TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG ------------------
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HỆ THỐNG ƯU ĐÃI THUẾ QUAN PHỔ CẬP CỦA NHẬT BẢN VÀ HÀNG HOÁ XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
Giáo viên hướng dẫn : TS. Phạm Duy Liên
Sinh viên thực hiện : Đỗ Thị Huyền
Lớp : Nhật 1 - K38F
HÀ NỘI – 2003
MỤC LỤC
Lời mở đầu ....................................................................................................... 4
Chương I: Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập của Nhật Bản........................... 7
I. Khái niệm về Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập ........................................ 7
1. Khái quát chung về Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập ..................... 7
2. Các mục tiêu chính của GSP .............................................................. 8
3. Các quy định chung trong các chế độ GSP ....................................... 9
II. Điều kiện để được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập của Nhật Bản .............. 9
1. Các nước được hưởng ưu đãi GSP...................................................... 10
2. Hàng hoá được hưởng ưu đãi.............................................................. 14
3. Các bước tiến hành để được hưởng ưu đãi GSP.................................. 15
III. Mức độ ưu đãi ............................................................................................ 20
IV. Quy tắc xuất xứ của Nhật Bản.................................................................... 21
1. Tiêu chuẩn về vận tải ......................................................................... 21
2. Tiêu chuẩn xuất xứ ............................................................................. 22
V. Cơ chế bảo vệ .............................................................................................. 26
1. Giới hạn tối đa.................................................................................... 26
2. Thực hiện giới hạn tối đa.................................................................... 27
3. Áp dụng linh hoạt khối lượng quốc gia tối đa và giới hạn tối đa......... 27
4. Áp dụng giới hạn tối đa và khối lượng quốc gia tối đa ....................... 27
CHƯƠNG II: CHẾ ĐỘ ƯU ĐÃI THUẾ QUAN
PHỔ CẬP CỦA NHẬT BẢN ĐỐI VỚI HÀNG
HOÁ XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM ....................... 30
I. Đánh giá thực trạng phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước trong
thời gian qua..................................................................................................... 30
1. Những tiến triển trong động thái tốc độ tăng trưởng thương mại về
quy mô kim ngạch xuất nhập khẩu Việt - Nhật................................................. 30
2. Thực trạng tiến triển động thái cơ cấu các mặt hàng xuất nhập
khẩu Việt - Nhật............................................................................................... 36
II. Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập của Nhật Bản giành cho hàng hoá xuất
khẩu của Việt Nam........................................................................................... 39
III. Những tồn tại trong việc dành ưu đãi thuế quan phổ cập của Nhật Bản
đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua................................... 44
IV. Xu hướng phát triển quan hệ buôn bán giữa hai nước trong thời gian tới ... 49
1. Thuận lợi ............................................................................................ 50
2 . Khó khăn........................................................................................... 53
3. Triển vọng.......................................................................................... 57
Chương III: Các giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả chế độ ưu đãi thuế
quan phổ cập của Nhật Bản .............................................................................. 59
I. Các giải pháp ở tầm vĩ mô............................................................................. 60
1. Định hướng phát triển cơ cấu sản phẩm xuất khẩu hợp lý và có
2. Những công việc cụ thể mà Chính phủ cần và phải làm
sớm............................................................................................65
hiệu quả cao. .......................................................................................... 61
3. Những giải pháp nhằm khai thác tốt thị trường Nhật Bản cho sự
phát triển tương lai nền kinh tế Việt Nam............................................... 66
II. Các giải pháp ở tầm vi mô ........................................................................... 67
Kết luận ........................................................................................................... 72
Tài liệu tham khảo............................................................................................ 81
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. GSP (Generalized System of Preferences): Hệ thống ưu đãi thuế quan
phổ cập
2. UNCTAD (United Nation Conference on Trade and Development): Tổ
chức thương mại và phát triển của Liên hợp quốc
3. MFN: Chế độ ưu đãi tối huệ quốc
4. KNXNK: Kim ngạch xuất nhập khẩu
5. KNXK: Kim ngạch xuất khẩu
6. KNNK: Kim ngạch nhập khẩu
7. XNK: Xuất nhập khẩu
8. CNH-HĐH: Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
9. LDCs (Less Development Countries): Các nước kém phát triển
10. HS (Hamonised System Code): Mã phân loại sản phẩm hài hoà
11. Ceiling: Giới hạn trần
12. JETRO: Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản
13. C/O (Certificate of origin): giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Năm 2003 đánh dấu 30 năm quan hệ ngoại giao Việt - Nhật, nhưng
thực sự quan hệ này mới phát triển nở rộ trong vài năm gần đây. Hiện nay
Nhật Bản là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Mặt hàng chủ yếu
xuất sang Nhật Bản là: Dầu thô, hải sản, dệt may, than đá. Bốn mặt hàng
này thường xuyên chiếm khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
vào Nhật Bản trong những năm gần đây.
Tuy kim ngạch xuất khẩu tăng đều qua các năm nhưng cho tới nay Việt
Nam vẫn là một bạn hàng nhỏ của Nhật Bản, tỷ trọng của Việt Nam trong
kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản năm 2001 mới khoảng 0,47% trong khi
tỷ trọng của Trung Quốc là 12,4%; của Thái Lan là 2,5%; Malayxia 2,8%
và Philippin cũng tới 1%. Với những thuận lợi về vị trí địa lý , về truyền
thống và về tính bổ sung lẫn nhau của cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu giữa
hai nước thì tỷ trọng nói trên là khá nhỏ bé so với tiềm năng. Ngoài nguyên
nhân là các doanh nghiệp Việt Nam rất thiếu thông tin về thị trường Nhật
Bản, dẫn tới việc các doanh nghiệp Việt Nam không nắm bắt được nhu cầu
hàng hoá, thói quen tiêu dùng cũng như những quy định về quản lý nhập
khẩu của Nhật Bản; thì một nguyên nhân mà Khoá luận này muốn đề cập
đến đó là: Mặc dù Nhật Bản đã dành cho hàng hoá của Việt Nam chế độ ưu
đãi thuế quan phổ cập (GSP) nhưng diện mặt hàng có lợi ích thiết thực đối
với Việt Nam không nhiều. Những mặt hàng của Việt Nam (chủ yếu là
nông sản, giày dép ) khi nhập khẩu vào Nhật Bản vẫn phải chịu mức thuế
cao hơn mức thuế mà Nhật Bản dành cho Trung Quốc và các nước
ASEAN. Việc này đã hạn chế đáng kể khả năng tăng trưởng xuất khẩu của
Việt Nam vào Nhật Bản.
2.Mục đích và phạm vi nghiên cứu
Không ngoài mong muốn tìm hiểu về những ưu đãi mà Nhật Bản giành
cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đặc biệt là chế độ ưu đãi GSP. Từ đó
thấy được những lợi thế cũng như những tồn tại trong việc giành ưu đãi
GSP, góp phần thúc đẩy hàng hoá xuất khẩu. Điều này phù hợp với đường
lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là khuyến khích xuất
khẩu tăng thu ngoại tệ với mục tiêu lâu dài là CNH - HĐH đất nước.
Mối quan hệ giữa Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập của Nhật Bản với
hàng hoá xuất khẩu Việt Nam vào thị trường Nhật Bản chính là phạm vi
nghiên cứu của Khoá luận. Hàng hoá xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản
phụ thuộc rất nhiều vào những chính sách nhập khẩu của Nhật Bản trong
đó có chính sách ưu đãi về thuế. Thuế quan có ưu đãi hàng hoá mới xuất
khẩu được nhiều vì khi đó hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam có khả năng
cạnh tranh cao.
3. Bố cục của đề tài và phương pháp nghiên cứu
Với cơ cấu 3 chương, chương I bằng việc nghiên cứu hệ thống ưu
đãi thuế quan phổ cập Nhật Bản cho chúng ta một cái nhìn tổng thể nhất về
những ưu đãi mà Nhật Bản giành cho các nước trong dó có Việt Nam; đến
chương II chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ hơn về những ưu đãi mà Nhật Bản
giành cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, và được so sánh với những ưu
đãi của các nước khác dành cho Việt Nam, đánh giá thực trạng và thấy
được xu hướng phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước trong thời gian
tới cũng được đề cập trong chương này; mặc dù nhận sự ưu đãi nhưng cũng
phải nói thêm răng ưu đãi mà Nhật Bản dành cho chúng ta còn nhiều tồn
tại, chúng ta không chỉ chờ đợi những chuyển biến tích cực từ phía Nhật
Bản mà chúng ta cần chủ động có những biện pháp nhằm khai thác có hiệu
quả chế độ ưu đãi ở cả tầm vi mô và vĩ mô, đó cũng chính là mục tiêu mà
chương III nhằm đạt được.
4. Dự kiến kết quả đạt được
Khai thác có hiệu quả chế độ ưu đãi GSP không nhiều mà Nhật
Bản dành cho Việt Nam góp phần giúp hàng hoá Việt Nam cạnh
tranh được với hàng hoá của các nước khác trên thị trường Nhật
Bản. Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam còn có thể tăng thu
nhờ đàm phán tăng giá đối với các mặt hàng có uy tín trên thị
trường. Với Khoá luận này không dám đưa ra biện pháp sử dụng
GSP thâm nhập thị trường Nhật Bản mà chỉ ra thực trạng và
những biện pháp mà Đảng, Nhà nước cũng như bản thân các
doanh nghiệp đang cùng cố gắng sử dụng song song với việc khai
thác tốt Hệ thống ưu đãi này nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá
vào Nhật Bản. Thị trường Nhật Bản đầy tiềm năng đối với hàng
hoá Việt Nam, nhưng để thâm nhập vào thị trường Nhật Bản
không phải là dễ. Tuy nhiên quan hệ Việt Nam - Nhật Bản đang
trong giai đoạn thuận lợi, chúng ta phải tận dụng để phát triển
quan hệ thương mại với Nhật Bản từ đó phát triển kinh tế đẩy
nhanh quá trình CNH - HĐH đất nước. Đây cũng chính là mục
tiêu trước mắt cũng như lâu dài của Đảng và Nhà nước ta.
Mong muốn của đề tài rất lớn, tuy nhiên do năng lực có hạn
cũng như chưa có nhiều kinh nghiệm thực tế nên không tránh khỏi
những khiếm khuyết, rất mong sự đóng góp của thầy cô và các
bạn. Nhân đây em cũng xin gửi lời cảm ơn tới TS. Phạm Duy Liên
đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành khoá luận này và cũng cho
em gửi lời cảm ơn tới toàn thể các thầy cô trong Khoa Kinh tế đối
ngoại Trường Đại Học Ngoại Thương Hà Nội đã trao cho em
nhưng kiến thức trong suốt thời gian học tập tại nhà trường và
cũng là hành trang cho em sau này.
Hà Nội, tháng 12 năm 2003
Sinh viên lớp Nhật I K38F
Đỗ Thị Huyền
CHƯƠNG I
HỆ THỐNG ƯU ĐÃI THUẾ QUAN PHỔ CẬP CỦA NHẬT BẢN
I. Khái niệm về Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập
Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập là kết quả của các cuộc đàm phán
liên Chính phủ, được tổ chức dưới sự bảo trợ của Hội nghị Thương mại và
Phát triển của Liên hợp quốc - UNCTAD (United Nation Conference on
Trade and Development) kể từ 1964 và chính thức được đưa ra áp dụng từ
tháng 6 năm 1972. Các nước đi tiên phong trong việc này là Liên Xô (áp
dụng từ năm 1965) và Úc (áp dụng từ năm 1966), Nhật Bản, EU, Nauy áp
dụng GSP từ năm 1971, Bungari, Hungari, Tiệp, áo, Phần Lan, Thụy Điển,
Thụy Sĩ, Tân Tây Lan áp dụng từ năm 1972 và Mỹ, Balan áp dụng từ năm
1976.
1. Khái quát chung về Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập
Theo Hệ thống ưu đãi phổ cập, các ưu đãi thuế quan được áp dụng cho
hàng hoá xuất khẩu từ các nước đang phát triển, trên cơ sở không cần có đi
có lại và không phân biệt đối xử.
Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập, tên tiếng Anh là Generalized
System of Preferences (viết tắt GSP), là một hệ thống mà theo đó các nước
phát triển, được gọi là các nước cho hưởng, cho các nước đang phát triển,
được gọi là các nước được hưởng, hưởng chế độ ưu đãi bằng cách giảm
hoặc miễn thuế. Chế độ ưu đãi được xây dựng trên cơ sở không có sự phân
biệt và không đòi hỏi bất kỳ nghĩa vụ nào từ phía các nước đang phát triển.
GSP làm giảm thuế suất theo chế độ tối huệ quốc hoặc miễn thuế hoàn
toàn đối với những sản phẩm nhất định được sản xuất tại các nước được
Trên cơ sở của Hệ thống GSP, mỗi quốc gia xây dựng một chế
độ GSP cho riêng mình với những nội dung, quy định, mức ưu đãi
hưởng ưu đãi khi xuất khẩu sang các nước dành ưu đãi.
khác nhau tuy nhiên mục tiêu của hệ thống GSP vẫn được đảm
bảo.
2. Các mục tiêu chính của GSP là:
- Tạo điều kiện để các nước đang phát triển thấy được khả năng tiềm
tàng về mở rộng buôn bán phát sinh từ chế độ GSP và tăng cường khả năng
sử dụng chế độ này.
- Tăng kim ngạch xuất khẩu của các nước được hưởng, thúc đẩy
công nghiệp hoá của các nước này.
- Đẩy mạnh mức tăng trưởng kinh tế của những nước này.
- Phổ biến thông tin về các quy định và thủ tục điều chỉnh buôn bán
theo chế độ này.
- Giúp đỡ các nước được hưởng thiết lập những điểm trọng tâm
trong nước để tăng cường sử dụng GSP
- Cung cấp thông tin về các quy đinh liên quan đến thương mại như
thuế chống phá giá và chống bù giá, các quy định hải quan, thủ tục giấy
phép nhập khẩu, và pháp luật thương mại khác quy định các điều kiện thâm
nhập thị trường các nước cho hưởng.
Hệ thống GSP này tạo ra một lợi thế cho các nước đang phát triển và
kém phát triển trong việc nâng cao sức cạnh tranh của các hàng hoá do các
nước này xuất khẩu vào các nước dành ưu đãi. Người nhập khẩu nhờ đó mà
có thể chuyển mua hàng từ các nước không được ưu đãi sang mua hàng từ
các nước được hưởng ưu đãi này. Biểu thuế quan ưu đãi này giúp người
xuất khẩu thâm nhập được tốt hơn vào thị trường nước dành ưu đãi hoặc
giúp mở rộng thị trường đó. Hơn nữa, nếu sản phẩm là một trong số các
hàng đã có tiếng trên thị trường đó, người xuất khẩu có thể đàm phán với
bạn hàng để tăng giá. Như vậy, lợi ích về tài chính của việc giảm hay miễn
thuế quan sẽ được các bạn hàng cùng hưởng chứ không phải chỉ có một
mình người nhập khẩu hưởng.
Hiện nay Hệ thống GSP bao gồm 15 chế độ của 29 nước dành ưu đãi:
Mỹ, Nhật, Úc, New Zealand, EU (15 nước: Bỉ, Pháp, Hà Lan, Đan Mạch,
Hy Lạp, Đức, Ailen, Italy, Lucxembua, Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,
Phần Lan, Áo, Thụy Điển), Thụy Sĩ, Na Uy, Canada, Nga, Balan, Hungari,
Chế độ ưu đãi Phổ cập GSP được các cơ quan lập pháp của các
nước dành ưu đãi ban hành thành các văn bản pháp luật có hiệu
lực cho từng thời kỳ nhất định có thể là 1 năm, 10 năm hoặc vài
ba chục năm.
Cộng hoà Bungari, Séc, Slovackia, Cộng hoà Belarus.
Chính phủ Nhật thiết lập GSP từ ngày 01/08/1971 kể từ đó, Hệ thống đã
qua nhiều lần cải cách và chương trình GSP hiện hành được thực hiện đến
31/03/2011. Nhật Bản dành ưu đãi thuế quan thông qua GSP cho 149 quốc
gia và 15 vùng lãnh thổ trong đó có Việt Nam (xem bảng 1: Danh sách các
nước được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập của Nhật Bản )
3. Các quy định chung trong các chế độ GSP
Thông thường trong các chế độ GSP của các nước dành ưu đãi
thường quy định về các vấn đề cơ bản như sau:
- Những quy tắc chung về hệ thống GSP mà các nước đó dành cho
các nước được hưởng ưu đãi;
- Công bố những loại hàng hoá được hưởng ưu đãi, những laọi hàng
hoá không được hưởng ưu đãi, những loại hàng hoá thuộc diện ưu đãi có
điều kiện hạn chế;
- Những nước nào được hưởng ưu đãi;
- Mức độ ưu đãi so với thuế suất MFN;
- Các tiêu chuẩn về xuất xứ phải tuân thủ để được hưởng GSP của
nước dành ưu đãi.
II. Điều kiện để được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập
Với những mục tiêu mà Hệ thống ưu đãi nhằm tới là giúp đỡ các nước
đang phát triển tăng thu nhập về xuất khẩu; khuyến khích phát triển công
nghiệp và đầu tư đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế, mà bản thân các
nước đang và kém phát triển phải luôn tìm hiểu những ưu đãi dành cho
mình để khai thác một cách có hiệu quả những ưu đãi mà mình được
hưởng.
Để được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập GSP của các nước cho hưởng
ưu đãi phải thoả mãn những bước sau:
- Phải nằm trong danh mục các nước được hưởng ưu đãi mà nước
cho hưởng công bố.
- Phải thiết lập mã hải quan phù hợp với hệ thống phân loại hài hoà
HS cho những sản phẩm chuẩn bị xuất sang Nhật bản.
- Sản phẩm xuất sang phải nằm trong danh mục các sản phẩm được
hưởng. Trong danh mục thể hiện đồng thời mức thuế suất ưu đãi, nên xác
định lợi nhuận ưu đãi để định ra giá cả đưa cho người mua hàng cũng như
nước nhập khẩu.
-Kim ngạch hoặc số lượng nằm trong hạn ngạch nhập khẩu
-Và phải thoả mãn Quy tắc xuất xứ trong Hệ thống GSP: Tiêu chuẩn xuất
xứ, điều kiện gửi hàng, điều kiện về chứng từ.
1) Các nước được hưởng ưu đãi GSP
Trong hệ thống GSP của tất cả các nước dành ưu đãi có hai loại đối
tượng nước được hưởng là : Các nước đang phát triển và các nước kém
phát triển theo tiêu chuẩn của Liên hợp quốc. Theo tiêu chuẩn này các nước
Đông Nam Á: Campuchia, Lào, Miến Điện là các nước kém phát triển,
Việt Nam là nước đang phát triển.
Các nước kém phát triển được hưởng ưu đãi cao hơn các nước đang phát
triển cả về mức thuế ưu đãi và không bị hạn chế số lượng trần (Ceiling) và
một số các tiêu chuẩn khác. Có một số nước cho hưởng ưu đãi dành cho
toàn bộ các nước kém phát triển chế độ miễn thuế cho toàn bộ các loại sản
phẩm của nước đó hoặc là có quy chế đặc biệt cho các nước kém phát triển.
Hầu hết các nước đang phát triển thuộc nhóm 77 nước (cho tới nay có
khoảng 128 nước thành viên) đều được hưởng GSP. Có một số nước cho
hưởng ưu đãi mở rộng phạm vi ưu đãi ra ngoài khuôn khổ các nước thuộc
nhóm 77.
Các nước kém phát triển được hưởng ưu đãi cao hơn các nước đang phát
triển về mức thuế ưu đãi và không bị hạn chế về số lượng trần (ceiling) và
một số tiêu chuẩn khác thậm chí là cho các nước kém phát triển chế độ
miễn thuế toàn bộ các loại sản phẩm hoặc là có quy chế đặc biệt. Trong
năm tài chính 2003 (tháng 4/2003) Hệ thống GSP của Nhật có một số dự
thảo sửa đổi như mở rộng phạm vi điều chỉnh đặc biệt là hiệp định miễn
thuế và hạn ngạch cho các sản phẩm của các nước kém phát triển nhất.
(1) Mở rộng phạm vi của hiệp định miễn giảm thuế quan và hạn
ngạch cho các sản phẩm của các nước kém phát triển.
198 sản phẩm nông nghiệp và hải sản sẽ được bổ sung vào 298 mặt
hàng hiện có, đáp ứng đủ tiêu chuẩn của hiệp định. Biện pháp này sẽ làm
cho giá trị của những mặt hàng được miễn giảm thuế quan và hạn ngạch
chiếm tới hơn 90% tổng giá trị nhập khẩu từ các nước kém phát triển vào
Nhật bản.
(2) Mở rộng phạm vi của hệ thống ưu đãi chung GSP
118 sản phẩm nông nghiệp vừa mới được bổ sung vào 221 mặt hàng
hiện có đủ tiêu chuẩn của GSP. Một sản phẩm công nghiệp cũng sẽ được
bổ sung thêm. Hơn nữa thuế suất của 28 mặt hàng công nghiệp trong GSP
cũng sẽ giảm và 3 mức giá trần của các nhóm sản phẩm công nghiệp sẽ
được dỡ bỏ.
Để được hưởng chế độ ưu đãi GSP của Nhật, các nước/lãnh thổ phải yêu
cầu hoặc đề nghị Chính phủ Nhật, với điều kiện phải đáp ứng các điều kiện
sau:
-Kinh tế nước hoặc lãnh thổ đó phải đang ở giai đoạn phát triển.
-Quốc gia đó phải là thành viên của UNCTAD.
-Lãnh thổ đó phải có hệ thống thương mại cà thuế quan riêng.
-Quốc gia hoặc lãnh thổ đó yêu cầu được nhận ưu đãi đặc biệt về
thuế quan.
-Quốc gia hoặc lãnh thổ đó phải được Chính phủ quyết định là quốc
gia hay lãnh thổ mà những ưu đãi này được mở rộng một cách hợp lý.
Các quốc gia khác được xếp vào các nước kém phát triển (LDCs) sẽ
được hưởng các Chế độ đặc biệt dành cho LDCs.
áp-gha-ni-xtan
Cộng hoà Đôminic Malavi
Srilanca
Xanh Crixtopho và
anbani
Êcuađo
Malayxia
Nevin
Xanh Hêlêna và
Angiêri
Aicập
Manđivơ
Dependencies
Samoa Mỹ la tinh Ensanvađo
Mali
Xanh Lucia
Ănggôla
Ginê Xích đạo
Manta
Xanh Vinxen
Antigoa và
Quần đảo
Eritrea
Suđăng
Babuđa
Macsa
áchentina
Etxtônia
Moritani
Surinam
Adécbaidan
Etiôpi
Môrixơ
Xoadiland
Falkland islands and
Bahama
Mêxico
Siri
Dependencies
Baranh
Fiji
Micronnesia
Tãdikitxtan
Pôlynêsia thuộc
Bănglađét
Mônđôva
Tanzanhia
Pháp
Bácbađốt
Gabông
Môngcổ
Thái lan
Bêlaruts
Gambia
Môngserát
Tôgô
Bêlidê
Grudia
Maroc
Tokelau islands
Bênanh
Gana
Môdămbích
Tonga
Bécmuđa
Gibranta
Myanma
Trinidát và Tôbago
Butan
Grênađa
Mammibia
tuynidi
Bôlivia
Guatêmala
Nepan
Thổ nhĩ kì
Bốtxoana
Ghinê
Nicaragua
Tuốc mê nixtan
Braxin
Ghinê Bitxao
Nigiê
Turks and Caicos
islands
Quần đảo Vơgin
Guyana
Nigêria
Tuvanlu
thuộc Anh
Brunây
Haiti
Niue
Uganđa
Bảng 1: Các nước hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập của Nhật Bản
Bungari
Honđurát
Oman
Ucraina
Buốckina Phaxo
Hungari
Pakixtan
Urugoay
Burunđi
ấn độ
palau
uzebekistan
Cămphuchia
Inđônexia
Panama
Vanuatu
Camơrun
Iran
Papua Niu Ghinê Veneduela
đảo
Iraq
Paragoay
Việt Nam
Quần
Canari
Bờ biển ngà
Pêru
West Bank and
Cápve
Gaza Strip
Quần
đảo
Giamaica
Philippin
Yêmen
Cayman
Cộng
hoà
Gióc dan
Balan
Cộng hoà
liên
bang Nam tư
Trung phi
Ceuta
and
Cadăcstan
Romani
Dăm bia
Melilla
Sát
Kênya
Ruanđa
Dimbabuê
Chilê
Kyrgiz
Xao Tômê
và
Prinxipê
Côlômbia
Lào
ảrập Xếut
Cộng hoà dân
Latvia
Sênêgan
chủ Cônggô
Cộng
hoà
Libăng
Xâysen
Cônggô
Quần đảo Cúc
Lesothô
Siêralêôn
Cốtxtarica
Liberia
Slôvakia
Cuba
Libi
Slôvennia
Crôatia
Lithuania
Quần
đảo
Salômông
Séc
Cộng
hoà
Sômali
Mácxêđônia
Đôminica
Mađagatxva
Nam Phi
(Nguồn:Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập của Nhật Bản năm 2003 của Bộ Thương mại Nhật Bản xuất bản tháng 4 năm 2003)
2) Hàng hoá được hưởng ưu đãi
Phạm vi sản phẩm được hưởng ưu đãi tuỳ thuộc vào chính sách của
mỗi nước dành ưu đãi. Không phải tất cả các sản phẩm đều được hưởng ưu
đãi GSP. Thông thường các nước đó công bố danh mục hàng hoá có gắn
mã phân loại sản phẩm hài hoà - HS (Hamonised System Code) được
hưởng và không được hưởng GSP (gọi là danh mục thuận và danh mục từ
chối) và danh mục hàng hoá có giới hạn trần (ceiling). Các danh mục hàng
hoá này được xem xét lại theo định kỳ thường là hàng năm và được công
bố công khai cho các doanh nghiệp qua báo chí và tổ chức xúc tiến thương
mại của các nước, đồng thời có gửi cho các đầu mối về GSP ở các nước
dành ưu đãi cũng như các nước hưởng ưu đãi.
Các mặt hàng được hưởng ưu đãi thường là các sản phẩm nếu nhập khẩu
vào thị trường các nước cho hưởng ưu đãi sẽ không làm ảnh hưởng đến sản
xuất trong nước hoặc là hàng nông sản chưa chế biến, nguyên liệu cho công
Các mặt hàng không được hưởng GSP thường là các mặt hàng
tạo nguồn thu thuế lớn cho ngân sách hoặc là những sản phẩm
bảo hộ cao để sản xuất trong nước không bị tổn hại do nhập khẩu
gây ra.
nghiệp, hàng chế biến ở mức độ thấp và hàng thủ công.
Cụ thể với Nhật, các sản phẩm được hưởng bao gồm:
+ Các sản phẩm nông nghiệp (thuộc chương 1 đến chương 24 của
danh mục biểu thuế quan Nhật theo hệ thống hài hoà - HS - của tổ chức Hải
quan thế giới)
+ Các sản phẩm chế tạo, sản xuất (thuộc chương 25 đến chương 97
của danh mục biểu thuế quan Nhật Bản)
Bằng phương pháp loại trừ, Nhật bản quy định 111 sản phẩm mã 9
số thuộc danh mục biểu thuế quan không được áp dụng GSP để tạo điều
kiện cho sản xuất trong nước. Đó là các sản phẩm chế tạo công nghiệp.
Trong biểu nhập khẩu của Nhật có quy định các loại thuế suất sau
đây
cho mỗi mặt hàng:
- Thuế suất chung: đánh vào hàng nhập khẩu từ các nước không
được hưởng chế độ MFN của Nhật
- Thuế suất GATT đánh vào hàng của các nước được hưởng MFN
của Nhật và các nước thành viên GATT (WTO) .
- Thuế suất GSP đánh vào hàng hoá của các nước được hưởng GSP
của Nhật
- Thuế suất tạm thời phục vụ cho các chính sách điều tiết thương mại
Trong biểu thuế suất GSP ghi rõ mức thuế ưu đãi dành cho
các hàng hoá thuộc diện được hưởng GSP theo từng mặt hàng 6-8
chữ số theo mã số HS để các doanh nghiệp dễ dàng xác định hàng
hoá của mình được hưởng GSP hay không và mức thuế ưu đãi là
bao nhiêu. Việc làm này còn giúp định hướng được các dự án đầu
tư lâu dài và xác định thị trường tiêu thụ sản phẩm của các nhà
kinh doanh cũng như người sản xuất.
và đánh vào các mặt hàng do Chính phủ Nhật công bố.
3) Các bước tiến hành để được hưởng ưu đãi GSP
Bước 1: Xác định phân loại hàng hoá trong Biểu thuế quan
Cần phải xác định chính xác phân loại hàng hoá trong Biểu thuế quan
của nước nhập khẩu (số mã) của loại hàng hoá mà người xuất khẩu dự kiến
xuất khẩu đến thị trường nhất định.
Những sản phẩm được hưởng ưu đãi theo một chế độ GSP đều được quy
định trong biểu thuế nhập khẩu (HS) được áp dụng từ 01/01/1988 thì tất cả
các nước kinh tế thị trường dành ưu đãi đã áp dụng hệ thống này. Một số
các nước đang phát triển cũng đã áp dụng hệ thống HS, còn một số đang
chuẩn bị vận dụng. Cần phải biết được 4 con số đầu của biểu thuế quan
của từng sản phẩm để điền vào ô số 8 của giấy chứng nhận xuất xứ (mẫu
A) khi xuất khẩu sang Nhật.
Vì vậy, trước hết nên bắt đầu bằng cách xác định tên của sản phẩm dự
định xuất khẩu có tương ứng với mã số của mặt hàng đó trong Biểu thuế
quan của nước nhập khẩu hay không. Nếu gặp khó khăn gì trong việc xác
định đúng danh mục hàng dự kiến xuất khẩu thì phải tìm đến sự giúp đỡ từ
phía cơ quan Hải quan nước nhập khẩu hoặc qua người nhập khẩu để có
được sự giúp đỡ của Hải quan nước nhập khẩu.
Bước 2: Xác định phạm vi ưu đãi của sản phẩm
- Cần phải làm rõ xem sản phẩm xuất khẩu có thuộc diện ưu đãi trên
thị trường đó không.
- Phải kiểm tra sản phẩm quy định trong chế độ GSP với số mã và
tên sản phẩm trong Biểu thuế quan của nước dành ưu đãi.
Không phải tất cả các loại sản phẩm đều được hưởng GSP. Người xuất
khẩu phải làm rõ ngay vấn đề sản phẩm của mình co được hưởng ưu đãi tại
thị trường đó có không trước khi làm các việc tiếp theo. Khi làm việc này,
người xuất khẩu phải xác định danh mục hàng hoá trong khung của GSP,
xác định mức độ được quy định trong biểu thuế quan theo phân loại hàng
hoá bằng hệ thống HS và tên hàng hoá xuất khẩu ở đây có nằm trong quy
định được hưởng GSP hay không.
Các nước cho hưởng GSP thường có danh mục hàng hoá có thể được
hưởng GSP gọi là danh sách được ưu đãi (danh mục thuận) hoặc đưa ra các
loại hàng hoá bị loại trừ khỏi hệ thống ưu đãi (danh mục từ chối). Các danh
mục hàng hoá này được xem xét thường kỳ bởi các nước ưu đãi GSP và
thường hay thay đổi thường là một năm.
Bước 3: Đánh giá mức lợi thế ưu đãi
- Nếu sản phẩm xuất khẩu được hưởng GSP tại thị trường cụ thể thì
nên xác định mức lợi thế ưu đãi để xác định giá chào cho người mua/ người
nhập khẩu.
Khi đã xác định dược là sản phẩm xuất khẩu được hưởng ưu đãi GSP
thì người xuất khẩu lại phải xác định mức ưu đãi mà sản phẩm của mịnh
được hưởng ở thị trường dự định ( người xuất khẩu sẽ lấy đó làm cơ sở để
tính giá chào hàng cho người nhập khẩu). Để xác định được mức lợi thế ưu
đãi người xuất khẩu, phải tham chiếu với biểu thuế của nước dành ưu đãi
để tìm ra mức thuế chung và mức thuế ưu đãi GSP áp dụng cho sản phẩm
của mình. Sự chênh lệch gữa hai mức thuế đó chính là mức lợi thế ưu đãi.
Đó sẽ là lợi thế cạnh tranh mà người xuất khẩu có trên thị trường hơn
người không được hưởng ưu đãi mà sản phẩm của họ bị đánh thuế theo
mức thuế chung. Mức lợi thế ưu đãi càng lớn thì người xuất khẩu càng có
ưu thế cạnh tranh hơn trên thị trường về sản phẩm đó.
Thí dụ: Theo chế độ GSP của Nhật bản cho các mặt hàng công nghiệp
thuộc diện được hưởng GSP thì mức thuế nhập khẩu theo GSP chỉ bằng
50% mức thuế MFN. Còn hàng nông sản cũng được hưởng mức thuế GSP
thấp hơn mức thuế MFN. Như cà phê, thuế MFN là 20% còn thuế GSP là
10%; chè MFN 20% và GSP 14%; tiêu MFN 4,2%, GSP miễn thuế; tôm
MFN 6%, GSP 4%; mực MFN 10%, GSP 5%.
Bước 4: Kiểm tra Quota/giới hạn tối đa, giới hạn cạnh tranh cần thiết và
danh mục hàng trưởng thành.
-Cần kiểm tra về Quota/giới hạn tối đa được tiến hành sửa đổi hàng
năm trong các quy chế và hiểu rõ việc quản lý chúng.
- Cần kiểm tra các giới hạn và các trường hợp loại trừ xem sản phẩm
xuất khẩu đã bị loại khỏi ưu đãi hay chưa.
Giới hạn về lượng đối với hàng nhập khẩu được ưu đãi thường áp dụng
đối với những sảm phẩm nhạy cảm nhất định và được quy định trong các
quy chế của Nhật bản hiện nay.
Nhật bản hàng năm có công bố danh mục giới hạn trần
(ceiling) theo năm tài chính của Nhật kết thúc vào 31/3 hàng năm
đối với hàng công nghiệp từ nhóm 2523 đến 9603 HS. Trong đó
126 nhóm hàng tính giới hạn theo từng năm một, có 66 nhóm
hàng tính theo tháng và 36 nhóm tính theo ngày. Để nắm được
mặt hàng nào giới hạn theo kiểu nào, các doanh nghiệp có thể tra
cứu trong danh mục hàng hoá bị giới hạn, được công bố hàng
năm bởi Chính phủ của nước dành ưu đãi hoặc thông tin về giới
hạn qua các trung tâm quản lý GSP của nước xuất khẩu và nhập
khẩu.
Bước 5: Thực hiện đầy đủ quy chế về xuất xứ
Cần phải đảm bảo chắc chắn là sản phẩm xuất khẩu phù hợp với các tiêu
chuẩn về xuất xứ do các nước cấp ưu đãi đề ra. Mỗi nước đều có các tiêu
chuẩn riêng của mình.
Những quy định về xuất xứ là một phần quan trọng của mỗi chế độ
GSP. Các quy định này tồn tại để đảm bảo rằng ưu đãi về thuế quan theo
GSP chỉ dành cho những sản phẩm thực sự sản xuất ở nước được hưởng ưu
đãi. Vì vậy những quy định này có tính chất bắt buộc nhằm loại bỏ chế độ
GSP đối với sản phẩm từ nước thứ ba và đối với hàng qua cảnh hoặc các
sản phẩm chỉ chế biến ở mức thấp và không làm thay đổi bản chất của sản
phẩm được hưởng ưu đãi GSP.
Khi xem xét tiêu chuẩn về xuất xứ cần phải nắm vững cách quy định
của nước dành ưu đãi về tiêu chuẩn gia công chế biến và tiêu chuẩn tỷ
trọng. Đặc biệt phải biết chắc chắn hàng của mình được áp dụng theo loại
tiêu chuẩn nào.
Mọi chế độ GSP đều công bố các tiêu chuẩn về xuất xứ mà các sản
phẩm xuất khẩu được hưởng GSP phải đáp ứng đầy đủ. Chi tiết về các vấn
đề này đã được trình bày ở phần trên.
Bước 6: Kiểm tra các tiêu chuẩn gửi hàng
Cần phải kiểm tra xem các điều kiện gửi hàng đặc biệt nào phải thoả
mãn
Hầu hết tất cả các nước cấp GSP (trừ Úc), đều yêu cầu là hàng được gửi
trực tiếp từ nước được hưởng ưu đãi. Điều này nhằm để bảo đảm hàng vẫn
giữ được đặc tính riêng của chúng và không có sự thay đổi hoặc không có
sự chế biến nào trong quá trình vận tải. Nhìn chung các nước có liên quan
đến quy định rõ ràng rằng các trường hợp sau đây sẽ được coi là hàng gửi
thẳng:
- Hàng chuyển thẳng không qua lãnh thổ của nước khác.
m- Hàng vận chuyển qua lãnh thổ các nước khác ngoài nước xuất
khẩu được ưu đãi, có hoặc không có chuyển tải, có hoặc không lưu kho tạm
thời ở các nước đó, với điều kiện hàng nằm dưới sự kiểm soát của hải quan
nước chuyển tải hoặc lưu kho và không tham gia vào thương mại và không
qua các hoạt động trừ việc dỡ hàng, tái xếp hàng và các công việc khác cần
thiết để giữ cho hàng hoá được bảo quản tốt.
Tuy nhiên một số nước ưu đãi còn quy định một số điều kiện riêng
biệt khác nào đó mà cần phải xác định trước.
Bước 7: Chuẩn bị các chứng từ xác nhận
Mỗi quy chế đều đòi hỏi đưa ra chứng từ để xác nhận rằng sản phẩm
xuất khẩu đáp ứng được các tiêu chuẩn về xuất xứ đã đề ra. Các quy chế về
GSP yêu cầu cả tờ khai lần giấy xuất xứ Form A như là một bằng chứng
chứng từ phải có.
Chuẩn bị các chứng từ xác nhận: Đơn xin cấp giấy chứng nhận xuất xứ
phải kèm theo các chứng từ phù hợp có liên quan đến xuất xứ và gửi hàng.
“Form A” là một giấy chứng nhận để được hưởng quy chế ưu đãi được sử
dụng ở tất cả các nước dành ưu đãi
Thực hiện đầy đủ 7 bước trên mới có được ưu đãi thuế quan
GSP hoàn toàn. Bởi vì nhiều khi mặt hàng cần xuất khẩu đúng là
được hưởng ưu đãi thuế quan nhưng do áp mã hàng sai nên không
được hưởng ưu đãi, hay đơn cử ra đây một ví dụ nếu khai sai chứng từ
là giấy chứng nhận xuất xứ C/O dù chỉ là một mục khi đó chứng từ bị
coi là không hợp lệ và hàng hoá cũng sẽ không được hưởng ưu đãi. Các
doanh nghiệp nên tuân thủ chặt chẽ các bước trên.
III. Mức độ ưu đãi (Tariff Cuts)
Thông thường mức độ ưu đãi của đa số các mặt hàng thường được
tính bằng khoảng cách giữa thuế suất MFN và thuế suất GSP được công bố
trong các biểu thuế nhập khẩu của từng nước dành ưu đãi và thường ở mức
thấp hơn khoảng 50% mức thuế MFN. Hàng nhập khẩu vào Nhật bản theo
GSP có 67 mặt hàng được giảm 50% thuế suất so với thuế suất MFN.
- Các sản phẩm nông sản:
Có nhiều mức giảm thuế khác nhau được áp dụng đối với các sản phẩm
nông nghiệp, trong đó có cả hình thức miễn thuế.
- Các sản phẩm công nghiệp:
Các sản phẩm chế tạo, sản xuất nói chung được miễn thuế nhập
khẩu, ngoại trừ việc áp dụng hạn ngạch nhập khẩu đối với 1295 sản phẩm
mà 9 số theo danh mục biểu thuế quan Nhật gồm cả 111 sản phẩm khai
thác mỏ và chế tạo công nghiệp.
Thuế suất ưu đãi cho các sản phẩm phải áp dụng hạn ngạch nhập
khẩu là 0% hoặc bằng 20%, 40%, 60% hoặc 80% thuế suất phổ thông.
Có số liệu không mới về nhập khẩu của Nhật theo GSP năm 1992;
tổng kim ngạch nhập khẩu từ các nước hưởng GSP là 115.667 triệu USD,
hàng chịu thuế MFN là 76.780 triệu USD, hàng được hưởng GSP là 26.674
triệu USD, trong đó thực hiện GSP là 12.305 triệu USD.Với số liệu này,
thấy rằng hàng năm Nhật dành ưu đãi cho các nước đang phát triển vào
khoảng 26 tỷ USD để cạnh tranh với các hàng hoá của các nước không
thuộc diện ưu đãi, khoảng 23% hàng nhập khẩu của Nhật là từ các nước
hưởng ưu đãi được nằm trong danh mục hưởng GSP và lợi thế mà Nhật tạo
ra được cho các nước hưởng ưu đãi so với hàng hưởng MFN là khoảng
66%.Tuy nhiên, các nước được hưởng ưu đãi chỉ sử dụng ưu đãi ở mức
46% các khoản ưu đãi mà Nhật dành cho họ hàng năm. Điều này có nhiều
nguyên nhân nhưng chủ yếu là do không đáp ứng được các chỉ tiêu về xuất
xứ theo yêu cầu của nước nhập khẩu cũng như các quy định về giới hạn
trần (ceiling). Ngoài ra còn một lý do nữa là hàng năm nhiều loại hàng bị
loại ra khỏi diện ưu đãi do người xuất không nắm được thông tin kịp thời.
Phân tích cơ chế bảo vệ trong chế độ (Scheme) của Nhật cho thấy rõ
hơn tại sao các nước hưởng ưu đãi chỉ thực hiện được một nửa số tiền ưu
đãi mà lẽ ra mình được hưởng.
Mục tiêu của quy tắc xuất xứ là để đảm bảo sản phẩm có xuất
xứ từ nước được hưởng ưu đãi về thuế quan trong GSP nhận được
ưu đãi đúng đối tượng. Quy tắc xuất xứ được ban hành cùng với
chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP Scheme) của mỗi nước
dành ưu đãi trong đó quy định các tiêu chuẩn về xuất xứ phải tuân
thủ để được hưởng thuế quan ưu đãi. Để đáp ứng tiêu chuẩn
hưởng đối xử thuế quan ưu đãi, hàng hoá phải :
IV. Quy tắc xuất xứ của Nhật bản
1. Tiêu chuẩn về vận tải (Vận chuyển thẳng)
Tiêu chuẩn này là để đảm bảo rằng hang hoá giữ được tính chẩt và
không bị thay đổi hay chế biến thêm trong quá trình vận chuyển.
a) Về nguyên tắc hàng hoá đó phải được vận chuyển thẳng đến Nhật
mà không qua bất kỳ lãnh thổ nào ngoài quốc gia được hưởng xuất khẩu.
b) Tuy nhiên, đối với hàng hoá vận chuyển tới Nhật qua lãnh thổ
quốc gia khác, chúng được hưởng ưu đãi nếu
- Chúng không trải qua quá trình sản xuất nào tậi nước quá cảnh
ngoài việc chuyển tàu hay lưu kho tạm thời chỉ vì yêu cầu vận tải, và
- Vận chuyển hay lưu kho tạm thời đã được thực hiện tại khu vực
ngoại quan hay khu vực tương tự, dưới sự giám sát của các cơ quan hải
quan nước quá cảnh.
c) Về hàng hoá xuất khẩu từ một quốc gia được hưởng, để lưu kho
tạm thời hay trưng bày tại triển lãm, hội chợ và hoạt động tương tự tại nước
khác, được xuất khẩu bởi người mà đã xuất khẩu như vậy hàng hoá từ một
nước nói trên đến Nhật, chúng được hưởng ưu đãi nếu
- Việc vận chuyển đến Nhật từ nước nơi triển lãm được tổ chức
thuộc nói trên, và
- Triển lãm được tổ chức tại khu ngoại quan hay nơi tương tự, dưới
sự giám sát của hải quan nước đó.
2.Tiêu chuẩn xuất xứ
Hàng hoá được coi là có xuất xứ từ nước xin hưởng ưu đãi nếu chúng
được làm hoàn toàn ở nước đó.
Nếu hàng hoá được sản xuất hoặc chế biến một phần hay toàn bộ từ
nguyên liệu nhập khẩu không rõ xuất xứ thì những nguyên liệu đó phải qua
sản xuất hoặc chế biến ở nước xin hưởng ưu đãi đủ để làm cho chúng thay
đổi về chất.
Theo quy định chung, việc sản xuất hoặc chế biến được coi là đủ nếu
sản phẩm hoàn thiện được phân loại không cùng nhóm HS (mã 4 số) với
nguyên liệu hoặc bộ phận sử dụng để làm ra sản phẩm đó. Tuy nhiên, đối
với một số loại hàng hoá, các nhóm HS áp dụng cho sản phẩm hoàn thiện
và cho nguyên liệu, bộ phận phải có liên quan với nhau và phải đáp ứng các
yêu cầu cụ thể khác.
Ngoài ra, trong một số trường hợp trị giá nguyên liệu nhập khẩu phải
không vượt quá mức nhất định tỷ lệ % trị giá Hải qua tại thời điểm nhập
khẩu vào nước xin hưởng ưu đãi, trị giá hàng xuất khẩu là giá FOB của
hàng hoá bao gồm cả thuế nội địa đã được hoàn hoặc có thể được hoàn khi
Trong khi áp dụng tiêu chuẩn xuất xứ, chế độ đặc biệt sau sẽ
được áp dụng, cho những nguyên liệu nhập khẩu từ Nhật vào
nước được hưởng và được dùng sản xuất hàng hoá sẽ được xuất
xuất khẩu sản phẩm
khẩu sang Nhật (Quy tắc Thành phần nước bảo trợ hay Quy tắc
hàm lượng nước cấp ưu đãi).
(1)Trường hợp hàng hoá sản xuất tại một nước được hưởng chỉ từ
nguyên liệu nhập khẩu từ Nhật, hoặc những hàng hoá sản xuất tại nước
được hưởng chỉ từ nguyên liệu xuất xứ toàn bộ tại nước được hưởng và
nguyên liệu nhập từ Nhật, những hàng hoá này sẽ được coi là xuất xứ toàn
bộ tại nước đó.
(2)Mọi hàng hoá xuất khẩu từ Nhật được sử dụng làm nguyên liệu
thô hay thành phần để sản xuất ra hàng hoá không phải là hàng hoá nói ở
đoạn trên sẽ được coi là xuất xứ toàn bộ tại nước đó.
Tuy nhiên, đối với một số sản phẩm làm tại một nước được hưởng, chế
độ đặc biệt sẽ không được sử dụng.
Cụ thể có một số Quy tắc sau:
* Quy tắc xuất xứ cộng gộp
Trường hợp hàng hoá sản xuất tại một nước là thành viên của Hiệp
hội các Quốc gia Đông Nam Á - ASEAN (bao gồm Bruney, Indônexia,
Malayxia, Philippin, Xingapo, Thái lan và Việt Nam), những nước này
được coi như là một nước được hưởng vì mục đích áp dụng tiêu chuẩn xuất
xứ nói trên và quy tắc thành phần nước bảo trợ.
VỀ CHI TIẾT, CÁC NƯỚC ASEAN SẼ CHỊU
CÁC TÁC ĐỘNG SAU KHI ÁP DỤNG TIÊU
CHUẨN SẢN XUẤT CƠ BẢN.
Các hàng hoá liệt kê dưới đây được coi là xuất xứ tại ASEAN, khi tính
mức sử dụng nguyên liệu không có xuất xứ ASEAN.
a. Tất cả các nguyên liệu thô chỉ bao gồm hàng hoá có xuất xứ
ASEAN.
b. Tất cả các nguyên liệu thô chỉ bao gồm hàng hoá xuất khẩu từ
Nhật sang các nước ASEAN.
c. Tất cả các nguyên liệu thô chỉ bao gồm hàng hoá nói tại mục a và
b nói trên.
d. Những nguyên liệu thô mà bao gồm hàng hoá nơi tại mục a đến
mục c nói trên và hàng hoá không có xuất xứ ASEAN (trừ Nhật) và tuân
theo các quy định tại mục a đến c nói trên.
Hàng hóa được coi là xuất xứ tại ASEAN khi các yêu cầu về sản xuất
hay chế biến chúng đã được đáp ứng tại tất cả các nước ASEAN liên quan
trong quá trình sản xuất ra hàng hoá đó.
Hàng hoá sau đây được coi là được sản xuất ở các nước Đông Nam Á:
- Toàn bộ sản phẩm được làm từ duy nhất nguồn nguyên liệu từ các
nước Đông Nam Á;
- Toàn bộ sản phẩm được làm từ nguyên liệu nhập khẩu từ Nhật vào
các nước Đông Nam Á
- Toàn bộ sản phẩm đáp ứng chỉ từ 2 điều kiện nguồn nguyên liệu
trên
- Toàn bộ sản phẩm đáp ứng chỉ từ 3 điều kiện trên hoặc toàn bộ sản
phẩm được làm hoàn toàn ở các nước Đông Nam Á
Nước xuất xứ hàng hoá đủ điều kiện hưởng đối xử thuế quan ưu đãi
theo quy tắc xuất xứ cộng gộp phải sản xuất và xuất khẩu hàng hoá vào
Xuất xứ của hàng hoá mà được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan
theo các quy tắc cộng gộp là nước mà sản xuất và xuất khẩu hàng
hoá đó sang Nhật.
Để sử dụng hệ thống cộng gộp khu vực, Giấy chứng nhận sản
xuất/gia công cộng gộp nên được xuất trình cho Hải quan vào lúc
kê khai nhập khẩu cộng với giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu A.
Nhật
* Chứng từ về xuất xứ của hàng hoá
(a)Yêu cầu về chứng từ đối với tất cả các hàng hoá để được hưởng
GSP
Để hàng hoá hưởng chế độ ưu đãi thuế quan, một Giấy chứng nhận
Xuất xứ (lời khai tổng hợp và chứng nhận) Mẫu A phải được xuất trình cho
Hải quan Nhật khi nhập khẩu hàng hoá vào Nhật.
Giấy chứng nhận này sẽ được cấp bởi cơ quan hải quan (hoặc các cơ
quan chính quyền có thẩm quyền khác của nước xuát khẩu được hưởng
hoặc các cơ quan khác của nước đó như Phòng thương mại, các cơ quan
này được đăng ký là người cấp giấy chứng nhận xuất xứ với Hải quan
Nhật) theo lời đề nghị cuat nhà xuất khẩu khi anh ta xuất khẩu hàng hoá
liên quan. Tuy nhiên, đối với các lô hàng mà trị giá hải quan không quá
200.000 yên hoặc hàng hoá có xuất xứ rõ ràng thì không cần Giấy chứng
nhận này.
(b) Nguyên liệu nhập từ Nhật
Khi có một hay nhiều chế độ đặc biệt theo “Quy tắc Thành phần
nước bảo trợ” cho hàng hoá xuất khẩu từ nước được hưởng đến Nhạt bắt
buộc phải có một “giấy Chứng nhận nghuyên liệu Nhập khẩu từ Nhật” cấp
bởi chính cơ quan cấp Giấp chứng nhận xuất xứ Mẫu A thể hiện rằng
nguyên liệu sử dụng trong sản xuất hàng hoá đó được nhập khẩu toàn bộ từ
Nhật vào nước đó.
(c) Xuất xứ cộng gộp
Khi có một hay nhiều chế độ đặc biệt theo quy tắc cộng gộp cho
hàng hoá làm tại một nước là thành viên của ASEAN. phải xuất trình “Giấy
chứng nhận gia công/chế biến cộng gộp”, khi nhập khẩu hàng vào Nhật,
cho Hải quan Nhật, cùng với Giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu A. Giấy Chứng
nhận Gia công/chế biến cộng gộp sẽ được cấp bởi chính cơ quan cấp Giấy
Chữ “C-ASEAN” và số của Giấy Chứng nhận gia công/chế biến cộng gộp phải được ghi vào ô 4 của Giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu
A.
chứng nhận xuất xứ Mẫu A.
Giấy chứng nhận xuất xứ mẫu A là loại C/O đặc trưng, được cấp theo Hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP) của các nước có tên ở mặt
sau Mẫu A. Có C/O này hàng hoá xuất khẩu sẽ được hưởng mức thuế ưu đãi GSP của nước nhập khẩu.
Chỉ được cấp khi hàng hoá được xuất khẩu sang một trong những nước được hưởng ghi ở mặt sau mẫu A và nước này đã cho
Việt Nam được hưởng ưu đãi từ GSP; và khi hàng hoá đáp ứng các tiêu chuẩn xuất xứ do nước này quy định. Nhật Bản là một trong
số những nước có tên ở mặt sau của Mẫu này.
* Chứng từ vận tải
Trường hợp vận tải ở mục (1), (2) của quy tắc về vận tải nói trên, chứng từ sau thể hiện việc vận tải đã tuân theo các điều kiện
quy định trong Quy tắc phải được xuất trình :
- Vận đơn suốt;
- Chứng nhận của hải quan hay cơ quan hay cơ quan chính quyền của nước quá cảnh ; hay
- Không có các chứng từ trên, mọi chứng từ thay thế khác được coi là đủ.
Tuy nhiên, đối với các lô hàng có giá trị nhỏ hơn 200.000 yên, không bắt buộc phải có chứng từ này.
V. Cơ chế bảo vệ
Các nước cho hưởng ưu đãi dành cho họ quyền bảo vệ khi hàng nhập
khẩu theo GSP ảnh hưởng đến sản xuất trong nước. Các phương tiện mà họ
thường sử dụng là: Quota, giới hạn tối đa, giới hạn cạnh tranh, danh sách
trưởng thành (về sản phẩm và quốc gia)...
Theo điều khoản XIX của Hiệp định chung về Thuế quan và Mậu dịch
(GATT) “các nước tham gia Hiệp định GATT có thể triển khai các hành
động khẩn cấp đối với sản phẩm được nhập khẩu với một số lượng tăng lên
nhất định và trong những điều kiện đó có thể gây ra hoặc đe dọa gây ra tổn
thất đến các nhà sản xuất trong nước về sản phẩm đó hoặc tương tự” bằng
cách thu hồi hoặc thay đổi các nhượng bộ về thuế quan. Hầu hết các chế độ
(trừ của Bungaria và Nga) đều có các quy định áp dụng điều khoản bảo vệ
chung. Tuy nhiên, do tính chất chủ động của chế độ GSP (trong đó hàng
hoá và các nước được hưởng ưu đãi) các nước dành ưu đãi không cần phải
áp dụng các điều khoản XIX về GSP mà có thể chọn các phương thức bảo
Nhật bản sử dụng biện pháp hạn ngạch nhưng theo hoàn cảnh
riêng của mình mà Nhật áp dụng rất linh hoạt.
vệ khác.
1. Giới hạn tối đa:
- Đối với nông sản, không có giới hạn tối đa.
- Đối với sản phẩm công nghiệp, không có giới hạn tối đa cho một số
sản phẩm. Đối với các sản phẩm còn lại, việc nhập khẩu có thể được cho
phép cho đến khi vượt quá giới hạn tối đa. Đối với 126 nhóm sản phẩm,
mỗi nhóm gao gồm các sản phẩm thuộc một chương, một hạng mục HS,
giới hạn tối đa được tính cho mỗi năm tài chính.
(a) Theo các mặt hàng mà việc nhập khẩu gây khó khăn cho công
nghiệp nội địa:
Giới hạn tối đa = cộng 10% của tổng lượng nhập khẩu từ các nước không
được hưởng ưu đãi trong 2 năm trước vào tổng lượng nhập khẩu từ các
nước được hưởng từ các nước kém phát triển trong năm 1989.
(b) đối với các sản phẩm nhạy cảm mà công thức tính nói trên không
được áp dụng, giới hạn tối đa được tính theo cách sau (tuỳ thuộc vào tình
hình ngành công nghiệp nội địa bị ảnh hưởng):
Giới hạn tối đa = (i) giới hạn của năm tài chính vừa qua, nhân với 1,06 ;
hoặc
(ii) Giới hạn của năm tài chính vừa qua, nhân với 1,03; hoặc
(iii) Giới hạn của năm tài chính vừa qua.
(c) Giới hạn sẽ không nhỏ hơn giới hạn của năm tài chính vừa qua.
2. Thực hiện giới hạn tối đa:
Các giới hạn cho mỗi nhóm sản phẩm được để mở để tất cả các nước
được hưởng sử dụng trên cơ sở công bằng. Không có việc phân phối hoặc
Thuế suất tối huệ quốc sẽ áp dụng sau khi đã vượt quá giới
hạn. Chế độ ưu đãi sẽ bị đình chỉ cho một nhóm sản phẩm được
hưởng nhập khẩu có xuất xứ từ nước đó vượt quá một khối lượng
quốc gia tối đa bằng một phẩn tư tổng trị giá/ khối lượng của giới
hạn.
hạn chế dành cho một nước được hưởng cụ thể.
3. Áp dụng linh hoạt khối lượng quốc gia tối đa và giới hạn tối đa.
Đối với những sản phẩm gây ra sự đe doạ hoặc thiệt hại đến
công nghiệp nội địa Nhật bản, hàng hoá vẫn được phép tiếp tục
nhập khẩu theo chế đãi ưu đãi cho đến khi những thiệt hại hay đe
doạ này phát sinh, thậm chí sau khi hàng hoá nhập khẩu vượt quá
giới hạn tối đa hoặc khối lượng quốc gia tối đa. Thủ tục này áp
dụng cho giới hạn tối đa của 35 nhóm sản phẩm và khối lượng
quốc gia tối đa của 66 nhóm sản phẩm; nó có thể đưa tới việc các
giới hạn tối đa và khối lượng quốc gia tối đa bị vượt quá đáng kể.
4. Áp dụng giới hạn tối đa và khối lượng quốc gia tối đa
Các giới hạn tối đa và khối lượng quốc gia tối đa dược áp dụng trên
nguyên tắc “cái đến trước được hưởng trước” theo sự quản lý hàng ngày
hoặc hàng tháng, hoặc hằng cách phân phối trước.
- Quản lý hàng ngày
Đối với 38 nhóm sản phẩm, hàng nhập khẩu được tính hàng ngày và thuế
MFN sẽ áp dụng hai ngày sau khi giới hạn tối đa hoặc khối lượng quốc gia
tối đa đã bị vượt quá.
- Quản lý hàng tháng
Đối với 65 nhóm sản phẩm, hàng hoá nhập khẩu được tính theo hàng tháng
và thuế suất MFN sẽ được áp dụng vào này đầu tiên của tháng thứ 2 đầu
tháng mà hàng nhập khẩu vượt quá giới hạn tối đa hoặc khối lượng quốc
gia tối đa
- Phân bổ trước
Đối với 23 nhóm sản phẩm, giới hạn tối đa ưu đãi được phân cho từng mỗi
năm tài chính cho các nhà nhập khẩu sản phẩm này.
Nhật bản bảo lưu quyền điều chỉnh chế độ ưu đãi đối với những sản
phẩm thuộc chế độ này theo một số điều kiện nhất định.
(a) Trưởng thành của các nước được hưởng tiến bộ
Các nước được hưởng tiến bộ sẽ bị loại khỏi GSP. Quá trình “trưởng
thành” này bắt đầu với “trưởng thành một phần”, nếu được áp dụng, để
giảm nhẹ tác động của nó lên các nền kinh tế “đang trưởng thành” này.
Đối với “trưởng thành một phẩn”, một sản phẩm của quốc gia hay lãnh
thổ được hưởng sẽ bị loại khỏi GSP từ 1/4/1998 nếu: quốc gia hay lãnh thổ
đó được xếp vào nền kinh tế có thu nhập cao trong quyển World Bank
Atlas năm trước (trong trường hợp năm tài chính 1998, ví dụ, thì là quyển
World Bank Atlas năm 1997, chứa thông tin của năm 1995) hoặc khi không
có trong World Bank Atlas, quốc gia hay lãnh thổ đó được công nhận có
cùng mức GNP (tổng sản phẩm quốc gia) trên đầu người của nền kinh tế có
thu nhập cao trong cuốn sách trên; và kim ngạch xuất khẩu sản phẩm đó
sang Nhật vượt quá 25% kim ngạch xuất khẩu của thế giới về sản phẩm
này tới Nhật và vào cùng một thời gian lớn hơn 1 tỷ yên.
Mỗi quốc gia hay lãnh thổ và sản phẩm sẽ được xem xét lại từng năm.
Nếu bất kỳ điều kiện nào ở trên không được đáp ứng, chế độ ưu đãi sẽ được
Ngoài ra, bắt đầu từ 1/4/2000, một quốc gia hay lãng thổ được
hưởng sẽ bị loại khỏi danh sách hưởng GSP nếu được xếp vào
nền kinh tế có thu nhập cao liên tục trong ba cuốn World Bank
Atlas ba năm trước hoặc, khi không có trong World Bank Atlas,
được công nhận là có cùng mức GNP trên đầu người của nền kinh
tế có thu nhập cao trong cuốn sách trên.
áp dụng.
Khi một quốc gia hay lãnh thổ bị loại khỏi danh sách các nước được
hưởng GSP không bị xếp là nền kinh tế thu nhập cao trong 3 năm liền,
quốc gia hay lãnh thổ này sẽ được hưởng chế độ GSP, nếu quốc gia hay
lãnh thổ này yêu cầu Nhật áp dụng GSP một lần nữa.
(b) Chế độ đặc biệt cho các quốc gia chậm phát triển
Chế độ đặc biệt sau được dành cho các quốc gia chậm phát triển cho tất cả
các sản phẩm thuộc chế độ:
- Miễn thuế
- Hàng hoá nhập khẩu được miễn áp dụng hạn chế về giới hạn
Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập ra đời được gần 40 năm còn nhiều
điều phải bàn nhưng không thể phủ nhận được những tác dụng mà nó
mang lại không chỉ cho các nước được hưởng ưu đãi mà ngay cả các nước
cho hưởng ưu đãi. Để được hưởng ưu đãi GSP của Nhật Bản phải làm một
loạt các bước đã nêu trên, tuy nhiên với chế độ ưu đãi GSP của Nhật Bản
giành cho Việt Nam mà hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam có thể cạnh
tranh với hàng hoá của các nước khác và thâm nhập vào thị trường Nhật
Bản dễ hơn.
Để hiểu rõ hơn chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập Nhật Bản giành cho
Việt Nam chúng ta sẽ tìm hiểu ở chương tiếp theo.
CHƯƠNG II:
CHẾ ĐỘ ƯU ĐÃI THUẾ QUAN PHỔ CẬP CỦA NHẬT BẢN
ĐỐI VỚI HÀNG HOÁ XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
Những năm gần đây, mặc dù về phía Nhật bản vẫn đang còn gặp rất
nhiều khó khăn, thách thức của cuộc khủng hoảng kinh tế đã kéo dài từ đầu
những năm 90 đến nay, nhưng cùng với Việt Nam, hai bên đã có nhiều nỗ
lực thúc đẩy quan hệ hợp tác hữu nghị trên nhiều lĩnh vực chính trị, ngoại
giao, kinh tế, văn hoá... trong đó sôi động nhất vẫn là lĩnh vực hợp tác
thương mại. Cho đến nay Nhật bản vẫn là thị trường và là bạn hàng
thương mại lớn nhất của Việt Nam. Chỉ tính riêng 5 năm gần đây, 1997 -
2002, để đạt được những kết quả về động thái tiến triển kim ngạch xuất
nhập khẩu, cả hai phía Việt Nam và Nhật bản đã có nhiều cố gắng đổi mới
cơ chế quản lý và chính sách thương mại. Hai bên cùng ra sức tháo gỡ dần
những vấn đề còn ách tắc, chưa gặp nhau trong cơ chế, chính sách, biện
pháp quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu sao cho ngày càng phù hợp
hơn với hoàn cảnh riêng mỗi nước, nhằm đạt tới lợi ích chung của cả hai.
I. Đánh giá thực trạng phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước
trong thời gian qua
1. Những tiến triển trong động thái tốc độ tăng trưởng thương mại về quy
Nói đến quan hệ thương mại Việt - Nhật phải kể đến các lĩnh
vực: đầu tư trực tiếp (FDI) ; viện trợ phát triển (ODA) và hoạt
động xuất nhập khẩu hàng hoá. Tuy nhiên, hoạt động xuất nhập
khẩu hàng hoá chưa thể so sánh với hai lĩnh vực đầu tư trực tiếp
(FDI) và viện trợ phát triển (ODA) vì đây là lĩnh vực hoạt động
đã có bề dày thời gian lâu dài nhất, mà nét đặc trưng cho trạng
thái phát triển của nó là từ năm 1987 trở về trước đã diễn ra với
mô kim ngạch xuất nhập khẩu Việt- Nhật
tốc độ tăng trưởng và quy mô phát triển của cả kim ngạch xuất
khẩu và kim ngạch nhập khẩu đều còn ở mức độ khiêm nhường,
thậm chí có những năm còn trì trệ, suy giảm do ảnh hưởng của
các lý do chính trị, và môi trường quốc tế. Hoạt động ngoại
thương Việt - Nhật trước năm 1988 đó là nhập siêu luôn luôn
nghiêng về phía Việt Nam. Nét đặc trưng này đã không còn kể từ
năm 1988 là năm đầu tiên nhờ có xuất khẩu dầu thô sang Nhật mà
Việt Nam đã có xuất siêu và mức xuất siêu này ngày càng lớn hơn
kể từ năm 1989 trở đi. Nguyên nhân cơ bản về phía Việt Nam là
từ năm 1989 với việc thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, tự
do hoá thương mại và tích cực thu hút đầu tư nước ngoài để có
điều kiện phát triển mạnh sản xuất hướng về xuất khẩu nên quan
hệ thương mại Việt - Nhật đã có những bước phát triển mới cả về
chiều rộng lẫn chiều sâu. Việt Nam đã bước đầu tận dụng và ngày
càng phát huy có hiệu quả hơn các lợi thế so sánh sẵn có về
nguồn nhân công dồi dào giá rẻ và lại có một số mặt hàng xuất
khẩu như dầu thô, hàng may mặc, thuỷ hải sản... nên đã đẩy mạnh
được xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Thực trạng này càng
phát triển khả quan hơn kể từ năm 1992 do quan hệ Việt - Nhật đã
được cải thiện thông thoáng hơn sau khi có sự kiện phía Nhật Bản
đã tuyên bố chính thức nối lại viện trợ phát triển chính thức ODA
cho Việt Nam (tháng 11/1992); và đặc biệt kể từ sau một loạt các
sự kiện chính trị quan trọng trong hai năm 1994/1995 như Mỹ
huỷ bỏ chính sách cấm vận thương mại chống Việt Nam (tháng
2/1994), Mỹ tuyên bố bình thường quan hệ với Việt Nam (tháng
7/1995) và Việt Nam gia nhập ASEAN (tháng 7/1995), thì các
quan hệ kinh tế, đặc biệt là quan hệ thương mại Việt - Nhật càng
phát triển mạnh mẽ, sôi động hơn. Cụ thể, tính chung cho cả 10
năm (1988-1997), kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt - Nhật đạt
16.895 triệu USD, trong đó xuất khẩu là 11.023 triệu USD và
nhập khẩu là 5.872 triệu USD. Tốc độ tăng trưởng thương mại
bình quân hàng năm giữa Việt Nam và Nhật bản là 28,5%, trong
đó tăng trưởng xuất khẩu là 32,7% và nhập khẩu là 37,2%. Tính
chung cho cả 10 năm đó, Việt Nam đã xuất siêu sang Nhật 5.151
triệu USD, chiếm 46,7% tổng kim ngạch xuất khẩu và 30,5% tổng
kim ngạch nhập khẩu. Trong đó, nếu làm phép tính phân tích so
sánh số liệu về tổng cộng xuất siêu của 5 năm sau (1993-1997)
với tổng cộng xuất siêu của 5 năm trước (1988-1992) ta thấy 5
năm sau đạt xuất siêu tổng cộng là 3.726 triệu USD tăng gấp 2,6
lần so với tổng cộng xuất siêu của 5 năm trước đã đạt được là
1425 triệu USD.
Như vậy là cho đến kết thúc năm 1997, trong quan hệ thương
mại giữa Việt Nam và Nhật bản, ta thấy động thái tiến triển
KNXNK nói chung và KNXK, KNNK nói riêng về phía Việt
Nam là luôn trong xu thế phát triển khả quan kể cả về tốc độ tăng
trưởng và quy mô giá trị đã đạt được. Bước sang năm 1998 và
tiếp đó là năm 1999 vừa qua, có một tình hình là bức tranh buôn
bán đó đã có sự khác trước.
Bảng 2: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt - Nhật từ năm 1990 đến năm 2002
Đơn vị tính: Triệu USD
Tỷ lệ tăng so
Kim ngạch
Tổng kim
Trị giá xuất
Năm Kim ngạch XK
với năm trước
NK
ngạch XNK
siêu
(%)
1990
595
214
809
156,8
381
1991
662
217
879
108,7
445
1992
870
451
1.321
150,3
419
1993
1.069
639
1.708
129,3
430
1994
1.350
644
1.994
116,7
706
1995
1.716
921
2.637
132,2
795
1996
2.020
1.140
3.160
119,8
880
1997
2.198
1.283
3.481
110,2
915
1998
2.509
1.469
3.978
114,2
1.040
1999
1.786
1.476
3.262
82,0
310
2000
2.621
2.250
4.871
149,3
371
2001
2.509
2.215
4.724
96,9
294
2002
2.234
2.358
4.592
97,2
-124
(Nguồn: Bộ thương mại Việt Nam; Bộ kế hoạch và Đầu tư Việt Nam; Tổng cục Hải
quan Việt Nam. Bộ Tài chính Nhật Bản; JETRO; Hội mậu dịch Nhật - Việt)
Căn cứ vào các kết quả tổng hợp số liệu thống kê đã công bố từ phía
Nhật Bản bởi các cơ quan: Tổng cục thuế Bộ Tài chính, Bộ Công Thương
Nhật Bản và Hội Mậu dịch Nhật - Việt (xem bảng trên) ta thấy các hoạt
động xuất nhập khẩu giữa hai nước Việt - Nhật đều chững lại, thậm chí đã
có sự suy giảm hơn trước (tuy chưa nhiều) cả về tốc độ tăng trưởng và quy
mô giá trị. Nếu như năm 1997 KNXNK đạt được về phía Việt Nam là
419,35 tỷ yên, tăng hơn 22,1% so với năm 1996; thì sang năm 1998 với
KNXNK đạt được 402,73 tỷ yên đã bị giảm 4% so với năm 1997. Nếu tính
riêng hoạt động xuất khẩu ta thấy, KNXK đạt được của năm 1997 là 264,47
tỷ yên, tăng hơn 20.5% so với năm 1996, thế nhưng sang năm 1998 với
228,93 tỷ yên KNXK đạt được là đã bị giảm tới 13,4% so với năm 1997.
Nhìn chung cả xuất và nhập khẩu Việt - Nhật đều đã suy giảm trong 2 năm
1998 và 1999, song so sánh tương quan cho thấy nhập khẩu giảm mạnh
hơn xuất khẩu và năm 1999 cả xuất và nhập khẩu đều bị giảm mạnh hơn
năm 1998.
Lý giải về sự suy giảm các hoạt động xuất nhập khẩu trên đây như thế
nào? Trước hết có thể khẳng định rằng sự suy giảm đó không vì bị ảnh
hưởng của bất cứ một nguyên nhân chính trị và môi trường khu vực, quốc
tế nào cả.
Thực tiễn phát triển đã cho thấy quan hệ hợp tác hữu nghị và phát triển
toàn diện gữa hai nước Việt - Nhật trong hai năm 1998 - 1999 vừa qua vẫn
tiếp tục được củng cố và tăng cường phát triển hơn nữa. Các sự kiện ngoại
giao chính trị, ngoại giao kinh tế ở cấp nguyên thủ quốc gia, cũng như việc
cử đoàn ra đoàn vào của các quan chức cấp cao, các chuyên gia của Chính
phủ hai nước cho đến các nhà doanh nghiệp của hai bên vẫn được diễn ra
mạnh mẽ, sôi động như thường lệ. Vậy thì nguyên nhân nào là chủ yếu đã
dẫn đến tình hình suy giảm các hoạt động thương mại Việt - Nhật trong hai
năm 1998 - 1999. Phải nói ngay rằng , không chỉ trong lĩnh vực quan hệ
thương mại mà cả trong lĩnh vực đầu tư phát triển của Nhật Bản vào nước
ta trong hai năm đó cũng bị suy giảm. Riêng trong lĩnh vực thương mại, có
thể khẳng định rằng nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp làm suy giảm các
hoạt động xuất nhập khẩu Việt - Nhật chính là từ những ảnh hưởng tiêu cực
của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á đã xảy ra từ giữa năm
1997 cho đến hết năm 1998 và của chính nền kinh tế Nhật Bản do đã bị suy
thoái kéo dài từ đầu thập niên 90. Sau một số năm phát triển mạnh nền kinh
tế “bong bóng” từ cuối những năm 1980, đến giữa năm 1991 kinh tế Nhật
Bản đã gặp phải suy thoái mạnh. Để khắc phục tình trạng đó, Chính phủ
Nhật Bản đã phải thi hành chính sách “thắt lưng buộc bụng” và vào tháng
8/1992 đã đưa nhiều giải pháp kinh tế tổng thể nhằm phục hồi nền kinh tế
dựa trên cơ sở kích cầu... Trải qua nhiều bước thăng trầm khác nhau về tát
cả các lĩnh vực chính trị - kinh tế - xã hội... nhưng với sự nỗ lực cao độ của
Chính phủ và nhân dân Nhật Bản, đến năm 1996, nền kinh tế Nhật đã phục
hồi trở lại với tốc độ tăng trưởng khá cao là 3,6%. Thế nhưng, ngay sau đó
từ giữa năm , đặc biệt là cuối năm 1997 và cả năm 1998, Nhật Bản lại gặp
phải khó khăn nghiêm trọng do bị tác động của cuộc khủng hoảng tài chính
- tiền tệ Châu Á, mà khởi đầu là từ Thái Lan, Hàn Quốc, sau lan rộng và rất
nhanh sang hầu hết các nước ASEAN. Khủng hoảng kinh tế khu vực và suy
thoái kinh tế Nhật Bản thời gian qua đã tác động mạnh đến chi tiêu và đầu
tư của người Nhật, khiến cho các quan hệ kinh tế thương mại và đầu tư,
nhất là hoạt động nhập khẩu của Nhật Bản từ các nước khác đã bị ảnh
hưởng nghiêm trọng, trong đó Việt Nam đương nhiên cũng bị ảnh hưởng.
Năm 1998, lần đầu tiên kể từ năm 1992, xuất nhập khẩu của Nhật Bản
đều bị giảm sút. Xuất khẩu trong năm nay chỉ đạt có 386,3 tỷ USD, giảm
8,7% so với năm 1997; nhập khẩu đạt 279,3 tỷ USD, giảm 17,9% so với
năm 1997. Nguyên nhân chính của sự giảm sút KNXK hàng hoá Nhật Bản
là do khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á đã làm cho đồng tiền của các
nước Đông và Đông Nam Á bị yếu đi nhiều so với đồng yên của Nhật Bản,
mặc dù trong 2 năm 1997 - 1998, để khôi phục nền kinh tế đã có dấu hiệu
phục hồi tăng trưởng trở lại với tốc độ 3,6% năm 1996, Nhật Bản vẫn tiếp
tục thi hành chính sách duy trì đồng yên yếu so với đồng đôla Mỹ (USD)
để đẩy mạnh xuất khẩu. Hậu quả từ việc đồng tiền các nước này bị giảm
giá mạnh so với đồng yên do khủng hoảng kinh tế gây ra đã khiến cho xuất
khẩu của Nhật Bản sang thị trường các nước này bị giảm sút mạnh. Chính
vì thế quan hệ thương mại Việt - Nhật cũng bị ảnh hưởng chung. Ngoài ra,
chính sự sụt giá của đồng tiền các nước cũng đã làm cho tiền (đồng) Việt
Nam bị nâng giá lên khoảng 32,3% so với baht, 20,1% so với ringgit...
ngay từ thời điểm tháng 10/1997. Do vậy hàng Việt Nam xuất khẩu sang
Nhật đã bị giảm khả năng cạnh tranh so với các nước khác trong khu vực,
nhất là khi cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam gần giống với hàng xuất
khẩu của các nước khác trong khu vực sang thị trường Nhật Bản.
Về nhập khẩu vào Việt Nam, do đồng yên Nhật tăng giá hơn so với
các đồng tiền các nước trong khu vực, nên việc nhập khẩu hàng hoá cùng
loại hoặc hàng hoá thay thế từ các nước Đông Nam Á hoặc Hàn Quốc sẽ rẻ
hơn trước, nên sức cạnh tranh của hàng hoá các nước này sẽ mạnh hơn so
Như vậy là những phân tích, lý giải trên đây về diễn biến
động thái tốc độ tăng trưởng và quy mô giá trị buôn bán Việt -
Nhật thể hiện ở KNXNK, KNXK và KNNK trong những năm
1990 vừa qua về cơ bản đã cho thấy kim ngạch buôn bán Việt -
Nhật kể cả xuất khẩu và nhập khẩu đều đã tăng nhanh và tương
đối ổn định. Thực tiễn cho thấy thị trường Nhật Bản đã chấp nhận
hàng hoá Việt Nam và triển vọng sẽ còn tăng nhanh hơn nữa
trong thời gian tới khi mà hiện nay cuộc khủng hoảng tài chính -
tiền tệ khu vực đã qua đi và kinh tế Nhật Bản đã được phục hồi
dần trở lại. Ngoài ra, trường hợp ngược lại đối với hàng Nhật Bản
xuất khẩu sang thị trường Việt Nam, thực tiễn phát triển cũng đã
cho thấy kể từ đầu thập niên 90 cho đến nay, KNNK của Việt
Nam đối với các hàng hoá xuất từ thị trường Nhật Bản cũng đã
tăng nhanh và tương đối ổn định, mặc dù có nhiều khó khăn xảy
ra như đã đề cập đến khiến cho hoạt động nhập khẩu đẫ bị giảm
xuống mạnh hơn so với sự giảm xuống của hoạt động xuất khẩu,
song nếu nhìn vào xu thế phát triển vẫn có thể hy vọng rằng nhờ
có đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu, chúng ta sẽ có đầy đủ khả
năng để tăng nhanh nhập khẩu những mặt hàng cần thiết cho sự
thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
với hàng nhập khẩu từ Nhật Bản vào Việt Nam.
2. Thực trạng tiến triển động thái cơ cấu các mặt hàng xuất nhập khẩu Việt
Để thấy rõ thực trạng tiến triển động thái cơ cấu các sản phẩm
xuất nhập khẩu của nước ta trong quan hệ buôn bán với Nhật Bản
những năm 1990, trước hết ta hãy phân tích diễn biến cơ cấu mặt
hàng buôn bán giữa hai nước theo thứ tự thời gian từng năm sau
đây (số liệu dưới đây lấy từ các số liệu thống kê đã công bố của
Hải quan Việt Nam):
-Nhật
a. Về cơ cấu các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu
Xem xét tỷ trọng giá trị xuất khẩu từng loại hàng trong tổng giá trị xuất
khẩu hàng năm, đã có diễn biến như sau:
+ Năm 1989: 50,95% là dầu thô; 17,4% là tôm đông lạnh; 9,3% là
sắt vụn; 3,3% là than đá; 2,4% là gỗ...
+ Năm 1990: 64,4% là dầu thô; 16,4% là tôm đông lạnh; 3,3% là sắt
vụn; 1,8 là gỗ; 1,6% là mực khô...
+ Năm 1992: 60,0% là dầu thô; 12,1% là tôm đông lạnh; 3,3% là áo
khoác và áo gió nam; 2,3 % là than không khói ; 2,2% là cá mực đông
lạnh...
+ Năm 1995: 35,3% là dầu lửa và dầu thô; 11,1% là tôm đông lạnh;
4,8% là cao khoác và áo gió nam; 4% là cá mực đông lạnh; 3,3% là than
không khói...
+ Năm 1996: 31,12% là dầu hoả và dầu thô; 9,6% là tôm đông lạnh;
4,1% là áo khoác và áo gió nam; 3,4% là than không khói, 2,3% là quần áo
cho người lái xe tải trượt tuyết...
+ Năm 1997: 27,6% là dầu lửa và dầu thô; 11,0% là tôm đông lạnh;
4,5% là áo khoác gió nam; 3,6% là các loại giầy dép; 3,1% là than không
khói...
Trên đây là danh mục 5 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu chiếm tỷ trọng
lớn nhất trong tổng giá trị xuất khẩu từng năm của nước ta kể từ năm 1989
đến năm 1997, năm 2002 chúng ta có thêm mặt hàng dây điện và dây cáp
điện. Một số mặt hàng mới của Việt Nam đã bắt đầu có mặt trên thị trường
Nhật Bản dù khối lượng và giá trị còn nhỏ bé như hạt tiêu, đường kính...
Cho đến nay, cơ cấu hàng xuất khẩu, nhất là hàng xuất khẩu chủ yếu còn
khá hẹp, chưa có thay đổi nhiều so với những năm đầu thập niên 90, mặc
dù nếu xét riêng về việc phấn đấu giảm tỷ trọng xuất các sản phẩm thô,
tăng tỷ trọng xuất các sản phẩm đã qua công nghiệp chế tạo, chế biến thì ta
cũng đã có nhiều tiến bộ. Cụ thể, nếu những năm đầu thập niên 90, hàng
xuất sang Nhật Bản của ta chủ yếu là nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế,
chiếm đến 90% KNXK, trong đó riêng dầu thô đã đến 60%, thì hiện nay đã
giảm xuống nhiều, nhưng vẫn còn tới trên 50% là nguyên liệu thô và sản
phẩm sơ chế. Mặt hàng chủ yếu của ta xuất sang Nhật đến nay vẫ là dầu
thô, thuỷ hải sản, dệt may, than đá, giầy dép, cà phê và một số hàng nông
sản khác, ngoài ra là hàng tiêu dùng trong gia đình như dụng cụ gia đình,
vali, cặp túi, xắc các loại... Hạn chế nhất trong xuất khẩu sang Nhật của ta
hiện nay là chưa có sản phẩm kỹ thuật cao. Đến năm 2002 Việt Nam vẫn
chỉ nhập khẩu những mặt hàng truyền thống như: Máy móc thiết bị, linh
kiện điện tử và máy vi tính, sắt thép các loại và ôtô dạng CKD, SKD... về
gia công lắp ráp và xuất khẩu.
b. Về cơ cấu các sản phẩm nhập khẩu chủ yếu
Các mặt hàng khá đa dạng, tuy nhiên chủ yếu vẫn tập trung
vào một số loại như máy móc thiết bị công nghiệp và xây dựng,
nguyên nhiên liệu, hàng điện tử, ô tô và xe máy,...
Điều muốn nhấn mạnh là rất nhiều mặt hàng vốn là thế mạnh của Việt
Nam, nhưng hiện chưa thể vào thị trường Nhật Bản được như nông sản,
hoa quả... Do vậy, tiếp tục khai thác thị trường này đang là một cơ hội lớn,
song cũng là thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Tóm lại, có thể rút ra một số nhận định cơ bản sau khi đã xem xét thực
trạng động thái tiến triển có cấu các sản phẩm xuất nhập khẩu Việt - Nhật
- Trước đây và kể cả cho đến những năm đầu thập niên 90, Việt
Nam xuất khẩu sang Nhật Bản chủ yếu (đến 90%) là sản phẩm
thô, trong đó dầu thô đã là sản phẩm xuất khẩu chủ lực số 1 kể từ
năm 1988 đến nay. Từ năm 1995 đến nay Việt Nam ngày càng
gia tăng khối lượng hàng xuất khẩu đã qua chế biến (khoảng
30%), tuy nhiên mới chỉ qua sơ chế, chưa có chế biến sâu và tinh.
từ đầu thập niên 90 như sau:
- Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Nhật đã ngày
càng đa dạng hoá hơn để kịp thời phù hợp với lợi thế so sánh sẵm có của
đất nước và đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của thị trườngNhật Bản, tuy
nhiên sự tiến triển đó vẫn chậm. Mặt hàng đã có sự thay đổi (trước năm
1988 là than đá, cao su, gạo... nhưng hiện nay đã là dầu thô, thuỷ hải sản,
hàng may mặc) nhưng loại hàng còn chậm thay đổi, vẫn chủ yếu là các sản
phẩm thô, nhiều nhất là nguyên liệu, khoáng sản, hàng nông - lâm - ngư
nghiệp, nhưng chưa có hàng công nghiệp kỹ thuật cao do chính Việt Nam
chế tạo.
- Cơ cấu hàng nhập khẩu từ Nhật Bản của Việt Nam hầu như ít thay
đổi, vẫn là hàng chế tạo và nguyên vật liệu xong có xu hướng ngày càng đa
dạng hơn về loại hàng. Hàng tiêu dùng giảm dần về tỷ trọng và hàng máy
móc, thiết bị kỹ thuật, nguyên vật liệu tăng tỷ trọng lên dần nhưng đến nay
Việt Nam vẫn chưa nhập được những dây chuyền công nghệ hiện đại bậc
nhất.
- Với một cơ cấu các sản phẩm xuất nhập khẩu như hiện nay là phản
ánh đúng thực trạng nền kinh tế hai nước, cụ thể là phản ánh đúng trình độ
phát triển, lợi thế so sánh và nhu cầu mua- bán, trao đổi mậu dịch của mỗi
nước. Chính vì thế quan hệ thương mại Việt - Nhật kể từ năm 1988 đến nay
và nhất là từ năm 1992 trở lại đây đã phát triển ngày càng mạnh mẽ sôi
động hơn là xuất phát trước hết từ nhu cầu lợi ích kinh tế đôi bên cùng gặp
nhau, sau đó mới đến các lý do chủ quan về nhu cầu chính trị, ngoại giao
đôi bên và các điều kiện thuận lợi khách quan của môi trường chính trị,
kinh tế quốc tế và khu vực trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh từ đầu thập
niên 90 đến nay.
Mặt khác, cũng chính vì với một cơ cấu các sản phẩm xuất nhập khẩu
Việt - Nhật như hiện nay là phản ánh đúng thực trạng trình độ phát triển,
lợi thế so sánh và nhu cầu mua - bán, trao đổi mậu dịch, nên hiện tượng
Việt Nam ngày càng xuất siêu sang Nhật là bình thường, không phản ánh
đó là “thế mạnh” của Việt Nam hoặc “thế yếu” của Nhật Bản trong hoạt
động ngoại thương. Tuy nhiên, hiện tượng này sẽ trở thành bất bình
thường, mang lại thua thiệt kinh tế cho Việt Nam ngày càng lớn hơn nếu
như cứ kéo dài mãi tình hình xuất siêu các sản phẩm thô chưa qua chế tạo,
chế biến, hoặc mới chỉ sơ chế. Vấn đề này giải quyết thế nào cho có hiệu
quả, đó chính là cần thiết có một chiến lược phát triển mạnh xuất khẩu với
việc hoạch định và thực thi khẩn trương một chính sách cơ cấu các sản
phẩm xuất nhập khẩu năng động và hợp ký theo hướng có hàm lượng chất
xám ngày càng tăng hơn và các sản phẩm thô ngày càng giảm đi.
II. Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập đối với hàng hoá xuất khẩu của
Việt Nam
Việt Nam được xếp vào các nước đang phát triển, nên khi xuất khẩu vào
thị trường Nhật Bản được Nhật Bản cho hưởng thuế quan phổ cập GSP.
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa tận dụng hết mức độ ưu đãi mà bạn cho
hưởng vì nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân là hàng hoá của Việt
Nam phải đang rất cố gắng để thâm nhập vào thị trường Nhật Bản như:
nâng cao chất lượng hàng hoá đáp ứng đòi hỏi khó tính của thị trường bởi
vì dù có được hưởng ưu đãi nhưng chất lượng không đáp ứng được thì
cũng không thể tiêu thụ được; tăng cường nắm bắt thông tin nhất là thông
tin những thay đổi về ưu đãi như các quy định về giới hạn trần (ceiling)
hoặc những mặt hàng bị loại ra khỏi diện ưu đãi trong khi đó người xuất
khẩu không biết … Với những lý do trên mà hàng năm Việt Nam cũng mới
chỉ sử dụng khoảng 50% các khoản ưu đãi của Nhật Bản dành cho. Nói đi
cũng phải nói lại, các mặt hàng mà Nhật Bản dành ưu đãi GSP diện mặt
hàng có lợi ích thiết thực không nhiều (xem phụ lục: Danh mục các mức
thuế nhập khẩu ưu đãi đối với các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam
vào thị trường Nhật Bản). Đó là các mặt hàng chủ yếu có mức thuế ưu đãi
GSP giảm khoảng 50% so với MFN, các mặt hàng tập trung chủ yếu vào
sản phẩm thô nông hải sản như: tôm, cá, cà phê, chè, và các loại vật liệu tự
nhiên như tre, cọ sợi ... Nếu so với ưu đãi thuế quan phổ cập của EU hay
Mỹ dành cho hàng hoá Việt Nam thì mức ưu đãi của Nhật Bản chưa nhiều
về chủng loại hàng hoá cũng như là mức thuế còn cao. Ví dụ, trong danh
mục các mặt hàng cho hưởng ưu đãi thuế quan GSP của EU gần 30 chương
(Nhật Bản là 6 chương) chủng loại mặt hàng lên tới 7000 chủng loại hàng
hoá trong đó có 3300 mặt hàng không nhạy cảm được miễn thuế, 3700 mặt
hàng nhạy cảm được giảm 3,5% thuế. Ngoài ra, nếu quốc gia xuất khẩu áp
dụng tốt quy chế bảo vệ quyền của người lao động sẽ được giảm bổ sung
5% thuế, bảo vệ tốt môi trường cũng được giảm thêm 5%. Theo số liệu của
phái đoàn Uỷ ban Châu Âu, năm 2001, Việt Nam xuất qua EU 4,4 tỷ euro,
trong đó có 59% hàng hoá được hưởng GSP. Những mặt hàng Việt Nam
xuất qua EU được hưởng GSP cao là: giày dép 77%, sản phẩm khác làm từ
da 80%, thuỷ tinh, sành sứ 77%… Việt Nam là nước được hưởng ưu đãi
GSP đứng thứ 7 ở Châu Âu. Theo ông Ivano Casella - chuyên gia về GSP
của cơ quan chuyên gia về GSP của cơ quan chuyên trách về thương mại
thuộc uỷ ban Châu Âu cho biết, GSP áp dụng trong giai đoạn 2002 - 2004
dành cho các nước và vùng lãnh thổ được thụ hưởng chế độ này được ưu
đãi lớn hơn so với giai đoạn trước: chỉ chia 2 nhóm hàng hoá và mở rộng
phạm vi áp dụng cho thêm nhiều loại sản phẩm. Nếu mức thuế ưu đãi theo
GSP mới cao hơn mức thuế ưu đãi tính theo GSP cũ (áp dụng trong giai
đoạn 2000 - 2002), thì được tính theo mức thuế ưu đãi cũ.
Tuy nhiên, ông Casella cảnh báo, đồng thời với việc thực hiện GSsP, EU
đang có chủ trương đẩy mạnh tự do hoá thương mại thông qua việc giảm
dần thuế quan, tiến tới xoá bỏ chế độ hạn ngạch đối với các nước thành
viên của WTO (tổ chức thương mại thế giới) vào cuối năm 2004 và chấm
dứt giai đoạn 2 thực hiện GSP vào cuối năm 2004. Do vậy trong 2 năm tới
sự cạnh tranh trên thị trường này trở nên khốc liệt. Nếu lại so sánh với ưu
đãi GSP của Mỹ thì quả thật phải nói rằng danh mục hàng hoá vô cùng đa
dạng chi tiết từ các mặt hàng thuỷ hải sản, sản phẩm nông nghiệp chưa
hoặc đã qua chế biến đếm các sản phẩm công nghiệp nhẹ như: may mặc,
gốm sứ,…, mức thuế suất hầu như là miễn thuế, hoặc mức thuế thấp như
sợi dệt gốc thực vật, thảm,… Tuy nhiên ngược với biểu thuế của Nhật Bản,
biểu thuế ưu đãi của Mỹ danh mục Quần áo và hàng may sẵn, không thuộc
loại hàng dệt kim, đan hoặc móc có mức thuế GSP cao hơn mức thuế MFN.
Nói như vậy không có nghĩa thị trường Nhật Bản kém hấp dẫn hơn thị
trường EU cũng như thị trường Mỹ, điều quan trọng là phải biết khai thác
những ưu đãi đó như thế nào.
Trong những năm vừa qua quan hệ thương mại Việt - Nhật đã ngày
càng khẳng định hơn vị trí, vai trò quan trọng không thể thiếu đối với hoạt
động ngoại thương Việt Nam với sự tăng trưởng liên tục của các hoạt động
xuất nhập khẩu. Trong đó, tốc độ tăng của xuất khẩu luôn tăng nhanh hơn
tốc độ tăng của nhập khẩu. Đáng lưu ý trong các mặt hàng xuất khẩu, có
tôm đông lạnh và mực, hàng may mặc, cà phê, than đá đang là những mặt
hàng có tốc độ xuất khẩu tăng nhanh nhất. Tôm đông lạnh Việt Nam
chiếm tỷ phần xấp xỉ 10% thị phần nhập khẩu của Nhật Bản. Nhật Bản
cũng đã trở thành thị trường lớn nhất đối với hàng may mặc xuất khẩu của
Việt Nam, lại là thị trường phi hạn ngạch nên tiềm năng của thị trường này
cho hàng may mặc của Việt Nam là rất lớn. Than đá Việt Nam xuất sang
Nhật gần đay đạt mức cao kỷ lục tới hơn triệu tấn/năm. Thị trường cà phê,
giày dép của Nhật Bản cũng hứa hẹn nhiều triển vọng đối với hàng xuất
khẩu của Việt Nam. Có một số mặt hàng của Việt Nam trong vài năm gần
đây đã có tính cạnh tranh cao cả về chất lượng và giá cả, đáng chú ý là
hàng may mặc, khăn lau tay, một số hàng thuỷ sản như tôm và mực. Năm
1998, Việt Nam đã vươn tới vị trí một trong bốn nước xuất khẩu hàng đầu
sang Nhật về một số mặt hàng như than đá (đứng thứ hai), mức (thứ hai),
tôm (thứ tư), sơ mi nam làm từ sợi tổng hợp hoặc nhân tạo HS 6205.30 -
010,090 (thứ tư), quần áo nữ HS 6211.49 - 210 (thứ hai)... Phần lớn các đối
thủ cạnh tranh các mặt hàng này của Việt Nam tại thị trường Nhật Bản là
các nưóc Châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaixia,
Inđônêxia, Philippin, Ấn độ... và một số nước khác như Ôxtrâylia (về than
đá), Pháp (về quần áo nữ)... Rõ ràng là hàng hoá Việt Nam đã từng bước
chiếm lĩnh thị trường Nhật Bản, một thị trường có sức tiêu thụ rất mạnh
nhưng cũng đã từng nổi tiếng là khó tính. Không những thế, nhìn về triển
vọng, xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Nhật Bản còn có khả năng tiếp
tục phát triển khả quan hơn nữa, khi mà nền kinh tế Nhật Bản kể từ năm
1999 đã bắt đầu đang phục hồi trở lại. Nhu cầu tiêu dùng của người Nhật
đối với các hàng hoá tiêu dùng Việt Nam sẽ ngày càng gia tăng hơn, nếu họ
quen sử dụng; còn đối với các hàng hoá tiêu dùng cho sản xuất của Việt
Nam vẫn xuất sang Nhật như dầu thô, than đá, sắt thép... thì thực tiễn đã
cho thấy đó là những hàng hoá nguyên vật liệu thiết yếu dùng cho sản xuất
công nghiệp mà nền kinh tế Nhật Bản luôn luôn cần đến. Như ý kiến của
các chuyên gia Bộ Thương mại Việt Nam, mặc dù năm 1998 là thời gian
mà nền kinh tế Nhật Bản đã chạm tới “đáy” của sự suy thoái, với tốc độ
tăng trưởng -1,8%, đạt “kỷ lục” chưa từng có kể từ 5 thập niên lại đây,
song trong quan hệ thương mại với nước ta khi đó, Nhật vẫn là thị trường
tiêu thụ chủ yếu, chiếm tới 60 - 70% tổng doanh thu xuất khẩu các sản
phẩm dầu thô, than đá và hàng may mặc, hàng thuỷ hải sản của ta.
Bảng 3 : Những mặt hàng mà Việt Nam thuộc bốn nước xuất khẩu hàng
Mặt hàng
Mã HS Xếp
%thị
Triệu
No.1
No.2
No.3
No.4
hạn
phần
yên
(%thị
phần)
g
Than gầy
41,7
7.594
Trung
Việt
Hàn Quốc Úc
2
2701-
11-000
quốc
Nam
Quần áo nữ
6211.49-
2
41,5
5.509
Trung
Việt
Thái lan
Pháp
hoặc lụa
210
quốc
Nam
Áo nam có
6201.93-
2
9,4
5.140
Trung
Việt
Hàn Quốc Mỹ
mũ, chống
100,200
quốc
Nam
gió
Khăn bông
6302.60-
2
14,4
4.765
Trung
Việt
Inđônexia Đài
dùng làm bếp
000
quốc
Nam
Loan
và vệ sinh
2
9,0
3.396
Trung
Việt
Thái lan
Hàn
Áo lót phụ
quốc
Nam
Quốc
nữ
Mực đã chế
1605.90-
2
24,6
1.507
Trung
Việt
Thái lan
Hàn
biến, bảo
219
quốc
Nam
Quốc
quản
Mực đông
0307.49-
3
17,4
4.040
Thái
Trung
Việt Nam Maro
lạnh,
190,200
lan
quốc
c
khô,muối
Quần nam
0306.13-
3
4,2
2.484
Trung
Mỹ
Việt Nam
Phili
010,090
quốc
ppin
Tôm đông
0306.13-
4
8,6
28.920
Inđônê
ấn độ
Thái lan
Việt
lạnh
000
xia
Nam
Áo sơ mi
6205.30-
4
6,4
1.862
Trung
Inđônê
Thái lan
Việt
nam
010,090
quốc
xia
Nam
Bộ dây đánh
8544.30-
4
8,2
6.269 Philipp
Trung
Mỹ
Việt
lửa xe hơi
010
in
quốc
Nam
đầu sang Nhật Bản trong năm 1998
Nguồn: Bộ Thương mại Việt Nam
III. NHỮNG TỒN TẠI TRONG VIỆC GIÀNH ƯU
ĐÃI THUẾ QUAN PHỔ CẬP CỦA NHẬT BẢN ĐỐI
VỚI HÀNG HOÁ XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
THỜI GIAN QUA
Cho đến kết thúc năm 1998, động thái tiến triển KNXNK Việt - Nhật
đã liên tục phát triển trong xu thế khả quan, năm sau đều tăng trưởng cao
hơn năm trước. Từ năm 1999 đến năm 2002, tình hình đặc điểm khác
trước. Đó là sự tăng trưởng không đều, khi thì chững lại, tăng không đáng
kể, thậm chí có năm đã bị suy giảm tương đối cả về quy mô kim ngạch và
tốc độ tăng trưởng, nhưng cũng có năm lại tăng trưởng rất mạnh. Đáng chú
ý, nếu như hai năm 1997-1998 là hai năm kinh tế Nhật bản vốn đã khủng
hoảng từ trước lại chịu tác động bất lợi trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài
chính khu vực, song quan hệ thương mại Việt - Nhật vẫn tiếp tục được phát
triển mạnh mẽ với sự tăng trưởng khả quan, thì đến năm 1999, với
KNXNK đạt được về phía Việt Nam là 3,262 tỷ USD đã giảm 18% so với
năm 1998. Năm tiếp theo, năm 2000 lại là năm tăng rất mạnh KNXNK
Việt - Nhật, đạt 4,871 tỷ USD, vượt 49,3% so với năm 1999. Đến năm
2001, đạt 4,724 tỷ USD bị suy giảm 3,1% so với năm 2000. Và mới đây,
năm 2002 đã đạt 4,592 tỷ USD, giảm 2,8% so với KNXNK đã đạt của năm
2001.
Việc suy giảm KNXK có nhiều nguyên nhân, trong đó một phần chính
là những tồn tại trong việc giành ưu đãi. Trước hết phải xem nguyên nhân
bên trong chính bản thân nền kinh tế Nhật.
- Trong thời kỳ suy thoái của Nhật Bản vào cuối những năm 1980 do
việc đồng yên lên giá đột nhột và sự sụp đổ của nền kinh tế “bong bóng”,
các công ty Nhật Bản phải di chuyển sản xuất ra nước ngoài, đặc biệt là di
chuyển sang các nước trong khu vực châu Á, mà chủ yếu là Đông Á (bao
gồm: Đông Á và Đông Nam Á), vì các nước này có vị trí địa lý gần với
Nhật Bản, do đó cắt giảm được chi phí và tăng được sức cạnh tranh của
hàng hoá sản xuất ra. Bối cảnh khu vực và nền kinh tế Nhật bản như vậy,
trong khi đó tại thời điểm này, Việt Nam do những hạn chế về cơ sở hạ
tầng, về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trong đó có sự yếu kém
về trình độ của lực lượng lao động và cơ chế quản lý bấy giờ, chưa thể đổi
mới kịp mặc dù từ cuối năm 1986 trở đi, Việt Nam đã bước vào thời kỳ đổi
mới. Mặt khác, cũng thời gian này do còn ảnh hưởng của áp lực cấm vận
kinh tế thương mại do Mỹ đề ra đối với Việt Nam nên các công ty Nhật
Bản chưa thể thúc đẩy nhanh việc đầu tư, di chuyển sản xuất vào Việt
Nam, và do đó trong thời gian này, và ngay cả đến giữa thập niên 90, mặc
dù làn sóng đầu tư của các công ty Nhật Bản đã bắt đầu mạnh mẽ tràn vào
Việt Nam, song họ vẫn chưa thể cho ra ngay được các sản phẩm để xuất
khẩu mà thường phải một số năm sau đó trở đi... Chính vì thế đã ảnh hưởng
đến tốc độ tăng KNXK của các công ty Nhật Bản và liên doanh Nhật - Việt
có ở Việt Nam. Trong khi đó, theo số liệu đã công bố của JETRO cho biết,
hiện nay các nước đang phát triển đã cung cấp tới hơn 50% lượng hàng
nhập khẩu vào Nhật Bản (riêng khu vực Châu Á khoảng 36%), phần nhiều
trong số này được sản xuất tại các nhà máy chuyển giao từ Nhật. Chính vì
bắt kịp với làn sóng di chuyển sản xuất này của các công ty Nhật bản nên
một số nước Đông Á, như Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia,
Philippin... Với điều kiện địa lý, trình độ phát triển sản xuất, cơ cấu hàng
xuất nhập khẩu và giá nhân công lao động tương tự hoặc cao hơn không
nhiều so với Việt Nam, nhưng hiện đã là những đối thủ cạnh tranh chính
của Việt Nam tại thị trường Nhật Bản, ngay cả đối với những mặt hàng mà
Việt Nam hiện đang có thế mạnh.
- Do tác động khách quan của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực
mà khởi đầu là Thái Lan (tháng 7/1997) sau đó lan sang một số nước Đông
Á khác từ cuối năm 1997 và kéo dài cả năm 1998 đã gây khó khăn nghiêm
trọng cho nền kinh tế Nhật Bản vốn đang còn trong suy thoái kéo dài từ đầu
thập niên 90. Tình hình đó còn gây ảnh hưởng đến khả năng chi tiêu và đầu
tư của người Nhật, làm giảm nhu cầu trong nước, do vậy xuất khẩu của các
nước, trong đó có Việt Nam sang Nhật Bản bị giảm sút. Hơn nữa, kể cả
trong hai năm 1997/1998, để khôi phục nền kinh tế, Nhật Bản vẫn tiếp tục
duy trì chính sách động yên yếu so với đồng đô la Mỹ để đẩy mạnh xuất
khẩu, song có thực tế là đồng tiền của một số nước Đông Á như Thái Lan,
Malaixia, Hàn Quốc còn bị mất giá cao hơn so với đồng yên Nhật, trong
khi đó tiền đồng Việt Nam vẫn mạnh giá hơn tiền của các nước này khiến
cho tính cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản trong
1998 đã giảm sút hơn, tình trạng lặp lại đối với năm 2002.
- Một hạn chế, bất cập khác về phía Nhật Bản là cho đến nay vẫn
chưa ký kết hiệp định thương mại với Việt Nam, chính vì thế, Nhật Bản đã
quá chậm trong việc dành cho Việt Nam các chế độ, chính sách ưu đãi
thương mại đối với hàng hoá xuất nhập khẩu giữa hai nước. Mãi đến cuối
tháng 5/1999, Nhật Bản mới dành cho Việt Nam chế độ MFN, nhưng chỉ
đối với thuế xuất nhập khẩu. Mặc dù, phía Nhật có dành cho hàng hoá của
Việt Nam chưa nhiều. Trong khi đó những năm trước đây, nhiều mặt hàng
của Việt Nam đã phải chịu thuế nhập khẩu cao hơn mức thuế mà Nhật bản
đã dành cho hàng hoá Trung Quốc và các nước ASEAN khác. Chính vì thế
đã làm hạn chế đáng kể sự tăng trưởng xuất khẩ của hàng hoá Việt Nam
vào Nhật Bản trong gần suốt cả thập niên 90 vừa qua đến bây giờ.
- Về phía Việt Nam, cho đến nay vẫn còn tồn đọng khá nhiều hạn
chế, bất cập mà chúng ta cần phải nỗ lực khắc phục khẩn trương hơn nữa.
Đương nhiên cũng có những vấn đề đòi hỏi phải có sự nỗ lực cùng giải
quyết song phương cả phía ta và phía Nhật. Dưới đây, xin đưa ra một số
hạn chế bất cập được coi là bức thiết cần giải quyết càng sớm càng tốt.
+ Trước hết, đó là vấn đề chất lượng hàng hoá xuất khẩu của Việt
Nam sang Nhật. Phải thừa nhận rằng chúng ta đã có rất nhiều cố gắng về
vấn đề này, vì thế càng ngày trong danh mục hàng xuất khẩu Việt Nam
càng có thêm những mặt hàng chiếm được uy tín cao về chất lượng. Ngày
26/1/2000, trong buổi toạ đàm với hơn 100 doanh nghiệp xuất khẩu của
Việt Nam về chủ đề “đẩy mạnh xuất khẩu hàng Việt Nam sang thị trường
Nhật Bản” do Văn phòng đại diện JETRO tại Hà Nội tổ chức, ông
Matsumoto, Cố vấn phát triển thương mại của JETRO đã có sự đánh giá về
chất lượng các sản phẩm Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản. Ông cho biết,
nếu dựa vào thang điểm từ 0 đến 100 điểm thì Việt Nam đã có một số hàng
đạt chất lượng cao như: hàng may mặc được trên 80 điểm, hàng thực phẩm
hải sản đồ ăn uống khác được xếp thứ 20 trong tổng số 120 nước; đặc biệt
tôm, mực, bạch tuộc chiếm vị trí rất tốt, đứng thứ 5, dưa chuột muối đứng
thứ 2 sau Trung Quốc; gừng muối đứng thứ 4. Các mặt hàng đã được xếp
loại trên đều được đánh giá đạt từ 70 - 80 điểm. Nhoài ra các mặt hàng thủ
công mỹ nghệ thêu ren, đặc biệt là sơn mài cũng được người Nhật Bản ưa
thích và đánh giá cao... Thế nhưng qua thực tiễn xuất khẩu sang Nhật
những năm qua, ta vẫn phải chấp nhận một thực tế là nhìn chung chất
lượng hàng hoá của ta là chưa được, còn thua kém nhiều nước trong khu
vực, đặc biệt là ngay cả chất lượng quảng cáo, thông tin trên bao bì cũng
như kỹ thuật đóng gói còn đơn điệu, kém hấp dẫn và độ dài thời gian bảo
hành sản phẩm còn chưa chuẩn xác như quảng cáo giới thiệu trên các bao
bì hàng hoá. Liên quan về vấn đề chất lượng hàng xuất khẩu Việt Nam.,
theo Giáo sư Furuta Moto và ông Hiroshi Miyauchi, chưa hẳn tất cả hàng
xuất khẩu Việt Nam ở thị trường Nhật Bản đều có chất lượng cao nhưng
chưa đều; ngoài ra một trong những nguyên nhân quan trọng khiến hàng
Việt Nam còn ít xuất hiện ở thị trường Tokyo mà chủ yếu chỉ có ở Osaka
hoặc một số tỉnh thành khác, đó là vì nhiều người Nhật Bản chưa có thói
quen tiêu dùng hàng Việt Nam, trong khi đó họ có thói quen với hàng của
Trung Quốc, Thái Lan, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc.. nhất là hàng
Trung Quốc hiện đã chiếm lĩnh phần lớn thị trường Nhật Bản. Có hai
nguyên nhân chính khiến cho ngay từ thời điểm ban đầy có mặt ở thị
trường Nhật Bản, hàng Trung Quốc đã được người Nhật Bản làm quen rất
nhanh, đó là khâu quảng cáo, giới thiệu trên vỏ bao bì và chất lượng, hình
thức bên ngoài bao bì rất đẹp và một nguyên nhân khác nữa rất quan trọng
đó là giá rẻ (rẻ hơn cả hàng Việt Nam) và đương nhiên là qua thực tế tiêu
dùng, hàng Trung Quốc đã được kiểm nghiệm đánh giá là có chất lượng
phù hợp với nhu cầu của họ.
Từ đó đặt ra, bên cạnh vấn đề chất lượng cao, Việt Nam cần chú ý
nhiều hơn nữa đến khâu thông tin, quảng cáo, tiếp thị với thị trưòng Nhật
Bản, mà trước hết là chú ý ngay đến hình thưvs mỹ thuật và chất lượng kỹ
thuật của bao bì hàng hoá và vấn đề tiết kiệm giá thành sản phẩm để giảm
giá cả ở mức hợp lý mới có thể cạnh tranh được với hàng hoá của các nước
khác. Ngoài ra vần đề giao hàng của ta cũng đã từng gây mất tín nhiệm với
các bạn hàng Nhật Bản bởi một số hạn chế như giao hàng thiếu, lẫn cả hàng
kém phẩm chất, không đúng quy cách so với yêu cầu của các nhà nhập
khẩu Nhật Bản, hay thậm chí có dị vật như các trường hợp của Xí nghiệp
86 thuộc SEAPRDEX Đà Nẵng bị khiếu nại vì giao hàng hải sản không
đúng chủng loại hay Công ty Girimex Gia Rai bị khiếu nại vì khách hàng
Nhật Bản phát hiện có đinh sắt trong tôm đông lạnh... Có một số trường
hợp sau khi ký hợp đồng buôn bán, phía Việt Nam lại đòi tăng giá, hoặc đã
ký hợp đồng rồi nhưng sau lại tự huỷ bỏ hợp đồng để bán hàng cho nhà
nhập khẩu nước khác có lợi hơn. Ngoài ra, phía Việt Nam vẫn còn để xảy
ra mất mát hàng hoá do sự sắp xếp tàu vận chuyển không hợp lý, ra vào
cảng khó khăn và kém hiệu quả trong bốc dỡ hàng...
+Biện pháp thâm nhập thị trường Nhậ Bản của ta còn quá đơn giản
và chưa chủ động. Việc thâm nhập thị trường Nhật Bản bằng hình thức tiếp
cận trực tiếp thị trường chưa được các doanh nghiệp của ta quan tâm đúng
mức, trong đó có nguyên nhân là do chi phí khảo sát thị trường rất tốn kém,
các doanh nghiệp của ta dù có muốn khảo sát trực tiếp cũng chưa thể thực
hiện được vì một thực tế là phần lớn doanh nghiệp Việt Nam còn ở quy mô
nhỏ, mới bước vào một số năm chưa có đủ tiềm lực kinh tế làm ăn lớn.
Chính vì thế cho đến nay các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa có văn
phòng đại diện tại Nhật, chưa nói đến hoạt động cao hơn như thành lập chi
nhánh bán hàng, sử dụng đại lý bán hàng, thiếp lập một hệ thống phân phối
riêng cho các doanh nghiệp trên thị trường Nhật Bản... Thực tế này dẫn đến
việc các doanh nghiệp Việt Nam không thể nắm bắt kịp thời chính xác
được như cầu hàng hoá, thị hiếu tiêu dùng cũng như các quy định về quản
lý xuất nhập khẩu của Nhật Bản... do vậy việc xuất khẩu hàng sang Nhật
Bản hoàn toàn phụ thuộc vào phía đối tác Nhật.
Năm 1997 là một ví dụ rất rõ về sự khó khăn, bất cập này đã ảnh
hưởng trực tiếp đến hàng xuất khẩu Việt Nam, đó là tác động của việc
Chính phủ Nhật Bản đã có sự thay đổi chính sách thuế tiêu dùng và thuế
nhập khẩu, do đó làm hạn chế hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật
Bản. Ngoài ra cũng cần nhắc đến một khó khăn cho ta đó là quy định kiểm
dịch của phía Nhật đối hàng xuất khẩu của ta (chủ yếu là với các hàng nông
sản và thực phẩm) là rất chặt chẽ, và thực tế cũng đã có một số lần đáng
tiếc xảy ra là do hàng hoá của ta không đủ tiêu chuẩn quy định nên đã
không xuất được, mặc dù số hàng đó đã cập vào bến cảng Nhật Bản, gây
thiệt hại lớn về kinh tế và uy tín thương mại của ta.
+Do quy mô của doanh nghiệp Việt Nam, hiện nay còn nhỏ bé, và do
phương thức thu gom hàng của ta để xuất khẩu lâu nay vẫn chưa khắc phục
hết tình trạng sản xuất nhỏ, manh mún... vì thế rất có khó khăn trong việc
đáp ứng các hợp đồng lớn, hoặc các hợp đồng đột xuất ngoài kế hoạch dự
kiến trước của phía ta, nhưng phía Nhật lại có yêu cầu. Điều này dẫn đến
một số công ty của ta không đủ khả năng cung ứng nhưng vẫn ký hợp đồng
với Nhật và kết quả là đã không thực hiện được hợp đồng, gây ra mất uy tín
cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam...
IV. Xu hướng phát triển quan hệ buôn bán giữa hai nước trong thời
gian tới
Để có thể thấy được một cách khái quát và tương đối chính xác, khách
quan về triển vọng quan hệ hợp tác thương mại Việt Nam - Nhật Bản trong
thời gian tới, chúng ta cần có sự xem xét, đánh giá đúng đắn, khách quan
về những thuận lợi, khó khăn trong quan hệ hợp tác thương mại giữa hai
nước. Từ đó thấy được tầm quan trọng của việc khai thác những ưu đãi mà
Nhật Bản dành cho Việt Nam để chiếm lĩnh thị trường đầy tiềm năng Nhật.
1. Thuận lợi
Thực tế cho thấy, Nhật Bản vẫn là bạn hàng thương mại lớn nhất của
Việt Nam và trong quan hệ hợp tác kinh tế nói chung, thương mại nói
riêng, Việt Nam vẫn còn có nhiều điều kiện tranh thủ sự hợp tác với Nhật
Bản để phát triển, bởi Nhật Bản đến nay vẫn là một nước lớn, tiềm lực kinh
tế mạnh trong khu vực Châu Á và trên thế giới. Về chính sách đối ngoại, cả
hai nước Việt Nam và Nhật Bản đều tương đồng quan điểm trong việc ưu
tiên phát triển mạnh quan hệ hợp tác hữu nghị toàn diện với nhau trên
nhiều lĩnh vực, vì lợi ích của sự phát triển mỗi nước, đồng thời góp phần
tích cực vào hoà bình, ổn định, hợp tác phát triển trong khu vực và trên thế
giới. Sự tương đồng quan điểm như vậy gần đây trong năm 2002, thông
qua các cuộc viếng thăm đối ngoại và làm việc giữa các nguyên thủ quốc
gia hai nước (Thủ tướng J.Koizumi đến Việt Nam tháng 4-2002 và Tổng bí
thư Nông Đức Mạnh đến Nhật Bản tháng 10-2002) đã tiếp tục được khẳng
định lại trong sự nhất trí hoàn toàn.
Riêng đối với Nhật Bản, trong bối cảnh đầy những diễn biến phức tạp
của khu vực và thế giới hiện nay, do những ràng buộc của Hiến pháp Hoà
bình Nhật Bản đã khiến quốc gia này không thể không lo lắng cho vấn đề
an ninh lâu dài của mình. Thực tế cho thấy mặc dù Nhật Bản vẫn rất coi
trọng Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ, song trước tình hình thế giới phát triển
theo xu hướng đa cực kể từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc đến nay, Hiệp
ước an ninh đó cũng không còn là bùa hộ mệnh tuyệt đối cho Nhật Bản
nữa. Ngoài ra, những va chạm quan hệ kinh tế thương mại Nhật - Mỹ trong
thời gian qua đôi khi trở nên gay gắt và Mỹ đã lợi dụng con bài chính trị
“Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ” để gây sức ép với Nhật đã khiến cho Nhật
tuy phải thoả hiệp, nhượng bộ Mỹ nhưng vẫn rất khó chịu. Nhật Bản vẫn
phải phụ thuộc vào Mỹ nhưng lại đang muốn vượt dần ra khỏi sự phụ thuộc
đó, đó là mâu thuẫn, là động thái phức tạp trong quan hệ liên minh Nhật -
Mỹ hiện nay, cho dù kể từ sau sự kiện 11-9-2001 đến nay, trong lĩnh vực
hợp tác chống khủng bố, Nhật vẫn luôn thể hiện là bạn đồng minh chặt chẽ
số 1 ở Châu Á của Mỹ.
Quan hệ với Mỹ như thế, còn tình hình Đông Bắc Á thì ra sao? dự bảo
thời gian tới có thể có những diễn biến an ninh đối ngoại rất phức tạp, gây
bất lợi cho Nhật Bản. Khả năng một nước Triều Tiên thống nhất có sức
mạnh về kinh tế và tiềm lực vũ khí hạt nhân, những căng thẳng trong quan
hệ Mỹ - CHDCND Triều Tiên hiện nay; Trung Quốc với sự tăng trưởng
mạnh về kinh tế và tiềm lực quốc phòng đang không ngừng gây ảnh hưởng
trong khu vực, tương lai sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh lớn của Nhật Bản;
Nga tuy còn yếu về kinh tế nhưng vẫn là cường quốc hạt nhân; CHDCND
Triều Tiên và kể cả Hàn Quốc vẫn còn có những bất đồng, trở ngại lịch sử
và cả hiện tại trong quan hệ với Nhật Bản...
Trong bối cảnh tương quan lực lượng đầy phức tạp trên đây, khiến cho
Nhật Bản không thể không nhận thức sâu sắc rằng cần phải ngày càng tích
cực hơn trong các giải pháp nỗ lực nâng cao vai trò của mình tại Châu Á
bằng các hoạt động hợp tác kinh tế, trong đó đặc biệt chú trọng đến các
nước Đông Nam Á. Sự kiện Thủ tướng Nhật Bản J.Koizumi đã thực hiện
các chuyến công du đến thăm và làm việc với các nguyên thủ quốc gia
ASEAN, trong đó có Việt Nam hồi tháng 1 và tháng 4-2002 đã khẳng định
thêm việc đề cao chính sách đối ngoại châu Á nói chung và đông Nam Á
nói riêng của Nhật Bản. Việc làm này như các nhà phân tích đã bình luận,
không ngoài mục đích nhằm nâng cao hơn nữa vị trí, vai trò cường quốc
khu vực Châu Á của Nhật Bản; ngoài ra cũng là nhằm đối phó lại sự lớn
mạnh của Trung Quốc đang cạnh tranh mạnh mẽ với Nhật Bản về nhiều
lĩnh vực, trong đó đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Việc Trung Quốc gia nhập
WTO cuối năm 2001, và cuối năm 2002 vừa qua Trung Quốc lại ký tiếp
được Hiệp định khung về tự do mậu dịch khu vực Đông Nam Á vào năm
2010 đã làm cho Nhật Bản lo ngại và càng củng cố quyết tâm nâng cao hơn
nữa vị thế của mình ở khu vực châu Á. Ý tưởng của ông Koizumi về thành
lập một khối cộng đồng Đông Á mở rộng bao gồm không chỉ ASEAN + 3
(Nhật bản, Trung Quốc, Hàn Quốc) mà có thêm cả một số nước châu Á
khác đã được dưa ra tại các cuộc gặp gỡ và làm việc giữa ông với các
nguyên thủ quốc gia ASEAN: Inđônêxia, Malaixia, Philippin, Myanma,
Thái Lan, Singapo, Việt Nam... trong năm 2002 vừa qua là sự khẳng định
rõ quyết tâm đó của Nhật Bản.
Hiện nay có đến 82% hàng hoá nhập khẩu và 78% hàng hoá xuất
khẩu của Nhật Bản là do quan hệ mậu dịch với khu vực châu Á Thái Bình
Dương. Hầu hết hàng hoá xuất nhập khẩu, đặc biệt là dầu lửa của Nhật Bản
đều đi qua khu vực biển Đông ở Thái Bình Dương, nên an ninh kinh tế
cũng như an ninh quốc phòng của Nhật Bản phụ thuộc rất lớn vào sự ổn
định ở khu vực này. Trong tình hình như vậy, Việt Nam là một nước giàu
tài nguyên nhiệt đới, có nhiều khoáng sản quý hiếm, có nguồn lao động dồi
dào giá rẻ lại nằm ở vị trí địa chính trị, kinh tế, quân sự chiến lược, cửa ngõ
án ngự các tuyến đường giao thông biển và đường bộ ở khu vực Đông Nam
Á, Tây Thái Bình Dương... đương nhiên được Nhật Bản coi trọng trong
chính sách đối ngoại châu Á. Đó là những lý do cơ bản khiến cho Nhật Bản
trong những năm gần đây mặc dù đang gặp rất nhiều khó khăn, thách thức
của các diễn biến phức tạp kinh tế, chính trị, xã hội trong nước, song vẫn
nỗ lực hợp tác phát triển kinh tế với Việt Nam về tất cả các lĩnh vực thương
mại, đầu tư và viện trợ phát triển. Từ đầu những năm 1990 cho đến nay,
Nhật Bản vẫn duy trì được vị trí là bạn hàng thương mại lớn nhất của Việt
Nam, nhà đầu tư nước ngoài đứng thứ 3 trong số hơn 70 quốc gia và vùng
lãnh thổ có FDI vào Việt Nam, với tổng số vốn đã đăng ký riêng của Nhật
Bản là hơn 4,5 tỷ USD. Cũng từ nhiều năm qua, Nhật Bản luôn là nhà tài
trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam. Quan hệ hợp tác hữu nghị toàn diện trên
nhiều lĩnh vực giữa hai nước, đặc biệt sự hợp tác thương mại Việt Nam -
Nhật Bản những năm qua với những ưu đãi mà Nhật dành cho Việt Nam rõ
ràng là đã góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế, xây dựng cơ sở
hạ tầng và công cuộc xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam.
2 . Khó khăn
Kim ngạch buôn bán hai chiều Nhật – Việt năm 2000 mới chỉ chiếm
khoảng 0,53% trong tổng kim ngạch ngoại thương của Nhật Bản. Trong khi
đó, số liệu tương ứng đối với một số nươc châu Á khác có quan hệ buôn
bán với Nhật Bản là: Trung Quốc 13,5%, hàn Quốc 8%, Malaixia 4,5%,
Singapo 4%, Inđônêxia 4%, Thái Lan 4%, Philippin 2,5%...
Trong quan hệ buôn bán với Nhật Bản nhều năm qua, hầu như Việt
Nam liên tục xuất siêu. Song xem xét kỹ, trong tổng KNXNK của Nhật
Bản, giá trị hàng hoá Việt Nam chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ, khoảng 0,6%,
trong khi đó của Trung Quốc là 14,4%, Malaixia 2,7%, Thái Lan 2,6%...
Như vậy đã thấy rõ là vị trí, vai trò của thương mại Việt Nam còn rất
nhỏ ở thị trường Nhật Bản, từ đó cho thấy Việt Nam xuất siêu liên tục
nhiều năm sang Nhật Bản chỉ là phản ánh quan hệ cơ cấu bổ sung trong
buôn bán hàng hoá với Nhật Bản, hoàn toàn không phản ánh thế mạnh của
Việt Nam là xuất siêu, ngược hẳn với quan hệ thương mại Nhật - Mỹ, thế
mạnh của Nhật là luôn xuất siêu sang Mỹ.
Nền kinh tế Nhật Bản cho đến nay đã trải qua 4 cuộc khủng hoảng nếu
tính từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trong đó có hai cuộc khủng hoảng
vì giá dầu lửa, một cuộc khủng hoảng về cơ cấu, và gần đây nhất là cuộc
khủng hoảng cả về cơ cấu và tài chính tiền tệ. Khủng hoảng kinh tế đi liền
với sự biến động bất thường khi tăng khi giảm của đồng yên, nhất là với tác
động của đồng yên lên giá mạnh so với đồng đô la Mỹ đã làm sản xuất
trong nước đình trệ, thất nghiệp gia tăng, sức mua giảm sút, đời sống nhân
dân kém đi, buộc nhiều công ty Nhật để thoát khỏi phá sản đã phải đưa một
phần cơ sở sản xuất trong nước ra bên ngoài ở các nước khu vực Châu Á,
trong đó có Việt Nam. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến
cho các nước châu Á hiện nay đã chiếm tới 36% lượng hàng xuất khẩu vào
Nhật Bản, trong đó có hàng Việt Nam. Tuy nhiên, như đã biết, do trình độ
phát triển kinh tế - kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất và kinh doanh xuất nhập
khẩu theo cơ chế thị trường của Việt Nam còn thấp so với một số nước
Châu Á khác, trong khi đó thị trường Nhật Bản lại là một thị trường rất
khắt khe, khó tính về tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh kiểm dịch... vì thế
nhìn chung hàng hoá của ta tuy đã vào được thị trường Nhật Bản song uy
tín và sức cạnh tranh còn gặp nhiều khó khăn, thậm chí phải nhượng bộ ,
thua kém các đối thủ như Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia,
Philippin... Trong điều kiện hiện nay, do khủng hoảng kinh tế kéo dài, sức
mua của thị trường Nhật càng bị giảm sút vì người dân Nhật thắt chặt hơn
nữa các nhu cầu đầu tư và chi tiêu, do đó hàng hoá của Việt Nam muốn tồn
tại và xuất hiện nhiều hơn nữa ở thị trường Nhật Bản là điều không đơn
giản, cần phải phẩn đấu cải tiến, đổi mới mẫu mã hình thức, nâng cao chất
lượng, đa dạng hoá hơn nữa các loại hàng, và nhất là có giá rẻ hơn so với
hàng của Trung Quốc và các nước châu Á khác đang có ở Nhật Bản. Đây
rõ ràng đang là một khó khăn, thách thức lớn đối với không chỉ hàng hoá
Việt Nam mà cả hàng hoá của các nước Châu Á khác khi xuất sang thị
trường Nhật, vì thực tế cho thấy thời gian gần đây, Nhật Bản cùng với các
nước ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc... đang trong tiến trình thực hiện mở
cửa tự do các hoạt động thương mại song phương và đa phương vào thị
trường của nhau. Cơ hội thuận lợi cho kinh doanh XNK hàng hoá giữa
Nhật Bản với các nước Châu Á được mở rộng song từ đó tính cạnh tranh
giữa hàng hoá các nước với nhau khi vào thị trường Nhật cũng sẽ gia tăng
Kinh nghiệm thời gian qua cho thấy, trong buôn bán với Nhật
Bản, các doanh nghiệp XNK của Việt Nam thường mắc phải 3
nhược điểm chính khi xuất khẩu hàng hoá sang thị trường này:
mạnh.
- Chưa có khả năng tiếp nhận những đơn hàng lớn từ phía bạn. Nếu
doanh nghiệp Việt Nam từ chối, không chỉ sẽ mất đơn hàng mà có khi mất
cả mối quan hệ làm ăn lâu dài
- Doanh nghiệp Việt Nam thường vi phạm điều khoản về thời hạn
giao hàng
- Nhiều hàng hoá của Việt Nam xuất sang Nhật, nhất là hàng thủ
công mỹ nghệ có chất lượng không đồng đều nên nhiều lô hàng thường bị
loại từ các địa điểm kiểm tra chất lượng hàng trước khi vào thị trường
Nhật.
Ngoài ra trong nghệ thuật kinh doanh, ta còn hay bị khó khăn, lúng
túng về cách thức bán hàng, giới thiệu hàng làm cho người Nhật không
hiểu rõ về hàng của ta. Người Nhật không giỏi tiếng anh nhưng người Việt
muốn tiếp cận thị trương Nhật thì lại không giỏi tiếng Nhật. Mặt khác chi
phí đi lại, tiền thuê gian hàng, ăn ở tại thị trường Nhật rất đắt đỏ, dễ làm
cho các doanh nghiệp Việt Nam nản lòng. Một khó khăn khác nữa trong
quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản, nhất là với Việt Nam đó là cho
đến nay, quan hệ buôn bán song phương giữa hai nước vẫn chưa được
chính thức hoá bằng một hiệp định thương mại, do đó Chính phủ Nhật vẫn
có thể đơn phương đưa ra những hạn chế hàng xuất khẩu của Việt Nam. Ví
dụ điển hình gần đây là Bộ Kinh tế thương mại và công nghiệp (METI)
Nhật Bản đã trình Chính phủ Nhật ra quyết định kéo dài việc hạn chế nhập
khẩu khăn mặt xuất khẩu của Việt Nam đợt hai từ ngày 15-4-2002 đến
ngày 15-10-2002 (đợi một là vào tháng 10-2001). Hiệp hội Công Nghiệp
khăn lau của Nhật Bản còn đề nghị Chíng phủ Nhật thi hành một số chính
sách như tăng thuế và ban hành hạn ngạch nhập khẩu khăn tắm, khăn mặt
giá rẻ từ Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên so với Trung Quốc thì khối
lượng xuất khẩu khăn mặt vào thị trường Nhật Bản hàng năm của hàng
Việt Nam chỉ bằng 1/8 -1/9 và giá cả cũng cao hơn. Hiện Việt Nam có
khoảng 10 doanh nghiệp và hàng nghìn hộ tham gia sản xuất khăn mặt để
xuất khẩu sang Nhật Bản và hàng của Việt Nam đã từng được các nhà nhập
khẩu của Nhật Bản đánh giá là có chất lượng cao. Nhiều công ty như Dệt
Minh Khai, Dệt Hà Nội đang rất lo ngại vì kể từ khi có sự việc trên thì hầu
như các công ty Việt Nam không ký được hợp đồng nào với thị trường
Để sớm giải quyết khó khăn trên đây, trong năm 2002 vừa
qua, tại các cuộc gặp gỡ giữa nguyên thủ quốc gia cùng các quan
chức cao cấp của Chính phủ hai nước (Tháng 4 tại Hà Nội: Thủ
tướng Phan Văn Khải và Thủ tướng Koizumi ; Tháng 10 tại
Tokyo: Thủ tướng Koizumi và Tổng bí thư Nông Đức Mạnh) phía
Việt Nam đã tiếp tục đưa ra đề nghị phía Nhật cùng với Việt Nam
Nhật Bản.
sớm ký kết Hiệp định thương mại song phương nhưng vẫn chưa
được phía Nhật đáp ứng. Quan điểm của Chính phủ Nhật đã thể
hiện rõ với Chính phủ Việt Nam tại cuộc gặp tháng 10-2002 là
trong thời gian tới, cụ thể là năm 2003 hai bên sẽ ký kết trước
Hiệp định song phương về bảo hộ đầu tư, sau đó mới ký Hiệp
định thương mại. Phía Nhật cũng cho biết vì khu vực nông nghiệp
của họ được bảo hộ rất mạnh và đang là một vấn đề chính trị - xã
hội phức tạp, vì yêu cầu của Việt Nam về việc Nhật Bản mở cửa
tự do thị trường nông sản, để một số hàng hoá nông sản có thế
mạnh của Việt Nam như gạo, tôm, cá và cà phê xuất nhiều hơn
nữa sang thị trường Nhật.
3. Triển vọng
Mặc dù đến nay trong quan hệ thương mại Việt - Nhật vẫn còn khó
khăn, song trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá thương mại, gần đây Nhật
Bản cũng đã có một số động thái tích cực liên minh tự do thương mại với
một số quốc gia như Singapo, Canađa, Chilê và Mehicô; và Nhật cũng
đang nỗ lực xúc tiến việc thành lập khối mậu dịch tự do với ASEAN, nhằm
mở rộng hơn nữa vai trò cường quốc kinh tế ở khu vực Châu Á. Đây là một
thay đổi lớn trong chính sách thương mại của Nhật Bản vì cho đến tận cuối
những năm 1990, Nhật Bản vẫn cứng rắn không tham gia một thoả thuận
thương mại song phương nào mà chủ yếu chỉ dựa vào các tổ chức đa
phương như Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Chính vì thế, hy vọng
rằng trước những yêu cầu mới của bối cảnh toàn cầu hoá và khu vực hoá
các hoạt động kinh tế, sự thay đổi chính sách thương mại quốc tế của Nhật
Bản đương nhiên sẽ dẫn đến trong tương lai gần, năm 2003 này, cùng với
việc tiến tới kỷ niệm trọng thể 30 năm ngày chính thức thiết lập quan hệ
ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản 23-9-1973 / 23-9-2003), sau khi hai nước
ký kết các hiệp định về đầu tư và thương mại song phương, quan hệ kinh
tế nói chung và quan hệ thương mại Việt - Nhật nói riêng sẽ càng có điều
kiện phát triển mạnh hơn nữa. Đương nhiên để đạt được sự phát triển như
vậy, về phía Việt Nam đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực thực hiện có hiệu quả
cao nhất các giải pháp cơ banr về phát triển ngoại thương Việt Nam nói
chung và thương mại Việt - Nhật nói riêng. Đó là việc không ngừng đa
dạng hoá một cơ cấu các sản phẩm xuất nhập khẩu hợp lý có hiệu quả cao
phù hợp với mục tiêu phát triển một nền kinh tế bền vững; tiếp tục đổi mới,
hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế, cơ chế quản lý ngoại thương Việt
Nam theo hướng năng động, phù hợp với thông lệ quốc tế, thị trường Nhật
Bản và lợi ích phát triển kinh tế của Việt Nam.
CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP NHẰM KHAI THÁC CÓ HIỆU QUẢ CHẾ ĐỘ
ƯU ĐÃI THUẾ QUAN PHỔ CẬP CỦA NHẬT BẢN
Cùng với sự phục hồi kinh tế các nước Đông Á sau hai năm 1997 -
1998 gặp phải khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, nền kinh tế Nhật
Bản cũng đã vượt qua được cơn suy thoái kéo dài từ đầu thập niên 90 và
bắt đầu phục hồi trở lại sự tăng trưởng tuy còn chậm chạp. Với tình hình
khả quan này, có thể dự báo triển vọng phát triển kinh tế khu vực Đông Á
trong đó có nền kinh tế Nhật Bản và Việt Nam là khá sáng sủa nếu như
ngoài sự nỗ lực phát triển của từng nước, còn có sự phối hợp đồng bộ sự
hợp tác phát triển kinh tế, trong đó có lĩnh vực thương mại. Sự hợp tác phát
triển này đương nhiên không thể tách rời khỏi những tác động cộng hưởng
của các quá trình khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra hiện nay
với một động thái phát triển tất yếu theo cả hai xu hướng: vừa hợp tác phát
triển cùng có lợi; vừa cạnh tranh khốc liệt có kẻ thắng người thua, có người
thu được lợi nhuận tối đa, có kẻ phải chịu thua thiệt, trả giá thất bại vì sự
non kém trong cuộc chơi. Chính vì thế, là nước có trình độ phát triển còn
thấp, không cân sức với trình độ phát triển cao của Nhật Bản, để tiếp tục
thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản phát triển ngày càng
mạnh mẽ, sôi động và có hiệu quả cao cao hơn trong những năm tới, chúng
ta cần phải có sự định hướng đúng đắn về một kế hoạc hợp tác, phát triển
thương mại giữa hai nước sao cho có thể khai thác, phát huy có hiệu quả
cao nhất sự phân công trao đổi các lợi thế so sánh sẵn có của mỗi nước
trong toàn bộ tiến trình chung của sự hội nhập vào nền kinh tế khu vực và
nền kinh tế thế giới. Việc hoạch định và triển khai thực thi một kế hoạch
hợp tác phát triển thương mại giữa hai nước cần có sự phối hợp tao đổi cho
nhau một cơ cấu các sản phẩm xuất nhập khẩu phù hợp với lợi ích của cả
hai bên. Phía Nhật Bản để tiếp tục phát triển nền kinh tế siêu cường của
mình họ luôn luôn các ở Việt Nam (và kể vả nhiều nước đang phát triển
khác nữa) một khối lượng nguyên liệu thô phục vụ cho sự phát triển đồng
bộ của các ngành kinh tế, mà trọng tâm vẫn là các ngành công nghiệp, bao
gồm cả những ngành công nghiệp kỹ thuật cao. Ngoài ra họ cũng luôn cần
cả một khối lượng các sản phẩm hàng hoá tiêu dùng phù hợp với chính
sách kích cầu trong nước, khuyến khích phát triển “nội nhu” trong tất cả
dân chúng Nhật Bản hiện nay và nhiều năm tới... Ngược lại về phía Việt
Nam, do còn là một nước nghèo, có trình độ phát triển kinh tế còn thấp, để
nhanh chóng thoát khỏi nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với trình độ phát
triển của các nước phát triển như nước Nhật hiện nay, chúng ta cần phải
đẩy mạnh hơn nữa quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế theo
hướng mở cửa, phát triển mạnh các ngành sản xuất để xuất khẩu, từ đó có
điều kiện phát triển mạnh các ngành sản xuất thay thế nhập khẩu một cách
hợp lý, có hiệu quả cao phù hợp với sự phân công lao động giữa các nền
kinh tế trong khu vực, trong đó có Nhật Bản và với toàn bộ nền kinh tế thế
giới. Quan hệ thương mại Nhật - Việt nhiều thuận lợi chính là tiền đề để
Nhật dành ưu đãi cho Việt Nam với hạn ngạch hấp dẫn cơ cấu mặt hàng đa
dạng và thiết thực, từ đó chúng ta có thể đẩy nhanh xuất khẩu nhờ khai thác
Khai thác có hiệu quả chế độ ưu đãi luôn là mục tiêu mà
chúng ta hướng tới. Bởi vì để có được nhưng ưu đãi mà Nhật
dành cho không phải là dễ và cũng không phải là ngẫu nhiên.
Dành ưu đãi cho Việt Nam, Nhật Bản tất nhiên cũng có lợi, tuy
nhiên đó cũng là kết quả của mối quan hệ tốt đẹp mà cả hai nước
nỗ lực trong suốt 30 năm qua.
có hiệu quả những ưu đãi này.
Nỗ lực khai thác không chỉ của riêng ai mà phải là sự nỗ lực một
cách đồng bộ giữa các chính sách ngoại giao cũng như kinh tế từ phía Nhà
nước và một phần không nhỏ là từ phía bản thân mỗi doanh nghiệp khi xuất
khẩu hàng hoá vào Nhật. Từ nhận thức như trên có hai giải pháp nhằm khai
thác có hiệu quả chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập của Nhật, bao gồm:
I. Các giải pháp ở tầm vĩ mô:
Nói đến các giải pháp ở tầm vĩ mô tức là nói đến những nỗ lực về
phía Nhà nước. Nhà nước bằng các biện pháp ngoại giao cấp quốc gia thúc
đẩy mối quan hệ Việt Nam - Nhật Bản trở nên tốt đẹp hơn từ đó chúng ta
có thêm những ưu đãi về thuế hay hạn ngạch hay đơn thuần chỉ là việc xuất
khẩu trở nên dễ dàng hơn về thủ tục; Nhà nước định hướng lâu dài về
ngành hàng hoặc định hướng về chất lượng hàng hoá “made in Việt Nam”;
Nhà nước cũng có thể hỗ trợ cho hàng xuất khẩu vào thị trường Nhật
Bản,…
1. Định hướng phát triển cơ cấu sản phẩm xuất khẩu hợp lý và có hiệu quả
cao.
Về sự định hướng phát triển một cơ cấu các sản phẩm xuất khẩu hợp
lý và có hiệu quả cao phù hợp với mục tiêu phát triển một nền kinh tế bền
vững, như đã biết, cơ cấu hàng hoá trao đổi của nước ta trong buôn bán với
Nhật Bản hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập, mặc dù nó phản ánh giai
đoạn phát triển hiện tại của nền kinh tế Việt Nam với những lợi thế so sánh
về tài nguyên và lao động. Hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là sản
phẩm thô như nguyên liệu, đặc biệt dầu thô chiếm 35% KNXK Việt –
Nhật, ngoài ra là hàng co mức độ gia công chế biến thấp là sản phẩm của
các ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động (như hàng thuỷ, hải sản
trên 19%, may mặc 21%, còn lại 25% là than, cà phê, gỗ...). Cho đến nay,
Việt Nam vẫn chưa có những hàng chế biến sâu và tinh để xuất khẩu sang
Nhật Bản.
Với cơ cấu xuất khẩu trên đây cũng phản ánh thực trạng chung của
cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam với các thị trường, bạn hàng thế giới
hiện nay. Cơ cấu này, trước mắt có thể trong giai đoạn ngắn từ 3 – 5 năm
hoặc tối đa là tới 7 năm tới còn có thể chấp nhận được, song nếu kéo dài
hơn sẽ gây bất lợi cho phía Việt Nam. Những thặng dư thương mại nhờ
xuất siêu hoặc ít nhất là sự chênh lệch cán cân thương mại Việt Nam đã giữ
được ở mức tương đối thấp như hiện nay xét thực chất không phải phản
ánh sự phồn vinh của nền kinh tế, cũng như thế mạnh trong buôn bán với
Nhật Bản nói riêng và thế giới nói chung mà nó bộc lộ tính chất kém phát
triển của một nền kinh tế sống dựa vào bán rẻ tài nguyên và lao động và
như thế Việt Nam sẽ luôn luôn thiệt thòi về giá trị xuất khẩu thu được trong
Vấn đề đặt ra là hiện tại, chúng ta phải tăng cường gia công
chế biến, với các mặt hàng thô nông lâm sản như gạo, ngũ cốc
khác, thuỷ hải sản,.. phải tiến tới sản xuất để xuất khẩu các sản
phẩm đó sau khi đã qua công nghệ chế biến thực phẩm, và do đó
sẽ thu được giá trị xuất khẩu cao hơn...
khi lại phải trả giá cao cho việc nhập khẩu các sản phẩm cao cấp bên ngoài.
Theo cách tính toán của các chuyên gia Bộ Thương mại Việt Nam, ít
nhất từ nay đến năm 2005, trọng tâm đẩy mạnh xuất khẩu vào Nhật Bản
trong những năm tới đây vẫn sẽ là các mặt hàng mà Việt Nam vốn có thế
mạnh như hàng dệt may, hải sản, giầy dép và sản phẩm da, than đá, cao su,
- Hàng dệt may hiện đang xuất khẩu được vào thị trường
Nhật Bản với kim ngạch hàng năm trên 400 triệu USD, nhưng thị
phần của Việt Nam tại Nhật Bản còn rất nhỏ bế, chỉ khoảng 2%,
so với Trung Quốc là 65%, Italia là 8% và Hàn Quốc là 6%. Thái
Lan, dù đang mất dần thị trường, cũng còn chiếm được 2,2% kim
ngạch hàng dệt may nhập khẩu của Nhật Bản. Để bắt kịp được
biến động của thị trường nhằm tăng cường xuất hàng dệt may, các
doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng hơn nữa đến cảu tiến mẫu
rau quả, thực phẩm chế biến, chè, đồ gốm sứ và sản phẩm gỗ.
mã và nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm phục vụ thị trường
đại chúng ở Nhật Bản. Mục tiêu tăng trưởng đặt ra cho ngành dệt
may là năm 2005 khoảng 1,4 - 1,5 tỷ USD.
- Hải sản của Việt Nam, nhất là tôm và mực, được thị
trường Nhật Bản đánh giá khá cao. Việt Nam hiện là một trong 4
nước hàng đầu xuất khẩu tôm và mực vào thị trường Nhật Bản.
Hơn 88% nhu cầu tôm tại Nhật Bản dựa vào nhập khẩu, và cho
đến đầu những năm 1990, Thái Lan vẫn là nguồn cung cấp chín
tôm sú cho Nhật Bản. Tuy nhiên, do ô nhiễm của vùng nuôi tôm
và việc phát triển bệnh dịch ở Thái Lan, nên nguồn cung cấp
chính chuyển sang Inđônêxia, nên các nhà nhập khẩu Nhật Bản
lại chuyển hướng sang Ấn Độ và Việt Nam. Do vậy, để duy trì
nguồn hàng và giữ được khách hàng Nhật Bản, vấn đề chất lượng
và vệ sinh thực phẩm cần phải được quan tâm hơn nữa, trong đó
vấn đề lấy xác nhận trước về chất lượng hàng hoá đóng vai trò hết
sức quan trọng, góp phần làm giảm chi phí lưu thông, nâng cao
được tính cạnh tranh. Hiện nay, kim ngạch xuất khẩu hải sản vào
Nhật Bản đạt mức 340 - 350 triệu USD/năm. Mục tiêu tăng
trưởng mặt hàng này là đến năm 2005 là 700 triệu USD.
- Kim ngạch xuất khẩu giầy dép và sản phẩm da vào thị
trường Nhật Bản còn khá khiêm tốn so với tiềm năng xuất khẩu
trên 1 tỷ USD của ngành da giầy Việt Nam. Năm 1997, Việt Nam
xuất sang Nhật Bản mặt hàng này trị giá 9.545 triệu yên (khoảng
42 triệu USD), năm 1998 là 5.071 triệu yên (khoảng 42 triệu
USD). Xu hướng nhập khẩu các mặt hàng giầy dép, đặc biệt là
giầy da, ở Nhật không ngừng tăng lên. Hiện nay, Italia là nước
đứng đầu về xuất khẩu giầy da sang Nhật Bản, chiếm 36,7% thị
phần năm 1998. Tiếp theo là Trung Quốc (15,4%) nhưng số
lượng nhập khẩu nhiều hơn Italia, và có xu hướng ngày càng tăng,
Mỹ (8,9%), Anh (6,5%), Hàn Quốc (6,3%). Việc nhập khẩu giầy
da vào Nhật Bản hiện nay vẫn phải chịu hạn ngạch về thuế quan
(thay cho hạn ngạch nhập khẩu áp dụng từ trước tháng 4 năm
1986) theo Điều 9 của Luật thuế quan Nhật Bản. Các sản phẩm
phải chịu hạn ngạch thuế quan hàng năm do Nghị định của Chính
phủ Nhật quy định, và sau đó sẽ áp dụng mức thuế thứ cấp cao
hơn đánh vào hàng nhập khẩu quá mức giới hạn đó. Đối với mặt
hàng giày da, mức ban đầu là từ 19,5% đến 27%, trong khi mức
thứ cấp là 45% hoặc 4.550 yên/đôi, lấy theo con số nào cao hơn.
Các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu giầy dép vào thị trường
Nhật Bản cần phải nắm vững những quy định này để có thể đưa
hàng vào thị trường này đúng thời điểm, tránh phải chịu mức thuế
cao, làm cho hàng hoá của Việt Nam có giá cạnh tranh hơn.
Trong xu thế nhập khẩu các mặt hàng này ở Nhật Bản ngày càng
tăng lên, nếu khắc phục được những yếu kém chủ quan như chất
lượng da, việc cung cấp phụ kiện... ngành giầy da Việt Nam có
thể đẩy mạnh được xuất khẩu vào Nhật Bản rrong thập kỷ tới, góp
phần tăng kim ngạch xuất khẩu và đa dạng hoá thị trường. Với
mục tiêu tăng trưởng trên 20%/năm, kim ngạch xuất khẩu giầy
dép và các sản phẩm da vào Nhật Bản năm 2005 là 220 - 230
triệu USD.
- Về than đá, Việt Nam là một trong bốn nước xuất khẩu
hàng đầu mặt hàng này vào Nhật Bản, luôn chiếm hơn 40% thị
phần nhập khẩu vảu Nhật Bản. Trong năm nay, số lượng xuất
khẩu than đá của Việt Nam sang Nhật Bản vẫn không giảm nhưng
kim ngạch có thể sẽ thấp hơn năm ngoái do giá than trên thị
trường thế giới giảm. Nhìn chung, vấn đề duy nhất đặt ra cho
ngành than trong thời gian tới đây là tiếp tục củng cố và giữ vững
các đầu mối tiêu thụ tại Nhật Bản.
- Cao su của Việt Nam hiện nay không thâm nhập được
nhiều vào thị trường Nhật Bản (hàng năm khoảng 3-4 ngàn tấn,
mặc dù mức thuế nhập khẩu mặt hàng này là 0%) do chủng loại
cao su của Việt Nam hiện nay chưa thích hợp với thị trường Nhật
Bản .
- Các mặt hàng rau quả, thực phẩm chế biến và chè xanh là
những mặt hàng hoàn toàn có khả năng thâm nhập và đứng vững
trên thị trường Nhật Bản. Hàng năm Nhật Bản phải nhập khẩu
hơn 3 tỷ USD rau quả nhưng Việt Nam mới bán được cho Nhật
khoảng 7 - 8 triệu USD, chiếm chưa đầy 0,3% thị phần. Trong
những năm tới, nhu cầu của Nhật Bản về các mặt hàng rau quả
vẫn không ngừng tăng lên do nội cung bị thiếu hụt vì giới hạn làm
nghề nông ngày càng già đi không có người thay thế, do việc các
siêu thị tăng cường nhập khẩu nhằm ổn định nguồn cung, do đồng
yên lên giá làm giảm giá hàng nhập khẩu.Vì vậy tiềm năng phát
triển các mặt hàng rau quả của Việt Nam là rất lớn bởi người Nhật
Bản có nhu cầu cao những loại được trồng phổ biến ở Việt Nam.
Do thực phẩm nhập khẩu vào Nhật Bản phải tuân thủ theo Luật vệ
sinh thực phẩm và phải qua các khâu kiểm tra hết sức khắt khe,
nên các doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng hợp tác với các
bạn hàng Nhật Bản nhằm không những đáp ứng đúng thị hiếu
người tiêu dùng, mà còn phải thực hiện các biện pháp đáp ứng
tiêu chuẩn vệ sinh của Nhật Bản. Mục tiêu kim ngạch đặt ra cho
hàng rau quả xuất sang Nhật Bản là 90 - 100 triệu USD năm
2005.
- Đồ gốm sứ cũng là mặt hàng có tiềm năng phát triển rất
lớn tại thị trường Nhật Bản. Nhập khẩu đồ gốm sứ của Nhật Bản
đang tăng rất mạnh trong những năm gần đây, tới khoảng 23 tỷ
yên (khoảng hơn 200 triệu USD) trong năm 1998. Về đồ gốm,
Anh là nước đứng đầu các nước xuất khẩu sang Nhật bản chiếm
43.3% kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản năm 1998, tiếp theo là
Đức (12,7%), Italia (11,3%) và Đan mạch (10,2%). Gần đây xuất
khẩu từ Trung Quốc tăng nhanh, chiếm đến 5,8% kim ngạch. Về
đồ sứ, Trung Quốc đã vượt lên dẫn đầu, chiếm 43,2% kim ngạch
nhập khẩu của Nhật Bản năm 1998, tiếp theo là Anh 916,2%),
Italia (11,7%), Thái Lan (6,1%) và Pháp (3,9%). Đồ gốm sứ của
Việt Nam xuất sang Nhật Bản còn khá ít, chỉ khoảng 5 triệu
USD/năm, trong khi thuế xuất nhập khẩu đồ gốm sứ rất thấp (từ 0
- 3%). Đây là mặt hàng Việt Nam có thể tăng được kim ngạch nếu
như các nhà sản xuất quan tâm hơn đến khẩu tạo hình, đa dạng
hoá chủng loại sản phảm và thường xuyên thay đổi mẫu mã. Các
nhà xuất khẩu cũng cần quan tâm hơn đến khâu tiếp thị, chú trọng
quan hện với các siêu thị và các nhà kinh doanh bán lẻ mới dễ đưa
hàng thâm nhập vào được thị trường.
- Về đồ gỗ, hàng năm Nhật bản nhập khẩu hơn 3 tỷ USD,
chiếm khoảng 25% thị phần, phần lớn từ các nước châu Á và Mỹ.
Các loại đồ gỗ giá rẻ nhập từ Đài Loan và các nước ASEAN như
Thái Lan, Inđônêxia và Philippin, và từ Trung Quốc những năm
gần đây, trong khi các sản phẩm giá cao được nhập từ các nước
Châu Âu và Mỹ. Đồ dùng gia đình của Việt Nam, trong đó có đồ
gỗ xuất sang Nhật Bản kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này của
Nhật Bản. Với lợi thế về nhân công rẻ và tay nghề cao trong việc
xử lý gỗ, và tận dụng được nguồn gỗ cung cấp từ Lào và
Campuchia, Việt nam trong những năm tới sẽ có khả năng tăng
nhanh được kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này. Mục tiêu đặt ra
cho mặt hàng này là 300 triệu USD năm 2005.
2. Những công việc cụ thể mà Chính phủ cần và phải làm sớm:
- Chính phủ Việt Nam cần phải thành lập thêm hoặc củng cố
hoạt động các văn phòng xúc tiến thương mại của Chính phủ
nhằm thúc đẩy hơn nữa khả năng xuất khẩu của Việt Nam
Tới nay, Việt Nam vẫn phó thác việc này cho các Tham Tán
Thương mại tại Sứ quán của mình ở nước ngoài. Tuy nhiên,
những Tham Tán Thương mại lại thường chú trọng tới các vấn đề
thương mại song phương ở cấp Chính phủ hơn hoặc chỉ đơn thuần
đưa ra những giải pháp chung chung. Bản thân các công ty kinh
doanh XNK của Việt Nam ít chịu bỏ tiền hoặc không có khả năng
bỏ tiền ra cho những chuyến đi nghiên cứu, thăm dò thị trường
hay tổ chức các cuộc hội thảo ngoài nước để khuyếch trương sản
phẩm của mình - những hoạt động mà các hãng nước ngoài đang
thực hiện rầm rộ ở Việt Nam . Chính vì vậy Việt Nam phải thành
lập văn phòng xúc tiến thương mại của Chính phủ. Đây là việc
làm cấp bách đối với Việt Nam trong tình hình hiện nay. Những
văn phòng này sẽ đứng ra tổ chức và đài thọ phần kinh phí những
chuyến đi thăm dò thị trường cho doanh nghiệp Việt Nam và các
tổ chức trưng bày sản phẩm của Việt Nam tại thị trường Nhật.
- Chính phủ Việt Nam nên tổ chức những chương trình đào
tạo chuyên sâu về thương mại cho các cán bộ lãnh đạo và chuyên
viên thương mại của các công ty Việt Nam có tham gia vào mậu
dịch quốc tế. Mục đích của đào tạo là Việt Nam để họ có thể đưa
ra những quyết định sáng suốt, hịp thời và rút ngắn đựoc thời gian
quá dài không cần thiết của các cuộc thương lượng. Chính sự
chậm trễ này làm cho nhiều cơ hội “làm ăn” bị bỏ lỡ.
3. Những giải pháp nhằm khai thác tốt thị trường Nhật Bản cho
sự phát triển tương lai nền kinh tế Việt Nam
- Chính sách công nghiệp, định hướng thị trường của Việt
Nam cần căn cứ vào sự biến đổi cơ cấu nền kinh tế Nhật Bản và
vai trò của nó trong khu vực Đông Nam Á, Châu Á - Thái Bình
Dương. Nói cụ thể hơn vẫn có một chính sách công nghiệp và
thương mại coi thị trường Nhật Bản như một trong những hướng
xuất khẩu quan trọng nhất.
- Thảo luận ở cấp Chính phủ về mở cửa thị trường, trước hết
là đối với những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam . Hiện
nay thị trường Nhật Bản vẫn được coi là thị trường có mức độ
bảo hộ cao. Sự bảo hộ này có thể là đưới các hình thức phi thuế
quan. Vì vậy những quyết định về mở cửa thị trường có một ảnh
hưởng rất lớn đến các nước khác trong khu vực.
Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn,
tạo cho họ nhanh chóng nâng cao khả năng cạnh tranh trêin thị
trường Nhật Bản . Kinh nghiệm của chính Nhật Bản và các nền
kinh tế xuất khẩu thành công như Hàn Quốc về phương diện này
là rất đáng chú ý.
- Tham gia các thể chế thương mại toàn cầu và khu vực
(WTO, APEC…) để được hưởng các quy chế tối huệ quốc và
những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển trong buôn bán
quốc tế.
II. Các giải pháp ở tầm vi mô:
Những nỗ lực của Nhà nước, của các bộ, ngành bắt nguồn từ chính
những lợi ích của các Doanh nghiệp trong nước. Nhà nước chỉ có nhiệm vụ
hướng các doanh nghiệp, chứ không có nhiệm vụ thực hiện trực tiếp hoạt
động xuất nhập khẩu. Thực hiện xuất nhập khẩu là bản thân các doanh
nghiệp, chính vì vậy mà các doanh nghiệp phải có giải pháp cho chính
mình nhằm khai thác được những ưu đãi Nhật dành cho hàng hoá Việt Nam
để đẩy nhanh lượng hàng xuất khẩu, tăng nguồn thu cho mình và cho đất
nước.
Đối với các hàng hoá được ưu chuộng có mức đàm phán nâng giá
hàng/1 đơn vị sản phẩm có thể được xác định như sau (coi giá trị tính thuế
là giá ghi trong hoá đơn thương mại)
x là mức nâng giá hàng tối đa cho phép, tính trên 1 đơn vị sản phẩm
a là giá ban đầu của 1 đơn vị sản phẩm b1 là thuế suất MFN
b2 là thuế suất ưu đãi (0 a+x là giá 1 đơn vị sản phẩm sau khi nâng giá a+ab là tổng số tiền thanh toán mua hàng và thuế nhập khẩu ưu đãi của 1 đơn vị sản phẩm (a+x) + (a+x)b1 là tổng số tiền hàng và nộp thuế nhập khẩu trong trường hợp có ưu đãi và có nâng giá hàng của 1 đơn vị sản phẩm Do đó, x cho phép là x<(a+x) + (a+x)b2 - (a+ab1) xb2< ab1 – ab2 x< a(b – b1)/b1 Phát biểu: “ Trong trường hợp hàng hoá thuộc diện được hưởng ưu đãi thuế quan của nước nhập khẩu, mức đàm phán nâng giá hàng cho phép nằm trong giai đoạn của tỷ số giữa tích của giá bán thực tế và mức ưu đãi thuế quan (chênh lệch thuế suất ưu đãi và thuế suất MFN) với thuế suất không ưu đãi” Như vậy, thuế suất ưu đãi càng thấp so với thuế suất MFN thì mức ưu đãi càng lớn và giới hạn nâng giá hàng cho phép càng lớn, cho phép doanh nghiệp xuất khẩu đàm phán nâng giá hàng lên cao hơn mà không làm ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của hàng hoá của mình so với các sản phẩm cùng loại khác không được hưởng ưu đãi. Trường hợp ưu đãi bằng 0 có nghĩa là lô hàng được miễn thuế, tổng số tiền hàng nhập khẩu mà người nhập khẩu thanh toán sẽ chỉ là tiền thanh toán cho người bán (coi các chi phí khác bằng 0). Do đó, doanh nghiệp có thể nâng giá hàng trong mức số tiền thuế mà người nhập khẩu nếu mua hàng từ một nước thứ 3 khác không được hưởng ưu đãi phải nộp. Trường hợp này, x Đó là trường hợp hàng hoá đã có chỗ đứng nhất định trên thị trường Nhật Bản, nhưng trước hết để có được điều này thì ban đầu doanh nghiệp phải thâm nhập vào thị trường Nhật Bản. Không chỉ Nhà nước ra sức đàm phán ngoại giao, ra sức kêu gọi định hướng tăng chất lượng hàng hoá,… mà bản thân chính các doanh nghiệp phải đưa ra các sản phẩm tốt mẫu mã đáp ứng nhu cầu thị trường,.. Một số giải pháp được đưa ra để các doanh nghiệp tham khảo: - Thứ nhất, cần chú trọng hoạt động nghiên cứu thị trường Nhật Bản, Đó là việc nghiên cứu tình hình luật pháp, các quy định của Nhật Bản đối với việc nhập khẩu hàng hoá, liên quan đến các thủ tục nhập khẩu, thủ tục về vệ sinh thực phẩm đối với các mặt hàng cần kiểm tra, và nộp thuế đồng thời tìm hiểu nhu cầu nhập khẩu về số lượng cũng như chủng loại. Doanh nghiệp có thể tìm hiểu vấn đề này từ các cơ quan nhà nước và các tổ chức xúc tiến thương mại, ngoài ra doanh nghiệp còn có thể khai thác từ chính đối tác nhập khẩu hàng hoá của mình. - Thứ hai, nên mở rộng các kênh thu thập thông tin Có rất nhiều kênh thông tin. Các doanh nghiệp có thể thu thập thông tin trên báo, tạp chí như là: Thời báo Kinh tế Việt Nam , Kinh tế Sài Gòn, các ấn phẩm của Bộ Thương mại như: Tạp chí Thương mại, Báo Thương mại, Vietnam Economic Time… và các tạp chí của VCCI như “Vietnam Foreign Trade” (3 tháng/kỳ), “Cơ hội kinh doanh” (1 tháng/kỳ), “Danh bạ các doanh nghiệp Việt Nam” . Nếu có thể, các doanh nghiệp nên tìm hiểu thông tin trên một số báo của Nhật Bản như Nihonkeizai, asahishinbun, vì đây là các báo do Nhật phát hành nên có thể cập nhật thông tin nhanh, chính xác về thị trường này. Ngoài các nguồn báo, tạp chí, hiện nay một hình thức hữu hiệu để tìm kiếm thông tin, đó là tìm kiếm thông tin trên mạng. Ngày nay ở Việt Nam hệ thống thông tin đã khá phát triển và việc tìm kiếm thông tin qua mạng Internet cũng trở nên khá phổ biến. Ưu điểm của việc tìm kiếm thông tin truy cập trên mạng là tiện lợi, dễ dàng truy cập, không mất thời gian đi lại để tìm kiếm thông tin, đặc biệt là tránh được sự quan liêu giấy tờ ở những nơi cung cấp thông tin. Hiện nay, Phòng Thương mại & Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã mở trang Web để cung cấp thông tin về các thị trường mà doanh nghiệp có thể tìm kiếm thông tin về thị trường Nhật Bản. Ngoài ra, các doanh nghiệp có thể tìm kiếm thông tin về thị trường Nhật Bản từ trang Web của Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO). Theo địa chỉ Web này có khá nhiều thông tin về thị trường Nhật Bản, đặc biệt là giới thiệu nhiều đến sự thay đổi xu hướng tiêu dùng của người dân Nhật Bản. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần tham khảo thêm ý kiến của các chuyên gia, cố vấn của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam hoặc của Bộ thương mại, ý kiến của họ rất có ích cho doanh nghiệp bởi họ là những người am hiểu về thị trường Nhật Bản, đặc biệt là ý kiến cố vấn của JETRO. Một vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp là làm thế nào có thể tiếp cận với hệ thống bán lẻ, để hàng hoá đến với người tiêu dùng một cách nhanh nhất mà không phải qua các đại lý bán buôn, các chợ bán buôn hay qua những công ty thương mại tổng hợp. Để làm được đIều này, thông tin về bạn hàng là vô cùng quan trọng. Các doanh nghiệp có thể liên hệ với Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam hoặc Bộ Thương mại để nhờ những cơ quan này giúp đỡ tìm kiếm bạn hàng. Các doanh nghiệp cũng cần liên hệ với JETRO để nhờ giúp đỡ. Tổ chức này đã thành lập văn phòng đại diện tại Hà Nội từ tháng 10/1993 với mục đích là hỗ trợ phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản và giúp đỡ các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng sang Nhật. Sự hỗ trợ đáng kể nhất của JETRO đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam là việc cung cấp các thông tin về khách hàng và giới thiệu sản phẩm của Việt Nam đến khách hàng Nhật Bản thông qua “Hỏi đáp thương mại Nhật Bản”. Thêm vào đó, các công ty Việt Nam muốn trực tiếp giới thiệu sản phẩm của mình cũng như muốn tìm kiếm khách hàng tiềm năng có thể truy cập “Chương trình xúc tiến quan hệ thương mại” trên trang Web của JETRO. Ngoài ra, để tìm kiếm thông tin về bạn hàng, các doanh nghiệp cần tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế, đặc biệt là các hội chợ triển lãm được tổ chức tại Nhật. Khi tham gia vào hội chợ triển lã ở Nhật Bản , các doanh nghiệp có những cái lợi sau như: Trước mắt, các doanh nghiệp có dịp tiếp xúc trực tiếp với những khách hàng tiềm năng. Cũng thông qua hội chợ nhiều hợp đồng xuất khẩu đã được ký kết, nhiều đối tác kinh doanh, bạn hàng nước ngoài đã được xác định. Sau nữa, các doanh nghiệp có thể học hỏi, thu thập các thông tin về sản phẩm cũng như các biện pháp marketing của những doanh nghiệp đang chiếm lĩnh hàng đầu trên thị trường Nhật Bản, trên cơ sở đó có chiến lược cạnh tranh sao cho có hiệu quả. Bước tiếp theo, tổ chức những cuộc hội thảo, toạ đàm trong khuôn khổ các hội chợ, triển lãm giúp các doanh nghiệp nắm bắt được thị hiếu, yêu cầu của người tiêu dùng. Tuy nhiên, trong điều kiện các doanh nghiệp của ta đang có rất nhiều khó khăn về mặt tài chính, nên việc tham gia hội chợ, triển lãm nào cần có sự lựa chọn, tính toán hiệu quả, kỹ lưỡng. Trước khi tham gia hội chợ, triển lãm ở Nhật Bản, các doanh nghiệp nên tham khảo ý kiến của các tổ chức xúc tiến thương mại của các tổ chức xúc tiến thương mại của cả hai nước như Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam hay JETRO và các Hiệp hội ngành hàng đồng thời chuẩn bị chu đáo về mẫu hàng, cách bày hàng, cataloge và tờ rơi giới thiệu sản phẩm. - Thứ ba, nâng cao chất lượng sản phẩm. +Trước hết là giải pháp về nguồn nguyên liệu, có được nguồn nguyên liệu ổn định đáp ứng được các đơn đặt hàng: giao hàng đúng thời hạn, đúng quy cách…Để tăng khả năng cạnh tranh về giá đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tìm hiểu ưu đãi mà Nhật Bản dành cho hàng hoá Việt Nam. Cố gắng tìm hiểu và xuất khẩu trực tiếp cho các doanh nghiệp của Nhật Bản có nhu cầu. +Đầu tư thêm trang thiết bị, công nghệ để gia tăng giá trị cho hàng hoá. Đa dạng thêm nhiều mặt hàng +Bao gói, bao bì đầy đủ thông tin. Mặt khác, thông tin in trên bao gói, bao bì phải in bằng tiếng Nhật làm sao phải hấp dẫn và “bắt mắt” người mua. +Nâng cao trình độ đội ngũ nhân viên làm công tác xuất khẩu và tiêu thụ sản phẩm của Việt Nam trên thị trường Nhật Bản bằng cách thường xuyên có những khoá học nâng cao trình độ chuyên môn và ngoại ngữ, có như vậy mới có thể tránh khỏi những sai lầm đáng tiếc trong đàm phán, ký kết hợp đồng. Đồng thời các doanh nghiệp cần tuyển dụng, đào tạo ra những nhân viên marketing giỏi để tìm hiểu nhu cầu thị trường , thiết kế các chiến lược marketing nhằm đẩy manh việc tiêu thụ hàng hoá trên thị thị trường Nhật Bản . +Cuối cùng, nên tận dụng tốt sự ưu đãi cũng như sự hỗ trợ của Nhà nước về vốn, thông tin và đào tạo nhằm giảm bớt gánh nặng về chi phí cho doanh nghiệp . Doanh nghiệp có tăng lượng xuất khẩu vào Nhật Bản thì những nỗ lực của Nhà nước mới trở thành hiện thực. Sự kết hợp nhuần nhuyễn, đồng bộ giữa những giải pháp mang tính vĩ mô (chính sách từ Đảng và Nhà nước) và những giải pháp mang tính vi mô (những giải pháp của bản thân mỗi doanh nghiệp) mới tạo nên hiệu quả cao nhất khi sử dụng chế độ ưu đãi GSP của Nhật Bản để hàng hoá thâm nhập vào thị trường Nhật Bản . Chúng ta thường biết đến Nhật Bản như là một nhà đầu tư lớn và một nước viện trợ ODA lớn vào Việt Nam nhưng bây giờ chúng ta cũng phải xem Nhật Bản như một thị trường tiềm năng nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá tăng thu ngoại tệ phát triển kinh tế. Quan hệ thương mại đặc biệt là quan hệ buôn bán hai chiều giữa Việt Nam và Nhật Bản, đó là mối quan hệ bổ sung lẫn nhau, nên không chỉ Việt Nam mà ngay cả Nhật Bản cũng sẽ thu được nhiều lợi ích từ mối quan hệ hợp tác này. Giành ưu tiên cho Việt Nam nằm trong khuân khổ chính sách đối ngoại của Nhật Bản khi dành ưu đãi cho các nước Đông Á. Nhật Bản có được nguồn nguyên liệu, năng lượng, các loại sản phẩm công nghiệp chế tạo và nhiều loại hàng hoá tiêu dùng khác nhau từ các nước Đông Á khác trong đó có Việt Nam, và Việt Nam sẽ thu được nguồn thu ngoại tệ để phát triển đất nước nhờ xuất khẩu hàng hoá vào Nhật Bản. Kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ Việt Nam - Nhật Bản , Nhật Bản trở thành bạn hàng lớn nhất của Việt Nam . Giờ đây, quan hệ thương mại Việt - Nhật đang chuyển sang một thời kỳ mới gắn liền với những chuyển biến kinh tế của hai nước. Triển vọng của các quan hệ này phụ thuộc vào đường lối, chính sách tạo sự lôi cuốn các doanh nghiệp Nhật Bản vào thị trường Việt Nam và những định hướng dài hạn trong chính sách thị trường, những phương sách có thể nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập thị trường Nhật Bản . Một trong những định hướng đó là hai nước đàm phán để có ưu đãi đầy đủ đối với hàng hoá xuất từ Việt Nam bên cạnh đó chính phủ cũng như bản thân mỗi doanh nghiệp khai thác có hiệu quả những ưu đãi mà Nhật Bản dành cho hàng hoá của Việt Nam, và phải kể đến chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) của Nhật Bản PHỤ LỤC Danh mục các mức thuế nhập khẩu ưu đãi đối với các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản. Mức Mức HS thuế thuế Code GSP % MFN % (1) (2) (3) (4) Chương 3 Cá và động vật giáp xác, động vật thân mềm và động vật không xương sống, sống dưới nước khác 0301 Cá sống 0301 10 -Cá cảnh Free 2,50 0305 Cá sấy khô, muối hoặc nhâm nước muối,
cá hun khói, đã hoặc chưa làm chín trước
khoặc trong quá trình hun khói; bột cá
dùng cho người
- Trứng và gan cá, khô hun khói, muối
hoặc ngâm nước muối Free 0305 20 --Cá hun khói, kể cả cá khúc 4,00 Dương, cá hồi Đại Tây Dương, cá hồi sông Đa-nuyt và cá trích 0305 49 --- Cá hun khói, trừ cá hồi Thái Bình 15% 10% ---- Trừ Tara 0306 Động vật giáp xác (tôm, cua) có mai, vở
hoặc không, sống, tươi, ướp lạnh, ướp
động, sấy khô, muối hoặc ngâm nước
muối, động vật giáp xác có maik vỏ đã hấp
chín hoặc luộc chín trong nước, đã hấp
chín hoặc luộc chín trong nước, đã hoặc
chưa ướp lạnh, ướp đông, sấy khô, muối
hoặc ngâm trong muối; bột động vật giáp xác dùng cho người
- Không ướp đông (2) (3) (4) (1) --- Cá hun khói, trừ cá hồi Thái Bình Dương, cá hồi Đại Tây Dương, cá hồi sông Đa-nuyt và cá 0305 49 trích 10% 15% ---- Trừ Tara 0306 0306 21 4,00 6,00 0306 22 4,00 6,00 Động vật giáp xác (tôm, cua) có mai, vở
hoặc không, sống, tươi, ướp lạnh, ướp
động, sấy khô, muối hoặc ngâm nước
muối, động vật giáp xác có maik vỏ đã
hấp chín hoặc luộc chín trong nước, đã
hấp chín hoặc luộc chín trong nước, đã
hoặc chưa ướp lạnh, ướp đông, sấy khô,
muối hoặc ngâm trong muối; bột động
vật giáp xác dùng cho người
- Không ướp đông
-- Tôm hùm đá và các loại tôm biển
khác (loài Palonurus)
-- Tôm hùm 0306 23 4,00 6,00 -- Tôm nhỏ và tôm Panda 0306 29 4,00 6,00 0307 -- Loại khác, kể cả bột động vật giáp
xác dùng cho người
Động vật thân mềm, có mai, vỏ hoặc
không, sống , tươi, ướp lạnh hoặc ướp
đông, sấy khô, muối hoặc ngâm nước
muối, các laok động vật không xương
sống, sống dưới nước khác, ướp đông,
sấy khô,, muối hoặc nhâm nước muối
- Bạch tuộc
-- Sống, tươi hoặc ướp lạnh 0307 51 10,00 5,00 5,00 10,00 --- Loại khác
--- Ướp đông 0307 59 0307 91 Loại khác, trừ sò, điệp, trai, mực , bạch
tuộc, ốc sên (trừ ốc sên biển)
--- Sống, tươi hoặc ướp lạnh
--- Loại khác (1) (3) (4) (2) 8,00 10,00 030791 10 ---- Sò huyết Akagai sống và sứa 0307 91 7,50 10,0 ---- Nhím biển 20 0307 99 ----- Sứa 40 ---- Động vật thân mền, động vật không xương sống, sống dưới nước khác, ở 15,00 9,00 0307 99
50 dạng khô Chương 08 Quả và hạt ăn được , vỏ quả họ chanh hoặc họ dưa 0801 Dừa, quả hạch Brazin và hạt điều, tươi hoặc khô, đã hoặc chưa bóc vỏ hoặc lột vỏ 0801 Dừa, quả hạch Brazin và hạt điều, tươi hoặc khô, đã hoặc chưa bóc vỏ hoặc lột vỏ - Dừa, tươi hoặc khô Free 10,00 0801 10 - Quả hạch Brazin, tươi hoặc khô Free 4,00 - Hạt điều, tươi hoặc khô Free Free 0801 20
0801 30 Chương 09 Cà phê, chè, chè Paragoay và các loại gia vị (2) (3) (4) (1) Cà phê, rang hoặc chưa rang, đã hoặc 0901 chưa khử chất cafein; vỏ quả và vỏ hạt cà phê; các chất thay thế cà phê có chứa cà phê theo tỷ lệ nào đó - Cà phê đã rang 0901 21 -- Chưa khử chất cafein 10,00 20,00 0901 22 -- Đã khử chất cafein 10,00 20,00 0901 40 - Các chất thay thế cà phê có chứa cà phê Free 20,00 Chè, ướp hoặc chưa ướp hương 0902 0902 30 - Chè đen (đã ủ men) và chè đen ủ men 14,00 20,00 một phần , đóng gói sẵn, trọng lượng gói không quá 3 kg 0902 40 - Chè đen khác (đã ủ men)và chè đen đã ủ men một phần khác 09024010 --Chè đen, trừ chè vụn --- Chè đen, trừ chè vụn, đóng gói với 2,50 5,00 rọng lượng không vượt quá 3 kg mỗi gói 0904 Hạt tiêu thuộc giống Pepper; các loại quả dòng Capsicum hoặc dòng Pimenta, khô, xay hoặc tán -Hạt tiêu 0904 11 -- Chưa xay và chưa tán 0904 12 --Đã xay hoặc đã tán 09041210 --- Đóng thùng để bán lẻ Free 4,20 090412 0 --- Không đóng thùng để bán lẻ Free Free 0904 20 - Các loại quả thuộc dòng Capsicum hoặc thuộc dòng Pimenta, khô, xay hoặc tán (2) (3) (4) (1) 0904 20 --- Đóng thùng để bán lẻ Free 7,00 10 --- Không đóng thùng để bán lẻ 0904 20 ---- Đã xay hoặc đã tán Free Free 90 Chương 12 Hạt cà quả có dầu; các loại quả hạt khác; cây công nghiệp, cây dược liệu; rơm, rạ và thức ăn gia súc 1211 Các loại cây và các phần của cây (cả hạt, quả) chủ yếu dùng làm nước hoa, làm dược phẩm, thuốc trừ sâu, thước tẩy uế, hoặc các mục đích tương tự, tươi hoặc khô, đã hoặc chưa cắt, nghiền hoặc xay thành bột 1211 90 - Loại khác ngoài rễ cam thảo và rễ cây nhân sâm 1211 90 -- Cây cúc trừ sâu(hoa, lá, thân, vỏ và Free 14,00 10 gốc) 1211 90 -- Loại khác Free 5,00 90 Chương 14 Vật liệu thực vật dùng để tết bện; các sản phẩm thực vật chưa được chi tiết hoặc ghi ở nơi khác (1) (2) (3) (4) 1401 Vật liệu thực vật dùng để tết bện (như: tre, song, mây, sậy, liễu giỏ, cây bấc, cọ sợi, đã rửa sạch, chuội hoặc các loại rơm nhũ cốc đã tẩy hoặc nhuộm, vỏ vây đoạn) 1401 10 -Tre 5,00 10,00 Chương 16 Các sản phẩm chế biến từ thịt, cá, động vật giáp xác hay động vật thân mềm, hoặc động vật không xương sống sống dưới nước khác 1604 Cá đã được chế biến hay bảo quản; trứng cá muối (caviar) và các sản phẩm thay thế trứng cá muối chế biến từ trứng cá - Cá, nguyên con hoặc miếng nhưng chưa băm nhỏ 7,20 9,60 1604 11 -- Từ cá hồi 7,20 9,60 1604 12 -- từ cá trích 1604 13 -- Từ cá sacdin, vá sacdin loại nhỏ, cá trích 7,20 9,60 cơm 1604 14 --Từ cá ngừ và cá ngừ bơi ngược dòng và cá ngừ Đại Tây Dương 1604 14 --- Từ cá ngừ và cá ngừ bơi khác, đóng hộp 6,40 9,60 10 (2) (1) (3) (4) 1604 14 90 --- Loại khác 7,20 9,60 1604 15 -- Từ cá thu 7,20 9,60 1604 16 -- Từ cá trồng 7,20 9,60 1604 19 -- Từ loại khác 7,20 9,60 160420 91 --- Trứng cá 160420 92 ---- Của cá Nishin, đóng hộp 9,60 12,80 1604 20 99 ---- Của cá Tara, đóng hộp --- Cá được chế biến và bảo quản khác, trừ 7,20 9,60 trứng cá 1604 30 - Trứng cá muối, sản phẩm thay thế trứng 4,80 6,40 cá muối 1605 Động vật giáp xác, động vật thân mềm và động vật không xương sống sống dưới nước khác, đã được chế biến hoặc bảo quản 1604 10 10 1605 10 - Cua 1605 10 90 -- Đóng hộp, chưa hun khói 6,50 6,50 -- Cua đã được chế biến hoặc hảo quản 7,20 9,60 1605 20 khác 1605 20 10 - Tôm con và tôm Panđan -- Tôm hun khói; luộc qua nước hoặc nước muối; ướp lạnh, ướp đông, muối, ngâm trong nước muối hoặc khô, sau khi đã luộc qua nước hoặc nước muối 1605 20 91 -- Tôm con và tôm Panđan đã được chế 6,00 6,00 biến hoặc bảo quản khác 1605 30 -- Tôm hùm (1) (2) (3) (4) 1605 30 10 -- Hun khói; luộc qua nước hoặc nước 3,20 4,80 muối; ướp lạnh, ướp đông, muối, ngâm trong nước muối hoặc khô, sau khi đã luộc qua nước hoặc nước muối 1605 30 90 -- Tôm hùm đã được chế biến hoặc bảo 6,00 6,00 quản khác 1605 40 - Động vật giáp xác khác --Ebi 3,20 4,80 1605 40 10 ---Ebi hun khói, buộc qua trong nước ngọt hoặc nước muối, ướp lạnh, ướp đông, muối, ngâm trong nước muối, hoặc sấy khô sau khi đã luộc qua nước hoặc nước muối 160540 20 --- Ebi đã được chế biến hoặc bảo quản 6,00 6,00 khác 1605 40 90 -- Động vật giáp xác khác đã được chế biến 7,20 9,60 hoặc bảo quản, trừ Ebi 1605 90 - Từ động bật thân mềm và các động vật không xương sống, sống dưới nước khác 1605 90 10 -- Hun khói --- Từ động vật thân mềm và các động bật 9,60 6,40 không xương sống, sống dưới nước khác, trừ mực, mức ống, điệp và động vật thuộc loài sò hến 1605 90 20 -- Từ loại khác 9,00 15,00 --- Mực, mực ống đóng hộp 1605 90 30 --- Sứa, hải sâm và nhím biển 8,00 12,00 1605 90 90 --- Loại khác (trừ mực, mực ống, sứa, hải 7,20 15,00 sâm và nhím biển) 1. Những điều cần biết về hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập GSP của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam 7-1996 2.Thâm nhập thị trường quốc tế qua GSP của Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam 3. Japan’s GSP (Generalized System of Preferences) - 4/2003 4. Những vấn đề Kinh tế thế giới số 9(89) 2003 5. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 301 - Tháng 6/2003 bài viết Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản thời kỳ 1997 - 2002 của Trần Anh Phương 6. Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á: số 3(45) 6-2003; số 4(46) 8-2003 7. Báo Hải quan số 52, 56, 57 8. Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản trong những năm 1990và triển vọng của Vũ Vân Hà, Nxb KHXH, Hà Nội, 2000. 9. Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản năm 2002 của Đinh Thị Hoàng Yến. Báo cáo chuyên đề, Vụ kế hoạch-Thống kê, Bộ Thương mại, Hà Nội, 2002 10. Đổi mới chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của TS Lê Thị Vân Anh 11. Một số bài báo trên mạng .KẾT LUẬN
MIÊU TẢ HÀNG HOÁ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO