TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG ------------------

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

HỆ THỐNG ƯU ĐÃI THUẾ QUAN PHỔ CẬP CỦA NHẬT BẢN VÀ HÀNG HOÁ XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM

Giáo viên hướng dẫn : TS. Phạm Duy Liên

Sinh viên thực hiện : Đỗ Thị Huyền

Lớp : Nhật 1 - K38F

HÀ NỘI – 2003

MỤC LỤC

Lời mở đầu ....................................................................................................... 4

Chương I: Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập của Nhật Bản........................... 7

I. Khái niệm về Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập ........................................ 7

1. Khái quát chung về Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập ..................... 7

2. Các mục tiêu chính của GSP .............................................................. 8

3. Các quy định chung trong các chế độ GSP ....................................... 9

II. Điều kiện để được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập của Nhật Bản .............. 9

1. Các nước được hưởng ưu đãi GSP...................................................... 10

2. Hàng hoá được hưởng ưu đãi.............................................................. 14

3. Các bước tiến hành để được hưởng ưu đãi GSP.................................. 15

III. Mức độ ưu đãi ............................................................................................ 20

IV. Quy tắc xuất xứ của Nhật Bản.................................................................... 21

1. Tiêu chuẩn về vận tải ......................................................................... 21

2. Tiêu chuẩn xuất xứ ............................................................................. 22

V. Cơ chế bảo vệ .............................................................................................. 26

1. Giới hạn tối đa.................................................................................... 26

2. Thực hiện giới hạn tối đa.................................................................... 27

3. Áp dụng linh hoạt khối lượng quốc gia tối đa và giới hạn tối đa......... 27

4. Áp dụng giới hạn tối đa và khối lượng quốc gia tối đa ....................... 27

CHƯƠNG II: CHẾ ĐỘ ƯU ĐÃI THUẾ QUAN

PHỔ CẬP CỦA NHẬT BẢN ĐỐI VỚI HÀNG

HOÁ XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM ....................... 30

I. Đánh giá thực trạng phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước trong

thời gian qua..................................................................................................... 30

1. Những tiến triển trong động thái tốc độ tăng trưởng thương mại về

quy mô kim ngạch xuất nhập khẩu Việt - Nhật................................................. 30

2. Thực trạng tiến triển động thái cơ cấu các mặt hàng xuất nhập

khẩu Việt - Nhật............................................................................................... 36

II. Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập của Nhật Bản giành cho hàng hoá xuất

khẩu của Việt Nam........................................................................................... 39

III. Những tồn tại trong việc dành ưu đãi thuế quan phổ cập của Nhật Bản

đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua................................... 44

IV. Xu hướng phát triển quan hệ buôn bán giữa hai nước trong thời gian tới ... 49

1. Thuận lợi ............................................................................................ 50

2 . Khó khăn........................................................................................... 53

3. Triển vọng.......................................................................................... 57

Chương III: Các giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả chế độ ưu đãi thuế

quan phổ cập của Nhật Bản .............................................................................. 59

I. Các giải pháp ở tầm vĩ mô............................................................................. 60

1. Định hướng phát triển cơ cấu sản phẩm xuất khẩu hợp lý và có

2. Những công việc cụ thể mà Chính phủ cần và phải làm

sớm............................................................................................65

hiệu quả cao. .......................................................................................... 61

3. Những giải pháp nhằm khai thác tốt thị trường Nhật Bản cho sự

phát triển tương lai nền kinh tế Việt Nam............................................... 66

II. Các giải pháp ở tầm vi mô ........................................................................... 67

Kết luận ........................................................................................................... 72

Tài liệu tham khảo............................................................................................ 81

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. GSP (Generalized System of Preferences): Hệ thống ưu đãi thuế quan

phổ cập

2. UNCTAD (United Nation Conference on Trade and Development): Tổ

chức thương mại và phát triển của Liên hợp quốc

3. MFN: Chế độ ưu đãi tối huệ quốc

4. KNXNK: Kim ngạch xuất nhập khẩu

5. KNXK: Kim ngạch xuất khẩu

6. KNNK: Kim ngạch nhập khẩu

7. XNK: Xuất nhập khẩu

8. CNH-HĐH: Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá

9. LDCs (Less Development Countries): Các nước kém phát triển

10. HS (Hamonised System Code): Mã phân loại sản phẩm hài hoà

11. Ceiling: Giới hạn trần

12. JETRO: Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản

13. C/O (Certificate of origin): giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá

LỜI MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài:

Năm 2003 đánh dấu 30 năm quan hệ ngoại giao Việt - Nhật, nhưng

thực sự quan hệ này mới phát triển nở rộ trong vài năm gần đây. Hiện nay

Nhật Bản là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Mặt hàng chủ yếu

xuất sang Nhật Bản là: Dầu thô, hải sản, dệt may, than đá. Bốn mặt hàng

này thường xuyên chiếm khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam

vào Nhật Bản trong những năm gần đây.

Tuy kim ngạch xuất khẩu tăng đều qua các năm nhưng cho tới nay Việt

Nam vẫn là một bạn hàng nhỏ của Nhật Bản, tỷ trọng của Việt Nam trong

kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản năm 2001 mới khoảng 0,47% trong khi

tỷ trọng của Trung Quốc là 12,4%; của Thái Lan là 2,5%; Malayxia 2,8%

và Philippin cũng tới 1%. Với những thuận lợi về vị trí địa lý , về truyền

thống và về tính bổ sung lẫn nhau của cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu giữa

hai nước thì tỷ trọng nói trên là khá nhỏ bé so với tiềm năng. Ngoài nguyên

nhân là các doanh nghiệp Việt Nam rất thiếu thông tin về thị trường Nhật

Bản, dẫn tới việc các doanh nghiệp Việt Nam không nắm bắt được nhu cầu

hàng hoá, thói quen tiêu dùng cũng như những quy định về quản lý nhập

khẩu của Nhật Bản; thì một nguyên nhân mà Khoá luận này muốn đề cập

đến đó là: Mặc dù Nhật Bản đã dành cho hàng hoá của Việt Nam chế độ ưu

đãi thuế quan phổ cập (GSP) nhưng diện mặt hàng có lợi ích thiết thực đối

với Việt Nam không nhiều. Những mặt hàng của Việt Nam (chủ yếu là

nông sản, giày dép ) khi nhập khẩu vào Nhật Bản vẫn phải chịu mức thuế

cao hơn mức thuế mà Nhật Bản dành cho Trung Quốc và các nước

ASEAN. Việc này đã hạn chế đáng kể khả năng tăng trưởng xuất khẩu của

Việt Nam vào Nhật Bản.

2.Mục đích và phạm vi nghiên cứu

Không ngoài mong muốn tìm hiểu về những ưu đãi mà Nhật Bản giành

cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đặc biệt là chế độ ưu đãi GSP. Từ đó

thấy được những lợi thế cũng như những tồn tại trong việc giành ưu đãi

GSP, góp phần thúc đẩy hàng hoá xuất khẩu. Điều này phù hợp với đường

lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là khuyến khích xuất

khẩu tăng thu ngoại tệ với mục tiêu lâu dài là CNH - HĐH đất nước.

Mối quan hệ giữa Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập của Nhật Bản với

hàng hoá xuất khẩu Việt Nam vào thị trường Nhật Bản chính là phạm vi

nghiên cứu của Khoá luận. Hàng hoá xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản

phụ thuộc rất nhiều vào những chính sách nhập khẩu của Nhật Bản trong

đó có chính sách ưu đãi về thuế. Thuế quan có ưu đãi hàng hoá mới xuất

khẩu được nhiều vì khi đó hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam có khả năng

cạnh tranh cao.

3. Bố cục của đề tài và phương pháp nghiên cứu

Với cơ cấu 3 chương, chương I bằng việc nghiên cứu hệ thống ưu

đãi thuế quan phổ cập Nhật Bản cho chúng ta một cái nhìn tổng thể nhất về

những ưu đãi mà Nhật Bản giành cho các nước trong dó có Việt Nam; đến

chương II chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ hơn về những ưu đãi mà Nhật Bản

giành cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, và được so sánh với những ưu

đãi của các nước khác dành cho Việt Nam, đánh giá thực trạng và thấy

được xu hướng phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước trong thời gian

tới cũng được đề cập trong chương này; mặc dù nhận sự ưu đãi nhưng cũng

phải nói thêm răng ưu đãi mà Nhật Bản dành cho chúng ta còn nhiều tồn

tại, chúng ta không chỉ chờ đợi những chuyển biến tích cực từ phía Nhật

Bản mà chúng ta cần chủ động có những biện pháp nhằm khai thác có hiệu

quả chế độ ưu đãi ở cả tầm vi mô và vĩ mô, đó cũng chính là mục tiêu mà

chương III nhằm đạt được.

4. Dự kiến kết quả đạt được

Khai thác có hiệu quả chế độ ưu đãi GSP không nhiều mà Nhật

Bản dành cho Việt Nam góp phần giúp hàng hoá Việt Nam cạnh

tranh được với hàng hoá của các nước khác trên thị trường Nhật

Bản. Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam còn có thể tăng thu

nhờ đàm phán tăng giá đối với các mặt hàng có uy tín trên thị

trường. Với Khoá luận này không dám đưa ra biện pháp sử dụng

GSP thâm nhập thị trường Nhật Bản mà chỉ ra thực trạng và

những biện pháp mà Đảng, Nhà nước cũng như bản thân các

doanh nghiệp đang cùng cố gắng sử dụng song song với việc khai

thác tốt Hệ thống ưu đãi này nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá

vào Nhật Bản. Thị trường Nhật Bản đầy tiềm năng đối với hàng

hoá Việt Nam, nhưng để thâm nhập vào thị trường Nhật Bản

không phải là dễ. Tuy nhiên quan hệ Việt Nam - Nhật Bản đang

trong giai đoạn thuận lợi, chúng ta phải tận dụng để phát triển

quan hệ thương mại với Nhật Bản từ đó phát triển kinh tế đẩy

nhanh quá trình CNH - HĐH đất nước. Đây cũng chính là mục

tiêu trước mắt cũng như lâu dài của Đảng và Nhà nước ta.

Mong muốn của đề tài rất lớn, tuy nhiên do năng lực có hạn

cũng như chưa có nhiều kinh nghiệm thực tế nên không tránh khỏi

những khiếm khuyết, rất mong sự đóng góp của thầy cô và các

bạn. Nhân đây em cũng xin gửi lời cảm ơn tới TS. Phạm Duy Liên

đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành khoá luận này và cũng cho

em gửi lời cảm ơn tới toàn thể các thầy cô trong Khoa Kinh tế đối

ngoại Trường Đại Học Ngoại Thương Hà Nội đã trao cho em

nhưng kiến thức trong suốt thời gian học tập tại nhà trường và

cũng là hành trang cho em sau này.

Hà Nội, tháng 12 năm 2003

Sinh viên lớp Nhật I K38F

Đỗ Thị Huyền

CHƯƠNG I

HỆ THỐNG ƯU ĐÃI THUẾ QUAN PHỔ CẬP CỦA NHẬT BẢN

I. Khái niệm về Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập

Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập là kết quả của các cuộc đàm phán

liên Chính phủ, được tổ chức dưới sự bảo trợ của Hội nghị Thương mại và

Phát triển của Liên hợp quốc - UNCTAD (United Nation Conference on

Trade and Development) kể từ 1964 và chính thức được đưa ra áp dụng từ

tháng 6 năm 1972. Các nước đi tiên phong trong việc này là Liên Xô (áp

dụng từ năm 1965) và Úc (áp dụng từ năm 1966), Nhật Bản, EU, Nauy áp

dụng GSP từ năm 1971, Bungari, Hungari, Tiệp, áo, Phần Lan, Thụy Điển,

Thụy Sĩ, Tân Tây Lan áp dụng từ năm 1972 và Mỹ, Balan áp dụng từ năm

1976.

1. Khái quát chung về Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập

Theo Hệ thống ưu đãi phổ cập, các ưu đãi thuế quan được áp dụng cho

hàng hoá xuất khẩu từ các nước đang phát triển, trên cơ sở không cần có đi

có lại và không phân biệt đối xử.

Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập, tên tiếng Anh là Generalized

System of Preferences (viết tắt GSP), là một hệ thống mà theo đó các nước

phát triển, được gọi là các nước cho hưởng, cho các nước đang phát triển,

được gọi là các nước được hưởng, hưởng chế độ ưu đãi bằng cách giảm

hoặc miễn thuế. Chế độ ưu đãi được xây dựng trên cơ sở không có sự phân

biệt và không đòi hỏi bất kỳ nghĩa vụ nào từ phía các nước đang phát triển.

GSP làm giảm thuế suất theo chế độ tối huệ quốc hoặc miễn thuế hoàn

toàn đối với những sản phẩm nhất định được sản xuất tại các nước được

Trên cơ sở của Hệ thống GSP, mỗi quốc gia xây dựng một chế

độ GSP cho riêng mình với những nội dung, quy định, mức ưu đãi

hưởng ưu đãi khi xuất khẩu sang các nước dành ưu đãi.

khác nhau tuy nhiên mục tiêu của hệ thống GSP vẫn được đảm

bảo.

2. Các mục tiêu chính của GSP là:

- Tạo điều kiện để các nước đang phát triển thấy được khả năng tiềm

tàng về mở rộng buôn bán phát sinh từ chế độ GSP và tăng cường khả năng

sử dụng chế độ này.

- Tăng kim ngạch xuất khẩu của các nước được hưởng, thúc đẩy

công nghiệp hoá của các nước này.

- Đẩy mạnh mức tăng trưởng kinh tế của những nước này.

- Phổ biến thông tin về các quy định và thủ tục điều chỉnh buôn bán

theo chế độ này.

- Giúp đỡ các nước được hưởng thiết lập những điểm trọng tâm

trong nước để tăng cường sử dụng GSP

- Cung cấp thông tin về các quy đinh liên quan đến thương mại như

thuế chống phá giá và chống bù giá, các quy định hải quan, thủ tục giấy

phép nhập khẩu, và pháp luật thương mại khác quy định các điều kiện thâm

nhập thị trường các nước cho hưởng.

Hệ thống GSP này tạo ra một lợi thế cho các nước đang phát triển và

kém phát triển trong việc nâng cao sức cạnh tranh của các hàng hoá do các

nước này xuất khẩu vào các nước dành ưu đãi. Người nhập khẩu nhờ đó mà

có thể chuyển mua hàng từ các nước không được ưu đãi sang mua hàng từ

các nước được hưởng ưu đãi này. Biểu thuế quan ưu đãi này giúp người

xuất khẩu thâm nhập được tốt hơn vào thị trường nước dành ưu đãi hoặc

giúp mở rộng thị trường đó. Hơn nữa, nếu sản phẩm là một trong số các

hàng đã có tiếng trên thị trường đó, người xuất khẩu có thể đàm phán với

bạn hàng để tăng giá. Như vậy, lợi ích về tài chính của việc giảm hay miễn

thuế quan sẽ được các bạn hàng cùng hưởng chứ không phải chỉ có một

mình người nhập khẩu hưởng.

Hiện nay Hệ thống GSP bao gồm 15 chế độ của 29 nước dành ưu đãi:

Mỹ, Nhật, Úc, New Zealand, EU (15 nước: Bỉ, Pháp, Hà Lan, Đan Mạch,

Hy Lạp, Đức, Ailen, Italy, Lucxembua, Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,

Phần Lan, Áo, Thụy Điển), Thụy Sĩ, Na Uy, Canada, Nga, Balan, Hungari,

Chế độ ưu đãi Phổ cập GSP được các cơ quan lập pháp của các

nước dành ưu đãi ban hành thành các văn bản pháp luật có hiệu

lực cho từng thời kỳ nhất định có thể là 1 năm, 10 năm hoặc vài

ba chục năm.

Cộng hoà Bungari, Séc, Slovackia, Cộng hoà Belarus.

Chính phủ Nhật thiết lập GSP từ ngày 01/08/1971 kể từ đó, Hệ thống đã

qua nhiều lần cải cách và chương trình GSP hiện hành được thực hiện đến

31/03/2011. Nhật Bản dành ưu đãi thuế quan thông qua GSP cho 149 quốc

gia và 15 vùng lãnh thổ trong đó có Việt Nam (xem bảng 1: Danh sách các

nước được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập của Nhật Bản )

3. Các quy định chung trong các chế độ GSP

Thông thường trong các chế độ GSP của các nước dành ưu đãi

thường quy định về các vấn đề cơ bản như sau:

- Những quy tắc chung về hệ thống GSP mà các nước đó dành cho

các nước được hưởng ưu đãi;

- Công bố những loại hàng hoá được hưởng ưu đãi, những laọi hàng

hoá không được hưởng ưu đãi, những loại hàng hoá thuộc diện ưu đãi có

điều kiện hạn chế;

- Những nước nào được hưởng ưu đãi;

- Mức độ ưu đãi so với thuế suất MFN;

- Các tiêu chuẩn về xuất xứ phải tuân thủ để được hưởng GSP của

nước dành ưu đãi.

II. Điều kiện để được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập

Với những mục tiêu mà Hệ thống ưu đãi nhằm tới là giúp đỡ các nước

đang phát triển tăng thu nhập về xuất khẩu; khuyến khích phát triển công

nghiệp và đầu tư đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế, mà bản thân các

nước đang và kém phát triển phải luôn tìm hiểu những ưu đãi dành cho

mình để khai thác một cách có hiệu quả những ưu đãi mà mình được

hưởng.

Để được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập GSP của các nước cho hưởng

ưu đãi phải thoả mãn những bước sau:

- Phải nằm trong danh mục các nước được hưởng ưu đãi mà nước

cho hưởng công bố.

- Phải thiết lập mã hải quan phù hợp với hệ thống phân loại hài hoà

HS cho những sản phẩm chuẩn bị xuất sang Nhật bản.

- Sản phẩm xuất sang phải nằm trong danh mục các sản phẩm được

hưởng. Trong danh mục thể hiện đồng thời mức thuế suất ưu đãi, nên xác

định lợi nhuận ưu đãi để định ra giá cả đưa cho người mua hàng cũng như

nước nhập khẩu.

-Kim ngạch hoặc số lượng nằm trong hạn ngạch nhập khẩu

-Và phải thoả mãn Quy tắc xuất xứ trong Hệ thống GSP: Tiêu chuẩn xuất

xứ, điều kiện gửi hàng, điều kiện về chứng từ.

1) Các nước được hưởng ưu đãi GSP

Trong hệ thống GSP của tất cả các nước dành ưu đãi có hai loại đối

tượng nước được hưởng là : Các nước đang phát triển và các nước kém

phát triển theo tiêu chuẩn của Liên hợp quốc. Theo tiêu chuẩn này các nước

Đông Nam Á: Campuchia, Lào, Miến Điện là các nước kém phát triển,

Việt Nam là nước đang phát triển.

Các nước kém phát triển được hưởng ưu đãi cao hơn các nước đang phát

triển cả về mức thuế ưu đãi và không bị hạn chế số lượng trần (Ceiling) và

một số các tiêu chuẩn khác. Có một số nước cho hưởng ưu đãi dành cho

toàn bộ các nước kém phát triển chế độ miễn thuế cho toàn bộ các loại sản

phẩm của nước đó hoặc là có quy chế đặc biệt cho các nước kém phát triển.

Hầu hết các nước đang phát triển thuộc nhóm 77 nước (cho tới nay có

khoảng 128 nước thành viên) đều được hưởng GSP. Có một số nước cho

hưởng ưu đãi mở rộng phạm vi ưu đãi ra ngoài khuôn khổ các nước thuộc

nhóm 77.

Các nước kém phát triển được hưởng ưu đãi cao hơn các nước đang phát

triển về mức thuế ưu đãi và không bị hạn chế về số lượng trần (ceiling) và

một số tiêu chuẩn khác thậm chí là cho các nước kém phát triển chế độ

miễn thuế toàn bộ các loại sản phẩm hoặc là có quy chế đặc biệt. Trong

năm tài chính 2003 (tháng 4/2003) Hệ thống GSP của Nhật có một số dự

thảo sửa đổi như mở rộng phạm vi điều chỉnh đặc biệt là hiệp định miễn

thuế và hạn ngạch cho các sản phẩm của các nước kém phát triển nhất.

(1) Mở rộng phạm vi của hiệp định miễn giảm thuế quan và hạn

ngạch cho các sản phẩm của các nước kém phát triển.

198 sản phẩm nông nghiệp và hải sản sẽ được bổ sung vào 298 mặt

hàng hiện có, đáp ứng đủ tiêu chuẩn của hiệp định. Biện pháp này sẽ làm

cho giá trị của những mặt hàng được miễn giảm thuế quan và hạn ngạch

chiếm tới hơn 90% tổng giá trị nhập khẩu từ các nước kém phát triển vào

Nhật bản.

(2) Mở rộng phạm vi của hệ thống ưu đãi chung GSP

118 sản phẩm nông nghiệp vừa mới được bổ sung vào 221 mặt hàng

hiện có đủ tiêu chuẩn của GSP. Một sản phẩm công nghiệp cũng sẽ được

bổ sung thêm. Hơn nữa thuế suất của 28 mặt hàng công nghiệp trong GSP

cũng sẽ giảm và 3 mức giá trần của các nhóm sản phẩm công nghiệp sẽ

được dỡ bỏ.

Để được hưởng chế độ ưu đãi GSP của Nhật, các nước/lãnh thổ phải yêu

cầu hoặc đề nghị Chính phủ Nhật, với điều kiện phải đáp ứng các điều kiện

sau:

-Kinh tế nước hoặc lãnh thổ đó phải đang ở giai đoạn phát triển.

-Quốc gia đó phải là thành viên của UNCTAD.

-Lãnh thổ đó phải có hệ thống thương mại cà thuế quan riêng.

-Quốc gia hoặc lãnh thổ đó yêu cầu được nhận ưu đãi đặc biệt về

thuế quan.

-Quốc gia hoặc lãnh thổ đó phải được Chính phủ quyết định là quốc

gia hay lãnh thổ mà những ưu đãi này được mở rộng một cách hợp lý.

Các quốc gia khác được xếp vào các nước kém phát triển (LDCs) sẽ

được hưởng các Chế độ đặc biệt dành cho LDCs.

áp-gha-ni-xtan

Cộng hoà Đôminic Malavi

Srilanca

Xanh Crixtopho và

anbani

Êcuađo

Malayxia

Nevin

Xanh Hêlêna và

Angiêri

Aicập

Manđivơ

Dependencies

Samoa Mỹ la tinh Ensanvađo

Mali

Xanh Lucia

Ănggôla

Ginê Xích đạo

Manta

Xanh Vinxen

Antigoa và

Quần đảo

Eritrea

Suđăng

Babuđa

Macsa

áchentina

Etxtônia

Moritani

Surinam

Adécbaidan

Etiôpi

Môrixơ

Xoadiland

Falkland islands and

Bahama

Mêxico

Siri

Dependencies

Baranh

Fiji

Micronnesia

Tãdikitxtan

Pôlynêsia thuộc

Bănglađét

Mônđôva

Tanzanhia

Pháp

Bácbađốt

Gabông

Môngcổ

Thái lan

Bêlaruts

Gambia

Môngserát

Tôgô

Bêlidê

Grudia

Maroc

Tokelau islands

Bênanh

Gana

Môdămbích

Tonga

Bécmuđa

Gibranta

Myanma

Trinidát và Tôbago

Butan

Grênađa

Mammibia

tuynidi

Bôlivia

Guatêmala

Nepan

Thổ nhĩ kì

Bốtxoana

Ghinê

Nicaragua

Tuốc mê nixtan

Braxin

Ghinê Bitxao

Nigiê

Turks and Caicos

islands

Quần đảo Vơgin

Guyana

Nigêria

Tuvanlu

thuộc Anh

Brunây

Haiti

Niue

Uganđa

Bảng 1: Các nước hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập của Nhật Bản

Bungari

Honđurát

Oman

Ucraina

Buốckina Phaxo

Hungari

Pakixtan

Urugoay

Burunđi

ấn độ

palau

uzebekistan

Cămphuchia

Inđônexia

Panama

Vanuatu

Camơrun

Iran

Papua Niu Ghinê Veneduela

đảo

Iraq

Paragoay

Việt Nam

Quần

Canari

Bờ biển ngà

Pêru

West Bank and

Cápve

Gaza Strip

Quần

đảo

Giamaica

Philippin

Yêmen

Cayman

Cộng

hoà

Gióc dan

Balan

Cộng hoà

liên

bang Nam tư

Trung phi

Ceuta

and

Cadăcstan

Romani

Dăm bia

Melilla

Sát

Kênya

Ruanđa

Dimbabuê

Chilê

Kyrgiz

Xao Tômê

Prinxipê

Côlômbia

Lào

ảrập Xếut

Cộng hoà dân

Latvia

Sênêgan

chủ Cônggô

Cộng

hoà

Libăng

Xâysen

Cônggô

Quần đảo Cúc

Lesothô

Siêralêôn

Cốtxtarica

Liberia

Slôvakia

Cuba

Libi

Slôvennia

Crôatia

Lithuania

Quần

đảo

Salômông

Séc

Cộng

hoà

Sômali

Mácxêđônia

Đôminica

Mađagatxva

Nam Phi

(Nguồn:Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập của Nhật Bản năm 2003 của Bộ Thương mại Nhật Bản xuất bản tháng 4 năm 2003)

2) Hàng hoá được hưởng ưu đãi

Phạm vi sản phẩm được hưởng ưu đãi tuỳ thuộc vào chính sách của

mỗi nước dành ưu đãi. Không phải tất cả các sản phẩm đều được hưởng ưu

đãi GSP. Thông thường các nước đó công bố danh mục hàng hoá có gắn

mã phân loại sản phẩm hài hoà - HS (Hamonised System Code) được

hưởng và không được hưởng GSP (gọi là danh mục thuận và danh mục từ

chối) và danh mục hàng hoá có giới hạn trần (ceiling). Các danh mục hàng

hoá này được xem xét lại theo định kỳ thường là hàng năm và được công

bố công khai cho các doanh nghiệp qua báo chí và tổ chức xúc tiến thương

mại của các nước, đồng thời có gửi cho các đầu mối về GSP ở các nước

dành ưu đãi cũng như các nước hưởng ưu đãi.

Các mặt hàng được hưởng ưu đãi thường là các sản phẩm nếu nhập khẩu

vào thị trường các nước cho hưởng ưu đãi sẽ không làm ảnh hưởng đến sản

xuất trong nước hoặc là hàng nông sản chưa chế biến, nguyên liệu cho công

Các mặt hàng không được hưởng GSP thường là các mặt hàng

tạo nguồn thu thuế lớn cho ngân sách hoặc là những sản phẩm

bảo hộ cao để sản xuất trong nước không bị tổn hại do nhập khẩu

gây ra.

nghiệp, hàng chế biến ở mức độ thấp và hàng thủ công.

Cụ thể với Nhật, các sản phẩm được hưởng bao gồm:

+ Các sản phẩm nông nghiệp (thuộc chương 1 đến chương 24 của

danh mục biểu thuế quan Nhật theo hệ thống hài hoà - HS - của tổ chức Hải

quan thế giới)

+ Các sản phẩm chế tạo, sản xuất (thuộc chương 25 đến chương 97

của danh mục biểu thuế quan Nhật Bản)

Bằng phương pháp loại trừ, Nhật bản quy định 111 sản phẩm mã 9

số thuộc danh mục biểu thuế quan không được áp dụng GSP để tạo điều

kiện cho sản xuất trong nước. Đó là các sản phẩm chế tạo công nghiệp.

Trong biểu nhập khẩu của Nhật có quy định các loại thuế suất sau

đây

cho mỗi mặt hàng:

- Thuế suất chung: đánh vào hàng nhập khẩu từ các nước không

được hưởng chế độ MFN của Nhật

- Thuế suất GATT đánh vào hàng của các nước được hưởng MFN

của Nhật và các nước thành viên GATT (WTO) .

- Thuế suất GSP đánh vào hàng hoá của các nước được hưởng GSP

của Nhật

- Thuế suất tạm thời phục vụ cho các chính sách điều tiết thương mại

Trong biểu thuế suất GSP ghi rõ mức thuế ưu đãi dành cho

các hàng hoá thuộc diện được hưởng GSP theo từng mặt hàng 6-8

chữ số theo mã số HS để các doanh nghiệp dễ dàng xác định hàng

hoá của mình được hưởng GSP hay không và mức thuế ưu đãi là

bao nhiêu. Việc làm này còn giúp định hướng được các dự án đầu

tư lâu dài và xác định thị trường tiêu thụ sản phẩm của các nhà

kinh doanh cũng như người sản xuất.

và đánh vào các mặt hàng do Chính phủ Nhật công bố.

3) Các bước tiến hành để được hưởng ưu đãi GSP

Bước 1: Xác định phân loại hàng hoá trong Biểu thuế quan

Cần phải xác định chính xác phân loại hàng hoá trong Biểu thuế quan

của nước nhập khẩu (số mã) của loại hàng hoá mà người xuất khẩu dự kiến

xuất khẩu đến thị trường nhất định.

Những sản phẩm được hưởng ưu đãi theo một chế độ GSP đều được quy

định trong biểu thuế nhập khẩu (HS) được áp dụng từ 01/01/1988 thì tất cả

các nước kinh tế thị trường dành ưu đãi đã áp dụng hệ thống này. Một số

các nước đang phát triển cũng đã áp dụng hệ thống HS, còn một số đang

chuẩn bị vận dụng. Cần phải biết được 4 con số đầu của biểu thuế quan

của từng sản phẩm để điền vào ô số 8 của giấy chứng nhận xuất xứ (mẫu

A) khi xuất khẩu sang Nhật.

Vì vậy, trước hết nên bắt đầu bằng cách xác định tên của sản phẩm dự

định xuất khẩu có tương ứng với mã số của mặt hàng đó trong Biểu thuế

quan của nước nhập khẩu hay không. Nếu gặp khó khăn gì trong việc xác

định đúng danh mục hàng dự kiến xuất khẩu thì phải tìm đến sự giúp đỡ từ

phía cơ quan Hải quan nước nhập khẩu hoặc qua người nhập khẩu để có

được sự giúp đỡ của Hải quan nước nhập khẩu.

Bước 2: Xác định phạm vi ưu đãi của sản phẩm

- Cần phải làm rõ xem sản phẩm xuất khẩu có thuộc diện ưu đãi trên

thị trường đó không.

- Phải kiểm tra sản phẩm quy định trong chế độ GSP với số mã và

tên sản phẩm trong Biểu thuế quan của nước dành ưu đãi.

Không phải tất cả các loại sản phẩm đều được hưởng GSP. Người xuất

khẩu phải làm rõ ngay vấn đề sản phẩm của mình co được hưởng ưu đãi tại

thị trường đó có không trước khi làm các việc tiếp theo. Khi làm việc này,

người xuất khẩu phải xác định danh mục hàng hoá trong khung của GSP,

xác định mức độ được quy định trong biểu thuế quan theo phân loại hàng

hoá bằng hệ thống HS và tên hàng hoá xuất khẩu ở đây có nằm trong quy

định được hưởng GSP hay không.

Các nước cho hưởng GSP thường có danh mục hàng hoá có thể được

hưởng GSP gọi là danh sách được ưu đãi (danh mục thuận) hoặc đưa ra các

loại hàng hoá bị loại trừ khỏi hệ thống ưu đãi (danh mục từ chối). Các danh

mục hàng hoá này được xem xét thường kỳ bởi các nước ưu đãi GSP và

thường hay thay đổi thường là một năm.

Bước 3: Đánh giá mức lợi thế ưu đãi

- Nếu sản phẩm xuất khẩu được hưởng GSP tại thị trường cụ thể thì

nên xác định mức lợi thế ưu đãi để xác định giá chào cho người mua/ người

nhập khẩu.

Khi đã xác định dược là sản phẩm xuất khẩu được hưởng ưu đãi GSP

thì người xuất khẩu lại phải xác định mức ưu đãi mà sản phẩm của mịnh

được hưởng ở thị trường dự định ( người xuất khẩu sẽ lấy đó làm cơ sở để

tính giá chào hàng cho người nhập khẩu). Để xác định được mức lợi thế ưu

đãi người xuất khẩu, phải tham chiếu với biểu thuế của nước dành ưu đãi

để tìm ra mức thuế chung và mức thuế ưu đãi GSP áp dụng cho sản phẩm

của mình. Sự chênh lệch gữa hai mức thuế đó chính là mức lợi thế ưu đãi.

Đó sẽ là lợi thế cạnh tranh mà người xuất khẩu có trên thị trường hơn

người không được hưởng ưu đãi mà sản phẩm của họ bị đánh thuế theo

mức thuế chung. Mức lợi thế ưu đãi càng lớn thì người xuất khẩu càng có

ưu thế cạnh tranh hơn trên thị trường về sản phẩm đó.

Thí dụ: Theo chế độ GSP của Nhật bản cho các mặt hàng công nghiệp

thuộc diện được hưởng GSP thì mức thuế nhập khẩu theo GSP chỉ bằng

50% mức thuế MFN. Còn hàng nông sản cũng được hưởng mức thuế GSP

thấp hơn mức thuế MFN. Như cà phê, thuế MFN là 20% còn thuế GSP là

10%; chè MFN 20% và GSP 14%; tiêu MFN 4,2%, GSP miễn thuế; tôm

MFN 6%, GSP 4%; mực MFN 10%, GSP 5%.

Bước 4: Kiểm tra Quota/giới hạn tối đa, giới hạn cạnh tranh cần thiết và

danh mục hàng trưởng thành.

-Cần kiểm tra về Quota/giới hạn tối đa được tiến hành sửa đổi hàng

năm trong các quy chế và hiểu rõ việc quản lý chúng.

- Cần kiểm tra các giới hạn và các trường hợp loại trừ xem sản phẩm

xuất khẩu đã bị loại khỏi ưu đãi hay chưa.

Giới hạn về lượng đối với hàng nhập khẩu được ưu đãi thường áp dụng

đối với những sảm phẩm nhạy cảm nhất định và được quy định trong các

quy chế của Nhật bản hiện nay.

Nhật bản hàng năm có công bố danh mục giới hạn trần

(ceiling) theo năm tài chính của Nhật kết thúc vào 31/3 hàng năm

đối với hàng công nghiệp từ nhóm 2523 đến 9603 HS. Trong đó

126 nhóm hàng tính giới hạn theo từng năm một, có 66 nhóm

hàng tính theo tháng và 36 nhóm tính theo ngày. Để nắm được

mặt hàng nào giới hạn theo kiểu nào, các doanh nghiệp có thể tra

cứu trong danh mục hàng hoá bị giới hạn, được công bố hàng

năm bởi Chính phủ của nước dành ưu đãi hoặc thông tin về giới

hạn qua các trung tâm quản lý GSP của nước xuất khẩu và nhập

khẩu.

Bước 5: Thực hiện đầy đủ quy chế về xuất xứ

Cần phải đảm bảo chắc chắn là sản phẩm xuất khẩu phù hợp với các tiêu

chuẩn về xuất xứ do các nước cấp ưu đãi đề ra. Mỗi nước đều có các tiêu

chuẩn riêng của mình.

Những quy định về xuất xứ là một phần quan trọng của mỗi chế độ

GSP. Các quy định này tồn tại để đảm bảo rằng ưu đãi về thuế quan theo

GSP chỉ dành cho những sản phẩm thực sự sản xuất ở nước được hưởng ưu

đãi. Vì vậy những quy định này có tính chất bắt buộc nhằm loại bỏ chế độ

GSP đối với sản phẩm từ nước thứ ba và đối với hàng qua cảnh hoặc các

sản phẩm chỉ chế biến ở mức thấp và không làm thay đổi bản chất của sản

phẩm được hưởng ưu đãi GSP.

Khi xem xét tiêu chuẩn về xuất xứ cần phải nắm vững cách quy định

của nước dành ưu đãi về tiêu chuẩn gia công chế biến và tiêu chuẩn tỷ

trọng. Đặc biệt phải biết chắc chắn hàng của mình được áp dụng theo loại

tiêu chuẩn nào.

Mọi chế độ GSP đều công bố các tiêu chuẩn về xuất xứ mà các sản

phẩm xuất khẩu được hưởng GSP phải đáp ứng đầy đủ. Chi tiết về các vấn

đề này đã được trình bày ở phần trên.

Bước 6: Kiểm tra các tiêu chuẩn gửi hàng

Cần phải kiểm tra xem các điều kiện gửi hàng đặc biệt nào phải thoả

mãn

Hầu hết tất cả các nước cấp GSP (trừ Úc), đều yêu cầu là hàng được gửi

trực tiếp từ nước được hưởng ưu đãi. Điều này nhằm để bảo đảm hàng vẫn

giữ được đặc tính riêng của chúng và không có sự thay đổi hoặc không có

sự chế biến nào trong quá trình vận tải. Nhìn chung các nước có liên quan

đến quy định rõ ràng rằng các trường hợp sau đây sẽ được coi là hàng gửi

thẳng:

- Hàng chuyển thẳng không qua lãnh thổ của nước khác.

m- Hàng vận chuyển qua lãnh thổ các nước khác ngoài nước xuất

khẩu được ưu đãi, có hoặc không có chuyển tải, có hoặc không lưu kho tạm

thời ở các nước đó, với điều kiện hàng nằm dưới sự kiểm soát của hải quan

nước chuyển tải hoặc lưu kho và không tham gia vào thương mại và không

qua các hoạt động trừ việc dỡ hàng, tái xếp hàng và các công việc khác cần

thiết để giữ cho hàng hoá được bảo quản tốt.

Tuy nhiên một số nước ưu đãi còn quy định một số điều kiện riêng

biệt khác nào đó mà cần phải xác định trước.

Bước 7: Chuẩn bị các chứng từ xác nhận

Mỗi quy chế đều đòi hỏi đưa ra chứng từ để xác nhận rằng sản phẩm

xuất khẩu đáp ứng được các tiêu chuẩn về xuất xứ đã đề ra. Các quy chế về

GSP yêu cầu cả tờ khai lần giấy xuất xứ Form A như là một bằng chứng

chứng từ phải có.

Chuẩn bị các chứng từ xác nhận: Đơn xin cấp giấy chứng nhận xuất xứ

phải kèm theo các chứng từ phù hợp có liên quan đến xuất xứ và gửi hàng.

“Form A” là một giấy chứng nhận để được hưởng quy chế ưu đãi được sử

dụng ở tất cả các nước dành ưu đãi

Thực hiện đầy đủ 7 bước trên mới có được ưu đãi thuế quan

GSP hoàn toàn. Bởi vì nhiều khi mặt hàng cần xuất khẩu đúng là

được hưởng ưu đãi thuế quan nhưng do áp mã hàng sai nên không

được hưởng ưu đãi, hay đơn cử ra đây một ví dụ nếu khai sai chứng từ

là giấy chứng nhận xuất xứ C/O dù chỉ là một mục khi đó chứng từ bị

coi là không hợp lệ và hàng hoá cũng sẽ không được hưởng ưu đãi. Các

doanh nghiệp nên tuân thủ chặt chẽ các bước trên.

III. Mức độ ưu đãi (Tariff Cuts)

Thông thường mức độ ưu đãi của đa số các mặt hàng thường được

tính bằng khoảng cách giữa thuế suất MFN và thuế suất GSP được công bố

trong các biểu thuế nhập khẩu của từng nước dành ưu đãi và thường ở mức

thấp hơn khoảng 50% mức thuế MFN. Hàng nhập khẩu vào Nhật bản theo

GSP có 67 mặt hàng được giảm 50% thuế suất so với thuế suất MFN.

- Các sản phẩm nông sản:

Có nhiều mức giảm thuế khác nhau được áp dụng đối với các sản phẩm

nông nghiệp, trong đó có cả hình thức miễn thuế.

- Các sản phẩm công nghiệp:

Các sản phẩm chế tạo, sản xuất nói chung được miễn thuế nhập

khẩu, ngoại trừ việc áp dụng hạn ngạch nhập khẩu đối với 1295 sản phẩm

mà 9 số theo danh mục biểu thuế quan Nhật gồm cả 111 sản phẩm khai

thác mỏ và chế tạo công nghiệp.

Thuế suất ưu đãi cho các sản phẩm phải áp dụng hạn ngạch nhập

khẩu là 0% hoặc bằng 20%, 40%, 60% hoặc 80% thuế suất phổ thông.

Có số liệu không mới về nhập khẩu của Nhật theo GSP năm 1992;

tổng kim ngạch nhập khẩu từ các nước hưởng GSP là 115.667 triệu USD,

hàng chịu thuế MFN là 76.780 triệu USD, hàng được hưởng GSP là 26.674

triệu USD, trong đó thực hiện GSP là 12.305 triệu USD.Với số liệu này,

thấy rằng hàng năm Nhật dành ưu đãi cho các nước đang phát triển vào

khoảng 26 tỷ USD để cạnh tranh với các hàng hoá của các nước không

thuộc diện ưu đãi, khoảng 23% hàng nhập khẩu của Nhật là từ các nước

hưởng ưu đãi được nằm trong danh mục hưởng GSP và lợi thế mà Nhật tạo

ra được cho các nước hưởng ưu đãi so với hàng hưởng MFN là khoảng

66%.Tuy nhiên, các nước được hưởng ưu đãi chỉ sử dụng ưu đãi ở mức

46% các khoản ưu đãi mà Nhật dành cho họ hàng năm. Điều này có nhiều

nguyên nhân nhưng chủ yếu là do không đáp ứng được các chỉ tiêu về xuất

xứ theo yêu cầu của nước nhập khẩu cũng như các quy định về giới hạn

trần (ceiling). Ngoài ra còn một lý do nữa là hàng năm nhiều loại hàng bị

loại ra khỏi diện ưu đãi do người xuất không nắm được thông tin kịp thời.

Phân tích cơ chế bảo vệ trong chế độ (Scheme) của Nhật cho thấy rõ

hơn tại sao các nước hưởng ưu đãi chỉ thực hiện được một nửa số tiền ưu

đãi mà lẽ ra mình được hưởng.

Mục tiêu của quy tắc xuất xứ là để đảm bảo sản phẩm có xuất

xứ từ nước được hưởng ưu đãi về thuế quan trong GSP nhận được

ưu đãi đúng đối tượng. Quy tắc xuất xứ được ban hành cùng với

chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP Scheme) của mỗi nước

dành ưu đãi trong đó quy định các tiêu chuẩn về xuất xứ phải tuân

thủ để được hưởng thuế quan ưu đãi. Để đáp ứng tiêu chuẩn

hưởng đối xử thuế quan ưu đãi, hàng hoá phải :

IV. Quy tắc xuất xứ của Nhật bản

1. Tiêu chuẩn về vận tải (Vận chuyển thẳng)

Tiêu chuẩn này là để đảm bảo rằng hang hoá giữ được tính chẩt và

không bị thay đổi hay chế biến thêm trong quá trình vận chuyển.

a) Về nguyên tắc hàng hoá đó phải được vận chuyển thẳng đến Nhật

mà không qua bất kỳ lãnh thổ nào ngoài quốc gia được hưởng xuất khẩu.

b) Tuy nhiên, đối với hàng hoá vận chuyển tới Nhật qua lãnh thổ

quốc gia khác, chúng được hưởng ưu đãi nếu

- Chúng không trải qua quá trình sản xuất nào tậi nước quá cảnh

ngoài việc chuyển tàu hay lưu kho tạm thời chỉ vì yêu cầu vận tải, và

- Vận chuyển hay lưu kho tạm thời đã được thực hiện tại khu vực

ngoại quan hay khu vực tương tự, dưới sự giám sát của các cơ quan hải

quan nước quá cảnh.

c) Về hàng hoá xuất khẩu từ một quốc gia được hưởng, để lưu kho

tạm thời hay trưng bày tại triển lãm, hội chợ và hoạt động tương tự tại nước

khác, được xuất khẩu bởi người mà đã xuất khẩu như vậy hàng hoá từ một

nước nói trên đến Nhật, chúng được hưởng ưu đãi nếu

- Việc vận chuyển đến Nhật từ nước nơi triển lãm được tổ chức

thuộc nói trên, và

- Triển lãm được tổ chức tại khu ngoại quan hay nơi tương tự, dưới

sự giám sát của hải quan nước đó.

2.Tiêu chuẩn xuất xứ

Hàng hoá được coi là có xuất xứ từ nước xin hưởng ưu đãi nếu chúng

được làm hoàn toàn ở nước đó.

Nếu hàng hoá được sản xuất hoặc chế biến một phần hay toàn bộ từ

nguyên liệu nhập khẩu không rõ xuất xứ thì những nguyên liệu đó phải qua

sản xuất hoặc chế biến ở nước xin hưởng ưu đãi đủ để làm cho chúng thay

đổi về chất.

Theo quy định chung, việc sản xuất hoặc chế biến được coi là đủ nếu

sản phẩm hoàn thiện được phân loại không cùng nhóm HS (mã 4 số) với

nguyên liệu hoặc bộ phận sử dụng để làm ra sản phẩm đó. Tuy nhiên, đối

với một số loại hàng hoá, các nhóm HS áp dụng cho sản phẩm hoàn thiện

và cho nguyên liệu, bộ phận phải có liên quan với nhau và phải đáp ứng các

yêu cầu cụ thể khác.

Ngoài ra, trong một số trường hợp trị giá nguyên liệu nhập khẩu phải

không vượt quá mức nhất định tỷ lệ % trị giá Hải qua tại thời điểm nhập

khẩu vào nước xin hưởng ưu đãi, trị giá hàng xuất khẩu là giá FOB của

hàng hoá bao gồm cả thuế nội địa đã được hoàn hoặc có thể được hoàn khi

Trong khi áp dụng tiêu chuẩn xuất xứ, chế độ đặc biệt sau sẽ

được áp dụng, cho những nguyên liệu nhập khẩu từ Nhật vào

nước được hưởng và được dùng sản xuất hàng hoá sẽ được xuất

xuất khẩu sản phẩm

khẩu sang Nhật (Quy tắc Thành phần nước bảo trợ hay Quy tắc

hàm lượng nước cấp ưu đãi).

(1)Trường hợp hàng hoá sản xuất tại một nước được hưởng chỉ từ

nguyên liệu nhập khẩu từ Nhật, hoặc những hàng hoá sản xuất tại nước

được hưởng chỉ từ nguyên liệu xuất xứ toàn bộ tại nước được hưởng và

nguyên liệu nhập từ Nhật, những hàng hoá này sẽ được coi là xuất xứ toàn

bộ tại nước đó.

(2)Mọi hàng hoá xuất khẩu từ Nhật được sử dụng làm nguyên liệu

thô hay thành phần để sản xuất ra hàng hoá không phải là hàng hoá nói ở

đoạn trên sẽ được coi là xuất xứ toàn bộ tại nước đó.

Tuy nhiên, đối với một số sản phẩm làm tại một nước được hưởng, chế

độ đặc biệt sẽ không được sử dụng.

Cụ thể có một số Quy tắc sau:

* Quy tắc xuất xứ cộng gộp

Trường hợp hàng hoá sản xuất tại một nước là thành viên của Hiệp

hội các Quốc gia Đông Nam Á - ASEAN (bao gồm Bruney, Indônexia,

Malayxia, Philippin, Xingapo, Thái lan và Việt Nam), những nước này

được coi như là một nước được hưởng vì mục đích áp dụng tiêu chuẩn xuất

xứ nói trên và quy tắc thành phần nước bảo trợ.

VỀ CHI TIẾT, CÁC NƯỚC ASEAN SẼ CHỊU

CÁC TÁC ĐỘNG SAU KHI ÁP DỤNG TIÊU

CHUẨN SẢN XUẤT CƠ BẢN.

Các hàng hoá liệt kê dưới đây được coi là xuất xứ tại ASEAN, khi tính

mức sử dụng nguyên liệu không có xuất xứ ASEAN.

a. Tất cả các nguyên liệu thô chỉ bao gồm hàng hoá có xuất xứ

ASEAN.

b. Tất cả các nguyên liệu thô chỉ bao gồm hàng hoá xuất khẩu từ

Nhật sang các nước ASEAN.

c. Tất cả các nguyên liệu thô chỉ bao gồm hàng hoá nói tại mục a và

b nói trên.

d. Những nguyên liệu thô mà bao gồm hàng hoá nơi tại mục a đến

mục c nói trên và hàng hoá không có xuất xứ ASEAN (trừ Nhật) và tuân

theo các quy định tại mục a đến c nói trên.

Hàng hóa được coi là xuất xứ tại ASEAN khi các yêu cầu về sản xuất

hay chế biến chúng đã được đáp ứng tại tất cả các nước ASEAN liên quan

trong quá trình sản xuất ra hàng hoá đó.

Hàng hoá sau đây được coi là được sản xuất ở các nước Đông Nam Á:

- Toàn bộ sản phẩm được làm từ duy nhất nguồn nguyên liệu từ các

nước Đông Nam Á;

- Toàn bộ sản phẩm được làm từ nguyên liệu nhập khẩu từ Nhật vào

các nước Đông Nam Á

- Toàn bộ sản phẩm đáp ứng chỉ từ 2 điều kiện nguồn nguyên liệu

trên

- Toàn bộ sản phẩm đáp ứng chỉ từ 3 điều kiện trên hoặc toàn bộ sản

phẩm được làm hoàn toàn ở các nước Đông Nam Á

Nước xuất xứ hàng hoá đủ điều kiện hưởng đối xử thuế quan ưu đãi

theo quy tắc xuất xứ cộng gộp phải sản xuất và xuất khẩu hàng hoá vào

Xuất xứ của hàng hoá mà được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan

theo các quy tắc cộng gộp là nước mà sản xuất và xuất khẩu hàng

hoá đó sang Nhật.

Để sử dụng hệ thống cộng gộp khu vực, Giấy chứng nhận sản

xuất/gia công cộng gộp nên được xuất trình cho Hải quan vào lúc

kê khai nhập khẩu cộng với giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu A.

Nhật

* Chứng từ về xuất xứ của hàng hoá

(a)Yêu cầu về chứng từ đối với tất cả các hàng hoá để được hưởng

GSP

Để hàng hoá hưởng chế độ ưu đãi thuế quan, một Giấy chứng nhận

Xuất xứ (lời khai tổng hợp và chứng nhận) Mẫu A phải được xuất trình cho

Hải quan Nhật khi nhập khẩu hàng hoá vào Nhật.

Giấy chứng nhận này sẽ được cấp bởi cơ quan hải quan (hoặc các cơ

quan chính quyền có thẩm quyền khác của nước xuát khẩu được hưởng

hoặc các cơ quan khác của nước đó như Phòng thương mại, các cơ quan

này được đăng ký là người cấp giấy chứng nhận xuất xứ với Hải quan

Nhật) theo lời đề nghị cuat nhà xuất khẩu khi anh ta xuất khẩu hàng hoá

liên quan. Tuy nhiên, đối với các lô hàng mà trị giá hải quan không quá

200.000 yên hoặc hàng hoá có xuất xứ rõ ràng thì không cần Giấy chứng

nhận này.

(b) Nguyên liệu nhập từ Nhật

Khi có một hay nhiều chế độ đặc biệt theo “Quy tắc Thành phần

nước bảo trợ” cho hàng hoá xuất khẩu từ nước được hưởng đến Nhạt bắt

buộc phải có một “giấy Chứng nhận nghuyên liệu Nhập khẩu từ Nhật” cấp

bởi chính cơ quan cấp Giấp chứng nhận xuất xứ Mẫu A thể hiện rằng

nguyên liệu sử dụng trong sản xuất hàng hoá đó được nhập khẩu toàn bộ từ

Nhật vào nước đó.

(c) Xuất xứ cộng gộp

Khi có một hay nhiều chế độ đặc biệt theo quy tắc cộng gộp cho

hàng hoá làm tại một nước là thành viên của ASEAN. phải xuất trình “Giấy

chứng nhận gia công/chế biến cộng gộp”, khi nhập khẩu hàng vào Nhật,

cho Hải quan Nhật, cùng với Giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu A. Giấy Chứng

nhận Gia công/chế biến cộng gộp sẽ được cấp bởi chính cơ quan cấp Giấy

Chữ “C-ASEAN” và số của Giấy Chứng nhận gia công/chế biến cộng gộp phải được ghi vào ô 4 của Giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu

A.

chứng nhận xuất xứ Mẫu A.

Giấy chứng nhận xuất xứ mẫu A là loại C/O đặc trưng, được cấp theo Hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP) của các nước có tên ở mặt

sau Mẫu A. Có C/O này hàng hoá xuất khẩu sẽ được hưởng mức thuế ưu đãi GSP của nước nhập khẩu.

Chỉ được cấp khi hàng hoá được xuất khẩu sang một trong những nước được hưởng ghi ở mặt sau mẫu A và nước này đã cho

Việt Nam được hưởng ưu đãi từ GSP; và khi hàng hoá đáp ứng các tiêu chuẩn xuất xứ do nước này quy định. Nhật Bản là một trong

số những nước có tên ở mặt sau của Mẫu này.

* Chứng từ vận tải

Trường hợp vận tải ở mục (1), (2) của quy tắc về vận tải nói trên, chứng từ sau thể hiện việc vận tải đã tuân theo các điều kiện

quy định trong Quy tắc phải được xuất trình :

- Vận đơn suốt;

- Chứng nhận của hải quan hay cơ quan hay cơ quan chính quyền của nước quá cảnh ; hay

- Không có các chứng từ trên, mọi chứng từ thay thế khác được coi là đủ.

Tuy nhiên, đối với các lô hàng có giá trị nhỏ hơn 200.000 yên, không bắt buộc phải có chứng từ này.

V. Cơ chế bảo vệ

Các nước cho hưởng ưu đãi dành cho họ quyền bảo vệ khi hàng nhập

khẩu theo GSP ảnh hưởng đến sản xuất trong nước. Các phương tiện mà họ

thường sử dụng là: Quota, giới hạn tối đa, giới hạn cạnh tranh, danh sách

trưởng thành (về sản phẩm và quốc gia)...

Theo điều khoản XIX của Hiệp định chung về Thuế quan và Mậu dịch

(GATT) “các nước tham gia Hiệp định GATT có thể triển khai các hành

động khẩn cấp đối với sản phẩm được nhập khẩu với một số lượng tăng lên

nhất định và trong những điều kiện đó có thể gây ra hoặc đe dọa gây ra tổn

thất đến các nhà sản xuất trong nước về sản phẩm đó hoặc tương tự” bằng

cách thu hồi hoặc thay đổi các nhượng bộ về thuế quan. Hầu hết các chế độ

(trừ của Bungaria và Nga) đều có các quy định áp dụng điều khoản bảo vệ

chung. Tuy nhiên, do tính chất chủ động của chế độ GSP (trong đó hàng

hoá và các nước được hưởng ưu đãi) các nước dành ưu đãi không cần phải

áp dụng các điều khoản XIX về GSP mà có thể chọn các phương thức bảo

Nhật bản sử dụng biện pháp hạn ngạch nhưng theo hoàn cảnh

riêng của mình mà Nhật áp dụng rất linh hoạt.

vệ khác.

1. Giới hạn tối đa:

- Đối với nông sản, không có giới hạn tối đa.

- Đối với sản phẩm công nghiệp, không có giới hạn tối đa cho một số

sản phẩm. Đối với các sản phẩm còn lại, việc nhập khẩu có thể được cho

phép cho đến khi vượt quá giới hạn tối đa. Đối với 126 nhóm sản phẩm,

mỗi nhóm gao gồm các sản phẩm thuộc một chương, một hạng mục HS,

giới hạn tối đa được tính cho mỗi năm tài chính.

(a) Theo các mặt hàng mà việc nhập khẩu gây khó khăn cho công

nghiệp nội địa:

Giới hạn tối đa = cộng 10% của tổng lượng nhập khẩu từ các nước không

được hưởng ưu đãi trong 2 năm trước vào tổng lượng nhập khẩu từ các

nước được hưởng từ các nước kém phát triển trong năm 1989.

(b) đối với các sản phẩm nhạy cảm mà công thức tính nói trên không

được áp dụng, giới hạn tối đa được tính theo cách sau (tuỳ thuộc vào tình

hình ngành công nghiệp nội địa bị ảnh hưởng):

Giới hạn tối đa = (i) giới hạn của năm tài chính vừa qua, nhân với 1,06 ;

hoặc

(ii) Giới hạn của năm tài chính vừa qua, nhân với 1,03; hoặc

(iii) Giới hạn của năm tài chính vừa qua.

(c) Giới hạn sẽ không nhỏ hơn giới hạn của năm tài chính vừa qua.

2. Thực hiện giới hạn tối đa:

Các giới hạn cho mỗi nhóm sản phẩm được để mở để tất cả các nước

được hưởng sử dụng trên cơ sở công bằng. Không có việc phân phối hoặc

Thuế suất tối huệ quốc sẽ áp dụng sau khi đã vượt quá giới

hạn. Chế độ ưu đãi sẽ bị đình chỉ cho một nhóm sản phẩm được

hưởng nhập khẩu có xuất xứ từ nước đó vượt quá một khối lượng

quốc gia tối đa bằng một phẩn tư tổng trị giá/ khối lượng của giới

hạn.

hạn chế dành cho một nước được hưởng cụ thể.

3. Áp dụng linh hoạt khối lượng quốc gia tối đa và giới hạn tối đa.

Đối với những sản phẩm gây ra sự đe doạ hoặc thiệt hại đến

công nghiệp nội địa Nhật bản, hàng hoá vẫn được phép tiếp tục

nhập khẩu theo chế đãi ưu đãi cho đến khi những thiệt hại hay đe

doạ này phát sinh, thậm chí sau khi hàng hoá nhập khẩu vượt quá

giới hạn tối đa hoặc khối lượng quốc gia tối đa. Thủ tục này áp

dụng cho giới hạn tối đa của 35 nhóm sản phẩm và khối lượng

quốc gia tối đa của 66 nhóm sản phẩm; nó có thể đưa tới việc các

giới hạn tối đa và khối lượng quốc gia tối đa bị vượt quá đáng kể.

4. Áp dụng giới hạn tối đa và khối lượng quốc gia tối đa

Các giới hạn tối đa và khối lượng quốc gia tối đa dược áp dụng trên

nguyên tắc “cái đến trước được hưởng trước” theo sự quản lý hàng ngày

hoặc hàng tháng, hoặc hằng cách phân phối trước.

- Quản lý hàng ngày

Đối với 38 nhóm sản phẩm, hàng nhập khẩu được tính hàng ngày và thuế

MFN sẽ áp dụng hai ngày sau khi giới hạn tối đa hoặc khối lượng quốc gia

tối đa đã bị vượt quá.

- Quản lý hàng tháng

Đối với 65 nhóm sản phẩm, hàng hoá nhập khẩu được tính theo hàng tháng

và thuế suất MFN sẽ được áp dụng vào này đầu tiên của tháng thứ 2 đầu

tháng mà hàng nhập khẩu vượt quá giới hạn tối đa hoặc khối lượng quốc

gia tối đa

- Phân bổ trước

Đối với 23 nhóm sản phẩm, giới hạn tối đa ưu đãi được phân cho từng mỗi

năm tài chính cho các nhà nhập khẩu sản phẩm này.

Nhật bản bảo lưu quyền điều chỉnh chế độ ưu đãi đối với những sản

phẩm thuộc chế độ này theo một số điều kiện nhất định.

(a) Trưởng thành của các nước được hưởng tiến bộ

Các nước được hưởng tiến bộ sẽ bị loại khỏi GSP. Quá trình “trưởng

thành” này bắt đầu với “trưởng thành một phần”, nếu được áp dụng, để

giảm nhẹ tác động của nó lên các nền kinh tế “đang trưởng thành” này.

Đối với “trưởng thành một phẩn”, một sản phẩm của quốc gia hay lãnh

thổ được hưởng sẽ bị loại khỏi GSP từ 1/4/1998 nếu: quốc gia hay lãnh thổ

đó được xếp vào nền kinh tế có thu nhập cao trong quyển World Bank

Atlas năm trước (trong trường hợp năm tài chính 1998, ví dụ, thì là quyển

World Bank Atlas năm 1997, chứa thông tin của năm 1995) hoặc khi không

có trong World Bank Atlas, quốc gia hay lãnh thổ đó được công nhận có

cùng mức GNP (tổng sản phẩm quốc gia) trên đầu người của nền kinh tế có

thu nhập cao trong cuốn sách trên; và kim ngạch xuất khẩu sản phẩm đó

sang Nhật vượt quá 25% kim ngạch xuất khẩu của thế giới về sản phẩm

này tới Nhật và vào cùng một thời gian lớn hơn 1 tỷ yên.

Mỗi quốc gia hay lãnh thổ và sản phẩm sẽ được xem xét lại từng năm.

Nếu bất kỳ điều kiện nào ở trên không được đáp ứng, chế độ ưu đãi sẽ được

Ngoài ra, bắt đầu từ 1/4/2000, một quốc gia hay lãng thổ được

hưởng sẽ bị loại khỏi danh sách hưởng GSP nếu được xếp vào

nền kinh tế có thu nhập cao liên tục trong ba cuốn World Bank

Atlas ba năm trước hoặc, khi không có trong World Bank Atlas,

được công nhận là có cùng mức GNP trên đầu người của nền kinh

tế có thu nhập cao trong cuốn sách trên.

áp dụng.

Khi một quốc gia hay lãnh thổ bị loại khỏi danh sách các nước được

hưởng GSP không bị xếp là nền kinh tế thu nhập cao trong 3 năm liền,

quốc gia hay lãnh thổ này sẽ được hưởng chế độ GSP, nếu quốc gia hay

lãnh thổ này yêu cầu Nhật áp dụng GSP một lần nữa.

(b) Chế độ đặc biệt cho các quốc gia chậm phát triển

Chế độ đặc biệt sau được dành cho các quốc gia chậm phát triển cho tất cả

các sản phẩm thuộc chế độ:

- Miễn thuế

- Hàng hoá nhập khẩu được miễn áp dụng hạn chế về giới hạn

Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập ra đời được gần 40 năm còn nhiều

điều phải bàn nhưng không thể phủ nhận được những tác dụng mà nó

mang lại không chỉ cho các nước được hưởng ưu đãi mà ngay cả các nước

cho hưởng ưu đãi. Để được hưởng ưu đãi GSP của Nhật Bản phải làm một

loạt các bước đã nêu trên, tuy nhiên với chế độ ưu đãi GSP của Nhật Bản

giành cho Việt Nam mà hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam có thể cạnh

tranh với hàng hoá của các nước khác và thâm nhập vào thị trường Nhật

Bản dễ hơn.

Để hiểu rõ hơn chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập Nhật Bản giành cho

Việt Nam chúng ta sẽ tìm hiểu ở chương tiếp theo.

CHƯƠNG II:

CHẾ ĐỘ ƯU ĐÃI THUẾ QUAN PHỔ CẬP CỦA NHẬT BẢN

ĐỐI VỚI HÀNG HOÁ XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM

Những năm gần đây, mặc dù về phía Nhật bản vẫn đang còn gặp rất

nhiều khó khăn, thách thức của cuộc khủng hoảng kinh tế đã kéo dài từ đầu

những năm 90 đến nay, nhưng cùng với Việt Nam, hai bên đã có nhiều nỗ

lực thúc đẩy quan hệ hợp tác hữu nghị trên nhiều lĩnh vực chính trị, ngoại

giao, kinh tế, văn hoá... trong đó sôi động nhất vẫn là lĩnh vực hợp tác

thương mại. Cho đến nay Nhật bản vẫn là thị trường và là bạn hàng

thương mại lớn nhất của Việt Nam. Chỉ tính riêng 5 năm gần đây, 1997 -

2002, để đạt được những kết quả về động thái tiến triển kim ngạch xuất

nhập khẩu, cả hai phía Việt Nam và Nhật bản đã có nhiều cố gắng đổi mới

cơ chế quản lý và chính sách thương mại. Hai bên cùng ra sức tháo gỡ dần

những vấn đề còn ách tắc, chưa gặp nhau trong cơ chế, chính sách, biện

pháp quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu sao cho ngày càng phù hợp

hơn với hoàn cảnh riêng mỗi nước, nhằm đạt tới lợi ích chung của cả hai.

I. Đánh giá thực trạng phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước

trong thời gian qua

1. Những tiến triển trong động thái tốc độ tăng trưởng thương mại về quy

Nói đến quan hệ thương mại Việt - Nhật phải kể đến các lĩnh

vực: đầu tư trực tiếp (FDI) ; viện trợ phát triển (ODA) và hoạt

động xuất nhập khẩu hàng hoá. Tuy nhiên, hoạt động xuất nhập

khẩu hàng hoá chưa thể so sánh với hai lĩnh vực đầu tư trực tiếp

(FDI) và viện trợ phát triển (ODA) vì đây là lĩnh vực hoạt động

đã có bề dày thời gian lâu dài nhất, mà nét đặc trưng cho trạng

thái phát triển của nó là từ năm 1987 trở về trước đã diễn ra với

mô kim ngạch xuất nhập khẩu Việt- Nhật

tốc độ tăng trưởng và quy mô phát triển của cả kim ngạch xuất

khẩu và kim ngạch nhập khẩu đều còn ở mức độ khiêm nhường,

thậm chí có những năm còn trì trệ, suy giảm do ảnh hưởng của

các lý do chính trị, và môi trường quốc tế. Hoạt động ngoại

thương Việt - Nhật trước năm 1988 đó là nhập siêu luôn luôn

nghiêng về phía Việt Nam. Nét đặc trưng này đã không còn kể từ

năm 1988 là năm đầu tiên nhờ có xuất khẩu dầu thô sang Nhật mà

Việt Nam đã có xuất siêu và mức xuất siêu này ngày càng lớn hơn

kể từ năm 1989 trở đi. Nguyên nhân cơ bản về phía Việt Nam là

từ năm 1989 với việc thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, tự

do hoá thương mại và tích cực thu hút đầu tư nước ngoài để có

điều kiện phát triển mạnh sản xuất hướng về xuất khẩu nên quan

hệ thương mại Việt - Nhật đã có những bước phát triển mới cả về

chiều rộng lẫn chiều sâu. Việt Nam đã bước đầu tận dụng và ngày

càng phát huy có hiệu quả hơn các lợi thế so sánh sẵn có về

nguồn nhân công dồi dào giá rẻ và lại có một số mặt hàng xuất

khẩu như dầu thô, hàng may mặc, thuỷ hải sản... nên đã đẩy mạnh

được xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Thực trạng này càng

phát triển khả quan hơn kể từ năm 1992 do quan hệ Việt - Nhật đã

được cải thiện thông thoáng hơn sau khi có sự kiện phía Nhật Bản

đã tuyên bố chính thức nối lại viện trợ phát triển chính thức ODA

cho Việt Nam (tháng 11/1992); và đặc biệt kể từ sau một loạt các

sự kiện chính trị quan trọng trong hai năm 1994/1995 như Mỹ

huỷ bỏ chính sách cấm vận thương mại chống Việt Nam (tháng

2/1994), Mỹ tuyên bố bình thường quan hệ với Việt Nam (tháng

7/1995) và Việt Nam gia nhập ASEAN (tháng 7/1995), thì các

quan hệ kinh tế, đặc biệt là quan hệ thương mại Việt - Nhật càng

phát triển mạnh mẽ, sôi động hơn. Cụ thể, tính chung cho cả 10

năm (1988-1997), kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt - Nhật đạt

16.895 triệu USD, trong đó xuất khẩu là 11.023 triệu USD và

nhập khẩu là 5.872 triệu USD. Tốc độ tăng trưởng thương mại

bình quân hàng năm giữa Việt Nam và Nhật bản là 28,5%, trong

đó tăng trưởng xuất khẩu là 32,7% và nhập khẩu là 37,2%. Tính

chung cho cả 10 năm đó, Việt Nam đã xuất siêu sang Nhật 5.151

triệu USD, chiếm 46,7% tổng kim ngạch xuất khẩu và 30,5% tổng

kim ngạch nhập khẩu. Trong đó, nếu làm phép tính phân tích so

sánh số liệu về tổng cộng xuất siêu của 5 năm sau (1993-1997)

với tổng cộng xuất siêu của 5 năm trước (1988-1992) ta thấy 5

năm sau đạt xuất siêu tổng cộng là 3.726 triệu USD tăng gấp 2,6

lần so với tổng cộng xuất siêu của 5 năm trước đã đạt được là

1425 triệu USD.

Như vậy là cho đến kết thúc năm 1997, trong quan hệ thương

mại giữa Việt Nam và Nhật bản, ta thấy động thái tiến triển

KNXNK nói chung và KNXK, KNNK nói riêng về phía Việt

Nam là luôn trong xu thế phát triển khả quan kể cả về tốc độ tăng

trưởng và quy mô giá trị đã đạt được. Bước sang năm 1998 và

tiếp đó là năm 1999 vừa qua, có một tình hình là bức tranh buôn

bán đó đã có sự khác trước.

Bảng 2: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt - Nhật từ năm 1990 đến năm 2002

Đơn vị tính: Triệu USD

Tỷ lệ tăng so

Kim ngạch

Tổng kim

Trị giá xuất

Năm Kim ngạch XK

với năm trước

NK

ngạch XNK

siêu

(%)

1990

595

214

809

156,8

381

1991

662

217

879

108,7

445

1992

870

451

1.321

150,3

419

1993

1.069

639

1.708

129,3

430

1994

1.350

644

1.994

116,7

706

1995

1.716

921

2.637

132,2

795

1996

2.020

1.140

3.160

119,8

880

1997

2.198

1.283

3.481

110,2

915

1998

2.509

1.469

3.978

114,2

1.040

1999

1.786

1.476

3.262

82,0

310

2000

2.621

2.250

4.871

149,3

371

2001

2.509

2.215

4.724

96,9

294

2002

2.234

2.358

4.592

97,2

-124

(Nguồn: Bộ thương mại Việt Nam; Bộ kế hoạch và Đầu tư Việt Nam; Tổng cục Hải

quan Việt Nam. Bộ Tài chính Nhật Bản; JETRO; Hội mậu dịch Nhật - Việt)

Căn cứ vào các kết quả tổng hợp số liệu thống kê đã công bố từ phía

Nhật Bản bởi các cơ quan: Tổng cục thuế Bộ Tài chính, Bộ Công Thương

Nhật Bản và Hội Mậu dịch Nhật - Việt (xem bảng trên) ta thấy các hoạt

động xuất nhập khẩu giữa hai nước Việt - Nhật đều chững lại, thậm chí đã

có sự suy giảm hơn trước (tuy chưa nhiều) cả về tốc độ tăng trưởng và quy

mô giá trị. Nếu như năm 1997 KNXNK đạt được về phía Việt Nam là

419,35 tỷ yên, tăng hơn 22,1% so với năm 1996; thì sang năm 1998 với

KNXNK đạt được 402,73 tỷ yên đã bị giảm 4% so với năm 1997. Nếu tính

riêng hoạt động xuất khẩu ta thấy, KNXK đạt được của năm 1997 là 264,47

tỷ yên, tăng hơn 20.5% so với năm 1996, thế nhưng sang năm 1998 với

228,93 tỷ yên KNXK đạt được là đã bị giảm tới 13,4% so với năm 1997.

Nhìn chung cả xuất và nhập khẩu Việt - Nhật đều đã suy giảm trong 2 năm

1998 và 1999, song so sánh tương quan cho thấy nhập khẩu giảm mạnh

hơn xuất khẩu và năm 1999 cả xuất và nhập khẩu đều bị giảm mạnh hơn

năm 1998.

Lý giải về sự suy giảm các hoạt động xuất nhập khẩu trên đây như thế

nào? Trước hết có thể khẳng định rằng sự suy giảm đó không vì bị ảnh

hưởng của bất cứ một nguyên nhân chính trị và môi trường khu vực, quốc

tế nào cả.

Thực tiễn phát triển đã cho thấy quan hệ hợp tác hữu nghị và phát triển

toàn diện gữa hai nước Việt - Nhật trong hai năm 1998 - 1999 vừa qua vẫn

tiếp tục được củng cố và tăng cường phát triển hơn nữa. Các sự kiện ngoại

giao chính trị, ngoại giao kinh tế ở cấp nguyên thủ quốc gia, cũng như việc

cử đoàn ra đoàn vào của các quan chức cấp cao, các chuyên gia của Chính

phủ hai nước cho đến các nhà doanh nghiệp của hai bên vẫn được diễn ra

mạnh mẽ, sôi động như thường lệ. Vậy thì nguyên nhân nào là chủ yếu đã

dẫn đến tình hình suy giảm các hoạt động thương mại Việt - Nhật trong hai

năm 1998 - 1999. Phải nói ngay rằng , không chỉ trong lĩnh vực quan hệ

thương mại mà cả trong lĩnh vực đầu tư phát triển của Nhật Bản vào nước

ta trong hai năm đó cũng bị suy giảm. Riêng trong lĩnh vực thương mại, có

thể khẳng định rằng nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp làm suy giảm các

hoạt động xuất nhập khẩu Việt - Nhật chính là từ những ảnh hưởng tiêu cực

của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á đã xảy ra từ giữa năm

1997 cho đến hết năm 1998 và của chính nền kinh tế Nhật Bản do đã bị suy

thoái kéo dài từ đầu thập niên 90. Sau một số năm phát triển mạnh nền kinh

tế “bong bóng” từ cuối những năm 1980, đến giữa năm 1991 kinh tế Nhật

Bản đã gặp phải suy thoái mạnh. Để khắc phục tình trạng đó, Chính phủ

Nhật Bản đã phải thi hành chính sách “thắt lưng buộc bụng” và vào tháng

8/1992 đã đưa nhiều giải pháp kinh tế tổng thể nhằm phục hồi nền kinh tế

dựa trên cơ sở kích cầu... Trải qua nhiều bước thăng trầm khác nhau về tát

cả các lĩnh vực chính trị - kinh tế - xã hội... nhưng với sự nỗ lực cao độ của

Chính phủ và nhân dân Nhật Bản, đến năm 1996, nền kinh tế Nhật đã phục

hồi trở lại với tốc độ tăng trưởng khá cao là 3,6%. Thế nhưng, ngay sau đó

từ giữa năm , đặc biệt là cuối năm 1997 và cả năm 1998, Nhật Bản lại gặp

phải khó khăn nghiêm trọng do bị tác động của cuộc khủng hoảng tài chính

- tiền tệ Châu Á, mà khởi đầu là từ Thái Lan, Hàn Quốc, sau lan rộng và rất

nhanh sang hầu hết các nước ASEAN. Khủng hoảng kinh tế khu vực và suy

thoái kinh tế Nhật Bản thời gian qua đã tác động mạnh đến chi tiêu và đầu

tư của người Nhật, khiến cho các quan hệ kinh tế thương mại và đầu tư,

nhất là hoạt động nhập khẩu của Nhật Bản từ các nước khác đã bị ảnh

hưởng nghiêm trọng, trong đó Việt Nam đương nhiên cũng bị ảnh hưởng.

Năm 1998, lần đầu tiên kể từ năm 1992, xuất nhập khẩu của Nhật Bản

đều bị giảm sút. Xuất khẩu trong năm nay chỉ đạt có 386,3 tỷ USD, giảm

8,7% so với năm 1997; nhập khẩu đạt 279,3 tỷ USD, giảm 17,9% so với

năm 1997. Nguyên nhân chính của sự giảm sút KNXK hàng hoá Nhật Bản

là do khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á đã làm cho đồng tiền của các

nước Đông và Đông Nam Á bị yếu đi nhiều so với đồng yên của Nhật Bản,

mặc dù trong 2 năm 1997 - 1998, để khôi phục nền kinh tế đã có dấu hiệu

phục hồi tăng trưởng trở lại với tốc độ 3,6% năm 1996, Nhật Bản vẫn tiếp

tục thi hành chính sách duy trì đồng yên yếu so với đồng đôla Mỹ (USD)

để đẩy mạnh xuất khẩu. Hậu quả từ việc đồng tiền các nước này bị giảm

giá mạnh so với đồng yên do khủng hoảng kinh tế gây ra đã khiến cho xuất

khẩu của Nhật Bản sang thị trường các nước này bị giảm sút mạnh. Chính

vì thế quan hệ thương mại Việt - Nhật cũng bị ảnh hưởng chung. Ngoài ra,

chính sự sụt giá của đồng tiền các nước cũng đã làm cho tiền (đồng) Việt

Nam bị nâng giá lên khoảng 32,3% so với baht, 20,1% so với ringgit...

ngay từ thời điểm tháng 10/1997. Do vậy hàng Việt Nam xuất khẩu sang

Nhật đã bị giảm khả năng cạnh tranh so với các nước khác trong khu vực,

nhất là khi cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam gần giống với hàng xuất

khẩu của các nước khác trong khu vực sang thị trường Nhật Bản.

Về nhập khẩu vào Việt Nam, do đồng yên Nhật tăng giá hơn so với

các đồng tiền các nước trong khu vực, nên việc nhập khẩu hàng hoá cùng

loại hoặc hàng hoá thay thế từ các nước Đông Nam Á hoặc Hàn Quốc sẽ rẻ

hơn trước, nên sức cạnh tranh của hàng hoá các nước này sẽ mạnh hơn so

Như vậy là những phân tích, lý giải trên đây về diễn biến

động thái tốc độ tăng trưởng và quy mô giá trị buôn bán Việt -

Nhật thể hiện ở KNXNK, KNXK và KNNK trong những năm

1990 vừa qua về cơ bản đã cho thấy kim ngạch buôn bán Việt -

Nhật kể cả xuất khẩu và nhập khẩu đều đã tăng nhanh và tương

đối ổn định. Thực tiễn cho thấy thị trường Nhật Bản đã chấp nhận

hàng hoá Việt Nam và triển vọng sẽ còn tăng nhanh hơn nữa

trong thời gian tới khi mà hiện nay cuộc khủng hoảng tài chính -

tiền tệ khu vực đã qua đi và kinh tế Nhật Bản đã được phục hồi

dần trở lại. Ngoài ra, trường hợp ngược lại đối với hàng Nhật Bản

xuất khẩu sang thị trường Việt Nam, thực tiễn phát triển cũng đã

cho thấy kể từ đầu thập niên 90 cho đến nay, KNNK của Việt

Nam đối với các hàng hoá xuất từ thị trường Nhật Bản cũng đã

tăng nhanh và tương đối ổn định, mặc dù có nhiều khó khăn xảy

ra như đã đề cập đến khiến cho hoạt động nhập khẩu đẫ bị giảm

xuống mạnh hơn so với sự giảm xuống của hoạt động xuất khẩu,

song nếu nhìn vào xu thế phát triển vẫn có thể hy vọng rằng nhờ

có đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu, chúng ta sẽ có đầy đủ khả

năng để tăng nhanh nhập khẩu những mặt hàng cần thiết cho sự

thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

với hàng nhập khẩu từ Nhật Bản vào Việt Nam.

2. Thực trạng tiến triển động thái cơ cấu các mặt hàng xuất nhập khẩu Việt

Để thấy rõ thực trạng tiến triển động thái cơ cấu các sản phẩm

xuất nhập khẩu của nước ta trong quan hệ buôn bán với Nhật Bản

những năm 1990, trước hết ta hãy phân tích diễn biến cơ cấu mặt

hàng buôn bán giữa hai nước theo thứ tự thời gian từng năm sau

đây (số liệu dưới đây lấy từ các số liệu thống kê đã công bố của

Hải quan Việt Nam):

-Nhật

a. Về cơ cấu các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu

Xem xét tỷ trọng giá trị xuất khẩu từng loại hàng trong tổng giá trị xuất

khẩu hàng năm, đã có diễn biến như sau:

+ Năm 1989: 50,95% là dầu thô; 17,4% là tôm đông lạnh; 9,3% là

sắt vụn; 3,3% là than đá; 2,4% là gỗ...

+ Năm 1990: 64,4% là dầu thô; 16,4% là tôm đông lạnh; 3,3% là sắt

vụn; 1,8 là gỗ; 1,6% là mực khô...

+ Năm 1992: 60,0% là dầu thô; 12,1% là tôm đông lạnh; 3,3% là áo

khoác và áo gió nam; 2,3 % là than không khói ; 2,2% là cá mực đông

lạnh...

+ Năm 1995: 35,3% là dầu lửa và dầu thô; 11,1% là tôm đông lạnh;

4,8% là cao khoác và áo gió nam; 4% là cá mực đông lạnh; 3,3% là than

không khói...

+ Năm 1996: 31,12% là dầu hoả và dầu thô; 9,6% là tôm đông lạnh;

4,1% là áo khoác và áo gió nam; 3,4% là than không khói, 2,3% là quần áo

cho người lái xe tải trượt tuyết...

+ Năm 1997: 27,6% là dầu lửa và dầu thô; 11,0% là tôm đông lạnh;

4,5% là áo khoác gió nam; 3,6% là các loại giầy dép; 3,1% là than không

khói...

Trên đây là danh mục 5 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu chiếm tỷ trọng

lớn nhất trong tổng giá trị xuất khẩu từng năm của nước ta kể từ năm 1989

đến năm 1997, năm 2002 chúng ta có thêm mặt hàng dây điện và dây cáp

điện. Một số mặt hàng mới của Việt Nam đã bắt đầu có mặt trên thị trường

Nhật Bản dù khối lượng và giá trị còn nhỏ bé như hạt tiêu, đường kính...

Cho đến nay, cơ cấu hàng xuất khẩu, nhất là hàng xuất khẩu chủ yếu còn

khá hẹp, chưa có thay đổi nhiều so với những năm đầu thập niên 90, mặc

dù nếu xét riêng về việc phấn đấu giảm tỷ trọng xuất các sản phẩm thô,

tăng tỷ trọng xuất các sản phẩm đã qua công nghiệp chế tạo, chế biến thì ta

cũng đã có nhiều tiến bộ. Cụ thể, nếu những năm đầu thập niên 90, hàng

xuất sang Nhật Bản của ta chủ yếu là nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế,

chiếm đến 90% KNXK, trong đó riêng dầu thô đã đến 60%, thì hiện nay đã

giảm xuống nhiều, nhưng vẫn còn tới trên 50% là nguyên liệu thô và sản

phẩm sơ chế. Mặt hàng chủ yếu của ta xuất sang Nhật đến nay vẫ là dầu

thô, thuỷ hải sản, dệt may, than đá, giầy dép, cà phê và một số hàng nông

sản khác, ngoài ra là hàng tiêu dùng trong gia đình như dụng cụ gia đình,

vali, cặp túi, xắc các loại... Hạn chế nhất trong xuất khẩu sang Nhật của ta

hiện nay là chưa có sản phẩm kỹ thuật cao. Đến năm 2002 Việt Nam vẫn

chỉ nhập khẩu những mặt hàng truyền thống như: Máy móc thiết bị, linh

kiện điện tử và máy vi tính, sắt thép các loại và ôtô dạng CKD, SKD... về

gia công lắp ráp và xuất khẩu.

b. Về cơ cấu các sản phẩm nhập khẩu chủ yếu

Các mặt hàng khá đa dạng, tuy nhiên chủ yếu vẫn tập trung

vào một số loại như máy móc thiết bị công nghiệp và xây dựng,

nguyên nhiên liệu, hàng điện tử, ô tô và xe máy,...

Điều muốn nhấn mạnh là rất nhiều mặt hàng vốn là thế mạnh của Việt

Nam, nhưng hiện chưa thể vào thị trường Nhật Bản được như nông sản,

hoa quả... Do vậy, tiếp tục khai thác thị trường này đang là một cơ hội lớn,

song cũng là thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp Việt Nam.

Tóm lại, có thể rút ra một số nhận định cơ bản sau khi đã xem xét thực

trạng động thái tiến triển có cấu các sản phẩm xuất nhập khẩu Việt - Nhật

- Trước đây và kể cả cho đến những năm đầu thập niên 90, Việt

Nam xuất khẩu sang Nhật Bản chủ yếu (đến 90%) là sản phẩm

thô, trong đó dầu thô đã là sản phẩm xuất khẩu chủ lực số 1 kể từ

năm 1988 đến nay. Từ năm 1995 đến nay Việt Nam ngày càng

gia tăng khối lượng hàng xuất khẩu đã qua chế biến (khoảng

30%), tuy nhiên mới chỉ qua sơ chế, chưa có chế biến sâu và tinh.

từ đầu thập niên 90 như sau:

- Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Nhật đã ngày

càng đa dạng hoá hơn để kịp thời phù hợp với lợi thế so sánh sẵm có của

đất nước và đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của thị trườngNhật Bản, tuy

nhiên sự tiến triển đó vẫn chậm. Mặt hàng đã có sự thay đổi (trước năm

1988 là than đá, cao su, gạo... nhưng hiện nay đã là dầu thô, thuỷ hải sản,

hàng may mặc) nhưng loại hàng còn chậm thay đổi, vẫn chủ yếu là các sản

phẩm thô, nhiều nhất là nguyên liệu, khoáng sản, hàng nông - lâm - ngư

nghiệp, nhưng chưa có hàng công nghiệp kỹ thuật cao do chính Việt Nam

chế tạo.

- Cơ cấu hàng nhập khẩu từ Nhật Bản của Việt Nam hầu như ít thay

đổi, vẫn là hàng chế tạo và nguyên vật liệu xong có xu hướng ngày càng đa

dạng hơn về loại hàng. Hàng tiêu dùng giảm dần về tỷ trọng và hàng máy

móc, thiết bị kỹ thuật, nguyên vật liệu tăng tỷ trọng lên dần nhưng đến nay

Việt Nam vẫn chưa nhập được những dây chuyền công nghệ hiện đại bậc

nhất.

- Với một cơ cấu các sản phẩm xuất nhập khẩu như hiện nay là phản

ánh đúng thực trạng nền kinh tế hai nước, cụ thể là phản ánh đúng trình độ

phát triển, lợi thế so sánh và nhu cầu mua- bán, trao đổi mậu dịch của mỗi

nước. Chính vì thế quan hệ thương mại Việt - Nhật kể từ năm 1988 đến nay

và nhất là từ năm 1992 trở lại đây đã phát triển ngày càng mạnh mẽ sôi

động hơn là xuất phát trước hết từ nhu cầu lợi ích kinh tế đôi bên cùng gặp

nhau, sau đó mới đến các lý do chủ quan về nhu cầu chính trị, ngoại giao

đôi bên và các điều kiện thuận lợi khách quan của môi trường chính trị,

kinh tế quốc tế và khu vực trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh từ đầu thập

niên 90 đến nay.

Mặt khác, cũng chính vì với một cơ cấu các sản phẩm xuất nhập khẩu

Việt - Nhật như hiện nay là phản ánh đúng thực trạng trình độ phát triển,

lợi thế so sánh và nhu cầu mua - bán, trao đổi mậu dịch, nên hiện tượng

Việt Nam ngày càng xuất siêu sang Nhật là bình thường, không phản ánh

đó là “thế mạnh” của Việt Nam hoặc “thế yếu” của Nhật Bản trong hoạt

động ngoại thương. Tuy nhiên, hiện tượng này sẽ trở thành bất bình

thường, mang lại thua thiệt kinh tế cho Việt Nam ngày càng lớn hơn nếu

như cứ kéo dài mãi tình hình xuất siêu các sản phẩm thô chưa qua chế tạo,

chế biến, hoặc mới chỉ sơ chế. Vấn đề này giải quyết thế nào cho có hiệu

quả, đó chính là cần thiết có một chiến lược phát triển mạnh xuất khẩu với

việc hoạch định và thực thi khẩn trương một chính sách cơ cấu các sản

phẩm xuất nhập khẩu năng động và hợp ký theo hướng có hàm lượng chất

xám ngày càng tăng hơn và các sản phẩm thô ngày càng giảm đi.

II. Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập đối với hàng hoá xuất khẩu của

Việt Nam

Việt Nam được xếp vào các nước đang phát triển, nên khi xuất khẩu vào

thị trường Nhật Bản được Nhật Bản cho hưởng thuế quan phổ cập GSP.

Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa tận dụng hết mức độ ưu đãi mà bạn cho

hưởng vì nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân là hàng hoá của Việt

Nam phải đang rất cố gắng để thâm nhập vào thị trường Nhật Bản như:

nâng cao chất lượng hàng hoá đáp ứng đòi hỏi khó tính của thị trường bởi

vì dù có được hưởng ưu đãi nhưng chất lượng không đáp ứng được thì

cũng không thể tiêu thụ được; tăng cường nắm bắt thông tin nhất là thông

tin những thay đổi về ưu đãi như các quy định về giới hạn trần (ceiling)

hoặc những mặt hàng bị loại ra khỏi diện ưu đãi trong khi đó người xuất

khẩu không biết … Với những lý do trên mà hàng năm Việt Nam cũng mới

chỉ sử dụng khoảng 50% các khoản ưu đãi của Nhật Bản dành cho. Nói đi

cũng phải nói lại, các mặt hàng mà Nhật Bản dành ưu đãi GSP diện mặt

hàng có lợi ích thiết thực không nhiều (xem phụ lục: Danh mục các mức

thuế nhập khẩu ưu đãi đối với các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam

vào thị trường Nhật Bản). Đó là các mặt hàng chủ yếu có mức thuế ưu đãi

GSP giảm khoảng 50% so với MFN, các mặt hàng tập trung chủ yếu vào

sản phẩm thô nông hải sản như: tôm, cá, cà phê, chè, và các loại vật liệu tự

nhiên như tre, cọ sợi ... Nếu so với ưu đãi thuế quan phổ cập của EU hay

Mỹ dành cho hàng hoá Việt Nam thì mức ưu đãi của Nhật Bản chưa nhiều

về chủng loại hàng hoá cũng như là mức thuế còn cao. Ví dụ, trong danh

mục các mặt hàng cho hưởng ưu đãi thuế quan GSP của EU gần 30 chương

(Nhật Bản là 6 chương) chủng loại mặt hàng lên tới 7000 chủng loại hàng

hoá trong đó có 3300 mặt hàng không nhạy cảm được miễn thuế, 3700 mặt

hàng nhạy cảm được giảm 3,5% thuế. Ngoài ra, nếu quốc gia xuất khẩu áp

dụng tốt quy chế bảo vệ quyền của người lao động sẽ được giảm bổ sung

5% thuế, bảo vệ tốt môi trường cũng được giảm thêm 5%. Theo số liệu của

phái đoàn Uỷ ban Châu Âu, năm 2001, Việt Nam xuất qua EU 4,4 tỷ euro,

trong đó có 59% hàng hoá được hưởng GSP. Những mặt hàng Việt Nam

xuất qua EU được hưởng GSP cao là: giày dép 77%, sản phẩm khác làm từ

da 80%, thuỷ tinh, sành sứ 77%… Việt Nam là nước được hưởng ưu đãi

GSP đứng thứ 7 ở Châu Âu. Theo ông Ivano Casella - chuyên gia về GSP

của cơ quan chuyên gia về GSP của cơ quan chuyên trách về thương mại

thuộc uỷ ban Châu Âu cho biết, GSP áp dụng trong giai đoạn 2002 - 2004

dành cho các nước và vùng lãnh thổ được thụ hưởng chế độ này được ưu

đãi lớn hơn so với giai đoạn trước: chỉ chia 2 nhóm hàng hoá và mở rộng

phạm vi áp dụng cho thêm nhiều loại sản phẩm. Nếu mức thuế ưu đãi theo

GSP mới cao hơn mức thuế ưu đãi tính theo GSP cũ (áp dụng trong giai

đoạn 2000 - 2002), thì được tính theo mức thuế ưu đãi cũ.

Tuy nhiên, ông Casella cảnh báo, đồng thời với việc thực hiện GSsP, EU

đang có chủ trương đẩy mạnh tự do hoá thương mại thông qua việc giảm

dần thuế quan, tiến tới xoá bỏ chế độ hạn ngạch đối với các nước thành

viên của WTO (tổ chức thương mại thế giới) vào cuối năm 2004 và chấm

dứt giai đoạn 2 thực hiện GSP vào cuối năm 2004. Do vậy trong 2 năm tới

sự cạnh tranh trên thị trường này trở nên khốc liệt. Nếu lại so sánh với ưu

đãi GSP của Mỹ thì quả thật phải nói rằng danh mục hàng hoá vô cùng đa

dạng chi tiết từ các mặt hàng thuỷ hải sản, sản phẩm nông nghiệp chưa

hoặc đã qua chế biến đếm các sản phẩm công nghiệp nhẹ như: may mặc,

gốm sứ,…, mức thuế suất hầu như là miễn thuế, hoặc mức thuế thấp như

sợi dệt gốc thực vật, thảm,… Tuy nhiên ngược với biểu thuế của Nhật Bản,

biểu thuế ưu đãi của Mỹ danh mục Quần áo và hàng may sẵn, không thuộc

loại hàng dệt kim, đan hoặc móc có mức thuế GSP cao hơn mức thuế MFN.

Nói như vậy không có nghĩa thị trường Nhật Bản kém hấp dẫn hơn thị

trường EU cũng như thị trường Mỹ, điều quan trọng là phải biết khai thác

những ưu đãi đó như thế nào.

Trong những năm vừa qua quan hệ thương mại Việt - Nhật đã ngày

càng khẳng định hơn vị trí, vai trò quan trọng không thể thiếu đối với hoạt

động ngoại thương Việt Nam với sự tăng trưởng liên tục của các hoạt động

xuất nhập khẩu. Trong đó, tốc độ tăng của xuất khẩu luôn tăng nhanh hơn

tốc độ tăng của nhập khẩu. Đáng lưu ý trong các mặt hàng xuất khẩu, có

tôm đông lạnh và mực, hàng may mặc, cà phê, than đá đang là những mặt

hàng có tốc độ xuất khẩu tăng nhanh nhất. Tôm đông lạnh Việt Nam

chiếm tỷ phần xấp xỉ 10% thị phần nhập khẩu của Nhật Bản. Nhật Bản

cũng đã trở thành thị trường lớn nhất đối với hàng may mặc xuất khẩu của

Việt Nam, lại là thị trường phi hạn ngạch nên tiềm năng của thị trường này

cho hàng may mặc của Việt Nam là rất lớn. Than đá Việt Nam xuất sang

Nhật gần đay đạt mức cao kỷ lục tới hơn triệu tấn/năm. Thị trường cà phê,

giày dép của Nhật Bản cũng hứa hẹn nhiều triển vọng đối với hàng xuất

khẩu của Việt Nam. Có một số mặt hàng của Việt Nam trong vài năm gần

đây đã có tính cạnh tranh cao cả về chất lượng và giá cả, đáng chú ý là

hàng may mặc, khăn lau tay, một số hàng thuỷ sản như tôm và mực. Năm

1998, Việt Nam đã vươn tới vị trí một trong bốn nước xuất khẩu hàng đầu

sang Nhật về một số mặt hàng như than đá (đứng thứ hai), mức (thứ hai),

tôm (thứ tư), sơ mi nam làm từ sợi tổng hợp hoặc nhân tạo HS 6205.30 -

010,090 (thứ tư), quần áo nữ HS 6211.49 - 210 (thứ hai)... Phần lớn các đối

thủ cạnh tranh các mặt hàng này của Việt Nam tại thị trường Nhật Bản là

các nưóc Châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaixia,

Inđônêxia, Philippin, Ấn độ... và một số nước khác như Ôxtrâylia (về than

đá), Pháp (về quần áo nữ)... Rõ ràng là hàng hoá Việt Nam đã từng bước

chiếm lĩnh thị trường Nhật Bản, một thị trường có sức tiêu thụ rất mạnh

nhưng cũng đã từng nổi tiếng là khó tính. Không những thế, nhìn về triển

vọng, xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Nhật Bản còn có khả năng tiếp

tục phát triển khả quan hơn nữa, khi mà nền kinh tế Nhật Bản kể từ năm

1999 đã bắt đầu đang phục hồi trở lại. Nhu cầu tiêu dùng của người Nhật

đối với các hàng hoá tiêu dùng Việt Nam sẽ ngày càng gia tăng hơn, nếu họ

quen sử dụng; còn đối với các hàng hoá tiêu dùng cho sản xuất của Việt

Nam vẫn xuất sang Nhật như dầu thô, than đá, sắt thép... thì thực tiễn đã

cho thấy đó là những hàng hoá nguyên vật liệu thiết yếu dùng cho sản xuất

công nghiệp mà nền kinh tế Nhật Bản luôn luôn cần đến. Như ý kiến của

các chuyên gia Bộ Thương mại Việt Nam, mặc dù năm 1998 là thời gian

mà nền kinh tế Nhật Bản đã chạm tới “đáy” của sự suy thoái, với tốc độ

tăng trưởng -1,8%, đạt “kỷ lục” chưa từng có kể từ 5 thập niên lại đây,

song trong quan hệ thương mại với nước ta khi đó, Nhật vẫn là thị trường

tiêu thụ chủ yếu, chiếm tới 60 - 70% tổng doanh thu xuất khẩu các sản

phẩm dầu thô, than đá và hàng may mặc, hàng thuỷ hải sản của ta.

Bảng 3 : Những mặt hàng mà Việt Nam thuộc bốn nước xuất khẩu hàng

Mặt hàng

Mã HS Xếp

%thị

Triệu

No.1

No.2

No.3

No.4

hạn

phần

yên

(%thị

phần)

g

Than gầy

41,7

7.594

Trung

Việt

Hàn Quốc Úc

2

2701-

11-000

quốc

Nam

Quần áo nữ

6211.49-

2

41,5

5.509

Trung

Việt

Thái lan

Pháp

hoặc lụa

210

quốc

Nam

Áo nam có

6201.93-

2

9,4

5.140

Trung

Việt

Hàn Quốc Mỹ

mũ, chống

100,200

quốc

Nam

gió

Khăn bông

6302.60-

2

14,4

4.765

Trung

Việt

Inđônexia Đài

dùng làm bếp

000

quốc

Nam

Loan

và vệ sinh

2

9,0

3.396

Trung

Việt

Thái lan

Hàn

Áo lót phụ

quốc

Nam

Quốc

nữ

Mực đã chế

1605.90-

2

24,6

1.507

Trung

Việt

Thái lan

Hàn

biến, bảo

219

quốc

Nam

Quốc

quản

Mực đông

0307.49-

3

17,4

4.040

Thái

Trung

Việt Nam Maro

lạnh,

190,200

lan

quốc

c

khô,muối

Quần nam

0306.13-

3

4,2

2.484

Trung

Mỹ

Việt Nam

Phili

010,090

quốc

ppin

Tôm đông

0306.13-

4

8,6

28.920

Inđônê

ấn độ

Thái lan

Việt

lạnh

000

xia

Nam

Áo sơ mi

6205.30-

4

6,4

1.862

Trung

Inđônê

Thái lan

Việt

nam

010,090

quốc

xia

Nam

Bộ dây đánh

8544.30-

4

8,2

6.269 Philipp

Trung

Mỹ

Việt

lửa xe hơi

010

in

quốc

Nam

đầu sang Nhật Bản trong năm 1998

Nguồn: Bộ Thương mại Việt Nam

III. NHỮNG TỒN TẠI TRONG VIỆC GIÀNH ƯU

ĐÃI THUẾ QUAN PHỔ CẬP CỦA NHẬT BẢN ĐỐI

VỚI HÀNG HOÁ XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM

THỜI GIAN QUA

Cho đến kết thúc năm 1998, động thái tiến triển KNXNK Việt - Nhật

đã liên tục phát triển trong xu thế khả quan, năm sau đều tăng trưởng cao

hơn năm trước. Từ năm 1999 đến năm 2002, tình hình đặc điểm khác

trước. Đó là sự tăng trưởng không đều, khi thì chững lại, tăng không đáng

kể, thậm chí có năm đã bị suy giảm tương đối cả về quy mô kim ngạch và

tốc độ tăng trưởng, nhưng cũng có năm lại tăng trưởng rất mạnh. Đáng chú

ý, nếu như hai năm 1997-1998 là hai năm kinh tế Nhật bản vốn đã khủng

hoảng từ trước lại chịu tác động bất lợi trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài

chính khu vực, song quan hệ thương mại Việt - Nhật vẫn tiếp tục được phát

triển mạnh mẽ với sự tăng trưởng khả quan, thì đến năm 1999, với

KNXNK đạt được về phía Việt Nam là 3,262 tỷ USD đã giảm 18% so với

năm 1998. Năm tiếp theo, năm 2000 lại là năm tăng rất mạnh KNXNK

Việt - Nhật, đạt 4,871 tỷ USD, vượt 49,3% so với năm 1999. Đến năm

2001, đạt 4,724 tỷ USD bị suy giảm 3,1% so với năm 2000. Và mới đây,

năm 2002 đã đạt 4,592 tỷ USD, giảm 2,8% so với KNXNK đã đạt của năm

2001.

Việc suy giảm KNXK có nhiều nguyên nhân, trong đó một phần chính

là những tồn tại trong việc giành ưu đãi. Trước hết phải xem nguyên nhân

bên trong chính bản thân nền kinh tế Nhật.

- Trong thời kỳ suy thoái của Nhật Bản vào cuối những năm 1980 do

việc đồng yên lên giá đột nhột và sự sụp đổ của nền kinh tế “bong bóng”,

các công ty Nhật Bản phải di chuyển sản xuất ra nước ngoài, đặc biệt là di

chuyển sang các nước trong khu vực châu Á, mà chủ yếu là Đông Á (bao

gồm: Đông Á và Đông Nam Á), vì các nước này có vị trí địa lý gần với

Nhật Bản, do đó cắt giảm được chi phí và tăng được sức cạnh tranh của

hàng hoá sản xuất ra. Bối cảnh khu vực và nền kinh tế Nhật bản như vậy,

trong khi đó tại thời điểm này, Việt Nam do những hạn chế về cơ sở hạ

tầng, về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trong đó có sự yếu kém

về trình độ của lực lượng lao động và cơ chế quản lý bấy giờ, chưa thể đổi

mới kịp mặc dù từ cuối năm 1986 trở đi, Việt Nam đã bước vào thời kỳ đổi

mới. Mặt khác, cũng thời gian này do còn ảnh hưởng của áp lực cấm vận

kinh tế thương mại do Mỹ đề ra đối với Việt Nam nên các công ty Nhật

Bản chưa thể thúc đẩy nhanh việc đầu tư, di chuyển sản xuất vào Việt

Nam, và do đó trong thời gian này, và ngay cả đến giữa thập niên 90, mặc

dù làn sóng đầu tư của các công ty Nhật Bản đã bắt đầu mạnh mẽ tràn vào

Việt Nam, song họ vẫn chưa thể cho ra ngay được các sản phẩm để xuất

khẩu mà thường phải một số năm sau đó trở đi... Chính vì thế đã ảnh hưởng

đến tốc độ tăng KNXK của các công ty Nhật Bản và liên doanh Nhật - Việt

có ở Việt Nam. Trong khi đó, theo số liệu đã công bố của JETRO cho biết,

hiện nay các nước đang phát triển đã cung cấp tới hơn 50% lượng hàng

nhập khẩu vào Nhật Bản (riêng khu vực Châu Á khoảng 36%), phần nhiều

trong số này được sản xuất tại các nhà máy chuyển giao từ Nhật. Chính vì

bắt kịp với làn sóng di chuyển sản xuất này của các công ty Nhật bản nên

một số nước Đông Á, như Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia,

Philippin... Với điều kiện địa lý, trình độ phát triển sản xuất, cơ cấu hàng

xuất nhập khẩu và giá nhân công lao động tương tự hoặc cao hơn không

nhiều so với Việt Nam, nhưng hiện đã là những đối thủ cạnh tranh chính

của Việt Nam tại thị trường Nhật Bản, ngay cả đối với những mặt hàng mà

Việt Nam hiện đang có thế mạnh.

- Do tác động khách quan của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực

mà khởi đầu là Thái Lan (tháng 7/1997) sau đó lan sang một số nước Đông

Á khác từ cuối năm 1997 và kéo dài cả năm 1998 đã gây khó khăn nghiêm

trọng cho nền kinh tế Nhật Bản vốn đang còn trong suy thoái kéo dài từ đầu

thập niên 90. Tình hình đó còn gây ảnh hưởng đến khả năng chi tiêu và đầu

tư của người Nhật, làm giảm nhu cầu trong nước, do vậy xuất khẩu của các

nước, trong đó có Việt Nam sang Nhật Bản bị giảm sút. Hơn nữa, kể cả

trong hai năm 1997/1998, để khôi phục nền kinh tế, Nhật Bản vẫn tiếp tục

duy trì chính sách động yên yếu so với đồng đô la Mỹ để đẩy mạnh xuất

khẩu, song có thực tế là đồng tiền của một số nước Đông Á như Thái Lan,

Malaixia, Hàn Quốc còn bị mất giá cao hơn so với đồng yên Nhật, trong

khi đó tiền đồng Việt Nam vẫn mạnh giá hơn tiền của các nước này khiến

cho tính cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản trong

1998 đã giảm sút hơn, tình trạng lặp lại đối với năm 2002.

- Một hạn chế, bất cập khác về phía Nhật Bản là cho đến nay vẫn

chưa ký kết hiệp định thương mại với Việt Nam, chính vì thế, Nhật Bản đã

quá chậm trong việc dành cho Việt Nam các chế độ, chính sách ưu đãi

thương mại đối với hàng hoá xuất nhập khẩu giữa hai nước. Mãi đến cuối

tháng 5/1999, Nhật Bản mới dành cho Việt Nam chế độ MFN, nhưng chỉ

đối với thuế xuất nhập khẩu. Mặc dù, phía Nhật có dành cho hàng hoá của

Việt Nam chưa nhiều. Trong khi đó những năm trước đây, nhiều mặt hàng

của Việt Nam đã phải chịu thuế nhập khẩu cao hơn mức thuế mà Nhật bản

đã dành cho hàng hoá Trung Quốc và các nước ASEAN khác. Chính vì thế

đã làm hạn chế đáng kể sự tăng trưởng xuất khẩ của hàng hoá Việt Nam

vào Nhật Bản trong gần suốt cả thập niên 90 vừa qua đến bây giờ.

- Về phía Việt Nam, cho đến nay vẫn còn tồn đọng khá nhiều hạn

chế, bất cập mà chúng ta cần phải nỗ lực khắc phục khẩn trương hơn nữa.

Đương nhiên cũng có những vấn đề đòi hỏi phải có sự nỗ lực cùng giải

quyết song phương cả phía ta và phía Nhật. Dưới đây, xin đưa ra một số

hạn chế bất cập được coi là bức thiết cần giải quyết càng sớm càng tốt.

+ Trước hết, đó là vấn đề chất lượng hàng hoá xuất khẩu của Việt

Nam sang Nhật. Phải thừa nhận rằng chúng ta đã có rất nhiều cố gắng về

vấn đề này, vì thế càng ngày trong danh mục hàng xuất khẩu Việt Nam

càng có thêm những mặt hàng chiếm được uy tín cao về chất lượng. Ngày

26/1/2000, trong buổi toạ đàm với hơn 100 doanh nghiệp xuất khẩu của

Việt Nam về chủ đề “đẩy mạnh xuất khẩu hàng Việt Nam sang thị trường

Nhật Bản” do Văn phòng đại diện JETRO tại Hà Nội tổ chức, ông

Matsumoto, Cố vấn phát triển thương mại của JETRO đã có sự đánh giá về

chất lượng các sản phẩm Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản. Ông cho biết,

nếu dựa vào thang điểm từ 0 đến 100 điểm thì Việt Nam đã có một số hàng

đạt chất lượng cao như: hàng may mặc được trên 80 điểm, hàng thực phẩm

hải sản đồ ăn uống khác được xếp thứ 20 trong tổng số 120 nước; đặc biệt

tôm, mực, bạch tuộc chiếm vị trí rất tốt, đứng thứ 5, dưa chuột muối đứng

thứ 2 sau Trung Quốc; gừng muối đứng thứ 4. Các mặt hàng đã được xếp

loại trên đều được đánh giá đạt từ 70 - 80 điểm. Nhoài ra các mặt hàng thủ

công mỹ nghệ thêu ren, đặc biệt là sơn mài cũng được người Nhật Bản ưa

thích và đánh giá cao... Thế nhưng qua thực tiễn xuất khẩu sang Nhật

những năm qua, ta vẫn phải chấp nhận một thực tế là nhìn chung chất

lượng hàng hoá của ta là chưa được, còn thua kém nhiều nước trong khu

vực, đặc biệt là ngay cả chất lượng quảng cáo, thông tin trên bao bì cũng

như kỹ thuật đóng gói còn đơn điệu, kém hấp dẫn và độ dài thời gian bảo

hành sản phẩm còn chưa chuẩn xác như quảng cáo giới thiệu trên các bao

bì hàng hoá. Liên quan về vấn đề chất lượng hàng xuất khẩu Việt Nam.,

theo Giáo sư Furuta Moto và ông Hiroshi Miyauchi, chưa hẳn tất cả hàng

xuất khẩu Việt Nam ở thị trường Nhật Bản đều có chất lượng cao nhưng

chưa đều; ngoài ra một trong những nguyên nhân quan trọng khiến hàng

Việt Nam còn ít xuất hiện ở thị trường Tokyo mà chủ yếu chỉ có ở Osaka

hoặc một số tỉnh thành khác, đó là vì nhiều người Nhật Bản chưa có thói

quen tiêu dùng hàng Việt Nam, trong khi đó họ có thói quen với hàng của

Trung Quốc, Thái Lan, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc.. nhất là hàng

Trung Quốc hiện đã chiếm lĩnh phần lớn thị trường Nhật Bản. Có hai

nguyên nhân chính khiến cho ngay từ thời điểm ban đầy có mặt ở thị

trường Nhật Bản, hàng Trung Quốc đã được người Nhật Bản làm quen rất

nhanh, đó là khâu quảng cáo, giới thiệu trên vỏ bao bì và chất lượng, hình

thức bên ngoài bao bì rất đẹp và một nguyên nhân khác nữa rất quan trọng

đó là giá rẻ (rẻ hơn cả hàng Việt Nam) và đương nhiên là qua thực tế tiêu

dùng, hàng Trung Quốc đã được kiểm nghiệm đánh giá là có chất lượng

phù hợp với nhu cầu của họ.

Từ đó đặt ra, bên cạnh vấn đề chất lượng cao, Việt Nam cần chú ý

nhiều hơn nữa đến khâu thông tin, quảng cáo, tiếp thị với thị trưòng Nhật

Bản, mà trước hết là chú ý ngay đến hình thưvs mỹ thuật và chất lượng kỹ

thuật của bao bì hàng hoá và vấn đề tiết kiệm giá thành sản phẩm để giảm

giá cả ở mức hợp lý mới có thể cạnh tranh được với hàng hoá của các nước

khác. Ngoài ra vần đề giao hàng của ta cũng đã từng gây mất tín nhiệm với

các bạn hàng Nhật Bản bởi một số hạn chế như giao hàng thiếu, lẫn cả hàng

kém phẩm chất, không đúng quy cách so với yêu cầu của các nhà nhập

khẩu Nhật Bản, hay thậm chí có dị vật như các trường hợp của Xí nghiệp

86 thuộc SEAPRDEX Đà Nẵng bị khiếu nại vì giao hàng hải sản không

đúng chủng loại hay Công ty Girimex Gia Rai bị khiếu nại vì khách hàng

Nhật Bản phát hiện có đinh sắt trong tôm đông lạnh... Có một số trường

hợp sau khi ký hợp đồng buôn bán, phía Việt Nam lại đòi tăng giá, hoặc đã

ký hợp đồng rồi nhưng sau lại tự huỷ bỏ hợp đồng để bán hàng cho nhà

nhập khẩu nước khác có lợi hơn. Ngoài ra, phía Việt Nam vẫn còn để xảy

ra mất mát hàng hoá do sự sắp xếp tàu vận chuyển không hợp lý, ra vào

cảng khó khăn và kém hiệu quả trong bốc dỡ hàng...

+Biện pháp thâm nhập thị trường Nhậ Bản của ta còn quá đơn giản

và chưa chủ động. Việc thâm nhập thị trường Nhật Bản bằng hình thức tiếp

cận trực tiếp thị trường chưa được các doanh nghiệp của ta quan tâm đúng

mức, trong đó có nguyên nhân là do chi phí khảo sát thị trường rất tốn kém,

các doanh nghiệp của ta dù có muốn khảo sát trực tiếp cũng chưa thể thực

hiện được vì một thực tế là phần lớn doanh nghiệp Việt Nam còn ở quy mô

nhỏ, mới bước vào một số năm chưa có đủ tiềm lực kinh tế làm ăn lớn.

Chính vì thế cho đến nay các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa có văn

phòng đại diện tại Nhật, chưa nói đến hoạt động cao hơn như thành lập chi

nhánh bán hàng, sử dụng đại lý bán hàng, thiếp lập một hệ thống phân phối

riêng cho các doanh nghiệp trên thị trường Nhật Bản... Thực tế này dẫn đến

việc các doanh nghiệp Việt Nam không thể nắm bắt kịp thời chính xác

được như cầu hàng hoá, thị hiếu tiêu dùng cũng như các quy định về quản

lý xuất nhập khẩu của Nhật Bản... do vậy việc xuất khẩu hàng sang Nhật

Bản hoàn toàn phụ thuộc vào phía đối tác Nhật.

Năm 1997 là một ví dụ rất rõ về sự khó khăn, bất cập này đã ảnh

hưởng trực tiếp đến hàng xuất khẩu Việt Nam, đó là tác động của việc

Chính phủ Nhật Bản đã có sự thay đổi chính sách thuế tiêu dùng và thuế

nhập khẩu, do đó làm hạn chế hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật

Bản. Ngoài ra cũng cần nhắc đến một khó khăn cho ta đó là quy định kiểm

dịch của phía Nhật đối hàng xuất khẩu của ta (chủ yếu là với các hàng nông

sản và thực phẩm) là rất chặt chẽ, và thực tế cũng đã có một số lần đáng

tiếc xảy ra là do hàng hoá của ta không đủ tiêu chuẩn quy định nên đã

không xuất được, mặc dù số hàng đó đã cập vào bến cảng Nhật Bản, gây

thiệt hại lớn về kinh tế và uy tín thương mại của ta.

+Do quy mô của doanh nghiệp Việt Nam, hiện nay còn nhỏ bé, và do

phương thức thu gom hàng của ta để xuất khẩu lâu nay vẫn chưa khắc phục

hết tình trạng sản xuất nhỏ, manh mún... vì thế rất có khó khăn trong việc

đáp ứng các hợp đồng lớn, hoặc các hợp đồng đột xuất ngoài kế hoạch dự

kiến trước của phía ta, nhưng phía Nhật lại có yêu cầu. Điều này dẫn đến

một số công ty của ta không đủ khả năng cung ứng nhưng vẫn ký hợp đồng

với Nhật và kết quả là đã không thực hiện được hợp đồng, gây ra mất uy tín

cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam...

IV. Xu hướng phát triển quan hệ buôn bán giữa hai nước trong thời

gian tới

Để có thể thấy được một cách khái quát và tương đối chính xác, khách

quan về triển vọng quan hệ hợp tác thương mại Việt Nam - Nhật Bản trong

thời gian tới, chúng ta cần có sự xem xét, đánh giá đúng đắn, khách quan

về những thuận lợi, khó khăn trong quan hệ hợp tác thương mại giữa hai

nước. Từ đó thấy được tầm quan trọng của việc khai thác những ưu đãi mà

Nhật Bản dành cho Việt Nam để chiếm lĩnh thị trường đầy tiềm năng Nhật.

1. Thuận lợi

Thực tế cho thấy, Nhật Bản vẫn là bạn hàng thương mại lớn nhất của

Việt Nam và trong quan hệ hợp tác kinh tế nói chung, thương mại nói

riêng, Việt Nam vẫn còn có nhiều điều kiện tranh thủ sự hợp tác với Nhật

Bản để phát triển, bởi Nhật Bản đến nay vẫn là một nước lớn, tiềm lực kinh

tế mạnh trong khu vực Châu Á và trên thế giới. Về chính sách đối ngoại, cả

hai nước Việt Nam và Nhật Bản đều tương đồng quan điểm trong việc ưu

tiên phát triển mạnh quan hệ hợp tác hữu nghị toàn diện với nhau trên

nhiều lĩnh vực, vì lợi ích của sự phát triển mỗi nước, đồng thời góp phần

tích cực vào hoà bình, ổn định, hợp tác phát triển trong khu vực và trên thế

giới. Sự tương đồng quan điểm như vậy gần đây trong năm 2002, thông

qua các cuộc viếng thăm đối ngoại và làm việc giữa các nguyên thủ quốc

gia hai nước (Thủ tướng J.Koizumi đến Việt Nam tháng 4-2002 và Tổng bí

thư Nông Đức Mạnh đến Nhật Bản tháng 10-2002) đã tiếp tục được khẳng

định lại trong sự nhất trí hoàn toàn.

Riêng đối với Nhật Bản, trong bối cảnh đầy những diễn biến phức tạp

của khu vực và thế giới hiện nay, do những ràng buộc của Hiến pháp Hoà

bình Nhật Bản đã khiến quốc gia này không thể không lo lắng cho vấn đề

an ninh lâu dài của mình. Thực tế cho thấy mặc dù Nhật Bản vẫn rất coi

trọng Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ, song trước tình hình thế giới phát triển

theo xu hướng đa cực kể từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc đến nay, Hiệp

ước an ninh đó cũng không còn là bùa hộ mệnh tuyệt đối cho Nhật Bản

nữa. Ngoài ra, những va chạm quan hệ kinh tế thương mại Nhật - Mỹ trong

thời gian qua đôi khi trở nên gay gắt và Mỹ đã lợi dụng con bài chính trị

“Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ” để gây sức ép với Nhật đã khiến cho Nhật

tuy phải thoả hiệp, nhượng bộ Mỹ nhưng vẫn rất khó chịu. Nhật Bản vẫn

phải phụ thuộc vào Mỹ nhưng lại đang muốn vượt dần ra khỏi sự phụ thuộc

đó, đó là mâu thuẫn, là động thái phức tạp trong quan hệ liên minh Nhật -

Mỹ hiện nay, cho dù kể từ sau sự kiện 11-9-2001 đến nay, trong lĩnh vực

hợp tác chống khủng bố, Nhật vẫn luôn thể hiện là bạn đồng minh chặt chẽ

số 1 ở Châu Á của Mỹ.

Quan hệ với Mỹ như thế, còn tình hình Đông Bắc Á thì ra sao? dự bảo

thời gian tới có thể có những diễn biến an ninh đối ngoại rất phức tạp, gây

bất lợi cho Nhật Bản. Khả năng một nước Triều Tiên thống nhất có sức

mạnh về kinh tế và tiềm lực vũ khí hạt nhân, những căng thẳng trong quan

hệ Mỹ - CHDCND Triều Tiên hiện nay; Trung Quốc với sự tăng trưởng

mạnh về kinh tế và tiềm lực quốc phòng đang không ngừng gây ảnh hưởng

trong khu vực, tương lai sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh lớn của Nhật Bản;

Nga tuy còn yếu về kinh tế nhưng vẫn là cường quốc hạt nhân; CHDCND

Triều Tiên và kể cả Hàn Quốc vẫn còn có những bất đồng, trở ngại lịch sử

và cả hiện tại trong quan hệ với Nhật Bản...

Trong bối cảnh tương quan lực lượng đầy phức tạp trên đây, khiến cho

Nhật Bản không thể không nhận thức sâu sắc rằng cần phải ngày càng tích

cực hơn trong các giải pháp nỗ lực nâng cao vai trò của mình tại Châu Á

bằng các hoạt động hợp tác kinh tế, trong đó đặc biệt chú trọng đến các

nước Đông Nam Á. Sự kiện Thủ tướng Nhật Bản J.Koizumi đã thực hiện

các chuyến công du đến thăm và làm việc với các nguyên thủ quốc gia

ASEAN, trong đó có Việt Nam hồi tháng 1 và tháng 4-2002 đã khẳng định

thêm việc đề cao chính sách đối ngoại châu Á nói chung và đông Nam Á

nói riêng của Nhật Bản. Việc làm này như các nhà phân tích đã bình luận,

không ngoài mục đích nhằm nâng cao hơn nữa vị trí, vai trò cường quốc

khu vực Châu Á của Nhật Bản; ngoài ra cũng là nhằm đối phó lại sự lớn

mạnh của Trung Quốc đang cạnh tranh mạnh mẽ với Nhật Bản về nhiều

lĩnh vực, trong đó đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Việc Trung Quốc gia nhập

WTO cuối năm 2001, và cuối năm 2002 vừa qua Trung Quốc lại ký tiếp

được Hiệp định khung về tự do mậu dịch khu vực Đông Nam Á vào năm

2010 đã làm cho Nhật Bản lo ngại và càng củng cố quyết tâm nâng cao hơn

nữa vị thế của mình ở khu vực châu Á. Ý tưởng của ông Koizumi về thành

lập một khối cộng đồng Đông Á mở rộng bao gồm không chỉ ASEAN + 3

(Nhật bản, Trung Quốc, Hàn Quốc) mà có thêm cả một số nước châu Á

khác đã được dưa ra tại các cuộc gặp gỡ và làm việc giữa ông với các

nguyên thủ quốc gia ASEAN: Inđônêxia, Malaixia, Philippin, Myanma,

Thái Lan, Singapo, Việt Nam... trong năm 2002 vừa qua là sự khẳng định

rõ quyết tâm đó của Nhật Bản.

Hiện nay có đến 82% hàng hoá nhập khẩu và 78% hàng hoá xuất

khẩu của Nhật Bản là do quan hệ mậu dịch với khu vực châu Á Thái Bình

Dương. Hầu hết hàng hoá xuất nhập khẩu, đặc biệt là dầu lửa của Nhật Bản

đều đi qua khu vực biển Đông ở Thái Bình Dương, nên an ninh kinh tế

cũng như an ninh quốc phòng của Nhật Bản phụ thuộc rất lớn vào sự ổn

định ở khu vực này. Trong tình hình như vậy, Việt Nam là một nước giàu

tài nguyên nhiệt đới, có nhiều khoáng sản quý hiếm, có nguồn lao động dồi

dào giá rẻ lại nằm ở vị trí địa chính trị, kinh tế, quân sự chiến lược, cửa ngõ

án ngự các tuyến đường giao thông biển và đường bộ ở khu vực Đông Nam

Á, Tây Thái Bình Dương... đương nhiên được Nhật Bản coi trọng trong

chính sách đối ngoại châu Á. Đó là những lý do cơ bản khiến cho Nhật Bản

trong những năm gần đây mặc dù đang gặp rất nhiều khó khăn, thách thức

của các diễn biến phức tạp kinh tế, chính trị, xã hội trong nước, song vẫn

nỗ lực hợp tác phát triển kinh tế với Việt Nam về tất cả các lĩnh vực thương

mại, đầu tư và viện trợ phát triển. Từ đầu những năm 1990 cho đến nay,

Nhật Bản vẫn duy trì được vị trí là bạn hàng thương mại lớn nhất của Việt

Nam, nhà đầu tư nước ngoài đứng thứ 3 trong số hơn 70 quốc gia và vùng

lãnh thổ có FDI vào Việt Nam, với tổng số vốn đã đăng ký riêng của Nhật

Bản là hơn 4,5 tỷ USD. Cũng từ nhiều năm qua, Nhật Bản luôn là nhà tài

trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam. Quan hệ hợp tác hữu nghị toàn diện trên

nhiều lĩnh vực giữa hai nước, đặc biệt sự hợp tác thương mại Việt Nam -

Nhật Bản những năm qua với những ưu đãi mà Nhật dành cho Việt Nam rõ

ràng là đã góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế, xây dựng cơ sở

hạ tầng và công cuộc xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam.

2 . Khó khăn

Kim ngạch buôn bán hai chiều Nhật – Việt năm 2000 mới chỉ chiếm

khoảng 0,53% trong tổng kim ngạch ngoại thương của Nhật Bản. Trong khi

đó, số liệu tương ứng đối với một số nươc châu Á khác có quan hệ buôn

bán với Nhật Bản là: Trung Quốc 13,5%, hàn Quốc 8%, Malaixia 4,5%,

Singapo 4%, Inđônêxia 4%, Thái Lan 4%, Philippin 2,5%...

Trong quan hệ buôn bán với Nhật Bản nhều năm qua, hầu như Việt

Nam liên tục xuất siêu. Song xem xét kỹ, trong tổng KNXNK của Nhật

Bản, giá trị hàng hoá Việt Nam chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ, khoảng 0,6%,

trong khi đó của Trung Quốc là 14,4%, Malaixia 2,7%, Thái Lan 2,6%...

Như vậy đã thấy rõ là vị trí, vai trò của thương mại Việt Nam còn rất

nhỏ ở thị trường Nhật Bản, từ đó cho thấy Việt Nam xuất siêu liên tục

nhiều năm sang Nhật Bản chỉ là phản ánh quan hệ cơ cấu bổ sung trong

buôn bán hàng hoá với Nhật Bản, hoàn toàn không phản ánh thế mạnh của

Việt Nam là xuất siêu, ngược hẳn với quan hệ thương mại Nhật - Mỹ, thế

mạnh của Nhật là luôn xuất siêu sang Mỹ.

Nền kinh tế Nhật Bản cho đến nay đã trải qua 4 cuộc khủng hoảng nếu

tính từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trong đó có hai cuộc khủng hoảng

vì giá dầu lửa, một cuộc khủng hoảng về cơ cấu, và gần đây nhất là cuộc

khủng hoảng cả về cơ cấu và tài chính tiền tệ. Khủng hoảng kinh tế đi liền

với sự biến động bất thường khi tăng khi giảm của đồng yên, nhất là với tác

động của đồng yên lên giá mạnh so với đồng đô la Mỹ đã làm sản xuất

trong nước đình trệ, thất nghiệp gia tăng, sức mua giảm sút, đời sống nhân

dân kém đi, buộc nhiều công ty Nhật để thoát khỏi phá sản đã phải đưa một

phần cơ sở sản xuất trong nước ra bên ngoài ở các nước khu vực Châu Á,

trong đó có Việt Nam. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến

cho các nước châu Á hiện nay đã chiếm tới 36% lượng hàng xuất khẩu vào

Nhật Bản, trong đó có hàng Việt Nam. Tuy nhiên, như đã biết, do trình độ

phát triển kinh tế - kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất và kinh doanh xuất nhập

khẩu theo cơ chế thị trường của Việt Nam còn thấp so với một số nước

Châu Á khác, trong khi đó thị trường Nhật Bản lại là một thị trường rất

khắt khe, khó tính về tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh kiểm dịch... vì thế

nhìn chung hàng hoá của ta tuy đã vào được thị trường Nhật Bản song uy

tín và sức cạnh tranh còn gặp nhiều khó khăn, thậm chí phải nhượng bộ ,

thua kém các đối thủ như Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia,

Philippin... Trong điều kiện hiện nay, do khủng hoảng kinh tế kéo dài, sức

mua của thị trường Nhật càng bị giảm sút vì người dân Nhật thắt chặt hơn

nữa các nhu cầu đầu tư và chi tiêu, do đó hàng hoá của Việt Nam muốn tồn

tại và xuất hiện nhiều hơn nữa ở thị trường Nhật Bản là điều không đơn

giản, cần phải phẩn đấu cải tiến, đổi mới mẫu mã hình thức, nâng cao chất

lượng, đa dạng hoá hơn nữa các loại hàng, và nhất là có giá rẻ hơn so với

hàng của Trung Quốc và các nước châu Á khác đang có ở Nhật Bản. Đây

rõ ràng đang là một khó khăn, thách thức lớn đối với không chỉ hàng hoá

Việt Nam mà cả hàng hoá của các nước Châu Á khác khi xuất sang thị

trường Nhật, vì thực tế cho thấy thời gian gần đây, Nhật Bản cùng với các

nước ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc... đang trong tiến trình thực hiện mở

cửa tự do các hoạt động thương mại song phương và đa phương vào thị

trường của nhau. Cơ hội thuận lợi cho kinh doanh XNK hàng hoá giữa

Nhật Bản với các nước Châu Á được mở rộng song từ đó tính cạnh tranh

giữa hàng hoá các nước với nhau khi vào thị trường Nhật cũng sẽ gia tăng

Kinh nghiệm thời gian qua cho thấy, trong buôn bán với Nhật

Bản, các doanh nghiệp XNK của Việt Nam thường mắc phải 3

nhược điểm chính khi xuất khẩu hàng hoá sang thị trường này:

mạnh.

- Chưa có khả năng tiếp nhận những đơn hàng lớn từ phía bạn. Nếu

doanh nghiệp Việt Nam từ chối, không chỉ sẽ mất đơn hàng mà có khi mất

cả mối quan hệ làm ăn lâu dài

- Doanh nghiệp Việt Nam thường vi phạm điều khoản về thời hạn

giao hàng

- Nhiều hàng hoá của Việt Nam xuất sang Nhật, nhất là hàng thủ

công mỹ nghệ có chất lượng không đồng đều nên nhiều lô hàng thường bị

loại từ các địa điểm kiểm tra chất lượng hàng trước khi vào thị trường

Nhật.

Ngoài ra trong nghệ thuật kinh doanh, ta còn hay bị khó khăn, lúng

túng về cách thức bán hàng, giới thiệu hàng làm cho người Nhật không

hiểu rõ về hàng của ta. Người Nhật không giỏi tiếng anh nhưng người Việt

muốn tiếp cận thị trương Nhật thì lại không giỏi tiếng Nhật. Mặt khác chi

phí đi lại, tiền thuê gian hàng, ăn ở tại thị trường Nhật rất đắt đỏ, dễ làm

cho các doanh nghiệp Việt Nam nản lòng. Một khó khăn khác nữa trong

quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản, nhất là với Việt Nam đó là cho

đến nay, quan hệ buôn bán song phương giữa hai nước vẫn chưa được

chính thức hoá bằng một hiệp định thương mại, do đó Chính phủ Nhật vẫn

có thể đơn phương đưa ra những hạn chế hàng xuất khẩu của Việt Nam. Ví

dụ điển hình gần đây là Bộ Kinh tế thương mại và công nghiệp (METI)

Nhật Bản đã trình Chính phủ Nhật ra quyết định kéo dài việc hạn chế nhập

khẩu khăn mặt xuất khẩu của Việt Nam đợt hai từ ngày 15-4-2002 đến

ngày 15-10-2002 (đợi một là vào tháng 10-2001). Hiệp hội Công Nghiệp

khăn lau của Nhật Bản còn đề nghị Chíng phủ Nhật thi hành một số chính

sách như tăng thuế và ban hành hạn ngạch nhập khẩu khăn tắm, khăn mặt

giá rẻ từ Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên so với Trung Quốc thì khối

lượng xuất khẩu khăn mặt vào thị trường Nhật Bản hàng năm của hàng

Việt Nam chỉ bằng 1/8 -1/9 và giá cả cũng cao hơn. Hiện Việt Nam có

khoảng 10 doanh nghiệp và hàng nghìn hộ tham gia sản xuất khăn mặt để

xuất khẩu sang Nhật Bản và hàng của Việt Nam đã từng được các nhà nhập

khẩu của Nhật Bản đánh giá là có chất lượng cao. Nhiều công ty như Dệt

Minh Khai, Dệt Hà Nội đang rất lo ngại vì kể từ khi có sự việc trên thì hầu

như các công ty Việt Nam không ký được hợp đồng nào với thị trường

Để sớm giải quyết khó khăn trên đây, trong năm 2002 vừa

qua, tại các cuộc gặp gỡ giữa nguyên thủ quốc gia cùng các quan

chức cao cấp của Chính phủ hai nước (Tháng 4 tại Hà Nội: Thủ

tướng Phan Văn Khải và Thủ tướng Koizumi ; Tháng 10 tại

Tokyo: Thủ tướng Koizumi và Tổng bí thư Nông Đức Mạnh) phía

Việt Nam đã tiếp tục đưa ra đề nghị phía Nhật cùng với Việt Nam

Nhật Bản.

sớm ký kết Hiệp định thương mại song phương nhưng vẫn chưa

được phía Nhật đáp ứng. Quan điểm của Chính phủ Nhật đã thể

hiện rõ với Chính phủ Việt Nam tại cuộc gặp tháng 10-2002 là

trong thời gian tới, cụ thể là năm 2003 hai bên sẽ ký kết trước

Hiệp định song phương về bảo hộ đầu tư, sau đó mới ký Hiệp

định thương mại. Phía Nhật cũng cho biết vì khu vực nông nghiệp

của họ được bảo hộ rất mạnh và đang là một vấn đề chính trị - xã

hội phức tạp, vì yêu cầu của Việt Nam về việc Nhật Bản mở cửa

tự do thị trường nông sản, để một số hàng hoá nông sản có thế

mạnh của Việt Nam như gạo, tôm, cá và cà phê xuất nhiều hơn

nữa sang thị trường Nhật.

3. Triển vọng

Mặc dù đến nay trong quan hệ thương mại Việt - Nhật vẫn còn khó

khăn, song trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá thương mại, gần đây Nhật

Bản cũng đã có một số động thái tích cực liên minh tự do thương mại với

một số quốc gia như Singapo, Canađa, Chilê và Mehicô; và Nhật cũng

đang nỗ lực xúc tiến việc thành lập khối mậu dịch tự do với ASEAN, nhằm

mở rộng hơn nữa vai trò cường quốc kinh tế ở khu vực Châu Á. Đây là một

thay đổi lớn trong chính sách thương mại của Nhật Bản vì cho đến tận cuối

những năm 1990, Nhật Bản vẫn cứng rắn không tham gia một thoả thuận

thương mại song phương nào mà chủ yếu chỉ dựa vào các tổ chức đa

phương như Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Chính vì thế, hy vọng

rằng trước những yêu cầu mới của bối cảnh toàn cầu hoá và khu vực hoá

các hoạt động kinh tế, sự thay đổi chính sách thương mại quốc tế của Nhật

Bản đương nhiên sẽ dẫn đến trong tương lai gần, năm 2003 này, cùng với

việc tiến tới kỷ niệm trọng thể 30 năm ngày chính thức thiết lập quan hệ

ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản 23-9-1973 / 23-9-2003), sau khi hai nước

ký kết các hiệp định về đầu tư và thương mại song phương, quan hệ kinh

tế nói chung và quan hệ thương mại Việt - Nhật nói riêng sẽ càng có điều

kiện phát triển mạnh hơn nữa. Đương nhiên để đạt được sự phát triển như

vậy, về phía Việt Nam đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực thực hiện có hiệu quả

cao nhất các giải pháp cơ banr về phát triển ngoại thương Việt Nam nói

chung và thương mại Việt - Nhật nói riêng. Đó là việc không ngừng đa

dạng hoá một cơ cấu các sản phẩm xuất nhập khẩu hợp lý có hiệu quả cao

phù hợp với mục tiêu phát triển một nền kinh tế bền vững; tiếp tục đổi mới,

hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế, cơ chế quản lý ngoại thương Việt

Nam theo hướng năng động, phù hợp với thông lệ quốc tế, thị trường Nhật

Bản và lợi ích phát triển kinh tế của Việt Nam.

CHƯƠNG 3

CÁC GIẢI PHÁP NHẰM KHAI THÁC CÓ HIỆU QUẢ CHẾ ĐỘ

ƯU ĐÃI THUẾ QUAN PHỔ CẬP CỦA NHẬT BẢN

Cùng với sự phục hồi kinh tế các nước Đông Á sau hai năm 1997 -

1998 gặp phải khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, nền kinh tế Nhật

Bản cũng đã vượt qua được cơn suy thoái kéo dài từ đầu thập niên 90 và

bắt đầu phục hồi trở lại sự tăng trưởng tuy còn chậm chạp. Với tình hình

khả quan này, có thể dự báo triển vọng phát triển kinh tế khu vực Đông Á

trong đó có nền kinh tế Nhật Bản và Việt Nam là khá sáng sủa nếu như

ngoài sự nỗ lực phát triển của từng nước, còn có sự phối hợp đồng bộ sự

hợp tác phát triển kinh tế, trong đó có lĩnh vực thương mại. Sự hợp tác phát

triển này đương nhiên không thể tách rời khỏi những tác động cộng hưởng

của các quá trình khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra hiện nay

với một động thái phát triển tất yếu theo cả hai xu hướng: vừa hợp tác phát

triển cùng có lợi; vừa cạnh tranh khốc liệt có kẻ thắng người thua, có người

thu được lợi nhuận tối đa, có kẻ phải chịu thua thiệt, trả giá thất bại vì sự

non kém trong cuộc chơi. Chính vì thế, là nước có trình độ phát triển còn

thấp, không cân sức với trình độ phát triển cao của Nhật Bản, để tiếp tục

thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản phát triển ngày càng

mạnh mẽ, sôi động và có hiệu quả cao cao hơn trong những năm tới, chúng

ta cần phải có sự định hướng đúng đắn về một kế hoạc hợp tác, phát triển

thương mại giữa hai nước sao cho có thể khai thác, phát huy có hiệu quả

cao nhất sự phân công trao đổi các lợi thế so sánh sẵn có của mỗi nước

trong toàn bộ tiến trình chung của sự hội nhập vào nền kinh tế khu vực và

nền kinh tế thế giới. Việc hoạch định và triển khai thực thi một kế hoạch

hợp tác phát triển thương mại giữa hai nước cần có sự phối hợp tao đổi cho

nhau một cơ cấu các sản phẩm xuất nhập khẩu phù hợp với lợi ích của cả

hai bên. Phía Nhật Bản để tiếp tục phát triển nền kinh tế siêu cường của

mình họ luôn luôn các ở Việt Nam (và kể vả nhiều nước đang phát triển

khác nữa) một khối lượng nguyên liệu thô phục vụ cho sự phát triển đồng

bộ của các ngành kinh tế, mà trọng tâm vẫn là các ngành công nghiệp, bao

gồm cả những ngành công nghiệp kỹ thuật cao. Ngoài ra họ cũng luôn cần

cả một khối lượng các sản phẩm hàng hoá tiêu dùng phù hợp với chính

sách kích cầu trong nước, khuyến khích phát triển “nội nhu” trong tất cả

dân chúng Nhật Bản hiện nay và nhiều năm tới... Ngược lại về phía Việt

Nam, do còn là một nước nghèo, có trình độ phát triển kinh tế còn thấp, để

nhanh chóng thoát khỏi nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với trình độ phát

triển của các nước phát triển như nước Nhật hiện nay, chúng ta cần phải

đẩy mạnh hơn nữa quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế theo

hướng mở cửa, phát triển mạnh các ngành sản xuất để xuất khẩu, từ đó có

điều kiện phát triển mạnh các ngành sản xuất thay thế nhập khẩu một cách

hợp lý, có hiệu quả cao phù hợp với sự phân công lao động giữa các nền

kinh tế trong khu vực, trong đó có Nhật Bản và với toàn bộ nền kinh tế thế

giới. Quan hệ thương mại Nhật - Việt nhiều thuận lợi chính là tiền đề để

Nhật dành ưu đãi cho Việt Nam với hạn ngạch hấp dẫn cơ cấu mặt hàng đa

dạng và thiết thực, từ đó chúng ta có thể đẩy nhanh xuất khẩu nhờ khai thác

Khai thác có hiệu quả chế độ ưu đãi luôn là mục tiêu mà

chúng ta hướng tới. Bởi vì để có được nhưng ưu đãi mà Nhật

dành cho không phải là dễ và cũng không phải là ngẫu nhiên.

Dành ưu đãi cho Việt Nam, Nhật Bản tất nhiên cũng có lợi, tuy

nhiên đó cũng là kết quả của mối quan hệ tốt đẹp mà cả hai nước

nỗ lực trong suốt 30 năm qua.

có hiệu quả những ưu đãi này.

Nỗ lực khai thác không chỉ của riêng ai mà phải là sự nỗ lực một

cách đồng bộ giữa các chính sách ngoại giao cũng như kinh tế từ phía Nhà

nước và một phần không nhỏ là từ phía bản thân mỗi doanh nghiệp khi xuất

khẩu hàng hoá vào Nhật. Từ nhận thức như trên có hai giải pháp nhằm khai

thác có hiệu quả chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập của Nhật, bao gồm:

I. Các giải pháp ở tầm vĩ mô:

Nói đến các giải pháp ở tầm vĩ mô tức là nói đến những nỗ lực về

phía Nhà nước. Nhà nước bằng các biện pháp ngoại giao cấp quốc gia thúc

đẩy mối quan hệ Việt Nam - Nhật Bản trở nên tốt đẹp hơn từ đó chúng ta

có thêm những ưu đãi về thuế hay hạn ngạch hay đơn thuần chỉ là việc xuất

khẩu trở nên dễ dàng hơn về thủ tục; Nhà nước định hướng lâu dài về

ngành hàng hoặc định hướng về chất lượng hàng hoá “made in Việt Nam”;

Nhà nước cũng có thể hỗ trợ cho hàng xuất khẩu vào thị trường Nhật

Bản,…

1. Định hướng phát triển cơ cấu sản phẩm xuất khẩu hợp lý và có hiệu quả

cao.

Về sự định hướng phát triển một cơ cấu các sản phẩm xuất khẩu hợp

lý và có hiệu quả cao phù hợp với mục tiêu phát triển một nền kinh tế bền

vững, như đã biết, cơ cấu hàng hoá trao đổi của nước ta trong buôn bán với

Nhật Bản hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập, mặc dù nó phản ánh giai

đoạn phát triển hiện tại của nền kinh tế Việt Nam với những lợi thế so sánh

về tài nguyên và lao động. Hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là sản

phẩm thô như nguyên liệu, đặc biệt dầu thô chiếm 35% KNXK Việt –

Nhật, ngoài ra là hàng co mức độ gia công chế biến thấp là sản phẩm của

các ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động (như hàng thuỷ, hải sản

trên 19%, may mặc 21%, còn lại 25% là than, cà phê, gỗ...). Cho đến nay,

Việt Nam vẫn chưa có những hàng chế biến sâu và tinh để xuất khẩu sang

Nhật Bản.

Với cơ cấu xuất khẩu trên đây cũng phản ánh thực trạng chung của

cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam với các thị trường, bạn hàng thế giới

hiện nay. Cơ cấu này, trước mắt có thể trong giai đoạn ngắn từ 3 – 5 năm

hoặc tối đa là tới 7 năm tới còn có thể chấp nhận được, song nếu kéo dài

hơn sẽ gây bất lợi cho phía Việt Nam. Những thặng dư thương mại nhờ

xuất siêu hoặc ít nhất là sự chênh lệch cán cân thương mại Việt Nam đã giữ

được ở mức tương đối thấp như hiện nay xét thực chất không phải phản

ánh sự phồn vinh của nền kinh tế, cũng như thế mạnh trong buôn bán với

Nhật Bản nói riêng và thế giới nói chung mà nó bộc lộ tính chất kém phát

triển của một nền kinh tế sống dựa vào bán rẻ tài nguyên và lao động và

như thế Việt Nam sẽ luôn luôn thiệt thòi về giá trị xuất khẩu thu được trong

Vấn đề đặt ra là hiện tại, chúng ta phải tăng cường gia công

chế biến, với các mặt hàng thô nông lâm sản như gạo, ngũ cốc

khác, thuỷ hải sản,.. phải tiến tới sản xuất để xuất khẩu các sản

phẩm đó sau khi đã qua công nghệ chế biến thực phẩm, và do đó

sẽ thu được giá trị xuất khẩu cao hơn...

khi lại phải trả giá cao cho việc nhập khẩu các sản phẩm cao cấp bên ngoài.

Theo cách tính toán của các chuyên gia Bộ Thương mại Việt Nam, ít

nhất từ nay đến năm 2005, trọng tâm đẩy mạnh xuất khẩu vào Nhật Bản

trong những năm tới đây vẫn sẽ là các mặt hàng mà Việt Nam vốn có thế

mạnh như hàng dệt may, hải sản, giầy dép và sản phẩm da, than đá, cao su,

- Hàng dệt may hiện đang xuất khẩu được vào thị trường

Nhật Bản với kim ngạch hàng năm trên 400 triệu USD, nhưng thị

phần của Việt Nam tại Nhật Bản còn rất nhỏ bế, chỉ khoảng 2%,

so với Trung Quốc là 65%, Italia là 8% và Hàn Quốc là 6%. Thái

Lan, dù đang mất dần thị trường, cũng còn chiếm được 2,2% kim

ngạch hàng dệt may nhập khẩu của Nhật Bản. Để bắt kịp được

biến động của thị trường nhằm tăng cường xuất hàng dệt may, các

doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng hơn nữa đến cảu tiến mẫu

rau quả, thực phẩm chế biến, chè, đồ gốm sứ và sản phẩm gỗ.

mã và nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm phục vụ thị trường

đại chúng ở Nhật Bản. Mục tiêu tăng trưởng đặt ra cho ngành dệt

may là năm 2005 khoảng 1,4 - 1,5 tỷ USD.

- Hải sản của Việt Nam, nhất là tôm và mực, được thị

trường Nhật Bản đánh giá khá cao. Việt Nam hiện là một trong 4

nước hàng đầu xuất khẩu tôm và mực vào thị trường Nhật Bản.

Hơn 88% nhu cầu tôm tại Nhật Bản dựa vào nhập khẩu, và cho

đến đầu những năm 1990, Thái Lan vẫn là nguồn cung cấp chín

tôm sú cho Nhật Bản. Tuy nhiên, do ô nhiễm của vùng nuôi tôm

và việc phát triển bệnh dịch ở Thái Lan, nên nguồn cung cấp

chính chuyển sang Inđônêxia, nên các nhà nhập khẩu Nhật Bản

lại chuyển hướng sang Ấn Độ và Việt Nam. Do vậy, để duy trì

nguồn hàng và giữ được khách hàng Nhật Bản, vấn đề chất lượng

và vệ sinh thực phẩm cần phải được quan tâm hơn nữa, trong đó

vấn đề lấy xác nhận trước về chất lượng hàng hoá đóng vai trò hết

sức quan trọng, góp phần làm giảm chi phí lưu thông, nâng cao

được tính cạnh tranh. Hiện nay, kim ngạch xuất khẩu hải sản vào

Nhật Bản đạt mức 340 - 350 triệu USD/năm. Mục tiêu tăng

trưởng mặt hàng này là đến năm 2005 là 700 triệu USD.

- Kim ngạch xuất khẩu giầy dép và sản phẩm da vào thị

trường Nhật Bản còn khá khiêm tốn so với tiềm năng xuất khẩu

trên 1 tỷ USD của ngành da giầy Việt Nam. Năm 1997, Việt Nam

xuất sang Nhật Bản mặt hàng này trị giá 9.545 triệu yên (khoảng

42 triệu USD), năm 1998 là 5.071 triệu yên (khoảng 42 triệu

USD). Xu hướng nhập khẩu các mặt hàng giầy dép, đặc biệt là

giầy da, ở Nhật không ngừng tăng lên. Hiện nay, Italia là nước

đứng đầu về xuất khẩu giầy da sang Nhật Bản, chiếm 36,7% thị

phần năm 1998. Tiếp theo là Trung Quốc (15,4%) nhưng số

lượng nhập khẩu nhiều hơn Italia, và có xu hướng ngày càng tăng,

Mỹ (8,9%), Anh (6,5%), Hàn Quốc (6,3%). Việc nhập khẩu giầy

da vào Nhật Bản hiện nay vẫn phải chịu hạn ngạch về thuế quan

(thay cho hạn ngạch nhập khẩu áp dụng từ trước tháng 4 năm

1986) theo Điều 9 của Luật thuế quan Nhật Bản. Các sản phẩm

phải chịu hạn ngạch thuế quan hàng năm do Nghị định của Chính

phủ Nhật quy định, và sau đó sẽ áp dụng mức thuế thứ cấp cao

hơn đánh vào hàng nhập khẩu quá mức giới hạn đó. Đối với mặt

hàng giày da, mức ban đầu là từ 19,5% đến 27%, trong khi mức

thứ cấp là 45% hoặc 4.550 yên/đôi, lấy theo con số nào cao hơn.

Các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu giầy dép vào thị trường

Nhật Bản cần phải nắm vững những quy định này để có thể đưa

hàng vào thị trường này đúng thời điểm, tránh phải chịu mức thuế

cao, làm cho hàng hoá của Việt Nam có giá cạnh tranh hơn.

Trong xu thế nhập khẩu các mặt hàng này ở Nhật Bản ngày càng

tăng lên, nếu khắc phục được những yếu kém chủ quan như chất

lượng da, việc cung cấp phụ kiện... ngành giầy da Việt Nam có

thể đẩy mạnh được xuất khẩu vào Nhật Bản rrong thập kỷ tới, góp

phần tăng kim ngạch xuất khẩu và đa dạng hoá thị trường. Với

mục tiêu tăng trưởng trên 20%/năm, kim ngạch xuất khẩu giầy

dép và các sản phẩm da vào Nhật Bản năm 2005 là 220 - 230

triệu USD.

- Về than đá, Việt Nam là một trong bốn nước xuất khẩu

hàng đầu mặt hàng này vào Nhật Bản, luôn chiếm hơn 40% thị

phần nhập khẩu vảu Nhật Bản. Trong năm nay, số lượng xuất

khẩu than đá của Việt Nam sang Nhật Bản vẫn không giảm nhưng

kim ngạch có thể sẽ thấp hơn năm ngoái do giá than trên thị

trường thế giới giảm. Nhìn chung, vấn đề duy nhất đặt ra cho

ngành than trong thời gian tới đây là tiếp tục củng cố và giữ vững

các đầu mối tiêu thụ tại Nhật Bản.

- Cao su của Việt Nam hiện nay không thâm nhập được

nhiều vào thị trường Nhật Bản (hàng năm khoảng 3-4 ngàn tấn,

mặc dù mức thuế nhập khẩu mặt hàng này là 0%) do chủng loại

cao su của Việt Nam hiện nay chưa thích hợp với thị trường Nhật

Bản .

- Các mặt hàng rau quả, thực phẩm chế biến và chè xanh là

những mặt hàng hoàn toàn có khả năng thâm nhập và đứng vững

trên thị trường Nhật Bản. Hàng năm Nhật Bản phải nhập khẩu

hơn 3 tỷ USD rau quả nhưng Việt Nam mới bán được cho Nhật

khoảng 7 - 8 triệu USD, chiếm chưa đầy 0,3% thị phần. Trong

những năm tới, nhu cầu của Nhật Bản về các mặt hàng rau quả

vẫn không ngừng tăng lên do nội cung bị thiếu hụt vì giới hạn làm

nghề nông ngày càng già đi không có người thay thế, do việc các

siêu thị tăng cường nhập khẩu nhằm ổn định nguồn cung, do đồng

yên lên giá làm giảm giá hàng nhập khẩu.Vì vậy tiềm năng phát

triển các mặt hàng rau quả của Việt Nam là rất lớn bởi người Nhật

Bản có nhu cầu cao những loại được trồng phổ biến ở Việt Nam.

Do thực phẩm nhập khẩu vào Nhật Bản phải tuân thủ theo Luật vệ

sinh thực phẩm và phải qua các khâu kiểm tra hết sức khắt khe,

nên các doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng hợp tác với các

bạn hàng Nhật Bản nhằm không những đáp ứng đúng thị hiếu

người tiêu dùng, mà còn phải thực hiện các biện pháp đáp ứng

tiêu chuẩn vệ sinh của Nhật Bản. Mục tiêu kim ngạch đặt ra cho

hàng rau quả xuất sang Nhật Bản là 90 - 100 triệu USD năm

2005.

- Đồ gốm sứ cũng là mặt hàng có tiềm năng phát triển rất

lớn tại thị trường Nhật Bản. Nhập khẩu đồ gốm sứ của Nhật Bản

đang tăng rất mạnh trong những năm gần đây, tới khoảng 23 tỷ

yên (khoảng hơn 200 triệu USD) trong năm 1998. Về đồ gốm,

Anh là nước đứng đầu các nước xuất khẩu sang Nhật bản chiếm

43.3% kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản năm 1998, tiếp theo là

Đức (12,7%), Italia (11,3%) và Đan mạch (10,2%). Gần đây xuất

khẩu từ Trung Quốc tăng nhanh, chiếm đến 5,8% kim ngạch. Về

đồ sứ, Trung Quốc đã vượt lên dẫn đầu, chiếm 43,2% kim ngạch

nhập khẩu của Nhật Bản năm 1998, tiếp theo là Anh 916,2%),

Italia (11,7%), Thái Lan (6,1%) và Pháp (3,9%). Đồ gốm sứ của

Việt Nam xuất sang Nhật Bản còn khá ít, chỉ khoảng 5 triệu

USD/năm, trong khi thuế xuất nhập khẩu đồ gốm sứ rất thấp (từ 0

- 3%). Đây là mặt hàng Việt Nam có thể tăng được kim ngạch nếu

như các nhà sản xuất quan tâm hơn đến khẩu tạo hình, đa dạng

hoá chủng loại sản phảm và thường xuyên thay đổi mẫu mã. Các

nhà xuất khẩu cũng cần quan tâm hơn đến khâu tiếp thị, chú trọng

quan hện với các siêu thị và các nhà kinh doanh bán lẻ mới dễ đưa

hàng thâm nhập vào được thị trường.

- Về đồ gỗ, hàng năm Nhật bản nhập khẩu hơn 3 tỷ USD,

chiếm khoảng 25% thị phần, phần lớn từ các nước châu Á và Mỹ.

Các loại đồ gỗ giá rẻ nhập từ Đài Loan và các nước ASEAN như

Thái Lan, Inđônêxia và Philippin, và từ Trung Quốc những năm

gần đây, trong khi các sản phẩm giá cao được nhập từ các nước

Châu Âu và Mỹ. Đồ dùng gia đình của Việt Nam, trong đó có đồ

gỗ xuất sang Nhật Bản kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này của

Nhật Bản. Với lợi thế về nhân công rẻ và tay nghề cao trong việc

xử lý gỗ, và tận dụng được nguồn gỗ cung cấp từ Lào và

Campuchia, Việt nam trong những năm tới sẽ có khả năng tăng

nhanh được kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này. Mục tiêu đặt ra

cho mặt hàng này là 300 triệu USD năm 2005.

2. Những công việc cụ thể mà Chính phủ cần và phải làm sớm:

- Chính phủ Việt Nam cần phải thành lập thêm hoặc củng cố

hoạt động các văn phòng xúc tiến thương mại của Chính phủ

nhằm thúc đẩy hơn nữa khả năng xuất khẩu của Việt Nam

Tới nay, Việt Nam vẫn phó thác việc này cho các Tham Tán

Thương mại tại Sứ quán của mình ở nước ngoài. Tuy nhiên,

những Tham Tán Thương mại lại thường chú trọng tới các vấn đề

thương mại song phương ở cấp Chính phủ hơn hoặc chỉ đơn thuần

đưa ra những giải pháp chung chung. Bản thân các công ty kinh

doanh XNK của Việt Nam ít chịu bỏ tiền hoặc không có khả năng

bỏ tiền ra cho những chuyến đi nghiên cứu, thăm dò thị trường

hay tổ chức các cuộc hội thảo ngoài nước để khuyếch trương sản

phẩm của mình - những hoạt động mà các hãng nước ngoài đang

thực hiện rầm rộ ở Việt Nam . Chính vì vậy Việt Nam phải thành

lập văn phòng xúc tiến thương mại của Chính phủ. Đây là việc

làm cấp bách đối với Việt Nam trong tình hình hiện nay. Những

văn phòng này sẽ đứng ra tổ chức và đài thọ phần kinh phí những

chuyến đi thăm dò thị trường cho doanh nghiệp Việt Nam và các

tổ chức trưng bày sản phẩm của Việt Nam tại thị trường Nhật.

- Chính phủ Việt Nam nên tổ chức những chương trình đào

tạo chuyên sâu về thương mại cho các cán bộ lãnh đạo và chuyên

viên thương mại của các công ty Việt Nam có tham gia vào mậu

dịch quốc tế. Mục đích của đào tạo là Việt Nam để họ có thể đưa

ra những quyết định sáng suốt, hịp thời và rút ngắn đựoc thời gian

quá dài không cần thiết của các cuộc thương lượng. Chính sự

chậm trễ này làm cho nhiều cơ hội “làm ăn” bị bỏ lỡ.

3. Những giải pháp nhằm khai thác tốt thị trường Nhật Bản cho

sự phát triển tương lai nền kinh tế Việt Nam

- Chính sách công nghiệp, định hướng thị trường của Việt

Nam cần căn cứ vào sự biến đổi cơ cấu nền kinh tế Nhật Bản và

vai trò của nó trong khu vực Đông Nam Á, Châu Á - Thái Bình

Dương. Nói cụ thể hơn vẫn có một chính sách công nghiệp và

thương mại coi thị trường Nhật Bản như một trong những hướng

xuất khẩu quan trọng nhất.

- Thảo luận ở cấp Chính phủ về mở cửa thị trường, trước hết

là đối với những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam . Hiện

nay thị trường Nhật Bản vẫn được coi là thị trường có mức độ

bảo hộ cao. Sự bảo hộ này có thể là đưới các hình thức phi thuế

quan. Vì vậy những quyết định về mở cửa thị trường có một ảnh

hưởng rất lớn đến các nước khác trong khu vực.

Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn,

tạo cho họ nhanh chóng nâng cao khả năng cạnh tranh trêin thị

trường Nhật Bản . Kinh nghiệm của chính Nhật Bản và các nền

kinh tế xuất khẩu thành công như Hàn Quốc về phương diện này

là rất đáng chú ý.

- Tham gia các thể chế thương mại toàn cầu và khu vực

(WTO, APEC…) để được hưởng các quy chế tối huệ quốc và

những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển trong buôn bán

quốc tế.

II. Các giải pháp ở tầm vi mô:

Những nỗ lực của Nhà nước, của các bộ, ngành bắt nguồn từ chính

những lợi ích của các Doanh nghiệp trong nước. Nhà nước chỉ có nhiệm vụ

hướng các doanh nghiệp, chứ không có nhiệm vụ thực hiện trực tiếp hoạt

động xuất nhập khẩu. Thực hiện xuất nhập khẩu là bản thân các doanh

nghiệp, chính vì vậy mà các doanh nghiệp phải có giải pháp cho chính

mình nhằm khai thác được những ưu đãi Nhật dành cho hàng hoá Việt Nam

để đẩy nhanh lượng hàng xuất khẩu, tăng nguồn thu cho mình và cho đất

nước.

Đối với các hàng hoá được ưu chuộng có mức đàm phán nâng giá

hàng/1 đơn vị sản phẩm có thể được xác định như sau (coi giá trị tính thuế

là giá ghi trong hoá đơn thương mại)

x là mức nâng giá hàng tối đa cho phép, tính trên 1 đơn vị sản phẩm

a là giá ban đầu của 1 đơn vị sản phẩm b1 là thuế suất MFN

b2 là thuế suất ưu đãi (0

a+x là giá 1 đơn vị sản phẩm sau khi nâng giá

a+ab là tổng số tiền thanh toán mua hàng và thuế nhập khẩu

ưu đãi của 1 đơn vị sản phẩm

(a+x) + (a+x)b1 là tổng số tiền hàng và nộp thuế nhập khẩu

trong trường hợp có ưu đãi và có nâng giá hàng của 1 đơn vị sản

phẩm

Do đó, x cho phép là x<(a+x) + (a+x)b2 - (a+ab1)

xb2< ab1 – ab2

x< a(b – b1)/b1

Phát biểu: “ Trong trường hợp hàng hoá thuộc diện được

hưởng ưu đãi thuế quan của nước nhập khẩu, mức đàm phán nâng

giá hàng cho phép nằm trong giai đoạn của tỷ số giữa tích của giá

bán thực tế và mức ưu đãi thuế quan (chênh lệch thuế suất ưu đãi

và thuế suất MFN) với thuế suất không ưu đãi”

Như vậy, thuế suất ưu đãi càng thấp so với thuế suất MFN

thì mức ưu đãi càng lớn và giới hạn nâng giá hàng cho phép càng

lớn, cho phép doanh nghiệp xuất khẩu đàm phán nâng giá hàng

lên cao hơn mà không làm ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của

hàng hoá của mình so với các sản phẩm cùng loại khác không

được hưởng ưu đãi. Trường hợp ưu đãi bằng 0 có nghĩa là lô hàng

được miễn thuế, tổng số tiền hàng nhập khẩu mà người nhập khẩu

thanh toán sẽ chỉ là tiền thanh toán cho người bán (coi các chi phí

khác bằng 0). Do đó, doanh nghiệp có thể nâng giá hàng trong

mức số tiền thuế mà người nhập khẩu nếu mua hàng từ một nước

thứ 3 khác không được hưởng ưu đãi phải nộp. Trường hợp này,

x

Đó là trường hợp hàng hoá đã có chỗ đứng nhất định trên thị

trường Nhật Bản, nhưng trước hết để có được điều này thì ban

đầu doanh nghiệp phải thâm nhập vào thị trường Nhật Bản.

Không chỉ Nhà nước ra sức đàm phán ngoại giao, ra sức kêu gọi

định hướng tăng chất lượng hàng hoá,… mà bản thân chính các

doanh nghiệp phải đưa ra các sản phẩm tốt mẫu mã đáp ứng nhu

cầu thị trường,..

Một số giải pháp được đưa ra để các doanh nghiệp tham

khảo:

- Thứ nhất, cần chú trọng hoạt động nghiên cứu thị trường

Nhật Bản, Đó là việc nghiên cứu tình hình luật pháp, các quy định

của Nhật Bản đối với việc nhập khẩu hàng hoá, liên quan đến các

thủ tục nhập khẩu, thủ tục về vệ sinh thực phẩm đối với các mặt

hàng cần kiểm tra, và nộp thuế đồng thời tìm hiểu nhu cầu nhập

khẩu về số lượng cũng như chủng loại. Doanh nghiệp có thể tìm

hiểu vấn đề này từ các cơ quan nhà nước và các tổ chức xúc tiến

thương mại, ngoài ra doanh nghiệp còn có thể khai thác từ chính

đối tác nhập khẩu hàng hoá của mình.

- Thứ hai, nên mở rộng các kênh thu thập thông tin

Có rất nhiều kênh thông tin. Các doanh nghiệp có thể thu

thập thông tin trên báo, tạp chí như là: Thời báo Kinh tế Việt Nam

, Kinh tế Sài Gòn, các ấn phẩm của Bộ Thương mại như: Tạp chí

Thương mại, Báo Thương mại, Vietnam Economic Time… và

các tạp chí của VCCI như “Vietnam Foreign Trade” (3 tháng/kỳ),

“Cơ hội kinh doanh” (1 tháng/kỳ), “Danh bạ các doanh nghiệp

Việt Nam” . Nếu có thể, các doanh nghiệp nên tìm hiểu thông tin

trên một số báo của Nhật Bản như Nihonkeizai, asahishinbun, vì

đây là các báo do Nhật phát hành nên có thể cập nhật thông tin

nhanh, chính xác về thị trường này.

Ngoài các nguồn báo, tạp chí, hiện nay một hình thức hữu

hiệu để tìm kiếm thông tin, đó là tìm kiếm thông tin trên mạng.

Ngày nay ở Việt Nam hệ thống thông tin đã khá phát triển và việc

tìm kiếm thông tin qua mạng Internet cũng trở nên khá phổ biến.

Ưu điểm của việc tìm kiếm thông tin truy cập trên mạng là tiện

lợi, dễ dàng truy cập, không mất thời gian đi lại để tìm kiếm

thông tin, đặc biệt là tránh được sự quan liêu giấy tờ ở những nơi

cung cấp thông tin. Hiện nay, Phòng Thương mại & Công nghiệp

Việt Nam (VCCI) đã mở trang Web để cung cấp thông tin về các

thị trường mà doanh nghiệp có thể tìm kiếm thông tin về thị

trường Nhật Bản. Ngoài ra, các doanh nghiệp có thể tìm kiếm

thông tin về thị trường Nhật Bản từ trang Web của Tổ chức xúc

tiến thương mại Nhật Bản (JETRO). Theo địa chỉ Web này có khá

nhiều thông tin về thị trường Nhật Bản, đặc biệt là giới thiệu

nhiều đến sự thay đổi xu hướng tiêu dùng của người dân Nhật

Bản.

Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần tham khảo thêm ý kiến của

các chuyên gia, cố vấn của Phòng Thương mại và Công nghiệp

Việt Nam hoặc của Bộ thương mại, ý kiến của họ rất có ích cho

doanh nghiệp bởi họ là những người am hiểu về thị trường Nhật

Bản, đặc biệt là ý kiến cố vấn của JETRO.

Một vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp là làm thế nào

có thể tiếp cận với hệ thống bán lẻ, để hàng hoá đến với người

tiêu dùng một cách nhanh nhất mà không phải qua các đại lý bán

buôn, các chợ bán buôn hay qua những công ty thương mại tổng

hợp. Để làm được đIều này, thông tin về bạn hàng là vô cùng

quan trọng. Các doanh nghiệp có thể liên hệ với Phòng thương

mại và Công nghiệp Việt Nam hoặc Bộ Thương mại để nhờ

những cơ quan này giúp đỡ tìm kiếm bạn hàng. Các doanh nghiệp

cũng cần liên hệ với JETRO để nhờ giúp đỡ. Tổ chức này đã

thành lập văn phòng đại diện tại Hà Nội từ tháng 10/1993 với

mục đích là hỗ trợ phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật

Bản và giúp đỡ các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng sang

Nhật. Sự hỗ trợ đáng kể nhất của JETRO đối với các doanh

nghiệp xuất khẩu Việt Nam là việc cung cấp các thông tin về

khách hàng và giới thiệu sản phẩm của Việt Nam đến khách hàng

Nhật Bản thông qua “Hỏi đáp thương mại Nhật Bản”. Thêm vào

đó, các công ty Việt Nam muốn trực tiếp giới thiệu sản phẩm của

mình cũng như muốn tìm kiếm khách hàng tiềm năng có thể truy

cập “Chương trình xúc tiến quan hệ thương mại” trên trang Web

của JETRO.

Ngoài ra, để tìm kiếm thông tin về bạn hàng, các doanh

nghiệp cần tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế, đặc biệt là các

hội chợ triển lãm được tổ chức tại Nhật. Khi tham gia vào hội chợ

triển lã ở Nhật Bản , các doanh nghiệp có những cái lợi sau như:

Trước mắt, các doanh nghiệp có dịp tiếp xúc trực tiếp với những

khách hàng tiềm năng. Cũng thông qua hội chợ nhiều hợp đồng

xuất khẩu đã được ký kết, nhiều đối tác kinh doanh, bạn hàng

nước ngoài đã được xác định. Sau nữa, các doanh nghiệp có thể

học hỏi, thu thập các thông tin về sản phẩm cũng như các biện

pháp marketing của những doanh nghiệp đang chiếm lĩnh hàng

đầu trên thị trường Nhật Bản, trên cơ sở đó có chiến lược cạnh

tranh sao cho có hiệu quả. Bước tiếp theo, tổ chức những cuộc hội

thảo, toạ đàm trong khuôn khổ các hội chợ, triển lãm giúp các

doanh nghiệp nắm bắt được thị hiếu, yêu cầu của người tiêu dùng.

Tuy nhiên, trong điều kiện các doanh nghiệp của ta đang có

rất nhiều khó khăn về mặt tài chính, nên việc tham gia hội chợ,

triển lãm nào cần có sự lựa chọn, tính toán hiệu quả, kỹ lưỡng.

Trước khi tham gia hội chợ, triển lãm ở Nhật Bản, các doanh

nghiệp nên tham khảo ý kiến của các tổ chức xúc tiến thương mại

của các tổ chức xúc tiến thương mại của cả hai nước như Phòng

Thương mại và Công nghiệp Việt Nam hay JETRO và các Hiệp

hội ngành hàng đồng thời chuẩn bị chu đáo về mẫu hàng, cách

bày hàng, cataloge và tờ rơi giới thiệu sản phẩm.

- Thứ ba, nâng cao chất lượng sản phẩm.

+Trước hết là giải pháp về nguồn nguyên liệu, có được

nguồn nguyên liệu ổn định đáp ứng được các đơn đặt hàng: giao

hàng đúng thời hạn, đúng quy cách…Để tăng khả năng cạnh tranh

về giá đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tìm hiểu ưu

đãi mà Nhật Bản dành cho hàng hoá Việt Nam. Cố gắng tìm hiểu

và xuất khẩu trực tiếp cho các doanh nghiệp của Nhật Bản có nhu

cầu.

+Đầu tư thêm trang thiết bị, công nghệ để gia tăng giá trị

cho hàng hoá. Đa dạng thêm nhiều mặt hàng

+Bao gói, bao bì đầy đủ thông tin. Mặt khác, thông tin in

trên bao gói, bao bì phải in bằng tiếng Nhật làm sao phải hấp dẫn

và “bắt mắt” người mua.

+Nâng cao trình độ đội ngũ nhân viên làm công tác xuất

khẩu và tiêu thụ sản phẩm của Việt Nam trên thị trường Nhật Bản

bằng cách thường xuyên có những khoá học nâng cao trình độ

chuyên môn và ngoại ngữ, có như vậy mới có thể tránh khỏi

những sai lầm đáng tiếc trong đàm phán, ký kết hợp đồng. Đồng

thời các doanh nghiệp cần tuyển dụng, đào tạo ra những nhân

viên marketing giỏi để tìm hiểu nhu cầu thị trường , thiết kế các

chiến lược marketing nhằm đẩy manh việc tiêu thụ hàng hoá trên

thị thị trường Nhật Bản .

+Cuối cùng, nên tận dụng tốt sự ưu đãi cũng như sự hỗ trợ

của Nhà nước về vốn, thông tin và đào tạo nhằm giảm bớt gánh

nặng về chi phí cho doanh nghiệp .

Doanh nghiệp có tăng lượng xuất khẩu vào Nhật Bản thì những nỗ lực

của Nhà nước mới trở thành hiện thực. Sự kết hợp nhuần nhuyễn, đồng bộ

giữa những giải pháp mang tính vĩ mô (chính sách từ Đảng và Nhà nước)

và những giải pháp mang tính vi mô (những giải pháp của bản thân mỗi

doanh nghiệp) mới tạo nên hiệu quả cao nhất khi sử dụng chế độ ưu đãi

GSP của Nhật Bản để hàng hoá thâm nhập vào thị trường Nhật Bản .

KẾT LUẬN

Chúng ta thường biết đến Nhật Bản như là một nhà đầu tư lớn và

một nước viện trợ ODA lớn vào Việt Nam nhưng bây giờ chúng ta cũng

phải xem Nhật Bản như một thị trường tiềm năng nhằm đẩy mạnh xuất

khẩu hàng hoá tăng thu ngoại tệ phát triển kinh tế. Quan hệ thương mại đặc

biệt là quan hệ buôn bán hai chiều giữa Việt Nam và Nhật Bản, đó là mối

quan hệ bổ sung lẫn nhau, nên không chỉ Việt Nam mà ngay cả Nhật Bản

cũng sẽ thu được nhiều lợi ích từ mối quan hệ hợp tác này. Giành ưu tiên

cho Việt Nam nằm trong khuân khổ chính sách đối ngoại của Nhật Bản khi

dành ưu đãi cho các nước Đông Á. Nhật Bản có được nguồn nguyên liệu,

năng lượng, các loại sản phẩm công nghiệp chế tạo và nhiều loại hàng hoá

tiêu dùng khác nhau từ các nước Đông Á khác trong đó có Việt Nam, và

Việt Nam sẽ thu được nguồn thu ngoại tệ để phát triển đất nước nhờ xuất

khẩu hàng hoá vào Nhật Bản. Kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ Việt Nam

- Nhật Bản , Nhật Bản trở thành bạn hàng lớn nhất của Việt Nam .

Giờ đây, quan hệ thương mại Việt - Nhật đang chuyển sang một thời

kỳ mới gắn liền với những chuyển biến kinh tế của hai nước. Triển vọng

của các quan hệ này phụ thuộc vào đường lối, chính sách tạo sự lôi cuốn

các doanh nghiệp Nhật Bản vào thị trường Việt Nam và những định hướng

dài hạn trong chính sách thị trường, những phương sách có thể nhằm tạo

điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập thị trường Nhật Bản .

Một trong những định hướng đó là hai nước đàm phán để có ưu đãi đầy đủ

đối với hàng hoá xuất từ Việt Nam bên cạnh đó chính phủ cũng như bản

thân mỗi doanh nghiệp khai thác có hiệu quả những ưu đãi mà Nhật Bản

dành cho hàng hoá của Việt Nam, và phải kể đến chế độ ưu đãi thuế quan

phổ cập (GSP) của Nhật Bản

PHỤ LỤC

Danh mục các mức thuế nhập khẩu ưu đãi đối với các mặt hàng

xuất khẩu chính của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản.

Mức Mức HS

thuế thuế Code

MIÊU TẢ HÀNG HOÁ

GSP % MFN %

(1) (2) (3) (4)

Chương 3

Cá và động vật giáp xác, động vật thân

mềm và động vật không xương sống, sống

dưới nước khác

0301 Cá sống

0301 10 -Cá cảnh Free 2,50

0305 Cá sấy khô, muối hoặc nhâm nước muối, cá hun khói, đã hoặc chưa làm chín trước khoặc trong quá trình hun khói; bột cá dùng cho người - Trứng và gan cá, khô hun khói, muối hoặc ngâm nước muối Free 0305 20 --Cá hun khói, kể cả cá khúc 4,00

Dương, cá hồi Đại Tây Dương, cá

hồi sông Đa-nuyt và cá trích

0305 49 --- Cá hun khói, trừ cá hồi Thái Bình

15% 10% ---- Trừ Tara

0306

Động vật giáp xác (tôm, cua) có mai, vở hoặc không, sống, tươi, ướp lạnh, ướp động, sấy khô, muối hoặc ngâm nước muối, động vật giáp xác có maik vỏ đã hấp chín hoặc luộc chín trong nước, đã hấp chín hoặc luộc chín trong nước, đã hoặc chưa ướp lạnh, ướp đông, sấy khô, muối hoặc ngâm trong muối; bột động vật giáp

xác dùng cho người - Không ướp đông

(2) (3) (4) (1)

--- Cá hun khói, trừ cá hồi Thái

Bình Dương, cá hồi Đại Tây

Dương, cá hồi sông Đa-nuyt và cá

0305 49

trích

10% 15%

---- Trừ Tara

0306

0306 21 4,00 6,00

0306 22 4,00 6,00 Động vật giáp xác (tôm, cua) có mai, vở hoặc không, sống, tươi, ướp lạnh, ướp động, sấy khô, muối hoặc ngâm nước muối, động vật giáp xác có maik vỏ đã hấp chín hoặc luộc chín trong nước, đã hấp chín hoặc luộc chín trong nước, đã hoặc chưa ướp lạnh, ướp đông, sấy khô, muối hoặc ngâm trong muối; bột động vật giáp xác dùng cho người - Không ướp đông -- Tôm hùm đá và các loại tôm biển khác (loài Palonurus) -- Tôm hùm

0306 23 4,00 6,00 -- Tôm nhỏ và tôm Panda

0306 29 4,00 6,00

0307

-- Loại khác, kể cả bột động vật giáp xác dùng cho người Động vật thân mềm, có mai, vỏ hoặc không, sống , tươi, ướp lạnh hoặc ướp đông, sấy khô, muối hoặc ngâm nước muối, các laok động vật không xương sống, sống dưới nước khác, ướp đông, sấy khô,, muối hoặc nhâm nước muối - Bạch tuộc -- Sống, tươi hoặc ướp lạnh 0307 51 10,00 5,00

5,00 10,00

--- Loại khác --- Ướp đông

0307 59

0307 91 Loại khác, trừ sò, điệp, trai, mực , bạch tuộc, ốc sên (trừ ốc sên biển) --- Sống, tươi hoặc ướp lạnh --- Loại khác

(1) (3) (4) (2)

8,00 10,00 030791 10 ---- Sò huyết Akagai sống và sứa

0307 91 7,50 10,0 ---- Nhím biển

20

0307 99 ----- Sứa

40

---- Động vật thân mền, động vật không

xương sống, sống dưới nước khác, ở 15,00 9,00 0307 99 50

dạng khô

Chương 08

Quả và hạt ăn được , vỏ quả họ chanh

hoặc họ dưa

0801 Dừa, quả hạch Brazin và hạt điều, tươi

hoặc khô, đã hoặc chưa bóc vỏ hoặc lột

vỏ

0801 Dừa, quả hạch Brazin và hạt điều, tươi

hoặc khô, đã hoặc chưa bóc vỏ hoặc lột

vỏ

- Dừa, tươi hoặc khô Free 10,00

0801 10

- Quả hạch Brazin, tươi hoặc khô Free 4,00

- Hạt điều, tươi hoặc khô Free Free

0801 20 0801 30

Chương 09

Cà phê, chè, chè Paragoay và các loại

gia vị

(2) (3) (4) (1)

Cà phê, rang hoặc chưa rang, đã hoặc

0901 chưa khử chất cafein; vỏ quả và vỏ hạt

cà phê; các chất thay thế cà phê có chứa

cà phê theo tỷ lệ nào đó

- Cà phê đã rang

0901 21 -- Chưa khử chất cafein 10,00 20,00

0901 22 -- Đã khử chất cafein 10,00 20,00

0901 40 - Các chất thay thế cà phê có chứa cà phê Free 20,00

Chè, ướp hoặc chưa ướp hương 0902

0902 30 - Chè đen (đã ủ men) và chè đen ủ men 14,00 20,00

một phần , đóng gói sẵn, trọng lượng gói

không quá 3 kg

0902 40 - Chè đen khác (đã ủ men)và chè đen đã

ủ men một phần khác

09024010 --Chè đen, trừ chè vụn

--- Chè đen, trừ chè vụn, đóng gói với 2,50 5,00

rọng lượng không vượt quá 3 kg mỗi gói

0904 Hạt tiêu thuộc giống Pepper; các loại quả

dòng Capsicum hoặc dòng Pimenta, khô,

xay hoặc tán

-Hạt tiêu

0904 11 -- Chưa xay và chưa tán

0904 12 --Đã xay hoặc đã tán

09041210 --- Đóng thùng để bán lẻ Free 4,20

090412 0 --- Không đóng thùng để bán lẻ Free Free

0904 20 - Các loại quả thuộc dòng Capsicum

hoặc thuộc dòng Pimenta, khô, xay hoặc

tán

(2) (3) (4) (1)

0904 20 --- Đóng thùng để bán lẻ Free 7,00

10

--- Không đóng thùng để bán lẻ

0904 20 ---- Đã xay hoặc đã tán Free Free

90

Chương 12

Hạt cà quả có dầu; các loại quả hạt

khác; cây công nghiệp, cây dược liệu;

rơm, rạ và thức ăn gia súc

1211 Các loại cây và các phần của cây (cả hạt,

quả) chủ yếu dùng làm nước hoa, làm

dược phẩm, thuốc trừ sâu, thước tẩy uế,

hoặc các mục đích tương tự, tươi hoặc

khô, đã hoặc chưa cắt, nghiền hoặc xay

thành bột

1211 90 - Loại khác ngoài rễ cam thảo và rễ cây

nhân sâm

1211 90 -- Cây cúc trừ sâu(hoa, lá, thân, vỏ và Free 14,00

10 gốc)

1211 90 -- Loại khác Free 5,00

90

Chương 14

Vật liệu thực vật dùng để tết bện; các

sản phẩm thực vật chưa được chi tiết

hoặc ghi ở nơi khác

(1) (2) (3) (4)

1401 Vật liệu thực vật dùng để tết bện (như: tre,

song, mây, sậy, liễu giỏ, cây bấc, cọ sợi, đã rửa

sạch, chuội hoặc các loại rơm nhũ cốc đã tẩy

hoặc nhuộm, vỏ vây đoạn)

1401 10 -Tre 5,00 10,00

Chương 16

Các sản phẩm chế biến từ thịt, cá, động vật

giáp xác hay động vật thân mềm, hoặc động

vật không xương sống sống dưới nước khác

1604 Cá đã được chế biến hay bảo quản; trứng cá

muối (caviar) và các sản phẩm thay thế trứng

cá muối chế biến từ trứng cá

- Cá, nguyên con hoặc miếng nhưng chưa băm

nhỏ

7,20 9,60 1604 11 -- Từ cá hồi

7,20 9,60 1604 12 -- từ cá trích

1604 13 -- Từ cá sacdin, vá sacdin loại nhỏ, cá trích 7,20 9,60

cơm

1604 14 --Từ cá ngừ và cá ngừ bơi ngược dòng và cá

ngừ Đại Tây Dương

1604 14 --- Từ cá ngừ và cá ngừ bơi khác, đóng hộp 6,40 9,60

10

(2) (1) (3) (4)

1604 14 90 --- Loại khác 7,20 9,60

1604 15 -- Từ cá thu 7,20 9,60

1604 16 -- Từ cá trồng 7,20 9,60

1604 19 -- Từ loại khác 7,20 9,60

160420 91

--- Trứng cá

160420 92

---- Của cá Nishin, đóng hộp 9,60 12,80

1604 20 99

---- Của cá Tara, đóng hộp

--- Cá được chế biến và bảo quản khác, trừ 7,20 9,60

trứng cá

1604 30 - Trứng cá muối, sản phẩm thay thế trứng 4,80 6,40

cá muối

1605 Động vật giáp xác, động vật thân mềm và

động vật không xương sống sống dưới nước

khác, đã được chế biến hoặc bảo quản

1604 10 10

1605 10 - Cua

1605 10 90

-- Đóng hộp, chưa hun khói 6,50 6,50

-- Cua đã được chế biến hoặc hảo quản 7,20 9,60

1605 20

khác

1605 20 10

- Tôm con và tôm Panđan

-- Tôm hun khói; luộc qua nước hoặc nước

muối; ướp lạnh, ướp đông, muối, ngâm

trong nước muối hoặc khô, sau khi đã luộc

qua nước hoặc nước muối

1605 20 91 -- Tôm con và tôm Panđan đã được chế 6,00 6,00

biến hoặc bảo quản khác

1605 30 -- Tôm hùm

(1) (2) (3) (4)

1605 30 10 -- Hun khói; luộc qua nước hoặc nước 3,20 4,80

muối; ướp lạnh, ướp đông, muối, ngâm

trong nước muối hoặc khô, sau khi đã luộc

qua nước hoặc nước muối

1605 30 90 -- Tôm hùm đã được chế biến hoặc bảo 6,00 6,00

quản khác

1605 40 - Động vật giáp xác khác

--Ebi 3,20 4,80

1605 40 10 ---Ebi hun khói, buộc qua trong nước ngọt

hoặc nước muối, ướp lạnh, ướp đông, muối,

ngâm trong nước muối, hoặc sấy khô sau

khi đã luộc qua nước hoặc nước muối

160540 20 --- Ebi đã được chế biến hoặc bảo quản 6,00 6,00

khác

1605 40 90 -- Động vật giáp xác khác đã được chế biến 7,20 9,60

hoặc bảo quản, trừ Ebi

1605 90 - Từ động bật thân mềm và các động vật

không xương sống, sống dưới nước khác

1605 90 10 -- Hun khói

--- Từ động vật thân mềm và các động bật 9,60 6,40

không xương sống, sống dưới nước khác,

trừ mực, mức ống, điệp và động vật thuộc

loài sò hến

1605 90 20 -- Từ loại khác 9,00 15,00

--- Mực, mực ống đóng hộp

1605 90 30 --- Sứa, hải sâm và nhím biển 8,00 12,00

1605 90 90 --- Loại khác (trừ mực, mực ống, sứa, hải 7,20 15,00

sâm và nhím biển)

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Những điều cần biết về hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập GSP của

Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam 7-1996

2.Thâm nhập thị trường quốc tế qua GSP của Phòng thương mại và Công

nghiệp Việt Nam

3. Japan’s GSP (Generalized System of Preferences) - 4/2003

4. Những vấn đề Kinh tế thế giới số 9(89) 2003

5. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 301 - Tháng 6/2003 bài viết Quan hệ

thương mại Việt Nam - Nhật Bản thời kỳ 1997 - 2002 của Trần Anh

Phương

6. Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á: số 3(45) 6-2003; số 4(46)

8-2003

7. Báo Hải quan số 52, 56, 57

8. Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản trong những năm 1990và triển

vọng của Vũ Vân Hà, Nxb KHXH, Hà Nội, 2000.

9. Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản năm 2002 của Đinh Thị

Hoàng Yến. Báo cáo chuyên đề, Vụ kế hoạch-Thống kê, Bộ Thương mại,

Hà Nội, 2002

10. Đổi mới chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam

trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của TS Lê Thị Vân Anh

11. Một số bài báo trên mạng .