BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC THĂNG LONG

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

VIÊM GAN B MẠN TÍNH VÀ

CHẾ ĐỘ DINH DƯỠNG CHO NGƯỜI BỆNH

Sinh viên thực hiện : Trần Thị Kim Loan

Mã sinh viên : B00047

Chuyên ngành : Điều dưỡng đa khoa

Hà Nội, 2011

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC THĂNG LONG

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

VIÊM GAN B MẠN TÍNH VÀ

CHẾ ĐỘ DINH DƯỠNG CHO NGƯỜI BỆNH

Hướng dẫn khoa học : Ths. Phạm Bá Tuyến

Sinh viên thực hiện : Trần Thị Kim Loan

Mã sinh viên : B00047

Chuyên ngành : Điều dưỡng đa khoa

Hà Nội, 2011

Lời cảm ơn!

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Thăng Long,

Hệ đại học vừa học vừa làm trường Đại học Thăng Long - đặc biệt là các

Thầy, Cô trong Khoa Điều Dưỡng trường Đại học Thăng Long đã tạo điều

kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại

trường.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn Thạc sỹ Phạm Bá Tuyến đã tận tình giúp đỡ,

trực tiếp hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành chuyên đề

tốt nghiệp.

Tôi xin chân thành cảm ơn các Giáo sư, Tiến sĩ trong Hội đồng chấm

chuyên đề tốt nghiệp đã cho tôi nhiều ý kiến quý báu để hoàn chỉnh chuyên đề.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Bệnh viện Y học Cổ truyền

Bộ Công An, Phòng Tổ chức Bệnh viện Y học Cổ truyền Bộ Công An đã tạo

điều kiện thuận lợi tối đa và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện chuyên đề.

Cảm ơn các bạn bè đồng nghiệp, các bạn cùng khoá và người thân đã

giúp đỡ, động viên tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.

Hà nội, ngày 15 tháng 3 năm 2011 Học viên Trần Thị Kim Loan

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong những năm gần đây bệnh viêm gan B mạn tính đã và đang ngày

càng trở thành vấn đề ảnh hưởng nhiều tới sức khỏe cộng đồng. Đây là một

bệnh truyền nhiễm thường gặp ở nước ta cũng như trên thế giới. Theo ước tính

của Tổ chức Y tế thế giới, có tới 1/2 dân số trên thế giới sống trong vùng dịch tễ

cao, 2 tỷ người phơi nhiễm HBV trong đó có 300-400 triệu người đang bị viêm

gan B mạn tính, trong đó có khoảng 75% sống ở vùng Châu Á. Trung Quốc

một quốc gia với hơn 1 tỷ dân mà có tới hơn 600 triệu người nhiễm virus viêm

gan, trong đó khoảng 120 triệu người nhiễm HBV. Việt Nam là một nước

thuộc vùng lưu hành dịch tễ cao với tỷ lệ nhiễm HBV 10-20%, và khoảng trên

50% dân cư có anti- HBs(+), [14], [20].

Bệnh viêm gan B mạn thường diễn biến phức tạp, có thể trở thành xơ

gan hoặc ung thư tế bào gan. Theo ước tính, 25% trường hợp viêm gan B mạn

tính có thể tử vong do xơ gan và ung thư gan [1]. Trong khi đó việc điều trị

viêm gan B mạn tính còn gặp nhiều khó khăn. Mục đích điều trị chủ yếu là bảo

vệ tế bào gan, giảm quá trình viêm và hoại tử đồng thời thúc đẩy sự tái tạo tế

bào gan.

Với vai trò điều dưỡng, chăm sóc sức khỏe cho người bệnh, người điều

dưỡng cần phải có các hiểu biết về chế độ dinh dưỡng hợp lý đối với người

bệnh viêm gan B mạn tính nhằm tư vấn, giáo dục sức khỏe, chăm sóc người

bệnh tốt hơn, giúp người bệnh kiểm soát bệnh, hạn chế những biến chứng có

thể xảy ra. Do đó việc thực hiện chuyên đề “ Viêm gan B mạn tính và chế độ dinh

dưỡng cho người bệnh” với mục tiêu chủ yếu là:

1. Cung cấp các kiến thức về bệnh viêm gan mạn tính.

2. Chế độ dinh dưỡng phù hợp với người bệnh viêm gan virus B mạn tính.

1. ĐẠI CƯƠNG:

1.1. Định nghĩa [14]:

Viêm gan virus B mạn tính là tình trạng viêm nhiễm hoại tử tế bào gan

do virus viêm gan B gây ra.

1.2. Hình thể và cấu trúc của virus viêm gan B:

HBV là một thành viên của họ Hepadnaviridae (có axit nhân là ADN): là

một virus hướng gan (hepatotropic). Đây là virus gây bệnh cho người nhưng

cũng có thể gây bệnh cho một số loài linh trưởng khác. Hạt virus HBV hoàn

chỉnh có hình cầu nhỏ, đường kính 42nm, bao ngoài là lớp kháng nguyên bề

mặt HBsAg, tiếp đến là vỏ capsid hình hộp, đường kính 27-28nm, khoảng cách

giữa 2 lớp là 7nm và lõi chứa bộ gen của virus [8], [16].

Hình 1.1: Hình thể và cấu trúc của virus viêm gan B

1.3. Các dấu ấn (marker) trong viêm gan virus B:

+ HBsAg: là kháng nguyên bề mặt của virus.

HBsAg xuất hiện rất sớm, trước khi có triệu trứng lâm sàng, đạt đỉnh

cao khi xuất hiện các dấu hiệu lâm sàng rồi giảm dần và biến mất sau 4 đến 8

tuần sau đó. Nếu HBsAg tồn tại quá 6 tháng sau khi khỏi bệnh là mang trùng

mạn tính. Trong viêm gan B mạn, HBsAg có thể tồn tại nhiều năm hoặc suốt

đời. Có đến 5 - 10% viêm gan B không thấy có HBsAg. Định lượng HBsAg có

giá trị tiên lượng: nếu trong thời kỳ bình phục hàm lượng không nhỏ hơn so

với trị số ban đầu thì có nguy cơ thành người mang virus mạn tính [8], [19].

+ Anti HBs:

Xuất hiện muộn, trong thời kỳ bình phục. Kháng thể xuất hiện trong

máu khoảng 2 - 16 tuần, sau khi HBsAg biến mất. Sự có mặt của anti HBs và

sự biến mất của HBsAg chứng tỏ bệnh nhân có miễn dịch với viêm gan.

Kháng thể Anti - HBs -IgM xuất hiện trong giai đoạn cấp còn kháng thể

Anti-HBs-IgG xuất hiện muộn hơn và tồn tại lâu hơn. Sau khi tiêm vaccine

phòng viêm gan B thì anti HBs là kháng thể duy nhất được tạo thành trong

máu [16].

+ Kháng nguyên HBeAg:

HBeAg là kháng nguyên không cấu trúc của HBV. HBeAg được xem

như là dấu ấn biểu thị sự nhân lên của virus và liên quan đến sự lây nhiễm và

tình trạng nặng của bệnh. Người có HBsAg (+) và HBeAg (+) có nguy cơ lây

bệnh cao, đặc biệt ở phụ nữ có thai nếu có HBsAg (+) và HBeAg (+) thì khả

năng lây cho con họ rất cao. HBeAg (+) kéo dài trên 4 tuần là dấu hiệu của khả

năng diễn biến mạn tính của viêm gan cấp. Khi HBeAg biến mất là dấu hiệu

báo trước bệnh đang được cải thiện và đang lui dần đó là sự chuyển đảo huyết

thanh [16] [19].

+ Kháng thể Anti-Hbe:

Xuất hiện muộn trong thời kỳ bình phục trước khi HBeAg biến mất.

Khi anti-HBe xuất hiện là dấu hiệu của thuyên giảm và sau đó HBsAg giảm

dần xuống [16].

+ Kháng nguyên lõi (HBcAg): là kháng nguyên chỉ được tìm thấy trong

nhân tế bào gan [19].

+ Kháng thể (Anti-HBc):

Chỉ được hình thành khi cơ thể bị nhiễm HBV mà không được tạo ra

sau tiêm chủng. Sự có mặt của anti-HBc không có tác dụng bảo vệ chống tái

nhiễm HBV.

IgM anti-HBc xuất hiện sớm trong những tuần đầu của bệnh, còn IgG

anti-HBc xuất hiện muộn nhưng tồn tại lâu hơn. Sự hiện diện của IgM anti

HBc trong huyết thanh pha loãng 1/5000 có thể giúp cho chẩn đoán viêm gan B

cấp. IgM anti-HBc (-) trong huyết thanh pha loãng 1/5000 loại trừ chẩn đoán

viêm gan B cấp khá chắc chắn [8], [16], [19].

+ HBV- DNA: là DNA của virus viêm gan B, là marker chính xác nhất

để đánh giá sự tồn tại và nhân lên của virus, nhất là khi có sự đột biến gen của

virus làm cho HBeAg (-), nhưng virus vẫn hoạt động.[4], [9], [19].

Bảng 1.1: Các kháng nguyên, kháng thể tìm thấy ở người nhiễm HBV [12].

Trong huyết thanh Ở gan KN-KT

HBcAg - +

Anti HBc + -

HBsAg + +

Anti HBs + -

HBeAg + +

Anti HBe + -

HBV-DNA + +

1.4. Đường lây truyền virus viêm gan B: [12].

Virus viêm gan B lây truyền qua các con đường sau:

- Máu: Truyền máu, dùng bơm tiêm không vô khuẩn, các thủ thuật y

khoa không đảm bảo vô khuẩn (châm cứu, nhổ răng, tiêm…)

- Sinh dục: Quan hệ tình dục không được bảo vệ với người mang vius

viêm gan B.

- Lây từ mẹ sang con trong thời kỳ thai nghén và lúc đẻ.

1.5. Diễn biến tự nhiên của nhiễm HBV:

Khi bị viêm gan B cấp tính mà diễn biến lâm sàng kéo dài như mệt mỏi,

đau âm ỉ hạ sườn phải, gầy sút cân, ăn khó tiêu, đồng thời rối loạn chức năng

gan kéo dài. Đặc biệt tăng transaminase kéo dài trên 6 tháng, HBsAg dương

tính, thường chuyển thành viêm gan mạn tính [8].

Viêm gan B mạn tính (VGBMT) sẽ tiến triển 3 giai đoạn kế tiếp nhau

[7], [10], [26].

- Giai đoạn 1: Giai đoạn dung nạp miễn dịch, virus viêm gan B nhân lên rất

nhanh. Xét nghiệm các marker thấy HBsAg (+), HBeAg (+), HBV- DNA(+)

Transaminase bình thường, sinh thiết gan bình thường hoặc viêm gan mạn

tính (VGMT) ở mức độ nhẹ.

- Giai đoạn 2:Giai đoạn không có miễn dịch, sự sao chép của virus ở mức độ

thấp. Virus viêm gan B trong máu dao động. HBeAg đột nhiên âm tính, có

chuyển đổi huyết thanh của HBeAg. Nhưng transaminase luôn luôn tăng. Sinh

thiết gan thấy hình ảnh của VGMT.

- Giai đoạn 3: Giai đoạn nhiễm virus tiềm tàng, giai đoạn không có sao chép

của virus. HBeAg và HBV- DNA âm tính, anti-HBeAg dương tính.

Transaminase tương đối bình thường. Sinh thiết gan nhận thấy không có phản

ứng viêm, nhưng có thể có xơ gan.

1.6. Sinh lý bệnh viêm gan vi rút B mạn tính:

VGBMT bao gồm các dạng tổn thương lan toả rất phức tạp của gan: tổn

thương loạn dưỡng, thoái hoá, những hiện tượng miễn dịch, rối loạn chuyển

hoá, tổn thương ở nhu mô gan… những tổn thương này không làm đảo lộn của

cấu trúc tiểu thùy gan [2], [25].

Viêm gan mạn tính nói chung và viêm gan B mạn tính nói riêng là tình

trạng viêm nhiễm hoại tử tế bào gan và viêm, có hoặc không kèm theo xơ hoá,

diễn ra trong thời gian trên 6 tháng [25].

Gan là tạng lớn nhất của cơ thể, đảm nhiệm nhiều chức năng quan trọng

như chuyển hoá (chuyển hoá Protid, Lipit, Gluxit, nước và muối); chống độc

(đối với hormon, các chất màu, vi khuẩn, hoá chất độc…); sản xuất và bài tiết

mật; tuần hoàn và sản xuất các yếu tố đông máu. Khi gan bị viêm, nhu mô gan

bị tổn thương làm ảnh hưởng đến chức năng của gan. Tùy theo mức độ tổn

thương, ít nhiều cũng gây rối loạn chức năng tiêu hoá, tuần hoàn, điều hòa

nước muối, thần kinh. Trong bệnh viêm gan mạn thấy nổi bật rối loạn chức

năng tiêu hoá và tuần hoàn [2].

- Các rối loạn về tiêu hoá như: chán ăn, buồn nôn, chướng hơi, đầy

bụng, táo bón, ỉa lỏng… có thể giải thích là do giảm co bóp và tiết dịch ở ruột,

do rối loạn bài tiết mật, do thiếu muối mật, mỡ không được nhũ tương hoá để

hấp thu [2].

- Rối loạn về chức năng đông máu: xuất huyết dưới da hay xuất huyết ở

các tạng phủ, cơ chế là do máu kém đông vì thiếu các yếu tố đông máu, do

mạch giãn vì áp lực tĩnh mạch cửa tăng, do thành mạch bị tổn thương vì các

chất độc gan không trung hoà được. Gan là nơi sản xuất các yếu tố đông máu.

Khi gan bị tổn thương nặng sẽ dẫn đến thời gian Prothrombin kéo dài do giảm

tổng hợp các protein tham gia đông máu [2].

Ngoài xuất huyết còn có các sao mạch ở trán, má, cổ ngực, vai… do các

vi mạch bị giãn nở. Giãn mạch ở ô mô út, mô cái, các ngón tay bị đỏ từng đám

nên được gọi là bàn tay son.

- Thiếu máu, giảm bạch cầu và tiểu cầu: Thiếu máu là do thiếu protid,

thiếu sắt, thiếu vitamin, do chảy máu, do các chất độc ức chế tủy xương, giảm

bạch cầu, tiểu cầu vì có sự tăng cường hoạt động của lách.

- Nồng độ protein huyết thanh giảm do chức năng tổng hợp của gan

giảm, Albumin giảm do gan giảm sản xuất, globulin không giảm mà tăng do tổ

chức võng nội mô tăng cường hoạt động chống nhiễm khuẩn và sinh kháng thể.

Rối loạn enzym trong máu như enzym ALT, AST là các enzym xúc tác sự

chuyển đổi nhóm amino của aspatat và alanin dẫn đến việc hình thành acid

Oxaloaxetic và acid Pyruvic. Đây là những enzym đều tăng lên trong hầu như

tất cả những bệnh gan, và có tương quan chặt chẽ với mức độ nặng hay nhẹ

của tình trạng tổn thương gan. Định lượng bilirubin huyết thanh cũng giúp

cho việc đánh giá chức năng gan vì chức năng gan giảm có thể dẫn đến hiện

tượng giảm kết hợp Bilirubin và giảm bài xuất các sắc tố mật đã được kết hợp

từ gan ra mật [2].

- Rối loạn chức năng thận: thiểu niệu, urê huyết cao… do thận bị tổn

thương thực thể vì các chất độc chung của cơ thể. Đó là hội chứng gan thận.

- Rối loạn chức năng thần kinh: hệ thần kinh trung ương bị nhiễm độc

do tác dụng của các chất độc đối với gan và các chất độc do chính gan không

trung hoà được. Biểu hiện của các rối loạn thần kinh là run tay, rối loạn ý thức

và cuối cùng là hôn mê [10], [11], [25], [26].

1.7. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng viêm gan B mạn tính:

- Đặc điểm lâm sàng

+ Trường hợp viêm gan B cấp nếu trong vòng 6 tháng mà chức năng gan

trở về bình thường, bệnh nhân lên cân, sức khoẻ bình phục nhanh chóng,

nhưng tồn tại HBsAg kéo dài trên 6 tháng trở đi thì người ta gọi là người lành

mang trùng (mang HBsAg mạn tính) .

+ Nếu trong trường hợp sau thời gian bị viêm gan cấp mà chức năng gan

luôn luôn thay đổi, vàng da lúc thuyên giảm, lúc tăng, enzym ALT, AST lúc

tăng, lúc giảm nhưng không bao giờ trở về bình thường. Kéo dài trên 6 tháng

thì bệnh nhân bị viêm gan mạn.

+ Các triệu chứng lâm sàng của viêm gan mạn là mệt mỏi kéo dài, người

khó chịu, mất ngủ, ăn không ngon miệng, gầy sút nhanh, đau cơ, đau khớp,

thỉnh thoảng phát ban. Trường hợp nặng có thể có phù, bụng có dịch, gan,

lách to [7], [10], [25], [26].

- Đặc điểm cận lâm sàng

Hóa sinh máu: chức năng gan thay đổi, lúc bình thường, lúc rối loạn.

+ Bilirubin trong máu bình thường hoặc tăng, chủ yếu là tăng

Bilirubin trực tiếp.

+ Enzym ALT và AST tăng gấp hơn 2 lần giới hạn trên bình thường.

+Tỷ lệ prothrombin giai đoạn đầu bình thường. Giai đoạn sau, nếu có

suy gan thì tỷ lệ prothrombin giảm.

+ Gama globulin tăng. Albumine trong huyết thanh giai đoạn đầu bình

thường. Nếu giai đoạn có suy gan thì Albumine giảm [10],[24].

1.8. Phân loại viêm gan B mạn tính:

- Dựa vào mô bệnh học:

Trước đây, viêm gan mạn tính được chia thành 2 loại theo tiêu chuẩn

mô bệnh học là:

+ Viêm gan mạn tính ổn định: tổn thương chủ yếu xảy ra ở khoảng cửa

tổ chức xơ phát triển rất ít, hoại tử tế bào gan cũng ít, tiểu thuỳ gan bình

thường, ranh giới tiểu thùy không bị phá vỡ.

+ Viêm gan mạn tính tiến triển: Hoại tử tế bào gan theo nhiều hình thái

khác nhau thoái hoá tế bào gan, ranh giới tiểu thùy bị phá vỡ nhưng không

làm đảo lộn cấu trúc tiểu thùy, không có nhân tái sinh [7], [10].

- Dựa vào nguyên nhân:

+ Viêm gan mạn tính do virus B

+ Viêm gan mạn tính tự miễn typ 1, 2, 3 dựa trên các xét nghiệm huyết

thanh.

+ Viêm gan mạn tính do nhiễm độc hoặc do thuốc.

+ Viêm gan mạn tính không rõ nguồn gốc [10],[24].

1.9. Điều trị viêm gan B mạn tính:

Mục đích chủ yếu của điều trị VGBMT là làm sạch virus, cải thiện quá

trình viêm và hoại tử của gan, nó có ý nghĩa quan trọng không chỉ đơn thuần

là khỏi bệnh mà còn dự phòng cho người bệnh thoát khỏi những biến chứng

nặng (xơ gan, ung thư gan) cũng như dự phòng lây lan bệnh cho cộng đồng

[7], [12], [26], [27], [28], [29], [30].

- Dùng các thuốc bảo vệ gan:

+ Interferon: là thuốc có tác dụng ức chế sự phát triển của virus, ngăn

ngừa sự xâm nhập của virus vào tế bào, điều hoà miễn dịch, chống ung thư.

Thuốc được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới [28]. Trong những

năm gần đây Interferon cũng bắt đầu được ứng dụng điều trị tại Việt Nam ,

Thuốc có đáp ứng tốt và giá thành cao. Mặt khác thuốc cũng có nhiều tác

dụng không mong muốn [7].

+ Lamivudine (Zeffix): là thuốc giống nucleoside thế hệ 2. Thuốc có tác

dụng kìm hãm sự nhân lên của virus do cơ ức chế men sao chép ngược của

virus, không độc tế bào. Thuốc chỉ có tác dụng ổn định bệnh chứ không diệt

được virus [26], [27].

+Adefovir Dipivoxil: là acyclic được công nhận năm 2002. Hiệu quả điều

trị VGBMT sau 1 năm thấp hơn Lamivudine (24% so với 32%). Sự đề kháng

thuốc đối với Adefovir rất hiếm, sau hai năm là 3%, sau 3 năm là 6%. Tỷ lệ

kháng thuốc của Lamivudine cao gấp 15- 20 lần Adefovir. Do tỷ lệ kháng thuốc

thấp nên có thể kéo dài thời gian điều trị [29].

+ Các thuốc có tác dụng hỗ trợ tế bào gan: có nhiều loại bao gồm các

vitamin chủ yếu là nhóm B, các thuốc hỗ trợ tế bào gan như Fortex, Legalon…

Các thuốc có tác dụng ổn định màng tế bào, khử các gốc tự do, trong đó đặc

biệt chú ý là các chế phẩm có nguồn gốc từ thiên nhiên.

2. CHẾ ĐỘ DINH DƯỠNG CHO NGƯỜI BỆNH VIÊM GAN B MẠN TÍNH

Mọi thức ăn khi vào cơ thể đều phải đi qua gan để chuyển hóa. Chức năng

gan như một cái máy lọc để bảo vệ cơ thể khỏi những chất có hại, và chịu trách

nhiệm cho việc sản xuất và sử dụng các chất dinh dưỡng. Vì vậy mọi thứ được tiêu

hoá đều có một ảnh hưởng đến gan: có tốt, có xấu. Đó là lý do tại sao cần sự phù

hợp cho mọi người ăn những thức ăn có lợi cho sức khỏe của gan. Đó là sự thật

quan trọng khi gan bị tổn thương. Hiểu những vấn đề cơ bản về dinh dưỡng là cần

thiết để có những chọn lựa thức ăn sáng suốt mà sẽ tốt cho gan.

Chế độ dinh dưỡng bao gồm cả 2 yếu tố chất và lượng đảm bảo đủ những

chất cần thiết để tồn tại và phát triển, bao gồm những chất cơ bản như đạm, bột,

đường, sinh tố và các yếu tố vi lượng, chất xơ tùy theo thể trạng và tính chất bệnh

lý của gan. Nhìn chung, ở cơ thể trưởng thành trung bình chúng ta cần từ 1.800 -

2.500 kcal, trong đó đạm là 1-1,5 gr/kg thể trọng; ngoài ra cơ thể chúng ta cũng cần

khoảng từ 20-30 gr chất xơ. Chất xơ này có nhiều trong trái cây và rau như cam,

chuối, cà rốt, đậu đỏ, đậu đen, gạo lức...; các loại rau muống, rau dền, cải cúc, rau

ngót [23].

Một chế độ ăn kiêng toàn diện đơn giản thì không thể tồn tại. Nhiều yếu tố

được coi không khả thi đối với một chế độ ăn kiêng gan được chuẩn hóa, bao

gồm những thay đổi giữa những loại khác nhau của bệnh gan (ví dụ: bệnh gan rượu

khác với bệnh gan mật nguyên phát) và các giai đoạn của bệnh gan (ví dụ: bệnh

gan ổn định không có nhiều tổn thương thì ngược với bệnh gan mất bù không ổn

định). Thậm chí một trong những rắc rối y khoa khác của những người này mà

không liên quan đến bệnh gan của họ, như tiểu đường hay bệnh tim, cũng phải được

chú ý trong chế độ ăn. Mỗi một người có những yêu cầu dinh dưỡng cá nhân của

bản thân, và những yêu cầu này có thể thay đổi cùng thời gian [3],[7].

Hầu hết mọi người với bệnh gan đều thấy rằng ăn nhiều bữa nhỏ trong suốt

cả ngày thì là phương pháp tốt nhất, đạt tối đa mức năng lượng và khả năng tiêu

hoá và hấp thu thức ăn. Tuy nhiên, nếu một người yêu cầu ăn ba bữa trong một

ngày thì hãy cố gắng theo câu nói “Ăn sáng như một ông vua, ăn trưa như một

hoàng tử, và ăn tối như một người cùng khổ”.

Điều quan trọng là nhớ sự khác nhau ở thành phần calori giữa những

nhóm thức ăn khác nhau. Trong khi protein và carbohydrate cung cấp 4 kcal trên

1 gram, thì lipid cung cấp 9 kcal trên 1 gram. Cũng quan trọng để biết rằng 1

gram cồn tương đương với 7 kcal. Vì vậy cồn thật sự cũng cung cấp nhiều năng

lượng trong cấu trúc năng lượng cho cơ thể hơn protein và carbohydrate và hơi

nhỏ hơn một chút so với cung cấp của lipid. Tuy nhiên, trong khi cồn có thể

cung cấp cho một người với một vài mức năng lượng thì nó hoàn toàn không có

giá trị dinh dưỡng. Vì vậy, cồn được coi là cung cấp “những calori vô nghĩa”

[23].

Người bị bệnh viêm gan B không cần phải quá chú trọng đến việc ăn kiêng

nhưng cần thanh đạm, dễ tiêu hóa, giàu dinh dưỡng. Dinh dưỡng hợp lý có lợi cho

tế bào gan phục hồi và tái sinh, tăng cường chức năng miễn dịch, thúc đẩy chức

năng gan hồi phục.

Hình 2.1: Những thức ăn cần thiết cho bệnh nhân viêm gan B mạn tính.

2.1. CHẾ ĐỘ DINH DƯỠNG CHO NGƯỜI BỆNH VIÊM GAN B MẠN

TÍNH

Một số tác giả cho rằng nguy cơ đầu tiên lại chính là sự thiếu dinh dưỡng,

chính vì vậy những người bị viêm gan mạn tính được khuyên nên tiếp tục ăn uống

một cách bình thường, tránh ăn kiêng quá mức cần thiết. Đồng thời để tạo ra sự

ngon miệng nên thay đổi nhiều loại thức ăn khác nhau, nên ăn nhiều rau quả và trái

cây để có đủ chất xơ cũng như nên ăn nhiều đạm nhất là đạm thực vật, uống thêm

một số thuốc bổ bổ sung vitamin và khoáng chất nhưng không nên uống hay ăn

những thực phẩm chứa nhiều chất sắt vì gan là cơ quan có chứa rất nhiều chất sắt.

Gan của người nhiễm siêu vi B có khuynh hướng giữ chất sắt nhiều hơn mức bình

thường vì vậy đưa vào cơ thể thêm nhiều chất sắt dễ làm tăng nguy cơ tổn thương

các cơ quan khác như tim, tụy [5], [6].

Ở những bệnh nhân viêm gan mạn tính, giai đoạn đầu có thể sự tiêu hoá chưa

gặp trở ngại nào nhưng về lâu dài hệ thống tiêu hóa sẽ yếu dần vì vậy dễ dẫn đến

thiếu dinh dưỡng. Các chất đa sinh tố, axit folic cũng được khuyến khích sử dụng

nhất là trong những trường hợp viêm xơ gan do rượu.

Khi viêm gan mạn tính có vàng da, khả năng bài tiết mật có thể giảm vì thế

sự hấp thu các chất béo trở nên khó khăn hơn, các loại sinh tố hòa tan trong mỡ như

Vitamin A, D, E, K sẽ không hấp thụ đủ vì vậy nên bổ sung thêm các loại sinh tố

trên mỗi ngày.

Việc bổ sung chất đạm trong viêm gan là cần thiết, vì chất đạm giúp cơ thể

nhanh phục hồi và có tác dụng chống đỡ lại bệnh tật, làm cho tế bào gan tăng

trưởng và phục hồi. Nên ăn các chất đạm có nguồn gốc từ thực vật như đậu xanh,

đậu nành và từ tôm cá… Cần tránh tuyệt đối bia rượu, đây là kẻ thù rất nguy hiểm

với gan. Ngoài ra cũng nên tránh béo phì vì bệnh béo phì dễ dẫn đến các bệnh tim,

mạch, huyết áp, tiểu đường, nhiễm mỡ gan làm cho gan đã bị viêm có nguy cơ trở

thành xơ gan, vì vậy những người viêm gan mạn tính cũng nên có chế độ tập thể

dục một cách phù hợp và giảm bớt các thức ăn có chất béo, cholesterol và đường;

nên có chế độ ăn uống ít calo hơn ở những người bị viêm gan mạn mà không mắc

bệnh béo phì. Nhưng cũng cần lưu ý ở những người béo phì bị viêm gan mạn vẫn

có thể bị thiếu dinh dưỡng trầm trọng mặc dù bên ngoài có vẻ như rất mập mạp [3],

[7], [23].

2.2. NHỮNG HƯỚNG DẪN DINH DƯỠNG NÓI CHUNG ĐỐI VỚI BỆNH

GAN

Một chế độ ăn tối ưu cho một người với bệnh gan ổn định có thể bao gồm

tất cả những yếu tố được liệt kê bên dưới. Chế độ ăn kiêng này tương tự một chế độ

ăn cho sức khỏe nói chung đối với mọi người- thậm chí cả người không bệnh gan

[13].

- 60 đến 70% carbohydrate- tổng carbohydrate cơ bản.

- 20 đến 30% protein - chỉ thịt nạc động vật hay protein thực vật

- 10 đến 20% mỡ đa không bão hòa

- 8 đến 12 ly nước (200-250ml) mỗi ngày

- 1000 đến 1500 miligram natri mỗi ngày

- Tránh số lượng quá nhiều các vitamin và khoáng chất, đặc biệt là

vitamin A, vitamin B3 và sắt.

- Không rượu

- Tránh những thực phẩm đã được chế biến

- Sử dụng thoải mái những trái cây và rau tươi

- Tránh sử dụng caffein quá mức - không nhiều hơn 1 đến 3 ly caffein -

chứa trong những túi đồ uống mỗi ngày.

- Bổ sung vitamin D và calcium

- Vitamin C

- Chất chống oxy hoá như vitamin E hay CoQ10

- Glucosamin chondroitin

2.2.1. Protein

Những Protein là những khối xây dựng chính mà cơ thể dùng để tạo những

thành phần cơ thể như cơ, tóc, móng, da và máu. Các protein cũng tạo nên

những thành phần quan trọng của hệ miễn dịch được gọi là kháng thể, nó giúp

chống lại bệnh tật Việc ăn protein bình thường thì quan trọng để xây dựng, duy

trì khối cơ và chữa lành bệnh. Khi mắc bệnh gan, do tế bào gan bị tổn thương

chức năng miễn dịnh cơ thể giảm nên cần ăn nhiều protein để phục hồi và tăng

cường chức năng miễn dịch. Gan mang trách nhiệm cho việc là những protein cũ

bị phá huỷ và tái tạo lại và những protein mới này thì luôn sẵn sàng. Những

protein cũng có thể được dùng như một nguồn năng lượng, mặc dù chúng không

có hiệu quả như carbohydrate và lipid.

Khi protein như là một thành phần sống còn của cơ thể, thì nhiều người tin

tưởng một cách sai lầm rằng họ ăn nhiều protein hơn thì sẽ tốt hơn. Đó là hướng

dẫn sai lầm mà đối với một vài người, gan suy yếu thì việc tiến hành dinh dưỡng

như thế có thể nguy hiểm thật sự. Rắc rối là một gan suy yếu thì không thể chuyển

hoá được nhiều protein như một gan khỏe mạnh. Và khi một gan suy yếu quá tải

với protein thì bệnh não có thể xảy ra. Những chế độ ăn cao protein đã được chứng

minh làm kiệt sức hoạt động của hệ thống enzyme cytochrome P-450, hệ thống có

trách nhiệm chuyển hoá thuốc. Hoạt động quá sức này làm gia tăng khả năng mà

thuốc quay trở thành độc tố bởi sản phẩm do gan tổn thương tạo ra [17], [23].

- Những đề nghị chế độ ăn đối với protein

Protein có nguồn gốc thực vật thì cũng tốt như protein có nguồn gốc từ động

vật, ăn protein phải được điều chỉnh theo cân nặng của cơ thể và mức độ của biểu hiện

suy yếu gan. Khoảng 0,8 gram protein trên kg cân nặng cơ thể (2,2 pounds) được đề

nghị cho chế độ ăn mỗi ngày của những người với bệnh gan ổn định. Tổng lượng

protein ăn vào vào khoảng 40 đến 100 gram mỗi ngày - tương đương từ 20 đến 30 %

số calori có nguồn gốc từ protein mà một người nên ăn vào thật sự. Khi chọn ăn đạm

động vật, điều quan trọng là chọn những miếng nạc của thịt (mỡ thấp) như cá, thịt gà

trắng, và thịt gà tây trắng. Hãy giữ quan điểm là cho dù những miếng thịt nạc nhất của

thịt đỏ thì lượng mỡ cũng cao. Trên thực tế, xấp xỉ 50 đến 75% lượng calori từ hầu hết

thịt đỏ đến thật sự từ mỡ. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với những người có bệnh

gan bởi vì sẽ thừa cân nặng, khi một chế độ ăn nhiều mỡ có thể gây ra những bất

thường liên quan đến gan của một người. Những người với bệnh gan không ổn định

(xơ gan mất bù) cần giảm phần trăm đạm động vật ăn vào và cần ăn hầu hết là đạm có

nguồn gốc thực vật. Một chế độ ăn đạm động vật cao (nó chứa nhiều amoniac) có thể

thúc đẩy một giai đoạn của bệnh não ở những người này [17], [23].

Bảng 2.1: Số lượng protein của những thức ăn thông thường

Thực phẩm

Số lượng protein (trong 100g thực phẩm ăn được)

Đậu tương (đậu nành) 34.0 g

Lạc hạt 27.5 g

Sữa bột toàn phần 27.0 g

Vừng (đen, trắng) 20.0 g

Thịt trâu thăn 22.8 g

Cá mối 22.1 g

Thịt bò loại 1 21.0 g

Cá ngừ 21.0 g

Thịt gà ta 20.3 g

Cá thu đao 20.0 g

Cá rô phi 19.7 g

Thịt lợn lạc 19.0 g

Tôm đồng 18.4 g

2.2.2. Carbohydrate

Chức năng chính của carbohydrate cung cấp năng lượng cho cơ thể.

Carbohydrate cung cấp năng lượng này dưới dạng glucose (đường máu). Có

hai loại carbohydrate. Loại đầu tiên được biết là carbohydrate đơn (những

đường có thể bẻ gẫy bằng tiêu hoá). Carbohydrate đơn có thể bao gồm chỉ

đường đơn, được gọi là monosaccharide và chúng gồm glucose, fructose

(đường trái cây), và galactose (một thành phần của những sản phẩm sữa). Hay

chúng có thể gồm những đường đôi, được gọi là disaccharide và chúng gồm

maltose (được dùng lên men bia), sucrose (đường mía) và lactose (đường sữa).

Carbohydrate phức bao gồm những polysaccharide (hàng trăm những

đường đơn được liên kết với nhau) và thường được biết như những tinh bột và

xơ. Carbohydrate phức không thể ngay lập tức sử dụng cho cơ thể như năng

lượng. Đầu tiên chúng phải bị bẻ gãy thành glucose bằng cách nấu hay quá

trình tiêu hoá. Ví dụ những carbohydrate phức như hạt ngũ cốc, quả hạch, hạt

giống, bánh mì, mì ống, gạo, thức ăn từ ngũ cốc, và khoai tây [21] [23].

Bảng 2.2: Số lượng carbohydrate của những thức ăn thông thường.

Thực phẩm

Số lượng carbohydrate (trong 100g thực phẩm ăn được)

Gạo tẻ 76.2 g

Bột mì 72.9 g

Ngô tươi 39.6 g

Đậu tương (đậu nành) 24.6 g

Chuối tiêu 22.2 g

Na 15.0 g

Táo tây 11.4 g

Khoai tây 21.0 g

Đậu xanh 53.1 g

- Những đề nghị về chế độ ăn của carbohydrate

Những người bệnh gan nên phấn đấu một chế độ ăn bao gồm xấp xỉ 60

đến 70 % carbohydrate, với carbohydrate phức chiếm số lượng nhiều hơn. Đối

với những người như vậy, một chế độ ăn cân bằng tốt sẽ bao gồm ít nhất 400

gram carbohydrate. Nếu có quá nhiều carbohydrate ở chế độ của một người,

điều này sẽ có kết quả giống ở việc ăn quá nhiều protein và mỡ. Nếu quá nhiều

protein được ăn và không đủ carbohydrate, thì gan sẽ bắt buộc phải dùng

protein như một nguồn năng lượng. Đấy là một việc dùng protein không hiệu

quả và không khôn ngoan, bởi vì protein có nhiệm vụ đầu tiên là xây dựng tế

bào và mô. Vì vậy, điều này sẽ đặt những stress đối với gan như là gây nên

thêm sự mệt mỏi hơn đối với gan để đảo ngược protein thành năng lượng hơn

là đảo ngược carbohydrate thành năng lượng. Nếu quá nhiều mỡ và không đủ

carbohydrate được ăn thì nhiều rối loạn về sức khỏe, bao gồm béo phì, có thể

gây ra. Điều đó có thể dẫn đến gan nhiễm mỡ hay bệnh gan nhiễm mỡ không

rượu (NAFLD) .

2.2.3. Lipid

Lipid là thành phần hiệu quả nhất của cơ thể cho việc dự trữ năng lượng

thừa. Chúng là một nguồn rất tập trung calori. Vì vậy, một chế độ ăn mỡ nhiều thì

có thể đưa đến việc tăng cân nhiều hơn so với một chế độ ăn cao protein hay

carbohydrate.

Điều quan trọng ở những người bệnh gan là hạn chế tối thiểu việc ăn vào

mỡ bằng cách tránh những thức ăn có thành phần mỡ cao . Mỡ quá nhiều trong

cơ thể thì có thể dẫn đến gan nhiễm mỡ. Mặc dù không phổ biến, có thể một vài

người bị gan nhiễm mỡ sẽ phát triển thành xơ gan và suy gan. Một gan nhiễm

mỡ có thể gây nên bệnh gan hay có thể góp phần làm xấu hơn những bệnh gan

khác [21], [23].

Bảng 2.3: Số lượng lipid của những thức ăn thông thường.

Thực phẩm

Số lượng lipid (trong 100g thực phẩm ăn được)

Dầu thực vật 99.7 g

Vừng (đen, trắng) 46.4 g

Bơ 83.5 g

Pho mát 30.9 g

Sữa bột toàn phần 26.0 g

Thịt gà ta 13.1 g

Sườn lợn (bỏ xương) 12.8 g

- Những lời khuyên về chế độ ăn đối với lipid

Như một quy luật chung, không nhiều hơn 30% lượng calori của con người

đưa vào từ mỡ. Đấy là việc hấp thu tối đa. Lý tưởng, một người nên nhắm vào

khoảng 10 đến 20%. Những người thừa cân thì vào khoảng 10%. Trong khi việc

quan trọng là ăn mỡ ít như có thể thì việc ăn một lượng nhỏ những mỡ tốt cho sức

khỏe hơn thì có một vài thuận lợi. Mỡ cung cấp cho cơ thể như một nguồn năng

lượng dự trữ. Vì vậy, acid béo thật sự cần thiết cho chức năng bình thường của

những chuyển hoá cơ thể. Thêm vào đó, con người cần chất béo để dễ dàng 4

vitamin tan trong chất béo A, D, E, và K, không có chất béo, những vitamin này có

thể trở nên thiếu trong cơ thể, thậm chí cả khi chúng được trong thành phần bổ sung

[21], [23].

2.2.4. Các vitamin và những khoáng chất

Gan là kho chứa chính của cơ thể cho việc dự trữ những chất dinh dưỡng. Nó

hấp thu và dự trữ rất nhiều vitamin và khoáng chất từ máu. Nếu chế độ ăn của một

người không cung cấp một số lượng thích hợp các chất dinh dưỡng này cho một

ngày nhất định thì gan sẽ giải phóng ngay số lượng cần thiết của chúng vào trong

máu. Tuy nhiên, khả năng của gan có giới hạn là không chuyển hoá các vitamin và

các khoáng chất. Bất kỳ số lượng dư thừa vitamin nào mà gan không thể chuyển

hóa được nói chung sẽ được đào thải ra khỏi cơ thể. Chưa nói đến tại một vài khía

cạnh, gan có thể trở nên bị nguy hiểm bởi xu hướng chuyển hoá quá mức thừa của

những vitamin và những khoáng chất. Vì vậy, những lượng bổ sung quá nhiều

vitamin và khoáng chất có thể có hại nhiều hơn là tốt đối với một cái gan đã tổn

thương thật sự [15], [21], [23].

Các vitamin

Các vitamin là những chất hữu cơ được đến từ những động vật và thực vật.

Chúng là thành phần cơ bản để phát triển, lớn lên và hoạt động của con người. Các

vitamin được biết như những chất dinh dưỡng vi lượng bởi vì chúng được yêu cầu

bởi cơ thể chỉ một số lượng nhỏ (so với protein hay nước làm ví dụ) để duy trì sức

khoẻ. Bình thường số lượng được yêu cầu được cung cấp bằng một chế độ ăn đầy

đủ. Cũng giống như thức ăn, và dược phẩm, các vitamin cũng phải đi qua gan để

được chuyển hóa. Nếu ăn vào quá nhiều, bất kỳ vitamin nào cũng có khả năng gây

nên những vấn đề sức khoẻ nghiêm trọng. Đấy là sự thật thậm chí đối với những

người có chức năng gan bình thường. Tuy nhiên, ở những người có bệnh gan thì

khả năng cho tổn hại sẽ cao hơn nhiều. Phụ thuộc vào mức độ trầm trọng của tổn

thương gan mà người nào đó thậm chí có thể cần phải loại bỏ khỏi chế độ ăn của họ

những thức ăn mà nó làm tăng mạnh những vitamin được xác định. Chúng có thể

bao gồm những thức ăn thông thường như một vài món ăn ngũ cốc buổi sáng [15],

[21], [23].

Ở mặt khác, một vài bệnh gan có khuynh hướng khiếm khuyết vitamin và

phải ăn bổ sung vitamin. Nếu bác sĩ của bạn khuyên một bổ sung vitamin cụ thể thì

chắc chắn là nó được uống cùng bữa ăn để được hấp thu vào trong cơ thể thích

đáng. Hơn nữa những vitamin bổ sung nên được bảo quản ở chỗ mát mẻ và khô

ráo, vì hiệu lực của chúng có thể bị giảm bởi ánh sáng mặt trời và ẩm ướt.

Các vitamin có thể được phân loại dựa vào đặc điểm hoà tan của chúng – tan được

trong mỡ và tan được trong nước. Sự khác biệt này có hàm ý quan trọng cho những

người bệnh gan và sẽ được biểu hiện ở những phần sau trên những loại vitamin

khác nhau [15], [21], [23].

- Các vitamin tan trong mỡ

Các vitamin tan trong mỡ bao gồm vitamin A, D, E và K. chúng được hấp thu

vào cơ thể chỉ với sự giúp đỡ của mỡ hay mật. Những vitamin này được tích lũy ở

trong những tế bào mỡ. Ở những người với bệnh gan ứ mật ( bệnh gan mà có sự suy

yếu hay hư hỏng dòng chảy của mật bên trong ống mật), chúng có thể làm hấp thu

kém cho cơ thể. Ở những trường hợp này, bổ sung vitamin là cần thiết. Loại

vitamin tốt nhất để dùng ở trường hợp này là một vitamin tan trong dầu nhưng có

cấu tạo tan trong nước được. Mỗi một vitamin tan được trong mỡ sẽ được thảo luận

chi tiết thêm ở dưới [15] [23].

Vitamin A.

Vitamin A thì cần để duy trì thị lực bình thường, và chủ yếu cho hệ miễn

dịch. Nó cũng đóng vai trò sống còn trong việc xây dựng và duy trì sức khỏe cho

da, xương, răng. Khoảng 80 đến 90% tổng số trong cơ thể được dự trữ dưới dạng

retinoid được tìm thấy trong gan. Gan có quyết định quan trọng là nơi nào vitamin

A được cần nhất trong cơ thể.

Ăn quá nhiều vitamin A (liều xấp xỉ 25.000 đến 50.000 IU mỗi ngày) là rất

nguy hiểm cho gan vì nó có thể gây nên bệnh gan được biết như thừa vitamin

A.Trong thực tế, tình trạng này có thể dẫn đến xơ gan. Những người với bệnh gan

nên tránh ăn gan vì nó chứa một lượng lớn vitamin A, hơn hẳn bất kỳ cơ quan nội

tạng nào khác. Khả năng của vitamin A gây nên ngộ độc gan có thể tăng bởi việc

uống rượu hay dùng quá nhiều những vitamin tan trong dầu khác (như vitamin E)

hay việc thiếu vitamin C. Ngộ độc vitamin A có thể biểu hiện chỉ một vài giờ sau

khi một người dùng một liều quá lớn. Những người bệnh gan được khuyên giảm

dùng vitamin này.

Vitamin A được tìm thấy ở gan động vật và những trái cây cam và xanh, và

những rau như măng tây, bông cải xanh, cà rốt, và dưa đỏ. Nguồn gốc từ động vật

chứa vitamin A có khuynh hướng chứa hàm lượng vitamin này nhiều hơn (6 lần) so

với nguồn gốc từ thực vật. Vì thế, người ta khuyên những người mắc bệnh gan

tránh dầu gan cá moruy và gan động vật. Rau thì có thể ăn tự do. Tuy nhiên, thực

hiện dùng sinh tố hàng ngày với lượng lớn trái cây và rau nên tránh ở những người

mắc bệnh gan nặng [15] [21]. [23].

Vitamin D

Vitamin D, một vitamin tan trong mỡ, được coi như “vitamin ánh nắng mặt

trời”. Đó là vì nhờ có ánh sáng mặt trời mới biến đổi cholesterol thành vitamin D.

Vitamin D thì quan trọng trong việc hấp thu và chuyển hóa calcium. Vitamin này

cho phép calcium có khả năng vào xương. Vitamin D thì quan trọng đặc biệt đối

với những người mắc bệnh gan mãn tính, những người có khuynh hướng bị hủy

xương hay loãng xương. Những người này được khuyên dùng vitamin D bổ sung

hay ăn những thức ăn chứa nhiều vitamin D.

Những thức ăn chứa dồi dào lượng vitamin D bao gồm sữa (nó được bổ sung

vitamin D), cá ở xứ lạnh, dầu cá, dầu gan cá moruy, và lòng đỏ trứng [15]. [21], [23].

Vitamin E

Vitamin E được biết như tocopherol, hoạt động như một chất chống oxy hóa

trong cơ thể. Một vài nghiên cứu cho thấy rằng việc bổ sung vitamin E có thể bảo

vệ gan. Vì vậy những người uống rượu thường xuyên, và đặc biệt những người bị

bệnh gan do rượu, có thể có lợi từ việc bổ sung vitamin E.

Những thực phẩm chứa nhiều vitamin E là dầu thực vật, các loại ngũ cốc,

xanh nhiều lá sẫm màu, quả hạch và họ đậu. Những thức ăn này được xếp trong

nhóm những acid béo dạng chuỗi không bão hòa. Một vài nhà nghiên cứu tin rằng

điều trị bằng vitamin E có thể là một hỗ trợ có lợi cho điều trị viêm gan virus.

Trong một vài nghiên cứu được thực hiện ở những bệnh nhân mắc viêm gan virus C

mạn, tỉ lệ đáp ứng được cải thiện bởi việc thêm vào vitamin E trong việc điều trị

bằng interferon và ribavirin. Do đó, đã có đề nghị là vitamin E có thể làm chậm sự

tiến triển của bệnh gan; trì hoãn đợt cấp và giảm mức độ của bệnh, giảm tác dụng

phụ khi dùng ribavirin là những thuận lợi có liên quan đặc biệt đến vitamin E

trong điều trị với interferon và ribavirin [15], [21], [23].

Vitamin K

Vitamin K được dùng bởi gan để sản xuất protein prothrombin. Prothrombin,

như đã được thảo luận , thì có vai trò chủ yếu cho việc cầm máu. Không có vitamin

K, con người sẽ chảy máu như bị cắt. Vitamin K cũng giúp giữ cho xương cứng

chắc. Vitamin K đóng một vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi glucose thành

glycogen. Glycogen sau đó được dự trữ ở gan, tạo nên năng lượng dữ trữ. Một nửa

vitamin K trong cơ thể được tạo bởi vi khuẩn cộng sinh mà sống tự nhiên trong

đường ruột. Phần còn lại được lấy từ nguồn thức ăn. Những thực phẩm chứa dồi

dào vitamin K gồm spinach và những rau nhiều lá xanh, cà rốt, khoai tây, món ăn

làm từ ngũ cốc, và gan. Không có một bổ sung hàng ngày được yêu cầu đối với

vitamin K [15], [21], [23].

- Các vitamin tan trong nước

Những vitamin tan trong nước bao gồm vitamin C và các vitamin B. Phức

hợp vitamin B gồm 8 vitamin B khác nhau. Không cần mỡ hay mật để hấp thu các

vitamin tan trong nước từ đường tiêu hóa, và vì thế sự thiếu những vitamin này

không thường xảy ra ở những người mắc bệnh gan ứ mật. Những vitamin tan trong

nước được dự trữ trong cơ thể hay được dùng để thỏa mãn những yêu cầu hàng

ngày. Lưu giữ những vitamin này có thể kéo dài nhiều tháng. Vì thế, những người

bệnh gan hiếm khi có thiếu một vitamin tan trong nước. Một ngoại lệ cho quy luật

này: những người mắc bệnh gan do rượu. Ở nhóm này thường yêu cầu việc bổ

sung vitamin tan trong nước bởi vì thiếu dinh dưỡng xảy ra bởi rượu trong cơ thể.

Việc ngộ độc bởi những vitamin tan trong nước thì hiếm, vì những liều quá nhiều

những vitamin này có thể dễ dàng thải ra khỏi cơ thể qua mồ hôi hay nước tiểu

[15], [21], [23].

Vitamin C

Vitamin C được biết như axit ascorbic là một chất chống oxy hóa. Vitamin

này hỗ trợ cho việc lành vết thương bị cắt và bầm tím và cũng giúp cứng chắc

xương, sụn, răng và da. Thêm vào đó, vitamin C làm tăng việc hấp thu sắt. Vitamin

này giúp trong quá trình sản xuất interferon – một protein của hệ miễn dịch được

tạo bởi cơ thể, cho nên việc bổ sung vitamin này có thể có lợi trong việc điều trị

những bệnh nhân viêm gan virus C và B. Do đó, một vài chuyên gia cảm thấy rằng

vitamin C có thể làm chậm đợt bùng phát của bệnh và giảm mức độ của việc thiếu

máu liên quan đến ribavirin ở một vài bệnh nhân viêm gan virus C được điều trị

bằng interferon và ribavirin. Hầu hết những trái cây tươi và rau chứa hàm lượng

phong phú vitamin C. Người ta có thể thấy rằng việc nấu phá huỷ vitamin C bên

trong thực phẩm. Hàm lượng vitamin C được đề nghị là khoảng 60 đến 72 mg mỗi

ngày [15], [21], [23].

Phức hợp vitamin B

Các vitamin B gồm có 8 vitamin khác nhau: thiamine (vitamin B1),

riboflavin (vitamin B2), niacin (vitamin B3), pantothenic (vitamin B5), pyridoxine

(vitamin B6), cyanocobalamin (vitamin B12), folate, và biotin. Tất cả chúng, ngoại

trừ việc quá liều niacin, là an toàn đối với người bệnh gan. Sau đây là một thảo luận

về một số vitamin.

+Thiamine (vitamin B1) thì cần thiết cho việc chuyển hoá các

carbohydrate thành năng lượng. Thiamin có thể tìm thấy ở các loại ngũ cốc

hay những món ăn từ ngũ cốc, bánh mì, gạo nâu, thịt lợn, gan, và đậu nành.

Khoảng 5 mg là hàm lượng tối đa thiamine có thể được hấp thu mỗi ngày từ

việc bổ sung.

+ Riboflavin (vitamin B2) thì quan trọng cho việc sản xuất năng lượng.

Nó giúp đẩy mạnh sự tăng trưởng và sửa chữa những cơ quan và mô, đặc biệt

là da, màng nhầy, mắt, và thần kinh. Nó cũng có vai trò trong việc tiêu hóa tốt.

Riboflavin có thể tìm thấy ở ngũ cốc còn nguyên vỏ và cả ở những sản phẩm

ngũ cốc tinh chế, cũng như ở gan, sữa và những rau nhiều là xanh.

+ Pyridoxine (vitamin B6) thì cần cho việc chuyển hoá hiệu quả protein,

carbohydrate,và mỡ. Nó hỗ trợ trong việc sản xuất các hormon và tế bào hồng

cầu. Vitamin B6 được tìm thấy nhiều trong thực phẩm (thí dụ như gan, cá hồi,

quả hạch, gạo nâu, hầu hết các loại rau và thịt) [15], [21], [23].

Các khoáng chất

Các khoáng chất là các chất vô cơ, nghĩa là chúng không được tạo ra bởi

thực vật cũng như động vật. Chúng có ở trong đất và nước và được tập hợp lại ở

những mức độ thay đổi khác nhau để thành tất cả cuộc sống của động và thực vật.

Các chất khoáng có vai trò quan trọng trong hầu hết tất cả các chức năng của cơ thể.

Những khoáng chất lớn bao gồm những khoáng mà cơ thể cần với khối lượng lớn.

Những khoáng chất lớn này thì đặc biệt liên quan đến những người mắc bệnh gan

bao gồm calcium và nartri. Những khoáng chất nhỏ là những khoáng chất mà cơ thể

cần với số lượng một ít. Những khoáng chất ít có liên quan đặc biệt đến những

người mắc bệnh gan gồm kẽm, sắt, và selenium. Sau

đây là việc thảo luận về những khoáng chất này [18], [22], [23].

Calcium (Ca)

Calcium có vai trò quan trọng trong sức khỏe răng và xương, co cơ bình

thường, và đông cục máu. Loãng xương là đặc trưng của việc giảm khối lượng

xương và hậu quả là gia tăng nguy cơ gẫy xương. Loãng xương thì là thông

thường đối với nhiều bệnh gan. Quan trọng đối với tất cả những người bệnh gan

mạn tính là sử dụng những thực phẩm giàu calcium và bổ sung chế độ ăn của họ

khoáng chất này. Trên thực tế, như những gì đã nêu trên, ý kiến tốt đối với tất cả

những người mắc bệnh gan mạn tính là dùng bổ sung cả calcium và vitamin D.

Những nguồn phong phú calcium gồm những sản phẩm bơ sữa, rau nhiều lá

xanh đậm, đậu hũ, và cá mòi có xương đóng hộp. Ngoài ra nhiều thực phẩm như

nước cam ép cũng làm tăng thêm calcium. Ăn quá nhiều calcium có thể cản trở

sự hấp thu sắt và kẽm. Thêm vào đó, việc dùng quá nhiều calcium cũng có thể

gây nên sự thay đổi về những vấn đề sức khỏe, bao gồm: sỏi thận, táo bón, và

mệt mỏi [18], [22], [23].

Natri (Na)

Natri là một khóang chất mà cơ thể yêu cầu để duy trì một cách cân đối sự

cân bằng nước. Natriclua thường được biết như muối. Cơ thể yêu cầu khoảng 50

đến 400 mg natri mỗi ngày. Cho đến bây giờ, trung bình người Mỹ tiêu thụ khoảng

25 đến 30 lần số lượng này! Trong khi việc sử dụng quá nhiều muối này không

nguy hại đến hầu hết những người khoẻ mạnh, thì nó có thể gây nên những vấn đề

cho một người bị bệnh gan tiến triển.

Xơ gan mất bù có thể dẫn đến dịch cổ trướng (việc lắng đọng bất thường

dịch trong bụng. Những người có báng bụng phải có một chế độ ăn hạn chế muối

nghiêm khắc. Thịt, đặc biệt là thịt đỏ, có hàm lượng natri cao. Cho nên, tham gia

một chế độ ăn kiêng có thể trở thành cần thiết đối với những người đang báng bụng

trầm trọng [15], [22], [23].

Sắt (Fe)

Có hai loại sắt cho chế độ ăn. Sắt Heme (động vật) được tìm thấy ở những

thực phẩm động vật, như thịt đỏ, được hấp thu tốt từ chế độ ăn. Sắt không heme ở

những thực phẩm thực vật được hấp thu ít vào trong cơ thể. Số lượng sắt trong cơ

thể thường vào khoảng 3 đến 4 gram (50 mg/kg ở nam và 40 mg/kg ở nữ). Sắt là

một phần quan trọng của hemoglobin, một protein chịu trách nhiệm phân phát

oxygen cho các tế bào và cơ quan trong cơ thể của sắt với năng lượng và sức khỏe.

Những người mắc bệnh gan thường cho rằng khi họ cảm thấy yếu và mệt, họ cần

dùng bổ sung sắt. Quá tải sắt trong cơ thể của một bệnh nhân gan có thể là rất nguy

hiểm. Trong việc quá thừa, thì sắt là độc chất của gan và có thể dẫn đến xơ gan, suy

gan, và ung thư gan. Những người mắc bệnh này và những người mắc bệnh có hàm

lượng sắt cao bởi những rối loạn khác của gan nên tránh nấu ăn với đồ nấu bằng

gang và nên tránh ăn với những dụng cụ bằng gang. Những người này chỉ nên ăn

khối lượng trung bình thức ăn có hàm lượng sắt cao [15], [22], [23].

Bảng 2.4: Hàm lượng sắt của một vài thực phẩm thông dụng

Thực phẩm

Hàm lượng sắt (trong100g thực phẩm ăn được)

Mộc nhĩ 56.1g

Nấm hương 35.0 g

Cần tây 8.0 g

Tiết lợn 20.4 g

Gan lợn 12.0 g

Rau giền trắng 6.1 g

Kẽm (Zn)

Kẽm có vai trò chủ yếu đối với chức năng bình thường của hệ miễn dịch,

quan trọng đối với cảm giác vị giác và khứu giác, và có thể bảo vệ gan khỏi sự tổn

thương hóa học. Một vài nhà nghiên cứu tin rằng kẽm thậm chí có thể bảo vệ cơ thể

khỏi các virus, bao gồm cảm lạnh thông thường. Thêm kẽm đối với điều trị

interferon ở những bệnh nhân viêm gan virus B có thể gia tăng tỉ lệ đáp ứng tiệt trừ

virus. Nguồn phong phú kẽm gồm thịt bò, gan, men làm bia, hải sản, lòng đỏ trứng,

cá, và đậu lima [15], [22], [23].

Selenium (Se)

Selenium là một chất chống oxy hóa mà có thể kích thích hệ miễn dịch và

bảo vệ chống lại những ung thư nào đó. Selenium và vitamin E họat động cùng

nhau để giúp duy trì sức khỏe tim mạch và gan và giúp trong việc sản xuất kháng

thể [23].

2.3. NHỮNG LỜI KHUYÊN VỀ CHẾ ĐỘ ĂN KIÊNG KHÁC

Một vài thực phẩm và các chất bổ sung có liên quan đến viêm gan và những

rối loạn về gan. Vì vậy, người ta đề nghị rằng những người mắc bệnh gan tránh

những thực phẩm và những chất bổ sung được bàn luận trong phần này. Những vấn

đề về dinh dưỡng khác mà mọi người thường có bao gồm việc dùng nước và

caffeine ảnh hưởng đến gan như thế nào. Những vấn đề liên quan này sẽ được lưu

tâm trong phần này.

2.3.1. Thực phẩm và những bổ sung cần tránh

Động vật có vỏ chưa chế biến (sò và hến) là nguồn cực nhiều gây viêm

gan virus A. Những người bệnh gan mạn tính thì có nguy cơ gia tăng các biến

chứng và có kết quả xấu nếu họ bị nhiễm virus viêm gan A. Sụn cá mập là một

bổ sung dinh dưỡng được xem có ý nghĩa đem lại điều có lợi cho một vài người

mắc bệnh ung thư. Điều này có thể, mặc dù không được chứng minh, có sự liên

quan giữa sụn cá mập và viêm gan do thuốc. Những người mắc bệnh gan mãn

được khuyên tốt nhất nên tránh bổ sung chất này cho đến lúc nó được đánh giá

trong tương lai [22], [23], [26].

2.3.2. Uống nước đầy đủ

Cơ thể có khoảng 70% là nước. Yêu cầu nước để thực hiện những chức năng

chủ yếu của cơ thể. Quan trọng đối với mọi người là phải uống ít nhất 6 đến 8 ly

nước ( 1ly khoảng 220 ml) nước mỗi ngày. Điều quan trọng nhất đối với những

người mắc bệnh viêm gan virus B hay C, mà những người đang điều trị interferon

phải ngăn chặn tình trạng thiếu nước. Những người này nên tăng việc uống nước

của họ ngoài số lượng được đề nghị phải ít nhất một gallon (3,78 lít) nước mỗi

ngày. Những người mắc bệnh gan thường cho rằng việc uống nước quá nhiều sẽ

giúp họ một cảm giác cải thiện về sức khỏe. Và những người đang dùng interferon

thường cho rằng uống nước thoải mái giúp họ giảm một vài tác dụng phụ của thuốc.

[15], [23], [26].

2.3.3. Ảnh hưởng của caffeine lên những người mắc bệnh gan

Caffeine thì có ở trong cà phê, trà, ca cao, cola, và vài dược phẩm bán không

cần đơn của bác sĩ. Caffeine được chuyển hoá thông qua gan. Tuy nhiên, bản thân

caffeine không có hại trực tiếp đến gan. Trên thực tế, một nghiên cứu thậm chí đã

phát biểu rằng cà phê, không như những thức uống chứa cafferine khác, có thể làm

chậm lại tiến trình của bệnh gan đến xơ gan. (kết luận này không được chứng minh

bởi các nghiên cứu khác). Một cách điều độ (một đến hai tách đồ dùng chứa

caffeine mỗi ngày), caffeine có thể làm giảm sự mệt mỏi liên quan đến bệnh gan

trong một chừng mực nào đó [23], [26].

2.4. QUY TRÌNH CHĂM SÓC ĐIỀU DƯỠNG:

Dựa trên giá trị dinh dưỡng của từng loại thức ăn, để xây dựng chế độ ăn

cho người bệnh viêm gan B mạn tính. Người điều dưỡng nên áp dụng qui trình 5

bước để xây dựng một thực đơn phù hợp cho người bệnh cho phù hợp với giai đoạn

của bệnh, thói quen ăn uống, hoàn cảnh kinh tế, sự dụng thực phẩm sẵn có tại địa

phương. Thực đơn cho người bệnh đa dạng đủ chất và lượng, sử dụng nhiều loại

thực phẩm trong ngày [26].

- Bước 1: Nhận định

+ Hỏi: Khai thác bệnh sử, tiền sử của bệnh, thói quen ăn uống, thức ăn

đã dùng, chất bài tiết (số lần, tính chất, màu sắc, số lượng), có buồn

nôn hay nôn không.

+ Quan sát: Da niêm mạc, thể trạng tinh thần người bệnh.

+ Khám: Miệng lưỡi người bệnh có sạch hay bẩn, gõ bụng đánh giá

độ to của gan lách, có trướng hơi hay không.

+ Tham khảo hồ sơ: Theo dõi thường xuyên các xét nghiệm về chức

năng gan, chẩn đoán của bác sĩ.

- Bước 2: Chẩn đoán điều dưỡng

+ Người bệnh đang ở giai đoạn nào của bệnh.

+ Nhu cầu dinh dưỡng cần giải quyết.

- Bước 3: Lập kế hoạch chăm sóc

+ Xây dựng thức đơn phù hợp cho người bệnh.

+ Giúp ngưòi bệnh có kiến thức về dinh dưỡng, biết cách chế biến

thức ăn phù hợp, cách phòng bệnh.

- Bước 4: Thực hiện kế hoạch chăm sóc

+ Cho người bệnh ăn theo kế hoạch đề ra.

- Bước 5: Lượng giá

+ Đáp ứng của người bệnh đối với chế độ ăn.

+ Mức độ cải thiện của bệnh.

+ Sự hiểu biết của người bệnh về dinh dưỡng.

2.5. VÍ DỤ MỘT VÀI MẪU THỰC ĐƠN: [23]

Thực đơn 1:

Bảng 2.5: Thực đơn cho bệnh nhân viêm gan B mạn tính (Ăn mềm)

Giờ Thứ 2 + 5 Thứ 3 + 6 + CN Thứ 4 + 7

ăn

7 giờ Sữa tách bơ 200 ml: Sữa chua tách béo: (Sữa Sữa tách bơ 200 ml:

(Sữa bột tách bơ 25g; bột tách bơ 25g; (Sữa bột tách bơ 25g;

Đường glucose 10g) Đường glucose 10g) Đường glucose 10g)

Bánh bột khoai hấp Bánh bột hấp 2 cái: (Bột Bánh mì bơ (Bánh mì

2cái: (Bột khoai lang khoai lang 50g; Đường 30g: Bơ 5g)

hoặc khoai sọ 50g; glucose 20g)

Đường glucose 20g)

11 Cháo thịt (Gạo 100g; Miến nấu rau + tôm nõn Phở bò xào (Bánh phở

giờ Thịt nạc 30g; Dầu 5g; (Miến 100g; Tôm nõn 200g; Thịt bò 30g;

Hành 5g) khô 10g; Rau cải xanh Rau cải trắng 100g;

Chuối tiêu 100g 100g; Dầu 5g; Hành mùi Dầu 5g; Hành mùi

10g) 10g)

Quýt ngọt 200g Chuối tiêu 100g

14 Nước mía 250ml Nước cam 300ml (Cam Nước cam 300ml

giờ ngọt 300g; Đường (Cam ngọt 300g;

glucose 15g) Đường glucose 15g)

16 Súp rau thịt + bún: Bún nấu canh rau thịt Cháo trứng gà (Gạo

giờ (Bún 150g; Bắp cải (Bún 300g; Thịt gà nạc 100g; Trứng gà 1quả;

100g; Khoai tây 30g; Rau cải trắng 100g; Hành mùi 10g; Dầu

150g; Hành mùi 10g; Dầu 5g; Hành mùi 10g) ăn 5g)

Dầu 5g) Nho ngọt 100g Hồng ngọt 1 quả

Quýt ngọt 200g (150g)

Chè bột sắn dây Mứt chuối 50g Bánh trôi bột sắn (Bột 19

200ml (Bột sắn 25g; sắn 30g; Đường giờ

Đường glucose 15g) glucose 15g)

Giá trị dinh dưỡng: Năng lượng 1650 – 1750 Kcal; Protein 65g (50% là protein

động vật); Lipid 13 – 15g; Glucid 300 – 320g.

Thực đơn 2:

Bảng 2.6: Thực đơn cho bệnh nhân viêm gan B mạn tính (Ăn cơm)

Thứ 2 + 5 Thứ 3 + 6 + CN Thứ 4 + 7 Giờ

ăn

7 Sữa chua 250 ml + Sữa chua vớt béo: Sữa chua vớt béo 200

giờ (200ml + đường glucose ml + đường đường glucose 10g

10g). Bánh bột hấp 2 glucose10g Bánh bột khoai sọ 2cái:

cái: (Bột khoai lang 50g; Khoai lang luộc 200g (Bột khoai sọ 50g;

Đường glucose 20g) Đường glucose 20g)

11 Cơm + thịt + rau (Gạo Cơm + thịt + rau Cơm + rau + trứng

giờ tẻ 100g; Thịt hấp cà (Gạo tẻ 100g; Thịt nạc (Gạo tẻ 100g; Trứng

chua: (Thịt nạc 30g; Cà 30g; Bí xanh 200g; gà 1quả; Dầu 3g;

chua 150g; Dầu 5g; Hành mùi 10g; Dầu 5g) Khoai tây 100g; Cải

Hành 5g) cúc 100g) Táo ngọt 100g

Canh cải xoong 100g Quýt ngọt 200g

14 Nước cam 300ml (Cam Nước cam 300ml (Cam Nước mía 250ml

giờ ngọt 300g; Đường ngọt 300g; Đường

glucose 15g) glucose 15g)

Miến nấu rau + tôm Phở bò xào (Bánh phở 16 Bún nấu canh rau (Bún

nõn: 400ml (Miến 200g; Thịt bò 30g; giờ 300g; Thịt gà nạc 30g;

100g; Tôm nõn khô Rau cải trắng 100g; Rau cải trắng 100g; Dầu

10g; Cải cúc 100g; Dầu Dầu 5g; Hành mùi 5g; Hành mùi 10g; Cà

5g; Hành mùi 10g) 10g) chua 100g)

Chuối 100g Chuối khô 50g Chuối tiêu 100g

19 Bánh trôi bột sắn 250ml Chè bột sắn dây 250ml Bánh trôi bột sắn (Bột

giờ (Bột sắn 30g; Đường (Bột sắn dây 20g; sắn 30g; Đường

glucose 20g) Đường glucose 20g) glucose 20g)

Giá trị dinh dưỡng: Năng lượng 1700 – 1800 Kcal; Protein 37g (50% là protein

động vật); Lipid 13 – 15g; Glucid 330 – 380g.

KẾT LUẬN

Cùng với một số bệnh khác, bệnh viêm gan B mạn tính đang tăng

nhanh ở nước ta trong những năm gần đây. Điều đó liên quan đến những

thay đổi về chế độ ăn uống và lối sống. Đối với người bệnh viêm gan B mạn,

chế độ ăn là một yêu cầu thiết yếu để bảo vệ gan vì gan là một cơ quan đảm

nhận nhiều chức năng chuyển hóa quan trọng trong cơ thể. Mặt khác gan

còn là một cơ quan khử độc quan trọng trong cơ thể đối với các độc tố nội

sinh, các độc tố do vi khuẩn, độc tố rượu, của thuốc…

Ngoài ra gan còn là cơ quan dự trữ vitamin A, D, K, chuyển

carotene thành vitamin A, dự trữ các yếu tố khoáng như sắt, đồng… cần

cho chuyển hóa cơ thể. Do đó khi bị viêm gan thì hàng loạt rối loạn về

chuyển hóa sẽ xảy ra do đó việc điều trị bằng thuốc kết hợp với chế độ

nghỉ ngơi, dinh dưỡng hợp lý thì tế bào gan có thể được tái tạo, chức năng

gan có thể hồi phục hoặc không tiến triển nặng hơn. Là người điều dưỡng

với vai trò chăm sóc người bệnh, những hiểu biết về bệnh và chế độ dinh

dưỡng cho người bệnh viêm gan B mạn sẽ giúp người điều dưỡng viên thực

hiện tốt nhiệm vụ của mình qua đó nâng cao chất lượng chăm sóc giúp

người bệnh hạn chế những biến chứng không mong muốn có thể xảy ra.

Điều quan trọng là sử dụng thực phẩm sao cho vẫn đủ năng lượng cho cơ

thể nhưng phải hạn chế được sự nặng lên của bệnh, góp phần duy trì và

tăng cường sức khỏe cho người bệnh.

MỤC LỤC

Trang

1 ĐẶT VẤN ĐỀ

2 1. ĐẠI CƯƠNG

2 1.1. Định nghĩa

2 1. 2. Hình thể và cấu trúc của virus viêm gan B

2 1. 3. Các dấu ấn (marker) trong viêm gan virus B

4 1. 4. Đường lây truyền virus viêm gan B

4 1. 5. Diễn biến tự nhiên của nhiễm HBV

5 1. 6. Sinh lý bệnh viêm gan vi rút B mạn tính

6 1. 7. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng viêm gan B mạn tính

7 1.8. Phân loại viêm gan B mạn tính

8 1.9. Điều trị viêm gan B mạn tính

2. CHẾ ĐỘ DINH DƯỠNG CHO NGƯỜI BỆNH VIÊM GAN B 9 MẠN TÍNH

10 2.1. Chế độ dinh dưỡng cho người bệnh viêm gan B mạn tính

11 2.2. Những hướng dẫn dinh dưỡng nói chung đối với bệnh gan

12 2.2.1. Protein

14 2.2.2. Carbohydrate

2.2.3. Lipid 15

16 2.2.4. Các vitamin và những khoáng chất

23 2.3. Những lời khuyên về chế độ ăn kiêng khác

23 2.3.1. Thực phẩm và những bổ sung cần tránh

24 2.3.2. Uống nước đầy đủ

24 2.3.3. Ảnh hưởng của caffeine lên những người mắc bệnh gan

25 2.4. Quy trình chăm sóc điều dưỡng

26 2.5. Ví dụ một vài mẫu thực đơn

28 KẾT LUẬN

DANH MỤC VIẾT TẮT

- ALT : Alanin aminotransaminase.

- AST : Aspartat aminotransaminase.

- Anti HBc : Kháng thể kháng kháng nguyên lõi của HBV.

(Antibody against Hepatitis core antigen).

- Anti HBe : Kháng thể kháng kháng nguyên e của HBV.

(Antibody against Hepatitis B e antigen).

- Anti HBs : Kháng thể kháng kháng nguyên bề mặt của HBV.

- HBV : Virus viêm gan B (Hepatitis B virus).

- HBeAg : Kháng nguyên e của HBV (Hepatitis B e Antigen)

- HBsAg : Kháng nguyên bề mặt của virus viêm gan B

(Hepatitis B surface Antigen)

- VGBM : Viêm gan virus B mạn tính.

- VGMT : Viêm gan mạn tính

DANH MỤC HÌNH, BẢNG

Trang

Hình 1.1 : Hình thể và cấu trúc của virus viêm gan B 2

Hình 2.1 : Những thức ăn cần thiết cho bệnh nhân viêm gan B mạn tính 10

Bảng 1.1 : Các kháng nguyên, kháng thể tìm thấy ở người nhiễm HBV 4

Bảng 2.1 : Số lượng protein của những thức ăn thông thường 13

Bảng 2.2 : Số lượng carbohydrate của những thức ăn thông thường 14

Bảng 2.3 : Số lượng lipid của những thức ăn thông thường 16

Bảng 2.4 : Hàm lượng sắt của một vài thực phẩm thông dụng 23

Bảng 2.5 : Thực đơn cho bệnh nhân viêm gan B mạn tính (Ăn mềm) 26

Bảng 2.6 : Thực đơn cho bệnh nhân viêm gan B mạn tính (Ăn cơm) 27

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIẾNG VIỆT

1. Vũ Triệu An (1987), "Tình hình nhiễm vi rút viêm gan B ở Việt Nam", Y

học Việt Nam, 2/137; tr. 1-5.

2. Phan Thị Thu Anh (2004), Sinh lý bệnh, NXB Y học, tr. 372-391.

3. Hoàng Bảo Châu (1997), Nội khoa học cổ truyền, Nhà xuất bản Y học, tr.

310 - 325.

4. Trần Xuân Chương (2005), "Ý nghĩa lâm sàng của các kiểu gen

(genotypes) của vi rút viêm gan B trong bệnh viêm gan vi rút B cấp", Y

học Thực hành, (512) số 5, tr. 40-43.

5. Phạm Đức Dương (2001), Đánh giá tác dụng điều trị của thuốc VG99

trong điều trị bệnh nhân viêm gan B mạn, Luận văn tốt nghiệp bác sĩ nội

trú ĐHY Hà nội, tr.29- 44.

6. Nguyễn Văn Dũng (2006), Đánh giá tác dụng phục hồi chức năng gan của

chè tan Livcol trên bệnh nhân viêm gan virus B mạn tính, Luận văn

Thạc sĩ Y học, Đại học Y Hà Nội.

7. Bùi Đại (2001), Viêm gan B và D, NXB Y học, tr. 388 - 393.

8. Vũ Bằng Đình, Đặng Kim Thanh (2005), Viêm gan virus và những hậu

quả, Nhà xuất bản Y học.

9. Lê Đăng Hà (1990), "Nghiên cứu lâm sàng và diễn biến của viêm gan do

vi rút A và B", Tạp chí Y học Việt Nam, 154, 5 tr. 18-23.

10. Lê Đăng Hà (1999), “Nghiên cứu lâm sàng viêm gan virus A và B”, Y học

Việt Nam (5), tr 8-10.

11. Lê Đăng Hà (2001), “Viêm gan virut B’’, Tài liệu đào tạo chuyên ngành

truyền nhiễm, Bệnh viện Bạch Mai - Hà Nội, tr. 116 - 122.

12. Châu Hữu Hầu (2001), Tìm hiểu viêm gan virut B, Nhà xuất bản Y học.

13. Vương Tân Hoa (2004), Đông tây y kết hợp điều trị một số bệnh lâm sàng nhiệt

đới, Hội thảo Y học Việt Trung,Cục quân Y-Viện Y học cổ truyền quân đội,tr. 38-

39.

14. Trịnh Thị Xuân Hoà (1998). Một số đặc điểm lâm sàng, siêu cấu trúc gan

và hiệu quả điều trị của thuốc Haina ở bệnh nhân viêm gan B mạn tính,

Luận án tiến sỹ Y dược.

15. Lý Thiệu Hưng và cộng sự (1999), “Dùng Interferon α- 1b điều trị viêm

gan B mạn tính”, Tạp chí Tạng gan Trung Hoa, 7(1), tr. 57-58.

16. Đinh Lý Dạ Hương, Bùi Hữu Hoàng (2000), “Điều trị viêm gan siêu mạn

bằng các chất tương tự Nucleoside”, Viêm gan siêu viêm B. Nhà xuất

bản Đà Nẵng, tr.125-145

17. Nguyễn Nhược Kim (2002), ”Viêm gan B mạn tính dưới góc độ của động y

về bệnh sinh và trị liệu”, Tài liệu tập huấn Y học cổ truyền với các chứng

bệnh khó, Viện Y học cổ truyền Việt nam.

18. Trần Văn Kỳ (2000), Đông y điều trị bệnh tiêu hoá gan mật, Nhà xuất bản

Thanh niên, tr. 64 - 87.

19. Trịnh Thị Minh Liên (2001), Ý nghĩa lâm sàng và tiên lượng viêm gan B

dựa vào một số thông số miễn dịch, Luận án tiến sĩ y khoa, ĐHY Hà nội,

tr.1 – 10.

20. Trịnh Thị Ngọc (2000). “Tình hình nhiễm virus viêm gan trong nhóm

bệnh nhân viêm gan cấp vào điều trị tại bệnh viện y học lâm sàng các

bệnh nhiệt đới”. Tạp chí y học thực hành số 12, Tr 8-17.

21. Nhà xuất bản Bắc Kinh (1997), Bệnh học nội khoa lâm sàng đông y, tr.

1510 - 1512.

22. Nhà xuất bản Nhân dân Trung quốc (2001), Thực dụng đông y tiêu hóa học.

tr. 683.

23. Nhà xuất bản y học (2002), Dinh dưỡng lâm sàng, tr180-182, 276-278

24. Tuệ Tĩnh (1993), Nam dược thần hiệu, Nhà xuất bản Y học, tr. 161 - 163.

25. Nguyễn Khánh Trạch, Phạm Thị Thu Hồ (1999),“Viêm gan mạn tính- Xơ

gan”.Bệnh học nội khoa. NXB Y học.

26. Phạm Bá Tuyến, Nghiên cứu tác dụng của viên VIGAB trên một số chỉ tiêu lâm

sàng và cận lâm sàng ở bệnh nhân viêm gan B mạn tính, Đề tài cấp Bộ - Bộ Công

An 2010.

TIẾNG ANH

TIẾNG NƯỚC NGOÀI

27. Akuta N., Suzuki F. (2005), “Favorable efficacy of long term lamivudine

therapy in patients with chronic hepatitis B: an 8- year follow up study”,

J Med Virol, 2005 apr ; 75(4); 491-8.

28. Antonio Craxi (1998), “Viral liver disease”, Gastroenterology and

Hepatology, pp. 477-498.

29. Arossemena L. R., Cortes R. A., Servin L. et al. (2005), “Current and

feature treatment of chronic hepatitis B”, Minerva Gastroenterol Dierol,

2005 mar; 51(1): 77-93.

30. Bai S. L., Hu X. Y., Zhong S. (2008), "Evaluation on HBeAg conversion

time when treating chronic hepatitis B patients with combination of

lamivudine and traditional Chinese medicine”, Zhonghua Liu Xing Bing

Xue Za Zhi., 29(12):1243-7.