ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

ĐINH THỊ NGỌC MAI

DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN VỢ NHẶT CỦA KIM LÂN

(NGỮ VĂN 12, TẬP 2) THEO HƯỚNG

TIẾP CẬN THI PHÁP HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN

HÀ NỘI – 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

ĐINH THỊ NGỌC MAI

DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN VỢ NHẶT CỦA KIM LÂN

(NGỮ VĂN 12, TẬP 2) THEO HƯỚNG

TIẾP CẬN THI PHÁP HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC

(BỘ MÔN NGỮ VĂN)

Mã số: 60 14 01 11

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS ĐOÀN ĐỨC PHƯƠNG

HÀ NỘI – 2016

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn, người viết đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp

đỡ. Nhân dịp này, người viết xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới quý thầy, cô

giáo của trường Đại học Giáo dục, Đại học quốc gia Hà Nội – những người đã nhiệt

tình giảng dạy và tạo điều kiện thuận lợi cho người viết trong thời gian học tập.

Người viết xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Đoàn Đức Phương –

người thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ người viết suốt quá trình thực hiện cho

tới khi hoàn thành luận văn này.

Người viết cũng xin gửi lời cảm ơn tới các bạn đồng nghiệp, các học viên lớp

cao học Lý luận và phương pháp dạy học Ngữ văn khóa 10, Đại học Giáo dục cùng

toàn thể thầy cô giáo và các em học sinh trường THPT Vũ Duy Thanh, trường

THPT Tô Hiến Thành đã nhiệt tình hỗ trợ và đóng góp ý kiến để luận văn được

hoàn thành đúng tiến độ.

Cuối cùng, do điều kiện về thời gian và khả năng của bạn thân có hạn nên

luận văn có thể không tránh khỏi những thiếu sót. Do đó, người viết rất mong nhận

được những ý kiến đóng góp quý báu của quý thầy cô, quý độc giả để luận văn

được hoàn thiện hơn nữa.

Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 10, năm 2016

Tác giả

i

ĐINH THỊ NGỌC MAI

DANH MỤC VIẾT TẮT

Đại học sư phạm ĐHSP

Phó giáo sư PGS

Tiến sĩ TS

Giáo viên GV

Học sinh HS

Nhà xuất bản NXB

Sách giáo khoa SKG

Trung học phổ thông THPT

Trung học cơ sở THCS

Giáo dục và đào tạo GD&ĐT

Phương pháp dạy học PPDH

ii

Bản đồ tư duy BĐTD

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................................... 4

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 6

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 7

5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 7

6. Đóng góp của luận văn ............................................................................................ 7

7. Cấu trúc luận văn .................................................................................................... 7

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ....................... 9

1.1. Cơ sở lý luận ....................................................................................................... 9

1.1.1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn hiện hành ............................ 9

1.1.2. Khái lược về thi pháp học ............................................................................... 11

1.2. Cơ sở thực tiễn .................................................................................................. 22

1.2.1. Tình hình vận dụng thi pháp trong dạy học tác phẩm văn học trong nhà

trường phổ thông ....................................................................................................... 22

1.2.2. Thực trạng dạy học truyện ngắn Vợ nhặt của tác giả Kim Lân trong chương

trình Ngữ văn 12 ....................................................................................................... 23

Tiểu kết chương 1...................................................................................................... 29

CHƯƠNG 2. TÍCH CỰC HÓA PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN

VỢ NHẶT CỦA TÁC GIẢ KIM LÂN THEO HƯỚNG TIẾP CẬN THI PHÁP

HỌC .......................................................................................................................... 30

2.1. Một số vấn đề thi pháp trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân ...................... 30

2.1.1. Cách thức sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu ....................................................... 30

2.1.2. Nghệ thuật xây dựng tình huống ..................................................................... 37

2.1.3. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện ......................................................................... 38

2.1.4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ........................................................................ 40

2.1.5. Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật ................................................. 49

2.1.6. Điểm nhìn trần thuật ....................................................................................... 55

2.2. Kết hợp các phương pháp dạy học tích cực theo hướng tiếp cận thi pháp

học đối với tác phẩm Vợ nhặt ................................................................................. 60

iii

2.2.1. Phương pháp diễn giảng ................................................................................. 60

2.2.2. Phương pháp dạy học nêu vấn đề ................................................................... 62

2.2.3. Phương pháp đàm thoại .................................................................................. 65

2.2.4. Phương pháp trực quan .................................................................................. 69

Tiểu kết chương 2...................................................................................................... 77

CHƯƠNG 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM VỚI TÁC PHẨM VỢ NHẶT

CỦA TÁC GIẢ KIM LÂN ................................................................................... 78

3.1. Giáo án thực nghiệm ........................................................................................ 78

3.2. Thực nghiệm cụ thể bài học ............................................................................ 87

3.2.1. Mục đích thực nghiệm ..................................................................................... 87

3.2.2. Đối tượng, địa bàn, thời gian thực nghiệm ..................................................... 87

3.2.3. Nội dung thực nghiệm ..................................................................................... 88

3.2.4. Phương pháp tiến hành thực nghiệm .............................................................. 88

3.2.5. Kết quả thực nghiệm ....................................................................................... 88

3.2.6. Đánh giá kết quả thực nghiệm ........................................................................ 91

Tiểu kết chương 3...................................................................................................... 93

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ......................................................................... 94

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 96

iv

PHỤ LỤC ............................................................................................................... 100

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Văn chương là một bộ môn nghệ thuật có đặc thù riêng không giống với các

ngành khoa học khác. Văn chương có khả năng bồi dưỡng cho học sinh những năng

lực và năng khiếu thẩm mỹ, nhận thức thẩm mỹ góp phần xây dựng nhân cách con

người, bồi dưỡng tâm hồn, tư tưởng, tình cảm cho học sinh.

Việc tiếp nhận tác phẩm văn học trong thời đại ngày một phát triển như hiện

nay đang ngày càng trở nên quan trọng khi các em học sinh đã không còn nhiều

hứng thú với văn học như trước. Đây chính một thách thức không nhỏ đối với

những người “chèo lái con thuyền giáo dục”.

Là một cá nhân quan tâm đến vấn đề dạy học, khi chọn lựa đề tài Dạy học

truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân (Ngữ văn 12, tập 2) theo hướng tiếp cận thi pháp

học, người viết dựa vào các lý do dưới đây:

- Do yêu cầu của xã hội đối với dạy học môn Ngữ văn hiện nay

Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn (ban hành kèm theo quyết

định số 16/2006/QĐ-BGD ĐT ngày 05 tháng 5 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT)

đã xác định môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông là môn học về khoa học xã hội và

nhân văn, môn học công cụ và cũng là môn học thuộc lĩnh vực giáo dục thẩm mĩ. Ngữ

văn là một môn học quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển trí tuệ và các năng lực

của người học. Việc dạy và học môn Ngữ văn đã và đang gặt hái nhiều thành công,

mang lại cho người học những rung cảm thẩm mĩ cùng với tầm nhìn rộng lớn hơn về

cuộc sống,…

Bên cạnh những thành công đáng kể, việc dạy học Ngữ văn trong nhà trường

phổ thông ở Việt Nam cũng còn bộc lộ không ít những hạn chế về nhiều mặt. Chính

điều này đã thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội với yêu cầu đổi mới chương

trình; sách giáo khoa cũng như phương pháp dạy học môn Ngữ văn.

- Do yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học nói chung và dạy học văn trong

chương trình giáo dục phổ thông nói riêng

Đánh giá thực trạng giáo dục Việt Nam, tài liệu chiến lược phát triển giáo

dục 2001-2010 (2002, tr.14) đã khẳng định: “Chương trình, giáo trình, phương pháp

1

giáo dục chậm đổi mới. Chương trình giáo dục còn nặng tính hàn lâm, kinh viện,

nặng về thi cử. Thực trạng giáo dục này đã diễn ra một thời gian dài và chưa đáp

ứng đầy đủ mục tiêu đặt ra là “giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ,

thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng

động và sáng tạo…” (Luật giáo dục, điều 27).

Xuất phát từ những vấn đề thực tiễn trên đây, việc cải cách toàn diện giáo

dục THPT và đổi mới PPDH là một yêu cầu cấp thiết nhằm đạt mục tiêu giáo dục

phổ thông hiện nay.

Trong đó, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn trong nhà trường

phổ thông là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu của Bộ Giáo dục và

Đào tạo. Dạy học văn từ hướng tiếp cận thi pháp đang được đặc biệt chú ý và bước

đầu đạt được những kết quả đáng mong đợi.

- Tiếp cận thi pháp học – một hướng đi mới đầy tiềm năng trong dạy học tác

phẩm văn học

Giáo sư Trần Đình Sử đã từng nhận định: Thi pháp học đem lại những phạm

trù mới, những đề tài mới cho nghiên cứu văn học như con người, không gian, thời

gian, trần thuật, điểm nhìn, đối thoại,… mở rộng các cánh cửa tiếp cận văn bản. Do

đó, việc vận dụng thi pháp học vào nghiên cứu, đổi mới dạy học tác phẩm văn

chương trong nhà trường đối với ngành Giáo dục Việt Nam là rất cần thiết. Nó sẽ

thổi một làn gió mới cho việc đổi mới phương pháp dạy và học, giúp học sinh biết

cách tìm hiểu một tác phẩm văn học theo thể loại và khiến các em yêu thích môn

Văn hơn bởi mục đích của dạy học tác phẩm văn chương trong giai đoạn hiện nay

nói theo Nguyễn Thị Khánh Dư là “xem tác phẩm như một sáng tạo nghệ thuật chứ

không phải là một phép phản ánh đơn giản. Nhằm khám phá vẻ đẹp của văn

chương nghệ thuật bằng những nét đặc sắc và phong cách nghệ thuật của tác phẩm

đem đến cho người đọc những giá trị đích thực”.

Tuy nhiên, việc vận dụng thi pháp cũng như việc tìm ra phương pháp thích

hợp để tổ chức quá trình tiếp nhận cho học sinh theo hướng này còn diễn ra chậm

chạp và khá lúng túng.

- Kim Lân – một cây bút truyện ngắn danh tiếng của văn học Việt Nam hiện

đại.

Vùng đất Kinh Bắc nho nhã đã sản sinh ra một cây bút truyện ngắn xuất sắc

2

của nền văn học Việt Nam hiện đại: Kim Lân. Ông chính là nhà văn nổi tiếng với

một số truyện ngắn được xếp vào hàng “kinh điển” trong văn xuôi Việt Nam thế kỷ

XX.

Nhà văn Nguyễn Khải đã từng coi Kim Lân là một trong số ít nhà văn có tài

năng thiên phú, dường như “không phải người viết mà là thần viết, thần mượn tay

người để viết nên những trang sách bất hủ” [26; tr.628].

Cái tên Kim Lân đã được công chúng biết và nhớ đến từ rất sớm, khi ông cho

đăng Đứa con người vợ lẽ trên báo Trung Bắc chủ nhật năm 1942. Hơn tám mươi

năm cuộc đời và gần sáu mươi năm đau đáu với nghiệp văn chương nhưng gia tài

ông để lại chỉ khoảng ngoài ba mươi tác phẩm, mà chủ yếu là truyện ngắn. Mặc dù

chỉ vỏn vẹn chừng ấy “những đứa con tinh thần” nhưng “đứa” nào cũng có một chỗ

đứng vững chắc, thậm chí là trang trọng trong lòng độc giả nước nhà.

Truyện ngắn Kim Lân không chỉ tạo nên một bản sắc rất riêng cho người

sáng tạo ra nó mà còn đóng góp không nhỏ vào việc hoàn thiện và hiện đại hóa một

thể loại văn học vẫn còn mới mẻ của văn đàn dân tộc từ những buổi đầu của thế kỉ

XX.

Kim Lân cũng là một trong số không nhiều nhà văn luôn có tác phẩm được

lựa chọn giảng dạy trong nhà trường phổ thông và chọn làm đề thi văn của nhiều

trường Đại học trong cả nước. Từ năm 1995, ông có hai tác phẩm được đưa vào

chương trình dạy học là Làng (lớp 9, Phổ thông Cơ sở) và Vợ nhặt (Lớp 12, Phổ

thông Trung học). Sau năm 1995, trong chương trình chỉnh lý sách giáo khoa, hai

tác phẩm kể trên vẫn tiếp tục giữ nguyên vị trí tại chương trình giảng dạy Ngữ văn

phổ thông.

- Vợ nhặt – tác phẩm ưu tú của nhà văn Kim Lân và cùng là một trong

những thành tựu xuất sắc của nền văn học cách mạng.

Vợ nhặt có tiền thân là truyện Xóm ngụ cư, ra đời năm 1948, là một trong

những tác phẩm nổi bật trong giai đoạn sáng tác sau Cách mạng tháng Tám 1945

của Kim Lân. Tác phẩm thực sự mở ra cho rất nhiều thế hệ bạn đọc một cái nhìn

khác về hình ảnh người nông dân trong cuộc sống.

Truyện ngắn viết về một giai đoạn đau thương trong lịch sử dân tộc: Nạn đói

năm 1945 - Từ Quảng Trị đến Bắc Bộ. Tác phẩm mang giá trị nhân văn cao cả:

3

niềm tin không bao giờ tắt hướng về con người.

Trước thời kì thống nhất sách giáo khoa, Vợ nhặt là tác phẩm đã có mặt

trong cả ba bộ sách: Văn học 12 chưa phân ban; Ngữ văn 12 thí điểm ban Khoa học

Xã hội và Nhân văn; Ngữ văn 12 thí điểm ban Khoa học Tự nhiên. Ở thời điểm hiện

nay, tác phẩm này vẫn có mặt trong hai bộ sách thuộc Chương trình chuẩn và

Chương trình nâng cao.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Tình hình dạy học theo hướng thi pháp học

Từ giữa thế kỉ XX, công việc nghiên cứu, lý luận và phê bình văn học theo

tinh thần thi pháp học là xu hướng chung trên phạm vi toàn thế giới. Ở Việt Nam, từ

sau Đổi mới 1986 cho đến nay, việc nghiên cứu thi pháp học cũng rất được quan

tâm, đã và đang diễn ra với đội ngũ các nhà nghiên cứu đông đảo. Ngay từ những

năm 1980, các nhà nghiên cứu văn học như Phạm Vĩnh Cư, Duy Lập, Vương Trí

Nhàn, Lại Nguyên Ân,… đã giới thiệu thi pháp học Liên Xô vào Việt Nam, dịch

một số công trình của Bakhtin, Khrapchenco,… Đồng thời, chuyên đề thi pháp học

của Trần Đình Sử mở tại Đại học Sư phạm Hà Nội cũng như một số cuộc hội thảo

chuyên đề về thi pháp học cũng được tổ chức tại Hà Nội đã tạo nên một bầu không

khí sôi động trong giới nghiên cứu và giảng dạy văn học. Bên cạnh đó, việc giới

thiệu các lí thuyết, trường phái nghiên cứu của phương Tây cũng được thực hiện từ

khi có sự “cởi trói” và “mở cửa” từ năm 1986. Đến cuối năm 1990, thi pháp học đã

được Trần Đình Sử viết thành giáo trình đầu tiên ở Việt Nam dành cho bậc đại học

và cao đẳng. Như vậy, việc phổ biến tri thức thi pháp học trong nhà trường đã có bề

dày gần 30 năm.

Trong những năm gần đây, chương trình Ngữ văn phổ thông cũng đã bắt đầu

quan tâm nhiều hơn đến thi pháp học. Nội dung chương trình dạy học đã chú ý

nhiều hơn đến vấn đề này. Nhiều nhà nghiên cứu và phương pháp đã và đang có

những công trình hướng vào việc tiếp cận tác phẩm văn chương trong nhà trường

theo hướng tiếp cận thi pháp học như: luận văn Thạc sĩ sư phạm Ngữ văn, Đại học

Giáo dục Dạy học bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong chương trình Ngũ

văn 10 theo hướng tiếp cận thi pháp học của Nguyễn Thị Bích Ngọc năm 2014;

luận văn Thạc sĩ, Đại học Giáo dục Dạy học Hạnh phúc một tang gia (Trích Số đỏ

- Ngữ văn 11 – Ban cơ bản) từ thi pháp tiểu thuyết của nhà văn Vũ Trọng Phụng

4

của Nguyễn Văn Tuấn bảo vệ năm 2010; luận văn Thạc sĩ, Đại học Giáo dục của

Nguyễn Thị Doanh năm 2010 Từ hướng tiếp cận thi pháp, vận dụng vào việc giảng

dạy tác phẩm Nguyễn Minh Châu trong chương trình trung học phổ thông; luận văn

Thạc sĩ, Đại học Giáo dục Dạy học bài thơ Qua đèo Ngang của bà Huyện Thanh

Quan theo hướng khai thác thi pháp tác giả và thi pháp tác phẩm của Nguyễn Thị

Thanh Thảo năm 2015;…

2.2. Về tác giả Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt

Đối với tác giả Kim Lân, người viết tìm thấy không ít công trình nghiên cứu

như: Văn xuôi Kim Lân in trong Tạp chí Văn học (số 6) năm 1986 của Lại Nguyên

Ân; Ngòi bút Kim Lân và sự cày xới trên cánh đồng quê của Kim Hoa (1994) in

trong Báo Nhân dân chủ nhật; Nhà văn trong nhà trường – Kim Lân của Hoài Việt

(1999) in bởi NXB Giáo dục, Hà Nội; luận văn Thạc sĩ, Đại học Khoa học Xã hội &

Nhân văn Văn hóa làng trong truyện ngắn Kim Lân của Vũ Thị Đỗ Quyên năm

2006; Kim Lân – nhà văn của những phận người bé mọn của Phong Lê in trong Tạp

chí Sông Hương, số 223, năm 2007; luận văn Thạc sĩ, Đại học sư phạm Hà Nội 2

Phong cách nghệ thuật truyện ngắn Kim Lân của Nguyễn Thị Ngọc Quyên năm

2010; luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên của Khổng Thị Minh Hạnh

năm 2012 là Cái nhìn thời gian, không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Kim

Lân,…

Khi sưu tầm những chuyên luận, nghiên cứu về truyện ngắn Vợ nhặt người

viết tìm thấy một số công trình nghiên cứu sau: Xây dựng tình huống có vấn đề để

phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong quá trình dạy học tác phẩm Vợ

nhặt của Kim Lân, ĐHSP Hà Nội – 2006 của Trần Thị Quỳnh Hoa; Dạy học truyện

ngắn Vợ nhặt của Kim Lân cho học sinh trung học phổ thông từ cái nhìn văn hoá

của Nguyễn Thị Thu Thảo, ĐHSP Hà Nội, năm 2006; luận văn Thạc sĩ Giáo dục

học Vận dụng lý thuyết kiến tạo vào dạy học truyện ngắn Vợ nhặt ở trường Trung

học Phổ thông của Lê Ngọc Hiền năm 2010; Luận văn thạc sĩ, Đại học Giáo dục

Dạy học tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân ở trường Trung học Phổ thông theo đặc

trưng thể loại của Kiều Thị Hà năm 2014; bài viết Tìm hiểu chân dung nhân vật

trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân qua hệ thống từ láy của Thạc sĩ Trần Thu

Hà viết tại Quảng Ngãi tháng 12 năm 2014 đăng trên website

5

http://truongthptchuyenlekhiet.edu.vn/ vào ngày 12 tháng 1 năm 2015;…

Bên cạnh những công trình nghiên cứu còn phải kể đến những bài phân tích,

bình giảng về truyện ngắn Vợ nhặt như:

- Bài phân tích tác phẩm Vợ nhặt trong sách tham khảo Để học tốt Ngữ văn

12.

- Bài viết Sự sống đối mặt với cái chết của Nguyễn Thị Thanh Cảnh trong

Tiếng nói tri âm, tập 1.

- Bài Tác giả Kim Lân và hình tượng người đàn bà không tên trong Vợ nhặt

của Trương Vũ Thiên An trên báo Giáo dục và thời đại, năm 1998.

Đây là những công trình khoa học nghiên cứu một cách công phu và hệ

thống nêu bật được những giá trị tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của truyện

ngắn Kim Lân nói chung, tác phẩm Vợ nhặt nói riêng. Đồng thời cũng có một số

bài đã đưa ra hướng dạy học tác phẩm này.

Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu vào nghiên cứu việc

dạy học tác phẩm này theo hướng tiếp cận thi pháp học một cách tổng thể. Vì vậy,

người viết đã đi đến quyết định lựa chọn đề tài này làm luận văn thạc sĩ của mình.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Với đề tài mong muốn đóng góp chút sức lực trong việc đổi mới, hiện đại

hóa phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói chung, bài Vợ nhặt nói riêng nhằm

nâng cao hiệu quả giảng dạy và tạo hứng thú học tập cho học sinh, giúp học sinh

biết cách tìm hiểu một truyện ngắn trong giai đoạn văn học Cách mạng Việt Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Dựa vào mục đích nghiên cứu trên, đề tài luận văn tập trung vào 3 nhiệm vụ

nghiên cứu chính như sau:

- Thứ nhất: Cơ sở lý luận về thi pháp học, thi pháp truyện ngắn trong phong

cách sáng tác của tác giả Kim Lân.

- Thứ hai: Đánh giá thực trạng dạy học tác phẩm văn học nói chung và

truyện ngắn Vợ nhặt nói riêng trong nhà trường trung học phổ thông. Định hướng

đổi mới phương pháp dạy học truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân theo hướng tiếp

6

cận thi pháp học.

- Thứ ba: Thiết kế giáo án thử nghiệm và tiến hành thực nghiệm sư phạm đối

với truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân để tiến hành đánh giá kết quả của đề tài luận

văn.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn này là cách thức dạy học hiệu quả

tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân theo hướng tiếp cận những đặc trưng của

thi pháp học.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Nghiên cứu lý luận về dạy học truyện ngắn Kim Lân trong chương trình

trung học phổ thông theo hướng tiếp cận thi pháp học.

- Vận dụng lý thuyết thi pháp học vào dạy học truyện ngắn Vợ nhặt của Kim

Lân trong chương trình Ngữ văn 12, tập 2, ban cơ bản.

5. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài luận văn này, người viết sử dụng những phương pháp

chính sau đây:

- Phương pháp tiếp cận thi pháp học

- Phương pháp thực nghiệm

- Phương pháp khảo sát

Ngoài những phương pháp trên, người viết cũng vận dụng một số phương

pháp khác như phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp phân tích, phương

pháp nghiên cứu tổng hợp,…

6. Đóng góp của luận văn

- Khẳng định ưu thế của việc dạy học một tác phẩm văn chương theo hướng

tiếp cận thi pháp học trong vấn đề bồi dưỡng năng lực tiếp nhận và hứng thú đối với

văn học của học sinh.

- Đề xuất những biện pháp dạy học cụ thể đối với việc dạy học một tác phẩm

văn chương theo hướng tiếp cận thi pháp học.

7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, bố cục của luận văn gồm 3 chương:

7

- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn đề tài.

- Chương 2: Đề xuất phương pháp dạy học truyện ngắn Vợ nhặt của tác giả

Kim Lân theo hướng tiếp cận thi pháp học.

- Chương 3: Thực nghiệm sư phạm với tác phẩm Vợ nhặt của tác giả Kim

Lân.

8

Cuối cùng là phần Tài liệu tham khảo và Phụ lục.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Cơ sở lý luận

1.1.1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn hiện hành

Thực tiễn đổi mới giáo dục ở nhiều quốc gia trong vài thập niên gần đây

đã khẳng định cách xây dựng chương trình giáo dục theo định hướng phát triển

năng lực là xu hướng tất yếu, đáp ứng yêu cầu giáo dục và đào tạo con người

trong bối cảnh khoa học và công nghệ phát triển với tốc độ chưa từng có và nền

kinh tế tri thức đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với mọi quốc gia.

Thế nhưng hiện nay, nhiều môn học ở trường phổ thông tại Việt Nam, trong

đó có môn Ngữ văn vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu nhân lực cho xã hội. Thực tế

này đã được chỉ ra từ nhiều năm nay, đòi hỏi các nhà giáo dục cần quan tâm thực

hiện thay đổi nội dung, đặc biệt là phương pháp dạy học Ngữ văn trong nhà trường

hướng tới phát triển các năng lực cần thiết trong cuộc sống cũng như tạo điều kiện

thích nghi với môi trường làm việc trong tương lai cho các em học sinh.

Về phương pháp giáo dục phổ thông, điều 28 luật giáo dục quy định:

“Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,

sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng

phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng

kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập

cho học sinh” (Luật giáo dục 2005).

Trong khi đó, thực trạng dạy học Ngữ văn tại Việt Nam trong thời gian gần

đây cho thấy cách dạy học Ngữ văn theo lối bình giảng và cung cấp cho học sinh

các kiến thức lí thuyết một cách tách biệt không đáp ứng được nhu cầu học tập của

giới trẻ ngày nay và không còn phù hợp với xu thế của giáo dục hiện đại.

Kinh nghiệm đổi mới chương trình theo hướng tích hợp và đa dạng hóa các

thể loại văn bản được đưa vào nhà trường trong chương trình giáo dục hiện hành

cũng đặt cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới chương trình theo hướng đó trong bối cảnh

xây dựng chương trình phát triển năng lực nói chung. Nhiều điểm tích cực, tiến bộ

của chương trình hiện hành sẽ phải được kế thừa và phát huy hơn nữa.

Để phát huy năng lực của học sinh, người viết cho rằng môn Ngữ văn cần

9

đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng như sau:

- Một là: Đổi mới từ cách dạy truyền thống thiên về đọc chép sang cách dạy

đọc-hiểu

Trước đây, chúng ta thường coi phân tích hay giảng văn, bình luận là một

phương pháp đặc thù của dạy học văn, theo hướng áp đặt, một chiều.

Cách dạy đọc-hiểu giúp học sinh biết cách đọc, cách tiếp cận, khám phá nội

dung và nghệ thuật của văn bản theo các mức độ khác nhau từ đọc đúng, đọc thông

đến đọc hiểu, từ đọc tái hiện sang đọc sáng tạo, khơi dậy ở học sinh khả năng liên

tưởng, tưởng tượng, giúp học sinh thực sự được đắm mình trong thế giới văn

chương. Từ đó, khơi dậy ở các em tình cảm mang tính thẩm mỹ, biết hướng tới giá

trị chân-thiện-mĩ.

Học sinh có thể được phát huy năng lực đọc-hiểu các văn bản theo đặc

trưng thể loại, các loại văn bản chứa phương tiện biểu đạt như sơ đồ, bảng biểu…

Việc dạy đọc hiểu không chỉ rèn luyện cho học sinh năng lực đọc-hiểu mà

còn rèn luyện năng lực tạo lập văn bản, đặc biệt là năng lực viết sáng tạo. Tức là

học sinh có khả năng trình bày, thể hiện suy nghĩ, cảm nhận của bản thân trước

đối tượng, vấn đề đặt ra. Điều này sẽ hạn chế được hiện tượng học sinh học hết

chương trình lớp 12 vẫn chưa có khả năng tự tạo lập được văn bản theo yêu cầu

như văn bản hành chính (đơn xin nghỉ học, đơn xin kết nạp Đoàn…).

- Hai là: Dạy học tích hợp là tổ chức nội dung dạy học của giáo viên sao cho

học sinh có thể huy động nội dung, kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác

nhau nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập, thông qua đó hình thành kiến thức, kĩ

năng, từ đó phát triển được các năng lực cần thiết.

Dạy học tích hợp diễn ra ở ba phân môn Làm văn, Tiếng Việt, Văn học. Có

thể tích hợp ba phân môn hoặc tích hợp môn Ngữ văn với các môn học khác như

Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân. Ngoài giờ lên lớp, tích hợp giữa kiến thức trong

sách vở với kiến thức thực tiễn cuộc sống.

Nếu chương trình ngữ văn THCS lấy trục tích hợp là các kiểu văn bản như

miêu tả, tự sự, nghị luận, thuyết minh, nhật dụng để học sinh hiểu đặc trưng văn bản

theo kiểu loại, từ đó có khả năng tạo lập văn bản thì chương trình ngữ văn THPT

lấy trục tích hợp là nội dung đọc-hiểu văn bản và tạo lập văn bản, giúp học sinh

phát triển, nâng cao năng lực thưởng thức văn học và năng lực sử dụng tiếng Việt

10

trong các tình huống giao tiếp.

Để phát huy tối đa hiệu quả giờ học, ta có thể sử dụng những phương pháp

tích cực như:

- Đóng vai: có thể cho học sinh đóng vai các nhân vật trong tác phẩm tự sự,

kịch hoặc xử lý một tình huống giao tiếp giả định…

- Dạy học theo dự án: tạo điều kiện cho học sinh thực hiện nhiệm vụ phức

hợp giữa lý thuyết và thực tiễn. Theo đó, học sinh phải tự lực cao trong quá trình

học tập từ việc xác định mục tiêu, lập kế hoạch đến việc thực hiện dự án, kiểm tra

kết quả…

- Trải nghiệm thực tế, sáng tạo: Học sinh được trải nghiệm thực tế những địa

điểm, đối tượng (đang tồn tại trong thực tế) liên quan đến bài học, theo đó sẽ tự rút

ra kiến thức cho bản thân…

Như vậy, để có thể dạy học môn Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực, đòi

hỏi giáo viên phải có năng lực chuyên môn, năng lực phương pháp, năng lực xã hội,

năng lực cá thể. Giáo viên không chỉ là người nắm chắc văn bản, kiến thức cần

truyền thụ mà cần có khả năng định hướng, dẫn dắt học sinh giải quyết các vấn đề

trong thực tiễn; đặc biệt trong xây dựng câu hỏi định hướng cho học sinh chuẩn bị

bài, tránh phụ thuộc quá nhiều vào câu hỏi trong sách giáo khoa.

1.1.2. Khái lược về thi pháp học

1.1.2.1. Khái niệm về thi pháp và thi pháp học

Thi pháp của Aristote ra đời cách đây hơn 2,000 năm. Trong suốt mấy chục

thế kỉ nay, biết bao sách báo về thi pháp đã tiếp tục công trình của ông.

Thi pháp cổ điển quy định các chuẩn mực sáng tác anh hùng ca, kịch,

thơ,…Thi pháp hiện đại không dạy sáng tác thể loại này hay thể loại khác như thế

nào mà nó miêu tả các sáng tác, tức là các phương thức nghệ thuật mà các nhà thơ,

nhà văn sáng tạo trong tác phẩm của mình.

Theo cách hiểu thông thường hiện nay, “thi pháp là phương pháp tiếp cận,

tức là nghiên cứu, phê bình tác phẩm văn học từ các hình thức biểu hiện bằng ngôn

từ nghệ thuật, để tìm hiểu các ý nghĩa hiển hiện hoặc chìm ẩn của các tác phẩm: ý

nghĩa mỹ học, triết học, đạo đức học, lịch sử, xã hội học,…” [11; tr9]

Như vậy, thi pháp là hệ thống nguyên tắc nghệ thuật chi phối sự tạo thành của

hệ thống nghệ thuật với các đặc sắc của nó. Thi pháp biểu hiện trên các cấp độ: tác

11

phẩm, thể loại, ngôn ngữ, tác giả và bao trùm là cả nền văn học.

Nói cách khác, thi pháp là ý thức của nhà văn khi sáng tạo ra hình thức nghệ

thuật. Hình thức nghệ thuật có hai mặt:

- Mặt cụ thể, cảm tính (chất liệu tác phẩm, không gian, thời gian, chi tiết,

tình tiết, nhân vật, sự kiện, mâu thuẫn, xung đột…)

- Mặt quan niệm (lí lẽ, nhận thức, triết lí, tư tưởng, tình cảm,…)

Thi pháp học là khoa học nghiên cứu thi pháp. Cấp độ nghiên cứu thi pháp

học các hình thức nghệ thuật (kết cấu, âm điệu, nhịp câu, đối thoại, thời gian, không

gian, cú pháp,…) yêu cầu đọc tác phẩm như một chỉnh thể. Ở đó, các yếu tố ngôn từ

liên kết chặt chẽ với nhau, hợp thành một hệ thống để biểu đạt tư tưởng, tình cảm,

tư duy, nhân sinh quan,… tức là cái đẹp của thế giới, con người.

Nếu mỹ học là lý luận các nghệ thuật thì thi pháp học chính là mỹ học của

văn học. Thi pháp trước hết nghiên cứu các phương thức nghệ thuật, miêu tả các

đặc trưng thể loại văn học, từ đó mới tìm tòi các tầng lớp ý nghĩa ẩn giấu của tác

phẩm.

Tác phẩm văn học còn được một số nhà lý luận khác gọi là hệ thống cấu trúc.

Thi pháp học nghiên cứu các cấu trúc ấy. Ký hiệu và cấu trúc là sự vật chất hóa

bằng ngôn từ những ý tưởng của các tác giả. Phê bình ký hiệu nhấn mạnh ý nghĩa

của các ký hiệu, của từ ngữ, phê bình cấu trúc nhấn mạnh các mối liên hệ bên trong

văn bản.

Thi pháp học còn bao gồm “phương pháp chủ đề” dựa trên triết học Freud,

nó nghiên cứu những “ám ảnh”, những trùng điệp của ám ảnh trở đi trở lại nhiều

lần trong tác phẩm của một nhà văn.

Vậy với thi pháp hiện nay, tác phẩm văn học chỉ tồn tại trong ngôn từ, trong

văn bản. Người đọc, người phê bình cần tìm kiếm ý nghĩa tác phẩm trên văn bản ấy.

1.1.2.2. Các bình diện thi pháp cơ bản trong sáng tạo văn học

1.1.2.2.1. Các bình diện thi pháp chung

1.1.2.2.1.1. Thi pháp tác giả

Tiếp xúc với văn bản nghệ thuật ngoài việc cảm nhận nội dung khách quan,

chúng ta còn giao tiếp với tác giả, đồng cảm với tác giả. Hình tượng tác giả đã đứng

ra nói chuyện và giao tiếp với độc giả, vậy chúng ta không nên đồng nhất giữa hai

tác giả: tác giả tiểu sử và tác giả nghệ thuật.

Hình tượng tác giả có chân dung hành động, ngôn ngữ chứa đựng trong tác

12

phẩm. Đặc biệt có khi tác giả tự miêu tả mình.

Nhìn chung, hình tượng tác giả thể hiện trên ba mặt: Cái nhìn; giọng điệu;

lập trường (lựa chọn, phân tích, đánh giá). Hình tượng tác giả có vẻ tồn tại như vô

hình. Tuy vậy, khi đọc văn, người đọc vẫn có xu hướng đọc theo chỉ dẫn của tác

giả, đọc thầm hay đọc thành tiếng theo giọng điệu của tác giả.

Cái nhìn và giọng điệu của tác giả vô hình nhưng có thực, luôn luôn tồn tại

và ổn định suốt theo tác phẩm. Đó là yếu tố thi pháp quan trọng có thể xác định

được dù nó vô hình dạng.

Chính vì vậy, thi pháp tác giả là một trong những vấn đề không nên bỏ lỡ khi

nghiên cứu một tác phẩm văn học theo hướng thi pháp học.

1.1.2.2.1.2. Thi pháp tác phẩm

Thi pháp học hiện đại nghiên cứu tác phẩm như một sản phẩm sáng tạo in

đậm dấu ấn của chủ thể nghệ thuật. Nó tiếp cận tác phẩm từ quan niệm mới về

chỉnh thể nghệ thuật, tìm mọi cách khắc phục phép nhị nguyên, chia tách giả tạo nội

dung và hình thức.

Đặc điểm nói trên thể hiện ở thao tác bóc tách các cấp độ của tác phẩm văn

học, ở hệ thống phạm trù và nội hàm được trao cho chúng để mô tả các cấp độ ấy.

GS. Trần Đình Sử - một trong những người đi đầu trong xu hướng nghiên

cứu thi pháp tác phẩm ở Việt Nam thường bóc tách tác phẩm văn học theo ba cấp

độ: chỉnh thể - văn bản hình tượng - văn bản ngôn từ. Trong đó, ở cấp độ chỉnh thể,

tác phẩm được tiếp cận từ ba phạm trù “cái”: hình thức quan niệm, quan niệm nghệ

thuật về con người và thế giới nghệ thuật. Hình thức trong nghệ thuật là hình thức

của khách thể thẩm mĩ được tạo ra trong tác phẩm. Hình thức cảm tính là hình thức

bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên của sự vật, và vì thế, nó không thể trở thành đối

tượng của khoa học. “Hình thức quan niệm” là hình thức bên trong, loại hình thức

thể hiện “logic của hình thức” và tạo ra hình thức. Nó vừa là hình thức của khách

thể thẩm mĩ được tạo ra trong tác phẩm, vừa là hình thức của chủ thể, được chủ thể

sử dụng để sáng tạo và cảm nhận thế giới. Là sản phẩm sáng tạo của chủ thể để thể

hiện quan niệm của chủ thể, hình thức quan niệm vừa in đậm dấu ấn của cá tính

sáng tạo, vừa là khuôn mẫu cấu trúc mang tính loại hình. Cho nên, theo Trần Đình

Sử, phải lấy “hình thức quan niệm” làm đối tượng chiếm lĩnh, thi pháp học mới có

13

thể “nghiên cứu hình thức nghệ thuật như những hiện tượng có quy luật”.

Nếu khái niệm “hình thức quan niệm” chủ yếu xác định bình diện “hình

thức”, thì phạm trù quan niệm nghệ thuật về con người chủ yếu xác định bình diện

“nội dung” như là đối tượng nghiên cứu của thi pháp học.

Ở cấp độ văn bản hình tượng, Trần Đình Sử tiếp cận sáng tác văn học từ hai

bình diện: tổ chức chủ quan và tổ chức khách quan. Ông thường sử dụng khái niệm

“hình tượng tác giả”, “kiểu tác giả”, “kiểu nhà thơ” để mô tả bình diện cấu trúc chủ

quan. Bình diện tổ chức khách quan của sáng tác văn học được ông mô tả chủ yếu

bằng hai phạm trù “không gian và thời gian nghệ thuật”. Ứng với hai bình diện chủ

quan và khách quan của kết cấu văn bản hình tượng, văn bản ngôn từ được tiếp cận

theo hai trục: hệ hình và ngữ đoạn. Trong đó, trục hệ hình được mô tả bằng hai

phạm trù “điểm nhìn”, “cái nhìn” và “giọng điệu”.

1.1.2.2.1.3. Thi pháp thể loại

Loại thể văn học là: “Phạm trù phân loại các tác phẩm văn học, vốn đa dạng

đồng thời có sự giống nhau, từng nhóm một, về một số dấu hiệu nhất định. Các

nhóm lớn nhất là những “loại”; mỗi loại gồm những nhóm nhỏ hơn là những thể

(hoặc “thể loại”, “thể tài”) [2, tr.190].

Dạy học bám sát đặc trưng thi pháp loại thể là việc dẫn dắt học sinh khám

phá, phát hiện, phân tích các khía cạnh hình thức của tác phẩm văn học nghệ thuật

để rút ra ý nghĩa thẩm mỹ của nó. Đây là một trong những phương pháp dạy học bổ

sung hữu ích cho cách dạy học truyền thống là chú trọng tới các yếu tố bên ngoài

tác phẩm nhiều hơn như: tiểu sử nhà văn, hoàn cảnh sáng tác, nguyên mẫu nhân vật,

giá trị hiện thực, tác dụng xã hội. Dạy học bám sát đặc trưng thi pháp loại thể cũng

là yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông hiện nay.

Trong cuốn Hướng dẫn thực hiện chương trình sách giáo khoa lớp 12, Phan Trọng

Luận đã nhận định: “Một trong những con đường đi vào tác phẩm văn chương là

nhận diện được loại thể. Đến với thơ không giống với tự sự hay kịch. Đến với văn

học dân gian không hoàn toàn giống như đến với văn học viết. Văn học trung đại và

hiện đại có những đặc trưng thủ pháp nghiên cứu riêng. Với văn học dịch cũng cần

có cách tiếp cận riêng.” [30].

Truyện có những đặc trưng cơ bản: “tính khách quan trong sự phản ánh; cốt

truyện được tổ chức một cách nghệ thuật; nhân vật được miêu tả chi tiết, sống động

gắn với hoàn cảnh; phạm vi miêu tả không bị hạn chế về không gian và thời gian;

14

ngôn ngữ linh hoạt, gần với ngôn ngữ đời sống” [29. tr.152].

Như vậy khi giảng dạy các tác phẩm truyện, chúng ta sẽ phải bám sát vào

những đặc trưng này để giúp học sinh khám phá, tìm hiểu văn bản trong chương

trình đồng thời cũng yêu cầu học sinh vận dụng để tìm hiểu một số văn bản không

nằm trong chương trình.

1.1.2.2.1.4. Thi pháp nhân vật

Nhân vật là hình tượng trung tâm của tác phẩm. Thi pháp học xem xét nhân

vật ở ba khía cạnh chính: tính cách nhân vật, nghệ thuật miêu tả nhân vật, quan

niệm nghệ thuật về con người.

- Nhân vật và sự miêu tả nhân vật: Con người vốn là đối tượng miêu tả chủ

yếu của văn học trong các phương thức trữ tình, tự sự và kịch dù trực tiếp hay gián

tiếp. Nhân vật được sáng tạo, hư cấu để khái quát, biểu hiện tư tưởng, thái độ đối

với cuộc sống. Ca ngợi nhân vật là ca ngợi cuộc đời, phê phán nhân vật là phê phán

cuộc đời, xót xa cho nhân vật là xót xa cho cuộc đời, và tìm hiểu nhân vật cũng

chính là tìm hiểu về cuộc đời, về con người, tìm hiểu tư tưởng, tình cảm của tác giả

đối với con người.

Trong thơ trữ tình có nhân vật trữ tình. Con người bộc lộ nỗi niềm trước

cuộc sống. Trong kịch, con người tự bộc lộ qua hành động ngôn ngữ của mình.

Trong tác phẩm tự sự (truyện, kí) nhân vật hiện lên thông qua lời văn kể, tả của tác

giả.

Nói chung, nhân vật được miêu tả bằng các phương tiện văn học thông qua

ngôn ngữ văn học. Miêu tả bao gồm tả cảnh ngụ tình, diễn tả cảm xúc, tường thuật,

kể sự việc,… gọi chung là hình thức của văn học. Ở trong văn học, miêu tả thường

nhằm hai mục đích: gợi ra hiện tượng cuộc sống và gợi ra sự cảm thụ, bộc lộ cái

nhìn của tác giả. Từ đó, nhà văn thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người.

- Quan niệm nghệ thuật về con người là nguyên tắc cảm nhận thẩm mỹ khi xây

dựng nhân vật. Quan niệm đó chi phối nhà văn khi miêu tả nhân vật và các bộ phận

khác của tác phẩm. Đây là kiểu thi pháp cơ bản nhất của văn học nghệ thuật. Thực tế

có hai quan niệm nghệ thuật về con người: một là con người như một phạm trù tư

tưởng, chính trị, đạo đức xã hội; hai là con người như một phạm trù thẩm mĩ. Quan

niệm thứ hai là quan niệm chủ yếu của nhà văn.

Nghiên cứu thi pháp nhân vật khác với công việc phân tích nhân vật. Phân

tích nhân vật là chỉ ra các nội dung được thể hiện trong nhân vật như tính cách,

15

ngoại hình, phẩm chất, niềm vui, nỗi buồn,… Trong khi nghiên cứu thi pháp nhân

vật phải là sự khám phá cách cảm nhận con người qua việc miêu tả nhân vật trong

tác phẩm văn học.

1.1.2.2.2. Các bình diện thi pháp truyện ngắn

Mỗi loại hình văn học đều có một phương thức biểu hiện riêng. Thơ được

nói bằng thứ ngôn ngữ biểu cảm và trùng điệp, còn trong văn xuôi nói chung và

truyện ngắn nói riêng là sự lựa chọn ngôi trần thuật, cách tổ chức điểm nhìn, kết

cấu, ngôn ngữ, giọng điệu của mỗi nhà văn sao cho hiệu quả… để tạo nên cảm

nhận riêng, cách nhìn, cách đánh giá độc đáo về hiện thực thế giới bên ngoài và bao

nỗi khắc khoải trong nội tâm con người trong tác phẩm.

1.1.2.2.2.1. Xác định đề tài, chủ đề

 Vấn đề đề tài

Đề tài là thuật ngữ chỉ phạm vi các sự kiện tạo nên cơ sở chất liệu đời sống

của tác phẩm. Bất kì tác phẩm văn học nào cũng có một đề tài nhất định. Phạm vi

cuộc sống trong tác phẩm vô cùng phong phú vì thế đề tài cũng hết sức phong phú,

đa dạng.

Là một phương tiện khách quan trong nội dung tác phẩm, nó là sự nhận thức,

cảm nhận của nhà văn về phạm vi hiện thực cụ thể mà nhà văn lựa chọn và phản

ánh trong tác phẩm.

Giới hạn phạm vi đề tài có thể được xác định rộng hẹp khác nhau là cơ sở để

nhà văn khái quát chủ đề, xây dựng hình tượng nghệ thuật.

Mỗi nhà văn thường có “vùng đất” quen thuộc phù hợp với kinh nghiệm, vốn

sống, hứng thú, cá tính của bản thân. Việc xác định đề tài cho phép liên hệ nội dung

tác phẩm với một “mảnh đất” nhất định của hiện thực.

Trong tác phẩm văn học thường có một hệ thống các đề tài chứ không phải là

một đề tài duy nhất.

Ví dụ: Nhà văn Kim Lân chuyên viết về đề tài nông thôn Việt Nam trong

chiến tranh.

- Vấn đề chủ đề

Chủ đề là vấn đề chủ yếu, trung tâm, là phương diện chính yếu của đề tài.

Nói cách khác, chủ đề là những vấn đề được nhà văn tập trung soi rọi, tô đậm, nêu

lên trong tác phẩm mà nhà văn cho là quan trọng nhất. Nó thể hiện chiều sâu tư

16

tưởng, khả năng nắm bắt nhạy bén của nhà văn đối với những vấn đề của cuộc sống.

Chủ đề thường được bộc lộ qua nhan đề của tác phẩm. Ngoài ra, chủ đề cũng

có thể bộc lộ trực tiếp trong lời phát biểu của tác giả, được đặt ra qua việc miêu tả

các biến cố, các cảnh ngộ dữ dội, khác thường.

Cùng một đề tài nhưng mỗi nhà văn lại có thể nêu ra chủ đề, tư tưởng khác

nhau, thậm chí đối lập. Chủ đề thường được biểu hiện qua hệ thống hình tượng, hệ

thống nhân vật, nhất là qua hình tượng của nhân vật chính.

Chủ đề tác phẩm Vợ nhặt là sự lạc quan của người nông dân lao động Việt

Nam trong hoàn cảnh đói khổ tưởng chừng như không lối thoát.

1.1.2.2.2.2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện

Từ lâu, cốt truyện đã được công nhận là một trong những yếu tố quan trọng

cấu thành nên tác phẩm tự sự, cốt truyện có thể sắp ngang bằng với bất cứ chất liệu

xây dựng nào trong nghệ thuật.

Thuộc phạm trù cách kể, vấn đề tổ chức cốt truyện, vẫn đang được giới

nghiên cứu phê bình và lý luận văn học quan tâm đặc biệt.

Giáo trình Lý luận văn học do Hà Minh Đức chủ biên, tái bản lần thứ 7 năm

2001 viết: “… cốt truyện là hệ thống các sự kiện phản ánh những diễn biến của

cuộc sống và nhất là các xung đột xã hội một cách nghệ thuật, qua đó các tính cách

hình thành và phát triển trong những mối quan hệ qua lại của chúng nhằm làm sáng

tỏ chủ đề và tư tưởng tác phẩm” [7; tr.137].

Cùng bàn về khái niệm cốt truyện, cuốn Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá

Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi biên soạn đưa ra nhận định cốt truyện là “hệ

thống các sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất

định, tạo thành một bộ phận cơ bản quan trọng nhất trong hình thức vận động của

tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch (…). Có thể tìm thấy qua cốt truyện

hai phương diện hữu cơ: Một mặt cốt truyện là một phương diện cơ bản bộc lộ tính

cách, nhờ cốt truyện mà tác giả thể hiện sự tác động qua lại giữa các tính cách. Mặt

khác, cốt truyện còn là phương tiện để nhà văn tái hiện các xung đột xã hội.” [9;

tr.99-100].

Như vậy, “cốt truyện” trong loại tự sự nói chung và truyện ngắn nói riêng

thường được hình dung là “cốt” của câu chuyện. Nghiên cứu nó, người ta thường

nói đến nhân vật, lời kể, sự kiện, hoặc biến cố trong thế tách rời và như thế cốt

17

truyện dường như được xem là một hiện tượng tĩnh.

Việc tổ chức, sắp xếp cốt truyện như thế nào để mang lại hiệu quả nghệ thuật

cao nhất là cả một câu chuyện lớn của sáng tạo nghệ thuật. Nói đến nghệ thuật tổ

chức cốt truyện là nói đến sự dẫn dắt, sự tổ chức, phương thức thể hiện như thế nào

và bằng những thủ pháp nghệ thuật gì. Khái niệm nghệ thuật tổ chức cốt truyện vì

vậy ra đời có tính thao tác.

Cốt truyện cần được xem xét và nghiên cứu như một hiện tượng sống động,

một chỉnh thể nghệ thuật có tính hệ thống và luôn có sự vận động nội tại giữa các

thành tố làm nên hệ thống đó.

1.1.2.2.2.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

Thế giới nhân vật bao giờ cũng là sự thể hiện tập trung và trực tiếp cảm quan

nghệ thuật của nhà văn. Nhà văn sáng tạo ra nhân vật bao giờ cũng theo cách hình

dung và cảm nhận của riêng mình. Bởi vì, sự sáng tạo nghệ thuật là một sự thống

nhất biện chứng giữa khách thể và chủ thể, hướng nội và hướng ngoại. B.Brếch đã

từng nhận xét rằng: “Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là

những bản dập của những con người sống, mà là những hình tượng được khắc họa

phù hợp với ý đồ, tư tưởng của tác giả” [41; tr.210]. Đó là phương tiện tất yếu quan

trọng nhất để thể hiện tư tưởng trong các tác phẩm tự sự nói chung và truyện ngắn

nói riêng. Nó là phương diện có tính thứ nhất trong hình thức của các tác phẩm ấy,

quyết định phần lớn: vừa cốt truyện, vừa lựa chọn chi tiết, vừa phương tiện ngôn

ngữ và thậm chí là cả kết cấu.

“Nhà nghệ sĩ giỏi là nhà nghệ sĩ tạo ra những nhân vật thật và hoạt động

ngoài những tính cách và đặc điểm của các địa vị xã hội, tìm đến cái bí mật không

tả được ở trong mỗi con người” [5; tr.288].

1.1.2.2.2.4. Nghệ thuật trần thuật

Các tác giả trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học đã thống nhất quan niệm:

“Trần thuật là phương diện cấu trúc của tác phẩm tự sự, thể hiện mối quan hệ chủ

thể - khách thể trong loại hình nghệ thuật này. Nó đánh dấu sự đổi thay điểm chú ý

của ý thức văn học từ hệ thống sự kiện thắt nút, mở nút sang chủ thể thẩm mỹ của

tác phẩm tự sự” [9; tr.248].

Cùng với quan niệm đó, các tác giả trong cuốn Lý luận văn học xác định cụ

thể: “Trần thuật là sự trình bày liên tục bằng lời văn các chi tiết, sự kiện tình tiết,

quan hệ, biến đổi về xung đột và nhân vật một cách cụ thể, hấp dẫn, theo một cách

18

nhìn, cách cảm nhất định. Trần thuật là sự thể hiện của của hình tượng văn học,

truyền đạt nó tới người thưởng thức. Bố cục của trần thuật là sắp xếp, tổ chức sự

tương ứng giữa các phương diện khác nhau của hình tượng với các thành phần khác

nhau của văn bản [32; tr.307].

Từ quan niệm đó, ta có thể hiểu: Trần thuật là giới thiệu, khái quát, thuyết

minh, miêu tả nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự việc theo cái nhìn nhất định. Nghệ

thuật trần thuật là phương diện cơ bản của phương thức tự sự, nó có tác dụng soi

sáng nội dung tư tưởng của tác phẩm và thể hiện sự sáng tạo độc đáo của nhà văn.

Nghệ thuật trần thuật giúp cho người nghiên cứu đi sâu khám phá những đặc sắc

trong nghệ thuật kể chuyện của mỗi nhà văn, trên cơ sở đó, người đọc tiếp nhận và

giải mã cấu trúc bên trong tác phẩm, đồng thời có thể đánh giá những sáng tạo,

những đóng góp của nhà văn đối với sự phát triển truyện ngắn nói riêng và quá

trình hiện đại hoá văn xuôi Việt Nam nói chung.

1.1.2.2.2.5. Thời gian và không gian nghệ thuật

- Thời gian nghệ thuật

Trong triết học, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất. Trong tác phẩm nghệ

thuật, thời gian chính là phương thức tồn tại của thế giới nghệ thuật.

Theo Từ điển thuật ngữ Văn học, thời gian chính là “hình thức nội tại của

hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Cũng như không gian nghệ

thuật, sự miêu tả, trần thuật, trong văn học nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một

điểm nhìn nhất định trong thời gian. Và cái được trần thuật bao giờ cũng diễn ra

trong thời gian, được biết qua thời gian trần thuật”.

Như vậy, thời gian nghệ thuật chính là thời gian ta có thể chiêm nghiệm

được trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài của nó, với nhịp điệu

nhanh hay chậm, với các chiều thời gian hiện tại, quá khứ hay tương lai.

Thời gian nghệ thuật không mang tính khách quan, mà gắn với cảm nhận chủ

quan của con người. Thời gian nghệ thuật còn gắn với việc tác giả tổ chức chất liệu.

Chất liệu văn học sẽ ghi khắc, in dấu cố định diễn trình thời gian.

Ngoài ra, thời gian nghệ thuật còn là biểu tượng nên nó mang tính quan

niệm, tư tưởng của nhà văn về cuộc sống. Thời gian nghệ thuật là thời gian được tổ

chức lại từ thời gian thực tại khách quan tự nhiên, do vậy, tác giả văn học có thể tua

nhanh, làm chậm, đan xen, xếp chồng, nhảy cóc… tùy theo ý đồ sáng tác. Chúng ta

19

có thể xem xét về biểu hiện của thời gian nghệ thuật trong tác phẩm thông qua các

từ ngữ chỉ thời gian theo: năm tháng, tuổi tác, các mùa, các chiều thời gian như hiện

tại, quá khứ, tương lai,…

- Không gian nghệ thuật

Cùng với thời gian, không gian cũng là một phạm trù triết học, là hình thức

tồn tại của thế giới hiện thực. Nhưng không gian trong nghệ thuật lại khác với

không gian thực tế. Không gian nghệ thuật gắn với sự cảm thụ về không gian, có

giá trị về tình cảm nên nó mang tính chủ quan của người sáng tác.

Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì không gian nghệ thuật là “hình thức bên

trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả trần thuật

trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong trường nhìn

nhất định qua đó thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc lộ toàn bộ quán tính của

nó: cái này bên cạnh cái kia, cách quãng, tiếp nối, cao thấp, xa, gần, rộng, dài… tạo

nên viễn cảnh nghệ thuật”.

Không gian nghệ thuật trong tác phẩm có tác dụng mô hình hóa các mối liên

hệ của bức tranh thế giới như thời gian xã hội, đạo đức, tôn ti, trật tự,…

Không gian nghệ thuật có thể mang tính địa điểm, tính phân giới dùng để

mô hình hóa các phạm trù thời gian như: bước đường đời, con đường cách

mạng,…

Không gian nghệ thuật cũng có thể mang tính cản trở để mô hình hóa các

kiểu tính cách con người, hoặc không mang tính cản trở để hiện thực hóa các ước

mơ của con người như trong truyện cổ tích.

Ngôn ngữ của không gian nghệ thuật rất đa dạng, phong phú. Các cặp phạm

trù cao – thấp; xa – gần;… đều được dùng để biểu hiện phạm vi giá trị phẩm chất

của đời sống xã hội.

Không gian nghệ thuật chẳng những cho ta thấy cấu trúc nội tại của tác

phẩm, các ngôn ngữ tượng trưng mà còn cho thấy các quan niệm về thời gian, chiều

sâu cảm thụ thời gian hay của một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở khách

quan để khám phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của các hình tượng

nghệ thuật.

1.1.2.2.2.6. Ngôn ngữ, giọng điệu

- Ngôn ngữ trần thuật

Theo M. Gorki: ngôn ngữ là “yếu tố thứ nhất của văn học (…) là “một trong những

20

yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn” [9; tr.215].

Văn học là nghệ thuật của ngôn từ và nhà văn là người sáng tạo nghệ thuật bằng ngôn từ.

Hơn bất cứ thứ chất liệu và phương tiện nghệ thuật nào, ngôn ngữ vừa là chất liệu vừa là

phương tiện tối ưu của nhà văn trong sáng tác.

Theo cuốn Lý luận văn học do Phương Lựu chủ biên, ngôn ngữ nghệ thuật là

“một hệ thống các phương thức, quy tắc thông báo bằng tín hiệu thẩm mỹ của một

ngành, một sáng tác nghệ thuật. Người ta có thể nói “ngôn ngữ ba lê”, “ngôn ngữ

chèo”, “ngôn ngữ điện ảnh”. Cũng có thể nói đến ngôn ngữ nghệ thuật của sáng tác văn

học trên cấp độ đó” [33; tr.185-186].

Ngôn ngữ nghệ thuật cho phép nhà văn sử dụng nó để thể hiện vẻ đẹp sống

động của thế giới tự nhiên, của đời sống xã hội và cả nội tâm đa dạng của con người.

Ngôn ngữ còn có ưu thế về tính khái quát, tính trừu tượng và tính đa nghĩa,

là nhân tố hỗ trợ giúp cho nhà văn nhân lên rất nhiều lần hiệu lực của sản phẩm mà

họ sáng tạo. Khi xem xét ngôn ngữ nghệ thuật, Khrapchenko đã nêu ý nghĩa của nó

“không phải chỉ như là những cơ sở đầu tiên của tác phẩm văn học mà còn như là

một hiện tượng của phong cách văn học và với tư cách là một hiện tượng của phong

cách” [21; tr.109].

Ngôn ngữ của thể loại tự sự là ngôn ngữ mang tính khách quan: “lời tự sự là

lời miêu tả, trần thuật theo lối kể lể, phân tích, chỉ ra các thuộc tính một cách khách

quan” [33; tr.365].

Đối với trần thuật, ngôn ngữ người trần thuật chẳng những có vai trò then

chốt trong phương thức tự sự mà còn là yếu tố cơ bản thể hiện phong cách nhà văn,

truyền đạt cái nhìn, giọng điệu, cá tính của tác giả.

- Giọng điệu trần thuật

Giọng điệu là một hiện tượng nghệ thuật mang tính cá nhân cao độ, gắn với

phong cách nhà văn, là một phương diện cơ bản tạo nên hình thức nghệ thuật của

tác phẩm.

Trong Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn

Khắc Phi, giọng điệu được hiểu là “thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức

của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách

xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân, xơ, thành

kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [9; tr.91].

Giọng điệu trong tác phẩm văn học là giọng điệu nghệ thuật, nó là một phạm

21

trù thẩm mỹ của tác phẩm văn học. “Giọng điệu trong tác phẩm gắn với giọng điệu

“trời phú” của tác giả nhưng mang nội dung khái quát nghệ thuật phù hợp với đối

tượng thể hiện” [9; tr.91].

Đối với tác phẩm văn học, giọng điệu nghệ thuật không chỉ là yếu tố hàng

đầu trong phong cách nhà văn, là phương tiện biểu hiện quan trọng của tác phẩm

mà còn là yếu tố đóng vai trò thống nhất mọi yếu tố khác của hình thức tác phẩm

vào một chỉnh thể. Hơn nữa, giọng điệu ở đây không chỉ là một tín hiệu âm thanh

có âm sắc đặc thù để nhận ra người nói mà còn là một hiện tượng “siêu ngôn ngữ”

phụ thuộc vào cấu trúc nghệ thuật của tác phẩm, khuynh hướng nghệ thuật của tác

giả và của thời đại. Khi trần thuật, tác giả tạo ra những sắc thái giọng điệu khác

nhau, cái mà M.Bakhtin gọi là “tính đa thanh trong giọng điệu”.

Như vậy, giọng điệu là biểu hiện của thái độ cảm xúc chủ thể đối với đời

sống, giọng điệu mang nội dung tình cảm thái độ ứng xử của nhà văn đối với hiện

thực được phản ánh, giọng điệu thể hiện ở điểm nhìn của chủ thể, ở quan hệ của chủ

thể đối với cái được miêu tả. Trong truyện, giọng điệu thường phức tạp hơn thơ, chủ

yếu gồm hai giọng điệu cơ bản: giọng điệu nhân vật đối với thế giới và giọng của

người kể chuyện đối với nhân vật. Tùy theo đặc điểm tính cách, số phận nhân vật,

người kể và các mối quan hệ đa dạng của chúng mà ta có giọng điệu đa dạng.

Do giọng điệu gắn với việc dùng hình tượng để miêu tả đối tượng sáng tác

nên nó thể hiện cách nhìn nhận riêng của cá nhân đối với đời sống. Nói cách khác,

giọng điệu của nhân vật chủ yếu dựa vào cảm hứng chủ đạo của nhà văn.

1.2. Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Tình hình vận dụng thi pháp trong dạy học tác phẩm văn học trong

nhà trường phổ thông

Dạy học Ngữ văn theo hướng thi pháp học nghĩa là nghiêng về phân tích

hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Hiện nay, trong nhà trường phổ thông, thi pháp

học là cách thức phân tích tác phẩm bám vào văn bản là chính, không chú trọng đến

những vấn đề nằm ngoài văn bản như: tiểu sử nhà văn, hoàn cảnh sáng tác, nguyên

mẫu nhân vật, giá trị hiện thực, tác dụng xã hội,… Khi dạy học môn Ngữ văn theo

hướng tiếp cận thi pháp học, giáo viên thường quan tâm đến những yếu tố hình thức

của tác phẩm như: hình tượng nhân vật, không gian, thời gian, kết cấu, cốt truyện,

điểm nhìn, ngôn ngữ, thể loại,… Nhiệm vụ của giáo viên và học sinh khi tiếp cận

22

tác phẩm văn học với “Phương pháp hình thức” này là từ việc phân tích các khía

cạnh hình thức của tác phẩm văn học, người học phải hiểu được ý nghĩa thẩm mỹ

của từng khía cạnh đó đối với chỉnh thể nội dung tác phẩm.

Ở Việt Nam hiện nay, việc vận dụng thi pháp vào dạy học tác phẩm văn học

trong nhà trường phổ thông đang có điều kiện tốt. Việc phổ biến quan điểm thi pháp

học trong nhà trường đã có bề dày khoảng 20 năm. Sách giáo khoa Ngữ văn hiện

hành chứa đựng rất nhiều tri thức về thi pháp học; các đề thi và đáp án môn Ngữ

văn gần đây đã yêu cầu học sinh chú trọng phân tích hình thức nghệ thuật. Nhưng

thi pháp học có biến thành thực tiễn sinh động hay không còn phụ thuộc rất nhiều

vào sự vận dụng tích cực của giáo viên và học sinh trong việc dạy-học văn.

Thông qua việc dự giảng giờ Ngữ văn tại một số lớp học thuộc cấp trung học

phổ thông, người viết nhận thấy một bộ phận giáo viên mặc dù đã định hướng được

việc áp dụng thi pháp học khi dạy học một tác phẩm văn học nhưng lại thiếu đi sự

sáng tạo trong phương pháp dạy học gây nên sự nhàm chán, khó hiểu đối với học

sinh. Bên cạnh đó, giáo viên thiếu đi sự tương tác với người học, chưa giúp người

học tìm hiểu sâu về các hình thức nghệ thuật trong văn bản mà chủ yếu chỉ dừng ở

mức gọi tên hoặc khái quát hời hợt.

1.2.2. Thực trạng dạy học truyện ngắn Vợ nhặt của tác giả Kim Lân trong

chương trình Ngữ văn 12

1.2.2.1. Khảo sát thực tế

Qua thực tế khảo nghiệm về tình hình dạy học truyện ngắn Vợ nhặt ở nhà

trường hiện nay, người viết nhận thấy giáo viên chưa thực sự chú ý đến hướng tiếp

cận thi pháp học đối với truyện ngắn Kim Lân. Hầu như giáo viên chỉ tập trung vào

giảng dạy tình huống truyện và diễn biến tâm lý các nhân vật mà không chú ý tới

các đặc trưng thi pháp khác của tác phẩm khiến cho hiệu quả bài học chưa cao, chưa

khơi gợi được hứng thú ở người học.

Để tìm hiểu thực trạng dạy và học truyện ngắn Vợ nhặt của tác giả Kim Lân

trong chương trình THPT lớp 12, người viết đã tiến hành điều tra, khảo sát thực tế việc

dạy và học truyện ngắn này tại 2 trường THPT.

- Thời gian khảo sát: Học kì II năm học 2015 – 2016

- Đối tượng khảo sát: Người viết tiến hành khảo sát đối với các đối tượng cơ

bản tham gia trực tiếp vào quá trình dạy và học trong nhà trường với mặt bằng trình

23

độ, học lực tương đương nhau gồm có:

+ Giáo viên bộ môn Ngữ văn trường THPT Vũ Duy Thanh, Yên Khánh,

Ninh Bình và trường THPT Tô Hiến Thành, Đống Đa, Hà Nội

+ Học sinh: Học sinh khối lớp 12 của trường THPT Vũ Duy Thanh, Yên

Khánh, Ninh Bình và trường THPT Tô Hiến Thành, Đống Đa, Hà Nội

Phương pháp khảo sát:

+ Phát phiếu điều tra khảo sát

+ Tổng hợp, phân tích số liệu

+ Nghiên cứu các bài kiểm tra viết của học sinh về truyện ngắn Vợ nhặt

trong quá trình học trước đó

+ Nghiên cứu giáo án và trao đổi với giáo viên

+ Nghiên cứu SGK và tài liệu tham khảo

1.2.2.1.1. Khảo sát đối tượng giáo viên

Đổi mới phương pháp dạy học văn trong nhà trường đã được đề cập từ khá

lâu nhưng việc áp dụng vào dạy học như thế nào, giảng dạy trên lớp ra sao vẫn còn

nhiều điểm cần xem xét. Thái độ của học sinh với việc tiếp cận tác phẩm và tình

trạng học sinh tiếp thu bài học như thế nào có một phần ảnh hưởng không nhỏ từ

phía người dạy. Do đó, việc hiểu thế nào cho hợp lý các giá trị của tác phẩm, tiếp

cận tác phẩm từ góc độ nào, phương cách giảng dạy ra sao cho vừa đủ lượng tri

thức, vừa có tính gợi mở để kích thích tư duy của người học luôn là vấn đề cần

được bàn bạc, nâng cấp.

Để có được kết quả tương đối xác thực về phương pháp dạy học tác phẩm Vợ

nhặt của Kim Lân theo hướng tiếp cận thi pháp học, người viết đã tiến hành điều tra

khảo sát GV bằng phiếu ghi sẵn câu hỏi với số lượng người tham gia khảo sát cụ thể

là:

- Trường THPT Vũ Duy Thanh: 6 giáo viên

- Trường THPT Tô Hiến Thành: 4 giáo viên

Kết quả phiếu khảo sát GV như sau:

Kết quả Số phiếu (%)

STT Câu hỏi Phân loại THPT Vũ THPT Tô

Duy Thanh Hiến Thành

24

1. Tôi thường cảm thấy thích Rất thích 2 (33%) 0 (0%)

khi dạy truyện ngắn? Bình thường 3 (50%) 1 (25%)

Không thích 1 (17%) 3 (75%)

Thường xuyên 0 (0%) 1 (25%) Tần suất GV dạy học

truyện ngắn Vợ nhặt của 2. Thỉnh thoảng 4 (67%) 0 (0%)

Kim Lân theo hướng tiếp cận thi pháp học? Chưa bao giờ 2 (33%) 3 (75%)

Hiệu quả 5 (83%) 2 (50%)

Nhận xét của GV khi sử 3. Bình thường 1 (17%) 2 (50%) dụng phương pháp này?

Không hiệu quả 0 (0%) 0 (0%)

Thường xuyên 0 (0%) 0 (0%) GV có thường kết hợp các

phương pháp dạy học gợi 4. Thỉnh thoảng 2 (33%) 1 (25%) mở, nêu vấn đề để phát

huy vai trò bạn đọc HS? Chưa bao giờ 4 (67%) 3 (75%)

Thích dạy 3 (50%) 1 (25%) GV có thích dạy học theo

5. hướng tiếp cận thi pháp Bình thường 3 (50%) 2 (50%)

học không? Không thích 0 (0%) 1 (25%)

Nhận xét: Thông qua phiếu khảo sát và ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo

đang trực tiếp giảng dạy, người viết nhận thấy một số thực trạng tồn tại như sau:

- GV chỉ chú trọng khai thác nội dung mà không chú trọng đến các phương

diện đặc trưng thi pháp tác phẩm, không hỗ trợ được người học tiếp thu tác phẩm

một cách có chiều sâu.

- GV cũng chưa có thói quen tìm kiếm và cho học sinh sưu tầm các tác phẩm

cùng thể loại để mở rộng sự hiểu biết, liên tưởng, so sánh đối với HS.

- Nhiều GV còn áp đặt cảm nhận của HS về tác phẩm theo những tiền đề nội

dung có sẵn làm kìm hãm sự sáng tạo trong tư duy của người học.

1.2.2.1.2. Khảo sát đối tượng học sinh

Tiếp nhận tác phẩm văn chương ở bạn đọc nói chung, ở học sinh nói riêng là

25

một quá trình phức tạp, gồm nhiều khâu, chịu sự chi phối của nhiều yếu tố.

Thông qua hoạt động đọc và học tác phẩm trên lớp, bước đầu các em HS

hiểu được nội dung tác phẩm và nhận biết được những đặc sắc nghệ thuật của tác

phẩm.

Để hiểu rõ hơn thực trạng tiếp thu các vấn đề xung quanh tác phẩm Vợ nhặt

theo hướng tiếp cận thi pháp học, người viết tiến hành khảo sát đối tượng học sinh

dựa trên phiếu khảo sát có mẫu dưới đây với số lượng HS tham gia như sau:

- THPT Vũ Duy Thanh: 40 học sinh

- THPT Tô Hiến Thành: 30 học sinh

Kết quả khảo sát thu được cụ thể như sau:

Kết quả phiếu khảo sát HS:

Kết quả

Số phiếu (%)

STT Câu hỏi Phân loại THPT Vũ THPT Tô

Duy Hiến

Thanh Thành

Đã được học 40 (100%) 30 (100%) Em đã được học tác phẩm 1. truyện ngắn nào chưa? Chưa từng học 0 (0%) 0 (0%)

Yêu thích 9 (22,5%) 10 (33%)

Thái độ của em khi được học 63% Bình thường 62,5% 25 2. truyện ngắn Vợ nhặt của nhà 19 văn Kim Lân?

Không thích 6 (15%) 1 (3%)

Rất hiểu 0 (0%) 0 (0%)

Hiểu mơ hồ 28 (93%) 3. 35 (87,5%) Em có hiểu biết về các vấn đề nghệ thuật trong truyện ngắn không? Không hiểu 5 (12,5%) 2 (7%)

Hứng khởi 0 (0%) 0 (0%)

Khi dạy học truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân, GV có áp 4.

26

Bình thường 19 (63%) dụng các phương pháp dạy 30 (75%)

học gây sự hứng khởi cho HS Nhàm chán 10 (25%) 11 (37%) không?

25 Đã từng 20 (67%) Em đã từng được học truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân (62,5%)

5. với hướng tiếp cận các giá trị

nghệ thuật của tác phẩm Chưa từng 10 (33%) 15 (37,5%) chưa?

Nhận xét: Cùng với việc khảo sát, người nghiên cứu đã tiến hành dự giảng

một số tiết dạy truyện ngắn Vợ nhặt cũng như những truyện ngắn khác trong

chương trình Ngữ văn 12 trên địa bàn khảo sát và rút ra những nhận xét dưới đây:

- HS đã nhận thức được nội dung chính của tác phẩm cũng như khám phá

thành công một vài yếu tố nghệ thuật đặc sắc của truyện ngắn.

- Ngoài những yếu tố như nhân vật, cốt truyện, tình huống truyện, HS còn

mơ hồ về những yếu tố thi pháp như không gian, thời gian, điểm nhìn nghệ thuật,

ngôn ngữ, giọng điệu, kết cấu truyện.

- Qúa trình tiếp thu bài học trên lớp của HS còn khá thụ động, chủ yếu thông

qua việc giảng bài của GV.

1.2.2.2. Thuận lợi và khó khăn trong việc dạy học truyện ngắn Vợ nhặt của

tác giả Kim Lân trong chương trình Ngữ văn 12

1.2.2.2.1. Thuận lợi

Là cây bút truyện ngắn xuất sắc, nhà văn Kim Lân đã tạo dựng được một vị

trí khá vững chắc trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Một số tác phẩm của Kim

Lân như Làng và Vợ nhặt được đánh giá cao và xếp vào loại gần như “thần bút”.

Ngay từ bậc THCS, các em học sinh đã được tiếp cận với phong cách Kim Lân

thông qua truyện ngắn Làng và có phản hồi rất tích cực. Do đó, khi truyện ngắn Vợ

nhặt được đưa vào giảng dạy trong chương trình THPT lớp 12, khoảng cách giữa

nhà văn, tác phẩm và người đọc về mặt ngôn ngữ, tư duy nghệ thuật không còn là

quá lớn.

Bên cạnh đó, khoảng cách không gian, thời gian và môi trường sống và hình

tượng nhân vật được tái hiện trong tác phẩm thật sự gần gũi với đời sống sinh hoạt

của người Việt Nam. Do đó, khi tìm hiểu truyện ngắn Vợ nhặt thì rào cản thời đại,

văn hóa hầu như là không gây ảnh hưởng, áp lực lên việc dạy và học.

Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, môn Ngữ Văn

27

đã được trang bị thêm những phương tiện dạy học mới mẻ, sinh động với âm thanh,

hình ảnh, các bộ phim góp phần nâng cao hiệu quả và mang một luồng sáng mới

hấp dẫn học sinh.

Bên cạnh đó, các phương pháp dạy học mới cũng hứa hẹn sẽ tạo ra những kích

thích mạnh mẽ, làm tăng hứng thú dạy học, tiếp nhận của GV và HS.

1.2.2.2.2. Khó khăn

Bên cạnh những thuận lợi, cũng có không ít khó khăn khi bắt tay vào dạy

học truyện ngắn Vợ nhặt. Thứ nhất, đây là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách

nghệ thuật của Kim Lân, đã có lối mòn trong giảng dạy bằng phương pháp cũ và

chưa có sự chú trọng về những kiến thức thi pháp trong tác phẩm.

Thứ hai, các tác phẩm truyện ngắn được đưa vào giảng dạy ở phổ thông

chiếm 3/4 số lượng các tác phẩm trong chương trình. Điều này phản ánh đúng

tương quan của thành tựu truyện ngắn so với những thể loại văn xuôi khác trong đời

sống văn học của chúng ta. Mặc dù vậy, việc phân tích giảng dạy truyện ngắn còn

chưa chú ý đúng mức và chưa làm nổi bật đặc trưng thể loại.

Thứ ba, toàn bộ tác phẩm có dung lượng dài, nên bên cạnh việc nắm bắt các

vấn đề cốt lõi, GV khai thác không sâu rộng thì sẽ dễ phá vỡ tính chỉnh thể của tác

phẩm và trượt khỏi ý đồ của tác giả.

Thứ tư, khoảng cách lịch sử, hoàn cảnh lịch sử mặc dù chỉ trải qua mấy chục

năm nhưng ít nhiều đã có sự thay đổi. Cùng với điều đó là các rào cản về tâm sinh

lý lứa tuổi, nhu cầu thẩm mỹ, thời đại,… cũng khiến cho việc tiếp cận tác phẩm còn

28

nhiều hạn chế.

Tiểu kết chương 1

Thi pháp học là một lĩnh vực nghiên cứu có ảnh hưởng lớn trong nghiên cứu

văn học thế kỷ XX, XXI, tuy có cội nguồn xa xưa nhưng đã được cải tạo triệt để,

mang nội dung mới, rất đa dạng về quan niệm, phương pháp, đồng thời tự nó cũng

biến đổi nhanh chóng trong lịch sử.

Thi pháp học rất cần thiết trong việc nghiên cứu và giảng dạy văn học trong

nhà trường phổ thông. Nó giúp chúng ta khám phá một cách chính xác cấu trúc hình

thức mang tính nội dung của tác phẩm văn học, phục vụ cho việc tìm hiểu nội dung

tác phẩm một cách đích thực, hoàn toàn không có sự gán ghép hoặc cảm nhận thiếu

cơ sở. Bên cạnh đó, thi pháp học còn giúp bạn đọc hiểu đủ, hiểu đúng các tác phẩm

văn chương trong quá trình phát triển tư duy nghệ thuật của mỗi tác phẩm văn

chương, nhưng không sa vào hình thức chủ nghĩa.

Việc áp dụng lý thuyết của thi pháp học vào dạy một tác phẩm văn học cụ

thể đang là yêu cầu cấp thiết khi nhìn vào thực trạng thiếu khả quan của dạy học

văn học trong môn Ngữ văn nói chung và dạy học truyện ngắn nói riêng trong thời

gian vừa qua. Đó cũng là cách thay đổi tư duy dạy văn truyền thống khi môn Ngữ

văn đã và đang dần mất đi vị trí và vai trò của mình trong hệ thống giáo dục quốc

29

dân.

CHƯƠNG 2

TÍCH CỰC HÓA CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN VỢ

NHẶT CỦA TÁC GIẢ KIM LÂN THEO HƯỚNG TIẾP CẬN THI PHÁP

HỌC

2.1. Một số vấn đề thi pháp trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân

2.1.1. Cách thức sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu

2.1.1.1. Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn Vợ nhặt

Khrapchenkô cho rằng: “Ngôn ngữ nghệ thuật… không phải chỉ như là cơ sở

đầu tiên của tác phẩm văn học mà còn là những hiện tượng của phong cách văn

học” [20; tr.190-191]. Trong thể loại truyện ngắn, việc tổ chức ngôn ngữ có yêu cầu

rất cao và là một vấn đề quan trọng. Mỗi truyện ngắn là một công trình sáng tạo của

nhà văn mà ngôn ngữ, giọng điệu là một trong các nhân tố đặc trưng tạo thành tác

phẩm. Sự tổ chức truyện ngắn nhất định phụ thuộc vào nghệ thuật sử dụng ngôn từ

của tác giả.

Vốn là nhà văn “của những người nông dân”, Kim Lân luôn khai thác một

cách có dụng ý hệ thống từ ngữ địa phương, thuẩn Việt. Bên cạnh đó, Kim Lân

không quên thổi hồn vào nhân vật của mình một “hơi thở cuộc sống” thông qua

ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ người kể chuyện làm sống động hình ảnh những

con người lao động chân chất, đời thường. Đánh giá cao nghệ thuật sử dụng ngôn

ngữ đặc sắc của truyện ngắn của Kim Lân, tác giả Nguyên Bảo đã cho rằng: “Kim

Lân lựa chọn những từ ngữ mang hơi thở của cuộc sống hàng ngày để diễn đạt với

chúng cuộc sống miền quê với những con người giản dị mà mến yêu” [55; tr.84].

Khi viết về truyện ngắn Vợ nhặt, nhà giáo Đỗ Kim Hồi đã chú ý đến tài

dùng chữ, lối viết của Kim Lân và khẳng định “Như về cái vốn liếng ngôn ngữ giàu

có đặc sắc của Kim Lân, cái lối viết văn tưởng như dễ dàng mà không dễ phỏng

theo, giản dị vô cùng mà sao cứ thấy ánh lên chất hào hoa Kinh Bắc” [16].

Kim Lân đã rất giỏi trong việc vận dụng sáng tạo, linh hoạt các lớp từ hội

thoại, từ đệm, từ địa phương, thành ngữ,… để tái tạo cuộc sống hiện thực như nó

vốn có, rõ nét, sinh động. Ông lựa chọn những từ ngữ mang hơi thở cuộc sống

thường ngày để diễn tả chính xác, sống động cuộc sống làng quê, cuộc sống của

30

những người lao động nghèo trong Vợ nhặt:

Ví dụ cách dùng từ đệm:

- Kể có ra, làm được dăm ba mâm thì phải đấy.

Ví dụ cách dùng từ biến âm:

- Chúng mày đợi u nhá

Ví dụ cách dùng từ luyến láy:

- Thì u cứ hẵng vào ngồi lên giường lên diếc chĩnh chệm cái đã nào

Ví dụ cách dùng từ địa phương:

- Kìa nhà nó chào u

- Điêu! Người thế mà điêu

- Chè khoán đây, ngon đáo để cơ

Ví dụ cách dùng thành ngữ:

- Ai giàu ba họ khó ba đời

- Ngoảnh đi ngoảnh lại

Kim Lân cũng đã đưa khẩu ngữ vào văn xuôi, nâng khẩu ngữ lên thành một

trình độ nghệ thuật cao, giản dị mà tinh tế, nôm na mà hàm xúc:

- Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố

- Chỉ được cái thế là nhanh… Dơ

Như vậy, người đọc có thể nhận thấy rõ nét rằng, các từ ngữ sinh hoạt bình

dị này có mặt trong cả ngôn ngữ tác giả lẫn ngôn ngữ nhân vật của Vợ nhặt, góp

phần quan trọng vào cá tính hóa từng nhân vật bình dân trong truyện ngắn này.

Trong Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân cũng đặc biệt chú trọng đến ngôn ngữ đối

thoại của nhân vật. Với mỗi nhân vật, nhà văn đều có sự lựa chọn ngôn ngữ riêng

biệt phù hợp nhằm bộc lộ bản chất, tính cách, tình cảm,… của nhân vật.

Khảo sát lời thoại của các nhân vật, người viết có thống kê như sau:

Thứ tự Tình huống giao tiếp Nhân vật giao tiếp Tổng lượt lời

1 7 Anh Tràng đưa người "vợ nhặt" về qua xóm ngụ cư Người dân xóm ngụ cư - Anh Tràng

2 Tràng gặp thị lần đầu Anh Tràng - thị 3

3 Tràng gặp thị lần thứ hai Anh Tràng - thị 11

Trên đường Tràng đưa thị 4 Anh Tràng - thị 26 về nhà ra mắt

31

5 Thị xuất hiện trong nhà Anh Tràng - thị - bà cụ 19

Tràng với tư cách là nàng Tứ

dâu mới

6 12 Bữa cơm sáng sau đêm đầu tiên thị làm vợ Tràng Anh Tràng - thị - bà cụ Tứ

Ở phần đầu truyện ngắn, Kim Lân chỉ xây dựng hai cuộc thoại giữa Tràng và

người dân xóm ngụ cư. Những đứa trẻ cũng sớm hiểu ra mối quan hệ giữa Tràng và

thị nên đã chọc "chông vợ hài", Tràng đáp lại trong sự sung sướng "Bố ranh!". Có

một cái "đầu trọc thò ra gọi giật giọng" và mời anh Tràng vào chơi, cũng chỉ để dò

hỏi xem người đàn bà đi bên cạnh là ai thôi. Từ đó thể hiện thái độ của người dân

xóm ngụ cư trước việc anh Tràng có vợ. Họ vừa tò mò, vừa ngạc nhiên, vừa lo lắng

cho Tràng "giời đất này còn rước cái của nợ đời về”.

Kim Lân đã dành cho anh Tràng và thị hơn nửa số lượt lời đối thoại trong tác

phẩm (40/78 lượt lời đối thoại) chỉ để hai nhân vật "phải duyên với nhau", tìm hiểu

nhau và quyết định đến với nhau. Lần thứ nhất, anh Tràng hò vu vơ mấy câu "Muốn

ăn cơm trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh!", thị đã "lon ton" chạy ra đẩy

xe cho anh Tràng. Lần thứ hai, Tràng gặp lại thị, thị đã thay đổi nhiều quá, thị gầy

sọp hẳn đi nhưng vẫn với cái vẻ cong cớn đó. Trong lần gặp lại lần thứ hai, thị là

người cố tình tìm hiểu, khai thác thông tin - những thông tin vô cùng quan trọng và

cần thiết để thị có quyết định về làm vợ anh Tràng hay không. Có thể nói rằng trong

đoạn đối thoại này, thị là người chủ động khai thác thông tin để đưa ra quyết định đi

theo anh Tràng một cách chủ động; anh Tràng thì đùa cho vui, hoàn toàn không

nghĩ đến những toan tính trong suy nghĩ của thị nên khi thị "đi về" thật, Tràng lo sợ

"thóc gạo này đến cái thân mình cũng chẳng biết có nuôi nổi không, lại còn đèo

bòng", nhưng rồi anh cũng "chậc, kệ!".

Trước mỗi cặp thoại ở buổi gặp gỡ giữa Tràng và thị là những lời dẫn thoại

của tác giả miêu tả thái độ của thị: lúc cong cớn, xỉa xói, khi đon đả, ngọt ngào. Lời

thoại là những phát ngôn có nội dung thông báo trọn vẹn, đầy rẫy tính từ "nói thật

hay nói khoác", "người thế mà điêu", "leo lẻo cái mồm", cách xưng hô đưa đẩy thân

mật "nhà tôi", "đằng ấy", "tớ". Hình thức lời thoại đa dạng: khi là câu hỏi, khi mặc

cả, lúc là lời mắng, lúc lại là lời cảm thán.

Những lời đối thoại trong buổi rước dâu lại cụt lủn, buồn tẻ, thiếu vắng từ

32

xưng hô. Hình thức lời thoại cũng đơn điệu: một câu hỏi và một câu trả lời. Người

đọc cũng không còn bắt gặp lời dẫn thoại miêu tả thái độ cong cớn, xỉa xói, đon đả

của nhân vật như ở buổi đầu gặp gỡ nữa. Những lời đối thoại cụt lủn, tẻ nhạt này

chính là tâm trạng ngượng ngùng, e thẹn, âu lo của cả hai nhân vật. Khi đùa vui thì

mạnh bạo gọi "nhà tôi ơi", "đằng ấy", nay theo nhau về thì vấn đề trở nên quan

trọng, biết xưng hô với nhau ra sao? "Kim Lân rất tài khi viết những lời đối thoại

giữa hai vợ chồng Tràng. Nó thật lửng lơ với toàn là câu nói trống không, nó nhấm

nhẳng, dấm dẳn đến hay. Đó là cái lửng lơ, nhấm nhẳng của hai kẻ "chân đất" cùng

khốn, bất ngờ trở thành vợ chồng nhanh quá, nên tới tận lúc đi bên nhau vẫn còn

chưa hết lạ, chưa hết ngượng với nhau. Nhưng đó cũng là cái dấm dẳng của hai

người biết rằng họ đã có nhau" [15].

Nhà nghiên cứu Đỗ Kim Hồi cho rằng "Kim Lân rất giỏi khi tả người vợ của

anh Tràng có cong cớn, rất cong cớn nữa nhưng không nanh nọc, có trơ trẽn, rất

trơ trẽn nhưng không đĩ thõa. Và cái cong cớn, sưng sỉa, đanh đá, trơ trẽn kia, nó

có thể sinh ra từ dốt nát, đói nghèo, tăm tối chứ tuyệt không sinh ra từ cái ác, cái

xấu xa". Kim Lân đã trả lại cho thị cái bản tính của người phụ nữ Việt Nam. Thế

mới thấy tấm lòng nhân đạo của Kim Lân sâu sắc đến nhường nào.

Nhân vật bà cụ Tứ xuất hiện trong phần cuối của câu chuyện. Kim Lân cho

bà xuất hiện trong 13 lượt lời đối thoại với con trai và con dâu, trung bình 23,5

chữ/lượt lời. Người mẹ già, mặt bủng beo, gần đất xa trời, nhưng khi hiểu ra cơ sự,

bà lại là người nói nhiều nhất trong truyện. Đoạn con dâu ra mắt, bà khuyên nàng

dâu "vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông trời cho

khá…", rồi bà dặn con trai "Hôm nào nghỉ ở nhà kiếm lấy ít nứa về đan cái phên mà

ngăn ra mày ạ" để Tràng và thị có không gian riêng. Trong bữa ăn sáng, bà toàn nói

chuyện vui, chuyện tương lai. Bà bảo vợ chồng Tràng nuôi lấy đôi gà, "chả mấy mà

có ngay đàn gà", lại còn khoe món chè khoán "ngon đáo để", "xóm ta khối nhà còn

chả có cám mà ăn". Những lời của bà cụ Tứ là lời của một người từng trải, nhìn

thấy và hiểu tất cả những cơ sự. Bà cần phải là người bình tĩnh, xua tan những lo

lắng, ngượng ngùng của đôi vợ chồng trẻ, lại là người cần lạc quan hơn ai hết để

động viên vợ chồng Tràng.

Nhà văn Kim Lân vô cùng tinh tế khi đưa ngôn ngữ sinh hoạt đời thường vào

tác phẩm của mình một cách xuất sắc. Ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật trong

33

Vợ nhặt đã trở thành những tín hiệu thẩm mĩ quan trọng, thông qua đó, người đọc

khám phá được chiều sâu tâm lí của con người, tình người trong nạn đói khủng

khiếp năm 1945.

Bên cạnh việc sử dụng ngôn ngữ đối thoại như một phương thức quan trọng

thể hiện chân dung nhân vật, nhà văn Kim Lân cũng chú ý tới ngôn ngữ độc thoại

nội tâm nhân vật.

Nhờ có ngôn ngữ độc thoại, Kim Lân đã ghi lại dấu ấn trên những nhân vật

bất hủ của mình như nhân vật Tràng, nhân vật bà cụ Tứ.

- Mới đầu anh chàng cũng chợt nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng

chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Sau không biết nghĩ thế nào hắn chặc

lưỡi một cái: - Chậc, kệ!

- Hắn nghĩ bụng: "Quái sao nó lại buồn thế nhỉ?... ồ sao nó lại buồn thế

nhỉ?...". Hắn nhổ vu vơ một bãi nước bọt, tủm tỉm cười một mình.

Kim Lân đã chọn ngôn ngữ độc thoại nội tâm để diễn tả tâm trạng bà cụ Tứ:

"Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay

đầu giường con trai mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái

Đục mà. Ai thế nhỉ?". Đến khi nghe Tràng phân trần cắt nghĩa, bà cụ mới hiểu.

Lòng bà ngổn ngang những lo âu, tủi cực, xót thương lẫn vui mừng. "Bà lão cúi đầu

nín lặng". Trong lòng bà đầy những ám ảnh của một dĩ vãng nặng trĩu những đắng

cay. Bà nghĩ đến ông lão, đến đứa con Út, đến cuộc đời cơ cực dài dằng dặc của

mình mà thương, mà tủi cực xót xa: "Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là

lúc trong nhà ăn nên làm nổi những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này. Còn mình

thì… "Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai hàng nước mắt. Nạn đói đang đe

dọa, con có vợ bà lo lắng thực sự; "Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống được

qua cơn đói khát này không". Từ xót xa, mặc cảm, lo lắng bà nghĩ tới cái may của

gia đình. Bà xót thương người đàn bà lạ. Lòng người mẹ nghèo nhân hậu thấu hiểu

cảnh ngộ người con gái xa lạ bỗng trở thành con dâu của mình. "Người ta có gặp

bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có

vợ được...". Nghĩ thế bà vui trong lòng, cử chỉ của bà dịu dàng, âu yếm. Nét đẹp và

sự nhân hậu vốn có trong bà được tác giả Kim Lân diễn tả tinh tế qua cách sử dụng

ngôn ngữ chọn lọc trong diễn tả tâm lý nhân vật, góp phầm khắc họa vẻ đẹp tâm

hồn của người mẹ nghèo Việt Nam.

Những suy nghĩ thầm kín, những dòng tâm trạng phức tạp không dễ gì được

độc giả biết đến nếu thiếu đi những dòng độc thoại nội tâm nổi bật dụng ý nghệ

34

thuật trong Vợ nhặt.

Như vậy, thành công nổi bật cũng là nét đặc sắc cơ bản trong ngôn ngữ của

nhà văn Kim Lân trong tác phẩm Vợ nhặt chính là nghệ thuật vận dụng sáng tạo hệ

thống từ ngữ, cú pháp thuần Nôm giản dị mà tinh tế, hàm súc. Điều này đem đến

cho lời văn nghệ thuật trong tác phẩm vẻ đẹp chân chất, bình dị mà không kém phần

trau chuốt, có giá trị thẩm mỹ cao.

2.1.1.2. Giọng điệu nghệ thuật trong truyện ngắn Vợ nhặt

2.1.1.2.1. Giọng điệu thương cảm, xót xa

Kim Lân luôn nhìn nhân vật của mình với “ánh nhìn ấm áp”, chính vì vậy

giọng điệu chủ đạo trong truyện ngắn Kim Lân chính là giọng điệu chất chứa sự

cảm thương, xót xa: “Trong bóng chiều nhá nhem, Tràng đi từng bước mệt mỏi,

chiếc áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước.

Hình như những lo lắng, chật vật trong một ngày đè xuống cái lưng to rộng như

lưng gấu của hắn”.

Với giọng kể trầm buồn, sâu lắng, Kim Lân cũng dẫn dắt người đọc bước

vào không gian tăm tối của xóm ngụ cư đói nghèo, thê thảm đến thê lương: “Cái đói

đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái

Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và

nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người

trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên

đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”.

Giọng kể đầy chua xót thể hiện phần nào thái độ nghẹn ngào, thương cảm, đau đớn

của tác giả trước thảm cảnh nạn đói diễn ra ở xóm ngụ cư ấy.

Giọng điệu cảm thương ấy thể hiện rõ nhất trong đoạn “Bà lão cúi đầu nín

lặng. Bà lão hiểu rồi, lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa

ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả

chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt

sau này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước

mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này

không?”. Trong đoạn này, dường như có sự hòa nhập, song trùng giữa giọng điệu

nhân vật và giọng điệu người kể chuyện. Tâm trạng vừa ai oán vừa xót thương của

35

bà cụ Tứ bộc lộ qua hình thức câu cảm thán, câu hỏi tu từ.

Rồi cảnh bà lão lễ mễ bưng nồi chè cám trong niềm vui của người mẹ nghèo

cho thấy một cảnh tượng hiếm hoi chưa từng thấy trong lịch sử.

Kim Lân đã ghi lại tất cả nỗi chua xót, tủi hờn ấy để đem đến cho người đọc

sự cảm thông, đồng cảm và thương cảm cho những số phận con người nghèo khổ

trong hoàn cảnh khốc liệt của cuộc sống giữa đói nghèo và hiểm nguy của chiến

tranh.

Giọng văn này đã góp phần vào “bản giao hưởng” lúc trẩm lúc bổng Vợ nhặt

những nốt sâu lắng, da diết có chút gợi buồn man mác nhưng không đẩy người ta

vào chỗ tuyệt vọng, bế tắc.

2.1.1.2.2. Giọng điệu hóm hỉnh, dí dỏm

Kim Lân đã từng nói rằng “Hóm hỉnh là cái chất của tôi” và cái chất ấy cũng

không bị tác giả lãng quên trong truyện ngắn Vợ nhặt.

Trong tác phẩm này, người đọc có thể nhận ra giọng điệu có chút pha trò vui

vẻ ngay cả trong cái phông nền tăm tối của không gian truyện ngắn với cái đói lan

tràn, người sống phải đấu tranh sinh tồn từng chút, người chết nằm la liệt ngoài

đường, mùi “đống rấm” bốc lên khét lẹt.

Bằng giọng điệu khôi hài, tác giả Kim Lân đã tạo nên tình huống nhặt vợ của

anh cu Tràng dở khóc dở cười khiến độc giả có lúc phải bật cười: “Có ăn cơm trắng

với giò! Lại đây mà đẩy xe bò với anh”. Người đàn ông tưởng chừng như thô kệch

ấy, lại có lúc cũng tán tỉnh có vần vè. Và cũng chính từ câu bông đùa ấy, đôi trai gái

đã nên duyên vợ chồng.

Trong lúc cái đói nghèo, cái chết cận kề, các nhân vật trong Vợ nhặt của

Kim Lân vẫn không thiếu đi những khoảnh khắc vui vẻ, “chậc kệ” quên đi cái sự

đời để dành cho nhau những lời lẽ tình tứ, ngọt ngào:

“Hắn chặc lưỡi:

- Vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ, chả nhẽ chưa tối đã

rúc vào ngay, hì hì...

- Khỉ gió.

Thị phát đánh đét vào lưng hắn, khoặm mặt lại.

Hắn thích chí ngửa cổ cười khanh khách”

Trong cái giây phút hiếm hoi giữa bộn bề khó khăn của cuộc sống này, nhân

36

vật của Kim Lân dường như được quên đi cái đói khổ và thân phận bé nhỏ, nghèo

hèn của mình. Họ nói năng tình tứ, đối đáp góc cạnh, đưa người đọc tạm thoát khỏi

phông nền đen tối bao trùm toàn tác phẩm.

“Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm

rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon

lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn

chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này:

- Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp

kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay

đàn gà cho mà xem...

Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này

mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế.”

Chính niềm lạc quan hiếm có trong hoàn cảnh ấy đã giúp họ vượt qua khó

khăn, thoát khỏi cảnh đói nghèo, tìm đến cách mạng như một sự tất yếu mà tác giả

muốn thể hiện trong tư tưởng chủ đề của truyện ngắn.

Đọc Vợ nhặt, ta có thể thấy bóng tối đã hiện dần lên ánh sáng của ngày mai,

của tương lai, của hi vọng và niềm lạc quan, tin tưởng. Đó là thứ ánh sáng được tạo

ra từ những nụ cười, giọng cười đan xen sự ý nhị, tinh tế đúng lúc, đúng chỗ.

Những chi tiết hóm hỉnh, đáng yêu pha chút khôi hài đã góp phần rất lớn trong việc

tạo ra sức hấp dẫn khó cưỡng cho tác phẩm.

2.1.2. Nghệ thuật xây dựng tình huống

Đặc trưng của truyện ngắn là cốt truyện và thông thường cốt truyện bắt đầu

từ những sự kiện có vấn đề đó là tình huống. Chính ở đó, nhà văn bộc lộ tài năng

của mình. Nói cách khác, tình huống chính là một lát cắt của cuộc sống, là vực xoáy

trên dòng sông, tình huống gắn liền với cốt truyện và chủ đề tư tưởng tác phẩm. Để

khám phá những giá trị nội dung, nghệ thuật hấp dẫn của truyện ngắn, độc giả cần

bắt đầu từ việc khai thác tình huống truyện.

Mặc dù chỉ là viết về câu chuyện đời thường nhưng Kim Lân lại có khả năng

tạo ra những tình huống truyện rất độc đáo. Nhân vật của ông khi đặt trong những

tình huống đó đã tự bộc lộ con người, tính cách của mình.

Truyện Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân là một tác phẩm rất độc đáo về tình

37

huống. Dựa vào tình huống nhặt vợ độc đáo, chủ đề tác phẩm, tâm trạng và tính

cách nhân vật trong tác phẩm này dần hé lộ và có sự biến chuyển cực kì lôi cuốn đối

với độc giả.

Vợ nhặt – là điều không bình thường trong cuộc sống nhưng lại trở nên rất

đỗi bình thường khi được đặt vào hoàn cảnh của tác phẩm. Tràng – một anh nông

dân ngụ cư, nghèo xơ xác, xấu xí, thô kệch, ngờ nghệch lại bỗng nhiên “nhặt” được

vợ. Không chỉ có thế, hạnh phúc của họ còn được tác giả đặt trên bối cảnh thê lương

ảm đạm của nạn đói năm 1945 hết sức éo le và trớ trêu. Nó đặt nhân vật trước một

cuộc thách đố vô cùng mạo hiểm với đời: sống chỉ để tồn tại hay sống là phải có

hạnh phúc.

Qủa thực là một tình huống bất ngờ, làm cho cả người trong cuộc (Tràng, bà

cụ Tứ), lẫn ngoài cuộc (người dân xóm ngụ cư) đều hoang mang, ngờ vực.

Nhà văn Kim Lân đã rất khéo léo, tinh tế khi sáng tạo ra cái tình huống

tưởng chừng vu vơ mà lại giàu ý nghĩa này: “Nơi ngưỡng của khốn khổ đó, họ sẽ

chứng tỏ số phận và tính cách của mình, đồng thời ở nơi đó họ sẽ bắt đầu một niềm

tin mới, một niềm hạnh phúc mới, dù là rất mong manh” [51].

Tình huống này sẽ chi phối tới sự phát triển của truyện và cách thức xây

dựng các nhân vật. Như vậy bắt đầu từ việc khai thác tình huống khi tiếp cận tác

phẩm mà giáo viên có thể dẫn dắt học sinh phân tích nhân vật Tràng, người vợ nhặt,

bà cụ Tứ. Các lớp nghĩa của truyện sẽ được sáng tỏ cùng các giá trị hiện thực và

nhân đạo.

2.1.3. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện

Anton Chekhov từng nói rằng: Khi viết, bạn cần phải tìm cách vượt qua đoạn

mở đầu và kết thúc, vì đó là những nơi “nhà văn mất nhiều thời gian chần chừ

nhất”. Nhìn suốt các truyện ngắn của Kim Lân, người đọc có thể nhận thấy cách

thức ông tổ chức phần trình bày của cốt truyện khá đơn giản, phù hợp với những

câu chuyện rất đỗi bình dị mang phong cách Kim Lân. Đối với truyện ngắn Vợ

nhặt, phần trình bày của câu chuyện được tạo dựng bởi hai sự kiện đối lập, xoay

quanh bối cảnh đặc biệt: cái đói đã tràn đến khắp mọi nẻo.

Truyện ngắn Vợ nhặt có kết cấu bốn phần:

Phần 1: Tràng đi làm về, xuất hiện trong bóng tối của xóm nhỏ ngụ cư khi

cái đói chưa tràn về.

38

Lần thứ hai Tràng xuất hiện ở xóm ngụ cư cũng trong một buổi chiều tà

cùng một người đàn bà lạ. Họ khiến cả xóm nghèo xôn xao

Phần 2: Tràng nhớ về hai lần gặp gỡ, vài câu bông đùa, bốn bát bánh đúc mà

mình có vợ.

Phần 3: Nhân vật bà cụ Tứ xuất hiện. Tâm trạng và tình thương của bà dành

cho đôi vợ chồng trẻ.

Phần 4: Cảnh sáng hôm sau đêm “tân hôn” của hai vợ chồng Tràng. Vợ

Tràng nói về những người đi cướp kho thóc của Nhật và Tràng nghĩ về điều đó.

Diễn trình vận động của cốt truyện trong Vợ nhặt là kiểu cốt truyện tâm lý,

chuỗi sự kiện của tác phẩm được tổ chức theo diễn trình tâm trạng của nhân vật

Tràng. Mở đầu là tâm trạng của một con người vô tư lự, không lo nghĩ đến thời

cuộc, đến cả bản thân. Chàng trai ấy đã có sự chuyển biến tâm lý tích cực sau sự

kiện “nhặt được vợ”. Tràng vui một niềm vui mơn man khó tả bởi chưa bao giờ anh

ta dám mơ tưởng tới điều này trong hoàn cảnh mà con người mưu cầu nhiều hơn

đến sự tồn tại. Kéo theo sự kiện này là một chuỗi các sự kiện, các chi tiết rất khác

thường của nhân vật nhưng lại rất hợp với quy luật phát triển tâm lí. Tràng đưa thị

về nhà với “một vẻ gì phởn phơ khác thường”, “tủm tỉm cười nụ một mình và hai

mắt thì sáng lên lấp lánh”, sự kiện nàng dâu mới ra mắt trong không khí hồi hộp,

căng thẳng của cả đôi bên. Đặc biệt là sự kiện buổi sáng đầu tiên trong gia đình có

thành viên mới.

Có thể nói rằng ở Vợ nhặt, Kim Lân không đi sâu vào việc tạo dựng những

xung đột giàu kịch tính. Cái đói và tình yêu thương, tấm lòng nhân hậu, nâng niu

con người có đôi lúc đặt mỗi nhân vật trước những thử thách nhưng chưa đến độ

gay gắt. Tuy nhiên, không vì thế mà diễn trình vận động cốt truyện của tác phẩm lại

kém đi trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình. Cái hiện thực đen tối, bi thương

của nạn đói năm 1945 đã được tái hiện sinh động. Cũng từ đó mà cái vẻ đẹp cao

quý trong tâm hồn con người Việt Nam cũng được khám phá và ngợi ca. Trong

hoàn cảnh bi thương nhất, mỗi con người của dân tộc Việt Nam vẫn luôn có một

niềm lạc quan, vươn tới ánh sáng của cuộc sống. Nói như chính tác giả thì “Khi đói,

con người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù

là trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết nhưng họ vẫn khát khao

hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng ở tương lai”

[22]. Đây cũng chính là chủ đề - tư tưởng của cả tác phẩm mà bạn đọc có thể cảm

39

nhận trong quá trình tiếp cận cốt truyện trên.

Vợ nhặt có kết cấu chặt chẽ, mở đầu với cảnh nạn đói, kết thúc với cảnh đoàn

người đi cướp kho thóc, mở ra một tương lai tươi sáng cho người dân.

Kết thúc truyện có hướng rộng mở khác hẳn với các tác phẩm được Kim Lân

viết trong giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám. Nó giúp nhà văn diễn tả số phận

con người trong thời cuộc mới tươi sáng hơn. Rõ nét nhất là cái kết rất đẹp cho đôi

vợ chồng nhiều thua thiệt nhưng cũng đầy nghị lực trong cuộc sống: Tràng và người

vợ nhặt.

Có thể nói rằng, cốt truyện trong Vợ nhặt của Kim Lân có một diện mạo khá

đặc biệt, đó chính là sự đơn giản, bình dị, không cầu kì, phức tạp mà vẫn vô cùng

hấp dẫn với kết thúc bất ngờ đầy gợi mở.

2.1.4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

Truyện ngắn sống bằng nhân vật. Nếu như đi khai thác một bài thơ chúng ta

chú ý tới hình ảnh, cấu tứ, nhịp điệu… thì khai thác một tác phẩm tự sự phải chú ý

tới nhân vật ở các góc cạnh từ đó mà phát hiện ra chân giá trị cuộc sống, cùng thông

điệp mà nhà văn gửi tới bạn đọc.

Với Kim Lân con người là mối quan tâm hàng đầu, trong một bài viết nói về

truyện ngắn Vợ nhặt trên báo Văn Nghệ, ông đã từng nêu rõ quan điểm rằng:

“Truyện ngắn cũng là tiểu thuyết và điều quan trọng nhất là nhân vật”, “nhân vật

phải có tính cách và hành động theo tính cách một cách tự nhiên, không giả tạo sáo

rỗng”.

Nhân vật trong truyện ngắn Kim Lân chính là Kim Lân là sự kết tinh của

quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn. Bởi sự lặp đi lặp lại có tính quy

luật của một phương thức nghệ thuật nào cũng là sản phẩm của một quan niệm nằm

sâu bên trong ý thức của nhà văn.

2.1.4.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua tình huống

Trong các sáng tác của Kim Lân, đặc biệt là truyện ngắn, tình huống đời

thường đã trở thành dạng chủ yếu, nó giúp nhà văn phản ánh được một hiện thực

ngổn ngang, bộn bề của cuộc sống, cũng phác họa thành công chân dung của nhiều

kiểu người trong xã hội.

Với truyện ngắn Vợ nhặt, tình huống nhặt vợ éo le của nhân vật Tràng đã

được tác giả Kim Lân xây dựng lên với chủ đề sâu sắc, nhân bản: trong hoàn cảnh đói

40

nghèo, thậm chí đứng bên bờ vực có thể dẫn đến cái chết, những con người lao động

lương thiện vẫn hướng về sự sống, vẫn bao dung, vị tha, khát khao hạnh phúc và hướng

về tương lai. Từ hình huống và ý nghĩa mà truyện ngắn hướng tới, nhà văn đã tạo dựng

nên hệ thống nhân vật những con người thô ráp về vẻ ngoài, nhưng vô cùng mềm

mại, nhạy cảm trong tâm hồn.

Khi đối chiếu giữa tình huống và nhân vật, người đọc có thể nhận thấy sự sắp

xếp có chủ đích của tác giả đối với từng nhân vật.

Tràng chỉ là một anh thanh niên bình thường, thậm chí dưới mức bình

thường. Tràng không có ngoại hình dễ nhìn, Tràng không thông minh sắc bén,

Tràng không có gia cảnh giàu sang, khá giả. Nói tóm lại, nhân vật này không có

điểm gì nổi bật cho đến khi tình huống truyện xảy ra: Giữa lúc nạn đói khủng khiếp

1945, người đàn ông nghèo (bản thân còn không biết có lo nổi cho mình hay không

và đồng thời đang phải nuôi mẹ già) lại đi đến một quyết định vô cùng táo bạo là

lấy vợ. Và điều khiến cho tình huống truyện trở nên đặc biệt thu hút đó là người vợ

này anh “nhặt” được chỉ sau hai lần gặp gỡ vu vơ, sau một bữa ăn và qua vài câu tán

tỉnh bông đùa.

Đây thật sự là một tình huống oái oăm mà dường như ai cũng nhận thấy.

Người dân xóm ngụ cư đã phải xôn xao khi Tràng dẫn thị về “Ôi chao! Giời đất này

còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không”

và thậm chí đến bản thân anh chàng này cũng nhận thấy rõ ràng rằng “Thóc gạo này

đến cái thân mình cũng chẳng biết có nuôi nổi không lại còn đèo bồng”. Ấy thế

nhưng chỉ một cái “chậc, kệ” mà đôi trai gái ấy đã đi đến quyết định gắn bó với

nhau cả đời.

Nhân vật Tràng đặc biệt, khác biệt là ở chỗ đó. Không phải anh ta không

hiểu tình thế, hoàn cảnh của mình lúc này. Có thể người đời sẽ cho rằng anh ta ngốc

nghếch, dại dột nhưng với chàng thanh niên này, niềm hạnh phúc có vợ đang “mơn

man khắp da thịt”, sự ấm áp của lòng người đủ to lớn để làm nỗi lo của Tràng tạm

lắng xuống. Từ đó, người đọc có thể tìm thấy sự khác biệt trong nhân vật Tràng của

Kim Lân.

Đối với nhân vật người vợ nhặt - một cô gái bị nạn đói cướp đi gần hết:

không còn tên tuổi, không còn bố mẹ, anh chị em, không gia đình quê hương, trước

mắt thị là vực thẳm là chết đói nên thị phải đi đến quyết định lấy Tràng – một người

41

đàn ông mới chỉ gặp gỡ đôi ba lần. Hoàn cảnh ngặt nghèo của cuộc sống đã đẩy thị

vào tình huống éo le này. Thị cần tìm một chỗ nương tựa cho bản thân trong lúc cơ

cực này. Người đọc ban đầu có thể đánh giá thị là kẻ cơ hội, là người phụ nữ không có

sĩ diện. Nhưng khi đi sâu vào tình huống truyện, giải mã những uẩn khúc, những suy tư

và theo dõi những hành động, cư xử của thị trong suốt tác phẩm, người đọc mới thấm

thía, mới hiểu rõ bản chất lương thiện của thị. Thị có thể đến với Tràng trong sự tính

toán ban đầu nhưng sau đó, thị đã thể hiện mình là người biết điều, có lễ nghĩa và là

một phụ nữ biết lo toan, vun vén cho gia đình, là một người xứng đáng được trân trọng.

Bà cụ Tứ là nhân vật bị đặt vào thế bị động trong tình huống nhặt vợ của

nhân vật Tràng. Thay vì là người sắp đặt hôn nhân cho con cái theo kiểu “cha mẹ

đặt đâu con ngồi đấy” thì bà cụ Tứ lại là người được đặt trong sự đã rồi. Bỗng

nhiên trong một buổi tối u ám, người mẹ nghèo nhận được tin báo từ con trai

rằng nó đã chính thức có một người vợ - một người phụ nữ mà bà chưa hề gặp và

cũng chưa từng nghe bất cứ thông tin gì về gia cảnh, về con người cô ta. Phản

ứng của bà lão trước tin tức bất ngờ này là sự âu lo nhưng vẫn chất chứa niềm

vui. Bà trở nên “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám

của bà rạng rõ hẳn lên”. Bà níu cái lo của mình xuống, tự nhủ “không ai khó ba

đời” và tỏ ra hết sức chu đáo đối với các con. Từ tình huống này, tấm lòng người

mẹ cũng đã được bộc lộ một cách rõ nét và sinh động.

Dựng nên tình huống truyện độc đáo này, nhà văn vừa có điều kiện khắc họa

tâm lý nhân vật, vừa làm nổi bật nhiều ý nghĩa hiện thực hết sức xót xa. Từ đó, tác

giả cũng đưa người đọc đến với phát hiện mang ý nghĩa nhân sinh đẹp đẽ: Dù cuộc

sống có bi thảm đến đâu thì vẻ đẹp của tình người, sự lạc quan, niềm khao khát

hạnh phúc cũng sẽ giúp con người vượt qua tất cả.

2.1.4.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua miêu tả tâm lý

Xuất phát từ cái nhìn con người ở chiều sâu tâm lý, Kim Lân đã khám phá

thế giới nội tâm phong phú, đa dạng và miêu tả được những diễn biến tâm trạng

nhân vật một cách tự nhiên, hợp lý, sâu sắc.

Thông qua tình huống nhặt vợ, các nhân vật trong truyện ngắn Vợ nhặt đã

bộc lộ đời sống tâm lý bản thân một cách rõ nét.

Nhân vật thị - người vợ nhặt của Tràng chính là ví dụ minh họa điển hình

cho sự chuyển biến tâm lý rõ ràng nhất trong tác phẩm. Lần đầu thị xuất hiện là

42

hình ảnh: ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi hạt vãi trước cổng chợ tỉnh.

Vì đói mà thị trở nên: “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong

cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện với Tràng. Cái đói khiến thị quên cả việc

phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Thị cứ thế mà đòi ăn. Được cho ăn,

thị sẵn sàng: “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện

trò gì”. Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa: “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ

lên xe rồi ta cùng về”, thì người đàn bà kia lại im lặng (mà thường tâm lý im lặng là

đồng ý). Thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Hành động của thị xuất

phát từ nhu cầu bám lấy sự sống, bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Ấy

vậy mà, trên đường về nhà chồng tâm trạng của thị có sự thay đổi rõ nét. Trước cái

nhìn “săm soi”, trước những lời bông đùa, chòng ghẹo của người dân ngụ cư, thị

ngượng nghịu, thiếu tự tin: “chân nọ bước díu cả vào chân kia… cái nón rách tàng

che nửa khuôn mặt”. Về đến nhà Tràng, “thị lẳng lặng theo hắn vào nhà”, “thị đảo

mắt nhìn xung quanh” và dù Tràng tỏ ra rất vui thì thị chỉ “nhếch mép cười nhạt

nhẽo”. Hai từ láy “lẳng lặng” và “nhạt nhẽo” gợi lên nỗi thất vọng sâu xa của người

vợ nhặt, thị thất vọng cho cái hoàn cảnh thảm hại của mình lúc này. Nhưng thị

không nói gì, thị vẫn tỏ ra “ngượng nghịu” nhưng “hai tay ôm khư khư cái thúng,

mặt bần thần”. Hành động và trạng thái tâm lí của người đàn bà lộ rõ những lo lắng

trong lòng thị về cái hạnh phúc vật vờ mà thị có được “nhờ” cái đói, qua những từ

láy “khư khư”, “bần thần”. Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai

ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh nhà chồng.

Sau khi được mẹ Tràng chấp nhận làm dâu, “người đàn bà khẽ nhúc nhích,

thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ”. Từ “nhúc nhích” cho thấy thị đang dần thoát

khỏi cái tâm lí nặng trĩu từ lúc bước chân vào ngôi nhà “rúm ró” của Tràng. Còn

trước mặt mẹ chồng, Kim Lân khéo tìm một từ thích hợp: “khép nép” để thị trở về

đúng với hình ảnh của cô dâu ngày cưới.

Sau đêm tân hôn, người phụ nữ ấy có sự thay đổi hoàn toàn về tâm trạng

và tính cách. Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa: “Tràng

nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không

còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”.

Trong mắt Tràng, sau đêm tân hôn, người vợ nhặt “rõ ràng là nguời đàn bà

hiền hậu đúng mực, không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở

43

ngoài tỉnh”. “Hiền hậu” mới đúng là hình ảnh mà Kim Lân muốn đem đến cho

người đọc về người đàn bà đặc biệt này. Không phải miếng ăn mà chính mái ấm gia

đình và tình yêu thương của mẹ con Tràng đã đưa thị trở về với đúng bản chất của

mình. Đây cũng là lúc thị đã ý thức được trách nhiệm của mình đối với việc cùng

chồng chung tay gây dựng gia đình trong tương lai của mình.

Nhà văn cũng đã thể hiện một cách sống động nội tâm của nhân vật Tràng

khi bỗng nhiên lấy được cô vợ “Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề,

tăm tối hằng ngày, quên cả những ngày tháng trước mặt”. Và bên cạnh người vợ

mới, Tràng cảm thấy “một cái gì đó lạ lắm, nó mơn man khắp da thịt, tựa hồ như có

bàn tay vuốt nhẹ sống lưng”. Tác giả đã để cho độc giả cảm nhận được sự thay đổi

trong suy nghĩ, tình cảm, tâm lý người đàn ông từng thô kệch, khô cằn kia sau khi

đón nhận tình cảm yêu đương, gần gũi: “Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu gắn bó

với cái nhà của hắn lạ lung. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái

tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong

lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn phải có bổn phận lo lắng

cho vợ con sau này”. Lúc này, cảm xúc của nhân vật Tràng đã dần nâng lên từ tình

cảm đến với lý trí, từ yêu thương đến với trách nhiệm.

Với nhân vật bà cụ Tứ, nhà văn Kim Lân còn chuyển hóa điêu luyện giữa

ngôn ngữ nhân vật với ngôn ngữ người kể chuyện làm cho đoạn miêu tả tâm lý

nhân vật trở nên chân thực hơn đối với người đọc: “Bà lão khẽ thở dài, ngẩng lên

đăm đăm nhìn người đàn bà. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: người ta có gặp bước khó

khăn, đói khổ này, người ta mới lấy con mình, mà con mình mới có được vợ… thôi

thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con…”. Tâm lý người mẹ già

nông thôn hiền lành, phúc hậu với tình yêu thương con được thể hiện khá sâu sắc và

cảm động đối với nhân vật bà cụ Tứ. Đó là niềm vui của người mẹ khi con mình sắp

yên bề gia thất, đó là tâm lý mang phong tục, lề thói làng quê (kể ra, làm được dăm

ba mâm thì phải đấy), cũng vừa thể hiện tâm lý xót xa cho gia cảnh nghèo hèn của

mình,…

Tác phẩm cũng được đánh giá thành công trong việc miêu tả tâm lý nhân vật

qua những biểu hiện bề ngoài như cử chỉ, lời nói, hành động của các nhân vật. Nhân

vật thị lúc theo không về nhà Tràng, nhìn gia cảnh người chồng sẽ gắn bó trong

tương lai của mình: “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn

44

những búi cỏ dại”, thị đã “đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy lép nhô hẳn lên,

nén một tiếng thở dài”. Đây không phải là một hành động đơn thuần của nhân vật.

Tiếng thở dài của thị không hẳn chỉ là sự thất vọng trước gia cảnh nhà chồng bởi thị

có thể thừa hiểu gia cảnh của những người kéo xe bò thuê như Tràng trong thời

cuộc ấy. Có lẽ, thị theo Tràng về nhưng trong lòng chưa dứt khoát lắm, đó hẳn là

một sự liều mình. Nhưng khi đặt chân vào ngõ, khi không thể thêm lần thay đổi

được tình cảnh, phải thực sự chấp nhận cuộc sống mới dù cuộc sống đó có thế nào

đi nữa, thì một tiếng thở dài là không tránh khỏi. Tâm trạng nhân vật được nhà văn

xây dựng từ những biểu hiện nhỏ mà đắt giá như thế.

Đọc Vợ nhặt, độc giả sẽ luôn thấy thú vị với những phát hiện tâm lý vừa

chân thực vừa bất ngờ của các nhân vật. Dấu mốc nạn đói năm 1945 đã được thể

hiện xuất sắc thông qua biểu hiện tâm lý nhân vật, tạo nên sự ám ảnh đối với người

đọc. Chẳng thế mà nhà văn Trần Ninh Hồ đã từng viết: “Nếu cho rằng văn chương

là lịch sử tâm trạng con người thì Kim Lân quả là nhà văn đích thực trên cái ý

nghĩa ấy” [6].

2.1.4.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua miêu tả chân dung nhân vật

Nhân vật trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân khá ấn tượng với bạn đọc một

phần cũng bởi nghệ thuật tạo dựng chân dung nhân vật của tác giả. Nhà văn đã từng quan

niệm rằng: “chân dung nhân vật phải nổi bật tính cách nhân vật”.

2.1.4.3.1. Cách đặt tên nhân vật

Đặt tên nhân vật là điều rất được nhà văn Kim Lân lưu ý. Với ông, tên gọi

nhân vật như gói ghém cả hồn quê đất Việt, như thể hiện cả sự am hiểu sâu sắc của

nhà văn về phong tục, tập quán, đặt tên của người dân quê.

Trong truyện ngắn Vợ nhặt, độc giả không thể nào tìm kiếm được một cái

tên văn hoa, mỹ miều bởi với người “nhà quê”, việc đặt tên cho các con thường rất

đại khái, sơ sài theo quan niệm: tên xấu dễ nuôi. Chính vì thế, chúng ta chỉ có thể

bắt gặp những cái tên quê mùa, dân dã trong tác phẩm này như việc tác giả đã mượn

tên các dụng cụ sản xuất nông nghiệp để đặt cho nhân vật của mình (Tràng, Đục)

hay đơn giản dựa vào ngôi thứ trong gia đình như: bà cụ Tứ.

Đặc biệt, có thể nói rằng Kim Lân đã làm giàu cho kho từ vựng của dân tộc

với tên gọi mới lạ: vợ nhặt. Tên gọi ấy vừa gợi lên sự nghèo khó, thê thảm, vừa như

tước mất vị thế của một con người. Gắn với câu chuyện thì cái tên đó lại lấp lánh

45

bao cảm xúc, chất chứa bao trăn trở của nhà văn về kiếp người trong xã hội cũ. Thị

- người đàn bà được Tràng nhặt về làm vợ là một nhân vật không được Kim Lân đặt

tên nhưng lại là nhân vật làm nên câu chuyện kì diệu về sự thay đổi số phận của một

con người có cảnh ngộ như Tràng trong tác phẩm. Người đàn bà không tên này là

cũng chính là hiện thân rõ rệt nhất của cái đói mà Kim Lân phản ánh trong Vợ nhặt.

Không phải là nhà văn nghèo ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho thị một cái tên mà

bởi vì thị là cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, là cành củi khô trôi dạt vào cuộc đời

Tràng, là người đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được

gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”.

Chúng ta có thể nhận thấy tên nhân vật trong Vợ nhặt thường là những từ

ngữ trúc trắc, khó đọc. Nhà văn Kim Lân không đặt tên cho nhân vật của mình một

cách vu vơ, ngẫu hứng. Những tên gọi ấy khơi gợi sự phỏng đoán, liên tưởng của

người đọc, tạo ấn tượng ban đầu về hệ thống tên nhân vật rất quê mùa dân dã nhưng

cũng tiềm tang những uẩn khúc, những éo le của một cuộc đời, một số phận không

thuận buồm xuôi gió.

2.1.4.3.2. Miêu tả ngoại hình nhân vật

Nếu nhân vật của tiểu thuyết là một “thế giới” thì nhân vật của truyện ngắn

chỉ là một “khoảnh khắc”. Vì thế, việc miêu tả ngoại hình nhân vật của truyện ngắn

thường chỉ khắc sâu vào chi tiết đắt giá để làm nổi rõ điều này. Nhà văn Kim Lân

cũng đã xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Vợ nhặt của mình theo cách đó.

- Nhân vật Tràng

Tràng – nhân vật trung tâm của Vợ nhặt không phải là một kì công của tạo

hóa, Kim Lân đẽo gọt chân dung nhân vật khá sơ sài. Đó là một người đàn ông lao

động xấu xí, thô kệch và ngờ nghệch: “Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai con mắt

nhỏ tý, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho

cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ gì vừa lý thú,

vừa dữ tợn”. Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn đã từng nhận xét sở trường của nhà

văn Kim Lân trong tạo dựng nhân vật rằng: “Kim Lân là nhà văn của lớp người đầu

thừa đuôi thẹo”.

Kim Lân cho người đọc tiếp cận với chân dung Tràng ngay ở những trang

đầu của phần trích giảng với gương mặt “phớn phở” đầy kiêu hãnh, với nụ cười

“tủm tỉm” đầy ý vị, với đôi mắt “lấp lánh” đầy vẻ mãn nguyện trên nền cảnh “tối

46

sầm lại vì đói khát” của xóm ngụ cư. Khi xây dựng ngoại hình của Tràng, nhà văn

Kim Lân đã cố tình tạo nên những chi tiết gợi nên sự tò mò cho người đọc về bản

chất tâm hồn bên trong cái vỏ bọc hình thức, về những diến biến thay đổi kì diệu

trong con người nhân vật này.

- Nhân vật người vợ nhặt

Khi miêu tả nhân vật thị - người vợ nhặt, tác giả đã dành cho thị những hình

ảnh tả tơi kém hấp dẫn nhất. Thị là người phụ nữ gầy vêu vao: “áo quần tả tơi như

tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng hoáy”. Có thể

nói, cái đói đã khiến thị càng nhếch nhác, tội nghiệp lại càng nhếch nhác, tội nghiệp

hơn nữa. Có lẽ, tác giả đã chủ tâm “dìm” ngoại hình thị như vậy để đánh lạc hướng

độc giả của mình và tạo ra một tình huống nhặt vợ “độc nhất vô nhị”. Đây cũng là

cách tác giả đưa người đọc tới với những bất ngờ phía sau của câu chuyện, tới với

vẻ đẹp tâm hồn tiềm ẩn đang tạm bị che giấu sau hình hài, dáng vẻ nhếch nhác, dơ

dáy ấy.

Lần đầu, Tràng gặp thị ở kho thóc và thị chính là người “ton ton chạy lại đẩy

xe cho Tràng”. Chỉ với từ láy “ton ton” Kim Lân đã cho tấy đó là một người đàn bà

hoạt bát và vào thời điểm đó, cái đói vẫn chưa lấy đi hết sinh khí của thị. Thị vẫn

còn “cười tít” rất “tình tứ” với Tràng.

Lần thứ hai, gặp lại Tràng, thị thay đổi hẳn khiến Tràng không thể nhân ra

ngay: “Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh thì thị ở

đâu sầm sập chạy đến. Thị đứng trước mặt hắn sưng sỉa”. Hai từ láy “sầm sập’,

“sưng sỉa” miêu tả thật ấn tượng hành động và thái độ của người đàn bà để vẽ

nên một chân dung khác của thị. Chân dung của người đàn bà đã bị cái đói lấy đi

hoàn toàn vẻ nữ tính vốn có. Tiếp đó, Kim Lân dùng hai từ “tả tơi” và “xám xịt”

để tô đậm cái dáng vẻ tiều tụy, xơ xác vì thiếu ăn của thị nhưng ông vẫn ý thức

giữ lại cái vẻ “cong cớn” rất đanh đá khi nghĩ rằng Tràng quên lời hứa cho “ăn

cơm trắng mấy giò” để trả công đẩy xe cho Tràng lần gặp trước.

Khi diễn tả ngoại hình của người đàn bà này lần đầu trở thành cô dâu, Kim

Lân đã lại chọn những từ láy rất thích hợp: “Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi

xuống, cái nón rách cà tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón

rén, e thẹn”. Rõ là những biểu hiện rất ngượng ngùng, e lệ và có vẻ sợ sệt của nàng

dâu mới về nhà chồng.

Độc giả có thể nhận thấy rõ nét điểm đặc biệt trong nghệ thuật miêu tả chân

47

dung nhân vật truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân là ông khá chú tâm vào miêu tả

khuôn mặt nhân vật. Thông qua đó, tác giả chủ đích để người đọc suy đoán những

phần tính cách, tâm trạng nhân vật thông qua những nét biểu lộ ấy.

- Nhân vật bà cụ Tứ

Nhân vật bà cụ Tứ xuất hiện ở giữa phần trích, sau sự kiện Tràng đưa người

vợ nhặt về nhà. Bà cụ xuất hiện trong sự mong mỏi và nôn nóng của Tràng: “Ngoài

ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre lọng khọng đi vào.

Bà lão vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Những từ láy “húng hắng”,

“lọng khọng”, “lẩm bẩm” đã làm toát lên hình ảnh một bà mẹ nghèo tội nghiệp

trong ngày đói. Nó gợi ra cái vẻ tiều tụy, gầy guộc và luôn trong trạng thái lo lắng

với những toan tính tủn mủn của bà lão giữa cái đời sống khốn khổ mà hai mẹ con

bà đang phải gồng mình lên để chèo chống qua ngày.

Trước thái độ xởi lởi, nôn nóng bất thường kèm theo lời trách móc của con

trai, bà lão chỉ “nhấp nháy hai con mắt nhìn Tràng, chậm chạp hỏi: – Có việc gì thế

vậy?”. Hai từ “nhấp nháy”, “chậm chạp” đã đủ gợi lên hình ảnh một bà lão thôn quê

lọm khọm và già yếu. Khi Tràng bảo: “Thì u cứ hẵng vào trong nhà đã nào” thì “bà

lão phấp phỏng bước theo con vào trong nhà”. Từ “phấp phỏng” diễn tả những

bước đi không vững chãi. Tiếp đó, khi thấy có người đàn bà lạ đứng ở đầu giường

thằng con trai mình, bà lão “hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn” để nhìn kĩ người đàn

bà lạ đó thì dấu hiệu tuổi tác lại càng hiện rõ nét hơn. Buổi sáng sau hôm Tràng có

vợ thật đặc biệt đối với ngôi nhà và tất cả các thành viên trong gia đình Tràng. Hình

ảnh mới của bà cụ Tứ được Kim Lân diễn tả ngắn gọn trong bốn từ láy “nhẹ nhõm”,

“tươi tỉnh”, “rạng rỡ”, “xăm xắn”: “Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác

ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Từ “bủng beo’ được

đặt trong sự đối sánh với bốn từ trên là cách để Kim Lân vẽ lên chân dung của một

người mẹ hạnh phúc.

Kim Lân đã thực sự thành công khi làm hiện lên chân dung bà cụ Tứ với tất

cả những biểu hiện rất chân thực về một người mẹ nghèo khổ, tội nghiệp trước niềm

hạnh phúc lớn lao mà bà bất ngờ được đón nhận. Người đọc khó mà quên được

dáng đi “lọng khọng”, tiếng ho “húng hắng”, đôi mắt “hấp háy”, cái nhìn “đăm

đăm”, khuôn mặt “nhẹ nhõm tươi tỉnh”… khi nhắc đến nhân vật này của Kim Lân.

Có thể khẳng định, với truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã tạo dựng cho mình

48

một chỗ đứng bền lâu trong lòng người đọc bởi truyện đặt ra một vấn đề mang tính

nhân văn sâu sắc và chuyển tải vấn đề ấy bằng một giọng văn hóm hỉnh, nhẹ nhàng;

bởi cách thể hiện chân dung các nhân vật. Kim Lân đã xây dựng được trong Vợ

nhặt một thế giới nhân vật có tính cách, số phận riêng khá độc đáo. Những nhân vật

trong truyện ngắn Kim Lân luôn mang đến cho người đọc những day dứt, ám ảnh

sau khi đọc xong tác phẩm. Mặc dù Tràng, Thị và bà cụ Tứ hay những người dân

trong xóm ngụ cư đều là những nhân vật bình thường, không có gì xuất chúng hay

siêu phàm nhưng họ đều không hề tầm thường, họ luôn ẩn chứa bên ngoài cái vỏ

héo hon, ngây ngô, già nua của mình một tâm hồn cao thượng, đức hi sinh, bao

dung và nhân hậu.

Xây dựng nhân vật là một quá trình tìm tòi và sáng tạo. Mỗi nhà văn đều có

những thủ pháp xây dựng riêng biệt mang đậm cá tính sáng tạo của mình. Để xây

dựng nên một thế giới nhân vật sống động trong truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Kim

Lân đã phải sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật khác nhau, không chấp nhận những

lối mòn trong sáng tác. Nhà văn tài hoa này luôn dấn thân để thử sức sáng tạo, tìm

ra cho mình sự mới mẻ độc đáo.

2.1.5. Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật

2.1.5.1. Không gian nghệ thuật

Truyện ngắn Vợ nhặt được xây dựng trên không gian bối cảnh của một xã

hội đói nghèo, loạn lạc ở Việt Nam những năm trước Cách mạng tháng Tám 1945.

Trên cái nền không gian ấy, không khí của cái đói, cái chết bao trùm khiến người ta

phải hãi hùng và số phận con người cũng thật bi thảm. Đó là hình ảnh của những

gia đình “lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm

ngổn ngang khắp lều chợ”, của xóm chợ về chiều “xơ xác, heo hút”, của các dãy

phố “úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa”. Đó là âm thanh “thê thiết” của

đàn quạ trên cây gạo ngoài bãi chợ, là tiếng bàn tán thì thầm của người dân xóm

ngụ cư. Đó là “mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, là vị “đắng

chát” của bát cháo cám… Không gian ấy có thể cảm nhận từ nhiều giác quan với

những hình ảnh đầy ám ảnh, những âm thanh thê thiết, mùi ẩm mốc, hôi thối,…

Từ cái bối cảnh xã hội ấy, Kim Lân cũng khéo léo lồng ghép một không gian

bối cảnh thiên nhiên ảm đạm: “Trước kia mỗi chiều, cứ vào lúc chạng vạng mặt

người thì Tràng đi làm về”. Trong không gian của bóng chiều nhá nhem tối sầm ấy,

49

một xóm ngụ cư tồi tàn được nhà văn tập trung khắc họa: ngã tư xóm chợ về chiều

xác xơ, heo hút, gió từ đồng thổi vào ngăn ngắt. Không gian buổi chiều vốn đã đủ

gợi nên một nỗi buồn man mác nhưng không gian chiều muộn trong Vợ nhặt thì

thật sự tối tăm, nặng nề, thê lương và buồn thảm khủng khiếp.

Bên cạnh không gian xóm ngụ cư tồi tàn là không gian phố huyện nơi Tràng

và thị gặp nhau: “Hai bên dãy phố úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa”.

Đây là nơi hàng ngày Tràng đẩy xe thóc lên phố huyện còn thị cùng bao người khác

ngồi chờ đợi, hi vọng ai đó thuê làm việc kiếm tiền sinh nhai. Ở không gian phố

huyện này, còn có một không gian nhỏ hơn đó là không gian quán bánh đúc –

nơi gợi lên cái ngặt nghèo của nạn đói năm ấy với hình ảnh thị quên cả sĩ diện

mà sẵn sàng vào quán cùng Tràng rồi ăn “một chặp” 4 bát bánh đúc. Đây cũng

chính là không gian cuộc giao kèo giữa Tràng và thị trở nên có hiệu lực: thị

chính thức ngầm đồng ý theo không về làm vợ Tràng.

Những gam màu mà tác giả sử dụng tạo nên không gian bối cảnh tác phẩm là

những gam màu lạnh với những ngôi nhà “tối om”, với những mặt người “xanh

xám”. Nó góp phần tô đậm thêm sự thảm hại của năm đói ấy.

Tác giả Kim Lân đã thật khéo léo khi dồn nén không gian ấy vào trong hành

trình đi tìm hạnh phúc của đôi vợ chồng nghèo.

Bên cạnh không khí u ám ấy, là không khí gia đình yêu thương, bao dung và

đùm bọc lẫn nhau tại ngôi nhà lúp xúp của Tràng. Ấy là dòng nước mắt lo âu, là

những lời từ tốn, thân mật của bà cụ Tứ, là cái tương lai vui vẻ, sung sướng bà hé

gợi ra với một đàn gà con trong nay mai, “cái mặt bủng beo” của bà trở nên rạng rỡ

hẳn lên… Ấy là niềm “vui sướng”, phấn chấn ngập tràn trong lòng Tràng và ý thức

về bổn phận và trách nhiệm của mình. Ấy là sự “hiền hậu, đúng mực” khác hẳn với

vẻ chao chát, chỏng lỏn ban đầu của nàng dâu mới. Những con người ấy dù đang

phải sống trong cảnh tối tăm, u ám nhưng họ vẫn luôn hướng về ánh sáng, về tương

lai tươi đẹp. Họ tự tạo ra nguồn sáng, nguồn hạnh phúc cho chính mình để tiếp tục

tồn tại và vươn lên trong bóng tối. Bắt đầu từ những suy nghĩ ấy, họ thay đổi hoàn

cảnh của chính mình, tô thêm một gam màu tươi sáng vào bầu không khí âm u, ảm

đạm đang bao quanh. “Ánh sáng buổi sáng mùa hè sáng lóa”, “Nhà cửa, sân vườn

hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách

như tổ đỉa… đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới

50

gốc cây ổi đã kín nước đầy ăm ắp…”. “Người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ

nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất”.

Không gian không còn ngập tràn bóng ma như trước mà trở nên rạng rỡ hơn hẳn.

Chính điều đó đã tạo nên một nét mới cho không khí của truyện. Nỗi ám ảnh về cái

đói, cái chết dường như đã tạm lắng lại để nhường chỗ cho hi vọng cuộc sống, cho

một gia đình an ổn và yên bình.

Không gian nghệ thuật chính là điểm nhấn đặc sắc trong truyện ngắn Vợ

nhặt của Kim Lân. Qua ngòi bút kể tả sinh động của nhà văn, người đọc có thể hình

dung được cái thê thảm của làng quê Việt Nam những năm chiến tranh đói nghèo

cũng như hình dung về những con người Việt Nam năm ấy đầy ắp tình yêu thương,

mạnh mẽ vươn đến sự sống và tin tưởng vào tương lai tốt đẹp. Đó chính là hiện

thực mà cũng là tư tưởng Kim Lân muốn chia sẻ với bạn đọc.

2.1.5.2. Thời gian nghệ thuật

Trong các sáng tác truyện ngắn của Kim Lân, yếu tố thời gian được sử dụng

như một phương tiện nghệ thuật độc đáo nhằm chuyển tải tư tưởng nội dung của tác

phẩm và ý đồ nghệ thuật của nhà văn góp phần làm nên phong cách nghệ thuật của

Kim Lân.

Thời gian trong tác phẩm Vợ nhặt là thời gian của quá khứ - hiện tại tương

lai theo trình tự tuyến tính:

- Quá khứ: đẩy xe gạo lên tỉnh, mỗi lần qua nhà kho lại thấy mấy chị con gái

ngồi vêu ra ở đấy, hắn thường hò một câu cho đỡ nhọc, cũng chẳng chủ tâm chòng

ghẹo cô nào, hắn quen Thị. Đến lần thứ hai, hắn đãi thị ăn bốn bát bánh đúc, lại tình

cờ “nhặt” được thị về.

- Hiện tại: đưa nhau về nhà giữa cái cảnh cái đói tràn vào khắp nơi giống như

bóng tối cuối ngày chuẩn bị che lấp khắp bầu trời, chẳng biết có thấy ánh sáng của

ngày mai.

- Tương lai: đói khổ, khó khăn và hình ảnh lá cờ khởi nghĩa mang hi vọng

cho người nông dân nghèo. “Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người

nghèo kéo nhau ầm ầm đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”, “nghe láng

máng người ta nói họ là Việt Minh đấy”. Ánh sáng của cách mạng mặc dù chưa rõ

ràng nhưng đã bắt đầu xuất hiện, đem đến viễn cảnh mới cho những con người may

51

mắn còn sống sót qua cơn đói và đang đối mặt với cái chết từng ngày.

Thông qua khảo sát yếu tố thời gian trong truyện ngắn Vợ nhặt, người viết

nhận thấy thời gian nghệ thuật của tác phẩm này được thể hiện chủ yếu trên ba bình

diện: Thời gian sự kiện, thời gian sinh hoạt và thời gian tâm lý.

2.1.5.2.1. Thời gian sự kiện trong truyện ngắn Vợ nhặt Kim Lân

Thời gian sự kiện là chuỗi liên tục các sự kiện trong quan hệ trước sau, nhân

quả. Thời gian sự kiện có thể được tính theo độ dài thời gian mà nó diễn ra. Trong

thời gian sự kiện, người ta có thể chia ra làm hai lớp: Thời gian tiền sử và thời gian

truyện.

Thời gian câu chuyện diễn ra trong truyện ngắn Vợ nhặt đưa người đọc quay

lại với quá khứ đau thương của nạn đói năm 1945 thật thảm khốc, bi thương và u

ám.

Trong Vợ nhặt, thời gian của truyện mở ra trong một buổi chiều chạng vạng

mặt người và khép lại trong một buổi sáng bình minh. Trong khoảng thời gian nghệ

thuật khá ngắn ngủi ấy đã có biết bao câu chuyện xảy ra, bao số phận được phơi

bày. Cụ thể, thời gian câu chuyện trong tác phẩm đi từ thời gian của một buổi chiều

muộn không xác định ngày tháng khi nhân vật Tràng dẫn Thị về trên con đường vào

xóm ngụ cư trong sự tò mò của người dân.

- Buổi tối trong căn nhà tồi tàn của Tràng. Người thanh niên ấy đã quên hết

tất cả sự đời để tận hưởng niềm hạnh phúc ấm áp bé nhỏ từ người vợ mới của mình.

- Thời gian buổi sáng sau đêm “tân hôn” của Tràng và thị, mọi thứ dường

như đều rất mới mẻ. Tràng vui vẻ, phấn khởi hơn ngày thường, thị thì dường như

thay đổi thành một con người khác còn bà cụ Tứ thì đón tiếp nàng dâu nồng hậu với

nồi chè khoán mặn chát, nghẹn ứ và hi vọng cho một tương lai đỡ vất vả hơn. Cũng

trong buổi sáng hôm ấy, trong tiếng trống thúc thuế, Tràng đã mơ tưởng đến một

đám người đói, kho thóc của Nhật và những lá cờ đỏ sao vàng.

Nhà văn dẫn dắt người đọc đi từ cái tăm tối đến cái le lói hi vọng và kết thúc

câu chuyện tại thời điểm đó. Điều đó giúp người đọc phần nào hiểu được những dụ

ý nghệ thuật sâu sắc của nhà văn về cuộc đời và số phận của các nhân vật cũng như

những giá trị nhân văn cao đẹp luôn hướng đến tương lai tươi sáng của tác giả. Thời

gian nghệ thuật như nhân chứng cho những số phận của các nhân vật, qua đó nhà

văn Kim Lân gửi gắm những tình cảm yêu thương và trân trọng của mình trước

những cảnh đời nhỏ bé và lầm than.

52

2.1.5.2.2. Thời gian tâm lý trong Vợ nhặt

Thời gian tâm lý là hành động của dòng hồi ức, hay dòng ý thức cùng những

biến động tâm lý của nhân vật. Nó dẫn tới hai kết quả, hoặc là cảnh vật thay đổi

nhuốm màu sắc tâm lý nhân vật hoặc là dòng hồi ức đưa chúng ta về quá khứ của

nhân vật với một khoảng thời gian nhất định nào đó.

Trong truyện ngắn Vợ nhặt, thời gian tâm lý thể hiện rất rõ qua diễn biến

tâm lý của các nhân vật Tràng, Thị và bà cụ Tứ.

Đối với nhân vật Tràng, từ tình huống Tràng nhặt được vợ trong cảnh nạn

đói năm 1945, người đọc có thể thấy rõ diễn biến tâm lý nhân vật này thay đổi theo

chiều hướng tích cực trong thời gian của truyện. Từ tâm lý lo lắng trên đường Tràng

dẫn Thị về trong buổi chiều xẩm tối với miên man những suy nghĩ “thóc gạo này

đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”, Tràng đã tặc

lưỡi “Chậc, kệ!” để đến với một quyết định liều lĩnh nhưng ấm áp tình người. Trong

khoảng thời gian ấy, bên cạnh cái lo đói nghèo, Tràng còn cảm thấy mới mẻ và

hạnh phúc. Và người đàn ông ấy muốn được tận hưởng cảm xúc ngọt ngào ấy,

buông bỏ mọi sự tính toán, lo toan ngày thường. Đó có thể gọi là khoảnh khắc thời

gian tuyệt vời nhất trong đời Tràng – khoảnh khắc yêu thương và muốn được yêu

thương mà Tràng chưa từng được tận hưởng.

Sự thay đổi tâm lý theo diễn tiến của thời gian cũng thể hiện rõ ở nhân vật

người vợ nhặt và nhân vật bà cụ Tứ. Thời gian khi mới gặp Tràng, thị còn là một

người phụ nữ cong cớn, một người không biết ngại ngùng thì khoảng thời gian cùng

Tràng đi về nhà trên con đường xẩm tối vào xóm ngụ cư đã khiến cho thị dần thay

đổi. Thị bẽn lẽn, thị xấu hổ cúi đầu khép nép bước phía sau Tràng. Khi mới ban đầu

bước vào căn nhà rúm ró, rách nát của Tràng, thị không giấu nổi tiếng thở dài cố

nén từ “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên”. Tiếng thở dài ấy có thể là do thị ngại ngùng,

thị chưa thích nghi với hoàn cảnh mới này hoặc giả cũng có thể là nỗi lo lắng cho

tương lai. Tuy nhiên, những nét tâm lý ấy dường như đã hoàn toàn biến đổi mà

ngay đến Tràng cũng phải ngạc nhiên vào buổi sáng hôm sau: “Tràng nom cô ta

hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì

chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”.

Như vậy, nếu như câu chuyện trong truyện ngắn Vợ nhặt mở ra với thời gian

u ám đi cùng hình ảnh chàng trai nghèo khổ, thô kệch bước thấp bước cao trên con

53

đường khẳng khiu dưới ánh chiều tàn của một cuộc sống tăm tối dường như tẻ nhạt,

bế tắc tới mức không có lối thoát thì kết thúc của truyện ngắn lại diễn ra trong thời

gian buổi sáng với ánh nắng chói lòa khi chàng trai ấy đã có một gia đình đầm ấm,

một tia hi vọng nhen nhóm cho tương lai với hình ảnh “phá kho thóc Nhật”, “lá cờ

đỏ sao vàng bay phấp phới”. Ngay lúc này, trong tâm lý nhân vật đã có sự thay đổi

nhận thức thôi thúc họ từ bỏ sự cam chịu, đi đến đấu tranh để giành lấy cho mình

một cuộc sống ấm no, hạnh phúc hơn.

2.1.5.2.3. Thời gian sinh hoạt trong truyện ngắn Vợ nhặt

Thời gian sinh hoạt là thời gian con người thực hiện các hoạt động sống

như: thời gian đi ngủ, thời gian ăn uống, thời gian làm việc hoặc đi chơi,… Đi

sâu vào thời gian này, người ta sẽ hiểu được trạng thái sống và tồn tại của con

người.

Trong truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã miêu tả những khoảnh

khắc sinh hoạt đời thường của các nhân vật một cách sinh động. Cụ thể là thời gian

sinh hoạt buổi tối trong căn nhà của Tràng trong đêm thị về ở, thời gian bữa ăn diễn

ra vào buổi sáng đầu tiên khi thị trở thành vợ Tràng. Mọi chi tiết sinh hoạt đều được

nhà văn Kim Lân khá tỉ mỉ, chi tiết và chân thực trong khoảng thời gian diễn ra

những hoạt động thường nhật. Từ đó làm nổi bật lên sự thay đổi trong diễn biến tâm

lý nhân vật, trong hoàn cảnh sống của nhân vật. Cũng là một buổi tối ảm đạm nhưng

có thị, Tràng cảm thấy phấn khởi hơn, thích thú hơn. Anh chàng còn “đầu tư” của

một ít dầu thắp để căn nhà trở nên sáng sủa hơn. Khi thấy con trai đánh diêm đốt đèn,

bà cụ Tứ vội vàng lau nước mắt, ngửng lên nói như reo: "Có đèn đây à? ừ thắp lên

một tí cho sáng sủa...”. Chắc hẳn đã lâu lắm rồi căn nhà lụp xụp rách rưới của hai mẹ

con bà Tứ không có ánh đèn, hai mẹ con sống lủi thủi, âm thầm, hết kiếm ăn ban

ngày ở đầu đường góc chợ, đêm về nhà vật mình xuống vì mệt nhọc, chẳng cần đèn

đóm, chuyện trò. Nay nhà có người mới, con trai có vợ mới, mẹ già có nàng dâu mới,

mọi thứ sinh hoạt buổi tối ấy dường như sẽ có sự thay đổi.

Bên cạnh thời gian buổi tối ấy, bữa ăn sáng cũng vẫn diễn ra như mọi ngày,

nhưng hôm nay có thị, mọi thứ có vẻ trở nên tươm tất hơn: Nhà cửa, sân vườn được

quét tước thu dọn sạch sẽ gọn gàng; mấy chiếc quần áo rách như tổ đìa được đem ra

hong nắng; hai cái ang nước vẫn để khô cong, nước đầy ăm ắp; đống rác ngay lối đi

đã được hót sạch... Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham

54

nhở. Vợ Tràng đang quét sân, tiếng chổi kêu sàn sạt trên mặt đất... Tất cả như đang

đổi thay, mới mẻ. Một nguồn sống mới, vui sướng, ngọt ngào của hạnh phúc gia

đình trỗi dậy. Vì thế bữa cơm thảm hại của ngày đói - có độc một lùm rau chuối thái

rối và một đĩa muối ăn với cháo loãng vẫn diễn ra vui vẻ, ngon lành. Bà cụ Tứ còn

chiêu đãi hai con nồi chè khoán “ngon đáo để”.

Từ những khoảnh khắc thời gian sinh hoạt thường nhật ấy, nhà văn đã

giúp người đọc hiểu sâu sắc hơn về cuộc sống của những con người nông dân

nghèo khổ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ - nơi mảnh đất còn đầy gian khổ trong nỗi

lo toan cơm áo gạo tiền nhưng vẫn chứa đựng nhiều giá trị nhân văn cao đẹp.

2.1.6. Điểm nhìn trần thuật

Điểm nhìn trần thuật là vị trí, khoảng cách, góc độ mà chủ thể trần thuật

dùng để quan sát đối tượng trần thuật. Trong quan hệ giữa chủ thể trần thuật với

người đọc thì chủ thể trần thuật được coi là người đưa đường và dẫn dắt người đọc

thâm nhập vào tác phẩm thông qua các diễn biến, xung đột, thắt nút, mở nút của các

sự kiện đời sống.

Phản ánh hiện thực từ ống kính khách quan, nhà văn Kim Lân đã thực sự

“cắt lấy một đoạn” từ bức tranh đời sống rộng lớn mà đưa lên trang giấy để người

đọc cùng nhận thức và suy nghĩ. Kim Lân dùng điểm nhìn khách quan để mô tả cái

đói khiến người ta phải rùng mình khiếp sợ mỗi khi liên tưởng đến: “Cái đói đã

tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình,

đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm

ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người

trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên

đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”.

- Điểm nhìn của người kể chuyện: cái nhìn khách quan, toàn tri

Viết Vợ nhặt, Kim Lân đã lựa chọn hình thức kể chuyện truyền thống –kể

theo ngôi thứ ba. Đây là hình thức người kể chuyện giấu mặt, coi như đứng ở một vị

trí nào đó trong không gian và thời gian, bao quát hết mọi diễn biến của câu chuyện

đã xảy ra trọn vẹn và thuật lại với người đọc. Với điểm nhìn zero ở ngôi kể này,

người kể chuyện là người thâu tóm toàn bộ câu chuyện, là người khách quan kể lại

câu chuyện nhưng vẫn dẫn dắt người đọc, chỉ dẫn cho người đọc thấy sự biển

55

chuyển trong diễn biến tâm lý của cả ba nhân vật: Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ

thông qua việc kể, tả ngoại hình, cách nói chuyện, hành động và thậm chí là cả suy

nghĩ riêng tư diễn ra trong đầu nhân vật với các đoạn độc thoại nội tâm.

Sự độc đáo trong điểm nhìn trần thuật của Vợ nhặt trước hết tạo nên bởi

điểm nhìn bên ngoài của người kể chuyện. Điểm nhìn bên ngoài đã tạo ra tính

khách quan tối đa cho trần thuật. Các sự kiện diễn ra tự nhiên như cuộc đời vốn thế,

nó giúp nhà văn bao quát nhiều phương diện và góc độ của hiện thực cuộc sống.

Người kể chuyện ẩn mình để câu chuyện được kể đạt mức độ khách quan cao nhất:

cho phép người kể chuyện đứng từ bên ngoài quan sát truyện thuật lại sự việc bằng

một cái nhìn khách quan, thâu tóm các sự kiện tình tiết, thúc đẩy diễn biến các tình

tiết của truyện phát triển. Điểm trung tâm trong sơ đồ cốt truyện là sự kiện anh

Tràng nhặt được vợ giữa bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945 đang ở giai đoạn

kinh hoàng nhất. Từ sự kiện quan trọng này, các nhân vật khác lần lượt bước vào

tác phẩm để tạo thành một bức tranh đời sống trước mặt người đọc.

Mở đầu truyện, nhà văn Kim Lân miêu tả ngay vào cái không khí ảm đạm

với màu sắc xanh xám của xác chết, bóng ma. Cái đói đã tràn về khắp các ngõ

ngách. Không khí vẩn lên mùi xác chết. Trong hoàn cảnh ấy lại hiện lên một sự bất

thường, đó là việc anh cu Tràng dẫn theo một người đàn bà lạ mặt về với nụ cười

trên môi. Tràng được miêu tả với những đường nét thô kệch, với một sự đẽo gọt sơ

sài của tạo hóa: hai con mất nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm

bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhính

những ý nghĩ gì vừa lí thú vừa dữ tợn. Hắn có tật vừa đi vừa nói. Đã thế Tràng lại là

một dân ngụ cư trôi dạt từ nơi đói khát, khổ sở nào đó để về cái vẻo đất dưới bến

này tìm kế mưu sinh nuôi mẹ già đã ở độ tuổi gần đất xa trời. Trong quan niệm,

trước đây ngụ cư là một lí lịch không được chấp nhận để người có mặt trong sinh

hoạt nơi cộng đồng làng xã. Vậy mà Tràng lấy được vợ mà thậm chí là cho không

chỉ sau hai lần gặp và bốn bát bánh đúc, một câu hò nữa đùa nữa thật “muốn ăn cơm

trắng với giò này, thì đẩy xe bò với anh, nì”.

Chữ “nhặt” trong “Vợ nhặt” không phải là “nhặt” như chúng ta đã nhầm

tưởng. Nếu chỉ đọc nhan đề mà chưa tiếp cận với nội dung tác phẩm. Đây là một kết

hợp từ rất đặc biệt. Nói như Kim Lân “nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ”. Như vậy

‘nhặt” trong “Vợ nhặt” là một vật vì cái đói nó đã đẩy con người đến những tình

56

huống bi hài kịch: mạng người trở nên rẻ rúng, có thể nhặt được như người ta nhặt

bất cứ thứ gì. Phải đặt vào quan niệm truyền thống nhân vật “coi người ta là hoa

đất”, coi việc dựng vợ gả chồng là đại sự, người đọc mới thấy được “vợ nhặt” theo

kiểu bi đát như thế nào? Song người ta dắt nhau về không phải chỉ vì đói khổ, cần

có một chốn nương thân, thẳm sâu trong câu chuyện là khao khát về một mái ấm gia

đình, tình yêu thương đùm bọc “một miếng khi đói bằng một gói khi no” của người

dân lao động. Cái đói là ghê gớm nhưng đằng sau cái đói Kim Lân muốn gửi gắm

tới người đọc một thông điệp: “Khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà

chỉ nghĩ đến con đường sống”. Dù ở tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết

vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống, hi vọng ở

tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra người. Đó chính là chiều sâu nhân bản của

con người.

Nhìn từ bên ngoài, người kể chuyện lặng lẽ đứng vào một góc để quan sát và

kể lại chuyện với sự kiện và con người như vốn có. Nhưng đằng sau những câu văn

khách quan ấy lại ẩn chứa nỗi lòng đau đáu của Kim Lân như muốn chia sẻ với

nhân vật của mình, thương cảm cho những số phận và đặc biệt càng thêm trân trọng

những con người đó.

- Điểm nhìn nhân vật

Một điểm thú vị trong Vợ nhặt là sự di chuyển điểm nhìn trong tác phẩm: Từ

người kể chuyện vào nhân vật, từ điểm nhìn bên ngoài sang điểm nhìn bên trong.

Điểm nhìn người kể chuyện đã hòa trộn vào điểm nhìn nhân vật, dịch chuyển từ bên

ngoài vào bên trong để dễ dàng phát hiện ra những tâm tư ẩn kín trong tâm hồn

nhân vật.

Thứ nhất, điểm nhìn bà cụ Tứ: Đọc tác phẩm Vợ nhặt người đọc nhận ra

được tình mẹ lớn lao qua cái nhìn của tác giả. Lần đầu tiên Kim Lân để người đọc

tiếp xúc với bà cụ Tứ qua dáng vẻ “lọng khọng đi vào ngõ. Bà lão vừa đi vừa lẩm

bẩm tính toán gì trong miệng”. Bà cụ trở về nhà, đến giữa sân thấy một người phụ

nữ đang ngồi ở đầu giường con mình, bà ngạc nhiên đến sững sờ, bao nhiêu câu hỏi

dồn về đầy băn khoăn “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người

đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình

bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ

nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải. Bà lão nhìn kỹ người đàn

57

bà lẫn nữa, vẫn chưa nhận ra người nào”. Làm sao bà có thể ngờ được giữa cái

cảnh đói quay, đói quắt nhà đã nghèo con mình lại còn xấu trai, ế vợ, tự dưng dẫn

một người đàn bà xa lạ về làm vợ? “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng

người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương

cho số kiếp đứa con mình”. Mừng là từ nay con bà đã có vợ, nhưng đằng sau sự vui

mừng ấy là một nỗi buồn tủi. Đó là nỗi buồn của một người mẹ đã không tự lo liệu

được chuyện lấy vợ cho con. Đó còn là cái tủi của một người mẹ đã để cho con

mình lấy vợ theo cách: không cưới xin, không dạm hỏi. Đó là cái tủi của một người

mẹ nghèo.

Càng xót xa tủi phận bà cụ Tứ càng thương con trai: “Chao ôi, người ta dựng

vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái

mở mặt sau này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng

nước mắt...”. Dường như đây là những giọt nước mắt từ trái tim người mẹ đang run

lên những nỗi đau đớn, xót xa, ai oán, tủi cực, thương cảm. Việc trọng đại nhất của

đời con lẽ ra phải “làm được dăm ba mâm cơm thì phải đấy, nhưng nhà mình

nghèo” nên điều đó cũng chỉ nằm trong mo ước của cụ mà thôi. Từ chỗ tủi phận

mình, thương con trai, bà cụ lại càng thương con dâu. Bà lão nhìn người đàn bà

lòng đầy thương xót, bà nhẹ nhàng nói với nàng dâu mới: “Ừ, thôi thì các con đã

phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”. Hai chữ “mừng lòng” chứ không

phải là “vui lòng”, “bằng lòng”, thể hiện sự đón nhận người con dâu mới với tất cả

sự chủ động, tự nguyện trong bối cảnh nhà sắp chết đói. Nó ẩn chứa biết bao sự

thân thương, trìu mến, vị tha và nhân ái. Chỉ một câu nói ấy thôi đã trút đi gánh

nặng thấp thỏm, lo âu của con trai bà. Câu nói ấy đã làm cho cuộc hôn nhân giữa

Tràng và vợ nhặt không còn là chuyện nhặt nhau giữa đường, giữa chợ. Nó cũng

bình đẳng đẹp đẽ như tất cả các cuộc hôn nhân mâm cao cỗ đầy xưa nay. Cách nói

giản dị chan chứa tình người của bà cụ quê mùa ấy đã làm ấm lòng những số phận

tội nghiệp.

Bà cụ Tứ khi biết con mình đã có vợ bà từ ngạc nhiên đến sững sờ, lo lắng

cho tương lai hạnh phúc của các con song bà vẫn gieo vò các con lòng hi vọng, tin

tưởng vào tương lai tươi sáng. Sự biến đổi tâm trạng bà cụ Tứ thật phức tạp nhưng

hợp với quy luật cuộc sống. Kim Lân đã nhập vào nội tâm nhân vật, sống với những

vui buồn, thương cảm, lo âu của nhân vật bằng một trái tim nhân ái. Chính sự yêu

58

thương, sự hiểu biêt sâu sắc, sự trân trọng phẩm chất người nông dân lao động

không nghệ thuật “biện chứng” với tâm hồn của một nhà văn “một lòng đi về với

đất, với người, với cuộc sống thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn” đã

giúp Kim Lân xây dựng được một cuộc sống chân thật, cảm động về người mẹ nông

dân Việt Nam nghèo khổ, cân cù, chịu thương, chịu khó, hi sinh tất cả vì con và lúc

nào cũng hướng tới cái thiện, hướng tới tương lai.

Thứ hai, điểm nhìn của Tràng: Tràng chỉ tình cờ nói đùa thành thật và bỗng

nhiên hắn có vợ. Lúc đầu Tràng thấy sợ vì thóc cao, gạo kém đến thế này, đến cái

thân mình chưa chắc nuôi nổi không lại còn đèo bồng, sau hắn lại tặc lưỡi kệ. Có lẽ

thẳm sâu trong tâm hồn nhân vật chính là niềm khao khát hạnh phúc về một mái ấm

gia đình vị vậy mà Tràng đã dũng cảm vượt lên cái đói, cái chết mà “đèo bồng”.

Hắn cười nụ, cười tủm tỉm một mình, ánh mắt long lanh khác thường. Gần hai mươi

lần trong tác phẩm nhà văn đã miêu tả gương mặt Tràng vui vẻ khi có vợ “Tràng

như quên hết những cảnh sống ê chề, tối tăm hàng ngày, quên cả cái đói khát đe

dọa chỉ còn tình người giữa hắn và người đàn bà đi bên cạnh”. Lần đầu tiên có vợ,

Kim Lân đã để cho nhân vật mình tự bộc lộ ra trạng thái của kẻ mới có vợ “hắn

chợt thấy sờ sợ” “chính hắn cũng không hiểu vì sao hắn sợ”, hắn đi ra đi vào ngóng

mẹ về, rồi hắn lại lén nhìn thị “Quái, sao nó buồn thế nhỉ?”. Sáng hôm sau Tràng

thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người “êm ái lửng lờ”. Tràng thấy:

“Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã

có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che

mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây

giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con

sau này.” Niềm vui ấy như tia nắng, như ánh bình minh đem sinh khi đến cho cuộc

sống vốn đang ngập tràn sự chết chóc của cái đói.

Thứ ba, sự gia tăng điểm nhìn với điểm nhìn từ lũ trẻ và dân xóm ngụ cư

trước sự kiện nhặt được vợ của Tràng trước hoàn cảnh cái đói hoành hành, cái chết

ập đến bất cứ lúc nào cũng có những suy nghĩ khác nhau. Lũ trẻ vốn vì cái đói mà

bấy lâu nay cũng chẳng buồn cười đùa, nay cũng xớn xác trêu đùa Tràng “Chông vợ

hài”. Còn những người khác “cũng có cái gì đó lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc

sống đói khát, tăm tối của họ”, họ bàn tán về cô dâu mới, rồi họ lại lo lắng “biết có

nuôi nổi nhau sống qua cái thì này không” rồi họ nín thinh. Tình huống truyện được

59

soi chiếu từ nhiều góc độ khác nhau.

Với sự dịch chuyển điểm nhìn từ ngoài vào trong, từ nhân vật này sang nhân

vật khác, người trần thuật một mặt cố gắng tách mình ra khỏi diễn biến câu chuyện,

mặt khác khi cần thiết thì lại hòa mình vào những nhân vật để khai thác triệt để, phô

bày toàn bộ thế giới nội tâm con người. Việc thay đổi điểm nhìn tự sự như vậy sẽ

tạo cho câu chuyện có tính khách quan hơn, mạch truyện theo đó mà biến hoá hơn,

mở rộng khả năng bao quát, đánh giá của trần thuật, dễ dàng cuốn hút người đọc

vào câu chuyện... Bên cạnh đó, ở Vợ nhặt người đọc có thể nhận thấy giọng kể

chuyện đan xen vào giọng nhân vật, khi thì toàn quyền kể, tả, khi lại mờ đi như

nhường lời cho nhân vật:

“Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa

dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những

nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài. Bà

lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đưa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài

dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố

mẹ trước kia không?...”

Sự dịch chuyển điểm nhìn như vậy giúp cho câu chuyện bớt đi phần phiến

diện và có được cả chiều sâu tâm lý lẫn sự thông báo diễn biến bên ngoài cốt truyện.

Vợ nhặt đánh dấu sự trưởng thành của nhà văn trong việc phân tích diễn biến tâm

lý, nội tâm nhân vật ở góc độ điểm nhìn. Điều đó cũng góp phần làm cho tư tưởng,

chủ đề tác phẩm sinh động, gợi nhiều liên tưởng ở người đọc.

Việc tìm hiểu điểm nhìn của người kể chuyện trong Vợ nhặt góp phần không

nhỏ vào việc khẳng định sự độc đáo, hấp dẫn trong nghệ thuật tự sự của tác phẩm:

Khi thì là điểm nhìn bên ngoài, lúc lại là điểm nhìn bên trong có khi lại là phối hợp,

di chuyển điểm nhìn từ bên ngoài vào bên trong. Với cách tổ chức điểm nhìn của

người trần thuật như vậy, Kim Lân đã chứng tỏ được tài năng của mình trong việc

kể chuyện, dẫn chuyện, và đặc biệt là khả năng thâm nhập sâu vào đời sống nội tâm

của nhân vật để phản ánh được cả những góc khuất của nó.

2.2. Tích cực hóa các phương pháp dạy học theo hướng tiếp cận thi pháp

học đối với tác phẩm Vợ nhặt

2.2.1. Phương pháp diễn giảng

Dạy học tác phẩm Vợ nhặt theo hướng tiếp cận thi pháp học là một hướng đi

60

mới chứa đựng những khái niệm cần giải thích, những định nghĩa cần minh họa và

những mối quan hệ logic cần phân tích,… Vì vậy, việc lựa chọn phương pháp diễn

giảng là phù hợp đối với hướng tiếp cận dạy học này.

Ngoài ra, diễn giải còn là phương pháp tiết kiệm được thời gian, có khả năng

trình bày tri thức một cách có hệ thống, kết hợp được tính logic và tính truyền cảm.

2.2.1.1. Bản chất của phương pháp diễn giảng

Diễn giảng (thuyết trình) là phương pháp được sử dụng phổ biến trong dạy

học sinh học ở phổ thông trung học. Đây là một phương pháp có tầm quan trọng và

được sử dụng phổ biến trong hình thức dạy học truyền thống cũng như hiện đại.

Đúng như lời nói của N.K.Krupxcaia: “Trong nhà trường tối tân nhất cũng không

được vất bỏ nó...”

Theo Phan Trọng Ngọ, diễn giảng là phương pháp giáo viên dùng lời và các

phương tiện phi ngôn ngữ khác để làm sáng tỏ một vấn đề nào đó; tạo ra sự liên kết

giữa vấn đề đó với kinh nghiệm hiện có của người học, qua đó giúp người học lĩnh

hội được nó.

Thông qua diễn giảng, giáo viên trình bày những vấn đề có tính chất thời sự

phức tạp và mới mẻ trong thời gian ngắn, tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm

của học sinh.

Tuy nhiên trong quá trình diễn giảng, học sinh dễ thụ động, thần kinh mệt mỏi,

càng về sau càng giảm sự chú ý của học sinh; khó cá biệt hóa việc dạy học và có thể xa

rời thực tế nếu không biết kết hợp với các phương pháp khác.

Như vậy, diễn giảng có vai trò chủ đạo trong một chừng mực nên đối với

việc dạy học, giáo viên cần biết kết hợp diễn giảng với những hình thức tổ chức dạy

học khác.

2.2.1.2. Áp dụng phương pháp diễn giảng trong dạy học tác phẩm Vợ nhặt

theo hướng thi pháp học

Để việc áp dụng phương pháp diễn giảng thành công trong dạy học tác phẩm

Vợ nhặt theo hướng thi pháp học, giáo viên cần thực hiện bài giảng theo quy trình

các bước một cách khoa học nhằm gợi mở và phát triển cho học sinh hiểu rõ các

khái niệm, các nội dung cần truyền đạt.

- Bước 1: Ðặt vấn đề để vào bài Vợ nhặt (SGK Ngữ văn 12, tập 2) của Kim

Lân ở dạng khái quát chung nhằm tạo sự chú ý đối với học sinh. Giáo viên có thể

61

đưa ra các liên hệ liên quan tới tác phẩm này như lịch sử nạn đói 1945 hay các vấn

đề đang diễn ra trong đời sống thực tế ở thời đại của học sinh có liên quan đến nội

dung truyện ngắn như vấn đề hôn nhân, vấn đề kinh tế, chính trị…

- Bước 2: Phát biểu vấn đề bằng những câu hỏi cụ thể vạch ra trọng tâm của

giảng Vợ nhặt nhằm tạo nhu cầu muốn hiểu biết của học sinh như:

+ Nhan đề truyện ngắn Vợ nhặt có gì đặc biệt? hoặc Nhan đề truyện ngắn

Vợ nhặt có ý nghĩa như thế nào?

+ Tình huống truyện Vợ nhặt độc đáo ở những điểm nào?

+ Kim Lân đã thành công như thế nào trong việc xây dựng các nhân vật

trong truyện ngắn Vợ nhặt?

+ Ngôn ngữ, giọng điệu của người kể chuyện và các nhân vật trong truyện

ngắn Vợ nhặt như thế nào?

+ Không gian, thời gian và điểm nhìn trong truyện ngắn Vợ nhặt có hiệu

quả như thế nào trong việc thể hiện chủ đề tác phẩm?

- Bước 3: Giải quyết các vấn đề đã đặt ra ở bước 2 bằng con đường qui nạp,

diễn dịch (trình bày, giải thích, làm rõ vấn đề đặt ra).

Ví dụ: Để làm rõ vấn đề không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện

ngắn Vợ nhặt, giáo viên cần đưa ra các phân tích về cách thức nhà văn xây không

gian, thời gian trong tác phẩm (không gian truyện ngắn được miêu tả qua những chi

tiết nào?, thời gian truyện ngắn được chọn lọc ra sao,…). Sau đó, giáo viên hướng

dẫn học sinh kết nối giữa không gian, thời gian của truyện với dụng ý tư tưởng của

tác giả (việc tác giả lựa chọn những khoảng không gian và thời gian này có ý nghĩa

như thế nào trong việc tạo nên thành công của truyện?). Cuối cùng, giáo viên khái

quát khái niệm về không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật của truyện ngắn.

- Bước 4: Kết luận là sự kết tinh của bài giảng, sự khái quát nhất bản chất

vấn đề nghiên cứu bằng những câu trả lời sắc bén.

Kết luận về những nét nghệ thuật đặc sắc trong truyện ngắn Vợ nhặt – gợi

mở phong cách sáng tác của nhà văn Kim Lân.

2.2.2. Phương pháp dạy học nêu vấn đề

2.2.2.1. Bản chất của phương pháp dạy học nêu vấn đề

Dựa vào đặc trưng hoạt động nhận thức của học sinh (cách tổ chức hoạt động

nhận thức), các nhà LLDH đã tìm ra kiểu dạy học nêu vấn đề. Phương pháp dạy học

62

này đã chứng minh được lợi ích của nó trong dạy học hiện nay.

Dạy học nêu vấn đề là quá trình xây dựng và giải quyết một cách khéo léo hệ

thống tình huống có vấn đề. Trong quá trình đó, học sinh dưới sự giúp đỡ và lãnh

đạo của giáo viên, nắm được nội dung bộ môn, phương thức học tập và phát triển ở

mình những phẩm chất cần thiết cho một thái độ sáng tạo đối với khoa học và đời

sống. Dạy học nêu vấn đề với những câu hỏi phải mang tính hệ thống liên tục, dẫn

dắt học sinh từng bước khám phá ra quan điểm tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác

giả. Cho nên quá trình phân tích là quá trình giải quyết từng bước những vấn đề đặt

ra trước học sinh. Mỗi câu hỏi là một cái mốc trong quá trình khám phá đó. Câu sau

bổ sung cho câu trước, câu trước chuẩn bị cho câu sau, làm thành một chuỗi những

liên hệ nối tiếp nhau trong một hệ thống vấn đề, phản ánh được bản chất nội dung

và nghệ thuật của tác phẩm.

- Vấn đề: có thể là những mâu thuẫn mà thiên nhiên hay xã hội đặt ra cho

con người giải quyết

- Tình huống có vấn đề: trạng thái tâm lý trong đó học sinh nhận thức vấn đề,

mong muốn giải quyết vấn đề và có khả năng giải quyết vấn đề với sự nỗ lực nhất

định.

- Ưu điểm của phương pháp dạy học nêu vấn đề:

+ Học sinh nắm tri thức vững chắc, sáng tạo, linh hoạt, nắm phương pháp tự

học

+ Học sinh phát triển được tư duy

+ Học sinh xây dựng được niềm tin

- Khuyết điểm:

+ Giáo viên cần có nhiều thời gian trong giảng dạy, cần nhiều điều kiện hỗ

trợ.

+ Phương pháp này không phải lúc nào cũng áp dụng được.

Phương pháp dạy học nêu vấn đề khiến học sinh làm việc nhiều hơn, tích

cực chủ động tìm ra kiến thức dưới sự chỉ đạo của giáo viên hơn là chỉ thu nhận

thông tin từ giáo viên.

Thực tế, việc vận dụng phương pháp giảng dạy nêu vấn đề trong tác phẩm

văn học luôn là những câu hỏi khó vì nó chứa đựng những nội dung quan trọng của

tác phẩm. Để trả lời được câu hỏi, học sinh phải tổng hợp được nhiều nguồn kiến

thức. Vì vậy, trước khi triển khai ở trên lớp cần có hệ thống câu hỏi phụ để học sinh

63

chuẩn bị bài ở nhà bên cạnh hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài trong sách giáo

khoa. Từ những câu hỏi cụ thể đó, học sinh có thể tìm hiểu những kiến thức có liên

quan đến câu hỏi nêu vấn đề, tránh việc học sinh bị động lúng túng.

2.2.2.2. Áp dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề trong dạy học tác phẩm

Vợ nhặt theo hướng thi pháp học

Tình huống và tính cách nhân vật được nhà văn Kim Lân xây dựng trong

truyện ngắn Vợ nhặt đã tạo điều kiện cho việc xây dựng tính nêu vấn đề của các câu

hỏi trong quá trình tìm hiểu tác phẩm.

Tình huống độc đáo của truyện ngắn Vợ nhặt được gửi gắm ngay từ cách đặt

tên truyện. Một chuyện vốn rất nghiêm túc, vốn được xem là một trong những công

việc trọng đại nhất của đời một con người mà lại diễn ra như một trò đùa. Một

người đàn ông nghèo túng, lại xấu xí, từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ chưa từng

được một người con gái nào thèm để ý đến thế mà bỗng dưng được một người phụ

nữ theo về nhà làm vợ hẳn hoi. Càng lạ hơn nữa là Tràng nhặt vợ về giữa những

ngày đói kém, giữa khi cái chết vì đói đang rập rình đe dọa. Kim Lân đã đem đến

cho người đọc một câu chuyện nên vợ nên chồng quả là xưa nay chưa từng có. Qua

tình huống ấy, nhân vật sẽ được thử thách, từ đó nhân vật bộc lộ lên những tính

cách của mình. Nếu như hỏi học sinh tình huống Tràng nhặt được vợ có tác động gì

đến tâm trạng bà cụ Tứ thì không thiếu học sinh sẽ lúng lúng trong việc trả lời. Vì

vậy khi giảng dạy tác phẩm, giáo viên cần chú ý vận dụng câu hỏi nêu vấn đề trong

giờ giảng văn, để học sinh có thể tiếp nhận tốt hơn với tác phẩm. Tình huống của

tác phẩm trở thành vấn đề tiếp nhận của học sinh.

Đặt ra câu hỏi nêu vấn đề là một biện pháp để dẫn dắt học sinh suy ngẫm, từ

đó học sinh sẽ phát hiện được vấn đề sâu xa của tác phẩm. Tình huống hàm chứa

được ý đồ nghệ thuật của các nhà văn và từ đó nó trở thành vấn đề tiếp nhận của

học sinh. Bởi vậy khi gặp phải những tình huống lạ như trong tác phẩm Vợ nhặt,

phần lớn học sinh chưa phát hiện được ý đồ nghệ thuật của tình huống truyện. Học

sinh thường trình bày lan man vì chưa thực sự nhận thức được. Từ thực tế đó, để

giúp học sinh tìm tòi và khám phá về tác phẩm, giáo viên có thể sử dụng những câu

hỏi nêu vấn đề trong giờ đọc hiểu văn bản là việc làm cần thiết.

Khi đặt câu hỏi nêu ra tình huống trong truyện ngắn Vợ nhặt, học sinh sẽ

thấy được vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của nhân vật Tràng, từ đó cũng thấy được

64

phẩm chất nhân hậu, niềm tin ý thức hướng tới tương lai của bà cụ Tứ. Học sinh sẽ

thấy tác dụng và vai trò của tình huống truyện. Từ đó giáo viên có thể triển khai câu

hỏi nêu vấn đề:

+ Việc Kim Lân tạo dựng một tình huống như vậy có những ý nghĩa gì?

+ Tại sao giữa nạn đói năm 1945, ranh giới mong manh giữa cái chết và sự

sống, Tràng lại dám “nhặt” vợ?

+ Việc Tràng nhặt vợ như thế có ý nghĩa như thế nào?

+ Qua tình huống đó, nhà văn gửi gắm ý nghĩa gì?

Từ cách nêu vấn đề như trên, giáo viên dẫn dắt học sinh tìm hiểu ý nghĩa của

tình huống truyện. Bên cạnh đó, câu hỏi còn kích thích tâm lí học sinh, gợi ra cho

các em những thắc mắc và học sinh vận dụng sự hiểu biết của mình để giải quyết

một vấn đề mới.

2.2.3. Phương pháp đàm thoại

2.2.3.1. Những vấn đề chung về phương pháp đàm thoại

Đàm thoại là một trong những phương pháp dạy học sáng tạo và tích cực đã

được đưa vào vận dụng trong giảng dạy ở các trường phổ thông hiện nay. Có thể

nói, dạy học bằng phương pháp đàm thoại là con đường nâng cao chất lượng dạy và

học, giúp GV hình thành kiến thức cho HS trên cơ sở những câu hỏi gợi mở, quá

trình đàm thoại giữa GV và tập thể HS và giữa HS với nhau.

Tác giả Bùi Thị Mùi, trong quyển “Giáo trình lí luận dạy học” đã đưa ra định

nghĩa về phương pháp đàm thoại như sau: “Phương pháp hỏi đáp (vấn đáp, đàm

thoại) là phương pháp giáo viên nêu câu hỏi, học sinh trả lời nhằm giúp học sinh

tiếp thu tri thức mới; củng cố, ôn tập để mở rộng, đào sâu tri thức đã học; vận dụng

tri thức hình thành kĩ năng, kĩ xảo và kiểm tra mức độ nắm tri thức, kĩ năng, kĩ xảo

của học sinh”.

Bên cạnh đó, trong quyển “Phương pháp dạy học”, tác giả Phan Trọng Luận

cũng đã có đưa ra định nghĩa về phương pháp đàm thoại như sau: “Phương pháp

vấn đáp là quá trình tương tác giữa người dạy với người học, được thực hiện qua

hệ thống câu hỏi và câu trả lời tương ứng về một chủ đề nhất định được người dạy

và người học đặt ra. Kết quả là dưới sự dẫn dắt của người dạy, người học thể hiện

sự suy nghĩ, ý tưởng của mình; khám phá và lĩnh hội được đối tượng học tập”.

Như vậy, các định nghĩa trên tuy được diễn đạt khác nhau, nhưng đều có

65

chung một quan niệm thống nhất khi cho rằng dạy học đàm thoại là phương pháp

rèn luyện tư duy sáng tạo cho HS, thể hiện mối quan hệ tương tác qua lại giữa

người dạy với người học và giữa người học với nhau. Trong giờ dạy học theo

phương pháp đàm thoại, HS không chỉ tái hiện lại được kiến thức mà còn rèn luyện

được khả năng vận dụng kiến thức vào trong những tình huống mới.

- Ưu điểm của phương pháp đàm thoại:

+ Đó là một cách có hiệu quả để điều khiển hoạt động tư duy của học sinh,

kích thích tính tích cực hoạt động nhận thức.

+ Bồi dưỡng cho học sinh năng lực diễn đạt bằng lời những vấn đề khoa học

một cách chính xác đầy đủ gọn gàng.

+ Giúp giáo viên thu hút được tín hiệu ngược lại từ học sinh một cách nhanh

chóng để kịp thời điều chỉnh hoạt động của mình. Thông qua đó giáo viên vừa có

khả năng chỉ đạo nhận thức toàn lớp vừa chỉ dạo nhận thức của từng học sinh.

- Nhược điểm của phương pháp đàm thoại:

+ Dễ làm mất thời gian, ảnh hưởng tới việc thực hiện kế hoạch bài học.

+ Có thể biến đàm thoại thành cuộc tranh luận giữa GV và học sinh, giữa các

thành viên của lớp với nhau.

Trong phương pháp đàm thoại phát hiện có yếu tố tìm tòi, nghiên cứu của

học sinh. Giáo viên giống như người tổ chức, học sinh đóng vai trò phát hiện. Khi

kết thúc đàm thoại, học sinh có vẻ như người tự lực tìm ra chân lý.

Thông qua phương pháp này học sinh không những lĩnh hội được nội dung

trí dục mà còn học được cả phương pháp nhận thức và cách diễn đạt tư tưởng bằng

lời nói.

Đàm thoại có thể dùng để giảng tri thức mới hoặc củng cố tri thức cũ, kiểm

tra kết quả giảng dạy, học tập của giáo viên và học sinh. Tùy theo nội dung bài học,

giáo viên lựa chọn các hình thức đàm thoại phù hợp. Sau khi lựa chọn hình thức

đàm thoại phù hợp, giáo viên phải lựa chọn những hình thức đặt câu hỏi phù hợp

với nó để xác định loại câu hỏi cần nêu ra như đúng hay sai?, tại sao?, như thế nào?,

cảm nhận ra sao?.... Khi đặt câu hỏi, cần có những thay đổi nhất định để tránh sự ức

chế, tăng yếu tố kích thích hưng phấn tư duy của học sinh.

2.2.3.2. Áp dụng phương pháp đàm thoại trong dạy học tác phẩm Vợ nhặt

66

theo hướng thi pháp học

Như đã trình bày ở trên, cốt lõi của phương pháp đàm thoại là hình thức thảo

luận thông qua hệ thống câu hỏi gợi tìm. Nếu giáo viên không chuẩn bị tốt hệ thống

câu hỏi, quá trình đàm thoại sẽ trở nên nhạt nhẽo. Hệ thống câu hỏi bao gồm nhiều

câu hỏi, mỗi câu là một cái mốc trong quá trình khám phá tác phẩm, câu hỏi sau bổ

sung cho câu hỏi trước, câu hỏi trước chuẩn bị cho câu hỏi sau làm thành một chuỗi

những liên hệ nối tiếp trong một hế thống vấn đề. Đối với việc dạy học tác phẩm Vợ

nhặt, người viết xin giới thiệu một số loại câu hỏi sau:

- Câu hỏi phát hiện

Là loại câu hỏi yêu cầu học sinh nhận diện được các chi tiết, hình ảnh, từ

ngữ, biện pháp tu từ,… hoặc xác định được các phương thức biểu đạt trong tác

phẩm.

Cách cấu tạo của câu hỏi này có hai dạng:

+ Hãy tìm trong văn bản Vợ nhặt những chi tiết, hình ảnh miêu tả ngoại

hình nhân vật Tràng.

+ Hãy phát hiện những tín hiệu nghệ thuật trong đoạn văn bản Tràng và thị

đi về qua xóm ngụ cư.

- Câu hỏi cảm xúc

Là hình thức câu hỏi phản ánh trực giác của người đọc. Học sinh bị tác động

bởi nội dung và hình thức của tác phẩm ở mức độ ấn tượng ban đầu. Loại câu hỏi

này gồm có hai dạng:

+ Câu hỏi cảm xúc vật chất: là câu hỏi luôn hướng về những rung động vật

chất (trạng thái tâm lý của người đọc). Ví dụ: Trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim

Lân, nhân vật nào đã để lại cho anh/chị nhiều ấn tượng nhất?

+ Câu hỏi cảm xúc nghệ thuật: là những câu hỏi hướng về những rung động ban

đầu tác động bởi hình thức nghệ thuật độc đáo trong tác phẩm. Ví dụ: Hình ảnh nạn đói

năm 1945 được tái hiện trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân đã để lại cho anh/chị

những cảm xúc gì? Đoạn văn nào, chi tiết nào của tác phẩm gây xúc động và để lại ấn

tượng sâu sắc nhất cho anh/chị? Tại sao?

- Hệ thống câu hỏi hình dung, tưởng tượng

Những câu hỏi hình dung, tưởng tượng giúp học sinh xác nhận sự hình dung

của mình dưới sự tác động của hình tượng văn học. Nó giúp học sinh vận dụng trí

67

nhớ, huy động kinh nghiệm cá nhân, hướng HS và hiện thực tâm lý của tác phẩm

bằng những yêu cầu trả lời kiến thức, xác lập mối quan hệ giữa tác phẩm với nội

dung bài học. Ví dụ: Anh/chị hãy tái hiện lại bối cảnh không gian và thời gian ở

xóm ngụ cư khi Tràng dẫn người vợ nhặt về nhà.

- Hệ thống câu hỏi hiểu biết nội dung và hình thức tác phẩm

- Hệ thống câu hỏi hiểu biết nội dung truyện ngắn Vợ nhặt ứng với ba mức

độ từ thấp đến cao để thâm nhập tác phẩm. Từ khả năng kể lại cốt truyện đến việc

phân tích lý giải các sự kiện, biến cố đối với nhân vật và đối chiếu so sánh để có

những suy diễn đối lập. Ví dụ: Tại sao nhà văn Kim Lân lại lấy tên nhan đề là “Vợ

nhặt” cho truyện ngắn này của mình? Hoặc Vì sao người vợ nhặt lại mất đi vẻ chao

chát, chỏng lỏn từ khi quyết định làm vợ Tràng?

- Hệ thống câu hỏi hiểu biết hình thức tác phẩm

Câu hỏi về hình thức của tác phẩm gợi ý cho HS đi sâu vào khám phá các chi

tiết nghệ thuật và cấu trúc nghệ thuật của tác phẩm. Loại câu hỏi này gồm có:

+ Câu hỏi về chi tiết hình thức nghệ thuật tác phẩm

+ Câu hỏi về cấu trúc hình thức tác phẩm

Ví dụ: Anh/chị hãy nhận xét nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của nhà văn

Kim Lân thông qua việc phân tích diễn biến tâm lý nhân vật Tràng trong truyện

ngắn Vợ nhặt.

Hoặc: Tác giả Kim Lân đã xây dựng tình huống độc đáo trong Vợ nhặt bằng

cách nào? Tình huống truyện này có tác dụng như thế nào trong việc thể hiện nội

dung tác phẩm?

- Câu hỏi ngoài văn bản và vai trò của người tiếp nhận

Câu hỏi ngoài văn bản là hệ thống những câu hỏi nằm ngoài văn bản hoặc cho

thấy những hiểu biết của người học về các vấn đề liên quan đến văn bản.

Anh/chị hãy nêu khái niệm điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn là gì?

Hoặc: Trình bày những hiểu biết khái quát của anh/chị về phong cách nghệ thuật

Kim Lân.

- Câu hỏi so sánh, khái quát

Hướng triển khai chung của các câu hỏi so sánh, khái quát là tìm những điểm

tương đồng, sự khác biệt của các đối tượng để khái quát nên những vấn đề chính

của tác phẩm. Ví dụ:

Nhân xét của anh/chị về nghệ thuật miêu tả nhân vật và xây dựng tình huống

68

truyện của nhà văn Kim Lân qua truyện ngắn Vợ nhặt.

Hoặc: Phân tích sự giống và khác nhau trong tâm trạng các nhân vật Tràng,

bà cụ Tứ và người vợ nhặt trong truyện ngắn Vợ nhặt.

Như vậy, bằng con đường đàm thoại, gợi mở GV sẽ tạo cho lớp học một

không khí tự do tư tưởng, tự do bộc lộ những nhận thức trực tiếp của mình: mạch

kín của giờ dạy được bộc lộ rõ ràng. Những tín hiệu phản hồi được báo lại cho GV

kịp thời trong khi lên lớp. Giờ dạy văn, học văn có được không khí tâm tình, trao

đổi thân mật về những vấn đề cuộc sống do nhà văn nêu lên. Mối liên hệ giữa nhà

văn, GV, HS được hình thành ngay trong lớp học, điều mà các giờ dạy theo phương

pháp diễn giảng khó có được. Thế giới HS ít xa lạ với giáo viên. Và cũng chính qua

đàm thoại, GV hiểu con người HS cụ thể hơn. Tính cách, phẩm chất trí tuệ, tâm

hồn, tình cảm, phong cách người HS được bộc lộ rõ rệt qua đàm thoại. Năng lực

độc lập làm việc, óc tìm tòi suy nghĩ, thói quen giao tiếp xã hội của HS được phát

huy một cách tích cực. Không khí thụ động của giờ học được giảm bớt rõ rệt.

2.2.4. Phương pháp trực quan

2.2.4.1. Một vài vấn đề chung về phương pháp trực quan

Phương pháp trực quan là phương pháp dạy học sử dụng các vật thể kỹ thuật,

các quá trình công nghệ, các phương tiện gián tiếp và các thao tác kĩ thuật công

nghệ nhằm giúp học sinh trực tiếp cảm giác, tri giác tài liệu mới trên cơ sở đó tạo ra

các biểu tượng cụ thể trong học sinh, rèn luyện kĩ năng, kỹ xảo.

* Ưu điểm và hạn chế của nhóm phương pháp dạy học trực quan:

Các phương pháp dạy học trực quan nếu được sử dụng khéo léo sẽ làm cho

các phương tiện trực quan, phương tiện kỹ thuật dạy học tạo nên nguồn tri thức.

Chức năng đó của chúng chủ yếu gắn liền với sự khái quát những hiện tượng, sự

kiện với phương pháp nhận thức quy nạp. Chúng cũng là phương tiện minh hoạ để

khẳng định những kết luận có tính suy diễn và còn là phương tiện tạo nên những

tình huống vấn đề và giải quyết vấn đề. Vì vậy phuơng pháp dạy học trực quan góp

phần phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh.

Với phương pháp dạy học trực quan sẽ giúp học sinh huy động sự tham gia

của nhiều giác quan kết hợp với lời nói sẽ tạo điều kiện dễ hiểu, dễ nhớ và nhớ lâu,

làm phát triển năng lực chú ý, năng lực quan sát, óc tò mò khoa học của họ.

Tuy vậy, nếu không ý thức rõ phương tiện trực quan chỉ là một phương tiện

69

nhận thức mà lạm dụng chúng thì dễ làm cho học sinh phân tán chú ý, thiếu tập

trung vào những dấu hiệu bản chất, thậm chí còn làm hạn chế sự phát triển năng lực

tư duy trừu tượng của trẻ.

Vấn đề đặt ra là mỗi GV Ngữ văn phải sáng suốt trong việc áp dụng nhằm phát

huy tính tích cực của phương tiện này trong những trường hợp cần thiết sao cho quá

trình giảng dạy của mình đạt kết quả mong muốn với mục tiêu là HS không chỉ nắm

kiến thức mà còn được bồi dưỡng năng lực cảm thụ, năng lực thẩm mĩ và biết hướng

đến những giá trị chân, thiện, mĩ sau mỗi tiết học.

2.2.4.2. Áp dụng phương pháp trực quan trong dạy học tác phẩm Vợ nhặt

theo hướng thi pháp học

- Sử dụng sơ đồ

Sơ đồ là cách giúp học sinh hiểu bài sâu hơn, nhận ra mối quan hệ giữa các

kiến thức, củng cố lại kiến thức nhằm để cho các em nhớ lâu hơn. Từ đó rèn luyện

cho các em năng lực khái quát, phân tích, so sánh, phân loại vấn đề.

GV có thể sử dụng rất nhiều loại sơ đồ trong bài dạy học tác phẩm Vợ nhặt

theo hướng tiếp cận thi pháp học như: sơ đồ khái quát tính cách nhân vật, sơ đồ chi

tiết về nhân vật, sơ đồ về mối quan hệ giữa các nhân vật, các sự kiện, sơ đồ các yếu

tố trong tác phẩm, sơ đồ cấu trúc văn bản… Ví dụ như:

Sơ đồ chi tiết nhân vật Tràng:

Ngôn ngữ ……………..

Ngoại hình ……………..

Nhân vật Tràng

Hành động ……………..

Nội tâm …………….

70

Sơ đồ diễn biến tâm trạng nhân vật người vợ nhặt:

Giai đoạn khi chưa nhận lời làm vợ Tràng ………………………………………………… ….

Giai đoạn nhận lời làm vợ và theo Tràng về nhà …………………………………………………….

Giai đoạn buổi sáng sau đêm tân hôn …………………………………………………….

Khi sử dụng sơ đồ cần tránh dài dòng, sơ đồ cần có tính khái quát cao, trình

bày đẹp, khoa học, rõ ràng, hợp lý và cần kết hợp nhiều cách để đạt được kết quả tốt

nhất.

 Sử dụng biểu bảng

Bên cạnh sơ đồ, GV cũng có thể ứng dụng linh hoạt các dạng biểu bảng vào

hoạt động giảng dạy tác phẩm Vợ nhặt. Cũng như sơ đồ, biểu bảng tồn tại dưới

nhiều dạng khác nhau. Ví dụ:

Phương diện nghệ Định nghĩa Chi tiết biểu hiện

STT thuật trong tác phẩm

…. …………………… ………………………. ………………….

Việc thực hiện tốt thì sẽ giúp HS hiểu bài sâu hơn; củng cố, nhớ lâu kiến

thức, rèn luyện năng lực khái quát, tổng hợp vấn đề. Ngoài ra, sơ đồ, biểu bảng còn

rèn luyện cho HS khả năng tự lập trong cách diễn đạt. Từ đó, phát huy được năng

lực tiếp thu văn bản một cách chủ động, sáng tạo, khách quan,…; khắc phục được

hiện tượng thụ động trong tiếp nhận với những biểu hiện như đọc chép, chiếu chép

hay HS tự chép từ những tài liệu có sẵn một cách máy móc.

- Sử dụng phiếu học tập

Bên cạnh các phương tiện, công cụ dạy học khác, phiếu học tập cũng đóng

vai trò khá quan trọng trong việc giúp HS tiếp nhận kiến thức và giúp GV đa dạng

71

hóa hoạt động dạy học của mình. Mỗi dạng phiếu học tập đại diện cho một vấn đề

kiến thức của bài học. Tùy theo mục đích sử dụng, dung lượng kiến thức, thời điểm

sử dụng… mà chúng ta có thể chọn một trong các dạng phiếu học tập sau đây:

- Dạng 1: Tìm hiểu chung về của tác phẩm

PHIẾU HỌC TẬP

Tên bài học:………………… …………………………………………

Học tên HS:……………………………………Lớp:.........……………

Hình thức thực hiện: GV phát trước tiết học cho HS chuẩn bị ở nhà.

Yêu cầu: Em hãy đọc tác phẩm Vợ nhặt và hoàn thành Sơ đồ tóm tắt tác

phẩm theo nhân vật chính:

+ Nhân vật chính của tác phẩm là ai?

+ Câu chuyện xảy ra ở đâu?

+ Nhân vật gặp phải chuyện gì?

+ Nhân vật gặp phải chuyện gì?

+ Mở đầu tác phẩm, chuyện gì xảy ra trước nhất?

+ Các nhân vật phản ứng ra sao?

+ Các nhân vật giải quyết vấn đề đó như thế nào?

+ Diễn biến tiếp theo của tác phẩm?

Vấn đề được giải quyết theo hướng nào?

- Dạng 2: Tìm hiểu chi tiết một vấn đề của tác phẩm

PHIẾU HỌC TẬP

Tên bài học:………………… …………………………………………

Học tên HS:……… ………………………Lớp:.........…………………

Hình thức thực hiện: GV phát trước trong tiết học.

Yêu cầu: Em hãy đọc tác phẩm và hoàn thành Sơ đồ tóm tắt diễn biến tâm

trạng nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân.

Diễn biến tâm trạng: ……………………………………………………

Chi tiết minh họa: ………………………………………………………

Nhận xét: ………………………………………………………………

Nhìn chung, phiếu học tập là một công cụ bổ trợ cần thiết cho quá trình

giảng dạy Ngữ văn nói chung và văn xuôi Việt Nam hiện đại nói riêng. Qua các

72

phiếu học tập, GV hướng dẫn và tổ chức cho HS học bằng cách làm việc, từ những

công việc cụ thể, vừa sức đến khám phá, phân tích… hiệu quả giờ dạy – học sẽ nhẹ

nhàng và hiệu quả hơn.

- Sử dụng tranh ảnh, thiết bị ghi hình

Văn chương là môn nghệ thuật ngôn từ toàn bộ thế giới nghệ thuật hiện lên

gián tiếp qua ngôn từ. Vì vậy, để hiểu được tác phẩm, người đọc phải có khả năng

liên tưởng, tưởng tượng. Tranh ảnh, thiết bị ghi hình chỉ là những đối tượng có tác

dụng hỗ trợ cho các hoạt động tư duy vừa nêu, giúp cho quá trình tiếp nhận văn học

của HS được thuận lợi hơn.

Khi tìm kiếm và sử dụng tranh ảnh, thiết bị ghi hình người dạy cần chú ý một

số yêu cầu sau:

- Thứ nhất, tranh ảnh, thiết bị ghi hình phải có mối liên hệ và phù hợp với

kiến thức cần truyền đạt, ít nhiều có tác dụng dẫn dắt HS đến việc hiểu nội dung bài

học.

- Thứ hai, tranh ảnh, thiết bị ghi hình đưa vào sử dụng phải được khai thác

để phục vụ cho hoạt động dạy và học, hạn chế tối đa hiện tượng chỉ dùng với mục

đích “minh họa” đơn thuần.

- Thứ ba, GV cần chủ động, khéo léo trong việc trưng ra và cất vào

Tranh ảnh, thiết bị ghi hình nên áp dụng đối với tác phẩm Vợ nhặt là: chân

dung của nhà văn Kim Lân, những bức ảnh chụp về thiên nhiên, con người nông

73

thôn...

Nhà văn Kim Lân lúc sinh thời và bức chân dung do họa sĩ Nguyễn Thị Hiền

thể hiện

Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân lấy cảm hứng từ nạn đói năm Ất Dậu

1945; GV nên cho các em xem những hình ảnh lịch sử có thật được ghi lại trong nạn

đói khủng khiếp năm ấy. Từ đó, người học sẽ hiểu hơn về hoàn cảnh lịch sử những

năm ấy. Đồng thời, các em cũng sẽ nảy sinh thái độ đồng cảm, xót thương với những

kiếp người như: Người vợ nhặt, Tràng và bà cụ Tứ.

Hình ảnh nạn đói năm Ất Dậu, 1945

Nguồn tư liệu này GV tự sưu tầm hoặc cho các em sưu tầm từ trên, báo,

lịch... Đặc biệt, trong thời đại thông tin phát triển như hiện nay, việc tìm kiếm các

trực quan kể trên là rất dễ dàng.

Nếu GV sử dụng hợp lí và có cân nhắc trong khi giảng dạy thì tiết dạy sẽ trở

nên sinh động và đạt hiệu quả cao. Ngược lại, nếu chúng ta quá lạm dụng thì sẽ triệt

tiêu khả năng tư duy của người học.

- Sử dụng bản đồ tư duy

Vận dụng bản đồ tư duy trong tiếp cận truyện ngắn Vợ nhặt nghĩa là chúng

ta phải chuyển hóa những thông tin liên quan trong bài học lên thành các mô hình,

các hình ảnh, các nhánh của sơ đồ và ngược lại.

74

Ví dụ:

Bài học sử dụng BĐTD với mục đích:

- Một công cụ gợi mở, kích thích quá trình tìm kiếm kiến thức của học sinh:

Với những ưu điểm của mình, BĐTD trở thành một công cụ gợi mở, kích thích quá

trình tìm tòi kiến thức của học sinh. Bước quan trọng nhất là GV giúp HS phát hiện,

tìm kiếm được trung tâm sơ đồ - trọng tâm bài học. Sau đó, theo nguyên lí BĐTD là ý

nọ gợi ý kia dần dần giúp HS khám phá kiến thức bài học. Bằng trí tưởng tượng cùng

sự tập hợp kiến thức từ các nguồn, học sinh phải biết cách phân tích tìm ra những từ

khóa, hình ảnh chính xác nhất. Khi các nhánh lớn được xây dựng GV cũng nên

hướng dẫn HS sắp xếp theo thứ tự quan trọng bằng cách đánh số ở đầu mỗi nhánh.

Điều đó giúp học sinh dễ dàng ôn tập sau này. Cứ làm việc theo cách đó học sinh sẽ

biết cách tự mình vận động, tìm tòi khám phá, lĩnh hội tri thức một cách có hiệu quả.

- Một công cụ để củng cố, khái quát bài học của học sinh: Sau mỗi tiết học

75

bao giờ cũng có phần củng cố, nhắc lại kiến thức trọng tâm. Với cách học truyền

thống, học sinh ghi chép kiến thức theo trật tự tuyến tính nên khả năng nhớ kiến

thức thường ít hơn dung lượng bài. Sử dụng BĐTD giúp các em khắc phục được

hạn chế đó. Sau mỗi giờ học, khi cần củng cố kiến thức học sinh chỉ cần nhìn vào

BĐTD có thể tái hiện được cơ bản toàn bộ kiến thức bài học. Đến khi ôn thi học

sinh không phải mất một lượng lớn thời gian để đọc lại kiến thức như cách học

truyền thống mà chỉ cần quan sát lại sơ đồ tổng thể vẫn có thể tái hiện nội dung bài

học một cách cụ thể, chi tiết. Như thế, học sinh vừa nâng cao được kết quả học tập

vừa tiết kiệm được thời gian.

- Một công cụ để giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức tổng hợp về bài học: Từ

hai mục đích trên, như một hệ quả tất yếu BĐTD sẽ giúp học sinh chiếm lĩnh được

kiến thức tổng hợp về bài học. Phương pháp này không những giúp học sinh biết

cách học, biết cách ghi kiến thức vào bộ não; biết nhận thức, nắm bắt vấn đề rành

mạch, sâu sắc, lôgic từ luận đề đến luận điểm, đến luận cứ mà còn rèn luyện kĩ năng

tư duy tổng hợp, khái quát vấn đề cho học sinh. Thể hiện bài học dưới dạng BĐTD

sẽ phát huy tối đa khả năng vận dụng công nghệ thông tin trong dạy học và khả

năng sáng tạo của mỗi người.

Để vận dụng BĐTD vào bài học, giáo viên phải nghiên cứu kĩ bài học,

chuyển hoá được các ý chính mang tính trọng tâm lên một bản đồ sao cho logic

khoa học. Nếu giáo viên không sử dụng máy chiếu phục vụ cho tiết dạy thì sử dụng

bảng phụ và vẽ các BĐTD lên bảng phụ đó. Nếu giáo viên sử dụng máy chiếu phục

vụ cho tiết dạy thì bài học sẽ tiến hành thuận tiện và đơn giản hơn rất nhiều. Trên

BĐTD được trình chiếu, những thông tin chính không thể hiện đầy đủ mà để trống,

hoặc phát bảng phụ cho học sinh và yêu cầu học sinh tự hình dung rồi liên kết các

tri thức để vẽ bản đồ.

Học sinh nghiên cứu sách giáo khoa, soạn kĩ các câu hỏi hướng dẫn học bài

76

vào vở bài tập. Suy nghĩ, thảo luận nhóm và trả lời câu hỏi của giáo viên.

Tiểu kết chương 2

Lý luận dạy học hiện đại nhấn mạnh đến vai trò trung tâm của HS trong quá

trình hình thành kiến thức. Vai trò trung tâm của HS sẽ được phát huy nếu giáo viên

tạo điều kiện cho HS tự khám phá tác phẩm và phát triển năng lực cảm thụ tác phẩm

cũng như khuyến khích sự hưởng ứng tích cực trong giờ học. Ðiều này dẫn đến việc

hình thành ý kiến cá nhân của chính HS, phát triển khả năng đọc và phân tích tác

phẩm. Ðể đạt được mục đích trên, các hình thức dạy và học cần phải được đa dạng

hóa, làm cho HS cảm thấy hứng thú trong suốt giờ học. Với đề tài: Dạy học truyện

ngắn Vợ nhặt của Kim Lân (Ngữ Văn 12, tập 2) theo hướng tiếp cận thi pháp học,

người viết muốn đưa ra các phương pháp cụ thể, thiết thực trên đây trong việc dạy

học nhằm vào mục đích đó. Việc sử dụng các phương pháp như thế nào, ở mức độ

nào phụ thuộc vào dụng ý dạy học bài học, năng lực HS, điều kiện học tập. Ðiều

này không có nghĩa là với điều kiện hiện nay ở các trường phổ thông: lớp đông HS

với phương tiện duy nhất là bảng đen, phấn trắng các phương pháp trên không thực

hiện được. Vấn đề quan trọng nhất là sự nhiệt tình, sáng tạo của giáo viên, quan

niệm của GV về việc dạy và học. Các phương pháp trên đây cần được sử dụng phối

77

hợp trong quá trình dạy và học văn mới có thể tạo ra hiệu qủa cao.

CHƯƠNG 3

THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM VỚI TÁC PHẨM VỢ NHẶT CỦA TÁC GIẢ

KIM LÂN

3.1. Giáo án thực nghiệm

Từ thực trạng dạy học truyện ngắn Vợ nhặt ở chương trình Ngữ văn lớp 12

thuộc bậc Trung học phổ thông, cùng nhiều vấn đề lý luận đã trình bày ở chương I

và chương II, người viết tiến hành thiết kế giáo án dạy học truyện ngắn Vợ nhặt

theo hướng thi pháp học nhằm phát huy tính sáng tạo cũng như vai trò chủ động

tiếp nhận tác phẩm văn học của HS. Giáo án được thiết kế bám sát hướng tiếp cận

thi pháp học.

Dưới đây là giáo án thực nghiệm dạy học truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn

Kim Lân:

VỢ NHẶT

Kim Lân

A. MỤC TIÊU BÀI HỌC

1. Kiến thức

- Giá trị nghệ thuật của tác phẩm: HS phân tích được sáng tạo nghệ thuật

xuất sắc và độc đáo của tác giả ở truyện ngắn Vợ nhặt, đặc biệt là trong nghệ thuật

trần thuật, việc tổ chức tình huống, diễn tả tâm lí nhân vật, tạo không khí và dựng

đối thoại, điểm nhìn trần thuật.

- Giá trị nội dung của tác phẩm: HS hình dung cụ thể sự khủng khiếp của nạn

đói ở nước ta năm 1945 và tội ác diệt chủng của bọn thực dân Pháp, phát xít Nhật.

Cảm nhận được niềm khao khát hạnh phúc gia đình và niềm tin vào cuộc sống của

người dân lao động.

2. Kỹ năng

- Biết cách đọc hiểu một tác phẩm, phân tích các giá trị nghệ thuật của tác

phẩm truyện ngắn.

- Làm quen với hướng tiếp cận truyện ngắn hiện đại từ góc độ thi pháp học.

3. Thái độ

78

- Kính trọng tài năng của nhà văn Kim Lân

- Đồng cảm với con người trong hoàn cảnh éo le, trân trọng khát vọng hạnh

phúc của con người…

B. CHUẨN BỊ BÀI HỌC

1. Giáo viên

- Dự kiến biện pháp tổ chức cho học sinh phân tích truyện ngắn Vợ nhặt.

- Chuẩn bị các tư liệu, tài liệu có liên quan đến bài học.

- Chuẩn bị các phương tiện dạy học.

2. Học sinh

Chủ động soạn bài trước khi lên lớp, thực hiện các yêu cầu của giáo viên,

sưu tầm tư liệu, tranh ảnh, bảng phụ theo nhóm được phân chia từ trước dưới sự

hướng dẫn của giáo viên.

C. PHƯƠNG PHÁP

Đọc hiểu văn bản kết hợp các phương pháp theo hướng tiếp cận thi pháp học:

+ Phương pháp diễn giảng

+ Phương pháp nêu vấn đề

+ Phương pháp đàm thoại

+ Phương pháp trực quan

D. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC DẠY HỌC

1. Ổn định lớp học (1 phút)

2. Kiểm tra bài cũ (5 phút)

3. Dạy học bài mới

* Giới thiệu bài mới

* Nội dung bài mới

Hoạt động của giáo viên Hoạt động của Mục tiêu cần đạt

học sinh

HS đọc SGK và I. Hoạt động 1: HƯỚNG I. TIỂU DẪN

trình bày các ý 1. Tác giả: DẪN HỌC SINH TÌM

chính về tác giả Kim Lân (1920 - 2007): thành HIỂU TIỂU DẪN (9 phút)

- Yêu cầu học sinh đọc phần và sự nghiệp công về đề tài nông thôn và

tiểu dẫn và rút ra ý chính về sáng tác của người nông dân; có một số tác

79

tiểu sử và sự nghiệp sáng tác nhà văn Kim phẩm có giá trị về đề tài này.

của nhà văn Kim Lân. Lân. 2. Tác phẩm:

- Thuyết giảng thêm: Vợ nhặt (in trong tập Con chó

+ KL được tặng giải thưởng xấu xí, 1962) được viết dựa trên

Nhà nước về văn học nghệ một phần cốt truyện cũ của tiểu

thuật năm 2001. thuyết Xóm ngụ cư.

+ Là cây bút chuyên viết

truyện ngắn. Thế giới nghệ

thuật của ông chủ yếu tập

trung ở khung cảnh nông thôn

và hình tượng người nông dân

nghèo rất gần gũi với sinh

hoạt của ông - những con

người gắn bó tha thiết với quê

hương Cách mạng.

+ KL được coi là nhà văn của

người nông dân Bắc bộ với

những phong tục, văn hoá cổ

truyền, đời sống làng quê.

* GV sưu tầm thêm một số tư

liệu, tranh ảnh để giới thiệu

cho HS hiểu thêm về bối cảnh

xã hội Việt Nam năm 1945.

II. Hoạt động 2: II. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

HƯỚNG DẪN HỌC SINH

ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN (60

phút)

HS đọc văn bản * Đọc văn bản Thao tác 1: GV hướng dẫn

HS đọc văn bản truyện Vợ

nhặt trong SGK

80

(5 phút)

- Học sinh - Cốt truyện Thao tác 2: GV hướng dẫn

thảo luận theo Câu chuyện kể về cuộc sống của HS tìm hiểu cốt truyện và

nhóm đã được những người dân nghèo xóm ngụ kết cấu tác phẩm (10 phút)

GV đưa ra câu hỏi: phân chia từ cư giữa năm đói 1945. Trong đó,

- Theo em, cốt truyện của tác trước. nhân vật Tràng (nhân vật chính)

phẩm kể lại điều gì? Nhân vật - Học sinh “nhặt” được một người phụ nữ

chính trong tác phẩm là những trả lời câu hỏi về làm vợ. Từ đó, gia đình Tràng

ai? Họ có số phận như thế của GV đưa ra yêu thương, đùm bọc nhau giữa

nào? bằng hình thức những ngày đói và cùng hướng

- Kết cấu của truyện được xây phát biểu về một tương lai tốt đẹp hơn.

dựng như thế nào? - Kết cấu

+ Không theo trình tự thời gian.

Hiện tại và quá khứ đan xen với

nhau.

+ Kiểu kết thúc mở

HS suy nghĩ và Thao tác 3: GV hướng dẫn Ví dụ về phần tóm tắt:

thực hiện phần Tràng là một anh thanh niên ở HS tóm tắt tác phẩm (10

trình bày tóm xóm ngụ cư nghèo, vừa xấu xí phút)

- GV đưa ra yêu cầu HS tóm tắt tác phẩm vừa ngờ nghệch. Trong hoàn

tắt tác phẩm ngắn gọn nhất của mình vào tờ cảnh nạn đói đang diễn ra, người

trong khoảng từ 3 đến 5 câu. giấy được phát chết như ngả rạ, Tràng vô tình

- GV phát cho mỗi HS một tờ theo yêu cầu gặp được thị và thị nhận lời làm

giấy để HS ghi tên và phần của GV. vợ Tràng chỉ nhờ bốn bát bánh

trình bày tóm tắt đúc. Thị theo Tràng về nhà ra

mắt người mẹ già. Sau đêm tân

hôn, dường như một cuộc sống

mới ám áp tình yêu thương và

tràn đầy hi vọng đã đến với họ.

HS thảo luận và Thao tác 4: GV hướng dẫn Ý nghĩa nhan đề “Vợ nhặt”:

trả lời bằng - Nhan đề đã thâu tóm giá trị nội học sinh tìm hiểu nhan đề

81

hình thức phát dung, tư tưởng tác phẩm truyện ngắn Vợ nhặt (10

biểu theo nhóm - Tràng có vợ một cách ngẫu phút)

GV gợi dẫn: và cá nhân nhiên. Người ta cưới hỏi đàng

Đọc Vợ nhặt, một tác giả đã hoàng còn Tràng lại “nhặt” được

viết “Bốn bát bánh đúc thành vợ.

lễ cưới thật rồi / Xin từ điển => Thân phận con người bị rẻ

hãy thêm từ “vợ nhặt” / Ngòi rúng có thể “nhặt” về như một

bút Kim Lân tưởng đùa như món đồ bỏ đi. Đó thực chất là

khóc / Đói quắt quay nhưng cảnh khốn cùng của hoàn cảnh.

tha thiết con người” - Gia đình Tràng từ khi có người

Nếu được viết thêm vào cuốn “vợ nhặt”, mọi người trở nên gắn

từ ấy, anh/chị sẽ ghi như thế bó, chăm lo, thu vén cho tổ ấm

nào trong mục từ “vợ nhặt”? của mình hơn.

Anh/chị có cảm nhận gì từ => Nhan đề vừa thể hiện thảm

nhan đề của truyện ngắn này? cảnh của người dân nghèo trong

nạn đói năm 1945 ở nước ta, vừa

bộc lộ sự cưu mang, đùm bọc,

bao dung và niềm tin, khát vọng

sống hướng tới tương lai tốt đẹp

hơn.

- HS suy nghĩ Thao tác 5: GV hướng dẫn Tình huống truyện:

và trả lời theo - Tràng là một chàng trai sống ở HS tìm hiểu tình huống

câu hỏi yêu cầu xóm ngụ cư nghèo mà lại xấu xí, truyện Vợ nhặt (10 phút)

GV gợi dẫn và đưa ra yêu cầu của GV. thô kệch >< lấy được vợ >< giữa

cho HS: - HS quan sát nạn đói khủng khiếp nhất lịch

Điểm trung tâm trong sơ đồ hình ảnh GV sử.

cốt truyện là sự kiện nhân vật cung cấp về nạn - Tình huống Tràng nhặt được

Tràng nhặt được vợ giữa bối đói 1945 và vợ đã làm cho mọi người vô

cảnh nạn đói năm 1945. Từ sự chia sẻ những cùng ngạc nhiên:

kiện này, các nhân vật khác hình ảnh cùng + Trẻ con xóm ngụ cư ngạc

lần lượt xuất hiện trong tác nội dung hoặc nhiên

82

phẩm tạo thành bức tranh đời liên quan đến + Người lớn cũng ngạc nhiên

thực sống động trong tâm trí tác phẩm bản + Mẹ của Tràng cũng ngạc nhiên

người đọc. thân sưu tầm + Bản thân Tràng cũng không

 Nhà văn đã xây dựng được trước đó. ngờ được, cứ ngỡ ngàng như

tình huống truyện như thế không phải. Một tình huống éo

nào? Anh/chị hãy chỉ ra nét le, giàu kịch tính, rất độc đáo.

độc đáo ở tình huống truyện => Tình huống truyện được xây

này. dựng bất ngờ mà hợp lý. Qua đó,

phản ánh:

- Giáo viên cho HS quan sát + Giá trị hiện thực: tố cáo tội ác

hình ảnh sưu tầm về cảnh nạn của thực dân Pháp, phát xít qua

đói năm 1945. bức tranh xám xịt về thảm cảnh

chết đói.

+ Giá trị nhân đạo: Tình nhân ái

cưu mang đùm bọc lẫn nhau,

khát vọng hướng tới cuộc sống

và hạnh phúc. Điều mà Kim Lân

muốn nói là trong bối cảnh bi

thảm, giá trị nhân bản không mất

đi, con người vẫn muốn cứ được

là con người.

- HS tìm kiếm - Bảng thống kê lai lịch, ngoại Thao tác 6: GV hướng dẫn

thông tin trong hình, tính cách nhân vật Tràng, HS tìm hiểu nghệ thuật xây

SGK người vợ nhặt, bà cụ Tứ. dựng nhân vật của nhà văn

- Rút ra kết - Phân tích diễn biến tâm trạng Kim Lân trong truyện ngắn

luận và điền nhân vật: Vợ nhặt

vào bảng biểu (15 phút) a. Tràng và người vợ nhặt

GV hướng dẫn HS tìm hiểu GV cung cấp. * Bị cái đói dồn vào thảm cảnh:

nhân vật Tràng và người vợ - HS thảo luận - Tràng

nhặt và bà cụ Tứ thông qua nhóm + Đi từng bước mệt mỏi, cái đầu

các đặc điểm ngoại hình, tâm - HS trả lời và trọc chúi về đằng trước...

83

trạng, tính cách. giải quyết vấn + Không có tiền cưới vợ. Ngày

- Anh/chị hãy tìm kiếm các giáo viên đưa vui vợ chồng phải ăn cám.

chi tiết nói lên lai lịch, ngoại ra. - Người vợ nhặt:

hình, tính cách nhân vật + Rách rưới, tả tơi gầy sọp, trên

Tràng, người vợ nhặt và bà cụ khuôn mặt lưỡi cày chỉ còn thấy

Tứ (trình bày thông tin về lai hai con mắt.

lịch, ngoại hình, tính cách + Không có nổi cái tên, không

nhân vật dưới dạng bảng biểu duy trì nổi lòng tự trọng để phải

cho sẵn). theo không Tràng chỉ sau bốn

- Anh/chị hãy trình bày sự bát bánh đúc.

thay đổi trong tâm lý của 3 *Có khát khao nương tựa, gắn

nhân vật trên trong diễn biến bó để được tồn tại, để sống, để

cốt truyện. cho cuộc đời mỗi người trở nên

- Em có cảm nhận gì về cảm có ý nghĩa hơn.

tình mà 3 nhân vật này dành - Tràng:

cho nhau tại thời điểm buổi + Lúc đầu: Chỉ đùa và trên

sang sau đêm thị về làm dâu? đường đưa người vợ nhặt về tâm

- GV nhận xét và chốt lại hồn tràn đầy tình nghĩa, quên

nhũng ý cơ bản về nghệ thuật luôn cả mùa đói.

xây dựng tâm lý nhân vật + Sáng hôm sau: Cảm nhận rõ

trong truyện ngắn của nhà văn hạnh phúc "Thấm thía cảm

Kim Lân. động" của mái ấm gia đình.

- Người vợ nhặt:

+ Lúc đầu: Chỉ định gắn với

Tràng để tồn tại qua mùa đói.

+ Sáng hôm sau: Cuộc sống gia

đình thay đổi thị, biến thành

"người đàn bà hiền hậu, đúng

mực, không có vẻ gì chao chát

chỏng lỏng".

* Tràng và người vợ nhặt có sự

84

hi vọng, tin tưởng vào tương lai:

-Tràng nghĩ đến chuyện tu sửa

nhà cửa, sinh con, đẻ cái, lo lắng

cho vợ con sau này, đám người

phá kho thóc Nhật và hình ảnh lá

cờ đỏ tượng trưng cho Việt

Minh.

- Người vợ nhặt cùng mẹ chồng

quét tước, thu dọn nhà cửa, sân

vườn mong mang lại một sinh

khí mới. Nói đến chuyện các

vùng khác không còn đóng thuế,

phá kho thóc Nhật, chuyện Việt

Minh.

b. Diễn biến tâm trạng bà cụ

Tứ:

* Ngạc nhiên:

-Đứng sững lại hấp háy cặp mắt

cho đỡ nhoèn, quay nhìn Tràng

không hiểu (thấy người đàn bà

bên Tràng).

-Băn khoăn ngồi xuống giường

khi nghe người đàn bà chào.

* Lo âu, thương cảm, tủi thân:

- Cúi đầu, kẽ mắt rĩ xuống hai

dòng nước mắt (buồn vì không

lo nổi đám cưới cho con, sợ con

và dâu "có nuôi nổi nhau sống

qua được cơn đói khát này

không").

- Nghẹn lời, nước mắt "cứ chảy

85

xuống ròng ròng".

* Hi vọng tin tưởng ở tương lai:

-Nói đến chuyện nuôi gà, chuyện

sẽ có một đàn gà nay mai. Nói

đến triết lí "ai giàu

ba họ ai khó ba đời" để động

viên con và dâu về một viễn

cảnh thoát đói nghèo.

-Thu dọn, quét tước nhà cửa, sân

vườn mong mang lại một sinh

khí mới.

Hoạt động 3: Tổng kết văn III. Tổng kết

bản (10 phút)

HS suy nghĩ và 1. Nội dung: Thao tác 1: GV hướng dẫn

trả lời - Giá trị nhân đạo: Truyện thể HS nhận xét về nội dung (5

hiện được thảm cảnh của nhân phút)

GV đưa ra câu hỏi: dân ta trong nạn đói năm 1945.

- Ấn tượng của anh/chị về nội - Giá trị nhân đạo: Đặc biệt thể

dung tác phẩm như thế nào? hiện được tấm lòng nhân ái, sức

sống kì diệu của con người ngay

bên bờ vực thẳm của cái chết

vẫn hướng về sự sống và khát

khao tổ ấm gia đình.

HS suy nghĩ và 2. Nghệ thuật: Thao tác 2: GV hướng dẫn

trả lời - Xây dựng tình huống truyện HS nhận xét về nghệ thuật (5

độc đáo. phút)

- Cách kể chuyện tự nhiên, lôi GV đưa ra câu hỏi:

cuốn, hấp dẫn: - Em hãy nhận xét về nghệ

+ Cách dẫn dắt câu chuyện tự thuật viết truyện của Kim Lân:

nhiên, giản dị, chặt chẽ Cách kể chuyện, cách dựng

+ Khéo léo làm nổi bật sự đối cảnh, đối thoại, nghệ thuật

lập giữa hoàn cảnh và tính cách miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn

86

nhân vật. ngữ...

- Dựng cảnh chân thật, sinh

động, đặc sắc: cảnh chết đói,

cảnh bữa cơm ngày đói,…

- Miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế

nhưng bộc lộ tự nhiên, chân thật.

- Ngôn ngữ nông thôn mộc mạc,

giản dị, gần với khẩu ngữ nhưng

được chọn lọc kĩ, tạo nên sức

gợi.

Hoạt động 4: Củng cố và luyện tập (5 phút)

- GV và HS chốt lại ý chính của bài học về nội dung và nghệ thuật

+ GV tổ chức cho HS đọc diễn cảm 1 đoạn: “ít lâu nay… cùng đẩy xe bò về”

+GV hướng dẫn HS về nhà: Viết một đoạn văn (khoảng 20 – 30 dòng)

phân tích một chi tiết hoặc một hình ảnh mà em thích khi đọc truyện ngắn Vợ

nhặt.

3.2. Thực nghiệm cụ thể bài học

3.2.1. Mục đích thực nghiệm

Mục đích thực nghiệm tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân theo hướng tiếp cận

thi pháp học nhằm những mục đích sau:

- Kiểm nghiệm tính khả thi của bài học này thiết kế theo phương hướng dạy

học mới đưa ra.

- Kiểm chứng, xác nhận tính đúng đắn của giả thuyết khoa học: Nếu từ

hướng tiếp cận thi pháp học áp dụng vào việc dạy truyện ngắn Vợ nhặt của Kim

Lân trong chương trình Ngữ văn trung học phổ thông sẽ góp phần nâng cao hiệu

quả của người học.

- Tiếp thu ý kiến phản hồi từ giáo viên và học sinh trong quá trình thực

nghiệm và điều chỉnh, sửa chữa, bổ sung, hoàn thiện những đề xuất đổi mới về cách

khai thác tác phẩm, cách tổ chức dạy học cho HS.

- Đi đến những kết luận có căn cứ và kết quả nghiên cứu, là gợi ý để người

nghiên cứu có thể tiếp tục suy nghĩ về phương pháp dạy học các tác phẩm khác theo

hướng tiếp cận thi pháp học.

87

3.2.2. Đối tượng, địa bàn, thời gian thực nghiệm

Người viết lựa chọn thực nghiệm tại lớp 12N trường THPT Vũ Duy Thanh,

Yên Khánh, Ninh Bình và lớp 12A1 trường THPT Tô Hiến Thành, Đống Đa, Hà

Nội. Đây là 2 lớp có mặt bằng chung học sinh tương đương nhau về học lực.

3.2.3. Nội dung thực nghiệm

Thực nghiệm bài học Vợ nhặt của Kim Lân trên lớp theo hướng tiếp cận thi

pháp học với giáo án soạn ở trên.

3.2.4. Phương pháp tiến hành thực nghiệm

Sử dụng phương pháp so sánh và đối chứng để tiến hành thực nghiệm.

Qúa trình triển khai như sau:

- Xác định đối tượng thực nghiệm bao gồm học sinh và giáo viên (thông qua

phiếu điều tra)

- Khảo sát giáo án của GV THPT về bài giảng Vợ nhặt của Kim Lân

- Khảo sát chất lượng HS sau các giờ thực nghiệm và đối chứng

- Thu kết quả khảo sát, tiến hành thống kê, so sánh

- Rút ra đánh giá và kết quả thực nghiệm.

3.2.5. Kết quả thực nghiệm

3.2.5.1. Tiến hành khảo sát và tổng hợp kết quả đối với đối tượng khảo sát là

giáo viên

Sau khi tiến hành thực nghiệm dạy học truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân theo

hướng tiếp cận thi pháp học tại hai trường THPT, người viết đã phát phiếu khảo sát với 6

giáo viên dự giờ thực nghiệm tại trường THPT Vũ Duy Thanh và 4 giáo viên dự giờ đối

chứng tại trường THPT Tô Hiến Thành.

Kết quả tổng hợp sau khi tiến hành khảo sát giờ học thực nghiệm thu được như sau:

STT Nội dung điều tra Phân loại Kết quả thực nghiệm

Số phiếu (%)

Lớp đối Lớp thực

chứng nghiệm

THTP Vũ THPT Tô

Duy Thanh Hiến Thành

1 (17%) 2 (50%) 1 Mức độ nội dung kiến thức Tốt

88

bài dạy 2 (33%) 2 (50%) Khá

Trung bình 3 (50%) 0 (0%)

Yếu 0 (0%) 0 (0%)

2 Phương pháp và phương Tốt 0 (0%) 2 (50%)

tiện dạy học Khá 2 (33%) 2 (50%)

Trung Bình 4 (67%) 0 (0%)

Yếu 0 (0%) 0 (0%)

3 Học sinh trả lời câu hỏi Tốt 0 (0%) 0 (0%)

Khá 1 (17%) 1 (25%)

3 (75%) Trung bình 3 (50%)

Yếu 2 (33%) 0 (0%)

4 Mức độ tích cực học tập của Tốt 0 (0%) 1 (25%)

học sinh Khá 4 (67%) 3 (75%)

Trung Bình 2 (33%) 0 (0%)

Yếu 0 (0%) 0 (0%)

5 Hiệu quả của bài dạy Tốt 1 (17%) 2 (50%)

Khá 2 (33%) 2 (50%)

Trung bình 2 (33%) 0 (0%)

Yếu 1 (17%) 0 (0%)

3.2.5.2. Tiến hành khảo sát và tổng hợp kết quả đối với đối tượng khảo sát là

học sinh

Khi tiến hành đối chứng và thực nghiệm dạy học truyện ngắn Vợ nhặt của Kim

Lân theo hướng tiếp cận thi pháp học tại 2 trường: THPT Vũ Duy Thanh và THPT Tô

Hiến Thành, người viết nhận thấy có sự giống nhau trong hứng thú tiếp cận tác phẩm Vợ

nhặt nhưng lại không giống nhau về vấn đề chủ động trong quá trình tìm hiểu và chiếm

lĩnh tác tác phẩm.

Kết thúc các giờ đối chứng và thực nghiệm, người viết phát phiếu khảo sát

nhằm đánh giá hiệu quả bài học đối với 40 HS của trường THPT Vũ Duy Thanh (lớp

đối chứng) và 30 HS của trường THPT Tô Hiến Thành (lớp thực nghiệm). Kết quả

sau khi tổng hợp phiếu khảo sát như sau:

89

STT Nội dung điều tra Phân loại Kết quả trả lời

Số phiếu (%)

Lớp thực Lớp đối nghiệm chứng THPT Tô THPT Vũ Hiến Duy Thanh Thành

1 Mức độ hứng thú của HS A. Hứng thú 21 (52,5%) 19 (63%)

khi học truyện ngắn Vợ nhặt B. Bình thường 15 (37,5%) 9 (30%)

C. Chán 4 (10%) 2 (7%)

D. Rất chán 0 (0%) 0 (0%)

0 (0%) 0 (0%) 2 Giáo viên đưa ra loại câu hỏi A. Dễ trả lời

nào đối với các em? B. Bình thường 16 (40%) 14 (47%)

C. Khó trả lời 15 (37,5%) 12 (40%)

D. Rất khó 9 (22,5%) 4 (13%)

3 HS có hứng thú tìm hiểu A. Hứng thú 5 (12,5%) 5 (17%)

những tác phẩm văn học có B. Bình thường 6 (15%) 16 (53%)

định hướng của GV không? C. Chán 22 (55%) 5 (17%)

D. Rất chán 7 (17,5%) 4 (13%)

4 Cách truyền đạt của GV như A. Dễ hiểu 7 (17,5%) 7 (23%)

thế nào? B. Bình thường 18 (45%) 14 (47%)

C. Khó hiểu 10 (25%) 6 (20%)

D. Rất khó hiểu 5 (12,5%) 3 (10%)

5 Trong giờ học tìm hiểu tác A. Nhiều hơn 3 lần 0 (05%) 2 (7%)

phẩm Vợ nhặt này, em tham B. 2 hoặc 3 lần 4 (10%) 3 (10%) gia phát biểu xây dựng bài

như thế nào? C. Chỉ 1 lần 14 (35%) 10 (33%)

90

D. Không lần nào 22 (55%) 15 (50%)

Để đánh giá cụ thể hơn về hiệu quả mang lại sau giờ học thực nghiệm, người

viết tiến hành thực hiện kiểm tra trên lớp với cùng một bộ câu hỏi sử dụng cho cả

hai lớp đối chứng và thực nghiệm như sau:

* Câu hỏi kiểm tra 15 phút lớp 12:

Anh/chị hãy phân tích thi pháp thời gian, thi pháp không gian trong tác phẩm

Vợ nhặt của Kim Lân?

* Câu hỏi kiểm tra 90 phút lớp 12:

1. Anh/chị hãy phân tích nhan đề truyện ngắn Vợ nhặt và ý nghĩa nhà văn Kim Lân gửi

gắm thông qua nhan đề đó?

2. Anh/chị hãy trình bày sự thay đổi trong diễn biến tâm lý nhân vật “người vợ

nhặt” trước và sau khi theo Tràng về nhà?

3. Anh/chị hãy so sánh cách xây dựng tình huống truyện giữa truyện ngắn Vợ nhặt của

nhà văn Kim Lân và Hai Đứa Trẻ của tác giả Thạch Lam?

 Bảng thống kê kết quả kiểm tra 15 phút

Loại Giỏi Tỉ lệ Khá Tỉ lệ TB Tỉ lệ Yếu Tỉ lệ

Lớp đối chứng 4 10% 8 20% 25 62,5% 3 7,5%

THPT Vũ Duy

Thanh

Lớp thực nghiệm 5 16,7% 15 50% 7 23,3% 3 10%

THPT Tô Hiến

Thành

 Bảng thống kê kết quả kiểm tra 90 phút

Loại Giỏi Tỉ lệ Khá Tỉ lệ TB Tỉ lệ Yếu Tỉ lệ

Lớp đối chứng 3 7,5% 9 22,5% 24 60% 4 10%

THPT Vũ Duy

Thanh

Lớp thực 4 13% 15 50% 8 27% 3 10%

nghiệm

THPT Tô Hiến

91

Thành

3.2.6. Đánh giá kết quả thực nghiệm

Sau khi dạy đối chứng và thực nghiệm, kiểm tra kết quả học tập của học

sinh, thăm dò ý kiến của học sinh và giáo viên dự giờ, người viết sơ bộ có những

đánh giá sau:

- Học sinh thuộc lớp dạy theo giáo án thực nghiệm có biểu hiện chủ động

hơn trong quá trình tiếp cận bài học, có kết quả hiểu bài cao hơn so với lớp đối

chứng.

- Việc vận dụng hướng dạy học theo hướng tiếp cận thi pháp học đã đem lại

những kết quả ban đầu khả quan về một số phương diện sau:

+ Tỷ lệ học sinh nắm vững kiến thức sau giờ học đạt khá

+ Tạo được khí thế học tập sôi nổi

- Kết quả thăm dò học sinh và giáo viên dự giờ thực nghiệm cho thấy những

phản hồi rất tích cực. Đa số đều thấy cách dạy học này mới, khác hẳn với kiểu dạy

tác phẩm văn học theo kiểu khai thác phần nội dung tư tưởng trước sau đó mới đi

vào tìm hiểu một vài nét đặc sắc nghệ thuật. Kiểu dạy học mới này đi từ nghệ thuật

đến nội dung, hơn nữa nghệ thuật lại được xem xét một cách hệ thống, bám sát

những đặc trưng phong cách nghệ thuật của tác giả. Dạy học theo cách này, một tác

phẩm văn chương mới thực sự được giải mã một cách khoa học và được đặt đúng vị

trí của một tác phẩm nghệ thuật đích thực. Hơn nữa sau mỗi giờ học, ngoài việc

nắm vững kiến thức bài học, học sinh còn nắm vững được một số lý thuyết thi pháp

học, từ đó giúp hình thành năng lực cảm thụ văn học cho học sinh.

- Một số ý kiến cho rằng cách dạy học này khó tiếp nhận đối với học sinh có

năng lực yếu kém.

Với hệ thống lý thuyết lý luận và tư duy không đơn giản của thi pháp học,

nhiều học sinh tiếp thu chậm rất khó khăn trong việc theo kịp tiến độ của bài học.

Do đó, các em tỏ ra rất thụ động trong quá trình bài học diễn ra.

Người viết hi vọng với việc phát huy những thế mạnh, khắc phục dần những

nhược điểm, rút kinh nghiệm sâu sắc từ lần thực nghiệm này, những lần thực

92

nghiệm sau theo hướng tiếp cận này sẽ đạt được kết quả tốt hơn.

Tiểu kết chương 3

Qua hoạt động thiết kế giáo án thể nghiệm, tiến hành dạy học thực nghiệm

và đánh giá kết quả thực nghiệm, người viết thấy rằng hướng dạy học tác phẩm văn

chương theo hướng tiếp cận thi pháp học hoàn toàn có cơ sở khoa học và cơ sở thực

tiễn. Áp dụng hướng dạy học này trong chương trình dạy học môn Ngữ văn tại bậc

trung học phổ thông sẽ góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn Ngữ văn, hình

thành ở người học năng lực cảm thụ văn học một cách khoa học và giàu tính nghệ

thuật. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả khả quan ban đầu, hướng dạy học này vẫn

tồn tại một số hạn chế cần phải khắc phục. Người viết hi vọng trong thời gian tới,

với việc điều chỉnh và hoàn thiện đề tài, tính khả quan của luận văn sẽ được nâng

93

cao hơn nữa.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. Kết luận

Vợ nhặt của Kim Lân là một tác phẩm xuất sắc, bình dị mà đi vào lòng

người. Cùng với vẻ đẹp của tư tưởng, tác phẩm còn hấp dẫn bạn đọc bởi nghệ thuật

viết truyện tài hoa của người nghệ sĩ. Với sự kết hợp hài hòa của giá tri tư tưởng và

nghệ thuật, Vợ nhặt xứng đáng là một tác phẩm xuất sắc của nền văn học hiện đại

Việt Nam. Chính vì thế suốt hơn nửa thế kỉ qua Vợ nhặt không chỉ là đối tượng

nghiên cứu của giới văn học nghệ thuật mà còn là đối tượng để giảng dạy trong nhà

trường THPT. Tác phẩm được đưa vào chương trình Ngữ văn lớp 12, tập 2 với

nhiều bình diện khai thác phong phú và thú vị như: giá trị hiện thực, giá trị nhân

đạo, tình huống truyện độc đáo,… Trong khi đó, trình độ nhận thức của học sinh

còn hạn chế, vốn ngôn ngữ ít ỏi, kiến thức văn hóa xã hội hạn hẹp… khiến cho việc

tiếp thu văn bản còn gặp muôn vàn khó khăn.

Xuất phát từ yêu cầu hiện đại hóa các môn học trong nhà trường phổ thông,

yêu cầu khắc phục thực trạng dạy học kém hiệu quả đối với môn Ngữ văn nói chung

cũng như dạy học truyện ngắn hiện thực 45 – 54 nói riêng, việc đổi mới phương

pháp dạy học là một nhu cầu cấp thiết, mang tính đột phá nhằm đưa môn Ngữ văn

đến đúng với vai trò và vị trí trong hệ thống giáo dục quốc dân.

Dựa trên lý thuyết tiếp cận tác phẩm văn chương của các xu hướng dạy hiệ

đại, với đề tài Dạy học truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân (Ngữ Văn 12, tập 2) theo

hướng tiếp cận thi pháp học, luận văn đi sâu vào hướng dạy học tác phẩm văn

chương bám sát theo tiếp cận thi pháp truyện ngắn. Đây là hướng dạy học đi sâu

vào văn bản để tìm những nét đặc sắc nghệ thuật, từ đó suy ra nội dung, tư tưởng

tác phẩm. Cách dạy này góp phần làm thay đổi lối mòn trong cách dạy học văn

truyền thống, hướng tới nâng cao kiến thức lý thuyết nhằm hình thành năng lực cảm

thụ văn chương cho học sinh.

2. Khuyến nghị

2.1. Đối với Sở giáo dục và đào tạo

- Tập huấn cho GV về đổi mới phương pháp dạy học truyện ngắn theo hướng

tiếp cận thi pháp học

- Xây dựng tiêu chí rõ ràng cho một giờ dạy văn bản nghệ thuật hiệu quả.

94

2.2. Đối với nhà trường

- Tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên nghiên cứu, áp dụng các phương pháp

mới trong dạy học môn Ngữ văn.

- Thường xuyên tổ chức các cuộc họp, hội thảo trao đổi chuyên môn về đổi

mới phương pháp dạy học cho giáo viên.

2.3. Đối với giáo viên

- Tích cực tìm hiểu, nghiên cứu các phương pháp dạy tác phẩm văn học theo

hướng đổi mới, nâng cao năng lực người học.

- Thường xuyên dự giờ và trao đổi chuyên môn để rút kinh nghiệm bản thân.

- Quan tâm tới mong muốn của người học nhằm đạt hiệu quả cao trong giờ

dạy học.

Để nâng cao chất lượng dạy và học truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân cho

học sinh lớp 12 chắc chắn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục và nghiên cứu, song việc

dạy học tác phẩm này theo hướng thi pháp học vẫn là một hướng đi đúng đắn, phù

hợp với xu thế dạy học hiện nay. Tuy vậy, do khả năng còn hạn chế nên những đề

xuất trong luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót. Người viết rất mong

nhận được sự quan tâm, trao đổi và đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các bạn

95

đồng nghiệp để những vấn đề trong luận văn ngày càng hoàn thiện hơn nữa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyên An (2000), Nhà văn của làng quê nước Việt, Tạp chí Nhà văn (số

5).

2. Lại Nguyên Ân (1999); 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà

Nội.

3. Lê Huy Bắc (1998), Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại, Tạp chí

văn học (số 9).

4. Lê Tư Chỉ (1996), Để phân tích một tác phẩm truyện ngắn, Nxb Trẻ, TP.

Hồ Chí Minh.

5. Trần Ngọc Dung (1992), Ba phong cách truyện ngắn trong văn học Việt

Nam thời kỳ đầu những năm 1930 – 1945; Nguyễn Công Hoan, Thạch

Lam, Nam Cao – Luận án phó tiến sĩ, ĐHSPHN.

6. Trần Thị Khánh Dư (1995), Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi

pháp, Nxb Giáo dục.

7. Hà Minh Đức (chủ biên) (2001), Lý luận văn học, Nxb Giáo Dục.

8. Hương Giang (1993), Nhà văn Kim Lân nói về chuyện Vợ nhặt”, Báo Văn

Nghệ.

9. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ

văn học, Nxb Giáo dục.

10. Phùng Minh Hiến (2002), Tác phẩm văn chương một sinh thể nghệ

thuật, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

11. Đỗ Đức Hiểu (1995), Thi pháp học hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

12. Kim Hoa (1994), Ngòi bút Kim Lân và sự cày xới trên cánh đồng quê,

Báo nhân dân chủ nhật (số 34).

13. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

14. Nguyễn Công Hoan, Nghệ thuật viết truyện ngắn, Báo Văn nghệ (số 23-

24).

15. Đỗ Kim Hồi (2000), Giảng văn văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục.

96

16. Phạm Văn Đồng (1973), Dạy văn là một quá trình toàn diện, Tạp chí

nghiên cứu giáo dục.

17. Nguyễn Thanh Hùng (1996), Văn học tầm nhìn biến đổi, Nxb Văn học.

18. Nguyễn Thanh Hùng (2001), Hiểu văn dạy văn, Nxb Văn học.

19. Nguyễn Như Ý (1997), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb

giáo dục, Hà Nội.

20. Khrapchenkô.M.B (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển

văn học, Lê Sơn dịch, Nxb Tác Phẩm Mới, Hà Nội.

21. Khrapchenkô.M.B (2002), Những vấn đề lí luận và phương pháp luận

nghiên cứu văn học, (nhiều người dịch, Trần Đình Sử tuyển chọn và giới

thiệu), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

22. Nguyễn Đức Khuông (2008), Đối thoại với các nhà văn có tác phẩm dạy

học trong nhà trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

23. Đào Khương (1987), Gặp gỡ 27 nhà văn có tác phẩm được chọn giảng

trong nhà trường, Sở giáo dục Hà Sơn Bình.

24. Đặng Thị Huy Lam, Đặc điểm truyện ngắn Kim Lân, Luận văn thạc sĩ,

Đại học sư phạm. TP. Hồ Chí Minh.

25. Đinh Trọng Lạc, Phong cách học văn bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

26. Kim Lân (2004), Tác phẩm chọn lọc, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

27. Kim Lân (2012), Kim Lân tuyển tập, Nxb Văn học, Hà Nội.

28. Phan Trọng Luận (2002), Thiết kế bài học tích tác phẩm văn học ở nhà

trường phổ thông tập 1, 2, 3, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

29. Phan Trọng Luận tổng chủ biên (2007), Sách giáo viên Ngữ văn 11, tập

1, Nxb Giáo dục.

30. Phan Trọng Luận (2008), Tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương, trong

cuốn “Hướng dẫn thực hiện chương trình sách giáo khoa lớp 12”, Nxb

Giáo dục.

31. Phương Lựu (Chủ biên) (1997), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

32. Phương Lựu (chủ biên) (2004), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.

33. Phương Lựu (chủ biên) (2006), Lý luận văn học; Nxb Giáo dục, Hà Nội.

97

34. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của

nhà văn, Nxb giáo dục, Hà Nội. M

35. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Từ điển tác gia – tác phẩm văn học Việt

Nam dùng trong nhà trường, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội.

36. Bùi Thị Mùi (2010), Giáo trình lí luận dạy học, Trường Đại học Cần

Thơ.

37. Hồ Qúy Nghĩa (2004), Sức sống trong truyện ngắn Vợ nhặt, Báo giáo

dục và thời đại, (số 49). NG

38. Nguyên Ngọc, Đôi nét về tư duy văn học mới đang hình thành, Tạp chí

văn học số 4/1990.

39. Bảo Nguyên (1997), Sử dụng ngôn ngữ - nghệ thuật đặc sắc của truyện

ngắn Kim Lân, TC Ngữ học trẻ, Nxb Hội ngôn ngữ học Việt Nam.

40. Lữ Huy Nguyên (1996), Tuyển tập Kim Lân, Nxb Văn học, Hà Nội.

41. G.N.Pôxpêlôp (1988), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb giáo dục, Hà Nội.

42. Nguyễn Ngọc Quyên (2010), Kim Lân – người giữ gìn những giá trị văn

hóa của dân tộc, Diễn đàn văn nghệ Việt Nam (số 185).

43. Nguyễn Thị Ngọc Quyên (2010), Phong cách nghệ thuật truyện ngắn

Kim Lân, Đại học sư phạm Hà Nội 2.

44. Chu Văn Sơn (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb giáo dục, Hà Nội.

45. Từ Sơn (1990), Đổi mới xã hội, đổi mới văn học, Báo văn nghệ (số 13).

46. Trần Đình Sử (2007), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Trung tâm giáo

dục từ xa, Đại học Huế.

47. Trần Đình Sử (2008), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

48. Nguyễn Quốc Thanh (2006), Cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật trần thuật

trong truyện ngắn Kim Lân, Luận văn thạc sĩ. ĐHSP.TP Hồ Chí Minh.

49. Trần Khánh Thành (2010), Tập bài giảng về thi pháp học cho học viên

cao học, Đại học quốc gia Hà Nội.

50. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn, những vấn đề lý thuyết và thực tiễn

98

thể loại, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

51. Nguyễn Quang Thiều, Phỏng vấn Kim Lân về tác phẩm Vợ nhặt,

http://phanthanhvan.vnwebblogs.com, 23.04.

52. Hoàng Trinh (1997), Từ kí hiệu học đến thi pháp học, Nxb Đà Nẵng.

53. Hoài Việt (1999), Nhà văn trong nhà trường Kim Lân, Nbx giáo dục, Hà

Nội.

54. Nhiều tác giả (1998); Giảng văn văn học Việt Nam 1945 – 1975; Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

55. Nhiều tác giả, (2000). Nghệ thuật viết truyện và ký. Nxb Thanh niên.

99

PHỤ LỤC

Bảng thống kê lai lịch, ngoại hình, tính cách nhân vật Tràng, người vợ nhặt,

bà cụ Tứ:

Nhân vật Lai lịch Ngoại hình Tính cách

Tràng Một gã trai nghèo - Xấu xí và thô - Tràng là người vô

khổ, dân cư ngụ, kệch: tư, nông cạn:

làm nghề đẩy xe bò Hắn vừa đi vừa tủm tỉm + Thích chơi với trẻ con

thuê, nuôi mẹ già. cười và chẳng khác chúng là

Hai con mắt nhỏ tí, gà mấy

gà + Ngay cả chuyện quan

Hai bên quai hàm bạnh trong như lấy vợ, Tràng

ra, rung rung làm cho cái cũng chỉ quyết định

bộ mặt thô kệch của hắn trong chốc lát.

lúc nào cũng nhấp nhỉnh - Tràng là người

những ý nghĩ vừa lý thú đàn ông nhân hậu phóng

vừa dữ tợn... Còn đầu khoáng.

của Tràng thì cạo trọc + Thấy người đàn bà

nhẵn, cái lưng to rộng đói, anh cho ăn. Khi

như lưng gấu, ngay cả thấy thị quyết theo mình

cái cuời cũng lạ, cứ phải thì Tràng vui vẻ chấp

ngửa mặt lên cười hềnh nhận.

hệnh. + Tràng sẵn sang đưa

thị vào chợ tỉnh bỏ tiền

ra mua cho thị cái thúng

con đựng vài thứ lặt vặt

và ra hàng cơm đánh

một bữa no nê… Anh

còn mua 2 hào dầu thắp

để vợ mới vợ miếc cũng

phải cho nó sáng sủa

100

một tí.

- Tràng là một

người sống có trách

nhiệm.

+ Tràng dắt thị về ra mắt

mẹ, bảo thị chào mẹ.

+ Từ một anh phu xe cục

mịch, chỉ biết việc trước

mắt, sống vô tư, Tràng

đã là người quan tâm

đến những chuyện ngoài

xã hội và khao khát sự

đổi đời.

Người vợ Chẳng ai biết gốc Áo quần tả tơi như tổ - Khi mới gặp Tràng:

nhặt tích của chị ta ở đỉa… người gầy vêu Thị là người đanh đá, táo

đâu? Cha mẹ là ai? vao, trên cái khuôn mặt bạo tới mức trở nên trơ

Anh em thế nào? lưỡi cày xám xịt chỉ còn trẽn. Thị làm tất cả chỉ

Chẳng ai biết gốc thấy hai con mắt… Thị để được… ăn!

tích của chị ta ở là hiện thân của hàng - Khi đã chấp nhận làm

đâu? Cha mẹ là ai? triệu con người bần vợ Tràng:

Anh em thế nào? cùng, đói rách, tha Trên con đuờng trở về

Thậm chí nhân vật phương cầu thực và rồi nhà của Tràng, thị thay

này không có tên sẽ chết gục nơi đầu đổi hẳn. Thị có vẻ rón

và khi xuất hiện lúc đường xó chợ. rén, e thẹn.

được gọi là thị, là Thị mong sớm đến nhà

cô ả, lúc là người “chồng” để tránh sự dòm

đàn bà. ngó, dị nghị của mọi

người.

Về nhà của Tràng, thị

càng khác hơn. Người

đàn bà ấy có cái tò mò

101

của nàng dâu mới. Trước

mặt người mẹ chồng, thị

càng rụt rè, vẫn đứng

nguyên chỗ cũ, khẽ nhúc

nhích.

- Buổi sang sau

đêm tân hôn:

Thị đã trở thành người

vợ đảm đang. Cùng với

bà cụ Tứ, thị thức dậy

sớm, lo dọn dẹp nhà cửa,

quét tước sân vườn sạch

sẽ. Không những thế, thị

còn tỏ ra là người biết tu

chí làm ăn, biết tính toán

cho tương lai.

- Bà cụ Tứ Người mẹ già xuất Bà cụ Tứ là người mẹ Là một người

- thân từ xóm ngụ cư nghèo khổ đã già yếu phụ nữ bao dung,

nghèo khổ với cái lưng “long nhân hậu.

khòng”, khẽ mắt “lèm Trong hoàn cảnh khốn

nhèm “,”khuôn mặt khó, thấy con trai dắt về

bủng beo, u ám “. một người đàn bà xa lạ

Những hành động cử chỉ nhưng bà không hề phản

của cụ “nhấp nháy hai đối.

con mắt”,”chậm chạp - Là một người mẹ

hỏi”, “lập cập bước đi”, thương con.

“lật đật:, “lễ mễ” cũng - Là một bà lão có

thể hiện cụ là một người tính cách vui vẻ dễ gần

đã già, không còn khỏe và lạc quan.

102

mạnh.

PHIẾU ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN VỢ NHẶT

CỦA KIM LÂN (SGK NGỮ VĂN 12, TẬP 2) THEO HƯỚNG TIẾP CẬN

THI PHÁP HỌC

( ành cho giáo viên môn Ngữ Văn)

Thầy (cô) tên là:……….………………............ Nam: □ Nữ: □

Tuổi nghề:…………… Công tác tại trường:…………………………….

Xin thầy cô cho biết ý kiến của mình về những vấn đề sau:

Câu 1: Thầy cô đã từng dạy tác phẩm Vợ nhặt trong chương trình Ngữ văn 12 tập 2

chưa?

Đã từng □ Chưa từng □

Câu 2: Thầy (cô) có dạy học truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân theo hướng tiếp cận

thi pháp học không?

Thường xuyên □ Thỉnh thoảng □ Chưa bao giờ □

Câu 3: Thầy (cô) đã từng biết đến phương pháp này chưa?

Đã từng biết □ Chưa từng biết □

Nếu thầy (cô) biết xin trả lời tiếp:

Câu 4: Nhận xét của thầy (cô) khi sử dụng phương pháp này?

Hiệu quả cao □ Bình thường □ Không hiệu quả □

Câu 5: Thời gian thầy (cô) dạy theo phương pháp này?

Thường xuyên □ Thỉnh thoảng □ Chưa bao giờ □

Câu 6: Thầy (cô) có thích dạy bằng phương pháp trên?

Thích dạy □ Không thích □ Bình thường □

Câu 7: Nếu thầy (cô) chưa biết về phương pháp này, thầy (cô) có nguyện vọng

muốn biết sâu sắc về phương pháp này không?

Muốn biết □ Không muốn biết □

Câu 8: Thầy cô có thường kết hợp các phương pháp dạy học gợi mở, nêu vấn đề để

phát huy vai trò bạn đọc HS?

Thường xuyên □ Thỉnh thoảng □ Chưa bao giờ □

103

Xin chân thành cảm ơn thầy (cô)!

PHIẾU ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN VỢ NHẶT

CỦA KIM LÂN (SGK NGỮ VĂN 12, TẬP 2) THEO HƯỚNG TIẾP CẬN

THI PHÁP HỌC

( ành cho học sinh)

Họ và tên học sinh:……………………………………….. Nam Nữ

Trường:………………………………………………Lớp:…………………

Xin em cho biết ý kiến của mình về các vấn đề sau:

Câu 1: Em đã được học, biết về nhà văn Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt của ông

chưa?

Đã được học Chưa được học □

Câu 2: Cảm nhận của em khi được học truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân như thế

nào?

Thích □ Không thích □ Bình thường □

Câu 3: Trong các nhân vật sau đây, em yêu thích nhân vật nào nhất?

Người vợ nhặt □ Tràng □ Bà cụ Tứ □

Câu 4: Em hiểu thế nào là tình huống truyện? Hãy trình bày ngắn gọn về tình huống

truyện mà em cho là đặc sắc nhất trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân?

………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………

Câu 5: Em hiểu thế nào là nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn? Hãy

phân tích ngắn gọn về nhân vật em yêu thích nhất trong truyện ngắn Vợ nhặt?

…………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………

104

Xin chân thành cảm ơn em!

PHIẾU HỎI Ý KIẾN GIÁO VIÊN SAU GIỜ DẠY THỰC NGHIỆM

TRUYỆN NGẮN VỢ NHẶT CỦA KIM LÂN THEO HƯỚNG TIẾP CẬN

THI PHÁP HỌC

Họ và tên giáo viên……………………… Môn:……………………….

Trường:…………….…………………………………………………

Lớp dạy thực nghiệm:……………… Bài dạy:…………………………

Họ và tên người dự giờ:………………… Trường:…………….……

Thời gian tiến hành thực nghiệm:………………………………………

Tích X vào các ô tương ứng trong Bảng hỏi dưới đây theo suy nghĩ của thầy

(cô) về từng vấn đề trong quá trình dự giờ thực nghiệm bài Vợ nhặt của Kim

Lân, theo thang đánh giá sau:

1 = Tốt 3 = Trung bình

2 = Khá 4 = Yếu

(Ghi chú: 1 là mức đánh giá cao nhất; 4 là mức đánh giá thấp nhất)

TT Tích X vào ô phù hợp nhất Các nội dung cần trả lời

Nội dung điều tra 1 2 3 4

1 Mức độ nội dung kiến thức bài dạy

2 Phương pháp và phương tiện dạy học

3 Khả năng của học sinh trong trả lời câu hỏi

4 Mức độ tích cực học tập của học sinh

5 Hiệu quả của bài dạy

Thầy (cô) có nhận xét hay kiến nghị gì trong việc dạy học truyện ngắn Vợ nhặt của

nhà văn Kim Lân sau khi tham dự giờ dạy thực nghiệm trên?

………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

105

Cảm ơn thầy (cô) đã tham gia trả lời!

PHIẾU HỎI Ý KIẾN HỌC SINH SAU GIỜ DẠY THỰC NGHIỆM

TRUYỆN NGẮN VỢ NHẶT CỦA KIM LÂN THEO HƯỚNG TIẾP CẬN

THI PHÁP HỌC

Họ và tên giáo viên……………………… Môn:…………………….

Lớp dạy thực nghiệm:……………… Trường:…………….…………

Bài dạy:………………………… ……………………………………

Họ và tên học sinh:……………………………….……

Thời gian tiến hành thực nghiệm:……………

Hãy khoanh tròn vào các chữ cái đầu ở ô phù hợp nhất trong bảng hỏi dưới

đây theo suy nghĩ của anh/chị về từng vấn đề trong quá trình dự giờ thực

nghiệm bài Vợ nhặt của Kim Lân, theo thang đánh giá sau:

Khoanh tròn vào chữ cái đầu ở ô phù STT Các nội dung cần trả lời

hợp nhất

A. Hứng B. Bình C. D. 1

thú thường Chán Rất chán Anh/chị có hứng thú khi học

truyện ngắn Vợ nhặt không?

Giáo viên đưa ra loại câu hỏi nào A. B. D. Rất C. 2

Khó trả Dễ trả Bình khó đối với anh/chị?

lời lời thường

Anh/chị có hứng thú tìm truyện A. Hứng B. Bình C. D. Rất 3

ngắn Vợ nhặt thông qua sự định thú thường Chán chán

hướng của GV trong giờ thực

nghiệm này không?

Cách truyền đạt của giáo viên A. B. Bình C. D. 4

Dễ hiểu thường Khó Rất khó trong giờ giảng như thế nào?

hiểu hiểu

Trong giờ học tìm hiểu tác phẩm A. Nhiều B. C. D. 5

Vợ nhặt này, anh/chị tham gia hơn 3 2 hoặc 3 Chỉ 1 Không

106

phát biểu xây dựng bài như thế lần lần lần lần nào

nào?

Anh/chị có nhận xét hay kiến nghị gì đối với việc dạy học truyện ngắn Vợ nhặt của

nhà văn Kim Lân sau khi tham dự giờ dạy thực nghiệm trên?

………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………

107

Cảm ơn anh/chị đã tham gia trả lời!