ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN LÊ THỊ HƢƠNG THỦY TRUYỆN NGẮN CỦA MỘT SỐ CÂY BÚT NỮ THỜI KỲ ĐỔI MỚI (QUA SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN THỊ THU HUỆ, Y BAN, PHAN THỊ VÀNG ANH, LÝ LAN) LUẬN VĂN THẠC SỸ VĂN HỌC
Mã số: 5 04 33
Người hướng dẫn: TS. Tôn Phƣơng Lan
Hà nội - 2004
MỤC LỤC
TRANG
PHẦN MỞ ĐẦU
3
1. Lý do chọn đề tài 3
2. Lịch sử vấn đề 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 20
4. Phương pháp nghiên cứu 20
5. Đóng góp của luận văn 21
6. Cấu trúc của luận văn 21
PHẦN NỘI DUNG
22
CHƯƠNG I
TRUYỆN NGẮN NHỮNG NĂM SAU CHIẾN TRANH VÀ TRUYỆN NGẮN
22
NỮ THỜI KÌ ĐỔI MỚI
1.1. Truyện ngắn những năm sau chiến tranh 22
1.2. Truyện ngắn nữ trong thời kì đổi mới 28
1.2.1. Truyện ngắn nữ trước thời kì đổi mới 29
1.2.2. Truyện ngắn nữ trong thời kì đổi mới 32
CHƯƠNG II
CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT VÀ THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN
40
NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ, Y BAN, PHAN THỊ VÀNG ANH, LÝ LAN
2.1. Cảm hứng nghệ thuật 40
2.1.1. Cảm hứng ngợi ca 41
2.1.2. Cảm hứng bi kịch 45
2.1.2.1. Bi kịch do lịch sử 45
2.1.2.2. Bi kịch tình yêu 50
2.1.2.3. Bi kịch hôn nhân và gia đình 54
2.1.3. Cảm hứng chiêm nghiệm, triết lí 61
2.1.3.1. Triết lí về tình yêu 61
1
2.1.3.2. Triết lí về nhân sinh 63
2.1.3.3. Triết lí về giới nữ 66
2.2. Thế giới nhân vật 68
2.2.1. Nhân vật tính cách 69
2.2.2. Nhân vật cô đơn 73
CHƯƠNG III
NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ, Y BAN, PHAN
78
THỊ VÀNG ANH, LÝ LAN
3.1. Cốt truyện 78
3.1.1. Cốt truyện truyền thống 79
3.1.2. Cốt truyện tâm lí 82
3.2. Tình huống 87
3.2.1. Tình huống tâm lí 88
3.2.2. Tình huống tự nhận thức 90
3.2.3. Tình huống mang tính kịch 92
3.3. Ngôn từ nghệ thuật 94
3.3.1. Ngôn ngữ hiện thực đời thường 94
3.3.3. Ngôn ngữ mang sắc thái nữ 96
3.4. Giọng điệu trần thuật 100
3.4.1. Giọng giãi bày, tâm sự 100
3.4.2. Giọng khinh bạc, xót xa 102
3.4.3. Giọng hài hước, châm biếm 106
3.4.4. Giọng trữ tình, đằm thắm và quyết liệt 108
PHẦN KẾT LUẬN
111
DANH MỤC TÁC PHẨM TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN THỊ THU HUỆ, PHAN
114
THỊ VÀNG ANH, Y BAN, LÝ LAN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
115
PHỤ LỤC: QUAN NIỆM CỦA MỘT SỐ NHÀ VĂN NỮ VỀ NGHỀ VĂN
2
124
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Cuộc sống với tư cách là đối tượng thẩm mĩ bản thân nó luôn nằm
trong thế vận động, biến đổi không ngừng. Điều đó đòi hỏi văn học phải có
hình thức linh hoạt để theo sát bước ngoặt của sự chuyển đổi. Thế kỉ XX, cùng
với quá trình hiện đại hóa văn học, truyện ngắn đã có những biến chuyển rõ rệt
theo từng thời kì trở thành một bộ phận quan trọng làm nên diện mạo của văn
học dân tộc. Sau 1975, đặc biệt là từ thời kì đổi mới, cùng với những cách tân
về nội dung và hình thức, sự xuất hiện đông đảo các cây bút nữ đã tạo nên
những dấu ấn trong đời sống văn học đương đại. Tìm hiểu truyện ngắn nữ thời
kì đổi mới trước hết là tiếp cận với sự vận động của thể loại trong tiến trình
vận động của lịch sử, cũng là một cách tiếp cận với đời sống văn học hôm
nay.
1.2. Thời kì này có sự hình thành của một đội ngũ viết mới vừa trẻ về
tuổi đời lẫn tuổi nghề và đã có được thành tựu. Cùng với các tác giả trưởng
thành trong hai cuộc kháng chiến, sự có mặt của những cây bút truyện ngắn
này khiến cho văn học có được sắc thái mới khi phản ánh cuộc sống đương đại
với những biến chuyển sâu sắc. Từ những năm cuối của thập kỉ 80 và trong
suốt cả thập kỉ 90, trên văn đàn đã xuất hiện đông đảo các cây bút nữ. Không
phải ngẫu nhiên mà nhiều người coi đây là thời kỳ “thăng hoa” của truyện
ngắn nữ và đã nhiều lần nhắc đến khái niệm “âm thịnh”. Sự có mặt đông đảo
các cây bút nữ trong đời sống văn học có thể coi là một hiện tượng đáng
mừng, đáng được khích lệ.
1.3. Trong số những nhà văn nữ chuyên viết truyện ngắn thì Nguyễn
Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan theo ý chúng tôi là những
cây bút tiêu biểu gây được sự chú ý của người đọc. Độc giả ghi nhận những
thành tựu bước đầu của họ. Sự liên tục trong việc cho ra đời các tác phẩm và
3
đoạt giải thưởng cao trong các cuộc thi truyện ngắn đã chứng tỏ khả năng và
vị trí của họ. Các tác giả này có nhiều tập truyện ngắn xuất bản, có dấu ấn
phong cách riêng. Ngoài các tập truyện ngắn in riêng, tác phẩm của họ đã
được đăng tải trên các báo và tạp chí chứng tỏ sự hiện diện thường xuyên và
tương đối liên tục trong đời sống văn học trong vòng hơn một thập niên trở lại
đây.
Sự phác vẽ “bộ tứ” này sẽ là chưa thật đầy đủ để dựng lại diện mạo của
truyện ngắn nữ bởi họ chỉ là bốn trong số rất nhiều những cây bút nữ đang
được chú ý. Bên cạnh những cây bút “đàn chị” như Lê Minh Khuê, Dạ Ngân,
Võ Thị Hảo, Võ Thị Xuân Hà, Phạm Sông Hồng, Phạm Thị Minh Thư... là sự
xuất hiện ấn tượng của nhiều nữ cây bút truyện ngắn trẻ như Trần Thanh Hà,
Nguyễn Thị Châu Giang, Phong Điệp, Dương Nữ Khánh Thương và gần đây
nhất là Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy. Tuy nhiên trong phạm vi một luận
văn thạc sỹ, chúng tôi lựa chọn bốn cây bút nữ trên đây vì cả bốn cây bút này
không có sự chênh lệch quá xa về độ tuổi nên đã bộc lộ những nét tương đồng
ở cách tiếp cận những vấn đề của đời sống. Hơn nữa, bốn tác giả vừa có sự
gặp gỡ, có những mối quan tâm chung trong cách nhìn nhận hiện thực, lại có
những đặc điểm mang tính cá biệt mà đặt trong đời sống văn học, mỗi người
đã tự tìm cho mình một lối đi riêng, một cách thể hiện dấu ấn sáng tạo. Qua
việc khảo sát truyện ngắn của bốn tác giả trên chúng tôi muốn đi tìm những
đặc điểm chung của truyện ngắn nữ, đồng thời có thể khám phá những dấu ấn
cá nhân trong sáng tạo nghệ thuật của họ, từ đó có một cách hình dung về
truyện ngắn những năm cuối thế kỷ XX.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRUYỆN NGẮN SAU 1975
Với hướng nghiên cứu là truyện ngắn của một số cây bút nữ thời kì đổi
mới, chúng tôi xin bắt đầu bằng việc khảo sát tình hình nghiên cứu truyện
ngắn sau 1975, đặc biệt là từ thời kì đổi mới, khi đời sống văn học có những
4
chuyển động sâu sắc.
Từ sau bước ngoặt lịch sử 1975, đời sống văn học đã có những biến
chuyển mạnh mẽ. Cùng với các thể loại khác, truyện ngắn đã có sự chuyển
động và góp phần làm nên diện mạo mới cho văn xuôi giai đoạn này. Khảo sát
truyện ngắn thời kì đổi mới, các nhà nghiên cứu đã tiếp cận với xu hướng đổi
mới cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Nhiều cuộc tranh luận xung quanh các vấn
đề của truyện ngắn, các tác phẩm cụ thể đã diễn ra tạo nên một đời sống văn
học sôi động. Nhiều công trình nghiên cứu về sự vận động của truyện ngắn
sau 1975 đã giúp cho người đọc thấy được những bước đi của thể loại trong
tiến trình văn học dân tộc.
Ngoài các công trình chuyên biệt về thể loại truyện ngắn như luận án
tiến sĩ của Lê Thị Hường với đề tài Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn
Việt Nam giai đoạn 1975 - 1995 (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
1995); Bình luận truyện ngắn của Bùi Việt Thắng (Nxb Văn học,1999) đã có
rất nhiều bài viết đề cập đến nhiều vấn đề của truyện ngắn in trên các báo và
tạp chí chuyên ngành. Các bài viết này ở nhiều góc độ khác nhau đã đề cập
đến thành tựu của truyện ngắn, những đóng góp và thách thức của thể loại
trong đời sống văn học đương đại.
Quan tâm tới sự vận động của các thể loại văn xuôi thời kì này, nhiều
nhà nghiên cứu đã tìm hiểu sự vận động của truyện ngắn trong dòng chảy của
văn học những thập niên cuối thế kỷ XX. Đa phần các bài viết đều có đồng
quan điểm trong việc ghi nhận vị trí quan trọng của truyện ngắn đối với quá
trình đổi mới văn học đương đại. Lý Hoài Thu trong bài viết Sự vận động của
các thể loại văn xuôi trong văn học thời kỳ đổi mới đã khẳng định đây là thời
kì lên ngôi của truyện ngắn. Cắt nghĩa về điều này, bà cho rằng: “Trong nhịp
độ của đời sống công nghiệp hiện đại, dưới sức ép của các phương tiện nghe
nhìn, truyện ngắn đã phát huy được ưu thế của mình một cách hiệu quả” [112].
Nhà nghiên cứu Bích Thu khảo sát những thành tựu của truyện ngắn sau 1975
5
từ các phương diện cốt truyện, kết cấu, quan niệm nghệ thuật về con người,
ngôn ngữ trần thuật đã đưa ra một cái nhìn tương đối toàn diện về thể loại này.
([108] - Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975).
Bên cạnh các bài viết, các công trình mang tính tổng quan (chẳng hạn
như luận án tiến sỹ của Nguyễn Thị Bình với đề tài Những đổi mới của văn
xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 [7], luận án tiến sỹ của Lê Thị Hường
Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 - 1995
[36]; Mấy nhận xét về truyện ngắn Việt Nam sau 1975 - Bùi Việt Thắng [102])
là sự khảo sát quá trình phát triển của thể loại ở từng giai đoạn, từng thời kì và
thậm chí là trong từng năm. Nhìn lại văn xuôi 1992, nhà nghiên cứu Mai
Hương nhận thấy: “Năm 1992, truyện ngắn vẫn đang là thể loại văn xuôi thu
hút được sự quan tâm của cả người viết và công chúng” [35]. Trong khi khảo
sát văn xuôi 1998, Bích Thu cho rằng năm 1998 vẫn là “năm được mùa của
truyện ngắn” [110]. Theo sát sự vận động của truyện ngắn đương đại, Bùi Việt
Thắng đã nhận diện bước đi của thể loại trong thời gian 5 năm (1995 - 1999)
qua bài viết Một bước đi của truyện ngắn [103]. Ở bài viết này, ông nhấn
mạnh đến sự phong phú về tác phẩm và tác giả trong sự kế tục của các thế hệ
cũng như phát hiện những khuynh hướng tìm tòi thể hiện trong sáng tác truyện
ngắn. Ông đặc biệt nhấn mạnh đến các khuynh hướng phong cách cổ điển,
phong cách trữ tình, phong cách hiện thực, phong cách ảo.
Có thể coi “mảnh đất ươm mầm” các tài năng sáng tạo truyện ngắn là
các cuộc thi truyện ngắn liên tục được tổ chức trên các báo và tạp chí trong
nhiều năm liền. Bên cạnh việc tham dự của các nhà văn là sự quan tâm của các
nhà phê bình. Ngay sau khi các tác phẩm được đăng tải, nhiều nhà phê bình đã
có ý kiến phản hồi tạo nên những hiệu ứng tích cực cho đời sống văn học.
Nhiều bài viết xung quanh vấn đề này đã được đăng tải kịp thời khích lệ tinh
thần sáng tạo của các cây bút: Tản mạn bên lề cuộc thi (Phạm Xuân Nguyên.
Tạp chí Văn nghệ quân đội số 10/1993); Những truyện ngắn hay (Lý Hoài
Thu. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 12/1993); Một cuộc thi về người lính, vì
6
người lính và vì một nền văn học đổi mới, lành mạnh. Báo cáo tổng kết cuộc
thi truyện ngắn 1992 - 1994 (Tạp chí Văn nghệ quân đội số 10/1994); Truyện
ngắn dự thi 1989 - 1990 - những nhận xét sơ lược đầu tiên (Lê Thành Nghị.
Tạp chí Văn nghệ quân đội số 10/1989)...
Có thể nói, sự xuất hiện của các cây bút trẻ trong hơn một thập niên gần
đây là một tín hiệu đáng mừng, chứng tỏ sự quan tâm và nhập cuộc vào nhiều
vấn đề của đời sống của người viết trẻ - lớp nhà văn trưởng thành sau chiến
tranh. Khi tìm hiểu sáng tác của lớp nhà văn trẻ này, các nhà nghiên cứu một
mặt khẳng định những đóng góp của họ, mặt khác còn đề cập đến những thách
thức trong sáng tạo nghệ thuật ở họ. Nhà văn Bùi Hiển - một nhà văn dày dạn
kinh nghiệm sáng tác truyện ngắn đã khẳng định những đóng góp đáng kể của
các cây bút trẻ cho sự đổi mới văn xuôi, khẳng định những lợi thế của các nhà
văn trẻ bởi những điều kiện thuận lợi của hoàn cảnh xã hội nhưng đồng thời
ông cũng chỉ ra những khuynh hướng cách tân chưa thực sự mang lại giá trị
nghệ thuật ở các cây bút trẻ này [27]. Tuyết Ngân trong bài viết Thập kỷ 90 và
sự bùng nổ của văn học trẻ [74] đã khẳng định và lý giải về sự bùng nổ của
những giọng điệu mới mẻ trong dòng văn học trẻ ở thập niên 90. Chị đặc biệt
lưu ý đến các cây bút trẻ đang được độc giả chú ý như Phan Thị Vàng Anh,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Dương Phương Vinh, Phan Triều Hải, Nguyễn Bình
Phương, Trần Thanh Hà; đề cao sự hăm hở và quyết liệt trong việc trong việc
mổ xẻ những vấn đề của đời sống nhưng cũng không quên cảnh báo các nhà
văn trẻ này về việc khai thác quá liều một số đề tài nhất định hay là sự bắt
chước quá lộ liễu tác phẩm nước ngoài trong nội dung, ý tưởng, thậm chí cả
câu chữ.
Sự có mặt của thể loại truyện cực ngắn (hay còn gọi là truyện ngắn mi
ni - một biến thể của thể loại truyện ngắn) cũng không nằm ngoài sự quan tâm,
nghiên cứu của giới phê bình văn học. Tìm hiểu về truyện ngắn sau 1975, các
nhà nghiên cứu cũng đã chú ý đến sự hiện diện của thể loại truyện cực ngắn
trong đời sống văn học và coi đó như một nhu cầu tất yếu xuất phát từ cả chủ
7
thể sáng tạo lẫn đối tượng tiếp nhận. Trong nhiều bài viết, các tác giả đã dành
sự quan tâm đặc biệt cho thể loại này (Truyện cực ngắn. Đặng Anh Đào [11],
Truyện rất ngắn - tác phẩm nghệ thuật. Nguyên Ngọc [53]...). Trong hai bài
viết về các thể loại văn học đương đại Quá trình văn học đương đại nhìn từ
phương diện thể loại [3], Sự vận động của các thể loại văn xuôi trong văn học
thời kì đổi mới [112], các tác giả Vũ Tuấn Anh và Lý Hoài Thu đều khẳng
định sức hấp dẫn của thể loại này bởi sự hàm súc, cô đọng của ý tưởng, tính
biểu tượng, sự vận dụng các thủ pháp xung đột.
Truyện ngắn sau 1975, không chỉ là thể loại thu hút sức sáng tạo của
giới sáng tác mà còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu, phê
bình chuyên và không chuyên. Còn nhiều vấn đề còn có thể tiếp tục tranh
luận, có những ý kiến chưa thống nhất nhưng nhìn chung các tác giả đã có
cùng quan điểm trong việc khẳng định những thành tựu của truyện ngắn trong
quá trình đổi mới văn học, cùng có một niềm tin vào sự phát triển của thể loại
trong thế kỷ mới. Những kết quả nghiên cứu trên đây về thể loại truyện ngắn ở
một thời kì văn học còn khá mới mẻ và chưa ổn định là một trong những tiền
đề để chúng tôi tiếp cận với đề tài nghiên cứu của mình trên phương diện thể
loại.
2.2. TRUYỆN NGẮN NỮ THỜI KÌ ĐỔI MỚI QUA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN
CỨU
2.2.1 CÁC BÀI VIẾT VỀ ĐỘI NGŨ CÁC CÂY BÚT NỮ
Trong tiến trình vận động của truyện ngắn dân tộc thế kỷ XX, cùng với
thời gian, các cây bút nữ đã dần chứng tỏ khả năng và vị trí của họ trên văn
đàn. Từ sau cách mạng tháng Tám, nhất là từ những năm 60, các thế hệ nhà
văn từ Nguyệt Tú, Nguyễn Thị Cẩm Thạnh, Vũ Thị Thường, Nguyễn Thị
Ngọc Tú, Nguyễn Thị Như Trang, Lê Minh Khuê đến Dạ Ngân, Y Ban, Võ
Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan... bằng vào các
sáng tác của mình đã tạo nên dấu ấn đậm nét trong đời sống văn học. Là một
8
bộ phận cấu thành diện mạo của văn học thời kì đổi mới nói chung và văn
xuôi nói riêng, truyện ngắn của các cây bút nữ đã tạo được dư luận trong đời
sống văn học.
Những thập kỷ gần đây, cùng với sự xuất hiện ngày càng đông đảo của
các cây bút nữ, trên lĩnh vực lý luận, yêu cầu nghiên cứu về đặc điểm sáng tác
của các nhà văn nữ đã được đặt ra. Trong bài viết Suy nghĩ về đặc điểm của nữ
văn sỹ [51], Phương Lựu đã chỉ ra những đặc điểm tính nữ trong văn học. Trên
cơ sở kế thừa thành tựu nghiên cứu của tâm lí học nữ giới, tâm lí học sáng tạo
nghệ thuật, giải phẩu học, ông khẳng định đặc điểm giới tính trong văn học là
có thật. Với bài viết mang tính lí luận này, ông đã có những kiến giải sâu sắc
về đặc điểm của nữ văn sỹ. Ông cho rằng, bên cạnh những lợi thế trong sáng
tạo nghệ thuật như giàu tình cảm, óc tưởng tượng phong phú, óc quan sát tinh
tế phụ nữ còn có những hạn chế như diện sống không thật rộng, có lợi thế về
tình cảm, song chưa tìm được sự cân đối hài hoà với trí tuệ, thiếu năng lực tư
duy tổng thể dẫn đến phạm vi phản ánh trong sáng tác của các nhà văn nữ
thường mang tính tự truyện.
Tạp chí Văn học số 6/1996 đăng tải tường thuật buổi toạ đàm Phụ nữ và
sáng tác văn chương trong đó tập trung ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, phê
bình lẫn sáng tác như Văn Tâm, Đặng Anh Đào, Lê Minh Khuê, Ngô Thế
Oanh, Lại Nguyên Ân, Đặng Minh Châu, Phạm Xuân Nguyên, Vương Trí
Nhàn. Trong số những ý kiến được nêu ra, ý kiến của Vương Trí Nhàn đã tìm
được sự đồng thuận của nhiều người. Lí giải về sự xuất hiện của đông đảo các
cây bút nữ sau 1975, sự gắn bó của họ đối với thể loại văn xuôi của một số cây
bút nữ trong đó có Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ ông cho rằng:
“phụ nữ bắt mạch thời đại nhanh hơn nam giới. Họ luôn gần gũi với cái lỉnh
kỉnh dở dang của đời sống. Mặt khác, với cái cực đoan sẵn có - tốt, dịu dàng,
rộng lượng thì không ai bằng, mà nhỏ nhen, chấp nhặt, dữ dằn cũng không ai
bằng - từng cây bút nữ đã tìm ra mặt mạnh của mình khá sớm, định hình khá
9
sớm”.
Sự góp mặt của những cây bút văn xuôi nữ những năm gần đây đã tạo
nên những âm sắc mới cho đời sống văn học và điều này đã được ghi nhận:
“Trong những trang viết của các tác giả nữ đương đại ta luôn tìm thấy những
vang hưởng mạnh mẽ hiện thực thời đại chúng ta đang sống... Và cũng trên
những trang viết của họ, ta tiếp nhận được một nữ tính phức tạp hơn nhưng
đồng thời cũng phong phú hơn những gì ta vẫn quan niệm trong quá khứ”
[121, tr8].
Để có cái nhìn toàn diện về sáng tác của các nhà văn nữ, đã có nhiều bài
viết đăng tải ý kiến của chính các nhà văn nữ (Lan man với Nguyễn Thị Thu
Huệ [80], Chúng tôi phỏng vấn bốn cây bút nữ [91], Gặp gỡ các nhà văn trẻ
[58]...). Ở bài viết Chúng tôi phỏng vấn 4 cây bút nữ [91], các cây bút nữ Võ
Thị Hảo, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Hồ Thị Hải Âu đã bộc lộ những suy
nghĩ của mình về những khó khăn và thuận lợi đối với người phụ nữ khi họ
tham gia sáng tác văn học. Những thông tin từ các bài phỏng vấn đã giúp cho
độc giả và người nghiên cứu có sự hình dung đầy đủ hơn về cuộc đời và sáng
tác của các nhà văn nữ.
Nhà văn Nguyễn Thị Như Trang đã có sự khái quát về Thành tựu và đội
ngũ các nhà văn nữ Việt Nam qua bài viết đăng trên báo Văn nghệ số ra ngày
18/8/1990. Bà đặc biệt nhấn mạnh đến đóng góp của các nhà văn nữ trong
chiến tranh chống Mỹ đối với nền văn học nước nhà. Công trình Các nhà văn
nữ [54] của nhóm tác giả Lê Thị Đức Hạnh, Vân Thanh, Phan Diễm Phương
đã khái quát, giới nhiều nhiều gương mặt văn xuôi nữ trong đó tập trung vào
lớp nhà văn chống Mỹ như Thanh Hương, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Dương Thị
Xuân Quý, Bích Thuận, Lê Minh. Các nhà nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu quá
trình sáng tác của từng nhà văn để thấy được những đóng góp của họ cho nền
văn học nước nhà.
Nhà nghiên cứu Bích Thu trong Văn xuôi của phái đẹp [109] đã khẳng
10
định sự tiếp nối về đội ngũ của các nhà văn nữ, cũng như sự vận động đổi mới
của các nhà văn từ cách nhìn về hiện thực và con người, những ưu thế riêng
của giới tính trong sáng tạo nghệ thuật, trong cách lựa chọn đề tài và xử lí tình
huống.
Nguyễn Thị Thành Thắng đã có những phác thảo về diện mạo truyện
ngắn đương đại với sự góp mặt của các cây bút nữ (Phác thảo vài nét về diện
mạo truyện ngắn đương đại và sự góp mặt của một số cây bút nữ [101]).
Trong bài viết này, chị tập trung vào vấn đề sự lên ngôi của một số cây bút nữ
và hướng tiếp cận đời sống trong truyện ngắn của họ. Hoàng Thị Hồng Hà tìm
hiểu xu hướng “tự nghiệm” trong truyện ngắn nữ. Chị chú ý đến mảng hiện
thực của những “cái tôi đàn bà” phong phú mà phức tạp và sâu sắc đầy tính
nữ, từ đó khám phá các cách biểu hiện của nhân vật xưng tôi trong tác phẩm
(Truyện ngắn nữ và xu hướng tự nghiệm [18]).
Bùi Việt Thắng là người dõi theo sát sao sự phát triển của thể loại
truyện ngắn, đặc biệt là truyện ngắn các cây bút nữ trẻ. Trong loạt bài viết tản
mạn về truyện ngắn của những cây bút nữ trẻ (Khi người ta trẻ I, Khi người ta
trẻ II), ông đã chỉ ra những ưu điểm và hạn chế trong sáng tác của các nhà văn
nữ. Theo ông: “làm nên đặc trưng riêng của những cây bút nữ trẻ là cái nhu
cầu đến như là mê say được tham dự, được hòa nhập vào những nỗi niềm đau
khổ và hy vọng của con người” [102, tr190]. Từ những quan sát truyện ngắn
trên Văn nghệ trẻ trong nhiều năm liền, Bùi Việt Thắngcho rằng: “Đã hình
thành một tỷ lệ giữa phái yếu và phái mày râu là 2/3 - một tỷ lệ đáng gờm bởi
nhìn vào đó sẽ thấy truyện ngắn trẻ hôm nay (và văn chương nói chung) mang
gương mặt nữ” [102, tr206].
Là người quan tâm tới sự đổi mới của văn học, nhìn nhận văn chương
của các nhà văn nữ như một hiện tượng xã hội, Huỳnh Như Phương trong bài
viết Văn chương nữ giới - một cách thế hiện ở đời khẳng định: “Qua văn
11
chương, người phụ nữ không muốn để cho nam giới độc quyền kết luận về ý
nghĩa cuộc đời này, độc quyền đau khổ trước những bi kịch và độc quyền tìm
cách ứng phó với những tình huống bi kịch đó” [89, tr136].
Với kinh nghiệm cá nhân của một người viết nữ, khảo sát Tuyển tập 35
truyện ngắn nữ chọn lọc, trên cơ sở phân tích các hình thức biểu hiện của nhân
vật nữ trong các sáng tác của Trầm Hương, Ngô Thị Kim Cúc, Lê Minh Khuê,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Phạm Thị Ngọc Liên, Lý Lan nhận định: “Đặc điểm
trong những truyện ngắn của các nữ tác giả trẻ là hiện thực xã hội đang thay
đổi nhanh chóng quyết liệt và ảnh hưởng đến từng cuộc đời, ít nhiều làm vỡ
những giấc mộng lớn, mộng con với thái độ chung là chấp nhận như một
chuyển động tất yếu của thời đại” [43, tr103].
Bên cạnh những bài viết trên các báo và tạp chí, truyện ngắn nữ thời kì
đổi mới cũng trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều luận văn tốt nghiệp đại
học, luận văn thạc sỹ như Nhân vật nữ trong truyện ngắn ba tác giả nữ Y Ban,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo; Những đóng góp của những cây bút nữ
trong truyện ngắn thời kỳ đổi mới; Hạnh phúc đời tư trong truyện ngắn của
một số cây bút trẻ nữ. Nhìn chung các luận văn này đã đánh giá được đóng
góp của các cây bút nữ trong thời kì đổi mới.
Có thể nhận thấy là qua các bài viết và công trình nghiên cứu, từ những
góc độ khác nhau, các tác giả đã có sự nhìn nhận trên nhiều bình diện của
truyện ngắn các cây bút nữ, đề cập đến những đặc điểm nổi bật trong sáng tác
của họ. Các bài viết đã khẳng định sự tiếp nối về đội ngũ cũng như những đặc
điểm của giới tính bộc lộ qua cách nhìn hiện thực và con người. Tuy nhiên,
trong phạm vi một bài viết hoặc công trình đó, các tác giả mới dừng lại ở
những nhận định ban đầu, chưa có điều kiện khảo sát một số lượng tác phẩm
phong phú hơn hoặc đi chuyên sâu vào các tác giả tiêu biểu để từ đó có những
kiến giải cụ thể. Cũng cần phải nói thêm rằng, cũng có ý kiến trái chiều khi
bàn về sáng tác văn học của các nhà văn nữ (như ý kiến của Nguyễn Thanh
12
Sơn trong Phê bình văn học của tôi [93]). Nếu như các cây bút nữ thời kì đổi
mới vẫn đang trong quá trình vận động thì tác phẩm của họ vẫn còn có những
“vùng đất mới” thậm chí ngay ở vùng đất đã được thâm canh vẫn cần được
tiếp tục có những kiến giải từ phía người đọc.
2.2.2. CÁC BÀI VIẾT VỀ TÁC GIẢ PHAN THỊ VÀNG ANH, NGUYỄN THỊ THU HUỆ, Y
BAN, LÝ LAN
Nằm trong diện khảo sát các vấn đề về truyện ngắn sau 1975 và các tác
giả nữ, truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan, Y
Ban - bốn cây bút nằm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, cũng được các
nhà phê bình, nghiên cứu quan tâm.
2.2.2.1. VỀ Y BAN
Nhận định về sáng tác của Y Ban, trong bài viết Một giọng nữ trầm
trong văn chương Bùi Việt Thắng cho rằng: “Trong nhiều gương mặt nữ viết
văn gần đây, người đọc vẫn dành cho Y Ban nhiều cảm tình đặc biệt” [102].
Cũng ở bài viết này, ông đặc biệt nhấn mạnh đến lối viết của chị: “Y Ban có
một lối viết của riêng mình, chị chú ý khai thác thể hiện những tâm trạng điển
hình của nhân vật trong những trạng huống tiêu biểu”.
Trong bài viết gần đây trên báo Văn nghệ số ra ngày 5/7/2003 Y Ban và
những thân phận đàn bà, Xuân Cang đã phân tích và lí giải những đặc điểm
trong sáng tác của Y Ban trong khi xây dựng nhân vật nữ. Ông xem Y Ban là
người phụ nữ viết văn đầy nhạy cảm, chị cảm nhận được những biến thái tinh
vi trong tâm hồn con người.
Báo cáo kết quả cuộc thi viết tiểu thuyết và truyện ngắn về đề tài Hà
Nội, nhà văn Hoàng Ngọc Hà đánh giá cao tác phẩm của chị: “Y Ban (giải B)
lại có một lối kể chuyện thật thản nhiên, không bình phẩm mà dẫn người đọc
13
vào những suy tư và tự xem lại cách sống của mình” [19].
Tại cuộc hội thảo Truyện ngắn hay 1998 do Trường Đại học Hồng Đức
tổ chức, truyện ngắn Sau chớp là dông bão của Y Ban đã thu hút được nhiều ý
kiến đánh giá từ phía người đọc. Từ một truyện ngắn, Vũ Thị Oanh (giảng
viên đại học Hồng Đức) đã có cái nhìn rộng hơn về sáng tác của Y Ban: “Theo
tôi sáng tác Y Ban không đặt ra những vấn đề to tát, cũng không đại ngôn, mà
thường chỉ là những điều mắt nhìn và trái tim suy nghĩ nhưng thường để lại
những ám ảnh có lúc xa xót như những nhát cứa, có lúc hồi hộp, dịu ngọt. Đã
gặp một lần - những người có trái tim nhạy cảm không dễ mấy ai quên” [67].
Qua các bài viết về Y Ban, có thể nhận thấy, các tác giả mới dừng lại ở
việc khảo sát một số tác phẩm tiêu biểu, ở đặc điểm nhân vật nữ, những đặc
trưng của giọng điệu mà chưa khảo sát một cách toàn diện tác phẩm của chị.
*
Y Ban đến với văn chương không phải là chủ định ngay từ ban đầu bởi
trước khi là nhà văn, là phóng viên, chị đã tốt nghiệp Y khoa và đã từng gắn
bó với nghề y ở cương vị giảng dạy. Chị bắt đầu viết văn từ năm còn học lớp
8 với những mẩu chuyện nhỏ. Chị trở thành một cây bút được bạn đọc chú ý
khi Bức thư gửi mẹ Â u cơ được gửi dự thi truyện ngắn Tạp chí Văn nghệ
quân đội (1989 - 1990) và đoạt giải thưởng. Ba năm sau, năm 1993, chị lại tiếp
tục gặt hái thành công. Tập truyện Người đàn bà có ma lực của chị đã đoạt
giải B cuộc thi viết về Hà Nội của Nhà xuất bản Hà Nội. Cho đến nay, chị vẫn
là cây bút sung sức ở thể loại truyện ngắn và là một gương mặt tiêu biểu cho
truyện ngắn nữ thời kì đổi mới. Chị liên tục cho ra nhiều tập truyện: Người
đàn bà có ma lực, Đàn bà sinh ra trong bóng đêm, Cẩm cù, Miếu hoang, Chợ
rằm dưới gốc dâu cổ thụ và gần đây nhất là tập truyện Cưới chợ và những
truyện ngắn mới.
2.2.2.2. VỀ NGUYỄN THỊ THU HUỆ
Nhìn nhận Nguyễn Thị Thu Huệ là nhà văn nữ “độc đáo và tài hoa”, Hồ
14
Sỹ Vịnh đã tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ trên bình diện thi pháp:
Truyện ngắn Thu Huệ được viết theo thi pháp mở thể hiện qua việc xây dựng
nhân vật, qua cách xây dựng cốt truyện. Thu Huệ độc đáo ở ngôn ngữ miêu tả
đời sống, ở việc miêu tả những tình huống trào lộng, ở lối viết cô đặc. Từ
những phát hiện đó, ông cho rằng Thu Huệ đang chuẩn bị cho mình một
phong cách: “Nếu phong cách nghệ thuật là một đại lượng thẩm mỹ, thể hiện
sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện
biểu hiện nghệ thuật, các yếu tố độc đáo lặp đi lặp lại, nói lên cách nhìn, cách
cảm trong sáng tạo của một nhà văn, của một tác phẩm cụ thể..., thì ở Thu
Huệ, người đọc tìm thấy những dấu hiệu đó” (Thi pháp truyện ngắn của
Nguyễn Thị Thu Huệ [126]). Bên cạnh đó, ông còn chỉ ra những mặt chưa
được ở cây bút này như một số tác phẩm còn thiếu tính khái quát, còn sa vào
lối miêu tả kể lể.
Chùm truyện ngắn dự thi Tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1994 của
Nguyễn Thị Thu Huệ đã được đánh giá cao với những nhận xét: “Truyện nào
của chị cũng hấp dẫn. Chị viết về sự kiếm tìm hạnh phúc của con người trong
đời sống thực tại, lý giải, cắt nghĩa sự tha hóa của đạo đức. Văn phong của chị
tinh tế, gần gũi” (Một cuộc thi về người lính, vì người lính và vì một nền văn
học đổi mới, lành mạnh. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 10/1994). Bùi Việt
Thắng khảo sát 5 truyện ngắn dự thi ở nhiều khía cạnh khác nhau từ bình diện
phản ánh, đặc điểm của nhân vật nữ, giọng điệu đến nghệ thuật xây dựng cốt
truyện. Về giọng điệu của cây bút nữ này, ông cho rằng có một cái gì đó
không thuần nhất, không đơn giản, thậm chí có khi đối chọi nhau trong văn
Thu Huệ. Ông viết: “Truyện ngắn Thu Huệ luôn có hai mặt như thế - vừa “bụi
bặm trong tả chân, vừa trữ tình đằm thắm”, “vừa táo tợn, vừa thanh khiết”,
“văn Thu Huệ có độ căng của nhịp điệu, câu thường ngắn, ít ẩn dụ điển tích,
cấu trúc đơn giản, thông tin cao” (Năm truyện ngắn dự thi của một cây bút nữ
15
trẻ [102]). Khảo sát 5 truyện ngắn dự thi, Dương Quỳnh Trang lại quan tâm
tới việc xây dựng hình mẫu người đàn ông trong sáng tác của Thu Huệ. Chị đã
có bài viết Một nửa nhân loại qua truyện ngắn dự thi của một cây bút nữ
[116].
Gần đây, ngay sau khi tập truyện Nào ta cùng lãng quên được xuất bản,
bài viết Lãng quên và hy vọng - nhân đọc Nào ta cùng lãng quên, tập truyện
ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ đã được đăng tải trên Tạp chí Văn hóa - Văn
nghệ công an số 12/ 2003. Phê bình tập truyện này, tác giả bài báo đã viết:
“Chất lãng mạn trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ tương đối đặc biệt, nó
toát ra từ tâm hồn người đang đứng giữa ranh giới thiếu nữ - phụ nữ” [31].
Nhìn chung, có thể nhận thấy, tác giả của các bài viết đều khẳng định
khả năng nắm bắt hiện thực tinh tế và thuyết phục của Nguyễn Thị Thu Huệ.
Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ có sức hấp dẫn riêng với người đọc nhờ lối
viết và giọng điệu độc đáo, ấn tượng.
*
Nguyễn Thị Thu Huệ là một trong số những tác giả gặt hái được thành
công khi tuổi còn rất trẻ. Năm 1993, chị nhận giải thưởng của Báo Tiền phong
trong cuộc thi Tác phẩm tuổi xanh khi chị ở tuổi 27. Cùng năm đó, chị giành
được giải A trong cuộc thi viết về đề tài Hà Nội của Nxb Hà Nội. Năm 1994 là
năm thành công của chị với hai giải thưởng lớn: giải nhất cuộc thi truyện ngắn
Tạp chí Văn nghệ quân đội cho chùm tác phẩm gồm 5 truyện ngắn và tặng
thưởng của Hội nhà văn Việt Nam cho tập truyện Hậu thiên đường. Đến với
văn chương khá sớm và cho đến nay, chị đã ra mắt bạn đọc bốn tập truyện
ngắn: Cát đợi, Hậu thiên đường, Phù thủy, Nào ta cùng lãng quên.
2.2.2.3 VỀ LÝ LAN
Lý Lan lớn lên ở vùng đất Sài Gòn - Chợ Lớn, dạy học, viết văn và dịch
thuật là những công việc chị từng làm. Đã từng có thời gian dài gắn bó với
nghề dạy học nhưng công chúng lại biết đến chị nhờ văn chương. Với Lý Lan,
“viết văn khiến mình quan tâm đến con người và hoàn cảnh sống của họ” [42].
16
Ngoài sáng tác truyện ngắn chị còn viết truyện cho thiếu nhi, viết kí và tiểu
thuyết. Hiện nay chị đã là tác giả của hàng chục đầu sách. Bên cạnh các tập
truyện ngắn in riêng như Quá chén, Đất khách, Phượng, Thả diều, Chút lãng
mạn trong mưa; truyện ngắn của chị còn được tuyển chọn vào các tập truyện
ngắn khác như Cỏ hát (In chung với Trần Thùy Mai, Nxb Tác phẩm mới,
1984; Những ngày cuối năm. Tập truyện ngắn thành phố. Nxb Văn nghệ Tp.
Hồ Chí Minh, 1984; Truyện ngắn hay tuyển chọn, Nxb Công an nhân dân
1996; Truyện ngắn hay và đoạt giải (1957 - 1997), Nxb Văn học - Tạp chí
Văn nghệ quân đội, 1997; Truyện ngắn 4 cây bút nữ, Nxb Văn học 2001;
Truyện ngắn nữ thập niên 90, Nxb Phụ nữ 2000,...
Trong phần viết tổng luận cho cuốn sách Các nhà văn nữ [54] của nhóm
tác giả Lê Thị Đức Hạnh, Vân Thanh, Phan Diễm Phương, Lý Lan được nhắc
đến như là một cây bút đang được nhiều người chú ý. Trong cuộc thi truyện
ngắn tạp chí Văn nghệ quân đội 1989 - 1990, truyện ngắn Ngựa ô của Lý Lan
đã được nhà văn Xuân Thiều đánh giá cao: “đọc truyện này làm ta liên tưởng
tới Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu hoặc Vĩnh biệt Gunxarư của
Aimatốp. Chẳng hiểu Lý Lan có cảm hứng qua cái đẹp của các nhà văn vừa
nhắc tới không, mà tôi cứ nghĩ rằng “cái tạng” của Lý Lan rất dễ bắt gặp sự
rung động của các nghệ sĩ từng để lại cho đời những tác phẩm bất hủ”, “khác
với một số nhà văn viết về con người và nông dân Nam bộ, Lý Lan đã đem
đến cho người đọc ấn tượng về sự dịu hiền, sự ấm áp và cả sự tinh tế của nông
thôn Nam bộ” [106].
Đọc tập truyện ngắn và kí Một góc phố tàu của Lý Lan, Vũ Đức Tân
cho rằng: “Chị viết truyện ngắn khá tự nhiên, bao giờ cũng mong mình có
nhiều công chúng hơn. Lối viết của Lí Lan khá gần với phong cách hiện đại
[97].
Là người tuyển chọn trong số các tác phẩm truyện ngắn và kí của Lý
Lan vào tập Một góc phố Tàu, Vương Trí Nhàn đã có sự nghiên cứu khá kĩ
lưỡng sáng tác của chị trên nhiều bình diện như sự ảnh hưởng của môi trường
sống đến quá trình sáng tác của Lý Lan, những phạm vi hiện thực được phản
17
ánh trong sáng tác của chị cũng như một số phương diện về hình thức thể hiện.
Trên cơ sở nhận diện các tác giả văn xuôi Nam bộ như Hồ Biểu Chánh, Lý
Văn Sâm, Sơn Nam, Trang Thế Hy, ông cho rằng: “có thể Lý Lan không hoàn
toàn cố ý, nhưng văn xuôi của chị chính là nằm trong cái mạch đó của văn
xuôi Nam bộ. Cây bút nữ này đã tiếp nhận một cách hồn nhiên kinh nghiệm
của người đi trước, trong hoàn cảnh của mình, thêm vào đó những sắc thái
mới, làm nên một giọng điệu mới”(Mạch sống tự nhiên - một vài cảm nhận về
văn xuôi Lý Lan [85]). Ông đặt niềm tin vào cây bút này: “có thể tin là trước
mắt chúng ta, một phong cách đã hình thành, một mạch văn đã khơi nguồn và
đang chảy xiết” [85].
Quan tâm tới lối viết của Lý Lan, đặc biệt là cách tạo dựng không khí
cho truyện kể, Bùi Việt Thắng nhận định: “Lý Lan viết truyện ngắn rất tự do,
dường như không câu nệ khuôn phép nào. Đọc Lý Lan tôi nhớ đến nhận xét
của nhà văn Đỗ Chu: mỗi truyện ngắn trở thành một mảnh phân thân. Truyện
ngắn Lý Lan vừa như một cái gì liên tục mà đứt đoạn, mơ hồ mà rõ ràng - có
thể đó là lối viết dựa vào dòng ý thức” [118, tr9].
Khi tìm hiểu sáng tác của Lý Lan, các tác giả thường quan tâm tới giọng
điệu, cách kể chuyện và lối viết. Điều này đã được khẳng định là đặc trưng tạo
nên dấu ấn của nhà văn nữ này.
2.2.2.4 VỀ PHAN THỊ VÀNG ANH
Sinh ra và lớn lên trong cái nôi văn học, bố là nhà thơ Chế Lan Viện,
mẹ là nhà văn Vũ Thị Thường, Vàng Anh đã có những lợi thế để phát huy
niềm đam mê và khả năng sáng tạo văn học của mình. Phan Thị Vàng Anh
được độc giả đặc biệt chú ý kể từ khi chị tham gia cuộc thi truyện rất ngắn trên
tạp chí Thế giới mới. Nhận định về cây bút này, Tuyết Ngân đã viết: “Những
năm đầu thập kỉ 90, văn đàn “nổi sóng” vì những truyện ngắn “Kịch câm”,
“Đất đỏ” cho đến “Hoa muộn” của nhà văn trẻ Phan Thị Vàng Anh. Khi đó
18
chị mới ngoài 20 tuổi. Những truyện ngắn của chị đã khiến các nhà văn lớp
trước và độc giả phải bàng hoàng vì giọng điệu cũng như ý tưởng mới lạ của
nó” [74].
Tập truyện ngắn Khi người ta trẻ của Phan Thị Vàng Anh được tặng
thưởng của Hội nhà văn và khi viết lời giới thiệu cho tập truyện này, Huỳnh
Như Phương đánh giá: “sự xuất hiện của Vàng Anh đã đem đến một không
khí mới cho đời sống văn học hồi bấy giờ”. Sức hấp dẫn mà truyện ngắn Phan
Thị Vàng Anh có được là nhờ “Vàng Anh biết cách lạ hóa những điều quen
thuộc, biết làm cho da diết những điều tưởng chừng nhạt nhẽo” [90, tr6].
Trong bài viết Phan Thị Vàng Anh và Trần Thanh Hà hai phong cách
truyện ngắn trẻ, từ chỗ đi sâu vào phân tích truyện ngắn Hoa muộn - tác phẩm
đưa Vàng Anh đến với giải thưởng của tạp chí Thế giới mới, Tuyết Ngân lại
một lần nữa khẳng định sự xuất hiện có ý nghĩa của Vàng Anh trong đời sống
văn học những năm gần đây: “Người ta hồ hởi đón nhận truyện ngắn của Phan
Thị Vàng Anh và tác giả cũng đáp lại sự chờ đợi của mọi người bằng cách liên
tục xuất bản những tập truyện ngắn” [73].
Cảm nghiệm về sự mỏng manh của một số mối liên hệ con người trong
đời sống hiện đại, về những con người nhỏ bé, lẻ loi trước những tình cảm hời
hợt, những đứt gãy của cuộc sống ở một số nhân vật trong sáng tác của Vàng
Anh, Nguyễn Chí Hoan trong bài viết Bơ vơ trong cái đời thường - Đọc truyện
ngắn Phan Thị Vàng Anh - Nguyễn Trọng Nghĩa cho rằng: Phan Thị Vàng
Anh đã “cố gắng bóc đi những lớp vỏ sự kiện đời sống để trực quan các mối
liên hệ - giản đơn và vô hình giữa con người” [32].
Ngay sau khi những tác phẩm đầu tay đến với bạn đọc, Phan Thị Vàng
Anh đã gây được sự chú ý của người đọc. Vàng Anh trở thành một trong số
những cây bút trẻ mà khi nói đến sự đổi mới văn học, sự vận động của thể loại
truyện ngắn, các nhà phê bình, nghiên cứu không quên nhắc đến tác phẩm của
chị. Những năm gần đây, chị ít xuất hiện hơn trên văn đàn. Chắc rằng, đây sẽ
19
là quãng lặng để chị lại có thể bước những bước đi vững chắc trong văn
nghiệp và tác phẩm của chị sẽ còn là những mảnh đất cần tiếp tục được khai
vỡ.
* *
*
Tựu chung lại, có thể nhận thấy các bài viết này mới chỉ dừng lại ở việc
khảo sát chủ yếu là những tác phẩm và tác giả cụ thể ở những tập truyện riêng
rẽ mà chưa có cái nhìn bao quát, xâu chuỗi mang tính hệ thống trên cơ sở khảo
sát một cách toàn diện truyện ngắn của các nhà văn nữ đặc biệt là truyện ngắn
của 4 cây bút nữ trên đây. Có không ít những nhận xét khá tinh tế, sâu sắc về
các cây bút nữ ra đời sau 1975, tuy nhiên những bài viết này cũng chỉ mới
dừng lại ở những gợi mở mà chưa có sự phân tích thấu đáo. Đặc biệt, chưa có
các bài viết nghiên cứu về bình diện nhân vật, về cảm hứng sáng tác cũng như
một số phương diện của hình thức tác phẩm của các chị. Vì thế, chúng tôi
mạnh dạn lựa chọn đề tài này với mong muốn bằng sự khảo sát của mình tìm
hiểu đặc điểm trong sáng tác truyện ngắn của bốn cây bút nữ, qua đó góp thêm
một góc nhìn để thấy được sự đóng góp về phương diện thể loại của các cây
bút trẻ trong những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng khảo sát chính là truyện ngắn của bốn cây bút nữ Nguyễn
Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan. Mở rộng hơn, chúng tôi sẽ
liên hệ sang những sáng tác ở các thể loại khác của các chị. Một mặt, chúng
tôi vừa tập trung vào những đặc điểm chung của 4 cây bút nữ, mặt khác vừa đi
sâu vào từng tác giả cụ thể để có cái nhìn khu biệt. Tất nhiên, trong quá trình
nghiên cứu, chúng tôi sẽ cố gắng đặt truyện ngắn của các chị trong cái nền
chung của truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới nói chung và truyện ngắn nữ
trẻ nói riêng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
20
Chọn đối tượng nghiên cứu là truyện ngắn của một số cây bút nữ thời kì
đổi mới (qua sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh,
Lý Lan), luận văn tập trung vào các phương diện: truyện ngắn những năm sau
chiến tranh và truyện ngắn nữ thời kì đổi mới; truyện ngắn bốn cây bút nữ
Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan nhìn từ phương diện
cảm hứng nghệ thuật, thế giới nhân vật và đặc điểm nghệ thuật. Trong các vấn
đề trên thì việc tìm hiểu truyện ngắn những năm sau chiến tranh và truyện
ngắn nữ thời kì đổi mới là một cách tiếp cận với dòng chảy của truyện ngắn để
thấy được mạch nối và vị trí của các cây bút nữ nói chung và bốn tác giả trên
nói riêng trong tiến trình vận động của truyện ngắn nữ hiện đại. Trên cơ sở đó,
chúng tôi tập trung soi rọi vào hai phương diện quan trọng và đặc trưng của
sáng tạo nghệ thuật là cảm hứng sáng tác và thế giới nhân vật trong truyện
ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để có một cái nhìn tổng quan về truyện ngắn của bốn tác giả với số
lượng khá lớn các tác phẩm, luận văn sẽ sử dụng phương pháp thống kê, phân
loại, phương pháp loại hình, phân tích tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương
pháp so sánh đối chiếu. Với các phương pháp này, chúng tôi cố gắng tìm được
đặc trưng cơ bản nhất cũng như mối tương quan giữa truyện ngắn của các chị
với những cây bút cùng thế hệ, cùng giới, khác giới và khác thế hệ.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
5.1. Qua việc tìm hiểu cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật trong
truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan, luận
văn sẽ cho thấy quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người của các nhà
văn nữ này, trên cơ sở đó góp phần làm sáng tỏ các đặc điểm của nữ văn sỹ.
5.2. Khảo sát truyện ngắn bốn cây bút nữ từ phương diện nghệ thuật để
21
thấy được các thủ pháp nghệ thuật trong quá trình xây dựng cốt truyện.
5.3. Qua truyện ngắn bốn cây bút nữ, thấy được dòng chảy của truyện
ngắn nữ đương đại nói riêng và truyện ngắn nói chung trong tiến trình vận
động và đổi mới của văn xuôi thời kì đổi mới.
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Phần mở đầu
Phần nội dung: gồm ba chương
Chương 1: Truyện ngắn những năm sau chiến tranh và truyện ngắn nữ
thời kì đổi mới
Chương 2: Cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật trong truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan
Chương 3: Nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan
Thị Vàng Anh, Lý Lan
Phần kết luận
Tài liệu tham khảo
và phần Phụ lục: Quan niệm của một số nhà văn nữ về nghề văn
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
TRUYỆN NGẮN NHỮNG NĂM SAU CHIẾN TRANH VÀ TRUYỆN
NGẮN NỮ TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI
1.1. TRUYỆN NGẮN NHỮNG NĂM SAU CHIẾN TRANH
Năm 1975, với thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đời sống
xã hội bước sang một quỹ đạo mới. Đó là thời điểm để con người trở về với
nhịp sống thời bình. Những đổi thay của đời sống xã hội những năm sau chiến
tranh đã được tác động vào đời sống văn học, đặt văn học trước yêu cầu đổi
22
mới.
Tuy nhiên, những năm đầu sau chiến tranh, văn học vẫn còn phát triển
theo quỹ đạo cũ. Từ nửa sau thập kỉ 80 văn học mới thực sự có sự chuyển đổi:
từ tính thống nhất với tư duy sử thi là chủ đạo, dần dần văn học có sự chuyển
đổi sang tư duy tiểu thuyết; từ chịu ảnh hưởng của các quy luật chiến tranh,
văn học chuyển sang chịu tác động của các quy luật thời bình. Bước chuyển
của văn học được thể hiện qua thơ, kịch, văn xuôi, trong đó truyện ngắn là một
trong những thể loại ghi dấu rõ rệt. Là thể loại nhạy bén và xung kích trong
việc áp sát hiện thực cuộc sống, truyện ngắn lại đi sâu vào việc phản ánh “cái
hàng ngày”, “cái thường nhật”. Cùng với những chuyển động của thể loại tiểu
thuyết với sự xuất hiện của những tác phẩm từng gây dư luận như Cù lao
tràm, Đứng trước biển của Nguyễn Mạnh Tuấn, Thời xa vắng của Lê Lựu,
Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Thời gian của
người, Gặp gỡ cuối năm của Nguyễn Khải, Mùa lá rụng trong vườn của Ma
Văn Kháng, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Chim én bay của Nguyễn Trí Huân,
Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh... là sự trở lại, lên ngôi của truyện ngắn
với những cây bút lão thành, những cây bút từng có những đóng góp trong nền
văn học kháng chiến như Bùi Hiển với Ý nghĩ ban mai, Xuân Thiều Gió từ
miền cát, Người mẹ tội lỗi, Xin đừng gõ cửa, Nguyễn Kiên với Chim khách
kêu, Những mảnh vỡ, Đỗ Chu với Một loài chim trên sóng, Nguyễn Minh
Châu với Bến quê và Cỏ lau,... Đặc biệt là sự xuất hiện của những cây bút trẻ -
lớp nhà văn trưởng thành sau chiến tranh, để rồi đến những năm 90, truyện
ngắn vươn lên thành một thể loại giàu sức sống trong dòng chảy của văn học
dân tộc những thập niên cuối của thế kỷ hai mươi với một trong số gương mặt
xuất sắc là Nguyễn Huy Thiệp.
Sức sống của truyện ngắn được nuôi dưỡng trong không khí xã hội với
xu hướng mở rộng tính chất dân chủ. Sự bùng nổ các tác phẩm truyện ngắn
trên các ấn phẩm báo chí là môi trường để truyện ngắn dễ dàng đến được với
người đọc. Truyện ngắn được in nhiều trên các báo và các tuyển tập. Nhiều
23
cuộc thi truyện ngắn đã được phát động và cũng qua đó người đọc có thể tìm
được những gương mặt triển vọng. Bên cạnh các cuộc thi truyện ngắn được tổ
chức thường xuyên trên các báo (cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ trong
nhiều năm, báo Tiền Phong, Tạp chí Thế giới mới cho thể loại truyện ngắn
dưới 1000 chữ, Tạp chí Văn nghệ quân đội, Tạp chí Sông Hương) là việc
hưởng ứng của các tác giả cho cuộc thi sáng tác văn học về đề tài Hà Nội 1992
- 1993 do Nxb Hà Nội phát động, cuộc thi truyện ngắn dành cho các cây bút
mới do Nxb Văn nghệ Tp Hồ Chí Minh tổ chức, cuộc thi truyện ngắn hay Tp
Hồ Chí Minh do Nxb văn nghệ Tp Hồ Chí Minh và Báo Nguyệt san Tp Hồ
Chí Minh phối hợp tổ chức trong 2 năm 1991, 1992... Một khối lượng lớn các
tuyển tập truyện ngắn có mặt trên thị trường và đang từng ngày đến tay bạn
đọc.
Dẫu rằng, với cơ chế thị trường và sự bùng nổ thông tin như mấy năm trở
lại đây, truyện ngắn với tư cách là một loại hình nghệ thuật, để đến với được
với người đọc còn là cả một thử thách khi mà con người ngày càng có nhiều
sự lựa chọn, ngày càng có nhiều mối quan tâm hơn và thời gian dành cho việc
đọc đang bị thu hẹp dần và ở góc độ này, so với tiểu thuyết, truyện ngắn quả là
có lợi thế! Sự bùng nổ của thông tin, cơ chế thị trường tác động mạnh mẽ đến
đời sống văn học đã đòi hỏi ở truyện ngắn cũng như các thể loại khác một sự
đổi mới, một kiểu tư duy mới để đáp ứng một cách tiếp nhận mới từ phía công
chúng độc giả. Thực tế cho thấy là số đầu sách của các nhà xuất bản vẫn
không ngừng được mở rộng và nhiều cây bút mới vẫn chọn truyện ngắn làm
thể loại thử sức trong khi nhiều nhà văn lớp trước vẫn tiếp tục sáng tác truyện
ngắn sau những thành công trong văn nghiệp. Người đọc vẫn không thờ ơ với
truyện ngắn bởi “trong nhịp độ của đời sống công nghiệp hiện đại, dưới sức ép
từ phía các phương tiện nghe nhìn, truyện ngắn đã phát huy được ưu thế của
mình một cách hiệu quả” [112]. Vấn đề đặt ra là khi việc in ấn trở nên không
mấy khó khăn, thì sức sống của truyện ngắn lại tuỳ thuộc phần lớn vào chủ thể
24
sáng tạo, gánh nặng thiên chức hơn bao giờ hết lại đặt lên vai những người
cầm bút, cả những người viết thuộc thế hệ trước và những cây bút trẻ mới xuất
hiện sau chiến tranh.
Sau năm 1975, cùng với quá trình đổi mới trong đời sống xã hội là
những đổi mới trong tư duy nghệ thuật của nhà văn. Lớp nhà văn trẻ đã có một
quan niệm về văn chương rất giản dị: người viết chỉ nên coi văn chương là
người bạn tâm tình, chức năng “giáo huấn”, “tải đạo” được coi nhẹ hơn so với
những nhà văn “lớp trước”: “Lớp sau, cái trách nhiệm đem đến một bài học gì
đó, một lí tưởng nào đó đến người đọc được coi bộ xem nhẹ hơn trước. Có lẽ
họ thích nói bằng cách này hay cách khác, gián tiếp hay trực tiếp cái tôi của
mình hơn, thích chứng tỏ cá tính của tôi cho người đọc hơn là hướng dẫn
người đọc” (Phan Thị Vàng Anh - Trả lời phỏng vấn báo Phụ nữ thủ đô
20/10/1993).
Sự đổi mới quan niệm về hiện thực của nhà văn bắt nguồn từ nhu cầu
đổi mới của văn học: cả chủ thể sáng tạo và đối tượng tiếp nhận. Trước đây,
do sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử, các tác phẩm văn học chủ yếu sáng tác
theo “tư duy sử thi”. Giờ đây, trong giai đoạn đổi mới, quan hệ giữa nhà văn -
nhân vật và độc giả đã thay đổi và đòi hỏi người viết cũng phải đổi mới tư duy
nghệ thuật. Những năm đầu sau chiến tranh là những năm giao thời. Đổi mới
như một yêu cầu tất yếu nhưng đổi mới tư duy nghệ thuật thì không phải ai
cũng một sớm một chiều. Cho nên, xét trên phương diện tổng thể thì “truyện
ngắn sau 1975 là sự đối thoại với truyện ngắn trước 1975” và đối thoại với
người đọc về những vấn đề của đời sống. Khoảng cách giữa nhà văn, nhân vật
và độc giả được thu hẹp dần. Thời kì đổi mới, cách nhìn của họ về hiện thực
cũng có những đổi khác. Truyện ngắn ngày càng đi sát với hiện thực, một
hiện thực như nó vốn có chứ không phải là hiện thực như ta mong muốn. Nhà
văn chủ động với việc lựa chọn hiện thực. Bên cạnh những mặt tốt đẹp, không
ít các tác phẩm truyện ngắn còn đề cập đến cả mặt trái, mặt tiêu cực của hiện
25
thực. Cuộc sống trong tác phẩm đã có những khoảng lồi lõm, trồi sụt.
Từ bối cảnh của đời sống xã hội với cơ chế dân chủ, các nhà văn đã có
những đổi mới trong việc tiếp cận hiện thực đời sống. Khác với thời kì trước
1975, hiện thực thường được tiếp cận từ cái nhìn đơn chiều đều hướng về sự
nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng Tổ quốc. Cảm hứng lãng mạn cách
mạng và cảm hứng sử thi luôn chi phối các nhà văn trong sáng tác suốt ba
mươi năm chiến tranh. Những vấn đề lớn lao của vận mệnh dân tộc trở thành
mối quan tâm của hầu hết các nhà văn hồi bấy giờ. Thực tế đó không cho phép
các nhà văn đi sâu vào số phận cá nhân, có chăng là những chuyện hạnh phúc
của con người luôn được gắn liền với lợi ích của dân tộc và thời đại. Những
năm sau chiến tranh, truyện ngắn ngày càng áp sát hiện thực đời sống. Con
người trở thành tâm điểm sáng tạo của các cây bút. Một cách nhìn mới về con
người được mở ra. Những nhân vật lí tưởng trở nên hiếm hoi hơn. Con người
được mô tả như là một thực thể với những “cái đã biết” và những “cái chưa
biết”. Con người đời thường với những nhu cầu cá nhân, những “cái con
người” trong con người: những khát khao, cả dục vọng và ham muốn; con
người trong sự giao tranh giữa cao cả thấp hèn, giữa “thiên thần và ác quỷ”.
Và đi đôi với việc khám phá chiều sâu trong tâm hồn con người là việc tái
hiện hiện thực của thế giới tâm linh và tâm trạng. Hầu hết các truyện ngắn
thành công được độc giả đón nhận đều tập trung khai thác những mảng đề tài
lâu nay trong văn học chưa có điều kiện đề cập tới gây được phản hồi tích cực
từ phía độc giả. Trong số đó phải kể đến Bước qua lời nguyền của Tạ Duy
Anh, Tướng về hưu, Trương Chi, Con gái thuỷ thần của Nguyễn Huy Thiệp,
Kẻ sát nhân lương thiện của Lại Văn Long, Ánh trăng của Nguyễn Bản, Mùa
hoa cải bên sông, Hai người đàn bà xóm Trại của Nguyễn Quang Thiều, Luỵ
của Trần Duy, Họ đã trở thành đàn ông của Phạm Ngọc Tiến, Hậu thiên
đường của Nguyễn Thị Thu Huệ, Người sót lại của rừng cười của Võ Thị
Hảo; Nguyễn Minh Châu với Khách ở quê ra, Cỏ lau, Phiên chợ Giát, Bức
26
tranh; Lê Minh Khuê với Bi kịch nhỏ, Anh lính Tony D,...
Nói về thành tựu của truyện ngắn sau 1975, nhà nghiên cứu Bích Thu
đã nhận định: “Trong truyện ngắn sau 1975, từng cá thể, từng mảnh đời riêng
biệt âm thầm lặng lẽ hay ồn ào, sôi động được nhìn nhận trong những môi
trường đời sống bình thường, làm nên thế giới nhân vật đa dạng và phức tạp.
Bằng nhiều cách khai thác và tiếp cận khác nhau, các nhà văn đã hướng vào
thế giới nội tâm, khám phá chiều sâu tâm linh, thấy được ở mỗi cá nhân những
cung bậc tình cảm: vui buồn, hạnh phúc, đau khổ, những hi vọng, khát khao,
đam mê.” [108, tr71]. Với sự đổi mới quan niệm về hiện thực và con người,
các nhà văn đã mang đến cho thể loại truyện ngắn những sắc thái mới. Từ Hai
người trở lại trung đoàn của Thái Bá Lợi với cách nhìn về con người trong
tính phức tạp và đa diện của nó đến con người tự nhận thức trong Bức tranh
của Nguyễn Minh Châu, con người với những khát khao hạnh phúc trong Hai
người đàn bà xóm Trại của Nguyễn Quang Thiều, trong sáng tác của các nhà
văn nữ như Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Lý Lan, Võ Thị Hảo, con người với
những mảng khuất của thế giới tâm linh trong Bến trần gian của Lưu Sơn
Minh, Thợ may của Phạm Hải Vân, con người với sự tha hoá về nhân cách
trong Xóm nhỏ, Bi kịch nhỏ của Lê Minh Khuê, Tướng về hưu của Nguyễn
Huy Thiệp... Những sáng tác đó đều mang trong mình nó những dấu hiệu của
sự chuyển đổi. Chưa bao giờ trong văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói
riêng, con người lại được khai thác ở nhiều chiều kích và bình diện đến vậy.
Tiếp cận với thế giới nhân vật trong các sáng tác, người đọc như được tiếp xúc
với những con người có thực ở ngoài đời, cũng sinh động, phong phú và
không kém phần phức tạp.
Cũng viết về chiến tranh nhưng khác với thời kì trước đó, các nhà văn,
đặc biệt là các nhà văn trẻ đã bộc lộ một tiếng nói thế hệ qua những trang viết
của mình. Nguyễn Quang Thiều trong tác phẩm Hai người đàn bà xóm Trại đã
có cách khai thác riêng về số phận con người trong chiến tranh. Truyện đi sâu
vào số phận con người cá nhân với khát vọng về hạnh phúc riêng tư. Chiến
27
tranh thường gắn liền với chia li cách trở. Trước 1975 với tâm thức của cả
cộng đồng đều mong mỏi một sự đoàn tụ, với ý niệm trong đau khổ lại có
niềm vui, mô hình kết thúc thường gặp vẫn là kiểu kết thúc “gặp gỡ - đoàn tụ”.
Với Hai người đàn bà xóm Trại, kết thúc tác phẩm nhà văn vẫn còn để ngỏ:
những người chồng đi chinh chiến của hai người đàn bà xóm Trại đã không
bao giờ còn trở về nhưng niềm hy vọng vốn đã trở thành một thói quen đã bao
năm, ngay cả khi họ đã già và chiến tranh đã lùi xa, vẫn luôn hiện hữu trong
cuộc sống thường nhật. Họ đã trở thành đàn ông của Phạm Ngọc Tiến cũng là
một cách quan niệm mới về hạnh phúc: hạnh phúc là được dâng hiến, là được
góp phần làm cho người khác hạnh phúc. Nhân vật chính trong truyện là một
phụ nữ với nỗi đau khi tình yêu bị chia cắt. Là một người lính, hơn ai hết chị
hiểu được cuộc sống khắc nghiệt ở chiến trường - một cuộc sống luôn phải đối
diện với cái chết từng ngày, từng giờ và chị đã tự nguyện bù đắp cho một
người lính trẻ trước khi vào trận chiến. Với triết luận về cuộc sống có sự sinh
thành và huỷ diệt, được và mất, hạnh phúc và đau khổ, truyện đã để lại dư vị
sâu lắng trong lòng người đọc.
Những cách tân của thể loại truyện ngắn không chỉ được thể hiện ở sự
đổi mới tư duy và cách tiếp cận hiện thực từ phía chủ thể sáng tạo mà còn là ở
phương diện hình thức và thi pháp thể loại. Để tăng thêm khả năng phản ánh
hiện thực, một xu hướng vẫn thường gặp trong truyện ngắn hôm nay là lối viết
pha màu sắc huyền thoại. Nhiều truyện ngắn có cấu trúc đan cài thực và ảo.
Yếu tố huyền thoại ở đây được xem như là một công cụ để tái hiện sinh động
và có hiệu quả cuộc sống và con người đương thời. Nếu như Nguyễn Huy
Thiệp đã thông qua các tích truyện cổ (Trương Chi, Những ngọn gió Hua tát)
để xây dựng nên những tác phẩm mang hơi thở cuộc sống đương đại thì Lưu
Sơn Minh, Phạm Hải Vân, Võ Thị Hảo và nhiều tác giả khác đã bằng hình
thức huyền thoại hoá để mở ra một “không gian cảm nhận mới lạ” cho người
đọc. Nhiều truyện ngắn của Võ Thị Hảo (Biển cứu rỗi, Hồn trinh nữ, Người
sót lại của rừng cười...), của Nguyễn Thị Ấm (Giấc ngủ nơi trần thế), được
28
viết như những câu chuyện cổ tích thời hiện đại. Được lắp ghép bởi hai bình
diện hiện thực và kì ảo, với lối viết pha màu sắc huyền thoại như vậy, các tác
phẩm đã tạo được dư ba trong lòng người đọc.
Mặt khác, truyện ngắn cũng đã có sự cách tân về phương diện ngôn ngữ
và phương thức trần thuật. Các thủ pháp xây dựng truyện ngắn như tăng
cường tính đối thoại, độc thoại nội tâm, miêu tả theo dòng ý thức, đồng hiện,
sử dụng thời gian và không gian nghệ thuật hợp lí đã được các tác giả áp dụng
làm tăng hiệu quả nghệ thuật tạo nên sức hấp dẫn riêng cho truyện ngắn hôm
nay.
Với sự chuyển đổi theo xu hướng đó, truyện ngắn đã và đang có những
chuyển biến trước đòi hỏi của đời sống và sự cảm thụ của người đọc. Dẫu có
thời điểm chững lại, song với khả năng biến hoá linh hoạt, truyện ngắn vẫn là
thể loại thuận lợi trong việc phát huy khả năng tiếp cận hiện thực trong giai
đoạn mới nhanh nhạy và sắc bén. Trong tương lai, truyện ngắn vẫn sẽ phải
tiếp tục đổi mới để tiếp tục là một thể loại văn học không thể thay thế.
1.2. TRUYỆN NGẮN NỮ TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI
Với đặc thù của một thể loại văn học, trong quá trình hình thành và phát
triển, truyện ngắn đã góp phần làm nên diện mạo của văn học dân tộc. Trước
cách mạng tháng Tám, đặc biệt là thời kì 1930 - 1945, cùng với quá trình hiện
đại hóa văn học, các cây bút truyện ngắn như Phạm Duy Tốn, Nguyễn Công
Hoan, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Thạch Lam... là những gương mặt truyện
ngắn tiêu biểu trong việc làm nên một thời kì phát triển mạnh mẽ đưa văn
chương vào “quỹ đạo hiện đại”. Giai đoạn 1945 - 1975 với một lực lượng
đông đảo những người cầm bút thuộc nhiều thế hệ (gồm lớp nhà văn tiền
chiến xuất hiện trước 1945, lớp nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống
Pháp, lớp nhà văn thuộc thế hệ thứ ba xuất hiện trong chiến tranh chống Mỹ)
đã đem đến cho truyện ngắn thời kì này sự phong phú ở cả hai phương diện
tác gia và tác phẩm. Truyện ngắn giai đoạn này đã được nói đến như một
29
thành tựu của văn chương kháng chiến và nhiều tác phẩm đã trở thành những
giá trị tinh thần trong đời sống văn học đương thời, trở thành những di sản quí
báu trong lịch sử văn học dân tộc. Từ sau 1975, điều kiện và môi trường sáng
tác thuận lợi đã tạo điều kiện tốt để truyện ngắn trở thành một thể loại sung
sức và xung kích trong việc mở ra những hướng tìm tòi mới cả về phương
diện thi pháp thể loại lẫn khả năng tiếp cận hiện thực. Đây cũng là thời kì
truyện ngắn phát triển mạnh mẽ và cùng với tiểu thuyết, văn xuôi nghệ thuật
Việt Nam đã tiến những bước khá dài.
Góp vào sự phát triển cả về số lượng lẫn hiệu quả nghệ thuật đó còn là
sự góp mặt của những cây bút nữ. Đóng góp của các nhà văn nữ trên lĩnh vực
văn xuôi, đặc biệt là ở thể loại truyện ngắn được thể hiện rõ qua từng thời kì
với những đặc điểm khu biệt. Chúng tôi muốn có cái nhìn khái quát mang tính
lịch đại về đặc điểm và đóng góp của truyện ngắn nữ trong suốt một thế kỉ
qua.
1.2.1. TRUYỆN NGẮN NỮ TRƯỚC THỜI KÌ ĐỔI MỚI
Cho đến những năm đầu thế kỉ XX các nữ văn sĩ hầu như vẫn còn vắng
bóng trên văn đàn. Sáng tác của nữ văn sĩ vẫn còn dừng lại ở con số rất khiêm
tốn. Một trong những nguyên nhân cắt nghĩa hiện tượng này là dưới chế độ
phong kiến hà khắc, người phụ nữ không thể có điều kiện tham gia lao động
sáng tạo nghệ thuật. Những quy định ngặt nghèo theo quan niệm đạo đức Nho
giáo đã ràng buộc người phụ nữ với bổn phận và gia đình. Nhà thơ Anh Thơ
từng tâm sự: “Từ bé bố tôi đã cấm tôi làm thơ. Theo cách nghĩ của bố tôi, con
gái có một chút tài thì mệnh thường bạc, vì thế ông đã tìm mọi cách để ngăn
cản” [107]. Vì thế, được giao cảm với đời, với thế giới bên ngoài càng ngày
càng trở thành một niềm khao khát của người phụ nữ, nhất là với những người
phụ nữ có thiên hướng sáng tạo.
So với thế kỉ trước thì trong những thập kỉ đầu của thế kỉ XX, người
phụ nữ cũng đã phần nào có tiếng nói trên văn đàn, trên các diễn đàn báo chí
30
như Nữ giới chung, Phụ nữ thời đàm, Phụ nữ tân văn... Ngay từ những năm
hai mươi, các bài viết Văn học với nữ tính, Phụ nữ đối với văn học, Nền văn
học của phụ nữ Việt Nam... trên tờ Phụ nữ tân văn đã lên tiếng đấu tranh cho
sự bình quyền của giới nữ trong văn học. Thời kì này tiếng nói của các nhà
văn nữ đối với văn học chủ yếu là ở lĩnh vực thơ ca. Còn trong văn xuôi nói
chung và truyện ngắn nói riêng thì sự hiện diện của các nhà văn nữ còn quá ít
ỏi. Năm 1941, Anh Thơ xuất bản tiểu thuyết Răng đen nhưng chưa thực sự có
được tiếng vang. Người đọc vẫn nhớ đến bà với tư cách là nữ sĩ của phong
trào Thơ mới nhiều hơn. Cùng với Anh Thơ thì Đạm Phương Nữ Sử và Mộng
Sơn được xem là những người có công đầu cho mảng sáng tác văn xuôi của
phụ nữ thời kì trước Cách mạng tháng Tám. Kim Tú Cầu của Đạm Phương nữ
sử là tác phẩm chống lại quan niệm cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy - quan niệm
thời đó đã khiến cho bao đôi lứa bị chia lìa trong đau khổ, là tiếng kêu tha thiết
đòi được tự do trong tình yêu và hôn nhân. Mộng Sơn đã từng có nhiều bút kí
đăng trên tờ Phụ nữ thời đàm. Bà còn tham gia làm báo Việt nữ, Đàn bà với
những bài viết thường xuyên trên mục đọc sách. Những bài viết của bà là tiếng
nói đấu tranh cho sự bình đẳng giới ở góc độ người phụ nữ với những thấu
hiểu và cảm thông. Dù sáng tác của các nhà văn nữ thời kì này còn quá khiêm
tốn nhưng nó có ý nghĩa quan trọng là tiền đề cho sự phát triển của văn xuôi
nữ sau này.
Cách mạng tháng Tám thành công không chỉ là bước ngoặt lịch sử mà
còn là bước ngoặt trong cuộc đời mỗi con người. Trong xu thế chung của thời
đại, vị thế của người phụ nữ đã thay đổi. Phụ nữ được giải phóng và hăng hái
tham gia vào cuộc kháng chiến của dân tộc cùng công cuộc xây dựng đất nước
sau hòa bình. Nhà văn Mộng Sơn đã có những chuyến đi và kết quả của những
chuyến đi đó là những tập bút kí, phóng sự trong đó phải kể đến Vượt cạn và
Làm nũng. Nhà văn nữ Thanh Hương sau Cách mạng tháng Tám đã có mặt ở
nhiều địa phương tham gia nhiều phong trào và những trang viết của bà đã ghi
lại hiện thực của đời sống người phụ nữ nông thôn mới. Nhà văn Lê Minh -
31
nhà văn nữ đến hôm nay đã là tác giả của trên hai chục đầu sách thuộc nhiều
thể loại (truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện viết cho thiếu nhi, truyện vừa) cũng
đã có thời gian gắn bó với khu công nghiệp luyện kim Thái Nguyên trong thời
kì miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với môi trường quen thuộc là những
người thợ - những người chiến sĩ luôn có mặt ở những mũi nhọn trong công
cuộc xây dựng Tổ quốc - bà đã cho ra đời nhiều sáng tác về đề tài này như Mẻ
gang, Ngày mai sắp đến. Nguyễn Thị Như Trang đến với sự nghiệp sáng tác
văn học ngay từ những năm đầu thập kỷ 60. Học xong lớp bồi dưỡng cho
những người viết trẻ và trở thành phóng viên báo Quân khu Ba, bà đã từng có
mặt ở tuyến lửa để viết về những người lính, những người mẹ và những cô gái
dũng cảm một cách thầm lặng trên mặt trận chống quân thù.
Có thể nói ở vào những thời điểm khó khăn, khắc nghiệt của chiến
tranh, các nhà văn nữ đã có mặt ở nhiều nơi trên suốt dọc dài đất nước ghi lại
một cách chân thực bức tranh của đời sống trong những năm tháng chiến
tranh. Để có được những sáng tác ghi dấu ấn của cả một thời kì có nhà văn đã
phải trả bằng máu. Nhà văn nữ Dương Thị Xuân Quý vĩnh viễn nằm lại trên
mảnh đất Duy Xuyên sau khi đã có những tác phẩm viết về những cô giao
liên, những nữ thanh niên và cả người dân miền Trung trong chiến tranh
chống Mĩ. Những nỗ lực sáng tạo của các nhà văn đã được ghi nhận bằng
những tác phẩm được đánh giá tốt. Tiểu thuyết Giận nhau (1957) của Mộng
Sơn đạt Giải thưởng thi Văn nghệ do Hội liên hiệp Phụ nữ tổ chức. Cái hom
giỏ (1959) của Vũ Thị Thường - cây bút tiêu biểu về đề tài nông thôn miền
Bắc trong những năm 60 - đạt giải cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ.
Chiếc nơ đỏ của Bích Thuận nhận được giải ba cuộc thi báo Văn nghệ 1968.
Nhiều nhà văn nữ đã trưởng thành nhanh chóng từ các phong trào sáng tác, từ
những đợt đi thực tế ở chiến trường, ở nông thôn, nhà máy.
Đội ngũ các nhà văn nữ thời kì 1945 - 1975 là sự kế tục qua các thế hệ
từ Mộng Sơn, Lê Minh, Bích Thuận đến Nguyễn Thị Ngọc Tú, Nguyễn Thị
Như Trang, Vũ Thị Thường, Dương Thị Xuân Quý, Lê Minh Khuê... Vượt lên
32
trên những trở ngại của giới và của bản thân, các chị đã có những đóng góp
nhất định cho nền văn xuôi chống Mĩ nói chung và cho thể loại truyện ngắn
nói riêng ở thời kì này. Vốn sống được mở rộng từ những trải nghiệm qua
những lần đi thực tế trên các công trường, nhà máy, xí nghiệp đến chiến
trường, đề tài sáng tác trở nên phong phú. Đối tượng họ quan tâm nhiều nhất
vẫn là những người phụ nữ, những người vợ, người mẹ, những nữ chiến sỹ,
những cô gái giao liên, thanh niên xung phong với những tâm tư và việc làm
cụ thể. Trên những trang viết của các chị luôn hiện lên hình ảnh của những cô
gái giao liên chịu đựng gian khổ trong những điều kiện khắc nghiệt hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ (tập truyện Hoa rừng của Dương Thị Xuân Quý), là sự đổi
đời của những cô gái giàu ý chí và nghị lực cùng với những chuyển biến trong
tình cảm và lẽ sống (Sao Mai, Ở thành phố bờ biển của Nguyễn Thị Như
Trang), là người phụ nữ giỏi việc nước đảm việc nhà (Những người thân yêu -
Nguyễn Thị Cẩm Thạnh)... Qua sáng tác của mình các chị đã tạo dựng được
những gương mặt nữ của lớp nhà văn chống Pháp và chống Mĩ. Nửa sau thế kỉ
20, nhất là từ những năm 60, nhà văn nữ đã trở thành một lực lượng, một đội
ngũ có chỗ đứng trên văn đàn. Một lực lượng chưa thể nói là thực sự đông đảo
nhưng rất có ý nghĩa ở thời điểm đó. Để rồi, cùng với khoảng thời gian mười
năm sau chiến tranh - giai đoạn tiền đề cho thời kì đổi mới - là sự bùng nổ về
số lượng tác giả và tác phẩm, sự thay đổi về chất khiến cho truyện ngắn nữ
mang những sắc thái mới.
1.2.2. TRUYỆN NGẮN NỮ TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI
Những năm sau chiến tranh, đặc biệt là từ thời kì đổi mới, văn đàn
chứng kiến một thời kì “truyện ngắn nữ khởi sắc”. Phải chăng môi trường
sáng tác thuận lợi, vả lại truyện ngắn phù hợp với sức “rướn” của phụ nữ,
“cảm xúc sáng tạo truyện ngắn có cùng tần số với cảm xúc nữ tính: sự loé
sáng, sự thất thường, tính thời khắc, sự dẫn dắt tuyệt diệu của mẫn cảm bản
năng” (Võ Thị Hảo)... nên truyện ngắn Việt Nam gần đây như là “một ngày
33
hội lặng lẽ của các cây bút nữ” [91].
Trong hoàn cảnh mới, các nhà văn nữ đã thể hiện được trách nhiệm của
mình qua từng trang viết. Người phụ nữ viết văn có được những thuận lợi,
những thiên bẩm về nghề mà các cây bút nam khó có thể có được. Họ có thể
viết sâu về những vấn đề của giới mình, đi sâu vào thế giới tâm hồn đầy bí ẩn
của người phụ nữ. Không ít những trang viết, người đọc bắt gặp những kiến
giải sâu sắc về tình yêu, về những vấn đề của cuộc sống. Tuy nhiên sẽ có
những khó khăn mà họ gặp phải khi dấn thân vào nghiệp văn bởi sáng tác văn
học là cả một cuộc hành trình không mấy dễ dàng, nhất là khi người viết lại là
phụ nữ. Điều này được các nhà văn ý thức rất rõ: “Văn chương không phải là
nghề như mọi nghề mà mà đó là con đường khổ ải cho những người đàn bà
cầm bút” [62]. Người phụ nữ làm văn chương có những khó khăn vì “bên
cạnh người phụ nữ là một gia đình mà văn chương thường đỏng đảnh như một
ông chồng khó tính... Nó đòi hỏi sự dâng hiến hết mình” [58]. Mặc dầu vậy,
viết văn vẫn là công việc yêu thích của họ bởi khi viết họ lại được sống đời
mình trong cuộc đời người khác “gánh nặng thiên chức và khát vọng nghề
nghiệp kéo họ xuống, đồng thời cũng tạo một sức bật ghê gớm. Thế giới nhìn
qua lỗ kim đàn bà đôi khi phát hiện ra những điều kì thú mà đồng nghiệp nam
cũng không nhìn thấu được. Sự đa cảm của người phụ nữ cũng chính là mảnh
đất nảy mầm tài năng của họ. Sự giằng xé giữa cam phận và bứt phá, bình yên
và bão giông, hạnh phúc và bất hạnh cũng đã là một quá trình biến thái đầy
đau đớn đòi hỏi sự dũng cảm, nghị lực” [63].
Đời sống xã hội thời kì đổi mới là môi trường thuận lợi để các cây bút
nữ phát huy khả năng sáng tạo của mình. Không phải ngẫu nhiên mà con số
các nhà văn nữ viết truyện ngắn lại tăng lên đáng kể trong thời gian gần đây.
Sau khi chiến tranh kết thúc, các cây bút thuộc lớp nhà văn trưởng thành trong
chiến tranh chống Mỹ như Thanh Hương, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Lê Minh,
Nguyễn Thị Như Trang, Nguyễn Thị Cẩm Thạnh, Vũ Thị Thường, Lê Minh
Khuê vẫn tiếp tục sáng tác. Trải qua những thời điểm khắc nghiệt trong chiến
34
tranh, trở về với cuộc sống đời thường, họ càng có cơ hội bộc lộ khả năng
sáng tạo và sự sung sức của ngòi bút. Các cây bút vẫn liên tục cho ra nhiều tập
truyện ngắn. Là một cây bút văn xuôi, bên cạnh thể loại tiểu thuyết với nhiều
tác phẩm được đánh giá cao, Nguyễn Thị Ngọc Tú vẫn đều đặn có truyện ngắn
đến với bạn đọc. Con số 5 tập truyện ngắn (Câu chuyện dưới tán lá rợp,
Những dấu chấm phía chân trời, Khoảng trời phía sau nhà, Cỏ ấm, Buổi chiều
tỏa hương) sáng tác từ sau 1975 là kết quả của những nỗ lực sáng tạo để rồi
cùng với tiểu thuyết đưa bà đến với giải thưởng Nhà nước - giải thưởng cao
quý ghi nhận kết quả của một quá trình lao động nghệ thuật không biết mệt
mỏi. Nguyễn Thị Như Trang - nhà văn nữ có thâm niên cầm bút gần ba mươi
năm, đã có quãng thời gian dài gắn bó với môi trường quân đội cho đến nay
vẫn chứng tỏ được sự dẻo dai và bền bỉ của một cây bút sung sức. Trong chiến
tranh, các chị đã có những trang viết đẹp về hiện thực chiến tranh, thành công
trong việc miêu tả những sinh hoạt của làng quê hậu phương chiến đấu, về tấm
gương của những phụ nữ làm trọn việc nước lẫn việc nhà, về những chiến sỹ
quả cảm trên mặt trận chống quân thù. Hòa bình lập lại, nhiều nhà văn nữ đã
có sự nhập cuộc với cuộc sống hiện đại. Sau hai tập truyện Đoạn kết và Cao
điểm mùa hạ, ba tập truyện ngắn viết trong thời kì đổi mới của Lê Minh Khuê
mang hơi thở cuộc sống hôm nay gây được sự chú ý của người đọc. Nguyễn
Thị Ngọc Tú đã muốn thông qua từng cảnh đời, từng con người để tái hiện
những vấn đề phong phú và phức tạp của đời sống: những bi kịch cá nhân (Bi
kịch đời thường, Chuyện về hạ), sự xuống cấp của đạo đức (Buổi chiều tỏa
hương), những tình cảm tốt đẹp của con người nảy sinh trong cuộc sống
thường nhật (Người gặp trên đường)... Với những cây bút nữ già dặn về tuổi
đời và tuổi nghề, hiện thực được tái hiện trong tác phẩm của họ có những sắc
thái riêng, đặc biệt là so với các cây bút nữ khác thế hệ - những cây bút trưởng
thành sau chiến tranh. Họ đã có một quãng lùi khá xa để nhìn nhận và đánh
giá lại những gĩ đã diễn ra trong quá khứ (Chuyện thời con gái - Nguyễn Thị
Như Trang, Chuyện về Hạ - Nguyễn Thị Ngọc Tú). Họ kín đáo và dè dặt hơn
35
khi bộc lộ những khát khao bản năng cũng như khi tiếp cận với cái hiện thực
đời thường đang diễn ra, đang biến đổi. Từ vốn sống và những trải nghiệm,
nhà văn Lê Minh Khuê với quãng thời gian tuổi trẻ gắn bó với chiến trường đã
khiến cho những trang viết của chị về chiến tranh có sức đằm sâu, da diết.
Bên cạnh các cây bút sáng tác từ trước 1975, các gương mặt nữ như Y
Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Ngô Thị Kim Cúc, Trần Thanh Hà,
Lý Lan, Phan Thị Vàng Anh, Phạm Sông Hồng, Nguyễn Thị Ấm, Võ Thị
Xuân Hà, Nguyễn Thị Châu Giang... đã trở nên quen thuộc với bạn đọc. Nhiều
tác phẩm của họ vừa ra đời đã gây được sự chú ý của dư luận tạo được dấu ấn
trong đời sống văn học như Hậu thiên đường, Mi nu xinh đẹp (Nguyễn Thị
Thu Huệ), Bức thư gửi mẹ Â u Cơ (Y Ban), Kịch câm, Hoa muộn (Phan Thị
Vàng Anh), Ngựa ô (Lí Lan), Có một đêm như thế (Phạm Thị Minh Thư),
Người sót lại của rừng cười (Võ Thị Hảo), Những bóng cây trên đất (Trần
Thanh Hà), Bi kịch nhỏ (Lê Minh Khuê).... Nhiều tác giả đoạt giải cao trong
các cuộc thi truyện ngắn.Võ Thị Hảo với giải thưởng cuộc thi tiểu thuyết và
truyện ngắn về đề tài Hà Nội năm 1993, Trần Thanh Hà giải nhất cuộc thi
truyện ngắn tạp chí Văn nghệ quân đội 1996, Nguyễn Thị Minh Dậu giải
thưởng cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ 1991, Hồ Thị Hải Âu giải thưởng
truyện ngắn hay 1989 - 1990 của tạp chí Văn nghệ quân đội, Nguyễn Thị Thu
Huệ giải nhất cuộc thi truyện ngắn tạp chí Văn nghệ quân đội 1992 -1994...
Mấy năm trở lại đây truyện ngắn nữ cũng đã có những khởi sắc. Ba cây bút
Dương Nữ Khánh Thương, Viên Lan Anh và Đào Phong Lan đã đoạt giải tại
cuộc thi truyện ngắn trẻ 1996 - 1997 của báo Văn nghệ trẻ. Danh hiệu thủ
khoa trong nhiều cuộc thi truyện ngắn trẻ thuộc về các cây bút nữ trẻ. Đỗ Bích
Thuý đã dành được thứ hạng cao nhất trong cuộc thi truyện ngắn do tạp chí
Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1998 - 1999, Nguyễn Ngọc Tư giải nhất cuộc
thi Văn học tuổi 20 lần 2 do Nxb Trẻ, Hội nhà văn Tp Hồ Chí Minh và báo
Tuổi trẻ phối hợp tổ chức.
Có thể nói, sự bổ sung về đội ngũ, sự kế tục qua các thế hệ đã tạo nên
36
một diện mạo mới cho truyện ngắn nữ thời kì đổi mới, trước hết là sự đa dạng
và phong phú về mặt dấu ấn phong cách: bên cạnh một Vũ Thị Thường sắc
sảo, cô đọng, một Nguyễn Thị Ngọc Tú chân chất, mộc mạc, một Lê Minh
Khuê giàu chất chiêm nghiệm, một Nguyễn Thị Ấm với lối viết “tài hoa pha
chút giễu cợt đầy thiện ý” là một Nguyễn Thị Thu Huệ chao chát, dịu dàng và
từng trải, một Y Ban đằm thắm và khắc khoải, một Vàng Anh với lối viết lạnh
lùng, trí tuệ và hóm hỉnh, một Lý Lan hồn hậu mà sắc sảo...
Cũng như nhiều nhà văn thời kì này, các nhà văn nữ đã có sự đổi mới
trong cách viết. Ở góc độ của một người phụ nữ sáng tác văn học, từ quan
niệm về nghề, quan niệm về thiên chức của người cầm bút các nhà văn nữ thời
kì này đã đem đến cho văn chương những cảm hứng và giọng điệu mới. Trong
các sáng tác của các nhà văn nữ, đặc biệt là các nhà văn nữ trẻ đương đại ta
luôn tìm thấy những vang hưởng của thời đại chúng ta đang sống. Họ tỏ ra áp
sát hiện thực đời sống một cách trực diện và thẳng thắn khi nhìn nhận mặt trái
của hiện thực. Có thể nhận thấy sự sắc sảo và sâu sắc khi khái quát và tiếp cận
đề tài thế sự đời tư với nỗi đau nhân tình thế thái bằng lối viết "dịu dàng mà
bén ngọt, riết nóng và đồng cảm, sẻ chia với những thân phận, những người
sống quanh mình”.
Với hướng tiếp cận cuộc sống đa chiều, các tác giả đã tái hiện bức tranh
của cuộc sống với nhiều dáng vẻ. Các cây bút nữ hiện nay dám xông vào
những mảng hiện thực phức tạp của cuộc sống và tìm ra được những cách xử
lí đề tài đậm chất nhân văn. Ở truyện ngắn Đường về trần, Võ Thị Hảo đã đưa
ra một thực trạng về sự tha hoá đạo đức vì đồng tiền. Đó là sự “xơ hoá” trong
lĩnh vực tình cảm. Đứa con trước giờ phút lâm chung của người mẹ không một
chút thương cảm mà còn tìm mọi cách để chiếm đoạt số tài sản bà tiết kiệm
dành dụm còn lại ở ngân hàng. Nhà trọ của Nguyễn Thị Châu Giang đã tái
hiện nên bức tranh của một cuộc sống tù túng và bế tắc của con người vì
miếng cơm manh áo, là trạng thái thất vọng của những con người sống không
hợp thời: ông bố bị giảm biên chế trở nên thất nghiệp luôn phải toan tính với
37
từng bữa ăn hàng ngày, là người hoạ sĩ với vết thương chiến tranh hằn sâu
trong tâm khảm trở thành nỗi ám ảnh trên những bức hoạ. Không chỉ là kí ức
của Bình Nguyên Trang bộc lộ cách nhìn cuộc sống một cách hồn hậu: cuộc
sống vẫn còn nhiều điều có ý nghĩa nếu con người biết cảm thông và chia sẻ,
biết sống vì nhau và hướng về những điều tốt đẹp. Gió mùa đi qua của
Nguyễn Thị Phước viết về một loại người cơ hội, luôn lợi dụng những mối
quan hệ bất chính để leo lên bậc thang của danh vọng. Để có được điều đó,
anh ta sẵn sàng bán rẻ cả lương tâm mình. Cuộc sống ở đâu đó vẫn chưa hết
những bất công khi những nỗ lực của kẻ bất nhân vẫn có được kết quả như
mong muốn. Nếu Đường về của Thuỳ Linh) là những ảo tưởng về một cuộc
sống tươi đẹp ở vùng đất xa xôi nhưng thực tế lại hoàn toàn trái ngược thì ở
Công tử vườn, Lý Lan đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa thời sự: sự pha tạp của
lối sống hiện đại, chạy theo những giá trị nhất thời đã làm mất đi những nét
thuần phong mĩ tục. Mỗi người một cách khai thác riêng nhưng tựu chung lại
có thể nhận thấy trong những trang viết của họ, hiện thực luôn được nhìn từ
hai phía, cả niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và khổ đau, hi vọng và thất vọng.
Trong sáng tác của các nhà văn nữ, thế giới nhân vật phong phú và đa
dạng tuy nhiên nổi bật nhất vẫn là những số phận phụ nữ không may mắn
trong những hoàn cảnh sống cụ thể cùng những nghĩ suy trăn trở trước lẽ đời.
Hạnh trong truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Thị Minh Dậu là người phụ nữ
với những vất vả lo toan luôn sống vì người khác nhưng lại gặp một thực tế
phũ phàng do chính những người cô từng thương yêu nhất mang lại. Nhân vật
nữ trong Thị trấn hoa quỳ vàng (Trần Thuỳ Mai) luôn đi tìm một thứ hạnh
phúc khó nắm bắt bởi vì với chị hạnh phúc là mong manh dễ vỡ như một “thứ
bánh thánh chỉ có thể kính cẩn đụng môi đến một lần trước kì rước lễ”. Khao
khát tình yêu nhưng rồi phải trốn chạy vì chính cô đã nhận ra con người thật
của người mình yêu. Đó còn là người phụ nữ tật nguyền với nỗi đau của số
phận trong sáng tác của Võ Thị Hảo và Y Ban (Đứa con và người đàn bà tàn
38
tật, Máu của lá)...
Mảng hiện thực lớn trong sáng tác của các cây bút nữ là mảng hiện thực
của những “cái tôi đàn bà phong phú, phức tạp và sâu sắc”. Nội tâm nhân vật
là đối tượng chính để khám phá (Hậu thiên đường, Người đàn bà đứng trước
gương, Bức thư gửi mẹ Â u cơ). Họ đặc biệt có sở trường trong việc khai thác
những cuộc đời và tâm hồn của giới mình. Với tư duy hướng nội, nhiều truyện
ngắn là nơi kí thác của những cung bậc tâm hồn người phụ nữ với những sắc
thái cảm xúc, cảm giác và tâm trạng (Đàn bà sinh ra từ bóng đêm, Biển ấm,
Biển cứu rỗi...). Các tác phẩm đã thể hiện những khát vọng yêu đương, niềm
thương cảm với nỗi đau và thân phận đàn bà, bộc lộ cái nhìn trắc ẩn.
Làm nên đặc trưng của các cây bút nữ không chỉ là mảng hiện thực của
những “cái tôi đàn bà phong phú và phức tạp” như đã nói ở trên mà còn là
mảng sáng tác về đề tài hôn nhân và gia đình. Với người phụ nữ, tình yêu và
gia đình là mối quan tâm đầu tiên của họ. Bằng các lối viết khác nhau, với các
quan niệm và cách thể hiện riêng nhưng các tác giả đã gặp nhau ở sự thể hiện
khát vọng tình yêu và niềm mong mỏi hạnh phúc.
Với sự đổi mới quan niệm hiện thực về con người, với đặc thù trong
cách lựa chọn đề tài và xử lí chất liệu hiện thực, truyện ngắn nữ thời kì đổi
mới đã có được dấu ấn riêng trong tương quan với truyện ngắn nữ trước thời
kì đổi mới. Sự xuất hiện của đông đảo các cây bút nữ thời kì đổi mới đã chứng
tỏ những nỗ lực của họ trong sự nghiệp sáng tác để có được chỗ đứng trên văn
đàn. Nếu như ở Pháp thập kỉ 90 “chứng kiến giới văn chương nữ đã bước
nước bước cuối cùng để sát vai với nam giới” [124], ở châu Phi với sự trỗi dậy
của ý thức nữ quyền “từ những năm 80 trở đi, một thế hệ thứ hai các cây bút
nữ châu Phi đã xuất hiện tạo ra một hiện tượng xâm lấn, đôi khi có tính lật lại
trật tự trong văn đàn” [127], ở Trung Quốc “lớp nhà văn nữ sinh vào thập kỉ
70 xuất hiện khá nhiều và tác phẩm của họ rất gây ấn tượng” [94] thì ở Việt
Nam từ thời kì đổi mới, đặc biệt là thập kỉ 90 các cây bút nữ đã một lần khởi
sắc. Gs Phương Lựu cho rằng “đây là một hiện tượng tốt đẹp, đánh dấu một
39
phương diện phát triển của văn học” [51] . Điều này cũng là hợp với quy luật
của môi trường sáng tác, của ý thức sáng tạo nghệ thuật, của hiện thực đời
sống xã hội sau chiến tranh và sự vận động thể loại trong tiến trình văn học
dân tộc. Khách quan để nhìn nhận có thể thấy, các cây bút nữ một mặt đã biết
phát huy lợi thế của giới tính trong sáng tạo nghệ thuật (giàu tình cảm, óc quan
sát tinh tế, thiên về tư duy hướng nội) để tạo nên những tác phẩm có giá trị
nghệ thuật và dấu ấn riêng nhưng mặt khác lại bộc lộ những hạn chế nhất
định. Với diện sống đặc thù, đề tài sáng tác chưa thật phong phú, đôi khi trong
tác phẩm còn tồn tại cái nhìn vặt vãnh. Lặp lại mình là hiện tượng đã xảy ra ở
một vài tác giả. Truyện ngắn nữ sẽ đi xa hơn nếu như các tác giả biết tận dụng
tối đa những lợi thế vốn có của mình và khắc phục những điểm yếu khó tránh
phải.
*
Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi chưa đặt ra mục đích nhìn nhận,
khảo sát, đánh giá toàn diện, cụ thể và đầy đủ về truyện ngắn các cây bút nữ
thời kì đổi mới trong tiến trình vận động của thể loại. Trong khi thực hiện đề
tài này, chúng tôi ý thức và xác định rằng: tìm hiểu truyện ngắn một số cây bút
nữ thời kì đổi mới (qua sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị
Vàng Anh, Lý Lan) cần phải có một cái nhìn mang tính xâu chuỗi và xuyên
suốt từ diện đến điểm. Chúng tôi dành toàn bộ chương một cho việc tìm hiểu
truyện ngắn những năm sau chiến tranh và sự xuất hiện của các cây bút nữ
thời kì đổi mới. Trong chương hai và chương ba, chúng tôi tập trung vào bốn
tác giả đã lựa chọn, khảo sát truyện ngắn bốn cây bút nữ này trên hai bình diện
cơ bản của sáng tạo nghệ thuật là cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật
cũng như một số bình diện nghệ thuật để có cái nhìn vừa mang tính cụ thể,
khu biệt của truyện ngắn các cây bút nữ trẻ vừa mang tính đại diện cho truyện
ngắn của các cây bút nữ thời kì đổi mới; trên cơ sở đó góp một cách nhìn về
40
truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới.
CHƯƠNG 2
CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT VÀ THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ, Y BAN,
PHAN THỊ VÀNG ANH, LÝ LAN
2.1. CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT
Với bất kì một loại hình nghệ thuật nào thì cảm hứng sáng tạo cũng
luôn là yếu tố cần có đối với cá nhân người nghệ sỹ và giữ vai trò quan trọng
chi phối quá trình hình thành tác phẩm. Nếu như với hội hoạ, cảm hứng của
người hoạ sỹ được thể hiện trên những mảng màu sáng tối của mỗi bức tranh,
ở điêu khắc là những đường nét và hình khối trên mỗi khuôn hình, thì với văn
học cảm hứng sáng tác được hiện hữu hoá qua ngôn từ, qua thế giới hình
tượng mà nhà văn muốn tạo dựng. Một tác phẩm văn học là sản phẩm của quá
trình thai nghén lâu dài, đồng thời là kết quả của những xúc cảm thẩm mĩ, của
những trạng thái tình cảm và gắn liền với một tư tưởng xác định của chủ thể
41
sáng tạo.
Trong văn học, cảm hứng nghệ thuật được coi là một yếu tố của bản thân
nội dung nghệ thuật, của thái độ, tư tưởng, xúc cảm người nghệ sĩ. Trong cuốn
Dẫn luận nghiên cứu văn học thuật ngữ cảm hứng nghệ thuật được xác định là
“trạng thái hưng phấn cao độ của nhà văn do việc chiếm lĩnh được bản chất
của cuộc sống mà họ miêu tả”[57]. Cảm hứng nghệ thuật không chỉ gắn với lí
tưởng thẩm mĩ mà còn “bắt nguồn từ lí tưởng xã hội của nhà văn nhằm phát
triển và cải tạo thực tại”.
Tiếp cận với tác phẩm văn học từ góc độ cảm hứng sáng tác cũng là một
cách tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong sáng tác nhà văn qua đó tìm hiểu cách
nhìn của tác giả về hiện thực đời sống và con người. Khảo sát truyện ngắn của
Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Lý Lan, Phan Thị Vàng Anh, chúng tôi rút ra
được sáng tác của các chị xuất phát từ ba nguồn cảm hứng chủ đạo: cảm hứng
ngợi ca, cảm hứng bi kịch và cảm hứng chiêm nghiệm, triết lí. Tuy sắc thái
đậm nhạt có khác nhau nhưng mỗi cảm hứng đều thể hiện khả năng đón nhận
và chuyển tải hiện thực của nhà văn trong tương quan với đời sống.
2.1.1. CẢM HỨNG NGỢI CA
Mỗi giai đoạn văn học, với đặc thù của hoàn cảnh lịch sử và đời sống xã
hội, cảm hứng sáng tác vừa bị chi phối bởi đặc điểm sáng tạo của mỗi cá nhân,
đồng thời lại chịu sự tác động của thời đại. Trong hoàn cảnh 30 năm chiến
tranh giải phóng dân tộc (1945 - 1975), có thể nói âm hưởng chính của văn
học thời kì này là giọng điệu hào sảng, giàu tính chiến đấu được viết ra từ cảm
hứng ngợi ca, cảm hứng lãng mạn cách mạng bởi lúc này với tư cách là
“người thư kí trung thành của thời đại”, văn học trở thành tấm gương phản
chiếu dấu ấn của cả một thời kì đấu tranh anh dũng giành độc lập của cả dân
tộc. Khí thế của thời đại, của trái tim hàng triệu con người với ý chí và quyết
tâm đánh đuổi kẻ thù, với niềm mong mỏi và niềm tin về một giang sơn thống
nhất đã đi vào trang viết của các nhà văn, nhà thơ hồi bấy giờ. Với cảm hứng
về cái đẹp, cái cao cả; sắc thái hùng hồn, giọng điệu khoẻ khoắn, lạc quan và
42
tin tưởng trở thành âm hưởng chính trong nhiều thể loại cả thơ, trường ca,
truyện ngắn, tiểu thuyết, kí và kịch bản văn học. Cảm hứng ngợi ca trở thành
nguồn cảm hứng chủ đạo xuyên suốt nền văn học 30 năm sau cách mạng
tháng Tám.
Sau chiến tranh, trở về với cuộc sống đời thường, con người lại trở về
với những mối quan tâm riêng. Cảm hứng ngợi ca không còn là cảm hứng chủ
đạo nữa vì lúc này đời sống hậu chiến bộc lộ những khó khăn về mưu sinh, về
đời sống tinh thần. Hiện thực trong tác phẩm văn học đã không chỉ mang gam
màu sáng. Tuy nhiên, truyện ngắn bốn cây bút nữ Nguyễn Thị Thu Huệ, Y
Ban, Phan Thị Vàng Anh và Lý Lan nằm trong mạch chung, đã tiếp tục khắc
họa những “mảng sáng” của đời sống - mảng hiện thực được viết ra từ cảm
hứng về cái đẹp, về những con người với những hành động nhân văn cao cả.
Cuộc sống của ngày hôm nay dẫu còn không ít những khó khăn, dẫu
còn nhiều nghịch lí nhưng vẫn tiềm tàng những vẻ đẹp. Một trong những bình
diện hiện thực được hướng tới trong truyện ngắn các cây bút nữ là tình yêu
cuộc sống trong mỗi con người. Không ít lần trong tác phẩm, các tác giả đã để
cho nhân vật, bằng ngôn ngữ độc thoại, trực tiếp đề cao cuộc sống, bày tỏ thái
độ của mình trước hiện thực: “Tôi yêu cuộc sống. Yêu những gì xung quanh
tôi. Những người đàn bà lầm lụi. Những người đàn ông đen sạm vì gió biển”
Cũng bởi có tình yêu này mà nhân vật nữ trong tác phẩm đã có đủ sức mạnh
để có thể sống có ý nghĩa sau những tan vỡ của mối tình đầu (Biển ấm -
Nguyễn Thị Thu Huệ).
Cảm hứng ngợi ca còn được thể hiện trong cách nhìn con người, ở sự
đề cao những phẩm chất đáng quý của con người, đặc biệt là người phụ nữ.
Nhiều nhân vật nữ trong truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu
Huệ, Y Ban và Lý Lan dù phải nếm chịu nỗi đau chiến tranh, nỗi đau đời
thường, bi kịch của tình yêu và hạnh phúc nhưng ẩn sâu trong tâm hồn họ là
những vẻ đẹp đáng được tôn vinh. Hiện lên trên trang viết của các cây bút nữ
43
này là hình ảnh của những người phụ nữ giàu đức hy sinh và luôn sống vì
người khác mà người mẹ trong truyện ngắn Chú Ngoẹo của Y Ban là một điển
hình. Là một người nông dân thuần chất, bà tần tảo sinh thành và nuôi nấng
chín người con khôn lớn. Nỗi đau vì đứa con tật nguyền không làm bà bi quan
mà trái lại đó chính là nghị lực để bà có thể sống nốt quãng đời còn lại và đã
bù đắp những thiệt thòi cho đứa con có số phận không may mắn bằng tình
thương vô hạn và lòng bao dung. Ở truyện ngắn Bản lí lịch tự thuật, người mẹ
- người vợ đã trở thành dây neo hạnh phúc cho cả gia đình bởi sau chiến tranh
với sự trở về của người chồng mang theo căn bệnh tinh thần và thể chất do
những di chứng chiến tranh, bà luôn là chỗ dựa tinh thần cho chồng và cả năm
đứa con ở những thời điểm khó khăn khắc nghiệt nhất. Nếu như với truyện
ngắn Người chị của Nguyễn Thị Thu Huệ, qua lời kể của nhân vật tôi, người
đọc đã thực sự cảm động về nhân cách cao cả của một con người, về sự nhẫn
nhục chịu đựng vất vả với mong muốn người em của mình thành đạt và có
cuộc sống tốt đẹp hơn thì ở Đôi giày đỏ, Thu Huệ đã có những trang viết ngợi
ca đức hy sinh của một người mẹ với những hành động cụ thể để bù đắp
những thiếu hụt tình cảm cho con gái sau khi người chồng đã vĩnh viễn nằm
lại chiến trường. Tấm lòng nhân hậu bao la của người mẹ không chỉ là chỗ dựa
tinh thần cho những đứa con mà luôn luôn đó là đề tài có sức khơi gợi cảm
hứng sáng tạo đối với người nghệ sỹ nói chung và các cây bút phụ nữ nói
riêng.
Truyện ngắn của bốn cây bút nữ, đặc biệt là ở Lý Lan thường ngợi ca
nghĩa cử cao đẹp của những con người bình thường. Viết về những điều quen
thuộc, gần gũi với cuộc sống đời thường, truyện của Lý Lan thường toát lên vẻ
đẹp giản dị. “Biết lắng nghe trong náo nhiệt đời thường một tiếng thở dài kín
đáo, biết nhìn thấy trong khói bụi ô tô sắc biếc xanh của cỏ ven đường” [85],
bằng sự quan sát và cảm nhận tinh tế, những con người bình thường khi đi vào
trang viết của Lý Lan đã trở nên đẹp đẽ và đáng trân trọng. Lớn lên ở vùng đất
Sài Gòn hoa lệ “hào phóng” nhưng cũng rất đỗi “bình dân”, Sài Gòn quyến rũ
44
chị bằng “sự bí ẩn của sức sống và sự hồi sinh kì lạ” [42], chị đã có cơ hội để
khám phá những nét đẹp trong đời thường (điều này thể hiện rõ nhất trong
nhiều bài kí mà chị đã viết). Đó là vẻ đẹp của một đám dân nghèo vất vả sống
nghĩa tình (Chị ấy lấy chồng chưa), vẻ đẹp của những con người biết cảm
thông và chia sẻ luôn mong muốn những người sống quanh mình có cuộc sống
tốt đẹp hơn (Thằng nhỏ cu li). Truyện ngắn Nguyệt quý của Lý Lan ngợi ca
nhân cách cao thượng của một người con người bình thường: một thầy giáo
suốt đời tận tụy với công việc của mình. Thầy không chỉ là người truyền đạt
kiến thức cho các thế hệ học trò mà còn là người nâng đỡ họ những khi gặp
khó khăn hay những lần vấp ngã trên đường đời. Phương châm sống và làm
việc của thầy luôn là điều mà các thế hệ học trò khát khao có được: “Trên đời
có nhiều thứ quan trọng nhưng điều quan trọng nhất là thắp được trong lòng
mỗi người ngọn lửa của niềm tin cuộc sống và bản thân mình”. Lý Lan đã đề
cao thiên lương của một người nghệ sỹ khi chị viết Trăm con hạc trắng.
Những gì tốt đẹp trong con người một họa sỹ vẫn chưa thể mất đi khi trong
anh vẫn còn những day dứt bởi bức vẽ của mình đã không được dùng đúng
mục đích của nó. Ngợi ca những cống hiến của một nghệ sỹ cho niềm đam mê
nghệ thuật, có phải vì cũng là một người hoạt động sáng tạo nghệ thuật mà Lý
Lan đã có những cảm nhận đặc biệt về quá trình thai nghén tác phẩm của một
hoạ sỹ: “Anh đã vẽ nó khi sống lại cảm giác bàn chân trần trẻ con dẫm lên đất
mịn của vườn rau, trèo lên đống chà gai, bàn tay níu lấy gióng tre ẩm ướt để
khám phá ra bốn con chim non há mỏ trong tổ rơm. Anh đã vẽ nó trong nỗi
ám ảnh của đôi mắt buồn hiu con vượn cái khuỳnh một cánh tay ôm con mà
con nó không còn. Anh đã vẽ nó với một nỗi đau nhói lòng rằng có thể đây là
lần sinh nhật cuối cùng của thầy anh” (Trăm con hạc trắng).
Cảm hứng ngợi ca còn được biểu hiện qua cách cảm nhận thiên nhiên, ở
khả năng nắm bắt những vẻ đẹp của tạo vật. Vẻ đẹp giàu chất thơ của đời sống
đã đi vào không ít những trang văn của các chị. Không phải không có lí khi
nói rằng: “Đọc văn Y Ban ta sẽ thấy cảm xúc văn chương tạo nên những câu
45
văn như có sự lay động xôn xao của gió” [8] bởi không phải ai cũng dễ dàng
nhận ra vẻ đẹp man mác của đồng quê như có lần một nhân vật trong truyện
ngắn của Y Ban đã nắm bắt được: “Đến con đường xuyên qua cánh đồng,
chân trời phía đông hồng rồi đỏ dần. Những tia nắng đầu tiên của ban ngày
khỏe khoắn chọc thủng lớp mây xốp màu trắng. Rồi như vỡ òa ra, ánh sáng
chan chứa khắp chân trời phía đông. Ồ trong cái nền xanh ngắt của bầu trời và
những mảng mây trắng xốp kia, tôi đã nhìn thấy một làng quê yên ả” (Đi chợ
sớm). Lý Lan đã viết về vẻ đẹp của tiết trời đang chuyển mùa với hình ảnh của
rừng cao su thay màu lá bằng cảm nhận tinh tế và tươi nguyên: “Tán cao su
phủ kín thung lũng và triền đồi một màu xanh rậm rì quanh năm. Những ngày
giáp tết thì cao su đỏ lá (...) ở chỗ này bệt một màu cam từ từ ửng đỏ lên dù
nắng đang tắt dần. Ở xa xa kia, vệt màu son mận đang chầm chậm loang ra.
Cái màu đỏ của lá mà đem vào tranh thì sẽ thành siêu thực. Màu sắc nó không
bao giờ ngưng đọng” (Mùa lá chín).
Nhìn tổng thể, hiện thực đời sống với những mặt tốt đẹp, tích cực được
đề cập đến trong truyện ngắn bốn cây bút nữ tuy không nhiều, song những vẻ
đẹp của cuộc sống đời thường từ sự hy sinh thầm lặng, dịu dàng và bao dung,
vị tha và nhân hậu của người phụ nữ Việt Nam, vẻ đẹp chân chất của những
người lao động bình thường đến những cảnh sống sâu nặng và ấm áp tình đời,
tình người vẫn xuất hiện thành một dòng cảm hứng trên những trang viết của
các chị. Cuộc sống vẫn còn những điều ngang trái, bất cập nhưng các tác giả
đã bộc bộ một thái độ, một cách nhìn không bi quan trước đời sống.
2.1.2 CẢM HỨNG BI KỊCH
Cảm hứng bi kịch đã có trong văn học từ trước nhưng phải đến những
năm sau chiến tranh mới trở lại một cách tập trung. Nếu như văn học thời kì
trước viết nhiều về những sự tích anh hùng thì lúc này, văn học quan tâm
nhiều đến số phận cá nhân - “thân phận con người”. Khi chuyển sang kinh tế
thị trường cùng với sự đổi mới cách cảm, cách nghĩ của người viết, hiện thực
đời sống trong tính đa dạng và phức tạp của nó đã khơi gợi nhiều hơn cảm
46
hứng bi kịch nơi nhà văn bởi nói như Nguyễn Khải “đã gọi là một kiếp người
thì không phải chỉ có thắng mà còn có bại”, “không chỉ có đúng mà còn có
lầm lẫn” (Dẫn theo Nguyễn Hà) [20] và bi kịch là trạng thái khó tránh khỏi
trong cuộc sống của con người trong xã hội hiện đại.
Viết về “cái bi kịch” cũng là một cách biểu lộ xúc cảm, thái độ của
người cầm bút trước hiện thực. Nhà văn, đặc biệt là nhà văn nữ thường nhạy
cảm với nỗi đau của bản thân và đồng loại. Với bản tính nhạy cảm, tiếp cận
với hiện thực từ nhiều góc độ, nhất là từ bình diện con người cá nhân, các nhà
văn nữ đã phát hiện và lí giải những bi kịch mà con người thường gặp phải
trong cuộc đời. Các tình huống bi kịch được tái hiện như một biến cố khó
tránh khỏi trong cuộc đời của nhiều người và viết về nó là một yêu cầu tất yếu
của người viết: “Tôi không thích viết những cái gì buồn, nhưng vẫn phải
viết,... vì cuộc đời nếu không có những biến động này hay biến động khác thì
chẳng thể gọi là cuộc đời được” (Nguyễn Thị Ấm) [50, tr229] .
2.1.2.1. BI KỊCH DO LỊCH SỬ
Một phần trong những trang sử của dân tộc Việt Nam là lịch sử của
những cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Bởi vậy, khi nói đến những bi kịch
lịch sử cũng là muốn nói đến những bi kịch do chiến tranh.
Khi được hỏi về sự quan tâm của các cây bút trẻ đối với đề tài chiến
tranh trong văn học, nhà văn nữ Như Bình tâm sự: “Tôi đã viết khá nhiều về
đề tài chiến tranh, cả khi mới bắt đầu cầm bút. Cho dù có may mắn sinh ra sau
chiến tranh, song những gì còn lại quanh tôi, giúp tôi nhận biết và thấu hiểu về
nó đã làm cho ngòi bút mình nặng nợ” (Trò chuyện với những người viết trẻ
trưởng thành sau 30/4/1975. Văn nghệ trẻ số 18, 19, ngày 2+9/5/2004). Bốn
tác giả Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Lý Lan, Phan Thị Vàng Anh đều sinh ra
vào những năm đất nước tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, lớn
lên ở buổi giao thời và đang sống trong một thời điểm mà những hậu quả của
chiến tranh vẫn đang từng ngày, từng giờ hiện hữu trong đời sống. Chiến tranh
47
đã lùi xa hàng chục năm nhưng dư âm và hậu quả của nó vẫn tồn tại trong
không ít những con người đã một thời làm nên những chiến công như một vết
thương khó lành. Không là người chứng kiến và trải nghiệm hiện thực trong
những năm tháng chiến tranh, các nhà văn nữ đã có cách tiếp cận của riêng
mình khi khám phá nỗi đau của con người từ những bi kịch lịch sử, bi kịch do
chiến tranh, bi kịch của những con người trở về từ chiến trường với mặt trái
của tấm huy chương, với những khổ đau và mất mát.
Cùng viết về đề tài chiến tranh nhưng hiện thực trong các tác phẩm viết
về đề tài này trước và sau 1975 được thể hiện không giống nhau. Trước 1975,
với yêu cầu của lịch sử, các nhà văn đã ý thức được rằng: “Nhắc nhở những
chuyện buồn nào có ích lợi cho ai. Có thể sau này sẽ nhắc lại. Nhưng là sau
khi chiến tranh đã kết thúc. Còn bây giờ, điều cốt yếu là phải biết chịu đựng
một cách gan góc những mất mát đã có, có thể còn sẽ có, cho tới ngày giành
thắng lợi hoàn toàn” (Nguyễn Khải) [79]. Cho nên trong những sáng tác viết
về chiến tranh trong chiến tranh như Những đứa con trong gia đình, Mẹ vắng
nhà của Nguyễn Thi, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Mảnh trăng cuối
rừng của Nguyễn Minh Châu..., người đọc cảm nhận được âm hưởng hào
hùng qua giọng điệu sử thi về cuộc chiến tranh thần thánh của cả dân tộc. Sau
1975, truyện ngắn viết về chiến tranh càng ngày chất giọng sử thi càng trở nên
ít hơn và có thêm những giọng điệu mới: từ giọng điệu thâm trầm trong Cỏ lau
của Nguyễn Minh Châu, Họ đã trở thành đàn ông của Phạm Ngọc Tiến đến
chất giọng xót xa trong Xưa kia chị đẹp nhất làng của Tạ Duy Anh, Người sót
lại của rừng cười của Võ Thị Hảo đến giọng khắc khoải trong Núi đợi của Bùi
Thị Như Lan... đã mang đến cho văn học thời kì này nhiều âm sắc. Viết về
chiến tranh, các tác giả thường đi sâu vào khám phá số phận từ góc nhìn con
người thời hậu chiến. Cùng với sự tiếp nối của mảng đề tài chiến tranh trong
văn học, truyện ngắn của Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh,
Lý Lan đã góp thêm tiếng nói của một thế hệ nhà văn nữ trẻ về những thực
48
trạng tinh thần của con người và xã hội những năm sau chiến tranh. Tác phẩm
của các chị có xu hướng đi sâu vào khai thác những bi kịch của con người thời
hậu chiến.
Viết về những bi kịch mà con người phải gánh chịu do chiến tranh, các
cây bút nữ đã hướng tới một thực trạng tinh thần khó tránh khỏi với nhiều
người lính sau khi kết thúc chiến tranh là bi kịch của sự vỡ mộng. Một trong
những biểu hiện của bi kịch được thể hiện trong các tác phẩm là sự hẫng hụt
của những con người đi ra từ chiến tranh. Quan tâm khai thác những thực
trạng tinh thần, những biến đổi của đời sống xã hội sau chiến tranh, các cây
bút nữ này đã hướng ngòi bút của mình về phía những con người đã từng xông
pha trận mạc. Số phận của những người lính sau chiến tranh đã được khắc họa
với những tình huống muôn mặt của đời thường (Bản lí lịch tự thuật - Y Ban,
Dĩ vãng, Bảy ngày trong đời, Một chuyến đi - Nguyễn Thị Thu Huệ...). Qua
truyện ngắn Một chuyến đi của Nguyễn Thị Thu Huệ, tác giả muốn chứng
minh một thực tế: có những người lính trở về với chính mảnh đất quê hương
mình khi thân hình không còn nguyên vẹn, những ước hẹn năm xưa cũng
không còn, chuyện tình duyên lỡ dở. Lòng tốt và tiền bạc không thể làm cho
họ có thể sống yên ổn mà cuối cùng chính họ là người phải chạy trốn cuộc
sống. Người ta vẫn thường nói với nhau về đạo đức, về lòng nhân ái nhưng
không phải trong cuộc đời ai cũng có đủ nghị lực và tình thương để có thể chia
sẻ cùng họ những khó khăn trong cuộc sống. Y Ban đã khắc họa nên chân
dung của một người lính sau khi rời quân ngũ từ đời sống của một gia đình
cựu chiến binh qua truyện ngắn Bản lí lịch tự thuật: sau chiến tranh, trở lại với
cuộc sống đời thường, những bất công trong đời sống hậu chiến đã khiến nhân
vật Thông ngày càng trở nên lạc lõng giữa đồng nghiệp và những người sống
quanh mình. Thông qua hình tượng người lính trong thời bình, các cây bút nữ
đã khám phá ra những biểu hiện muôn mặt, những tình huống bi kịch khó
tránh khỏi trong quá trình hoà nhập, đối diện với muôn mặt của cuộc sống đời
49
thường.
Viết về nỗi đau của con người do chiến tranh, các cây bút nữ còn chứng
minh một thực tế là chiến tranh không có ngoại lệ và bi kịch có thể đến với bất
kì ai. Dù là những người lính đối mặt với quân thù trên các chiến tuyến hay là
những người mẹ, người vợ nơi hậu phương đều khó tránh khỏi những đau
thương và mất mát. Nếu như với Người sót lại của rừng cười, nhà văn nữ Võ
Thị Hảo đã thông qua số phận của những người phụ nữ đã từng đến và đi ra từ
cuộc chiến để khắc họa những mất mát mà người phụ nữ phải gánh chịu thì
với Điều ấy bây giờ con mới hiểu ra (Y Ban), Con ma (Lý Lan), các tác giả đã
đi sâu vào khai thác bi kịch của người phụ nữ khi chiến tranh đã kết thúc và
những người chồng của họ vĩnh viễn nằm lại chiến trường. Ở truyện ngắn Con
ma, nỗi đau của một góa phụ được cảm nhận đến tận cùng từ nhân vật đứa con
- là người gần gũi và thân thuộc nhất với người mẹ. Một sự thật luôn được đề
cập trong những tác phẩm viết về đề tài chiến tranh của các chị là chiến tranh
đã cướp đi những người đàn ông của những người phụ nữ và để lại những
những người vợ trẻ cô đơn. Trong Điều ấy bây giờ con mới hiểu ra, Y Ban đã
đào sâu vào tâm trạng, nỗi khắc khoải đợi chờ, nỗi khát khao hạnh phúc của
người phụ nữ trong và sau chiến tranh. Phải đến tận nhiều năm sau, khi đã
thành người lớn, đứa con mới hiểu được sự khờ khạo của đứa trẻ là mình ngày
ấy: chiến tranh không có ngoại lệ và bố cô đã vĩnh viễn ra đi sau lần “gặp” mẹ
không thành để mẹ lại muôn đời với một niềm khao khát thiếu phụ dở dang.
Chiến tranh không chỉ hiện hình nơi tiền tuyến, không chỉ gây hậu quả
trước mắt mà còn để lại những di chứng không dễ gì khắc phục cho thế hệ mai
sau. Lời tâm sự của một thiếu nữ trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ đã có sức ám
ảnh với người đọc: “Đất nước anh hùng, ngoại xâm, thiên tai liên miên, nên
mẹ quan tâm đến những anh hùng, thi sĩ. Mẹ đã không chú ý đến những cô gái
vốn đã dịu dàng nhu mì, không mấy đòi hỏi mẹ. Mẹ ơi, mẹ hãy quan tâm đến
chúng con, đến nỗi đau của những cô gái, những bà mẹ.” Từ cuộc gặp gỡ của
một thanh niên Mỹ và một cô gái Việt Nam, qua Đêm thảo nguyên, nhà văn
50
Lý Lan đã đề cập đến một thực trạng là hàng chục năm sau khi chiến tranh đã
kết thúc, liệu thế hệ trẻ, đặc biệt là những thanh niên Mỹ có biết đến quá khứ
đau thương của thế hệ cha ông mình. Cha của Steve là một cựu chiến binh Mỹ
đã từng tham gia chiến tranh ở Việt Nam nhưng những gì anh biết về Việt
Nam, về cuộc chiến tranh này còn quá ít ỏi nếu không muốn nói là lệch lạc.
Từ mối liên hệ về thảo nguyên ở hai đất nước cách xa nhau nửa vòng trái đất
của hai con người thuộc hai quốc tịch, Tuyết nghĩ đến vùng đất Củ Chi - quê
hương cô, vùng đất trước đây là những vườn cây, sau hoà bình lại là một dải
đất mênh mông không một bóng cây, có chăng chỉ là “rặt một bãi cỏ cao trổ
bông màu nâu đỏ thành chùm như đuôi chồn, người ta gọi là cỏ Mỹ” (Bảo
Ninh trong Nỗi buồn chiến tranh cũng đã có lần nhắc đến loài cỏ này trên
cánh đồng hoang ở vùng đất Củ Chi - nơi ghi nhiều dấu ấn và chứng tích của
lịch sử). Phải chăng bom B52 và chất độc màu da cam đã không chỉ làm tổn
thương con người mà còn làm tổn hại đến cả môi trường sinh thái, đến thiên
nhiên cây cỏ.
Với các nhà văn trẻ, đặc biệt là những cây bút nữ trẻ thì đề tài chiến
tranh vẫn luôn là một thử thách và cũng không phải đã dành được sự quan tâm
của nhiều cây bút. Khác với những nhà văn lớp trước - những cây bút nữ đàn
chị từng có quãng thời gian ở chiến trường, nơi mà sự sống và cái chết chỉ
trong gang tấc - thì chiến tranh và sự xâm lặng luôn có ảnh hưởng sâu đậm
trong các sáng tác của họ. Bi kịch do chiến tranh đã được nhìn nhận từ một
góc nhìn khác: từ sự trải nghiệm, họ đã có khoảng lùi thời gian cần thiết để
chiêm nghiệm nỗi đau trong và sau chiến tranh. Trên các trang viết của nhiều
cây bút nữ trưởng thành trong chiến tranh chống Mỹ như Lê Minh Khuê,
Nguyễn Thị Như Trang, hiện thực và những bi kịch do chiến tranh vẫn luôn là
một vấn đề nóng hổi. Với sự trở lại và tiếp nối của đề tài chiến tranh trong
những sáng tác văn học những năm gần đây, các cây bút nữ trẻ Y Ban,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan đã góp thêm những cách
nhìn mới về hiện thực của những người lính với những khó khăn của sự trở về
51
hòa nhập với đời sống, hiện thực tâm trạng với nỗi cô đơn trong đợi chờ, nỗi
khát khao và mong mỏi hạnh phúc của người phụ nữ. Với cảm hứng về “cái
bi”, từ góc độ là những người phụ nữ, các chị đã khai thác những bi kịch của
chiến tranh bằng cái nhìn trắc ẩn. Không có tiếng đạn bom, không có đổ máu
và chết chóc, trên những “trang văn không có mùi thuốc súng”, hiện thực
chiến tranh không chỉ được khắc họa từ tâm thế của những người lính khi
bước ra khỏi cuộc chiến mà còn ở những người vợ, người mẹ của họ. Dẫu
rằng, còn có những mảng đề tài mới mẻ chưa được khai thác về người lính
trong thời bình như người lính trên mặt trận chống đói nghèo, người lính trong
công cuộc xây dựng kinh tế mới, nhưng bằng vào việc đề cập đến nỗi đau của
con người do chiến tranh, đằng sau mỗi trang viết, các tác giả muốn gửi gắm
những thông điệp vì hòa bình, cũng là lời cảnh tỉnh với những ai đi gieo rắc
mầm họa chiến tranh cho nhân loại, là tiếng nói đòi được hạnh phúc của mỗi
con người.
2.1.2.2. BI KỊCH TÌNH YÊU
Một phạm vi hiện thực khá sinh động được bốn cây bút nữ chú ý là
mảng đề tài về tình yêu. Có thể nói, viết về tình yêu là đặc thù của giới nữ, bởi
“ái tình là lĩnh vực tình cảm mãnh liệt nhất của con người, lại gắn với cảnh
sống của gia đình với một diện sống không quá bao la, rồi tình yêu lại mang vị
đắng mà người phụ nữ phải nếm chịu nhiều nhất” [51]. Điều đó lí giải vì sao
các nhà văn nữ thường viết về đề tài tình yêu, lại có tác giả nữ chỉ có thể viết
hay về tình yêu.
Trong sáng tác của các chị, muôn vàn cung bậc tình yêu đã được tái
hiện trên trang viết và được nhìn nhận, lí giải với những sắc thái riêng. Có
những tình yêu làm cho con người trở nên cao thượng (Cõi mê - Nguyễn Thị
Thu Huệ), có tình yêu cao cả và thánh thiện (Bảy ngày trong đời - Thu Huệ),
có tình yêu bồng bột (Khi người ta trẻ - Phan Thị Vàng Anh), có tình yêu ngọt
ngào (Cát đợi, Mùa đông ấm áp - Thu Huệ), có tình yêu mơ hồ như ảo giác
(Chuyện kinh dị - Lý Lan, Chợ rằm dước gốc dâu cổ thụ - Y Ban), có tình yêu
52
cay đắng (Hậu thiên đường - Thu Huệ), có tình yêu muộn màng nhưng vô
cùng có ý nghĩa (Mùa thu vàng rực rỡ - Nguyễn Thị Thu Huệ), lại có tình yêu
đầu đời của những người trẻ tuổi với biết bao xúc cảm, đắm say (Khi người ta
trẻ - Phan Thị Vàng Anh, Bảy ngày trong đời - Nguyễn Thị Thu Huệ)... Dù
mang nhiều dáng vẻ và cung bậc nhưng chủ yếu trong truyện ngắn bốn cây bút
nữ là những cuộc tình dang dở và kết thúc bằng bi kịch. Truyện ngắn của 4
cây bút nữ thường viết về những cuộc tình buồn: buồn vì tình yêu tan vỡ, buồn
vì sự cô đơn và vô vọng; tình yêu với những đợi chờ, với những khát khao,
ham muốn chẳng bao giờ nguôi và chẳng bao giờ thực hiện được.
Trong sáng tác của các chị có thể nhận thấy là nhân vật chính thường là
nữ và có không ít bi kịch tình yêu xảy ra mà người gánh chịu lại là phụ nữ.
Một đặc điểm khác biệt khá rõ rệt giữa sáng tác của các nhà văn nam giới và
sáng tác của các nhà văn nữ là ở sự lựa chọn đối tượng khám phá, cụ thể là
cách xây dựng nhân vật. Nhân vật chính trong hầu hết các truyện ngắn của tập
Miêu cẩm - tập truyện giới thiệu sáng tác của các tác giả nam có tên tuổi như
Ma Văn Kháng, Lê Văn Thảo, Hồ Tĩnh Tâm, Phan Triều Hải, Hồ Anh Thái -
đều là đàn ông, một nửa số truyện không hề có người đàn bà có tên họ riêng.
Nhạy cảm với nỗi đau, nhất là nỗi đau thầm lặng của giới mình, trong truyện
ngắn của bốn cây bút nữ bi kịch tình yêu đã được tái hiện trong từng cuộc đời,
từng số phận người phụ nữ. Rất nhiều nhân vật nữ suốt đời không tìm được
tình yêu đích thực cho mình. Người đàn bà trong Người đàn bà có ma lực của
Y Ban dành cả đời mình để tìm kiếm một tình yêu đích thực nhưng bà đã
không có được một tình yêu bền vững như những người đàn bà khác. Tình yêu
của người phụ nữ trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ thường kết thúc
bằng đau khổ, mất mát và có khi là sự phản bội. Những cay đắng, day dứt và
trở trăn trong tình yêu dường như theo đuổi suốt cuộc đời họ. Người con gái
trong Cát đợi mang theo nỗi buồn với tình yêu không thành bởi mình là kẻ đến
chậm, còn Sao (Giai nhân) lại thất vọng vì mình đã bỏ qua những cơ hội để
nắm giữ tình yêu. Vang trong Người đàn bà ám khói lại đánh mất tình yêu vì
53
những ham muốn nhất thời, vì cô đã không dám hy sinh tất cả cho tình yêu
của mình. Khao khát một tình yêu đích thực nhưng “tình yêu ơi ở đâu?” vẫn
luôn là câu hỏi không có lời giải đáp theo suốt cuộc đời của những người đàn
bà này. Những cô gái trẻ trong truyện ngắn của Lý Lan thường lỡ dỡ chuyện
tình duyên dù họ là những người có nhân cách, có suy nghĩ nghiêm túc về đời
sống (Quyên - Mẹ và con, Hạnh - Chị ấy lấy chồng chưa, Cẩm - Tai nạn, Yên
- Tháng chạp...). Điều mà Lý Lan muốn bộc lộ qua cuộc đời nhân vật nữ trong
Tai nạn có lẽ cũng không khác với quan niệm của nhiều người trong xã hội
hiện đại: Phụ nữ ở thế hệ này dù không phải chịu những ngang trái, oan nghiệt
nhưng khi mà trong nếp nghĩ của con người vẫn nặng về đạo lí thì nỗi đau đớn
về lỗi lầm cũng sẽ đeo đẳng suốt quãng đời còn lại của họ.
Sự lệch pha của hai niềm khao khát giữa đàn ông và đàn bà là một trong
những nguyên nhân dẫn đến bi kịch tình yêu theo quan niệm của các cây bút
nữ. Với truyện ngắn Biển và người đàn bà xấu xí, Y Ban đã bộc lộ những
niềm trăn trở của cả giới đàn bà. Hạnh phúc, tình yêu luôn là một thứ gì đó
quá chơi vơi với người đàn bà trong truyện ngắn này. Đến lúc nhận ra rằng tất
cả những nỗ lực của nàng sẽ không còn có ý nghĩa bởi đích đến của người đàn
ông cô cưu mang không phải là một tâm hồn cũng là khi cô phải tìm đến cái
chết. Nói về căn nguyên của nỗi đau này, nhà văn Võ Thị Hảo trong truyện
ngắn Tim vỡ cũng đã để cho nhân vật của mình tự bộc lộ: “Ôi khốn khổ cho
đàn bà! Kiếp người ngắn ngủi mà các người thì cứ suốt đời theo đuổi những
cao siêu mây gió. Còn ta và hầu hết những người thuộc phái ta chỉ dừng lại
nơi làn môi, khóe mắt và thân xác đầy lạc thú của các người”.
Trong một số truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ và Y Ban, bi kịch
tình yêu có khi được thể hiện như là hậu quả của thái độ hành xử cứng nhắc,
của sự thiếu quan tâm từ phía những bậc cha mẹ - những người có vai trò
quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ thơ (Chuyện
bên Barie, Sơ ri đắng). Một cô gái ở lứa tuổi vị thành niên phải gánh chịu nỗi
54
đau cả về thể xác lẫn tinh thần vì tự nguyện dâng hiến trước tiếng gọi của tình
yêu say đắm dù còn rất trẻ và chưa hề được chuẩn bị cho khả năng làm vợ,
làm mẹ (Bức thư gửi mẹ Â u Cơ - Y Ban).
Nhân vật nữ trong một số truyện ngắn của các chị đã được miêu tả như
những “nạn nhân của những gã đàn ông khốn nạn” hoặc một tình yêu ngây
thơ, dại khờ. Từ bi kịch tình yêu trong truyện ngắn Hậu thiên đường (Nguyễn
Thị Thu Huệ), tác giả đã lên tiếng cảnh tỉnh về một thực trạng khi con người
quá lạm dụng tình yêu và làm xấu đi ý nghĩa đích thực của nó. Người mẹ đau
đớn nhận ra đứa con đang lặp lại chính bi kịch của đời mình, nó đang rơi vào
cạm bẫy của sự nhẹ dạ và cả tin bởi thần tượng mà nó tôn thờ là một gã đàn
ông thực dụng, thô lỗ và cục súc. Phượng (Sơ ri đắng - Nguyễn Thị Thu Huệ)
lại đặt tình yêu của mình nhầm chỗ. Người đàn ông cô tôn thờ và không chút
đề phòng lại là một gã sở khanh và Phượng chỉ là một trong số những người
đàn bà bị anh ta làm hại. Tình yêu trong truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh phần
lớn là những cảm xúc buồn, là trạng thái chờ đợi, mong ngóng vô vọng, là
những bồng bột và nông nổi của người ta khi yêu. Với Phan Thị Vàng Anh,
tình yêu là cái gì đã qua đi, đang tan biến đi hay chỉ là sự chờ đợi khốn khổ.
Thảo (Hội chợ) là một cô gái ngộ nhận bởi tình yêu. Hấp dẫn bởi vẻ bề ngoài
kì bí và điển trai khác hẳn với “bọn con trai đen nhẻm, ông ổng và thô lậu” ở
vùng quê nơi cô đang sống, cô đã đem lòng yêu Bá - một người trong đoàn lô
- tô đến quê cô tổ chức vui chơi. Nhưng Thảo chỉ là một trong số những cô gái
dễ thương và dễ tính như rất nhiều cô gái anh đã gặp ở những vùng khác nhau.
Bá đến rồi đi không trở lại như đã hẹn, còn Thảo vẫn hồn nhiên ngây thơ thực
hiện cái thiên chức của phụ nữ là chờ đợi. Giang trong Sau những hẹn hò lại ý
thức rất rõ về những người đàn ông cô gặp trong đời. Cũng chỉ vì cần một
người đàn ông để khỏa lấp những phút giây trống trải nên cô đã quan hệ với
Lâm dù biết rằng giữa cô và Lâm không hề có tình yêu mà thực ra chỉ là sự lợi
dụng nhau, chỉ là một trò chơi mà “trong những trò chơi thế này, chưa chắc ai
đã là trò chơi của ai, chỉ chắc chắn một điều là dù gì cuối cùng cô cũng nắm
phần thua thiệt”.
Tình yêu và hạnh phúc là hai đề tài thường trực trong văn học mỗi
55
nước, mỗi thời. Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Lý Lan, Phan Thị Vàng Anh đã
viết về tình yêu với cảm quan tinh tế của người phụ nữ. Nhạy cảm với nỗi đau
của khát vọng tình yêu không thành, với những trắc trở để rồi những người
yêu nhau không đến được với nhau, nên họ đã “đau cái đau của người cùng
giới, buồn cái buồn của người đàn bà đang yêu” (thơ Nguyễn Thị Hồng
Ngát). Những bi kịch tình yêu đã được viết nên bởi sự thấu hiểu và cảm thông
sâu sắc. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới bi kịch nhưng suy cho cùng nguyên
nhân chính lại xuất phát từ niềm khao khát yêu đương và dâng hiến của người
phụ nữ: càng khát khao yêu đương và hạnh phúc thì lại càng lẻ loi cô độc,
càng hi sinh càng phải trả giá. Dù còn mang vị đắng, khổ đau và bất hạnh
nhưng tình yêu luôn được diễn tả như một niềm khao khát vĩnh hằng của con
người, đặc biệt là người phụ nữ. Cũng không phải ngẫu nhiên mà có người
cho rằng, có lúc “đề tài tình yêu dường như bị lạm phát dưới ngòi bút của các
nhà văn nữ” nhưng mặt khác cũng phải thấy rằng, người phụ nữ mẫn cảm với
hạnh phúc và tình yêu hơn nam giới và chính địa hạt tình yêu là nơi các cây
bút nữ có cơ hội bộc lộ sâu sắc tâm hồn của người phụ nữ trên những trang
viết. Và những đóng góp của họ ở góc độ là tiếng nói của những người trong
cuộc về một lĩnh vực nhạy cảm trong đời sống tinh thần của con người cũng là
điều được nhiều độc giả quan tâm đón nhận.
2.1.2.3. BI KỊCH HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Cũng giống như đề tài tình yêu, hôn nhân và gia đình là đề tài xuất hiện
nhiều trong văn xuôi sau 1975 mà thành công ở mảng đề tài này phải kể đến
Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Tướng về hưu của Nguyễn Huy
Thiệp, Thời xa vắng của Lê Lựu... Từ những góc nhìn khác nhau, Nguyễn Thị
Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Y Ban và Lý Lan đã đề cập đến nguy cơ của
những rạn nứt đổ vỡ trong đời sống gia đình trước sự biến đổi của thời đại,
đến mối quan hệ của cá nhân với gia đình và cá nhân với xã hội cũng như
những ràng buộc và thách thức. Không chỉ riêng truyện ngắn mà cả ở các thể
56
loại khác các cây bút nữ cũng dành sự quan tâm đặc biệt về đề tài này như tiểu
thuyết Lệ Mai của Lý Lan hay kịch bản phim Những giấc mơ dài của Nguyễn
Thị Thu Huệ.
Đề cập đến cuộc sống gia đình, vấn đề mà bốn cây bút nữ quan tâm nhất
là tình trạng hôn nhân, quan niệm, lối sống của từng cá nhân trong hôn nhân
gia đình và những hệ quả của nó. Những cuộc hôn nhân này thường tiềm ẩn
nguy cơ của sự bất ổn và đỗ vỡ. Bi kịch hôn nhân và gia đình thường được các
tác giả nhìn nhận từ nhiều nguyên nhân khác nhau.
Một trong những nguyên nhân dẫn tới bi kịch là hôn nhân không có tình
yêu. Điều này đã được chứng tỏ trong Một nửa cuộc đời của Nguyễn Thị Thu
Huệ: Lan lấy Hải không phải vì tình yêu mà vì hiếu thắng “trước những ánh
mắt ghen tị và những giọt nước mắt thất tình của một lũ con gái” bởi khi ấy
Hải là ước muốn của nhiều người. Trải qua sự lầm tưởng và ngộ nhận về hạnh
phúc buổi đầu dần dần trong cuộc sống chung, cô đã nhận ra những bất ổn,
rằng Hải không phải là người đàn ông cần cho cuộc đời mình và cô đã tìm đến
với người tình để mong được khỏa lấp sự thiếu hụt mà Hải không đem lại
được.
Nếu như tình yêu cần có cảm xúc thì hôn nhân cần thêm các yếu tố của
sự bền vững. Đó là một thông điệp mà bốn cây bút nữ muốn gửi gắm thông
qua việc tái hiện những bi kịch hôn nhân trong các tác phẩm của mình. Hôn
nhân không thể hạnh phúc nếu không có tình yêu và khác nhau về thói quen
và tính cách. Người đàn bà trong Thiếu phụ và những đôi cò (Y Ban) đã phải
gặm nhấm nỗi đau của thực tại từng ngày, từng giờ bởi trong quá khứ, cô đã
không dũng cảm vượt qua được những mặc cảm để đến với người đàn ông yêu
thương cô thực lòng. Những khó khăn trong cuộc sống vợ chồng mà Thủy và
Phát gặp phải (Hình bóng cuộc đời - Nguyễn Thị Thu Huệ) đã làm cho khoảng
cách do sự khác nhau trong tính cách và quan niệm của mỗi người càng ngày
càng rộng. Giải pháp li thân càng đẩy bi kịch gia đình họ đến đỉnh điểm khi
57
Phát chết cô đơn trong căn bệnh hiểm nghèo còn Thủy và đứa con của họ chỉ
biết được điều này khi Phát đang trong tình trạng lâm chung. Ở một góc nhìn
khác, Nước mắt đàn ông lại là cả một chuỗi ngày dùng dằng đến kiệt sức trong
cuộc sống gia đình của người đàn ông. Sống với nhau hơn nửa đời người, ông
ý thức rõ điều đó nhưng lại coi đó là số phận và không thể chia tay vì các con
đã lớn và bản thân họ cũng đã già rồi, không còn đủ thời gian để làm lại.
Những khó khăn về kinh tế cũng là nguyên nhân dẫn tới bi kịch. Để đảm
bảo cho một cuộc hôn nhân hạnh phúc không chỉ cần có tình yêu, sự hòa hợp
về tính cách và tâm hồn mà còn phải có đủ điều kiện vật chất. Câu chuyện về
thân phận một người phụ nữ trong Uớc mơ của cô bán hàng rong của Y Ban
là một minh chứng cho điều đó. Chồng chị là người thương vợ, thương con và
có hiếu với cha mẹ nhưng anh lại là kẻ không gặp may trong cuộc đời, nghĩa
là không biết cách kiếm tiền. Cả nhà hầu như trông vào cái gánh trên vai chị.
Ban ngày vất vả để kiếm sống, ban đêm chị lại âm thầm khóc vì nỗi cực khổ
và những trận đòn roi của chồng, cuộc sống của chị là những chuỗi ngày chịu
đựng cả nỗi đau thể xác lẫn tinh thần.
Xã hội hiện đại đã mở rộng cánh cửa để người phụ nữ tham gia vào
nhiều lĩnh vực của đời sống nhưng đồng thời đó cũng là một thử thách trước
thiên chức làm vợ làm mẹ của mỗi người. Có không ít bi kịch đã xảy ra khi
người phụ nữ không dung hòa được mối quan hệ giữa gia đình và công việc
xã hội. Có một thực tế là không ít những người phụ nữ khi đã thành đạt trên
bước đường công danh thì lại gặp phải những trắc trở trong cuộc sống gia
đình, trong mối quan hệ chồng - vợ. Không ít người chồng khó lòng chấp nhận
một người vợ quá chuyên tâm vào sự nghiệp bởi theo họ, thiên chức làm vợ
làm mẹ vẫn luôn là đặc thù của giới nữ. Nhân vật nữ trong Thượng đế bảo
rằng mỗi người đàn ông chỉ của riêng một người đàn bà của Y Ban đã từng là
người nổi tiếng nhưng khi nàng lấy chồng anh ta lại không chịu được sự nổi
tiếng của nàng ngay cả khi nàng đã sinh con và chẳng còn ham muốn sự nổi
tiếng nữa. Dù đã cố gắng để sống với hiện tại - khi nàng đã có một gia đình
58
nhưng càng cố giữ thì hạnh phúc riêng tư càng tuột khỏi tay nàng. Cuộc sống
li thân là điều tất yếu đã xảy ra khi nàng không còn nhận được sự cảm thông
và chia sẻ từ người chồng của mình.
Thông qua những bi kịch hôn nhân, các cây bút nữ này đã đề cập đến
một khía cạnh rất đời thường của con người: bi kịch hôn nhân còn bắt nguồn
từ sự không thõa mãn nhau trong đời sống tinh thần, trong quan hệ tình dục.
Cùng với sự phát triển của đời sống xã hội là sự gia tăng những nhu cầu tinh
thần của con người. Ăn no, mặc đủ không còn là niềm mong ước của nhiều
người khi đời sống kinh tế đã khá lên và con người ngày càng có nhiều sự lựa
chọn. Khi những nhu cầu tinh thần không được thõa mãn thì mâu thuẫn là điều
khó tránh khỏi. Nếu như người đàn ông trong Thiếu phụ chưa chồng của
Nguyễn Thị Thu Huệ sẵn sàng đến với người đàn bà khác để thỏa mãn ham
muốn thì với Người đàn bà và những giấc mơ, Y Ban đã bày tỏ một sự thật -
là niềm mong mỏi được giải tỏa những ẩn ức sinh lí tinh thần của người phụ
nữ. Người đàn bà trong truyện có một gia đình với vẻ bề ngoài tưởng như là
ước mơ của nhiều người nhưng thực ra bên trong đang tiềm ẩn những nguy cơ
đỗ vỡ khi mà chồng nàng vẫn thường đi làm về muộn và “thường những hôm
anh về nhà trễ không bao giờ anh ngủ cùng nàng. Anh sẽ nằm co quắp như
một con tôm và kêu mệt mỏi”. Để khỏa lấp những khoảng trống trong tâm
hồn, để được thay đổi cảm giác, để cân bằng với cuộc sống mà ngày càng cảm
thấy thiếu hụt, nàng mong ước có một người đàn ông nào đó thật hoàn hảo và
đối xử với nàng một cách lí tưởng, không làm “nàng đau cả về thể xác lần linh
hồn” và nàng đã ngoại tình trong những giấc mơ. Cứ thế, sau những lần ngoại
tình, nàng lại sống trong một trạng thái đầy mâu thuẫn, một bên là những khát
khao thầm kín của người phụ nữ còn một bên là những mặc cảm và day dứt.
Thấu hiểu những nỗi niềm sâu kín của người phụ nữ, với niềm khát khao được
yêu thương và chăm sóc Thu Huệ đã để cho nhân vật của mình tự giãi bày:
“Anh không nghe thấy tiếng thở dài tức ngực của người đàn bà chưa đến tuổi
bốn mươi, da thịt mát lạnh, thơm tho của sự đủ đầy, nhàn hạ dần dần đang cần
59
sự yêu chiều ve vuốt. Anh không kịp nhìn thấy chị đợi anh bằng chiếc váy sa
tanh bóng mát lịm như miếng thạch mới mua. Và anh cũng chẳng kịp nhìn
thấy một lọ hoa to chị cắm góc phòng đang dịu dàng tỏa hương” (Tân cảng -
Thu Huệ). Thực ra, viết về những tình huống phức tạp và tế nhị trong đời sống
tinh thần của vợ chồng thì trong truyện ngắn Con chó và vụ li hôn của Dạ
Ngân viết năm 1985 “lần đầu tiên những chuyện... khó nói nhất trong quan hệ
vợ chồng đã được một cây bút nữ viết ra một cách thẳng thắn” [71, tr9].
Nhưng dẫu sao những điều tưởng như khó có thể nói ra đó chỉ mới được biểu
hiện bằng những cảm nhận của người phụ nữ, còn trong truyện ngắn của các
cây bút nữ trẻ (mà Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Lý Lan cũng
nằm trong số đó) thì những điều này lại được bày tỏ một cách trực diện qua
ngôn ngữ độc thoại, đối thoại, cũng như ngôn ngữ của người kể chuyện mà
trích dẫn trên đây đã cho chúng ta thấy được điều này.
Gia đình là tế bào của xã hội và mọi sự biến đổi của đời sống xã hội đều
tác động đến đời sống gia đình. Trong cơ chế thị trường, mối “quan hệ tiền
hàng” đã len lỏi vào từng thành viên trong các gia đình và chi phối cuộc sống
của họ, tạo nên những khoảng cách làm mất đi những tình cảm thiêng liêng
vốn có trong mỗi con người. Ông Cậu trong Nước mắt đàn ông (Nguyễn Thị
Thu Huệ) là một người đàn ông có tài, giỏi kiếm tiền nhưng cô độc trong một
gia đình dư thừa về vật chất. Con cái chỉ nói với ông chuyện tiền bạc chứ
không có nổi những phút giây ngắn ngủi tâm sự với cha mình.
Không phải ngẫu nhiên mà truyện ngắn của bốn cây bút nữ này thường
đề cập đến vấn đề ngoại tình (Phượng, Lắp ghép hạnh phúc - Lý Lan, Hình
bóng cuộc đời - Thu Huệ, Kịch câm - Phan Thị Vàng Anh, Thành phố không
mùa đông - Thu Huệ, Thằng bé có phép tàng hình, Chuyện bên Barie - Y Ban,
Tân cảng - Thu Huệ....). Ngoại tình, li thân và li hôn là tình trạng thường thấy
trong những cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Có nhiều nguyên nhân khác
nhau dẫn đến ngoại tình. Đàn ông có nỗi khổ của người trụ cột gia đình còn
đàn bà lại khổ vì những ngăn kí ức của tình cảm. Sự thất vọng về đời sống vợ
60
chồng trong cuộc sống chung là một trong những lí do của việc ngoại tình và
đó cũng chính là nguy cơ dẫn đến những bi kịch. Người đàn bà ngoại tình khi
cần khỏa lấp sự trống trải và mong tìm hạnh phúc trong những mối tình cảm
mới. Trong khi đàn ông lại coi ngoại tình như một chút gia vị trong cuộc sống,
một giải pháp nhất thời để xoa dịu những phiền muộn trong công việc và gia
đình, cũng có khi là để thỏa mãn những ham muốn giải trí. Hiếm thấy người
đàn ông nào trong sáng tác của các chị lại coi ngoại tình là mục đích để tìm
kiếm một tình yêu đích thực, một người bạn đời trong một cuộc hôn nhân mới.
Có người đàn ông tỏ ra thành thực khi bộc lộ ý định của mình như Thắng:
“Anh cũng yêu em, nhưng anh không thể phá vỡ cuộc sống gia đình được”
“chuyện của chúng mình chẳng có gì mới. Chẳng qua nó là gia vị trong một
bữa ăn. Tí cay, tí chua, tí ngọt cho dễ nuốt chứ không phải cái ăn hàng ngày”
(Một nửa cuộc đời - Nguyễn Thị Thu Huệ). Ông Cậu trong Nước mắt đàn ông
(Nguyễn Thị Thu Huệ) ngoại tình trong khi coi hôn nhân hiện tại đã là số phận
và có chống cũng chẳng được. Sự khác nhau về động cơ và mục đích đã làm
cho những người phụ nữ không bao giờ tìm thấy hạnh phúc đích thực sau
những cuộc tình vụng trộm. Những cảm xúc, những niềm vui nhất thời rồi
cũng qua đi để rồi họ lại dằn vặt về những gì mình đã làm (Một nửa cuộc đời -
Nguyễn Thị Thu Huệ).
Trong thiên chức làm vợ, làm mẹ, những cây bút nữ này đã tỏ ra nhạy
cảm hơn với nỗi đau của trẻ thơ, viết về nó bằng những cảm nhận tinh tế và
sâu sắc từ những bi kịch hôn nhân và gia đình bởi theo họ: khi tình yêu không
còn, khi gia đình tan vỡ thì người phải gánh chịu hậu quả nhiều nhất là những
đứa con. Bi kịch gia đình làm tổn thương đến tâm hồn và cuộc sống trẻ thơ.
Cuộc sống thiếu vắng tình cảm của người cha là một trong những nguyên
nhân để đứa con lặp lại vết xe đổ của người mẹ (Hậu thiên đường - Nguyễn
Thị Thu Huệ). Đó là trạng thái ngờ vực của đứa con về bố mẹ mình (Phù thủy
- Nguyễn Thị Thu Huệ), là cảm giác trống trải, cô đơn khi biết tin bố mẹ mình
sẽ li dị (Thành phố không mùa đông - Nguyễn Thị Thu Huệ), là ước mơ bình
61
dị nhưng sẽ không bao giờ thực hiện được của hai anh em khi muốn được
sống chung dưới một mái nhà (Tân cảng - Nguyễn Thị Thu Huệ). Những dư
chấn về tinh thần đó sẽ theo các em đi suốt cuộc đời và chúng sẽ không có
được sự vô tư trong trẻo như những đứa trẻ khác (Lắp ghép hạnh phúc - Lý
Lan).
Với ý thức cảnh tỉnh con người trước nguy cơ của sự đổ vỡ, các cây bút
nữ đã tái hiện những cảnh ngộ mà ở đó là những dấu hiệu dù chỉ mới manh
nha của bi kịch gia đình. Nếu như trong Kịch câm, Phan Thị Vàng Anh đã đưa
ra một dự cảm về sự đổ vỡ khi cuộc sống gia đình đang từng ngày tiếp diễn
với vở kịch được tạo nên từ tình huống con gái bắt gặp được mẩu giấy - bằng
chứng về khả năng ngoại tình của ông bố thì trong Chuyện bên Barie của Y
Ban, vở kịch dường như đã đến lúc hạ màn với cuộc chạm trán bất ngờ giữa
bố và con gái trong khi bên cạnh họ là những người tình. Sự suy thoái về đạo
đức nhân cách đang có nguy cơ làm tổn hại đến những tình cảm thiêng liêng
giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ và chồng. Bi kịch tất yếu sẽ xảy ra nếu như
các thành viên trong gia đình không thay đổi lối sống, suy nghĩ và hành động.
Trong truyện ngắn của các chị, người đọc đã bắt gặp những cảnh ngộ éo
le, những dang dở của hạnh phúc không phải là ít gặp trong cuộc đời. Trong
tình yêu cũng như trong hôn nhân, các nhân vật trong sáng tác của các chị bao
giờ cũng khát khao hạnh phúc nhưng ít ai được thỏa nguyện. Từ tình yêu đến
hôn nhân là cả một khoảng cách. Chất men của tình yêu chỉ là yếu tố cần chứ
chưa phải là đủ với một gia đình hạnh phúc. Mái ấm gia đình cần phải được
dày công vun đắp bởi cả vợ và chồng vì bi kịch có thể xảy đến bất kì lúc nào.
Viết về những bi kịch thông qua cái nhìn của nhân vật khi họ đang trực tiếp
cảm nhận những rạn nứt của cuộc sống chung, bằng tấm lòng và sự cảm thông
sâu sắc, các trang viết của các chị đã làm rung động trái tim người đọc. Nhạy
cảm với sự dở dang, có thể nói “những trang viết của họ như những dòng dư lệ
được ép ra từ trái tim khao khát yêu đương và hạnh phúc. Họ vui đấy, buồn
đấy, cay nghiệt đấy nhưng rất mực nhân hậu và cũng rất mực... đàn bà. Họ
62
nhìn và cắt nghĩa cuộc sống theo tư duy của phái yếu, tinh tế, nhạy cảm, đâu
đây trong trang viết của họ luôn ẩn chứa một tiếng thở dài, hình như là than
thân, là tiếc nuối. Người đọc cùng giới luôn tìm được sự đồng cảm ở họ”
[115].
2.1.3. CẢM HỨNG CHIÊM NGHIỆM, TRIẾT LÍ.
Từ những năm cuối của thập kỷ 80, sự đổi mới văn xuôi mới thực sự
diễn ra ở bề sâu với một quan niệm đa dạng, nhiều chiều về đời sống. Cảm
hứng khám phá, suy ngẫm, kiếm tìm những vấn đề có ý nghĩa triết lí nhân sinh
trở thành dòng mạch chính của văn xuôi tự sự. Trong truyện ngắn Nguyễn Thị
Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan, triết luận cũng là một xu
hướng thường gặp. Với đặc thù của giới nữ, từ thực tế cuộc sống và những trải
nghiệm, các tác giả thường triết lí về những vấn đề thường nhật của đời
thường, về tình yêu và hôn nhân, về giới nữ. Không cao đàm khoát luận mà
những vấn đề của cái thường ngày được nâng lên thành triết lí mang ý nghĩa
nhân sinh sâu sắc.
2.1.3.1. TRIẾT LÍ VỀ TÌNH YÊU
Tình yêu thì thời nào cũng có nhưng mỗi thời lại có những quan niệm
khác nhau. Mỗi người với những đặc điểm tính cách và lối sống sẽ nhìn nhận
tình yêu theo thiên kiến của mình. Thời phong kiến, với những quy định hà
khắc nam nữ ít có cơ hội tiếp xúc gặp gỡ mà thường là “cha mẹ đặt đâu con
ngồi đấy”. Thời kì đổi mới, khi mà nhiều giá trị được đem ra để xem xét lại
với sự thay đổi hệ thống chuẩn mực thẩm mĩ trong cộng đồng thì quan niệm
về tình yêu cũng trở nên đa dạng, có những dấu hiệu mới mẻ, bớt khắt khe hơn
so với quá khứ.
Trong khi triết lí về tình yêu, các cây bút nữ này đã bộc lộ những cách
nhìn mới mẻ. Với quan niệm: được lựa chọn và thể nghiệm trong tình yêu
63
không chỉ là đặc quyền của nam giới, nhiều người phụ nữ trong truyện ngắn
của các chị đã chủ động trong tình yêu, tự do lựa chọn người mình yêu, không
những thế họ sẵn sàng làm bất cứ điều gì để có được tình yêu của mình: “trong
tình yêu có lúc phải giành lấy cái để gọi như chơi bạc ấy, được thì phất, hỏng
thì thôi nhưng cứ phải cướp cái” (Cát đợi - Nguyễn Thị Thu Huệ), bởi trong
quan niệm của họ “tình yêu hiện đại là bỏ qua các thủ tục rườm rà” (Thiên
đường và địa ngục - Y Ban).
Không còn là những khắt khe bó buộc người phụ nữ theo quan niệm
truyền thống, hạn chế khả năng giao tiếp và cơ hội chọn lựa, các cây bút nữ đã
bộc lộ sự thay đổi trong tư duy về người phụ nữ hiện đại khi quả quyết rằng:
“ai trong đời cũng đã xếp xó vài cuộc tình” (Nguyễn Thị Thu Huệ). Một nhân
vật trong Người xưa của Nguyễn Thị Thu Huệ cũng đã tự nói với chính mình:
“Một mối tình trẻ con như một kho lương khô cho cuộc sống. Lúc nào giận vợ
giận chồng mang lương khô ra ăn. Hãy cứ để nó mãi là lương khô, đừng bắt
nó là cái khác”. Có thể thấy nhiều nhân vật trong sáng tác của các chị trước
khi đi đến hôn nhân đã trải qua nhiều cuộc tình, có hạnh phúc, có khổ đau, hi
vọng và thất vọng nhưng khát khao tìm kiếm và yêu thương vẫn luôn có ở
thẳm sâu trong tâm hồn họ. Người phụ nữ trong Người xưa (Nguyễn Thị Thu
Huệ) luôn lưu giữ trong kí ức những kỉ niệm đẹp của mối tình đã qua. Mười
một năm sau, hai người tình cũ lại cùng nhau xem một bộ phim tình yêu. Họ
vô tư nói chuyện con cái, gia đình và tiền bạc. Mỗi người đã có một cuộc sống
riêng nhưng họ vẫn thường dõi theo nhau xem người xưa sống ra sao để rồi họ
lại có thể nói với con cháu mình rằng ngày xưa mình đã có một tình yêu tuyệt
đẹp theo họ suốt cuộc đời.
Trong khi triết lí về tình yêu, các cây bút nữ đã cho thấy sự cởi mở
trong tư duy, sự sắc sảo khi lí giải và tiếp cận vấn đề, tuy nhiên cũng lắm khi
lại có cái nhìn yếm thế. Chẳng hạn như một nhân vật trong Giai nhân đã triết
lí về tình yêu rằng: “Cuộc tình nào mà chẳng có bắt đầu và kết thúc như nhau.
Cứ tưởng là vĩnh viễn là duy nhất nhưng cuối cùng phù phiếm cả” (Giai
64
nhân). Cùng với thời gian, các nhân vật trải nghiệm nỗi cô đơn, sự chia li và
cách trở vì yêu nhau mà không đến được với nhau, vì những người họ gặp
trong đời không phải là cái nửa còn lại mà họ mong muốn tìm được. Khoảng
cách giữa khao khát và thực tế đã làm cho họ nhìn cuộc đời bằng con mắt bi
quan: “mà nói chung những cái na ná tình yêu thì đẹp, chứ làm gì có tình yêu
thật khi chúng tôi đã đi gần hết cuộc đời và đều mệt mỏi cả (Mi nu xinh đẹp).
Triết lí trong sáng tác của các chị có khi được phát biểu trực tiếp bằng
một thứ “ngôn ngữ triết nhân”, mặt khác lại được khúc xạ bằng những hình
tượng nghệ thuật nên có khả năng tạo được dư ba trong lòng người đọc. Triết
lí về mặt trái của đam mê và tình yêu, cay nghiệt nhưng cũng rất đằm sâu, tình
yêu thường được nhìn ở “vị đắng” của nó. Những triết lí của họ có khi chưa
phải là đại diện cho số đông nhưng đó là một phần có thực trong cuộc đời mà
chúng ta không dễ gì phủ nhận. Loại trừ những đúc kết chưa thực sự khách
quan, có thể nói, những quan niệm về tình yêu trong sáng tác của các nhà văn
nữ đã chứng tỏ sự suy ngẫm và trăn trở nghiêm túc về những vấn đề của đời
sống, đặc biệt là ở một lĩnh vực vốn rất nhạy cảm trong tâm hồn con người.
Nhiều truyện ngắn vì thế mà có sức neo giữ lâu bền trong tâm trí người đọc.
2.1.3.2. TRIẾT LÍ VỀ NHÂN SINH
Thời kì đổi mới với sự thay đổi quan niệm về hiện thực và con người
trong tư duy nghệ thuật của nhà văn, các cây bút nữ này đã bộc lộ những cách
nhìn mới về hiện thực.
Khi triết lí, các nhà văn nữ một mặt thường hướng về những điều nhân
bản mang ý nghĩa phổ quát, mặt khác còn đề cập đến cả những phần khuất tối
trong con người. Nguyễn Thị Thu Huệ đề cập đến cả những nhu cầu tinh thần
của con người khi chị triết lí rằng: “Ăn cũng là một hạnh phúc. Ngủ cũng là
một hạnh phúc. Yêu cũng là một hạnh phúc’ (Người đàn bà ám khói). Cùng
với sự phát triển của đời sống thì những nhu cầu của con người cũng ngày
càng trở nên phong phú hơn song chính sự quá lệ thuộc vào nó là nguyên nhân
65
của không ít bi kịch. Sau những mất mát và đỗ vỡ khi đã đi gần hết cuộc đời,
một nhân vật trong Nước mắt đàn ông của Thu Huệ đã cay đắng nhận ra rằng:
“Tại cậu nhiều ham muốn. Muốn nhiều tiền. Muốn làm văn chương, muốn có
một người yêu thực sự”.
Trong khi triết lý, các cây bút nữ này thường bộc lộ xu hướng chiêm
nghiệm con người từ góc nhìn thế sự, đời tư. Lý Lan trong Nhân vật tiểu
thuyết cho rằng: “Làm người thì ai cũng trải qua một lần tan nát cái gì đó trong
cuộc đời: một giấc mơ, một ảo tưởng, một tình yêu”. Không có niềm vui nào
là tuyệt đối và “ở đời chẳng có phân giới nào rõ ràng cho hạnh phúc hay bất
hạnh, sung sướng và đau khổ” (Sau chớp là giông bão - Y Ban). Bằng kinh
nghiệm thường trải của một phụ nữ, Thu Huệ đã để cho nhân vật của mình
triết lí về cuộc sống : “Không ai có hai lần sống, hai cuộc đời để rút kinh
nghiệm” (Hình bóng cuộc đời). Hay như “ Không ai chịu sống bằng kinh
nghiệm của người khác. Mà nếu sống bằng kinh nghiệm của chính mình, rút ra
đựợc những điều phải làm có khi phải ân hận suốt cuộc đời mà cuộc đời lại
ngắn ngủi” (Ám ảnh - Thu Huệ). Quan tâm đến con người tự nhiên, bản năng,
Lý Lan đi đến nhận định: “một con người với vẻ ngoài cương nghị, nguyên tắc
lạnh lùng nhưng ẩn sâu bên trong là một trái tim biết rung động khao khát tình
yêu: một con người không thể sống mà không có trái tim: vui buồn, ghét, giận,
thương, nhớ” (Trái tim dịu dàng - Lý Lan). Với quan niệm về con người cá
nhân đa chiều hôm nay, nhân vật đôi khi đã được tước đi lớp vỏ chắn bên
ngoài để lộ ra vẻ trần trụi bản năng của nó “ai cũng có phần cao siêu và nhỏ
mọn” (Người tình - Nguyễn Thị Thu Huệ), “suy cho cùng, tuy là sếp, song bên
trong ông vẫn là một con người với đầy đủ mọi thứ ham muốn” (Dĩ vãng -
Nguyễn Thị Thu Huệ).
Từ những triết lí về con người nếm trải, các cây bút đã gián tiếp bày tỏ
quan điểm về cuộc sống: cuộc sống luôn luôn biến đổi không ngừng, trong
mỗi một cuộc đời con người có thể trải qua nhiều trạng thái “hợp rồi tan, hy
vọng và vỡ mộng, yêu rồi xa lạ, hạnh phúc và khổ đau” (Phượng - Lý Lan).
66
Cuộc sống không đơn giản là đựơc ăn no mặc ấm như quan niệm thường thấy
ở những thời điểm kinh tế còn khó khăn mà càng ngày, con người càng có
nhiều thứ để quan tâm, “thời hiện đại cho người ta nhiều sự chọn lựa” (Rượu
cúc) và “Đời người hình như ai cũng có một cái thú riêng. Thú kiếm tiền. Thú
tiêu tiền. Thú ăn ngon. Thú mặc đẹp” (Giai nhân - Nguyễn Thị Thu Huệ).
Thừa nhận nỗi buồn và sự cô đơn như một phần tất yếu của cuộc sống nhưng
Lý Lan lại cho rằng: “cuộc đời đôi khi có đắng một chút mới hay” (Nhân vật
tiểu thuyết - Lý Lan) và “người ta không thể sống như nhân vật tiểu thuyết”
(Nhân vật tiểu thuyết - Lý Lan).
Triết lí về bản tính lưỡng diện của con người, các cây bút nữ đã bộc lộ
sự tinh tế trong việc tiếp cận với con người cá thể. Nhân vật trong truyện ngắn
Người có học của Phan Thị Vàng Anh tự nhận thấy bản chất bên trong con
người mình: “Tôi thấy, mình hình như là hai nửa con người, nửa hướng thiện
và nửa hướng ác”. Mỗi người là một thực thể không đồng nhất, một tiểu vũ trụ
đầy bí ẩn: “con người, ngày càng đông như kiến nhưng chẳng ai giống ai. Mỗi
người buồn một kiểu và vui một lối” (Dĩ vãng - Nguyễn Thị Thu Huệ). Với
cái nhìn đầy cảnh giác, nhiều nhân vật nữ trong truyện ngắn Thu Huệ thường
tỏ rõ thái độ phê phán quyết liệt thế giới đàn ông nhưng theo họ “đàn ông phải
có hai bộ mặt: vừa tử tế, vừa đểu giả, thế mới quyến rũ” (Hậu thiên đường).
Nhìn cuộc sống từ vẻ trần trụi và thô nhám của nó, các cây bút nữ đã phát hiện
ra rằng “Gia đình tôi giống như một thế giới con con huyền bí và pha tạp: xấu,
tốt, cao thượng và thấp hèn” (Hoàng hôn màu cỏ úa - Thu Huệ). Y Ban lại
chiêm nghiệm “Cuộc sống gia đình như một con thuyền trên đại dương” (Và
anh...1/3 của cuộc đời em).
Khi nỗi cô đơn trở thành một trạng thái tâm lí thường gặp của người
phụ nữ trong xã hội hiện đại thì với sự mẫn cảm bản năng, nỗi cô đơn đó
thường được trở đi trở lại trong sáng tác của bốn cây bút nữ. Nếu như nhân vật
của Phan Thị Vàng Anh luôn khao khát được hòa nhập, được tham dự vì trong
quan niệm của họ “một cuộc sống lặng lờ cũng như một vở kịch không cao
67
trào” (Nhật kí) thì trong truyện ngắn Thiếu phụ chưa chồng của Nguyễn Thị
Thu Huệ, một nhân vật nữ cũng đã không khỏi xót xa cho thực trạng đang
phải trải qua của chính mình: “Đời người phần lớn là buồn. Ngày nọ rồi tới
ngày kia. Mỗi ngày được thêu dệt bởi những nỗi buồn con con nhiều khi vô
cớ”.
Từ cảm hứng chiêm nghiệm, triết lí, con người trong truyện ngắn của
Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh và Lý Lan được soi rọi từ
nhiều bình diện và tầng bậc: ý thức và vô thức, đời sống tư tưởng tình cảm, cả
những khát vọng cao cả và dục vọng thấp hèn; con người với sự trải nghiệm
nỗi đau, những nhu cầu cá nhân; con người bản năng tự nhiên và con người xã
hội. Con người ở đây chỉ là những con người bình thường, ở trong trạng thái
lưỡng diện không hẳn tốt, không hẳn xấu; con người nếm trải, không được lí
tưởng hóa. Với cái nhìn mở về cuộc đời và con người, không dừng lại ở miêu
tả và tái hiện hiện thực, các cây bút nữ đã có những đúc kết sâu sắc mang ý
nghĩa nhân sinh. Bằng những trải nghiệm và sự thấu hiểu đời sống tâm hồn
con người, các cây bút nữ đã tận dụng được lợi thế của môi trường sáng tác để
bày tỏ quan điểm, bộc lộ nhân sinh quan và thế giới quan, bộc lộ thái độ của
người cầm bút trước hiện thực. Đằng sau những triết lí về cuộc sống mà phần
lớn đó là những chiêm nghiệm về cuộc đời là nỗi trăn trở, băn khoăn, là nỗi
niềm thương cảm của người viết.
Tuy đã có cách nhìn con người trong tính đa dạng và phức tạp của nó
nhưng đó đây, người đọc vẫn bắt gặp những lời lẽ triết lí có tính chất cực
đoan. Chẳng hạn như “Đời người là cả một cái dòng khổ ải. Tất cả, tất cả đều
quay cuồng từ lúc sinh ra đến lúc chết đi để kiếm miếng ăn như thể họ bị đói
từ kiếp trước”; hoặc như “ Mà chết bây giờ, kiếp sau không được lên làm chó
Nhật đâu mà sẽ lên làm người, làm người đấy” (Mi nu xinh đẹp - Nguyễn Thị
Thu Huệ) thì quả là đã sa vào một thứ triết lí yếm thế và bi quan.
2.1.3.3. TRIẾT LÍ VỀ GIỚI NỮ
68
Như đã nói ở trên, tình yêu và gia đình là hai phạm trù người phụ nữ
quan tâm nhất. Cũng chính vì lẽ đó, trong tác phẩm của họ, người đọc bắt gặp
những triết lí thú vị về tình yêu trong quan niệm của giới nữ: “đàn bà khi yêu
không bao giờ có tuổi” (Mi nu xinh đẹp - Nguyễn Thị Thu Huệ), “đàn bà yêu
bằng mùi”, khác với “đàn ông yêu bằng mắt” (Mùa thu vàng rực rỡ), “con gái
19, 20 chuyện nào cũng quay về chuyện tình yêu” (Truyện trẻ con - Phan Thị
Vàng Anh).
Tình yêu ở mỗi thế hệ, ở mỗi con người có những màu sắc và đặc trưng
riêng. Khi triết lí về điều này, các cây bút nữ đã cho thấy sự khác biệt giữa hai
thế hệ trong tình yêu. Đồng thời đó còn là tiếng nói của khát vọng được tự do
lựa chọn tình yêu và hôn nhân hạnh phúc bởi trong quan niệm của các chị
người phụ nữ dù có thành đạt đến đâu cũng luôn cần một chỗ dựa vững chắc
cho tâm hồn yếu đuối mỏng manh của họ. Trong truyện ngắn Cõi mê của
Nguyễn Thị Thu Huệ, người bà kể về quãng đời không bình yên của mình:
“Thời bà, ít có sự lựa chọn như các cháu sau này. Bảo lấy ai thì lấy. Bảo làm
gì thì làm. Ước mơ không nhiều, tham vọng chẳng có”. Còn ở Người đàn bà
có ma lực, mượn lời nhân vật trong truyện, Y Ban triết lí về người phụ nữ hiện
đại: “Bây giờ là thời đại mới, thời đại của chúng ta. Chúng ta làm chủ tình thế
chứ đâu như thời phong kiến mà đàn bà chỉ biết đứng e lệ một chỗ như những
bông hoa trong luống hoa ấy, mặc cho người ta khen, người ta chê”. Người
phụ nữ hiện đại ý thức rõ quyền được yêu và cũng lại khắt khe hơn trong việc
lựa chọn “Phụ nữ phải kiếm chồng hơn mình một cái đầu” (Bỏ trường - Phan
Thị Vàng Anh).
Sự tìm kiếm hạnh phúc, ngay cả khi đã có hạnh phúc trong tay, sự
không thỏa mãn về phương diện nào đó là một nguyên nhân dẫn đến bi kịch
trong đời sống của không ít người phụ nữ. Thấu hiểu những nghịch lí của
người cùng giới, Nguyễn Thị Thu Huệ đã triết lí một cách cay đắng: “Đời
người đàn bà thường ngắn hơn đời người đàn ông mặc dù tuổi thọ thì họ nhiều
69
hơn. Đó là nghịch lí. Đàn ông 60 tuổi còn có tình yêu, đàn bà thì hiếm hoi
lắm” (Giai nhân - Nguyễn Thị Thu Huệ). Khi triết lí về điều này, chị thấu hiểu
được rằng khi lập gia đình, người đàn bà nào cũng nhanh chóng bước qua
“tuổi khác”, thời gian và tuổi tác luôn là nỗi ám ảnh của người phụ nữ nhất là
với những người chưa từng kết hôn. Cũng đã có lúc nhân vật chính trong
truyện ngắn Người đàn bà ám khói của Nguyễn Thị Thu Huệ nhận ra sự thật
từ những lời lẽ chua chát của một kẻ đểu giả cô từng gặp trong cuộc đời: “Đời
người con gái có thì, em phải biết chớp lấy cái thời của mình. Đàn ông theo
em khi còn đáng theo, nghĩa là lúc em còn trẻ. Đó là điều đáng mừng. Đừng
để lúc không ai nhòm gì đến em, em mới nghĩ đến việc yêu”.
Với cái nhìn rất riêng của phái nữ, các cây bút nữ đã triết lí về những
điều tưởng như rút ra từ gan ruột: “Ai cũng tưởng mình tinh tướng lắm, khôn
ngoan lắm nhưng rốt cuộc họ là những người mất mát nhiều nhất” (Màu ngà
sắc đỏ - Nguyễn Thị Thu Huệ). Đam mê và yếu ớt luôn là một đặc tính cố hữu
của giới nữ bởi thế cho nên trong truyện ngắn của các chị, người đọc thường
bắt gặp những câu triết lí kiểu như: “Hóa ra đàn bà, ai cũng có những khả
năng đặc biệt giống nhau: yêu đương, ghen tuông và cuồng si” (Hậu thiên
đường - Nguyễn Thị Thu Huệ), “đàn bà vừa vặt vãnh vừa yếu đuối”, “Đàn bà
mà. Nó có lắm những cái nhu cầu, ham muốn lặt vặt” (Người đàn bà ám khói -
Nguyễn Thị Thu Huệ), “ Đàn bà phải nhỏ bé yếu đuối” (Thượng đế bảo rằng:
Mỗi người đàn ông chỉ dành riêng cho một người đàn bà - Y Ban). Trong
truyện ngắn Sương mù trên thành phố Võ Thị Xuân Hà cũng từng cho rằng
“Mà đã là đàn bà thì vĩnh viễn mang trong mình nỗi khát khao hòa đồng, vĩnh
viễn đam mê, vĩnh viễn yếu ớt”. Bằng sự cảm thông sâu sắc với những người
phụ nữ “hồng nhan đa truân”, Nguyễn Thị Thu Huệ đã đúc kết thành triết lí
“Đàn bà đẹp, lại thông minh thì khổ lắm” (Hoàng hôn màu cỏ úa - Nguyễn
Thị Thu Huệ).
Bằng những lời lẽ triết lí đôi lúc tưởng như lạnh lùng và có phần cay
nghiệt, chua chát; các cây bút nữ đã nói lên tiếng nói đòi đựơc cảm thông sâu
70
sắc đối với người phụ nữ: hãy quan tâm hơn đến cuộc sống của họ, cả về
phương diện vật chất lẫn tinh thần; hãy cố gắng để những tâm hồn yếu đuối
không còn bị tổn thương, để sau mỗi lần vấp ngã trên đường đời, con người ta
vẫn vững tin mà đứng dậy. Sau mỗi lời lẽ triết lí là những trải nghiệm từ chính
cuộc đời mình, từ những quan sát thực tiễn. Tính triết lí làm tăng thêm sức
khái quát cho hình tượng đồng thời tác động mạnh mẽ đến người đọc.
2.2. THẾ GIỚI NHÂN VẬT
Mọi loại hình nghệ thuật đều lấy con người làm đối tượng trung tâm của
sự phản ánh. Với tác phẩm văn học thì nhân vật là hình thức thể hiện quan
điểm của nhà văn về con người, là đối tượng dẫn dắt độc giả vào các thế giới
khác nhau của đời sống đồng thời bản thân nó còn thể hiện “quan niệm nghệ
thuật và lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn về con người”.
Khi tiếp cận với hệ thống nhân vật trong các sáng tác văn học thuộc
nhiều thể loại các nhà nghiên cứu thường dựa vào các cấp độ: kết cấu (nhân
vật chính - phụ), ý thức hệ (nhân vật chính diện - phản diện), cấu trúc (nhân
vật chức năng - nhân vật loại hình - nhân vật tư tưởng), lịch sử - hư cấu (nhân
vật lịch sử - nhân vật hư cấu), thành phần xã hội (nhân vật nông dân - nhân vật
chiến sĩ - nhân vật trí thức). Sự phân chia theo các cấp độ trên đây cũng đã
phần nào phản ánh được cách tư duy của nhà văn về con người thông qua hình
tượng nhân vật.
Ở mỗi trào lưu, mỗi giai đoạn, do sự chi phối của nhiều yếu tố, thế giới
nhân vật trong các sáng tác lại mang tính đặc thù thể hiện những quan điểm
khác nhau về con người và cuộc đời. Nhân vật trong văn học trước 1975 là
hiện thân của con người mới trong lao động chiến đấu, là đại diện cho lí tưởng
cao cả và thường là kiểu nhân vật đơn nhất. Sau 1975, quan niệm con người cá
nhân, cá thể qua lăng kính của các nhà văn đã được cụ thể hóa bằng thế giới
nhân vật đa dạng. Khảo sát truyện ngắn Lý Lan, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn
Thị Thu Huệ, Y Ban căn cứ vào tính chất lặp đi lặp lại của các mô hình nhân
71
vật, căn cứ vào cấp độ quan niệm nghệ thuật về con người, có thể nhận thấy
thế giới nhân vật được khu biệt thành 2 loại hình: nhân vật tính cách và nhân
vật cô đơn. Sự phân chia này chỉ mang tính chất tương đối vì ranh giới giữa
các kiểu loại nhiều khi đan xen và khó tách bạch. Trong những trường hợp
như vậy, chúng tôi căn cứ vào nét nổi trội về tính cách hay trạng thái tâm lí để
xem nhân vật đó thuộc loại nào.
2.2.1. NHÂN VẬT TÍNH CÁCH
Hạt nhân của nhân vật tính cách là cá tính. Trong tác phẩm văn học thì
nhân vật tính cách được miêu tả như “một nhân cách, một cá nhân có cá tính
nổi bật” [68,tr196]. Tính cách bộc lộ trong các khả năng lựa chọn và thích ứng
với hoàn cảnh. Khắc họa tính cách là một đặc điểm nghệ thuật được tác giả sử
dụng đối với loại hình nhân vật này.
Trong văn học trung đại thì tính cách của nhân vật là một phạm trù ít
được đề cập đến. Trong bài viết Sự thể hiện con người trong văn chương thời
cổ nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn cho rằng: với “mảng sáng tác trong đó con
người được thể hiện ở cấp độ nhân vật văn học chúng ta có thể bắt gặp các
nhân vật với chân dung ngoại hình có ngôn ngữ, tính cách, số phận riêng”.
Tuy nhiên “trong mảng sáng tác này, con người đều có tính tạo hình ở chừng
mực nào đó” [70, tr84]. Văn xuôi giai đoạn 1945 - 1975 với nhiệm vụ phục vụ
kháng chiến đã lấy công - nông - binh làm nhân vật trung tâm để phản ánh.
Nhân vật thường mang tính chung và có một mô hình khá giống nhau, đã được
biết trước dù mỗi nhân vật đều có tên tuổi và cá tính. Sau 1975, với sự thay
đổi mối quan hệ giữa nhân vật - tác giả và bạn đọc, với sự cỗ vũ của ý thức cá
nhân đã dẫn đến sự thay đổi trong cấu trúc nhân cách của nhân vật, cá tính
nhân vật được khắc họa rõ nét. Trong nhiều sáng tác của Lý Lan, Phan Thị
Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban các chị thường có xu hướng đi sâu
vào khai thác đặc điểm sinh lí tính cách ở từng cá nhân tạo nên một thế giới
72
nhân vật sinh động.
Cá tính mạnh mẽ, quyết liệt của nhân vật được thể hiện rõ nhất trong
đấu tranh giành quyền sống đặc biệt là quyền yêu và quyền được yêu, đấu
tranh giành hạnh phúc cho mình. Không còn quan niệm về người phụ nữ cam
chịu, nhân vật nữ trong truyện ngắn của các chị thường là những con người
mạnh mẽ và bạo dạn. Sự no đủ yên bình chưa phải là nhu cầu cao nhất về
hạnh phúc khiến họ luôn sục sôi một khát vọng được làm tất cả để thỏa được
ước vọng. Là một cô gái cuồng nhiệt và cá tính, My (Thiếu phụ chưa chồng -
Nguyễn Thị Thu Huệ) đã dám làm bất cứ điều gì để có được điều mình muốn.
Xây dựng một nhân vật nữ có tính cách thực dụng và đầy ắp những ham
muốn, Thu Huệ đã tạo dựng những biến cố và xung đột mà qua đó cá tính của
nhân vật được bộc lộ. Không ngần ngại chà đạp lên nhân phẩm và luân lí,
phản kháng mạnh mẽ trước những lời răn dạy, My hoàn toàn ý thức được việc
làm của mình và hoàn toàn chịu trách nhiệm về bản thân. Sự mạnh mẽ trong
suy nghĩ và hành động đó, về một phương diện nào đó là một sự tương phản,
đối chọi với tính cách của Lụa (Bảy ngày trong đời) - một cô gái đã âm thầm
chịu đựng nỗi đau, vượt qua những lời dèm pha và dị nghị, cả sự ngăn trở của
bố mẹ để có được tình yêu - một tình yêu mang lại cho cô hạnh phúc và cứu
rỗi linh hồn người khác. Trong Một nửa cuộc đời, nhân vật Lan cũng đã được
xây dựng với cá tính mạnh mẽ nhưng lại ưa thay đổi, thích phiêu lưu và chán
ghét những gì tẻ nhạt.
Nguyễn Thị Thu Huệ có khả năng cá thể hóa nhân vật qua ngôn ngữ đối
thoại. Một cô gái có cá tính mạnh mẽ, sống buông thả với bản năng, ngang
tàng và bất chấp tất cả, không giấu diếm con người thật của mình đã được bộc
lộ rõ khi cô cho rằng “Em uống rượu hay hút thuốc lá, thuốc lào thì bận đến
ai? Em có làm sao thân em chịu chứ em có phiền ai đâu” (Xin hãy tin em).
Hoài cho rằng cô đã lớn, có thể chịu trách nhiệm về bản thân, tự cho phép
mình hành động và nói năng liều lĩnh đến táo tợn: “Tao có quắp thằng nào
73
nằm giữa cái phòng này thì đấy cũng là chuyện của tao. Chỉ trừ tao cướp
người yêu của chúng mày hay ăn cắp ăn trộm tiền bạc quần áo, chúng mày
mới được quyền nói”.
Cũng là thể hiện những nhân vật có cá tính, nhưng nếu ở Thu Huệ, đó là
một cá tính ngang tàng của một tính cách mạnh, liều lĩnh thì ở Phan Thị Vàng
Anh lại là tính cách thích thay đổi, thích tìm tòi khám phá người khác, môi
trường khác của lứa tuổi mới lớn. Dạng tính cách nhân vật vừa trẻ con vừa
người lớn thường có trong các nhân vật trong truyện ngắn Phan Thị Vàng
Anh. Với đặc điểm tính cách đó, không chấp nhận cuộc sống tẻ nhạt, nhân vật
luôn đi tìm những điều mới lạ và hấp dẫn, đi tìm những cung bậc mới của cảm
xúc để lạ hóa những điều quen thuộc. Ở họ luôn có thái độ chán ghét những
trạng thái cảm xúc lửng lơ, không màu sắc, không cao trào, một cuộc sống
nhàm chán, tẻ nhạt. Nhân vật tôi trong Nhật kí cảm nhận sự vô nghĩa của cuộc
sống tẻ nhạt, ít thay đổi và thụ động: “Một cuộc sống lặng lờ như một vở kịch
không cao trào” và coi đó là khoảng thời gian đang chết “có nhiều người đang
chết như tôi”, “chúng tôi hàng ngày vào quán cà phê, thờ ơ uống những thứ
nước ở đâu pha cũng giống nhau, làm những chuyện không đi quá xa tường
trường và ra về trong cảm giác mệt mệt” (Nhật kí). Cũng có khi họ tưởng
chững như không thể chịu nổi trước thực trạng bức bối đang phải trải qua và
khao khát một cuộc sống khác với thực tại: “Tôi muốn thét lên một tiếng thật
to. May ra có cái gì sẽ vỡ, sẽ nổ và biết đâu sẽ vui hơn” (Hồng ngủ). Đó cũng
là nguyên nhân dẫn đến một trạng thái tâm lí thích cái mới, cái lạ “Tôi thích
mọi thứ không phải nhà mình, ăn cơm nhà khác, ngủ ở nhà khác, trèo lên một
cây ổi nhà khác vặt quả (...) đều thích hơn làm tại nhà mình, thích hơn bởi vì
nó lạ và tôi chỉ cần lạ” (Mười ngày).
Trong thế giới nhân vật của Phan Thị Vàng Anh thường xuất hiện một
kiểu nhân vật thuộc về cái tôi mới lớn với tâm hồn và thể xác bất ổn, luôn dao
động, luôn muốn quậy phá với những trò tinh quái (Con trộm), luôn trăn trở
với lẽ đời, với thực tại, quá khứ và tương lai (Đi thăm cha), cái tôi muốn phục
74
thiện, muốn cuộc sống của mình có ý nghĩa hơn trước cuộc đời (Phục thiện).
Nhân vật mang những nét tính cách lưỡng diện là mảnh ghép của hai nửa con
người “nửa hướng thiện và nửa hướng ác”. Với những kiểu tính cách khác
nhau trong thế giới nhân vật sống động ấy, Vàng Anh đã làm cho nhân vật
trong sáng tác của mình gần hơn với cuộc đời thực. Mang dáng dấp của con
người đời thường, con người thường được thể hiện trong tính hai mặt của nó
với những trạng thái tâm lí không đồng nhất.
Có một loại nhân vật thường trở đi trở lại trong truyện ngắn Lý Lan là
những cô gái trẻ có suy nghĩ riêng về đời sống. Mỗi nhân vật được mang
những cái tên khác nhau luôn bộc lộ quan điểm và cách nghĩ của mình trước
những gì đang diễn ra với chính mình và những người xung quanh (Tháng
chạp, Chiêm bao thấy núi, Chuyện kinh dị ...). Với những đặc điểm cá tính,
độc lập trong cả suy nghĩ cũng như hành động, họ sẵn sàng có những quyết
định táo bạo khi thấy điều đó là cần thiết (Cẩm - Tai nạn, Hạnh - Chị ấy lấy
chồng chưa, Hương - Cần Giuộc...). Sự xuất hiện của kiểu dạng nhân vật này
đã góp phần làm nên đặc trưng trong thế giới nhân vật phong phú của văn xuôi
Lý Lan.
Nếu như Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh và Lý Lan có xu
hướng xây dựng nhân vật có cá tính sắc nét thì Y Ban lại thiên về sự tái hiện
thân phận. Thông thường đây là những con người có số phận trắc trở: bao giờ
trên lưng họ cũng mang nỗi đau của sự hành xác hoặc nỗi đau nhức nhối tinh
thần. Ở mùa đến rồi đấy là thân phận bất hạnh của hai đứa trẻ phải từ bỏ quê
hương và gia đình đi kiếm sống ở đất khách quê người, người đàn bà với khát
vọng tình yêu không thành trong Người đàn bà có ma lực, cô gái với nỗi đau
khi mất đi đứa con và tình yêu (Bức thư gửi mẹ Âu Cơ), quãng đời bế tắc và
vô nghĩa của một người đàn bà lấy hành xác làm công việc để tồn tại (Người
đàn bà sinh ra từ bóng đêm), người mẹ mang nỗi đau của đứa con tật nguyền
và những tháng ngày lam lũ (Chú Ngoẹo - Y Ban). Quan niệm “hoàn cảnh tạo
nên tính cách, tích cách tạo nên số phận” đã phần nào được cụ thể hóa qua
75
cuộc đời và số phận của nhiều nhân vật trong các tác phẩm.
Thông qua việc khắc họa tính cách - số phận nhân vật, các cây bút nữ đã
mở rộng bình diện khám phá con người. Dù chưa có những nhân vật điển hình
như thành công của một số tác giả trước đó nhưng với thế giới nhân vật sống
động về mặt cá tính, các cây bút nữ đã gián tiếp bộc lộ quan niệm về con
người cá nhân, cá thể trong tính đa dạng và phức tạp của nó. Trong các trang
viết của bốn cây bút nữ, mỗi con người là một cuộc đời, mỗi nhân vật mang
một số phận. Dù mỗi người một phong cách, một lối khai thác riêng, nhân vật
xuất hiện ở những dạng thức khác nhau song đằng sau mỗi số phận, sau từng
trang viết của các tác giả, qua việc khắc họa nhân vật với những đặc điểm tính
cách - số phận nổi bật, các cây bút đã thể hiện được năng lực sáng tạo nghệ
thuật và khả năng biểu đạt hiện thực đời sống qua hình tượng nhân vật. Không
ít nhân vật đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng rõ nét và sâu sắc.
2.2.2. NHÂN VẬT CÔ ĐƠN
Sau 1975, với sự thức tỉnh của ý thức cá nhân, sự nảy sinh của nhu cầu
tự ý thức trước những thay đổi của đời sống xã hội, sự đổi mới quan niệm
nghệ thuật về con người của nhà văn; cô đơn trở thành một kiểu nhân vật, một
mô típ quen thuộc trong văn học. Cùng với Tướng về hưu, Con gái thủy thần
của Nguyễn Huy Thiệp, Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Cỏ lau
của Nguyễn Minh Châu, Hai người đàn bà xóm trại của Nguyễn Quang
Thiều, những truyện ngắn trong tập Mê lộ của Phạm Thị Hoài như Chín bỏ làn
mười, Kiêm ái, Khách...; các cây bút nữ Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan
Thị Vàng Anh, Lí Lan qua sáng tác của mình đã tạo nên một hệ thống nhân
vật mà ở đó trạng thái tâm lí cô đơn trở thành một tâm điểm của sáng tạo nghệ
thuật. Bằng khả năng nắm bắt những biến thái tinh vi trong đời sống con
người, các cây bút đã tập trung khai thác trạng thái cô đơn của con người một
cách tinh tế và sâu sắc.
Xây dựng nhân vật cô đơn, các cây bút nữ đã quan tâm đến một thực
trạng tinh thần mà không ít người gặp phải trong xã hội hiện đại. Con người
76
cô đơn ngay trong chính gia đình mình, trong cuộc sống hàng ngày mà họ phải
đối mặt (Người đàn bà và những giấc mơ - Y Ban, Một nửa cuộc đời, Biển
ấm, Tân cảng - Nguyễn Thị Thu Huệ, Lắp ghép hạnh phúc - Lý Lan).
Khắc khoải với nỗi cô đơn của con người sau chiến tranh, các cây bút
nữ đã quan tâm đến đời sống tinh thần của những con người bước ra từ cuộc
chiến. Trong sáng tác của các chị, người lính thường cô độc khi trở lại với
cuộc sống đời thường. Họ thường xuyên phải sống với những kí ức trận mạc
để quên đi những ngày buồn (Dĩ vãng - Nguyễn Thị Thu Huệ), phải gặm nhấm
nỗi đơn độc một mình một bóng khi không còn ai thân thích (Sánh - Bảy ngày
trong đời - Nguyễn Thị Thu Huệ), hoặc bởi không tìm được sự cảm thông chia
sẻ của những người sống quanh mình (ông Tú - Bản lí lịch tự thuật - Y Ban).
Trong truyện ngắn bốn cây bút nữ này nhân vật chính thường là nhân
vật nữ và nhân vật cô đơn cũng thường là nữ. Tư duy hướng nội và cảm quan
tinh tế nhạy bén đã giúp họ có thể diễn tả thật hơn về nỗi cô đơn của giới
mình. Cô đơn trở thành một nỗi ám ảnh, một sự truy đuổi của số phận nhân
vật nữ. Lí giải về đặc điểm này, nhà văn nữ Nguyễn Thị Châu Giang tâm sự:
“Thực ra cuộc sống của tôi diễn ra rất suôn sẻ, tốt đẹp. Những người phụ nữ
sống quanh tôi cũng không hề gặp bất trắc trong cuộc sống, song không hiểu
sao, tôi luôn cảm thấy họ cô đơn. Người phụ nữ cô đơn ngay trong chính gia
đình mình, trong cuộc sống hàng ngày mà họ phải đương đầu và họ không có
cách gì giải toả được. Điều này luôn ám ảnh tôi” [87]. Với nỗi ám ảnh đó, nỗi
cô đơn của người phụ nữ đã theo đuổi các nhà văn vào từng trang viết.
Thấu hiểu nỗi cô đơn của người phụ nữ như hiểu nỗi cô đơn của chính
bản thân mình, nỗi cô đơn của người phụ nữ trong tình yêu và hôn nhân đã
được các cây bút nữ khắc hoạ với những tình huống muôn mặt: nỗi cô độc của
người đàn bà với cuộc sống “ban ngày như một chiếc bóng mà ban đêm mới là
cuộc sống thực” (Người đi tìm giấc mơ - Nguyễn Thị Thu Huệ), nỗi cô đơn
của người đàn bà chưa từng được nếm vị ngọt ngào lẫn cay đắng của hạnh
77
phúc làm vợ, làm mẹ (Người đàn bà ám khói - Nguyễn Thị Thu Huệ), cô đơn
khi không tìm thấy chỗ neo đậu cho khát vọng tình yêu (Cát đợi - Nguyễn Thị
Thu Huệ), nỗi cô đơn trong chờ đợi của cô gái tuổi đang yêu (Mười ngày -
Phan Thị Vàng Anh), nỗi cô quạnh của một thiếu phụ khi chiến tranh kết thúc
(Điều ấy bây giờ con mới hiểu ra - Y Ban), nỗi cô đơn của người đàn bà lỡ
bước “cả đời làm cái nghề ngủ với đàn ông mà lại đi thèm một bàn tay đàn
ông đến vậy” (Đàn bà sinh ra từ bóng đêm - Y Ban), nỗi cô đơn của một thế
hệ khi những giá trị tinh thần của gia đình truyền thống đang dần bị mất đi
trong xã hội hiện đại (bà Vy - Của để giành - Nguyễn Thị Thu Huệ, ông lão -
Diễn viên hạng ba - Lý Lan)...
Để khắc họa nỗi cô đơn, các tác giả thường chú ý đào sâu vào tâm
trạng của nhân vật. Trạng thái cô đơn của nhân vật đã được Nguyễn Thị Thu
Huệ lột tả đến tột cùng trong truyện ngắn Giai nhân. Đó là cái cảm giác mình
không còn tồn tại khi mấy ngày qua đi cô gái mong chờ tiếng điện thoại reo
nhưng tất cả đều vô vọng; là cảm giác hụt hẫng, hoang vắng và trống trải khi
không còn ai đến với cô: sự dằn vặt, tiếc nuối xót xa của một người phụ nữ khi
đã đánh mất những cơ hội để lựa chọn. Khắc khoải với nỗi cô đơn không thể
chia sẻ cùng ai, có lúc nhân vật đã thốt lên: “Tôi cô đơn quá rồi”, “sao người
mỗi ngày một đông như kiến mà tôi cô đơn thế này”, hoặc “Sao tôi bỗng cô
đơn và sợ cuộc sống thế này” (Mi nu xinh đẹp - Nguyễn Thị Thu Huệ), “Ngồi
với mình lâu một chút nhé. Ai cũng bảo không có thời gian. Mình cô đơn quá”
(Y Ban).
Một cuộc sống đầm ấm của gia đình luôn là điều mà nhiều nhân vật
trong truyện ngắn Lý Lan khát khao có được. Trong truyện ngắn Mẹ và con,
tác giả đã khắc hoạ nỗi cô đơn và cuộc sống buồn tẻ của hai người đàn bà sống
chung dưới một mái nhà đều gặp những trắc trở, lỡ dở trong tình duyên như
một sự sắp đặt của số phận. Còn Yên (Tháng chạp) đã từng phải trải qua nỗi
cô đơn của một đứa trẻ mồ côi với bao khó khăn trong cuộc sống. Dẫu rằng,
giờ đây khi miếng cơm manh áo không còn là nỗi trăn trở, nhưng cô đơn vẫn
78
luôn là trạng thái mà cô phải trải qua.
Để khắc họa nỗi cô đơn của nhân vật, các tác giả thường chú ý đến
không gian và thời gian mà nhân vật hiện diện. Trên phương diện thời gian là
sự đối lập thông qua sự hồi tưởng, sự đồng hiện, giằng xé giữa quá khứ và
hiện tại. Còn không gian thường là không gian bao la, vô tận mà ở đó nhân vật
trở nên nhỏ bé và cô độc hơn. Trong nhiều truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu
Huệ, nhân vật thường được đặt trước sự choáng ngợp của không gian: “Đường
phố rộng và thừa thải gió, tuênh toang, trống trải lạ lùng”, “Biển hùng vĩ bao
la đến vô cùng. Chẳng có gì lạ, cát vẫn là cát. Gió thổi bay vô tư hào phóng.
Bây giờ anh ở đâu?” (Cát đợi - Nguyễn Thị Thu Huệ). Thường thì nhân vật
càng cô đơn hơn khi hiện diện trước biển (Cát đợi), trong mưa (Một chiều
mưa), bờ sông với những trảng cát lạnh lẽo (Đôi giày đỏ), căn phòng với bản
nhạc buồn (Sơ ri đắng), căn gác trọ (Tháng chạp) đặc biệt là những ngày giáp
tết (Mười ngày, Phượng, Tháng chạp).
Nếu như trước đây, cô đơn được xem là “một chủ đề kiêng kị” thì hiện
nay với những thuận lợi của môi trường sáng tác, “bằng những điều mắt nhìn
và trái tim suy nghĩ”, với những ưu thế trong việc khám phá tâm hồn con
người, các cây bút nữ đã đi sâu vào thế giới tâm linh của họ để khắc họa nỗi
cô đơn. Nhân vật cô đơn trong sáng tác của họ luôn có sự giằng xé giữa nỗi
đau của quá khứ và sự trống rỗng của hiện tại, giữa khát vọng và hiện thực,
hạnh phúc và khổ đau. Khi rơi vào trạng thái cô đơn, hầu hết các nhân vật đều
có cách thức chạy trốn hoặc đối kháng lại hoàn cảnh nhưng ít người trong số
họ đạt được mong ước của mình. Thông qua hình tượng nhân vật cô đơn, một
mặt các tác giả đã cho thấy một thực trạng tinh thần của con người trong đời
sống hiện đại, đồng thời đó còn là tiếng nói của khát khao hoà đồng, khát khao
hạnh phúc. Xây dựng nhân vật cô đơn, các tác giả đã đề cập đến một vấn đề có
ý nghĩa nhân văn cao cả - một vấn đề của bản thể cá nhân nên đã tìm được sự
đồng cảm từ phía người đọc.
79
*
Như vậy, từ các nguồn cảm hứng cơ bản là cảm hứng ngợi ca, cảm
hứng bi kịch, cảm hứng chiêm nghiệm - triết lí; các cây bút nữ Nguyễn Thị
Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Y Ban và Lí Lan đã bộc lộ xu hướng đổi mới
khi tiếp cận đời sống. Với sự đổi mới quan niệm về hiện thực, qua thế giới
nghệ thuật trong tác phẩm, các tác giả đã tái hiện bức tranh hiện thực với
nhiều màu sắc và dáng vẻ, với những biến động, những bất ngờ. Nhiều vấn đề
của đời sống đã được các tác giả tiếp cận và lí giải bằng sự mẫn cảm bản năng
của người phụ nữ. Có thể nhận thấy sự chi phối có phần lấn át của cảm hứng
bi kịch trong sáng tác của các chị và đặc điểm này xuất phát từ sự nhạy cảm
với những bất ổn, sự đỗ vỡ của người viết. Những chiêm nghiệm và triết lí
được đúc kết từ đời sống đã góp phần làm tăng thêm “sức nặng” cho một thế
giới nhân vật phong phú và sống động về mặt cá tính, đa dạng về các kiểu loại
- tầng lớp và điều đó đã đem đến cho người đọc một cách hình dung về con
người từ góc nhìn thế sự đời tư. Nổi bật trong thế giới nhân vật đó là những
người phụ nữ trong xã hội hiện đại có cuộc đời, có thân phận cụ thể, với nỗi
đau khi họ dám sống thực với mình với cá tính mạnh mẽ cho dù đôi khi họ
phải trả giá đắt cho việc làm của mình. Đa phần trong số họ đều là những nhân
vật cô đơn mang trong mình khát khao được hoà đồng. Sự khát khao đòi hỏi
đó cần được xem như một vẻ đẹp của bản lĩnh người phụ nữ mà từ các góc
nhìn, các cây bút nữ này đã có sự thể hiện đặc sắc khác nhau.
CHƯƠNG 3
NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ, Y BAN,
PHAN THỊ VÀNG ANH, LÝ LAN
Đối với loại hình tự sự thì nghệ thuật trần thụât luôn giữ một vai trò
quan trọng, quyết định cho sự thành công của một tác phẩm. Trước mỗi hiện
tượng của đời sống, mỗi nhà văn có những cách khai thác nghệ thuật riêng,
mỗi người có những phương thức khác nhau để thể hiện thái độ và quan điểm
80
thẩm mĩ. Là một phạm trù rộng, trong phạm vi của luận văn, chúng tôi chỉ
dừng lại ở những phương diện cơ bản của phương thức biểu hiện nghệ thuật là
cốt truyện, tình huống, ngôn ngữ và giọng điệu.
3.1. CỐT TRUYỆN
Mang tính chất đặc thù của loại hình, với thể loại tự sự thì cốt truyện là
yếu tố cơ bản để cấu thành tác phẩm. Cốt truyện được hiểu là “cái lõi của văn
tự sự”, là “hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ
thuật nhất định tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức
động của tác phẩm thuộc loại hình tự sự và kịch” [68, tr85].
Xét trên phương diện hình thức, một đặc điểm khác biệt dễ nhận thấy
giữa truyện ngắn hiện đại và truyện ngắn truyền thống là ở phương thức xây
dựng cốt truyện. Tính quy phạm của truyện ngắn trung đại đã dẫn đến lối xây
dựng cốt truyện mang tính chất đặc định: cốt truyện thường được tổ chức theo
lối xâu chuỗi các sự kiện và các sự kiện đó được kể lại theo trật tự thời gian
ĐỈNH ĐIỂM - KẾT THÚC. Sự xuất hiện của truyện ngắn trữ tình trong tiến trình
tuyến tính, thường có đủ các thành tố TRÌNH BÀY - THẮT NÚT - PHÁT TRIỂN -
vận động của truyện ngắn dân tộc là một yếu tố làm tăng thêm sự đa dạng của
truyện ngắn, cũng như sự đa dạng của phương thức xây dựng cốt truyện.
Ngoài kiểu cốt truyện truyền thống còn có kiểu cốt truyện tâm trạng - cốt
truyện tâm lí (hay còn gọi là cốt truyện bên trong). Tìm hiểu và căn cứ vào tần
số lặp lại của một số dạng truyện, chúng tôi nhận thấy truyện ngắn của
Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Y Ban và Lý Lan tồn tại cả hai
loại cốt truyện chủ yếu trên đây. Tuy nhiên làm nên đặc trưng riêng của các
cây bút nữ này là ở loại cốt truyện tâm trạng.
3.1.1. CỐT TRUYỆN TRUYỀN THỐNG
Trong truyện ngắn có cốt truyện truyền thống của bốn cây bút nữ này,
truyện thường được tổ chức theo lối xâu chuỗi các sự kiện. Các sự kiện được
81
kể lại theo trật tự thời gian tuyến tính, theo diễn trình hành động của nhân vật.
Kết cấu truyện tương đối chặt chẽ, sự kiện, biến cố và hành động phát triển
liên tục làm cơ sở cho sự vận động của cốt truyện.
Với nhân vật người kể chuyện thông suốt, tính chất “chuyện” luôn tồn
tại trong những truyện ngắn có cốt truyện truyền thống. Câu chuyện thường
xoay quanh cuộc đời của nhân vật trung tâm. Sức hấp dẫn của truyện một
phần nhờ sự phát triển của cốt truyện. Tiêu biểu cho dạng truyện này phải kể
đến Cõi mê, Người đi tìm giấc mơ (Nguyễn Thị Thu Huệ), Chú Ngoẹo (Y
Ban)... Cũng có khi cốt truyện là sự diễn tiến các sự kiện trong một chặng
đường, một giai đoạn ngắn ngủi trong cuộc đời nhân vật: quãng đời sinh viên
quậy phá, tình yêu đầu đời với biết bao xúc cảm và say mê, ngọt ngào và cay
đắng của Hoài (Xin hãy tin em - Nguyễn Thị Thu Huệ), những ngày trở lại quê
hương của một người lính kể từ khi rời quân ngũ (Một chuyến đi - Nguyễn Thị
Thu Huệ), những bồng bột trong tình yêu của một cô gái khi con trẻ (Khi
người ta trẻ - Phan Thị Vàng Anh), câu chuyện về cuộc sống của hai người
đàn ông và một người đàn bà trong cùng một mái nhà (Chuyện trong căn nhà
nhỏ - Y Ban), cuộc đời lam lũ của trẻ em đường phố (Một thằng nhỏ - Lý
Lan)... Ở các truyện ngắn này, dù chỉ tái hiện một thời khắc, một giai đoạn
ngắn ngủi trong cuộc đời nhưng diễn trình hành động của nhân vật vẫn luôn là
“sợi chỉ đỏ” xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Với đặc trưng của thể loại - truyện
ngắn - trong cái khung hẹp của nó, các tác giả đã biết lựa chọn những thời
khắc, những giai đoạn có ý nghĩa trong cuộc đời con người để xây dựng nhân
vật và cốt truyện. Cốt truyện là nhân tố quan trọng trong việc chuyển tải thông
điệp của nhà văn đến với bạn đọc.
Thông thường, ở những truyện ngắn có cốt truyện truyền thống, thời
gian trần thuật thường là thời gian tuyến tính. Truyện ngắn Tưởng của Phan
Thị Vàng Anh được xây dựng bằng các sự kiện xảy ra liên tục theo trật tự thời
gian tuyến tính, thời gian biên niên. Sự kiện sau là hệ quả của hành động trước
đó. Mở đầu là việc Tưởng lên Sài Gòn học may và phản ứng với chuyện làm
82
mai Hiển cho mình Ở Sài Gòn Tưởng gặp và yêu Chương Tưởng bị
Chương phụ bạc Tưởng trở về quê, gặp lại Hiển và lấy Hiển. Với cách tổ
chức câu chuyện theo trật tự trên đây, tác giả đã tuân theo lôgic khách quan
của sự kiện, đồng thời làm tăng thêm tính chặt chẽ trong kết cấu. Ở truyện
ngắn Con trộm dù các sự kiện xảy ra không nhiều, ít biến cố nhưng tính xâu
chuỗi của câu chuyện vẫn là một dấu hiệu dễ nhận ra. Quan hệ chính giữa các
sự kiện của cốt truyện là quan hệ nhân quả, câu chuyện diễn ra xung quanh
các sự kiện: Nữ làm rớt cánh cửa nhà kho vào buổi sớm - Ngoại và mọi người
lầm tưởng là có trộm - Nỗi lo sợ biến thành hành động ngăn ngừa, phòng trộm
của ngoại - Cuộc chia tay và tự thú của “con trộm” (là Nữ).
Tính chất “có sự kiện, biến cố” luôn là đặc điểm quan trọng trong
truyện ngắn có cốt truyện sự kiện. Tuy nhiên trong nhiều truyện ngắn của 4
cây bút nữ này, truyện không nhằm nhấn mạnh tới biến cố. Cái mà tác giả chú
ý "gia công", cũng là điều gây ấn tượng với người đọc là những hành động,
suy nghĩ, những biến đổi của nhân vật từ những sự kiện, bước ngoặt đó. Ở
Tưởng của Phan Thị Vàng Anh, câu chuyện dường như chỉ xoay quanh cuộc
đời (mà cụ thể hơn ở đây là những biến đổi của Tưởng trong hành động và suy
nghĩ) từ khi cô còn là một thiếu nữ cho đến khi cô lấy chồng. Phút giành cho
tình yêu của Y Ban không nhiều sự kiện mà câu chuyện chỉ xoay quanh một ca
trực của một bác sỹ trong bệnh viện với người bệnh nhân đặc biệt của mình.
Muợn hình thức truyện cổ trong các sáng tác dân gian là đặc điểm
thường thấy trong nhiều truyện ngắn của Y Ban. Viết theo hình thức những
câu chuyện cổ mang màu sắc huyền thoại nhưng khác với lô gic của sự kiện
trong cốt truyện truyền thống, cốt truyện các truyện ngắn của Y Ban (Chợ rằm
dưới gốc dâu cổ thụ, Câu chuyện tình yêu, Những nghịch lí của thần Ai rét) đã
phá vỡ tính chất nhân quả của chuỗi sự kiện nhằm hướng tới việc lí giải
những hiện tượng, những vấn đề mang ý nghĩa thời sự của đời sống đương đại
bằng cách tiếp cận mới. Sử dụng mô típ folklore, giả cổ tích, tuy nhiên, để tái
hiện lô gic của sự kiện gần với lô gic của đời sống, truyện ngắn của chị ít khi
83
có những kết thúc có hậu.
Một số truyện ngắn có cốt truyện sự kiện được chia thành từng phần
nhỏ. Với sự pha trộn chất kí sự, Vùng sáng kí ức của Y Ban được chia thành 8
phần, tương ứng với mỗi phần là một tên gọi:
Bà nội. I.
II. Cỗ hậu sự của bà nội.
III. Ma làng Đức Hậu.
IV. Ngày rằm xá tội vong nhân.
V. Kiếp người.
VI. Cầu vồng và ông ba mươi.
VII. Lễ cắt dây tiền duyên.
VIII. Cái chết.
Ở đây, tính xâu chuỗi của cốt truyện được thể hiện qua sự liên kết của
các tiểu chủ đề. Tám phân đoạn này được nối kết trong mạch kể về miền kí ức
của nhân vật tôi: quê hương với những kỉ niệm, những phong tục tập quán,
quê hương với hình ảnh người bà gần gũi và thân thuộc.
Chuyện kinh dị của Lý Lan cũng được đánh số từng phần xâu chuỗi các
sự kiện xoay quanh mối tình kì dị của Đăng và Du Thảo. Ở Phục thiện của
Phan Thị Vàng Anh mỗi phần tương ứng với một quãng thời gian trong suốt
chặng đường nhân vật tôi là học sinh trung học. Nhiều truyện ngắn khác như
Bỏ trường, Đất đỏ cũng được viết theo lối này.
Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Lý Lan, Phan Thị Vàng Anh một mặt đã
vận dụng hợp lí kiểu cốt truyện truyền thống trong các sáng tác. Mặt khác, ở
họ đã có những sáng tạo mới với những biến đổi linh hoạt để đạt được hiệu
quả tối đa trong việc phản ánh hiện thực theo xu hướng tăng cường đối thoại,
mở rộng biên độ cảm nhận cho độc giả. Sự phá vỡ tính quy phạm trong cách
thức xây dựng cốt truyện (hay còn gọi là “sự phân rã cốt truyện”) ở các cây
bút nữ này cũng như ở một số tác giả khác trong những thập niên gần đây
không chỉ là biểu hiện về mặt cách thức (hình thức thể hiện) mà còn cho thấy
84
những quan điểm nghệ thuật của nhà văn về đời sống với cái nhìn mới mẻ và
khách quan. Đây cũng là một trong những dấu hiệu đổi mới đáng ghi nhận của
truyện ngắn đương đại.
3.1.2. CỐT TRUYỆN TÂM LÍ
Nếu như ở những truyện ngắn có cốt truyện truyền thống, hệ thống sự
kiện là cốt lõi của cốt truyện thì ở những truyện ngắn có cốt truyện tâm lí,
truyện thường có cốt truyện “lỏng”, chất chuyện mờ nhạt, “phân tích nội tâm
trở thành phương tiện nghệ thuật chủ yếu” trong cách thức xây dựng cốt
truyện. Thay vì các sự kiện được tạo thành bởi một chuỗi liên kết là dòng chảy
bất định của tâm trạng.
Chiếm một tỷ lệ tương đối lớn trong truyện ngắn của bốn cây bút nữ là
những truyện ngắn có cốt truyện tâm lí. Cốt truyện thường được xây dựng trên
dòng diễn biến tâm trạng, trạng thái tâm lí của nhân vật. Truyện được co giãn
linh hoạt phù hợp với việc thể hiện các sắc thái tâm lí bên trong của nhân vật.
Mỗi truyện ngắn là một “mảnh phân thân” (chữ dùng của Đỗ Chu), khắc hoạ
những khoảnh khắc của tâm trạng, những biến đổi của đời sống nội tâm. Với
đặc trưng đó, Người xưa của Nguyễn Thị Thu Huệ là sự giãi bày tâm sự, là nỗi
lòng và những cảm nhận về cuộc sống, về tình yêu của nhân vật tôi - người
phụ nữ đã yên bề gia thất khi gặp lại người tình cũ sau nhiều năm xa cách khi
hai người cùng đến xem bộ phim “Người tình” ở một phòng chiếu. Nguyễn
Thị Thu Huệ trong Giai nhân đã thể hiện những dự cảm thân phận từ những
trạng thái tâm lí của Sao sau những biến ải của cuộc đời. Trong Một chiều
mưa (Nguyễn Thị Thu Huệ) là cảm giác của một thiếu nữ đang yêu vào một
buổi chiều mưa đứng chờ người yêu nơi hẹn cũ với những cung bậc tình cảm
trong cảm giác mong ngóng vô vọng (“Em lại nhìn ra đường”, “Em nhắm mắt
nhìn bên đông, ngó bên Tây. Đều không có anh. Sao anh không đến?”, “Em
lại ngóng ra xa, cầu mong trong dòng người xuôi ngược đông đúc kia có người
em yêu, vị cứu tinh của cuộc đời em. Sao bây giờ anh vẫn chưa đến”, “nước
mắt em bắt đầu rơi”, “anh quên em thật rồi sao”, “bỗng em khựng lại, tim em
85
như muốn vỡ ra”, “em chết lặng”... ). Con mèo tưởng đã đi xa của Lí Lan là
truyện không có “chuyện”. Xuyên suốt truyện chỉ là những thay đổi cảm xúc
của một đôi vợ chồng già kể từ khi con vật nuôi quen thuộc của nhà hàng xóm
vốn gẫn gũi với ông chồng tưởng đã đi xa.
Truyện của Y Ban thường ít hành động, xung đột mà thay vào đó là
những suy tư, những trăn trở về cuộc đời với những nỗi niềm và tâm tư thầm
kín. Cái mà truyện ngắn ám gợi ở người đọc chính là những trạng huống cảm
xúc mà nhân vật đã trải qua, qua giọng kể như một lời tâm sự của người viết.
Người đàn bà có ma lực kể về những cuộc tình đã đi qua của một người đàn
bà mà đằng sau mỗi cuộc tình được hồi tưởng là những suy nghĩ và trăn trở,
những cơn sóng lòng khắc khoải về những xúc cảm khi yêu và được yêu. Và
sau hết là cảm giác trống trải của một người đàn bà không có niềm hạnh phúc
được lo toan cho một gia đình riêng của mình. Ước mơ của cô bán hàng rong
là tâm trạng của người phụ nữ nghèo với những khó khăn chồng chất trong
cuộc sống. Sau chớp là giông bão, Người đàn bà và những giấc mơ là những
băn khoăn, day dứt của người phụ nữ có ý định ngoại tình, những cuộc đấu
tranh nội tâm giữa khát khao bản năng và bổn phận. Bức thư gửi mẹ Â u Cơ là
câu chuyện được viết nên từ tâm trạng khắc khoải, đau xót của một người mẹ
trẻ khi buộc lòng phải mất đi đứa con bé bỏng là kết quả của tình yêu đầu đời.
Phần lớn truyện ngắn của Phan Thị Vàng Anh là truyện không có
chuyện. Đọc Phan Thị Vàng Anh, có cảm tưởng như tác giả là người đang ghi
lại những tình huống đang diễn ra trong cuộc sống đời thường. Truyện Phan
Thị Vàng Anh rất khó kể lại rành mạch vì thường là những mẩu đối thoại xen
lẫn những cảm nhận về đời sống thông qua thế giới nội tâm của nhân vật. Buổi
học thêm ở tu viện là sự đan xen giữa những mẩu đối thoại, hiện thực và suy
tưởng. Nhật kí là tâm trạng, cảm giác, tâm lí của nhân vật trước những diễn
biến của đời sống. Với Hoa muộn, Phan Thị Vàng Anh đã diễn tả tinh tế trạng
thái cô đơn của nhân vật thông qua việc miêu tả không khí những ngày giáp
tết tại một gia đình qua công việc “dọn lá” cho vườn mai. Nhân vật trong các
86
sáng tác Si tình, Nhật kí, Nghỉ hè thường được bao bọc bởi một bầu không khí
“lờ mờ”, “u ám”, “lặng lờ” mang hiệu ứng cảm giác bất ổn, “hoang vắng”,
“chơ vơ” cho người đọc.
Thuộc về kiểu cốt truyện tâm trạng, các thành phần của cốt truyện
không còn được tuân thủ một cách chặt chẽ mà biến đổi linh hoạt. Nhiều
truyện ngắn không có mở đầu và kết thúc, không có đủ các thành tố trong kết
cấu của cốt truyện. Đọc truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh người ta hay nói đến
“những khoảng trống, những vùng lặng”. Mỗi truyện của Phan Thị Vàng Anh
khép lại tưởng như câu chuyện vẫn còn tiếp tục với những trò chơi tinh quái
của một cái tôi mới lớn luôn luôn muốn cựa quậy. Kết thúc Si tình, mọi
chuyện vẫn như đang diễn ra, đang còn ở phía trước, còn ở Người có học và
Đất đỏ, nhân vật dường như vẫn đang theo đuổi những ý nghĩ không đầu
không cuối. Toàn truyện ngắn Chơi Hạ Long của Lý Lan là dòng độc thoại nội
tâm của nhân vật chính và thay cho phần kết của truyện, cũng là để tạm ngưng
dòng chảy của ý thức, Lý Lan đã viết rằng: “Và như tất cả những câu chuyện
không là cổ tích, như tất cả những câu chuyện người ta tưởng tượng ra, như
những câu chuyện không đầu không đuôi khác, tôi ngừng câu chuyện này,
không biết nó kết thúc ở đâu”. Đây cũng là cách nhà văn Nguyễn Thị Ấm đã
từng làm khi viết truyện ngắn Hoa anh túc: “Chuyện này khó viết được đoạn
kết. Tôi chỉ vẽ ra hai cái kết để bạn đọc chiêm nghiệm”. Lối kết thúc mở này
đã mở ra những khả năng đối thoại với người đọc. Nhà văn không giải quyết
đến cùng mọi vấn đề mà dành một khoảng trống để người đọc suy ngẫm. Câu
chuyện kết thúc trên trang giấy nhưng nó lại bắt đầu một đời sống riêng trong
lòng mỗi độc giả.
Với lối viết dựa vào dòng ý thức, sáng tác của Lý Lan không thiên về
cốt truyện sự kiện mà thường khai thác ý nghĩ của bản thân. Diễn biến của
truyện đôi khi đứt đoạn, không liền mạch. Đằng sau lối kể chuyện tự do, lối tự
sự “đứt nối, lộn xộn, bột phát” với giọng văn bình thản, tự nhiên là những
quan niệm và lối sống của mỗi con người, của mỗi cái tôi riêng biệt. Để bộc lộ
87
sâu sắc tâm trạng của nhân vật, tác giả đã sử dụng đối thoại như một thủ pháp
nghệ thuật. Đặc điểm nổi bật ở truyện ngắn Phượng, Biển trong mưa, Những
viên sỏi cầm chơi là sự đan xen của những câu hội thoại và ý nghĩ của nhân
vật. Đằng sau những phát ngôn của nhân vật là những trạng thái tâm lí, những
suy ngẫm về cuộc đời. Không có mở đầu và kết thúc, kết cấu của truyện ngắn
Biển trong mưa chỉ bao gồm những đoạn đối thoại. Bỏ qua vai trò người kể
chuyện, hay nói cách khác là ẩn đi nhân vật người kể chuyện, câu chuyện cứ
thế diễn ra một cách tự nhiên. Một số truyện ngắn của chị lôi cuốn người đọc
bởi những đoạn đối thoại thú vị, mang tính triết lí, đôi lúc lại tưởng như bâng
quơ, vô tình:
- Em uống đi.
- Chờ một chút cho đá tan.
- Uống bia ướp lạnh không đá mới ngon.
- Đắng lắm.
- Cuộc đời có đắng một chút mới hay.
Chỉ bằng vào các lời thoại, người đọc cũng có thể hình dung được
những xúc cảm tâm lí hiện tại của nhân vật và hình dung được trạng thái
không thể hoà hợp của hai con người, sự lệch pha giữa hai niềm khao khát:
- Chúng mình sẽ đi khắp nơi.
- Không. Mình chẳng thể đi đâu. Thế giới không còn là của riêng
mình nữa.
- Vẫn là của mình mà.
- Không, chẳng còn nữa đâu. Một khi đã đánh mất rồi, thì không bao
giờ có lại được.
(Nhân vật tiểu thuyết)
Xây dựng cốt truyện dựa trên dòng chảy của xúc cảm, tâm lí, các tác giả
đã sử dụng thủ pháp đồng hiện với lối kết cấu lắp ghép. Thời gian thường
mang tính ước lệ, thời gian tâm lí, quá khứ và hiện tại đan xen theo dòng tâm
tưởng của nhân vật. Thời gian ngưng đọng, kéo dài, nhanh hay chậm tuỳ thuộc
88
vào tâm trạng của nhân vật (Người xưa, Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Hoàng hôn
màu cỏ úa, Đôi găng tay da màu nâu...). Bức thư gửi mẹ Â u Cơ là sự đồng
hiện của hai khoảng thời gian quá khứ và hiện tại. Hiện tại là nỗi đau thể xác
và tinh thần của người mẹ mất con, quá khứ là những kí ức thời thơ ấu. Đằng
sau những câu hỏi của người mẹ là những ý nghĩ trả lời câu hỏi bằng hồi
tưởng: hồi tưởng về cuộc sống tuổi thơ, hồi tưởng về “đêm sinh ra cái giống
lạc loài”, hồi tưởng về nỗi đau sau khi trút bỏ được tội lỗi - đứa con. Nhiều
truyện ngắn được xõy dựng thụng qua sự hồi tưởng của nhõn vật: từ một
khoảnh khắc của tâm trạng ở hiện tại đã thức dậy cả một quãng thời gian trong
quá khứ. Một quóng thời gian ngắn ngủi, một bộ phim được chiếu ở ngoài rạp
đủ cho một người phụ nữ nghĩ về cả quóng đời lầm lỡ của mỡnh (Đàn bà sinh
ra từ búng đêm - Y Ban). Cảm nhận thời gian của một ngày sắp qua đi khi
nhân vật nhận ra "loang trong khụng khớ cú mựi chả nướng", một mình trong
căn nhà trống trải, nghe những tiếng than thở “tiếng lao xao, tiếng dao thớt
lách cách bên hàng xóm” - những tín hiệu của một mái ấm gia đình đầm ấm,
cũng đủ cho người đàn bà trong Người đàn bà có ma lực hồi tưởng về quá khứ
của một thời trẻ qua những trang nhật kí mà ở đó là “những chồng kỉ niệm của
cả một quãng đời” - “tất cả như mới xảy ra ngày hôm qua”. Với hình thức
nhật kí như ở truyện ngắn này, tác giả đã thiên về bộc lộ những cảm nghĩ và
suy tưởng hơn là bám sát miêu tả những sự kiện và biến cố của đời sống.
Việc xõy dựng cốt truyện tõm trạng với những lợi thế đặc thự của giới
mỡnh, các tác giả sẽ có điều kiện đi sâu vào việc khắc hoạ nội tõm nhõn vật.
Độc thoại nội tõm được xem như một phương tiện để đi sõu khỏm phỏ và biểu
đạt thế giới tõm hồn con người trong nhiều truyện ngắn như Bức thư gửi mẹ
Âu Cơ, Một ngày, Si Tình, Mười ngày, Người đàn bà có ma lực, Hoàng hôn
màu cỏ úa,.... Tớnh hướng nội được biểu đạt bằng những cảm giỏc, xỳc cảm
và suy tưởng của nhõn vật.
Bằng việc sử dụng cốt truyện tâm lí như một phương thức biểu đạt hiện
thực, các chị đã phần nào tiếp nối được dòng chảy của truyện ngắn trữ tình mà
89
Thạch Lam, Thanh Tịnh trước đây và Nguyễn Thành Long, Đỗ Chu gần đây
hơn là những đại diện tiêu biểu. Lấy quá trình vận động bên trong của nhân
vật làm cơ sở để tổ chức tác phẩm, dẫu tính chất chuyện mờ nhạt, song không
ít truyện ngắn đã để lại những cảm nhận sâu lắng trong lòng người đọc.
3.2. TÌNH HUỐNG
Theo nhà văn Nguyễn Minh Châu “Tỡnh huống là sự tỏc động qua lại
giữa con người và hoàn cảnh" [102, tr43] (Dẫn theo Bựi Việt Thắng). Tỡnh
huống cú vai trũ quan trọng trong việc xõy dựng cốt truyện, thể hiện tính cách
nhân vật cũng như việc chuyển tải những thụng điệp thẩm mĩ.
Nhà văn Y Ban cú lần tõm sự: "Truyện ngắn là một lỏt cắt cụ đọng của
cuộc sống. Vỡ thế chỉ cần một chi tiết độc đáo, một lối kể cú duyờn, một nhõn
vật được khắc họa rừ ràng…đó làm nờn một truyện ngắn". (Bỏo Quõn đội
nhõn dõn số ra ngày 27/6/2003). Khỏc với tiểu thuyết là thể loại tự sự cỡ lớn
có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời
gian, có khả năng phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, truyện ngắn, "trong
cỏi khung hẹp của nú" lại đem đến cho người đọc cỏi "ấn tượng bột phỏt
được bất thần biểu lộ trong một khoảnh khắc của cuộc sống" (Vừ Thị Hảo).
Tớnh cụ đọng của truyện ngắn đũi hỏi một sự nghiờm khắc ở nhà văn trong
việc lựa chọn chi tiết cũng như tỡnh huống. Mỗi người với vốn sống và cỏi
“tạng” riờng của mỡnh (kể cả những thao tỏc nghề nghiệp) phải biết chọn lựa
những thời khắc cú ý nghĩa để tạo nờn những tỡnh huống đặc sắc. Trong cuộc
sống cú vụ vàn những tỡnh huống cú thể diễn ra cũng như trong văn học, nhà
văn cú thể sỏng tạo nờn nhiều tỡnh huống để mô tả cuộc sống. Thụng thường
một truyện ngắn không chỉ cú một tỡnh huống, tuy nhiờn để cú tỡnh huống
đặc sắc trong mỗi truyện ngắn là điều khụng mấy dễ dàng với mỗi người viết,
điều mà khụng phải nhà văn nào cũng tạo dựng được.
Khảo sỏt truyện ngắn bốn cõy bỳt nữ Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Lý
Lan, chỳng tụi nhận thấy có 3 loại tỡnh huống thường gặp sau đây:
3.2.1. TÌNH HUỐNG TÂM LÍ
90
Trong cuộc sống cũng như trong văn chương có rất nhiều kiểu tình
huống có thể xảy ra và được tạo dựng. “Có những nhà văn lại cố tình đưa nhân
vật của mình vào những va chạm bình thường hàng ngày, những tình thế giao
tiếp bình thường hàng ngày ai cũng đã nhiều lần trải qua và cái tình thế xảy ra
truyện lại nằm trong tâm trạng, tính cách của nhân vật” [9, tr324]. Loại tỡnh
huống này thường gắn liền với kiểu cốt truyện tõm trạng. Tỡnh huống thường
gợi cho nhõn vật những suy nghĩ và những suy nghĩ, xỳc cảm này cú khi lại
được nảy sinh từ một trạng thỏi tõm lớ tỡnh cảm của nhõn vật.
Tỡnh huống là nơi soi chiếu những lỏt cắt của cuộc đời. Ở thời điểm đó
tớnh cỏch nhõn vật cú cơ hội được bộc lộ. Từ tỡnh huống khủng hoảng tõm
trạng của người mẹ (Hậu thiờn đường), hay người con (Bức thư gửi mẹ Âu
Cơ), người đọc cú thể hỡnh dung về tớnh cỏch nhõn vật, về những thúi quen
và hành động của họ. Người mẹ trong Hậu thiờn đường bất chợt đọc được
những trang nhật kớ của con gỏi và cho đến lỳc này, bà mới nhận ra cuộc sống
thực của con gỏi mỡnh. Bàng hoàng khi biết con gỏi đó tuột khỏi tầm tay, bà ý
thức được rằng từ lõu bà đó để tuổi thơ của con trụi qua trong nỗi buồn của sự
cụ đơn và hứng chịu nỗi cay đắng của người đàn bà bị phụ bạc. Cựng một lỳc
nhõn vật trải qua nhiều biểu hiện khác nhau của trạng thỏi tõm lớ hoảng loạn:
"tụi lặng người", "tụi thẫn người", "đầu bỗng đau buốt", "tụi run rẫy đứng
lờn", "chống chếnh và quay cuồng". Cũng là tình huống tâm trạng nhưng
người con trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ lại rơi vào trạng thái ngơ ngỏc, ngỡ
ngàng khi lần đầu tiờn chứng kiến nỗi đau của những người mẹ, những thủ
thuật của cỏc bỏc sỹ dành cho những bệnh nhõn cụ - vắc, là nỗi "tủi hổ, bẽ
bàng đến cựng cực" khi biết rằng mình cũng sẽ là một trong số những bệnh
nhân bất đắc dĩ đó. Qua những xung đột trong tâm lí, những đặc điểm tính
cách: một người mẹ cứng nhắc trong hành động và thiếu những quan tâm cần
thiết với con gái từ thuở ấu thơ; một thiếu nữ với niềm khát khao khôn cùng
có được hạnh phúc là một người phụ nữ bình thường, được đón nhận tình yêu
91
và được chứng tỏ khả năng làm mẹ, cũng được phác họa.
Nhiều truyện ngắn của bốn cõy bỳt nữ này thường bắt đầu từ một trạng
thỏi tõm lớ, tõm trạng của nhõn vật. Từ một sự khủng hoảng tinh thần cú thể
gợi cho nhõn vật những suy ngẫm và phỏn xột về những gỡ xảy ra trong quỏ
khứ. Truyện ngắn Nghỉ hố, được khởi đầu bằng việc nhõn vật tụi bắt gặp bài
thơ viết về tõm trạng của những sinh viờn khi phải từ gió giảng đường đại học
và đó cũng là nguyờn cớ cho những hoài niệm, những tưởng tượng và suy
tưởng. Trong Thiếu phụ chưa chồng, cõu chuyện được bắt đầu từ tỡnh huống
nhõn vật My đang cụ đơn trong một buổi chiều vắng búng Dương - người
chồng của mỡnh. Từ tỡnh huống nhõn vật tụi nhỡn thấy hỡnh ảnh bến phà -
nơi ghi dấu những kỉ niệm khú quờn trong cuộc đời, nhân vật đã trở về với kỉ
niệm của mối tình đầu. Trước sự lung linh huyền ảo của bến phà về đêm "tụi
bỗng rựng mỡnh bộ tớ teo, lơ lửng giữa một khoảng khụng thăm thẳm cao và
mịt mựng súng. Mọi thứ chợt ựa về dự đó là những kỉ niệm xa tớt tắp " (Biển
ấm - Nguyễn Thị Thu Huệ). Thiếu phụ và những đôi cũ (Y Ban) là tõm trạng,
những suy tư, tiếc nuối và bất lực trước hiện tại của nhõn vật nữ. Nỗi đau và
sự tiếc nuối về một hạnh phúc tươi đẹp đã qua của một cô gái trong suốt chặng
đường dài lại được bắt đầu từ tình huống cô nhận được thư của mẹ báo tin bố
mẹ cô bỏ nhau khi cô vừa đi khỏi nhà (Thành phố không mùa đông - Nguyễn
Thị Thu Huệ). Mở đầu truyện ngắn Người đàn bà cú ma lực là những phỳt
giõy trăn trở, trống trải của một người đàn bà luống tuổi nhưng chưa hề cú
hạnh phỳc được lo toan cho một gia đỡnh riờng. Tỡnh huống những cành mai
chưa được nhặt lỏ - tỡnh huống gắn liền với tõm trạng của nhõn vật Hạc được
đặt ở đầu truyện ngắn Hoa muộn đã tạo ra một khả năng lắng đọng trong lòng
người đọc.
Từ một khoảnh khắc trong đời sống tõm lớ của nhõn vật, các cây bút đã
biết chọn ra “trong cái dòng đời xuôi chảy một khoảnh khắc thời gian mà ở đó
cuộc sống đậm đặc nhất, chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất” một khoảnh khắc
nhưng bắt buộc con người ở vào tình thế “phải bộc lộ ra cái phần tâm can
92
nhất, cái phần ẩn náu sâu kín nhất, thậm chí có khi đó là cái khoảnh khắc chứa
cả một đời người” [9,tr313]. Có thể nói, bằng việc tạo dựng những tình huống
tâm lí, các cây bút đã đem đến cho người đọc những cảm nhận sõu sắc về đời
sống tõm linh của con người và điều này còn chứng tỏ rằng “việc phát hiện
các tình huống tâm lí, thế giới nội tâm nhân vật với bút pháp tự sự trữ tình đã
trở thành một nét đặc trưng riêng trong sáng tác của các chị”[109].
3.2.2. TÌNH HUỐNG TỰ NHẬN THỨC
Đây là loại tỡnh huống nảy sinh khi nhõn vật tự phỏn xột hành động của
mỡnh, tự đối thoại trong những xung đột nội tõm, là những khoảnh khắc nhõn
vật tự thức tỉnh, biện hộ và giải thớch với những giằng xộ nội tõm quyết liệt.
Nhõn vật thường chiờm nghiệm, phõn tớch lại mình khi đối diện với
chớnh mỡnh trong những khoảnh khắc suy tư bất chợt. Ở những truyện ngắn
Giai nhõn, Người đi tỡm giấc mơ, Phự thủy, tác giả đó tạo cho nhõn vật những
khoảnh khắc tự nhận thức lại sự thật của cuộc đời mỡnh. Ý thức được sự cụ
đơn của mỡnh giữa đồng loại trong một buổi chiều khi nhìn thấy khúi bếp của
nhà hàng xúm đều đặn bốc lờn, nhõn vật Sao (Giai nhõn) đã tự hỏi: "Ai đến
với tụi bõy giờ. Chẳng lẽ cuộc đời tụi - một người đàn bà ba mươi tỏm tuổi thế
này mói sao? Cứ đợi một cỏi gỡ mà chớnh mỡnh cũng khụng biết. Bờn ngoài
cỏnh cửa kia, cú thể là thiờn thần, cú khi là quỷ dữ, cũng khụng biết nữa. Cỏi
thời mà mỡnh được lựa chọn qua rồi ư?". Nhân vật nữ trong truyện ngắn Hậu
thiên đường xút xa cho hoàn cảnh thực tại của mỡnh rồi tự ý thức: "Thế nào
nhỉ? Bốn mươi tuổi tụi đó cú gỡ cho mỡnh. Tiền tài thỡ vớ vẩn, chỉ đủ ăn và
giữ được một cuộc sống đạm bạc. Một vài cỏi vỏy để đi dạ hội và nhảy đầm".
Tỡnh huống Lan bắt gặp Hải đóng giả Lan để dỗ con trong khi cô đi với người
tỡnh cũng là thời điểm Lan tự ý thức về hành động của mỡnh (Một nửa cuộc
đời - Nguyễn Thị Thu Huệ). Sau những vấp ngã trên đường đời, Hoài mới cay
đắng nhận ra một sự thật: "Bố mẹ ơi, sao bố mẹ khụng dậy con rằng mọi
chuyện đều xảy ra cú một lần trong đời. Cỏi gỡ qua đi khụng lấy lại được"
(Xin hãy tin em - Nguyễn Thị Thu Huệ). Trước nắm tro tàn của người cha quá
93
cố, nhõn vật tụi (Đi thăm cha - Phan Thị Vàng Anh) hỡnh dung và suy ngẫm
về cuộc sống của chính mỡnh: "Tụi sợ lắm, rồi cũng cú lỳc mỡnh phải nằm im
dưới đất, mưa nắng chầy chầy trong cỏc nghĩa trang hoặc tồn tại dưới hỡnh
thức một nắm tro, một nắm xương hay sao?” Cỏi chết của người bỏn xu hào -
người bạn đồng niờn đó thức tỉnh nhõn vật khi nàng nhận ra sự cụ độc của
mỡnh giữa một thế giới lâu nay vẫn tưởng như quen thuộc và gần gũi (Sợi dõy
nối những cỏnh diều - Y Ban). Sau những phỳt giõy trờn thiờn đường, cụ gỏi
trong Thiờn đường và địa ngục cay đắng trước một hiện thực đầy chua xót:
"Bõy giờ thỡ thế này đây. Một khỏch sạn sang trọng bằng một chỏi nhà chật
hẹp. Bỡnh minh ngọt ngào sau đêm cấm, những tiếng hoạ mi hút rớu ran bằng
những lời thoỏ mạ con cỏi, kờu rờn cuộc sống. Mún ăn làm đẹp lũng E Va
bằng cơm rang của em và bị bắt đền. Tiện nghi đầy đủ bằng bụ hắt qua cửa
sổ”.
Với những tỡnh huống tự nhận thức, cỏc tỏc giả đó để cho nhõn vật tự
đối thoại, tự ý thức, tự thức tỉnh để rồi từ đó tự điều tiết hành động của mỡnh.
Tuy nhiên, thường khi nhân vật ý thức được thực trạng của mình cũng là khi
họ ít có cơ hội để làm lại. Xót xa và tiếc nuối sau những khoảnh khắc tự thức
tỉnh là cảm giác khó tránh khỏi với hầu hết các nhân vật. Những cõu hỏi được
đặt ra với những trăn trở và chiờm nghiệm từ chớnh cuộc đời của mỡnh, đồng
thời đó còn là những câu hỏi gián tiếp mong một sự trả lời từ người đọc.
3.2.3. TÌNH HUỐNG MANG TÍNH KỊCH
Ngoài kiểu tỡnh huống tõm trạng, tỡnh huống tự nhận thức, ở một số
truyện ngắn của bốn cõy bỳt nữ này cũn cú dạng tỡnh huống bất ngờ mang
tớnh kịch. Đây là loại tỡnh huống mang tớnh xung đột cao và sự va chạm giữa
cỏc nhõn vật trở nờn gay gắt. Tỡnh huống mang tớnh kịch khi mõu thuẫn phỏt
triển đến cao trào, dẫn đến những va chạm khú trỏnh khỏi.
Ở truyện ngắn Hậu thiờn đường, tớnh huống mang tớnh kịch chớnh là ở
94
thời điểm người mẹ bắt gặp những dũng nhật kớ của con gỏi dẫn đến những
xung đột nội tõm của người mẹ. Kịch tính được đẩy lên cao trào khi người mẹ
vùng chạy ra khỏi nhà và một tai nạn đau xót đã bất ngờ xảy ra ngay sau đó.
Chuyện bờn Barie (Y Ban) đã cú sức thu hỳt người đọc ngay từ đầu truyện,
khi kịch tớnh của cõu chuyện dường như đó lên đến đỉnh điểm bởi cuộc chạm
trỏn bất ngờ đã xảy ra giữa con gỏi và người bố của mỡnh. Với tỡnh huống
này, nhõn vật đó bộc lộ trọn vẹn tớnh cỏch của mỡnh - cỏi mà lõu nay họ cố
tỡnh che đậy trong một thời khắc của cuộc sống. Sau tỡnh huống này là quỏ
trỡnh đấu tranh nội tõm, cỏc nhõn vật tự phỏn xột hành động của chính mỡnh.
Cũn ở truyện ngắn Kịch cõm, kịch tớnh của cõu chuyện được bắt đầu ở tỡnh
huống người con bất ngờ bắt gặp mẩu thư - bằng chứng cho việc ngoại tỡnh
của bố. Cả cõu chuyện sau đó là một chuỗi những xung đột giữa hai con
người. Ở cuối truyện ngắn Đất đỏ, cỏi chết của Hoài là tỡnh huống bất ngờ
nằm ngoài dự đoỏn của người đọc. Với tình huống này, tác giả muốn chứng
minh một thực tế: cuộc sống luụn diễn ra những tỡnh huống bất ngờ khú đoỏn
định, những bất ổn ngoài mong muốn của con người.
Với những tỡnh huống bất ngờ mang tính kịch, lụ gớc của sự kiện đó bị
đảo lộn. Hay núi cỏch khỏc, chiều hướng phỏt triển của mạch truyện cú sự
thay đổi. Theo lụgic của mạch truyện, người đọc khú cú thể hỡnh dung được
tỡnh huống ở phần kết truyện ngắn Xin hóy tin em (Nguyễn Thị Thu Huệ).
Bản năng của một thời ham chơi trong Hoài thức dậy khi tiếng nhạc vang lờn
cựng với men nồng từ những ly rượu màu sóng sánh trong bữa tiệc sinh nhật
tại nhà người yêu. Dự Hoài cú tỉnh ngộ và õn hận thì sự tan vỡ một cuộc tỡnh
lí tưởng với cô là điều không thể tránh khỏi. Bất ngờ đến ngỡ ngàng và khó lí
giải đối với nhân vật tôi (Phút dành cho tình yêu - Y Ban) khi chị tình cờ bắt
gặp tờ giấy mời toà gọi ra giải quyết ly hôn vào ngày hôm sau từ chính người
đàn ông chị gặp trong bệnh viện - người mà cách đó ít phút thôi, chị đã chứng
kiến một cuộc chia li cảm động giữa người vợ và anh ta trước giờ phút lâm
chung. Sau cỏi chết của người chị, nhõn vật tụi bất ngờ được biết người đàn
95
bà bỏn thuốc ở sõn ga chớnh là chị gỏi của mỡnh, một tỡnh huống hiếm khi
diễn ra trên thực tế nhưng đó là lời cảnh tỉnh để con người hãy quan tâm hơn
đến nhau, để những tình huống đáng tiếc không còn phải xảy ra trong cuộc
sống (Chị tụi - Nguyễn Thị Thu Huệ).
*
Có thể nói, sức hấp dẫn của truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn
Thị Thu Huệ, Y Ban và Lý Lan một phần được tạo nên từ nghệ thuật xây dựng
tình huống. Thiên về hướng nội hơn hướng ngoại, coi trọng khoảnh khắc hơn
quá trình, trong một mạch văn dẫn truyện vừa tự nhiên, vừa cuốn hút, các cây
bút nữ đã tạo dựng được những lát cắt của cuộc đời mà ở đó tâm trạng và tính
cách nhân vật được thể hiện rõ nhất. Với mỗi tình huống khác nhau, các chị
đều cố gắng chọn cho nhân vật những cách thức xử lí và không ít trường hợp
sắc thái nữ được biểu hiện rõ ràng. Chẳng hạn như tình huống Lan bắt gặp Hải
đóng vai Lan để dỗ dành con lúc cô đi vắng (Một nửa cuộc đời - Nguyễn Thị
Thu Huệ). Dẫu biết rõ tính cách của Hải và ý thức được hành động tội lỗi của
mình nhưng bản tính đa nghi của phụ nữ đã khiến Lan nghĩ ngay đến khả năng
Hải ngoại tình và người đang dỗ con là kẻ đã thay thế vai trò của người mẹ
trong lúc cô đi với người tình. Hoặc trong Xin hãy tin em: một cô gái mạnh mẽ
và cá tính như Hoài cũng có lúc mềm lòng để cầu xin tình yêu từ một người
đàn ông mà cô đã yêu thực sự.
3.3. NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT
3.3.1 NGÔN NGỮ HIỆN THỰC ĐỜI THƯỜNG
Cùng với sự biến đổi của thể loại, của khả năng phản ánh hiện thực, văn
xuôi sau 1975 nói chung và truyện ngắn nói riêng đã có sự biến đổi về mặt
ngôn ngữ. Một trong những dấu hiệu của xu hướng đổi mới là ở việc sử dụng
ngôn ngữ hiện thực đời thường. Sự biến đổi này xuất phát từ tư duy hướng vào
96
đời tư, bám sát hiện thực đời sống.
Bằng khả năng quan sát và trải nghiệm thực tế, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y
Ban, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan đã đưa vào tác phẩm của mình những tiếng
nói của đời sống thường nhật với sự dung nạp khẩu ngữ làm cho độc giả
không mấy khó khăn khi tiếp cận với các tác phẩm. Nhân vật người kể chuyện
trong truyện ngắn Một thằng nhỏ (Lý Lan) mô tả cuộc sống một cách trần trụi
mà xác thực với lối nói tưng tửng tỉnh khô: “chúng tôi sống đơn giản, ít nhu
cầu, tự thấy mình nhàn, không buồn nhìn lên và cũng ít khi nhìn xuống”. Hoặc
một nhân vật trong truyện ngắn Đêm dịu dàng của Nguyễn Thị Thu Huệ đã
cho rằng: “Cái gì tôi cũng đã trải qua, hạnh phúc, đau khổ, cô đơn và hờn giận,
có tất. Mỗi chết là chưa biết thôi”.
Cùng với việc đưa chất liệu đời thường vào tác phẩm, ngôn ngữ trong
sáng tác của các chị nhiều khi thô nhám, đôi khi có cả sự suồng sã, bỗ bã của
một thứ khẩu ngữ: “mặt mũi những thằng đàn ông như suốt đời bị mất trộm”
(Nguyễn Thị Thu Huệ), “Chức cách đây mấy năm thấy chạy xe vèo vèo ngoài
ngã ba, chở đứa con gái bé như cái kẹo, không ôm iếc gì cả, nhưng biết ngay
là bồ bịch” (Hoa muộn - Phan Thị Vàng Anh). Hay: “những đứa trông xinh
xinh một tí thì rặt loại tầm thường mà lại hám của. Yêu đứa xấu thì chán ngắt,
cứ như cơm độn ngô. Cả ngày chạy mệt, về đến nhà nhìn vợ xấu xí thì chỉ có
nước biến ngay khỏi nhà” (Tình yêu ơi ở đâu). Hoặc những câu nói bắt nguồn
từ thành ngữ: “con cá trượt thường là con cá to” (Hậu thiên đường - Nguyễn
Thị Thu Huệ), “nó ăn ốc, mình đổ vỏ. Ở đời chuyện ấy thường lắm” (Nước
mắt đàn ông - Nguyễn Thị Thu Huệ); từ lối nói dân gian “chơi dao có ngày
đứt tay”, “gieo gì thì gặt nấy” (Gà ấp bóng - Y Ban), “lọt sàng thì xuống đất
rồi chôn luôn, không có nia nào cả” (Thời gian của mỗi người - Nguyễn Thị
Thu Huệ).
Không chỉ có thứ ngôn ngữ thô nhám của một thứ khẩu ngữ, hoặc lối
nói dân gian; lối nói mới mẻ, phóng túng mà rất giàu hình tượng của đời sống
kinh tế thị trường trên thực tế cũng làm cho ngôn ngữ tác phẩm cập nhật hơn
97
với đời sống. Đó là kiểu nói: “bên B là chùm khế ngọt, bên A trèo hái mỗi
ngày” (Nước mắt đàn ông - Nguyễn Thị Thu Huệ), là những cụm từ “cát xê”,
“cao ốc”, “máy tính”, “nối mạng”, “thư điện tử”... trong Lắp ghép hạnh phúc,
Tháng chạp (Lý Lan), "quá đát" trong Công tử vườn (Lý Lan). Ở đây cũng
phải ghi nhận rằng, Lý Lan đã sử dụng những câu văn ngắn gọn, dồn dập, hạn
chế tối đa các liên từ để phù hợp với việc diễn tả sự gấp gáp hỗn tạp của đời
sống hiện đại: “Đèn vàng. Vọt. Hoét. Vọt luôn. Xe Hon đa thắng cái rét” (18
tuổi - Lý Lan). Và với lối viết như vậy, truyện cũng mang được cái hơi thở của
một cuộc sống khẩn trương, dồn dập. Trong khi đó, những phương ngữ mộc
mạc gần gũi với người dân Nam bộ, những từ ngữ mang “sắc thái miệt vườn”
cũng là điều thường gặp trong truyện ngắn của Lí Lan và Phan Thị Vàng Anh
như Cho đến sang năm, Đất khách, Những viên sỏi cầm chơi, Mùa lá chín,
Đất đỏ.... Ngôn ngữ đối thoại trong sáng tác của hai cây bút này thực sự là
tiếng nói của đời sống hàng ngày bởi lối viết tự nhiên, không câu nệ vào ngôn
từ và cách diễn đạt.
Qua thực tiễn văn học, có thể thấy rằng, việc dùng khẩu ngữ - ngôn ngữ
hiện thực đời thường trong tác phẩm văn học không còn là điều mới mẻ.
Trước đây, trong văn học kháng chiến, đặc biệt là thời kì kháng chiến chống
Pháp, khẩu ngữ cũng đã từng được xem như một biện pháp nghệ thuật hữu
hiệu để tác phẩm có thể đến được với nhiều đối tượng tiếp nhận, hay nói đúng
hơn là để kéo tác phẩm lại gần với người đọc. Tất nhiên ở thời điểm đó, cách
làm đó hoàn toàn phù hợp với yêu cầu “văn hóa kháng chiến, kháng chiến hóa
văn hóa”; yêu cầu của văn học là phải góp phần tích cực vào việc tuyên truyền
các đường lối, chủ trương của Đảng đến với công chúng. Cuộc sống hiện đại
trong những thập niên cuối thế kỷ XX đã đẩy ngôn ngữ đi theo một hướng
phát triển mới, tăng cường giá trị nghệ thuật ngay cả khi các nhà văn tận dụng
triệt để thế mạnh của khẩu ngữ, của lối nói, lối nghĩ dân gian. Lối nói sắc bén,
cộc lốc, không hề biết đến những nghi thức thưa gửi trong Tướng về hưu của
Nguyễn Huy Thiệp, ngôn ngữ “thân mật hóa” trong Phiên chợ Giát của
98
Nguyễn Minh Châu... là những ví dụ cụ thể. Đưa vào tác phẩm lối nói dung dị,
sử dụng ngôn ngữ đời thường, các cây bút thời nay đã cố gắng tìm con đường
ngắn nhất đến với bạn đọc. Tiếp xúc với văn bản trên phương diện ngôn từ,
chúng tôi nhận thấy, rõ ràng là cả bốn tác giả đều đã có sự rút ngắn khoảng
cách người kể chuyện và nhân vật, tác giả và người đọc. Với lối nói kiểu đời
thường này, các chị đã góp phần tái hiện chân thực bức tranh của đời sống với
một gam màu lạ, thể hiện được sự đa dạng và sống động của cuộc sống.
3.3.2. NGÔN NGỮ MANG SẮC THÁI NỮ
Một trong những dấu ấn đặc biệt ở Y Ban, Lý Lan, Phan Thị Vàng Anh,
Nguyễn Thị Thu Huệ là sắc thái nữ trong việc sử dụng ngôn từ. Cả bốn cây
bút đều là phụ nữ, vì thế họ có lợi thế trong việc diễn đạt sâu sắc nội tâm của
nhân vật, nhất là nhân vật nữ; trong việc bộc lộ đến tận cùng thái độ, cách
cảm, cách nghĩ của giới mình. Sự khám phá thế giới tâm hồn người phụ nữ
được các chị thể hiện ở mọi phương diện, từ trạng thái tình cảm, những cung
bậc của cảm xúc, niềm vui và nỗi buồn, những khát khao đam mê, và cả
“những gót chân Asin của họ”. Trong nhiều truyện ngắn như Bức thư gửi mẹ
Âu Cơ, Hậu thiên đường, Tháng chạp, Nhật kí, Mười ngày, Hoa muộn, Người
đàn bà có ma lực, Hoàng hôn màu cỏ úa, Cát đợi, Người đàn bà đứng trước
gương “chân dung tinh thần” của người phụ nữ được khắc họa đặc sắc qua
việc miêu tả nội tâm của nhân vật.
Công việc nội trợ hàng ngày đã lưu dấu trong cách nhìn và cách thể
hiện của các chị. Nguyễn Thị Thu Huệ đã nhìn màn “đêm đen thẫm như một
miếng thạch”. Chị đã ví liên khúc các bài hát như “một xâu cá rô quẫy đạp liên
hồi” (Cát đợi), và “những người đàn bà khác chạy qua đời tôi nhạt nhẽo như
bí luộc” (Người đàn bà ám khói). Hay là những cảm nhận thú vị “nhiều khi nó
thấy ở mồm mẹ nó nói ra những câu đối thoại giống như một cái chợ bán cá
thu nhỏ” (Phù thủy); “khuôn mặt méo xệch, vẹo vọ như cái oản bẹp”, hoặc
99
“mày sẽ lấy cái con mặt như sườn mậu dịch thời bao cấp ấy” (Phù thủy).
Cũng ở Thu Huệ, bằng trực giác và những cảm nhận sâu sắc, chị đã viết
nên những tâm sự của cả giới đàn bà, những điều bình dị và không xa lạ với
hầu hết những người phụ nữ: “Tôi trở về chính tôi với những ước mơ nho nhỏ.
Một bữa cơm nóng, món canh chua quyến rũ. Mơ ước một ngày nắng to để
phơi quần áo cho thơm tho, đong được một mẻ gạo ít thóc sạn” (Hình bóng
cuộc đời); những tâm sự và niềm vui giản dị rất đàn bà: “Tôi mệt mỏi và thèm
nói với anh những chuyện con con như em Thúy tập lẫy, chuyện nó đi tướt
mọc răng” (Hình bóng cuộc đời), “Bữa cơm chiều. Có đĩa rau luộc lẫn rau rút.
Đậu phụ rán tẩm hành và con cá cơm khô rán, bát muối vừng... Nước rau đánh
me trong trong vàng vàng anh chan hết veo” (108 cây bằng lăng). Hoặc về
tâm trạng người phụ nữ ở lứa tuổi mà thời gian luôn là nỗi ám ảnh: “Sao đến
bên gương và nhìn thấy mình trong đó. Mí mắt sụp sụp, dưới mắt mòng mọng
sưng, hai vành môi đã bắt đầu đen và lỗ chân lông trên mặt to ra như những
đầu tăm” (Giai nhân). Có thể nói, người đàn bà trong tác phẩm của Nguyễn
Thị Thu Huệ luôn cảm nhận “cái già đang ập đến” và ở đây, ngôn từ miêu tả
mang một nỗi ám ảnh trong tâm trạng của nhân vật (hay cũng chính là tâm
trạng của người viết): “Tôi nhìn tôi trong gương. Khuôn mặt đàn bà sang tuổi
40. Mí mắt bắt đầu sụp xuống. Biết là mình vẫn còn đẹp nhưng cũng bắt đầu
nhầu nhò rồi” (Hậu thiên đường).
Với cảm quan của một người sáng tác là nữ giới, các cây bút nữ này
đã thực sự làm người đọc xúc động bằng những trang văn viết về tình mẫu tử:
Chú Nghẹo, Đàn bà sinh ra từ bóng đêm, Đứa con và người đàn bà tàn tật - Y
Ban, Một cô gái làng chơi - Lý Lan) Họ đã diễn tả được những xúc cảm xác
thực của người đàn bà “thèm có con, thèm được làm mẹ” (Người đàn bà ám
khói); được nỗi đau của một người mẹ phải xa đứa con mình mang nặng đẻ
đau, “phải xa những gì lâu nay là máu thịt của chị. Xa đứa con trai bé bỏng
thơm tho như một chiếc bánh ga tô vừa mới ra lò” vì sự tan vỡ hạnh phúc gia
đình (Tân cảng); diễn tả được nỗi lòng của một bà mẹ có con gái lớn: “Mẹ
100
bảo: lắm khi đang ngủ, tao giật mình không hiểu mày có lấy đựoc chồng
không. Nằm ngẩn ngơ một lúc, nhớ ra là mày có chồng và con rồi, tao mừng
không thể tưởng được” (Biển ấm).
Và cũng chỉ có những người phụ nữ từng trải mới có đủ kinh nghiệm để
viết nên những trang viết chân thật về nỗi đau đến tận cùng của người phụ nữ
khi “vượt cạn” - nỗi đau của một người mẹ lúc sinh con: “My đau đớn. Cô hết
ngồi lại đứng vịn tường đi lại trong phòng”, “tóc tai rũ rượi như con điên, hai
tay giữ mạng sườn, đầu cúi lê đi trong phòng”, “khuôn mặt cô tràn trề nước
mắt, môi cô cắn chặt”, “cổ cô khô đắng”, “cơn đau giằng xé trong lòng”, “mồ
hôi và nước mắt ướt nhòe khuôn mặt nóng bừng của My”, “cô vật vã quay quả
trên bàn đẻ, hai tay nắm chặt mép bàn riết mạnh như muốn bóp vụn” (Thiếu
phụ chưa chồng - Nguyễn Thị Thu Huệ). Ở Bức thư gửi mẹ Âu Cơ của Y Ban,
người đọc bắt gặp một lối viết không chỉ bằng quan sát mà còn là sự trải
nghiệm: “Bỗng nhiên cô quặn đau. Đau thắt vùng tim. Đau như ai bóp chặt.
Đau nhợt nhạt. Đau ràn rạn nước mắt”, “cơn đau tức ở bụng dưới”, “một cơn
đau dữ dội lại nhói lên”, “rồi như người nhịn giải lâu ngày, bụng căng lên anh
ách. Một cảm giác choáng váng và buồn nôn”.
Trời phú cho phụ nữ trái tim nhạy cảm, bởi thế cho nên những hành
động và suy nghĩ của họ thường mang màu sắc cảm tính và quan sát và nắm
bắt hiện thực bằng trực cảm là một đặc thù của giới nữ. Chúng tôi đã có ý định
thống kê số lần các tác giả sử dụng từ vựng hình như và những từ chỉ cảm giác
nhưng điều này quả là không mấy dễ dàng để có thể khảo sát được đầy đủ và
chính xác bởi tần số xuất hiện đã rất nhiều ngay trong cùng một truyện ngắn.
Rất dễ dàng bắt gặp từ vựng “hình như” trong các tác phẩm: “hình như trong
một câu chuyện nào đó cũng có một tình huống như thế này rồi” (Người đàn
bà có ma lực - Y Ban), “hình như những người đàn ông đều mang một cái mùi
vị riêng” (Mùa thu vàng rực rỡ), (có lẽ bởi thế cho nên người ta mới có câu
“đàn bà yêu bằng mùi, đàn ông yêu bằng mắt”). “Hình như” có khi là ngôn
ngữ của người kể chuyện ngôi thứ nhất: “hình như tôi đã có tình cảm gì đó
101
dành cho Tường” (Truyện trẻ con), “hình như cái sự già nó sập xuống vai tôi
rồi (Hậu thiên đuờng); có khi là ngôi thứ ba: “chị không khóc, không nói
không làm không diễn và hình như không ý thức gì cả (Diễn viên hạng ba).
Bên cạnh từ vựng hình như là các tính từ, trạng từ chỉ trạng thái cảm
giác: “tôi cứ tưởng”, “bỗng nhiên”, chợt thấy” (Hậu thiên đường), “mơ màng,
vu vơ, sửng sốt” (Si tình); những lớp từ chỉ cảm giác mơ hồ, đoán định: “cảm
giác ông ta giống như ma xó, rình rập và biết mọi chuyện của tôi (Đêm dịu
dàng), “tôi có cảm giác như mình bỗng hóa thành đá” (Hậu thiên đường), “tôi
nhìn đồng hồ, bỗng rùng mình bởi một linh cảm” (Đất khách), “trời đang sẫm
dần, bất chợt nó có một linh cảm gì đó về người đàn bà đang đứng kia”
(Thằng bé có phép tàng hình). Xu hướng sử dụng với tần số cao lớp từ đặc tả
những khoảnh khắc của tâm trạng, lớp từ bộc lộ lối cảm nhận đời sống bằng
trực giác đã tạo nên sức ám gợi với người đọc mà chúng tôi nghĩ rằng, chỉ có
người viết là phụ nữ mới có được đặc trưng này.
Tái hiện hiện thực đời sống tâm lí của con người bằng ngôn ngữ miêu tả
trực giác và linh cảm, các cây bút này đã bộc lộ khả năng nắm bắt những biến
thái trong tâm hồn con người, đặc biệt là người phụ nữ. Là “lớp vỏ của tư
duy”, ngôn ngữ trong sáng tác của bốn cây bút nữ đã bộc lộ một hình thái tư
duy nghệ thuật vừa bằng trực quan, vừa là sản phẩm của những đặc điểm tâm
sinh lí của chủ thể sáng tạo. Đọc truyện ngắn của bốn cây bút nữ, người đọc
cảm nhận được đó là tiếng lòng của những người phụ nữ được viết nên từ
những trải nghiệm. Dù đó có là ngôn ngữ góc cạnh, nhiều khẩu ngữ, là ngôn
ngữ đời thường gần gũi mà xác thực hay là ngôn ngữ mang sắc thái nữ thì ẩn
sâu trong những câu chữ vẫn luôn là tiếng lòng, là những dự cảm thân phận
đựơc viết ra từ sự “dẫn dắt tuyệt diệu của mẫn cảm bản năng” [91].
3.4. GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT
Theo Gs Trần Đình Sử thì giọng điệu “không đơn giản là là một tín hiệu
âm thanh có âm sắc đặc thù để nhận ra người nói, mà là một giọng điệu mang
102
nội dung tình cảm, thái độ ứng xử trước các hiện tượng đời sống” [96, tr111].
Với bất kì một thể loại văn học nào, giọng điệu cũng luôn là một trong những
đặc điểm tạo nên dấu ấn đặc trưng của mỗi người, mỗi thời. Sau 1975, văn học
nói chung và văn xuôi nói riêng so với trước đây, đã có nhiều giọng điệu.
Giọng điệu sử thi, giàu tính chiến đấu một thời từng chiếm vị trí độc tôn trên
văn đàn đã nhường chỗ cho sự phức điệu. Ngay trong cùng một tác giả, sự đa
dạng trong giọng điệu cũng là điều thường thấy thể hiện trong cách nhìn cuộc
sống ở nhiều chiều kích và bình diện. Qua khảo sát truyện ngắn Nguyễn Thị
Thu Huệ, Lý Lan, Phan Thị Vàng Anh và Y Ban chúng tôi nhận thấy một số
giọng điệu cơ bản sau:
3.4.1. GIỌNG GIÃI BÀY, TÂM SỰ
Giọng điệu này thường thấy ở dạng truyện tự bạch. Hầu hết các truyện
ngắn loại này của Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Lý Lan và Y
Ban đều được viết dưới hình thức người kể chuyện xưng tôi (Khi người ta trẻ:
15/19, Truyện ngắn Y Ban: 9/23, Hậu thiên đường: 8/15). Với hình thức này,
người kể chuyện tham gia vào câu chuyện như một nhân chứng - cũng là một
cách làm tăng độ tin cậy ở bạn đọc. Nhân vật xưng tôi tự kể chuyện mình, bộc
bạch những nỗi niềm tâm sự, suy tư, cảm xúc. Đứng ở điểm nhìn trần thuật
này, nhiều trường hợp giọng tác giả và nhân vật hòa làm một (Đi thăm cha,
Mười ngày - Phan Thị Vàng Anh).
Với hình thức người kể chuyện ở ngôi thứ nhất, ở các truyện ngắn này
đã bộc lộ một xu hướng viết “như một nhu cầu trình bày những trải nghiệm
của bản thân”. Người kể chuyện lúc này đã xóa bỏ khoảng cách trần thuật của
mình để đối thoại với độc giả. Nhân vật tự kể về cuộc đời mình, tự bộc bạch
nỗi lòng của mình. Cũng có đôi khi, người đọc có cảm giác như nhà văn “tự
đưa mình vào tác phẩm” bộc lộ nhu cầu được giãi bày, tâm sự qua nhân vật.
Tuy nhiên, có nguy cơ sẽ dẫn đến hiện tượng “tự ăn mình” mà có lần một nhà
103
nghiên cứu đã đưa ra lời cảnh báo.
Một số truyện dù người kể chuyện là ngôi thứ ba cũng được viết dưới
dạng tự bạch. Tiêu biểu cho hình thức kể chuyện này là truyện ngắn của Y
Ban: Người đàn bà và những giấc mơ, Thượng đế bảo rằng: mỗi người đàn
ông chỉ dành riêng cho một người đàn bà, Người đàn bà có ma lực, Đàn bà
sinh ra từ bóng đêm, Sợi dây nối những cánh diều và một số truyện ngắn khác
của Nguyễn Thị Thu Huệ: Một nửa cuộc đời, Một chiều mưa, Sơ ri đắng...
Bên cạnh lối viết để cho nhân vật xưng tôi trong tác phẩm là việc sử
dụng hình thức nhật kí, bức thư để diễn tả những mảng hiện thực đầy tính nữ -
“mảng thế giới của những cái tôi đàn bà phong phú, phức tạp mà sâu sắc” với
nhu cầu được phơi trải. Nhiều truyện ngắn được viết được dạng một bức thư
với những thông điệp và lời nhắn gửi. Trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Y Ban đã
mượn hình thức viết thư để qua đó nhân vật được giãi bày tâm sự, được thỏa
lòng nói ra những khát vọng thầm kín của chính mình mà trong những hoàn
cảnh khác nhân vật khó có cơ hội bộc lộ. Mượn hình thức nhật kí, các tác giả
đã tìm được cách tiếp cận hiệu quả thế giới nội tâm nhân vật. Nhân vật tôi
trong Mười ngày của Phan Thị Vàng Anh đã tự thuật lại mười ngày chờ đợi
của mình, mà mỗi ngày cùng với diễn biến của khoảng thời gian đang trôi là
những trạng thái xúc cảm ở những cung bậc tình cảm khác nhau của nhân vật:
lo lắng, thấp thỏm, hy vọng, chờ đợi và thất vọng. Đọc truyện ngắn Người đàn
bà có ma lực của Y Ban, người đọc như được dõi theo cả một quãng đời tuổi
trẻ của một người đàn bà qua từng trang nhật kí. Cấu trúc tự sự dưới đây đã
được lặp lại nhiều lần khi nhân vật hồi tưởng:
“Ngày...
Mười bảy tuổi bước vào trường đại học, ta là một cô gái không
xinh đẹp, cũng không có duyên. Để bù lại ta thông minh và học giỏi.
Ngày 1/7...
Trên chuyến tàu hôm ấy ta và cô bạn gái, một cô bé xinh xắn, dịu
dàng thoạt trông rất đáng yêu đi về nhà nghỉ hè...
104
Ngày...
Hồi ấy là mùa ôn thi thứ tư trong đời sinh viên....
Ngày...”
Bằng ngôn ngữ độc thoại nội tâm, các tác giả đã diễn tả những suy tư,
giằng xé, những dằn vặt của nhân vật trước những biến cố cuộc đời, trước
những tình huống cụ thể tạo nên giọng điệu thâm trầm, sâu lắng trong các tác
phẩm. Độc thoại nội tâm như là một sự giải tỏa tâm trạng, đôi khi nhân vật
thường đặt ra những câu hỏi với chính mình: “Sao tôi bỗng cô đơn và sợ cuộc
sống thế này” (Mi nu xinh đẹp - Nguyễn Thi Thu Huệ), sự thừa nhận: “Tôi
thấy trống trải và hụt hẫng (Biển ấm - Nguyễn Thi Thu Huệ), sự khẳng định:
“tôi tin rằng mình lại có tình yêu bởi tôi mất nó qua lâu rồi” (Cát đợi - Nguyễn
Thi Thu Huệ); những niềm trăn trở: “nhưng nếu chiến tranh là nỗi bơ vơ, khổ
đau, nỗi bất hạnh của người phụ nữ, thì điều đó đã thấm nhuần trong máu
huyết truyền qua nhau vào khắp cùng thân thể từ thuở còn là bầu thai trong
bụng mẹ” (Con ma - Lý Lan).
Với giọng điệu giãi bày, nhiều truyện ngắn của Phan Thị Vàng Anh,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban và Lý Lan đã được viết nên như những thông
điệp với niềm mong muốn được cảm thông và thấu hiểu. Đọc truyện ngắn của
các chị, người đọc như được tham dự vào đời sống của nhân vật thông qua
giọng kể thiên về xu hướng biểu đạt thế giới tâm hồn con người bằng những
suy tư và quá trình tự nghiệm.
3.4.2. GIỌNG KHINH BẠC, XÓT XA
Nền tảng của giọng điệu là cảm hứng của nhà văn. Với sự chi phối của
cảm hứng về cái bi, truyện ngắn của bốn cây bút nữ này mang chất giọng xót
xa, khinh bạc đặc biệt là khi nhìn nhận những mặt trái của cuộc sống. Giọng
điệu xót xa có trong nhiều truyện ngắn: Người đàn bà ám khói, Hoàng hôn
màu cỏ úa, Thiếu phụ chưa chồng, Một chiều mưa (Nguyễn Thị Thu Huệ),
Thiên đường và địa ngục, Biển và người đàn bà xấu xí, Đàn bà sinh ra từ
105
bóng đêm, Người đàn bà và những giấc mơ (Y Ban), Mẹ và con, Nhân vật tiểu
thuyết, Quá chén, Chị ấy lấy chồng chưa (Lý Lan), Khi người ta trẻ, Sau
những hẹn hò, Hội chợ (Phan Thị Vàng Anh)...
Với sự ý thức sâu sắc về bi kịch thân phận, qua việc xây dựng nhân vật
nữ, các tác giả đã bộc lộ nỗi niềm chua xót trước những nỗi éo le khôn cùng
của cuộc đời, trước những “lỉnh kỉnh, dở dang” của cuộc sống. Nhiều nhân vật
trong truyện ngắn của Y Ban và Nguyễn Thị Thu Huệ nhận thức được tình
cảnh ngang trái mà mình đang phải trải qua: sau tất cả những cuộc tình, cái giá
mà người đàn bà phải trả là sự cô đơn (Người đàn bà có ma lực - Y Ban), là
nỗi chua xót của người mẹ khi biết con gái đang lặp lại chính bi kịch của đời
mình như một vòng luân hồi của số phận (Hậu thiên đường - Nguyễn Thị Thu
Huệ). Cô gái trong Tình yêu ơi ở đâu lại xót xa cho những ảo tưởng tình yêu
tan vỡ bởi sự trống trải và hụt hẫng sau tất cả những nỗ lực bằng mọi giá có
được người đàn ông của cuộc đời mình. Rất nhiều người phụ nữ nghĩ đến thực
tế cay nghiệt này khi bị bỏ rơi: “một ngày nào đó, em già và xấu như chị bây
giờ, Dương sẽ bỏ em như hôm nay bỏ chị, em sẽ thấy mọi thứ là vô nghĩa hết”
(Thiếu phụ chưa chồng).
Hầu hết những người đàn bà trong truyện ngắn của bốn cây bút nữ này
khi rơi vào tình cảnh cô đơn đều không khỏi xót xa cho thực trạng của mình:
có khi là nuối tiếc về quãng đời đã qua, về những cơ hội không được nắm giữ
(Đôi găng tay da màu nâu), là tuổi trẻ và nhan sắc đi tuột theo thời gian (Tình
yêu ơi ở đâu), là nỗi đắng cay khi nhận ra rằng: “cuộc đời thật buồn tẻ và đơn
điệu, nếu ta già đi” (Một chiều mưa). Khát khao tình yêu và hạnh phúc nhưng
cũng có lúc, nhân vật rơi vào tình cảnh trớ trêu “giờ đây chúng tôi có thể tự do
đến với nhau thì cả hai đã già và hết mọi ham muốn” (Người đàn bà ám khói -
Nguyễn Thị Thu Huệ).
Trong truyện ngắn bốn cây bút nữ này, đặc biệt là ở Nguyễn Thị Thu
Huệ thường có cái nhìn đầy nghi kỵ, thậm chí là khinh bạc về thế giới đàn ông
106
- những con người của lối sống thực dụng: “đàn ông, cái sự quên hay nhớ của
họ đều có ý thức. Họ đã muốn cái gì thì đừng cố mà giữ” (Bảy ngày trong
đời). Trong con mắt nhân vật nữ của chị, những con người này “rất biết kết
hợp những nhu cầu và họ thì chẳng mất gì” (Hậu thiên đường). Họ là nguyên
nhân gây đau khổ cho nhiều phụ nữ đặc biệt là những cô gái trẻ ngây thơ và cả
tin, “rồi hắn lại ngấu nghiến hôn lên môi con gái như nhai cái bánh” (Hậu
thiên đường) bởi họ có thể đến rồi đi dễ dàng trong cuộc đời một người con
gái (Sơ ri đắng). Còn như ở Khi người ta trẻ (Phan Thị Vàng Anh), người đọc
lại bắt gặp cái nhìn đầy chua chát trước một thực tế phũ phàng: “than ôi, ngày
đám tang cô, Vỹ ta tắm biển vui lắm và hăng lắm”. Một nhân vật nữ trong
truyện ngắn Biển trong mưa (Lý Lan) từng cho rằng: “đàn ông là kịch sĩ nhà
nghề” và như Lí Lan đã từng nhận định khi đọc một tập truyện ngắn của các
nhà văn nữ “nhà văn nữ miêu tả nhân vật nữ như những nạn nhân của những
gã đàn ông khốn nạn hoặc của một tình yêu ngây thơ, dại khờ”[43, tr102].
Người đàn bà biết rất rõ nỗi cô đơn đang ngày càng thắt chặt: “ngẫm lại,
cuộc đời mình đã chinh phục, đã kiếm niềm vui, kể cả tiền của những người
đàn ông nhưng mình đã không có một bông hồng nào, một cái vuốt ve dịu
dàng nào của một tình yêu đích thực cả” (Cuộc tình Silicon - Y Ban). Suốt cả
cuộc đời họ không tìm thấy điểm tựa cho cuộc đời mình, họ chua chát khi
nhận ra điều đó: “đàn ông thì nhiều nhưng để tìm một người như nàng muốn
thì khó quá” (Tình yêu ơi ở đâu), “chị hay khóc với tôi và cho rằng đàn ông
tuy cần thật nhưng tốt nhất là không nên có” (Hoàng hôn màu cỏ úa). Người
đàn bà trong Sợi dây nối những cánh diều của Y Ban ngậm ngùi cho hoàn
cảnh thực tại: “giữa hạnh phúc vợ chồng con cái và sự thành đạt, nàng chỉ nh-
ư một cánh diều không dây mà thôi”. Sau tất cả những xót xa và tiếc nuối là
một niềm khao khát khôn nguôi về một mái ấm gia đình bởi cho dù có thành
đạt đến đâu đi chăng nữa thì chắc rằng đó cũng không phải là cái đích cuối
cùng mà người đàn bà mong muốn có được. Ngày xưa Nguyễn Du đã từng
107
thốt lên: “Đau đớn thay phận đàn bà. Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”,
hơn hai trăm năm sau, Y Ban đã nói thay lời những bà mẹ: “Kiếp đàn bà
chúng mình sao lại cơ cực thế hả con” (Đất mặn vùng đồi).
Nguyễn Thị Thu Huệ với giọng điệu xót xa đã diễn tả sâu sắc tâm trạng
của người đàn bà lỡ bước: “Em nhầm đường. Lúc ấy em cứ nghĩ rằng cuộc đời
dài lắm và luôn tin rằng rút kinh nghiệm mọi chuyện dễ không. Nhưng rồi mọi
thứ trôi đánh vèo. Em già lúc nào không biết” (Người đàn bà ám khói). Cảm
giác xót xa, nuối tiếc và bất lực của nhân vật được tác giả biểu lộ qua giọng kể
như một sự ngỡ ngàng: “Tôi cứ tưởng cái gì tôi cũng biết, cũng qua, nhưng có
một cái tôi không hề biết là người ta có nhiều kiểu thay lòng đổi dạ, nhiều kiểu
bỏ người tình, ngon lành lắm” (Đêm dịu dàng). Nỗi cay đắng, xót xa của nhân
vật Hạc không chỉ được tác giả thể hiện bằng sự trễ nãi trong hành động, trong
lời nói của nhân vật, mà còn được gia cố bởi lối kể chuyện không ăn nhập
giữa các sự kiện (Hoa muộn). Cũng là giọng điệu xót xa nhưng Lý Lan đã tạo
cho mình một lối đi riêng trong cách kể chuyện bằng ngôn ngữ đối thoại. Một
cuộc sống nhàm chán, tẻ nhạt của hai người phụ nữ trong cùng một mái nhà
được hiện hữu qua những đoạn đối thoại giữa mẹ và con gái khi mỗi ngày, họ
vẫn nói chuyện và trao đổi nhưng những điều mà họ đề cập đến chỉ là những
chồng báo cũ, sự lộn xộn của đống giấy vụn hay sự vô tình của người mẹ đã
bán nó cho người mua ve chai (Mẹ và con). Không khỏi xót xa cho những cặp
tình nhân trẻ tuổi khi mà hàng ngày, hàng giờ, họ ngồi trong quán nước, vẫn
đối thoại và tranh luận nhưng những gì họ nói ra chỉ là những lời mà các nhân
vật trong sáng tác của Hemingway đã từng nói (Nhân vật tiểu thuyết). Giọng
xót xa một mặt được thể hiện qua cái nhìn của nhân vật, mặt khác được biểu lộ
ở giọng kể của người kể chuyện và cách kể của tác giả.
Viết nên từ trái tim đa cảm của người đàn bà, nhiều nhân vật trong sáng
tác của các chị thường mang nỗi niềm chua xót trước thực tế mà họ đã từng
được chứng kiến hay đang phải trải qua. Qua giọng điệu xót xa, khinh bạc
Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan và Y Ban đã tỏ rõ sự đồng
108
cảm sâu sắc với những bất hạnh của con người trong đời sống.
3.4.3. GIỌNG HÀI HƯỚC, CHÂM BIẾM
Sau 1975, đặc biệt là từ thời kì đổi mới, mọi mặt của đời sống xã hội
được dân chủ hơn và nâng cao hơn, trong văn học được sự cỗ vũ của ý thức cá
nhân, tiếng cười đã trở thành một giọng điệu, một trong những phương thức
tiếp cận hiện thực một cách chân thực và trực diện. Điều này được thể hiện rất
rõ trong nhiều tác phẩm văn xuôi như Người hùng trường làng (Tạ Nguyên
Thọ), Vũ điệu của cái bô (Nguyễn Quang Thân), Người vãi linh hồn (Vũ
Bão)...
Ở truyện ngắn của các cây bút nữ Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan
Thị Vàng Anh và Lý Lan, giọng hài hước, châm biếm đựơc thể hiện qua việc
miêu tả hiện thực mang sắc thái bi hài. Nguyễn Thị Thu Huệ đã xây dựng nên
hình tượng một trí thức trong hoàn cảnh túng quẫn về kinh tế, thay vì việc
nuôi dưỡng những ý tưởng khoa học là cái công việc hàng ngày anh ta phải
nuôi chó Nhật làm nghiệp mưu sinh. Khi việc nuôi chó đã đưa lại một cơ hội
để “xóa đói giảm nghèo” trong thời buổi khốn khó thì việc lấy giống chó đã
được coi trọng hơn “sự kiện vùng Vịnh hay sự mất chức của tổng thống nước
nào đó” (Mi nu xinh đẹp). Cuộc sống hiện đại trong cơ chế thị trường đã phơi
bày ra những mặt trái của nó. Sự pha tạp và lai căng của đời sống hiện đại, của
văn hóa Âu Tây đã gõ đến cửa nhiều nhà ở những vùng quê khác nhau trở
thành đề tài của Lý Lan trong nhiều truyện ngắn. Chị đã dùng những lời lẽ
thâm thúy và sắc sảo để vạch trần bản chất của nhiều hiện tượng xã hội: những
lời hát ru con truyền thống được thay thế bằng nhạc ngoại, thay vì những bộ
bà ba quen thuộc của phụ nữ Nam bộ là những trang phục morden “sít bóng”,
những phát ngôn đặc sệt mùi “ngôn ngữ phim chưởng Hồng Kông” (Công tử
vườn). Với lối viết mang màu sắc châm biếm, Lý Lan đã không ngần ngại đưa
lên trang viết của mình những tình huống nực cười để rồi với giọng điệu châm
biếm, các sáng tác đã bộc lộ tính phê phán, đồng thời còn là sự cảnh báo đối
với sự lai căng văn hóa, sự xuống cấp của đạo đức, sự xâm nhập của cơ chế thị
109
trường đang có nguy cơ làm mất đi những giá trị tinh thần truyền thống.
Coi sự giả dối như là một căn bệnh, các cây bút nữ này đã mô tả những
trò diễn đạo đức như là những màn hài kịch trên sân khấu cuộc đời. Ở Ước mơ
của cô bán hàng rong, đám ma của một ông lão được Y Ban tái hiện như một
màn hài kịch. Thay vì đau xót và tiếc nuối cho người quá cố, người ta lại thấy
phấn chấn hẳn lên bởi màn trình diễn của những cô gái trẻ trung xinh xắn
trong buổi tiễn đưa ông lão về thế giới bên kia. Diễn viên hạng ba là tiếng cư-
ời bi hài về chữ hiếu. Hợp đồng được kí kết là một màn kịch “báo hiếu trả
nghĩa cha”. Một người thì mới biết thương cha khi cha chết, còn một người thì
thiếu đến cả nước mắt nên phải mướn người chăm sóc cha, khóc cha trong
phút lâm chung. Trong Kịch câm, hình ảnh ông bố - nhà đạo đức bị hạ bệ trư-
ớc mắt con gái mình bởi một mảnh giấy có lời hò hẹn với nhân tình.
Bước vào thế giới truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh, người đọc được tiếp
cận với cái tinh quái của một tính cách ưa hoạt động, ưa quan sát vào cái tuổi
mới lớn. Người đọc khi đọc chị có cảm giác là không có điều gì qua được mắt
những cô cậu học trò và mọi cái, qua con mắt của những nhân vật này bao giờ
cũng dí dỏm, hài hước (Con trộm, Cuộc du ngoạn ngắn ngủi...).
Dưới ngòi bút sắc sảo của Thu Huệ, người đàn ông trong Hậu thiên
đường thảm hại ở cả hai tư cách “làm chồng và làm người tình” khi những
quan niệm vốn rất nghiêm chỉnh như gia đình, vợ con thì bị anh ta coi là “một
cái lô cốt chắc chắn mà hàng ngày, hàng giờ anh ta cần mẫn nhặt nhạnh tí vôi,
tí xi măng, xây xây, trát trát”, còn người tình thì dùng để “xả hơi và nạp nhiên
liệu cho công việc xây dựng của mình”. Những “đấng nam nhi đại trượng
phu” trong con mắt nhân vật Nguyễn Thị Thu Huệ được phác họa là: “những
anh chàng thương gia thì lạnh lùng, thô lỗ. Chàng Việt Kiều thì ki bo, bủn xỉn.
Nhà thơ thì yếu đuối bệ rạc với cái mặt “méo mó, vẹo vọ như oản bẹp” (Tình
yêu ơi ở đâu).
Có thể thấy rằng, giọng điệu châm biếm, hài hước đã đem đến cho
110
truyện ngắn của bốn cây bút nữ này một âm hưởng riêng trong các truyện
ngắn phê phán. Giọng điệu đó đã xóa bỏ khoảng cách sử thi và thể hiện cái
nhìn hiện thực trong tính dân chủ của người viết. Với thái độ không khoan
nhượng những nghịch lí trớ trêu của cuộc đời, các trang viết của các chị đã
góp phần tái hiện bức tranh của hiện thực với một quan niệm đa chiều về đời
sống.
3.4.4. GIỌNG TRỮ TÌNH, ĐẰM THẮM VÀ QUYẾT LIỆT
Các cây bút nữ tỏ ra quyết liệt khi diễn tả những khát khao tình yêu, đòi
quyền được yêu của người phụ nữ, trong đấu tranh cho tình yêu và sự bình
quyền cho tình cảm: “trong tình yêu có lúc phải dành lấy như chơi bạc ấy”.
Đằng sau nỗi dằn vặt (trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ) còn là niềm khát khao
được yêu, được làm mẹ của một thiếu nữ: “Con muốn tình yêu. Con đã có đủ
một tình yêu đầu tiên ấy rồi. Hoặc là bằng, hoặc là hơn. Mẹ và lí trí không cho
con buông thả. Giá như ngày ấy mặc dù tội lỗi, mẹ cứ cho chúng con lấy nhau
thì con đã trở thành một người phụ nữ bình thường chứ không phải mang cảnh
góa bụa trong cô thiếu nữ kén chồng thế này”.
Các cây bút nữ tỏ ra quyết liệt khi bộc lộ những khát khao bản năng
được yêu, được làm mẹ. Trong những trang viết của các chị, dường như để đạt
được thỏa nguyện đó, người phụ nữ không khoan nhượng bất cứ điều gì. Ham
muốn được làm mẹ luôn hiện hữu trong trái tim mỗi người phụ nữ, nhất là với
những người phụ nữ mà tạo hóa đã không cho họ những cơ hội để chọn lựa:
“Chị thèm muốn một đứa con. Chị không hề nghĩ xa xôi gì nhiều về đứa con
và tuổi già. Nhưng từ da thịt, từ tim, một đòi hỏi sinh sôi: đứa con. Tạo hóa đã
làm cho con người chị không toàn vẹn về hình dáng, còn tất cả đều còn
nguyên vẹn, đầy đủ như những người bình thường. Còn có hơn ở chỗ trái tim
chị to và đập rất khỏe”, “nỗi khát khao trĩu nặng tim chị” (Đứa con và người
đàn bà tàn tật - Y Ban).
Quyết liệt khi diễn tả những niềm khát khao của cả giới đàn bà, nhưng
cũng có khi giọng trữ tình đằm thắm trở thành giọng chủ âm. Trong văn của
bốn cây bút nữ, đặc biệt là ở Thu Huệ và Y Ban, thường có một cái gì đó
111
không thuần nhất, thậm chí đối chọi nhau, lúc bạo liệt táo tợn, lại có lúc dịu
dàng đến bất ngờ. Với Y Ban, đằng sau những trang viết trữ tình, những câu
chữ ngọt ngào dịu nhẹ là cái nhìn mạnh mẽ, quyết liệt, thẳng thắn và trực diện
vào những vấn đề của cuộc sống (Vùng sáng kí ức, Và anh 1/3 cuộc đời em...).
“Chao chát và dịu dàng, thơ ngây và từng trải, đớn đau và tin tưởng cứ trộn
lẫn trong văn Nguyễn Thị Thu Huệ”[117]. Bên cạnh một Thu Huệ mạnh mẽ
và bạo liệt khi để cho nhân vật của mình chủ động bộc lộ những khát khao yêu
đương, kể cả những ham muốn thể xác: “tôi tự động nằm xuống cát. Tôi cần
anh, đã tìm anh và dâng hiến cho anh” (Cát đợi), với những trang viết khác
đầy giọng điệu chất vấn đay đả, có lúc chị lại trở lại với cái vẻ dịu dàng đằm
thắm rất mềm mại. Những trang viết trữ tình được thể hiện trong cách sử dụng
ngôn từ, hình ảnh, trong cách miêu tả những rung động nội tâm: “Biển về
đêm, nồng nàn vị quyến luyến. Biển hùng vĩ, bao la đến vô cùng. Chẳng còn
lại gì, cát vẫn là cát, gió thổi bay vô tư hào phóng. Một triền cát ráp sạo vàng
tươi sáng dưới chân trời xanh như hóa thạch” (Cát đợi). Bằng giọng điệu trữ
tình, tác giả đã để mặc ngòi bút tái hiện một thực trạng tiềm thức: “tôi bỗng
thấy mình bé tí tẹo, lơ lửng giữa một khoảng không thăm thẳm cao và mịt
mùng sóng” (Mùa đông ấm áp). Hà Nội đêm cuối đông trong con mắt của một
nhà văn nữ lại mang dáng dấp của một thiếu nữ: “Hà Nội cuối đông, đêm
xuống mù sương. Tất cả như lấp ló sau tấm voan mỏng che khuôn mặt hồi hộp
xinh đẹp đã hóa trang kĩ của cô dâu chuẩn bị về nhà chồng” (Rượu cúc -
Nguyễn Thị Thu Huệ).
Với chất giọng trữ tình, đằm thắm một mặt đã cho phép khơi sâu vào
cảm xúc chủ quan của nhân vật, mặt khác lại khơi gợi ở người đọc những
khoảnh khắc rung động trong tâm hồn giữa dòng chảy hỗn độn của cuộc sống.
Lòng người cũng trở nên nhẹ nhõm khi bắt gặp khung cảnh nên thơ được viết
nên từ trái tim đa cảm của một tâm hồn lãng mạn: “Mưa êm đềm như giấc mơ
trẻ nhỏ. Không có tiếng gió gào, chớp giật hay sấm sét, mây mù, chỉ có những
sợi nước trong lành giăng giăng thành tơ nối đất trời với nhau” (Chút lãng
mạn trong mưa - Lý Lan). Cuộc sống lại trở nên ấm áp và thân thương khi con
112
người có những phút giây xao động: “Chiều muộn dần, người đi làm về đã
vãn... Đối với Thảo đây là giờ đẹp nhất trong một ngày. Nó không sáng cũng
chưa tối, nó bảng lảng, mơ màng như sương như khói... Chiều thứ bảy, trời
không nắng. Gió thừa thải rong ruổi trên các con đường, hẻm phố khô rang,
nghe rõ tiếng lá rơi xào xạc dưới chân người” (Thời gian của mỗi người -
Nguyễn Thị Thu Huệ). Không đạt được thỏa nguyện trong tình yêu, nhân vật
của Phan Thị Vàng Anh lại trở về cái thế giới của mình để cảm nhận sự ngọt
ngào mà thiên nhiên đã ban tặng: “Tôi hít một hơi dài trong gió đêm như cố
thu hết hương hoa bạch đàn, thiên lí hai bên ngào ngạt” (Sau những hẹn hò).
Dù với tính chất đậm - nhạt khác nhau, song sự tồn tại cả “hai mặt đối
lập” này trong cùng một cây bút không phải là điều khó lí giải. Bản tính nữ và
khát vọng được đấu tranh cho sự bình quyền, được lên tiếng trước những bất
công trong đời sống, trước những thực trạng tinh thần của con người đã tạo
nên “tính đa cực” của ngòi bút. Khảo sát một số sắc thái giọng điệu trong
truyện ngắn bốn cây bút nữ đã cho thấy những khả năng nắm bắt hiện thực đời
sống và thái độ của người viết trước hiện thực. Mỗi người trong số họ, dù
thiên về những sắc thái giọng điệu khác nhau nhưng nó là bằng chứng của sự
đổi mới tư duy văn học với sự giải phóng ý thức cá nhân - một yêu cầu vừa
mang tính nội tại, vừa chịu sự tác động của xu thế thời đại.
*
Từ những phương diện cơ bản của nghệ thuật trần thuật trong truyện
ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Y Ban, Lý Lan là cốt truyện,
tình huống, ngôn ngữ và giọng điệu; chúng tôi nhận thấy: tư duy hướng nội là
một đặc điểm định tính đã phần nào chi phối đến các phương thức biểu đạt.
Nhiều hình thức nghệ thuật đã được các tác giả khéo léo đan cài và sử dụng
phù hợp với việc biểu đạt tâm trạng - đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật.
Tùy theo các vấn đề và ở các góc nhìn, với các cách biểu đạt khác nhau, các
chị đã có một gương mặt riêng trong thể loại này và điều đó góp phần vào sự
113
vận động, phát triển của truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới.
PHẦN KẾT LUẬN
1. Vào khoảng hai thập kỷ cuối của thế kỷ XX, đời sống văn học nước
ta đã có những biến chuyển mạnh mẽ trên tinh thần đổi mới với xu hướng mở
rộng tính chất dân chủ. Quá trình đổi mới này diễn ra trên cả bề rộng và bề
sâu, ở cả phương diện thể loại và hướng tiếp cận đời sống. Sự phong phú về
đội ngũ viết, sự đa dang về tác phẩm và sự bùng nổ cá tính sáng tạo đã khiến
người ta không khỏi nghĩ đến một thời kì hoàng kim của văn học những năm
1930 - 1945. Môi trường sáng tác thuận lợi đã mở ra những khả năng lớn cho
hoạt động sáng tạo trong đó có văn học nghệ thuật. Nằm trong xu hướng
chuyển đổi đó, truyện ngắn với những thành tựu và sự cách tân trở thành thể
loại xung kích và nòng cốt trong việc góp phần tạo nên thành tựu của văn học
giai đoạn này.
2. Cùng với sự vận động của thể loại truyện ngắn sau 1975, đặc biệt từ
thời kì đổi mới là sự xuất hiện đồng loạt, tự tin và có ấn tượng của những cây
bút nữ. Sự bổ sung về đội ngũ, sự phá cách và đặc trưng trong việc chiếm lĩnh
hiện thực đời sống đã làm nên một thời kì truyện ngắn nữ khởi sắc. Cũng như
với bất kì một giai đoạn văn học nào sẽ có những cây bút nổi trội và những
cây bút chưa thực sự gây được ấn tượng với độc giả nhưng rõ ràng, bằng vào
không ít tác phẩm của mình họ đã chứng tỏ được khả năng và niềm đam mê
sáng tạo nghệ thuật. Không ít cây bút đã tạo được ấn tượng trong tâm lí tiếp
nhận của người đọc. Trong vườn hoa nhiều hương sắc đó bốn cây bút nữ
Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan và Y Ban nổi lên là những
cây bút có nhiều truyện ngắn đặc sắc cũng như đã gặt hái được những giải
thưởng lớn. Mỗi người trong số họ, bên cạnh những đặc điểm tương đồng đã
114
chọn cho mình một lối đi riêng. Tiếp cận với sáng tác của bốn cây bút nữ này
ở hai phương diện cơ bản của sáng tạo nghệ thuật là cảm hứng nghệ thuật và
thế giới nhân vật có thể thấy được dấu ấn đặc trưng trong cách tiếp cận đời
sống, trong cách nhìn con người và cuộc đời của các chị.
Với nhiều hướng tiếp cận khác nhau đến đời sống, truyện ngắn của bốn
cây bút nữ này thể hiện ba cảm hứng cơ bản: cảm hứng bi kịch, cảm hứng
ngợi ca và cảm hứng chiêm nghiệm, triết lí trong đó cảm hứng bi kịch là cảm
hứng chủ đạo mà từ sự chi phối của nguồn cảm hứng này mảng hiện thực
được hướng tới nhiều nhất trong các sáng tác là tình yêu, hôn nhân và gia
đình. Cũng chính ở đề tài này, các cây bút đã bộc lộ sự mẫn cảm bản năng đặc
biệt từ phía người viết trong cách tiếp cận và lí giải nhiều vấn đề của đời sống.
Ở mảng đề tài này, “họ đã nói lên được những gì họ cảm nhận - những điều
mà bao phụ nữ trước kia cũng cảm nhận được nhưng không thể nói ra" - bằng
sự trải nghiệm của chính mình. Trên dòng mạch chung của truyện ngắn thời kì
đổi mới, truyện ngắn của bốn cây bút nữ này cũng đã đưa vào tác phẩm nhiều
chất liệu mới, áp sát hiện thực đời sống với cái nhìn mới mẻ khơi gợi ở người
đọc khả năng đối thoại và suy ngẫm.
Quan niệm con người cá nhân, cá thể qua lăng kính của bốn cây bút nữ
này đã được chuyển hóa bằng những hình tượng nhân vật. Thế giới nhân vật
trong sáng tác của các chị rất đa dạng và phong phú, mỗi người một số phận,
một cuộc đời nhưng các tác giả lại có sự gặp gỡ trong cách xây dựng nhân vật
khu biệt ở hai loại hình: nhân vật tính cách và nhân vật cô đơn mà đa phần
trong số họ là nhân vật nữ. Quan niệm “hoàn cảnh tạo nên tính cách và tính
cách tạo nên số phận” đã được khúc xạ trong nhiều sáng tác của bốn cây bút
nữ này làm nên một thế giới nhân vật sống động. Sự xuất hiện với tính chất
đậm đặc và tập trung của loại hình nhân vật cô đơn đã cho thấy một quan niệm
nghệ thuật đầy tính nữ thể hiện tư duy hướng nội để phân tích và biểu đạt thế
giới tâm hồn con người. Con người được soi chiếu ở nhiều tầng bậc, cả ý thức
và vô thức, con người cá nhân, con người đời thường và con người xã hội. Sắc
115
thái nữ ở bốn cây bút nữ này được thể hiện rõ nhất trong cách biểu hiện con
người với hiện thực phong phú và phức tạp của thế giới tâm linh và tâm trạng.
Đây cũng là một biểu hiện của xu hướng chuyển đổi từ hướng ngoại vào
hướng nội của dòng chảy văn học thời kì đổi mới.
3. Tiếp cận với truyện ngắn bốn cây bút nữ này từ phương diện nghệ
thuật như cốt truyện, tình huống, ngôn ngữ và giọng điệu có thể thấy rằng, một
mặt các cây bút nữ đã kế thừa và phát huy những phương thức nghệ thuật
truyền thống, mặt khác đã khẳng định được đặc trưng riêng của truyện ngắn
nữ thời kì này. Với nghệ thuật tạo tình huống mang dấu ấn của nữ tính, với lối
sử dụng ngôn từ bằng sự mẫn cảm bản năng, lối xây dựng cốt truyện thiên về
biểu đạt tâm trạng, các cây bút này đã tỏ rõ sự nhạy cảm trong việc kết hợp
các yếu tố hình thức nghệ thuật để xây dựng nên thế giới nghệ thuật của mình.
Cùng có một âm hưởng chung là giọng tâm tình, đối thoại, mỗi cây bút đã bộc
lộ những sắc thái giọng điệu khác nhau làm nên dấu ấn riêng của từng người.
Bên cạnh một Thu Huệ với giọng điệu từng trải, già dặn so với tuổi đời, là một
Y Ban trữ tình đằm thắm, một Phan Thị Vàng Anh hài hước, dí dỏm và thâm
thúy khi thể hiện tâm lí của lứa tuổi mới lớn và một Lý Lan thâm trầm nhưng
cũng không kém phần sắc sảo. Những biểu hiện bước đầu của sự đa dạng và
linh hoạt về giọng điệu ngay trong cùng một cây bút đó là một đặc điểm dễ
nhận thấy và điều này hứa hẹn một sự phát triển mới trong tương tai với các
phong cách truyện ngắn.
4. Qua việc tìm hiểu truyện ngắn của bốn cây bút nữ Nguyễn Thị Thu
Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan và Y Ban, chúng tôi hy vọng sẽ có được
những phác thảo ban đầu về đặc trưng trong sáng tác của các nhà văn nữ này
trên cơ sở đó sẽ có cái nhìn rộng hơn về truyện ngắn của các nhà văn nữ thời
kì đổi mới đặc biệt là truyện ngắn của những cây bút ra đời sau 1975. Từ đây
chúng tôi hi vọng sẽ góp thêm một góc nhìn vào một giai đoạn mới của văn
học - văn học Việt Nam sau chiến tranh. Trong quá trình thực hiện, chúng tôi
cũng ý thức được rằng, tiếp cận với một mảng sáng tác là truyện ngắn một số
116
cây bút nữ thời kì đổi mới, tức là tiếp cận với “cái đương đại chưa hoàn
thành”, vẫn đang trong quá trình vận động là một điều không dễ, nhất là đối
với chúng tôi, những người mới bước chân vào con đường nghiên cứu. Chúng
tôi coi đây là sự nỗ lực bước đầu và hy vọng vào chặng đường đang mở ra
trước mắt, khi mà đội ngũ những nhà văn trẻ này có thêm những thành tựu
mới được hứa hẹn từ các tác phẩm hôm nay và chúng tôi cũng đã trải qua
những bước đi ban đầu trên con đường khoa học đầy gian khổ.
DANH MỤC TÁC PHẨM TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN THỊ THU HUỆ,
PHAN THỊ VÀNG ANH, Y BAN, LÝ LAN
1. PHAN THỊ VÀNG ANH
1.1. Khi người ta trẻ. Nxb Hội nhà văn, 1995
1.2. Hội chợ. Nxb Trẻ, 1995
2. Y BAN
2.1. Người đàn bà có ma lực. Nxb Hà Nội, 1993
2.1. Người đàn bà sinh ra trong bóng đêm. Nxb Hội nhà văn, 1995
2.3. Vùng sáng kí ức. Nxb Hội nhà văn, 1996
2.4. Cẩm cù. Nxb Hà Nội, 2001
2.5. Miếu hoang. Nxb Thanh niên, 2002
2.6. Chợ rằm dưới gốc dâu cổ thụ.Nxb Hội nhà văn, 2003
2.7. Cưới chợ và những truyện ngắn mới. Nxb Thanh niên, 2004
3. NGUYỄN THỊ THU HUỆ
3.1 Cát đợi. Nxb Hà Nội, 1992
3.2 Hậu thiên đường. Nxb Hội nhà văn, 1993
3.3. Phù thủy. Nxb Văn học, 1995
3.4. Nào ta cùng lãng quên. Nxb Hội nhà văn, 2003
4. LÝ LAN
4.1. Đất khách (tái bản). Nxb Văn học, 1995
4.2. Phượng. Nxb Trẻ, 1996
4.3. Thả diều. Nxb Trẻ, 1996
117
4.4. Chút lãng mạn trong mưa (tái bản). Nxb Trẻ. 1996
4.5. Dị mộng. Nxb Trẻ, 1999
4.6. Quá chén. Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 2000
4.7. Một góc phố Tàu. Tập truyện và kí. Nxb Hội nhà văn, 2001.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mã Hồng Anh. Sự đổi mới ngôn ngữ trong văn xuôi Việt Nam hiện
đại. Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số 11-12 năm 2000.
2. Vũ Tuấn Anh. Đổi mới văn học vì sự phát triển. Tạp chí Văn học số
4/1995
3. Vũ Tuấn Anh. Quá trình văn học đương đại nhìn từ phương diện thể
loại. Tạp chí Văn học số 9/1996
4. Y Ban. Không kết thúc bằng bi kịch. Báo Văn nghệ trẻ số 10 (224),
11/3/2001
5. Y Ban. Những trang viết đầu tiên. Tạp chí Tác phẩm mới số 1/1998
6. Nguyễn Thị Bình. Mấy nhận xét về nhân vật của văn xuôi Việt Nam
sau 1975 (In trong Năm mươi năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng
Tám). Nxb Đại học quốc gia, 1996).
7. Nguyễn Thị Bình. Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam
sau 1975. Luận án tiến sỹ khoa học ngữ văn, ĐHSP Hà Nội 1996.
8. Xuân Cang. Y Ban và những thân phận đàn bà. Báo Văn nghệ số 27
(5/3/2003)
9. Nguyễn Minh Châu. Trang giấy trước đèn. Tôn Phương Lan sưu tầm,
tuyển chọn và giới thiệu. Nxb KHXH, tái bản lần thứ nhất, 2002.
10. Đặng Anh Đào. Một hiện tượng mới trong hình thức kể chuyện hôm
nay. Tạp chí Văn học số 6/1991
118
11. Đặng Anh Đào. Truyện cực ngắn. Tạp chí Văn học số 2/1996
12. Đặng Anh Đào. Từ nguyên tắc đa âm đến một số hiện tượng văn
học Việt Nam. Tạp chí Văn học số 6/1990
13. Phan Cự Đệ. Ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ văn xuôi. Tạp chí Nhà văn
số 11/2001.
14. Phan Cự Đệ. Cần định hướng cho công cuộc đổi mới tư duy văn
học. Tạp chí Văn học số 2/1989.
15. Trần Thanh Địch. Tìm hiểu truyện ngắn. Nxb Tác phẩm mới, 1998.
16. Phong Điệp - Điệp Anh. Gặp hai nữ thủ khoa truyện ngắn trẻ
(Nguyễn Ngọc Tư nhà văn sơn nữ, Đỗ Bích Thúy một sự lựa chọn). Báo Văn
nghệ trẻ số 10 (224).
17. Hà Minh Đức (chủ biên). Lí luận văn học. Nxb Giáo dục, 2001.
18. Hoàng Thị Hồng Hà. Truyện ngắn nữ và xu hướng tự nghiệm. Tạp
chí Văn hóa - Văn nghệ Công an số 10/2003.
19. Hoàng Ngọc Hà. Những nung nấu nghệ thuật về Hà Nội hào hoa
(Trích báo cáo kết quả cuộc thi viết tiểu thuyết và truyện ngắn về đề tài Hà
Nội). Báo Văn nghệ số 44 (1784), 30/10/1993.
20. Nguyễn Hà. Cảm hứng bi kịch nhân văn trong tiểu thuyết Việt Nam
nửa sau thập niên 80. Tạp chí Văn học số 3/2000.
21. Lê Thị Đức Hạnh. Những tác phẩm tiêu biểu của một cây bút nữ.
Tạp chí Nhà văn số 6/2003.
22. Lê Thị Đức Hạnh. Tiểu thuyết Đất làng trong quá trình sáng tác của
Nguyễn Thị Ngọc Tú. Tạp chí Văn học số 1/1977.
23. Lê Thị Tuyết Hạnh. Thời gian nghệ thuật trong cấu trúc văn bản tự
sự (qua các truyện ngắn Việt Nam 1975 - 1995). Nxb Đại học Sư phạm, 2003.
24. Võ Thị Hảo. Biển cứu rỗi. Nxb Hà Nội, 1993.
25. Võ Thị Hảo. Truyện ngắn chọn lọc. Nxb Hội nhà văn, 1995.
26. Võ Thị Hảo. Truyện ngắn - sự trớ trêu trong khung hẹp. Tạp chí
119
Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam số 10/1996.
27. Bùi Hiển. Vài ý nghĩ về truyện các cây bút trẻ gần đây. Tạp chí Diễn
đàn Văn nghệ Việt Nam số 1/2001.
28. Phạm Hoa. Giới thiệu tập “Cát đợi” của Nguyễn Thị Thu Huệ. Tạp
chí Văn nghệ quân đội số 2/1989.
29. Nguyễn Thị Hoa. Nhân vật nữ trong truyện ngắn ba tác giả nữ Y
Ban, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ. Luận văn thạc sỹ khoa học. ĐHSP,
2003.
30. Nguyễn Thái Hoà. Những vấn đề thi pháp của truyện. Nxb Giáo
dục, 2000.
31. Nguyễn Việt Hoà. Lãng quên và hy vọng. Nhân đọc Nào ta cùng
lãng quên - tập truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ. Tạp chí Văn hoá - Văn
nghệ công an số 12/2003.
32. Nguyễn Chí Hoan. Bơ vơ trong cái đời thường (Đọc truyện ngắn
Phan Thị Vàng Anh - Nguyễn Trọng Nghĩa). Người Hà Nội - nguyệt san số
4/2004.
33. Phạm Sông Hồng. Những vùng lặng. Nxb Hội nhà văn, 1993.
34. Nguyễn Thị Thu Huệ. Những giấc mơ dài. Kịch bản văn học. Nxb
Hội nhà văn, 2004.
35. Mai Hương. Nhìn lại văn xuôi 1992. Tạp chí Văn học số 3/1993
36. Lê Thị Hường. Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam
giai đoạn 1975 - 1995. Luận án phó tiến sỹ khoa học ngữ văn. ĐHKHXH và
NV, Hà Nội, 1995.
37. Lê Thị Hường. Quan niệm con người cô đơn trong truyện ngắn hôm
nay. Tạp chí Văn học số 2/1994.
38. Nguyễn Khải. Đường trong mây. Nxb Văn học, 1970.
39. Khrapchencô. Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn
học. Nxb Tác phẩm mới, 1978.
120
40. Lê Minh Khuê. Truyện ngắn chọn lọc. Nxb Phụ nữ, 2002.
41. Lý Lan, Trần Thùy Mai. Cỏ hát. (Tập truyện). Nxb Tác phẩm mới,
1984.
42. Lý Lan. Hạnh phúc vì được về nhà mình được sống giữa những
người thân. Tạp chí Người đẹp số ra ngày 15/11/2003.
43. Lý Lan. Khi nhà văn khóc. Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 1999.
44. Lý Lan. Lệ Mai. Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 1997.
45. Lý Lan. Sài Gòn - Chợ Lớn rong chơi. Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí
Minh, 2000.
46. Tôn Phương Lan. Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu. Tái
bản lần 1. Nxb Khoa học xã hội, 2002
47. Tôn Phương Lan. Một vài suy nghĩ về con người trong văn xuôi thời
kì đổi mới. Tạp chí Văn học số 9/2001
48. Phong Lê. Văn học những năm 80. Tạp chí Văn học số 3/1983
49. Hoàng Thị Loan. Phan Thị Vàng Anh đâu rồi bầu trời màu xanh.
Báo An ninh thế giới cuối tháng 3 năm 2004.
50. Chu Giang Nguyễn Văn Lưu. Luận chiến văn chương. Nxb Văn
học, 1995.
51. Phương Lựu. Suy nghĩ về đặc điểm của nữ văn sỹ. Tạp chí Tác
phẩm mới số 3/1998.
52. Nguyễn Đăng Na. Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập 1.
Nxb Giáo dục, 1997
53. Nhiều tác giả. Bốn mươi truyện rất ngắn - thế giới mới. Nxb Hội
nhà văn, 1994.
54. Nhiều tác giả. Các nhà văn nữ (Chuyên luận). Nxb Phụ nữ, 1992
55. Nhiều tác giả. Chín truyện ngắn. Nxb Hội nhà văn, 1992
56. Nhiều tác giả. Cơ sở lí luận văn học. Tập 2. Nxb Đại học và trung
học chuyên nghiệp, 1985
121
57. Nhiều tác giả. Dẫn luận nghiên cứu văn học. Nxb Giáo dục, 1998.
58. Nhiều tác giả. Gặp gỡ các nhà văn trẻ. Tạp chí Tác phẩm mới số
3/1996.
59. Nhiều tác giả. Miêu cẩm (tập truyện ngắn của các tác giả nam). Nxb
Hội nhà văn, 1997.
60. Nhiều tác giả (Tạ Duy Anh biên soạn). Nghệ thuật viết truyện ngắn
và kí. Nxb Thanh niên, 2000.
61. Nhiều tác giả. Nhà văn Việt Nam hiện đại. Nxb Hội nhà văn, 1997
62. Nhiều tác giả. Nhà văn Việt Nam thế kỷ XX, tập 8. Nxb Hội nhà văn,
2001.
63. Nhiều tác giả. Nhà văn Việt Nam thế kỷ XX, tập 11. Nxb Hội nhà
văn, 2001.
64. Nhiều tác giả. Những gương mặt văn xuôi trẻ cuối thế kỉ XX. Nxb
Hội nhà văn, 2000.
65. Nhiều tác giả. Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học. Viện Văn
học, 1999.
66. Nhiều tác giả. Trò chuyện với những người viết trẻ trưởng thành sau
30/4/1975. Văn nghệ trẻ số 18, 19 ra ngày 2+9/5/2004.
67. Nhiều tác giả. Truyện ngắn hay 1998 (các ý kiến trong hội thảo).
Văn nghệ trẻ số 13/1999
68. Nhiều tác giả. Từ điển thuật ngữ văn học (In lần 2). Nxb Đại học
quốc gia Hà Nội, 1997
69. Nhiều tác giả. Văn học 1975 - 1985 tác phẩm và dư luận. Nxb Hội
nhà văn, 1997.
70. Nhiều tác giả. Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam.
Nxb Giáo dục 1997.
71. Dạ Ngân - Nguyễn Quang Thân. Hai mươi năm tình yêu và tác
122
phẩm. Nxb Phụ nữ, 2001.
72. Dạ Ngân. Những chốc lát tuyệt vời. (Diễn đàn: Truyện ngắn của
chúng ta hôm nay, nhất là những cây bút trẻ có gì mới). Tạp chí Diễn đàn văn
nghệ Việt Nam số 10/1996.
73. Tuyết Ngân. Phan Thị Vàng Anh và Trần Thanh Hà hai phong cách
truyện ngắn trẻ. Báo Văn nghệ trẻ số 18 (232), 5/6/2001
74. Tuyết Ngân. Thập kỉ 90 và sự bùng nổ văn học trẻ. Báo Văn nghệ
trẻ số 1-2 (215, 216) ra ngày 7 - 14 tháng 1/2004
75. Lê Thành Nghị. Truyện ngắn dự thi 1989 - 1990 những nhận xét sơ
lược đầu tiên. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 10/1989
76. Nguyên Ngọc. Đôi nét về một tư duy văn học mới đang hình thành.
Tạp chí Văn học số 4/1990
77. Nguyên Ngọc. Văn xuôi sau 1975, thử thăm dò đôi nét về quy luật
phát triển. Tạp chí Văn học số 4/1991
78. Bình Nguyên. Vài suy nghĩ về các cây bút trẻ. Tạp chí Diễn đàn văn
nghệ Việt Nam số 4/1994
79. Đào Thuỷ Nguyên. Cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật trong
sáng tác của Nguyễn Khải. Luận án TSKH văn học. Viện Văn học, 2002.
80. Phạm Xuân Nguyên dẫn chuyện. Lan man với Nguyễn Thị Thu Huệ.
Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số 2/1994
81. Phạm Xuân Nguyên. Tản mạn bên lề cuộc thi. Tạp chí Văn nghệ
quân đội số 10/1993.
82. Phạm Xuân Nguyên. Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay. Tạp chí
Văn học số 2/1994.
83. Vương Trí Nhàn. Phụ nữ và sáng tác văn chương (Trao đổi ý kiến).
Tạp chí Văn học số 6/1996
84. Vương Trí Nhàn. Sổ tay truyện ngắn. Nxb Hội nhà văn, 1998
85. Vương Trí Nhàn. Mạch sống tự nhiên - Một vài cảm nghĩ về văn
123
xuôi Lí Lan. Tạp chí Nhà văn số 3/2001.
86. Vương Trí Nhàn. Không nên dừng lại ở những xưng tụng ồn ào
(Mấy vấn đề đặt ra với công tác phát hiện và bồi dưỡng lực lượng viết trẻ).
Tạp chí Diễn đàn văn nghệ số 1/1994
87. Kỳ Phong. Những cuộc đời không yên ả (Các cây bút trẻ đối thoại
cùng trang viết. Báo Văn nghệ trẻ số 10 (224), 11/3/2001.
88. Hồ Phương. Thế hệ thứ ba. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 10/1982
89. Huỳnh Như Phương. Những tín hiệu mới. Nxb Hội nhà văn, 1994.
90. Huỳnh Như Phương. Trong sân chơi của Vàng Anh. In trong Khi
người ta trẻ. Nxb Hội nhà văn, 1995
91. Nguyễn Đức Quang - Ngô Vĩnh Bình. Phạm Hoa. Chúng tôi phỏng
vấn bốn cây bút nữ. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 3/1993
92. Nguyễn Hoàng Sơn. Thu Huệ - từ giải “tác phẩm tuổi xanh” đến
tặng thưởng của Hội nhà văn. Tranh luận văn học. Nxb Văn học 2000.
93. Nguyễn Thanh Sơn. Phê bình văn học của tôi. Nxb Trẻ, 2002.
94. Trần Sơn (dịch). Thực trạng văn học Trung Quốc thời gian qua.
Báo Văn nghệ số 40, 2/10/2004.
95. Từ Sơn. Nghĩ về công chúng văn học của chúng ta hiện nay. Tạp chí
Văn học số 4/1990.
96. Trần Đình Sử. Dẫn luận thi pháp học. Nxb Giáo dục, 1998
97. Vũ Đức Tân. Văn xuôi của một số cây bút nữ. Báo Người Hà Nội số
10, 7/3/2003
98. Nguyễn Thị Minh Thái. Ấn tượng về nhân vật nữ của Nguyễn Minh
Châu. Tạp chí Văn học số 3/1985.
99. Vân Thanh. Nguyễn Thị Như Trang với đề tài chiến đấu. Tạp chí
Văn học số 1/1978.
100. Ngô Thảo. Bốn thế hệ nhà văn. Tạp chí Văn học số 9/1995
101. Nguyễn Thị Thành Thắng. Phác thảo vài nét về diện mạo truyện
ngắn đương đại và sự góp mặt của một số cây bút nữ. Tạp chí Văn Tp Hồ Chí
124
Minh số 7-8/2004
102. Bùi Việt Thắng. Bình luận truyện ngắn. Nxb Văn học, 1999
103. Bùi Việt Thắng. Một bước đi của truyện ngắn. Tạp chí Nhà văn số
1/2000.
104. Bùi Việt Thắng. Truyện ngắn những vấn đề lí thuyết và thực tiễn
thể loại. Nxb Đại học Quốc gia, 2000.
105. Nguyễn Huy Thiệp. Truyện ngắn chọn lọc. Nxb Hội nhà văn,
1996.
106. Xuân Thiều. Những giọng văn trẻ trung, mới mẻ (Nhân đọc truyện
ngắn dự thi của Tạp chí Văn nghệ quân đội). Tạp chí Văn nghệ quân đội số
3/1991
107. Anh Thơ. Từ bến sông Thương tới bến Đồng Nai. Tạp chí Văn học
số 7/2002.
108. Bích Thu. Theo dòng văn học. Nxb KHXH, 1998.
109. Bích Thu. Văn xuôi của phái đẹp. Tạp chí Sông Hương số145,
tháng 3/2001
110. Bích Thu. Văn xuôi 1998 - Thực trạng và vấn đề. Tạp chí Văn học
số 1/1999
111. Lý Hoài Thu. Những truyện ngắn hay. Tạp chí Văn nghệ quân đội
số 12/1993
112. Lý Hoài Thu. Sự vận động của các thể loại văn xuôi trong văn học
thời kì đổi mới. Tạp chí Văn hoá nghệ thuật số 1/2002
113. Đỗ Bích Thúy. Sau những mùa trăng. Tập truyện. Nxb Quân đội
nhân dân, 2001.
114. Khuất Quang Thụy. Truyện ngắn duyên nợ và sự ám ảnh. Tạp chí
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số 10/1996
115. Nguyễn Thị Như Trang. Thành tựu và đội ngũ các nhà văn nữ Việt
Nam. Báo Văn nghệ số 33 (18/8/1990)
116. Dương Quỳnh Trang. “Một nửa nhân loại” qua truyện ngắn dự thi
125
của một cây bút nữ. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 6/1994
117. Trần Thị Trường. Truyện ngắn Trần Thị Trường. Nxb Lao động,
1999
118. Truyện ngắn bốn cây bút nữ Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Lý
Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ. Nxb Văn học, 2002.
119. Truyện ngắn các tác giả nữ tuyển chọn 1945 - 1995. Nxb Văn học,
1995
120. Truyện ngắn hay và đoạt giải Tạp chí văn nghệ quân đội (1957 -
2002). Nxb Văn học, 2002.
121. Tuyển văn các tác giả nữ Việt Nam. Nxb Giáo dục, 2001
122. Nguyễn Thị Ngọc Tú. Tuyển truyện ngắn. Nxb Văn học, 1994
123. Đoàn Minh Tuấn. Biển cứu rỗi. Tập truyện ngắn của Võ Thị Hảo,
Nxb Hà Nội 1993. Báo Văn nghệ số 10 (1730), 6/3/1993.
124. Nguyễn Tường (dịch). Những cây bút nữ trên văn đàn Pháp. Báo
Văn nghệ số 31, 31/7/1999
125. Nguyễn Vĩnh. Những quý bà giải nhất văn chương. Báo An ninh
thế giới cuối tháng, số 32, 3/2004
126. Hồ Sỹ Vịnh. Thi pháp truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ. Báo
Văn nghệ số 35 (31/8/2002).
127. Đàm Ngọc Xuyến (dịch). Các nữ sĩ Châu Phi. Báo Văn nghệ số
126
50, 14/12/2002.
PHỤ LỤC:
QUAN NIỆM CỦA MỘT SỐ NHÀ VĂN NỮ
VỀ NGHỀ VĂN
- Thanh Hương: Tôi không xem sáng tác văn học như một công tác, một
nghĩa vụ mà là một hạnh phúc được "tự sự” được thổ lộ, một niềm đam mê.
Chỉ trong sáng tác văn học (dù chỉ trong một chừng mực ít ỏi) tôi mới giãi bày
gửi gắm được những gì tôi vẫn cảm nhận, vẫn hằng yêu mến, khao khát... bộc
bạch được những khía cạnh sâu lắng nhất của tình cảm, của tâm hồn mình”
(Truyện ngắn của các nhà văn nữ. Nxb Giáo dục, 2001).
- Nguyễn Thị Thu Huệ: +Tôi coi văn chương là người bạn chung thủy
của mình. Trong sáng tác tôi không tự thần thánh mình dù đã có những thành
tựu nhất định. Tôi viết theo hứng bất chợt, không bao giờ cố ép mình để viết.
(Truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam. Nxb Giáo dục, 2001).
+ Thường thì phụ nữ viết văn có những sở trường riêng: nhiều tình cảm,
sự uyển chuyển,tinh tế lắm khi ranh ma nữa. Còn nam giới tôi nghĩ hơi khác
chăng” (Chúng tôi phỏng vấn bốn cây bút nữ. Tạp chí Văn nghệ quân đội số
3/1993).
- Vũ Thị Hồng: Tác phẩm của các nhà văn nữ viết về chiến tranh tất
nhiên cũng có những đặc điểm khác với tác phẩm của một nhà văn nam giới.
Lẽ dĩ nhiên là nó ít tiếng súng ùng oàng hơn, ít đi vào những vấn đề có tính
trọng đại, to tát(!). Các chị thường chú trọng khai thác “giới tính” của mình, đi
vào khai thác những mảnh đời thầm lặng, những số phận cá biệt, những đau
thương mất mát người phụ nữ phải gánh chịu trong chiến tranh. Cảm quan tinh
tế, bén nhạy của người phụ nữ giúp họ viết “thật” về giới mình hơn. (Gặp gỡ
một số nhà văn nữ. Tạp chí Tác phẩm mới số 10/1991).
- Trầm Hương: Khi ngồi trước trang giấy, tôi buộc nghĩ mình là nhà văn
để thận trọng và có trách nhiệm với những gì mình đã viết ra... Với nghề văn,
127
tôi đã lao động cần cù, cật lực trên mảnh đất của mình. Tôi cũng không có gì
phàn nàn khi mình là phụ nữ viết văn. Gánh nặng thiên chức và khát vọng
nghề nghiệp kéo họ xuống, đồng thời cũng tạo một sức bật ghê gớm. Thế giới
nhìn qua lỗ kim đàn bà đôi khi phát hiện ra nhiều điều lí thú mà đồng nghiệp
nam không nhìn thấu được. Sự đa cảm của phụ nữ cũng chính là mảnh đất nảy
mầm tài năng của họ. Sự giằng xé giữa cam phận và bứt phá, bình yên và bão
giông, hạnh phúc và bất hạnh cũng đã là một quá trình biến thái đầy đau đớn
đòi hỏi sự dũng cảm, nghị lực (Nhà văn Việt Nam thế kỷ XX. Tập 11. Nxb Hội
nhà văn, 2001).
- Trần Thị Trường: Tôi thấy muốn viết cho mình và cho những người
muốn đọc truyện của mình. Viết trở thành một niềm say mê như say mê tình
yêu (Nhà văn Việt Nam thế kỷ XX. Tập 14. Nxb Hội nhà văn, 2001).
- Hoàng Ngọc Hà : Tôi thấy ở đời bao giờ cũng có Thiện và Ác, và ở
đời mỗi người đều có cái xấu, cái tốt. Nhưng cái tốt thì tiềm ẩn và cái xấu thì
thường bộc lộ. Bởi con người phải chống chọi với cuộc sống khắc nghiệt nên
họ phải gồng mình, giương móng vuốt để chống chọi, để giành giật với đời.
(Nhà văn Việt Nam thế kỷ XX. Tập 8. Nxb Hội nhà văn, 2001).
- Dạ Ngân: Văn chương không phải là nghề như mọi nghề mà đó là con
đường khổ ải cho những người đàn bà cầm bút. (Nhà văn Việt Nam thế kỷ XX.
Tập 8. Nxb Hội nhà văn, 2001).
- Bích Thuận: Nghề văn từ xưa đến nay và trên hành tinh này chỉ đem
lại cho người ta sự vất vả nhọc nhằn, không đem lại sự giàu có. Nhưng nghề
văn cũng đem lại cho ta niềm vui, đam mê, hứng thú để nói lên được điều gì
mình muốn nói. (Nhà văn Việt Nam thế kỷ XX. Tập 11. Nxb Hội nhà văn,
2001).
- Nguyễn Thị Ngọc Hải: Công việc của nghệ sỹ giống như của người
hành khất nhặt lấy mọi điều đã trải qua. Tôi đặc biệt yêu thích tiếp cận được
với chiều sâu giá trị tâm hồn con người, còn thích hơn cả việc đi du lịch khám
128
phá và thụ hưởngvẻ đẹp thiên nhiên. Nhất là đối với con người mang vẻ đẹp
lặng lẽ, không biết canh tranh để phô diễn (Truyện ngắn của các nhà văn nữ
Việt Nam. Nxb Giáo dục, 2001).
- Y Ban: + Người phụ nữ làm văn chương có những khó khăn “vì bên
cạnh người phụ nữ là một gia đình mà văn chương thuờng đỏng đảnh như một
ông chồng khó tính... Nó đòi hỏi sự dâng hiến hết mình (Gặp gỡ các nhà văn
trẻ. Tạp chí Tác phẩm mới số 3/1996).
- Như Bình: Theo tôi, trước hết người phụ nữ viết văn thường mang một
tính cách quyết liệt, mạnh mẽ và bản lĩnh. Nhưng trên tất cả họ có một trái tim
quá nhậy cảm và sâu sắc, tâm hồn của họ phong phú và đa cảm. Ho chịu sự
giằng xé, giày vò của nội tâm. Họ hiểu nỗi đau của họ hơn hết thảy. Việc ghi
lại những cảm xúc này trên trang giấy không ai làm tốt hơn chính họ” (Những
cuộc đời không yên ả. Văn nghệ trẻ số 10 (224), 11/3/2001).
- Võ Thị Hảo: Cảm xúc sáng tạo truyện ngắn có chung tần số với cảm
xúc nữ tính: sự loé sáng, sự thất thường, tính thời khức, sự dẫn dắt tuyệt diệu
cả mẫn cảm bản năng... (Chúng tôi phỏng vấn bốn cây bút nữ. Tạp chí Văn
nghệ quân đội số 3/1993)
- Nguyễn Thị Hồng Ngát: Cuộc sống vốn đẹp. Được sống và viết về
cuộc sống, đó là một hạnh phúc. Tất nhiên mỗi người trong cuộc đời này đều
có một số phận riêng. Một trăm người thì một trăm số phận khác nhau, không
ai giống ai. Đối với người viết dù trải qua một cuộc sống như thế nào - vất vả,
gian truân hay may mắn, hạnh phúc, thành đạt hay thất bại - cũng đều là chất
liệu có ích cho việc sáng tác. (Nhà văn Việt Nam thế kỉ XX. Tập 6. Nxb Hội
nhà văn, 2001).
- Nguyễn Thị Châu Giang: Thực ra cuộc sống của tôi diễn ra rất suôn
sẻ, tốt đẹp. Những người phụ nữ sống quanh tôi cũng không hề gặp bất trắc
trong cuộc sống, song không hiểu sao, tôi luôn cảm thấy họ cô đơn. Người phụ
nữ cô đơn ngay trong chính gia đình của mình, trong cuộc sống hàng ngày mà
129
họ phải đương đầu và họ không có cách gì giải tỏa được. Điều này luôn ám
ảnh tôi, theo đuổi tôi vào từng trang viết. (Những cuộc dời không yên ả - Kỳ
130
Phong. Văn nghệ trẻ số 10 (224), 11/3/2001).