LUẬN VĂN:
Internet với đời sống văn hóa của nhân dân Thủ đô
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Trong những năm gần đây, đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội Việt Nam
ngày càng được phát triển một cách toàn diện. Đặc biệt, sự phát triển đó gắn chặt với sự
phát triển của ngành Bưu chính - Viễn thông, trong đó công nghệ thông tin đóng vai trò
then chốt. Sự phát triển mạnh mẽ của mạng điện thoại (PSTN), điện thoại di động
(GSM), mạng truyền số liệu (DATA), mạng internet... không chỉ góp phần xây dựng nền
kinh tế đất nước, giữ vững an ninh quốc phòng mà còn là hạ tầng kinh tế kỹ thuật để góp
phần thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc nghiên cứu ảnh hưởng của
công nghệ thông tin đối với đời sống văn hóa là vô cùng quan trọng. Trong đời sống văn
hóa, thông tin đóng vai trò như một động lực thúc đẩy sự phát triển ở cả hai lĩnh vực: Vật
chất và tinh thần bởi tính ứng dụng của nó. Điều này càng được nhìn nhận rõ hơn trong
bối cảnh có sự phát triển kinh tế đối ngoại, xu thế quốc tế hóa kinh tế và toàn cầu hóa.
Xét như vậy, muốn đánh giá sự phát triển văn hóa của một quốc gia hiện nay thì
không thể không nhìn nhận nó trong và dưới sự tác động của công nghệ thông tin trong
đó quan trọng hơn cả là thông tin trên internet bởi tính nhanh nhạy, tính toàn cầu cùng
với những ứng dụng tiện lợi và kho tàng tri thức kỳ diệu mà dịch vụ internet mang đến
cho người sử dụng.
1.2. Tại Việt Nam, việc phổ cập internet đến từng người dân đang là mục tiêu của
chính phủ. Năm 2003, Bộ Bưu chính - Viễn thông đã quyết tâm lấy internet kích cầu
công nghệ thông tin. Tổng công ty Bưu chính - Viễn thông Việt Nam đã xây dựng dự án
"internet cộng đồng" nhằm đưa internet đến hơn 10.000 điểm Bưu điện - văn hóa xã hoặc
các cơ sở tương đương, hơn 600 Trung tâm văn hóa quận huyện, tỉnh, hơn 800 trường
Đại học, Cao đẳng, Trung học và phổ thông, 130 bệnh viện lớn và trọng điểm... nhằm
xây dựng một cơ sở hạ tầng viễn thông phát triển để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
1.3. Như vậy, vấn đề đặt ra cho những người làm quản lý văn hóa là sẽ phải xác
định được vai trò của internet trong đời sống văn hóa của người Việt Nam. Trực tiếp đối
mặt với những ảnh hưởng của sự phát triển internet ở Việt Nam. Kinh tế nào thì văn hóa
ấy, song một khi kinh tế phát triển nhanh đi trước quá xa so với văn hóa thì sẽ gặp phải
những bất cập. Vậy sự nhận thức của người Việt Nam sử dụng internet như thế nào, cần
điều chỉnh, giáo dục hướng dẫn những gì khi internet - một sản phẩm văn minh của nhân
loại còn là một dịch vụ mới mẻ đối với người Việt Nam. Đây là những vấn đề được
Chính phủ và các nhà cung cấp đang quan tâm, đặc biệt với những nhà văn hóa thì đây
cũng là một thách thức trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
Việc nghiên cứu những ảnh hưởng của internet đối với đời sống văn hóa của
người Việt Nam sẽ giúp cho chúng ta có cái nhìn khách quan hơn sự phát triển của văn
hóa nước nhà trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
1.4. Theo con số thống kê chính thức của Bộ Bưu chính - Viễn thông thì 86% số
người truy cập internet hàng ngày ở Việt Nam tập trung ở hai thành phố lớn là Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, Hà Nội là một trong hai địa bàn chính có số người
truy nhập internet cao hiện nay và là trung tâm kinh tế - văn hóa - chính trị của cả nước
nên người viết mạnh dạn chọn đề tài: "Internet với đời sống văn hóa của nhân dân Thủ
đô" làm luận văn Thạc sĩ khoa học, chuyên ngành Văn hóa học cho mình.
Đề tài này tập trung nghiên cứu về sự ảnh hưởng của internet với đời sống văn
hóa của nhân dân Thủ đô Hà Nội. Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là tầng lớp học sinh,
sinh viên, các cán bộ nghiên cứu, những nhà quản lý. Ngoài ra, đề tài cũng phân tích
những hệ quả của sự phát triển mạng internet ở Việt Nam nhằm giúp cho người sử dụng
dịch vụ internet có cách đánh giá và tiếp thu nền văn hóa, văn minh của nhân loại một
cách có chọn lọc trước những thông tin mà dịch vụ này mang lại.
2. Tình hình nghiên cứu và sưu tầm
2.1. Về nghiên cứu
Dịch vụ internet là sản phẩm văn minh của thời đại, mới được chính thức sử dụng
ở Việt Nam từ năm 1997. Tuy vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả, các
nhà khoa học viết về lĩnh vực này, tuy nhiên đó chỉ là những công trình khoa học đi sâu
nghiên cứu về kỹ thuật và học thuật, về cấu trúc mạng hay công nghệ công cụ xây dựng,
hướng dẫn cách truy cập, khai thác... Đứng trên quan điểm xã hội học đã có một vài công
trình của các tác giả là giảng viên Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả
Trần Hữu Quang trong cuốn sách "Chân dung công chúng truyền thông" cũng đi sâu phân
tích mối quan hệ đa chiều giữa truyền thông đại chúng và những người tiếp nhận nhưng
tác giả chưa đề cập gì đến internet - một loại truyền thông mới. Viết về internet, tác giả
Phạm Thị Thanh Tâm đưa ra cái nhìn thực tế hơn về những khó khăn mà chúng ta thực
sự phải đối đầu khi bước vào xa lộ thông tin với internet. Đó chính là vấn đề mới mẻ đòi
hỏi các nhà quản lý cần quan tâm giải quyết. Một số khảo sát của sinh viên khoa Xã hội
học - Phân viện Báo chí và Tuyên truyền về "Mức độ hài lòng về việc truy cập internet
trong sinh viên" cũng cho thấy được nhu cầu của lớp tri thức trẻ về internet. Năm 2001
một cuộc hội thảo quốc tế mang chủ đề "Trẻ em trên mạng internet" (Kid - on line) được tổ
chức tại Hà Nội, báo cáo dự hội nghị là những nghiên cứu về tình hình sử dụng internet
của trẻ em cùng những vấn đề có liên quan ở các nước châu á. Tham dự hội thảo này,
Việt Nam có hai báo cáo xã hội học, đó là "Một nghiên cứu thử nghiệm về trẻ em và các
trò chơi điện tử ở Việt Nam" (An exploratory study of children and electronic games in
Vietnam) của Nguyễn Quý Thanh và Nguyễn Quý Nghi; "Nghiên cứu ảnh hưởng của
internet đến trẻ em, trường hợp Hà Nội" (Stealing access - a case study in Hanoi). Các
nghiên cứu trên mới là những nghiên cứu thực địa cho chúng ta thấy tình hình sử dụng
internet rất hiếm hoi của trẻ em lúc bấy giờ, khi mà internet chưa phổ biến và thực sự
"bùng phát". Tháng 3 năm 2003, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trung tâm Công nghệ thông
tin và IDG World expo đã tổ chức hội thảo quốc tế về công nghệ thông tin và truyền
thông trong giáo dục ở Việt Nam. Bên cạnh các chủ đề mang tính bao quát như: Đề án
mạng giáo dục Edunet, giải pháp học qua mạng thế hệ tiếp theo, đào tạo qua mạng, E-
learning- đào tạo trực tuyến... hội thảo còn là nơi trao đổi những vấn đề cụ thể liên quan
đến các phòng ban, sở giáo dục và các giáo viên... tuy nhiên, hội thảo chưa hề đề cập đến
những mặt trái của internet khi đưa vào giáo dục.
Trong cái nhìn tổng quan về nhu cầu giải trí của thanh niên Việt Nam hiện nay,
cuốn "Nhu cầu giải trí của thanh niên" xuất bản năm 2003 của tác giả Đinh Thị Vân Chi
đã phân tích khá tỷ mỷ và nêu ra một số ảnh hưởng của internet đối với thanh niên ở một số
thành phố lớn, trong đó có Hà Nội. Tác giả đã đề cập đến một số mặt tích cực và mặt trái
của internet. Cuốn sách là một tài liệu tham khảo rất bổ ích cho người thực hiện đề tài này.
1.2. Về sưu tầm
Khi nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các nguồn tư liệu sau:
* Những văn bản, quyết định của chính phủ về việc chính thức kết nối internet tại
Việt Nam, bao gồm:
- Hướng dẫn kết nối, sử dụng internet tại Việt Nam.
- Quyết định số 136/TTg ngày 5 tháng 3 năm 1997 của Thủ tướng Chính phủ về
việc thành lập ban điều phối quốc gia mạng internet ở Việt Nam - Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ về một số chính sách, biện pháp khuyến khích, đầu tư và phát triển công
nghệ phần mềm.
- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt kế hoạch phát triển internet
Việt Nam giai đoạn 2001- 2005 về quản lý, cung cấp và sử dụng internet.
- Nghị định 55/2001/NĐ-CP về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ internet tại
Việt Nam.
* Những văn bản, quyết định của Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện về phát triển
internet ở Việt Nam. Các tạp chí của ngành Bưu chính - Viễn thông các số từ năm 1996
đến tháng 8/2004.
* Tổng hợp "Tin nhanh" của Trung tâm Thông tin Bưu điện - Tổng công ty Bưu
chính - Viễn thông Việt Nam (tài liệu lưu hành nội bộ phát hành hàng tuần vào sáng thứ
sáu).
* Tham khảo các tài liệu về internet, thương mại điện tử của Học viện Công nghệ
Bưu chính - Viễn thông.
* Tham khảo các phóng sự, bài viết về internet trên các phương tiện thông tin đại
chúng. Trực tiếp khảo sát trên internet và những người sử dụng internet tại một số cơ
quan và các điểm dịch vụ công cộng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích khái niệm văn hóa, đời sống văn hóa và thực trạng sử dụng
internet, những ảnh hưởng của việc sử dụng internet tới đời sống văn hóa của người dân
Thủ đô. Đề tài đưa ra một số dự báo, xu hướng và giải pháp nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả của việc sử dụng internet trên địa bàn thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích khái niệm văn hóa, đời sống văn hóa, internet, những ứng dụng của
internet trong đời sống xã hội.
- Phân tích thực trạng của internet và vai trò và ảnh hưởng của internet trong đời
sống văn hóa của người dân Thủ đô Hà Nội.
- Dự báo xu hướng và những định hướng lớn về sự phát triển của internet ở Hà
Nội.
- Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần phát huy những mặt tích cực
của công nghệ thông tin nói chung và dịch vụ internet nói riêng vào việc nâng cao đời
sống văn hóa của người dân Thủ đô Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Sự hình thành và phát triển của mạng internet ở Việt Nam;
- Vai trò của internet trong đời sống văn hóa của người Việt Nam;
- Thực trạng tình hình sử dụng internet ở Thủ đô Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Văn hóa trong khai thác mạng internet ở Thủ đô Hà Nội. Đề tài chỉ tập trung
nghiên cứu vào bốn nhóm xã hội chính, gồm học sinh sinh viên, cán bộ làm công tác nghiên
cứu và giảng dạy, cán bộ làm công tác quản lý và nhóm cán bộ, công nhân, viên chức trong
thời gian gần đây (từ 1998 đến nay).
5. Phương pháp nghiên cứu
- Trên quan điểm duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nắm vững các
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng một nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và phát triển khoa học kỹ thuật mà trong đó công nghệ
thông tin là một ngành then chốt.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành; văn hóa học - xã hội học.
- Phương pháp xã hội học và điền dã để tìm hiểu, thống kê thực trạng truy cập
internet ở Hà Nội.
- Trực tiếp khai thác, khảo sát trực tuyến trên mạng nhằm so sánh, tổng hợp và
tìm hiểu các vấn đề đã được xác định trên cơ sở các nguồn tư liệu đã thu thập để thực
hiện mục tiêu đề tài đặt ra.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Góp phần làm rõ vai trò của internet trong đời sống văn hóa của người Việt
Nam nói chung và nhân dân Thủ đô nói riêng.
- Phân tích tương đối có hệ thống những ảnh hưởng của sự phát triển mạng
internet đối với đời sống văn hóa của nhân dân Thủ đô Hà Nội.
- Đưa ra một số dự báo, kiến nghị và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng internet trong đời sống văn hóa của người dân trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Là tài liệu tham khảo đối với các nhà hoạch định chính sách, từ đó có thể đưa ra
những phương hướng để có thể khai thác triệt để những mặt tích cực, giảm thiểu những
tiêu cực do một số phần tử phản động lạm dụng mạng internet để tuyên truyền.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Internet - một nhân tố mới trong đời sống văn hóa hiện nay
Chương 2: Thực trạng của việc sử dụng internet ở Hà Nội
Chương 3: Dự báo xu hướng và một số giải pháp nhằm góp phần phát huy hiệu
quả của việc sử dụng internet trong đời sống văn hóa của người dân Thủ đô.
Chương 1
internet - một nhân tố mới
trong đời sống văn hóa hiện nay
1.1. một số khái niệm then chốt
1.1.1. Văn hóa
Khái niệm "văn hóa" từ lâu đã được giới nghiên cứu quan tâm xác định nội hàm
từ nhiều phương diện khác nhau. Xét một cách tổng quát, văn hóa thể hiện bản chất năng
lực của con người trong mối quan hệ với thiên nhiên, với xã hội và với chính bản thân
mình, văn hóa gắn liền với hoạt động sống của cá nhân và của cộng đồng. Văn hóa là dấu
hiệu phân biệt đặc trưng và trình độ của loài người, như vậy, văn hóa phản ánh các mặt
trong hoạt động của cá nhân và cộng đồng. Từ sinh hoạt, ăn, mặc, ở, đi lại đến các hoạt
động chính trị, khoa học, giáo dục, nghệ thuật, lối sống, phong tục, tập quán, tín
ngưỡng... ở đâu có hoạt động sống của con người là ở đó có sự can thiệp và định hướng
của nhân tố văn hóa.
Theo W. Ostawald thì: Chúng ta gọi những gì phân biệt con người với động vật
là "văn hóa" [6].
Theo Abrraham Moles, một nhà văn hóa học Pháp thì: Văn hóa là chiều cạnh trí
tuệ của môi trường nhân đạo do con người xây dựng nên trong tiến trình đời sống xã hội
của mình [6].
Giáo sư Hà Văn Tấn cho rằng: Văn hóa là hệ thống ứng xử của con người với
thiên nhiên và xã hội, trong hoạt động sinh tồn và phát triển của mình. Nói khác đi, văn
hóa là sản phẩm hoạt động của con người trong mối quan hệ tương tác với tự nhiên và
xã hội diễn ra trong không gian, thời gian và hoàn cảnh nhất định [6].
Năm 1988, khi phát động thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa, Tổng Giám đốc
UNESCO - Federico Mayro, đã đưa ra định nghĩa về văn hóa: Văn hóa là tổng thể sống
động của các hoạt động trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng
tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những
yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc [8].
Khái niệm "văn hóa" được đề cập đến trong luận văn này mang một ngoại diên
rất rộng, nghĩa là bất cứ cái gì do con người làm ra đều hàm chứa thuộc tính văn hóa, nó
gồm tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra nhằm phục vụ cho
sự tiến bộ của con người mà sản phẩm sáng tạo cụ thể đó chính là internet - sản phẩm của
thời đại văn minh công nghiệp, của công nghệ thông tin. Bản chất đặc trưng của văn hóa
chính là sự sáng tạo vươn tới giá trị nhân văn, khẳng định chất lượng của đời sống, trong
đó là chất lượng sống của mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Internet được nghiên cứu trong
luận văn này với ý nghĩa vừa là một sản phẩm văn minh công nghiệp, vừa là một giá trị
văn hóa đánh dấu sự sáng tạo của nhân loại.
1.1.2. Đời sống văn hóa
Đời sống văn hóa là toàn bộ những giá trị văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần
được tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực của con người [10].
Khái niệm đời sống văn hóa là một khái niệm rộng để chỉ toàn bộ các thành tựu có ý
nghĩa văn hóa do con người sáng tạo ra cùng các phương thức, cách thức mà con người
sử dụng chúng trong đời sống hàng ngày. Đời sống văn hóa của cá nhân và cộng đồng
gắn liền với sự sống của họ thể hiện trong các hoạt động như: ăn, ở, đi lại, sản xuất, giao
tiếp xã hội, thể hiện các giá trị chuẩn mực định hướng trong lối sống, phong tục tập quán,
tín ngưỡng tôn giáo, trong các hoạt động giáo dục, khoa học, nghệ thuật, trong tổ chức,
quản lý đời sống cá nhân, gia đình và cộng đồng xã hội, trong các hoạt động văn hóa dân
gian như: tang ma cưới hỏi, trong lễ hội và trong các quan hệ ứng xử khác. Như vậy, nói
đến đời sống văn hóa tức là nói đến tất cả các nhân tố của đời sống sinh hoạt văn hóa vật
chất và văn hóa tinh thần.
1.1.3. Internet
Các phương tiện truyền thông cá nhân và đại chúng ra đời rất sớm trong lịch sử
loài người, trước cả ngôn ngữ và chữ viết. Khi mà động tác, cử chỉ là những phương tiện
ít ỏi để con người có thể hiểu và giao tiếp với nhau. Từ thế kỷ XX trở lại đây, các phương
tiện truyền thông mới bùng phát cả về nội dung và hình thức nhờ sự hỗ trợ của khoa học,
kỹ thuật. Chính truyền thông là một trong những lĩnh vực thừa hưởng nhiều thành quả
nhất của cuộc cách mạng khoa học lần thứ tư và cuộc cách mạng công nghệ lần thứ năm.
Những thành tựu của hai cuộc cách mạng trên đã đưa truyền thông vượt mọi rào cản về
khoảng cách địa lý, không gian và thời gian, đó là sự ra đời của phát thanh, truyền hình,
cùng với điện thoại vô tuyến...
Tóm lại, truyền thông là toàn bộ những phương tiện lan truyền thông tin như: sách
báo, truyền hình, phát thanh... Truyền thông phân làm ba loại chính: Truyền thông đại
chúng, truyền thông nhóm và truyền thông cá nhân với những nội dung và hình thức khác
nhau.
Truyền thông đại chúng là cách thức truyền đạt thông tin thông qua các phương
tiện kỹ thuật (đài, báo, phát thanh, truyền hình, ấn phẩm, phim ảnh, băng đĩa, mạng...)
đến đám đông công chúng nhằm mục đích củng cố hoặc thay đổi nhận thức, quan điểm,
hành vi của họ đối với các vấn đề khác nhau trong xã hội. Với cách định nghĩa như thế về
truyền thông thì ngày nay ta có thể coi internet như một phương tiện truyền thông đại
chúng mới, với tất cả các thuộc tính của truyền thông đại chúng như: Tính chất đại chúng,
tính gián tiếp, tính tập thể và vô nhân xưng. Tuy nhiên, do khả năng kỹ thuật ưu trội mà
internet cũng có thể được coi như phương tiện truyền thông nhóm trong các dịch vụ tin
tức nhóm (new group); giáo dục điện tử (E- learning) hay thậm chí nó cũng vừa là
phương tiện truyền thông cá nhân trong trường hợp: email, chat, điện thoại internet...
Chúng ta có thể hình dung internet là một môi trường truyền thông mới với ý
nghĩa là sự kết nối của các máy tính đầu cuối, bao gồm cả máy tính cá nhân, của hộ gia
đình, của các cơ quan, tổ chức... Tạo điều kiện cho tất cả các loại hình truyền thông khác
hoạt động được [21]. Các tờ báo, đài truyền hình, các hãng thông tấn, cơ quan báo chí,
các cơ quan giáo dục cũng như các tổ chức và cá nhân đều có cơ hội ngang bằng là thiết
lập website riêng để cung cấp thông tin đến đông đảo công chúng (công chúng ở đây là
tất cả những người sử dụng internet). Ngược lại, người sử dụng internet cũng có thể khai
thác các tiện ích của internet cho mỗi loại mục đích của mình.
Một cách tổng quát, internet là một mạng diện rộng (WAN) là tập hợp hàng ngàn
các mạng máy tính trải khắp thế giới thông qua hệ thống viễn thông. Sự phát triển nhanh
chóng của internet đã khiến cho nó còn có thêm một khái niệm là "siêu lộ thông tin"
(Information Super Highway). Ngoài ra, nó còn là nguồn tài nguyên vô giá cho các nhà
nghiên cứu, các nhà giáo dục, các quan chức chính phủ và các thủ thư..., internet đã trở
thành một công cụ thiết yếu cho mọi cá nhân đang sử dụng thư điện tử, đang nghiên cứu
và thực tế là mọi hoạt động liên quan đến việc thu thập thông tin.
Sau đây là định nghĩa về internet được nhiều nhà khoa học và cá nhân sử dụng
phổ biến hiện nay:
Internet là hệ thống thông tin toàn cầu mà:
- Được nối với nhau hợp lý bằng một không gian địa chỉ độc đáo dựa trên giao
thức mạng (IP).
- Có thể tạo điều kiện cho các máy tính giao tiếp với nhau thông qua bộ giao
thức (TCP/IP).
- Công khai hoặc bí mật cung cấp, cho phép sử dụng, cho phép truy cập các dịch
vụ cao cấp được xếp trên các mục giao tiếp và cơ sở liên quan.
- Không thể có được sơ đồ cụ thể của mạng internet vì các máy tính và các mạng
máy tính liên tục đăng ký thêm vào mạng internet cũng như các thông tin trên mạng liên
tục thay đổi, cập nhật.
- Internet mang đến cho bạn hạ tầng kỹ thuật để giao dịch trên mạng (on line).
- Internet là cấu trúc kỹ thuật giúp cho mọi người trên thế giới thu lợi khi thâm
nhập vào liên mạng toàn cầu [16].
Internet (được viết hoa chữ cái đầu tiên) ám chỉ tới tập hợp các mạng và các
cổng nối (gateway) trên toàn cầu, sử dụng bộ giao thức TCP/IP, đây chính là nghĩa được
nhiều người biết tới nhất. Tuy nhiên, khi gặp từ internet (không viết hoa chữ cái đầu) ta
phải hiểu rằng đây là chữ viết tắt của từ internetwork, có nghĩa là liên mạng, một tập hợp
các mạng máy tính bất kỳ, có thể khác nhau và được nối với nhau thông qua các cổng
nối. "Trên thế giới chỉ có duy nhất một Internet nhưng có rất nhiều internet. Sự nhầm
lẫn trong cách sử dụng thuật ngữ này có thể bắt gặp trên một số báo chí của nước ta,
thậm chí cả trên một tạp chí chuyên ngành có uy tín" [18].
1.2. Sự hình thành và phát triển của internet
Lịch sử hình thành và phát triển của Internet có thể xem như bắt đầu từ năm 1969
với dự án mạng ARPANET của Bộ Quốc phòng Mỹ với mục đích hoàn toàn mang tính
quân sự nhằm tạo khả năng truyền số liệu, thông tin một cách an toàn, bí mật giữa các
mạng máy tính của Bộ Quốc phòng Mỹ. Trải qua một giai đoạn nghiên cứu và phát triển
khá lâu dài, đến tháng 1/1983, giao thức TCP/IP đã chính thức được chấp nhận trên cơ sở
mạng diện rộng ARPANET. Điều này mở ra khả năng ứng dụng to lớn cho mạng máy
tính của Bộ Quốc phòng Mỹ, sau đó, vốn tính thực dụng, mô hình ARPANET nhanh chóng
được người Mỹ nhân rộng ra các lĩnh vực khác với quy mô ngày càng lớn. Và khi có sự
liên kết các mạng máy tính thuộc lĩnh vực khác, các khu vực và các quốc gia khác nhau thì
mạng xuất hiện các trình duyệt của dịch vụ tra cứu thông tin siêu văn bản (WWW- World
Wide Web).
Hình 1.1: Quá trình phát triển của Internet
Trình duyệt Web 1993
Thương mại điện tử E - Com 1995
WWW 1989
Tên gọi Internet TCP/IP 1984
TCP/IP 1972
ARPANET 1969
Tốc độ phát triển của internet:
- 1977: 111 máy chủ - 1981: 213 máy chủ - 1983: 562 máy chủ - 1984:1.000 máy chủ - 1986: 5.000 máy chủ
Số liệu Telcordia - Nestizer.com (1/2001) Hơn 115 triệu máy chủ, hơn 407 triệu người sử dụng (số liệu tháng
11/2000).
31 triệu tên miền. Theo dữ liệu đo bằng Byte (1994) người ta truy nhập Internet cho mục đích: 32% cho truyền file, 13% khám phá, tìm hiểu thông tin, 11% đọc tin, 10% dữ liệu overhead, 6% email, 5% điều khiển từ xa.
.
Ngoài ra, còn phải kể đến mạng:
Intranet: Là mạng riêng sử dụng công nghệ của internet như là phần cơ sở. Thực
chất internet và intranet không khác nhau, do mục đích sử dụng của intranet nhằm vào
các cơ quan, doanh nghiệp, phục vụ các hoạt động tác nghiệp. Do đó, mạng intranet phải
luôn chính xác, tin cậy, hiệu quả, thông suốt. Đặc biệt phải đảm bảo an ninh, an toàn
trong mọi tình huống. Mạng này cho phép nhiều người cộng tác làm các dự án, chia sẻ
thông tin, tổ chức hội thảo và thiết lập các thủ tục an toàn trong tổ chức sản xuất. Mục
đích của mạng này là làm cho những người lao động của công ty gắn kết với mọi tin tức
của công ty đó, nhằm tăng năng suất qua luồng thông tin hiệu quả được phổ biến trên
intranet.
Extranet: Mạng chia sẻ mở rộng, mạng này công ty chỉ cho phép một nhóm
người được lựa chọn để truy nhập.
Thực chất internet không thuộc quyền quản lý của bất kỳ ai. Nó không có ban
giám đốc, cũng không có ban quản trị, người dùng có thể tham gia hoặc không tham gia
vào internet, đó là quyền của mỗi thành viên. Mỗi mạng thành phần sẽ có một giám đốc
hay chủ tịch, một cơ quan chính phủ hay một hãng điều hành, nhưng không có một tổ
chức nào chịu trách nhiệm toàn bộ về internet.
Hiệp hội internet (Internet Socity - ISOC) là một hiệp hội tự nguyện có mục đích
phát triển khả năng trao đổi thông tin dựa vào công nghệ internet. Hiệp hội bầu ra
Internet Architecture Board - IAB, ban này có trách nhiệm đưa ra hướng dẫn về kỹ thuật
cũng như phương hướng để phát triển internet.
Mọi người trên internet thể hiện nguyện vọng của mình thông qua ủy ban kỹ
thuật internet (Internet Engineering Task Force IETF). IETF cũng là một chức tự nguyện,
có mục đích thảo luận về các kỹ thuật và sự hoạt động của internet. Nếu một vấn đề được
coi trọng, IETF lập một nhóm kỹ thuật để nghiên cứu vấn đề này. Nhóm đặc trách nghiên
cứu phát triển công nghệ Internet (IRTF- Internet Reasearch Task Force).
Trung tâm thông tin mạng (Networrk Infomation Center - NIC) gồm có nhiều
trung tâm khu vực như APNIC - khu vực châu á - Thái Bình Dương. NIC chịu trách
nhiệm phân tên và địa chỉ cho các mạng máy tính vào internet.
Không cần nhìn đâu xa, chỉ tính riêng châu á cũng có thể thấy rõ những ứng dụng
của internet đã làm thay đổi cuộc sống ở châu á như thế nào. Theo số liệu do Công ty
nghiên cứu thị trường eMarketer mới đây cho thấy tỷ lệ sử dụng internet ở châu á - Thái
Bình Dương đang tăng với tốc độ chóng mặt, đặc biệt là ở Trung Quốc, kèm theo đó là
những tác động rộng lớn về mặt thương mại và văn hóa đối với cuộc sống của người dân
khu vực. Nghiên cứu này có tên là "Asia Pacific - online" dựa trên các dự báo của các cơ
quan thống kê quốc gia và quốc tế cùng hàng chục công ty nghiên cứu khác, như Morgan
Stanley, Garner, Poin Topic, IDC, Yankee Group...
Theo eMarketer cho biết thì trong năm 2003 số người sử dụng internet ở Trung
Quốc đã tăng gấp đôi đến 114 triệu người, trong hai năm tới dự kiến sẽ có 250 triệu
người Trung Quốc truy cập internet. Tại Hàn Quốc, tính đến cuối năm 2003 đã có gần
59% dân số lên mạng. Tại ấn Độ, mỗi tháng lại có thêm 120.000 khách thuê bao internet
mới, đưa tổng số người tham gia mạng toàn cầu của nước này vượt con số 3 triệu vào
tháng 6/2003. Về mật độ sử dụng internet nhanh chóng đuổi kịp và vượt phần còn lại của
thế giới. Trong tháng 1/2003 Mỹ đã bị gạt khỏi danh sách 10 nước có mật độ dân sử dụng
internet cao nhất thế giới. Trong khi đó Hàn Quốc đã nhảy lên chiếm vị trí thứ tư, Hồng
Kông đứng thứ bảy và Đài Loan đứng thứ chín. Điều đặc biệt gây ấn tượng là tốc độ gia
tăng sử dụng băng tần rộng để truy cập internet ở các nước châu á - Thái Bình Dương.
Tính đến cuối tháng 11/2003 số người sử dụng băng tần rộng trong khu vực đã tăng 25%
lên 18 triệu thuê bao, đặc biệt tại Hàn Quốc tỷ lệ sử dụng băng tần rộng đã lên tới 94%.
Chính sự phổ biến của internet ở châu á - Thái Bình Dương đang tạo ra những tác
động sâu sắc đến kết cấu và nội dung các trang Web. Internet phát triển góp phần thúc
đẩy doanh thu của các Công ty chế tạo phần cứng máy tính. Đã có tới 5,1 triệu máy tính
được bán ra trong khu vực trong năm 2002, tăng 100% so với năm 2001. Hoạt động
thương mại trực tuyến cũng đang gia tăng nhanh chóng trong đó có rất nhiều nước có tốc
độ tăng vượt mức trung bình của thế giới. Ước tính sẽ có sự bùng nổ internet để đặt vé
máy bay, phòng khách, khách sạn hoặc ô tô. Giải trí trên mạng cũng là một lĩnh vực có tiềm
năng to lớn, ngày càng có nhiều người mua vé xem phim, ca nhạc qua mạng. Riêng ở
Hàn Quốc chỉ trong những năm đầu khi internet mới phát triển, 98% thông tin được giao
dịch qua mạng internet.
Ước tính đến năm 2005 sẽ có 33 triệu người dân Hàn Quốc sử dụng dịch vụ
internet, chiếm 2/3 dân số.
Trước sự phát triển mạnh mẽ, rộng khắp trên mọi lĩnh vực và mang tính toàn cầu
như vậy, internet vừa là cơ may, vừa là thách thức với các quốc gia. Đảng và Nhà nước
Việt Nam chủ trương phát triển và mở rộng việc cung cấp và sử dụng dịch vụ internet
nhưng phải đi đôi và tăng cường các biện pháp quản lý chặt chẽ.
Để phục vụ các hoạt động quản lý nhà nước và nhu cầu của xã hội, từ những năm
1993 ngành Bưu điện đã xây dựng mạng truyền số liệu chuyển mạch gói gọi là
VIETPAC. Tuy phủ rộng 64 tỉnh thành trong cả nước nhưng việc xây dựng mạng
VIETPAC không đáp ứng được mọi nhu cầu liên quan đến việc truyền số liệu.
Do sự phát triển nhanh chóng của công nghệ và sự ra đời của nhiều loại hình dịch
vụ trên mạng, trong đó có sự phát triển nhanh chóng của internet cùng với các dịch trên
mạng này. Ngày 5 tháng 3 năm 1997, Thủ tướng Chính phủ đã ký Nghị định số 21/CP
ban hành quy chế tạm thời về quản lý, thiết lập, sử dụng mạng internet Việt Nam và ký
quyết định số 136/TTg thành lập Ban điều phối quốc gia mạng internet ở Việt Nam.
Ban điều phối quốc gia mạng internet, Tổng cục Bưu điện cùng các cơ quan nhà
nước có liên quan đã ban hành nhiều văn bản quản lý các hoạt động cung cấp và sử dụng
internet, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để Việt Nam chính thức tham gia mạng Internet
toàn cầu. Ngày 14/11/1997 Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện đã ra Quyết định số
679/1997/QĐ-TCBĐ ban hành thể lệ dịch vụ internet nhằm quy định việc quản lý nhà
nước đối với mọi hoạt động kết nối, truy nhập, cung cấp và sử dụng dịch vụ internet.
Ngày 19 tháng 11 năm 1997, Việt Nam đã chính thức khai trương dịch vụ
internet; người dân Việt Nam có thể nhận, gửi và sử dụng thông tin trên internet. Để đáp
ứng nhu cầu bức xúc về internet VNPT đã xây dựng một mạng trục trong toàn quốc với
tên gọi là VietnamNet (VNN) và kết nối với mạng internet nhằm kết nối những mạng đơn
lẻ của các cơ quan khác nhau và cung cấp dịch vụ internet một cách hiệu quả. Internet
Việt Nam hoạt động với bốn nhà cung cấp dịch vụ internet (ISP) chính thức do Tổng cục
Bưu điện cấp giấy phép là: VNN, Công ty FPT, mạng NetNam của Viện Công nghệ
Thông tin và Công ty cổ phần dịch vụ Bưu chính Viễn thông Sài Gòn (Saigon Postel).
Trên internet Việt Nam thời điểm đó còn có các nhà cung cấp thông tin (ICP), đó là mạng
CINET của Bộ Văn hóa Thông tin, mạng Phương Nam của Trung tâm Hội chợ triển lãm
Việt Nam, Công ty Pacrim, FPT, VNN, Thông tấn xã Việt Nam, Tổng cục Du lịch, báo
Nhân Dân và Trung tâm thông tin Bưu điện trực thuộc VNPT...
Với vai trò tổ chức và quản lý toàn bộ mạng trục internet quốc gia, Công ty điện
toán và truyền số liệu (VDC) thuộc VNPT có nhiệm vụ cung cấp khả năng truy cập vào
các mạng riêng, các ISP khác, đồng thời VNN cũng là nhà cung cấp dịch vụ internet đến
người dùng.
Từ năm 1998 internet Việt Nam đã bước đầu phát triển kết nối trong nước và ra
quốc tế như Mỹ, Hồng Kông, úc...
Ngày 23 tháng 8 năm 2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định 55/2001/NĐ-CP
về quản lý, cung cấp và sử dụng internet, có thể đánh giá đây là một sự kiện đánh dấu
bước ngoặt về phát triển internet ở Việt Nam. Cụ thể là nghị định này đã điều chỉnh việc
quản lý cung cấp và sử dụng dịch vụ internet tại Việt Nam gồm 11 điều quy định chung. Nghị
định có 16 điều quy định về thiết lập hệ thống thiết bị, cung cấp và sử dụng internet. Trong
chương ba và bốn của nghị định, mọi điều khoản về quản lý, khiếu nại, thanh tra, kiểm tra và
xử lý vi phạm đều được cụ thể hóa trong các điều (xem phụ lục 3).
Sau hai năm ban hành nghị định (23/8/2001-23/8/2003), thị trường internet Việt
Nam đã trở nên sôi động với nhiều nhà cung cấp và nhiều loại hình dịch vụ internet. Đến
tháng 9 năm 2003 đã có 13 ISP được phép cung cấp dịch vụ, 5 IXP (cổng kết nối quốc tế)
và 10 OSP (nhà cung cấp các dịch vụ ứng dụng trên internet). Chính Nghị định 55 đã cho
phép nhiều thành phần doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trong lĩnh vực internet, điều này
đã tạo động lực cạnh tranh, buộc các doanh nghiệp phải năng động hơn trong cuộc chạy
đua chiếm lĩnh thị trường. Nghị định 55 ra đời cũng khởi nguồn cho một thời kỳ xã hội
hóa internet một cách sâu rộng, thu hút được nhiều thành phần kinh tế tham gia, phát huy
vào nội lực sẵn có tham gia vào thị trường internet với hàng ngàn đại lý internet. Điều
này không chỉ góp phần làm tăng lượng người sử dụng internet 1,5 triệu người so với con
số 300.000 người năm 2000, mà còn giúp một số lượng người có thêm công ăn việc làm,
thêm thu nhập. Cũng từ đó, người dân có cơ hội tiếp cận với các công nghệ tiên tiến
thông qua internet. Đặc biệt nghị định 55 còn là tiền đề thúc đẩy việc ứng dụng internet
trong môi trường làm việc của hệ thống các cơ quan chính phủ, các ngành các cấp từ
Trung ương đến địa phương. Một số các chính sách quản lý nhà nước cũng đã được phổ
biến qua internet. Đó cũng là bước đệm để triển khai Chính phủ điện tử tại Việt Nam.
Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) hàng năm đều đưa ra đánh giá, xếp hạng
cho nền CNTT của 196 nước. Đánh giá dựa trên các thông số: Số lượng và mật độ điện
thoại, số điện thoại di động, số máy tính và số người dùng internet. Điều đáng mừng là
lần đầu tiên Việt Nam đã được đưa vào danh sách 53 nước, được xếp hạng sau ấn Độ,
Trung Quốc và Inđônêsia. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia CNTT, thời gian qua
CNTT nước ta phát triển khá nhanh nhưng chưa có chiến lược cụ thể, chính vì vậy, trong
năm 2003 Bộ Bưu chính Viễn thông (MPT) đã dốc sức để hình thành một phác thảo
chiến lược phát triển CNTT và truyền thông Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020 và trình Chính phủ trong quý 1/2004. Đối với dịch vụ viễn thông internet, Việt
Nam sẽ phát triển nhanh, đa dạng hóa các dịch vụ viễn thông và internet trên cơ sở hạ
tầng mạng lưới thông tin quốc gia tiên tiến. Tại Việt Nam, theo dự báo công nghệ thông
tin của các chuyên gia CNTT nhận định: Năm 2004 sẽ là năm bứt phá của ngành này
nhằm tiến kịp các nước phát triển, số lượng doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức sử dụng
internet, xây dựng web side để trao đổi thông tin và ứng dụng các phần mềm ngày càng
4415851
tăng.
t e n r e t n
i
2109700
1952460
g n ô d ö s
i
1666160
1037510
ê g n è S
81054
09-11-00
01-01-01
01-07-02
25/12/02
05-09-03
30/4/04
Thêi ®iÓm
Biểu đồ 1.1: Số người sử dụng internet ở Việt Nam
Nguồn: Số liệu thống kê từ Trung tâm internet Việt Nam tháng 4/2004.
1.3. Những ứng dụng cơ bản của internet
Từ khi internet xuất hiện với tư cách là một phương tiện truyền thông thì nó đã tạo
ra một cuộc cách mạng thực sự, hệ thống truyền thông này đã và đang làm thay đổi toàn
diện và sâu sắc cách thức mà con người thực hiện trong giao tiếp, giải trí, làm việc, học
tập, nghiên cứu khoa học hay xử lý thông tin... Có thể nói, tiện ích của internet còn lớn
hơn cả điện thoại, báo viết và báo hình.
Sở dĩ internet đạt được những tiện ích lớn lao như chúng ta biết là do tập hợp hơn
100 giao thức được sử dụng để kết nối các máy tính vào mạng trong đó hai giao thức chính
là giao thức điều khiển truyền dẫn (Transmission control protocol) và giao thức Internet IP
(Internet Protocol). Sự bùng nổ trong sử dụng internet giữa hàng triệu người trên thế giới
có lẽ là nhờ một phần của cái gọi là dịch vụ tra cứu siêu văn bản, dịch vụ thông tin đa
phương tiện toàn cầu (WWW) hoặc chỉ đơn giản là WEB, đồ họa âm thanh trên một loạt
các văn kiện hiển thị bằng máy tính gọi là các trang web (Web pages), gắn liền với các
trang web là các tài liệu siêu văn bản hoặc siêu phương tiện (hypertex or hypermedia).
Việc thám hiểm World Wide Web phải sử dụng một chương trình gọi là slient (máy
khách) phần mềm slient cung cấp giao thức truyền thông để phối ghép với các máy tính
chủ trên mạng, nó được cài đặt trong máy tính dùng để truy nhập. Máy chủ (server) cung
cấp các tài liệu mà máy khách yêu cầu, các máy chủ được kết nối với các máy khách và
máy chủ khác trên mạng cho nên mối quan hệ slient/ server tồn tại giữa người dùng, máy
khách và kết nối tới Web (tức máy chủ). Server internet mà khách hàng kết nối được tới
gọi là ISP (nhà cung cấp dịch vụ internet). Các ISP cung cấp truy nhập cho người dùng
tới internet và web theo cước phí hàng tháng hoặc hàng giờ. Một số các hệ thống bảng tin
BBS (Bulleti Board System) lớn hơn, thường được gọi là các dịch vụ thương mại trực
tuyến cũng cung cấp internet đầy đủ qua kết nối modem của khách hàng.
Các ứng dụng khách hàng/ máy chủ trên Internet
Thư điện tử (E-mail)
Truyền tệp (file transfer)
Chat (đàm thoại)
Dịch vụ nhóm tin (Use Net Newsgroup)
Web (World Wide Web)
Tiện ích trên mạng toàn cầu này là rất lớn:
"INTERNET mang đến cho bạn hạ tầng kỹ thuật để giao dịch trên mạng (on
line). INTERNET là cấu trúc kỹ thuật giúp cho mọi người trên thế giới thu lợi khi thâm
nhập vào liên mạng toàn cầu" [16].
Người dùng trên khắp thế giới đều có thể truy nhập mạng này. Với giao thức liên
lạc chuẩn, nó cho phép truy cập đối với bất kỳ một loại máy tính nào, hệ điều hành gì,
kích cỡ máy ra sao, người dùng mạng này có thể trao đổi thư điện tử với một người khác
ở bất cứ đâu trên thế giới, và thư sẽ được chuyển đi ngay lập tức. Nó trợ giúp truyền
thông thời gian trực tuyến (real- time multimedia) cho phép mọi thành viên truy cập có
thể thực hiện hoạt động giao tiếp, kinh doanh hay học tập, quản lý... một cách trực tiếp và
tức thời. Rõ ràng là các hoạt động trên internet rất phong phú và đa dạng, nó đã tạo nên
những bước nhảy vọt chưa từng có trên thế giới, tác động đến mọi lĩnh vực trong đời
sống kinh tế - văn hóa - xã hội.
Một cách tổng quát: Với đặc thù là một mạng diện rộng (WAN) tập hợp hàng
ngàn các mạng máy tính trải khắp thế giới thông qua hệ thống viễn thông. Sự phát triển
nhanh chóng của internet đã khiến cho nó còn có thêm một khái niệm là "siêu lộ thông
tin", ngoài ra nó còn là nguồn tài nguyên vô giá cho các nhà nghiên cứu, các nhà giáo
dục, các quan chức chính phủ và các thủ thư... internet đã trở thành một công cụ thiết yếu
cho mọi cá thể đang sử dụng thư điện tử, đang nghiên cứu là mọi việc liên quan đến đến
hoạt động thông tin.
Internet thâm nhập sâu vào tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống, nó cho phép truy
nhập và khai thác các cơ sở dữ liệu thuộc nhiều lĩnh vực xã hội, các ngành nghề khác
nhau như: các thông tin về khoa học kỹ thuật, giáo dục và đào tạo, kết quả nghiên cứu
khoa học, thông tin thương mại, thị trường giá cả, dự báo thời tiết... Tùy theo ngành nghề
khác nhau sẽ tìm thấy những lợi ích khác nhau từ việc sử dụng internet.
Sau gần bảy năm triển khai dịch vụ internet ở Việt Nam, đến nay theo tin từ
Trung tâm Thông tin Bưu điện - VNPT có hơn 1.122.000 thuê bao internet đã quy đổi
của 7/15 nhà cung cấp dịch vụ đã bắt đầu có thị phần là VNPT, NetNam, Vietel, SPT, Ha
Noi Telecom, OCI và như vậy với con số ước tính khoảng gần 4,5 triệu người thường
xuyên sử dụng internet, vượt mức thời điểm tháng 6 năm 2003 (cùng kỳ năm trước) hơn
2,3 lần đồng thời cũng cao hơn mức thời điểm tháng 6/2003 của khu vực 4,82% và rút
ngắn được khoảng cách với thế giới 9,37%. Nếu như thời gian đầu ở Đông Nam á nhiều
người quan niệm chỉ có giới trí thức hay doanh thương mới có nhu cầu và khả năng sử
dụng dịch vụ này, thì giờ đây, cùng với sự tăng cường đầu tư mở rộng mạng lưới, nâng
cao khả năng phục vụ cho người dùng internet của VNPT thông qua những chính sách và
nhất là ảnh hưởng tích cực của Nghị định 55 của Chính phủ, các doanh nghiệp, tổ chức
đã biết khai thác lợi thế của internet. Do vậy mà có thêm nguồn thông tin, tăng cường
thương mại, mở mang đối tác, giao lưu văn hóa, xóa mờ khoảng cách địa lý. internet đã
có những ảnh hưởng tích cực sâu sắc đến đời sống xã hội của Việt Nam nói chung và đặc
biệt là nhân dân Thủ đô.
Có thể thấy rất rõ là cùng với sự hỗ trợ của internet, tại Hà Nội, nhiều đề tài
nghiên cứu, triển khai, ứng dụng khoa học công nghệ vào cuộc sống đã thành công và
thiết thực hơn. Nhiều sinh viên học sinh ham học hỏi đã thu lượm được nhiều kiến thức
bổ ích, tìm kiếm học bổng...
Đến nay đã có 100% các trường phổ thông trung học, cao đẳng, đại học và nhiều
trường tiểu học, trung học cơ sở lắp đặt, sử dụng và đưa chương trình internet vào giảng
dạy. Cùng với hàng chục ngàn các đại lý và các điểm phục vụ internet trên cả nước, kể cả
nơi hải đảo, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Thực tế sử dụng internet thời gian qua cho
thấy, internet ở Việt Nam còn có thể phát triển nhanh và mạnh hơn nữa, ảnh hưởng trực
tiếp và đóng góp to lớn vào phát triển kinh tế - văn hóa - chính trị của Việt Nam.
Chương 2
Thực trạng của việc sử dụng internet
ở Thủ đô Hà Nội
2.1. Tình hình chung
Theo báo cáo mới nhất của ITU về kết quả nghiên cứu tình hình sử dụng internet
trên toàn thế giới thì các nước Bắc âu dẫn đầu về truy cập internet. Thụy Điển đứng ở vị trí
thứ nhất, tiếp sau là Đan Mạch và Băng Đảo, Na Uy đứng thứ năm. Hàn Quốc là nước đứng
đầu thế giới về truy nhập băng rộng tốc độ cao và được xếp thứ tư về tỷ lệ người dùng
inetrnet. Vào nhóm 10 nước dẫn đầu còn có Hà Lan, Hồng Kông, Phần Lan, Đài Loan và
Canađa. Mỹ đứng thứ 11. Thực tế diễn biến cho thấy trong những năm gần đây (từ 1998
trở lại đây) châu á đã vượt lên trước và bỏ xa các nước nói tiếng anh. Cụ thể là Hàn Quốc
tăng nhanh nhất, đã tăng 20 bậc từ 1998 đến 2002.
Tình hình phát triển của internet của khu vực châu á - Thái Bình Dương và thế
giới đã ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam.
Tính đến tháng 4 năm 2004 Việt Nam đã có 4.415.851 người sử dụng internet và
1.121.808 thuê bao internet, trong khi cùng kỳ năm trước con số này là 1.9 triệu người,
khoảng 445.710 thuê bao. Tỷ lệ số dân sử dụng internet ở nước ta hiện nay là 5,42%.
Một sự kiện lớn nhất về CNTT diễn ra tại Việt nam tháng sáu vừa qua là diễn đàn
CNTT Việt Nam 2004 và Việt Nam Computer World Expo (VITF & VCW) diễn ra từ
ngày 5 đến ngày 10-7-2004 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây TS. Lê Trường Tùng -
Chủ tịch Hội tin học Thành phố Hồ Chí Minh chính thức tuyên bố "Toàn cảnh CNTT
Việt Nam 2004". Trong báo cáo này ông đã đặc biệt nhấn mạnh "ấn tượng nhất là sự
vươn lên mạnh mẽ của hai tờ báo điện tử Tuổi trẻ và Thanh niên" - hai trong số năm
website tiếng Việt lọt vào danh sách top 10.000 website toàn cầu, tỷ lệ người dùng
internet Việt Nam trên dân số đã gần đuổi kịp tỷ lệ trung bình của châu á. Điều đó nói lên
rằng, chúng ta đang chứng kiến sự phát triển đột phá của internet Việt Nam, cũng có
nghĩa là đây cũng là thời điểm gay cấn nhất của những nhà quản lý văn hóa trước sự tấn
công ồ ạt của thông tin vào đời sống xã hội.
Tuy nhiên, để Việt Nam có thể bước vào nền kinh tế tri thức, rút ngắn khoảng cách
phát triển giữa Việt Nam và các nước, mục tiêu của Chính phủ từ nay đến 2010 là: Phổ
cập tri thức số, đạt tỷ lệ người dân sử dụng internet là 10%. Đây là con số mà chúng ta
đang phấn đấu, nỗ lực và quyết tâm đó được cụ thể hóa trong nhiều hoạt động. Mới đây
nhất, tháng 7/2004, chương trình "Máy tính Thánh Gióng" đã được khởi động, đây là một
chương trình phổ cập tin học, nối mạng tri thức cho thanh niên Việt Nam. Chương trình
sẽ chính thức tiến hành vào năm 2005. Chính phủ dự kiến sẽ giao cho Bộ Văn hóa Thông
tin, Bộ Bưu chính Viễn thông và Trung ương Đoàn thanh niên thực hiện. Mục tiêu của
chương trình là giúp cho thanh niên Việt Nam xóa mù tin học, nối mạng tri thức.
Thủ đô Hà Nội sẽ là một địa chỉ lớn nhất cung cấp những cán bộ, kỹ sư, tình
nguyện viên tin học tham gia chương trình này.
Hiện nay, trên địa bàn Thủ đô chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những điểm truy cập
internet công cộng ngay trong ngõ nhỏ, đến từng khu tập thể, ký túc xá (xem Phụ lục 4).
Nếu chỉ tính riêng tại địa bàn Thủ đô Hà Nội thì tỷ lệ người dân truy cập internet khoảng
35%. Vượt xa con số 10% trung bình trên cả nước mà chúng ta đang phấn đấu cho năm
2010. Điều đó nói lên rằng, Hà Nội là một địa bàn nóng bỏng đối với nhu cầu truy cập
internet và là một địa bàn được tiếp cận sớm nhất với loại dịch vụ này. Chính đặc điểm là
trung tâm kinh tế, văn hóa chính trị của cả nước nên Hà Nội cũng là địa bàn nhạy cảm
nhất đối với những ảnh hưởng của dịch vụ này mang lại.
2.2. Thực trạng việc sử dụng internet của một số nhóm xã hội
2.2.1. Vài nét khái quát về địa bàn nghiên cứu
Người viết đề tài đặc biệt quan tâm và lấy địa bàn ba quận: Thanh Xuân, Đống
Đa và Cầu Giấy làm khu vực khảo sát bởi tính tập trung và phong phú của khu vực. Địa
bàn ba quận này tập trung khá nhiều trường Đại học và các cơ quan Trung ương, ở đây
tập trung nhiều trường Đại học gồm: Đại học Quốc gia, Đại học Kiến trúc, Đại học Sư
phạm, Đại học Ngoại ngữ, Phân viện Báo chí tuyên truyền, Đại học Luật, Đại học Giao
thông vận tải, Đại học Ngoại thương, Học viện Quan hệ quốc tế, Học viện Quốc phòng,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Khoa học Việt nam, Học viện Công
nghệ Bưu chính Viễn thông, Trường Cao đẳng Sư phạm mẫu giáo Trung ương1…
Đặc trưng lớn nhất của địa bàn là tính tập trung theo cụm của các cửa hàng dịch
vụ internet, các trường đại học, các cơ quan, trường học...
Cụm 1: Bao gồm 8 cửa hàng liền nhau nằm ngay trên mặt phố Nghĩa Tân thuộc
dẫy nhà A11, A14 và nhà C1, 3 cửa hàng nằm trên đường Nguyễn Phong Sắc.
Cụm 2: Gồm 5 cửa hàng nằm trên đường Xuân Thủy số 185; 187; 203; 205 (nằm
ngay trước cổng trường Nguyễn Tất Thành và Đại học Sư phạm Hà Nội) và 2 cửa hàng
cũng nằm trên đường Xuân Thủy (số 4 và số 8).
Cụm 3: Gồm 6 cửa hàng nằm trong khuôn viên của trường Đại học Quốc gia gần
khu ký túc xá sinh viên và trường phổ thông trung học chuyên ngữ thuộc Đại học Quốc gia
Hà Nội theo địa chỉ số 1/A1; 3/A2; 6A2; 1A6; 1A8.
Cụm 4: Gồm 11 cửa hàng nằm trên đường Nguyễn Trãi và khu vực xung quanh
trường Đại học Kiến trúc và Đại học Ngoại ngữ thuộc địa bàn quận Thanh Xuân.
Cụm 5: Dành cho các đối tượng là CBCNVC thuộc các doanh nghiệp quốc
doanh. Các đối tượng khảo sát gồm CBCNV của Công ty Viễn thông quốc tế thuộc
VNPT và một số cán bộ nghiên cứu thuộc Viện Khoa học tự nhiên, Học viện Công nghệ
Bưu chính Viễn thông là những đối tượng thường xuyên truy cập internet. Một số khác là
cán bộ quản lý cấp vụ viện đang thường trú tại khu tập thể Nghĩa Tân.
Đối tượng mà người viết đề tài chọn khảo sát và trực tiếp phỏng vấn gồm năm
nhóm chính gồm đại diện cho những người thường xuyên truy cập internet, họ là những
HSSV, là các CBCNVC nhà nước, là các nhà quản lý, nhà khoa học, nhà giáo…
Qua thực tế khảo sát tại địa bàn ba quận, đặc biệt chú ý tới các tuyến phố tập
trung nhiều quán cafeinternet, điểm truy cập internet công cộng như phố Nghĩa Tân, phố
Tô Hiệu, đường Xuân Thủy (thuộc địa bàn quận Cầu Giấy), khu vực xung quanh trường
Đại học Ngoại thương và Học viện Quan hệ quốc tế (thuộc địa bàn quận Đống Đa) hai
bên đường Nguyễn Trãi đoạn từ Ngã Tư Sở đến đường Lương Thế Vinh, đường Vũ
Trọng Phụng, Nguyễn Huy Tưởng (quận Thanh Xuân) là nơi tập trung đối tượng sử dụng
chính là HSSV. Qua con số thống kê tại các điểm internet công cộng, kết quả cho thấy có
80,5% số người truy cập tại các điểm này là HSSV. Chỉ có 1/3 trong số là SV, còn lại là
đối tượng học sinh từ lớp 6 đến lớp 12 hoặc không còn đi học nhưng chưa có việc làm.
2.2.2. Nhóm người sử dụng internet là học sinh, sinh viên
Trong nhóm này, người viết đề tài chia làm hai nhóm nhỏ trong đó:
Nhóm 1: Là nhóm người sử dụng internet là học sinh ở tuổi vị thành niên (lứa
tuổi từ 13-17)
Khi điều tra về tình trạng truy cập internet trong học sinh (lứa tuổi dưới 18) thì
kết quả điều tra khiến cho người làm công tác quản lý văn hóa không khỏi trăn trở và
đáng cảnh báo với toàn xã hội. Thực tế có tới 95% số HS này vào mạng chỉ với mục đích
thư giãn, tán gẫu, nghe nhạc, trò chuyện (chủ yếu với người không quen), vào các trang
thần tượng… Các em hầu hết không ý thức được sự phong phú về tài nguyên trên internet
với những tiện ích phục vụ cho việc học hành, mà đơn thuần chỉ biết những tiện ích của
internet với các trò chơi hấp dẫn với hình ảnh và âm thanh sống động, internet là công cụ
để các em có cơ hội tìm hiểu hoặc giao lưu với các thần tượng của mình là các ca sĩ, diễn
viên được các em mến mộ. Thậm chí các em tốn rất nhiều thời gian vô bổ vào việc tán
gẫu với những người lạ trên mạng. Đối với các trang web nước ngoài, các em hoàn toàn
không có đủ vốn ngoại ngữ để đọc mà chủ yếu chỉ bị hấp dẫn bởi tranh ảnh. Chúng ta
biết rằng ngày nay xuất hiện càng ngày càng nhiều thư rác gửi đến tận hòm thư riêng của
từng người với các loại tranh ảnh đồi trụy trá hình núp dưới dạng tranh vẽ, hoạt hình.
Hiện nay có rất nhiều trang web mang những thông tin xấu được tung lên mạng một
cách tràn lan, thậm chí gửi đến tận hòm thư riêng của từng người. Nếu chỉ một lần vô tình
kích chuột vào những địa chỉ đó, người sử dụng có thể sẽ là thành viên bất đắc dĩ hoặc tự
nguyện với những trang web bẩn kiểu đó. Thường thì những trang này rất hấp dẫn, gợi trí tò
mò đối với những người truy cập mạng là thanh thiếu niên, cũng từ đây các em rất dễ bị
ảnh hưởng lối sống trụy lạc do sự nhận thức lệch lạc thông qua những trang web kiểu này.
Phỏng vấn sâu một số học sinh lớp 7 trường phổ thông cơ sở Lê Quý Đôn, một
trường nằm trên địa bàn quận Cầu giấy các em cho biết: "Mùa hè này em rất thích ra bể
bơi để được bơi vì em mới biết bơi nhưng nếu được bố mẹ cho chọn một trong hai hoặc
là đi bơi hoặc là lên mạng thì em sẽ chọn "lên mạng".
Qua khảo sát cho thấy, học sinh lớp 6 hầu như chưa được tiếp cận với loại hình
truyền thông này, bắt đầu từ lớp 7 bắt chước các anh chị lớp lớn, các em bắt đầu tự tạo
cho mình một hộp thư riêng và đầu tiên là liên lạc với bạn bè, cô giáo. Đến cấp 3 các em
mở rộng mối quan hệ hơn và xu hướng chung là làm quen với bất cứ ai trên mạng mà các
em gặp, không chọn lọc, chỉ thấy vui vui! hầu hết các em đều lấy tên giả, tự đặt cho mình
những "nickname" thật ấn tượng… ở lứa tuổi học sinh các em thường hành động theo xu
hướng của các nhân vật thần tượng trong truyện, phim hay trên các phương tiện thông tin
đại chúng khác mà các em đã từng được biết đến và hâm mộ. Các em vào mạng ngoài sự
thể hiện với các bạn trang lứa là mình là người "sành điệu", bắt kịp thời đại, biết chơi
nhiều trò game các em chưa hề có ý thức về mối lợi to lớn của internet mang lại cho con
người và tất nhiên không thể hiểu rằng đằng sau những trò chơi, phim ảnh trên mạng là
đầy rẫy những cạm bẫy và độc hại đang rình rập lứa tuổi mới lớn này.
Tại các địa điểm dịch vụ internet công cộng, tất cả việc trông nom là của chủ đại
lý, người không hoặc có ít trình độ chuyên môn về tin học và là người kinh doanh đơn
thuần với mục đích lợi nhuận là trên hết, họ ít quan tâm khách hàng vào trang nào mà chỉ
quan tâm đến thời lượng và thời gian mà khách hàng có nhu cầu truy cập internet để đáp
ứng kịp thời. Số khác cho biết, nếu có quan tâm cũng không thể kiểm soát được hết do
trình độ tin học của họ còn hạn chế. Ngoài ra, không ít người trong số họ sẵn sàng liên
doanh với các "chuyên gia" tin học để tải các phần mềm từ trên mạng về, tổ chức sao in
và bán với mục đích kinh doanh. Các phần mềm được họ tải từ mạng về với nội dung tốt
thì ít, chủ yếu là những thông tin không lành mạnh có liên quan đến sex và bạo lực hấp
dẫn trí tò mò của giới trẻ.
Quy mô của các địa điểm truy cập internet công cộng này thường rất chật chội,
thiếu ánh sáng, nóng bức và tất cả đều không có phương tiện phòng chống cháy nổ,
không có cửa thoát hiểm. Hệ thống máy lắp đặt bố trí tùy tiện làm cho ngành chức năng
khó bề kiểm soát nội dung thông tin, chưa kể một số chủ đại lý không có cả giấy phép
kinh doanh. Chủ đại lý thường tận dụng tối đa mặt bằng địa điểm để có thể đặt được càng
nhiều máy càng tốt, những cửa hàng đông lên tới 50 máy. Đa số những máy tính ở các
điểm truy nhập công cộng này đều là máy cũ, có cấu hình thấp nên mặc dù 100% cửa
hàng đều quảng cáo sử dụng ADSL nhưng tốc độ đường truyền vẫn chậm, chưa đáp ứng
nhu cầu tìm kiếm thông tin trên mạng của HSSV. Kích thước bàn máy các cửa hàng này
thường sử dụng là 60cm x 60cm hoặc 70cm x 60cm. Một kích thước rất khiêm tốn để có
thể tận dụng diện tích kê máy. Không khí trong phòng thì ngột ngạt bởi mùi khói thuốc,
một số điểm mới mở quảng cáo có ghế nệm và máy lạnh thì giá ngồi lên đến 7000đ/1h.
Đây là một giá quá cao so với mức thu nhập của HSSV. Thông thường dân "teen" thường
vào các phòng máy bình dân giá chỉ 2000 đến 3000đ/1h, ở đây các thượng đế "tuổi teen"
rất khoái lang thang trên các trang thần tượng hoặc "chat" vừa nhai kẹo cao su, sau đó bôi
bã kẹo ngay trên mặt ghế bởi mỗi "thượng đế" khi vào đây là để tự thưởng cho mình một
thế giới tự do riêng (xem ảnh phụ lục 4).
Một chủ đại lý trên đường Nghĩa Tân cho biết: số ít các cô cậu còn "tạm trú tạm
vắng", ở đây họ vào mạng cả ngày, ăn trưa ở đây luôn, ăn bánh ngọt, uống sữa ngay tại
chỗ và cũng xả rác tại chỗ. Các chủ đại lý cũng vì lợi nhuận mà đều làm ngơ với kiểu
sinh hoạt bừa bãi này vì họ cũng đã xác định "khách hàng là thượng đế" rồi! (xem ảnh
phụ lục 4). Như vậy, với thực trạng của việc truy cập internet tại các điểm công cộng như
trên, đã đến lúc cần thiết phải kêu gọi và xây dựng một môi trường văn hóa cho "cafenet"
nói riêng và một nền văn hóa mạng nói chung. Một xã hội thông tin, một môi trường mà
mỗi người khi tham gia đều phải là những người có lối sống, nếp sống văn hóa xứng
đáng với việc họ đang được tiếp cận với thành tựu văn minh của nhân loại. Có như vậy
họ mới có thể tiếp cận tích cực với những tinh hoa văn hóa, những tri thức của nhân loại
qua mạng, tự nhận thức và tránh được những thông tin do kẻ xấu lợi dụng tung lên mạng.
Một thực trạng đang diễn ra ngay trên địa bàn Thủ đô là dịch vụ "chat VIP" đây là dịch
vụ mại dâm trên mạng, được biết đối với những phòng chat đặc biệt này, mỗi máy tính
đều có gắn hệ thống camera riêng, tại đây các quý khách có nhu cầu mua dâm có thể
được "xem hàng" ngay tại chỗ, trên màn hình camera, nếu đồng ý họ lập cuộc hẹn ngay
trên mạng và cách hoạt động mại dâm này khá an toàn, che mắt được cơ quan an ninh.
Tất nhiên những phòng chat kiểu này chưa phổ biến ở Hà Nội. Tuy nhiên, đây cũng là
một thực trạng cần cảnh báo bởi vô tình internet trở thành "con dao hai lưỡi" tạo điều
kiện cho kẻ xấu lợi dụng để tuyên truyền và tổ chức các hoạt động vi phạm pháp luật.
ở lứa tuổi vị thành niên, học sinh từ 13 - 17 tuổi các em thường hay gặp những
khó khăn chính sau:
- Các em chưa có đủ nguồn tài chính để tự do truy cập internet theo ý thích của
mình do còn phụ thuộc hoàn toàn vào bố mẹ.
- Các em chưa được hướng dẫn, định hướng trong việc khai thác các trang tiện
ích phù hợp với lứa tuổi của mình.
- Thường bố mẹ chỉ cho các em vào mạng một thời gian nhất định, ngày nghỉ
cuối tuần và thời lượng cũng bị hạn chế, do vậy không thể đủ thời gian vào các trang sở
thích với tốc độ đường truyền internet vẫn còn rất chậm so với yêu cầu chung của người
truy cập.
- ở lứa tuổi học sinh, nếu có thời gian thì vốn ngoại ngữ của các em cũng chưa
cho phép các em tiếp cận các trang web tiện ích của nước ngoài, chủ yếu các em mới chỉ
dừng lại ở mức giao lưu bạn bè, xem ở rạp nào chiếu phim hay thì rủ bạn, nhóm bạn cùng
đi xem, hẹn hò đi chơi hay tham gia một số câu lạc bộ sở thích trên mạng hoặc trong
thành phố… Cá biệt có những em học sinh nam mới học lớp 7 đã lén lút trốn học để lên
mạng xem những "trang bẩn".
Nhóm 2: Là nhóm gồm những người sử dụng internet là HSSV (lứa tuổi từ 18
trở lên)
Qua các con số thống kê về tần suất truy cập các trang web và các câu hỏi về sở
thích được hỏi kể cả những thông tin do những người cho thuê dịch vụ cung cấp cho ta
một thực trạng chung về tình hình truy cập dịch vụ internet tại các điểm công cộng. Thực
chất, số người truy cập internet với mục đích tìm kiếm thông tin phục vụ cho công việc
học tập và nghiên cứu chiếm tỷ lệ rất thấp. Nếu có, chủ yếu rơi vào đối tượng là sinh viên
đang làm bài thi hoặc luận văn tốt nghiệp. Chúng ta có thể hình dung internet là một xa lộ
lớn mà mỗi web site là một ngôi nhà hay cửa hàng trên xa lộ đó, nhưng nó khác xa ở chỗ
internet không có quyền sở hữu trung tâm, như đã trình bày ở trên, nó không phải tài sản
của một tổ chức hay cá nhân cụ thể nào, mỗi web site được tạo ra bởi một hay một nhóm
người, nhưng hầu hết không ngăn cấm sự truy nhập của bất cứ đối tượng nào trên thế
giới.
Phần lớn thông tin trên internet đều miễn phí (free of charge) trừ một số sản
phẩm thương mại như: phần mềm máy tính, phim ảnh, tài liệu khoa học… Tính mở và
tình trạng không có sự kiểm soát tập trung là đặc trưng quan trọng của dịch vụ này, vì
vậy các cá nhân có thể hoàn toàn tự quyết định và lựa chọn cho mình những trang ưa
thích. Qua khảo sát điều tra thực tế tại các điểm dịch vụ internet công cộng, biểu đồ cho
thấy nhu cầu giao tiếp và trò chuyện trên mạng là rất cao so với các nhu cầu khác, đây
cũng là vấn đề chúng ta cần quan tâm giải quyết bởi mặt trái của việc trò chuyện tán gẫu
ảo trên mạng thực chất không mang lại lợi ích gì nhiều, thậm chí nhiều HSSV do nghiện
internet mà bỏ bê cả việc học hành.
Sau thể loại email và chat, các trang tin báo điện tử và trang âm nhạc cũng được
HSSV quan tâm nhiều, tuy nhiên nếu đi sâu vào thực tế chúng ta có thể thấy những ca
khúc, ban nhạc đang được HSSV quan tâm biết đến phần lớn là nhạc nước ngoài hoặc là
những ban nhạc thị trường với những ca khúc không hoặc rất ít mang ý nghĩa giáo dục.
Những ca khúc cách mạng đã được đưa lên khá nhiều trên các trang web tiếng Việt
nhưng chưa thực sự thu hút được sự chú ý của HSSV.
Đối với các web site về cơ quan, trường học số lượng HSSV quan tâm thấp hơn
20% số người được hỏi. Con số quá nhỏ như vậy cho chúng ta thấy thanh thiếu niên của
chúng ta chưa biết tận dụng khai thác tài nguyên của internet. Khi đi vào điều tra cụ thể,
tách riêng nhóm HS phổ thông thì trong số sinh viên có tới 61,4% lên mạng với mục đích
tìm kiếm tài liệu chuyên ngành, (như vậy nhóm đối tượng là học sinh không quan tâm
đến các trang web về cơ quan, trường học), 35% tham gia các diễn đàn, giao lưu trên
mạng, 35,5% đọc báo trực tuyến, số SV lên mạng để gửi và nhận thư điện tử chiếm đông
nhất: 80,9%. Cao điểm có những lúc người nghiên cứu đề tài này trực tiếp "mục sở thị"
thấy có đến 99% số người sử dụng internet trong một địa điểm "internet siêu tốc" nằm
ngay cạnh trường Cao đẳng Sư phạm Mẫu giáo Trung ương 1, trong tất cả các giờ cao
điểm 23/24 máy của cửa hàng đều say sưa với dịch vụ chat. Những cửa hàng có số lượng
khách chuyên "chit chat" như vậy thường nằm trong khu tập thể hoặc trường cao đẳng,
phổ thông trung học, phổ thông cơ sở. Đối với những cửa hàng quanh trường đại học thì
số lượng khách hàng là sinh viên tham gia đông hơn nên số lượng người vào các trang
tìm kiếm thông tin tài liệu phục vụ học tập hoặc tìm việc làm nhiều hơn dù mới chỉ là con
số khiêm tốn so với trang chat và email (80,9% và 61,4%).
Sở dĩ số HSSV lên mạng tìm kiếm thông tin phục vụ học tập nghiên cứu còn
thấp vì họ có những khó khăn nhất định, cụ thể là: Do vốn ngoại ngữ chưa cho phép,
nhưng ngay cả những trang web nội địa với phông (font) tiếng Việt họ cũng chẳng mấy
mặn mà trừ một số thời điểm đặc biệt như mùa thi để dùng vào việc tra cứu điểm hay tự
cộng điểm cho mình (đối với HS). Tuy nhiên, vẫn có số ít SV ngày nay đã bước đầu tự
tìm tòi học hỏi qua mạng và cũng đã gặt hái được những thành công nhất định. Bằng
chứng là, họ tham gia các diễn đàn (forum) thực sự nghiêm túc, tự trau dồi kiến thức
được học cũng như khả năng ngoại ngữ, tìm kiếm tài liệu phục vụ cho học tập.
" Em thường hay vào những trang web về luật của nước ngoài, xem danh mục tài
liệu, thấy tài liệu nào cần thiết cho việc học tập, nghiên cứu của mình thì em viết thư cho
họ để xin các tài liệu đó, hoàn toàn miễn
phí mà lại còn gửi đến tận hộp thư của mình nữa chứ!" (C.B Trường Đại học Luật).
Hay như V.H khoa CNTT - ĐHSP thì thổ lộ:"Em thường đặt newletters gửi đến hộp
thư cho mình những thông tin cập nhật về thông tin, ngành học của mình mà!"
Tự tìm cho mình những công việc tốt qua mạng cũng là mục đích của 31/220
sinh viên được hỏi, chiếm tỷ lệ 14,1%. Trong số họ lại có không ít người tự tìm được
những suất học bổng đáng tự hào ở các nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới. Đối
với công việc trong nước thì thông qua một số trang tìm việc là của Việt Nam như "Lao
động và việc làm" của VNN là một trang khá hữu ích cho sinh viên tìm việc làm.
Đến thời điểm này internet đã không còn xa lạ với HSSV nhất là tại địa bàn Thủ
đô, hơn ai hết internet đã hấp dẫn và giữ chân họ, trở thành một thói quen với đại bộ phận
HSSV Thủ đô. Với bản tính ham tìm tòi hiểu biết, muốn khám phá thế giới, một phần lớn
trong số họ đã và đang sử dụng internet như một công cụ hữu hiệu phục vụ học tập và hỗ
trợ đắc lực cho họ trong quá trình tìm kiếm việc làm. Tuy nhiên phần lớn nhất tham gia
internet chưa phải là phục vụ cho mục đích học tập. 80,9% trong số HSSV được điều tra
sử dụng dịch vụ gửi thư điện tử và chat cho suốt thời gian truy cập internet, chỉ 61,4%
trong tổng số SV thường xuyên truy cập internet vào mạng với mục đích tìm kiếm thông
tin chuyên ngành phục vụ học tập; 35,0% tham gia các diễn đàn và tán gẫu trên mạng.
Tuy nhiên, với con số 61,4% sinh viên lên mạng với mục đích tìm kiếm thông tin, tài liệu
phục vụ học tập nghiên cứu cũng là một con số khả quan, đáng mừng bởi vì, như vậy là
sinh viên Việt Nam cũng đã biết tận dụng khai thác nguồn tài nguyên quý giá của nhân
loại. Số ít sinh viên tham gia truy cập internet với mục đích để tải các chương trình phần
mềm có liên quan tới ngành học, số này không nhiều do phải có một trình độ tin học nhất
định. Một thống kê cho thấy con số này chiếm 40% đối với SV khoa tin trường ĐHSPHN
trong khi với SV khoa văn con số là 0%. Đối với dịch vụ chat và thư điện tử, số sinh viên
tham gia cao nhất trong tổng số SV truy cập internet thường xuyên, những người này vào
mạng chủ yếu chỉ để tán gẫu, nhận thiệp, thư ít mang tính chất học hỏi.
Bảng 2.1: Thống kê mục đích truy cập internet của HSSV Thủ đô
Đơn vị %
Mục đích Số lượng Tỷ lệ
Nhận và gửi thư, thiệp điện tử 178 80,9
Tìm kiếm thông tin chuyên ngành 135 61,4
78 35,5 Đọc báo, tạp chí
77 35,0 Tán gẫu, tham gia diễn đàn
36 16,4 Tải phần mềm
31 14,1 Tìm kiếm việc làm
19 8,6 Tìm kiếm thông tin liên quan đến giới tính
19 8,6 Tìm kiếm học bổng
16 7,3 Chơi trò chơi
1 0,5 Khác
89
80
45
35
30
23
19
220 100 Tổng số
100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0
Chat
Chuyªn ®Ò
Trang tin, b¸ o § T
Trang ©m nh¹ c
Trß ch¬i C¬ quan, tr- êng häc
Biểu đồ 2.1: Một số trang web được HSSV quan tâm
ở lứa tuổi HSSV (từ 18 trở lên) khi sử dụng internet thường gặp những khó khăn
sau:
- Tốc độ đường truyền còn chậm;
- Giá cước truy nhập còn cao;
- Trình ngoại ngữ chưa đáp ứng yêu cầu sử dụng;
- Trình độ tin học chưa đáp ứng yêu cầu sử dụng;
- Chưa biết cách tìm kiếm thông tin;
- Khó khăn trong việc sử dụng internet tại trường.
Sinh viên H.L khoa Kinh tế đối ngoại - Trường Đại học Ngoại thương cho biết:
"Tôi thường vào mạng sau 0h cho đỡ tốn. Nhiều lúc tôi thức tới 2-3 giờ sáng, hôm sau
dậy đầu óc rất mệt mỏi nhưng nghĩ đi nghĩ lại chẳng thấy mình thu được cái gì!".
Nhìn chung, HSSV gặp rất nhiều khó khăn khi kết nối mạng, thường thì các em
cùng phải chịu một số khó khăn mà nguyên nhân do khách quan như: tốc độ đường
truyền chậm, giá cước truy cập còn cao so với thu nhập, nhưng nguyên nhân chủ quan
vẫn là chính, nhất là HS do trình độ tin học ngoại ngữ hạn chế nhiều. Điều này làm giảm
hứng thú của họ và giảm hẳn hiệu quả trong quá trình khai thác thông tin trên internet, có
đến 63% số HSSV không hài lòng về tốc độ đường truyền quá chậm và hay bị tắc nghẽn.
Đây chính là yếu tố ảnh hưởng đến thời gian và thời lượng truy cập internet của HSSV.
Trong 1 tuần, nam HSSV vào mạng nhiều hơn nữ HSSV, điều kiện và sở thích hai giới này
cũng khác nhau. Điểm đáng chú ý là thời lượng truy cập của HSSV vào mạng chiếm khá
nhiều nhưng hiệu quả họ thu được không cao.
Bảng 2.2: Thời lượng truy cập internet của HSSV trong ngày
Dưới 1h 1-2h 3-4h 5h trở lên Thời lượng truy cập
30,9% 61,8% 5,5% 1,8% Tỷ lệ (%)
Thực tế khảo sát cho thấy rất nhiều HSSV chúng ta chưa biết cách khai thác, lấy
thông tin từ internet một cách hiệu quả, họ như bị lạc đường và tốn quá nhiều thời gian để
tìm kiếm. Như vậy, không thể nhìn vào lượng thời gian họ bỏ ra mà đánh giá được hiệu
quả của việc truy cập internet. Sau mỗi giờ tan học có 13,6% số HSSV tranh thủ lên
mạng, có 23,2% số người thường xuyên lên cố định vào những ngày nghỉ cuối tuần và
cũng như một thú vui giải trí, hầu hết thời gian rỗi họ dành cho việc vào internet (65,5%).
Còn lại 10% truy cập vào ban đêm. Riêng vấn đề này, đứng về góc độ quản lý văn hóa
chúng ta thấy rằng ngoại trừ một số ít trường hợp nối mạng tại nhà, vẫn có một lượng
không nhỏ là sinh viên đã chọn các điểm truy cập internet công cộng để vào mạng, đáng
lo ngại là phần lớn những "khách hàng" này truy cập về đêm vì nhu cầu giải trí, tán gẫu
hoặc xem các hình ảnh khiêu dâm. Còn những người thực sự dùng internet cho công việc
thì ban đêm là thời gian nghỉ ngơi. Đây là vấn đề mà nhà trường, xã hội và nhất là những
người làm công tác quản lý văn hóa đặc biệt quan tâm.
Bảng 2.3: Tỷ lệ phần trăm sinh viên chưa biết cách tìm kiếm thông tin
Công Môi Anh Toán Khoa Văn Du lịch Kinh tế nghệ trường văn tin
Tỷ lệ 62,5 15,0 20,0 38,7 42,3 25,0 32,0
Chưa biết cách tìm kiếm thông tin ở đây có thể được hiểu theo hai cách:
Cách thứ nhất: Có thể coi như sinh viên đó đã biết mình cần tìm cái gì, tìm kiếm
thông tin gì nhưng không biết làm cách nào để tìm ra thông tin đó, hay tìm kiếm không
sát mục đích. Như chúng ta đã biết số lượng trang web trên mạng internet hiện nay có thể
tính ở con số hàng triệu, rất nhiều trang web về cùng một vấn đề nhưng chất lượng nội
dung thì có độ chênh lệch khá lớn. Làm sao để tìm ra được thông tin mình đang cần một
cách chính xác nhất thì không phải là dễ nếu không biết cách tìm kiếm. Thông thường
người sử dụng trang web thường dùng một số trang công cụ để tìm như đã giới thiệu ở
chương 1, đó là các trang: http://WWW.google.com.vn hay
http://WWW.vinaseek.com.vn,http://wwwvietbig.com, http://wwwmsn.com Trong rất
nhiều trường hợp, sau mỗi một lệnh tìm kiếm, số nội dung trang web có nội tương tự có
tới hàng chục, hàng trăm. Để xem hết nội dung các trang vừa có được và sau đó lọc ra
được một vài trang có nội dung sát nhất là một việc khó. Đây là một khó khăn gây giảm
hiệu quả khai thác internet của sinh viên.
Theo cách hiểu thứ hai, SV chúng ta chưa có định hướng rõ ràng khi khai thác
thông tin. Còn nhiều SV lên mạng chỉ để giải trí, hoặc không có mục đích cụ thể. Họ
không nghĩ đến việc tìm kiếm thông tin trên mạng để phục vụ học tập và nghiên cứu.
Việc lên mạng đối với họ đơn giản chỉ để giết thời gian, tán gẫu hay giải trí. Họ vào bất
cứ trang web nào mà họ vô tình tìm thấy, và từ trang nọ nối sang trang kia, những người
lên mạng kiểu đó mất hàng vài giờ đồng hồ để lang thang trên mạng chỉ với mục đích
"dạo chơi" mà họ không mong mang lại lợi ích gì. Chính sự thiếu định hướng trong khai
thác internet như trên là một rào cản lớn làm giảm đáng kể hiệu quả thu nhận thông tin từ
internet của sinh viên.
Tóm lại, trong hầu hết các sinh viên được hỏi một cách ngẫu nhiên ở 7 khoa của
các trường đại học trên địa bàn khảo sát, cả chuyên và không chuyên ngành CNTT đều
công nhận có khó khăn trong việc sử dụng và khai thác hiệu quả sử dụng internet. Số sinh
viên trả lời không gặp khó khăn gì trong khi khai thác, sử dụng internet chỉ chiếm 2 trên
tổng số 337 người được hỏi, chiếm 0,9%. Với những khó khăn đã nêu trên về trình độ tin
học, ngoại ngữ, về lý do tài chính, về tốc độ đường truyền là chưa đủ mà lý do chưa biết
cách tìm kiếm thông tin cũng là một trong những lý do cần được quan tâm nghiên cứu và
cải thiện, giúp sinh viên có thêm cơ hội tiếp cận với kho tàng tri thức của nhân loại, tránh
được tình trạng thừa thông tin mà thiếu tri thức. Ngoài ra, ngay việc sử dụng internet tại
các trường sinh viên cũng gặp khó khăn. Qua điều tra cho thấy có 41,1% được hỏi trả lời
là đã sử dụng mạng internet trong trường, tuy nhiên đối với số sinh viên này, họ vẫn gặp
lắm khó khăn. Khó khăn lớn nhất là họ được dành quá ít thời gian vào mạng. Tới 77,4%
sinh viên có sử dụng mạng trong trường khẳng định điều này. Đây là khó khăn không dễ
khắc phục vì điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường chưa đáp ứng được hết nhu cầu của
sinh viên. Thông thường, một phòng máy của trường có khoảng 30 máy tính. Mỗi khoa,
ngành có từ 1 đến 2 phòng máy dành cho SV nối mạng. Như vậy tỷ lệ SV trên một máy
tính nối mạng là khá lớn.
Tại phòng máy truy cập internet miễn phí cho SV tại trường ĐHQGHN, mỗi sinh
viên chỉ được truy cập nhiều nhất 30 lần trong một học kỳ, thời gian mỗi lần truy cập chỉ
xấp xỉ từ 1 đến 2 giờ. Thời gian đó đối với SV thì không thể đủ để khai thác thông tin
chuyên ngành kể cả khi đã có đủ kỹ năng khai thác, nó chỉ đủ cho SV kiểm tra thư (check
mail) hay dạo qua một vòng các báo điện tử mà thôi. Đây là lý do buộc những SV thực sự
có nhu cầu phải truy cập tại những điểm công cộng.
Trả lời phỏng vấn sâu về thời gian truy cập mạng dành cho SV trong trường, sinh
viên C.V - ĐHQGHN cho biết:
"Với thời gian truy cập ở trường (miễn phí) chỉ là 1 tiếng đồng hồ, thực sự việc
đầu tiên là tôi phải kiểm tra và trả lời thư điện tử. Nguyên việc đó đã tốn ít nhất một nửa
thời gian vào mạng rồi. Thời gian còn lại chỉ điểm vài tờ tin điện tử mà thôi. Theo tôi,
nếu để tìm kiếm được thông tin chuyên ngành thì cần có một lượng thời gian truy cập dài
hơn vì việc này đòi hỏi thời gian tìm kiếm và chọn lọc thông tin phù hợp với mục đích".
2.2.3. Nhóm người sử dụng internet là cán bộ nghiên cứu, giảng dạy
Hà Nội là địa bàn cư trú và làm việc của nhiều cán bộ nghiên cứu và làm công
tác giảng dạy. Họ là những giảng viên các trường ĐH-CĐ, THCN, là cán bộ nghiên cứu
thuộc các vụ, viện. Tóm lại, họ là lực lượng trí thức nòng cốt đang hàng ngày hàng giờ nỗ
lực cống hiến chất xám của mình vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
bằng những đề tài nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ trong mọi lĩnh vực. Số
những người này chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn trong tổng số những người tham gia sử dụng
internet (khoảng 3,5%) nhưng qua khảo sát, điều tra cho thấy, tính ứng dụng của internet
trong lĩnh vực mà họ nghiên cứu là rất cao. Internet đối với họ thực sự vừa là công cụ đắc
lực vừa là môi trường thuận tiện nhất trong việc thực thi các dự án, đề tài khoa học hiệu
quả nhất.
Đối với đội ngũ làm thầy, internet giúp họ bắt kịp với tri thức của nhân loại, họ
có thêm nhiều cơ hội để trau dồi nghề nghiệp, làm giàu kiến thức chuyên ngành để truyền
đạt lại cho những lớp học trò của mình, thêm vào đó việc làm bài, chấm điểm hay nghiên
cứu đề tài của thày trò được cải thiện đáng kể. Cách giao tiếp và nghiên cứu của thày và
trò cũng thay đổi theo chiều hướng tích cực:
" Tôi biết, rất nhiều thầy giáo đã đưa giáo trình của mình lên mạng, các thầy đã
từ bỏ phấn bảng và dùng các phần mềm cho giảng dạy, hoặc nhận lời thắc mắc của học
sinh thông qua email và giải đáp rất cụ thể. Thầy tôi thường cung cấp các địa chỉ trang web
hoặc các Ebook để chúng tôi download về và tự đọc. Tôi thích nhất phong cách dạy của các
thầy trẻ- cho làm bài tập nhiều nên tha hồ thực hành trên máy. Hơn nữa chuyên môn cao
nên hỏi gì thầy cũng giải đáp được hết" (T.K- Khoa công nghệ ĐHQGHN).
"Trước đây tôi thường tốn rất nhiều thời gian và lên thư viện tra cứu vất vả, có
những đầu sách chuyên ngành phải kỳ cục tìm và gửi mua ở nước ngoài mang về, mỗi
đợt đi công tác nước ngoài là một cơ hội được gặp các bạn đồng nghiệp là những nhà
khoa học hoặc GS.TS họ mua hộ hay tặng vài quyển thì quý giá vô cùng. Bây giờ thì đơn
giản hơn nhiều, mình tha hồ liên lạc với họ bằng thư điện tử và họ sẵn sàng cung cấp cho
mình qua mạng. Trong nhiều trường hợp mình có thể tự download từ trên mạng với một
số kinh phí nào đó. Đời tôi làm công tác nghiên cứu mấy chục năm, không bao giờ tưởng
tượng có một ngày mình lại được làm việc, nghiên cứu bằng một công cụ văn minh tiên
tiến như vậy. Quả thật internet đã đem lại những lợi nhuận không tính được đối với
những người làm khoa học như chúng tôi, tri thức của nhân loại là vô giá và vô bờ bến,
chỉ có internet mới giúp được chúng tôi tiếp cận một cách hiệu quả nhất" (TS LBT - Viện
Nghiên cứu Kiến trúc).
Như vậy chúng ta có thể thấy hiệu quả của việc sử dụng internet phụ thuộc vào
trình độ và nhận thức của đối tượng tham gia sử dụng nó. Nhưng đối với hầu hết các
nhóm người sử dụng internet khi được nghiên cứu đều thừa nhận internet đã làm thay đổi
hẳn cách giao tiếp, ứng xử và cách làm việc thậm chí với những người thường xuyên sử
dụng thì internet đã làm thay đối cả thói quen sinh hoạt, ăn, ở, đi lại và lối sống của họ.
2.2.4. Nhóm người sử dụng internet là những nhà quản lý
Trong nhóm này, đối tượng khảo sát là những nhà quản lý cấp tỉnh, thành, trực
thuộc trung ương có trụ sở tại Hà Nội và một số cán bộ quản lý cấp quận, huyện của Hà
Nội.
Kết quả điều tra ở nhóm người này cho thấy: Trong tổng số 236 phiếu phát ra, có
tới 164 phiếu cho rằng internet đã được ứng dụng triệt để trong công tác quản lý, chỉ có
01 phiếu trả lời dùng internet phục vụ nhu cầu giải trí. Có 44 phiếu trả lời chưa từng sử
dụng internet bao giờ. Trong số 164 phiếu trả lời internet rất cần thiết trong công tác quản
lý thì chỉ có 72 phiếu trong số đó biết sử dụng hệ thống thông tin trợ giúp ra quyết định,
hệ thống thông tin tác nghiệp và thông tin quản lý. Con số thống kê đó nói lên thực trạng
việc ứng dụng internet vào công tác quản lý ở Thủ đô là chưa đạt hiệu quả cao. Đối với
những cán bộ dù đã thừa nhận internet là rất cần thiết trong quản lý cũng chưa đủ trình độ
vận dụng vào công việc chuyên môn của mình. Họ thường gặp những khó khăn do trình
độ ngoại ngữ và tin học chưa đáp ứng nhu cầu sử dụng. Rõ ràng đây là một hạn chế
không dễ khắc phục. Đối với những cán bộ quản lý cấp thành phố và Trung ương thường
có bộ phận thư ký văn phòng đầy đủ từ phiên dịch, biên dịch cho đến văn thư lưu trữ trợ
giúp, vị trí công tác khiến họ thường xuyên bận bịu với các cuộc họp, hội thảo và những
chuyến công tác vì vậy cũng dễ hiểu tại sao họ không thể dành nhiều thời gian cho những
công việc mang tính vi mô nhiều mà việc ứng dụng CNTT trong công việc của mỗi cá
nhân là một trong những công việc như vậy. Tuy nhiên đã có 1/3 số phiếu được hỏi có thể
sử dụng thành thạo những ứng dụng của internet trong công tác quản lý.
2.2.5. Nhóm người sử dụng internet là cán bộ, công nhân, viên chức
Đối với nhóm người là CBCNVC thì hầu hết thời gian truy cập của họ đều diễn
ra ở cơ quan, rất dễ hiểu vì hiện nay sử dụng internet riêng tại gia đình chưa phổ biến,
ngay cả tại Hà Nội, dễ hiểu là muốn có internet tại nhà cá nhân phải tự trang bị cho mình
một máy tính, một modem. Như vậy là kinh phí không hề nhỏ, thêm vào đó còn là tiền
thuê bao hàng tháng và còn nhiều chi phí khác khi cần nâng cấp thiết bị. Thế là đa số
CBCNVC thường tranh thủ vào mạng tại cơ quan với kinh phí do cơ quan chi trả, ở cơ
quan họ có thể thoải mái về thời gian hơn những đối tượng là HSSV do không lo phải
móc túi mình để trả tiền, do vậy thời lượng và tần suất tham gia truy cập internet của họ
cũng cao và đều đặn hơn các đối tượng khác.
Đối với CBCNVC, internet đã làm thay đổi hẳn phong cách làm việc của họ (tất
nhiên là đối với những cơ quan có sử dụng internet rộng rãi). Các chuyên viên có thể
ngồi ở phòng làm việc của mình để điều hành, xử lý thông tin hoặc tìm kiếm đối tác dễ
dàng. Internet như một công cụ hữu hiệu giúp họ trong chuyên môn và ngay trong lúc
giải trí. Đọc báo điện tử dường như đã trở thành thói quen của họ nếu trước đây là báo
viết. Thường mỗi công ty, cơ quan lại có một mạng LAN riêng, đây là mạng nội bộ giúp
cho những người cùng công ty có thể phối hợp công việc với nhau một cách hiệu quả, thư
điện tử đã thay thế dần thư bưu chính. Văn thư văn phòng không còn phải ngập đầu với
những công văn giấy tờ bởi họ đã có sự trợ giúp của cửa sổ outlook express hay các trang
giao dịch của yahoo. Những kỹ sư, cử nhân ngày nay dưới sự trợ giúp của internet có thể
trực tiếp gửi văn bản thẳng đến hòm thư của Giám đốc...
Tóm lại cả một phong cách làm việc mới được hình thành một cách tất yếu khi
có sự trợ giúp của internet. Phong cách đó có thể tạm gọi là "phong cách của xã hội thông
tin", nơi mà người ta thấy: "xưa rồi cái thời phải dài cổ để chờ công văn hay tài liệu đi
theo đường thư báo". Hội họp cũng giảm biết bao chi phí đi lại ăn ở bởi internet đã giúp
họ với dịch vụ truyền hình hội nghị trực tuyến... Chính hoạt động tích cực vào việc sử
dụng internet ở công sở cũng trực tiếp hoặc gián tiếp làm thay đổi các hoạt động như: ăn,
ở, đi lại, giao tiếp xã hội, internet cũng ảnh hưởng đến lối sống, nếp sống của họ. Hiện
nay nhóm đối tượng này ít thích gặp gỡ trực tiếp, mọi giao tiếp có xu hướng trực tuyến
trên mạng hơn là gặp mặt trực tiếp.
Qua khảo sát và phỏng vấn, kết quả cho thấy phần lớn CBCNVC truy cập mạng
thường với thói quen đọc báo, những trang báo điện tử phổ biến được họ quan tâm hay
đọc là: Báo Lao động điện tử, trang tin tức Việt Nam, trang vnexpress, báo Thanh niên,
Tuổi trẻ hoặc các trang web nội bộ... Các website của tạp chí Cộng sản, báo Nhân dân, Đài
tiếng nói Việt Nam, thông tấn xã Việt Nam… chưa được đối tượng này quan tâm nhiều.
Họ chủ yếu chỉ chú ý ở các mục "điểm tin" nổi bật trong ngày, những sự kiện "giật gân"
còn những trang mang tính giáo dục tư tưởng chưa lôi cuốn được họ.
2.3. ảnh hưởng của internet với đời sống văn hóa của người dân Thủ đô
2.3.1. ảnh hưởng đối với đời sống văn hóa vật chất
Chẳng phải riêng Thủ đô Hà Nội mà bất cứ một địa bàn nào, một quốc gia nào trên
thế giới khi tiếp cận với internet đều có sự thay đổi rõ rệt trong cuộc sống, sinh hoạt hàng
ngày. Mọi hoạt động đi lại, ăn, ở, sản xuất đều thay đổi ít nhiều phụ thuộc vào mức độ khai
thác và sử dụng hiệu quả internet của từng cá nhân hay từng nhóm xã hội. Những người sử
dụng internet ở Hà Nội hiện nay đã biết tận dụng tối đa những tiện ích của internet trong
cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Đối với phần lớn những người đã biết sử dụng internet
thì việc mua sắm và đi lại của họ được giảm thiểu rất nhiều. Internet giúp họ giải quyết
công việc mau lẹ mà mang lại hiệu quả cao.
Đối với các doanh nghiệp, internet giúp họ tác nghiệp để họ có thể bán hàng qua
mạng, giới thiệu các sản phẩm một cách sống động ngay trên mạng, việc quảng cáo có
hiệu quả đã thúc đẩy công việc kinh doanh của họ. Giúp họ nắm bắt thông tin kịp thời,
quyết định chiến lược kinh doanh của Công ty. Việc kinh doanh không chỉ bó hẹp trong
một phạm vi địa lý mà họ hoàn toàn có quyền quảng cáo và mở rộng mối quan hệ trong
phạm vi toàn cầu. Từ những việc lớn nhất tưởng chừng như không thể thực hiện được vì
khoảng cách địa lý thì ngày nay, internet giúp con người xóa nhòa khoảng cách địa lý,
giảm chi phí cho các hoạt động đi lại, trong tổ chức và quản lý đời sống cá nhân cũng
như gia đình và cộng đồng xã hội. Những dịch vụ tiện ích của internet đã đem lại những
lợi nhuận to lớn về vật chất cho những người sử dụng nó. Từ những cuộc hội thảo, họp
hành, hội nghị lớn, nhỏ cho tới những nhu cầu thiết yếu hàng ngày như một suất ăn trưa
đều có thể được đáp ứng kịp thời nếu bạn sử dụng internet. Tóm lại, trong đời sống sinh
hoạt hàng ngày, mọi người tham gia internet đều có cơ hội thu lợi do những tiện ích mà
internet mang lại.
HSSV hoàn toàn có thể vào mạng để tìm đọc hoặc tải phần mềm về phục vụ cho
việc học tập, thay vì việc lên thư viện tra cứu vất vả. Cơ hội làm thêm hay việc làm sau
khi ra trường họ đều có thể tìm trên mạng. Trong thực tế đã có khá nhiều SV tìm việc
trong dịp hè qua mạng, khi ra trường họ cũng đăng ký tìm việc và nhiều người đã có việc
làm nhờ internet. Đối với HSSV thì các thông tin về tuyển sinh, cơ hội việc làm là điều
được đặc biệt quan tâm mà nếu muốn có, họ thường phải qua các văn phòng tư vấn với
một khoản lệ phí nhất định, từ khi sử dụng internet, chỉ với giá vài ngàn đồng cho một
giờ truy cập họ có thể có trong tay vài chục địa chỉ có thể đem lại cơ hội việc làm. Đối
với người làm công tác quản lý hay nghiên cứu cũng vậy, internet là kho tài nguyên vô
giá mang lại cho họ lượng tri thức khổng lồ của nhân loại, việc mua một cuốn sách quý
mới xuất bản tại nước ngoài hoàn toàn là điều có thể nhờ internet.
Với những nhà kinh doanh thì việc thu lợi từ những dịch vụ của internet có thể
nhìn thấy rõ hơn. Tất cả những sản phẩm của công ty một khi đã được đưa lên trang web
đồng nghĩa với việc họ có cơ hội có thêm hàng ngàn vạn khách hàng trên toàn thế giới,
mở ra cho họ một cơ hội kinh doanh chuyên nghiệp hơn trong một thế giới mới với
những thông tin thường xuyên thay đổi và cập nhật…
Phỏng vấn sâu một số người làm công tác kinh doanh được biết: Giao dịch bằng
điện thoại nhất là trong giao dịch quốc tế thì tính an toàn không cao bằng giao dịch bằng
thư điện tử chưa kể đến việc chi trả cho một cuộc điện thoại quốc tế cao hơn nhiều lần
đối khi so sánh với việc gửi một lá thư điện tử. L.B - Trưởng phòng kinh doanh, Công ty
Viễn thông quốc tế cho biết:
"Công việc chuyên môn của tôi đòi hỏi đối tác phải có xác nhận trở lại đầy đủ
trong các thỏa thuận, vì vậy không thể chỉ nói trên điện thoại. Trong nhiều trường hợp
chúng tôi chỉ dùng điện thoại để thông báo không chính thức, chủ yếu mọi giao dịch
trong kinh doanh hoàn toàn thực hiện trên mạng internet và mạng LAN của Công ty".
Tóm lại, trong đời sống vật chất, internet thâm nhập sâu vào tất cả mọi lĩnh vực
của người dân Thủ đô. Tùy theo mỗi ngành nghề khác nhau mà người sử dụng internet sẽ
tự tìm cho mình những lợi ích khác nhau.
2.3.2. ảnh hưởng đối với đời sống văn hóa tinh thần
Cũng chính khả năng xóa nhòa khoảng cách địa lý giữa tất cả các vùng miền trên
thế giới mà internet cũng đã mang lại cho người Hà Nội cơ hội giao lưu với các nền văn
minh trên thế giới. Với hàng triệu file từ các cuốn sách, các tập thi ca, các tác phẩm nghệ
thuật… internet là một môi trường giải trí và thưởng thức nghệ thuật với giá cả rẻ nhất và
chất lượng về âm thanh, hình ảnh sống động thu hút sự chú ý của mọi lứa tuổi.
Chỉ riêng những trang web trong nước cũng đã có thể đếm tới hàng trăm trang có
góc thư giãn, nghệ thuật phục vụ người xem và nghe. Vì vậy văn hóa đọc, văn hóa nghe,
nhìn đã thay đổi rất nhiều kể từ khi xuất hiện internet ở Thủ đô. Cách thức thu nhận
thông tin của người dân Thủ đô cũng thay đổi. Việc thể hiện các giá trị chuẩn mực định
hướng trong lối sống, phong tục tập quán cũng như trong các ứng xử khác cũng ảnh
hưởng. Người ta có hoàn toàn có thể đọc, nghe, xem và học trực tuyến. Internet cũng cho
ta cơ hội du lịch đến tất cả mọi địa chỉ mà ta yêu thích. Các cơ hội giao lưu văn hóa hoàn
toàn mở rộng với tất cả mọi người. Các thiết chế văn hóa không còn thu hút người đến
xem và tham gia nhiều như những năm trước 1997 nữa. HSSV giao lưu với nhau họ
thường hẹn hò trên mạng, gửi thiếp chúc mừng cũng qua mạng. Trước kia, khi chưa có
internet họ tìm đến nhau và sinh hoạt văn nghệ, đàn hát với cây đàn sinh viên, làm thơ
tặng nhau vì sinh viên chỉ có tinh thần và nhiệt tình tuổi trẻ, họ sôi nổi và nhiệt tình trong
các công tác xã hội và hoạt động ngoại khóa, ngoài giờ học, giờ nghỉ họ lên thư viện để
tra cứu… tất cả những thói quen ấy giờ đây đã bị internet chi phối nhiều.
CBCNVC sau giờ hành chính ở công sở về đã có không ít người thưa dần thói
quen rẽ vào cửa hàng mua một tờ báo trong ngày để đọc. Ngoài ti vi, họ đã cập nhật
thông tin mỗi buổi sáng tại cơ quan nhờ truy cập mạng internet. Thời gian rỗi cuối tuần
họ giảm dần thói quen đi thăm hỏi bạn bè, người thân như những năm xưa. CNTT đã
giúp họ ngoài điện thoại là internet, người ta có thể thường xuyên gặp nhau và trò chuyện
trên mạng nên tần xuất của việc thăm hỏi tại nhà cũng giảm đáng kể.
Người Hà Nội đang quen với khái niệm về một xã hội thông tin đã hình thành và
mọi hành vi giao tiếp cũng theo đó thay đổi dần dù chậm hơn so với tốc độ phát triển
nhanh chóng của CNTT. Sự thay đổi trong đời sống văn hóa tinh thần của người Hà Nội
có thể thấy rõ nhất ở lứa tuổi HSSV, là lứa tuổi ham tìm hiểu, khám phá cái mới, internet
đã cho họ một cơ hội thâm nhập vào một xã hội ảo và đã giữ chân họ bằng những trang
web hấp dẫn. Tại đây mở ra cho họ những cơ hội giao lưu, kết bạn, học tập, thư giãn và
cả những cơ hội việc làm tốt đẹp.
Văn hóa đọc từng là sở thích cổ điển của nhiều tầng lớp xã hội, nhất là thanh
niên. Đọc có tác dụng to lớn, không chỉ đối với trí tuệ và việc thu nhận thông tin, mà cả
đối với sức khỏe con người. Thế mà hiện nay trừ nhóm người làm công tác nghiên cứu,
giảng dạy, một bộ phận lớn cư dân trên địa bàn Hà Nội đang có xu hướng giảm việc đọc
sách, báo. Nếu có thì chỉ là những sách báo mang tính chất giải trí với những sách báo
đời thường, thông tin cụ thể, tính giải trí cao, không đòi hỏi phải nghiền ngẫm, suy nghĩ
nhiều. Còn những sách báo mang tính văn học cao (Văn nghệ), tính khoa học (Khoa học
và đời sống), thông tin có tính xã hội khái quát (Lao động), hoặc thông tin chính trị - xã
hội (Nhân dân) chưa dành được sự chú ý đáng kể của họ. Hiện nay các phương tiện thông
tin đại chúng và dịch vụ nghe nhìn đang phát triển mạnh, tạo thành một thị trường sản
phẩm phong phú và đa dạng, đó là những hoạt động giải trí có thể hoàn toàn thực hiện tại
chỗ: trong gia đình, trong công sở, ngay gần nơi cư trú mà chỉ cần có một máy tính nối
mạng! Đồng thời với sự phát triển của loại hình giải trí này, những hoạt động văn hóa tại
các thiết chế văn hóa (nhà văn hóa, rạp chiếu phim) sáng tạo nghệ thuật không chuyên
(câu lạc bộ sở thích) ngày càng ít được thực hiện [4].
Lại nói về văn hóa viết: Đơn cử ngay việc sử dụng dịch vụ thư
điện tử của chúng ta hàng ngày cũng đang dần làm mất đi sự trong sáng
của tiếng Việt mà không mấy ai nhận thấy, bởi trong xã hội thông tin như ngày nay, ngôn
từ, câu chữ trong giao tiếp không còn được chú trọng lắm khi dùng email, thường người
dùng hay có thói quen gõ tiếng Việt không dấu, câu chữ thì đơn giản, viết tắt… Nếu xét
cho kỹ chúng ta có thể thấy phải chăng đó là mặt trái của internet, là một nguy cơ đáng
quan ngại đến sự trong sáng, tinh tế trong ngôn ngữ của người Việt. Hàng loạt các thói
quen trong đời sống sinh hoạt đã và đang thay đổi từ khi xuất hiện dịch
vụ internet.
Bảng 2.4: So sánh về mức độ sử dụng thời gian rỗi
của các nhóm xã hội tiêu biểu trước khi chưa sử dụng internet
và từ khi bắt đầu tham gia sử dụng internet
Đơn vị tính: %
Thăm hỏi Đi Đến Các hoạt động Nghỉ bạn bè, tham Đi rạp hát, Chơi trong thời gian ngơi tại mua sắm thể thao người quan, du chiếu rỗi nhà thân lịch bóng
Khi chưa biết 30,5 15,2 19 10,4 10,6 14,3 có internet
Từ khi biết và
tham gia sử 0,5 25,5 35,3 0,2 0,7 37,8
dụng internet
Nghiên cứu bảng thống kê trên chúng ta có thể thấy rõ sự ảnh hưởng của internet
đối với đời sống văn hóa tinh thần của người dân Thủ đô Hà Nội.
Nghiên cứu biểu đồ dưới đây cho phép chúng ta nhìn rõ ảnh hưởng trực tiếp của
internet trong việc thu nhận thông tin hàng ngày của từng nhóm tiêu biểu tại Hà Nội.
Internet đã làm thay đổi cách thức thu nhận thông tin truyền thống là báo viết và báo
hình. Ngày nay báo điện tử đã trở nên thân thuộc và tiện lợi hơn. Đối với một số nhóm
như nhóm CBCNVC thì dường như báo điện tử đã thay thế báo viết. Sau nhóm
CBCNVC là nhóm cán bộ nghiên cứu, quản lý.
Tại Thủ đô Hà Nội có thể nói chúng ta đang sống trong một xã hội thông tin,
internet được phục vụ ngay trong từng ngõ nhỏ của Hà Nội. Trên các tuyến phố tập trung
nhiều trường đại học, gần như tuần nào cũng có cửa hàng "net" được khai trương. Điều
đó nói lên nhu cầu cập nhật thông tin và sử dụng internet của người dân Thủ đô ngày
càng cao.
75
60
50
30
25
25
20
20
20
15
15
10
10
10
10
5
80 70 60 50 40 30 20 10 0
HSSV
CB qu¶n lý
CBCNVC
CB nghiªn cøu, gi¶ng d¹ y
Qua § µi tiÕng nãi ViÖt Nam Trªn internet
Qua c¸ c tê b¸ o viÕt ra hµng ngµy C¸ c h×nh thøc kh¸ c
Biểu đồ 2.2: Các hình thức thu nhận thông tin của của một số nhóm xã hội
(Đơn vị tính: %)
Thói quen sử dụng thời gian rỗi cũng thay đổi nhiều từ khi có sử dụng internet,
thời gian dành cho thăm hỏi và các hoạt động ngoài trời giảm hẳn ở tất cả các nhóm.
Đối với nhóm HSSV, chủ yếu dành thời gian rỗi để vào mạng. Nghiên cứu biểu
đồ dưới đây chúng ta có thể thấy thời gian rỗi của nhóm HSSV hầu hết dành cho việc vào
internet, nhóm này không dành thời gian cho việc nghỉ ngơi tại nhà.
Đối với lứa tuổi học sinh (từ 13 đến 17) các em hay tìm đến những trò chơi trên
mạng vì tính hấp dẫn của các trò chơi này.
Đối với nhóm là CBCNVC phần lớn muốn dành thời gian rỗi để nghỉ ngơi tại
nhà thay vì thói quen thăm hỏi người thân hay tham gia các hoạt động văn hóa ngoài trời.
Hầu hết tất cả các nhóm đều có xu hướng ít gặp gỡ trực tiếp hơn, ngoài việc phát huy thế
mạnh của chiếc điện thoại họ thích sử dụng internet vì giá thành rẻ hơn hẳn dùng điện
thoại để giao dịch.
Riêng nhóm người là cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy vẫn còn giữ
thói quen nghe đài và đọc sách báo như trước. Tuy nhiên những người này cũng đang sử
dụng internet rất hiệu quả trong công tác chuyên môn của họ.
Tóm lại, đối với đời sống văn hóa tinh thần, các hoạt động chính trị, giáo dục,
nghệ thuật, lối sống… đang thay đổi từng ngày trong tất cả các nhóm được nghiên cứu,
70
65
60
50
50
40
40
31
30
30
23
20
20
20
20
20
10
10
10
10
10
10
9
7
10
5
0
0
§ i du lÞch
Vµo internet
Th¨ m hái ng- êi th©n
NghØ ng¬i t¹ i nhµ
Tham gia c¸ c ho¹ t ®éng ngoµi trêi
HSSV CB nghiªn cøu, gi¶ng d¹ y CB qu¶n lý CBCNVC
tuy nhiên mức độ ảnh hưởng là hoàn toàn khác nhau.
Biểu đồ 2.3: Thực trạng sử dụng thời gian rỗi của của một số nhóm xã hội
(Đơn vị tính: %)
2.3.3. ảnh hưởng tích cực
Phải thừa nhận rằng, sự hòa nhập với một siêu mạng quốc tế như internet đã có
ảnh hưởng khá tích cực đến đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội. Ban đầu, thực chất nó chỉ
là phương tiện tham khảo cũng như quảng cáo cho chính giới CNTT Việt Nam, nhưng
ngày nay, nó thực sự là nguồn lợi, là mối quan tâm của toàn xã hội. Người ta sẽ cảm thấy
rất khó khăn và kém thuyết phục khi làm việc với một đối tác mà không có email, không
phải vì tính thời thượng mà là vì lợi ích kinh tế, thuận tiện, nhanh chóng và tin cậy khi
trao đổi thông tin qua internet.
Tham gia internet mọi người không còn khoảng cách về không gian và thời gian
hay sự khác biệt địa lý giữa các vùng miền. Tham gia vào internet chỉ có những ký hiệu
định vị thống nhất trên phạm vi toàn cầu, khái niệm ngày đêm không tồn tại trên thế giới
bởi lúc này, khi mọi người ở đây đang chìm trong giấc ngủ thì nơi nào đó, ở nửa còn lại
trên trái đất, mặt trời vẫn đang tỏa sáng.
Nhưng lợi ích chính của internet không chỉ là sự kết nối, vấn đề chính là ở lượng
thông tin mà nó đem lại cho con người. Những thông tin đó giúp cho các quốc gia có cơ
hội cải thiện sự giao lưu văn hóa, hiểu biết lẫn nhau và đương nhiên nhờ đó đẩy nhanh
quá trình phát triển kinh tế thương mại bởi chính văn hóa là nền tảng và động lực để phát
triển kinh tế.
Trong giáo dục, internet hỗ trợ đắc lực cho thày và trò trong quá trình giảng dạy
và học qua hệ thống thông tin sẵn có trong máy chủ, do có điều kiện tiếp thu và nhạy bén
với thực tế cùng với sự trợ giúp của internet, nhiều sinh viên đã mạnh dạn đề xuất những
giải pháp kinh tế, kỹ thuật, quản lý doanh nghiệp và phát triển các dịch vụ trong lĩnh vực
CNTT mang tính khả thi cao. Mặt tích cực của việc truy cập mạng internet của HSSV có
thể dễ dàng nhận thấy như:
- Giúp HSSV tiếp cận CNTT, làm chủ kiến thức khoa học tiên tiến, đáp ứng đòi
hỏi khách quan ngày càng nâng cao của xã hội
- Rèn luyện kỹ năng làm việc với các phương tiện hiện đại, kỹ năng xử lý những
tình huống thường gặp của một phương thức lao động trong tương lai.
- Hình thành thói quen giao tiếp hiện đại với khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ
một cách ngắn gọn, chuẩn xác khi thiếu vắng sự trợ giúp của các phương tiện khác (ví dụ
như ngôn ngữ hình thể) [4].
Trong văn hóa, internet là cầu nối Việt Nam với thế giới, giúp người Việt Nam có
cơ hội tiếp cận với các nền văn minh thế giới, giới thiệu với bạn bè thế giới biết đến một
Việt Nam với những bản sắc riêng qua các trang web của Bộ Văn hóa Thông tin, ví dụ:
mạng CINET, mạng Phương Nam của Trung tâm Hội chợ triển lãm, VNN, FPT, Thông
tấn xã Việt Nam, Tổng cục Du lịch, báo Nhân dân, Trung tâm thông tin Bưu điện.
Trong lĩnh vực đối ngoại, các trang tin tức thời sự hàng ngày bằng tiếng Anh;
http://vietnamnew.vnagency.com, mạng thông tin thương mại, thị trường Việt Nam;
http://www.vitranet.com.vn … các trang giới thiệu về nhà nước và tổ chức của Việt Nam
như: Đảng Cộng sản Việt Nam, trang của các Bộ, Ban, ngành, các đơn vị hành chính
quốc gia…
Trong lĩnh vực kinh tế thương mại, hàng loạt các trang như: Các đề án nghiên
cứu thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp, tiếp thị trên internet, xúc tiến thương mại trực tuyến,
các trang ngân hàng tài chính, chứng khoán, trang về giáo dục đào tạo… ngày càng được
xây dựng nhiều với chất lượng khá tốt đã đáp ứng kịp nhu cầu trong nước và thế giới.
Một số trang web của Việt Nam đã được lọt vào tốp những trang web toàn cầu. Chính
nhờ sự phát triển nhanh chóng của mạng internet chúng ta có thêm điều kiện thuận lợi để
có thể đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa, toàn cầu hóa, đi đúng xu thế của thời đại và cũng
đúng với quan điểm lãnh đạo của Đảng là: "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước".
2.3.4. ảnh hưởng tiêu cực
Về mặt văn hóa - xã hội, internet đem lại cơ hội ngang bằng thông tin cho con
người trên khắp hành tinh, nó mở ra những mối liên hệ mới, cơ hội hội nhập và chuyển
giao văn hóa giữa các vùng miền, quốc gia khác nhau. Internet rút ngắn khoảng cách
không gian giữa người với người, giữa nhà cầm quyền với công chúng, giữa các tổ chức
doanh nghiệp với các thành viên... Vấn đề đặt ra là nguồn thông tin trên mạng có lành
mạnh hay không và nhà nước có khả năng ngăn chặn, kiểm soát hay không? Đây là câu
hỏi đặt ra cho các nhà quản lý vì "lần đầu tiên thế hệ lớn tuổi phải đương đầu với một kỹ
thuật mới để ngăn chặn sự đầu độc thế hệ trẻ trong lúc họ lại không tinh thông bằng chính
lớp trẻ" (Theo báo Sinh viên Việt Nam, số 14 năm 2000).
Người ta cũng lên tiếng cảnh báo về một xã hội công nghiệp cô đơn, các cá nhân
bận rộn nhưng ngồi một chỗ vẫn có thể nắm được thông tin của cả thế giới, con người trở
nên ngại giao tiếp trực tiếp với nhau, thay vào đó, họ liên hệ với nhau qua internet và vì
thế họ thường giấu đi bộ mặt thật của mình. Đồng thời xuất hiện một chứng bệnh mới:
Bệnh nghiện internet (internetmania) buộc xã hội phải quan tâm.
Internet đã làm thay đổi hẳn khái niệm tự do thông tin, một vấn đề mà bất cứ một
quốc gia nào cũng phải đối mặt cùng lúc với sự phát triển như vũ bão của CNTT là chủ
nghĩa khủng bố, bạo lực và nạn cờ bạc, rửa tiền được đăng tải tràn lan trên inetrnet. Điều
đáng quan tâm nhất đối với chúng ta là những ảnh hưởng tiêu cực của internet đối với lớp
trẻ trong tương lai. Hiện tại nền văn hóa của chúng ta mỗi ngày vô tình đang bị mai một
dần, những dấu ấn của bản sắc bị mờ nhạt sau những trang web độc hại với hình thức hấp
dẫn nhưng không mấy ai nhận thấy bởi nó hết sức tinh vi và khó định lượng, định tính.
Một thực tế là bên cạnh những HSSV, CBCNVC đã ngày một hoàn thiện kiến thức của
mình, làm chủ CNTT, khai thác tài nguyên trên mạng vẫn còn nhiều người chưa biết cách
khai thác hoặc không đủ trình độ văn hóa và kỹ năng cần thiết để khai thác thông tin trên
internet. Đọc báo điện tử, tải phần mềm phục vụ chuyên môn chiếm một con số khiêm
tốn: 35%. Có tới 20% số người được hỏi chỉ vào internet đơn thuần để "shopping"(mua
bán) hoặc "relax" (thư giãn). Như vậy có thể làm một phép tính nhẩm nhanh với số khiêm
tốn 3% CBCNVC khi lên mạng thường quan tâm đến các trang web sex cũng có thể thấy
số tiền nhà nước phải trả cho những trang web đen kiểu này không hề nhỏ. Đó là chưa kể
đến những ảnh hưởng xấu về tư tưởng, lối sống đến từng cá nhân đó.
Đối với các điểm truy cập internet công cộng cũng được phát triển một cách tự
phát theo kiểu "trăm hoa đua nở", thiếu sự kiểm soát chặt chẽ của các cấp quản lý. Khách
hàng chủ yếu của những điểm dịch vụ này hầu hết là HSSV. Có thể nói đây là thời kỳ
phát triển hưng thịnh của loại dịch vụ này. Như một mốt giải trí thời thượng của thanh
niên. Ký tự @ được họ coi như biểu tượng của sự sành điệu, của một thế hệ hiện đại và
nhanh nhạy, bắt kịp bước với thời đại.
Bên cạnh những mặt tích cực mà internet mang lại, chúng ta dễ dàng thấy một
điều: Dịch vụ internet chưa được kiểm soát chặt chẽ, nhiều địa điểm kinh doanh internet
để cho khách hàng thoải mái truy cập vào các trang web đen, mang những nội dung tư
tưởng phản động, đồi trụy… Những cơ sở kinh doanh này còn ngang nhiên sao in, phát
tán những trang web có nội dung xấu, kích động bạo lực, dâm ô phát tán trong giới trẻ…
gây những phản ứng, hành vi xấu trong lớp lứa tuổi HSSV. Internet có những tác động
tiêu cực có thể thấy rõ như sau:
- Chi phí lớn về kinh phí: Đối với HSSV chi phí cho các hình thức giải trí trên
mạng quá nhiều, quá lạm dụng, gây tốn phí cho gia đình, tăng thêm gánh nặng chu cấp
của gia đình.
- Hao phí về thời gian: Vì quá say mê hình thức giải trí này, không ít thanh thiếu
niên đã bỏ bê học hành, dành quá nhiều thời gian cho chiếc máy tính nối mạng.
- Tiếp xúc với những thông tin độc hại trên mạng: Như đã đề cập ở phần trên,
nhiều HSSV đã vô tình hoặc hữu ý truy cập những trang web có nội dung xấu (phổ biến
nhất là những hình ảnh khiêu dâm) hoặc thường xuyên phải nhận chúng qua địa chỉ email
của mình khi sử dụng dịch vụ miễn phí của Hotmail.com, yahoo.com. Trong khi cuộc đấu
tranh chống văn hóa phẩm đen còn đang gay cấn thì internet lại mở thêm một "ngả
đường" cho những thông tin độc hại thâm nhập và tác động trực tiếp, đầu độc thế hệ trẻ
của chúng ta.
- Ngoài ra là hậu quả của những mối quan hệ ảo: không ít thanh niên đã quá tin
tưởng vào những quan hệ ảo trên mạng, coi đó là những quan hệ thực trong cuộc sống
nên đã bị lừa dối, lường gạt. thậm chí báo chí đã lên tiếng về một số trường hợp nữ thanh
niên bị lạm dụng tình dục, cưỡng đoạt thân thể bởi những đối tượng họ quen qua mạng
[4].
Trong khảo sát điều tra, người viết ghi nhận được số sinh viên lên mạng để tham
gia vào các trang web có liên quan tới giới tính (sex) là 8,6%. Đây là mục đích được sinh
viên nam quan tâm nhiều hơn gấp 6 lần so với sinh viên nữ (7,27% và 1,36% tổng số).
Điều này cho thấy sinh viên nam bị cuốn hút hấp dẫn bởi các tranh ảnh, tài liệu về giới
tính và đây cũng là một cách giải trí của nam sinh viên. Đối với trang trò chơi trên mạng
thì số thanh thiếu niên là nam cũng chiếm tỷ lệ cao hơn nữ (4,55% và 2,73%). Đây chính
là một góc tối của dịch vụ internet, khi thanh thiếu niên truy cập vào những trang này thì
hiệu ứng trở lại tiêu cực nhiều hơn tích cực bởi tính kích động và phi giáo dục của những
trang web kiểu này, đặc biệt là rất nhiều trang chỉ đơn thuần mang tính khiêu dâm, kích
thích trí tò mò của giới trẻ khiến những em còn đang tuổi vị thành niên cũng háo hức
muốn thử làm người lớn ngay với chính những người bạn học, bạn chat với mình. Đây
cũng chính là một trong những nguyên nhân chính gây ra tỷ lệ nạo phá thai ở tuổi vị
thành niên ngày càng gia tăng ở Việt Nam.
Trên đây là thực trạng sử dụng internet trên địa bàn thành phố Hà Nội. Chúng ta
có thể thấy internet đã trở nên quen thuộc với đại bộ phận dân cư của Thủ đô. Internet đã
có mặt trong từng ngõ nhỏ và đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu của đại bộ phận
HSSV, các nhà quản lý, CBCNVC… internet đã và đang đóng một vai trò quan trọng
trong việc phát triển nền kinh tế đất nước. Bên cạnh những lợi ích kinh tế, internet đã ảnh
hưởng trực tiếp tới đời sống văn hóa của cư dân Thủ đô. Hàng loạt những thói quen
dường như đang bị thay đổi. Sự thay đổi ấy biểu hiện ở cả hai mặt: Tích cực và tiêu cực.
Tóm lại, con người của xã hội thông tin ngày nay ngày càng ít quan tâm đến
những hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng ngoài trời, thời gian đến rạp chiếu bóng
giảm hơn trước, việc thăm hỏi lẫn nhau, đọc sách, báo dường như cũng giảm đi từ khi có
sự trợ giúp hữu hiệu của internet… Internet cho ta kho tàng kiến thức vô tận, cho ta cơ
hội giao lưu với nhiều nền văn hóa ở các vùng miền khác nhau mà ở đó, không phải cái
gì tốt với họ đã là tốt và phù hợp với ta, nghĩa là đòi hỏi một sự nhận thức đúng đắn,
đứng trên quan điểm phát triển văn hóa của Đảng và nhà nước để có thể tiếp thu những
tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Cùng với cơ hội để hòa nhập thì đồng thời chúng ta đứng trước một thách thức
mà internet mang lại đó là mặt trái, là mảng tối mà các cơ quan chức năng cần kiểm soát,
hướng dẫn để mọi người có một bộ lọc tốt đối với internet. Họ trở thành những công dân
tự do, tự giác, văn minh. Biết làm giàu mình một cách trí tuệ, thông minh, đồng thời cũng
biết tự bảo vệ mình trước những ảnh hưởng của những thông tin độc hại trên mạng. Đó
chính là biện chứng của cuộc sống, là sứ mệnh cao cả đầy vẻ vang và cũng đầy thách
thức của chúng ta.
Chương 3
dự báo xu hướng và một số giải pháp nhằm góp phần phát huy hiệu quả của việc sử
dụng internet
trong đời sống văn hóa của nhân dân Thủ đô
Sau nghị định 55/2001/NĐ-CP của Chính phủ về việc "Quản lý, cung cấp và sử
dụng dịch vụ internet". Ngày 29/1/2004 Bộ Công an đã có quyết định số 71/2004/QĐ-
BCA quy định về "Bảo đảm an toàn an ninh trong hoạt động quản lý cung cấp, sử dụng
dịch vụ internet tại Việt Nam". Mới đây nhất, ngày 19/7/2004 Bộ Bưu chính - Viễn thông
cũng vừa có chỉ thị về tăng cường công tác quản lý internet công cộng. Nhưng CNTT
phát triển như vũ bão, bọn tin tặc ngày càng tinh vi, đã tạo điều kiện để cho hàng vạn biệt
danh, trang web trong và ngoài nước hiện diện trên mạng, lôi kéo, kích động người sử
dụng thực hiện những hành vi thiếu trung thực, ảnh hưởng đến đời sống kinh tế, văn hóa,
chính trị của xã hội.
Chúng ta thừa nhận rằng: internet là sản phẩm văn minh của nhân loại, của nền kinh
tế số hóa. Trên thực tế, mức sống thấp không cho phép đông đảo dân cư được tiếp xúc với
internet, đồng nghĩa với việc dân trí thấp không đủ trình độ tiếp cận với nền văn minh nhân
loại. Việt Nam - một nước đang phát triển (Developping countruy) lại đang được chính
phủ đặc biệt quan tâm. Chủ trương "xã hội hóa internet đến từng người dân" là quyết định
sáng suốt của chính phủ nhằm phát triển nhanh nền kinh tế đất nước, nhanh chóng thoát khỏi
tình trạng tụt hậu do phải gánh quá nhiều hậu quả của chiến tranh.
3.1. Dự báo xu hướng và một số định hướng lớn về tình hình phát triển
internet trong những năm tới
3.1.1. Trong những năm tới, internet nói riêng và CNTT nói chung sẽ tiếp
tục phát triển mạnh mẽ
Được sự chỉ đạo và quyết tâm đưa internet tới tất cả các trường học và địa bàn
trên cả nước, đến nay dự án "internet cộng đồng" đã hoàn thành về cơ bản. Internet đã có
mặt tại hơn 800 trường ĐH, CĐ trường PTCS và các điểm Bưu điện văn hóa xã trên cả
nước. Với tốc độ phát triển CNTT hiện nay cùng với sự đầu tư của Chính phủ, chắc chắn
trong những năm tới sự đầu tư sẽ đầy đủ hơn, bài bản hơn. Internet sẽ đến với cộng đồng
một cách hiệu quả hơn.
Các thành phố lớn, đặc biệt là Thủ đô Hà Nội, tốc độ phát triển internet mạnh hơn,
càng ngày càng có nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân thành lập trang web riêng. Các điểm truy
cập internet công cộng phát triển mạnh và yếu tố cạnh tranh cũng tăng theo (xem ảnh phụ
lục 4). Chắc chắn trong những năm tới tỷ lệ người sử dụng internet tại Việt Nam sẽ tăng
ngang bằng một số nước trong khu vực.
Chúng ta đang phấn đấu đến năm 2010 sẽ có 10% dân số Việt Nam được tiếp cận
với internet. Hiện tại nếu chỉ tính riêng trên địa bàn thành phố Hà Nội, chúng ta đã đạt tỷ
lệ này. Bằng với tỷ lệ trung bình của một số nước trong khu vực.
Giáo sư Đặng Hữu nhận định: "Tôi cho rằng trong những năm tới, việc phổ cập
CNTT sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn những năm trước rất nhiều. Đầu tư nước ngoài vào ngành
này sẽ tăng vọt và chính phủ sẽ có những biện pháp về chính sách để CNTT chuyển biến
một cách thực chất và mạnh mẽ hơn. Ngành công nghiệp phần mềm sẽ được quan tâm
phát triển nhiều hơn nữa, một số doanh nghiệp phần mềm lớn đã tìm thấy hướng đi rõ
ràng của mình chứ không còn "mò mẫm" như trước nữa. Do đó doanh thu gia công phần
mềm sẽ tăng" [22].
3.1.2. Internet sẽ ngày càng có vai trò to lớn hơn trong đời sống văn hóa của
người dân Thủ đô
Vừa qua, tập đoàn Viễn thông hàng đầu thế giới Intel đã cam kết hỗ trợ Việt Nam
xây dựng nền công nghiệp máy tính thương hiệu Việt, hợp tác, phát triển công nghệ
internet không dây, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực qua các chương trình giáo dục, hỗ trợ
tối ưu hóa các ứng dụng phần mềm trên kiến trúc Intel và giúp Việt Nam sử dụng hiệu
quả những công nghệ mới nhất. Ngoài ra, tập đoàn này sẽ nghiên cứu khả thi các dự án
đầu tư trực tiếp có quy mô lớn tại Việt Nam.
Hãng Microsoft đặc biệt chú trọng đến việc phát triển hệ thống đại lý, các nhà
cung cấp giải pháp giá trị gia tăng trên nền tảng của Microsoft cho các doanh nghiệp lớn
vừa và nhỏ ở Việt Nam. Ngoài ra, hãng này cũng đưa ra những chương trình hỗ trợ cho
sinh viên, giáo viên CNTT và đưa CNTT vào các trường phổ thông hệ 12 năm …
Chúng ta cũng biết rằng, trong những năm gần đây, đặc biệt là năm 2003 có thể
nói là một năm hết sức quan trọng với những sự kiện đáng chú ý như: Hội nghị thượng
đỉnh ASOCIO, tuần lễ tin học thứ 12, Hội chợ phần mềm Softmart… sẽ là cầu nối giúp
thế giới có thể biết thêm về nền CNTT của Việt Nam. Đồng thời giúp Việt Nam tạo dựng
mối quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Với tất cả những sự kiện về chính trị và hợp tác của Chính phủ cùng với một số
nhận định của các nhà chuyên môn về CNTT. Chúng ta có cơ sở để tin tưởng rằng, trong
những năm tới số người truy cập internet phục vụ cho mục đích học tập và nghiên cứu sẽ
tăng do có sự chuẩn bị tốt hơn về kỹ năng khai thác và sử dụng các dịch vụ trên internet.
Số người truy cập internet phục vụ nhu cầu giải trí cũng sẽ tăng, trong đó bao
gồm cả việc khai thác các trang web sạch và "bẩn", song xu hướng chung là sự lựa chọn
thông tin lành mạnh sẽ tăng hơn.
3.1.3. Một số định hướng lớn
Trước xu thế toàn cầu hóa và đường lối phát triển kinh tế của Đảng ta là công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cùng với sự phát triển mạnh mẽ của CNTT và đặc biệt
là dịch vụ internet, hơn bao giờ hết chúng ta cần nhận thức đúng đắn và thực hiện tốt các
quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, tạo nhân tố tích cực
làm tiền đề cho việc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Trước hết, trong giai đoạn mới này, biết xử lý một cách hài hòa giữa việc thu nhận
nhiều luồng thông tin từ mạng internet, cải thiện đời sống văn hóa cho người Việt Nam
với việc giữ gìn truyền thống văn hóa Việt Nam là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của
thế hệ chúng ta. Chúng ta phải thừa nhận rằng, chính internet đã, đang và sẽ ngày càng có
vai trò quan trọng trong việc nâng cao đời sống tinh thần của cộng đồng. Vì vậy, việc phát
huy những mặt tích cực của internet để cải thiện đời sống văn hóa của cộng đồng là trách
nhiệm chung của mọi ngành, đặc biệt là ngành văn hóa.
Hội nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã nêu rõ
phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa với những quan điểm chỉ đạo cơ
bản như sau:
1. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc
đẩy kinh tế - xã hội.
2. Nền văn hóa chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.
3. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam.
4. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo,
trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
5. Văn hóa là một mặt trận: Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp cách
mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
Quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong
những năm qua càng khẳng định tính đúng đắn và tầm quan trọng của Nghị quyết Trung
ương 5. Đây là cương lĩnh văn hóa chiến lược của Đảng ta trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bẳn sắc dân tộc, cũng
chính là đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của quá trình phát triển đất nước. Nó có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh thế giới ngày nay.
Thủ tướng Phan Văn Khải đã nhấn mạnh: "Phát triển văn hóa phải đồng bộ với
tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, xóa bỏ các tệ
nạn xã hội, phải chú ý xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa mở rộng giao lưu quốc tế với
bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc. Phải quan tâm giáo dục, rèn luyện, xây dựng con người
về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, nếp sống văn minh, tri thức khoa học, đáp ứng
yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ làm công tác văn hóa, thông tin, nhất là những tài năng trẻ, làm lực lượng nòng
cốt của ngành văn hóa - thông tin" (trích trên trang web: dangcongsan.vn, trang chuyên
đề văn hóa- tư tưởng, tháng 6-2004).
Để thực hiện những quan điểm chỉ đạo trên, cần thực hiện những nhiệm vụ cụ thể
mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã đề ra.
Mười nhiệm vụ cụ thể đó có thể tóm tắt như sau: Xây dựng con người Việt Nam trong
giai đoạn cách mạng với những đức tính: Yêu nước, tự hào dân tộc, đấu tranh vì độc lập
dân tộc, có ý thức tập thể, có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, lao động chăm chỉ,
thường xuyên học tập, nâng cao trình độ…
Xây dựng môi trường văn hóa tạo ra ở các đơn vị cơ sở, khu tập thể, cơ quan, xí
nghiệp, trường học, đơn vị bộ đội, ở các vùng dân cư…
Phát triển sự nghiệp văn học nghệ thuật, phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo,
phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng, bảo tồn, phát huy và phát
triển văn hóa các dân tộc thiểu số, mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa, có chính sách văn
hóa với tôn giáo, củng cố, xây dụng và hoàn thiện thể chế văn hóa mà nhiệm vụ cấp bách,
trọng tâm nhất là: Xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh
trong xã hội.
3.2 Các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng của internet
3.2.1. Giải pháp về nâng cao nhận thức
- Quán triệt những quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng về quyết tâm xây
dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
- Thực hiện tốt 10 nhiệm vụ cụ thể do Nghị quyết Trung ương 5 khóa họp thứ
VIII đã chỉ rõ. Đồng thời thường xuyên có kiểm tra, đánh giá từng mặt hoạt động cụ thể.
- Nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và đông đảo tầng lớp nhân dân về
tầm quan trọng và vai trò to lớn của văn hóa trong sự nghiệp đối mới và trong giai đoạn
cách mạng mới.
- Xây dựng nền tảng văn hóa vững chắc cho thời kỳ phát triển mới của đất nước:
Định hình rõ nét nội dung: tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong lối sống, nếp sống văn
hóa.
- Phải tạo được những công trình văn hóa, văn học nghệ thuật có chất lượng cao
để thỏa mãn nhu cầu thưởng thức của xã hội nhất là mảng hoạt động vui chơi giải trí cho
thanh thiếu niên, cần phải đặc biệt quan tâm và đầu tư, đảm bảo tạo cho các em các sân
chơi lành mạnh, bổ ích. Giáo dục cho các em nhận thức sâu sắc về truyền thống văn hóa
Việt Nam với những nét thuần phong mỹ tục của người Việt và ý thức giữ gìn, phát huy
những giá trị đó trong xu hướng giao lưu văn hóa quốc tế.
- Hoàn thành chiến lược thông tin quốc gia để đáp ứng nhu cầu đất nước trong thời
kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phù hợp với đặc điểm, thực tiễn của đất
nước. Kiên quyết sắp xếp lại mạng lưới báo chí, hiện đại hóa các loại báo viết, truyền hình,
phát thanh, internet… Khắc phục những biểu hiện lệch lạc so với các tôn chỉ, mục đích
"thương mại hóa" và nhất là tình trạng tư nhân chi phối, thậm chí lấy danh nghĩa cơ quan để
xuất bản, ban hành những sản phẩm văn hóa gây tác dụng xấu trong cộng đồng, nhất là
những băng đĩa được tải từ mạng internet với những nội dung xấu.
3.2.2. Giải pháp về nâng cao kỹ năng và bản lĩnh sử dụng internet
- Nâng cao trình độ tin học và ngoại ngữ, trau dồi kiến thức chuyên ngành
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, đời sống xã hội ngày càng được
nâng cao. Những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại đều được áp dụng trong đời
sống hàng ngày. Sự tác động của nền kinh tế tri thức, kinh tế số hóa và xã hội thông tin
toàn cầu đã làm chuyển đổi mạnh nhu cầu văn hóa vừa theo hướng dân tộc hóa, vừa theo
hướng quốc tế hóa. Sự ra đời và phát triển của internet tại Việt Nam nói chung và tại Thủ
đô Hà Nội nói riêng đặt ra một bài toán cho những người quản lý văn hóa. Khi mà những
địa điểm internet công cộng mọc lên như nấm sau mưa cùng với những sản phẩm văn hóa
tràn ngập trên mạng mà không một Nhà văn hóa, hay một thư viện, bảo tàng nào có nhiều
dữ liệu như vậy thì vai trò của các thiết chế văn hóa càng phải được đặc biệt quan tâm.
Nên chăng ngoài việc đa dạng hóa các hình thức hoạt động văn hóa ngoài trời, các câu
lạc bộ sở thích chúng ta đưa internet đến từng thiết chế văn hóa cấp cơ sở như mô hình
"Điểm bưu điện hóa xã" đang tồn tại. Nếu các cán bộ văn hóa có đủ trình độ tin học và
ngoại ngữ đáp ứng nhu cầu giáo dục và hướng dẫn cho người sử dụng internet ở những
điểm công cộng này thì hiệu quả sẽ càng lớn hơn.
Thực hiện tốt nội dung quản lý sự nghiệp văn hóa là: Quản lý nghiệp vụ và hướng
dẫn nghiệp vụ
Quản lý nghiệp vụ ở đây được hiểu theo từng chuyên ngành hoạt động. Việc
quản lý nghiệp vụ thực chất là quản lý nội dung và chất lượng hoạt động chuyên môn,
chuyên ngành đó. Từ quản lý, đề xuất xây dựng kế hoạch đến tổ chức hoạt động, kiểm tra
đôn đốc quá trình thực hiện và hiệu quả hoạt động. Nắm chắc phương thức, phương pháp
hoạt động của chuyên ngành. Muốn quản lý tốt nghiệp vụ phải am hiểu nghiệp vụ như
vậy, mặc dù việc tổ chức, cung cấp, khai thác và quản lý internet là nhiệm vụ của liên
ngành, liên bộ nhưng phải thừa nhận rằng ngành văn hóa không thể đứng ngoài cuộc.
Như vậy, cán bộ văn hóa, ngoài những kiến thức chuyên ngành, một đạo đức chính trị,
cách mạng còn phải là người có đủ trình độ về tin học, ngoại ngữ để đáp ứng công tác
nghiệp vụ để có thể tham gia giáo dục, hướng dẫn cho mọi đối tượng tham gia sử dụng
dịch vụ internet.
Mỗi người khi truy cập mạng internet phải có một bản lĩnh vững vàng, để phân biệt
những thông tin độc hại và thông tin có ích để tiếp cận có hiệu quả
Bản thân mỗi người cán bộ văn hóa phải là một chiến sĩ hoạt động trên mặt trận
văn hóa tư tưởng, dũng cảm xông pha trong trận chiến với những mặt trái của internet
mang lại, tuyên truyền trong cộng đồng những giá trị đích thực mà internet mang đến cho
con người. Khuyến khích mọi người sử dụng khai thác tài nguyên internet vào công tác
chuyên môn, trong học tập, nghiên cứu để góp phần tạo ra những sản phẩm, công trình
khoa học, những ứng dụng thiết thực trong đời sống hàng ngày, làm giàu kiến thức cho
bản thân để mỗi người sẽ có ích hơn cho xã hội. Tránh tình trạng thừa thông tin mà thiếu
tri thức.
Kỹ năng tin học phải được xem là một trong những yêu cầu bắt buộc về chuyên
môn nghiệp vụ. Đảm bảo đầu tư hạ tầng cơ sở về CNTT để phục vụ công tác quản lý
nghiệp vụ.
Dù đã có nhiều nỗ lực của các ngành liên quan như: ngành giáo dục, ngành Bưu
điện nhưng những người dân được tiếp cận với máy tính và internet chủ yếu vẫn là người
dân thành thị, tập trung chính ở thành phố lớn (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh). Chúng
ta không thể phủ nhận được rằng Việt Nam vẫn bị xếp vào danh sách các nước có nền
kinh tế lạc hậu, năng suất lao động thấp, trong khi chi phí dịch vụ cao. Hoạt động thương
mại phát triển chậm, mức độ giao dịch cả trong và ngoài nước còn thấp so với các nước
trong khu vực và trên thế giới. Đảng và nhà nước chúng ta chủ trương công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và rất nhiều nghị định, chính sách đã ra đời nhằm tạo điều kiện
thuận lợi để thực hiện chủ trương này. Chính sách mở cửa "Việt Nam muốn làm bạn với
tất cả các nước", hòa nhập với xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa đặt nền văn hóa Việt Nam
đứng trước những thách thức to lớn. Với vai trò là nền tảng và động lực thúc đẩy kinh tế -
xã hội thì việc quan tâm giáo dục, rèn luyện, xây dựng con người Việt Nam về chính trị,
tư tưởng, đạo đức, lối sống, nếp sống văn minh, tri thức khoa học là nhiệm vụ cần thiết
mang tính cấp bách.
Đảng và Chính phủ chủ trương đưa internet vào từng trường học thể hiện tính tất
yếu và đặt ra cho ngành giáo dục nhiệm vụ phổ cập tin học, hướng dẫn khai thác internet
cho HSSV. Trong thực tế, vì nhiều lý do khác nhau mà HSSV vẫn chưa được đáp ứng
việc truy cập internet tại trường học, vì vậy họ phải đến với các điểm dịch vụ công cộng
khi có nhu cầu và tại các điểm dịch vụ này, do tính chất kinh doanh đơn thuần, không có
sự định hướng đúng đắn, kịp thời, nhiều hành vi phi văn hóa và các hoạt động phạm pháp
đã nảy sinh.
Đối với những đối tượng là CBCNVC, cán bộ quản lý là những người thường
xuyên truy cập internet tại cơ quan cũng chưa tận dụng khai thác hiệu quả những tiện ích
của dịch vụ toàn cầu này vào công tác chuyên môn nghiệp vụ. Như vậy vấn đề lại đặt ra
cho ngành văn hóa là phải tuyên truyền, định hướng các giá trị thẩm mỹ cho các đối
tượng có cơ hội được tiếp cận công nghệ này.
Đảng và Nhà nước đã đánh giá ngành văn hóa với nhiệm vụ được coi là quan
trọng nhất và đã đặt lên trước nhất việc phát triển những giá trị tốt đẹp của xã hội và con
người Việt Nam, tức là phát huy những nét văn hóa tốt đẹp đang nảy nở ngày càng nhiều
trên đất nước ta. Đó là điểm cơ bản hơn cả, quyết định hơn cả để đẩy lùi và khắc phục
các biểu hiện của lối sống không lành mạnh và sự suy thoái đạo đức mà có thể nguyên
nhân do tiếp cận với thông tin thiếu chọn lọc từ internet mang lại.
3.2.3. Giải pháp về công tác quản lý
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, các ngành Bưu chính - Viễn thông,
Văn hóa thông tin, An ninh… phải thực sự đi vào cuộc và nhận thức sâu sắc nhiệm cụ thể
của từng ngành, tránh chồng chéo, gây mất tập trung sự quản lý. Lợi ích về văn hóa, giáo
dục và an ninh phải được đặt lên hàng đầu. Không vì lợi ích kinh tế trước mắt mà làm
ngơ cho những hoạt động, hành vi tiếp tay cho thông tin xấu thâm nhập vào mạng
internet quốc gia, đầu độc lớp trẻ. Sự phân cấp trong quản lý của mỗi ngành đều phải
nghiên cứu khoa học, tỷ mỷ nhằm đạt hiệu quả tối đa. Cụ thể là:
- Nhà cung cấp dịch vụ phải đảm bảo về chất lượng dịch vụ, gạn lọc một cách tối
đa những thông tin ngoài luồng thâm nhập, không ngừng nâng cao chất lượng các trang
web tiếng Việt để thỏa mãn nhu cầu người sử dụng. Từ các em học sinh ở vùng xa xôi
đến những người nông dân đều có thể có cơ hội được tiếp cận với công nghệ này. Chất
lượng về cả nội dung và hình thức phải đặc biệt đưa lên hàng đầu để thu hút và định
hướng thẩm mỹ cho các đối tượng sử dụng.
- Ngành giáo dục phải đặc biệt quan tâm đến những ảnh hưởng của internet đến
lớp trẻ và có trách nhiệm kết hợp với gia đình giáo dục, hướng dẫn, định hướng cho
HSSV khai thác thông tin trên mạng. Tăng cường các môn học về ngoại ngữ và tin học
trong trường để giúp các em có kỹ năng khai thác thông tin trên mạng.
- Ngành văn hóa phải coi nhiệm vụ quản lý nội dụng của những thông tin trên
mạng là một trong các yếu tố quan trọng quyết định đến việc xây dựng con người mới
với lối sống mới, nếp sống văn minh cho một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc. Đề xuất những ý tưởng về nội dung của các trang web nội địa với mục đích
thỏa mãn nhu cầu văn hóa và giáo dục thẩm mỹ, định hướng về các chuẩn mực đạo đức,
lối sống cho người sử dụng.
Để thực hiện tốt những nhiệm vụ cụ thể trên, các hình thức internet công cộng
như cafenet, dịch vụ internet sinh viên phải được đặc biệt quan tâm quản lý bởi hiện
tượng tiêu cực trong các dịch vụ trên đang tồn tại, các tệ nạn cũng có thể từ con đường
này mà xâm nhập vào người Việt Nam nhất là tầng lớp HSSV- thế hệ chủ nhân tương lai
của đất nước.
Đối với người sử dụng dịch vụ tại các điểm internet công cộng cũng phải tuân
theo quy định của ngành văn hóa, an ninh về những thông tin truy cập...
3.2.4. Giải pháp về công tác giáo dục
Mặc dù trong thực tế, Bộ Công an đã phối hợp cùng các Ban, ngành liên quan cố
gắng ngăn chặn những thông tin độc hại thâm nhập vào mạng internet tại Việt Nam
nhưng kết quả chưa được như mong muốn bởi CNTT phát triển với tốc độ chóng mặt,
bọn tin tặc ngày càng nhiều thủ đoạn tinh vi. Thiết nghĩ không có một bức tường lửa (fire
wall) nào tác dụng hiệu quả bằng bức tường trong chính mỗi người sử dụng. Muốn có
được nhận thức đúng đắn trách nhiệm của ngành giáo dục, ngành văn hóa là rất quan
trọng. Đưa internet phổ cập đến tận trường học song song với giáo dục cho lớp trẻ về
những mặt tích cực và mặt trái của internet là điều cần làm ngay và là một công việc bền
bỉ, lâu dài, đòi hỏi kiên trì và đầy bản lĩnh. Việc giáo dục cho thanh thiếu niên những hiểu
biết và định hướng cho các em trong khai thác internet chính là bảo vệ các em trước
những thông tin độc hại trên mạng. Việc giáo dục này phải được kết hợp tốt giữa gia
đình, nhà trường, các nhà cung cấp dịch vụ và sự can thiệp của Chính phủ.
Đứng trước tình hình phát triển mạnh mẽ của CNTT ở Việt nam, một lựa chọn
đúng đắn của chính phủ là lấy CNTT làm ngành then chốt để phát triển nền kinh tế đất
nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong đó chiến lược lấy internet kích
cầu CNTT lại được đặc biệt quan tâm. Chúng ta chắc chắn rằng số người sử dụng internet
ở Việt Nam trong những năm tới đây sẽ còn tăng đáng kể đạt tới mức ngang hàng các
nước trong khu vực và nhiều nước trên thế giới.
Hiện nay có rất nhiều văn bản của các Bộ, ngành trực tiếp cung cấp và quản lý
dịch vụ internet được ra đời. Nội dung chính mà các văn bản này đề cập đều xoay quanh
việc tổ chức thực hiện tốt việc cung cấp và quản lý các dịch vụ internet. Ngoài một số
quy định chung về các hành vi thương mại truyền thống có thể áp dụng được trong một
số trường hợp, ngoài Bộ luật Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, Bộ luật dân sự, Bộ Tư pháp
cũng đang gấp rút phối hợp với các chuyên gia về tin học, kinh tế xây dựng các định chế
điều chỉnh các vấn đề phát sinh trong hoạt động thương mại điện tử.
Chúng ta đang tích cực triển khai các chương trình phổ cập internet trong cộng
đồng. Các cơ quan, công sở đã có hệ thống máy tính hòa mạng internet, các trường học,
bệnh viện kể cả vùng sâu vùng xa đều được cung cấp hệ thống máy tính và triển khai kết
nối internet. Nhưng trong thực tế chúng ta còn bị động trước những tác động của internet
vào đời sống cộng đồng.
Internet hàng ngày tác động cả tích cực và tiêu cực vào đời sống văn hóa của xã
hội, muốn làm chủ được tình thế chúng ta buộc phải triển khai và thực hiện tốt các giải
pháp thiết thực nhằm mục đích phát huy những mặt tích cực của internet, tận dụng tối đa
nguồn tài nguyên trên mạng, biến thông tin trên mạng trở thành tri thức để góp phần nâng
cao đời sống văn hóa cho cộng đồng. Muốn vậy, chúng ta phải không ngừng hoàn thiện
kỹ năng, nghiệp vụ sử dụng internet mà chìa khóa vàng là trình độ ngoại ngữ và ý thức
chính trị của mỗi người. Như vậy, việc thường xuyên trau dồi ý thức chính trị và trình độ
ngoại ngữ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng đối với những cán bộ làm công tác quản lý đặc
biệt là quản lý văn hóa.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt và đường lối phát triển văn hóa đúng đắn của Đảng,
chúng ta tin tưởng rằng: internet sẽ là phương tiện hỗ trợ cho Việt Nam giao lưu và hội
nhập quốc tế một cách có hiệu quả. Những mặt trái của internet sẽ dần được khống chế
và khắc phục bởi nỗ lực của các cấp các ngành. Chúng ta quyết tâm xây dựng con người
Việt nam, con người mới với phẩm chất và đạo đức cách mạng đủ bản lĩnh để hội nhập
quốc tế và đủ trình độ để khai thác nguồn tài nguyên quý giá trên mạng internet.
Bằng những giải pháp về nhận thức, về công tác giáo dục, công tác quản lý và
những chính sách kịp thời, hợp lý cùng với việc không ngừng nâng cao chất lượng của
đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa chắc chắn chúng ta sẽ xây dựng thành công một nền
"văn hóa mạng" trong một xã hội thông tin tại Việt Nam mà trước hết là tại Thủ đô Hà
Nội.
Kết luận
Internet nói riêng, CNTT nói chung đã thâm nhập ngày càng sâu vào đời sống
văn hóa của người dân Hà Nội. Mặt tích cực của quá trình này là internet đã có ảnh
hưởng rất mạnh đến cách thức tiếp cận, lựa chọn và xử lý thông tin phục vụ cho sản xuất,
kinh doanh. Trong quản lý và tổ chức đời sống cá nhân, cộng đồng, internet đem lại cho
người sử dụng những lợi ích lớn lao, nó mở ra cơ hội kinh doanh trên phạm vi toàn cầu.
Nó cũng cho phép người sử dụng cơ hội giao lưu với nhiều nền văn hóa trên thế giới.
Nhu cầu đào tạo có thể được đáp ứng với những dịch vụ của mạng đào tạo từ xa, hệ
thống E-learning...
Tóm lại, internet đã làm phong phú thêm đời sống tinh thần của người Hà Nội đồng
thời cải thiện đáng kể năng suất công việc cũng như góp phần tích cực vào quá trình hội
nhập và liên kết toàn cầu, giúp cho người dân Thủ đô ngày càng có một đời sống văn hóa
hiện đại, văn minh hơn.
Tuy nhiên, internet không đến với từng người dân và nhóm xã hội một cách đồng
đều. Cho tới nay số người tham gia truy cập internet nhiều nhất vẫn là nhóm HSSV. Tuy
nhiên, mục tiêu giải trí trong sử dụng internet của nhóm xã hội này là chủ yếu. Việc sử
dụng, khai thác internet vào mục đích học tập, nghiên cứu, làm giàu tri thức còn khiêm
tốn, nếu có thì chủ yếu rơi vào nhóm người là sinh viên Đại học. Nhóm các nhà khoa học,
người làm công tác giảng dạy, cán bộ quản lý, CBCNVC… đến với internet thận trọng
hơn tùy vào mục đích và khả năng khai thác internet, họ chủ yếu vào internet là để phục
vụ công việc nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh…
Nhìn chung, Hà Nội là một địa bàn sử dụng internet khá mạnh mẽ, song việc
triển khai và tổ chức chưa thực sự chủ động, bài bản. còn nhiều biểu hiện tự phát, ví dụ:
vẫn còn những lỏng lẻo trong việc kiểm soát, hướng dẫn sử dụng, khai thác internet. Cùng
với một số nhân tố khác, sự yếu kém và hạn chế nói trên đã dẫn đến một số hiện tượng
tiêu cực, đáng lo ngại, ảnh hưởng đến đời sống văn hóa của người dân Thủ đô qua dịch
vụ chat tràn lan, khai thác các trang web "bẩn", tiêu phí thời gian và tiền bạc vào những
trò chơi vô bổ mang tính bạo lực, khủng bố…
Trong thời gian tới, CNTT nói chung và internet nói riêng ở Hà Nội sẽ phát triển
mạnh mẽ hơn nữa, cả về quy mô, độ che phủ, tính chất đa dạng, những tiện ích do
internet mang lại cũng như chiều sâu của các khả năng ứng dụng… theo đó là sự ảnh
hưởng ngày càng sâu rộng của internet đến đời sống văn hóa của người dân Hà Nội.
Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa mặt tích cực của internet, hạn chế đến mức tối thiểu
những mặt trái của nó, chúng ta cần phải có những giải pháp sau:
1. Giải pháp về nâng cao nhận thức;
2. Giải pháp về nâng cao kỹ năng và bản lĩnh sử dụng internet;
3. Giải pháp về công tác quản lý;
4. giải pháp về công tác giáo dục.
Cuối cùng, người viết xin đưa ra một số kiến nghị sau:
* Về phía Chính phủ
Ngoài việc đầu tư về vật chất, Chính phủ nên ban hành các chính sách cụ thể
hơn, quy định rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành trong việc tổ chức khai thác, sử
dụng và quản lý internet.
Ban hành các luật về truy cập internet cho các trường học, thư viện, gia đình và
các điểm truy cập internet. Cụ thể là:
- Luật truy nhập internet gia đình: yêu cầu nhà cung cấp phải đưa ra một phần
mềm gạn lọc ngay từ lúc truy nhập đầu tiên vào mạng. Hạn chế tối đa sự xâm nhập của
thông tin phản động, độc hại trên mạng.
- Luật bảo vệ trẻ em trên mạng: Theo luật này, công ty phải thẩm tra độ tuổi
trưởng thành của người truy cập trước khi đưa các thông tin lên mạng. Luật này có thể áp
dụng cho những điểm truy cập internet công cộng.
- Luật gạn lọc thông tin trường học: Cố gắng hạn chế việc truy nhập vào các
trang có thông tin không thích hợp, các trường học và thư viện phải cung cấp các phần
mềm khóa nhằm kiểm soát các thông tin có hại.
- Luật bảo vệ internet: Ban hành các điều khoản, giới hạn và quy định internet
cũng như ngăn cấm các nhà cung cấp dịch vụ cung cấp các thông tin sex. Luật này bảo vệ
người sử dụng trong cả trường hợp thông tin bị lộ hay đánh cắp…
* Trách nhiệm của ngành văn hóa
Phải thường xuyên theo dõi diễn biến của những ảnh hưởng của internet đến đời
sống văn hóa của cộng đồng để kịp thời có các giải pháp đề xuất về công tác quản lý văn
hóa mạng. Đề xuất những ý tưởng góp phần nâng cao chất lượng các trang web nội địa và
giáo dục, định hướng thẩm mỹ cho cộng đồng trong việc tiếp cận các trang web nước
ngoài.
* Trách nhiệm của nhà cung cấp
Nhà cung cấp dịch vụ cần đặt lợi ích của xã hội lên trên hết để nâng cao chất
lượng dịch vụ bằng chính những hành động cụ thể là: kết hợp với các ngành có liên quan
để ngăn chặn các trang web bẩn. Không ngừng nâng cao chất lượng các trang web trong
nước để đáp ứng nhu cầu văn hóa của cộng đồng.
* Đối với thành phố Hà Nội
Cần tập trung xây dựng Thủ đô Hà Nội thành thành phố có môi trường văn hóa
mạng điển hình, kiểu mẫu cho cả nước.
Hà Nội là địa bàn tập trung nhiều trí thức so với cả nước. Là trung tâm kinh tế - văn
hóa - chính trị và sự tiếp cận các công nghệ tiên tiến thường đi trước các địa phương khác
trong cả nước. Cũng chính do đặc điểm này mà việc xây dựng một môi trường văn hóa
mạng điển hình ở Hà Nội để sau đó nhân rộng ra các địa phương khác có một ý nghĩa
quan trọng. Ngành văn hóa cần kết hợp chặt chẽ với các ngành liên quan (Bưu điện, An
ninh) để tổ chức, cung cấp, hướng dẫn và quản lý việc sử dụng và khai thác dịch vụ internet.
Thường xuyên có sự kiểm tra, đánh giá để kịp thời định lượng, định tính những ảnh
hưởng trực tiếp của internet đến đời sống văn hóa của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là
tầng lớp thanh thiếu niên. Các cấp các ngành có liên quan nên xây dựng những "Trung tâm
internet cộng đồng" đảm bảo tiêu chuẩn để khuyến khích mọi người dân đều có cơ hội tiếp
cận với internet. Những Trung tâm internet này có quy mô lớn, vừa và nhỏ tùy thuộc vào
cấp quản lý trực tiếp. Ví dụ trong trường Đại học, Trung tâm này sẽ có quy mô lên đến
hàng trăm máy để có thể đáp ứng việc phục vụ đông đảo sinh viên trong trường, tại các
thiết chế văn hóa cũng có những Trung tâm tùy theo mức độ đầu tư và từng cấp quản lý;
ví dụ, tại Nhà văn hóa thành phố số lượng đầu máy có thể có nhiều hơn Nhà văn hóa
quận. Tuy nhiên, muốn làm tốt, trước hết phải khảo sát nhu cầu của cộng đồng dân cư
trên địa bàn tương đối chính xác để từ đó có kế hoạch cụ thể… Nếu làm tốt mô hình này,
chắc chúng ta sẽ không phải khó khăn trong việc quản lý những điểm truy cập của tư
nhân trong cộng đồng bung ra một cách tự phát trong thời gian qua.
Sở dĩ thời gian qua ngay trên địa bàn thành phố Hà Nội đã có tới hàng ngàn điểm
dịch vụ internet công cộng bởi phòng máy của các trường chưa đáp ứng đủ máy cho nhu
cầu của sinh viên buộc họ phải tìm đến các điểm internet công cộng. Nếu đến các Trung
tâm internet tư nhân, được tham gia trong một môi trường văn hóa với những thiết bị đảm
bảo chất lượng do có sự đầu tư hỗ trợ và kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước, chắc chắn lớp
trẻ của chúng ta sẽ có nhiều cơ hội để khai thác nguồn tài nguyên trên mạng một cách
hiệu quả hơn.
Luận văn được hình thành với sự hướng dẫn khoa học tận tình của thày hướng
dẫn, các thày, cô trong và ngoài trường, các đồng nghiệp đàn anh đi trước cùng với những
nỗ lực của bản thân... Từ đáy lòng, tác giả muốn bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với
các thày, cô giáo, các đồng nghiệp và tự đặt ra cho mình những nghiên cứu xa hơn nữa,
bao quát hơn nhằm đưa ra một bức tranh sâu rộng hơn về vai trò của internet trong đời
sống văn hóa của nhân dân Thủ đô Hà Nội. Qua đó, góp phần xây dựng Thủ đô văn hóa
mạng - năng động - văn minh - đậm đà bản sắc dân tộc, xứng đáng là trung tâm kinh tế -
chính trị - văn hóa - xã hội, trái tim của cả nước.
danh mục tài liệu tham khảo
1. Chung á - Nguyễn Đình Tấn (Chủ biên) (1995), Nghiên cứu xã hội học, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
2. Almanach những nền văn minh thế giới (1996), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
3. Các văn bản quản lý nhà nước về internet (2002), Nxb Bưu điện, Hà Nội.
4. Đinh Thị Vân Chi (2003), Nhu cầu giải trí của thanh niên, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
5. Chính sách xã hội - Văn hóa - giáo dục (1982), Hà Nội.
6. Đoàn Văn Chúc (1997), Văn hóa học, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
7. Trần Quang Cường (Biên dịch) (2001), Quản lý mạng viễn thông thế kỷ 21, Nxb Bưu
điện, Hà Nội.
8. Phạm Đức Dương (2002), Từ văn hóa đến văn hóa học, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
9. Đặc san báo Quốc tế, Số chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Trần Ngọc Định (2002), Văn hóa thị trường, Nxb Văn học, Hà Nội.
15. Phạm Duy Đức (Chủ nhiệm) (2004), Nghiên cứu phát triển các hoạt động văn hóa
vui chơi giải trí ở Thủ đô Hà Nội - Thực trạng và giải pháp, Tổng quan đề tài
nghiên cứu khoa học cấp thành phố.
16. Nguyễn Đình Hiến (Chủ biên) (2003), Internet, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn
thông.
17. Lê Như Hoa (1996), Phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh công nghiệp
hóa, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
18. Nguyễn Thế Hùng (Chủ biên) (2001), Đến với thế giới tin học, Nxb Thống kê, Hà
Nội.
19. Nguyễn Văn Huyên (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tập 1, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
20. Nguyễn Văn Huyên (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tập 2, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
21. Internet and life (Biên dịch CADASA) (2000), Nxb Thống kê, Hà Nội.
22. Một số trang Web trong và ngoài nước.
23. Phạm Xuân Nam, Phương pháp luận về vai trò của văn hóa trong phát triển khoa
học xã hội.
24. Phát triển internet - kinh nghiệm và chính sách của một số quốc gia trong khu vực
(2003), Nxb Bưu điện, Hà Nội.
25. Sử dụng các dịch vụ internet cơ bản tại Việt Nam (2002), Nxb Bưu điện, Hà Nội.
26. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh.
27. Thương mại điện tử (2002), Nxb Bưu điện, Hà Nội.
28. Trung tâm thông tin Bưu điện, Tài liệu tham khảo phục vụ lãnh đạo và cán bộ nghiên
cứu.
29. Huỳnh Khái Vinh, Văn hóa và văn nghệ vì sự phát triển xã hội.
30. Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa văn nghệ từ Đại hội VI đến đại
hội IX.
31. Viện Thông tin Khoa học Xã hội (2001), Văn hóa học và văn hóa thế kỷ XX. tập 1,
Hà Nội.
32. Xã hội thông tin, Tạp chí chuyên ngành của VNPT.
phụ lục
Phụ lục 1: Giải thích các thuật ngữ dùng trong luận văn
Phụ lục 2: Phiếu trưng cầu
Phụ lục 3: Một số hình ảnh về các hoạt động của Chính phủ và các ngành liên
quan về việc xây dựng, khai thác và quản lý internet ở Việt Nam
Phụ lục 4: Một số hình ảnh về thực trạng sử dụng internet của HSSV tại địa
bàn Hà Nội
Phụ lục 1
Giải thích các thuật ngữ dùng trong luận văn
Intranet: là một kiểu mạng mới xuất hiện do kết quả của sự phát triển mạnh mẽ
internet. Intranet là cơ sở hạ tầng của mạng dựa trên những tiêu chuẩn của internet
hiện có. Mục đích của interanet là làm cho những người lao động của Công ty gắn
kết với mọi tin tức của Công ty đó, nhằm tăng năng suất qua nguồn thông tin hiệu
quả được phổ biến trên intranet.
TCP/IP: Ngôn ngữ phổ quát của Internet: Internet hoạt động được vì mọi máy
tính nối kết tới nó đều sử dụng một tập các quy tắc và thủ tục (được gọi là các giao
thức) để kiểm soát việc định thời và định dạng dữ liệu. Các giao thức được Internet
sử dụng được gọi là giao thức kiểm soát truyền tải/ Giao thức liên mạng, viết tắt là
TCP/IP (Transmission Control Protocol).
World Wide Web (gọi tắt là Web hay WWW) được tạo ra vào năm 1989 tại
phòng thí nghiệm vật lý hạt nhân Châu Âu tại Geneva, Thụy Sĩ như là một phương
thức cho phép kết hợp các chú thích chân trang, các hình ảnh và các tham khảo chéo
vào trong các tài liệu siêu văn bản trực tuyến. Một tài liệu siêu văn bản là một tập tin
được mã hoá đặc biệt vốn sử dụng ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản (còn được gọi là
các siêu liên kết hay chỉ gọi là các liên kết) vào trong tài liệu. Các liên kết siêu văn
bản là nền móng của World Wide Web).
Hệ thống quản lý tên miền DNS (DOMAIN NAME SYSTEM)
ADSL: Viết tắt của Analog Digital Line), một biến thể của đường thoại số chuẩn
(Standard Digital Telephone) hoạt động thông quakết nối đưoừng điện thoại thông
thường. ADSL thiết lập một liên kết trên tốc độ dữ liệu thấp (Low data rate –up link)
và một liên kết dưới tốc độ dữ liệu cao (High data rate down link), ADSL được phát
triển để cung cấp một dịch vụ thay thế cho truyền hình, nhưng hứa hẹn một liên kết
tốc độ cao và một chi phí thấp cho người dùng internet.
Mạng tích hợp dịch vụ số ISDN: (Intergrated services digital network). Là một
mạng có khả năng đồng thời truyền được nhiều dạng thông tin khác nhau như tiếng
nói, hình ảnh, fax, thông tin điều khiển từ xa, truyền hình... các dữ liệu dó được tập
hợp và phân phát tới văn phòng hoặc nhà riêng người sử dụng.
Firewall (Bức tường lửa): Là công nghệ kết hợp giữa phần cứng và phần mềm
cho phếp người dùng intranet truy cập dữ liệu trên internet nhưng điều ngược lại thì
không thể, điều này cho phép hạn chế người dùng được phép, chống lại sự xâm nhập
trái phép.
Phụ lục 2
phiếu trưng cầu
Câu 1: Anh (chị) bắt đầu truy cập internet từ khi nào? Năm...
Câu 2: Anh (chị) sử dụng internet nhiều nhất cho mục đích nào sau đây?
1. Tìm kiếm thông tin phục vụ cho học tập, nghiên cứu (cid:0)
2. Giải trí với các trang văn học nghệ thuật, trò chơi... (cid:0)
1. Trao đổi thư điện tử với bạn bè, người thân (cid:0)
2. Quản lý (cid:0)
3. Chỉ để chát! (cid:0)
Câu 3: Trước đây (khi chưa sử dụng internet) anh (chị) thường dành thời gian rỗi
làm gì (đánh số từ 1 đến 7 theo mức độ từ nhiều nhất đến ít nhất)
1. Thăm hỏi người thân, bạn bè (cid:0)
2. Đi dã ngoại, picnic (cid:0)
3. Đến rạp chiếu bóng (cid:0)
4. Tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao ngoài trời (cid:0)
5. Đi mua sắm (cid:0)
6. Nghỉ ngơi tại nhà (cid:0)
7. Đọc báo, truyện, tạp chí (cid:0)
Câu 4: Từ khi sử dụng internet, anh (chị) thường dành thời gian cho những việc
này như thế nào so với trước khi dùng internet? (đánh dấu X vào ô bạn
chọn).
ít hơn Hoạt động Vẫn như thế Nhiều hơn
Thăm hỏi người thân
Đi dã ngoại, picnic
Đến rạp , nhà hát
Đi mua sắm
Nghỉ ngơi tại nhà
Câu 5: Trước kia (khi chưa sử dụng internet) anh (chị) thường thu nhận thông tin
hàng ngày từ các nguồn nào dưới đây
1. Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam và các đài địa phương trong nước
2. Các Đài, Báo nước ngoài (ghi rõ tên Đài, Báo) (cid:0)
……………………………………………………………………...........
3. Tờ báo viết ra hàng ngày/tuần (ghi rõ tên báo ví dụ : báo Nhân dân, Lao động, Phụ
nữ Việt Nam…)
……………………………………………………………………...........
4. Nghe qua dư luận (cid:0)
5. Các hình thức khác (nếu có ghi rõ) (cid:0)
……………………………………………………………………...........
Câu 6: Anh (chị) thường thu nhận thông tin từ những nguồn tin nào?
Kiến
thức Tuyển Thể Nguồn thu nhận Thời sự Văn hóa phục vụ sinh thao
học tập
Internet
Đài phát thanh
Ti vi
Báo, tạp chí
Truyền thanh phường
Dư luận
Câu 7 : Khi muốn tìm hiểu một thông tin nào đó, Anh (chị) thường tìm ở đâu?
1. Hỏi những người quen xung quanh (cid:0)
2. Tìm mua báo và xem có thông tin liên quan hay không (cid:0)
3. Viết thư hỏi Đài phát thanh, truyền hình hoặc hỏi báo (cid:0)
4. Vào mạng và vào ngay trang tìm kiếm về từ khóa mình đã có (cid:0)
Câu 8: Mức độ lên mạng của anh (chị/em) như thế nào?
1. Hàng ngày (cid:0)
2. 2,3 lần/tuần (cid:0)
3. Hàng tuần (cid:0)
4. ít hơn (cid:0)
Câu 9: Trung bình thời gian mỗi lần anh (chị/em) vào mạng là bao lâu?
1. Khoảng dưới 1 tiếng/lần (cid:0)
2. Trên 1 tiếng/lần (cid:0)
3. Hai, ba tiếng/lần (cid:0)
4. Nửa ngày, có khi quên cả ăn! (cid:0)
Câu 10: Anh (chị/em) hay sử dụng nhiều nhất kiểu trang web nào dưới đây (đánh
dấu từ 1 đến 10 theo thứ tự từ nhiều nhất đến ít nhất)
(cid:0) - Trang yahoo và các các giao dịch khác
- Các trang tin, báo điện tử (cid:0)
- Trang âm nhạc (cid:0)
- Trang trò chơi (cid:0)
- Trang thần tượng (cid:0)
- Trang mua sắm, dịch vụ (cid:0)
- Web site cơ quan, trường học (cid:0)
- Các chuyên đề: tin học, du học, HSSV, thư giãn trang khác (ghi rõ trang nào)
- Các trang web của nước ngoài để tải phần mềm (cid:0)
- Khác (ghi rõ)
Câu 11: Anh (chị/em) có hộp thư điện tử riêng không?
1. Có (cid:0)
2. Không (chuyển câu 10) (cid:0)
3. Nếu có thì mức độ xem thư của bạn thế nào?
- Nhiều lần trong ngày (cid:0)
- Hàng ngày (cid:0)
- 2,3 lần/tuần (cid:0)
- Hàng tuần (cid:0)
- ít hơn (cid:0)
Câu 12: Khi chưa sử dụng internet , trong trường hợp đối tác ở xa, anh (chị) giao
dịch bằng những hình thức nào dưới đây? chỉ ghi rõ hình thức nào hay
được dùng nhất.
1. Viết thư và gửi qua đường bưu điện (cid:0)
2. Trực tiếp đi bằng các phương tiện giao thông nếu có thể (cid:0)
3. Gọi điện thoại (cid:0)
Câu 13: Từ khi sử dụng internet, trong trường hợp đối tác ở xa, anh (chị) giao dịch
bằng những hình thức nào dưới đây? (chỉ chọn hình thức nào hay được
dùng nhất).
1. Viết thư và gửi qua đường bưu điện (cid:0)
2. Trực tiếp đi bằng các phương tiện giao thông nếu có thể (cid:0)
4. Gọi điện thoại (cid:0)
5. Sử dụng internet để giao dịch (cid:0)
Câu 14: Anh (chị/em) có thường mua sắm qua mạng không? Nếu có thì thường hay
mua gì trong các liệt kê dưới đây? (Có thể đánh dấu 1 hoặc nhiều)
1. Không (cid:0)
2. Có (cid:0)
3. Nếu có thì những mặt hàng nào Anh (chị/em) hay mua nhất?
- Mua sách (cid:0)
- Mua quà tặng (cid:0)
- Mua các mặt hàng nhu yếu phẩm khác (cid:0)
- Gọi cơm trưa khi ở cơ quan (cid:0)
- Mua vé xem nghệ thuật (cid:0)
- Khác (ghi rõ) (cid:0)
Câu 15: Khi muốn mua sắm một mặt hàng đắt tiền nào đó mà chưa có thông tin cụ
thể, Anh (chị/em) thường bắt đầu từ đâu?
1. Hỏi những người quen biết (cid:0)
2. Tìm đọc trên các báo mục quảng cáo (cid:0)
3. Vào mạng tìm trên các trang quảng cáo (cid:0)
Câu 16: Khi có nhu cầu quảng cáo (mua và bán, tìm việc, nhắn tin…) Anh (chị)
thích sử dụng phương tiện nào nhất?
1. Quảng cáo trên đài (cid:0)
2. Quảng cáo trên báo (cid:0)
3. Nhờ người quen thông tin, quảng cáo hộ (cid:0)
4. Quảng cáo trên internet (cid:0)
5. Khác (ghi rõ) (cid:0)
Câu 17: Anh (chị/em) có thích "chat" không?
1. Có (cid:0)
2. Không (chuyển câu 13) (cid:0)
3. Nếu có, anh (chị/em) thường chat với ai? (cid:0)
- Bạn bè (cid:0)
- Người thân (cid:0)
- Người quen từ trên mạng (cid:0)
Câu 18: Anh (chị/em) thường dùng tên thật hay tên khác khi chat?
1. Tên thật (cid:0)
2. Tên khác (cid:0)
Câu 19: Anh (chị/em) có bao giờ gặp mặt những người quen từ trên mạng không?
1. Thường xuyên (cid:0)
2. Thỉnh thoảng (cid:0)
3. Hiếm khi (cid:0)
4. Chưa bao giờ (cid:0)
Câu 20: Anh (chị/em) có quan tâm những người khác truy cập internet làm gì
không?
1. Có (cid:0)
2. Không (chuyển câu 16) (cid:0)
Nếu có bạn thấy loại thông tin nào dưới đây được mọi người quan tâm nhất:
a. Thời sự, tin tức trên các trang báo điện tử (cid:0)
b. Tham gia diễn đàn (cid:0)
c. Giải trí (cid:0)
d. Tìm kiếm tài liệu phục vụ học tập, nghiên cứu (cid:0)
Câu 21: Anh (chị/em) có thấy những người xung quanh xem những trang sex không?
1. Có (cid:0)
2. Không (cid:0)
3. Không để ý (cid:0)
Nếu có thì họ là những người nào dưới đây (có thể đánh dấu 1 hoặc nhiều ô)
1. Là học sinh lứa tuổi khoảng 13-17 (cid:0)
2. Là người ở lứa tuổi khoảng 18-22 (cid:0)
3. Là người lớn khoảng 22 tuổi trở lên (cid:0)
Câu 22: Anh (chị/em) có thấy mặt nào là tiện ích nhất của internet?
1. Cập nhật thông tin hàng ngày thay thế hẳn việc đọc báo viết (cid:0)
2. Tìm kiếm tài liệu phục vụ học tập, nghiên cứu (cid:0)
3. Có thể vào các trang web nước ngoài , du lịch trên mạng để tìm hiểu về các quốc gia
khác dễ dàng (cid:0)
4. Có thể có bất cứ thông tin gì ở mọi lĩnh vực của cuộc sống (cid:0)
5. Có thể giải trí với hình ảnh và âm thanh sống động (cid:0)
6. Có thể giao dịch thuận tiện nhanh chóng với bạn bè, đối tác ở bất cứ đâu (cid:0)
Câu 23: Anh (chị/em) suy nghĩ gì về mặt trái của internet? (nếu có đánh dấu X)
1. Thanh thiếu niên dành quá nhiều thời gian lên mạng chỉ để giải trí, bỏ bê học tập
(cid:0)
2. Quá nhiều thông tin ngoài luồng gây độc hại cho lớp trẻ (cid:0)
3. Có thể sẽ xảy ra tình trạng nghiện internet theo nghĩa tiêu cực (cid:0)
4. Thu hẹp dần khoảng cách địa lý, con người lười vận động, không thích tham gia các hoạt
động văn hóa cộng đồng, các môn thể thao ngoài trời (cid:0)
Câu 24: Anh (chị) có đề xuất biện pháp gì nhằm ngăn chặn, hạn chế những mặt trái
của internet đồng thời phát huy mặt tích cực của dịch vụ này?
1. Bức tường lửa cho những trang web bẩn (cid:0)
2. Giáo dục, định hướng những giá trị đạo đức, thẩm mỹ cho thanh thiếu niên (cid:0)
3. Nâng cao nhận thức cho mọi đối tượng sử dụng (cid:0)
4. Dịch vụ "Cafe internet" phải được kiểm soát chặt chẽ (cid:0)
5. Nâng cao chất lượng các trang web lành mạnh (cid:0)
6. Có luật áp dụng cho từng đối tượng tham gia cung cấp và sử dụng internet (cid:0)
7. Kiểm soát các trang web độc hại, ngoài luồng (cid:0)
8. Hướng dẫn cách khai thác và sử dụng hiệu quả nhất với từng loại trang web (cid:0)
9. Các biện pháp khác (ghi rõ)
...................................................................................................................
Câu 25: Anh (chị/em) đánh giá thế nào về chất lượng của các trang web của Việt
Nam?
1. Quảng cáo nhiều quá (cid:0)
2. Thông tin còn nghèo nàn, số liệu chưa chính xác (nếu có ghi rõ trang nào) (cid:0)
3. Nói chung là tốt, trừ một số trang của cá nhân (cid:0)
4. Nhiều trang web nội dung thiếu tính giáo dục (nếu có ghi rõ trang nào) (cid:0)
5. ý kiến khác (xin ghi rõ, ngắn gọn) (cid:0)
Câu 26: Hiện nay internet đang phát triển nhanh ở Việt Nam, theo anh (chị) đó là
điều đáng mừng hay đáng lo ngại?
1. Đáng mừng vì Việt Nam đã thực sự hội nhập quốc tế (cid:0)
2. Đáng lo (nếu có) thì vì những lý do nào dưới đây: (Có thể đánh dấu 1 hoặc nhiều tùy ý
kiến của mình)
- Chính phủ không kiểm soát được nội dung các trang web (cid:0)
- Thanh thiếu niên chưa được trang bị đủ kiến thức văn hóa, ngoại ngữ để tiếp cận
với văn minh nhân loại (cid:0)
- Sẽ xảy ra tình trạng thừa thông tin mà thiếu tri thức (cid:0)
- Sẽ bị lai căng, mất đi bản sắc văn hóa Việt Nam do tiếp cận văn hóa nước ngoài
không chọn lọc (cid:0)
- Không đủ bản lĩnh trước những thông tin phản động tràn lan trên mạng do chưa
được định hướng đầy đủ. (cid:0)
Cuối cùng, xin Anh (chị/em) cho biết một vài thông tin về bản thân
Giới tính: 1 (cid:0) Nam 2 (cid:0) Nữ Tuổi
Học vấn, nghề nghiệp:
(cid:0) 1. Học sinh phổ thông
(cid:0) - Trung học cơ sở
(cid:0) - Phổ thông trung học
(cid:0) 2. Sinh viên các trường ĐH, CĐ, THCN (ghi rõ tên trường)
- Năm thứ ...............................................................................................
- Khoa .....................................................................................................
(cid:0) 3. Cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy
(cid:0) 4. Cán bộ làm công tác quản lý
(ghi rõ chức vụ. Ví dụ: Trưởng phòng, Viện trưởng, Giám đốc, Chủ tịch quận...)
.................................................................................................................
(cid:0) 5. Cán bộ CNVC
.................................................................................................................
Chân thành cảm ơn Anh (chị/ em) đã nhiệt tình cộng tác!
Phụ lục 3
Một số hình ảnh về các hoạt động của Chính phủ
và các ngành liên quan về việc xây dựng, khai thác
và quản lý internet ở Việt Nam
Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm tại lễ khai trương
dịch vụ internet Việt Nam tại Tổng cục Bưu điện
Các đồng chí lãnh đạo Tổng cục Bưu điện và Bộ Văn hóa Thông tin
họp báo giới thiệu Nghị định của Chính phủ về internet
Từ 1-12-1997 người dân Việt Nam trong cả nước
có thể sử dụng các dịch vụ của internet
Đoàn đại biểu Bưu điện Việt Nam tại Hội nghị phát triển
Viễn thông thế giới lần thứ 2 (tại Malta từ 23-3 đến 1-4-1998)
Các chuyên viên phòng đầu tư, Học viện Công nghệ
Bưu chính Viễn thông khai thác thông tin trên internet
Cán bộ, công nhân, viên chức ở Hà Nội dường như quen dần với việc
thu nhận thông tin từ báo điện tử
Phụ lục 4
Một số hình ảnh về thực trạng sử dụng internet
của học sinh, sinh viên tại địa bàn Hà Nội
Tại Hà Nội, internet đã có mặt trong từng góc phố, từng ngõ nhỏ
(ảnh chụp trong ngõ 64 đường Vũ Trọng Phụng, Quận Thanh Xuân )
Với địa điểm và quy mô của địa điểm truy cập internet như thế này, chắc sẽ khó
đảm bảo cung cấp dịch vụ tốt cho khách hàng
(ảnh chụp trên đường Nguyễn Trãi, Quận Thanh Xuân)
Lộn xộn cửa hàng "net" giờ cao điểm
(ảnh chụp lúc 20h30 - trên phố Nghĩa Tân - Quận Cầu Giấy)
Một cửa hàng "net cao cấp" với giá truy cập từ 6.000 - 7.000 đ/giờ
(ảnh chụp trên đường Nguyễn Trãi, Quận Thanh Xuân)
Cửa hàng cafenet trên địa bàn quận Thanh Xuân với những quảng cáo hấp dẫn
HSSV bằng giá cả và những dịch vụ của internet
Các "thượng đế" vừa hưởng thú "ẩm thực" vừa say sưa với dịch vụ "chat"