông sử dụng loại từ đó, chỗ nào cần ngôn ngữ uyên thâm, bác học thì sử

dụng ngôn ngữ mang tính chất trang trọng này. Bởi vậy Lục Vân Tiên làm cho người

đọc, người nghe vừa cảm thấy giản dị, đơn giản nhưng tính nho nhã vẫn không mất đi.

3.1.3. Ngôn ngữ địa phương

Ngôn ngữ địa phương được hiểu: “là những từ ngữ dùng hạn chế ở một

hoặc một vài địa phương. Nói chung từ địa phương là bộ phận từ vựng của con người,

tiếng nói hàng ngày của bộ phận nào đó của dân tộc chứ không phải là từ vựng của

54

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

ngôn ngữ văn học. Khi dùng sách báo nghệ thuật, các từ địa phương thường mang sắc

thái tu từ: diễn tả lại đặc điểm của địa phương, đặc điểm của nhân vật” [14;14].

Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng một hệ thống ngôn ngữ địa phương đa dạng trong

truyện thơ Lục Vân Tiên để thực hiện mục đích giáo huấn của mình.

Tác phẩm được xem như kho từ điển của ngôn ngữ địa phương. Hầu như

Nguyễn Đình Chiểu vận dụng tất cả sự am hiểu của mình về vốn từ này vào trong tác

phẩm. Những lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân lao động từ miền Trung trở

vào Nam ông đã đem vào Lục Vân Tiên. Người đọc nhận thấy những lời ăn tiếng nói

ấy trong tác phẩm làm cho họ càng thêm yêu quý cụ hơn. Không phủ nhận một điều

rằng, với lớp từ vựng địa phương làm cho các điển tích mà Nguyễn Đình Chiểu sử

dụng không có vẻ khô cứng mà nó trở nên dễ nghe và sức thuyết phục được tăng lên.

Hàng loạt từ ngữ dân gian trong lời ăn tiếng nói Nam Bộ và xứ Huế được cụ

đưa vào trong tác phẩm như: lướt dặm, nhắm kiểng, thưa việc, trở việc, bôn chôn, bịn

rịn, bĩ bàng, bậu, qua, mặt như sề thịt trâu, ê hề, tầm phào, vắng hoe, hỏi phăn, mưa

tro, quày quả, đổ thừa, ni… nhằm tạo ra tính giao thoa của ngôn ngữ hai vùng miền, từ

đó góp phần làm giàu thêm ngôn ngữ của dân tộc. Những từ ngữ ấy không có gì lạ so

với ngôn ngữ của đời sống nhưng khi đưa vào câu thơ lục bát nó đã góp một phần giá

trị nghệ thuật đồng thời tôn lên vẻ đẹp của ngôn ngữ dân gian.

Trong Lục Vân Tiên ta thấy xuất hiện một lớp từ vựng có những biến âm so

với sự phát âm của lớp từ vựng nói chung. Những biến âm đó là do người Nam Bộ có

xu hướng muốn đơn giản hóa hướng phát âm: sanh, nầy, nhơn, chơn, nhứt, lằng

nhằng, Hớn, biêu, bịnh, bổn, bực, bửu, Châu, chưn, đàng, lạng, phang, phụng, phước,

dưng, tòng, vô, chi, thỉ chung, chánh…

Sở dĩ có hiện tượng như thế là do Lục Vân Tiên, được nhân dân truyền

miệng mà lưu lại, cho nên có hiện tượng biến âm như thế có thể nghĩ là do người kể,

người sao chép, người đọc đã theo cách phát âm phương ngữ. Cho dù hiện tại trên văn

bản và trong nhận thức những từ nhơn, bịnh, chánh… theo đúng chuẩn Tiếng Việt là

nhân, bệnh, chính… “Lại có thể nghĩ rằng trong phong cách thơ và vần, thì đối với

nhân dân cả nước, thuộc các phương ngữ khác nhau, sự đối lập của những vần như -

ang/ - ương, -inh/- ênh, - anh/- inh, - ơn/- ân…đều trở thành trung hòa, trong khuôn

khổ của chuẩn về vần điệu, nhất là trên văn bản viết”[39;647].

55

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

Ta còn thấy xuất hiện một dạng đặc biệt trong tác phẩm, đó chính là những

từ láy có tư cách ngữ pháp là động từ, phó từ thường quen dùng ở Nam Bộ: bĩ bàng,

chàng ràng, ê hề, lo lừa, no nao, nhộn nhàng, trớ trinh… Những danh từ cụ thể, động

từ, tính từ có sự đối lập giữa các địa phương: be / mạn thuyền, vùa (hương) / bát

(hương), cọp / hổ, ve / lọ, trái / quả, phồn / phường, mưa tro / mưa bụi, hối / giục, đau

/ ốm, kêu / gọi, dè / ngờ, quái / treo, đổ thừa / vu vạ, giỡn / đùa, vầy lửa / nhóm lửa, dơ

/ bẩn, đui / mù… Chúng là hệ thống từ mang đậm tính chất địa phương trong ngôn

ngữ. Để hiểu rõ các từ này cần phải có sự đối chiếu giữa các phương ngữ và đặc biệt

với chuẩn Tiếng Việt.

Nếu Truyện Kiều của Nguyễn Du ra đời ở vùng miền Trung nhưng trong đó

không có gì mang màu sắc của phương ngữ vùng đó thì Lục Vân Tiên lại chứa trong

mình một lượng từ vựng đáng kể của phương ngữ. Người đọc dễ dàng nhận thấy,

Nguyễn Đình Chiểu lựa chọn từ ngữ “gần như là điều tự nhiên đối với những từ rất

gắn bó với cuộc sống của bà con” [39;646] miền Nam. Nhân dân nơi đây yêu mến tác

phẩm không phải chỉ do phương ngữ tạo ra song vốn từ địa phương này có một vai trò

quan trọng và nhất định trong việc tạo ra sự yêu thích này. Đồng thời ngôn ngữ địa

phương cũng là một yếu tố tạo nên giá trị hiện thực cho tác phẩm.

3.2. Một số phương diện nghệ thuật xây dựng nhân vật

Nếu nói rằng tính chất phổ biến của Lục Vân Tiên là khá rộng rãi nhưng khi

đem so giá trị nghệ thuật của nó với Truyện Kiều thì ít nhiều có những sự chênh lệch

khá lớn. Nguyễn Đình Chiểu không tinh tế trong miêu tả tâm lý nhân vật như Nguyễn

Du, không chú ý nhiều đến việc miêu tả ngoại hình mà chỉ tập trung khắc họa lên hành

động của nhân vật. Đứng ở gốc độ khách quan mà nhận xét thì điều này không sai.

Nhưng sai lầm của nhiều nhà nghiên cứu ở chỗ họ đã dùng một thước đo, một tiêu

chuẩn không phù hợp để đánh giá Nguyễn Đình Chiểu trong lĩnh vực nghệ thuật. Bởi

điều đơn giản, Lục Vân Tiên không chú trọng vào việc miêu tả tâm lý nhân vật là do

tính chất của tác phẩm được xây dựng nhằm vào mục đích giáo huấn, đấu tranh chống

lại những bất công, bất nghĩa trong xã hội. Thật ra ở phương diện xây dựng nhân vật,

Nguyễn Đình Chiểu cũng đạt được những thành công nhất định. Và với cách lựa chọn

đó càng khắc họa lên nội dung đấu tranh của tác phẩm, đặc biệt những nhân vật được

xây dựng trong tác phẩm rất giống với con người Nam Bộ.

56

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

3.2.1. Ngoại hình

Văn chương trung đại khi miêu tả thường dùng những tính chất ước lệ,

tượng trưng nhưng Đồ Chiểu chỉ lột tả nhân vật qua ngoại hình bằng vài chi tiết.

Chẳng hạn khi miêu tả người con gái có dung nhan khiến bao người say đắm, đến nỗi

phải đi cống Hồ, thế mà Nguyễn Đình Chiểu lại mượn lời của một kẻ thường dân để ca

ngợi một cách lướt qua:

Con ai vóc ngọc mình vàng,

Má đào mày liễu, dung nhan lạnh lùng.

(109 - 110)

Còn đối với nhân vật Lục Vân Tiên, ông giới thiệu qua loa:

Mày tằm, mắt phụng, môi son,

Mười phân cốt cách, vuông tròn mười phân.

(349 - 350)

Hớn Minh thì:

Xa xem mặt mũi đen sì,

Mình cao đồ sộ dị kỳ rất hung.

(291 - 292)

Và tên Bùi Kiệm - một trong số những nhân vật phản diện cũng được tác giả

miêu tả chỉ bằng vài chi tiết nhỏ: “Họ Bùi tên Kiệm tác chừng đôi mươi”.(Câu 444)

Nói tóm lại, ở Lục Vân Tiên có rất ít câu thơ dành cho việc miêu tả ngoại

hình. Các nhân vật của ông chỉ hiện ra với cái tài, tinh thần chính nghĩa chứ không

bằng những nét họa ngòi bút. Điều này cũng dễ hiểu đối với Nguyễn Đình Chiểu. Nhà

thơ sáng tác trong hoàn cảnh hai mắt bị mù, không có điều kiện để chăm chút việc

miêu tả ngoại hình. Mặt khác, điều cốt lõi trong sáng tác là ông xây dựng một hệ thống

nhân vật biết chiến đấu vì đạo đức, cho nên việc tập trung miêu tả bên ngoài chỉ là một

điều không cần thiết. Người miền Nam rất chuộng nhân cách chứ không phải vẻ ngoài

hào nhoáng của họ. Dường như hiểu được điều quan trọng đó nên ông cho nhân vật

của mình hiện lên bằng hành động, bằng nhân cách chứ không bằng vẻ đẹp ngoại hình.

Mỗi một tác phẩm được xây dựng nên nhằm vào một mục đích cụ thể và tùy

vào đó mà tác giả lựa chọn cách xây dựng nhân vật như thế nào cho phù hợp. Ở

Truyện Kiều là tiếng ca ai oán về số phận người phụ nữ có tài sắc nhưng bạc mệnh thì 57

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

việc Nguyễn Du tập trung miêu tả tỉ mỉ ngoại hình của nhân vật là điều tất nhiên, nếu

như ông chỉ miêu tả qua loa thì đâu làm nổi bật lên số phận chua chát của nàng Kiều

bất hạnh. Còn trong Lục Vân Tiên tác giả không tập trung miêu tả ngoại hình của các

nhân vật chính cũng không phải vô lý. Nhân vật trong đó phải hành động vì chính

nghĩa, có nhiệm vụ làm sáng tỏ chân lý thì việc tập trung phác họa bề ngoài thiết nghĩ

không cần thiết. Mà Nguyễn Đình Chiểu muốn cho nhân vật của mình hiện lên qua

tính cách, hành động. Chính điều này làm cho Lục Vân Tiên có một nét riêng của nó

mà không tác phẩm truyện Nôm nào có được.

3.2.2. Tính cách

Do xây dựng tác phẩm theo mục đích giáo huấn cho nên các nhân vật của

Nguyễn Đinh Chiểu được xây dựng trên nguyên tắc: “con người bất biến về tính

cách”[27;63]. Họ cố định về tính cách từ đầu đến cuối, không có điều kiện tác động từ

bên ngoài nào có thể làm thay đổi tính cách của nhân vật: chàng Lục Vân Tiên là con

người trung trực, quả cảm, có lòng hiệp nghĩa; nàng Nguyệt Nga nhân hậu, thủy

chung; Tiểu đồng trung thành, tận tụy với chủ; Vương Tử Trực, Hớn Minh hết lòng vì

bạn, không sợ cường quyền; những kẻ ăn ở hai lòng, sống lọc lừa, phản trắc như Trịnh

Hâm, gia đình họ Võ, Bùi Kiệm. Nếu trong tiểu thuyết hiện đại, các tính cách có thể bị

thay đổi bởi hoàn cảnh thì trong truyện của Nguyễn Đình Chiểu điều đó không xảy ra.

Nhân vật chính của chúng ta là Lục Vân Tiên, từ đầu chàng đã bộc lộ tinh

thần hiệp nghĩa, phủ nhận mọi sự đền đáp. Khi được Nguyệt Nga tỏ ý đáp tạ cái ơn

cứu giúp giữa đường, chàng liền:

Vân Tiên nghe nói liền cười:

“Làm ơn há dễ trông người trả ơn…”

(175 - 176)

Tính cách này kéo dài đến cuối tác phẩm. Hay nàng Nguyệt Nga từ đầu đã

quyết lấy tấm chân tình để đền tạ ơn chàng thì cho dù khó khăn, vất vả vẫn “trăm năm

cho vẹn chữ tòng”.

Điều kiện để lột tả tính cách nhân vật chính là thông qua hành động chứ

không thông qua miêu tả nội tâm nhân vật. Chính vì nghệ thuật xây dựng tính cách

như thế đã giúp cho các nhân vật vượt qua được những khó khăn của hoàn cảnh mà

vẫn giữ được vẻ đẹp vốn có của họ. Tính cương trực, không sợ uy quyền đã giúp cho

58

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

Tử Trực vượt lên những cám dỗ thấp hèn để giữ mãi tình bạn đối với Vân Tiên. Sự

nhân hậu, thủy chung giúp cho Nguyệt Nga ngã xuống rồi lại đứng lên sau bao nhiêu

giông bão của cuộc đời. Lòng nghĩa hiệp, tinh thần vượt khó đã cho Vân Tiên từ chỗ

bóng đêm của cuộc đời bước lên vũ đài của sự vinh quang. Sự tin tưởng vào công

bằng, cũng như không sợ cường quyền đã giúp Hớn Minh trụ mãi cho đến ngày được

minh oan. Và còn rất nhiều điều tạo nên tương lai tươi sáng cho các nhân vật chính khi

họ có một phẩm chất bất biến từ đầu đến cuối. Nếu ở nhân vật chính diện tính cách

không thay đổi làm nổi bật lên nét đẹp trong tâm hồn họ thì ở những con người phản

diện điều này chính là liều thuốc giết chết nhân cách của họ. Sự tráo trở tồn tại vĩnh

hằng trong con người mụ Quỳnh Trang đặc biệt là Võ Thể Loan nên hai mẹ con ả đã

nhận lãnh hậu quả đáng có. Hắt hủi khi chồng rơi vào hoàn cảnh bi đát nhưng đến khi

con người ấy được vinh hiển, làm trạng nguyên thì lại lật lộng, đổ hết mọi tội lỗi lên

người cha đã mất của mình, đó không phải ai khác chính là Võ Thể Loan. Từ đầu đến

cuối câu chuyện con người ấy không hề thay đổi tính tình của mình, không nhận thấy

sai lầm trong cách sống mà vẫn ngoan cố đi theo những cám dỗ của danh lợi để phải

nhận lấy cái kết thúc trong hang Thương Tòng.

Tóm lại, chính bởi do xây dựng nhân vật bất biến về tính cách nên Nguyễn

Đình Chiểu mới thành công trong việc đề cao nhân nghĩa, đạo đức. Ông muốn xây

dựng nên đội ngũ nhân vật chính diện biết vượt qua mọi trở ngại của cuộc sống để giữ

cho mình nhân cách trong sạch vốn có. Cũng bởi vậy các nhân vật trong Lục Vân Tiên

không khác gì nhân dân miền Nam biết kiên cường chống lại những tác động không

mong muốn từ bên ngoài để xây dựng cho mình một cuộc sống ổn định dài lâu. Và

những ai không biết đấu tranh chống lại nó thì sẽ bị đào thải bởi xã hội không chấp

nhận những con người cuối đầu trước số phận.

3.2.3. Hành động

“Cái đặc sắc của Lục Vân Tiên là tính chất hành động của nó rất phong

phú. Lục Vân Tiên không có, hay có rất ít những đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật

giống như trong Truyện Kiều; nhà thơ cũng không mấy khi trực tiếp mổ xẻ tính cách

nhân vật, hay có những đoạn phát biểu có tính chất trữ tình ngoại đề giúp người đọc

hiểu sâu hơn hoàn cảnh hoặc tâm trạng của nhân vật, nhưng không phải vì vậy mà

tính cách và cá tính của nhân vật bị mờ nhạt. Trái lại, chính thông qua hành động của

59

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

nhân vật, Nguyễn Đình Chiểu đã đạt được kết quả ấy một cách xuất sắc”[39;325].

Ông luôn cho các nhân vật của mình vào hành động, vì thế sự xuất hiện của

các động từ, nhóm động từ hoặc những tập hợp từ tương đương để miêu tả là không

nhỏ. Những động từ được dùng kết hợp với những từ phụ như: liền, ngay, thẳng tới,

tức thì…làm cho hành động của nhân vật trở nên dứt khoát, mau lẹ, mạnh mẽ. “Đồng

thời cũng tạo nên được nhịp điệu gấp gáp, khẩn trương trong thơ và tạo nên một thời

gian nghệ thuật chuyển động nhanh trong tác phẩm” [7;426]. Nguyễn Đình Chiểu

không cho Vân Tiên suy nghĩ nhiều khi nhận được thơ nhà cho hay mẹ mất, không cho

chàng phân vân giữa việc tiếp tục thi hay về chịu tang mẹ mà cụ đã cho nhân vật của

mình về làm nhiệm vụ người con. Thử hỏi nếu như ở đoạn đó tác giả miêu tả tâm trạng

ở hay về của Tiên thật nhiều thì tin chắc rằng tấm gương hiếu thảo của chàng không có

gì đặc sắc. Một con người có tạo nên tên tuổi cho mình hay không phù thuộc rất nhiều

vào hành động. Chẳng hạn khi biết được có bọn cướp làm hại người dân lương thiện,

chàng liền xông pha giải nguy cho dân làng, sau đó được đền ơn nhưng Tiên đã từ

chối. Ra tay giúp đỡ, được đền ơn nhưng liền từ chối tất cả các hành động đó diễn ra

liên tục, không ngắt đoạn càng làm tôn lên vẻ quân tử của chàng trai. Hay ở người bạn

của chàng là Hớn Minh khi thấy con quan huyện ra tay làm hại gái nhà lành, liền ra tay

giải nguy cho cô gái và còn tự “Bó tay chịu trói nộp cho huyện đàng” (Câu 1164)

Đây chỉ là trong số ít nói về hành động của các nhân vật. Trong tác phẩm

các nhân vật đặc biệt là chính diện có số lần thể hiện suy nghĩ của mình qua việc làm

tương đối nhiều. Ông Ngư, ông Tiều hay bà lão không ngần ngại cứu giúp người trong

cơn khốn cùng nhưng lại không suy nghĩ lợi, hại. Ông Quán sẵn sàng mắng chửi

những tên tiểu nhân mà không sợ mất khách. Nàng Nguyệt Nga nguyện chung thủy

với Lục Vân Tiên cho dù bản thân không có chút danh phận với chàng. Tiểu đồng che

chòi giữ mả cho chủ. Kim Liên thay tiểu thơ cống Hồ…Tất cả họ tạo nên một chuỗi

hành động và những việc làm ấy bộc lộ tính chất chính nghĩa. Hành động nào càng dứt

khoát, diễn ra nhanh chóng thì chứng tỏ nhân vật đó hoàn toàn làm việc nghĩa không

hề nghĩ đến thiệt hại bản thân. Họ hành động vì phương châm sống của mình.

Khi tìm hiểu những câu thơ miêu tả hành động của các nhân vật ta còn bắt

gặp sự xuất hiện của các tổ hợp động từ liên tiếp. Trong đó có những câu thơ xuất hiện

tới bốn động từ chỉ hành động kế tiếp như: bẻ cây, làm gậy, nhắm làng, xông vô. Với

60

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

việc sử dụng như thế làm cho bình diện hoạt động của các nhân vật thêm phần đề cao

hơn.

Điều đáng chú ý trong Lục Vân Tiên là việc miêu tả hành động của các nhân

vật. Dường như nhà thơ muốn gửi cả hoài bão, ước mơ của một con người luôn khao

khát hành động nhưng số phận không cho phép cụ thực hiện nó. Từ khi theo học “cửa

Khổng sân Trình” Đồ Chiểu mong rằng mình sẽ lấy sức tài của mình mà phục vụ cho

đời nhưng số phận đã không cho phép cụ làm điều đó, cho nên không khó hiểu khi tác

giả lại xây dựng một đội ngũ nhân vật là “những con người nghĩa vụ” của thời đại. Họ

là lực lượng đại diện cho chân lý và hành động để làm sáng tỏ nó. Cho nên không thể

khác khi mà các nhân vật trong tác phẩm phải luôn thực hiện nhiệm vụ đó. Mọi tài ba,

đức độ, phẩm chất đạo đức của nhân vật được biểu hiện thông qua hành động. “Hơn

nữa, xây dựng nhân vật bằng cách nặng về miêu tả hành động cũng là một con đường

rất phù hợp với phong cách sáng tác có tính dân gian - phong cách thường thấy trong

truyện Nôm khuyết danh” [7;428]. Như đã nói Lục Vân Tiên xây dựng nên để kể, hoặc

nói cho nên người nghe buộc phải chú ý nhiều đến hành động. Người lao động Nam

Bộ hiểu hành động hơn lời nói và họ thích noi theo những việc làm chứ không phải

bằng lý thuyết.

3.2.4. Tâm trạng

Một phần tạo nên thành công của Truyện Kiều là việc tác giả khắc họa nên

một bức tranh tâm lý nhân vật nhiều màu sắc. Tuy nhiên, ta không thấy điều đó ở

Nguyễn Đình Chiểu vì cụ không chú trọng vào phân tích một trạng thái tâm lý sâu sắc

như Nguyễn Du. Những đoạn cần miêu tả tâm trạng thì ông chỉ dùng vài ba câu để xác

định nó hay nói ra cảnh ngộ, tình cảm chính trong đó. Chẳng hạn như đoạn miêu tả

Kiều Nguyệt Nga nhảy xuống sống tự tử để giữ tròn thủy chung với Vân Tiên. Có

người cho rằng Nguyễn Đình Chiểu thất bại trong việc miêu tả đoạn này. Trong

Truyện Kiều khi quyết định trao duyên cho em mình, Thúy Kiều đã có những giây

phút đấu tranh nội tâm đến tột đỉnh. Còn ở đây Kiều Nguyệt Nga phải có sự đấu tranh

giữa ba chữ trung, hiếu, tiết vậy mà nàng lại “vội vàng nhảy ngay” không có chút gì

đắn đo suy nghĩ trong đó. Thật ra nếu xét trên bình diện ngôn từ thì điều đó là đúng

nhưng hãy hiểu rằng thời gian cho nàng suy nghĩ hay đấu tranh tâm lý là không có.

Nếu như Nguyệt Nga ra đứng mạn thuyền mà còn phân vân có nên làm theo chữ trung

61

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

hay không thì việc tự trầm chắc chắn khó xảy ra. Tuy nhiên, đấu tranh nội tâm không

phải chỉ có lúc này mà dường như nàng luôn đắn đo trong việc lựa chọn hành động

nào cho phù hợp. Cuối cùng Nguyệt Nga đã chọn cái chết để giữ tròn tấm chân tình

với Lục Vân Tiên. Thật ra cái “nhảy ngay” không phải là hành động tức thời mà nó là

kết quả của một quá trình đấu tranh nội tâm lâu dài. Nếu không có quá trình đó thì tại

sao nàng không chọn cái chết từ lúc đầu mà đến lúc sắp sang Phiên mới đưa ra quyết

định đó. Vì thế càng chứng tỏ được nỗi đau lúc này đã lên đến tột độ. Và càng chứng

minh được rằng không phải Nguyễn Đình Chiểu không có miêu tả tâm lý nhân vật mà

điều đó cần có sự cảm nhận của người đọc qua ngôn từ của tác giả.

Cũng như trường hợp của Nguyệt Nga ở Vân Tiên cũng vậy. Khi hay tin mẹ

mất chàng quyết định về chịu tang mẹ lập tức, hoàn toàn không có suy nghĩ nào khác.

Có thể cho rằng Lục Vân Tiên quá nặng về tình cảm. Nhưng thử hỏi nếu như chàng

đắn đo giữa sự nghiệp và mẫu thân thì đâu còn là Vân Tiên của quần chúng lao động

nữa. Bởi người lao động miền Nam họ coi trọng tình nghĩa hơn sự nghiệp, những con

người đó sẵn sàng hy sinh vật chất phù phiếm chỉ mong sống cho trọn tình trọn nghĩa.

Tuy nhiên nói không miêu tả tâm trạng của Lục Vân Tiên lúc đó là hoàn toàn sai lầm.

Đó không phải là tâm trạng bâng khuâng mà là đau đớn khi nhận được tin mẫu thân

qua đời. Đấy là nỗi lòng của một người con khi mẹ mất không có bên cạnh để lo chu

toàn mọi việc.

Các nhân vật phụ trong khi hành động vì nghĩa lại càng không đắn đo suy

nghĩ nhiều mà thực hiện điều ấy ngay. Có thể nói những việc làm của các nhân vật

chính là yếu tố lột tả tâm trạng nhân vật trong đó. Vì bản chất của Lục Vân Tiên là

miêu tả hành động nhiều hơn nhưng xét cho cùng tâm lý của các hệ thống nhân vật

trong đó không kém phần phức tạp. Sự phức tạp đó được tác giả lột tả bằng một chuỗi

hành động cho nên không sai khi cho rằng việc làm của nhân vật chính là phương tiện

miêu tả tâm lý của họ.

3.3. Vận dụng sáng tạo một số thể loại của văn học dân gian

Lục Vân Tiên là tác phẩm của người bình dân, không ai có thể lấy nó ra khỏi vị

trí của người lao động. Điều đó được tạo nên chính vì cha đẻ của tác phẩm biết vận

dụng sáng tạo những thể loại văn học dân gian vào đứa con xuất sắc của ông. Tuy

nhiên nói như thế không đồng nghĩa với việc cho rằng tác phẩm là sự rập khuôn của

62

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

những thể loại văn học truyền thống mà ở đấy người đọc còn nhận thấy sự sáng tạo

của tác giả qua từng câu, từng chữ của tác phẩm.

3.3.1. Thành ngữ, tục ngữ

Đây là hai trong số những thể loại sáng tác dân gian truyền miệng, là những

câu nói ngắn gọn, có nhịp điệu, có hình thức bền vững, được dùng trong lời ăn, tiếng

nói hằng ngày, thường là những câu có nhiều nghĩa để bộc lộ quan điểm sống của

người dân hay đúng hơn là kinh nghiệm sống của họ. Xu hướng vận dụng thành ngữ,

tục ngữ vào trong sáng tác văn học không phải là mới của các tác giả. Tuy nhiên, dùng

nó như thế nào cho thật xuất sắc mà người đọc có thể tìm thấy cái hay trong đó là một

chuyện không phải ai cũng làm được. Nguyễn Đình Chiểu đã đem những kinh nghiệm

sống ấy vào trong Lục Vân Tiên một cách sáng tạo, những câu nói ấy rất quen thuộc

nhưng qua sự kết hợp ngôn từ của cụ thì nó trở nên nhẹ nhàng, êm dịu nhưng giá trị về

nội dung nó không mất đi.

Tục ngữ, thành ngữ trong truyện Lục Vân Tiên đặc biệt hơn so với các

truyện Nôm khác là do nó mang đậm dấu ấn Nam Bộ. Hàng trăm câu thành ngữ, tục

ngữ dân gian như: vật đổi sao dời, màn trời chiếu đất, sớm còn tối mất, phận bạc như

vôi, tiền mất tật còn… đã hòa lẫn vào những câu thơ. Hoặc có thể thấy trong tác phẩm

Lục Vân Tiên những mãnh rời của tục ngữ như Chùa rách Phật vàng, nước có nguồn

cây có cội, sống sao thác vậy, trọng nghĩa khinh tài, chuông chẳng đánh sao kêu, đèn

chẳng khêu sao rạng, vạch lá tìm sâu… Cho dù tác giả sử dụng nguyên vẹn hay những

mãnh rời thì nội dung diễn đạt của câu thơ không mất đi.

Vốn sáng tác Lục Vân Tiên để giáo huấn, răn đe nên suy cho cùng đối tượng

của cụ hướng tới cũng là những con người bình dân lao động, những người theo học

đạo đức thánh hiền và đặc biệt là một đội ngũ biết “Dữ răn việc trước, lành dè thân

sau” (Câu 4). Cho nên không khó giải thích vì sao ông lại vận dụng những câu thành

ngữ, tục ngữ ngắn gọn mà có nội dung sâu xa để đem vào tác phẩm, phục vụ đắc lực

cho nhu cầu sáng tác của mình.

Không khó khăn lắm khi chúng ta tìm những câu nói ấy trong cuộc sống

nhưng để đem vào sáng tác văn chương cho phù hợp thì không phải giản đơn. Chẳng

hạn, khi muốn thể hiện sự thủy chung, gắn bó keo sơn, và những mối quan hệ của con

người với nhau thì trong kho tàng văn học dân gian không ít. Nhưng chọn lựa phù hợp

63

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

thì lại rất khó khăn. Chẳng hạn nếu thay “báo đức thù công” hoặc “kiến ngãi bất vi”

thành những câu có ý nghĩa tương tự thì tin chắc rằng chất thơ cũng như cách diễn đạt

của các câu trên nó không trang trọng hay đúng hơn ý nghĩa người đọc khó cảm nhận

được hết ý nghĩa mà tác giả đề cập. Nội dung sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong Lục

Vân Tiên cũng khá đa dạng. Chủ yếu xoay quanh những vấn đề trong mối quan hệ của

con người với nhau. Khi chú cõng con khuyên Vân Tiên chớ mang họa vào mình đã

dùng câu “họa hổ bất thành”. Lúc ấy chẳng những cảnh báo về sức mạnh của bọn

cướp mà còn mang nội dung ca ngợi một chàng trai không sợ nguy khốn chỉ mong ra

tay nghĩa hiệp để giải cứu con người ra khỏi vòng nguy hiểm.

Một điểm đáng chú ý trong tác phẩm chính là việc tác giả sử dụng những

thành ngữ mang đậm dấu ấn của Nam Bộ: vùa hương bát nước, tu nhơn tích đức, nước

xao đầu vịt, khô lân chả phụng, dấu thỏ đường dê, dửng dừng dưng… nhằm làm ý

nghĩa của những câu thơ ấy gần với phong vị của quần chúng hơn.

Và còn rất nhiều câu thành ngữ, tục ngữ được Nguyễn Đình Chiểu vận dụng

một cách tài tình trong Lục Vân Tiên. Giống như ý nghĩa nguyên vẹn của nó nên khi

đem vào tác phẩm nó cũng không khác mấy so với lời ăn tiếng nói hàng ngày của

người bình dân. Thế nhưng khi được đưa vào câu thơ lục bát, những câu đó đọc lên rất

nhẹ nhàng, không khô khan, cứng nhắc như chân lý mà ông cha ta đúc kết nên. Vận

dụng nhưng không rập khuôn theo nguyên mẫu là cái hay, cái tài của Nguyễn Đình

Chiểu và cũng vì thế tạo nên sức sống của truyện.

3.3.2. Ca dao, dân ca

Từ xa xưa những câu ca dao, dân ca đã thấm sâu vào từng thớ thịt, xương

tủy của người dân Việt Nam. Đó là những câu hát của người bình dân, được sáng tạo

trong lao động hoặc trong những buổi sinh hoạt truyền thống. Qua những câu hát ấy ta

có dịp tiếp nhận vẻ đẹp ẩn sâu trong tâm hồn của một dân tộc. Người Việt dùng ca dao

để thổ lộ lòng mình, đấu tranh chống lại những bất công trong xã hội bởi thế ta sẽ

không bao giờ thắc mắc được vì sao một người lao động bình thường nhưng họ cũng

có thể nói những câu nghe êm tai. Và Nguyễn Đình Chiểu đã mang ca dao, dân ca vào

trong Lục Vân Tiên cũng do một phần tâm hồn ông là của một người bình dân.

Cái tài của Nguyễn Đình Chiểu chính là ở cách vận dụng thể loại văn học

dân gian này. Có lúc ông sử dụng nguyên bản một câu ca dao, dân ca làm cho lời thơ

64

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

thêm duyên dáng, nhuần nhị, ngọt ngào. Cũng giống như người dân lao động, ông đã

sử dụng ca dao để thể hiện những điều mà bản thân muốn nói trong tác phẩm. Khi đọc

Lục Vân Tiên, ta sẽ bị ngỡ ngàng và khó khăn khi có lúc không phân định được đâu là

lời thơ của tác giả với ca dao. Chẳng hạn như câu:

Người đời như bóng phù du,

Sớm còn tối mất công phu lỡ làng.

(1301 - 1302)

Như Xuân Diệu từng nhận xét về câu thơ trên: “câu này, cụ Đồ Chiểu lấy từ

ca dao đưa vào sách viết, hay dân chúng đã lấy từ sách viết ra làm ca dao?” [39;607].

Quả đúng như vậy, trong toàn bộ 2082 câu thơ lục bát của Lục Vân Tiên mà chúng tôi

khảo sát đôi lúc cũng gặp trường hợp như Xuân Diệu đề cập đến.

Bên cạnh những câu ca được sử dụng nguyên vẹn, ta còn bắt gặp một trường

hợp đặc biệt trong Lục Vân Tiên khi tác giả vận dụng ca dao trong tác phẩm của mình.

Khác với trường hợp trên, mối quan hệ của truyện với ca dao ở đây là gián tiếp,

“những văn liệu dân gian đã thấm sâu trong ký ức bật ra những âm điệu, những hình

ảnh và từ đó tác giả bổ sung, gọt giũa, cải đổi chúng thành những câu thơ diễn đạt

những ý tưởng phù hợp với các tình tiết trong truyện thơ của mình”. [27;197] Đó là

những câu lấy ý từ ca dao cổ hay mang âm điệu của những câu hát dân gian. Sự tham

gia của ca dao cổ vào tác phẩm còn đi tới một chiều sâu hơn. Giữa hàng trăm câu ca

dao lưu hành trong đời sống tinh thần của nhân dân miền Nam, có những câu rất quý:

Lên non bẻ lá họa hình,

Họa cho thấy mặt kẻo tình nhớ thương.

Tượng linh dầu rách cũng thờ,

Lỡ thì chịu lỡ cũng chờ đợi anh.

Tượng linh dầu rách cũng thờ,

Lòng thương quân tử bao giờ cho quên.

Việc xuất hiện ca dao cổ như vậy càng chứng minh sức uyên thâm của tác

giả. Ông biết vận dụng một kho kiến thức đồ sộ “từ cổ chí kim” vào tác phẩm làm cho

Lục Vân Tiên vừa tiếp thu tính hiện đại nhưng không mất đi vẻ đẹp của những câu hát

xa xưa.

65

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

Ngoài sử dụng sáng tạo những câu ca dao, tác giả còn đem vào tác phẩm của

mình một hệ thống những câu hát dân ca. Câu “Ví dầu còn nhớ tích xưa” (Câu 2035),

nghe giống như những câu hát ru quen thuộc trong dân gian mà bà và mẹ thường cất

lên khi dỗ cho con ngủ:

Ví dầu cầu ván đóng đinh

Cầu tre lắc lẻo, ghập ghềnh khó đi,

Còn ở đoạn thơ miêu tả đạo sĩ Trà Hương Thôn làm phép thì rõ ràng không

chỉ có âm điệu, mà cả nội dung của lời thơ không khác mấy với bài Thỉnh tổ - chầu

mời trong hát bóng rỗi, một hình thức diễn xướng nghi lễ ở Nam Bộ. Cũng do ảnh

hưởng như thế từ dân gian nên người lao động dễ dàng nhận thấy tiếng nói phê phán

của tác phẩm.

Ngoài ra, ảnh hưởng của diễn xướng dân gian trong truyện Lục Vân Tiên

đậm nhất, và rất dễ nhận ra thể hiện rõ rệt nhất ở cách phân truyện ra làm sáu lớp minh

bạch.

- Truyện nàng sau hãy còn lâu,

Truyện chàng xin nối thứ đầu chép ra.

(287 - 288)

- Đoạn nầy đến thứ Nguyệt Nga.(Câu 1265)

- Thứ nầy đến thứ Vân Tiên,(Câu 931)

Cách sắp đặt cốt truyện thành từng khối rõ ràng, việc kết thúc từng đoạn

nhanh gọn đã làm cho người nghe khỏi phải chờ đợi, nội dung tác phẩm cũng dễ nắm

bắt. Điều này phục vị đắc lực cho việc nói thơ hay kể Lục Vân Tiên trong sinh hoạt dân

gian.

Mặt khác, cách giới thiệu nhân vật không khác so với lối bạch lối xướng

trong tuồng, điều này phần nào phản ánh tính thẳng thắn và lai lịch xuất thân của nhân

vật

“ Ngoài ra, cũng có thể thấy dấu ấn của lời văn hát bội trong không ít câu

thơ truyện cũng như cách diễn đạt, cách biểu hiện tình cảm có khi đậm tính hành

động, tính diễn xuất - một đặc tính cơ bản của nghệ thuật sân khấu” [27;199]. Những

sự việc như: Vân Tiên nhận được thư nhà, hay tin mẹ mất, tiếp theo đó chàng liền

“Mình gieo xuống đất dật dờ hồn hoa” (Câu 554). Ông Tiều giao Lục Vân Tiên lại

66

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

cho Hớn Minh rồi từ biệt thì chàng họ “quỳ gối lạy liền”. Khi gặp lại Nguyệt Nga ở

nhà lão bà, được biết qua mọi việc thì “Vân Tiên vội vã xuống quỳ vòng tay” (Câu

1856). Những lời khoác lác của thầy lang Triệu Ngang, của thầy bói “ở đầu Tây

Viên”, của thầy pháp với Tiểu đồng làm người đọc dễ dàng nghĩ đến các trò lễ trong

những đêm diễn tuồng đồ. Hay ở đoạn Vân Tiên gặp lại Nguyệt Nga khiến ta có cảm

giác là đang xem cảnh Vân Tiên và Nguyệt Nga giãi bày tâm sự thì bên trong có tiếng

reo hò của quân lính và sân khấu đổi cảnh mới. Điều này cũng dễ hiểu bởi “từ đầu thế

kỷ XVII, XVIII đến thế kỷ XIX, thời đại của Nguyễn Đình Chiểu, hát bội rất thịnh hành

và chiếm được vị trí vững vàng trong đời sống văn hóa miền Nam. Điều đó, trong Tuy

Tỉnh tử tạp ngôn, Gia Định thành thông chí, Đại Nam nhất thống chí đều có đề cập

đến. Do đó, những yếu tố nghệ thuật gần gũi với tuồng là một trong những nhân tố

làm cho truyện thơ này phù hợp với thị hiếu đông đảo công chúng”. [27;200]

Sức ảnh hưởng của ca dao, dân ca đối với các tác phẩm của Nguyễn Đình

Chiểu nói chung và nhất là Lục Vân Tiên là không nhỏ. Ta không khó nhận thấy rằng

nhịp điệu của lời thơ trong tác phẩm nó rất gần với những câu hát ca dao. Cách tạo

dựng truyện cũng từ những loại hình sinh hoạt hát hò truyền thống. Tất cả những điểm

trên phần nào thấy được mối liên hệ mật thiết giữa tác phẩm với đời sống văn hóa

truyền thống dân gian. Và chính ở đây, truyện Lục Vân Tiên đã bộc lộ sức mạnh lớn

lao của nó. Sức ảnh hưởng và độ bền của tác phẩm trong lòng quần chúng, cũng như

trong nền văn học thời kỳ sau này là không có gì bàn cãi được.

3.3.3. Truyện cổ tích

Truyện cổ tích là loại truyện có nguồn gốc từ dân gian, được người dân lưu

giữ bằng con đường truyền miệng. Cũng giống như các truyện Nôm khác, Lục Vân

Tiên cũng kế thừa cốt truyện, kết cấu và tình tiết giống như truyện cổ tích. Nếu như

truyện Nôm bình dân lấy nguyên bản tình tiết, nhân vật để chuyển đổi thành những

câu chuyện kể bằng thơ. Tuy nhiên đối với thể loại truyện Nôm bác học, đặc biệt là

những truyện kế thừa truyện cổ tích như Lục Vân Tiên thì các chi tiết không giống

hoàn toàn nhưng các loại truyện này tiếp thu diễn biến, sự việc cũng như kết thúc của

cổ tích.

Thứ nhất về hệ thống nhân vật. Ta dễ dàng nhận thấy ở Lục Vân Tiên rất

giống truyện cổ tích khi tác giả phân tuyến thành hai thế cực nhân vật tương phản

67

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

nhau: một bên là những con người đại diện chính nghĩa, biết cư xử theo đúng mực một

con người có đạo đức, nghĩa nhân và bên còn lại là những con người phi nghĩa, nham

hiểm, độc ác, chỉ mong sao có lợi cho mình mặc dù việc ấy có liên quan đến sống chết

của đồng loại. Hàng loạt những nhân vật phiếm chỉ, không tên như ông Quán, ông

Tiều, ông Ngư, bà lão hay chú Tiểu đồng, chú cõng con… rất gần với những con

người trong truyện kể dân gian. Họ không có tên tuổi cụ thể nhưng là đội ngũ hậu

thuẫn đắc lực cho những chiến sĩ hành động vì chính nghĩa. Tuy nhiên khác với cổ tích

thế sự, số lượng nhân vật của Lục Vân Tiên lớn hơn, đa dạng và được cấu tạo theo một

chỉnh thể nhất định hơn. Cũng chính điều này làm cho tác phẩm không rập khuôn theo

cách xây dựng nhân vật và làm cho nó có vẻ riêng so với truyện cổ tích.

Thứ hai về kết thúc câu chuyện. Cũng giống như truyện cổ tích, Lục Vân

Tiên cũng kết thúc có hậu, nhân vật nào ác, có tội đều bị trừng phạt ít hay nhiều tùy

theo mức độ gây tội của mình. Chẳng hạn như Trịnh Hâm và mẹ con Võ Thể Loan đều

nhận lấy hình phạt thích đáng cho tội ác mà mình gây ra đối với Vân Tiên. Còn những

con người biết sống nhân nghĩa nhưng không mong nhận lấy sự trả ơn thì cuối cùng

cũng được vinh hoa, hãnh diện vì việc họ làm. Đặc biệt, nhân vật chính diện cũng

được toại nguyện khi cuối cùng ước mơ của họ cũng được đạt thành.

Thứ ba là tình tiết thần kỳ trong truyện cũng không khác với trong cổ tích

thế sự. Ta cũng thấy xuất hiện dáng dấp của những vị thần hiện lên đúng lúc để cứu

giúp con người qua cơn hoạn nạn. Những đấng thần linh này cũng là lực lượng giúp

đỡ đắc lực cho những con người gặp điều không may trong cuộc sống. Khi Vân Tiên

bị xô xuống biển, đang lúc sống và chết chỉ cách nhau bằng một làn mỏng manh thế là

giao long giúp chàng thoát khỏi dòng nước giữa biển khơi để ông Ngư có điều kiện

làm công việc cứu người của mình. Hay lúc chàng bị Võ Công lừa bỏ vào hang, khi

mà mọi hy vọng đã tắt thì bỗng nhiên Du thần xuất hiện và một lần nữa chàng lại được

cứu sống. Hoặc là khi Kiều Nguyệt Nga nhảy xuống biển tự tận trên đường đi cống

Hồ. Tưởng rằng nàng sẽ bị dòng nước cuốn đi nhưng đấng vô hình không cho phép

chuyện đó xảy ra nên Quan Âm chẳng những cứu nàng khỏi biển mà Phật Bà còn

khuyên giải, tạo cho nàng niềm tin để sống. Nếu như trong truyện cổ tích thì Bụt

thường là người giúp đỡ kẻ thảo ngay nhưng trong Lục Vân Tiên tất cả những ai có

khả năng đều ra tay cứu giúp người hoạn nạn qua cơn khốn cùng. Đó chỉ là vài trường

68

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

hợp tiêu biểu trong truyện khi các nhân vật được những đấng thần linh phò trợ. Bởi

trong tác phẩm có tới mười hai lần tác giả nhờ vào đấng thần linh ra tay giúp đỡ, trừng

phạt kẻ xấu. Nên nhớ rằng những kết quả mà mẹ con mụ Quỳnh Trang và Trịnh Hâm

nhận lấy không phải do bàn tay con người tạo nên mà do sự tức giận của đấng tối cao

ra tay trừng trị những tên gian manh.

Tóm lại, lực lượng thần linh và kết thúc của truyện là do Nguyễn Đình

Chiểu tiếp thu hoàn toàn của truyện cổ tích. Cách xây dựng truyện như vậy đáp ứng

nhu cầu giáo huấn và phục vụ đắc lực cho quan niệm “ở hiền gặp lành” của ông cha

ta. Những ai gây tội ác cuối cùng cũng nhận lấy hình phạt thích đáng mà họ gây ra cho

người khác. Còn những ai biết sống nhân nghĩa đều được toại nguyện về sau này. Câu

chuyện mà Nguyễn Đình Chiểu đem kể bằng thơ mang đậm tính phiêu lưu, là truyện

kể về trang nghĩa hiệp ra tay cứu giúp người hoạn nạn, chống chọi với kẻ cướp và bọn

cường quyền làm hại người dân hiền lành; đó còn là những cuộc phiêu lưu giữa núi

rừng hoang sơ, những hổ thiêng cá lớn vực thẳm hang sâu…Cùng với tình tiết và cách

xây dựng nhân vật, tác giả đã xây dựng một truyện cổ tích thời đại của mình. Khi đó

Lục Vân Tiên giống như câu chuyện cổ tích trong đời sống thường nhật, nó kết thúc để

lại ấn tượng tốt đẹp cho những ai chứng kiến.

3.4. Nghệ thuật sử dụng điển tích, điển cố

Điển tích, điển cố là những thuật ngữ miêu tả một trong những đặc trưng cơ bản

của nền văn học trung đại, nhất là văn học cổ trung đại phương Đông, trong phạm vi

các nước chịu ảnh hưởng của văn học cổ và trung đại Trung Hoa. “Dùng điển ý nói

“sai khiến” các tích cũ chuyện xưa cho thích dụng vào văn mạch của mình. Các

“điển” gồm các tình tiết đã được chép trong sử sách, kinh truyện, kể cả các tình tiết

hoang đường, hư cấu đã được viết ra trong những tác phẩm nổi tiếng thời trước”

[20;416]. Tác dụng của việc dùng điển làm cho câu văn, câu thơ trở nên cô đúc, hàm

súc, gây thú vị cho người đọc và có tính giáo dục cao. Việc dùng điển là một điều phổ

biến trong văn chương trung đại đặc biệt là các truyện thơ thì việc này trở nên bình

thường. Nguyễn Đình Chiểu đã vận dụng triệt để các điển tích, điển cố để tạo nên một

hiệu quả nghệ thuật đáng kể. Tùy vào từng đối tượng hướng tới mà cụ sử dụng các

điển tích, điển cố một cách hợp lý.

69

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

3.4.1. Điển cố mượn những câu chuyện về những nhân vật lịch sử và

các triều đại

Một loại phổ biến trong việc dùng điển của dòng văn học trung đại chính là

lấy những tấm gương của các nhân vật lịch sử và các triều đại đưa vào trong tác phẩm

nhằm nêu cao một vấn đề nào đó mà người viết muốn đề cập. Chẳng hạn, trong Lục

Vân Tiên khi tác giả đề cập đến tên hôn quân, bạo chúa làm phiền hà đến dân chúng thì

ông dùng Kiệt, Trụ, U, Lệ, và các đời Thúc Quý, Ngũ Bá. Đó đều là biểu tượng của thứ

nhiễu đòi hại dân. Lịch sử Trung Hoa đã ghi lại nỗi thống khổ của người dân khi sống

vào những thời này. Tại sao tác giả lại sử dụng hình ảnh của những vị vua này mà

không dùng tên các hôn quân, bạo chúa khác? Bởi đơn giản những tên mà Nguyễn

Đình Chiểu nêu ra ở trên là tấm gương tiêu biểu nhất cho thói hoang dâm, không lo

việc triều chính hay thích chiến tranh để phân chia đất đai. Đồng thời những tên vua

nêu trên người dân cảm thấy rất quen thuộc với họ. Điều đó cũng minh chứng rằng

việc dùng điển đạt đến hiệu quả khi tác giả là người am hiểu nó và biết cách chọn lọc

các câu chuyện phù hợp đem vào kể.

Một ví dụ nữa cho thấy sự tài tình của Nguyễn Đình Chiểu trong việc vận

dụng điển tích, điển cố. Khi thể hiện ước mơ của dân chúng có những vị minh quân,

quan hiền tài biết lo cho dân chúng thì ông dùng những cái tên Nghiêu, Thuấn, Sào

Phủ, Hứa Do, Di, Tề, ông Y, ông Phó, Thái Công, Nghiêm Lăng, Trần Đoàn... rất quen

thuộc đối với dân chúng. Họ là ước mơ của đông đảo người dân lao động khi mong

muốn cuộc sống của mình trở nên tốt đẹp hơn.

Còn các câu chuyện về bậc thánh hiền được Nguyễn Đình Chiểu vận dụng

vào trong tác phẩm cũng nằm trong mục đích giáo huấn. Đó là tấm gương của: đức

thánh nhân, thầy Nhan Tử, ông Gia Cát, thầy Đổng Tử, người Nguyên Lượng, ông

Hàn Dũ, thầy Liêm Lạc. Những cái tên của những tấm gương cho ai biết vượt qua khó

khăn trước mắt, tức thời để tạo lập nên sự nghiệp cho riêng mình. Họ rất gần với

chúng ta nên rất dễ đi vào lòng người đọc.

Khi phê phán tính bất nhân, bất nghĩa của con người, ông đả kích bằng loạt

nhân vật và sự kiện như: thói nước Tề, thói Đường Cung, nhà Tần, còn thói dâm tặc

của con người với hai đại diện Lữ Phụng Tiên và Điêu Thuyền.

70

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

Chẳng những sử dụng những câu chuyện của người xưa để thể hiện một

quan điểm sống mà Nguyễn Đình Chiểu còn dùng nó vào việc miêu tả tài trí của con

người. Nói đến sự anh dũng của Tiên, ông dùng hình ảnh “Triệu Tử phá vòng Đương

Dương”. Khi Vân Tiên một mình đối mặt với bọn cướp Phong Lai không kém phần

hung tàn lúc đấy hình ảnh của chàng cũng không khác tướng họ Triệu.

Tài làm thơ của Nguyệt Nga được tác giả sánh cũng với Tạ Nữ và Từ Phi,

hai nhân vật của đời Tần và Đường vốn có tài thông minh, làm thơ giỏi. Họ chính là

thước đo tài năng của Nguyệt Nga. Nàng là phận nữ nhi nhưng thi từ ca phú cũng

không kém một ai.

Và rất nhiều điển cố dùng hình ảnh của các nhân vật có trong lịch sử để đấu

tranh cho một vấn đề mà tác giả muốn đề cập. Nếu như hình ảnh có sẵn đó do những

nhân vật chính trực nói ra càng làm tôn lên tính cách của họ. Nhưng nếu là do Bùi

Kiệm, gia đình họ Võ hay bất kỳ ai có tính bất nghĩa thì tất cả các cái tên đấy chính là

biện minh cho tính phi nghĩa của họ. Cho nên tùy vào từng nhân vật, từng thái độ mà

điển cố thể hiện một quan điểm nào đó.

3.4.2. Điển cố mượn những dẫn chứng tích cũ, lời xưa trong thơ cổ

Trung Quốc

Theo học sách thánh hiền, bị ảnh hưởng của đạo Nho nên ít nhiều trong tác

phẩm của mình Nguyễn Đình Chiểu cũng dựa theo những tích cũ, lời xưa trong thơ

văn cổ Trung Quốc mà sáng tác. Tuy nhiên sự vận dụng của cụ không phải là rập

khuôn mà có sự chọn lọc. Những điển cố tuy nhiều nhưng nó không xa lạ với người

nghe. Tầng lớp bình dân có thể dễ dàng nhận thấy các câu chuyện mà Đồ Chiểu đem

vào trong truyện.

Hầu như các dẫn chứng về lời thơ trong văn chương Trung Quốc tác giả lấy

trong Tứ thư, Ngũ kinh. Hai quyển sách có ảnh hưởng rất lớn đối với nền văn hóa của

Việt Nam. Tuy nhiên, sự dẫn dụ đấy không dài dòng mà ngược lại được Nguyễn Đình

Chiểu đúc kết một cách cô đọng nhưng mang đầy đủ ý nghĩa của nó.

Khi nói về tình cảm cha mẹ đối với con cái ông dùng thành ngữ “chín chữ

cù lao” vốn có nguồn gốc từ trong Kinh thi: “Cửu tự cù lao”. Cái ơn này được người

xưa đúc kết thành chín chữ, gồm: Sinh, Cúc, Phủ, Súc, Trưởng, Dục, Cố, Phục, Phúc.

Đây là tâm trạng của Lục Vân Tiên khi nhớ về người mẹ quá cố của mình. Chàng luôn

71

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

kính cha, mến mẹ bởi trong tấm lòng người con đó luôn nhớ đến ơn dưỡng dục sinh

thành nó cao như trời bể.

Dùng câu “bạn cùng hươu nai” để chỉ niềm vui trong thiên nhiên, bạn cùng

với hươu nai, muông thú. Câu này tác giả để chỉ những con người giống ông Tiều.

Ông ở ẩn trong rừng núi, tưởng như mình sống lại thời Nghiêu Thuấn mà Mạnh Tử đã

tả: “Thuấn chi cư thâm sơn chi trung, dữ mộc thạch cư, dữ lộc thỉ du” (Nghĩa là: “Vua

Thuấn mà ở trong rừng núi thì ở chung với cây, đá, cùng ngao du với hươu, lợn”).

Câu nói này hoàn toàn không có ý chê hay phê phán gì ông Tiều mà ngược lại tác giả

còn tỏ ra khâm phục những con người yêu thích thiên nhiên, luôn hòa mình với những

gì là tự nhiên. Điều đó càng thể hiện sự thanh thản trong tâm hồn của con người.

Nếu nhà thơ Đỗ Phủ có viết: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy” (người thọ bảy

mươi xưa nay hiếm) thì ông đã đưa ý câu thơ này vào miệng của Bùi Kiệm để y

khuyên Nguyệt Nga chớ dại mà phí tuổi xuân, bởi không có sống lâu ở đời để hưởng

hạnh phúc.

Hoặc “bóng xế nhành dâu” được lấy lấy từ câu “tang du vãn ảnh” để chỉ

người già ánh mặt trời bị che khuất bởi một loại dâu ở phía Tây.

Còn rất nhiều điển cố chẳng hạn như: bát bửu, bảy mươi mấy mặt, bảy

người Trước Lâm, bình thủy tương phùng, cá nước gặp duyên, én hộc sánh vai, có

kinh có quyền, kiến ngãi bất vi, họa hổ bất thành, khởi phụng đằng giao, nước chảy

hoa trôi, tam bất hiếu…lấy từ những tích cũ, lời xưa trong văn chương cổ Trung Hoa.

Những hình ảnh này được cụ vận dụng một cách sáng tạo và linh hoạt nhằm làm cho

câu thơ có ý nghĩa giáo dục cao nhưng cũng đồng thời tạo ra chất nhạc êm ái cho

giọng điệu thơ. Không có hiệu quả nghệ thuật nào cao bằng việc dẫn chứng lời của

người xưa vào trong sáng tác của mình. Điều đó chẳng những nâng cao hiệu quả giáo

huấn mà còn tạo khách quan cho điều tác giả muốn đề cập. Bởi những điều đó được

truyền tụng qua nhiều đời. Và việc kế thừa trong tác phẩm Lục Vân Tiên là điều cần

thiết.

3.4.3. Điển cố mượn những địa danh trong văn chương Trung Quốc

Lục Vân Tiên lấy bối cảnh của nước Sở bên Trung Quốc vì thế những địa

danh trong tác phẩm đều xuất phát từ đây. Từ xa xưa sông Ngân, cầu Lam đã trở thành

địa điểm của những cuộc bắt đầu của các mối duyên đẹp. Riêng trong tác phẩm này

72

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

hai địa danh trên góp phần tô đậm thêm mối duyên lành của nàng Kiều Nguyệt Nga

chung thủy và chàng Lục Vân Tiên tài cao. Bởi chính mối duyên tình đẹp như vậy nên

nàng nguyện suốt cuộc đời gắn bó thủy chung với chàng cho dù một người chốn

dương trần và kẻ nơi suối vàng.

Khi miêu tả cảnh Vân Tiên và Tử Trực gặp nhau, Nguyễn Đình Chiểu lại ví

giống như “tiên tử chơi rày Bồng Lai”. Cuộc hội ngộ của hai con người tài ba tại một

nơi cảnh đẹp càng tô đậm thêm tình bạn của hai người. Tình bạn ấy được bắt đầu từ

một khung cảnh giống như tiên thì cả hai càng phải biết trân trọng nó.

Ta thấy rằng, Nguyễn Đình Chiểu dùng các địa danh có tiếng ở trên như

muốn tô đậm thêm tình cảm của con người. Đồng thời cho thấy sự hòa hợp giữa thiên

nhiên và tâm trạng con người.

Còn để diễn tả sự xa cách, mỗi người ở một nơi, hai địa danh Tấn, Tần được

tác giả nhắc đến. Khi Vân Tiên đến nhà nhắc đến chuyện hôn ước Võ Công không ngờ

sự xa cách đã không làm cho nhà họ Lục quên mất lời đính ước ngày trước. Cũng

chính điều này làm cho chữ tín của gia đình họ Lục được nâng lên, đồng thời sự phản

bội của gia đình họ Võ là không thể tha thứ.

Đến lúc nói về cuộc tình duyên trắc trở của Kiều Nguyệt Nga và Lục Vân

Tiên, Nguyễn Đình Chiểu dùng hai cái tên khá quen thuộc trong sử sách cũng như

truyền thuyết dân gian: Hán giang, Ô kiều. Hai địa danh để ám chỉ cảnh tình Nguyệt

Nga chưa gặp được Vân Tiên mà duyên tình đã lỡ, cũng giống như vợ chồng chàng

Ngưu chưa đoàn tụ trong ngày rằm tháng bảy thì cầu Ô long đã biến mất rồi. Sự so

sánh này càng làm cho sự tuyệt vọng, hối tiếc của nàng Kiều Nguyệt Nga lên đến tột

đỉnh bởi vì từ đây sẽ không bao giờ diễn ra cảnh đoàn tụ của nàng và Vân Tiên.

Trong sách Thủy kinh chú, cái tên Vũ Môn hay cửa Võ là nơi diễn ra sự kiện

cá chép hóa rồng. Từ đó cửa Vũ được dùng để chỉ trường thi, và thi đỗ gọi là vượt qua

Vũ Môn. Sự khát khao tạo lập công danh của Lục Vân Tiên và Vương Tử Trực được

Đồ Chiểu khắc họa bằng địa danh trên.

Sử dụng những địa danh quen thuộc trong thơ Trung Quốc để diễn tả một sự

việc tương tự. Nhưng ở Nguyễn Đình Chiểu điều tương tự còn được khắc họa ở một

khía cạnh khác. Có khi điều đó là khen nhưng xét về lâu dài thì địa danh góp phần phê

73

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

phán sự giả tạo, thay trắng đổi đen của con người trong xã hội. Đó chính là cái hay, cái

tiến bộ của cụ trong việc dùng điển.

3.4.4. Điển cố mượn từ Hán Việt kết hợp với từ Thuần Việt

Nền Hán học ảnh hưởng đến ta không phải nhỏ, đặc biệt là vốn từ ngữ. Một

người bình thường cũng có thể nói rất nhiều từ Hán Việt. Tuy nhiên, có nhiều người

Việt ta lại không chấp nhận một điều là dùng quá nhiều từ bên ngoài trong khi ngôn

ngữ của ta không thiếu gì. Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy, bằng cách sử dụng những

điển cố vốn xuất thân từ Trung Hoa nhưng ở một giới hạn nào đó cụ cố gắng hạn chế

việc dùng hoàn toàn từ tiếng Hán. Do đó trong Lục Vân Tiên hiện tượng các điển cố

mượn từ Hán Việt kết hợp với từ Thuần Việt đã xuất hiện. Đây có thể coi là một sự

sáng tạo của tác giả trong nghệ thuật dùng điển.

Chẳng hạn có câu: “Trúc lâm thất hiền” để chỉ sự hội ngộ của bảy hiền tài ở

rừng trúc. Thế nhưng khi Nguyễn Đình Chiểu vận dụng nó, ông đã đổi thành “bảy

người Trước Lâm”, chữ trước ở đây chính là kết quả của việc đọc trại từ trúc mà ra.

Đồng thời khi đó ông đã chuyển đổi hoàn toàn nguyên văn chữ Hán sang từ Thuần

Việt. Câu thơ chính là ý của Vân Tiên muốn làm dịu đi không khí căng thẳng trong

quán, đồng thời cũng cứu vớt phần nào danh dự cũng như sự bất tài của Bùi Kiệm và

Trịnh Hâm. Tuy rằng những con người này không giống như các vị hiền tài trong rừng

trúc nhưng đối với Vân Tiên thì chàng mong rằng cuộc hội ngộ đó cũng giống như

người xưa.

Sáng tạo trong việc sử dụng nghệ thuật là một điều rất cần thiết và với

Nguyễn Đình Chiểu ông đã cho mình thoát khỏi những từ ngữ Hán vốn có để đưa tác

phẩm cũng như những câu chuyện mà mình dẫn nhập vào có sức ảnh hưởng tốt đối với

độc giả. Sự kết hợp ấy tuy không nhiều nhưng cũng cho thấy sự cố gắng trong việc

làm giàu hơn kho tàng ngôn ngữ cho dân tộc. Nhờ vậy mà những điển cố tác giả sử

dụng mang một màu sắc hiện đại so với văn chương cùng thời.

74

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

PHẦN KẾT LUẬN

75

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

Nguyễn Đình Chiểu cùng với truyện thơ Lục Vân Tiên đã làm dịu đi bao tâm hồn

của những con người yêu văn chương cũng như góp vào kho tàng văn học Nôm của

chúng ta một báu vật quý giá.

Trước đây chúng tôi cứ thắc mắc tại sao những ông cụ, bà cụ tóc đã bạc phơ nhưng

khi cất lời thì họ lại lấy những câu thơ trong tác phẩm làm đầu đề, hoặc giáo dục con

cháu. Cho đến nay điều thắc mắc ấy vẫn còn. Thế nên khi tìm hiểu về truyện thơ Lục

Vân Tiên đã tạo cho chúng tôi một cảm giác khó tả. Và đến khi kết thúc đề tài thì mọi

điều dường như đã được giải tỏa.

Những người dân “chân lấm tay bùn” của miền Nam không yêu Lục Vân Tiên sao

được. Khi mà mọi ước mơ, tâm sự của họ đã được cụ Đồ Chiểu chuyển tải một cách

chính xác mà rất thành công. Người bình dân thích cái chính nghĩa, thương cái ngay

thẳng, lòng dạt dào tinh thần nghĩa hiệp và họ tìm thấy mình trong tác phẩm này. Một

chàng trai biết vượt lên số phận, mang trong mình dòng máu “kiến ngãi bất vi vô dũng

giả”, muốn đem tài đức ra giúp người, giúp đời, một con người sẵn sàng không nhận

bất cứ sự trả ơn nào. Hay một cô gái có dung nhan, có tài nhưng lại chan chứa một tình

yêu, sự thủy chung với người chồng mà mình nguyện suốt đời gắn bó. Hoặc những

con người bình dị nhưng luôn chan chứa tình yêu thương đồng loại, sẵn sàng cứu giúp

người qua cơn hoạn nạn. Tất cả họ tạo nên một trường ca về việc nghĩa, không màn tới

hai chữ danh lợi và là tấm gương để người miền Nam noi theo.

Một tác phẩm có sức sống lâu bền hay không trong lòng người yêu văn chương là

tùy thuộc vào việc người viết thể hiện nó như thế nào. Có thể nói những vấn đề mà

Nguyễn Đình Chiểu đề cập không có gì mới lạ nhưng cách thể hiện nó là một điều

đáng được ghi nhận. Chưa bao giờ một nhà thơ thuộc tầng lớp trí thức Nho học lại chú

trọng đến đối tượng sáng tác như vậy. Từng câu, từng chữ tác giả viết ra hình như đối

tượng chính ông hướng tới chính là những người bình dân. Từ cách xây dựng nhân vật

đến ngôn ngữ sử dụng trong tác phẩm không mới lạ so với trình độ của người nghe.

Mặc dù tác phẩm vẫn tồn tại những nhược điểm do hoàn cảnh tạo nên, nhưng Lục

Vân Tiên xứng đáng là một tác phẩm làm rạng rỡ văn học chữ Nôm của nước ta. Tác

phẩm ấy với kết thúc có hậu của mình đã ngấm sâu vào tinh thần của người dân miền

Nam từ lúc nào không ai biết. Trong những ngày cả nước đấu tranh chống lại kẻ thù

xâm lược thì Lục Vân Tiên chính là sức mạnh tinh thần để nhân dân ta tiến bước.

76

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

Phạm Văn Đồng trong bài Nguyễn Đình Chiểu ngôi sao sáng trong văn nghệ của

dân tộc, đã viết: “Phải hiểu đúng Lục Vân Tiên thì mới thấy hết giá trị của bản trường

ca này. Đúng, đây là một bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý

trọng ở đời, ca ngợi những người trung nghĩa! Tất nhiên những giá trị luân lý mà

Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi, ở thời đại chúng ta, theo quan điểm của chúng ta thì có

phần đã lỗi thời. Nhưng Nguyễn Đình Chiểu cũng như nhiều bậc hiền triết ngày xưa ở

phương Đông hoặc phương Tây, vẫn để lại cho đời sau những điều giáo huấn đáng

quý trọng”. [37;174]

77

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

TÀI LIỆU THAM KHẢO

(cid:61537) (cid:61478) (cid:61538)

1. Lại Nguyên Ân, Bùi Văn Trọng Cường - Từ điển văn học Việt Nam từ nguồn

gốc đến hết thế kỷ XIX - Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội, năm 1999.

2. Bùi Thanh Ba - Báo Tân Việt Hoa số 5354, Hà Nội, năm 1972.

3. An Cư - Đồng Nai văn tập số 15, Sài Gòn, năm 1967.

4. Hà Như Chi - Việt Nam thi văn giảng luận - Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà

Nội, năm 2000.

5. Nguyễn Văn Dần - Tạp chí văn học số 2, Hà Nội, năm 1967.

6. Xuân Diệu - Các nhà thơ cổ điển Việt Nam - Nhà xuất bản Văn học, năm 1998.

7. Ngô Viết Dinh - Đến với thơ Nguyễn Đình Chiểu - Nhà xuất bản Thanh niên,

năm 2002.

8. Văn Dương - Văn học tạp chí số 14, Sài Gòn, năm 1933.

9. Hà Minh Đức và Bùi Văn Nguyên - Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại -

Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2006.

10. Đoàn Lê Giang - Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân

tộc - Nhà xuất bản trẻ hội nghiên cứu và giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh,

năm 2001

11. Nguyễn Thạch Giang và Hà Huy Giáp - Truyện Lục Vân Tiên - Nhà xuất bản

Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, năm 1975.

12. Nguyễn Thạch Giang - Từ ngữ thơ văn Nguyễn Đình Chiểu - Nhà xuất bản

thành phố Hồ Chí Minh, năm 2000.

13. Bùi Giáng - Một vài nhận xét về Truyện Kiều, Phan Trần, Thúy Vân, Lục Vân

Tiên, Chinh Phụ ngâm, Quan Âm thị Kính, Bà huyện Thanh Quan - Nhà xuất bản Hội

nhà văn, năm 1999.

14. Nguyễn Thiện Giáp - Cơ sở ngôn ngữ học - Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà

Nội năm 1995.

15. Dương Quảng Hàm - Việt Nam văn học sử yếu - Nhà xuất bản Hội nhà văn,

năm 1996.

16. Dương Quảng Hàm - Văn học Việt Nam - Nhà xuất bản Thanh niên, năm 2010.

78

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

17. Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử - Từ điển thuật ngữ văn học - Nhà

xuất bản Giáo Dục, Hà Nội, năm 2004.

18. Phan Thị Mỹ Hằng - Giáo trình Văn học Việt Nam trung đại 3 - Trường Đại

Học Cần Thơ năm 2002.

19. Hồ Sĩ Hiệp - Tủ sách văn học trong nhà trường, Nguyễn Đình Chiểu - Nhà xuất

bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, năm 1996.

20. Đỗ Đức Hiểu - Từ điển Văn học (Bộ mới) - Nhà xuất bản Thế giới, năm 2004.

21. Hoài Thanh toàn tập (tập 2) - Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, năm 1999.

22. Đinh Gia Khánh - Điển cố Văn học - Nhà xuất bản văn học, Hà Nội, năm 2001.

23. Đặng Thanh Lê - Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm - Nhà xuất bản Khoa học

xã hội, Hà Nội, năm 1979.

24. Mai Quốc Liên - Phê bình và tranh luận văn học - Nhà xuất bản Văn Học, Hà

Nội, năm 1996.

25. Nguyễn Lộc - Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX -

Nhà xuất bản Giáo dục, năm 1997.

26. Phương Lựu - Lý luận văn học - Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, năm 1997.

27. Lục Vân Tiên Tác phẩm và lời bình - Nhà xuất bản Văn Học, năm 2008.

28. Đặng Thai Mai - Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh - Nhà xuất bản

Khoa học xã hội, năm 2003.

29. Nguyễn Phong Nam - Nguyễn Đình Chiểu từ quan điểm thi pháp học - Nhà

xuất bản Giáo dục, Hà Nội, năm 1997.

30. Nhiều tác giả - Lịch sử văn học Việt Nam (Tập 1b) - Nhà xuất bản Giáo dục, Hà

Nội, năm 1976.

31. Nhiều tác giả - Văn học Việt Nam (Tập 2) - Nhà xuất bản Đại học và trung học

chuyên ngành, Hà Nội, năm 1979.

32. Nhiều tác giả - Lịch sử văn học Việt Nam (Tập 3) - Nhà xuất bản Giáo dục, Hà

Nội, năm 1978.

33. Nhiều tác giả - Lịch sử văn học Việt Nam (Tập 4A) - Nhà xuất bản Giáo dục,

Hà Nội, năm 1978.

34. Nhiều tác giả - Tuyển tập 40 năm tạp chí văn học (1960 - 1999), tập 2 văn học

cổ, cận đại Việt Nam - Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1999.

79

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

35. Vũ Tiến Quỳnh - Văn học cổ Việt Nam - Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ

Chí Minh, năm 1998.

36. Trần Đình Sử - Mấy vấn đề Thi pháp văn học trung đại Việt Nam - Nhà xuất

bản Giáo dục, Hà Nội, năm 1999.

37. Tuấn Thành và Anh Vũ - Nguyễn Đình Chiểu tác phẩm và lời bình - Nhà xuất

bản Văn học, Hà Nội, năm 2005.

38. Tác giả trong nhà trường - Nguyễn Đình Chiểu - Nhà xuất bản văn học, Hà

Nội, năm 2007

39. Nguyễn Ngọc Thiện - Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm - Nhà xuất

bản Giáo dục, Hà Nội, năm 2007.

40. Nguyễn Khắc Thuần và Nguyễn Quảng Tuân - Từ điển truyện Lục Vân Tiên -

Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, năm 1989.

41. Nguyễn Quảng Tuân - Lục Vân Tiên bản Nôm và bản quốc ngữ cổ nhất - Nhà

xuất bản Văn học, Trung tâm nghiên cứu quốc học, năm 2005.

42. Lê Thu Yến - Văn học trung đại những công trình nghiên cứu - Nhà xuất bản

Giáo dục, năm 2003.

80

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

MỤC LỤC

(cid:61537) (cid:61478) (cid:61538)

Trang

ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT……………………………………………………1

PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………………………..4

1. Lí do chọn đề tài ………………………………………………………………...5

2. Lịch sử vấn đề …………………………………………………………………...6

3. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………………….7

4. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………………………...8

5. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………………...8

PHẦN NỘI DUNG……………………………………………………………10

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG………………………………11

1.1. Khái quát truyện thơ…………………………………………………….11

1.1.1. Khái niệm……………………………………………………………11

1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của truyện thơ ………………….13

1.1.3. Phân loại truyện thơ…………………………………………………15

1.2. Khái quát truyện thơ Lục Vân Tiên ……………………………………16

1.2.1. Hoàn cảnh sáng tác …………………………………………………16

1.2.2. Tóm tắt cốt truyện…………………………………………………...18

1.2.3. Ý nghĩa truyện thơ Lục Vân Tiên …………………………………...20

CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TRUYỆN THƠ LỤC VÂN TIÊN

………………………………………………………………………………….22

2.1. Truyện thơ Lục Vân Tiên ca ngợi công lý, chính nghĩa……………….22

2.1.1. Nhân nghĩa…………………………………………………………..22

2.1.2. Hiếu nghĩa …………………………………………………………..25

2.1.3. Tình nghĩa…………………………………………………………...28

2.1.4. Ơn nghĩa …………………………………………………………….34

2.2. Truyện thơ Lục Vân Tiên phê phán bất nhân, bất nghĩa.…………….35

2.2.1. Sự nham hiểm, gian trá……………………………………………...35

2.2.2. Sự mù quáng, bất công.……………………………………………..41

81

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

2.3. Truyện thơ Lục Vân Tiên thể hiện khát vọng lý tưởng của nhân dân

………………………………………………………………………………………...44

2.3.1. Niềm tin về sự thắng lợi của đạo lý - chính nghĩa thắng gian tà

………………………………………………………………………………………...44

2.3.2. Niềm tin về một xã hội phong kiến lý tưởng - vua sáng, tôi hiền

………………………………………………………………………………………...47

CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC TRUYỆN THƠ LỤC VÂN

TIÊN …………………………………………………………………………...51

3.1. Sự kết hợp nhiều hình thức ngôn ngữ …………………………………51

3.1.1. Ngôn ngữ bình dân …………………………………………………51

3.1.2. Ngôn ngữ bác học …………………………………………………..52

3.1.3. Ngôn ngữ địa phương ………………………………………………53

3.2. Một số phương diện nghệ thuật xây dựng nhân vật ………………….55

3.2.1. Ngoại hình …………………………………………………………..56

3.2.2. Tính cách ……………………………………………………………57

3.2.3. Hành động …………………………………………………………..58

3.2.4. Tâm trạng …………………………………………………………...60

3.3. Vận dụng sáng tạo một số thể loại của văn học dân gian …………….61

3.3.1. Thành ngữ, tục ngữ …………………………………………………62

3.3.2. Ca dao, dân ca ………………………………………………………63

3.3.3. Truyện cổ tích ………………………………………………………66

3.4. Nghệ thuật sử dụng điển tích, điển cố …………………………………68

3.4.1. Điển cố mượn những câu chuyện về những nhân vật lịch sử và các

triều đại ……………………………………………………………………………….69

3.4.2. Điển cố mượn những dẫn chứng tích cũ, lời xưa trong thơ cổ Trung

Quốc ………………………………………………………………………………….70

3.4.3. Điển cố mượn những địa danh trong văn chương Trung Quốc

………………………………………………………………………………………...71

3.4.4. Điển cố mượn từ Hán Việt kết hợp với từ Thuần Việt ……………..73

PHẦN 3: KẾT LUẬN ………………………………………………………...74

TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………77

82

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

..................................................................................................................................... ......

...........................................................................................................................................

............................................................................................................... ............................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

................................................................................................................... ........................

Cần Thơ, ngày……tháng........năm 2011

83

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN 1

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

....................................................................................................................................... ....

...........................................................................................................................................

................................................................................................................. ..........................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

........................................................................................................................ ...................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

Cần Thơ, ngày……tháng........năm 2011

84

Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN 2

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

.......................................................................................................................... .................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

................................................................................................................................. ..........

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................

Cần Thơ, ngày …… tháng ........ năm 2011

85