Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGỮ VĂN
-----(cid:61594)(cid:61595)(cid:61478)(cid:61594)(cid:61595)-----
DƯƠNG THÙY LINH
ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN THƠ LỤC VÂN TIÊN
CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn
Cán bộ hướng dẫn: Ths. GVC. PHAN THỊ MỸ HẰNG
Cần Thơ, 5/2011
1
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
(cid:61596) (cid:61478) (cid:61597)
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái quát truyện thơ
1.1.1. Khái niệm
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của truyện thơ
1.1.3. Phân loại truyện thơ
1.2. Khái quát truyện thơ Lục Vân Tiên
1.2.1. Hoàn cảnh sáng tác
1.2.2. Tóm tắt cốt truyện
1.2.3. Ý nghĩa truyện thơ Lục Vân Tiên
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TRUYỆN THƠ LỤC VÂN
TIÊN
2.1. Truyện thơ Lục Vân Tiên ca ngợi công lý, chính nghĩa
2.1.1. Nhân nghĩa
2.1.2. Hiếu nghĩa
2.1.3. Tình nghĩa
2.1.4. Ơn nghĩa
2.2. Truyện thơ Lục Vân Tiên phê phán bất nhân, bất nghĩa
2.2.1. Sự nham hiểm, gian trá
2.2.2. Sự mù quáng, bất công
2.3. Truyện thơ Lục Vân Tiên thể hiện khát vọng lý tưởng của nhân dân
2.3.1. Niềm tin về sự thắng lợi của đạo lý- chính nghĩa thắng gian tà
2
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
2.3.2. Niềm tin về một xã hội phong kiến lý tưởng- vua sáng, tôi hiền
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC TRUYỆN THƠ LỤC VÂN TIÊN
3.1. Sự kết hợp nhiều hình thức ngôn ngữ
3.1.1. Ngôn ngữ bình dân
3.1.2. Ngôn ngữ bác học
3.1.3. Ngôn ngữ địa phương
3.2. Một số phương diện nghệ thuật xây dựng nhân vật
3.2.1. Ngoại hình
3.2.2. Tính cách
3.2.3. Hành động
3.2.4. Tâm trạng
3.3. Vận dụng sáng tạo một số thể loại của văn học dân gian
3.3.1. Thành ngữ, tục ngữ
3.3.2. Ca dao, dân ca
3.3.3. Truyện cổ tích
3.4. Nghệ thuật sử dụng điển tích, điển cố
3.4.1. Điển cố mượn những câu chuyện về những nhân vật lịch sử và các triều
đại
3.4.2. Điển cố mượn những dẫn chứng tích cũ, lời xưa trong thơ cổ Trung Quốc
3.4.3. Điển cố mượn những địa danh trong văn chương Trung Quốc
3.4.4. Điển cố mượn từ Hán Việt kết hợp với từ Thuần Việt
PHẦN 3: KẾT LUẬN
3
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
LỜI CẢM ƠN
(cid:61596) (cid:61478) (cid:61597)
Bốn năm ngồi trên giảng đường đại học đã cho chúng tôi nhiều kiến thức mới
mẻ mà lúc còn phổ thông chưa có dịp tiếp cận. Và cho đến khi nhận đề tài nghiên cứu
về Đặc điểm truyện thơ Lục Vân Tiên chính là bước thử thách sau cùng để chúng tôi
hoàn thành khóa học. Từ lâu rồi ba chữ Lục Vân Tiên cùng với cái tên Nguyễn Đình
Chiểu đã trở nên quen thuộc với chúng tôi, thế nên khi tiếp xúc đề tài đã tạo nên một
tâm trạng khó tả. Chúng tôi mừng vì được trực tiếp nghiên cứu một tác phẩm có ảnh
hưởng sâu rộng trong quần chúng cũng như nền văn học Việt Nam. Tuy nhiên, nỗi lo
vẫn có vì kiến thức của chúng tôi phần nào đó còn bị hạn chế. Thế nhưng, nhờ vào sự
hướng dẫn tận tình của giáo viên hướng dẫn Phan Thị Mỹ Hằng chính là niềm tin, và
điều kiện để chúng tôi hoàn thành đề tài. Một lần nữa xin chân thành cảm ơn cô vì sự
giúp đỡ trong suốt thời gian qua. Cũng không quên cảm ơn tất cả các thầy cô của hai
bộ môn Ngữ Văn thuộc Khoa Khoa học Xã Hội và Nhân Văn cùng Khoa Sư Phạm đã
cho chúng tôi những kiến thức vô cùng quý báu từ khi bước vào trường Đại Học Cần
Thơ. Gởi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và người thân luôn ở bên, ủng hộ, động viên
và giúp chúng tôi trong quá trình thực hiện.
Rất mong nhận được sự đóng góp của thầy cô, bạn bè để khắc phục những thiếu
sót của đề tài.
Chân thành cảm ơn!
Cần Thơ, ngày 05 tháng 5 năm 2011
Sinh viên thực hiện
Dương Thùy Linh
4
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
PHẦN MỞ ĐẦU
5
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
1. Lí do chọn đề tài
Nam Bộ - một miền đất mới của đất nước Việt Nam - ở đây không chỉ có những
cánh đồng lộng gió, có tôm, có cá, có nhiều đặc sản quý báu, mà vùng đất đã nuôi
dưỡng biết bao tâm hồn của những người con tận cùng của Tổ quốc. Và đặc biệt nơi
đó còn có những con người hào sảng, biết sống vì nghĩa, chết vì tình. Cũng chính miền
đất thành đồng ấy đã sinh ra một người con ưu tú, người đã vượt qua số phận bất hạnh
của bản thân để phục vụ cho đời. Có thể nói khi nhắc đến miền Nam ta không nhắc
đến tên của ông, một chí sĩ yêu nước đã dùng ngòi bút chống lại những bất công trong
cuộc sống, giành lại những giá trị tốt đẹp có từ ngàn xưa của dân tộc là một điều thiếu
sót. Cái tên ấy đã trở thành niềm tự hào của con người miền Nam, đó không ai khác
chính là nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, được nhân dân Nam Bộ gọi bằng một cái tên trìu
mến: cụ Đồ Chiểu. Nghe cách gọi ta cũng biết được những con người nơi đây yêu mến
Nguyễn Đình Chiểu như thế nào, họ đã xem ông như thầy, và là một trong số ít người
có ảnh hưởng lớn đối với quê hương miền Nam. Không chỉ người dân nơi này ngưỡng
mộ cụ mà hầu như những ai yêu thích văn chương, có hứng thú trong việc tìm hiểu về
văn học Việt Nam đều có chung một nhận định: “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng
trong văn nghệ của dân tộc” (Phạm Văn Đồng). Người ta yêu mến cụ Đồ Chiểu không
chỉ vì ông là người Nam Bộ mà còn là một con người đã hiểu thấu tình cảm của họ.
Người đọc tìm thấy trong tác phẩm của cụ những giá trị không gì thay thế được, họ
còn lấy những tác phẩm đó làm nền tảng cho mọi hành động của mình. Nổi bật là
truyện thơ Lục Vân Tiên. Có thể nói sau Truyện Kiều của Nguyễn Du thì Lục Vân Tiên
xứng đáng xếp hàng thứ hai trong kho tàng truyện Nôm của dân tộc Việt Nam.
Yêu mến Nguyễn Đình Chiểu bao nhiêu thì ta không thể nào quên được chàng
Lục Vân Tiên và nàng Kiều Nguyệt Nga của ông - hai con người trong truyện thơ Lục
Vân Tiên - chính là tấm gương cho những thanh niên miền Nam bấy giờ noi theo.
Ngoài ra những con người lao động yêu nó cũng bởi vì chính Lục Vân Tiên nói lên
những gì mà họ mong ước. Cho nên sức sống của tác phẩm đối với người dân Nam Bộ
nói riêng, và những người con của Việt Nam nói chung vẫn còn mãi đến ngày nay.
Nếu như Truyện Kiều được xem là tác phẩm làm nên ngôn ngữ thơ ca dân tộc thì Lục
Vân Tiên là bức tranh về con người Việt Nam nhân nghĩa, tiết hạnh, trọng nghĩa khinh
tài… Vì thế là những người con của đất nước ngàn năm văn hiến, đặc biệt là một
6
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
người đã sinh ra và lớn lên ở vùng cực Nam của Tổ quốc, chúng tôi càng thêm yêu quý
những giá trị mà cha ông ta để lại trong đó có nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu.
Và cũng chính vì sự yêu mến tác phẩm Lục Vân Tiên đã thôi thúc chúng tôi tìm hiểu
những đặc điểm của nó.
Như chúng ta đã biết truyện thơ Lục Vân Tiên có những giá trị vô giá đã được
cụ Đồ Chiểu viết lên bằng cả tâm huyết. Những vẻ đẹp tiềm tàng ấy không phải chỉ
trong một thời gian ngắn mà ta có thể hiểu hết. Vì thế chọn đề tài “Đặc điểm truyện
thơ Lục Vân Tiên” chúng tôi hi vọng góp một phần nhỏ vào công việc nghiên cứu và
bảo tồn tác phẩm quý báu này.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Đình Chiểu - nhà thơ lớn của Việt Nam, tác phẩm của cụ có ảnh hưởng
không nhỏ đến đời sống và lịch sử văn học dân tộc. Vì thế, như những ngôi sao trên
trời ta không thể chỉ nhìn mà phải biết đi sâu tận bên trong mới hiểu được hết nội tại
của nó. Văn thơ của cụ cũng là một ngôi sao, rất cần có những con người tâm huyết đi
tìm những giá trị ẩn bên trong mà không dễ gì chúng ta có thể nhìn thấy. Trong đó nổi
bật là truyện thơ Lục Vân Tiên. Từ khi Lục Vân Tiên ra đời cho đến nay các tác giả
như: Hà Như Chi, Xuân Diệu, Dương Quảng Hàm, Nguyễn Lộc, Phong Nam, Trần
Nghĩa, Hoài Thanh, Lê Trí Viễn, Nguyễn Quang Vinh… đã cùng tham gia tìm hiểu về
tác phẩm. Ngoài ra truyện đã thu hút sự chú ý của giới phê bình, nghiên cứu nước
ngoài đặc biệt là người Pháp. Từ đó thấy được giá trị quý báu của Lục Vân Tiên đối
với văn học và con người là không phủ nhận. Tuy các bài viết của những tác giả chỉ
bàn vài khía cạnh về Lục Vân Tiên nhưng qua đó thấu hiểu nỗi lòng của Đồ Chiểu gởi
gắm qua từng câu chữ của tác phẩm.
Quyển Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm [39], có các bài viết của
nhiều tác giả bàn về Lục Vân Tiên như: Dương Quảng Hàm, Trần Nghĩa, Nguyễn
Quang Vinh, Lâm Vinh… Các nhà nghiên cứu tuy có những cách viết khác nhau và
vấn đề bàn luận nhiều khía cạnh nhưng nhìn chung đều có những đánh giá cao giá trị
của tác phẩm. Họ xem Lục Vân Tiên là một vũ khí để chống lại những bất công, cái
phi nghĩa hành hạ con người.
Quyển Nguyễn Đình Chiểu tác phẩm và lời bình [37], tập hợp nhiều bài viết
nghiên cứu về Lục Vân Tiên. Chẳng hạn Lục Vân Tiên trong hát hò Nam Trung Bộ
7
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
[37;351], Nguyễn Quý Thành đã nhấn mạnh sức ảnh hưởng của truyện thơ đối với
cuộc sống sinh hoạt cộng đồng của nhân dân lao động. Bảo Định Giang trong bài viết
Trở lại truyện thơ Lục Vân Tiên [37;357] giải thích được lí do quần chúng lao động
yêu thích và say mê Lục Vân Tiên đến như vậy.
Quyển Lịch sử văn học Việt Nam tập 4A [33], có giới thiệu bài viết của Phan
Côn và Lê Trí Viễn về đạo đức trong truyện thơ Lục Vân Tiên: “ Người ta thấy rằng lý
tưởng mà các nhân vật mang trong tim trong óc đã được bộc lộ dưới những khái niệm
đạo đức nhân nghĩa của nhà nho nhưng bản chất lại chính là lý tưởng đạo đức của
nhân dân, của dân tộc. Ai nấy đều biết: đối với giai cấp thống trị, nhân nghĩa chẳng
qua là chiêu bài để lừa bịp, nhất là giai cấp thống trị trong thời kỳ phản động của nó.
Nhưng ở trong những con người ưu tú của thời đại, những con người tuy xuất thân từ
hàng ngũ phong kiến hoặc chịu ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến, của Nho giáo,
nhưng lại tiếp nhận được truyền thống đạo đức nhân dân thì nhân nghĩa đạo đức vẫn
có ý nghĩa thực tiễn.”[33;51]. Qua đó ta thấy được nhân nghĩa trong tác phẩm nó
không xa rời mà rất gần với cuộc sống thường nhật của quần chúng.
Quyển Lục Vân Tiên tác phẩm và lời bình [27] đã tập hợp nhiều bài viết bình
luận và phê bình về tác phẩm. Bài viết Lục Vân Tiên [27;215] của Phong Nam có viết:
“Truyện Lục Vân Tiên sở dĩ được quần chúng mến mộ vì bản thân nó có sức hấp dẫn
lớn. Sức hấp dẫn đó nằm cả trong sự phong phú của nội dung lẫn nghệ thuật thể hiện
đặc sắc” [27;215]. Ý kiến ấy đã phần nào xóa bỏ những nhận định cho rằng Lục Vân
Tiên chỉ đặc sắc về nội dung nhưng về nghệ thuật còn hạn chế.
Nhìn chung, có rất nhiều công trình nghiên cứu về Lục Vân Tiên ở hai mặt nội
dung và hình thức. Nhưng mỗi phương diện chỉ đi sâu đề cập đến một số lĩnh vực của
tác phẩm. Các cứ liệu trên là nguồn tài liệu phong phú cho những ai muốn đi sâu khám
phá truyện thơ Lục Vân Tiên một cách toàn diện. Mặc dù kiến thức còn hạn hẹp, sự
hiểu biết chưa thật vững vàng như các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp nhưng chúng tôi
hy vọng với đề tài này sẽ góp phần vào kho tài liệu tìm hiểu và nghiên cứu về tác
phẩm Lục Vân Tiên của nhà thơ, nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu.
3. Mục đích nghiên cứu
Như đã trình bày ở trên, Nguyễn Đình Chiểu cùng với truyện thơ Lục Vân Tiên
đã có ảnh hưởng sâu rộng trong nền văn học cũng như quần chúng nhân dân. Người
8
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
dân lao động chẳng những yêu thích tác phẩm mà còn xem nó là kim chỉ nam trong
nếp sống của mình. Do đó, với đề tài “Đặc điểm truyện thơ Lục Vân Tiên” chúng tôi
thử tìm hiểu và làm sáng tỏ những giá trị thuộc về nội dung và hình thức của tác phẩm.
Qua đó phần nào xác định sức sống lâu bền của truyện thơ trong lòng quần chúng lao
động, đồng thời khẳng định sức ảnh hưởng của nó trong nền văn học Việt Nam.
Bên cạnh đó, bài viết cũng góp một phần tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề
liên quan đến Lục Vân Tiên. Đồng thời bổ sung thêm những kiến thức để nâng cao khi
tìm hiểu chuyên sâu về tác giả trong chương trình giảng dạy và nghiên cứu văn học
sau này của chúng tôi.
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài “Đặc điểm truyện thơ Lục Vân Tiên”, đối tượng khảo sát
chủ yếu thuộc về hai phương diện nội dung và hình thức thể hiện trong tác phẩm.
Dẫn chứng tác phẩm được vận dụng chủ yếu trong quyển Nguyễn Đình Chiểu
tác phẩm và lời bình [37] và một số tư liệu có liên quan như quyển: Nguyễn Đình
Chiểu về tác gia và tác phẩm [39], Mấy vấn đề về thi pháp văn học trung đại [36], Văn
học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX [25]…
Cấu trúc luận văn gồm ba phần: ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung gồm
ba chương:
Chương 1 - Một số vấn đề chung.
Chương 2 - Đặc điểm nội dung truyện thơ Lục Vân Tiên.
Chương 3 - Đặc điểm hình thức truyện thơ Lục Vân Tiên.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài chúng tôi đã tổng hợp các bài nghiên cứu, phê bình của
các tác giả trong và ngoài nước viết về Lục Vân Tiên. Trong đó có sự chọn lọc một số
ý kiến có liên quan đến đề tài để lập luận thêm sức thuyết phục.
Chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử để dễ dàng liên hệ giữa thực
tiễn với tác phẩm. Phương pháp trực giác nhằm đưa ra nhận định, đánh giá những
đóng góp của Lục Vân Tiên. Sử dụng phương pháp lôgic giúp cho chúng tôi có những
đánh giá đúng theo bản chất của truyện.
Ngoài ra chúng tôi đã kết hợp các thao tác so sánh, chứng minh, bình luận, tổng
hợp. Thao tác so sánh nhằm làm nổi bật những điểm tương đồng và dị biệt của Lục
9
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
Vân Tiên với những truyện thơ khác. Chứng minh để thấy rằng quan điểm, nhận định
ấy của tác giả là chính xác trong mọi hoàn cảnh. Thao tác bình luận và tổng hợp giúp
chúng tôi rút ra được những nhận xét đúng theo bản chất của sự việc, đồng thời biết
tổng kết những ý kiến từ bên ngoài với tác phẩm.
10
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
PHẦN NỘI DUNG
11
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái quát truyện thơ
Truyện thơ là một khái niệm được nhắc nhiều trong các lĩnh vực nghiên cứu thể
loại văn học trung đại cũng như văn học dân gian. Nó xuất hiện ở Việt Nam từ rất lâu,
trong môi trường sinh hoạt văn hóa của các dân tộc ít người, dần dần lan truyền xuống
dân tộc Kinh. Từ khi ra đời cho đến nay, truyện thơ có một ảnh hưởng nhất định đối
với nền văn học của nước nhà, đặc biệt quần chúng nhân dân lao động cũng dễ dàng
thuộc vài ba câu trong một tác phẩm. Và cũng vì nhiều nguyên nhân nên truyện thơ
được nhìn nhận ở nhiều góc độ, song các ý kiến đó không đối nghịch mà bổ sung cho
nhau. Tùy theo các lĩnh vực mà khái niệm truyện thơ được khai thác theo các hướng
không giống nhau. Điều đáng lưu ý là thuật ngữ truyện thơ không được dùng phổ biến
mà thay vào đó là thuật ngữ truyện Nôm. Nguyên nhân của tên gọi truyện Nôm “thiết
nghĩ là cách rút gọn của khái niệm truyện thơ Nôm, và cũng do điều kiện lịch sử văn
xuôi Nôm không phát triển, nghĩa là văn Nôm chỉ tồn tại dưới dạng văn vần và biền
ngẫu, cho nên gọi như vậy mà không sợ nhầm lẫn là truyện văn xuôi Nôm”[36;395].
Đồng thời do ở Việt Nam truyện thơ viết bằng chữ Hán không phổ biến nên tên gọi
truyện Nôm được dùng để chỉ thể loại này. Nhìn chung về khái quát truyện thơ là một
công việc tốn rất nhiều công sức của giới phê bình.
1.1.1. Khái niệm
Trần Đình Sử cho rằng “Truyện thơ Nôm là một sáng tạo độc đáo của văn
học dân tộc”[36;394]. Vì thế không nên đánh đồng truyện Nôm với thể loại truyện cổ
tích vì đơn giản nó là “xu hướng tiểu thuyết hóa truyện dân gian”[36;396]. Truyện thơ
Nôm có nhiều điểm rất khác với truyện cổ tích dân gian, về cách xây dựng nhân vật,
yếu tố tự sự trong truyện Nôm được tăng cường, yếu tố trữ tình phong phú, sự kịch
tính, lời thoại của các nhân vật đặc biệt ở thể loại này còn xuất hiện những lời bình
triết lý hoặc lời bình về trữ tình.
Phương Lựu nhận xét: truyện thơ “Là thể loại tự sự bằng thơ. Người
phương Tây gọi là “poème” - thường dịch là trường ca. Người Trung Quốc gọi là “tự
sự thi” hoặc “trường thiên tự sự thi”[26;383]. Từ đó ông cho rằng truyện thơ cũng là
một loại tiểu thuyết do nó nghiêng về thể loại và bút pháp tiểu thuyết, tiêu biểu đó
chính là Truyện Kiều, Lục Vân Tiên. Do vậy truyện thơ không lấy vua, quan, tướng
12
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
hay những nhà hoạt động cho nhà nước làm đối tượng miêu tả mà thể loại này tập
trung miêu tả những con người bình thường, khắc họa những tính cách của người dân
lao động.
Đặng Thanh Lê nhận định truyện Nôm là một thể loại tiểu thuyết cổ điển
Việt Nam, “là tác phẩm chính thống của các nhà Nho viết ra để giải thích minh họa
các sách kinh của tiên thánh như họ định nghĩa” [23;65].
Hà Minh Đức và Bùi Văn Nguyên cho rằng: “truyện thơ có khả năng phản
ánh những mặt phong phú của đời sống xã hội. Trên ý nghĩa đó truyện thơ có thể được
xem như một tiểu thuyết. Một mặt khác do chỗ vận dụng ngôn ngữ thơ ca để diễn đạt
nên từ hình ảnh, nhịp điệu đến cú pháp thơ ca, truyện thơ tự xác định chỗ khác nhau
với tiểu thuyết”. [9;329]
Lê Hoài Nam cũng nhận định: “Truyện Nôm là một loại hình văn học đã có
từ lâu. Đó là những sáng tác văn học hầu hết có tính chất trung thiên tiểu thuyết, và
viết bằng thể thơ lục bát, có khi bằng thất ngôn bát cú. Mặc dù trải qua thời gian,
nhiều truyện Nôm đã bị mất mát thất truyền, nhưng số còn lại hiện nay cũng khá
nhiều. Xét về mặt nội dung cũng như mặt hình thức, truyện Nôm có nhiều yếu tố phức
tạp. Nhiều tác giả thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác nhau ở vào nhiều giai đoạn lịch sử
khác nhau, đã chung sức xây dựng nên cái gia tài to lớn ấy.” [32;170]
Lại Nguyên Ân và Bùi Văn Trọng Cường cũng có chung nhận xét với nhiều
tác giả và rút ra kết luận về truyện thơ: “một thể loại sáng tác Tiếng Việt (chữ Nôm)
thời trung đại” [1;664] và được sáng tác chủ yếu với hai thể thơ là Đường luật với lục
bát.
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong Từ điển thuật ngữ văn
học [17] cũng cho rằng đây là thể loại tự sự bằng thơ dài tiêu biểu trong nền văn học
cổ điển Việt Nam.
Nguyễn Lộc đã gọi truyện thơ là truyện Nôm và khái niệm của ông mang vẻ
tổng hợp hơn: “một thể loại văn học viết dưới hình thức văn vần, có cốt truyện trong
văn học cổ Việt Nam”. [20;1847]
Tóm lại truyện thơ là một thể loại văn học phổ biến trong nền văn học trung
đại Việt Nam, được các tác giả sáng tác nhằm phục vụ nhu cầu xã hội, lấy đối tượng
13
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
miêu tả là những con người bình thường, hình thức sáng tác là chữ Nôm - một loại chữ
viết của dân tộc và thể thơ được dùng chủ yếu là lục bát cùng Đường luật.
Với sự ra đời của truyện Nôm đã xóa tan đi ý kiến “nôm na là cha mách
qué”, một nhận định sai lệch về chữ viết dân tộc. Thể loại này đã khẳng định được vẻ
đẹp chữ Nôm mà đặc biệt là kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Tác
phẩm này mang trong mình một vẻ đẹp của một loại hình văn học dân tộc với chữ viết
của nó.
“Với truyện Nôm, đặc biệt là truyện Nôm có tên tác giả, nhất là Truyện
Kiều của Nguyễn Du con người trong văn học Việt Nam đã được ý thức một cách sâu
sắc, mới mẻ”. [36;433]
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển truyện thơ
Truyện thơ là một thể loại khá quan trọng trong sự phát triển của văn học
các nước trên thế giới. Khu vực Châu Á và đặc biệt là Việt Nam không nằm ngoài
khuôn khổ đó. Bởi vậy, quá trình hình thành và phát triển của truyện thơ ở nước ta là
một đề tài thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu văn học.
Trong công trình Mấy vấn đề Thi pháp văn học trung đại Việt Nam [36],
Trần Đình Sử đã trình bày khá đầy đủ lịch sử của truyện thơ.
Cũng theo Trần Đình Sử truyện thơ là một thể loại rất phát triển trong nền
văn học trung đại Việt Nam. Từ trước đến nay khi tìm hiểu về truyện thơ ở nước ta,
giới nghiên cứu đều cho rằng chất liệu ngôn ngữ tạo nên các tác phẩm đa phần là chữ
Nôm. Tuy nhiên, truyện thơ viết bằng chữ Hán cũng xuất hiện một ít, minh chứng là
tác phẩm Hương miệt hành của tác giả khuyết danh được cho là ra đời từ thời Trần,
nhưng cũng có ý kiến cho rằng nó ra đời từ thời Lê. Cũng chính vì sự ít ỏi của các
truyện thơ viết bằng chữ Hán ở nước ta mà thuật ngữ truyện Nôm cũng dùng để chỉ thể
loại truyện thơ. Cho đến nay các nhà nghiên cứu đã tìm thấy: “hiện có ở Việt Nam
khoảng trên 100 truyện Nôm. Truyện thơ Nôm Việt Nam phát triển rầm rộ trong suốt
hai thế kỷ XVII - XVIII, nhưng truyện thơ Nôm thế kỷ XVII còn lại không nhiều, phần
lớn truyện thơ Nôm hiện còn là từ thế kỷ XVIII - XIX. Tiến trình hình thành truyện thơ
Nôm được Kiều Thu Hoạch trình bày rất chi tiết. Giai đoạn đầu tiên là các truyện thơ
cấu tạo bằng một chuỗi thơ Đường luật như Tô Công phụng sứ, Vương Tường, Lâm
Tuyền kỳ ngộ và Tam Quốc thi mà người ta thấy gần gũi với thơ Hồng Đức quốc âm
14
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
thi tập xuất hiện khoảng thế kỷ XVI - XVII. Giai đoạn hai là xuất hiện diễn ca lịch sử
như Thiên Nam ngữ lục, tiếp đến là xuất hiện các truyện thơ Nôm bình dân như Quan
Thế Âm, Phạm Công Cúc Hoa, Lý Công Cúc Hoa… - các tác phẩm này có “mẫu câu”
và cách gieo vần gần gũi với Thiên Nam ngữ lục, ra đời vào cuối thế kỷ XVII - XVIII.
Giai đoạn cao trào là xuất hiện truyện thơ Nôm bác học mà bắt đầu với
truyện của Nguyễn Hữu Hào, Nguyễn Thiện… Truyện thơ Nôm thế kỷ XVIII đã mượt
mà và cách gieo vần, kể chuyện, miêu tả đã khác với lối bình dân ở thế kỷ trước”.
[36;394]
Theo Lại Nguyên Ân cho rằng truyện thơ Nôm được quốc ngữ hóa vào cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Chính đều này làm cho các tác phẩm viết theo thể loại này
có điều kiện để phát triển và tồn tại trên văn bản. Cũng chính dấu ấn ấy làm cho nhiều
nhà nghiên cứu có điều kiện tiếp nhận và đi sâu tìm hiểu truyện thơ.
Trong quyển Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm [23] tác giả Đặng Thanh
Lê cũng trình bày khá đầy đủ về lịch sử hình thành và phát triển của truyện thơ Nôm.
Cũng theo ông sự ra đời của nó là do “một yêu cầu phản ánh xã hội với những nội
dung thời đại cũng như với những điều kiện thực tiễn của bản thân thời đại ấy”
[23;50]. Do vậy cuộc khủng hoảng của chế độ phong kiến Việt Nam trong ba thế kỷ
XVI, XVII, XVIII ngày một trầm trọng với nhiều mâu thuẫn nảy sinh làm nền cho một
thể loại sáng tác mới ra đời. Truyện Nôm nó phản ánh phần nào mâu thuẫn xã hội, tinh
thần nhân đạo, đấu tranh giai cấp đồng thời cũng thể hiện quan niệm sống bình dân
của các hàn sĩ. “Có thể nói, truyện Nôm là sản phẩm văn học vào thời kỳ phong kiến
suy tàn, mang ý nghĩa phản ánh một thời kỳ bùng nổ mạnh mẽ của đấu tranh giai cấp
dưới chế độ phong kiến”. [23;57]
Các công trình nghiên cứu về truyện Nôm khác như Từ điển Văn học [18],
Từ điển thuật ngữ văn học [17], Lịch sử văn học Việt Nam tập 3 [32], Từ điển Văn học
Việt Nam từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX [1] đều có chung ý kiến với các nhận định
trên khi cho rằng thể loại văn học này ra đời từ lâu và phát triển rầm rộ vào hai thế kỷ
XVII, XVIII. Theo đó, qua nhiều biến cố của thời gian các tác phẩm truyện Nôm còn
lại đến nay không nhiều.
Tóm lại, cho dù truyện Nôm được hình thành như thế nào và sự tồn tại của
các tác phẩm không nhiều nhưng có thể nói thể loại này đã thổi một ngọn lửa mới vào
15
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
trong kho tàng văn học dân tộc. Cũng vì thế mà bạn bè quốc tế đã tiếp xúc với nền văn
học Việt Nam qua hai tác phẩm kiệt tác của truyện thơ Nôm là Truyện Kiều và Lục
Vân Tiên của hai tác giả Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu.
1.1.3. Phân loại truyện thơ
Như đã biết truyện thơ là một thể loại tiểu thuyết viết bằng thơ dưới thể văn
vần. Để phân loại nó giới nghiên cứu đã dựa chủ yếu vào các tiêu chí sau:
Tiêu chí thứ nhất thì Lại Nguyên Ân và Bùi Văn Trọng Cường dựa vào thể
thơ dùng để sáng tác, lúc đó hai ông phân truyện thơ thành hai loại: truyện thơ Đường
luật và truyện thơ lục bát. Tác phẩm ở thể loại thứ nhất “là một liên hoàn gồm một loạt
bài thơ thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt. Ví dụ: Tô Công phụng sứ gồm 24 bài, Vương
Tường 49 bài (39 bài bát cú, 10 bài tứ tuyệt), Lâm Tuyền kỳ ngộ - 146 bài bát cú, 1 bài
tứ tuyệt, 1 bài ca khúc…” [1;664]. Do việc cố tìm xem có phải truyện thơ Đường luật
là một dạng xuất hiện sớm của truyện Nôm và cũng có nhiều người lại muốn tìm kiếm
niên đại của nó nên vô hình chung họ đã “coi truyện thơ Đường luật chỉ là dạng ít
thuận lợi nên ít được dùng cho truyện thơ Nôm” [1;665]. Ở thể loại truyện thơ lục bát
“hầu như hoàn toàn dùng thơ lục bát, chỉ đôi khi mới xen một vài đoạn ngắn các thể
khác (như nói lối, thơ Đường luật, từ khúc)” [1;665].
Tiêu chí thứ hai để phân loại truyện Nôm là dựa vào tác giả sáng tác thì các
nhà nghiên cứu đều thống nhất phân thành hai loại với các thuật ngữ: truyện Nôm hữu
danh và truyện Nôm khuyết danh, hoặc truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học.
Trong công trình Mấy vấn đề về thi pháp văn học trung đại [36], Trần Đình
Sử cho rằng: “Mặc dù giữa hai loại truyện Nôm có nhiều mối liên hệ sâu sắc, song
việc phân loại như vậy là phù hợp thực tế và thuận lợi cho nghiên cứu. Truyện Nôm
khuyết danh phần lớn sử dụng cốt truyện dân gian, hãn hữu sử dụng cốt truyện nước
ngoài. Phần lớn truyện Nôm có tên tác giả, bác học vay mượn cốt truyện Trung Quốc
hoặc tự sáng tác. Do truyện khuyết danh có khi vì chưa tìm ra tên tác giả, cho nên
đúng hơn nên phân loại truyện Nôm thành hai loại bình dân và bác học”. [36;395]
Cũng theo Trần Đình Sử: “Đối với truyện Nôm bác học - truyện Nôm của
văn nhân - lấy đề tài từ các tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc như Song Tinh, Hoa
Tiên, Truyện Kiều, Ngọc Kiều Lê… vốn đầy rẫy chi tiết, tình tiết thì tác giả truyện
Nôm lại tướt bỏ bớt chi tiết rườm rà cụ thể để làm nhạt đi màu sắc Trung Quốc, mà
16
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
tôn lên những tính chất chung về con người, hoặc thay vào đó các chi tiết, cảnh gợi
nhớ đến làng quê hoặc kinh kỳ Việt Nam”. [36;408]
Còn truyện Nôm bình dân gồm các tác phẩm như: Phạm Tải Ngọc Hoa,
Tống Trân Cúc Hoa, Phương Hoa, Hoàng Trừu, Thạch Sanh, Thoại Khanh Châu
Tuấn… Trong Từ điển Văn học [20] có đề cập đến loại này như sau: “Đó là những
truyện được viết lại trên cơ sở truyện cổ tích hay diễn ca truyện cổ tích. Tất cả đều
khuyết tên tác giả” [20;1847]. Nguyễn Lộc còn dự đoán rằng tác giả của loại truyện
này là những Nho sĩ bình dân như các ông đồ. Loại truyện này thể hiện rõ quan niệm
của người lao động với ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu.
Trong Lịch sử Văn học Việt Nam tập 3 [32], tác giả Lê Hoài Nam đã dựa
vào hai tiêu chí để phân loại truyện Nôm, đó là:
Dựa vào nguồn gốc trực tiếp của đề tài thì truyện Nôm được phân thành 3
loại. Thứ nhất: Dựa vào truyện cổ tích, thần thoại, hay sự tích thần thoại với các tác
phẩm Trương Chi, Tấm Cám…; thứ hai: dựa vào các tiểu thuyết Trung Quốc gồm
những tác phẩm như Nhị độ mai, Hoa Tiên, Vương Tường, Tô công phụng sứ, Bạch
Vân Tôn Các, Hoàng Trừu, Truyện Kiều…; cuối cùng là loại hoàn toàn sáng tác dựa
vào thực tế Việt Nam đó là truyện Lục Vân Tiên .
Còn “nếu xét về các mặt nội dung và hình thức thì đại loại có thể phân
truyện Nôm ra làm hai loại rõ ràng do hai hạng người sáng tác khác nhau” [32;179]
lúc đó có hai loại truyện Nôm tồn tại là loại có tính chất ít quần chúng và loại có tính
quần chúng nhiều hơn.
Cho dù theo tiêu chí phân loại nào các tác giả cũng đảm bảo được nội dung
mà từng thể loại truyện Nôm đề cập. Và một lần nữa khẳng định rằng thể loại văn học
cổ đặc sắc này đã có ảnh hưởng không nhỏ trong nền văn học dân tộc.
1.2. Khái quát truyện thơ Lục Vân Tiên
1.2.1. Hoàn cảnh sáng tác
Lục Vân Tiên là một trong những truyện thơ có ảnh hưởng đến sự phát triển
văn học ở Việt Nam, đây cũng là tác phẩm truyện Nôm bác học có nhiều dị bản nhất.
Có thể nói việc tìm hiểu nguồn gốc văn bản cũng như xuất xứ của truyện là cả một vấn
đề đối với giới nghiên cứu. Tuy nhiên đa số các ý kiến đều có một nhận xét chung về
thời gian ra đời cũng như hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm.
17
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
Theo đó truyện được sáng tác sau khoảng thời gian tác giả bị mù tức là sau
năm 1848. Và theo nhiều tài liệu nghiên cứu đều thống nhất cho rằng Lục Vân Tiên
được sáng tác trong khoảng từ năm 1850 trở về sau, khi Nguyễn Đình Chiểu bị mù.
Theo Nguyễn Phong Nam, tác giả cuốn Nguyễn Đình Chiểu từ quan điểm thi pháp học
[29] thì năm 1864 tác phẩm đã được một người Pháp tên là Gabriel Aubaret sưu tập và
cho in lần đầu trên Kỷ yếu châu Á.
Có rất nhiều ý kiến xoay quanh về nguồn gốc ra đời của tác phẩm. Nguyên
nhân là do ở câu thơ mở đầu tác giả đã viết: “Trước đèn xem truyện Tây minh” (Câu
1). Hai chữ Tây minh dường như cho người đọc biết nguồn gốc thật sự của tác phẩm là
xuất phát từ một truyện Tây minh bên Trung Quốc. Việc lấy một cốt truyện có sẵn để
viết lại thành một truyện thơ là việc không lạ gì đối với nền văn học Việt Nam. Đại thi
hào Nguyễn Du lấy Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân bên Trung Quốc
để viết nên Truyện Kiều thì việc Nguyễn Đình Chiểu lấy truyện Tây minh sáng tạo ra
truyện thơ Lục Vân Tiên thì không có gì đáng bàn luận cả. Trong bài viết Thử bàn về
nguồn gốc truyện Lục Vân Tiên [39;435], Trần Nghĩa đưa ra nhiều ý kiến xoay quanh
nguồn gốc của truyện. Cũng theo công trình đó tác giả đã dẫn ra ý kiến của Trần
Nguyên Hanh cho rằng hai chữ Tây minh là tên một tủ sách Tô Đông Pha thời Tống,
xem như đã chứng minh rằng truyện có nguồn gốc bên Trung Quốc. Tuy nhiên, Aben
đê Misen thì cho rằng Tây minh không phải tên một tủ sách, “mà tên một triều đại do
Nguyễn Đình Chiểu tưởng tượng ra. Và truyện Tây minh, có nghĩa là một câu chuyện
xảy ra trong triều đại tưởng tượng đó” [39;435]. Tiếp theo hai người trên là Bajô cũng
quan niệm cho rằng Tây minh là tên một cuốn truyện. Và khi bàn về nguồn gốc truyện
Lục Vân Tiên, Hoàng Ngọc Phách, Lê Trí Viễn, Vũ Đình Liên có nói: “Cứ theo
Nguyễn Đình Chiểu thì Lục Vân Tiên nguồn gốc ở một cuốn tiểu thuyết Trung Quốc
nhan đề là truyện Tây minh…Nhưng truyện Tây minh thì đến nay vẫn chưa biết là có
hay không vì những bảng kê tác phẩm trong các văn học sử Trung Quốc không thấy
đâu nói đến. Cũng có thể là không có cuốn Tây minh nào cả và cốt truyện Lục Vân
Tiên là do tác giả dựa vào thân thế mình và những hiểu biết của mình về truyện Nôm
của ta và các tiểu thuyết Trung Quốc mà sáng tạo ra” [39;435].
Có thể nói nếu cho rằng tác phẩm có nguồn gốc cốt truyện từ Trung Quốc
thì còn rất nhiều điều cần xem xét vì rằng ở đó có những chỗ không hợp với thực tế
18
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
bên Trung Quốc, mặc dù truyện được lấy bối cảnh ở nước Sở. Và những chi tiết trong
tác phẩm cần phải bàn lại vì nó không hợp với thực tế. Ở đây chúng tôi không đi sâu
vào nguồn gốc của truyện mà chỉ dừng lại ở hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Cho dù
Lục Vân Tiên có nguồn gốc từ Trung Quốc hay không thì đây được xem là bản tự
truyện của bản thân tác giả. Sau khi đường công danh bị gián đoạn vì cụ gặp phải
những bất hạnh lớn trong cuộc đời, Nguyễn Đình Chiểu dạy học và làm thuốc với hy
vọng bản thân sẽ giúp ích cho đời. Với một tác phẩm mang dáng dấp tự truyện,
Nguyễn Đình Chiểu đã mang đến cho đời một tác phẩm có giá trị nhiều mặt mà đến
giờ vẫn còn nguyên. Đồng thời cần nhìn nhận Lục Vân Tiên được cụ Đồ Chiểu viết ra
bằng cả tâm huyết của mình trong giai đoạn đầu và là một trong những sáng tác tiêu
biểu nhất trong văn thơ trung đại. Tác phẩm là lời tâm sự của chính tác giả đối với
cuộc đời cũng như hy vọng của ông về sự hồi phục nền tảng Nho giáo đang có dấu
hiệu suy tàn.
1.2.2. Tóm tắt cốt truyện
Truyện thơ Lục Vân Tiên bao gồm 2082 câu thơ lục bát, được phân thành 4
đoạn. Sự phân đoạn này dựa vào diễn biến của truyện.
Đoạn 1 (từ câu 1 đến câu 286): Lục Vân Tiên có quê quán ở quận Đông
Thành, là một chàng trai khôi ngô tuấn tú, sau một thời gian “Theo thầy nấu sử sôi
kinh”(Câu 11) nhân khi kinh thành có mở khoa thi chàng từ biệt thầy để lên đường
ứng thí. Trên đường về nhà chàng gặp bọn cướp Phong Lai đang ức hiếp dân lành, Lục
Vân Tiên bèn ra tay nghĩa hiệp đập tan bọn cướp, cứu được Kiều Nguyệt Nga. Cảm
kích trước tấm lòng hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài của Vân Tiên, nàng đã làm một bài
thơ để tiễn chân quân tử lên đường. Nhìn thơ biết ý, chàng đã họa lại một bài thơ.
Cuộc gặp gỡ lần đầu giữa người tài tử - kẻ giai nhân đã để lại những ấn tượng khó phai
trong lòng Kiều Nguyệt Nga, không kìm nén được tình cảm của mình nàng tự nhủ với
lòng “trăm năm cho vẹn chữ tòng” với Lục Vân Tiên.
Đoạn 2 (từ câu 287 đến câu 1264): Đánh tan bọn cướp, cứu Kiều Nguyệt
Nga, Lục Vân Tiên tiếp tục lên đường, trên đường đi, chàng gặp và kết bạn với một sĩ
tử khác là Hớn Minh. Hai người cùng kết nghĩa anh em, Hớn Minh tiếp tục lên đường,
Vân Tiên phải ghé lại thăm nhà.
19
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
Sau khi về thăm cha mẹ, Vân Tiên cùng Tiểu đồng khăn gối lên kinh. Nhớ
lời cha dặn, chàng ghé vào nhà Võ Công - người đã cùng cha chàng ước hẹn - để thăm
hỏi. Thấy Vân Tiên khôi ngô tuấn tú Võ Công lấy làm ưng ý. Cũng tại nơi đây chàng
quen và kết làm anh em với Vương Tử Trực. Hai người cùng lên kinh ứng thí, khi lên
gần tới thì hai chàng gặp Trịnh Hâm và Bùi Kiệm, bốn người cùng nhau làm thơ tại
một quán ven đường. Trịnh Hâm và Bùi Kiệm làm thơ bị chê, thấy Vân Tiên tài cao
nên đem lòng đố kỵ. Lúc sắp vào trường thi, Vân Tiên nhận được thư báo tin mẹ mất,
chàng quyết định bỏ thi về nhà chịu tang. Trên đường về, vì thương khóc mẹ, Vân
Tiên bị nhuốm bệnh, lại gặp phải toàn hạng lang băm nên bệnh ngày càng thêm nặng
rồi bị mù hai mắt. Nhân gặp Trịnh Hâm trên đường đi thi về, Hâm lừa Tiểu đồng vào
trong rừng, bắt trói lại, nói dối là Tiểu đồng đã bị cọp ăn thịt, rồi lừa đẩy Vân Tiên
xuống biển. Tiểu đồng được Sơn quân cởi trói, lầm tưởng là chủ đã chết nên dựng chòi
ở lại trông coi phần mộ. Vân Tiên bị đẩy xuống biển được giao long dìu vào bờ và
được ông chài cứu sống. Chàng nhờ ông chài đưa mình sang nhà họ Võ, thấy Tiên bị
mù nhà họ Võ bội ước, lừa bỏ vào hang Thương Tòng. Vân Tiên được Du thần và ông
Tiều đem ra khỏi hang, lại gặp Hớn Minh vì trừng trị con một vị quan huyện cậy thế
làm càng nên phải bỏ thi, đang sống lẩn lút trong rừng, chàng đưa Vân Tiên về cùng
sống tại một am vắng để dễ bề chăm sóc.
Khoa thi năm ấy Tử Trực đỗ đầu, nhân qua nhà họ Võ hỏi han tin tức của
Vân Tiên. Võ Công ngõ ý gả con gái cho, Tử Trực cự tuyệt, mắng cho một trận, y hổ
thẹn ốm chết.
Đoạn 3 (từ câu 1265 đến câu 1664): Nghe tin Lục Vân Tiên chết, Nguyệt
Nga vô cùng đau đớn và nguyện suốt đời thủ tiết để thờ chàng. Biết nàng xinh đẹp,
Thái sư đương triều đưa sính lễ cưới cho con trai mình. Bị cự tuyệt, Thái sư ôm lòng
oán hận. Nghe tin giặc Ô Qua xâm lược, Thái sư tâu vua cho Nguyệt Nga dâng cống
để giảng hòa. Thuyền cống đến ải Đồng, gần nước Ô Qua, Nguyệt Nga ôm bức tranh
vẽ hình Vân Tiên nhảy xuống biển tự tử. Nàng được sóng đưa vào bãi. Phật Bà Quan
Âm thác mộng, căn dặn nàng “ tìm nơi nương náu cho qua tháng ngày” (Câu 1526)
và nói rằng thời gian gặp Vân Tiên chỉ trong vòng đôi ba năm trở lại. Kế đó Nguyệt
Nga dạt vào nhà Bùi Công và được nhận làm con nuôi. Không ngờ Bùi Công chính là
cha Bùi Kiệm. Kiệm về nhà, thấy nàng xinh đẹp, muốn lấy làm vợ bất chấp biết rõ đây
20
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
là vợ của Vân Tiên. Nguyệt Nga tìm cách trốn đi, nàng vào rừng, nương nhờ một bà
lão dệt vải.
Đoạn 4 (từ câu 1665 đến câu 2082): Vân Tiên ở tại chùa với Hớn Minh, một
hôm nằm mơ thấy một ông Tiên cho thuốc chữa bệnh, kết quả mắt của chàng được
sáng trở lại bình thường. Sau khi sáng mắt trở lại, chàng liền về nhà thăm gia đình.
Nghe Lục ông kể lại tình cảm của Nguyệt Nga dành cho mình, chàng đã tìm đến thăm
Kiều ông, biết hết mọi sự của nàng. Vân Tiên đi thi, đỗ trạng nguyên, được nhà vua cử
đi dẹp giặc Ô Qua. Vân Tiên tiến cử Hớn Minh làm phó tướng đi diệt giặc, được chấp
nhận. Hai người ra trận, đánh tan quân giặc. Vân Tiên do đuổi theo tướng giặc một
mình lạc vào rừng sâu. Nhân vào nhà bà lão dệt vải hỏi thăm đường, chàng gặp lại
Nguyệt Nga. Vân Tiên về triều tâu rõ mọi sự với vua, kẻ gian ác bị trị tội, người nhân
nghĩa được đền đáp. Lục Vân Tiên - Kiều Nguyệt Nga sum vầy, hạnh phúc.
1.2.3. Ý nghĩa truyện thơ Lục Vân Tiên
Truyện thơ Lục Vân Tiên là một hiện tượng văn học đáng chú ý. Tác giả là
một con người phải gánh chịu biết bao bất hạnh của cuộc đời, chứng kiến nhiều cảnh
ngang trái mà lòng không thể thốt nên thành lời đã để lại cho đời một kiệt tác vô giá.
Tác phẩm còn đặc biệt ở chỗ sự tồn tại. Truyện không sống trên trang giấy mà nó sống
trong lòng người dân lao động. Hiếm có một tác phẩm nào mà chiếm được sự ưu ái
lớn như vậy. Người dân lao động miền Nam hầu như ai cũng thuộc nằm lòng vài ba
câu thơ trong truyện. Những em bé mới sinh ra đời đã được mẹ chúng hát ru bằng
những vần thơ Lục Vân Tiên. Khó mà giải thích hết sự yêu thích của người dân Nam
Bộ nói riêng và nhân dân cả nước nói chung đối với tác phẩm. Giải thích sự yêu mến
của quần chúng cần lao đối với Lục Vân Tiên, Hà Huy Giáp nhận xét: “chưa nói đến
tính bình dị, trong sáng của ngôn ngữ, tính dân tộc và đại chúng trong các hình tượng
nghệ thuật, cái chủ yếu là tác phẩm Lục Vân Tiên đã đáp ứng được cái tinh thần dũng
cảm, trọng nghĩa khinh tài, ghét gian ác, “kiến ngãi bất vi vô dũng giả” của người
nông dân miền Nam mà cũng là của mọi người dân Việt Nam chúng ta” [11;40].
Quả đúng như vậy, người ta yêu mến Lục Vân Tiên không phải ở ngôn ngữ
mà ở nội dung của nó. Ta không thể phủ nhận tác phẩm được Nguyễn Đình Chiểu viết
ra chủ yếu để giáo dục đạo lý làm người. Ông đem vào trong thơ mình hình ảnh, tấm
gương của người đời xưa mà khuyên người đời nay biết sống nhân nghĩa, thủy chung,
21
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
không gian trá. Người đọc tác phẩm như thấy mình trong gương, họ rất sợ “luật nhân
quả” vì vốn người dân sống theo phương châm “gieo nhân nào gặp quả đó”, bởi thế
họ rất yêu mến chàng Lục Vân Tiên biết sống vì nghĩa, ra tay cứu người không mong
gì đến đền đáp và đặc biệt chàng còn là một con người trung hiếu vẹn toàn; khâm phục
tấm lòng chung thủy kiên trinh của nàng Nguyệt Nga; một Tử Trực, Hớn Minh tận tụy
hết lòng vì bạn, không bỏ bạn lúc bạn gặp nguy, biết phân định đúng sai, không sợ
cường quyền; những ông Ngư, ông Quán, ông Tiều thà nghèo vật chất nhưng lại biết
sống vì tình.
Lục Vân Tiên ca ngợi chính nghĩa, phê phán sự bất nhân bất nghĩa. Tác
phẩm là ngọn cờ đầu trong phong trào chống lại những bất công, bảo vệ cho nền tảng
đạo đức đã có từ lâu đời. Nói như vậy không có nghĩa nó chỉ có nội dung hay mà Lục
Vân Tiên còn có ý nghĩa ở mặt hình thức. Cụ Đồ Chiểu đã tận dụng triệt để chất liệu
dân gian vào tác phẩm của mình. Những ngôn ngữ trong truyện không cao sang, xa vời
với quần chúng mà nó dường như rất gần gũi, như chính lời ăn tiếng nói của người lao
động.
Như vậy, ý nghĩa truyện thơ Lục Vân Tiên nằm cả ở nội dung và hình thức.
Cả hai phần này bổ sung và tác động qua lại lẫn nhau. Nếu tìm hiểu truyện Lục Vân
Tiên mà chỉ đi một khía cạnh thì tin chắc rằng chúng ta sẽ không thấy hết giá trị của
tác phẩm này. Hãy hiểu rằng tác giả xây dựng nhân vật, sử dụng ngôn ngữ bình dân,
dùng các điển tích, điển cố chỉ nhằm nêu bật lên phần nội dung của tác phẩm mà thôi.
22
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
CHƯƠNG 2
ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TRUYỆN THƠ LỤC VÂN TIÊN
2.1. Truyện thơ Lục Vân Tiên ca ngợi công lý, chính nghĩa
Là truyện thơ được tác giả Nguyễn Đình Chiểu xây dựng trên nền tảng đạo đức
Nho giáo, nên mỗi hành động, cử chỉ hay lời nói của các nhân vật chính diện đều là
những tấm gương về trung - hiếu - tiết - nghĩa. Vì thế thật không khó hiểu khi tác giả
xây dựng cho các nhân vật của mình giống như một bậc thánh nhân, luôn luôn hành
động theo phương châm đạo đức có sẵn trong xã hội. Họ là những ngọn cờ đại diện
cho nhân nghĩa đạo đức, đấu tranh không mệt mỏi vì một lý tưởng tốt đẹp.
2.1.1. Nhân nghĩa
Nhân nghĩa là đạo đức của nhân dân, là gốc rễ để trau dồi, rèn giũa con
người. Một người không thể sống không có lòng nhân việc nghĩa, nền tảng đạo đức
này xuyên suốt truyền thống văn hóa của người dân Á Đông trong đó có người dân
Việt Nam. Tư tưởng cao đẹp ấy được Nguyễn Đình Chiểu chuyển tải vào trong truyện
thơ Lục Vân Tiên và trở thành sợi chỉ xuyên suốt tác phẩm. Mỗi nhân vật đều hành
động theo phương châm:
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
(179 - 180)
Nhân vật trong tác phẩm từ những con người được ăn học đàng hoàng như
Lục Vân Tiên, Hớn Minh đến những con người “vô danh tiểu tốt”, không có tên tuổi
và được gọi bằng nghề nghiệp của mình, thế mà tất cả họ đều ra tay hiệp nghĩa khi có
cơ hội. Họ có một tấm lòng thương người vô hạn, sẵn sàng làm mọi chuyện vì tình
thương ấy cho dù có hại đến bản thân mình.
Khi biết bọn cướp đang ra tay làm hại dân chàng tỏ ra rất dứt khoát, không
có vẻ gì là sợ hãi trước những lời khuyên cũng như cảnh báo của người dân và ra tay
dẹp yên lũ cướp giống như một dũng sĩ. Vân Tiên không chỉ hiện thân cho một anh
học trò siêng năng mà chàng là đại biểu cho những con người biết sống vì lòng thương
người. Lòng nhân nghĩa ấy không có một chút gì vụ lợi, làm ơn chỉ vì “kiến ngãi bất
23
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
vi vô dũng giả”, để rồi khi được trả ơn chàng thẳng thừng từ chối không hề do dự:
“Làm ơn há dễ trông người trả ơn”.(Câu 176)
Ơn nghĩa là việc thường tình ở đời, ta làm việc nghĩa người nhớ ơn cũng là
việc bình thường ở đời nhưng nếu nhận sự trả ơn ấy thì cũng không phải là một người
quân tử thật sự, đấy không phải là hành vi của một thanh niên có học. Lục Vân Tiên
được theo học dưới nền đạo đức Khổng Mạnh vì thế mỗi việc làm của chàng đều tựu
trung trong hai chữ nhân nghĩa.
Hớn Minh cũng là một trường hợp giống như vậy. Chàng trai có thân hình
“dị thường” này cũng hành động vì lòng thương người, vừa thấy chuyện bất bình là ra
tay cứu ngay. Trên đường đi thi thấy tên con quan huyện đang giở trò tồi tệ với gái nhà
lành chàng liền “vật ngay xuống đất bẻ đi một giò” (Câu 1162). Biết rằng việc mình
làm sẽ gây liên lụy cho người khác nếu như chàng không tự mình ra nhận tội. Và thế là
Hớn Minh đã “Bó tay chịu trói nộp cho huyện đàng. (Câu 1164)
Việc làm của Hớn Minh nếu chỉ nghĩ đơn giản là “dám làm dám chịu” thì
không thể hiểu hết được ý nghĩa của “việc bó tay chịu trói” ấy. Hai việc làm liên tiếp
của chàng đều xuất phát từ tấm lòng thương người, việc làm thứ nhất chàng thương
người thế cô phải chịu áp bức của những tên công tử con nhà quan “ăn không ngồi
rồi”, việc làm thứ hai tưởng chừng thể hiện sự anh hùng trong việc mình gây ra nhưng
không chỉ vậy mà còn xuất phát từ việc chàng lo lắng cho số phận của những con
người vô tội vì việc mình làm mà họ phải gánh lấy, khi đó giúp người không vẹn mà
còn làm hại tới những người vô can khác.
Chàng họ Lục cùng với Hớn Minh đều ra tay nghĩa hiệp cho dù hậu quả
mình gánh lấy có thể là vô cùng lớn lao. Ta có thể cho rằng hai chàng trai khác nhau
nhưng có cùng một quan điểm sống hết mình vì lý tưởng nhân nghĩa là do họ được
theo học nền đạo đức Nho giáo. Tuy nhiên, nên nhớ rằng trong tác phẩm Nguyễn Đình
Chiểu đã cho xây dựng những nhân vật rất bình thường. Họ không giàu về vật chất,
không phải là những người có địa vị trong xã hội mà họ rất bình thường, sống bằng
chính sức lao động của mình những cũng sẵn sàng ra tay cứu giúp người hoạn nạn qua
cơn khốn cùng.
Ông Ngư thấy Vân Tiên bị trôi sông, liền không do dự mà vớt ngay lên bờ,
trong đầu ông chẳng hề lo sợ về lai lịch của chàng mà chỉ muốn nhanh chóng cứu
24
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
người thoát cơn hoạn nạn. Cả nhà ông Ngư xúm xít với nhau cùng cứu Vân Tiên một
cách tích cực, đầy nhiệt tình:
Hối con vầy lửa một giờ,
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.
(949 - 950)
Cả nhà cứu Vân Tiên giống như chính người thân của họ gặp nạn. Sau khi
cứu sống ông còn khuyên chàng ở lại cùng gia đình, cùng chung sống dưới mái nhà
như một thành viên. Không riêng gì ông Ngư mà ông Tiều cũng vậy, cũng cứu giúp
Lục Vân Tiên qua cơn khốn cùng. Sau khi chàng bị gia đình họ Võ bội ước và bị bỏ
vào hang, đang trong cơn đói khát, tưởng chừng mình sẽ chết nhưng không ngờ có một
ông Tiều xuất hiện. Lão Tiều cũng giống như ông Ngư, cũng sẵn sàng cứu giúp người
qua cơn hoạn nạn. Lão lên núi đốn củi chỉ có đem theo nắm cơm để ăn, thế mà khi
nghe Vân Tiên kể lại sự tình của chàng thì ông Tiều liền: “ Mở cơm trong gói miệng
mời Vân Tiên. (Câu 1116)
Cũng giống như ông Ngư, ông Tiều đã cứu giúp Lục Vân Tiên thì lão bà ra
tay che chở cho Kiều Nguyệt Nga khi nàng trốn khỏi nhà Bùi Kiệm cũng là một tấm
lòng thương người và hành động vì tình thương đó. Theo như lời giải thích về sự tình
cờ của mình là do lời dạy bảo của Phật bà Quan Âm, nhưng thiết nghĩ nếu như bà lão
không có một tấm lòng thương người hoạn nạn thì làm sao bà lại tìm đến Nguyệt Nga
để dắt nàng về chung sống với mình cho được. Hành động ấy của bà có khác nào ông
Ngư, ông Tiều khi cứu giúp Lục Vân Tiên.
Khác với những nhân vật trên, ông Quán cũng là điển hình của lòng thương
người. Ông không cứu Vân Tiên thoát dòng nước như ông Ngư, không cưu mang
người hoạn nạn như ông Tiều, hay che chở cho người không nơi nương thân như bà
lão mà ông chỉ nêu lên quan điểm ghét thương ở đời. Tuy nhiên cũng từ những quan
điểm đó ta thấy ở ông một tấm lòng dành cho nhân loại. Ông thương những ai? Đó là
những bậc quân tử, minh quân, thương những con người biết nghĩa nhân, biết đạo
nghĩa ở đời. Ông ghét ai? Đó là những tên hôn quân bạo chúa, những tên quan tham,
những tên lừa thầy phản bạn. Ta nhớ lại lúc Vân Tiên lên đường ông Quán đã tận tay
đưa cho chàng ba hườn thuốc để dành hộ thân. Ông không biết việc tương lai nhưng gì
mến mộ tài năng của chàng họ Lục, lo cho Tiên bị những kẻ tiểu nhân hãm hại, lại có
25
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
lòng thương người nên ông đã thẳng thắn mắng vào bọn người Trịnh Hâm, Bùi Kiệm.
Có lẽ ông Quán hay ông Ngư và ông Tiều đều là những người lao động làm nghề bình
thường nhưng cách cư xử của họ khác lẽ thường. Bởi lẽ người ta lao động là mong tìm
kiếm lợi nhuận cho bản thân nhưng ông Ngư bỏ cả việc chài lưới, cả gia đình tập trung
cứu Vân Tiên, rồi ông Tiều lên rừng đốn củi với vắt cơm thế mà ông đã cho chàng cả
cơm lại còn bỏ giở công việc để cõng chàng về nhà, rồi đến ông Quán sẵn sàng làm
mất lòng khách. Có thể nói hiếm thấy đâu những con người đầy lòng nghĩa hiệp như
thế trong cuộc sống.
Hầu như tất cả những nhân vật chính diện trong tác phẩm đều hành động và
cư xử theo tiêu chuẩn nhân nghĩa. Tuy nhiên cần nhận thấy rằng nhân nghĩa ở đây
không theo một chuẩn mực có sẵn nào, những người thi hành nó không có chức cao,
quyền trọng hay giàu sang phú quý mà họ là người lao động bình thường trong xã hội,
những người học trò nghèo chưa lập nên công danh sự nghiệp. Nhân nghĩa ở đây nói
một cách nôm na, dễ hiểu đó chính là nó xuất phát từ nhân dân, lấy lợi ích nhân dân
làm trọng, nó không phục vụ bất cứ lợi ích nào mà ngược lại. Người ra tay thi hành tư
tưởng cao quý ấy không mong gì đền đáp, họ chỉ mong giúp người qua cơn hoạn nạn.
Hành động ấy chỉ có thể xuất phát từ những người lao động bình thường, bởi vì ở
trong họ tình nghĩa là cao quý nhất.
2.1.2. Hiếu nghĩa
Trong kho tàng truyện thơ Nôm nước ta không thiếu chi tấm gương của
những trang hiếu tử. Nếu như nàng Thoại Khanh trong Thoại Khanh - Châu Tuấn cắt
thịt cho mẹ chồng ăn qua cơn đói thì nàng Kiều trong Truyện Kiều - một kiệt tác của
đại thi hào Nguyễn Du - đã hy sinh một tình yêu đẹp để cứu cho cha và em khỏi vòng
lao lý, đồng thời nàng đã bảo đảm cho gia đình mình luôn bình an. Hai tấm gương về
tấm lòng hiếu thảo đối với đấng sinh thành cũng như hàng loạt tấm gương sáng khác
mà truyện Nôm đề cập. Tuy nhiên chưa bao giờ tấm lòng hiếu thảo của một người con
lại trở thành một hình tượng đẹp như trong truyện thơ Lục Vân Tiên.
Có thể nói chữ hiếu trong tác phẩm này được cụ Đồ Chiểu khắc họa đậm nét
với nhiều chi tiết đi sâu vào lòng người. Vân Tiên của chúng ta sinh ra trong một gia
đình “tu nhơn tích đức”, cha mẹ không cho chàng về mặt vật chất nhiều nhưng ngược
lại họ đã cho chàng một hình hài, dạy dỗ chàng nên người. Họ gửi Vân Tiên theo học
26
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
với một người thầy đức độ với hy vọng con mình có thể lập nên công danh, tạo dựng
sự nghiệp. Ngày đêm Tiên “nấu sử sôi kinh” chỉ mong không phụ tấm lòng của cha
mẹ dành cho mình. Vân Tiên vâng lời cha mẹ ngày đêm học hành, đến cả việc hôn
nhân đại sự của mình chàng cũng vâng theo lời sắp đặt của phụ mẫu cho dù người vợ
đó có thể bản thân không có tình cảm. Nếu cho rằng việc Vân Tiên vâng lời cha mẹ
cưới Võ Thể Loan là một lẽ thường trong đạo đức phong kiến đã có từ lâu đời ở nước
ta thì không sai chút nào. Nhưng ở đây nên xét ở mức độ chữ hiếu. Nếu như Vân Tiên
không đồng ý cuộc hôn nhân này thì có thể thuyết phục song thân hủy bỏ hôn ước với
gia đình họ Võ. Vậy mà Lục Vân Tiên không làm như vậy vì đơn giản đây là một
người con biết bảo vệ chữ tín cho đấng sinh thành của mình.
Lên đường đi thi mong lập công danh, trước là muốn giúp ích cho nước nhà,
sau là đền ơn của phụ mẫu thế nhưng khi vừa bước vào trường thi hay tin mẹ qua đời
Vân Tiên không hề do dự mà quyết định về quê chịu tang mẫu từ ngay. Trong trái tim
của chàng lúc này chỉ còn có hình ảnh người mẹ già không may qua đời sớm mà thôi.
Lục Vân Tiên vẫn còn một con đường, đó chính là tiếp tục đi thi vì cơ hội lập thân
đang trước mặt, chàng có thể đỗ đạt tiếp đó vinh hiển về chịu tang mẹ sau cũng được.
Nhưng Nguyễn Đình Chiểu không để cho nhân vật mình làm như thế. Vì đơn giản
nhân vật của ông biết suy nghĩ thiệt hơn. Hành động bỏ thi về quê chịu tang mẹ chứng
tỏ chàng là con người biết điều gì là quan trọng đối với mình hiện tại. Ta thử nghĩ nếu
như chàng vẫn tiếp tục thi sau đó về chịu tang thì sẽ đi ngược lại với đạo nghĩa một
người hiếu tử. Bởi đơn giản tang mẹ thì chỉ có một, không thể đợi chờ nhưng khoa thi
lần này không thi được thì lần sau cũng có thể đỗ đạt vinh hiển. Chàng đã bỏ cả cơ hội
tốt để tạo dựng sự nghiệp chỉ để về chịu tang mẫu thân đủ thấy Lục Vân Tiên là con
người như thế nào rồi. Có người cho rằng hành động này của chàng có vẻ yếu đuối
không hợp với chí khí nam nhi. Nhưng hãy nghĩ kỹ xem chàng có bao nhiêu người mẹ
và khi mẹ qua đời thì việc gì là cần kíp hơn là lo cho hậu sự, huống hồ Vân Tiên của
chúng ta là đứa con trai duy nhất của gia đình học Lục thì việc chàng về chịu tang lập
tức là đều tất yếu. Còn công danh thì vẫn ở đó đợi vì Vân Tiên là con người “văn võ
toàn tài” nên vấn đề thi đậu là sớm muộn.
Bỏ thi về chịu tang đã là biểu hiện của một tấm lòng hiếu tử. Nhưng trong
trái tim của người con đó luôn nghĩ về “chín chữ cù lao” của cha mẹ dành cho mình.
27
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
Và khi nhắc đến công lao sinh thành dưỡng dục đó chàng luôn tự trách
mình:
Mang câu bất hiếu đã đành,
Nghĩ mình mà thẹn cho mình làm con.
(625 - 626)
Lục Vân Tiên luôn tự trách bản thân mình chưa làm được gì cho cha mẹ đã
đành, vậy mà đến lúc mẹ qua đời cũng không có mặt mình ở bên cạnh để sớm hôm lo
cho mẹ già. Những việc Tiên làm để mong báo hiếu với cha mẹ tự bản thân cho là
không đủ hay nói đúng hơn chàng xem mình chưa phải là một trang hiếu tử. Cho nên
chàng đã khóc thương mẫu từ để rồi phải mang bệnh vào mình và “Ôi thôi con mắt đã
mang lấy sầu” (Câu 642). Ở đây tình tiết chàng bị mù vì khóc thương mẹ theo nhiều
nhà nghiên cứu nhận định đều cho rằng rất giống với cuộc đời của tác giả. Đến khi đỗ
đạt việc đầu tiên chàng làm chính là về quê tạ lỗi trước mộ của mẹ. Lời thơ tế mẹ của
Vân Tiên và tình mẫu tử thiêng liêng trong truyện này một lần nữa minh chứng rằng
ông không lấy một thứ lễ giáo phong kiến nào để làm khuôn mẫu cả mà nó xuất phát
từ trong trái tim của mỗi người con.
Trong tác phẩm Lục Vân Tiên còn có một nhân vật cũng xem là một tấm
gương hiếu thảo, tuy rằng những chi tiết thể hiện đều đó không rõ nét như Lục Vân
Tiên nhưng cũng đủ thấy nàng là một người con chí hiếu, đó không phải ai khác mà
chính là nàng Kiều Nguyệt Nga. Ta nhớ lại cảnh nàng và Vân Tiên gặp nhau là lúc
chàng cứu Nguyệt Nga khỏi tay bọn cướp thế nhưng nguyên nhân xảy ra việc cướp
kiệu giữa đường là do nàng vâng lời cha về phủ đường tính chuyện trăm năm. Nếu như
nàng không phải là một người con biết suy nghĩ về câu “dưỡng dục sinh thành” thì
nàng không nghe lời cha dạy bảo. Câu nói sau của Nguyệt Nga chứng tỏ tấm lòng hiếu
thảo của nàng đối với đấng sinh thành:
Làm con đâu dám cãi cha,
Ví dầu ngàn dặm đường xa cũng đành.
(159 - 160)
Nàng không dám hay đúng hơn nàng không bao giờ muốn cãi lại lời cha.
Lời cha là mệnh lệnh cho dù khó khăn, vất vả nàng cũng muốn vâng lời để thân phụ
vui lòng. Cũng vì nghĩ đến cha già nên dù chung thủy với Vân Tiên nàng cũng chấp
28
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
nhận lệnh vua đi cống Ô Qua, trước muốn giữ cho đất nước khỏi ngoại xâm, sau là giữ
cho cha nàng khỏi mắc tội danh chống lại chiếu vua. Việc làm ấy của nàng tưởng
chừng chỉ biểu hiện cho chữ trung nhưng thực chất nó thể hiện chữ hiếu đối với đấng
sinh thành. Những lời nàng nói với cha khi nghe tin triều đình lệnh bảo nàng sang Ô
Qua như lấy biết bao nước mắt của người nghe, cha nàng cũng đang đứt từng khúc
ruột khi biết con luôn nghĩ tới:
Tuổi già bóng xế nhành dâu,
Sớm xem tối xét, ai hầu cho cha?
(1429 - 1430)
Chàng Lục Vân Tiên vì tang mẹ mà bỏ thi, khóc thương mẹ đến nỗi bị mù
mắt. Nàng Kiều Nguyệt Nga nghe lời cha không ngại khó khăn, đường xa vất vả, sợ
cho cha bị triều đình trách phạt nên phải sang cống Ô Qua. Những việc làm của đôi
trai tài gái sắc ấy rất bình thường và ta dường như có thể bắt gặp những hành động
tương tự như vậy trong cuộc sống thường nhật của người dân lao động. Con khóc
thương mẹ khi mẹ qua đời, biết vâng lời cha mẹ không ngại gian lao khổ cực hay còn
nhiều cách làm khác để thể hiện một người con có hiếu với đấng sinh thành. Chữ hiếu
không được nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu miêu tả giống các tấm gương của Nhị thập tứ
hiếu mà nó rất bình dị nhưng lại phù hợp với nền văn hóa đạo đức của Việt Nam, được
dân tộc ta chấp nhận. Nó không xa rời nhân dân mà rất gần gũi như chính cuộc sống
của họ.
2.1.3. Tình nghĩa
Tình nghĩa không phải là con số cộng tình với nghĩa mà là một phức hợp xã
hội đạo lý làm người của dân tộc Việt Nam. Đó không đơn giản là ứng xử, sống theo
nghĩa vụ - thuần lý trí hoặc nặng tình cảm. Mà ở đấy con người sống với nhau bằng cả
lý trí và tình cảm. Trong truyện thơ Lục Vân Tiên là một ví dụ điển hình của hai chữ
tình cộng nghĩa, tất cả các nhân vật ở đấy đều sống với nhau bằng cả tình cảm và nghĩa
vụ. Đó là tình nghĩa cha mẹ với con cái, thầy trò, bạn bè, vợ chồng, những con người
cùng sống trong một cộng đồng, họ sống tựu trung với nhau bằng hai chữ tình nghĩa.
Trong cuộc sống này mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái không chỉ là mối
quan hệ một chiều. Họ sinh ra con cái, nuôi dưỡng, dạy dỗ cho chúng không chỉ có
trách nhiệm mà còn chan chứa một tình cảm yêu thương trong đó. Tuy nhiên con cái
29
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
cũng phải biết vâng lời và lo nghĩ đến đấng sinh thành của mình. Lục Vân Tiên đã đề
cập tương đối đầy đủ mối quan hệ đó. Cha mẹ Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga cho
con ăn học đến nơi đến chốn, luôn cả việc chung thân đại sự của con mình họ cũng đã
lo từ lúc con còn nhỏ. Họ lúc nào cũng mong cho con những điều tốt đẹp nhất. Còn
những đứa con yêu quý của họ chẳng những kính cha, mến mẹ mà luôn thực hiện
nghĩa vụ và trách nhiệm của người làm con với cha mẹ.
Tình cảm giữa thầy và trò trong Lục Vân Tiên cũng là một điển hình sinh
động của tình nghĩa. Thầy của Vân Tiên không những dạy cho chàng chữ nghĩa mà
người thầy ấy luôn trăn trở lo lắng cho tương lai của đứa học trò của mình. Người thầy
trong tác phẩm dường như chính là hình ảnh của cụ Đồ Chiểu - một người thầy lấy
nhân nghĩa, đạo đức dạy cho những người học trò của mình. Người thầy đấy không chỉ
cho Vân Tiên đạo đức thánh hiền, dạy cho trò mình biết đạo nghĩa ở đời mà còn lo cho
con đường công danh của người học trò đó. Biết trò mình sẽ gặp điều không may nên
“Thầy cho hai đạo phù thần đem theo.” (Câu 32)
Dạy cho trò nên người nhưng lòng thầy có bao giờ quên được đứa học trò
ngoan của mình đâu, thầy luôn muốn dõi theo từng bước chân của nó. Thầy luôn nghĩ
về trò, còn trò thì sao? Có phải họ đã đủ đầy kiến thức rồi thì sẽ quên đi hình ảnh
người đã đưa mình đến bến bờ công danh hay không? Hoàn toàn không vì người học
trò mang tên Lục Vân Tiên lúc nào cũng nghĩ đến ân sư đã dạy dỗ chàng nên người.
Dù rằng ta biết Tiên đi thi là muốn đỗ đạt, tạo lập công danh cho bản thân nhưng mục
đích đỗ đạt cũng nhằm làm “tiếng thầy bay xa”. Điều này chứng minh một người thầy
có tiếng tăm hay không, có được sự xem trọng của xã hội thì một phần phụ thuộc vào
trình độ của người ấy nhưng phần lớn dựa vào trình độ của những người học trò mà
người đó dạy. Nếu như một người thầy có tài sẽ đào tạo nên những thế hệ học trò giỏi
giang, có cả kiến thức và đạo đức, nhưng ngược lại nếu người học trò ấy dốt nát,
không lập nên sự nghiệp gì vinh hiển người ta sẽ cho rằng do chính thầy dạy họ mà ra.
Thứ hai, cho dù sau này người học trò có đỗ đạt thì cũng không quên công ơn của thầy
dạy dỗ mà lúc đó họ sẽ làm tiếng thầy vang xa vì nhờ thầy mà những con người đó có
được tương lai tươi sáng. Cho dù hiểu theo nghĩa nào đi nữa thì mối quan hệ thầy trò ở
đây là hai chiều, thầy cho trò cả đạo lý làm người, trò học thành đạt làm rạng danh của
thầy. Tiếp theo tình thầy trò đó là tình bạn bè gắn bó thủy chung với nhau. Tình bạn
30
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
giữa Lục Vân Tiên, Hớn Minh và Vương Tử Trực là của những con người tài hoa, biết
trọng nhân nghĩa đạo đức. Cuộc gặp gỡ giữa Vân Tiên và Hớn Minh thật là “bình thủy
tương phùng” và là cuộc hội ngộ giữa hai con người anh hùng trên bước đường vạn lý.
Vân Tiên thấy diện mạo của Hớn Minh “dị tướng” nên đem lòng ngưỡng mộ, có ý
muốn kết làm bằng hữu, muốn cùng nhau lập nên sự nghiệp lớn. Nếu Hớn Minh và
Vân Tiên gặp nhau là cuộc tri ngộ của những con người chí khí, có lòng hào hiệp thì
Tiên và Trực là cuộc hạnh ngộ của hai con người tài hoa, biết nhân nghĩa thủy chung.
Vì mến tài thơ văn của nhau mà chàng họ Lục đã kết bái anh em với họ Vương. Sự hội
ngộ của ba con người kể trên rất ngắn ngủi, họ hoàn toàn chưa hiểu hết về nhau thế
nhưng khi Vân Tiên gặp nạn hai người bạn ấy không hề bỏ rơi chàng.
Sau khi Vân Tiên bị gia đình họ Võ bội hôn và đem bỏ vào hang Thương
Tòng được Du thần cùng với ông Tiều cứu giúp chàng gặp lại Hớn Minh trong rừng.
Ta lo sợ cho họ Lục gặp phải một người bạn phản trắc như Trịnh Hâm nhưng không,
Hớn Minh đã làm đều ngược lại hành động của tên họ Trịnh. Minh gặp Tiên khi chàng
vừa thoát khỏi cơn ác mộng của năm ngày trong hang núi không có gì ăn cùng với đôi
mắt đã bị mù lòa. Thấy bạn mình gặp nạn Hớn Minh vội hỏi qua cớ sự và biết được
chính ông Tiều là người cứu giúp bạn qua cơn hoạn nạn, thì “Hớn Minh quỳ gối lạy
liền” (Câu 1135), lại còn muốn thay bạn trả ơn. Chàng xem ông Tiều cũng là ân nhân
của mình khi cứu Vân Tiên. Hành động “quỳ gối lạy liền” chỉ sự dứt khoát, không có
gì e ngại khi tạ ơn ông Tiều. Nên nhớ rằng lúc này chàng phải sống lén lút trong rừng
vì việc mình làm nhưng không hề do dự khi nhận Vân Tiên về chăm sóc. Dân gian ta
có câu: “Trong khó khăn mới biết ai là bạn hiền” thật đúng với trường hợp của Vân
Tiên và Hớn Minh lúc bấy giờ.
Khi Vân Tiên được một ông Tiên cho thuốc chữa hết bệnh và thi đỗ trạng
nguyên. Lúc ấy chàng cũng không quên người bạn đã cưu mang mình khi hoạn nạn.
Được chiếu vua đi dẹp giặc, Lục Vân Tiên đã nhân cơ hội đó xin tha tội cho Hớn Minh
lại còn phong cho bạn mình làm phó tướng cùng đi diệt giặc.
Nói về tình bạn của Vương Tử Trực đối với Vân Tiên cũng không kém gì
Hớn Minh. Mặc dù chàng không chăm sóc bạn trong lúc khó khăn, bệnh tật nhưng
những việc làm của chàng cũng minh chứng được tấm lòng thủy chung với bạn hiền.
Việc đầu tiên sau khi đỗ đạt của Tử Trực là tìm kiếm tin tức của bạn mình. Khi gia
31
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
đình họ Võ dối gạt là bạn mình qua đời vì bệnh tật chàng không khỏi xót xa, thương
mến:
Nghe qua Tử Trực chạnh lòng,
Hai hàng nước mắt ròng ròng như mưa.
(1209 - 1210)
Thương bạn bao nhiêu chàng không thể chấp nhận được hành động của cha
con Võ Thể Loan đối với Vân Tiên bấy nhiêu. Những câu chửi của Tử Trực dành cho
cha con họ Võ thể hiện tính cương trực trong con người chàng và đồng thời cũng minh
chứng được tấm lòng gắn bó keo sơn của Trực với bạn. Hai người biết nhau chưa lâu
nhưng vì mến tài của nhau nên cả hai đã kết giao thành tri kỷ, tri âm. Người kia không
may gặp nạn người còn lại xót xa, đau đớn.
Tình bạn của ba người không khác gì so với những bậc cố nhân trong lịch
sử. Nguyễn Đình Chiểu miêu tả tình bạn của họ hay cũng chính là muốn nói về những
người bạn của chính bản thân mình. Lục Vân Tiên và cụ Đồ Chiểu gặp những điều
không may trong cuộc sống nhưng bù lại cả hai còn có những người bạn luôn sẵn sàng
có mặt khi cần. Tình bạn là sự cho đi không nhận lại bao giờ nhưng tình cảm của họ
lại có sự qua lại lẫn nhau. Vân Tiên được bạn giúp đỡ trong những lúc khó khăn, hoạn
nạn, những người bạn ấy không cần sự đền đáp nhưng khi chàng vượt qua tất cả những
khó khăn, được vinh hiển thì họ Lục vẫn không quên cái ơn cưu mang của bạn hiền.
Khi miêu tả tình cảm vợ chồng, Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa một bức
tranh sinh động của tình vợ nghĩa chồng gắn bó, thủy chung không gì có thể xóa đi
hoặc ngăn cản. Đó là tình cảm của Kiều Nguyệt Nga dành cho Lục Vân Tiên, nàng
thủy chung giữ mãi hình bóng của chàng cho dù Tiên không hề có một lời đính ước
hay thề nguyền. Thế nhưng qua bao nhiêu sóng gió nàng vẫn giữ nguyên tấm lòng
trinh nguyên ấy. Cuộc gặp gỡ giữa đường ngày nào làm cho Nguyệt Nga giữ mãi hình
bóng của một chàng trai đầy lòng hào hiệp nhưng không bao giờ nhận sự trả ơn. Để rồi
từ đó Nguyệt Nga giữ mãi tình cảm, vượt qua bao khó khăn, cám dỗ trước cuộc đời
đầy sóng gió.
Là phận nữ nhi giữ chữ tiết hạnh là đều bình thường vào thời phong kiến
ngày xưa nhưng đó là giành cho những người được cưới hỏi hoặc ít nhất cũng có đính
ước đàng hoàng, còn Nguyệt Nga của chúng ta gắn bó với Vân Tiên là do chính nàng
32
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
tự nguyện, không có sự ràng buộc nào cả. Còn chàng Lục Vân Tiên khi gặp lại nàng
sau bao năm xa cách và được kể lại tất cả mọi việc mà Nguyệt Nga đã làm vì mình thì
“Vân Tiên vội vã xuống quỳ vòng tay”.(Câu 1185)
Ngày xưa đạo đức truyền thống không cho phép người nam quỳ xuống chân
người nữ nhưng ở đây Nguyễn Đình Chiểu đã để cho chàng làm đều đó. Hành động đó
của Lục Vân Tiên, chúng ta không thể trách được bởi vì lúc này Nguyệt Nga không
còn là người chịu ơn nữa mà đã trở thành người gia ơn đối với chàng. Trong lòng họ
Lục không chỉ có tình cảm đơn thuần là yêu mến mà chàng cảm thấy mình đã chịu ơn
rất nhiều trước người con gái ấy. Lúc này Lục Vân Tiên gắn bó với Kiều Nguyệt Nga
không chỉ có tình mà còn có cái nghĩa lớn lao hơn.
Một loại tình cảm đặc biệt của truyện Lục Vân Tiên là tình chủ tớ. Trong các
truyện Nôm bác học cũng như bình dân loại tình cảm này không được các tác giả đem
ra miêu tả. Họ chỉ tập trung thể hiện tình cảm vợ chồng, cha mẹ với con cái nhưng
chưa có ai đi sâu vào vấn đề này. Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa loại tình cảm đó
một cách đặc sắc, nó khác với quan hệ chủ tớ trong giai cấp thống trị. Ở đây mối quan
hệ chủ tớ giống như những người thân trong gia đình, họ không phân biệt nhiều về địa
vị mà ngược lại tất cả lấy tình cảm để đối đãi với nhau.
Lục Vân Tiên có một anh Tiểu đồng, người này có thể xem như là một
người bạn, một người thân của chàng. Ta không bàn về cái nghĩa cái tình chủ tớ theo
lối phong kiến xưa, bởi vì tác giả không thể vượt qua khỏi thời đại của mình; ta nên
nhìn cái khía cạnh hy sinh của Tiểu đồng. Lục Vân Tiên và Tiểu đồng đùm bọc, che
chở cho nhau lúc hoạn nạn, khó khăn. Khi Vân Tiên đau ốm, Tiểu đồng tận tụy vất vả
chạy tìm thầy, kiếm thuốc, chú thực thà, dễ bị bọn thầy bói, thầy pháp lừa. Và cũng
chính vì điều này càng làm bật lên nhân cách của Tiểu đồng. Hình ảnh chú chạy khắp
nơi tìm thầy để chữa bệnh cho chủ không còn là bổn phận của người đầy tớ mà nó trở
thành cái tình của con người với nhau. Chú không hề nghĩ tới thân mình sẽ vất vả bao
nhiêu chỉ mong cho chủ hết bệnh. Cũng vì thế mà Tiểu đồng bị Trịnh Hâm lừa vào
rừng. Khi bị trói giữa rừng chú không hề suy nghĩ đến tính mạng của mình có được
bảo toàn hay không mà chỉ nghĩ đến số phận của Vân Tiên và nguyện xuống suối vàng
để “đỡ tay chơn cùng”. Khi được Sơn thần cứu sống chú lập tức đi tìm chủ, lầm tưởng
Tiên đã chết thì:
33
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
Tiểu đồng nằm giữa rừng hoang,
Che chòi giữ mả lòng toan trọn bề.
(925 - 926)
Suốt bao năm tháng chú che chòi giữ mả cho chủ mà không hề kêu than một
tiếng nào. Hành động tự nguyện đáng khen này càng làm cho nhân cách của Tiểu đồng
trở nên trong sáng hơn. Bởi vậy mới nói Nguyễn Đình Chiểu miêu tả những nhân vật
có tình có nghĩa không hạn chế ở hạng người nào cả trong xã hội, từ một anh Tiểu
đồng vô danh cũng biết sống vì nghĩa vì tình với chủ thì không lý gì những con người
còn lại trong xã hội không biết sống lấy nhân nghĩa làm đầu.
Tuy nhiên mối quan hệ chủ tớ nếu chỉ dừng lại ở đó thì không có gì đáng
nói, bởi đơn giản Tiểu đồng trung thành với chủ là một điều tất yếu trong xã hội phong
kiến bấy giờ. Mà điều đáng chú ý ở đây là mối quan hệ hai chiều của chủ và tớ. Tớ đối
với chủ hết lòng nhưng chủ không bao giờ xem tớ là hạng nô lệ mà ngược lại Vân
Tiên cư xử với Tiểu đồng giống như một người thân của chàng. Khi Trịnh Hâm lừa
chàng rằng Tiểu đồng bị cọp ăn thì: “Vân Tiên than khóc nằm lăn” (Câu 877)
Chàng khóc thương Tiểu đồng không chỉ là một người đầy tớ trung thành
với chủ mà Vân Tiên còn khóc cho một người bạn đã cùng mình qua biết bao hoạn
nạn. Đến khi đỗ đạt, về lại chốn cũ Lục Vân Tiên đã lập đàn tế Tiểu đồng, lời chàng
gởi đến Tiểu đồng sao mà da diết đến thế:
Tiểu đồng hồn bậu có thiêng
Thỏa tình thầy tớ lòng thiềng ngày nay?
(2003 - 2004)
Cũng chính vì hai người có tình cảm gắn bó như anh em nên mới có cuộc
đoàn tụ ngoài sự mong đợi của cả hai.
Nói về tình chủ tớ trong tác phẩm cụ Đồ Chiểu còn miêu tả mối quan hệ
giữa Kiều Nguyệt Nga và Kim Liên. Tuy rằng Kim Liên không cùng tiểu thơ của mình
vượt qua những gian nan như Lục Vân Tiên và Tiểu đồng nhưng hành động hy sinh
của cô hầu gái ấy cũng khiến ta khâm phục. Khi Kiều Nguyệt Nga quyết định trầm
mình để giữ tròn chữ tiết hạnh đối với Vân Tiên thì Kim Liên đã nhanh trí đem mình
thay vào chỗ của tiểu thơ nàng để về làm vợ vua Phiên. Lúc này Kim Liên hoàn toàn
không nghĩ đến bản thân sau này sẽ ra sao, chỉ cần biết hiện tại làm sao cho vẹn cả đôi
34
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
đường nếu không triều đình biết được thì còn rất nhiều người thác oan, thế là “Kim
Liên thế lấy làm nàng Nguyệt Nga.” (Câu 1508)
Tác giả không miêu tả về tình cảm của Nguyệt Nga và Kim Liên nhưng nếu
gia đình họ Kiều không có đối đãi tốt với nàng thì không dễ gì nàng lại hành động như
vậy. Tuy sau này Kim Liên được làm hoàng hậu vua Phiên nhưng thử hỏi nếu như
ngày ấy mọi chuyện bị bại lộ thì hoàng hậu đâu chưa thấy chỉ biết nàng sẽ bị trị tội rất
nặng.
Cho dù tác giả miêu tả mối quan hệ nào của các nhân vật đều đáng chú ý
nhất chính là nó diễn ra hai chiều chứ không theo một chiều. Cha mẹ, vợ chồng, thầy
trò, bạn bè rồi đến mối quan hệ chủ tớ, Nguyễn Đình Chiểu đều lột tả được sự tác động
qua lại của các nhân vật, nó không cho theo một chiều như ta thường thấy ở giai cấp
“ngồi trên xã hội”. Chính vì điều này mà Lục Vân Tiên mới là tác phẩm của quần
chúng vì tự bản thân nó đang miêu tả những việc xảy ra của người lao động, những
việc mà giai cấp thống trị tự nó không có được.
2.1.4. Ơn nghĩa
Người Việt Nam ta thường dạy con cháu rằng: ăn quả nhớ kẻ trồng cây hay
uống nước nhớ nguồn. Không biết tự bao giờ truyền thống ơn nghĩa ấy đã ăn sâu vào
kí ức của mỗi nguời Việt như vậy. Một hành động nhỏ giúp người trong lúc hoạn nạn,
gian truân cũng làm ta nhớ mãi không nguôi và quyết lòng tìm mọi cách để báo đền ơn
đức ấy. Và rồi cụ Nguyễn Đình Chiểu đã mang vào kiệt tác của mình truyền thống ấy
với nguyên giá trị bản thể của nó. Chưa bao giờ nền tảng đạo đức tốt đẹp này được cụ
tiếp thu một cách chặt chẽ đến như thế.
Mối tình của nàng Kiều Nguyệt Nga tài sắc và chàng Lục Vân Tiên hào hiệp
cũng bắt đầu từ sự ghi ơn tạc nghĩa. Trong một lần ra tay đánh tan bọn cướp không
ngờ vô tình chàng đã gieo trong lòng cô gái ấy mối ân tình sâu nặng. Tìm mọi cách để
muốn trả ơn thế nhưng đều bị chàng từ chối, thế là từ đó nàng đã trả ơn cho Lục Vân
Tiên bằng cả tấm chân tình của một người con gái.
Trong truyện Lục Vân Tiên mối quan hệ của các nhân vật chính diện trở nên
tốt đẹp cũng một phần do họ biết sống ơn nghĩa, không lấy oán báo ân hoặc quên hẳn
những việc người khác giúp mình trong lúc khốn khó. Đó là sự ghi nhớ công ơn gia
đình ông Ngư, ông Tiều của Lục Vân Tiên. Việc quay lại trả ơn sau khi thi đỗ không
35
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
chỉ là bổn phận mà còn là đạo đức của bậc quân tử. Nguyễn Đình Chiểu thật thiếu sót
nếu như không cho chàng thực hiện việc trả ơn, trả nghĩa của mình. Không chỉ quay
lại đền ơn cho mình mà Lục Vân Tiên còn giúp Kiều Nguyệt Nga trả ơn cho lão bà.
Như ta biết Tiểu đồng vì trung thành với chủ nên mới bị Trịnh Hâm lừa vào
rừng. Suốt bao năm dài Vân Tiên tưởng rằng chú đã chết nên khi được khỏi bệnh và
đỗ đạt chàng đã quay về chốn cũ lập đàn cúng tế cho người đầy tớ trung thành của
mình. Lúc này Tiểu đồng không còn là người đầy tớ mà là người cứu giúp Vân Tiên,
là người không bỏ chàng trong lúc khó khăn, là cây gậy dẫn đường cho Tiên khi mắt
chàng bị bệnh. Những việc làm của Tiểu đồng đều được Lục Vân Tiên khắc cốt ghi
tâm.
Hành động của các nhân vật để đền ơn cho ân nhân của mình rất phù hợp
với truyền thống đạo đức của người dân, được nhân dân chấp nhận vì nó là cội nguồn
để đánh giá nhân cách của một con người. Một người tốt không chỉ biết gia ơn cho
người mà còn biết nhớ đến ơn nghĩa mà người khác tạo cho mình. Bởi vì không một ai
trong cuộc sống này mà không cần sự giúp đỡ của người khác.
2.2. Truyện thơ Lục Vân Tiên phê phán bất nhân, bất nghĩa
Không chỉ ngợi ca chính nghĩa, miêu tả nhân vật chính diện một cách đặc sắc,
tiêu biểu mà tác giả của truyện thơ Lục Vân Tiên còn lột tả những con người chỉ biết
sống cho mình, lúc nào cũng sẵn tâm hại người cho dù đó là bạn, là người thân. Sự
nham hiểm, mù quáng đã được Nguyễn Đình Chiểu đem ra phơi bày dưới ngòi bút
một cách tự nhiên. Những hiện tượng bất nhân, bất nghĩa được tác giả đặt cạnh chính
nghĩa, nhân vật phản diện được đặt cạnh các nhân vật chính diện càng làm tôn lên vẻ
đẹp trong tâm hồn của những con người biết sống vì đạo nghĩa. Hai tuyến nhân vật đặt
cạnh nhau với hai mục đích khác nhau nhưng cuối cùng cụ Đồ Chiểu chỉ thực hiện
một mục đích chung nhất đó chính là nêu cao ngọn cờ đạo nghĩa, phê phán tính bất
nhân, bất nghĩa.
2.2.1. Sự nham hiểm, gian trá
Thói đời bạc bẽo, tình đời thay đổi là đều thường tình trong xã hội. Nhưng
đau đớn hơn nếu như người mang tính phản trắc lại là bạn, là vợ, là người thân của
mình. Lục Vân Tiên bị bệnh về thể xác nhưng nỗi đau đó không bằng sự buồn đau về
tinh thần. Những người đã cùng góp tay với nhau dìm chàng xuống sâu trong cái khổ
36
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
đó không phải ai khác chính là bạn, là gia đình bên vợ của Tiên và đặc biệt là người vợ
đã có hôn ước với chàng từ bé.
Hay tin mẹ mất Lục Vân Tiên khóc nức nở, ai nấy đều thương cảm trong đó
có Trịnh Hâm. Tưởng chừng người bạn biết nói những câu khuyên nhủ:
Thấy nhau khó nổi giúp nhau,
Một vừng mây bạc dàu dàu khá thương.
(601 - 602)
Và lúc ấy người đọc đều cho rằng hắn ta đã quên hết những chuyện xảy ra
trong quán. Ai ngờ Trịnh chỉ là người giả nhân giả nghĩa. Ngoài miệng nói những câu
nhân nghĩa, chí tình đâu ai ngờ tận trong tâm hắn rất mừng thầm khi Vân Tiên gặp
chuyện. Hắn không kết bạn với Tiên vì mến mộ tài nhau mà ngược lại Trịnh đang rắp
tâm hãm hại bạn. Tưởng rằng khi Vân Tiên không tiếp tục đi thi mọi chuyện đã chấm
dứt nào ngờ lúc tình cờ gặp lại họ Lục bị mù và cũng chính lúc đó bao nhiêu chuyện
hại người hắn sẵn sàng đem ra hại bạn. Nhân đó hắn giả bộ tốt bụng tỏ ý giúp chàng về
tới Đông Thành, đâu ngờ “Trịnh Hâm trong dạ gươm đao” (Câu 871) đang có mưu đồ
lớn. Đầu tiên hắn bắt trói Tiểu đồng cho thú dữ ăn thịt sau đó hắn lừa Vân Tiên xuống
thuyền rồi đẩy xuống biển làm mồi cho cá. Kế hoạch của hắn rất hoàn mĩ, không ai có
thể ngờ được sự phản trắc của y. Hai tai nạn của chủ tớ họ Lục đều được xem bất ngờ,
hoàn toàn không có sự sắp đặt của người bạn đi bên cạnh Vân Tiên.
Nếu như Nguyễn Đình Chiểu xây dựng một Hớn Minh hết lòng vì bạn,
không bỏ bạn trong lúc bệnh tật thì Trịnh Hâm là đại diện cho những tên phản bạn.
Không ra tay giúp đỡ khi bạn cùng đường thì thôi còn nhẫn tâm xô bạn mình xuống
biển giữa đêm khuya. Hành động của hắn khiến ta câm phẫn biết bao một con người
nham hiểm, lúc nào miệng cũng nói nhân nghĩa nhưng trong đầu luôn đầy gươm đao
hại người. Hắn là tiêu biểu cho những nhân vật đội lớp học trò Nho giáo nhưng hành
động không khác nào những người thô lỗ, không học thức. Bởi nói không thể đánh giá
một con người bằng vẻ bề ngoài, học thức, hay những lời nói ngọt ngào vì như vậy ta
không hiểu hết được giá trị ẩn bên trong của họ.
Ngoài Trịnh Hâm nham hiểm, gian trá hại bạn trong lúc khốn cùng thì Bùi
Kiệm là điển hình cho những tên háo sắc, không biết phân định đâu là lẽ phải. Hắn
cũng là tên có học sách thánh hiền nhưng việc làm của bản thân còn tệ hơn một người
37
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
thất học. Khi gặp Nguyệt Nga là cô gái đẹp, nết na hắn “đêm đêm trằn trọc phòng hoa
mấy lần” (Câu 1562) và biết được nàng là vợ của Vân Tiên, Bùi Kiệm cũng không từ
bỏ ý nghĩ của mình mà còn xúi giục người con gái đáng thương ấy lãng quên chữ tiết
hạnh.
Nếu Vương Tử Trực không chịu được con người phản trắc của Võ Thể
Loan cũng như không có ý cưới vợ bạn thì Bùi Kiệm ngược lại. Hắn nêu ra một loạt
tấm gương của người xưa và những câu khuyên nhủ, biện minh cho lời khuyên của y
dành cho Nguyệt Nga. Một họ Vương không chấp nhận đề nghị lấy chị dâu làm vợ thì
họ Bùi này biết rất rõ sự tình của Vân Tiên cũng như tình cảm thủy chung của Nguyệt
Nga thế mà hắn chủ động đưa ra hàng loạt đạo lý tất yếu ở đời cũng chỉ muốn lấy Nga
làm vợ. Và điều đó rất hợp lý nếu như người đó không phải Nguyệt Nga hoặc tốt nhất
là bất cứ người con gái nào có hoàn cảnh như thế. Đằng này Bùi Kiệm lại mang danh
nghĩa là bạn của Lục Vân Tiên thì những lời hắn nói làm sao đi vào lòng người được.
Một con người đã đỗ được cử nhân thế nhưng lời nói và việc làm của y có giống học
trò “cửa Khổng sân Trình” chút nào đâu.
Nếu như gia đình họ Kiều trọng đạo nghĩa trước sau thì thay vào đó là gia
đình họ Võ với bộ ba Võ Công, Quỳnh Trang và Võ Thể Loan là đại diện cho những
con người lọc lừa, phản trắc, ăn ở hai lòng. Ngày Vân Tiên lại nhà để nhắc lại chuyện
xưa thì bộ ba này tiếp đoán niềm nở bởi thấy chàng là một người có diện mạo khôi
ngô, tuấn tú.
Đến khi biết được tài nghệ của chàng thì Võ Công lấy làm vui vẻ vì mình đã
chọn được chàng rể quý. Nhưng đâu ngờ số phận đẩy đưa, bất hạnh không chừa bất kể
ai cho dù người đó có tài hoa và Lục Vân Tiên là người rơi vào trường hợp như vậy.
Chàng đi thi bị gãy gánh giữa đường lại còn bị mù mắt nữa, tưởng chừng niềm an ủi
cuối cùng của Tiên chính là gia đình họ Võ này. Nhưng đâu ai ngờ con người dễ thay
đổi tình cảm và thái độ đến như thế. Nếu lúc trước là sự niềm nở tiếp đoán thì nay Võ
Công đổi nhanh cách cư xử với chàng: “Một lòng gượng gạo: “Chào người ngày
xưa!”” (Câu 1006)
Thái độ ấy nó khác hoàn toàn so với sự niềm nở trước đó, bởi đơn giản ai
chấp nhận một chàng rể đui mù lại không có sự nghiệp gì trong tay. Chồng đã vậy mà
38
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
vợ cũng có khác gì. Cha mẹ như thế thì đứa con như Võ Thể Loan tráo trở cũng không
thua gì đấng sinh thành của ả. Tiễn Vân Tiên lên đường, cô ta:
Thưa rằng: “Quân tử phó công,
Xin thương bồ liễu chữ tòng ngây thơ.
(Câu 401 đến câu 402)
Lại còn cầu mong ngày Tiên đỗ đạt, vinh hiển cũng đừng bao giờ quên
người vợ đang ở nhà chờ đợi. Đúng là tâm trạng của người đưa tiễn luôn lo sợ cho
người ra đi trên vạn lý trường đồ gặp nhiều trở ngại nhưng Thể Loan không lo gì hơn
ngoài sợ Vân Tiên quên lời ước hẹn khi công thành danh toại. Chúng ta không ngạc
nhiên lắm nếu như Võ Thể Loan có tâm trạng đó bởi truyền thống từ xưa đến nay
người phụ nữ luôn chịu thiệt thòi trong chuyện hôn nhân, mặt khác Vân Tiên là người
tài cao thì việc đỗ đạt không khó đối với chàng và lúc ấy sự thay lòng đổi dạ có thể
xảy ra. Nếu câu chuyện chỉ dừng lại đây chắc người đọc sẽ nghĩ Thể Loan cũng giống
như bao nhiêu người con gái chung thủy khác nhưng tác giả đã phơi bày ra ánh sáng
tất cả những nhân vật ăn ở hai lòng.
Biết Vân Tiên bị mù tưởng chừng cô ta sẽ chăm sóc chồng chưa cưới của
mình, cũng như không vì thế mà phụ chàng. Đâu ngờ con người ấy đã lộ nguyên bản
chất xấu xa của mình khi hoàn cảnh hiện tại nó khác với quá khứ. Cô ta không chấp
nhận lấy một người chồng “thất phu”, bởi gia đình này không thể có “Rễ đâu có rễ
đui mù thể ni.”(Câu 1034)
Thật bất ngờ xiết bao vì những lời nói ấy. Nó khác lắm so với sự thắm thiết
ban đầu, vậy là người ra đi không thay lòng đổi dạ nhưng người ở lại đã đổi thay. Đã
vậy mà cô ta còn tự mình mơ tới một cuộc hôn nhân mới mà người Võ Thể Loan nghĩ
tới không phải ai khác chính là Vương Tử Trực. Phụ bạc người chồng bất hạnh lại mơ
tới người khác một cách nhanh chóng thì người có thể làm được chuyện đó không ai
khác chính là Võ Thể Loan. Nguyễn Đình Chiểu không hề bình luận đều gì cả nhưng
các chi tiết mà ông diễn tả đã phơi bày tất cả sự gian trá của con người ả. Nếu nàng
Kiều Nguyệt Nga chung thủy, nguyện sống chết vì người chồng mà mình chả có chút
gì danh phận thì cô con gái họ Võ kia lại lọc lừa phản trắc, bội ước. Việc sắp xếp hai
tuyến nhân vật đối nghịch nhau hoàn toàn về tính cách và hoàn cảnh càng làm cho giá
39
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
trị phê phán của truyện lên cao độ, điều đó không làm cho các nhân vật cũng như vấn
đề tác giả nêu ra quá cứng nhắc mà ngược lại rất dễ đi vào lòng người.
Một hạng người nữa cũng bị cụ Đồ Chiểu đem ra phơi bày trước ánh sáng
đó chính là bọn thầy bói, lang băm. Bọn này là đại diện cho những tên thực dụng,
nhiễu đòi, hại dân. Trước số phận của chàng trai bạc phước vậy mà chúng hiển nhiên
bắt tay nhau thử thách bệnh tật của Vân Tiên.
Người đầu tiên thầy trò Tiên gặp chính là thầy thuốc tên Triệu Ngang. Gặp
bệnh nhân câu đầu tiên thầy thuốc hỏi không phải là tình trạng của họ mà lại hỏi: “Bạc
tiền trong gói sẵn dành bao nhiêu? (Câu 660)
Thế là hiểu ngay người thầy thuốc này chữa bệnh chỉ vì tiền, bệnh nhân có
khỏi hay không cũng kệ miễn là người trị có tiền. Thế mà người này còn ba hoa khoác
lác về tài xem bệnh của mình. Đến khi lộ nguyên bản chất bất tài của hắn vì bệnh của
Vân Tiên sau mười ngày chữa trị không hết mà lại còn nặng hơn lúc chưa chữa, thầy
liền khuyên Tiểu đồng đi kiếm thầy bói để tìm hiểu sự tình về bệnh tật của chủ. Thử
hỏi người ta bệnh thì lại kiếm thầy bốc thuốc thế nhưng thuốc không có tác dụng bởi
thầy là con người chỉ biết ba hoa chứ đâu có tài như thầy tự giới thiệu. Nhưng Triệu
còn làm ra vẻ đạo đức khi nói với Tiểu đồng là Vân Tiên bị quỷ thần ám, ông lang ấy
nói có bằng chứng đàng hoàng chứ không bịa đặt vì hắn được tiên sư mách bảo. Lúc
đó y chỉ thầy trò Vân Tiên tìm đến thầy bói “ở đầu Tây Viên”, hình như ta có cảm giác
hai ông thầy này có thông đồng với nhau thì phải.
Tiểu đồng thật thà nên bị lừa một lần nữa, tính tình của chú chính là nơi
kiếm ăn cho chúng. Ông thầy ở Tây Viên này cũng cùng một ruột với thầy lang vì hắn
cũng là tên khoác lác không kém. Gặp Tiểu đồng hắn liền ba hoa về tài năng và đạo
đức của mình. Và cuối cùng hắn cũng chỉ là tên xảo trá, ham tiền, xem mạng người
như không. Lấy tiền xong hắn liền tạo cơ hội cho thầy pháp “kiếm ăn” và truyền
“Phải tìm thầy pháp chữa chuyên ít ngày.” (Câu 750)
Đúng là thầy đã cho thân chủ biết hết mọi đường và phương thức chữa trị.
Tiểu đồng nhẹ dạ đâu thấy được bản chất của bọn chúng, chú chỉ mong chữa hết bệnh
cho chủ nên ai nói sao nghe vậy với lại người chỉ biện pháp chữa trị bệnh lại là ông
thầy có tài biết thuật bói toán thì làm sao chú không tin cho được. Thầy lang giới thiệu
thầy bói, thầy bói giới thiệu thầy pháp ta có cảm giác cả ba người này là một hội đồng
40
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
hãm hại người hoạn nạn. Cả thầy lang lẫn thầy bói bay xa tiếng tăm cũng chỉ vì sự
khoác lác và cách lừa gạt của họ quá tinh vi không ai có thể nhận thấy dễ dàng được.
Còn thầy pháp bản chất thật sự của hắn là gì chắc ai cũng dễ dàng đoán ra nhưng cách
làm của hắn có khác hai người bạn của y không, đó còn phụ thuộc vào cái tài của
Nguyễn Đình Chiểu. Không khác gì hai người thầy trước vị thầy pháp này cũng có
một bài giới thiệu về tài năng xuất chúng của bản thân, nào là biết gọi gió kêu mưa,
biết điều khiển muôn thú, có tài thâu tóm muôn vật, lại còn có khả năng “phá thành
Diêm Vương”, nói chung thầy biết tất cả mọi việc trên đời. Tội nghiệp chú Tiểu đồng
đi đâu cũng gặp bọn chỉ có tài cái miệng, tận sâu bản chất của chúng là tiền. Thầy
pháp cũng không ngoại lệ, một bài trình diễn về tài nghệ xong y liền:
Có ba lượng bạc trao sang,
Ðặng thầy sắm sửa lập đàng chữa cho.
(Câu 775 đến câu 776)
Tiếp đó hắn không quan tâm người nào là bệnh nhân, chỉ cần biết có tiền.
Nghe Tiểu đồng trình bày mọi chuyện hắn liền ra tay chữa bệnh bằng cách: “Ðau Nam
chữa Bắc mà thuyên mới tài”. (Câu 794)
Đúng là thầy có tài mà cái tài đó lại nằm ở miệng lưỡi của y chứ không phải
cách chữa trị. Người bệnh một nơi, người chữa một nẻo lại còn nói rằng mình có tài
nữa. Quả là trên đời này chỉ có mình thầy mà thôi. Bộ mặt của hắn đã dần hiện ra thế
mà y ta lại còn cố khoe cái tài có một không hai của mình. Đúng là Nguyễn Đình
Chiểu rất am hiểu bọn lang băm thầy pháp nên cụ dùng ngòi bút của mình đem chúng
ra trước ánh sáng. Tác giả chỉ bằng vài chi tiết nhỏ mà lột tả hết bộ mặt giả tạo, tài ba
hoa của bọn chúng. Bộ ba đấy là đại diện cho những u nhọt của xã hội đang ngày ngày
hành hạ những người dân lương thiện như thầy trò Lục Vân Tiên.
Đúng như Xuân Diệu nhận xét về Lục Vân Tiên: “Tác giả tả được tính nết,
thần thái, ngôn ngữ của nhiều hạng người có thật trong xã hội, người đọc người nghe
liên hệ được người trong truyện với kẻ trong đời, mà liên hệ một cách thiết thực, nôm
na. Những Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, người ta gặp hàng ngày trong xã hội miền Nam. Văn
Nguyễn Đình Chiểu tả bọn thầy lang băm, thầy bói, thầy phù thủy thật là đáng tức
cười”[19;111]. Những con người xảo trá, nham hiểm, ăn ở hai lòng ấy không ở tận
đâu bên nước Sở mà nó ở ngay trong xã hội miền Nam lúc bấy giờ, ta dễ dàng gặp bất
41
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
cứ một nhân vật nào trong truyện ở ngoài đời, cũng chính điều này làm cho tác phẩm
của Đồ Chiểu dễ đi vào lòng người với tính giáo dục và phê phán cao. Tác giả phô bày
sự nhố nhăng của bọn chúng ra nhưng hoàn toàn không có một sự nhận xét hay phê
bình nào mà việc đó cụ đã giao lại cho người đọc, người nghe. Nguyễn Đình Chiểu
cũng không nói về kết cục của chúng nhưng bản án mà quần chúng phán xét còn quan
trọng hơn bất cứ sự can thiệp nào của công lý. Trong Truyện Kiều Nguyễn Du còn có
lúc để cho nhân vật chính, người bị hại đền ơn báo oán nhưng Nguyễn Đình Chiểu
không làm như vậy. Chính điều đó làm cho giá trị giáo huấn của tác phẩm và quan
điểm “thiện ác đáo đầu chung hữu báo” có ý nghĩa nhưng không quá khô cứng, nó
không làm cho người đọc rơi vào cảm giác đang xem một phiên tòa xét xử mà bản án
thật sự để cho người ngoài cuộc phán xét.
Đúng như vậy, đến bây giờ những người có tính Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, hay
Võ Thể Loan đâu được người dân chấp nhận, họ quyết không chung sống với những
con người như thế. Cũng từ đó những nhân vật ấy đã trở thành điển cố hay nói đúng
hơn là biểu tượng của những cái xấu xa trong đức tính của một con người. Một lần nữa
điều này chứng minh được sức sống dẻo dai của tác phẩm được xem là kiệt tác của thể
loại truyện Nôm.
Mặt khác miêu tả các nhân vật bất nhân, bất nghĩa, phản trắc để tác giả làm
nổi bật lên những con người trung trinh, tiết liệt. Chẳng hạn, khi nói đến những Trịnh
Hâm, Bùi Kiệm nham hiểm, phản bạn thì càng làm tôn lên vẻ trung trực, sự thủy
chung, gắn bó keo sơn, không bỏ bạn trong lúc khốn cùng của Hớn Minh và Vương
Tử Trực. Nếu như nói về Võ Thể Loan phụ bạc, trọng phú khinh bần thì người ta sẽ
nghĩ ngay đến một Kiều Nguyệt Nga chung thủy, nguyện sống chết vì chồng cho dù
nàng chưa có danh phận với Lục Vân Tiên. Tóm lại miêu tả, phê phán nhân vật phản
diện cũng nhằm mục đích làm tôn lên tính cách của nhân vật chính diện. Cũng vì thế
giá trị của các nhân vật đó càng được nâng lên hơn so với bình thường do lúc này
những con người này có các tấm gương phản chiếu.
2.2.2. Sự mù quáng, bất công
Lục Vân Tiên là tác phẩm phản ánh đầy đủ và sinh động nhất những hiện
tượng của xã hội Việt Nam bấy giờ. Từng con người trong đó là đại diện cho một loại
tính cách điển hình. Và đặc biệt ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu không loại trừ bất cứ
42
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
một dạng người nào cho dù họ là nhà giàu, là quan hay là vua đi nữa thì tác giả cũng
đem ra phê phán nếu như họ không biết sống theo lẽ phải, cứ cậy quyền làm đều xằng
bậy.
Đó chính là Bùi ông - một người giàu có nhưng lại chỉ nghe theo lời xúi
giục của con cho dù y biết rất rõ đều đó là sai. Sau khi nhảy xuống biển tự tận, Kiều
Nguyệt Nga may mắn được cứu sống và trôi giạt vào nương nhờ nhà Bùi ông rồi được
nhận làm con nuôi.
Tưởng chừng Bùi là một ông lão biết đều nghĩa nhân, cưu mang người lúc
hoạn nạn nhưng cuối cùng y cũng chỉ là một đại diện của lối sống gấp, ích kỷ, hưởng
lạc. Khi con trai của Bùi là Bùi Kiệm về và có ý với Nguyệt Nga, chẳng những y
không khuyên ngăn con mình nhận ra đều sai trái đằng này còn hùa theo con làm đều
xằng bậy. Giọng điệu của Bùi ông khuyên Nguyệt Nga kết duyên cùng con trai hắn nó
không khác gì so với Bùi Kiệm:
Làm chi thiệt phận hồng nhan,
Năm canh gối phụng màn loan lạnh lùng.
Vọng phu xưa cũng trông chồng,
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.
(1621 - 1624)
Con người ấy đã từng cứu vớt Nguyệt Nga thế nhưng cuối cùng hắn cũng là
một tên không hiểu luân thường đạo lý ở đời. Thử hỏi, nếu như hắn biết liêm sỉ, biết
sống theo khuôn khổ đạo đức có lẽ Bùi ông sẽ là một con người đáng trọng bởi y
thuộc tầng lớp trên của xã hội, có tiền nhưng sống không quên đạo nghĩa ở đời. Thế
nhưng Nguyễn Đình Chiểu đã trả về cho y nguyên bản chất vốn có của những tên trọc
phú. Bàn tay của Bùi ông cùng với những suy nghĩ thực dụng đã đẩy Kiều Nguyệt Nga
phải bỏ nhà đi trong đêm khuya mà không biết đâu là bến trú ngụ. Nhưng suy cho
cùng cũng nhờ bản chất xấu xa của cha con họ Bùi mà nhân cách của Kiều Nguyệt
Nga càng sáng ngời.
Một hạng người nữa mà Nguyễn Đình Chiểu cũng không bỏ qua đó chính là
những tên quan lại, có chức trọng nhưng không phục vụ cho dân, cho nước mà lại đáp
ứng nhu cầu của bản thân. Hay nói đúng hơn trong Lục Vân Tiên, tác giả đã tố cáo
43
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
tầng lớp quan lại bất tài, vô dụng nhưng lại là những con người nắm quyền sinh sát
trong tay.
Vị quan Thái sư trong truyện thay vì lo cho dân, bảo vệ dân nhưng chính
hắn lại đẩy dân xuống nỗi bất hạnh nhất. Chỉ vì không cưới được Kiều Nguyệt Nga
cho con trai mình nên từ đó đã ôm hận và mong chờ cơ hội trả thù. Đến khi nước Ô
Qua sang xâm chiếm lãnh thổ thay vì cùng vua bàn kế diệt giặc để giữ an bờ cõi, đằng
này hắn lại tâu với vua cho nàng đi cống Phiên. Vị quan đã đưa ra kế sách không mới
so với lịch sử. Nhưng kế này cũng chứng minh được con người Thái sư, hắn là một kẻ
sống chỉ vì quyền lợi của bản thân, sợ chiến tranh xảy ra nhưng không phải lo cho dân
mà lo cho chức vị cũng như tiền tài của y. Tính ra con người có chức quan cao nhất
trong triều lúc bấy giờ không bằng cô tì tất Kim Liên. Nếu Kim Liên vì chủ, vì đất
nước sẵn sàng thay Kiều Nguyệt Nga đi cống Hồ thì Thái sư là vị quan đã hưởng biết
bao nhiêu bổng lộc của triều đình nhưng khi đất nước cần hắn liền đẩy trách nhiệm
nặng nề đó sang vai người con gái “chân yếu tay mềm” như thế.
Cùng với Thái sư chức trọng quyền cao thì quan huyện tên Đặng Sinh cũng
được cụ Đồ Chiểu lấy làm điển hình cho những con người mang danh là phụ mẫu của
dân nhưng những việc làm của chúng lại ngược với chức phận của mình. Vị quan này
có một đứa con là nạn nhân của Hớn Minh, con hắn bị chàng bẻ đi một giò. Thế là hắn
đã xử chàng lưu đày biệt xứ vì dám làm hại đến con trai của y. Việc làm đó của Đặng
Sinh có thể phần nào giải thích được là do cha mẹ luôn muốn bảo vệ con nên sẵn tay
trừng trị những ai làm hại đến con họ. Thế nhưng hắn chỉ biết sinh mà không biết dạy
nên để cho con trai hắn lộng hành, làm hại gái nhà lành. Sự việc xảy ra đáng lẽ Đặng
Sinh phải tìm hiểu nguyên nhân rồi hãy kết tội của Hớn Minh, nhưng cho dù biết rõ tại
sao chàng họ Hớn lại hành động như vậy thì liệu quan huyện có thể tha cho chàng hay
vẫn giữ nguyên bản án? Chắc chắn là y sẽ giữ y án vì đơn giản Đặng Sinh là tên quan
giống như đại đa số quan lại thời bấy giờ chỉ biết hách dịch, nhiễu dân.
Nếu như các truyện thơ trong lịch sử không miêu tả nhiều đến những vị vua
thì trong Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã mang đến cho người đọc hình ảnh một
ông vua nước Sở, là bậc chí tôn nắm quyền sinh sát trong tay của một nước. Thế
nhưng cụ không ca ngợi vị vua này mà phê phán y là một kẻ mù quáng, chỉ biết nghe
lời xu nịnh của gian thần để dân mang bao nhiêu điều oan trái. Vua nước Sở sau khi
44
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
nghe lời xàm tấu của Thái sư liền chấp nhận cách làm ấy để giữ yên bờ cõi hay nói
đúng hơn là giữ nguyên ngai vàng mà y đang ngồi. Dưới quyền cai trị của hắn làm cho
nịnh thần lộng quyền, đất nước rơi vào thảm cảnh. Chính chiếu chỉ của y đã kết liễu
cuộc đời của Kiều Nguyệt Nga làm nàng phải tìm con đường cùng. Nếu như vua nước
Sở là một minh quân thì ngài sẽ không đưa ra một quyết định vội vàng như thế, dẫu
biết rằng việc ấy không mới trong lịch sử nhưng các vị vua thời trước nếu dùng kế
sách này là lúc họ không tìm ra cách khác để giải quyết nạn ngoại xâm. Đến kết thúc
tác phẩm nhà vua đã nhận mình có lỗi khi nghe lời của Thái sư. Cho dù tác giả cho nhà
vua nhận ra lỗi lầm của mình nhưng cũng không thể nào xóa đi những việc mà ngài
gây ra cho người dân nước Sở.
Nguyễn Đình Chiểu đem vào trong trang viết của mình hình ảnh vua quan,
những nhà giàu có để phê phán sự bất công trong cuộc sống. Những con người này có
quyền hành trong tay nhưng hành động không vì mục đích chung mà chỉ phục vụ cho
bản thân họ. Đất nước mà có vua chỉ biết nghe lời nịnh thần, còn quan lại đa phần
cũng là bọn gian tham, bọn trọc phú có tiền trong tay nhưng không biết nhân nghĩa ở
đời mà chỉ biết sống hưởng lạc thì người chịu khổ cũng chỉ là những người dân lương
thiện. Bởi vậy, tuy phê phán nhưng tác giả cũng hàm chứa tâm sự của mình trong đó.
Ông không khỏi gay gứt về xã hội trong truyện hay nói đúng hơn lúc nào tấm lòng
người thầy ấy cũng lo cho xã hội Việt Nam bấy giờ.
2.3. Truyện thơ Lục Vân Tiên thể hiện khát vọng lý tưởng của nhân dân
Lục Vân Tiên mang đến cho người đọc một thế giới nhân vật biết sống vì nhân
nghĩa nhưng cũng cho ta thấy được những con người chỉ biết sống vì quyền lợi của
bản thân họ mà thôi. Cho dù miêu tả nhân vật chính diện hay phản diện cụ Đồ Chiểu
cũng nhằm vào một mục đích là thể hiện khát vọng lý tưởng của nhân dân. Đó là niềm
tin của quần chúng lao động vào một xã hội trong sáng hơn, ở đó họ sẽ được sống an
lành không phải lo sợ bọn bất nhân bất nghĩa làm hại.
2.3.1. Niềm tin về sự thắng lợi của đạo lý - chính nghĩa thắng gian tà
Trong truyện có những lúc nhân vật chính nghĩa bị bọn gian tà hãm hại,
người thì bị thất lạc, bị bệnh, người thì mất tin tức nhưng cuối cùng họ vẫn có một kết
thúc tươi sáng. Bởi điều quan trọng ở đây tác giả muốn khẳng định một cách triệt để
rằng: cái thiện, cái tốt, cái chính nghĩa, dù có phải trải qua muôn vàn khó khăn, muôn
45
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
vàn trở ngại thì cuối cùng mọi chuyện cũng đâu vào đấy, người hiền thì được hưởng
cuộc sống sung túc về sau; cái ác, cái phi nghĩa rốt cuộc cũng bị trừng trị thích đáng.
Ta không khỏi lo lắng cho số phận của chàng Lục Vân Tiên khi con đường
công danh bị chặn giữa đường, rồi lại lâm bệnh nặng đến nỗi mù mắt. Từ lúc đó chàng
gặp không ít sống gió: khi thì bị bọn lang băm, thầy bói lừa gạt hết tiền nhưng bệnh
tình thì ngày càng nặng hơn; rồi lại gặp người bạn phản trắc Trịnh Hâm không hề nghĩ
chút tình thẳng tay hại bạn; và còn gì oán than hơn khi gia đình bên vợ lọc lừa, tham
sang phụ bần nỡ bỏ chàng vào hang núi. Những sóng gió ấy đối với một người bình
thường đã quá sức chịu đựng huống chi ở đây Lục Vân Tiên đang bị mù cả hai mắt.
Thế nhưng người thanh niên ấy cũng vượt qua mọi trở ngại để trở thành trạng nguyên.
Kết quả cuối cùng Lục Vân Tiên đạt được chính là bằng chứng về nghị lực của bản
thân chàng nhưng cũng đồng thời thể hiện quan điểm “ở hiền gặp lành” của ông cha
ta. Nên nhớ rằng mỗi lần chàng gặp hoạn nạn đều có bàn tay thần linh giúp đỡ rồi việc
Tiên sáng mắt cũng nhờ vào thuốc của một ông Tiên cho. Tuy rằng những chi tiết này
thể hiện tính hoang đường nhưng cũng chứng minh được rằng bất kỳ ai có tấm lòng
ngay thẳng đều được sự trợ giúp cho dù đó là đều khó tin.
Trong truyện còn có những con người khác cũng gặp không ít trở ngại,
chẳng hạn như nàng Kiều Nguyệt Nga chung thủy. Tấm lòng trung trinh ấy khiến ta
khâm phục, thế nhưng các thế lực trong xã hội không cho phép nàng giữ mãi tình cảm
đó với Vân Tiên. Bước đường gian truân của nàng bắt đầu từ sự oán thù vô lý của lão
Thái sư đương triều, bị triều đình bắt làm vật cống nạp sang nước Phiên; rồi nhảy
xuống biển tự tận mong giữ được tấm lòng dành cho người chồng của mình nhưng nào
ngờ lại rơi vào tay của cha con Bùi Kiệm. Một lần nữa người con gái ấy ra đi trên con
đường với:
Hai bên bờ bụi rậm rì,
Ðêm khuya vắng vẻ gặp khi trăng lờ.
(1641 - 1642)
Nàng ra đi trong đêm tối cũng như không biết rồi đây tương lai của mình về
đâu nhưng may mắn là Nguyệt Nga được một cụ bà giúp đỡ, cưu mang. Bà đã che chở
cho nàng để nàng an tâm thờ người chồng mà mình đã nguyện hai chữ thủy chung.
Nhưng cuối cùng tác giả không để cho người con gái ấy thờ chồng một cách vô lý khi
46
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
mà Vân Tiên vẫn còn sống. Cuộc gặp gỡ giữa hai người trong khu rừng ấy một lần nữa
chứng minh được những con người trung kiên, tiết liệt thế nào cũng được đền đáp
xứng đáng.
Một lần nữa ta không bao giờ quên hình ảnh chàng trai có vẻ ngoài dị
thường Hớn Minh không hề sợ cường quyền, ra tay trừng trị kẻ gian; rồi hình ảnh
Vương Tử Trực lúc nào cũng nghĩ tới bạn; một Tiểu đồng, Kim Liên hết lòng vì chủ;
gia đình ông Ngư, ông Tiều, bà lão hay ông Quán biết trọng nhân nghĩa, cứu người
qua cơn hoạn nạn không mong gì đền đáp. Tất cả họ cũng được vinh hiển giống như
hai nhân vật chính. Hớn Minh vì có lòng hiệp nghĩa lại là con người không bỏ bạn lúc
gian khó nên chàng chẳng những được minh oan mà lại còn được vua phong là phó
tướng đi giệt giặc; Vương Tử Trực không vì phú quý mà làm chuyện đi ngược với đạo
lý bạn bè nên chàng cũng được an hưởng vinh hoa sau này; Tiểu đồng vì trung thành
với chủ về sau cũng được giàu sang, Kim Liên thì được làm hoàng hậu bên Phiên
quốc; những ông Ngư, ông Tiều, ông Quán, bà lão cũng được phú quý.
Đó là số phận của những nhân vật chính diện còn những con người sống bất
nhân, bất nghĩa cũng nhận được kết thúc cho riêng mình. Trịnh Hâm xô bạn xuống
biển nhưng Lục Vân Tiên không nhớ thù xưa mà tha tội cho y, tuy nhiên đấng vô hình
không buông tha kẻ mang lòng phản trắc nên ngày trước hắn xô bạn xuống biển nay bị
Sóng thần nổi dậy thuyền chàng chìm ngay
Trịnh Hâm bị cá nuốt rày
(1990 - 1991)
Bùi Kiệm mang trong mình “máu dê” làm cho y không phân định đâu là lẽ
phải nên cuối cùng tự trong lòng hổ thẹn vì tật xấu của mình.
Đặc biệt gia đình họ Võ với bộ ba Võ Công, mụ Quỳnh Trang, Võ Thể Loan
cũng nhận được kết quả mà họ đáng nhận. Võ Công bị Tử Trực mắng đến nỗi mang hổ
thẹn mà chết, đáng trách nhất là mẹ con Võ Thể Loan. Khi biết được Vân Tiên đỗ
trạng cả hai lại bày mưu hàn gắn lại chuyện cũ và đổ lỗi những chuyện đã qua cho Võ
Công để mong chàng cưới Thể Loan làm vợ. Khi bị Lục Vân Tiên từ chối, lại gặp
Vương Tử Trực và Hớn Minh cười nhạo nên quay lưng về nhà nhưng chưa kịp về tới
nhà thì “Thấy hai con cọp chạy ra đón đường” (Câu 2064) bắt mẹ con nhà họ Võ “bỏ
47
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
trong hang Thương tòng”. Cả hai đã nhận lại cái mà họ đã gieo cho chàng trai đáng
thương ngày trước.
Tóm lại, song song với tư tưởng nhân nghĩa, đề cao đạo lý của dân tộc, Lục
Vân Tiên còn thể hiện tư tưởng nhân - quả, nó dựa trên nền tư tưởng của Phật giáo.
Nhưng nhân quả trong truyện rất gần với cuộc sống và ước mơ của nhân dân, không
cao siêu, huyền bí mà nó rất thực tại. Bởi trong tư tưởng Phật giáo là khổ kiếp này,
kiếp sau được hưởng hạnh phúc, còn với tác phẩm kẻ ác bị trừng trị đích đáng và một
kết thúc có hậu ngay sau những gian truân khổ cực cho những người hiền lành, ăn ở
ngay thẳng. Đó cũng là đạo lý sống ở đời của dân tộc ta. Truyện là bản án kết tội
những kẻ bất nhân, lòng lang dạ sói. Những con người được đời yêu quý bởi phẩm
chất sáng ngời của họ sau khi trải qua bao sóng gió, gian truân cũng được hưởng hạnh
phúc dài lâu. Tư tưởng ác giả ác báo, gieo gió gặp bão, ở hiền gặp lành đã có từ trong
dân gian, trong truyền thống cổ truyền của dân tộc nhưng được Nguyễn Đình Chiểu
đưa vào tác phẩm một cách rất sáng tạo, không gập khuôn nguyên mẫu. Ông dùng lá
cờ đạo đức Nho giáo nhưng không để bảo vệ tư tưởng của nó mà cốt để bênh vực cho
tình cha con, nghĩa vợ chồng, tình bạn bè, tinh thần trọng nghĩa khinh tài và cứu giúp
người trong cơn hoạn nạn không câu nệ. Trận đấu giữa Lục Vân Tiên và Phong Lai
chính là một minh chứng quan niệm gian tà không chiến thắng được chính nghĩa cho
dù người đại diện cho nó chiến đấu bằng vũ khí thô sơ. Cũng chính điểm tựa:
Trong cơ bĩ cực thới lai
Giữ mình cho trọn việc ai chớ sờn
(73 - 74)
mà họ vui sống qua ngày tháng vì trong tâm trí lúc nào cũng tin rằng bản thân cứ sống
theo đúng những khuôn mẫu đạo đức cho dù hiện tại bản thân gặp trở ngại thì cuối
cùng tương lai cũng trở lại tươi sáng với chính những con người biết sống vì nghĩa
nhân mà thôi.
2.3.2. Niềm tin về một xã hội phong kiến lý tưởng - vua sáng, tôi hiền
Xã hội trong truyện Lục Vân Tiên cho dù nó gần gũi với quần chúng đi nữa
nhưng cuối cùng nó cũng xuất phát từ mối quan hệ phong kiến. Vì thế cho dù thể hiện
lý tưởng, niềm tin của nhân dân thì ước mơ cuối cùng của tác giả chỉ mong có một xã
hội mà ở đó có vua sáng trị vì, quần thần là những bậc trung quân.
48
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
Ta nhớ rằng quãng đời thanh niên của cụ Đồ Chiểu là muốn đi thi đỗ đạt
mong có thể giúp ích được cho đất nước, nhưng rồi ước mơ ấy không thực hiện được
cụ đành đặt niềm hy vọng ấy vào nhân vật chính của mình là chàng trai Lục Vân Tiên.
Không ai có thể phủ nhận rằng chính chàng trai họ Lục ấy là bản sao của thầy đồ
Nguyễn, hay nói đúng hơn Lục Vân Tiên là người thay Nguyễn Đình Chiểu thực hiện
hoài bão mà thời niên thiếu cụ đã không làm được.
Như đã biết Lục Vân Tiên là tác phẩm tiêu biểu cho giai đoạn đầu trong sự
nghiệp sáng tác của cụ Đồ Chiểu, nó ra đời khi mà xã hội phong kiến đang trượt dài
trên con đường suy vong, mọi giá trị đạo đức có từ lâu đời của Việt Nam dường như
đang dần bị mất đi. Mở đầu tác phẩm ta thấy rõ rằng Nguyễn Đình Chiểu muốn một
điều cho dù trong xã hội mà “nhơn tình éo le” càng phô bày thì càng phải giữ lấy cội
nguồn của đạo lý:
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình
(5 - 6)
Một người thanh niên đứng trong trời đất là “Phải có danh gì với núi sông”.
Lục Vân Tiên là một thanh niên mang đầy đủ những gì là tốt đẹp nhất của một học trò
Nho giáo. Chàng trai ấy là một người con chí hiếu nhưng cũng không quên bổn phận
với đất nước. Chính vì muốn thực hiện hoài bão giúp đời nên từ bé Tiên đã theo thầy
ngày đêm khổ luyện để mong lập được chút công danh sự nghiệp. Chàng lên kinh đi
thi lần thứ nhất không thành, tiếp tục lần thứ hai chàng đã thành công trở thành quốc
trạng. Sau khi thành trạng nguyên của nước Sở việc đầu tiên chàng làm không phải là
nghỉ ngơi sau bao sóng gió mà là đi diệt giặc cứu nguy cho đất nước. Không ai phủ
nhận các nhân vật chính diện trong Lục Vân Tiên là miêu tả một thế giới nhân vật với
những con người trung quân, ái quốc nhưng chữ trung ở đây không có nghĩa là vô
điều kiện. Nó chỉ thật sự được thực hiện khi người trị vì là một minh quân.
Trong truyện có lúc nhân vật chính đã chấp nhận lấy chữ trung làm đầu
nhưng cuối cùng nó cũng nhường lại vị trí cho những chữ khác tồn tại. Hành động
Kiều Nguyệt Nga nhảy xuống sông tự tận là một minh chứng cho việc làm đi ngược
lại với chữ trung. Lệnh vua ban ra buộc nàng phải sang cống Phiên để mong giữ bình
an cho cha già, nhưng trên đường đi chữ tiết và tình cảm mà Nguyệt Nga giành cho
49
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
Vân Tiên đã lấn át hết lý trí cùng với trái tim người con gái ấy. Thế là trong giây phút
bốn bề vắng lặng nàng đã nhảy xuống biển tự tận mong giữ tròn chữ thủy chung với
chồng. Lúc này không ai có thể nói rằng Kiều Nguyệt Nga đã hy sinh thân mình để
đền ơn chúa.
Dù biết rằng trong xã hội phong kiến vua là bậc chí tôn không ai dám xúc
phạm. Nếu như gặp phải hôn quân thì người dân chỉ biết trách than một cách kín đáo
chứ không dám bình phẩm một cách công khai. Tuy nhiên trong tác phẩm này Nguyễn
Đình Chiểu đã cho phép nhân vật của mình bình giá về các vị hôn quân, bạo chúa. Lời
ông Quán hay chính là lời của cụ khi chứng kiến biết bao cảnh ngang trái do những tên
vua khiếp nhược gây ra. Những người ông Quán ghét không ai khác chính là những
tên vua nổi tiếng là bất tài, vô dụng trong lịch sử Trung Hoa như Kiệt, Trụ, U, Lệ…
Những nhân vật mà ông ghét không xa lạ với chúng ta, lời ông đã thay mặt biết bao
con người đã và đang chịu dày vò bởi người trị vì. Nhưng suy cho cùng qua những lời
ghét đó cũng chính là ước mơ của ông Quán hay đúng hơn là bản thân Nguyễn Đình
Chiểu về một xã hội phong kiến tốt đẹp, ở nơi đó sẽ do một minh quân trị vị, và được
sự trợ giúp của những bậc tôi trung.
Lục Vân Tiên sau khi được sáng mắt trở lại đã ra tay cứu đất nước khỏi nạn
ngoại xâm, những người bạn của chàng là bậc tướng tài. Tất cả họ đã được vua Sở
trọng dụng, cho dù có lúc vị vua này nghe theo lời xu nịnh của gian thần. Lời thú tội
về sai lầm của vua cũng chính là tư tưởng Nho giáo đang tồn tại trong con người tác
giả nhưng không vì thế mà niềm tin về xã hội phong kiến lý tưởng bị ảnh hưởng.
Nguyễn Đình Chiểu đang muốn cho ông vua của mình tự nhận ra sai lầm để từ đó ngài
biết cách trị vì, biết trọng dụng người tài. Cũng chính điểm này đã biến một tên vua
khiếp nhược trở thành một vị minh quân. Ngài đã làm những việc vừa lòng dân chúng
như: xóa tội cho Hớn Minh rồi phong cho chàng là phó tướng đi diệt giặc; cách chức
Thái sư - tên gian thần làm hại triều đình, nhiễu dân; giao tên bạo thần Trịnh Hâm lại
cho Lục Vân Tiên để chàng xử tội hắn; sắc phong cho Nguyệt Nga là quận chúa và
phục lại quan quyền cho Kiều Công… Tất cả hành động ấy của vua không chỉ là đền
bù lại lỗi lầm mà ngài gây ra mà còn chứng minh được bản chất một vị minh quân biết
phân xử một cách công bằng nhằm làm cho quần thần cũng như nhân dân tin yêu.
50
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
Mặc dù trong thực tế cuối cùng xã hội Việt Nam cũng không có nhiều minh
quân như vua Nghiêu, vua Thuấn nhưng tận sâu trong mong ước của cụ Đồ Chiểu
cũng đang trông chờ một vị vua có thể đứng ra ổn định xã tắc, biết trọng dụng những
bậc tài danh như Lục Vân Tiên, Hớn Minh hay Vương Tử Trực. Nếu cho rằng cách
giải quyết này của cụ có vẻ thiên về bậc minh quân thì cũng không có gì là sai, bởi
nguyên nhân là do Nguyễn Đình Chiểu lớn lên và trưởng thành trong môi trường
phong kiến, nó đã thấm sâu vào cách sống, cách nghĩ của người dân ta nhưng suy cho
cùng ở tư tưởng của cụ đã có nhiều tiến bộ hơn so với thế hệ trước. Ở cụ chữ trung
không có nghĩa chỉ phục vụ vua mà là những gì có lợi cho dân, cho nước thì bất cứ ai
cũng có thể làm được. Cũng chính điều đó góp phần làm thay đổi niềm tin về xã hội
phong kiến lý tưởng. Nếu lúc trước vua là bạo chúa thì thần cũng không dám cãi lại
mà tuân theo một cách nhất nhất, ngược lại không tuân theo sẽ bị khép vào tội khi
quân và chắc chắn họ cùng gia đình không tránh khỏi tội chết. Còn ở Nguyễn Đình
Chiểu thì ngược lại, tướng tài chỉ có thể phục vụ cho minh quân nếu vua đấy không
biết nghĩ đến xã tắc thì khó mà tướng theo cho được. Đấy cũng chính là tư tưởng hay
niềm tin của cụ dành cho xã hội mà mình đang sống, ước mơ của cụ chỉ đơn giản là có
một xã hội người trị vì là minh quân, quần thần là bậc tôi hiền.
51
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
CHƯƠNG 3
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC TRUYỆN THƠ LỤC VÂN TIÊN
Có nhiều ý kiến cho rằng Lục Vân Tiên chỉ thật sự hấp dẫn đối với bao thế hệ độc
giả là do nó có nội dung đặc sắc. Nhận định này hoàn toàn không sai nhưng nếu nói
như thế cũng đồng nghĩa với ý kiến rằng truyện thơ không có phần nghệ thuật thu hút
độc giả. Và lúc đó có vẻ như chúng ta chưa thật sự hiểu hết giá trị của tác phẩm đem
lại. Đúng là nghệ thuật của Lục Vân Tiên còn nhiều điều cần phải bàn nhưng những
giá trị hình thức mà tác phẩm mang lại không nhỏ so với nội dung. Việc cần làm là cần
nhìn nhận đúng và khách quan về nghệ thuật của Lục Vân Tiên.
3.1. Sự kết hợp nhiều hình thức ngôn ngữ
Điều đáng ghi nhận của cụ Đồ Chiểu trong Lục Vân Tiên chính là ngôn ngữ của
truyện. Trong tác phẩm cụ đã vận dụng và kết hợp nhiều yếu tố khác nhau nhằm làm
cho truyện có sự phong phú nhưng không kém phần hấp dẫn với người đọc. Cái hay
của Nguyễn Đình Chiểu là không gập khuôn theo một khuôn mẫu nào mà vận dụng
một cách sáng tạo, cộng với việc kết hợp tài tình của nhiều yếu tố ngôn ngữ đã làm
cho truyện được nhiều tầng lớp nhân dân yêu thích.
3.1.1. Ngôn ngữ bình dân
Lục Vân Tiên được tác giả viết ra nhằm mục đích giáo huấn, răn đời chứ
không phải sáng tác để giải trí, tiêu khiển. Chính vì vậy mà Nguyễn Đình Chiểu sử
dụng trong tác phẩm của mình những từ ngữ đại chúng, bình dân, dễ đi vào lòng
người. Qua một hệ thống từ như: thuyền, chìm, cá nuốt, giữa dòng, hai tám, lao đao,
đà, đục trong, mây trời, nên hư, nguồn cơn, chẳng phen, hai bảy, thang mây, dồi, đó,
đăng, chớ nghi, … người đọc dễ dàng nhận ra những gì tác giả muốn truyền tải trong
tác phẩm, từng câu, từng ý nhỏ một phần do cụ biết dùng từ ngữ phù hợp với mục đích
kể của mình.
Cho dù sử dụng nhiều ngôn ngữ bình dân vào Lục Vân Tiên nhưng không vì
thế làm cho tác phẩm của mình mất đi giá trị giáo dục đạo đức mà ngược lại nhờ vào
ngôn từ giản dị, mộc mạc mà người đọc có thể hiểu ngay tức khắc những vấn đề tác
giả muốn truyền tải. Chẳng hạn qua lời xưng hô của Kiều Nguyệt Nga với Kim Liên ta
52
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
dễ dàng nhận thấy mối quan hệ của hai người không đơn giản là chủ với tớ mà nó
giống như của một người chị và một người em:
Thôi thôi em hỡi Kim Liên!
Ðẩy xe cho chị qua miền Hà Khê.
(47 - 48)
Nó nghe sao quá thiết tha, đáng nhẽ một người chủ có quyền ra lệnh cho tì
tất của mình làm việc chứ việc gì Nguyệt Nga phải tha thiết như thế. Câu thơ ấy không
phải ra lệnh mà là nài nỉ, mang luôn cả nỗi niềm tâm sự trong đó. Từ cách xưng hô này
chứng minh được tình cảm của hai người thân thiết như chị em và cũng giải thích được
tại sao Kim Liên dễ dàng thay Nguyệt Nga sang cống Hồ.
Vì sáng tác trong điều kiện đặc biệt nên có lúc từ ngữ trong Lục Vân Tiên có
khi bị vụng về, không trau chuốt nhưng cũng chính điều này làm cho tác phẩm có sức
sống lâu bền trong quần chúng nhân dân. Bởi vì những con người lao động chân tay ấy
dễ dàng thấu hiểu được những gì mà tác giả truyền đạt qua ngôn từ của mình. Thử hỏi
nếu như tác giả dùng một hệ thống ngôn ngữ trừu tượng, khó hiểu thì có lẽ sức sống
của tác phẩm trong nhân dân lao động không lâu như thế cho dù đề tài cũng vẫn không
thay đổi.
3.1.2. Ngôn ngữ bác học
Mặc dù ngôn ngữ chính của Nguyễn Đình Chiểu sử dụng trong tác phẩm
Lục Vân Tiên mang tính bình dân. Nhưng vốn xuất thân từ tầng lớp Nho giáo, từ nhỏ
những lời ăn tiếng nói của những người theo học dưới “cửa Khổng sân Trình” đã
thấm vào con người Nguyễn Đình Chiểu. Bởi vậy trong tác phẩm ông sử dụng khá
nhiều từ ngữ bác học vì cuối cùng thì Lục Vân Tiên được viết dựa trên nền tảng đạo
đức Nho giáo là chính.
Một hệ thống từ Hán đã được tác giả sử dụng cách xưng hô của vua, quan,
mối quan hệ vợ chồng, thầy trò, bạn bè, chủ tớ như: trẫm, nàng, chàng, thiếp, quân tử,
bằng hữu, tiểu sanh, tôn sư… Chính những từ này làm cho mối quan hệ của các nhân
vật có vẻ trang trọng, đượm màu sắc phong kiến. Đồng thời qua ngôn ngữ bác học
chúng ta biết được xuất thân và nghề nghiệp từng con người trong tác phẩm. Ngoài ra,
dùng những từ ngữ bác học Nguyễn Đình Chiểu còn muốn thể hiện quan điểm sống,
53
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
khuyên con người biết nhân nghĩa, đạo đức không làm điều sai chẳng hạn như: điểm
phấn, ngãi sâu, hoạn nạn, thác đà, bia danh...
Hay khi nói lên quan điểm sống của đấng nam nhi trong xã hội, cụ đã dùng:
Làm trai ơn nước nợ nhà
Thảo cha ngay chúa mới là tài danh.
(1765 - 1766)
Hệ thống từ bác học hay đúng hơn là những từ Hán được Nguyễn Đình
Chiểu sử dụng một cách thuần phục. Ông đã cố gắng làm chuyển đổi ngôn ngữ đó
sang những từ ngữ thuần Việt dễ hiểu, nhằm làm cho người nghe không có cảm giác
khô cứng khi đọc tới những đoạn triết lý, hoặc là khi nói về các vị vua bên Trung Hoa,
những vị thần linh.
Hệ thống từ bác học như: trau mình, cửa Thánh, sân Trình, hội long vân,
khoa tràng, danh tánh, tánh tự, đại khoa, ngãi tế, nhạc gia, cốt cách, Nam giản, tiểu
nhi… để miêu tả xuất thân, chức năng của nhân vật hay tính tình cũng chính là mục
đích của cụ Đồ Chiểu. Qua đó ta nhận thấy được sự tôn trọng của tác giả đối với
những nhân vật đó. Chẳng hạn, khi nói đến thầy dạy học của Lục Vân Tiên, ông có thể
dùng ngắn ngọn một từ thầy nhưng Nguyễn Đình Chiểu đã thay bằng cách gọi đầy sự
kính trọng đó là “tôn sư”. Hai từ ấy xuất hiện tới 6 lần chỉ trong 60 câu thơ đầu của
truyện đã chứng minh được sự tôn kính của tác giả đối với thầy. Có lẽ trong cuộc đời
của cụ cũng đã từng gặp một người dạy mình giống như thầy của Lục Vân Tiên.
Cho dù dùng ngôn ngữ chính là bình dân nhưng nếu cần ông cũng vẫn sử
dụng một hệ thống từ bác học để làm cho tác phẩm vừa mang tính đại chúng nhưng
cũng không mất đi vẻ nho phong của nó. Điều đó chứng minh được sự tài tình của tác
giả trong việc sử dụng ngôn ngữ nào phù hợp trong mọi hoàn cảnh. Những đoạn cần từ
bình dân thì ông sử dụng loại từ đó, chỗ nào cần ngôn ngữ uyên thâm, bác học thì sử
dụng ngôn ngữ mang tính chất trang trọng này. Bởi vậy Lục Vân Tiên làm cho người
đọc, người nghe vừa cảm thấy giản dị, đơn giản nhưng tính nho nhã vẫn không mất đi.
3.1.3. Ngôn ngữ địa phương
Ngôn ngữ địa phương được hiểu: “là những từ ngữ dùng hạn chế ở một
hoặc một vài địa phương. Nói chung từ địa phương là bộ phận từ vựng của con người,
tiếng nói hàng ngày của bộ phận nào đó của dân tộc chứ không phải là từ vựng của
54
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
ngôn ngữ văn học. Khi dùng sách báo nghệ thuật, các từ địa phương thường mang sắc
thái tu từ: diễn tả lại đặc điểm của địa phương, đặc điểm của nhân vật” [14;14].
Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng một hệ thống ngôn ngữ địa phương đa dạng trong
truyện thơ Lục Vân Tiên để thực hiện mục đích giáo huấn của mình.
Tác phẩm được xem như kho từ điển của ngôn ngữ địa phương. Hầu như
Nguyễn Đình Chiểu vận dụng tất cả sự am hiểu của mình về vốn từ này vào trong tác
phẩm. Những lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân lao động từ miền Trung trở
vào Nam ông đã đem vào Lục Vân Tiên. Người đọc nhận thấy những lời ăn tiếng nói
ấy trong tác phẩm làm cho họ càng thêm yêu quý cụ hơn. Không phủ nhận một điều
rằng, với lớp từ vựng địa phương làm cho các điển tích mà Nguyễn Đình Chiểu sử
dụng không có vẻ khô cứng mà nó trở nên dễ nghe và sức thuyết phục được tăng lên.
Hàng loạt từ ngữ dân gian trong lời ăn tiếng nói Nam Bộ và xứ Huế được cụ
đưa vào trong tác phẩm như: lướt dặm, nhắm kiểng, thưa việc, trở việc, bôn chôn, bịn
rịn, bĩ bàng, bậu, qua, mặt như sề thịt trâu, ê hề, tầm phào, vắng hoe, hỏi phăn, mưa
tro, quày quả, đổ thừa, ni… nhằm tạo ra tính giao thoa của ngôn ngữ hai vùng miền, từ
đó góp phần làm giàu thêm ngôn ngữ của dân tộc. Những từ ngữ ấy không có gì lạ so
với ngôn ngữ của đời sống nhưng khi đưa vào câu thơ lục bát nó đã góp một phần giá
trị nghệ thuật đồng thời tôn lên vẻ đẹp của ngôn ngữ dân gian.
Trong Lục Vân Tiên ta thấy xuất hiện một lớp từ vựng có những biến âm so
với sự phát âm của lớp từ vựng nói chung. Những biến âm đó là do người Nam Bộ có
xu hướng muốn đơn giản hóa hướng phát âm: sanh, nầy, nhơn, chơn, nhứt, lằng
nhằng, Hớn, biêu, bịnh, bổn, bực, bửu, Châu, chưn, đàng, lạng, phang, phụng, phước,
dưng, tòng, vô, chi, thỉ chung, chánh…
Sở dĩ có hiện tượng như thế là do Lục Vân Tiên, được nhân dân truyền
miệng mà lưu lại, cho nên có hiện tượng biến âm như thế có thể nghĩ là do người kể,
người sao chép, người đọc đã theo cách phát âm phương ngữ. Cho dù hiện tại trên văn
bản và trong nhận thức những từ nhơn, bịnh, chánh… theo đúng chuẩn Tiếng Việt là
nhân, bệnh, chính… “Lại có thể nghĩ rằng trong phong cách thơ và vần, thì đối với
nhân dân cả nước, thuộc các phương ngữ khác nhau, sự đối lập của những vần như -
ang/ - ương, -inh/- ênh, - anh/- inh, - ơn/- ân…đều trở thành trung hòa, trong khuôn
khổ của chuẩn về vần điệu, nhất là trên văn bản viết”[39;647].
55
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
Ta còn thấy xuất hiện một dạng đặc biệt trong tác phẩm, đó chính là những
từ láy có tư cách ngữ pháp là động từ, phó từ thường quen dùng ở Nam Bộ: bĩ bàng,
chàng ràng, ê hề, lo lừa, no nao, nhộn nhàng, trớ trinh… Những danh từ cụ thể, động
từ, tính từ có sự đối lập giữa các địa phương: be / mạn thuyền, vùa (hương) / bát
(hương), cọp / hổ, ve / lọ, trái / quả, phồn / phường, mưa tro / mưa bụi, hối / giục, đau
/ ốm, kêu / gọi, dè / ngờ, quái / treo, đổ thừa / vu vạ, giỡn / đùa, vầy lửa / nhóm lửa, dơ
/ bẩn, đui / mù… Chúng là hệ thống từ mang đậm tính chất địa phương trong ngôn
ngữ. Để hiểu rõ các từ này cần phải có sự đối chiếu giữa các phương ngữ và đặc biệt
với chuẩn Tiếng Việt.
Nếu Truyện Kiều của Nguyễn Du ra đời ở vùng miền Trung nhưng trong đó
không có gì mang màu sắc của phương ngữ vùng đó thì Lục Vân Tiên lại chứa trong
mình một lượng từ vựng đáng kể của phương ngữ. Người đọc dễ dàng nhận thấy,
Nguyễn Đình Chiểu lựa chọn từ ngữ “gần như là điều tự nhiên đối với những từ rất
gắn bó với cuộc sống của bà con” [39;646] miền Nam. Nhân dân nơi đây yêu mến tác
phẩm không phải chỉ do phương ngữ tạo ra song vốn từ địa phương này có một vai trò
quan trọng và nhất định trong việc tạo ra sự yêu thích này. Đồng thời ngôn ngữ địa
phương cũng là một yếu tố tạo nên giá trị hiện thực cho tác phẩm.
3.2. Một số phương diện nghệ thuật xây dựng nhân vật
Nếu nói rằng tính chất phổ biến của Lục Vân Tiên là khá rộng rãi nhưng khi
đem so giá trị nghệ thuật của nó với Truyện Kiều thì ít nhiều có những sự chênh lệch
khá lớn. Nguyễn Đình Chiểu không tinh tế trong miêu tả tâm lý nhân vật như Nguyễn
Du, không chú ý nhiều đến việc miêu tả ngoại hình mà chỉ tập trung khắc họa lên hành
động của nhân vật. Đứng ở gốc độ khách quan mà nhận xét thì điều này không sai.
Nhưng sai lầm của nhiều nhà nghiên cứu ở chỗ họ đã dùng một thước đo, một tiêu
chuẩn không phù hợp để đánh giá Nguyễn Đình Chiểu trong lĩnh vực nghệ thuật. Bởi
điều đơn giản, Lục Vân Tiên không chú trọng vào việc miêu tả tâm lý nhân vật là do
tính chất của tác phẩm được xây dựng nhằm vào mục đích giáo huấn, đấu tranh chống
lại những bất công, bất nghĩa trong xã hội. Thật ra ở phương diện xây dựng nhân vật,
Nguyễn Đình Chiểu cũng đạt được những thành công nhất định. Và với cách lựa chọn
đó càng khắc họa lên nội dung đấu tranh của tác phẩm, đặc biệt những nhân vật được
xây dựng trong tác phẩm rất giống với con người Nam Bộ.
56
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
3.2.1. Ngoại hình
Văn chương trung đại khi miêu tả thường dùng những tính chất ước lệ,
tượng trưng nhưng Đồ Chiểu chỉ lột tả nhân vật qua ngoại hình bằng vài chi tiết.
Chẳng hạn khi miêu tả người con gái có dung nhan khiến bao người say đắm, đến nỗi
phải đi cống Hồ, thế mà Nguyễn Đình Chiểu lại mượn lời của một kẻ thường dân để ca
ngợi một cách lướt qua:
Con ai vóc ngọc mình vàng,
Má đào mày liễu, dung nhan lạnh lùng.
(109 - 110)
Còn đối với nhân vật Lục Vân Tiên, ông giới thiệu qua loa:
Mày tằm, mắt phụng, môi son,
Mười phân cốt cách, vuông tròn mười phân.
(349 - 350)
Hớn Minh thì:
Xa xem mặt mũi đen sì,
Mình cao đồ sộ dị kỳ rất hung.
(291 - 292)
Và tên Bùi Kiệm - một trong số những nhân vật phản diện cũng được tác giả
miêu tả chỉ bằng vài chi tiết nhỏ: “Họ Bùi tên Kiệm tác chừng đôi mươi”.(Câu 444)
Nói tóm lại, ở Lục Vân Tiên có rất ít câu thơ dành cho việc miêu tả ngoại
hình. Các nhân vật của ông chỉ hiện ra với cái tài, tinh thần chính nghĩa chứ không
bằng những nét họa ngòi bút. Điều này cũng dễ hiểu đối với Nguyễn Đình Chiểu. Nhà
thơ sáng tác trong hoàn cảnh hai mắt bị mù, không có điều kiện để chăm chút việc
miêu tả ngoại hình. Mặt khác, điều cốt lõi trong sáng tác là ông xây dựng một hệ thống
nhân vật biết chiến đấu vì đạo đức, cho nên việc tập trung miêu tả bên ngoài chỉ là một
điều không cần thiết. Người miền Nam rất chuộng nhân cách chứ không phải vẻ ngoài
hào nhoáng của họ. Dường như hiểu được điều quan trọng đó nên ông cho nhân vật
của mình hiện lên bằng hành động, bằng nhân cách chứ không bằng vẻ đẹp ngoại hình.
Mỗi một tác phẩm được xây dựng nên nhằm vào một mục đích cụ thể và tùy
vào đó mà tác giả lựa chọn cách xây dựng nhân vật như thế nào cho phù hợp. Ở
Truyện Kiều là tiếng ca ai oán về số phận người phụ nữ có tài sắc nhưng bạc mệnh thì
57
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
việc Nguyễn Du tập trung miêu tả tỉ mỉ ngoại hình của nhân vật là điều tất nhiên, nếu
như ông chỉ miêu tả qua loa thì đâu làm nổi bật lên số phận chua chát của nàng Kiều
bất hạnh. Còn trong Lục Vân Tiên tác giả không tập trung miêu tả ngoại hình của các
nhân vật chính cũng không phải vô lý. Nhân vật trong đó phải hành động vì chính
nghĩa, có nhiệm vụ làm sáng tỏ chân lý thì việc tập trung phác họa bề ngoài thiết nghĩ
không cần thiết. Mà Nguyễn Đình Chiểu muốn cho nhân vật của mình hiện lên qua
tính cách, hành động. Chính điều này làm cho Lục Vân Tiên có một nét riêng của nó
mà không tác phẩm truyện Nôm nào có được.
3.2.2. Tính cách
Do xây dựng tác phẩm theo mục đích giáo huấn cho nên các nhân vật của
Nguyễn Đinh Chiểu được xây dựng trên nguyên tắc: “con người bất biến về tính
cách”[27;63]. Họ cố định về tính cách từ đầu đến cuối, không có điều kiện tác động từ
bên ngoài nào có thể làm thay đổi tính cách của nhân vật: chàng Lục Vân Tiên là con
người trung trực, quả cảm, có lòng hiệp nghĩa; nàng Nguyệt Nga nhân hậu, thủy
chung; Tiểu đồng trung thành, tận tụy với chủ; Vương Tử Trực, Hớn Minh hết lòng vì
bạn, không sợ cường quyền; những kẻ ăn ở hai lòng, sống lọc lừa, phản trắc như Trịnh
Hâm, gia đình họ Võ, Bùi Kiệm. Nếu trong tiểu thuyết hiện đại, các tính cách có thể bị
thay đổi bởi hoàn cảnh thì trong truyện của Nguyễn Đình Chiểu điều đó không xảy ra.
Nhân vật chính của chúng ta là Lục Vân Tiên, từ đầu chàng đã bộc lộ tinh
thần hiệp nghĩa, phủ nhận mọi sự đền đáp. Khi được Nguyệt Nga tỏ ý đáp tạ cái ơn
cứu giúp giữa đường, chàng liền:
Vân Tiên nghe nói liền cười:
“Làm ơn há dễ trông người trả ơn…”
(175 - 176)
Tính cách này kéo dài đến cuối tác phẩm. Hay nàng Nguyệt Nga từ đầu đã
quyết lấy tấm chân tình để đền tạ ơn chàng thì cho dù khó khăn, vất vả vẫn “trăm năm
cho vẹn chữ tòng”.
Điều kiện để lột tả tính cách nhân vật chính là thông qua hành động chứ
không thông qua miêu tả nội tâm nhân vật. Chính vì nghệ thuật xây dựng tính cách
như thế đã giúp cho các nhân vật vượt qua được những khó khăn của hoàn cảnh mà
vẫn giữ được vẻ đẹp vốn có của họ. Tính cương trực, không sợ uy quyền đã giúp cho
58
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
Tử Trực vượt lên những cám dỗ thấp hèn để giữ mãi tình bạn đối với Vân Tiên. Sự
nhân hậu, thủy chung giúp cho Nguyệt Nga ngã xuống rồi lại đứng lên sau bao nhiêu
giông bão của cuộc đời. Lòng nghĩa hiệp, tinh thần vượt khó đã cho Vân Tiên từ chỗ
bóng đêm của cuộc đời bước lên vũ đài của sự vinh quang. Sự tin tưởng vào công
bằng, cũng như không sợ cường quyền đã giúp Hớn Minh trụ mãi cho đến ngày được
minh oan. Và còn rất nhiều điều tạo nên tương lai tươi sáng cho các nhân vật chính khi
họ có một phẩm chất bất biến từ đầu đến cuối. Nếu ở nhân vật chính diện tính cách
không thay đổi làm nổi bật lên nét đẹp trong tâm hồn họ thì ở những con người phản
diện điều này chính là liều thuốc giết chết nhân cách của họ. Sự tráo trở tồn tại vĩnh
hằng trong con người mụ Quỳnh Trang đặc biệt là Võ Thể Loan nên hai mẹ con ả đã
nhận lãnh hậu quả đáng có. Hắt hủi khi chồng rơi vào hoàn cảnh bi đát nhưng đến khi
con người ấy được vinh hiển, làm trạng nguyên thì lại lật lộng, đổ hết mọi tội lỗi lên
người cha đã mất của mình, đó không phải ai khác chính là Võ Thể Loan. Từ đầu đến
cuối câu chuyện con người ấy không hề thay đổi tính tình của mình, không nhận thấy
sai lầm trong cách sống mà vẫn ngoan cố đi theo những cám dỗ của danh lợi để phải
nhận lấy cái kết thúc trong hang Thương Tòng.
Tóm lại, chính bởi do xây dựng nhân vật bất biến về tính cách nên Nguyễn
Đình Chiểu mới thành công trong việc đề cao nhân nghĩa, đạo đức. Ông muốn xây
dựng nên đội ngũ nhân vật chính diện biết vượt qua mọi trở ngại của cuộc sống để giữ
cho mình nhân cách trong sạch vốn có. Cũng bởi vậy các nhân vật trong Lục Vân Tiên
không khác gì nhân dân miền Nam biết kiên cường chống lại những tác động không
mong muốn từ bên ngoài để xây dựng cho mình một cuộc sống ổn định dài lâu. Và
những ai không biết đấu tranh chống lại nó thì sẽ bị đào thải bởi xã hội không chấp
nhận những con người cuối đầu trước số phận.
3.2.3. Hành động
“Cái đặc sắc của Lục Vân Tiên là tính chất hành động của nó rất phong
phú. Lục Vân Tiên không có, hay có rất ít những đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật
giống như trong Truyện Kiều; nhà thơ cũng không mấy khi trực tiếp mổ xẻ tính cách
nhân vật, hay có những đoạn phát biểu có tính chất trữ tình ngoại đề giúp người đọc
hiểu sâu hơn hoàn cảnh hoặc tâm trạng của nhân vật, nhưng không phải vì vậy mà
tính cách và cá tính của nhân vật bị mờ nhạt. Trái lại, chính thông qua hành động của
59
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
nhân vật, Nguyễn Đình Chiểu đã đạt được kết quả ấy một cách xuất sắc”[39;325].
Ông luôn cho các nhân vật của mình vào hành động, vì thế sự xuất hiện của
các động từ, nhóm động từ hoặc những tập hợp từ tương đương để miêu tả là không
nhỏ. Những động từ được dùng kết hợp với những từ phụ như: liền, ngay, thẳng tới,
tức thì…làm cho hành động của nhân vật trở nên dứt khoát, mau lẹ, mạnh mẽ. “Đồng
thời cũng tạo nên được nhịp điệu gấp gáp, khẩn trương trong thơ và tạo nên một thời
gian nghệ thuật chuyển động nhanh trong tác phẩm” [7;426]. Nguyễn Đình Chiểu
không cho Vân Tiên suy nghĩ nhiều khi nhận được thơ nhà cho hay mẹ mất, không cho
chàng phân vân giữa việc tiếp tục thi hay về chịu tang mẹ mà cụ đã cho nhân vật của
mình về làm nhiệm vụ người con. Thử hỏi nếu như ở đoạn đó tác giả miêu tả tâm trạng
ở hay về của Tiên thật nhiều thì tin chắc rằng tấm gương hiếu thảo của chàng không có
gì đặc sắc. Một con người có tạo nên tên tuổi cho mình hay không phù thuộc rất nhiều
vào hành động. Chẳng hạn khi biết được có bọn cướp làm hại người dân lương thiện,
chàng liền xông pha giải nguy cho dân làng, sau đó được đền ơn nhưng Tiên đã từ
chối. Ra tay giúp đỡ, được đền ơn nhưng liền từ chối tất cả các hành động đó diễn ra
liên tục, không ngắt đoạn càng làm tôn lên vẻ quân tử của chàng trai. Hay ở người bạn
của chàng là Hớn Minh khi thấy con quan huyện ra tay làm hại gái nhà lành, liền ra tay
giải nguy cho cô gái và còn tự “Bó tay chịu trói nộp cho huyện đàng” (Câu 1164)
Đây chỉ là trong số ít nói về hành động của các nhân vật. Trong tác phẩm
các nhân vật đặc biệt là chính diện có số lần thể hiện suy nghĩ của mình qua việc làm
tương đối nhiều. Ông Ngư, ông Tiều hay bà lão không ngần ngại cứu giúp người trong
cơn khốn cùng nhưng lại không suy nghĩ lợi, hại. Ông Quán sẵn sàng mắng chửi
những tên tiểu nhân mà không sợ mất khách. Nàng Nguyệt Nga nguyện chung thủy
với Lục Vân Tiên cho dù bản thân không có chút danh phận với chàng. Tiểu đồng che
chòi giữ mả cho chủ. Kim Liên thay tiểu thơ cống Hồ…Tất cả họ tạo nên một chuỗi
hành động và những việc làm ấy bộc lộ tính chất chính nghĩa. Hành động nào càng dứt
khoát, diễn ra nhanh chóng thì chứng tỏ nhân vật đó hoàn toàn làm việc nghĩa không
hề nghĩ đến thiệt hại bản thân. Họ hành động vì phương châm sống của mình.
Khi tìm hiểu những câu thơ miêu tả hành động của các nhân vật ta còn bắt
gặp sự xuất hiện của các tổ hợp động từ liên tiếp. Trong đó có những câu thơ xuất hiện
tới bốn động từ chỉ hành động kế tiếp như: bẻ cây, làm gậy, nhắm làng, xông vô. Với
60
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
việc sử dụng như thế làm cho bình diện hoạt động của các nhân vật thêm phần đề cao
hơn.
Điều đáng chú ý trong Lục Vân Tiên là việc miêu tả hành động của các nhân
vật. Dường như nhà thơ muốn gửi cả hoài bão, ước mơ của một con người luôn khao
khát hành động nhưng số phận không cho phép cụ thực hiện nó. Từ khi theo học “cửa
Khổng sân Trình” Đồ Chiểu mong rằng mình sẽ lấy sức tài của mình mà phục vụ cho
đời nhưng số phận đã không cho phép cụ làm điều đó, cho nên không khó hiểu khi tác
giả lại xây dựng một đội ngũ nhân vật là “những con người nghĩa vụ” của thời đại. Họ
là lực lượng đại diện cho chân lý và hành động để làm sáng tỏ nó. Cho nên không thể
khác khi mà các nhân vật trong tác phẩm phải luôn thực hiện nhiệm vụ đó. Mọi tài ba,
đức độ, phẩm chất đạo đức của nhân vật được biểu hiện thông qua hành động. “Hơn
nữa, xây dựng nhân vật bằng cách nặng về miêu tả hành động cũng là một con đường
rất phù hợp với phong cách sáng tác có tính dân gian - phong cách thường thấy trong
truyện Nôm khuyết danh” [7;428]. Như đã nói Lục Vân Tiên xây dựng nên để kể, hoặc
nói cho nên người nghe buộc phải chú ý nhiều đến hành động. Người lao động Nam
Bộ hiểu hành động hơn lời nói và họ thích noi theo những việc làm chứ không phải
bằng lý thuyết.
3.2.4. Tâm trạng
Một phần tạo nên thành công của Truyện Kiều là việc tác giả khắc họa nên
một bức tranh tâm lý nhân vật nhiều màu sắc. Tuy nhiên, ta không thấy điều đó ở
Nguyễn Đình Chiểu vì cụ không chú trọng vào phân tích một trạng thái tâm lý sâu sắc
như Nguyễn Du. Những đoạn cần miêu tả tâm trạng thì ông chỉ dùng vài ba câu để xác
định nó hay nói ra cảnh ngộ, tình cảm chính trong đó. Chẳng hạn như đoạn miêu tả
Kiều Nguyệt Nga nhảy xuống sống tự tử để giữ tròn thủy chung với Vân Tiên. Có
người cho rằng Nguyễn Đình Chiểu thất bại trong việc miêu tả đoạn này. Trong
Truyện Kiều khi quyết định trao duyên cho em mình, Thúy Kiều đã có những giây
phút đấu tranh nội tâm đến tột đỉnh. Còn ở đây Kiều Nguyệt Nga phải có sự đấu tranh
giữa ba chữ trung, hiếu, tiết vậy mà nàng lại “vội vàng nhảy ngay” không có chút gì
đắn đo suy nghĩ trong đó. Thật ra nếu xét trên bình diện ngôn từ thì điều đó là đúng
nhưng hãy hiểu rằng thời gian cho nàng suy nghĩ hay đấu tranh tâm lý là không có.
Nếu như Nguyệt Nga ra đứng mạn thuyền mà còn phân vân có nên làm theo chữ trung
61
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
hay không thì việc tự trầm chắc chắn khó xảy ra. Tuy nhiên, đấu tranh nội tâm không
phải chỉ có lúc này mà dường như nàng luôn đắn đo trong việc lựa chọn hành động
nào cho phù hợp. Cuối cùng Nguyệt Nga đã chọn cái chết để giữ tròn tấm chân tình
với Lục Vân Tiên. Thật ra cái “nhảy ngay” không phải là hành động tức thời mà nó là
kết quả của một quá trình đấu tranh nội tâm lâu dài. Nếu không có quá trình đó thì tại
sao nàng không chọn cái chết từ lúc đầu mà đến lúc sắp sang Phiên mới đưa ra quyết
định đó. Vì thế càng chứng tỏ được nỗi đau lúc này đã lên đến tột độ. Và càng chứng
minh được rằng không phải Nguyễn Đình Chiểu không có miêu tả tâm lý nhân vật mà
điều đó cần có sự cảm nhận của người đọc qua ngôn từ của tác giả.
Cũng như trường hợp của Nguyệt Nga ở Vân Tiên cũng vậy. Khi hay tin mẹ
mất chàng quyết định về chịu tang mẹ lập tức, hoàn toàn không có suy nghĩ nào khác.
Có thể cho rằng Lục Vân Tiên quá nặng về tình cảm. Nhưng thử hỏi nếu như chàng
đắn đo giữa sự nghiệp và mẫu thân thì đâu còn là Vân Tiên của quần chúng lao động
nữa. Bởi người lao động miền Nam họ coi trọng tình nghĩa hơn sự nghiệp, những con
người đó sẵn sàng hy sinh vật chất phù phiếm chỉ mong sống cho trọn tình trọn nghĩa.
Tuy nhiên nói không miêu tả tâm trạng của Lục Vân Tiên lúc đó là hoàn toàn sai lầm.
Đó không phải là tâm trạng bâng khuâng mà là đau đớn khi nhận được tin mẫu thân
qua đời. Đấy là nỗi lòng của một người con khi mẹ mất không có bên cạnh để lo chu
toàn mọi việc.
Các nhân vật phụ trong khi hành động vì nghĩa lại càng không đắn đo suy
nghĩ nhiều mà thực hiện điều ấy ngay. Có thể nói những việc làm của các nhân vật
chính là yếu tố lột tả tâm trạng nhân vật trong đó. Vì bản chất của Lục Vân Tiên là
miêu tả hành động nhiều hơn nhưng xét cho cùng tâm lý của các hệ thống nhân vật
trong đó không kém phần phức tạp. Sự phức tạp đó được tác giả lột tả bằng một chuỗi
hành động cho nên không sai khi cho rằng việc làm của nhân vật chính là phương tiện
miêu tả tâm lý của họ.
3.3. Vận dụng sáng tạo một số thể loại của văn học dân gian
Lục Vân Tiên là tác phẩm của người bình dân, không ai có thể lấy nó ra khỏi vị
trí của người lao động. Điều đó được tạo nên chính vì cha đẻ của tác phẩm biết vận
dụng sáng tạo những thể loại văn học dân gian vào đứa con xuất sắc của ông. Tuy
nhiên nói như thế không đồng nghĩa với việc cho rằng tác phẩm là sự rập khuôn của
62
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
những thể loại văn học truyền thống mà ở đấy người đọc còn nhận thấy sự sáng tạo
của tác giả qua từng câu, từng chữ của tác phẩm.
3.3.1. Thành ngữ, tục ngữ
Đây là hai trong số những thể loại sáng tác dân gian truyền miệng, là những
câu nói ngắn gọn, có nhịp điệu, có hình thức bền vững, được dùng trong lời ăn, tiếng
nói hằng ngày, thường là những câu có nhiều nghĩa để bộc lộ quan điểm sống của
người dân hay đúng hơn là kinh nghiệm sống của họ. Xu hướng vận dụng thành ngữ,
tục ngữ vào trong sáng tác văn học không phải là mới của các tác giả. Tuy nhiên, dùng
nó như thế nào cho thật xuất sắc mà người đọc có thể tìm thấy cái hay trong đó là một
chuyện không phải ai cũng làm được. Nguyễn Đình Chiểu đã đem những kinh nghiệm
sống ấy vào trong Lục Vân Tiên một cách sáng tạo, những câu nói ấy rất quen thuộc
nhưng qua sự kết hợp ngôn từ của cụ thì nó trở nên nhẹ nhàng, êm dịu nhưng giá trị về
nội dung nó không mất đi.
Tục ngữ, thành ngữ trong truyện Lục Vân Tiên đặc biệt hơn so với các
truyện Nôm khác là do nó mang đậm dấu ấn Nam Bộ. Hàng trăm câu thành ngữ, tục
ngữ dân gian như: vật đổi sao dời, màn trời chiếu đất, sớm còn tối mất, phận bạc như
vôi, tiền mất tật còn… đã hòa lẫn vào những câu thơ. Hoặc có thể thấy trong tác phẩm
Lục Vân Tiên những mãnh rời của tục ngữ như Chùa rách Phật vàng, nước có nguồn
cây có cội, sống sao thác vậy, trọng nghĩa khinh tài, chuông chẳng đánh sao kêu, đèn
chẳng khêu sao rạng, vạch lá tìm sâu… Cho dù tác giả sử dụng nguyên vẹn hay những
mãnh rời thì nội dung diễn đạt của câu thơ không mất đi.
Vốn sáng tác Lục Vân Tiên để giáo huấn, răn đe nên suy cho cùng đối tượng
của cụ hướng tới cũng là những con người bình dân lao động, những người theo học
đạo đức thánh hiền và đặc biệt là một đội ngũ biết “Dữ răn việc trước, lành dè thân
sau” (Câu 4). Cho nên không khó giải thích vì sao ông lại vận dụng những câu thành
ngữ, tục ngữ ngắn gọn mà có nội dung sâu xa để đem vào tác phẩm, phục vụ đắc lực
cho nhu cầu sáng tác của mình.
Không khó khăn lắm khi chúng ta tìm những câu nói ấy trong cuộc sống
nhưng để đem vào sáng tác văn chương cho phù hợp thì không phải giản đơn. Chẳng
hạn, khi muốn thể hiện sự thủy chung, gắn bó keo sơn, và những mối quan hệ của con
người với nhau thì trong kho tàng văn học dân gian không ít. Nhưng chọn lựa phù hợp
63
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
thì lại rất khó khăn. Chẳng hạn nếu thay “báo đức thù công” hoặc “kiến ngãi bất vi”
thành những câu có ý nghĩa tương tự thì tin chắc rằng chất thơ cũng như cách diễn đạt
của các câu trên nó không trang trọng hay đúng hơn ý nghĩa người đọc khó cảm nhận
được hết ý nghĩa mà tác giả đề cập. Nội dung sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong Lục
Vân Tiên cũng khá đa dạng. Chủ yếu xoay quanh những vấn đề trong mối quan hệ của
con người với nhau. Khi chú cõng con khuyên Vân Tiên chớ mang họa vào mình đã
dùng câu “họa hổ bất thành”. Lúc ấy chẳng những cảnh báo về sức mạnh của bọn
cướp mà còn mang nội dung ca ngợi một chàng trai không sợ nguy khốn chỉ mong ra
tay nghĩa hiệp để giải cứu con người ra khỏi vòng nguy hiểm.
Một điểm đáng chú ý trong tác phẩm chính là việc tác giả sử dụng những
thành ngữ mang đậm dấu ấn của Nam Bộ: vùa hương bát nước, tu nhơn tích đức, nước
xao đầu vịt, khô lân chả phụng, dấu thỏ đường dê, dửng dừng dưng… nhằm làm ý
nghĩa của những câu thơ ấy gần với phong vị của quần chúng hơn.
Và còn rất nhiều câu thành ngữ, tục ngữ được Nguyễn Đình Chiểu vận dụng
một cách tài tình trong Lục Vân Tiên. Giống như ý nghĩa nguyên vẹn của nó nên khi
đem vào tác phẩm nó cũng không khác mấy so với lời ăn tiếng nói hàng ngày của
người bình dân. Thế nhưng khi được đưa vào câu thơ lục bát, những câu đó đọc lên rất
nhẹ nhàng, không khô khan, cứng nhắc như chân lý mà ông cha ta đúc kết nên. Vận
dụng nhưng không rập khuôn theo nguyên mẫu là cái hay, cái tài của Nguyễn Đình
Chiểu và cũng vì thế tạo nên sức sống của truyện.
3.3.2. Ca dao, dân ca
Từ xa xưa những câu ca dao, dân ca đã thấm sâu vào từng thớ thịt, xương
tủy của người dân Việt Nam. Đó là những câu hát của người bình dân, được sáng tạo
trong lao động hoặc trong những buổi sinh hoạt truyền thống. Qua những câu hát ấy ta
có dịp tiếp nhận vẻ đẹp ẩn sâu trong tâm hồn của một dân tộc. Người Việt dùng ca dao
để thổ lộ lòng mình, đấu tranh chống lại những bất công trong xã hội bởi thế ta sẽ
không bao giờ thắc mắc được vì sao một người lao động bình thường nhưng họ cũng
có thể nói những câu nghe êm tai. Và Nguyễn Đình Chiểu đã mang ca dao, dân ca vào
trong Lục Vân Tiên cũng do một phần tâm hồn ông là của một người bình dân.
Cái tài của Nguyễn Đình Chiểu chính là ở cách vận dụng thể loại văn học
dân gian này. Có lúc ông sử dụng nguyên bản một câu ca dao, dân ca làm cho lời thơ
64
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
thêm duyên dáng, nhuần nhị, ngọt ngào. Cũng giống như người dân lao động, ông đã
sử dụng ca dao để thể hiện những điều mà bản thân muốn nói trong tác phẩm. Khi đọc
Lục Vân Tiên, ta sẽ bị ngỡ ngàng và khó khăn khi có lúc không phân định được đâu là
lời thơ của tác giả với ca dao. Chẳng hạn như câu:
Người đời như bóng phù du,
Sớm còn tối mất công phu lỡ làng.
(1301 - 1302)
Như Xuân Diệu từng nhận xét về câu thơ trên: “câu này, cụ Đồ Chiểu lấy từ
ca dao đưa vào sách viết, hay dân chúng đã lấy từ sách viết ra làm ca dao?” [39;607].
Quả đúng như vậy, trong toàn bộ 2082 câu thơ lục bát của Lục Vân Tiên mà chúng tôi
khảo sát đôi lúc cũng gặp trường hợp như Xuân Diệu đề cập đến.
Bên cạnh những câu ca được sử dụng nguyên vẹn, ta còn bắt gặp một trường
hợp đặc biệt trong Lục Vân Tiên khi tác giả vận dụng ca dao trong tác phẩm của mình.
Khác với trường hợp trên, mối quan hệ của truyện với ca dao ở đây là gián tiếp,
“những văn liệu dân gian đã thấm sâu trong ký ức bật ra những âm điệu, những hình
ảnh và từ đó tác giả bổ sung, gọt giũa, cải đổi chúng thành những câu thơ diễn đạt
những ý tưởng phù hợp với các tình tiết trong truyện thơ của mình”. [27;197] Đó là
những câu lấy ý từ ca dao cổ hay mang âm điệu của những câu hát dân gian. Sự tham
gia của ca dao cổ vào tác phẩm còn đi tới một chiều sâu hơn. Giữa hàng trăm câu ca
dao lưu hành trong đời sống tinh thần của nhân dân miền Nam, có những câu rất quý:
Lên non bẻ lá họa hình,
Họa cho thấy mặt kẻo tình nhớ thương.
Tượng linh dầu rách cũng thờ,
Lỡ thì chịu lỡ cũng chờ đợi anh.
Tượng linh dầu rách cũng thờ,
Lòng thương quân tử bao giờ cho quên.
Việc xuất hiện ca dao cổ như vậy càng chứng minh sức uyên thâm của tác
giả. Ông biết vận dụng một kho kiến thức đồ sộ “từ cổ chí kim” vào tác phẩm làm cho
Lục Vân Tiên vừa tiếp thu tính hiện đại nhưng không mất đi vẻ đẹp của những câu hát
xa xưa.
65
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
Ngoài sử dụng sáng tạo những câu ca dao, tác giả còn đem vào tác phẩm của
mình một hệ thống những câu hát dân ca. Câu “Ví dầu còn nhớ tích xưa” (Câu 2035),
nghe giống như những câu hát ru quen thuộc trong dân gian mà bà và mẹ thường cất
lên khi dỗ cho con ngủ:
Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắc lẻo, ghập ghềnh khó đi,
Còn ở đoạn thơ miêu tả đạo sĩ Trà Hương Thôn làm phép thì rõ ràng không
chỉ có âm điệu, mà cả nội dung của lời thơ không khác mấy với bài Thỉnh tổ - chầu
mời trong hát bóng rỗi, một hình thức diễn xướng nghi lễ ở Nam Bộ. Cũng do ảnh
hưởng như thế từ dân gian nên người lao động dễ dàng nhận thấy tiếng nói phê phán
của tác phẩm.
Ngoài ra, ảnh hưởng của diễn xướng dân gian trong truyện Lục Vân Tiên
đậm nhất, và rất dễ nhận ra thể hiện rõ rệt nhất ở cách phân truyện ra làm sáu lớp minh
bạch.
- Truyện nàng sau hãy còn lâu,
Truyện chàng xin nối thứ đầu chép ra.
(287 - 288)
- Đoạn nầy đến thứ Nguyệt Nga.(Câu 1265)
- Thứ nầy đến thứ Vân Tiên,(Câu 931)
Cách sắp đặt cốt truyện thành từng khối rõ ràng, việc kết thúc từng đoạn
nhanh gọn đã làm cho người nghe khỏi phải chờ đợi, nội dung tác phẩm cũng dễ nắm
bắt. Điều này phục vị đắc lực cho việc nói thơ hay kể Lục Vân Tiên trong sinh hoạt dân
gian.
Mặt khác, cách giới thiệu nhân vật không khác so với lối bạch lối xướng
trong tuồng, điều này phần nào phản ánh tính thẳng thắn và lai lịch xuất thân của nhân
vật
“ Ngoài ra, cũng có thể thấy dấu ấn của lời văn hát bội trong không ít câu
thơ truyện cũng như cách diễn đạt, cách biểu hiện tình cảm có khi đậm tính hành
động, tính diễn xuất - một đặc tính cơ bản của nghệ thuật sân khấu” [27;199]. Những
sự việc như: Vân Tiên nhận được thư nhà, hay tin mẹ mất, tiếp theo đó chàng liền
“Mình gieo xuống đất dật dờ hồn hoa” (Câu 554). Ông Tiều giao Lục Vân Tiên lại
66
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
cho Hớn Minh rồi từ biệt thì chàng họ “quỳ gối lạy liền”. Khi gặp lại Nguyệt Nga ở
nhà lão bà, được biết qua mọi việc thì “Vân Tiên vội vã xuống quỳ vòng tay” (Câu
1856). Những lời khoác lác của thầy lang Triệu Ngang, của thầy bói “ở đầu Tây
Viên”, của thầy pháp với Tiểu đồng làm người đọc dễ dàng nghĩ đến các trò lễ trong
những đêm diễn tuồng đồ. Hay ở đoạn Vân Tiên gặp lại Nguyệt Nga khiến ta có cảm
giác là đang xem cảnh Vân Tiên và Nguyệt Nga giãi bày tâm sự thì bên trong có tiếng
reo hò của quân lính và sân khấu đổi cảnh mới. Điều này cũng dễ hiểu bởi “từ đầu thế
kỷ XVII, XVIII đến thế kỷ XIX, thời đại của Nguyễn Đình Chiểu, hát bội rất thịnh hành
và chiếm được vị trí vững vàng trong đời sống văn hóa miền Nam. Điều đó, trong Tuy
Tỉnh tử tạp ngôn, Gia Định thành thông chí, Đại Nam nhất thống chí đều có đề cập
đến. Do đó, những yếu tố nghệ thuật gần gũi với tuồng là một trong những nhân tố
làm cho truyện thơ này phù hợp với thị hiếu đông đảo công chúng”. [27;200]
Sức ảnh hưởng của ca dao, dân ca đối với các tác phẩm của Nguyễn Đình
Chiểu nói chung và nhất là Lục Vân Tiên là không nhỏ. Ta không khó nhận thấy rằng
nhịp điệu của lời thơ trong tác phẩm nó rất gần với những câu hát ca dao. Cách tạo
dựng truyện cũng từ những loại hình sinh hoạt hát hò truyền thống. Tất cả những điểm
trên phần nào thấy được mối liên hệ mật thiết giữa tác phẩm với đời sống văn hóa
truyền thống dân gian. Và chính ở đây, truyện Lục Vân Tiên đã bộc lộ sức mạnh lớn
lao của nó. Sức ảnh hưởng và độ bền của tác phẩm trong lòng quần chúng, cũng như
trong nền văn học thời kỳ sau này là không có gì bàn cãi được.
3.3.3. Truyện cổ tích
Truyện cổ tích là loại truyện có nguồn gốc từ dân gian, được người dân lưu
giữ bằng con đường truyền miệng. Cũng giống như các truyện Nôm khác, Lục Vân
Tiên cũng kế thừa cốt truyện, kết cấu và tình tiết giống như truyện cổ tích. Nếu như
truyện Nôm bình dân lấy nguyên bản tình tiết, nhân vật để chuyển đổi thành những
câu chuyện kể bằng thơ. Tuy nhiên đối với thể loại truyện Nôm bác học, đặc biệt là
những truyện kế thừa truyện cổ tích như Lục Vân Tiên thì các chi tiết không giống
hoàn toàn nhưng các loại truyện này tiếp thu diễn biến, sự việc cũng như kết thúc của
cổ tích.
Thứ nhất về hệ thống nhân vật. Ta dễ dàng nhận thấy ở Lục Vân Tiên rất
giống truyện cổ tích khi tác giả phân tuyến thành hai thế cực nhân vật tương phản
67
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
nhau: một bên là những con người đại diện chính nghĩa, biết cư xử theo đúng mực một
con người có đạo đức, nghĩa nhân và bên còn lại là những con người phi nghĩa, nham
hiểm, độc ác, chỉ mong sao có lợi cho mình mặc dù việc ấy có liên quan đến sống chết
của đồng loại. Hàng loạt những nhân vật phiếm chỉ, không tên như ông Quán, ông
Tiều, ông Ngư, bà lão hay chú Tiểu đồng, chú cõng con… rất gần với những con
người trong truyện kể dân gian. Họ không có tên tuổi cụ thể nhưng là đội ngũ hậu
thuẫn đắc lực cho những chiến sĩ hành động vì chính nghĩa. Tuy nhiên khác với cổ tích
thế sự, số lượng nhân vật của Lục Vân Tiên lớn hơn, đa dạng và được cấu tạo theo một
chỉnh thể nhất định hơn. Cũng chính điều này làm cho tác phẩm không rập khuôn theo
cách xây dựng nhân vật và làm cho nó có vẻ riêng so với truyện cổ tích.
Thứ hai về kết thúc câu chuyện. Cũng giống như truyện cổ tích, Lục Vân
Tiên cũng kết thúc có hậu, nhân vật nào ác, có tội đều bị trừng phạt ít hay nhiều tùy
theo mức độ gây tội của mình. Chẳng hạn như Trịnh Hâm và mẹ con Võ Thể Loan đều
nhận lấy hình phạt thích đáng cho tội ác mà mình gây ra đối với Vân Tiên. Còn những
con người biết sống nhân nghĩa nhưng không mong nhận lấy sự trả ơn thì cuối cùng
cũng được vinh hoa, hãnh diện vì việc họ làm. Đặc biệt, nhân vật chính diện cũng
được toại nguyện khi cuối cùng ước mơ của họ cũng được đạt thành.
Thứ ba là tình tiết thần kỳ trong truyện cũng không khác với trong cổ tích
thế sự. Ta cũng thấy xuất hiện dáng dấp của những vị thần hiện lên đúng lúc để cứu
giúp con người qua cơn hoạn nạn. Những đấng thần linh này cũng là lực lượng giúp
đỡ đắc lực cho những con người gặp điều không may trong cuộc sống. Khi Vân Tiên
bị xô xuống biển, đang lúc sống và chết chỉ cách nhau bằng một làn mỏng manh thế là
giao long giúp chàng thoát khỏi dòng nước giữa biển khơi để ông Ngư có điều kiện
làm công việc cứu người của mình. Hay lúc chàng bị Võ Công lừa bỏ vào hang, khi
mà mọi hy vọng đã tắt thì bỗng nhiên Du thần xuất hiện và một lần nữa chàng lại được
cứu sống. Hoặc là khi Kiều Nguyệt Nga nhảy xuống biển tự tận trên đường đi cống
Hồ. Tưởng rằng nàng sẽ bị dòng nước cuốn đi nhưng đấng vô hình không cho phép
chuyện đó xảy ra nên Quan Âm chẳng những cứu nàng khỏi biển mà Phật Bà còn
khuyên giải, tạo cho nàng niềm tin để sống. Nếu như trong truyện cổ tích thì Bụt
thường là người giúp đỡ kẻ thảo ngay nhưng trong Lục Vân Tiên tất cả những ai có
khả năng đều ra tay cứu giúp người hoạn nạn qua cơn khốn cùng. Đó chỉ là vài trường
68
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
hợp tiêu biểu trong truyện khi các nhân vật được những đấng thần linh phò trợ. Bởi
trong tác phẩm có tới mười hai lần tác giả nhờ vào đấng thần linh ra tay giúp đỡ, trừng
phạt kẻ xấu. Nên nhớ rằng những kết quả mà mẹ con mụ Quỳnh Trang và Trịnh Hâm
nhận lấy không phải do bàn tay con người tạo nên mà do sự tức giận của đấng tối cao
ra tay trừng trị những tên gian manh.
Tóm lại, lực lượng thần linh và kết thúc của truyện là do Nguyễn Đình
Chiểu tiếp thu hoàn toàn của truyện cổ tích. Cách xây dựng truyện như vậy đáp ứng
nhu cầu giáo huấn và phục vụ đắc lực cho quan niệm “ở hiền gặp lành” của ông cha
ta. Những ai gây tội ác cuối cùng cũng nhận lấy hình phạt thích đáng mà họ gây ra cho
người khác. Còn những ai biết sống nhân nghĩa đều được toại nguyện về sau này. Câu
chuyện mà Nguyễn Đình Chiểu đem kể bằng thơ mang đậm tính phiêu lưu, là truyện
kể về trang nghĩa hiệp ra tay cứu giúp người hoạn nạn, chống chọi với kẻ cướp và bọn
cường quyền làm hại người dân hiền lành; đó còn là những cuộc phiêu lưu giữa núi
rừng hoang sơ, những hổ thiêng cá lớn vực thẳm hang sâu…Cùng với tình tiết và cách
xây dựng nhân vật, tác giả đã xây dựng một truyện cổ tích thời đại của mình. Khi đó
Lục Vân Tiên giống như câu chuyện cổ tích trong đời sống thường nhật, nó kết thúc để
lại ấn tượng tốt đẹp cho những ai chứng kiến.
3.4. Nghệ thuật sử dụng điển tích, điển cố
Điển tích, điển cố là những thuật ngữ miêu tả một trong những đặc trưng cơ bản
của nền văn học trung đại, nhất là văn học cổ trung đại phương Đông, trong phạm vi
các nước chịu ảnh hưởng của văn học cổ và trung đại Trung Hoa. “Dùng điển ý nói
“sai khiến” các tích cũ chuyện xưa cho thích dụng vào văn mạch của mình. Các
“điển” gồm các tình tiết đã được chép trong sử sách, kinh truyện, kể cả các tình tiết
hoang đường, hư cấu đã được viết ra trong những tác phẩm nổi tiếng thời trước”
[20;416]. Tác dụng của việc dùng điển làm cho câu văn, câu thơ trở nên cô đúc, hàm
súc, gây thú vị cho người đọc và có tính giáo dục cao. Việc dùng điển là một điều phổ
biến trong văn chương trung đại đặc biệt là các truyện thơ thì việc này trở nên bình
thường. Nguyễn Đình Chiểu đã vận dụng triệt để các điển tích, điển cố để tạo nên một
hiệu quả nghệ thuật đáng kể. Tùy vào từng đối tượng hướng tới mà cụ sử dụng các
điển tích, điển cố một cách hợp lý.
69
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
3.4.1. Điển cố mượn những câu chuyện về những nhân vật lịch sử và
các triều đại
Một loại phổ biến trong việc dùng điển của dòng văn học trung đại chính là
lấy những tấm gương của các nhân vật lịch sử và các triều đại đưa vào trong tác phẩm
nhằm nêu cao một vấn đề nào đó mà người viết muốn đề cập. Chẳng hạn, trong Lục
Vân Tiên khi tác giả đề cập đến tên hôn quân, bạo chúa làm phiền hà đến dân chúng thì
ông dùng Kiệt, Trụ, U, Lệ, và các đời Thúc Quý, Ngũ Bá. Đó đều là biểu tượng của thứ
nhiễu đòi hại dân. Lịch sử Trung Hoa đã ghi lại nỗi thống khổ của người dân khi sống
vào những thời này. Tại sao tác giả lại sử dụng hình ảnh của những vị vua này mà
không dùng tên các hôn quân, bạo chúa khác? Bởi đơn giản những tên mà Nguyễn
Đình Chiểu nêu ra ở trên là tấm gương tiêu biểu nhất cho thói hoang dâm, không lo
việc triều chính hay thích chiến tranh để phân chia đất đai. Đồng thời những tên vua
nêu trên người dân cảm thấy rất quen thuộc với họ. Điều đó cũng minh chứng rằng
việc dùng điển đạt đến hiệu quả khi tác giả là người am hiểu nó và biết cách chọn lọc
các câu chuyện phù hợp đem vào kể.
Một ví dụ nữa cho thấy sự tài tình của Nguyễn Đình Chiểu trong việc vận
dụng điển tích, điển cố. Khi thể hiện ước mơ của dân chúng có những vị minh quân,
quan hiền tài biết lo cho dân chúng thì ông dùng những cái tên Nghiêu, Thuấn, Sào
Phủ, Hứa Do, Di, Tề, ông Y, ông Phó, Thái Công, Nghiêm Lăng, Trần Đoàn... rất quen
thuộc đối với dân chúng. Họ là ước mơ của đông đảo người dân lao động khi mong
muốn cuộc sống của mình trở nên tốt đẹp hơn.
Còn các câu chuyện về bậc thánh hiền được Nguyễn Đình Chiểu vận dụng
vào trong tác phẩm cũng nằm trong mục đích giáo huấn. Đó là tấm gương của: đức
thánh nhân, thầy Nhan Tử, ông Gia Cát, thầy Đổng Tử, người Nguyên Lượng, ông
Hàn Dũ, thầy Liêm Lạc. Những cái tên của những tấm gương cho ai biết vượt qua khó
khăn trước mắt, tức thời để tạo lập nên sự nghiệp cho riêng mình. Họ rất gần với
chúng ta nên rất dễ đi vào lòng người đọc.
Khi phê phán tính bất nhân, bất nghĩa của con người, ông đả kích bằng loạt
nhân vật và sự kiện như: thói nước Tề, thói Đường Cung, nhà Tần, còn thói dâm tặc
của con người với hai đại diện Lữ Phụng Tiên và Điêu Thuyền.
70
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
Chẳng những sử dụng những câu chuyện của người xưa để thể hiện một
quan điểm sống mà Nguyễn Đình Chiểu còn dùng nó vào việc miêu tả tài trí của con
người. Nói đến sự anh dũng của Tiên, ông dùng hình ảnh “Triệu Tử phá vòng Đương
Dương”. Khi Vân Tiên một mình đối mặt với bọn cướp Phong Lai không kém phần
hung tàn lúc đấy hình ảnh của chàng cũng không khác tướng họ Triệu.
Tài làm thơ của Nguyệt Nga được tác giả sánh cũng với Tạ Nữ và Từ Phi,
hai nhân vật của đời Tần và Đường vốn có tài thông minh, làm thơ giỏi. Họ chính là
thước đo tài năng của Nguyệt Nga. Nàng là phận nữ nhi nhưng thi từ ca phú cũng
không kém một ai.
Và rất nhiều điển cố dùng hình ảnh của các nhân vật có trong lịch sử để đấu
tranh cho một vấn đề mà tác giả muốn đề cập. Nếu như hình ảnh có sẵn đó do những
nhân vật chính trực nói ra càng làm tôn lên tính cách của họ. Nhưng nếu là do Bùi
Kiệm, gia đình họ Võ hay bất kỳ ai có tính bất nghĩa thì tất cả các cái tên đấy chính là
biện minh cho tính phi nghĩa của họ. Cho nên tùy vào từng nhân vật, từng thái độ mà
điển cố thể hiện một quan điểm nào đó.
3.4.2. Điển cố mượn những dẫn chứng tích cũ, lời xưa trong thơ cổ
Trung Quốc
Theo học sách thánh hiền, bị ảnh hưởng của đạo Nho nên ít nhiều trong tác
phẩm của mình Nguyễn Đình Chiểu cũng dựa theo những tích cũ, lời xưa trong thơ
văn cổ Trung Quốc mà sáng tác. Tuy nhiên sự vận dụng của cụ không phải là rập
khuôn mà có sự chọn lọc. Những điển cố tuy nhiều nhưng nó không xa lạ với người
nghe. Tầng lớp bình dân có thể dễ dàng nhận thấy các câu chuyện mà Đồ Chiểu đem
vào trong truyện.
Hầu như các dẫn chứng về lời thơ trong văn chương Trung Quốc tác giả lấy
trong Tứ thư, Ngũ kinh. Hai quyển sách có ảnh hưởng rất lớn đối với nền văn hóa của
Việt Nam. Tuy nhiên, sự dẫn dụ đấy không dài dòng mà ngược lại được Nguyễn Đình
Chiểu đúc kết một cách cô đọng nhưng mang đầy đủ ý nghĩa của nó.
Khi nói về tình cảm cha mẹ đối với con cái ông dùng thành ngữ “chín chữ
cù lao” vốn có nguồn gốc từ trong Kinh thi: “Cửu tự cù lao”. Cái ơn này được người
xưa đúc kết thành chín chữ, gồm: Sinh, Cúc, Phủ, Súc, Trưởng, Dục, Cố, Phục, Phúc.
Đây là tâm trạng của Lục Vân Tiên khi nhớ về người mẹ quá cố của mình. Chàng luôn
71
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
kính cha, mến mẹ bởi trong tấm lòng người con đó luôn nhớ đến ơn dưỡng dục sinh
thành nó cao như trời bể.
Dùng câu “bạn cùng hươu nai” để chỉ niềm vui trong thiên nhiên, bạn cùng
với hươu nai, muông thú. Câu này tác giả để chỉ những con người giống ông Tiều.
Ông ở ẩn trong rừng núi, tưởng như mình sống lại thời Nghiêu Thuấn mà Mạnh Tử đã
tả: “Thuấn chi cư thâm sơn chi trung, dữ mộc thạch cư, dữ lộc thỉ du” (Nghĩa là: “Vua
Thuấn mà ở trong rừng núi thì ở chung với cây, đá, cùng ngao du với hươu, lợn”).
Câu nói này hoàn toàn không có ý chê hay phê phán gì ông Tiều mà ngược lại tác giả
còn tỏ ra khâm phục những con người yêu thích thiên nhiên, luôn hòa mình với những
gì là tự nhiên. Điều đó càng thể hiện sự thanh thản trong tâm hồn của con người.
Nếu nhà thơ Đỗ Phủ có viết: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy” (người thọ bảy
mươi xưa nay hiếm) thì ông đã đưa ý câu thơ này vào miệng của Bùi Kiệm để y
khuyên Nguyệt Nga chớ dại mà phí tuổi xuân, bởi không có sống lâu ở đời để hưởng
hạnh phúc.
Hoặc “bóng xế nhành dâu” được lấy lấy từ câu “tang du vãn ảnh” để chỉ
người già ánh mặt trời bị che khuất bởi một loại dâu ở phía Tây.
Còn rất nhiều điển cố chẳng hạn như: bát bửu, bảy mươi mấy mặt, bảy
người Trước Lâm, bình thủy tương phùng, cá nước gặp duyên, én hộc sánh vai, có
kinh có quyền, kiến ngãi bất vi, họa hổ bất thành, khởi phụng đằng giao, nước chảy
hoa trôi, tam bất hiếu…lấy từ những tích cũ, lời xưa trong văn chương cổ Trung Hoa.
Những hình ảnh này được cụ vận dụng một cách sáng tạo và linh hoạt nhằm làm cho
câu thơ có ý nghĩa giáo dục cao nhưng cũng đồng thời tạo ra chất nhạc êm ái cho
giọng điệu thơ. Không có hiệu quả nghệ thuật nào cao bằng việc dẫn chứng lời của
người xưa vào trong sáng tác của mình. Điều đó chẳng những nâng cao hiệu quả giáo
huấn mà còn tạo khách quan cho điều tác giả muốn đề cập. Bởi những điều đó được
truyền tụng qua nhiều đời. Và việc kế thừa trong tác phẩm Lục Vân Tiên là điều cần
thiết.
3.4.3. Điển cố mượn những địa danh trong văn chương Trung Quốc
Lục Vân Tiên lấy bối cảnh của nước Sở bên Trung Quốc vì thế những địa
danh trong tác phẩm đều xuất phát từ đây. Từ xa xưa sông Ngân, cầu Lam đã trở thành
địa điểm của những cuộc bắt đầu của các mối duyên đẹp. Riêng trong tác phẩm này
72
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
hai địa danh trên góp phần tô đậm thêm mối duyên lành của nàng Kiều Nguyệt Nga
chung thủy và chàng Lục Vân Tiên tài cao. Bởi chính mối duyên tình đẹp như vậy nên
nàng nguyện suốt cuộc đời gắn bó thủy chung với chàng cho dù một người chốn
dương trần và kẻ nơi suối vàng.
Khi miêu tả cảnh Vân Tiên và Tử Trực gặp nhau, Nguyễn Đình Chiểu lại ví
giống như “tiên tử chơi rày Bồng Lai”. Cuộc hội ngộ của hai con người tài ba tại một
nơi cảnh đẹp càng tô đậm thêm tình bạn của hai người. Tình bạn ấy được bắt đầu từ
một khung cảnh giống như tiên thì cả hai càng phải biết trân trọng nó.
Ta thấy rằng, Nguyễn Đình Chiểu dùng các địa danh có tiếng ở trên như
muốn tô đậm thêm tình cảm của con người. Đồng thời cho thấy sự hòa hợp giữa thiên
nhiên và tâm trạng con người.
Còn để diễn tả sự xa cách, mỗi người ở một nơi, hai địa danh Tấn, Tần được
tác giả nhắc đến. Khi Vân Tiên đến nhà nhắc đến chuyện hôn ước Võ Công không ngờ
sự xa cách đã không làm cho nhà họ Lục quên mất lời đính ước ngày trước. Cũng
chính điều này làm cho chữ tín của gia đình họ Lục được nâng lên, đồng thời sự phản
bội của gia đình họ Võ là không thể tha thứ.
Đến lúc nói về cuộc tình duyên trắc trở của Kiều Nguyệt Nga và Lục Vân
Tiên, Nguyễn Đình Chiểu dùng hai cái tên khá quen thuộc trong sử sách cũng như
truyền thuyết dân gian: Hán giang, Ô kiều. Hai địa danh để ám chỉ cảnh tình Nguyệt
Nga chưa gặp được Vân Tiên mà duyên tình đã lỡ, cũng giống như vợ chồng chàng
Ngưu chưa đoàn tụ trong ngày rằm tháng bảy thì cầu Ô long đã biến mất rồi. Sự so
sánh này càng làm cho sự tuyệt vọng, hối tiếc của nàng Kiều Nguyệt Nga lên đến tột
đỉnh bởi vì từ đây sẽ không bao giờ diễn ra cảnh đoàn tụ của nàng và Vân Tiên.
Trong sách Thủy kinh chú, cái tên Vũ Môn hay cửa Võ là nơi diễn ra sự kiện
cá chép hóa rồng. Từ đó cửa Vũ được dùng để chỉ trường thi, và thi đỗ gọi là vượt qua
Vũ Môn. Sự khát khao tạo lập công danh của Lục Vân Tiên và Vương Tử Trực được
Đồ Chiểu khắc họa bằng địa danh trên.
Sử dụng những địa danh quen thuộc trong thơ Trung Quốc để diễn tả một sự
việc tương tự. Nhưng ở Nguyễn Đình Chiểu điều tương tự còn được khắc họa ở một
khía cạnh khác. Có khi điều đó là khen nhưng xét về lâu dài thì địa danh góp phần phê
73
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
phán sự giả tạo, thay trắng đổi đen của con người trong xã hội. Đó chính là cái hay, cái
tiến bộ của cụ trong việc dùng điển.
3.4.4. Điển cố mượn từ Hán Việt kết hợp với từ Thuần Việt
Nền Hán học ảnh hưởng đến ta không phải nhỏ, đặc biệt là vốn từ ngữ. Một
người bình thường cũng có thể nói rất nhiều từ Hán Việt. Tuy nhiên, có nhiều người
Việt ta lại không chấp nhận một điều là dùng quá nhiều từ bên ngoài trong khi ngôn
ngữ của ta không thiếu gì. Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy, bằng cách sử dụng những
điển cố vốn xuất thân từ Trung Hoa nhưng ở một giới hạn nào đó cụ cố gắng hạn chế
việc dùng hoàn toàn từ tiếng Hán. Do đó trong Lục Vân Tiên hiện tượng các điển cố
mượn từ Hán Việt kết hợp với từ Thuần Việt đã xuất hiện. Đây có thể coi là một sự
sáng tạo của tác giả trong nghệ thuật dùng điển.
Chẳng hạn có câu: “Trúc lâm thất hiền” để chỉ sự hội ngộ của bảy hiền tài ở
rừng trúc. Thế nhưng khi Nguyễn Đình Chiểu vận dụng nó, ông đã đổi thành “bảy
người Trước Lâm”, chữ trước ở đây chính là kết quả của việc đọc trại từ trúc mà ra.
Đồng thời khi đó ông đã chuyển đổi hoàn toàn nguyên văn chữ Hán sang từ Thuần
Việt. Câu thơ chính là ý của Vân Tiên muốn làm dịu đi không khí căng thẳng trong
quán, đồng thời cũng cứu vớt phần nào danh dự cũng như sự bất tài của Bùi Kiệm và
Trịnh Hâm. Tuy rằng những con người này không giống như các vị hiền tài trong rừng
trúc nhưng đối với Vân Tiên thì chàng mong rằng cuộc hội ngộ đó cũng giống như
người xưa.
Sáng tạo trong việc sử dụng nghệ thuật là một điều rất cần thiết và với
Nguyễn Đình Chiểu ông đã cho mình thoát khỏi những từ ngữ Hán vốn có để đưa tác
phẩm cũng như những câu chuyện mà mình dẫn nhập vào có sức ảnh hưởng tốt đối với
độc giả. Sự kết hợp ấy tuy không nhiều nhưng cũng cho thấy sự cố gắng trong việc
làm giàu hơn kho tàng ngôn ngữ cho dân tộc. Nhờ vậy mà những điển cố tác giả sử
dụng mang một màu sắc hiện đại so với văn chương cùng thời.
74
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
PHẦN KẾT LUẬN
75
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
Nguyễn Đình Chiểu cùng với truyện thơ Lục Vân Tiên đã làm dịu đi bao tâm hồn
của những con người yêu văn chương cũng như góp vào kho tàng văn học Nôm của
chúng ta một báu vật quý giá.
Trước đây chúng tôi cứ thắc mắc tại sao những ông cụ, bà cụ tóc đã bạc phơ nhưng
khi cất lời thì họ lại lấy những câu thơ trong tác phẩm làm đầu đề, hoặc giáo dục con
cháu. Cho đến nay điều thắc mắc ấy vẫn còn. Thế nên khi tìm hiểu về truyện thơ Lục
Vân Tiên đã tạo cho chúng tôi một cảm giác khó tả. Và đến khi kết thúc đề tài thì mọi
điều dường như đã được giải tỏa.
Những người dân “chân lấm tay bùn” của miền Nam không yêu Lục Vân Tiên sao
được. Khi mà mọi ước mơ, tâm sự của họ đã được cụ Đồ Chiểu chuyển tải một cách
chính xác mà rất thành công. Người bình dân thích cái chính nghĩa, thương cái ngay
thẳng, lòng dạt dào tinh thần nghĩa hiệp và họ tìm thấy mình trong tác phẩm này. Một
chàng trai biết vượt lên số phận, mang trong mình dòng máu “kiến ngãi bất vi vô dũng
giả”, muốn đem tài đức ra giúp người, giúp đời, một con người sẵn sàng không nhận
bất cứ sự trả ơn nào. Hay một cô gái có dung nhan, có tài nhưng lại chan chứa một tình
yêu, sự thủy chung với người chồng mà mình nguyện suốt đời gắn bó. Hoặc những
con người bình dị nhưng luôn chan chứa tình yêu thương đồng loại, sẵn sàng cứu giúp
người qua cơn hoạn nạn. Tất cả họ tạo nên một trường ca về việc nghĩa, không màn tới
hai chữ danh lợi và là tấm gương để người miền Nam noi theo.
Một tác phẩm có sức sống lâu bền hay không trong lòng người yêu văn chương là
tùy thuộc vào việc người viết thể hiện nó như thế nào. Có thể nói những vấn đề mà
Nguyễn Đình Chiểu đề cập không có gì mới lạ nhưng cách thể hiện nó là một điều
đáng được ghi nhận. Chưa bao giờ một nhà thơ thuộc tầng lớp trí thức Nho học lại chú
trọng đến đối tượng sáng tác như vậy. Từng câu, từng chữ tác giả viết ra hình như đối
tượng chính ông hướng tới chính là những người bình dân. Từ cách xây dựng nhân vật
đến ngôn ngữ sử dụng trong tác phẩm không mới lạ so với trình độ của người nghe.
Mặc dù tác phẩm vẫn tồn tại những nhược điểm do hoàn cảnh tạo nên, nhưng Lục
Vân Tiên xứng đáng là một tác phẩm làm rạng rỡ văn học chữ Nôm của nước ta. Tác
phẩm ấy với kết thúc có hậu của mình đã ngấm sâu vào tinh thần của người dân miền
Nam từ lúc nào không ai biết. Trong những ngày cả nước đấu tranh chống lại kẻ thù
xâm lược thì Lục Vân Tiên chính là sức mạnh tinh thần để nhân dân ta tiến bước.
76
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
Phạm Văn Đồng trong bài Nguyễn Đình Chiểu ngôi sao sáng trong văn nghệ của
dân tộc, đã viết: “Phải hiểu đúng Lục Vân Tiên thì mới thấy hết giá trị của bản trường
ca này. Đúng, đây là một bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý
trọng ở đời, ca ngợi những người trung nghĩa! Tất nhiên những giá trị luân lý mà
Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi, ở thời đại chúng ta, theo quan điểm của chúng ta thì có
phần đã lỗi thời. Nhưng Nguyễn Đình Chiểu cũng như nhiều bậc hiền triết ngày xưa ở
phương Đông hoặc phương Tây, vẫn để lại cho đời sau những điều giáo huấn đáng
quý trọng”. [37;174]
77
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(cid:61537) (cid:61478) (cid:61538)
1. Lại Nguyên Ân, Bùi Văn Trọng Cường - Từ điển văn học Việt Nam từ nguồn
gốc đến hết thế kỷ XIX - Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội, năm 1999.
2. Bùi Thanh Ba - Báo Tân Việt Hoa số 5354, Hà Nội, năm 1972.
3. An Cư - Đồng Nai văn tập số 15, Sài Gòn, năm 1967.
4. Hà Như Chi - Việt Nam thi văn giảng luận - Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà
Nội, năm 2000.
5. Nguyễn Văn Dần - Tạp chí văn học số 2, Hà Nội, năm 1967.
6. Xuân Diệu - Các nhà thơ cổ điển Việt Nam - Nhà xuất bản Văn học, năm 1998.
7. Ngô Viết Dinh - Đến với thơ Nguyễn Đình Chiểu - Nhà xuất bản Thanh niên,
năm 2002.
8. Văn Dương - Văn học tạp chí số 14, Sài Gòn, năm 1933.
9. Hà Minh Đức và Bùi Văn Nguyên - Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại -
Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2006.
10. Đoàn Lê Giang - Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân
tộc - Nhà xuất bản trẻ hội nghiên cứu và giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh,
năm 2001
11. Nguyễn Thạch Giang và Hà Huy Giáp - Truyện Lục Vân Tiên - Nhà xuất bản
Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, năm 1975.
12. Nguyễn Thạch Giang - Từ ngữ thơ văn Nguyễn Đình Chiểu - Nhà xuất bản
thành phố Hồ Chí Minh, năm 2000.
13. Bùi Giáng - Một vài nhận xét về Truyện Kiều, Phan Trần, Thúy Vân, Lục Vân
Tiên, Chinh Phụ ngâm, Quan Âm thị Kính, Bà huyện Thanh Quan - Nhà xuất bản Hội
nhà văn, năm 1999.
14. Nguyễn Thiện Giáp - Cơ sở ngôn ngữ học - Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà
Nội năm 1995.
15. Dương Quảng Hàm - Việt Nam văn học sử yếu - Nhà xuất bản Hội nhà văn,
năm 1996.
16. Dương Quảng Hàm - Văn học Việt Nam - Nhà xuất bản Thanh niên, năm 2010.
78
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
17. Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử - Từ điển thuật ngữ văn học - Nhà
xuất bản Giáo Dục, Hà Nội, năm 2004.
18. Phan Thị Mỹ Hằng - Giáo trình Văn học Việt Nam trung đại 3 - Trường Đại
Học Cần Thơ năm 2002.
19. Hồ Sĩ Hiệp - Tủ sách văn học trong nhà trường, Nguyễn Đình Chiểu - Nhà xuất
bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, năm 1996.
20. Đỗ Đức Hiểu - Từ điển Văn học (Bộ mới) - Nhà xuất bản Thế giới, năm 2004.
21. Hoài Thanh toàn tập (tập 2) - Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, năm 1999.
22. Đinh Gia Khánh - Điển cố Văn học - Nhà xuất bản văn học, Hà Nội, năm 2001.
23. Đặng Thanh Lê - Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm - Nhà xuất bản Khoa học
xã hội, Hà Nội, năm 1979.
24. Mai Quốc Liên - Phê bình và tranh luận văn học - Nhà xuất bản Văn Học, Hà
Nội, năm 1996.
25. Nguyễn Lộc - Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX -
Nhà xuất bản Giáo dục, năm 1997.
26. Phương Lựu - Lý luận văn học - Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, năm 1997.
27. Lục Vân Tiên Tác phẩm và lời bình - Nhà xuất bản Văn Học, năm 2008.
28. Đặng Thai Mai - Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh - Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, năm 2003.
29. Nguyễn Phong Nam - Nguyễn Đình Chiểu từ quan điểm thi pháp học - Nhà
xuất bản Giáo dục, Hà Nội, năm 1997.
30. Nhiều tác giả - Lịch sử văn học Việt Nam (Tập 1b) - Nhà xuất bản Giáo dục, Hà
Nội, năm 1976.
31. Nhiều tác giả - Văn học Việt Nam (Tập 2) - Nhà xuất bản Đại học và trung học
chuyên ngành, Hà Nội, năm 1979.
32. Nhiều tác giả - Lịch sử văn học Việt Nam (Tập 3) - Nhà xuất bản Giáo dục, Hà
Nội, năm 1978.
33. Nhiều tác giả - Lịch sử văn học Việt Nam (Tập 4A) - Nhà xuất bản Giáo dục,
Hà Nội, năm 1978.
34. Nhiều tác giả - Tuyển tập 40 năm tạp chí văn học (1960 - 1999), tập 2 văn học
cổ, cận đại Việt Nam - Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1999.
79
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
35. Vũ Tiến Quỳnh - Văn học cổ Việt Nam - Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ
Chí Minh, năm 1998.
36. Trần Đình Sử - Mấy vấn đề Thi pháp văn học trung đại Việt Nam - Nhà xuất
bản Giáo dục, Hà Nội, năm 1999.
37. Tuấn Thành và Anh Vũ - Nguyễn Đình Chiểu tác phẩm và lời bình - Nhà xuất
bản Văn học, Hà Nội, năm 2005.
38. Tác giả trong nhà trường - Nguyễn Đình Chiểu - Nhà xuất bản văn học, Hà
Nội, năm 2007
39. Nguyễn Ngọc Thiện - Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm - Nhà xuất
bản Giáo dục, Hà Nội, năm 2007.
40. Nguyễn Khắc Thuần và Nguyễn Quảng Tuân - Từ điển truyện Lục Vân Tiên -
Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, năm 1989.
41. Nguyễn Quảng Tuân - Lục Vân Tiên bản Nôm và bản quốc ngữ cổ nhất - Nhà
xuất bản Văn học, Trung tâm nghiên cứu quốc học, năm 2005.
42. Lê Thu Yến - Văn học trung đại những công trình nghiên cứu - Nhà xuất bản
Giáo dục, năm 2003.
80
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
MỤC LỤC
(cid:61537) (cid:61478) (cid:61538)
Trang
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT……………………………………………………1
PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………………………..4
1. Lí do chọn đề tài ………………………………………………………………...5
2. Lịch sử vấn đề …………………………………………………………………...6
3. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………………….7
4. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………………………...8
5. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………………...8
PHẦN NỘI DUNG……………………………………………………………10
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG………………………………11
1.1. Khái quát truyện thơ…………………………………………………….11
1.1.1. Khái niệm……………………………………………………………11
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của truyện thơ ………………….13
1.1.3. Phân loại truyện thơ…………………………………………………15
1.2. Khái quát truyện thơ Lục Vân Tiên ……………………………………16
1.2.1. Hoàn cảnh sáng tác …………………………………………………16
1.2.2. Tóm tắt cốt truyện…………………………………………………...18
1.2.3. Ý nghĩa truyện thơ Lục Vân Tiên …………………………………...20
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TRUYỆN THƠ LỤC VÂN TIÊN
………………………………………………………………………………….22
2.1. Truyện thơ Lục Vân Tiên ca ngợi công lý, chính nghĩa……………….22
2.1.1. Nhân nghĩa…………………………………………………………..22
2.1.2. Hiếu nghĩa …………………………………………………………..25
2.1.3. Tình nghĩa…………………………………………………………...28
2.1.4. Ơn nghĩa …………………………………………………………….34
2.2. Truyện thơ Lục Vân Tiên phê phán bất nhân, bất nghĩa.…………….35
2.2.1. Sự nham hiểm, gian trá……………………………………………...35
2.2.2. Sự mù quáng, bất công.……………………………………………..41
81
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
2.3. Truyện thơ Lục Vân Tiên thể hiện khát vọng lý tưởng của nhân dân
………………………………………………………………………………………...44
2.3.1. Niềm tin về sự thắng lợi của đạo lý - chính nghĩa thắng gian tà
………………………………………………………………………………………...44
2.3.2. Niềm tin về một xã hội phong kiến lý tưởng - vua sáng, tôi hiền
………………………………………………………………………………………...47
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC TRUYỆN THƠ LỤC VÂN
TIÊN …………………………………………………………………………...51
3.1. Sự kết hợp nhiều hình thức ngôn ngữ …………………………………51
3.1.1. Ngôn ngữ bình dân …………………………………………………51
3.1.2. Ngôn ngữ bác học …………………………………………………..52
3.1.3. Ngôn ngữ địa phương ………………………………………………53
3.2. Một số phương diện nghệ thuật xây dựng nhân vật ………………….55
3.2.1. Ngoại hình …………………………………………………………..56
3.2.2. Tính cách ……………………………………………………………57
3.2.3. Hành động …………………………………………………………..58
3.2.4. Tâm trạng …………………………………………………………...60
3.3. Vận dụng sáng tạo một số thể loại của văn học dân gian …………….61
3.3.1. Thành ngữ, tục ngữ …………………………………………………62
3.3.2. Ca dao, dân ca ………………………………………………………63
3.3.3. Truyện cổ tích ………………………………………………………66
3.4. Nghệ thuật sử dụng điển tích, điển cố …………………………………68
3.4.1. Điển cố mượn những câu chuyện về những nhân vật lịch sử và các
triều đại ……………………………………………………………………………….69
3.4.2. Điển cố mượn những dẫn chứng tích cũ, lời xưa trong thơ cổ Trung
Quốc ………………………………………………………………………………….70
3.4.3. Điển cố mượn những địa danh trong văn chương Trung Quốc
………………………………………………………………………………………...71
3.4.4. Điển cố mượn từ Hán Việt kết hợp với từ Thuần Việt ……………..73
PHẦN 3: KẾT LUẬN ………………………………………………………...74
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………77
82
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
..................................................................................................................................... ......
...........................................................................................................................................
............................................................................................................... ............................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
................................................................................................................... ........................
Cần Thơ, ngày……tháng........năm 2011
83
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN 1
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
....................................................................................................................................... ....
...........................................................................................................................................
................................................................................................................. ..........................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
........................................................................................................................ ...................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
Cần Thơ, ngày……tháng........năm 2011
84
Luận văn tốt nghiệp Sinh viên thực hiện: Dương Thùy Linh
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN 2
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
.......................................................................................................................... .................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
................................................................................................................................. ..........
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
Cần Thơ, ngày …… tháng ........ năm 2011
85