Đại học quốc gia hà nội

Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn

---------------------------------

Phạm Thị Trọng Hiếu

Tư tưởng chỉ đạo và tổ chức thực hiện

giành thắng lợi quyết định của đảng trong

sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử

Hà Nội - 2008

1

Đại học quốc gia hà nội

Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn

----------------------------------

Phạm Thị Trọng Hiếu

Tư tưởng chỉ đạo và tổ chức thực hiện

giành thắng lợi quyết định của đảng trong

sự nghiệp kháng chiến chống mỹ, cứu nước

Chuyên ngành : Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Mã số

: 602256

Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn đình lê

Hà Nội - 2008

2

Ban Chấp hành

Bảng chú thích các chữ cái viết tắt

BCH

Bộ Chính trị BCT

Chủ nghĩa xã hội CNXH

Chủ nghĩa tư bản CNTB

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam MTDTGPMNVN

Miền Bắc Việt Nam MBVN

Miền Nam Việt Nam MNVN

Nhà xuất bản Nxb

Tổng công kích, tổng khởi nghĩa TCK,TKN

Tư bản chủ nghĩa TBCN

3

Xã hội chủ nghĩa XHCN

Mục lục

Trang

1

Mở đầu

8

Chương 1 bối cảnh lịch sử ra đời đường lối kháng chiến chống mỹ, cứu nước của

Đảng ta

1.1. Điều kiện khách quan của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

8

1.2. Điều kiện chủ quan của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

28

44

Chương 2 Quá trình Đảng chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết định

trong kháng chiến chống mỹ, cứu nước

2.1. Trong những năm chống “chiến tranh đặc biệt” (1961-1965)

44

2.2. Chỉ đạo giành thắng lợi quân sự, chính trị trong những năm (1965-

68

1968)

2.3. Chỉ đạo tiến lên giành thắng lợi quyết định trong những năm (1969 - 1973)

102

130

Chương 3 một số vấn đề rút ra từ chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết

định của Đảng trong kháng chiến chống mỹ, cứu nước

3.1. Bám sát thực tiễn cách mạng, đề ra đường lối chiến lược đúng đắn, tổ

130

chức thực hiện sáng tạo, linh hoạt, hiệu quả cao

133

3.2. Tuân thủ những nguyên tắc trong thực hành tư tưởng chiến lược tấn công; thực hiện những “quả đấm chủ lực”, đảm bảo giành thắng lợi quyết định, buộc địch từng bước xuống thang chiến tranh

139

3.3. Trên cơ sở quán triệt tư tưởng chiến lược tấn công, nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa đánh lâu dài với tranh thủ thời cơ, giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn, tạo ra bước ngoặt mới về chiến lược, làm thay đổi cục diện chiến tranh

144

3.4 Đánh giá đúng kẻ thù, nắm vững mục tiêu cuối cùng của cách mạng, để ra các nghị quyết đúng đắn để chỉ đạo toàn quân, toàn dân, giành thắng lợi quyết định trong những điều kiện cụ thể, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn

149

3.5 Nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo quy luật chiến tranh cách mạng, biết khơi dậy và phát huy cao độ vai trò của nhân tố con người trong việc thực hiện các quyết định chiến lược

161

Kết luận

165

Tài liệu tham khảo

175

Phụ lục

4

Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài

Kháng chiến chống Mỹ cứu nước là cuộc đấu tranh gay go, ác liệt nhất

trong lịch sử chống ngoại xâm của nhân dân ta. Thắng lợi của cuộc đấu tranh

này có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam và thế

giới. Thắng lợi này “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong

những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ

nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như

một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế

to lớn và có tính thời đại sâu sắc” [42, tr.471]. Nó đã chấm dứt sự thống trị

của chủ nghĩa đế quốc và xóa bỏ chế độ phong kiến ở nước ta, đưa nước ta

bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã

hội. Đến nay, ý nghĩa lịch sử và những bài học kinh nghiệm của cuộc kháng

chiến chống Mỹ, cứu nước vẫn còn giữ nguyên giá trị, đặc biệt trong giai

đoạn hiện nay, những kinh nghiệm đó sẽ góp phần quan trọng giúp ta thực

hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã chiến đấu anh dũng, đánh

thắng các chiến lược chiến tranh nằm trong chiến lược toàn cầu phản

cách mạng mà Mỹ đã áp dụng ở Việt Nam. Trong thời gian từ 1961 đến

1975, với sự tập trung cao nhất về tài chính và quân sự, Mỹ đã triển khai

các chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam

hoá chiến tranh” nhằm mục đích tiêu diệt lực lượng cách mạng của ta,

ngăn chặn làn sóng chủ nghĩa cộng sản tràn xuống khu vực Đông Nam á.

Sớm nhận thấy đế quốc Mỹ là một kẻ thù nguy hiểm có sức mạnh tài

chính và quân sự vô cùng to lớn, chúng ta không thể cùng một lúc đánh

5

bại cả đế quốc Mỹ và nguỵ quân, nguỵ quyền nên Đảng ta đã có một

quyết định quan trọng trong chỉ đạo chiến lược kiềm chế địch, giành

thắng lợi từng bước tiến lên giành thắng lợi quyết định và từ đó tạo nên

chiến thắng lịch sử mùa xuân 1975. Đó là bước quá độ từ thắng lợi quyết

định trên chiến trường trước khi tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn (có

nghĩa là phải “đánh cho Mỹ cút” rồi mới “đánh cho nguỵ nhào”). Nội

dung của thắng lợi quyết định: Mở bước phát triển cho cách mạng miền

Nam, từ thắng lợi đó, tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam là xu thế tất

yếu, không thể đảo ngược. Với việc Mỹ phải ký Hiệp định Pari năm 1973,

chấp nhận rút quân khỏi miền Nam, chúng ta đã giành được thắng lợi

quyết định. Thắng lợi quyết định đó đã đè bẹp ý chí chiến đấu của kẻ thù,

tạo cơ sở và tiền đề vững chắc để chúng ta tiến lên giải phóng hoàn toàn

miền nam, thống nhất đất nước. Có thể nói, việc chỉ đạo và tổ chức thực

hiện giành thắng lợi quyết định là sự sáng tạo lớn nhất của Đảng trong sự

nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nó đã kế thừa và phát huy kinh

nghiệm đấu tranh của Cách mạng Tháng 8 và 9 năm kháng chiến lên

đỉnh cao.

Đi sâu tìm hiểu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung và

quá trình chỉ đạo giành thắng lợi quyết định nói riêng sẽ giúp ta thấy được sự

khôn khéo, tài tình và sáng suốt của Đảng, làm phong phú thêm những trang

sử vẻ vang, oanh liệt của Đảng. Nghiên cứu vấn đề này còn góp phần lý giải

rõ hơn nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của cuộc kháng chiến; đồng thời từ quá

trình chỉ đạo giành thắng lợi quyết định này có thể rút ra những bài học kinh

nghiệm cần thiết cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Với ý nghĩa lý luận và thực tiễn trên đây, chúng tôi chọn “Tư tưởng

chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết định của Đảng trong sự

nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước” làm đề tài luận văn Thạc sỹ lịch

6

sử của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Chiến tranh Việt Nam (1954 - 1975) là đề tài thu hút được sự quan tâm

nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước. Vì vậy, viết về cuộc

đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam đã có nhiều sách, chuyên khảo,

tham luận hội thảo, bài báo khoa học của các học giả, các cán bộ tham gia

lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh. Các công trình đó đã đề cập đến sự lãnh đạo,

chỉ đạo của Đảng ta ở những góc độ khác nhau. Tiêu biểu như:

Tác phẩm “Nghệ thuật biết thắng từng bước” của Trần Nhâm, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội 1978. Trên cơ sở phân tích đường lối chỉ đạo cách

mạng của Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tác giả đã

khái quát lên những đặc điểm của nghệ thuật “biết đánh” và “biết thắng” đế

quốc Mỹ. Tác phẩm “Sức mạnh chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ

cứu nước” của Viện Sử học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1985 là tập hợp

nhiều bài viết của các tác giả đề cập đến nguyên nhân thắng lợi, bài học kinh

nghiệm, ý nghĩa và tác động to lớn của thắng lợi đối với dân tộc và thời đại.

Tác phẩm đã làm rõ: chiến thắng đó là thành quả tổng hợp của một loạt các

nhân tố nhưng quan trọng nhất là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta

với nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh hết sức tài tình. Tác phẩm “Lịch sử kháng

chiến chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975”, 9 tập của Viện Lịch sử quân sự Việt

Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội đã khái quát lại toàn bộ cuộc đấu tranh

chống Mỹ cứu nước của nhân dân từ đó rút ra những đánh giá về cuộc đấu

tranh này. Tác phẩm “Về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước” của Đại

tướng Văn Tiến Dũng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996 cũng trình bày

một cách có hệ thống về quá trình đấu tranh giành thắng lợi của nhân dân ta

đồng thời nêu lên những kết luận về chỉ đạo chiến lược. Tác phẩm “Mấy vấn

đề chỉ đạo chiến lược trong 30 năm chiến tranh giải phóng 1945 - 1975)” của

7

Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1999 đã

tổng kết nghệ thuật chỉ đạo chiến lược trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp

và chống Mỹ. Tác phẩm “Ba mươi năm chiến tranh giải phóng - những trận

đánh đi vào lịch sử”, nhiều tác giả, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2005 là

công trình công phu của nhiều tác giả về cuộc chiến đấu trường kỳ, các tác giả

đã tổng kết, phân tích, đánh giá v.v... tứng trân đánh tiêu biểu để đi đến kết

luận vì đâu mà cuộc đấu tranh của nhân dân ta thắng lợi

Nghiên cứu về vấn đề này, tác giả Nguyễn Xuân Tú với đề tài Luận án

Tiến sỹ “Đảng chỉ đạo giành thắng lợi từng bước trong cuộc kháng chiến

chống Mỹ cứu nước thời kỳ 1965 - 1975” (năm 2001) đã dựng lại diễn biến

cuộc kháng chiến thời kỳ này để làm rõ những chiến lược, sự lãnh đạo, chỉ

đạo cụ thể của Đảng Cộng sản Việt Nam giành thắng lợi từng bước tiến lên

giành thắng lợi hoàn toàn từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm.

Luận án Tiến sỹ “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo chống chiến lược

“Việt Nam hoá chiến tranh” của đế quốc Mỹ từ 1969 đến 1975” (năm 2007)

của tác giả Lê Văn Mạnh đã làm rõ sự chỉ đạo chiến lược của Đảng trong giai

đoạn cuối của cuộc chiến tranh.

Ngoài ra, trên các tạp chí còn có rất nhiều bài viết của các tác giả đề

cập đến vấn đề Đảng chỉ đạo đấu tranh giành thắng lợi trong cuộc kháng

chiến chống Mỹ, tiêu biểu là các bài viết: Lê Xuân Lựu (1997) “Nghệ thuật

đánh thuật đánh thắng địch từng bước, tạo thời cơ giành thắng lợi hoàn

toàn”, Tạp chí Cộng Sản, số 8; Nguyễn Huy Thục (1995) “Những năm tháng

chiến đấu quyết định buộc Mỹ ký Hiệp định chấm dứt chiến tranh”, Tạp chí

Quốc phòng toàn dân, số 4; Nguyễn Thế Vị (2005) “Đánh cho Mỹ cút, đánh

cho nguỵ nhào - biện chứng của quy luật đấu tranh chống giặc ngoại xâm của

dân tộc ta”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 12; Nguyễn Văn Bạo (2007)

8

“Xác định mục tiêu chiến lược và mục tiêu chủ yếu trước mắt trong chỉ đạo

kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 4 v.v… Ngoài

ra còn nhiều bài viết khác cũng đề cập ít nhiều đến vấn đề này.

Các học giả nước ngoài, chủ yếu là người Mỹ đã từng trực tiếp tham

gia chiến đấu hoặc từng nghiên cứu về cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã có khá

nhiều công trình viết về vấn đề này. Tiêu biểu như: “Giải phẫu một cuộc

chiến tranh” tập 1, tập 2 (G.Côncô, Nxb Quân đội nhân dân, năm 1989 và

1991); “Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ” (C.Herring, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998); “Nhin lại quá khứ - Tấn thảm kịch và

những bài học về Việt Nam” (R.S.Mc Namara, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội 1995); “Việt Nam - Cuộc chiến tranh mười ngàn ngày” (M.Maclia, Nxb

Sự thật, Hà Nội, 1990)… Những tác phẩm này đã góp phần phản ánh cục diện

cuộc chiến tranh ở Việt Nam nhưng do mục đích và lập trường khác nhau nên

phần lớn các tác giả chưa đánh giá đúng thực chất của cuộc chiến tranh này,

tuy vậy họ vẫn phải thừa nhận thất bại đó và thừa nhận vai trò to lớn của

Đảng ta trong việc lãnh đạo thắng lợi sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.

Những tài liệu trên nhìn chung mới chỉ dừng lại ở việc khái quát và

tổng kết cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước, đi sâu vào một vấn đề cụ thể

trong một giai đoạn nhất định hoặc sự chỉ đạo đấu tranh của Đảng trên một số

lĩnh vực khác nhau. Cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu một

cách có hệ thống về tư tưởng chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi

quyết định của Đảng trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tuy

nhiên, những kết nghiên cứu trên đã được chúng tôi kế thừa để thực hiện luận

văn này.

9

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng: nghiên cứu đường lối, chủ trương, chính sách và quá trình

tổ chức chỉ đạo giành thắng lợi quyết định của Đảng trong cuộc kháng chiến

chống Mỹ cứu nước.

Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu những chủ trương, biện pháp của

Đảng Cộng sản Việt Nam về tổ chức chỉ đạo giành thắng lợi quyết định trong

sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam thời kỳ Mỹ thực

hiện chiến lược chiến tranh đặc biệt đến khi Mỹ ký Hiệp định Pari (1961-

1973).

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích:

- Thông qua việc tìm hiểu về cuộc kháng chiến chống Mỹ,cứu nước,

phân tích những chủ trương, biện pháp chỉ đạo giành thắng lợi quyết định từ

đó làm rõ sự chỉ đạo, sáng tạo của Đảng trong giai đoạn đấu tranh quyết liệt

này.

- Từ thực tiễn nghiên cứu, đánh giá những thắng lợi đã đạt được và rút

ra những kinh nghiệm chỉ đạo giành thắng lợi quyết định của Đảng trong thời

kỳ chiến tranh này.

Nhiệm vụ:

- Tập hợp các tư liệu có liên quan đến đê tài nghiên cứu.

- Hệ thống hoá những tài liệu theo từng giai đoạn lịch sử gắn với những

điều kiện lịch sử cụ thể.

- Tổng hợp, phân tích những chủ trương, biện pháp của Đảng cũng như

những kết quả của nó trong quá trình tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết

định.

10

5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu

Để hoàn thành luận văn này, tác giả sử dụng phương pháp lịch sử và

phương pháp lôgic là chủ yếu. Bên cạnh đó, sử dụng các phương pháp phân

tích, tổng hợp, so sánh... cố gắng làm rõ những nội dung của đề tài.

Nguồn tài liệu được thu thập và xử lý trong quá trình làm luận văn chủ

yếu là các tài liệu về sự chỉ đạo của cả địch và ta như: Văn kiện Đảng toàn tập

gồm các tập từ năm 1960 đến 1973 và 1976, Thư vào Nam, Nghị quyết các

cấp bộ Đảng, các chỉ thị, báo cáo tổng kết, kế hoạch, phương án tác chiến...;

Các báo cáo, luận án, công trình nghiên cứu, các bài viết của các học giả; Các

công trình tổng kết, sách lịch sử, biên niên sự kiện, hồi ký của các nhà hoạch

định và chỉ đạo chiến tranh; Các công trình nghiên cứu, hồi ký của các học

giả nước ngoài, chủ yếu là của những người ở bên kia chiến tuyến viết về

cuộc chiến tranh Việt Nam.

6. Đóng góp mới của luận văn

- Hệ thống lại quá trình chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi

quyết định của Đảng trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

- Phân tích tính sáng tạo, cách mạng của Đảng, kế thừa kinh nghiệm

chín năm kháng chiến 1945-1954 lên đỉnh cao.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Phụ lục luận văn

11

được cấu trúc thành 3 chương, 10 tiết.

Chương 1

Bối cảnh lịch sử ra đời đường lối

kháng chiến chống mỹ, cứu nước của Đảng ta

Để hiểu được bản chất của một cuộc chiến tranh, trước hết chúng ta

phải xem xét nó đã diễn ra trong điều kiện chủ quan, khách quan nào.

V.I.Lênin cũng cho rằng: “Lý luận Mácxít tuyệt đối đòi hỏi người ta, khi phân

tích một vấn đề xã hội, phải đặt nó trong một khung cảnh nhất định”

[62,tr.468]. Người còn chỉ rõ: “Chỉ có hiểu biết căn bản đặc điểm của thời đại,

chúng ta mới có thể tính đến những đặc điểm chi tiết của nước này hay nước

nọ”[63, tr.157]. Nắm vững những đặc điểm cơ bản của thời đại trong bối cảnh

lịch sử nhất định sẽ là cơ sở để giải quyết đúng đắn những vấn đề của thời đại

đồng thời sẽ là căn cứ để giải quyết đúng đắn những vấn đề cụ thể đặt ra cho

cách mạng mỗi nước.

Đây là điều có ý nghĩa phương pháp luận để phân tích một cuộc chiến

tranh, đặc biệt như cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Việt Nam, mà

quy mô của nó đụng chạm đến toàn bộ các mối quan hệ quốc tế. Đó còn là cơ

sở khách quan để Đảng ta đề ra đường lối, phương pháp, chiến lược và sách

lược cách mạng đúng đắn khi tiến hành đấu tranh.

Có như vậy chúng ta mới có thể cắt nghĩa được vì sao một nước nhỏ

bé, nghèo nàn, lạc hậu như Việt Nam lại có thể giành được thắng lợi trước

một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới.

1.1. Điều kiện khách quan của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

1.1.1. Âm mưu của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam

Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam đã trải qua những năm

tháng chiến đấu cam go, ác liệt: với một nghìn năm Bắc thuộc, ta đã phải ra

12

sức chiến đấu để bảo vệ nền độc lập chống lại sự đồng hóa của các vương

triều phong kiến phương Bắc; ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông; gần

một trăm năm kháng chiến chống thực dân Pháp; hơn hai mươi năm kháng

chiến chống Mỹ, cứu nước. Nhưng thành quả đạt được trong sự nghiệp kháng

chiến chống quân xâm lược đã minh chứng cho tinh thần quật cường của dân

tộc ta, vượt mọi khó khăn, gian khổ để giành lấy hoà bình, độc lập cho dân

tộc.

Khác với các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đó, cuộc đấu

tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta diễn ra trong điều kiện hoàn toàn

khác. Kẻ thù mà nhân dân ta phải đương đầu trong cuộc chiến này là một “đế

quốc hùng mạnh nhất, giàu có nhất, tàn bạo, nham hiểm, hiếu chiến nhất”; có

trong tay chiến lược toàn cầu phản cách mạng. Nếu so về thời gian thì cuộc

chiến này không dài bằng các cuộc chiến tranh trước đó nhưng so về tương

quan lực lượng thì đây là cuộc chiến tranh có “một tương quan lực lượng

chênh lệch nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta về phương thức

sản xuất cũng như tiềm lực kinh tế, quân sự”[7, tr.65].

Về mặt kinh tế: Do có sự tính toán khôn khéo, Mỹ đã tham gia chiến

tranh thế giới thứ hai nhưng không những không bị chiến tranh tàn phá như

các nước khác mà còn thu về cho mình một nguồn lợi khổng lồ nhờ buôn bán

vũ khí. Vì thế, Mỹ đã phát triển mạnh mẽ và trở thành đế quốc giàu có nhất

thể giới, chiếm ưu thế tuyệt đối về mọi mặt trong thế giới tư bản. Mỹ có một

nền công nghiệp và nông nghiệp phát triển cao. Sản lượng công nghiệp Mỹ

chiếm quá nửa tổng sản lượng công nghiệp của thế giới tư bản (56,4% năm

1948). Sản lượng nông nghiệp cũng gấp hai lần sản lượng của Anh, Pháp,

Cộng hoà liên bang Đức, Italia, Nhật cộng lại (1949) [103, tr.286]. Về tài

chính, Mỹ có khối lượng vàng dự trữ lớn nhất thế giới (gần 25 tỷ đôla năm

13

1949, chiếm 3/4 lượng vàng của thế giới tư bản). Mỹ đã trở thành chủ nợ duy

nhất trên thế giới, ngay cả các chủ nợ trước kia của Mỹ như Anh, Pháp cũng

trở thành con nợ của Mỹ.

Nhằm thiết lập sự thống trị độc tôn của chủ nghĩa tư bản trên phạm vi

toàn thế giới, Mỹ đã tiến hành một chiến lược toàn diện bao gồm các mặt

chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao.

Để thi hành chính sách bành trướng, đế quốc Mỹ lợi dụng tình cảnh các

nước tư bản bi suy yếu trong chiến tranh, chưa kịp hồi phục, đã thông qua

chiêu bài viện trợ kinh tế, quân sự khống chế các nước đó, đẩy các nước này

xuống vai trò phụ thuộc Mỹ thậm chí làm tay sai thực hiện một số chủ trương,

chính sách của Mỹ.

Về mặt quân sự: Mỹ đã ráo riết chạy đua vũ trang, phát triển vũ khí hạt nhân,

thiết lập các khối liên minh quân sự xâm lược như NATO ở châu Âu, SEATO

ở châu á, ANZUS ở châu Đại Dương, CENTO và ký kết hàng loạt hiệp ước

quân sự tay đôi với nhiều nước trên thế giới, ra sức chuẩn bị cho chiến tranh,

tiến hành các hoạt động khuynh đảo, lật đổ, đảo chính ở nhiều nơi trên

thế giới.

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Mỹ do có tiềm lực kinh tế,

quân sự mạnh mẽ đã trở thành tên đế quốc đầu sỏ trong hệ thống tư bản chủ

nghĩa. Với tham vọng bá chủ toàn cầu, Mỹ thực hiện chiến lược toàn cầu phản

cách mạng để tìm cách mở rộng phạm vi thống trị của mình ra các khu vực

khác, trở thành kẻ gây chiến, xâm lược quốc tế lớn nhất, đại diện tiêu biểu cho

chủ nghĩa thực dân mới và là kẻ thù nguy hiểm nhất của phong trào cách

mạng thế giới.

Chiến lược toàn cầu phản cách mạng của Mỹ được hình thành dưới thời

tổng thống Tơruman và được điều chỉnh qua các thời tổng thống sau này cho

14

phù hợp với điều kiện cụ thể của từng thời kỳ.

Chiến lược này được cấu thành bởi ba bộ phận mà tướng Uy lơ đã nêu

ra:

- Chúng ta sẵn sàng tham gia trực tiếp hơn và mạnh mẽ hơn vào bất

cứ tình huống cân bằng lực lượng nào có khả năng diễn ra ở châu

Âu.

- Chúng ta là một dân tộc chủ chốt ở phương Tây có khả năng đưa

sức mạnh của mình vào Thái Bình dương để tác động tới những

diễn biến ở đây.

- Nếu có ai đó có ý định ngăn chặn các bước tiến thô bạo sau chiến

tranh của sức mạnh cộng sản hoặc những hình thức kín đáo hơn sau

này, thì người đó phải là chúng ta[24, tr.8].

Như vậy, Mỹ đã tự gán cho mình trách nhiệm đứng đầu các nước tư

bản chủ nghĩa để bảo vệ “thế giới tự do”, ngăn chặn sự phát triển của chủ

nghĩa cộng sản. Nhưng thực chất đó chỉ là sự bao biện cho âm mưu bành

trướng của mình, như nhà sử học Mỹ G. Côncô đã nhận định:

Mỹ hành động không phải vì ý muốn bảo vệ đất nước chống lại bất

cứ mối đe doạ cụ thể nào mà vì Mỹ muốn tạo ra ở nơi khác một trật

tự có thể kiểm soát được sẵn sàng đáp ứng một cách có lợi các mục

tiêu và lợi ích của Mỹ, vượt xa những nhu cầu trong nước. Mỹ tin

rằng sức mạnh của Mỹ đủ sức điều chỉnh thế giới và chịu đựng

những tổn phí như các cường quốc đế quốc trước đây đã làm để

hoàn thành nghĩa vụ và trách nhiệm quốc tế [16, tr.92]

Mỹ đề ra 3 mục tiêu cho chiến lược toàn cầu: ngăn chặn, đẩy lùi, tiến

tới tiêu diệt hệ thống xã hội chủ nghĩa; uy hiếp, đàn áp phong trào giải phóng

dân tộc ở các nơi; kìm chế sự phát triển của các nước tư bản đồng minh, lôi

15

kéo các nước khác tham gia vào lực lượng phản động quốc tế do Mỹ cầm đầu.

Mục đích chính của chiến lược đó là “nhằm ngăn chặn sự phát triển mạnh mẽ

của phong trào cách mạng thế giới, nhất là phong trào cách mạng xã hội chủ

nghĩa mà Liên Xô là trụ cột” [24, tr.6]. Và Mỹ đã đề ra một chính sách đối

ngoại, được giới chính trị và quân sự Mỹ khái quát bằng cái tên “ngăn chặn

chủ nghĩa cộng sản”. Các nhà hoạch định chiến lược của Mỹ cho rằng nếu để

cho chủ nghĩa cộng sản tràn xuống khu vực Đông Nam á thì Mỹ sẽ mất vị trí

chiến lược ở Viễn Đông. Nhất là sau khi cách mạng Trung Quốc (1949) thắng

lợi, họ càng lo sợ hơn vì nếu mất thêm Đông Nam á thì Nhật Bản không còn

lựa chọn nào khác là dung hoà với chủ nghĩa cộng sản ở khu vực này và khi

đó, một chuỗi đảo ngoài khơi chạy dài từ Nhật Bản đến Philippin - tuyến

phòng thủ đầu tiên của Mỹ ở Thái Bình Dương sẽ lâm nguy. Mỹ đã đưa ra

quyết định chính thức vạch ra một đường ranh giới không cho xuất hiện thêm

bất kỳ quốc gia cộng sản mới nào nữa ở châu á. Do đó, Mỹ phải nhanh chóng

có những biện pháp xử lý để bảo vệ khu vực “có tầm sinh tử đối với an ninh

của Mỹ” [47, tr.17].

Vì vậy, địa bàn Đông Nam á nói chung và Đông Dương nói riêng có vị

trí chiến lược quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Đây là nơi có

những nguồn lợi rất lớn về kinh tế, quân sự, chính trị mà Mỹ có thể thâu tóm

được.

Về mặt kinh tế: Đông Nam á là một vùng có nguồn tài nguyên thiên

nhiên phong phú, có nhiều loại nguyên liệu mà Mỹ đang thiếu, là thị trường

tiêu thu sản phẩm khổng lồ, các nhà lãnh đạo Mỹ không muốn mất quyền lợi

ở đây và đã sớm bộc lộ tham vọng muốn độc chiếm Đông Nam á. Đây là một

trong những mục tiêu chiến lược của chính sách bành trướng thực dân mới về

mặt kinh tế của đế quốc Mỹ.

Về mặt quân sự: Đông Nam á là một vùng địa lý chiến lược quan trọng,

16

là ngã ba của đầu mối giao thông giữa các lục địa châu á, châu Phi và châu

Đại Dương. Đông Nam á từ lâu đã trở thành một địa bàn chiến lược trong kế

hoạch xâm lược của các nước tư bản phương Tây. Mỹ đã tìm cách hất cẳng

Anh, Pháp để chiếm lấy khu vực này. Mỹ đã tập trung nhiều cho việc bố trí

lực lượng quân sự ở khu vực này, năm 1967, tổng số quân Mỹ đóng quân ở

đây lên tới 850.000 quân trong khi đó ở châu Âu chỉ có 491.000 tên; năm

1970 là 797.000 tên ở đây còn châu Âu là 310.000 tên. Thời kỳ cao nhất lên

đến 4 tập đoàn không quân, 2 hạm đội tăng cường, số sư đoàn lục quân và

lính thủy đánh bộ gần gấp 3 lần số quân sĩ đóng ở Tây Âu [80, tr.20]. Như thế

đủ thấy sức mạnh to lớn về quân sự của Hoa kỳ ở đây và sự quyết tâm thực

hiện bằng được mưu đồ thay chân các đế quốc khác chiếm đóng khu vực này.

Về mặt chính trị: Đông Nam á là khu vực có phong trào giải phóng dân

tộc phát triển, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của phong trào cách mạng vô sản thế

giới nhất là Việt Nam và Đông Dương, lúc nào cũng có thể bùng nổ một cuộc

cách mạng vô sản. Việt Nam và Đông Nam á đã trở thành nơi tập trung các

mâu thuẫn của thời đại. Mỹ đã rất lo sợ điều đó, vì thế mà chúng tập trung lực

lượng lớn hòng bóp nghẹt phong trào cách mạng ở đây nhằm tránh hiểm hoạ

chủ nghĩa cộng sản tràn xuống khu vực Đông Nam á. Chính vì vậy, Mỹ đã

thành lập tổ chức SEATO nhằm tập hợp lực lượng các nước chư hầu để đối

phó với phong trào cách mạng ở đây. Mỹ đã ý thức sâu sắc về quyền lợi sống

còn và vị chí chiến lược của vùng Đông Nam á, nếu thua cuộc ở khu vực này

thì sẽ dẫn đến hiệu ứng đôminô - một sự sụp đổ dây chuyền ở khắp mọi nơi.

Trong khu vực Đông Nam á, Mỹ đặc biệt quan tâm đến Đông Dương

bởi chúng đều nhận thấy tầm quan trọng của khu vực này đối với sự thành

công của chiến lược toàn cầu phản cách mạng và cho rằng đây là vị trí then

chốt trong việc bảo vệ Đông Nam á: “Đông Dương được xem là quan trọng vì

có nhiều nguyên liệu, gạo và các căn cứ hải quân, nhưng người ta còn cho

17

rằng khu vực này có tầm quan trọng lớn hơn nhiều xét về tác động có thể xảy

ra đối với các khu vực khác nếu Đông Dương thất thủ”[14, tr91]. Vì thế, Mỹ

đã chọn Việt Nam và Đông Dương làm nơi thi điểm thực hành chủ nghĩa thực

dân mới, biến nơi đây thành bàn đạp để thiết lập ảnh hưởng ở châu á. Quốc vụ

khanh Mỹ D. Rusk đã từng tuyên bố trước tiểu ban đối ngoại của Quốc hội

Mỹ: “Viễn Đông, Việt Nam và các nước phụ cận là một trong những chiến

trường quyết định trong cuộc đấu tranh nhằm duy trì trật tự thế giới lâu dài

và vững chắc”[1, tr.29].

Chính vì ý nghĩa đó mà Vịêt Nam “đã trở thành tiêu điểm của cuộc

đấu tranh quyết liệt giữa cách mạng và phản cách mạng trên thế giới, là nơi

đọ sức điển hình giữa tiến bộ và phản động, giữa chính nghĩa và phi nghĩa

trong cuộc đấu tranh của nhân loại vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và

tiến bộ xã hội” [7, tr.65].

Tầm quan trọng của Việt Nam và Đông Dương đã làm cho đế quốc Mỹ

tập trung đến mức cao nhất về tài chính và quân sự cho cuộc chiến tranh ở

đây. Mỹ đã thực thi hết chiến lược chiến tranh này đến chiến lược chiến tranh

khác nhằm biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Mỹ

cho rằng “nếu đẩy lùi và ngăn chặn được cách mạng Việt Nam và Đông

Dương, áp đặt được chính sách thực dân mới của Mỹ ở đây, thì chúng có thể

thẳng tay bóc lột tài nguyên của Việt Nam và Đông Dương, đẩy lùi và ngăn

chặn được cả ba dòng thác cách mạng ở Đông Nam á và nhiều nơi khác trên

thế giới” [76, tr.14]. Kết cục ở Việt Nam sẽ chứng minh đầy đủ ý chí và khả

năng của đế quốc Mỹ trong việc thực hiện chiến lược toàn cầu phản cách

mạng của chúng. “Tất cả những điều đó nói lên vị trí then chốt của Việt Nam

trong cuộc đụng đầu lịch sử này, đồng thời cũng nói lên tính chất gay go của

18

cuộc đọ sức quyết liệt giữa nhân dân ta và đế quốc Mỹ” [80, tr.26].

Để đạt được mục đích của mình, đế quốc Mỹ đã huy động một khối

lượng bom đạn, vật chất kỹ thuật không lồ chưa từng có; đã sử dụng mọi loại

vũ khí hiện đại nhất trừ bom nguyên tử; đồng thời chúng đưa vào nước ta:

Một đội quân viễn chinh hơn 60 vạn tên, gồm quân Mỹ và quân của

năm nước chư hầu của Mỹ làm nòng cốt cho hơn một triệu quân

nguỵ; riêng về quân đội Mỹ, chúng đã huy động lúc cao nhất tới

68% bộ binh, 60% lính thuỷ đánh bộ, 32% lực lượng không quân

chiến thuật, 50% lực lượng không quân chiến lược. Nếu tính cả số

quân đóng ở nước ngoài tham chiến ở Việt Nam thì chúng đã sử

dụng hơn 80 vạn quân Mỹ, trong cả cuộc chiến tranh, chúng đã

động viên tới 6 triệu lượt binh sĩ Mỹ, ném xuống đất nước ta 7

triệu 850 nghìn tấn bom và tiêu tốn 352 tỷ đôla. Ngoài ra chúng còn

dùng những phát minh khoa học, kỹ thuật mới nhất để gây vô vàn

tội ác huỷ diệt đối với nhân dân ta [42, tr.483].

Với âm mưu nham hiểm đó, Mỹ đã triển khai chiến lược toàn cầu phản

cách mạng mà Việt Nam được chọn làm nơi thí điểm.

Từ năm 1953 đến 1960, sau khi thay thế tổng thống Tơruman,

Aixenhao đã cho thực hiện một chiến lược quân sự toàn cầu mới được mang

tên “trả đũa ồ ạt”. Dựa trên lực lượng quân sự Mỹ và hệ thống liên minh quân

sự, Mỹ tiến hành chiến lược này với mục tiêu “dùng vũ khí hạt nhân làm

chiếc ô che chắn để bảo vệ cho các chế độ tay sai của Mỹ, sẵn sàng đánh trả ồ

ạt thẳng vào các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa”[24, tr.16]. Lực lượng

hạt nhân chiến lược mà Mỹ dùng làm lá chắn được cấu thành bởi bộ ba vũ

khí: tên lửa mang đầu đạn hạt nhân, tàu ngầm nguyên tử trang bị tên lửa mang

đầu đạn hạt nhân và máy bay ném bom chiến lược mang bom hạt nhân. Để

 Theo tư liệu của Hoa kỳ, số lính Mỹ tham chiến trong chiến tranh Việt Nam khoảng 4 triệu người.

19

tăng cường sức mạnh quân sự, Mỹ đã sản xuất hàng loạt các loại máy bay

ném bom chiến lược như B52, B47 và các loại tên lửa vượt đại châu. Tính đến

năm 1960, Mỹ có gần 400 máy bay B52, khoảng 1400 máy bay B47, 110 tàu

ngầm, có tới 36 liên đội bay ném bom hạng nặng và 104 liên đội bay ném

bom hạng trung [24,tr.18]. Với ưu thế về vũ khí hạt nhân, Mỹ đã quyết liệt

chống phá phong trào cách mạng thế giới và cũng tại thời điểm này Mỹ dần

can thiệp vào Việt Nam thông qua việc tăng cường viện trợ quân sự để Pháp

kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương. Đây là giai đoạn đầu tiên

của một phần tư thế kỷ mà Mỹ đã trực tiếp dính líu vào cuộc chiến tranh Việt

Nam. Mỹ đã viện trợ cho Pháp lên tới 1,264 tỉ đôla trong năm 1954 (chiếm

khoảng 73% kinh phí chiến tranh và tính tổng trong 4 năm (1950 - 1954) lên

tới 2,6 tỉ đôla. Tuy vậy, sự viện trợ này của Mỹ cũng không cứu vãn nổi thất

bại của Pháp trên chiến trường Đông Dương.

Tháng 7 năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp của ta thắng lợi,

Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Đây là một thắng lợi to lớn của nhân dân ta

và là cơ sở pháp lý để ta tiếp tục đấu tranh hoàn thành cuộc cách mạng dân

tộc dân chủ trên phạm vi cả nước. Thắng lợi này đã làm suy yếu một hướng

chiến lược trọng yếu trong chiến lược toàn cầu của đế quốc Mỹ. Chính vì vậy,

Mỹ đã tìm cách phá hoại hiệp định Giơnevơ, phá hoại công cuộc thống nhất

nước nhà bằng mọi biện pháp tàn ác và thâm hiểm, cai trị miền Nam bằng chủ

nghĩa thực dân kiểu mới hòng thay thế thực dân Pháp xâm lược Việt Nam.

Sau Hội nghị Giơnevơ về Việt Nam, ngoại trưởng Mỹ Đalét đã tuyên bố:

“điều quan trọng nhất, không phải khóc than cho quá khứ mà phải nắm lấy cơ

hội tương lai nhằm ngăn chặn không để mất miền Bắc Việt Nam, để cuối

cùng dẫn đến chỗ chủ nghĩa cộng sản có ưu thế trên toàn cõi Đông Nam á và

Tây Nam Thái Bình Dương”[47, tr.53]. Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm ra để

dựng lên một chính quyền tay sai phục vụ cho mưu đô thôn tính Việt Nam

20

của mình.

Sớm nhận thấy âm mưu của địch, Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đã

nhận định: “Đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới, và nó đang trở

thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương”[55, tr.23]. Do vậy,

cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong giai đoạn này phải tập trung chĩa mũi

nhọn vào đế quốc Mỹ với chính sách thực dân mới của chúng.

Chính sách thực dân mới là con đẻ của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn, của

chính sách đế quốc thực dân. Nó ra đời trong cơn tổng khủng hoảng và trước

nguy cơ sụp đổ sau chiến tranh thế giới thứ hai của chủ nghĩa tư bản. Bản chất

của chủ nghĩa thực dân mới đã được Đảng sớm nhận ra và khái quát trong

Nghị quyết 9 của Trung ương: Đặc điểm chủ yếu của chính sách thực dân là

đế quốc Mỹ không trực tiếp cai trị mà thông qua chính quyền tay sai, dùng

viện trợ kinh tế và quân sự để áp bức, bóc lột nhân dân miền Nam.

Trong thời kỳ đầu của cuộc cách mạng, chúng ta chưa thể hình dung và

thấy rõ chính sách thực dân mới mà phải trải qua thực tiễn đấu tranh mới hiểu

đầy đủ bản chất và thủ đoạn của chính sách này. Về chính trị, Mỹ không thiết

lập bộ máy thực dân thông qua chính quyền tay sai với chiêu bài quốc gia,

dân chủ giả hiệu. Về quân sự, Mỹ tin dùng và ra sức xây dựng quân đội nguỵ

đủ mạnh làm lực lượng chiến đấu cho chúng. Với hai mặt chính trị và quân sự

như vậy, Mỹ thể hiện một ý đồ nham hiểm là khơi sâu và làm đậm nét tính

chất nội chiến của cuộc chiến tranh, che đậy bản chất thực dân xâm lược của

chúng. Về kinh tế, Mỹ dùng viện trợ làm công cụ chủ yếu để giữ chính quyền

tay sai ở miền Nam đi vào con đường phát triển tư bản chủ nghĩa, đối lập với

miền Bắc, chia cắt lâu dài nước ta. Về văn hoá - xã hội, chúng ra sức du nhập

lối sống Mỹ, văn hoá Mỹ hòng phá hoại truyền thống văn hoá Việt Nam.

Như vậy, ngay từ thời điểm này Mỹ với chính sách thực dân mới đã trở

21

thành kẻ thù số một của nhân dân Việt Nam và phong trào cách mạng thế

giới. Cuộc chiến tranh ở Việt nam đã trở thành nơi đọ sức giữa hai lực lượng

quốc tế: lực lượng cách mạng và lực lượng phản cách mạng.

Sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới mà đặc biệt là phong

trào giải phóng dân tộc ở châu á, châu Phi, châu Mỹ La Tinh đã làm cho chiến

lược “trả đũa ồ ạt” của Mỹ bị phá sản. Nhưng không phải vì thế mà Mỹ chịu

dừng lại, với bản tính ngoan cố và âm mưu bành trướng của tên sen đầm quốc

tế, Mỹ đã thay đổi chiến lược quân sự toàn cầu từ “trả đũa ồ ạt” sang “phản

ứng linh hoạt”.

Chiến lược “phản ứng linh hoạt” được Kennơdi khi lên nắm quyền tổng

thống phê chuẩn làm chính sách quân sự quốc gia của Mỹ và được áp dụng cả

dưới thời tổng thống Giônxơn. Trong thời kỳ này, Mỹ chú trọng phát triển vũ

khí thông thường nhưng vẫn ra sức xây dựng lực lượng hạt nhân.

Những điểm chủ yếu trong chiến lược quân sự toàn cầu của Mỹ trong

những năm 1961 - 1968 là:

- Nhấn mạnh khả năng “huỷ diệt chắc chắn” do lực lượng chiến

lược gây ra;

- Nhấn mạnh khả năng “phản ứng linh hoạt” trong chiến lược của

khối NATO;

- Vạch kế hoạch nhằm mục tiêu đạt khả năng tiến hành chiến tranh

lớn đồng thời trên cả hai chiến trường châu Âu và châu á;

- Xây dựng khả năng chiến đấu và huấn luyện cho các quân đội

nước khác để họ tự chiến đấu trong những cuộc chiến tranh hạn

chế và chống nổi dậy;

- Thi hành những chương trình viện trợ kinh tế và quân sự lớn,

nhưng sẽ được giảm dần[24, tr.25].

Sự thay đổi chiến lược này có ý nghĩa nhấn mạnh hơn nữa vai trò đảm

22

nhiệm gánh nặng của thế giới tự do, trong cuộc xung đột không hạt nhân của

Mỹ. Điều này thể hiện rõ trong bài diễn văn nhậm chức của tổng thống

Kennơdi ngày 20-1-1960: “Chúng ta làm cho mọi người biết rằng chúng ta sẽ

trả bất cứ giá nào, gánh vác bất cứ gánh nặng nào, đương đầu với bất cứ sự

gian khổ nào, ủng hộ bất cứ bạn bè nào, chống lại bất cứ kẻ thù nào, để bảo

đảm sự sống còn và thắng lợi của thế giới tự do”[24, tr.29].

Trong chiến lược “phản ứng linh hoạt” này, Mỹ một mặt ra sức chuẩn

bị cho chiến tranh hạt nhân nhưng loại chiến tranh này lại không có lợi cho

Mỹ và ít có khả năng xảy ra vì thế một mặt Mỹ phát triển các cuộc “chiến

tranh hạn chế”. Loại chiến tranh này vừa không nguy hiểm, vừa có thể dễ

dàng giành thắng lợi. “Chiến tranh hạn chế” gồm hai hình thức: đó là “chiến

tranh đặc biệt” và “chiến tranh cục bộ”. Mỹ coi đây là lưỡi kiếm tiến công sắc

bén vào những nơi nguy hại nhất của thế giới tự do. Để tiến hành chiến lược

này, Mỹ tiếp tục tăng cường lực lượng hạt nhân, phát triển lực lượng vũ trang

thông thường và tiếp tục duy trì, củng cố hệ thống các liên minh quân sự của

mình cũng như các nước đồng minh.

Miền nam Việt Nam được Mỹ dùng làm nơi thử nghiệm chiến lược này

với hai loại hình chiến tranh mới là “chiến tranh đặc biệt”, dùng quân đội Sài

Gòn làm lực lượng chiến lược chủ yếu, quân Mỹ giữ vai trò cố vấn chỉ huy và

“chiến tranh cục bộ” dùng quân viễn chinh Mỹ làm lực lượng nòng cốt.

Hoa Kỳ đã coi miền Nam Việt Nam là một điểm nóng của phong trào

giải phóng dân tộc mà họ phải tập trung đối phó. Họ cũng nhận thức rất rõ vai

trò quan trọng của việc thử nghiệm loại hình chiến tranh này ở Việt Nam, nếu

thắng lợi sẽ tạo ra sự bình ổn ở khu vực và gây tiếng vang cho chiến lược

“phản ứng linh hoạt” của mình. Tướng M.Taylo cha đẻ của chiến lược “phản

ứng linh hoạt” đã xác định: “Nếu chương trình của Mỹ thành công ở Nam

23

Việt Nam thì sẽ dẫn tới ổn định được toàn bộ tình hình ở Đông Nam á, nếu

thất bại thì sẽ có ảnh hưởng lớn đến những thành quả của Mỹ ở châu

á”[24,tr.29].

Để thực hiện ý đồ của mình, Mỹ đã tập trung cao nhất về tài chính và

quân sự cho cuộc chiến tranh ở Nam Việt Nam, từ chỗ dùng quân nguỵ làm

tay sai cùng với tiền của, vũ khí và sự chỉ huy của Mỹ đến việc trực tiếp đưa

quân Mỹ vào xâm lược nước ta đã làm cho cục diện cuộc chiến tranh trở nên

vô cùng khó khăn, ác liệt.

Trong vòng bốn năm thực hiện “chiến tranh đặc biệt”, Mỹ đã tập trung

đầu tư huấn luyện và phát triển quân nguy từ 27 vạn tên năm 1961 lên đến 56

vạn tên năm 1965 nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược là bình định miền Nam

trong vòng 18 tháng nhưng những mục tiêu của chiến lược “chiến tranh đặc

biệt” mà Mỹ đề ra không những không thực hiện được mà còn bị phá sản. Để

cứu vãn tính thế, Mỹ đã chuyển cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam từ hình

thức “chiến tranh đặc biệt” sang hình thức “chiến tranh cục bộ”. Chỉ từ năm

1965 đến 1968, cuộc chiến tranh của Mỹ ở miền Nam đã được đẩy lên mức

cao nhất. Lực lượng tham chiến tại miền Nam lúc này đã lên tới 55,5 vạn

quân nguỵ Sài Gòn, 53,5 vạn quân viễn chính Mỹ và 7,26 vạn quân Nam

Triều Tiên, Thái Lan, Philippin, Ôxtrâylia. Mỹ cũng đã sử dụng hàng nghìn

máy bay ném hơn 70 vạn tấn bom và hàng trăm tàu chiến bắn phá miền Bắc

Việt Nam. Để duy trì một lực lượng tham chiến lớn như vậy trên chiến trường

Việt Nam, Mỹ phải thường xuyên huy động tới 150 vạn quân thay phiên, bổ

xung (chiếm 43% tổng số quân thường trực của cả nước). Chi phí cho cuộc

chiến này tính riêng năm 1968 đã lên tới 26,5 tỷ đôla (chiếm 34% tổng chi

tiêu của Bộ Quốc phòng Mỹ) [24, tr31]. Đây là cuộc chiến tranh mà Mỹ đã sử

dụng những kỹ thuật quân sự mới nhất có trong tay lúc bấy giờ và chi tiêu

24

lớn nhất cho cuộc viễn chinh xâm lược này.

Tuy đã có những cố gắng cao nhất về quân sự và tài chính nhưng Mỹ

ngày càng thất bại nặng nề trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam và thất

bại này đã ảnh hưởng tác động nghiêm trọng đến toàn bộ đời sống kinh tế,

chính trị, xã hội của nước Mỹ không những buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược

ở Việt Nam mà còn làm đảo lộn và buộc Mỹ thay đổi cả chiến lược toàn cầu

của chúng.

Trong những năm 1969 - 1973, sau khi lên nắm quyền Nichxơn đã đề

ra chiến lược quân sự toàn cầu mới mang tên “ngăn đe thực tế” dựa trên “học

thuyết Nichxơn”. Học thuyết này được cấu thành bởi ba bộ phận:

1. Chia sẻ trách nhiệm - Mỹ tiếp tục viện trợ quân sự và kinh tế cho

các nước đồng minh, còn các nước đồng minh phải thực hiện

“nghĩa vụ” của mình trong khu vực;

2. Xây dựng sức mạnh - Mỹ gánh chịu phần chủ yếu về lực lượng

hạt nhân chiến lược, nhưng các nước đồng minh phải cùng Mỹ

“chung sức gánh vác” việc xây dựng lực lượng tác chiến trên khu

vực chiến trường;

3. Thương lượng - Mỹ thương lượng với các nước đồng minh thành

lập những liên minh khu vực, thương lượng giải quyết xung đột

xảy ra giữa các nước thứ ba, thương lượng với Liên Xô về việc

hạn chế sự phát triển vũ khí chiến lược[24, tr.34].

Vận dụng “học thuyết Nichxơn” và chiến lược quân sự “ngăn đe thực

tế” vào Việt Nam, Mỹ đã thi hành chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” với

ý định xuống thang chiến tranh, rút dần quân Mỹ về nước nhưng kéo dài và

mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Đông Dương. Thực chất của chính sách này

là dùng người Việt đánh người Việt, dùng người Đông Dương đánh người

Đông Dương bằng tiền của và sự chỉ huy của Mỹ để tránh thiệt hại về người

25

cho quân đội Mỹ nhằm xoa dịu làn sóng phản đối chiến tranh đang lên cao

trong nước. Thực hiện chiến lược này, Mỹ đã chuyển giao trách nhiệm quân

sự cho nguỵ quyền Sài Gòn, ra sức củng cố nguỵ quân, nguỵ quyền, tăng

tổng số quân đội Sài Gòn từ hơn 55 vạn tên lên 104 vạn tên với hàng loạt vũ

khí và trang thiết bị mới[24, tr40].

Âm mưu của Mỹ rất nham hiểm và thâm độc, chúng vừa xuống thang

chiến tranh, vừa phản công và tiến công ta quyết liệt bằng phương tiện chiến

tranh hiện đại kể cả vũ khí hoá học, chiến tranh điện tử và không quân chiến

lược hòng bao vây, cô lập nhân dân miền Nam, làm cho chiến tranh cách

mạng mất chỗ dựa đi đến tiêu diệt quân chủ lực của ta tạo thế mạnh cho Mỹ -

nguỵ giành thắng lợi về quân sự và chính trị. Đế quốc Mỹ đã thể hiện quyết

tâm đánh phá nước ta bằng mọi cách và dù đã bi thất bại nhiều lần nhưng

chúng vẫn ngoan cố, tìm mọi cách để cứu vãn chiến lược toàn cầu phản cách

mạng mà chúng đã đề ra.

Như vậy, từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, trải qua năm đời tổng

thống với chiến lược toàn cầu phản cách mạng, Mỹ đã chĩa mũi nhọn vào đàn

áp phong trào cách mạng thế giới. Mỹ thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược

Việt Nam với âm mưu cơ bản là “tiêu diệt bằng được phong trao yêu nước

của nhân dân ta, thôn tính miền nam, chia cắt lâu dài nước ta, biến miền Nam

thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, lập phòng tuyến ngăn

chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống Đông Nam á; đồng thời lấy miền Nam làm

căn cứ để tấn công miền Bắc, tiền đồn của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới

ở Đông Nam châu á, hòng đề bẹp và đẩy lùi chủ nghĩa xã hội ở vùng này, bao

vây và uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa khác”[42, tr.478-479]. Mỹ tự coi

mình là có vai trò chủ chốt, đứng đầu các nước tư bản đảm bảo hoà bình cho

“thế giới tự do”, chống lại chủ nghĩa cộng sản và coi việc đàn áp, phá hoại

phong trào độc lập dân tộc là một mục tiêu quan trọng của chiến lược toàn

26

cầu. Mỹ đã thi thố mọi chiến lược, chiến thuật chính trị, quân sự, ngoại giao,

đã sử dụng những thủ đoạn chiến tranh tàn bạo nhất để tàn phá con người và

đất nước Việt Nam, vì “Mỹ muốn chứng tỏ rằng lực lượng quân sự và kinh tế

không lồ của chúng có thể đè bẹp mọi phong trào giai phóng dân tộc và chăn

đứng bước tiến của chủ nghĩa xã hội ở bất cứ nơi nào trên thế

giới”[42,tr.479].

Với sức mạnh và những âm mưu thâm độc của mình qua việc thực hiện

những chính sách về kinh tế, chính trị, quân sự và ngoại giao thì đế quốc Mỹ

là kẻ thù mạnh nhất, ngoan cố và khó đối phó nhất mọi thời đại của dân tộc ta.

Mỹ tuy mạnh nhưng không có nghĩa là chúng ta không thể đánh thắng

được Mỹ mà cốt yếu phải thấy được rằng muốn đối phó với một kẻ thù lớn

mạnh, nham hiểm như vậy, chúng ta phải có đường lối và phương pháp cách

mạng phù hợp. Trên cơ sở phân tích và so sánh tương quan lực lượng giữa ta

và địch, nhận thấy đế quốc Mỹ là một kẻ thù nguy hiểm không giống như

những kẻ thù trước đó, chúng ta không thể ngay một lúc đánh đổ cả Mỹ và

chính quyền tay sai được mà chỉ có thể giành thắng lợi khi đè bẹp được ý chí

xâm lược của Mỹ, buộc chúng phải rút quân khỏi miền Nam, tạo tiền đề để

đánh đổ nguỵ quân, nguỵ quyền, Đảng đã đề ra chủ trương giành thắng lợi

quyết định trước khi tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Đây là một chủ

trương hoàn toàn đúng đắn trong điều kiện một nước Việt Nam nhỏ bé, nghèo

nàn phải đương đầu với một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới. Và minh

chứng cho sự đúng đắn này là việc Mỹ phải ký hiệp định Pari, rút quân khỏi

nước ta, tạo cơ sở vững chắc để cuộc cách mạng của ta đi đến thắng lợi cuối

cùng.

1.1.2. Tác động của phong trào cộng sản, dân chủ hoà bình và

phong trào giải phóng dân tộc đối với cách mạng Việt Nam

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta diễn ra trong bối

27

cảnh chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống thế giới do Liên Xô đứng

đầu, là chỗ dựa cho phong trào độc lập dân tộc. Hệ thống xã hội chủ nghĩa

ngày càng phát triển mạnh mẽ từ châu Âu sang châu á và trở thành một lực

lượng chính trị, kinh tế hùng mạnh, có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy

phong trào cách mạng thế giới. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa

tư bản ngày càng sâu sắc. Điều đó thể hiện qua cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt

trên khắp các lục địa ở tất cả mọi lĩnh vực. Các nước tư bản chủ nghĩa mà

đứng đầu là Mỹ muốn tìm mọi cách ngăn chặn và xoá bỏ hệ thống chủ nghĩa

xã hội để thể hiện vai trò độc tôn của chủ nghĩa tư bản. Nhưng những âm mưu

và thủ đoạn của Mỹ đã không những không tiêu diệt được hệ thống xã hội chủ

nghĩa mà còn làm cho các nước này phát triển mạnh mẽ hơn. Sau chiến tranh

thế giới thứ hai, Liên Xô, Trung Quốc, Đông Đức và các nước Đông Âu bắt

tay vào công cuộc kiến thiết đất nước và đã thu được những thành tựu to lớn,

kinh tế xã hội được phục hồi và phát triển đáng kể trở thành đối thủ cạnh

tranh của chủ nghĩa tư bản. Tính đến năm 1961, tốc độ phát triển sản xuất của

12 nước xã hội chủ nghĩa “tăng trung bình từ 8% đến 11% so với năm trước;

đặc biệt tốc độ phát triển sản xuất công nghiệp của phe xã hội chủ nghĩa đã

nhanh gấp 4 lần so với phe đế quốc chủ nghĩa. Kết quả là toàn bộ hệ thống xã

hội chủ nghĩa đã sản xuất gần 40% tổng sản lượng công nghiệp toàn thế giới

(năm 1955 tỷ trọng đó mới là 27%). Sản lượng nông nghiệp của các nước xã

hội chủ nghĩa đã chiếm hơn một nửa tổng sản lượng nông nghiệp toàn thế

giới”[29,tr.182]. Sự lớn mạnh của các nước xã hội chủ nghĩa đã làm cho so

sánh lực lượng trên thế giới thay đổi theo chiều có lợi cho chủ nghĩa xã hội,

cho lực lượng cách mạng. Cách mạng thế giới đang ơ thế tiến công còn chủ

nghĩa đế quốc đang ơ thế suy yếu.

Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng, tuy chủ nghĩa đế quốc suy yếu nhưng

chừng nào nó còn tồn tại thì vẫn còn miếng đất để xảy ra chiến tranh. Đế quốc

28

Mỹ là lực lượng gây chiến chủ yếu trên thế giới, chúng dẫn đầu các thế lực

hiếu chiến chạy đua vũ trang, củng cố các khối liên minh quân sự, xây dựng

các căn cứ quân sự, nhóm lên những lò lửa chiến tranh ở châu Âu, châu á.

Nguy cơ chiến tranh thế giới vẫn có thể nổ ra, đặc biệt là đặt nhân dân thế giới

trước sự đe doạ hết sức nghiêm trọng của một cuộc chiến tranh hạt nhân. Điêu

đó làm cho nhiêu người lo ngại, hoài nghi, tạo điều kiện cho chủ nghĩa xét lại,

chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa dân tộc bùng phát làm cho tình hình thế giới phức

tạp.

Vì vậy, khi tiến hành cuộc cách mạng giải phóng miền Nam, một yêu

cầu đối với Đảng và nhà nước ta là phải hết sức sáng suốt trong nhận định

tình hình và có sách lược đúng đắn giải quyết mối quan hệ giữa hoà bình và

cách mạng. Trên thực tế, Đảng ta đã giải quyết tốt mối quan hệ đó góp phần

bảo vệ hoà bình, thống nhất đất nước và thúc đẩy cách mạng thế giới phát

triển.

Thắng lợi của hệ thống xã hội chủ nghĩa, đã tác động to lớn tới quá

trình phát triển thế giới, đồng thời cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào giải phóng

dân tộc ở các nước thuộc địa. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta đã nhận được

sự ủng hộ nhiệt tình và chi viện to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em

(xem phụ lục 3), đó là một động lực quý báu để chúng ta có thể chiến thắng

được kẻ thù xâm lược. Nếu miền Bắc là hậu phương trực tiếp cho cách mạng

miền Nam thì hệ thống chủ nghĩa xã hội thế giới là hậu phương rộng lớn đáng

tin cậy, một thuận lợi chưa từng có đối với cách mạng nước ta.

Một đặc điểm nữa trong bối cảnh quốc tế mà cuộc kháng chiến chống

Mỹ cứu nước của Việt Nam chịu sự tác động và chi phối là sự phát triển dồn

dập của phong trào giải phóng dân tộc ở vùng á, Phi và Mỹ La Tinh. Phong

trào này đã “phát triển với khí thế mạnh mẽ, quy mô rộng lớn, chất lượng

ngày càng cao, và thu nhiều thắng lợi quan trọng”[29, tr.184-185]. Vùng á,

29

Phi và Mỹ La Tinh được các nước đế quốc mà đứng đầu là Mỹ đặc biệt quan

tâm, nó được xem là sân sau của chúng, nhưng phong trào giải phóng dân tộc

diễn ra liên tiếp tại đây đã khiến chúng phải lo sợ và tìm mọi cách đàn áp

phong trào. Nhưng có áp bức thì có đấu tranh. Chính vì vậy, sự đàn áp của

các nước đế quốc càng tạo điều kiện cho phong trào giải phóng dân tộc phát

triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Vào những năm 50 và 60, hàng loạt các nước

thuộc địa ở châu á, châu Phi và Mỹ La Tinh đã giành được độc lập dân tộc và

đã trở thành đồng minh hùng hậu của hệ thống xã hội chủ nghĩa, của phong

trào công nhân trong các nước tư bản chủ nghĩa. Thực tế cho thấy rằng “vùng

á, Phi, Mỹ La Tinh là khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế

quốc, là nơi dễ bị chọc thủng nhất trong trận tuyến của chủ nghĩa đế

quốc”[80, tr.29]. Kết quả của phong trào là nhiều nước đã giành đuợc độc lập

dân tộc. Sau khi giành độc lập, các nước này đã đi theo con đường hoà bình,

trung lập, không tham gia các liên minh quân sự, chính trị đa phương hoặc

song phương với các nước phuơng Tây để giữ gìn nền độc lập của mình. Sự

phát triển của phong trào giải phóng dân tộc ở đây đã gây cản trở cho việc thi

hành chính sách bành trướng của đế quốc Mỹ và các nước TBCN. Sức công

phá của nó vô cùng to lớn, những biến đổi sâu sắc ở đây đã và đang gây ra sự

đảo lộn lớn trên thế giới, tạo điều kiện cho phong trào cách mạng XHCN phát

triển. Sự lớn mạnh của phong trào giải phóng dân tộc ở á, Phi, Mỹ La Tinh đã

trở thành nguồn lực cổ vũ, động viên cho phong trào đấu tranh chống Mỹ, cứu

nước ở Việt Nam.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta còn diễn tra

trong điều kiện phong trào dân chủ, hoà bình trong các nước TBCN phát triển

ngày một mạnh mẽ hơn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Phong trào này diễn ra

với nội dung phong phú và hình thức linh hoạt. Bãi công, biểu tình của hàng

triệu người đã nổ ra trở thành những đợt sóng đấu tranh rộng lớn trong phạm

30

vi từng nước và trên toàn thế giới. Cuộc đấu tranh này đang được đẩy cao và

lôi kéo được sự tham gia nhiệt tình của giai cấp công nhân và nhân dân lao

động ở các nước TBCN nhằm chĩa mũi nhọn vào giai cấp thống trị. Phong

trào đấu tranh cho hoà bình, dân chủ phát triển tương đối rộng khắp, liên tục

với khí thế mạnh mẽ và giành được những thắng lợi đáng kể. Trong đó, ủng

hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược và ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân

tộc ở các lục địa là một cuộc đấu tranh rộng lớn nhất. Sự thành công của

phong trào dân chủ, hoà bình sẽ tạo ra điều kiện thuận lợi để phong trào giải

phóng dân tộc ở các nước bị xâm lược (như Việt Nam) giành được thắng lợi.

Chính vì vậy, sự phát triển của phong trào đấu tranh này ở các nước TBCN

đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của phong trào

giải phóng dân tộc ở các nước đang bị CNTB chiếm đóng. Cuộc kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam cũng chịu sự tác động to lớn của

phong trào dân chủ hoà bình, đó là một trong những điều kiện quan trọng để

cuộc cách mạng của chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng.

Việt Nam là nơi tập trung nhiều mâu thuẫn cơ bản. Đây cũng là nơi tập

trung ba dòng thác cách mạng lớn của thời đại: độc lập dân tộc, dân chủ và

chủ nghĩa xã hội.

Sức mạnh tổng hợp của ba dòng thác cách mạng cộng với sức mạnh

của phong trào hoà bình đã tạo nên một sự thay đổi lớn trong tương quan so

sánh lực lượng. Với sức mạnh tổng hợp của ba dòng thác cách mạng này,

cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã nhận được sự giúp

đỡ, cổ vũ động viên lớn lao và vì thế có điều kiện để chiến thắng một kẻ thù

hung ác nhất của loài người.

Tuy nhiên, trong những thời điểm nhất định, tình hình quốc tế có những

yếu tố tác động bất lợi đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của

nhân dân ta. Từ năm 1960 trở đi, phe XHCN có những bất đồng về quan

31

điểm, nhất là bất đồng Xô - Trung. Quan hệ giữa Liên Xô - Trung Quốc xấu

đi một cách nghiêm trọng, lúc đầu là những căng thẳng về đường lối, quan

điểm sau chuyển thành những căng thẳng trong vấn đề biên giới, thậm chí dẫn

đến xung đột vũ trang. Mỹ nhanh chóng lợi dụng mâu thuẫn này để phản kích

lại phong trào cách mạng thế giới và tìm cách giảm thiểu sự ủng hộ và chị

viện của các nước trong phe XHCN (như Liên Xô, Trung Quốc) choViệt

Nam. Trong cuộc chiến tranh Mỹ đang tiến hành ở Việt Nam, cả Liên Xô và

Trung Quốc đều có những cái lợi nhất định ở những mức độ khác nhau. Liên

Xô lợi dụng cơ hội Mỹ sa lầy ở Việt Nam, tranh thủ thời gian thúc đẩy hoà

dịu Xô-Mỹ, để kiềm chế Mỹ, giảm gánh nặng chạy đua vũ trang, tăng cường

phát triển kinh tế. Liên Xô lo ngại chiến tranh ở Việt Nam mở rộng sẽ làm

cho quan hệ quốc tế căng thẳng, có hại cho tiến trình hoà dịu Xô-Mỹ và có lợi

cho Trung Quốc trong việc cải thiện quan hệ với Mỹ. Vì vậy, mặc dù vẫn ủng

hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam nhưng Liên Xô lại

muốn nhanh chóng kết thúc cuộc chiến tranh ở đây thông qua thương lượng

hoà bình. Còn đối với Trung Quốc, việc ủng hộ và chi viện cho Việt Nam

được coi là một “nhiệm vụ không thể thoái thác” nhưng Trung Quốc lại lo sợ

chiến tranh kéo dài sẽ ảnh hưởng lớn đến quá trình hoà dịu Trung - Mỹ. Mặt

khác, Trung Quốc lại muốn lợi dụng việc kéo dài chiến tranh ở Việt Nam để

kiềm chế Mỹ, tập hợp lực lượng thế giới phục vụ cho chiến lược phát triển

của mình.

Một số nước ở Đông Nam á đã tranh thủ việc Mỹ bị sa lầy ở Việt Nam

để ổn định đất nước, phát triển kinh tế, thu lợi qua việc thực hiện chiến tranh

của Mỹ.

Như vậy, cuộc chiến tranh của Mỹ tiến hành ở Việt Nam có những lợi

ích nhất định đối với các nước và những chiến lược phát triển quốc gia của họ

32

đều nhằm thúc đẩy quan hệ quốc tế có lợi cho mình.

Rõ ràng, những mâu thuẫn, bất đồng và những lợi ích của các nước đã

tác đông không nhỏ đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Việt

Nam. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc

vừa phải đương đầu với một tên đế quốc đầu sỏ hùng mạnh nhất thế giới đồng

thời lại vừa phải khéo léo điều chỉnh quan hệ với hai nước lớn là Trung Quốc

và Liên Xô nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng bất lợi do mâu

thuẫn giữa hai nước gây ra.

Mặc dù, tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp, đôi lúc có

những mâu thuẫn, bất đồng, phong trào cách mạng thế giới có những lúc suy

thoái tam thời nhưng nhìn chung là có lợi cho cuộc kháng chiến của nhân dân

ta.

1.2. Điều kiện chủ quan của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

1.2.1. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta diễn

ra trong hoàn cảnh khó khăn

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta diễn ra trong

điều kiện hết sức khó khăn. Năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp của

nhân dân ta giành đuợc thắng lợi, hiệp định Giơnevơ được ký kết, theo hiệp

định này, quân Pháp phải rút hết quân về nước, đất nước ta tạm thời bị chia

cắt làm hai, lấy vĩ tuyễn 17 làm ranh giới và hai năm sau sẽ tổ chức hiệp

thương tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Nhưng đế quốc Mỹ đã tìm mọi

cách phá hoại hiệp định Giơnevơ thế chân Pháp xâm lược nước ta bằng chính

sách thực dân mới nhằm biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới

của chúng thông qua chế độ cai trị độc tài tay sai Ngô Đình Diệm.

Sau khi giành được thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp,

chúng ta đã phải chịu những tổn thất nặng nề về người và của, trong lúc đang

33

tập trung mọi lực lượng nhằm khắc phục hậu quả chiến tranh thì lại phải

đương đầu với một kẻ thù còn nguy hiểm hơn gấp bội phần, đẩy cách mạng

nước ta vào tình thế khó khăn hơn bao giơ hết.

Từ sau Hiệp định Giơnevơ, dưới sức ép về kinh tế và quân sự, Pháp đã

phải từng bước rút lui khỏi miền Nam nhương chỗ cho Mỹ áp đặt chủ nghĩa

thực dân kiểu mới ở miền Nam nhằm chia cắt lâu dài Việt Nam. Mỹ đã nhanh

chóng xây dựng được một đội quân nguỵ dưới quyền kiểm soát của mình gồm

10 sư đoàn bộ binh và hàng chục trung đoàn độc lập, với một bộ tổng tham

mưu hoàn toàn do Mỹ đào tạo. Hệ thống cố vấn Mỹ được cài cắm ở khắp nơi

từ Phủ Tổng thống, Bộ Tham mưu, Nha cảnh sát, các Bộ của chính quyền Sài

Gòn cho đến các địa phương.

Hội nghị Trung ương lần thứ 15 đã nhận định: “Với một hệ thống “cố

vấn” chặt chẽ, dựa vào quyền lực của vũ khí, đô la và hàng viện trợ, đế quốc

Mỹ can thiệp ngày càng sâu vào miền Nam; chúng quyết định từ đường lối,

chính sách cho đến công việc cụ thể của chính quyền miền Nam trên các mặt

chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao”[77, 105].

Trong thời gian 1954 - 1956, Mỹ đã cùng với chính quyền Ngô Đình

Diệm dồn sức tiêu diệt các thế lực vũ trang giáo phái thân Pháp ở Nam bộ, đó

là Hoà Hảo, Cao Đài và Bình Xuyên. Chúng đã phải sử dụng bạo lực để tiêu

diệt các lực lượng chống đối này. Ngày 1-1-1955, Mỹ - Diệm đã cắt các

khoản phụ cấp trước đây Pháp dành cho các giáo phái này và ra lệnh đóng cửa

sòng bạc kim Chung và Đại thế giới (Đây là nguồn thu lợi lớn của Bình

Xuyên); mua chuộc và dụ hàng các tướng lĩnh của Cao Đài, Hoà Hảo; tổ chức

các chiến dịch thanh trừng lực lượng vũ trang thân Pháp, chiến sự xảy ra khắp

nơi ở Nam Bộ với quy mô của một cuộc chiến tranh.

Ngay từ giữa tháng 7 năm 1954, Hội nghị lần thứ sáu của Trung ương

Đảng đã đề ra phương châm hoạt động của cách mạng miền Nam là: Phải kết

34

hợp chặt chẽ hình thức đấu tranh hợp pháp và không hợp pháp, nhưng phải

lấy hoạt động bí mật, bất hợp pháp là chính đồng thời hết sức lợi dụng mọi

khả năng hợp pháp để tuyên truyền, tổ chức, giáo dục quần chúng. Phải luôn

bám sát quần chúng mà hoạt động, chống sự khủng bố của địch, che dấu, giữ

gìn lực lượng cách mạng.

Lợi dụng mâu thuẫn giữa Mỹ và Pháp, một số đồng chí đã ở lại miền

Nam hoạt động trong lực lượng vũ trang giáo phái chống Diệm nhằm tạo vỏ

bọc hợp pháp để hoạt động cách mạng, tư đó gây dựng cơ sở cách mạng ở các

địa phương. Sau khi lực lượng vũ trang giáo phái tan rã, một số nơi ở Nam Bộ

đã xây dựng được các đội vũ trang cách mạng và có những hình thức hoạt

động vũ trang thích hợp trong từng giai đoạn nhất định để củng cố và xây

dựng cơ sở cách mạng vững chắc làm hạt nhân cho cuộc đấu tranh chống Mỹ,

Diệm sau này.

Tháng 9 năm 1954, Hội nghị Bộ Chính trị đã phân tích sâu sắc tình

hình nước ta trong thời kỳ này và khẳng định nhiệm vụ trước mắt của cách

mạng miền Nam là: phải đấu tranh đòi đối phương thi hành đầy đủ Hiệp định

Giơnevơ, củng cố hoà bình, thực hiện tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh,

không được khủng bố, đàn áp nhân dân và trả thù những người kháng chiến

cũ, không được cướp giật lại ruộng đất cũng như các quyền lợi dân sinh, dân

chủ mà cách mạng đã mang lại cho nhân dân.

Thi hành nhiệm vụ nói trên, cách mạng miền Nam phải lấy hình thức

đấu tranh chính trị là chủ yếu. Lúc này phải biết nắm lấy cơ sở pháp lý của

hiệp định Giơnevơ mà lãnh đạo quần chúng đấu tranh hợp pháp với địch, tiến

công chúng về mặt chính trị, tinh thần, kết hợp với đấu tranh vũ trang tự vệ.

Trong hai năm 1955 - 1956, Đảng bộ miền Nam đã lãnh đạo các tầng

lớp nhân dân đấu tranh chính trị mạnh mẽ, đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ,

giữ vững hoà bình, chống âm mưu, hành động chuẩn bị gây chiến tranh của

35

địch, đòi thực hiện dân chủ, cải thiện dân sinh.

Tuy nhiên, sau khi thẳng tay gạt Pháp ra khỏi guồng máy cai trị và độc

chiếm miền Nam, phá tan lực lượng vũ trang của các giáo phái, gạt bỏ mọi thế

lực thân Pháp cùng với việc xây dựng quân đội nguỵ, Mỹ hướng ngay mũi

nhọn đàn áp của mình về phía phong trào yêu nước cách mạng. Chúng tổ

chức mạng lưới kìm kẹp đến tận ấp, xã, phường, bắt cán bộ ta ra trình diện,

phân loại nhân dân, làm tơ khai gia đình, tổ chức các đảng phái phản động...

Từ cuối năm 1954, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm đã huy động bộ máy

quân đội, cảnh sát gây ra những vụ thảm sát đẫm máu ở Ngân Sơn, Chợ

Được, Mỏ Cày, Củ Chi, Chí Thạnh, Cam Lộ, Hướng Điền... Chúng thi hành

quốc sách “tố cộng, diệt cộng” để đàn áp phong trào yếu nước, tiêu diệt cơ sở

cách mạng ở miền Nam, lùng bắt và giết hại những người kháng chiến cũ và

đồng bào yêu nước. Chúng thi hành chiến lược này với phương trâm “giết

nhầm còn hơn bỏ sót” với mục tiêu tiêu diệt hết những người cộng sản, những

tổ chức cộng sản ở đây. Chúng dùng quân đội mở nhiều cuộc hành quân càn

quét trên quy mô lớn, dài ngày như “chiến dịch Thoại Ngọc Hầu” diễn ra ở 18

tỉnh miền Tây Nam Bộ , “chiến dịch Trương Tấn Bửu” ở 8 tỉnh Đông Nam

Bộ. Mỹ, Diệm đã ban hành luật 10/59 lê máy chém đi khắp miền Nam bắt bớ,

tra tấn, chém giết những người yêu nước, biến miền Nam thành nơi tràn ngập

nhà tù, trại giam.

Trước hành động khủng bố trắng của Mỹ-Diệm, lực lượng cách mạng

miền Nam bi tổn thất lớn: 9/10 số cán bộ đảng viên bị giết và tù đày. ở Nam

Bộ, khoảng 7 vạn cán bộ, đảng viên bị giết, gần 90 vạn cán bộ và quần chúng

bị bắt, tù đày; gần 20 vạn bị tra tấn đến tàn tật, chỉ còn khoảng 5 nghìn so với

60 nghìn đảng viên trước đó. Bến Tre từ 2000 đảng viên chỉ còn 162 đảng

viên; Tiền Giang còn 92 đảng viên; Gia Định, Biên Hoà mỗi nơi chỉ còn 1 chi

bộ Đảng. ở khu V (lúc này gồm cả Trị - Thiên) và Nam Trung bộ còn khoảng

36

40% tỉnh uỷ viên, 60% huyện uỷ viên; 70% chi uỷ viên xã bị bắt, bị giết, 20

tỉnh chỉ còn 2-3 chi bộ, 12 huyện đồng bằng không còn cơ sở Đảng. Riêng Trị

- Thiên còn 160 đảng viên so với 23.400 đảng viên trước đó [66, tr.145]. Đây

là tổn thất về lực lượng vô cùng to lớn của cách mạng miền Nam không có gì

có thể so sánh được và là thời kỳ đen tối nhất mà cách mạng miền Nam phải

trải qua.

Một điểm dễ nhận thấy nhất trong cuộc đụng đầu lịch sử này là sự

chênh lệch quá lớn về tương quan lực lượng giữa hai bên. Chúng ta tiến hành

cuộc kháng chiến trong tình trạng hết sức khó khăn, miền Bắc được hoàn toàn

giải phóng nhưng kinh tế nghèo nàn lạc hậu, hàng vạn thôn xóm tiêu điều, xơ

xác; hàng chục hécta ruộng đất hoang hoá; đời sống nhân dân thiếu thốn mọi

bề. Miền Nam tạm thời do đối phương kiểm soát, cách mạng tư chỗ có chính

quyền, có quân đội, có vùng giải phóng trở thành không chính quyền, không

quân đội, không vùng giải phóng; lực lượng cách mạng tại chỗ bị thiệt hại

năng nề do chính sách cai trị độc tài của chính quyền Ngô Đình Diệm gây ra.

Trong khi đó kẻ thù mà chúng ta phải đương đầu là một đế quốc hùng mạnh,

giàu có, nham hiểm nhất thế giới, có bộ máy quân sự mạnh, có đội quân viễn

chinh đông và chưa tùng bị bại trận.

Sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta rơi vào tình thế vô cùng khó

khăn, đất nước có nguy cơ “trở về thời kỳ đồ đá” như Mỹ hăm doạ. Đặc biệt

khi Mỹ ồ ạt đưa quân vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam, trong nước và

trên thế giới cũng có nhiều ý kiến khác nhau, họ cho rằng nhân dân Việt Nam

sẽ không thể chiến thắng đế quốc Mỹ, thậm chí có thế tạo ra nguy cơ một

cuộc chiến tranh thế giới mới vì thế họ không muốn ta đánh và không muốn

bị lôi kéo vào lò lửa chiến tranh nay. Sự nghiệp cách mạng Việt Nam đứng

trước một câu hỏi lớn: liệu với sức mạnh như hiên có chúng ta có thể đánh

thắng đế quốc Mỹ và tay sai không và nêu đánh thì sẽ phải đánh như thế nào?

37

Với bản lĩnh cách mạng và sự am hiểu sâu sắc tình hình, thấy rõ chỗ mạnh

tạm thời và chỗ yếu cơ bản của địch, thấy rõ sức mạnh tổng hợp của nhân dân

ta trong thời đại mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Trung ương hạ quyết

tâm động viên cả nước kiên quyết đánh thắng giặc Mỹ xâm lược: “Chiến

tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải

Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt

Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do”[54, tr.108]. Chủ

tịch Hồ Chí Minh khẳng định:

“Ta nhất định thắng

Mỹ nhất định thua”[54, tr.36].

Tuy nhiên, không phải chỉ có quyết tâm cao là có thể đánh thắng giặc

Mỹ xâm lược, mà quan trọng là phải biết đánh. “Biết đánh là cả một quá trình

sáng tạo, sáng tạo của lãnh đạo và sáng tạo của quần chúng trên cơ sở nắm

vững quy luật cách mạng, quy luật chiến tranh cách mạng, quan điểm thực

tiễn, biết địch biết ta, đánh giá đúng chỗ mạnh của địch để khắc phục, phát

hiện đúng chỗ yếu của địch để khoét sâu, biết tập trung giáng đòn quyết định

làm chuyển biến cục diện chiến tranh, giành thắng lợi từng bước, tiến tới

giành thắng lợi hoàn toàn”[7, tr.68].

Với quyết tâm đánh Mỹ và những kinh nghiệm được tích luỹ trong

cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh đánh

thắng kẻ thù xâm lược lập nên một kỳ tích chưa từng có trong lịch sử nhân

loại, góp phần quan trọng làm tăng cường sức mạnh của lực lượng cách mạng

thế giới. Để làm nên chiến thắng đó phải nói đến sự lãnh đạo tài tình của

Đảng, sự nhạy bén trong việc nhận định tình hình, bám sát với thực tiễn, đề ra

đường lối và phương pháp cách mạng thích hợp mà một trong những thành

công đó là việc tổ chức chỉ đạo giành thắng lợi quyết định trong tình thế

38

tương quan lực lượng có sự chênh lệch khá lớn.

1.2.2. Đất nước bị chia cắt thành hai miền, phải tiến hành đồng thời

hai chiến lược cách mạng khác nhau dưới sự lãnh đạo thống nhất của

Đảng

Đây là đặc điểm lớn nhất và cũng là nét độc đáo của cách mạng nước ta

trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Trong suốt cuộc kháng chiến, việc hoạch định đường lối chiến lược và

sách lược của Đảng luôn phản ánh rõ đặc điểm lớn này. Từ mục tiêu chung

của cách mạng cả nước và mục tiêu cụ thể của từng miền đến những vấn đề

về chủ trương, sách lược và phương pháp tiến hành đều phải phù hợp với đặc

điểm trên, phù hợp với điều kiện lịch sử của từng miền. Đồng thời, Đảng phải

xác định rõ vị trí cách mạng từng miền và mối quan hệ khăng khít giữa cách

mạng hai miền trong thế chiến lược chung của cả nước.

Ngay từ cuối năm 1956, Đề cương về đường lối cách mạng miền Nam,

đã khẳng định nhiệm vụ chiến lược của cả nước là:

1. Củng cố thật vững chắc miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành cơ sở

vững mạnh của cả nước, làm hậu thuẫn cho phong trào giải phóng miền Nam.

2. Đẩy mạnh phong trào cách mạng miền Nam. Để cứu nước và tự cứu

mình, nhân dân miền Nam không có con đường nào khác ngoài con đường

cách mạng. Bởi vậy phải đẩy mạnh phong trào cách mạng ở miền Nam.

Như vậy, ngay từ sớm Đảng đã thấy được vị trí, vai trò của cả hai miền

trong sự nghiệp cách mạng nước nhà và có đường lối chỉ đạo cách mạng đúng

đắn nhằm phát huy được mọi nguồn lực phục vụ cho cuộc đấu tranh giải

phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Đường lối này được cụ thể hóa và thấy rõ hơn trong Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ III của Đảng (9 - 1960).

Sau khi tổng kết tình hình thực tiễn hai miền Nam, Bắc, Đại hội đã xác

39

định đường lối cách mạng của nước ta:

“Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến

lược:

- Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

- Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và

bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ

trong cả nước.

Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác

dụng thúc đẩy nhau”[27, tr.510].

Đại hội đã xác định đúng đắn vị trí chiến lược của từng miền:

Miền Bắc được coi là căn cứ địa chung của cách mạng cả nước và việc

xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự

phát triển của cách mạng cả nước. Đảng khẳng định: “Đưa miền Bắc tiến lên

chủ nghĩa xã hôi, làm cho miền Bắc được ngày càng vững mạnh về mọi mặt

thì càng có lợi cho cách mạng giải phóng miền Nam, cho sự phát triển của

cách mạng trong cả nước, cho việc giữ gìn và củng cố hoà bình ở Đông

Dương, Đông Nam á và thế giới. Vì vậy, tiến hành cuộc cách mạng xã hội

chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của

toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước

nhà”[26,tr.520]. Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong khi nhân dân

miền Nam phải tập hợp mọi lực lượng ra sức đấu tranh đánh đuổi giặc Mỹ

xâm lược nên phương châm tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền

Bắc là: “Xây dựng miền Bắc, chiếu cố miền Nam”[27, tr.510].

Cách mạng miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự

nghiệp giải phóng miền Nam. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III

nêu rõ: “Trong sự nghiệp hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân

40

trong cả nước, thực hiện thống nhất nước nhà, đồng bào ta ở miền Nam có

nhiệm vụ trực tiếp đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai của

chúng để giải phóng miền Nam”[27, tr.510].

Nhiệm vụ cách mạng ở Bắc và nhiệm vụ cách mạng ở miền Nam thuộc

hai chiến lược khác nhau nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của từng miền trong

hoàn cảnh đất nước tạm thời bị chia cắt nhưng hai nhiệm vụ đó lại cùng giải

quyết một mâu thuẫn chung đó là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ

và bọn tay sai. Do vậy mà nhiệm vụ của hai miền Nam, Bắc đều có một mục

tiêu chung là hoà bình, thống nhất Tổ quốc.

Việc xác định đường lối cách mạng tiến hành đồng thời hai chiến lược

cách mạng khác nhau ở hai miền Nam, Bắc là nét độc đáo, chưa từng có trong

lịch sử và là thành công lớn của Đảng ta. Đường lối này thể hiện tinh thần độc

lập tự chủ, sáng tạo của Đảng và nhân dân ta.

Miền bắc hoàn toàn giải phóng, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa

là căn cứ địa cách mạng cả nước và là hậu phương lớn của cách mạng miền

Nam, đã tạo cho cách mạng miền Nam có điều kiện thuận lợi mới khác hẳn

thời kỳ lịch sử trước đây. Đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu để

cách mạng Miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ và tai sai.

Vai trò to lớn của miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu

nước không chỉ được Đảng ta khẳng định mà ngay tư sớm đế Mỹ đã nhận ra

miền Bắc có vai trò mấu chốt nhất trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Chính vì

thế, đối với Mỹ “chính sách và chiến lược nhất quán của họ là coi việc làm

suy yếu và ra sức cản phá đến mức tối đa sự phát triển lớn mạnh của miền

Bắc nước ta là một mục tiêu chiến lược có tầm quan trọng quyết định. Vì nó

nhằm phá hoại tận gốc ý chí quyết tâm và trí tuệ kháng chiến của nhân dân ta,

cùng tiềm lực quốc phòng, kinh tế, loại bỏ khả năng duy trì chiến tranh lâu dài

41

của ta”[112, tr.310].

Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền Bắc đã làm

tròn vai trò hậu phương lớn của mình, tập trung sức người, sức của cho sự

nghiệp cách mạng ở miền Nam. Vậy miền Bắc đã làm được gì cho sự thành

công của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam?

Thứ nhất, miền Bắc đã tập trung xây dựng hậu phương vững chắc, tăng

cường quốc phòng, phát động một cuộc chiến tranh nhân dân đánh thắng hai

cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.

Nhiệm vụ của hậu phương miền Bắc đối với cách mạng miền Nam

được xác định rõ hơn từ sau Nghị quyết tháng 1-1961 của Bộ Chính trị. Tất cả

mọi hoạt động của miền Bắc đã chuyển hướng với tinh thần “tất cả vì tiền

tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược; miền Bắc nước ta không

những là hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam mà còn là hậu phương

chung của ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia”[32, tr.644]. Để hoàn thành

nhiệm vụ to lớn đó, miền Bắc đã hai lần chuyển hướng kinh tế, tiến hành

động viên trên quy mô lớn sức người, sức của để cung cấp cho tiền tuyến

đồng thời cũng phải trực tiếp chiến đấu hai lần chống lại chiến tranh phá hoại

của đế quốc Mỹ. Khi tiến hành leo thang bắn phá miền Bắc, Mỹ đã tuyên bố

đưa miền Bắc Việt Nam “trở về thời kỳ đồ đá” hòng khuất phục được ý chí

chiến đấu của miền Bắc, nhưng với tinh thần bất khuất, phát huy cao độ chủ

nghĩa anh hùng cách mạng, miền Bắc đã chiến đấu kiên cướng tạo thành một

cuộc chiến tranh nhân dân đất đối không hiếm có trong lịch sử, bắn rơi 4.181

máy bay, bắn cháy, bắn chìm 296 tầu chiến và tầu biệt kích, bắt sống một số

lượng lớn phi công Mỹ (hơn 500 tên). Thắng lợi này đã làm thất bài một bộ

phận quan trọng trong chiến lược chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc

Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh, ngồi vào bàn đàm phán với ta.

Dưới bom đạn ác liệt của kẻ thù, miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất,

42

tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển về mọi mặt, tiếp tục tăng cường

lực lượng ngày càng lớn cho tiền tuyến, đồng thời vẫn giữ vững và ổn định

đời sống nhân dân hậu phương.

Thứ hai, miền Bắc ra sức chi viện cho miền Nam và trực tiếp chiến đấu

cùng đồng bào miền Nam trong tất cả các giai đoạn, đặc biệt là giai đoạn đấu

tranh giành thắng lợi quyết định góp phần đánh thắng kẻ thù xâm lược.

Ngay từ khi Hiệp định Giơnevơ có hiệu lực, miền Bắc đã tiếp nhận

hàng chục vạn cán bộ và bộ đội ra tập kết tại đây. Còn nhiệm vụ trực tiếp chi

viện cho miền Nam chính thức được bắt đầu thực hiện khi có Nghị quyết Hội

nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng (1-1959) và đẩy mạnh khi cách mạng

miền Nam từ khởi nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng.

Trong suốt thời gian chiến tranh, miền Bắc đã động viên hai triệu thanh

niên tham gia lực lượng vũ trang xung phong vào Nam đánh giặc, cứu nước.

Số lượng quân đội và cán bộ miền Bắc chiến đấu trên các triến trường miền

Nam tăng lên qua các năm:

- 1961 - 1962: 4 vạn cán bộ, chiến sĩ trong đó có 2000 cán bộ trung, cao

cấp.

- Cuối 1965: đưa vào miền Nam 5 vạn quân.

- 1965 - 1968: 336.914 thanh niên miền Bắc hành quân vào Nam chiến

đấu.

- 1969 - 1971: 19 vạn 6 nghìn người.

- Cuối năm 1971 - đầu năm 1972: 55.000 người.

- 1973 - 1975: gần nửa triệu người [112, tr.334].

Ngoài ra có hàng triệu thanh niên xung phong tham gia xây dựng bảo

vệ đường Hồ Chí Minh và bảo đảm vận chuyển mọi nhu yếu phẩm cho chiến

trường miền Nam, giữ vững mạnh máu giao thông luôn thông suốt để sẵn

sàng tiếp tế cho tiền tuyến. Phần đông các gia đình miền Bắc đều có con em

43

chiến đấu trong Nam hoặc đi làm nghĩa vụ quốc tế.

Cùng với nguồn nhân lực cung ứng cho miền Nam thì miền Bắc đã chi

viện cho miền Nam hàng trăm tấn vũ khí, lương thực, thuốc men, quân tư

trang đảm bảo cho chiến trường đủ súng đạn, đủ quân, ăn no đánh thắng.

- Năm 1962: số hàng đưa vào gấp 3 lần so với năm 1961.

- Từ 1962-1963: vận chuyển hàng trăm tấn vũ khí, 7.000 tấn lương

thực, 34 tấn thuốc chữa bệnh, 200 tấn vật tư khác.

- Cuối 1965: vận chuyển hàng vạn tấn vũ khí.

- 1968: khối lượng vận chuyển vào miền Nam tăng 2 lần so với năm

1967.

- 1969: 17 tấn vũ khí và vật dụng, tăng 28% so với năm 1968.

- Cuối năm 1970: Đoàn 559 được tăng cường 40 trung đoàn, tiểu đoàn

vận tải ôtô, vận tải đường sông; được bổ sung 3.500 xe ôtô, 200 pháo cao xạ

và song cối, 1000 xe, máy làm đường, phá bom, mìn, 700 vô tuyến điện. Tổng

quân số của đoàn 559 năm 1970 là 70.000 quân, năm 1971 lên trên 90.000

người.

- Trong năm 1970 lắp đặt đường ống dẫn xăng từ miền Bắc và miền

Nam dài 500km, đến cuối năm 1971 gần 1.000km. Nhờ có tuyến đường ống,

mùa khô 1970-1971, miền Bắc đã chuyển vào chiến trường khối lượng xăng

dầu gấp 10 lần mùa khô 1969-1970 [112, tr.334-335].

Những số liệu trên chắc còn ít so với thực tế nhưng đã thấy được rằng

miền Bắc đã hết lòng chi viện sức người, sức của cho miền Nam và tham gia

chiến đấu với tinh thần sẵn sàng hy sinh xương máu vì miền Nam ruột thịt.

Nhờ có Đảng xác định đúng đắn lối cách mạng của hai miền mà trong

21 năm kháng chiến, đồng bào miền Nam đã chịu đựng muôn vàn hy sinh,

gian khổ, chiến đấu anh dũng, xứng đáng là “Thành đồng Tổ quốc” và là lực

lượng quyết định trực tiếp tại chỗ trong cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam,

44

bảo vệ miền Bắc. Còn miền Bắc đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến lược

của mình, xây dựng chủ nghĩa xã hội và tích cực ủng hộ, chi viện cho miền

Nam, xứng đáng là căn cứ địa cách mạng của cả nước, là lực lượng có vai trò

quyết định nhất đối với sự phát triển cách mạng cả nước. Miền Bắc đã góp

vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng một cách xứng đáng như đánh giá của

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV: “Không thể nào có thắng lợi của sự

nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước nếu không có miền Bắc xã hội chủ

nghĩa trong suốt 16 năm qua luôn cùng một lúc phải làm hai nhiệm vụ chiến

lược… Miền Bắc đã dốc vào chiến tranh giữ nước và cứu nước toàn bộ sức

mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa và hoàn thành một cách xuất sắc nghĩa vụ

căn cứ địa cách mạng của cả nước”[42, tr.490].

Có thể nói, việc xác định đường lối cách mạng ở hai miền của Đảng là

hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với thực tế lịch sử, góp phần thúc đẩy cách

mạng hai miền cùng đi lên, tạo ra sức mạnh tổng hợp đánh thắng hoàn toàn đế

quốc Mỹ xâm lược và chế độ tay sai của chúng, giải phóng miền Nam, thống

nhất Tổ quốc.

*

* *

Như vậy, xem xét trong bối cảnh chung, cuộc kháng chiến chống Mỹ,

cứu nước của Việt Nam có những yếu tố thuận lợi nhưng cũng có những yếu

tố bất lợi. Đặc biệt trong điều kiện phải đối phó với một kẻ thù hùng mạnh

nhất trong lịch sử thì một yêu cầu để đảm bảo thắng lợi cho cách mạng miền

Nam là phải thực hiện theo phương châm trường kỳ kháng chiến, giành thắng

lợi từng bước nhưng phải có bước quyết định, bước đột phá để mở ra khả

năng mới tiến lên giành thắng lợi cuối cùng.

Với những nhận định sáng suốt về khả năng diễn tiến của chiến tranh

45

dựa trên cơ sở khách quan và chủ quan, Đảng đã đề ra chiến lược chỉ đạo

giành thắng lợi quyết định để đánh đuổi giặc Mỹ ra khỏi nước ta. Cơ sở của

đường lối đấu tranh đó là:

Thứ nhất, xét về mặt khách quan, Mỹ là một đế quốc khổng lồ, giàu có,

hùng mạnh nhất thế giới lại có chiến lược toàn cầu phản cách mạng mà miền

Nam Việt Nam là một con bài có tính chất quyết định trong chiến lược đó

nhưng dù vị thế Việt Nam có quan trọng đến đâu thì Mỹ không thể tập trung

toàn lực cho khu vực này. Việc tham gia vào chiến tranh ở Việt Nam đã làm

giảm vị thế của Mỹ các địa bàn khác, uy hiếp nghiêm trọng đến ví trí đứng

đầu thế giới của Mỹ. Các nước tư bản khác, đồng thời cũng nhân cũng nhân

cơ hội này tập trung phát triển kinh tế vươn lên cạnh tranh với Mỹ và trở

thành đối thủ đáng gờm trong cuộc chạy đua giành ngôi vị bá chủ. Điều này

đã làm cho Mỹ phải chịu nhiều áp lực trong việc hoạch định đường lối, chính

sách, không thể chỉ tập trung cho việc gây dựng thanh thế ở Việt Nam mà

quên đi lợi ích quốc gia. Đây là một điều kiện khách quan tồn tại suốt trong

quá trình đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và cũng là điều kiện để Đảng ta đề ra

đường lối chỉ đạo giành thắng lợi quyết định cho cách mạng miền Nam.

Đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam là tiến hành một cuộc chiến tranh phi

nghĩa nên dù Mỹ có tập trung toàn lực để mở rộng chiến tranh ở đây thì cũng

không tranh khỏi việc phản đối của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế

giới. Việc kéo dài chiến tranh cùng với những chi phí không lồ đã làm cho

nền kinh tế của Mỹ suy giảm nghiêm trọng. Đó là một hậu quả tai hại nhất

cho nước Mỹ. Cũng vì thế mà mâu thuẫn nội bộ trong giới cầm quyền Mỹ

ngày càng găy gắt, các phong trào phản chiến ngay trong lòng nước Mỹ ngày

càng lên cao. Nhà sử học Mỹ, G.Côncô đã nhận xét “Chiến tranh Việt Nam

khi thất vọng và thời gian kéo dài thì sự cay đắng và tình trạng chia rẽ trong

nước cũng tăng lên, làm suy yếu nền kinh tế và cơ cấu quân sự và đập tan sự

46

nhất trí về chính sách đối ngoại và sự thanh bình của đất nước”[15, tr.23] và

“những sự kiện kinh tế và chính trị ở Mỹ đã có tác động quyết định đối với

những sự kiện ở Việt Nam”[15, tr.23]. Chính sự phản ứng của dư luận thế

giới và của một số thành viên trong chính phủ đã làm cho Mỹ không thể mạo

hiểm trong cuộc chiến này, tạo ra điều kiện thuận lợi để chúng ta có thể đề ra

được đường lối đấu tranh thích hợp đánh bại kẻ thù đó.

Mỹ xâm lược Việt Nam với mưu đồ bá chủ thế giới và ngăn chặn sự

phát triển của chủ nghĩa cộng sản nên cuộc chiến tranh này không chỉ đụng

chạm đến một mình Việt Nam mà còn uy hiếp, đe doạ đến sự tồn tại của hệ

thống XHCN thế giới và các nước tiến bộ khác. Hơn nữa, hệ thống XHCN lúc

này đã lớn mạnh, đủ sức đương đầu với các thế lực phản cách mạng trên thế

giới. Nhân dân Việt Nam chiến đấu chống chiến tranh xâm lược Mỹ, cứu

nước là chính nghĩa và thắng lợi của cuộc kháng chiến này sẽ giúp củng cố

hơn nữa vị trí, vai trò của hệ thống XHCN trên thế giới. Vì thế, cuộc đấu

tranh của nhân dân Việt Nam luôn nhận được sự đồng tình, ủng hộ của các

nước XHCN anh em và nhân dân tiến bộ trên thế giới. Đây là một điều kiện

quốc tế quan trọng không thể thiếu giúp cách mạng Việt Nam đối chọi với

một tên đế quốc giàu mạnh nhất trong phe đế quốc.

Thứ hai, xét về mặt chủ quan, nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu

nước nồng nàn; có tinh thần chiến đấu anh dũng, kiên cường, bất khuất,

không sợ hy sinh, gian khổ; có sự đoàn kết nhất trí cao trong bất cứ cuộc đấu

tranh nào. Chúng ta biết tổ chức, biết huy động và phát huy cao độ mọi sức

mạnh vật chất và tinh thần của chính mình, đồng thời có đường lối quốc tế

đúng đắn, sử dụng một cách có hiệu quả sự ủng hộ quốc tế cho cuộc đấu tranh

thống nhất nước nhà.

Ngoài ra, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân miền

Nam luôn nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của hậu phương lớn miền Bắc xã

47

hội chủ nghĩa. Đây là một nhân tố hết sức thuận lợi cho cách mạng miền Nam

góp phần quan trọng làm nên chiến thắng của cuộc đấu tranh này. Vai trò to

lớn của miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã được Đảng và nhà nước ta khẳng định

trong các văn bản chỉ đạo cách mạng của mình. Có thể dễ dàng nhận thấy

rằng, nếu không có miền Bắc xã hội chủ nghĩa thì cũng không có thắng lợi

của cách mạng miền Nam. Đây là một trong những tiền đề có ý nghĩa quan

trọng để chiến lược chỉ đạo giành thắng lợi quyết định của Đảng đi đến thành

công, đánh đuổi giặc Mỹ ra khỏi nước ta, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Vì thế, có đặt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam

trong bối cảnh chung thì mới thấy hết được những nhân tố thuận lợi và khó

khăn để Đảng ta phát huy những nhân tố có lợi, hạn chế những nhân tố có hại

đề ra được đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn chiến thắng kẻ thù

xâm lược. Từ đó mới có thể lý giải được vì sao một dân tộc nhỏ bé, nghèo

nàn, lạc hậu như Việt Nam lại có thể đánh thắng được một tên đế quốc đầu sỏ

trong giới tư bản chủ nghĩa như Mỹ. Thực tế lịch sử trên đây là cơ sở cho

cách mạng nước ta có điều kiện khách quan và thời cơ thuận lợi để có thể triệt

để lợi dụng, khoét sâu mâu thuẫn giữa bon đế quốc với nhau, phân hoá và cô

48

lập cao độ Mỹ, để tiến lên đánh bại chúng.

Chương 2

Quá trình Đảng chỉ đạo và tổ chức thực hiện

giành thắng lợi quyết định trong kháng chiến chống mỹ, cứu nước

2.1. TRong những năm chống “chiến tranh đặc biệt” (1961-1965)

2.1.1. Âm mưu và nội dung chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ

Cuối năm 1960, nhân dân miền Bắc đã hoàn thành công cuộc khôi phục

và cải tạo kinh tế, bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, xây dựng

cơ sở vật chất kỹ thuật để đi lên chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc đã ra sức tập

trung xây dựng quân đội lớn mạnh để bảo vệ công cuộc CNXH ở miền Bắc và

tăng cường chiến đấu cho miền Nam.

Miền Nam, phong trào “Đồng khởi” thắng lợi, nhân dân ta đã giành

quyền làm chủ ở nhiều vùng nông thôn rộng lớn thuộc đồng bằng Nam bộ và

miền núi Trung bộ, giải phóng gần 6 triệu dân, phá vỡ 60% khu trù mật, khu

dinh điền. Cách mạng miền Nam chuyển sang thế tiến công. Thời kỳ ổn định

tạm thời của chủ nghĩa thực dân kiểu mới mà Mỹ xây dựng ở miền Nam đã

chấm dứt.

Lúc này, phong trào cách mạng trên thế giới phát triển mạnh mẽ, hệ

thống các nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển. Chiến lược quân sự

toàn cầu “trả đũa ồ ạt” cùng những chính sách và phương thức thực hiện chiến

lược đó được triển khai từ năm 1953 trải qua hai đời tổng thống đã không đạt

được những kết quả như tính toán ban đầu của Mỹ. Nó chẳng những không

ngăn chặn được sự lớn mạnh của các nước xã hội chủ nghĩa mà còn bị Liên

Xô vượt lên về nhiều mặt. Ngoài ra, phong trào giải phóng dân tộc còn nổ ra

mạnh mẽ ở khắp các châu lục.

Để ứng phó với tình hình trên, sau khi lên thay Aixenhao làm Tổng

49

thống Mỹ, Kennơdi đã “tập hợp những chuyên gia xuất sắc, thuộc nhiều lĩnh

vực, nghiên cứu một cách toàn diện về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá,

tâm lý, tham khảo kỹ kinh nghiệm chống du kích tại nhiêu nơi trên thế giới,

để hoạch định đường lối mới, quyết giành thắng lợi trong cuộc thách thức

này”[80, tr.36].

Năm 1961, Mc.Namara cho ra đời bản “Đường lối và chiến thuật chống

chiến tranh du kích ở Nam Việt Nam”. Cũng năm đó, đại tướng Taylo đã đề

xuất chiến lược “phản ứng linh hoạt” và Kennơdy quyết định thay đổi chiến

lược quân sự toàn cầu từ “trả đủa ồ ạt” sang “phản ứng linh hoạt” và dùng

“chiến tranh đặc biệt” để đối phó với cách mạng Việt Nam nhằm chiếm lại

những địa bàn, vùng dân cư đã mất. “Chiến tranh đặc biệt” là một trong ba

loại chiến tranh nằm trong chiến lược “phản ứng linh hoạt” của đế quốc Mỹ.

Mục đích là chống lại chiến tranh du kích, chiến tranh giải phóng của nhân

dân, không có chiến tuyến cố định, thường ít huy động các binh đoàn lớn. Mỹ

sử dụng sức mạnh quân sự, chính trị, kinh tế, tâm lý để thi hành chiến lược

này. Lực lượng chủ yếu thực hiện chiến lược là quân Nguỵ được Mỹ huấn

luyện, trang bị, chỉ huy và nuôi dưỡng.

Nội dung chính của “Chiến lược chiến tranh đặc biệt” là:

- Tăng cường và mở rộng quyền điều hành tác chiến, chỉ huy yểm

trợ của phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ (MAAG), từng bước triển

khai lực lượng yểm trợ Mỹ, đưa lực lượng dặc biệt Mỹ vào miền

Nam, giúp chính quyền Sài Gòn xây dựng quân nguỵ.

- Chốt chặt biên giới chống xâm nhập của miền Bắc.

- Mở rộng, tăng cường quân đội Sài Gòn, cải tiến trang bị và huấn

luyện để đối phó với chiến tranh du kích.

- Khẩn trương bình định, lấy việc lập “ấp chiến lược” làm trọng

50

tâm, phong toả vùng biển, bịt kín biên giới, dùng quân đội Sài Gòn

làm lực lượng chiến lược tiến hành chiến tranh ở miền Nam, phá

hoại miền Bắc.

- Ra sức củng cố chính quyền Sài Gòn các cấp[25, tr.267].

“Chiến lược chiến tranh đặc biệt” của Mỹ thực sự là một chiến lược

chiến tranh nguy hiểm , làm cho cuộc chiến đấu của nhân dân ta thêm phần

gay go, quyết liệt.

Nhằm triển khai chiến lược đó, Mỹ đã cử nhiều quan chức cấp cao sang

nghiên cứu, hoạch định bước đi với mục tiêu nhanh chóng giành được thắng

lợi. Tháng 6 năm 1961, Mỹ đã cử E. Staley và 100 chuyên gia “chống du

kích” sang Việt Nam. Tháng 10 năm 1961, tổng thống Kennơdy cử tướng

Taylo sang tiếp tục nghiên cứu và tìm cách dập tắt cuộc “Đồng khởi” của

nhân dân miền Nam. Từ đó, ra đời kế hoạch “Stalây - Taylo”. Kế hoạch này

được chia làm 3 giai đoạn:

Giai đoạn thứ nhất: Bình định miền Nam trong vòng 18 tháng với biện

pháp chính là dồn dân, lập ấp chiến lược(tính từ tháng 6 năm 1961). Mục đích

của chiến lược này là phá huỷ các cơ sở cách mạng và đánh bật lực lượng vũ

trang ra khỏi quần chúng, đánh bại chiến tranh du kích; ngăn chặn biên giới

và kiểm soát vùng biển cắt đứt các tuyến đường vận chuyển, tiếp tế, cô lập và

bóp nghẹt cách mạng miền Nam. Tập trung đào tạo và tăng cường nguỵ quân

làm lá chắn để đánh phá và tiêu diệt lực lượng cách mạng từ bên trong.

Giai đoạn hai: trong năm 1963, khối phục phát triển kinh tế, hoàn tất

chương trình bình định, xây dựng quân nguỵ, tiến công ra Bắc.

Giai đoạn ba: Xây dựng miền Nam thành quốc gia kiểu mẫu, có tiềm

lực kinh tế, chính trị, quân sự mạnh ở Đông Nam á.

Để thực hiện kế hoạch này, chúng đã lập Bộ chỉ huy viện trợ quân sự

(MACV) ở Sài Gòn do Đại tướng Paul Harkins làm Tư lệnh. Số lượng cố vấn

51

và các đơn vị yểm trợ không ngừng tăng lên từ 1.077 tên (năm 1960) đến

10.640 (năm 1962). Ngoài lực lượng trên, Mỹ còn đưa vào miền Nam một

khối lượng vũ khí, thiết bị chiến tranh khổng lồ, tăng thêm viện trợ quân sự và

kinh tế cho chính quyền và quân đội Sài Gòn. Tính từ năm 1961 trở đi, số

viện trợ quân sự bắt đầu vượt viện trợ kinh tế: năm 1962, viện trợ tăng gấp

đôi năm 1961, đến năm 1964 lại tăng gấp rưỡi năm 1962. Trung bình, viện trợ

quân sự trực tiếp trong thời gian này tới 300 triệu đôla 1 năm [84, tr.37].

Mỹ đã thi hành những biện pháp mà chúng cho là có hiệu quả nhất để

“chiến lược chiến tranh đặc biệt” của chúng thành công. Đó là:

- Tăng cường đào tạo và xây dựng lực lượng quân đội Sài Gòn đủ

mạnh, dùng quân đội Sài Gòn và những thiết bị chiến tranh hiện đại để nhanh

chóng tiêu diệt lực lượng cách mạng.

Trước những tổn thất to lớn về lực lượng và vật chất sau cao trào Đồng

khởi, Mỹ đã tìm cách khắc phục tình trạng đó bằng cách ráo riết bắt lính, phát

triển quân chủ lực và ra sức xây dựng lực lượng đủ mạnh để đối phó với lực

lượng cách mạng. Chúng tập trung xây dựng quân chủ lực thành những đơn vị

cơ động ứng chiến lớn. Năm 1962, địch đã đưa quân chủ lực nguỵ từ 16 vạn

lên 20 vạn; bộ binh từ 7 sư đoàn lên 9 sư đoàn; lính thuỷ đánh bộ từ 4 tiểu

đoàn lên 6 tiểu đoàn; bảo an từ 6,5 vạn lên 8 vạn; dân vệ từ 4,5 vạn lên 9

vạn[64, tr.50].

Về phương tiện chiến tranh, Mỹ trang bị cho quân nguỵ nhiều đội bay

lên thẳng, tàu chiến nhỏ, xe lội nước, các loại máy bay khác nhau để tăng

cường khả năng cơ động và ứng chiến của quân đội nguỵ có thể nhanh chóng

đè bẹp lực lượng cách mạng.

- Tăng cương xây dựng chính quyền Sài Gòn; giữ vững an ninh đô thị;

tiến hành quốc sách “ấp chiến lược”.

Xây dựng chính quyền nguỵ vững mạnh đủ sức đối phó với lực lượng

52

cách mạng là một trong những mục tiêu quan trọng của Mỹ trong chiến lược

“chiến tranh đặc biệt”. Mỹ đã đổ nhiều tiển của và sức lực vào việc kiện toàn

và phát triển bộ máy chính quyền tay sai.

Qua phân tích tình hình, Mỹ - Diệm cho rằng, lực lượng cách mạng của

ta sơ dĩ phát triển như vậy là do được nhân dân ủng hộ và giúp đỡ. Vì vậy,

nếu tách nhân dân ra khỏi lực lượng cách mạng thì lực lượng cách mạng sẽ

mất đi chỗ dựa vững chắc từ đó sẽ bị cô lập và dễ dàng tiêu diệt.

Do đó, Mỹ - Diệm coi việc lập ấp chiến lược là “quốc sách” và là

“xương sống” của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”. Mục đích của việc thi

hành quốc sách “ấp chiến luợc” là: kìm kẹp nhân dân, biến chỗ dựa của cách

mạng thành chỗ dựa của chúng; phân loại quân chúng để tiêu diệt lực lượng

cách mạng; vơ vét nhân tài, vật lực của chúng ta phục vụ cho chiến lược

“chiến tranh đặc biệt” của Mỹ. Mục tiêu mà Mỹ đề ra là hết năm 1962 tập

trung được 10 triệu dân ở nông thôn vào 16.000 ấp chiến lược trong tổng số

17.000 ấp ở toàn miền Nam. Để hoàn thành kế hoạch đó, địch đã tiến hành

nhiều thủ đoạn, biện pháp khốc liệt đẫm máu. Chúng mở hàng chục nghìn

cuộc hành quân càn quét dài ngày, dùng bom đạn đánh phá ác liệt, lùng sục

khắp nơi để lùa dân vào các “ấp chiến lược”. Chúng sử dụng những phương

tiện tiên tiến như máy bay trực thăng, xe cơ giới, thiết giáp để dồn dân đến

những nơi tập trung. Trong các chiến dịch càn quét, địch đã áp dụng những

chiến thuật mới mà chúng gọi là “bủa lưới phóng lao”, “trên đe dưới búa”,

“phượng hoàng vồ mồi”, “tát nước bắt cá”v.v… nhằm thanh lọc quần chúng,

tiêu diệt bộ đội và du kính, bắn giết cán bộ ta. Những cuộc càn quét này gây

không ít khó khăn cho công tác bảo vệ hậu phương và căn cứ tại chỗ, bảo vệ

các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy của ta.

Thực chất của chính sách gom dân, lập “ấp chiến lược” là biến các làng

xã thành các trại tập trung, biến nhân dân thành những người bị tù đày. Đây là

53

một âm mưu vô cùng thâm độc của đế quốc Mỹ được thực hiện bằng mọi biện

pháp từ lừa bịp, đầu độc về tư tưởng, chính trị, mua chuộc về kinh tế đến

cưỡng bức, khủng bố bằng bạo lực với mong muốn nhanh chóng tiêu diệt

được lực lượng cách mạng.

- Tích cực phong toả biên giới, kiểm soát chặt chẽ ven biển, ngăn chặn

sự chi viện của miền Bắc để cô lập cách mạng miền Nam.

Từ rất sớm Mỹ đã nhận thấy rằng, phong trào cách mạng ở miền Nam

phát triển nhanh chóng như vậy một mặt là do sự phát triển của lực lượng

cách mạng tại chỗ, mặt khác, là do sự chi viện rất lớn từ tiền tuyến miền Bắc.

Vì thế, chúng cho rằng, sẽ không thể khống chế được phong trào cách mạng

miền Nam nếu không ngăn chặn được sự chi viện của miền Bắc để từu đó có

thể cô lập và tiêu diệt cách mạng miền Nam. Chúng đã ra sức kiểm soát bằng

mọi cách đồng thời phong toả biên giới Việt Nam - Lào, biên giới Việt Nam -

Campuchia.

- Tăng cường chiến tranh tâm lý, chiến tranh gián điệp.

Mỹ - Diệm đã ra sức tuyên truyền, nhồi sọ nguỵ quân, nguỵ quyền

bằng những tư tưởng phản động; xuyên tạc đường lối cách mạng, gây hoang

mang trong nhân dân. Chúng đã chi hàng tỷ đồng cho chiến tranh gián điệp,

tổ chức hàng loạt các cơ quan gián điệp, cài người vào các tổ chức cách mạng

nhằm phá hoại từ bên trong.

Tóm lại, Hoa Kỳ đã quyết định dùng chiến tranh để duy trì chủ nghĩa

thực dân kiểu mới ở miền Nam và Hoa Kỳ cùng với chính quyền Sài Gòn tin

chắc với chiến lược mới của họ sẽ thu được thắng lợi. Những biện pháp tiến

hành chiến tranh đó của Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn đã gây ra không ít

khó khăn cho cách mạng Việt Nam. Tuy vậy, với bản lĩnh và trí tuệ to lớn,

Đảng đã lãnh đạo nhân dân một cách tài tình đánh bại chiến lươc “chiến tranh

đặc biệt” mở ra một triển vọng mới cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu

54

nước của dân tộc ta.

2.1.2. Đảng chỉ đạo phát động kháng chiến trường kỳ và tranh thủ

thời cơ giành thắng lợi quyết định trong những năm (1961-1965)

Để đối phó với chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, trên cơ sở

thế và lực mới mà quân và dân ta đã tạo ra qua phong trào Đồng khởi, Đảng

ta chủ trương chuyển cách mạng miền Nam lên một giai đoạn mới, từ khởi

nghĩa từng phần phát triển lên thành cuộc chiến tranh cách mạng với quy

mô toàn miền Nam - kháng chiến trường kỳ như Nghị quyết 15 đã vạch ra.

Ngày 20-12-1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam

được thành lập và thông qua chương trình hành động 10 điểm với nội dung cơ

bản là đánh đổ chính quyền thực dân mới của đế quốc Mỹ ở MNVN, xây

dựng chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ, trung lập, thực hiện hoà bình,

thống nhất nước nhà. Từ đây, MTDTGPMNVN nhanh chóng trở thành một

thực thể chính trị đại diện hợp pháp, chân chính cho đông đảo các tầng lớp

nhân dân, liên kết các vùng giải phóng, phối hợp với cuộc đấu tranh ở nông

thôn và thành thị chống lại đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình

Diệm. Mặt trận thực sự đã trở thành ngọn cờ lãnh đạo trực tiếp cuộc chiến

tranh cách mạng của nhân dân ở miền Nam, nhất là trong thời kỳ chống

“chiến tranh đặc biệt” và cũng như trong các giai đoạn chiến tranh sau này.

Như vậy, với ý nghĩa quan trọng đó, MTDTGPMNVN thực sự “có vai trò hết

sức to lớn, góp phần quyết định vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống

Mỹ, cứu nước”[12, tr.12].

Ngày 23-1-1961, Hội nghị BCH Trung ương Đảng quyết định thành lập

Trung ương Cục thay cho Xứ uỷ Nam bộ cũ, là một bộ phận của BCH Trung

ương Đảng, gồm một số uỷ viên Trung ương đuợc BCH Trung ương cử ra và

uỷ nhiệm chỉ đạo toàn bộ công tác Đảng ở miền Nam. Trung ương Cục có

nhiệm vụ cụ thể hoá và phát triển những Nghị quyết chung của Đảng về cách

55

mạng miền Nam đồng thời trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng ở đây. Sự

ra đời của Trung ương cục đánh dấu một bước phát triển mới trong quá trình

lãnh đạo cách mạng miền Nam góp phần đưa cuộc cách mạng đó đi đến thắng

lợi.

Sớm nhận thấy được sự thay đổi quan trọng trong mưu đồ chiến lược

mới của đế quốc Mỹ, cũng như thế và lực mới của quân và dân ta, trên cơ sở

đường lối chung về cách mạng được đề cập trong Nghị quyết Hội nghị Trung

ương lần thứ 15 và Đại hội Đảng lần thứ III, ngày 24-1-1961, Bộ Chính trị đã

họp bàn về phương hướng nhiệm vụ, công tác trước mắt của cách mạng miền

Nam và nhận định rằng: “Thời kỳ ổn định của Mỹ - Diệm đã chấm dứt, thời

kỳ khủng hoảng triền miên bắt đầu, các hình thức du kích cục bộ, khởi nghĩa

từng phần đã xuất hiện, mở đầu cho cao trào cách mạng mới ở miền

Nam”[28,tr.153]. Mỹ và chính quyền Sài gòn quyết dùng bạo lực tiêu diệt

cách mạng nên phương hướng giành thắng lợi sắp tới của ta phải bằng cuộc

tổng công kích, tổng khởi nghĩa để lật đổ chính quyền Mỹ - Diệm, giải phóng

miền Nam. Vì vậy, phương châm đấu tranh lúc này là: Đẩy mạnh hơn nữa đấu

tranh chính trị, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang song song với đấu

tranh chính trị, căn cứ vào tình hình cụ thể của từng vùng mà vận dụng

phương châm đấu tranh thích hợp nhưng phải khôn khéo, tránh kích thích Mỹ

gia tăng can thiệp vũ trang quá sớm gây khó khăn cho ta, thực hiện việc kiềm

chế, đánh địch ở miền Nam. Chúng ta phải gấp rút xây dựng lực lượng vũ

trang vì lúc này lực lương vũ trang của địch chưa bị tổn thất nhiều, nếu mặt

đấu tranh vũ trang của ta yếu, không đủ sức đánh những đòn quyết định vào

lực lượng vũ trang của địch thì sau thời gian hoang mang, dao động, địch có

thể ổn định lại tình hình và phản kích ta. Vì thế, “vấn đề cấp thiết đặt ra là

phải nhanh chóng xây dựng lực lượng vũ trang và đẩy mạnh đấu tranh vũ

trang để đủ sức giánh cho địch những đòn sấm sét, tiến lên giành thắng lợi

56

quyết định” [64, tr.44].

Thực hiện sự chuyển hướng đó, Bộ Chính trị chỉ rõ công tác trước mắt

của cách mạng miền Nam là:

Ra sức xây dựng mau chóng lực lượng ta cả về mặt chính trị và

quân sự, tập hợp đông đảo lực lượng cách mạng trong Mặt trận

dân tộc giải phóng, phát động một phong trào đấu tranh mạnh mẽ

của quần chúng, tích cực tiêu diệt sinh lực địch, bảo tồn và phát

triển lực lượng ta, làm tan rã chính quyền và lực lượng địch trên

một phạm vi ngày càng rộng lớn, tiến lên làm chủ rừng núi, giành

lại toàn bộ đồng bằng; ra sức xây dựng cơ sở và đẩy mạnh đấu

tranh chính trị ở đô thị; tạo mọi điều kiện và nắm bắt thời cơ chuẩn

bị đánh đổ chính quyền Mỹ - Diệm, giải phóng miền Nam[28,

tr.159].

Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh: “Công tác quan trọng và khẩn cấp bậc

nhất là phải ra sức xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, tiếp tục

đẩy mạnh mọi hình thức đấu tranh để lấn địch từng bước và tiến lên đánh đổ

hoàn toàn địch”[28, tr.160].

Chỉ thị về Phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách

mạng miền Nam là sự cụ thể hoá đường lối cách mạng của Đảng vào điều

kiện cách mạng miền Nam khi tương quan lực lượng giữa ta và địch đã có sự

thay đổi. Bản chỉ thị này đã chứng tỏ sự lãnh đạo sáng suốt, hết sức nhạy bén

của Đảng ta: Trước bước ngoặt của lịch sử cách mạng, Đảng đã kịp thời

chuyển hướng cuộc đấu tranh của nhân dân ta từ khởi nghĩa sang chiến tranh

cách mạng, nhưng vẫn tiếp tục tiến hành khởi nghĩa trong chiến tranh cách

mạng, chủ động tạo đà cho cách mạng miền Nam giành thắng lợi hoàn toàn.

Thực hiện những công tác trên, tháng 2-1961, các lực lượng vũ trang

miền Nam được thống nhất với tên gọi Quân giải phóng miền Nam Việt

57

Nam. Tháng 7-1961, Trung ương Cục quyết định thành lập trung đoàn chủ

lực miền Nam mang mật danh Q761. 50% số đảng viên toàn Đảng bộ miền

Nam được sử dụng là nòng cốt xây dựng bộ đội tập trung. Sự ra đời của trung

đoàn chủ lực đầu tiên này đánh dấu bước phát triển mới của lực lượng vũ

trang cách mạng miền Nam. Đồng thời lực lượng du kích, bộ đội địa phương

cũng được chú trọng xây dựng. Đến cuối năm 1961, các quân khu đã xây

dựng được 11 tiểu đoàn bộ đội chủ lực với quân số mỗi tiểu đoàn khoảng 500

người, trang bị chủ yếu là vũ khí từ miền Bắc đem vào và một số vũ khí thu

được của địch. Bộ đội địa phương toàn miền Nam có khoảng hơn 24 vạn

người. Du kích tự vệ các địa phương có khoảng 100.000 người [113, tr.141-

142]. Phối hợp với đấu tranh chính trị và binh vận, lực lượng vũ trang đã đẩy

mạnh hoạt động tiêu hao, tiêu diệt địch, đẩy lùi nhiều cuộc càn quét của Mỹ -

nguỵ, hỗ trợ quần chúng nổi dậy giành và giữ quyền làm chủ. Trong năm

1961, quân dân miền Nam đã đánh hơn 15.000 trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng

chiến đấu hàng chục nghìn tên địch, thu hàng nghìn khẩu súng các loại. Cùng

với các hoạt động quân sự, phong trào đấu tranh chính trị tiếp tục có bước

phát triển mạnh. Hơn 33,8 triệu lượt người tham gia đấu tranh chính trị. Đến

cuối năm 1961, mặc dù địch điên cuồng phản kích, nhưng ta đã phá thế kìm

kẹp ở hơn một vạn thôn, xã và giải phóng gần 6 triệu dân [113, tr.142]. Nhờ

vậy mà, nguồn nhân lực và hậu cần tại chỗ đảm bảo một phần quan trọng cho

sự phát triển của lực lượng cách mạng.

Sang năm 1962, địch tăng cường lực lượng, xúc tiến bình định, đưa kế

hoạch lập ấp chiến lược lên thành quốc sách hàng đầu. Với các chiến thuật và

biện pháp tác chiến cứng rắn, Mỹ và quân đội Sài Gòn đã lập được hơn 2000

ấp chiến lược gây tổn thất nặng nề cho lực lượng cách mạng miền Nam, gây

hoang mang trong nhân dân và một bộ phận các đơn vị vũ trang còn non trẻ.

Mỹ đã dùng trực thăng và xe thiết giáp M.113 truy quét và tiêu diệt lực lượng

58

của ta. Đã có không ít đơn vị vũ trang cấp đại đội,trung đội Quân giải phóng

bị tiêu diệt; nhiều cán bộ, chiến sĩ bị bắt; nhiều làng mạc thôn ấp, vùng giáp

ranh, vùng giải phóng, vùng căn cứ kháng chiến bị bom đạn và chất độc hoá

học tàn phá nặng nề… Các cấp lãnh đạo, chỉ huy đôi khi cũng tỏ ra lúng túng

trước sức mạnh tàn bạo của kẻ thù, nên đã chưa đưa ra được phướng hướng

chỉ đạo đúng đắn. Kết quả là trong 9 tháng đầu năm 1962, chúng ta đã phải

chịu những tổn thất to lớn về người và của: 36.200 người hy sinh, bị thương

và bị bắt, trong đó có 25.000 cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. ở vùng đồng

bằng sông Cửu Long, địch đã dồn được 2 triệu dân, cơ sở cách mạng bị bật ra

ngoài các thôn xã, du kích, cán bộ phải phân tán sang các xã khác chưa bị

địch càn quét. Vùng đồng bằng khu V chỉ còn 904 thôn có cơ sở với 700 đảng

viên trong tổng số 3.829 thôn[113, tr.144], vì thế, địch dễ dàng dồn dân lập

các ấp chiến lược.

ở thời điểm này, nếu so sánh lực lượng thì có thể thấy, sự chênh lệch về

lực lượng giữa ta và địch là khá lớn: một bên là quân đội Mỹ - ngụy có lực

lượng đông đảo lại được trang bị các loại vũ khí hiện đại, với một bên là lực

lượng cách mạng còn non trẻ lại hứng chịu những thiệt hại nặng nề do các

chiến dịch càn quét của địch gây ra. Nhưng xét về chiều sâu, ta thấy rằng:

“địch lập ấp chiến lược để chống ta, tức là địch muốn tạo cái thế mạnh trong

cái thế yếu hiện nay của chúng. Nhân dân về ta, chính nghĩa về ta, địch không

có cách gì giành giật nhân dân với ta mà phải dùng đến phương pháp tập

trung quần chúng. Địch thì tập trung quần chúng, kìm kẹp quần chúng, còn ta

thì phát động quần chúng, đưa quần chúng ra đấu tranh với địch. Như thế là ta

ở vào thế mạnh mà địch ở vào thế yếu”[29, tr.716]. Nhận thức được tương

quan lực lượng giữa ta và địch, thấy hết được thế mạnh của ta, thế yếu của

địch là một nhân tố quan trọng để những người lãnh đạo đề ra được đường

lối và phương pháp cách mạng đúng đắn. Chúng ta cũng thấy rằng: để đánh

59

bại địch, đưa cách mạng đi đến thành công thì “một mặt phải phá cho được ấp

chiến lược của địch, một mặt phải biết xây dựng lực lượng ngày càng mạnh,

đặc biệt là lực lượng quân sự”[29, tr.717]. Vì vậy, vấn đề cấp bách đặt ra cho

quân và dân MNVN lúc này là phải tìm được cách đánh thắng các chiến thuật

mới của Mỹ - nguỵ từ đó mới đánh thắng được chiến lược “chiến tranh đặc

biệt”.

Trước tình hình đó, Trung ương Cục, Bộ Tư lệnh quân giải phóng đã

phân công các uỷ viên, các cán bộ dày dạn kinh nghiệm xuống tăng cường

cho các tỉnh, các địa phương góp phần củng cố lực lượng và chỉ đạo phong

trào chống địch càn quét, phá ấp chiến lược, xây dựng các làng xã chiến đấu.

Cũng trong thời gian này, cuộc chiến tranh cách mạng ở Lào đã có

bước phát triển nhảy vọt. Lực lượng vũ trang Pathét phối hợp với bộ đội tình

nguyện Việt Nam đã chiến đấu kiên cường, đẩy địch ra khỏi cánh đồng

Chum, Xiêng Khoảng; giải phóng hầu hết tỉnh Luông Phabăng và tỉnh Nậm

Thà. Đế quốc Mỹ và tay sai buộc phải chấp nhận ngừng bắn, thành lập chính

phủ liên hiệp ba phái ở Lào. Tháng 7-1962, Hiệp định Giơnevơ về Lào đuợc

ký kết, cam kết tôn trọng nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh

thổ của Lào.

Thắng lợi đó của Lào đã tạo ra điều kiện mới cho cuộc đấu tranh chống

Mỹ, cứu nước ở Việt Nam. Chủ trương nhất quán của Đảng về phương hướng

cách mạng miền Nam đã được đồng chí Lê Duẩn nêu ra trong thư gửi Trung

ương Cục miền Nam (18-7-1962) là: “vì để giành thắng lợi cho cách mạng

miền Nam, đồng thời vì lợi ích chung của toàn quốc và của phe ta, chúng ta

phải biết kìm chế địch trong loại chiến tranh đó, và không cho chúng mở rộng

chiến tranh miền Nam thành một loại chiến tranh cục bộ lớn”[29, tr.717-718].

Đây là tư tưởng kiềm chế địch để tránh thế khó khăn bất lợi và thắng

chúng một cách có lợi nhất của Đảng ta. Chủ trương đó dựa trên cớ sở phân

60

tích chính xác âm mưu, thủ đoạn và khả năng hành động của đế quốc Mỹ

trong các mối quan hệ quốc tế đương thời, mặt khác thấy rõ thế và lực cùng

khả năng phát triển của ta.

Đế quốc Mỹ mang dã tâm xâm lược nước ta, vì vậy tìm cách kiềm chế

những âm mưu và hành động của chúng là cần thiết và có thể thực hiện được

để tránh những khó khăn, bất lợi sớm phải đụng đầu với một kẻ thù lớn mạnh

hơn ta nhiều lần, trong khi lực lượng của ta còn hạn chế.

Trên tinh thần đó, từ ngày 6 đến 10-12-1962, Bộ Chính trị đã họp bàn

và ra Nghị quyết Về tình hình, phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt

của cách mạng miền Nam. BCT đã nhận định việc Mỹ - Diệm tuyên bố chiến

tranh và tổng động viên lực lượng để đánh bại cách mạng “là một sự chuyển

hướng lớn về chiến lược của chúng, đã tạo ra một cục diện chiến tranh thực sự

với quy mô khá lớn ở miền Nam Việt Nam”[29, tr.812]. Về phía ta, Nghị

quyết khẳng định rằng, sau một năm chiến đấu với chiến lược chiến tranh đặc

biệt của đế quốc Mỹ thì “phong trào cách mạng miền Nam đã trải qua những

thử thách và khó khăn mới, có nơi có lúc bị động, lúng túng, nhưng vẫn bảo

tồn và phát triển được lực lượng, đã gây cho địch nhiều thiệt hại hơn và đã

giành được thêm những thắng lợi mới”[29, tr.814]. Trên cơ sở những thành

tích đã đạt được trong phong trào đấu tranh chống chiến lược “chiến tranh đặc

biệt của Mỹ, BCT đã nhận đinh: “ta có thể phá được chính sách ấp chiến

lược và làm thất bại chiến thuật biệt kích bằng trực thăng vận của

địch”[28,tr.815]. Căn cứ vào tình thình thực tiễn đáu tranh, BCT đã đề ra

phương hướng phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là “trường kỳ đấu

tranh bằng cả quân sự và chính trị, giữ vững và phát triển phong trào, giành

thắng lợi từng phần, đẩy lùi địch từng bước, phát triển và che dấu lực lượng,

chuẩn bị điều kiện, tranh thủ thời cơ để tiến lên giành những thắng lợi quyết

61

định giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà”[29, tr.821].

Trong Nghị quyết này, lần đầu tiên BCT đã đề cập tới việc tạo thời cơ

để giành thắng lợi quyết định cho cách mạng miền Nam. Đây là một phương

hướng hết sức đúng đắn dựa trên cơ sở phân tích tương quan lực lượng giữa

ta và địch trong điều kiện lấy yếu đánh mạnh của ta. Và chỉ thực hiện theo

phương hướng đó, cách mạng miền Nam mới có thể đi đến thắng lợi được.

Căn cứ vào tình hình thực tiễn đấu tranh giữa ta và địch, để đưa cách

mạng ở miền Nam phát triển lên một buớc vững chắc trong mọi tình huống có

thể xảy ra, Nghị quyết BCT đã chỉ ra phương hướng công tác sắp tới là tập

trung vào các mặt như phát triển chiến tranh du kích, đẩy mạnh phong trào

phá ấp chiến lược, ra sức xây dựng lực lượng vũ trang, tăng cường công tác

mặt trận, đẩy mạnh công tác đô thị, tăng cưỡng sự lãnh đạo của Đảng…

Bước sang năm 1963, thực hiện Nghị quyết của BCT, cuộc cánh mạng

ở miền Nam đã giành được nhiều thắng lợi to lớn. Mở đầu là trận ấp Bắc (Mỹ

Tho) ngày 2-1-1963. Đây là cuộc đụng đầu về quân sự quy mô tương đối lớn

so với truớc đó, nó diễn ra giữa lúc Mỹ - Diệm đang ráo riết hoàn thành kế

hoạch “bình định miền Nam trong vòng 18 tháng”, còn ta đang gấp rút tìm

cách đánh thắng các chiến thuật của địch.

ấp Bắc gồm hai ấp nhỏ là Tân Bình và Tân Thời thuộc xã Tân

Phú Trung, huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền

Giang). Tại đây đã diễn ra cuộc đọ súng không cân sức giữa ta

và địch. Lực lượng của ta ở đây chỉ có 1 đại đội tăng cường

thuộc tiểu đoàn 261 chủ lực khu VIII, 1 đại đội bộ đội địa

phương tỉnh Mỹ Tho, 1 trung đội trợ chiến, 1 trung đội địa

phương huyện Châu Thành cùng lực lượng dân quân, du kích

tại chỗ. Về phía địch, chúng có 3 tiểu đoàn của sư đoàn 7 thuộc

Vùng 4 chiến thuật, 1 chiến đoàn bảo an tỉnh Định Tường, 1

62

tiểu đoàn dù thuộc lực lượng dự bị chiến lược Bộ Tổng tham

mưu quân đội Sài Gòn, một số đại đội biệt kích, dân vệ, và 51 cố

vấn Mỹ cùng với 3 tàu chiến bao vây ở hướng đông bắc, 1 chi

đoàn thiết giáp lội nước M.113, 15 trực thăng và 7 máy bay vận

tải C.123 chở quân đổ bộ và quân dù, 5 trực thăng vũ trang có

gắn súng liên thanh và các giàn hoả tiễn chi viện hoả lực, 8 máy

bay ném bom, 4 chiếc L.19 làm nhiệm vụ trinh sát và chỉ huy,

hàng chục khẩu pháo, cối yểm trợ hành quân và đánh phá mục

tiêu [113,tr.147]. Mỹ - Diệm thực hiện cuộc tiến công này nhằm

mục đích tiêu diệt gọn đơn vị chủ lực Quân giải phóng miền

Nam, qua đó chứng tỏ hiệu lực và sức mạnh của quân đội Sài

Gòn với trang bị, vũ khí và cố vấn quân sự Mỹ.

Nếu so sánh đơn thuần như vây cũng có thể thấy lực lượng của Mỹ -

Diệm hơn hẳn ta về cả quân số lẫn phương tiện chiến tranh nhưng với tinh

thần quả cảm, lực lượng vũ trang ta tại ấp Bắc kiên quyết chống lại kẻ thù,

sau một ngày chiến đấu liên tục, chúng ta đã đánh thắng các đợt tiến công của

địch, loại khỏi vòng chiến đấu 450 tên (trong đó có cố vấn và nhân viên kỹ

thuật Mỹ), bắn rơi 5 trực thăng, phá huỷ 3 xe bọc thép, đánh chìm 1 tàu chiến

[113, tr.148], làm thất bại hoàn toàn cuộc hành quân đầy tham vọng của địch.

Chiến thắng ấp Bắc có ý nghĩa rất to lớn với cuộc đấu tranh của nhân

dân ta. Lần đầu tiên tại vùng đồng bằng, lực lượng vũ trang phối hợp với lực

lượng chính trị đánh bại cuộc càn quét của Mỹ - nguỵ với lực lượng hơn ta

gấp 10 lần, mở ra khả năng đánh bại các chiến thuật cơ động bằng máy bay

63

lên thẳng và thiết giáp của chúng. “Kể từ trận ấp Bắc, Mỹ thấy không thể

thắng được ta”[19, tr.69]. Chiến thắng này đã mở ra phong trào “Thi đua ấp

Bắc giết giặc lập công”.

Phát huy khí thế chiến thắng, lực lượng vũ trang của ta trên khắp các

chiến trường đã vùng dậy đánh địch, chống càn và chủ động mở nhiều đợt tiết

công giành được những thắng lợi to lớn. Trong cuộc đấu tranh đó, vận dụng

sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, miền Nam vừa phát triển

lực lượng và thế trận chiến tranh nhân dân trên cả ba vùng chiến lược, vừa

đẩy mạnh tiến công địch bằng cả ba mũi tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn

đánh thắng các nỗ lực chiến tranh của địch. Năm 1963, quân, dân miền Nam

đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 7 vạn tên địch (có 600 tên Mỹ), phá huỷ

nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại, thi một khối lượng lớn các loại vũ khí,

phá 2.859 ấp chiến lược trong tổng số 6.164 ấp, giải phóng gần 9 triệu dân,

mở rộng vùng giải phóng[113, tr.149].

Những thắng lợi của quân, dân ta trên khắp miền Nam cùng với sự

bùng nổ của Phong trào Phật giáo đã làm cho chính quyền Ngô Đình Diệm bị

lung lay đến tột độ, buộc Mỹ phải “thay ngựa giữa dòng”.

Cũng thời điểm đó (22-11-1963), Tổng thống Mỹ Kennơdy bị ám sát,

Phó Tổng thống Giônxơn lên thay. Tháng 12-1963, Bộ trưởng Quốc phòng

Mỹ, Mc Namara đã sang Việt Nam khảo sát tình hình và đưa ra kế hoạch bí

mất chống phá MBVN đồng thời điều chỉnh lại chiến lược của Mỹ nhằm cứu

vãn tình hình miền Nam. Kế hoạch đó tập trung vào 3 nội dung chủ yếu, đó

là:

- Mở rộng quyền hạn Bộ Chỉ huy quân sự ở MNVN.

- Đẩy mạnh cách hoạt động chống phá MBVN và ngăn chặn sự xâm

nhập từ miền Bắc qua Lào vào MNVN.

64

- Tăng lực lượng yểm trợ Mỹ vào MNVN.

Trước chuyển biến mới của tình hình trong nước và quốc tế, BCH

Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (khoá III) họp Hội nghị lần thứ 9 (12-

1963) ra Nghị quyết về đường lối và chủ trương lãnh đạo cách mạng miền

Nam. Hội nghị đã phân tích âm mưu và chủ trương của địch cũng như những

đặc điểm tình hình cuộc đấu tranh của nhân dân ở miền Nam và chỉ rõ:

Chúng ta phải có khả năng kiềm chế và thắng địch trong loại

“chiến tranh đặc biệt”. Khả năng này sẽ tăng lên nhiều, nếu chúng

ta kiên quyết chống đế quốc Mỹ và tay sai, đồng thời có sách lược

khôn khéo, biết lợi dụng hơn nữa mâu thuẫn trong nội bộ địch... do

đó mà làm cho đế quốc Mỹ khó sử dụng được lực lượng của khối

xâm lược Đông Nam á để mở rộng chiến tranh ở miền

Nam.[30,tr.819].

Đồng thời Hội nghị cũng khẳng định quá trình thắng lợi của cách mạng

miền Nam phải là: “quá trình tiến hành ba mặt đấu tranh chính trị, đấu tranh

quân sự chống địch ở miền Nam và đấu tranh ngoại giao”[30, tr.820] trong đó

“đấu tranh chính trị và quân sự ở miền Nam là cơ bản và đấu tranh ngoại giao

là rất quan trọng”[30, tr.820].

Hội nghị dự đoán trước tình hình là Mỹ có khả năng đưa thêm quân vào

đẩy mạnh cuộc chiến tranh Việt Nam, vì vậy yêu cầu cần thiết đối với ta là

“phải luôn nâng cao cảnh giác và tích cực chuẩn bị để sẵn sang ứng phó nếu

đế quốc Mỹ mạo hiểm mở rộng cuộc chiến tranh ở miền Nam thành chiến

tranh cục bộ”[30, tr.820].

Dựa trên những phân tích đúng đắn về so sánh lực lượng giữa ta và

địch mà Hội nghị đã vạch rõ phương hướng tiến lên của cách mạng miền Nam

là: “giành thắng lợi từng phần, đẩy lùi địch từng bước, tiến tới tổng công

kích, tổng khởi nghĩa để đi đến thắng lợi hoàn toàn”[30, tr.823]. Tuy nhiên,

65

Hội nghị cũng thấy rằng cuộc cách mạng ở miền Nam “cũng có thể thông

qua một bước quá độ nào đó trước khi đi đến thắng lợi hoàn toàn”[30,

tr.823]. Đây chính là thể hiện tư tuởng chỉ đạo giành thắng lợi quyết định

cho cách mạng miền Nam của Đảng. Bước quá độ đó được hiểu là chúng ta sẽ

phải tập trung toàn lực đánh tiêu diệt và làm tan rã quân đội của chính quyền

tay sai, làm cho lực lượng của chúng suy yếu, đập tan ý chí xâm lược của đế

quốc Mỹ và dựa trên cơ sở đó mới có thể tiến lên đánh đổ chính quyền tay sai,

giành độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà. Đảng ta cũng nhấn mạnh: “phải

có quyết tâm động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân giành cho đuợc thắng

lợi tối đa, không nên có thái độ lừng chừng, muốn dừng lại ở bước quá độ.

Chỉ có quyết tâm giành thắng lợi cao nhất và chuẩn bị sẵn sàng để ứng phó

với mọi tình thế, thì dù tình hình có phát triển thế nào, thắng lợi cuối cùng

nhất định sẽ về tay nhân dân ta”[30, tr.823-824].

Hội nghị phân tích: “Cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở

miền Nam vẫn là cuộc chiến tranh lấy yếu đánh mạnh. Trong cuộc chiến tranh

ấy, nhân dân ta phải tiêu hao và tiêu diệt sinh lực địch, giữ vững và phát triển

lực lượng của ta; đánh địch về mọi mặt làm cho lực lượng của chúng hao

mòn, suy sút và tinh thần của binh sĩ mệt mỏi, chán nản, tan rã. Quá trình đấu

tranh là quá trình ta mạnh lên địch yếu đi; ta càng đánh càng thắng, địch càng

đánh càng bại. Cuối cùng ta tiêu diệt địch hoặc đè bẹp ý chí xâm lược và nô

dịch của chúng” [30, tr.827].

Để tạo chuyển biến mới của tình hình, tiến lên giành thắng lợi to lớn

hơn, chúng ta cần cố gắng: “Trong khi kiên trì đấu tranh lâu dài, cần tranh thủ

thời cơ thuận lợi tập trung lực lượng, quyết tâm giành cho được những thắng

lợi có tính chất quyết định trong mấy năm tới”[30, tr.839].

Từ đó, hội nghị đề ra nhiệm vụ trước mắt là:

Động viên toàn Đảng, toàn dân vượt mọi khó khăn và trên cơ

66

sở phát triển mạnh mẽ hơn nữa ý thức giác ngộ chính trị của nhân

dân, ra sức phấn đấu xây dựng lực lượng chính trị và vũ trang (nhất

là lực lượng vũ trang), làm thay đổi mau chóng lực lượng so sánh

giữa ta và địch theo chiều hướng có lợi cho ta; tích cực xây dựng và

mở rộng căn cứ địa, đặc biệt là ở những địa bàn chiến lược và cơ

động của quân chủ lực; tiến lên đánh tiêu diệt và làm tan rã từng bộ

phận quân đội địch; phá phần lớn các ấp chiến lược, làm chủ vùng

rừng núi và phần lớn xã thôn vùng đồng bằng, tạo điều kiện cho

phong trào quần chúng đô thị nổi dậy mạnh mẽ, đẩy chế độ Mỹ và

tay sai đến chỗ khủng hoảng sâu sắc hơn và mau suy sụp hơn, làm

cho phong trào giành được chủ động về chiến lược tạo ra thời cơ tốt

để giành những thắng lợi quyết định về ta

Trong nhiệm vụ truớc mắt trên đây, có hai nội dung chủ yếu

và cũng là hai mục tiêu chủ yếu mà ta phải quyết tâm đạt cho bằng

được là :

1. Tiêu diệt từng bộ phận quân đội địch, tạo điều kiện làm tan

rã hoàn toàn lực lượng quân sự, chỗ dựa chính của đế quốc Mỹ và

tay sai ở miền Nam.

2. Làm thất bại kế hoạch gom dân, lập ấp chiến lược của

địch, phá phần lớn các ấp chiến lược, giành nhân sự, vật lực cho

cách mạng, làm chủ rừng núi và phần lớn đồng bằng[30, tr.839].

Như vậy, đến hội nghị này, tư tưởng chỉ đạo giành thắng lợi quyết

định cho cách mạng miền Nam đã được làm sáng tỏ hơn, đánh dấu một

bước trưởng thành mới về lý luận và năng lực tổ chức thực hiện của Đảng

ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là cơ sở để nhân dân ta

đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.

Sau những thất bại to lớn ở trên chiến trường miền Nam, để cứu vãn

67

tình thế, Tổng thống Mỹ đã đưa ra bi vong lục Về hành động an ninh quốc gia

số 288, trong đó, nội dung cơ bản tăng cường hiệu lực chỉ huy trực tiếp của

Mỹ ở MNVN, tăng viện trợ cho chính quyền và quân đội Sài Gòn, tiến hành

các hoạt động khiêu khích, đe doạ, chống phá, gây sức ép đối với miền Bắc.

Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập Hội nghị chính

trị đặc biệt tại Hà Nội nêu lên quyết tâm đánh thắng kẻ thù xâm lược và khẳng

định nếu đế quốc Mỹ “liều lĩnh động đến miền Bắc thì nhất định chúng sẽ thất

bại thảm hại”[31, tr.100]. Người còn chỉ ra rằng: “Tình hình ở miền Nam hiện

nay chứng tỏ một cách rõ rệt sự thất bại không thể tránh khỏi của đế quốc Mỹ

trong cuộc “chiến tranh đặc biệt” này. Cuộc “chiến tranh đặc biệt” mà chúng

đang thí nghiệm ở miền Nam đã thất bại thì chúng cũng sẽ thất bại ở bất kỳ

nơi nào khác”[31, tr.100].

Từ giữa năm 1964, dưới ánh sáng của Nghị quyết Hội nghị Trung uơng

9, quân và dân ta ra sức chiến đấu lập nhiều thành tích to lớn làm cho thế và

lực của cách mạng miền Nam mạnh hơn bao giờ hết, gây ra nhiều khó khăn

cho Mỹ - Nguỵ, dồn chúng vào thế bị động. Lực lượng cách mạng miền Nam

phát triển vượt bậc là nhờ có sự chi viện khá mạnh mẽ của miền Bắc. Đến

cuối năm 1964, lực lượng vũ trang miền Nam đã có 11 trung đoàn và 15 tiểu

đoàn chủ lực, 25 tiểu đoàn và 90 đại đội bộ đội địa phương, 20 vạn du kích

[113,tr.154]; các căn cứ địa cách mạng từ miền tây các tỉnh đồng bằng Trung

bộ và Tây Nguyên đến miền Đông Nam bộ tới Trung và Tây Nam bộ đã

thành một hệ thống liên hoàn, vùng giải phóng tiếp tục được củng cố và mở

rộng.

Trên cơ sở thế và lực mới, quân dân miền Nam liên tiếp mở các đợt

hoạt động quân sự, đẩy mạnh phong trào nổi dây phá ấp chiến lược làm cho

kế hoạch bình định năm 1964 của địch về cơ bản bị phá sản. Số ấp chiến lược

68

giảm xuống nhanh chóng từ 7.512 ấp (6-1963) xuống còn 3.300 ấp (cuối năm

1964) và ngay cả số ấp còn lại thì củng chỉ có 5% là đạt tiêu chuẩn mà chúng

đề ra [113, tr.155].

Nhằm củng cố và phát huy mạnh mẽ hơn nữa những thành quả to lớn

mà quân và dân miền Nam đã giành được, tháng 9-1964, Bộ Chính trị Trung

ương Đảng họp nhận định: phong trào cách mạng miền Nam đứng truớc thời

cơ và triển vọng mới để giành thắng lợi lớn hơn và đề ra chủ trương tranh thủ

thời cơ cố gắng đánh bại hoàn toàn quân nguỵ trước khi quân Mỹ nhảy vào,

tập trung toàn lực để giành một bước thắng lợi quyết định trong một vài năm

tới. Với nhiệm vụ cụ thể là:

1. Đẩy mạnh hoạt động tác chiến, tích cực tiêu hao, tiêu diệt

một bộ phận quân chủ lực địch, phối hợp mọi cuộc đấu tranh quân

sự với đấu tranh chính trị, binh vận để làm tan rã phần lớn quân

địch.

2. Làm chủ cho được rừng núi và nông thôn đồng bằng.

3. Ra sức đẩy mạnh phong trào đấu tranh ở đô thị.

4. Gấp rút tăng cường xây dựng lực lượng chính trị, quân sự,

đặc biệt là xây dựng chủ lực.

5. Tăng cường công tác mặt trận.[25, tr.275]

Bộ Chính trị đã chỉ đạo cho Quân uỷ Trung ương, Bộ Tổng tham mưu

lập kế hoạch tổ chức các trận đánh lớn nhằm tiêu diệt và làm tan rã đại bộ

phận quân đội Sài Gòn.

Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương và Bộ

Tổng tư lệnh chỉ thị mở đợt hoạt động Đông-Xuân 1964-1965 trên khắp các

chiến trường miền Nam.

Với quyết tâm giành thắng lợi quyết định, Quân uỷ, Bộ chỉ huy Miền

đã mở chiến dịch Bình Giã. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm: 2 trung đoàn

69

bộ binh (761, 762), 2 tiểu đoàn chủ lực quân khu 7 (800, 500), tiểu đoàn pháo

binh 186 của quân khu 6 và các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh, huyện, du kích

các xã, ước tính lên tới 7.000 quân tiến công địch trên một địa bàn rộng khoảng 500 km2 thuộc các tỉnh Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hoà, Bình Thuận

[114, tr.16].

Chiến dịch diễn ra từ ngày 2-12-1964 đến 3-1-1965. Kết quả, ta đã tiêu

diệt hơn 1.700 tên địch, bắt 293 tên, phá huỷ một số lớn phương tiện chiến

tranh của địch, thu hơn 1000 súng các loại và 100 máy bay thông tin, hỗ trờ

cho nhân dân nổi dậy phá từng mảng ấp chiến lược trên đường số 2, đưỡng số

5 thuộc các huyện Đất Đỏ, Long Thành, Nhơn Trạch, mở rộng vùng giải

phóng, nối liền chiến khu D và khu VII [114, tr.20].

Chiến dịch Bình Giã thắng lợi đánh dấu khả năng phá sản của chiến

lược “chiến tranh đặc biệt” tạo bước ngoặt trong so sánh lực lượng và cục

diện chiến trường có lợi cho ta. Bộ Quốc phòng Mỹ đã phải thú nhận: Bình

giã là một thất bại trông thấy của quân đội Sài Gòn và qua đó cũng thấy rằng

“Quân đội Việt Nam cộng hoà không đủ sức đương đầu với Việt

cộng”[117,tr.25]. Thắng lợi của chiến dịch này và các chiến dịch khác trên

khắp miền Nam đã chứng tỏ chủ trương mở chiến dịch lớn nhằm giành thắng

lợi quyết định mà Đảng đề ra là hoàn toàn đúng đắn và bước đầu đem lại

những kết quả khả quan.

Để đối phó với tình hình, Mỹ đã đẩy chiến lược “chiến tranh đặc biệt”

lên mức cao nhất đồng thời chuẩn bị bước phiêu lưu quân sự mới là thực hiện

“chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và đánh phá miền Bắc.

Với âm mưu đó, ngày 7-2-1965, Mỹ mở cuộc tiến công Mũi lao lửa

(Fleiming Dart 1) bằng không quân đánh phá Vĩnh Linh, Đồng Hới (Quảng

Bình). Sau đó, chúng mở tiếp Mũi lao lửa 2 đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 19

trở vào đồng thời triển khai chiến dịch ném bom bắn phá rộng rãi miền Bắc

70

với tên gọi Sấm rền (Rolling Thunder). Ngày 8-3-1965, hai tiểu đoàn lình

thuỷ đánh bộ Mỹ đổ bộ lên Đà Nẵng. Cuộc chiến tranh này đã mang nhưng

yếu tố của cuộc chiến tranh cục bộ.

Hơn ai hết, Đảng hiểu rõ âm mưu và khả năng của địch nên đã nắm bắt,

dự đoán trước tình hình có thể xảy ra để chỉ đạo cách mạng một cách đúng

đắn và có lợi nhất. Dựa vào thực tế đang diễn ra trên các chiến trường, Trung

ương Đảng chủ trương tranh thủ thời gian giành thắng lợi quyết định cho

cách mạng miền Nam trước khi đế quốc Mỹ có thể triển khai mưu đồ thâm

hiểm mới của mình.

Chủ trương đó của Đảng đã được thể hiện rõ trong Hội nghị lần thứ 11

(3-1965). Tại Hội nghị này, sau khi đánh giá và phân tích tình hình mới ở

miền Nam và miền Bắc, Đảng ta thấy rằng: “trong cuộc chạy đua giữa ta và

địch, ta để quyết thắng, địch để tránh thất bại ở miền Nam, khi ta càng gần tới

đích, càng dốc toàn lực để giành thắng lợi quyết định, thì địch cũng điên

cuồng đẩy mạnh các cố gắng chiến tranh của chúng tới mức cao nhất mà điều

kiện cho phép chúng, để chống lại ta và tránh khỏi thất bại”[32, tr.105].

Lường trước được khả năng đó, Hội nghị đã khẳng định nhiệm vụ cơ bản của

cánh mạng miền Nam là: “Tích cực kiềm chế và thắng địch trong cuộc chiến

tranh đặc biệt ở mức cao nhất ở miền Nam, ra sức tranh thủ thời cơ tập trung

lực lượng của cả nước giành thắng lợi quyết định ở miền Nam trong thời gian

tương đối ngắn”[32, tr.109] nhưng cũng phải “chuẩn bị sẵn sàng đối phó và

quyết thắng cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam nếu địch gây ra”[32, tr.109].

Như vậy, chủ trương giành thắng lợi quyết định của Đảng đã được

nhấn mạnh hơn và mục tiêu chủ yếu trong giai đoạn này được xác định là

đánh bại quân Sài Gòn để Mỹ không triển khai được ý đồ mở rộng chiến

tranh mà phải rút về nước. Đồng chí Lê Duẩn cũng khẳng định thời cơ đánh

cho Mỹ thua mà không kịp thay đổi chiến lược đang đến và “việc kiềm chế

71

địch để thắng chúng trong “chiến tranh đặc biệt” vẫn là một khả năng”[19,

tr.52]. Tuy nhiên, “khả năng có thành hiện thực hay không, một mặt là do âm

mưu và hành động của địch; mặt khác là do sự nỗ lực chiến đấu và sự điều

khiển chiến tranh cách mạng của ta”[19, tr.53]. Nhằm thực hiện mục tiêu trên,

trong thời gian này, một loạt các chiến dịch quân sự của quân và dân miền

Nam được diễn ra, trong đó phải kể đến chiến dịch Ba Gia, Đồng Xoài.

Chiến dịch Ba Gia tiến công từ ngày 28-6 đến 20-7-1964. Lực lượng

tham gia chiến dịch là Trung đoàn 1 chủ lực Quân khu 5 và lực lượng vũ

trang địa phương huyện Sơn Tịnh đã tiến công cứ điểm Gò Cao - một trong

ba cứ điểm thuộc khu tam giác phòng ngự phía tây Quảng Ngãi. Sau ba ngày

chiến đấu có sự phối hợp chặt chẽ của nhân dân và du kích, ta đã tiêu diệt 4

tiểu đoàn, đánh thiệt hại 2 tiểu đoàn, loại khỏi vòng chiến đấu 2.2000 tên

địch, phá 15 xe quân sự, bắn rơi 18 máy bay, làm chủ trận địa. Thắng lợi của

chiến dịch có ý nghĩa quan trọng đánh dấu bước phát triển của phong trào

cách mạng miền Nam đồng thời khẳng định sự phá sản tất yếu chiến lược

“chiến tranh dặc biệt” của Mỹ - nguỵ [114, tr.31,37].

Chiến dịch Đồng Xoài tiến công từ ngày 10-5 đến 22-7. Chiến dịch

diễn ra với sự tham gia của 3 trung đoàn bộ binh (271, 272, 273), tiểu đoàn

840 cùng với lực lượng vũ trang địa phương. Ta đã tiến hành chiến dịch trên

một địa bàn rộng lớn, thời gian dài và tập trung một lực lượng bộ đội chủ lực

hơn các chiến dịch trước đó. Lần đầu tiên ta đã giành được thắng lợi với cách

đánh công kiên. Chiến dịch này ta đã khéo léo kết hợp giữa đánh điểm và diệt

viện, giữa đánh địch trong công sự và ngoài công sự [114, tr.24].

Trong các chiến dịch này đã có sự kết hợp chặt chẽ và nhịp nhàng giữa

tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng. Thắng lợi của chiến dịch Bình

Giã, Ba Gia, Đồng Xoài và một loạt các chiến dịch khác trên toàn miền Nam

có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Nó đã làm phá

72

sản hoàn toàn chiến lược “chiến tranh đặc biêt” của Mỹ - nguỵ, đẩy chính

quyền Sài Gòn vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, có nguy cơ tan rã,

tạo bước ngoặt mới cho cách mạng miền Nam.

Các hoạt động quân sự được triển khai mạnh mẽ trên khắp các chiến

trường nhằm thực hiện mục tiêu giành thắng lợi quyết định cho cách mạng

miền Nam, giải quyết dứt điểm vấn đề miền Nam trước khi đế quốc Mỹ đưa

quân vào trực tiếp tham chiến. Tuy nhiên, dù có chạy đua với thời gian để đạt

được mục tiêu đó, thì do điều kiện chủ quan và khách quan nên chúng ta đã

không giành đuợc thắng lợi quyết định mà chỉ có thể đánh bại chiến lược

“chiến tranh đặc biệt” của chúng. Cách mạng miền Nam đang đứng trước khả

năng to lớn để giành thắng lợi quyết định nhưng chúng ta đã bỏ lỡ cơ hội.

Đánh giá về vấn đề này, trong bài nói tại Hội Nghị lần thứ 12 của BCH Trung

ương Đảng, Tổng bí thư Lê Duẩn đã nêu rõ: “tình hình đã phát triển nhanh

hơn là chúng ta dự kiến, trong khi đó thì chúng ta chưa có đủ lực lượng, và

điều kiện để chủ động đón lấy sự chuyển biến nhanh ấy của tình hình. Đến

giữa năm 1965, nguỵ quân thất bại liên tiếp và hết sức nặng nề, nhưng ta cũng

không đủ để làm cho chúng tan rã thực sự. Nếu lúc bây giờ chúng ta có sẵn

một lực lượng dự trữ mạnh ở miền Nam thì chúng ta có thế bồi thêm cho địch

những đòn nặng nề hơn nữa, làm cho nguỵ quân tan rã một cách cơ bản,

không phương cứu vãn được nữa. Và một khi quân nguỵ đã tan rã đến mức

ấy, kéo theo sự sụp đô của nguỵ quyền thì việc đế quốc Mỹ có trực tiếp đưa

quân ồ ạt vào miền Nam hay không cũng còn là một vấn đề chúng phải cân

nhắc, có thể chúng đưa quân vào mà có thể chúng phải chịu thôi cuộc chiến

tranh”[32, tr.565-566]. Và “Nếu Mỹ không đưa quân vào để cứu quân nguỵ,

ta có khả năng giành thắng lợi quyết định. Nhưng đây chỉ là một khả năng và

khả năng này khó xảy ra, vì Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự rất mạnh, tham

vọng lớn, ý chí xâm lược còn cao và đang trong quá trình “leo thang” chiến

73

tranh”[105, tr.99].

Như vậy, nhìn tổng quát giai đoạn này, Đảng ta đã có đường lối lãnh

đạo cách mạng đúng đắn, đưa cách mạng từ thế bị khủng bố kìm kẹp vùng lên

tiến hành cuộc đấu tranh đầy gian khổ, anh dũng, đánh bại chiến lược “chiến

tranh đặc biêt” làm chủ chiến trường. Trong đó, “việc chỉ đạo chiến lược giữ

vai trò đặc biệt quan trọng”[102, tr.38]. Nội dung chỉ đạo chiến lược rất rộng

nhưng một vấn đề được nói đến ở đây là làm rõ mối quan hệ “giữa mục tiêu

cơ bản với mục tiêu trước mắt; giữa thắng lợi hoàn toàn với thắng lợi quyết

định; giữa đánh lâu dài với tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong

thời gian tương đối ngắn”[102, tr.39].

Làm rõ được nội dung chỉ đạo chiến lược phù hợp với thực tế lịch sử

nên ngay sau cao trào Đồng khởi Đảng đã kịp thời chuyển cuộc đấu tranh từ

khởi nghĩa từng phần lên chiến tranh cách mạng, kết hợp đấu tranh vũ

trang với chính trị và bình vận đem lại kết quả khả quan. Cũng từ thực tiễn

đấu tranh, Đảng đã phân tích và so sánh đúng tương quan lực lượng giữa ta và

địch đề ra chủ trương giành thắng lợi quyết định cho cách mạng miền Nam

với nội dung cụ thể “đánh tan một số sư đoàn chủ lực của nguỵ, cùng với khởi

nghĩa của quần chúng để thành lập được chính phủ độc lập, trung lập, làm cho

Mỹ không kịp trở tay, bị động về chính trị; đồng thời có sách lược khôn khéo

để Mỹ có thể chịu thua, rút lui mà đỡ mất “danh dự”[102, tr.341]. Chủ trương

này đã được khẳng định và làm rõ trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9

(1963), Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 11 (3-1965). Những thành quả cách

mạng to lớn mà chúng ta đạt được trong những năm sau đó đã chứng minh

chủ trương giành thắng lợi quyết định của Đảng là hoàn toàn đúng đắn. Tuy

nhiên, với tiềm lực và sức mạnh kinh tế, quân sự dồi dào, với bản chất ngoan

cố và hiếu chiến, đế quốc Mỹ không dễ gì chấp nhận thất bại. Chúng đã liều

74

lĩnh leo thang mở rộng chiến tranh, chuyển sang thực hiện chiến lược “chiến

tranh cục bộ” làm cho chủ trương giành thắng lợi quyết định của Đảng ta

không đạt được kết quả như mong muốn.

2.2. chỉ đạo giành thắng lợi quân sự, chính trị trong những năm (1965 - 1968)

2.2.1. Bối cảnh lịch sử mới

Từ giữa năm 1965, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ được đẩy

tới đỉnh cao nhằm dập tắt phong trào cách mạng miền Nam nhưng kết quả lại

không được như chúng mong muốn. Cách mạng miền Nam không những

không bị tiêu diệt mà còn lớn mạnh không ngừng cả về chính trị lẫn quân sự,

làm cho chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - nguỵ bị thất bại hoàn

toàn. Để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của nguỵ quân, nguỵ quyền, đế quốc Mỹ ồ

ạt đưa quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam, tăng thêm vũ khí, phương tiện

chiến tranh hiện đại, chuyển sang thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở

miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc.

Đối với nhà cầm quyền Mỹ, đây là một quyết định khó khăn. Trong tập

hồi ký của mình sau này, Giônxơn coi đó là một quyết định “quyết liệt”

nhưng day dứt và đau đớn nhất trong đời tổng thống của mình.

Bộ Quốc phòng Mỹ đã đệ trình ba phương án để giải quyết vấn đề

MNVN:

- Một là rút lui nhưng chắc chắn đó là điều nhục nhã đối với nước Mỹ.

- Hai là tiếp tục chiến tranh như mức độ hiện có mà đây sẽ là đường lối

làm cho nước Mỹ ngày càng yếu đi.

- Ba là nhanh chóng mở rộng và đẩy mạnh sức ép quân sự của Mỹ ở cả

miền Nam và miền Bắc, từ đó sẽ tránh được thất bại nhưng phí tổn sẽ rất lớn

và bất kỳ quyết định rút quân nào sau này cũng khó khăn.

Cuối cùng, tổng thống Mỹ Giônxơn đã lựa chọn phương án thứ ba và

cho rằng đó là phương án khó khăn nhưng tối ưu nhất để đưa Mỹ ra khỏi tình

75

trạng khó khăn như hiện nay.

Mỹ đã liều lĩnh đưa quân viễn chinh vào trực tiếp tiến hành chiến tranh

ở Việt Nam vì chúng thấy rằng qua chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, nguỵ

quân, nguỵ quyền đã không còn đủ sức đương đầu với lực lượng cách mạng

và cho rằng chỉ có lực lượng tinh nhuệ cùng với phương tiện chiến tranh hiện

đại của chúng mới có thể nhanh chóng giải quyết được vấn đề miền Nam.

Với hành động này, chiến lược của Mỹ ở Việt Nam đã chính thức thay

đổi: từ chỗ đóng vai trò cố vấn, hậu thuẫn cho chính quyền và quân đội Sài

Gòn đã trực tiếp tiến hành chiến tranh bằng quân đội và vũ khí của mình.

Để đặt cơ sở vững chắc cho thành công của chiến lược “chiến tranh cục

bộ”, Mỹ tìm cách củng cố và cải tổ chính quyền Sài Gòn, ủng hộ cuộc đảo

chính của Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ lật đổ Nguyễn Khánh, lập

chính quyền quân sự ở Sài Gòn.

Mục tiêu của Mỹ trong chiến lược này là tiêu tiêu diệt chủ lực Quân

giải phóng và cơ quan đầu não cách mạng miền Nam, “bình định” miền Nam,

uy hiếp tinh thần kháng chiến của nhân dân Việt Nam, buộc Chính phủ Việt

Nam Dân chủ Cộng hoà phải ngồi vào bàn đàm phán với những điều kiện do

Mỹ áp đặt. Để tránh gây ra những ảnh hưởng xấu tới tình hình kinh tế, chính

trị, xã hội của Mỹ và để tránh cuộc chiến tranh ở Việt Nam lan rộng, chính

quyền Giônxơn chủ trương đưa quân Mỹ vào miền Nam nhanh chóng giành

thắng lợi quyết định trong một thời gian ngắn rồi rút quân về nuớc.

Ngày 17-7-1965, Tổng thống Mỹ Giônxơn chấp thuận đề nghị tăng

quân số Mỹ ở MNVN và chính thức phê chuẩn kế hoạch chiến lược “tìm và

diệt” của tướng W. Oétmolen - Tư lệnh Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ tại

MNVN. Từ sau quyết định này, quân Mỹ được đưa vào miền Nam ngày càng

nhiều từ 18.000 tên (đầu 1965) lên 81.422 tên vào tháng 7 và cuối năm lên tới

76

184.300 tên. Theo kế hoạch này, Mỹ dự tính sẽ hoàn tất các mục tiêu của

chiến lược “chiến tranh cục bộ” từ hai năm đến hai năm 6 tháng và được triển

khai làm ba giai đoạn:

Giai đoạn thứ nhất: Từ tháng 7 đến tháng 12 năm 1965, triển khai đưa

quân Mỹ và quân đồng minh vào các địa bàn chiến lược ở miền Nam nhằm

ngăn chặn sự sụp đổ của quân nguỵ, chuẩn bị tiến hành phản công.

Giai đoạn thứ hai: Từ tháng 1 đến thánh 6 năm 1966, mở các cuộc tiến

công “tìm và diệt” chủ lực Quân giải phóng, phá chiến tranh du kích, giành lại

quyền chủ động trên chiến trường, tiếp tục “bình định” nông thôn.

Giai đoạn thứ ba: Từ tháng 7 năm 1966 đến giữa hoặc cuối năm 1967,

mở các cuộc tiến công tiêu diệt các đơn vị còn lại của Quân giải phóng, phá

căn cứ đại kháng chiến và tiêu diệt cơ quan đầu não của cách mạng, hoàn tất

chương trình “bình đinh” nông thôn, rút quân về nước.

Kế hoạch này được hoạch định dựa trên cơ sở đánh giá cao sức mạnh

quân sự của Mỹ, đánh giá thấp khả năng và sức mạnh của quân và dân Việt

Nam. Chúng thực hiện kế hoạch này với mong muốn “đưa cuộc chiến tranh

đến tận xứ sở của kẻ địch, làm cho kẻ địch không thể tự do đi lại ở bất cứ nơi

nào trên đất nước… Và giáng cho kẻ địch những đòn thật nặng nề”. Đây là cố

gắng quân sự lớn nhất, bước leo thang chiến tranh cao nhất của đế quốc Mỹ ở

miền Nam, cũng là lần đầu tiên Mỹ đưa nhiều quân nhất đi xâm lược nước

khác từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

Để thực hiện chiến lược trên, Mỹ tiến hành hai biện pháp lớn:

Một là, nhanh chóng đưa quân viễn chinh Mỹ và quân đội đồng minh

vào miền Nam, tiến hành những cuộc phản công cách mạng tiêu diệt lực

lượng cách mạng.

Từ sau quyết định của Giônxơn, các đơn vị sừng sỏ và khét tiếng của

Mỹ như Sư đoàn bộ binh 1 (Anh cả đỏ), Sư đoàn kỵ binh không vận số 1, Sư

77

đoàn dù 101 (Thiên thần mũ đỏ), Sư đoàn bộ binh 25 (Tia chớp nhiệt đới), Sư

đoàn bộ binh số 4, Lữ đoàn dù 173, Trung đoàn kỵ binh thiết giáp số 11…

cùng một khối lượng trạng thiết bị khổng lồ đổ vào miền Nam. Đến cuối năm

1965, Mỹ đã đưa đuợc số lượng quân đội viễn chinh vào miền Nam lên tới 20

vạn (trong đó 184.300 quân Mỹ).

Số lượng quân Mỹ, quân Sài Gòn, đồng minh trong chiến tranh xâm

lược Việt Nam từ 1964 - 1968

Quân Mỹ

Quân Sài Gòn

Quân đồng minh

Tổng số

Năm

540.000 1964 23.300 563.300

600.000 1965 184.300 20.000 804.300

671.000 1966 385.300 53.000 1.109.300

799.000 1967 485.600 59.000 1.343.600

Nguồn: [90, tr.124]

998.000 1968 536.100 66.000 1.600.100

Với sức mạnh như vậy, Uylo - Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng

liên quân Mỹ khẳng định rằng: “Không có lý do gì chúng ta lại không thể

thắng, nếu đó là quyết tâm của chúng ta”[117, tr153].

Sau khi vào Việt Nam các đơn vị quân Mỹ và đồng minh đã nhanh

chóng chiếm lĩnh địa bàn để xây dựng căn cứ đồng thời mở hàng trăm cuộc

hành quân lớn nhỏ nhằm thiét lập vành đai an toàn bảo vệ căn cứ quân sự.

Khối lượng bom đạn, chất độc chúng sử dụng ngày càng nhiều đánh vào vùng

giải phóng, vùng tranh chấp, căn cứ kháng chiến của ta.

Hai là, mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải

quân.

Với việc dựng lên “Sự kiện Vịnh Bắc bộ” (4-8-1964), Mỹ đã dùng

không quân đánh phá Hòn Gai, Hải Phòng, Cảng sông Gianh, Đồng Hới,

78

Quảng Bình. Ngày 7-2-1965, chúng thực hiện kế hoạch Sấm rền đánh phá ta

từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 20, mở đầu cho bước leo thang mới, dùng không

quân và hải quân đánh phá ác liệt miền Bắc Việt Nam.

Chúng leo thang đánh phá miền Bắc nhằm mục đích:

- Ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc vào miền Nam.

- Phá hoại công cuộc xây dựng CNXH và làm suy yếu tiềm lực kinh tế,

quốc phòng của miền Bắc.

- Làm lung lay ý chí quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta,

buộc ta phải kết thúc chiến tranh chấp nhận giải pháp thương lượng theo điều

kiện của Mỹ.

Bằng sức mạnh của “không lực Hoa Kỳ”, giới quân sự Mỹ dự định với

lực lượng không quân, hải quân và khối lượng bom đạn khổng lồ của mình thì

chỉ trong vòng 6 tháng chúng sẽ đưa miền Bắc nước ta trở lại “thời kỳ đồ đá”.

Cùng với những biện pháp cứng rắn ở miền Nam và miền Bắc Việt

Nam, Mỹ còn triển khai chiến dịch “đi tìm hoà bình” nhằm lôi kéo và tìm

kiếm sự ủng hộ của các nước khác đối với cuộc chiến tranh mà chúng đang

tiến hành ở Việt Nam, hòng che đậy hành vi xâm lược của chúng và đổ lỗi

cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Mỹ đã cử các quan chức cấp cao

đi các nước Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Philippin, Ba lan, Canada… để “vận

động hoà bình”. Năm 1965, chiến dịch này được triển khai với quy mô lớn lên

đến 17 cuộc gặp gỡ, tiếp xúc, nhưng thực chất của chiến dịch “đi tìm hoà

bình” này “chỉ nhằm che giấu âm mưu tăng cường chiến tranh của

họ”[54,tr.32] mà thôi.

Lúc này, tình hình thế giới có những điều bất lợi cho ta, mâu thuẫn Xô

- Trung ngày càng gay gắt, ảnh hưởng lớn đến phong trào cộng sản và công

nhân quốc tế, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

của nhân dân ta. Đế quốc Mỹ đã triệt để lợi dụng, chia rẽ và khoét sâu mâu

79

thuẫn này để giảm thiểu sự đồng tình, ủng hộ và chi viện của Liên Xô, Trung

Quốc cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, tạo thêm điều kiện cho

Mỹ dẩy mạnh nỗ lực chiến tranh trên bộ và trên không ở cả hai miền Nam,

Bắc Việt Nam.

Như vậy, với việc Mỹ tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ” mở

rộng chiến tranh ra cả hai miền Nam, Bắc thì cuộc kháng của nhân dân ta

đang đứng trước một bước ngoặt mới, phải đối diện với một tình thế rất hiểm

nghèo. Thế giới lo lắng cho tình hình ngày càng căng thẳng ở Việt Nam và

đặt ra câu hỏi “liệu Việt Nam - đất nước nhỏ bé, thua kém Mỹ nhiều lần về

tiềm lực, sức mạnh kinh tế, quân sự có đương đầu nổi với cỗ máy quân sự

khổng lồ và rất hung hãn của Mỹ không?”[113, tr.206]. Và nhiều người cũng

lo ngại rằng cuộc chiến tranh này sẽ lan nhanh ra khu vực hoặc trở thành

chiến tranh thế giới. Cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam đã được

đẩy đến mức cao nhất với tham vọng giải quyết vấn đề miền Nam trong thời

gian ngắn. Từ đây, cuộc đấu tranh của nhân dân ta với đế quốc Mỹ trở nên

quyết liệt hơn bao giờ hết.

2.2.2. Quá trình Đảng chỉ đạo đánh thắng chiến lược “chiến tranh

đặc biệt” của đế quốc Mỹ (1965-1968)

Bước vào giai đoạn này, Mỹ triển khai thực hiện chiến lược “chiến

tranh cục bộ” ở miền Nam, leo thang bắn phá miền Bắc làm cho cục diện của

cuộc chiến tranh thay đổi. Tuy vậy, Đảng vẫn khẳng định chủ trương tranh

thủ thời gian giành thắng lợi quyết định là phương hướng chiến lược để đánh

thắng Mỹ ở miền Nam.

Tất cả những vấn đề về chiến lược và sách lược để giành thắng lợi

quyết định đã được đồng chí Lê Duẩn phân tích và làm rõ trong bài nói tại

Hội nghị lần thứ 12 của BCH Trung ương Đảng. Đồng chí đã khẳng định chủ

trương tranh thủ thời gian giành thắng lợi quyết định được đề ra trong Nghị

80

quyết Hội nghị lần thứ 9 và 11 là hoàn toàn đúng đắn nhưng để đưa ra được

chủ trương cách mạng chính xác trong điều kiện mới, chúng ta “phải phân

tích toàn diện những vấn đề mới nảy sinh do việc Mỹ đưa hàng chục vạn quân

viễn chinh vào trực tiếp xâm lược miền Nam, dùng không quân và hải quân

đánh phá miền Bắc. Cần đánh giá đúng lực lượng và khả năng của địch cũng

như của nhân dân ta ở cả hai miền, đặt so sánh thế và lực hai bên trong bối

cảnh thời đại”[21, tr.33].

Với tầm nhìn thiên tài và khả năng tiên đoán chính xác, đồng chí Lê

Duẩn cho rằng: “đánh giá đế quốc Mỹ không phải là làm một bài toán đơn

giản để lường sức mạnh nhiều hay ít, cũng không chỉ nhận định một cách

chung chung so sánh lực lượng giữa chúng và các lực lượng cách mạng trên

thế giới, mà phải phân tích thế lực của đôi bên một cách toàn diện về các mặt

chính trị, quân sự, kinh tế, để thấy rõ chỗ mạnh, chỗ yếu của

chúng”[32,tr.575] mới có “chiến lược và sách lược đúng đắn và có biện pháp

đối phó tích cực và toàn diện”[32, tr.574]. Trên cơ sở đó, đồng chí đã phân

tích, đánh giá so sánh lực lượng và thấy rằng: đế quốc Mỹ tuy có tiềm lực

kinh tế và quốc phòng mạnh nhất trong phe đế quốc, chúng dùng không quân

oanh tạc miền Bắc, đưa quân viễn chinh Mỹ vào trực tiếp chiến đấu ở miền

Nam là những bước leo thang chiến tranh nhưng “chúng leo thang trong thế

thất bại, bị động, chủ yếu là để cứu vãn nguy cơ thất bại của chúng ở miền

Nam, nguy cơ tan rã và sụp đổ hoàn toàn của nguỵ quân, nguỵ quyền”. Vì thế,

dù chúng có đưa 20 vạn hay nhiều hơn nữa quân Mỹ vào miền Nam thì chúng

ta với lực lượng quân sự, chính trị ngày càng lớn mạnh vẫn có khả năng đánh

bại chúng.

Từ việc phân tích đặc điểm, tính chất của hình thái chiến tranh mới,

đồng chí Lê Duẩn đã thấy được “đối tượng tác chiến mới của ta ở miền Nam

không phải chủ yếu là quân nguỵ nữa, mà là cả quân Mỹ và quân

81

nguỵ”[32,tr.582]. Việc xác định chính xác đối tượng mới của cách mạng đã

giúp chúng đề ra được chủ trương đúng đắn, tập trung chĩa mũi nhọn vào

đúng kẻ thù của mình. Mục tiêu tác chiến của chúng ta trong giai đoạn này là

“phải tiêu diệt và tiêu hao một bộ phận quan trọng quân Mỹ, bẻ gấy lực lượng

nòng cốt ấy của quân nguỵ, làm cho quân Mỹ không đủ sức giữ quân nguỵ,

nguỵ quyền, tức là không đủ sức làm nhiệm vụ chính trị trực tiếp của nó, và

chính bản thân nó cũng bị đánh bại”[32, tr.583]. Việc “tiêu diệt quân Mỹ đã

trở thành vấn đề hiện thực và cần thiết để giữ thế chủ động của chúng ta trên

toàn chiến trường”[32, tr.583].

Trong điều kiện mới, nội dung cụ thể của chủ trương giành thắng lợi

quyết định được khẳng định và làm rõ hơn. Với việc phân tích sức mạnh và

khả năng của Mỹ trong chiến lược chiến tranh này, đồng chí thấy rằng:

“chúng ta nói đánh thắng đế quốc Mỹ hiện nay không phải là đánh bại chính

sách sen đầm quốc tế của chúng, đánh bại thực lực quân sự của chúng trên thế

giới mà là đánh thắng chúng trong khuôn khổ và quy mô của cuộc chiến tranh

xâm lược mà chúng đang tiến hành ở Việt Nam”[32, tr.587-588].

Hơn nữa, để giành thắng lợi quyết định thì:

Chúng ta cũng không chủ trương về quân sự phải đánh tiêu

diệt toàn bộ quân Mỹ, tiêu diệt đến tên xâm lược cuối cùng, hoặc là

về quân sự phải quét sạch chúng xuống biển Đông, mà chúng ta chủ

trương làm thất bại chính sách xâm lược của chúng, đè bẹp và đánh

tan ý chí xâm lược của chúng, làm cho chúng thấy không thể tiếp

tục mở rộng và kéo dài chiến tranh xâm lược được nữa và phải chịu

thua với những điều kiện nhất định và cuối cùng phải rút khỏi miền

Nam nước ta. Do đó, chúng ta đề ra nhiệm vụ giành thắng lợi quyết

định trong giai đoạn trước mắt của cuộc chiến tranh cũng tức là nêu

ra khái niệm giành một bước thắng lợi căn bản trong một tình hình

82

nhất định của cuộc chiến tranh ở miền Nam.

Nội dung của việc giành thắng lợi quyết định là phải đẩy

mạnh ba mũi giáp công để tàm tan rã nguỵ quân về cơ bản, nghĩa

là làm cho nguỵ quân không còn đủ sức làm chỗ dựa cho nguỵ

quyền ở trung ương và địa phương, không thể phục hồi được thế

lực của bọn tay sai ở miền Nam được nữa; mặt khác, phải tiêu diệt

và tiêu hao một bộ phận quan trọng của quân đội Mỹ… Điều cần

phải nhấn mạnh là chừng nào nguỵ quân chưa bị tan rã về cơ bản

thì ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ chưa bị đập tan, nghĩa là chúng

vẫn chưa chịu từ bỏ âm mưu xâm lược và chưa chịu rút khỏi miền

Nam nước ta.[32, tr.588].

Phương châm chiến lược của cuộc chiến tranh ở miền Nam là đánh lâu

dài, dựa vào sức mình là chính. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là mâu

thuẫn với mục tiêu chiến lược giành thắng lợi quyết định trong một thời gian

tương đối ngắn mà là chúng ta thấy được mối quan hệ giữa mục tiêu trước

mắt và mục tiêu lâu dài của cách mạng miền Nam.

Về cơ bản, mục tiêu và nội dung của chủ trương giành thắng lợi quyết

định trong giai đoạn này đã được đồng chí Lê Duẩn phân tích một cách cụ

thể, trong đó nhấn mạnh đến việc tập trung lực lượng đè bẹp và đánh tan ý chí

xâm lược của kẻ thù, buộc chúng phải rút quân khỏi Việt Nam, giành một

bước thắng lợi căn bản cho cách mạng miền Nam, để từ đó tiến lên giành

thắng lợi hoàn toàn.

Những phân tích, đánh giá trên là cơ sở, phương hướng để chúng ta tiếp

tục tiến hành cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước trong điều kiện mới.

Từ sau Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (3-1965), thực hiện Lời kêu gọi

của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển lực lượng cách mạng, thế và lực của

83

cách mạng nước ta đã có những thay đổi đáng kể.

ở miền Nam, lực lượng cách mạng được phát triển nhanh: dân quân du

kích các xã vào cuối năm 1965 đã lên tới 174.000 người; đã có 18.834 thanh

niên tham gia quân giải phóng và 46.796 cán bộ chiến sĩ ở miền Bắc bổ sung

cho miền Nam; lực lượng bộ đội địa phương lên tới 80.000 người và bộ đội

chủ lực có 92.000 người; khối chủ lực quân giải phóng miền Nam phát triển

từ 10 trung đoàn (1964) lên tới 5 sư đoàn, 11 trung đoàn và một số trung

đoàn, tiểu đoàn binh chủng kỹ thuật.

Toàn bộ lực lượng trên được bố trí một cách hợp lý trên các địa bàn

chiến lược rừng núi, nông thôn, đồng bằng, vùng ven đô thị tạo điều kiện

thuận lợi đánh thắng địch khi chúng đổ bộ vào. Cách bố trí, sắp xếp lực lượng

của ta như vậy đáp ứng được yêu cầu chống lại quân Mỹ có phương tiện

chiến tranh hiện đại. Tạo được thế trận đánh địch tại chỗ, đánh địch ở chính

diện, bên sườn và cả sau lưng, buộc Mỹ và quân đội Sài Gòn phải bị động,

phân tán không phát huy được sức mạnh về phương tiện chiến tranh hiện đại

và quân số đông. Nhờ đó, ta luôn ở thế chủ động và có khả năng đánh thắng

Mỹ khi chúng triển khai thực hiện phản công chiến lược vì “trong chiến tranh,

làm chủ được các địa bàn chiến lược quan trọng, bố trí lực lượng một cách

hợp lý trên chiến trường trong một thế trận tiến công có lợi đã thắng được một

nửa”[22, tr.46].

ở miền Bắc, thực hiện khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh

thắng giặc Mỹ xâm lược”, nhân dân miền Bắc tích cực lao động “một người

làm việc bằng hai” để ủng hộ cho cách mạng miền Nam cả về người và của.

Chỉ trong một thời gian ngắn gần 290.000 thanh niên được động viên vào

quân đội. Lực lượng dân quân tự vệ tăng từ 1,4 triệu (1964) lên 2 triệu (1965),

3000 tổ đội bắn máy bay của dân quân tự vệ được thành lập. Bộ đội địa

phương phát triển lên tới 28.000 người. Bộ đội chủ lực tăng từ 195.000 (đầu

84

năm 1965) lên 350.000 người (giữa năm 1965) và 400.000 người (cuối năm

1965). Khối bộ binh chủ lực cơ động gồm 10 sư đoàn, 6 trung đoàn và một số

tiểu đoàn độc lập [9, tr.223]. Các quân binh chủng đều được tăng cường cả về

lực lượng lẫn trang thiết bị.

Dựa trên sự phát triển vượt bậc về lực lượng và thế trận được bố trí hợp

lý, ngay khi Mỹ triển khai lực lượng, Đảng đã chỉ đạo quân và dân miền Nam

tổ chức một số trận đánh phủ đầu để giành thế chủ động trên chiến trường và

tìm ra cách đánh Mỹ. Từ đó tạo tiền đề để tranh thủ thời gian giành thắng lợi

quyết định cho cách mạng miền Nam.

Thực hiện sự chỉ đạo đó của Đảng, ngay khi những tiểu đoàn lính Mỹ

đầu tiên vừa đổ bộ lên Đà Nẵng và bãi biển Chu Lai, các chiến sỹ đặc công và

dân quân du kích đã chặn đánh quyết liệt ngay tại căn cứ của chúng. Đây là

trận đánh Mỹ đầu tiên của quân và dân ta ở miền Nam, tuy quy mô nhỏ nhưng

đã được các nhà quân sự, các học giả liệt vào “những trận đánh quyết định” vì

nó đánh dấu mốc “quân chủ lực Mỹ chính thức tham chiến”.

Tiếp sau đó chúng ta liên tiếp thực hiện các trận đánh khác để tìm ra

cách đánh Mỹ một cách hữu hiệu nhưng chưa tìm được. Ngày 10-5-1965, Bộ

Tư lệnh quân khu 5, chỉ thị cho tỉnh đội Quảng Nam: đánh tiêu diệt một đơn

vị Mỹ để hạ uy thế của chúng ngay từ đầu. Vào đêm 27 rạng ngày 28-5-1965,

đại đội 2, Tiểu đoàn 70 lực lượng vũ trang địa phương tỉnh Quảng Nam chủ

động tập kích một đại đội lính thuỷ đánh bộ ở cao điểm Núi Thành, tiêu diệt

và làm bị thương 140 tên địch, thu toàn bộ vũ khí và đồ quân dụng.

Trận Núi Thành tuy quy mô không lớn nhưng có ý nghĩa quan trọng, là

trận tìm ra cách đánh Mỹ đầu tiên. Thắng lợi này đã thể hiện quyết tâm đánh

thắng giặc Mỹ xâm lược của quân và dân ta. Nó cổ vũ mạnh mẽ cho phong

trào “tìm Mỹ mà diệt, gặp Mỹ là đánh”. Đây là kinh nghiệm quý báu để quân,

85

dân ta ở miền Nam đánh Mỹ.

Phát huy khí thế đó, ngày 18-8-1965, tại Vạn Tường (Quảng Ngãi),

Trung đoàn 1 chủ lực quân khu 5, đại đội 21 bộ đội địa phương cùng với dân

quân du kích đã đánh thắng cuộc tiến công tìm diệt mang tên “ánh sao sáng”

của Sư đoàn 3 lính thuỷ đánh bộ Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu 900 tên, bắn

cháy 22 xe tăng, xe bọc thép và 13 máy bay. Trong trận này, quân Mỹ hoàn

toàn chủ động lựa chọn chiến trường tác chiến ven biển phù hợp với khả

năng, sở trường của lính thuỷ đánh bộ, lại thuận lợi cho việc sử dụng hoả lực

phối hợp của không quân, hải quân, xe tăng, pháo binh. Nhưng từ thế chủ

động tiến công, quân Mỹ buộc phải chuyển sang bị động, đối phó lúng túng

và bị thua. Thắng lợi này đánh dấu bước truởng thành của lực lượng vũ trang

miền Nam đặc biệt là bộ đội chủ lực. Qua chiến thắng Vạn Tường càng củng

cố hơn nữa quyết tâm và khả năng đánh thắng Mỹ của Việt Nam.

Sau Vạn Tường, nhiều trận đánh phủ đầu quân viễn chinh Mỹ diễn ra

liên tục ở khu 5, Trị - Thiên, miền Đông Nam Bộ như: chiến dịch Plâyme (11-

1965), Đất Cuốc, Bầu Bàng (11-1965)… Chiến tranh du kích chống Mỹ phát

triển mạnh. Những “vành đai du kích diệt Mỹ” hình thành ở Chu Lai, Đà

Nẵng, Củ Chi tạo thế trận đánh Mỹ ngay sát các căn cứ của chúng. Qua

những trận đối đầu trực tiếp đó, quân và dân ta kịp thời phát hiện chỗ yếu của

Mỹ, dần tìm được cách đánh thắng Mỹ trên từng trận, từng chiến trường khác

nhau.

Trên miền Bắc, quân dân ta ta đã bắn rơi hàng trăm máy bay hiện đại

của Mỹ, bắt sống nhiều phi công, tổ chức phòng tránh, sơ tán thành công, bảo

đảm giao thông vận tại thông suốt, đặc biệt là vẫn tăng cường chi viện không

ngừng cho miền Nam. Như vậy, cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân

và hải quân của Mỹ đã không uy hiếp được tinh thần của người dân hậu

86

phương, không cắt đứt được sự chi viện từ miền Bắc vào Miền Nam.

Kết thúc giai đoạn thứ nhất của kế hoạch chiến lược mà Mỹ đề ra tuy

cũng hạn chế được một phần suy sụp của quân đội Sài Gòn nhưng Mỹ đã

không giành được thế chủ động trên chiến trường, không chặn được đà tiến

công của Quân giải phóng. Vì thế mà, trung tướng Mỹ Đavítsơn đã phải cay

đắng thừa nhận rằng: “chúng ta phải nhảy nhót theo vũ điệu chiến lược của

Bắc Việt Nam mà đại diện là những người cộng sản, họ xác định phong cách

và mức độ của cuộc chiến tranh”[45, tr.35].

Do không đạt được mục tiêu như ban đầu đặt ra, giới cầm quân sự Mỹ

cho rằng cần phải tăng cường thêm lực lượng trên bộ tạo thế áp đảo đối với

quân giải phóng. Cuối năm 1965, tướng Oétmolen đề nghị tăng quân Mỹ lên

443.000 người. Tiếp đó, ngày 28-1-1966, ông ta lại đề nghị tăng quân lên

459.000 người. Cùng với việc tăng cường lực lượng, Mỹ tiếp tục thực hiện

leo thang bắn phá toàn miền Bắc với cường độ ác liệt hơn làm cho cuộc chiến

đấu của nhân dân ta ở cả hai miền Nam Bắc thêm phần khó khăn.

Trước thực tế đó, ngày 27-12-1965, Đảng đã triệu tập Hội nghị BCH

Trung ương lần thứ 12 để bàn về tình hình và nhiệm vụ mới của cách mạng

Việt Nam. Hội nghị tiếp tục khẳng định chủ trương giành thắng lợi quyết định

là hướng đi đúng đắn của cách mạng miền Nam.

Hội nghị đã chỉ ra đặc điểm của tinh hình hiện nay là “đế quốc Mỹ

không chỉ dựa vào lực lượng nguỵ quân, nguỵ quyền là công cụ chủ yếu, mà

đã trực tiếp xâm lược miền Nam nước ta”[32, tr624].

Hội nghị đã chỉ ra âm mưu trước mắt của Mỹ, nguỵ nhằm thực hiện dã

tâm xâm lược Việt Nam:

Ra sức mở rộng những cuộc tấn công nhằm tiêu diệt lực

lượng của ta, nhất là các lực lượng vũ trang tập trung của ta; giữ

vững và củng cố hoặc chiếm đóng thêm các vị trí chiến lược quan

87

trọng… chiếm lại một số vùng đã mất; tìm mọi biện pháp để ngăn

chặn sự chi viện của miền Bắc, bao vây cô lập miền Nam; đồng thời

tăng cường chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc nước ta. Chúng

mong từng bước giành lại thế chủ động, tạo thế mạnh để ép ta

thương lượng theo điều kiện có lợi cho chúng, đồng thồi chuẩn bị

cơ sở để khi cần thiết thì kéo dài và mở rộng chiến tranh xâm

lược[32,tr.626].

Để giành được thắng lợi quyết định, đánh bại được đế quốc Mỹ với âm

mưu nham hiểm đó, điều quan trọng là chúng ta phải biết “đánh giá đúng lực

lượng và khả năng của kẻ địch, đồng thời đánh giá đúng lực lượng và khả

năng to lớn của nhân dân ta ở cả hai miền”[32, tr.628]. Đây là việc làm hết

sức khó khăn nhưng có tích chất quyết định đòi hỏi những người lãnh đạo

phải có tầm nhìn chiến lược và có tư duy khoa học mới đánh giá hết được khả

năng của cả hai bên để từ đó đưa ra đựơc đường hướng cách mạng đúng đắn

nhất. Đồng chí Lê Duẩn cũng khẳng định: “Không đánh giá đúng thế yếu của

Mỹ, không đánh giá đúng thế mạnh của ta thì không bao giờ dám đánh

Mỹ”[115,tr.51].

Trên cơ sở đó, BCH Trung ương đã nhận định: “Đế quốc Mỹ là tên sen

đầm quốc tế, là tên đế quốc đầu sỏ có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh nhất

trong phe đế quốc”[32, tr.628]. Chúng tiến hành chiến tranh dựa vào sức

mạnh vật chất của mình và cũng đã tạo ra được một số ưu thế như: lực lượng

cơ động chiến lược ngày càng mạnh hơn, xây dựng được các căn cư quân sự ở

những vị trí chiến lược, lực lượng không quân được tăng lên gấp bội. Tuy

nhiên, “tình hình chung trên thế giới hiện nay cũng như tình hình riêng của

nước Mỹ không cho phép Mỹ sử dụng hết sức mạnh về kinh tế và quân sự của

chúng trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam”[32, tr.629]. Và chỗ yếu

nhất của địch từ trước đến nay vẫn là vấn đề chính trị, Mỹ xâm lược Việt

88

Nam là phi nghĩa nên “quân đội viễn chinh Mỹ chiến đấu không có lý tưởng,

tinh thần chiến đấu thấp kém”[32, tr.630]. Hơn nữa, chúng còn gặp nhiều khó

khăn do không thông thuộc địa hình, không quen khí hậu nên dù có được

trang bị hiện đại nhưng cũng không phát huy được tác dụng. Đế quốc Mỹ tăng

quân vào miền Nam cúng là lúc chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của chúng

đã căn bản bị phá sản còn nguỵ quân, nguỵ quyền bị thất bại nghiêm trọng cả

về quân sự và chính trị. Chúng bị đẩy vào thế bị động, lúng túng chống đỡ các

đợt tiến công của ta. Do vậy, “dù đế quốc Mỹ đưa vào mấy chục vạn quân, về

chiến lược chúng cũng buộc phải phân tán lực lượng trên khắp các chiến

trường và ngày càng lâm vào thế bị động, càng sa lây và thất bại”[32, tr.630],

“đế quốc Mỹ càng đưa quân vào miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại

miền Bắc thì càng bị cô lập trên thế giới và ngay trong nước Mỹ”[32, tr.631].

Còn về phía ta, ở miền Nam, MTDTGPMNVN đã phát triển rộng khắp

và có cơ sở vững chắc trong tất cả các tâng lớp nhân dân, ngày càng có uy tín

lớn trong nước và trên thế giới; Lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam đã

lớn mạnh vượt bậc, trải qua các trận đánh đã khẳng định được chỗ đứng vững

chắc trên tất cả các vùng chiến lược; Vùng giải phóng ngày càng được mở

rộng và củng cố; Đảng bộ miền Nam có cơ sở rộng rãi, hơn nữa lại có đường

lối lãnh đạo đúng đắn, kinh nghiệm phong phú. Còn ở Miền Bắc, với những

thành quả đạt được qua công cuộc CNXH và đấu tranh chống chiến tranh phá

hoại của Mỹ, đã trở thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng Việt Nam.

Bên cạnh những kết quả đạt được, Hội nghị BCH Trung ương Đảng

cũng chỉ rõ những khó khăn và nhược điểm của mình:

Lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam chưa lớn mạnh kịp

so với yêu cầu của nhiệm vụ. Vùng giải phóng tuy rộng, nhưng

chưa có căn cứ địa hoàn chỉnh để làm hậu phương vững chắc ngay

ở miền Nam. Công tác vận động quần chúng và xây dựng lực lượng

89

ở các đô thị cũng như công tác binh vận, nguỵ vận chưa theo kịp

yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng. Hiện nay, miền Bắc cũng chưa

phát huy hết tác dụng hậu phương lớn của mình đối với tiền tuyến

lớn là miền Nam[32, tr.633].

Trên cơ sở phân tích một cách khoa học chỗ mạnh, chỗ yếu cả trên hai

mặt thế và lực của ta và địch, Hội nghị đã kết luận:

Mặc dầu đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân

đội viễn chinh, lực lượng so sách giữa ta và địch vẫn không thay

đổi lớn. Tuy cuộc chiến tranh ngày càng trở nên gay go, ác liệt

nhưng nhân dân ta đã có cơ sở vững chắc để giữ vững và tiếp tục

giành thế chủ động trên chiến trường, có lực lượng và điều kiện để

đánh bại âm mưu trước mắt và lâu dài của địch [32, tr.633].

Nhiệm vụ chung của cách mạng trong giai đoạn mới là:

Động viên lực lượng của cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc

chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào,

để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam… kiên quyết đẩy mạnh

đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, đánh bại đế quốc Mỹ và bè

lũ tay sai trên chiến trường chính là miền Nam.

ở miền Bắc thì đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế

quốc Mỹ, bảo vệ sự nghiệp xây dựng CNXH, động viên sức người

sức của chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng ở miền Nam, giúp

đỡ cách mạng Lào, đồng thời gia sức chuẩn bị để đánh bại quân

địch trong trường hợp chúng mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả

nước[32, tr.634-635].

Trong tình hình đó, Đảng vẫn kiên trì phương châm tập trung lực lượng

cả nước, kiên quyết đánh địch và thắng địch trên chiến trường miền Nam là

chính, tranh thủ thời gian giành thắng lợi quyết định cho cách mạng miền

90

Nam. Chúng ta phải “động viên lực lượng cả nước đẩy mạnh cuộc chiến tranh

giải phóng miền Nam, gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề, đẩy chúng ngày

càng bị sa lầy và thất bại nghiêm trọng thì chúng ta nhất định có thể giành

thắng lợi quyết định ở miền Nam”[32, tr.636-637].

Phương châm chiến lược chung của cuộc cách mạng miền Nam là

“đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính” nhưng “trong hoàn cảnh cụ thể

hiện nay, trên cơ sở tiếp tục quán triệt phương châm đánh lâu dài, chúng ta

cần phải cố gắng đến cao độ, tập trung lực lượng của cả hai miền để tranh

thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tuơng đối ngắn trên

chiến trường miền Nam”[32, tr.637-638]. Và Hội nghị cho rằng: “đó là

phương hướng chỉ đạo chiến lược đúng đắn nhất”[32, tr.638].

Trong điều kiện, Mỹ mở rộng chiến tranh ra cả nước thì chiến trường

quyết định để đánh thắng kẻ thù cơ bản vẫn ở miền Nam. Nếu chúng ta giành

được thắng lợi ở miền Nam tức là chúng ta đã giành được một bước thắng lợi

quyết định.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Chúng ta phải ra sức cố

gắng giành cho được thắng lợi quyết định ở miền Nam, bởi vì cuộc chiến

tranh này căn bản là ở miền Nam. Mỹ thua ở miền Nam tức là nó thua, ta

thắng ở miền Nam tức là ta thắng”[54, tr.17-18]. Với ý nghĩa quan trọng đó,

cho nên ta “phải giành thắng lợi quyết định trong một thời gian” nhưng trong

bao lâu thì “không nói rõ được”, vì nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:

lực luợng chủ quan của ta, tình hình thế giới và lực lượng của Mỹ. Tuy nhiên,

nếu càng giành được thắng lợi sớm càng tốt đế bớt hy sinh tổn thất. Người

cũng chỉ ra rằng: “Làm sao ở miền Nam tiêu diệt và phá tan được quân

nguỵ, tiêu diệt được nhiều quân Mỹ, đó là ta giành được thắng lợi quyết

định”[54,tr.18].

Phương châm trâm đó khẳng định tư tưởng nhất quán của Đảng và Chủ

91

tịch Hồ Chí Minh trong việc chỉ đạo cách mạng miền Nam. Đồng thời cũng

thấy được tầm nhìn chiến lược và tư duy khoa học của Đảng và Bác trong

hoạch định đường lối cách mạng nhằm giải quyết vấn đề một cách có lợi nhất.

Phương châm này được đưa ra dựa trên cơ sở:

Một là, về so sánh lực lượng, ta phải lấy yếu đánh mạnh.

Hai là, ta có những dự kiến về khả năng phát triển, về quy

mô và tính chất của cuộc chiến tranh trong lúc phải đánh nhau với

một kẻ địch mạnh và hiếu chiến là đế quốc Mỹ.

Ba là, từ khi khởi sự đến khi thực hiện đầy đủ được các

nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam

và hoà bình thống nhất nước nhà, thì với lực lượng so sánh như

trên, ta phải chiến đấu một thời gian lâu dài và phải trải qua những

bước quá độ nhất định[32, tr.589].

Rõ ràng, nếu xét về lực lượng thì ta và địch có sự chênh lệch rất lớn.

Chúng ta tiến hành kháng chiến trong điều kiện khó khăn, kinh tế lạc hậu,

chậm phát triển, lại bị chia cắt. Năm 1965, giá trị tổng sản phẩm quốc dân của

miền Bắc chỉ đạt khoảng 1 tỷ đôla, trong khi ngân sách quốc phòng của Mỹ

lên tới 51,9 tỷ; So sánh lực lượng quân sự cũng có sự khác biệt lớn. Năm

1966, chủ lực địch gồm cả Mỹ và quân đội Sài Gòn là 582.000 còn ta là

151.000 (tỷ lệ so sánh là 3,8/1). Ta lại thua kém Mỹ về vật chất kỹ thuật, đặc

việt là vũ khí, khí tài. Mỹ được trang bị phương tiện chiến tranh hiện đại còn

ta ngược lại. Mỹ huy động vào cuộc chiến các tướng lĩnh dạn dày kinh

nghiệm. Mặt khác, Mỹ còn huy động một số lượng lớn các nhà máy, xí

nghiệp, các nhà khoa học, các trường học phục vụ cho công tác nghiên cứu và

chế tạo vũ khí. Đồng thời lôi kéo được nhiều nước tham gia cuộc chiến tranh

dưới nhiều hình thức.

Làm rõ điều này để thấy được, phương châm chỉ đạo giành thắng lợi

92

quyết định của Đảng là hoàn toàn chính xác trong điều kiện lấy nhỏ đánh lớn,

lấy yếu đánh mạnh, giành một bước thắng lợi căn bản, tạo tiền đề đi đến thắng

lợi hoàn toàn.

Dựa trên sự phân tích đó, Đảng đã nêu ra những nội dung cụ thể để

giành thắng lợi quyết định trong giai đoạn này là:

- Tiêu diệt và tiêu hao một bộ phận quan trọng quân đội Mỹ,

làm cho nó bị tổn thất nặng nề, không thể ngăn chặn được sự tan rã

của nguỵ quân, nguỵ quyền và bản thân chúng cũng bị tổn thất

nặng, làm cho chúng bị thất bại trong nhiệm vụ quân sự và chính trị

của chúng.

- Tiêu diệt và làm tam rã đại bộ phận quân nguỵ, tới mức nó

không còn là một lực lượng mà đế quốc Mỹ có thể dựa vào để tiếp

tục cuộc chiến tranh và khi chúng buộc phải chuyển sang giải pháp

chính trị thì thế lực của nguỵ quân, nguỵ quyền không đủ sức để

duy trì và giữ vững chế độ chính trị của chúng.

Do đó, mà đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, đạt được

những mục tiêu về độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập, tiến tới

thống nhất nước nhà [32, tr.638].

Như vậy, phương hướng cũng như những nội dung cụ thể của chủ

trương giành thắng lợi quyết định đã được Đảng phân tích một cách cặn kẽ,

qua đó thấy rằng yêu cầu tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch cả Mỹ lẫn

nguỵ là yêu cầu quan trọng nhất và là điều kiện chủ yếu để giành thắng lợi

quyết định trong thời gian tới.

Để giành thắng lợi quyết định theo những nội dung trên thì nhất quyết

chúng ta phải thực hiện theo phương châm kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh

93

quân sự với chính trị và ngoại giao.

Những phương hương chỉ đạo cách mạng mà Hội nghi Trung ương lần

thứ 12 đã nêu ra là cơ sở để quân và dân ta ở cả hai miền Nam, Bắc tiến lên

đánh thắng kẻ thù xâm lược.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 BCH Trung ương Đảng,

quân dân cả nước hăng hái thi đua, đẩy mạnh sản xuất, ra sức tăng cường lực

lượng, chuẩn bị những điều kiện tiến lên giành thắng lợi quyết định. Về mặt

quân sự, Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo

các chiến trường nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, kết hợp tác chiến

của ba thứ quân, triển khai lực lượng ở các vùng chiến lược làm thất bại các

cuộc hành quân tìm diệt của Mỹ, nguỵ.

Trong khi chúng ta gấp rút chuẩn bị mọi mặt theo phướng chỉ đạo của

Đảng, thì ở miền Nam, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ (MACV) cũng ráo riết chuẩn

bị mở cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966. Mỹ nhanh chóng đưa

thêm quân và triển khai ở các địa bàn chiến lược. Toàn bộ quân Mỹ, quân đội

Sài Gòn và một số nước đồng minh đã hợp thành một đội quân 72 vạn người.

Chúng triển khai kế hoạch đánh trên 5 hướng thuộc hai chiến trường trọng

điểm là miền Đông Nam bộ và Khu V:

- Hướng thứ nhất: Tây bắc Sài Gòn gồm Củ Chi, Bến Cát, chiến khu Đ,

chiến khu Dương Minh Châu

- Hướng thứ hai: Đông Sài Gòn, từ Đồng Nai đến Bà Rịa

- Hướng thứ ba: Nam Phú Yên

- Hướng thứ tư: Bắc Bình Định.

- Hướng thứ năm: Nam Quảng Ngãi.

Mục tiêu Mỹ tiến hành cuộc phản công này nhằm: tìm diệt một bộ phận

chủ lực, phá căn cứ kháng chiến, giải toả áp lực quanh các đô thị, khai thông

các tuyến giao thông chiến lược, giành quyền chủ động trên chiến trường,

94

ngăn chặn sự sụp đổ của nguỵ quân, nguỵ quyền, “bình định” nông thôn.

Ngoài 5 hướng trên, Mỹ còn mở nhiều cuộc hành quân càn quét trên

khắp miền Nam.

Để đối phó với âm mưu trên, Trung ương Cục miền Nam đã chỉ đạo:

Ra sức đẩy mạnh ba cao trào vũ trang, chính trị và binh vận,

xây dựng lực lượng ta lớn mạnh về mọi mặt phát động nhân dân du

kích chiến tranh rộng rãi và toàn diện, đồng thời khẩn trương tăng

cưỡng xây dựng chủ lực, ra sức tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực

địch (cả Mỹ và nguỵ), đánh bại các âm mưu quân sự, chính trị, kinh

tế, bình định nông thôn, kìm kẹp đô thị của địch… đè bẹp ý chí xâm

lược của đế quốc Mỹ, nắm vững và tiếp tục sáng tạo thời cơ, giành

thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn[33, tr.372].

Trên cơ sở phương hướng chỉ đạo của Trung ương Cục, các đơn vị chủ

lực quân giải phóng với lực lượng được bố trí một cách hợp lý trên các địa

bàn chiến lược đã liên tiếp mở các cuộc tiến công bẻ gãy nhiều cuộc hành

quân “tìm và diệt” của địch. ở vòng trong, phối hợp với các cuộc tiến công

của bộ đội chủ lực, các đơn vị đặc công, biệt động, lực lượng du kích “vành

đai diệt Mỹ” đã đánh vào các căn cứ xuất phát hành quân, cơ quan đầu não

chỉ huy trong thành phố, thị xã; đánh vào hệ thống kho tàng, sân bay, bến

cảng, các tuyến giao thông huyết mạch của địch… Với thế chủ động trên

chiến trường, bằng cách đánh táo bạo, dũng cảm, quân và dân miền Nam đã

đánh thiệt hại Sư đoàn 1, Sư đoàn 25 bộ binh, và Lữ đoàn dù 173 của Mỹ và

quân đội Sài Gòn ở Củ Chi, Bến Cát, Nhà Đỏ - Bông Trang (Thủ Dầu Một),

Võ Xu, Bình Tuy…

Kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, đánh

địch bằng ba mũi giáp công (quân sự, chính trị, binh vận), quân và dân ta đã

phá vỡ kế hoạch “bình định” 900 ấp, củng cố 1.900 ấp trong năm 1966 do

95

Tổng thống Mỹ Giônxơn va Nguyễn Văn Thiệu đặt ra. Đến tháng 6-1966,

quân và dân ta ở Nam bộ đã phá 2.668 ấp chiến lược; ở Khu VI ta phá 238 ấp

trong tổng số 360 ấp, giải phóng 203.345 dân; Khu V, Tây Nguyên, Trị -

Thiên mở rộng vùng giải phóng với hơn 2 triêu dân [113, tr.217].

Như vậy, đến giữa năm 1966, mục tiêu tìm diệt chủ lực quân giải

phóng và chỉ tiêu “bình đinh” các trọng điểm nông thôn miền Nam của Mỹ,

nguỵ đều không thực hiện được. Bộ chỉ huy quân sự Mỹ buộc phải kết thúc

cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất sớm hơn 2 tháng so với dự định.

Đối với Mỹ, đây là một thất bại có ý nghĩa chiến lược trong cuộc chiến

tranh xâm lược Việt Nam. Thất bại này làm cho phản đối chiến tranh, phản

đối chính quyền tăng nhanh ở Mỹ; làm cho nhiều quan chức cấp cao Mỹ hoài

nghi về chính sách và cách thức tiến hành chiến tranh của chính quyền

Giônxơn.

Còn đối với ta, thắng lợi này có tầm quan trọng rất lớn về chiến lược,

chiến thuật và chỉ đạo chiến tranh. Chúng ta đã thắng Mỹ bước đầu trong

chiến lược “chiến tranh cục bộ” về cả quân sự và chính trị, từ đó thấy được

điểm mạnh, điểm yếu của chúng để có kế sách đánh Mỹ, tiến lên giành thắng

lợi quyết định trong thời gian tới.

Để đẩy mạnh phong trao cách mạng ở Quảng Trị, Thừa Thiên tiến lên

ngang tâm đòi hỏi của tình hình, hỗ trợ tích cực cho phong trào ở Khu V,

Nam Bộ, tháng 4-1966, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định

thành lập Khu uỷ Trị - Thiên, đặt dưới sự lãnh đạo của BCH Trung ương và

Bộ Chính trị. Tiếp đó, tháng 6-1966, Quân uỷ Trung ương quyết định thành

lập Mặt trận đường 9 - Bắc Quảng Trị. Đây là những quyết định kịp thời,

đúng đắn, thể hiện quyết tâm tạo hướng tiến công mới của ta vào nơi yếu của

địch, buộc địch phải phân tán lực lượng và rơi vào thế bị động, để ta có thể

giáng trả những đòn quyết định vào kế hoạch phản công chiến lược lần thứ 2

96

của địch.

Sau thất bại của cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966, tư

tưởng đánh nhanh, giải quyết nhanh của Mỹ xem ra không còn cơ sở đứng

vững nữa, Mỹ đã không những không đạt được các mục tiêu đặt ra khi thực

hiện phản công chiến lược mà lại còn rơi vào thế bị động, lúng túng đối phó

với các đợt phản công của ta. Tuy biết khó lòng thắng nổi ta nhưng với bản

chất thực dân ngoan cố, ỷ lại vào sức mạnh nên vẫn quyết tâm mở cuộc phản

công chiến lược lần thứ hai. Mỹ đã huy động 98 vạn lính Mỹ, đồng minh và

quân Sài Gòn vào cuộc phản công này.

Mục tiêu của cuộc phản công lần này cũng nhằm tiêu diệt một bộ phận

quan trọng quân chủ lực của ta, phá các căn cứ kháng chiến, “bình định”

giành dân, mở rộng vùng kiểm soát… giành thắng lợi quân sự làm chuyển

biến cục diện chiến tranh có lợi cho Mỹ vào giữa hoặc cuối năm 1967, để

bước vào năm 1968, đó là năm bầu cử tổng thống.

Thực hiện chiến lược này, Mỹ đã mở 896 cuộc hành quân lớn nhỏ,

trong đó phải kể đến 3 cuộc hành quân lớn.

Ngày 14-9-1966, địch mở cuộc hành quân áttơnborơ (Atteleboro) với

30.000 quân Mỹ và quân Sài Gòn, đánh vào căn cứ Dương Minh Châu để tiêu

diệt chủ lực, phá căn cứ, kho tàng của ta. Với thế trận liên hoàn đã đựơc bố trí

sẵn trên những khu vực mà ta dự kiến địch sẽ tiến quân, các lực lượng chủ

lực, địa phương, dân quân, du kích, tự vệ cơ quan đã liên tục chặn đánh và

tiến công vào đội hình hành quân của Mỹ, gây cho chúng nhiều thiệt hại về

sinh lực và phương tiện chiến tranh. Sau 72 ngày đối phó với lực lượng cách

mạng, Mỹ và quân đội Sài Gòn đã không thực hiện được mục tiêu của cuộc

hành quân và ngày 21-11-1966, Oétmolen quyết định chấm dứt cuộc hành

quân, rút toàn bộ quân ra khỏi khu căn cứ Dương Minh Châu.

Tiếp sau đó, ngày 8-1-1967, bộ Chỉ huy quân sự Mỹ mở cuộc hành

97

quân Xiđa Phôn (Cidar Fall) - cuộc hành quân lớn cấp quân đoàn thứ 2 - vào

tam giác Bến Sức - Củ Chi - Bến Cát. Lực lượng cách mạng của ta ở đây, dựa

vào hệ thống công sự, địa đạo được cấu trúc vững chắc và hóc hiểm đã liên

tục tổ chức các trận tập kích vào đội hình quân Mỹ. Khi chúng lúng túng đối

phó với lực lượng vũ trang tại chỗ thì chủ lực Quân giải phóng miêng Nam

phối hợp với lực lượng quân khu Sài Gòn - Gia Định, đánh vào bên sườn, sau

lưng địch tiêu hao nhiều sinh lực và phương tiên chiến tranh. Sau gần 1 tháng

đánh phá ác liệt nhưng không đạt được kết quả, ngày 26-1-1967, Mỹ phải

chấm dứt cuộc hành quân, dồn 15.000 dân về thị xã Bình Dương.

Tuy bị thất bại liên tiếp trong 2 cuộc hành quân nhưng Bộ chỉ huy quân

sự Mỹ vẫn không chịu từ bỏ kế hoạch “tìm diệt”. Đầu tháng 2-1967, Mỹ dốc

sức thực hiện cuộc hành quân Gianxơn Xiti (Junction City) vào căn cứ Duơng

Minh Châu với 45.000 quân, 1.200 xe tăng và xe bọc thép, hơn 250 trọng

pháo, 17 phi đoàn máy bay. Nắm bắt được tình hình, Trung ương Cục và Bộ

Tư lệnh Miền chỉ đạo các đơn vị địa phương chuẩn bị đối phó với địch. Đây

là nơi tập trung của các cơ quan đầu não cách mạng và được chia thành 13

huyện, mỗi huyện lại chia thành từng xã, ấp có hệ thống công sự, trận địa,

hầm hào vững chắc và hỗ trợ cho nhau. Dựa vào thế trận được xây dựng từ

trước, lực lượng vũ trang trong các căn cứ bám trận địa, chủ động tiến công

đánh địch bằng nhiều hình thức gâu cho địch những tổn thất to lớn. Lực lượng

chủ lực Quân giải phóng miền Nam cơ động, đánh vào những chỗ sơ hở của

địch làm cho chúng thiệt hại nặng nề. Trước tình hình đó, ngày 15-5-1967,

Oétmolen lại một lần nữa tuyên bố kết thúc cuộc hành quân.

Đánh bại hai cuộc phản công chiến lược của Mỹ ở miên Nam là thắng

lợi to lớn và toàn diện. Với việc sử dụng 2 biện pháp “tìm diệt” và “bình

định”, đế quốc Mỹ muốn phóng 2 mũi tên hiểm, hòng đánh bại đối phương.

98

Song kế hoạch đó đã thất bại hoàn toàn. Thắng lợi của ta đã báo hiệu chiến

lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ sẽ bị thất bại hoàn toàn. Cách mạng miền

Nam tạo được thế chiến lược mới, tiếp tục giữ thế chủ động trên chiến trường.

Song song tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở MNVN, từ ngày

7-2-1965, Mỹ dùng không quân đánh phá nhiều nơi trên miền Bắc, mở đầu

cho một kiểu chiến tranh mới - chiến tranh phá hoại.

Từ ngày 7-2 đến 13-6-1965, Mỹ thực hiện kế hoạch Sấm rền, đánh phá

từ vĩ tuyến 17đến vĩ tuyến 20 tập trung vào các doanh trại quân đội, kho tàng,

trục giao thông, một số nhà máy, xí nghiệp từ Vinh đến Thanh Hoá.

Từ ngày 14-6-1965 đến 21-2-1967, phối hợp với mở hai cuộc phản

công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 ở miền Nam, Mỹ thực

hiện leo thang đánh phá toàn miền Bắc trừ Hà Nội - Hải Phòng.

Ngày 22-2-1967, Mỹ leo thang một bước mới, đánh phá ác liệt hơn; từ

thánh 5-1967 chúng đánh sau vào nội thành Hà Nội, Hải Phòng, dùng B52 và

pháo binh bắn phá phía Bắc biên giới tam thời. Tháng 7-1967 là thời kỳ Mỹ

leo thang cao nhất, trung bình một ngày có 90 - 100 lần xuất kích, ngày cao

lên đến 400 lần chiếc, B52 có ngày sử dụng lên 100 lần chiếc. Tính đến năm

1967, Mỹ đã trút xuống miền Bắc 1.630.000 tấn bom, nhiêu hơn khối lượng

bom đạn Mỹ ném xuống châu Âu trong chiến tranh thế giới thứ 2, gấp hai lần

số bom ném xuống Triều Tiên, gấp 3 lần số bom ném xuống chiến trường

Thái Bình Dương trong chiến tranh thế giới thứ hai.

Trước những khó khăn đó, miền Bắc vừa chống chiến tranh phá hoại đế

quốc Mỹ, vừa ra sức xây dựng CNXH và chi viện cho miền Nam. Dưới sự

lãnh đạo của Đảng, quân dân miền Bắc chiến đấu dũng cảm đánh trả các bước

leo thang chiến tranh của không quân và hải quân địch. Sau 2 năm, từ 1965-

99

1967, miền Bắc đã bắn rơi 2.674 máy bay và bắn chìm 106 tàu chiến Mỹ.

Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc nhưng đã không thực hiện được mục

tiêu ngăn chặn các hoạt động chi viện cho miền Nam và “ý chí của Hà Nội

tiếp tục cuộc chiến đấu vẫn rất vững chắc”[79, tr.244]. Sự thất bại của Mỹ ở

miền Bắc và MNVN đã đẩy Mỹ đứng trước những khó khăn, phức tạp, rơi

vào tình trạng bế tắc không lối thoát.

Đi đôi với hoạt động quân sự, thời gian này, để tranh thủ sự đồng tình

ủng hộ của các nước trên thế giới cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt

Nam, tạo những điều kiện mới thúc đẩy cách mạng phát triển, kéo địch xuống

thang chiến tranh, nhanh chóng giành được thắng lợi quyết định, Đảng chỉ

đạo đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự,

đấu tranh chính trị với đấu tranh ngoại giao.

Đầu năm 1967, Hội nghị BCH Trung ương lần thứ 13 quyết định mở

mặt trận đấu tranh ngoại giao. Nghị quyết khẳng định: “đấu tranh quân sự và

đấu tranh chính trị là nhân tố chủ yếu quyết định trên chiến trường, làm cơ sở

cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao… trong tình hình quốc tế hiện nay, với

tính chất cuộc đấu tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò

quan trọng, tích cực và chủ động”[78, tr.38].

Chống lại những luận điệu hoà bình bịp bợm mà Mỹ rêu rao, ngày 28-

1-1967, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Duy Trinh đã

tuyên bố:

Nếu quả thật Mỹ muốn nói chuyện thì trước hết, Mỹ phải

chấm dứt việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống

nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chỉ sau khi Mỹ chấm dứt

không điều kiện ném bom và mọi hành động chiến tranh khác

chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì Việt Nam Dân chủ

100

Cộng hoà và Mỹ mới có thế nói chuyện được[10, tr.34-35].

Lời tuyên bố này đã nhận được sự hoan nghênh của rất nhiều người

tiến bộ trên thế giới, thể hiện được thiện chí hoà bình của Việt Nam. Nó cũng

làm cho Mỹ hết sức lúng túng, bị động.

Việc mở mặt trận ngoại giao vào thời điểm này là rất hợp lý, giúp ta có

thêm sức mạnh từ nguồn cổ vũ động viên của anh em, bè bạn các nước trên

thế giới, giúp ta giữ thế chủ động trên mặt trận ngoại giao, tiến lên giành

những thắng lợi mới to lớn hơn.

Sau hai mùa khô, Mỹ tuy bi thất bại và cũng đã nhận thấy khó có khả

năng giành thắng lợi một cách nhanh chóng nhưng chúng vẫn không chịu

xuống thang chiến tranh mà tiếp tục theo đuổi ý đồ mở cuộc phản công chiến

lược thứ ba vào mùa khô 1967-1968, tạo ra thắng lợi về quân sự để giải quyết

vấn đề ở MNVN theo ý chủ quan của mình.

Đối với ta, những thắng lợi đã đạt được trên các mặt quân sự, chính trị,

ngoại giao đã làm cho sức mạnh của cách mạng Việt Nam tăng lên đáng kể.

Nhưng dù có “đánh thắng hai cuộc phản công chiến lược 1965-1966, 1966-

1967 và làm thất bại chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân trên

miền Bắc của Mỹ nhưng mục tiêu giành thắng lợi quyết định vẫn chưa thực

hiện được. Ta chưa có những đợt hoạt động, những cuộc tiến công quy mô

chiến lược đủ sức làm chuyển biến cục diện chiến tranh”[101, tr.55]. Ta chưa

đủ sức để đánh bật được quân viễn chinh Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam.

Điều cần thiết đối với cách mạng miền Nam lúc này là phải tổ chức được một

đòn quyết định, đánh thẳng vào ý chí xâm lược của Mỹ, buộc chúng phải rút

quân về nước.

Sau khi nghiên cứu kỹ tình hình và yêu cầu cấp bách của cách mạng

miền Nam giai đoạn này, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ đạo sát sao

việc soạn thảo, bổ sung, từng bước hoàn chỉnh bản Dự thảo kế hoạch chiến

101

lược Đông Xuân 1967-1968 nhằm thực hiện chủ trương tận dụng thời cơ,

giành thắng lợi quyết định trong năm 1968, theo phương huớng đánh lớn.

Trong quá trình bàn bạc, Quân uỷ Trung ương nhận thấy: “Những thắng lợi

của ta trong đông xuân 1966-1967 đã tạo ra một tình thế có lợi cho ta, bất lợi

cho địch. Và nếu vươn lên thực hiện được một đòn quyết chiến chiến lược

thật hiểm và mạnh thì buộc đế quốc Mỹ phải thua theo ý định chiến lược của

ta”[22, tr.188-189]. Đảng cũng đồng ý với nhận định đó và cho rằng đây là

thời cơ lớn để đẩy mạnh cuộc chiến tranh phát triển lên một bước cao hơn

buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược.

Qua nhiều lần bàn bạc, nghiên cứu, trao đổi, lãnh đạo Đảng và Chủ tịch

Hồ Chí Minh đã quyết định giáng một đòn bất ngờ thật mạnh vào ý chí xâm

lược của Mỹ, bằng cách chọn hướng chiến lược hiểm và dùng tổng công kích,

tổng khởi nghĩa buộc chúng phải chấm dứt chiến tranh. Đây là “một cách

đánh mà kẻ địch không hề nghĩ tới và cũng không thế nghĩ tới”[70, tr.39-40].

Chủ trương này được thể hiện rõ trong Nghị quyết hội nghị lần thứ 14

BCH Trung ương Đảng (1-1968) về thực hiện tổng công kích, tổng khởi

nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Tại Hội

nghị này, sau khi phân tích tình hình, BCH Trung ương nhận thấy: “Đế quốc

Mỹ đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược. So với mục tiêu

chính trị và quân sự có hạn của chúng ở miền Nam, thì những cố gắng chiến

tranh của Mỹ (cùng với những thiệt hại nặng nề của chúng) ở Việt Nam đã tới

đỉnh cao”[35, tr.47] và vì vậy, “xu thế của tình hình trong cả năm 1968 là địch

sẽ ngày càng chuyển vào phòng ngự một cách bị động hơn trước”[35, tr.48].

Còn về phía Việt Nam, “chúng ta đã thắng địch cả về chiến lược lẫn

chiến thuật và thế lực của ta phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết”, tuy vẫn còn

một số nhược điểm nhưng tình hình hiện nay “cho phép ta chuyển cuộc chiến

tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ

102

tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định”[35, tr.50].

Nhiệm vụ cấp bách hiện nay của ta là: “động viên những nỗ lực lớn

nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh

cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công

kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định”[35, tr.50].

BCH Trung ương cũng đã chỉ ra phương hướng giành thắng lợi quyết

định cho cách mạng miên Nam lúc này là:

- Tiêu diệt và làm tan rã tuyệt đại bộ phận quân nguỵ, đánh đổ nguỵ

quyền các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân.

- Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh

của Mỹ, làm cho quân Mỹ không thực hiện được các nhiệm cụ chính trị và

quân sự của chúng ở Việt Nam.

- Trên cơ sở đó, đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu

thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền

Bắc[35,tr.50].

Nghị quyết cũng chỉ ra sau khi thực hiện được các mục tiêu trên, trước

mắt sẽ xây dựng ở miền Nam một chính quyền độc lập dân chủ, hoà bình

trung lập sau đó tiến lên thống nhất nước nhà. “Thực chất đây là một bước

quá độ để đưa cách mạng miền Nam lên toàn thắng”[7, tr.270].

Trung ương Đảng đã dự kiến các khả năng có thể xảy ra khi thực hiện

TCK, TKN trên toàn miền Nam:

Thứ nhất: Ta giành được thắng lợi lớn ở các chiến trường quan trọng,

nhưng cuộc công kích và khởi nghĩa của ta cuối cung thành công ở các thành

thị lớn và ta lần lượt đập tan được những cuộc phản kích của địch, làm cho

địch thất bại đến mức không thể gượng lại được nữa, đè bẹp ý chí xâm lược

của địch, bắt chúng phải chịu thua, phải thương luợng, đi dến kết thúc chiến

103

tranh theo những mục tiêu và yêu cầu của ta.

Thứ hai: Tuy ta giành được thắng lợi quan trọng ở nhiều nơi, nhưng

địch cố gắng tập trung và tăng viện thêm lực lượng từ ngoài vào, giành lại và

giữ vững được những vị trí quan trọng, ổn định được các thành thị lớn, nhất là

“đo thành” và dựa vào các căn cứ lớn để tiếp tục với ta.

Thứ ba: Mỹ động viên và tăng thêm nhiều lực lượng, mở rộng chiến

tranh cục bộ ra miền Bắc Việt Nam, sang Campuchia và ở Lào, hòng xoay

chuyển cục diện chiến tranh và gỡ thê thua của chúng[35, tr.55-56].

BCH Trung ương nhấn mạnh: “chúng ta phải nỗ lực phi thường, đem

hết tinh thần và lực lượng, quyết chiến đấu, giành cho được thắng lợi cao nhất

theo khả năng thứ nhất, vì hơn lúc nào hết, chúng ta đang đứng trước thời cơ

thuận lợi để giành thắng lợi quyết định trong cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại

của chúng ta theo mục tiêu chiến lược mà chúng ta đã định từ

trước”[35,tr.56]. Nhưng đồng thời cũng phải sẵn sàng đối phó nếu khả năng

thứ 2, thứ 3 xảy ra.

Có thể thấy, Nghị quyết này đã thể hiện quyết tâm rất cao của Đảng

trong việc chỉ đạo giành thắng lợi quyết định cho cách mạng miền Nam, tạo

ra một bước ngoặt quan trọng để hoàn thành sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

Quyết tâm này được thể hiện trong phương hướng chỉ đạo tiến công

của Đảng: căng địch ra khắp các chiến trường quan trọng, sử dụng những quả

đấm mạnh đánh quỵ các binh đoàn chủ lực của địch, phản công địch, bẻ gẫy

các cuộc phản kích của chúng; mặt khắc, phải tập trung vào các thành thị,

đánh sập cơ quan đầu não của Mỹ, nguỵ, phá các hậu cứ, các cơ sở hậu cần,

các trung tâm thông tin liên lạc… Đây là đòn ác liệt nhất đánh vào óc, tim,

mạch máu của địch, đè bẹp ý chí xâm lược của chúng.

Dựa trên chủ trương chiến lược của Đảng, Quân uỷ Trung ương và Bộ

Tổng tư lệnh gấp rút hoàn chỉnh phương án TCK, TKN. Theo phương án này,

104

ta sẽ tiến hành song song hai đòn tiến công chiến lược, đó là đòn tiến công

của bộ đội chủ lực ở hướng phối hợp chiến lược đặc biệt quan trọng là đường

9 Khe Sanh, nhằm thu hút, giam chân lực lượng chiến lược của địch và một

đòn tiến công chiến lược đánh vào thị xã, thành phố quy mô trên toàn miền

Nam, kết hợp với nổi dậy của quần chúng nông thôn và đô thị, mở đầu cho

TCK, TKN, lấy chiến trường chính là Sài Gòn, Gia Định, Đà Nẵng, Huế…

Thời gian thực hiện TCK, TKN là vào dịp Tết Nguyên đán.

Đây là một chủ trương hết sức táo bạo của Đảng, chủ động tiến công để

tạo sự bất ngờ cho địch, khiến chúng không kịp xoay sở và phải chấp nhận rút

quân, giành thắng lợi quyết định cho cách mạng miền Nam.

Công tác chuẩn bị cho TCK, TKN được diễn ra khẩn trương ở cả hai

miền Nam, Bắc. Quân dân miền Bắc tích cực tiến hành cuộc xây dựng CNXH

và ra sức chi viện cho miền Nam thực hiện cuộc tổng tiến công và nổi dậy

1968. Năm 1967, miền Bắc tăng cường cho miền Nam số lượng quân chiến

đấu tăng 1,5 lần so với năm 1966; chỉ trong vòng 6 tháng cuối năm 1967,

miền Bắc đã vận chuyển vào miền Nam khối lượng vật chất gấp 6 lần năm

1965. Các chiến trường, các địa phương miền Nam cũng khẩn trương chuẩn

bị cho khởi nghĩa như: tổ chức lại chiến trường, xây dựng phương án tác

chiến, triển khai công tác đảm bảo hậu cần, tăng cường lực lượng, bố trí thế

trận…

Thực hiện chủ trương TCK, TKN giành thắng lợi quyết định cho miền

Nam của Đảng, trung tuần tháng 1-1968, liên quân Lào - Việt mở chiến dịch

Nậm Bạc và lực lượng vũ trang bất ngờ tấn công mãnh liệt vào tập đoàn cứ

điểm Khe Sanh, đánh lạc hướng phán đoán của kẻ thù, coi Khe Sanh là hướng

tiến công chính của ta. Sau này, M. Máclia đã nhận thấy: “các trận đánh trong

tết Mậu Thân làm người ta có cảm tưởng rằng Khe Sanh có vẻ như là cuộc

bao vây để bỏ đấy mà thôi. Nếu vậy thì Bắc Việt Nam là bậc thầy trong việc

105

nghi binh”[69, tr.149].

Trong khi Mỹ dồn tâm trí và lực lượng ra hướng Đường 9 - Khe Sanh

thì đêm ngày 29 rạng ngày 30 và đêm 30 rạng ngày 31-1-1968, cuộc Tổng

tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân nổ ra khắp các chiến trường với hướng

chính là các đô thị, trung tâm quân sự, chính trị của Mỹ, nguỵ. Nhờ giữ được

thế bất ngờ, ta đánh mạnh vào bộ máy chiến tranh của địch, bao gồm nhiều cơ

quan chỉ huy ở 64 thành phố, thị xã, huyện lỵ, khu hậu cần dự trữ chiến tranh.

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy này đã thu hút hàng triệu quần chúng nổi dậy

diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ ở những mức độ khác nhau. Tại thành

phố Sài Gòn - Chợ Lớn, trung tâm chính trị, kinh tế của địch, ta đánh vào sứ

quán Mỹ, dinh Tổng thống nguỵ, sân bay Tân Sơn Nhất làm chủ dài ngày ở

nhiều khu phố, tại nhiều đô thị, lực lượng vũ trang ta đã chiếm giữ nhiều nơi,

trong nhiều ngày, nhiều giờ.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy do ta tiến công quân sự chưa đủ

mạnh, chưa đủ sức ngăn chặn, kiềm chế địch nên sau khi bị choáng váng, bất

ngờ, Mỹ và quân đội Sài Gòn đã nhanh chóng khôi phục lại lực lượng phản

kích quyết liệt, đẩy lùi các cuộc tiến công của ta, làm cho ta bị tổn thất nặng

nề.

Tuy vậy, qua gần 2 tháng chiến đấu, quân và dân miền Nam đã đạt

được một số kết quả nhất định: loại khỏi vòng chiến đấu hơn 150.000 tên

địch, trong đó có 45.000 tên Mỹ và chư hầu, bắn rơi và phá huỷ gần 2.200

máy bay, đánh tan xác 3.500 xe quân sự, phá huỷ hơn 300 khẩu đại bác, đánh

chìn và đánh hỏng 233 tàu xuồng chiến đấu, san bằng 823 đồn bốt [79,

tr.164]. Những kết quả này đã làm cho chính giới Mỹ choáng váng. “Lần đầu

tiên trong lịch sử hơn 200 của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, quân đội Mỹ bị đánh

bại trên một chiến trường nhỏ và nghèo ở cách xa nước Mỹ hàng vạn

106

dặm”[83, tr.165].

Đánh giá về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, đồng chí

Lê Duẩn đã khẳng định: “Ta đã thắng rất to, địch đã thua rất nặng. Rõ ràng

trận này đã mở ra một bước ngoặt chiến lược đánh dấu thời kỳ Mỹ phải xuống

thang chiến tranh do thất bại trong “chiến tranh cục bộ”[19, tr.214].

Chính Tổng thống Giônxơn cũng thừa nhận: “Cố gắng của đối phương

đã gây ra một hậu quả tác động xấu đến một số người trong và ngoài chính

phủ”, “nhân dân Mỹ và một số nhân vật trong chính quyền nghĩ rằng chúng ta

đã thất bại”. Cuộc Tổng tiến công này đã tạo ra “một cảm giác thất vọng, u

sầu bao trùm chính giới Oasinhtơn - Chính phủ bị xúc động”[1, tr.214].

Những thất bại lớn về quân sự, chính trị của Mỹ ở miền Nam đã buộc

Mỹ phải xuống thang chiến tranh. Đêm ngày 31-3-1968, Tổng thống Giônxơn

tuyên bố:

- Mỹ đơn phương chấm dứt ném bom VNDCCH từ vĩ tuyến 20 trở ra,

cử đại biểu đến hội nghị đàm phán với VNDCCH.

- Chuyển sang “phi Mỹ hoá” chiến tranh, từng bước đưa quân Sài Gòn

thay quân Mỹ trên toàn chiến trường, “việc trang bị lại cho quân đội NamViệt

Nam sẽ được tăng nhanh để tạo cho chúng khả năng đảm nhận trách nhiệm

lớn hơn trong việc phòng thủ Nam Việt Nam”[86, tr.260].

- Không ra tranh cử Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ tiếp theo.

Đây là bước xuống thang quan trọng của Mỹ nó tạo ra trên chiến

trường một cục diện chiến tranh mới, một phương thức chiến tranh mới “vừa

đánh vừa đàm”.

Ngày 24-4-1968, BCT đã nhận định: Tổng tiến công và nổi dậy, ta

giành được thắng lợi rất to lớn và toàn diện, đã tạo nên bước ngoặt mới làm

cơ sở cho việc tiến lên giành thắng lợi quyết định, tạo cục diện chiến tranh có

lợi cho ta, bất lợi cho địch. Tuy bi thất bại năng nề nhưng Mỹ vẫn chưa chịu

107

từ bỏ âm mưu thống trị Việt Nam. Nhằm mục đích “đẩy địch vào thế thất bại

liên tiếp ngày càng suy yếu, tan rã, không sao gượng dậy được”[104, tr.418],

giành ưu thế trên chiến trường để tạo áp lực trên bàn Hội nghị, Bộ Chính trị

đã quyết định mở tiếp các cuộc tiến công và nổi dậy vào tháng 5 và tháng 8.

Nhưng do tiến công và nổi dậy liên tục kéo dài, quy mô rộng lớn trong điều

kiện kẻ địch còn hơn 1 triệu tên với tiềm lực chiến tranh lớn nên lực lượng

của ta bị tổn thất nặng nề: 111.306 cán bộ, chiến sĩ và quần chúng cách mạng

hy sinh và bị thương. Mặt khác, trong khi dồn sức tấn công vào đo thị ta đã bỏ

hở vùng nông thôn, địch đã tập trung lực lượng đánh bật quân chủ lực ta ra

xa, tiến hành bình định những vùng vừa bị mất làm cho thế trận chiến tranh

nhân dân trên 3 vùng chiến lược bị sưy giảm, tổn thất, cách mạng miền Nam

đứng trước khó khăn và thử thách nặng nề.

Song song với hoạt động chiến đấu trên các chiến trường, ta đẩy mạnh

triển khai hoạt động đấu tranh ngoại giao trên thế trận “vừa đánh vừa đàm”,

tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy cách mạng miền Nam giành thắng lợi quyết

định tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Ngày 13-5-1968, tại Pari, phiên họp

đầu tiên giữa đoàn đại biểu chính phủ VNDCCH và đoàn đại biểu Mỹ được

tiến hành, đánh dấu sự mở đầu của cuộc đấu tranh ngaọi giao trực tiếp giữa ta

và Mỹ. Qua 6 tháng đấu tranh kiên quyết, thực hiện phương châm chiến lược

giành thắng lợi quyết định, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn, ngoại giao của

ta đã đạt được hai yêu cầu:

Thứ nhất: buộc Mỹ phải chấm dứt ném bom hoàn toàn và không điều

kiện VNDCCH kể từ ngày 1-11-1968.

Thứ hai: Buộc Mỹ phải ngồi vào đàm phán với Mặt trận DTGPMNVN

trong hội nghị 4 bên (VNDCCH, Mặt trận DTGPMNVN, Mỹ và chính quyền

108

Sài Gòn).

Đây được coi là một thành công lớn của mặt trận ngoại giao góp phần

tạo sức mạnh hỗ trợ cho đấu tranh quân sự và chính trị trong quá trình đấu

tranh giành thắng lợi quyết định cho cách mạng miền Nam.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân 1968, đã đánh dấu sự

phá sản hoàn toàn chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ, tạo nên một bước

ngoặt quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân

dân ta, khởi đầu cho quá trình đi xuống trong chiến tranh xâm lược Việt Nam

của Mỹ. Tuy nhiên, dù Đảng đã chủ động chỉ đạo mở một đòn tiến công chiến

lược đánh thẳng vào ý chí xâm lược của kẻ thù, tạo thời cơ giành thắng lợi

quyết định, buộc Mỹ phải rút quân khỏi miền Nam nhưng cuối cùng mục tiêu

đó đã không thực hiện được. Điều này bắt nguồn từ một số sai lầm, thiếu sót

trong quá trình chỉ đạo cách mạng của Đảng. Ta đã “chủ quan trong đánh giá

tình hình, nhất là đánh giá các lực lượng chính trị của quần chúng ở các đô thị

nên đề ra TCK, TKN”[71, tr23] chưa phù hợp với tình hình thực tế, chưa

đánh giá hết khả năng phản ứng của địch, “chủ trương tiếp tục các đợt tiến

công vào các đô thi khi không còn điều kiện là sai lâm về chỉ đạo chiến lược

để địch gây cho ta nhiều khó khăn tổn thất”[57].

Tuy không đạt được mục tiêu như ban đầu đề ra nhưng tổng tiến công

và nổi dây mùa xuân 1968 vẫn giữ một vị trí hết sức to lớn và oanh liệt trong

cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Trên thực tế, cuộc

tổng tiến công và nổi dậy đã tạo ra những cơ sở quan trọng cho quá trình đấu

tranh giành thắng lợi quyết định sau này.

2.3. chỉ đạo tiến lên giành thắng lợi quyết định trong những năm (1969 - 1973)

109

2.3.1. Chủ định mới của Hoa Kỳ trong “Việt Nam hoá chiến tranh”

Những tổn thất to lớn của Mỹ trong Tổng tiến công và nổi dậy Mùa

xuân 1868 đã làm cho chiến lược “chiến tranh cục bộ” mà Mỹ dầy công vun

đắp thất bại hoàn toàn. Thất bại này đã tác động sâu sắc đến tinh hình kinh tế,

chính trị của nước Mỹ. Chi phí chiến tranh ngày càng tăng, ngân sách Mỹ

thâm hụt nghiêm trọng (tính trong 2 năm 1968-1969 thâm hụt 3.230 triệu

đôla), lạm phát tăng nhanh, giá sinh hoạt leo thang, số người thất nghiệp ngày

càng tăng. Điều này đã đẩy Mỹ vào tình trạng khó khăn đồng thời lại bị các

nước tư bản khác như: Nhật Bản, Tây Đức, Pháp, ý vượt lên về kinh tế. Liên

Xô tạo được thế cân bằng về vũ khí chiến lược với Mỹ, các phong trào giải

phóng dân tộc diễn ra rầm rộ ở các nơi.

Ngày 20-1-1969, Níchxơn lên làm Tổng thồng Mỹ và phải cay đắng

thừa nhận rằng: “Nước Mỹ đang có khủng hoảng về tinh thần, mắc kẹt trong

chiến tranh, cấu xé và chia rẽ nội bộ. Cuộc chiến tranh Việt Nam đã gây ra

căng thẳng gay gắt với nước Mỹ không riêng về mặt kinh tế, quân sự mà cả

xã hội cũng như chính trị. Sự bất đồng cay đắng đã xé rách cơ cấu đời sống

tinh thần nước Mỹ và, bất kể kết quả chiến tranh như thế nào, vết rách vẫn

còn lâu mới lành”[8, tr.187-188].

Nhận thấy chiến lược quân sự toàn cầu “phản ứng linh hoạt” thời

Kennơdi, Giônxơn đã không đáp ứng được yêu cầu hiện nay, tỏ ra lạc hậu

trước cuộc tiến công của ba dòng thác cách mạng, Níchxơn đã chuyển sang

thực hiện chiến lược quân sự toàn cầu mang tên “răn đe thực tế” và đề ra học

thuyết Níchxơn. Học thuyết này dựa trên ba nguyên tắc: “tập thể tham gia”,

“sức mạnh Mỹ” và “sẵn sang thương lượng”.

áp dụng học thuyết Níchxơn vào Việt Nam, Mỹ đề ra chiến lược “Việt

Nam hoá chiến tranh”. Đây là một kế hoạch hoàn chỉnh cả về quân sự, chính

110

trị, kinh tế, ngoại giao nhằm tiếp tục thực hiện âm mưu cơ bản của Mỹ là

chiếm giữ lâu dài MNVN nhưng quân Mỹ lùi về phía sau để rút dần về nước,

giảm bớt sự dính líu của quân Mỹ ở miền Nam.

Thực chất của chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” là dùng người

Việt đánh người Việt với bom đạn, đô la dưới sự chỉ đạo của Mỹ. Chúng đã

dùng “sức mạnh tối đa về quân sự kết hợp với những thủ đoạn chính trị và

ngoại giao rất xảo quyệt hòng giành thế mạnh, cô lập và bóp nghẹt cuộc

kháng chiến của nhân dân ta”[42, tr.481].

“Việt Nam hóa chiến tranh” là một chương trình nhằm tăng cường khả

năng tự vệ của chính quyền Sài Gòn khi Mỹ rút dần quân quân khỏi Việt

Nam. Chiến lược này dự kiến được tiến hành theo ba giai đoạn:

Giai đoạn 1: Từng bước chuyển giao nhiệm vụ chiến đấu trên bộ cho

quân nguỵ, rút dần quân chiến đấu trên bộ của Mỹ ra khỏi Việt Nam.

Giai đoạn 2: Chuyển giao nhiệm vụ trên không cho quân đội Sài Gòn,

làm cho lực lượng này đủ sức đương đầu với ta, giữ vững được Việt Nam và

Đông Dương.

Giai đoạn 3: Hoàn tất những mục tiêu của “Việt Nam hoá chiến tranh”

làm cho ta suy yếu và chiến tranh sẽ tàn lui.

Mỹ cho rằng trong ba giai đoạn trên, thì quan trọng nhất là giai đoạn 1

(dự kiến thực hiện từ năm 1969 - 1972), được chia làm ba bước để thực hiện:

Bước 1: Từ năm 1969 đến giữa năm 1970, bình định một số vùng đông

dân quan trọng, xoá bỏ các cơ sở cách mạng ở vùng ta kiểm soát; khống chế

và đẩy lùi bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương của ta làm ta không hoạt động

được ở quy mô đại đội trở lên; rút một số đơn vị Mỹ ra khỏi Việt Nam.

Bước 2: Từ giữa năm 1970 đến giữa năm 1971, bình định được tất cả

các vùng đông dân quan trọng, hoàn thành kế hoạch hiện đại hoá quân nguỵ,

111

rút đại bộ phận quân Mỹ về nước.

Bước 3: Từ giữa năm 1971 đến giữa năm 1972, cơ bản bình định xong

cả miền Nam, quân nguỵ đủ sức đương đầu với khối chủ lực MBVN, rút hết

quân chiến đấu trên bộ của Mỹ về nước.

Để thực hiện được kế hoạch chiến lược này, Mỹ tập trung vào một số

biên pháp như: Phát triển và hiện đại hoá quân nguỵ để chúng đủ sức đối phó

với ta; Xây dựng chính quyền Sài Gòn ngày một mạnh hơn, giữ vững an ninh

chính trị để phát triển kinh tế; Bình định cho được nông thôn vì đây là biên

pháp chủ yếu để thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”; Bao vây,

đánh phá đường vận chuyển chiến lược để cắt đứt sự chi viện của miền bắc

cho miền Nam; Xúc tiến thủ đoạn ngoại giao xảo quyệt, lợi dụng mâu thuẫn

giữa các nước XHCN để hạn chế sự chiviện của họ cho ta buộc ta phải chấp

nhận kết thúc chiến tranh theo ý muốn của Mỹ.

Như vậy, với việc triển khai thực hiện chiến lược Việt Nam hoá chiến

tranh ta thấy rõ được bản chất ngoan cố, hiếu chiến và thâm độc của đế quốc

Mỹ. Không phải là chúng chịu từ bỏ Việt Nam, chịu thua để rút ra khỏi chiến

tranh trong danh dự mà là tiếp tục chiến tranh, giành giật với ta kết thúc chiến

tranh trên thế mạnh.

Thực hiện kế hoạch chiến lược đó, Mỹ gấp rút củng cố và phát triển

quân nguỵ, chú trọng phát triển cả ba quân chủng: hải quân, lục quân và

không quân. Về lục quân: bổ sung thêm quân số các sư đoàn chủ lực bộ binh,

hoàn thiện biên chế, hoả lực yểm trợ cho lục quân cũng được tăng nhanh: từ

1968-1970, xây dựng 20 tiểu đoàn pháo từ 105 đến 175mm; trang bị thêm 600

khẩu đại bác, có 1.300 khẩu pháo và 10.000 súng cối các loại; xe tăng, thiết

giáp là 1.037 (1968) đến 1.879 (1972); khối bộ binh cơ động tăng từ 50 tiểu

đoàn (1968) lên 90 tiểu đoàn (1970). Với sự phát triển của lục quân như vậy,

theo Mỹ, quân nguỵ có thể đảm nhận hầu hết các nhiệm vụ chiến đấu trên bộ.

112

Về hải quân: cuối 1971 đầu năm 1972 lực lượng nay đã lên đến gần 50.000

quân với 1.600 tàu các loại hoạt động trên biển và trên sông. Về không quân:

quân số tăng nhanh từ 35.000 người (1968) lên hơn 50.000 người (1971).

Để củng cố chính quyền Sài Gòn, Mỹ đã tăng cường viện trợ kinh tế,

quân sự lên gấp bội. Năm 1969 lên 1,7 tỷ, năm 1970 gần 2 tỷ, năm 1971 là

2,5 tỷ, năm 1972 là 3 tỷ đô la[84, tr.51].

Mỹ tiến hành bình định miền Nam bởi chúng coi đó là một biện pháp

chiến lược quan trọng để thực hiện thành công “Việt Nam hoá chiến tranh”.

Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã chia bình định thành nhiều giai đoạn để thực

hiện: Bình định cấp tốc (11-1968 đến 6-1969); Bình định phát triển nông thôn

(7-1969 đến 6-1970); Bình định đặc biệt (7-1970 đến 2-1971)…

Từ năm 1969, các cuộc hành quân càn quét của Mỹ, nguỵ tăng lên một

cách đột ngột. Năm 1968 có 2.192 cuộc hành quân càn quét, năm 1969 tăng

lên 4.344 cuộc, 10 tháng đầu năm 1970 con số đó đã lên tới 6.745 cuộc. Theo

đánh giá của chính quyền Sài Gòn, từ năm 1969 đến 1970 là thời kỳ bình định

đạt kết quả tốt nhất. Chỉ tính riêng năm 1969, địch đã kiểm soát thêm đuợc

2.622 ấp (tăng 34,5%) và 2.932.700 dân (tăng 16,6%) so với 1968 [104,tr258-

259].

Một biện pháp cũng quan trọng không kém mà Mỹ thực hiện trong

“Việt Nam hoá chiến tranh” là mở các cuộc phản kích đánh phá vùng giải

phóng, đánh phá căn cứ địa cách mạng… làm suy yếu lực lượng cách mạng.

Trong 3 năm (từ 1969-1971) Mỹ, nguỵ đã mở tất cả 27.968 cuộc hành quân

phản kích từ cấp tiểu đoàn trở lên, trong đó có 724 cuộc quy mô cấp sư đoàn

trở lên, 4.208 cuộc cấp trung đoàn với hàng chục ngàn lần máy bay chiến

thuật và B52 rải khoảng 623.113 tấn bom [113, tr.260].

Trước những hành động tăng cường mở rộng chiến tranh đó, quân và

113

dân ta đã phải chiến đấu vô cùng gian khổ và ác liệt. Ta và địch giành nhau

từng tấc đất, từng người dân một. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng khó khăn.

Đây là một trong những thời kỳ khó khăn tưởng chứng không thể vượt qua.

Do ta bị tổn thất trong Tết Mậu Thân và các cuộc tổng tiến công đợt 2,

đợt 3 và chưa đánh giá hết mức độ tàn bạo của chiến lược “Việt Nam hoá

chiến tranh” nên cuộc đấu tranh của chúng ta đạt kết quả không cao, nhiều

khu căn cứ bị đánh tan tác, vùng giải phóng bị thu hẹp, lực lượng cúng bị tổn

thất lớn.

Cách mạng miền Nam đang đứng trước những thử thách nghiệm trọng.

Lực lượng so sánh trên chiến trường thay đổi, địch chiếm ưu thế hơn ta, từ thế

bị động địch đã giành được thế chủ động. Một yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp

cách mạng nước ta hiện nay là Đảng phải có sự phân tích đánh giá tình hình

một cách khoa học, chính xác, toàn diện để kịp thời xác định hướng đi đúng

đắn đưa cách mạng vượt qua giai đoạn khó khăn, tiến lên một bước mới.

2.3.2. Đảng chỉ đạo đấu tranh chống chiến lược “Việt Nam hoá

chiến tranh”, giành thắng lợi quyết định cho cách mạng miền Nam (1969

-1973)

2.3.2.1. Phương hướng và nhiệm cụ cụ thể của cách mạng Việt Nam

(1969-1973)

Những khó khăn, tổn thất của ta từ sau Tết Mậu Thân năm 1968 đã đặt

ra cho Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh một nhiệm vụ quan trọng là phải nhận

thức lại tình hình và đưa ra được chủ trương chỉ đạo hợp lý và kịp thời.

Đáp ứng yêu cầu trên, ngày 1-1-1969, trong Thư chúc mừng năm mới,

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát nhiệm vụ và phương hướng tiến hành đấu

tranh của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là:

Vì độc lập, vì tự do

114

Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào [54, tr.426]

Đến tháng 7-1969, Người đã khẳng định lại chủ trương đó trong Lời

kêu gọi nhân ngày 20-7:

Đế quốc Mỹ đã thất bại rõ ràng nhưng chúng chưa chịu từ bỏ

âm mưu bám lấy miền Nam nước ta. Quân và dân cả nước, triệu

người như một, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, không sợ

hy sinh, không sợ gian khổ, quyết kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng

chiến, quyết chiến quyết thắng, đánh cho Mỹ phải rút hết sạch,

đánh cho nguỵ quân và nguỵ quyền sụp đổ hết, giải phóng miền

Nam, bảo vệ miền Bắc, tiết tới hoà bình thống nhất nước nhà

[54,tr.479].

Đây chính là chủ trương chỉ đạo giành thắng lợi quyết định cho

cách mạng miền Nam đã được Đảng ta đề ra trong suốt quá trình lãnh

đạo cách mạng từ chiến lược “chiến tranh đặc biệt” đến nay. Có thể nói,

“đây là sự khái quát tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một phương

hướng chiến lược cực kỳ quan trọng, cũng là bước đi sáng tạo trong

đường lối quân sự của Đảng để quân và dân ta giành thắng lợi trong cuộc

kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”[118, tr.83]. Và “nhìn từ giác độ

nghiên cứu lịch sử quân sự, cụm từ “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ

nhào” của Bác là biện chứng quy luật đấu tranh chống giặc ngoại xâm

trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc - chống giặc ngoài, thù

trong”[118, tr.83].

Trong phương hướng chỉ đạo này, Bác đề ra mục tiêu “Mỹ cút” tức là

Mỹ phải rút hết sạch quân về nước, còn “nguỵ nhào” là ta phải đánh sụp đổ

hết cả nguỵ quân và nguỵ quyền. Hai mục tiêu này có mối quan hệ chặt chẽ

với nhau, trong đó “đánh cho Mỹ cút” là điều kiện tiên quyết cần phải giải

quyết đầu tiên và triệt để, có như vậy mới tạo ra được điều kiện thực hiện mục

115

tiêu tiếp theo - “đánh cho nguỵ nhào” đi đến thắng lợi hoàn toàn.

Phương hướng chiến lược “đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào” là

cách thức tốt nhất để giải quyết vấn đề miền Nam, phù hợp với khả năng, sức

lực của ta. Đế quốc Mỹ là tên đầu sỏ có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn nhất

trong giới tư bản chủ nghĩa nên ta không thể vừa đánh bại quân Mỹ và đánh

bại cả quân nguỵ được. Vì vậy, chỉ trên cơ sở ta đánh bại ý chí xâm lược của

Mỹ, buộc chúng phải rút quân, giành thắng lợi quyết định mới có thể tiếp tục

vươn lên “đánh cho nguỵ nhào” kết thúc chiến tranh.

Phương hướng này, sau đó lại được BCT khẳng định là hướng đi chính

của cách mạng miền Nam trong Nghị quyết Hội nghị BCT ngày 10-5-1969.

Sau khi phân tích những âm mưu và chủ trương của địch và những đặc

điểm tình hình cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong giai đoạn này, BCT đã

chỉ ra hai khả năng phát triển của cuộc chiến tranh:

- Khả năng thứ nhất: Mỹ bị tổn thất nặng nề và gặp khó khăn lớn nên

chúng buộc phải kết thúc chiến tranh sớm bằng một giải pháp chính trị không

theo ý muốn của chúng.

- Khả năng thứ hai: Nếu ta tiến công về mọi mặt không đủ mạnh, Mỹ

có thể khắc phục được một phần khó khăn thì chúng sẽ cố gắng kéo dài cuộc

chiến tranh ở miền Nam để tìm kiếm một giải pháp chính trị, giải quyết vấn

đề miền Nam trên thế mạnh. Chúng cũng có thể ném bom trở lại miền Bắc,

hoặc mở rộng chiến tranh sang cả Lào và Campuchia.

Trên cơ sở dự đoán khả năng phát triển chiến tranh, BCT khẳng định

nội dung cơ bản của giai đoạn này là: “ta phát triển chiến lược tiến công đến

đỉnh cao, giành thắng lợi từng bước, đi đến giành thắng lợi quyết

định”[36,tr.131] và BCT cũng nhấn mạnh: “Hiện nay, chúng ta đang đứng

trước thời cơ lớn để thừa thắng tiến lên, đẩy mạnh tiến công toàn diện và liên

tục, tiến lên một bước mới rất cơ bản, đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc

116

Mỹ, đánh cho Mỹ phải rút quân, đánh cho nguỵ phải suy sụp, giành thắng lợi

quyết định, tạo điều kiện để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn”[36,tr.131-

132].

Vậy là, chủ trương giành thắng lợi quyết định vẫn được coi là hướng đi

đúng đắn của cách mạng miền Nam trong giai đoạn này và được Đảng tiếp

tục bổ sung và phát triển cho phù hợp với tình hình thực tiễn.

3.2.2.2. Qua trình chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết

định của Đảng (1969-1973)

Thực hiện phương hướng chỉ đạo giành thắng lợi quyết định của Đảng,

nhiều hoạt động quân sự, chính trị, ngoại giao được đẩy mạnh triển khai trên

khắp các chiến trường miên Nam.

* Về mặt ngoại giao, ngày 8-5-1969, Mặt trận DTGPMNVN đưa ra

giải pháp toàn bộ 10 điểm tại phiên họp toàn thể lần thứ 16, Hội nghị 4 bên về

Việt Nam, trong đó yêu cầu quan trọng nhất là Mỹ phải rút quân khỏi miền

Nam không điều kiện để nhân dân miền Nam tự giải quyết lấy công việc của

mình mà không có sự can thiệp của nước ngoài. Lập trường có tính nguyên

tắc và sách lược mềm dẻo này của ta đã nhận được sự đồng tình ủng hộ của

nhân dân thế giới, kể cả nhân dân Mỹ. Tuy nhiên, với bản chất cố chấp và

ương ngạnh, Mỹ không dễ gì chấp nhận nếu chưa thực sự thất bại ở miền

Nam.

* Về mặt quân sự, sau Hội nghị BCT ngày 10-5-1969, lực lượng vũ

trang của ta đã đồng loạt tiến hành các cuộc tiến công địch trên khắp miền

Nam với 830 mục tiêu. Sau 1 tháng tiến công, ta chưa đạt được mục tiêu

nhưng đã loại khỏi vòng chiến đấu 29 tiểu đoàn và cụm địch, phá huỷ nhiều

phương tiện chiến tranh của chúng.

* Về mặt chính trị, trên cơ sở những thắng lợi về quân sự, ngày 6 đến

ngày 8-6-1969, Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam họp và quyết định thành

117

lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Chính

phủ này đã được 23 nước XHCN và dân tộc chủ nghĩa công nhận, đặt quan hệ

ngoại giao. Bà Nguyễn Thị Bình được cử làm Trưởng đoàn đại biểu của

Chính phủ tham dự Hội nghị Pari về Việt Nam thay cho Mặt trận dân tộc giải

phóng trước đây. Sự ra đời của Chính phủ lâm thời là một thắng lợi có ý

nghĩa to lớn trong cuộc đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân và cùng

là một bước đi quan trọng trong quá trình chỉ đạo giành thắng lợi quyết định ở

miền Nam.

Sự diễn tiến của hoạt động quân sự, chính trị, ngoại giao ở miền Nam

ngày càng cho thấy rằng, chủ trương chỉ đạo giành thắng lợi quyết định là một

chủ trương đúng đắn và đến tháng 7-1969, Hội nghị Trung ương Cục lần thứ

9 đã xác định: “giành thắng lợi quyết định là điều kiện rất căn bản để tiến

lên thực hiện mục tiêu của cách mạng miền Nam là độc lập, dân chủ, hoà

bình, trung lập, tiến tới thực hiện thống nhất nước nhà”[36, tr.321].

Tầm quan trọng của việc giành thắng lợi quyết định cho cách mạng

miền Nam đã được Trung ương Cục khẳng định và coi đó là điều kiện cần

thiết, căn bản nhất để tiến lên hoàn thành những mục tiêu của cách mạng mà

Đảng đã đề ra.

Căn cứ vào tính hình của chiến trường, Trung ương Cục đã đề ra

nhiệm vụ trước mắt của cách mạng là:

Động viên sự nỗ lực phi thường của toàn Đảng, toàn quân,

toàn dân ra sức phát huy thắng lợi đã giành được... tiếp tục đẩy

mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa với ba mũi giáp công đến

đỉnh cao nhất, kết hợp với tấn công ngoại giao; khẩn trương xây

dựng lực lượng quân sự và chính trị; phát triển thế tấn công chiến

lược một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ trên cả ba vùng chiến

lược “quét và giữ”, chính sách bình định và các mục tiêu, biện pháp

118

phòng ngự của địch, đánh bại âm mưu kết thúc chiến tranh trên thế

mạnh và chủ trương „phi Mỹ hoá” chiến tranh của chúng, đánh cho

Mỹ phải rút quân, đánh cho nguỵ phải suy sụp và ta giành được

thắng lợi quyết định”[36, tr.340].

Mục tiêu chiến lược cần phải thực hiện khi tiến hành đấu tranh giành

thắng lợi quyết định được Trung ương Cục xác định là:

- Đánh mạnh, đánh thật đau quân Mỹ, làm cho chúng bị tổn

thất hết sức nặng nề và khó khăn gấp bội về mọi mặt, làm cho

chúng không thực hiện được nhiệm vụ trong chiến lược “quét và

giữ”, không thực hiện được ý đồ chủ động xuống thang từng bước,

kéo dài chiến tranh để tạo thế mạnh đánh cho Mỹ phải rút quân.

Đánh thật mạnh vào quân Mỹ lúc này có ý nghĩa đặc biệt quan

trọng để đập tan ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.

- Đánh mạnh vào quân nguỵ, tiêu diệt bộ phận ngoan cố

nhất trong quân nguỵ và trong nguỵ quyền, làm tê liệt hoặc tan rã

bộ phận còn lại, làm mất nguồn bổ sung của quân nguỵ, khiến cho

quân nguỵ không làm được nhiệm vụ cho chiến lược “quét và giữ”,

không thể nào củng cố và thay thế cho quân Mỹ, đánh cho quân

nguỵ phải suy sụp.

- Ra sức xây dựng lực lượng quân sự và lực lượng chính trị

của ta ngày càng lớn mạnh, bố trí trên một thế tấn công chiến lược

ngày càng mạnh. Ta phải đánh bại kế hoạch bình định nông thôn

của địch, phải làm chủ đại bộ phận nông thôn, các địa bàn chiến

lược quan trọng ở vùng rùng núi và trên các tuyến giao thông chiến

lược, nhất là các vùng ven tiếp giáp thành thị và một số phần ở

ngay trong các thành thị, nhất là ở cơ sở.

- Tiếp tục đánh đổ và làm suy yếu nguỵ quyền các cấp, đặc

119

biệt đánh bại kế hoạch bình định của địch, phải quét sạch đại bộ

phận nguỵ quyền và hệ thống kìm kẹp của địch ở cơ sở đồng thời

hoàn thành việc thành lập và ra sức củng cố vững mạnh chính

quyền nhân dân cách mạng các cấp, nhất là ở cơ sở, ra sức phát huy

vai trò của Chính phủ cách mạng lâm thời.

- Trên cơ sở đó, đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ

phải từ bỏ ý đồ kết thúc chiến tranh trên thế mạnh, buộc chúng phải

kết thúc sớm chiến tranh, rút hết quân Mỹ trong điều kiện nguỵ

quân, nguỵ quyền yếu không thể làm được nhiệm vụ theo ý đồ của

Mỹ, buộc chúng phải nhận một giải pháp chính trị, thừa nhận một

Nam Việt Nam độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập với một chính

phủ liên hiệp dân tộc, dân chủ tiến tới thống nhất nước nhà

[36,tr.341-342].

Như vậy, đến đây, mục tiêu giành thắng lợi quyết định đã được Trung

ương Cục điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế đang diễn ra trên

chiến trường, trong đó, quan trọng nhất là đánh thật mạnh vào quân Mỹ,

làm cho chúng bị thiệt hại nặng nề khiến chúng không thực hiện được mưu đồ

của mình, đồng thời tiếp tục làm suy yếu nguỵ quân, nguỵ quyền để chúng

không thể thay thế cho quân Mỹ làm nhiệm vụ chính trị và quân sự ở miền

Nam, từ đó mà đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc chúng phải kết thúc

chiến tranh không như chúng mong muốn.

Tuy nhiên, do điều kiện chủ quan và khách quan nên tình hình cách

mạng miền Nam vẫn ở thế hết sức khó khăn và mục tiêu giành thắng lợi quyết

định chưa thực hiện được. Đặc biệt là sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần,

địch đã ra sức đẩy mạnh chiến tranh tâm lý dưới nhiều hình thức hòng gây

hoang mang và làm giảm ý chí chiến đấu của nhân dân ta. Tình thế đó, yêu

cầu Đảng phải xem xét nghiên cứu lại tình hình một cách đầy đủ, chính xác

120

hơn. Tháng 1-1970, BCH Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 18, đánh

giá sự phát triển của cục hiện chiến tranh từ sau năm 1968 đến nay, trên cơ sở

đó đề ra nhiệm vụ công tác lớn để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi quyết

định.

Hội nghị đã khẳng định thắng lợi của ta trong hai năm 1968-1969 là

thắng lợi to lớn, toàn diện chưa từng có về chiến lược, “ta đã tạo ta và củng

cố vững chắc những điều kiện thuận lợi về mọi mặt để đưa cuộc kháng chiến

tiếp tục tiến lên bước mới rất cơ bản, giành thắng lợi quyết định”[36, tr.33].

Nhưng chúng ta cũng mắc phải những khuyết điểm, nhược điểm làm cho tình

hình trở nên phức tạp. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những khuyết điểm đó

là: Thứ nhất, “chưa nắm thật vững quy luật giành thắng lợi trong giai đoạn

mới cũng phải trải qua từng bước mới tiến lên giành được thắng lợi quyết

định”[36, tr.40]; thứ hai, chưa đánh giá thật đầy đủ âm mưu và thủ đoạn mới

của địch; thứ ba, chậm tìm ra giải pháp đối phó kịp thời.

Nhận định về âm mưu và chủ trương chiến lược của địch trong thời

gian tới, Hội nghị đã chỉ ra rằng: Mỹ tiếp tục rút quân viễn chinh ra khỏi

miền Nam nhưng vẫn ra sức thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá” nhằm

tạo một thế mạnh trong quá trình xuống thang chiến tranh đồng thời vẫn

cố duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam. Để thực hiện âm mưu đó,

địch sẽ tiếp tục thực hiện chiến lược “quét và giữ”, lấy bình định là biện pháp

chiến lược hàng đầu, và âm mưu mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, Lào,

Camphuchia hong giành thắng lợi về mặt quân sự, tạo lợi thế trên bàn hội

nghị.

Từ nhận định trên, BCH Trung ương Đảng đã xác định nhiệm vụ trước

mắt của cách mạng miền Nam là:

Kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, tiếp tục phát triển

chiến lược tiến công một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ, đẩy

121

mạnh tiến công quân sự và tiến công chính trị, kết hợp với tiến công

ngoại giao, vừa tiến công địch vừa ra sức xây dựng lực lượng quân

sự và chính trị của ta ngày càng lớn mạnh; đánh bại âm mưu Việt

Nam hoá chiến tranh của đế quốc Mỹ, đánh bại âm mưu của chúng

xuống thang từng bước, kéo dài chiến tranh để tạo thế mạnh hòng

duy trì chủ nghĩa thực dân kiểu mới của chúng ở miền Nam nước

ta; làm thất bại chiến lược phòng ngự của địch, tạo nên chuyển

biến mới trong cục diện chiến tranh, giành thắng lợi từng bước đi

đến giành thắng lợi quyết định, đánh cho Mỹ phải rút hết quân,

đánh cho nguỵ phải suy sụp, tạo điều kiện cơ bản để thực hiện một

miền Nam độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập, tiến tới thống nhất

nước nhà [37, tr.56-57].

Nội dung của thắng lợi quyết định trong giai đoạn này được Trung

ương Đảng xác định là: Mỹ phải rút hết quân khỏi miền Nam và lực lượng

quân sự, chính trị của ta phải mạnh hơn lực lượng còn lại của nguỵ quân,

nguỵ quyền lúc đó đang trên đà suy sụp. Lực lượng cách mạng phải làm

chủ phần lớn vùng nông thôn, các vùng chiến lược quan trong, làm chủ

một phần thành thị, chủ yếu ở cơ sở, tiến lên thực hiện những mục tiêu

trước mắt đề ra cho cách mạng miền Nam.

Quán triệt tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương Cục lần thứ 9 (7-

1969), Hội nghi tiêp tục khẳng định mục tiêu cụ thể để giành thắng lợi quyết

định là: Đối với quân Mỹ, ta phải đánh thật mạnh, thật đau, tiêu diệt thật

nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của chúng, đánh cho chúng phải

rút hết quân khỏi miền Nam; Đối với nguỵ quân và nguỵ quyền, ta phải đánh

thật mạnh tiêu diệt, làm tan ra quân nguỵ, đánh đổ và làm suy yếu nguỵ quyền

các cấp.; Đánh bại kế hoạch bình định của địch để giành dân, giành quyền

làm chủ; Ra sức xây dựng lực lượng quân sự và chính trị của ta ngày càng

122

lớn mạnh; Trên cơ sở đó đánh bại chiến lược phòng ngự của địch, đánh bại ý

đồ Việt Nam hoá chiến tranh của Mỹ và tay sai do đó mà đập tan ý chí xâm

lược của Mỹ.

Như vậy, việc xác định nội dung, mục tiêu cụ thể để giành thắng lợi

quyết định có sự điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế, đó là “giành

một bước thắng lợi căn bản trong tình hình cụ thể nhất định của chiến tranh.

Điều đó rõ ràng có khác với giành thắng lợi hoàn toàn trong bất cứ tình

huống nào”[19, tr.111]. Vấn đề giành thắng lợi quyết định đã được nhận

thức một cách đúng đắn hơn. Trước kia, ta cũng đã đưa ra nội dung, mục tiêu

giành thắng lợi quyết định, nhất là trong Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968,

nhưng khi đó ta đưa ra mục tiêu quá cao được hiểu gần như giành thắng lợi

hoàn toàn tức là phải giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân trong điều

kiện địch còn rất mạnh. Với việc “đặt yêu cầu giành một bước thắng lợi căn

bản trong tình hình cụ thể nhất định của chiến tranh, Đảng đã nhận thức rõ

ràng, đầy đủ hơn quy luật chiến tranh cách mạng ở nước ta, một nước nhỏ

chống lại một nước đầu sỏ”[75, tr.56].

Hội nghị lần thứ 18 BCH Trung ương Đảng đã xác định: quá trình

giành thắng lợi quyết định với nội dung và mục tiêu chiến lược trên phải trải

qua 3 bước:

Bước 1: Buộc địch phải đi vào chiến lược phòng ngự ở miền

Nam, chấm dứt hoàn toàn chiến tranh phá hoại miền Bắc, phải ngồi

lại trong Hội nghị bốn bên ở Pari để tìm một giải pháp chính trị cho

cuộc chiến tranh.

Bước 2: Tiếp tục kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến,

đánh bại âm mưu xuống thang từng bước và Việt Nam hoá chiến

tranh của địch, buộc chúng phải nhận một giải pháp chính trị theo

123

những điều kiện có lợi cho ta.

Bước ba: Khi bước 2 hoàn thành, tiếp tục đấu tranh đòi Mỹ

phải thi hành hiệp nghị, thực hiện rút quân đội của chúng khỏi miền

Nam, đồng thời phải tiếp tục làm cho nguỵ quân, nguỵ quyền ngày

càng suy sụp, làm cho thực lực của ta ngày càng mạnh lên [37,tr.59-

60].

Hội nghị lần thứ 18 cũng nhấn mạnh rằng: mỗi bước tiến của giai đoạn

mới nói trên đều có đặc điểm cụ thể, có nhiệm vụ cụ thể khác nhau, ta cần

nắm vững và có dự kiến đầy đủ để chủ động đưa cuộc kháng chiến tiến lên.

Đương nhiên trong sự diễn biến phức tạp của chiến tranh, không thể quy định

ranh giới dứt khoát cho từng bước.

Như vậy, tại Hội nghị này, BCH Trung ương Đảng đã vạch ra bước đi,

lộ trình rõ ràng để giành thắng lợi quyết định với những mục tiêu cụ thể cho

từng giai đoạn nhất định của cách mạng Việt Nam. Đồng chí Lê Duẩn, trong

tác phẩm Dưới là cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội,

tiến lên giành những thắng lợi mới, đã chỉ ra ý nghĩa phù hợp của chủ trương

chỉ đạo trong những thời gian nhất định “Một phương thức nào đó thích hợp ở

nước này lại có thể không dùng được ở nước khác; đúng thời kỳ này, hoàn

cảnh này, song sẽ là sai nếu áp dụng máy móc vào thời kỳ khác, hoàn cảnh

khác. Tất cả vấn đề này tuỳ thuộc ở những điều kiện lịch sử cụ thể”[18,

tr.440]

Hội nghị lần thứ 18 BCH Trung ương Đảng đánh dấu một bước chuyển

quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về giành thắng lợi quyết định. Trên

cơ sở phân tích, nhận định, đánh giá đầy đủ, chính xác hơn âm mưu thủ đoạn

mới của địch, Đảng đã đề ra được chủ trương mới nhằm đánh bại chiến lược

“Việt Nam hóa chiến tranh” giành thắng lợi quyết định cho cách mạng miền

Nam, tiến lên thống nhất nước nhà.

124

Đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh sang Lào và Campuchia

Nhận thấy tình hình ở miền Nam hết sức khó khăn, nhằm tạo ra điều

kiện mới cho việc kết thúc chiến tranh ở Việt Nam trên thế mạnh, Mỹ đã mở

rộng chiến tranh sang Lào và Campuchia hòng chia rẽ sự đoàn kết của ba

nước Đông Dương.

Cuối năm 1969 đầu năm 1970, Mỹ đã mở rộng chiến tranh sang Lào.

Chúng đã huy động cả quân nguỵ Lào và quân đánh thuê Thái Lan, với sự

yểm trợ của không quân Mỹ, mở cuộc hành quân lớn tiến công các lực lượng

cách mạng Lào. Từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1969, chúng mở liên tiếp ba

cuộc hành quân đánh chiếm thị xã Xiêm Khoảng và vùng xung quanh cánh

Đồng Chum. Quân dân Lào đã đánh bại cuộc hành quân trên, phối hợp với

cách mạng Việt Nam phá tan âm mưu của Mỹ định làm phân tán quân chủ lực

Việt Nam.

ở Campuchia, tháng 3 năm 1970, đế quốc Mỹ điều khiển bọn tay sai

làm đảo chính lật đổ Chính phủ Vương quốc đoàn kết dân tộc. Tháng 4 năm

1970 huy động 10 vạn quân Mỹ và quân nguỵ Sài Gòn đánh sang Campuchia

nhằm cắt đứt đường tiếp tế và xoá bỏ những căn cứ quan trọng của ta ở biên

giói Việt Nam - Campuchia. Tổng thống Mỹ Nichxơn công khai tuyên bố

rằng Mỹ tiến công vào Campuchia không phải mục đích mở rộng chiến tranh

mà là hành động cần thiết để chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.

Mỹ tính toán sau khi mở rộng chiến tranh sang Lào, Campuchia, củng

cố các lực lượng phản động thân Mỹ ở đây sẽ có điều kiện thuận lợi tiếp tục

thực hiện chương trình bình định ở Việt Nam, củng cố vùng đã kiểm soát,

chiếm lại các vùng đã mất.

Được sự giúp đỡ và phối hợp của quân ta, nhân dân Campuchia phản

công địch giành thắng lợi lớn, đưa cách mạng Campuchia phát triển nhảy vọt,

125

giải phóng 4,5 triệu dân.

Ngày 24-10-1970, Hội nghị cấp cao nhân dân Đông Dương họp thống

nhất những vấn đề có tính nguyên tắc trong quan hệ ba nước và ra lời kêu gọi

nhân dân ba nước tăng cường đoàn kết quyết tâm đánh thắng đế quốc Mỹ và

tay sai. Hội nghị này đã đánh dấu sự thất bại trong âm mưu chia rẽ ba nước

Đông Dương của đế quốc Mỹ.

Ngày 2-2-1971, Mỹ thông qua kế hoạch tiến hành ba cuộc hành quân là

“Lam sơn 719”, “Toàn thắng 1/71” và “Quang Trung 4” thực hiện cùng một

lúc trên ba vùng chiến lược.

Nắm bắt được tình hình và thấy được ý nghĩa quyết định của trận đánh

này, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 52/QĐ-CP, thành lập Mặt trận Đường

9-Nam Lào với mật danh “Mặt trận 702”.

Quân dân Việt-Lào đã phối hợp với nhau, chống trả quyết liệt và giáng

cho địch những đòn khủng khiếp. Sau 43 ngày đêm chiến đấu, ta đã đập tan

cuộc hành quân của chúng, diệt ba trung đoàn và 5 tiểu đoàn bộ binh, 4 trung

đoàn và 2 chi đoàn thiết giáp, 8 tiểu đoàn pháo, 22.400 tên địch chết và bị

thương. Ta thu và phá 1.320 xe tăng, xe quân sự, 700 máy bay...[83, tr.172].

Với chiến thắng này, chúng ta đã đánh bại âm mưu cắt đôi Đông Dương, cô

lập cách mạng miền Nam của My-nguỵ, đánh bại một bước chiến lược “Việt

Nam hoá chiến tranh” của Mỹ.

Trên chiến trường Campuchia, địch mở cuộc hành quân “Toàn thắng

1/71” từ ngày 4-2-1971. Ngay khi cuộc hành quân bắt đầu, các đơn vị quân

chủ lực giải phóng miền Nam phối hợp với các lực lượng vũ trang Campuchia

đã chặn đứng từng đợt tiến công của địch, tiêu diệt nhiều sinh lực, buộc chúng

phải chấm dứt tiến công. Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 27.000 quân, bắt

sống hơn 700 quân, phá hỏng 1.500 xe quân sự, bắn rơi và phá huỷ 270 máy

126

bay, thu 1.800 súng các loại.

Cùng với cuộc hành quân “Lam Sơn 719” và “Toàn thắng 1/71”, ở

hướng Tây Nguyên, địch mở cuộc hành quân “Quang Trung 4” đánh ra ba

vùng biên giới. Ta phối hợp với quân dân Campuchia đánh thắng cuộc hành

quân này và chiếm đánh khu vực điểm cao Ngọc Rinh Rua - vị trí quan trọng

trong tuyến phòng ngụ cơ bản của địch. Bị tổn thất nặng nề, địch buộc phải co

cụm lại giữ tuyến phòng thủ, cuộc hành quân “Quang Trung 4” thất bại hoàn

toàn.

Chiến thắng của quân và dân ba nước Đông Dương đã góp phần làm

thay đổi cục diện chiến trường có lợi cho cách mạng miền Nam, tạo thế và lực

mới thúc đẩy sự nghiệp cách mạng đi đến thành công. Đó là điều kiện, cơ sở

cho quyết tâm của Đảng ta đánh bại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”

của Mỹ, giành thắng lợi quyết định cho cách mạng miền Nam.

Đảng chủ động mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972 ở miền Nam

nhằm giành thắng lợi quyết định.

Sau hai năm tiến hành chiến đấu trên các chiến trường (1970-1971),

quân dân ta đã giành được những kết quả to lớn nhưng ta vẫn chưa tạo được

một chuyển biến có ý nghĩa chiến lược, chưa tạo đựơc thế uy hiếp mạnh, trực

tiếp ở đồng bằng và thành phố. Vì vậy, “Nhiệm vụ chiến lược mới to lớn,

nặng nề hơn đang đặt ra trước mắt quân và dân ta trên chiến trường là cần tập

trung nỗ lực hơn nữa, đẩy mạnh thế chiến lược tiến công trên chiến trường

miền Nam Việt Nam, tiến lên giành cho được thắng lợi quyết định làm thay

đổi cục diện cuộc kháng chiến trong năm 1972”[23, tr.20].

Để thúc đẩy tình thế cách mạng phát triển, tháng 5-1971, Bộ Chính trị

đề ra nhiệm vụ phải kịp thời nắm lấy thời cơ để phát triển chiến lược tiến

công mới trên toàn chiến trường miền Nam và Đông Dương, đánh bại chiến

127

lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ, giành thắng lợi quyết định trong

năm 1972, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng theo

những điều kiện có lợi cho ta.

Trên cơ sở chủ trương của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương nhấn

mạnh: Ta phải kịp thời nắm lấy thời cơ, hành động bất ngờ, giành lấy những

thắng lợi cao nhất, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh, rút hết quân về nước,

đánh cho nguỵ quân, nguỵ quyền tan rã, sụp đổ một bước nghiêm trọng. Quân

uỷ Trung ương đã xác định đẩy mạnh tiến công quân sự và chính trị trên khắp

các chiến trường miền Nam trong đó tập trung vào ba hướng chiến lược: Trị

Thiên, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.

Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, từ cuối

năm 1971, công tác chuẩn bị chiến trường, chuẩn bị vật chất cho cuộc tổng

tiến công chiến lược được khẩn trương tiến hành. Chỉ trong 3 tháng đầu năm

1972, Đoàn 559 đã hoàn thành chỉ tiêu vận chuyển cả năm, cùng với khối

lượng vật chất to lớn được chuyển vào miền Nam, quân bổ sung cho các mặt

trận cũng được tăng cường và 55.000 cán bộ chiến sĩ quân đội đã nhận lệnh

vượt Trường Sơn vào miền Nam.

Trong lúc chúng ta đang gấp rút chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược

năm 1972 thì địch vẫn chủ quan cho rằng: Từ năm 1969 đến nay, các đơn vị

chủ lực của ta đã rút ra ngoài biên giới, không yểm trợ cho hạ tầng cơ sở được

và cơ sở hạ tầng của ta vẫn chưa được phục hồi. Chúng cho rằng ta ở thế bị

động chiến lược, chiến thuật và đang thiếu thốn trầm trọng, nhất là đạn dược

và tinh thần cán binh giảm sút... cho nên mức độ hoạt động của ta chi tương

tự như 6 tháng cuối năm 1971 mà thôi. Địch tin rằng ta không có khả năng

đánh lớn vào các tuyến phòng ngự của chúng để chọc vào các đô thị và vùng

đông dân, mà chỉ mở hoạt động vừa trên hướng Tây Nguyên và đánh phá bình

128

định ở đồng bằng.

Nhân lúc địch chủ quan, sơ hở, 11 giờ ngày 30-3-1972, ta đồng loạt nổ

súng tiến công trên toàn miền Nam. Địch hoàn tàn bất ngờ cả về thời gian,

hướng chủ yếu, quy mô và cường độ cuộc tiến công. Làm cho chúng lúng

túng, bị động điều quân đối phó khắp nơi.

Trên mặt trận Trị - Thiên, từ ngày 30-3 đến 9-4, quân giải phóng tiến

công phá vỡ tuyến phòng thủ ngoài của địch, giải phóng hai huyện Gio Linh

và Cam Lộ, chiếm lĩnh địa bàn phía Bắc và phía Tây Quảng Trị.

Tại mặt trận Tây Nguyên, ta tiến công vào tuyến phòng thủ tây sông Pô

Cô của địch, cô lập địch ở Đắc Tô, Tân Cảnh.

ở Đông Nam Bộ, ta tiến hành chiến dịch Nguyễn Huệ tiến công phá vỡ

tuyến phòng ngự biên giới, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, bắn rơivà phá hủ

nhiều máy bay, trang thiết bị của địch, giải phóng ba huyện Lộc Ninh, Bù

Đốp, Thiện Ngôn, trực tiếp uy hiếp Sài Gòn từ phía tây bắc.

Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược năm 1972 đã đánh dấu một

bước trưởng thành có tính chất bước ngoặt về mọi mặt của quân đội ta. Chúng

ta đã giành được thắng lợi to lớn, đập tan tuyến vòng ngoài của địch ở đường

9 Quảng Trị, Bắc Tây Nguyên, Đông Nam bộ, tiêu diệt và làm tan rã số lượng

lớn quân địch, giải phóng địa bàn rộng lớn, tạo thế uy hiếp địch và đe doạ trực

tiếp sự phá sản của chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”. Thắng lợi này đã

làm thay đổi một phần quan trọng trong so sánh lực lượng có lợi cho ta, đẩy

quân nguỵ vào tình trạng khốn đốn, thế và lực của ta đã mạnh hơn nhiều, tạo

ra những điều kiện thuận lợi để giành thắng lợi quyết định.

Đánh thắng cuộc tập kích chiến lược miền Bắc bằng B52 của Mỹ đi

đến ký kết Hiệp định Pari, ta giành thắng lợi quyết định.

Để cứu vãn tình thế, ngày 6-4, Nichxơn đã dùng không quân và hải

quân ồ ạt trở lại tham chiến ở miền Nam và đánh phá ác liệt miền Bắc. Với

129

hành động này, chủ trương của Mỹ đã vượt ra ngoài khuôn khổ “Việt Nam

hoá chiến tranh”. Như đồng chí Lê Duẩn đã nhận định chúng đã “Mỹ hoá”

chiến tranh bằng một hình thức khác là sử dụng những thủ đoạn ngoại giao

quỷ quyệt hòng tập trung mũi nhọn về phía nhân dân ta, “giúp cho Nichxơn

thực hiện chót lọt chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” để cho Mỹ rút ra

khỏi Việt Nam mà vẫn duy trì được chủ nghĩa thực dân mới dưới một hình

thức khác trên cả ba nước Đông Dương”[39, tr.366].

Khác với cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, cuộc chiến tranh phá

hoại lần thứ hai được thực hiện một cách nhanh chóng, đánh phá ồ ạt với

cường độ cao ngay từ đầu ở cả hai miền. Mỹ coi đây là một biện pháp quyết

định để cứu vãn sự sụp đổ của chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”. Mỹ đã

huy động tới 40% lực lượng không quân, 45% số B52 của Mỹ, 3/4 số tàu của

Hạm đội 7. Như vậy, lực lượng của Mỹ tập trung vào trận quyết chiến này là

rất lớn.

Ngày 9-4, Níchxơn hạ lệnh phong toả các cảng biển của MBVN, tăng

cường ném bom vào hệ thống đường giao thông và các cơ sở kinh tế quốc

phòng miền Bắc.

Ngày 16-6, Níchxơn quyết định thực hiện kế hoạch dùng B52 đánh phá

ác liệt Hà Nội, Hải Phòng và các thành phố, thị xã khác ở miền Bắc.

Với phương tiện và kỹ thuật hiện đại cùng với những thủ đoạn đánh

phá tinh vi, trong một thời gian ngắn đế quốc Mỹ đã gây cho ta những thiết

hại nặng nề, nhiều phương tiện chiến tranh bị phá hủy, hàng ngàn dân thường

bị giết hại.

Từ kinh nghiệm có được trong chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất,

Hội nghị Bộ chính trị ngày 1-6-1972, đã chủ trương lãnh đạo quân và dân

miền Bắc chuyển mọi hoạt động vào thời chiến, tổ chức phân tán, sơ tán khỏi

các mục tiêu trọng điểm, tránh tổn thất. Các lực lượng vũ trang kiên quyết

130

đánh trả lực lượng không quân, hải quân của địch.

Sau sáu tháng chiến đấu gian khổ từ ngày 9-5 đến ngày 22-10, ta bắn

rơi 561 máy bay, bắn chìm 60 tàu chiến, bắt sống nhiều giặc lái Mỹ. Kết quả

đó buộc Nichxơn phải ra lệnh ngừng ném bom và bắn phá từ bắc vĩ tuyễn 20

trở ra vào ngày 22-10-1972.

Tuy vậy, Đảng ta cũng đã sớm nhận định nhiều khả năng Mỹ sẽ tiếp tục

đánh phá miền Bắc trở lại, vì thế quân và dân ta phải luôn nâng cao cảnh giác,

sẵn sàng chiến đấu đối phó với âm mưu của địch.

Cũng trong thời điểm này, cuộc đấu tranh trên bàn hội nghị của chúng

ta diễn ra rất căng thẳng, cả ta và Mỹ đều giữ những nguyên tắc của mình.

Năm 1972 được coi là năm có vị trí quyết định cho cuộc chiến tranh. Tuy

nhiên, cả hai bên vẫn chưa thực sự đi vào đàm phán.

Ngày 4-10, Đảng và Nhà nước chỉ thị cho đoàn đàm phán của ta:

Cần tranh thủ khả năng chấm dứt chiến tranh trước bầu cử

Tổng thống Mỹ đánh bại âm mưu của Mỹ, kéo dài đàm phán để

vượt qua bầu cử. Ta cần ép Mỹ ký Hiệp định chính thức... Muốn

vậy ta cần chủ động về yêu cầu giải pháp, nội dung hiệp định, thời

điểm, cách đàm phán, cách ký, cách đấu tranh trong cuộc gặp mấy

ngày tới [59, tr99].

Thực hiện chủ trương đó, đoàn đại biểu của ta chỉ tập trung đòi Mỹ rút

hết quân ra khỏi miền Nam, chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc chứ

không đòi hỏi phải giải quyết mọi việc ngay một lúc, có nghĩa là ta tạm gác

khẩu hiệu đánh đổ chính quyền Sài Gòn, chỉ chủ trương lập chính quyền hoà

hợp ba thành phần. Những nội dung đấu tranh này thể hiện tư tưởng giành

thắng lợi quyết định nhằm mục tiêu trước mặt là “đánh cho Mỹ cút”, tạo

điều kiện tiến lên “đánh cho nguỵ nhào”.

Ngày 8-10, trong cuộc gặp riêng, ta đã đưa ra bản dự thảo “Hiệp định

131

về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam”. Bản dự thảo này gồm

10 chương, theo đó ta sẽ giải quyết vấn đề Việt Nam theo hai bước: Trước

tiên, ta và Mỹ sẽ ký hiệp định chấm dứt chiến tranh trên toàn cõi Việt Nam,

chấm dứt mọi sự dính líu quân sự của Mỹ, rút hết quân Mỹ và chư hầu ra khỏi

miền Nam... công nhận quyền tự quyết của nhân dân miền Nam và những

nguyên tắc lớn về giải pháp chính trị; Tiếp theo, hai bên chính quyền ở

MNVN giải quyết vấn đề nội bộ với nhau.

Phía Mỹ thừa nhận văn bản dự thảo hiệp định của ta là quan trọng và

rất cơ bản, phù hợp với yêu cầu của minh. Hai bên đã thoả và nhất trí sẽ ký

chính thức vào 31-10-1972, nhưng sau đó Mỹ đòi hoãn ngày ký để thảo luận

thêm do Nguyễn Văn Thiệu phản đối nhưng thực chất là để thực hiện mưu đồ

lật lọng xảo quyệt của mình. Mỹ đòi thay đổi một số điều kiện quan trọng,

trong đó yêu cầu quân đội miền Bắc phải ra khỏi miền Nam. Mỹ muốn hoãn

lại để kéo dài thời gian vượt qua cuộc bầu cử Tổng thống sau đó sẽ sử dụng

không quân tập kích chiến lược làm ta suy yếu đồng thời tăng cương viện trợ

cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu giúp nó mạnh lên có thể đứng vững sau

khi ký hiệp định. Nhưng sự hoãn lại này đã không đem lại kết quả như mong

muốn của Mỹ. Sau này, Kitxingiơ cho rằng Mỹ từ chối không ký văn bản là

“tự bác bỏ những đề nghị của chính mình”[17, tr.123] và “sẽ làm cho không

thể nào giành được những điều kiện tốt hơn hoặc thậm chí ngang bằng về

sau”[17, tr.123].

Trước thái độ dây dưa, lật lọng của Mỹ ở Hội nghị Pari, Đảng ta nhận

định nhiều khả năng Mỹ trở lại đánh phá miền Bắc ác liệc hơn kể cả dùng

B52 đánh ồ ạt vào Hà Nội, Hải Phòng và chỉ thị cho các đơn vị chuẩn bị kỹ

càng để ứng phó với tình hình có thể diễn ra. Ngay từ tháng 9-1967, trong bài

nói chuyện với cán bộ phòng không - không quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã

khẳng định: “Sớm muộn, đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra đánh phá Hà Nội

132

rồi có thua nó mới chịu thua. Phải dự kiến trước tình hình này càng sớm càng

tốt, để có thời gian suy nghĩ chuẩn bị và chúng chỉ chịu thua sau khi thua trên

bầu trời Hà Nội”[94, tr.2].

Công việc chuẩn bị cho cuộc đấu tranh ác liệt này cũng nhanh chóng

được triển khai.

Đúng như dự kiến, sau khi tái đắc cử Tổng thống (8-11-1972), Nichxơn

đã trở giọng đe doạ, phá ngang cuộc đàm phán làm cho cuộc đàm phán ở Pari

đi vào bế tắc. Ngày 14-12, Nich xơn chính thức phê chuẩn kế hoạch

Lainơbếchcơ II (Linebacker II), mở cuộc tập kích chiến lược bằng không

quân, hải quân vào Hải Phòng, Hà Nội. Mỹ đã huy động 193 máy bay B52,

999 máy bay chiến thuật nhằm huỷ diệt kinh tế, quốc phòng của ta buộc ta

phải trở lại bàn đàm phán theo các yêu cầu của Mỹ.

Dưới sự chỉ đạo của Đảng và quyết tâm đánh thắng chiến lược của Mỹ,

các lực lượng phòng không - không quân đã chuẩn bị sẵn sàng đón đánh B52

trước khi nó xuất hiện 3 ngày.

Ngay ngày chiến đấu đầu tiên (đêm ngày 18 rạng ngày 19 -12), miền

Bắc đã bắn rơi 7 máy bay,trong đó có 3 chiếc B52, 1 chiếc F111. Chiến công

này đã cổ vũ mạnh mẽ cho quân dân cả nước đứng lên đánh giặc.

Trong 12 ngày đêm, Mỹ đã sử dụng 729 lần chiếc B52, 3.884 lần máy

bay chiến thuật rải xuống Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương khác khối

lượng bom đạn gần 35.000 tấn chất nổ. Riêng Hà Nội, địch đã tập trung tới

444 lần máy bay B52, chiếm 66%, hơn 1000 lần máy bay cường kích, chiếm

27%. Hành động tàn bạo của địch đã gây tổn thất cho ta: 2.368 người chết,

3.526 người bị thương. Trận ném bom ngày lề Giáng sinh (ngày26-12) làm

hàng trăm người chết, hàng ngàn người bị thương, hơn 2000 ngôi nhà dãy phố

Khâm Thiên bị đánh sập, 300 người bị giết hại [75, tr.90]. Trận ném bom này

đã khiến cho lương tâm của cả loài người nổi giận, phong trào phản đối chiến

133

tranh nổ ra mạnh mẽ trên khắp thế giới và ngay trong lòng nước Mỹ.

Trong 12 ngày đêm chiến đấu oanh liệt, quân dân ta đã bắn rơi 81 máy

bay, trong đó có 34 máy bay B52, 5 F111, bắt sống 43 phi công, bắn cháy 8

tàu chiến Mỹ, làm thất bại nỗ lực chiến tranh cao nhất và cuối cùng của đế

quốc Mỹ. Đây là một tổn thất quá lớn mà Mỹ không lường trước được khi

liều lĩnh thực hiện cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc nước ta. Nichxơn

không thể tiếp tục dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc được

nữa, buộc phải xuống thang trở lại bàn đàm phán trên thế yếu và bị cô lập.

Theo G. Amtơ, “cố gắng cuối cùng của Nichxơn chẳng đem lại được gì cho

nước Mỹ cả... Bởi vì cuộc ném bom đã buộc cả Nichxơn và Kitxinhgiơ phải

chấp nhận chính những điều mà họ đã bác bỏ suốt tháng 10, tháng 11 và

tháng 12”[1, tr.426]

Thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh

phá hoại miền Bắc của Mỹ là một trong những nhân tố hết sức quan trọng góp

phần tạo nên thắng lợi quyết định cho cách mạng Việt Nam.

Trên bàn Hội nghị, mặc dù có lợi thế hơn nhưng chúng ta vẫn giữ

nguyên nội dung cơ bản của bản Dự thảo đã được thoả thuận vào tháng 10-

1972, để Mỹ có thể chấp nhận được.

Ngày 15-1-1973, Chính phủ Mỹ tuyên bố chấm dứt ném bom bắn phá

MBVN.

Đến ngày 27-1-1973, trên cơ sở những thắng lợi quân sự của ta trong

cuộc tiến công chiến lược năm 1972 ở miền Nam và chiến thắng vang dội đập

tan chiến dịch tập kích bằng không quân của Mỹ ở miền Bắc, “Hiệp định về

chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam” được ký kết và chính thức

có hiệu lực từ 8 giờ ngày 28-1-1973.

Theo Hiệp định này, Mỹ cam kết:

- Tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của

134

Việt Nam.

- Rút hết quân Mỹ và chư hầu ra khỏi MNVN, phá hết các căn cứ quân

sự của Mỹ ở miền Nam, không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào

công việc nội bộ của MNVN.

- Công nhận trên thực tế miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội,

hai vùng kiểm soát và 3 lực lượng chính trị.

Hiệp định quy định trong vòng 60 ngày, Mỹ phải rút hết vũ khí, nhân

viên quân sự và tháo gỡ các căn cứ quân sự tại MNVN.

Hiệp định Pari được ký kết là một thắng lợi to lớn của nhân dân ta. Đây

chính là thắng lợi quyết định mà ta đã giành được trong suốt thời gian dài

chiến đấu gian khổ. Hoàn thành được mục tiêu mà Đảng đã đề ra khi chỉ đạo

giành thắng lợi quyết định là Mỹ phải rút khỏi miền Nam. Đồng chí Lê Duẩn

cũng đánh giá: “Đối với ta, điều quan trọng của Hiệp định Pari không phải là

ở chỗ thừa nhận hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát, tiến tới

thành lập chính phủ ba thành phần mà mấu chốt là ở chỗ là quân Mỹ phải ra,

còn quân ta thì ở lại”[19, tr.359]. Thắng lợi này khẳng định hơn nữa vai trò

lãnh đạo to lớn của Đảng và chứng minh tư tưởng chỉ đạo giành thắng lợi

quyết định là hoàn toàn đúng đắn gắn với đặc điểm của cuộc kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam là lấy yếu đánh mạnh. Nó là cơ

sở, là điều kiện để quân và dân ta tiến lên đánh đổ nguỵ quân, nguỵ quyền

thực hiện mục tiêu cuối cùng là giành thắng lợi hoàn toàn.

Thắng lợi quyết định này đã góp phần “mở đường cho thắng lợi hoàn

toàn. Bởi việc Hoa kỳ cam kết chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam thì việc giải

phóng hoàn toàn miền Nam là xu thế không thể đảo ngược”[7, tr.271]. Chính

nó là tiền đề, tạo ra sự thay đổi về so sánh lực lượng có lợi cho ta, tạo nên thế

tiến công chẻ tre “một ngày bằng hai mươi năm”, lấy mạnh đánh yếu, tiêu diệt

tận gốc nguỵ quân, nguỵ quyền, giành thắng lợi cuối cùng, hoàn thành cuộc

135

cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam.

Trên thế và lực mới do thắng lợi quyết định tạo ra, Đảng ta đã chớp

thời cơ, lãnh đạo nhân dân tiến hành chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (1975),

giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Chiến thắng năm 1973

chỉ được coi là thắng lợi quyết định khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu

nước của nhân dân ta sau đó đi đến thắng lợi cuối cùng. Nếu như sau đó,

Đảng ta không nắm bắt được thời cơ, không kiên quyết tiến lên đấu tranh,

giành thắng lợi hoàn toàn, giải quyết dứt điểm vấn đề miền Nam thì thắng lợi

của Hiệp định Pari (1973) sẽ không mang tính chất quyết định. Chính vì vậy,

Tổng tiến công và nổi dậy Mùa xuân năm 1975 thành công, đã quy định tính

chất quyết định của thắng lợi mà quân và dân ta đạt được trong suốt quá trình

đấu tranh, gian khổ nhằm mục đích đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ,

buộc chúng phải rút quân khỏi MNVN.

Tóm lại, trải qua một quá trình đấu tranh lâu dài, dưới sự lãnh đạo sáng

suốt của Đảng, chủ trương chỉ đạo giành thắng lợi quyết định đã đạt được kết

quả như mong muốn. Nhìn lại toàn bộ quá trình Đảng chỉ đạo giành thắng lợi

quyết định cho cách mạng miền Nam, ta thấy:

Đảng đã đề ra chủ trương giành thắng lợi quyết định là do đặc thù của

cuộc chiến tranh ở Việt Nam quy định. Việt Nam - một nước nông nghiệp

vốn nghèo nàn, lạc hậu lại chịu tổn thất nặng nề trong cuộc kháng chiến

chống Pháp - phải đương đầu với Mỹ - một kẻ thù nguy hiểm và mạnh nhất

mọi thời đại, có tiềm lực kinh tế, quân sự to lớn, lại có chiến lược toàn cầu

trong tay. Chính xuất phát từ sự chênh lệch trong tương quan so sánh lực

lượng mà Đảng đề ra mục tiêu để giành thắng lợi quyết định là đánh bại ý chí

xâm lược của Mỹ buộc chúng phải chấm dứt chiến tranh, rút quân khỏi miền

136

Nam tạo điều kiện tiến lên thống nhất nước nhà.

Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã ba lần

dự tính tổ chức các đòn chiến lược để giành thắng lợi quyết định:

- Năm 1964, định lật đổ chế độ Sài Gòn, giải quyết dứt điểm vấn đề

miền Nam trước khi Mỹ kịp nhảy vào.

- Năm 1968, chủ động tổ chức cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu

Thân, đánh đổ quân nguỵ, tiêu diệt quân Mỹ.

- Năm 1972, định đánh bại Mỹ và tiêu hao quân nguỵ với đòn tổng tiến

công xuân - hè 1972.

Nhưng, phải đến khi ký Hiệp định Pari - là sự tổng hoà thắng lợi quân

sự, chính trị, ngoại giao, chúng ta mới giành được thắng lợi quyết định, buộc

Mỹ chấm dứt chiến tranh, rút hết quân, tạo ra cục diện mới để đi tới toàn

thắng mùa xuân 1975. Thắng lợi đó có ý nghĩa quyết định chiều hướng và kết

cục của chiến tranh. Do đó, phương thức giành thắng lợi quyết định phải là

kết hợp chiến trường với ngoại giao chứ không phải chỉ bằng tổng tấn công

quân sự như tính toán ban đầu.

Mục tiêu đấu tranh giành thắng lợi quyết định được đề ra phải dựa trên

cơ sở đánh giá chính xác âm mưu, thủ đoạn và những mặt mạnh yếu của ta và

kẻ thù, từ đó mới có biện pháp đấu tranh thích hợp. Chủ trương chỉ đạo giành

thắng lợi quyết định của Đảng đã được đề ra từ Hội nghị BCH Trung ương

Đảng lần thứ 9 (1963), nhưng đến mãi năm 1973, chủ trương trên mới thành

hiện thực. Xem xét vấn đề này, chúng ta thấy ở thời kỳ trước đó, về khách

quan, lực lượng quân Mỹ còn quá mạnh, trong khi đó ta lại chưa tạo ra được

lợi thế trong tương quan so sánh lực lượng (phải sau tổng tiến công xuân - hè

1972 mới có so sánh lực lượng và thế trận thuận lợi để có thời cơ kết thúc

chiến tranh); về chủ quan, cũng phải nhận thấy rằng, trong chỉ đạo, có những

lúc ta xác định mục tiêu và nhiệm vụ đấu tranh quá cao, không dự tính hết khả

137

năng của mình cũng như của kẻ thù, nên không thực hiện được ý đồ chiến

lược. Vì thế mà mục tiêu giành thắng lợi quyết định trong những năm 1964,

và năm 1968 không thực hiện được. Khi đó, chúng ta đề ra mục tiêu giành

thắng lợi quyết định gần như giành thắng lợi hoàn toàn song lại chưa có

phương châm chiến lược phù hợp. Và chỉ đến giai đoạn đấu tranh chống lại

chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, chúng ta mới khắc phục được những

hạn chế đó, đề ra được mục tiêu, phương hướng cách mạng thích hợp, đem lại

138

thắng lợi quyết định cho cách mạng miền Nam.

Chương 3

Một số vấn đề rút ra từ chỉ đạo và tổ chức

thực hiện giành thắng lợi quyết định của Đảng trong kháng chiến chống

mỹ, cứu nước

3.1. Bám sát thực tiễn cách mạng, đề ra đường lối chiến lược đúng đắn, tổ

chức thực hiện sáng tạo, linh hoạt, hiệu quả cao

Thực tiễn cách mạng Việt Nam rất phong phú, luôn vận động biến đổi

không ngừng. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), thực tiễn

càng có sự biến đổi, diễn biến phức tạp. Sự biến đổi này bao gồm: thực lực

cách mạng MNVN, đội ngũ cán bộ đảng viên, các cơ sở cách mạng; tình hình

địch, âm mưu và thủ đoạn của chúng khi tiến hành các loại chiến lược phản

cách mạng; về những bước leo thang, xuống thang chiến tranh của Đế quốc

Mỹ; thực lực và sức mạnh của miền Bắc XHCN v.v…Đó chưa kể đến tình

hình nước Mỹ, của phe XHCN, của nhân dân yêu hoà bình trên thế giới.

Thực tiễn, vốn là cơ sở chủ yếu nhất của nhận thức con người; là tư liệu

sống, sinh động nhất để hình thành các loại hoạt động tư duy.

Để xây dựng đường lối cách mạng Việt Nam, trong thời kỳ kháng chiến

chống Mỹ cứu nước, Đảng ta phải thường xuyên nắm bắt tình hình thực tiễn,

tổng kết thực tiễn. “Đường lối chủ trương có rồi, phải có biện pháp thực hiện

cho tốt”[82, tr.137]. Muốn “thực hiện cho tốt” cũng phải căn cứ và tình hình

thực tế, căn cứ vào thực lực của mình.

Trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trước tình hình

thực tế đất nước bị chia cắt thành hai miền, Đảng ta nêu chủ trương “Tiến

hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau - Đó là đặc điểm lớn nhất

và cũng là nét độc đáo của cách mạng nước ta từ tháng 7-1954 đến tháng 5-

139

1975 [42, tr.485].

Thực chất của đường lối dương cao hai ngọn cờ trong thời kỳ này là

đường lối đưa cách mạng Việt Nam đến bến bờ chiến thắng, nhằm hoàn thành

cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thống nhất đất nước, đưa

cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.

Theo quan điểm của Đảng ta, hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau được

tiến hành đồng thời trong cùng một thời gian, về lý luận cũng như về thực tiễn

không mâu thuẫn nhau, mà lại hỗ trợ nhau, cùng nhau phát triển, phản ánh sự

kết hợp biện chứng giữa hai nhiệm vụ khác nhau của cách mạng Việt Nam

thời kỳ này.

Trong khi đề ra chính sách cải tạo XHCN ở miền Bắc, Đảng ta căn cứ

vào tình hình thực tiễn miền Bắc, mà còn căn cứ vào tình hình thực tiễn cách

mạng miền Nam. Cũng như thế, khi đề ra đường lối, phương pháp cách mạng,

Đảng chẳng những căn cứ vào tình hình miền Nam, mà còn căn cứ vào tình

hình miền Bắc và tình hình quốc tế.

Khi đưa ra quyết sách về con đường cách mạng miền Nam, xác định sử

dụng bạo lực cách mạng để giải phóng miền Nam, xây dựng phương châm

tiến công chiến lược của cách mạng miền Nam là Đảng ta dựa trên cơ sở phân

tích, nghiên cứu rất kỹ tình hình ta - địch, quan sát thấu đáo thực tiễn phong

trào để hoạch định đường lối, phương pháp cách mạng. Đúng như V.I.Lênin

đã chỉ ra rằng: Các Đảng Mácxít không gắn chặt phong trào đấu tranh vào

một hình thức nhất định duy nhất nào cả mà “thừa nhận những hình thức đấu

tranh khác nhau, nhất là không “bịa ra” hình thức đấu tranh đó, mà chỉ khái

quát, tổ chức, làm cho những hình thức đấu tranh của giai cấp cách mạng

đang xuất hiện một cách tự phát trong tiến trình của phong trào trở thành tự

giác”[61, tr.1].

Với tri thức cách mạng và kinh nghiệm giải phóng dân tộc phong phú,

140

với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, 1-1959 Nghị quyết Trung ương lần thứ

15 của Đảng ra đời, đã nêu bật đặc điểm của chính quyền Ngô Đình Diệm, về

tính chất của xã hội, về thái độ chính trị của các giai cấp miền Nam, động lực

và lực lượng cách mạng miền Nam. Từ sự phân tích trên, Hội nghị đã vạch ra

đường lối và phương pháp giải phóng miền Nam một cách khoa học và đưa

sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vượt qua mọi khó khăn để thu

non sông về một mối.

Trong quá trình chỉ đạo giành thắng lợi từng bước, giành thắng lợi

quyết định tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn của Đảng, để đánh bại các chiến

lược “chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965), “chiến tranh cục bộ” (1965 - 1968),

“Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ, thì vấn đề bám sát thực tiễn, nắm chắc

tình hình địch - ta, cũng như tình hình trong nước và quốc tế, nhằm tạo nên

sức mạnh tổng hợp để đánh thắng kẻ thù, lại càng quan trọng, cần thiết.

Để đối phó với chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, Đảng đã có Nghị

quyết BCT (1-1961), và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 9 (12-

1963). Khi kẻ thù thay đổi chiến lược tiến hành chiến lược “chiến tranh cục

bộ” và “Việt Nam hoá chiến tranh”, Đảng đã đánh giá đúng đắn sức mạnh của

hai miền Nam - Bắc, chỉ rõ những yếu kém về chiến lược của địch, đề ra

những chủ trương, nhiệm vụ cụ thể, đánh bại ý chí xâm lược của chúng.

Sau thắng lợi năm 1973, các vùng giải phóng ở ba nước Đông Dương

được mở rộng, đã dựa lưng vào nhau, tạo thế mạnh mới cho cách mạng Đông

Dương bao vây chia cắt quân địch.

Nhạy bén trước tình hình mới trong nước cũng như trên toàn Đông

Duơng (do thắng lợi quyết định tạo nên), Hội nghị BCT 10 - 1974 đã đề ra

Nghị quyết lịch sử: Động viễn nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn

dân, tiến hành rất khẩn trương và hoàn thành công tác chuẩn bị về mọi mặt,

tạo điều kiện chín muồi, tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa với những

141

đòn đánh chủ lực tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn, giải phóng miền Nam

thống nhất đất nước. Hội nghị cũng sáng suốt tính đến khả năng can thiệp trở

lại của Mỹ vào miền Nam đến mức nào và kết luận ta có đủ quyết tâm và điều

kiện để đánh chúng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã thực hiện

xuất sắc Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cuộc chống Mỹ, cứu nước của

nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định

thắng lợi hoàn toàn… Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc

nhất định sẽ sum họp một nhà.

Thực tế đã chứng minh, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu

nước của nhân dân ta là thắng lợi của đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ.

Nó thể hiện sống động chân lý của thời đại là độc lập dân tộc gắn liền với

CNXH. Với kinh nghiệm thực tiễn chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã

vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh cách mạng.

Với đường lối chống Mỹ cứu nước của Đảng ta và nghệ thuật chỉ đạo giành

thắng lợi từng bước, giành thắng lợi quyết định tiến tới giành thắng lợi hoàn

toàn đã thực sự làm phong phú di sản lý luận Mácxít về cách mạng giải phóng

dân tộc và con đường đi lên CNXH trong điều kiện hiện nay.

3.2. Tuân thủ những nguyên tắc trong thực hành tư tưởng chiến lược tấn

công; thực hiện những “quả đấm chủ lực”, đảm bảo giành thắng lợi quyết định, buộc

địch từng bước xuống thang chiến tranh

Tiến công là nguyên tắc chỉ đạo của Đảng, là quy luật giành thắng lợi

của cách mạng và chiến tranh cách mạng ở nước ta, trước bất kỳ một kẻ thù

nào, trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Nắm vững bản chất cách mạng và khoa học

của tư tưởng tiến công quân sự của giai cấp công nhân và kiên quyết thực

hành tư tưởng chiến lược tấn công cách mạng, quân và dân ta, dưới sự lãnh

đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu, đã giành thắng lợi to lớn trong Tổng khởi

nghĩa tháng 8 (1945), đưa đến sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà

142

- nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chấm dứt ngót một thế kỷ

cả dân tộc phải chịu cảnh nô lệ, lầm than dưới ách thống trị của thực dân

Pháp; thực hiện thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954), giải

phóng hoàn toàn miền Bắc, đưa miền Bắc đi lên con đường chủ nghĩa xã hội.

Trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã chỉ đạo toàn

dân, toàn quân chủ động tích cực, kiên quyết và liên tục thực hành tư tưởng

chiến lược tấn công, với tinh thần và quyết tâm cao “Hễ còn một tên xâm lược

trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”[54, tr407].

Tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ đã huy

động mọi lực lượng có thể huy động được phát huy tới mức tối đa tiềm năng,

sức mạnh quân sự, sử dụng những phương tiện chiến tranh hiện đại nhất, với

chất lượng cao nhất (trừ vũ khí hạt nhân), tiêu phí những số tiền khổng lồ lớn

hơn cả chi phí trong chiến tranh thế giới thứ hai, thực hành những chiến lược

phản cách mạng hiểm độc nhất nhằm tiêu diệt cách mạng Việt Nam. Trong

khi đó, nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến với biết bao khó khăn, thiếu

thốn, vũ khí thô sơ, lực lượng cách mạng còn non trẻ… nhưng vẫn giữ vững

và nêu cao tư tưởng chiến lược tiến công. Bởi vì chúng ta có khả năng và điều

kiện tạo sức mạnh tiến công địch. Chân lý trên được khẳng định từ thực tiễn

cách mạng miền Nam thời kỳ 1954 - 1959. Đây là một thời kỳ, xét về so sánh

lực lượng ta yếu hơn địch. Như vậy, trên một phương hướng chiến lược nào

đó, ta phải tạm thời phòng ngự, thì tư tưởng chi phối hành động chiến đấu

phòng ngự của ta vẫn là tư tưởng tiến công, kiên quyết phản kích để tạo thời

cơ, củng cố và phát triển lực lượng. Chẳng hạn, khi đế quốc Mỹ thực hiện

chiến lược Aixenhao - một chiến lược của chủ nghĩa thực dân kiểu mới, thể

hiện tập trung chống phá cách mạng của bọn đế quốc những năm giữa thế kỷ

XX. Vấn đề đặt ra cho cách mạng miền Nam là tiến lên hay dừng lại để chờ

thời cơ? Có dám phản kích kẻ thù hay không? Thành công đặc sắc về phương

143

diện chỉ đạo chiến lược của Đảng ta lúc bấy giờ là đã xác định tư tưởng chiến

lược chủ đạo là: kiên quyết đẩy lùi kẻ địch, không được rút lui để thực hiện

chủ nghĩa chờ đợi. Phương thức của quá trình đẩy lùi ấy là bắt đầu bằng

những cuộc đấu tranh của quần chúng, rồi qua con đường đồng khởi của quần

chúng tiến lên làm chiến tranh cách mạng. Quá trình đẩy lùi từng bước bằng

những đòn quyết định sẽ là cơ sở để tiến lên đánh bại hoàn toàn chiến lược

Aixenhao của địch. Hoặc ngay cả khi, thế chiến lược, tuy rất có lợi cho ta như

thời điểm 1965, sau khi chúng ta đánh bại hoàn toàn chiến lược “chiến tranh

đặc biệt” của Mỹ - nguỵ, song lại đứng trước một tình thế cấp bách là đế quốc

Mỹ ồ át đổ quân vào miền Nam (tổng số quân Mỹ, nguỵ, chư hầu năm 1965

là 804.300 tên) [90, tr.124] và tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trước

tình hình đó, Đảng ta vẫn chủ trương tiến công, kiên quyết tiến công, liên tục

tiến công, để đẩy lùi quân địch ngay từ hiệp đầu, chứ không dừng lại một

bước để rồi bị chúng đẩy lùi về mặt chiến lược. Sau khi phân tích tình hình

địch, Đảng ta quyết định: “giữ thế chủ động trên chiến trường”, tiếp tục tư

tưởng chiến lược tiến công. Nghệ thuật tiến công giành thắng lợi quyết định

trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn của

Đảng ta, được thể hiện trên một số vấn đề chính sau:

Một là, tiến công bằng mọi lực lượng dưới nhiều hình thức phong phú,

tạo đòn đánh quyết định, làm thay đổi cục diện chiến tranh.

Ngay từ ngày đầu cuộc kháng chiến, Đảng ta đã nhận định, nhân dân

miền Nam “không có con đường nào khác ngoài con đường vùng dậy” và

phát động toàn dân đánh giặc, đánh địch toàn diện cả về quân sự, chính trị. Đi

đôi với tác chiến tiêu diệt địch của lực lượng vũ trang là đấu tranh chính trị, là

nổi dậy của quần chúng để giành quyền làm chủ.

Nói về nguồn gốc thắng lợi của cuộc Đồng khởi năm 1959-1960, và kết

quả của thời kỳ đấu tranh chống chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc

144

Mỹ, đồng chí Lê Duẩn đã cho rằng, thế tiến công của ta dựa trên ưu thế tuyệt

đối về chính trị và tinh thần, trên sức mạnh áp đảo của đông đảo quần chúng

cách mạng kiên quyết vùng lên đấu tranh một mất một còn với quân thù cướp

nước và bán nước để giành quyền sống cho mình. Và tới thời kỳ chống chiến

lược “chiến tranh cục bộ”, thì thế của ta là dựa vào sự triển khai lực lượng

quân sự và chính trị trên các địa bàn chiến lược trên toàn chiến trường, khiến

cho quân dân miền Nam có thế trận vững chắc và có lực lượng hùng hậu để

giữ vững thế chủ động tiến công đã giành được sau khi đánh bại chiến “chiến

tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ. ở thời kỳ, chống chiến lược “Việt Nam hoá

chiến tranh”, thấy rõ nguồn gốc sức mạnh của ta là tinh thần làm chủ của

nhân dân, là tiến công của cách mạng. Thế và lực của ta về chính trị, quân sự

ngày càng vững mạnh. Với thế và lực đó, quân và dân ta đã đủ sức đánh

những trận lớn để giành thắng lợi quan trọng trong những thời điểm quyết

định. Ví dụ, ở thời kỳ chống chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, trận ấp Bắc, ta

đã đánh bại chiến thuật “trực thắng vận”, “phượng hoàng vồ mồi” - một chiến

thuật mà kẻ địch cho là hiệu nghiệm nhất để “tiêu diệt cộng sản”. Rồi chiến

dịch Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài ta đã tiêu diệt gọn nhiều tiểu đoàn thuộc

lực lượng dự bị chiến lược của nguỵ, đánh phá chiến thuật “thiết xa vận” và

“đổ bộ đường không” của địch làm phá sản công thức quân nguỵ + cố vấn Mỹ

+ phương tiện chiến tranh Mỹ - một công thức mà Mỹ hy vọng sẽ thắng ta

trong “chiến lược chiến tranh đặc biệt”.

ở thời kỳ chống chiến lược “chiến tranh cục bộ”, ta đã lựa chọn cách

đánh tổng công kích, tổng khởi nghĩa, tiến công vào các cơ quan đầu não của

địch. Bằng cuộc tiến công chiến lược Tết Mậu Thân 1968, ta đã giáng một

đòn quyết định vào chiến lược “chiến tranh cục bộ”, buộc chúng phải thay đổi

chiến lược, chuyển sang chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” v.v…

ở thời kỳ chống chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, ta đã phối hợp

145

với lực lượng cách mạng Campuchia đánh mạnh vào khâu yếu nhất của chúng

ở chiến trường Campuchia và giành thắng lợi to lớn, đưa cách mạng

Campuachia phát triển một bước nhảy vọt. Năm 1972, ta quyết định mở cuộc

tiến công chiến lược trên toàn chiến trường, với 3 hướng tiến công chính:

chiến dịch Tri - Thiên, chiến dịch Bắc Tây Nguyên, chiến dịch Đông Nam Bộ

(mang tên Nguyễn Huệ) - Đây được xem là những đòn đánh quyết định, cùng

với thằng lợi của chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” (cuộc tập kích chiến

lược B52 vào Hà Nội, Hải Phòng của đế quốc Mỹ đã bị quân và dân miền Bắc

đập tan) - đã buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, ngồi vào bàn

ngoại giao, ký Hiệp định Pari về “Chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở

Việt Nam”, đưa đến thắng lợi quyết định cho cách mạng miền Nam, tạo nên

thế và lực mới để đi đến thắng lợi cuối cùng.

Hai là, tranh thủ thời cơ, tạo thế và lực, chuyển chiến lược tiến công

khởi nghĩa sang chiến tranh nhân dân, thực hiện những “quả đấm chủ lực”

đảm bảo giành thắng lợi quyết định trong những điều kiện cụ thể.

Thời cơ cách mạng có được do nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân

khách quan và nguyên nhân chủ quan. Nguyên nhân khách quan của sự xuất

hiện thời cơ gắn liền với độ chín muồi của tình thế cách mạng, mà như

V.I.Lênin đã chỉ rõ, đó là lúc kẻ thù “ở bên trên” bị khủng hoảng sâu sắc

không thể duy trì ách thống trị của chúng; còn quần chúng “ở bên dưới” cũng

không chịu và không thể tiếp tục sống như cũ được nữa. Để làm nên thắng lợi

Cách mạng Tháng 8 (1945), Đảng ta đã “khéo léo chọn lúc để giáng một đòn

chí tử, kheo chọn lúc để phát động khởi nghĩa - ấy là tình hình đã hết sức

khủng hoảng, đội tiên phong đã sẵn sàng chiến đấu đến cùng, hậu bị quân đã

sẵn sàng ủng hộ đội tiên phong và hàng ngũ quân địch đã rối loạn, hoang

mang đến cực điểm” [15, tr.371].

Phong trào Đồng khởi ở miền Nam trong những năm 1959 - 1960 cũng

146

là một minh chứng sống động. Nó là kết quả của thực hành tư tưởng chiến

lược tiến công của đồng bào miền Nam “Đồng khởi” là cách mạng miền Nam

chuyển từ thế thủ, bảo toàn lực lượng, sang thế công. Đó là chiến lược tiến

công của cách mạng bằng khởi nghĩa; tiếp đó, phát triển tiến công từ khởi

nghĩa thành chiến tranh cách mạng ở thời kỳ sau; rồi tiếp tục khởi nghĩa trong

chiến tranh, kết hợp chiến tranh với khởi nghĩa, trong đó quy luận chiến tranh

ngày càng chi phối. V.I.Lênin cho rằng, “phòng ngự là con đường chết của

khởi nghĩa”. Vì vậy, khi khởi nghĩa thành công, phải chuyển tiến công khởi

nghĩa thành chiến lược tiến công cách mạng, kết hợp tiến công về quân sự với

tiến công về chính trị, ngoại giao.

Tư tưởng chiến lược tiến công là tư tưởng chỉ đạo của cách mạng. Về

chiến lược quân sự, đương nhiên là có tiến công, phản công và phòng ngự;

trong chiến tranh cách mạng ở miền Nam, tiến công và phản công là chính, từ

đó tạo nên những “quả đấm chủ lực” tiêu diệt sinh lực địch, đảm bảo giành

thắng lợi quyết định trong những điều kiện cụ thể. Nay điểm lại 21 năm cuộc

chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, chung ta thấy rất rõ đế quốc Mỹ là

tên đầu sỏ, rất ngoan cố, không bao giờ chịu “thua non”. Chỉ sau khi bị đòn

tiến công Tết Mâu Thân 1968, Mỹ mới chịu xuống thang chiến tranh. Sau khi

ký Hiệp định Pari, trên danh nghĩa, Mỹ chấp nhận rút quân về nước nhưng

vẫn rắp tâm phá hoại hiệp định với chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”

của mình. Và chỉ đến khi, ta mở chiến dịch Tây Nguyên, xoá sổ quân đoàn 2

và quân khu 2 của nguỵ, tiêu diệt và làm tan rã một tập đoàn phòng ngự lớn,

giải phóng một địa bàn chiến lược quan trọng. Đồng thời, ta mở chiến dịch

Huế - Đà Nẵng, tiêu diệt quân đoàn 1 và quân khu I của nguỵ, làm thay đổi so

sánh lực lượng trên chiến trường và mở chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Sau

3 ngày chiến đấu thần tốc, dũng mãnh, quân ta giành thăng lợi hoàn toàn. Đến

147

đây, đế quốc Mỹ mới chịu từ bỏ âm mưu xâm lược của mình.

Ngày nay, sự cấu kết giữa thù trong và giặc ngoài có nhiều điểm mới:

“Diễn biến hoà bình”, bạo loạn, lật đổ, lợi dụng lòng tin tôn giáo thực hiện âm

mưu chống phá cách mạng, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc… đang là một

chiến lược toàn cầu phản cách mạng của các thế lực đế quốc phản động. Với

chiến lược này, chúng chống phá cách mạng Việt Nam một cách toàn diện,

thần tốc trên tất cả các lĩnh vực, bằng các thủ đoạn, biện pháp. Trong đó,

chúng coi trọng tổ chức xây dựng lực lượng phản động ngầm kết hợp với xây

dựng các tổ chức phản động ở nước ngoài, tạo dựng “ngon cờ”, tạo cớ can

thiệp dưới nhiều hình thức. Do đó, để bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ

Đảng, bảo vệ chế độ, quân và dân ta nêu cao tinh thân cảnh giác cách mạng,

phát huy tư tưởng chiến lược tấn công, củng cố, tăng cường sức mạnh của

khối đại đoàn kết dân tộc bằng việc giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh

tế xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

Mặt khác, tích cực đấu tranh khắc phục những thiếu sót trong quản lý, xây

dựng đất nước; đấu tranh một cách không khoan nhượng với tệ quan liêu,

tham nhũng, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; động viên và tạo điều kiện

cho toàn dân tham gia xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh

nhân dân ngày càng vững mạnh. Đó là bài học kinh nghiệm mang tính thời sự

cao được rút ra từ nghiên cứu tư tưởng chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành

thắng lợi quyết định của Đảng ta trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

3.3 Trên cơ sở quán triệt tư tưởng chiến lược tấn công, nắm vững và giải quyết

tốt mối quan hệ giữa đánh lâu dài với tranh thủ thời cơ, giành thắng lợi quyết định

trong thời gian tương đối ngắn, tạo ra bước ngoặt mới về chiến lược, làm thay đổi cục

diện chiến tranh

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta là một sự kiện

trọng đại của lịch sử thế giới trong thế kỷ XX và được xem là cuộc đụng đầu

148

lịch sử lớn nhất từ sau chiến tranh thế giới thứ 2.

Đây là một cuộc đấu tranh của một dân tộc đất không rộng, người

không đông, kinh tế chậm phát triển, phải đương đầu với một siêu cường đế

quốc có tiềm lực kinh tế và quân sự to lớn. Trong điều kiện ấy, muốn giành

thắng lợi, cách tốt nhất là phải lấy đánh lâu dài làm phương châm cơ bản.

Đảng ta cho rằng, đánh lâu dài không có nghĩa là đánh kéo dài theo kiểu

“trường kỳ mai phục”, không phải là ở thế chịu đựng hay bị động mà là đánh

lâu dài trên thế tiến công. Nói cách khác, trong khi đánh lâu dài, ta vẫn chủ

động tạo thời cơ và lợi dụng thời cơ mỗi khi nó xuất hiện để đánh những đòn

có tính chất quyết định, làm thay đổi cục diện chiến tranh, thay đổi được so

sánh lực lượng, có lợi cho ta, bất lợi cho địch; làm cho quá trình phát triển của

chiến tranh không chỉ có phát triển tuần tự, mà còn có những bước phát triển

nhảy vọt, đột biến. Từ thế và lực mới, được tạo nên, chúng ta có thể tranh thủ

thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn để tiến tới

giành thắng lợi hoàn toàn. Thực tiễn cách mạng cho thấy, sau khi hiệp định

Giơnevơ được ký kết, đế quốc Mỹ nhảy vào miền nam nước ta, dựng nên

chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, xây dựng nguỵ quân, các cơ cấu quân sự

và chiến tranh v.v… Chúng lấy “tố cộng”, “diệt cộng” làm “quốc sách” nhằm

tiêu diệt hết các “phần tử cộng sản” , các “tổ chức cộng sản” và “tư tưởng

cộng sản”. Nhân dân miền Nam kiên trì đấu tranh đòi thi hành Hiệp định

Giơnevơ, nhưng Mỹ- Nguỵ đã tiến hành “cuộc chiến tranh một phía”, buộc

nhân dân miền Nam phải vùng dậy đấu tranh chống lại chúng.

Từ thực tiễn của mình, để chống địch đàn áp, khủng bố, nhiều Đảng bộ

ở miền Nam đã chủ động xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Đặc biệt là

ở Nam Bộ, các đơn vị vũ trang cách mạng đã ra đời dưới danh nghĩa vũ trang

giáo phái như: Tiểu đoàn Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Tiên Hoàng, Ngô Văn Sở 502,

504, 506, 250… Trong những năm 1957- 1958, ở các tỉnh nam bộ đã xây

149

dựng được khoảng 30 đơn vị vũ trang [60, tr.34]. Sự xuất hiện của các bộ,

đảng viên thời “9 năm” trong lực luợng vũ trang cách mạng, trong điều kiện

địch khủng bố điên cuồng, đã làm vững tin cho lực lượng chính trị và tạo địa

bàn cho các cán bộ “bị lộ” đứng chân. ý chí quyết tâm bám đất, bám dân và

các hoạt động tự vệ, diệt ác ôn của các đơn vị vũ trang Nam Bộ có ý nghĩa vô

cùng quan trọng trong việc giữ gìn thực lực cách mạng là một hướng gợi mở

vô cùng quan trọng cho trung ương Đảng ra quyết sách về con đường cách

mạng miền Nam. Dưới ánh sáng của Nghị quyết trung ương Đảng lần thứ 15

(1-1959) nhân dân miền nam đã tiến hành đồng khởi. Thắng lợi của phong

trào đồng khởi đã chuyển thế cho cách mạng miền Nam tiến lên tiến công tiêu

diệt kẻ thù, chấm dứt thời kỳ ổn định tạm thời của chủ nghĩa thực dân kiểu

mới, đặt chế độ Ngô Đình Diệm trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn. Tuy nhiên,

vì điều kiện lúc đó, phong trào đồng khởi mới dừng ở mức khởi nghĩa từng

phần, chưa thể phát triển thành tổng khởi nghĩa.

Trước bước chuyển biến căn bản của cách mạng, đầu năm 1961, Đảng

ta đã chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng miền Nam, đưa phong trào

đồng khởi phát triển thành chiến tranh du kích, chiến tranh cách mạng, tiến

hành cuộc kháng chiến trường kỳ. Nội dung căn bản của chuyển hướng chỉ

đạo chiến lược là phải tăng cường lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang.

Nghị quyết BCT 1-1961, tháng 2-1962, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương lần

thứ 9 (12-1963) đã khái quát phương châm tiến công chiến lược của cách

mạng miền Nam là: hai chân, 3 mũi, 2 vùng. Phương châm đó đã đưa cuộc

kháng chiến toàn dân, toàn diện lên đỉnh cao mới. Thế trận chiến tranh nhân

dân trở nên vô địch, mà kẻ thù dù có tàn bạo đến đâu cũng không thể đảo

ngược được tình thế, không thể có chủ động chiến lược [57, tr.22].

Cuối năm 1967, đầu năm 1968, cuộc “chiến tranh cục bộ” của đế quốc

Mỹ ở miền Nam đã phát triển lên tới đỉnh cao, địch leo thang đến mức cao

150

nhất, Đảng ta đã có những quyết định rất đúng đắn, táo bạo: “chuyển hướng

chiến tranh cách mạng của ta sang thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết

định” (Nghị quyết của BCT 12-1967, được hội nghị BCH Trung ương Đảng,

tháng 1-1968, phê chuẩn thành Nghị quyết Trung ương lần thứ 14). Với đòn

quyết định xuân 1968, đã làm “đảo lộn thế chiến lược của địch làm phá sản

“chiến tranh cục bộ”, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc

chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội

nghị Pari” [42, tr.481].

Đầu năm 1970, nhận định về sai lầm nghiêm trọng của địch khi mang

quân mở rộng chiến tranh ra cả Đông Dương, chúng ta đã phối hợp chặt chẽ

với cuộc chiến đấu của nhân dân Lào và nhân dân Campuchia, giáng cho địch

những đòn quyết liệt giành thắng lợi to lớn.

Từ năm 1969, lên thay Giônxơn, Nichxơn điều chỉnh chiến lược toàn

cầu: từ “phản ứng linh hoạt” sang “ngăn đe trên thực tế”. áp dụng học thuyết

Nichxơn vào Châu á, Hoa Kỳ chọn Việt Nam làm nơi thí điểm chiến lược

“Việt Nam hoá chiến tranh”.

“Việt Nam hoá chiến tranh” là một mưu đồ chiến lược hết sức thâm độc

của đế quốc Mỹ, nhằm kéo dài chiến tranh xâm lược, từng bước rút hết quân

Mỹ ra khỏi Đông Dương, mà nguỵ quân , nguỵ quyền vẫn mạnh lên. Với học

thuyết Nichxơn và chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, cách mạng Việt

Nam lại đứng trước một thử thách mới.

Trên cơ sở quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công, phân tích điểm

mạnh, mặt yếu của địch, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh cuộc tiến công liên

tục, toàn diện (quân sự, chính trị, ngoại giao) vào chiến lược “Việt Nam hoá

chiến tranh”, nhằm đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Riêng đòn tấn

công quân sự phải đủ sức tiêu diệt gọn cấp lữ đoàn, loại khỏi vòng chiến đấu

cấp sư đoàn quân chủ lực trở lại đứng chân ở vùng nông thôn đồng bằng và

151

vùng ven đô thị; trực tiếp hỗ trợ phong trào quần chúng nổi dậy phá kế hoạch

bình định của địch, buộc Mỹ phải rút hết quân, ký Hiệp định chấm dứt chiến

tranh ở Việt Nam theo những điều khoản ta đưa ra giành tháng lợi cơ bản

trong năm 1972.

Thực hiện quyết tâm của Quân uỷ trung ương là kết hợp đấu tranh quân

sự với đấu tranh chính trị ngoại giao, dựa vào pháp lý của hiệp định Pari với

nhiệm vụ trong tâm số 1 lúc này là phá bình định lấn chiếm của địch, giành

quyền làm chủ, liên tục phản công địch, chủ động đánh vào các căn cứ xuất

phát của địch, đồng thời mở các chiến dịch tổng hợp với quy mô vừa và nhỏ.

Thắng lợi trên chiến trường sẽ là cơ sở thúc đẩy đấu tranh ngoại giao.

Từ giữa năm 1973, tình hình trên chiến trường miền nam đã có những

chuyển biến quan trọng. Quân dân ta dần khắc phục những sai sót trong chỉ

đạo vượt qua những khó khăn, ngăn chặn được các cuộc hành quân lấn chiếm,

bình định của địch, khôi phục và mở rộng vùng giải phóng. Từ thế bị động,

đối phó, chuyển lên chủ động phản công tiến công địch. Thế và lực của cách

mạng miền Nam đều phát triển. Những binh đoàn cơ động gồm nhiều binh

chủng hợp thành đã ra đời, tạo nên những quả đấm mạnh và những mũi nhọn

sắc bén trên các địa bàn chiến lược quan trọng. Sự ra đời của các quân đoàn

và binh đoàn tương đương quân đoàn, đứng chân trên các chiến trường quan

trọng, đã tạo nên sự chuyển biến lớn về so sánh lực lượng (cho đến cuối năm

1974, đầu năm 1975, về tổng số quân ở miền nam, tỷ lệ so sánh giữa 2 bên là:

địch 1,7, ta:1 ; về quân chủ lực: địch 1, ta 1,03) [110, tr 38].

Trước những bước ngoặt lớn của chiến tranh cách mạng đang được tạo

ra trên chiến trường miền Nam, Đảng ta nhận thấy thời cơ chiến lược lớn sẽ

đến. Để tạo và thúc đẩy thời cơ đòi hỏi ta phải có lực lượng mọi mặt mạnh

hơn hẳn đối phương, phải ở thế áp đảo địch, đón thời cơ, đánh đòn quyết

152

định, kết thúc chiến tranh giành thắng lợi hoàn toàn.

Nhìn lại toàn bộ tiến trình của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,

có thể thấy sự kết hợp giữa ba nhân tố: Lực - thế - thời đã không chỉ tạo nên

sức mạnh tổng hợp, hơn địch, để đánh đòn quyết định với thế áp đảo, giành

thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn, mà còn tạo ra bước ngoặt

mới về chiến lược, làm thay đổi cục diện chiến tranh, thậm chí kết thúc chiến

tranh, giành thắng lợi hoàn toàn. Đó là một thành công lớn, một bài học kinh

nghiệm quý giá được đúc kết từ thực tiễn chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành

thắng lợi quyết định của Đảng ta trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu

nước. Trong điều kiện cách mạng hiện nay, kinh nghiệm vận dụng quy luật

khách quan kết hợp lực - thế - thời, khai thác và tận dụng những điều kiện

thuận lợi trong nước và quốc tế, tận dụng lợi thế so sánh vùng và khả năng

nội lực của từng địa phương vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện

đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế khu vực vẫn mang ý nghĩa lớn

lao về nhiều mặt và có giá trị thực tế sâu sắc. Nhờ đó, chúng ta có thể tạo thời

cơ, tạo thế và lực mới, để giành thắng lợi mới ngày càng to lớn và có ý nghĩa

lịch sử lớn lao hơn.

3.4. Đánh giá đúng kẻ thù, nắm vững mục tiêu cuối cùng của cách mạng, để ra

các nghị quyết đúng đắn để chỉ đạo toàn quân, toàn dân, giành thắng lợi quyết định

trong những điều kiện cụ thể, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.

Chiến tranh là một cuộc đọ sức quyết liệt về lực lượng cũng như về cố

gắng chủ quan của hai bên, dựa trên cơ sử phân tích đầy đủ các điều kiện

khách quan, đánh giá đúng so sánh lực lượng địch - ta trong mỗi thời kỳ phát

triển. Qua đó, có thêm cơ sở để đề ra các Nghị quyết đúng đắn, những phương

pháp làm biến đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta, nhằm giành cho được

những thắng lợi ở mỗi bước tiến lên của từng giai đoạn.

Hiểu địch, đánh giá đúng địch là hiểu rõ âm mưu chiến lược của địch,

153

nắm chắc quy luật hành động và khả năng tiến hành chiến tranh của chúng.

Có như vây, ta mới hạ quyết tâm chiến lược, vạch ra phương hướng tiến hành

chiến tranh, tìm ra cách đánh một cách đúng đắn sáng tạo.

Cho đến nay, giới nghiên cứu đã nêu nhiều ý kiến, cuộc kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta có ba thời điểm quan trọng, đó là: việc ra

đời của Nghị quyết 15 Trung ương; cuộc tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu

Thân (1968) và giai đoạn đánh bại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”

tiến tới Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975.

Trong những năm 1954-1958, “tình thế cách mạng cho các cuộc khởi

nghĩa từng phần đã chín muồi”[62, tr.98]. Bởi, quần chúng không còn con

đường nào khác hơn là phải vùng lên sống chết với My - Diệm. Trong bối

cảnh đó, “Đề cương cách mạng miền Nam” của Xứ uỷ Nam bộ đã ra đời.

Tiếp đó, tháng 1-1959, Đảng ta ra Nghị quyết Trung ương lần thứ 15. Tư

tưởng chỉ đạo trong Nghị quyết 15 thể hiện rõ đường lối độc lập tự chủ và

sách lược mềm dẻo của Đảng ta, phù hợp với tình hình quốc tế và trong nội

bộ lãnh đạo của ta lúc bấy giờ, đáp ứng được nguyện vọng bức thiết của cán

bộ đảng viên và quảng đại quần chúng nhân dân ở miền Nam. Nghị quyết 15

theo như nhận định của Đại tướng Lê Đức Anh, nó thật sự “là một nghị quyết

về chuyển chiến lược” từ đấu tranh chính trị đơn thuần sang đấu tranh chính

trị kết hợp với đấu tranh vũ trang dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo

lực phản cách mạng tàn bạo của kẻ địch, vận dụng và phát huy phương pháp

cách mạng của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 trong hoàn cảnh

mới”[7, tr36]. Thực tiễn cách mạng miền Nam 1959-1960, đã khẳng định tính

đúng đắn, khoa học và kịp thời của Nghị quyết 15. ở nhiều vùng nông thôn,

nhân dân đã vùng dậy đồng khởi, làm sụp đổ từng mảng nguỵ quyền, thành

lập chính quyền cách mạng và lực lượng vũ trang, làm phá sản chủ nghĩa thực

dân kiểu mới theo phương thức cổ truyền, buộc đế quốc Mỹ chuyển qua chiến

154

lược “chiến tranh đặc biệt”. Có thể nói, trong thời kỳ đầu của cuộc kháng

chiến chống Mỹ cứu nước, Nghị quyết 15 đã cắm mốc lịch sử vô cùng quan

trọng của cách mạng Việt Nam, nó phù hợp với tình hình thực tế nên đã tạo

bước tiến nhảy vọt cho phong trào cách mạng miền Nam.

Để đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của địch, Đảng chỉ đạo

chuyển đồng khởi từng phần qua chiến tranh cách mạng và tiếp tục khởi nghĩa

trong chiến tranh, đánh địch bằng cả quân sự và chính trị, ra sức phát triển

chiến tranh nhân dân, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược phù hợp với tương

quan lực lượng ở từng vùng. Trọng tâm đánh vào những nơi xung yếu như

kho tàng, sân bay, đường giao thông, đặc biệt là phải tập trung mũi nhọn vào

phá “ấp chiến lược” đánh bại “quốc sách” của địch.

Dưới ánh sáng của sự chỉ đạo trên, mũi tiến công “ấp chiến lược” bằng

quân sự và chính trị đã làm phá sản mục tiêu chủ yếu của chiến lược “chiến

tranh đặc biệt”. Cao trào cách mạng của đồng bào miền Nam đã đẩy Mỹ vào

một cuộc khủng hoảng trầm trọng, buộc Mỹ phải “thay ngựa giữa dòng”, phế

truất anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu.

Để cứu vãn tình thế, Mỹ ào ạt đổ quân vào MNVN thực hiện chiến

lược “chiến tranh cục bộ”, mở các cuộc phản công chiến lược “tìm diệt” chủ

lực ta, “bẻ gẫy xương sống Việt Cộng” và “chộp bắt” cơ quan đầu não của

cuộc kháng chiến trên chiến trường, đồng thời sử dụng không quân, hải quân

đánh phá miền Bắc.

Khi Mỹ chuyển qua chiến lược “chiến tranh cục bộ” Đảng ta đã nhận

định: sức mạnh của Mỹ có thể sử dụng trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt

Nam là sức mạnh hạn chế. Và chỗ yếu của Mỹ là những chỗ yếu không thể

khắc phục nổi. Đồng thời Đảng cũng nêu ra chủ trương: 1) Phải giữ vững và

tiếp tục giành thế chủ động tiến công trên chiến trường, vừa đánh Mỹ, vừa

diệt nguỵ; 2) Tiếp tục quán triệt phương châm đánh lâu dài, dựa vào sức mình

155

là chính; 3) Phải cố gắng tập trung lực lượng của cả hai miền, tranh thủ thời

cơ giành thắng lợi quyết định trong một thời gian ngắn trên chiến trường miền

Nam; 4) Phải chuẩn bị để đánh địch trong trường hợp chiến tranh kéo dài và

mở rộng ra cả nước.

Với chủ trương đúng đắn đó, Đảng ta đã chỉ đạo sự bố trí chiến lược

các lực lượng chủ lực trên chiến trường, đón sẵn quân Mỹ ở các địa bàn xung

yếu. Thắng lợi trên mặt trận Trị - Thiên, đường số 9, chiến trường Tây

Nguyên, miền Tây khu 5; đặc biệt là thắng lợi trong cuộc chống chiến tranh

phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân của giặc, đã làm phá sản một

bước chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ, đẩy đế quốc Mỹ vào tình thế

“tiến thoái lưỡng nan” về chiến lược.

Nắm bắt được điểm yếu này của đế quốc Mỹ, Đảng ta đã quyết

định giáng một đòn bất ngờ thật mạnh vào ý chí xâm lược của chúng,

bằng cách chọn hướng chiến lược hiểm và dùng cách đánh mới, tạo ra

một bước ngoặt lớn làm thay đổi cục diện chiến tranh. Đó là tiến công

vào các cơ quan đầu não của địch, trên toàn miền Nam vào dịp Tết Mậu

Thân (1968).

Đòn tiến công Tết Mậu Thân 1968 đã gây kinh hoàng cho cả nước Mỹ.

Khắp các bang của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ rộ lên những cuộc biểu tình

chông chiến tranh. Ngày 31-3-1968, Giônxơn đã phải ra tuyên bố ngừng ném

bom MBVN từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán song

phương với ta tại Pari và tuyên bố không ra tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ

thứ hai.

Như vậy, bằng cuộc Tổng tiến công chiến lược Tết Mậu Thân 1968, ta

đã giáng một đòn quyết định chiến lược vào chiến lược “chiến lược” chiến

tranh cục bộ” của Mỹ; buộc chúng, dù ngoan cố cũng phải thay đổi chiến

156

lược - chuyển sang chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, với hy vọng làm

cho cách mạng miền Nam “tàn lụi”, quân đội và chính quyền Sài Gòn mạnh

lên, đủ sức duy trì chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ ở MNVN.

Với tầm nhìn xa trông rộng, từ lâu Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính

trị đã nhận thấy rằng ta không đủ sức để đánh bại cùng một lúc cả Mỹ và

Nguỵ để giành thắng lợi hoàn toàn, nên chủ trương đánh cho “Mỹ cút”, rồi

tiến tới đánh cho “nguỵ nhào”. Sau khi quân Mỹ và chư hầu rút khỏi miền

Nam, Đảng ta cho rằng, quân Mỹ đã rút, khó có khả năng quay lại. Phân tích

so sánh lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường, Đảng chỉ ra: Thời cơ lịch

sử và khả năng thực tế để quyết chiến trận cuối cùng, đưa cuộc kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn đã đến (Kết luận Hội nghị Trung

ương ngày 7-1-1975) và đề ra quyết tâm chuẩn bị mọi mặt để kết thúc thắng

lợi cuộc chiến tranh trong năm 1975 hoặc 1976.

Quyết tâm đó của Đảng được cụ thể hoá trong kế hoạch chiến lược 2

năm 1975-1976: Năm 1975 tranh thủ bất ngờ tiến công lớn và rộng khắp, tạo

điều kiện để vào năm 1976 tiến hành Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng

miền Nam.

Cùng với kế hoạch cơ bản đó, Bộ Chính trị còn dự kiến một phương án

cực kỳ quan trọng: nếu thời cơ đến, thì lập tức giải phóng miền Nam năm

1975.

Trước sự phát triển của tình hình cách mạng với nhịp độ “một ngày

bằng hai mươi năm”, Bộ Chính trị đã ra quyết định đúng đắn, thực hiện

phương án dự kiến, mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, giải phóng miền Nam

trong tháng 4-1975 (Lê Duẩn, Thư vào Nam ngày 1-4-1975).

Quyết định lịch sử đó, là kết quả của cả một quá trình tư duy khoa học

sâu sắc, sáng tạo của Bộ Chính trị, của BCH Trung ương Đảng ta về đánh giá

kẻ thù, đánh giá so sánh lực lượng giữa ta và địch, từ đó tìm ra cách đánh hữu

157

hiệu để chiến thắng kẻ thù.

Ngày nay, Đảng đang lãnh đạo nhân dân ta thực hiện hai nhiệm vụ

chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm thực hiện mục tiêu “Dân giàu,

nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” và bảo vệ Tổ quốc Việt

Nam xã hội chủ nghĩa. Nếu trước đây, thắng lợi trong cuộc kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước, bắt nguồn trước hết từ chiếu sâu sự thống nhất lập

trường và phương pháp cách mạng, khoa học của Đảng, dựa trên nền tảng

chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; từ chiều sâu sự đoàn kết,

thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân (Trung ương Cục miền Nam,

Bộ Chỉ huy quân sự miền Nam và mỗi cấp địa phương, mỗi chiến trường…)

đã phát huy tinh thần tích cực, chủ động tổ chức thực hiện các kế hoạch,

quyết sách chiến lược của Trung ương, để giành thắng lợi từng bước, giành

thắng lợi quyết định, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn. Thì ngày nay, để thực

hiện hai nhiệm vụ chiến lược đó, đòi hỏi “Đảng phải nắm vững, vận dụng

sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa

và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tri thức mới của thời đại, nâng

cao năng lực trí tuệ”. Hơn nữa, đòi hỏi Đảng phải “kiên định về nguyên tắc,

chiến lược, linh hoạt, sáng tạo về sách lược, phương pháp; chống giáo điều,

bảo thủ… phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tổ chức để nhân dân tham

gia xây dựng đường lối, chủ trương, quyết sách quan trọng của Đảng, Nhà

nước. Coi trọng nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương…

Qua thực tiễn làm sáng tỏ những vấn đề mới, bổ sung, hoàn thiện và phát triển

đường lối” [44,tr.282].

Xây dựng CNXH ở một nước kinh tế kém phát triển như nước ta là một

việc làm mới mẻ và hết sức khó khăn. Điều đó đòi hỏi mọi tiềm năng, trí tuệ

của Đảng phải được tập trung vào việc nghiên cứu sâu hơn, cụ thể hơn về

CNXH mà chúng ta xây dựng và đề ra mục tiêu cho từng chặng đường phát

158

triển; đồng thời tìm ra cách đi, bước đi thích hợp với điều kiện và hoàn cảnh

nước ta; biết phát huy mọi tiềm năng của đất nước và thời cơ mà thời đại đã

mở ra để giành thắng lợi có tính chất quyết định trong từng chặng đường của

công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất nước. Đó cũng là vận dụng bài

học của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước: Đánh giá đúng kẻ thù, nắm

vững mục tiêu cuối cùng của cách mạng, đề ra các nghị quyết đúng đắn,

giành thắng lợi quyết định cho đúng, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.

3.5. Nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo quy luật chiến tranh cách mạng, biết

khơi dậy và phát huy cao độ vai trò của nhân tố con người trong việc thực hiện các

quyết định chiến lược

Cuộc đụng đầu lịch sử giữa nhân dân ta và đế quốc Mỹ là một cuộc

chiến tranh quyết liệt giữa hai lực lượng cách mạng và phản cách mạng và

cũng chịu sự tác động của những quy luật chiến tranh cách mạng chống đối

nhau.

Ngay từ đầu của cuộc xâm lược MNVN, đế quốc Mỹ vận dụng quy luật

đánh nhanh, thắng nhanh - còn với ta, trước tình hình lực lượng vũ trang

kém hơn địch nhiều thì buộc ta phải chọn cách đánh lâu dài với địch - vận

dụng quy luật đánh lâu dài, biết giành thắng lợi từng bước tiến tới giành thắng

lợi quyết định và giành thắng lợi hoàn toàn - Đây là sự lựa chọn đúng của

Đảng ta. Địch vận dụng quy luật đánh lớn, đánh tập trung, dàn thành trận

tuyến, ta thì vận dụng quy luật quy luật “lấy ít đánh nhiều”, khi có đủ điều

kiện “lấy nhiều thắng ít”, dàn mỏng địch ra đánh, đánh theo cách ta chọn

v.v…

Dựa trên lập trường cách mạng triệt để và ý chí quyết tâm chống Mỹ

xâm lược, dựa trên quan điểm cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin

về chiến tranh cách mạng, Đảng ta đã đánh giá đúng so sánh lực lượng giữa ta

159

và địch, xu thế phát triển của cách mạng thế giới, nắm bắt và hiểu rõ thực tiễn

cách mạng Việt Nam, vận dụng sáng tạo quy luận chiến tranh cách mạng, đưa

sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.

Khi xây dựng đường lối cách mạng miền Nam, Đảng ta đã thể hiện tinh

thần cách mạng triệt để và ý thức trách nhiệm cao với đất nước và dân tộc

mình. Những quyết định đã nêu ra là kết quả của một sự sưy nghĩ độc lập,

trên cơ sở kết hợp đúng đắn giữa cái chung và cái riêng, cái phổ biến và cái

đặc thù trong việc vận dụng các quy luật của chiến tranh cách mạng.

Phân tích Nghị quyết 15 và một loạt các Nghị quyết sau đó trong thời

kỳ chống chiến lược “chiến tranh đặc biệt” và “chiến tranh cục bộ”, có thể

thấy, trong đó, Đảng đã nhận thức và nắm vững một loạt các quy luật tác

động tổng hợp, như:

- Quy luật tác động của thời đại đối với điều kiện cụ thể của Việt Nam.

- Quy luật phát triển của xã hội Việt Nam với con người, đất nước và

lịch sử của nó.

- Quy luật tiến công của cách mạng Việt Nam; quy luật của cách mạng

bạo lực và chiến tranh nhân dân; quy luật biến đổi so sánh giữa ta và địch;

quy luật của phương pháp cách mạng miền Nam v.v…

Chẳng hạn, trong Nghị quyết Trung ương 15, Đảng ta khẳng định: “Sử

dụng bạo lực cách mạng để giải phóng miền Nam và hình thức đấu tranh là

khởi nghĩa vũ trang”. Văn kiện Hội nghị15 nêu rõ: “Lấy sức mạnh của quần

chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực

lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng

nên chính quyền cách mạng của nhân dân” [26, tr.82]. Hoặc, trong Nghị

quyết BCT 1-1961 đã nêu rõ, tiến công địch bằng lực lực lượng chính trị và

lực lượng vũ trang; các Nghị quyết của BCT 2-1962 và tháng 12-1962, Nghị

quyết Trung ương 9 (12-1963) đã khái quát phương châm chiến lược của cách

160

mạng miền Nam là: Hai chân, ba mũi, ba vùng. Phương châm chỉ đạo chiến

lược đó, đã khẳng định, Đảng ta vận dụng sáng tạo quy luật bạo lực cách

mạng của chiến tranh nhân dân, quy luật phát triển của xã hội Việt Nam với

con người, đất nước và lịch sử của nó. Kết quả của sự sáng tạo trong chỉ đạo

đó của Đảng, đã đưa cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện lên đỉnh cao mới:

cuộc chiến tranh không phân tuyến, nhưng quân và dân miền Nam có thể tiến

công và nổi dậy ở khắp nơi. Thế trận chiến tranh nhân dân trở nên vô địch,

mà kẻ thù - dù có tàn bạo đến đâu cũng không thể đảo ngược được tình thế,

không thể có chủ động chiến lược [60 tr.35]. Khi đế quốc Mỹ ồ ạt đổ quân

vào miền Nam, mở các cuộc phản công chiến lược “tìm diệt” chủ lực của ta,

“chộp bắt” cơ quan đầu não của ta trên chiến trường. Đồng thời sử dụng

không quân và hải quân bắn phá miền Bắc, chuyển từ chiến lược “chiến tranh

đặc biệt” sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”, Đảng ta nhận định: sức mạnh

của Mỹ có thể sử dụng trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam là sức

mạnh hạn chế (tác giả nhấn mạnh) và chỗ yếu của Mỹ là những chỗ yếu

không thể nào khắc phục được”. Từ đó, Đảng nêu chủ trương cụ thể, trong đó

nhấn mạnh:

- Phải giữ vững và tiếp tục giành thế chủ động tiến công trên chiến

trường, vừa đánh Mỹ, vừa diệt nguỵ.

- Tiếp tục quán triệt và vận dụng phương châm đánh lâu dài, dựa vào

sức mình là chính.

- Phải cố gắng tập trung lực lượng của cả hai miền, tranh thủ thời cơ

giành thắng lợi quyết định trong một thời gian ngắn trên chiến trường miền

Nam.

Bởi, theo sự phân tích của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì “cuộc chiến tranh

này căn bản là ở miền Nam, Mỹ thua ở miền Nam tức là thua, ta thắng ở miền

Nam tức là ta thắng. Cho nên phải giành thắng lợi quyết định trong một thời

161

gian, ta không nói mấy năm, mấy tháng, mấy ngày, nhưng trong một thời gian

càng ngắn càng tốt” [54, tr.18]. Bên cạnh đó, Người xác định: “tiêu diệt và

phá tan được quân nguỵ, tiêu diệt được nhiều quân Mỹ” [54, tr.18].

Sau đó, Người nêu rõ: cuộc kháng chiến của ta là toàn dân, thực sự là

cuộc chiến tranh nhân dân. Người yêu cầu cán bộ cao cấp “phải gương mẫu,

phải quan tâm đến đời sống của cán bộ, phải đồng cam cộng khổ”, “Phải có

tác phong thời chiến, khẩn trương, giản dị”, “chỉ có chiếc ba lô trên lưng là

đi”. Người dạy: ngoài đường lối, chính sách, chiến lược, chiến thuật của ta

đúng, đồng cam cộng khổ là cái không thể thiếu được… việc ấy ảnh hưởng

chẳng những cho cán bộ nói chung, mà còn ảnh hưởng trong nhân dân nữa.

Nhân dân thấy bộ đội ta, chính phủ ta cùng sống như dân, lo lắng cho nhân

dân, không có quan cách gì cả. Đây cũng được xem là cơ sở thắng lợi của

cách mạng, của chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản

Việt Nam.

Xuất phát từ thực tế cách mạng miền Nam, Đảng ta cho rằng, quá trình

nhận thức quy luật hành động của địch và vận dụng quy luật chiến tranh cách

mạng của ta là quá trình tạo ra những điều kiện tất yếu để làm cho nghệ thuật

biết đánh, biết thắng Mỹ của ta phát huy tác dụng. Đồng thời, đẩy mạnh tác

dụng ngược lại cuộc chiến tranh xâm lược của địch ngày càng bất lợi đối với

chúng. Rõ ràng, việc nhận thức và vận dụng quy luật chiến tranh cách mạng

không phải là điều đơn giản. ở đây, không phải là quy luật đã bày sẵn để cho

ta nắm bắt một cách dễ dàng, mà thường ẩn náu bên trong và luôn diễn ra sự

tác động ngược chiều của quy luật chiến tranh cách mạng của ta và quy luật

chiến tranh xâm lược của địch.

Do đó, chúng ta chỉ có thể đánh bại ý chí xâm lược của địch và thắng

lợi hoàn toàn khi chúng ta biết phát huy đầy đủ tính năng động chủ quan của

nhận thức và vận dụng quy luật chiến tranh cách mạng một cách đúng đắn,

162

sáng tạo, tự giác.

ở thời kỳ chống chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, trong thư gửi

vào Nam, ngày 29-6-1971, khi đánh giá về thế và lực của ta, đồng chí Lê

Duẩn đã viết: Ta đánh giá đúng so sánh lực lượng giữa ta và địch, thấy rõ

nguồn gốc sức mạnh của ta là tinh thần làm chủ của nhân dân là thế tiến công

của cách mạng; trên cơ sở đó, đã chú trọng xây dựng thế và lực của ta cả về

chính trị, quân sự, ngày càng vững mạnh.

Khi chiến lược “Việt Nam hoá ra đời”, Đảng ta đã nhận định: “chiến

lược đó đẻ ra trong thế thất bại bế tắc; nó chứa đầy những mâu thuẫn bên

trong không thể nào khắc phục được. Tuy vậy, địch vẫn còn những chỗ mạnh

tương đối về quân số, hoả lực, khả năng cơ động, về địa bàn chiếm giữ, về

chiến lược kinh tế quân sự. Nhưng nếu ta tiếp tục đủ sức mạnh tổng hợp để

tiến công, nhất định những mâu thuẫn, chỗ yếu của chúng càng thêm sâu sắc

trầm trọng, chỗ mạnh của chúng sẽ giảm sút, nhất định ta sẽ đánh bại được

âm mưu và chủ trương chiến lược mới của địch; đế quốc Mỹ không thể nào

tránh khỏi bị thất bại hoàn toàn (Nghị quyết BCT 4-1969).

Thực hiện Nghị quyết của Đảng, nhân dân ta đẩy mạnh cuộc tiến công

liên tục, toàn diện (quân sự, chính trị, ngoại giao) vào chiến lược “Việt Nam

hoá chiến tranh” của Níchxơn và đã thu được những thắng lợi hết sức to lớn.

ở miền Nam, quân và dân ta đã đánh bại hầu hết các cuộc hành quân

lấn chiếm của địch, lấy lại được nhiều vùng do địch lấn chiếm; thu hẹp vùng

kiểm soát của địch, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng của ta.

Từ giữa năm 1974, đã xuất hiện một hình thái mới ở Miền Nam. Chiến

thắng giải phóng Thượng Đức, Phước Long (6-1-1975), chứng tỏ rằng, khả

năng đánh thắng toàn bộ quân nguỵ đang trở thành hiện thực trước mắt. ở

miền Bắc, công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế, tập trung đến mức cao

nhất cho cách mạng miền Nam cũng đã đạt được những thành tựu hết sức to

163

lớn. Miền Bắc không những đã đảm bảo ổn định đời sống nhân dân, mà còn

đảm bảo yêu cầu chi viện cho miền Nam. Trong hai năm (1973-1974), đã có

150.000 thanh niên nhập ngũ, lên đường ra mặt trận. Hàng vạn thanh niên

xung phong và cán bộ nhân viên chuyên môn, kỹ thuật được điều động vào

miền Nam làm nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước. Từ tháng 1-1973, miền Bắc đã

đưa vào miền Nam 140.000 tấn vật chất các loại, tăng gấp 4 lần so với năm

1972 [110, tr.38].

Rõ ràng là, quá trình hoàn thành, bổ sung và hoàn chỉnh đường lối,

phương pháp đánh thắng đế quốc Mỹ, cũng là quá trình phát triển của nhận

thức của Đảng ta đối với quy luật chiến tranh đang không ngừng vận động.

Không phải ngay từ đầu, Đảng ta đã có thể đề ra một đường lối đánh Mỹ hoàn

chỉnh mà phải trải qua quá trình đấu tranh thực tế, cọ sát với một kẻ địch cụ

thể; phải hiểu rõ địch mới có thể đánh thắng địch.

Mùa xuân 1970, BCH Trung ương Đảng họp Hội nghị toàn thể lần thứ

18, Hội nghị khẳng định thắng lợi oanh liệt của quân và dân ta trong Tổng

tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968. Nêu cao tinh thân phê bình và tự phê

bình, Trung ương Đảng đã kiểm điểm sự chỉ đạo chiến lược trong Tổng tiến

công, phân tích rõ nguyên nhân của những yếu kém trong chỉ đạo là do “chưa

nắm thật vững quy luật giành thắng lợi trong giai đoạn mới cũng phải trải qua

từng bước mới tiến lên giành thắng lợi quyết định”[37, tr.40], dẫn tới sự chỉ

đạo chiến lược “chưa xác định được một cách sát, đúng yêu cầu cụ thể của

từng bước tiến lên nhằm tiến công quân địch với một tinh thần vừa kiên

quyết, vừa linh hoạt, càng đánh càng mạnh, giành thắng lợi ngày càng

lớn”[37, tr.40].

Trên cơ sở đó Đảng đi tới kết luận “Giai đoạn mới này là một cuộc

chiến đấu lâu dài, quyết liệt đồng thời cũng là giai đoạn giai đoạn cuối cùng

của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Quá trình tiến lên của cuộc kháng

164

chiến trong giai đoạn mới là quá trình giành thắng lợi từng bước tiến tới giành

thắng lợi quyết định” [37, tr.69]. Hội nghị hạ quyết tâm thực hiện kỳ được Di

chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đánh giặc Mỹ cho đến thắng lợi

hoàn toàn”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 18 càu BCH Trung ương Đảng là

bước phát triển mới trong chiến lược quân sự của Đảng, thể hiện sự vận dụng

sáng tạo quy luật chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh, của Đảng ta, trong điều kiện cụ thể nhằm đánh bại chiến lược

“Việt Nam hoá chiến tranh” của đế quốc Mỹ.

Tháng 6-1970, BCT Trung ương Đảng họp giữa lúc cục diện kháng

chiến của nhân dân ba nước Đông Dương phát triển mạnh mẽ, phát triển từ

tưởng quân sự của Hồ Chí Minh - coi Đông Dương là một chiến trường, BCT

xác định: “Chiến lược của ta trên chiến trường Đông Dương và trên chiến

trường mỗi nước đều hướng vào mục đích đánh bại âm mưu kéo dài và tăng

cường xâm lược của đế quốc Mỹ trên bán đảo Đông Dương, giành thắng lợi

từng bước, tiến lên giành thắng lợi quyết định ở MNVN, ở Campuchia và

Lào, đuổi đế quốc Mỹ ra khỏi Việt Nam và toàn cõi Đông Dương, đuổi đế

quốc Mỹ ra khỏi Việt Nam và toàn cõi Đông Dương. Lực lượng chiến lược để

tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ trên bán đảo Đông Dương bao gồm

toàn bộ lực lượng chính trị và quân sự của nhân dân ba nước Việt Nam,

Campuchia và Lào, đoàn kết chặt chẽ trong mặt trận thống nhất của các dân

tộc Đông Dương chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, dựa trên sự nhất trí cao

độ về đường lối chủ trương giữa Đảng ta và các đảng anh em Khơme và Lào”

[37, tr.242]. Quan điểm của Đảng ta về chiến lược chung trên toàn chiến

trường Đông Dương được hai đảng cách mạng anh em ở Lào và Campuchia

hoàn toàn nhất trí.

Khi đề cập đến vấn đề áp dụng sáng tạo quy luật chiến tranh cách mạng

vào điều kiện cụ thể ở nước ta, trong điều kiện chống chiến lược “Việt Nam

165

hoá chiến tranh”, BCT xác định: “quy luật chiến tranh nhân dân ở nước ta là

quy luật chiến tranh của toàn dân, là quy luật nổi dậy và tiến công, tiến công

và nổi dậy, đi đến tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt để đánh bại quân thù”

[37, tr.243]. Đó “là một quá trình tiêu diệt địch để giành quyền làm chủ, giành

quyền làm chủ để tiêu diệt; một quá trình đấu tranh chính trị và quân sự, quân

sự và chính trị; khởi nghĩa của quần chúng và chiến tranh cách mạng; chiến

tranh cách mạng và khởi nghĩa của quần chúng, giành thắng lợi từng bước đi

đến giành thắng lợi hoàn toàn” [37, tr.243].

Nghị quyết BCT Trung ương Đảng tháng 6-1970 chỉ đạo rất kịp thời

cuộc kháng chiến của nhân dân ta khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra

toàn chiến trường 3 nước Đông Dương. Trong dịp này, đồng chí Lê Duẩn, Bí

thư nhất BCH Trung ương Đảng viết tác phẩm “Dưới lá cờ vẻ vang của

Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi

mới”. Tác phẩm đã phân tích sâu sắc đường lối cách mạng và đường lối quân

sự của Đảng ta, mà cơ sở là phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư

tưởng cách mạng, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Cách mạng và khoa học,

khoa học và cách mạng là biểu hiện tập trung nhất của tinh thần sáng tạo cách

mạng, là những đặc tính cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh mà lâu nay Đảng ta đã kết hợp một cách chặt chẽ và vận dụng một cách

sáng tạo, tài tình. Chính vì vậy, mới có thể giải thích được vì sao Đảng ta đã

giải quyết một cách xuất sắc những nhiệm vụ lớn lao trong sư nghiệp đánh

thắng đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc,đưa cả nước

cùng tiến lên CNXH.

Chúng ta đều biết, đấu tranh quân sự là đặc trưng của chiến tranh lạnh.

Muốn giành được thắng lợi trong chiến tranh phải có sức mạnh quân sự nhất

định (bao gồm cả thế và lực) trên chiến trường, nhưng những yếu tố làm nên

sức mạnh quân sự không chỉ có vũ khí, trang bị kỹ thuật, số lượng quân đội

166

đông, mà còn gồm những yếu tố khác nữa, như chính trị - tinh thần, thái độ

của người lính, sự ủng hộ của người dân, sức mạnh của thể chế chính trị, nghệ

thuật chỉ đạo chiến tranh, khi đã có đường lối đúng, chủ trương đúng v.v…

Song, bao trùm lên trên hết là con người. Trong công cuộc kháng chiến chống

Mỹ, cứu nước, con người Việt Nam chính là nhân tố quyết định thắng lợi của

cuộc kháng chiến. Người dân Việt Nam giàu lòng yêu nước, có tinh thần đoàn

kết chống ngoại xâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng đúc kết: “Dân ta có một

lòng yêu nước nông nàn. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến

nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một

làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lượt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn,

nó nhấn chím tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước [56, tr.116].

Sức mạnh truyền thống của dân tộc Việt Nam được mục tiêu XHCN soi

sáng, được phát huy cao độ dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã

trở thành tình cảm, tư tưởng cao quý nhất, thiêng liêng nhất, cội nguồn của trí

tuệ sáng tạo và lòng dũng cảm của con người Việt Nam. Bước vào cuộc

kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mỗi người dân Việt Nam mang trong mình

một dòng máu yêu nước với trình độ văn hoá ngày càng được nâng cao

[112,tr.221]

Vì vậy, họ sẵn sàng xả thân vì nước, vì sự tồn vong của dân tộc, vì

tương lai của CNXH. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc

biệt trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện đường lối chống Mỹ cứu

nước (1954-1975), Đảng ta đã biết khơi dậy và phát huy cao độ sức mạnh của

con người Việt Nam, phát động 1 cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn

diện. Đúng như chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “31 triệu đồng bào ta là 31

triệu chiến sỹ diệt Mỹ”. Khi toàn dân đã đồng lòng tham gia cuộc kháng

chiến, thì hình thức chiến đấu vô cùng phong phú, muôn hình vạn trạng, ai

cũng đánh giặc, bằng bất cứ thứ vũ khí gì có trong tay, ai cũng có thể đánh

167

giặc ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào.

Thực tiễn đấu tranh cách mạng của nhân dân ta trong mỗi thời kỳ đã

giúp Đảng ta phát hiện ra những quy luật trong chiến tranh nhân dân, quy luật

đánh Mỹ và thắng Mỹ, từ đó Đảng đề ra đường lối, chủ trương, cụ thể hoá

bằng các Nghị quyết đúng đắn và tổ chức thực hiện, tạo ra lực lượng mạnh

với quyết tâm cao, chuyển hoá sức mạnh, ý chí tinh thần thành sức mạnh, vật

chất.

Với kinh nghiệm chỉ đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng ta

nêu rõ: con đường thực lực của cách mạng Việt Nam vốn lấy dân làm gốc lấy

việc xây dựng cơ sở chính trị quần chúng làm nền tảng. Trước yêu cầu xây

dựng và phát triển thực lực cách mạng miền Nam thời kỳ đầu chống chiến

lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ, để chuyển cuộc đấu tranh từ

chính trị lên vũ trang, Đảng ta khẳng định “nếu ta tổ chức lực lượng chính trị

cho tốt, khi cần vũ trang sẽ không khó”. ở đây, tư tưởng “người trước, súng

sau” của chủ tịch Hồ Chí Minh lại được khẳng định phát huy trong giai đoạn

cách mạng mới.

Với chủ trương đúng đắn đó, ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng

chiến, một đội quân chính trị quần chúng chống Mỹ đã thực sự ra đời. Khi lực

lượng vũ trang của ta chưa đủ mạnh thì lực lượng đấu tranh chính trị quần

chúng là nhân tố quyết định bảo vệ cách mạng, đánh bại âm mưu của Mỹ-

Nguỵ.

Chính chiến lược “chiến tranh một phía” của Mỹ - Nguỵ đã bị thất bại

thảm hại trước các phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân. Phong trào

đấu tranh chống Mỹ đã lôi cuốn hàng triệu lượt người tham gia. Chẳng hạn,

chỉ trong 2 nam 1955-1956, theo số liệu thống kê, đã có tới 7 triệu lượt người

tham gia đấu tranh chính trị, năm 1959 có 5 triệu lượt người, năm 1960 có tới

168

10 triệu lượt người [112, tr.223].

Trước sự phát triển nhanh của chiến tranh nhân dân, với những đòn tiêu

diệt quân chủ lực nguỵ của quân và dân ta đã đưa chiến lược “chiến tranh đặc

biệt” của Mỹ đến chỗ phá sản, buộc Mỹ phải chuyển sang chiến lược “chiến

tranh cục bộ”.

ở miền nam, do sự phát triển của lực lường kịp thời và bố trí chiến lược

chủ lực trên chiến trường đúng, nên khi quân Mỹ đổ quân vào, mở cuộc phản

công chiến lược “tìm và diệt”, quân và dân ta đã đánh thắng quân Mỹ ngay

những trận đầu ở Núi Thành, Vạn Tường (khu 5) Đất Cuốc, Bầu Bàng (Đông

Nam Bộ), Plây me (Tây Nguyên) … ở miền Bắc, trong cuộc chống chiến

tranh phá hoại của địch, ta đã hạ hàng trăm máy bay hiện đại, bắt sống nhiều

giặc lái, đã tổ chức phòng, tránh, sơ tán thành công, đảm bảo giao thông vận

tải thông suốt, liên tục tăng cường chi viện cho miền Nam. Chính Tay-lo,

từng là đại sứ Mỹ bên cạnh chính quyền nguỵ Sài Gòn đã phải thú nhận :

“Sức mạnh không quân là một sự yểm trợ, nhưng nó không thể quyết định

việc chặn đứng những con người kiên quyết chiến đấu trên mặt đất… Chúng

tôi đã không đánh giá đúng tinh thần cực kỳ kiên quyết và đức tính hy sinh vì

sự nghiệp của người Việt Nam” [90, tr.181].

Bài học về phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp chống Mỹ cứu

nước, có ỹ nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta

hiện nay.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã chỉ rõ: “Mọi hoạt

động của Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội phải hướng vào việc phát huy

yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất”

[43,tr.45].

Hiện nay chúng ta đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong

điều kiện “nhân tố vật chất”, “nhân tố kỹ thuật” còn nhiều yếu kém, còn ở

169

trình độ thấp. Khi đó chúng ta phải phấn đấu vươn lên để đạt trình độ tiên tiến

ở thời gian tới. Điều kiện cơ bản nhất để tạo nên sự chuyển biến thực sự trên

mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và đảm bảo sự thành công của sự nghiệp

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là phải phát huy cao độ nhân tố con

người. Vấn đề đặt ra là, “nhân tố con người” với tư cách vừa là mục tiêu vừa

là động lực của cách mạng, thì cần nhận thức một cách đúng đắn về đặc điểm

và vai trò của nhân tố con người trong giai đoạn cách mạng hiện nay, trên cơ

sở đó tìm được một hệ thống giải pháp thích hợp để phát huy cao độ nhân tố

170

con người.

Kết luận

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta mà đỉnh cao là

cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mùa xuân 1975 đã kết thúc thắng lợi hoàn

toàn và trọn vẹn cách đây hơn 30 năm. Nhưng ý nghĩa thắng lợi và những bài

học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến thần thánh đó vẫn giữ nguyên giá trị

và còn hết sức sống động đối với nhân dân ta và nhân dân tiến bộ yêu hoà

bình trên thế giới, đang đấu tranh xây dựng một xã hội tốt đẹp: công bằng,

dân chủ, văn minh. Vì vậy, nghiên cứu, tìm hiểu về cuộc kháng chiến chống

Mỹ, cứu nước nói chung, những vấn đề trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ

chức thực hiện thắng lợi các quyết định chiến lược của Đảng thời kỳ chống

Mỹ, cứu nước nói riêng là rất cần thiết, cấp bách, không những có ý nghĩa to

lớn về mặt khoa học, mà còn có giá trị thực tiễn sâu sắc, đặc biệt trong sự

nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế

quốc tế hiện nay của dân tộc ta.

Từ việc phân tích, luận giải tư tưởng chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành

thằng lợi quyết định của Đảng trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu

nước, luận văn đã góp thêm cơ sở cho việc khẳng định: Thắng lợi của cuộc

kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả của một loạt các nhân tố tạo

nên. Mà nguồn gốc của mọi nhân tố ấy là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của

Đảng ta, với đường lối giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa

xã hội và với nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh hết sức tài tình. Trong đó, tư

tưởng chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết định của Đảng trong

công cuộc kháng chiến là minh chứng sinh động, cụ thể nhất.

Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ quyết tâm tiêu

diệt phong trào yêu nước của nhân dân ta, biến miền Nam thành thuộc địa

171

kiểu mới, thành căn cứ quân sự để tiến công miền Bắc, xoá bỏ độc lập dân tộc

và CNXH ở nước ta, lập phòng tuyến ngăn chặn CNXH tràn xuống Đông

Nam á.

Trước âm mưu thâm độc đó của đế quốc Mỹ, Đảng ta đứng đầu là Chủ

tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đã nêu cao quyết tâm: Kiên quyết đánh bại cuộc

chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, nhằm bảo

vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ

nhân dân trong cả nước, đưa đất nước đi lên CNXH.

Trong quá trình chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng

ta trên cơ sở nắm vững mục tiêu cuối cùng của cuộc kháng chiến, nắm vững

phương châm đánh lâu dài, từ thực tiễn âm mưu thủ đoạn của địch trong từng

thời kỳ, mà có chủ trương và biện pháp đánh thắng chúng từng bước, đánh bại

từng chiến lược với những đòn quyết định, tạo ra bước ngoặt mới về chiến

lược, làm thay đổi cục diện chiến tranh. Qua đó tạo thời cơ, nắm thời cơ, tạo

thế và lực mới, mở những trận tiến công chiến lược, làm thay đổi tương quan

lực lượng, tiến tới tổng tiến công và nổi dậy, đánh bại âm mưu xâm lược của

kẻ thù, giành thắng lợi.

Từ thực tiễn chỉ đạo và tổ chức thực hiện, nhằm đánh bại các chiến

lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, qua các thời kỳ lịch sử, như chiến lược

“vành đai” và “tăng cường liên minh” (1954 - 1960); thử nghiệm “chiến tranh

hạn chế” dưới hai hình thức “Chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965), “chiến

tranh cục bộ” (1965 - 1968), “Việt Nam hoá chiến tranh” (1969 - 1975), Đảng

ta đã đánh giá đúng âm mưu, thủ đoạn, chỗ mạnh, điểm yếu căn bản của địch

và đề ra nghị quyết sáng suốt, đúng đắn, đúng thời điểm, để chỉ đạo cho sự nỗ

lực của toàn quân, toàn dân đánh bại ý chí xâm lược của kẻ thù, giành thắng

lợi quyết định tiến tới giành thắng lợi cuối cùng, hoàn thành mục tiêu của

172

cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.

Trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết định, Đảng ta

quán triệt tư tưởng chiến lược tấn công và thực hành tư tưởng chiến tiến công

một cách sáng tạo, linh hoạt.

Qua nghiên cứu tư tưởng chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi

quyết định của Đảng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, luận văn đã

bước đầu làm rõ nội hàm tư tưởng. Đó là khi nêu quyết tâm giành thắng lợi

quyết định là Đảng ta nêu mục tiêu giành một bước thắng lợi căn bản trong

tình hình cụ thể của cuộc kháng chiến. Điều đó rõ ràng có khác với giành

thắng lợi hoàn toàn. Lật giở những trang sử oanh liệt, của cuộc kháng chiến

chống Pháp, chúng ta thấy, cuộc tấn công chiến lược Đông Xuân (1953 -

1954) mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ làm chấn động địa cầu, chính

là một thắng lợi quyết định. Với thằng lợi đó, địch phải ký Hiệp định

Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương năm 1954.

Trong chống “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ, Đảng ta có chủ trương

đánh tan một số sư đoàn chủ lực của nguỵ, cùng với khởi nghĩa của quần

chúng để lập một chính phủ độc lập, trung lập, làm cho Mỹ không kịp trở tay,

bị động về chính trị; đồng thời có sách lược khôn khéo để Mỹ chịu thua, rút

lui mà đỡ mất “danh dự”. Đến chống “chiến tranh cục bộ”, khi mở cuộc tổng

tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, Đảng ta lại nêu ra nội dung giành

thắng lợi quyết định khá cụ thể. Đó là tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận

nguỵ quân, đánh đổ nguỵ quyền các cấp, giành chính quyền về tay nhân dân,

tiêu diệt một phần sinh lực và phương tiện chiến tranh của quân Mỹ, làm cho

chúng không thực hiện được các nhiệm vụ chính trị, quân sự; trên cư sở đó

đập tan ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải chịu thua, chấm dứt

mọi hành động chiến tranh ở cả hai miền Nam, Bắc; Thực hiện các mục tiêu

cơ bản là giành độc lập dân chủ, hoà bình, trung lập cho miền Nam, tiến tới

173

thống nhất nước nhà. Đồng chí Lê Duẩn đã nhấn mạnh, chúng ta quyết tâm

thực hiện cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968 nhằm làm tung toé

các khả năng, từ đó có thể giải quyết vấn đề miền Nam bằng đòn đánh quân

sự hoặc một giải pháp chính trị. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu

Thân 1968, tuy chưa thực hiện được tất cả các mục tiêu trên, nhưng là một

đòn sấm sét giáng vào Mỹ - nguỵ, mở ra một bước ngoặt trong công cuộc

kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta, buộc đế quốc Mỹ phải lùi

bước. Đó là một thắng lợi rất to lớn, không có thắng lợi ấy thì cũng không thể

có được những thắng lợi sau.

Đến thời kỳ chống “Việt Nam hoá chiến tranh”, Đảng ta đã nêu ra nội

dung giành thắng lợi quyết định là đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ,

đánh cho Mỹ phải rút hết quân, đánh cho nguỵ phải suy sụp, tạo điều kiện cơ

bản để thực hiện một miền Nam độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập tiến tới

thống nhất nước nhà. Và năm 1973, với tổng hoà chiến thắng từ chiến trương

miền Nam trong cuộc tổng tiến công xuân-hè 1972 và chiến thắng “Điện Biên

Phủ trên không” ở miền Bắc đã buộc Hoa Kỳ phải ký Hiệp định Pari, chấp

nhận rút quân về nước đem lại thắng lợi quyết định cho cách mạng miền

Nam, tạo đà để đi đến thắng lợi cuối cùng, giải phóng hoàn toàn miền Nam,

thống nhất đất nước.

Trong bối cảnh của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam

XHCN hiện nay, tư tưởng chỉ đạo giành thắng lợi quyết định của Đảng trong

cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vẫn giữ nguyên giá trị và mang tính

lịch sử cao. Vận dụng và phát triển nội dung tư tưởng này tròng công cuộc

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay

sẽ có ý nghĩa to lớn, tạo thế và lực mới đưa đất nước đi lên trên con đường

174

độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.

Tài liệu tham khảo

1. Gi. Amtơ (1995), Lời phán quyết về Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân,

Hà Nội.

2. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1995), Tổng

kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi và bài học, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến

tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975- Thắng lợi và bài học, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Nguyễn Văn Bạo (2007), “Xác định mục tiêu chiến lược và mục tiêu chủ

yếu trước mắt trong chỉ đạo kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, Tạp

chí Lịch sử Đảng, (4), tr45-46.

5. Nguyễn Bình (2005), “Vai trò của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam

Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, Tạp chí

Lịch sử Đảng, (12), tr11-14.

6. Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam

(1994), Kết luận về tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ.

7. Bộ Quốc Phòng - Ban Tư tưởng văn hoá trung ương - Thành uỷ thành

phố Hồ Chí Minh (2006), Đại thắng mùa xuân 1975 - Bản lĩnh và

trí tuệ Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

8. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1991), Cuộc chiến

tranh xâm lược thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, Hà

Nội.

9. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1994), Lịch sử quân

175

đội nhân dân Việt Nam, tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

10. Mai Văn Bộ (1985), Tấn công ngoại giao và tiếp xúc bí mật, Nxb Thành

phố Hồ Chí Minh.

11. Nguyễn Đình Bin (2002), Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

12. Nguyễn Bình (2005), “Vai trò của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam

Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, Tạp chí Lịch sử

Đảng, (12), tr11-14.

13. Hoàng Cầm (1978), “Chiến dịch tiến công Nguyễn Huệ năm 1972”, Tạp

chí Quân đội nhân dân, (8), tr5-13.

14. Chiến thắng Điện Biên Phủ sức mạnh dân tộc và tầm vóc lịch sử (1994),

Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nôi.

15. Trường Chinh (1976), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam”,

tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.

16. G.Côncô (1989), Giải phẫu một cuộc chiến tranh, tập 1, Nxb Quân đội

nhân dân, Hà Nội.

17. G.Côncô (1991), Giải phẫu một cuộc chiến tranh, tập 2, Nxb Quân đội

nhân dân, Hà Nội.

18. Lê Duẩn (1972), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập tự do vì chủ

nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà

Nội.

19. Lê Duẩn (1985), Thư vào Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

20. Lê Duẩn (1981), Tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của chúng

ta, Nxb Sự thật, Hà Nội.

21. Văn Tiến Dũng (1989), Bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ,

Nxb Sự thật, Hà Nội.

22. Văn Tiến Dũng (1996), Về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nxb

176

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

23. Văn Tiến Dũng (1992), “Thắng lợi chiến lược làm chuyển biến cục diện

chiến tranh”, Tạp chí ịch sử Đảng (2), tr 20 - 28.

24. Nguyễn Anh Dũng(1990), Về chiến lược quân sự toàn cầu của đế quốc

Mỹ, Nxb Sự thật, Hà Nội.

25. Phạm Huy Dương - Phạm Bá Toàn (2005), Ba mươi năm chiến tranh

giải phóng những trận đánh đi vào lịch sử, Nxb Công an nhân dân,

Hà Nội.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 22, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 23, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 24, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 25, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 26, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 27, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 28, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 29, Nxb

177

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 30, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 31, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 32, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 33, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 34, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 35, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 37, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

45. Ph. B. Đavítsơn (1995), Những bí mật của cuộc chiến tranh Việt Nam,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

46. Hà Đăng (2003), “Hiệp định Pari về Việt Nam - một mốc son trên đường

thắng lợi”, Tạp chí Cộng sản, (667), tr19-24.

47. G.C. Herring (1998), Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

48. Vũ Quang Hiển, Nguyễn Văn Khánh (2008), “Việt Nam - Hoa Kỳ con

đường dẫn tới đàm phán và ký Hiệp định Pari”, Tạp chí Lịch sử

178

quân sự (7), tr3-8.

49. Lê Mạnh Hùng (2002), “Góp phần tìm hiểu giá trị của chiến thắng “Điện

Biên Phủ trên không” (tháng 12 - 1972)”, Tạp chí Lịch sử Đảng,

(12), tr17-19.

50. Trần Thị Thu Hương (2008), “Hiệp định Pari năm 1973 thành quả đấu

tranh trên mặt trận ngoại giao của Đảng”, Tạp chí Lịch sử Đảng (6),

tr24-29.

51. Nguyễn Khắc Huỳnh (2008), “Đàm phán và Hiệp định Pari”, Tạp chí

Nghiên cứu quốc tế, (1), tr15-19.

52. Hồ Chí Minh toàn tập (2000), tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

53. Hồ Chí Minh toàn tập (2000), tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

54. Hồ Chí Minh toàn tập (2000), tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

55. Hồ Chí Minh (1967), Về nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước, Nxb Sự Thật, Hà

Nội.

56. Hồ Chí Minh (1976), Vì độc lập, vì tự do, vì chủ nghĩa xã hội”, Nxb Sự

thật, Hà Nội.

57. Hồ Khang (2003), “Tết Mậu Thân” một thành công trong chỉ đạo chiến

tranh của Đảng thời kỳ kháng chiến chống Mỹ”, Tạp chí Lịch sử

Đảng, (1), tr11-15.

58. Kết luận của Bộ chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam, ngày 23-4-1994, số

215-BBK/BCT.

59. Nguyễn Thành Lê (1998), Cuộc đàm phán Pari về Việt Nam (1968-

1973), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

60. Nguyễn Đình Lê (2005), “Tìm hiểu về đường lối chống Mỹ, cứu nước

của Đảng trong cách mạng miền Nam”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (6),

tr33-35.

61. V.I.Lênin (1979): Toàn tập, tập 14, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva

179

62. V.I. Lênin (1963): Toàn tập, tập 20, Nxb Sự thật, Hà Nội.

63. V.I. Lênin (1963): Toàn tập, tập 21, Nxb Sự thật, Hà Nội.

64. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (1984), tập 2, Nxb Sách giáo khoa

Mác - Lênin, Hà Nội.

65. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), tập 2, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

66. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

67. Nguyễn Văn Linh (1994), “Chiến thắng Bình Giã là cột mốc thắng lợi

thứ hai sau đồng khởi”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (6), tr30-31.

68. Nguyễn Phúc Luân (2005), Ngoại giao Việt Nam trong cuộc đụng đầu

lịch sử, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

69. Nguyễn Lữ (1986), “Cuộc chiến tranh không quân của đế quốc Mỹ đánh

phá miền Bắc Việt Nam, Tạp chí Lịch sử quân sự, (6), tr51-61.

70. Lê Xuân Lựu (1997), “Nghệ thuật đánh thắng địch từng bước, tạo thời cơ

giành thắng lợi hoàn toàn”, Tạp chí Cộng sản, (518), tr37-42.

71. Lê Xuân Lựu (2003), “Cuộc tiến công chiến lược tết Mậu Thân và sự phá

sản chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ”, Tạp chí Cộng

sản, (669), tr20-23.

72. Lê Xuân Lựu (2005), “Nghệ thuật đánh thắng từng chiến lược chiến

tranh của đế quốc Mỹ”, Tạp chí Cộng sản, (732), tr15-18.

73. M.Maclia (1990), Việt Nam - Cuộc chiến tranh mười ngàn ngày, Nxb Sự

thật, Hà Nội.

74. Lê Văn Mạnh (2002), “Đảng lãnh đạo xây dựng, bảo vệ miền Bắc phát

huy vai trò hậu phương lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu

180

nước”, Tạp chí Lịch sử Đảng (8), tr48-49.

75. Lê Văn Mạnh (2007), “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo chống chiến

lược” Việt Nam hoá chiến tranh” của đế quốc Mỹ từ 1969-1975”,

Luận án Tiến sỹ, Hà Nội.

76. Hoàng Minh (1975), Thất bại của một sức mạnh phi nghĩa, Nxb Quân

đội nhân dân, Hà Nội.

77. Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ, cứu nước (1985), tập 1, Nxb Sự

thật, Hà Nội.

78. Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ, cứu nước (1986), tập 2, Nxb Sự

thật, Hà Nội.

79. R.S.Mc Namara (1995), Nhin lại quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài

học về Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

80. Trần Nhâm (1978), Nghệ thuật biết thắng từng bước, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

81. Vũ Dương Ninh (2008), “Quan hệ Mỹ - Thiệu trong giai đoạn cuối của

cuộc hoà đàm Pari về Việt Nam”, Tạp chí Lịch sử quân sự (4), tr6-

10.

82. Những lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1960), tập V, Nxb Sự

Thật, Hà Nội.

83. Phân viện Hà Nội (2005), Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Đại

học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

84. Đặng Phong (1991), 21 năm viện trợ Mỹ ở Việt Nam, Viện nghiên cứu

Khoa học thị trường - giá cả, Hà Nội.

85. Nguyễn Trọng Phúc (2006), Tìm hiểu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

1930 - 2005, Nxb Lao động, Hà Nội.

86. Pi. A. Pulơ (1985), Nước Mỹ và Đông Dương từ Rudơven dến Níchxơn,

181

Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.

87. Trần Văn Quang (1987), “Chiến dịch Trị - Thiên - Đỉnh cao của cuộc

tiến công chiến lược năm 1972”, Tạp chí Quân đội nhân dân, (4),

tr4-12.

88. Lương Viết Sang (2004), Đảng lãnh đạo đấu tranh ngoại giao tại Hội

nghị Pari về Việt Nam (1968 - 1973), LATS, Hà Nội.

89. Lương Viết Sang (2002), “Quá trình hình thành chủ trương vừa đánh vứa

đàm của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, Tạp

chí Lịch sử Đảng (12), tr40-44.

90. Sức mạnh Việt Nam (1976), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

91. Phùng Thế Tài (2000), “Tầm nhìn xa của Bác”, Nhân dân, (16.384), tr2

92. Hoàng Văn Thái (1982), “Xây dựng và phát huy sức mạnh của hậu

phương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, Tạp chí Cộng

sản (12), tr11-19.

93. Nguyễn Chí Thanh (1995), “Vì sao quân và dân miền nam thắng lớn Mỹ

và nguỵ thua to trong mùa khô 1965 - 1966, Tạp chí Quốc phòng

toàn dân (4), tr31-38.

94. Nguyễn Anh Thái (2001), Lịch sử thế giới hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

95. Hoàng Minh Thảo (1987), “Về nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch trong chiến

dịch Bắc Tây Nguyên 1972”, Tạp chí Quân đội nhân dân, (6), tr26-

32.

96. Mạnh Quang Thắng (1998), “Tiến công ngoại giao và đàm phán ở Pari”,

Tạp chí Lịch sử Đảng, (3), tr39-52.

97. Nguyễn Huy Thục (1995), “Những năm tháng chiến đấu quyết định buộc

Mỹ ký kết hiệp định chấm dứt chiến tranh”, Tạp chí Quốc phòng

182

toàn dân, (2), tr85-88.

98. Nguyễn Duy Trinh (1976), Miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong quá trình

thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, Nxb Sự thật, Hà Hội.

99. Tống Hồ Trinh (1987), “Nghệ thuật vừa đánh vừa đàm của Đảng ta trong

kháng chiến chống Mỹ”, Tạp chí Quân Đội nhân dân, (12), tr34-42.

100. Trần Trong Trung (2002), “Trận Điện Biên Phủ trên không 30 năm

trước”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (12), tr10-16.

101. Nguyễn Xuân Tú (2001), Đảng chỉ đạo giành thắng lợi từng bước trong

cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thời kỳ (1965 - 1975), Luận

án Tiến sỹ, Hà Nội.

102. Đào Duy Tùng (1986), Tìm hiểu tư duy khoa học của Đảng ta trong cuộc

kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb Sự Thật, Hà Nội.

103. Hoàng Tùng (1978), Thế tiến công của ba dòng thác cách mạng, Nxb Sự

thật, Hà Nội.

104. Viện Lịch sử Đảng (1985), Những sự kiện lịch sử Đảng, tập III (Về

kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975), Nxb Thông tin lý

luận, Hà Nội.

105. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1999), Mấy vấn đề chỉ đạo chiến lược

trong 30 năm chiến tranh giải phóng (1945 - 1975), Nxb Quân đội

nhân dân, Hà Nội.

106. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1990), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ,

cứu nước (1954 - 1975), tập I, Nxb Sự thật, Hà Nội.

107. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1990), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ,

cứu nước (1954 - 1975), tập II, Nxb Sự thật, Hà Nội.

108. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1997), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ,

cứu nước (1954 - 1975), tập III, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

109. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1999), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ,

183

cứu nước (1954 - 1975), tập IV, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

110. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2001), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ,

cứu nước (1954 - 1975), tập V, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

111. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2007), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ,

cứu nước (1954 - 1975), tập VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

112. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1995), Đại thắng mùa xuân 1975

nguyên nhân và bài học, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

113. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2005), Lịch sử quân sự Việt Nam, tập

11, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

114. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2003), Tóm tắt các chiến dịch trong

kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 - 1975, Nxb Quân đội nhân

dân, Hà Nội.

115. Viện Sử học (1985), Sức mạnh chiến thắng của cuộc kháng chiến chống

Mỹ cứu nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

116. Hồ Kiểm Việt (2005), “Cục diện kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ -

Sự thông nhất giữa chiến lược của Đảng với tiên đoán thiên tài của

Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, (1), tr21-24.

117. Việt Nam Thông tấn xã (1971), Tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mỹ về

cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, tập 2, Việt Nam Thông tấn xã

phát hành, Hà Nội.

118. Nguyễn Thế Vỵ (2005), “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào” - Biện

chứng của quy luật đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta”,

184

Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 12, tr83-85.

Danh mục các phu lục

Tên phụ lục

TT

Trang

1

177

Lực lượng quân sự và chi phí chiến tranh của Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam

2 Số quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam từ 1961 đến 1973

178

3 Kết quả bình định lập ấp chiến lược của Mỹ-nguỵ trên toàn miền

178

Nam từ 1964-1973

4 Viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam từ 1955-1975

179

5 Số lượng máy bay, tàu chiến bị bắn trong chiến tranh phá hoại của

179

Mỹ ở miền Bắc

6 Thành tích chiến đấu tổng hợp của quân và dân ta đánh thắng chiến

180

tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ ở miền Nam

7 Sơ đồ diễn biến trận ấp Bắc

181

8 Diễn biến trận vận động tiến Bình Giã - Xuân Sơn

182

9 Diễn biến chiến dịch Ba Gia Bắc Quảng Ngãi hè 1965

183

10 Diễn biến trận tiến công Đồng Xoài

184

11 Sơ đồ cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất của địch (1965-1966)

185

12 Diễn biến chiến dịch phản công đánh thắng cuộc hành quân

186

Gianxơn Xity của Mỹ

13 Diễn biến chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh 1968

187

14 Diễn biến đợt 1 tiến công Sài Gòn - Gia Định

188

15 Cuộc tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968

189

16 Diễn biến chiến dịch Bắc Tây Nguyên

190

17 Diễn biến chiến dịch Quảng Trị năm 1972

191

18 Diễn biến chiến dịch Nguyễn Huệ

192

19 Diễn biến chiến dịch tiến công tổng hợp ở quân khu 8

193

20 Một số hình ảnh về cuộc kháng chiến chống Mỹ, nước

194

185

Phụ lục 1:

Lực lượng quân sự và chi phí chiến tranh của Mỹ

trong chiến tranh xâm lược Việt Nam

(so sánh với chiến tranh thế giới thứ hai và chiến tranh Triều Tiên)

Chiến tranh thế

Chiến tranh

Chiến tranh xâm

giới thứ hai

Triều Tiên

lược Việt Nam

3 năm 8 tháng

3 năm

11 năm 1 tháng

Thời gian

(12/1941 - 8/1945)

(6/1950 - 6/1953)

Số quân Mỹ huy

327.000

(12/1961 - 1/1973) 549.500*

động lúc cao nhất

(30-6-1953)

(4-1969)

Số bom đạn và

14.300.000

thuốc nổ Mỹ đã

5.000.000

2.600.000

(1961-1972)

dùng (tấn)

Số máy bay Mỹ sử

Riêng chiến trường

6.431**

dụng lúc cao nhất

Thái Bình Dương

1.500

(1969)

(chiếc)

539 (1941)

Riêng chiến trường

Số phi vụ

Thái Bình Dương

425.000

1.651.122

669.235

Chi phí chiến tranh

341

20

676***

(tỷ đô la)

* Không kể 25.000 quân Mỹ ở Thái Lan, Đài Loan, Philippin, Nhật Bản, Guam, hàng ngày

phục vụ các hoạt động quân sự của Mỹ ở Việt Nam

** Chỉ tính máy bay chiến thuật và máy bay lên thẳng

*** Con số do Bộ trưởng Thương mại Mỹ công bố 1972 là 352 tỷ đôla. Còn theo tính toán

của giáo sư Mỹ Xtiven tổng chi phí của Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam lên đến

900 tỷ đôla.

Nguồn: [90, tr.121-123]

186

Phụ lục 2:

Số quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam từ 1961 đến 1973

Đơn vị: 1000 tên

Nguồn: [90, tr.124]

Phụ lục 3:

Kết quả bình định lập ấp chiến lược của Mỹ-nguỵ trên toàn miền Nam từ 1964-1973

Nguồn:[101, Phụ lục 9]

187

Phụ lục 4:

Viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam từ 1955-1975

Đơn vị: Tấn

Nguồn: [3, phụ lục 3]

Phụ lục5:

Số lượng máy bay, tàu chiến bị bắn trong chiến tranh phá hoại

của Mỹ ở miền Bắc

Thời gian

B.52

Cộng

F.111

Bắn chím, bán cháy tàu chiến

Bắn rơi máy bay Các loại khác

1964

12

12

1

1965

834

834

15

1966

773

773

22

1967

5

1.062

1.067

69

1968

1

3

567

571

36

1969-1971

1

169

170

3

1972

54

10

670

724

118

1973 (đến ngày 17-1)

7

13

20

7

Tổng cộng

68

13

4.100

4.181

271

Nguồn: [90, tr.177]

188

Phụ lục 6:

Thành tích chiến đấu tổng hợp của quân và dân ta đánh thắng chiến tranh xâm lược

thực dân mới của Mỹ ở miền Nam

Tiêu diệt và làm tan rã

Thu và phá huỷ

Năm

Cộng

Quân đội Sai Gòn

Máy bay

Đại bác

Xe bọc thép

Mỹ và đồng minh

Đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mỹ

Tàu xuồng chiến đấu

1961

8

34.321

34.329

1

13

17

1962

256

49.102

49.358

200

34

72

Đánh bại “chiến tranh

1963

993

92.303

93.296

690

85

141

đặc biệt”

542

1964

2.000

126.123

128.123

141

292

Cộng

2.357

301.849

305.106

1.433

273

522

1965

19.200

148.300

167.500

1.337

426

166

1966

118.000

150.200

268.200

2.130

1.200

97

Đánh bại

“chiến tranh

1967

170.000

195.000

365.000

3.200

750

4.000

200

cục bộ”

1968

230.000

400.000

630.000

6.000

1.100

7.000

1.000

Cộng 537.200

893.500 1.430.700 12.667 1.850 12.626

1.463

1969

235.000

410.000

645.000

6.400

2.500

10.000

1.700

Đánh bại

1970

110.000

310.000

420.000

5.900

1.850

7.400

680

1971

20.000

230.000

250.000

1.800

650

2.500

700

“Việt Nam hoá chiến

400

1972

(a)

500.000

500.000

2.500

1.500

2.850

tranh”

Cộng 365.000 1.450.000 1.815.000 16.600 7.500 22.750

3.480

Đánh bại

hoàn toàn chiến tranh

1974

255.000

255.000

518

2.143

1.112

416

xâm lược

1975

1.351.000

1.351.000

1.850

1.660

2.074

1.611

thực dân

mới

(a) Không có số liệu

Nguồn: [90, tr174-175]

189

Phụ lục 7

Nguån:[108, tr.188]

Phụ lục 8

190

Nguån: [108, tr328]

Phụ lục 9

191

N

guån:

[108,

tr.370]

Phụ lục 10

192

Nguồn:[

108,

tr.364]

193

Phụ lục 11

Nguồn: [109, tr.72]

194

Phụ lục 12

Nguồn: [109, tr.232]

195

Phụ lục 13

Nguồn:[110, tr.110]

196

Phụ lục 14

Nguồn:[110, tr.88]

Phụ lục 15

197

Nguồn:[110, tr.152]

Phụ lục 16

198

Nguồn: [111, tr.88]

199

Phụ lục 17

Nguồn:[111, tr.128]

200

Phụ lục 18

Nguồn: [111, tr.184]

201

Phụ lục 19

Nguồn: [111, tr.200]

202

Phụ lục 20

Một số hình ảnh về cuộc kháng chiến chống Mỹ, nước của Việt Nam

Tổng thống Kennơdi (bên phải) thông qua chiến lược “chiến tranh đặc biệt” Oasinhtơn, tháng 11-1961

Nguòn:[108, tr.20]

Lực lượng đặc biệt Mỹ ở Đắc Lắc, 1963

Nguồn: [108, tr.212]

Nguỵ Sài Gòn dùng chiến thuật “Thiết xa vận” càn quét gom dân

Nguồn: [108, tr.202]

Chiến thuật Trực thăng vận

Nguồn: [108, tr.212]

199

Cố vấn Mỹ huấn luyện cho biệt kích nguỵ tập nhảy dù để tung ra phá hoại miền Bắc (ảnh sau buổi tập)

Nguồn: [108, tr.24]

ấp chiến lược Mỹ - Nguỵ xây dựng năm 1962

Nguồn:[108, tr.24]

200

Nhân dân phá ấp chiến lược trở về làng cũ Nguồn:[108, tr.162]

Phong trào đấu tranh chống Mỹ-Nguỵ ở đô thị miền Nam năm 1962 Nguồn:[108, tr.162]

201

tháo chạy

trong

Địch trận ấp Bắc Nguồn:[108, tr.202]

Làng xã chiến đấu Nguồn:[108, tr.220]

202

Lính thuỷ đánh bộ Mỹ đổ bộ vào Đà Nằng, ngày 8-3-1965

Nguồn: [109, tr.24]

Lính sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ càn quét, bắn phá vùng Tam Quan, Bình Định mùa khô 1965-1966

Nguồn:[109, tr.25]

203

Nông dân miền Bắc “tay cày, tay súng” trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của địch

Nguồn: [109, tr.313]

Tải đạn ra chiến trường

Nguồn: [109, tr.376]

204

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo Hội nghị Bộ Chính trị tháng 12-1967 quyết định chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân miền Nam sang thời kỳ giành thắng lợi quyết định

Nguồn: [110, tr.1]

Lữ đoàn dù 173 (Mỹ) bị bộ đội tiến công ở chân cao điểm 875, tháng 11-1967

Nguồn:[110, tr199]

205

L.Giônxơn (người ngồi đầu bàn quay lưng lại) cùng bộ tham mưu đang vạch kế hoạch chiến tranh xâm lược Việt Nam Nguồn: [109, tr.24]

L.Giônxơn và các phụ tá theo dõi chiến sự ở Khe Sanh trên sa bàn tại Nhà Trắng

Nguồn: [110, tr.199]

206

Đồng bào Củ Chi đấu tranh chính trị chống Mỹ và nguỵ quyền Sài Gòn

Nguồn: [110, tr.279]

Nhân dân Mỹ biểu tình trước Lầu Năm Góc phản đối chiến tranh Việt Nam, đòi rút quân Mỹ về nước (10-1967)

Nguồn:[ 110, tr.278]

207

Chi viện cho chiến trường miền Nam bằng xe thồ Nguồn:[108, tr.180]

Bộ đội Trường Sơn vận chuyển hàng ra chiến trường, năm 1972

Nguồn:[111, tr.321]

208

Bộ đội cao xạ chiến đấu bảo vệ Hà Nội, tháng 12-1972

Bộ đội cao xạ chiến đấu bảo vệ Hải Phòng, tháng 12-1972

Xác máy bay B.52 bị tên lửa phòng không bắn rơi tại hồ Hữu Tiệp, làng Ngọc Hà, Ba Đình, Hà Nội Nguồn: [111, tr.320]

209

Hội đàm bí mật Lê Đức Thọ - Kítxinhgiơ tại Pari

Toàn cảnh phiên họp cuối cùng Hội nghị Pari, ngày 27-1-1973

Nguồn: [111, tr.321]

210

Nhân dân Tây Ninh nổi dậy giành quyền làm chủ

16 giờ ngày 29-3-1973, tại sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tư lệnh quân viễn chinh Mỹ làm lễ cuốn cờ rút khỏi miền Nam Việt Nam

Nguồn: [111, tr.321]

211

Quân giải phóng tiến vào Sài Gòn ngày 30-4-1975

Xe tăng tiến vào Dinh Độc Lập ngày 30-4-1975

212