BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------------- ĐOÀN LUYẾN
VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ (1960 – 1968)
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 54
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. LÊ PHỤNG HOÀNG
Thành phố Hồ Chí Minh - 2007
Đề tài Vai trò của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ ( 1960 - 1968 ) là công trình nghiên cứu và biên soạn
của tôi trong thời gian theo học lớp Cao học khoá 15, chuyên ngành Lịch sử Việt
Nam tại trường Đại học Sư phạm TP.Hồ Chí Minh.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nội dung đề tài trước Hội đồng bảo vệ luận văn .
- Mặt trận DTGPMNVN : Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
- LMCLLDTDC & HBVN: Liên minh các lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình
Việt Nam.
- MTTQVN : Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
- Tạp chí NCLS : Tạp chí Nghiên cứu lịch sử
Nhà xuất bản - Nxb :
- XHCN : Xã hội chủ nghĩa
Khoa học xã hội. - KHXH :
Quân dội nhân dân - QĐND :
- TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975) nhân dân Việt Nam phải đối đầu
với đế quốc Mỹ, một kẻ thù hung bạo và nham hiểm nhất thế giới. Muốn chiến thắng, nhân
dân Việt Nam phải tiến hành cuộc kháng chiến trên cả ba mặt trận: quân sự, chính trị và
ngoại giao.
Muốn cho cuộc đấu tranh trên cả ba mặt trận đạt được thắng lợi, một điều kiện quan
trọng là phải động viên và tập hợp lực lượng toàn dân tộc, phải xây dựng cho được Mặt trận
dân tộc thống nhất để bao vây đế quốc Mỹ xâm lược và chiến thắng chúng.
Sau năm 1954, đất nước ta tạm thời chia làm hai miền với hai nhiệm vụ khác nhau.
Nhân dân cả hai miền đều phải làm nghĩa vụ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Song ngoài
nhiệm vụ chung đó ra, mỗi miền còn làm nhiệm vụ chiến lược cách mạng riêng thích hợp
với điều kiện của mình. Miền Bắc làm cách mạng XHCN: cải tạo XHCN và xây dựng Chủ
nghĩa xã hội. Miền Nam làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, quét sạch đế quốc Mỹ
xâm lược và đánh đổ bè lũ tay sai của chúng, giành độc lập dân tộc và dân chủ nhân dân. Do
đó, mỗi miền có một mặt trận riêng, có cương lĩnh thích hợp để tranh thủ và đoàn kết các
giới đồng bào [9, tr.21]. Toàn dân Việt Nam phải triệu người như một, cùng đứng trong
Mặt trận dân tộc thống nhất, kiên trì đẩy mạnh kháng chiến, đập tan âm mưu chia cắt lâu dài
đất nước ta của đế quốc Mỹ.
Thực hiện chiến lược đại đoàn kết toàn dân của Đảng, chúng ta đã xây dựng ba tầng
Mặt trận thống nhất. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời cùng với Mặt
trận Tổ Quốc Việt Nam, nhân dân Đông Dương và nhân dân thế giới bao vây đế quốc Mỹ.
Mặt trận DTGPMNVN ra đời, cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam thực sự khởi
động một cách độc đáo và khôn khéo, thể hiện bãn lĩnh Việt Nam trong quá trình tiến hành
cuộc chiến tranh cách mạng .
Mặt trận vừa làm nhiệm vụ của một đoàn thể kêu gọi nhân dân miền Nam đứng lên
lật đổ ách gông xiềng đế quốc và tay sai, vừa làm nhiệm vụ của một chính quyền cách mạng
lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ khi ta chưa xây dựng được
chính quyền cách mạng.
Hoạt động của Mặt trận trên lĩnh vực chính trị, quân sự và ngoại giao thể hiện ý chí
tiến công của cách mạng, thể hiện quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ cách mạng là giành độc
lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Vai trò của Mặt trận DTGPMNVN trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ vô cùng to lớn.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Vai trò của Mặt trận Dân tộc
giải phóng Miền Nam Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ ” ( từ 1960 đến
1968 ) làm đề tài luận văn.
Mặt trận DTGPMNVN ra đời ngày 20-12-1960 và kết thúc ngày 4-2-1977, Mặt trận
đã cùng với nhân dân cả nước làm nên một kỳ tích trong lịch sử dân tộc: đánh thắng đế quốc
Mỹ, một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới trong thời hiện đại. Nội dung hoạt động của Mặt
trận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vô cùng phong phú, Tác giả luận văn chỉ giới hạn
nghiên cứu vai trò của Mặt trận từ 1960 đến 1968, đây là giai đoạn cả nước chống “chiến
tranh đặc biệt” và “chiến tranh cục bộ”, là giai đoạn đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh ở
Việt Nam. Nhân dân Việt Nam muốn thắng Mỹ phải đoàn kết xung quanh “ngọn cờ đoàn
kết, ngọn cờ cách mạng, ngọn cờ chiến thắng của miền Nam anh hùng”.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Mặt trận
DTGPMNVN cùng với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc,
dân chủ và hoà bình Việt Nam hợp nhất thành Mặt trận Tổ quốc Việt Nam [44]. Từ trước
đến nay đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu về Mặt trận.
Chiến tranh Việt Nam thời hiện đại là cuộc chiến tranh “nóng” lên từ “chiến tranh
lạnh”, và “vị trí của Mặt trận miền Nam trong lịch sử chưa có bao giờ như vậy”[35, tr.304].
Cho nên, hoạt động của Mặt trận DTGPMNVN trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là vô
cùng phong phú, vai trò của Mặt trận trong cuộc kháng chiến vô cùng quan trọng, cần có đề
tài chuyên sâu nghiên cứu về Mặt trận.
Thông qua văn kiện Đảng, văn kiện của các đại hội Mặt trận, các bản báo cáo chính
trị, Cương lĩnh chính trị được nhà xuất bản Sự Thật xuất bản thành các tập sách đã để lại
cho chúng ta nhiều tư liệu quý báu:
- Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Nxb Sự Thật, Hà Nội,1961.
- Đại hội Mặt trận DTGPMNVN lần thứ nhất, Nxb Sự Thật, Hà Nội,1962.
- Những văn kiện chủ yếu của Mặt trận DTGPMNVN ( Từ sau Đại hội lần thứ nhất
của Mặt trận đến tháng mười 1962 ), Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1963.
- Báo cáo chính trị tại đại hội Mặt trận DTGPMNVN lần thứ hai, Nxb Sự Thật, Hà
Nội, 1964.
- Những văn kiện chủ yếu của Mặt trận DTGPMNVN ( Từ tháng 11 -1964 đến tháng
12-1965 ) Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1966.
- Cương lĩnh chính trị của Mặt trận DTGPMNVN, Nxb Sự Thật, Hà Nội ,1967.
- Những văn kiện chủ yếu của Mặt trận DTGPMNVN ( Từ tháng 1 -1967 đến tháng 12
-1967 ), Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1967.
- Văn kiện Đảng về Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, tập II, (1945 - 1977 ), Nxb
Sự Thật, Hà Nội, 1970.
Những tập văn kiện của Đảng, văn kiện Mặt trận giúp chúng ta hiểu rõ đường lối,
chủ trương Đảng, của Mặt trận trong từng giai đoạn, cho chúng ta thấy được những cái mốc
lịch sử đánh dấu từng bước phát triển và chuyển biến của cách mạng miền Nam.
Thông qua một số sách, bài viết, hồi ký của các vị lãnh đạo tham gia Mặt trận trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cho chúng ta cái nhìn khá rõ nét về hoạt động của Mặt trận như
:
- Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành
những thắng lợi mới, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1970 và Thư vào Nam, Nxb Sự Thật, Hà Nội,
1985 của cố Tổng bí thư Lê Duẫn, người trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam thời chống
Mỹ.
- “Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam – Mấy bài học lớn” của Nguyễn
Hữu Thọ, viết trong Việt Nam trên con đường lớn bản hùng ca thế kỷ XX, Nxb Lao Động,
Hà Nội , 2005.
- Mặt trận Dân tộc Giải phóng, Chính phủ Cách mạng lâm thời tại hội nghị Pa ri về
Việt Nam do Bà Nguyễn Thị Bình chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2004 đã cho
chúng ta thấy được khá đầy đủ hoạt động ngoại giao của Mặt trận DTGPMNVN.
- Chung một bóng cờ (về Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam) do Trần
Bạch Đằng chủ biên, đây là cuốn hồi ký của những người tham gia Mặt trận trong thời
chống Mỹ ghi lại những hoạt động của Mặt trận khá toàn diện.
Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi, nhiều tác phẩm viết về quân
sự của các tướng lĩnh chỉ huy trên chiến trường miền Nam cũng cho ta nhiều sử liệu khá
phong phú như: Đại tướng Văn Tiến Dũng với Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xuất
bản năm 2005 và Thượng tướng Trần Văn Trà, Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005 cho chúng ta biết được những họat động của Quân Giải
phóng trên các chiến trường miền Nam.
Năm 1964, nhà xuất bản Khoa học, Hà Nội xuất bản cuốn Ngọn cờ chiến thắng của
miền Nam anh hùng của Nguyễn Công Bình, Cao văn Lượng và Bùi Hữu Khánh. Các tác
giả đã nêu hoàn cảnh ra đời của Mặt trận, tuyên ngôn và chương trình hành động của Mặt
trận, nêu những hoạt động của Mặt trận DTGPMNVN trong 4 năm đầu mới thành lập.
Năm 1970, trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử, tác giả Hoàng Vĩ Nam viết bài “Sự ra đời
của Mặt trận DTGPMNVN”, nội dung chủ yếu là phân tích sự ra đời của Mặt trận Dân tộc
giải phóng là một tất yếu lịch sử.
Từ 1975 đến nay, có nhiều công trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, có đề cập đến Mặt trận DTGPMNVN như:
- Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước ( 1954-1975), tập 2,3,4 của Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội , 1995,1997,1999.
- Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III, Lê Mậu Hãn chủ biên, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1998.
- Lịch sử Việt Nam (1954- 1965) và (1965-1975), Cao văn Lượng chủ biên, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội 1996, 2002.
- Tìm hiểu lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam qua các đại hội và hội nghị trung ương
(1930-2002)- PGS.TS. Nguyễn Trọng Phúc chủ biên, Nhà xuất bản Lao Động, Hà Nội
2003;
Tác phẩm viết về Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam khá sớm và
nhiều thông tin nhất là Miền Nam giữ vững thành đồng của Giáo sư Trần Văn Giàu, 5 tập,
nhà xuất bản Khoa học xã hội, xuất bản các năm 1964, 1966, 1968, 1970, 1978. Đây là một
tác phẩm Sử học, có nhiều tâm huyết của một người dân Nam Bộ, tác giả đã ghi chép khá
chi tiết, cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin về Mặt trận Dân tộc giải phóng.
Trong tập 1, chương V: Bão táp cách mạng bắt đầu, tác giả viết về tình hình miền
Nam trong thời gian 1959, 1960, chính sách đàn áp của Mỹ - Diệm, phong trào đấu tranh
của nhân dân miền Nam, chủ trương của Đảng Lao động Việt Nam và sự ra đời của Mặt
trận Dân tộc giải phóng.
Trong tập 2, chương III: Lực lượng cách mạng nhân dân, tác giả viết về hoạt động
của Mặt trận trong thời gian từ 1961 đến 1963, về vùng giải phóng, về Quân giải phóng, về
phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam từ 1961 đến 1963.
Trong tập 3, chương III: Mặt trận Dân tộc giải phóng – người đại diện chân chính
duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam, tác giả viết về vùng giải phóng, về họat động
của Mặt trận từ năm 1963 đến 1965, đặc biệt họat động đối ngoại của Mặt trận phát triển rất
mạnh trên toàn thế giới.
Trong tập 4, chương VII, Vùng giải phóng, Mặt trận Dân tộc giải phóng trong giai
đọan đầu của “chiến tranh cục bộ”, nội dung viết về họat động của Mặt trận, của vùng giải
phóng từ 1965-1967, về Đại hội bất thường của Mặt trận và Cương lĩnh của Mặt trận, về
hoạt động ngoại giao quốc tế của Mặt trận từ 1965- 1967.
Trong tập 5, chương III: Lực lượng nhân dân miền Nam được phát động đến mức
cao trong năm 1968, nội dung tác giả viết về phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân
miền Nam trong đợt Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân 1968, về cuộc vận động bầu
cử chính quyền cách mạng ở miền Nam trong năm 1968.
Năm 1977, đề tài “Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1960-1975)”
được Nguyễn Thanh Hải bảo vệ luận văn thạc sĩ Lịch sử tại trường Đại học KHXH-NV
TP.HCM. Đây là đề tài cung cấp cho chúng ta khá nhiều tư liệu về Mặt trận, là đề tài nghiên
cứu hoạt động của Mặt trận trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ nhưng chưa đi sâu
vào các hoạt động của Mặt trận DTGPMNVN, nhất là hoạt động ngoại giao, các phong trào
đấu tranh chính trị của Mặt trận… [26].
Năm 2006, Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử chính phủ đã xuất bản cuốn Biên niên lịch
sử chính phủ Việt Nam, tập 5, nội dung: Mặt trận DTGPMNVN và Chính phủ Cách mạng
lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Nội dung cuốn sách cho chúng ta cái nhìn mới về
Mặt trận Dân tộc giải phóng, về vai trò của Mặt trận trên lĩnh vực nhà nước, “Ủy ban trung
ương Mặt trận là chính phủ tiền thân của chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam” [11] đại diện cho nhân dân miền Nam trong giai đoạn 1960-1969.
Nhìn chung, các tác giả nêu trên đã quan tâm nghiên cứu đến Mặt trận Dân tộc giải
phóng. Tuy nhiên, các đề tài chỉ nghiên cứu một mặt hoạt động của Mặt trận, hoặc nghiên
cứu nhiều mặt nhưng chỉ trong một giai đoạn ngắn, hoặc coi Mặt trận là một bộ phận của
cách mạng miền Nam, các đề tài chưa chú trọng đến vai trò “Mặt trận là một chính phủ ”ở
miền Nam.
Kế thừa những thành tựu của các người đi trước, luận văn dự định nghiên cứu hoàn
cảnh ra đời của Mặt trận, hoạt động của Mặt trận trên các lĩnh vực chính trị, quân sự và
ngoại giao, đồng thời hệ thống hoá những hoạt động của Mặt trận theo từng giai đoạn lịch
sử. Qua đó rút ra vai trò của Mặt trận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giai
đoạn từ 1960 – 1968.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam là một tổ chức cách mạng có ảnh
hưởng rất lớn đến thành công của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước dưới sự lãnh đạo
của Đảng Lao động Việt Nam.
Hoạt động của Mặt trận DTGPMNVN trên cả 3 mặt trận: chính trị, quân sự và ngoại
giao đã thực sự hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ do Hội nghị trung ương
lần thứ 15 mở rộng và nghị quyết Đại hội Đảng lần III của Đảng Lao động Việt Nam đã đề
ra.
Hơn 30 năm qua, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất và bước
vào xây dựng CNXH, sức mạnh của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã được vận dụng và phát
huy trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, hiện nay nhân dân ta đang thực
hiện công cuộc Đổi mới, những bài học về toàn dân đánh giặc, những kinh nghiệm lãnh đạo
phong trào quần chúng nhân dân kiên trì và sáng tạo chống phá “ấp chiến lược”, chống
“bình định ”, những họat động của Mặt trận trên cả ba lĩnh vực: quân sự, chính trị và ngoại
giao cần được tổng kết đầy đủ.
Vai trò của Mặt trận Dân tộc giải phóng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là rất to
lớn, Mặt trận đã huy động mọi tầng lớp nhân dân giải quyết bất cứ khó khăn gì để hoàn
thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Những kinh nghiệm vận động
quần chúng của Mặt trận Dân tộc giải phóng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là những bài
học rất bổ ích cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công cuộc Đổi mới của nước ta hiện
nay.
Nghiên cứu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ là một việc làm thiết thực để giảng dạy tốt phần Lịch sử Việt Nam hiện đại.
4. ĐỐI TƯỢ NG NGHIÊN CỨU
Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ từ 1954 -1975, Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam có vai trò rất quan trọng. Thực hiện chủ trương, sách lược của Đảng
Lao động Việt Nam, Mặt trận đã tổ chức và lãnh đạo nhân dân miền Nam trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước.
Nội dung đề tài xác định đội tượng của luận văn là các họat động của Mặt trận Dân
tộc giải phóng từ 1960 đến 1968. Thông qua các họat động của Mặt trận, rút ra được vai trò
của Mặt trận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là một Mặt trận dân tộc thống nhất
của một nước thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân mới. Mặt trận đã giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc, dân chủ. Ra sức xây dựng và tăng cường Mặt trận dân tộc thống
nhất, bao gồm cả giai cấp tư sản dân tộc, tiểu tư sản thành thị, lấy liên minh công nông làm
nền tảng, tiến hành cuộc cách mạng chống đế quốc và tay sai, xây dựng nhà nước độc lập
theo chế độ dân tộc, dân chủ, tạo điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Xét về đối tượng thì Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là một bộ
phận của cách mạng Việt Nam. Mặt trận là một bộ phận của Mặt trận dân tộc thống nhất,
thực hiện đường lối đại đoàn kết toàn dân của Đảng. Hoạt động của Mặt trận có nhiệm vụ
cùng với cả nước hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, đánh đuổi ngoại xâm và
thống nhất nước nhà.
Do điều kiện đặc biệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Mặt trận vừa làm nhiệm vụ là
một chính phủ (khi miền Nam chưa có chính phủ Cách mạng lâm thời), tổ chức và lãnh đạo
cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam, vừa làm nhiệm vụ của mặt trận dân tộc thống
nhất là tập hợp, huy động tất cả các giai cấp, các tầng lớp, các tôn giáo, các dân tộc dưới sự
lãnh đạo của liên minh công nông để hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ.
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Vai trò của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ là rất phong phú, cần có một công trình chuyên khảo mới thực hiện được. Nội
dung đề tài luận văn giới hạn nghiên cứu Mặt trận từ 1960 đến 1968, trên phạm vi toàn miền
Nam. Đây là giai đọan Mỹ trực tiếp xâm lược Việt Nam với hai chiến lược “chiến tranh đặc
biệt” và “chiến tranh cục bộ”. Năm 1968 được coi là bước ngoặc của cách mạng miền Nam.
Sau Tết Mậu Thân 1968, Mỹ bắt đầu kế hoạch xuống thang chiến tranh, rút khỏi Việt Nam.
Nghiên cứu vai trò của Mặt trận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, tác giả tập trung
nghiên cứu các họat động sau đây:
Nghiên cứu các hoạt động chính trị của Mặt trận, quá trình xây dựng chính quyền,
xây dựng các đoàn thể trong Mặt trận, lãnh đạo các phong trào đấu tranh của quần chúng
trong sự nghiệp chống Mỹ của nhân dân miền Nam.
Hoạt động ngoại giao của Mặt trận trên bàn đàm phán, tham gia các diễn đàn và hội
nghị quốc tế, đấu tranh giành sự ủng hộ của nhân dân thế giới.
Vai trò của các đoàn thể Mặt trận trong công cuộc xây dựng lực lượng Giải phóng
quân miền Nam, trong việc xây dựng nguồn lực cho lực lượng dân quân du kích ở các địa
phương, trong việc xây dựng các căn cứ địa cách mạng, trong thế trận chiến tranh nhân dân.
6. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Để đạt được mục đích nghiên cứu đề tài, tác giả đặt ra 3 nhiệm vụ cơ bản:
- Nghiên cứu vai trò của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam về chính
trị: Sau Hiệp định Gơnevơ 1954, chính quyền và quân đội tập kết ra Bắc, đế quốc Mỹ đã
xây dựng một hệ thống chính quyền tay sai ở miền Nam. Mặt trận đã từng bước xây dựng
chính quyền miền Nam từ không đến có, từ “uỷ ban nhân dân tự quản” trong các “Làng
rừng”, đến uỷ ban Giải phóng, từng bước xây dựng chính quyền cách mạng, tạo điều kiện
cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam ra đời sau này. Ủy ban
Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng là chính phủ tiền thân của chính phủ Cách mạng
lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam [11]. Ủy ban Mặt trận các cấp đã xây dựng ủy ban
nhân dân cách mạng các cấp. Mặt trận đã tổ chức được các đoàn thể Thanh niên giải phóng,
Phụ nữ giải phóng, Nông dân giải phóng…,làm nòng cốt cho công cuộc vận động giải
phóng miền Nam. Các phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam dưới sự lãnh
đạo của Mặt trận đã thực sự góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước.
-Nghiên cứu hoạt động ngoại giao của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt
Nam, đặc biệt trong quan hệ ngoại giao quốc tế. Mặt trận họat động từ “ngoại giao nhân
dân” đến “ngọai giao nhà nước”. Thực hiện chủ trương xây dựng ba tầng mặt trận của Đảng,
đại đoàn kết dân tộc trong nước, đoàn kết với nhân dân Đông Dương và nhân dân thế giới
cùng chống đế quốc Mỹ xâm lược.
-Nghiên cứu vai trò của Mặt trận DTGPMNVN trong quá trình xây dựng thế trận
chiến tranh nhân dân, động viên lực lượng tham gia Quân giải phóng miền Nam, tham gia
xây dựng lực lượng dân quân du kích địa phương, xây dựng các căn cứ địa cách mạng.
Từ những hoạt động thực tiễn của Mặt trận rút ra những bài học kinh nghiệm cho việc
phát huy vai trò của Mặt trận trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện hiện
nay .
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
duy vật lịch sử làm cơ sở phương pháp luận cho đề tài .
Hai phương pháp chủ yếu sử dụng để nghiên cứu và trình bày nội dung của đề tài là
phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Phương pháp lịch sử được sử dụng để nghiên
cứu các hoạt động của Mặt trận thông qua tư liệu, báo chí, các văn kiện, nghị quyết của
Đảng, của Mặt trận, thông qua hồi ký các nhân chứng lịch sử. Phương pháp logic được sử
dụng để nghiên cứu vai trò của Mặt trận đối với cuộc chiến tranh chống Mỹ, đối với cách
mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam.
Bên cạnh hai phương pháp trên, phương pháp phân tích logic biện chứng, phương pháp
so sánh cũng được sử dụng.
Để có cái nhìn toàn diện về các họat động của Mặt trận Dân tộc giải phóng, luận văn
cố gắng trình bày các hoạt động của Mặt trận theo hai giai đoạn lịch sử: giai đoạn chống
“chiến tranh đặc biệt” và giai đoạn chống “chiến tranh cục bộ”. Trong mỗi giai đoạn, tách
riêng các lĩnh vực chính trị, quân sự và ngoại giao để có điều kiện nghiên cứu sâu.
CHƯƠNG 1. MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN
NAM VIỆT NAM RA ĐỜI
1.1.Hoàn cảnh quốc tế
1.1.1.Chiến tranh lạnh và âm mưu của Mỹ
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình quan hệ quốc tế có nhiều thay đổi. Trên thế
giới hình thành một trật tự thế giới mới: “Trật tự hai cực ”, thế giới chia thành hai phe. Tất
cả các nước trên thế giới dù lớn hay nhỏ đều bị cuốn vào cuộc “chiến tranh lạnh”.
Tháng 3- 1947, Tổng thống Mỹ, Truman đã đọc diễn văn trước Quốc hội Mỹ, chính
thức đưa ra “ Chủ thuyết Truman”. Theo Truman thì các nước Đông Âu “vừa mới bị cộng
sản thôn tính” và những đe doạ tương tự đang diễn ra trên nhiều nước khác ở châu Âu, ở
Italia, ở Pháp và cả ở nước Đức nữa. Vì vậy, Mỹ phải đứng ra “đảm nhiệm lãnh đạo thế giới
tự do ”, phải “giúp đỡ” cho các dân tộc trên thế giới chống lại “sự đe doạ ” của chủ nghĩa
cộng sản, chống lại sự “bành trướng” của nước Liên Xô, giúp đỡ bằng mọi biện pháp kinh
tế, quân sự. Tổng thống Mỹ Truman đã phát động cuộc “chiến tranh lạnh” chống Liên Xô
và các nước XHCN.
Đầu những năm 1950, do còn độc quyền nắm giữ ưu thế vũ khí hạt nhân, với tham
vọng bá chủ thế giới, đế quốc Mỹ cho ra đời chiến lược toàn cầu “Trả đủa ồ ạt “. Mục tiêu
của chiến lược là : “Dùng vũ khí hạt nhân làm chiếc ô che chắn để bảo vệ chế độ tay sai của
Mỹ, sẵn sàng đánh trả ồ ạt thẳng vào các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa, trước hết là
Liên Xô mà Mỹ coi là nguồn gốc của phong trào cách mạng và chiến tranh cách mạng trên
thế giới ”[15]. Chổ dựa cơ bản cho việc thực hiện mục tiêu chiến lược trên được xác định là
: “lực lượng quân sự Mỹ, chủ yếu là lực lượng hạt nhân chiến lược, và hệ thống liên minh
quân sự của Mỹ với các nước đồng minh, đặc biệt là tuyến căn cứ tiền tiêu ở xa nước Mỹ ”
[15].
Với 800 căn cứ quân sự được thành lập ở 35 nước và khu vực hải ngoại, Mỹ hy vọng
tạo được những bàn đạp tiếp cận để bao vây, tiến công Liên Xô và các nước XHCN khác.
Đồng thời, với hơn 2 tỷ đôla viện trợ kinh tế và 3 tỷ đôla viện trợ quân sự cho các nước
đồng minh hàng năm, Mỹ không chỉ muốn duy trì, mở rộng sự hiện diện các căn cứ quân sự
của mình ở nước ngoài, mà còn nhằm “cột chặt ” chính phủ các nước nhận viện trợ vào cổ
xe chạy đua vũ trang, tiến hành chiến tranh xâm lược của Mỹ.
Mặc dù vậy, thực tế tình hình trên thế giới lại diễn ra trái với toan tính của Mỹ.
Tháng 10 -1949 cách mạng Trung Quốc thành công. Tháng 7- 1953, Mỹ phải chấp nhận ký
hiệp định chấm dứt chiến tranh Triều Tiên. Tháng 7- 1958, cách mạng Irắc bùng nổ và
tuyên bố rút khỏi khối xâm lược Batđa, gạt bỏ chủ nghĩa Eisenhower. Tháng 1- 1959, cách
mạng Cu Ba thắng lợi. Năm 1960, 17 nước châu Phi giành được độc lập ở những mức độ
khác nhau. Cũng trong khoảng thời gian nầy, so sánh lực lượng giữa Mỹ và Liên Xô cũng
dần dần thay đổi. Liên Xô không những đã chế tạo được một số máy bay ném bom chiến
lược, máy bay chiến đấu đánh chặn phản lực tối tân, nhiều loại tên lửa phòng không hiện
đại, mà còn sản xuất được các loại tên lửa tầm gần, tầm trung. Đặc biệt, tháng 10-1957,
phóng thành công vệ tinh nhân tạo, một tháng sau đó bắn thử nghiệm thành công tên lửa
vượt đại châu. Tất cả những sự kiện trên đã “đánh đòn choáng váng, làm chấn động, hoang
mang chính giới Mỹ ” [28].
1.1.2. Âm mưu của Mỹ ở Đông Nam Á
Trong những năm 1953 – 1954 cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam bước sang
giai đoạn phản công ở khắp các chiến trường, đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ, Pháp
càng đánh càng thua. Vì thế, Pháp buộc phải tiến hành thương lượng.
Do đề nghị của Liên Xô, Hội nghị Giơnevơ về Triều Tiên và lập lại hoà bình ở Đông
Dương đã được triệu tập ngày 26-4-1954. Mỹ buộc phải đến dự hội nghị nhưng từ đầu đến
cuối đã cố tình tìm cách phá hoại hội nghị.
Sau khi thất bại trong chiến tranh Triều Tiên, Mỹ đã tăng cường can thiệp vào Đông
Dương. Âm mưu của Mỹ nhằm dần dần hất cẳng Pháp, biến các nước Đông Dương thành
thuộc địa kiểu mới của Mỹ, đàn áp các phong trào dân tộc dân chủ của nhân dân các nước
Đông Dương, lấy Đông Dương làm chổ dựa để khống chế các nước Đông Nam Á và làm
bàn đạp để tấn công Trung Quốc. Mặt khác, Mỹ còn tìm cách kéo dài và mở rộng chiến
tranh để thay thế cho chiến tranh Triều Tiên và giải quyết nguy cơ khủng hoảng đang đe doạ
nền kinh tế Mỹ.
Khi quân đội Pháp bị xiết chặt vòng vây ở Điện Biên Phủ và gặp rất nhiều khó khăn
thì Mỹ càng tích cực lợi dụng thời cơ xông vào để nắm lấy Đông Dương. Mỹ đã dùng áp lực
buộc pháp phải “trao trả độc lập” cho ba nước Đông Dương để Mỹ trực tiếp nắm lấy các
nước nầy mà không qua Pháp. Mỹ đã tích cực chuẩn bị lực lượng hải quân và không quân
trực tiếp can thiệp vào Đông Dương.
Khi quân đội Pháp gần bị thất thủ ở Điện Biên Phủ, Mỹ càng tích cực hơn nữa để
quốc tế hoá chiến tranh Đông Dương. Mỹ hứa với Pháp sẽ sử dụng các lực lượng không
quân Mỹ để “cứu nguy ”cho Điện Biên Phủ, thậm chí còn có ý định dùng bom nguyên tử
chiến thuật trong những ngày cuối cùng của chiến dịch Điện Biên Phủ.
Mặt khác, tại Hội nghị Giơnevơ, Mỹ đã tìm mọi cách phá hoại. Ngày 16-5, Ngoại
trưởng Mỹ Đa- lét bỏ hội nghị ra về. Tổng thống Mỹ Eisenhower đã chỉ thị cho Bơđin Smit
tích cực phá hoại để nhanh chóng chấm dứt hội đàm ở Giơnevơ.
Hội nghị Giơnevơ đã tiến triển ngoài ý muốn của Mỹ. Ngày 7-5-1954, chiến dịch
Điện Biên Phủ kết thúc với thắng lợi của quân đội Việt Nam. Ngày 12-6-1954, chính phủ
Lanien Biđô bị lật đổ và phái chủ hoà do Măng đét Phrăngxơ cầm đầu đứng ra lập chính
phủ mới. Ngày 21-7-1954, Hiệp nghị Giơnevơ về vấn đề Đông Dương được ký kết ( Mỹ
ngoan cố không chịu ký ). Hội nghị Giơnevơ đã kết thúc với sự thắng lợi to lớn của nhân
dân Việt Nam và nhân dân Đông Dương. Với thắng lợi nầy, miền Bắc đã được hoàn toàn
giải phóng và bắt đầu tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh thống nhất
nước nhà sau nầy.
Một ngày sau khi hiệp định Giơnevơ được ký kết, Tổng thống Mỹ Eisenhower tuyên
bố Hoa Kỳ không bị ràng buộc vào những quyết định của Hội nghị Giơnevơ.
Đối với Việt Nam, từ rất sớm Mỹ đã nhận rõ đây là một vị trí quan trọng, là tiền đồn
của phe XHCN, đồng thời là “nền tảng của thế giới tự do ở Đông Nam Á’”. Theo học
thuyết Domino, nếu “làn sóng đỏ “ tràn vào Việt Nam, quân cờ đầu tiên sụp đổ, thì các nước
Đông Nam Á đều ngã về phe của Liên Xô, vì thế Mỹ không thể bỏ rơi khu vực nầy.
Sau khi đã tăng cường viện trợ quân sự cho thực dân Pháp tới 2,6 tỷ đôla (1950 -
1954 ), nhưng không ngăn được sự thất bại của quân đội Pháp ở Đông Dương, Mỹ đã
chuyển hướng xác định: Điều cơ bản đầu tiên là vạch ra một đường ranh giới mà cộng sản
sẽ không vượt qua, rồi sau đó giữ vững vùng nầy và đấu tranh bằng cách viện trợ kinh tế và
xây dựng một lực lượng quân sự mạnh, từng bước thiết lập chủ nghĩa thực dân mới ở miền
Nam Việt Nam.
Tháng 8/1954, Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ đưa ra ba chính sách lớn:
“Kinh tế : Đẩy Pháp ra khỏi các đòn bẩy chỉ huy, thống nhất chương trình cải cách
ruộng đất và định cư dân di cư, cộng tác với Pháp nhưng “khuyến khích ” cho chuyển giao
chức năng kiểm soát về tài chính, hành chính, kinh tế cho người Việt Nam. Giao viện trợ
trực tiếp cho người Việt Nam không thông qua Pháp.
Quân sự: Chỉ cộng tác với Pháp ở mức cần thiết để xây dựng lại lực lượng quân sự
bản xứ có thể bảo đảm an ninh nội bộ.
Chính trị: Pháp phải trao quyền độc lập hoàn toàn cho Nam Việt Nam ( kể cả quyền
rút khỏi Liên hiệp Pháp ), và phải ủng hộ một chính phủ bản xứ mạnh. Diệm phải mở rộng
cơ sở chính phủ, bầu ra quốc hội, thảo hiến pháp và phế truất Bảo Đại một cách hợp pháp,
cần có sự ủng hộ của Pháp trong các chính sách nầy…
Ngày 8/9/1954, Mỹ lôi kéo các nước đồng minh Anh, Pháp, Oxtrâylia, Thái Lan,
Philippin và Pakistan ký Hiệp ước Manila ( Philippin ) thành lập Tổ chức Hiệp ước Đông
Nam Á (SEATO) đặt Việt Nam, Lào, Campuchia dưới sự bảo trợ của tổ chức nầy. Nói là
Đông Nam Á nhưng chỉ có hai nước Thái Lan và Philippin là thuộc Đông Nam Á. Thực
chất SEATO là liên minh chống cộng khu vực nằm trong hệ thống các tổ chức quân sự của
Mỹ trong thời kỳ thế giới phân chia thành hai cực, nhằm làm chỗ dựa cho Mỹ xâm lược
Việt Nam.
Ngày 24/10/1954, Eisenhower gửi thư cho Ngô Đình Diệm tuyên bố Mỹ viện trợ
kinh tế và quân sự trực tiếp, không đòi hỏi Việt Nam phải có những hành động đáp lại sự
viện trợ nầy [29].
Ngày 8/11/1954, tướng J.Lewton Collins đến Việt Nam. Ông được giao quyền lực
rộng để điều phối toàn bộ chương trình của Mỹ. Sau đó ngày 17/11/1954, ông được cử làm
đại sứ ở Sài Gòn.
Tướng Collins đề ra kế hoạch sáu điểm [75, tr.53] nhằm thay chân Pháp, phá hiệp định
Giơnevơ và biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ:
- Bảo trợ chính quyền Diệm, viện trợ trực tiếp cho chính phủ Sài Gòn.
- Xây dựng “Quân đội quốc gia Việt Nam ”gồm 15 vạn do Mỹ huấn luyện và trang bị.
- Bầu cử quốc hội, hợp pháp hoá chính quyền Sài Gòn.
- Định cư cho số Công giáo miền Bắc di cư và vạch kế hoạch cải cách điền địa.
- Thay đổi chế độ thuế khoá, dành ưu tiên cho hàng Mỹ vào miền Nam.
- Đào tạo cán bộ hành chính.
Pháp muốn duy trì ảnh hưởng của mình ở Việt Nam và Đông Dương thì cần phải có
sự viện trợ của Mỹ, trong khi Mỹ lại có tham vọng là thay thế Pháp, nắm lấy Nam Việt Nam
với chiêu bài ngăn chặn phong trào cộng sản phát triển xuống cả Đông Nam Á. Trong khi
đó, tình thế nước Pháp ở chính quốc nền kinh tế kiệt quệ , chính trị rối ren, nội bộ chia rẽ,
lại phải đối phó với cuộc chiến tranh giành độc lập của nhân dân Angiêry. Chính phủ Pháp
đành phải nhượng bộ Mỹ, rút quân khỏi Việt Nam .
Ngày 13/12/1954 tướng Ê-ly ( Paul Ely ), tổng tư lệnh quân viễn chinh Pháp thoả
thuận với tướng Collins trao lại quyền tự trị hoàn toàn cho “Quân đội quốc gia ” vào tháng
5/1955 để Mỹ huấn luyện và xây dựng lại theo phương hướng của Mỹ. Cùng thời gian đó,
Pháp ký với Ngô Đình Diệm trao trả chủ quyền hoàn toàn cho Diệm. Từ đó, Diệm tuyên bố
xoá bỏ luôn các hiệp định về kinh tế, tài chính đã ký với Pháp trước đó, buộc Pháp phải giao
ngân hàng hối đoái và tiền tệ cho Diệm, từ bỏ mọi đặc quyền ưu tiên, chuyển giao khu vực
đồng Phơ- răng sang đồng Đô-la .
Ngày 2/6/1955, Mỹ đã cho triển khai Phái bộ trang bị và cung cấp TERM
(Temporary equipment recovery mission) tại miền Nam khi Pháp chưa rút hết quân.
Cuối tháng 4/1956, đơn vị cuối cùng của quân đội Pháp rút khỏi miền Nam Việt Nam .
Ngày 14/05/1956, Pháp gởi cho hai đồng chủ tịch Hội nghị Giơnevơ là Liên Xô và
Anh thông báo quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam và kể từ ngày 24/08/1956 nước Pháp
không còn trách nhiệm thực hiện Hiệp định Giơnevơ nữa. Pháp đã rũ bỏ trách nhiệm của
một bên phải thực hiện các điều khoản của Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương [29, tr.295-
296].
Phái bộ huấn luyện quân sự hỗn hợp về danh nghĩa của Pháp-Mỹ (TRIM ) trước đây
chuyển thành Phái bộ huấn luyện tác chiến lục quân CATO ( Combat army training
organisation ) gồm toàn người Mỹ. Cả hai tổ chức CATO và TERM đều đặt dưới quyền chỉ
huy của Phái đoàn Cố vấn và viện trợ quân sự MAAG (Military Assistance and Advisory
Group ). Từ đây MAAG chi phối mọi hoạt động quân sự của ngụy. Về sau MAAG đổi
thành Bộ chỉ huy viện trợ quân sự ở Việt Nam MACV ( Military Assistance Command in
Vietnam ) [70].
1.2.Hoàn cảnh trong nước
1.2.1. Miền Bắc sau Hiệp định Giơnevơ
Sau khi Liên hiệp Pháp rút khỏi Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng và ta hoàn thành
chuyển quân tập kết, miền Bắc Việt Nam với thủ đô là Hà Nội thuộc quyền quản lý của
chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Miền Bắc trở thành hậu phương cho cuộc đấu
tranh của nhân dân ta ở tiền tuyền miền Nam. Không có hậu phương vững mạnh thì tiền
tuyến không thể chiến thắng kẻ thù. Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch ngay từ đầu đã xác
định miền Bắc là nền tảng của cuộc đấu tranh của cả nước. Hội nghị Trung ương Đảng lần
thứ 8 ( khoá II) đã chỉ rõ:”điều cốt yếu là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững
và đẩy mạnh cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân miền Nam”. Vì vậy, miền Bắc đã tiến
hành nhiều kế hoạch củng cố và xây dựng kinh tế, quốc phòng [75].
- Hoàn thành cải cách ruộng đất- Khôi phục kinh tế (1955- 1957).
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 mở rộng đã quyết nghị: “Để củng cố miền Bắc,
trước hết cần hoàn thành cải cách ruộng đất… vì có đẩy mạnh cải cách ruộng đất mới đoàn
kết được đại đa số nhân dân, củng cố được liên minh công nông, củng cố vai trò lãnh đạo
của Đảng, mới có thể khôi phục kinh tế một cách nhanh chóng và có thêm điều kiện tăng
cường quân đội nhân dân, củng cố quốc phòng…”
Công cuộc cải cách ruộng đất được tiến hành 5 đợt, tiến hành trong hơn 3.000 xã
thuộc 22 tỉnh. Hàng vạn cán bộ, bộ đội được huy động về nông thôn tham gia các đoàn, đội
vận động quần chúng tiến hành cải cách ruộng đất.
Nhà nước tập trung nguồn vốn, huy động lực lượng khôi phục đê điều, sửa chữa và
làm mới các công trình thuỷ lợi, tu bổ hơn 3.000 km đê diều bị phá hoại trong chiến tranh,
xây dựng một số công trình tưới tiêu, đào mương, khơi ngòi, khai hoang, phục hoá .
Được sự khuyến khích, giúp đỡ của nhà nước và nhờ sức sản xuất được giải phóng
khỏi quan hệ sản xuất cũ, nông nghiệp miền Bắc trong 3 năm ( 1955- 1957) đã được khôi
phục và có bước phát triển về cả diện tích và năng suất, cả trồng trọt, chăn nuôi và nghề
phụ. Sau ba năm, nông thôn miền Bắc đã được hồi sinh, khởi sắc.
Về công nghiệp, hầu hết các nhà máy ở miền Bắc đều bị địch phá hủy hoặc mang đi.
Đảng và nhà nước đã nhanh chóng khôi phục các cơ sở sản xuất, tập trung xây dựng một số
ngành phục vụ dân sinh như sản xuất vải, giấy, xà phòng…Xây dựng và mở rộng các cơ sở
sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ nhu cầu thiết yếu đời sống của nhân dân như nhà máy chè
Phú Thọ, diêm Thống Nhất, thuốc lá Thăng Long…Các nước xã hội chủ nghĩa như Liên
Xô, Trung Quốc đã tích cực giúp đỡ vốn, kĩ thuật, chuyên gia.
Kết quả, có nhiều nhà máy, xí nghiệp được xây mới, tổng sản lượng công- nông
nghiệp 1,5% năm 1954 lên 24 % năm 1957. Sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp năm
1957 đạt mức năm 1939.
- Cải tạo và phát triển kinh tế- văn hoá (1958- 1960).
Tháng 4-1958 trong kỳ họp Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: miền Bắc nước
ta từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang cách mạng XHCN. Nhiệm vụ trước
mắt của toàn dân ta là ra sức xây dựng và củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên xây
dựng CNXH, đồng thời đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, nhằm xây dựng nước Việt
Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Tháng 11-1958, Hội nghị lần thứ 14 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá II)
quyết định động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trên miền Bắc tiến hành 3 năm cải tạo
và bước đầu phát triển kinh tế, phát triển văn hoá (1958- 1960) với 3 nhiệm vụ cơ bản:
Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, lấy sản xuất nông nghiệp
làm khâu chính, chủ yếu nhằm giải quyết vấn đề lương thực, đồng thời rất chú trọng sản
xuất công nghiệp, hết sức tăng thêm các tư liệu sản xuất và giải quyết phần lớn hàng tiêu
dùng.
Ra sức cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh
theo CNXH, khâu chính là đẩy mạnh hợp tác hoá nông nghiệp, đồng thời tích cực phát triển
và củng cố thành phần kinh tế quốc doanh. Trên cơ sở sản xuất phát triển, nâng cao thêm
một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, nhất là nhân dân lao động và tăng
cường củng cố quốc phòng.
Để cải tạo phát triển nông nghiệp, Đảng và nhà nước chủ trương tiến hành cuộc vận
động hợp tác hoá nông nghiệp, coi đó là con đường đưa nông dân miền Bắc đến ấm no hạnh
phúc. Nội dung cuộc vận động gồm ba mặt: cải tạo quan hệ sản xuất, cải tiến kỹ thuật, giáo
dục tư tưởng. Nguyên tắc xây dựng hợp tác xã là : tự nguyện, cùng có lợi, quản lý dân chủ.
Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách để hỗ trợ cho nông dân và tạo điều kiện cho
hợp tác xã phát huy tính hơn hẳn so với sản xuất cá thể như: chính sách tín dụng góp vốn
cho hợp tác xã phát triển sản xuất, chính sách mậu dịch ưu tiên mua hàng, bán hàng cho hợp
tác xã, chính sách thuế nông nghiệp đối với hợp tác xã, chính sách khuyến khích hợp tác xã
phát triển nghề phụ …
Với sự nổ lực của toàn Đảng, toàn dân việc cải tạo nông nghiệp tiến hành thuận lợi.
Đến tháng 11-1960, hợp tác xã hình thành hầu khắp nông thôn miền Bắc với 41.401 hợp tác
xã chiếm 86% tổng số hộ và 76% diện tích đất canh tác .
Bên cạnh hợp tác xã, nhà nước tiếp thu các đồn điền của thực dân Pháp và những
Việt gian bỏ lại, thành lập 15 nông trường quốc doanh, quân đội thực hiện nhiệm vụ khai
hoang thành lập được 29 nông trường quân đội, cán bộ miền Nam tập kết tổ chức 10 liên
đoàn sản xuất nông nghiệp. Phần lớn các nông trường phân bố trên những khu vực kết hợp
được cả kinh tế và quốc phòng.
Cuối năm 1960, hợp tác hoá căn bản hoàn thành tạo điều kiện cho sản xuất nông
nghiệp phát triển, tổng sản lượng lương thực đạt mức 6 triệu tấn, giá trị sản lượng nông
nghiệp hàng năm tăng bình quân 5,6%, góp phần vào công cuộc kiến thiết miền Bắc và sẵn
sàng chi viện nhân tài, vật lực cho sự nghiệp giải phóng miền Nam.
Sau 3 năm cải tạo và phát triển kinh tế, nền công nghiệp non trẻ ở miền Bắc đã có
bước phát triển về nhiều mặt. Giá trị sản lượng công nghiệp trong tổng giá trị kinh tế quốc
dân tăng từ 31,4% năm 1957 lên 41% năm 1960, tỷ trọng công nghiệp sản xuất tư liệu sản
xuất 23,5% tăng lên 32,5%, công nghiệp hiện đại từ 12,8% lên 23,7%. Đặc biệt thời kỳ nầy
công nghiệp quốc doanh tăng mạnh, từ 67% lên 90% ( không kể tiểu thủ công nghiệp)
thực sự giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, cung cấp cho đất nước một khối
lượng sản phẩm quan trọng, trong đó có những sản phẩm trước đây phải nhập từ nước ngoài
với giá đắt.
Hoạt động tài chính, ngân hàng, ngoại thương do nhà nước độc quyền quản lý, điều
hành đã phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng miền Bắc.
Hệ thống giáo dục hình thành trong ba năm khôi phục kinh tế, đến đây được củng cố,
phát triển, bao gồm các nhà trường phổ thông (3 cấp), các trường bổ túc công nông, các
trường đại học, trung học chuyên nghiệp đưa tổng số trường đại học miền Bắc lên 8 trường
với 50 ngành học.
Trên nền tảng của những biến đổi trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục,
miền Bắc tập trung xây dựng nền văn hoá mới, con người mới. Nền văn hoá kết hợp giữa
truyền thống và hiện đại đang từng bước hình thành. Đó là nền văn hoá yêu nước, yêu nhân
dân lao động, yêu đồng chí, đồng bào, yêu thương miền Nam đang chịu nhiều thương đau,
lòng căm thù giặc.
Mạng lưới y tế bảo vệ sức khoẻ nhân dân phát triển nhanh chóng, hình thành rộng
khắp. Đến năm 1960, toàn miền Bắc đã có 263 bệnh viện, 3.000 trạm y tế, nhà hộ sinh. Các
dịch bệnh được tích cực phòng trừ, phong trào thể dục thể thao phát triển mạnh trong các
trường học, các đơn vị quân đội góp phần nâng cao sức khoẻ và ý thức quốc phòng trong
nhân dân.
- Củng cố chính quyền- Xây dựng quân đội.
Để củng cố chính quyền, việc nâng cao sức mạnh và khả năng lãnh đạo của Đảng có
ý nghĩa quyết định. Đảng đặc biệt coi trọng việc xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức. Về
tư tưởng thời kỳ nầy Đảng coi trọng công tác lý luận. Về tổ chức coi trọng việc chỉnh đốn tổ
chức Đảng, kiện toàn bộ máy lãnh đạo của Đảng, tích cực sửa đổi lề lối làm việc và phương
pháp lãnh đạo, đi sát thực tế, gắn bó mật thiết với nhân dân, đẩy mạnh phê bình và tự phê
bình, mở rộng dân chủ nội bộ. Hội nghị lần thứ 7 của Trung ương Đảng ( khoá II ) chủ
trương: “Mạnh dạn cất nhắc cán bộ, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ công, nông một cách
thường xuyên trong công tác hàng ngày; lựa chọn cán bộ cho thích hợp với từng công tác,
tập trung lực lượng, bố trí cán bộ để đảm bảo thực hiện chu đáo những công tác chính trị.
Thực hiện về thống nhất quản lý cán bộ. Cần lập Ban Kiểm tra Trung ương, và ngành nào
cũng phải tổ chức việc kiểm tra của mình để kiểm tra một cách có trọng điểm việc thi hành
những chính sách của Đảng và chính phủ”.
Đảng lựa chọn và bổ nhiệm các Đảng viên vào các chức vụ quan trọng của bộ máy
Nhà nước và các cấp chính quyền. Đảng thông qua các tổ chức đảng đoàn ở Hội đồng Chính
phủ và các cơ quan, bộ máy khác của Nhà nước, của Mặt trận để thực hiện sự lãnh đạo của
mình. Chuyển sang thời bình, đòi hỏi đội ngũ cán bộ của Đảng phải nâng cao năng lực lãnh
đạo về kinh tế. Do đó các cấp uỷ viên các cấp và cán bộ của Đảng được học tập chính sách
kinh tế, tài chính và nghiệp vụ ở trong và ngoài nước.
Các Uỷ ban kháng chiến- hành chính trong kháng chiến từ tháng 9-1954 được đổi
thành Uỷ ban hành chính. Hệ thống chính quyền địa phương các cấp được chỉnh đốn một
bước trong những năm đầu hoà bình lập lại. Từ tháng 7-1957, các địa phương ở miền Bắc
tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp và sau đó cử ra Uỷ ban hành chính các cấp.
Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất toàn quốc họp từ ngày 5 đến ngày 15-9-1955 tại
Hà Nội quyết định thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đại hội đã bầu ra Uỷ ban Trung
ương do đồng chí Tôn Đức Thắng làm chủ tịch, Đại hội thông qua Tuyên ngôn và Cương
lĩnh Mặt trận thể hiện nguyện vọng, ý chí của mọi người Việt Nam yêu nước là đại đoàn kết
để hoàn thành sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ và giàu mạnh.
Ngày 1-1-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thi hành Hiến pháp mới. Tháng 5-
1960, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá II được tiến hành trên toàn miền Bắc, các đại
biểu miền Nam trong Quốc hội khoá I được lưu nhiệm.
Kỳ họp Quốc hội khoá II đã bầu Chủ tịch nước, Phó chủ tịch nước, Chủ tịch Uỷ ban
thường vụ Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân
dân tối cao…
Về xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9-1954
đã chỉ rõ: Quân đội nhân dân là cột trụ chủ yếu nhất, chắc chắn nhất để bảo vệ Tổ quốc, bảo
vệ hoà bình. Vì vậy phải xây dựng Quân đội nhân dân thành một đội quân cách mạng, chính
quy, tương đối hiện đại.
Những năm kháng chiến, bộ đội ta phân tán, chiến đấu trên các chiến trường nên biên
chế, tổ chức, trang bị, điều lệnh của bộ đội thiếu thống nhất. Vì vậy, trong khi toàn Đảng
toàn dân ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, từng bước ổn định tình hình, giúp nhân dân
địa phương tháo gỡ bom mìn, phục hồi sản xuất, quân đội gấp rút chấn chỉnh mọi mặt.
Các đại đoàn trong kháng chiến đổi thành các sư đoàn bộ binh. Bộ đội miền Nam tập
kết, bộ đội tình nguyện ở Lào và Campuchia và một số đơn vị chủ lực khu, bộ đội địa
phương tỉnh, huyện trên miền Bắc biên chế thành 8 sư đoàn và 5 trung đoàn bộ binh. Lực
lượng pháo binh biên chế thành 3 sư đoàn, lực lượng phòng không biên chế thành một sư
đoàn cao xạ. Các đơn vị chủ lực địa phương ven biển xây dựng thành 5 trung đoàn, 1 tiểu
đoàn phòng thủ ven biển. Bộ đội địa phương các tỉnh biên giới chuyển thành các tiểu đoàn
bộ đội biên phòng. Bộ đội địa phương các tỉnh Quảng Bình, Hà Tỉnh, Ninh Bình, Bắc
Giang, Thái Nguyên,Tuyên Quang, Hải Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai
Châu biên chế thành 10 tiểu đoàn. 7 đại đội và 15 trung đội làm nhiệm vụ bảo vệ nội địa.
Tháng 3-1958, Bộ Quốc phòng quyết định thống nhất tổ chức biên chế, trang bị của
lục quân và các đơn vị không quân, hải quân.
Bên cạnh bộ binh, các binh chủng pháo binh, phòng không, công binh, thông tin, vận
tải, phòng hoá được biên chế thành các lữ đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn và đại đội.
Ngày 31-12-1959, Quốc hội chính thức thông qua Luật Nghĩa vụ quân sự thay cho
chế độ tòng quân tình nguyện trước đó.
Như vậy, trong gần sáu năm xây dựng, khắc phục những khó khăn, nhân dân miền
Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã khôi
phục kinh tế, cải tạo XHCN đối với công nghiệp và nông nghiệp đưa miền Bắc phát triển
một bước quan trọng. Kinh tế ổn định, đời sống văn hoá được nâng cao, Quân đội nhân dân
được củng cố vững chắc. Miền Bắc đã trở thành căn cứ địa vững mạnh của cả nước, chổ dựa
vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng ở miền Nam [27],[40],[48].
1.2.2.Chính sách áp bức của chế độ Mỹ- Diệm
Ngày 7-7-1954, trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Mỹ đưa Ngô Đình Diệm
về nước và buộc Pháp đặt làm Thủ tướng thay cho Bửu Lộc vốn là tay sai của Pháp.
Thực hiện Hiệp định Giơnevơ, quân đội và chính quyền ta chuyển quân ra phía Bắc
vĩ tuyến 17, lực lượng Liên hiệp Pháp chuyển vào phía Nam vĩ tuyến 17. Lợi dụng cơ hội
nầy Mỹ tiến hành thay chân Pháp, biến miền Nam Việt Nam trở thành thuộc địa kiểu mới
của Mỹ.
Tháng 7/1955 theo sự chỉ huy của Mỹ, Bộ Quốc phòng ngụy đề ra kế hoạch xây
dựng một đội quân chính quy 155.000 người và đội quân bảo an đoàn 52.000 người .
Về quân sự huấn luyện cho “Quân đội quốc gia ”, Mỹ thực hiện phương châm
“nhanh chóng, toàn diện, chú trọng thực hành ”. Về chính trị tâm lý từng đợt mở chiến dịch
học tập “ bài Pháp, chống Cộng ”, đề cao danh hiệu “Quân đội quốc gia ”, mặc quân phục
kiểu Mỹ, dùng tiếng Việt, tiếng Mỹ thay tiếng Pháp. Khi bước vào cải tổ Mỹ cho đề bạt và
tăng lương hàng loạt, phong 4 cấp tướng, 20 đại tá, 60 trung tá, 5.600 sĩ quan và 27.000 hạ
sĩ quan, đưa sĩ quan đi đào tạo ở Mỹ [40].
Đến tháng 6/1956 Mỹ hoàn tất việc xây dựng :
Lục quân : có 4 sư đoàn dã chiến, 6 sư đoàn khinh chiến, 13 trung đoàn địa phương,
5 trung đoàn giáo phái, 1 trung đoàn dù. Pháo binh có 7 tiểu đoàn và 9 đại đội. Cơ giới có 5
trung đoàn. Công binh có 6 tiểu đoàn, 14 đại đội. Vận tãi có 12 đại đội .
Không quân: máy bay chiến đấu có 100 chiếc, 132 chiếc dự trữ. Xây dựng 4 sân bay
lớn ở Phú Bài, Đà Nẵng, Nha Trang, Tân Sơn Nhất với hàng trăm máy bay chiến đấu, máy
bay lên thẳng, máy bay chuyên chở, xây dựng 58 sân bay nhỏ rãi rác ở khắp nơi.
Lực lượng hải quân có 121 tàu chiến trên sông, 25 tàu chiến trên biển, 96 tàu của lực
lượng ở các căn cứ .
Lực lượng Bảo an đoàn 60.000 tên, mỗi quận có 1 đến 2 đại đội. Lực lượng dân vệ
và phòng vệ dân sự được trang bị súng trường và lựu đạn, lực lượng công an, cảnh sát có
mặt khắp nơi. Tổng cộng lực lượng bán vũ trang của Diệm lên đến trên dưới 30 vạn [40].
Ngày 23-10-1955, Diệm tổ chức cuộc “trưng cầu dân ý ” dưới lưỡi lê của quân đội để
công dân lựa chọn hoặc Bảo Đại hoặc Ngô Đình Diệm là người đứng đầu quốc gia. Mặc dù
đa số công dân tẩy chay nhưng nhờ gian lận và người tổ chức trưng cầu dân ý ở các địa
phương là người của Diệm nên kết quả là 98% số phiếu ủng hộ Ngô Đình Diệm, Bảo Đại bị
phế truất, Ngô Đình Diệm tự xưng là Tổng thống Việt Nam cộng hoà.
Ngày 4-3-1956 Ngô Đình Diệm tổ chức tuyển cử bầu ra quốc hội. Tháng 10-1956
Ngô Đình Diệm ban hành hiến pháp của “nền Đệ nhất Cộng hoà”. Mỹ và các nước đồng
minh của Mỹ lập tức công nhận chính quyền Ngô Đình Diệm là “hợp hiến, hợp pháp”.
Từ 1955 đến 1956, Diệm dùng “Quân lực Việt Nam cộng hoà” diệt các lực lượng vũ
trang giáo phái do Pháp xây dựng trước đây. Đến tháng 6-1956, lực lượng Cao Đài, Hoà
Hảo, Bình Xuyên lần lượt bị tiêu diệt.
Dưới sự giúp đỡ của Mỹ, Ngô Đình Diệm thực hiện chủ trương “Đả thực, bài phong,
diệt cộng”, lập ra đảng cầm quyền, thành lập “Mặt trận quốc gia” làm cơ sở cho chính
quyền của chúng.
Đến đây, bộ máy, công cụ quân sự, chính trị cho một chính quyền tay sai để thực
hiện chủ nghĩa thực dân mới Mỹ nhằm xâm lược miền Nam Việt Nam coi như đã hoàn
chỉnh, vì chủ nghĩa thực dân mới cai trị “thông qua một chính quyền tay sai đại biểu quyền
lợi cho giai cấp địa chủ phong kiến và tư sản mại bản khoác áo “dân tộc dân chủ ” giả hiệu ”
[12, tr.18].
Để củng cố chế độ độc tài gia đình trị, trong quá trình thực hiện những chủ trương
của Mỹ, Ngô Đình Diệm đã thực hiện nhiều “quốc sách” nhằm mục đích chống lại cách
mạng, chống lại nhân dân, thực hiện âm mưu của Mỹ chia cắt lâu dài đất nước ta:
- Quốc sách “tố cộng , diệt cộng” [36], [40].
Từ tháng 5/ 1955 khi quân đội ta hoàn thành tập kết ra miền Bắc, Mỹ - Diệm công bố
“tố cộng ,diệt cộng là quốc sách ”, phát động “chiến dịch tố cộng ” trên quy mô rộng lớn
toàn miền Nam.
Diệm thành lập “Hội đồng nhân dân chỉ đạo tố cộng ” gồm tất cả các bộ trưởng
trong chính phủ do Diệm làm chủ tịch danh dự và Trần Chánh Thành làm chủ tịch hội
đồng. Hội đồng chỉ định ra Uỷ ban chỉ đạo tố cộng trung ương, có ban thường trực gồm đại
biểu các bộ Thông tin, Công an, Quốc phòng. Nhiệm vụ của uỷ ban chỉ đạo nầy là trực tiếp
chỉ đạo phong trào tố cộng ở các tỉnh, các cơ quan đào tạo cán bộ cho phong trào. Giúp việc
cho uỷ bàn này có các ban tuyên huấn, học tập, kiểm thảo, khai thác có sự phối hợp của các
cơ quan Công an, Công dân vụ, Dân vệ đoàn .
Mỗi tỉnh có một uỷ ban chỉ đạo tố cộng. Mỗi bộ có một uỷ ban chỉ đạo hàng dọc
xuống các cơ quan thuộc bộ mình. Thành phần uỷ ban chỉ đạo tỉnh giống như ở trung ương.
Thành phần ở cơ quan thì gồm đại biểu cơ quan và Liên đoàn lao động công chức của
“Phong trào cách mạng quốc gia ”.
Huyện, xã đều có ủy ban chỉ đạo tố cộng của huyện, xã. Mỗi xã lại chia ra nhiều liên
gia tố cộng .
Mục đích của “chiến dịch tố cộng” được đặt ra là “gây uất hận trong dân chúng đối
với Việt Cộng”, để cho nhân dân tố giác Việt Cộng ở lại hoạt động, khủng bố tinh thần Việt
Cộng, làm cho Việt Cộng nghi ngờ quần chúng mà không dám hoạt động nữa, đánh lệch tư
tưởng của các phần tử lưng chừng còn hướng về cộng sản phải ngả hẳn về Chính phủ quốc
gia .
Mục tiêu đề ra cho suốt quá trình thực hiện quốc sách tố cộng là: đánh trên diện rộng
ban đầu, sau đó đánh vào chiều sâu, đánh cả nông thôn và thành thị, trọng điểm nhằm vào
nơi có phong trào quần chúng mạnh, đánh vào đảng Cộng sản và đánh vào tổ chức đồng
thời đánh vào tư tưởng, tiêu diệt con người đi đôi với tiêu diệt tinh thần, ý chí. Tất cả để đạt
mục đích tối hậu là người cộng sản hoặc bị tiêu diệt hoặc phải thuần phục quốc gia, quần
chúng cách mạng hoặc chết hoặc trở thành người dân quốc gia .
Phương châm, khẩu hiệu là “từng bước, lâu dài nhưng kiên quyết và triệt để, tiêu diệt
nội tuyến, diệt trừ nội tâm, đạp lên oán thù để thực hiện chủ nghĩa nhân vị quốc gia, giết lầm
còn hơn bỏ sót ”. Trọng tâm của chúng là nhằm vào cán bộ, đảng viên và những vùng kháng
chiến cũ, những nơi có phong trào đấu tranh của nhân dân, đánh đi đánh lại nhiều lần tới khi
“triệt hạ được uy thế của cộng sản ”.
Từ tháng 5-1955 đến tháng 5- 1956, chiến dịch “tố cộng, diệt cộng ” giai đoạn I
được tiến hành, trọng điểm là các tỉnh miền Trung, nội bộ cơ quan nguỵ quyền, đồng thời
triệt hạ cơ sở kinh tế của cộng sản và thanh trừng số cán bộ cầu an của chúng ở cơ sở xã .
Ngày 20 - 7-1956, Diệm công khai tuyên bố không thi hành Hiệp định Giơnevơ.
Giai đoạn II tiến hành chiến dịch “tố cộng, diệt cộng ” trên toàn miền Nam, từ tháng
6 -1956 đến tháng 11- 1958 địch thực hiện 4 chiến dịch lớn càn quét các tỉnh miền Tây
Nam Bộ, miền Trung Nam Bộ, miền Đông Nam Bộ và khu vực xung quanh Sài Gòn. Trong
khi đó tại các chiến trường Cực Nam Trung Bộ địch tiếp tục chiến dịch đi vào chiều sâu,
đánh “tận gốc” kết hợp với bắt lính xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố sư đoàn Nùng, tổ
chức bảo an, dân vệ, phát triển đạo giáo, mở chiến dịch vận động người Thượng, lập khu
dinh điền .
Biện pháp và thủ đoạn địch áp dụng trong các chiến dịch “tố cộng” là bạo lực phản
cách mạng kết hợp lừa mị, lấy bạo lực phản cách mạng làm chính .
Lực lượng vũ trang bao gồm quân đội, cảnh sát, bảo an được sử dụng như lực lượng
xung kích mở đường, càn quét đánh phá cả ở nông thôn, thành thị và khu căn cứ, lùng sục
khắp hang cùng ngõ hẻm, triệt hạ xóm làng, tiêu diệt cán bộ cơ sở, yểm trợ và làm lá chắn
cho các đoàn tố cộng và bộ máy kềm kẹp ở cơ sở. Địch chia quân đi càn quét khắp nơi, chà
đi xát lại nhiều lần xây dựng nhiều đồn bót làm điểm tựa cho bọn tề điệp hoạt động, tăng
cường hoạt động thám báo, tận dụng bọn đầu thú, làm chỉ điểm .
Dưới sự yểm trợ của lực lượng vũ trang, bộ máy kìm kẹp, các đoàn tố cộng lưu động
cùng mạng lưới tình báo gián điệp, các đoàn công dân vụ “cùng ăn, cùng ở, cùng làm ” tấn
công điên cuồng vào phong trào và cơ sở cách mạng bằng chiến tranh tâm lý, trong đó hình
thức khủng bố giữ vai trò chủ yếu nhằm gieo không khí khủng khiếp trong nhân dân, uy
hiếp tinh thần cán bộ .
Chúng tập hợp dân, tổ chức các lớp tố cộng, tiến hành phân loại dân, sau khi học tập,
địch bắt mọi ngừơi phải tố giác cộng sản, chúng bắt những người bị tố giác hoặc tình nghi
viết bản kiểm thảo, kê khai lý lịch, ly khai Đảng, xé cờ Đảng, xé ảnh Bác Hồ, viết cáo trạng
tố cáo tộí ác cộng sản.
Tính đến cuối năm 1958, trên toàn miền Nam, Mỹ-Diệm đã giết hại khoảng 68.800
cán bộ, đảng viên, bắt giam 466.000 và tra tấn bị thương tật 680.000 người [40, tr.96].
- Cải cách điền địa [40].
Để giành nông dân với cách mạng, Mỹ - Diệm coi trọng việc cải cách điền địa. Ngay
từ tháng 10- 1954 Tổng thống Mỹ Eisenhower đã gởi thư đốc thúc Ngô Đình Diệm làm cải
cách điền địa. Lansdale cố vấn của Diệm cũng khuyên Diệm cần tiến hành ngay cải cách
điền địa .
Ngày 8-1- 1955, chính quyền Diệm ban hành đạo dụ số 2. Nội dung đạo dụ số 2 khôi
phục lại quyền sở hữu ruộng đất cho địa chủ, phủ nhận quyền sở hữu của nông dân đối với
ruộng đất do chính quyền cách mạng cấp trong kháng chiến, buộc nông dân làm khế ước,
đóng tô cho địa chủ với mức tô từ 15 % đến 25 % so với hoa lợi .
Ngày 8-2-1955 ra đạo dụ số 7 quy định đối với địa chủ vắng mặt, nông dân phải làm
“ tờ tá điền” để đóng tô cho chính quyền Diệm .
Cả hai đạo dụ nhằm tranh thủ giai cấp địa chủ bằng cách công nhận quyền sở hữu
ruộng đất của giai cấp địa chủ, công nhận quyền thu tô và cả quyền truy thu tô, đồng thời
cũng nhằm tranh thủ nông dân bằng cách hạ mức tô. Địa chủ phấn khởi còn nông dân thì
phản đối quyết liệt vì chúng xoá bỏ những quyền lợi to lớn về ruộng đất mà cách mạng đã
đem lại .
Ngày 22-10-1956, Diệm đưa ra đạo dụ số 57 truất hữu ruộng đất đối với địa chủ có
trên 100 ha. Mỗi chủ điền chỉ được quyền chiếm hữu tối đa 100 ha ruộng lúa, ngoài số đó
chính quyền “truất hữu” bằng cách mua lại, trả cho chủ ruộng 10 % tiền mặt, còn 90 % trả
bằng trái phiếu trong 12 năm với mức lãi 3 % / năm. Ngoài ra đại địa chủ có quyền giữ thêm
15 ha làm ruộng hương hoả. Những địa chủ nào có đồn điền trồng cây công nghiệp hoặc cây
ăn quả thì không bị “truất hữu”. Ruộng “truất hữu” bán lại cho tá điền theo chính sách trả
dần để mỗi tá điền có 5 ha ruộng để canh tác. Địch cho đây là chính sách “tư sản hoá địa
chủ “ và “tiểu điền chủ hoá tá điền”.
Nói là “truất hữu” ruộng đất của địa chủ nhưng thực tế số địa chủ có trên 100 ha
ruộng đất chỉ có 2.055 người, còn đại bộ phận địa chủ chiếm 2/3 đất không bị “truất hữu”.
Nói bán cho tá điền mỗi người 5 ha ruộng đất nhưng có đủ ruộng đất đâu mà bán cho hàng
triệu tá điền. Thực tế chính quyền Diệm chỉ đem ruộng đất bán cho bọn tay chân, bọn phản
động trong xã, số còn lại mới bán cho nông dân.
Bằng cải cách điền địa, chính quyền Diệm không ngớt tuyên truyền lừa gạt nông dân
là “bảo vệ quyền lợi tá điền”, “hữu sản hoá nông dân ”, “đem lại cho đồng quê một đời sống
mới”. Thực tế là nông dân miền Nam bị tước đoạt ruộng đất mà cách mạng đã chia cho họ
và người nông dân lại bị buộc đi làm thuê cho địa chủ, địa chủ lại chiếm hữu ruộng đất bóc
lột tô tức, điều đã bị cách mạng xoá bỏ mà chính quyền Diệm khôi phục lại.
Rõ ràng cải cách điền địa của chính quyền Diệm là một chính sách phản động, một
thủ đoạn thâm độc nhằm cướp đoạt quyền lợi ruộng đất của nông dân đã giành được trong
cách mạng và kháng chiến, xoá bỏ ảnh hưởng của cách mạng trong nông dân, khôi phục và
duy trì chế độ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ và nhân viên chính quyền, hợp thức hoá việc
thu tô, truy thu tô, thuế, gây ra sự xáo canh ruộng đất gây chia rẽ mất đoàn kết trong nội bộ
nông dân.
Nhật ký Lầu Năm góc đã đánh giá:”Ngay về lý thuyết, toàn bộ chương trình cải cách
của Diệm càng kém xa với những gì Việt Minh đã làm về cải cách ruộng đất ”.
- Khu dinh điền [40].
Mục đích chính sách lập khu dinh điền của Ngô Đình Diệm là để giải quyết vấn đề
định cư cho dân di cư từ miền Bắc và khi tiến hành cưởng ép di cư Mỹ- Diệm thừơng rêu
rao miền Bắc không có tự do và đưa dân Công giáo di cư vào làm cơ sở chính trị xã hội cho
mình, nhưng việc ấy đã gây cho Mỹ -Diệm rất nhiều khó khăn vì số dân di cư quá lớn
(860.000 người ) .
Tháng 4-1957, Mỹ- Diệm bắt đầu thực hiện chính sách “khu dinh điền”. Tổng uỷ Phủ
di cư được giải tán và Tổng uỷ Phủ dinh điền thành lập. Tất cả phương tiện và nhân viên
thuộc chương trình di cư được chuyển sang cho dinh điền sử dụng
Tổ chức bộ máy hành chính của dinh điền gồm: Tổng uỷ phủ đứng đầu là Tổng uỷ
trưởng (ngang bộ trưởng) dưới là các vùng hoặc các dinh điền do một quản đốc vùng hay
khu trưởng phụ trách, dưới nữa là trưởng trại dinh điền. Ở Tổng uỷ phủ dinh điền có các
nha: Kỹ thuật, tài chính, định cư, chịu trách nhiệm điều hành và vạch kế hoạch hành động.
Tại các vùng hoặc khu dinh điền có các nhân viên phụ tá các mặt giúp khu trưởng điều hành
công việc. Chúng còn lập ra các ban trị sự “địa điểm” do “địa điểm trưởng ” điều hành và
các nhân viên giúp việc ở những địa điểm cụ thể .
Một khu dinh điền được tổ chức thành nhiều liên gia. Một liên gia gồm từ 5 đến 7 gia
đình. Liên gia trưởng chịu trách nhiệm điều động và kiểm soát những gia đình trong liên gia
mình. Những phần tử “chống đối” hay bị tình nghi có liên quan đến cộng sản đều bị theo
dõi, bị bắt giam giữ, tra tấn và thậm chí bị trục xuất ra khỏi liên gia. Mọi người ra hay vào
địa điểm dinh điền phải được phép và chịu sự kiểm tra của nhân viên dinh điền. Thanh niên
trong các khu dinh điền đều bắt buộc phải luyện tập quân sự và sẵn sàng tham gia quân dịch
khi có lệnh.
Thông thường dân về khu dinh điền đi theo xứ đạo, họ đạo. Ví dụ như khu dinh điền
Hố Nai là dân di cư Công giáo xứ Bùi Chu. Khu dinh điền Mường Mán ( Bình Thuận) là
dân di cư thuộc các xứ đạo Thọ Ninh và Đông Tràng (đều thuộc hạt Nghĩa Yên địa phận
Vinh trước đây ).
Vào khu dinh điền, mỗi hộ gia đình được cấp đất, cấp cây gỗ, tranh tre, sau lại có tôn
để làm nhà trên đất được phân phối theo một quy hoạch nhất định. Chính quyền trợ cấp cho
dân nhiều tháng để tiến lên sản xuất tự túc. Các gia đình được cho vay tiền để mua sắm
dụng cụ, mua hạt giống, phân bón để tiến hành sản xuất và chi tiêu hàng ngày. Tuy vậy,
chính quyền Mỹ- Diệm không thể thoã mãn được các yêu cầu của dân di cư bỏ đất miền Bắc
để vào “thiên đường miền Nam ”.
Thực hiện chính sách dinh điền, chính quyền Mỹ Diệm cũng nhằm mục đích diệt
cộng, Diệm - Nhu xác định: ”Khu dinh điền là biện pháp xẻ đường đưa dân vào chiến khu,
mật khu Việt cộng, dùng dân để đẩy cộng sản ra khỏi vùng đó và dinh điền là nơi cung cấp
tin tình báo, nơi xuất phát để hành quân ngăn chặn xâm nhập ”.
Từ năm 1957 đến 1960 , Mỹ- Diệm đã tổ chức xây dựng được 146 địa điểm dinh
điền tập trung gần 20 vạn nông dân di cư. Các vùng dinh điền được thiết lập ở Tây Nguyên
dọc theo biên giới Việt-Lào, Việt - Campuchia, vùng cao nguyên xung quanh Buôn Mê
Thuột, vùng đồi núi cao nguyên dọc quốc lộ 14, 20, 13, vùng đồi núi phía Tây của tỉnh Bình
Thuận .
Các khu dinh điền đều nằm ở các vùng chiến lược, nằm dọc các con đường giao
thông tạo thành “hàng rào thịt” bảo vệ các con đường giao thông huyết mạch, hoặc tổ chức
ngay trung tâm các căn cứ, các chiến khu trước đây của cách mạng. Đây là vùng “rừng
thiêng, nước độc ” nên gây bất mãn lớn trong đồng bào di cư .
Lập các khu dinh điền Tây Nguyên chính quyền địch còn ép đồng bào các dân tộc
phải nhường nương vườn cho dân di cư và dân di cư được thể chính quyền binh vực mình,
tiến hành ăn hiếp người dân tộc nên gây ra sự chống đối lớn của đồng bào các dân tộc. Nhật
ký Lầu Năm góc có ghi :”Chúng cũng nhanh chóng gây ra những phản ứng chính trị bất ngờ
của những người dân vùng núi Tây Nguyên. Rút cục lại, do đưa người Kinh vào những
vùng xưa nay vẫn là của người Thượng, và do tập trung người Thượng vào các khu có thể
thể bảo vệ được, Chính phủ Nam Việt Nam đã tạo cho họ lý do để đấu tranh và hướng nổi
bất bình của họ chĩa vào Diệm. Do vậy, chính phủ Nam Việt Nam đã tạo điều kiện chứ
không phải ngăn chặn để sau này Việt cộng hoạt động lật đổ trong các bộ lạc ”.
Chính sách dinh điền đã gặp phải sự chống đối của nhân dân các vùng, nhất là nhân
dân các dân tộc Tây Nguyên và cũng chuốc lấy các sự bất mãn của đồng bào di cư. Tuy
nhiên nó cũng giải quyết được những khó khăn về kinh tế chính trị cho gần một triệu người
dân di cư miền Bắc .
- Khu trù mật
Mỹ -Diệm chủ trương xây dựng ”khu trù mật” là để xây dựng các khu dân cư trong
đó ngừơi dân có cuộc sống vật chất và văn hóa cao trên cơ sở một nền kinh tế trù phú và
một nếp sống dân chủ xã hội tốt đẹp. Mục đích là tạo sức hấp dẫn đối với người dân xưa
nay “sống nghèo khô’” và “mất tự do” ở các vùng căn cứ kháng chiến. Đây cũng là sự thi
đua kinh tế và chính trị đối với cách mạng. Ngày 14/03/1960, khi làm lễ khánh thành khu
trù mật Vị Thanh- Hoả Lưu Ngô Đình Diệm đã tuyên bố: ”ý nghĩa của khu trù mật là xây
dựng một xã hội mới để thực thi công bằng, bác ái , đồng tiến xã hội trong một nước kém
mở mang” [3, tr.362-363].
Tuy vậy, bên cạnh tham vọng ấy chính quyền Mỹ - Diệm cũng vẫn nhằm mục đích
khác là “diệt cộng ”. Báo Cách mạng quốc gia Sài Gòn số 18-2-1960 tiết lộ mục đích đen tối
của khu trù mật là “tách quần chúng ra khỏi những phần tử cảm tình với cộng sản, lùa cộng
sản vào rừng rồi bị diệt trừ ” [36, tr.23].
Toàn miền Nam, Mỹ- Diệm đặt kế hoạch lập trước 80 khu trù mật “xong khu trù mật
nầy tiến tới khu trù mật khác, cứ làm, làm mãi cho đến khi nào nông thôn trở nên những
pháo đài kiên cố của tự do ”[36, tr.23].
Đến năm 1960, địch lập được 42 khu trù mật trên toàn miền Nam. Nói chung các khu
trù mật đều lập trong những vùng căn cứ kháng chiến để làm tủ kính mà thu hút người dân
cách mạng.
Trong quá trình lập khu trù mật, ruộng đất của nhân dân bị cướp không, chúng bắt
dân lao động vất vả nặng nề mà ăn uống phải tự túc. Ngoài ra bọn bảo an, dân vệ tổ chức
càn quét, cướp của, giết người ở các vùng lân cận, gây nhũng nhiễu tai vạ cho nhiều gia
đình, nhất là các gia đình cách mạng [40].
Chỉ có Ngô Đình Diệm là hết lời ca tụng ý nghĩa tốt đẹp của khu trù mật là xây dựng
một xã hội thực thi công bằng và bác ái. Nhưng tờ Đại Việt xuất bản ở Pháp ( 3- 1960 ) viết
:”Chỉ có ông Ngô Đình Diệm là hả lòng, hả dạ mỗi khi khánh thành khu trù mật, chớ các
tỉnh trưởng, họ đều hiểu rõ sự thực hơn. Họ lấy làm lo sợ sự oán giận của nhân dân. Họ vừa
họp lại, báo cáo cho bộ trưởng Lâm Lễ Trinh rằng khu trù mật là thất nhân tâm”.
Do sự mất nhân tâm gây oán hờn và sự chống đối của nhân dân, hầu hết các khu trù
mật đều bị phá vào năm 1960 trong phong trào Đồng khởi của nhân dân .
Đánh giá bốn quốc sách của Ngô Đình Diệm, sứ quán Mỹ tháng 1- 1960 nhận xét :
”Tuy Chính phủ Việt Nam đã cố gắng đáp ứng nhu cầu kinh tế và xã hội của nông thôn,
song những chương trình này hình như chỉ phần nào gây được sự ủng hộ của Chính phủ
trong thực tế chúng đã đem lại sự căm thù ở nhiều trường hợp. Chúng ta có thể tóm tắt tình
hình như thế nầy: Chính phủ đối xử với dân chúng với thái độ nghi ngờ và doạ nạt, và đã
được đền đáp bằng một sự thờ ơ và lòng căm thù ”[40].
Ở một đoạn khác Nhật ký Lầu năm góc lại ghi :”Ngô Đình Diệm cũng không lãnh
đạo được dân chúng ở thành phố hoặc giới trí thức ”.
Như vậy là sử dụng chính quyền mạnh do Mỹ dựng lên và cả một bộ máy quân sự,
chính trị, cảnh sát, gián điệp đồ sộ, với vũ khí và tiền bạc của Mỹ, Mỹ- Diệm đã thực thi
bốn quốc sách lớn hòng thu phục nhân dân miền Nam theo chính sách thực dân kiểu mới
của Mỹ. Nhưng các quốc sách của Mỹ - Diệm thực tế đem lại oán hận và lòng căm thù của
nhân dân và đều đã thất bại thảm hại .
1.2.3.Chủ trương của Đảng và cao trào “Đồng khởi”
Năm 1959, cách mạng miền Nam đứng trước những thử thách cực kỳ nghiêm trọng,
với luật 10/59, Mỹ- Diệm lê máy chém đi khắp miền Nam ra sức tiêu diệt lực lượng cách
mạng. Đảng đã lãnh đạo nhân dân vượt qua những khó khăn, mối liên hệ giữa Đảng và nhân
dân được giữ vững và phát triển các cơ sở cách mạng. Đảng kiên trì lãnh đạo và xây dựng
khối đoàn kết toàn dân đấu tranh chống Mỹ - nguỵ.
Chính sách nô dịch và gây chiến của đế quốc Mỹ, hành động khủng bố và bán nước
của Ngô Đình Diệm đã làm cho đời sống của các tầng lớp nhân dân miền Nam vô cùng cực
khổ. Nhân dân ngày càng thấy rõ không thể nào sống dưới chế độ Mỹ - Diệm được nữa mà
chỉ còn một con đường vùng lên đấu tranh một mất một còn với chúng.
Trước tình hình đó, tháng 1-1959 , Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 15 (
mở rộng ) ra nghị quyết : “Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh để giữ vững
hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước ”[40],[45].
Nghị quyết xác định :”Chính quyền Ngô Đình Diệm là chính quyền tay sai của đế
quốc Mỹ, chế độ thực dân và nửa phong kiến ở miền Nam là một chế độ phản động tàn bạo
và đen tối. Chính quyền miền Nam hiện nay là một chính quyền phản bội lợí ích dân tộc, nó
đại biểu cho lợí ích của đế quốc Mỹ, của bọn phong kiến và tư sản mại bản phản động nhất
thân Mỹ ở miền Nam. Chính quyền đó là một chính quyền độc tài hiếu chiến. Nó là công cụ
xâm lược của đế quốc Mỹ ”.
Hội nghị xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là “Giải phóng miền
Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày
có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, góp phần xây dựng
một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.
Nghị quyết xác định phương hướng của cách mạng miền Nam là “khởi nghĩa giành
chính quyền về tay nhân dân ”. Vạch ra con đường cho cách mạng miền Nam là: “Lấy sức
mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với
lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng nên chính
quyền cách mạng của nhân dân ”[31],[45].
Nghị quyết còn thấy rõ chiều hướng phát triển của cách mạng miền Nam là cuộc
khởi nghĩa của nhân dân miền Nam có khả năng chuyển thành một cuộc đấu tranh vũ trang
trường kỳ .
Nghị quyết của hội nghị Trung ương lần thứ 15 là một nghị quyết lịch sử rất quan
trọng tạo nên bước chuyển biến lớn đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân cả nước ta,
đáp ứng nguyện vọng tha thiết của đồng bào hai miền Nam, Bắc : giải phóng miền Nam,
bảo vệ miền Bắc, thống nhất nước nhà.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng đã góp phần hoàn chỉnh đường
lối và phương pháp cách mạng miền Nam. Nghị quyết phản ảnh sâu sắc nguyện vọng của
nhân dân miền Nam cũng như nhân dân cả nước. Nó soi sáng con đường đi tới của cách
mạng miền Nam và trực tiếp dẫn tới phong trào Đồng khời, tiến công mạnh mẽ và dồn dập
vào đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai .
Dưới ánh sáng Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng, khối đoàn kết toàn dân ở
miền Nam được củng cố chặt chẽ hơn, và cuối năm 1959 đầu năm 1960, nhân dân ta ở miền
Nam đã vùng lên khởi nghĩa đồng loạt giành nhiều thắng lợi to lớn .
Từ cuối năm 1959 đến đầu 1960, ở Trị Thiên - Huế, các tổ chức vũ trang tự vệ của
nhân dân đã đánh trả địch, vây đồn diệt ác ôn, hỗ trợ đắc lực cho công cuộc đấu tranh chính
trị như ở làng Dút, sông Axép, Tam Dừa ( Thừa Thiên ), Truồi Muồi (Quảng Trị ). Đến
tháng 10 -1960, quân dân miền núi Trị Thiên -Huế đã nổi dậy giải phóng vùng núi Thừa
Thiên và 15 xã ven đường số 9 ( Quảng Trị ) hình thành một vùng giải phóng rộng lớn đến
biên giới Việt -Lào. Đường hành lang chiến lược Bắc - Nam qua Trị Thiên - Huế được
thông thương .
Đầu năm 1959, lãnh đạo liên khu V về đến chiến trường, phổ biến nghị quyết 15 của
Ban chấp hành Trung ương Đảng. Đồng bào các dân tộc miền núi đã hăng hái hưởng ứng,
nhiều thanh niên đồng bằng đã thoát ly lên căn cứ tình nguyện chiến đấu.
Ngày 3 tháng 3 -1959, đơn vị vũ trang đầu tiên của Quảng Ngãi thành lập tại thôn
Nước Xoay- Cà Nung, xã Trà Thọ, huyện Trà Bồng, lấy tên là đơn vị 339 [8, tr.64].Tiếp đó,
hai đơn vị vũ trang cũng được thành lập tại huyện Sơn Hà, Ba Tơ và Minh Long lấy tên là
đơn vị 89 và 229.
Ngày 28-8-1959, nhân dân các xã thuộc huyện Trà Bồng có sự tham gia của lực
lượng vũ trang đã tấn công tiêu diệt bọn ác ôn cưởng bức nhân dân đi bỏ phiếu. Cuộc chiến
đấu diễn ra ác liệt, đến chiều quân ta làm chủ các xã trên toàn huyện Trà Bồng, quân địch
chỉ còn cố thủ trong đồn Eo Reo, Eo Chim và quận lỵ.
Ngày 31-8 và 1-9-1959, ta đánh chiếm đồn Eo Reo và Eo Chim, toàn bộ huyện Trà
Bồng được giải phóng trừ quận lỵ.
Hưởng ứng Trà Bồng, nhân dân các huyện Ba Tơ, Sơn Hà, Minh Long cũng lần lượt
nổi dậy. Tại các vùng thấp, các nhóm vũ trang, các đội vũ trang tuyên truyền mở rộng hoạt
động diệt ác trừ gian, đánh chiếm các trụ sở chính quyền, phá kìm kẹp. Ở các xã Sơn Hạ,
Sơn Thành, Sơn Rinh, Trường Giang các uỷ ban tự quản trước đây bí mật thành lập, nay ra
hoạt động công khai .
Như vậy, trong một tuần lễ, nhân dân ba huyện Sơn Hà, Ba Tơ và Minh Long đã
giành quyền làm chủ vùng cao Sơn Hà và 20 xã của hai huyện Ba Tơ và Minh Long .
Ngày 1-1-1960, một hội nghị đặc biệt tại ấp Tân Huề, xã Minh Đức, huyện Mỏ Cày (
Bến Tre). Đồng chí Nguyễn Thị Định, phó Bí thư Tỉnh uỷ truyền đạt tinh thần Nghị quyết
Trung ương lần thứ 15 và chủ trương cụ thể của Khu uỷ cho các Tỉnh uỷ viên và Bí thư
Huyện uỷ các huyện Mỏ cày, Ba Cầu, Bảy Tranh, Minh Tân.
Hội nghị chủ trương phát động “Một tuần lễ toàn dân đồng khởi” [40], lấy huyện Mỏ
Cày làm trọng điểm, ba xã Định Thuỷ, Phước Hiệp, Bình Khánh đột phá đi đầu, thúc đẩy
phong trào.
Ngày 17-1-1960, cuộc Đồng khởi của nhân dân Bến Tre nổ ra ở cả ba xã Định Thuỷ,
Phước Hiệp và Bình Khánh. Nhân dân vũ trang giáo mác, được sự hổ trợ của tiểu đoàn 502
đã tràn ra khắp các ngả đường, lùng bắt tề điệp, ác ôn, chiếm công sở, giải tán tề xã, thu
nhiều súng đạn.
Đến ngày 20-1-1960, ba xã điểm hoàn toàn thắng lợi. Phong trào khởi nghĩa lan rộng
nhanh chóng trên toàn tỉnh Bến Tre
Từ ngày 17-1 đền ngàty 24-1-1960, 47 xã thuộc các huyện Mỏ Cày, Giồng Trôm,
Châu Thành, Ba Tri, Thạnh Phú nhân dân đã nhất tề nổi dậy. 22 xã đã đập tan bộ máy kìm
kẹp, giải phóng hoàn toàn. 25 xã khác đã vùng lên diệt ác , vây đồn , giải phóng nhiều ấp.
Đồng khởi Bến Tre đã bùng lên mạnh mẽ bằng nhiều đợt. Cuối năm 1960, trong 115
xã ở tỉnh Bến Tre đã có 51 xã giải phóng hoàn toàn, 21 xã được giải phóng một phần. Nhân
dân làm chủ 300 ấp / 500 ấp. Hệ thống kìm kẹp của địch ở nông thôn bị đập tan nát.
Sau thắng lợi của Bến Tre, phong trào Đồng khởi lan rộng khắp các tỉnh miền Trung
Nam Bộ. Từ Long An, Kiến Tường, Định Tường, An Giang nhân dân đã vùng lên khởi
nghĩa, diệt ác trừ gian, nhiều vùng nông thôn được giải phóng.
Tháng 3-1959, đồng chí Nguyễn Văn Linh, Bí thư Xứ uỷ nhận được điện thông báo
của Ban Bí thư Trung ương về Nghị quyết 15, kết hợp với hai Tỉnh uỷ Thủ Dầu Một và Tây
Ninh chuẩn bị phương án tấn công địch. Thường vụ Xứ uỷ quyết định thực hiện phương án
đánh Tua Hai với lý do thắng Tua Hai có tác động thúc đẩy phong trào cách mạng của toàn
miền Nam và làm chấn động tinh thần quân địch mạnh mẽ hơn, quyết tâm đánh một đòn
chiến lược làm rung chuyển chiến trường và thúc đẩy phong trào nổi dậy khởi nghĩa trên
toàn miền Nam.
Căn cứ Tua Hai được xây dựng trên một khoảng đất rộng tại Trảng Sụp nằm ở phía
Đông quốc lộ 22 (từ Gò Dầu đi Xa Mát ) cách thị xã Tây Ninh 7 Km về phía Bắc (hiện nay
là xã Đồng Khởi, huyện Châu Thành, Tây Ninh ). Đây là căn cứ quân sự lớn cấp trung đoàn
nhưng không có công sự kiên cố, chưa có hàng rào. Trong căn cứ ta có lực lượng mật, có cả
một chi bộ và một chi đoàn.
Lực lượng của ta tấn công gồm có 1 đại đội đặc công, 3 đại đội, 1 trung đội và 1 tiểu
đội bộ binh, quân số 225 người . Lực lượng dân công tham gia khoãng 300 gồm chủ yếu là
Đảng viên. Ban chỉ huy gồm có chỉ huy trưởng Nguyễn Hữu Xuyến, chính trị viên Mai Chí
Thọ và chỉ huy phó Võ Cương và Lê Thanh.
Đúng 00 giờ 45 phút ngày 26- 01-1960 ta bắt đầu tấn công căn cứ Tua Hai [64].
Kết quả là ta tiêu diệt sở chỉ huy Trung đoàn 32 Sư đoàn 21 nguỵ, diệt và làm tan rã
Tiểu đoàn 1 và 2, diệt đại đội pháo, chi đoàn thiết giáp, bắt giáo dục tại chổ và thả 500 tù
binh. Ta thu gần 1.000 súng các loại, thu nhiều đạn, phá huỷ một số xe quân sự. Lực lượng
ta hy sinh 7 đồng chí [71].
Trận Tua Hai là trận thắng lớn tạo ra bước ngoặc chuyển thế từ giữ gìn lực lượng
sang thế tiến công đánh bại quân thù và cũng là trận thắng giòn giã đầu tiên của chiến tranh
cách mạng Việt Nam đánh lại chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ.
Từ sau chiến thắng Tua Hai, khắp miền Nam đồng loạt vũ trang khởi nghĩa giành
chính quyền tạo nên phong trào Đồng khởi bùng nổ khắp nới từ Đông Nam Bộ, Trung Nam
Bộ đến Tây Nam Bộ.
Tình báo Mỹ ở Sài Gòn thừa nhận :”Vào cuối năm 1960, toàn bộ vùng nông thôn
Nam và Tây Nam Sài Gòn và một số vùng Bắc Sài Gòn đã bị cộng sản kiểm soát quá một
nửa…” [78].
Phong trào Đồng khởi ở miền Nam đã phá vỡ từng mãng lớn hệ thống kìm kẹp của
Mỹ - Diệm ở nông thôn, giành quyền làm chủ dưới hình thức tự quản, giải quyết những
quyền lợi dân sinh, dân chủ của nhân dân .
Lực lượng chính trị của quần chúng đã đóng vai trò chủ yếu trong cao trào Đồng
khởi và cũng là lực lượng phát huy tác dụng to lớn trong việc giữ vững và phát triển thắng
lợi đã giành được. Khí thế của quần chúng trong Đồng khởi lên rất cao, tạo điều kiện cho
lực lượng cách mạng phát triển nhanh . Các đoàn thể cách mạng của nông dân, thanh niên,
phụ nữ, phát triển mạnh lại làm cơ sở cho việc phát triển các đội quân chính trị đấu tranh
chống địch càn quét, khủng bố. Lực lượng chính trị phát triển làm cơ sở hình thành và phát
triển lực lượng vũ trang tập trung ở tỉnh, huyện và dân quân du kích ở thôn, xã mà ở đâu
cũng có sau cao trào Đồng khởi. Hai lực lượng chính trị và vũ trang đã kết hợp một cách
hữu cơ trong đấu tranh chống địch .
Cao trào Đồng khởi làm cho phần lớn nguỵ quyền cấp thôn, xã ở vùng đồng bằng
Nam Bộ tan vỡ. Đến cuối năm 1961,Trung Nam Bộ đã giải phóng được 350 / 480 xã, Tây
Nam Bộ đã giải phóng 350 / 365 xã, Tây Nguyên, vùng giải phóng có tới 4.000 làng bản.
Từ Nam sông Bến Hải đến Tây Nguyên cùng các tỉnh Nam Trung Bộ và Nam Bộ, vùng giải
phóng đã nối liền nhau thành một khối thống nhất .
Điểm nổi bật và sáng tạo của phong trào Đồng khởi ở miền Nam là trong sự khủng
bố man rợ của kẽ thù, cách mạng bị tổn thất nặng nề, tựa hồ khó có thể gượng lại được,
Đảng luôn tìm cách để nuôi dưỡng, giáo dục và xây dựng khối đoàn kết toàn dân, biết dựa
vào dân, phát động và khơi sâu lòng căm thù, nuôi dưỡng lòng dũng cảm, thổi bùng ngọn
lửa quật khởi trong toàn dân thành cao trào nổi dậy khắp nông thôn miền Nam, phá vỡ ách
kìm kẹp của địch, mở ra cục diện mới cho cách mạng miền Nam .
Đồng khởi mở ra thời kỳ phát triển mới của cách mạng miền Nam, thời kỳ toàn dân
tiến công liên tục và mạnh mẽ vào các chiến lược và chiến thuật của Mỹ - nguỵ. Cách mạng
miền Nam chuyển từ đấu tranh chính trị, giữ gìn lực lượng là chủ yếu sang kết hợp chặt chẽ
đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự nhằm tiêu hao, tiêu diệt lực lượng địch, phát triển
lực lượng của ta, tạo ra tiền đề, những nhân tố cơ bản bảo đảm cho cách mạng miền Nam
từng bước tiến lên .
Trong khí thế chiến thắng của phong trào Đồng khởi, tại Hà Nội, từ ngày 5 đến ngày
10-9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng được tổ chức trọng thể. Trong
lời khai mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: Đại hội lần nầy là Đại hội xây dựng
CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà.
Báo cáo chính trị chỉ rõ rằng: cách mạng Việt Nam trong giai đoạn nầy có hai nhiệm
vụ, một là, tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc, hai là, tiếp tục đấu tranh hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ cách mạng nầy thuộc hai
chiến lược cách mạng và mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết những mâu thuẫn chủ yếu ở mỗi
miền. Song cả hai nhiệm vụ đó đều nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cách mạng Việt
Nam và cùng nhằm một mục tiêu chung là giành lại độc lập và thống nhất Tổ quốc. Hai
nhiệm vụ nầy có quan hệ mật thiết và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau [50].
Đại hội xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là: giải phóng miền
Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày
có ruộng, góp phần xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và
giàu mạnh.
Đại hội xác định nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là: ”đoàn kết toàn
dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống
trị độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân
tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện đôc lập dân tộc, các quyền tự do dân chủ cải thiện đời
sống nhân dân, giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân
chủ, tích cực bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới” [38].
Trong không khí sôi nổi và chiến thắng của cao trào Đồng khởi, dưới ánh sáng của
Nghị quyết 15 và Đại hội III của Đảng, nhân dân miền Nam tiến lên giành thắng lợi mới.
Tăng cường đoàn kết, phát huy truyền thống chiến đấu anh dũng của dân tộc, hoàn thành
thắng lợi nhiệm vụ của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thúc đẩy phong
trào cách mạng miền Nam chuyển sang một thời kỳ mới, thời kỳ kết hợp đấu tranh chính trị
với đấu tranh vũ trang để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
1.3.Mặt trận DTGPMNVN ra đời
Từ năm 1957, Hội nghị đại biểu các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới đã xác
định một đường lối đấu tranh hoàn thành giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ
thuộc là thành lập một Mặt trận dân tộc thống nhất chống chủ nghĩa đế quốc và phong kiến,
bao gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tư sản dân tộc và các lực lượng dân chủ,
yêu nước khác. Mấy năm sau đó, quá trình đấu tranh quyết liệt của nhân dân thế giới chống
chủ nghĩa đế quốc đã đưa đến kết quả là hàng loạt quốc gia mới có chủ quyền xuất hiện.
Nhưng bọn đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ, cố sức cướp lại những thuộc địa đã mất bằng
cách tròng ách chủ nghĩa thực dân mới vào các dân tộc mới giành được độc lập [7, tr.9-
10].
Trước âm mưu xâm lược miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của
Mỹ. Với âm mưu thâm độc và tàn bạo của gia đình trị Diệm – Nhu. Hội nghị 15 Trung ương
Đảng chủ trương thành lập ở miền Nam một mặt trận riêng, nhằm tập hợp tất cả các lực
lượng chống đế quốc, phong kiến. Mặt trận dân tộc thống nhất miền Nam phải rất rộng rãi:
“Đoàn kết tất cả các dân tộc đa số và thiểu số, các đảng phái, các tôn giáo và những cá nhân
yêu nước, đoàn kết với ngọai kiều, đặc biệt là Hoa kiều, không phân biệt chủng tộc và tôn
giáo, chính kiến, điều cốt yếu là chống Mỹ- Diệm, tán thành tự do dân chủ, cải thiện dân
sinh và hòa bình thống nhất Việt Nam ”. Trung ương thấy rằng hiện nay khuynh hướng hòa
bình, trung lập đang bắt đầu nảy nở trong một số tư sản dân tộc và trí thức lớp trên ở miền
Nam, nên Đảng phải tranh thủ và sử dụng khuynh hướng ấy để mở rộng Mặt trận đoàn kết
chống Mỹ - Diệm [75, tr.288-289].
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, hồi 8 giờ tối ngày 19-12-1960, đại biểu
các giai cấp, các dân tộc, các tôn giáo và các đảng phái đã họp Đại hội tại Rùm Đuôn, xã
Tân Lập, huyện Châu Thành, Tây Ninh.
Lúc 1 giờ sáng ngày 20-12-1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
chính thức thành lập, Mặt trận đề ra tuyên ngôn và chương trình hành động mười điểm (
xem phụ lục IV ) [34], [51].
Nội dung của chương trình nêu rõ: đế quốc Mỹ và bọn bán nước lập nên một chế độ
chính trị độc tài tàn ác nhất chưa từng có trong lịch sử nước ta. Hơn sáu năm qua, chế độ
độc tài, tàn bạo của Mỹ-Diệm đã gây ra biết bao tội ác đối với đồng bào miền Nam. Trong
hoàn cảnh đó “ Vì quyền lợi tối cao của Tổ quốc, quyết phấn đấu đến cùng cho những
nguyện vọng chính đáng của nhân dân, thuận theo trào lưu tiến bộ của thế giới. Mặt trận
Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời .
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam chủ trương đoàn kết tất cả các tầng
lớp nhân dân, các giai cấp, các dân tộc, các đảng phái, các đoàn thể, các tôn giáo, các nhân
sĩ yêu nước ở miền Nam Việt Nam không phân biệt xu hướng chính trị để đấu tranh đánh đổ
ách thống trị của đế quốc Mỹ và tập đoàn tay sai của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, thực hiện
độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, hoà bình trung lập ở miền Nam, tiến tới hoà bình thống
nhất Tổ quốc ”[18, tr.958-962].
Chương trình hành động 10 điểm của Mặt trận DTGPMNVN vạch ra cho các thành
viên trong mặt trận cùng nhau đoàn kết phấn đấu .
Đại hội kêu gọi:
“Hỡi toàn thể đồng bào!
Hỡi tất cả những người yêu nước !
Dân tộc ta đã tranh đấu gần một trăm năm và kháng chiến 9 năm, đã hy sinh biết bao
xương máu, quyết không thể trở lại cuộc đời nô lệ !
Vì hoà bình, độc lập, tự do, thống nhất của Tổ quốc, vì vận mạng của dân tộc, vì đời
sống của chúng ta, vì tương lai của ta và con cháu ta .
Tất cả hãy đứng lên !
Tất cả hãy đoàn kết lại !
Hãy xiết chặt hàng ngũ, tiến lên chiến đấu dưới ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam để đánh đổ ách thống trị tàn ác của đế quốc Mỹ và tay sai Ngô
Đình Diệm để cứu nước, cứu nhà ”[18].
Cương lĩnh và mười chính sách đối nội, đối ngoại của Mặt trận thể hiện những mong
muốn tha thiết của mọi tầng lớp nhân dân, là hoà bình, độc lập, dân chủ, cơm no áo ấm,
thống nhất Tổ quốc đã được sự hưởng ứng rộng rãi ở trong nước và sớm có tiếng vang trên
trường quốc tế. Cương lĩnh của Mặt trận đã thu hút được sự đồng tình của đông đảo các lực
lượng yêu chuộng tự do, công lý trong nước và trên thế giới kể cả người Mỹ tiến bộ và
những người “không thích cộng sản”.
Đại hội đã bầu ra Uỷ ban trung ương Mặt trận lâm thời gồm nhiều nhân vật tiêu biểu,
đứng đầu là các vị Phùng Văn Cung, Huỳnh Tấn Phát và Võ Chí Công .
Mặt trận quyết định chọn cờ nửa xanh, nửa đỏ giữa có ngôi sao vàng 5 cánh làm cờ
của Mặt trận, chọn bài “Giải phóng miền Nam” của Huỳnh Minh Siêng làm bài ca chính
thức của Mặt trận [51].
Chương trình và tuyên ngôn của Mặt trận đã được tiếp đón một cách nồng nhiệt ở
khắp miền Nam, đã gây nên một không khí nhộn nhịp phấn khởi trong đồng bào khắp nơi.
Suốt tuần lễ đầu tháng giêng 1961, thành phố Sài Gòn - Gia Định và khắp các tỉnh thành
miền Nam tràn ngập hàng triệu tờ truyền đơn in chương trình và cờ Mặt trận. Các xí nghiệp,
trường học, trại lính, công sở, rạp hát, chợ búa, đâu đâu nhân dân cũng xôn xao bàn tán về
Mặt trận [21].
Ở Tây Ninh, ngày 21-12-1960, một cuộc mít tinh lớn, có 2000 đồng bào tín đồ Cao
Đài, binh sĩ và cựu sĩ quan nguỵ tham gia hoan nghênh Mặt trận ra đời, mọi người hứa sẵn
sàng đứng trong hàng ngũ Mặt trận.
Ngày 2-1-1961, khắp nội ngoại thành Sài Gòn- Gia Định, đồng bào bãi công, bãi thị,
tham gia mít-tin hoan nghênh Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời.
Tỉnh Sa Đéc, chỉ trong đêm 5-1-1961, có 17 cuộc mít tinh chào mừng Mặt trận, có
khoảng 5000 người tham gia.
Tỉnh Bến Tre mở đại hội đại biểu các tầng lớp quần chúng để thành lập Mặt trận tỉnh,
buổi lễ ra mắt có đến 10.000 người tham dự, có đầy đủ đại biểu từ nông thôn đến thành thị.
Buổi lễ tổ chức cách thị trấn Ba Tri khoảng 5 kilômet, có đèn điện, có cờ Mặt trận tung bay
làm xúc động lòng người .
Từ Trị Thiên đến Bình Thuận, đâu đâu cũng nổ ra những cuộc mít tinh lớn nhỏ nhiệt
liệt hoan nghênh Mặt trận, hoan nghênh bản tuyên ngôn và chương trình 10 điểm của Mặt
trận. Sau khi Mặt trận ra đời, các địa phương đều thành lập ủy ban Mặt trận từ tỉnh đến quận
, xã.
Đánh giá về sự kiện lớn nầy, Bác Hồ đã nói :”Một mặt trận của nhân dân đoàn kết
chặt chẽ rộng rãi là một lực lượng tất thắng. Hiện nay trong cuộc đấu tranh anh dũng chống
chế độ tàn bạo của Mỹ- Diệm, đồng bào ta ở miền Nam cũng có “Mặt trận Dân tộc giải
phóng ” với chương trình hoạt động thiết thực và phù hợp với nguyện vọng chính đáng của
nhân dân. Do đó, có thể đoán rằng đồng bào miền Nam nhất định sẽ thắng lợi, nước nhà
nhất định sẽ thống nhất, Nam - Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà ”[18].
CHƯƠNG 2. HOẠT ĐỘNG CỦA MẶT TRẬN DTGPMNVN TỪ 1960 ĐẾN 1965
2.1.Hoạt động chính trị
2.1.1. Xây dựng hệ thống tổ chức Mặt trận
Sau khi hiệp định Giơnevơ được ký kết, chính quyền và quân đội tập kết ra Bắc, chỉ
có Đảng ở lại miền Nam. Với chính sách đàn áp dã man những người kháng chiến cũ, với
“quốc sách tố cộng , diệt cộng”, với luật 10/59 của Ngô Đình Diệm, phong trào cách mạng
miền Nam có nguy cơ tan vỡ. Căn cứ vào tình hình cách mạng miền Nam, đồng chí Lê
Duẫn đã soạn ra bản Đề cương cách mạng miền Nam và ra báo cáo với Bộ Chính trị và Bác
Hồ.
Tháng 1-1959, Hội nghị lần thứ 15 của Ban chấp hành Trung ương Đảng ( khóa
II) mở rộng được tổ chức tại Hà Nội. Hội nghị quyết định chuyển hướng chỉ đạo cách mạng
miền Nam, phải thành lập một tổ chức Mặt trận ở miền Nam, thành lập Đoàn vận tải quân
sự 559 và 759 chi viện cho miền Nam, cử 1.500 cán bộ đã được huấn luyện đưa vào miền
Nam.
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam từ khi ra đời, đã xây dựng hệ thống
tổ chức của Mặt trận, xây dựng hệ thống lãnh đạo của Đảng, xây dựng Giải phóng quân,
vùng giải phóng, các đoàn thể trong Mặt trận, tiến hành các đại hội, đưa ra những bản tuyên
bố, Cương lĩnh của Mặt trận [40, tr.268].
2.1.1.1.Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận.
Từ tháng 10-1954, để phù hợp với tình hình mới, cơ quan Trung ương Cục chuyển
thành Xứ ủy Nam Bộ, đồng chí Lê Duẫn, ủy viên Bộ Chính trị là Bí thư Xứ ủy. Nhiệm vụ
Xứ ủy lúc nầy là “giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam
nhằm củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn
quốc”.
Từ tháng 1-1961, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8 ( khóa III ) họp và
quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam. Bí thư Trung ương Cục đầu tiên là đồng
chí Nguyễn Văn Linh, nhiệm vụ Trung ương Cục là lãnh đạo vùng cực Nam Trung Bộ và
Nam Bộ ( chiến trường B2), còn vùng khu V và Trị Thiên do Trung ương Đảng trực tiếp
lãnh đạo [61, tr.42].
Khi cách mạng miền Nam chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang tiến công cách mạng,
trong hoạt động thực tế, Đảng gặp một số trở ngại trong việc tuyên truyền, tập hợp quần
chúng ở miền Nam. Vì Đảng ta là Đảng cầm quyền ở miền Bắc, đồng thời lãnh đạo cách
mạng cả nước, nên địch vin vào cớ đó để xuyên tạc miền Bắc can thiệp vào công việc nội bộ
của miền Nam.
Trước yêu cầu mới của cách mạng, tiếng nói của Đảng phải thường xuyên thâm nhập
vào quần chúng, làm cho quần chúng không những chỉ biết có Mặt trận mà còn thấy rằng
cách mạng miền Nam do Đảng lãnh đạo, nhằm thực hiện mục đích của Đảng là giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Vì vậy, Đảng bộ miền Nam phải có danh nghĩa công khai
để tham gia và lãnh đạo Mặt trận, lãnh đạo cách mạng miền Nam, làm thất bại âm mưu
xuyên tạc của kẻ thù.
Căn cứ vào thực tiễn của cách mạng miền Nam và đề nghị của Đảng bộ miền Nam :
”Đảng bộ miền Nam phải có tên riêng vì nếu giữ tên cũ công khai thì kẻ thù trong và ngoài
dễ vin vào đó mà xuyên tạc, vu cáo miền Bắc can thiệp lật đổ miền Nam. Điều đó làm cho
miền Bắc gặp khó khăn trong cuộc vận động đấu tranh cho miền Nam trên phương diện
pháp lý quốc tế. Mặt khác, đổi tên Đảng cũng tạo điều kiện cho Đảng bộ miền Nam công
khai hiệu triệu nhân dân miền Nam dùng mọi hình thức để đánh đuổi kẻ thù” [74, tr.20].
Trung ương Đảng đã quyết định Đảng bộ miền Nam lấy tên là Đảng Nhân dân cách mạng
Việt Nam.
Ngày 1-1-1961, Đảng bộ miền Nam lấy tên công khai là Đảng Nhân dân cách mạng
Việt Nam và tuyên bố cương lĩnh của Đảng.
Trong tuyên bố nhân ngày thành lập, Đảng Nhân dân cách mạng Việt Nam đã nêu rõ:
“Đảng Nhân dân cách mạng Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
miền Nam Việt Nam, đồng thời cũng là đảng của toàn thể nhân dân yêu nước miền Nam
Việt Nam .
Đảng tuyên bố nhiệt liệt hưởng ứng tuyên ngôn và chương trình hành động của Mặt
trận DTGPMNVN. Đảng tuyên bố tự nguyện đứng vào hàng ngũ của Mặt trận, đoàn kết và
hợp tác chặt chẽ với các đảng phái dân chủ, các tôn giáo và các đoàn thể yêu nước trong mặt
trận để thực hiện chương trình của Mặt trận. Đảng nhấn mạnh vào sự thực hiện đoàn kết dân
tộc, đoàn kết giai cấp, các đảng phái, các tầng lớp yêu nước, giúp đỡ các dân tộc thiểu số,
trên tinh thần bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ” [22].
Nhiệm vụ trước mắt của Đảng Nhân dân cách mạng Việt Nam là đoàn kết lãnh đạo
giai cấp công nhân, nông dân, nhân dân lao động và toàn thể đồng bào miền Nam Việt Nam,
đấu tranh đánh đổ ách thống trị của đế quốc và phong kiến, hiện nay là đế quốc Mỹ và tập
đoàn Ngô Đình Diệm tay sai của Mỹ, giải phóng miền Nam, thành lập một chính quyền liên
hiệp dân tộc, dân chủ rộng rãi, thực hiện độc lập dân tộc, tự do, dân chủ, cải thiện đời sống
của nhân dân, làm cho người cày có ruộng, phát triển công thương nghiệp, mở mang khoa
học giáo dục, làm cho mọi người được cơm no áo ấm, tiến tới hoà bình thống nhất nước
nhà, góp phần bảo vệ hoà bình thế giới.
Đảng Nhân dân cách mạng Việt Nam là một thành viên đặc biệt của Mặt trận
DTGPMNVN, vừa là lực lượng nòng cốt của Mặt trận, vừa bảo đảm một cách chắc chắn
cho cách mạng miền Nam đi đúng hướng, thực hiện nhiệm vụ cách mạng Việt Nam do
Đảng Lao động Việt Nam đề ra.
Sự kiện trên là một sách lược có ý nghĩa quan trọng, có tác dụng cổ vũ tinh thần cách
mạng của quần chúng, tranh thủ được rộng rãi các tầng lớp và cá nhân vào Mặt trận dân tộc
thống nhất, cô lập thêm đế quốc Mỹ và tay sai. Sách lược nầy cũng có tác dụng tranh thủ
chính phủ một số nước trên thế giới đồng tình với cuộc đấu tranh của nhân dân ta nhằm giải
phóng miền Nam.
2.1.1.2.Hệ thống tổ chức của Mặt trận
Từ ngày thành lập đến đại hội lần thứ nhất của Mặt trận (1962) thì cơ quan lãnh đạo
của Mặt trận là Uỷ ban trung ương lâm thời. Từ Đại hội Mặt trận lần thứ nhất cơ quan lãnh
đạo của Mặt trận là Uỷ ban trung ương Mặt trận chính thức do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ
làm chủ tịch Đoàn chủ tịch, Ban thư ký và và 30 uỷ viên.
Từ sau đại hội lần thứ nhất, hệ thống Uỷ ban Mặt trận từ trung ương đến thôn, xã được
hình thành, Uỷ ban mặt trận làm nhiệm vụ của chính quyền cách mạng khi ta chưa có chính
quyền.
Ngày 19-3-1961, Uỷ ban Mặt trận Dân tộc giải phóng Khu Sài Gòn được thành lập
[72, tr.299] do Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm Chủ tịch, Kỹ sư Lê Văn Thả làm Phó chủ
tịch. Lễ ra mắt được tở chức trọng thể ở xã Phú Mỹ Hưng (Củ Chi), có hàng vạn quần
chúng tham dự, nhiều giới đồng bào từ nội thành ra tham gia [60, tr.357-366].
Tháng 5-1961, trên 200 đại biểu tham dự Đại hội đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải
phóng Tây Nam Bộ [3]. Đại hội bầu ra Uỷ ban Mặt trận Khu gồm 32 uỷ viên. Ban thường
vụ có các ông: Chủ tịch Dương Văn Vinh, Phó chủ tịch Trần Văn Bỉnh, Phó chủ tịch kiêm
Tổng thư ký Ngô Tâm Đạo. Cuộc mít tinh ra mắt Uỷ ban được tổ chức ở xã Trí Phải (Thới
Bình, Cà Mâu), có 20.000 đồng bào tham dự, có đại diện các dân tộc, các tôn giáo, các giới,
và cả đồng bào ở đô thị, nhân sĩ, trí thức tham dự.
Tháng 7-1961, Ủy ban mặt trận 6 tỉnh miền Trung Nam Bộ và ủy ban các tỉnh, các
vùng khác cũng thành lập [6, tr.138].
Cuối tháng 8-1962, Khu uỷ miền Đông tổ chức Đại hội thành lập Mặt trận Dân tộc
giải phóng miền Đông Nam Bộ [31]. Đại hội tổ chức tại chiến khu Đ với gần 200 đại biểu
tham dự. Đại biểu của đảng Nhân dân cách mạng miền Nam, đại biểu của Quân giải phóng,
các đoàn thể chính trị cách mạng (Công đoàn, Phụ nữ, Thanh niên, Nông dân…), các tôn
giáo ( Phật, Thiên Chúa, Cao Đài). Uỷ ban Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Đông do đồng
chí Lê Thành Long ( Mười Long) làm chủ tịch. Lê Đình Nhơn làm Tổng thư ký. Sự ra đời
của Uỷ ban Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Đông Nam Bộ thể hiện được truyền thống đại
đoàn kết dân tộc và quyết tâm kháng chiến của Đảng bộ và các tầng lớp nhân dân miền
Đông.
Giữa năm 1965, tại huyện Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, trên 200 đại biểu các ủy ban Mặt
trận Dân tộc giải phóng tỉnh, thành phố, đại biểu các đoàn thể, đại biểu đảng bộ Nam Trung
Bộ Đảng nhân dân cách mạng Việt Nam, đại biểu phong trào tự trị Tây Nguyên… tham dự
Đại hội Mặt trận Dân tộc giải phóng Nam Trung Bộ [30]. Đại hội đã bầu 25 vị vào ủy ban
Mặt trận do nhà giáo Trần Hữu Duẫn làm chủ tịch, ông Trương Công Thuận làm phó chủ
tịch, các ông Rơ Chôm Thép ( Gia Rai), ông Siu Tám ( Ê Đê), nhà báo Hồ Hiếu Dân, Đại
đức Thích Giác Lượng, linh mục Gia cô bê Nguyễn Hữu Thiên là ủy viên.
Tất cả các miền ( Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Sài Gòn –Gia Định,
Trung Nam Bộ, Tây Nam Bộ) đều có Uỷ ban Mặt trận. Trong số 41 tỉnh, thành, từ vĩ tuyến
17 đến mũi Cà Mâu thì 38 tỉnh, thành đã có uỷ ban Mặt trận ra mắt nhân dân. Tất cả các xã
ở vùng kềm kẹp và vùng giải phóng đều có cơ sở Mặt trận, có Uỷ ban Mặt trận làm nhiệm
vụ đoàn kết toàn dân, tổ chức chính trị, quản trị, quân sự, văn hoá và cả kinh tế nữa. Xét
toàn bộ cơ sở và hệ thống của Mặt trận ta thấy Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam như một Chính phủ.
Theo báo cáo của Luật sư Nguyễn Hữu Thọ trong Đại hội Mặt trận lần thứ hai :“Mặt
trận vừa phải tiếp tục đảm đương nhiệm vụ chánh trị là động viên tổ chức và lãnh đạo cuộc
kháng chiến giải phóng miền Nam, lại vừa phải gánh vác vai trò của một chính quyền đang
hình thành ...”[62].
Cho đến Đại hội Mặt trận lần thứ hai (1964) thì các ngành trực thuộc trung ương được
tổ chức và kiện toàn bao gồm các ban: ban Quân sự trung ương, ban Thông tin văn hoá và
giáo dục, ban Liên lạc đối ngoại, ban Kinh tế tài chính, ban Y tế, ban Bảo vệ an ninh, ban
Quản lý vùng giải phóng, ban Giao thông liên lạc [23].
Trên mặt trận ngoại giao, từ năm 1962, Mặt trận Dân tộc giải phóng chủ trương đẩy
mạnh các họat động đối ngoại, gắn cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân ta với phong trào
đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ trên thế giới. Họat động ngọai giao của
Mặt trận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đạt hiệu quả rất khả quan, có tác dụng xây dựng
ba tầng Mặt trận bao vây đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh tạo điều kiện
cho ta “đánh cho ngụy nhào”.
Theo ông Nguyễn Hữu Thọ : trước khi có chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà
miền Nam Việt Nam “Mặt trận Dân tộc Giải phóng đồng thời làm chức năng nhà nước. Uỷ
ban Trung ương Mặt trận thực tế là chính phủ cách mạng ở miền Nam, các uỷ ban tỉnh,
quận, xã…thực hiện nhiệm vụ quản lý vùng giải phóng” [18].
Cơ quan tuyên truyền của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là Thông
tấn xã Giải phóng, báo Giải phóng và Đài phát thanh Giải phóng cùng với trên 30 tờ báo
trung ương và địa phương.
2.1.1.3. Các đoàn thể trong Mặt trận
Ngay từ khi mới ra đời, Mặt trận DTGPMNVN đã nhanh chóng trở thành trung tâm
đoàn kết của tất cả các lực lượng yêu nước ở miền Nam. Uy thế của Mặt trận những ngày
đầu cũng rất lớn, nhiều vùng rộng lớn ở miền Nam Việt Nam chính quyền Diệm không còn
tồn tại, “nông dân chỉ biết có chính phủ bí mật “ [7] ( ý nói uỷ ban Mặt trận dân tộc giải
phóng ở các địa phương) tồn tại song song hoặc thay thế nhiều cấp chính quyền của Mỹ -
Diệm. Nông dân thôi không nộp thuế, thôi không đi lính, thôi không đi bỏ phiếu cho chính
quyền Diệm, và thôi cả việc giữ những thẻ kiểm tra của chính quyền Diệm.
Thực hiện nghị quyết Bộ chính trị: “Mặt trận cần phải ra sức tăng cường lực lượng
công nông, lấy công nông làm cơ sở, đoàn kết chặt chẻ với các tầng lớp trí thức, học sinh,
tranh thủ lôi kéo các tầng lớp bên trên, đặc biệt là giới công thương và lôi kéo cả những
người địa chủ yêu nước, hợp tác chặt chẻ với các đảng phái, tôn giáo yêu nước” [58]. Mặt
trận Dân tộc giải phóng đã huy động tất cả các tổ chức, đoàn thể, đảng phái, tôn giáo, dân
tộc ở miền Nam tham gia Mặt trận.
Hơn một năm sau khi ra đời. Mặt trận DTGPMNVN đã tập hợp vào hàng ngũ của
mình hàng triệu người ở nông thôn cũng như ở thành thị. Các uỷ ban Mặt trận dân tộc giải
phóng, các uỷ ban dân tộc tự trị và các tổ chức quần chúng khác lần lượt thành lập ở Nam
Bộ, Nam Trung Bộ. Nhân dân miền Nam, đủ các tầng lớp, không phân biệt chính kiến, tín
ngưỡng, dân tộc đã tham gia vào các tổ chức của Mặt trận. Hơn hai mươi tổ chức chính trị,
quân sự, tôn giáo đã gia nhập Mặt trận, trong đó có:
- Ngày 4-1-1961 : thành lập “Nhóm những người đấu tranh cho hòa bình thống nhất
độc lập Tổ quốc Việt Nam ”, nhóm nầy bao gồm những binh sĩ yêu nước trong quân đội
ngụy, sau khi thành lập nhóm nầy xin gia nhập Mặt trận [11, tr.21].
- Ngày 9-1-1961 : Hội Liên hiệp học sinh, sinh viên giải phóng, chủ tịch ông Trần
Bửu Kiếm.
- Ngày 31-1-1961, đảng Dân chủ miền Nam Việt Nam thành lập, đảng của giai cấp tư
sản dân tộc ở miền Nam .
- Ngày 15-2-1961, thành lập Giải phóng quân miền Nam Việt Nam .
- Ngày 20-2-1961: Hội Nông dân giải phóng, chủ tịch ông Nguyễn Hữu Thế.
- Ngày 8-3-1961 :Hội Liên hiệp phụ nữ giải phóng, chủ tịch bà Nguyễn Thị Tú, về
sau bà Nguyễn Thị Định.
- Ngày 30-3-1961, Hội Chấn hưng Đạo đức của Phật giáo Hòa hảo thành lập, chủ tịch:
Nguyễn Thị Biền.
- Ngày 31-3-1961, nhóm Công thương gia yêu nước miền Nam thành lập.
- Tháng 4-1961, Hội Những người Công giáo Kính Chúa yêu nước thành lập.
- Ngày 8-4-1961, Hội Lục hòa Phật tử miền Nam Việt Nam thành lập
- Ngày 24-4-1961 : Hội Liên hiệp thanh niên giải phóng, chủ tịch ông Trần Bạch
Đằng.
- Ngày 27-4-1961 : Hội Lao động giải phóng, sau đổi là Liên hiệp Công đoàn giải
phóng, chủ tịch ông Phan Xuân Thái tức ông Phan Văn Đáng .
- Ngày 19-5-1961 : thành lập Ủy ban Tự trị Dân tộc Tây Nguyên, chủ tịch ông Y Bih
Alêô, dân tộc Ê-đê.
- Ngày 1-7-1961 : Đảng xã hội cấp tiến miền Nam Việt Nam, đảng của những trí thức
yêu nước miền Nam, Tổng thư ký ông Nguyễn Văn Hiếu .
- Ngày 1-7-1961, Hội Những người kháng chiến cũ ở miền Nam Việt Nam gia nhập
Mặt trận. Hội ra tuyên ngôn và tuyên bố cương lĩnh của Hội, chủ tịch : Phan Văn Đáng, Phó
chủ tịch kiêm Tổng thư ký : Trần Bạch Đằng.
- Ngày 15-7-1961 : Hội Văn nghệ giải phóng, chủ tịch: ông Trần Hữu Trang, Tổng thư
ký: ông Lý Văn Sâm.
- Tháng 9-1961 : Uỷ ban Bảo vệ hoà bình thế giới của miền Nam Việt Nam , chủ tịch:
Bác sĩ Phùng Văn Cung.
- Ngày 11-11-1961 : Hội Nhà báo yêu nước và dân chủ miền Nam Việt Nam , chủ tịch
ông Vũ Tùng, về sau ông Tân Đức.
- Ngày 1-1-1962, Đảng Nhân dân cách mạng thành lập, đây là đảng của những người
theo chủ nghĩa Mác Lênin, có vai trò rất quan trọng trong Mặt trận .
- Ngày 1-1-1962, Đoàn Thanh niên nhân dân cách mạng Việt Nam thành lập.
- Ngày 30-10-1962, thành lập hội Hồng thập tự giải phóng miền Nam Việt Nam , chủ
tịch : Bác sĩ Phùng Văn Cung.
- Ngày 20-11-1963, thành lập Hội Nhà giáo yêu nước miền Nam Việt Nam [49, tr.36],
Ban vận động thành lập Hội Nhà giáo yêu nước miền Nam Việt Nam đã ra bản dự thảo
điều lệ và lời kêu gọi. Các địa phương nhiệt liệt hưởng ứng. Ở Sài Gòn - Gia Định thành lập
một Khu hội để vận động giáo chức, đầu tiên là lực lượng của nghiệp đoàn giáo học tư thục.
Ngoài ra, còn có các Ủy ban đoàn kết Á – Phi, Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới, Hội
Luật gia dân chủ cũng ra đời và thống nhất hành động với Mặt trận ở khắp mọi nơi.
Sự phát triển các đoàn thể và tổ chức của Mặt trận Dân tộc giải phóng gắn liền với sự
phát triển về nội dung và hình thức đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam. Qua cuộc
đấu tranh nầy, đội ngũ cách mạng ngày càng được tôi luyện, lực lượng cách mạng ngày
2.1.1.4.Các đại hội Mặt trận
càng đông đảo, lực lượng cách mạng không ngừng củng cố và phát triển.
* Đại hội Mặt trận DTGPMNVN lần thứ nhất [18, tr.406].
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Trung ương Cục miền Nam về củng
cố, xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất, từ ngày 16-2-1962 đến ngày 3-3-1962, tại vùng
núi Kà Tum ( Tây Ninh ), khoảng 80 đại biểu các chính đảng, đoàn thể, lực lượng vũ trang
giải phóng, đại diện các dân tộc, các tôn giáo đã họp Đại hội Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam lần thứ nhất.
Đại hội đã kiểm điểm và đánh giá công tác chỉ đạo của uỷ ban Trung ương lâm thời.
Đại hội đã nhất trí hoàn toàn tín nhiệm sự chỉ đạo của Uỷ ban Trung ương lâm thời và biểu
dương công lao to lớn của Uỷ ban Trung ương lâm thời đã vượt bao khó khăn buổi ban
đầu để đưa phong trào cách mạng miền Nam tiến lên và đã từng bước tạo thế và lực vững
chắc cho Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam .
Đại hội cử ra Uỷ ban Trung ương chính thức gồm 52 vị. Đoàn chủ tịch gồm 15 vị,
chủ tịch là Luật sư Nguyễn Hữu Thọ. Ban thư ký có 5 vị, Tổng thư ký là Kiến trúc sư
Huỳnh Tấn Phát, và 30 uỷ viên ( xem phụ lục I ). Trong đại hội bầu ra 31 vị, còn lại 21 vị
để giành cho các tổ chức, cá nhân chưa có điều kiện tham gia đại hội.
Đại hội đã công bố 4 chủ trương cứu nước khẩn cấp trong tình hình mới :
- Thứ nhất: Chính phủ Mỹ phải đình chỉ chính sách và hành vi xâm lược vũ trang miền
Nam Việt Nam, phải giải tán bộ chỉ huy quân sự Mỹ (lập ở Sài Gòn), phải rút lui hết quân
đội và nhân viên quân sự của Mỹ và của chư hầu, đồng minh Mỹ, phải đưa ra khỏi miền
Nam các vũ khí Mỹ và phương tiện chiến tranh.
- Thứ hai: Các phái hữu quan ở miền Nam đình chỉ chiến tranh, lập lại hoà bình, và
thực hiện an ninh ở khắp miền Nam trong tinh thần người miền Nam giải quết vấn đề nội bộ
của mình. Chính quyền miền Nam chấm dứt các cuộc hành quân khủng bố, các cuộc tàn sát,
đàn áp, bắn giết nhân dân, bãi bỏ lệnh khẩn cấp và ngừng ngay việc dồn dân lập ấp chiến
lược, giải tán các khu ấp chiến lược đã được dựng lên.
- Thứ ba: Thành lập một chính phủ liên hiệp dân tộc gồm đại biểu của các đảng, các
phái, các nhóm thuộc các khuynh hướng chính trị, các tầng lớp, các giới, các tôn giáo và dân
tộc ở miền Nam. Chính phủ liên hiệp có trách nhiệm thực hiện và bảo đảm hoà bình, tổ chức
tổng tuyển cử tự do để bầu một Quốc hội dân chủ ở miền Nam và thi hành những chính sách
cấp bách, ban hành tự do dân chủ cho mọi đảng, mọi nhóm chính trị, mọi tôn giáo, trả tự do
cho tất cả những tù chính trị, giải tán tất cả các trại an trí và mọi hình thức tập trung khác,
đình chỉ việc bắt lính và việc quân sự hoá thanh niên, phụ nữ, công chức, học sinh, thi hành
các chính sách kinh tế nhằm bảo đảm tự do kinh doanh, độc lập kinh tế, bãi bỏ độc quyền
và cải thiện đời sống cho mọi tầng lớp nhân dân.
- Thứ tư: Miền Nam Việt Nam sẽ thi hành đường lối ngoại giao hoà bình trung lập, đặt
quan hệ hữu hảo với tất cả các nước, trước hết là các nước láng giềng, không gia nhập vào
một khối quân sự nào, không thừa nhận cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở miền
Nam, nhận viện trợ không kèm theo điều kiện chính trị của tất cả các nước. Một hiệp ước
quốc tế cần thiết được ký gấp rút để các cường quốc thuộc các khối cam kết tôn trọng chủ
quyền, độc lập, lãnh thổ toàn vẹn và nền trung lập của miền Nam Việt Nam. Miền Nam Việt
Nam sẵn sàng với Campuchia, Lào, hình thành một khu vực trung lập, cả ba đều có chủ
quyền đầy đủ.
Bốn chủ trương khẩn cấp của Mặt trận nhằm cô lập đế quốc Mỹ và bọn tay sai đầu sỏ
ở miền Nam Việt Nam, nhằm mở rộng hơn nữa phạm vi hành động thống nhất chống Mỹ và
tay sai, mở ra con đường giải quyết vấn đề miền Nam, chấm dứt chiến tranh xâm lược của
đế quốc Mỹ.
Đại hội Mặt trận DTGPMNVN lần thứ nhất khẳng định: Nhiệm vụ chung của Mặt
trận DTGPMNVN là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược
và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập
một chính quyền liên minh dân tộc, dân chủ rộng rãi ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc,
tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, giữ vững hoà bình, thi hành chính sách trung lập, tiến tới
hoà bình thống nhất Tổ quốc, tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam
Á và thế giới. Chủ trương “thi hành chính sách trung lập ” là một sách lược mềm dẻo, nhằm
tập hợp rộng rãi mọi lực lượng yêu nước chống Mỹ - Diệm [53].
Đại hội đã thảo luận và nhất trí thông qua Nghị quyết về một số công tác quan trọng,
trong đó công tác số 1 là “chống ấp chiến lược và gom dân”. Sau khi vạch trần âm mưu
thâm độc của “quốc sách” ấp chiến lược, Đại hội chỉ rõ :”Đây là vấn đề trung tâm, then chốt
của kế hoạch Stalay- Taylo, cho nên địch quyết sống chết và đang dùng đủ hình thức, đủ
mánh khóe, thủ đoạn, nhất là dùng bạo lực để khủng bố, tàn sát để bắt sạch, cướp sạch, phá
sạch, buộc nhân dân phải gom về đồn bót và xây dựng khu ấp chiến lược cho chúng”.
Từ phân tích trên, Mặt trận đã ra quyết nghị:”Chống phá kế hoạch khu, ấp chiến lược
và gom dân là nhiệm vụ công tác quyết định nhất trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ tính
mạng, tài sản của 14 triệu đồng bào miền Nam, duy trì và mở rộng phong trào đấu tranh
cách mạng là vấn đề mấu chốt trong việc bẻ gãy kế hoạch Stalay -Taylo”. Nghị quyết nhấn
mạnh: ”Đó là công tác trọng tâm hàng đầu của các cấp uỷ, ủy ban Mặt trận Dân tộc giải
phóng, của tất cả các lực lượng chính trị và vũ trang” [52].
Đại hội là một sự kiện chính trị quan trọng, góp phần cổ vũ, động viên nhân dân miền
Nam đoàn kết trong sự nghiệp chống đế quốc Mỹ và tay sai. Hàng triệu người trên khắp
miền Nam đã tổ chức mít tinh hoan nghênh Uỷ ban Mặt trận và bày tỏ niềm tin tưởng vào
chính sách đúng đắn, chính nghĩa của Mặt trận .
* Đại hội Mặt trận DTGPMNVN lần thứ hai [54], [62]
Đại hội Mặt trận diễn ra từ ngày 1-1 đến ngày 8-1-1964 tại một địa điểm gần Xóm
Giữa ( Tây Ninh ). Có 150 đại biểu tham dự đại hội. Đây là đại hội có đầy đủ thành phần
tham dự hơn đại hội trước. Có đại biểu người Kinh, người Chăm, người miền Bắc di cư (
trong đó có một vị linh mục ), có đại biểu của các giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo, Bình Xuyên,
có các sĩ quan chế độ Sài Gòn từng tham gia cuộc đảo chính 11-11- 1960, có đại biểu từ
nước ngoài về, đại biểu từ các đô thị ra.
Đại hội cử ra một Uỷ ban trung ương gồm 45 vị, cũng do luật sư Nguyễn Hữu Thọ
làm chủ tịch, đa số các đại biểu trong đại hội trước đều được trân trọng tín nhiệm và giữ lại,
trừ các đại biểu tuổi cao sức yếu hoặc đã hy sinh trong chiến đấu. Đại hội còn giành riêng
11 ghế cho các chính đảng, đoàn thể, lực lượng yêu nước, nhân sĩ còn trong vùng tạm chiếm
sẽ tham gia sau này.
Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, đại diện Uỷ ban trung ương Mặt trận đọc Báo cáo chính trị
tại đại hội .
Báo cáo chính trị đã tổng kết tình hình hai năm đánh Mỹ : “Cuộc chiến tranh xâm lược
do đế quốc Mỹ phát động, mặc dầu với nhiều cố gắng, đã vấp phải những thất bại căn bản.
Chúng bị đánh lui trên nhiều trận địa, không thể gượng dậy. Nói về chánh trị và về quân sự
thì địch đang bước vào thời kỳ sụp đổ, chiến thuật trực thăng vận và “quốc sách ” ấp chiến
lược tan vỡ có nghĩa là những phần chủ yếu nhất của chiến tranh đặc biệt đã lung lay. Kẻ
thù đã không thể giành được thế chủ động, trái lại còn bị động hơn bao giờ hết…” [62].
Báo cáo chính trị cũng đề ra phương hướng nhiệm vụ sắp tới là “không ngừng thổi
bùng ngọn lửa thi đua … đẩy mạnh phong trào thi đua 4 tốt của thanh niên và nhất là phong
trào “thi đua ấp Bắc giết giặc lập công” trong các giới, ở tất cả các vùng ” [62]. Nhiệm vụ
sắp tới của Mặt trận là tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam, chấp
hành đúng đắn những chính sách của Mặt trận, bảo đảm thực hiện Chương trình hành động
Mặt trận đã đề ra.
Ảnh hưởng của Đại hội Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam lần thứ hai
thật to lớn đối với trong nước và trên thế giới. Từ đây Mặt trận công khai là người lãnh đạo
cách mạng miền Nam, là người đại diện chân chính của 14 triệu đồng bào miền Nam. Mặc
dù chưa lập được chính phủ nhưng Mặt trận được nhiều nước trên thế giới thừa nhận, có
nhiều nước tiếp nhận đại diện chính thức, thậm chí có nơi còn công nhận Đại sứ đặc mệnh
toàn quyền.
2.1.2. Xây dựng chính quyền và đời sống nhân dân trong vùng giải phóng
* Xây dựng chính quyền và vùng giải phóng.
Muốn giải phóng dân tộc khỏi ách ngoại bang, nhất thiết phải đấu tranh vũ trang.
Cuộc chiến đấu vũ trang phát triển đến một mức độ nào đó, tất nhiên làm nảy sinh ra vùng
tự quản, vùng giải phóng của nhân dân, phân biệt với vùng bị nguỵ quyền kềm kẹp, vùng
giải phóng là căn cứ địa của cách mạng.
Ở miền Nam từ 1954 đến trước năm 1960, Mỹ -Diệm kiểm soát tuyệt đại đa số các
thôn xã. Tuy nhiên, ngay ở các vùng đồng bằng, một số thôn xã bề ngoài thì vẫn có nguỵ
quyền, nhưng vì ở đấy lực lượng của nhân dân mạnh nên sức kềm kẹp của địch bị hạn chế.
Đồng thời, ở nhiều vùng rừng núi Nam Bộ, Tây Nguyên, các tỉnh duyên hải Trung Bộ, địch
chưa đặt nổi bộ máy nguỵ quyền của nó. Nhưng dù sao thì những nơi nầy nhân dân cũng
chưa xây dựng được bộ máy tự quản của mình.
Từ 1959 - 1960, bão táp cách mạng nổi lên, trước hết là ở Nam Bộ và vùng miền núi
miền Trung Trung Bộ, chính quyền Diệm sụp đổ từng mãng. Nhiều nơi nhân dân đã nổi dậy
phá thế kềm kẹp của địch, nhiều nơi tự xây dựng chính quyền tự quản. Đến cuối 1960, vùng
tự do (là vùng không còn nguỵ quyền) và vùng phá thế kềm kẹp ( là vùng có cơ quan nguỵ
quyền nhưng bất lực ), hai loại đã phát triển nhiều nơi. ở Nam Bộ có 1.000 xã trên tổng số
1.300 xã. Miền rừng núi Nam Trung Bộ có 5.000 thôn trên tổng số 9.000 thôn.
Năm 1961, nguỵ quyền ra sức chèo chống, cố sức lập lại những vùng tề đã bị diệt,
củng cố tề ở những vùng tề bất lực, nhưng vùng tự quản của nhân dân và vùng phá thế kềm
kẹp vẫn giữ được, chẳng những giữ được mà còn mở rộng. Số xã do nhân dân tự quản ở
Nam Bộ là 1.070 xã, ở Nam và Trung Trung Bộ là 5.100 xã.
Năm 1962, năm Mỹ- Diệm ra sức càn quét gom dân lập ấp, năm thực hiện kế hoạch
Stalây- Taylo, năm Mỹ- Diệm mở nhiều cuộc phản công lớn nhằm giành lại thế chủ động và
tiêu diệt vùng tự do, tiêu diệt các lực lượng vũ trang nhân dân miền Nam, nhưng về cơ bản
chúng bị thất bại. Cuối năm 1962, chúng ta có 76 % diện tích và 50% dân số toàn miền
Nam.
Cuối tháng 11-1963, miền Trung Nam Bộ có tất cả là 489 xã ,trong đó có 86 xã giải
phóng hoàn toàn, 160 xã còn đồn bốt địch , nhưng các đồn bốt đó bị giam trong một khu đất
hẹp, mỗi lần lính Mỹ- Diệm muốn đi ra xa đồn thì phải xin phép quân du kích thì mới được
ra vào an toàn, 162 xã còn lại còn bị địch kiểm soát từ một nửa đến 2/3 đất đai, chỉ còn 90
xã còn ở trong vùng kềm kẹp của địch [22].
Cuối năm 1963, vùng giải phóng và phá thế kềm kẹp bao gồm một dải đất rộng lớn
chạy từ cực Bắc Tây Nguyên đến tận miền Đông Nam Bộ, lưu vực sông Cửu Long xuống
đến tận mũi Cà Mâu. Tuy lúc nầy chưa có tỉnh nào được hoàn toàn tự do, nhưng không phải
chỉ vùng rừng núi hiểm trở, mà ngay cả vùng đồng bằng, nhiều tỉnh như Tân An, Mỹ Tho,
Bến Tre... địch bị dồn tới sát thị trấn, thị xã. Các vùng giải phóng và phá thế kềm kẹp chia
cắt, lấn át, cài nhau với các vùng còn bị địch thống trị, bao vây chúng càng ngày càng chặt.
Vùng giải phóng là kết quả cao nhất của phong trào đấu tranh chính trị và vũ trang của
nhân dân. Bằng đấu tranh chính trị và vũ trang, nhân dân đã bức rút đồn bốt hay trực tiếp hạ
đồn bốt, nhân dân bức tề chạy trốn hay trực tiếp diệt tề. Nguỵ quyền bị giải tán, nguỵ quân
được giáo dục, ác ôn bị trừng trị. Có nhiều nơi nhân dân tuỳ tình hình cụ thể mà dùng một
phần cái vỏ nguỵ quyền xã cũ để bênh vực một số lợi ích của mình. Nhưng nói chung thì
nhân dân tự quản hẳn, cấp uỷ và Mặt trận Dân tộc giải phóng thường làm nhiệm vụ quản lý
làng xã tự do, lập ra uỷ ban Mặt trận để quản lý làng xã.
Vùng giải phóng là nguồn cung cấp sức người sức của cho cuộc kháng chiến chống
Mỹ. Vùng giải phóng còn là ngọn cờ hiệu triệu nhân dân trong các vùng, miền bị Mỹ- Diệm
kiểm soát đứng lên chiến đấu để tự giải phóng. Vùng giải phóng rộng lớn bao nhiêu thì nguỵ
quyền càng bị động bấy nhiêu, quân số càng thiếu, thuế càng thất thu, cho đến gạo nhiều khi
cũng phải nhập cảng mới đủ cung cấp cho thị trường. Những hiện tượng khủng hoảng đó
của chế độ Mỹ-Diệm liên quan sâu sắc đến sự thành lập, sự củng cố và sự phát triển của
vùng giải phóng .
Từ 1964 đến 1965, vùng giải phóng càng được mở rộng và được củng cố, chiếm ¾
diện tích và 2/3 dân số miền Nam Việt Nam .
Thời điểm lịch sử từ sau khi chính quyền Diệm bị sụp đổ cho tới trước khi đế quốc
Mỹ đưa đại quân vào miền Nam Việt Nam là thời gian nguỵ quyền Sài Gòn không ổn định
nhất. Đây là thời kỳ phong trào đấu tranh của nhân dân đô thị liên tục lên cao, cuộc đấu
tranh vũ trang và chính trị sôi nổi mạnh mẽ, đều khắp từ vĩ tuyến 17 đến Cà Mâu, từ Tây
Nguyên xuống vùng biển. Đây là thời gian nguỵ quân bị thất bại liên tiếp. Nếu từ 1962 đến
1963, địch thụt lùi chầm chậm thì từ cuối 1963 chúng lùi nhanh chóng, nhất là những nơi
đông dân, gần biển, ven đô.
Từ cuối 1964, các đồng bằng miền Trung Trung Bộ được giải phóng, sang đầu 1965,
vùng thống trị cũ của địch thu hẹp nhiều, có thể nói không một nơi nào trong thời gian nầy
địch tấn công được vùng giải phóng. Trái lại, vùng giải phóng mở rộng, từ phân nửa diện
tích toàn miền Nam lên đến ba phần tư với hai phần ba dân số toàn miền Nam. Địch bị dồn
về các đô thị và vùng phụ cận, bị dồn về một số những con đường giao thông huyết mạch đã
bị cắt đứt ra từng đoạn. Mặt trận Dân tộc Giải phóng chẵng những kiểm soát chín phần
mười biên giới trên bộ giữa Việt Nam - Cam-pu-chia và Việt-Lào mà còn kiểm soát phân
nửa các bờ biển của miền Nam .
Ở Tây Nguyên, vùng tạm chiếm chỉ còn ở xung quanh 4 tỉnh thành Kom Tum, Plây
Ku, Buôn Ma Thuột và Đà Lạt, ở một phần dọc đường 14 và con đường từ Cheo Reo đi
Củng Sơn, dọc theo sông Ba. Ở Trung Trung Bộ, một rẻo đất dọc theo quốc lộ 1 từ sông
Bến Hải đến Đà nẵng, quanh thị trấn Hội An, Quy Nhơn. Ở Nam Trung Bộ, một rẻo đất từ
biên giới phía Bắc Khánh Hoà tới Phan Rí và một lõm từ Phan Thiết tới Hàm Tân, dọc theo
đường số 1. Ở miền Đông Nam Bộ, địch chỉ còn làm chủ vùng xung quanh Sài Gòn, con
đường đi Vũng Tàu, đi Mỹ Tho. Ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, vùng tạm chiếm còn rất
ít.
Theo báo cáo của Trung ương Cục lần thứ ba (10-1965) số ấp chiến lược còn lại ta
chưa phá được là 1.712 ấp chiến lược, vùng giải phóng mở rộng trên 7 triệu dân [30].
Nhìn chung, chỉ thị của Mặt trận Giải phóng cho các tổ chức vũ trang và chính trị của
mình “phải làm sao cho xã liền xã, quận liền quận, tỉnh liền tỉnh” [23] đến năm 1965 bước
đầu đã được thực hiện.
Trong vùng giải phóng không còn nguỵ quyền nữa. Nhân dân tự quản, chỉ có nguỵ
quyền ở cấp quận, cấp tỉnh. Nguỵ quyền cấp quận, tỉnh cũng không còn tay chân ở xã nữa
nên bản thân chúng không còn tác dụng cai trị mà trở thành những đối tượng để đồng bào
nông thôn đấu tranh trực diện, đòi đình chỉ càn quét, khủng bố, đòi chấm dứt chính sách
gom dân lập ấp chiến lược.
Vì vậy, từ sau Đại hội Mặt trận lần thứ nhất ( 16-2-1962), “Uỷ ban nhân dân tự quản
tự chuyển thành Uỷ ban giải phóng ” [18, tr.407]. Uỷ ban giải phóng đảm nhiệm chức năng
chính quyền ngày càng rõ nét và có hiệu quả, Uỷ ban giải phóng chăm lo nhiều mặt cho đời
sống của nhân dân, nhất là trong những đợt càn quét của địch, trong việc cung cấp lương
thực và vận động tuyển mộ tân binh cho lực lượng võ trang, một số nơi đã giành lại ruộng
đất cho nhân dân đã được cách mạng tạm cấp trước đây nay bị địch cướp giật.
Trong vùng giải phóng và một phần vùng tranh chấp, Uỷ ban Mặt trận Dân tộc giải
phóng và Uỷ ban nhân dân tự quản các cấp đã được thành lập từ Miền tới xã. Ở Tây Nguyên
và vùng núi nhiều tỉnh duyên hải của Liên khu V cũ , song song với các Uỷ ban nhân dân tự
quản, có lập những Uỷ ban phong trào dân tộc tự trị. Uỷ ban Mặt trận và Uỷ ban phong trào
tự trị không phải chỉ có ở vùng giải phóng mà có cả một số vùng tạm chiếm.
“Mục đích của ta là đánh đổ chính quyền địch, xây dựng chính quyền cách mạng của
ta. Nhưng trước mắt ta chưa xây dựng được chính quyền cuả ta ở những nơi chính quyền
địch tan rã. Ở các vùng miền núi và một số vùng đồng bằng, nếu chính quyền địch tan rã
thì ta dùng các uỷ ban Mặt trận địa phương làm cả nhiệm vụ giữ gìn trật tự trị an, hướng
dẫn quần chúng đoàn kết, sản xuất, học tập, cải thiện đời sống, bảo vệ trật tự cách mạng
,v.v….đó là mầm mống của chính quyền cách mạng sau nầy ” [58, tr.305].
* Đời sống nhân dân trong vùng giải phóng.
Thực hiện Tuyên ngôn và chương trình của Mặt trận, những nơi chính quyền Diệm bị
sụp đổ thì ở đó Uỷ ban Mặt trận điều hành quản lý địa phương, Mặt trận đã đề ra nhiều biện
pháp nhằm bênh vực quyền lợi thiết thực cho nông dân như: chia ruộng đất, giảm tô, xoá
nợ.
Tính đến năm 1962, nông dân miền Nam Việt Nam đã giành lại được 650.000 mẫu
ruộng vườn được chia hồi trước khi chiến tranh Đông Dương kết thúc (1954) mà Mỹ-Diệm
và tay chân đã cướp đoạt từ 1954 đến 1959.
Đến cuối năm 1962, nông dân theo lời kêu gọi của Mặt trận đã khai hoang được
101.250 mẫu, Mặt trận cấp cho nông dân thêm 700.000 mẫu. Tính đến năm 1963, trên
2.000.000/ 3.200.000 mẫu ruộng vườn đã về tay nông dân.
Số lượng đất được khai hoang, phần nào đã nói lên một cách sinh động sự lớn mạnh
của vùng giải phóng, nói lên sự gắn bó không gì lay chuyển nổi của hàng triệu nông dân
miền Nam đối với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và nói nói lên sự tham
gia tích cực của nông dân và phong trào đấu tranh vũ trang và chính trị.
Nông dân miền Nam trong vùng giải phóng cũng được giảm tô rất lớn. Mức tô những
năm 1962-1963 giảm từ 40 đến 80 % so với mức tô năm 1958-1959. Ngay trong vùng mới
phá thế kềm kẹp thì nông dân chỉ phải nộp thuế cho điền chủ từ 8 đến 20% .
Tính chung, ở Nam Bộ, từ ngày Đồng khởi (1960) cho đến ngày chính quyền Diệm bị
lật đổ thì số tô được giảm lên đến 10 triệu giạ lúa, nghĩa là từ 210.000 đến 230.000 tấn lúa
[22].
Nơi nào nhân dân tự quản hay phá thế kềm kẹp thì Mặt trận tuyên bố xoá bỏ mọi
khoản nợ của nông dân đối với tổ chức “Nông tín cuộc” của Mỹ-Diệm.
Trong vùng giải phóng, trên cơ sở ruộng đất được cấp, nông dân rất hăng hái sản xuất,
trước hết là để cung cấp cho cuộc đấu tranh giải phóng, đồng thời cũng là để nâng cao mức
sống của mình ngay trong khi chiến đấu.
Trong các khu giải phóng, Mặt trận đã phát động phong trào thi đua sản xuất. Quân và
dân, tay cày tay súng, trồng tĩa quanh năm, đẩy mạnh sản xuất lúa gạo, ngô khoai, thực
phẩm, chú trọng đến chăn nuôi và các nghề tiểu thủ công nghiệp, các nghề phụ gia đình, ra
sức xây dựng nền kinh tế tự túc đến mức càng cao bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, bảo đảm
nhu cầu cung cấp cho kháng chiến đến mức tối đa. Không khí sản xuất ở đồng quê giải
phóng chưa lúc nào sôi động như lúc nầy, vì nó được cổ vũ bằng một động cơ tinh thần vô
cùng cao quý: lòng yêu nước.
Uỷ ban Mặt trận các cấp chẳng những quan tâm đến chiến sự, trị an, mà rất quan tâm
đến việc hướng dẫn đồng bào cải tiến kỹ thuật canh tác, cải tiến nghề nông. Khắp các vùng
tự do Nam Bộ, kể các các vùng hẻo lánh đều có máy bơm nước, máy điện, máy nổ, đài thu
thanh, ghe máy, xuồng máy… khá phổ biến.
Trong quá trình chiến đấu với giặc, ta đã phá nhiều lộ chính để ngăn chặn các cuộc
hành quân của địch. Bên cạnh đó, ta tổ chức đào nhiều kênh rạch nhỏ, đắp nhiều lộ nhỏ
trong các xóm ấp giải phóng để đi lại. Riêng miền Trung Nam Bộ, đến năm 1963 ta đã đào
190 con kênh dài 600 km. Ở Mỹ Tho ta đào 412 km kênh mương rút phèn, nhờ vậy ở hai
quận Châu Thành và Cai Lậy đã đưa diện tích trồng lúa lên gấp 3 lần so với trước giải
phóng. Chỉ trong 3 tháng đầu năm 1963, nông dân quận Mỏ Cày ( Bến Tre) đã lập thêm
được 3.000 công vườn, trồng thêm 160 công dừa, 169 công quýt, 2.563 công mía.
Điều đáng chú ý là việc đào kênh khai mương, đắp bờ trồng cây, lên vườn không phải
chỉ nhằm mục đích kinh tế mà còn theo kế hoạch tác chiến quân sự nữa. Kênh là đường giao
thông mau lẹ cho xuồng, mương là chiến hào, cây trồng bờ mương bảo vệ việc đi lại cho
cán bộ, ngăn chặn việc tấn công của xe lội nước M113.
Vùng rừng núi từ miền Đông Nam Bộ tới Tây Nguyên điều kiện sản xuất khó khăn:
rừng núi bao la, đất đai chưa khai phá, dân cư thưa thớt, địch bao vây phá hoại, ta thiếu
dụng cụ canh tác và thiếu cả muối ăn. Nhu cầu kháng chiến thì mỗi năm mỗi lớn. Do đó,
phương châm của Mặt trận là khắc phục mọi khó khăn, vừa đẩy mạnh chiến đấu, vừa phát
triển sản xuất, không sản xuất được gần căn cứ thì sản xuất xa, không sản xuất tập trung
được thì sản xuất phân tán, phấn đấu sản xuất đủ để tự túc lương thực.
Năm 1963, ở vùng rừng núi căn cứ, đồng bào, cán bộ và bộ đội đã trồng tới hàng triệu
gốc sắn, tỉa 470 ngàn đấu bắp và 1.070 tấn lúa giống. Chăn nuôi bình quân 7 người nuôi 1
con heo.
Về tiểu công nghệ, mở nhiều lò rèn nông cụ, phát triển một số khung cửi, số bàn dệt
thô sơ. Số thợ dệt lên tới 5.000, giải quyết được một phần vải mặc cho nhân dân.
Một điều đáng chú ý là trong sản xuất ở đồng bằng Nam Bộ cũng như miền núi Trung
Bộ, là sự phát triển của tinh thần tập thể, tinh thần tương trợ. Lao động sản xuất tập thể trở
thành một kiểu làm ăn rộng rãi và sôi nổi, một phần vì giác ngộ chính trị, một phần vì tình
thế khách quan đòi hỏi, xuất hiện ngày càng nhiều tổ đổi công, tổ hợp tác.
Năm 1962, tỉnh Quảng Ngãi có 600 tổ đổi công, ở 3 tỉnh Bến Tre, Mỹ Tho, Long An
có gần 2.000 tổ tương trợ sản xuất. Cuối 1963, ở Mỹ Tho, các tổ vần công, tổ đổi công có
12 vạn hội viên.
Trong phong trào thi đua sản xuất, phụ nữ nông thôn luôn là lực lượng hùng hậu nhất.
Ngoài việc đấu tranh chính trị và tham gia du kích bảo vệ xóm làng, các chị xung phong
gánh vác mọi công việc đồng áng, quản lý gia đình để chồng con đi bộ đội giết giặc lập
công. Ngoài ra các chị còn tham gia giúp đỡ các gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình neo
đơn, tham gia văn nghệ, tham gia dạy học...
Mặt trận Dân tộc Giải phóng không chỉ hết sức chăm lo giải quyết các vấn đề kinh tế,
mà còn chăm lo giải quyết các vấn đề văn hoá, văn nghệ trong vùng giải phóng.
Đồng hành với cuộc kháng chiến, một nền “giáo dục dân tộc, tiến bộ, phục vụ Tổ
quốc, phục vụ nhân dân” được phát triển mạnh mẽ trong vùng giải phóng. Ngay từ năm
1962, phong trào “học tập bình dân chống Mỹ” đã phát triển ở Nam Bộ. Bên cạnh đó hệ
thống trường tiểu học, trung học được thiết lập, thu hút hàng chục vạn thanh, thiếu niên. Có
thể nói không có vùng giải phóng nào là không có trường học.
Vùng giải phóng miền Tây Nam Bộ, trong năm 1962 có 1.117 trường tiểu học và
trung học, gần 20 vạn học sinh. Vùng giải phóng tỉnh Bình Thuận có 17 trường phổ thông
và 2 trường cho đồng bào dân tộc miền núi. Vùng giải phóng tỉnh Kom Tum và tỉnh Đắc
Lắc có 7 trường dân tộc và 39 lớp bình dân . Sang năm 1963, toàn miền Nam có tới 1 triệu
học sinh trong vùng giải phóng trên tổng số dân trong vùng giải phóng là 7 triệu.
Uỷ ban trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã thành lập
“Ban thông tin, văn hoá, giáo dục” để chỉ đạo các hoạt động trong vùng giải phóng. Năm
1963, thành lập trường sư phạm đầu tiên trong vùng giải phóng mang tên “Trường Tháng
Tám ”, viết một số sách giáo khoa các môn Văn, Sử, Địa và Toán cho cấp 1 và cấp 2. Tới
năm 1965, đã có 283 loại sách giáo khoa được biên soạn, nhà in Giáo dục Giải phóng đã in
trên 1.000 cuốn sách khác nhau. Học sinh vừa học vừa tham gia sản xuất, tham gia công tác
chiến đấu như vót chông, rào làng, trinh sát, giao liên. Không ít học sinh trở thành dũng sĩ
diệt Mỹ. Sự kiện nổi bật trong giai đoạn nầy là đặt ra chữ viết cho các dân tộc Tây Nguyên.
Sân khấu, văn nghệ trong vùng giải phóng cũng phát triển mạnh mẽ, nhiều nghệ sĩ bỏ
vùng Mỹ- Diệm chạy ra vùng tự do mang theo tiếng hát lời ca phục vụ kháng chiến, nhiều
diễn viên, soạn giả là chiến sĩ, nhiều nghệ sĩ xuất thân từ quần chúng. Đời sống sôi nổi vui
tươi và đầy nhiệt tình cách mạng đã sản sinh ra nhiều đội văn công giải phóng.
Năm 1963, ở miền Đông Nam Bộ có 100 đội văn nghệ và tổ ca vũ ở xã, ở miền núi có
10 đội văn công dân tộc ít người. Những đơn vị Giải phóng quân đều có đoàn văn công
riêng.
Các đội văn công giải phóng cũng có nhiều tiết mục rất phong phú, chương trình biểu
diễn ngày càng hấp dẫn. Năm 1962, có trên 62 vở kịch nói, cải lương, tuồng. Các tiết mục
như: “Lê Lợi khởi nghĩa”, “Nợ nước thù nhà”, “Lời ca bất khuất”… có nội dung tư tưởng và
giáo dục sâu sắc.
Đến năm 1963 vùng giải phóng có xưởng phim Giải phóng, sản xuất được 15 bộ phim
giới thiệu đủ các mặt hoạt động yêu nước của các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn
giáo. Ở các tỉnh đều có đội chiếu bóng lưu động. Những bộ phim có giá trị tuyên truyền, cổ
vũ cao như: “Miền Nam anh dũng”, “Đại hội Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam lần
thứ nhất”, “Tổ săn trực thăng”…Tất cả diễn viên văn công, diễn viên điện ảnh đều ý thức
sâu sắc về vai trò chiến đấu của mình, coi điện ảnh là một thứ vũ khí hiện đại, sắc bén, cùng
với nhân dân miền Nam hoàn thành cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc.
Mặt trận báo chí, thông tin, phát thanh cũng phát triển khá nhanh. Đến năm 1963, toàn
vùng giải phóng miền Nam có 40 tờ báo, 17 tờ tạp chí, 40 bản tin. Tờ “Tiên phong ” là cơ
quan ngôn luận của Đảng nhân dân cách mạng Việt Nam, các tỉnh đều có những tờ báo của
mình. Tỉnh Quảng Nam có tờ: Giải phóng, Hừng đông, tỉnh Đăc lắc có tờ báo tiếng dân tộc :
Pơlir, Pơhing rim hrơi, Nam Bộ có gần 30 tờ báo. Có 13 tờ báo văn nghệ như: Văn nghệ
Giải phóng, Văn nghệ Đồng Nai.
Thông tấn xã giải phóng và Đài phát thanh giải phóng hoạt động từ 1961. Thông tấn
xã giải phóng phát hành bằng 3 thứ tiếng : Anh, Pháp, Hoa, phát trên làn sóng điện tử đủ
mạnh để tuyên truyền về mặt quốc tế cho cách mạng miền Nam. Đài phát thanh giải phóng
có ảnh hưởng rất lớn, cả trong vùng tự do và trong vùng tạm chiếm, số người nghe đài ngày
càng đông làm cho Mỹ nguỵ phải thực hiện một số biện pháp đối phó. Những người làm
báo, thông tín viên Thông tấn xã giải phóng cũng như những người làm báo tiến bộ trong
các thành thị tập hợp nhau thành Hội Nhà báo yêu nước và dân chủ, trở thành thành viên
của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam .
Vùng giải phóng mở rộng thì cũng theo đó mạng lưới y tế cũng hình thành. Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam vận động đồng bào lập tủ thuốc gia đình, tủ thuốc thôn xóm,
lập trạm y tế, nhà hộ sinh, lập các tổ nghiên cứu và sử dụng thuốc Bắc, thuốc Nam, phối hợp
Đông Tây y để phòng và chữa bệnh.
Năm 1962, trong vùng giải phóng ở miền Đông Nam Bộ xây dựng 1 bệnh viện, 5 nhà
hộ sinh, 36 tủ thuốc, đào tạo 165 cán bộ y tế xã, 205 hộ sinh. Năm 1963, vùng giải phóng
miền Trung Nam Bộ xây dựng thêm 78 nhà hộ sinh với 222 hộ sinh, đào tạo thêm 125 y tá.
Tinh thần thầy thuốc giải phóng được nêu cao, bác sĩ tận tâm cứu chữa bệnh nhân như
người mẹ chăm sóc con cái, lại còn giành thời gian để tăng gia sản xuất và vác súng chống
càn, bảo vệ bệnh viện, bảo vệ bệnh nhân.
Ngành y tế giải phóng đã góp công xứng đáng vào công việc phòng chống chất độc
hoá học của Mỹ rãi trên xóm làng ở nhiều tỉnh, xây dựng các chuyên đề “chống sốt rét”,
“ngoại khoa dã chiến”… Hội đồng quân dân y giải phóng đã biết tổng hợp kinh nghiệm, phổ
biến nghiên cứu khoa học, kết hợp Đông Tây y, làm cho công tác điều trị có nhiều tiến bộ.
Từ 1961 đến 1965, trong vùng giải phóng đời sống của nhân dân được nâng cao, các
mặt văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế bước đầu phát triển, đời sống tinh thần của nhân dân lành
mạnh, khác hẳn cuộc sống ngột ngạt, sa đọa trong vùng địch đang chiếm. “Đó là hậu
phương giàu có và vững chắc của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của toàn dân ta” [55,
tr.23].
Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, địch càn quét bắn phá liên miên, mà trong vùng
giải phóng phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, văn nghệ, thông tin … rõ ràng là một thành
công lớn, đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống của đồng bào trong vùng giải
phóng, đáp ứng cho công cuộc giải phóng miền Nam [22], [23].
2.1.3. Lãnh đạo các phong trào đấu tranh chính trị
2.1.3.1. Đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động.
Từ năm 1960, nhất là sau khi Mặt trận DTGPMNVN ra đời, phong trào đấu tranh của
công nhân khu vực Sài Gòn - Gia Định bùng lên một phong trào mạnh mẽ. Năm 1960 có
227 cuộc đấu tranh của công nhân, nhân dân lao động. Nhiều cuộc bãi công, bãi thị, xe
thuyền ngừng chạy, tiệm buôn đóng cửa, truyền đơn giới thiệu Mặt trận rải khắp nơi, nhân
dân họp mít tinh chào mừng Mặt trận ra đời.
Năm 1961, có 287 cuộc đấu tranh với 82.230 người tham gia. Trong năm nầy đáng
chú ý nhất là cuộc đình công chiếm xưởng ngày 4-9-1961 của 400 công nhân hãng dầu Mỹ
Stan-Voc được sự hỗ trợ của 100 nghiệp đoàn công nhân Sài Gòn, nghiệp đoàn Công nhân
cao su miền Đông làm cho hàng trăm cây xăng bị tê liệt, việc cung cấp xăng dầu cho máy
bay Mỹ bị ngưng trệ từng lúc. Sau hơn 3 tháng đấu tranh chủ buộc phải tăng lương cho công
nhân từ 6% đến 12 % .
Năm 1962, có 324 cuộc đấu tranh, có 103.132 người tham gia, trong đó có 10 cuộc
đấu tranh quyết liệt đình công, lãn công. Nổi bật nhất là cuộc bãi công ngày 17-2-1962 của
công nhân hãng thâu thanh Viđêô. Năm 1962, nhân ngày Quốc tế Lao động 1-5, năm vạn
công nhân cao su bãi công kéo về thành phố.
Năm 1963, có 505 cuộc đấu tranh, có 200.000 người tham gia, trong đó có 201 cuộc
đấu tranh của công nhân các xí nghiệp, 160 cuộc đấu tranh chống đuổi nhà cướp đất, 114
cuộc đấu tranh chống các luật lệ phường khóm chiến lược và 30 cuộc của chị em tiểu
thương chợ đấu tranh .
Năm 1964, có nhiều cuộc đấu tranh lớn:
Hãng Vinatexco có trên 3.000 công nhân, phần đông là nữ đã đưa 6 yêu sách đòi tăng
lương, đòi cải thiện chế độ sinh hoạt, ăn uống. Bọn chủ đóng cửa một số phân xưởng và sa
thải một số công nhân. Do đó, toàn thể công nhân tiến hành bãi công. Chiều 14-1-1964,
công nhân chiếm xưởng, địch đưa một đại đội thuỷ quân lục chiến đến đàn áp, công nhân
chống trả quyết liệt không cho lính vào nhà máy. Nông dân và bà con công nhân kéo đến
ủng hộ cuộc đấu tranh. Địch tăng cường lực lượng đàn áp lên cả tiểu đoàn, 18 xe GMC, 30
xe Jeep, 5 xe có vòi rồng, 3 xe Hồng thập tự, chúng đàn áp công nhân bằng lưởi lê và lựu
đạn cay, dây thép gai trong suốt 5 giờ làm 2 người chết ( bị địch cướp xác đem đi mất tích)
và hàng chục người bị thương. Dư luận trong và ngoài nước lên án hành động dã man của
chính quyền Sài Gòn . cuối cùng chủ buộc phải tăng lương cho công nhân từ 6% đến 8% và
mở lại xưởng cho công nhân đi làm.
Ngày 10-4-1964, chủ hãng Vimytex giãn công tập thể hàng ngàn công nhân. Công
nhân tập trung tại xưởng yêu cầu Trưởng Ty Lao động Gia Định can thiệp để chủ mở máy
cho công nhân làm việc. Bọn địch cho một tiểu đoàn đến đàn áp bằng mã tấu, vòi rồng, lưởi
lê làm cho hàng trăm chị em công nhân ngất xỉu, chủ tịch nghiệp đoàn Vương Vĩnh Lợi bị
hành hung, địch bắt 19 người công nhân đòi thả những người bị bắt nếu không sẽ tuyệt thực
và tự thiêu. Địch buộc phải thả những người bị bắt song không đáp ứng những yêu sách của
công nhân. Công nhân tiếp tục đấu tranh bằng các hình thức đến văn phòng Ban Giám đốc,
Bộ Lao động, văn phòng Tổng liên đoàn Lao động , tranh thủ dư luận báo chí, tập trung
khoảng 1000 người tại công viên Quách Thị Trang đòi chấm dứt lệnh giãn công, chủ hãng
phải trả lương cho công nhân, chống sa thải công nhân…
Chiều ngày 11-9-1964, Tổng Liên đoàn Lao động buộc phải tổ chức đại hội bất
thường để ủng hộ công nhân Vimytex, đại hội có 1.200 đại biểu tham dự đại diện cho hơn
100 nghiệp đoàn ở đô thành. Các đại biểu lên án việc sa thải công nhân, chống lệnh khẩn
cấp của chính quyền không cho nghiệp đoàn tự do hoạt động. Đại hội thông qua 5 kiến nghị
trình Bộ Lao động và nhà đương cuộc với nội dung : ủng hộ cuộc đấu tranh của các nghiệp
đoàn nhất là cuộc đấu tranh của công nhân Vimytex; phải được tự do hội họp ở trụ sở Tổng
Liên đoàn và các nghiệp đoàn; công nhân có quyền đình công để bảo vệ quyền lợi của mình
phải trả lời các yêu cầu trên trong một thời gian ngắn ; toàn thể công nhân sẽ tổng bãi công
và biểu tình để thực hiện các nghị quyết trên và bảo vệ quyền lợi của công nhân .
Cuộc tổng bãi công diễn ra trong hai ngày 21 và 22-9-1964. Từ 8 giờ sáng ngày 21-9,
công nhân đã tụ họp đông đảo ở các xí nghiệp kéo đến trụ sở Tổng Liên đoàn Lao động. Sau
đó, một vạn công nhân tham gia biểu tình đã kéo tới dinh Nguyễn Khánh, Nguyễn Khánh
tránh mặt đã cho Đàm Sĩ Hiền ra tiếp. Đồng bào kéo đến tham gia lên đến 30.000 người, đại
diện Tổng hội sinh viên ra trước loa phóng thanh ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân, đến
7 giờ chiều mới giải tán.
Sáng hôm sau, mọi người tiếp tục tập trung tại trụ sở Tổng Liên đoàn Lao động. Cuối
cùng chính quyền Sài Gòn cho một Phó Thủ tướng ra tiếp và làm việc với Ban lãnh đạo đấu
tranh của công nhân. Chúng phải nhượng bộ và giải quyết những vấn đề sau: công nhân có
quyền tự do hội họp tại trụ sở nghiệp đoàn; hứa trừng trị tên Phó tỉnh trưởng Gia Định đã
đàn áp công nhân Vimytex; ra lệnh cho các chủ nhà máy, xí nghiệp không làm khó dễ cho
công nhân trong những ngày tham gia tổng đình công, biểu tình, công nhân nào bị đàn áp, bị
mất giấy tờ thì lấy giấy chứng thương mời cảnh sát đến lập biên bản, truy tố chủ nhân ra toà
và đòi bồi thường …
Cuộc tổng đình công trên đã làm cho Sài Gòn hai ngày không có điện nước, xe buýt
không chạy.
Từ 1964 đến 1965, phong trào đấu tranh vũ trang của công nhân ở đô thị và đồn điền
lên cao. Trong bản báo cáo của kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát trong Đại hội Mặt trận lần thứ
hai có viết : ”Bên cạnh phong trào đấu tranh chính trị ở các đô thị của nhân dân ta đang ở
thế công khai, hợp pháp, mạnh mẽ hơn bao giờ hết và có tác dụng tấn công trực diện địch,
đồng thời phân hoá, cô lập chúng ngày thêm nặng nề, còn có một phong trào có tính chất bất
hợp pháp đối với địch, mạnh mẽ, đi vào hình thức cao của nó là hoạt động vũ trang”.
Chiến tranh đã diễn ra ở sát thành phố Sài Gòn, tiếng vang của những trận Hiệp Hoà,
Bến Lức, Nhuận Đức, Biên Hoà dội vào Sài Gòn. Trong thành phố Sài Gòn phong trào đấu
tranh chính trị lên cao đến độ 10 năm nay chưa từng thấy. Cuộc đấu tranh nổ ra trong các đô
thị dưới nhiều hình thức làm rung động “hậu cứ an toàn”của Mỹ- ngụy.
Hàng ngũ công nhân cung cấp cho phong trào cách mạng những chiến sĩ anh hùng
như Nguyễn Văn Trỗi, Trần Văn Đang đã làm cho quân thù khiếp đãm hồn vía. Nguyễn
Văn Trỗi thực hiện kế hoạch nổ mìn, giết chết Mac Namara, bộ trưởng chiến tranh của Mỹ,
không may bị giặc bắt. Những phút cuối cùng của đời anh hết sức oanh liệt, báo chí nhiều
nước đăng tin ca ngợi. Anh lên án đế quốc Mỹ và chết trong những tiếng của anh hô “Đã
đão đế quốc Mỹ ”, “Việt Nam muôn năm”, “Hồ Chí Minh muôn năm”.
Tại nhiều hội nghị quốc tế, nhất là những hội nghị của thanh niên gương sáng của các
anh Nguyễn Văn Trỗi, Trần Văn Đang được hoan nghênh nhiệt liệt.
Trong nhiều thành phố, ở các khu lao động, nhân dân tổ chức tự vệ để chống ruồng
bố, chống bắt lính, chống đốt nhà. Tại các đồn điền, đặc biệt là các đồn điền cao su miền
Đông Nam Bộ, công nhân phản đối lệnh của nguỵ quyền bắt công nhân “huấn luyện quân
sự chống cộng”, phản đối tổ chức “đội tự vệ chống cộng”. Ngược lại, đông đảo công nhân
tham gia phong trào tòng quân. Theo Thông tấn xã Giải phóng thì không có đồn điền nào
mà không có công nhân gia nhập Quân giải phóng, riêng đồn điền cao su Dầu Tiếng có đến
1.000 trên 5.000 công nhân tham gia các đơn vị Giải phóng quân. Công nhân các đồn điền
đã xây dựng lực lượng vũ trang tự vệ của mình ngay trong các đồn điền, lập làng chiến đấu,
đào hầm chống phi pháo, đấu tranh chống gián điệp, chống bắt lính.
Sự ra đời và phát triển các hoạt động vũ trang của công nhân trong các đô thị, trong
các đồn điền mà địch còn kiểm soát là một yếu tố mới của tình hình cách mạng miền Nam
từ năm 1964, điều nầy góp phần làm cho “hậu cứ”của địch càng mất an toàn [72].
2.1.3.2. Phong trào nông dân đấu tranh chống bình định và lập ấp chiến lược.
Dồn dân lập ấp chiến lược được Mỹ – nguỵ xác định là biện pháp chiến lược, đồng
thời là mục đích của “chiến tranh đặc biệt” nói riêng và cuộc chiến tranh xâm lược nói
chung mà Mỹ quyết tâm thực hiện bằng được với bất cứ giá nào. Dưới danh nghĩa là “bảo
vệ làng xã”, chính quyền Diệm đã “đuổi các gia đình nông dân và thậm chí là cả làng khỏi
những vùng đất cha ông họ để lại và cho họ tái định cư ở khu vực lớn hơn, dễ bảo vệ hơn
mà nhiều lúc điều kiện không tốt hơn là mấy so với các trại tập trung”[10, tr.324]. Do vậy,
phong trào đấu tranh của nông dân trong thời gian nầy là “làm thất bại kế hoạch gom dân,
lập ấp chiến lược của địch” [31, tr.313], phá phần lớn các ấp chiến lược, giành nhân
lực, vật lực cho cách mạng, làm chủ núi rừng và phần lớn đồng bằng.
Từ năm 1961, Mỹ- Diệm tổ chức nhiều cuộc hành quân càn quét trên khắp miền Nam
để phục vụ trực tiếp cho việc dồn dân lập ấp chiến lược. Mục tiêu cụ thể được đặt ra lúc đầu
là thành lập 16.000/17.000 ấp chiến lược trên toàn miền Năm (1961), sau đó điều chỉnh
xuống còn 10.000 ấp (1962), cuối năm 1963 chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ thì chính
sách ấp chiến lược vẫn tiếp tục nhưng với cái tên gọi khác là ấp tân sinh, thực chất đây chỉ
là sự thay đổi mang tính hình thức.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương cục, uỷ ban Giải phóng các cấp, nhân dân
miền Nam tham gia mặt trận chống phá bình định, kiên quyết thực hiện “một tấc không đi,
một ly không rời”, kết hợp đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị và binh vận, phối hợp lực
lượng nổi dậy của quần chúng bên trong ấp chiến lược với lực lượng vũ trang tấn công từ
bên ngoài để phá thế kìm kẹp của địch. Với phương châm “Đảng bám dân, dân bám đất, du
kích bám giặc”, thực hiện “mang nắp hầm bí mật vào ấp chiến lược”. Trung ương cục và
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã phát động quần chúng nổi dậy phá ách
kìm kẹp của địch. Trong suốt 3 năm, từ 1962 đến 1964, cuộc đấu tranh chống càn quét và
phá ấp chiến lược của nhân dân miền Nam diễn ra cực kỳ quyết liệt.
Phá ấp chiến lược Hoà Nhật [22], Châu Thành, Biên Hoà là một điển hình trong
phong trào phá ấp chiến lược của nhân dân Nam Bộ. Theo báo Quân đội nhân dân ngày 17-
7-1962, nhân dân Hoà Nhật đấu tranh làm trể nãi việc dồn dân lập ấp chiến lược của bọn
Mỹ- Diệm, nhưng cuối cùng chúng cũng lập được ấp chiến lược Hoà Nhật. Đồng bào đã
bảo toàn được lực lượng chính trị của mình ngay trong khi đã bị dồn vào ấp chiến lược.
Tháng 5-1962, sau khi hoàn thành ấp chiến lược bọn ác ôn rút đi lập ấp chiến lược
khác, để lại quyền kiểm soát cho dân vệ và một số quân đóng đồn ngay trong ấp. Lúc nầy
đồng bào tiến hành phá ấp chiến lược. Hàng đêm nhiều khúc hàng rào bị nhổ lên, bị xô ngã
xiêu vẹo, nhiều đoạn hào bị lấp. Ban trị sự ấp chiến lược và dân vệ đi lùng bắt người đi xâu
để rào lại thì bà con chạy nhà này sang nhà khác hoặc cáo ốm không đi làm. Địch khủng bố
thì mọi người nhất tề chống lại, chúng phải ngừng tay. Mặt khác, đồng bào cho người ra
ngoài ấp tìm liên lạc với lực lượng vũ trang nhân dân của tỉnh, quận ,đồng thời tìm hiểu tình
hình địch.
Đêm 15-6-1962, tự vệ vũ trang hoạt động từ bên ngoài ấp, bắn vào lô cốt ở cổng ấp,
đồng bào trong ấp reo hò vang dậy. Nhân dân phát loa cảnh cáo bọn dân vệ ,thanh niên cộng
hoà và tề, chúng khiếp vía rút chui vào đồn, hoặc tìm nơi ẩn náu. Lợi dụng tình thế , 200 gia
đình thu xếp đồ đạc, trời chưa sáng thì đồng bào đã đạp rào ra khỏi ấp chiến lược . Sáng
hôm sau , bọn nguỵ chưa hoàn hồn thì những tin đồn về Giải phóng quân, về chiến khu Đ,
thấy truyền đơn của Mặt trận càng làm cho chúng hoảng sợ, đồng bào ra vào cổng không bị
kiểm tra ngặt nghèo nữa.
Đêm 16-6-1962, Giải phóng quân bắn từng loạt súng máy vào đồn, cứ sau một loạt
súng máy thì đồng bào bắt đầu phát loa binh vận, và kết thúc mỗi bài binh vận ngắn là một
đợt reo hò vang dậy của đồng bào.
Mờ sáng ngày 17-6-1962, thêm 109 gia đình phá nát hàng rào ấp chiến lược, rầm rộ
kéo ra. Lực lượng vũ trang của bọn Mỹ- Diệm cản lại nhưng không ngăn nổi đồng bào, một
số dân vệ còn tiếp tay cho đồng bào bỏ ấp. Bà con trong ấp ra thì bà con ngoài ấp đã chực
sẵn đón mừng, tất cả họ mít tinh tố cáo tội ác Mỹ- Diệm. Ngày hôm đó, binh lính Mỹ- Diệm
bỏ đồn, đồng bào hai xã Tân Hiệp và Tân Hoà hợp sức với nhau san bằng ấp chiến lược Hoà
Nhật, cuốc đường lộ dẫn về Hoà Nhật để ngăn chặn việc trở lại của binh lính Mỹ- Diệm.
Đồng bào ai về nhà nấy, dựng chòi, rào làng, vừa làm ăn vừa bố phòng chống địch.
Cuộc biểu tình chống gom dân lập ấp chiến lược của đồng bào 13 xã ở Gò Công là
phong trào tiêu biểu của nhân dân Nam Bộ.
Sáng ngày 9-4-1962, trên 10.000 người dân 13 xã vùng Gò Công kéo vào thị xã đấu
tranh với quận trưởng đòi huỹ bỏ việc lập ấp chiến lược [22]. Từng đoàn người từng 300
người một, theo những con đường khác nhau kéo vào thị xã, xếp hàng đứng chen chúc trước
dinh quận trưởng. Các nẽo đường chật ních người, xe cộ không chạy được. Bọn nguỵ quyền
xua 100 quân và cảnh sát ra khủng bố, bắt 4 phụ nữ và 2 nông dân đem giam, lùa đồng bào
vào giam ở sân vận động. Chúng lột hết khăn và nón của đồng bào, bắt phơi nắng và bắt
đóng 100 đồng mới được thả về. Không ai chịu đóng tiền.
Đồng bào bị giam, một số ác ôn ra oai đánh đập đồng bào, một số lính khác thì lại ủng
hộ dân biểu tình, quần chúng nhân dân thị trấn Gò Công đem rất nhiều cơm nước vào tiếp tế
cho đồng bào bị giam. Đồng bào bị giam la rầm lên đòi thả ra. Cuộc đấu tranh giằng co đến
4 giờ chiều, địch bị buộc phải thả 6 người đã bị bắt hồi sáng sớm. Bọn chúng đem máy
phóng thanh đến sân vận động xuyên tạc, nói xấu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam, đồng bào la rầm lên phản đối, địch vẫn giam đồng bào suốt đêm ở sân vận động.
Sáng ngày 10-4-1962, 4.000 đồng bào khác từ nông thôn kéo vào tiếp viện, mang
nhiều khẩu hiệu, yêu sách y như hôm qua và thêm khẩu hiệu đòi thả những người bị giam ở
sân vận động. Lần nầy địch ngăn đón, đánh đập dữ dội hơn, địch vẫn giam giữ những người
ở sân vận động suốt đêm thứ hai. Chúng định phơi nắng, phơi sưong, bỏ đói, bỏ khát đến
khi đồng bào xuống nước, nhưng đồng bào vẫn kiên quyết đấu tranh.
Qua ngày 11-4-1962, hàng mấy nghìn đồng bào khác nữa, lần nầy không phải chỉ có
các chị, các bà mà còn có các ông lão và rất nhiều trẻ con ùn ùn kéo ra Gò Công, đứng chật
hết các nẽo đường. Hưởng ứng với dân, các tiệm ngừng bán, xe cộ ngừng chạy. Đồng bào
thị trấn tiếp tế hết lòng cho cho đồng bào đấu tranh. Một số khá đông binh sĩ ủng hộ đồng
bào vào đưa kiến nghị tại văn phòng quận trưởng,bọn ác ôn không làm sao ngăn được.
Trước khí thế đấu tranh của nông dân, được đồng bào thị trấn ủng hộ, được một số
binh sĩ của chúng cũng đồng tình, địch đành chịu thua sau 3 ngày đấu tranh giằng co và kịch
liệt, chúng phải nhận đơn, thả tất cả mọi người và hứa giải quyết mọi yêu sách của đồng
bào.
Từ năm 1963, phong trào phá ấp chiến lược trở thành cao trào cách mạng trên toàn
miền Nam. Đến tháng 12-1963, phá được 3.800 ấp chiến lược, trong đó có 1.200 ấp chiến
lược trở thành vùng giải phóng.
Cuối năm 1964, “quốc sách ấp chiến lược” của địch bị phá sản, hơn 80% ấp chiến
lược đã bị phá. Địch chỉ còn giữ được những ấp chiến lược ở ven các thành phố, thị xã, thị
trấn, trên các trục giao thông chiến lược và cạnh các căn cứ quân sự lớn “các đô thị, ngay cả
Sài Gòn, một trong những chỗ dựa của đế quốc Mỹ và tay sai, đến nay cũng không còn là
hậu phương an toàn của chúng nữa” [73, tr.15].
Cuối năm 1964, Mắc Namara, Bộ trưởng quốc phòng Mỹ đã phải thừa nhận :“ Trong
số đất đai của 22 tỉnh trong số 43 tỉnh, Việt cộng kiểm soát tới hơn 50% hoặc nhiều hơn thế
”.
Cuối năm 1965, quân và dân miền Nam đã phá được tổng số là 5.800 ấp chiến lược, số
ấp chiến lược địch kiểm soát năm 1965 là 2.200/12.000 ( chiếm 18 % ). Số dân địch kiểm
soát năm 1965 là 6/16 triệu dân [23].
2.1.3.3. Đấu tranh chống chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm và chính quyền tay
sai [70], [72]
Diệm- Nhu thực hiện chính sách kỳ thị tôn giáo , dành “chế độ đặc biệt cho các hội
truyền giáo Thiên chúa và Gia tô”. Điều nầy gây bất bình trong giới tăng ni Phật tử. Vụ
Diệm triệt hạ cờ Phật giáo và cuộc đàn áp đẫm máu Phật tử trước đài phát thanh Huế đêm
8-5-1963 làm 9 người chết và 14 người bị thương đã đốt bùng lên ngọn lửa đấu tranh rộng
khắp trên nhiều tỉnh thành phía Nam.
Ngày 11-6-1963, Hoà thượng Thích Quãng Đức tự thiêu đã thổi bùng ngọn lửa đấu
tranh chống Diệm -Nhu ở Sài Gòn - Gia Định. Phong trào đấu tranh chống anh em Diệm -
Nhu là một mặt trận đấu tranh bao gồm đông đảo các giai cấp các giới và đồng bào lao động
kể cả một số trí thức có tên tuổi, lực lượng ngòi pháo xung kích là thanh niên, học sinh.
Diệm- Nhu đã tự lột mặt nạ dân tộc, dân chủ giả hiệu, chúng cho cảnh sát tấn công các
trường học, ra lệnh thiết quân luật ( 21-8-1963) bao vây và tấn công tất cả các chùa lớn ở
miền Nam. Tại chùa Xá Lợi, một vị sư đánh chuông báo động đã bị lính đâm chết, một ni cô
dùng dây leo từ lầu xuống bị tên giám đốc cảnh sát dùng dùi cui đập vỡ sọ. Trong đêm đó, ở
Sài Gòn, có hàng ngàn vị sư bị bắt trong đó có Hoà thượng Thích Kim Khiết. Hành động
khủng bố phát xít của Diệm- Nhu như dầu đổ vào ngọn lửa đấu tranh làm cho phong trào
dâng lên mạnh mẽ. Ngay trong hàng ngũ chính quyền và quân đội Sài Gòn có sự phân liệt,
một số lên tiếng công kích chống chính sách của chính quyền Diệm. Đại sứ, giáo sư Bửu
Hội đề nghị Liên hiệp quốc cử phái đoàn sang Việt Nam xem xét vụ Phật giáo. Ngày 25-10-
1963, phái đoàn Liên hiệp quốc đến Sài Gòn mở cuộc điều tra.
Ngày 12-6-1963, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng tổ chức lễ truy điệu
hòa thượng Thích Quảng Đức, luật sư Nguyễn Hữu Thọ đọc diễn văn nêu rõ hành động anh
dũng của hòa thượng Thích Quảng Đức, lên án Mỹ- Diệm đã đàn áp, khủng bố đồng bào
các tôn giáo ở miền Nam, kêu gọi tăng ni Phật tử và đồng bào các tôn giáo tiến lên đánh đổ
chúng để bảo vệ các quyền tự do dân chủ, bảo vệ tôn giáo.
Từ ngày 5-8-1963 dến ngày 16-9-1963, tại Sài Gòn - Gia Định có mười triệu lượt
đồng bào tham gia biểu tình chống đàn áp Phật giáo. Đế quốc Mỹ buộc phải “thay ngựa
giữa dòng”. Ngày 1-11-1963, giới quân sự do tướng Dương Văn Minh cầm đầu đã làm cuộc
đão chính chấm dứt cuộc đời cùng chế độ độc tài gia đình trị Diệm- Nhu. Nhân dân thành
phố Sài Gòn - Định tiếp tục đấu tranh đòi thủ tiêu mọi tàn tích của chế độ cũ, trừng trị bọn
ác ôn.
Phong trào đấu tranh chính trị, vũ trang sôi sục ở các vùng nông thôn đã dội vào các
thành thị miền Nam, làm cho chính quyền Sài Gòn ngày càng chao đảo, nội bộ mâu thuẫn,
lục đục. Tư tháng 11-1963 đến tháng 6- 1965 chúng đã 10 lần làm đảo chính để thanh toán
lẫn nhau.
Sinh viên, học sinh Sài Gòn - Gia Định liên tục xuống đường đốt xe Mỹ, đánh lại cảnh
sát dã chiến, đòi huy bỏ “Hiến chương Vũng Tàu”, đòi giải nhiệm nội các Trần Văn Hương
.
2.1.3.4. Phong trào dân tộc tự quyết
Ngày 5-8-1964, máy bay Mỹ ném bom các căn cứ của ta ở miền Bắc, chúng chuẩn bị
đổ quân ồ ạt vào miền Nam. Khu uỷ Sài gòn - Gia định phân công đồng chí Phạm Trọng
Danh, Bí thư Ban Cán sự Thanh niên, học sinh, sinh viên phối hợp với ban Trí vận Mặt trận
vận động các lực lượng, các cá nhân tiêu biểu, trí thức trẻ, nhân sĩ yêu nước tạo thế hỗ trợ
cho tổ chức công khai ra đời. Tháng 12-1964, sau nhiều cuộc họp chuẩn bị về cương lĩnh,
chương trình hành động, Phong trào dân tộc tự quyết mở đại hội tuyên bố đấu tranh và công
bố thành viên của phong trào bao gồm các kỹ sư, luật sư, bác sĩ, giáo sư, luật gia, ký giả.
Luật sư Nguyễn Long làm chủ tịch, Kỹ sư Hồ Gia Lý làm phó chủ tịch , các uỷ viên: giáo
sư Tôn Thất Dương Kỵ, Võ Đình Cường, Nguyễn Quý Hương, Ngô Thị Ngọc Sương, Kỹ
sư Tô Văn Cang, Trần Văn Đước, Kỹ sư Hồ Văn Trương, Vũ Đình Bổng. Hàng ngày các
thành viên và những người đấu tranh đến trụ sở trao đổi công việc, phong trào được mở
rộng với sự tham gia của Võ Văn Khắc và Nguyễn Quang Minh ở Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam làm uỷ viên khối công nhân, Nguyễn Thừa Nghiệp ở Liên hiệp Nghiệp đoàn
thành phố, Phan Kim Phụng Châu trưởng Châu Gia Định Hội Hướng đạo Việt Nam. Trong
số những người thường đến trụ sở còn có Á Nam Trần Tuấn Khải, nhà giáo Phan Đình Lý
(cháu nội Phan Đình Phùng ) và các học sinh, sinh viên...
Bản cương lĩnh của phong trào được in vào Nội san Tự quyết số 1 ( 1.000 bản in
roneo ). Nhân dịp miền Trung lụt lớn, phong trào đã in 2.000 tờ “kêu gọi khẩn thiết cứu
trợ”, đông đảo sinh viên, học sinh tụ họp trước trụ sở phong trào, sau đó phân làm 4 đoàn đi
lạc quyên ở 4 khu vực : trước Quốc hội nguỵ, trước chợ Bến Thành, đường Nguyễn Huệ,
đường Trần Hưng Đạo, vừa lạc quyên sinh viên học sinh vừa phát lời kêu gọi của phong
trào dân tộc tự quyết. Chính quyền Sài Gòn ra lệnh đình chỉ cuộc lạc quyên mọi người
chuyển thành tuần hành với lực lượng là sinh viên, học sinh và đồng bào. Phong trào dân tộc
tự quyết là một đòn bất ngờ đối với Mỹ- nguỵ [60].
2.1.3.5. Uỷ ban vận động hoà bình
Chi bộ Phong trào dân tộc tự quyết đã phối hợp với cánh Trí vận để thành lập Uỷ ban
vận động hoà bình. Đây là một tổ chức tập hợp được đông đảo các trí thức có tên tuổi. Bác
sĩ Phạm Văn Huyến làm chủ tịch, ông Cao Minh Chiến phó chủ tịch, Giáo sư Tôn Thất
Dương Kỵ phó chủ tịch. Các uỷ viên: Giáo sư Trần Hữu Khuê, nhân sĩ Trí Độ, thầu khoán
Nguyễn Văn Hanh, Nữ sĩ Ngọc Sương, Dược sĩ Nguyễn Văn Liễn, Giáo sư Dương Minh
Thới, Thẩm phán Trần Thúc Linh, Thẩm phán Đỗ Quang Huê, Nhà văn Thanh Nghị, Giáo
sư Trần Quang Diệu, Giáo sư Đặng Văn Ký... Trong Uỷ ban còn có những vị là uỷ viên Mặt
trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam: Luật sư Trịnh Đình Thảo ( bí danh là Như
Sơn), Nguyễn Văn Vỹ ( bí danh là Huỳnh Đàn), Đính Xáng ( bí danh là Nguyễn Thạch), Kỹ
sư Tô Văn Cang ( bí danh là Trần Nam Sơn), Giáo sư Nguyễn Văn Cứng ( bí danh là
Phước Thăng), Giáo sư TônThất Dương Kỵ ( bí danh là Dương Kỳ Nam), phát ngôn viên
của uỷ ban là nữ luật gia Ngô Bá Thành.
Uỷ ban ra quyết nghị hoà bình kêu gọi hai phe tham chiến ở miền Nam chấm dứt
chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Bản quyết nghị có khoãng 100 chữ ký của các
nhân sĩ, trí thức Sài gòn. Uỷ ban đã cử phái đoàn đi gặp Ban Quốc tế giám sát về đình chiến
để chuyển quyết nghị cho Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và gặp thủ
tướng Phan Huy Quát để đưa quyết nghị hoà bình.
Sáng ngày 24-2-1965, Uỷ ban vận động hoà bình tổ chức họp báo để ra mắt tổ chức và
công bố bản quyết nghị hoà bình. Giáo sư Đặng Văn Ký là phát ngôn viên chính thức. Sau
buổi họp báo, địch bắt trên 16 người trong đó có luật sư Nguyễn Long, Giáo sư Trần Văn
Khuê, bà Ngô Bá Thành, Giáo sư Đặng Văn Ký, Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, ông Cao
Minh Chiến…
Ngày 10-3-1965, vì không đủ chứng cớ buộc tội “Việt cộng”, địch tống xuất qua cầu
Hiền Lương những người mà chúng cho là cầm đầu Uỷ ban: Bác sĩ Phạm Văn Huyên, ông
Cao Minh Chiến, Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ…rồi thả hầu hết những người bị bắt.
Ngày 6-8-1965, Toà án quân sự mặt trận xét xử 16 người trong nhóm hoà bình. Toà
tuyên án: phạt tù 10 năm khổ sai Giáo sư Nguyễn Văn Khuê, Luật sư Nguyễn Long,
Nguyễn Quý Hương. Luật sư Trịnh Đình Thảo được tha bổng [60].
2.2. Hoạt động ngoại giao của Mặt trận
2.2.1. Các phái đoàn Mặt trận đi thăm hũu nghị các nước
Từ ngày thành lập đến năm 1965, đã có 78 lần phái đoàn của Mặt trận hoặc của các
đoàn thể trong Mặt trận đi dự lễ kỹ niệm, đi thăm hữu nghị nhiều nứớc trên thế giới : các
nước xã hội chủ nghĩa, nhiều nước dân tộc ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ la-tinh, một số
nước Tây Âu. Càng về sau thì số đoàn đi thăm càng nhiều [23].
Năm 1961, đoàn đầu tiên của Mặt trận là đoàn của Liên hiệp Công đoàn giải phóng
do Huỳnh Văn Tâm làm trưởng đoàn đi thăm Liên Xô.
Năm 1962, có 10 đoàn, trong số nầy có đoàn do giáo sư Nguyễn Văn Hiếu, Tổng thư
ký Uỷ ban trung ương Mặt trận dẫn đầu đoàn đại biểu đi thăm các nước Tiệp Khắc (tháng
6), Liên Xô (tháng 7), Cộng hoà dân chủ Đức và Hungary ( tháng 8), Inđônêsia (tháng 9),
thăm Trung Quốc và miền Bắc (tháng 10), thăm Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên
(tháng 11).
Năm 1963, có 16 đoàn đi thăm 10 nước, đặc biệt là các nước châu Phi: Ga na, Ghi nê,
Ma li, Ai Cập.
Năm 1964, có 22 đoàn đi thăm 12 nước, đặc biệt là các nước xã hội chủ nghĩa.
Năm 1965, có 29 đoàn, đi thăm và dự lệ kỹ niệm ở 24 nước, trong đó có Pháp, Cam
pu chia, Công gô (B), Bắc Ka- li- man- tan.
Các đoàn dại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng đều được các nơi đón tiếp nồng nhiệt,
mức đón tiếp và nhiệt tình năm sau cao hơn năm trước. Hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa
và nhiều nước Á, Phi, Mỹ la tinh đón tiếp các đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam theo cấp cao nhất của Đảng, chính phủ hay Mặt trận của các nước ấy, vị trí chính
trị của Mặt trận được đề cao, vai trò của Mặt trận được đánh giá cao. Thủ tướng Phi -đen
Cat- xtơ-rô tiếp đoàn đại biểu Mặt trận ngày 26-7-1963 tuyên bố:”Tôi xin cám ơn nhân dân
miền Nam và các chiến sĩ giải phóng miền Nam vì cuộc chiến đấu ở miền Nam Việt Nam
tượng trưng cho cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc, một cuộc chiến đấu cao nhất trong
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc hiện nay trên thế giới…. Cuộc đấu tranh của miền
Nam Việt Nam là một bài học lớn đối với châu Mỹ la tinh, chúng tôi noi gương anh hùng
của nhân dân miền Nam Việt Nam ”.
Như vậy đến năm 1963, so với yêu cầu chính trị về công tác đối ngoại của Mặt trận thì
chúng ta đã những thành tựu đáng kể.
Nhân dịp đi dự lễ 26-7 tại Cu -ba, đoàn miền Nam đã ký tuyên bố tay không với các
đoàn đại biểu nhân dân 8 nước châu Mỹ la tinh: U-ra- guay, Pa-ra-goay, Bra-zin,Vê-nê-zu-
ê-la, Cô-lôm-bi, Pa-na-ma, Đô-mi-nic.
Chuyến đi thăm hữu nghị các nước châu Phi sau khi Mặt trận phát hành bản tuyên bố
lịch sử 22-3-1965, đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được Tổng thống
các nước Ma-li, Ghi-nê, Công gô ( B) đón tiếp trọng thể và được điều kiện thuận lợi nhất để
giới thiệu tình hình miền Nam Việt Nam cho nhân dân các nước đó, làm cho nhân dân và
chính phủ các nước đó thêm tin tưởng và quyết tâm ủng hộ Mặt trận.
78 lần đoàn Mặt trận đi thăm các nước là 78 đòn chính trị đánh vào kẻ thù, là những
chiến dịch tuyên truyền góp phần đẩy đế quốc Mỹ vào thế cô lập, góp phần nâng cao vị trí
pháp lý của Mặt trận như là người đại diện chân chính, duy nhất của 14 triệu nhân dân miền
Nam Việt Nam.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tuy chưa lấy danh nghĩa là chính
quyền, nhưng đã có những phái đoàn đại diện thường trực ở nứớc ngoài tương tự như những
sứ quán hay tổng đại diện. Mặt trận đã có 8 cơ quan đại diện thường trực ở 4 châu ( Cu-ba,
Trung Quốc, In-đô-nê-xia, An-gê-ry, Liên Xô, Cộng hoà dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Hung-ga-
ry). Theo luật sư Nguyễn Hữu Thọ:”Nhiều chính phủ đã đối xữ với Uỷ ban trung ương Mặt
trận như đối xữ với một chính phủ và tiếp đón các phái đoàn của chúng ta như tiếp đón
những phái đoàn ngoại giao chính thức của một quốc gia”.
Cu-ba là nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên đón nhận cơ quan thường trực đại diện Mặt
trận và công nhận quy chế đại sứ quán cho cơ quan đại diện Mặt trận ( 1962).
Đầu năm 1963, Mặt trận đặt cơ quan đại diện tại Algiérie và Tiệp Khắc. Tiếp đó, các
cơ quan đại diện và các phòng thông tin của Mặt trận lần lượt thành lập ở Liên Xô, Trung
Quốc, CHDC Đức, Rumani, Mông Cổ, Lào, Campuchia ...sau đó là Na Uy, Thuỵ Điển,
Phần Lan, Pháp và nhiều nơi khác .
Những hoạt động ngoại giao tích cực của Mặt trận đã lập được mối quan hệ quốc tế
rộng rãi, nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân các nước.Trong Đại hội Mặt trận lần
thứ hai, luật sư Nguyễn Hữu Thọ đã tổng kết :”Ngày nay, nhân dân các nước không phải chỉ
ủng hộ mục đích chính nghĩa của chúng ta mà còn ủng hộ cả hình thức đấu tranh vũ trang
của chúng ta ” [62].
2.2.2. Đại biểu của Mặt trận tham dự các diễn đàn hội nghị quốc tế
Từ năm 1961 đến 1965, Mặt trận đã cử đại biểu tham dự 66 cuộc hội nghị quốc tế
của : công đoàn, thanh niên, phụ nữ, luật gia, nhà báo, tôn giáo, hoà bình thế giới, điện ảnh,
đoàn kết Á- Phi, đàm phán về biên giới Việt Nam - Cam pu chia, hội nghị nhân dân Đông
Dương, thanh toán chủ nghĩa thực dân, chống căn cứ quân sự ở nước ngoài, kinh tế, khoa
học …Trong số 66 cuộc hội nghị nầy, có 37 cuộc hội nghị quốc tế thế giới, 29 cuộc hội
nghị quốc tế khu vực. Cũng như các đoàn đi thăm nước ngoài, số đoàn đi dự hội nghị quốc
tế mỗi năm mỗi tăng: năm 1961 có 1 lần, 1962 có 7 lần, 1963 có 14 lần, 1964 có 21 lần,
1965 có 23 lần [23].
Càng ngày dư luận tiến bộ trên thế giới càng nhận thấy rõ và đúng rằng vấn đề chiến
tranh ở miền Nam Việt Nam đã trở thành vấn đề trung tâm của thế giới liên quan đến vận
mệnh của loài người, rằng cách mạng dân tộc và dân chủ ở miền Nam Việt Nam chống Mỹ
và tay sai có một tầm quan trọng đặc biệt đối với cách mạng thế giới trong giai đoạn hiện
đại, vì nhân dân Việt Nam trực tiếp đánh vào tên sen đầm chủ chốt của thế giới ngày nay.
Cho nên, càng về sau thì các cuộc hội nghị quốc tế, dù thế giới, dù khu vực, đều xem việc
bàn về vấn đề chống Mỹ xâm lược, ủng hộ nhân dân miền Nam Việt Nam ,như là một trong
những chân giá trị của mình. Xét sâu hơn, có thể thấy được rằng vấn đề chống Mỹ xâm lược
Việt Nam cuối cùng không còn mang tính chất của những cuộc vận động đơn thuần mà đã
thấm sâu vào cuộc đấu tranh hằng ngày của giai cấp công nhân, nhân dân tiến bộ thế giới.
Hầu như không có một hội nghị thế giới, khu vực, quốc gia nào của đảng cộng sản, của
công đoàn, của tổ chức dân chủ tiến bộ mà không có thảo luận về vấn đề Việt Nam, về vấn
đề tìm những phương pháp và hình thức thích hợp để mở rộng và tăng cường đoàn kết và
giúp đỡ nhân dân Việt Nam đấu tranh chống Mỹ. Các đoàn của Mặt trận xem trong sự hoạt
động của các hội nghị quốc tế như là diễn đàn để mình tố cáo Mỹ-nguỵ, để mình làm sáng
tỏ thêm hơn nữa các chủ trương đường lối của Mặt trận, để thông báo xác thực về tình hình
chiến thắng của quân dân miền Nam, cố làm cho mọi người thiện chí thấy rằng hoạt động
của Mặt trận là phù hợp hoàn toàn với mục tiêu chung của nhân loại yêu chuộng tự do, dân
chủ, hoà bình, công lý, rằng con đường Mặt trận đang đi là con đường tất yếu, tất thắng của
các dân tộc đang bị đế quốc áp bức hiện nay. Tại các cuộc hội nghị quốc tế, các đoàn của
Mặt trận không bỏ lỡ một cơ hội nào để giương cao ngọn cờ chống Mỹ, chống đế quốc thực
dân cũ và mới, phát triển những ý kiến có sức mạnh của nhân dân miền Nam, kiên quyết
ủng hộ mọi phong trào phản đế ở Á, Phi, Mỹ la tinh, ở Đông Á, ở Cam pu chia và Lào.
Các đoàn của Mặt trận đóng góp tại các hội nghị quốc tế, những quan điểm được lắng nghe
về việc đánh giá đế quốc Mỹ, về mối quan hệ đúng đắn giữa đấu tranh giải phóng dân tộc
và đấu tranh bảo vệ hoà bình thế giới, về sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân trong
thời đại kỹ thuật và vũ khí phát triển cao độ hiện nay… nghĩa là các đoàn của Mặt trận đề ra
trước các hội nghị quốc tế quan điểm của mình, kinh nghiệm của nhân dân Việt Nam về một
loạt vấn đề thuộc loại nóng hổi nhất của thời đại. Những chiến thắng liên tiếp của quân và
dân miền Nam Việt Nam càng làm cho tiếng nói của các đoàn Mặt trận tại các cuộc hội nghị
quốc tế được chú ý, được cất cao lên. Và luôn luôn, các cuộc hội nghị quốc tế đều có nghị
quyết lên án Mỹ, ủng hộ nhân dân miền Nam Việt Nam, hoan nghênh Mặt trận Dân tộc giải
phóng.
Từ 1962, có nhiều nghị quyết của các hội nghị quốc tế, trong đó tiêu biểu là:
Nghị quyết tháng 10-1962 của Hội luật gia Á- Phi họp ở Cônakry (Ghi nê ) lên án đế
quốc Mỹ :”Hội nghị trịnh trọng tuyên bố rằng cuôc xâm lược vũ trang ở miền Nam Việt
Nam là trái với Hiệp nghị Giơnevơ, trái với hiến chương Liên hiệp quốc, trái với luật pháp
quốc tế. Hội nghị cũng tuyên bố rằng cuộc xâm lược ở miền Nam Việt Nam có tính chất
một cuộc chiến tranh thuộc địa rõ rệt, đồng thời là một sự uy hiếp nghiêm trọng trực tiếp đối
với hoà bình và an ninh của các nước Đông Nam Á, đối với hoà bình ở viễn Đông và thế
giới”.
Hội nghị luật gia Á - Phi ở Cônakry trong khi lên án Mỹ thì nhấn mạnh vào tính chất
chính nghĩa và hợp pháp của cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam: ”Phong trào cách
mạng ở miền Nam Việt Nam là một phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc, chống đế
quốc xâm lược và bè lũ phản quốc, đó là một cuộc đấu tranh chính nghĩa để tự vệ mà bất cứ
dân tộc nào bị áp bức, bị nô dịch cũng làm như vậy. Hội nghị tuyên bố rằng cuộc đấu tranh
của nhân dân miền Nam Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với Hiệp nghị Giơnevơ năm 1954,
với Hiến chương Liên hiệp quốc, với bản Tuyên ngôn nhân quyền, với nghị quyết khoá 15
của Hội đồng Liên hiệp quốc về việc xoá bỏ chủ nghĩa thực dân dưới mọi hình thức và mọi
biểu hiện”. Nghị quyết tháng 10-1962 của Hội luật gia Á- Phi là một thắng lợi chính trị đối
ngoại lớn của phong trào cách mạng giải phóng miền Nam Việt Nam .
Nghị quyết tháng 2-1963 của Phong trào đoàn kết Á-Phi họp tại Mô-si đã nhất trí
thông qua nghị quyết :”Chính phủ Mỹ phải từ bỏ chính sách và những hành động xâm lược
miền Nam Việt Nam và phải rút hết quân đội, cố vấn và nhân viên quân sự Mỹ, cũng như
mọi vũ khí và dụng cụ chiến tranh ra khỏi miền Nam Việt Nam ”, đòi “chính quyền Ngô
Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, phải tức khắc đình chỉ các cuộc càn quét”, và tuyên bố
“ủng hộ các chính sách của Mặt trận Dân tộc giải phóng và kêu gọi nhân dân toàn thế giới
đoàn kết ủng hộ nhân dân miền Nam Việt Nam anh dũng”. Như thế, so nghị quyết Cônakry
với nghị quyết Mô-si, từ năm 1962 sang 1963, người ta thấy có một sự tiến bộ rõ rệt trong
dư luận quốc tế về vấn đề chiến tranh ở miền Nam Việt Nam. Tại Cônakry, nghị quyết lên
án Mỹ xâm lược, khẳng định tính chính nghĩa, hợp pháp của cuộc kháng chiến ở miền Nam.
Tại Mô-si, nghị quyết đề ra yêu sách cụ thể: Mỹ phải rút quân đội, cố vấn, vũ khí, còn nhân
dân thế giới thì cần hiệp sức ủng hộ nhân dân miền Nam.
Tháng 11-1964, Hội nghị quốc tế đoàn kết với nhân dân miền Nam chống đế quốc Mỹ
xâm lược, có 64 đoàn đại biểu tham dự đại diện cho 50 nước và 12 tổ chức quốc tế, họp tại
thủ đô Hà Nội. Hội nghị tuyên bố: ”Hoàn toàn ủng hộ cuộc đấu tranh anh dũng của nhân
dân miền Nam Việt Nam, chống đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai, nhằm giải phóng miền
Nam, giành độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, hoà bình và trung lập, tiến tới hoà bình
thống nhất Tổ quốc…Cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân miền Nam anh hùng là một
tấm gương sáng và là một nguồn cổ vũ mạnh mẽ đối với các dân tộc bị áp bức. Một dân tộc
bị áp bức, dù nhỏ nhưng đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh cho một đường lối đúng đắn, lại
được sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu
chuộng hoà bình thế giới thì hoàn toàn có thể chiến thắng được chủ nghĩa đế quốc, dù là đế
quốc Mỹ…”.
Qua nội dung của những nghị quyết trên, chúng ta có thể nhận thấy dư luận quốc tế từ
chổ ủng hộ chính nghĩa của nhân dân miền Nam Việt Nam đến chổ tin tưởng rằng nhân dân
miền Nam sẽ chiến thắng quân xâm lược Mỹ và tay sai, đi từ ủng hộ mục tiêu của Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đến chổ tán thành các phương pháp đấu tranh mà
Mặt trận chủ trương để đạt mục tiêu đó. Các nghị quyết quốc tế đó đã đề cao và xác lập vai
trò, uy tín , vị trí của Mặt trận trên trường quốc tế, và hơn nữa, đã rút ra từ thực tiễn đấu
tranh cách mạng của nhân dân miền Nam Việt Nam một số chân lý có tính chất phổ biến
cho phong trào nhân dân thế giới đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập dân tộc
và bảo vệ hoà bình.
Năm 1964 còn được đánh dấu bằng một sự kiện có ý nghĩa chính trị và pháp lý lớn:
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam gửi đại biểu đi dự Hội nghị đàm phán về
biên giới với chính phủ Vương quốc Cam-pu-chia. Như vậy là, mặc nhiêh chính phủ Cam-
pu-chia công nhận địa vị pháp lý của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là
người đại diện chân chính cho nhân dân miền Nam. Hơn nữa, Quốc trưởng Vương quốc
Cam-pu-chia Xi-ha -nuc nhiều lần lên tiếng khẳng định vai trò, vị trí pháp lý duy nhất của
Mặt trận, và kiên quyết bác bỏ quyền đại diện của chính phủ bù nhìn Sài Gòn.
Từ ngày 1 đến ngày 9-3-1965, tại Phnôm Pênh đã diễn ra hội nghị Nhân dân Đông
Dương, Tham dự Hội nghị có các đoàn đại biểu của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận
Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Cộng đồng xã hội bình dân Campuchia, Neo Lào
Hắc xạt, lực lượng trung lập Lào yêu nước và các đoàn thể tổ chức khác thuộc ba nước
Đông Dương. Hội nghị đã cực lực lên án đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, gây ra
cuộc chiến tranh đầy tội ác chống nhân dân Việt Nam, can thiệp vũ trang vào Lào và đe doạ
xâm lược Campuchia. Hội nghị đã đưa ra Nghị quyết chung, khẳng định tình đoàn kết của
nhân dân Đông Dương trong cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và thông qua ba
nghị quyết riêng về Việt Nam, Lào và Camphuchia.
Hội nghị Nhân dân Đông Dương đã đánh dấu một bước tiến lớn trong sự nghiệp đoàn
kết chiến đấu của nhân dân Việt Nam, Campuchia và Lào chống kẽ thù chung là đế quốc
Mỹ xâm lược. Thắng lợi nầy của ba dân tộc chúng ta là một đòn mạnh mẽ đánh vào chính
sách can thiệp và xâm lược của đế quốc Mỹ và tay sai của chúng ở Đông Dương. Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định :”Đứng trước nguy cơ một cuộc chiến tranh mở rộng do Mỹ gây
nên, nhân dân ba nước chúng ta đoàn kết chặt chẽ chống đế quốc Mỹ, thì chúng ta nhất định
thắng lợi” [67, tr.153].
Năm 1965, nhất là sau khi Mặt trận đưa ra bản tuyên bố 5 điểm ngày 22-3-1965 và
Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà tuyên bố lập trường 4 điểm, sau sự kiện vịnh Bắc bộ,
sau sự kiện Mỹ đổ quân vào miền Nam và đánh phá miền Bắc bằng máy bay. Càng ngày có
càng nhiều tuyên bố của những hội nghị quốc tế hưởng ứng bản tuyên bố của Mặt trận.
Ngày 22-3-1965, nhằm thể hiện rõ quyết tâm chiến đấu và thiện chí hoà bình của nhân
dân ta, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã ra tuyên bố lập trường 5 điểm:
1. Vạch rõ Mỹ là kẻ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, kẻ gây chiến và xâm lược cực kỳ
thô bạo.
2.Nhân dân miền Nam quyết đánh đuổi đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam, thực
hiện một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, hoà bình, trung lập.
3.Nghĩa vũ thiêng liêng của quân và dân miền Nam là đánh đuổi đế quốc Mỹ để giải
phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc.
4.Nhân dân miền Nam Việt Nam tỏ lòng biết ơn sâu sắc sự ủng hộ nhiệt tình của nhân
dân yêu chuộng hoà bình và công lý trên thế giới và tuyên bố sẵn sàng tiếp nhận mọi sự
giúp đỡ, kể cả vũ khí và dụng cụ chiến tranh của bạn bè khắp năm châu.
5.Toàn dân đoàn kết, toàn dân vũ trang, tiếp tục anh dũng xông lên, quyết chiến quyết
thắng giặc Mỹ và bọn Việt gian bán nước.
Sau khi bản tuyên bố ngày 22-3-1965 công bố đã có 22 chính phủ, 22 tổ chức quốc tế
và khu vực, 446 đảng phái và đoàn thể quần chúng, 27 đảng cộng sản và công nhân thuộc
92 nước trên thế giới lên tiếng đồng tình với Mặt trận, ủng hộ nhân dân miền Nam Việt
Nam ( so với 9 tổ chức hồi năm 1962, 12 tổ chức năm 1963, 17 tổ chức năm 1964 ).
Nghị quyết về Việt Nam của Hội nghị nhân dân Đông Dương (3-1965) họp tại Phnôm
Pênh ca ngợi sự lãnh đạo của Mặt trận và cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam, đòi Mỹ
chấm dứt chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam, rút quân và thủ tiêu các căn cứ quân
sự để cho nhân dân miền Nam Việt Nam tự giải quyết các vấn đề nội bộ của mình.
Nghị quyết của 67 đoàn đại biểu các nước Á, Phi, Mỹ la tinh và châu Đại Dương họp
hội nghị quốc tế các nhà giáo tại An-giê-ri ( 4-1965).
Nghị quyết của 109 đoàn đại biểu sinh viên, thanh niên thuộc 54 nước tại cuộc “họp
mặt sinh viên, thanh niên quốc tế về hoà bình và hiểu biết lẫn nhau chống chủ nghĩa phát xít
và chiến tranh”, họp tại Béc-linh ( 5-1965).
Nghị quyết 35 nước và tổ chức quốc tế dự “hội nghị quốc tế bàn về việc thanh toán
chủ nghĩa thực dân ở châu Mỹ la tinh”, họp ở La Ha-van( 5-1965).
Nghị quyết của hội nghị 20 Đảng Cộng Sản và công nhân các nước Tây Âu và Bắc Âu
( 6-1965).
Tháng 5-1965, Hội nghị đoàn kết nhân dân Á-Phi lần thứ 4 họp tại Ga-na quyết định:
“Hoàn toàn ủng hộ nhân dân Việt Nam trong cuôc đấu tranh chống mọi sự xâm lược
của đế quốc Mỹ, nhằm giải phóng miền Nam , bảo vệ miền Bắc, bảo vệ quyền thiêng liêng
và bất khả xâm phạm của đất nước và độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
như hội nghị Giơnevơ đã quy định, nhiệt liệt hoan nghênh những chiến thắng rực rỡ mà
nhân dân miền Nam đã thu được và tin chắc rằng đế quốc Mỹ sẽ thất bại ở Việt Nam, nhân
dân Việt Nam sẽ chiến thắng trong cuộc đấu tranh chính nghĩa của mình…Hoàn toàn ủng
hộ bản tuyên bố ngày 22-3-1965 của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam,
phản ánh ý chí kiên quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam đấu tranh chống bọn xâm lược
Mỹ tới thắng lợi cuối cùng và một lần nữa khẵng định rằng Mặt trận DTGPMNVN là người
đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam ”.
Ngoài các hoạt động trên diễn đàn các hội nghị, đoàn Mặt trận đã có nhiều hoạt động
bên ngoài hội nghị, đi đến những văn bản ký kết, những tuyên bố chung có giá trị chính trị
cao. Đoàn cũng đã vận động các tổ chức quốc tế công nhận các đoàn thể trong Mặt trận là
hội viên, là thành viên trong ban chấp hành các tổ chức quốc tế. Đoàn cũng đã vận động
được các tổ chức quốc tế thành lập những “Ủy ban Quốc tế đoàn kết với nhân dân miền
Nam Việt Nam ”, tạo mọi điều kiện để các tổ chức quốc tế ủng hộ nhân dân Việt Nam trong
công cuộc chống đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai.
Từ 1963 đến1965, có nhiều tổ chức quốc tế ủng hộ nhân dân miền Nam Việt Nam
trong cuộc chống đế quốc xâm lựơc và tay sai.
Năm 1963 có 103 tổ chức quốc tế và quốc gia lên tiếng ủng hộ cuộc đấu tranh chống
Mỹ- Diệm rãi chất độc hoá học ở miền Nam Việt Nam . 10 tổ chức quốc tế và 82 tổ chức
quốc gia trên 24 nước hưởng ứng ngày 20-7-1963. 103 tổ chức( trong đó có 7 chính phủ:
Trung Quốc, Cu-Ba, Triều Tiên, Liên Xô, Lào, Cam-pu-chia, Xây lan) phản đối Mỹ- Diệm
khủng bố Phật giáo, sinh viên, học sinh miền Nam Việt Nam. 12 tổ chức quốc tế và 330 tổ
chức quốc gia của 50 nước hưởng ứng ngày kỷ niệm 3 năm thành lập Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam, cũng là ngày quốc tế đoàn kết ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân
dân miền Nam Việt Nam .
Năm 1964, sự ủng hộ của quốc tế đối với nhân dân miền Nam càng rộng lớn hơn. Có
27 tổ chức quốc tế và 370 tổ chức quốc gia của 64 nước ( trong đó có 14 nước xã hội chủ
nghĩa, 11 nước châu Á ,16 nước châu Phi, 11 nước châu Mỹ la tinh, 10 nước Tây Âu, Bắc
Âu và Bắc Mỹ, 2 nước châu Đại Dương) lên tiếng ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam Việt Nam và nhân dân miền Nam Việt Nam .
Đẹp đẽ vô cùng và to lớn nhất xưa nay là những con số ghi tên quân chí nguyện các
nước sang chiến đấu bên cạnh nhân dân Việt Nam. Chỉ đến tháng 5-1965, đã có 35 nước có
người ghi tên tình nguyện, trong đó có Liên Xô, Trung Quốc, Cộng hoà dân chủ nhân dân
Triều Tiên, Cu Ba. Có nhiều kỹ sư, bác sĩ, cựu chiến binh đến cơ quan đại diện thường trực
của Mặt trận ghi tên xin tình nguyện. Mặt trận đã tiếp nhận hàng vạn lá đơn xin tình nguyện.
2.2.3. Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ hình thành
Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chống đế quốc Mỹ, một đế quốc đầu sỏ trên
thế giới đã trở thành vấn đề lớn, một trong những vấn đề trung tâm của thời cuộc quốc tế, có
quan hệ đến tình hình hoà bình hay chiến tranh của thế giới, cho nên về phía mình nhân dân
miền Nam Việt Nam có ý thức rằng mình đang đứng trên tiền tuyến nóng nhất của nhân
loại tiến bộ đấu tranh cho độc lập dân tộc, hoà bình dân chủ và chủ nghĩa xã hội, còn về
phía nhân dân thế giới thì bè bạn từ khắp năm châu mỗi ngày thêm đông đúc càng thấy rõ
nghĩa vụ đối với cuộc cách mạng dân tộc dân chủ chống Mỹ và tay sai ở miền Nam Việt
Nam. Vì vậy, một mặt trận nhân dân thế giởi ủng hộ nhân dân miền Nam Việt Nam chống
Mỹ xâm lược đã hình thành.
2.2.3.1.Các nước xã hội chủ nghĩa , là lực lượng nòng cốt của Mặt trận nhân dân thế
giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ [23].
Trung Quốc là nước ở trong vị trí và tình nghĩa “môi hở răng lạnh” với Việt Nam.
Trung Quốc nhạy bén trong sự giúp đỡ cho cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân miền
Nam. Huống chi, Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam là nhằm biến miền Nam Việt Nam
thành pháo đài để chống phe xã hội chủ nghĩa. Trong khi so sánh lực lượng giữa ta và địch
ta còn yếu, nhiều nước còn chưa tin vào khả năng chiến thắng của ta, thì Trung Quốc đã
kiên quyết nói lên lòng tin tưởng vào tương lai thắng lợi của cách mạng miền Nam. Ngày
29-8-1963, Mao Trạch Đông nói: ”Tôi tin chắc rằng, nhân dân miền Nam Việt Nam, bằng
cách đấu tranh, nhất định có thể thực hiện được mục tiêu giải phóng miền Nam, góp phần
vào việc hoà bình thống nhất nước nhà ”.
Ngày 28-3-1965, Trần Nghị, Bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc, trong một bức công
hàm gửi cho Việt Nam đã khẳng định: ”Hai nước Trung Quốc và Việt Nam khắng khít với
nhau như môi với răng, vui buồn hoạn nạn có nhau, ủng hộ nhân dân Việt Nam anh em
chống sự xâm lược của Mỹ là nghĩa vũ quốc tế thiêng liêng của nhân dân Trung Quốc.
Chúng tôi kiên quyết ủng hộ tuyên bố ngày 22-3-1965 của Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam. Nhân dân Trung Quốc sẽ dốc hết lực lượng của mình, giúp đỡ mọi sự
cần thiết về vật chất, bao gồm cả vũ khí và dụng cụ chiến tranh, cho nhân dân miền Nam
Việt Nam anh hùng ”.
Một cao trào “giúp Việt chống Mỹ” được phát động trong toàn dân Trung Quốc, mở
đầu bằng cuộc mít tinh 1,5 triệu người tại Bắc Kinh ngày 10-2-1965, có cả các đồng chí
lãnh đạo Đảng và nhà nước tham dự. Cao trào “giúp Việt chống Mỹ” biểu hiện khắp nơi
bằng học tập, sản xuất và tập luyện quân sự với ý thức Trung Quốc là hậu phương, Việt
Nam là tiền tuyến.
Liên Xô cũng rất quan tâm đến tình hình Việt Nam, đã ủng hộ cuộc đấu tranh chống
Mỹ của nhân dân Việt Nam. Ngày 3-8-1962, Uỷ ban đoàn kết Á - Phi của Liên Xô đã ký
tuyên bố chung với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam xác định: ”Cuộc đấu
tranh thần thánh của nhân dân miền Nam Việt Nam nhằm thực hiện độc lập, dân chủ, hoà
bình, trung lập là hoàn toàn phù hợp với Hội nghị Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam, với bản
tuyên bố của Đại hội đồng Liên hiệp quốc lần thứ 15 về thủ tiêu chủ nghĩa thực dân”. “Kiên
quyết đòi đế quốc Mỹ phải đình chỉ tức khắc cuộc vũ trang xâm lược của chúng và rút hết
quân đội, cố vấn quân sự, vũ trang và phương tiện chiến tranh của Mỹ cũng như chư hầu ra
khỏi miền Nam Việt Nam ”.
Đầu năm 1964, Chủ tịch đoàn chủ tịch Xô viết tối cao Brê -jê - nep gửi điện cho luật
sư Nguyễn Hữu Thọ bày tỏ mối cảm tình sâu sắc của nhân dân Liên Xô đối với cuộc đấu
tranh chính nghĩa của nhân dân miền Nam và chúc nhân dân miền Nam đạt nhiều thắng lợi.
Ngày 29-4-1965, hưởng ứng lời kêu gọi của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà, Xô Viết tối cao Liên Xô tuyên bố: “Công việc của miền Nam Việt Nam phải do nhân
dân miền Nam Việt Nam tự giải quyết lấy theo cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng,
người đại diện chân chính của ý chí và nguyện vọng của nhân dân miền Nam Việt Nam,
người đại diện duy nhất hợp pháp của nhân dân miền Nam Việt Nam ”.
Chính phủ Triều Tiên tuyên bố sẽ cung cấp cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam Việt Nam vũ khí và thiết bị đủ đủ để trang bị cho một lực lượng Quân giải phóng và
các đơn vị vũ trang nhân dân miền Nam tương đương với quân Nam Triều Tiên mà đế quốc
Mỹ đưa sang đánh thuê, chết thay cho chúng ở Nam Việt Nam. Mặt trận Dân chủ thống nhất
Tổ quốc Triều Tiên kêu gọi thanh niên và binh lính Nam Triều Tiên bị đưa sang Việt Nam
hãy quay súng chống lại đế quốc Mỹ, chạy sang hàng ngũ Quân giải phóng.
Các nước Mông Cổ, Ba Lan, Rumani, Hungary, Tiệp Khắc, Cộng hoà dân chủ Đức,
Anbani, Cuba… đều “Hoàn toàn ủng hộ cuộc đấu tranh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam, đại biểu cho nguyện vọng của nhân dân miền Nam và là người đại
diện duy nhất hợp pháp của nhân dân miền Nam ”.
Tóm lại, tất cả các nước xã hội chủ nghĩa anh em, người trước người sau, đã tỏ rõ
nhiệt tình ủng hộ cách mạng miền Nam. Nhiệt tình của bè bạn được thể hiện bằng những
hành động cụ thể viện trợ cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng, cho nhân dân Việt Nam chống
Mỹ. Đặc biệt từ sau bản tuyên bố 22-3, phong trào đồng tình và ủng hộ đó trở nên mạnh mẽ
hơn bao giờ hết. Lực lượng toàn phe xã hội chủ nghĩa là chổ dựa mạnh nhất của nhân dân
Việt Nam chống Mỹ. Phe xã hội chủ nghĩa đúng là nòng cốt vững chắc của Mặt trận nhân
dân thế giới đoàn kết ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ xâm lược.
2.2.3.2. Các nước Á- Phi - Mỹ La tinh ủng hộ Việt Nam chống Mỹ.
Việt Nam là một trong những nước thuộc địa của phương Tây đã nổi lên làm cách
mạng dân tộc và dân chủ thành công, đánh đuổi thực dân, khôi phục độc lập, khai trương
cao trào giải phóng dân tộc sau chiến tranh thế giới thứ hai. Cho nên dân tộc Việt Nam có
cái vốn uy tín lớn trong các nước Á- Phi - Mỹ La tinh. Cuộc đấu tranh vũ trang và chính trị
của nhân dân miền Nam Việt Nam là cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, chống Mỹ, chống
chủ nghĩa thực dân kiểu mới, cho nên cuộc cách mạng của ta sớm được các nước Á- Phi -
Mỹ La tinh đồng tình và ủng hộ.
Campuchia là nước bị hai bù nhìn của Mỹ (Thái Lan và nguỵ quyền Sài Gòn ) kẹp vào
giữa và quấy phá thường xuyên. Từ năm 1963, Quốc trưởng Campuchia Norodom Xi ha
nuc đã can đảm công khai gửi thư cho luật sư Nguyễn Hữu Thọ, chủ tịch Mặt trận Dân tộc
Giải phóng, tỏ ý mong muốn miền Nam sớm được giải phóng để cùng Campuchia xây dựng
sự hợp tác và hữu nghị giữa hai dân tộc. Năm 1964, chính phủ Campuchia tiến hành hội
đàm tay đôi với Mặt trận Dân tộc Giải phóng về vấn đề biên giới và như thế Campuchia
mặc nhiên thừa nhận vị trí pháp lý duy nhất của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Quốc trưởng
Xi ha nuc nói: ”Chính quyền Sài Gòn là chính quyền bù nhìn, ví phỏng họ có tôn trọng biên
giới Campuchia đi nữa, thực tế điều ấy cũng chẳng có giá trị gì, vì đó chỉ là một chính
quyền tay sai của Mỹ”.
Hưởng ứng bản tuyên bố ngày 22-3-1965, Quốc trưởng Xi ha nuc gởi thư cho luật sư
Nguyễn Hữu Thọ, nói rõ: ”Nhân dân Campuchia hoàn toàn ủng hộ bản tuyên bố ngày 22-3
của Mặt trận và hoàn toàn đoàn kết với những người anh em Việt Nam trong cuộc đấu tranh
chính nghĩa chống đế quốc Mỹ ”.
Lào là một dân tộc láng giềng của Việt Nam, có thiện cảm với cuộc đấu tranh của
nhân dân Việt Nam. Lào cũng là nơi đang có cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Cho nên giữa Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Neo Lào Hắc -xạt có sự gắn bó với nhau. Từ
khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, không có một sự kiện chính
trị, một chiến thắng nào của nhân dân miền Nam mà Neo Lào Hắc-xạt không nhiệt liệt
hưởng ứng.
In -đô-nê -xi-a, dưới thời Tổng thống Xu các nô, Chính phủ và nhân dân In -đô- nê -
xi-a có thiện cảm với nhân dân miền Nam chống Mỹ và tay sai. Kỷ niệm 3 năm thành lập
Mặt trận Dân tộc Giải phóng (20-12-1963), In -đô- nê -xi-a đã đón tiếp nồng nhiệt đoàn đại
biểu của Mặt trận Dân tộc Giải phóng do giáo sư Nguyễn Văn Hiếu dẫn đầu. Nhân dịp nầy,
Mặt trận dân tộc In-đô-nê-xi-a và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã ra
bản tuyên bố chung, có đoạn viết: ”Nhân dân In-đô-nê-xi-a hoàn toàn ủng hộ cuộc đấu tranh
chính nghĩa của nhân dân miền Nam Việt Nam, nhằm giải phóng miền Nam, tống cổ đế
quốc Mỹ ra khỏi miền Nam, thực hiện độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập, tiến tới hoà
bình thống nhất đất nước. Mặt trận dân tộc In-đô-nê-xi-a cho rằng Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam là người đại diện chân chính và duy nhất của nhân dân miền
Nam Việt Nam ”.
Các nước An-giê-ry, Ma-li, Ghi- nê, Công -gô( B), Cộng hoà Ả Rập Thống Nhất đều
có các phong trào ủng hộ cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân miền Nam Việt Nam,
các nước đều tuyên bố “Hoàn toàn đứng về phía nhân dân Việt Nam anh hùng, triệt để ủng
hộ cuộc đấu tranh vũ trang của nhân dân Việt Nam nhằm giải phóng đất nước, đòi rút quân
Mỹ khỏi Nam Việt Nam ”.
Nhiều đảng phái chính trị, nhiều đoàn thể của nhân dân các nước Á- Phi - Mỹ La tinh
đã lên tiếng hưởng ứng bản tuyên bố 22-3-1965 của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Có thể
nói, không một nước nào mà không có chính đảng và đoàn thể quần chúng ra tuyên bố ủng
hộ nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Mỹ.
Khắp các nước châu Mỹ La tinh bùng cháy ngọn lửa nhân dân chống Mỹ. Ở nhiều
nước, phòng thông tin, sứ quán mỹ bị đập phá, đốt cháy. Du kích Vê-nê-du-ê-la học tập
gương Nguyễn Văn Trỗi. Thanh niên Mếch -xich, Cô-lôm-bi-a ghi tên tình nguyện sang
miền Nam Việt Nam chiến đấu. Phụ nữ U-ra-goay thành lập “Uỷ ban Việt Nam ”. Các Đảng
cộng sản Cô-lôm-bi, Si- li, Pê-ru ra nghị quyết ủng hộ nhân dân miền Nam Việt Nam. Hội
nghị Trung ương Đảng cộng sản Vê-nê-du-ê-la gửi thư cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng
nhấn mạnh rằng: “Sự nghiệp chính nghĩa giải phóng dân tộc của miền Nam Việt Nam
không chỉ là sự nghiệp của nhân dân các bạn mà là sự nghiệp của tất cả các dân tộc trên thế
giới, đặc biệt là của nhân dân Vê-nê-du-ê-la”. Khi Mỹ đưa quân ồ ạt vào miền Nam thì “Ủy
ban châu Mỹ La tinh ủng hộ Việt Nam ” tại La Ha-van tuyên bố: nguyện tăng cường gấp
trăm lần các hoạt động để góp phần vào thắng lợi của nhân dân Việt Nam .
2.2.3.3. Nhân dân tiến bộ các nước tư bản châu Âu ủng hộ Việt Nam chống Mỹ.
Ở Pháp, nhân dân lao động vốn có cảm tình với cách mạng Việt Nam, nước Pháp là
nước ký Hiệp định Giơnevơ nhưng chính phủ Pháp từ bỏ trách nhiệm thực hiện nghị quyết
ấy. Từ năm 1963, Đảng cộng sản Pháp, Tổng liên đoàn lao động, các tổ chức sinh viên,
thanh niên, phụ nữ Pháp đã nhiều lần lên tiếng phản đối chiến tranh đặc biệt của Mỹ ở Nam
Việt Nam và ủng hộ Mặt trận Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Phong
trào ủng hộ Việt Nam chống Mỹ lên cao từ đầu năm 1965, đặc biệt là từ sau khi có bản
tuyên bố 22-3-1965 của Mặt trận. Cuộc vận động quần chúng ở Pháp chống Mỹ, biểu hiện
tập trung nhất là trong ”Ngày toàn nước Pháp ủng hộ Việt Nam ”( 6-4-1965), ngày ấy ở hầu
hết mấy trăm thành phố lớn đều có mít tinh, biểu tình và sau đó có nhiều đoàn đại biểu từ
khắp nơi trên nước Pháp về Pa ri, đến đại sứ quán Mỹ đưa kiến nghị phản đối Mỹ xâm lược
miền Nam Việt Nam và phá hoại bằng máy bay nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Nhiều
thành phố lập “Uỷ ban ủng hộ Việt Nam ”, những ủy ban đó làm công tác tuyên truyền, lấy
chữ ký, quyên góp tiền bạc và thuốc men gửi tặng Mặt trận. Đại hội lần thứ 35 của Tổng
liên đoàn lao động Pháp gửi tặng Quân giải phóng 1,5 triệu Phơ - răng thuốc men và kèm
theo thư cổ vũ, cam kết với nhân dân miền Nam là sẽ cùng với nhân dân thế giới tiếp tục
đấu tranh chống Mỹ.
Ở Thuỵ Điển, thanh niên biểu tình đập phá đại sứ quán Mỹ, hạ quốc huy, quốc kỳ Mỹ.
Một tổ chức sinh viên phát hành ”Bản tin Việt Nam ”. Ngày 29-8-1965, “Uỷ ban Thuỵ Điển
ủng hộ Việt Nam ” được thành lập có 60 nhân vật nổi tiếng tham gia.
Ở Ý, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Ý, trong tinh thần hoàn toàn và triệt để ủng
hộ bản tuyên bố ngày 22-3-1965 của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Các tầng lớp nhân ngày
càng thống nhất hành động và có nhiều hình thức phong phú ủng hộ hai miền Nam Bắc
Việt Nam đấu tranh chống Mỹ. Phong trào rầm rộ nhất là những tháng 3,4-1965. Trong hai
tháng đó có tất cả 4.000 cuộc biểu tình khắp nước Ý. Ngày chủ nhật 11-4-1965 có đến 3.000
cuộc mit tinh. Tại thành phố Mi - lan, 3 ngày sau khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng tuyên bố
bản tuyên bố 5 điểm, Đảng cộng sản Ý tổ chức cuộc biểu tình khổng lồ 7 vạn người để
hưởng ứng. Hàng trăm nhà trí thức nổi tiếng ở Rôm ký kiến nghị chống Mỹ xâm lược Nam
Việt Nam. Nhiều cuộc quyên góp của Đảng cộng sản phối hợp với các bác sĩ Ý để mua thiết
bị giúp một bệnh viện dã chiến của Việt Nam .
Ở Anh, “Phong trào đòi tự do cho các thuộc địa”, Hội Anh- Việt hữu nghị, Hội đồng
hoà bình Anh, Đảng cộng sản Anh… đã lên tiếng ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược, đã
tổ chức hàng chục cuộc đi bộ và mít tinh lớn để ủng hộ Việt Nam. Ngày 30-6-1965, 5 vạn
người dân Anh đã từ khắp nơi kéo về Luân Đôn, tuần hành, lên án đế quốc Mỹ và ủng hộ
nhân dân hai miền Nam Bắc Việt Nam, đòi chính quyền Uyn-xơn không được theo đuôi
Mỹ. Phong trào nhân dân Anh phản đối Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam là một phong
trào chẳng những gồm đông đảo nhân dân lao động, mà gồm cả hàng trăm nghị sĩ Công
đảng, gồm nhiều phần tử trí thức có ảnh hưởng lớn, tiêu biểu nhất là nhà triết học nổi tiếng
Bec -tơ -răng Rut -xen. Cụ Rut- xen từ nhiều năm đã liên tục, kiên trì lên án đế quốc Mỹ
trên các tờ báo lớn ở Anh, Mỹ, tiếng nói của cụ có ảnhh hưởng rộng.
Ngoài ra, ở các nước Na uy, Phần Lan, Tây Đức, Hà Lan,Thuỵ Sĩ, Bỉ, Hy Lạp…đều
có phong trào ủng hộ Việt Nam , đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam .
Nhìn chung, phong trào nhân dân Tây Âu ủng hộ nhân dân miền Nam Việt Nam
chống Mỹ mạnh nhất là ở những xứ nào có đảng cộng sản mạnh, có giai cấp công nhân giác
ngộ nhờ một truyền thống đấu tranh lâu dài, có những tầng lớp trí thức tiến bộ đông đảo.
Nhân dân Tây Âu thấy được rằng cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam
là một sự đe doạ nghiêm trọng đối với hoà bình thế giới, họ thấy rằng nếu không may đế
quốc Mỹ thắng trận ở miền Nam Việt Nam thì thế lực phát xít sẽ trỗi dậy rất nguy hiểm ở
Trung Âu, ngọn lửa chiến tranh có thể mở rộng do kế hoạch phiêu lưu của giới quân phiệt
Lầu Năm góc mà lan rộng ra, các thế lực phát xít có nguy cơ trỗi dậy.
Phong trào ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ ở Tây Âu mạnh lên sau ngày 22-3-
1965, sau bản tuyên bố của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, phong trào trở thành mạnh mẽ, có
tính quần chúng rộng rãi, với những yêu sách rõ hơn và cao hơn trước: “Mỹ rút khỏi miền
Nam Việt Nam ”, “Phải thừa nhận và thương lượng với Mặt trận Dân tộc Giải phóng”,
“Giôn xơn là kẻ giết người”…Các nước Tây Âu đấu tranh có tổ chức, hành động thống nhất
trên một khu vực gồm nhiều nước, làm cho đế quốc Mỹ bị cô lập trên thế giới.
2.2.3.4. Nhân nhân tiến bộ Mỹ ủng hộ Việt Nam.
Từ khi Mỹ tiến hành xâm lược Việt Nam thì phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ
bắt đầu xuất hiện. Năm 1962, xuất hiện những kiến nghị, những thư ngỏ của giới trí thức và
các nhà tu hành, song các kiến nghị và thư ngỏ ngày càng nhiều, hành động ký tên và yêu
sách của nhân dân ngày càng thêm đông .
Từ tháng 4-1962, thư ngỏ của 16 nhà trí thức Mỹ gởi Tổng thống Ken- ne- dy, trong
16 người nầy có nhà bác học nổi tiếng thế giới là J. Pau-linh. Đến ngày 1-3-1963, thư ngỏ
của 62 nhà trí thức, nhân sĩ gửi Ken- ne- dy với nội dung đòi chấm dứt chiến tranh ở Nam
Việt Nam. Một tháng sau ,lại có một thư ngỏ có ký tên 650 trí thức và nhân sĩ.
Từ tháng 6 đến tháng 8-1963, trong lúc ở Sài Gòn, Huế, phong trào đấu tranh của Phật
tử sôi nổi chống chính quyền Ngô Đình Diệm và bị Diệm đàn áp dữ dội thì nhiều mục sư,
linh mục Mỹ lên tiếng phản đối tội ác của nhà cầm quyền Mỹ đã làm chổ dựa cho Diệm, có
15.000 nhà tu hành cả nước Mỹ cùng lên tiếng .
Đầu năm 1965, khi Mỹ tiến hành chính sách “leo thang”, một mặt phá hoại miền Bắc
bằng máy bay ném bom, mặt khác đưa từng đơn vị trung đoàn, sư đoàn quân sang miền
Nam Việt Nam, điều nầy gây một lo ngại lớn, một xúc động mạnh trong nhân dân Mỹ, từ
đấy cuộc vận động phản chiến ở Mỹ mới thực sự phát triển thành một phong trào. Đến đây
phong trào mở rộng ra các trường đại học, tầng lớp sinh viên và nhiều tầng lớp khác trong
xã hội Mỹ. Các cuộc biểu tình tuần hành chống chiến tranh diễn ra sôi nổi trên khắp nước
Mỹ.
Lúc đầu, phong trào phản chiến chủ yếu bùng nổ trong các trường đại học như : Ann
Arbor, Berkeley, Columbia, Stanford…nhưng càng về sau, phong trào lôi kéo mọi tầng lớp
nhân dân, nhất là tầng lớp thanh niên trong độ tuổi quân dịch và gia đình của họ. Trí thức
tiến bộ tham gia hăng hái, nhân sĩ phản chiến ngày càng đông.
Phong trào phản chiến ở Mỹ biểu hiện dưới nhiều hình thái phong phú và sáng tạo,
làm cho nó có tiếng vang lớn trong và ngoài nước Mỹ. Từ phong trào đăng báo những bản
tuyên bố, ký tên, thư ngỏ… đến những cuộc bãi khoá, bãi thực trước cơ quan Liên hiệp
quốc, và những cuộc biểu tình, những cuộc ngăn chặn quân Mỹ sang Việt Nam trước những
căn cứ quân sự của Mỹ. Những cuộc tự thiêu theo gương các vị hoà thượng ở Việt Nam đã
tự thiêu để phản đối chính quyền Diệm. Cảm động nhất là những cuộc hiến máu gửi cho
nhân dân miền Nam Việt Nam đang bị súng đạn Mỹ sát hại.
Phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ gây thêm tinh thần phản chiến trong quân
lính Mỹ và ảnh hưởng tích cực đến phong trào ở Tây Âu ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm
lược.
Nhìn chung, sau 5 năm hoạt động của Mặt trận Dân tộc Giải phóng trên mặt trận đối
ngoại, phong trào nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân miền Nam chống Mỹ có những bước
tiến đáng kể. Không có một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc nào trên thế giới, trong thời
hiện đại, được nhân dân thế giới ủng hộ đông đảo và nhiệt tình như cuộc kháng chiến chống
Mỹ của nhân dân Việt Nam. Thành phần tham gia phong trào ủng hộ Việt Nam chống Mỹ
không phải chỉ có tầng lớp công nông, không phải chỉ có các dân tộc bị áp bức mà bao gồm
nhiều tầng lớp xã hội, nhiều chính giới, nhiều chính phủ các nước, kể cả nhân dân nước Mỹ
và các nước phương Tây. Nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ, không
chỉ ủng hộ về tinh thần, về chính trị, mà còn ủng hộ về vật chất phù hợp với điều kiện của
Việt Nam, phù hợp với yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân miền Nam.
Mặt trận nhân nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ từng bước hình
thành và phát triển, tạo điều kiện cho công cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt
Nam thắng lợi hoàn toàn.
2.3. Hoạt động Quân sự
2.3.1. Giải phóng quân Miền Nam Việt Nam ra đời
Sau Hiệp định Giơnevơ 1954, quân đội và chính quyền tập kết ra Bắc, những người
kháng chiến cũ ở lại dùng hình thức đấu tranh chính trị đòi nguỵ quyền miền Nam thi hành
các điều khoãn của hiệp định Giơnevơ. Nhưng ngược lại, bọn Mỹ -Diệm lại chủ trương
dùng bạo lực phản cách mạng để tiêu diệt những người kháng chiến cũ, đàn áp các phong
trào đòi cơm áo, tự do, thống nhất .
Từ 1954 đến 1960, không lúc nào ngớt những cuộc bố ráp, càn quét, hành quân lớn
nhỏ nhằm tiêu diệt các lực lượng đối lập với nguỵ quyền. Như thế, dưới chế độ Mỹ - Diệm,
ai muốn sống thì lại phải đứng lên cầm vũ khí.
Từ 1956 đến 1957, các lực lượng giáo phái lần lượt bị quân đội Mỹ -Diệm tiêu diệt,
một số còn lại tồn tại được một thời gian nhờ sự giúp đỡ của những người kháng chiến cũ
và nhân dân. Tuy vậy, thực lực của các đơn vị nầy không nhiều và chỉ ở một số vùng ở miền
Trung và Đông Nam bộ. Những người kháng chiến cũ, cùng với nhân dân tiếp tục đấu tranh
chính trị, đấu tranh kinh tế.
Từ 1957 trở đi, nhiều anh em kháng chiến cũ bị Mỹ – Diệm khủng bố , không thể ở lại
làng xóm cũ, phải tập trung nhau lại thành những đơn vị nhỏ, chế tạo vũ khí để tự vệ, xây
dựng các ”Làng rừng”, họ làm công tác tuyên truyền vũ trang và bắt đầu trừng trị những tên
ác ôn.
Từ 1959, Mỹ - Diệm càng đẩy mạnh bạo lực vũ trang phản cách mạng, nhân dân nhiều
nơi đã đứng lên thành lập các đội vũ trang, đặc biệt là dân tộc Kơ - ho ở miền núi Trung
Bộ , một số nông dân ở miền Tây Nam Bộ, miền Đông Nam Bộ ,vùng chiến khu Đ cũ đã
nổi dậy diệt các đồn lẻ của địch và trừng trị bọn ác ôn.
Sau nghị quyết Trung ương 15( 1-1959), nhiều đội vũ trang tự vệ được thành lập, đặc
biệt là trong cao trào Đồng khời 1959-1960 ,nhiều địa phương đã tự chế tạo vũ khí, tấn công
đồn giặc cướp vũ khí , xây dựng các đội vũ trang để hổ trợ phong trào đấu tranh chính trị.
Ngày 20-12-1960, Mặt trận DGPMNVN ra đời.
Từ 1960, cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân miền Nam Việt Nam phát triển
thành một cuộc chiến tranh thực sự. Cuộc chiến tranh cách mạng phải có lực lượng vũ trang
của nhân dân. Cho nên, Giải phóng quân miền Nam ra đời làm nhiệm vụ cách mạng.
Tháng 1-1961, Tổng quân uỷ Trung ương ra chỉ thị :”Quân giải phóng miền Nam là
một bộ phận của quân đội nhân dân Việt Nam , do Đảng sáng lập và xây dựng, giáo dục và
lãnh đạo…..Mục tiêu chiến đấu của nó là kiên quyết thực hiện cương lĩnh, đường lối của
Đảng, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc
lập dân tộc, người cày có ruộng, tiến lên xã hội chủ nghĩa…” [61].
Ngày 15-2-1961, các lực lượng vũ trang nhân dân miền Nam thống nhất dưới một
danh nghĩa chiến đấu chung là “Giải phóng quân miền Nam Việt Nam”. Giải phóng quân
miền Nam Việt Nam tuyên bố tán thành mục đích và chương trình của Mặt trận
DTGPMNVN , được uỷ ban Trung ương lâm thời của Mặt trận công nhận là thành viên của
Mặt trận và được trao quân kỳ có hàng chữ: “Giải phóng quân anh dũng, chiến thắng”. Mặc
dù là một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam, nhưng Quân giải phóng có một sứ
mạng lịch sử vô cùng quan trọng, thực sự là lực lượng nòng cốt trong cuộc chiến tranh giải
phóng miền Nam, đánh bại đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai của chúng .
Cùng với việc thống nhất các lực lượng vũ trang, Bộ tư lệnh các lực lựơng vũ trang
giải phóng miền Nam cũng được thành lập. Ban quân sự Miền là cơ quan giúp Trung ương
cục chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng ở chiến trường Nam bộ và cực Nam
Trung bộ . Hệ thống chỉ huy quân sự được xây dựng từ Miền đến tỉnh - huyện - xã . Các
quân khu cũng được thành lập. Đồng chí Phạm Thái Bường là chính uỷ đầu tiên và đồng chí
Nguyễn Hữu Xuyến là tư lệnh đầu tiên của Quân giải phóng.
Tháng 9-1961, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương thông qua đồ án xây dựng lực
lượng vũ trang cho chiến trường miền Nam, theo kế hoạch nầy, bên cạnh việc phát triển
lực lượng tại chỗ, sẽ đưa vào miền Nam khoảng 3 đến 4 vạn cán bộ, chiến sĩ đã được huấn
luyện chính quy trên miền Bắc.
Tại các thôn, ấp giải phóng, được các tổ chức cách mạng giác ngộ và động viên, hàng
nghìn thanh niên đã tình nguyện tham gia vào lực lượng Giải phóng quân. Năm 1963, ta đã
tuyển được 26.000 thanh niên vào lực lượng Giải phóng quân, miền Bắc chi viện 8.719
quân, nâng tổng số quân toàn miền Nam lên 133.650 cán bộ, chiến sĩ [66].
Năm 1964, các địa phương toàn miền Nam đã động viên được 25.960 thanh niên vào
lực lượng Giải phóng quân, miền Bắc chi viện 17.475 cán bộ ,chiến sĩ . Đến cuối 1964, lực
lượng Giải phóng quân lên tới 294.000 người. Tương quan lực lượng giữa ta và địch đã thay
đổi theo chiều hướng có lợi cho ta : năm 1961 tỷ lệ lực lượng ta và địch là 1/13
(22.000/293.850), đến năm 1963 là 1/3 (133.650/429.300), đến năm 1964 chỉ còn là ½ (
294.000/ 588.216).
Thực hiện kế hoạch quân sự 5 năm ( 1961- 1965) của Quân uỷ Trung ương và Bộ
Quốc phòng , nhiều xã giải phóng thành lập được trung đội du kích tập trung, mỗi huyện,
tỉnh giải phóng đều thành lập 1 đến 2 đại đội bộ đội địa phương. Quân khu có 11 tiểu đoàn
chủ lực .
Chia chiến trường miền Nam thành các quân khu: Quân khu 5 ( Trị - Thiên- Nam
Trung Bộ ),Quân khu 6 ( cực Nam Trung Bộ ), Quân khu 7 ( miền Đông Nam Bộ ), Quân
khu 8 ( miền Trung Nam Bộ ), Quân khu 9 ( miền Tây Nam Bộ ), Quân khu Sài Gòn- Gia
Định.
Ngày 2-8-1961, tại chiến khu Dương Minh Châu, trung đoàn chủ lực đầu tiên mang
tên Q761 đã được thành lập, đánh dấu bước trưởng thành của Quân giải phóng miền Nam.
Lực lượng Dân quân tự vệ miền Nam ( 1959- 1964 ) : 179.000. Tỷ lệ so với dân số 1,25.
Từ 1964, thực hiện chủ trương của Bộ chính trị, quân chính quy miền Bắc được đưa
vào chiến trường, khối chủ lực Miền bắt đầu được hình thành.
Sau khi Quân giải phóng củng cố và xây dựng, quân ta mở chiến dịch Đông-Xuân
1964-1965 thắng lợi mà đỉnh cao là chiến thắng Bình Giả đã chứng tỏ sự lớn mạnh vượt bậc
của Quân giải phóng miền Nam.
Việc thành lập Quân giải phóng miền Nam Việt Nam và Bộ tư lệnh các lực lượng vũ
trang giải phóng đã đánh dấu một bước phát triển mới về mọi mặt của lực lượng vũ trang
cách mạng miền Nam, đưa vai trò của đấu tranh vũ trang song song với đấu tranh chính trị,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới .
Như vậy, từ năm 1961- 1965 Quân Giải phóng vừa chiến đấu vừa xây dựng đã truởng
thành và lớn mạnh vượt bậc, phát triển từ lực lượng chính trị của quần chúng và được sự chi
viện thường trực của miền Bắc đã hình thành 3 thứ quân hoàn chỉnh. Tác chiến tập trung
của bộ đội chủ lực trong các chiến dịch đã giành được thắng lợi, tiêu diệt một bộ phận quan
trọng chủ lực ngụy, làm thay đổi nhanh chóng so sánh lực lượng giữa ta và địch, góp phần
cùng toàn dân đánh bại “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.
2.3.3.Chống “Chiến tranh đặc biệt” (1961-1965 )
2.3.3.1. Âm mưu “chiến tranh đặc biệt”.
Từ cuối 1960, hình thức thống trị bằng chính quyền tay sai độc tài phát xít Ngô Đình
Diệm bị thất bại, đế quốc Mỹ bị động thay đổi chiến lược, chuyển sang dùng “chiến tranh
đặc biệt” để đối phó với cách mạng miền Nam, chiếm lại những địa bàn và vùng dân cư đã
bị mất trong phong trào Đồng khởi của ta.
Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” là chiến lược đầu tiên trong ba lọai chiến tranh của
chiến lược quân sự toàn cầu “phản ứng linh hoạt” của đế quốc Mỹ. Đặc điểm của chiến lược
nầy là sử dụng lực lượng phản cách mạng tại chổ cộng với sự cung cấp đến mức cao nhất
những phương tiện chiến tranh hiện đại của Mỹ và hệ thống cố vấn Mỹ . Nội dung cơ bản
của chiến lược nầy là: càn quét, dồn dân lập ấp chiến lược trên quy mô lớn theo chiến thuật
“tát nước bắt cá”.
Mỹ- Diệm coi việc lập ấp chiến lược là “quốc sách”, là “xương sống” của chiến lược
“chiến tranh đặc biệt ”. Biện pháp chiến lược là tổ chức hành quân càn quét và gom dân,
theo kế họach Xtalây- Taylo bình định miền Nam trong vòng 18 tháng ( từ giữa 1961 đến
cuối 1962), lập 16.000 ấp chiến lược. Sau đó kế họach Giôn xơn-Mc Namara bình định
miền Nam trong vòng 2 năm ( 1963-1964), tăng cường các cuộc hành quân và bình định có
trọng điểm.
Để thực hiện kế hoạch trên, Mỹ- Diệm tiến hành nhiều thủ đoạn, biện pháp khốc liệt
và đẫm máu. Chúng mở hàng chục nghìn cuộc hành quân lớn nhỏ, càn quét dài ngày, dùng
bom đạn đánh phá ác liệt, rãi chất độc hóa học, chà đi xát lại từng khu vực để lùa dân vào ấp
chiến lược. Chúng huy động máy bay trực thăng, xe cơ giới, thiết giáp để lùa dân đến những
nơi lập ấp. Trong các cuộc càn quét, địch đã áp dụng nhiều chiến thuật mới như “bủa lưới
phóng lao”, “phượng hòang vồ mồi”,”trên đe dưới búa”…đánh vào các khu căn cứ của ta
nhằm tiêu diệt bộ đội và du kích, đánh úp vào các cơ quan đầu não của Mặt trận Dân tộc
giải phóng.
2.3.3.2.Các chiến thắng tiêu biểu của Quân giải phóng [38], [69], [76]
Từ khi Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ra đời, các lực lượng vũ trang nhân dân
miền Nam thống nhất thành Quân Giải phóng miền Nam, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của
Trung ương Cục, Bộ chỉ huy Miền đã tổ chức nhiều cuộc chống càn và phá ấp chiến lược có
hiệu quả.
Tính chung trong năm 1961, quân và dân miền Nam đã tiến hành đấu tranh vũ trang
kết hợp với đấu tranh chính trị rộng khắp tên cả 3 vùng chiến lược, đã đánh 15.525 trận lớn
nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 28.968 tên địch ( có 41 tên Mỹ ), bắt 3.259 tên, thu 6.000
súng các loại. Cùng với các cuộc tấn công quân sự, có 33,8 triệu lượt người đã xuống đường
đấu tranh chính trị trực diện với địch. Cuộc đấu tranh chính trị và binh vận của nhân dân đã
làm cho 14.500 binh sĩ ngụy đào ngũ và rã ngũ. Vùng giải phóng được củng cố và giữ
vững, hàng ngàn thanh niên tham gia Quân giải phóng.
Năm 1962, Quân giải phóng đã loại khỏi vòng chiến 35.000 tên (có 400 tên Mỹ ), làm
rã ngũ 32.000 tên, lật đổ 18 đầu tàu hỏa, phá sập 312 cầu, cống, bắn hỏng 12 tàu xuồng và
bắn rơi nhiều máy bay địch.
- Chiến thắng Ấp Bắc ( 1963) [47, tr. 10-19]
Ấp Bắc là một ấp nhỏ, có khoảng 600 dân thuộc xã Tân Phú Trung, huyện Cai Lậy,
tỉnh Mỹ Tho (nay là Tiền Giang ). Đây là địa bàn lịch sử có truyền thống cách mạng kiên
cường. Nhân dân Ấp Bắc và xã Tân Phú Trung sớm đi theo Đảng tham gia cuộc khởi nghĩa
Nam Kỳ kháng Pháp từ 1940. Trong chín năm kháng chiến, đây luôn là một trong những
căn cứ địa quan trọng của miền Tây Nam Bộ, là một trong những điển hình của phong trào
đấu tranh chống Pháp xâm lược. Trong kháng chiến chống Mỹ , Ấp Bắc là một trong những
vùng giải phóng quan trọng ở phía Bắc đồng bằng sông Cửu Long. Đây là địa điểm dừng
chân để củng cố , bổ sung lực lượng, trang bị, vũ khí của các đơn vị Quân giải phóng sau
mỗi đợt hoạt động trên chiến trường khu VIII.
Xung quanh Ấp Bắc là những cách đồng bằng phẳng, có hệ thống kênh rạch và đường
bộ xung quanh thuận lợi cho việc đi lại của các phương tiện cơ động cả đường bộ lẫn đường
thuỷ. Vườn cây trái hai bên bờ kênh tạo thế che khuất cho du kích và nhân dân. Hệ thống
hầm hào công sự, trận địa liên hoàn, bảo đảm cho du kích và bộ đội có thể cơ động bí mật
để yểm trợ và phối hợp tác chiến đánh địch càn quét.
Thực hiện chủ trưong của Khu 8, chọn mục tiêu và đánh một số trận để tìm ra phương
thức tác chiến phù hợp để chủ động đối phó với các chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận
của địch, tạo một điển hình làm cơ sở thúc đẩy phong trào đấu tranh chống càn quét, hỗ trợ
nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược trên toàn khu phát triển và giành thằng lợi.
Cuối tháng 12-1962, các đơn vị đã bí mật “ém quân” tại xã Tân Phú Trung. Lực lượng
của ta gồm 2 đại đội chủ lực Miền và 1 trung đội bộ đội địa phương, dựa vào hệ thống công
sự, hầm hào, trận địa của các ấp chiến đấu. Ta tổ chức phòng ngự với quyết tâm : Nếu đụng
địch, phải bám chắc công sự, chiến đấu đến cùng.
Về phía Mỹ-nguỵ, qua mạng lưới trinh sát, điệp báo phát hiện được quân chủ lực Khu
VIII về Ấp Bắc, Bộ tư lệnh hành quân của địch quyết định mở cuộc hành quân mang mật
danh ”Đức Thắng 1/63” nhằm “tiêu diệt và bắt gọn Việt cộng” ở Ấp Bắc, xoá căn cứ đứng
chân của Quân giải phóng và dồn dân lập ấp chiến lược.
Lực lượng của địch huy động gồm: 3 tiểu đoàn bộ binh,1 tiêu đoàn dù, 2 đại đội biệt
động quân, 3 đại đội bảo an, 3 đại đội dân vệ, 13 thiết giáp M113, 13 giang thuyền chiến
đấu, 6 máy bay khu trục B26, 15 máy bay trực thăng (10 CH21, 5 HU1A), 4 máy bay trinh
sát L19, 7 máy bay vận tải C47 và các cụm pháo binh của sư đoàn 7 bố trí trên lộ 4. Toàn bộ
lực lượng đặt dưới sự chỉ huy của Bùi Đình Đàm (Tư lệnh sư đoàn 7), Lâm Quang Thơ (
tỉnh trưởng Định Tường)và cố vấn Mỹ J.Van (cố vấn sư đoàn 7) cùng vời 51 cố vấn Mỹ
[17], [38].
Rạng sáng ngày 2-1-1963, quân địch điều động 2 đại đội bảo an, 2 đại đội biệt động
quân, 2 đại đội bộ binh chia làm ba mũi theo lộ 4 , kênh Nguyễn Tấn Thành và lộ Mỹ Hạnh
Trung tấn công vào Ấp Bắc. Sau ít phút cơ động toàn bộ quân địch rơi vào trận địa phục
kích của bộ đội và du kích, hàng chục binh sĩ địch bị loại khỏi vòng chiến, 1 giang thuyền bị
đánh chìm và một chiếc khác bị hỏng nặng. Đợt tiến công đầu tiên bị quân dân Ấp Bắc đánh
bại.
7 gờ 30 phút sáng 2-1-1963, sử dụng chiến thuật trực thăng vận, quân địch huy động
10 máy bay trực thăng chở quân, 5 máy bay trực thăng vũ trang yểm trợ đổ 2 tiểu đoàn bộ
binh xuống sau ấp tạo thế bất ngờ và hình thành 2 gọng kìm hòng bao vây tiêu diệt quân ta.
Với kinh nghiệm đã được đúc kết về thời điểm bắn máy bay chở quân, ta chờ khi máy bay
chuẩn bị tiếp đất bộ đội và du kích đã tấn công máy bay, một chiếc bị bắn hạ tại xóm Bàn
Rô, một chiếc bị rơi xuống cách đồng Cà Dăm, số quân nguỵ vừa ra khỏi máy bay bị tấn
công dữ dội phải tự xé lẻ đội hình tìm chổ khuất để chống chống đỡ một cách yếu ớt. Để
cứu nguy cho quân đổ bộ, quân địch tăng cường bắn pháo và máy bay trực thăng vũ trang
tập trung đánh vào trận địa của ta càng lúc càng ác liệt hơn . Kết quả thêm 3 chiếc máy bay
bị bắn rơi và nhiều quân nguỵ bị loại khỏi vòng chiến. Đợt tấn công thứ hai của địch vào ấp
Bắc bị đánh bại.
Như vậy, trực thăng vận, một trong những chiến thuật tân tiến từng gây bao lúng túng,
hoang mang cho quân và dân miền Nam trong suốt hai năm 1961, 1962 đến đây đã bị quân
và dân Khu VIII tìm ra phương thức đối phó hiệu quả, một khả năng thực tế đánh bại các
cuộc hành quân càn quét của địch đã được mở ra cho toàn thể quân và dân miền Nam.
12 giờ 15 phút, chỉ huy quân địch quyết định đưa 3 tiểu đoàn tấn công vào ấp Tân
Thới, sau ít phút chiến đấu ta đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng một trung đội, số sống sót
mạnh ai nấy chạy cố thoát ra khỏi khu vực chiến sự. Đợt tấn công lần thứ ba vào Ấp Bắc
vẫn không mang lại kết quả.
13 giờ 30 phút, bằng chiến thuật thiết xa vận , quân nguỵ sử dụng 13 xe M113 và một
tiểu đoàn bộ binh mở đợt tấn công thứ tư vào Ấp Bắc. Với ý chí “kiên quyết bám trụ, bám
trụ đến cùng”, 75 cán bộ, chiến sĩ đã bí mật , kiên trì chờ đợi. Quân ta đã tiêu diệt hai xe
M113, đánh hỏng một số xe khác, đẩy lùi quân nguỵ ra khỏi tuyến phòng ngự. Đợt thứ tư
của quân nguỵ đánh vào Ấp Bắc bị ta đánh bại.
Với việc đánh bại đợt tấn công lần thứ tư của địch vào Ấp Bắc, khả năng đánh bại
thiết xa vận, một trong hai biện pháp chiến thuật mới của Mỹ, nguỵ trong chiến tranh đặc
biệt đã được mở ra cho quân và dân miền Nam.
18 giờ 5 phút, địch sử dụng 5 máy bay vận tải C47 thả dù tiểu đoàn dù số 8 xuống ấp
Tân Thới, thiết giáp và bộ binh tấn công vào Ấp Bắc. Quân ta dùng biện pháp bắn tỉa quân
dù khi đang còn lơ lững trên không, dùng súng phóng lựu tiêu diệt xe tăng M113, toàn bộ
quân địch trên cả hai mặt trận đều bị tiêu diệt, lực lượng hai bên ở trong thế xen kẽ các đơn
vị hoả lực yểm trợ của địch không hoạt động được , toàn đội hình của địch rối loạn và từ từ
rút ra khỏi trận địa.
Sau khi đợt tấn công thứ năm thất bại, địch rút ra vòng ngoài, bao vây dự định ngày
hôm sau sẽ tấn công tiếp.
Sau một ngày chiến đấu căng thẳng, ác liệt, nhiệm vụ được giao đã hoàn thành xuất
sắc, Ban chỉ huy trận đánh quyết định rút toàn bộ lực lượng ra khỏi Ấp Bắc. Đúng 22 giờ
quân ta bằng nhiều con đường rút ra khỏi Ấp Bắc.
Kết quả: qua một ngày chiến đấu ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 450 sĩ quan và binh
lính ( trong đó có 11 cố vấn Mỹ ), bắn rơi 5 máy bay, phá huỷ 3 xe thiết giáp M113 và 1
giang thuyền.
Thắng lợi Ấp Bắc đã gây tiếng vang lớn trong phong trào chống Mỹ-nguỵ trên toàn
miền Nam, đánh dấu sự phát triển về chất của phong trào đấu tranh chống Mỹ nói chung,
đấu tranh chống phá ấp chiến lược nói riêng trong chiến tranh đặc biệt của quân và dân miền
Nam. Như vậy, phong trào đấu tranh chống phá ấp chiến lược muốn phát triển và giành
thắng lợi phải gắn liền với phát triển đấu tranh vũ trang, đánh bại các chiến thuật mới của
địch.
Với thắng lợi Ấp Bắc đầu năm 1963, quân ta đã tìm ra được phương thức tác chiến
phù hợp để đối phó có hiệu quả với trực thăng vận, thiết xa vận của địch. Đến đây, quân và
dân miền Nam đã bắt đầu “gỡ” được tình trạng dao động về tinh thần và ‘ngại” chiến đấu
với các cuộc hành quân càn quét có sử dụng các biện pháp chiến thuật mới của Mỹ- nguỵ.
- Chiến dịch Bình Giã ( 2-12-1964 đến 3-1-1965) [17], [68].
Cuối năm 1964 ở miền Nam, Mỹ-nguỵ âm mưu đẩy mạnh những cố gắng cuối cùng
trong khuôn khổ “chiến tranh đặc biệt”để cứu vãn tình thế chúng đang thua. Với kế hoạch
“bình định có trọng điểm”, địch đã biến khu vực Bình Giã, Đức Thạnh, Long Điền, Xuyên
Mộc, Đất Đỏ thành 4 chi khu quân sự. Lực lựơng địch tại đây có 4 tiểu đoàn Biệt động
quân( 30,33,35,38), 2 tiểu đoàn Thuỷ quân lục chiến ( 4 và 1 ), 2 tiểu đoàn Dù ( 5,6), và 3
tiểu đoàn Bảo an, một chi đoàn cơ giới M113, 2 trung đội Pháo binh 105mm.
Về phía ta, cuối năm 1964, Bộ Chính trị giao cho Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc
phòng chuẩn bị kế hoạch chiến lược, tranh thủ thời cơ đánh bại quân nguỵ trước khi Mỹ
tăng cường lực lượng ồ ạt vào miền Nam nứơc ta. Ngày 11-10, Quân uỷ Trung ương, Bộ
Tổng tư lệnh chỉ thị cho các chiến trường mở đợt hoạt động trên toàn miền Nam.
Cuối tháng 11, Bộ chỉ huy Miền quyết định mở chiến dịch tiến công trên địa bàn 4
tỉnh Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hoà, Bình Thuận. Mục đich Chiến dịch là diệt một bộ phận
sinh lực địch, phá kế hoạch bình định trọng điểm của địch, phá ấp chiến lược, hỗ trợ phong
trào đấu tranh chính trị của quần chúng, đẩy mạnh chiến tranh du kích, mở rộng vùng căn
cứ, đánh bại chổ dựa cơ bản của Mỹ trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”.
Bộ chỉ huy Miền chỉ định đồng chí Trần Đình Xu làm Tư lệnh, đồng chí Lê Văn
Tưởng làm Chính uỷ, đồng chí Nguyễn Hoà làm Phó Tư lệnh- Tham mưu trưởng, đồng chí
Lê Minh Hà Bí thư tỉnh Bà Rịa và một số đồng chí trong Thường vụ Quân khu 7 tham gia
Đảng uỷ Chiến dịch.
Lực lựơng tham gia chiến dịch gồm : 2 Trung đoàn bộ binh (761,762), 2 tiểu đoàn bộ
binh của Quân khu 7( 800,500), tiểu đoàn pháo binh 186 của Quân khu 6. đại đội 445 tỉnh
Bà Rịa, đoàn pháo binh Biên Hoà có 4 sơn pháo 75mm, súng cối từ 60mm đến 82mm có 53
khẩu, ĐKZ loại 57 mm và 75mm có 41 khẩu, súng phòng không có 8 khẩu 12.7mm cùng
lực lượng dân quân trên địa bàn chiến dịch.
Ngày 15-11-1964, Bộ Tư lệnh chiến dịch thông qua quyết tâm và tư tưởng chỉ đạo
chiến dịch là đánh chắc thắng. Với phương châm : tiêu diệt sinh lực địch, hỗ trợ phong trào
chính trị phá ấp chiến lược, mở rộng vùng giải phóng bằng lực lượng ba thứ quân. Phối hợp
chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, binh vận bảo đảm đánh chắc thắng,
tiêu diệt gọn từng đơn vị địch, xây dựng lực lượng ta, mở rộng căn cứ, xây dựng phong trào
cách mạng. Phương thức tác chiến chủ yếu là đánh điểm diệt viện, lấy tiêu diệt địch ngoài
công sự làm chính. Vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật như phục kích, tập kích và
vận động tiến công, đánh bại chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của địch trên quy
mô chiến dịch.
Lần đầu tiên Bộ chỉ huy Miền tập trung các đơn vị cấp Trung đoàn với hoả lực trợ
chiến cơ động, chiến đấu trên địa bàn xa hậu phương, cùng với lực lượng Quân khu 6,7 , số
lượng lên đến 7.000 quân. Phải dựa nguồn cung cấp tại chổ của nhân dân, phải huy động
đông đảo quân chúng tham gia chuẩn bị tốt cơ sở vật chất cho bộ đội đồng thời phải giữ
được bí mật. Bộ Tư lệnh chiến dịch tổ chức ra một số đoàn bảo đảm: Đoàn K.10 ở Phước
Tuy, Đoàn 1.500 ở Lộc An xây dựng bến nhận hàng. Ở Bà Rịa tổ chức đoàn quân khu E
chuyên lo thu gom lương thực trong vùng địch tạm chiếm. Tỉnh uỷ Bà Rịa cử một đồng chí
trong cấp uỷ chuyên lo móc nối thu gom lương thực, thực phẩm. Bảo đảm quân y thì dựa
vào bệnh xá tỉnh, huyện. Với sự nổ lực trên ta đã chuẩn bị được 500 tấn vũ khí, 217 tấn gạo,
thuốc men cho thưong binh đạt 71% so với yêu cầu, kịp thời đáp ứng cho chiến dịch mở
đúng thời gian dự kiến.
Theo kế hoạch chiến dịch chia làm hai đợt: Đợt 1, tiến công ấp chiến lược Bình Giã
và một số cứ điểm để khơi ngòi đánh bại quân địch giải toả. Đợt 2, tập trung toàn bộ lực
lượng đánh những trận quyết định, đánh quân đổ bộ đường không.
Rạng sáng ngày 2-12-1964 ta mở đầu chiến dịch, pháo binh ta tập kích vào chi khu
Đức Thạnh, đại đội 445 bất ngờ tập kích ấp Bình Giã, trận đánh bất ngờ không thành, quân
ta rút ra khỏi khu vực Bình Giã.
Ngày 7-12-1964, quân ta trở lại tấn công ấp Bình Giã, pháo kích chi khu Đức Thạnh,
tấn công chi khu Đất Đỏ. Quân địch tổ chức cuộc hành quân “Bình Tuy 33”để giải vây cho
cho Đức Thạnh. Khi địch quay về trên lộ 2, Trung đoàn 762 đã chặn đầu, khoá đuôi bao vây
tiêu diệt chúng. Được máy bay chi viện, quân địch chống trả quyết liệt. Bộ binh ta siết chặt
vòng vây, tiêu diệt từng bộ phận của địch. Sau gần 1 giờ chiến đấu, ta bắn bị thương 7 máy
bay phản lực, diệt chi đoàn thiết giáp số 3, phá huỹ 14 xe M113, diệt 107 tên địch (có 9 cố
vấn Mỹ), trận then chốt của chiến dịch thắng lợi giòn giã.
Ở hướng Hoài Đức, Tánh Linh, tiểu đoàn 186 đánh chiếm ấp chiến lược Mê Pu, địch
đưa quân từ Hoài Đức lên chi viện, ta chặn đánh làm thiệt hại nặng một đại đội Bảo an, một
đại đội Dân vệ. Ngày 17-12, ta chủ động kết thúc chiến dịch đợt 1.
Đêm 27-12, để kéo địch ra giải toả, ta đánh chiếm Bình Giã. Sáng ngày 28-12 địch
cho máy bay đổ bộ tiểu đoàn 30 Biệt động quân xuống trảng trống phía Tây Nam Đức
Thạnh, hình thành 3 mũi tiến vào Bình Giã, quân ta chặn đánh quyết liệt nhưng khoá đuôi
không chặt nên địch chạy thoát về La Vân.
Trưa ngày 28-12, địch tiếp tục dùng 28 máy bay trực thăng vũ trang hộ tống cho 50
máy bay đổ quân xuống phía Đông Bắc Bình Giã, hoả lực phòng không của ta bắn rơi 5
máy bay chở đầy quân địch. Địch chuyển hướng đổ quân xuống phía Đông Nam Bình Giã,
trung đoàn 761 chia làm hai hướng tấn công tiêu diệt địch , đến 18 giờ ta hoàn toàn làm chủ
trận địa, tiêu diệt gần hết tiểu đoàn 33 của địch, bắn rơi 11 máy bay lên thẳng. Đây là trận
thắng then chốt thứ hai của chiến dịch.
Ngày 30-12, địch dùng 30 máy bay đổ quân xuống La Vân bị ta bắn rơi 1 máy bay,
chết 4 lính Mỹ.
Ngày 31-12, ta phục kích tiêu diệt tiểu đoàn 4 Thuỷ quân lục chiến, diệt 600 tên địch.
Đến 18 giờ ta làm chủ hoàn toàn trận địa. Đây là trận thắng then chốt thứ ba của chiến dịch.
Phối hợp với hướng chủ yếu, ngày 1-1-1965, tiểu đoàn 4, trung đoàn 762 phục kích
diệt diệt gọn một đoàn xe 10 chiếc trên Đường 15. Ngày 3-1, trung đoàn 762 phục kích trên
Đường số 2 diệt 16 xe, đánh thiệt hại tiểu đoàn 35 Biệt động quân.
Nhân cơ hội địch ở trong các ấp chiến lược hoang mang, ta tiến công đánh chiếm ấp
Mê Pu, Sùng Nhơn, Đậm Rim, Tà Bao làm tan rã lực lượng dân vệ ở các ấp nầy. Ngày 3-1-
1965 Bộ Tư lệnh quyết định kết thúc chiến dịch.
Kết quả: ta tiêu diệt 2 tiểu đoàn (33 Biệt động quân, 4 Thuỷ quân lục chiến) và chi
đoàn thiết giáp M113, đánh thiệt hại 6 tiểu đoàn khác, diệt 1.700 tên, bắt 293 tên, thu 100
máy thông tin và hơn 1.000 súng các loại, phá huỷ 45 xe quân sự, bắn rơi 56 máy bay các
loại.
Chiến dịch Bình Giã thắng lợi góp phần tạo bước ngoặc trong so sánh lực lượng và
cục diện chiến trường có lợi cho ta. Nhận định về sự kiện đánh dấu bước ngoặc quyết định
làm thay đổi cục diện Chiến tranh đặc biệt, Tổng bí thư Lê Duẫn đã nói: “…đến trận Bình
Giã, thì Mỹ thấy thua ta trong Chiến tranh đặc biệt” [13].
Tiếp theo chiến thắng Bình Gĩa, có chiến thắng Ba Gia ở Quảng Ngãi: trong thời gian
ngắn, Quân Giải phóng đã đánh ngoài trời tiêu diệt gọn nhiều tiểu đoàn địch. Rồi đến Phước
Long – Đồng Xoài, chủ lực ta vừa đánh địch ngoài trời, vừa đánh địch trong công sự kiên
cố. Trận đánh chiếm cứ điểm chi khu Đồng Xoài ( 9-6-1965) đã nâng trình độ tác chiến của
Quân Giải phóng lên một bước cả về kỹ thuật chiến đấu của bộ đội lẫn chỉ huy hợp đồng
binh chủng, liên lạc, trinh sát nhanh chóng chính xác, diệt điểm, diệt viện, nghi binh kết hợp
ngăn chặn địch từ xa, dự kiến phản ứng của địch và dự đoán nơi địch đổ quân tạo thành thế
diệt địch ngay từ phút đầu.
Nhìn chung, từ khi ra đời 1960 đến 1965, Mặt trận Dân tộc giải phóng đã lãnh
đạo nhân dân miền Nam đấu tranh chống đế quốc Mỹ và tay sai trên cả 3 lĩnh vực : chính
trị, quân sự và ngọai giao đạt nhiều kết quả.
Hệ thống ủy ban Mặt trận phát triển từ Trung ương đến địa phương, vùng giải phóng
mở rộng, số ấp chiến lược địch kiểm soát năm 1965 chỉ còn 2.200/12.000 ấp, số dân địch
kiểm soát chỉ còn 6/16 triệu người [66, tr.240].
Trên mặt trận ngoại giao chúng ta thắng lớn, hầu hết các dân tộc trên thế giới đều ủng
hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân miền Nam, nhiều đoàn thể, nhiều tổ chức chống
Mỹ xâm lược Việt Nam hình thành, uy tín của Mặt trận Dân tộc giải phóng ngày càng có vị
trí trên trường quốc tế.
Về quân sự, Quân Giải phóng càng ngày càng trưởng thành, bước đầu chủ động mở
các chiến dịch tiêu diệt quân địch, kết hợp ba thứ quân tấn công địch trên cả ba vùng chiến
lược. Quân địch bị tiêu diệt trên khắp các chiến trường, từ 1961- 1964, quân Mỹ chết 303,
quân ngụy chết, bị thương và bị bắt 301.800, quân ta diệt 1.433 máy bay, 273 xe tăng và
522 tàu thủy [2].
Từ 1965, “chiến tranh đặc biệt” thất bại, Mỹ buộc phải thực hiện chiến lược “chiến
tranh cục bộ”, đưa quân Mỹ trực tiếp tham chiến, mở rộng chiến tranh ra cả nước để cứu
nguy cho ngụy quyền tay sai.
CHƯƠNG 3. HOẠT ĐỘNG CỦA MẶT TRẬN DTGPMNVN TỪ 1965 ĐẾN 1968
3.1. Hoạt động chính trị
3.1.1. Đại hội bất thường của Mặt trận [56], [57]
Theo chủ trương của Đảng, để chuẩn bị cho bước phát triển mới của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước. Từ ngày 15 đến 20 - 8 -1967, tại vùng giải phóng phía Bắc Tây Ninh,
tại một địa điểm còn dày đặc hố bom đạn sau chiến dịch Junction City, Đại hội bất thường
của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã diễn ra trong một không khí sôi
nổi, hào hứng và tràn đầy niềm tin. Đó là đại hội bất thường thông qua cương lĩnh của Mặt
trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, chương trình 10 điểm của mặt trận đã ra đời 7
năm trước, đến nay không còn phù hợp, cần phải có cương lĩnh cụ thể để lãnh đạo cách
mạng miền Nam. Đây cũng là đại hội chuẩn bị cho cuộc Tổng công kích và nổi dậy Xuân
Mậu Thân 1968 .
Đại hội đã tổng kết những thắng lợi về chính trị, quân sự và ngoại giao của nhân dân
miền Nam dưới ngọn cờ của Mặt trận và nhận định rằng: “Những thắng lợi to lớn của quân
và dân miền Nam gắn liền với đường lối, chủ trương đã được ghi trong chương trình 10
điểm của Mặt trận DTGPMNVN… Mặt trận đã thực sự trở thành người đại diện chân chính,
duy nhất của nhân dân miền Nam” [57, tr.35].
Đại hội đã thông qua Cương lĩnh chính trị mới của Mặt trận nhằm mở rộng hơn nữa
khối đoàn kết dân tộc, động viên toàn thể đồng bào miền Nam thừa thắng xông lên quyết
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược và cũng nhằm công bố với thế giới về toàn bộ đường lối,
chính sách của Mặt trận ở thời kỳ mới. Cương lĩnh của Mặt trận là cơ sở hành động cho một
chính phủ cách mạng lâm thời khi thời cơ đến.
Bản cương lĩnh chính trị chỉ rõ kẻ thù nguy hiểm nhất của nhân dân miền Nam hiện
nay là đế quốc Mỹ xâm lược và ngụy quyền tay sai bán nước, đồng thời nêu lên những
nhiệm vụ trước mắt và mục tiêu chiến đấu của quân và dân miền Nam là : “Đoàn kết toàn
dân, kiên quyết đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh đổ nguỵ quyền tay sai
của chúng, thành lập chính quyền liên hiệp dân tộc và dân chủ rộng rãi, xây dựng miền Nam
Việt Nam độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập và phồn vinh, tiến tới hoà bình thống nhất
Tổ quốc” [57].
Cương lĩnh của Đại hội thông qua gồm bốn chương, với nội dung:
Chương I: Đoàn kết toàn dân chống Mỹ cứu nước.
Chương II: Xây dựng miền Nam Việt Nam độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập và
phồn vinh, trong đó nêu rõ 14 chính sách của Mặt trận.
Chương III: Lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền Nam Bắc , tiến tới hoà bình
,thống nhất Tổ quốc.
Chương IV: Thi hành chính sách ngoại giao hoà bình trung lập.
Đoàn chủ tịch Đại hội nhấn mạnh: con đường trước mắt duy nhất đúng để nhân dân
thực hiện Cương lĩnh Mặt trận là tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến thần thánh chống Mỹ,
cứu nước cho đến khi không còn bóng quân xâm lược Mỹ trên dải đất miền Nam thân yêu .
Trong khi giới thiệu những vấn đề cơ bản trong Cương lĩnh, luật sư Nguyễn Hữu Thọ
nêu lên 5 đặc tính của Cương lĩnh chính trị:
- Cương lĩnh chiến đấu, chống Mỹ, cứu nước, giải phóng dân tộc.
- Cương lĩnh đại đoàn kết toàn dân.
- Cương lĩnh dựng nước.
- Cương lĩnh tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc.
- Cương lĩnh đoàn kết với nhân dân thế giới vì hòa bình, đôc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội, chống chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ.
Cương lĩnh xác định mục tiêu chiến đấu của nhân dân miền Nam: “Mục tiêu chiến đấu
của nhân dân miền Nam dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc giải phóng là: độc lập, dân
chủ, hòa bình, trung lập và phồn vinh, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc. Đó là nguyện
vọng tha thiết nhất, chính đáng nhất và là ý chí săt đá của 14 triệu nhân dân miền Nam ,
hoàn toàn phù hợp với lợi ích của dân tộc và lợi ích của hòa bình ở Đông Dương, châu Á và
thế giới” [24].
Bản cương lĩnh chính trị của Mặt trận DTGPMNVN đã có một ảnh hưởng chính trị
sâu rộng ở trong nước và thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: ”Bản cương lĩnh chính trị của Mặt trận là ngọn cờ đại
doàn kết toàn dân, một cương lĩnh quyết tâm đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ và bè lũ tay sai
bán nước” [42, tr.295-296].
Xã luận báo Nhân Dân ngày 2-9-1967 nêu rõ: “Bản Cương lĩnh thể hiện mạnh mẽ ý
chí quyết chiến quyết thắng của đồng bào miền Nam, thể hiện mạnh mẽ tình đoàn kết ruột
thịt Bắc- Nam và ý chí thống nhất Tổ quốc. Bản Cương lĩnh cũng thể hiện mạnh mẽ tinh
thần sáng tạo tài tình của Mặt trận, tổng kết những kinh nghiệm đấu tranh cách mạng và tập
trung trí tuệ của đồng bào miền Nam và đồng bào cả nước ta, kết hợp sự vững vàng về
nguyên tắc với sự linh hoạt về sách lược, đề ra những chủ trương, chính sách sáng suốt, kịp
thời”.
3.1.2. Xây dựng chính quyền và vùng giải phóng
* Xây dựng chính quyền
Từ sau đại hội Mặt trận lần thứ hai ( 1964), hệ thống tổ chức của Ủy ban Mặt trận từ
trung ương đến địa phương được tổ chức hoàn chỉnh, Ủy ban Mặt trận được tổ chức hoàn
thiện từ xã, huyện đến Miền.
Ngày 25-5-1968 Trung ương Cục miền Nam ra chỉ 13-CT NT ( NT là Năm Trường
là biệt danh của cục R lúc đó) với nội dung nhan đề: “Ra sức xây dựng chính quyền cách
mạng các cấp theo kịp sự phát triển của tình hình”. Từ đây, “Uỷ ban Mặt trận Dân tộc giải
phóng được thống nhất đổi tên là Uỷ ban nhân dân cách mạng ở toàn miền Nam Việt Nam”
[18, tr.411].
Chỉ thị 13-CT NT đánh giá: “từ sau Đồng khởi cơ cấu tổ chức chính quyền cấp xã, ấp
được hình thành và hoạt động nhưng chính quyền cấp xã chính thức mới thành lập đầu năm
1968 ở một số nơi. Còn phần lớn các xã, ấp giải phóng ta chưa lập chính quyền cách mạng
hoặc có thành lập nhưng không chặt chẽ” [74, tr.121]. Chỉ thị nêu: “Nhiệm vụ của chính
quyền cách mạng được xác định là tổ chức và lãnh đạo nhân dân miền Nam chiến đấu hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân miền Nam, hòa bình, thống nhất Tổ quốc tiến
lên chủ nghĩa xã hội”. Chỉ thị cũng nêu lên cấu tạo, số lượng, thành phần , lề lối làm việc và
mối quan hệ giữa chính quyền với các ngành đoàn thể khác [74].
Năm 1968, số dân miền Nam do Mặt trận Giải phóng quản lý là 10 triệu / 14 triệu
người, trong đó có “4 triệu người sống trong vùng giải phóng và ít nhất có 6 triệu rưỡi người
nữa thuộc quyền cai trị bí mật của Mặt trận trong các vùng danh nghĩa là của Mỹ và Sài
Gòn kiểm soát” [25, tr.201]. Vì số đông nhân dân do Mặt trận lãnh đạo nên không có ai
cung cấp tin tức về nơi đóng quân của Quân Giải phóng, vì vậy Mỹ khó tìm được Việt cộng
để mà đánh, Mỹ hoàn toàn bị cô lập với dân chúng. Mặt trận kiểm soát hoàn toàn các vùng
xung quanh các trại lực lượng đặc biệt của Mỹ.
Về những vùng trên danh nghĩa là do Sài Gòn kiểm soát nhưng thực tế cũng do Mặt
trận kiểm soát ở những mức độ khác nhau. Trong số khoảng 6 triệu dân do Sài Gòn kiểm
soát, không thuộc quyền kiểm soát của Mặt trận cũng đóng thuế cho Mặt trận. Khoảng 70%
viên chức cấp xã trong các vùng do Sài Gòn kiểm soát không dám ở lại xã ban đêm, một số
tề xã đóng trụ sở ở quận lỵ cách xã đến mấy dặm. Trên thực tế, từ năm 1968 về sau “Mặt
trận là chính phủ mạnh nhất ở nông thôn Nam Việt Nam ” [25, tr.202].
Trong các thành thị, Mặt trận có cán bộ bí mật ở hầu hết các thành thị, các nhà kinh
doanh thường xuyên đóng thuế cho Mặt trận. Khi Quân Giải phóng tấn công vào dịp Tết
Mậu Thân thì nhân dân ở 40 đô thị trong 28 tỉnh lỵ đã nổi dậy, cùng với Quân Giải phóng
tiến hành đấu tranh chính trị và binh vận.
Về ban đêm, phạm vi kiểm soát của Mặt trận được mở rộng. Tối đến, hầu hết các
trưởng thôn đều bỏ trụ sở chạy vào thành thị. Trong khi các viên chức chính quyền Sài Gòn
đua nhau chạy về thành thị thì các cán bộ địa phương của Mặt trận công khai nắm lấy chính
quyền .
Trên cơ sở phong trào kháng chiến chống Mỹ cứu nước phát triển cao nhất là từ đầu
năm 1968, trên cơ sở lực lượng mạnh và uy tín lớn của Mặt trận, từ năm 1968, nhân dân
miền Nam bắt đầu mở cuộc vận động thành lập chính quyền cách mạng. Cho đến cuối năm
1968, các Uỷ ban giải phóng đã thành lập ở nhiều địa phương, mạnh nhất là ở đồng bằng
sông Cửu Long, căn cứ lâu đời của Mặt trận, và hầu hết cao nguyên Trung phần bắt đầu
chuyển thành Ủy ban nhân dân cách mạng [25, tr.210].
Cuối năm 1968, nhiều địa phương ở miền Nam đã tổ chức bầu cử “Hội đồng nhân
dân cách mạng”.
Tháng 12-1968, Tỉnh Quảng Đà có hơn 90% số xã và tất cả các quận trong tỉnh đã có
chính quyền nhân dân. Việc bầu cử Hội đồng nhân dân cách mạng được tiến hành thắng lợi
trong 134 xã và 12 quận.
Tính đến cuối năm 1968, kết quả thực hiện chỉ thị nói trên: xây dựng chính quyền 516
xã/ 1800 xã, xây dựng chính quyền huyện 7/ 121 huyện, chính quyền cấp tỉnh xây dựng
được 3/ 44 tỉnh (Gia lai , Cà Mau và Mỹ Tho) [74, tr122]. Hệ thống chính quyền cách mạng
đã đem lại cho đồng bào quyền dân sinh, dân chủ, bình đẳng…trong đó quan trọng nhất là
đem lại quyền lợi ruộng đất cho nông dân. Hệ thống chính quyền cách mạng thực sự trở
thành một nhân tố thắng lợi cho cách mạng miền Nam.
Như vậy, Mặt trận “có dân, có đất và có lực lượng vũ trang. Mặt trận có trách nhiệm
phải giữ đất bảo vệ dân, Mặt trận làm chức năng chính quyền. Trong những vùng giải
phóng, Mặt trận là một uy tín chính trị có tổ chức, là chính phủ có hiệu lực, là một tổ chức
chính quyền quản lý một phần lớn đất đai ở miền Nam được giải phóng” [45, tr.55].
* Tăng gia sản xuất.
Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ (1954-1975), miền Bắc là “hậu phương lớn” và
vùng giải phóng là “hậu phương trực tiếp “ của Quân giải phóng miền Nam, cho nên Mặt
trận chú ý đến việc bảo vệ, xây dựng vùng giải phóng hơn lúc nào hết , động viên nhân tài
vật lực cho tiền tuyến.
Mặt trận Dân tộc giải phóng đã chia cho nông dân 2 triệu héc ta đất trồng trọt. Người
cày có ruộng là bí quyết lớn về việc củng cố, mở rộng vùng giải phóng, của việc bồi dưỡng
sức dân, của việc động viên nhân tài vật lực. Hễ giải phóng đến đâu thì thực hiện chính sách
ruộng đất của Mặt trận tới đó, chỗ thì chia ruộng đất, chỗ thì giảm tô, giảm tức. Chính sách
ruộng đất của Mặt trận sớm làm cho bộ mặt nông thôn biến đổi: số bần nông hạ xuống
nhanh, số trung nông tăng lên mau. Do nhu cầu kháng chiến, nhiều tổ đổi công vần công
giúp nhau cày cấy được thành lập. Được sự giúp đỡ của Hội Nông dân giải phóng, đồng bào
vượt được mọi khó khăn. Nhân dân ra sức bám làng, bám đất để làm ăn, để sống và cũng là
để duy trì và củng cố cơ sở du kích, cơ sở kháng chiến, chống mọi sự cướp bóc, phá hoại,
càn quét của địch .
Trong vùng giải phóng nhiều giống lúa mới năng suất cao được phổ biến như :”lúa
xiêm”, “sóc rô”, “lúa giáng”…cả những giống lúa từ miền Bắc gởi vào tặng như:”trà trung
tử”, “nông nghiệp I”, ở nhiều nơi việc tăng vụ đã bù lại việc địch phá hoại.
Mặc dù địch phá hoại liên tục nhưng nhiều nơi vẫn được mùa, năng suất vẫn đạt mức
cao. Ở miền Đông Nam Bộ nhiều vùng không còn xóm làng, nhà cửa, vậy mà, năm 1967,
tới 85% diện tích rẫy được trồng trọt. Miền Trung Nam Bộ tiến hành thâm canh, tăng vụ, có
nơi ở quận Cai Lậy đạt năng suất đạt 9 tấn thóc trên 1 hec ta.
Trong năm 1967, miền Trung Nam Bộ cấy 384.000 hec ta một vụ và 88.000 hec ta
hai vụ, năng suất tăng từ 20% đến 80%. Tây Nam Bộ lúa hai vụ năm 1967 tăng bằng hai lần
năm 1966, lúa một vụ tăng 20.000 hec ta. Các tỉnh bị càn quét hết sức nặng như Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định vẫn giữ vững diện tích cày cấy, vượt chỉ tiêu 250 kilô bột đầu
người hàng năm và vượt 12 ki lô thịt đầu người hàng năm. Nhiều vùng ở Tây Nguyên đạt từ
400 đến 600 ki lô bột mỗi người mỗi năm, dự trữ muối đầy đủ.
Mặt trận Dân tộc giải phóng hết sức chú ý đến công tác thuỷ lợi. Tại Cà Mâu, năm
1967, nông dân đắp và sửa 621 đập và 500 bờ ngăn nước mặn. Tại Trà Vinh, 6 tháng đầu
năm 1967, nông dân đào được 75 kênh dài 120 kilômet, vét lại 440 kênh cũ. Trong thời gian
đó, Bến Tre đào 20 kilômet kênh mới, vét 62 kilômet kênh cũ. Cả miền Tây đào 467
kilômet kênh mới, vét 263 kênh cũ, đào 3.295 kilômet mương, đắp 4.380 đập.
Đời sống nhân dân vùng giải phóng, nói chung, được cải thiện. Nhiều gia đình trong
vùng giải phóng có máy thu thanh, máy may, xe đạp, xuồng máy. Sức đóng góp nhân tài,
vật lực của vùng giải phóng cho kháng chiến ngày càng lớn, mặc dù chiến tranh tàn phá
ngày càng dữ dội. Mỗi năm có hàng vạn thanh niên tham gia Giải phóng quân, kể cả những
người có tuổi tác cũng tham gia phục vụ chiến trường. Thương bệnh binh về làng được nhân
dân đùm bọc chu đáo.
* Hoạt động văn hoá, y tế, giáo dục
Theo Hội Nhà giáo yêu nước miền Nam thì vùng giải phóng năm 1966 có tất cả 5.994
trường phổ thông, dạy 50 vạn học sinh. Mặc dù chiến sự ác liệt nhưng giáo dục vẫn phát
triển. Năm học 1966-1967,vùng giải phóng miền Tây Nam Bộ có thêm 1.671 trường cấp 1,
10 trường cấp 2 với 100.000 học sinh. Không kể mẫu giáo và vỡ lòng thôn, ấp nào cũng có.
Miền Trung Nam Bộ, niên khoá 1966-1967, mở thêm 1.250 lớp cấp 1 và cấp 2 với 1.250
giáo viên và 42.000 học sinh. Riêng tỉnh Bến Tre ,tỉnh đươc tặng huân chương Giải phóng
hạng nhất về thành tích giáo dục nhân kỹ niệm 5 năm ngày thành lập Mặt trận, đã có 26.000
học sinh 3 cấp. Niên khoá 1966-1967, Bến Tre mở thêm 560 lớp. Quảng Nam, Quảng Ngãi,
mỗi tỉnh đều có hơn 1.500 lớp phổ thông và gần 30.000 học sinh.
Phong trào bổ túc văn hoá trong vùng giải phóng phát triển mạnh. Cuối năm học
1965-1966, đã có 10.000 cán bộ các cấp của Mặt trận được bồi dưỡng về văn hoá đến trình
độ lớp 3, lớp 4. Sang năm học 1966- 1967 thì tiếp tục lên lớp 5.lớp 6, có nơi như Bến Tre thì
lên lớp 7. Tỉnh Quảng Nam có 4 trường văn hoá tỉnh chuyên bồi dưỡng cho các bộ người
Kinh, Thượng, mỗi khoá 200 người. Nhân dân tham gia các lớp bổ túc văn hoá rất đông,
riêng miền Tây Nam Bộ, năm học 1966-1967 có 10.000 người đi học, tỉnh Kom Tum có
192 làng có lớp bình dân học vụ.
Mỗi miền có trường sư phạm trung cấp để bồi dưỡng và đào tạo giáo viên. Trung
Trung Bộ có trường sư phạm miền núi. Tây Nam Bộ có trường sư phạm Hoa kiều. Niên
khoá 1966-1967 miền Tây Nam Bộ đào tạo được 2.028 giáo viên phổ thông, 1.541 giáo viên
bình dân học vụ [24].
3.1.3. Lãnh đạo các phong trào đấu tranh chính trị
3.1.3.1. Lực lượng Bảo vệ Văn hoá Dân tộc và phong trào văn hoá, văn nghệ
[72].
Trên trận địa đấu tranh văn hoá tư tưởng diễn ra gay gắt. Chủ nghĩa thực dân mới
không chỉ dùng những chiêu bài “dân tộc”, “dân chủ ” giả hiệu mà còn tuyên truyền, vu
khống, nói xấu những người cộng sản, nói xấu miền Bắc và phe XHCN. Mỹ nguỵ dùng bộ
máy truyền thông làm công cụ ”tâm lý chiến” chống lại cách mạng. Đấu tranh bảo vệ cách
mạng là một yêu cầu bức xúc của những người yêu nước. Ban cán sự Đảng khu Sài Gòn -
Gia Định đã chỉ đạo cho một số nòng cốt của tờ Tin Văn như Vũ Hạnh, Nguyễn Ngọc
Lương, Thái Bạch, Hà Kiều vận động các trí thức văn nghệ sĩ, các nhà hoạt động xã hội
hình thành một mặt trận đấu tranh mới. Sau một thời gian vận động, một tổ chức công khai
rộng lớn do Đảng lãnh đạo đã ra đời vào giữa năm 1966 đó là Lực lượng Bảo vệ Văn hoá
Dân tộc.
Ngày 7-8-1966, Đại hội Lực lượng Bảo vệ Văn hoá Dân tộc được tổ chức ngay Toà
Đô chánh Sài Gòn. Ban chấp hành trung ương gồm có:
Chủ tịch danh dự : Giáo sư Dương Minh Thới
Á Nam Trần Tuấn Khải, thi sĩ, Chủ tịch Hiệp hội Văn học nghệ thuật.
Ban chủ tịch gồm có 24 người có tên tuổi, thi sĩ, giáo sư đại học, các linh mục, những
văn sĩ, đại diện các tổ chức công khai, bán công khai Liên hiệp Giáo chức và Nghiệp đoàn
Tư thục Việt Nam, Hội Phụ huynh học sinh, Hội Bảo vệ Luân lý, Hội Bạn trẻ Việt Nam,
Hội Ái hữu nghệ sĩ, Hội Bảo vệ Nhân phẩm và quyền lợi Phụ nữ, Nghiệp đoàn Ký giả Việt
Nam, Đoàn Hương mùa Thu, Đoàn Thanh Minh - Thanh Nga.
Chủ tịch Ban chủ tịch là giáo sư Lê Văn Giáp. Trong Ban chủ tịch có Nhạc sĩ Nguyễn
Hữu Ba, là giáo sư Trường Quốc gia Âm nhạc, Trường Đại học Vạn Hạnh, ủy viên Văn Mỹ
Nghệ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, về bí mật ông là ủy viên Đoàn chủ tịch Mặt
trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Nhà giáo Thiên Giang Trần Kim Bảng, sau
xuân Mậu Thân ông ra vùng giải phóng tham gia Liên minh các lực lượng Dân tộc Dân chủ
Hoà bình Khu Sài Gòn - Gia Định.
Ban cố vấn: có 28 người là những nhà trí thức, giáo sư đại học, văn nghệ sĩ… đại diện
cho các tổ chức và các ngành đào tạo: Hội Chủ báo Việt Nam, Hội nghiên cứu Liên lạc văn
hoá Á châu, Hội Đức Trí Thể dục, Trường Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định, Hội Nhiếp ảnh
Việt Nam, Xưởng Mỹ thuật Thành Lễ, Viện Khảo cổ, Ngành Dân tộc học, Kinh tế học, Địa
chất học, trong số uỷ viên có nhà văn Thiếu Sơn từng tham gia hoạt động cách mạng từ
kháng chiến chống Pháp, giáo sư Nguyễn Văn Kiết, tháng 6-1969 ông tham gia chính phủ
Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Giáo sư Tiến sĩ Lê Văn Hảo, sau xuân
Mậu Thân ông ra vùng giải phóng làm Phó chủ tịch Liên minh các lực ượng Dân tộc Dân
chủ và Hoà bình Huế.
Ban thư ký: có 14 người là những văn nghệ sĩ, nhà văn Vũ Hạnh làm Tổng thư ký.
Ủy viên có 23 người là các văn nghệ sĩ. Trong đó có nhà văn Nguyễn Ngọc Lương là
một trong những nòng cốt của tờ Tin Văn.
Ban chấp hành Lực lượng Bảo vệ Văn hoá Dân tộc được phân công vào 10 uỷ ban đặc
trách 10 ngành hoạt động khác nhau, mười uỷ ban lại có nhiều tiểu ban phụ thuộc. Lực
lượng Bảo vệ Văn hoá Dân tộc hoạt động mạnh trên hai lĩnh vực giáo dục và văn nghệ, vận
động quần chúng xây dựng văn hoá dân tộc song song với việc bài trừ các văn hoá phẩm đồi
truỵ, lai căng. Lực lượng đã tổ chức nhiều cuộc nói chuyện, nhiều cuộc hội thảo ở Sài Gòn
và các tỉnh phía Nam, phát động một phong trào bảo vệ văn hoá dân tộc, phong trào sáng tác
rộng rãi. Nguyệt san Tin Văn trở thành cơ quan ngôn luận, là vũ khí đấu tranh sắc bén của
lực lượng. Lực lượng đã lập nhà xuất bản Đồ Chiểu, cho ra đời nội san Người Việt Bảo vệ
Văn hoá Dân tộc, xuất bản “mười bài sử ca” tập hợp các bài hát thời kháng chiến chống
thực dân Pháp của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, Thẩm Oánh, Nguyễn Thành Nguyên, Nguyễn
Hữu Ba…
Lực lượng Bảo vệ Văn hoá Dân tộc là một tổ chức công khai tập họp đông đảo nhân sĩ
trí thức, văn nghệ sĩ, đại diện các tôn giáo, các tổ chức văn hoá, giáo dục… hình thành một
mặt trận đấu tranh chống văn hoá lai căng mất gốc, bảo vệ văn hoá dân tộc. Đến giữa năm
1967, chính quyền Sài Gòn khủng bố bắt nhiều người trong đó có giáo sư Lê Văn Giáp và
nhà văn Vũ Hạnh.
Sinh viên, học sinh trên toàn miền Nam đã dấy lên một phong trào văn nghệ rộng
khắp, hát những bài “sử ca”, kháng chiến ca, hát những bài nhạc tiền chiến ….đã làm sống
lại khí thế của cách mạng Tháng Tám báo hiệu lịch sử sẽ tái diễn một cao trào cách mạng
mới. Lồng vào nội dung văn nghệ yêu nước, tuổi trẻ học đường còn hát những bài dân ca,
dựng các hoạt cảnh gây xúc động lòng người, thức tỉnh hồn dân tộc như: Tiếng trống hào
hùng, Bà mẹ Gio Linh, Tiếng trống Hà Hồi….
Phong trào sáng tác thơ ca tranh đấu của sinh viên học sinh có bước phát triển mới.
Tổng hội Sinh viên Sài Gòn nhiệm khoá 1966 -1967 lập Hội Những người sinh viên sáng
tác, chủ tịch là Trần Quang Long. Hội ra tuyển tập thơ “Tiếng hát những người đi tới” quy
tụ những cây bút tranh đấu của sinh viên học sinh: Trần Quang Long, Lê Hoàng Nguyên,
Thảo Nguyên, Hải Hà, Chánh Sử….Trần Quang Long còn xuất bản tập kịch thơ “Tiếng gọi
Lam Sơn”, Miên Đức Thắng ra tập thơ “Mặt trời hồng”. Những sáng tác trên góp phần khơi
dậy lòng yêu nước trong quần chúng, đẩy lùi những làn sóng văn hoá đồi truỵ, nói lên tiếng
nói của sinh viên học sinh có sự lãnh đạo của Đảng.
Về bí mật, trong những năm 1965,1966,1967 sinh viên có tờ “Suối thép”, “Lửa
thiêng”, đặt thẳng những vấn đề dân tộc, dân chủ, không để quần chúng mơ hồ.
Truyện ngắn, phóng sự góp phần đấu tranh trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Có nhiều
bài viết, có nhiều tác phẩm phê phán thực trạng ở miền Nam lúc bấy giờ như “Mãnh lực đô
la” của Dũng Tâm trên báo Tin Sớm, “Trên hè phố Sài Gòn ” của Nam Đình và Phan Châu
trên báo Thần Chung, “Địa ngục trần gian”của Tiêu Dao Bảo Cư…Hoạt động phê bình văn
học cũng diễn ra sối nổi với những cây bút như Vũ Hạnh, Lữ Phương, Trần Triệu
Luật…Một số nhà văn cách mạng cũng gởi bài đăng như Nguyễn Văn Bổng ( dưới bút danh
là Lê Nguyên Trung, Vương Quế Tâm).
Trong 21 tờ nhật báo, 12 tờ tuần báo, nguyệt san có những tờ báo chống Mỹ như: Dân
Chủ, Dân chúng, Tin Sáng; ở mức độ thấp hơn có : Chánh Đạo, Dân Tiến, Sống Mới, Tin
Sớm….
Tháng 6-1966, Đảng uỷ Văn hoá cho ra đời tạp chí Tin Văn do Nguyễn Ngọc Lương
làm chủ nhiệm, Tin Văn quy tụ nhiều cây bút nổi tiếng như Á Nam Trần Tuấn Khải, Vũ
Hạnh, Lữ Phương …
Ngày 1-7-1966, Nguyễn Văn Thiệu đã quyết định đóng cửa báo chí trong một tháng để
“chấn chỉnh báo chí ”. Các nhà báo ở thành phố đã tổ chức đại hội phản đối quyết định trên
của chính quyền Sài Gòn, địch đã phải rút thời hạn đóng cửa xuống còn 3 ngày.
Tổng Hội Sinh viên Sài Gòn đã tập họp các cây bút sinh viên trong tổ chức “Hiệp hội
Báo chí sinh viên”, chủ tịch là Nguyễn Hữu Phước, ủy viên báo chí là Trần Triệu Luật. Sau
đợt tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân ( 1968) của ta, tờ báo “Sinh viên” đặt thẳng
những vấn đề dân tộc dân chủ, bày tỏ lòng hoài vọng quân giải phóng vào giải phóng thành
phố. Mỹ nguỵ đã xử chủ bút Nguyễn Trường Cổn 5 năm tù, Nguyễn Đăng Trường 10 năm
tù vắng mặt .
3.1.3.2. Đấu tranh trên lĩnh vực xã hội, văn hoá, giáo dục [72].
Trên lĩnh vực giáo dục, văn hóa, xã hội có nhiều tổ chức công khai, bán công khai đấu
tranh bảo vệ truyền thống dân tộc, bảo vệ các quyền tự do dân chủ. Cuộc đấu tranh do các
Đảng viên hoặc những trí thức tiến bộ lãnh đạo phong trào.
- Hội Bảo vệ Nhân phẩm và Quyền lợi phụ nữ [ 65].
Thực hiện chủ trương của Khu ủy Sài Gòn- Gia Định, ban Phụ vận Thành ủy phân
công đồng chí Nguyễn Thị Tú, Hội trưởng Hội Phụ nữ Giải phóng Sài Gòn- Gia Định lập
một tổ chức công khai hợp pháp có khả năng tập hợp đông đảo phụ nữ chống Mỹ -ngụy.
Tháng 6-1966, Hội “Bảo vệ Nhân phẩm và Quyền lợi phụ nữ” ra mắt tại trường nữ
trung học Tư thục Đức Trí, có khoảng 300 đại biểu tham dự. Hội nghị bầu bà Phan Thị Của
làm Hội trưởng, Phan Bình làm Hội phó, bà Vân Trang làm Tổng thư ký và một số ủy viên.
Hội Bảo vệ Nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ ra lời kêu gọi, soạn một số tài liệu giáo
dục, tổ chức các buổi nói chuyện với phụ nữ. Tổ chức nhiều cuộc hội thảo có tiếng vang.
Cuộc hội thảo ngày 13-11-1966 với nội dung “Phụ nữ Việt Nam với nạn mãi dâm”, cuộc
hội thảo ngày 7-3-1967 với nội dung “Giá trị xác thực của nữ sinh viên hiện tại”, Ngày 5-8-
1967, hội thảo với nội dung “Phụ nữ , xã hội và chiến tranh” lên án những kẻ gây chiến phá
vỡ những luân lý cổ truyền, phá vỡ quan hệ gia đình.
Cuối năm 1966, Hội còn lập ra Liên đoàn Phụ nữ Phật tử đấu tranh cho tự do tín
ngưỡng và hòa bình.
- Phong trào đấu tranh đòi chuyền ngữ Việt ở đại học
Ngoài một số trường Tây sử dụng ngôn ngữ chính là tiếng Pháp, còn các trường phổ
thông ở miền Nam dạy bằng tiếng Việt, nhưng khi lên đại học sinh viên phải học bằng tiếng
Pháp ở một số bộ môn, đây là một trở ngại lớn việc tiếp thu kiến thức của sinh viên.
Đến năm 1966-1967, Trường Đại học Y Khoa, ngoài hệ tiếng Pháp còn một hệ dạy
tiếng Anh. Vì vậy, ngòi pháo đấu tranh bùng nổ ở trường Đại học Y khoa. Cuối năm 1966,
đầu năm 1967, 500 sinh viên y khoa đã tổ chức hội thảo phản đối chủ trương dạy đại học
bằng tiếng nước ngoài, với khẩu hiệu :”Dân tộc Việt học tiếng Việt”. Sinh viên hai trường
Đại học Sư phạm và Đại học Khoa học liên tiếp tổ chức các cuộc hội thảo đòi dạy tiếng
Việt ở trường đại học. Phong trào đòi chuyển ngữ Việt ở đại học lan ra ở một số trường đại
học và các trường phổ thông khác và được một số nhân sĩ, trí thức hưởng ứng. Các lực
lượng đấu tranh đã họp ở trường Đại học Sư phạm, lập uỷ ban Thanh niên, Sinh viên đòi
chuyển ngữ Việt ở đại học, chủ tịch là Hồ Hữu Nhựt. Tờ báo chính thức của phong trào là tờ
Chuyển Ngữ , in ronéo.
Ở Trường Đại học Khoa học, giáo sư Lê Văn Thới cùng các giáo sư khác soạn thảo
cuốn Từ điển danh từ khoa học làm cơ sở cho việc giảng dạy bằng tiếng Việt ở đại học.
Đầu năm 1967, các trường đại học đều dạy bằng tiếng Việt, ngoại trừ trường Đại học
Y khoa còn một hệ dạy theo chương trình Mỹ và dạy bằng tiếng Anh.
- Phong trào tự trị đại học
Nguyên nhân nổ ra phong trào đấu tranh đòi tự trị đại học là do chính quyền Sài Gòn
thay thế cơ cấu lãnh đạo Trường Đại học Y khoa, thay lãnh đạo mới 5 người và biến Trường
Đại học Y khoa thành Trung tâm Y Nha Dược trực thuộc Phủ Thủ tướng không còn trực
thuộc Viện Đại học Sài Gòn. Ngày bàn giao chức khoa trưởng, sinh viên biểu tình ngồi chặn
trước văn phòng Khoa trưởng. Lực lượng cảnh sát đến đàn áp.
Một phong trào đấu tranh chống xâm phạm tự trị đại học nổ ra ở Đại học Y khoa rồi
lan qua Đại học Sư phạm, Đại học Khoa học và một số trường khác..
Tháng 3-1967, Đại hội Sinh viên Sài Gòn đòi tự trị ở bậc đại học ra mắt ban chấp
hành Trung ương. Hồ Hữu Nhựt làm chủ tịch, Dương Văn Đầy làm Tổng Thư ký, có
khoãng 2.500 sinh viên, giáo chức, nhà văn ở Sài Gòn tham dự. Đại hội ra tuyên ngôn chủ
trương nền đại học tiến bộ, chống chính quyền Sài Gòn can thiệp vào khuôn viên đại học.
Phong trào có ban cố vấn khoãng 30 giáo sư , giảng viên có cả Viện trưởng Viện Đại học
Sài Gòn và Cần Thơ tham gia, phong trào ra tờ Tự trị đại học.
Các trường đại học tổ chức hội thảo về tự trị đại học và ra mắt Ban Chấp hành Phân
bộ Tự trị đại học ở 8 trường.
Phong trào Tự trị Đại học là một tổ chức bán công khai tồn tại từ đầu năm 1967 đến
ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng song song với 5 nhiệm kỳ Tổng Hội Sinh viên Sài
Gòn do Đảng nắm và chi phối. Đây là một trong những tổ chức tập hợp quần chúng của sinh
viên có trung tâm bán công khai bên trên, cơ sở bên dưới và có nhiều giáo sư, giảng viên
đồng tình ủng hộ.
- Hội Liên hiệp Giáo chức.
Nhằm mở rộng mặt trận đoàn kết trong giáo chức, ngày 10-11-1966, Đảng chỉ đạo
thành lập Hội Liên Hiệp Giáo chức. Thành viên của Hội gồm có ”Hội Ái hữu Giáo chức
Công lập”, “Nghiệp đoàn Giáo học Tư thục Việt Nam ”, “Hội Ái hữu Nữ sinh Sư phạm
Đông Dương”, “Hội Ái hữu Giáo chức bậc tiểu học”, “Hội Phụ huynh và Ân nhân Học sinh
các trường công lập đô thành”, “Hội những nhà giáo về hưu”. Hội ra tuyên ngôn lên án xã
hội đồi truỵ, đòi phục hưng tinh thần và cứu vãn nền đạo đức dân tộc đang bị đe doạ và kêu
gọi các nhà văn, nhà xuất bản, nhà báo, nhà giáo, sáng tác và in các tác phẩm sách giáo khoa
nhằm giáo dục thanh thiếu niên.
Ngày 20-11-1966, Hội đã tổ chức diễn thuyết tại trường Quốc gia Âm nhạc về đề tài:
“Hướng về một nền giáo dục dân tộc”. Hội cũng phối hợp với lực lượng Bảo vệ Văn hoá
Dân tôc tổ chức diễn thuyết tại Gia Định, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho, Long Xuyên, Cần Thơ.
Hội đã tổ chức nhiều lớp tu nghiệp giáo viên bậc tiểu học và mẫu giáo. Lớp tu nghiệp giáo
viên bậc tiểu học, ngày 20-10-1967 có trên 700 người dự. Trưởng ban : Trần Đình Sung,
phó ban: Lưu Văn Lê, ban Thư ký : Lưu Văn Nam, Trần Văn Đẩu. Có nhiều Đảng viên
trong ban tổ chức lớp, trưởng ban và phó ban đều là Đảng viên Cộng sản.
Ngày 20-11-1967, “Hội Ái hữu Giáo chức bậc Tiểu học”, “Nghiệp đoàn Giáo học Tư
thục Việt Nam ”và “Hội Bảo vệ Nhân phẩm và Quyền lợi Phụ nữ Việt Nam ” tổ chức lớp
huấn luyện có giấy chứng nhận tốt nghiệp, sau nầy được Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố
Hồ Chí Minh công nhận [72].
3.1.3.3. Đấu tranh chống đàn áp đồng bào miền Trung .
Phong trào chống đàn áp đồng bào miền Trung diễn ra với quy mô lớn, trên diện rộng.
Phong trào bùng nổ từ Huế, Đà Nẵng, lan đến Đà Lạt, Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ, phong
trào mang tính bạo lực, bùng nổ khoảng 100 ngày, từ tháng 3-1966 đến tháng 6-1966,
nguyên nhân nội bộ địch mâu thuẫn, viên tư lệnh vùng I chiến thuật bị cách chức, một số
cán bộ nhân viên nguỵ quyền cùng nhân dân Huế tuyên bố ly khai chính quyền Sài Gòn,
đốt phòng thông tin Mỹ.
Thiệu, Kỳ phải huy động quân đội, có cả không quân tấn công lực lượng ly khai.
Hưởng ứng cuộc đấu tranh của nhân dân miền Trung, thanh niên và nhân dân Đà Lạt đã nổi
dậy làm chủ một phần thành phố. Tại Sài Gòn - Gia Định cũng nổ ra một phong trào đấu
tranh mạnh mẽ chống nguỵ quyền đàn áp nhân dân miền Trung. Nổi bật là cuộc đấu tranh
của sinh viên Đại học Y khoa Sài Gòn trong tháng 3 và 4 năm 1966, của sinh viên Trung
tâm Kỹ thuật Phú Thọ, Đại hội sinh viên nhiệm kỳ II cũng hưởng ứng cuộc đấu tranh của
đồng bào miền Trung đòi chủ quyền và hoà bình.
Thanh niên và đồng bào Phật tử đã góp phần đưa phong trào lên cao, đặc biệt trong
dịp lễ Phật Đãn ( 5-5-1966). Phong trào có nội dung bài Mỹ, đòi Mỹ, nguỵ phải rút quân đội
khỏi Đà Nẵng, đòi Thiệu, Kỳ phải từ chức. Tuy Thiệu Kỳ hứa từ chức nhưng sau đó chúng
lật lọng dùng lực lượng cảnh sát dã chiến bao vây, cô lập lực lượng đấu tranh trong Viện
Hoá Đạo.
Bên ngoài, đồng bào đưa “bàn thờ Phật xuống đường” làm cản trở lưu thông, gây nên
bầu không khí vô cùng căng thẳng.
Ngày 23-6-1966, chính quyền nguỵ bao vây Viện Hoá Đạo, tổ chức vây bắt 800 đồng
bào có cả các nhà sư.
3.1.3.4. Đấu tranh chống bầu cử gian lận của Tổng hội Sinh viên Sài Gòn ngày 3-9-
1967 [72].
Tổng hội Sinh viên Sài Gòn là một tổ chức công khai hợp pháp, là cơ quan đại diện
của sinh viên Sài Gòn. Trụ sở của Tổng hội tại số 4 Duy Tân (nay là số 4 Phạm Ngọc
Thạch). Vì Tổng hội có số sinh viên nhiều nhất so với sinh viên các viện đại học khác ở
miền Nam, trụ sở của Tổng hội đặt ở thủ đô của chính quyền Sài Gòn cho nên tiếng nói của
Tổng hội có tiếng vang ở trong và ngoài nước. Các thế lực chính trị kể cả lực lượng cách
mạng và chính quyền Sài Gòn đều tìm cách nắm ban chấp hành Tổng hội sinh viên Sài
Gòn,Tổng hội lúc đầu có 14 phân khoa : đại học Y khoa, Nha khoa, Dược khoa, Sư phạm,
Văn khoa, Kiến trúc, Luật, Sư phạm kỹ thuật, Nông lâm súc, các trường Cao đẳng Điện học,
Công chánh, Hàng hải, Công nghệ và học viện Quốc gia Hành chánh.
Tổng hội sinh viên Sài Gòn có hai tổ chức: Hội đồng đại diện sinh viên và Ban chấp
hành Tổng hội sinh viên. Cuộc bầu cử ban chấp hành Tổng hội sinh viên Sài Gòn nhiệm
khoá 1966 - 1967 đã diễn ra gay go, kéo dài nhiều tháng, đến cuối tháng 4-1967 thì liên
danh Hồ Hữu Nhựt đắc cử, từ đây Đảng và Đoàn thanh niên đã chi phối và nắm các Ban
chấp hành liên tiếp cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.
Ngày lễ ra mắt Ban chấp hành, đại diện sinh viên đã tham gia cuộc mít tinh nhân ngày
Quốc tế Lao động 1-5-1967 với đông đảo thanh niên lao động và thành viên các tổ chức
khác. Cuộc mít tinh đòi hoà bình, đòi chấm dứt chiến tranh, đòi các quyền dân sinh, dân chủ
.
Ngày 3-9-1967, chính quyền Sài Gòn tổ chức bầu cử bịp bợm lập ra “Đệ nhị Cộng
hoà”. Ngày 24-9-1967, đại diện sinh viên Sài Gòn, Vạn Hạnh, Cần Thơ, Đà Lạt đã họp Đại
hội sinh viên liên viện lần thứ nhất tại số 4 Duy Tân đễ thống nhất đấu tranh, chống bầu cử
bịp bợm, nêu khẩu hiệu bài Mỹ.
Ngày 30-9-1967, Đại hội sinh viên liên viện kỳ II, sinh viên xuống đường đập phá
bảng công bố kết quả bầu cử.
Ngày 2-10-1967, Đại hội sinh viên liên viện kỳ III bị cảnh sát bao vây, sinh viên biểu
tình ngồi. Ngày 7-10-1967, trong cuộc họp báo của Hội đồng sinh viên Liên viện. Địch ập
vào bắt chủ toạ đoàn bao gồm : Chủ tịch hội Sinh viên Sài Gòn Hồ Hữu Nhựt, Tổng thư ký
Tổng hội sinh viên Vạn Hạnh Phan Long Côn và Tổng thư ký Tổng hội sinh viên Cần Thơ
Nguyễn văn Tư cùng một số sinh viên khác. Địch đưa tất cả 17 sinh viên đi quân trường. Từ
trường Bộ binh Thủ Đức, Hồ Hữu Nhựt đã trốn ra vùng giải phóng.
3.1.3.5. Phong trào đấu tranh của công nhân.
Phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động là một mặt trận đoàn kết
phối hợp hành động rộng rãi gây khó khăn tổn thất lớn cho địch. Ba tháng đầu năm 1966, tại
Sài Gòn- Gia Định có 152 cuộc đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động, có nhiều
cuộc hội thảo lớn liên tiếp được tổ chức từ các xí nghiệp đến các nghiệp đoàn, Tổng Liên
đoàn, nội dung tố cáo chế độ Mỹ nguỵ dùng chất độc hoá học, chống khủng bố tàn sát ở
nông thôn.
Có 3 cuộc hội thảo lớn tại Tổng Liên đoàn Lao động, mỗi cuộc có hàng ngàn người
tham dự, các đại biểu đem các kiến nghị, yêu sách, bản tin, tài liệu về tổ chức các cuộc hội
thảo nhỏ ở xí nghiệp mình.
Ngày 10-4-1966, các đại biểu không chỉ nêu những khó khăn về tiền lương giá cả mà
còn tố cáo quân đội Mỹ vào miền Nam chiếm đất, đuổi nhà, bom đạn Mỹ đã buộc nông dân
phải rời bỏ ruộng vườn vào thành phố, công nhân đòi mỹ rút quân, bãi bỏ nền kinh tế lệ
thuộc ngoại bang, đòi tự do ngôn luận, tự do xuất bản. Trong cuộc hội thảo ngày 25-4, công
nhân yêu cầu quân đội đồng minh rút về nước, chấm dứt rải chất độc hoá học làm chết hoa
màu, đòi hoà bình để thanh niên khỏi đi lính, tăng lương, đòi tự do nghiệp đoàn, tự do đình
công, tự do báo chí…
Gần đến ngày Quốc tế Lao động 1-5 hàng ngàn xe có loa phóng thanh vào các xóm
lao động kêu gọi đồng bào đi biểu tình ngày 1-5.
Ngày 1-5-1966, Tổng Liên đoàn Lao động tổ chức 3 cuộc biểu tình lớn. Đoàn người
biểu tình khoảng hai vạn người gồm công nhân lao động, sinh viên học sinh, nông dân, giáo
chức, gia đình binh sĩ, tín đồ Phật giáo,Thiên Chúa giáo…đoàn người tuần hành từ đường
Lý Thái Tổ ra Cống Quỳnh, Nguyễn Cư Trinh, Trần Hưng Đạo, Hàm Nghi, khi đến sứ quán
Mỹ đoàn người đông lên đến 4 vạn.
Khẩu hiệu của đoàn biểu tình là đòi chấm dứt chiến tranh, phản đối chính sách phá
sạch đốt sạch của Mỹ, phản đối độc tài phát xít bóp nghẹt các quyền tự do dân chủ, chống
bắt lính bừa bãi, phản đối chính sách chia rẽ công nhân, chia rẽ tôn giáo, đòi mở nhà
thương, trường học thay cho trại lính. Trước sứ quán Mỹ , sinh viên vẽ khẩu hiệu trên
đường “American go home”( người Mỹ về đi ), “Stop the war”( Hãy chấm dứt chiến tranh ).
Tháng 11-1966, Thường vụ Khu uỷ Sài Gòn - Gia Định đánh giá :“Trong vòng mấy
năm nay, đây là lần đầu tiên quần chúng đô thị biểu thị một khí thế chống Mỹ, mạnh mẽ
nhất, với nội dung đúng đắn nhất…Về thực tế, cuộc đấu tranh ngày 1-5 là cuộc đấu tranh
của mặt trận dân tộc và dân chủ do công nhân làm nòng cốt”
Cuộc bãi công ngày 21-6-1966 của 15.000 công nhân xưởng đóng tàu, 10 công trường
thuộc hãng thầu RMK-BRJ chạy dài từ Tân Sơn Nhất, Biên Hoà, đến Cam Ranh, Quy
Nhơn, Chu Lai, Đà Nẵng. Cuộc bãi công làm tê liệt hơn mười công trường xây dựng quân
sự thuộc loại ưu tiên của Mỹ đã ảnh hưởng đến kế hoạch quân sự và hậu cần của Mỹ. Đích
thân đại sứ Cabot Lodge và tướng Westmoreland phải can thiệp giải quyết các yêu sách của
công nhân.
Ngày 22-11-1966, ở Sài Gòn, 5.000 công nhân bốc vác bến cảng lên tiếng tố cáo Mỹ
và Thiệu-Kỳ âm mưu sa thải công nhân, anh em công nhân tố cáo chúng viện cớ “bảo vệ an
ninh”, “ngăn chặn nạn cắp” để đuổi công nhân ra khỏi một số việc quan trọng và đưa tay
chân của chúng vào thay. Toàn thể công nhân cảng nghị quyết rằng : nếu Mỹ, Thiệu- Kỳ
không từ bỏ âm mưu sa thải đó thì sẽ tổ chức bãi công. Ngày 29-11, chúng sợ bãi công nổ ra
trong khi cảng đang có quá nhiều hàng phải dỡ, bọn Mỹ-nguỵ đành phải nhận không đuổi
công nhân nữa. Ngày 5-12, chúng quyết định sa thãi 600 công nhân cảng mà chúng tình
nghi, công nhân tổ chức nhiều cuộc biểu tình, chuẩn bị bãi công, Mỹ ngụy co lại, nói rằng
“có sự hiểu lầm” và ngưng lệnh sa thãi. Ba tuần sau, chúng lại quyết định sa thãi 600 công
nhân , sáng ngày 26-12, hơn 5.000 công nhân bốc vác tuyên bố bãi công, 26 tàu chở hàng
quân sự của Mỹ không bốc được hàng lên bến, cảng Sài Gòn hoàn toàn tê liệt. Cuộc bãi
công nầy làm cho Mỹ - nguỵ lo sợ không kém gì cuộc bãi công của RMK-BRJ vừa qua.
Ngày 27-12, một cuộc biểu tình được tổ chức tại lối vào cảng quân sự để nói lên ý chí
của công nhân. Cuộc bãi công của công nhân cảng sang ngày thứ 5 thì tại Sài Gòn, các
ngành điện, dệt, săm lốp, sơn, dược phẩm, ô tô, một số tiệm buôn đã bắt đầu bãi công để
hưởng ứng công nhân cảng. Ba phần tư hệ thống giao thông công cộng Sài Gòn bị đình trệ,
điện bị cắt ở nhiều nơi, các khu phố tổ chức quyên tiền giúp công nhân cảng.
Những cuộc đấu tranh lớn kể trên chứng tỏ rằng trong tình hình chiến tranh cục bộ vẫn
tổ chức được phong trào bãi công thắng lợi và các cuộc bãi công về kinh tế đều có ý nghĩa
và tác dụng chính trị sâu sắc. Đòi tăng lương, chống sa thãi, công nhân đấu tranh thực sự
đánh vào hậu cần của quân Mỹ xâm lược.
Sang năm 1967, phong trào đấu tranh của công nhân phát triển mạnh hơn trước, bắt
đầu xuất hiện đấu tranh có vũ trang, công nhân đấu tranh vũ trang độc lập hoặc kết hợp với
Quân giải phóng .
Tháng Giêng, bãi công của 2.700 công nhân tổng kho Long Bình, kho lớn nhất của
Mỹ ở miền Nam.
Tháng hai, công nhân Long Bình tiếp tục bãi công, 42.000 công nhân RMK-BRJ tập
họp ấy quyết nghị, cử đại biểu đi đưa yêu sách cho chủ yêu cầu từ bỏ âm mưu sa thải, nếu
không tổ chức tổng bãi công, Mỹ lùi bước.
Tháng ba, công nhân hãng đường Hiệp Hoà đòi tăng lương 35% và tăng 100% tiền
phụ cấp đắt đỏ.
Cuộc đấu tranh có ý nghĩa kinh tế và chính trị nổi bật là cuộc vận động của 5 vạn công
nhân và tiểu thủ công ngành dệt. 500 đại biểu của thợ và chủ nhỏ họp đại hội lên án Mỹ và
nguỵ quyền âm mưu bóp chết ngành dệt ở miền Nam. Đại hội kêu gọi đấu tranh đòi hạn chế
việc nhập cảng hàng dệt, đòi bỏ thuế lợi tức đánh vào công nhân dệt.
Những tháng cuối năm 1967 có nhiều cuộc đấu tranh của công nhân, tiêu biểu có cuộc
biểu tình của 7.000 công nhân hãng giấy và văn hoá phẩm ở Biên Hoà, bãi công của 4 vạn
công nhân cao su, cuộc bãi công của 2.000 công nhân Vimitex, chống bắt lính của công
nhân Vinatexco, cuộc bãi công của 1.100 người Việt trong hãng máy bay của Mỹ phục vụ
cho việc chuyên chở quân sự.
Ngày 11-1-1968, cuộc bãi công của công nhân điện nước chống cúp lương đã làm cho
thành phố mất một nửa lượng điện. Cuộc bãi công nầy có sự hưởng ứng của 5.000 công
nhân cảng, 5.700 công nhân xe buýt, công nhân dệt, cao su, diêm quẹt, nhà máy xay, xăng
dầu Shell, Calten, ESSO… tổng số công nhân tham gia bãi công lên đến 17.000 người.
Chính quyền nguỵ buộc phải chấp nhận tăng lương cho công nhân .
Từ 1966 đến 1968 có hàng nghìn cuộc đấu tranh của công nhân trên toàn miền Nam.
Công nhân và lao động trong các thành thị có mặt trong các cuộc đấu tranh yêu nước và dân
chủ, đấu tranh giành những quyền lợi về kinh tế, chính trị, chống bắt lính, chống áp bức bóc
lột. Công nhân luôn được các tầng lớp khác trong xã hội ủng hộ.
3.1.3.6. Phong trào chống càn quét, bình định
Càn quét, bình định, chống càn quét, phá bình định có thể được xem là quy luật của
chiến tranh ở miền Nam trong thời chống “chiến tranh cục bộ”.
Quá trình chống phá bình định luôn gắn với quá trình xây dựng làng, xã chiến đấu.
Cán bộ, đảng viên, quân giải phóng và nhân dân kiên trì thực hiện phương châm “ba bám”,
vận dụng linh hoạt phương châm “ba mũi giáp công”, tìm ra nhiều cách đánh phong phú,
trừng trị bọn tề điệp, bọn tay sai ác ôn và các đoàn ”xây dựng nông thôn”. Chỉ trong 5 tháng
đầu năm 1967 quân và dân Trị - Thiên tiêu diệt và làm tan rã 31 trong tổng số 64 đoàn bình
định, diệt 500 tên ác ôn, giải phóng 100 xã với hơn 10 vạn dân [69, tr.45- 46].
Cuộc chống càn, phá bình định của xã Anh Dũng, phía Nam thành phố Đà Nẵng
được coi là một điển hình của phong trào chống phá bình định. Xã Anh Dũng chỉ có 4.000
dân, thế mà trong một năm rưởi đã tiêu diệt 2.180 tên địch, bắn rơi 17 máy bay, trong xã có
70 dũng sĩ diệt Mỹ, trong đó có 17 nữ và 2 lão dũng sĩ trên 60 tuổi.
Ngày 5-9-1965, quân Mỹ tràn vào xã Anh Dũng, chúng sa vào một trận địa chông,
mìn, bẫy, súng. Kết quã 75 tên bỏ mạng, 4 xe bọc thép bị phá huỹ. Hàng trăm các mẹ, các
chị , thiếu nhi nắm tay nhau ra cản đầu xe bọc thép của Mỹ. Đây là một trong những cuộc
đấu tranh chính trị trực diện với Mỹ đầu tiên ở miền Nam. Cuối cùng, 20 xe bọc thép bị cản
đều phải quay trở lại. Đây là trận phối hợp đầu tiên giữa đấu tranh vũ trang và đấu tranh
chính trị.
Mỹ tiến hành cuộc phản công mùa khô 1965- 1966 với chiến dịch “5 mũi tên”. Tại
khu Sài Gòn - Gia Định, từ ngày 8-1-1966 đến ngày 5-2-1966, Mỹ mở cuộc hành quân Gờ-
Rim đánh vào Hố Bò ( Phú Mỹ Hưng), An Nhơn Tây thuộc huyện Củ Chi. Chúng dự định
tạo ra một vùng trắng và vành đai thép về phía Bắc để bảo vệ Sài Gòn. Cùng với lực lượng
địa phương, nông dân Củ Chi vẫn bám trụ chiến đấu “một tấc không đi, một ly không rời “.
Cuối cùng địch đã thất bại, Củ Chi trở thành “Đất thép thành đồng”.
Từ năm 1966, sư đoàn 25 Mỹ và trung đoàn thiết giáp, xe tăng, xe bọc thép với hàng
vạn tấn bom đạn đã dội lên đất Củ Chi. Đi đến đâu lính Mỹ thực hiện chính sách “tam
hoang” ( phá sạch, đốt sạch, giết sạch) đến đó. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hàng ngàn cuộc
đấu tranh của nông dân đã nổ ra, có cuộc quy mô toàn huyện, hàng chục ngàn đồng bào
tham gia chống bắt lính, chống gom dân vào ấp chiến lược. Địch cho cảnh sát, dân vệ đàn
áp nhân dân, chúng cày ủi, cào nhà, dồn dân vào ấp chiến lược, dân bung ra, chúng đốt nhà,
phá nhà, dân dựng lại nhà. Họ nói: “Thà chết ở đây chứ không vào ấp chiến lược ”. Lực
lượng võ trang đã đánh địch hàng ngàn trận lớn nhỏ, buộc địch phải quay về đối phó, ta đã
đưa được 8.000 dân về vườn đất cũ.
Nông dân còn làm công tác binh vận, họ vận động con em mình trong quân đội nguỵ
phản chiến, đào ngũ trở về với nhân dân, với gia đình.
Công trình tiêu biểu nhất của quân và dân Củ Chi là đào hàng trăm cây số địa đạo,
hàng vạn ụ chiến đấu, gài mìn, làm hầm chông, đặt cạm bẫy khắp nơi. Thanh niên còn tham
gia tòng quân, có hàng nghìn thanh niên tham gia lực lượng vũ trang, tham gia xây dựng
“Vành đai diệt Mỹ” bao vây căn cứ Đồng Dù của Mỹ.
Cuối năm 1966, Mỹ tiến hành cuộc tấn công mùa khô lần thứ hai, chúng tập trung
vào hướng Tây Bắc Sài Gòn nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não và một phần quân chủ lực của
ta, kết hợp “bình định” với lập vành đai bảo vệ xung quanh Sài Gòn.
Từ ngày 8-1 đến ngày 26-1-1967, Mỹ mở cuộc hành quân Xê -da -phôn đánh vào
khu “Tam giác sắt” ( Củ Chi- Bến Súc - Bến Cát ) với ba lữ đoàn quân Mỹ và ba chiến đoàn
quân nguỵ nhằm đánh phá lực lượng cách mạng dọc theo sông Sài Gòn, chúng đã xúc đi
15.000 dân Củ Chi và Bến Cát, bắt và giết nhiều trâu bò, cướp hàng trăm tấn gạo. Bộ đội địa
phương, du kích xã, quân chủ lực đã diệt và làm bị thương trên 2.000 tên Mỹ và hơn 200
lính nguỵ, phá huỹ nhiều xe bọc thép và bắn rơi nhiều máy bay.
Sau cuộc phản công mùa khô lần thứ hai của đế quốc Mỹ, nông dân vẫn phát huy
phong trào bám đất, giữ làng, sản xuất, nuôi quân.
Trong mùa khô 1966-1967, quân dân miền Nam đã giành thêm 390 xã, ấp, nâng số
xã, ấp được giải phóng năm 1967 lên 700 xã và 6.750 ấp. Chính quyền Sài Gòn thống kê kết
quả “bình định” năm 1967 đạt 13 % kế hoạch.
Tại vùng giải phóng nông dân vẫn tiếp tục đào địa đạo, từ 70 Km năm 1962, bây giờ
đến 200 Km ở Củ Chi. Nông dân tiếp tục trốn về vườn cũ, sống dưới địa đạo tiếp tục sản
xuất để tiếp tế nuôi quân.
Tại vùng ven, đồng bào bị gom vào khu tập trung đã xé rào bung về vườn cũ, sản
xuất ở các vùng căn cứ lõm để tiếp tục nuôi quân.
Tại vùng đô thị hoá và ấp chiến lược, Đảng tiến hành vận động quần chúng xây dựng
cơ sở cách mạng, tổ chức đấu tranh chính trị, binh vận, xây dựng hầm bí mật nuôi giấu cán
bộ, tạo nơi ém quân khi có lệnh mở chiến dịch tiến công như xuân Mậu Thân.
3.2. Hoạt động ngoại giao của Mặt trận
3.2.1.Đấu tranh tại bàn đàm phán
Cùng với thắng lợi về quân sự và chính trị, trên mặt trận ngọai giao cũng có nhiều
bước phát triển, xuất hiện một hình thức ngọai giao rất độc đáo: ngọai giao ”tuy hai mà một,
tuy một mà hai”. Ngày 16-3-1966, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo: “Bây giờ ngoại giao
của ta vừa là một mà vừa là hai; vừa là hai mà lại vừa là một. Ta vừa có ngoại giao của Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, vừa có ngoại giao của Mặt trận Dân tộc giải phóng ” [4].
Đầu năm 1968, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân của quân và dân ta nổ ra
trên khắp chiến trường miền Nam. Đòn tấn công chiến lược hết sức bất ngờ của ta đã gây
chấn động cả nước Mỹ, nhất là năm bầu cử Tổng thống và một phần Quốc hội nước nầy,
nhiều cuộc biểu tình phản chiến nổ ra làm cho giới cầm quyền của Mỹ rất bối rối. Bộ trưởng
quốc phóng Mc Namara phải từ chức, Tổng thống Johnson phải tuyên bố không ra tranh cử
nhiệm kỳ hai và chịu xuống thang chiến tranh, hạn chế ném bom miền Bắc để nói chuyện
với ta.
Từ ngày 13-5-1968, đại diện Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu cuộc
gặp chính thức. Trong phiên họp không chính thức ngày 19/08/1968, phó trưởng đoàn
ngoại giao Mỹ là Cyrus Vance và phó trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là Hà
Thiệu Lâu, phía Mỹ đề nghị cần phải có sự tham gia của chính quyền Sài gòn và đại biểu
của Mặt trận Dân tộc giải phóng [1]. Tại phiên họp ngày 26/10/1968, bộ trưởng Xuân Thuỷ
đã đồng ý để Mặt trận Dân tộc Giải phóng và chính quyền Nam Việt Nam tham gia vào
các cuộc đàm phán [5].
Ngày 31-10-1968, hai bên thống nhất: Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc không điều
kiện và chấp nhận ngồi nói chuyện trực tiếp với đại diện Mặt trận Dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam tại Hội nghị bốn bên tại Pari [5].
Sau gần 8 năm tìm mọi cách phủ nhận sự tồn tại và vai trò đại diện của Mặt trận Dân
tộc giải phóng, nhưng cuối cùng Mỹ cũng phải đến dự Hội nghị bốn bên ở Pari mà đoàn đại
biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng là một bên, ngang hàng và bình đẳng với đoàn Mỹ để giải
quyết vấn đề Việt Nam nói chung và những vấn đề liên quan đến miền Nam Việt Nam nói
riêng.
Bước vào cuộc đàm phán ở Pari, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã nhận định: “...Mỹ
buộc phải nói chuyện với Mặt trận Dân tộc giải phóng tại Hội nghị bốn bên và đoàn đại biểu
Mặt trận Dân tộc giải phóng tham gia Hội nghị bốn bên với tư cách một đoàn độc lập là
thắng lợi ngoại giao to lớn của cách mạng miền Nam”.
Bước và giai đoạn “vừa đánh, vừa đàm”, ngày 3-11-1968, Mặt trận Dân tộc giải
phóng công bố giải pháp 5 điểm:
1. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam phấn đấu thực hiện độc lập ,dân
chủ, hoà bình, trung lập, phồn vinh tiến tớit thống nhất Tổ quốc.
2. Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân khỏi miền Nam Việt Nam .
3. Công việc nội bộ miền Nam Việt Nam phải do nhân dân miền Nam Việt Nam tự giải
quyết theo Cương lĩnh Mặt trận dân tộc Giải phóng, không có sự can thiệp của nước ngoài,
thành lập chính phủ dân tộc, dân chủ rộng rãi để tổ chức tổng tuyển cử tự do ở miền Nam.
4. Việc thống nhất Việt Nam sẽ do nhân dân hai miền giải quyết từng bước, bằng biện
pháp hoà bình, nước ngoài không được can thiệp.
5. Miền Nam Việt Nam thực hiện chính sách ngoại giao hoà bình trung lập.
Ngày 4-11-1968, đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng đến Pari chuẩn bị tham
dự hội nghị, đoàn trù bị của Mặt trận gồm có 4 người, trưởng đoàn là bà Nguyễn Thị Bình (
xem phụ lục II )
Ngày 16/12/1968, ông Trần Bửu Kiếm trưởng đoàn đại biểu chính thức của Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ( xem phụ lục III ) tham dự hội nghị Pari [5].
Như vậy, trên mặt trận ngọai giao, trong giai đọan từ 1965 đến 1968, Mặt trận Dân tộc
giải phóng đã chuyển dần từ “ngoại giao nhân dân” sang “ngoại giao nhà nước”. Bước sang
năm 1969, khi chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra đời thì
công tác ngọai giao trên bàn đàm phán được chuyển giao cho chính phủ.
3.2.2. Đấu tranh giành sự ủng hộ của nhân dân thế giới
Tại nhiều nước dân tộc chủ nghĩa, Mặt trận cũng có cơ quan đại diện: Angiêri,
Tandania, Ai Cập, Xyri, Campuchia, Ấn Độ, Inđônêxia, Lào. Ở các nước khác, Mặt trận
Dân tộc Giải phóng có các phòng thông tin thực tế làm nhiệm vụ cơ quan đại diện: Thụy
Điển, Na uy, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Chilê. Các cơ quan đại diện nói chung đều được
hưởng quy chế ngoại giao; các phòng thông tin không được hưởng quy chế ngoại giao
nhưng cũng được các chính phủ sở tại ưu đãi, có trường hợp được giúp đỡ về vật chất để
hoạt động.
Nhờ có một hệ thống cơ quan đại diện và phòng thông tin tại các châu lục, có đại diện
dự các cuộc họp của các tổ chức quốc tế và quốc gia và nhờ các cuộc thăm viếng, gặp gỡ
quốc tế. Mặt trận đã triển khai những hoạt động ngoại giao nhân dân rộng khắp, rất có hiệu
quả, góp phần thúc đẩy sự hình thành phong trào các nước đoàn kết với Việt Nam .
Việt Nam không có điều kiện tới nước Mỹ để trực tiếp vận động, nhưng tranh thủ gặp
các đại biểu Mỹ tại các hội nghị liên hoan gặp gỡ quốc tế, để thông báo tình hình đấu tranh
ở miền Nam và bàn việc phối hợp hành động.
Từ đầu năm 1965, ở Mỹ, một phong trào chống xâm lược ngày càng lên cao, mở đầu
là phong trào của sinh viên, ngày 24-3-1965 tại Trường đại học Michigan, 3.000 sinh viên
hội thảo về chiến tranh Việt Nam rồi lan ra hàng trăm trường khác, lôi kéo đủ các tầng lớp
của xã hội Mỹ và keo dài hết đợt nầy đến đợt khác, hết năm nầy qua năm khác, với đủ các
hình thức đấu tranh: mit tinh, hội thảo, chất vấn… và cả tự thiêu của 16 công dân Mỹ mà bắt
đầu từ ngọn đuốc Norman Morisson, một trí thức tự thiêu ngày 2-11-1965 trước trụ sở Bộ
Quốc phòng Mỹ để phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, rồi anh Rôgiơ
Lapoto 22 tuổi, chị Xila Giancaoxki người mẹ trẻ của hai con nhỏ, cụ bà Henga Hécdơ…
Hàng ngàn thanh niên Mỹ đốt thẻ quân dịch và trốn ra nước ngoài không chịu đi lính sang
Việt Nam . 22 triệu người Mỹ da đen là tầng lớp chịu hậu quả chiến tranh rõ nhất. Suốt từ
tháng 8-1965 đến đầu năm 1968, họ đã nổi dậy, đã xãy ra xung đột đẫm máu giữa người da
đen với chính phủ Mỹ, đặc biệt từ giữa tháng 7 đến giữa tháng 8-1967 cuộc chiến đấu ác liệt
đã diễn ra trong hơn 100 thành phố làm hàng trăm người chết, hàng vạn người dân da đen bị
bắt.
Ngày 12-12-1966, Mặt trận Dân tộc Giải phóng lập phái đoàn đại diện đặc biệt ở miền
Bắc, do ông Nguyễn Văn Tiến làm trưởng đoàn, ông Nguyễn Phú Soái làm phó đoàn.
Ngày 22-6-1967, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã thiết lập cơ
quan đại diện thường trực của mình tại Phnôm Pênh, Vương quốc Campuchia.
Ngày 30-6-1967, Chính phủ Cuba thành lập cơ quan đại diện ngoại giao của Cộng hoà
Cuba bên cạnh Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng.
3.2.3. Tham gia các tổ chức quốc tế ủng hộ hoà bình, chống chiến tranh
Mặt trận Dân tộc Giải phóng và các đoàn thể trong mặt trận như Thanh niên, Phụ nữ,
Công đoàn. Hội Lục hoà (tức đại diện Phật giáo), Công giáo kháng chiến, hội Nhà báo, hội
Nhà văn Giải phóng... đều tranh thủ tham gia các sinh hoạt quốc tế lớn hoặc có quan hệ với
các tổ chức tương ứng của các nước. Đại diện của Mặt trận đã được tín nhiệm bầu vào cơ
quan lãnh đạo của các tổ chức quốc tế: Liên hiệp công đoàn thế giới, Hội đồng hoà bình thế
giới, Liên hiệp phụ nữ dân chủ quốc tế, Liên hiệp thanh niên dân chủ thế giới, Hội luật gia
dân chủ thế giới, Hội nhà báo, Uỷ ban đoàn kết ba châu, phong trào Không liên kết.
Ngày 15-1-1966, tại La Habana, Hội nghị đoàn kết nhân dân 3 châu : Á- Phi - Mỹ
Latinh đã ra nghị quyết “ ủng hộ hoàn toàn và triệt để bản tuyên bố 5 điểm của Mặt trận Dân
tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và lập trường 4 điểm của chính phủ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà” và cho rằng “đó là cơ sở duy nhất đúng đắn để giải quyết vấn đề Việt
Nam ”. Hội nghị nầy đã hình thành Mặt trận Á- Phi- Mỹ Latinh giúp Việt Nam.
Cuộc chiến đấu anh dũng, lập trường đúng đắn, thái độ thiện chí của Việt Nam , và
cuộc chiến tranh xâm lược mà đế quốc Mỹ đang tiến hành ở Việt Nam hiện nay là điển hình
của những hành động tàn bạo dã man nhất của bọn đế quốc xâm lược đã tác động mạnh mẽ
tới nhân dân các nước Tây Âu và ngay cả nước Mỹ.
Ngày 15-11-1966, Toà án quốc tế Bertrand Russel đã ra đời theo sáng kiến của nhà
bác học nổi tiếng người Anh, Huân tước Bertrand Russel. Toà án đã họp và nhất trí kết luận
: Chính phủ Mỹ đã phạm tội ác xâm lược; tội ác chiến tranh; tội ác diệt chủng ở Việt Nam.
Tội ác của chính phủ Mỹ chẳng những ức hiếp nhân dân Việt Nam mà còn đe doạ nhân dân
thế giới.
Những kết luận của toà án là một bản án, một lời kết tội về chính trị, về tinh thần, có
ảnh hưởng sâu sắc trên phạm vi thế giới, góp phần làm thức tỉnh lương tri của nhân dân thế
giới, đặc biệt là nhân dân Mỹ đấu tranh chống tội ác xâm lược của đế quốc Mỹ ở Việt Nam.
Ngày 18-10-1966, tại Hội đồng Liên hiệp quốc, trong tham luận kết thúc chung của
101 đoàn thì có 93 đoàn nói về Việt Nam, đòi chấm dứt chiến tranh và đàm phán hoà bình;
19 nước chính thức đòi ngừng ném bom miền Bắc, ngoài các nước xã hội chủ nghĩa có 5
nước khác đòi Mỹ rút khỏi Việt Nam.
Cùng thời gian nầy, có 30 tổ chức của 20 nước dân tộc chủ nghĩa lấy tên là “Ủy ban
đoàn kết với Việt Nam ”, “Ủy ban ủng hộ Việt Nam ”, “Hội đoàn kết nhân dân ba châu” là
tổ chức phối hợp hành động ủng hộ Việt Nam của nhân dân Á- Phi-Mỹ La tinh được thành
lập. Tổ chức đoàn kết nhân dân Á- Phi đã tổ chức những “Tuần lễ ủng hộ Việt Nam ”.
Thật khó mà thấy được một cuộc cách mạng nào trên thế giới trong thời hiện đại mà
đến nhà bác học Anh Bertrand Russell, nhà triết học Pháp J.P.Sartre, nữ nghệ sĩ Mỹ J.
Fonda dứt khoát bảo vệ, nhiều người dân Mỹ tự thiêu theo ngọn lữa Morisson để bày tỏ sự
ủng hộ, sinh viên, thanh niên Mỹ xuống đường rầm rộ như vậy.
Trong hai năm 1966 và 1967, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã có
59 đoàn đại biểu đi di dự các hội nghị quốc tế, khu vực hay các quốc gia khác. Năm 1966
có 27 đoàn, năm 1967 có 32 đoàn.
Cũng trong thời đó, Mặt trận đã cử nhiều đoàn đại biểu đi thăm hữu nghị các nước
trên thế giới. Năm 1966 có 29 đoàn đi thăm 16 nước, năm 1967 có 79 đoàn, đi thăm 29
nước. Như vậy, từ năm 1961 đến 1967, Mặt trận đã đi thăm 12 nước xã hội chủ nghĩa, 52
nước tư bản chủ nghĩa và 3 nước dân tộc chủ nghĩa.
Lên tiếng ủng hộ tuyên bố 5 điểm của mặt trận ngày 22-3-1965 có 28 chính phủ, 15 tổ
chức quốc tế và khu vực, 471 tổ chức, hội quần chúng ở 92 nước, 28 nước có có quân tình
nguyện sẵn sàng sang Việt Nam đánh Mỹ nếu Việt Nam yêu cầu.
Cho đến cuối năm 1967, đã có 41 chính phủ , 12 tổ chức quốc tế, 5 tổ chức có tính
chất khu vực đã lên tiếng ủng hộ Cương lĩnh chính trị của Mặt trận [24].
Đến hết năm 1967, Mặt trận đã đặt cơ quan thường trú tại 12 nước ( Liên Xô, Hung-
ga-ry, CHDCND Triều Tiên, Cộng hoà Ả- Rập thống nhất, Ba Lan, Cu-Ba, An-giê-ry, Tiệp
Khắc, CHDC Đức, Trung Quốc, In-đô-nê-xia, Cam-pu-chia) và một phái đoàn đại diện ở Hà
Nội .
Như vậy, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chẳng những được xem là
một tổ chức yêu nước, dân chủ, hùng mạnh mà còn được đối xữ như một chính phủ, một
nhà nước có đủ tính cách. Điều đó phù hợp với tình hình thực tế ở miền Nam Việt Nam :
“Mặt trận lãnh đạo những lực lượng quân sự và chính trị có sức đương đầu thắng lợi trong
suốt mấy năm dài với hàng triệu quân Mỹ, nguỵ và chư hầu. Mặt trận quản lý một vùng giải
phóng rộng lớn bằng ¾ miền Nam, với dân số hơn 2/3 dân số miền Nam ” [24].
3.3. Hoạt động Quân sự
3.3.1. Âm mưu của “chiến tranh cục bộ”
Đầu năm 1965, chiến lược "chiến tranh đặc biệt" đứng trước nguy cơ bị thất bại hoàn
toàn. Để cứu vãn tình thế, Mỹ đã ồ ạt đưa quân viễn chính cùng với vũ khí và trang bị kỹ
thuật hiện đại vào Việt Nam, đẩy mạnh chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Từ giữa năm 1965, Mỹ bắt đầu thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam
và mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc.
"Chiến tranh cục bộ" là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân mới, được tiến hành
bởi quân viễn chinh Mỹ, quân các nước thân Mỹ và quân của chính quyền Sài Gòn, trong đó
quân Mỹ giữ vai trò quan trọng và không ngừng tăng lên về số lượng và trang bị.
Cuối năm 1965, có 200.000 quân Mỹ và quân các nước thân Mỹ đến Việt Nam, trong
đó chưa kể 70.000 quân Mỹ trên các căn cứ quân sự ở châu Á sẵn sàng tham chiến.
Mỹ thực hiện hai gọng kìm chiến lược “tìm diệt” và “bình định”, cố giành lại thế chủ
động trên chiến trường và giành lại nông dân trong những vùng giải phóng.
Mỹ gây nên “sự kiện vịnh Bắc Bộ” [20], dùng máy bay ném bom miền Bắc và Lào
nhằm ngăn chặn chi viện của miền Bắc, đồng thời liên tiếp tổ chức nhiều cuộc hành quân
“tìm diệt” trong các mùa khô 1966, 1967 tạo điều kiện cho lực lượng “bình định nông thôn”
chiếm lại vùng giải phóng đã mất trước đây.
Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc giải phóng, nhân dân miền Nam thực hiện chủ
trương “hai chân, ba mũi”, thực hiện tấn công địch trên cả ba vùng chiến lược, tấn công
địch trên cả ba mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao đánh bại chiến lược "chiến tranh
cục bộ" của đế quốc Mỹ. “Đối đầu với sự hung hăng tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc Mỹ,
phải có sự khôn ngoan tài trí của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam ” [46, tr.42].
3.3.2.Những trận đánh Mỹ mở màn của Quân Giải phóng [68], [77]
Ngày 16-5-1965, táo bạo và bất ngờ, khi quân Mỹ mới đến Việt Nam, Quân Giải
phóng đã tập kích sân bay Biên Hoà, phá huỷ 11 máy bay B57 và 4 máy bay phản lực, làm
hư hại nặng 25 máy bay khác, 21 lính Mỹ bị chết, 64 bị thương. Đây là đòn cảnh cáo đầu
tiên của của quân dân miền Nam đối với tập đoàn hiếu chiến Mỹ.
Cùng thời gian nầy, với chủ trương đánh giặc ngay từ khi chúng vừa kéo đến, Bộ Tư
lệnh Quân khu V chỉ thị cho Tỉnh đội Quảng Nam, nơi quân Mỹ đã triển khai lực lượng ở
Đà Nẵng- Chu Lai “Đánh tiêu diệt một đơn vị Mỹ để hạ uy thế quân Mỹ ngay từ đầu, tìm
hiểu cách đánh của chúng, rút kinh nghiệm đánh Mỹ trong toàn khu”. Trận đầu tiên diễn ra
ngày 26-5-1965 tại Núi Thành thuộc tỉnh Quảng Nam. Lực lượng Quân Giải phóng gồm đại
đội 2 của Tiểu đoàn 70 thuộc tỉnh Quảng Nam cùng với một tổ đặc công nhận nhiệm vụ tấn
công một đại đội lính Mỹ đóng quân trên hai mỏm đồi 49 và 50 của Núi Thành, xung quanh
có hai lớp kẽm gai bảo vệ. Sau hơn một giờ chiến đấu, các lực lượng giải phóng đã hoàn
toàn làm chủ trận địa, diệt đại đội lính thuỷ đánh bộ Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu 140 tên,
thu toàn bộ vũ khí, quân dụng. Lá cờ Quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm .lược do Đảng
bộ Quảng Nam trao cho Đại đội 2 trước giờ xuất kích phấp phới bay trên Núi Thành.
Chiến thắng Núi Thành có ý nghĩa to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
của nhân dân Việt Nam, là trận đầu biểu thị ý chí quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ của nhân
dân Việt Nam. Từ chiến thắng Núi Thành đã xuất hiện khẩu hiệu “Tìm Mỹ mà đánh, gặp
Mỹ là diệt”, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm đánh Mỹ đầu tiên của nhân dân Việt Nam .
Tiếp theo là trận Vạn Tường ngày 8-8-1965. Trong trận nầy, Mỹ dùng một lực lượng
quân đội với hoả lực rất mạnh gồm sư đoàn 3 lính thuỷ đánh bộ Mỹ được tàu chiến, máy
bay, pháo bình, xe tăng yểm trợ tấn công hòng tiêu diệt Trung đoàn 1 chủ lực Quân khu V
đóng tại Vạn Tường, một thôn ven biển thuộc xã Bình Triệu, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng
Ngãi. Cuộc tấn công nầy được tướng Oetmolen, Tổng chỉ huy quân đội Mỹ tại miền Nam
Việt Nam đặt tên là cuộc hành quân Ánh sáng sao (Starlight). Trước khi cho lính thuỷ đánh
bộ tấn công với sự mở đường của hàng tiểu đoàn xe tăng, xe thiết giáp, quân Mỹ dùng tàu
chiến, tàu đổ bộ và máy bay nã pháo và dội bom xuống thôn Vạn Tường và một số khu vực
lân cận. Song, Trung đoàn 1 Quân khu V phối hợp với Đại đội 21 bộ đội địa phương và du
kích ở đây chiến đấu ngoan cường, mưu trí, loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 900 lính Mỹ,
diệt 22 xe tăng, xe bọc thép, bắn rơi 13 máy bay.
Chiến thắng Vạn Tường làm nức lòng nhân dân cả nước và đã là một minh chứng có
sức thuyết phục rằng quân và dân miền Nam hoàn toàn có khả năng đánh bại quân Mỹ trong
điều kiện chúng có ưu thế về binh lực, hoả lực, sức cơ động và chúng chủ động lựa chọn
chiến trường tác chiến hợp với sở trường để xuất quân. Với ý nghĩa đó, chiến thắng Vạn
Tường trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam đã được đánh
giá rất cao “….trận Vạn Tường đã chứng tỏ một cách hùng hồn khả năng của ta đánh bại
được quân Mỹ trong điều
kiện chúng có ưu thế tuyệt đối về vũ khí, hoả lực” [14, tr.131].
3.3.3. Hai mùa khô 1965- 1966 và 1966- 1967 [15]
Bước vào mùa khô 1965-1966, với lực lượng 720.000 quân, trong đó có 220.000
quân viễn chinh, Mỹ mở cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất. Cuộc phản công được bắt
đầu từ tháng 1-1966, kéo dài trong 4 tháng, với tất cả 450 cuộc hành quân lớn nhỏ, trong đó
có 5 cuộc hành quân “tìm diệt” then chốt, nhằm vào hai hướng chiến lược chính chính là
đồng bằng khu V và miền Đông Nam Bộ, với mục tiêu là đánh bại quân chủ lực giải phóng,
thực hiện “bẻ gãy xương sống Việt cộng”, giành lại thế chủ động trên chiến trường, củng cố
quân ngụy tay sai.
Quân dân ta với thế trận chiến tranh nhân dân, với nhiều phương thức tác chiến khác
nhau, đã chặn đánh địch trên mọi hướng, tiến công chúng khắp nơi.
Bên cạnh những trận đánh chặn các cuộc hành quân càn quét của địch, như trận đánh
ở Củ Chi (1 và 2-1966), ở Bắc Bình Định (28-1 đến 7-3-1966)…., Quân giải phóng còn bắn
pháo, tập kích vào các sân bay, như sân bay Chu Lai, Tân Sơn Nhất, Phú Lợi…., vào các
căn cứ Mỹ- ngụy, như căn cứ Nhà Đỏ- Bông Trang (Thủ Dầu Một), tập kich khách sạn
Victoria ngày 4-1-1966, diệt 200 sĩ quan Mỹ.
Trong 4 tháng mùa khô 1965-1966, trên toàn miền quân dân ta lọai khỏi vòng chiến
đấu 104.000 tên, trong đó có 42.500 tên Mỹ, 3.500 quân các nước thân Mỹ, bắn rơi và phá
hủy 1.430 máy bay, phả hủy 600 xe tăng và xe bọc thép, 1.310 xe ô tô, 80 khẩu pháo và 27
tàu.
Trong hội nghị lần thứ 12 của Mặt trận, Uỷ ban Trung ương Mặt trận DTGP đã nêu
rõ: “Những thắng lợi vẻ vang của quân và dân ta trong những tháng vừa qua đánh dấu sự
lớn mạnh không ngừng của các lực lượng kháng chiến. Đồng bào và chiến sĩ miền Nam
liên tục phát huy thế tiến công và quyền chủ động của mình” [59, tr.43].
Tháng 9-1966, Mỹ bắt đầu tiến hành cuộc phản công mùa khô lần thứ hai với quy mô
lớn hơn, tập trung tấn công vào khu vực xung quanh Sài Gòn và chiến khu Dương Minh
Châu.
Ngày 14-9-1966, địch mở cuộc hành quân Attơnborơ với 3.000 lính Mỹ và quân Sài
Gòn , đánh vào căn cứ Dương Minh Châu để tiêu diệt chủ lực, phá căn cứ,
kho tàng của ta. Dựa vào thế trận liên hoàn đã được bố trí sẵn trên những khu vực dự kiến
địch sẽ tấn công, các lực lượng chủ lực, địa phương, dân quân du kích và tự vệ cơ quan liên
tục chặn đánh, tiến công vào đội hình địch, đánh bại các mũi tiến quân, gây cho chúng
nhiều thiệt hại về sinh lực và phưong tiện chiến tranh. Sau 72 ngày đêm, Mỹ và quân Sài
Gòn không thực hiện được mục tiêu cuộc hành quân và ngày càng rơi vào thế bất lợi. Ngày
24-11, Oétmolen quyết định kết thúc cuộc hành quân cấp quân đoàn đầu tiên của Mỹ và
quân Sài Gòn , toàn bộ kế hoạch phản công chiến lược của địch thất bại.
Ngày 8-1-1967, Mỹ mở cuộc hành quân Xêdaphôn, cuộc hành quân lớn cấp quân
đoàn thứ hai đánh vào Củ Chi, Bến Cát, Bến Súc. Ý đồ của Mỹ là tiêu diệt chủ lực của ta,
phá căn cứ du kích, bình định vùng tam giác sắt, nới rộng vành đai an ninh, chia cắt vùng
giải phóng của hai tỉnh Gia Định và Thủ Dầu Một để phòng thủ chắc chắn Bắc Sài Gòn.
Được chuẩn bị tốt về tinh thần, tư tưởng và tổ chức, quân chủ lực phối hợp với lực lượng
vũ trang Sài Gòn - Gia Định, dựa vào hệ thống địa đạo, công sự của các xã chiến đấu, chủ
động chặn đánh địch, liên tục tổ chức các trận tập kích vào đội hình quân Mỹ, Mỹ và quân
Sài Gòn đối phó lúng túng với lực lượng vũ trang tại chổ, lại bị quân chủ lực quân khu Sài
Gòn – Gia Định đánh vào bên sườn phía sau tiêu hao nhiều sinh lực và phương tiện chiến
tranh.
Ngày 26-1 quân Mỹ phải chấm dứt cuộc hành quân sau gần một tháng càn quét đánh
phá nhưng không đạt được mục tiêu dự định ban đầu, Thành uỷ, Bộ tư lệnh Sài Gòn – Gia
Định và Quân giải phóng vẫn tiếp tục đứng vững tại vùng “đất thép”Củ Chi ngay sát Sài
Gòn – Gia Định.
Đầu tháng 2-1967, quân Mỹ chuẩn bị cuộc hành quân lớn thứ ba: Cuộc hành quân
Gianxơnxiti, cuộc hành quân lớn nhất của Mỹ ở miền Nam đánh vào căn cứ Dương Minh
Châu.
Ngay sau cuộc hành quân Xedaphôn, Trung ương cục và Quân uỷ Bộ tư lệnh Miền đã
nhận định Mỹ sẽ dốc toàn lực mở cuộc hành quân lớn hơn, đánh sâu vào căn cứ và cố giành
thắng lợi quyết định. Trung ương cục và Bộ tư lệnh Miền chỉ đạo các đơn vị khẩn trương
chuẩn bị đánh địch. Căn cứ Dương Minh Châu được tổ chức thành 13 ”huyện”, 6 “huyện”
do các cơ quan của Trung ương cục đảm nhiệm và 7 ”huyện” do các đơn vị của Bộ tư lệnh
Miền phục trách. Mỗi “huyện” chia thành nhiều “xã”, ”ấp”. Các xã , ấp liên kết với nhau
thành các khu vực trận địa có thể liên kết với nhau, chi viện cho nhau. Cán bộ, nhân viên
các cơ quan dân-chính-Đảng có khoảng 10.000 người được tổ chức thành lực lượng vũ
trang tại chỗ gồm ba thứ quân và tăng cường trang bị vũ khí.
Ngày 22-2-1967, Mỹ huy động 45.000 quân, 1.200 xe tăng xe bọc thép, hơn 250 khẩu
pháo, 17 phi đoàn máy bay mở cuộc hành quân Gianxơnxiti đánh vào căn cứ Dương Minh
Châu. Đây là một căn cứ rộng khoảng 1.500 km2 thuộc tỉnh Tây Ninh, được hình thành từ
thời kháng chiến chống Pháp, tiếp tục được xây dựng trong kháng chiến chống Mỹ. Tại đây
tập trung nhiều cơ quan trọng yếu như Trung ương Cục, Cơ quan Trung ương Mặt trận Dân
tộc giải phóng miền Nam Việt Nam , Quân uỷ Miền, Đài phát thanh Giải phóng, trường
học, bệnh viện, kho tàng… nhưng chỉ có 800 dân.
Dựa vào thế trận đã được xây dựng trước, lực lượng vũ trang trong căn cứ bám trận
địa, chủ động tiến công đánh địch rộng khắp bằng nhiều hình thức gây cho quân Mỹ và
quân Sài Gòn bị tổn thất lớn ngay từ ngày đầu. Lực lượng chủ lực quân giải phóng miền
Nam cơ động đánh vào những chổ sơ hở của địch làm cho chúng thiệt hại nhiều về sinh lực
và phương tiện chiến tranh. Trước tình hình đó, Oetmolen phải tuyên bố kết thúc cuộc hành
quân vào ngày 15-5-1967.
Trong mùa khô 1966-1967, trên toàn miền Nam quân ta đã loại khỏi vòng chiến
151.000 quân, trong đó có 68.200 quân Mỹ, phá hủy 1.231 máy bay, phá hủy 1.627 xe tăng
và xe bọc thép, 2.107 ô tô, 308 khẩu pháo và 42 tàu [17].
3.3.4.Tổng công kích- tổng khởi nghĩa mùa xuân 1968
Tháng 5-1967, ngay sau khi cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của Mỹ kết thúc,
Bộ chính trị Trung ương Đảng đã họp dưới sự chủ toạ của Hồ Chủ tịch đánh giá tình hình,
xem xét dự thảo kế hoạch chiến lược Đông –Xuân 1967-1968. Tiếp đó, tháng 6-1967, Hội
nghị Bộ Chính trị lại được triệu tập và đã bàn bạc rất kỹ dự thảo chiến lược nầy. Hội nghị
nhận định: quân dân hai miền đã giành được thắng lợi to lớn và toàn diện. Vì vậy Hội nghị
đã chủ trương :”trên cơ sở phương châm đánh lâu dài, đẩy mạnh nổ lực chủ quan đến mức
cao nhất để giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn” [40, tr.84].
Ngày 28-12-1967, Nghị quyết Bộ Chính trị quyết định: ”Tổng công kích và tổng khởi
nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước” [40, tr.93].
Đêm 28 rạng ngày 29-1-1968 (tức đêm 29 tháng Chạp, năm Đinh Mùi 1967) [39,
tr.27], trước đêm Giao thừa một ngày, quân và dân các tỉnh ven biển miền Trung và Tây
Nguyên đồng loạt nổ súng tiến công vào các thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ và các căn
cứ quân sự của Mỹ và quân đội Sài Gòn mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn
miền Nam.
Tỉnh nổ súng sớm nhất là Khánh Hoà, từ 23 giờ đêm 28-1-1968, pháo binh Quân Giải
phóng ở Khánh Hoà đã bắn phá trung tâm huấn luyện hải quân Sài Gòn ở thành phố Nha
Trang.
Đến 0 giờ 30 phút ngày 29-1-1968, Quân Giải phóng đồng loạt tấn công thị trấn Tân
Cảnh, thị xã Kon Tum (tỉnh Kon Tum), thị xã Buôn Mê Thuột (tỉnh Đắc Lắc), thị xã Plâycu
(tỉnh Gia Lai), thành phố Đà Nẵng, thị xã Hội An (tỉnh Quảng Đà- Quảng Tín), thành phố
Quy Nhơn (tỉnh Bình Định)…
Quân dân Sài Gòn – Gia Định, Quảng Trị, Huế, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Phan Thiết,
Biên Hoà, Vĩnh Long, Cần Thơ, Sóc Trăng, Kiến Phong, Kiến Tường, Gò Công, Bến Tre,
Kiên Giang, Vĩnh Bình, Châu Đốc, Tuyên Đức mở nhiều cuộc tấn công qưyết liệt vào quân
địch.
Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng là trọng điểm tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân, trong đó,
Sài Gòn - Gia Định là trọng điểm lớn nhất. Đây chính là trung tâm đầu não chỉ đạo toàn bộ
bộ máy điều hành chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn . Vì vậy, Mỹ và chính quyền
Sài Gòn đã bố trí một hệ thống phòng thủ dày đặc ,nhiều tầng gồm cả quân Mỹ và quân đội
Sài Gòn tham gia bảo vệ.
Lúc 2 giờ sáng ngày mồng 1 Tết Mậu Thân, tức ngày 30-1-1968, cuộc tấn công và
nổi dậy ở Sài Gòn – Gia Định bắt đầu. Quân Giải phóng đã nhanh chóng đánh vào Bộ Tổng
tham mưu quân đội Sài Gòn, sân bay Tân Sơn Nhất và Đài phát thanh Sài Gòn, Toà đại sứ
Mỹ. Các trận chiến đấu đã diễn ra ác liệt, nhiều chiến sĩ cách mạng đã hy sinh nhưng không
chiếm được Bộ Tổng tham mưu và sân bay. Tại Đài phát thanh Sài Gòn, Đội biệt động số 1
sau 3 phút tấn công đã loại khỏi vòng chiến đấu trung đội cảnh sát dã chiến bảo vệ ở đây và
chiếm được đài, song, do nhân viên kỹ thuật và bộ phận chính trị phụ trách phát thanh của
cách mạng không vào kịp nên không thực hiện được ý đồ sử dụng Đài phát thanh Sài Gòn
làm công cụ tuyên truyền. Nhận ra tầm quan trọng của Đài phát thanh, quân đội Sài Gòn đã
dùng một lực lượng quân sự rất lớn tấn công chiếm lại. Sau 3 ngày chiến đấu quyết liệt mà
không được sự chi viện nào, các lực lượng tấn công hy sinh nhiều, quân ta rút lui sau khi
phá hỏng một góc Đài phát thanh.
Lúc 2 giờ 30 phút ngày 30-1-1968, 17 chiến sĩ thuộc Đội biệt động số 11 đã vào được
sứ quán Mỹ và chiếm gấn hết tầng 1, phát triển lên tầng 2 và tầng 3 sau khi diệt quân cảnh
Mỹ gác ở cổng chính và dùng thuốc nổ phá tường bao của sứ quán. Cuộc chiến đấu diễn ra
quyết liệt, các chiến sĩ biệt động cách mạng lùng bắt đại sứ Mỹ Bâncơ nhưng viên đại sứ
nầy đã kịp thời trốn thoát. Đến 9 giờ sáng ngày 30-1-1968, Mỹ đổ một lực lượng rất đông
thuộc sư đoàn dù 101 Mỹ xuống sân thượng Toà đại sứ. Trận chiến đấu diễn ra ác liệt và
không cân sức. Lực lượng tăng viện của Quân Giải phóng không đến được theo hợp đồng.
17 chiến sĩ chiến đấu đến viên đạn cuối cùng cho đến khi 16 người hy sinh và 1 người bị
địch bắt. Trận đánh chiến Toà đại sứ Mỹ đã gây tiếng vang lớn trên thế giới và làm chấn
động nước Mỹ.
Cuộc tấn công còn diễn ra tại Dinh Độc Lập, Bộ Tư lệnh Hải quân quân đội Sài Gòn
… Ngay trong đêm 30-1-1968, phối hợp với các đội đặc công và biệt động thành phố, các
đội du kích, các nhóm vũ trang và các tổ chức quần chúng cách mạng đã chiếm lĩnh nhiều
xóm lao động. Các tiểu đoàn mũi nhọn và địa phưong tiến công và làm chủ trại thiết giáp
Phù Đổng, trại pháo binh Cổ Loa, phá huỷ nhiều pháo và xe cơ giới, nhiểu xưởng quân cụ,
chiếm trung tâm huấn luyện Quang Trung, làm chủ nhiều ngày khu Bình Hoà, ngã ba Cây
Thị, Trường nữ quân nhân Sài Gòn … Các lực lượng vũ trang cách mạng cũng làm chủ
khu vực giáp ranh giữa các quận 5, 6, 8, 10, 11, khu Minh Mạng, Ấn Quang, khu chợ
Thiếc, khu cầu Chữ Y, cầu Muối, Bàu Sen, Hàng Xanh, Thị Nghè, Trương Minh
Giảng…Nhân dân còn tổ chức nổi dậy, giành quyền làm chủ ở một số nơi thuộc quận 7,8,
ngã ba Hàng Xanh, ngã năm Bình Hoà, chợ Trần Quốc Toản, khu vực trường đua Phú Thọ,
Gò Vấp, Cầu Tre, Phú Lâm…[16], [35], [37], [68].
Tại Huế, cuộc tấn công của các lực lượng vũ trang cách mạng nổ ra vào lúc 2 giờ 23
phút ngày 31-1-1968. Pháo binh Quân Giải phóng đã bắn đồng loạt vào các mục tiêu của
địch ở khu Tam Giác, khu Phan Sào Nam, Phú Bài, Động Toà, Đông Ba mở đầu cho cuộc
tiến công đánh chiếm thành phố Huế. Sau đó. Quân Giải phóng chia làm hai cánh, đồng
loạt đánh vào 39 khu vực và mục tiêu trong và ngoài thành phố.
Sau những trận đánh diễn ra ác liệt trên các đướng phố và khu dân cư, các căn cứ
quân sự… hầu hết các cơ quan đầu não của chính quyền và quân đội Sài Gòn ở Huế đều bị
Quân Giải phóng đánh chiếm. Sau một ngày chiến đấu, phần lớn thành phố Huế được giải
phóng, trong đó có cả khu Đại Nội. Cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tung
bay trên đỉnh Phú Văn Lâu. Nhân dân đã tích cực phối hợp với Quân Giải phóng xây dựng
các hệ thống phòng ngự chống địch phản công…
Quân Giải phóng và nhân dân Huế đã làm chủ thành phố 25 ngày đêm, đã tổ chức
hàng trăm trận đánh địch phản kích. Đến ngày 22-2-1968, trước sự phản kích điên cuồng
của địch và để bao tồn lực lượng, tránh bị bao vây, quân ta quyết định rút khỏi thành phố.
Quân và dân miền Nam mở cuộc tấn công lần thứ hai bắt đầu từ đêm 4 rạng ngày 5-5-
1968. Ý đồ chiến lược trong đợt 2 là vây hãm Khe Sanh, kìm giữ và diệt địch ở Đường 9,
Trị Thiên, Tây Nguyên. Trọng điểm tổng tiến công và nổi dậy là Sài Gòn – Gia Định. Điểm
tiến công quan trọng là Huế và Đà Nẵng. Thời gian hành động toàn miền Nam là từ tháng 4
đến tháng 6-1968. Quân và dân trên khắp các chiến trường đã đồng loạt bắn phá bằng pháo
binh, súng cối và tiến công bằng bộ binh vào 31 thành phố, thị xã, 58 quận lỵ, thị trấn, đánh
vào 10 bộ tư lệnh quân đoàn, sư đoàn, 30 sân bay, 20 căn cứ xuất phát hành quân và trung
tâm huấn luyện cùng các kho tàng quan trọng của Mỹ và quân đội Sài Gòn .
Tại Sài Gòn – Gia Định, pháo binh Quân Giải phóng tập kích vào sân bay Tân Sơn
Nhất, Dinh Độc lập, Sứ quán Mỹ, Bộ tư lệnh Hải quân, Tổng nha cảnh sát, Biệt khu Thủ
đô…
Các đội đặc công Quân Giải phóng và biệt động thành phố Sài Gòn đánh chiếm Đài
Truyền hình, cầu Phan Thanh Giản. Các đơn vị bộ binh Giải phóng cùng các lực lượng vũ
trang khác đánh sâu vào trung tâm thành phố, chiếm giữ ngã tư Bảy Hiền, trường đua Phú
Thọ, quận lỵ Gò Vấp, cầu Chữ Y, bót cảnh sát quận 8, cầu Bình Lợi, cầu Bình Hoà…
Quân Mỹ và quân đội Sài Gòn có xe tăng và máy bay yểm trợ đã tổ chức phản kích
rất quyết liệt. Các trận chiến đấu ác liệt diễn ra tại trường đua Phú Thọ, cầu Chữ Y, cầu Tre,
bến Phạm Thế Hiền, đường Minh Phụng. Hai bên đều chịu nhiều tổn thất. Máu của Quân
Giải phóng thấm đỏ trên đường phố Sài Gòn .
Ở ngoại vi Sài Gòn – Gia Định, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và du kích các
quận, huyện tổ chức phối hợp chiến đấu, tấn công các kho tàng, sân bay, cơ sở đóng quân
và cơ sở hậu cần của địch.
Sau những ngày đêm chiến đấu ác liệt, ngày 12-5-1968, các đơn vị Quân Giải phóng
rút khỏi Sài Gòn [16], [68].
Phối hợp chặt chẽ với quân dân Sài Gòn – Gia Định, quân và dân miền Đông Nam Bộ
và miền Tây Nam Bộ, khu V, Tây Nguyên đều tiến công vào các thành phố, thị xã như Đà
Nẵng, Hội An, Quảng Ngãi, Đà Lạt, Phan Thiết…trong các ngày 4 và 5-5-1968. Quân và
dân Quảng Nam đánh bại cuộc hành quân giải toả của địch ở ven sông Thu Bồn từ ngày 5
đến ngày 24-5-1968.
Trên chiến trường Đường 9-Trị Thiên, sau khi rút khỏi thành phố Huế, Quân Giải
phóng tiếp tục vây hãm thành phố Huế, cụm quân Mỹ ở Khe Sanh và chặn các cuộc hành
quân của quân Mỹ và quân đội Sài Gòn.
Bị vây hãm ở Khe sanh từ tháng 4-1968, Mỹ và quân đội Sài Gòn diều Sư đoàn kỵ
binh không vận số 1, 3 tiểu đoàn dù và 1 tiểu đoàn biệt động quân Sài Gòn mở các cuộc
hành quân Ngựa bay và Lam Sơn 207 để giải toả Khe Sanh. Các trận đánh diễn ra ác liệt,
Quân Giải phóng bị thương vong nhiều, một số đơn vị phải rút ra để củng cố lực lượng.
Sang tháng 5-1968, Quân Giải phóng được tăng viện thêm Sư đoàn 308 và Trung đoàn 246,
mở nhiều cuộc tấn công các vị trí quanh khu vực Tà Cơn, căn cứ Tà Cơn của quân Mỹ bị cô
lập và rơi vào tình trạng có thể bị tiêu diệt. Ngày 26-6-1968, quân Mỹ được lệnh rút khỏi
Khe Sanh, Quân Giải phóng tiến vào Tà Cơn.
Chiến dịch Đường 9- Khe Sanh thực sự kết thúc vào giữa tháng 7-1968, quân Mỹ và
quân đội Sài Gòn bị thiệt hại nặng nề: 11.900 binh lính và sĩ quan bị chết và bị bắt sống, 78
xe quân sự bị bắn cháy, 197 máy bay bị bắn rơi hoặc phá hỏng.
Từ 17-8-1968, đợt 3 Tổng công kích- tổng khởi nghĩa bắt đầu, mục tiêu của đợt 3 vẫn
được xác định là: Chiến trường Sài Gòn – Gia Định và miền Đông Nam Bộ, Khu V là
hướng phối hợp, trọng điểm là Quảng Đà.
Tại Sài Gòn, Quân Giải phóng tiến công Nhà Quốc hội và Bộ Tổng tham mưu quân
đội Sài Gòn. Đồng thời, lực lượng vũ trang ở các nơi khác thuộc miền Đông Nam Bộ tiến
công vào một loạt căn cứ quân Mỹ và quân đội Sài Gòn ở Trãng Lớn, Cà Tum, Đài truyền
hình của Mỹ ở núi Bà Đen, căn cứ Mỹ ở Chà Là, Bến Củi, vị trí đóng quân của Sư đoàn 1
bộ binh Mỹ ở Lộc Ninh…
Trong tháng 9-1968, trên hướng Tây Ninh, Quân Giải phóng tiếp tục tấn công các vị
trí của Sư đoàn bộ binh số 1 và 25 của Mỹ vừa từ Sài Gòn cơ động đến. Lực lượng vũ trang
khu VI tiến công các chi khu quân sự Hoà Đa, Di Linh, Phan Thiết, Phan Rang, pháo kích
sân bay Thành Sơn, Cẩm Ly. Ở Khu V, Quân Giải phóng tiến công vào thị xã, quận lỵ
Hội An, Tam Kỳ, Hoà Vang, Vĩnh Điện. Pháo binh Quân Giải phóng tập kích mãnh liệt
vào các căn cứ ở Chu Lai, Núi Ngang, Tuần Dưỡng, Phước Lâm, đồi Ông Sầm. Ở Đà
Nẵng, Quân Giải phóng tấn công Sở chỉ huy đặc khu, đài phát thanh, sân bay Đà Nẵng…
Trên chiến trường Tây Nguyên, Quân Giải phóng tấn công quân Mỹ và quân đội Sài Gòn ở
Nam Đắc Lắc, Tây Bắc Kon Tum. Ở Trị- Thiên, Quân Giải phóng đánh trả các đợt hành
quân của quân Mỹ và quân đội Sài Gòn ở vùng giáp ranh, đồng thời tấn công địch ở Đường
số 9…Ngày 30-9-1968, đợt 3 cuộc Tổng công kích- tổng khởi nghĩa kết thúc.
Qua 3 đợt tổng công kích- tổng khởi nghĩa, mặc dù Quân giải phóng bị tổn thất khá
lớn, nhưng quân và dân ta đã “xoay chuyển được cục diện tình hình” mà trước đó ta chưa
bao giờ có được. Cuộc tổng công kích- tổng khởi nghĩa đã tạo ra bước ngoặc chiến lược
trên chiến trường miền Nam Việt Nam, làm chấn động nước Mỹ, buộc Mỹ phải ngồi vào
Như vậy, từ 1965 đến 1968, hoạt động của Mặt trận DTGPMNVN trên cả ba lĩnh
bàn hội nghị và xuống thang chiến tranh [35].
vực chính trị, quân sự và ngoại giao đều có những bước phát triển vượt bậc.
Về chính trị, Mặt trận đã xây dựng được hệ thống Uỷ ban mặt trận từ trung ương đến
địa phương, chuẩn bị mọi điều kiện để xây dựng hệ thống chính quyền cách mạng miền
Nam, bước đầu xây dựng hệ thống chính quyền cách mạng ở các địa phương [35], [37].
Về quân sự, từ năm 1965 đến 1968, Quân giải phóng đã diệt 30.268 quân Mỹ. Quân
nguỵ chết, bị bắt và bị thương 893.500 tên, phá huỷ 12.667 máy bay, 12.626 xe tăng, 1.463
tàu và 1.850 đại bác [2]. Đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ với một
đội quân khổng lồ lên đến hơn nửa triệu quân, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn hội nghị và tìm
cách rút quân về nước.
Về ngoại giao, thúc đẩy phong trào chống Mỹ xâm lược Việt Nam phát triển mạnh
trên thế giới, kể cả nhân dân Mỹ. Một thắng lợi quan trọng của mặt trận ngoại giao là Mỹ
buộc phải ngồi vào bàn hội nghị, nói chuyện với Mặt trận DTGPMNVN để giải quyết vấn
đề chiến tranh Việt Nam.
Năm 1968, là năm đánh dấu "chiến tranh cục bộ" của Mỹ thất bại hoàn toàn, Mỹ buộc
phải ngồi vào bàn hội nghị, xuống thang chiến tranh.
KẾT LUẬN
Muốn đánh đổ kẻ thù, muốn thực hiện những nguyện vọng cơ bản của đông đảo nhân
dân thì con đường duy nhất phải là con đường đấu tranh cách mạng. Vũ khí cách mạng của
cuộc đấu tranh hoàn toàn giải phóng dân tộc là mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận Dân
tộc giải phóng miền Nam kế tục và hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc của toàn dân
Việt Nam đã tiến hành nhiều năm trước đó. Mặt trận kế thừa những kinh nghiệm của quá
trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam và vận dụng một cách sáng tạo vào
cuộc cách mạng giải phóng miền Nam. Mặt trận đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc,
vạch trần thực chất của chính sách thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ, cổ vũ và tập hợp
mọi lực lượng dân tộc, kiên quyết đập tan ách thống trị của đế quốc Mỹ cướp nước và bọn
tay sai bán nước [41].
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời theo chủ trương thành lập
Mặt trận dân tộc thống nhất của Đảng Lao động Việt Nam. Sự ra đời của Mặt trận thể hiện
bãn lĩnh và khôn khéo của Đảng Lao động Việt Nam. Ngọn cờ Mặt trận “độc lập, dân chủ ,
hòa bình, trung lập tiến tới thống nhất đất nước” đã thu hút được đông đảo các tầng lớp
nhân dân có tinh thần dân tộc, có tinh thần chống Mỹ, cả những người cộng sản và những
người “không thích cộng sản” [5] đều gia nhập Mặt trận. Việc hình thành Mặt trận, giương
cao ngọn cờ dân tộc thể hiện bản lĩnh chính trị của Đảng lãnh đạo trong giai đọan gian nan
nhất của đất nước: kiên định đường lối chính trị, đồng thời rất mềm dẻo trong sách lược. Vì
thế, đã đánh thắng được kẻ thù mạnh hơn mình gấp bội về quân sự.
Mặt trận là người tổ chức và lãnh đạo của nhân dân miền Nam chống đế quốc Mỹ và
tay sai. Từ 1960 đến 1968, Mặt trận đã có nhiều đóng góp cho cách mạng miền Nam:
1. Về chính trị, thực hiện sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, Mặt trận Dân tộc
giải phóng đã từng bước xây dựng chính quyền cách mạng từ không đến có, hệ thống ủy
ban Mặt trận từ Trung ương đến khu, tỉnh, huyện, xã. Và đến khi đầy đủ điều kiện thì
thành lập chính quyền cách mạng. Và từ sau đại hội lần thứ nhất của Mặt trận “Ủy ban
Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng thực sự là một chính phủ ở miền Nam, song song
tồn tại với chính quyền Sài Gòn” [18].
Các đoàn thể trong Mặt trận tổ chức được hàng triệu hội viên, đông nhất là Hội Nông
dân giải phóng, Hội Thanh niên giải phóng, Hội Phụ nữ giải phóng… Mặt trận đoàn kết
rộng rãi các tầng lớp, hơn hai mươi tổ chức chính trị và tôn giáo. Từ đầu năm 1968, Liên
minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình ra đời và tuyên bố đoàn kết chặt chẽ với
Mặt trận Dân tộc giải phóng.
Trên thực tế thì từ 1960-1968, Mặt trận Dân tộc giải phóng chính là chính quyền cách
mạng, bởi vì các cấp của nó từ trung ương đến xã quản lý một vùng giải phóng rộng lớn, có
nhiều triệu dân, nhân dân theo lệnh của Mặt trận, làng xã nào cũng có uỷ ban tự quản, uỷ
ban Mặt trận để giải qưyết mọi công việc của nhà nước như chia ruộng đất, xử kiện tụng,
thu góp tài chính, động viên thanh niên tham gia Giải phóng quân hay đi làm dân công
phục vụ chiến trường, phục vụ công tác xã hội. Mặt trận “có dân, có đất và có lực lượng vũ
trang. Mặt trận có trách nhiệm phải giữ đất bảo vệ dân, Mặt trận làm chức năng chính
quyền. Trong những vùng giải phóng, Mặt trận là một uy tín chính trị có tổ chức, là chính
phủ có hiệu lực, là một tổ chức chính quyền quản lý một phần lớn đất đai ở miền Nam được
giải phóng” [45, tr.55].
Mặt trận còn là người xây dựng vùng giải phóng, quản lý, tổ chức sản xuất và các
họat động văn hóa, y tế, giáo dục trong vùng giải phóng. Đến năm 1968, vùng giải phóng
rộng bốn phần năm đất đai, gồm hai phần ba số dân miền Nam Việt Nam. Mặt trận đã cấp
1.600.000 ha ruộng vườn cho nông dân. Mặc dù Mỹ nguỵ đánh phá dữ dội và liên tục
nhưng diện tích và sản lượng của ruộng đất vùng giải phóng tăng liên tục, phong trào thi
đua sản xuất đóng góp cho kháng chiến được đẩy mạnh.
Mặt trận Dân tộc giải phóng đã tổ chức và lãnh đạo các phong trào đấu tranh chính trị
ở miền Nam. Từ khi thành lập đến năm 1968 “đã huy động được 140 triệu lượt người tham
gia, 467.000 binh sĩ nguỵ đào ngũ, rã ngũ do binh vận của nhân dân” [26]. Các hình thức
đấu tranh chính trị vô cùng phong phú, phong trào đấu tranh của công nhân, tiểu thương,
sinh viên học sinh nổ ra liên tục. Nông dân kết hợp với du kích ngăn chận các cuộc hành
quân lấn chiếm của địch. Việc kết hợp “hai chân, ba mũi”, đấu tranh trên cả ba vùng chiến
lược là nét sáng tạo của cách mạng miền Nam trong những năm chống Mỹ.
Ấp chiến lược là “xương sống” của các chiến lược chiến tranh của Mỹ, Mỹ dự định
xây dựng 16.000 ấp chiến lược trên toàn miền Nam, nhưng đến tháng 1-1968 Mỹ- nguỵ chỉ
còn độ 2.300 ấp chiến lược, chủ yếu là ở quanh các căn cứ quân sự và dọc trục lộ giao
thông, trong tết Mậu Thân, một phần trong số 2.300 ấp chiến lược lại bị phá.
2. Về ngoại giao, có lẽ đây là họat động tích cực nhất của Mặt trận. “Mặt trận đã triễn
khai những họat động ngoại giao nhân dân rộng khắp, rất có hiệu quả, góp phần thúc đẩy sự
hình thành phong trào các nước đoàn kết với Việt Nam” [4]. Hoạt động ngoại giao đi từ
ngoại giao nhân dân đến ngọai giao nhà nước, xây dựng ba tầng mặt trận, huy động nhân
dân miền Nam tham gia chống Mỹ, huy động nhân dân Đông Dương chống Mỹ và cả một
thế giới phản đối việc đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam. Cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa hình thành nền ngọai giao “tuy hai mà một, tuy một mà hai” là “một nét đặc thù, một
ưu thế mà không nước nào trên thế giới có được trong cùng hoàn cảnh đất nước bị chia cắt”
[5, tr.282].
3. Cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam chống chế độ Mỹ- Diệm đến năm
1959, làm sản sinh ra lực lượng vũ trang tự vệ của nhân dân, các lực lượng nầy phát triển
nhanh chóng trong năm 1960 và đầu năm 1961, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ra
đời. Ba thứ quân của lực lượng vũ trang nhân dân là dân quân du kích, bộ đội địa phương,
bộ đội chủ lực cùng tiến hành cuộc chiến trên cả 3 vùng chiến lược: đô thị, nông thôn và
rừng núi.
Tính đến tháng 10-1968, các cuộc chiến đấu quân sự ở miền Nam dưới sự lãnh đạo
của Mặt trận Dân tộc giải phóng đã :
- Giết, làm bị thương và bắt sống hơn 2 triệu lính Mỹ, nguỵ và chư hầu.
- Phá huỷ, bắn rơi 13.000 máy bay các loại.
- Phá huỷ, bắn hỏng 26.000 xe quân sự các loại.
- Bắn chìm, bắn hỏng 1.100 tàu các cỡ [26].
Lực lượng vũ trang của Mặt trận đông hàng chục vạn, dày dạn chiến đấu, sát cánh với
nhân dân như cá với nước.
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam nhận được sự chi viện rất lớn của
miền Bắc. Tuy nhiên, ta có thể nói Mặt trận đã cùng với cả nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Lao động Việt Nam đã hoàn thành nhiệm vụ cách mạng Việt Nam, làm theo lời dạy
của Bác Hồ: “Thống nhất nước nhà là con đường sống của nhân dân ta” [43].
4. Qua hoạt động về quân sự, chính trị và ngoại giao của Mặt trận Dân tộc giải phóng
từ 1960 đến 1968, ta thấy vai trò của Mặt trận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vô cùng to
lớn. “ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam : ngọn cờ đoàn kết, ngọn cờ cách
mạng, ngọn cờ chiến thắng của miền Nam anh hùng ” [6, tr.174]. Mặt trận vừa hoàn thành
nhiệm vụ xây dựng hệ thống chính quyền cách mạng, là “tiền thân của chính phủ Cách
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ”, vừa hoàn thành nhiệm vụ của mặt trận là
huy động toàn dân tham gia chống Mỹ, tạo điều kiện cho cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
thắng lợi.
Đánh giá công lao của Mặt trận trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, Luật sư Nguyễn
Hữu Thọ đã nêu:“Công lao của Mặt trận Dân tộc giải phóng sẽ đời đời được ghi nhớ” [63]
vì dưới ngọn cờ chính nghĩa của Mặt trận nhân dân miền Nam đã từng bước làm thất bại
các chiến lược chiến tranh của Mỹ, bảo vệ được độc lập và thống nhất đất nước.
Cố Tổng Bí thư Lê Duẫn, người tham gia chỉ đạo cách mạng miền Nam trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã đánh giá về Mặt trận : “Trong sự nghiệp chống Mỹ cứu
nước, MTTQVN, MTDTGPMNVN, LMCLLDTDC & HBVN đã làm tròn nhiệm vụ lịch
sử vẻ vang là tăng cường khối đoàn kết toàn dân ở cả hai miền Nam – Bắc dưới ngọn cờ
độc lập dân tộc và CNXH, đánh thắng đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, hoàn thành cách mạng
dân tộc, dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến lên CNXH” [
44, tr. 7-10].
Nguyên Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, nguyên Bí thư Trung ương Cục, người trực
tiếp lãnh đạo cách mạng miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cũng đã có những
đánh giá về vai trò của Mặt trận : “Năm tháng đã đi qua, song những gì nhân dân miền
Nam ”đi trước về sau” được nhân dân cả nước kề vai sát cánh, những cống hiến vì sự
nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, dưới ngọn cờ Mặt trận Giải phóng ấy
mãi mãi có chỗ đứng trang trọng trong lịch sử” [18].
Hoạt động của Mặt trận trên 3 lĩnh vực quân sự, chính trị và ngoại giao đạt nhiều
thắng lợi để lại cho chúng ta nhiều bài học.
Trong quá trình đấu tranh lâu dài, “đoàn kết chiến đấu đã trở thành một truyền thống
rất quý báu và rất vững chắc của dân tộc ta” [9]. Khi bọn đế quốc đến xâm lược nước ta,
chúng giày xéo non sông ta, áp bức dân tộc ta, nhân dân ta đã rất thấm thía ý nghĩa câu nói
“đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”, cho nên đã kề vai sát cánh, triệu người như một, chiến
đấu vì độc lập, tự do của mình, “nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô
lệ”[42].
Phát huy truyền thống 4000 năm lịch sử, “tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh soi
sáng chiến lược đại đoàn kết toàn dân của Đảng trong mọi thời kỳ cách mạng, trong đó thời
kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là một điểm sáng chói lọi, đã đưa cuộc kháng chiến
đến thắng lợi và để lại nhiều kinh nghiệm quý báu cho ngày nay” [67, tr.214], chỉ có đoàn
kết toàn dân ta mới xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân, tiến công địch bằng “hai
chân, ba mũi”, tấn công trên cả “ba vùng chiến lược”.
Cũng xuất phát từ tư tưởng đại đoàn kết toàn dân của Đảng, Mặt trận đã xác định
được rõ ai bạn, ai thù, từ đó xác định được nội dung chiến lược và sách lược tập hợp lực
lượng rộng rãi nhất để cô lập kẻ thù. Xác định được nội dung chiến lược và sách lược là
điều kiện cần thiết cho cuộc cách mạng thắng lợi.
Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng với đường lối đúng đắn và không ngừng hoàn
thiện là yếu tố đưa cuộc cách mạng đến thành công. “Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ có thể
tập hợp đông đảo quần chúng và đóng vai trò hạt nhân của mặt trận ấy khi bản thân Đảng
“đã trở thành dân tộc”” [72, tr.442]. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng với
dân gắn bó với nhau bằng quan hệ máu thịt, Đảng tin dân, dân tin Đảng, quân với dân một
ý chí, cả nước một lòng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng đã làm nên một chiến thắng vĩ
đại trong lịch sử.
Ngày nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tiêu biểu cho khối đại đoàn kết dân tộc trong
công cuộc Đổi mới. Trước hết, vận dụng những kinh nghiệm của cuộc kháng chiến, Mặt
trận thu hút vào tổ chức của mình tất cả những người tán thành mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh”. Tích cực tham gia giải quyết những tiêu
cực của nền kinh tế thị trường, đóng vai trò phản biện trong hệ thống chính trị của Đảng.
Cần có những biện pháp thích hợp để phát huy những tiềm năng sẵn có của dân tộc để hoàn
thành nhiệm vụ công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, đưa Việt Nam: “sánh vai cùng với
các cường quốc năm châu”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Pierre Asselin (2005), Nền hoà bình mong manh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến tranh cách mạng
Việt Nam 1945-1975 Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội .
3. Ban chỉ đạo và Ban biên tập truyền thống Tây Nam Bộ (2000), Tây Nam Bộ 30 năm
kháng chiến (1945 - 1975).
4. Nguyễn Đình Bin chủ biên (2002), Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội .
5. Nguyễn Thị Bình chủ biên (2004 ), Mặt trận Dân tộc Giải phóng, Chính phủ Cách
mạng lâm thời tại Hội nghị Paris về Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Công Bình ( 1963 ), Mặt trận Dân tộc thống nhất trong cách mạng Việt Nam,
Nhà xuất bản Khoa học, Hà Nội.
7. Nguyễn Công Bình -Cao Văn Lượng- Bùi Hữu Khánh (1964), Ngọn cờ chiến thắng của
miền Nam anh hùng, Nxb Khoa học, Hà Nội .
8. Phạm Thanh Biền- Nguyễn Hữu Nghĩa (2004), Cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây
Quảng Ngãi, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
9. Trường Chinh ( 1975), Về công tác mặt trận hiện nay, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
10. Thomas J Mc Cormick (2004), Nước Mỹ nửa thế kỷ, Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ
trong và sau Chiến tranh lạnh, Nxb Chính trị Quốcgia , Hà Nội .
11. PGS.TS.Trần Đức Cường chủ biên (2006), Biên niên lịch sử chính phủ Việt Nam 1945-
2005 , tập 5, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
12. Lê Duẫn (1970 ), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do vì chủ nghĩa xã hội,
tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
13. Lê Duẫn ( 1993), Về chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội .
14. Lê Duẫn (1985), Thư vào Nam, Nhà xuất bản Sự Thật , Hà Nội .
15. Nguyễn Anh Dũng ( 1990), Về chiến lược quân sự toàn cầu của đế quốc Mỹ, Nxb Sự
Thật, Hà Nội.
16. Văn Tiến Dũng (2005), Về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nhà xuất bản Quân
đội nhân dân, Hà Nội .
17. TS.Phạm Huy Dương-ThS.Phạm Bá Toàn (2005), Ba mươi năm chiến tranh giải
phóng -Những trận đánh đi vào lịch sử, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội .
18. Trần Bạch Đằng chủ biên (1993 ), Chung một bóng cờ (Về MTDTGPMNVN), Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Trần Bạch Đằng chủ biên (1995), Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, cả nước tôn vinh Anh,
Nxb Văn học, Hà Nội.
20. Daniel Ellsberg (2006), Những bí mật về chiến tranh Việt Nam, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.
21. Trần Văn Giàu (1964), Miền Nam giữ vững thành đồng, tập 1, Nxb Khoa Học xã hội,
Hà Nội .
22. Trần Văn Giàu (1966), Miền Nam giữ vững thành đồng, tập 2, Nxb Khoa Học xã hội,
Hà Nội .
23. Trần Văn Giàu (1968), Miền Nam giữ vững thành đồng, tập 3, Nxb Khoa Học xã hội,
Hà Nội .
24. Trần Văn Giàu (1970), Miền Nam giữ vững thành đồng , tập 4, Nxb Khoa Học xã hội,
Hà Nội .
25. Trần Văn Giàu (1978), Miền Nam giữ vững thành đồng , tập 5, Nxb Khoa Học xã hội,
Hà Nội.
26. Nguyễn Thanh Hải (1997), Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1960-
1975), luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường ĐH. Khoa học xã hội và nhân văn
TP.HCM.
27. Lê Mậu Hãn chủ biên ( 1998), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
28. Goerge C. Herring(2004 ), Cuộc chiến đấu dài ngày của nước Mỹ và Việt Nam ( 1950
- 1975 ), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
29. Lê Phụng Hoàng ( 2007), Lịch sử quan hệ quốc tế sau chiến tranh thế giới thứ hai, tập
1, khoa Lịch sử trường ĐHSP TP.HCM.
30. Hội đồng biên soạn lịch sử Nam Trung Bộ kháng chiến (1995), Nam Trung Bộ kháng
chiến ( 1945- 1975), Nxb Chính trị Quốc gia , Hà Nội.
31. Hội đồng chỉ đạo biên soạn lịch sử Đảng bộ miền Đông Nam Bộ(2003), Lịch sử Đảng
bộ miền Đông Nam Bộ lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ( 1945- 1975), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội .
32. TS.Trần Thị Thu Hương (2003), Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống phá “quốc
sách” ấp chiến lược của Mỹ-nguỵ ở mìên Nam Việt Nam ( 1961-1965), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội .
33. PGS.TS.Trần Thị Thu Hương chủ biên (2006), Đảng Cộng sản Việt Nam chặng đường
qua hai thế kỷ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội .
34. Tường Hữu (2005), Sự thật về cuộc chiến tranh Việt Nam , Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội.
35. Hồ Khang (2005), Tết Mậu Thân 1968 bước ngoặc lớn của cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, Nxb Công an nhân dân, Tp.Hồ Chí Minh.
36. Cao Văn Lượng, Pham Quang Toàn, Quỳnh Cư ( 1981), Tìm hiểu phong trào Đồng
khởi ở miền Nam Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.
37. Cao Văn Lượng ( 1993), “Về cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân
1968”, Tạp chí NCLS, (1/1993), tr.1 – 6.
38. Cao Văn Lượng chủ biên( 1996), Lịch sử Việt Nam 1954- 1965, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội .
39. Cao Văn Lượng chủ biên (2002), Lịch sử Việt Nam 1965-1975, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội .
40. Lê Hồng Lĩnh ( 2005 ), Cuộc đồng khởi kỳ diệu ở miền Nam Việt Nam ,Nxb Đà Nẵng ,
Đà Nẵng.
41. Hồ Chí Minh ( 1967), Về nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước, Nxb Sự Thật, Hà Nội .
42. Hồ Chí Minh ( 1970), Vì độc lập tự do vì chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
43. Hồ Chí Minh (1972), Về Mặt trận dân tộc thống nhất, Nxb Sự Thật , Hà Nội
44. Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam ( 1978), Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam
,Hà Nội.
45. Hoàng Vĩ Nam (1970), “Sự ra đời của Mặt trận DTGPMNVN “,Tạp chí NCLS, (135),
tr 41-58.
46. Trần Nhâm (1978), Nghệ thuật biết thắng từng bước, Nxb KHXH, Hà Nội
47. Nguyễn Phúc Nghiệp ( 2007),”Chiến thắng Ấp Bắc( 1963) trong sự phát triển của cách
mạng miền Nam Việt Nam ”, tạp chí NCLS, (369), tr. 10-19.
48. Trần Thục Nga chủ biên (1987), Lịch sử Việt Nam 1945-1975, Nxb Giáo dục, Hà Nội .
49. Nguyễn Tấn Phát chủ biên (2004), Giáo dục cách mạng ở miền Nam giai đoạn 1954-
1975 ,Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội .
50. PGS.TS. Nguyễn Trọng Phúc chủ biên (2003 ), Tìm hiểu lịch sử Đảng cộng sản Việt
Nam qua các đại hội và hội nghị trung ương ( 1930-2002), Nhà xuất bản Lao
Động, Hà Nội .
51. Nxb Sự Thật (1961), Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Hà Nội.
52. Nxb Sự Thật (1962 ), Đại hội Mặt trận DTGPMNVN lần thứ nhất , Hà Nội.
53. Nxb Sự Thật (1963), Những văn kiện chủ yếu của Mặt trận DTGPMNVN ( Từ sau Đại
hội lần I của Mặt trận đến tháng 10-1962 ), Hà Nội.
54. Nxb Sự Thật (1966), Những văn kiện chủ yếu của Mặt trận DTGPMNVN ( Từ tháng
11 -1964 đến tháng 12-1965 ), Hà Nội .
55. Nxb Sự Thật ( 1966), Năm năm chiến đấu anh dũng, thắng lợi vẻ vang của Mặt trận
Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Hà Nội .
56. Nxb Sự Thật (1967), Những văn kiện chủ yếu của Mặt trận DTGPMNVN ( Từ tháng 1
- 1967 đến tháng 12- 1967 ), Hà Nội .
57. Nxb Sự Thật (1967), Cương lĩnh chính trị của Mặt trận DTGPMNN, Hà Nội .
58. Nxb Sự Thật (1985),Văn kiện Đảng về Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, tập II, (
1945 – 1977 ), Hà Nội.
59. Nxb Quân đội nhân dân (1967), Năm 1966, Quân và dân miền Nam thắng lớn Mỹ
nguỵ thua to, Hà Nội.
60. Nxb Chính trị quốc gia (2003), Huỳnh Tấn Phát cuộc đời và sự nghiệp, Hà Nội.
61. Hồ Sĩ Thành-Trần Thị Nhung (2005), Bộ tư lệnh Miền, Nxb Trẻ,TP.HCM.
62. Nguyễn Hữu Thọ (1964 ), Báo cáo chính trị tại Đại hội Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam lần thứ hai, Nxb Sự thật, Hà Nội.
63. Nguyễn Hữu Thọ (2005),”Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam -Mấy bài
học lớn”, Việt Nam trên con đường lớn bản hùng ca thế kỷ XX, Nxb Lao Động,
Hà Nội .
64. Mai Chí Thọ ( 2005),”Chiến thắng Tua Hai phát pháo hiệu của Đồng khởi Nam bộ”,
Chiến thắng Tua Hai hiệu lệnh của phong trào Đồng khởi, Thông tin tư liệu, Thư
viện Khoa học tổng hợp Tây Ninh.
65. Trương Thị Thu chủ biên (2006), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng chiến, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
66. TS.Nguyễn Công Thục (2006), Phong trào đấu tranh chống phá ấp chiến lược, Nxb
Chính trị Quốc gia , Hà Nội .
67. TS.Hoàng Trang (2005), Toàn dân đoàn kết chống Mỹ, cứu nước dưới ngọn cờ tư
tưởng Hồ Chí Minh ( 1954-1975), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội .
68. Trần Văn Trà (2005), Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm, Nxb Quân đội nhân dân, Hà
Nội .
69. TS. Nguyễn Xuân Tú (2003), Đảng chỉ đạo giành thắng lợi từng bước trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước thời kỳ 1965-1975, Nxb Lao Động, Hà Nội .
70. Phạm Thành Vinh (1963), Các văn tự bán nước của Ngô Đình Diệm hay là các hiệp
nghị xâm lược và bất bình đẳng của đế quốc Mỹ về Việt Nam, Nxb Khoa học, Hà
Nội .
71. Nguyễn Hữu Xuyến ( 2005),”Đánh giá đúng tầm vóc của chiến thắng Tua Hai và
phong trào Đồng khởi vũ trang sau Tua Hai”, Chiến thắng Tua Hai hiệu lệnh của
phong trào Đồng khởi, Thông tin tư liệu, Thư viện Khoa học tổng hợp Tây Ninh.
72. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc TP.HCM (2006), Lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất Sài
Gòn- Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Tổng hợp TP.HCM.
73. Ủy ban Trung ương Mặt trận DTGPMNVN (1965), Mặt trận Dân tộc Giải phóng là
người đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam , Nxb Sự
Thật , Hà Nội .
74. Viện lịch sử Đảng ( 1998 ), Những sự kiện hoạt động của Trung ương cục miền Nam
trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1961- 1975), Học viện chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội .
75. Viện Lịch sử quân sự (1995), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954- 1975
),Tập II, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội .
76. Viện Lịch sử quân sự (1997), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954- 1975
),Tập III, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội .
77. Viện Lịch sử quân sự (1999), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954- 1975
),Tập IV, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội .
78. Việt Nam Thông tấn xã ( 1971), Tài liệu mật Bộ quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh
Việt Nam, Tập 1, Hà Nội.
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC I
DANH SÁCH UỶ BAN TRUNG ƯƠNG
MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM [18].
I.ĐOÀN CHỦ TỊCH :
1.Chủ tịch : Luật sư Nguyễn Hữu Thọ
2.Phó chủ tịch :
- KTS. Huỳnh Tấn Phát, Tổng thư ký Đảng Dân chủ miền Nam Việt Nam, Chủ tịch
uỷ ban Mặt trận Dân tộc giải phóng khu Sài Gòn - Gia Định.
- Bác sĩ Phùng Văn Cung
- Ông Võ Chí Công, đại diện Đảng nhân dân cách mạng Việt Nam .
- Ông Y Bih Alêô, dân tộc Ê đê, Chủ tịch ủy ban phong trào tự trị các dân tộc Tây
Nguyên.
- Đại đức Thôm Mê Thê Nhem, dân tộc Khmer.
- Ông Trần Nam Trung, đại diện các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền
Nam Việt Nam .
3.Uỷ viên:
- Ông Phan Xuân Thái ( tức Phan Văn Đáng ), Chủ tịch Liên hiệp công đoàn giải
phóng miền Nam Việt Nam .
- Ông Nguyễn Hữu Thế, Chủ tịch Hội Nông dân giải phóng miền Nam Việt Nam .
- Ông Trần Bạch Đằng, Chủ tịch Hội Liên hiệp thanh niên giải phóng miền Nam
Việt Nam .
- Bà Nguyễn Thị Định, Hội trưởng Hội Liên hiệp phụ nữ giải phóng miền Nam Việt
Nam .
- Ông Trần Bửu Kiếm, Chủ tịch Hội Liên hiệp sinh viên giải phóng miền Nam Việt
Nam .
- Hoà thượng Thích Thiện Hào, đại diện những người Phật giáo yêu nước miền Nam
Việt Nam .
- Ngọc đầu sư Nguyễn Văn Ngợi , đại diện những người Cao Đài yêu nước miền
Nam Việt Nam .
- Ông Đặng Trần Thi ( tức Bùi San ), Phó chủ tịch Liên hiệp công đoàn giải phóng
miền Nam Việt Nam .
II.BAN THƯ KÍ
1.Tổng thư ký : Kts. Hỳnh Tấn Phát về sau là Giáo sư Nguyễn Văn Hiếu
2.Phó Tổng thư ký:
- Giáo sư Lê văn Huấn, Chủ tịch Hội nhà giáo yêu nước miền Nam Việt Nam.
- Dược sĩ Hồ Thu
3.Ủy viên:
- Ông Ung Ngọc Ký, Phó tổng thư ký Đảng dân chủ miền Nam Việt Nam
- Ông Hồ Xuân Sơn ( tức Hồ Văn Lộc ), nhà báo.
III.ỦY VIÊN:
1. Thầy giảng Joseph Mari Hồ Bá Huệ, đại diện những người Công giáo kính Chúa yêu
nước miền Nam Việt Nam .
2. Bà Nguyễn Thị Bình tự Yến Sa, Phó hội trưởng hội Liên hiệp phụ nữ giải phóng miền
Nam Việt Nam .
3. Ông Rơ Chôm Briu, dân tộc Giarai, Phó chủ tịch Uỷ ban Phong trào tự trị các dân
tộc Tây Nguyên.
4. Ông Lê Quang Chánh, đại diện Mặt trận DTGP tại Cộng hoà Indonesia.
5. Dược sĩ Mã Thị Chu.
6. Ông Huỳnh Cương , trí thức Khmer.
7. Nữ bác sĩ Nguyễn Thuỳ Dương tức Dương Quỳnh Hoa.
8. Giáo sư Nguyễn văn Hiếu, Tổng thư ký Đảng Xã hội cấp tiến miền Nam Việt Nam .
9. Kỹ sư Lâm Kiết Chánh tức Trần văn Được, đại diện Việt kiều yêu nước ở
Campuchia.
10. Trung tá Võ Văn Môn , nhân sĩ Bình Xuyên.
11. Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ.
12. Ông Võ Oanh, nhà báo , nhân sĩ.
13. Linh mục Chu Phát, tức linh mục Nguyễn Trinh Đoàn .
14. Bà Lê Thị Riêng, Phó hội trưởng Hội Liên hiệp phụ nữ GPMNVN.
15. Ông Sắt, dân tộc Bana, Phó Chủ tịch Uỷ ban Phong trào tự trị các dân tộc Tây
Nguyên.
16. Ông Hoàng Bích Sơn, đại diện Mặt trận Dân tộc giải phóng tại Cuba.
17. Ông Như Sơn tức Michel Văn Vỹ, nhân sĩ Sài Gòn.
18. Ông Huỳnh văn Tâm, đại diện Mặt trận Dân tộc giải phóng ở Algéria.
19. Kỹ sư Lê Văn Thả.
20. Ông Nguyễn Thạch tức Đinh Xáng, nhà kinh doanh công nghiệp Sài Gòn.
21. Ông Trần Văn Thành, đại diện Mặt trận Dân tộc giải phóng tại Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa.
22. Ông Lê Văn Thịnh tức Lê Toàn Thư, đại diện Mặt trận DTGP tại Cuba.
23. Giáo sư Nguyễn Ngọc Thưởng, Phó tổng thư ký Đảng xã hội cấp tiến miền Nam Việt
Nam .
24. Ông Nguyễn Văn Tiến, Trưởng phái đoàn thường trực Uỷ ban Trung ương Mặt trận
Dân tộc giải phóng tại thủ đô Hà Nội, sau là Trưởng phái đoàn đại diện đặc biệt
Cộng hoà miền Nam Việt Nam tại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
25. Nhà soạn kịch Trần Hữu Trang, Chủ tịch hội văn nghệ giải phóng miền Nam Việt
Nam .
26. Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước .
27. Ông Vũ Tùng, Chủ tịch hội nhà báo yêu nước và dân chủ miền Nam Việt Nam
28. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tứ tức Nguyễn Hữu Ba ( Huế ).
29. Hoà thượng Thích Hưng Từ tự Hồng Liêm.
30. Ông Huỳnh Thiện Từ, đại diện những người yêu nước trong Phật giáo Hoà Hảo.
PHỤ LỤC II
ĐOÀN ĐẠI BIỂU MẶT TRẬN DTGPMNVN TẠI HỘI NGHỊ PARI ĐOÀN TRÙ BỊ [5] ( Từ ngày 4-11 đến ngày 16-12-1068)
1. Nguyễn Thị Bình : trưởng đoàn 2. Trần Văn Tư : đoàn viên 3. Dương Đình Thảo : đoàn viên, người phát ngôn. 4. Phạm Thanh Vân (Nguyễn Bình Thanh): thư ký trưởng đoàn, phiên dịch
PHỤ LỤC III .
ĐOÀN ĐẠI BIỂU CHÍNH THỨC CỦA
MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM
TẠI HỘI NGHỊ PARI [5]
( Từ 16/12/1968 đến 6/6/1969 )
1.Trưởng đoàn : Trần Bửu Kiếm
2.Phó trưởng đoàn :
- Nguyễn Thị Bình
- Trần Hoài Nam
3.Uỷ viên :
- Nguyễn Văn Tiến
- Đinh Bá Thi
- Đỗ Duy Liên
- Trần Văn Tư
4.Cố vấn phát ngôn:
- Dương Đình Thảo
- Lý Văn Sáu
- Nguyễn Ngọc Dung
- Phạm Thanh Vân
- Phan Nhẫn
- Đặng Ninh Đăng ( Hà Đăng ).
5.Chuyên viên:
PHỤ LỤC IV
CHƯƠNG TRÌNH CỦA MẶT TRẬN DTGPMNVN [ 18].
Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, dân tộc Việt Nam ta đã chiến đấu không
ngừng cho độc lập và tự do của Tổ quốc. Năm 1945, đồng bào cả nước đã đứng lên đánh đổ
Nhật-Pháp giành chính quyền và đã anh dũng kháng chiến 9 năm , đánh bại xâm lược Pháp
và can thiệp Mỹ, đưa cuộc kháng chiến oanh liệt của dân tộc ta đến thắng lợi vẻ vang.
Tại hội nghị Giơnevơ tháng 7-1954, đế quốc Pháp buộc phải cam kết rút quân khỏi
Việt Nam và các nước tham dự hội nghị đều trịnh trọng tuyên bố công nhận chủ quyền, độc
lập thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam .
Đáng lẽ từ đó, chúng ta được an hưởng thái bình cùng với đồng bào toàn quốc xây
dựng một nước Việt Nam độc lập dân chủ thống nhất và giàu mạnh .
Nhưng, đế quốc Mỹ trước đây đã tiếp sức cho thực dân Pháp tàn sát đồng bào ta, nay
lại âm mưu chia cắt lâu dài nước ta, nô dịch miền Nam nước ta với một chế độ thuộc địa trá
hình, biến miền Nam thành căn cứ quân sự, chuẩn bị chiến tranh xâm lược Đông Nam Á.
Chúng lại đưa bọn Ngô Đình Diệm, tay sai của chúng, lên nắm chính quyền với chiêu bài
quốc gia độc lập giả hiệu, dùng chính sách “viện trợ” và bộ máy “cố vấn ” để nắm tất cả
các ngành quân sự, kinh tế, chính trị và văn hoá miền Nam .
Bọn cướp nước và bán nước lập lên một chế độ thống trị độc tài tàn ác nhất chưa
từng có trong lịch sử nước ta. Chúng đàn áp khủng bố mọi phong trào dân chủ và yêu nước,
thủ tiêu hết các quyền tự do của con người. Chúng nắm các độc quyền kinh tế, bóp nghẹt
các ngành công nông thương nghiệp, bóc lột đến cùng kiệt mọi tầng lớp đồng bào. Chúng
dùng đủ mọi thủ đoạn đầu độc, ngu dân, truỵ lạc hoá để hòng tiêu diệt tinh thần dân tộc
của đồng bào ta. Chúng ráo riết tăng cường binh bị, xây dựng căn cứ quân sự, dùng quân
đội làm công cụ đàn áp nhân dân, và chuẩn bị chiến tranh theo chính sách của đế quốc Mỹ .
Hơn sáu năm qua, chế độ độc tài, tàn bạo của Mỹ- Diệm đã gây ra biết bao tội ác: ở
khắp miền Nam, tiếng súng khủng bố không lúc nào dứt, hàng chục ngàn đồng bào yêu
nước bị chặt đầu, mổ bụng, moi gan, bắn giết, hàng trăm ngàn đồng bào bị tra tấn tù đầy, và
chết mòn trong các trại giam; biết bao người bị đốt nhà, đuổi nhà, cướp đất, bị bắt đi phu, đi
lính; biết bao gia đình khốn đốn và tan nát vì chính sách tập trung dân vào các “khu trù
mật”, các “dinh điền ”, nạn sưu cao thuế nặng, nạn ruồng bố bắt bớ, cướp bóc, vơ vét, tống
tiền, nạn thất nghiệp nghèo đói lan tràn, đang uy hiếp nghiêm trọng đời sống của tất cả các
tầng lớp nhân dân .
Phải HOÀ BÌNH! Phải ĐỘC LẬP ! Phải DÂN CHỦ ! Phải CƠM NO ÁO ẤM !
Phải HOÀ BÌNH THỐNG NHẤT TỔ QUỐC!
Đó là nguyện vọng thiết tha cấp bách nhất của chúng ta. Nguyện vọng đó đã trở
thành ý chí sắt đá, sức mạnh phi thường thúc đẩy đồng bào ta, phải đoàn kết lại, phải kiên
quyết đứng lên đấu tranh đánh đổ ách thống trị tàn bạo của đế quốc Mỹ và bọn tay sai để
cứu nước cứu nhà.
Vì quyền lợi tối cao của Tổ quốc, quyết phấn đấu đến cùng cho những nguyện vọng
chính đáng của nhân dân, thuận theo trào lưu tiến bộ của thế giới. MẶT TRẬN DÂN TỘC
GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM ra đời. MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG
MIỀN NAM VIỆT NAM chủ trương đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp,
các dân tộc, các đảng phái, các đoàn thể, các tôn giáo, các nhân sĩ yêu nước ở miền Nam
Việt Nam không phân biệt xu hướng chính trị để đấu tranh đánh đổ ách thống trị của đế
quốc Mỹ và tập đoàn tay sai của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, thực hiện: ĐỘC LẬP, DÂN
CHỦ, CẢI THIỆN DÂN SINH, HOÀ BÌNH, TRUNG LẬP Ở MIỀN NAM, TIẾN TỚI
HOÀ BÌNH THỐNG NHẤT TỔ QUỐC.
Chương trình của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam gồm 10 điểm
sau đây:
I. Đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài Ngô
Đình Diệm, tay sai của Mỹ, thành lập chính quyền liên minh dân tộc, dân chủ.
Chế độ ở miền Nam hiện nay là một chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ.
Chính quyền miền Nam là chính quyền tay sai, thực hiện mọi đường lối chính sách của Mỹ.
Phải đánh đuổi chế độ đó và chính quyền đó, thành lập chính quyền liên minh dân tộc dân
chủ rộng rãi, gồm đại biểu các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các đảng phái, các tôn giáo
và những nhân sĩ yêu nước, giành lại các quyền lợi kinh tế, chính trị xã hội, văn hoá của
nhân dân, thực hiện độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, hoà bình trung lập, tiến tới hoà
bình thống nhất Tổ quốc.
II.Thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi và tiến bộ
1.Bãi bỏ hiến pháp hiện hành của chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của
Mỹ. Tiến hành bầu cử Quốc hội mới bằng phổ thông đầu phiếu.
2.Ban bố quyền tự do dân chủ, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do
nghiệp đoàn, tư do đi lại, tự do tín ngưỡng và các quyền tự do dân chủ khác. Nhà nước
không có sự phân biệt đối xử với các tôn giáo. Các đảng phái, các đoàn thể yêu nước không
phân biệt xu hướng chính trị đều được tự do hoạt động.
3.Toàn xá chính trị phạm, giải tán các trại tập trung dưới mọi hình thức. Bãi bỏ luật
phát xít 10/59 và các luật phản dân chủ khác. Mọi người vì chế độ Mỹ -Diệm mà phải chạy
ra nước ngoài đều được tự do trở về nước.
4.Nghiêm cấm mọi sự bắt bớ giam cầm trái phép, tra tấn nhục hình. Trừng trị bọn
gian ác tàn sát nhân dân mà không chịu hối cải.
III.Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ thực hiện cải thiện dân sinh
1.Bãi bỏ độc quyền kinh tế của đế quốc Mỹ và của bọn tay sai. Xây dựng một nền
kinh tế và tài chánh độc lập, tự chủ, lợi cho quốc kế dân sinh. Tịch thâu tài sản của đế quốc
Mỹ và tập đoàn thống trị tay sai của Mỹ làm tài sản quốc gia.
2.Giúp đỡ công thương gia khôi phục và khuếch trương công nghệ và tiểu công
nghệ, khuyến khích phát triển kỹ nghệ. Tích cực bảo vệ hàng nội hoá bằng cách bãi bỏ thuế
sản xuất, hạn chế hoặc đình chỉ nhập cảng hàng hoá trong nước sản xuất được, giảm thuế
nhập cảng nguyên liệu, máy móc.
3.Chấn hưng nông nghiệp, canh tân nghề trồng tỉa, nghề cá và chăn nuôi. Giúp đỡ
cho nông dân khai hoang và phát triển sản xuất, bảo vệ mùa màng, đảm bảo tiêu thụ nông
sản.
4.Khuyến khích và đẩy mạnh việc giao lưu kinh tế giữa thành thị và nông thôn, giữa
đồng bằng và miền núi, phát triển buôn bán với nước ngoài không phân biệt chế độ chính
trị, theo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi.
5. Thi hành chính sách thuế công bằng và hợp lý. Bãi bỏ phạt vạ vô lý.
6.Ban hành luật lao động: cấm sa thải, cúp phạt, đánh đập thầy thợ, cải thiện đời
sống cho công nhân và viên chức. Quy định tiền lương và điều kiện bảo đảm sức khoẽ cho
thiếu niên học nghề.
7.Tổ chức cứu tế xã hội:
- Giải quyết công ăn việc làm cho những người thất nghiệp.
- Bảo trợ trẻ mồ côi, người già yếu, tàn tật.
- Giúp đở những nơi mất mùa, những nơi hoả hoạn, thiên tai.
8.Giúp đở cho đồng bào di cư muốn về xứ sở, giải quyết công ăn việc làm cho
những người muốn ở lại.
9.Nghiêm cấm việc đuổi nhà, đốt nhà, cướp đất, dồn dân. Bảo đảm cho đồng bào ở
nông thôn và các giới cần lao ở thành thị được yên ổn làm ăn.
IV.Thực hiện giảm tô, tiến tới giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân làm cho
người cày có ruộng
1.Thực hiện giảm tô. Đảm bảo nguyên canh. Đảm bảo quyền sở hữu đất khai hoang
cho người có công khai phá. Bảo đảm quyền sở hữu chính đáng về ruộng đất đã được chia
của nông dân.
2.Bãi bỏ các “khu trù mật”, chế độ bắt dân đi “dinh điền”. Đồng bào đã bị cưỡng
bức vào “khu trù mật” và “dinh điền” được tự do trở về sinh sống, làm ăn trên ruộng vườn
của mình.
3.Tịch thâu ruộng đất của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai để chia cho dân cày nghèo
không có ruộng hoặc thiếu ruộng. Chia lại công điền cho công bình hợp lý.
4.Bằng thương lựơng và giá cả công bằng hợp lý. Nhà nước mua lại ruộng đất của
điền chủ có từ mức độ nào trở lên tuỳ tình hình ruộng đất của mỗi địa phương đem chia cho
nông dân không đất hoặc thiếu đất. Nông dân được chia ruộng đất không phải trả tiền và
không bị ràng buộc bởi một điều kiện nào.
V.Xây dựng một nền văn hoá và giáo dục dân tộc, dân chủ
1. Bài trừ văn hoá và giáo dục nô dịch, cao bồi theo kiểu Mỹ; xây dựng một nền văn
hoá giáo dục dân tộc, tiến bộ, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
2. Xoá bỏ nạn mù chữ. Lập thêm các trường phổ thông, đảm bảo cho thanh niên và
thiếu niên có đủ trường học. Mở mang các trường đại học và chuyên nghiệp, các trường
dạy nghề. Thực hiện chế độ dạy bằng tiếng Việt trong các trường học. Giảm học phí cho
học sinh và sinh viên; miễn học phí cho học sinh và sinh viên nghèo; cải cách chế độ thi cử.
3. Phát triển khoa học, kỹ thuật và văn học, nghệ thuật dân tộc; khuyến khích và
giúp đỡ trí thức, văn nghệ sĩ có đủ điều kiện phát triển tài năng để phục vụ công cuộc xây
dựng nước nhà.
4. Phát triển y tế để chăm nom sức khõe cho nhân dân. Phát triển phong trào thể dục
thể thao.
VI.Xây dựng một quân đội dân tộc bảo vệ Tổ quốc , bảo vệ nhân dân
1.Xây dựng một quân đội dân tộc bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân. Bãi bỏ chế độ
cố vấn quân sự Mỹ.
2.Bãi bỏ chế độ bắt lính. Cải thiện đời sống vật chất, bảo đảm quyền lợi chính trị cho
binh lính. Bãi bỏ chế độ ngược đãi đánh đập đối với binh lính. Có chính sách chiếu cố gia
đình quân nhân nghèo.
3.Khen thưởng và trọng dụng các sĩ quan và binh lính có công trong cuộc đấu tranh
chống ách thống trị của đế quốc Mỹ và tập đoàn tay sai của Mỹ. Khoan hồng đối với những
người trước đã đi theo Mỹ- Diệm gây tội ác với nhân dân nhưng nay hối cải, phục vụ nhân
dân.
4.Xoá bỏ các căn cứ quân sự của nước ngoài ở Việt Nam .
VII.Thực hiện dân tộc bình đẳng, nam nữ bình quyền, bảo hộ quyền lợi chính
đáng của ngoại kiều và kiều bào
1.Thực hiện quyền dân tộc tự trị:
Thành lập các khu tự trị ở các vùng dân tộc thiểu số trong đại gia đình dân tộc Việt
Nam .
Bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Các dân tộc đều có quyền tự do dùng và
phát triển tiếng nói, chữ viết của mình, tự do giữ gìn hoặc thay đổi phong tục tập quán của
mình. Bãi bỏ chính sách ngược đãi, cưởng bức đồng hoá của Mỹ - Diệm hiện nay.
Giúp đỡ các dân tộc thiểu số tiến kịp trình độ chung bằng cách phát triển kinh tế, văn
hoá ở các vùng dân tộc thiểu số, đào tạo nhân tài người dân tộc thiểu số.
2.Thực hiện nam nữ bình đẳng. Phụ nữ được hưởng quyền lợi như nam giới về mọi
mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.
3. Bảo vệ quyền lợi chính đáng của ngoại kiều sinh sống ở Việt Nam .
4. Bảo vệ và chăm sóc kiều bào ở hải ngoại.
VIII.Thực hiện chính sách ngoại giao hoà bình trung lập
1. Xoá bỏ mọi hiệp ước bất bình đẳng xâm phạm đến chủ quyền của dân tộc do
tập đoàn tay sai của Mỹ ký với nước ngoài.
2. Đặt quan hệ ngoại giao với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị;
theo những nguyên tắc chung sống hoà bình của hội nghị Băng-đung.
3. Đoàn kết chặt chẽ với các nước yêu chuộng hoà bình và các nước trung lập.
Mở rộng quan hệ hữu hảo với các nước Đông Nam Á, đặc biệt đối với các nước láng giềng
Campuchia và Lào.
4. Không tham gia khối liên minh quân sự nào, không liên minh quân sự với
nước nào.
5. Nhận viện trợ kinh tế của bất kỳ nước nào sẵn sàng giúp đỡ Việt Nam không
có điều kiện ràng buộc.
IX.Lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ
quốc
Yêu cầu bức thiết của đồng bào trên toàn quốc là phải hoà bình thống nhất Tổ quốc.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam chủ trương thống nhất nước nhà từng bước bằng
phương pháp hoà bình, trên nguyên tắc hai miền cùng nhau thương lượng, cùng nhau bàn
bạc mọi hình thức và biện pháp có lợi cho dân tộc, cho Tổ quốc Việt Nam .
Trong khi nước nhà chưa thống nhất, chính phủ hai miền cùng nhau thương lượng
cam kết không tuyên truyền chia rẽ dân tộc, không tuyên truyền chiến tranh, không dùng
binh lực đối với nhau. Thực hiện trao đổi kinh tế văn hoá giữa hai miền. Cho nhân dân hai
miền được tự do đi lại buôn bán, thăm viếng, tự do gửi thư từ cho nhau.
X.Chống chiến tranh xâm lược, bảo vệ hoà bình thế giới .
1. Chống chiến tranh xâm lược và tất cả các hình thức nô dịch của đế quốc. Ủng hộ các
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước.
2. Chống tuyên truyền chiến tranh. Đòi tổng giải trừ quân bị, cấm vũ khí hạt nhân, sử
dụng năng lực nguyên tử vào mục đích hoà bình.
3. Ủng hộ các phong trào đấu tranh cho hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới.
Hỡi toàn thể đồng bào!
Hỡi tất cả những người yêu nước!
Dân tộc ta đã tranh đấu gần một trăm năm và kháng chiến 9 năm, đã hy sinh biết bao
xương máu, quyết không thể trở lại cuộc đời nô lệ !
Vì hoà bình, độc lập, tự do, thống nhất của Tổ quốc, vì vận mạng của dân tộc, vì đời
sống của chúng ta, vì tương lai của ta và con cháu ta .
TẤT CẢ HÃY ĐỨNG LÊN !
TẤT CẢ HÃY ĐOÀN KẾT LẠI !
Hãy xiết chặt hàng ngũ, tiến lên chiến đấu dưới ngọn cờ của MẶT TRẬN DÂN
TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM để đánh đổ ách thống trị tàn ác của đế quốc
Mỹ và tay sai Ngô Đình Diệm để cứu nước, cứu nhà.
Chúng ta nhất định thắng, vì lực lượng đoàn kết của nhân dân ta là lực lượng vô
địch, vì chính nghĩa thuộc về chúng ta, vì chủ nghĩa thực dân đã lỗi thời ngày nay đang tan
rã và đi tới diệt vong. Trên thế giới, phong trào hoà bình dân chủ, độc lập dân tộc đang phát
triển rộng rãi, mạnh mẽ và ngày càng thu được nhiều thắng lợi mới. Tình hình đó hết sức
thuận lợi cho sự nghiệp cứu nước cứu nhà của chúng ta.
Đế quốc Mỹ và tay sai của Mỹ nhất định sẽ thất bại!
Sự nghiệp giải phóng dân tộc ở miền Nam Việt Nam nhất định sẽ thành công!
Hãy đoàn kết, tin tưởng và phấn đấu anh dũng ! Tiến lên giành lấy thắng lợi huy
hoàng cho dân tộc ta, cho Tổ quốc ta.
MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM
20-12-1960