Đại học quốc gia hà nội
Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn
---------------------------------
Phạm Thị Trọng Hiếu
Tư tưởng chỉ đạo và tổ chức thực hiện
giành thắng lợi quyết định của đảng trong
sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử
Hà Nội - 2008
1
Đại học quốc gia hà nội
Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn
----------------------------------
Phạm Thị Trọng Hiếu
Tư tưởng chỉ đạo và tổ chức thực hiện
giành thắng lợi quyết định của đảng trong
sự nghiệp kháng chiến chống mỹ, cứu nước
Chuyên ngành : Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số
: 602256
Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn đình lê
Hà Nội - 2008
2
Ban Chấp hành
Bảng chú thích các chữ cái viết tắt
BCH
Bộ Chính trị BCT
Chủ nghĩa xã hội CNXH
Chủ nghĩa tư bản CNTB
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam MTDTGPMNVN
Miền Bắc Việt Nam MBVN
Miền Nam Việt Nam MNVN
Nhà xuất bản Nxb
Tổng công kích, tổng khởi nghĩa TCK,TKN
Tư bản chủ nghĩa TBCN
3
Xã hội chủ nghĩa XHCN
Mục lục
Trang
1
Mở đầu
8
Chương 1 bối cảnh lịch sử ra đời đường lối kháng chiến chống mỹ, cứu nước của
Đảng ta
1.1. Điều kiện khách quan của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
8
1.2. Điều kiện chủ quan của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
28
44
Chương 2 Quá trình Đảng chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết định
trong kháng chiến chống mỹ, cứu nước
2.1. Trong những năm chống “chiến tranh đặc biệt” (1961-1965)
44
2.2. Chỉ đạo giành thắng lợi quân sự, chính trị trong những năm (1965-
68
1968)
2.3. Chỉ đạo tiến lên giành thắng lợi quyết định trong những năm (1969 - 1973)
102
130
Chương 3 một số vấn đề rút ra từ chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết
định của Đảng trong kháng chiến chống mỹ, cứu nước
3.1. Bám sát thực tiễn cách mạng, đề ra đường lối chiến lược đúng đắn, tổ
130
chức thực hiện sáng tạo, linh hoạt, hiệu quả cao
133
3.2. Tuân thủ những nguyên tắc trong thực hành tư tưởng chiến lược tấn công; thực hiện những “quả đấm chủ lực”, đảm bảo giành thắng lợi quyết định, buộc địch từng bước xuống thang chiến tranh
139
3.3. Trên cơ sở quán triệt tư tưởng chiến lược tấn công, nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa đánh lâu dài với tranh thủ thời cơ, giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn, tạo ra bước ngoặt mới về chiến lược, làm thay đổi cục diện chiến tranh
144
3.4 Đánh giá đúng kẻ thù, nắm vững mục tiêu cuối cùng của cách mạng, để ra các nghị quyết đúng đắn để chỉ đạo toàn quân, toàn dân, giành thắng lợi quyết định trong những điều kiện cụ thể, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn
149
3.5 Nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo quy luật chiến tranh cách mạng, biết khơi dậy và phát huy cao độ vai trò của nhân tố con người trong việc thực hiện các quyết định chiến lược
161
Kết luận
165
Tài liệu tham khảo
175
Phụ lục
4
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Kháng chiến chống Mỹ cứu nước là cuộc đấu tranh gay go, ác liệt nhất
trong lịch sử chống ngoại xâm của nhân dân ta. Thắng lợi của cuộc đấu tranh
này có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam và thế
giới. Thắng lợi này “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong
những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như
một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế
to lớn và có tính thời đại sâu sắc” [42, tr.471]. Nó đã chấm dứt sự thống trị
của chủ nghĩa đế quốc và xóa bỏ chế độ phong kiến ở nước ta, đưa nước ta
bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã
hội. Đến nay, ý nghĩa lịch sử và những bài học kinh nghiệm của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước vẫn còn giữ nguyên giá trị, đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay, những kinh nghiệm đó sẽ góp phần quan trọng giúp ta thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã chiến đấu anh dũng, đánh
thắng các chiến lược chiến tranh nằm trong chiến lược toàn cầu phản
cách mạng mà Mỹ đã áp dụng ở Việt Nam. Trong thời gian từ 1961 đến
1975, với sự tập trung cao nhất về tài chính và quân sự, Mỹ đã triển khai
các chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam
hoá chiến tranh” nhằm mục đích tiêu diệt lực lượng cách mạng của ta,
ngăn chặn làn sóng chủ nghĩa cộng sản tràn xuống khu vực Đông Nam á.
Sớm nhận thấy đế quốc Mỹ là một kẻ thù nguy hiểm có sức mạnh tài
chính và quân sự vô cùng to lớn, chúng ta không thể cùng một lúc đánh
5
bại cả đế quốc Mỹ và nguỵ quân, nguỵ quyền nên Đảng ta đã có một
quyết định quan trọng trong chỉ đạo chiến lược kiềm chế địch, giành
thắng lợi từng bước tiến lên giành thắng lợi quyết định và từ đó tạo nên
chiến thắng lịch sử mùa xuân 1975. Đó là bước quá độ từ thắng lợi quyết
định trên chiến trường trước khi tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn (có
nghĩa là phải “đánh cho Mỹ cút” rồi mới “đánh cho nguỵ nhào”). Nội
dung của thắng lợi quyết định: Mở bước phát triển cho cách mạng miền
Nam, từ thắng lợi đó, tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam là xu thế tất
yếu, không thể đảo ngược. Với việc Mỹ phải ký Hiệp định Pari năm 1973,
chấp nhận rút quân khỏi miền Nam, chúng ta đã giành được thắng lợi
quyết định. Thắng lợi quyết định đó đã đè bẹp ý chí chiến đấu của kẻ thù,
tạo cơ sở và tiền đề vững chắc để chúng ta tiến lên giải phóng hoàn toàn
miền nam, thống nhất đất nước. Có thể nói, việc chỉ đạo và tổ chức thực
hiện giành thắng lợi quyết định là sự sáng tạo lớn nhất của Đảng trong sự
nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nó đã kế thừa và phát huy kinh
nghiệm đấu tranh của Cách mạng Tháng 8 và 9 năm kháng chiến lên
đỉnh cao.
Đi sâu tìm hiểu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung và
quá trình chỉ đạo giành thắng lợi quyết định nói riêng sẽ giúp ta thấy được sự
khôn khéo, tài tình và sáng suốt của Đảng, làm phong phú thêm những trang
sử vẻ vang, oanh liệt của Đảng. Nghiên cứu vấn đề này còn góp phần lý giải
rõ hơn nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của cuộc kháng chiến; đồng thời từ quá
trình chỉ đạo giành thắng lợi quyết định này có thể rút ra những bài học kinh
nghiệm cần thiết cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Với ý nghĩa lý luận và thực tiễn trên đây, chúng tôi chọn “Tư tưởng
chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết định của Đảng trong sự
nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước” làm đề tài luận văn Thạc sỹ lịch
6
sử của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Chiến tranh Việt Nam (1954 - 1975) là đề tài thu hút được sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước. Vì vậy, viết về cuộc
đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam đã có nhiều sách, chuyên khảo,
tham luận hội thảo, bài báo khoa học của các học giả, các cán bộ tham gia
lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh. Các công trình đó đã đề cập đến sự lãnh đạo,
chỉ đạo của Đảng ta ở những góc độ khác nhau. Tiêu biểu như:
Tác phẩm “Nghệ thuật biết thắng từng bước” của Trần Nhâm, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội 1978. Trên cơ sở phân tích đường lối chỉ đạo cách
mạng của Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tác giả đã
khái quát lên những đặc điểm của nghệ thuật “biết đánh” và “biết thắng” đế
quốc Mỹ. Tác phẩm “Sức mạnh chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước” của Viện Sử học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1985 là tập hợp
nhiều bài viết của các tác giả đề cập đến nguyên nhân thắng lợi, bài học kinh
nghiệm, ý nghĩa và tác động to lớn của thắng lợi đối với dân tộc và thời đại.
Tác phẩm đã làm rõ: chiến thắng đó là thành quả tổng hợp của một loạt các
nhân tố nhưng quan trọng nhất là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta
với nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh hết sức tài tình. Tác phẩm “Lịch sử kháng
chiến chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975”, 9 tập của Viện Lịch sử quân sự Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội đã khái quát lại toàn bộ cuộc đấu tranh
chống Mỹ cứu nước của nhân dân từ đó rút ra những đánh giá về cuộc đấu
tranh này. Tác phẩm “Về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước” của Đại
tướng Văn Tiến Dũng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996 cũng trình bày
một cách có hệ thống về quá trình đấu tranh giành thắng lợi của nhân dân ta
đồng thời nêu lên những kết luận về chỉ đạo chiến lược. Tác phẩm “Mấy vấn
đề chỉ đạo chiến lược trong 30 năm chiến tranh giải phóng 1945 - 1975)” của
7
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1999 đã
tổng kết nghệ thuật chỉ đạo chiến lược trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp
và chống Mỹ. Tác phẩm “Ba mươi năm chiến tranh giải phóng - những trận
đánh đi vào lịch sử”, nhiều tác giả, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2005 là
công trình công phu của nhiều tác giả về cuộc chiến đấu trường kỳ, các tác giả
đã tổng kết, phân tích, đánh giá v.v... tứng trân đánh tiêu biểu để đi đến kết
luận vì đâu mà cuộc đấu tranh của nhân dân ta thắng lợi
Nghiên cứu về vấn đề này, tác giả Nguyễn Xuân Tú với đề tài Luận án
Tiến sỹ “Đảng chỉ đạo giành thắng lợi từng bước trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước thời kỳ 1965 - 1975” (năm 2001) đã dựng lại diễn biến
cuộc kháng chiến thời kỳ này để làm rõ những chiến lược, sự lãnh đạo, chỉ
đạo cụ thể của Đảng Cộng sản Việt Nam giành thắng lợi từng bước tiến lên
giành thắng lợi hoàn toàn từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm.
Luận án Tiến sỹ “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo chống chiến lược
“Việt Nam hoá chiến tranh” của đế quốc Mỹ từ 1969 đến 1975” (năm 2007)
của tác giả Lê Văn Mạnh đã làm rõ sự chỉ đạo chiến lược của Đảng trong giai
đoạn cuối của cuộc chiến tranh.
Ngoài ra, trên các tạp chí còn có rất nhiều bài viết của các tác giả đề
cập đến vấn đề Đảng chỉ đạo đấu tranh giành thắng lợi trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, tiêu biểu là các bài viết: Lê Xuân Lựu (1997) “Nghệ thuật
đánh thuật đánh thắng địch từng bước, tạo thời cơ giành thắng lợi hoàn
toàn”, Tạp chí Cộng Sản, số 8; Nguyễn Huy Thục (1995) “Những năm tháng
chiến đấu quyết định buộc Mỹ ký Hiệp định chấm dứt chiến tranh”, Tạp chí
Quốc phòng toàn dân, số 4; Nguyễn Thế Vị (2005) “Đánh cho Mỹ cút, đánh
cho nguỵ nhào - biện chứng của quy luật đấu tranh chống giặc ngoại xâm của
dân tộc ta”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 12; Nguyễn Văn Bạo (2007)
8
“Xác định mục tiêu chiến lược và mục tiêu chủ yếu trước mắt trong chỉ đạo
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 4 v.v… Ngoài
ra còn nhiều bài viết khác cũng đề cập ít nhiều đến vấn đề này.
Các học giả nước ngoài, chủ yếu là người Mỹ đã từng trực tiếp tham
gia chiến đấu hoặc từng nghiên cứu về cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã có khá
nhiều công trình viết về vấn đề này. Tiêu biểu như: “Giải phẫu một cuộc
chiến tranh” tập 1, tập 2 (G.Côncô, Nxb Quân đội nhân dân, năm 1989 và
1991); “Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ” (C.Herring, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998); “Nhin lại quá khứ - Tấn thảm kịch và
những bài học về Việt Nam” (R.S.Mc Namara, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội 1995); “Việt Nam - Cuộc chiến tranh mười ngàn ngày” (M.Maclia, Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1990)… Những tác phẩm này đã góp phần phản ánh cục diện
cuộc chiến tranh ở Việt Nam nhưng do mục đích và lập trường khác nhau nên
phần lớn các tác giả chưa đánh giá đúng thực chất của cuộc chiến tranh này,
tuy vậy họ vẫn phải thừa nhận thất bại đó và thừa nhận vai trò to lớn của
Đảng ta trong việc lãnh đạo thắng lợi sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.
Những tài liệu trên nhìn chung mới chỉ dừng lại ở việc khái quát và
tổng kết cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước, đi sâu vào một vấn đề cụ thể
trong một giai đoạn nhất định hoặc sự chỉ đạo đấu tranh của Đảng trên một số
lĩnh vực khác nhau. Cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu một
cách có hệ thống về tư tưởng chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi
quyết định của Đảng trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tuy
nhiên, những kết nghiên cứu trên đã được chúng tôi kế thừa để thực hiện luận
văn này.
9
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: nghiên cứu đường lối, chủ trương, chính sách và quá trình
tổ chức chỉ đạo giành thắng lợi quyết định của Đảng trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu những chủ trương, biện pháp của
Đảng Cộng sản Việt Nam về tổ chức chỉ đạo giành thắng lợi quyết định trong
sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam thời kỳ Mỹ thực
hiện chiến lược chiến tranh đặc biệt đến khi Mỹ ký Hiệp định Pari (1961-
1973).
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
- Thông qua việc tìm hiểu về cuộc kháng chiến chống Mỹ,cứu nước,
phân tích những chủ trương, biện pháp chỉ đạo giành thắng lợi quyết định từ
đó làm rõ sự chỉ đạo, sáng tạo của Đảng trong giai đoạn đấu tranh quyết liệt
này.
- Từ thực tiễn nghiên cứu, đánh giá những thắng lợi đã đạt được và rút
ra những kinh nghiệm chỉ đạo giành thắng lợi quyết định của Đảng trong thời
kỳ chiến tranh này.
Nhiệm vụ:
- Tập hợp các tư liệu có liên quan đến đê tài nghiên cứu.
- Hệ thống hoá những tài liệu theo từng giai đoạn lịch sử gắn với những
điều kiện lịch sử cụ thể.
- Tổng hợp, phân tích những chủ trương, biện pháp của Đảng cũng như
những kết quả của nó trong quá trình tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết
định.
10
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
Để hoàn thành luận văn này, tác giả sử dụng phương pháp lịch sử và
phương pháp lôgic là chủ yếu. Bên cạnh đó, sử dụng các phương pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh... cố gắng làm rõ những nội dung của đề tài.
Nguồn tài liệu được thu thập và xử lý trong quá trình làm luận văn chủ
yếu là các tài liệu về sự chỉ đạo của cả địch và ta như: Văn kiện Đảng toàn tập
gồm các tập từ năm 1960 đến 1973 và 1976, Thư vào Nam, Nghị quyết các
cấp bộ Đảng, các chỉ thị, báo cáo tổng kết, kế hoạch, phương án tác chiến...;
Các báo cáo, luận án, công trình nghiên cứu, các bài viết của các học giả; Các
công trình tổng kết, sách lịch sử, biên niên sự kiện, hồi ký của các nhà hoạch
định và chỉ đạo chiến tranh; Các công trình nghiên cứu, hồi ký của các học
giả nước ngoài, chủ yếu là của những người ở bên kia chiến tuyến viết về
cuộc chiến tranh Việt Nam.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống lại quá trình chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi
quyết định của Đảng trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
- Phân tích tính sáng tạo, cách mạng của Đảng, kế thừa kinh nghiệm
chín năm kháng chiến 1945-1954 lên đỉnh cao.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Phụ lục luận văn
11
được cấu trúc thành 3 chương, 10 tiết.
Chương 1
Bối cảnh lịch sử ra đời đường lối
kháng chiến chống mỹ, cứu nước của Đảng ta
Để hiểu được bản chất của một cuộc chiến tranh, trước hết chúng ta
phải xem xét nó đã diễn ra trong điều kiện chủ quan, khách quan nào.
V.I.Lênin cũng cho rằng: “Lý luận Mácxít tuyệt đối đòi hỏi người ta, khi phân
tích một vấn đề xã hội, phải đặt nó trong một khung cảnh nhất định”
[62,tr.468]. Người còn chỉ rõ: “Chỉ có hiểu biết căn bản đặc điểm của thời đại,
chúng ta mới có thể tính đến những đặc điểm chi tiết của nước này hay nước
nọ”[63, tr.157]. Nắm vững những đặc điểm cơ bản của thời đại trong bối cảnh
lịch sử nhất định sẽ là cơ sở để giải quyết đúng đắn những vấn đề của thời đại
đồng thời sẽ là căn cứ để giải quyết đúng đắn những vấn đề cụ thể đặt ra cho
cách mạng mỗi nước.
Đây là điều có ý nghĩa phương pháp luận để phân tích một cuộc chiến
tranh, đặc biệt như cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Việt Nam, mà
quy mô của nó đụng chạm đến toàn bộ các mối quan hệ quốc tế. Đó còn là cơ
sở khách quan để Đảng ta đề ra đường lối, phương pháp, chiến lược và sách
lược cách mạng đúng đắn khi tiến hành đấu tranh.
Có như vậy chúng ta mới có thể cắt nghĩa được vì sao một nước nhỏ
bé, nghèo nàn, lạc hậu như Việt Nam lại có thể giành được thắng lợi trước
một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới.
1.1. Điều kiện khách quan của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
1.1.1. Âm mưu của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam
Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam đã trải qua những năm
tháng chiến đấu cam go, ác liệt: với một nghìn năm Bắc thuộc, ta đã phải ra
12
sức chiến đấu để bảo vệ nền độc lập chống lại sự đồng hóa của các vương
triều phong kiến phương Bắc; ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông; gần
một trăm năm kháng chiến chống thực dân Pháp; hơn hai mươi năm kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước. Nhưng thành quả đạt được trong sự nghiệp kháng
chiến chống quân xâm lược đã minh chứng cho tinh thần quật cường của dân
tộc ta, vượt mọi khó khăn, gian khổ để giành lấy hoà bình, độc lập cho dân
tộc.
Khác với các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đó, cuộc đấu
tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta diễn ra trong điều kiện hoàn toàn
khác. Kẻ thù mà nhân dân ta phải đương đầu trong cuộc chiến này là một “đế
quốc hùng mạnh nhất, giàu có nhất, tàn bạo, nham hiểm, hiếu chiến nhất”; có
trong tay chiến lược toàn cầu phản cách mạng. Nếu so về thời gian thì cuộc
chiến này không dài bằng các cuộc chiến tranh trước đó nhưng so về tương
quan lực lượng thì đây là cuộc chiến tranh có “một tương quan lực lượng
chênh lệch nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta về phương thức
sản xuất cũng như tiềm lực kinh tế, quân sự”[7, tr.65].
Về mặt kinh tế: Do có sự tính toán khôn khéo, Mỹ đã tham gia chiến
tranh thế giới thứ hai nhưng không những không bị chiến tranh tàn phá như
các nước khác mà còn thu về cho mình một nguồn lợi khổng lồ nhờ buôn bán
vũ khí. Vì thế, Mỹ đã phát triển mạnh mẽ và trở thành đế quốc giàu có nhất
thể giới, chiếm ưu thế tuyệt đối về mọi mặt trong thế giới tư bản. Mỹ có một
nền công nghiệp và nông nghiệp phát triển cao. Sản lượng công nghiệp Mỹ
chiếm quá nửa tổng sản lượng công nghiệp của thế giới tư bản (56,4% năm
1948). Sản lượng nông nghiệp cũng gấp hai lần sản lượng của Anh, Pháp,
Cộng hoà liên bang Đức, Italia, Nhật cộng lại (1949) [103, tr.286]. Về tài
chính, Mỹ có khối lượng vàng dự trữ lớn nhất thế giới (gần 25 tỷ đôla năm
13
1949, chiếm 3/4 lượng vàng của thế giới tư bản). Mỹ đã trở thành chủ nợ duy
nhất trên thế giới, ngay cả các chủ nợ trước kia của Mỹ như Anh, Pháp cũng
trở thành con nợ của Mỹ.
Nhằm thiết lập sự thống trị độc tôn của chủ nghĩa tư bản trên phạm vi
toàn thế giới, Mỹ đã tiến hành một chiến lược toàn diện bao gồm các mặt
chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao.
Để thi hành chính sách bành trướng, đế quốc Mỹ lợi dụng tình cảnh các
nước tư bản bi suy yếu trong chiến tranh, chưa kịp hồi phục, đã thông qua
chiêu bài viện trợ kinh tế, quân sự khống chế các nước đó, đẩy các nước này
xuống vai trò phụ thuộc Mỹ thậm chí làm tay sai thực hiện một số chủ trương,
chính sách của Mỹ.
Về mặt quân sự: Mỹ đã ráo riết chạy đua vũ trang, phát triển vũ khí hạt nhân,
thiết lập các khối liên minh quân sự xâm lược như NATO ở châu Âu, SEATO
ở châu á, ANZUS ở châu Đại Dương, CENTO và ký kết hàng loạt hiệp ước
quân sự tay đôi với nhiều nước trên thế giới, ra sức chuẩn bị cho chiến tranh,
tiến hành các hoạt động khuynh đảo, lật đổ, đảo chính ở nhiều nơi trên
thế giới.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Mỹ do có tiềm lực kinh tế,
quân sự mạnh mẽ đã trở thành tên đế quốc đầu sỏ trong hệ thống tư bản chủ
nghĩa. Với tham vọng bá chủ toàn cầu, Mỹ thực hiện chiến lược toàn cầu phản
cách mạng để tìm cách mở rộng phạm vi thống trị của mình ra các khu vực
khác, trở thành kẻ gây chiến, xâm lược quốc tế lớn nhất, đại diện tiêu biểu cho
chủ nghĩa thực dân mới và là kẻ thù nguy hiểm nhất của phong trào cách
mạng thế giới.
Chiến lược toàn cầu phản cách mạng của Mỹ được hình thành dưới thời
tổng thống Tơruman và được điều chỉnh qua các thời tổng thống sau này cho
14
phù hợp với điều kiện cụ thể của từng thời kỳ.
Chiến lược này được cấu thành bởi ba bộ phận mà tướng Uy lơ đã nêu
ra:
- Chúng ta sẵn sàng tham gia trực tiếp hơn và mạnh mẽ hơn vào bất
cứ tình huống cân bằng lực lượng nào có khả năng diễn ra ở châu
Âu.
- Chúng ta là một dân tộc chủ chốt ở phương Tây có khả năng đưa
sức mạnh của mình vào Thái Bình dương để tác động tới những
diễn biến ở đây.
- Nếu có ai đó có ý định ngăn chặn các bước tiến thô bạo sau chiến
tranh của sức mạnh cộng sản hoặc những hình thức kín đáo hơn sau
này, thì người đó phải là chúng ta[24, tr.8].
Như vậy, Mỹ đã tự gán cho mình trách nhiệm đứng đầu các nước tư
bản chủ nghĩa để bảo vệ “thế giới tự do”, ngăn chặn sự phát triển của chủ
nghĩa cộng sản. Nhưng thực chất đó chỉ là sự bao biện cho âm mưu bành
trướng của mình, như nhà sử học Mỹ G. Côncô đã nhận định:
Mỹ hành động không phải vì ý muốn bảo vệ đất nước chống lại bất
cứ mối đe doạ cụ thể nào mà vì Mỹ muốn tạo ra ở nơi khác một trật
tự có thể kiểm soát được sẵn sàng đáp ứng một cách có lợi các mục
tiêu và lợi ích của Mỹ, vượt xa những nhu cầu trong nước. Mỹ tin
rằng sức mạnh của Mỹ đủ sức điều chỉnh thế giới và chịu đựng
những tổn phí như các cường quốc đế quốc trước đây đã làm để
hoàn thành nghĩa vụ và trách nhiệm quốc tế [16, tr.92]
Mỹ đề ra 3 mục tiêu cho chiến lược toàn cầu: ngăn chặn, đẩy lùi, tiến
tới tiêu diệt hệ thống xã hội chủ nghĩa; uy hiếp, đàn áp phong trào giải phóng
dân tộc ở các nơi; kìm chế sự phát triển của các nước tư bản đồng minh, lôi
15
kéo các nước khác tham gia vào lực lượng phản động quốc tế do Mỹ cầm đầu.
Mục đích chính của chiến lược đó là “nhằm ngăn chặn sự phát triển mạnh mẽ
của phong trào cách mạng thế giới, nhất là phong trào cách mạng xã hội chủ
nghĩa mà Liên Xô là trụ cột” [24, tr.6]. Và Mỹ đã đề ra một chính sách đối
ngoại, được giới chính trị và quân sự Mỹ khái quát bằng cái tên “ngăn chặn
chủ nghĩa cộng sản”. Các nhà hoạch định chiến lược của Mỹ cho rằng nếu để
cho chủ nghĩa cộng sản tràn xuống khu vực Đông Nam á thì Mỹ sẽ mất vị trí
chiến lược ở Viễn Đông. Nhất là sau khi cách mạng Trung Quốc (1949) thắng
lợi, họ càng lo sợ hơn vì nếu mất thêm Đông Nam á thì Nhật Bản không còn
lựa chọn nào khác là dung hoà với chủ nghĩa cộng sản ở khu vực này và khi
đó, một chuỗi đảo ngoài khơi chạy dài từ Nhật Bản đến Philippin - tuyến
phòng thủ đầu tiên của Mỹ ở Thái Bình Dương sẽ lâm nguy. Mỹ đã đưa ra
quyết định chính thức vạch ra một đường ranh giới không cho xuất hiện thêm
bất kỳ quốc gia cộng sản mới nào nữa ở châu á. Do đó, Mỹ phải nhanh chóng
có những biện pháp xử lý để bảo vệ khu vực “có tầm sinh tử đối với an ninh
của Mỹ” [47, tr.17].
Vì vậy, địa bàn Đông Nam á nói chung và Đông Dương nói riêng có vị
trí chiến lược quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Đây là nơi có
những nguồn lợi rất lớn về kinh tế, quân sự, chính trị mà Mỹ có thể thâu tóm
được.
Về mặt kinh tế: Đông Nam á là một vùng có nguồn tài nguyên thiên
nhiên phong phú, có nhiều loại nguyên liệu mà Mỹ đang thiếu, là thị trường
tiêu thu sản phẩm khổng lồ, các nhà lãnh đạo Mỹ không muốn mất quyền lợi
ở đây và đã sớm bộc lộ tham vọng muốn độc chiếm Đông Nam á. Đây là một
trong những mục tiêu chiến lược của chính sách bành trướng thực dân mới về
mặt kinh tế của đế quốc Mỹ.
Về mặt quân sự: Đông Nam á là một vùng địa lý chiến lược quan trọng,
16
là ngã ba của đầu mối giao thông giữa các lục địa châu á, châu Phi và châu
Đại Dương. Đông Nam á từ lâu đã trở thành một địa bàn chiến lược trong kế
hoạch xâm lược của các nước tư bản phương Tây. Mỹ đã tìm cách hất cẳng
Anh, Pháp để chiếm lấy khu vực này. Mỹ đã tập trung nhiều cho việc bố trí
lực lượng quân sự ở khu vực này, năm 1967, tổng số quân Mỹ đóng quân ở
đây lên tới 850.000 quân trong khi đó ở châu Âu chỉ có 491.000 tên; năm
1970 là 797.000 tên ở đây còn châu Âu là 310.000 tên. Thời kỳ cao nhất lên
đến 4 tập đoàn không quân, 2 hạm đội tăng cường, số sư đoàn lục quân và
lính thủy đánh bộ gần gấp 3 lần số quân sĩ đóng ở Tây Âu [80, tr.20]. Như thế
đủ thấy sức mạnh to lớn về quân sự của Hoa kỳ ở đây và sự quyết tâm thực
hiện bằng được mưu đồ thay chân các đế quốc khác chiếm đóng khu vực này.
Về mặt chính trị: Đông Nam á là khu vực có phong trào giải phóng dân
tộc phát triển, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của phong trào cách mạng vô sản thế
giới nhất là Việt Nam và Đông Dương, lúc nào cũng có thể bùng nổ một cuộc
cách mạng vô sản. Việt Nam và Đông Nam á đã trở thành nơi tập trung các
mâu thuẫn của thời đại. Mỹ đã rất lo sợ điều đó, vì thế mà chúng tập trung lực
lượng lớn hòng bóp nghẹt phong trào cách mạng ở đây nhằm tránh hiểm hoạ
chủ nghĩa cộng sản tràn xuống khu vực Đông Nam á. Chính vì vậy, Mỹ đã
thành lập tổ chức SEATO nhằm tập hợp lực lượng các nước chư hầu để đối
phó với phong trào cách mạng ở đây. Mỹ đã ý thức sâu sắc về quyền lợi sống
còn và vị chí chiến lược của vùng Đông Nam á, nếu thua cuộc ở khu vực này
thì sẽ dẫn đến hiệu ứng đôminô - một sự sụp đổ dây chuyền ở khắp mọi nơi.
Trong khu vực Đông Nam á, Mỹ đặc biệt quan tâm đến Đông Dương
bởi chúng đều nhận thấy tầm quan trọng của khu vực này đối với sự thành
công của chiến lược toàn cầu phản cách mạng và cho rằng đây là vị trí then
chốt trong việc bảo vệ Đông Nam á: “Đông Dương được xem là quan trọng vì
có nhiều nguyên liệu, gạo và các căn cứ hải quân, nhưng người ta còn cho
17
rằng khu vực này có tầm quan trọng lớn hơn nhiều xét về tác động có thể xảy
ra đối với các khu vực khác nếu Đông Dương thất thủ”[14, tr91]. Vì thế, Mỹ
đã chọn Việt Nam và Đông Dương làm nơi thi điểm thực hành chủ nghĩa thực
dân mới, biến nơi đây thành bàn đạp để thiết lập ảnh hưởng ở châu á. Quốc vụ
khanh Mỹ D. Rusk đã từng tuyên bố trước tiểu ban đối ngoại của Quốc hội
Mỹ: “Viễn Đông, Việt Nam và các nước phụ cận là một trong những chiến
trường quyết định trong cuộc đấu tranh nhằm duy trì trật tự thế giới lâu dài
và vững chắc”[1, tr.29].
Chính vì ý nghĩa đó mà Vịêt Nam “đã trở thành tiêu điểm của cuộc
đấu tranh quyết liệt giữa cách mạng và phản cách mạng trên thế giới, là nơi
đọ sức điển hình giữa tiến bộ và phản động, giữa chính nghĩa và phi nghĩa
trong cuộc đấu tranh của nhân loại vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội” [7, tr.65].
Tầm quan trọng của Việt Nam và Đông Dương đã làm cho đế quốc Mỹ
tập trung đến mức cao nhất về tài chính và quân sự cho cuộc chiến tranh ở
đây. Mỹ đã thực thi hết chiến lược chiến tranh này đến chiến lược chiến tranh
khác nhằm biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Mỹ
cho rằng “nếu đẩy lùi và ngăn chặn được cách mạng Việt Nam và Đông
Dương, áp đặt được chính sách thực dân mới của Mỹ ở đây, thì chúng có thể
thẳng tay bóc lột tài nguyên của Việt Nam và Đông Dương, đẩy lùi và ngăn
chặn được cả ba dòng thác cách mạng ở Đông Nam á và nhiều nơi khác trên
thế giới” [76, tr.14]. Kết cục ở Việt Nam sẽ chứng minh đầy đủ ý chí và khả
năng của đế quốc Mỹ trong việc thực hiện chiến lược toàn cầu phản cách
mạng của chúng. “Tất cả những điều đó nói lên vị trí then chốt của Việt Nam
trong cuộc đụng đầu lịch sử này, đồng thời cũng nói lên tính chất gay go của
18
cuộc đọ sức quyết liệt giữa nhân dân ta và đế quốc Mỹ” [80, tr.26].
Để đạt được mục đích của mình, đế quốc Mỹ đã huy động một khối
lượng bom đạn, vật chất kỹ thuật không lồ chưa từng có; đã sử dụng mọi loại
vũ khí hiện đại nhất trừ bom nguyên tử; đồng thời chúng đưa vào nước ta:
Một đội quân viễn chinh hơn 60 vạn tên, gồm quân Mỹ và quân của
năm nước chư hầu của Mỹ làm nòng cốt cho hơn một triệu quân
nguỵ; riêng về quân đội Mỹ, chúng đã huy động lúc cao nhất tới
68% bộ binh, 60% lính thuỷ đánh bộ, 32% lực lượng không quân
chiến thuật, 50% lực lượng không quân chiến lược. Nếu tính cả số
quân đóng ở nước ngoài tham chiến ở Việt Nam thì chúng đã sử
dụng hơn 80 vạn quân Mỹ, trong cả cuộc chiến tranh, chúng đã
động viên tới 6 triệu lượt binh sĩ Mỹ, ném xuống đất nước ta 7
triệu 850 nghìn tấn bom và tiêu tốn 352 tỷ đôla. Ngoài ra chúng còn
dùng những phát minh khoa học, kỹ thuật mới nhất để gây vô vàn
tội ác huỷ diệt đối với nhân dân ta [42, tr.483].
Với âm mưu nham hiểm đó, Mỹ đã triển khai chiến lược toàn cầu phản
cách mạng mà Việt Nam được chọn làm nơi thí điểm.
Từ năm 1953 đến 1960, sau khi thay thế tổng thống Tơruman,
Aixenhao đã cho thực hiện một chiến lược quân sự toàn cầu mới được mang
tên “trả đũa ồ ạt”. Dựa trên lực lượng quân sự Mỹ và hệ thống liên minh quân
sự, Mỹ tiến hành chiến lược này với mục tiêu “dùng vũ khí hạt nhân làm
chiếc ô che chắn để bảo vệ cho các chế độ tay sai của Mỹ, sẵn sàng đánh trả ồ
ạt thẳng vào các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa”[24, tr.16]. Lực lượng
hạt nhân chiến lược mà Mỹ dùng làm lá chắn được cấu thành bởi bộ ba vũ
khí: tên lửa mang đầu đạn hạt nhân, tàu ngầm nguyên tử trang bị tên lửa mang
đầu đạn hạt nhân và máy bay ném bom chiến lược mang bom hạt nhân. Để
Theo tư liệu của Hoa kỳ, số lính Mỹ tham chiến trong chiến tranh Việt Nam khoảng 4 triệu người.
19
tăng cường sức mạnh quân sự, Mỹ đã sản xuất hàng loạt các loại máy bay
ném bom chiến lược như B52, B47 và các loại tên lửa vượt đại châu. Tính đến
năm 1960, Mỹ có gần 400 máy bay B52, khoảng 1400 máy bay B47, 110 tàu
ngầm, có tới 36 liên đội bay ném bom hạng nặng và 104 liên đội bay ném
bom hạng trung [24,tr.18]. Với ưu thế về vũ khí hạt nhân, Mỹ đã quyết liệt
chống phá phong trào cách mạng thế giới và cũng tại thời điểm này Mỹ dần
can thiệp vào Việt Nam thông qua việc tăng cường viện trợ quân sự để Pháp
kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương. Đây là giai đoạn đầu tiên
của một phần tư thế kỷ mà Mỹ đã trực tiếp dính líu vào cuộc chiến tranh Việt
Nam. Mỹ đã viện trợ cho Pháp lên tới 1,264 tỉ đôla trong năm 1954 (chiếm
khoảng 73% kinh phí chiến tranh và tính tổng trong 4 năm (1950 - 1954) lên
tới 2,6 tỉ đôla. Tuy vậy, sự viện trợ này của Mỹ cũng không cứu vãn nổi thất
bại của Pháp trên chiến trường Đông Dương.
Tháng 7 năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp của ta thắng lợi,
Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Đây là một thắng lợi to lớn của nhân dân ta
và là cơ sở pháp lý để ta tiếp tục đấu tranh hoàn thành cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ trên phạm vi cả nước. Thắng lợi này đã làm suy yếu một hướng
chiến lược trọng yếu trong chiến lược toàn cầu của đế quốc Mỹ. Chính vì vậy,
Mỹ đã tìm cách phá hoại hiệp định Giơnevơ, phá hoại công cuộc thống nhất
nước nhà bằng mọi biện pháp tàn ác và thâm hiểm, cai trị miền Nam bằng chủ
nghĩa thực dân kiểu mới hòng thay thế thực dân Pháp xâm lược Việt Nam.
Sau Hội nghị Giơnevơ về Việt Nam, ngoại trưởng Mỹ Đalét đã tuyên bố:
“điều quan trọng nhất, không phải khóc than cho quá khứ mà phải nắm lấy cơ
hội tương lai nhằm ngăn chặn không để mất miền Bắc Việt Nam, để cuối
cùng dẫn đến chỗ chủ nghĩa cộng sản có ưu thế trên toàn cõi Đông Nam á và
Tây Nam Thái Bình Dương”[47, tr.53]. Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm ra để
dựng lên một chính quyền tay sai phục vụ cho mưu đô thôn tính Việt Nam
20
của mình.
Sớm nhận thấy âm mưu của địch, Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhận định: “Đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới, và nó đang trở
thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương”[55, tr.23]. Do vậy,
cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong giai đoạn này phải tập trung chĩa mũi
nhọn vào đế quốc Mỹ với chính sách thực dân mới của chúng.
Chính sách thực dân mới là con đẻ của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn, của
chính sách đế quốc thực dân. Nó ra đời trong cơn tổng khủng hoảng và trước
nguy cơ sụp đổ sau chiến tranh thế giới thứ hai của chủ nghĩa tư bản. Bản chất
của chủ nghĩa thực dân mới đã được Đảng sớm nhận ra và khái quát trong
Nghị quyết 9 của Trung ương: Đặc điểm chủ yếu của chính sách thực dân là
đế quốc Mỹ không trực tiếp cai trị mà thông qua chính quyền tay sai, dùng
viện trợ kinh tế và quân sự để áp bức, bóc lột nhân dân miền Nam.
Trong thời kỳ đầu của cuộc cách mạng, chúng ta chưa thể hình dung và
thấy rõ chính sách thực dân mới mà phải trải qua thực tiễn đấu tranh mới hiểu
đầy đủ bản chất và thủ đoạn của chính sách này. Về chính trị, Mỹ không thiết
lập bộ máy thực dân thông qua chính quyền tay sai với chiêu bài quốc gia,
dân chủ giả hiệu. Về quân sự, Mỹ tin dùng và ra sức xây dựng quân đội nguỵ
đủ mạnh làm lực lượng chiến đấu cho chúng. Với hai mặt chính trị và quân sự
như vậy, Mỹ thể hiện một ý đồ nham hiểm là khơi sâu và làm đậm nét tính
chất nội chiến của cuộc chiến tranh, che đậy bản chất thực dân xâm lược của
chúng. Về kinh tế, Mỹ dùng viện trợ làm công cụ chủ yếu để giữ chính quyền
tay sai ở miền Nam đi vào con đường phát triển tư bản chủ nghĩa, đối lập với
miền Bắc, chia cắt lâu dài nước ta. Về văn hoá - xã hội, chúng ra sức du nhập
lối sống Mỹ, văn hoá Mỹ hòng phá hoại truyền thống văn hoá Việt Nam.
Như vậy, ngay từ thời điểm này Mỹ với chính sách thực dân mới đã trở
21
thành kẻ thù số một của nhân dân Việt Nam và phong trào cách mạng thế
giới. Cuộc chiến tranh ở Việt nam đã trở thành nơi đọ sức giữa hai lực lượng
quốc tế: lực lượng cách mạng và lực lượng phản cách mạng.
Sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới mà đặc biệt là phong
trào giải phóng dân tộc ở châu á, châu Phi, châu Mỹ La Tinh đã làm cho chiến
lược “trả đũa ồ ạt” của Mỹ bị phá sản. Nhưng không phải vì thế mà Mỹ chịu
dừng lại, với bản tính ngoan cố và âm mưu bành trướng của tên sen đầm quốc
tế, Mỹ đã thay đổi chiến lược quân sự toàn cầu từ “trả đũa ồ ạt” sang “phản
ứng linh hoạt”.
Chiến lược “phản ứng linh hoạt” được Kennơdi khi lên nắm quyền tổng
thống phê chuẩn làm chính sách quân sự quốc gia của Mỹ và được áp dụng cả
dưới thời tổng thống Giônxơn. Trong thời kỳ này, Mỹ chú trọng phát triển vũ
khí thông thường nhưng vẫn ra sức xây dựng lực lượng hạt nhân.
Những điểm chủ yếu trong chiến lược quân sự toàn cầu của Mỹ trong
những năm 1961 - 1968 là:
- Nhấn mạnh khả năng “huỷ diệt chắc chắn” do lực lượng chiến
lược gây ra;
- Nhấn mạnh khả năng “phản ứng linh hoạt” trong chiến lược của
khối NATO;
- Vạch kế hoạch nhằm mục tiêu đạt khả năng tiến hành chiến tranh
lớn đồng thời trên cả hai chiến trường châu Âu và châu á;
- Xây dựng khả năng chiến đấu và huấn luyện cho các quân đội
nước khác để họ tự chiến đấu trong những cuộc chiến tranh hạn
chế và chống nổi dậy;
- Thi hành những chương trình viện trợ kinh tế và quân sự lớn,
nhưng sẽ được giảm dần[24, tr.25].
Sự thay đổi chiến lược này có ý nghĩa nhấn mạnh hơn nữa vai trò đảm
22
nhiệm gánh nặng của thế giới tự do, trong cuộc xung đột không hạt nhân của
Mỹ. Điều này thể hiện rõ trong bài diễn văn nhậm chức của tổng thống
Kennơdi ngày 20-1-1960: “Chúng ta làm cho mọi người biết rằng chúng ta sẽ
trả bất cứ giá nào, gánh vác bất cứ gánh nặng nào, đương đầu với bất cứ sự
gian khổ nào, ủng hộ bất cứ bạn bè nào, chống lại bất cứ kẻ thù nào, để bảo
đảm sự sống còn và thắng lợi của thế giới tự do”[24, tr.29].
Trong chiến lược “phản ứng linh hoạt” này, Mỹ một mặt ra sức chuẩn
bị cho chiến tranh hạt nhân nhưng loại chiến tranh này lại không có lợi cho
Mỹ và ít có khả năng xảy ra vì thế một mặt Mỹ phát triển các cuộc “chiến
tranh hạn chế”. Loại chiến tranh này vừa không nguy hiểm, vừa có thể dễ
dàng giành thắng lợi. “Chiến tranh hạn chế” gồm hai hình thức: đó là “chiến
tranh đặc biệt” và “chiến tranh cục bộ”. Mỹ coi đây là lưỡi kiếm tiến công sắc
bén vào những nơi nguy hại nhất của thế giới tự do. Để tiến hành chiến lược
này, Mỹ tiếp tục tăng cường lực lượng hạt nhân, phát triển lực lượng vũ trang
thông thường và tiếp tục duy trì, củng cố hệ thống các liên minh quân sự của
mình cũng như các nước đồng minh.
Miền nam Việt Nam được Mỹ dùng làm nơi thử nghiệm chiến lược này
với hai loại hình chiến tranh mới là “chiến tranh đặc biệt”, dùng quân đội Sài
Gòn làm lực lượng chiến lược chủ yếu, quân Mỹ giữ vai trò cố vấn chỉ huy và
“chiến tranh cục bộ” dùng quân viễn chinh Mỹ làm lực lượng nòng cốt.
Hoa Kỳ đã coi miền Nam Việt Nam là một điểm nóng của phong trào
giải phóng dân tộc mà họ phải tập trung đối phó. Họ cũng nhận thức rất rõ vai
trò quan trọng của việc thử nghiệm loại hình chiến tranh này ở Việt Nam, nếu
thắng lợi sẽ tạo ra sự bình ổn ở khu vực và gây tiếng vang cho chiến lược
“phản ứng linh hoạt” của mình. Tướng M.Taylo cha đẻ của chiến lược “phản
ứng linh hoạt” đã xác định: “Nếu chương trình của Mỹ thành công ở Nam
23
Việt Nam thì sẽ dẫn tới ổn định được toàn bộ tình hình ở Đông Nam á, nếu
thất bại thì sẽ có ảnh hưởng lớn đến những thành quả của Mỹ ở châu
á”[24,tr.29].
Để thực hiện ý đồ của mình, Mỹ đã tập trung cao nhất về tài chính và
quân sự cho cuộc chiến tranh ở Nam Việt Nam, từ chỗ dùng quân nguỵ làm
tay sai cùng với tiền của, vũ khí và sự chỉ huy của Mỹ đến việc trực tiếp đưa
quân Mỹ vào xâm lược nước ta đã làm cho cục diện cuộc chiến tranh trở nên
vô cùng khó khăn, ác liệt.
Trong vòng bốn năm thực hiện “chiến tranh đặc biệt”, Mỹ đã tập trung
đầu tư huấn luyện và phát triển quân nguy từ 27 vạn tên năm 1961 lên đến 56
vạn tên năm 1965 nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược là bình định miền Nam
trong vòng 18 tháng nhưng những mục tiêu của chiến lược “chiến tranh đặc
biệt” mà Mỹ đề ra không những không thực hiện được mà còn bị phá sản. Để
cứu vãn tính thế, Mỹ đã chuyển cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam từ hình
thức “chiến tranh đặc biệt” sang hình thức “chiến tranh cục bộ”. Chỉ từ năm
1965 đến 1968, cuộc chiến tranh của Mỹ ở miền Nam đã được đẩy lên mức
cao nhất. Lực lượng tham chiến tại miền Nam lúc này đã lên tới 55,5 vạn
quân nguỵ Sài Gòn, 53,5 vạn quân viễn chính Mỹ và 7,26 vạn quân Nam
Triều Tiên, Thái Lan, Philippin, Ôxtrâylia. Mỹ cũng đã sử dụng hàng nghìn
máy bay ném hơn 70 vạn tấn bom và hàng trăm tàu chiến bắn phá miền Bắc
Việt Nam. Để duy trì một lực lượng tham chiến lớn như vậy trên chiến trường
Việt Nam, Mỹ phải thường xuyên huy động tới 150 vạn quân thay phiên, bổ
xung (chiếm 43% tổng số quân thường trực của cả nước). Chi phí cho cuộc
chiến này tính riêng năm 1968 đã lên tới 26,5 tỷ đôla (chiếm 34% tổng chi
tiêu của Bộ Quốc phòng Mỹ) [24, tr31]. Đây là cuộc chiến tranh mà Mỹ đã sử
dụng những kỹ thuật quân sự mới nhất có trong tay lúc bấy giờ và chi tiêu
24
lớn nhất cho cuộc viễn chinh xâm lược này.
Tuy đã có những cố gắng cao nhất về quân sự và tài chính nhưng Mỹ
ngày càng thất bại nặng nề trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam và thất
bại này đã ảnh hưởng tác động nghiêm trọng đến toàn bộ đời sống kinh tế,
chính trị, xã hội của nước Mỹ không những buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược
ở Việt Nam mà còn làm đảo lộn và buộc Mỹ thay đổi cả chiến lược toàn cầu
của chúng.
Trong những năm 1969 - 1973, sau khi lên nắm quyền Nichxơn đã đề
ra chiến lược quân sự toàn cầu mới mang tên “ngăn đe thực tế” dựa trên “học
thuyết Nichxơn”. Học thuyết này được cấu thành bởi ba bộ phận:
1. Chia sẻ trách nhiệm - Mỹ tiếp tục viện trợ quân sự và kinh tế cho
các nước đồng minh, còn các nước đồng minh phải thực hiện
“nghĩa vụ” của mình trong khu vực;
2. Xây dựng sức mạnh - Mỹ gánh chịu phần chủ yếu về lực lượng
hạt nhân chiến lược, nhưng các nước đồng minh phải cùng Mỹ
“chung sức gánh vác” việc xây dựng lực lượng tác chiến trên khu
vực chiến trường;
3. Thương lượng - Mỹ thương lượng với các nước đồng minh thành
lập những liên minh khu vực, thương lượng giải quyết xung đột
xảy ra giữa các nước thứ ba, thương lượng với Liên Xô về việc
hạn chế sự phát triển vũ khí chiến lược[24, tr.34].
Vận dụng “học thuyết Nichxơn” và chiến lược quân sự “ngăn đe thực
tế” vào Việt Nam, Mỹ đã thi hành chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” với
ý định xuống thang chiến tranh, rút dần quân Mỹ về nước nhưng kéo dài và
mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Đông Dương. Thực chất của chính sách này
là dùng người Việt đánh người Việt, dùng người Đông Dương đánh người
Đông Dương bằng tiền của và sự chỉ huy của Mỹ để tránh thiệt hại về người
25
cho quân đội Mỹ nhằm xoa dịu làn sóng phản đối chiến tranh đang lên cao
trong nước. Thực hiện chiến lược này, Mỹ đã chuyển giao trách nhiệm quân
sự cho nguỵ quyền Sài Gòn, ra sức củng cố nguỵ quân, nguỵ quyền, tăng
tổng số quân đội Sài Gòn từ hơn 55 vạn tên lên 104 vạn tên với hàng loạt vũ
khí và trang thiết bị mới[24, tr40].
Âm mưu của Mỹ rất nham hiểm và thâm độc, chúng vừa xuống thang
chiến tranh, vừa phản công và tiến công ta quyết liệt bằng phương tiện chiến
tranh hiện đại kể cả vũ khí hoá học, chiến tranh điện tử và không quân chiến
lược hòng bao vây, cô lập nhân dân miền Nam, làm cho chiến tranh cách
mạng mất chỗ dựa đi đến tiêu diệt quân chủ lực của ta tạo thế mạnh cho Mỹ -
nguỵ giành thắng lợi về quân sự và chính trị. Đế quốc Mỹ đã thể hiện quyết
tâm đánh phá nước ta bằng mọi cách và dù đã bi thất bại nhiều lần nhưng
chúng vẫn ngoan cố, tìm mọi cách để cứu vãn chiến lược toàn cầu phản cách
mạng mà chúng đã đề ra.
Như vậy, từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, trải qua năm đời tổng
thống với chiến lược toàn cầu phản cách mạng, Mỹ đã chĩa mũi nhọn vào đàn
áp phong trào cách mạng thế giới. Mỹ thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược
Việt Nam với âm mưu cơ bản là “tiêu diệt bằng được phong trao yêu nước
của nhân dân ta, thôn tính miền nam, chia cắt lâu dài nước ta, biến miền Nam
thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, lập phòng tuyến ngăn
chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống Đông Nam á; đồng thời lấy miền Nam làm
căn cứ để tấn công miền Bắc, tiền đồn của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới
ở Đông Nam châu á, hòng đề bẹp và đẩy lùi chủ nghĩa xã hội ở vùng này, bao
vây và uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa khác”[42, tr.478-479]. Mỹ tự coi
mình là có vai trò chủ chốt, đứng đầu các nước tư bản đảm bảo hoà bình cho
“thế giới tự do”, chống lại chủ nghĩa cộng sản và coi việc đàn áp, phá hoại
phong trào độc lập dân tộc là một mục tiêu quan trọng của chiến lược toàn
26
cầu. Mỹ đã thi thố mọi chiến lược, chiến thuật chính trị, quân sự, ngoại giao,
đã sử dụng những thủ đoạn chiến tranh tàn bạo nhất để tàn phá con người và
đất nước Việt Nam, vì “Mỹ muốn chứng tỏ rằng lực lượng quân sự và kinh tế
không lồ của chúng có thể đè bẹp mọi phong trào giai phóng dân tộc và chăn
đứng bước tiến của chủ nghĩa xã hội ở bất cứ nơi nào trên thế
giới”[42,tr.479].
Với sức mạnh và những âm mưu thâm độc của mình qua việc thực hiện
những chính sách về kinh tế, chính trị, quân sự và ngoại giao thì đế quốc Mỹ
là kẻ thù mạnh nhất, ngoan cố và khó đối phó nhất mọi thời đại của dân tộc ta.
Mỹ tuy mạnh nhưng không có nghĩa là chúng ta không thể đánh thắng
được Mỹ mà cốt yếu phải thấy được rằng muốn đối phó với một kẻ thù lớn
mạnh, nham hiểm như vậy, chúng ta phải có đường lối và phương pháp cách
mạng phù hợp. Trên cơ sở phân tích và so sánh tương quan lực lượng giữa ta
và địch, nhận thấy đế quốc Mỹ là một kẻ thù nguy hiểm không giống như
những kẻ thù trước đó, chúng ta không thể ngay một lúc đánh đổ cả Mỹ và
chính quyền tay sai được mà chỉ có thể giành thắng lợi khi đè bẹp được ý chí
xâm lược của Mỹ, buộc chúng phải rút quân khỏi miền Nam, tạo tiền đề để
đánh đổ nguỵ quân, nguỵ quyền, Đảng đã đề ra chủ trương giành thắng lợi
quyết định trước khi tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Đây là một chủ
trương hoàn toàn đúng đắn trong điều kiện một nước Việt Nam nhỏ bé, nghèo
nàn phải đương đầu với một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới. Và minh
chứng cho sự đúng đắn này là việc Mỹ phải ký hiệp định Pari, rút quân khỏi
nước ta, tạo cơ sở vững chắc để cuộc cách mạng của ta đi đến thắng lợi cuối
cùng.
1.1.2. Tác động của phong trào cộng sản, dân chủ hoà bình và
phong trào giải phóng dân tộc đối với cách mạng Việt Nam
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta diễn ra trong bối
27
cảnh chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống thế giới do Liên Xô đứng
đầu, là chỗ dựa cho phong trào độc lập dân tộc. Hệ thống xã hội chủ nghĩa
ngày càng phát triển mạnh mẽ từ châu Âu sang châu á và trở thành một lực
lượng chính trị, kinh tế hùng mạnh, có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy
phong trào cách mạng thế giới. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
tư bản ngày càng sâu sắc. Điều đó thể hiện qua cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt
trên khắp các lục địa ở tất cả mọi lĩnh vực. Các nước tư bản chủ nghĩa mà
đứng đầu là Mỹ muốn tìm mọi cách ngăn chặn và xoá bỏ hệ thống chủ nghĩa
xã hội để thể hiện vai trò độc tôn của chủ nghĩa tư bản. Nhưng những âm mưu
và thủ đoạn của Mỹ đã không những không tiêu diệt được hệ thống xã hội chủ
nghĩa mà còn làm cho các nước này phát triển mạnh mẽ hơn. Sau chiến tranh
thế giới thứ hai, Liên Xô, Trung Quốc, Đông Đức và các nước Đông Âu bắt
tay vào công cuộc kiến thiết đất nước và đã thu được những thành tựu to lớn,
kinh tế xã hội được phục hồi và phát triển đáng kể trở thành đối thủ cạnh
tranh của chủ nghĩa tư bản. Tính đến năm 1961, tốc độ phát triển sản xuất của
12 nước xã hội chủ nghĩa “tăng trung bình từ 8% đến 11% so với năm trước;
đặc biệt tốc độ phát triển sản xuất công nghiệp của phe xã hội chủ nghĩa đã
nhanh gấp 4 lần so với phe đế quốc chủ nghĩa. Kết quả là toàn bộ hệ thống xã
hội chủ nghĩa đã sản xuất gần 40% tổng sản lượng công nghiệp toàn thế giới
(năm 1955 tỷ trọng đó mới là 27%). Sản lượng nông nghiệp của các nước xã
hội chủ nghĩa đã chiếm hơn một nửa tổng sản lượng nông nghiệp toàn thế
giới”[29,tr.182]. Sự lớn mạnh của các nước xã hội chủ nghĩa đã làm cho so
sánh lực lượng trên thế giới thay đổi theo chiều có lợi cho chủ nghĩa xã hội,
cho lực lượng cách mạng. Cách mạng thế giới đang ơ thế tiến công còn chủ
nghĩa đế quốc đang ơ thế suy yếu.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng, tuy chủ nghĩa đế quốc suy yếu nhưng
chừng nào nó còn tồn tại thì vẫn còn miếng đất để xảy ra chiến tranh. Đế quốc
28
Mỹ là lực lượng gây chiến chủ yếu trên thế giới, chúng dẫn đầu các thế lực
hiếu chiến chạy đua vũ trang, củng cố các khối liên minh quân sự, xây dựng
các căn cứ quân sự, nhóm lên những lò lửa chiến tranh ở châu Âu, châu á.
Nguy cơ chiến tranh thế giới vẫn có thể nổ ra, đặc biệt là đặt nhân dân thế giới
trước sự đe doạ hết sức nghiêm trọng của một cuộc chiến tranh hạt nhân. Điêu
đó làm cho nhiêu người lo ngại, hoài nghi, tạo điều kiện cho chủ nghĩa xét lại,
chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa dân tộc bùng phát làm cho tình hình thế giới phức
tạp.
Vì vậy, khi tiến hành cuộc cách mạng giải phóng miền Nam, một yêu
cầu đối với Đảng và nhà nước ta là phải hết sức sáng suốt trong nhận định
tình hình và có sách lược đúng đắn giải quyết mối quan hệ giữa hoà bình và
cách mạng. Trên thực tế, Đảng ta đã giải quyết tốt mối quan hệ đó góp phần
bảo vệ hoà bình, thống nhất đất nước và thúc đẩy cách mạng thế giới phát
triển.
Thắng lợi của hệ thống xã hội chủ nghĩa, đã tác động to lớn tới quá
trình phát triển thế giới, đồng thời cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta đã nhận được
sự ủng hộ nhiệt tình và chi viện to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em
(xem phụ lục 3), đó là một động lực quý báu để chúng ta có thể chiến thắng
được kẻ thù xâm lược. Nếu miền Bắc là hậu phương trực tiếp cho cách mạng
miền Nam thì hệ thống chủ nghĩa xã hội thế giới là hậu phương rộng lớn đáng
tin cậy, một thuận lợi chưa từng có đối với cách mạng nước ta.
Một đặc điểm nữa trong bối cảnh quốc tế mà cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước của Việt Nam chịu sự tác động và chi phối là sự phát triển dồn
dập của phong trào giải phóng dân tộc ở vùng á, Phi và Mỹ La Tinh. Phong
trào này đã “phát triển với khí thế mạnh mẽ, quy mô rộng lớn, chất lượng
ngày càng cao, và thu nhiều thắng lợi quan trọng”[29, tr.184-185]. Vùng á,
29
Phi và Mỹ La Tinh được các nước đế quốc mà đứng đầu là Mỹ đặc biệt quan
tâm, nó được xem là sân sau của chúng, nhưng phong trào giải phóng dân tộc
diễn ra liên tiếp tại đây đã khiến chúng phải lo sợ và tìm mọi cách đàn áp
phong trào. Nhưng có áp bức thì có đấu tranh. Chính vì vậy, sự đàn áp của
các nước đế quốc càng tạo điều kiện cho phong trào giải phóng dân tộc phát
triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Vào những năm 50 và 60, hàng loạt các nước
thuộc địa ở châu á, châu Phi và Mỹ La Tinh đã giành được độc lập dân tộc và
đã trở thành đồng minh hùng hậu của hệ thống xã hội chủ nghĩa, của phong
trào công nhân trong các nước tư bản chủ nghĩa. Thực tế cho thấy rằng “vùng
á, Phi, Mỹ La Tinh là khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế
quốc, là nơi dễ bị chọc thủng nhất trong trận tuyến của chủ nghĩa đế
quốc”[80, tr.29]. Kết quả của phong trào là nhiều nước đã giành đuợc độc lập
dân tộc. Sau khi giành độc lập, các nước này đã đi theo con đường hoà bình,
trung lập, không tham gia các liên minh quân sự, chính trị đa phương hoặc
song phương với các nước phuơng Tây để giữ gìn nền độc lập của mình. Sự
phát triển của phong trào giải phóng dân tộc ở đây đã gây cản trở cho việc thi
hành chính sách bành trướng của đế quốc Mỹ và các nước TBCN. Sức công
phá của nó vô cùng to lớn, những biến đổi sâu sắc ở đây đã và đang gây ra sự
đảo lộn lớn trên thế giới, tạo điều kiện cho phong trào cách mạng XHCN phát
triển. Sự lớn mạnh của phong trào giải phóng dân tộc ở á, Phi, Mỹ La Tinh đã
trở thành nguồn lực cổ vũ, động viên cho phong trào đấu tranh chống Mỹ, cứu
nước ở Việt Nam.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta còn diễn tra
trong điều kiện phong trào dân chủ, hoà bình trong các nước TBCN phát triển
ngày một mạnh mẽ hơn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Phong trào này diễn ra
với nội dung phong phú và hình thức linh hoạt. Bãi công, biểu tình của hàng
triệu người đã nổ ra trở thành những đợt sóng đấu tranh rộng lớn trong phạm
30
vi từng nước và trên toàn thế giới. Cuộc đấu tranh này đang được đẩy cao và
lôi kéo được sự tham gia nhiệt tình của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động ở các nước TBCN nhằm chĩa mũi nhọn vào giai cấp thống trị. Phong
trào đấu tranh cho hoà bình, dân chủ phát triển tương đối rộng khắp, liên tục
với khí thế mạnh mẽ và giành được những thắng lợi đáng kể. Trong đó, ủng
hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược và ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc ở các lục địa là một cuộc đấu tranh rộng lớn nhất. Sự thành công của
phong trào dân chủ, hoà bình sẽ tạo ra điều kiện thuận lợi để phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước bị xâm lược (như Việt Nam) giành được thắng lợi.
Chính vì vậy, sự phát triển của phong trào đấu tranh này ở các nước TBCN
đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của phong trào
giải phóng dân tộc ở các nước đang bị CNTB chiếm đóng. Cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam cũng chịu sự tác động to lớn của
phong trào dân chủ hoà bình, đó là một trong những điều kiện quan trọng để
cuộc cách mạng của chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng.
Việt Nam là nơi tập trung nhiều mâu thuẫn cơ bản. Đây cũng là nơi tập
trung ba dòng thác cách mạng lớn của thời đại: độc lập dân tộc, dân chủ và
chủ nghĩa xã hội.
Sức mạnh tổng hợp của ba dòng thác cách mạng cộng với sức mạnh
của phong trào hoà bình đã tạo nên một sự thay đổi lớn trong tương quan so
sánh lực lượng. Với sức mạnh tổng hợp của ba dòng thác cách mạng này,
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã nhận được sự giúp
đỡ, cổ vũ động viên lớn lao và vì thế có điều kiện để chiến thắng một kẻ thù
hung ác nhất của loài người.
Tuy nhiên, trong những thời điểm nhất định, tình hình quốc tế có những
yếu tố tác động bất lợi đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của
nhân dân ta. Từ năm 1960 trở đi, phe XHCN có những bất đồng về quan
31
điểm, nhất là bất đồng Xô - Trung. Quan hệ giữa Liên Xô - Trung Quốc xấu
đi một cách nghiêm trọng, lúc đầu là những căng thẳng về đường lối, quan
điểm sau chuyển thành những căng thẳng trong vấn đề biên giới, thậm chí dẫn
đến xung đột vũ trang. Mỹ nhanh chóng lợi dụng mâu thuẫn này để phản kích
lại phong trào cách mạng thế giới và tìm cách giảm thiểu sự ủng hộ và chị
viện của các nước trong phe XHCN (như Liên Xô, Trung Quốc) choViệt
Nam. Trong cuộc chiến tranh Mỹ đang tiến hành ở Việt Nam, cả Liên Xô và
Trung Quốc đều có những cái lợi nhất định ở những mức độ khác nhau. Liên
Xô lợi dụng cơ hội Mỹ sa lầy ở Việt Nam, tranh thủ thời gian thúc đẩy hoà
dịu Xô-Mỹ, để kiềm chế Mỹ, giảm gánh nặng chạy đua vũ trang, tăng cường
phát triển kinh tế. Liên Xô lo ngại chiến tranh ở Việt Nam mở rộng sẽ làm
cho quan hệ quốc tế căng thẳng, có hại cho tiến trình hoà dịu Xô-Mỹ và có lợi
cho Trung Quốc trong việc cải thiện quan hệ với Mỹ. Vì vậy, mặc dù vẫn ủng
hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam nhưng Liên Xô lại
muốn nhanh chóng kết thúc cuộc chiến tranh ở đây thông qua thương lượng
hoà bình. Còn đối với Trung Quốc, việc ủng hộ và chi viện cho Việt Nam
được coi là một “nhiệm vụ không thể thoái thác” nhưng Trung Quốc lại lo sợ
chiến tranh kéo dài sẽ ảnh hưởng lớn đến quá trình hoà dịu Trung - Mỹ. Mặt
khác, Trung Quốc lại muốn lợi dụng việc kéo dài chiến tranh ở Việt Nam để
kiềm chế Mỹ, tập hợp lực lượng thế giới phục vụ cho chiến lược phát triển
của mình.
Một số nước ở Đông Nam á đã tranh thủ việc Mỹ bị sa lầy ở Việt Nam
để ổn định đất nước, phát triển kinh tế, thu lợi qua việc thực hiện chiến tranh
của Mỹ.
Như vậy, cuộc chiến tranh của Mỹ tiến hành ở Việt Nam có những lợi
ích nhất định đối với các nước và những chiến lược phát triển quốc gia của họ
32
đều nhằm thúc đẩy quan hệ quốc tế có lợi cho mình.
Rõ ràng, những mâu thuẫn, bất đồng và những lợi ích của các nước đã
tác đông không nhỏ đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Việt
Nam. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc
vừa phải đương đầu với một tên đế quốc đầu sỏ hùng mạnh nhất thế giới đồng
thời lại vừa phải khéo léo điều chỉnh quan hệ với hai nước lớn là Trung Quốc
và Liên Xô nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng bất lợi do mâu
thuẫn giữa hai nước gây ra.
Mặc dù, tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp, đôi lúc có
những mâu thuẫn, bất đồng, phong trào cách mạng thế giới có những lúc suy
thoái tam thời nhưng nhìn chung là có lợi cho cuộc kháng chiến của nhân dân
ta.
1.2. Điều kiện chủ quan của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
1.2.1. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta diễn
ra trong hoàn cảnh khó khăn
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta diễn ra trong
điều kiện hết sức khó khăn. Năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp của
nhân dân ta giành đuợc thắng lợi, hiệp định Giơnevơ được ký kết, theo hiệp
định này, quân Pháp phải rút hết quân về nước, đất nước ta tạm thời bị chia
cắt làm hai, lấy vĩ tuyễn 17 làm ranh giới và hai năm sau sẽ tổ chức hiệp
thương tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Nhưng đế quốc Mỹ đã tìm mọi
cách phá hoại hiệp định Giơnevơ thế chân Pháp xâm lược nước ta bằng chính
sách thực dân mới nhằm biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới
của chúng thông qua chế độ cai trị độc tài tay sai Ngô Đình Diệm.
Sau khi giành được thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp,
chúng ta đã phải chịu những tổn thất nặng nề về người và của, trong lúc đang
33
tập trung mọi lực lượng nhằm khắc phục hậu quả chiến tranh thì lại phải
đương đầu với một kẻ thù còn nguy hiểm hơn gấp bội phần, đẩy cách mạng
nước ta vào tình thế khó khăn hơn bao giơ hết.
Từ sau Hiệp định Giơnevơ, dưới sức ép về kinh tế và quân sự, Pháp đã
phải từng bước rút lui khỏi miền Nam nhương chỗ cho Mỹ áp đặt chủ nghĩa
thực dân kiểu mới ở miền Nam nhằm chia cắt lâu dài Việt Nam. Mỹ đã nhanh
chóng xây dựng được một đội quân nguỵ dưới quyền kiểm soát của mình gồm
10 sư đoàn bộ binh và hàng chục trung đoàn độc lập, với một bộ tổng tham
mưu hoàn toàn do Mỹ đào tạo. Hệ thống cố vấn Mỹ được cài cắm ở khắp nơi
từ Phủ Tổng thống, Bộ Tham mưu, Nha cảnh sát, các Bộ của chính quyền Sài
Gòn cho đến các địa phương.
Hội nghị Trung ương lần thứ 15 đã nhận định: “Với một hệ thống “cố
vấn” chặt chẽ, dựa vào quyền lực của vũ khí, đô la và hàng viện trợ, đế quốc
Mỹ can thiệp ngày càng sâu vào miền Nam; chúng quyết định từ đường lối,
chính sách cho đến công việc cụ thể của chính quyền miền Nam trên các mặt
chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao”[77, 105].
Trong thời gian 1954 - 1956, Mỹ đã cùng với chính quyền Ngô Đình
Diệm dồn sức tiêu diệt các thế lực vũ trang giáo phái thân Pháp ở Nam bộ, đó
là Hoà Hảo, Cao Đài và Bình Xuyên. Chúng đã phải sử dụng bạo lực để tiêu
diệt các lực lượng chống đối này. Ngày 1-1-1955, Mỹ - Diệm đã cắt các
khoản phụ cấp trước đây Pháp dành cho các giáo phái này và ra lệnh đóng cửa
sòng bạc kim Chung và Đại thế giới (Đây là nguồn thu lợi lớn của Bình
Xuyên); mua chuộc và dụ hàng các tướng lĩnh của Cao Đài, Hoà Hảo; tổ chức
các chiến dịch thanh trừng lực lượng vũ trang thân Pháp, chiến sự xảy ra khắp
nơi ở Nam Bộ với quy mô của một cuộc chiến tranh.
Ngay từ giữa tháng 7 năm 1954, Hội nghị lần thứ sáu của Trung ương
Đảng đã đề ra phương châm hoạt động của cách mạng miền Nam là: Phải kết
34
hợp chặt chẽ hình thức đấu tranh hợp pháp và không hợp pháp, nhưng phải
lấy hoạt động bí mật, bất hợp pháp là chính đồng thời hết sức lợi dụng mọi
khả năng hợp pháp để tuyên truyền, tổ chức, giáo dục quần chúng. Phải luôn
bám sát quần chúng mà hoạt động, chống sự khủng bố của địch, che dấu, giữ
gìn lực lượng cách mạng.
Lợi dụng mâu thuẫn giữa Mỹ và Pháp, một số đồng chí đã ở lại miền
Nam hoạt động trong lực lượng vũ trang giáo phái chống Diệm nhằm tạo vỏ
bọc hợp pháp để hoạt động cách mạng, tư đó gây dựng cơ sở cách mạng ở các
địa phương. Sau khi lực lượng vũ trang giáo phái tan rã, một số nơi ở Nam Bộ
đã xây dựng được các đội vũ trang cách mạng và có những hình thức hoạt
động vũ trang thích hợp trong từng giai đoạn nhất định để củng cố và xây
dựng cơ sở cách mạng vững chắc làm hạt nhân cho cuộc đấu tranh chống Mỹ,
Diệm sau này.
Tháng 9 năm 1954, Hội nghị Bộ Chính trị đã phân tích sâu sắc tình
hình nước ta trong thời kỳ này và khẳng định nhiệm vụ trước mắt của cách
mạng miền Nam là: phải đấu tranh đòi đối phương thi hành đầy đủ Hiệp định
Giơnevơ, củng cố hoà bình, thực hiện tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh,
không được khủng bố, đàn áp nhân dân và trả thù những người kháng chiến
cũ, không được cướp giật lại ruộng đất cũng như các quyền lợi dân sinh, dân
chủ mà cách mạng đã mang lại cho nhân dân.
Thi hành nhiệm vụ nói trên, cách mạng miền Nam phải lấy hình thức
đấu tranh chính trị là chủ yếu. Lúc này phải biết nắm lấy cơ sở pháp lý của
hiệp định Giơnevơ mà lãnh đạo quần chúng đấu tranh hợp pháp với địch, tiến
công chúng về mặt chính trị, tinh thần, kết hợp với đấu tranh vũ trang tự vệ.
Trong hai năm 1955 - 1956, Đảng bộ miền Nam đã lãnh đạo các tầng
lớp nhân dân đấu tranh chính trị mạnh mẽ, đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ,
giữ vững hoà bình, chống âm mưu, hành động chuẩn bị gây chiến tranh của
35
địch, đòi thực hiện dân chủ, cải thiện dân sinh.
Tuy nhiên, sau khi thẳng tay gạt Pháp ra khỏi guồng máy cai trị và độc
chiếm miền Nam, phá tan lực lượng vũ trang của các giáo phái, gạt bỏ mọi thế
lực thân Pháp cùng với việc xây dựng quân đội nguỵ, Mỹ hướng ngay mũi
nhọn đàn áp của mình về phía phong trào yêu nước cách mạng. Chúng tổ
chức mạng lưới kìm kẹp đến tận ấp, xã, phường, bắt cán bộ ta ra trình diện,
phân loại nhân dân, làm tơ khai gia đình, tổ chức các đảng phái phản động...
Từ cuối năm 1954, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm đã huy động bộ máy
quân đội, cảnh sát gây ra những vụ thảm sát đẫm máu ở Ngân Sơn, Chợ
Được, Mỏ Cày, Củ Chi, Chí Thạnh, Cam Lộ, Hướng Điền... Chúng thi hành
quốc sách “tố cộng, diệt cộng” để đàn áp phong trào yếu nước, tiêu diệt cơ sở
cách mạng ở miền Nam, lùng bắt và giết hại những người kháng chiến cũ và
đồng bào yêu nước. Chúng thi hành chiến lược này với phương trâm “giết
nhầm còn hơn bỏ sót” với mục tiêu tiêu diệt hết những người cộng sản, những
tổ chức cộng sản ở đây. Chúng dùng quân đội mở nhiều cuộc hành quân càn
quét trên quy mô lớn, dài ngày như “chiến dịch Thoại Ngọc Hầu” diễn ra ở 18
tỉnh miền Tây Nam Bộ , “chiến dịch Trương Tấn Bửu” ở 8 tỉnh Đông Nam
Bộ. Mỹ, Diệm đã ban hành luật 10/59 lê máy chém đi khắp miền Nam bắt bớ,
tra tấn, chém giết những người yêu nước, biến miền Nam thành nơi tràn ngập
nhà tù, trại giam.
Trước hành động khủng bố trắng của Mỹ-Diệm, lực lượng cách mạng
miền Nam bi tổn thất lớn: 9/10 số cán bộ đảng viên bị giết và tù đày. ở Nam
Bộ, khoảng 7 vạn cán bộ, đảng viên bị giết, gần 90 vạn cán bộ và quần chúng
bị bắt, tù đày; gần 20 vạn bị tra tấn đến tàn tật, chỉ còn khoảng 5 nghìn so với
60 nghìn đảng viên trước đó. Bến Tre từ 2000 đảng viên chỉ còn 162 đảng
viên; Tiền Giang còn 92 đảng viên; Gia Định, Biên Hoà mỗi nơi chỉ còn 1 chi
bộ Đảng. ở khu V (lúc này gồm cả Trị - Thiên) và Nam Trung bộ còn khoảng
36
40% tỉnh uỷ viên, 60% huyện uỷ viên; 70% chi uỷ viên xã bị bắt, bị giết, 20
tỉnh chỉ còn 2-3 chi bộ, 12 huyện đồng bằng không còn cơ sở Đảng. Riêng Trị
- Thiên còn 160 đảng viên so với 23.400 đảng viên trước đó [66, tr.145]. Đây
là tổn thất về lực lượng vô cùng to lớn của cách mạng miền Nam không có gì
có thể so sánh được và là thời kỳ đen tối nhất mà cách mạng miền Nam phải
trải qua.
Một điểm dễ nhận thấy nhất trong cuộc đụng đầu lịch sử này là sự
chênh lệch quá lớn về tương quan lực lượng giữa hai bên. Chúng ta tiến hành
cuộc kháng chiến trong tình trạng hết sức khó khăn, miền Bắc được hoàn toàn
giải phóng nhưng kinh tế nghèo nàn lạc hậu, hàng vạn thôn xóm tiêu điều, xơ
xác; hàng chục hécta ruộng đất hoang hoá; đời sống nhân dân thiếu thốn mọi
bề. Miền Nam tạm thời do đối phương kiểm soát, cách mạng tư chỗ có chính
quyền, có quân đội, có vùng giải phóng trở thành không chính quyền, không
quân đội, không vùng giải phóng; lực lượng cách mạng tại chỗ bị thiệt hại
năng nề do chính sách cai trị độc tài của chính quyền Ngô Đình Diệm gây ra.
Trong khi đó kẻ thù mà chúng ta phải đương đầu là một đế quốc hùng mạnh,
giàu có, nham hiểm nhất thế giới, có bộ máy quân sự mạnh, có đội quân viễn
chinh đông và chưa tùng bị bại trận.
Sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta rơi vào tình thế vô cùng khó
khăn, đất nước có nguy cơ “trở về thời kỳ đồ đá” như Mỹ hăm doạ. Đặc biệt
khi Mỹ ồ ạt đưa quân vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam, trong nước và
trên thế giới cũng có nhiều ý kiến khác nhau, họ cho rằng nhân dân Việt Nam
sẽ không thể chiến thắng đế quốc Mỹ, thậm chí có thế tạo ra nguy cơ một
cuộc chiến tranh thế giới mới vì thế họ không muốn ta đánh và không muốn
bị lôi kéo vào lò lửa chiến tranh nay. Sự nghiệp cách mạng Việt Nam đứng
trước một câu hỏi lớn: liệu với sức mạnh như hiên có chúng ta có thể đánh
thắng đế quốc Mỹ và tay sai không và nêu đánh thì sẽ phải đánh như thế nào?
37
Với bản lĩnh cách mạng và sự am hiểu sâu sắc tình hình, thấy rõ chỗ mạnh
tạm thời và chỗ yếu cơ bản của địch, thấy rõ sức mạnh tổng hợp của nhân dân
ta trong thời đại mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Trung ương hạ quyết
tâm động viên cả nước kiên quyết đánh thắng giặc Mỹ xâm lược: “Chiến
tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải
Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt
Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do”[54, tr.108]. Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“Ta nhất định thắng
Mỹ nhất định thua”[54, tr.36].
Tuy nhiên, không phải chỉ có quyết tâm cao là có thể đánh thắng giặc
Mỹ xâm lược, mà quan trọng là phải biết đánh. “Biết đánh là cả một quá trình
sáng tạo, sáng tạo của lãnh đạo và sáng tạo của quần chúng trên cơ sở nắm
vững quy luật cách mạng, quy luật chiến tranh cách mạng, quan điểm thực
tiễn, biết địch biết ta, đánh giá đúng chỗ mạnh của địch để khắc phục, phát
hiện đúng chỗ yếu của địch để khoét sâu, biết tập trung giáng đòn quyết định
làm chuyển biến cục diện chiến tranh, giành thắng lợi từng bước, tiến tới
giành thắng lợi hoàn toàn”[7, tr.68].
Với quyết tâm đánh Mỹ và những kinh nghiệm được tích luỹ trong
cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh đánh
thắng kẻ thù xâm lược lập nên một kỳ tích chưa từng có trong lịch sử nhân
loại, góp phần quan trọng làm tăng cường sức mạnh của lực lượng cách mạng
thế giới. Để làm nên chiến thắng đó phải nói đến sự lãnh đạo tài tình của
Đảng, sự nhạy bén trong việc nhận định tình hình, bám sát với thực tiễn, đề ra
đường lối và phương pháp cách mạng thích hợp mà một trong những thành
công đó là việc tổ chức chỉ đạo giành thắng lợi quyết định trong tình thế
38
tương quan lực lượng có sự chênh lệch khá lớn.
1.2.2. Đất nước bị chia cắt thành hai miền, phải tiến hành đồng thời
hai chiến lược cách mạng khác nhau dưới sự lãnh đạo thống nhất của
Đảng
Đây là đặc điểm lớn nhất và cũng là nét độc đáo của cách mạng nước ta
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Trong suốt cuộc kháng chiến, việc hoạch định đường lối chiến lược và
sách lược của Đảng luôn phản ánh rõ đặc điểm lớn này. Từ mục tiêu chung
của cách mạng cả nước và mục tiêu cụ thể của từng miền đến những vấn đề
về chủ trương, sách lược và phương pháp tiến hành đều phải phù hợp với đặc
điểm trên, phù hợp với điều kiện lịch sử của từng miền. Đồng thời, Đảng phải
xác định rõ vị trí cách mạng từng miền và mối quan hệ khăng khít giữa cách
mạng hai miền trong thế chiến lược chung của cả nước.
Ngay từ cuối năm 1956, Đề cương về đường lối cách mạng miền Nam,
đã khẳng định nhiệm vụ chiến lược của cả nước là:
1. Củng cố thật vững chắc miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành cơ sở
vững mạnh của cả nước, làm hậu thuẫn cho phong trào giải phóng miền Nam.
2. Đẩy mạnh phong trào cách mạng miền Nam. Để cứu nước và tự cứu
mình, nhân dân miền Nam không có con đường nào khác ngoài con đường
cách mạng. Bởi vậy phải đẩy mạnh phong trào cách mạng ở miền Nam.
Như vậy, ngay từ sớm Đảng đã thấy được vị trí, vai trò của cả hai miền
trong sự nghiệp cách mạng nước nhà và có đường lối chỉ đạo cách mạng đúng
đắn nhằm phát huy được mọi nguồn lực phục vụ cho cuộc đấu tranh giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Đường lối này được cụ thể hóa và thấy rõ hơn trong Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ III của Đảng (9 - 1960).
Sau khi tổng kết tình hình thực tiễn hai miền Nam, Bắc, Đại hội đã xác
39
định đường lối cách mạng của nước ta:
“Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến
lược:
- Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
- Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và
bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ
trong cả nước.
Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác
dụng thúc đẩy nhau”[27, tr.510].
Đại hội đã xác định đúng đắn vị trí chiến lược của từng miền:
Miền Bắc được coi là căn cứ địa chung của cách mạng cả nước và việc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự
phát triển của cách mạng cả nước. Đảng khẳng định: “Đưa miền Bắc tiến lên
chủ nghĩa xã hôi, làm cho miền Bắc được ngày càng vững mạnh về mọi mặt
thì càng có lợi cho cách mạng giải phóng miền Nam, cho sự phát triển của
cách mạng trong cả nước, cho việc giữ gìn và củng cố hoà bình ở Đông
Dương, Đông Nam á và thế giới. Vì vậy, tiến hành cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của
toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước
nhà”[26,tr.520]. Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong khi nhân dân
miền Nam phải tập hợp mọi lực lượng ra sức đấu tranh đánh đuổi giặc Mỹ
xâm lược nên phương châm tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc là: “Xây dựng miền Bắc, chiếu cố miền Nam”[27, tr.510].
Cách mạng miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự
nghiệp giải phóng miền Nam. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III
nêu rõ: “Trong sự nghiệp hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
40
trong cả nước, thực hiện thống nhất nước nhà, đồng bào ta ở miền Nam có
nhiệm vụ trực tiếp đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai của
chúng để giải phóng miền Nam”[27, tr.510].
Nhiệm vụ cách mạng ở Bắc và nhiệm vụ cách mạng ở miền Nam thuộc
hai chiến lược khác nhau nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của từng miền trong
hoàn cảnh đất nước tạm thời bị chia cắt nhưng hai nhiệm vụ đó lại cùng giải
quyết một mâu thuẫn chung đó là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ
và bọn tay sai. Do vậy mà nhiệm vụ của hai miền Nam, Bắc đều có một mục
tiêu chung là hoà bình, thống nhất Tổ quốc.
Việc xác định đường lối cách mạng tiến hành đồng thời hai chiến lược
cách mạng khác nhau ở hai miền Nam, Bắc là nét độc đáo, chưa từng có trong
lịch sử và là thành công lớn của Đảng ta. Đường lối này thể hiện tinh thần độc
lập tự chủ, sáng tạo của Đảng và nhân dân ta.
Miền bắc hoàn toàn giải phóng, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa
là căn cứ địa cách mạng cả nước và là hậu phương lớn của cách mạng miền
Nam, đã tạo cho cách mạng miền Nam có điều kiện thuận lợi mới khác hẳn
thời kỳ lịch sử trước đây. Đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu để
cách mạng Miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ và tai sai.
Vai trò to lớn của miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước không chỉ được Đảng ta khẳng định mà ngay tư sớm đế Mỹ đã nhận ra
miền Bắc có vai trò mấu chốt nhất trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Chính vì
thế, đối với Mỹ “chính sách và chiến lược nhất quán của họ là coi việc làm
suy yếu và ra sức cản phá đến mức tối đa sự phát triển lớn mạnh của miền
Bắc nước ta là một mục tiêu chiến lược có tầm quan trọng quyết định. Vì nó
nhằm phá hoại tận gốc ý chí quyết tâm và trí tuệ kháng chiến của nhân dân ta,
cùng tiềm lực quốc phòng, kinh tế, loại bỏ khả năng duy trì chiến tranh lâu dài
41
của ta”[112, tr.310].
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền Bắc đã làm
tròn vai trò hậu phương lớn của mình, tập trung sức người, sức của cho sự
nghiệp cách mạng ở miền Nam. Vậy miền Bắc đã làm được gì cho sự thành
công của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam?
Thứ nhất, miền Bắc đã tập trung xây dựng hậu phương vững chắc, tăng
cường quốc phòng, phát động một cuộc chiến tranh nhân dân đánh thắng hai
cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
Nhiệm vụ của hậu phương miền Bắc đối với cách mạng miền Nam
được xác định rõ hơn từ sau Nghị quyết tháng 1-1961 của Bộ Chính trị. Tất cả
mọi hoạt động của miền Bắc đã chuyển hướng với tinh thần “tất cả vì tiền
tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược; miền Bắc nước ta không
những là hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam mà còn là hậu phương
chung của ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia”[32, tr.644]. Để hoàn thành
nhiệm vụ to lớn đó, miền Bắc đã hai lần chuyển hướng kinh tế, tiến hành
động viên trên quy mô lớn sức người, sức của để cung cấp cho tiền tuyến
đồng thời cũng phải trực tiếp chiến đấu hai lần chống lại chiến tranh phá hoại
của đế quốc Mỹ. Khi tiến hành leo thang bắn phá miền Bắc, Mỹ đã tuyên bố
đưa miền Bắc Việt Nam “trở về thời kỳ đồ đá” hòng khuất phục được ý chí
chiến đấu của miền Bắc, nhưng với tinh thần bất khuất, phát huy cao độ chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, miền Bắc đã chiến đấu kiên cướng tạo thành một
cuộc chiến tranh nhân dân đất đối không hiếm có trong lịch sử, bắn rơi 4.181
máy bay, bắn cháy, bắn chìm 296 tầu chiến và tầu biệt kích, bắt sống một số
lượng lớn phi công Mỹ (hơn 500 tên). Thắng lợi này đã làm thất bài một bộ
phận quan trọng trong chiến lược chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc
Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh, ngồi vào bàn đàm phán với ta.
Dưới bom đạn ác liệt của kẻ thù, miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất,
42
tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển về mọi mặt, tiếp tục tăng cường
lực lượng ngày càng lớn cho tiền tuyến, đồng thời vẫn giữ vững và ổn định
đời sống nhân dân hậu phương.
Thứ hai, miền Bắc ra sức chi viện cho miền Nam và trực tiếp chiến đấu
cùng đồng bào miền Nam trong tất cả các giai đoạn, đặc biệt là giai đoạn đấu
tranh giành thắng lợi quyết định góp phần đánh thắng kẻ thù xâm lược.
Ngay từ khi Hiệp định Giơnevơ có hiệu lực, miền Bắc đã tiếp nhận
hàng chục vạn cán bộ và bộ đội ra tập kết tại đây. Còn nhiệm vụ trực tiếp chi
viện cho miền Nam chính thức được bắt đầu thực hiện khi có Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng (1-1959) và đẩy mạnh khi cách mạng
miền Nam từ khởi nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng.
Trong suốt thời gian chiến tranh, miền Bắc đã động viên hai triệu thanh
niên tham gia lực lượng vũ trang xung phong vào Nam đánh giặc, cứu nước.
Số lượng quân đội và cán bộ miền Bắc chiến đấu trên các triến trường miền
Nam tăng lên qua các năm:
- 1961 - 1962: 4 vạn cán bộ, chiến sĩ trong đó có 2000 cán bộ trung, cao
cấp.
- Cuối 1965: đưa vào miền Nam 5 vạn quân.
- 1965 - 1968: 336.914 thanh niên miền Bắc hành quân vào Nam chiến
đấu.
- 1969 - 1971: 19 vạn 6 nghìn người.
- Cuối năm 1971 - đầu năm 1972: 55.000 người.
- 1973 - 1975: gần nửa triệu người [112, tr.334].
Ngoài ra có hàng triệu thanh niên xung phong tham gia xây dựng bảo
vệ đường Hồ Chí Minh và bảo đảm vận chuyển mọi nhu yếu phẩm cho chiến
trường miền Nam, giữ vững mạnh máu giao thông luôn thông suốt để sẵn
sàng tiếp tế cho tiền tuyến. Phần đông các gia đình miền Bắc đều có con em
43
chiến đấu trong Nam hoặc đi làm nghĩa vụ quốc tế.
Cùng với nguồn nhân lực cung ứng cho miền Nam thì miền Bắc đã chi
viện cho miền Nam hàng trăm tấn vũ khí, lương thực, thuốc men, quân tư
trang đảm bảo cho chiến trường đủ súng đạn, đủ quân, ăn no đánh thắng.
- Năm 1962: số hàng đưa vào gấp 3 lần so với năm 1961.
- Từ 1962-1963: vận chuyển hàng trăm tấn vũ khí, 7.000 tấn lương
thực, 34 tấn thuốc chữa bệnh, 200 tấn vật tư khác.
- Cuối 1965: vận chuyển hàng vạn tấn vũ khí.
- 1968: khối lượng vận chuyển vào miền Nam tăng 2 lần so với năm
1967.
- 1969: 17 tấn vũ khí và vật dụng, tăng 28% so với năm 1968.
- Cuối năm 1970: Đoàn 559 được tăng cường 40 trung đoàn, tiểu đoàn
vận tải ôtô, vận tải đường sông; được bổ sung 3.500 xe ôtô, 200 pháo cao xạ
và song cối, 1000 xe, máy làm đường, phá bom, mìn, 700 vô tuyến điện. Tổng
quân số của đoàn 559 năm 1970 là 70.000 quân, năm 1971 lên trên 90.000
người.
- Trong năm 1970 lắp đặt đường ống dẫn xăng từ miền Bắc và miền
Nam dài 500km, đến cuối năm 1971 gần 1.000km. Nhờ có tuyến đường ống,
mùa khô 1970-1971, miền Bắc đã chuyển vào chiến trường khối lượng xăng
dầu gấp 10 lần mùa khô 1969-1970 [112, tr.334-335].
Những số liệu trên chắc còn ít so với thực tế nhưng đã thấy được rằng
miền Bắc đã hết lòng chi viện sức người, sức của cho miền Nam và tham gia
chiến đấu với tinh thần sẵn sàng hy sinh xương máu vì miền Nam ruột thịt.
Nhờ có Đảng xác định đúng đắn lối cách mạng của hai miền mà trong
21 năm kháng chiến, đồng bào miền Nam đã chịu đựng muôn vàn hy sinh,
gian khổ, chiến đấu anh dũng, xứng đáng là “Thành đồng Tổ quốc” và là lực
lượng quyết định trực tiếp tại chỗ trong cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam,
44
bảo vệ miền Bắc. Còn miền Bắc đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến lược
của mình, xây dựng chủ nghĩa xã hội và tích cực ủng hộ, chi viện cho miền
Nam, xứng đáng là căn cứ địa cách mạng của cả nước, là lực lượng có vai trò
quyết định nhất đối với sự phát triển cách mạng cả nước. Miền Bắc đã góp
vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng một cách xứng đáng như đánh giá của
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV: “Không thể nào có thắng lợi của sự
nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước nếu không có miền Bắc xã hội chủ
nghĩa trong suốt 16 năm qua luôn cùng một lúc phải làm hai nhiệm vụ chiến
lược… Miền Bắc đã dốc vào chiến tranh giữ nước và cứu nước toàn bộ sức
mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa và hoàn thành một cách xuất sắc nghĩa vụ
căn cứ địa cách mạng của cả nước”[42, tr.490].
Có thể nói, việc xác định đường lối cách mạng ở hai miền của Đảng là
hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với thực tế lịch sử, góp phần thúc đẩy cách
mạng hai miền cùng đi lên, tạo ra sức mạnh tổng hợp đánh thắng hoàn toàn đế
quốc Mỹ xâm lược và chế độ tay sai của chúng, giải phóng miền Nam, thống
nhất Tổ quốc.
*
* *
Như vậy, xem xét trong bối cảnh chung, cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước của Việt Nam có những yếu tố thuận lợi nhưng cũng có những yếu
tố bất lợi. Đặc biệt trong điều kiện phải đối phó với một kẻ thù hùng mạnh
nhất trong lịch sử thì một yêu cầu để đảm bảo thắng lợi cho cách mạng miền
Nam là phải thực hiện theo phương châm trường kỳ kháng chiến, giành thắng
lợi từng bước nhưng phải có bước quyết định, bước đột phá để mở ra khả
năng mới tiến lên giành thắng lợi cuối cùng.
Với những nhận định sáng suốt về khả năng diễn tiến của chiến tranh
45
dựa trên cơ sở khách quan và chủ quan, Đảng đã đề ra chiến lược chỉ đạo
giành thắng lợi quyết định để đánh đuổi giặc Mỹ ra khỏi nước ta. Cơ sở của
đường lối đấu tranh đó là:
Thứ nhất, xét về mặt khách quan, Mỹ là một đế quốc khổng lồ, giàu có,
hùng mạnh nhất thế giới lại có chiến lược toàn cầu phản cách mạng mà miền
Nam Việt Nam là một con bài có tính chất quyết định trong chiến lược đó
nhưng dù vị thế Việt Nam có quan trọng đến đâu thì Mỹ không thể tập trung
toàn lực cho khu vực này. Việc tham gia vào chiến tranh ở Việt Nam đã làm
giảm vị thế của Mỹ các địa bàn khác, uy hiếp nghiêm trọng đến ví trí đứng
đầu thế giới của Mỹ. Các nước tư bản khác, đồng thời cũng nhân cũng nhân
cơ hội này tập trung phát triển kinh tế vươn lên cạnh tranh với Mỹ và trở
thành đối thủ đáng gờm trong cuộc chạy đua giành ngôi vị bá chủ. Điều này
đã làm cho Mỹ phải chịu nhiều áp lực trong việc hoạch định đường lối, chính
sách, không thể chỉ tập trung cho việc gây dựng thanh thế ở Việt Nam mà
quên đi lợi ích quốc gia. Đây là một điều kiện khách quan tồn tại suốt trong
quá trình đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và cũng là điều kiện để Đảng ta đề ra
đường lối chỉ đạo giành thắng lợi quyết định cho cách mạng miền Nam.
Đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam là tiến hành một cuộc chiến tranh phi
nghĩa nên dù Mỹ có tập trung toàn lực để mở rộng chiến tranh ở đây thì cũng
không tranh khỏi việc phản đối của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế
giới. Việc kéo dài chiến tranh cùng với những chi phí không lồ đã làm cho
nền kinh tế của Mỹ suy giảm nghiêm trọng. Đó là một hậu quả tai hại nhất
cho nước Mỹ. Cũng vì thế mà mâu thuẫn nội bộ trong giới cầm quyền Mỹ
ngày càng găy gắt, các phong trào phản chiến ngay trong lòng nước Mỹ ngày
càng lên cao. Nhà sử học Mỹ, G.Côncô đã nhận xét “Chiến tranh Việt Nam
khi thất vọng và thời gian kéo dài thì sự cay đắng và tình trạng chia rẽ trong
nước cũng tăng lên, làm suy yếu nền kinh tế và cơ cấu quân sự và đập tan sự
46
nhất trí về chính sách đối ngoại và sự thanh bình của đất nước”[15, tr.23] và
“những sự kiện kinh tế và chính trị ở Mỹ đã có tác động quyết định đối với
những sự kiện ở Việt Nam”[15, tr.23]. Chính sự phản ứng của dư luận thế
giới và của một số thành viên trong chính phủ đã làm cho Mỹ không thể mạo
hiểm trong cuộc chiến này, tạo ra điều kiện thuận lợi để chúng ta có thể đề ra
được đường lối đấu tranh thích hợp đánh bại kẻ thù đó.
Mỹ xâm lược Việt Nam với mưu đồ bá chủ thế giới và ngăn chặn sự
phát triển của chủ nghĩa cộng sản nên cuộc chiến tranh này không chỉ đụng
chạm đến một mình Việt Nam mà còn uy hiếp, đe doạ đến sự tồn tại của hệ
thống XHCN thế giới và các nước tiến bộ khác. Hơn nữa, hệ thống XHCN lúc
này đã lớn mạnh, đủ sức đương đầu với các thế lực phản cách mạng trên thế
giới. Nhân dân Việt Nam chiến đấu chống chiến tranh xâm lược Mỹ, cứu
nước là chính nghĩa và thắng lợi của cuộc kháng chiến này sẽ giúp củng cố
hơn nữa vị trí, vai trò của hệ thống XHCN trên thế giới. Vì thế, cuộc đấu
tranh của nhân dân Việt Nam luôn nhận được sự đồng tình, ủng hộ của các
nước XHCN anh em và nhân dân tiến bộ trên thế giới. Đây là một điều kiện
quốc tế quan trọng không thể thiếu giúp cách mạng Việt Nam đối chọi với
một tên đế quốc giàu mạnh nhất trong phe đế quốc.
Thứ hai, xét về mặt chủ quan, nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu
nước nồng nàn; có tinh thần chiến đấu anh dũng, kiên cường, bất khuất,
không sợ hy sinh, gian khổ; có sự đoàn kết nhất trí cao trong bất cứ cuộc đấu
tranh nào. Chúng ta biết tổ chức, biết huy động và phát huy cao độ mọi sức
mạnh vật chất và tinh thần của chính mình, đồng thời có đường lối quốc tế
đúng đắn, sử dụng một cách có hiệu quả sự ủng hộ quốc tế cho cuộc đấu tranh
thống nhất nước nhà.
Ngoài ra, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân miền
Nam luôn nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của hậu phương lớn miền Bắc xã
47
hội chủ nghĩa. Đây là một nhân tố hết sức thuận lợi cho cách mạng miền Nam
góp phần quan trọng làm nên chiến thắng của cuộc đấu tranh này. Vai trò to
lớn của miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã được Đảng và nhà nước ta khẳng định
trong các văn bản chỉ đạo cách mạng của mình. Có thể dễ dàng nhận thấy
rằng, nếu không có miền Bắc xã hội chủ nghĩa thì cũng không có thắng lợi
của cách mạng miền Nam. Đây là một trong những tiền đề có ý nghĩa quan
trọng để chiến lược chỉ đạo giành thắng lợi quyết định của Đảng đi đến thành
công, đánh đuổi giặc Mỹ ra khỏi nước ta, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Vì thế, có đặt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam
trong bối cảnh chung thì mới thấy hết được những nhân tố thuận lợi và khó
khăn để Đảng ta phát huy những nhân tố có lợi, hạn chế những nhân tố có hại
đề ra được đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn chiến thắng kẻ thù
xâm lược. Từ đó mới có thể lý giải được vì sao một dân tộc nhỏ bé, nghèo
nàn, lạc hậu như Việt Nam lại có thể đánh thắng được một tên đế quốc đầu sỏ
trong giới tư bản chủ nghĩa như Mỹ. Thực tế lịch sử trên đây là cơ sở cho
cách mạng nước ta có điều kiện khách quan và thời cơ thuận lợi để có thể triệt
để lợi dụng, khoét sâu mâu thuẫn giữa bon đế quốc với nhau, phân hoá và cô
48
lập cao độ Mỹ, để tiến lên đánh bại chúng.
Chương 2
Quá trình Đảng chỉ đạo và tổ chức thực hiện
giành thắng lợi quyết định trong kháng chiến chống mỹ, cứu nước
2.1. TRong những năm chống “chiến tranh đặc biệt” (1961-1965)
2.1.1. Âm mưu và nội dung chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ
Cuối năm 1960, nhân dân miền Bắc đã hoàn thành công cuộc khôi phục
và cải tạo kinh tế, bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật để đi lên chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc đã ra sức tập
trung xây dựng quân đội lớn mạnh để bảo vệ công cuộc CNXH ở miền Bắc và
tăng cường chiến đấu cho miền Nam.
Miền Nam, phong trào “Đồng khởi” thắng lợi, nhân dân ta đã giành
quyền làm chủ ở nhiều vùng nông thôn rộng lớn thuộc đồng bằng Nam bộ và
miền núi Trung bộ, giải phóng gần 6 triệu dân, phá vỡ 60% khu trù mật, khu
dinh điền. Cách mạng miền Nam chuyển sang thế tiến công. Thời kỳ ổn định
tạm thời của chủ nghĩa thực dân kiểu mới mà Mỹ xây dựng ở miền Nam đã
chấm dứt.
Lúc này, phong trào cách mạng trên thế giới phát triển mạnh mẽ, hệ
thống các nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển. Chiến lược quân sự
toàn cầu “trả đũa ồ ạt” cùng những chính sách và phương thức thực hiện chiến
lược đó được triển khai từ năm 1953 trải qua hai đời tổng thống đã không đạt
được những kết quả như tính toán ban đầu của Mỹ. Nó chẳng những không
ngăn chặn được sự lớn mạnh của các nước xã hội chủ nghĩa mà còn bị Liên
Xô vượt lên về nhiều mặt. Ngoài ra, phong trào giải phóng dân tộc còn nổ ra
mạnh mẽ ở khắp các châu lục.
Để ứng phó với tình hình trên, sau khi lên thay Aixenhao làm Tổng
49
thống Mỹ, Kennơdi đã “tập hợp những chuyên gia xuất sắc, thuộc nhiều lĩnh
vực, nghiên cứu một cách toàn diện về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá,
tâm lý, tham khảo kỹ kinh nghiệm chống du kích tại nhiêu nơi trên thế giới,
để hoạch định đường lối mới, quyết giành thắng lợi trong cuộc thách thức
này”[80, tr.36].
Năm 1961, Mc.Namara cho ra đời bản “Đường lối và chiến thuật chống
chiến tranh du kích ở Nam Việt Nam”. Cũng năm đó, đại tướng Taylo đã đề
xuất chiến lược “phản ứng linh hoạt” và Kennơdy quyết định thay đổi chiến
lược quân sự toàn cầu từ “trả đủa ồ ạt” sang “phản ứng linh hoạt” và dùng
“chiến tranh đặc biệt” để đối phó với cách mạng Việt Nam nhằm chiếm lại
những địa bàn, vùng dân cư đã mất. “Chiến tranh đặc biệt” là một trong ba
loại chiến tranh nằm trong chiến lược “phản ứng linh hoạt” của đế quốc Mỹ.
Mục đích là chống lại chiến tranh du kích, chiến tranh giải phóng của nhân
dân, không có chiến tuyến cố định, thường ít huy động các binh đoàn lớn. Mỹ
sử dụng sức mạnh quân sự, chính trị, kinh tế, tâm lý để thi hành chiến lược
này. Lực lượng chủ yếu thực hiện chiến lược là quân Nguỵ được Mỹ huấn
luyện, trang bị, chỉ huy và nuôi dưỡng.
Nội dung chính của “Chiến lược chiến tranh đặc biệt” là:
- Tăng cường và mở rộng quyền điều hành tác chiến, chỉ huy yểm
trợ của phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ (MAAG), từng bước triển
khai lực lượng yểm trợ Mỹ, đưa lực lượng dặc biệt Mỹ vào miền
Nam, giúp chính quyền Sài Gòn xây dựng quân nguỵ.
- Chốt chặt biên giới chống xâm nhập của miền Bắc.
- Mở rộng, tăng cường quân đội Sài Gòn, cải tiến trang bị và huấn
luyện để đối phó với chiến tranh du kích.
- Khẩn trương bình định, lấy việc lập “ấp chiến lược” làm trọng
50
tâm, phong toả vùng biển, bịt kín biên giới, dùng quân đội Sài Gòn
làm lực lượng chiến lược tiến hành chiến tranh ở miền Nam, phá
hoại miền Bắc.
- Ra sức củng cố chính quyền Sài Gòn các cấp[25, tr.267].
“Chiến lược chiến tranh đặc biệt” của Mỹ thực sự là một chiến lược
chiến tranh nguy hiểm , làm cho cuộc chiến đấu của nhân dân ta thêm phần
gay go, quyết liệt.
Nhằm triển khai chiến lược đó, Mỹ đã cử nhiều quan chức cấp cao sang
nghiên cứu, hoạch định bước đi với mục tiêu nhanh chóng giành được thắng
lợi. Tháng 6 năm 1961, Mỹ đã cử E. Staley và 100 chuyên gia “chống du
kích” sang Việt Nam. Tháng 10 năm 1961, tổng thống Kennơdy cử tướng
Taylo sang tiếp tục nghiên cứu và tìm cách dập tắt cuộc “Đồng khởi” của
nhân dân miền Nam. Từ đó, ra đời kế hoạch “Stalây - Taylo”. Kế hoạch này
được chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất: Bình định miền Nam trong vòng 18 tháng với biện
pháp chính là dồn dân, lập ấp chiến lược(tính từ tháng 6 năm 1961). Mục đích
của chiến lược này là phá huỷ các cơ sở cách mạng và đánh bật lực lượng vũ
trang ra khỏi quần chúng, đánh bại chiến tranh du kích; ngăn chặn biên giới
và kiểm soát vùng biển cắt đứt các tuyến đường vận chuyển, tiếp tế, cô lập và
bóp nghẹt cách mạng miền Nam. Tập trung đào tạo và tăng cường nguỵ quân
làm lá chắn để đánh phá và tiêu diệt lực lượng cách mạng từ bên trong.
Giai đoạn hai: trong năm 1963, khối phục phát triển kinh tế, hoàn tất
chương trình bình định, xây dựng quân nguỵ, tiến công ra Bắc.
Giai đoạn ba: Xây dựng miền Nam thành quốc gia kiểu mẫu, có tiềm
lực kinh tế, chính trị, quân sự mạnh ở Đông Nam á.
Để thực hiện kế hoạch này, chúng đã lập Bộ chỉ huy viện trợ quân sự
(MACV) ở Sài Gòn do Đại tướng Paul Harkins làm Tư lệnh. Số lượng cố vấn
51
và các đơn vị yểm trợ không ngừng tăng lên từ 1.077 tên (năm 1960) đến
10.640 (năm 1962). Ngoài lực lượng trên, Mỹ còn đưa vào miền Nam một
khối lượng vũ khí, thiết bị chiến tranh khổng lồ, tăng thêm viện trợ quân sự và
kinh tế cho chính quyền và quân đội Sài Gòn. Tính từ năm 1961 trở đi, số
viện trợ quân sự bắt đầu vượt viện trợ kinh tế: năm 1962, viện trợ tăng gấp
đôi năm 1961, đến năm 1964 lại tăng gấp rưỡi năm 1962. Trung bình, viện trợ
quân sự trực tiếp trong thời gian này tới 300 triệu đôla 1 năm [84, tr.37].
Mỹ đã thi hành những biện pháp mà chúng cho là có hiệu quả nhất để
“chiến lược chiến tranh đặc biệt” của chúng thành công. Đó là:
- Tăng cường đào tạo và xây dựng lực lượng quân đội Sài Gòn đủ
mạnh, dùng quân đội Sài Gòn và những thiết bị chiến tranh hiện đại để nhanh
chóng tiêu diệt lực lượng cách mạng.
Trước những tổn thất to lớn về lực lượng và vật chất sau cao trào Đồng
khởi, Mỹ đã tìm cách khắc phục tình trạng đó bằng cách ráo riết bắt lính, phát
triển quân chủ lực và ra sức xây dựng lực lượng đủ mạnh để đối phó với lực
lượng cách mạng. Chúng tập trung xây dựng quân chủ lực thành những đơn vị
cơ động ứng chiến lớn. Năm 1962, địch đã đưa quân chủ lực nguỵ từ 16 vạn
lên 20 vạn; bộ binh từ 7 sư đoàn lên 9 sư đoàn; lính thuỷ đánh bộ từ 4 tiểu
đoàn lên 6 tiểu đoàn; bảo an từ 6,5 vạn lên 8 vạn; dân vệ từ 4,5 vạn lên 9
vạn[64, tr.50].
Về phương tiện chiến tranh, Mỹ trang bị cho quân nguỵ nhiều đội bay
lên thẳng, tàu chiến nhỏ, xe lội nước, các loại máy bay khác nhau để tăng
cường khả năng cơ động và ứng chiến của quân đội nguỵ có thể nhanh chóng
đè bẹp lực lượng cách mạng.
- Tăng cương xây dựng chính quyền Sài Gòn; giữ vững an ninh đô thị;
tiến hành quốc sách “ấp chiến lược”.
Xây dựng chính quyền nguỵ vững mạnh đủ sức đối phó với lực lượng
52
cách mạng là một trong những mục tiêu quan trọng của Mỹ trong chiến lược
“chiến tranh đặc biệt”. Mỹ đã đổ nhiều tiển của và sức lực vào việc kiện toàn
và phát triển bộ máy chính quyền tay sai.
Qua phân tích tình hình, Mỹ - Diệm cho rằng, lực lượng cách mạng của
ta sơ dĩ phát triển như vậy là do được nhân dân ủng hộ và giúp đỡ. Vì vậy,
nếu tách nhân dân ra khỏi lực lượng cách mạng thì lực lượng cách mạng sẽ
mất đi chỗ dựa vững chắc từ đó sẽ bị cô lập và dễ dàng tiêu diệt.
Do đó, Mỹ - Diệm coi việc lập ấp chiến lược là “quốc sách” và là
“xương sống” của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”. Mục đích của việc thi
hành quốc sách “ấp chiến luợc” là: kìm kẹp nhân dân, biến chỗ dựa của cách
mạng thành chỗ dựa của chúng; phân loại quân chúng để tiêu diệt lực lượng
cách mạng; vơ vét nhân tài, vật lực của chúng ta phục vụ cho chiến lược
“chiến tranh đặc biệt” của Mỹ. Mục tiêu mà Mỹ đề ra là hết năm 1962 tập
trung được 10 triệu dân ở nông thôn vào 16.000 ấp chiến lược trong tổng số
17.000 ấp ở toàn miền Nam. Để hoàn thành kế hoạch đó, địch đã tiến hành
nhiều thủ đoạn, biện pháp khốc liệt đẫm máu. Chúng mở hàng chục nghìn
cuộc hành quân càn quét dài ngày, dùng bom đạn đánh phá ác liệt, lùng sục
khắp nơi để lùa dân vào các “ấp chiến lược”. Chúng sử dụng những phương
tiện tiên tiến như máy bay trực thăng, xe cơ giới, thiết giáp để dồn dân đến
những nơi tập trung. Trong các chiến dịch càn quét, địch đã áp dụng những
chiến thuật mới mà chúng gọi là “bủa lưới phóng lao”, “trên đe dưới búa”,
“phượng hoàng vồ mồi”, “tát nước bắt cá”v.v… nhằm thanh lọc quần chúng,
tiêu diệt bộ đội và du kính, bắn giết cán bộ ta. Những cuộc càn quét này gây
không ít khó khăn cho công tác bảo vệ hậu phương và căn cứ tại chỗ, bảo vệ
các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy của ta.
Thực chất của chính sách gom dân, lập “ấp chiến lược” là biến các làng
xã thành các trại tập trung, biến nhân dân thành những người bị tù đày. Đây là
53
một âm mưu vô cùng thâm độc của đế quốc Mỹ được thực hiện bằng mọi biện
pháp từ lừa bịp, đầu độc về tư tưởng, chính trị, mua chuộc về kinh tế đến
cưỡng bức, khủng bố bằng bạo lực với mong muốn nhanh chóng tiêu diệt
được lực lượng cách mạng.
- Tích cực phong toả biên giới, kiểm soát chặt chẽ ven biển, ngăn chặn
sự chi viện của miền Bắc để cô lập cách mạng miền Nam.
Từ rất sớm Mỹ đã nhận thấy rằng, phong trào cách mạng ở miền Nam
phát triển nhanh chóng như vậy một mặt là do sự phát triển của lực lượng
cách mạng tại chỗ, mặt khác, là do sự chi viện rất lớn từ tiền tuyến miền Bắc.
Vì thế, chúng cho rằng, sẽ không thể khống chế được phong trào cách mạng
miền Nam nếu không ngăn chặn được sự chi viện của miền Bắc để từu đó có
thể cô lập và tiêu diệt cách mạng miền Nam. Chúng đã ra sức kiểm soát bằng
mọi cách đồng thời phong toả biên giới Việt Nam - Lào, biên giới Việt Nam -
Campuchia.
- Tăng cường chiến tranh tâm lý, chiến tranh gián điệp.
Mỹ - Diệm đã ra sức tuyên truyền, nhồi sọ nguỵ quân, nguỵ quyền
bằng những tư tưởng phản động; xuyên tạc đường lối cách mạng, gây hoang
mang trong nhân dân. Chúng đã chi hàng tỷ đồng cho chiến tranh gián điệp,
tổ chức hàng loạt các cơ quan gián điệp, cài người vào các tổ chức cách mạng
nhằm phá hoại từ bên trong.
Tóm lại, Hoa Kỳ đã quyết định dùng chiến tranh để duy trì chủ nghĩa
thực dân kiểu mới ở miền Nam và Hoa Kỳ cùng với chính quyền Sài Gòn tin
chắc với chiến lược mới của họ sẽ thu được thắng lợi. Những biện pháp tiến
hành chiến tranh đó của Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn đã gây ra không ít
khó khăn cho cách mạng Việt Nam. Tuy vậy, với bản lĩnh và trí tuệ to lớn,
Đảng đã lãnh đạo nhân dân một cách tài tình đánh bại chiến lươc “chiến tranh
đặc biệt” mở ra một triển vọng mới cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
54
nước của dân tộc ta.
2.1.2. Đảng chỉ đạo phát động kháng chiến trường kỳ và tranh thủ
thời cơ giành thắng lợi quyết định trong những năm (1961-1965)
Để đối phó với chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, trên cơ sở
thế và lực mới mà quân và dân ta đã tạo ra qua phong trào Đồng khởi, Đảng
ta chủ trương chuyển cách mạng miền Nam lên một giai đoạn mới, từ khởi
nghĩa từng phần phát triển lên thành cuộc chiến tranh cách mạng với quy
mô toàn miền Nam - kháng chiến trường kỳ như Nghị quyết 15 đã vạch ra.
Ngày 20-12-1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
được thành lập và thông qua chương trình hành động 10 điểm với nội dung cơ
bản là đánh đổ chính quyền thực dân mới của đế quốc Mỹ ở MNVN, xây
dựng chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ, trung lập, thực hiện hoà bình,
thống nhất nước nhà. Từ đây, MTDTGPMNVN nhanh chóng trở thành một
thực thể chính trị đại diện hợp pháp, chân chính cho đông đảo các tầng lớp
nhân dân, liên kết các vùng giải phóng, phối hợp với cuộc đấu tranh ở nông
thôn và thành thị chống lại đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình
Diệm. Mặt trận thực sự đã trở thành ngọn cờ lãnh đạo trực tiếp cuộc chiến
tranh cách mạng của nhân dân ở miền Nam, nhất là trong thời kỳ chống
“chiến tranh đặc biệt” và cũng như trong các giai đoạn chiến tranh sau này.
Như vậy, với ý nghĩa quan trọng đó, MTDTGPMNVN thực sự “có vai trò hết
sức to lớn, góp phần quyết định vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước”[12, tr.12].
Ngày 23-1-1961, Hội nghị BCH Trung ương Đảng quyết định thành lập
Trung ương Cục thay cho Xứ uỷ Nam bộ cũ, là một bộ phận của BCH Trung
ương Đảng, gồm một số uỷ viên Trung ương đuợc BCH Trung ương cử ra và
uỷ nhiệm chỉ đạo toàn bộ công tác Đảng ở miền Nam. Trung ương Cục có
nhiệm vụ cụ thể hoá và phát triển những Nghị quyết chung của Đảng về cách
55
mạng miền Nam đồng thời trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng ở đây. Sự
ra đời của Trung ương cục đánh dấu một bước phát triển mới trong quá trình
lãnh đạo cách mạng miền Nam góp phần đưa cuộc cách mạng đó đi đến thắng
lợi.
Sớm nhận thấy được sự thay đổi quan trọng trong mưu đồ chiến lược
mới của đế quốc Mỹ, cũng như thế và lực mới của quân và dân ta, trên cơ sở
đường lối chung về cách mạng được đề cập trong Nghị quyết Hội nghị Trung
ương lần thứ 15 và Đại hội Đảng lần thứ III, ngày 24-1-1961, Bộ Chính trị đã
họp bàn về phương hướng nhiệm vụ, công tác trước mắt của cách mạng miền
Nam và nhận định rằng: “Thời kỳ ổn định của Mỹ - Diệm đã chấm dứt, thời
kỳ khủng hoảng triền miên bắt đầu, các hình thức du kích cục bộ, khởi nghĩa
từng phần đã xuất hiện, mở đầu cho cao trào cách mạng mới ở miền
Nam”[28,tr.153]. Mỹ và chính quyền Sài gòn quyết dùng bạo lực tiêu diệt
cách mạng nên phương hướng giành thắng lợi sắp tới của ta phải bằng cuộc
tổng công kích, tổng khởi nghĩa để lật đổ chính quyền Mỹ - Diệm, giải phóng
miền Nam. Vì vậy, phương châm đấu tranh lúc này là: Đẩy mạnh hơn nữa đấu
tranh chính trị, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang song song với đấu
tranh chính trị, căn cứ vào tình hình cụ thể của từng vùng mà vận dụng
phương châm đấu tranh thích hợp nhưng phải khôn khéo, tránh kích thích Mỹ
gia tăng can thiệp vũ trang quá sớm gây khó khăn cho ta, thực hiện việc kiềm
chế, đánh địch ở miền Nam. Chúng ta phải gấp rút xây dựng lực lượng vũ
trang vì lúc này lực lương vũ trang của địch chưa bị tổn thất nhiều, nếu mặt
đấu tranh vũ trang của ta yếu, không đủ sức đánh những đòn quyết định vào
lực lượng vũ trang của địch thì sau thời gian hoang mang, dao động, địch có
thể ổn định lại tình hình và phản kích ta. Vì thế, “vấn đề cấp thiết đặt ra là
phải nhanh chóng xây dựng lực lượng vũ trang và đẩy mạnh đấu tranh vũ
trang để đủ sức giánh cho địch những đòn sấm sét, tiến lên giành thắng lợi
56
quyết định” [64, tr.44].
Thực hiện sự chuyển hướng đó, Bộ Chính trị chỉ rõ công tác trước mắt
của cách mạng miền Nam là:
Ra sức xây dựng mau chóng lực lượng ta cả về mặt chính trị và
quân sự, tập hợp đông đảo lực lượng cách mạng trong Mặt trận
dân tộc giải phóng, phát động một phong trào đấu tranh mạnh mẽ
của quần chúng, tích cực tiêu diệt sinh lực địch, bảo tồn và phát
triển lực lượng ta, làm tan rã chính quyền và lực lượng địch trên
một phạm vi ngày càng rộng lớn, tiến lên làm chủ rừng núi, giành
lại toàn bộ đồng bằng; ra sức xây dựng cơ sở và đẩy mạnh đấu
tranh chính trị ở đô thị; tạo mọi điều kiện và nắm bắt thời cơ chuẩn
bị đánh đổ chính quyền Mỹ - Diệm, giải phóng miền Nam[28,
tr.159].
Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh: “Công tác quan trọng và khẩn cấp bậc
nhất là phải ra sức xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, tiếp tục
đẩy mạnh mọi hình thức đấu tranh để lấn địch từng bước và tiến lên đánh đổ
hoàn toàn địch”[28, tr.160].
Chỉ thị về Phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách
mạng miền Nam là sự cụ thể hoá đường lối cách mạng của Đảng vào điều
kiện cách mạng miền Nam khi tương quan lực lượng giữa ta và địch đã có sự
thay đổi. Bản chỉ thị này đã chứng tỏ sự lãnh đạo sáng suốt, hết sức nhạy bén
của Đảng ta: Trước bước ngoặt của lịch sử cách mạng, Đảng đã kịp thời
chuyển hướng cuộc đấu tranh của nhân dân ta từ khởi nghĩa sang chiến tranh
cách mạng, nhưng vẫn tiếp tục tiến hành khởi nghĩa trong chiến tranh cách
mạng, chủ động tạo đà cho cách mạng miền Nam giành thắng lợi hoàn toàn.
Thực hiện những công tác trên, tháng 2-1961, các lực lượng vũ trang
miền Nam được thống nhất với tên gọi Quân giải phóng miền Nam Việt
57
Nam. Tháng 7-1961, Trung ương Cục quyết định thành lập trung đoàn chủ
lực miền Nam mang mật danh Q761. 50% số đảng viên toàn Đảng bộ miền
Nam được sử dụng là nòng cốt xây dựng bộ đội tập trung. Sự ra đời của trung
đoàn chủ lực đầu tiên này đánh dấu bước phát triển mới của lực lượng vũ
trang cách mạng miền Nam. Đồng thời lực lượng du kích, bộ đội địa phương
cũng được chú trọng xây dựng. Đến cuối năm 1961, các quân khu đã xây
dựng được 11 tiểu đoàn bộ đội chủ lực với quân số mỗi tiểu đoàn khoảng 500
người, trang bị chủ yếu là vũ khí từ miền Bắc đem vào và một số vũ khí thu
được của địch. Bộ đội địa phương toàn miền Nam có khoảng hơn 24 vạn
người. Du kích tự vệ các địa phương có khoảng 100.000 người [113, tr.141-
142]. Phối hợp với đấu tranh chính trị và binh vận, lực lượng vũ trang đã đẩy
mạnh hoạt động tiêu hao, tiêu diệt địch, đẩy lùi nhiều cuộc càn quét của Mỹ -
nguỵ, hỗ trợ quần chúng nổi dậy giành và giữ quyền làm chủ. Trong năm
1961, quân dân miền Nam đã đánh hơn 15.000 trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng
chiến đấu hàng chục nghìn tên địch, thu hàng nghìn khẩu súng các loại. Cùng
với các hoạt động quân sự, phong trào đấu tranh chính trị tiếp tục có bước
phát triển mạnh. Hơn 33,8 triệu lượt người tham gia đấu tranh chính trị. Đến
cuối năm 1961, mặc dù địch điên cuồng phản kích, nhưng ta đã phá thế kìm
kẹp ở hơn một vạn thôn, xã và giải phóng gần 6 triệu dân [113, tr.142]. Nhờ
vậy mà, nguồn nhân lực và hậu cần tại chỗ đảm bảo một phần quan trọng cho
sự phát triển của lực lượng cách mạng.
Sang năm 1962, địch tăng cường lực lượng, xúc tiến bình định, đưa kế
hoạch lập ấp chiến lược lên thành quốc sách hàng đầu. Với các chiến thuật và
biện pháp tác chiến cứng rắn, Mỹ và quân đội Sài Gòn đã lập được hơn 2000
ấp chiến lược gây tổn thất nặng nề cho lực lượng cách mạng miền Nam, gây
hoang mang trong nhân dân và một bộ phận các đơn vị vũ trang còn non trẻ.
Mỹ đã dùng trực thăng và xe thiết giáp M.113 truy quét và tiêu diệt lực lượng
58
của ta. Đã có không ít đơn vị vũ trang cấp đại đội,trung đội Quân giải phóng
bị tiêu diệt; nhiều cán bộ, chiến sĩ bị bắt; nhiều làng mạc thôn ấp, vùng giáp
ranh, vùng giải phóng, vùng căn cứ kháng chiến bị bom đạn và chất độc hoá
học tàn phá nặng nề… Các cấp lãnh đạo, chỉ huy đôi khi cũng tỏ ra lúng túng
trước sức mạnh tàn bạo của kẻ thù, nên đã chưa đưa ra được phướng hướng
chỉ đạo đúng đắn. Kết quả là trong 9 tháng đầu năm 1962, chúng ta đã phải
chịu những tổn thất to lớn về người và của: 36.200 người hy sinh, bị thương
và bị bắt, trong đó có 25.000 cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. ở vùng đồng
bằng sông Cửu Long, địch đã dồn được 2 triệu dân, cơ sở cách mạng bị bật ra
ngoài các thôn xã, du kích, cán bộ phải phân tán sang các xã khác chưa bị
địch càn quét. Vùng đồng bằng khu V chỉ còn 904 thôn có cơ sở với 700 đảng
viên trong tổng số 3.829 thôn[113, tr.144], vì thế, địch dễ dàng dồn dân lập
các ấp chiến lược.
ở thời điểm này, nếu so sánh lực lượng thì có thể thấy, sự chênh lệch về
lực lượng giữa ta và địch là khá lớn: một bên là quân đội Mỹ - ngụy có lực
lượng đông đảo lại được trang bị các loại vũ khí hiện đại, với một bên là lực
lượng cách mạng còn non trẻ lại hứng chịu những thiệt hại nặng nề do các
chiến dịch càn quét của địch gây ra. Nhưng xét về chiều sâu, ta thấy rằng:
“địch lập ấp chiến lược để chống ta, tức là địch muốn tạo cái thế mạnh trong
cái thế yếu hiện nay của chúng. Nhân dân về ta, chính nghĩa về ta, địch không
có cách gì giành giật nhân dân với ta mà phải dùng đến phương pháp tập
trung quần chúng. Địch thì tập trung quần chúng, kìm kẹp quần chúng, còn ta
thì phát động quần chúng, đưa quần chúng ra đấu tranh với địch. Như thế là ta
ở vào thế mạnh mà địch ở vào thế yếu”[29, tr.716]. Nhận thức được tương
quan lực lượng giữa ta và địch, thấy hết được thế mạnh của ta, thế yếu của
địch là một nhân tố quan trọng để những người lãnh đạo đề ra được đường
lối và phương pháp cách mạng đúng đắn. Chúng ta cũng thấy rằng: để đánh
59
bại địch, đưa cách mạng đi đến thành công thì “một mặt phải phá cho được ấp
chiến lược của địch, một mặt phải biết xây dựng lực lượng ngày càng mạnh,
đặc biệt là lực lượng quân sự”[29, tr.717]. Vì vậy, vấn đề cấp bách đặt ra cho
quân và dân MNVN lúc này là phải tìm được cách đánh thắng các chiến thuật
mới của Mỹ - nguỵ từ đó mới đánh thắng được chiến lược “chiến tranh đặc
biệt”.
Trước tình hình đó, Trung ương Cục, Bộ Tư lệnh quân giải phóng đã
phân công các uỷ viên, các cán bộ dày dạn kinh nghiệm xuống tăng cường
cho các tỉnh, các địa phương góp phần củng cố lực lượng và chỉ đạo phong
trào chống địch càn quét, phá ấp chiến lược, xây dựng các làng xã chiến đấu.
Cũng trong thời gian này, cuộc chiến tranh cách mạng ở Lào đã có
bước phát triển nhảy vọt. Lực lượng vũ trang Pathét phối hợp với bộ đội tình
nguyện Việt Nam đã chiến đấu kiên cường, đẩy địch ra khỏi cánh đồng
Chum, Xiêng Khoảng; giải phóng hầu hết tỉnh Luông Phabăng và tỉnh Nậm
Thà. Đế quốc Mỹ và tay sai buộc phải chấp nhận ngừng bắn, thành lập chính
phủ liên hiệp ba phái ở Lào. Tháng 7-1962, Hiệp định Giơnevơ về Lào đuợc
ký kết, cam kết tôn trọng nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của Lào.
Thắng lợi đó của Lào đã tạo ra điều kiện mới cho cuộc đấu tranh chống
Mỹ, cứu nước ở Việt Nam. Chủ trương nhất quán của Đảng về phương hướng
cách mạng miền Nam đã được đồng chí Lê Duẩn nêu ra trong thư gửi Trung
ương Cục miền Nam (18-7-1962) là: “vì để giành thắng lợi cho cách mạng
miền Nam, đồng thời vì lợi ích chung của toàn quốc và của phe ta, chúng ta
phải biết kìm chế địch trong loại chiến tranh đó, và không cho chúng mở rộng
chiến tranh miền Nam thành một loại chiến tranh cục bộ lớn”[29, tr.717-718].
Đây là tư tưởng kiềm chế địch để tránh thế khó khăn bất lợi và thắng
chúng một cách có lợi nhất của Đảng ta. Chủ trương đó dựa trên cớ sở phân
60
tích chính xác âm mưu, thủ đoạn và khả năng hành động của đế quốc Mỹ
trong các mối quan hệ quốc tế đương thời, mặt khác thấy rõ thế và lực cùng
khả năng phát triển của ta.
Đế quốc Mỹ mang dã tâm xâm lược nước ta, vì vậy tìm cách kiềm chế
những âm mưu và hành động của chúng là cần thiết và có thể thực hiện được
để tránh những khó khăn, bất lợi sớm phải đụng đầu với một kẻ thù lớn mạnh
hơn ta nhiều lần, trong khi lực lượng của ta còn hạn chế.
Trên tinh thần đó, từ ngày 6 đến 10-12-1962, Bộ Chính trị đã họp bàn
và ra Nghị quyết Về tình hình, phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt
của cách mạng miền Nam. BCT đã nhận định việc Mỹ - Diệm tuyên bố chiến
tranh và tổng động viên lực lượng để đánh bại cách mạng “là một sự chuyển
hướng lớn về chiến lược của chúng, đã tạo ra một cục diện chiến tranh thực sự
với quy mô khá lớn ở miền Nam Việt Nam”[29, tr.812]. Về phía ta, Nghị
quyết khẳng định rằng, sau một năm chiến đấu với chiến lược chiến tranh đặc
biệt của đế quốc Mỹ thì “phong trào cách mạng miền Nam đã trải qua những
thử thách và khó khăn mới, có nơi có lúc bị động, lúng túng, nhưng vẫn bảo
tồn và phát triển được lực lượng, đã gây cho địch nhiều thiệt hại hơn và đã
giành được thêm những thắng lợi mới”[29, tr.814]. Trên cơ sở những thành
tích đã đạt được trong phong trào đấu tranh chống chiến lược “chiến tranh đặc
biệt của Mỹ, BCT đã nhận đinh: “ta có thể phá được chính sách ấp chiến
lược và làm thất bại chiến thuật biệt kích bằng trực thăng vận của
địch”[28,tr.815]. Căn cứ vào tình thình thực tiễn đáu tranh, BCT đã đề ra
phương hướng phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là “trường kỳ đấu
tranh bằng cả quân sự và chính trị, giữ vững và phát triển phong trào, giành
thắng lợi từng phần, đẩy lùi địch từng bước, phát triển và che dấu lực lượng,
chuẩn bị điều kiện, tranh thủ thời cơ để tiến lên giành những thắng lợi quyết
61
định giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà”[29, tr.821].
Trong Nghị quyết này, lần đầu tiên BCT đã đề cập tới việc tạo thời cơ
để giành thắng lợi quyết định cho cách mạng miền Nam. Đây là một phương
hướng hết sức đúng đắn dựa trên cơ sở phân tích tương quan lực lượng giữa
ta và địch trong điều kiện lấy yếu đánh mạnh của ta. Và chỉ thực hiện theo
phương hướng đó, cách mạng miền Nam mới có thể đi đến thắng lợi được.
Căn cứ vào tình hình thực tiễn đấu tranh giữa ta và địch, để đưa cách
mạng ở miền Nam phát triển lên một buớc vững chắc trong mọi tình huống có
thể xảy ra, Nghị quyết BCT đã chỉ ra phương hướng công tác sắp tới là tập
trung vào các mặt như phát triển chiến tranh du kích, đẩy mạnh phong trào
phá ấp chiến lược, ra sức xây dựng lực lượng vũ trang, tăng cường công tác
mặt trận, đẩy mạnh công tác đô thị, tăng cưỡng sự lãnh đạo của Đảng…
Bước sang năm 1963, thực hiện Nghị quyết của BCT, cuộc cánh mạng
ở miền Nam đã giành được nhiều thắng lợi to lớn. Mở đầu là trận ấp Bắc (Mỹ
Tho) ngày 2-1-1963. Đây là cuộc đụng đầu về quân sự quy mô tương đối lớn
so với truớc đó, nó diễn ra giữa lúc Mỹ - Diệm đang ráo riết hoàn thành kế
hoạch “bình định miền Nam trong vòng 18 tháng”, còn ta đang gấp rút tìm
cách đánh thắng các chiến thuật của địch.
ấp Bắc gồm hai ấp nhỏ là Tân Bình và Tân Thời thuộc xã Tân
Phú Trung, huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền
Giang). Tại đây đã diễn ra cuộc đọ súng không cân sức giữa ta
và địch. Lực lượng của ta ở đây chỉ có 1 đại đội tăng cường
thuộc tiểu đoàn 261 chủ lực khu VIII, 1 đại đội bộ đội địa
phương tỉnh Mỹ Tho, 1 trung đội trợ chiến, 1 trung đội địa
phương huyện Châu Thành cùng lực lượng dân quân, du kích
tại chỗ. Về phía địch, chúng có 3 tiểu đoàn của sư đoàn 7 thuộc
Vùng 4 chiến thuật, 1 chiến đoàn bảo an tỉnh Định Tường, 1
62
tiểu đoàn dù thuộc lực lượng dự bị chiến lược Bộ Tổng tham
mưu quân đội Sài Gòn, một số đại đội biệt kích, dân vệ, và 51 cố
vấn Mỹ cùng với 3 tàu chiến bao vây ở hướng đông bắc, 1 chi
đoàn thiết giáp lội nước M.113, 15 trực thăng và 7 máy bay vận
tải C.123 chở quân đổ bộ và quân dù, 5 trực thăng vũ trang có
gắn súng liên thanh và các giàn hoả tiễn chi viện hoả lực, 8 máy
bay ném bom, 4 chiếc L.19 làm nhiệm vụ trinh sát và chỉ huy,
hàng chục khẩu pháo, cối yểm trợ hành quân và đánh phá mục
tiêu [113,tr.147]. Mỹ - Diệm thực hiện cuộc tiến công này nhằm
mục đích tiêu diệt gọn đơn vị chủ lực Quân giải phóng miền
Nam, qua đó chứng tỏ hiệu lực và sức mạnh của quân đội Sài
Gòn với trang bị, vũ khí và cố vấn quân sự Mỹ.
Nếu so sánh đơn thuần như vây cũng có thể thấy lực lượng của Mỹ -
Diệm hơn hẳn ta về cả quân số lẫn phương tiện chiến tranh nhưng với tinh
thần quả cảm, lực lượng vũ trang ta tại ấp Bắc kiên quyết chống lại kẻ thù,
sau một ngày chiến đấu liên tục, chúng ta đã đánh thắng các đợt tiến công của
địch, loại khỏi vòng chiến đấu 450 tên (trong đó có cố vấn và nhân viên kỹ
thuật Mỹ), bắn rơi 5 trực thăng, phá huỷ 3 xe bọc thép, đánh chìm 1 tàu chiến
[113, tr.148], làm thất bại hoàn toàn cuộc hành quân đầy tham vọng của địch.
Chiến thắng ấp Bắc có ý nghĩa rất to lớn với cuộc đấu tranh của nhân
dân ta. Lần đầu tiên tại vùng đồng bằng, lực lượng vũ trang phối hợp với lực
lượng chính trị đánh bại cuộc càn quét của Mỹ - nguỵ với lực lượng hơn ta
gấp 10 lần, mở ra khả năng đánh bại các chiến thuật cơ động bằng máy bay
63
lên thẳng và thiết giáp của chúng. “Kể từ trận ấp Bắc, Mỹ thấy không thể
thắng được ta”[19, tr.69]. Chiến thắng này đã mở ra phong trào “Thi đua ấp
Bắc giết giặc lập công”.
Phát huy khí thế chiến thắng, lực lượng vũ trang của ta trên khắp các
chiến trường đã vùng dậy đánh địch, chống càn và chủ động mở nhiều đợt tiết
công giành được những thắng lợi to lớn. Trong cuộc đấu tranh đó, vận dụng
sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, miền Nam vừa phát triển
lực lượng và thế trận chiến tranh nhân dân trên cả ba vùng chiến lược, vừa
đẩy mạnh tiến công địch bằng cả ba mũi tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn
đánh thắng các nỗ lực chiến tranh của địch. Năm 1963, quân, dân miền Nam
đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 7 vạn tên địch (có 600 tên Mỹ), phá huỷ
nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại, thi một khối lượng lớn các loại vũ khí,
phá 2.859 ấp chiến lược trong tổng số 6.164 ấp, giải phóng gần 9 triệu dân,
mở rộng vùng giải phóng[113, tr.149].
Những thắng lợi của quân, dân ta trên khắp miền Nam cùng với sự
bùng nổ của Phong trào Phật giáo đã làm cho chính quyền Ngô Đình Diệm bị
lung lay đến tột độ, buộc Mỹ phải “thay ngựa giữa dòng”.
Cũng thời điểm đó (22-11-1963), Tổng thống Mỹ Kennơdy bị ám sát,
Phó Tổng thống Giônxơn lên thay. Tháng 12-1963, Bộ trưởng Quốc phòng
Mỹ, Mc Namara đã sang Việt Nam khảo sát tình hình và đưa ra kế hoạch bí
mất chống phá MBVN đồng thời điều chỉnh lại chiến lược của Mỹ nhằm cứu
vãn tình hình miền Nam. Kế hoạch đó tập trung vào 3 nội dung chủ yếu, đó
là:
- Mở rộng quyền hạn Bộ Chỉ huy quân sự ở MNVN.
- Đẩy mạnh cách hoạt động chống phá MBVN và ngăn chặn sự xâm
nhập từ miền Bắc qua Lào vào MNVN.
64
- Tăng lực lượng yểm trợ Mỹ vào MNVN.
Trước chuyển biến mới của tình hình trong nước và quốc tế, BCH
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (khoá III) họp Hội nghị lần thứ 9 (12-
1963) ra Nghị quyết về đường lối và chủ trương lãnh đạo cách mạng miền
Nam. Hội nghị đã phân tích âm mưu và chủ trương của địch cũng như những
đặc điểm tình hình cuộc đấu tranh của nhân dân ở miền Nam và chỉ rõ:
Chúng ta phải có khả năng kiềm chế và thắng địch trong loại
“chiến tranh đặc biệt”. Khả năng này sẽ tăng lên nhiều, nếu chúng
ta kiên quyết chống đế quốc Mỹ và tay sai, đồng thời có sách lược
khôn khéo, biết lợi dụng hơn nữa mâu thuẫn trong nội bộ địch... do
đó mà làm cho đế quốc Mỹ khó sử dụng được lực lượng của khối
xâm lược Đông Nam á để mở rộng chiến tranh ở miền
Nam.[30,tr.819].
Đồng thời Hội nghị cũng khẳng định quá trình thắng lợi của cách mạng
miền Nam phải là: “quá trình tiến hành ba mặt đấu tranh chính trị, đấu tranh
quân sự chống địch ở miền Nam và đấu tranh ngoại giao”[30, tr.820] trong đó
“đấu tranh chính trị và quân sự ở miền Nam là cơ bản và đấu tranh ngoại giao
là rất quan trọng”[30, tr.820].
Hội nghị dự đoán trước tình hình là Mỹ có khả năng đưa thêm quân vào
đẩy mạnh cuộc chiến tranh Việt Nam, vì vậy yêu cầu cần thiết đối với ta là
“phải luôn nâng cao cảnh giác và tích cực chuẩn bị để sẵn sang ứng phó nếu
đế quốc Mỹ mạo hiểm mở rộng cuộc chiến tranh ở miền Nam thành chiến
tranh cục bộ”[30, tr.820].
Dựa trên những phân tích đúng đắn về so sánh lực lượng giữa ta và
địch mà Hội nghị đã vạch rõ phương hướng tiến lên của cách mạng miền Nam
là: “giành thắng lợi từng phần, đẩy lùi địch từng bước, tiến tới tổng công
kích, tổng khởi nghĩa để đi đến thắng lợi hoàn toàn”[30, tr.823]. Tuy nhiên,
65
Hội nghị cũng thấy rằng cuộc cách mạng ở miền Nam “cũng có thể thông
qua một bước quá độ nào đó trước khi đi đến thắng lợi hoàn toàn”[30,
tr.823]. Đây chính là thể hiện tư tuởng chỉ đạo giành thắng lợi quyết định
cho cách mạng miền Nam của Đảng. Bước quá độ đó được hiểu là chúng ta sẽ
phải tập trung toàn lực đánh tiêu diệt và làm tan rã quân đội của chính quyền
tay sai, làm cho lực lượng của chúng suy yếu, đập tan ý chí xâm lược của đế
quốc Mỹ và dựa trên cơ sở đó mới có thể tiến lên đánh đổ chính quyền tay sai,
giành độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà. Đảng ta cũng nhấn mạnh: “phải
có quyết tâm động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân giành cho đuợc thắng
lợi tối đa, không nên có thái độ lừng chừng, muốn dừng lại ở bước quá độ.
Chỉ có quyết tâm giành thắng lợi cao nhất và chuẩn bị sẵn sàng để ứng phó
với mọi tình thế, thì dù tình hình có phát triển thế nào, thắng lợi cuối cùng
nhất định sẽ về tay nhân dân ta”[30, tr.823-824].
Hội nghị phân tích: “Cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở
miền Nam vẫn là cuộc chiến tranh lấy yếu đánh mạnh. Trong cuộc chiến tranh
ấy, nhân dân ta phải tiêu hao và tiêu diệt sinh lực địch, giữ vững và phát triển
lực lượng của ta; đánh địch về mọi mặt làm cho lực lượng của chúng hao
mòn, suy sút và tinh thần của binh sĩ mệt mỏi, chán nản, tan rã. Quá trình đấu
tranh là quá trình ta mạnh lên địch yếu đi; ta càng đánh càng thắng, địch càng
đánh càng bại. Cuối cùng ta tiêu diệt địch hoặc đè bẹp ý chí xâm lược và nô
dịch của chúng” [30, tr.827].
Để tạo chuyển biến mới của tình hình, tiến lên giành thắng lợi to lớn
hơn, chúng ta cần cố gắng: “Trong khi kiên trì đấu tranh lâu dài, cần tranh thủ
thời cơ thuận lợi tập trung lực lượng, quyết tâm giành cho được những thắng
lợi có tính chất quyết định trong mấy năm tới”[30, tr.839].
Từ đó, hội nghị đề ra nhiệm vụ trước mắt là:
Động viên toàn Đảng, toàn dân vượt mọi khó khăn và trên cơ
66
sở phát triển mạnh mẽ hơn nữa ý thức giác ngộ chính trị của nhân
dân, ra sức phấn đấu xây dựng lực lượng chính trị và vũ trang (nhất
là lực lượng vũ trang), làm thay đổi mau chóng lực lượng so sánh
giữa ta và địch theo chiều hướng có lợi cho ta; tích cực xây dựng và
mở rộng căn cứ địa, đặc biệt là ở những địa bàn chiến lược và cơ
động của quân chủ lực; tiến lên đánh tiêu diệt và làm tan rã từng bộ
phận quân đội địch; phá phần lớn các ấp chiến lược, làm chủ vùng
rừng núi và phần lớn xã thôn vùng đồng bằng, tạo điều kiện cho
phong trào quần chúng đô thị nổi dậy mạnh mẽ, đẩy chế độ Mỹ và
tay sai đến chỗ khủng hoảng sâu sắc hơn và mau suy sụp hơn, làm
cho phong trào giành được chủ động về chiến lược tạo ra thời cơ tốt
để giành những thắng lợi quyết định về ta
Trong nhiệm vụ truớc mắt trên đây, có hai nội dung chủ yếu
và cũng là hai mục tiêu chủ yếu mà ta phải quyết tâm đạt cho bằng
được là :
1. Tiêu diệt từng bộ phận quân đội địch, tạo điều kiện làm tan
rã hoàn toàn lực lượng quân sự, chỗ dựa chính của đế quốc Mỹ và
tay sai ở miền Nam.
2. Làm thất bại kế hoạch gom dân, lập ấp chiến lược của
địch, phá phần lớn các ấp chiến lược, giành nhân sự, vật lực cho
cách mạng, làm chủ rừng núi và phần lớn đồng bằng[30, tr.839].
Như vậy, đến hội nghị này, tư tưởng chỉ đạo giành thắng lợi quyết
định cho cách mạng miền Nam đã được làm sáng tỏ hơn, đánh dấu một
bước trưởng thành mới về lý luận và năng lực tổ chức thực hiện của Đảng
ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là cơ sở để nhân dân ta
đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.
Sau những thất bại to lớn ở trên chiến trường miền Nam, để cứu vãn
67
tình thế, Tổng thống Mỹ đã đưa ra bi vong lục Về hành động an ninh quốc gia
số 288, trong đó, nội dung cơ bản tăng cường hiệu lực chỉ huy trực tiếp của
Mỹ ở MNVN, tăng viện trợ cho chính quyền và quân đội Sài Gòn, tiến hành
các hoạt động khiêu khích, đe doạ, chống phá, gây sức ép đối với miền Bắc.
Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập Hội nghị chính
trị đặc biệt tại Hà Nội nêu lên quyết tâm đánh thắng kẻ thù xâm lược và khẳng
định nếu đế quốc Mỹ “liều lĩnh động đến miền Bắc thì nhất định chúng sẽ thất
bại thảm hại”[31, tr.100]. Người còn chỉ ra rằng: “Tình hình ở miền Nam hiện
nay chứng tỏ một cách rõ rệt sự thất bại không thể tránh khỏi của đế quốc Mỹ
trong cuộc “chiến tranh đặc biệt” này. Cuộc “chiến tranh đặc biệt” mà chúng
đang thí nghiệm ở miền Nam đã thất bại thì chúng cũng sẽ thất bại ở bất kỳ
nơi nào khác”[31, tr.100].
Từ giữa năm 1964, dưới ánh sáng của Nghị quyết Hội nghị Trung uơng
9, quân và dân ta ra sức chiến đấu lập nhiều thành tích to lớn làm cho thế và
lực của cách mạng miền Nam mạnh hơn bao giờ hết, gây ra nhiều khó khăn
cho Mỹ - Nguỵ, dồn chúng vào thế bị động. Lực lượng cách mạng miền Nam
phát triển vượt bậc là nhờ có sự chi viện khá mạnh mẽ của miền Bắc. Đến
cuối năm 1964, lực lượng vũ trang miền Nam đã có 11 trung đoàn và 15 tiểu
đoàn chủ lực, 25 tiểu đoàn và 90 đại đội bộ đội địa phương, 20 vạn du kích
[113,tr.154]; các căn cứ địa cách mạng từ miền tây các tỉnh đồng bằng Trung
bộ và Tây Nguyên đến miền Đông Nam bộ tới Trung và Tây Nam bộ đã
thành một hệ thống liên hoàn, vùng giải phóng tiếp tục được củng cố và mở
rộng.
Trên cơ sở thế và lực mới, quân dân miền Nam liên tiếp mở các đợt
hoạt động quân sự, đẩy mạnh phong trào nổi dây phá ấp chiến lược làm cho
kế hoạch bình định năm 1964 của địch về cơ bản bị phá sản. Số ấp chiến lược
68
giảm xuống nhanh chóng từ 7.512 ấp (6-1963) xuống còn 3.300 ấp (cuối năm
1964) và ngay cả số ấp còn lại thì củng chỉ có 5% là đạt tiêu chuẩn mà chúng
đề ra [113, tr.155].
Nhằm củng cố và phát huy mạnh mẽ hơn nữa những thành quả to lớn
mà quân và dân miền Nam đã giành được, tháng 9-1964, Bộ Chính trị Trung
ương Đảng họp nhận định: phong trào cách mạng miền Nam đứng truớc thời
cơ và triển vọng mới để giành thắng lợi lớn hơn và đề ra chủ trương tranh thủ
thời cơ cố gắng đánh bại hoàn toàn quân nguỵ trước khi quân Mỹ nhảy vào,
tập trung toàn lực để giành một bước thắng lợi quyết định trong một vài năm
tới. Với nhiệm vụ cụ thể là:
1. Đẩy mạnh hoạt động tác chiến, tích cực tiêu hao, tiêu diệt
một bộ phận quân chủ lực địch, phối hợp mọi cuộc đấu tranh quân
sự với đấu tranh chính trị, binh vận để làm tan rã phần lớn quân
địch.
2. Làm chủ cho được rừng núi và nông thôn đồng bằng.
3. Ra sức đẩy mạnh phong trào đấu tranh ở đô thị.
4. Gấp rút tăng cường xây dựng lực lượng chính trị, quân sự,
đặc biệt là xây dựng chủ lực.
5. Tăng cường công tác mặt trận.[25, tr.275]
Bộ Chính trị đã chỉ đạo cho Quân uỷ Trung ương, Bộ Tổng tham mưu
lập kế hoạch tổ chức các trận đánh lớn nhằm tiêu diệt và làm tan rã đại bộ
phận quân đội Sài Gòn.
Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương và Bộ
Tổng tư lệnh chỉ thị mở đợt hoạt động Đông-Xuân 1964-1965 trên khắp các
chiến trường miền Nam.
Với quyết tâm giành thắng lợi quyết định, Quân uỷ, Bộ chỉ huy Miền
đã mở chiến dịch Bình Giã. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm: 2 trung đoàn
69
bộ binh (761, 762), 2 tiểu đoàn chủ lực quân khu 7 (800, 500), tiểu đoàn pháo
binh 186 của quân khu 6 và các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh, huyện, du kích
các xã, ước tính lên tới 7.000 quân tiến công địch trên một địa bàn rộng khoảng 500 km2 thuộc các tỉnh Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hoà, Bình Thuận
[114, tr.16].
Chiến dịch diễn ra từ ngày 2-12-1964 đến 3-1-1965. Kết quả, ta đã tiêu
diệt hơn 1.700 tên địch, bắt 293 tên, phá huỷ một số lớn phương tiện chiến
tranh của địch, thu hơn 1000 súng các loại và 100 máy bay thông tin, hỗ trờ
cho nhân dân nổi dậy phá từng mảng ấp chiến lược trên đường số 2, đưỡng số
5 thuộc các huyện Đất Đỏ, Long Thành, Nhơn Trạch, mở rộng vùng giải
phóng, nối liền chiến khu D và khu VII [114, tr.20].
Chiến dịch Bình Giã thắng lợi đánh dấu khả năng phá sản của chiến
lược “chiến tranh đặc biệt” tạo bước ngoặt trong so sánh lực lượng và cục
diện chiến trường có lợi cho ta. Bộ Quốc phòng Mỹ đã phải thú nhận: Bình
giã là một thất bại trông thấy của quân đội Sài Gòn và qua đó cũng thấy rằng
“Quân đội Việt Nam cộng hoà không đủ sức đương đầu với Việt
cộng”[117,tr.25]. Thắng lợi của chiến dịch này và các chiến dịch khác trên
khắp miền Nam đã chứng tỏ chủ trương mở chiến dịch lớn nhằm giành thắng
lợi quyết định mà Đảng đề ra là hoàn toàn đúng đắn và bước đầu đem lại
những kết quả khả quan.
Để đối phó với tình hình, Mỹ đã đẩy chiến lược “chiến tranh đặc biệt”
lên mức cao nhất đồng thời chuẩn bị bước phiêu lưu quân sự mới là thực hiện
“chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và đánh phá miền Bắc.
Với âm mưu đó, ngày 7-2-1965, Mỹ mở cuộc tiến công Mũi lao lửa
(Fleiming Dart 1) bằng không quân đánh phá Vĩnh Linh, Đồng Hới (Quảng
Bình). Sau đó, chúng mở tiếp Mũi lao lửa 2 đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 19
trở vào đồng thời triển khai chiến dịch ném bom bắn phá rộng rãi miền Bắc
70
với tên gọi Sấm rền (Rolling Thunder). Ngày 8-3-1965, hai tiểu đoàn lình
thuỷ đánh bộ Mỹ đổ bộ lên Đà Nẵng. Cuộc chiến tranh này đã mang nhưng
yếu tố của cuộc chiến tranh cục bộ.
Hơn ai hết, Đảng hiểu rõ âm mưu và khả năng của địch nên đã nắm bắt,
dự đoán trước tình hình có thể xảy ra để chỉ đạo cách mạng một cách đúng
đắn và có lợi nhất. Dựa vào thực tế đang diễn ra trên các chiến trường, Trung
ương Đảng chủ trương tranh thủ thời gian giành thắng lợi quyết định cho
cách mạng miền Nam trước khi đế quốc Mỹ có thể triển khai mưu đồ thâm
hiểm mới của mình.
Chủ trương đó của Đảng đã được thể hiện rõ trong Hội nghị lần thứ 11
(3-1965). Tại Hội nghị này, sau khi đánh giá và phân tích tình hình mới ở
miền Nam và miền Bắc, Đảng ta thấy rằng: “trong cuộc chạy đua giữa ta và
địch, ta để quyết thắng, địch để tránh thất bại ở miền Nam, khi ta càng gần tới
đích, càng dốc toàn lực để giành thắng lợi quyết định, thì địch cũng điên
cuồng đẩy mạnh các cố gắng chiến tranh của chúng tới mức cao nhất mà điều
kiện cho phép chúng, để chống lại ta và tránh khỏi thất bại”[32, tr.105].
Lường trước được khả năng đó, Hội nghị đã khẳng định nhiệm vụ cơ bản của
cánh mạng miền Nam là: “Tích cực kiềm chế và thắng địch trong cuộc chiến
tranh đặc biệt ở mức cao nhất ở miền Nam, ra sức tranh thủ thời cơ tập trung
lực lượng của cả nước giành thắng lợi quyết định ở miền Nam trong thời gian
tương đối ngắn”[32, tr.109] nhưng cũng phải “chuẩn bị sẵn sàng đối phó và
quyết thắng cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam nếu địch gây ra”[32, tr.109].
Như vậy, chủ trương giành thắng lợi quyết định của Đảng đã được
nhấn mạnh hơn và mục tiêu chủ yếu trong giai đoạn này được xác định là
đánh bại quân Sài Gòn để Mỹ không triển khai được ý đồ mở rộng chiến
tranh mà phải rút về nước. Đồng chí Lê Duẩn cũng khẳng định thời cơ đánh
cho Mỹ thua mà không kịp thay đổi chiến lược đang đến và “việc kiềm chế
71
địch để thắng chúng trong “chiến tranh đặc biệt” vẫn là một khả năng”[19,
tr.52]. Tuy nhiên, “khả năng có thành hiện thực hay không, một mặt là do âm
mưu và hành động của địch; mặt khác là do sự nỗ lực chiến đấu và sự điều
khiển chiến tranh cách mạng của ta”[19, tr.53]. Nhằm thực hiện mục tiêu trên,
trong thời gian này, một loạt các chiến dịch quân sự của quân và dân miền
Nam được diễn ra, trong đó phải kể đến chiến dịch Ba Gia, Đồng Xoài.
Chiến dịch Ba Gia tiến công từ ngày 28-6 đến 20-7-1964. Lực lượng
tham gia chiến dịch là Trung đoàn 1 chủ lực Quân khu 5 và lực lượng vũ
trang địa phương huyện Sơn Tịnh đã tiến công cứ điểm Gò Cao - một trong
ba cứ điểm thuộc khu tam giác phòng ngự phía tây Quảng Ngãi. Sau ba ngày
chiến đấu có sự phối hợp chặt chẽ của nhân dân và du kích, ta đã tiêu diệt 4
tiểu đoàn, đánh thiệt hại 2 tiểu đoàn, loại khỏi vòng chiến đấu 2.2000 tên
địch, phá 15 xe quân sự, bắn rơi 18 máy bay, làm chủ trận địa. Thắng lợi của
chiến dịch có ý nghĩa quan trọng đánh dấu bước phát triển của phong trào
cách mạng miền Nam đồng thời khẳng định sự phá sản tất yếu chiến lược
“chiến tranh dặc biệt” của Mỹ - nguỵ [114, tr.31,37].
Chiến dịch Đồng Xoài tiến công từ ngày 10-5 đến 22-7. Chiến dịch
diễn ra với sự tham gia của 3 trung đoàn bộ binh (271, 272, 273), tiểu đoàn
840 cùng với lực lượng vũ trang địa phương. Ta đã tiến hành chiến dịch trên
một địa bàn rộng lớn, thời gian dài và tập trung một lực lượng bộ đội chủ lực
hơn các chiến dịch trước đó. Lần đầu tiên ta đã giành được thắng lợi với cách
đánh công kiên. Chiến dịch này ta đã khéo léo kết hợp giữa đánh điểm và diệt
viện, giữa đánh địch trong công sự và ngoài công sự [114, tr.24].
Trong các chiến dịch này đã có sự kết hợp chặt chẽ và nhịp nhàng giữa
tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng. Thắng lợi của chiến dịch Bình
Giã, Ba Gia, Đồng Xoài và một loạt các chiến dịch khác trên toàn miền Nam
có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Nó đã làm phá
72
sản hoàn toàn chiến lược “chiến tranh đặc biêt” của Mỹ - nguỵ, đẩy chính
quyền Sài Gòn vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, có nguy cơ tan rã,
tạo bước ngoặt mới cho cách mạng miền Nam.
Các hoạt động quân sự được triển khai mạnh mẽ trên khắp các chiến
trường nhằm thực hiện mục tiêu giành thắng lợi quyết định cho cách mạng
miền Nam, giải quyết dứt điểm vấn đề miền Nam trước khi đế quốc Mỹ đưa
quân vào trực tiếp tham chiến. Tuy nhiên, dù có chạy đua với thời gian để đạt
được mục tiêu đó, thì do điều kiện chủ quan và khách quan nên chúng ta đã
không giành đuợc thắng lợi quyết định mà chỉ có thể đánh bại chiến lược
“chiến tranh đặc biệt” của chúng. Cách mạng miền Nam đang đứng trước khả
năng to lớn để giành thắng lợi quyết định nhưng chúng ta đã bỏ lỡ cơ hội.
Đánh giá về vấn đề này, trong bài nói tại Hội Nghị lần thứ 12 của BCH Trung
ương Đảng, Tổng bí thư Lê Duẩn đã nêu rõ: “tình hình đã phát triển nhanh
hơn là chúng ta dự kiến, trong khi đó thì chúng ta chưa có đủ lực lượng, và
điều kiện để chủ động đón lấy sự chuyển biến nhanh ấy của tình hình. Đến
giữa năm 1965, nguỵ quân thất bại liên tiếp và hết sức nặng nề, nhưng ta cũng
không đủ để làm cho chúng tan rã thực sự. Nếu lúc bây giờ chúng ta có sẵn
một lực lượng dự trữ mạnh ở miền Nam thì chúng ta có thế bồi thêm cho địch
những đòn nặng nề hơn nữa, làm cho nguỵ quân tan rã một cách cơ bản,
không phương cứu vãn được nữa. Và một khi quân nguỵ đã tan rã đến mức
ấy, kéo theo sự sụp đô của nguỵ quyền thì việc đế quốc Mỹ có trực tiếp đưa
quân ồ ạt vào miền Nam hay không cũng còn là một vấn đề chúng phải cân
nhắc, có thể chúng đưa quân vào mà có thể chúng phải chịu thôi cuộc chiến
tranh”[32, tr.565-566]. Và “Nếu Mỹ không đưa quân vào để cứu quân nguỵ,
ta có khả năng giành thắng lợi quyết định. Nhưng đây chỉ là một khả năng và
khả năng này khó xảy ra, vì Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự rất mạnh, tham
vọng lớn, ý chí xâm lược còn cao và đang trong quá trình “leo thang” chiến
73
tranh”[105, tr.99].
Như vậy, nhìn tổng quát giai đoạn này, Đảng ta đã có đường lối lãnh
đạo cách mạng đúng đắn, đưa cách mạng từ thế bị khủng bố kìm kẹp vùng lên
tiến hành cuộc đấu tranh đầy gian khổ, anh dũng, đánh bại chiến lược “chiến
tranh đặc biêt” làm chủ chiến trường. Trong đó, “việc chỉ đạo chiến lược giữ
vai trò đặc biệt quan trọng”[102, tr.38]. Nội dung chỉ đạo chiến lược rất rộng
nhưng một vấn đề được nói đến ở đây là làm rõ mối quan hệ “giữa mục tiêu
cơ bản với mục tiêu trước mắt; giữa thắng lợi hoàn toàn với thắng lợi quyết
định; giữa đánh lâu dài với tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong
thời gian tương đối ngắn”[102, tr.39].
Làm rõ được nội dung chỉ đạo chiến lược phù hợp với thực tế lịch sử
nên ngay sau cao trào Đồng khởi Đảng đã kịp thời chuyển cuộc đấu tranh từ
khởi nghĩa từng phần lên chiến tranh cách mạng, kết hợp đấu tranh vũ
trang với chính trị và bình vận đem lại kết quả khả quan. Cũng từ thực tiễn
đấu tranh, Đảng đã phân tích và so sánh đúng tương quan lực lượng giữa ta và
địch đề ra chủ trương giành thắng lợi quyết định cho cách mạng miền Nam
với nội dung cụ thể “đánh tan một số sư đoàn chủ lực của nguỵ, cùng với khởi
nghĩa của quần chúng để thành lập được chính phủ độc lập, trung lập, làm cho
Mỹ không kịp trở tay, bị động về chính trị; đồng thời có sách lược khôn khéo
để Mỹ có thể chịu thua, rút lui mà đỡ mất “danh dự”[102, tr.341]. Chủ trương
này đã được khẳng định và làm rõ trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9
(1963), Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 11 (3-1965). Những thành quả cách
mạng to lớn mà chúng ta đạt được trong những năm sau đó đã chứng minh
chủ trương giành thắng lợi quyết định của Đảng là hoàn toàn đúng đắn. Tuy
nhiên, với tiềm lực và sức mạnh kinh tế, quân sự dồi dào, với bản chất ngoan
cố và hiếu chiến, đế quốc Mỹ không dễ gì chấp nhận thất bại. Chúng đã liều
74
lĩnh leo thang mở rộng chiến tranh, chuyển sang thực hiện chiến lược “chiến
tranh cục bộ” làm cho chủ trương giành thắng lợi quyết định của Đảng ta
không đạt được kết quả như mong muốn.
2.2. chỉ đạo giành thắng lợi quân sự, chính trị trong những năm (1965 - 1968)
2.2.1. Bối cảnh lịch sử mới
Từ giữa năm 1965, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ được đẩy
tới đỉnh cao nhằm dập tắt phong trào cách mạng miền Nam nhưng kết quả lại
không được như chúng mong muốn. Cách mạng miền Nam không những
không bị tiêu diệt mà còn lớn mạnh không ngừng cả về chính trị lẫn quân sự,
làm cho chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - nguỵ bị thất bại hoàn
toàn. Để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của nguỵ quân, nguỵ quyền, đế quốc Mỹ ồ
ạt đưa quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam, tăng thêm vũ khí, phương tiện
chiến tranh hiện đại, chuyển sang thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở
miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc.
Đối với nhà cầm quyền Mỹ, đây là một quyết định khó khăn. Trong tập
hồi ký của mình sau này, Giônxơn coi đó là một quyết định “quyết liệt”
nhưng day dứt và đau đớn nhất trong đời tổng thống của mình.
Bộ Quốc phòng Mỹ đã đệ trình ba phương án để giải quyết vấn đề
MNVN:
- Một là rút lui nhưng chắc chắn đó là điều nhục nhã đối với nước Mỹ.
- Hai là tiếp tục chiến tranh như mức độ hiện có mà đây sẽ là đường lối
làm cho nước Mỹ ngày càng yếu đi.
- Ba là nhanh chóng mở rộng và đẩy mạnh sức ép quân sự của Mỹ ở cả
miền Nam và miền Bắc, từ đó sẽ tránh được thất bại nhưng phí tổn sẽ rất lớn
và bất kỳ quyết định rút quân nào sau này cũng khó khăn.
Cuối cùng, tổng thống Mỹ Giônxơn đã lựa chọn phương án thứ ba và
cho rằng đó là phương án khó khăn nhưng tối ưu nhất để đưa Mỹ ra khỏi tình
75
trạng khó khăn như hiện nay.
Mỹ đã liều lĩnh đưa quân viễn chinh vào trực tiếp tiến hành chiến tranh
ở Việt Nam vì chúng thấy rằng qua chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, nguỵ
quân, nguỵ quyền đã không còn đủ sức đương đầu với lực lượng cách mạng
và cho rằng chỉ có lực lượng tinh nhuệ cùng với phương tiện chiến tranh hiện
đại của chúng mới có thể nhanh chóng giải quyết được vấn đề miền Nam.
Với hành động này, chiến lược của Mỹ ở Việt Nam đã chính thức thay
đổi: từ chỗ đóng vai trò cố vấn, hậu thuẫn cho chính quyền và quân đội Sài
Gòn đã trực tiếp tiến hành chiến tranh bằng quân đội và vũ khí của mình.
Để đặt cơ sở vững chắc cho thành công của chiến lược “chiến tranh cục
bộ”, Mỹ tìm cách củng cố và cải tổ chính quyền Sài Gòn, ủng hộ cuộc đảo
chính của Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ lật đổ Nguyễn Khánh, lập
chính quyền quân sự ở Sài Gòn.
Mục tiêu của Mỹ trong chiến lược này là tiêu tiêu diệt chủ lực Quân
giải phóng và cơ quan đầu não cách mạng miền Nam, “bình định” miền Nam,
uy hiếp tinh thần kháng chiến của nhân dân Việt Nam, buộc Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà phải ngồi vào bàn đàm phán với những điều kiện do
Mỹ áp đặt. Để tránh gây ra những ảnh hưởng xấu tới tình hình kinh tế, chính
trị, xã hội của Mỹ và để tránh cuộc chiến tranh ở Việt Nam lan rộng, chính
quyền Giônxơn chủ trương đưa quân Mỹ vào miền Nam nhanh chóng giành
thắng lợi quyết định trong một thời gian ngắn rồi rút quân về nuớc.
Ngày 17-7-1965, Tổng thống Mỹ Giônxơn chấp thuận đề nghị tăng
quân số Mỹ ở MNVN và chính thức phê chuẩn kế hoạch chiến lược “tìm và
diệt” của tướng W. Oétmolen - Tư lệnh Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ tại
MNVN. Từ sau quyết định này, quân Mỹ được đưa vào miền Nam ngày càng
nhiều từ 18.000 tên (đầu 1965) lên 81.422 tên vào tháng 7 và cuối năm lên tới
76
184.300 tên. Theo kế hoạch này, Mỹ dự tính sẽ hoàn tất các mục tiêu của
chiến lược “chiến tranh cục bộ” từ hai năm đến hai năm 6 tháng và được triển
khai làm ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất: Từ tháng 7 đến tháng 12 năm 1965, triển khai đưa
quân Mỹ và quân đồng minh vào các địa bàn chiến lược ở miền Nam nhằm
ngăn chặn sự sụp đổ của quân nguỵ, chuẩn bị tiến hành phản công.
Giai đoạn thứ hai: Từ tháng 1 đến thánh 6 năm 1966, mở các cuộc tiến
công “tìm và diệt” chủ lực Quân giải phóng, phá chiến tranh du kích, giành lại
quyền chủ động trên chiến trường, tiếp tục “bình định” nông thôn.
Giai đoạn thứ ba: Từ tháng 7 năm 1966 đến giữa hoặc cuối năm 1967,
mở các cuộc tiến công tiêu diệt các đơn vị còn lại của Quân giải phóng, phá
căn cứ đại kháng chiến và tiêu diệt cơ quan đầu não của cách mạng, hoàn tất
chương trình “bình đinh” nông thôn, rút quân về nước.
Kế hoạch này được hoạch định dựa trên cơ sở đánh giá cao sức mạnh
quân sự của Mỹ, đánh giá thấp khả năng và sức mạnh của quân và dân Việt
Nam. Chúng thực hiện kế hoạch này với mong muốn “đưa cuộc chiến tranh
đến tận xứ sở của kẻ địch, làm cho kẻ địch không thể tự do đi lại ở bất cứ nơi
nào trên đất nước… Và giáng cho kẻ địch những đòn thật nặng nề”. Đây là cố
gắng quân sự lớn nhất, bước leo thang chiến tranh cao nhất của đế quốc Mỹ ở
miền Nam, cũng là lần đầu tiên Mỹ đưa nhiều quân nhất đi xâm lược nước
khác từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Để thực hiện chiến lược trên, Mỹ tiến hành hai biện pháp lớn:
Một là, nhanh chóng đưa quân viễn chinh Mỹ và quân đội đồng minh
vào miền Nam, tiến hành những cuộc phản công cách mạng tiêu diệt lực
lượng cách mạng.
Từ sau quyết định của Giônxơn, các đơn vị sừng sỏ và khét tiếng của
Mỹ như Sư đoàn bộ binh 1 (Anh cả đỏ), Sư đoàn kỵ binh không vận số 1, Sư
77
đoàn dù 101 (Thiên thần mũ đỏ), Sư đoàn bộ binh 25 (Tia chớp nhiệt đới), Sư
đoàn bộ binh số 4, Lữ đoàn dù 173, Trung đoàn kỵ binh thiết giáp số 11…
cùng một khối lượng trạng thiết bị khổng lồ đổ vào miền Nam. Đến cuối năm
1965, Mỹ đã đưa đuợc số lượng quân đội viễn chinh vào miền Nam lên tới 20
vạn (trong đó 184.300 quân Mỹ).
Số lượng quân Mỹ, quân Sài Gòn, đồng minh trong chiến tranh xâm
lược Việt Nam từ 1964 - 1968
Quân Mỹ
Quân Sài Gòn
Quân đồng minh
Tổng số
Năm
540.000 1964 23.300 563.300
600.000 1965 184.300 20.000 804.300
671.000 1966 385.300 53.000 1.109.300
799.000 1967 485.600 59.000 1.343.600
Nguồn: [90, tr.124]
998.000 1968 536.100 66.000 1.600.100
Với sức mạnh như vậy, Uylo - Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng
liên quân Mỹ khẳng định rằng: “Không có lý do gì chúng ta lại không thể
thắng, nếu đó là quyết tâm của chúng ta”[117, tr153].
Sau khi vào Việt Nam các đơn vị quân Mỹ và đồng minh đã nhanh
chóng chiếm lĩnh địa bàn để xây dựng căn cứ đồng thời mở hàng trăm cuộc
hành quân lớn nhỏ nhằm thiét lập vành đai an toàn bảo vệ căn cứ quân sự.
Khối lượng bom đạn, chất độc chúng sử dụng ngày càng nhiều đánh vào vùng
giải phóng, vùng tranh chấp, căn cứ kháng chiến của ta.
Hai là, mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải
quân.
Với việc dựng lên “Sự kiện Vịnh Bắc bộ” (4-8-1964), Mỹ đã dùng
không quân đánh phá Hòn Gai, Hải Phòng, Cảng sông Gianh, Đồng Hới,
78
Quảng Bình. Ngày 7-2-1965, chúng thực hiện kế hoạch Sấm rền đánh phá ta
từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 20, mở đầu cho bước leo thang mới, dùng không
quân và hải quân đánh phá ác liệt miền Bắc Việt Nam.
Chúng leo thang đánh phá miền Bắc nhằm mục đích:
- Ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc vào miền Nam.
- Phá hoại công cuộc xây dựng CNXH và làm suy yếu tiềm lực kinh tế,
quốc phòng của miền Bắc.
- Làm lung lay ý chí quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta,
buộc ta phải kết thúc chiến tranh chấp nhận giải pháp thương lượng theo điều
kiện của Mỹ.
Bằng sức mạnh của “không lực Hoa Kỳ”, giới quân sự Mỹ dự định với
lực lượng không quân, hải quân và khối lượng bom đạn khổng lồ của mình thì
chỉ trong vòng 6 tháng chúng sẽ đưa miền Bắc nước ta trở lại “thời kỳ đồ đá”.
Cùng với những biện pháp cứng rắn ở miền Nam và miền Bắc Việt
Nam, Mỹ còn triển khai chiến dịch “đi tìm hoà bình” nhằm lôi kéo và tìm
kiếm sự ủng hộ của các nước khác đối với cuộc chiến tranh mà chúng đang
tiến hành ở Việt Nam, hòng che đậy hành vi xâm lược của chúng và đổ lỗi
cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Mỹ đã cử các quan chức cấp cao
đi các nước Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Philippin, Ba lan, Canada… để “vận
động hoà bình”. Năm 1965, chiến dịch này được triển khai với quy mô lớn lên
đến 17 cuộc gặp gỡ, tiếp xúc, nhưng thực chất của chiến dịch “đi tìm hoà
bình” này “chỉ nhằm che giấu âm mưu tăng cường chiến tranh của
họ”[54,tr.32] mà thôi.
Lúc này, tình hình thế giới có những điều bất lợi cho ta, mâu thuẫn Xô
- Trung ngày càng gay gắt, ảnh hưởng lớn đến phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
của nhân dân ta. Đế quốc Mỹ đã triệt để lợi dụng, chia rẽ và khoét sâu mâu
79
thuẫn này để giảm thiểu sự đồng tình, ủng hộ và chi viện của Liên Xô, Trung
Quốc cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, tạo thêm điều kiện cho
Mỹ dẩy mạnh nỗ lực chiến tranh trên bộ và trên không ở cả hai miền Nam,
Bắc Việt Nam.
Như vậy, với việc Mỹ tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ” mở
rộng chiến tranh ra cả hai miền Nam, Bắc thì cuộc kháng của nhân dân ta
đang đứng trước một bước ngoặt mới, phải đối diện với một tình thế rất hiểm
nghèo. Thế giới lo lắng cho tình hình ngày càng căng thẳng ở Việt Nam và
đặt ra câu hỏi “liệu Việt Nam - đất nước nhỏ bé, thua kém Mỹ nhiều lần về
tiềm lực, sức mạnh kinh tế, quân sự có đương đầu nổi với cỗ máy quân sự
khổng lồ và rất hung hãn của Mỹ không?”[113, tr.206]. Và nhiều người cũng
lo ngại rằng cuộc chiến tranh này sẽ lan nhanh ra khu vực hoặc trở thành
chiến tranh thế giới. Cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam đã được
đẩy đến mức cao nhất với tham vọng giải quyết vấn đề miền Nam trong thời
gian ngắn. Từ đây, cuộc đấu tranh của nhân dân ta với đế quốc Mỹ trở nên
quyết liệt hơn bao giờ hết.
2.2.2. Quá trình Đảng chỉ đạo đánh thắng chiến lược “chiến tranh
đặc biệt” của đế quốc Mỹ (1965-1968)
Bước vào giai đoạn này, Mỹ triển khai thực hiện chiến lược “chiến
tranh cục bộ” ở miền Nam, leo thang bắn phá miền Bắc làm cho cục diện của
cuộc chiến tranh thay đổi. Tuy vậy, Đảng vẫn khẳng định chủ trương tranh
thủ thời gian giành thắng lợi quyết định là phương hướng chiến lược để đánh
thắng Mỹ ở miền Nam.
Tất cả những vấn đề về chiến lược và sách lược để giành thắng lợi
quyết định đã được đồng chí Lê Duẩn phân tích và làm rõ trong bài nói tại
Hội nghị lần thứ 12 của BCH Trung ương Đảng. Đồng chí đã khẳng định chủ
trương tranh thủ thời gian giành thắng lợi quyết định được đề ra trong Nghị
80
quyết Hội nghị lần thứ 9 và 11 là hoàn toàn đúng đắn nhưng để đưa ra được
chủ trương cách mạng chính xác trong điều kiện mới, chúng ta “phải phân
tích toàn diện những vấn đề mới nảy sinh do việc Mỹ đưa hàng chục vạn quân
viễn chinh vào trực tiếp xâm lược miền Nam, dùng không quân và hải quân
đánh phá miền Bắc. Cần đánh giá đúng lực lượng và khả năng của địch cũng
như của nhân dân ta ở cả hai miền, đặt so sánh thế và lực hai bên trong bối
cảnh thời đại”[21, tr.33].
Với tầm nhìn thiên tài và khả năng tiên đoán chính xác, đồng chí Lê
Duẩn cho rằng: “đánh giá đế quốc Mỹ không phải là làm một bài toán đơn
giản để lường sức mạnh nhiều hay ít, cũng không chỉ nhận định một cách
chung chung so sánh lực lượng giữa chúng và các lực lượng cách mạng trên
thế giới, mà phải phân tích thế lực của đôi bên một cách toàn diện về các mặt
chính trị, quân sự, kinh tế, để thấy rõ chỗ mạnh, chỗ yếu của
chúng”[32,tr.575] mới có “chiến lược và sách lược đúng đắn và có biện pháp
đối phó tích cực và toàn diện”[32, tr.574]. Trên cơ sở đó, đồng chí đã phân
tích, đánh giá so sánh lực lượng và thấy rằng: đế quốc Mỹ tuy có tiềm lực
kinh tế và quốc phòng mạnh nhất trong phe đế quốc, chúng dùng không quân
oanh tạc miền Bắc, đưa quân viễn chinh Mỹ vào trực tiếp chiến đấu ở miền
Nam là những bước leo thang chiến tranh nhưng “chúng leo thang trong thế
thất bại, bị động, chủ yếu là để cứu vãn nguy cơ thất bại của chúng ở miền
Nam, nguy cơ tan rã và sụp đổ hoàn toàn của nguỵ quân, nguỵ quyền”. Vì thế,
dù chúng có đưa 20 vạn hay nhiều hơn nữa quân Mỹ vào miền Nam thì chúng
ta với lực lượng quân sự, chính trị ngày càng lớn mạnh vẫn có khả năng đánh
bại chúng.
Từ việc phân tích đặc điểm, tính chất của hình thái chiến tranh mới,
đồng chí Lê Duẩn đã thấy được “đối tượng tác chiến mới của ta ở miền Nam
không phải chủ yếu là quân nguỵ nữa, mà là cả quân Mỹ và quân
81
nguỵ”[32,tr.582]. Việc xác định chính xác đối tượng mới của cách mạng đã
giúp chúng đề ra được chủ trương đúng đắn, tập trung chĩa mũi nhọn vào
đúng kẻ thù của mình. Mục tiêu tác chiến của chúng ta trong giai đoạn này là
“phải tiêu diệt và tiêu hao một bộ phận quan trọng quân Mỹ, bẻ gấy lực lượng
nòng cốt ấy của quân nguỵ, làm cho quân Mỹ không đủ sức giữ quân nguỵ,
nguỵ quyền, tức là không đủ sức làm nhiệm vụ chính trị trực tiếp của nó, và
chính bản thân nó cũng bị đánh bại”[32, tr.583]. Việc “tiêu diệt quân Mỹ đã
trở thành vấn đề hiện thực và cần thiết để giữ thế chủ động của chúng ta trên
toàn chiến trường”[32, tr.583].
Trong điều kiện mới, nội dung cụ thể của chủ trương giành thắng lợi
quyết định được khẳng định và làm rõ hơn. Với việc phân tích sức mạnh và
khả năng của Mỹ trong chiến lược chiến tranh này, đồng chí thấy rằng:
“chúng ta nói đánh thắng đế quốc Mỹ hiện nay không phải là đánh bại chính
sách sen đầm quốc tế của chúng, đánh bại thực lực quân sự của chúng trên thế
giới mà là đánh thắng chúng trong khuôn khổ và quy mô của cuộc chiến tranh
xâm lược mà chúng đang tiến hành ở Việt Nam”[32, tr.587-588].
Hơn nữa, để giành thắng lợi quyết định thì:
Chúng ta cũng không chủ trương về quân sự phải đánh tiêu
diệt toàn bộ quân Mỹ, tiêu diệt đến tên xâm lược cuối cùng, hoặc là
về quân sự phải quét sạch chúng xuống biển Đông, mà chúng ta chủ
trương làm thất bại chính sách xâm lược của chúng, đè bẹp và đánh
tan ý chí xâm lược của chúng, làm cho chúng thấy không thể tiếp
tục mở rộng và kéo dài chiến tranh xâm lược được nữa và phải chịu
thua với những điều kiện nhất định và cuối cùng phải rút khỏi miền
Nam nước ta. Do đó, chúng ta đề ra nhiệm vụ giành thắng lợi quyết
định trong giai đoạn trước mắt của cuộc chiến tranh cũng tức là nêu
ra khái niệm giành một bước thắng lợi căn bản trong một tình hình
82
nhất định của cuộc chiến tranh ở miền Nam.
Nội dung của việc giành thắng lợi quyết định là phải đẩy
mạnh ba mũi giáp công để tàm tan rã nguỵ quân về cơ bản, nghĩa
là làm cho nguỵ quân không còn đủ sức làm chỗ dựa cho nguỵ
quyền ở trung ương và địa phương, không thể phục hồi được thế
lực của bọn tay sai ở miền Nam được nữa; mặt khác, phải tiêu diệt
và tiêu hao một bộ phận quan trọng của quân đội Mỹ… Điều cần
phải nhấn mạnh là chừng nào nguỵ quân chưa bị tan rã về cơ bản
thì ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ chưa bị đập tan, nghĩa là chúng
vẫn chưa chịu từ bỏ âm mưu xâm lược và chưa chịu rút khỏi miền
Nam nước ta.[32, tr.588].
Phương châm chiến lược của cuộc chiến tranh ở miền Nam là đánh lâu
dài, dựa vào sức mình là chính. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là mâu
thuẫn với mục tiêu chiến lược giành thắng lợi quyết định trong một thời gian
tương đối ngắn mà là chúng ta thấy được mối quan hệ giữa mục tiêu trước
mắt và mục tiêu lâu dài của cách mạng miền Nam.
Về cơ bản, mục tiêu và nội dung của chủ trương giành thắng lợi quyết
định trong giai đoạn này đã được đồng chí Lê Duẩn phân tích một cách cụ
thể, trong đó nhấn mạnh đến việc tập trung lực lượng đè bẹp và đánh tan ý chí
xâm lược của kẻ thù, buộc chúng phải rút quân khỏi Việt Nam, giành một
bước thắng lợi căn bản cho cách mạng miền Nam, để từ đó tiến lên giành
thắng lợi hoàn toàn.
Những phân tích, đánh giá trên là cơ sở, phương hướng để chúng ta tiếp
tục tiến hành cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước trong điều kiện mới.
Từ sau Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (3-1965), thực hiện Lời kêu gọi
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển lực lượng cách mạng, thế và lực của
83
cách mạng nước ta đã có những thay đổi đáng kể.
ở miền Nam, lực lượng cách mạng được phát triển nhanh: dân quân du
kích các xã vào cuối năm 1965 đã lên tới 174.000 người; đã có 18.834 thanh
niên tham gia quân giải phóng và 46.796 cán bộ chiến sĩ ở miền Bắc bổ sung
cho miền Nam; lực lượng bộ đội địa phương lên tới 80.000 người và bộ đội
chủ lực có 92.000 người; khối chủ lực quân giải phóng miền Nam phát triển
từ 10 trung đoàn (1964) lên tới 5 sư đoàn, 11 trung đoàn và một số trung
đoàn, tiểu đoàn binh chủng kỹ thuật.
Toàn bộ lực lượng trên được bố trí một cách hợp lý trên các địa bàn
chiến lược rừng núi, nông thôn, đồng bằng, vùng ven đô thị tạo điều kiện
thuận lợi đánh thắng địch khi chúng đổ bộ vào. Cách bố trí, sắp xếp lực lượng
của ta như vậy đáp ứng được yêu cầu chống lại quân Mỹ có phương tiện
chiến tranh hiện đại. Tạo được thế trận đánh địch tại chỗ, đánh địch ở chính
diện, bên sườn và cả sau lưng, buộc Mỹ và quân đội Sài Gòn phải bị động,
phân tán không phát huy được sức mạnh về phương tiện chiến tranh hiện đại
và quân số đông. Nhờ đó, ta luôn ở thế chủ động và có khả năng đánh thắng
Mỹ khi chúng triển khai thực hiện phản công chiến lược vì “trong chiến tranh,
làm chủ được các địa bàn chiến lược quan trọng, bố trí lực lượng một cách
hợp lý trên chiến trường trong một thế trận tiến công có lợi đã thắng được một
nửa”[22, tr.46].
ở miền Bắc, thực hiện khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược”, nhân dân miền Bắc tích cực lao động “một người
làm việc bằng hai” để ủng hộ cho cách mạng miền Nam cả về người và của.
Chỉ trong một thời gian ngắn gần 290.000 thanh niên được động viên vào
quân đội. Lực lượng dân quân tự vệ tăng từ 1,4 triệu (1964) lên 2 triệu (1965),
3000 tổ đội bắn máy bay của dân quân tự vệ được thành lập. Bộ đội địa
phương phát triển lên tới 28.000 người. Bộ đội chủ lực tăng từ 195.000 (đầu
84
năm 1965) lên 350.000 người (giữa năm 1965) và 400.000 người (cuối năm
1965). Khối bộ binh chủ lực cơ động gồm 10 sư đoàn, 6 trung đoàn và một số
tiểu đoàn độc lập [9, tr.223]. Các quân binh chủng đều được tăng cường cả về
lực lượng lẫn trang thiết bị.
Dựa trên sự phát triển vượt bậc về lực lượng và thế trận được bố trí hợp
lý, ngay khi Mỹ triển khai lực lượng, Đảng đã chỉ đạo quân và dân miền Nam
tổ chức một số trận đánh phủ đầu để giành thế chủ động trên chiến trường và
tìm ra cách đánh Mỹ. Từ đó tạo tiền đề để tranh thủ thời gian giành thắng lợi
quyết định cho cách mạng miền Nam.
Thực hiện sự chỉ đạo đó của Đảng, ngay khi những tiểu đoàn lính Mỹ
đầu tiên vừa đổ bộ lên Đà Nẵng và bãi biển Chu Lai, các chiến sỹ đặc công và
dân quân du kích đã chặn đánh quyết liệt ngay tại căn cứ của chúng. Đây là
trận đánh Mỹ đầu tiên của quân và dân ta ở miền Nam, tuy quy mô nhỏ nhưng
đã được các nhà quân sự, các học giả liệt vào “những trận đánh quyết định” vì
nó đánh dấu mốc “quân chủ lực Mỹ chính thức tham chiến”.
Tiếp sau đó chúng ta liên tiếp thực hiện các trận đánh khác để tìm ra
cách đánh Mỹ một cách hữu hiệu nhưng chưa tìm được. Ngày 10-5-1965, Bộ
Tư lệnh quân khu 5, chỉ thị cho tỉnh đội Quảng Nam: đánh tiêu diệt một đơn
vị Mỹ để hạ uy thế của chúng ngay từ đầu. Vào đêm 27 rạng ngày 28-5-1965,
đại đội 2, Tiểu đoàn 70 lực lượng vũ trang địa phương tỉnh Quảng Nam chủ
động tập kích một đại đội lính thuỷ đánh bộ ở cao điểm Núi Thành, tiêu diệt
và làm bị thương 140 tên địch, thu toàn bộ vũ khí và đồ quân dụng.
Trận Núi Thành tuy quy mô không lớn nhưng có ý nghĩa quan trọng, là
trận tìm ra cách đánh Mỹ đầu tiên. Thắng lợi này đã thể hiện quyết tâm đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược của quân và dân ta. Nó cổ vũ mạnh mẽ cho phong
trào “tìm Mỹ mà diệt, gặp Mỹ là đánh”. Đây là kinh nghiệm quý báu để quân,
85
dân ta ở miền Nam đánh Mỹ.
Phát huy khí thế đó, ngày 18-8-1965, tại Vạn Tường (Quảng Ngãi),
Trung đoàn 1 chủ lực quân khu 5, đại đội 21 bộ đội địa phương cùng với dân
quân du kích đã đánh thắng cuộc tiến công tìm diệt mang tên “ánh sao sáng”
của Sư đoàn 3 lính thuỷ đánh bộ Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu 900 tên, bắn
cháy 22 xe tăng, xe bọc thép và 13 máy bay. Trong trận này, quân Mỹ hoàn
toàn chủ động lựa chọn chiến trường tác chiến ven biển phù hợp với khả
năng, sở trường của lính thuỷ đánh bộ, lại thuận lợi cho việc sử dụng hoả lực
phối hợp của không quân, hải quân, xe tăng, pháo binh. Nhưng từ thế chủ
động tiến công, quân Mỹ buộc phải chuyển sang bị động, đối phó lúng túng
và bị thua. Thắng lợi này đánh dấu bước truởng thành của lực lượng vũ trang
miền Nam đặc biệt là bộ đội chủ lực. Qua chiến thắng Vạn Tường càng củng
cố hơn nữa quyết tâm và khả năng đánh thắng Mỹ của Việt Nam.
Sau Vạn Tường, nhiều trận đánh phủ đầu quân viễn chinh Mỹ diễn ra
liên tục ở khu 5, Trị - Thiên, miền Đông Nam Bộ như: chiến dịch Plâyme (11-
1965), Đất Cuốc, Bầu Bàng (11-1965)… Chiến tranh du kích chống Mỹ phát
triển mạnh. Những “vành đai du kích diệt Mỹ” hình thành ở Chu Lai, Đà
Nẵng, Củ Chi tạo thế trận đánh Mỹ ngay sát các căn cứ của chúng. Qua
những trận đối đầu trực tiếp đó, quân và dân ta kịp thời phát hiện chỗ yếu của
Mỹ, dần tìm được cách đánh thắng Mỹ trên từng trận, từng chiến trường khác
nhau.
Trên miền Bắc, quân dân ta ta đã bắn rơi hàng trăm máy bay hiện đại
của Mỹ, bắt sống nhiều phi công, tổ chức phòng tránh, sơ tán thành công, bảo
đảm giao thông vận tại thông suốt, đặc biệt là vẫn tăng cường chi viện không
ngừng cho miền Nam. Như vậy, cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân
và hải quân của Mỹ đã không uy hiếp được tinh thần của người dân hậu
86
phương, không cắt đứt được sự chi viện từ miền Bắc vào Miền Nam.
Kết thúc giai đoạn thứ nhất của kế hoạch chiến lược mà Mỹ đề ra tuy
cũng hạn chế được một phần suy sụp của quân đội Sài Gòn nhưng Mỹ đã
không giành được thế chủ động trên chiến trường, không chặn được đà tiến
công của Quân giải phóng. Vì thế mà, trung tướng Mỹ Đavítsơn đã phải cay
đắng thừa nhận rằng: “chúng ta phải nhảy nhót theo vũ điệu chiến lược của
Bắc Việt Nam mà đại diện là những người cộng sản, họ xác định phong cách
và mức độ của cuộc chiến tranh”[45, tr.35].
Do không đạt được mục tiêu như ban đầu đặt ra, giới cầm quân sự Mỹ
cho rằng cần phải tăng cường thêm lực lượng trên bộ tạo thế áp đảo đối với
quân giải phóng. Cuối năm 1965, tướng Oétmolen đề nghị tăng quân Mỹ lên
443.000 người. Tiếp đó, ngày 28-1-1966, ông ta lại đề nghị tăng quân lên
459.000 người. Cùng với việc tăng cường lực lượng, Mỹ tiếp tục thực hiện
leo thang bắn phá toàn miền Bắc với cường độ ác liệt hơn làm cho cuộc chiến
đấu của nhân dân ta ở cả hai miền Nam Bắc thêm phần khó khăn.
Trước thực tế đó, ngày 27-12-1965, Đảng đã triệu tập Hội nghị BCH
Trung ương lần thứ 12 để bàn về tình hình và nhiệm vụ mới của cách mạng
Việt Nam. Hội nghị tiếp tục khẳng định chủ trương giành thắng lợi quyết định
là hướng đi đúng đắn của cách mạng miền Nam.
Hội nghị đã chỉ ra đặc điểm của tinh hình hiện nay là “đế quốc Mỹ
không chỉ dựa vào lực lượng nguỵ quân, nguỵ quyền là công cụ chủ yếu, mà
đã trực tiếp xâm lược miền Nam nước ta”[32, tr624].
Hội nghị đã chỉ ra âm mưu trước mắt của Mỹ, nguỵ nhằm thực hiện dã
tâm xâm lược Việt Nam:
Ra sức mở rộng những cuộc tấn công nhằm tiêu diệt lực
lượng của ta, nhất là các lực lượng vũ trang tập trung của ta; giữ
vững và củng cố hoặc chiếm đóng thêm các vị trí chiến lược quan
87
trọng… chiếm lại một số vùng đã mất; tìm mọi biện pháp để ngăn
chặn sự chi viện của miền Bắc, bao vây cô lập miền Nam; đồng thời
tăng cường chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc nước ta. Chúng
mong từng bước giành lại thế chủ động, tạo thế mạnh để ép ta
thương lượng theo điều kiện có lợi cho chúng, đồng thồi chuẩn bị
cơ sở để khi cần thiết thì kéo dài và mở rộng chiến tranh xâm
lược[32,tr.626].
Để giành được thắng lợi quyết định, đánh bại được đế quốc Mỹ với âm
mưu nham hiểm đó, điều quan trọng là chúng ta phải biết “đánh giá đúng lực
lượng và khả năng của kẻ địch, đồng thời đánh giá đúng lực lượng và khả
năng to lớn của nhân dân ta ở cả hai miền”[32, tr.628]. Đây là việc làm hết
sức khó khăn nhưng có tích chất quyết định đòi hỏi những người lãnh đạo
phải có tầm nhìn chiến lược và có tư duy khoa học mới đánh giá hết được khả
năng của cả hai bên để từ đó đưa ra đựơc đường hướng cách mạng đúng đắn
nhất. Đồng chí Lê Duẩn cũng khẳng định: “Không đánh giá đúng thế yếu của
Mỹ, không đánh giá đúng thế mạnh của ta thì không bao giờ dám đánh
Mỹ”[115,tr.51].
Trên cơ sở đó, BCH Trung ương đã nhận định: “Đế quốc Mỹ là tên sen
đầm quốc tế, là tên đế quốc đầu sỏ có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh nhất
trong phe đế quốc”[32, tr.628]. Chúng tiến hành chiến tranh dựa vào sức
mạnh vật chất của mình và cũng đã tạo ra được một số ưu thế như: lực lượng
cơ động chiến lược ngày càng mạnh hơn, xây dựng được các căn cư quân sự ở
những vị trí chiến lược, lực lượng không quân được tăng lên gấp bội. Tuy
nhiên, “tình hình chung trên thế giới hiện nay cũng như tình hình riêng của
nước Mỹ không cho phép Mỹ sử dụng hết sức mạnh về kinh tế và quân sự của
chúng trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam”[32, tr.629]. Và chỗ yếu
nhất của địch từ trước đến nay vẫn là vấn đề chính trị, Mỹ xâm lược Việt
88
Nam là phi nghĩa nên “quân đội viễn chinh Mỹ chiến đấu không có lý tưởng,
tinh thần chiến đấu thấp kém”[32, tr.630]. Hơn nữa, chúng còn gặp nhiều khó
khăn do không thông thuộc địa hình, không quen khí hậu nên dù có được
trang bị hiện đại nhưng cũng không phát huy được tác dụng. Đế quốc Mỹ tăng
quân vào miền Nam cúng là lúc chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của chúng
đã căn bản bị phá sản còn nguỵ quân, nguỵ quyền bị thất bại nghiêm trọng cả
về quân sự và chính trị. Chúng bị đẩy vào thế bị động, lúng túng chống đỡ các
đợt tiến công của ta. Do vậy, “dù đế quốc Mỹ đưa vào mấy chục vạn quân, về
chiến lược chúng cũng buộc phải phân tán lực lượng trên khắp các chiến
trường và ngày càng lâm vào thế bị động, càng sa lây và thất bại”[32, tr.630],
“đế quốc Mỹ càng đưa quân vào miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại
miền Bắc thì càng bị cô lập trên thế giới và ngay trong nước Mỹ”[32, tr.631].
Còn về phía ta, ở miền Nam, MTDTGPMNVN đã phát triển rộng khắp
và có cơ sở vững chắc trong tất cả các tâng lớp nhân dân, ngày càng có uy tín
lớn trong nước và trên thế giới; Lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam đã
lớn mạnh vượt bậc, trải qua các trận đánh đã khẳng định được chỗ đứng vững
chắc trên tất cả các vùng chiến lược; Vùng giải phóng ngày càng được mở
rộng và củng cố; Đảng bộ miền Nam có cơ sở rộng rãi, hơn nữa lại có đường
lối lãnh đạo đúng đắn, kinh nghiệm phong phú. Còn ở Miền Bắc, với những
thành quả đạt được qua công cuộc CNXH và đấu tranh chống chiến tranh phá
hoại của Mỹ, đã trở thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng Việt Nam.
Bên cạnh những kết quả đạt được, Hội nghị BCH Trung ương Đảng
cũng chỉ rõ những khó khăn và nhược điểm của mình:
Lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam chưa lớn mạnh kịp
so với yêu cầu của nhiệm vụ. Vùng giải phóng tuy rộng, nhưng
chưa có căn cứ địa hoàn chỉnh để làm hậu phương vững chắc ngay
ở miền Nam. Công tác vận động quần chúng và xây dựng lực lượng
89
ở các đô thị cũng như công tác binh vận, nguỵ vận chưa theo kịp
yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng. Hiện nay, miền Bắc cũng chưa
phát huy hết tác dụng hậu phương lớn của mình đối với tiền tuyến
lớn là miền Nam[32, tr.633].
Trên cơ sở phân tích một cách khoa học chỗ mạnh, chỗ yếu cả trên hai
mặt thế và lực của ta và địch, Hội nghị đã kết luận:
Mặc dầu đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân
đội viễn chinh, lực lượng so sách giữa ta và địch vẫn không thay
đổi lớn. Tuy cuộc chiến tranh ngày càng trở nên gay go, ác liệt
nhưng nhân dân ta đã có cơ sở vững chắc để giữ vững và tiếp tục
giành thế chủ động trên chiến trường, có lực lượng và điều kiện để
đánh bại âm mưu trước mắt và lâu dài của địch [32, tr.633].
Nhiệm vụ chung của cách mạng trong giai đoạn mới là:
Động viên lực lượng của cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc
chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào,
để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam… kiên quyết đẩy mạnh
đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, đánh bại đế quốc Mỹ và bè
lũ tay sai trên chiến trường chính là miền Nam.
ở miền Bắc thì đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ, bảo vệ sự nghiệp xây dựng CNXH, động viên sức người
sức của chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng ở miền Nam, giúp
đỡ cách mạng Lào, đồng thời gia sức chuẩn bị để đánh bại quân
địch trong trường hợp chúng mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả
nước[32, tr.634-635].
Trong tình hình đó, Đảng vẫn kiên trì phương châm tập trung lực lượng
cả nước, kiên quyết đánh địch và thắng địch trên chiến trường miền Nam là
chính, tranh thủ thời gian giành thắng lợi quyết định cho cách mạng miền
90
Nam. Chúng ta phải “động viên lực lượng cả nước đẩy mạnh cuộc chiến tranh
giải phóng miền Nam, gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề, đẩy chúng ngày
càng bị sa lầy và thất bại nghiêm trọng thì chúng ta nhất định có thể giành
thắng lợi quyết định ở miền Nam”[32, tr.636-637].
Phương châm chiến lược chung của cuộc cách mạng miền Nam là
“đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính” nhưng “trong hoàn cảnh cụ thể
hiện nay, trên cơ sở tiếp tục quán triệt phương châm đánh lâu dài, chúng ta
cần phải cố gắng đến cao độ, tập trung lực lượng của cả hai miền để tranh
thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tuơng đối ngắn trên
chiến trường miền Nam”[32, tr.637-638]. Và Hội nghị cho rằng: “đó là
phương hướng chỉ đạo chiến lược đúng đắn nhất”[32, tr.638].
Trong điều kiện, Mỹ mở rộng chiến tranh ra cả nước thì chiến trường
quyết định để đánh thắng kẻ thù cơ bản vẫn ở miền Nam. Nếu chúng ta giành
được thắng lợi ở miền Nam tức là chúng ta đã giành được một bước thắng lợi
quyết định.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Chúng ta phải ra sức cố
gắng giành cho được thắng lợi quyết định ở miền Nam, bởi vì cuộc chiến
tranh này căn bản là ở miền Nam. Mỹ thua ở miền Nam tức là nó thua, ta
thắng ở miền Nam tức là ta thắng”[54, tr.17-18]. Với ý nghĩa quan trọng đó,
cho nên ta “phải giành thắng lợi quyết định trong một thời gian” nhưng trong
bao lâu thì “không nói rõ được”, vì nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
lực luợng chủ quan của ta, tình hình thế giới và lực lượng của Mỹ. Tuy nhiên,
nếu càng giành được thắng lợi sớm càng tốt đế bớt hy sinh tổn thất. Người
cũng chỉ ra rằng: “Làm sao ở miền Nam tiêu diệt và phá tan được quân
nguỵ, tiêu diệt được nhiều quân Mỹ, đó là ta giành được thắng lợi quyết
định”[54,tr.18].
Phương châm trâm đó khẳng định tư tưởng nhất quán của Đảng và Chủ
91
tịch Hồ Chí Minh trong việc chỉ đạo cách mạng miền Nam. Đồng thời cũng
thấy được tầm nhìn chiến lược và tư duy khoa học của Đảng và Bác trong
hoạch định đường lối cách mạng nhằm giải quyết vấn đề một cách có lợi nhất.
Phương châm này được đưa ra dựa trên cơ sở:
Một là, về so sánh lực lượng, ta phải lấy yếu đánh mạnh.
Hai là, ta có những dự kiến về khả năng phát triển, về quy
mô và tính chất của cuộc chiến tranh trong lúc phải đánh nhau với
một kẻ địch mạnh và hiếu chiến là đế quốc Mỹ.
Ba là, từ khi khởi sự đến khi thực hiện đầy đủ được các
nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam
và hoà bình thống nhất nước nhà, thì với lực lượng so sánh như
trên, ta phải chiến đấu một thời gian lâu dài và phải trải qua những
bước quá độ nhất định[32, tr.589].
Rõ ràng, nếu xét về lực lượng thì ta và địch có sự chênh lệch rất lớn.
Chúng ta tiến hành kháng chiến trong điều kiện khó khăn, kinh tế lạc hậu,
chậm phát triển, lại bị chia cắt. Năm 1965, giá trị tổng sản phẩm quốc dân của
miền Bắc chỉ đạt khoảng 1 tỷ đôla, trong khi ngân sách quốc phòng của Mỹ
lên tới 51,9 tỷ; So sánh lực lượng quân sự cũng có sự khác biệt lớn. Năm
1966, chủ lực địch gồm cả Mỹ và quân đội Sài Gòn là 582.000 còn ta là
151.000 (tỷ lệ so sánh là 3,8/1). Ta lại thua kém Mỹ về vật chất kỹ thuật, đặc
việt là vũ khí, khí tài. Mỹ được trang bị phương tiện chiến tranh hiện đại còn
ta ngược lại. Mỹ huy động vào cuộc chiến các tướng lĩnh dạn dày kinh
nghiệm. Mặt khác, Mỹ còn huy động một số lượng lớn các nhà máy, xí
nghiệp, các nhà khoa học, các trường học phục vụ cho công tác nghiên cứu và
chế tạo vũ khí. Đồng thời lôi kéo được nhiều nước tham gia cuộc chiến tranh
dưới nhiều hình thức.
Làm rõ điều này để thấy được, phương châm chỉ đạo giành thắng lợi
92
quyết định của Đảng là hoàn toàn chính xác trong điều kiện lấy nhỏ đánh lớn,
lấy yếu đánh mạnh, giành một bước thắng lợi căn bản, tạo tiền đề đi đến thắng
lợi hoàn toàn.
Dựa trên sự phân tích đó, Đảng đã nêu ra những nội dung cụ thể để
giành thắng lợi quyết định trong giai đoạn này là:
- Tiêu diệt và tiêu hao một bộ phận quan trọng quân đội Mỹ,
làm cho nó bị tổn thất nặng nề, không thể ngăn chặn được sự tan rã
của nguỵ quân, nguỵ quyền và bản thân chúng cũng bị tổn thất
nặng, làm cho chúng bị thất bại trong nhiệm vụ quân sự và chính trị
của chúng.
- Tiêu diệt và làm tam rã đại bộ phận quân nguỵ, tới mức nó
không còn là một lực lượng mà đế quốc Mỹ có thể dựa vào để tiếp
tục cuộc chiến tranh và khi chúng buộc phải chuyển sang giải pháp
chính trị thì thế lực của nguỵ quân, nguỵ quyền không đủ sức để
duy trì và giữ vững chế độ chính trị của chúng.
Do đó, mà đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, đạt được
những mục tiêu về độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập, tiến tới
thống nhất nước nhà [32, tr.638].
Như vậy, phương hướng cũng như những nội dung cụ thể của chủ
trương giành thắng lợi quyết định đã được Đảng phân tích một cách cặn kẽ,
qua đó thấy rằng yêu cầu tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch cả Mỹ lẫn
nguỵ là yêu cầu quan trọng nhất và là điều kiện chủ yếu để giành thắng lợi
quyết định trong thời gian tới.
Để giành thắng lợi quyết định theo những nội dung trên thì nhất quyết
chúng ta phải thực hiện theo phương châm kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh
93
quân sự với chính trị và ngoại giao.
Những phương hương chỉ đạo cách mạng mà Hội nghi Trung ương lần
thứ 12 đã nêu ra là cơ sở để quân và dân ta ở cả hai miền Nam, Bắc tiến lên
đánh thắng kẻ thù xâm lược.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 BCH Trung ương Đảng,
quân dân cả nước hăng hái thi đua, đẩy mạnh sản xuất, ra sức tăng cường lực
lượng, chuẩn bị những điều kiện tiến lên giành thắng lợi quyết định. Về mặt
quân sự, Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo
các chiến trường nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, kết hợp tác chiến
của ba thứ quân, triển khai lực lượng ở các vùng chiến lược làm thất bại các
cuộc hành quân tìm diệt của Mỹ, nguỵ.
Trong khi chúng ta gấp rút chuẩn bị mọi mặt theo phướng chỉ đạo của
Đảng, thì ở miền Nam, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ (MACV) cũng ráo riết chuẩn
bị mở cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966. Mỹ nhanh chóng đưa
thêm quân và triển khai ở các địa bàn chiến lược. Toàn bộ quân Mỹ, quân đội
Sài Gòn và một số nước đồng minh đã hợp thành một đội quân 72 vạn người.
Chúng triển khai kế hoạch đánh trên 5 hướng thuộc hai chiến trường trọng
điểm là miền Đông Nam bộ và Khu V:
- Hướng thứ nhất: Tây bắc Sài Gòn gồm Củ Chi, Bến Cát, chiến khu Đ,
chiến khu Dương Minh Châu
- Hướng thứ hai: Đông Sài Gòn, từ Đồng Nai đến Bà Rịa
- Hướng thứ ba: Nam Phú Yên
- Hướng thứ tư: Bắc Bình Định.
- Hướng thứ năm: Nam Quảng Ngãi.
Mục tiêu Mỹ tiến hành cuộc phản công này nhằm: tìm diệt một bộ phận
chủ lực, phá căn cứ kháng chiến, giải toả áp lực quanh các đô thị, khai thông
các tuyến giao thông chiến lược, giành quyền chủ động trên chiến trường,
94
ngăn chặn sự sụp đổ của nguỵ quân, nguỵ quyền, “bình định” nông thôn.
Ngoài 5 hướng trên, Mỹ còn mở nhiều cuộc hành quân càn quét trên
khắp miền Nam.
Để đối phó với âm mưu trên, Trung ương Cục miền Nam đã chỉ đạo:
Ra sức đẩy mạnh ba cao trào vũ trang, chính trị và binh vận,
xây dựng lực lượng ta lớn mạnh về mọi mặt phát động nhân dân du
kích chiến tranh rộng rãi và toàn diện, đồng thời khẩn trương tăng
cưỡng xây dựng chủ lực, ra sức tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực
địch (cả Mỹ và nguỵ), đánh bại các âm mưu quân sự, chính trị, kinh
tế, bình định nông thôn, kìm kẹp đô thị của địch… đè bẹp ý chí xâm
lược của đế quốc Mỹ, nắm vững và tiếp tục sáng tạo thời cơ, giành
thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn[33, tr.372].
Trên cơ sở phương hướng chỉ đạo của Trung ương Cục, các đơn vị chủ
lực quân giải phóng với lực lượng được bố trí một cách hợp lý trên các địa
bàn chiến lược đã liên tiếp mở các cuộc tiến công bẻ gãy nhiều cuộc hành
quân “tìm và diệt” của địch. ở vòng trong, phối hợp với các cuộc tiến công
của bộ đội chủ lực, các đơn vị đặc công, biệt động, lực lượng du kích “vành
đai diệt Mỹ” đã đánh vào các căn cứ xuất phát hành quân, cơ quan đầu não
chỉ huy trong thành phố, thị xã; đánh vào hệ thống kho tàng, sân bay, bến
cảng, các tuyến giao thông huyết mạch của địch… Với thế chủ động trên
chiến trường, bằng cách đánh táo bạo, dũng cảm, quân và dân miền Nam đã
đánh thiệt hại Sư đoàn 1, Sư đoàn 25 bộ binh, và Lữ đoàn dù 173 của Mỹ và
quân đội Sài Gòn ở Củ Chi, Bến Cát, Nhà Đỏ - Bông Trang (Thủ Dầu Một),
Võ Xu, Bình Tuy…
Kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, đánh
địch bằng ba mũi giáp công (quân sự, chính trị, binh vận), quân và dân ta đã
phá vỡ kế hoạch “bình định” 900 ấp, củng cố 1.900 ấp trong năm 1966 do
95
Tổng thống Mỹ Giônxơn va Nguyễn Văn Thiệu đặt ra. Đến tháng 6-1966,
quân và dân ta ở Nam bộ đã phá 2.668 ấp chiến lược; ở Khu VI ta phá 238 ấp
trong tổng số 360 ấp, giải phóng 203.345 dân; Khu V, Tây Nguyên, Trị -
Thiên mở rộng vùng giải phóng với hơn 2 triêu dân [113, tr.217].
Như vậy, đến giữa năm 1966, mục tiêu tìm diệt chủ lực quân giải
phóng và chỉ tiêu “bình đinh” các trọng điểm nông thôn miền Nam của Mỹ,
nguỵ đều không thực hiện được. Bộ chỉ huy quân sự Mỹ buộc phải kết thúc
cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất sớm hơn 2 tháng so với dự định.
Đối với Mỹ, đây là một thất bại có ý nghĩa chiến lược trong cuộc chiến
tranh xâm lược Việt Nam. Thất bại này làm cho phản đối chiến tranh, phản
đối chính quyền tăng nhanh ở Mỹ; làm cho nhiều quan chức cấp cao Mỹ hoài
nghi về chính sách và cách thức tiến hành chiến tranh của chính quyền
Giônxơn.
Còn đối với ta, thắng lợi này có tầm quan trọng rất lớn về chiến lược,
chiến thuật và chỉ đạo chiến tranh. Chúng ta đã thắng Mỹ bước đầu trong
chiến lược “chiến tranh cục bộ” về cả quân sự và chính trị, từ đó thấy được
điểm mạnh, điểm yếu của chúng để có kế sách đánh Mỹ, tiến lên giành thắng
lợi quyết định trong thời gian tới.
Để đẩy mạnh phong trao cách mạng ở Quảng Trị, Thừa Thiên tiến lên
ngang tâm đòi hỏi của tình hình, hỗ trợ tích cực cho phong trào ở Khu V,
Nam Bộ, tháng 4-1966, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định
thành lập Khu uỷ Trị - Thiên, đặt dưới sự lãnh đạo của BCH Trung ương và
Bộ Chính trị. Tiếp đó, tháng 6-1966, Quân uỷ Trung ương quyết định thành
lập Mặt trận đường 9 - Bắc Quảng Trị. Đây là những quyết định kịp thời,
đúng đắn, thể hiện quyết tâm tạo hướng tiến công mới của ta vào nơi yếu của
địch, buộc địch phải phân tán lực lượng và rơi vào thế bị động, để ta có thể
giáng trả những đòn quyết định vào kế hoạch phản công chiến lược lần thứ 2
96
của địch.
Sau thất bại của cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966, tư
tưởng đánh nhanh, giải quyết nhanh của Mỹ xem ra không còn cơ sở đứng
vững nữa, Mỹ đã không những không đạt được các mục tiêu đặt ra khi thực
hiện phản công chiến lược mà lại còn rơi vào thế bị động, lúng túng đối phó
với các đợt phản công của ta. Tuy biết khó lòng thắng nổi ta nhưng với bản
chất thực dân ngoan cố, ỷ lại vào sức mạnh nên vẫn quyết tâm mở cuộc phản
công chiến lược lần thứ hai. Mỹ đã huy động 98 vạn lính Mỹ, đồng minh và
quân Sài Gòn vào cuộc phản công này.
Mục tiêu của cuộc phản công lần này cũng nhằm tiêu diệt một bộ phận
quan trọng quân chủ lực của ta, phá các căn cứ kháng chiến, “bình định”
giành dân, mở rộng vùng kiểm soát… giành thắng lợi quân sự làm chuyển
biến cục diện chiến tranh có lợi cho Mỹ vào giữa hoặc cuối năm 1967, để
bước vào năm 1968, đó là năm bầu cử tổng thống.
Thực hiện chiến lược này, Mỹ đã mở 896 cuộc hành quân lớn nhỏ,
trong đó phải kể đến 3 cuộc hành quân lớn.
Ngày 14-9-1966, địch mở cuộc hành quân áttơnborơ (Atteleboro) với
30.000 quân Mỹ và quân Sài Gòn, đánh vào căn cứ Dương Minh Châu để tiêu
diệt chủ lực, phá căn cứ, kho tàng của ta. Với thế trận liên hoàn đã đựơc bố trí
sẵn trên những khu vực mà ta dự kiến địch sẽ tiến quân, các lực lượng chủ
lực, địa phương, dân quân, du kích, tự vệ cơ quan đã liên tục chặn đánh và
tiến công vào đội hình hành quân của Mỹ, gây cho chúng nhiều thiệt hại về
sinh lực và phương tiện chiến tranh. Sau 72 ngày đối phó với lực lượng cách
mạng, Mỹ và quân đội Sài Gòn đã không thực hiện được mục tiêu của cuộc
hành quân và ngày 21-11-1966, Oétmolen quyết định chấm dứt cuộc hành
quân, rút toàn bộ quân ra khỏi khu căn cứ Dương Minh Châu.
Tiếp sau đó, ngày 8-1-1967, bộ Chỉ huy quân sự Mỹ mở cuộc hành
97
quân Xiđa Phôn (Cidar Fall) - cuộc hành quân lớn cấp quân đoàn thứ 2 - vào
tam giác Bến Sức - Củ Chi - Bến Cát. Lực lượng cách mạng của ta ở đây, dựa
vào hệ thống công sự, địa đạo được cấu trúc vững chắc và hóc hiểm đã liên
tục tổ chức các trận tập kích vào đội hình quân Mỹ. Khi chúng lúng túng đối
phó với lực lượng vũ trang tại chỗ thì chủ lực Quân giải phóng miêng Nam
phối hợp với lực lượng quân khu Sài Gòn - Gia Định, đánh vào bên sườn, sau
lưng địch tiêu hao nhiều sinh lực và phương tiên chiến tranh. Sau gần 1 tháng
đánh phá ác liệt nhưng không đạt được kết quả, ngày 26-1-1967, Mỹ phải
chấm dứt cuộc hành quân, dồn 15.000 dân về thị xã Bình Dương.
Tuy bị thất bại liên tiếp trong 2 cuộc hành quân nhưng Bộ chỉ huy quân
sự Mỹ vẫn không chịu từ bỏ kế hoạch “tìm diệt”. Đầu tháng 2-1967, Mỹ dốc
sức thực hiện cuộc hành quân Gianxơn Xiti (Junction City) vào căn cứ Duơng
Minh Châu với 45.000 quân, 1.200 xe tăng và xe bọc thép, hơn 250 trọng
pháo, 17 phi đoàn máy bay. Nắm bắt được tình hình, Trung ương Cục và Bộ
Tư lệnh Miền chỉ đạo các đơn vị địa phương chuẩn bị đối phó với địch. Đây
là nơi tập trung của các cơ quan đầu não cách mạng và được chia thành 13
huyện, mỗi huyện lại chia thành từng xã, ấp có hệ thống công sự, trận địa,
hầm hào vững chắc và hỗ trợ cho nhau. Dựa vào thế trận được xây dựng từ
trước, lực lượng vũ trang trong các căn cứ bám trận địa, chủ động tiến công
đánh địch bằng nhiều hình thức gâu cho địch những tổn thất to lớn. Lực lượng
chủ lực Quân giải phóng miền Nam cơ động, đánh vào những chỗ sơ hở của
địch làm cho chúng thiệt hại nặng nề. Trước tình hình đó, ngày 15-5-1967,
Oétmolen lại một lần nữa tuyên bố kết thúc cuộc hành quân.
Đánh bại hai cuộc phản công chiến lược của Mỹ ở miên Nam là thắng
lợi to lớn và toàn diện. Với việc sử dụng 2 biện pháp “tìm diệt” và “bình
định”, đế quốc Mỹ muốn phóng 2 mũi tên hiểm, hòng đánh bại đối phương.
98
Song kế hoạch đó đã thất bại hoàn toàn. Thắng lợi của ta đã báo hiệu chiến
lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ sẽ bị thất bại hoàn toàn. Cách mạng miền
Nam tạo được thế chiến lược mới, tiếp tục giữ thế chủ động trên chiến trường.
Song song tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở MNVN, từ ngày
7-2-1965, Mỹ dùng không quân đánh phá nhiều nơi trên miền Bắc, mở đầu
cho một kiểu chiến tranh mới - chiến tranh phá hoại.
Từ ngày 7-2 đến 13-6-1965, Mỹ thực hiện kế hoạch Sấm rền, đánh phá
từ vĩ tuyến 17đến vĩ tuyến 20 tập trung vào các doanh trại quân đội, kho tàng,
trục giao thông, một số nhà máy, xí nghiệp từ Vinh đến Thanh Hoá.
Từ ngày 14-6-1965 đến 21-2-1967, phối hợp với mở hai cuộc phản
công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 ở miền Nam, Mỹ thực
hiện leo thang đánh phá toàn miền Bắc trừ Hà Nội - Hải Phòng.
Ngày 22-2-1967, Mỹ leo thang một bước mới, đánh phá ác liệt hơn; từ
thánh 5-1967 chúng đánh sau vào nội thành Hà Nội, Hải Phòng, dùng B52 và
pháo binh bắn phá phía Bắc biên giới tam thời. Tháng 7-1967 là thời kỳ Mỹ
leo thang cao nhất, trung bình một ngày có 90 - 100 lần xuất kích, ngày cao
lên đến 400 lần chiếc, B52 có ngày sử dụng lên 100 lần chiếc. Tính đến năm
1967, Mỹ đã trút xuống miền Bắc 1.630.000 tấn bom, nhiêu hơn khối lượng
bom đạn Mỹ ném xuống châu Âu trong chiến tranh thế giới thứ 2, gấp hai lần
số bom ném xuống Triều Tiên, gấp 3 lần số bom ném xuống chiến trường
Thái Bình Dương trong chiến tranh thế giới thứ hai.
Trước những khó khăn đó, miền Bắc vừa chống chiến tranh phá hoại đế
quốc Mỹ, vừa ra sức xây dựng CNXH và chi viện cho miền Nam. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, quân dân miền Bắc chiến đấu dũng cảm đánh trả các bước
leo thang chiến tranh của không quân và hải quân địch. Sau 2 năm, từ 1965-
99
1967, miền Bắc đã bắn rơi 2.674 máy bay và bắn chìm 106 tàu chiến Mỹ.
Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc nhưng đã không thực hiện được mục
tiêu ngăn chặn các hoạt động chi viện cho miền Nam và “ý chí của Hà Nội
tiếp tục cuộc chiến đấu vẫn rất vững chắc”[79, tr.244]. Sự thất bại của Mỹ ở
miền Bắc và MNVN đã đẩy Mỹ đứng trước những khó khăn, phức tạp, rơi
vào tình trạng bế tắc không lối thoát.
Đi đôi với hoạt động quân sự, thời gian này, để tranh thủ sự đồng tình
ủng hộ của các nước trên thế giới cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt
Nam, tạo những điều kiện mới thúc đẩy cách mạng phát triển, kéo địch xuống
thang chiến tranh, nhanh chóng giành được thắng lợi quyết định, Đảng chỉ
đạo đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự,
đấu tranh chính trị với đấu tranh ngoại giao.
Đầu năm 1967, Hội nghị BCH Trung ương lần thứ 13 quyết định mở
mặt trận đấu tranh ngoại giao. Nghị quyết khẳng định: “đấu tranh quân sự và
đấu tranh chính trị là nhân tố chủ yếu quyết định trên chiến trường, làm cơ sở
cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao… trong tình hình quốc tế hiện nay, với
tính chất cuộc đấu tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò
quan trọng, tích cực và chủ động”[78, tr.38].
Chống lại những luận điệu hoà bình bịp bợm mà Mỹ rêu rao, ngày 28-
1-1967, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Duy Trinh đã
tuyên bố:
Nếu quả thật Mỹ muốn nói chuyện thì trước hết, Mỹ phải
chấm dứt việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chỉ sau khi Mỹ chấm dứt
không điều kiện ném bom và mọi hành động chiến tranh khác
chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì Việt Nam Dân chủ
100
Cộng hoà và Mỹ mới có thế nói chuyện được[10, tr.34-35].
Lời tuyên bố này đã nhận được sự hoan nghênh của rất nhiều người
tiến bộ trên thế giới, thể hiện được thiện chí hoà bình của Việt Nam. Nó cũng
làm cho Mỹ hết sức lúng túng, bị động.
Việc mở mặt trận ngoại giao vào thời điểm này là rất hợp lý, giúp ta có
thêm sức mạnh từ nguồn cổ vũ động viên của anh em, bè bạn các nước trên
thế giới, giúp ta giữ thế chủ động trên mặt trận ngoại giao, tiến lên giành
những thắng lợi mới to lớn hơn.
Sau hai mùa khô, Mỹ tuy bi thất bại và cũng đã nhận thấy khó có khả
năng giành thắng lợi một cách nhanh chóng nhưng chúng vẫn không chịu
xuống thang chiến tranh mà tiếp tục theo đuổi ý đồ mở cuộc phản công chiến
lược thứ ba vào mùa khô 1967-1968, tạo ra thắng lợi về quân sự để giải quyết
vấn đề ở MNVN theo ý chủ quan của mình.
Đối với ta, những thắng lợi đã đạt được trên các mặt quân sự, chính trị,
ngoại giao đã làm cho sức mạnh của cách mạng Việt Nam tăng lên đáng kể.
Nhưng dù có “đánh thắng hai cuộc phản công chiến lược 1965-1966, 1966-
1967 và làm thất bại chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân trên
miền Bắc của Mỹ nhưng mục tiêu giành thắng lợi quyết định vẫn chưa thực
hiện được. Ta chưa có những đợt hoạt động, những cuộc tiến công quy mô
chiến lược đủ sức làm chuyển biến cục diện chiến tranh”[101, tr.55]. Ta chưa
đủ sức để đánh bật được quân viễn chinh Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam.
Điều cần thiết đối với cách mạng miền Nam lúc này là phải tổ chức được một
đòn quyết định, đánh thẳng vào ý chí xâm lược của Mỹ, buộc chúng phải rút
quân về nước.
Sau khi nghiên cứu kỹ tình hình và yêu cầu cấp bách của cách mạng
miền Nam giai đoạn này, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ đạo sát sao
việc soạn thảo, bổ sung, từng bước hoàn chỉnh bản Dự thảo kế hoạch chiến
101
lược Đông Xuân 1967-1968 nhằm thực hiện chủ trương tận dụng thời cơ,
giành thắng lợi quyết định trong năm 1968, theo phương huớng đánh lớn.
Trong quá trình bàn bạc, Quân uỷ Trung ương nhận thấy: “Những thắng lợi
của ta trong đông xuân 1966-1967 đã tạo ra một tình thế có lợi cho ta, bất lợi
cho địch. Và nếu vươn lên thực hiện được một đòn quyết chiến chiến lược
thật hiểm và mạnh thì buộc đế quốc Mỹ phải thua theo ý định chiến lược của
ta”[22, tr.188-189]. Đảng cũng đồng ý với nhận định đó và cho rằng đây là
thời cơ lớn để đẩy mạnh cuộc chiến tranh phát triển lên một bước cao hơn
buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược.
Qua nhiều lần bàn bạc, nghiên cứu, trao đổi, lãnh đạo Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã quyết định giáng một đòn bất ngờ thật mạnh vào ý chí xâm
lược của Mỹ, bằng cách chọn hướng chiến lược hiểm và dùng tổng công kích,
tổng khởi nghĩa buộc chúng phải chấm dứt chiến tranh. Đây là “một cách
đánh mà kẻ địch không hề nghĩ tới và cũng không thế nghĩ tới”[70, tr.39-40].
Chủ trương này được thể hiện rõ trong Nghị quyết hội nghị lần thứ 14
BCH Trung ương Đảng (1-1968) về thực hiện tổng công kích, tổng khởi
nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Tại Hội
nghị này, sau khi phân tích tình hình, BCH Trung ương nhận thấy: “Đế quốc
Mỹ đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược. So với mục tiêu
chính trị và quân sự có hạn của chúng ở miền Nam, thì những cố gắng chiến
tranh của Mỹ (cùng với những thiệt hại nặng nề của chúng) ở Việt Nam đã tới
đỉnh cao”[35, tr.47] và vì vậy, “xu thế của tình hình trong cả năm 1968 là địch
sẽ ngày càng chuyển vào phòng ngự một cách bị động hơn trước”[35, tr.48].
Còn về phía Việt Nam, “chúng ta đã thắng địch cả về chiến lược lẫn
chiến thuật và thế lực của ta phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết”, tuy vẫn còn
một số nhược điểm nhưng tình hình hiện nay “cho phép ta chuyển cuộc chiến
tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ
102
tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định”[35, tr.50].
Nhiệm vụ cấp bách hiện nay của ta là: “động viên những nỗ lực lớn
nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh
cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công
kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định”[35, tr.50].
BCH Trung ương cũng đã chỉ ra phương hướng giành thắng lợi quyết
định cho cách mạng miên Nam lúc này là:
- Tiêu diệt và làm tan rã tuyệt đại bộ phận quân nguỵ, đánh đổ nguỵ
quyền các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân.
- Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh
của Mỹ, làm cho quân Mỹ không thực hiện được các nhiệm cụ chính trị và
quân sự của chúng ở Việt Nam.
- Trên cơ sở đó, đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu
thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền
Bắc[35,tr.50].
Nghị quyết cũng chỉ ra sau khi thực hiện được các mục tiêu trên, trước
mắt sẽ xây dựng ở miền Nam một chính quyền độc lập dân chủ, hoà bình
trung lập sau đó tiến lên thống nhất nước nhà. “Thực chất đây là một bước
quá độ để đưa cách mạng miền Nam lên toàn thắng”[7, tr.270].
Trung ương Đảng đã dự kiến các khả năng có thể xảy ra khi thực hiện
TCK, TKN trên toàn miền Nam:
Thứ nhất: Ta giành được thắng lợi lớn ở các chiến trường quan trọng,
nhưng cuộc công kích và khởi nghĩa của ta cuối cung thành công ở các thành
thị lớn và ta lần lượt đập tan được những cuộc phản kích của địch, làm cho
địch thất bại đến mức không thể gượng lại được nữa, đè bẹp ý chí xâm lược
của địch, bắt chúng phải chịu thua, phải thương luợng, đi dến kết thúc chiến
103
tranh theo những mục tiêu và yêu cầu của ta.
Thứ hai: Tuy ta giành được thắng lợi quan trọng ở nhiều nơi, nhưng
địch cố gắng tập trung và tăng viện thêm lực lượng từ ngoài vào, giành lại và
giữ vững được những vị trí quan trọng, ổn định được các thành thị lớn, nhất là
“đo thành” và dựa vào các căn cứ lớn để tiếp tục với ta.
Thứ ba: Mỹ động viên và tăng thêm nhiều lực lượng, mở rộng chiến
tranh cục bộ ra miền Bắc Việt Nam, sang Campuchia và ở Lào, hòng xoay
chuyển cục diện chiến tranh và gỡ thê thua của chúng[35, tr.55-56].
BCH Trung ương nhấn mạnh: “chúng ta phải nỗ lực phi thường, đem
hết tinh thần và lực lượng, quyết chiến đấu, giành cho được thắng lợi cao nhất
theo khả năng thứ nhất, vì hơn lúc nào hết, chúng ta đang đứng trước thời cơ
thuận lợi để giành thắng lợi quyết định trong cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại
của chúng ta theo mục tiêu chiến lược mà chúng ta đã định từ
trước”[35,tr.56]. Nhưng đồng thời cũng phải sẵn sàng đối phó nếu khả năng
thứ 2, thứ 3 xảy ra.
Có thể thấy, Nghị quyết này đã thể hiện quyết tâm rất cao của Đảng
trong việc chỉ đạo giành thắng lợi quyết định cho cách mạng miền Nam, tạo
ra một bước ngoặt quan trọng để hoàn thành sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Quyết tâm này được thể hiện trong phương hướng chỉ đạo tiến công
của Đảng: căng địch ra khắp các chiến trường quan trọng, sử dụng những quả
đấm mạnh đánh quỵ các binh đoàn chủ lực của địch, phản công địch, bẻ gẫy
các cuộc phản kích của chúng; mặt khắc, phải tập trung vào các thành thị,
đánh sập cơ quan đầu não của Mỹ, nguỵ, phá các hậu cứ, các cơ sở hậu cần,
các trung tâm thông tin liên lạc… Đây là đòn ác liệt nhất đánh vào óc, tim,
mạch máu của địch, đè bẹp ý chí xâm lược của chúng.
Dựa trên chủ trương chiến lược của Đảng, Quân uỷ Trung ương và Bộ
Tổng tư lệnh gấp rút hoàn chỉnh phương án TCK, TKN. Theo phương án này,
104
ta sẽ tiến hành song song hai đòn tiến công chiến lược, đó là đòn tiến công
của bộ đội chủ lực ở hướng phối hợp chiến lược đặc biệt quan trọng là đường
9 Khe Sanh, nhằm thu hút, giam chân lực lượng chiến lược của địch và một
đòn tiến công chiến lược đánh vào thị xã, thành phố quy mô trên toàn miền
Nam, kết hợp với nổi dậy của quần chúng nông thôn và đô thị, mở đầu cho
TCK, TKN, lấy chiến trường chính là Sài Gòn, Gia Định, Đà Nẵng, Huế…
Thời gian thực hiện TCK, TKN là vào dịp Tết Nguyên đán.
Đây là một chủ trương hết sức táo bạo của Đảng, chủ động tiến công để
tạo sự bất ngờ cho địch, khiến chúng không kịp xoay sở và phải chấp nhận rút
quân, giành thắng lợi quyết định cho cách mạng miền Nam.
Công tác chuẩn bị cho TCK, TKN được diễn ra khẩn trương ở cả hai
miền Nam, Bắc. Quân dân miền Bắc tích cực tiến hành cuộc xây dựng CNXH
và ra sức chi viện cho miền Nam thực hiện cuộc tổng tiến công và nổi dậy
1968. Năm 1967, miền Bắc tăng cường cho miền Nam số lượng quân chiến
đấu tăng 1,5 lần so với năm 1966; chỉ trong vòng 6 tháng cuối năm 1967,
miền Bắc đã vận chuyển vào miền Nam khối lượng vật chất gấp 6 lần năm
1965. Các chiến trường, các địa phương miền Nam cũng khẩn trương chuẩn
bị cho khởi nghĩa như: tổ chức lại chiến trường, xây dựng phương án tác
chiến, triển khai công tác đảm bảo hậu cần, tăng cường lực lượng, bố trí thế
trận…
Thực hiện chủ trương TCK, TKN giành thắng lợi quyết định cho miền
Nam của Đảng, trung tuần tháng 1-1968, liên quân Lào - Việt mở chiến dịch
Nậm Bạc và lực lượng vũ trang bất ngờ tấn công mãnh liệt vào tập đoàn cứ
điểm Khe Sanh, đánh lạc hướng phán đoán của kẻ thù, coi Khe Sanh là hướng
tiến công chính của ta. Sau này, M. Máclia đã nhận thấy: “các trận đánh trong
tết Mậu Thân làm người ta có cảm tưởng rằng Khe Sanh có vẻ như là cuộc
bao vây để bỏ đấy mà thôi. Nếu vậy thì Bắc Việt Nam là bậc thầy trong việc
105
nghi binh”[69, tr.149].
Trong khi Mỹ dồn tâm trí và lực lượng ra hướng Đường 9 - Khe Sanh
thì đêm ngày 29 rạng ngày 30 và đêm 30 rạng ngày 31-1-1968, cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân nổ ra khắp các chiến trường với hướng
chính là các đô thị, trung tâm quân sự, chính trị của Mỹ, nguỵ. Nhờ giữ được
thế bất ngờ, ta đánh mạnh vào bộ máy chiến tranh của địch, bao gồm nhiều cơ
quan chỉ huy ở 64 thành phố, thị xã, huyện lỵ, khu hậu cần dự trữ chiến tranh.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy này đã thu hút hàng triệu quần chúng nổi dậy
diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ ở những mức độ khác nhau. Tại thành
phố Sài Gòn - Chợ Lớn, trung tâm chính trị, kinh tế của địch, ta đánh vào sứ
quán Mỹ, dinh Tổng thống nguỵ, sân bay Tân Sơn Nhất làm chủ dài ngày ở
nhiều khu phố, tại nhiều đô thị, lực lượng vũ trang ta đã chiếm giữ nhiều nơi,
trong nhiều ngày, nhiều giờ.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy do ta tiến công quân sự chưa đủ
mạnh, chưa đủ sức ngăn chặn, kiềm chế địch nên sau khi bị choáng váng, bất
ngờ, Mỹ và quân đội Sài Gòn đã nhanh chóng khôi phục lại lực lượng phản
kích quyết liệt, đẩy lùi các cuộc tiến công của ta, làm cho ta bị tổn thất nặng
nề.
Tuy vậy, qua gần 2 tháng chiến đấu, quân và dân miền Nam đã đạt
được một số kết quả nhất định: loại khỏi vòng chiến đấu hơn 150.000 tên
địch, trong đó có 45.000 tên Mỹ và chư hầu, bắn rơi và phá huỷ gần 2.200
máy bay, đánh tan xác 3.500 xe quân sự, phá huỷ hơn 300 khẩu đại bác, đánh
chìn và đánh hỏng 233 tàu xuồng chiến đấu, san bằng 823 đồn bốt [79,
tr.164]. Những kết quả này đã làm cho chính giới Mỹ choáng váng. “Lần đầu
tiên trong lịch sử hơn 200 của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, quân đội Mỹ bị đánh
bại trên một chiến trường nhỏ và nghèo ở cách xa nước Mỹ hàng vạn
106
dặm”[83, tr.165].
Đánh giá về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, đồng chí
Lê Duẩn đã khẳng định: “Ta đã thắng rất to, địch đã thua rất nặng. Rõ ràng
trận này đã mở ra một bước ngoặt chiến lược đánh dấu thời kỳ Mỹ phải xuống
thang chiến tranh do thất bại trong “chiến tranh cục bộ”[19, tr.214].
Chính Tổng thống Giônxơn cũng thừa nhận: “Cố gắng của đối phương
đã gây ra một hậu quả tác động xấu đến một số người trong và ngoài chính
phủ”, “nhân dân Mỹ và một số nhân vật trong chính quyền nghĩ rằng chúng ta
đã thất bại”. Cuộc Tổng tiến công này đã tạo ra “một cảm giác thất vọng, u
sầu bao trùm chính giới Oasinhtơn - Chính phủ bị xúc động”[1, tr.214].
Những thất bại lớn về quân sự, chính trị của Mỹ ở miền Nam đã buộc
Mỹ phải xuống thang chiến tranh. Đêm ngày 31-3-1968, Tổng thống Giônxơn
tuyên bố:
- Mỹ đơn phương chấm dứt ném bom VNDCCH từ vĩ tuyến 20 trở ra,
cử đại biểu đến hội nghị đàm phán với VNDCCH.
- Chuyển sang “phi Mỹ hoá” chiến tranh, từng bước đưa quân Sài Gòn
thay quân Mỹ trên toàn chiến trường, “việc trang bị lại cho quân đội NamViệt
Nam sẽ được tăng nhanh để tạo cho chúng khả năng đảm nhận trách nhiệm
lớn hơn trong việc phòng thủ Nam Việt Nam”[86, tr.260].
- Không ra tranh cử Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ tiếp theo.
Đây là bước xuống thang quan trọng của Mỹ nó tạo ra trên chiến
trường một cục diện chiến tranh mới, một phương thức chiến tranh mới “vừa
đánh vừa đàm”.
Ngày 24-4-1968, BCT đã nhận định: Tổng tiến công và nổi dậy, ta
giành được thắng lợi rất to lớn và toàn diện, đã tạo nên bước ngoặt mới làm
cơ sở cho việc tiến lên giành thắng lợi quyết định, tạo cục diện chiến tranh có
lợi cho ta, bất lợi cho địch. Tuy bi thất bại năng nề nhưng Mỹ vẫn chưa chịu
107
từ bỏ âm mưu thống trị Việt Nam. Nhằm mục đích “đẩy địch vào thế thất bại
liên tiếp ngày càng suy yếu, tan rã, không sao gượng dậy được”[104, tr.418],
giành ưu thế trên chiến trường để tạo áp lực trên bàn Hội nghị, Bộ Chính trị
đã quyết định mở tiếp các cuộc tiến công và nổi dậy vào tháng 5 và tháng 8.
Nhưng do tiến công và nổi dậy liên tục kéo dài, quy mô rộng lớn trong điều
kiện kẻ địch còn hơn 1 triệu tên với tiềm lực chiến tranh lớn nên lực lượng
của ta bị tổn thất nặng nề: 111.306 cán bộ, chiến sĩ và quần chúng cách mạng
hy sinh và bị thương. Mặt khác, trong khi dồn sức tấn công vào đo thị ta đã bỏ
hở vùng nông thôn, địch đã tập trung lực lượng đánh bật quân chủ lực ta ra
xa, tiến hành bình định những vùng vừa bị mất làm cho thế trận chiến tranh
nhân dân trên 3 vùng chiến lược bị sưy giảm, tổn thất, cách mạng miền Nam
đứng trước khó khăn và thử thách nặng nề.
Song song với hoạt động chiến đấu trên các chiến trường, ta đẩy mạnh
triển khai hoạt động đấu tranh ngoại giao trên thế trận “vừa đánh vừa đàm”,
tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy cách mạng miền Nam giành thắng lợi quyết
định tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Ngày 13-5-1968, tại Pari, phiên họp
đầu tiên giữa đoàn đại biểu chính phủ VNDCCH và đoàn đại biểu Mỹ được
tiến hành, đánh dấu sự mở đầu của cuộc đấu tranh ngaọi giao trực tiếp giữa ta
và Mỹ. Qua 6 tháng đấu tranh kiên quyết, thực hiện phương châm chiến lược
giành thắng lợi quyết định, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn, ngoại giao của
ta đã đạt được hai yêu cầu:
Thứ nhất: buộc Mỹ phải chấm dứt ném bom hoàn toàn và không điều
kiện VNDCCH kể từ ngày 1-11-1968.
Thứ hai: Buộc Mỹ phải ngồi vào đàm phán với Mặt trận DTGPMNVN
trong hội nghị 4 bên (VNDCCH, Mặt trận DTGPMNVN, Mỹ và chính quyền
108
Sài Gòn).
Đây được coi là một thành công lớn của mặt trận ngoại giao góp phần
tạo sức mạnh hỗ trợ cho đấu tranh quân sự và chính trị trong quá trình đấu
tranh giành thắng lợi quyết định cho cách mạng miền Nam.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân 1968, đã đánh dấu sự
phá sản hoàn toàn chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ, tạo nên một bước
ngoặt quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân
dân ta, khởi đầu cho quá trình đi xuống trong chiến tranh xâm lược Việt Nam
của Mỹ. Tuy nhiên, dù Đảng đã chủ động chỉ đạo mở một đòn tiến công chiến
lược đánh thẳng vào ý chí xâm lược của kẻ thù, tạo thời cơ giành thắng lợi
quyết định, buộc Mỹ phải rút quân khỏi miền Nam nhưng cuối cùng mục tiêu
đó đã không thực hiện được. Điều này bắt nguồn từ một số sai lầm, thiếu sót
trong quá trình chỉ đạo cách mạng của Đảng. Ta đã “chủ quan trong đánh giá
tình hình, nhất là đánh giá các lực lượng chính trị của quần chúng ở các đô thị
nên đề ra TCK, TKN”[71, tr23] chưa phù hợp với tình hình thực tế, chưa
đánh giá hết khả năng phản ứng của địch, “chủ trương tiếp tục các đợt tiến
công vào các đô thi khi không còn điều kiện là sai lâm về chỉ đạo chiến lược
để địch gây cho ta nhiều khó khăn tổn thất”[57].
Tuy không đạt được mục tiêu như ban đầu đề ra nhưng tổng tiến công
và nổi dây mùa xuân 1968 vẫn giữ một vị trí hết sức to lớn và oanh liệt trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Trên thực tế, cuộc
tổng tiến công và nổi dậy đã tạo ra những cơ sở quan trọng cho quá trình đấu
tranh giành thắng lợi quyết định sau này.
2.3. chỉ đạo tiến lên giành thắng lợi quyết định trong những năm (1969 - 1973)
109
2.3.1. Chủ định mới của Hoa Kỳ trong “Việt Nam hoá chiến tranh”
Những tổn thất to lớn của Mỹ trong Tổng tiến công và nổi dậy Mùa
xuân 1868 đã làm cho chiến lược “chiến tranh cục bộ” mà Mỹ dầy công vun
đắp thất bại hoàn toàn. Thất bại này đã tác động sâu sắc đến tinh hình kinh tế,
chính trị của nước Mỹ. Chi phí chiến tranh ngày càng tăng, ngân sách Mỹ
thâm hụt nghiêm trọng (tính trong 2 năm 1968-1969 thâm hụt 3.230 triệu
đôla), lạm phát tăng nhanh, giá sinh hoạt leo thang, số người thất nghiệp ngày
càng tăng. Điều này đã đẩy Mỹ vào tình trạng khó khăn đồng thời lại bị các
nước tư bản khác như: Nhật Bản, Tây Đức, Pháp, ý vượt lên về kinh tế. Liên
Xô tạo được thế cân bằng về vũ khí chiến lược với Mỹ, các phong trào giải
phóng dân tộc diễn ra rầm rộ ở các nơi.
Ngày 20-1-1969, Níchxơn lên làm Tổng thồng Mỹ và phải cay đắng
thừa nhận rằng: “Nước Mỹ đang có khủng hoảng về tinh thần, mắc kẹt trong
chiến tranh, cấu xé và chia rẽ nội bộ. Cuộc chiến tranh Việt Nam đã gây ra
căng thẳng gay gắt với nước Mỹ không riêng về mặt kinh tế, quân sự mà cả
xã hội cũng như chính trị. Sự bất đồng cay đắng đã xé rách cơ cấu đời sống
tinh thần nước Mỹ và, bất kể kết quả chiến tranh như thế nào, vết rách vẫn
còn lâu mới lành”[8, tr.187-188].
Nhận thấy chiến lược quân sự toàn cầu “phản ứng linh hoạt” thời
Kennơdi, Giônxơn đã không đáp ứng được yêu cầu hiện nay, tỏ ra lạc hậu
trước cuộc tiến công của ba dòng thác cách mạng, Níchxơn đã chuyển sang
thực hiện chiến lược quân sự toàn cầu mang tên “răn đe thực tế” và đề ra học
thuyết Níchxơn. Học thuyết này dựa trên ba nguyên tắc: “tập thể tham gia”,
“sức mạnh Mỹ” và “sẵn sang thương lượng”.
áp dụng học thuyết Níchxơn vào Việt Nam, Mỹ đề ra chiến lược “Việt
Nam hoá chiến tranh”. Đây là một kế hoạch hoàn chỉnh cả về quân sự, chính
110
trị, kinh tế, ngoại giao nhằm tiếp tục thực hiện âm mưu cơ bản của Mỹ là
chiếm giữ lâu dài MNVN nhưng quân Mỹ lùi về phía sau để rút dần về nước,
giảm bớt sự dính líu của quân Mỹ ở miền Nam.
Thực chất của chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” là dùng người
Việt đánh người Việt với bom đạn, đô la dưới sự chỉ đạo của Mỹ. Chúng đã
dùng “sức mạnh tối đa về quân sự kết hợp với những thủ đoạn chính trị và
ngoại giao rất xảo quyệt hòng giành thế mạnh, cô lập và bóp nghẹt cuộc
kháng chiến của nhân dân ta”[42, tr.481].
“Việt Nam hóa chiến tranh” là một chương trình nhằm tăng cường khả
năng tự vệ của chính quyền Sài Gòn khi Mỹ rút dần quân quân khỏi Việt
Nam. Chiến lược này dự kiến được tiến hành theo ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: Từng bước chuyển giao nhiệm vụ chiến đấu trên bộ cho
quân nguỵ, rút dần quân chiến đấu trên bộ của Mỹ ra khỏi Việt Nam.
Giai đoạn 2: Chuyển giao nhiệm vụ trên không cho quân đội Sài Gòn,
làm cho lực lượng này đủ sức đương đầu với ta, giữ vững được Việt Nam và
Đông Dương.
Giai đoạn 3: Hoàn tất những mục tiêu của “Việt Nam hoá chiến tranh”
làm cho ta suy yếu và chiến tranh sẽ tàn lui.
Mỹ cho rằng trong ba giai đoạn trên, thì quan trọng nhất là giai đoạn 1
(dự kiến thực hiện từ năm 1969 - 1972), được chia làm ba bước để thực hiện:
Bước 1: Từ năm 1969 đến giữa năm 1970, bình định một số vùng đông
dân quan trọng, xoá bỏ các cơ sở cách mạng ở vùng ta kiểm soát; khống chế
và đẩy lùi bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương của ta làm ta không hoạt động
được ở quy mô đại đội trở lên; rút một số đơn vị Mỹ ra khỏi Việt Nam.
Bước 2: Từ giữa năm 1970 đến giữa năm 1971, bình định được tất cả
các vùng đông dân quan trọng, hoàn thành kế hoạch hiện đại hoá quân nguỵ,
111
rút đại bộ phận quân Mỹ về nước.
Bước 3: Từ giữa năm 1971 đến giữa năm 1972, cơ bản bình định xong
cả miền Nam, quân nguỵ đủ sức đương đầu với khối chủ lực MBVN, rút hết
quân chiến đấu trên bộ của Mỹ về nước.
Để thực hiện được kế hoạch chiến lược này, Mỹ tập trung vào một số
biên pháp như: Phát triển và hiện đại hoá quân nguỵ để chúng đủ sức đối phó
với ta; Xây dựng chính quyền Sài Gòn ngày một mạnh hơn, giữ vững an ninh
chính trị để phát triển kinh tế; Bình định cho được nông thôn vì đây là biên
pháp chủ yếu để thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”; Bao vây,
đánh phá đường vận chuyển chiến lược để cắt đứt sự chi viện của miền bắc
cho miền Nam; Xúc tiến thủ đoạn ngoại giao xảo quyệt, lợi dụng mâu thuẫn
giữa các nước XHCN để hạn chế sự chiviện của họ cho ta buộc ta phải chấp
nhận kết thúc chiến tranh theo ý muốn của Mỹ.
Như vậy, với việc triển khai thực hiện chiến lược Việt Nam hoá chiến
tranh ta thấy rõ được bản chất ngoan cố, hiếu chiến và thâm độc của đế quốc
Mỹ. Không phải là chúng chịu từ bỏ Việt Nam, chịu thua để rút ra khỏi chiến
tranh trong danh dự mà là tiếp tục chiến tranh, giành giật với ta kết thúc chiến
tranh trên thế mạnh.
Thực hiện kế hoạch chiến lược đó, Mỹ gấp rút củng cố và phát triển
quân nguỵ, chú trọng phát triển cả ba quân chủng: hải quân, lục quân và
không quân. Về lục quân: bổ sung thêm quân số các sư đoàn chủ lực bộ binh,
hoàn thiện biên chế, hoả lực yểm trợ cho lục quân cũng được tăng nhanh: từ
1968-1970, xây dựng 20 tiểu đoàn pháo từ 105 đến 175mm; trang bị thêm 600
khẩu đại bác, có 1.300 khẩu pháo và 10.000 súng cối các loại; xe tăng, thiết
giáp là 1.037 (1968) đến 1.879 (1972); khối bộ binh cơ động tăng từ 50 tiểu
đoàn (1968) lên 90 tiểu đoàn (1970). Với sự phát triển của lục quân như vậy,
theo Mỹ, quân nguỵ có thể đảm nhận hầu hết các nhiệm vụ chiến đấu trên bộ.
112
Về hải quân: cuối 1971 đầu năm 1972 lực lượng nay đã lên đến gần 50.000
quân với 1.600 tàu các loại hoạt động trên biển và trên sông. Về không quân:
quân số tăng nhanh từ 35.000 người (1968) lên hơn 50.000 người (1971).
Để củng cố chính quyền Sài Gòn, Mỹ đã tăng cường viện trợ kinh tế,
quân sự lên gấp bội. Năm 1969 lên 1,7 tỷ, năm 1970 gần 2 tỷ, năm 1971 là
2,5 tỷ, năm 1972 là 3 tỷ đô la[84, tr.51].
Mỹ tiến hành bình định miền Nam bởi chúng coi đó là một biện pháp
chiến lược quan trọng để thực hiện thành công “Việt Nam hoá chiến tranh”.
Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã chia bình định thành nhiều giai đoạn để thực
hiện: Bình định cấp tốc (11-1968 đến 6-1969); Bình định phát triển nông thôn
(7-1969 đến 6-1970); Bình định đặc biệt (7-1970 đến 2-1971)…
Từ năm 1969, các cuộc hành quân càn quét của Mỹ, nguỵ tăng lên một
cách đột ngột. Năm 1968 có 2.192 cuộc hành quân càn quét, năm 1969 tăng
lên 4.344 cuộc, 10 tháng đầu năm 1970 con số đó đã lên tới 6.745 cuộc. Theo
đánh giá của chính quyền Sài Gòn, từ năm 1969 đến 1970 là thời kỳ bình định
đạt kết quả tốt nhất. Chỉ tính riêng năm 1969, địch đã kiểm soát thêm đuợc
2.622 ấp (tăng 34,5%) và 2.932.700 dân (tăng 16,6%) so với 1968 [104,tr258-
259].
Một biện pháp cũng quan trọng không kém mà Mỹ thực hiện trong
“Việt Nam hoá chiến tranh” là mở các cuộc phản kích đánh phá vùng giải
phóng, đánh phá căn cứ địa cách mạng… làm suy yếu lực lượng cách mạng.
Trong 3 năm (từ 1969-1971) Mỹ, nguỵ đã mở tất cả 27.968 cuộc hành quân
phản kích từ cấp tiểu đoàn trở lên, trong đó có 724 cuộc quy mô cấp sư đoàn
trở lên, 4.208 cuộc cấp trung đoàn với hàng chục ngàn lần máy bay chiến
thuật và B52 rải khoảng 623.113 tấn bom [113, tr.260].
Trước những hành động tăng cường mở rộng chiến tranh đó, quân và
113
dân ta đã phải chiến đấu vô cùng gian khổ và ác liệt. Ta và địch giành nhau
từng tấc đất, từng người dân một. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng khó khăn.
Đây là một trong những thời kỳ khó khăn tưởng chứng không thể vượt qua.
Do ta bị tổn thất trong Tết Mậu Thân và các cuộc tổng tiến công đợt 2,
đợt 3 và chưa đánh giá hết mức độ tàn bạo của chiến lược “Việt Nam hoá
chiến tranh” nên cuộc đấu tranh của chúng ta đạt kết quả không cao, nhiều
khu căn cứ bị đánh tan tác, vùng giải phóng bị thu hẹp, lực lượng cúng bị tổn
thất lớn.
Cách mạng miền Nam đang đứng trước những thử thách nghiệm trọng.
Lực lượng so sánh trên chiến trường thay đổi, địch chiếm ưu thế hơn ta, từ thế
bị động địch đã giành được thế chủ động. Một yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp
cách mạng nước ta hiện nay là Đảng phải có sự phân tích đánh giá tình hình
một cách khoa học, chính xác, toàn diện để kịp thời xác định hướng đi đúng
đắn đưa cách mạng vượt qua giai đoạn khó khăn, tiến lên một bước mới.
2.3.2. Đảng chỉ đạo đấu tranh chống chiến lược “Việt Nam hoá
chiến tranh”, giành thắng lợi quyết định cho cách mạng miền Nam (1969
-1973)
2.3.2.1. Phương hướng và nhiệm cụ cụ thể của cách mạng Việt Nam
(1969-1973)
Những khó khăn, tổn thất của ta từ sau Tết Mậu Thân năm 1968 đã đặt
ra cho Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh một nhiệm vụ quan trọng là phải nhận
thức lại tình hình và đưa ra được chủ trương chỉ đạo hợp lý và kịp thời.
Đáp ứng yêu cầu trên, ngày 1-1-1969, trong Thư chúc mừng năm mới,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát nhiệm vụ và phương hướng tiến hành đấu
tranh của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là:
Vì độc lập, vì tự do
114
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào [54, tr.426]
Đến tháng 7-1969, Người đã khẳng định lại chủ trương đó trong Lời
kêu gọi nhân ngày 20-7:
Đế quốc Mỹ đã thất bại rõ ràng nhưng chúng chưa chịu từ bỏ
âm mưu bám lấy miền Nam nước ta. Quân và dân cả nước, triệu
người như một, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, không sợ
hy sinh, không sợ gian khổ, quyết kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng
chiến, quyết chiến quyết thắng, đánh cho Mỹ phải rút hết sạch,
đánh cho nguỵ quân và nguỵ quyền sụp đổ hết, giải phóng miền
Nam, bảo vệ miền Bắc, tiết tới hoà bình thống nhất nước nhà
[54,tr.479].
Đây chính là chủ trương chỉ đạo giành thắng lợi quyết định cho
cách mạng miền Nam đã được Đảng ta đề ra trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng từ chiến lược “chiến tranh đặc biệt” đến nay. Có thể nói,
“đây là sự khái quát tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một phương
hướng chiến lược cực kỳ quan trọng, cũng là bước đi sáng tạo trong
đường lối quân sự của Đảng để quân và dân ta giành thắng lợi trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”[118, tr.83]. Và “nhìn từ giác độ
nghiên cứu lịch sử quân sự, cụm từ “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ
nhào” của Bác là biện chứng quy luật đấu tranh chống giặc ngoại xâm
trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc - chống giặc ngoài, thù
trong”[118, tr.83].
Trong phương hướng chỉ đạo này, Bác đề ra mục tiêu “Mỹ cút” tức là
Mỹ phải rút hết sạch quân về nước, còn “nguỵ nhào” là ta phải đánh sụp đổ
hết cả nguỵ quân và nguỵ quyền. Hai mục tiêu này có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau, trong đó “đánh cho Mỹ cút” là điều kiện tiên quyết cần phải giải
quyết đầu tiên và triệt để, có như vậy mới tạo ra được điều kiện thực hiện mục
115
tiêu tiếp theo - “đánh cho nguỵ nhào” đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Phương hướng chiến lược “đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào” là
cách thức tốt nhất để giải quyết vấn đề miền Nam, phù hợp với khả năng, sức
lực của ta. Đế quốc Mỹ là tên đầu sỏ có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn nhất
trong giới tư bản chủ nghĩa nên ta không thể vừa đánh bại quân Mỹ và đánh
bại cả quân nguỵ được. Vì vậy, chỉ trên cơ sở ta đánh bại ý chí xâm lược của
Mỹ, buộc chúng phải rút quân, giành thắng lợi quyết định mới có thể tiếp tục
vươn lên “đánh cho nguỵ nhào” kết thúc chiến tranh.
Phương hướng này, sau đó lại được BCT khẳng định là hướng đi chính
của cách mạng miền Nam trong Nghị quyết Hội nghị BCT ngày 10-5-1969.
Sau khi phân tích những âm mưu và chủ trương của địch và những đặc
điểm tình hình cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong giai đoạn này, BCT đã
chỉ ra hai khả năng phát triển của cuộc chiến tranh:
- Khả năng thứ nhất: Mỹ bị tổn thất nặng nề và gặp khó khăn lớn nên
chúng buộc phải kết thúc chiến tranh sớm bằng một giải pháp chính trị không
theo ý muốn của chúng.
- Khả năng thứ hai: Nếu ta tiến công về mọi mặt không đủ mạnh, Mỹ
có thể khắc phục được một phần khó khăn thì chúng sẽ cố gắng kéo dài cuộc
chiến tranh ở miền Nam để tìm kiếm một giải pháp chính trị, giải quyết vấn
đề miền Nam trên thế mạnh. Chúng cũng có thể ném bom trở lại miền Bắc,
hoặc mở rộng chiến tranh sang cả Lào và Campuchia.
Trên cơ sở dự đoán khả năng phát triển chiến tranh, BCT khẳng định
nội dung cơ bản của giai đoạn này là: “ta phát triển chiến lược tiến công đến
đỉnh cao, giành thắng lợi từng bước, đi đến giành thắng lợi quyết
định”[36,tr.131] và BCT cũng nhấn mạnh: “Hiện nay, chúng ta đang đứng
trước thời cơ lớn để thừa thắng tiến lên, đẩy mạnh tiến công toàn diện và liên
tục, tiến lên một bước mới rất cơ bản, đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc
116
Mỹ, đánh cho Mỹ phải rút quân, đánh cho nguỵ phải suy sụp, giành thắng lợi
quyết định, tạo điều kiện để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn”[36,tr.131-
132].
Vậy là, chủ trương giành thắng lợi quyết định vẫn được coi là hướng đi
đúng đắn của cách mạng miền Nam trong giai đoạn này và được Đảng tiếp
tục bổ sung và phát triển cho phù hợp với tình hình thực tiễn.
3.2.2.2. Qua trình chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết
định của Đảng (1969-1973)
Thực hiện phương hướng chỉ đạo giành thắng lợi quyết định của Đảng,
nhiều hoạt động quân sự, chính trị, ngoại giao được đẩy mạnh triển khai trên
khắp các chiến trường miên Nam.
* Về mặt ngoại giao, ngày 8-5-1969, Mặt trận DTGPMNVN đưa ra
giải pháp toàn bộ 10 điểm tại phiên họp toàn thể lần thứ 16, Hội nghị 4 bên về
Việt Nam, trong đó yêu cầu quan trọng nhất là Mỹ phải rút quân khỏi miền
Nam không điều kiện để nhân dân miền Nam tự giải quyết lấy công việc của
mình mà không có sự can thiệp của nước ngoài. Lập trường có tính nguyên
tắc và sách lược mềm dẻo này của ta đã nhận được sự đồng tình ủng hộ của
nhân dân thế giới, kể cả nhân dân Mỹ. Tuy nhiên, với bản chất cố chấp và
ương ngạnh, Mỹ không dễ gì chấp nhận nếu chưa thực sự thất bại ở miền
Nam.
* Về mặt quân sự, sau Hội nghị BCT ngày 10-5-1969, lực lượng vũ
trang của ta đã đồng loạt tiến hành các cuộc tiến công địch trên khắp miền
Nam với 830 mục tiêu. Sau 1 tháng tiến công, ta chưa đạt được mục tiêu
nhưng đã loại khỏi vòng chiến đấu 29 tiểu đoàn và cụm địch, phá huỷ nhiều
phương tiện chiến tranh của chúng.
* Về mặt chính trị, trên cơ sở những thắng lợi về quân sự, ngày 6 đến
ngày 8-6-1969, Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam họp và quyết định thành
117
lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Chính
phủ này đã được 23 nước XHCN và dân tộc chủ nghĩa công nhận, đặt quan hệ
ngoại giao. Bà Nguyễn Thị Bình được cử làm Trưởng đoàn đại biểu của
Chính phủ tham dự Hội nghị Pari về Việt Nam thay cho Mặt trận dân tộc giải
phóng trước đây. Sự ra đời của Chính phủ lâm thời là một thắng lợi có ý
nghĩa to lớn trong cuộc đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân và cùng
là một bước đi quan trọng trong quá trình chỉ đạo giành thắng lợi quyết định ở
miền Nam.
Sự diễn tiến của hoạt động quân sự, chính trị, ngoại giao ở miền Nam
ngày càng cho thấy rằng, chủ trương chỉ đạo giành thắng lợi quyết định là một
chủ trương đúng đắn và đến tháng 7-1969, Hội nghị Trung ương Cục lần thứ
9 đã xác định: “giành thắng lợi quyết định là điều kiện rất căn bản để tiến
lên thực hiện mục tiêu của cách mạng miền Nam là độc lập, dân chủ, hoà
bình, trung lập, tiến tới thực hiện thống nhất nước nhà”[36, tr.321].
Tầm quan trọng của việc giành thắng lợi quyết định cho cách mạng
miền Nam đã được Trung ương Cục khẳng định và coi đó là điều kiện cần
thiết, căn bản nhất để tiến lên hoàn thành những mục tiêu của cách mạng mà
Đảng đã đề ra.
Căn cứ vào tính hình của chiến trường, Trung ương Cục đã đề ra
nhiệm vụ trước mắt của cách mạng là:
Động viên sự nỗ lực phi thường của toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân ra sức phát huy thắng lợi đã giành được... tiếp tục đẩy
mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa với ba mũi giáp công đến
đỉnh cao nhất, kết hợp với tấn công ngoại giao; khẩn trương xây
dựng lực lượng quân sự và chính trị; phát triển thế tấn công chiến
lược một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ trên cả ba vùng chiến
lược “quét và giữ”, chính sách bình định và các mục tiêu, biện pháp
118
phòng ngự của địch, đánh bại âm mưu kết thúc chiến tranh trên thế
mạnh và chủ trương „phi Mỹ hoá” chiến tranh của chúng, đánh cho
Mỹ phải rút quân, đánh cho nguỵ phải suy sụp và ta giành được
thắng lợi quyết định”[36, tr.340].
Mục tiêu chiến lược cần phải thực hiện khi tiến hành đấu tranh giành
thắng lợi quyết định được Trung ương Cục xác định là:
- Đánh mạnh, đánh thật đau quân Mỹ, làm cho chúng bị tổn
thất hết sức nặng nề và khó khăn gấp bội về mọi mặt, làm cho
chúng không thực hiện được nhiệm vụ trong chiến lược “quét và
giữ”, không thực hiện được ý đồ chủ động xuống thang từng bước,
kéo dài chiến tranh để tạo thế mạnh đánh cho Mỹ phải rút quân.
Đánh thật mạnh vào quân Mỹ lúc này có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng để đập tan ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.
- Đánh mạnh vào quân nguỵ, tiêu diệt bộ phận ngoan cố
nhất trong quân nguỵ và trong nguỵ quyền, làm tê liệt hoặc tan rã
bộ phận còn lại, làm mất nguồn bổ sung của quân nguỵ, khiến cho
quân nguỵ không làm được nhiệm vụ cho chiến lược “quét và giữ”,
không thể nào củng cố và thay thế cho quân Mỹ, đánh cho quân
nguỵ phải suy sụp.
- Ra sức xây dựng lực lượng quân sự và lực lượng chính trị
của ta ngày càng lớn mạnh, bố trí trên một thế tấn công chiến lược
ngày càng mạnh. Ta phải đánh bại kế hoạch bình định nông thôn
của địch, phải làm chủ đại bộ phận nông thôn, các địa bàn chiến
lược quan trọng ở vùng rùng núi và trên các tuyến giao thông chiến
lược, nhất là các vùng ven tiếp giáp thành thị và một số phần ở
ngay trong các thành thị, nhất là ở cơ sở.
- Tiếp tục đánh đổ và làm suy yếu nguỵ quyền các cấp, đặc
119
biệt đánh bại kế hoạch bình định của địch, phải quét sạch đại bộ
phận nguỵ quyền và hệ thống kìm kẹp của địch ở cơ sở đồng thời
hoàn thành việc thành lập và ra sức củng cố vững mạnh chính
quyền nhân dân cách mạng các cấp, nhất là ở cơ sở, ra sức phát huy
vai trò của Chính phủ cách mạng lâm thời.
- Trên cơ sở đó, đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ
phải từ bỏ ý đồ kết thúc chiến tranh trên thế mạnh, buộc chúng phải
kết thúc sớm chiến tranh, rút hết quân Mỹ trong điều kiện nguỵ
quân, nguỵ quyền yếu không thể làm được nhiệm vụ theo ý đồ của
Mỹ, buộc chúng phải nhận một giải pháp chính trị, thừa nhận một
Nam Việt Nam độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập với một chính
phủ liên hiệp dân tộc, dân chủ tiến tới thống nhất nước nhà
[36,tr.341-342].
Như vậy, đến đây, mục tiêu giành thắng lợi quyết định đã được Trung
ương Cục điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế đang diễn ra trên
chiến trường, trong đó, quan trọng nhất là đánh thật mạnh vào quân Mỹ,
làm cho chúng bị thiệt hại nặng nề khiến chúng không thực hiện được mưu đồ
của mình, đồng thời tiếp tục làm suy yếu nguỵ quân, nguỵ quyền để chúng
không thể thay thế cho quân Mỹ làm nhiệm vụ chính trị và quân sự ở miền
Nam, từ đó mà đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc chúng phải kết thúc
chiến tranh không như chúng mong muốn.
Tuy nhiên, do điều kiện chủ quan và khách quan nên tình hình cách
mạng miền Nam vẫn ở thế hết sức khó khăn và mục tiêu giành thắng lợi quyết
định chưa thực hiện được. Đặc biệt là sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần,
địch đã ra sức đẩy mạnh chiến tranh tâm lý dưới nhiều hình thức hòng gây
hoang mang và làm giảm ý chí chiến đấu của nhân dân ta. Tình thế đó, yêu
cầu Đảng phải xem xét nghiên cứu lại tình hình một cách đầy đủ, chính xác
120
hơn. Tháng 1-1970, BCH Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 18, đánh
giá sự phát triển của cục hiện chiến tranh từ sau năm 1968 đến nay, trên cơ sở
đó đề ra nhiệm vụ công tác lớn để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi quyết
định.
Hội nghị đã khẳng định thắng lợi của ta trong hai năm 1968-1969 là
thắng lợi to lớn, toàn diện chưa từng có về chiến lược, “ta đã tạo ta và củng
cố vững chắc những điều kiện thuận lợi về mọi mặt để đưa cuộc kháng chiến
tiếp tục tiến lên bước mới rất cơ bản, giành thắng lợi quyết định”[36, tr.33].
Nhưng chúng ta cũng mắc phải những khuyết điểm, nhược điểm làm cho tình
hình trở nên phức tạp. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những khuyết điểm đó
là: Thứ nhất, “chưa nắm thật vững quy luật giành thắng lợi trong giai đoạn
mới cũng phải trải qua từng bước mới tiến lên giành được thắng lợi quyết
định”[36, tr.40]; thứ hai, chưa đánh giá thật đầy đủ âm mưu và thủ đoạn mới
của địch; thứ ba, chậm tìm ra giải pháp đối phó kịp thời.
Nhận định về âm mưu và chủ trương chiến lược của địch trong thời
gian tới, Hội nghị đã chỉ ra rằng: Mỹ tiếp tục rút quân viễn chinh ra khỏi
miền Nam nhưng vẫn ra sức thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá” nhằm
tạo một thế mạnh trong quá trình xuống thang chiến tranh đồng thời vẫn
cố duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam. Để thực hiện âm mưu đó,
địch sẽ tiếp tục thực hiện chiến lược “quét và giữ”, lấy bình định là biện pháp
chiến lược hàng đầu, và âm mưu mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, Lào,
Camphuchia hong giành thắng lợi về mặt quân sự, tạo lợi thế trên bàn hội
nghị.
Từ nhận định trên, BCH Trung ương Đảng đã xác định nhiệm vụ trước
mắt của cách mạng miền Nam là:
Kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, tiếp tục phát triển
chiến lược tiến công một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ, đẩy
121
mạnh tiến công quân sự và tiến công chính trị, kết hợp với tiến công
ngoại giao, vừa tiến công địch vừa ra sức xây dựng lực lượng quân
sự và chính trị của ta ngày càng lớn mạnh; đánh bại âm mưu Việt
Nam hoá chiến tranh của đế quốc Mỹ, đánh bại âm mưu của chúng
xuống thang từng bước, kéo dài chiến tranh để tạo thế mạnh hòng
duy trì chủ nghĩa thực dân kiểu mới của chúng ở miền Nam nước
ta; làm thất bại chiến lược phòng ngự của địch, tạo nên chuyển
biến mới trong cục diện chiến tranh, giành thắng lợi từng bước đi
đến giành thắng lợi quyết định, đánh cho Mỹ phải rút hết quân,
đánh cho nguỵ phải suy sụp, tạo điều kiện cơ bản để thực hiện một
miền Nam độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập, tiến tới thống nhất
nước nhà [37, tr.56-57].
Nội dung của thắng lợi quyết định trong giai đoạn này được Trung
ương Đảng xác định là: Mỹ phải rút hết quân khỏi miền Nam và lực lượng
quân sự, chính trị của ta phải mạnh hơn lực lượng còn lại của nguỵ quân,
nguỵ quyền lúc đó đang trên đà suy sụp. Lực lượng cách mạng phải làm
chủ phần lớn vùng nông thôn, các vùng chiến lược quan trong, làm chủ
một phần thành thị, chủ yếu ở cơ sở, tiến lên thực hiện những mục tiêu
trước mắt đề ra cho cách mạng miền Nam.
Quán triệt tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương Cục lần thứ 9 (7-
1969), Hội nghi tiêp tục khẳng định mục tiêu cụ thể để giành thắng lợi quyết
định là: Đối với quân Mỹ, ta phải đánh thật mạnh, thật đau, tiêu diệt thật
nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của chúng, đánh cho chúng phải
rút hết quân khỏi miền Nam; Đối với nguỵ quân và nguỵ quyền, ta phải đánh
thật mạnh tiêu diệt, làm tan ra quân nguỵ, đánh đổ và làm suy yếu nguỵ quyền
các cấp.; Đánh bại kế hoạch bình định của địch để giành dân, giành quyền
làm chủ; Ra sức xây dựng lực lượng quân sự và chính trị của ta ngày càng
122
lớn mạnh; Trên cơ sở đó đánh bại chiến lược phòng ngự của địch, đánh bại ý
đồ Việt Nam hoá chiến tranh của Mỹ và tay sai do đó mà đập tan ý chí xâm
lược của Mỹ.
Như vậy, việc xác định nội dung, mục tiêu cụ thể để giành thắng lợi
quyết định có sự điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế, đó là “giành
một bước thắng lợi căn bản trong tình hình cụ thể nhất định của chiến tranh.
Điều đó rõ ràng có khác với giành thắng lợi hoàn toàn trong bất cứ tình
huống nào”[19, tr.111]. Vấn đề giành thắng lợi quyết định đã được nhận
thức một cách đúng đắn hơn. Trước kia, ta cũng đã đưa ra nội dung, mục tiêu
giành thắng lợi quyết định, nhất là trong Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968,
nhưng khi đó ta đưa ra mục tiêu quá cao được hiểu gần như giành thắng lợi
hoàn toàn tức là phải giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân trong điều
kiện địch còn rất mạnh. Với việc “đặt yêu cầu giành một bước thắng lợi căn
bản trong tình hình cụ thể nhất định của chiến tranh, Đảng đã nhận thức rõ
ràng, đầy đủ hơn quy luật chiến tranh cách mạng ở nước ta, một nước nhỏ
chống lại một nước đầu sỏ”[75, tr.56].
Hội nghị lần thứ 18 BCH Trung ương Đảng đã xác định: quá trình
giành thắng lợi quyết định với nội dung và mục tiêu chiến lược trên phải trải
qua 3 bước:
Bước 1: Buộc địch phải đi vào chiến lược phòng ngự ở miền
Nam, chấm dứt hoàn toàn chiến tranh phá hoại miền Bắc, phải ngồi
lại trong Hội nghị bốn bên ở Pari để tìm một giải pháp chính trị cho
cuộc chiến tranh.
Bước 2: Tiếp tục kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến,
đánh bại âm mưu xuống thang từng bước và Việt Nam hoá chiến
tranh của địch, buộc chúng phải nhận một giải pháp chính trị theo
123
những điều kiện có lợi cho ta.
Bước ba: Khi bước 2 hoàn thành, tiếp tục đấu tranh đòi Mỹ
phải thi hành hiệp nghị, thực hiện rút quân đội của chúng khỏi miền
Nam, đồng thời phải tiếp tục làm cho nguỵ quân, nguỵ quyền ngày
càng suy sụp, làm cho thực lực của ta ngày càng mạnh lên [37,tr.59-
60].
Hội nghị lần thứ 18 cũng nhấn mạnh rằng: mỗi bước tiến của giai đoạn
mới nói trên đều có đặc điểm cụ thể, có nhiệm vụ cụ thể khác nhau, ta cần
nắm vững và có dự kiến đầy đủ để chủ động đưa cuộc kháng chiến tiến lên.
Đương nhiên trong sự diễn biến phức tạp của chiến tranh, không thể quy định
ranh giới dứt khoát cho từng bước.
Như vậy, tại Hội nghị này, BCH Trung ương Đảng đã vạch ra bước đi,
lộ trình rõ ràng để giành thắng lợi quyết định với những mục tiêu cụ thể cho
từng giai đoạn nhất định của cách mạng Việt Nam. Đồng chí Lê Duẩn, trong
tác phẩm Dưới là cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội,
tiến lên giành những thắng lợi mới, đã chỉ ra ý nghĩa phù hợp của chủ trương
chỉ đạo trong những thời gian nhất định “Một phương thức nào đó thích hợp ở
nước này lại có thể không dùng được ở nước khác; đúng thời kỳ này, hoàn
cảnh này, song sẽ là sai nếu áp dụng máy móc vào thời kỳ khác, hoàn cảnh
khác. Tất cả vấn đề này tuỳ thuộc ở những điều kiện lịch sử cụ thể”[18,
tr.440]
Hội nghị lần thứ 18 BCH Trung ương Đảng đánh dấu một bước chuyển
quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về giành thắng lợi quyết định. Trên
cơ sở phân tích, nhận định, đánh giá đầy đủ, chính xác hơn âm mưu thủ đoạn
mới của địch, Đảng đã đề ra được chủ trương mới nhằm đánh bại chiến lược
“Việt Nam hóa chiến tranh” giành thắng lợi quyết định cho cách mạng miền
Nam, tiến lên thống nhất nước nhà.
124
Đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh sang Lào và Campuchia
Nhận thấy tình hình ở miền Nam hết sức khó khăn, nhằm tạo ra điều
kiện mới cho việc kết thúc chiến tranh ở Việt Nam trên thế mạnh, Mỹ đã mở
rộng chiến tranh sang Lào và Campuchia hòng chia rẽ sự đoàn kết của ba
nước Đông Dương.
Cuối năm 1969 đầu năm 1970, Mỹ đã mở rộng chiến tranh sang Lào.
Chúng đã huy động cả quân nguỵ Lào và quân đánh thuê Thái Lan, với sự
yểm trợ của không quân Mỹ, mở cuộc hành quân lớn tiến công các lực lượng
cách mạng Lào. Từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1969, chúng mở liên tiếp ba
cuộc hành quân đánh chiếm thị xã Xiêm Khoảng và vùng xung quanh cánh
Đồng Chum. Quân dân Lào đã đánh bại cuộc hành quân trên, phối hợp với
cách mạng Việt Nam phá tan âm mưu của Mỹ định làm phân tán quân chủ lực
Việt Nam.
ở Campuchia, tháng 3 năm 1970, đế quốc Mỹ điều khiển bọn tay sai
làm đảo chính lật đổ Chính phủ Vương quốc đoàn kết dân tộc. Tháng 4 năm
1970 huy động 10 vạn quân Mỹ và quân nguỵ Sài Gòn đánh sang Campuchia
nhằm cắt đứt đường tiếp tế và xoá bỏ những căn cứ quan trọng của ta ở biên
giói Việt Nam - Campuchia. Tổng thống Mỹ Nichxơn công khai tuyên bố
rằng Mỹ tiến công vào Campuchia không phải mục đích mở rộng chiến tranh
mà là hành động cần thiết để chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.
Mỹ tính toán sau khi mở rộng chiến tranh sang Lào, Campuchia, củng
cố các lực lượng phản động thân Mỹ ở đây sẽ có điều kiện thuận lợi tiếp tục
thực hiện chương trình bình định ở Việt Nam, củng cố vùng đã kiểm soát,
chiếm lại các vùng đã mất.
Được sự giúp đỡ và phối hợp của quân ta, nhân dân Campuchia phản
công địch giành thắng lợi lớn, đưa cách mạng Campuchia phát triển nhảy vọt,
125
giải phóng 4,5 triệu dân.
Ngày 24-10-1970, Hội nghị cấp cao nhân dân Đông Dương họp thống
nhất những vấn đề có tính nguyên tắc trong quan hệ ba nước và ra lời kêu gọi
nhân dân ba nước tăng cường đoàn kết quyết tâm đánh thắng đế quốc Mỹ và
tay sai. Hội nghị này đã đánh dấu sự thất bại trong âm mưu chia rẽ ba nước
Đông Dương của đế quốc Mỹ.
Ngày 2-2-1971, Mỹ thông qua kế hoạch tiến hành ba cuộc hành quân là
“Lam sơn 719”, “Toàn thắng 1/71” và “Quang Trung 4” thực hiện cùng một
lúc trên ba vùng chiến lược.
Nắm bắt được tình hình và thấy được ý nghĩa quyết định của trận đánh
này, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 52/QĐ-CP, thành lập Mặt trận Đường
9-Nam Lào với mật danh “Mặt trận 702”.
Quân dân Việt-Lào đã phối hợp với nhau, chống trả quyết liệt và giáng
cho địch những đòn khủng khiếp. Sau 43 ngày đêm chiến đấu, ta đã đập tan
cuộc hành quân của chúng, diệt ba trung đoàn và 5 tiểu đoàn bộ binh, 4 trung
đoàn và 2 chi đoàn thiết giáp, 8 tiểu đoàn pháo, 22.400 tên địch chết và bị
thương. Ta thu và phá 1.320 xe tăng, xe quân sự, 700 máy bay...[83, tr.172].
Với chiến thắng này, chúng ta đã đánh bại âm mưu cắt đôi Đông Dương, cô
lập cách mạng miền Nam của My-nguỵ, đánh bại một bước chiến lược “Việt
Nam hoá chiến tranh” của Mỹ.
Trên chiến trường Campuchia, địch mở cuộc hành quân “Toàn thắng
1/71” từ ngày 4-2-1971. Ngay khi cuộc hành quân bắt đầu, các đơn vị quân
chủ lực giải phóng miền Nam phối hợp với các lực lượng vũ trang Campuchia
đã chặn đứng từng đợt tiến công của địch, tiêu diệt nhiều sinh lực, buộc chúng
phải chấm dứt tiến công. Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 27.000 quân, bắt
sống hơn 700 quân, phá hỏng 1.500 xe quân sự, bắn rơi và phá huỷ 270 máy
126
bay, thu 1.800 súng các loại.
Cùng với cuộc hành quân “Lam Sơn 719” và “Toàn thắng 1/71”, ở
hướng Tây Nguyên, địch mở cuộc hành quân “Quang Trung 4” đánh ra ba
vùng biên giới. Ta phối hợp với quân dân Campuchia đánh thắng cuộc hành
quân này và chiếm đánh khu vực điểm cao Ngọc Rinh Rua - vị trí quan trọng
trong tuyến phòng ngụ cơ bản của địch. Bị tổn thất nặng nề, địch buộc phải co
cụm lại giữ tuyến phòng thủ, cuộc hành quân “Quang Trung 4” thất bại hoàn
toàn.
Chiến thắng của quân và dân ba nước Đông Dương đã góp phần làm
thay đổi cục diện chiến trường có lợi cho cách mạng miền Nam, tạo thế và lực
mới thúc đẩy sự nghiệp cách mạng đi đến thành công. Đó là điều kiện, cơ sở
cho quyết tâm của Đảng ta đánh bại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”
của Mỹ, giành thắng lợi quyết định cho cách mạng miền Nam.
Đảng chủ động mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972 ở miền Nam
nhằm giành thắng lợi quyết định.
Sau hai năm tiến hành chiến đấu trên các chiến trường (1970-1971),
quân dân ta đã giành được những kết quả to lớn nhưng ta vẫn chưa tạo được
một chuyển biến có ý nghĩa chiến lược, chưa tạo đựơc thế uy hiếp mạnh, trực
tiếp ở đồng bằng và thành phố. Vì vậy, “Nhiệm vụ chiến lược mới to lớn,
nặng nề hơn đang đặt ra trước mắt quân và dân ta trên chiến trường là cần tập
trung nỗ lực hơn nữa, đẩy mạnh thế chiến lược tiến công trên chiến trường
miền Nam Việt Nam, tiến lên giành cho được thắng lợi quyết định làm thay
đổi cục diện cuộc kháng chiến trong năm 1972”[23, tr.20].
Để thúc đẩy tình thế cách mạng phát triển, tháng 5-1971, Bộ Chính trị
đề ra nhiệm vụ phải kịp thời nắm lấy thời cơ để phát triển chiến lược tiến
công mới trên toàn chiến trường miền Nam và Đông Dương, đánh bại chiến
127
lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ, giành thắng lợi quyết định trong
năm 1972, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng theo
những điều kiện có lợi cho ta.
Trên cơ sở chủ trương của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương nhấn
mạnh: Ta phải kịp thời nắm lấy thời cơ, hành động bất ngờ, giành lấy những
thắng lợi cao nhất, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh, rút hết quân về nước,
đánh cho nguỵ quân, nguỵ quyền tan rã, sụp đổ một bước nghiêm trọng. Quân
uỷ Trung ương đã xác định đẩy mạnh tiến công quân sự và chính trị trên khắp
các chiến trường miền Nam trong đó tập trung vào ba hướng chiến lược: Trị
Thiên, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.
Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, từ cuối
năm 1971, công tác chuẩn bị chiến trường, chuẩn bị vật chất cho cuộc tổng
tiến công chiến lược được khẩn trương tiến hành. Chỉ trong 3 tháng đầu năm
1972, Đoàn 559 đã hoàn thành chỉ tiêu vận chuyển cả năm, cùng với khối
lượng vật chất to lớn được chuyển vào miền Nam, quân bổ sung cho các mặt
trận cũng được tăng cường và 55.000 cán bộ chiến sĩ quân đội đã nhận lệnh
vượt Trường Sơn vào miền Nam.
Trong lúc chúng ta đang gấp rút chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược
năm 1972 thì địch vẫn chủ quan cho rằng: Từ năm 1969 đến nay, các đơn vị
chủ lực của ta đã rút ra ngoài biên giới, không yểm trợ cho hạ tầng cơ sở được
và cơ sở hạ tầng của ta vẫn chưa được phục hồi. Chúng cho rằng ta ở thế bị
động chiến lược, chiến thuật và đang thiếu thốn trầm trọng, nhất là đạn dược
và tinh thần cán binh giảm sút... cho nên mức độ hoạt động của ta chi tương
tự như 6 tháng cuối năm 1971 mà thôi. Địch tin rằng ta không có khả năng
đánh lớn vào các tuyến phòng ngự của chúng để chọc vào các đô thị và vùng
đông dân, mà chỉ mở hoạt động vừa trên hướng Tây Nguyên và đánh phá bình
128
định ở đồng bằng.
Nhân lúc địch chủ quan, sơ hở, 11 giờ ngày 30-3-1972, ta đồng loạt nổ
súng tiến công trên toàn miền Nam. Địch hoàn tàn bất ngờ cả về thời gian,
hướng chủ yếu, quy mô và cường độ cuộc tiến công. Làm cho chúng lúng
túng, bị động điều quân đối phó khắp nơi.
Trên mặt trận Trị - Thiên, từ ngày 30-3 đến 9-4, quân giải phóng tiến
công phá vỡ tuyến phòng thủ ngoài của địch, giải phóng hai huyện Gio Linh
và Cam Lộ, chiếm lĩnh địa bàn phía Bắc và phía Tây Quảng Trị.
Tại mặt trận Tây Nguyên, ta tiến công vào tuyến phòng thủ tây sông Pô
Cô của địch, cô lập địch ở Đắc Tô, Tân Cảnh.
ở Đông Nam Bộ, ta tiến hành chiến dịch Nguyễn Huệ tiến công phá vỡ
tuyến phòng ngự biên giới, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, bắn rơivà phá hủ
nhiều máy bay, trang thiết bị của địch, giải phóng ba huyện Lộc Ninh, Bù
Đốp, Thiện Ngôn, trực tiếp uy hiếp Sài Gòn từ phía tây bắc.
Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược năm 1972 đã đánh dấu một
bước trưởng thành có tính chất bước ngoặt về mọi mặt của quân đội ta. Chúng
ta đã giành được thắng lợi to lớn, đập tan tuyến vòng ngoài của địch ở đường
9 Quảng Trị, Bắc Tây Nguyên, Đông Nam bộ, tiêu diệt và làm tan rã số lượng
lớn quân địch, giải phóng địa bàn rộng lớn, tạo thế uy hiếp địch và đe doạ trực
tiếp sự phá sản của chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”. Thắng lợi này đã
làm thay đổi một phần quan trọng trong so sánh lực lượng có lợi cho ta, đẩy
quân nguỵ vào tình trạng khốn đốn, thế và lực của ta đã mạnh hơn nhiều, tạo
ra những điều kiện thuận lợi để giành thắng lợi quyết định.
Đánh thắng cuộc tập kích chiến lược miền Bắc bằng B52 của Mỹ đi
đến ký kết Hiệp định Pari, ta giành thắng lợi quyết định.
Để cứu vãn tình thế, ngày 6-4, Nichxơn đã dùng không quân và hải
quân ồ ạt trở lại tham chiến ở miền Nam và đánh phá ác liệt miền Bắc. Với
129
hành động này, chủ trương của Mỹ đã vượt ra ngoài khuôn khổ “Việt Nam
hoá chiến tranh”. Như đồng chí Lê Duẩn đã nhận định chúng đã “Mỹ hoá”
chiến tranh bằng một hình thức khác là sử dụng những thủ đoạn ngoại giao
quỷ quyệt hòng tập trung mũi nhọn về phía nhân dân ta, “giúp cho Nichxơn
thực hiện chót lọt chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” để cho Mỹ rút ra
khỏi Việt Nam mà vẫn duy trì được chủ nghĩa thực dân mới dưới một hình
thức khác trên cả ba nước Đông Dương”[39, tr.366].
Khác với cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, cuộc chiến tranh phá
hoại lần thứ hai được thực hiện một cách nhanh chóng, đánh phá ồ ạt với
cường độ cao ngay từ đầu ở cả hai miền. Mỹ coi đây là một biện pháp quyết
định để cứu vãn sự sụp đổ của chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”. Mỹ đã
huy động tới 40% lực lượng không quân, 45% số B52 của Mỹ, 3/4 số tàu của
Hạm đội 7. Như vậy, lực lượng của Mỹ tập trung vào trận quyết chiến này là
rất lớn.
Ngày 9-4, Níchxơn hạ lệnh phong toả các cảng biển của MBVN, tăng
cường ném bom vào hệ thống đường giao thông và các cơ sở kinh tế quốc
phòng miền Bắc.
Ngày 16-6, Níchxơn quyết định thực hiện kế hoạch dùng B52 đánh phá
ác liệt Hà Nội, Hải Phòng và các thành phố, thị xã khác ở miền Bắc.
Với phương tiện và kỹ thuật hiện đại cùng với những thủ đoạn đánh
phá tinh vi, trong một thời gian ngắn đế quốc Mỹ đã gây cho ta những thiết
hại nặng nề, nhiều phương tiện chiến tranh bị phá hủy, hàng ngàn dân thường
bị giết hại.
Từ kinh nghiệm có được trong chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất,
Hội nghị Bộ chính trị ngày 1-6-1972, đã chủ trương lãnh đạo quân và dân
miền Bắc chuyển mọi hoạt động vào thời chiến, tổ chức phân tán, sơ tán khỏi
các mục tiêu trọng điểm, tránh tổn thất. Các lực lượng vũ trang kiên quyết
130
đánh trả lực lượng không quân, hải quân của địch.
Sau sáu tháng chiến đấu gian khổ từ ngày 9-5 đến ngày 22-10, ta bắn
rơi 561 máy bay, bắn chìm 60 tàu chiến, bắt sống nhiều giặc lái Mỹ. Kết quả
đó buộc Nichxơn phải ra lệnh ngừng ném bom và bắn phá từ bắc vĩ tuyễn 20
trở ra vào ngày 22-10-1972.
Tuy vậy, Đảng ta cũng đã sớm nhận định nhiều khả năng Mỹ sẽ tiếp tục
đánh phá miền Bắc trở lại, vì thế quân và dân ta phải luôn nâng cao cảnh giác,
sẵn sàng chiến đấu đối phó với âm mưu của địch.
Cũng trong thời điểm này, cuộc đấu tranh trên bàn hội nghị của chúng
ta diễn ra rất căng thẳng, cả ta và Mỹ đều giữ những nguyên tắc của mình.
Năm 1972 được coi là năm có vị trí quyết định cho cuộc chiến tranh. Tuy
nhiên, cả hai bên vẫn chưa thực sự đi vào đàm phán.
Ngày 4-10, Đảng và Nhà nước chỉ thị cho đoàn đàm phán của ta:
Cần tranh thủ khả năng chấm dứt chiến tranh trước bầu cử
Tổng thống Mỹ đánh bại âm mưu của Mỹ, kéo dài đàm phán để
vượt qua bầu cử. Ta cần ép Mỹ ký Hiệp định chính thức... Muốn
vậy ta cần chủ động về yêu cầu giải pháp, nội dung hiệp định, thời
điểm, cách đàm phán, cách ký, cách đấu tranh trong cuộc gặp mấy
ngày tới [59, tr99].
Thực hiện chủ trương đó, đoàn đại biểu của ta chỉ tập trung đòi Mỹ rút
hết quân ra khỏi miền Nam, chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc chứ
không đòi hỏi phải giải quyết mọi việc ngay một lúc, có nghĩa là ta tạm gác
khẩu hiệu đánh đổ chính quyền Sài Gòn, chỉ chủ trương lập chính quyền hoà
hợp ba thành phần. Những nội dung đấu tranh này thể hiện tư tưởng giành
thắng lợi quyết định nhằm mục tiêu trước mặt là “đánh cho Mỹ cút”, tạo
điều kiện tiến lên “đánh cho nguỵ nhào”.
Ngày 8-10, trong cuộc gặp riêng, ta đã đưa ra bản dự thảo “Hiệp định
131
về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam”. Bản dự thảo này gồm
10 chương, theo đó ta sẽ giải quyết vấn đề Việt Nam theo hai bước: Trước
tiên, ta và Mỹ sẽ ký hiệp định chấm dứt chiến tranh trên toàn cõi Việt Nam,
chấm dứt mọi sự dính líu quân sự của Mỹ, rút hết quân Mỹ và chư hầu ra khỏi
miền Nam... công nhận quyền tự quyết của nhân dân miền Nam và những
nguyên tắc lớn về giải pháp chính trị; Tiếp theo, hai bên chính quyền ở
MNVN giải quyết vấn đề nội bộ với nhau.
Phía Mỹ thừa nhận văn bản dự thảo hiệp định của ta là quan trọng và
rất cơ bản, phù hợp với yêu cầu của minh. Hai bên đã thoả và nhất trí sẽ ký
chính thức vào 31-10-1972, nhưng sau đó Mỹ đòi hoãn ngày ký để thảo luận
thêm do Nguyễn Văn Thiệu phản đối nhưng thực chất là để thực hiện mưu đồ
lật lọng xảo quyệt của mình. Mỹ đòi thay đổi một số điều kiện quan trọng,
trong đó yêu cầu quân đội miền Bắc phải ra khỏi miền Nam. Mỹ muốn hoãn
lại để kéo dài thời gian vượt qua cuộc bầu cử Tổng thống sau đó sẽ sử dụng
không quân tập kích chiến lược làm ta suy yếu đồng thời tăng cương viện trợ
cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu giúp nó mạnh lên có thể đứng vững sau
khi ký hiệp định. Nhưng sự hoãn lại này đã không đem lại kết quả như mong
muốn của Mỹ. Sau này, Kitxingiơ cho rằng Mỹ từ chối không ký văn bản là
“tự bác bỏ những đề nghị của chính mình”[17, tr.123] và “sẽ làm cho không
thể nào giành được những điều kiện tốt hơn hoặc thậm chí ngang bằng về
sau”[17, tr.123].
Trước thái độ dây dưa, lật lọng của Mỹ ở Hội nghị Pari, Đảng ta nhận
định nhiều khả năng Mỹ trở lại đánh phá miền Bắc ác liệc hơn kể cả dùng
B52 đánh ồ ạt vào Hà Nội, Hải Phòng và chỉ thị cho các đơn vị chuẩn bị kỹ
càng để ứng phó với tình hình có thể diễn ra. Ngay từ tháng 9-1967, trong bài
nói chuyện với cán bộ phòng không - không quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Sớm muộn, đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra đánh phá Hà Nội
132
rồi có thua nó mới chịu thua. Phải dự kiến trước tình hình này càng sớm càng
tốt, để có thời gian suy nghĩ chuẩn bị và chúng chỉ chịu thua sau khi thua trên
bầu trời Hà Nội”[94, tr.2].
Công việc chuẩn bị cho cuộc đấu tranh ác liệt này cũng nhanh chóng
được triển khai.
Đúng như dự kiến, sau khi tái đắc cử Tổng thống (8-11-1972), Nichxơn
đã trở giọng đe doạ, phá ngang cuộc đàm phán làm cho cuộc đàm phán ở Pari
đi vào bế tắc. Ngày 14-12, Nich xơn chính thức phê chuẩn kế hoạch
Lainơbếchcơ II (Linebacker II), mở cuộc tập kích chiến lược bằng không
quân, hải quân vào Hải Phòng, Hà Nội. Mỹ đã huy động 193 máy bay B52,
999 máy bay chiến thuật nhằm huỷ diệt kinh tế, quốc phòng của ta buộc ta
phải trở lại bàn đàm phán theo các yêu cầu của Mỹ.
Dưới sự chỉ đạo của Đảng và quyết tâm đánh thắng chiến lược của Mỹ,
các lực lượng phòng không - không quân đã chuẩn bị sẵn sàng đón đánh B52
trước khi nó xuất hiện 3 ngày.
Ngay ngày chiến đấu đầu tiên (đêm ngày 18 rạng ngày 19 -12), miền
Bắc đã bắn rơi 7 máy bay,trong đó có 3 chiếc B52, 1 chiếc F111. Chiến công
này đã cổ vũ mạnh mẽ cho quân dân cả nước đứng lên đánh giặc.
Trong 12 ngày đêm, Mỹ đã sử dụng 729 lần chiếc B52, 3.884 lần máy
bay chiến thuật rải xuống Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương khác khối
lượng bom đạn gần 35.000 tấn chất nổ. Riêng Hà Nội, địch đã tập trung tới
444 lần máy bay B52, chiếm 66%, hơn 1000 lần máy bay cường kích, chiếm
27%. Hành động tàn bạo của địch đã gây tổn thất cho ta: 2.368 người chết,
3.526 người bị thương. Trận ném bom ngày lề Giáng sinh (ngày26-12) làm
hàng trăm người chết, hàng ngàn người bị thương, hơn 2000 ngôi nhà dãy phố
Khâm Thiên bị đánh sập, 300 người bị giết hại [75, tr.90]. Trận ném bom này
đã khiến cho lương tâm của cả loài người nổi giận, phong trào phản đối chiến
133
tranh nổ ra mạnh mẽ trên khắp thế giới và ngay trong lòng nước Mỹ.
Trong 12 ngày đêm chiến đấu oanh liệt, quân dân ta đã bắn rơi 81 máy
bay, trong đó có 34 máy bay B52, 5 F111, bắt sống 43 phi công, bắn cháy 8
tàu chiến Mỹ, làm thất bại nỗ lực chiến tranh cao nhất và cuối cùng của đế
quốc Mỹ. Đây là một tổn thất quá lớn mà Mỹ không lường trước được khi
liều lĩnh thực hiện cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc nước ta. Nichxơn
không thể tiếp tục dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc được
nữa, buộc phải xuống thang trở lại bàn đàm phán trên thế yếu và bị cô lập.
Theo G. Amtơ, “cố gắng cuối cùng của Nichxơn chẳng đem lại được gì cho
nước Mỹ cả... Bởi vì cuộc ném bom đã buộc cả Nichxơn và Kitxinhgiơ phải
chấp nhận chính những điều mà họ đã bác bỏ suốt tháng 10, tháng 11 và
tháng 12”[1, tr.426]
Thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh
phá hoại miền Bắc của Mỹ là một trong những nhân tố hết sức quan trọng góp
phần tạo nên thắng lợi quyết định cho cách mạng Việt Nam.
Trên bàn Hội nghị, mặc dù có lợi thế hơn nhưng chúng ta vẫn giữ
nguyên nội dung cơ bản của bản Dự thảo đã được thoả thuận vào tháng 10-
1972, để Mỹ có thể chấp nhận được.
Ngày 15-1-1973, Chính phủ Mỹ tuyên bố chấm dứt ném bom bắn phá
MBVN.
Đến ngày 27-1-1973, trên cơ sở những thắng lợi quân sự của ta trong
cuộc tiến công chiến lược năm 1972 ở miền Nam và chiến thắng vang dội đập
tan chiến dịch tập kích bằng không quân của Mỹ ở miền Bắc, “Hiệp định về
chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam” được ký kết và chính thức
có hiệu lực từ 8 giờ ngày 28-1-1973.
Theo Hiệp định này, Mỹ cam kết:
- Tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của
134
Việt Nam.
- Rút hết quân Mỹ và chư hầu ra khỏi MNVN, phá hết các căn cứ quân
sự của Mỹ ở miền Nam, không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào
công việc nội bộ của MNVN.
- Công nhận trên thực tế miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội,
hai vùng kiểm soát và 3 lực lượng chính trị.
Hiệp định quy định trong vòng 60 ngày, Mỹ phải rút hết vũ khí, nhân
viên quân sự và tháo gỡ các căn cứ quân sự tại MNVN.
Hiệp định Pari được ký kết là một thắng lợi to lớn của nhân dân ta. Đây
chính là thắng lợi quyết định mà ta đã giành được trong suốt thời gian dài
chiến đấu gian khổ. Hoàn thành được mục tiêu mà Đảng đã đề ra khi chỉ đạo
giành thắng lợi quyết định là Mỹ phải rút khỏi miền Nam. Đồng chí Lê Duẩn
cũng đánh giá: “Đối với ta, điều quan trọng của Hiệp định Pari không phải là
ở chỗ thừa nhận hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát, tiến tới
thành lập chính phủ ba thành phần mà mấu chốt là ở chỗ là quân Mỹ phải ra,
còn quân ta thì ở lại”[19, tr.359]. Thắng lợi này khẳng định hơn nữa vai trò
lãnh đạo to lớn của Đảng và chứng minh tư tưởng chỉ đạo giành thắng lợi
quyết định là hoàn toàn đúng đắn gắn với đặc điểm của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam là lấy yếu đánh mạnh. Nó là cơ
sở, là điều kiện để quân và dân ta tiến lên đánh đổ nguỵ quân, nguỵ quyền
thực hiện mục tiêu cuối cùng là giành thắng lợi hoàn toàn.
Thắng lợi quyết định này đã góp phần “mở đường cho thắng lợi hoàn
toàn. Bởi việc Hoa kỳ cam kết chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam thì việc giải
phóng hoàn toàn miền Nam là xu thế không thể đảo ngược”[7, tr.271]. Chính
nó là tiền đề, tạo ra sự thay đổi về so sánh lực lượng có lợi cho ta, tạo nên thế
tiến công chẻ tre “một ngày bằng hai mươi năm”, lấy mạnh đánh yếu, tiêu diệt
tận gốc nguỵ quân, nguỵ quyền, giành thắng lợi cuối cùng, hoàn thành cuộc
135
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam.
Trên thế và lực mới do thắng lợi quyết định tạo ra, Đảng ta đã chớp
thời cơ, lãnh đạo nhân dân tiến hành chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (1975),
giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Chiến thắng năm 1973
chỉ được coi là thắng lợi quyết định khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của nhân dân ta sau đó đi đến thắng lợi cuối cùng. Nếu như sau đó,
Đảng ta không nắm bắt được thời cơ, không kiên quyết tiến lên đấu tranh,
giành thắng lợi hoàn toàn, giải quyết dứt điểm vấn đề miền Nam thì thắng lợi
của Hiệp định Pari (1973) sẽ không mang tính chất quyết định. Chính vì vậy,
Tổng tiến công và nổi dậy Mùa xuân năm 1975 thành công, đã quy định tính
chất quyết định của thắng lợi mà quân và dân ta đạt được trong suốt quá trình
đấu tranh, gian khổ nhằm mục đích đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ,
buộc chúng phải rút quân khỏi MNVN.
Tóm lại, trải qua một quá trình đấu tranh lâu dài, dưới sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng, chủ trương chỉ đạo giành thắng lợi quyết định đã đạt được kết
quả như mong muốn. Nhìn lại toàn bộ quá trình Đảng chỉ đạo giành thắng lợi
quyết định cho cách mạng miền Nam, ta thấy:
Đảng đã đề ra chủ trương giành thắng lợi quyết định là do đặc thù của
cuộc chiến tranh ở Việt Nam quy định. Việt Nam - một nước nông nghiệp
vốn nghèo nàn, lạc hậu lại chịu tổn thất nặng nề trong cuộc kháng chiến
chống Pháp - phải đương đầu với Mỹ - một kẻ thù nguy hiểm và mạnh nhất
mọi thời đại, có tiềm lực kinh tế, quân sự to lớn, lại có chiến lược toàn cầu
trong tay. Chính xuất phát từ sự chênh lệch trong tương quan so sánh lực
lượng mà Đảng đề ra mục tiêu để giành thắng lợi quyết định là đánh bại ý chí
xâm lược của Mỹ buộc chúng phải chấm dứt chiến tranh, rút quân khỏi miền
136
Nam tạo điều kiện tiến lên thống nhất nước nhà.
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã ba lần
dự tính tổ chức các đòn chiến lược để giành thắng lợi quyết định:
- Năm 1964, định lật đổ chế độ Sài Gòn, giải quyết dứt điểm vấn đề
miền Nam trước khi Mỹ kịp nhảy vào.
- Năm 1968, chủ động tổ chức cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu
Thân, đánh đổ quân nguỵ, tiêu diệt quân Mỹ.
- Năm 1972, định đánh bại Mỹ và tiêu hao quân nguỵ với đòn tổng tiến
công xuân - hè 1972.
Nhưng, phải đến khi ký Hiệp định Pari - là sự tổng hoà thắng lợi quân
sự, chính trị, ngoại giao, chúng ta mới giành được thắng lợi quyết định, buộc
Mỹ chấm dứt chiến tranh, rút hết quân, tạo ra cục diện mới để đi tới toàn
thắng mùa xuân 1975. Thắng lợi đó có ý nghĩa quyết định chiều hướng và kết
cục của chiến tranh. Do đó, phương thức giành thắng lợi quyết định phải là
kết hợp chiến trường với ngoại giao chứ không phải chỉ bằng tổng tấn công
quân sự như tính toán ban đầu.
Mục tiêu đấu tranh giành thắng lợi quyết định được đề ra phải dựa trên
cơ sở đánh giá chính xác âm mưu, thủ đoạn và những mặt mạnh yếu của ta và
kẻ thù, từ đó mới có biện pháp đấu tranh thích hợp. Chủ trương chỉ đạo giành
thắng lợi quyết định của Đảng đã được đề ra từ Hội nghị BCH Trung ương
Đảng lần thứ 9 (1963), nhưng đến mãi năm 1973, chủ trương trên mới thành
hiện thực. Xem xét vấn đề này, chúng ta thấy ở thời kỳ trước đó, về khách
quan, lực lượng quân Mỹ còn quá mạnh, trong khi đó ta lại chưa tạo ra được
lợi thế trong tương quan so sánh lực lượng (phải sau tổng tiến công xuân - hè
1972 mới có so sánh lực lượng và thế trận thuận lợi để có thời cơ kết thúc
chiến tranh); về chủ quan, cũng phải nhận thấy rằng, trong chỉ đạo, có những
lúc ta xác định mục tiêu và nhiệm vụ đấu tranh quá cao, không dự tính hết khả
137
năng của mình cũng như của kẻ thù, nên không thực hiện được ý đồ chiến
lược. Vì thế mà mục tiêu giành thắng lợi quyết định trong những năm 1964,
và năm 1968 không thực hiện được. Khi đó, chúng ta đề ra mục tiêu giành
thắng lợi quyết định gần như giành thắng lợi hoàn toàn song lại chưa có
phương châm chiến lược phù hợp. Và chỉ đến giai đoạn đấu tranh chống lại
chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, chúng ta mới khắc phục được những
hạn chế đó, đề ra được mục tiêu, phương hướng cách mạng thích hợp, đem lại
138
thắng lợi quyết định cho cách mạng miền Nam.
Chương 3
Một số vấn đề rút ra từ chỉ đạo và tổ chức
thực hiện giành thắng lợi quyết định của Đảng trong kháng chiến chống
mỹ, cứu nước
3.1. Bám sát thực tiễn cách mạng, đề ra đường lối chiến lược đúng đắn, tổ
chức thực hiện sáng tạo, linh hoạt, hiệu quả cao
Thực tiễn cách mạng Việt Nam rất phong phú, luôn vận động biến đổi
không ngừng. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), thực tiễn
càng có sự biến đổi, diễn biến phức tạp. Sự biến đổi này bao gồm: thực lực
cách mạng MNVN, đội ngũ cán bộ đảng viên, các cơ sở cách mạng; tình hình
địch, âm mưu và thủ đoạn của chúng khi tiến hành các loại chiến lược phản
cách mạng; về những bước leo thang, xuống thang chiến tranh của Đế quốc
Mỹ; thực lực và sức mạnh của miền Bắc XHCN v.v…Đó chưa kể đến tình
hình nước Mỹ, của phe XHCN, của nhân dân yêu hoà bình trên thế giới.
Thực tiễn, vốn là cơ sở chủ yếu nhất của nhận thức con người; là tư liệu
sống, sinh động nhất để hình thành các loại hoạt động tư duy.
Để xây dựng đường lối cách mạng Việt Nam, trong thời kỳ kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, Đảng ta phải thường xuyên nắm bắt tình hình thực tiễn,
tổng kết thực tiễn. “Đường lối chủ trương có rồi, phải có biện pháp thực hiện
cho tốt”[82, tr.137]. Muốn “thực hiện cho tốt” cũng phải căn cứ và tình hình
thực tế, căn cứ vào thực lực của mình.
Trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trước tình hình
thực tế đất nước bị chia cắt thành hai miền, Đảng ta nêu chủ trương “Tiến
hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau - Đó là đặc điểm lớn nhất
và cũng là nét độc đáo của cách mạng nước ta từ tháng 7-1954 đến tháng 5-
139
1975 [42, tr.485].
Thực chất của đường lối dương cao hai ngọn cờ trong thời kỳ này là
đường lối đưa cách mạng Việt Nam đến bến bờ chiến thắng, nhằm hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thống nhất đất nước, đưa
cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Theo quan điểm của Đảng ta, hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau được
tiến hành đồng thời trong cùng một thời gian, về lý luận cũng như về thực tiễn
không mâu thuẫn nhau, mà lại hỗ trợ nhau, cùng nhau phát triển, phản ánh sự
kết hợp biện chứng giữa hai nhiệm vụ khác nhau của cách mạng Việt Nam
thời kỳ này.
Trong khi đề ra chính sách cải tạo XHCN ở miền Bắc, Đảng ta căn cứ
vào tình hình thực tiễn miền Bắc, mà còn căn cứ vào tình hình thực tiễn cách
mạng miền Nam. Cũng như thế, khi đề ra đường lối, phương pháp cách mạng,
Đảng chẳng những căn cứ vào tình hình miền Nam, mà còn căn cứ vào tình
hình miền Bắc và tình hình quốc tế.
Khi đưa ra quyết sách về con đường cách mạng miền Nam, xác định sử
dụng bạo lực cách mạng để giải phóng miền Nam, xây dựng phương châm
tiến công chiến lược của cách mạng miền Nam là Đảng ta dựa trên cơ sở phân
tích, nghiên cứu rất kỹ tình hình ta - địch, quan sát thấu đáo thực tiễn phong
trào để hoạch định đường lối, phương pháp cách mạng. Đúng như V.I.Lênin
đã chỉ ra rằng: Các Đảng Mácxít không gắn chặt phong trào đấu tranh vào
một hình thức nhất định duy nhất nào cả mà “thừa nhận những hình thức đấu
tranh khác nhau, nhất là không “bịa ra” hình thức đấu tranh đó, mà chỉ khái
quát, tổ chức, làm cho những hình thức đấu tranh của giai cấp cách mạng
đang xuất hiện một cách tự phát trong tiến trình của phong trào trở thành tự
giác”[61, tr.1].
Với tri thức cách mạng và kinh nghiệm giải phóng dân tộc phong phú,
140
với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, 1-1959 Nghị quyết Trung ương lần thứ
15 của Đảng ra đời, đã nêu bật đặc điểm của chính quyền Ngô Đình Diệm, về
tính chất của xã hội, về thái độ chính trị của các giai cấp miền Nam, động lực
và lực lượng cách mạng miền Nam. Từ sự phân tích trên, Hội nghị đã vạch ra
đường lối và phương pháp giải phóng miền Nam một cách khoa học và đưa
sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vượt qua mọi khó khăn để thu
non sông về một mối.
Trong quá trình chỉ đạo giành thắng lợi từng bước, giành thắng lợi
quyết định tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn của Đảng, để đánh bại các chiến
lược “chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965), “chiến tranh cục bộ” (1965 - 1968),
“Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ, thì vấn đề bám sát thực tiễn, nắm chắc
tình hình địch - ta, cũng như tình hình trong nước và quốc tế, nhằm tạo nên
sức mạnh tổng hợp để đánh thắng kẻ thù, lại càng quan trọng, cần thiết.
Để đối phó với chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, Đảng đã có Nghị
quyết BCT (1-1961), và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 9 (12-
1963). Khi kẻ thù thay đổi chiến lược tiến hành chiến lược “chiến tranh cục
bộ” và “Việt Nam hoá chiến tranh”, Đảng đã đánh giá đúng đắn sức mạnh của
hai miền Nam - Bắc, chỉ rõ những yếu kém về chiến lược của địch, đề ra
những chủ trương, nhiệm vụ cụ thể, đánh bại ý chí xâm lược của chúng.
Sau thắng lợi năm 1973, các vùng giải phóng ở ba nước Đông Dương
được mở rộng, đã dựa lưng vào nhau, tạo thế mạnh mới cho cách mạng Đông
Dương bao vây chia cắt quân địch.
Nhạy bén trước tình hình mới trong nước cũng như trên toàn Đông
Duơng (do thắng lợi quyết định tạo nên), Hội nghị BCT 10 - 1974 đã đề ra
Nghị quyết lịch sử: Động viễn nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân, tiến hành rất khẩn trương và hoàn thành công tác chuẩn bị về mọi mặt,
tạo điều kiện chín muồi, tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa với những
141
đòn đánh chủ lực tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn, giải phóng miền Nam
thống nhất đất nước. Hội nghị cũng sáng suốt tính đến khả năng can thiệp trở
lại của Mỹ vào miền Nam đến mức nào và kết luận ta có đủ quyết tâm và điều
kiện để đánh chúng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã thực hiện
xuất sắc Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cuộc chống Mỹ, cứu nước của
nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định
thắng lợi hoàn toàn… Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc
nhất định sẽ sum họp một nhà.
Thực tế đã chứng minh, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của nhân dân ta là thắng lợi của đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ.
Nó thể hiện sống động chân lý của thời đại là độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH. Với kinh nghiệm thực tiễn chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã
vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh cách mạng.
Với đường lối chống Mỹ cứu nước của Đảng ta và nghệ thuật chỉ đạo giành
thắng lợi từng bước, giành thắng lợi quyết định tiến tới giành thắng lợi hoàn
toàn đã thực sự làm phong phú di sản lý luận Mácxít về cách mạng giải phóng
dân tộc và con đường đi lên CNXH trong điều kiện hiện nay.
3.2. Tuân thủ những nguyên tắc trong thực hành tư tưởng chiến lược tấn
công; thực hiện những “quả đấm chủ lực”, đảm bảo giành thắng lợi quyết định, buộc
địch từng bước xuống thang chiến tranh
Tiến công là nguyên tắc chỉ đạo của Đảng, là quy luật giành thắng lợi
của cách mạng và chiến tranh cách mạng ở nước ta, trước bất kỳ một kẻ thù
nào, trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Nắm vững bản chất cách mạng và khoa học
của tư tưởng tiến công quân sự của giai cấp công nhân và kiên quyết thực
hành tư tưởng chiến lược tấn công cách mạng, quân và dân ta, dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu, đã giành thắng lợi to lớn trong Tổng khởi
nghĩa tháng 8 (1945), đưa đến sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
142
- nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chấm dứt ngót một thế kỷ
cả dân tộc phải chịu cảnh nô lệ, lầm than dưới ách thống trị của thực dân
Pháp; thực hiện thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954), giải
phóng hoàn toàn miền Bắc, đưa miền Bắc đi lên con đường chủ nghĩa xã hội.
Trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã chỉ đạo toàn
dân, toàn quân chủ động tích cực, kiên quyết và liên tục thực hành tư tưởng
chiến lược tấn công, với tinh thần và quyết tâm cao “Hễ còn một tên xâm lược
trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”[54, tr407].
Tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ đã huy
động mọi lực lượng có thể huy động được phát huy tới mức tối đa tiềm năng,
sức mạnh quân sự, sử dụng những phương tiện chiến tranh hiện đại nhất, với
chất lượng cao nhất (trừ vũ khí hạt nhân), tiêu phí những số tiền khổng lồ lớn
hơn cả chi phí trong chiến tranh thế giới thứ hai, thực hành những chiến lược
phản cách mạng hiểm độc nhất nhằm tiêu diệt cách mạng Việt Nam. Trong
khi đó, nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến với biết bao khó khăn, thiếu
thốn, vũ khí thô sơ, lực lượng cách mạng còn non trẻ… nhưng vẫn giữ vững
và nêu cao tư tưởng chiến lược tiến công. Bởi vì chúng ta có khả năng và điều
kiện tạo sức mạnh tiến công địch. Chân lý trên được khẳng định từ thực tiễn
cách mạng miền Nam thời kỳ 1954 - 1959. Đây là một thời kỳ, xét về so sánh
lực lượng ta yếu hơn địch. Như vậy, trên một phương hướng chiến lược nào
đó, ta phải tạm thời phòng ngự, thì tư tưởng chi phối hành động chiến đấu
phòng ngự của ta vẫn là tư tưởng tiến công, kiên quyết phản kích để tạo thời
cơ, củng cố và phát triển lực lượng. Chẳng hạn, khi đế quốc Mỹ thực hiện
chiến lược Aixenhao - một chiến lược của chủ nghĩa thực dân kiểu mới, thể
hiện tập trung chống phá cách mạng của bọn đế quốc những năm giữa thế kỷ
XX. Vấn đề đặt ra cho cách mạng miền Nam là tiến lên hay dừng lại để chờ
thời cơ? Có dám phản kích kẻ thù hay không? Thành công đặc sắc về phương
143
diện chỉ đạo chiến lược của Đảng ta lúc bấy giờ là đã xác định tư tưởng chiến
lược chủ đạo là: kiên quyết đẩy lùi kẻ địch, không được rút lui để thực hiện
chủ nghĩa chờ đợi. Phương thức của quá trình đẩy lùi ấy là bắt đầu bằng
những cuộc đấu tranh của quần chúng, rồi qua con đường đồng khởi của quần
chúng tiến lên làm chiến tranh cách mạng. Quá trình đẩy lùi từng bước bằng
những đòn quyết định sẽ là cơ sở để tiến lên đánh bại hoàn toàn chiến lược
Aixenhao của địch. Hoặc ngay cả khi, thế chiến lược, tuy rất có lợi cho ta như
thời điểm 1965, sau khi chúng ta đánh bại hoàn toàn chiến lược “chiến tranh
đặc biệt” của Mỹ - nguỵ, song lại đứng trước một tình thế cấp bách là đế quốc
Mỹ ồ át đổ quân vào miền Nam (tổng số quân Mỹ, nguỵ, chư hầu năm 1965
là 804.300 tên) [90, tr.124] và tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trước
tình hình đó, Đảng ta vẫn chủ trương tiến công, kiên quyết tiến công, liên tục
tiến công, để đẩy lùi quân địch ngay từ hiệp đầu, chứ không dừng lại một
bước để rồi bị chúng đẩy lùi về mặt chiến lược. Sau khi phân tích tình hình
địch, Đảng ta quyết định: “giữ thế chủ động trên chiến trường”, tiếp tục tư
tưởng chiến lược tiến công. Nghệ thuật tiến công giành thắng lợi quyết định
trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn của
Đảng ta, được thể hiện trên một số vấn đề chính sau:
Một là, tiến công bằng mọi lực lượng dưới nhiều hình thức phong phú,
tạo đòn đánh quyết định, làm thay đổi cục diện chiến tranh.
Ngay từ ngày đầu cuộc kháng chiến, Đảng ta đã nhận định, nhân dân
miền Nam “không có con đường nào khác ngoài con đường vùng dậy” và
phát động toàn dân đánh giặc, đánh địch toàn diện cả về quân sự, chính trị. Đi
đôi với tác chiến tiêu diệt địch của lực lượng vũ trang là đấu tranh chính trị, là
nổi dậy của quần chúng để giành quyền làm chủ.
Nói về nguồn gốc thắng lợi của cuộc Đồng khởi năm 1959-1960, và kết
quả của thời kỳ đấu tranh chống chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc
144
Mỹ, đồng chí Lê Duẩn đã cho rằng, thế tiến công của ta dựa trên ưu thế tuyệt
đối về chính trị và tinh thần, trên sức mạnh áp đảo của đông đảo quần chúng
cách mạng kiên quyết vùng lên đấu tranh một mất một còn với quân thù cướp
nước và bán nước để giành quyền sống cho mình. Và tới thời kỳ chống chiến
lược “chiến tranh cục bộ”, thì thế của ta là dựa vào sự triển khai lực lượng
quân sự và chính trị trên các địa bàn chiến lược trên toàn chiến trường, khiến
cho quân dân miền Nam có thế trận vững chắc và có lực lượng hùng hậu để
giữ vững thế chủ động tiến công đã giành được sau khi đánh bại chiến “chiến
tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ. ở thời kỳ, chống chiến lược “Việt Nam hoá
chiến tranh”, thấy rõ nguồn gốc sức mạnh của ta là tinh thần làm chủ của
nhân dân, là tiến công của cách mạng. Thế và lực của ta về chính trị, quân sự
ngày càng vững mạnh. Với thế và lực đó, quân và dân ta đã đủ sức đánh
những trận lớn để giành thắng lợi quan trọng trong những thời điểm quyết
định. Ví dụ, ở thời kỳ chống chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, trận ấp Bắc, ta
đã đánh bại chiến thuật “trực thắng vận”, “phượng hoàng vồ mồi” - một chiến
thuật mà kẻ địch cho là hiệu nghiệm nhất để “tiêu diệt cộng sản”. Rồi chiến
dịch Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài ta đã tiêu diệt gọn nhiều tiểu đoàn thuộc
lực lượng dự bị chiến lược của nguỵ, đánh phá chiến thuật “thiết xa vận” và
“đổ bộ đường không” của địch làm phá sản công thức quân nguỵ + cố vấn Mỹ
+ phương tiện chiến tranh Mỹ - một công thức mà Mỹ hy vọng sẽ thắng ta
trong “chiến lược chiến tranh đặc biệt”.
ở thời kỳ chống chiến lược “chiến tranh cục bộ”, ta đã lựa chọn cách
đánh tổng công kích, tổng khởi nghĩa, tiến công vào các cơ quan đầu não của
địch. Bằng cuộc tiến công chiến lược Tết Mậu Thân 1968, ta đã giáng một
đòn quyết định vào chiến lược “chiến tranh cục bộ”, buộc chúng phải thay đổi
chiến lược, chuyển sang chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” v.v…
ở thời kỳ chống chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, ta đã phối hợp
145
với lực lượng cách mạng Campuchia đánh mạnh vào khâu yếu nhất của chúng
ở chiến trường Campuchia và giành thắng lợi to lớn, đưa cách mạng
Campuachia phát triển một bước nhảy vọt. Năm 1972, ta quyết định mở cuộc
tiến công chiến lược trên toàn chiến trường, với 3 hướng tiến công chính:
chiến dịch Tri - Thiên, chiến dịch Bắc Tây Nguyên, chiến dịch Đông Nam Bộ
(mang tên Nguyễn Huệ) - Đây được xem là những đòn đánh quyết định, cùng
với thằng lợi của chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” (cuộc tập kích chiến
lược B52 vào Hà Nội, Hải Phòng của đế quốc Mỹ đã bị quân và dân miền Bắc
đập tan) - đã buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, ngồi vào bàn
ngoại giao, ký Hiệp định Pari về “Chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở
Việt Nam”, đưa đến thắng lợi quyết định cho cách mạng miền Nam, tạo nên
thế và lực mới để đi đến thắng lợi cuối cùng.
Hai là, tranh thủ thời cơ, tạo thế và lực, chuyển chiến lược tiến công
khởi nghĩa sang chiến tranh nhân dân, thực hiện những “quả đấm chủ lực”
đảm bảo giành thắng lợi quyết định trong những điều kiện cụ thể.
Thời cơ cách mạng có được do nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân
khách quan và nguyên nhân chủ quan. Nguyên nhân khách quan của sự xuất
hiện thời cơ gắn liền với độ chín muồi của tình thế cách mạng, mà như
V.I.Lênin đã chỉ rõ, đó là lúc kẻ thù “ở bên trên” bị khủng hoảng sâu sắc
không thể duy trì ách thống trị của chúng; còn quần chúng “ở bên dưới” cũng
không chịu và không thể tiếp tục sống như cũ được nữa. Để làm nên thắng lợi
Cách mạng Tháng 8 (1945), Đảng ta đã “khéo léo chọn lúc để giáng một đòn
chí tử, kheo chọn lúc để phát động khởi nghĩa - ấy là tình hình đã hết sức
khủng hoảng, đội tiên phong đã sẵn sàng chiến đấu đến cùng, hậu bị quân đã
sẵn sàng ủng hộ đội tiên phong và hàng ngũ quân địch đã rối loạn, hoang
mang đến cực điểm” [15, tr.371].
Phong trào Đồng khởi ở miền Nam trong những năm 1959 - 1960 cũng
146
là một minh chứng sống động. Nó là kết quả của thực hành tư tưởng chiến
lược tiến công của đồng bào miền Nam “Đồng khởi” là cách mạng miền Nam
chuyển từ thế thủ, bảo toàn lực lượng, sang thế công. Đó là chiến lược tiến
công của cách mạng bằng khởi nghĩa; tiếp đó, phát triển tiến công từ khởi
nghĩa thành chiến tranh cách mạng ở thời kỳ sau; rồi tiếp tục khởi nghĩa trong
chiến tranh, kết hợp chiến tranh với khởi nghĩa, trong đó quy luận chiến tranh
ngày càng chi phối. V.I.Lênin cho rằng, “phòng ngự là con đường chết của
khởi nghĩa”. Vì vậy, khi khởi nghĩa thành công, phải chuyển tiến công khởi
nghĩa thành chiến lược tiến công cách mạng, kết hợp tiến công về quân sự với
tiến công về chính trị, ngoại giao.
Tư tưởng chiến lược tiến công là tư tưởng chỉ đạo của cách mạng. Về
chiến lược quân sự, đương nhiên là có tiến công, phản công và phòng ngự;
trong chiến tranh cách mạng ở miền Nam, tiến công và phản công là chính, từ
đó tạo nên những “quả đấm chủ lực” tiêu diệt sinh lực địch, đảm bảo giành
thắng lợi quyết định trong những điều kiện cụ thể. Nay điểm lại 21 năm cuộc
chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, chung ta thấy rất rõ đế quốc Mỹ là
tên đầu sỏ, rất ngoan cố, không bao giờ chịu “thua non”. Chỉ sau khi bị đòn
tiến công Tết Mâu Thân 1968, Mỹ mới chịu xuống thang chiến tranh. Sau khi
ký Hiệp định Pari, trên danh nghĩa, Mỹ chấp nhận rút quân về nước nhưng
vẫn rắp tâm phá hoại hiệp định với chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”
của mình. Và chỉ đến khi, ta mở chiến dịch Tây Nguyên, xoá sổ quân đoàn 2
và quân khu 2 của nguỵ, tiêu diệt và làm tan rã một tập đoàn phòng ngự lớn,
giải phóng một địa bàn chiến lược quan trọng. Đồng thời, ta mở chiến dịch
Huế - Đà Nẵng, tiêu diệt quân đoàn 1 và quân khu I của nguỵ, làm thay đổi so
sánh lực lượng trên chiến trường và mở chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Sau
3 ngày chiến đấu thần tốc, dũng mãnh, quân ta giành thăng lợi hoàn toàn. Đến
147
đây, đế quốc Mỹ mới chịu từ bỏ âm mưu xâm lược của mình.
Ngày nay, sự cấu kết giữa thù trong và giặc ngoài có nhiều điểm mới:
“Diễn biến hoà bình”, bạo loạn, lật đổ, lợi dụng lòng tin tôn giáo thực hiện âm
mưu chống phá cách mạng, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc… đang là một
chiến lược toàn cầu phản cách mạng của các thế lực đế quốc phản động. Với
chiến lược này, chúng chống phá cách mạng Việt Nam một cách toàn diện,
thần tốc trên tất cả các lĩnh vực, bằng các thủ đoạn, biện pháp. Trong đó,
chúng coi trọng tổ chức xây dựng lực lượng phản động ngầm kết hợp với xây
dựng các tổ chức phản động ở nước ngoài, tạo dựng “ngon cờ”, tạo cớ can
thiệp dưới nhiều hình thức. Do đó, để bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ
Đảng, bảo vệ chế độ, quân và dân ta nêu cao tinh thân cảnh giác cách mạng,
phát huy tư tưởng chiến lược tấn công, củng cố, tăng cường sức mạnh của
khối đại đoàn kết dân tộc bằng việc giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh
tế xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Mặt khác, tích cực đấu tranh khắc phục những thiếu sót trong quản lý, xây
dựng đất nước; đấu tranh một cách không khoan nhượng với tệ quan liêu,
tham nhũng, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; động viên và tạo điều kiện
cho toàn dân tham gia xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh
nhân dân ngày càng vững mạnh. Đó là bài học kinh nghiệm mang tính thời sự
cao được rút ra từ nghiên cứu tư tưởng chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành
thắng lợi quyết định của Đảng ta trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
3.3 Trên cơ sở quán triệt tư tưởng chiến lược tấn công, nắm vững và giải quyết
tốt mối quan hệ giữa đánh lâu dài với tranh thủ thời cơ, giành thắng lợi quyết định
trong thời gian tương đối ngắn, tạo ra bước ngoặt mới về chiến lược, làm thay đổi cục
diện chiến tranh
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta là một sự kiện
trọng đại của lịch sử thế giới trong thế kỷ XX và được xem là cuộc đụng đầu
148
lịch sử lớn nhất từ sau chiến tranh thế giới thứ 2.
Đây là một cuộc đấu tranh của một dân tộc đất không rộng, người
không đông, kinh tế chậm phát triển, phải đương đầu với một siêu cường đế
quốc có tiềm lực kinh tế và quân sự to lớn. Trong điều kiện ấy, muốn giành
thắng lợi, cách tốt nhất là phải lấy đánh lâu dài làm phương châm cơ bản.
Đảng ta cho rằng, đánh lâu dài không có nghĩa là đánh kéo dài theo kiểu
“trường kỳ mai phục”, không phải là ở thế chịu đựng hay bị động mà là đánh
lâu dài trên thế tiến công. Nói cách khác, trong khi đánh lâu dài, ta vẫn chủ
động tạo thời cơ và lợi dụng thời cơ mỗi khi nó xuất hiện để đánh những đòn
có tính chất quyết định, làm thay đổi cục diện chiến tranh, thay đổi được so
sánh lực lượng, có lợi cho ta, bất lợi cho địch; làm cho quá trình phát triển của
chiến tranh không chỉ có phát triển tuần tự, mà còn có những bước phát triển
nhảy vọt, đột biến. Từ thế và lực mới, được tạo nên, chúng ta có thể tranh thủ
thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn để tiến tới
giành thắng lợi hoàn toàn. Thực tiễn cách mạng cho thấy, sau khi hiệp định
Giơnevơ được ký kết, đế quốc Mỹ nhảy vào miền nam nước ta, dựng nên
chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, xây dựng nguỵ quân, các cơ cấu quân sự
và chiến tranh v.v… Chúng lấy “tố cộng”, “diệt cộng” làm “quốc sách” nhằm
tiêu diệt hết các “phần tử cộng sản” , các “tổ chức cộng sản” và “tư tưởng
cộng sản”. Nhân dân miền Nam kiên trì đấu tranh đòi thi hành Hiệp định
Giơnevơ, nhưng Mỹ- Nguỵ đã tiến hành “cuộc chiến tranh một phía”, buộc
nhân dân miền Nam phải vùng dậy đấu tranh chống lại chúng.
Từ thực tiễn của mình, để chống địch đàn áp, khủng bố, nhiều Đảng bộ
ở miền Nam đã chủ động xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Đặc biệt là
ở Nam Bộ, các đơn vị vũ trang cách mạng đã ra đời dưới danh nghĩa vũ trang
giáo phái như: Tiểu đoàn Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Tiên Hoàng, Ngô Văn Sở 502,
504, 506, 250… Trong những năm 1957- 1958, ở các tỉnh nam bộ đã xây
149
dựng được khoảng 30 đơn vị vũ trang [60, tr.34]. Sự xuất hiện của các bộ,
đảng viên thời “9 năm” trong lực luợng vũ trang cách mạng, trong điều kiện
địch khủng bố điên cuồng, đã làm vững tin cho lực lượng chính trị và tạo địa
bàn cho các cán bộ “bị lộ” đứng chân. ý chí quyết tâm bám đất, bám dân và
các hoạt động tự vệ, diệt ác ôn của các đơn vị vũ trang Nam Bộ có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong việc giữ gìn thực lực cách mạng là một hướng gợi mở
vô cùng quan trọng cho trung ương Đảng ra quyết sách về con đường cách
mạng miền Nam. Dưới ánh sáng của Nghị quyết trung ương Đảng lần thứ 15
(1-1959) nhân dân miền nam đã tiến hành đồng khởi. Thắng lợi của phong
trào đồng khởi đã chuyển thế cho cách mạng miền Nam tiến lên tiến công tiêu
diệt kẻ thù, chấm dứt thời kỳ ổn định tạm thời của chủ nghĩa thực dân kiểu
mới, đặt chế độ Ngô Đình Diệm trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn. Tuy nhiên,
vì điều kiện lúc đó, phong trào đồng khởi mới dừng ở mức khởi nghĩa từng
phần, chưa thể phát triển thành tổng khởi nghĩa.
Trước bước chuyển biến căn bản của cách mạng, đầu năm 1961, Đảng
ta đã chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng miền Nam, đưa phong trào
đồng khởi phát triển thành chiến tranh du kích, chiến tranh cách mạng, tiến
hành cuộc kháng chiến trường kỳ. Nội dung căn bản của chuyển hướng chỉ
đạo chiến lược là phải tăng cường lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang.
Nghị quyết BCT 1-1961, tháng 2-1962, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương lần
thứ 9 (12-1963) đã khái quát phương châm tiến công chiến lược của cách
mạng miền Nam là: hai chân, 3 mũi, 2 vùng. Phương châm đó đã đưa cuộc
kháng chiến toàn dân, toàn diện lên đỉnh cao mới. Thế trận chiến tranh nhân
dân trở nên vô địch, mà kẻ thù dù có tàn bạo đến đâu cũng không thể đảo
ngược được tình thế, không thể có chủ động chiến lược [57, tr.22].
Cuối năm 1967, đầu năm 1968, cuộc “chiến tranh cục bộ” của đế quốc
Mỹ ở miền Nam đã phát triển lên tới đỉnh cao, địch leo thang đến mức cao
150
nhất, Đảng ta đã có những quyết định rất đúng đắn, táo bạo: “chuyển hướng
chiến tranh cách mạng của ta sang thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết
định” (Nghị quyết của BCT 12-1967, được hội nghị BCH Trung ương Đảng,
tháng 1-1968, phê chuẩn thành Nghị quyết Trung ương lần thứ 14). Với đòn
quyết định xuân 1968, đã làm “đảo lộn thế chiến lược của địch làm phá sản
“chiến tranh cục bộ”, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc
chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội
nghị Pari” [42, tr.481].
Đầu năm 1970, nhận định về sai lầm nghiêm trọng của địch khi mang
quân mở rộng chiến tranh ra cả Đông Dương, chúng ta đã phối hợp chặt chẽ
với cuộc chiến đấu của nhân dân Lào và nhân dân Campuchia, giáng cho địch
những đòn quyết liệt giành thắng lợi to lớn.
Từ năm 1969, lên thay Giônxơn, Nichxơn điều chỉnh chiến lược toàn
cầu: từ “phản ứng linh hoạt” sang “ngăn đe trên thực tế”. áp dụng học thuyết
Nichxơn vào Châu á, Hoa Kỳ chọn Việt Nam làm nơi thí điểm chiến lược
“Việt Nam hoá chiến tranh”.
“Việt Nam hoá chiến tranh” là một mưu đồ chiến lược hết sức thâm độc
của đế quốc Mỹ, nhằm kéo dài chiến tranh xâm lược, từng bước rút hết quân
Mỹ ra khỏi Đông Dương, mà nguỵ quân , nguỵ quyền vẫn mạnh lên. Với học
thuyết Nichxơn và chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, cách mạng Việt
Nam lại đứng trước một thử thách mới.
Trên cơ sở quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công, phân tích điểm
mạnh, mặt yếu của địch, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh cuộc tiến công liên
tục, toàn diện (quân sự, chính trị, ngoại giao) vào chiến lược “Việt Nam hoá
chiến tranh”, nhằm đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Riêng đòn tấn
công quân sự phải đủ sức tiêu diệt gọn cấp lữ đoàn, loại khỏi vòng chiến đấu
cấp sư đoàn quân chủ lực trở lại đứng chân ở vùng nông thôn đồng bằng và
151
vùng ven đô thị; trực tiếp hỗ trợ phong trào quần chúng nổi dậy phá kế hoạch
bình định của địch, buộc Mỹ phải rút hết quân, ký Hiệp định chấm dứt chiến
tranh ở Việt Nam theo những điều khoản ta đưa ra giành tháng lợi cơ bản
trong năm 1972.
Thực hiện quyết tâm của Quân uỷ trung ương là kết hợp đấu tranh quân
sự với đấu tranh chính trị ngoại giao, dựa vào pháp lý của hiệp định Pari với
nhiệm vụ trong tâm số 1 lúc này là phá bình định lấn chiếm của địch, giành
quyền làm chủ, liên tục phản công địch, chủ động đánh vào các căn cứ xuất
phát của địch, đồng thời mở các chiến dịch tổng hợp với quy mô vừa và nhỏ.
Thắng lợi trên chiến trường sẽ là cơ sở thúc đẩy đấu tranh ngoại giao.
Từ giữa năm 1973, tình hình trên chiến trường miền nam đã có những
chuyển biến quan trọng. Quân dân ta dần khắc phục những sai sót trong chỉ
đạo vượt qua những khó khăn, ngăn chặn được các cuộc hành quân lấn chiếm,
bình định của địch, khôi phục và mở rộng vùng giải phóng. Từ thế bị động,
đối phó, chuyển lên chủ động phản công tiến công địch. Thế và lực của cách
mạng miền Nam đều phát triển. Những binh đoàn cơ động gồm nhiều binh
chủng hợp thành đã ra đời, tạo nên những quả đấm mạnh và những mũi nhọn
sắc bén trên các địa bàn chiến lược quan trọng. Sự ra đời của các quân đoàn
và binh đoàn tương đương quân đoàn, đứng chân trên các chiến trường quan
trọng, đã tạo nên sự chuyển biến lớn về so sánh lực lượng (cho đến cuối năm
1974, đầu năm 1975, về tổng số quân ở miền nam, tỷ lệ so sánh giữa 2 bên là:
địch 1,7, ta:1 ; về quân chủ lực: địch 1, ta 1,03) [110, tr 38].
Trước những bước ngoặt lớn của chiến tranh cách mạng đang được tạo
ra trên chiến trường miền Nam, Đảng ta nhận thấy thời cơ chiến lược lớn sẽ
đến. Để tạo và thúc đẩy thời cơ đòi hỏi ta phải có lực lượng mọi mặt mạnh
hơn hẳn đối phương, phải ở thế áp đảo địch, đón thời cơ, đánh đòn quyết
152
định, kết thúc chiến tranh giành thắng lợi hoàn toàn.
Nhìn lại toàn bộ tiến trình của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
có thể thấy sự kết hợp giữa ba nhân tố: Lực - thế - thời đã không chỉ tạo nên
sức mạnh tổng hợp, hơn địch, để đánh đòn quyết định với thế áp đảo, giành
thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn, mà còn tạo ra bước ngoặt
mới về chiến lược, làm thay đổi cục diện chiến tranh, thậm chí kết thúc chiến
tranh, giành thắng lợi hoàn toàn. Đó là một thành công lớn, một bài học kinh
nghiệm quý giá được đúc kết từ thực tiễn chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành
thắng lợi quyết định của Đảng ta trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước. Trong điều kiện cách mạng hiện nay, kinh nghiệm vận dụng quy luật
khách quan kết hợp lực - thế - thời, khai thác và tận dụng những điều kiện
thuận lợi trong nước và quốc tế, tận dụng lợi thế so sánh vùng và khả năng
nội lực của từng địa phương vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế khu vực vẫn mang ý nghĩa lớn
lao về nhiều mặt và có giá trị thực tế sâu sắc. Nhờ đó, chúng ta có thể tạo thời
cơ, tạo thế và lực mới, để giành thắng lợi mới ngày càng to lớn và có ý nghĩa
lịch sử lớn lao hơn.
3.4. Đánh giá đúng kẻ thù, nắm vững mục tiêu cuối cùng của cách mạng, để ra
các nghị quyết đúng đắn để chỉ đạo toàn quân, toàn dân, giành thắng lợi quyết định
trong những điều kiện cụ thể, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.
Chiến tranh là một cuộc đọ sức quyết liệt về lực lượng cũng như về cố
gắng chủ quan của hai bên, dựa trên cơ sử phân tích đầy đủ các điều kiện
khách quan, đánh giá đúng so sánh lực lượng địch - ta trong mỗi thời kỳ phát
triển. Qua đó, có thêm cơ sở để đề ra các Nghị quyết đúng đắn, những phương
pháp làm biến đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta, nhằm giành cho được
những thắng lợi ở mỗi bước tiến lên của từng giai đoạn.
Hiểu địch, đánh giá đúng địch là hiểu rõ âm mưu chiến lược của địch,
153
nắm chắc quy luật hành động và khả năng tiến hành chiến tranh của chúng.
Có như vây, ta mới hạ quyết tâm chiến lược, vạch ra phương hướng tiến hành
chiến tranh, tìm ra cách đánh một cách đúng đắn sáng tạo.
Cho đến nay, giới nghiên cứu đã nêu nhiều ý kiến, cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta có ba thời điểm quan trọng, đó là: việc ra
đời của Nghị quyết 15 Trung ương; cuộc tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu
Thân (1968) và giai đoạn đánh bại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”
tiến tới Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975.
Trong những năm 1954-1958, “tình thế cách mạng cho các cuộc khởi
nghĩa từng phần đã chín muồi”[62, tr.98]. Bởi, quần chúng không còn con
đường nào khác hơn là phải vùng lên sống chết với My - Diệm. Trong bối
cảnh đó, “Đề cương cách mạng miền Nam” của Xứ uỷ Nam bộ đã ra đời.
Tiếp đó, tháng 1-1959, Đảng ta ra Nghị quyết Trung ương lần thứ 15. Tư
tưởng chỉ đạo trong Nghị quyết 15 thể hiện rõ đường lối độc lập tự chủ và
sách lược mềm dẻo của Đảng ta, phù hợp với tình hình quốc tế và trong nội
bộ lãnh đạo của ta lúc bấy giờ, đáp ứng được nguyện vọng bức thiết của cán
bộ đảng viên và quảng đại quần chúng nhân dân ở miền Nam. Nghị quyết 15
theo như nhận định của Đại tướng Lê Đức Anh, nó thật sự “là một nghị quyết
về chuyển chiến lược” từ đấu tranh chính trị đơn thuần sang đấu tranh chính
trị kết hợp với đấu tranh vũ trang dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo
lực phản cách mạng tàn bạo của kẻ địch, vận dụng và phát huy phương pháp
cách mạng của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 trong hoàn cảnh
mới”[7, tr36]. Thực tiễn cách mạng miền Nam 1959-1960, đã khẳng định tính
đúng đắn, khoa học và kịp thời của Nghị quyết 15. ở nhiều vùng nông thôn,
nhân dân đã vùng dậy đồng khởi, làm sụp đổ từng mảng nguỵ quyền, thành
lập chính quyền cách mạng và lực lượng vũ trang, làm phá sản chủ nghĩa thực
dân kiểu mới theo phương thức cổ truyền, buộc đế quốc Mỹ chuyển qua chiến
154
lược “chiến tranh đặc biệt”. Có thể nói, trong thời kỳ đầu của cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, Nghị quyết 15 đã cắm mốc lịch sử vô cùng quan
trọng của cách mạng Việt Nam, nó phù hợp với tình hình thực tế nên đã tạo
bước tiến nhảy vọt cho phong trào cách mạng miền Nam.
Để đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của địch, Đảng chỉ đạo
chuyển đồng khởi từng phần qua chiến tranh cách mạng và tiếp tục khởi nghĩa
trong chiến tranh, đánh địch bằng cả quân sự và chính trị, ra sức phát triển
chiến tranh nhân dân, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược phù hợp với tương
quan lực lượng ở từng vùng. Trọng tâm đánh vào những nơi xung yếu như
kho tàng, sân bay, đường giao thông, đặc biệt là phải tập trung mũi nhọn vào
phá “ấp chiến lược” đánh bại “quốc sách” của địch.
Dưới ánh sáng của sự chỉ đạo trên, mũi tiến công “ấp chiến lược” bằng
quân sự và chính trị đã làm phá sản mục tiêu chủ yếu của chiến lược “chiến
tranh đặc biệt”. Cao trào cách mạng của đồng bào miền Nam đã đẩy Mỹ vào
một cuộc khủng hoảng trầm trọng, buộc Mỹ phải “thay ngựa giữa dòng”, phế
truất anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu.
Để cứu vãn tình thế, Mỹ ào ạt đổ quân vào MNVN thực hiện chiến
lược “chiến tranh cục bộ”, mở các cuộc phản công chiến lược “tìm diệt” chủ
lực ta, “bẻ gẫy xương sống Việt Cộng” và “chộp bắt” cơ quan đầu não của
cuộc kháng chiến trên chiến trường, đồng thời sử dụng không quân, hải quân
đánh phá miền Bắc.
Khi Mỹ chuyển qua chiến lược “chiến tranh cục bộ” Đảng ta đã nhận
định: sức mạnh của Mỹ có thể sử dụng trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt
Nam là sức mạnh hạn chế. Và chỗ yếu của Mỹ là những chỗ yếu không thể
khắc phục nổi. Đồng thời Đảng cũng nêu ra chủ trương: 1) Phải giữ vững và
tiếp tục giành thế chủ động tiến công trên chiến trường, vừa đánh Mỹ, vừa
diệt nguỵ; 2) Tiếp tục quán triệt phương châm đánh lâu dài, dựa vào sức mình
155
là chính; 3) Phải cố gắng tập trung lực lượng của cả hai miền, tranh thủ thời
cơ giành thắng lợi quyết định trong một thời gian ngắn trên chiến trường miền
Nam; 4) Phải chuẩn bị để đánh địch trong trường hợp chiến tranh kéo dài và
mở rộng ra cả nước.
Với chủ trương đúng đắn đó, Đảng ta đã chỉ đạo sự bố trí chiến lược
các lực lượng chủ lực trên chiến trường, đón sẵn quân Mỹ ở các địa bàn xung
yếu. Thắng lợi trên mặt trận Trị - Thiên, đường số 9, chiến trường Tây
Nguyên, miền Tây khu 5; đặc biệt là thắng lợi trong cuộc chống chiến tranh
phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân của giặc, đã làm phá sản một
bước chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ, đẩy đế quốc Mỹ vào tình thế
“tiến thoái lưỡng nan” về chiến lược.
Nắm bắt được điểm yếu này của đế quốc Mỹ, Đảng ta đã quyết
định giáng một đòn bất ngờ thật mạnh vào ý chí xâm lược của chúng,
bằng cách chọn hướng chiến lược hiểm và dùng cách đánh mới, tạo ra
một bước ngoặt lớn làm thay đổi cục diện chiến tranh. Đó là tiến công
vào các cơ quan đầu não của địch, trên toàn miền Nam vào dịp Tết Mậu
Thân (1968).
Đòn tiến công Tết Mậu Thân 1968 đã gây kinh hoàng cho cả nước Mỹ.
Khắp các bang của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ rộ lên những cuộc biểu tình
chông chiến tranh. Ngày 31-3-1968, Giônxơn đã phải ra tuyên bố ngừng ném
bom MBVN từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán song
phương với ta tại Pari và tuyên bố không ra tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ
thứ hai.
Như vậy, bằng cuộc Tổng tiến công chiến lược Tết Mậu Thân 1968, ta
đã giáng một đòn quyết định chiến lược vào chiến lược “chiến lược” chiến
tranh cục bộ” của Mỹ; buộc chúng, dù ngoan cố cũng phải thay đổi chiến
156
lược - chuyển sang chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, với hy vọng làm
cho cách mạng miền Nam “tàn lụi”, quân đội và chính quyền Sài Gòn mạnh
lên, đủ sức duy trì chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ ở MNVN.
Với tầm nhìn xa trông rộng, từ lâu Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính
trị đã nhận thấy rằng ta không đủ sức để đánh bại cùng một lúc cả Mỹ và
Nguỵ để giành thắng lợi hoàn toàn, nên chủ trương đánh cho “Mỹ cút”, rồi
tiến tới đánh cho “nguỵ nhào”. Sau khi quân Mỹ và chư hầu rút khỏi miền
Nam, Đảng ta cho rằng, quân Mỹ đã rút, khó có khả năng quay lại. Phân tích
so sánh lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường, Đảng chỉ ra: Thời cơ lịch
sử và khả năng thực tế để quyết chiến trận cuối cùng, đưa cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn đã đến (Kết luận Hội nghị Trung
ương ngày 7-1-1975) và đề ra quyết tâm chuẩn bị mọi mặt để kết thúc thắng
lợi cuộc chiến tranh trong năm 1975 hoặc 1976.
Quyết tâm đó của Đảng được cụ thể hoá trong kế hoạch chiến lược 2
năm 1975-1976: Năm 1975 tranh thủ bất ngờ tiến công lớn và rộng khắp, tạo
điều kiện để vào năm 1976 tiến hành Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng
miền Nam.
Cùng với kế hoạch cơ bản đó, Bộ Chính trị còn dự kiến một phương án
cực kỳ quan trọng: nếu thời cơ đến, thì lập tức giải phóng miền Nam năm
1975.
Trước sự phát triển của tình hình cách mạng với nhịp độ “một ngày
bằng hai mươi năm”, Bộ Chính trị đã ra quyết định đúng đắn, thực hiện
phương án dự kiến, mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, giải phóng miền Nam
trong tháng 4-1975 (Lê Duẩn, Thư vào Nam ngày 1-4-1975).
Quyết định lịch sử đó, là kết quả của cả một quá trình tư duy khoa học
sâu sắc, sáng tạo của Bộ Chính trị, của BCH Trung ương Đảng ta về đánh giá
kẻ thù, đánh giá so sánh lực lượng giữa ta và địch, từ đó tìm ra cách đánh hữu
157
hiệu để chiến thắng kẻ thù.
Ngày nay, Đảng đang lãnh đạo nhân dân ta thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm thực hiện mục tiêu “Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Nếu trước đây, thắng lợi trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, bắt nguồn trước hết từ chiếu sâu sự thống nhất lập
trường và phương pháp cách mạng, khoa học của Đảng, dựa trên nền tảng
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; từ chiều sâu sự đoàn kết,
thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân (Trung ương Cục miền Nam,
Bộ Chỉ huy quân sự miền Nam và mỗi cấp địa phương, mỗi chiến trường…)
đã phát huy tinh thần tích cực, chủ động tổ chức thực hiện các kế hoạch,
quyết sách chiến lược của Trung ương, để giành thắng lợi từng bước, giành
thắng lợi quyết định, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn. Thì ngày nay, để thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược đó, đòi hỏi “Đảng phải nắm vững, vận dụng
sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa
và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tri thức mới của thời đại, nâng
cao năng lực trí tuệ”. Hơn nữa, đòi hỏi Đảng phải “kiên định về nguyên tắc,
chiến lược, linh hoạt, sáng tạo về sách lược, phương pháp; chống giáo điều,
bảo thủ… phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tổ chức để nhân dân tham
gia xây dựng đường lối, chủ trương, quyết sách quan trọng của Đảng, Nhà
nước. Coi trọng nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương…
Qua thực tiễn làm sáng tỏ những vấn đề mới, bổ sung, hoàn thiện và phát triển
đường lối” [44,tr.282].
Xây dựng CNXH ở một nước kinh tế kém phát triển như nước ta là một
việc làm mới mẻ và hết sức khó khăn. Điều đó đòi hỏi mọi tiềm năng, trí tuệ
của Đảng phải được tập trung vào việc nghiên cứu sâu hơn, cụ thể hơn về
CNXH mà chúng ta xây dựng và đề ra mục tiêu cho từng chặng đường phát
158
triển; đồng thời tìm ra cách đi, bước đi thích hợp với điều kiện và hoàn cảnh
nước ta; biết phát huy mọi tiềm năng của đất nước và thời cơ mà thời đại đã
mở ra để giành thắng lợi có tính chất quyết định trong từng chặng đường của
công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất nước. Đó cũng là vận dụng bài
học của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước: Đánh giá đúng kẻ thù, nắm
vững mục tiêu cuối cùng của cách mạng, đề ra các nghị quyết đúng đắn,
giành thắng lợi quyết định cho đúng, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.
3.5. Nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo quy luật chiến tranh cách mạng, biết
khơi dậy và phát huy cao độ vai trò của nhân tố con người trong việc thực hiện các
quyết định chiến lược
Cuộc đụng đầu lịch sử giữa nhân dân ta và đế quốc Mỹ là một cuộc
chiến tranh quyết liệt giữa hai lực lượng cách mạng và phản cách mạng và
cũng chịu sự tác động của những quy luật chiến tranh cách mạng chống đối
nhau.
Ngay từ đầu của cuộc xâm lược MNVN, đế quốc Mỹ vận dụng quy luật
đánh nhanh, thắng nhanh - còn với ta, trước tình hình lực lượng vũ trang
kém hơn địch nhiều thì buộc ta phải chọn cách đánh lâu dài với địch - vận
dụng quy luật đánh lâu dài, biết giành thắng lợi từng bước tiến tới giành thắng
lợi quyết định và giành thắng lợi hoàn toàn - Đây là sự lựa chọn đúng của
Đảng ta. Địch vận dụng quy luật đánh lớn, đánh tập trung, dàn thành trận
tuyến, ta thì vận dụng quy luật quy luật “lấy ít đánh nhiều”, khi có đủ điều
kiện “lấy nhiều thắng ít”, dàn mỏng địch ra đánh, đánh theo cách ta chọn
v.v…
Dựa trên lập trường cách mạng triệt để và ý chí quyết tâm chống Mỹ
xâm lược, dựa trên quan điểm cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin
về chiến tranh cách mạng, Đảng ta đã đánh giá đúng so sánh lực lượng giữa ta
159
và địch, xu thế phát triển của cách mạng thế giới, nắm bắt và hiểu rõ thực tiễn
cách mạng Việt Nam, vận dụng sáng tạo quy luận chiến tranh cách mạng, đưa
sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.
Khi xây dựng đường lối cách mạng miền Nam, Đảng ta đã thể hiện tinh
thần cách mạng triệt để và ý thức trách nhiệm cao với đất nước và dân tộc
mình. Những quyết định đã nêu ra là kết quả của một sự sưy nghĩ độc lập,
trên cơ sở kết hợp đúng đắn giữa cái chung và cái riêng, cái phổ biến và cái
đặc thù trong việc vận dụng các quy luật của chiến tranh cách mạng.
Phân tích Nghị quyết 15 và một loạt các Nghị quyết sau đó trong thời
kỳ chống chiến lược “chiến tranh đặc biệt” và “chiến tranh cục bộ”, có thể
thấy, trong đó, Đảng đã nhận thức và nắm vững một loạt các quy luật tác
động tổng hợp, như:
- Quy luật tác động của thời đại đối với điều kiện cụ thể của Việt Nam.
- Quy luật phát triển của xã hội Việt Nam với con người, đất nước và
lịch sử của nó.
- Quy luật tiến công của cách mạng Việt Nam; quy luật của cách mạng
bạo lực và chiến tranh nhân dân; quy luật biến đổi so sánh giữa ta và địch;
quy luật của phương pháp cách mạng miền Nam v.v…
Chẳng hạn, trong Nghị quyết Trung ương 15, Đảng ta khẳng định: “Sử
dụng bạo lực cách mạng để giải phóng miền Nam và hình thức đấu tranh là
khởi nghĩa vũ trang”. Văn kiện Hội nghị15 nêu rõ: “Lấy sức mạnh của quần
chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực
lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng
nên chính quyền cách mạng của nhân dân” [26, tr.82]. Hoặc, trong Nghị
quyết BCT 1-1961 đã nêu rõ, tiến công địch bằng lực lực lượng chính trị và
lực lượng vũ trang; các Nghị quyết của BCT 2-1962 và tháng 12-1962, Nghị
quyết Trung ương 9 (12-1963) đã khái quát phương châm chiến lược của cách
160
mạng miền Nam là: Hai chân, ba mũi, ba vùng. Phương châm chỉ đạo chiến
lược đó, đã khẳng định, Đảng ta vận dụng sáng tạo quy luật bạo lực cách
mạng của chiến tranh nhân dân, quy luật phát triển của xã hội Việt Nam với
con người, đất nước và lịch sử của nó. Kết quả của sự sáng tạo trong chỉ đạo
đó của Đảng, đã đưa cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện lên đỉnh cao mới:
cuộc chiến tranh không phân tuyến, nhưng quân và dân miền Nam có thể tiến
công và nổi dậy ở khắp nơi. Thế trận chiến tranh nhân dân trở nên vô địch,
mà kẻ thù - dù có tàn bạo đến đâu cũng không thể đảo ngược được tình thế,
không thể có chủ động chiến lược [60 tr.35]. Khi đế quốc Mỹ ồ ạt đổ quân
vào miền Nam, mở các cuộc phản công chiến lược “tìm diệt” chủ lực của ta,
“chộp bắt” cơ quan đầu não của ta trên chiến trường. Đồng thời sử dụng
không quân và hải quân bắn phá miền Bắc, chuyển từ chiến lược “chiến tranh
đặc biệt” sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”, Đảng ta nhận định: sức mạnh
của Mỹ có thể sử dụng trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam là sức
mạnh hạn chế (tác giả nhấn mạnh) và chỗ yếu của Mỹ là những chỗ yếu
không thể nào khắc phục được”. Từ đó, Đảng nêu chủ trương cụ thể, trong đó
nhấn mạnh:
- Phải giữ vững và tiếp tục giành thế chủ động tiến công trên chiến
trường, vừa đánh Mỹ, vừa diệt nguỵ.
- Tiếp tục quán triệt và vận dụng phương châm đánh lâu dài, dựa vào
sức mình là chính.
- Phải cố gắng tập trung lực lượng của cả hai miền, tranh thủ thời cơ
giành thắng lợi quyết định trong một thời gian ngắn trên chiến trường miền
Nam.
Bởi, theo sự phân tích của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì “cuộc chiến tranh
này căn bản là ở miền Nam, Mỹ thua ở miền Nam tức là thua, ta thắng ở miền
Nam tức là ta thắng. Cho nên phải giành thắng lợi quyết định trong một thời
161
gian, ta không nói mấy năm, mấy tháng, mấy ngày, nhưng trong một thời gian
càng ngắn càng tốt” [54, tr.18]. Bên cạnh đó, Người xác định: “tiêu diệt và
phá tan được quân nguỵ, tiêu diệt được nhiều quân Mỹ” [54, tr.18].
Sau đó, Người nêu rõ: cuộc kháng chiến của ta là toàn dân, thực sự là
cuộc chiến tranh nhân dân. Người yêu cầu cán bộ cao cấp “phải gương mẫu,
phải quan tâm đến đời sống của cán bộ, phải đồng cam cộng khổ”, “Phải có
tác phong thời chiến, khẩn trương, giản dị”, “chỉ có chiếc ba lô trên lưng là
đi”. Người dạy: ngoài đường lối, chính sách, chiến lược, chiến thuật của ta
đúng, đồng cam cộng khổ là cái không thể thiếu được… việc ấy ảnh hưởng
chẳng những cho cán bộ nói chung, mà còn ảnh hưởng trong nhân dân nữa.
Nhân dân thấy bộ đội ta, chính phủ ta cùng sống như dân, lo lắng cho nhân
dân, không có quan cách gì cả. Đây cũng được xem là cơ sở thắng lợi của
cách mạng, của chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Xuất phát từ thực tế cách mạng miền Nam, Đảng ta cho rằng, quá trình
nhận thức quy luật hành động của địch và vận dụng quy luật chiến tranh cách
mạng của ta là quá trình tạo ra những điều kiện tất yếu để làm cho nghệ thuật
biết đánh, biết thắng Mỹ của ta phát huy tác dụng. Đồng thời, đẩy mạnh tác
dụng ngược lại cuộc chiến tranh xâm lược của địch ngày càng bất lợi đối với
chúng. Rõ ràng, việc nhận thức và vận dụng quy luật chiến tranh cách mạng
không phải là điều đơn giản. ở đây, không phải là quy luật đã bày sẵn để cho
ta nắm bắt một cách dễ dàng, mà thường ẩn náu bên trong và luôn diễn ra sự
tác động ngược chiều của quy luật chiến tranh cách mạng của ta và quy luật
chiến tranh xâm lược của địch.
Do đó, chúng ta chỉ có thể đánh bại ý chí xâm lược của địch và thắng
lợi hoàn toàn khi chúng ta biết phát huy đầy đủ tính năng động chủ quan của
nhận thức và vận dụng quy luật chiến tranh cách mạng một cách đúng đắn,
162
sáng tạo, tự giác.
ở thời kỳ chống chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, trong thư gửi
vào Nam, ngày 29-6-1971, khi đánh giá về thế và lực của ta, đồng chí Lê
Duẩn đã viết: Ta đánh giá đúng so sánh lực lượng giữa ta và địch, thấy rõ
nguồn gốc sức mạnh của ta là tinh thần làm chủ của nhân dân là thế tiến công
của cách mạng; trên cơ sở đó, đã chú trọng xây dựng thế và lực của ta cả về
chính trị, quân sự, ngày càng vững mạnh.
Khi chiến lược “Việt Nam hoá ra đời”, Đảng ta đã nhận định: “chiến
lược đó đẻ ra trong thế thất bại bế tắc; nó chứa đầy những mâu thuẫn bên
trong không thể nào khắc phục được. Tuy vậy, địch vẫn còn những chỗ mạnh
tương đối về quân số, hoả lực, khả năng cơ động, về địa bàn chiếm giữ, về
chiến lược kinh tế quân sự. Nhưng nếu ta tiếp tục đủ sức mạnh tổng hợp để
tiến công, nhất định những mâu thuẫn, chỗ yếu của chúng càng thêm sâu sắc
trầm trọng, chỗ mạnh của chúng sẽ giảm sút, nhất định ta sẽ đánh bại được
âm mưu và chủ trương chiến lược mới của địch; đế quốc Mỹ không thể nào
tránh khỏi bị thất bại hoàn toàn (Nghị quyết BCT 4-1969).
Thực hiện Nghị quyết của Đảng, nhân dân ta đẩy mạnh cuộc tiến công
liên tục, toàn diện (quân sự, chính trị, ngoại giao) vào chiến lược “Việt Nam
hoá chiến tranh” của Níchxơn và đã thu được những thắng lợi hết sức to lớn.
ở miền Nam, quân và dân ta đã đánh bại hầu hết các cuộc hành quân
lấn chiếm của địch, lấy lại được nhiều vùng do địch lấn chiếm; thu hẹp vùng
kiểm soát của địch, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng của ta.
Từ giữa năm 1974, đã xuất hiện một hình thái mới ở Miền Nam. Chiến
thắng giải phóng Thượng Đức, Phước Long (6-1-1975), chứng tỏ rằng, khả
năng đánh thắng toàn bộ quân nguỵ đang trở thành hiện thực trước mắt. ở
miền Bắc, công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế, tập trung đến mức cao
nhất cho cách mạng miền Nam cũng đã đạt được những thành tựu hết sức to
163
lớn. Miền Bắc không những đã đảm bảo ổn định đời sống nhân dân, mà còn
đảm bảo yêu cầu chi viện cho miền Nam. Trong hai năm (1973-1974), đã có
150.000 thanh niên nhập ngũ, lên đường ra mặt trận. Hàng vạn thanh niên
xung phong và cán bộ nhân viên chuyên môn, kỹ thuật được điều động vào
miền Nam làm nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước. Từ tháng 1-1973, miền Bắc đã
đưa vào miền Nam 140.000 tấn vật chất các loại, tăng gấp 4 lần so với năm
1972 [110, tr.38].
Rõ ràng là, quá trình hoàn thành, bổ sung và hoàn chỉnh đường lối,
phương pháp đánh thắng đế quốc Mỹ, cũng là quá trình phát triển của nhận
thức của Đảng ta đối với quy luật chiến tranh đang không ngừng vận động.
Không phải ngay từ đầu, Đảng ta đã có thể đề ra một đường lối đánh Mỹ hoàn
chỉnh mà phải trải qua quá trình đấu tranh thực tế, cọ sát với một kẻ địch cụ
thể; phải hiểu rõ địch mới có thể đánh thắng địch.
Mùa xuân 1970, BCH Trung ương Đảng họp Hội nghị toàn thể lần thứ
18, Hội nghị khẳng định thắng lợi oanh liệt của quân và dân ta trong Tổng
tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968. Nêu cao tinh thân phê bình và tự phê
bình, Trung ương Đảng đã kiểm điểm sự chỉ đạo chiến lược trong Tổng tiến
công, phân tích rõ nguyên nhân của những yếu kém trong chỉ đạo là do “chưa
nắm thật vững quy luật giành thắng lợi trong giai đoạn mới cũng phải trải qua
từng bước mới tiến lên giành thắng lợi quyết định”[37, tr.40], dẫn tới sự chỉ
đạo chiến lược “chưa xác định được một cách sát, đúng yêu cầu cụ thể của
từng bước tiến lên nhằm tiến công quân địch với một tinh thần vừa kiên
quyết, vừa linh hoạt, càng đánh càng mạnh, giành thắng lợi ngày càng
lớn”[37, tr.40].
Trên cơ sở đó Đảng đi tới kết luận “Giai đoạn mới này là một cuộc
chiến đấu lâu dài, quyết liệt đồng thời cũng là giai đoạn giai đoạn cuối cùng
của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Quá trình tiến lên của cuộc kháng
164
chiến trong giai đoạn mới là quá trình giành thắng lợi từng bước tiến tới giành
thắng lợi quyết định” [37, tr.69]. Hội nghị hạ quyết tâm thực hiện kỳ được Di
chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đánh giặc Mỹ cho đến thắng lợi
hoàn toàn”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 18 càu BCH Trung ương Đảng là
bước phát triển mới trong chiến lược quân sự của Đảng, thể hiện sự vận dụng
sáng tạo quy luật chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, của Đảng ta, trong điều kiện cụ thể nhằm đánh bại chiến lược
“Việt Nam hoá chiến tranh” của đế quốc Mỹ.
Tháng 6-1970, BCT Trung ương Đảng họp giữa lúc cục diện kháng
chiến của nhân dân ba nước Đông Dương phát triển mạnh mẽ, phát triển từ
tưởng quân sự của Hồ Chí Minh - coi Đông Dương là một chiến trường, BCT
xác định: “Chiến lược của ta trên chiến trường Đông Dương và trên chiến
trường mỗi nước đều hướng vào mục đích đánh bại âm mưu kéo dài và tăng
cường xâm lược của đế quốc Mỹ trên bán đảo Đông Dương, giành thắng lợi
từng bước, tiến lên giành thắng lợi quyết định ở MNVN, ở Campuchia và
Lào, đuổi đế quốc Mỹ ra khỏi Việt Nam và toàn cõi Đông Dương, đuổi đế
quốc Mỹ ra khỏi Việt Nam và toàn cõi Đông Dương. Lực lượng chiến lược để
tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ trên bán đảo Đông Dương bao gồm
toàn bộ lực lượng chính trị và quân sự của nhân dân ba nước Việt Nam,
Campuchia và Lào, đoàn kết chặt chẽ trong mặt trận thống nhất của các dân
tộc Đông Dương chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, dựa trên sự nhất trí cao
độ về đường lối chủ trương giữa Đảng ta và các đảng anh em Khơme và Lào”
[37, tr.242]. Quan điểm của Đảng ta về chiến lược chung trên toàn chiến
trường Đông Dương được hai đảng cách mạng anh em ở Lào và Campuchia
hoàn toàn nhất trí.
Khi đề cập đến vấn đề áp dụng sáng tạo quy luật chiến tranh cách mạng
vào điều kiện cụ thể ở nước ta, trong điều kiện chống chiến lược “Việt Nam
165
hoá chiến tranh”, BCT xác định: “quy luật chiến tranh nhân dân ở nước ta là
quy luật chiến tranh của toàn dân, là quy luật nổi dậy và tiến công, tiến công
và nổi dậy, đi đến tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt để đánh bại quân thù”
[37, tr.243]. Đó “là một quá trình tiêu diệt địch để giành quyền làm chủ, giành
quyền làm chủ để tiêu diệt; một quá trình đấu tranh chính trị và quân sự, quân
sự và chính trị; khởi nghĩa của quần chúng và chiến tranh cách mạng; chiến
tranh cách mạng và khởi nghĩa của quần chúng, giành thắng lợi từng bước đi
đến giành thắng lợi hoàn toàn” [37, tr.243].
Nghị quyết BCT Trung ương Đảng tháng 6-1970 chỉ đạo rất kịp thời
cuộc kháng chiến của nhân dân ta khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra
toàn chiến trường 3 nước Đông Dương. Trong dịp này, đồng chí Lê Duẩn, Bí
thư nhất BCH Trung ương Đảng viết tác phẩm “Dưới lá cờ vẻ vang của
Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi
mới”. Tác phẩm đã phân tích sâu sắc đường lối cách mạng và đường lối quân
sự của Đảng ta, mà cơ sở là phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng cách mạng, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Cách mạng và khoa học,
khoa học và cách mạng là biểu hiện tập trung nhất của tinh thần sáng tạo cách
mạng, là những đặc tính cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh mà lâu nay Đảng ta đã kết hợp một cách chặt chẽ và vận dụng một cách
sáng tạo, tài tình. Chính vì vậy, mới có thể giải thích được vì sao Đảng ta đã
giải quyết một cách xuất sắc những nhiệm vụ lớn lao trong sư nghiệp đánh
thắng đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc,đưa cả nước
cùng tiến lên CNXH.
Chúng ta đều biết, đấu tranh quân sự là đặc trưng của chiến tranh lạnh.
Muốn giành được thắng lợi trong chiến tranh phải có sức mạnh quân sự nhất
định (bao gồm cả thế và lực) trên chiến trường, nhưng những yếu tố làm nên
sức mạnh quân sự không chỉ có vũ khí, trang bị kỹ thuật, số lượng quân đội
166
đông, mà còn gồm những yếu tố khác nữa, như chính trị - tinh thần, thái độ
của người lính, sự ủng hộ của người dân, sức mạnh của thể chế chính trị, nghệ
thuật chỉ đạo chiến tranh, khi đã có đường lối đúng, chủ trương đúng v.v…
Song, bao trùm lên trên hết là con người. Trong công cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, con người Việt Nam chính là nhân tố quyết định thắng lợi của
cuộc kháng chiến. Người dân Việt Nam giàu lòng yêu nước, có tinh thần đoàn
kết chống ngoại xâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng đúc kết: “Dân ta có một
lòng yêu nước nông nàn. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến
nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một
làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lượt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn,
nó nhấn chím tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước [56, tr.116].
Sức mạnh truyền thống của dân tộc Việt Nam được mục tiêu XHCN soi
sáng, được phát huy cao độ dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã
trở thành tình cảm, tư tưởng cao quý nhất, thiêng liêng nhất, cội nguồn của trí
tuệ sáng tạo và lòng dũng cảm của con người Việt Nam. Bước vào cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mỗi người dân Việt Nam mang trong mình
một dòng máu yêu nước với trình độ văn hoá ngày càng được nâng cao
[112,tr.221]
Vì vậy, họ sẵn sàng xả thân vì nước, vì sự tồn vong của dân tộc, vì
tương lai của CNXH. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc
biệt trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện đường lối chống Mỹ cứu
nước (1954-1975), Đảng ta đã biết khơi dậy và phát huy cao độ sức mạnh của
con người Việt Nam, phát động 1 cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn
diện. Đúng như chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “31 triệu đồng bào ta là 31
triệu chiến sỹ diệt Mỹ”. Khi toàn dân đã đồng lòng tham gia cuộc kháng
chiến, thì hình thức chiến đấu vô cùng phong phú, muôn hình vạn trạng, ai
cũng đánh giặc, bằng bất cứ thứ vũ khí gì có trong tay, ai cũng có thể đánh
167
giặc ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào.
Thực tiễn đấu tranh cách mạng của nhân dân ta trong mỗi thời kỳ đã
giúp Đảng ta phát hiện ra những quy luật trong chiến tranh nhân dân, quy luật
đánh Mỹ và thắng Mỹ, từ đó Đảng đề ra đường lối, chủ trương, cụ thể hoá
bằng các Nghị quyết đúng đắn và tổ chức thực hiện, tạo ra lực lượng mạnh
với quyết tâm cao, chuyển hoá sức mạnh, ý chí tinh thần thành sức mạnh, vật
chất.
Với kinh nghiệm chỉ đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng ta
nêu rõ: con đường thực lực của cách mạng Việt Nam vốn lấy dân làm gốc lấy
việc xây dựng cơ sở chính trị quần chúng làm nền tảng. Trước yêu cầu xây
dựng và phát triển thực lực cách mạng miền Nam thời kỳ đầu chống chiến
lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ, để chuyển cuộc đấu tranh từ
chính trị lên vũ trang, Đảng ta khẳng định “nếu ta tổ chức lực lượng chính trị
cho tốt, khi cần vũ trang sẽ không khó”. ở đây, tư tưởng “người trước, súng
sau” của chủ tịch Hồ Chí Minh lại được khẳng định phát huy trong giai đoạn
cách mạng mới.
Với chủ trương đúng đắn đó, ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng
chiến, một đội quân chính trị quần chúng chống Mỹ đã thực sự ra đời. Khi lực
lượng vũ trang của ta chưa đủ mạnh thì lực lượng đấu tranh chính trị quần
chúng là nhân tố quyết định bảo vệ cách mạng, đánh bại âm mưu của Mỹ-
Nguỵ.
Chính chiến lược “chiến tranh một phía” của Mỹ - Nguỵ đã bị thất bại
thảm hại trước các phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân. Phong trào
đấu tranh chống Mỹ đã lôi cuốn hàng triệu lượt người tham gia. Chẳng hạn,
chỉ trong 2 nam 1955-1956, theo số liệu thống kê, đã có tới 7 triệu lượt người
tham gia đấu tranh chính trị, năm 1959 có 5 triệu lượt người, năm 1960 có tới
168
10 triệu lượt người [112, tr.223].
Trước sự phát triển nhanh của chiến tranh nhân dân, với những đòn tiêu
diệt quân chủ lực nguỵ của quân và dân ta đã đưa chiến lược “chiến tranh đặc
biệt” của Mỹ đến chỗ phá sản, buộc Mỹ phải chuyển sang chiến lược “chiến
tranh cục bộ”.
ở miền nam, do sự phát triển của lực lường kịp thời và bố trí chiến lược
chủ lực trên chiến trường đúng, nên khi quân Mỹ đổ quân vào, mở cuộc phản
công chiến lược “tìm và diệt”, quân và dân ta đã đánh thắng quân Mỹ ngay
những trận đầu ở Núi Thành, Vạn Tường (khu 5) Đất Cuốc, Bầu Bàng (Đông
Nam Bộ), Plây me (Tây Nguyên) … ở miền Bắc, trong cuộc chống chiến
tranh phá hoại của địch, ta đã hạ hàng trăm máy bay hiện đại, bắt sống nhiều
giặc lái, đã tổ chức phòng, tránh, sơ tán thành công, đảm bảo giao thông vận
tải thông suốt, liên tục tăng cường chi viện cho miền Nam. Chính Tay-lo,
từng là đại sứ Mỹ bên cạnh chính quyền nguỵ Sài Gòn đã phải thú nhận :
“Sức mạnh không quân là một sự yểm trợ, nhưng nó không thể quyết định
việc chặn đứng những con người kiên quyết chiến đấu trên mặt đất… Chúng
tôi đã không đánh giá đúng tinh thần cực kỳ kiên quyết và đức tính hy sinh vì
sự nghiệp của người Việt Nam” [90, tr.181].
Bài học về phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp chống Mỹ cứu
nước, có ỹ nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta
hiện nay.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã chỉ rõ: “Mọi hoạt
động của Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội phải hướng vào việc phát huy
yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất”
[43,tr.45].
Hiện nay chúng ta đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong
điều kiện “nhân tố vật chất”, “nhân tố kỹ thuật” còn nhiều yếu kém, còn ở
169
trình độ thấp. Khi đó chúng ta phải phấn đấu vươn lên để đạt trình độ tiên tiến
ở thời gian tới. Điều kiện cơ bản nhất để tạo nên sự chuyển biến thực sự trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và đảm bảo sự thành công của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là phải phát huy cao độ nhân tố con
người. Vấn đề đặt ra là, “nhân tố con người” với tư cách vừa là mục tiêu vừa
là động lực của cách mạng, thì cần nhận thức một cách đúng đắn về đặc điểm
và vai trò của nhân tố con người trong giai đoạn cách mạng hiện nay, trên cơ
sở đó tìm được một hệ thống giải pháp thích hợp để phát huy cao độ nhân tố
170
con người.
Kết luận
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta mà đỉnh cao là
cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mùa xuân 1975 đã kết thúc thắng lợi hoàn
toàn và trọn vẹn cách đây hơn 30 năm. Nhưng ý nghĩa thắng lợi và những bài
học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến thần thánh đó vẫn giữ nguyên giá trị
và còn hết sức sống động đối với nhân dân ta và nhân dân tiến bộ yêu hoà
bình trên thế giới, đang đấu tranh xây dựng một xã hội tốt đẹp: công bằng,
dân chủ, văn minh. Vì vậy, nghiên cứu, tìm hiểu về cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước nói chung, những vấn đề trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức thực hiện thắng lợi các quyết định chiến lược của Đảng thời kỳ chống
Mỹ, cứu nước nói riêng là rất cần thiết, cấp bách, không những có ý nghĩa to
lớn về mặt khoa học, mà còn có giá trị thực tiễn sâu sắc, đặc biệt trong sự
nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay của dân tộc ta.
Từ việc phân tích, luận giải tư tưởng chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành
thằng lợi quyết định của Đảng trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, luận văn đã góp thêm cơ sở cho việc khẳng định: Thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả của một loạt các nhân tố tạo
nên. Mà nguồn gốc của mọi nhân tố ấy là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của
Đảng ta, với đường lối giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội và với nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh hết sức tài tình. Trong đó, tư
tưởng chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết định của Đảng trong
công cuộc kháng chiến là minh chứng sinh động, cụ thể nhất.
Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ quyết tâm tiêu
diệt phong trào yêu nước của nhân dân ta, biến miền Nam thành thuộc địa
171
kiểu mới, thành căn cứ quân sự để tiến công miền Bắc, xoá bỏ độc lập dân tộc
và CNXH ở nước ta, lập phòng tuyến ngăn chặn CNXH tràn xuống Đông
Nam á.
Trước âm mưu thâm độc đó của đế quốc Mỹ, Đảng ta đứng đầu là Chủ
tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đã nêu cao quyết tâm: Kiên quyết đánh bại cuộc
chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, nhằm bảo
vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trong cả nước, đưa đất nước đi lên CNXH.
Trong quá trình chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng
ta trên cơ sở nắm vững mục tiêu cuối cùng của cuộc kháng chiến, nắm vững
phương châm đánh lâu dài, từ thực tiễn âm mưu thủ đoạn của địch trong từng
thời kỳ, mà có chủ trương và biện pháp đánh thắng chúng từng bước, đánh bại
từng chiến lược với những đòn quyết định, tạo ra bước ngoặt mới về chiến
lược, làm thay đổi cục diện chiến tranh. Qua đó tạo thời cơ, nắm thời cơ, tạo
thế và lực mới, mở những trận tiến công chiến lược, làm thay đổi tương quan
lực lượng, tiến tới tổng tiến công và nổi dậy, đánh bại âm mưu xâm lược của
kẻ thù, giành thắng lợi.
Từ thực tiễn chỉ đạo và tổ chức thực hiện, nhằm đánh bại các chiến
lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, qua các thời kỳ lịch sử, như chiến lược
“vành đai” và “tăng cường liên minh” (1954 - 1960); thử nghiệm “chiến tranh
hạn chế” dưới hai hình thức “Chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965), “chiến
tranh cục bộ” (1965 - 1968), “Việt Nam hoá chiến tranh” (1969 - 1975), Đảng
ta đã đánh giá đúng âm mưu, thủ đoạn, chỗ mạnh, điểm yếu căn bản của địch
và đề ra nghị quyết sáng suốt, đúng đắn, đúng thời điểm, để chỉ đạo cho sự nỗ
lực của toàn quân, toàn dân đánh bại ý chí xâm lược của kẻ thù, giành thắng
lợi quyết định tiến tới giành thắng lợi cuối cùng, hoàn thành mục tiêu của
172
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết định, Đảng ta
quán triệt tư tưởng chiến lược tấn công và thực hành tư tưởng chiến tiến công
một cách sáng tạo, linh hoạt.
Qua nghiên cứu tư tưởng chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi
quyết định của Đảng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, luận văn đã
bước đầu làm rõ nội hàm tư tưởng. Đó là khi nêu quyết tâm giành thắng lợi
quyết định là Đảng ta nêu mục tiêu giành một bước thắng lợi căn bản trong
tình hình cụ thể của cuộc kháng chiến. Điều đó rõ ràng có khác với giành
thắng lợi hoàn toàn. Lật giở những trang sử oanh liệt, của cuộc kháng chiến
chống Pháp, chúng ta thấy, cuộc tấn công chiến lược Đông Xuân (1953 -
1954) mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ làm chấn động địa cầu, chính
là một thắng lợi quyết định. Với thằng lợi đó, địch phải ký Hiệp định
Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương năm 1954.
Trong chống “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ, Đảng ta có chủ trương
đánh tan một số sư đoàn chủ lực của nguỵ, cùng với khởi nghĩa của quần
chúng để lập một chính phủ độc lập, trung lập, làm cho Mỹ không kịp trở tay,
bị động về chính trị; đồng thời có sách lược khôn khéo để Mỹ chịu thua, rút
lui mà đỡ mất “danh dự”. Đến chống “chiến tranh cục bộ”, khi mở cuộc tổng
tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, Đảng ta lại nêu ra nội dung giành
thắng lợi quyết định khá cụ thể. Đó là tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận
nguỵ quân, đánh đổ nguỵ quyền các cấp, giành chính quyền về tay nhân dân,
tiêu diệt một phần sinh lực và phương tiện chiến tranh của quân Mỹ, làm cho
chúng không thực hiện được các nhiệm vụ chính trị, quân sự; trên cư sở đó
đập tan ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải chịu thua, chấm dứt
mọi hành động chiến tranh ở cả hai miền Nam, Bắc; Thực hiện các mục tiêu
cơ bản là giành độc lập dân chủ, hoà bình, trung lập cho miền Nam, tiến tới
173
thống nhất nước nhà. Đồng chí Lê Duẩn đã nhấn mạnh, chúng ta quyết tâm
thực hiện cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968 nhằm làm tung toé
các khả năng, từ đó có thể giải quyết vấn đề miền Nam bằng đòn đánh quân
sự hoặc một giải pháp chính trị. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu
Thân 1968, tuy chưa thực hiện được tất cả các mục tiêu trên, nhưng là một
đòn sấm sét giáng vào Mỹ - nguỵ, mở ra một bước ngoặt trong công cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta, buộc đế quốc Mỹ phải lùi
bước. Đó là một thắng lợi rất to lớn, không có thắng lợi ấy thì cũng không thể
có được những thắng lợi sau.
Đến thời kỳ chống “Việt Nam hoá chiến tranh”, Đảng ta đã nêu ra nội
dung giành thắng lợi quyết định là đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ,
đánh cho Mỹ phải rút hết quân, đánh cho nguỵ phải suy sụp, tạo điều kiện cơ
bản để thực hiện một miền Nam độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập tiến tới
thống nhất nước nhà. Và năm 1973, với tổng hoà chiến thắng từ chiến trương
miền Nam trong cuộc tổng tiến công xuân-hè 1972 và chiến thắng “Điện Biên
Phủ trên không” ở miền Bắc đã buộc Hoa Kỳ phải ký Hiệp định Pari, chấp
nhận rút quân về nước đem lại thắng lợi quyết định cho cách mạng miền
Nam, tạo đà để đi đến thắng lợi cuối cùng, giải phóng hoàn toàn miền Nam,
thống nhất đất nước.
Trong bối cảnh của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN hiện nay, tư tưởng chỉ đạo giành thắng lợi quyết định của Đảng trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vẫn giữ nguyên giá trị và mang tính
lịch sử cao. Vận dụng và phát triển nội dung tư tưởng này tròng công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay
sẽ có ý nghĩa to lớn, tạo thế và lực mới đưa đất nước đi lên trên con đường
174
độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Tài liệu tham khảo
1. Gi. Amtơ (1995), Lời phán quyết về Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân,
Hà Nội.
2. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1995), Tổng
kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi và bài học, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến
tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975- Thắng lợi và bài học, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Văn Bạo (2007), “Xác định mục tiêu chiến lược và mục tiêu chủ
yếu trước mắt trong chỉ đạo kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, Tạp
chí Lịch sử Đảng, (4), tr45-46.
5. Nguyễn Bình (2005), “Vai trò của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam
Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, Tạp chí
Lịch sử Đảng, (12), tr11-14.
6. Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam
(1994), Kết luận về tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ.
7. Bộ Quốc Phòng - Ban Tư tưởng văn hoá trung ương - Thành uỷ thành
phố Hồ Chí Minh (2006), Đại thắng mùa xuân 1975 - Bản lĩnh và
trí tuệ Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
8. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1991), Cuộc chiến
tranh xâm lược thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, Hà
Nội.
9. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1994), Lịch sử quân
175
đội nhân dân Việt Nam, tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
10. Mai Văn Bộ (1985), Tấn công ngoại giao và tiếp xúc bí mật, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh.
11. Nguyễn Đình Bin (2002), Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
12. Nguyễn Bình (2005), “Vai trò của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam
Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, Tạp chí Lịch sử
Đảng, (12), tr11-14.
13. Hoàng Cầm (1978), “Chiến dịch tiến công Nguyễn Huệ năm 1972”, Tạp
chí Quân đội nhân dân, (8), tr5-13.
14. Chiến thắng Điện Biên Phủ sức mạnh dân tộc và tầm vóc lịch sử (1994),
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nôi.
15. Trường Chinh (1976), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam”,
tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
16. G.Côncô (1989), Giải phẫu một cuộc chiến tranh, tập 1, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
17. G.Côncô (1991), Giải phẫu một cuộc chiến tranh, tập 2, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
18. Lê Duẩn (1972), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập tự do vì chủ
nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà
Nội.
19. Lê Duẩn (1985), Thư vào Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
20. Lê Duẩn (1981), Tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của chúng
ta, Nxb Sự thật, Hà Nội.
21. Văn Tiến Dũng (1989), Bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
22. Văn Tiến Dũng (1996), Về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nxb
176
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Văn Tiến Dũng (1992), “Thắng lợi chiến lược làm chuyển biến cục diện
chiến tranh”, Tạp chí ịch sử Đảng (2), tr 20 - 28.
24. Nguyễn Anh Dũng(1990), Về chiến lược quân sự toàn cầu của đế quốc
Mỹ, Nxb Sự thật, Hà Nội.
25. Phạm Huy Dương - Phạm Bá Toàn (2005), Ba mươi năm chiến tranh
giải phóng những trận đánh đi vào lịch sử, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 22, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 23, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 24, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 25, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 26, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 27, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 28, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 29, Nxb
177
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 30, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 31, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 32, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 33, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 34, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 35, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 37, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Ph. B. Đavítsơn (1995), Những bí mật của cuộc chiến tranh Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
46. Hà Đăng (2003), “Hiệp định Pari về Việt Nam - một mốc son trên đường
thắng lợi”, Tạp chí Cộng sản, (667), tr19-24.
47. G.C. Herring (1998), Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Vũ Quang Hiển, Nguyễn Văn Khánh (2008), “Việt Nam - Hoa Kỳ con
đường dẫn tới đàm phán và ký Hiệp định Pari”, Tạp chí Lịch sử
178
quân sự (7), tr3-8.
49. Lê Mạnh Hùng (2002), “Góp phần tìm hiểu giá trị của chiến thắng “Điện
Biên Phủ trên không” (tháng 12 - 1972)”, Tạp chí Lịch sử Đảng,
(12), tr17-19.
50. Trần Thị Thu Hương (2008), “Hiệp định Pari năm 1973 thành quả đấu
tranh trên mặt trận ngoại giao của Đảng”, Tạp chí Lịch sử Đảng (6),
tr24-29.
51. Nguyễn Khắc Huỳnh (2008), “Đàm phán và Hiệp định Pari”, Tạp chí
Nghiên cứu quốc tế, (1), tr15-19.
52. Hồ Chí Minh toàn tập (2000), tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
53. Hồ Chí Minh toàn tập (2000), tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
54. Hồ Chí Minh toàn tập (2000), tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
55. Hồ Chí Minh (1967), Về nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước, Nxb Sự Thật, Hà
Nội.
56. Hồ Chí Minh (1976), Vì độc lập, vì tự do, vì chủ nghĩa xã hội”, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
57. Hồ Khang (2003), “Tết Mậu Thân” một thành công trong chỉ đạo chiến
tranh của Đảng thời kỳ kháng chiến chống Mỹ”, Tạp chí Lịch sử
Đảng, (1), tr11-15.
58. Kết luận của Bộ chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam, ngày 23-4-1994, số
215-BBK/BCT.
59. Nguyễn Thành Lê (1998), Cuộc đàm phán Pari về Việt Nam (1968-
1973), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Nguyễn Đình Lê (2005), “Tìm hiểu về đường lối chống Mỹ, cứu nước
của Đảng trong cách mạng miền Nam”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (6),
tr33-35.
61. V.I.Lênin (1979): Toàn tập, tập 14, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva
179
62. V.I. Lênin (1963): Toàn tập, tập 20, Nxb Sự thật, Hà Nội.
63. V.I. Lênin (1963): Toàn tập, tập 21, Nxb Sự thật, Hà Nội.
64. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (1984), tập 2, Nxb Sách giáo khoa
Mác - Lênin, Hà Nội.
65. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), tập 2, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
66. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
67. Nguyễn Văn Linh (1994), “Chiến thắng Bình Giã là cột mốc thắng lợi
thứ hai sau đồng khởi”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (6), tr30-31.
68. Nguyễn Phúc Luân (2005), Ngoại giao Việt Nam trong cuộc đụng đầu
lịch sử, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
69. Nguyễn Lữ (1986), “Cuộc chiến tranh không quân của đế quốc Mỹ đánh
phá miền Bắc Việt Nam, Tạp chí Lịch sử quân sự, (6), tr51-61.
70. Lê Xuân Lựu (1997), “Nghệ thuật đánh thắng địch từng bước, tạo thời cơ
giành thắng lợi hoàn toàn”, Tạp chí Cộng sản, (518), tr37-42.
71. Lê Xuân Lựu (2003), “Cuộc tiến công chiến lược tết Mậu Thân và sự phá
sản chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ”, Tạp chí Cộng
sản, (669), tr20-23.
72. Lê Xuân Lựu (2005), “Nghệ thuật đánh thắng từng chiến lược chiến
tranh của đế quốc Mỹ”, Tạp chí Cộng sản, (732), tr15-18.
73. M.Maclia (1990), Việt Nam - Cuộc chiến tranh mười ngàn ngày, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
74. Lê Văn Mạnh (2002), “Đảng lãnh đạo xây dựng, bảo vệ miền Bắc phát
huy vai trò hậu phương lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
180
nước”, Tạp chí Lịch sử Đảng (8), tr48-49.
75. Lê Văn Mạnh (2007), “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo chống chiến
lược” Việt Nam hoá chiến tranh” của đế quốc Mỹ từ 1969-1975”,
Luận án Tiến sỹ, Hà Nội.
76. Hoàng Minh (1975), Thất bại của một sức mạnh phi nghĩa, Nxb Quân
đội nhân dân, Hà Nội.
77. Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ, cứu nước (1985), tập 1, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
78. Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ, cứu nước (1986), tập 2, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
79. R.S.Mc Namara (1995), Nhin lại quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài
học về Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
80. Trần Nhâm (1978), Nghệ thuật biết thắng từng bước, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
81. Vũ Dương Ninh (2008), “Quan hệ Mỹ - Thiệu trong giai đoạn cuối của
cuộc hoà đàm Pari về Việt Nam”, Tạp chí Lịch sử quân sự (4), tr6-
10.
82. Những lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1960), tập V, Nxb Sự
Thật, Hà Nội.
83. Phân viện Hà Nội (2005), Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
84. Đặng Phong (1991), 21 năm viện trợ Mỹ ở Việt Nam, Viện nghiên cứu
Khoa học thị trường - giá cả, Hà Nội.
85. Nguyễn Trọng Phúc (2006), Tìm hiểu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
1930 - 2005, Nxb Lao động, Hà Nội.
86. Pi. A. Pulơ (1985), Nước Mỹ và Đông Dương từ Rudơven dến Níchxơn,
181
Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.
87. Trần Văn Quang (1987), “Chiến dịch Trị - Thiên - Đỉnh cao của cuộc
tiến công chiến lược năm 1972”, Tạp chí Quân đội nhân dân, (4),
tr4-12.
88. Lương Viết Sang (2004), Đảng lãnh đạo đấu tranh ngoại giao tại Hội
nghị Pari về Việt Nam (1968 - 1973), LATS, Hà Nội.
89. Lương Viết Sang (2002), “Quá trình hình thành chủ trương vừa đánh vứa
đàm của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, Tạp
chí Lịch sử Đảng (12), tr40-44.
90. Sức mạnh Việt Nam (1976), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
91. Phùng Thế Tài (2000), “Tầm nhìn xa của Bác”, Nhân dân, (16.384), tr2
92. Hoàng Văn Thái (1982), “Xây dựng và phát huy sức mạnh của hậu
phương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, Tạp chí Cộng
sản (12), tr11-19.
93. Nguyễn Chí Thanh (1995), “Vì sao quân và dân miền nam thắng lớn Mỹ
và nguỵ thua to trong mùa khô 1965 - 1966, Tạp chí Quốc phòng
toàn dân (4), tr31-38.
94. Nguyễn Anh Thái (2001), Lịch sử thế giới hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
95. Hoàng Minh Thảo (1987), “Về nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch trong chiến
dịch Bắc Tây Nguyên 1972”, Tạp chí Quân đội nhân dân, (6), tr26-
32.
96. Mạnh Quang Thắng (1998), “Tiến công ngoại giao và đàm phán ở Pari”,
Tạp chí Lịch sử Đảng, (3), tr39-52.
97. Nguyễn Huy Thục (1995), “Những năm tháng chiến đấu quyết định buộc
Mỹ ký kết hiệp định chấm dứt chiến tranh”, Tạp chí Quốc phòng
182
toàn dân, (2), tr85-88.
98. Nguyễn Duy Trinh (1976), Miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong quá trình
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, Nxb Sự thật, Hà Hội.
99. Tống Hồ Trinh (1987), “Nghệ thuật vừa đánh vừa đàm của Đảng ta trong
kháng chiến chống Mỹ”, Tạp chí Quân Đội nhân dân, (12), tr34-42.
100. Trần Trong Trung (2002), “Trận Điện Biên Phủ trên không 30 năm
trước”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (12), tr10-16.
101. Nguyễn Xuân Tú (2001), Đảng chỉ đạo giành thắng lợi từng bước trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thời kỳ (1965 - 1975), Luận
án Tiến sỹ, Hà Nội.
102. Đào Duy Tùng (1986), Tìm hiểu tư duy khoa học của Đảng ta trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
103. Hoàng Tùng (1978), Thế tiến công của ba dòng thác cách mạng, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
104. Viện Lịch sử Đảng (1985), Những sự kiện lịch sử Đảng, tập III (Về
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975), Nxb Thông tin lý
luận, Hà Nội.
105. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1999), Mấy vấn đề chỉ đạo chiến lược
trong 30 năm chiến tranh giải phóng (1945 - 1975), Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
106. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1990), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước (1954 - 1975), tập I, Nxb Sự thật, Hà Nội.
107. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1990), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước (1954 - 1975), tập II, Nxb Sự thật, Hà Nội.
108. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1997), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước (1954 - 1975), tập III, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
109. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1999), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ,
183
cứu nước (1954 - 1975), tập IV, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
110. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2001), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước (1954 - 1975), tập V, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
111. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2007), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước (1954 - 1975), tập VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
112. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1995), Đại thắng mùa xuân 1975
nguyên nhân và bài học, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
113. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2005), Lịch sử quân sự Việt Nam, tập
11, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
114. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2003), Tóm tắt các chiến dịch trong
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 - 1975, Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
115. Viện Sử học (1985), Sức mạnh chiến thắng của cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
116. Hồ Kiểm Việt (2005), “Cục diện kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ -
Sự thông nhất giữa chiến lược của Đảng với tiên đoán thiên tài của
Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, (1), tr21-24.
117. Việt Nam Thông tấn xã (1971), Tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mỹ về
cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, tập 2, Việt Nam Thông tấn xã
phát hành, Hà Nội.
118. Nguyễn Thế Vỵ (2005), “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào” - Biện
chứng của quy luật đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta”,
184
Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 12, tr83-85.
Danh mục các phu lục
Tên phụ lục
TT
Trang
1
177
Lực lượng quân sự và chi phí chiến tranh của Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam
2 Số quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam từ 1961 đến 1973
178
3 Kết quả bình định lập ấp chiến lược của Mỹ-nguỵ trên toàn miền
178
Nam từ 1964-1973
4 Viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam từ 1955-1975
179
5 Số lượng máy bay, tàu chiến bị bắn trong chiến tranh phá hoại của
179
Mỹ ở miền Bắc
6 Thành tích chiến đấu tổng hợp của quân và dân ta đánh thắng chiến
180
tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ ở miền Nam
7 Sơ đồ diễn biến trận ấp Bắc
181
8 Diễn biến trận vận động tiến Bình Giã - Xuân Sơn
182
9 Diễn biến chiến dịch Ba Gia Bắc Quảng Ngãi hè 1965
183
10 Diễn biến trận tiến công Đồng Xoài
184
11 Sơ đồ cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất của địch (1965-1966)
185
12 Diễn biến chiến dịch phản công đánh thắng cuộc hành quân
186
Gianxơn Xity của Mỹ
13 Diễn biến chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh 1968
187
14 Diễn biến đợt 1 tiến công Sài Gòn - Gia Định
188
15 Cuộc tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968
189
16 Diễn biến chiến dịch Bắc Tây Nguyên
190
17 Diễn biến chiến dịch Quảng Trị năm 1972
191
18 Diễn biến chiến dịch Nguyễn Huệ
192
19 Diễn biến chiến dịch tiến công tổng hợp ở quân khu 8
193
20 Một số hình ảnh về cuộc kháng chiến chống Mỹ, nước
194
185
Phụ lục 1:
Lực lượng quân sự và chi phí chiến tranh của Mỹ
trong chiến tranh xâm lược Việt Nam
(so sánh với chiến tranh thế giới thứ hai và chiến tranh Triều Tiên)
Chiến tranh thế
Chiến tranh
Chiến tranh xâm
giới thứ hai
Triều Tiên
lược Việt Nam
3 năm 8 tháng
3 năm
11 năm 1 tháng
Thời gian
(12/1941 - 8/1945)
(6/1950 - 6/1953)
Số quân Mỹ huy
327.000
(12/1961 - 1/1973) 549.500*
động lúc cao nhất
(30-6-1953)
(4-1969)
Số bom đạn và
14.300.000
thuốc nổ Mỹ đã
5.000.000
2.600.000
(1961-1972)
dùng (tấn)
Số máy bay Mỹ sử
Riêng chiến trường
6.431**
dụng lúc cao nhất
Thái Bình Dương
1.500
(1969)
(chiếc)
539 (1941)
Riêng chiến trường
Số phi vụ
Thái Bình Dương
425.000
1.651.122
669.235
Chi phí chiến tranh
341
20
676***
(tỷ đô la)
* Không kể 25.000 quân Mỹ ở Thái Lan, Đài Loan, Philippin, Nhật Bản, Guam, hàng ngày
phục vụ các hoạt động quân sự của Mỹ ở Việt Nam
** Chỉ tính máy bay chiến thuật và máy bay lên thẳng
*** Con số do Bộ trưởng Thương mại Mỹ công bố 1972 là 352 tỷ đôla. Còn theo tính toán
của giáo sư Mỹ Xtiven tổng chi phí của Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam lên đến
900 tỷ đôla.
Nguồn: [90, tr.121-123]
186
Phụ lục 2:
Số quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam từ 1961 đến 1973
Đơn vị: 1000 tên
Nguồn: [90, tr.124]
Phụ lục 3:
Kết quả bình định lập ấp chiến lược của Mỹ-nguỵ trên toàn miền Nam từ 1964-1973
Nguồn:[101, Phụ lục 9]
187
Phụ lục 4:
Viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam từ 1955-1975
Đơn vị: Tấn
Nguồn: [3, phụ lục 3]
Phụ lục5:
Số lượng máy bay, tàu chiến bị bắn trong chiến tranh phá hoại
của Mỹ ở miền Bắc
Thời gian
B.52
Cộng
F.111
Bắn chím, bán cháy tàu chiến
Bắn rơi máy bay Các loại khác
1964
12
12
1
1965
834
834
15
1966
773
773
22
1967
5
1.062
1.067
69
1968
1
3
567
571
36
1969-1971
1
169
170
3
1972
54
10
670
724
118
1973 (đến ngày 17-1)
7
13
20
7
Tổng cộng
68
13
4.100
4.181
271
Nguồn: [90, tr.177]
188
Phụ lục 6:
Thành tích chiến đấu tổng hợp của quân và dân ta đánh thắng chiến tranh xâm lược
thực dân mới của Mỹ ở miền Nam
Tiêu diệt và làm tan rã
Thu và phá huỷ
Năm
Cộng
Quân đội Sai Gòn
Máy bay
Đại bác
Xe bọc thép
Mỹ và đồng minh
Đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mỹ
Tàu xuồng chiến đấu
1961
8
34.321
34.329
1
13
17
1962
256
49.102
49.358
200
34
72
Đánh bại “chiến tranh
1963
993
92.303
93.296
690
85
141
đặc biệt”
542
1964
2.000
126.123
128.123
141
292
Cộng
2.357
301.849
305.106
1.433
273
522
1965
19.200
148.300
167.500
1.337
426
166
1966
118.000
150.200
268.200
2.130
1.200
97
Đánh bại
“chiến tranh
1967
170.000
195.000
365.000
3.200
750
4.000
200
cục bộ”
1968
230.000
400.000
630.000
6.000
1.100
7.000
1.000
Cộng 537.200
893.500 1.430.700 12.667 1.850 12.626
1.463
1969
235.000
410.000
645.000
6.400
2.500
10.000
1.700
Đánh bại
1970
110.000
310.000
420.000
5.900
1.850
7.400
680
1971
20.000
230.000
250.000
1.800
650
2.500
700
“Việt Nam hoá chiến
400
1972
(a)
500.000
500.000
2.500
1.500
2.850
tranh”
Cộng 365.000 1.450.000 1.815.000 16.600 7.500 22.750
3.480
Đánh bại
hoàn toàn chiến tranh
1974
255.000
255.000
518
2.143
1.112
416
xâm lược
1975
1.351.000
1.351.000
1.850
1.660
2.074
1.611
thực dân
mới
(a) Không có số liệu
Nguồn: [90, tr174-175]
189
Phụ lục 7
Nguån:[108, tr.188]
Phụ lục 8
190
Nguån: [108, tr328]
Phụ lục 9
191
N
guån:
[108,
tr.370]
Phụ lục 10
192
Nguồn:[
108,
tr.364]
193
Phụ lục 11
Nguồn: [109, tr.72]
194
Phụ lục 12
Nguồn: [109, tr.232]
195
Phụ lục 13
Nguồn:[110, tr.110]
196
Phụ lục 14
Nguồn:[110, tr.88]
Phụ lục 15
197
Nguồn:[110, tr.152]
Phụ lục 16
198
Nguồn: [111, tr.88]
199
Phụ lục 17
Nguồn:[111, tr.128]
200
Phụ lục 18
Nguồn: [111, tr.184]
201
Phụ lục 19
Nguồn: [111, tr.200]
202
Phụ lục 20
Một số hình ảnh về cuộc kháng chiến chống Mỹ, nước của Việt Nam
Tổng thống Kennơdi (bên phải) thông qua chiến lược “chiến tranh đặc biệt” Oasinhtơn, tháng 11-1961
Nguòn:[108, tr.20]
Lực lượng đặc biệt Mỹ ở Đắc Lắc, 1963
Nguồn: [108, tr.212]
Nguỵ Sài Gòn dùng chiến thuật “Thiết xa vận” càn quét gom dân
Nguồn: [108, tr.202]
Chiến thuật Trực thăng vận
Nguồn: [108, tr.212]
199
Cố vấn Mỹ huấn luyện cho biệt kích nguỵ tập nhảy dù để tung ra phá hoại miền Bắc (ảnh sau buổi tập)
Nguồn: [108, tr.24]
ấp chiến lược Mỹ - Nguỵ xây dựng năm 1962
Nguồn:[108, tr.24]
200
Nhân dân phá ấp chiến lược trở về làng cũ Nguồn:[108, tr.162]
Phong trào đấu tranh chống Mỹ-Nguỵ ở đô thị miền Nam năm 1962 Nguồn:[108, tr.162]
201
tháo chạy
trong
Địch trận ấp Bắc Nguồn:[108, tr.202]
Làng xã chiến đấu Nguồn:[108, tr.220]
202
Lính thuỷ đánh bộ Mỹ đổ bộ vào Đà Nằng, ngày 8-3-1965
Nguồn: [109, tr.24]
Lính sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ càn quét, bắn phá vùng Tam Quan, Bình Định mùa khô 1965-1966
Nguồn:[109, tr.25]
203
Nông dân miền Bắc “tay cày, tay súng” trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của địch
Nguồn: [109, tr.313]
Tải đạn ra chiến trường
Nguồn: [109, tr.376]
204
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo Hội nghị Bộ Chính trị tháng 12-1967 quyết định chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân miền Nam sang thời kỳ giành thắng lợi quyết định
Nguồn: [110, tr.1]
Lữ đoàn dù 173 (Mỹ) bị bộ đội tiến công ở chân cao điểm 875, tháng 11-1967
Nguồn:[110, tr199]
205
L.Giônxơn (người ngồi đầu bàn quay lưng lại) cùng bộ tham mưu đang vạch kế hoạch chiến tranh xâm lược Việt Nam Nguồn: [109, tr.24]
L.Giônxơn và các phụ tá theo dõi chiến sự ở Khe Sanh trên sa bàn tại Nhà Trắng
Nguồn: [110, tr.199]
206
Đồng bào Củ Chi đấu tranh chính trị chống Mỹ và nguỵ quyền Sài Gòn
Nguồn: [110, tr.279]
Nhân dân Mỹ biểu tình trước Lầu Năm Góc phản đối chiến tranh Việt Nam, đòi rút quân Mỹ về nước (10-1967)
Nguồn:[ 110, tr.278]
207
Chi viện cho chiến trường miền Nam bằng xe thồ Nguồn:[108, tr.180]
Bộ đội Trường Sơn vận chuyển hàng ra chiến trường, năm 1972
Nguồn:[111, tr.321]
208
Bộ đội cao xạ chiến đấu bảo vệ Hà Nội, tháng 12-1972
Bộ đội cao xạ chiến đấu bảo vệ Hải Phòng, tháng 12-1972
Xác máy bay B.52 bị tên lửa phòng không bắn rơi tại hồ Hữu Tiệp, làng Ngọc Hà, Ba Đình, Hà Nội Nguồn: [111, tr.320]
209
Hội đàm bí mật Lê Đức Thọ - Kítxinhgiơ tại Pari
Toàn cảnh phiên họp cuối cùng Hội nghị Pari, ngày 27-1-1973
Nguồn: [111, tr.321]
210
Nhân dân Tây Ninh nổi dậy giành quyền làm chủ
16 giờ ngày 29-3-1973, tại sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tư lệnh quân viễn chinh Mỹ làm lễ cuốn cờ rút khỏi miền Nam Việt Nam
Nguồn: [111, tr.321]
211
Quân giải phóng tiến vào Sài Gòn ngày 30-4-1975
Xe tăng tiến vào Dinh Độc Lập ngày 30-4-1975
212