LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI: “HÌNH TƯỢNG THIÊN NHIÊN
TRONG SỬ THI RAMAYANA”
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến cô Phan Thị Thu Hiền và thầy Phùng
Hoài Ngọc- hai người thầy đã tận tình hướng dẫn và động viên tôi trong quá trình
thực hiện luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong bộ môn Ngữ Văn, các thầy cô ở
trường Đại học An Giang và thầy cô thỉnh giảng từ trường Đại học Sư phạm, Đại
học KHXH-NV thành phố Hồ Chí Minh đã hướng dẫn tôi nghiên cứu học tập hoàn
thành khoá trình đào tạo suốt 4 năm qua .
Tôi xin cảm ơn Thư viện trường Đại học An Giang đã giúp tôi tra cứu tài liệu làm
luận văn .
Xin cảm ơn các bạn học đã ủng hộ nhiều mặt để tôi hoàn thành luận văn này .
Người thực hiện SV Trịnh Thị Thu Huyền
Lí do chọn đề tài
Đất nước Ấn Độ thật rộng lớn và hùng vĩ, hai bên là biển cả mênh mông, phía Bắc
có dãy núiHimalayasừng sững án ngữ. Nằm trong lòng tam giác núi cao biển rộng
ấy là một miền đồng bằng Ấn – Hằng với hệ thống sông ngòi phong phú và cao
nguyên Decan. “Thiên nhiên có lẽ đã dùng đến mọi nguyên vật liệu của mình, dốc
hết mọi tiềm năng đa dạng không cùng của mình để kiến tạo nên một đất nước Ấn
Độ tuyệt mĩ”[6,tráng 195]. Biển rộng và núi cao là những chướng ngại tự nhiên
đáng kể đã làm cho Ấn Độ trở thành một khu vực văn hoá tương đối riêng biệt,
chừng nào đó tách rời với thế giới. Tuy nhiên những biên giới tự nhiên nổi bật đó
cũng đã tạo cho Ấn Độ một khung cảnh, một cảm quan thống nhất, đặc biệt là về
văn hoá. Con người Ấn Độ dung dị hiền hoà và luôn trăn trở với bổn phận. Tư
tưởng chính của người Ấn là mọi vật trong vũ trụ là một. Nên họ có tư tưởng
khoan dung và hoà giải. Nhiều tộc người khác nhau sống trên đất Ấn đã góp phần
của mình vào nền văn hoá. “Trong lịch sử lâu đời, trải qua nhiều thiên niên kỉ của
mình, nhân dân Ấn Độ đã sáng tạo nên một nền văn hoá vừa phong phú đa dạng
vừa độc đáo đặc sắc. Văn hoá Ấn Độ là một trong những nền văn hoá lớn của loài
người, có nhiều ảnh hưởng sâu rộng trên thế giới, trong đó có ViệtNam”[8, trang
72], đặc biệt là văn học.
“Nói đến văn học Ấn Độ bao giờ người ta cũng nghĩ đến hai bộ sử thi Mhabharata
và Ramayana. Địa vị hai bộ sử thi này đối với Châu Á cũng ngang với hai bộ sử thi
Iliat và Ôđixê của Hi Lạp đối với Châu Âu”[12, trang 5]. Nhất là Ramayana một
thiên sử thi anh hùng tráng lệ. “Hơn hai ngàn năm qua, tác phẩm không những đã
đi vào tâm hồn dân tộc, trở thành nền tảng của đạo đức, của tinh thần Ấn Độ mà
còn toả sáng đối với cả vùng ĐôngNamchịu ảnh hưởng của văn hoá Ấn”.
Ramayana là một tác phẩm có tính mẫu mực và bao quát. Mọi mặt trong đời
sống Ấn Độ đều được phản ánh trong sử thi. Ở đây người viết chỉ đi vào tìm hiểu
hình tượng thiên nhiên. Một nét khá đặc sắc ở Ramayana là hình tượng thiên nhiên.
Thiên anh hùng ca này dành một phần lớn, gần một phần hai số trang trong tác
phẩm, để miêu tả về thiên nhiên. Điều này rất khó có thể tìm thấy trong các sử thi
khác.
Sức hấp dẫn của các trang viết về thiên nhiên trong Ramayana cực kì mạnh mẽ.
Thiên nhiên không đơn thuần là thiên nhiên, nó tồn tại như một nhân vật, hàm
chứa những nội dung ý nghĩa sâu sắc và nhũng nét nghệ thuật độc đáo tinh tế. Bởi
thế qua việc nghiên cứu người viết mong muốn khám phá được những nét đặc
sắc của thiên nhiên trong sử thi này cũng như có thể hiểu thêm về thiên nhiên và
con người Ấn Độ. Đồng thời qua cái nhìn thiên nhiên chúng ta có thể hiểu sâu sắc
hơn tâm hồn nhân vật và cả tài năng nghệ thuật của tác giả.
Hơn nữa về mặt thực tiễn chúng ta thấy rằng ở ViệtNamhiện nay việc nghiên cứu
và phổ biến văn học Ấn Độ chưa được rộng rãi. Trong các nền văn học Châu Á,
văn học Trung Quốc có quan hệ mật thiết và lâu đời với văn học ViệtNam. Do
vậy văn học Trung Quốc rất phổ biến, quen thuộc với người đọc và giới nghiên
cứu ViệtNam. Còn văn học Ấn Độ thì chưa phổ biến và quen thuộc .
Trong nền văn học đó sử thi đóng vai trò quan trọng. Sử thi Ấn Độ đã rất phát triển
và đạt được những thành tựu to lớn. Trong nền văn học thế giới, sử thi là một thể
loại hiếm hoi. Nếu như cả thế giới chỉ còn lưu giữ một số ít tác phẩm anh hùng ca
nổi tiếng thì Ấn Độ có đến hai bộ sử thi đồ sộ là Mhabharata và Ramayana.
Sử thi còn là một thể loại mẫu mực gây ảnh hưởng sâu sắc đến các thể loại khác
trong văn học về sau. “Những đặc trưng cơ bản của sử thi dần dần biến đổi và được
tiểu thuyết hiện đại tiếp nhận để hình thành một thể loại mới: tiểu thuyết sử thi. Ví
dụ tiểu thuyết “Tam quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung, “Chiến tranh và hoà
bình” của Lep. Tônxtôi, “Con đường đau khổ” của Alêchxây Tônxtôi”[2, trang
192]. Và điều quan trọng nhất là ngày nay sử thi vẫn có sức sống mãnh liệt và ảnh
hưởng sâu rộng đến đời sống văn hoá, văn học Ấn Độ nói riêng, Đông Nam Á nói
chung.
Vì vậy việc tìm hiểu, nhiên cứu về sử thi Ấn Độ là rất cần thiết và có ý nghĩa.
Sách ngữ văn lớp 10 cũng có chọn một số trích đoạn sử thi cho học sinh nghiên
cứu. Ramayana là một trong hai thiên anh hùng ca vĩ đại của Ấn Độ. Ở đây do hạn
chế bởi rất nhiều vấn đề, người viết chỉ có thể quan tâm đến một khía cạnh trong
sử thi này. Đó là hình tượng thiên nhiên.
Trên đây là lí do người viết chọn đề tài “Hình tượng thiên nhiên trong sử thi
Ramayana”. 1. Lịch sử vấn đề
Vấn đề sử thi nói chung từ trước đến nay được nhiều tác giả dịch giả quan tâm. Ở
Việt Namhầu hết những bộ sử thi lớn trên thế giới đều được dịch và giới thiệu phổ
biến. Chẳng hạn “Iliat và Ôđixê” của Phan Thị Miến dịch, Hoàng Thiếu Sơn giới
thiệu. “Anh hùng ca của Hômerơ”tác giả Nguyễn Văn Khoả, trong đó tổng hợp
những bài nghiên cứu, phê bình đánh giá về Iliat và Ôđixê và trích dịch một số
chương.
Về sử thi Ấn Độ sự quan tâm chú ý cũng không ít. Tiến sĩ Phan Thu Hiền đã dịch
và đi sâu nghiên cứu sử thi Mahabharata từ bản tiếng Anh trong quyển “Sử thi Ấn
Độ”. Bên cạnh đó, sử thi Ramayana cùng một số tác phẩm văn chương của dân tộc
Ấn được chọn lọc dịch một số chương, một số tác phẩm đưa vào quyển “Hợp tuyển
văn học Ấn Độ”của tác giả Lưu Đức Trung và Phan Thu Hiền. Đồng thời các tác
giả Lưu Đức Trung khi viết “Văn học Ấn Độ”, tác giả Nhật Chiêu với “Câu chuyện
văn chương Phương Đông” cũng có đề cập đến hai bộ sử thi lớn này.
Các công trình nghiên cứu của các tác giả sẽ giúp cho người viết, có được sự định
hướng ban đầu. Trên cơ sở đó sẽ có sự so sánh đối chiếu hợp lí.
Ramayana là một sử thi lớn ở Ấn Độ cũng như trên thế giới. Là một kiệt tác văn
học mang đậm vẻ đẹp của tâm hồn Ấn, Ramayana đã thu hút sự quan tâm rất lớn
của độc giả và giới nghiên cứu. Trong khuôn khổ những tài liệu thu thập được,
người viết sẽ hệ thống lại để tiếp tục nghiên cứu về sử thi Ramayana và hình tượng
thiên nhiên trong sử thi ấy.
Bản dịch Ramayana của tác giả Phạm Thuỳ Ba là trọn vẹn và đầy đủ nhất. Bản
dịch gồm ba tập, do Phan Ngọc giới thiệu và Nhà xuất bản Văn Học phát hành năm
1988. Ngoài ra còn có một bản Ramayana rút ngắn của nhà văn Ấn Độ R. K.
Narayan do nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản năm 1985. Còn vấn đề nghiên cứu về
sử thi Ramayana thì đến nay chưa có công trình nào toàn vẹn và đầy đủ.
Đối với vấn đề hình tượng thiên nhiên trong sử thi Ramayana thì chưa được giới
nghiên cứu đi sâu tìm hiểu. Nó chỉ được nhắc đến hoặc dành cho vài dòng để nói đến. Tác giả Nhật Chiêu trong “Câu chuyện văn chương Phương Đông” nêu lên:
“Cái đẹp thiên nhiên cũng hiện ra mọi nơi trong Ramayana, một thiên nhiên đầy
sức sống, đầy tình yêu và nồng nàn nhục cảm”. Trong quyển “Hợp tuyển văn học
Ấn Độ” tác giả Phan Thu Hiền giới thiệu rất kĩ về Ramayana nhưng chỉ nhắc đến
hình tượng thiên nhiên là “những bức tranh thiên nhiên thấm đẫm tình người”. Và
khi nghiên cứu không gian, thời gian trong Mahabharata tác giả cũng đề cập đến
thiên nhiên trong Ramayana, nhưng chỉ so sánh đối chiếu để làm nổi bật thiên
nhiên rừng núi trong Mahabharata.
Hình tượng thiên nhiên được quan tâm thể hiện nhiều nhất trong luận án tiến sĩ
Ngữ Văn “Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật trong sử thi Ramayana” của
Nguyễn Thị Mai Liên, Hà Nội năm 1998. Ở luận án của mình tác giả đã nghiên
cứu rất nhiều từ thiên nhiên rừng núi, kinh đô đến không gian thời gian tâm
trạng… Tác giả đã khẳng định vai trò của hình tượng thiên nhiên cũng như mối
quan hệ giữa thiên nhiên và con người. Tuy nhiên lại hướng đến nhân vật nhiều
hơn. Luận án tìm hiểu về thiên nhiên chỉ để thể hiện nhân vật, để hiểu được tâm tư
tình cảm của nhân vật chứ thiên nhiên chưa phải là đối tượng nghiên cứu như một
hình tượng nghệ thuật trọn vẹn.
Dù chưa đi sâu nghiên cứu nhưng những ý kiến, những định hướng của các tác
giả về hình tượng thiên nhiên trong sử thi Ramayana sẽ là những gợi ý quan trọng,
giúp đỡ rất nhiều cho người viết trong việc nghiên cứu đề tài. Tất cả các công trình
trên trở thành cơ sở vững chắc để khám phá hình tượng thiên nhiên. Trên nền tảng
những thành tựu của những người đi trước, người viết sẽ tiếp thu có chọn lọc
những kiến giải của người đi trước để tiếp tục đi sâu tìm hiểu làm rõ những bí ẩn
trong một hình tượng thiên nhiên đầy chất nghệ thuật ở Ramayana.
Với đề tài “Hình tượng thiên nhiên trong sử thi Ramayana”, người viết đi vào
tìm hiểu một cách sâu sắc về hình tượng thiên nhiên. Nó xuất hiện như thế nào,
mang những nội dung ý nghĩa gì, giá trị nghệ thuật tinh tế ra sao. Có thể nói trong
đề tài này, hình tượng thiên nhiên được nghiên cứu như là nhân vật chính trong tác
phẩm. Vì vậy, việc chọn hình tượng thiên nhiên trong sử thi Ramayana là đối
tượng nghiên cứu cùng với việc đi sâu tìm hiểu nó, người viết hi vọng rằng hình
tượng thiên nhiên trong Ramayana với bao tâm huyết và sự ưu ái của tác giả sử thi
sẽ được khám phá đầy đủ, trọn vẹn và sâu sắc nhất. 1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu về hình tượng thiên nhiên trong sử thi Ramayana. Vì vậy đối
tượng nghiên cứu ở đây là sử thi Ramayana. 1. Phạm vi nghiên cứu:
Với đề tài “Hình tượng thiên nhiên trong sử thi Ramayana” luận văn chỉ khảo sát
sâu vào tác phẩm Ramayana ba tập do Phạm Thuỳ Ba dịch, Phan Ngọc giới thiệu.
Khảo sát một cách khái quát toàn bộ sử thi Ramayana để thấy được hình tượng
thiên nhiên đã được tác giả thể hiện như thế nào. Bên cạnh đó, luận văn đi sâu
khảo sát chuyên biệt về giá trị nội dung và nghệ thuật của hình tượng thiên nhiên,
đặc biệt là những chương miêu tả về thiên nhiên như “Hồ PamPa”, “Mùa Mưa”,
“Mùa Thu”…
III. Mục đích nghiên cứu
Sử thi là một thể loại hiếm và quí trên thế giới. Tuy sử thi đã thuộc về một thời đại
đã qua nhưng những đóng góp và ảnh hưởng của nó là không thể phủ nhận. Do đó
việc nghiên cứu “hình tượng thiên nhiên trong sử thi Ramayana” của người viết
nhằm:
Trước hết Ramayana là một sử thi hết sức đặc biệt bởi những trang viết về thiên
nhiên. Nghiên cứu hình tượng thiên nhiên để thấy được cái hay, cái đẹp của nó
đồng thời cũng khám phá được cái hay, cái đẹp của sử thi. Hơn nữa, một hình
tượng nghệ thuật, một thiên anh hùng ca không chỉ thuộc về văn học mà nó còn
phản ánh, chứa đựng tư tưởng thẩm mĩ của một dân tộc. Ramayana là một thiên sử
thi hùng vĩ và tráng lệ của người Ấn Độ. Do vậy, nghiên cứu hình tượng thiên
nhiên trong Ramayana sẽ góp phần khám phá những nét đẹp trong tư tưởng thẩm
mĩ của dân tộc Ấn.
Và cuối cùng kết quả nghiên cứu của đề tài này sẽ góp phần thiết thực trong việc
phổ biến văn học Ấn Độ ở ViệtNamvà phục vụ đắc lực cho công tác nghiên cứu
giảng dạy văn học Ấn Độ ở các trường phổ thông. 1. IV. Đóng góp mới của đề tài
Ramayana là một tác phẩm sử thi có giá trị văn học lớn lao, nhiều mặt. Thiên nhiên
trong Ramayana hết sức phong phú và tuyệt mĩ. Nó không chỉ là thiên nhiên mà
còn thể hiện tâm hồn của một Ấn Độ, thể hiện một bản sắc Phương Đông. Tuy
nhiên những người nghiên cứu chỉ nghiên cứu khái quát hoặc nghiên cứu thiên
nhiên chỉ để làm phương tiện biểu đạt những nội dung khác. Và có người nghiên
cứu thiên nhiên trong sử thi Ramayana với cái nhìn tôn giáo, triết học, xã hội
học… Vì vậy, viiệc nghiên cứu thiên nhiên trong Ramayana một cách toàn diện và
sâu sắc từ góc độ văn học, hi vọng sẽ là một đóng góp mới của đề tài.
Ở đề tài này, hình tượng thiên nhiên với những tầng ý nghĩa, những giá trị văn học
sẽ được khai thác khám phá để đem đến cho người đọc những cảm giác thẩm mĩ,
những rung động sâu xa. Đồng thời với đề tài “Hình tượng thiên nhiên trong sử
thi Ramayana” người viết mong muốn góp thêm một phần công sức bé nhỏ của
mình để giúp cho việc nghiên cứu và phổ biến nền văn học Ấn Độ vào ViệtNam. 1. Phương pháp nghiên cứu
Căn cứ vào đối tượng nghiên cứu đã xác định và để hoàn thành mục đích nghiên
cứu, người viết đã sử dụng một hệ thống phương pháp, cụ thể như sau: 1. Phương pháp khảo sát văn bản:
Thiên nhiên được miêu tả không tập trung mà nằm rải rác khá đều đặn trong toàn
bộ tác phẩm sử thi. Do đó với một kết cấu tác phẩm đồ sộ, người viết cần phải sử
dụng phương pháp này để phát hiện hình tượng thiên nhiên trong sử thi Ramayana. 1. Phương pháp phân tích tổng hợp:
Để làm nổi bật các luận điểm cần triển khai, người viết sẽ phân tích các dẫn chứng.
Sau đó tiến hành tổng hợp khái quát lại và đi đến khẳng định vấn đề.
1. Phương pháp so sánh:
Trong quá trình xác định thành công của tác giả về nghệ thuật xây dựng hình tượng
thiên nhiên trong sử thi Ramayana, cần phải đặt tác phẩm vào trong mối quan hệ
loại hình-lịch sử để so sánh với các tác phẩm cùng thời hoặc trước đó, mới thấy
được sự sáng tạo của tác giả.
VI. Cấu trúc luận văn
Luận văn được bố cục theo các phần sau:
Phần mở đầu bao gồm các mục: Lý do chọn đề tài, lịch sử vấn đề, mục đích nghiên
cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, đóng góp mới của đề tài, phương pháp
nghiên cứu, cấu trúc luận văn.
Phần nội dung được chia làm ba chương:
Chương I: Tìm hiểu chung về sử thi Ramayana.
Chương II: Thiên nhiên trong Ramayana-người bạn thân thiết của con người.
Chương III: Đặc sắc của nghệ thuật miêu tả thiên nhiên.
Phần kết luận.
Phần thư mục tài liệu tham khảo.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TÌM HIỂU CHUNG VỀ SỬ THI RAMAYANA 1. Ramayana-câu chuyện về hoàng tử Rama
Ramayana-thiên anh hùng ca của Ấn Độ, ra đời vào khoảng hai ba trăm năm trước
công nguyên. Tác phẩm sử thi này gồm hai mươi bốn ngàn sloca* được viết bằng
tiếng Sanskrit. Theo truyền thuyết, tác giả đầu tiên là Valmiki, một đạo sĩ Bà la
môn sống vào khoảng thế kỉ V trước công nguyên. “Valmiki vốn là người thông
minh, có trí nhớ kì lạ, ăn nói lưu loát, hễ xuất khẩu là thành thơ. Nhờ biệt tài đó mà
thần Narađa kể cho Valmiki nghe về kì tích của hoàng tử Rama. Sau khi đã nhập
tâm câu chuyện, ông đem kể lại cho các môn đệ của ông nghe bằng những vần thơ
tuyệt diệu của mình”[4, trang 63]. Tuy nhiên Ramayana đã được gọt giũa trau
chuốt bởi nhiều thế hệ các thi sĩ vô danh.
*Câu thơ đôi Ramayana là một thiên anh hùng ca bất hủ.
Chính tác giả của nó nhà thơ Valmiki đã nói: “Chừng nào sông chưa cạn, đá chưa
mòn thì anh hùng ca Ramayana còn làm say mê lòng người và có thể giải thoát họ
ra khỏi vòng tội lỗi”[7, trang 265]. Thật vậy tác phẩm sử thi này có sức truyền cảm
mạnh mẽ và ảnh hưởng sâu xa. Nhà văn Ấn Độ R. K. Narayan khi biên soạn sử thi
này ra tiếng Anh đã viết ở lời nói đầu : “Chuyện nghe có vẻ khó tin nhưng tôi sẵn
sàng nói rằng gần như từng người một trong số năm trăm triệu người sống trên đất
Ấn Độ đều say mê câu chuyện Ramayana ở nhiều mức độ khác nhau. Bất cứ tuổi
nào, bất cứ quan điểm nào, học hành giáo dục ra sao, vị trí xã hội như thế nào, ai
cũng biết những phần chủ yếu của bản anh hùng ca và khâm phục kính trọng
những nhân vật chính của tác phẩm – Rama và Xita…Tác phẩm Ramayana ảnh
hưởng tới đời sống văn hoá chúng tôi dưới hình thức này hay hình thức khác, trải
qua tất các thời đại…Ramayana có thể gọi là một quyển sách triết lí trường
cửu…Ramayana trở thành nguồn cảm hứng lớn nhất cho các nhà thơ Ấn Độ qua
các thế kỉ”[12, trang 5-6]. Câu chuyện không chỉ ảnh hưởng sâu sắc ở Ấn Độ mà
còn được lưu truyền nhiều ở Đông Nam Á, nơi có quan hệ văn hoá mật thiết với
Ấn Độ. Có nhiều nước đã mượn cốt truyện này để sáng tác nên những thiên anh
hùng ca mang màu sắc dân tộc phong phú và độc đáo.
Tác phẩm kể lại công đức và sự nghiệp của hoàng tử Rama, được coi là hoá thân
thứ bảy của thần Vishnu và là nhân vật lí tưởng của đẳng cấp Kshatria. Xã hội Ấn
Độ truyền thống có bốn đẳng cấp chính: 1.Brahmin bao gồm các tu sĩ, các thầy
giáo, các nhà làm luật. Họ là những nhà tư tưởng và lập pháp, đẳng cấp thống trị về
tinh thần, trông coi việc thiên văn, chiêm tinh, bói toán, cúng lễ, giáo dục các tri
thức tôn giáo… 2.Kshatria gồm vua chúa và các võ sĩ quí tộc, các chiến binh. Họ là
tầng lớp cai trị, quản lí nhà nước, chinh chiến bảo vệ đất nước. 3.Vaisia gồm nông
dân, thợ thủ công, thương nhân. Đây là những người lao động sản xuất ra của cải
vật chất nuôi sống xã hội. 4.Sudra là tầng lớp tiện dân, gồm những người làm công
việc tôi tớ phục vụ cho ba đẳng cấp trên. Về cơ bản, các sử thi Ấn Độ chủ yếu liên
quan tới hai đẳng cấp cao nhất trong xã hội là tu sĩ Brahmin và võ sĩ quí tộc
Kshatria”[17, trang 12 -13].
“Nhà vua Đaxaratha của đất nước Kôxala có bốn người con trai trong đó người con
trai trưởng Rama khôi ngô tuấn tú, lòng dạ sáng trong, thông minh và tài giỏi hơn
cả. Mười sáu tuổi Rama đã được đạo sĩ Vioamitra mời đi cùng diệt quỉ ác bảo vệ
các thánh địa trải khắp sông Hằng. Chàng lập được nhiều chiến công, thu được vũ
khí thần. Khi đến xứ Videha chàng được nhà vua Gianaka gả cho công chúa Xita
vì đã giương nổi cây cung thần, một việc trước đây chưa từng ai làm được.
Một ngày kia, khi vua cha già yếu muốn truyền ngôi báu cho Rama thì do lòng
tham lam, đố kị thứ phi Kekêyi đã nhắc lại lời hứa trước đây, buộc Đaxaratha phải
đày ải Rama vào rừng mười bốn năm và trao vương quốc cho con trai bà là
Bharata. Vì danh dự và bổn phận, Rama vâng lệnh vua cha. Công chúa Xita xin
theo chồng chịu lưu đày. Người em trai Lakmana cũng tự nguyện xin đi theo anh
chị.
Sau đó vua Đaxaratha vì quá đau khổ đã băng hà. Bharata vào tận rừng sâu mời
Rama về nối nghiệp vua cha. Nhưng Rama trung thành với lời hứa một mực từ
chối. Bharata đành phải quay về cai quản xã tắc nhưng sống ngoài kinh đô và luôn
đặt đôi dép của Rama trên ngai vàng tỏ ý chờ đợi hoàng đế Rama thật sự trở về.
Sau mười năm sống khổ hạnh trong rừng sâu, diệt trừ nhiều loài ác qủi, bảo vệ am
thất của các đạo sĩ, Rama gặp một tai biến lớn. Vua quỉ Ravana lập mưu bắt cóc vợ
chàng đưa về đảo Lanka. Dụ dỗ hay hành hạ, cưỡng bức đều không thể lay chuyển
nổi Xita: “Trái tim ta chỉ thuộc về một mình Rama”.
Mất Xita, Rama đau buồn khôn xiết. Trên đường đi tìm vợ Rama gặp và giúp đỡ
vua khỉ Xugriva chống lại người anh Vali, giành lại vợ và vương quốc. Do đó
chàng được vua khỉ Xugriva, tướng khỉ Hanuman cùng đoàn quân khỉ giúp sức,
vượt biển, tấn công Lanka. Sau cùng Rama đánh bại Ravana trong giao tranh giải
thoát Xita.
Nhưng khi gặp lại Xita thì cùng một lúc chàng vừa sung sướng vừa đau xót. Nghi
ngờ Xita không còn đức hạnh sau những tháng ngày trong tay quỉ, Rama tuyên bố
ruồng bỏ nàng. Thanh minh không được, Xita bước lên giàn hoả thiêu. Ngọn lửa
cháy ngùn ngụt nhưng không động đến nàng Xita trinh bạch. Chứng giám cho đức
hạnh của nàng, thần lửa Agni đã đem nàng trả lại cho Rama. Sử thi kết thúc bằng
việc họ vui vẻ trở về Ayôđhya và Rama lên ngôi cai quản đất nước khiến cho
muôn dân được sống trong thịnh trị, thái bình”[5, trang 91-92].
“Đoạn sau đây thuộc phụ bản, có người cho rằng người đời sau thêm vào:
Trăm họ đang sống trong cảnh thái bình yên vui thì trong đám vương công quí tộc
ở đô thành nổi lên dư luận dèm pha, chỉ trích nhà vua. Họ cho rằng một vị minh
quân như Rama mà lại dung túng một người đàn bà thay lòng đổi dạ, chung chạ
với quỉ sứ. Rama nghe tin đó bỗng lại nổi cơn ghen lần nữa bèn đuổi Xita vào rừng
sâu trong lúc nàng đang thai nghén.
*Có nghĩa là những đứa bé hát
rong Mười năm sau, trong đám hội lớn của đô thành Ayôđhya có hai em bé tên là Kusa và Lava* đi
đến đâu cũng hát kể kì tích của Rama, lòng chung thuỷ và nỗi niềm đau khổ của
nàng Xita khiến mọi người nghe bùi ngùi xúc động. Rama nghe tin đó, gọi hai đứa
bé vào cung, hỏi đầu đuôi mới nhận ra hay đứa con của mình do Xita sinh ra đã lớn
lên trong rừng. Biết vậy, Rama buồn phiền hối hận đón Xita về kinh, nhưng Xita
không muốn gặp lại Rama nữa mà cầu mẹ là thần Đất mở rộng luống cày đón nàng
trở về lòng đất, nơi đã sinh ra nàng.
Rama đau đớn van nài thần Đất, nhưng Brahma xuất hiện an ủi chàng và cho biết
chàng sẽ được tái hợp trong kiếp sau ở cõi trời, trở lại với bản thân nguyên thuỷ là
Visnu, thần Bảo vệ của toàn thể vũ trụ”[4, trang 67].
Ramayana là một thiên anh hùng ca hùng vĩ, tráng lệ. Ramayana còn là tập thơ
giáo dục tinh thần cao thượng. Rama, Xita, Lakmana, Hanuman đều hết sức cao
thượng. “Ramayana giáo dục ta sống cho chính nghĩa bất chấp hoàn cảnh khó
khăn, thực là một tác phẩm cao thượng. Vinh dự thay cho một nền văn hoá giáo
dục con người không phải nghĩ đến quyền lợi cá nhân mà quên mình vì đồng loại,
tình thương và lòng bao dung”[12, trang 11]. Ramayana thực sự là một bảo tàng
các nhân vật lí tưởng, in một dấu ấn sâu sắc trong văn học Ấn cả về phương diện
đạo đức lẫn văn chương.
Tác phẩm đã xây dựng nên những nhân vật toàn diện, toàn mĩ, những nhân vật lí
tưởng của cuộc sống. Nếu trong Mahabharata mỗi nhân vật chỉ tượng trưng cho
một phẩm chất của con người thì ở đây Rama và Xita là những con người mẫu
mực khuôn vàng thước ngọc với đầy đủ mọi đức tính tốt đẹp. Rama là một anh
hùng hoàn thiện. Điều đó đã được khẳng định ngay từ khi chàng được sinh ra. “Khi
mặt trăng cùng Thiên Vương tinh đi vào hoàng đạo-Hoàng hậu Kôxalya sinh hạ
Rama vĩ đại và thịnh đạt, có đôi cánh tay khoẻ chắc chắn, đôi mắt sắc hồng, đôi
môi đỏ thắm, là niềm vui của Đaxaratha và được toàn thể dân chúng quí mến. Trên
thân mình xinh đẹp của chàng có đủ mọi dấu hiệu quí tướng”[12, trang 42]. Và tài
năng của chàng thật xuất chúng, đức hạnh thật toàn diện. “Riêng Rama hùng mạnh
vô song thì tính cách không tì vết như trăng rằm, là niềm vui sướng của những ai
nom thấy chàng. Chàng là một trang kị mã lão luyện, một tay điều khiển xe thành
thục và có thể cưỡi voi. Chàng là một tay bắn cung bậc thầy và không hề xao
nhãng mảy may việc luyện tập võ nghệ cũng như sớm khuya phụng dưỡng cha
già”[12, trang 43]. Toàn thiện toàn mĩ như vậy cho nên Rama toả sáng như ánh
mặt trời ban trưa khiến cha vui lòng và đem lại lợi lộc cho dân chúng. Và trần thế
mong muốn Rama là chúa tể của mình”[12, trang 94]. Quả thật Rama là một anh
hùng giàu có, hùng mạnh về vật chất, thanh cao trong sạch về tâm hồn, nồng nàn
tình yêu và vĩ đại siêu nhiên như thần thánh. Chàng xứng đáng ở ngôi vị chí tôn cai
quản nhân dân sống trong thanh bình thịnh trị.
Bên cạnh chàng là nàng Xita, con gái của thần *Xita Đất, hiền hoà xinh đẹp và thuỷ chung. “Khuôn mặt Gianaki* đẹp như một vầng
trăng đầy, bộ ngực duyên dáng và tròn trĩnh. Vẻ đẹp sáng ngời của nàng soi rọi vào
bóng tối nơi đây. Cổ nàng có sắc da màu kem bóng loáng, đôi môi thắm đỏ như
quả bimba chín, thắt lưng thon mảnh và dáng điệu của nàng duyên dáng yểu điệu
mê hồn. Nàng đem lại niềm vui thích cho thế gian cũng như mảnh trăng tròn
đầy”[13, trang 158]. Nàng là người phụ nữ mẫu mực, người phụ nữ toàn bích.
Nàng đã từ bỏ cuộc sống vương giả nơi hoàng cung, một mực đi theo Rama vào
rừng cùng chia sẻ số phận với chồng. Nàng đã khẳng khái “Em đi theo chồng trong
lúc thịnh đạt cũng như trong nghịch cảnh. Nếu chàng đi vào rừng thì em sẽ đi trước
anh và chân em sẽ dẫm đạp gai góc để dẫn đường”[12, trang 142]. Xita đã trở
thành tấm gương của mọi phụ nữ Ấn. Vì vậy nhân dân Ấn Độ từ đời này sang đời
khác liên tiếp ca ngợi Rama và Xita.
“Cùng với hình ảnh những con người toàn thiện toàn mĩ, sử thi này còn quan tâm
nhiều hơn đến cuộc đấu tranh giữa thiện-ác, ánh sáng-bóng tối, chính nghĩa-phi
nghĩa trong mỗi con người. Thử thách đặt ra cho mỗi nhân vật chủ yếu là sự lựa
chọn hành động trong những hoàn cảnh có xung đột gay gắt giữa đòi hỏi của bản
thân và quyền lợi của người khác, giữa quyền lợi vật chất trực tiếp và đạo đức.
Trong ngày lễ phong vương, Rama vâng lệnh lưu đày; nàng công chúa Xita cởi bỏ
nhung lụa, bận quần áo vỏ cây, kiên quyết sẻ chia gian khổ cùng chồng; Bharata
vào rừng khăng khăng trả lại vương quốc cho anh… Nhân vật lí tưởng là người
luôn lùi bước trước những hành động không xứng đáng với danh dự và bổn phận,
luôn lấy tinh thần cao thượng và trầm tĩnh để làm thăng bằng sự thuần phục của
họ. Tác phẩm hào hùng và tràn đầy nước mắt này vì vậy dấy lên những xúc động
sâu xa và thanh lọc tâm hồn. Dường như chỉ một điểm ấy thôi cũng đủ để lí giải
sức hấp dẫn mãnh liệt và vĩnh cửu của nó”[5, trang 92].
Trong thiên sử thi này chúng ta còn thấy được một tình yêu say đắm, nồng nàn,
thuỷ chung giữa Rama và Xita. “Tình yêu của họ được đưa lên đỉnh cao tuyệt mĩ
và cũng chịu trầm luân trong hố thẳm của hận sầu thiên thu”[11, trang 124]. Tình
yêu của họ làm cho bản anh hùng ca càng trở nên lãng mạn và hấp dẫn.
Điều cuối cùng ta cũng phải nói đến trí tưởng tượng mang tính chất thần thoại, tài
năng nghệ thuật của tác giả. Thi ca Ấn Độ vốn dĩ tráng lệ hùng vĩ nhưng không ở
đâu hùng vĩ tráng lệ như Valmiki. Từ tài phân tích tâm lí nhân vật đến tài miêu tả
và sử dụng ngôn ngữ phong phú điêu luyện. Chính tài năng của tác giả Valmiki đã
tạo nên thiên anh hùng ca trác tuyệt Ramayana. 1. Một Ramayana tràn ngập hình ảnh thiên nhiên
Ấn Độ là một đất nước còn bảo lưu nhiều yếu tố văn hoá truyền thống cổ xưa nhất
trên thế giới. “Tuy Ấn Độ có bờ biển dài nhưng nền văn hoá Ấn không hướng ra
biển mà hướng về đất liền. Không nơi nào mà thiên nhiên lại có ảnh hưởng lớn lao
đến văn hoá như ở Ấn”[8, trang 76]. Từ rừng núi bao la bạt ngàn, thâm u huyền bí
đến những dòng sông hiền hoà thiêng liêng. “Thời cổ các lớp học nằm trong rừng.
Những dòng tư tưởng lớn của Ấn Độ cổ đại đã nẩy nở trong cảnh tĩnh mịch vắng
lặng của rừng núi”[8, trang 77]. ”Một Ấn Độ uy nghiêm trầm mặc tượng hình từ
những con người lánh xa trần ai huyên náo, ẩn cư chốn rừng sâu tĩnh lặng”[17,
trang 120]. Người Ấn cũng có tình cảm đặc biệt với những con sông, họ ngưỡng
mộ, tôn thờ, thần hoá chúng. Hầu hết các con sông là thiêng liêng đối với người
Ấn, nhất là ở chỗ hai con sông gặp nhau, hay nơi hai con sông gặp biển. Như vậy
là thiên nhiên Ấn Độ có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tâm linh của người dân
Ấn.
Trong tuyệt tác hoàn mĩ Ramayana không thể bỏ qua bức tranh thiên nhiên. Thiên
nhiên Ấn Độ vốn rất tươi đẹp và huyền bí nay được thổi vào sức sống của sử thi nó
càng kì vĩ hơn. Rừng núi trong Ramayana có thể coi là “thánh đường hùng vĩ”.
Rừng núi thẳm sâu u tịch nhưng cũng thật rực rỡ. Hoa lá, sông suối, núi đồi tất cả
hoà quyện vào nhau tạo nên một khung cảnh tuyệt mĩ. Thiên nhiên rừng núi mang
đặc trưng vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Mùa xuân “lớp đất màu xanh thẫm lốm
đốm nhữmg hoa đủ màu sắc rời khỏi cuống, nom như một tấm chăn xinh đẹp trải
trên cỏ… Ngọn gió dịu dàng thổi nhẹ, hoa đang nở rộ và rừng ngào ngạt hương
hoa”[13, trang 5]. Mùa hè phong cảnh thật đẹp mắt, cây cối trĩu nặng hoa quả rền
vang tiếng chim hót dịu dàng và tiếng chim cu thánh thót, những cây axôka với
những bông hoa đỏ rực và cái nóng như thiêu như đốt của mùa hè được xoa dịu
bằng những cơn mưa. “Mùa mưa đã bắt đầu rồi. Bầu trời phủ đầy mây nom như
các dãy núi. Sau khi đã uống khí ẩm của đại dương qua những tia nắng của mặt
trời, bầu trời mang thai trong chín tháng và bây giờ đang sinh đẻ những trận mưa
xối xả … Buổi hoàng hôn rực rỡ trong những đám mây chiều lạnh lẽo với đường
viền hổ phách … Hoa kutagia đã nở khắp triền đồi và bị phủ trong hơi nước từ mặt
đất dâng lên. Mặt đất nom như hài lòng thấy mùa mưa tới”[13, trang 65-66]. Còn
mùa thu thì “bầu trời màu hồng vàng, vầng trăng long lanh và đêm thu êm ả trắng
lên trong ánh trăng”. Mùa thu thật thơ mộng và dịu êm với “những cành cây axana
cao vút, sắc như vàng nặng trĩu hoa đang sa xuống, mùi hương hoa êm dịu tràn
ngập bầu không khí”. Thế đấy, bức tranh thiên nhiên trong Ramayana hiện lên đầy
màu sắc và sức sống.
Thiên nhiên trong Ramayana không chỉ là môi trường để nhân vật hoạt động mà là
một hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật ấy luôn ẩn hiện sau những trang
viết, khi thì trực tiếp xuất hiện khi thì được thể hiện qua cảm quan nhân vật. Hình
tượng này được tác giả ưu ái dành cho gần một phần hai số trang trong tác phẩm.
Hầu như ở các chương đều có ít nhiều miêu tả về thiên nhiên. Có những chương
tác giả đã dành riêng cho việc miêu tả thiên nhiên như chương “Rừng Axôka”,
“HồPampa”, “Mùa thu”, “Mùa mưa”… Trong sử thi Hi Lạp và trong suy nghĩ của
người Châu Âu thiên nhiên chỉ là môi trường sống và hoạt động của con người, chỉ
nhìn thiên nhiên ở những giá trị vật chất mà nó mang lại. Thiên nhiên của họ là
biển cả vô tận hào phóng và đồng bằng màu mỡ. “Với họ, thiên nhiên chẳng qua là
một nguồn lợi vô cùng và có thể khai thác phục vụ cho lợi ích con người. Một khi
đã chế ngự được sự dữ dằn của nó phẩm chất anh hùng được khẳng định”[9, trang
88]. Nhưng trong Ramayana người anh hùng không mưu cầu lợi ích vật chất ở
thiên nhiên. “Bởi vậy nên sức mạnh anh hùng của họ không phải được đo đếm ở
khả năng có chế ngự được thiên nhiên, bắt nó sinh lợi nhiều hay ít mà ở chỗ họ gắn
bó hoà hợp với thiên nhiên đến mức nào”[9, trang 88].
“Thiên nhiên trong Ramayana chủ yếu là những khu rừng già sâu thẳm với những
dòng sông hùng vĩ, những ao hồ trong lành rực rỡ cỏ hoa. Vạn vật đông đúc nhưng
sống trong hiền hoà yêu thương”[9, trang 88]. Thiên nhiên trở thành người bạn
thân tình tri kỉ của con người. Con người sống cùng rừng núi, tắm mình trong
những dòng sông trong sạch thiêng liêng và thưởng thức cảnh đẹp xung quanh.
Con người tìm thấy ở thiên nhiên sự thanh thản trong tâm hồn và cuộc sống bình
yên giải thoát. Rama, Xita và Lakmana đã sống mười bốn năm cùng rừng núi. Núi
rừng tươi đẹp đã trở thành ngôi nhà hạnh phúc của họ. Rama đã rất hân hoan: “Anh
cảm thấy hết sức vui sướng trong ngọn núi xinh đẹp, có dồi dào hoa quả và tiếng
chim ca hát. Nó khiến cho thể xác và tâm hồn thảnh thơi, lời nói êm ái. Các bậc tổ
phụ của anh coi đời sống rừng như là cảnh thích hợp nhất để đạt tới sự cứu rỗi,
niềm an ủi duy nhất cho mọi đau khổ và lo âu trần thế sau mỗi cái chết”[12, trang
215]. Con người và thiên nhiên hài hoà, bình đẳng cùng hoà vào nhịp sống chung
của vũ trụ.
Đặc biệt hơn cả là trong tác phẩm sử thi này thiên nhiên được miêu tả không chung
chung khái quát, nó hiện lên thật cụ thể sinh động và vô cùng phong phú. Núi rừng,
sông suối hiện lên với đầy đủ sắc màu rực rỡ, với những nét đặc trưng của thiên
nhiên rừng rậm nhiệt đới Ấn Độ. Mật độ màu sắc đậm đặc và tươi mới. Thiên
nhiên được đặc tả như một nhân vật. Có đủ các trạng thái, mức độ và hình thức.
Mỗi nét là một sự độc đáo. Thiên nhiên hiện ra cụ thể đến mức chúng ta có cảm
giác như mình đang quan sát bức tranh phong cảnh chứ không phải đang đọc
Ramayana.
Hình tượng thiên nhiên trong Ramayana còn rất phong phú và đặc sắc. Thiên nhiên
mở rộng trải dài trên khắp đất nước Ấn Độ từ Bắc đếnNam. Có thể nói Valmiki đã
mang cả rừng núi Ấn Độ cổ đại đặt vào sử thi Ramayana. Bức tranh toàn cảnh
rừng núi hiện rõ với đầy đủ chi tiết màu sắc. Từ những cây cổ thụ đến những cây
dây leo bé nhỏ. Từ những bông hoa axôka đỏ rực đến những bông hoa bé xíu với
rất nhiều màu sắc. Từ cảnh mùa xuân đến cảnh mùa mưa. Từ những dòng sông đến
những lòng hồ xanh trong. Tất cả đều được tác giả chú ý miêu tả. Người đọc được
chiêm ngưỡng một bức tranh thiên nhiên rộng lớn sống động và tràn đầy sức sống.
Sử thi Ramayana là câu chuyện về hoàng tử Rama với những chiến công hiển
hách. Câu chuyện về một tình yêu say đắm thuỷ chung giữa người anh hùng hoàn
thiện Rama và người phụ nữ xinh đẹp toàn bích Xita. Và đó còn là câu chuyện về
thiên nhiên Ấn độ. Bên cạnh những nhân vật toàn thiện toàn mĩ, bên cạnh những
nội dung triết lí sâu sắc Ramayana còn trở nên hùng vĩ và tráng lệ hơn bởi “những
bức tranh thiên nhiên rộng lớn và chan chứa tình người”.
ö
CHƯƠNG II: THIÊN NHIÊN TRONG RAMAYAN-NGƯỜI BẠN THÂN
THIẾT CỦA CON NGƯỜI. 1. Thiên nhiên Ấn Độ phong phú tươi đẹp và hùng vĩ
Hình ảnh thiên nhiên Ấn Độ cổ đại được miêu tả thật lộng lẫy và tráng lệ trong
Ramayana. Câu chuyện trong Ramayana diễn ra trải dài trên khắp đất nước Ấn Độ.
Từ kinh thành Ayôđya ở phía Bắc đến tận đảo Lanka ở miền biển phíaNam. Và
hình tượng thiên nhiên cũng theo bước câu chuyện. Bức tranh thiên nhiên rừng núi
được tô điểm bởi nghệ thuật sử thi đã dần dần phô bày mọi nét đẹp trác tuyệt hấp
dẫn người đọc. Thiên nhiên rừng núi Ấn Độ trải rộng và được miêu tả tỉ mỉ từ
những đường nét, những màu sắc, những chuyển biến tinh tế. Hình tượng thiên
nhiên tràn ngập làm cho thiên sử thi Ramayana thêm độc đáo.
Quang cảnh kinh thành Ayôđya thật phồn vinh. “Trên đôi bờ của con sông Xarayu
đại vương quốc Kôxala nằm trải mênh mông, giàu thóc lúa, lắm vàng bạc và dân
cư sống những tháng ngày trong cảnh thái bình hạnh phúc. Thủ đô Ayôđya lừng
danh, được xây dựng từ những thuở xa xưa bởi Manu, vị chúa tể của loài người.
Thủ đô dài hai mươi yôgiana, rộng ba yôgiana, là thành phố xinh đẹp nhất trên trái
đất và được điểm tô bằng các công viên và lâu đài dinh thự. Thành phố ăn nước
giếng trong lành. Những bông hoa nở rộ điểm xuyết cho những con đường cái rộng
rãi phong quang mà hai bên là những cửa hiệu và những quán bán hàng thẳng
tắp”[12, trang26 ].
Khi Rama tuân lệnh vua cha đi vào rừng thì kinh thành Ayôđya khuất dần sau lưng
chàng. “Và cứ như vậy Rama đi tới giới hạn cuối cùng của Kôxala. Rồi sau khi đã
vượt qua con suối thiêng liêng Vêđaxruti, Rama rẽ về hướng nam”. Mười bốn năm
lưu đày chàng đã cùng Xita và Lankmana theo hướng nam đi từ cánh rừng này đến
cánh rừng khác. Ở đâu phong cảnh rừng núi cũng thật tươi đẹp và hùng vĩ. Rừng
núi dày đặc cây cối, hoa qua, chim chóc và thú rừng. Bức tranh rừng núi đẹp mê
hồn. Có rừng, có núi, có suối, có hồ. Cảnh trí thật tuyệt đẹp. “Cây cỏ dồi dào, đất
bằng phẳng và xinh đẹp…Có một cái đầm xinh đẹp rải rác những cây sen hương
thơm dịu, hồng và đỏ chẳng khác bình minh mới rạng. Tại đấy có con sông
Giôđavari. Thiên nga, cò và chim chakravaka lôn luôn thăm viếng con sông này.
Có rất nhiều đàn nai khát nước tới uống nước và những rặng cây hoa rực rỡ mọc
sừng sững trên bờ…Hãy nghe tiếng kêu lảnh lót của đàn công”[12, trang 265 ].
Đó chỉ mới là một cảnh ở rừng Panchavati. Còn rất nhiều cảnh đẹp ở các cánh
rừng khác. Rừng Chitrakuta, rừng Axôka, rừng Đanđaka…mỗi nơi một cảnh sắc
mê người độc đáo. Núi thì càng rạng rỡ hơn. “Đẹp làm sao những ngọn núi kia, nơi
quanh năm chim rừng trú ẩn! Cao biết bao đỉnh núi như chọc thủng bầu trời
xanh!…Núi non lốm đốm những màu sắc : có chỗ thì trắng như bạc, có chỗ đỏ tía,
có nơi nom vàng như Mangix tha, nơi xanh như ngọc bích, có nơi lấp lánh như
pha lê và có nơi như hoa kêtaki… Đây là một thác nhỏ, kia là một suối con, cũng
có một cái giếng và các ngọn núi nom như một con voi toát mồ hôi thái
dương”[12, trang 214 ].
Gần hết hạn mười bốn năm sống trong rừng thì biến cố xảy ra. Ravana bắt cóc Xita
mang về đảo Lanka ở miềnNam. Rama lại tiếp tục hành trình tìm kiếm vợ. Cảnh
thiên nhiên cũng hiện ra đầy hấp dẫn theo từng bước hành trình của chàng. Sau khi
đi qua những vùng đất tuyệt đẹp Rama đã đến được thành phố Lanka ở tận
cựcNamđể giải thoát Xita. Lanka là một thành phố rất đẹp. “Vùng lưng chừng đồi
phủ cỏ xanh rờn và những khóm cây nức mùi thơm xen vào giữa những hàng cây
xinh đẹp… Hồ và đầm nước trong vắt, điểm những bông sen trắng, hồng, với
những đàn thiên nga và cò đang nô đùa bơi lội. Đây đó là những nơi dạo chơi nằm
trên sườn đồi với những khu vườn đẹp đẽ… Đây là một thành phố đẹp lộng lẫy,
nằm giữa một bức tường thành bằng vàng, nhà cửa quét màu trắng cao lồng lộng
và những con đường phố chính màu vàng… Thành phố nằm trên đỉnh một trái đồi
và có vẻ như đang bay vút lên bầu trời. Nom nó như là một công trình sáng tạo của
trí tưởng tượng”[13, trang134 ].
Bức tranh phong cảnh Ấn trở nên tuyệt vời hơn khi có sự nhập cuộc của thời tiết
khí hậu. Mùa xuân thì cây cối hoa lá đủ mọi màu sắc rực rỡ tươi đẹp. Mọi vật đều
rất hân hoan. “Sườn đồi trên cao rực rỡ những bông hoa…một số cây phủ đầy
những bông hoa thơm ngọt, trong khi những cây khác được trang điểm với những
lộc non xanh dịu…lũ chim Đêtynha đang hót líu lo…những loài chim với đầy đủ
giọng ca đang ríu ra ríu rít trong rừng”[13, trang 6, 8 ]. Mùa mưa thì “ gió dịu dàng
thoảng mùi thơm hoa Kêtaki chuyển lạnh thổi xuyên qua những cành long não. Núi
phủ hoa Acgiuna và Kêkati gội mưa xối xả…Đất phủ những đám cỏ xanh, ướt đầm
sương và trên đó, đàn chim công đang múa! Những đám mây nặng nước, đang du
hành với tiếng râm ran sâu thẳm khi ngừng lại nhiều lần trên vách đá cheo leo.
Dưới những đám mây, đàn cò bay lượn thích thú và nom như một tràng hoa sen
rung rinh trước gió và treo lơ lửng dưới bầu trời. Mặt đất bị cỏ bao phủ, lốm đốm
các màu sắc khác nhau… Đại dương, sông ngòi, những con cò vui thú, mây và mọi
thứ trông đều đẹp mắt”[13, trang 66-67].
Mùa thu thật dịu ngọt và êm đềm. “Hoa kasa đã nở trên bờ sông dập dềnh lượn
sóng trong làn gió thoảng … Những bầy ong say mật, thân phủ bụi phấn hoa sen,
đang cùng các bạn tình đuổi theo làn gió thổi. Nước hồ trong tựa pha lê. Lúa đã
chín, gió thổi hây hây, trăng long lanh và tiếng chim krôncha vang liên hồi”[13,
trang74 ].
Đặc biệt hơn cả là khi mùa thu đi qua đến mùa sương mù. “Cả khu rừng bị bao phủ
trong một màn sương mù, lúa mì và lúa mạch nom xinh đẹp dưới mặt trời khi được
điểm thêm những cánh cò trắng nấp trong đó… Tia mặt trời tan đi qua mây mù
khiến mặt trời ban trưa giống như mặt trăng. Buổi sáng, tia mặt trời yếu ớt và vàng,
và nom hết sức xinh đẹp rơi trên cỏ xanh ướt đầm sương mai… Nước sông bị bao
trùm trong sương mờ mịt và các bãi cát trên bờ sông ướt đẫm sương”[12, trang 267
].
Thiên nhiên trong Ramayana vừa phong phú vừa tràn đầy sức sống, mang đặc
điểm của thiên nhiên rừng rậm nhiệt đới Ấn Độ. Nó không lấm tấm, rải rác hay cô
đúc với một màu sắc nào đó mà xuất hiện dày đặc, tràn ngập, choáng ngợp. Nếu
như trong Iliát và Ôđixê của Hômer hình ảnh thiên nhiên rất ít, tác giả chọn một
nền trắng để làm nổi bật những người anh hùng, thì ngược lại ở Ramayana thiên
nhiên đậm đặc với những màu sắc rực rỡ tươi mới. Những gam màu nóng, sặc sỡ
hoà cùng những sắc màu sáng, nhẹ dịu dàng khiến cảnh vật thật tuyệt đẹp và quyến
rũ. “Đầm hồ đầy sen vàng và cả khu rừng toả chiếu ánh đỏ ửng của các bông hoa
axôka… Chim muông đậu kín các cành cây, suốt ngày bay lượn từ cành này sang
cành khác, thân mình lấm tấm hoa cho nên nom đẹp mê hồn. Các cành cây axôka
phủ đầy hoa và toàn bộ khu rừng đều một màu đỏ như đang rực lửa… Rừng có
nhiều cây axôka, cây thì sắc như vàng, cây thì đỏ rực như lửa, cây màu xanh
thẫm”[13, trang 156 ]. “ Nước hồ sao mà trong vắt như pha lê, có khác gì chất ngọc
lỏng trên nước da màu lơ! Lớp đất màu xanh thấm lốm đốm những hoa đủ màu sắc
… Có biết bao nhiêu hoa đã bị ném xuống đất, biết bao nhiêu hoa đang lả tả rơi, và
bao nhiêu là hoa đang rung rinh trên cành…Các cành nặng trĩu hoa…Gió chuyển
động khiến cho cây cối cành nhánh đan mắc vào nhau kết liền với nhau thành một
dãy…những loài chim với đầy đủ giọng ca đang ríu rít trong rừng”[13, trang 5-6].
Rừng núi là thế giới trù mật của muôn loài sinh vật. Thiên nhiên đông đúc, huyên
náo nhưng không chen chúc lấn át nhau. Vạn vật sống trong hoà hợp yêu thương.
Thiên nhiên miền nhiệt đới còn là thiên đường của các giác quan. Bức tranh thiên
nhiên sống động tác động vào mọi giác quan của con người. Và chỉ có thể dùng tất
cả các giác quan con người mới thưởng lãm được vẻ đẹp trác tuyệt của thiên nhiên.
Valmiki đã mở tung mọi nét đẹp rực rỡ hoành tráng của thiên nhiên. Chúng ta tha
hồ nhìn ngắm cảnh vật, màu sắc, nghe âm thanh, ngửi hương thơm và cảm giác
được thiên nhiên bằng vị giác, súc giác. Điều này không thể tìm thấy ở các sử thi
khác.
Thiên nhiên thu hút con người tâp trung cao độ, mở cửa tâm hồn để đón nhận và
thưởng thức. Cảnh rừng núi Chitakuta rực lửa với những bông hoa sắc đỏ, náo
nhiệt tươi vui với tiếng chim kêu lảnh lót và thật thơ mộng với “suối Malyavati có
nhiều bãi tắm tốt, chim rừng và hươu nai thường lui tới”. Cảnh hồPampacàng đặc
sắc hơn. Hồ Pampa đẹp đến mê hồn. Ở đó “không khí mát mẻ trong lành, lành lạnh
một cách khoan khoái và thơm nức như đàn hương”. Toàn cảnh hồPampahơn cả
thiên đường ở chốn trần gian. Không biết bao nhiêu là sắc màu, không biết bao
nhiêu là cỏ hoa, mật ngọt. Chim thú rừng thì vô vàn, nước hồ thì trong xanh như
pha lê, ngọc bích. Cảnh rừng Axôka thì đẹp hơn cả vườn thượng uyển. “Có thể so
sánh nó với một bầu trời thứ hai mà những bông hoa chiếu sáng như những vì sao,
hay có thể nói đó là đại dương thứ năm mà hoa là những ngọc quí… Lâu đài san
hô mãi mãi rực rỡ huy hoàng và cao chọc trời”[13, trang 157 ]. Làm sao con người
không bị cuốn hút trước khung cảnh thiên nhiên tuyệt mĩ và hết sức gợi cảm như
thế. Con người phải nhìn, ngắm, lắng nghe, ngửi hương, nếm vị và cảm giác thiên
nhiên. Có như vậy mới có thể cảm nhận hết vẻ đẹp của thiên nhiên.
Tóm lại, ở Ramayana, thiên nhiên Ấn Độ lộng lẫy kì diệu hiện ra phong phú, tràn
ngập. 1. Thiên nhiên thấm đẫm nội tâm nhân vật. 2. Mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người.
Sử thi Hi Lạp rất ít chú trọng đến thiên nhiên. Thiên nhiên chỉ được nhìn ở góc độ
là môi trường hoạt động của nhân vật, là những giá trị vật chất mà nó đem lại cho
con người. Do vậy thiên nhiên rất ít được quan tâm miêu tả. Trong Ôđixê thiên
nhiên biển cả được phác hoạ chi tiết chỉ bởi trên hành trình phiêu lưu tìm hiểu
những mảnh đất xa lạ người anh hùng Ôđixê luôn bắt tay với thiên nhiên, hợp tác
với thiên nhiên để xây dựng cuộc sống tốt đẹp, ấm no hơn cho con người: “ Đất đai
của họ rất tốt. Gần những lớp sóng ngầu bọt trên bờ là những đồng cỏ ẩm ướt đất
xốp, ta có thể trồng nho quanh năm…Đảo này ở ngoài bến còn có những nơi che
khuất hết sức thuận tiện cho ta đỗ thuyền chẳng phải neo, buộc gì cả. Thuyền đỗ lại
ta có thể yên tâm cho đến khi nào lòng ta quyết định lên đường hay khi gặp trời nổi
gió”. Còn các anh hùng trong Iliat bị cuốn vào cuộc chiến tranh thị tộc hầu như
không còn thời gian và tâm trí cho thiên nhiên. “ Môi trường không gian bao quanh
nhân vật Iliat hầu như không được miêu tả” (Nhận xét của D.F.Kitto) “Khi bất hợp
tác với cộng đồng người,Achill mới bước ra bờ biển. Ngay cả khi đó Homer cũng
bận tâm miêu tả cơn giận của chàng hơn là để mắt đến thiên nhiên”[17, trang 105 ].
Trong tư tưởng của người Hi Lạp thiên nhiên còn là giá trị để đo lường người anh
hùng. Một khi đã chế ngự được sự dữ dằn của thiên nhiên, phẩm chất anh hùng
được khẳng định. Người anh hùng càng chế ngự, chinh phục thiên nhiên dữ tợn
bao nhiêu thì càng được khâm phục và tôn vinh bấy nhiêu. Vì thế mà biển trong
Ôđixê luôn hiện ra trong trạng thái hung tợn, đe doạ sinh mạng con người: “ Bóng
đêm từ trời ập xuống. Gió đông, gió nam, gió tây điên loạn và gió bắc phát sinh
trên bầu trời ánh sáng chói đều ào ào kéo đến cùng một loạt và làm dâng lên những
đợt sóng ngút trời”[16, trang 176 ]. Và “những ngọn sóng khổng lồ liền đẩy chiếc
bè khắp chốn, lắc lư theo dòng nước. Như những cây gai mắc chằng vào nhau
thành một bó bị gió bắc mùa thu quét đi khắp cánh đồng, chiếc bè cũng bị gió đẩy
đó đây trên mặt biển, khi thì gió nam trao cho gió bắc, khi thì gió đông nhường cho
gió tây”[16, trang 177 ]. Từ đó người anh hùng thể hiện sức mạnh chinh phục
Rõ ràng con người phương Tây phải hoà hợp với thiên nhiên vì chính điều đó đảm
bảo lợi ích vật chất lâu dài của họ. Ramayana, trái lại, thiên nhiên tồn tại trong mối
quan hệ tinh thần với con người. Thiên nhiên tươi đẹp và phong phú là người bạn
thân thiết của con người. Valmiki đã xây dựng hình tượng thiên nhiên thành một
nhân vật đặc biệt. Nó tồn tại và phát triển trong mối tương quan chặt chẽ với tâm
tư tình cảm các nhân vật chính. Nó đem đến cho nhân vật những tình cảm, xúc cảm
mãnh liệt. Bản thân nó cũng chứa đựng những tâm tình cảm xúc và một vẻ đẹp rực
rỡ, độc đáo. Tác giả sử thi đã miêu tả thật tỉ mỉ và đầy đủ núi cao, rừng thẳm, hồ
trong, suối xanh …
Rừng núi không làm cho con người hoảng sợ mà khiến họ thêm thích thú, thanh
thản. “Núi rừng là môi trường dành riêng cho sự hành hương của nhân vật bởi sự u
tịch của nó phù hợp với việc tu luyện để đạt đến tri thức, đạo đức, chân lí cuộc đời.
Bóng cây là nơi suy ngẫm ý nghĩa, bản chất của tồn tại và sự sống, là nơi chiêm
nghiệm cuộc đời”[9, trang 89]. Những dòng sông là nơi thiêng liêng để họ tắm
mình trong sạch và cầu nguyện. Đó là chốn ở và giải thoát cho những linh hồn. Họ
thường làm lễ cúng nước cho người chết tại các bờ sông.
Thiên nhiên rừng núi vừa có ý nghĩa trong đời sống tâm linh vừa là một người bạn
tri kỉ đồng cảm. Hạnh phúc của nhân vật mênh mông lan toả khắp thiên nhiên.
Được thiên nhiên chắp thêm đôi cánh hạnh phúc càng bay bổng. Đời sống của
Rama và Xita trong rừng Chitrakuta quả là một cuộc sống thần tiên tuyệt vời. Cảnh
rừng Chitrakuta vốn mang vẻ đẹp rực rỡ, nay lại sáng bừng tuyệt diệu cùng hạnh
phúc lứa đôi. Rama đã sung sướng thốt lên “Gianaki ơi ! Nếu anh sống cùng
em ngay cả một thời gian lâu dài ở rừng này, nỗi buồn sẽ không bao giờ khuất
phục anh được…Bởi vậy anh tự cảm thấy vô cùng sung sướng khi mỗi ngày ba lần
tắm trong con sông này, sống bằng trái, củ rừng và ăn mật cùng với em. Anh chẳng
thèm khát gì ngay cả vương quốc Ayôđya”[12, trang 214 -215].
Khi nhân vật rơi vào nỗi đau chia lìa, mất mát thì thiên nhiên cũng buồn bã sẻ chia
cùng họ. Khi Rama ra đi khỏi kinh đô Ayôđya thì “thú vật và chim chóc sẽ đi theo
Rama ngay cả cây cối rễ bám chặt lấy đất cũng đã quay về phía Rama”[12, trang
157]. “Cả hoàng cung nom trống rỗng như một vực sâu thẳm…Mặt trời lặn như thể
không tài nào nhịn được những nỗi đau đớn của dân chúng và cả thành phố
Ayôđya nom như một đêm không sao”[12, trang165]. Khi đức vua Đaxaratha qua
đời thì thành đô u ám vì vắng bóng nhà vua và khi Xita bị bắt cóc, đôi lứa chia lìa
sống trong nhớ nhung mong chờ đau khổ, thiên nhiên cũng trở nên đau buồn.
Tóm lại thiên nhiên trong Ramayana có mối quan hệ sâu sắc với đời sống tinh
thần của con người. Quan hệ giữa con người với thiên nhiên trở thành trung tâm
trong tác phẩm. Thiên nhiên rừng núi là những bức hoạ tài tình sinh động về tâm
hồn Ấn Độ, trái tim Ấn Độ đắm say tinh tế nồng nàn niềm vui của cuộc sống và
tình yêu. “Cái nhìn thiên nhiên tràn đầy ý nghĩa tinh thần như vậy mang đậm bản
chất phương Đông, đặc biệt là bản sắc Ấn Độ. Nó rất khác cái nhìn của phương
Tây chủ yếu mang tính chất khai thác những giá trị vật chất mà thiên nhiên có thể
cống hiến cho con người”[17, trang 110 ]. 1. Không gian – thời gian tâm trạng
Ở Iliat và Ôđixê thiên nhiên chỉ là thiên nhiên. Mối quan hệ giữa con người và
thiên nhiên chỉ là mối quan hệ khai thác. Con người chỉ nhìn thiên nhiên ở những
lợi ích mà nó mang lại. Do vậy không gian, thời gian trong Iliat và Ôđixê là không
gian, thời gian tự nhiên khách quan, ít tác động đến nhân vật. Trong Ramayana thì
khác, ở đó là thời gian tâm trạng và không gian tâm trạng. Nghĩa là không gian,
thời gian được miêu tả, thể hiện trong mối tương quan chặt chẽ với đời sống, tâm
hồn, tình cảm nhân vật. Không gian và thời gian trong tác phẩm sử thi này đem đến
cho người đọc những hứng thú, khám phá hấp dẫn, bất ngờ.
1.1. Không gian chan chứa nỗi niềm nhân vật
Về lí luận, sử thi là một thể loại không xa lạ với việc miêu tả thiên nhiên. Ở đây
ta chỉ xét thiên nhiên được miêu tả như “một hoàn cảnh”, “một không gian hàm
chứa bao quanh con người” chứ không phải thiên nhiên đã được thần thánh hoá
thành những vị thần có tên tuổi. Thực tế trong các sử thi, thiên nhiên được miêu tả
rất ít ỏi, đơn giản và thường chỉ làm nền để phục vụ cho một mục đích nào đó của
cốt truyện. Homer tả cảnh hòn đảo Calipxô để nhấn mạnh rằng dù khung cảnh nơi
này rất thần tiên xong cũng không níu giữ được tình yêu quê hương của Ôđixê,
miêu tả cơn giông tố trên biển nhằm thể hiện những mối hiểm hoạ mà Ôđixê phải
chống chọi để khẳng định lòng can đảm, phẩm chất của người anh hùng.
Ở bài ca chàng Đam San, thiên nhiên cũng xuất hiện song với tư cách là lực
lượng đối chọi, là những cản trở thử thách tài năng chí khí, lòng dũng cảm của
chàng Đam San. Mahabharata cũng miêu tả thiên nhiên nhưng mục đích cũng
giống với các sử thi thông thường.
“Ramayana, khác biệt với các sử thi khác, có những bức tranh miêu tả thiên
nhiên rộng lớn lạ thường, tương đối độc lập với tiến trình tường thuật, mang tính
chất trữ tình và chất thơ sâu đậm… Những bức tranh thiên nhiên trong Ramayana
thường mang nỗi lòng nhân vật, mang tâm trạng con người”[9, trang 171 ]… Đằng
sau những khung cảnh, những nơi chốn tuyệt đẹp ẩn chứa tâm trạng nhân vật .
Niềm vui sướng hân hoan, hạnh phúc hay nỗi đau buồn, tuyệt vọng, nhớ nhung đều
được thiên nhiên chuyển tải. Có lẽ vì thế mà thiên nhiên trong Ramayana có một
sức sống và sự truyền cảm mạnh mẽ. Thiên nhiên không chỉ cho thấy bức tranh
ngoại cảnh đẹp như thế nào mà còn cho thấy nội tâm nhân vật qua cách cảm thụ
thiên nhiên. Núi rừng đối với Ramayana là một không gian chính thể hiện tâm
trạng nhân vật. “Trong Ramayana núi rừng một mặt hiện lên với trạng thái tĩnh
mịch thái hoà đưa người anh hùng dần đạt đến sự hoà nhập vào cõi siêu thoát. Mặt
khác đó cũng là khu vườn tình ái mà đâu đâu cũng nồng nàn hương vị tình yêu –
nguồn gốc của mọi tạo sinh và tồn tại trong vũ trụ”[9, trang 172].
2.1.1 Núi rừng : không gian nguồn cội tĩnh mịch, thái hoà.
Ở các sử thi của Ấn Độ không gian rừng núi với ý nghĩa là “một thánh đường
hùng vĩ” thường được nhấn mạnh. Rừng núi là môi trường hành hương của nhân
vật, là nơi giúp họ thực hành khổ hạnh, rũ bỏ mọi phiền não, khổ luỵ làm cõi lòng
họ trở nên tĩnh mịch siêu thoát. Do vậy thiên nhiên hiện ra không phải trong những
khoảng không rộng lớn mênh mông vô hạn mà thường là thẳm sâu cùng tận. Ý
nghĩa của rừng không phải là ở sự bao la của nó mà là ở cái thẳm sâu u tịch.
“Trong Mahabharata năm anh em Pandava trải qua mười hai năm lưu đày ở chốn
núi rừng. Các anh hùng đã rời xa kinh đô về với núi rừng, tức cái thiên nhiên đích
thực chính là cái nguồn cội giúp họ tìm kiếm được bản ngã đã bỏ quên, đã đánh
mất của mình”. “Sau mười hai năm lưu đày các Pandava đã dần dần đạt đến sự hoà
nhập làm một vào cuộc sống và linh hồn của thiên nhiên núi rừng, tâm hồn họ trở
nên tĩnh mịch thái hoà”[17, trang 107 ].
Rừng núi trong Ramayana có thể coi là thánh đường hùng vĩ của người Ấn Độ.
Đó là nơi mà các đạo sĩ tu luyện “ có những am đạo sĩ xinh đẹp dựng lên”. Bóng
cây là nơi suy ngẫm, tịnh tâm. Đời sống ở rừng là một cuộc sống thanh thản , hoà
hợp không giành giật bon chen. Rama đã cảm thấy mọi tục luỵ trĩu nặng được cởi
bỏ, trở về với tâm hồn yên tĩnh : “Cảnh rừng Chitrakuca và sông Mandakini khiến
người ta vui thú hơn đời sống đô thị”[12, trang 215]. Xita đã vui sướng khi được
cùng chồng sống ở rừng “Em hết sức mong muốn đi vào rừng. Lúc nào em nằm
trên cỏ xanh ở rừng, em thấy thú vị hơn là nằm trên chiếc nệm sặc sỡ trải trên
giường”[12, trang 145-146 ].
Rừng càng sâu càng xa cách gót chân trần tục. Hành trình mười ba năm trong
rừng của Rama trở nên có ý nghĩa biểu tượng Rama yêu cầu vợ và em càng ngày
càng đi sâu vào những khu rừng chưa ai đặt chân đến. Hết Chitrakuta đến Đandaka
rồi Panchavati… chính là hành trình xa lánh cõi đời bon chen, hoà nhập vào cuộc
sống muôn loài trong rừng, cuộc sống chia sẻ, yêu thương, hoà hợp.
Rama, Xita đã có một cuộc sống yên lành, hạnh phúc ở rừng. Hằng ngày họ ăn
củ rừng, mật ngọt, thịt thú rừng, tắm nước sông mát lành, hiền hoà và ngắm cảnh
núi rừng tươi đẹp. Cứ thế cuộc sống của họ hoà hợp cùng núi rừng u tịch. Mọi tục
lụy ở đời, cuộc sống đô thành vương giả bon chen tranh giành không hề vướng bận
đến họ.
Rừng núi đã giúp cho các nhân vật có được thái độ thật điềm tĩnh. Trong
Mahabharata, các Pandava phấn đấu cho tình yêu hoà hợp là khát vọng vĩnh cửu
của toàn vũ trụ. Những người từ rừng núi trở về cố gắng hết mức để chiến tranh
không xảy ra. Họ chỉ có một yêu cầu duy nhất: “ Chỉ cần trả lại năm làng xã cho
chúng tôi có chỗ sinh sống, miễn là tất cả chúng ta được yên ổn hoà bình”. Nhưng
bọn hiếu chiến Kaurava đã không chấp nhận. Họ buộc phải chiến đấu vì chính
nghĩa.
Ramayana cũng vậy. Rừng núi đã dạy cho chàng Rama bài học chân lí cuộc đời:
“Sống là yêu thương hòa hợp”. Khi mới mất Xita, trong cơn thịnh nộ Rama đã
điên cuồng đe doạ sẽ huỷ diệt tất cả. “ Anh sẽ bắn tên phủ mờ bầu trời làm cho bọn
chúng cháy âm ỉ và khiến cho chúng hoá đờ đẫn. Anh sẽ chặn đứng sự chuyển vần
của tinh tú, che khuất mặt trăng, cướp đoạt ánh sáng chói chang của mặt trời và
lửa, và đưa bóng tối bao phủ lên cõi trần. Anh sẽ nghiền nát núi, làm cạn đại
dương, tiêu huỷ mọi giống thực vật. Nếu như các thần không trả lại Xita cho anh,
hoặc sống hay chết anh sẽ tiêu diệt sự tạo sinh bằng cơn thịnh nộ của anh”[12,
trang 339]. Sang năm thứ mười bốn mặc dù phải trải qua bao đau khổ gian nan để
tìm kiếm Xita nhưng khi đối đầu với vua quỉ Ravana, Rama chỉ đưa ra một yêu cầu
rất mực hoà bình: “Hãy trả lại Gianaki muôn loài sẽ sống yên ổn”.
Không gian rừng núi tĩnh mịch thái hòa quả thật đã thanh lọc tâm hồn con người. .
2.1.2 Rừng núi : không gian tình yêu lứa đôi
Mối tình thuỷ chung say đắm của Rama và Xita là một nội dung chính của sử thi.
Valmiki đã thật xuất sắc thể hiện mối tình tuyệt đẹp và lãng mạn đó trong thiên
nhiên. Mối tình của họ gắn liền với thiên nhiên rừng núi đẹp tươi thơ mộng.
Những năm tháng lưu đày là những năm tháng họ sống hạnh phúc bên nhau giữa
chốn núi rừng ấm áp. Thiên nhiên đã làm cho cuộc sống lứa đôi trở nên hạnh phúc
và tuyệt vời hơn. Vạn vật dường như cũng đang say sưa trong tình yêu thương hoà
hợp. Đây là cảnh rừng Chitrakuta tràn ngập tình yêu của Rama và Xita : “Trông
này Xita, cái thung lũng đầy hoa này hình như là nơi thường lui tới của các nam
thần và nữ thần rừng núi …Cả khu rừng đang vang lừng tiếng gáy ngọt ngào của
chim cu, chim bhơringara, và các ca sĩ du dương khác của rừng. Hãy trông cây dây
leo đang quấn quít quanh cây xoài đang nở hoa, vậy thì em cũng đưa cánh tay ôm
chặt người anh vì gần đây chẳng có ai mà ngại”. Rama đã nói với Xita trong niềm
hạnh phúc viên mãn. “Rama cũng như vậy, đang cùng với Xita đi lang thang trong
khu rừng thú vị này, cặp vợ chồng sung sướng đang thả sức vui đùa, người này đặt
vòng hoa lên đầu người kia. Sau khi đã đi rong chơi trong khu rừng xanh, ngắm
nhìn những nơi xinh đẹp, họ trở về căn lều ấm cúng”[12, trang 216-217 ]. Tình
yêu, hạnh phúc của con người chan hoà với thiên nhiên làm cho hạnh phúc càng
dâng tràn, thiên nhiên càng tươi đẹp.
Khi Xita bị Ravana bắt cóc, hắn ôm nàng giấu trong áo bay đi. Xita vô cùng đau
khổ và sợ hãi. Thì lúc ấy cảnh vật cũng trở nên bấn loạn, “mặt trời cũng mờ đi vì
đau xót”. Rama trở về căn lều không nhìn thấy vợ, chàng hoảng hốt đi tìm và sục
sạo khắp nơi. Khi biết Xita đã bị bắt cóc chàng vô cùng đau đớn. Đôi lứa xa nhau,
tình yêu bị chia lìa thì thiên nhiên cũng trở nên héo mòn tàn lụi. Bức tranh cuộc
sống hạnh phúc mờ đi trong nỗi đau buồn. Khung cảnh thiên nhiên trở nên u buồn
ảm đạm hoà cùng tâm tình nhân vật. “Căn lều không có Xita nom như cái đầm về
mùa đông đã mất đi vẻ đẹp của hoa sen. cây cối hình như đang khóc lóc, hoa nhạt
màu, thiếu vẻ rực rỡ hàng ngày, thú vật và chim muôn câm lặng trong nỗi đau
buồn. Căn lều nom hết sức trống trải và bị xáo trộn. Cỏ kusa, những tấm da nai
vương vãi khắp nơi, tựa hồ như các thần linh rừng núi đã vội vã rời khỏi nơi đây.
Rama thốt ra những tiếng than thở thảm thiết trước căn nhà trống rỗng”[12, trang
331-332 ].
Trên đường đi tìm kiếm Xita, Rama đã đi qua những nơi chốn tuyệt đẹp và trữ tình.
Ở đâu không gian rừng núi cũng thật tuyệt mĩ và quyến rũ. Mọi trang thái của thiên
nhiên đều gợi nên những cảm xúc trong tâm hồn chàng. Chúng khiến chàng nhớ
đến Xita nhiều hơn, làm cho chàng đau khổ héo hắt hơn trong nỗi nhớ thương.
Thiên nhiên tương phản với cảnh ngộ cùng khắc sâu tâm trạng đau xót của chàng.
Chàng đã đến hồPamPatrong mùa xuân ấm áp. Chúa xuân đã gieo rắc tình yêu lên
vạn vật. Cảnh mùa xuân ở hồPamPathật mãnh liệt và rực rỡ hoa lá thắm tươi, chim
chóc vui đùa nhảy múa. Chính cuộc sống đôi lứa của muôn loài đã đốt cháy lên
ngọn lửa khát vọng yêu đương của Rama và khơi gợi nỗi đau thiếu vắng Xita trong
chàng : “Bây giờ đây anh không có Gianaki thì mùa xuân này khiến anh đau lòng
hơn, và tình yêu tàn nhẫn đang hành hạ anh khôn nguôi. Nghe chim cu đang cất
tiếng ca dịu dàng như để chế giễu anh. Hãy nghe lũ chim đêtynha đang líu lo bên
cạng con suối kia kìa ! Tiếng hót du dương của chúng khiến anh thêm não ruột.
Trước đây lúc ngồi trông nhà nghe những tiếng hót đó, Gianaki đã gọi anh tới ngồi
cạnh nàng để bày tỏ niềm vui thích đê mê”[13, trang 6 ].
Trước cuộc sống ái ân hạnh phúc của muôn loài Rama không thể kềm nén được
nỗi nhớ thương khát khao cuộc sống lứa đôi. Cảnh vật là động lực thôi thúc
mãnh liệt nhưng xúc cảm của Rama… Nỗi lòng của chàng càng thêm nóng bỏng
thiêu đốt. “Những loài chim với đầy đủ giọng ca, đang ríu ra ríu rít trong rừng và
đỗ vắt vẻo trên cành cây. Kìa, ở mỗi đàn, mỗi bầy, lũ chim đang cùng người bạn
tình thủ thỉ trong niềm hoan lạc, chẳng khác tiếng vo ve dịu dàng của bày ong. Cây
cối như đang lên tiếng, với những giọng thầm thì yêu thương của lũ chim đatynha
và tiếng gáy của con cu trống. Mùa xuân, như lửa, đang thiêu đốt anh đến là khổ.
Hoa Axôka đỏ là than hồng, tiếng vo ve của đàn ong là tiếng lửa vèo vèo, và lá
màu đồng thau là ngọn lửa”[13, trang 6].
“Những con chim công điên cuồng đang cùng những con mái múa lượn trong cảnh
vui vầy, đuôi xòe rộng, lấp loáng như rèm cửa sổ bằng pha lê. Chúng đang khiến
cho nỗi đau li biệt của anh càng thêm da diết. “Những con chim đang hót líu lo
chào mừng lẫn nhau, kích thích mọi tơ tưởng ái ân. Nếu như mùa xuân cũng tới ở
nơi mà hiện nàng đang bị giam hãm, chắc chắn nàng cũng âu sầu héo hon như anh
vậy”. Trong hoàn cảnh này con người trở thành một bộ phận không thể tách rời của
khung cảnh, bị lôi cuốn trong cảm xúc của thiên nhiên. “Anh có thể chống cự lại
sự giằn vặt nhức nhối của mối tình si say đắm giá như Chúa Xuân không đem hoa
thắm lá xanh đè nặng lòng anh”[13, trang 8]. “Giá bây giờ anh tìm ra Xita rồi cùng
nhau ở trên bờ hồPamPa… Mọi ham muốn và thèm khát sẽ được toại nguyện nếu
như anh có thể cùng Xita nô đùa trong làn nước trong veo màu ngọc bích”[13,
trang 9 ].
Trong những hình ảnh thiên nhiên, Rama như thấy bóng dáng yêu quí của vợ
chàng. Cỏ cây hoa lá trở nên có dáng hình của một mĩ nử yêu kiều. Nhìn thiên
nhiên trong tâm tưởng Rama lại hiện lên hình ảnh Xita. Nhìn vào đâu Rama cũng
thấy hình dáng của Xita. “Hãy chú ý mà xem, cánh hoa sen nom giống mắt Xita
của anh, và cơn gió hây hây từ rặng cây thổi tới mang theo hương sen khi đụng tới
chỉ nhị có khác gì hơi thở nhẹ nhàng của nàng Xita… Đàn nai kia gợi nhớ đôi con
mắt linh dương của nàng”[13, trang 8-9 ]. Chàng càng đau khổ nhớ nhung nhiều
hơn và thiên nhiên càng làm khổ chàng hơn. “Ngọn gió nồm mát lạnh thơm nức
hương hoa mùa xuân chẳng khác gì là lửa đốt”, “cây cối mùa xuân tốt tươi hoa lá
đang gây cho anh nỗi đau đớn mênh mông”[13, trang 9].
Khung cảnh vùng núi Malyaran vào mùa mưa chẳng khác nào tâm trạng chàng trai
si tình Rama phải xa cách người yêu : “Buổi hoàng hôn rực rỡ trong những đám
mây chiều lạnh lẽo với đường viền hổ phách; hình như vét thương của bầu trời đã
được băng bó với một tấm vải rách, những đám mây đỏ thắm trong những tia nắng
chiều đỏ như máu. Cả bầu trời hiện ra như đang vì tình mà héo hon, tái nhợt”[13,
trang 66 ]. Bức tranh thiên nhiên thể hiện sự tương đồng sâu sắc giữa cảnh vật và
tâm trạng vừa nhìn nó. Bầu trời cũng mang một vết thương như vết thương lòng
của Rama : Tâm trạng của nó là tâm trạng của Rama đang héo hon vì Xita.
Thế đấy, chính trong Ramayana lộ rõ qua bức tranh thiên nhiên là nỗi lòng, nguyện
vọng của những nhân vật sử thi. Tác giả sử thi đã thiết kế trên khung cảnh thiên
nhiên bức tranh tâm trạng nhân vật. “Thiên nhiên luôn hiện lên trong nỗi thông
cảm sâu sắc với con người. Hiện tượng này thể hiện quan niệm của người Ấn Độ
về mối tương giao mật thiết giữa tâm trạng và cảnh vật chủ quan và khách quan
giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ bao la”[9, trang 175].
1.2 Thời gian đi cùng nội tâm nhân vật :
Ở Iliat và Ôđixê thời gian gắn chặt với vị trí của mặt trời trên trời và chỉ có nghĩa
trong những công việc của nhân vật. “Khi mặt trời đã lặn và đêm tối đến, quân
Acai nằm ngủ bên chỗ buộc thuyền, và khi Rạng Đông, ngón tay hồng, con gái của
ban mai xuất hiện, họ vượt bể ra khơi để trở về doanh trại mênh mông của quân
Acai”[15, trang 25 ]. “Nhưng khi ánh mặt trời huy hoàng đã tắt, các thần đều ai về
nhà nấy, nghỉ ngơi trong những ngôi nhà”[15, trang 30]. “Khi mặt trời lặn và đêm
tối đến chúng lên bờ, nằm ngủ bên tiếng sóng dạt dào. Vừa sáng tinh mơ khi Rạng
Đông ngón tay hồng xuất hiện, tôi liền đánh thức các bạn đồng hành, ra lệnh cho
họ lên thuyền và cởi dây buộc lái”[16, trang 76].
Trong khi đó ở Ramayana thời gian được chủ quan hoá để biểu đạt tâm trạng nhân
vật. Giữa nội tâm và thời gian có sự đồng nhất. “Bước chuyển của thời gian không
vô tình thản nhiên tuần tự mà hoà cùng một nhịp với những vận động của tâm hồn
nhân vật”[17, trang 110].
Nhịp điệu thời gian chậm chậm diễn tả nỗi lòng khắc khoải đợi chờ của nhân vật.
Rama là con trai yêu quí duy nhất của hoàng hậu Kôxalya. Chàng là niềm hạnh
phúc, niềm hy vọng của bà và đức vua Đaxaratha. Những tưởng chàng sẽ được nối
ngôi vua cha trị vì đất nước nhưng ngày lễ phong vương đã trở thành ngày chia li.
Khi Rama bị lưu đày vào rừng. Hoàng hậu Kôxalya đau đớn như bị cắt một phần
thân thể. Mới chia tay với Rama mà bà cảm thấy như đã lâu lắm rồi. Bà đếm từng
ngày, từng giờ : “sự sáng suốt và lòng kiên nhẫn bị nỗi đau khổ huỷ hoại cho nên
không có kẻ thù nào giống như đau buồn. Đêm nay là đêm thứ năm phải bỏ đi vào
rừng ở nhưng hình như đã năm năm trôi qua. Lòng tôi chất chứa một biển đau đớn
mênh mông”. Bà đã tâm sự với đức vua như thế.
Thời gian tâm trạng này hình thành qua cảm nhận chủ quan của nhân vật. Vì vậy,
tuỳ từng tâm trạng mà thời gian nhanh chậm, dài ngắn khác nhau. Bước chuyển
của thời gian hoà cùng tâm trạng nhân vật.
Khi Xita bị mất tích, Rama tìm kiếm nàng. Theo lời chỉ dẫn của nữ tu sĩ già Xavari
họ tìm đến vua khỉ Xugriva và tướng khỉ Hanuman. Nhưng Xugriva lại đang lâm
nạn phải sống ẩn nấp tại núi Rishyamaku. Rama phải giúp anh ta tiêu diệt người
anh Vali để giành lại vương quốc và người vợ. Khi mà việc đã hoàn thành thì lúc
đó mùa mưa cũng tới. Do đó việc tìm kiếm Xita bị trì hoãn. Lòng Rama đang tràn
ngập nỗi đau đớn nhớ nhung vì chia li nay lại bị mùa mưa khoá chân, chàng vô
cùng lo lắng bồn chồn khắc khoải. Chàng nôn nóng mong mỏi cho mùa mưa đi qua
và mùa khô mau tới. Bởi vì chỉ mùa khô việc tìm kiếm Xita mới có thể tiến hành.
Qua cái nhìn tâm trạng mòn mỏi của chàng thì mùa mưa như kéo dài lê thê không
bao giờ chấm dứt. Rama than vãn : “Bốn tháng mùa mưa dài đằng đẵng bằng trăm
năm”[13, trang 75]. Sở dĩ chàng cảm nhận như thế vì chàng đang ở trong trạng thái
mong chờ, nôn nóng. Đó cũng chính là thời gian tâm lí. Trên đây, qua tâm
trạng nhân vật có thể nhìn thấy tốc độ thời gian. Bên cạnh đó giữa thời gian và tâm
trạng nhân vật còn có quan hệ theo chiều ngược lại: qua nhịp điệu thời gian ta có
thể đọc được tâm tư nhân vật.
Ở chương 78 : “Gặp gỡ” [ 14, trang 235]. Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn sau một thời
gian dài xa cách, đau khổ nhớ thương nàng, Rama đã tìm thấy và giải thoát Xita
khỏi tay quỉ Kavana. Chương “Gặp gỡ” ghi lại phút giây đoàn viên của vợ chồng
Rama. Tuy nhiên thời gian trước khi hai người hội ngộ có một sự thể hiện khác
nhau.
Trong khi Xita hấp tấp vội vã khao khát gặp lại chàng, nàng chỉ mong rút
ngắn thời gian xa cách. Nàng không muốn hao phí thêm một phút, một giây nào.
Nàng không muốn trang điểm, không muốn mang châu ngọc, y phục hảo hạng
“Tôi sẽ đi gặp Rama ngay dù không cần tắm rửa”. Xita đã rất đau khổ và tuyệt
vọng trong chờ đợi. Giờ đây được gặp lại Rama nàng vô cùng sung sướng và hạnh
phúc. Còn Rama thì trái lại. Chàng cố tình hành động chậm chạp, kéo dài thời gian.
Chàng yêu cầu Xita phải trang điểm, mang châu ngọc rồi mới được phép đến gặp
chồng. Sự trì hoãn tạo dự cảm về một thay đổi, một uẩn khúc nào đó trong con
người Rama. Bởi nó không phù hợp với tâm trạng của một người chồng yêu vợ hết
mực sau bao ngày xa cách nay gặp lại. Dường như trong Rama không còn niềm
khát khao gặp gỡ. Thật vậy, đến chương tiếp theo “Rama buộc tội” thì nguyên
nhân sự trì hoãn được phơi bày. Chàng đang ghen tuông và nghi ngờ phẩm hạnh
của nàng Xita.
Không chỉ thế, tác giả sử thi còn dành thời gian mô tả tâm trạng nhân vật bằng thời
gian từng mùa trong năm. Mỗi mùa thể hiện một sắc thái riêng của tân hồn nhân
vật.
Mùa xuân sôi nổi, nồng nàn, rạo rực mài sắc thêm nỗi nhớ nhung, khát khao yêu
đương trong lòng Rama: “Ôi Xumatri, bây giờ đây không có Gianaki thì mùa xuân
này khiến anh đau lòng thêm… Những ý nghĩ về nàng đang thiêu cháy anh… Giá
như Gianaki mắt rộng không bị bắt cóc thì nàng chắc cũng đã bị giày vò bởi lòng
khát khao yêu đương”[13, trang 6-7]. Mùa xuân là ngọn lửa thổi bùng lên khát
khao của nhân vật : “Mùa xuân, như lửa, đang thiêu đốt anh đến là khổ… Và tình
luyến ái của nàng chẳng mấy chốc thiêu đốt linh hồn anh”[13, trang 6]. Xita cũng
thế “Thiếu Rama, nàng mất đi cái vẻ rực rỡ lộng lẫy… Những cây axôka với
những bông hoa đỏ rực lại chỉ đang gieo nỗi đau buồn thiêu đốt lòng nàng, như
những tia nắng của mặt trời gắt lửa”[13, trang 161].
Mùa mưa xối xả, ẩm ướt, xám xịt là tâm trạng của “kẻ tình si héo hon sầu não vì
người bạn tình”. Mùa mưa là sự chờ đợi thụ động. Nó khiến cho tâm trạng kẻ chờ
mong thêm buồn bã và ảo não. “Lòng anh tràn ngập nỗi đau đớn. Mùa mưa không
sớm chấm dứt đâu”[13, trang 69]. Rama đã than thở với Lakmana như thế. Vì vậy
ngọn gió hiu hiu của mùa mưa chính là tiếng thở dài não ruột.
Mùa thu trong sáng, đằm thắm dịu dàng khiến tình thu càng thêm da diết, khát
khao bứt phá. Mùa thu thơ mộng và êm dịu càng khơi sâu thêm nỗi nhớ nhung
khắc khoải của Rama. “Mùa thu tới lòng Rama đau như cắt… Bị nỗi đau đớn giày
vò, chàng gần như đờ đẫn, hình ảnh nàng Xita vương vấn trái tim chàng… Trước
những cảnh đẹp mùa thu, chàng thốt ra những lời than vãn cay đắng”[13, trang 72].
Từ nỗi nhớ nhung đau đáu trong lòng Rama mường tượng và cảm nhận được nỗi
niềm tâm sự của Xita nơi phương xa. Mùa thu với bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp
và nên thơ đã trở thành bức thông điệp nối tấm lòng tương tư của đôi tình nhân trẻ.
“Nhìn đồi núi, nhìn sông, nhìn rừng ta đâu có sung sướng nỗi gì khi vắng nàng ?
Nàng dịu dàng quá đỗi cho nên ta đau buồn xé ruột với nỗi biệt li, và mùa thu tới,
nỗi sầu thương của nàng còn da diết biết bao”[13, trang 72].
Như vậy, trong Ramayana, thời gian tâm trạng trở thành công cụ khắc họa nội tâm
nhân vật. Qua nhịp điệu thời gian, qua thời gian từng mùa hiện lên nỗi lòng nhân
vật phong phú đa dạng. Thời gian tâm trạng cũng góp phần đắc lực thể hiện tính
cách nhân vật. 1. Thiên nhiên khơi gợi cảm xúc
Hình tượng thiên nhiên trong sử thi Ramayana rất đặc sắc. Nó hiện lên thật lộng
lẫy, tuyệt đẹp và tác động mạnh mẽ đến nhân vật. Một mặt nó tồn tại trong mối
tương quan sâu sắc với tâm hồn nhân vật. Mặt khác nó tồn tại và phát triển hết sức
khách quan, theo cách riêng của chính nó. Nó trở thành một chủ thể tích cực, chủ
động. Vì thế thiên nhiên ở Ramayana mang một sức sống mãnh liệt, trở thành nhân
vật đặc biệt. Valmiki đã đưa thiên nhiên vào mạch trần thuật, biến nó thành chủ thể
tham dự tích cực, chủ động vào hành động sử thi.
3.1 Thiên nhiên-người bạn tâm tình của nhân vật:
Với tư cách là một chủ thể, thiên nhiên trong Ramayana trở thành một con người
có tâm hồn và có hiểu biết. Nó là người bạn để nhân vật thổ lộ tâm tình, chia sẻ
khó khăn. Thiên nhiên được nhân vật trân trọng và tin tưởng. Chính ở thiên nhiên
họ tìm thấy sự đồng cảm sâu sắc, nỗi niềm cũng vơi bớt.
Khi Xita bị Ravana bắt cóc, trong cơn đau đớn tuyệt vọng nàng đã khóc than thảm
thiết. Nàng đã khấn nguyện và nhắn gởi cùng núi rừng cỏ cây: “Tôi xin khấn
Người, hỡi rừng Gianaxthana và cây Kacnikara nở hoa, hãy báo không chậm trễ
cho Rama biết rằng Ravana đã bắt cóc Xita… Tôi khấn tất cả thú vật và mọi chúng
sinh ở rừng hãy nói với Rama rằng Ravana đã bắt người vợ thân yêu của chàng
mang đi”[12, trang 316]. Nàng hi vọng và tin chắc thiên nhiên sẽ báo tin cho Rama
biết để cứu mình. Lúc đó, vạn vật cũng mang nỗi niềm thông cảm, xót thương
sâu sắc với nỗi thống khổ của nàng Xita: “Chim chóc từ trong các cành cây đang
run rẩy kêu váng lên; ở trong nước, cá và các động vật ở nước, và các bông sen
phai nhạt màu, đau buồn cho nàng Gianaki… Mặt trời cũng mờ đi trong nỗi đau
xót”[12, trang 321].
Đến lúc Rama trở về túp lều để gặp Xita thì “những con chó rừng bắt đầu hú theo
sau anh. Rama rất hoảng hốt khi nghe những tiếng kêu gào đau lòng của chúng…
Chim muông và thú vật lại gần Rama lúc đó bắt đầu kêu thét một cách khiếp đảm ở
phía trái anh”[12, trang 328-329]. Tất cả chúng dường như muốn báo tin cho chàng
biết. Chúng đã thực hiện theo lời nhắn gởi của nàng Xita. Nhờ thế, Rama cũng
phần nào đoán được sự việc xảy ra.
“Không thấy Xita trong căn lều, Rama hết sức hoảng loạn và lo lắng. Chàng mang
nỗi “đau khổ mênh mông như đại dương” đến hỏi cây cối cỏ hoa. Chàng hy vọng
thiên nhiên sẽ nói cho chàng biết. “Hỡi cây Kamđava, người yêu của ta rất yêu mi,
mi có thấy nàng con gái mà ngực tròn như quả cây, thân mình mềm mại như những
chồi non mới nhú và mặc quần áo lụa vàng không? Hỡi Acgiuna hãy nói ta nghe
chẳng hay nàng sống hay chết? Hỡi Maruvaka, chắc chắn mi biết Gianaki ở đâu…
”[12, trang 332]. Rồi Rama hỏi những thú rừng: “Nai ơi chắc chắn mi biết nàng
Xita mắt linh dương, giờ đây nàng đang vui đùa với lũ nai con phải không? Hổ ơi,
khuôn mặt của người ta yêu dấu đẹp như mặt trăng, vậy đừng do dự, nói ta nghe
người có thấy nàng đâu đó không?”[12, trang 333].
Chàng hỏi cả suối, cả mặt trời: “Suối hỡi! Ta đã mất Gianaki. Ngươi có thấy cô gái
xinh đẹp đó trong khu rừng nên thơ này không?”[12, trang 338].
“Mặt trời hỡi! Ngươi thấy mọi hành động của con người là nhân chứng cho mọi sự
chân thật và dối trá, vậy nói ta nghe, người yêu dấu của ta đi đâu? Gió hỡi gió!
Ngươi có thấy nàng trên lối đi nào không”[12, trang 337].
Cứ như vậy Rama tìm kiếm Xita khắp trong khu rừng. Giờ đây với chàng chỉ có
thiên nhiên mới có thể đồng cảm và thấu hiểu. Chàng đặt trọn niềm tin vào nó.
Người bạn thiên nhiên ấy đã không phụ tấm long chàng, đã chỉ đường cho chàng
tìm vợ mình. “Nghe Rama hỏi như vậy, đàn nai bèn đứng lên, đi về hướng Nam
dọc con đường mà qua đó Xita đã bị bắt mang đi, và khi tiến lên, chúng hết nhìn
lên trời lại nhìn vào Rama”[12, trang 338].
Thế đó, người bạn thiên nhiên thật tận tình và chu đáo. Thiên nhiên đã giúp nhân
vật trút cạn tâm tình, đã san sẻ an ủi nỗi niềm lo lắng của họ. Giữa thiên nhiên và
nhân vật có sự tương thông sâu sắc, có một mối dây tâm tình nối chặt.
3.2 Thiên nhiên tràn đầy nhục cảm:
Thiên nhiên trong Ramayana là thiên nhiên của miền rừng rậm nhiệt đới Ấn Độ.
Thiên nhiên đậm đặc, rực rỡ và cháy bỏng. Thiên nhiên tràn đầy sức sống và nhục
cảm. Đây là đặc điểm nổi bật đặc sắc riêng chỉ có ở Ramayana.
Hình ảnh thiên nhiên với cuộc sống hạnh phúc tràn đầy của muôn vật gợi lên trong
lòng nhân vật một niềm khát khao tình yêu, khát khao cuộc sống lứa đôi mãnh liệt.
Sự hấp dẫn gợi tình của thiên nhiên như thiêu đốt tâm tình của nhân vật.
Thời gian sống ở rừng Chitrakuta là mộpt quãng thời gian dài Rama và Xita sống
trong niềm hạnh phúc hân hoan. Tình yêu đôi lứa tràn ngập của núi rừng. Cảnh vật
ở núi rừng Chitrakuta cũng tạo cho nhân vật cảm giác yêu thương vui sướng. “Hãy
trông cây dây đang leo quấn quít quanh cây xoài đang nở hoa, vậy thì em hãy đưa
cánh tay ôm chặt người anh vì gần đây chẳng có ai mà ngại”. “Nói như vậy xong
Rama ôm lấy vợ và nàng Xita đáng yêu xinh đẹp như Nữ thần của cải và sắc đẹp,
ngã người vào cánh tay chồng, và một nỗi vui mãnh liệt rạo rực toàn thân nàng”.
“Lòng tràn ngập vui sướng, Rama hái những bông hoa của cây Kêxara đem trang
điểm cho mái tóc đáng yêu của Xita”[12, trang 216].
Khi đôi lứa phải cách xa nhau, thiên nhiên một phần hoà cùng nỗi buồn chia li.
Nhưng mặt khác nó vẫn phát triển bất chấp tâm tình nhân vật. Thiên nhiên vẫn tràn
đầy sức sống, ngập tràn trong niềm hoan lạc. Nhìn mọi vật, nỗi khát khao yêu
đương của Rama càng bừng cháy dữ dội và nỗi đau của chàng tăng lên gấp bội. Sự
khơi gợi nhục cảm của thiên nhiên như xé nát tâm hồn chàng. Mong ước có được
Xita bên cạnh trở nên cháy bỏng.
Mùa xuân là mùa của yêu đương, mùa của ái ân hạnh phúc. Vạn vật tràn đầy sức
sống và tình yêu. Rama đến hồPamPavào mùa xuân. Cuộc sống đôi lứa đầm ấm
của muôn loài đã thôi thúc mãnh liệt những xúc cảm của chàng. “Những con chim
công điên cuồng đang cùng những con mái múa lượn trong cảnh vui vầy… Trông
kìa, thấy công trống múa may, công mái cũng múa với niềm vui tình tứ, và công
trống dang rộng đôi cánh đang vừa nhích lại cùng bạn tình, vừa thốt ra tiếng kêu
như thể đùa giỡn. Trông kìa, con mái bị tình yêu nung nấu, bước theo con trống.
Ngay cả loài chim cũng biết yêu đương”[13, trang 6-7].
“Kìa ở mỗi đàn, mỗi bầy lũ chim đang cùng người bạn tình thủ thỉ trong niềm hoan
lạc… Cây cối như đang lên tiếng, với những giọng thầm thì yêu đương của lũ chim
đêtynha và tiếng gáy của con cu trống… Những con chim đang hát líu lo chào
mừng lẫn nhau, kích thích tơ tưởng ái ân”[13, trang6-7]. “Cây axôka đây, khích lệ
những ham muốn ái ân, với những chùm hoa lay động trong gió nhẹ”[13, trang8].
và “những bầy ong say mật, thân phủ bụi phấn hoa sen, đang cùng các bạn tình
đuổi theo luồng gió thổi”[13, trang 74]. Trước những cảnh đó lòng Rama đau đớn
vô cùng. Thiên nhiên đầy hoan lạc và gợi tình càng khắc sâu nỗi đau chia lìa trong
chàng. Nỗi lòng chàng thêm nóng bỏng thiêu đốt. Chàng đã than thở rất thống thiết
cùng Lakmana: “Anh không thể sống thêm nữa một khi mà không có người đẹp
mắt bông sen”[13, trang 8].
Thi hào Nguyễn Du từng nói “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, người buồn cảnh có
vui đâu bao giờ” thì ở đây chúng ta lại có thêm một cái nhìn mới của tác giả sử thi.
Thiên nhiên vừa đồng cảm với nhân vật, vừa thắm đượm nỗi lòng nhân vật nhưng
nó cũng có sự tồn tại và phát triển riêng, trái với tâm tình nhân vật. Nhờ sự tương
phản đó mà nội tâm nhân vật càng được khắc sâu làm nổi bật và tự nhiên hơn. Do
vậy, hiệu quả nghệ thuật cũng cao hơn. Đó phải chăng là một thủ pháp nghệ thuật
mới mẻ độc đáo được tài năng Valmiki sử dụng thật tài tình.
Tóm lại hình tượng thiên nhiên trong sử thi Ramayana hết sức phong phú và đặc
sắc. Nó chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong thiên sử thi kì vĩ này. Thiên
nhiên được miêu tả tỉ mỉ, hấp dẫn trong mối quan hệ với con người. Một thiên
nhiên mang hồn người được Valmiki tô điểm thật kĩ lưỡng, trang trí thật lộng lẫy.
Hình tượng thiên nhiên hiện ra tuyệt đẹp và dồi dào cảm xúc trong màn sương
huyền diệu của sử thi.
ö
CHƯƠNG III : ĐẶC SẮC CỦA NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ THIÊN NHIÊN.
Hình tượng thiên nhiên trong sử thi Ramayana là một kì công của tác giả. Để có
được bức tranh thiên nhiên tuyệt tác và sống động như vậy không phải là điều đơn
giản. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên là nhân tố chính yếu tạo nên tác phẩm ấy. Bức
hoạ thiên nhiên tươi đẹp, mang hồn người và mang đầy cảm xúc được vẽ nên bởi
những chất liệu đơn sơ, giản dị nhưng sắc sảo, tinh tế. Chỉ những tác giả có tầm
cao về nghệ thuật miêu tả và nghệ thuật ngôn từ mới có khả năng sáng tạo ra. Nghệ
thuật nhân hoá và so sánh được tác giả sử dụng tài tình để phác hoạ nên một hình
tượng thiên nhiên tuyệt mĩ trong Ramayana. 1. Nghệ thụât nhân hoá đưa thiên nhiên đến đỉnh cao của cảm giác, tình cảm.
Trong các sử thi ta thường bắt gặp lối nhân hoá. Nó phản ánh tư duy của người
thời cổ, là phương thức thể hiện tình cảm đầy thi vị. Ở Ramayana nghệ thuật nhân
hoá được tác giả sử dụng tinh tế tạo nên hình tượng thiên nhiên đầy sức sống.
Thiên nhiên cũng mang những tâm tư tình cảm như con người, nó bộc lộ hết sức tự
nhiên, chân thành những trạng thái tình cảm. Vì thế, thiên nhiên trở thành người
bạn tâm tình của con người.
Như trên đã nói trong Ramayana thiên nhiên cũng có tâm hồn. đời sống tâm hồn
của nó rất phong phú. Nó được nhân vật tìm đến để tâm sự sẻ chia. Nó giúp nhân
vật vơi cạn nỗi niềm. Những chức năng như vậy chỉ có ở con người. Tác giã sử thi
đã nhân hoá hình tượng thiên nhiên thành một con người có đời sống tâm hồn
phong phú, có sự đồng cảm sâu sắc. Đặc biệt hơn cả là những hành động, những
việc làm chính nghĩa giúp đỡ nhân vật.
Khi nàng Xita xinh đẹp dịu hiền bị vua quỉ Ravana bắt cóc thì: “Chim chóc từ
trong các cành cây đang run rẩy kêu váng lên; ở trong nước, cá và các động vật ở
nước và các bông sen phai nhạt màu đau buồn cho nàng Gianaki. Ngay cả sư tử và
hổ cũng giận dữ chạy theo dưới bóng của nàng Xita. Các dãy núi với đỉnh cao
sừng sững nom như những cánh tay giơ cao cũng rên rỉ khóc than qua những dòng
suối nước mắt”[12, trang 321]. Thiên nhiên bày tỏ thái độ và tình cảm thật dữ dội,
xúc động. Chúng kêu thất thanh trong nỗi sợ hãi, chúng khóc lóc và giận dữ chạy
theo như muốn cứu Xita. Nhưng chúng đành bất lực vì không đủ sức giúp nàng. Ở
đây thiên nhiên mang những trạng thái tâm lí và những hành động hết sức chân
thật tự nhiên xuất phát từ mối quan hệ gắn bó khắng khít giữa chúng với Xita. Tất
cả thể hiện tình cảm của chúng không hề có sự gán ép, gượng gạo.
Cảnh vật cũng chính là tâm trạng con người. Cảnh vật trở nên bấn loạn và hoảng
hốt như thế cũng giống như tâm trạng nàng Xita. Nàng đang vô cùng đau khổ và
hoảng sợ. Nằm trong vạt áo của Ravana nàng đang cố sức phản kháng trong tuyệt
vọng. Cùng giúp sức với nàng thiên nhiên cũng hành động. Qua đó ta thấy được
tình cảm gắn bó, sự đồng cảm sâu sắc giữa con người với thiên nhiên. Hỏi ai không
xúc động trước mối thâm tình đó.
Khi Rama quay lại căn lều, lũ chó rừng hú theo sau anh, chim muông, thú vật lại
gần chàng bắt đầu kêu thét lên một cách khiếp đảm. Những con vật muốn báo tin
cho chàng. Chính những tiếng kêu hốt hoảng, ghê khiếp đó đã giúp Rama cảm
nhận được điều không may. Bởi đó không phải là những tiếng hót du dương,
những tiếng kêu vui thích trước đây. Và đây hình ảnh căn lều hạnh phúc đầy xúc
cảm khi thiếu Xita. Thiên nhiên giờ đây đang cùng tâm trạng hốt hoảng, cùng tâm
trạng đau khổ nhớ nhung của Rama. Sự gắn bó giữa thiên nhiên và Xita cũng chính
là sự gắn bó giữa Rama và Xita vậy: “Căn lều không có Xita nom như cái đầm vào
mùa đông… Cây cối hình như đang khóc lóc… Thú vật và chim muông câm lặng
trong nỗi đau buồn… ”[12, trang 332]. Vạn vật đều dồn nén cảm xúc và âm thầm
nhỏ lệ cùng “nỗi đau khổ mênh mông như đại dương” của Rama.
Trước cảnh trạng đó, Rama thốt lên những tiếng than thở thảm thiết và hoảng loạn
chạy tìm Xita khắp nơi. Anh đi qua các khu rừng, các đồi núi, đến bên bờ sông bờ
suối… Cứ đến gần mỗi vật anh lại hỏi về Xita. Lúc này, thiên nhiên trở thành
người đáng tin cậy nhất, chúng biết được tất cả những gì đã xảy ra. Đến đây tâm tư
nhân vật hoàn toàn đặt vào thiên nhiên. Rama đang tâm sự, đang tin cẩn hỏi thăm
người bạn thiên nhiên thân thiết: “Hỡi cây Kamđaya, nói ta nghe mi có thấy nàng
không?… Hỡi Binoa mi có thấy nàng?… Hỡi Acgiuna mi rất thân thiết với nàng
vậy hãy nói ta nghe chẳng hay nàng sống hay chết… Hỡi Axôka! Hãy cắt bỏ cho ta
nỗi buồn đau bằng cách chỉ cho ta biết Xita ở đâu… ”[12, trang 332]. Rồi Rama
hỏi thú rừng, hỏi gió, hỏi mặt trời: “Nai ơi! Voi ơi! Nói ta nghe ngươi có thấy nàng
đâu không?… Mặt trời hỡi! Gió hỡi gió! Ngươi có thấy nàng trên lối đi nào
không?”[12, trang 337]. Vạn vật lúc này mang một tấm lòng và sự nhạy cảm tinh
tế để sẻ chia cùng nhân vật. Những tâm tình như vậy chỉ có được ở những người
bạn thâm giao tri kỉ.
Xứng đáng với lòng tin và tình bạn, thiên nhiên đã chỉ đường cho chàng: “ Đàn
naibèn đứng lên đi về hướng nam dọc con đường mà qua đó Xita đã bị bắt mang
đi, và khi tiến lên, chúng hết nhìn lên bầu trời lại nhin vào Rama”[12, trang 338].
Hành động của đàn nai hết sức tinh tế và đặc sắc chúng nói với Rama bằng ánh
mắt. Đây quả là sự tuyệt vời của tác giả. Giờ phút này đây ngàn lời nói cũng không
bằng ánh mắt, ánh mắt đồng cảm chỉ đường. Ánh mắt nói rất nhều điều của đàn nai
đã giúp Rama tiếp tục xác định được phương hướng để tìm kiếm Xita. Lời nói
bằng cử chỉ, ánh mắt thể hiện thiên nhiên cũng tinh tế và nhạy cảm như con người.
Chúng cũng sử dụng tín hiệu phi ngôn ngữ để trao đổi thông tin, truyền đạt tình
cảm.
Thiên nhiên đã mang những tâm tư tình cảm hết sức đa dạng. Những xúc cảm của
thiên nhiên thật phong phú và tinh tế. Lúc hoảng sợ, lúc buồn bã đến câm lặng và
lúc thì ân cần đồng cảm. Tất cả những tâm tình người đó làm bức tranh thiên nhiên
trong sử thi Ramayana rất có hồn, một tâm hồn sâu lắng chan hoà. Thiên nhiên
cũng chính là con người. Nghệ thuật nhân hoá đã tạo nên sự đồng cảm sâu sắc, sự
gắn bó mật thiết giữa thiên nhiên và con người. Do đó đem đến cho người đọc
những xúc cảm mãnh liệt. Người đọc càng cảm thấy lôi cuốn và hứng thú hơn. Bởi
đi vào Ramayana là họ có thể bước vào thế giới thiên nhiên được người hoá hết
sức đặc sắc và tuyệt vời. 1. Nghệ thuật so sánh-chất ngọc trong làm nổi bật vẻ đẹp tuyệt mĩ của thiên nhiên
So sánh là một trong những phương pháp được sử thi ưa thích nhất. So sánh gợi ra
những “cảm xúc thẩm mĩ mạnh mẽ trong nhận thức của người đọc, người
nghe”. So sánh là phương thức gợi hình, gợi cảm. A. Phơrăngxơ đã khẳng định:
“Hình tượng là gì? Chính là sự so sánh… ”*
Trong Ramayana, nghệ thuật so sánh được sử dụng rất nhiều và rất độc đáo. Nó là
một phương thức để miêu tả, khắc hoạ nội tâm nhân vật. Ở đây, trong phạm vi đề
tài này chỉ cho phép người viết đi sâu vào nghệ thuật so sánh khi miêu tả thiên
nhiên. Tìm hiểu xem tác giả sử thi đã miêu tả thiên nhiên như thế nào, nghệ thuật
so sánh đã giúp tác giả thể hiện hình tượng thiên nhiên ra sao, đem đến những xúc
cảm thẩm mĩ gì…
Nghệ thuật so sánh khi miêu tả thiên nhiên trong sử thi Ramayana làm cho sự vật
hết sức hình tượng, mang đến cho người đọc những xúc cảm mới mẻ. Có những so
sánh rất tuyệt tác. Điều đó chứng tỏ tác giả sử thi hết sức tâm huyết với hình tượng
thiên nhiên trong thiên anh hùng ca hùng vĩ tráng lệ này. 1. Miêu tả thiên nhiên bằng chính thiên nhiên
Khám phá bức tranh thiên nhiên trong sử thi Ramayana chúng ta thấy được rằng
những sự vật, hiện tượng, tính chất trừu tượng của thiên nhiên được cụ thể hoá, chi
tiết hoá bằng những sự vật, hiện tượng, tính chất khác. Nói đúng hơn là tác giả đã
dùng thiên nhiên để miêu tả thiên nhiên. Do đó thiên nhiên hiện ra thật sống động,
tỉ mỉ.
Chúng ta hãy chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một con nai rừng: “Cặp sừng lấp lánh như
ngọc gọt giũa tinh tế, tai như cánh hoa sen, như được làm bằng ngọc bích; bụng nó
như làm bằng hồng ngọc, hai sườn màu hồng như hoa mathuka, sắc lông của nó
nom như sắc hoa sen đỏ mềm mại và duyên dáng, móng của nó như bằng đá xanh
thẫm và cái đuôi nhỏ nhắn lú lên toả sáng như chiếc cầu vòng”[12, trang 303]. Đây
là một chú nai do yêu tinh biến hoá. Để thể hiện vẻ đẹp huyền ảo, mê hồn của nó
tác giả đã sử dụng hàng loạt so sánh. Nhờ những so sánh tinh xảo tuyệt vời đó mà
người đọc cảm nhận và hình dung được vẻ kì diệu của chú nai, một vẻ đẹp khiến
cho “khu rừng xanh và túp lều của Rama sáng bừng lên”.
Còn hồPamPathơ mộng và tuyệt đẹp thì sao. Thiên nhiên ở đây hiện ra thật ngoạn
mục:
“Nước hồ sao mà trong vắt như pha lê, có khác gì chất ngọc lỏng trên nước da màu
lơ”[13, trang5]. “Trông những cây nở hoa đang trút những trận mưa hoa có khác gì
những giọt mưa từ trên trời đổ xuống”[13, trang5].
“Những cây cối cành lá xum xuê nom mới giống các đỉnh đồi làm sao”[13, trang
5].
“Hoa lotra màu nâu như bờm sư tử”[13,trang 9].
“Những bông hoa sen đỏ nở rộ-mỗi bông hoa như một buổi bình minh đỏ
thắm”[13, trang 8].
*Phong cách học Tiếng Việt, Mùa xuân tuyệt vời ở hồPamPađã trở thành
trang 192 ngọn lửa nóng bỏng thiêu đốt tâm hồn Rama:
“Mùa xuân, như lửa, đang thiêu đốt anh đến là khổ-hoa Axôka đỏ là than hồng,
tiếng vo ve của đàn ong là tiếng lửa vèo vèo và lá màu đồng thau là ngọn lửa”[13,
trang 6]. “Ngọn gió nồm mát lạnh thơm nức hương hoa mùa xuân chẳng khác gì là
lửa đốt”[13, trang7]. Sự hình dung của tác giả thật đặc sắc. Mùa xuân đã trở thành
ngọn lửa ngùn ngụt đốt cháy tâm hồn chàng trai si tình Rama. Chúng ta có thể
nghe được tiếng lửa và nhìn thấy ngọn lửa bằng những so sánh bất ngờ đó. Ngọn
lửa tâm trạng vì thế hiện ra thật cụ thể.
Mùa mưa đến cảnh vật được mang thêm chiếc áo mới càng trở nên tuyệt diệu.
Chúng ta hãy xem mùa mưa đã đem đến những gì cho thiên nhiên:
“Đám mây to lù lù như trái đồi, được tô điểm với những làn chớp rạch như lá cờ và
với những đàn cò như những vòng hoa đang phát ra những tiếng gầm như con voi
trên chiến trường”[13, trang 67].
“Đàn cò bay lượn thích thú và nom như một tràng hoa sen rung rinh trước gió và
treo lơ lửng dưới bầu trời”[13, trang 67].
“Những con ong bám lấy cành của cây mâm xôi chín như than hồng lấp lánh”[13,
trang 67].
Và còn có một buổi hoà nhạc thật thích thú, vui tai mà “tiếng ong vo ve là tiếng
đàn lia, tiếng ếch nhái ồm ộp là tiếng trầm, tiếng mây râm ran là âm thanh của
trống Mriđanga’[13, trang 68]. Thật là một mùa mưa tuyệt vời.
Mùa thu thiên nhiên thật thơ mộng. Cảnh vật thật lãng mạn, không gian thật nên
thơ:
“Những đàn cò sau khi đã khoái ăn những hạt chín, đang vui thích giăng hàng bay
luôn nom như những tràng hoa rung rinh”[13, trang 74].
“Mặt hồ nom như bầu trời trong xanh tô điểm trăng và sao”[13, trang 74].
Và vô vàn những sự vật được mô tả ở những nơi khác, vào các thời điểm khác:
“Những cây đhava, chmapaka đang toả sáng như mặt trời mới mọc”[13, trang
106].
“Mặt trăng đang tưới ánh sáng bạc lên bầu trời. Nó trắng như bông sen và vỏ sò,
được bao quanh bởi hằng hà sa số các ngôi sao… Trăng nom như một con thiên
nga nằm trong chiếc lồng bằng bạc”[13, trang 139].
“Những bầy voi hùng mạnh với những giọt mồ hôi thái dương chảy ròng ròng
xuống mặt nom như những đỉnh núi mang mây mưa và suối chảy trên mình”[13,
trang 142].
“Rừng Axôka với những bông hoa chiếu sáng như những vì sao”[13, trang 157]. 1. Thiên nhiên hiện ra với vóc dáng, vẻ đẹp của con người
Trong việc lựa chọn cái để so sánh, đối tượng so sánh, tác giả đã hướng đến con
người, nhất là những người mĩ nữ. Những mĩ nhân, những người con gái yêu kiều
đã trở thành chuẩn để từ đó thiên nhiên được mô tả theo những hình dáng, trạng
thái và tâm tình của họ. Bức tranh thiên nhiên vì vậy trở thành cõi thiên đường
huyền ảo. Mỗi cây, mỗi hoa, mỗi dòng sông, con suối đều giống như một nàng
tiên. Thiên nhiên trở nên thật sinh động, hấp dẫn.
Chúng ta hãy bắt đầu từ hồPamPa. Hình tượng thiên nhiên ở đây mang dáng vẻ
một mĩ nữ yêu kiều, gợi cảm:
“Cây talika nở hoa, đu đưa trong làn gió thoảng, nom chẳng khác gì một mĩ nhân
chếnh choáng hơi men”[13, trang 8].
“Cây xoài đang độ nở hoa, nó nom như một mĩ nhân trang sức lộng lẫy”[13, trang
8].
“Những cây leo bám phủ những thân cây đó, và cành lá lay động trước gió nhẹ
thổi, những cây leo hiện ra như đang quấn quít ôm lấy chúng chẳng khác người mĩ
nữ ngây ngất hơi men”[13, trang 9].
Thiên nhiên ở núi Praxravana-nơi Rama và Lakmana sống để chờ đợi mùa mưa đi
qua cũng thật tuyệt diệu:
“Con sông này xinh đẹp như một cô gái ăn mặc lộng lẫy”[13, trang 64].
“Mặt đất trước đây bị khí nóng thiêu đốt nay đang ướt sũng dưới những trận mưa
rào xối xả và đang phả hơi nước như hơi thở nóng hổi của Xita bị nỗi đau đớn giày
vò”[13, trang 66].
“Núi phủ hoa Acgiuna và Kêtaki gội mưa xối xả nom chẳng khác Xugriva đang
đựơc xức dầu tắm trong nước phong vương”[13, trang 66].
“Núi nom như một Braman miệt mài nghiên cứu kinh Vêđa”[13, trang 66].
“Tia chớp giống như Gianaki nằm trong vạt áo của Ravana”[13, trang 66].
Đến mùa thu cảnh vật càng đẹp mê hồn với hình ảnh những cô gái trong trắng,
ngây thơ:
“Con sông êm ả trôi giống như một cô gái mệt mỏi”[13, trang 74].
“Sông đang rút nước để đôi bờ lồ lộ chẳng khác một nàng trinh nữ bẻn lẽn ngượng
ngùng đang chậm rãi để hở đùi ra”[13, trang75].
“Những bông hoa kasa phất phơ lượn sóng giống như một tấm vải lụa trắng và với
những chkrravaka và rêu xen lẫn nom như khuôn mặt của một cô dâu trẻ tô điểm
bằng những chất nhuộm trang trí và những hình lá vui mắt”[13, trang 74].
Đêm thu thật trong sáng và mang vẻ đẹp huyền bí, hấp dẫn: “Đêm hiện ra như
người phụ nữ bận đồ trắng mà khuôn mặt là vầng trăng xinh đẹp, và mắt là những
ngôi sao và ánh trăng mềm mại là quần áo của cô ta”[13, trang 74].
Mặt trăng ở thành phố Lanka thì tuyệt vời biết mấy: “Trăng non như nữ thần sắc
đẹp lúc đang dạo trên núi Manđasa, hay lúc tắm trong biển buổi đêm, hay đùa giỡn
trong đám hoa sen giữa ban ngày”[13, trang 139]. Rừng Axôka với “hoa rơi xuống,
rải rác khắp cả khu rừng nom chẳng khác một mĩ nhân trang sức lộng lẫy”[13,
trang155]. Và cuối cùng: “Một con suối từ trên núi đổ xuống nom như một tiểu thư
tuột khỏi vạt áo của tình lang! Dòng suối bị các cành uốn cong chặn lại, nom như
một người phụ nữ đang nổi giận vì bị bà con níu giữ”[13, trang 155].
Thế đấy, nghệ thuật so sánh đã thể hiện thiên nhiên thật kì thú và tươi đẹp. Đó
không phải là vẻ đẹp đơn thuần mà là một vẻ đẹp tràn đầy sức sống, một vẻ đẹp
dịêu kì. 1. Thiên nhiên là chuẩn mực để miêu tả con người.
Những vẻ đẹp, những trạng thái tâm lí của con người còn được thể hiện bằng thiên
nhiên. Thiên nhiên được nâng cao lên một bước. Nhờ đó vẻ đẹp được cảm nhận
đầy đủ và độc đáo tạo cho người đọc cảm giác được ngắm nhìn thực thụ và thậm
chí được tiếp xúc, được cảm giác: “Nàng đẹp lạ lùng, nom như một ngọn lửa từ
trong đám khói bốc lên, như vầng trăng tròn bao bọc trong sương mù, như ánh chói
chang của mặt trời khuất sau đám mây”[12, trang 70].
Bên cạnh vẻ đẹp, mọi trạng thái, mọi tâm trạng của con người đều được thể hiện
bằng thiên nhiên. Thường trong trường hợp này tác giả sử dụng so sánh chuỗi. Từ
đó đối tượng được đề cập, được miêu tả trở nên thật sinh động thật cụ thể với nhiều
trạng thái tính chất.
Chẳng hạn nỗi đau khổ của hoàng hậu Kôxalya khi hay tin Rama phải đi vào rừng
được khắc hoạ thật thống thiết: “Lòng mẹ tràn ngập nỗi đau buồn chẳng khác con
suối vào mùa mưa lũ”[12, trang 130]. “Cũng như nắng mùa hạ thiêu đốt mọi cây
to, cây nhỏ ngọn lửa đau khổ cũng đang thiêu cháy trái tim mẹ, sự vắng mặt của
con quạt bùng ngọn lửa này”[12, trang 138].
Đức vua Đaxaratha đối với thần dân là: “Người khiến chúng ta vui sướng như biển
cả được ánh bình minh nhuốm đỏ khiến con mắt người ta vui mừng”[12, trang
122]. Khi Đaxaratha đau khổ thì “thở dài sườn sượt và nom như một đại dương
đang nổi sóng vào giông bão hay mặt trời ngày nhật thực”[12, trang126]. Và rất
nhiều, rất đậm đặc những so sánh chuỗi như vậy.
Về vẻ đẹp của các nhân vật thì vô cùng phong phú và rạng ngời:
“Rama đẹp như mặt trăng mới lên”[12, trang 245].
“Rama sáng rực như mặt trời”[13, trang 41].
Xita thì mang một vẻ đẹp dịu hiền và đằm thắm: “Nàng xinh đẹp như mặt đất lốm
đốm cây xanh sau những trận mưa”[13, trang 157].
“Khuôn mặt nàng xinh đẹp như mặt trăng tròn, môi nàng đỏ thắm như quả Bimba,
mắt nàng mở rộng như cánh hoa sen”[12, trang 310].
Vua khỉ Xugriva thật tuấn tú: “Xugriva nom đẹp như một ráng mây nhuốm tia
nắng ban chiều điểm xuyết những cánh cò trắng bay lượn”[13, trang 32].
Ravana càng đẹp mạnh mẽ hơn: “Nước da của y màu sẫm nom như một đám mây
xanh đậm. Nom y như một đám mây nhuốm ánh nắng hoàng hôn; nom y người ta
tưởng ngọn núi Manđasa phủ những cây leo nở hoa đang đổ xuống mặt đất”[13,
trang 148].
Ngoài ra thiên nhiên còn trở thành chuẩn mực để diễn tả mọi điều, mọi thứ:
“Những mũi tên vàng của anh ấy sẽ bắn hạ ngươi như sóng sông Hằng cuốn trôi
đôi bờ của nó”[12, trang 327].
“Một con thiên nga cái cùng người bạn đời của nó vui đùa giữa đám hoa sen, làm
sao nó có thể đoái hoài nhìn tới con quạ nước chui rúc giữa đám cỏ và bụi bờ”[12,
trang 327]. Đó là lời khinh rẻ miệt thị của Xita dành cho Ravana. Nàng là thiên nga
và Ravana là quạ nước.
“Rama ngồi xuống và nom như một biển cả lặng sóng”[13, trang 21].
“Đôi mắt của Rama nhoà đi trong nước mắt như mặt trăng ẩn đi sau màn sương
giá”[13, trang 19].
“Cũng như hạt giống gieo vào đất tốt sẽ đem lại hoa quả khi mùa mưa tới, tất cả
những hành động của anh sẽ kết thúc thắng lợi”[12, trang 20].
Vali giận dữ: “Đôi mắt hắn bốc lửa giận như cục than hồng, và nom hắn ảm đạm
như mặt hồ khi mà hoa sen đã tàn, chỉ còn để lại những cái cuống trơ trụi”[13,
trang 35].
Và còn rất nhiều, rất nhiều nữa…
Một tác phẩm hoàn hảo luôn được tạo ra từ một đôi tay khéo léo và bộ óc tinh
tường. Hình tượng thiên nhiên trong sử thi Ramayana càng tuyệt vời bao nhiêu thì
chứng tỏ tài năng nghệ thuật của tác giả càng cao bấy nhiêu. Bằng tài năng và tâm
huyết tác giả đã thể hiện hình tượng thiên nhiên thật kiều diễm, lộng lẫy và sống
động. Với biện pháp nghệ thuật nhân hoá và so sánh tác giả đã làm nổi bật những
bức tranh thiên nhiên trác tuyệt và thấm đẫm tình người trong toàn bộ sử thi
ö
PHẦN KẾT LUẬN
Đất nước Ấn Độ với nền văn minh phát triển lâu đời mãi mãi là mảnh đất giàu
truyền thống văn hoá, văn học. Sử thi Ấn Độ với tầm vóc đồ sộ và những tầng ý
nghĩa thâm sâu, những triết lí nhân sinh sâu sắc luôn là những tác phẩm toả sáng và
soi đường cho sự phát triển của văn học Ấn Độ nói riêng và văn học thế giới nói
chung.
Ramayana là một thiên anh hùng ca có bề dày lịch sử và luôn ảnh hưởng mạnh mẽ,
luôn hấp dẫn người đọc bao thế hệ. Thời gian đã làm cho Ramayana càng toả sáng
bởi những giá trị nội dung và nghệ thuật của nó. Ramayana tồn tại mãi mãi cùng
sông núi và con người Ấn Độ.
Là một sử thi đồ sộ của người Ấn cũng như của thế giới nên trong Ramayana có rất
nhiều vấn đề để nghiên cứu. Ở đề tài “Hình tượng thiên nhiên trong sử thi
Ramayana” người viết đã đặc biệt đi sâu nghiên cứu về hình tượng thiên nhiên, cái
mà trước đây đã được nhắc đến một cách khái quát trong các công trình nghiên
cứu khác. Người viết đã tập trung đi sâu vào hình tượng thiên nhiên. Do đó qua
quá trình tìm hiểu, luận văn có thể rút ra những kết luận sau:
1. Nếu như Ramayana có ấn tượng sâu sắc và mạnh mẽ đối với mọi người đọc như
thế nào thì hình tượng thiên nhiên cũng gây được cảm xúc mạnh mẽ ở họ như vậy.
Một Ramayana hùng vĩ và tráng lệ không thể thiếu bức tranh thiên nhiên. Đó cũng
chính là sự khác biệt sâu sắc giữa Ramayana và các sử thi khác.
2. Hình tượng thiên nhiên trong Ramayana là một hình tượng nghệ thuật với nhiều
tầng ý nghĩa. Thiên nhiên đã cùng nhân vật đi suốt chiều dài tác phẩm. Thiên nhiên
được đặc tả như một nhân vật, hết sức phong phú và phức tạp. Nhưng tác giả sử thi
đã xuất sắc thể hiện trọn vẹn. Valmiki đã khắc hoạ hình tượng thiên nhiên với vô
vàn sắc thái và cảm xúc. Thiên nhiên vừa là thiên đường trên đất Ấn, thật lộng lẫy
và tươi đẹp, vừa là người bạn tri kỉ của con người. Hình tượng thiên nhiên tràn đầy
ý nghĩa tinh thần ấy đã giúp chúng ta hiểu thêm về một tâm hồn Ấn nồng hậu yêu
thương.
3. Bàn tay tinh xảo và trí tuệ tuyệt vời của Valmiki đã thể hiện hình tượng thiên
nhiên bằng những biện pháp nghệ thuật đơn giản nhưng hiệu quả thật tuyệt vời.
Nghệ thuật nhân hoá và nghệ thuật so sánh là hai thủ pháp chính để tác giả biểu đạt
hình tượng thiên nhiên. Trên khung sườn đó tác giả đã dùng chất liệu ngôn từ để
tạo nên một tác phẩm tuyệt diệu, một hình tượng thiên nhiên lấp lánh.
Như vậy, với việc đi sâu nghiên cứu trọn vẹn hình tượng thiên nhiên trong sử thi
Ramayana, luận văn đem đến cái nhìn toàn diện sâu sắc về một hình tượng nghệ
thuật đầy sức sống. Đồng thời luận văn cũng khơi mạch nước ngầm để thấy được
những giá trị nội dung, nghệ thuật đặc sắc, lung linh. Một lần nữa người viết khẳng
định những đóng góp mới của đề tài là sự đào sâu, tìm nguồn một cách đấy đủ và
trọn vẹn để thấy được những cái hay, cái đẹp của hình tượng thiên nhiên trong sử
thi Ramayana.
Sau này nếu có điều kiện, người viết mong sẽ được tiếp tục nghiên cứu về sử
thi Ramayana. Người viết hi vọng tìm hiểu, nghiên cứu sâu được “những quan
niệm về danh dự và bổn phận của con người trong sử thi Ramayana”. Từ đó người
viết mong rằng sẽ hiểu thêm về sử thi Ramayana, sử thi Ấn Độ và một nền văn học
Ấn Độ mang đậm tính triết lí , nhân văn và nghệ thuật .
ba
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.. 8
I. Lí do chọn đề tài: 8
II. Lịch sử vấn đề. 3
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 5
1. Đối tượng nghiên cứu: 5
2. Phạm vi nghiên cứu: 5
IV. Mục đích nghiên cứu. 5
V. Đóng góp mới của đề tài 6
VI. Phương pháp nghiên cứu. 6
1. Phương pháp khảo sát văn bản: 6
2. Phương pháp phân tích tổng hợp: 6
3. Phương pháp so sánh: 7
VII. Cấu trúc luận văn. 7
PHẦN NỘI DUNG.. 8
CHƯƠNG I : TÌM HIỂU CHUNG VỀ SỬ THI RAMAYANA 8
I. Ramayana-câu chuyện về hòang tử Rama. 8
II. Một Ramayana tràn ngập hình ảnh thiên nhiên. 13
CHƯƠNG II: THIÊN NHIÊN TRONG RAMAYANA-NGƯỜI BẠN
THÂNTHIẾT CỦA CON NGƯỜI. 15
I. Thiên nhiên Ấn Độ phong phú tươi đẹp và hùng vĩ 15
II. Thiên nhiên thâm đẫm nội tâm nhân vật 19
1. Mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người 19
2. Không gian, thời gian tâm trạng. 22
2.1. Không gian chan chứa nỗi niềm nhân vật 22
2.1.1 Núi rừng : không gian nguồn cội tĩnh mịch, thái hoà. 23
2.1.2 Rừng núi : Không gian tình yêu lứa đôi 25
2.2. Thời gian đi cùng nội tâm nhân vật : 28
3. Thiên nhiên khơi gợi cảm xúc. 31
3.1 Thiên nhiên-Người bạn tâm tình của nhân vật: 31
3.2 Thiên nhiên tràn đầy nhục cảm: 33
CHƯƠNG III: ĐẶC SẮC CỦA NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ THIÊN NHIÊN. 34
I. Nghệ thụât nhân hoá đưa thiên nhiên đến đỉnh cao của cảm giác, tình cảm..
35
II. Nghệ thuật so sánh-chất ngọc trong làm nổi bật vẻ đẹp tuyệt mĩ của thiên
nhiên 37
1. Miêu tả thiên nhiên bằng chính thiên nhiên. 38
2. Thiên nhiên hiện ra với vóc dáng, vẻ đẹp của con người 40
3. Thiên nhiên là chuẩn mực để miêu tả con người. 41
PHẦN KẾT LUẬN.. 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO
& 1. Lại Nguyên Ân-2003- 150 thuật ngữ văn học-Nhà xuất bản Đại Học Quốc Gia
Hà Nội.
2. Lê Bá Hán-Trần Đình Sử- Nguyễn Khắc Phi-1992-Từ điển thuật ngữ văn học-
Nhà Xuất bản Giáo Dục.
3. Lưu Đức Trung-1984-Giáo trình văn học Ấn Độ- Đại học SP Hà Nội 1 4. Lưu Đức Trung-2001-Văn học Ấn Độ- Nhà xuất bản Giáo Dục. 5. Lưu Đức Trung-Phan Thu Hiền-2002-Hợp tuyển văn học Ấn Độ
-Nhà xuất bản Giáo Dục. 1. Lương Duy Thứ-2000-Đại cương văn hóa Phương Đông-Nhà xuất bản Đại học
Quốc Gia thành phố Hồ Chí Minh.
2. Nhiều tác giả-1984-Từ điển văn học tập II-Nhà xuất bản Khoa học Xã Hội và
Nhân Văn.
3. Nguyễn Tấn Đắc-2000-Văn hóa Ấn Độ-Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh. 4. Nguyễn Thị Mai Liên-1998-Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật trong sử
thi Ramayana- Luận án tiến sĩ ngữ văn-Hà Nội.
10. Nguyễn Văn Khỏa-1978-Anh hùng ca của Hômerơ-Nhà xuất bản Đại học và
Trung học chuyên nghiệp Hà Nội.
11. Nhật Chiêu-2001-Câu chuyện văn chương Phương Đông- Nhà xuất bản Giáo
Dục.
12. Phạm Thủy Ba dịch-1998-Ramayana tập một- Nhà xuất bản Văn Học- Hà Nội.
13. Phạm Thủy Ba dịch-1998- Ramayana tập hai – Nhà xb Văn Học- Hà Nội.
14. Phạm Thủy Ba dịch-1998-Ramayana tập ba- Nhà xb Văn Học- Hà Nội.
15. Phan Thị Miến dịch-1983-Iliat-Nhà xuất bản Văn Học-Hà Nội
16. Phan Thị Miến dịch-1983-Ôđixê-Nhà xuất bản Văn Học-Hà Nội.
17. Phan Thu Hiền-1999-Sử thi Ấn Độ tập I Mahabharata-Nhà xuất bản Giáo Dục.
18. Phùng Hoài Ngọc –1988- Giải quyết xung đột trong vở kịch thơ
Sakuntala – Luận văn thạc sĩ Ngữ văn .
19. Phùng Hoài Ngọc-2003-Tài liệu Thi pháp học hiện đại-Đại học An Giang.
20. R.K.Narayar-1985- Sử thi Ấn Độ (bản rút gọn)-Nhà xuất bản Đà Nẵng.