VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN KIÊN TRUNG
XỬ LÝ NỢ XẤU THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TIÊN PHONG (TPBANK)
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS.PHẠM THỊ GIANG THU
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân tôi, chưa được công bố trong bất kỳ chương trình nghiên cứu nào trước
đây. Các số liệu, nội dung được trình bày trong luận văn hoàn toàn hợp lệ và
đảm bảo tuân thủ các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ theo quy định.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.
Tác giả
NGUYỄN KIÊN TRUNG
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
AMC : Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản
BTC : Bộ tài chính
BTNMT : Bộ Tài nguyên môi trường
BLDS : Bộ luật dân sự
BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự
DATC : Công ty TNHH Mua bán nợ Việt Nam
KHXH : Khoa học xã hội
HĐQT : Hội đồng quản trị
HĐTD : Hợp đồng tín dụng
HĐBĐ : Hợp đồng bảo đảm
NHNN : Ngân hàng nhà nước
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHCP : Ngân hàng cổ phần
TCTD : Tổ chức tín dụng
TPBank : Ngân hàng thương mại cổ phần Tiên Phong
TSBĐ : Tài sản bảo đảm
THADS : Thi hành án dân sự
TMCP : Thương mại cổ phần
VAMC : Công ty Quản lý tài sản của các Tổ chức tín dụng Việt Nam
MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU VÀ PHÁP
LUẬT XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ................. 5
1.1. Những vấn đề chung về xử lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại ............ 5
1.2. Những vấn đề chung về pháp luật xử lý nợ xấu của Ngân hàng thương
mại ................................................................................................................... 23
Tiểu kết Chương 1 ........................................................................................... 27
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN TẠI TPBANK ........... 29
2.1. Thực trạng pháp luật về xử lý nợ xấu của NHTM ................................... 29
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý nợ xấu tại TPBank ....................... 43
Tiểu kết Chương 2 ........................................................................................... 60
Chương 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LÝ
VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT
NAM ............................................................................................................... 62
3.1. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ xấu tại các Ngân hàng
thương mại Việt Nam ...................................................................................... 62
3.2. Một số kiến nghị nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về xử lý nợ xấu
tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam ........................................................ 70
Tiểu kết Chương 3 ........................................................................................... 79
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Là một lĩnh vực quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, ngành ngân
hàng đã và đang phải đối mặt với nhiều thách thức cũng như chịu nhiều ảnh
hưởng nhất trong giai đoạn hiện nay.
Trong toàn bộ hệ thống các hoạt động của ngân hàng, hoạt động xử lý
nợ xấu là một trong những hoạt động cơ bản, bên cạnh những hoạt động
truyền thống như hoạt động tín dụng,…Có thể nói trong những năm qua, pháp
luật về ngân hàng nói chung và pháp luật về hoạt động xử lý nợ xấu nói riêng
đã và đang được cải thiện. Các văn bản pháp lý được xây dựng và ban hành
tạo một khung pháp lý quan trọng, để từ đó góp phần tạo đà phát triển cho
hoạt động của các NHTM, cũng như thúc đẩy tăng trường kinh tế. Tuy nhiên,
vẫn còn tồn tại không ít những bất cập trong quá trình áp dụng quy định của
pháp luật vào thực tiễn xử lý nợ xấu tại các NHTM. Vì những lý do trên, tác
giả lựa chọn đề tài “Xử lý nợ xấu theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực
tiễn Ngân hàng TMCP Tiên Phong” để thông qua thực tiễn tại Ngân hàng
này đưa ra được những giải pháp nhằm cải thiện và khắc phục những hạn chế
hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại là vấn đề được
nhiều tác giả nghiên cứu, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi pháp luật về
ngân hàng nói chung và pháp luật về hoạt động xử lý nợ xấu nói riêng đã và
đang được cải thiện. Có thể kể đến một số luận văn, báo cáo nghiên cứu sau:
- Luận văn “Thực trạng và giải pháp xử lý nợ xấu trong hoạt động tín
dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam” của tác
giả Lê Thị Duyên, năm 2013. Luận văn đã đánh giá thực tiễn hoạt động xử lý
nợ xấu tại Hệ thống ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Thương
1
mại cổ phần Ngoại thương nói riêng.
- Luận văn “Giải pháp xử lý và ngăn ngừa nợ quá hạn của các ngân
hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Trà Vinh” của tác giả Trần Thị Thắm, năm
2013. Luận văn đã đánh giá thực tiễn nợ xấu của Ngân hàng thương mại trên
địa bàn tỉnh Trà Vinh, đồng thời đưa ra các giải pháp để ngăn ngừa nợ quá hạn.
- Luận văn “Pháp luật về xử lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại từ
thực tiễn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam” của tác
giả Cao Thị Thúy, năm 2015. Luận văn đã đánh giá thực tiễn hoạt động xử lý
nợ xấu của Ngân hàng thương mại từ thực tiến tại Ngân hàng thương mại cổ
phần Ngoại Thương Việt Nam.
- Luận văn “Pháp luật về xử lý nợ quá hạn trong hoạt động cho vay
của ngân hàng thương mại ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hương,
năm 2011. Luận văn đã đánh giá thực tiễn hoạt động cho vay của hệ thống
ngân hàng thương mại tại Việt Nam và các giải pháp để nâng cao chất lượng
của quá trình giải quyết nợ xấu.
- Báo cáo nghiên cứu “Những bài học về xử lý nợ xấu mà Việt Nam có
thể áp dụng từ kinh nghiệm quốc tế” của Vụ Pháp chế Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, năm 2017. Báo cáo nghiên cứu về thực tiễn của quá trình giải
quyết nợ xấu tại một số quốc gia và đưa ra những bài học mà Việt Nam có thể
áp dụng.
Như vậy, có thể thấy vấn đề về xử lý nợ xấu đã được nghiên cứu khá
nhiều trong thời gian qua. Tuy nhiên, các nghiên cứu điển hình nêu trên mới
chỉ tiếp cận dưới góc độ thực tiễn, cũng như kinh nghiệm giải quyết và đưa ra
các giải pháp, nhưng chưa tập trung nghiên cứu sâu đối với pháp luật về xử lý
nợ xấu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật Việt
Nam về xử lý nợ xấu của NHTM. Trên cơ sở phân tích thực trạng áp dụng các
2
quy định đó tại TPBank, chỉ ra những bất cập còn tồn tại trong quá trình áp
dụng pháp luật liên quan, qua đó đưa ra được các kiến nghị nhằm hoàn thiện
hơn nữa quy định của pháp luật Việt Nam về xử lý nợ xấu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong nội dung nghiên cứu của luận văn, tác giả chỉ tập trung nghiên
cứu các vấn đề lý luận về xử lý nợ xấu của NHTM, và cụ thể thực tiễn áp
dụng quy định của pháp luật tại TPBank, phân tích và đưa ra những nội dung
bất cập trong quá trình thực hiện pháp luật. Trên cơ sở đó đưa ra những đề
xuất về giải pháp khắc phục các bất cập đó và hoàn thiện pháp luật về cho vay
của NHTM.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về Nhà nước và Pháp luật.
Bên cạnh đó, luận văn đã sử dụng những phương pháp nêu trên đồng
thời kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu chung của KHXH và các
phương pháp đặc thù của luật học để nghiên cứu đề tài, gồm:
- Phương pháp phân tích: được sử dụng chủ yếu để làm sáng tỏ những
quy định của pháp luật liên quan đến các vấn đề lý luận về xử lý nợ xấu của
NHTM.
- Phương pháp tổng hợp: được sử dụng để khái quát hóa nội dung
nghiên cứu một cách hệ thống, làm cho vấn đề nghiên cứu trở nên hợp lý, dễ
hiểu.
Ngoài ra, luận văn có kế thừa và sử dụng các kết quả nghiên cứu khoa
học của các tác giả khác làm cơ sở cho kết luận khoa học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Kết quả luận văn thể hiện qua một số điểm mới sau đây:
Thứ nhất, luận văn đã làm rõ một số vấn đề về xử lý nợ xấu của ngân
3
hàng thương mại.
Thứ hai, luận văn đánh giá thực trạng về pháp luật xử lý nợ xấu hiện
nay; nêu rõ những hạn chế, bất cập về xử lý nợ xấu của NHTM và nguyên
nhân.
Thứ ba, luận văn đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện khung pháp lý về
xử lý nợ xấu tại các NHTM.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần phụ lục, tài liệu tham khảo, đề tài gồm nội dung chính như
sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về xử lý nợ xấu và pháp luật xử lý nợ
xấu của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương
mại từ thực tiễn TPBank
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện khung pháp lý về xử lý nợ xấu
4
tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU VÀ PHÁP LUẬT XỬ
LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Những vấn đề chung về xử lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại
1.1.1. Ngân hàng thương mại – Chủ thể nắm giữ và có nhu cầu xử lý
nợ xấu
1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Hiện nay, hệ thống ngân hàng có nhiều khái niệm về NHTM như sau:
“Tại Hoa kỳ: NHTM là một tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ,
chuyên cung cấp các dịch vụ về tài chính như nhận tiền gửi, chuyển tiền,
thanh toán, cho vay, đầu tư, đổi tiền, mua bán ngoại hối và các dịch vụ khác
liên quan đến tiền như bảo quản, ủy thác, làm đại lý trong nước và quốc tế.
Tại Pháp: Theo đạo luật ngân hàng Pháp năm 1941, NHTM là những
xí nghiệp hay là những cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc
của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử
dụng số tiền đó cho chính họ trong các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng và cung
cấp dịch vụ tài chính” [29, tr.3-4]
Tại Việt Nam, có một số khái niệm về NHTM như sau:
“NHTM là tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật, kinh
doanh trong lĩnh vực tiền tệ, với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi dưới
nhiều hình thức khác nhau và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch
vụ thanh toán cho các chủ thể trong nền kinh tế, nhằm mục tiêu lợi nhuận.
NHTM là loại ngân hàng trực tiếp giao dịch với các tổ chức kinh tế, cơ
quan đoàn thể và các cá nhân bằng việc nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm...cho vay
và cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng nói trên” [8, tr.4-5]
Mặc dù có nhiều khái niệm về NHTM, nhưng có thể thấy hoạt động kinh
doanh của NHTM là hoạt động kinh doanh tiền tệ và các hoạt động khác, gồm:
5
- Huy động vốn là hoạt động nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân dưới
hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát
hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu,...
- Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một
khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một tài sản theo nguyên tắc có
hoàn trả và lãi bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao
thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
- Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản là việc cung ứng phương
tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ
thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác
cho khách hàng thông qua tài khoản tiền gửi của khách hàng.
- Các hoạt động kinh doanh khác của NHTM: dịch vụ ngân quỹ, dịch
vụ ủy thác, dịch vụ môi giới tiền tệ, dịch vụ kinh doanh ngoại hối, quản lý tài
sản, tư vấn tài chính,... [8, tr.4-5]
1.1.1.2. Phân loại ngân hàng thương mại [28, tr.18-21]
a. Các loại hình NHTM chia theo hình thức sở hữu:
(i). Ngân hàng sở hữu cá nhân:
Là ngân hàng do cá nhân thành lập bằng vốn cá nhân hoặc gia đình.
Loại ngân hàng thường nhỏ, phạm vi hoạt động trong từng địa phương, gắn
liền với doanh nghiệp và cá nhân ở địa phương. Tuy nhiên, do kém đa đạng,
nên khi địa phương đó gặp rủi ro (mất mùa,...) ngân hàng thường không tránh
được tổn thất lớn.
(ii) Ngân hàng sở hữu của các cổ đông (ngân hàng cổ phần)
Ngân hàng được thành lập thông qua phát hành các cổ phiếu. Việc
nắm giữ cổ phiếu cho phép người sở hữu có quyền tham gia quyết định các
hoạt động của ngân hàng, hưởng cổ tức từ thu nhập của ngân hàng. NHCP có
khả năng tăng vốn nhanh chóng, vì vậy thường là các ngân hàng lớn. NHCP
6
thường có phạm vi hoạt động rộng, hoạt động đa năng, có nhiều chi nhánh
hoặc công ty con. Khả năng đa dạng hóa cao nên NHCP có thể giảm rủi ro
song thường phải gánh chịu các rủi ro từ cơ chế quản lý phân quyền.
(iii) Ngân hàng sở hữu Nhà nước:
Đây là loại hình ngân hàng mà vốn sở hữu do Nhà nước cấp, có thể là
nhà nước trung ương hoặc tỉnh, thành phố. Ngân hàng này được thành lập
nhằm thực hiện một số mục tiêu nhất định thường là do chính sách của chính
quyền trung ương hoặc địa phương quy định. Những ngân hàng sở hữu Nhà
nước thường được Nhà nước hỗ trợ về tài chính và bảo lãnh phát hành giấy
nợ, do vậy rất ít khi bị phá sản.
(iv) Ngân hàng liên doanh
Ngân hàng liên doanh được hình thành dựa trên góp vốn của hai hoặc
nhiều bên, thường là giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài,
hoặc ngân hàng với công ty tài chính để tận dụng ưu thế của nhau.
Như vậy, mục đích khi chia NHTM theo hình thức sở hữu là để phân
biệt được bản chất nắm giữ ngân hàng, từ đó có chính sách áp dụng riêng cho
từng loại ngân hàng, tránh sở hữu chồng chéo lần nhau, dẫn đến tình trạng
việc sử dụng vốn không minh bạch, trên thực tế đã có rất nhiều trường hợp
các ngân hàng sở hữu vốn chồng chéo lẫn nhau nên nhiều sự việc bất cập đã
xảy ra. Hệ thống ngân hàng có tính phụ thuộc lẫn nhau rất lớn, rủi ro trong
hoạt động ngân hàng có tính lan tỏa rất nhanh. Hoạt động như một hệ thống
các mắt xích liên kết chặt chẽ, chỉ cần một NHTM gặp khó khăn trong hoạt
động, đặc biệt là khó khăn về thanh khoản, là có thể dẫn đến nguy cơ phá sập
hệ thống. Đối với công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế, việc nắm bắt được cơ
chế hoạt động, ảnh hưởng lẫn nhau của các thành phần trong hệ thống tài
chính là một trong những vấn đề cốt yếu, quyết định thành bại.
b. Các loại hình NHTM theo tính chất hoạt động:
7
(i) Tính chất đơn năng/chuyên doanh
Ngân hàng hoạt động theo hướng đơn năng: chỉ tập trung cung cấp một
số dịch vụ ngân hàng ví dụ như chỉ cho vay đối với xây dựng cơ bản, hoặc đối
với nông nghiệp; hoặc chỉ cho vay (không bảo lãnh hoặc cho thuê)...Tính chuyên
môn hóa cao cho phép ngân hàng có được đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, tinh
thông nghiệp vụ. Ngân hàng đơn năng có thể là ngân hàng nhỏ, phạm vi hoạt
động hẹp, hoặc là những ngân hàng sở hữu của công ty.
(ii) Tính chất đa năng
Là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng cho mọi đối tượng. Đây
là xu hướng chủ yếu hiện nay của các NHTM. Ngân hàng đa năng thường là
ngân hàng lớn (hoặc sở hữu công ty). Tính đa dạng sẽ giúp ngân hàng và hạn
chế rủi ro.
(iii) Tính chất dịch vụ bán buôn
Dịch vụ ngân hàng cung cấp cho Chính phủ, các định chế tài chính và
các doanh nghiệp lớn với giá trị dịch vụ lớn.
(iv) Tính chất dịch vụ bán lẻ
Dịch vụ ngân hàng cung cấp cho hàng triệu khách hàng cá nhân, doanh
nghiệp vừa và nhỏ dựa trên việc sử dụng e-banking...
Như vậy, việc chia NHTM theo tính chất hoạt động, cho phép ngân
hàng có định hướng phát triển phù hợp với chính sách, quy mô của mình trên
thị trường, từ đó ngân hàng có thể tập trung khai thác nhóm đối tượng phù
hợp, đối với cơ quan quản lý vĩ mô việc phân tách nêu trên giúp cho việc áp
dụng chính sách đối với từng loại ngân hàng được linh hoạt hơn.
c. Các loại hình NHTM chia theo cơ cấu tổ chức:
(i) Ngân hàng sở hữu công ty
Ngân hàng thường sở hữu các công ty như chứng khoán, mua bán nợ,
bảo hiểm,...Do luật nhiều nước cấm hoặc hạn chế ngân hàng tham gia trực
8
tiếp vào một số loại hình kinh doanh như chứng khoán, bất động sản, cho thuê
tài chính....nên các ngân hàng lớn đã thành lập, hoặc mua lại công ty hoạt
động trong các lĩnh vực trên nhằm mở rộng hoạt động.
(ii) Ngân hàng thuộc sở hữu công ty
Nhiều tập đoàn kinh tế/tập đoàn tài chính thành lập ngân hàng để đa dạng
và hỗ trợ các hoạt động của tập đoàn. Ngân hàng có thể là sở hữu của các tập đoàn
công nghiệp (ngân hàng công nghiệp), hoặc năng lượng, thương mại,...
(iii) Ngân hàng đơn nhất
Ngân hàng đơn nhất là ngân hàng không có chi nhánh, tức là các dịch
vụ ngân hàng chỉ do một hội sở ngân hàng cung cấp.
(iv) Ngân hàng có chi nhánh
Ngân hàng có chi nhánh là ngân hàng cung cấp dịch vụ ngân hàng
thông qua nhiều đơn vị ngân hàng. Việc thành lập chi nhánh thường bị kiểm
soát chặt chẽ bởi ngân hàng trung ương thông qua các quy định về mức vốn
sở hữu, về chuyên môn đội ngũ cán bộ, về sự cần thiết của dịch vụ ngân hàng
trong vùng...
Như vậy, việc phân loại NHTM theo cơ cấu tổ chức có thể đánh giá
được quy mô của từng loại ngân hàng, định hướng phát triển của ngân hàng
đó. Đối với nhà quản lý vĩ mô, việc phân loại trên sẽ giúp cho việc quản lý và
điều tiết việc phát triển mạng lưới của các ngân hàng được dễ dàng hơn.
1.1.1.3. Chức năng của ngân hàng thương mại [28, tr.8-12]
a. Trung gian tài chính
NHTM là một trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển
tiết kiệm thành đầu tư dưới hình thức nhận tiền gửi và cấp tín dụng. Hai loại
cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời có
nhu cầu chi tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập/hoặc vốn hiện có, vì vậy
phát sinh nhu cầu bổ sung vốn; và (2) các cá nhân và tổ chức có thu nhập/
hoặc vốn hiện tại lớn hơn các khoản chi cho hàng hóa, dịch vụ, vì vậy có tiền
9
để tiết kiệm. Tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ (2) sang nhóm thứ (1) nếu cả hai
cùng có lợi. Như vậy lợi nhuận là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa
hai nhóm.
b. Trung gian thanh toán
Khi ngân hàng nhận tiền gửi và cho vay – trung gian tài chính – tất yếu
dẫn đến cơ sở của thanh toán hộ. Trước tiên là thanh toán hộ giữa những
khách hàng có tiền gửi ở cùng một ngân hàng, sau đó mở rộng ra khi hệ thống
thanh toán liên ngân hàng hình thành.
Tiền được chuyển từ tài khoản của khách hàng A tại ngân hàng này
sang tài khoản của khách hàng B tại ngân hàng khác, mở đầu hoặc kết thúc
một quá trình luân chuyển hàng hóa, hoặc quan hệ kinh tế. Để việc thanh toán
nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách
hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ
thu, thẻ...Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua
ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ
thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công
nghệ đó càng được mở rộng.
c. Tạo phương tiện thanh toán
Tiền có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán, hệ
thống ngân hàng tham gia tạo nên phương tiện thanh toán là tiền ghi sổ. Ban
đầu các ngân hàng đã tạo ra tiền giấy thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng
tiền kim loại đang nắm giữ.
Với nhu cầu có đồng tiên quốc giá duy nhất đã dẫn đến việc Nhà nước
tập trung quyền lực phát hành (in) tiền giấy vào một tổ chức, Bộ tài chính
hoặc là Ngân hàng trung ương, chấm dứt việc các NHTM tạo ra giấy bạc của
riêng mình. Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách
hàng nhận thấy nếu họ có dố dư trên tài khoản tiền gửi thánh toán, họ sẽ chi
trả để có được hàng hóa và các dịch vụ theo yêu cầu. Tiền trên tài khoản tiền
10
gửi thanh toán tại ngân hàng là phương tiện thanh toán song hành cùng tiền
giấy. Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ
nhất là tiền giấy trong lưu thông, thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi thanh
toán của khách hàng tại ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên tài khoản tiền gửi
tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn,...
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm nợ xấu và các yếu tố liên quan đến nợ xấu
của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm nợ xấu
Đối với Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), nợ xấu được giải thích là: “Một
khoản cho vay được coi là không sinh lời (nợ xấu) khi tiền thanh toán lãi
và/hoặc tiền gốc đã quá hạn từ 90 ngày trở lên, hoặc các khoản thanh toán
lãi đến 90 ngày hoặc hơn đã được tái cơ cấu hay gia hạn nợ, hoặc các khoản
thanh toán dưới 90 ngày nhưng có các nguyên nhân nghi ngờ việc trả nợ sẽ
được thực hiện đầy đủ”. Với định nghĩa này, nợ xấu được xác định trên hai
khía cạnh thời gian quá hạn và khả năng trả nợ của khách hàng.
Còn xét trong phạm vi Việt Nam, nợ xấu được định nghĩa theo pháp
luật như sau:
Nợ xấu trong hoạt động tín dụng của NHTM chính là các khoản tiền
mà mà ngân hàng cho khách hàng vay nhưng khi đến hạn thu hồi nợ lại
không thể đòi được do yếu tố chủ quan từ chính phía khách hàng như doanh
nghiệp, tổ chức vay tín dụng làm ăn thua lỗ, phá sản dẫn đến tình trạng mất
khả năng thanh toán khoản nợ đã vay của ngân hàng khi đến kỳ hạn.
Nợ xấu là những khoản nợ được ngân hàng liệt vào nhóm 3 (nhóm dưới
tiêu chuẩn), nhóm 4 (nghi ngờ) và nhóm 5 (khả năng mất vốn cao) [24, Đ.3]
1.1.2.2. Đặc điểm cơ bản của nợ xấu
Thứ nhất, Người mắc nợ trốn hoặc mất tích, không còn tài sản để thanh
11
toán nợ.
Thứ hai, những khoản nợ mà chủ nợ không thể liên lạc được với người
mắc nợ hoặc không thể tìm được người mắc nợ.
Thứ ba, những khoản nợ mà khách nợ chấm dứt hoạt động kinh doanh,
thanh lý tài sản, hoặc kinh doanh bị thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả
nợ.
1.1.2.3. Bản chất của nợ xấu và dấu hiệu nhận biết
Bản chất của nợ xấu là một khoản tiền cho vay mà chủ nợ xác định
khó có thể thu hồi lại được. Đối với các ngân hàng, nợ xấu là các
khoản tiền cho khách hàng vay mà không thể thu hồi lại được. Các dấu hiệu
của khoản nợ có vấn đề có thể được chia thành các nhóm sau:
Dấu hiệu từ hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng
Trong quá trình hạch toán của khách hàng, xu hướng của các tài khoản
của khách hàng qua một quá trình để cung cấp cho ngân hàng một số dấu hiệu
quan trọng gồm: Khó khăn trong thanh toán lương; Sự giảm sút số dư tài
khoản tiền gửi; Tăng mức sử dụng bình quân trong các tài khoản; Gia tăng
các khoản nợ thương mại hoặc không có khả năng thanh toán nợ khi đến hạn.
Các hoạt động cho vay như: Mức độ vay thường xuyên gia tăng; Thanh toán
chậm các khoản nợ gốc và lãi; Giảm các khoản phải trả và tăng các khoản
phải thu; Các hệ số thanh toán phát triển theo chiều hướng xấu,…
Dấu hiệu thuộc về quản lý của khách hàng
Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản trị hoặc BĐH. Hệ
thống điều hành luôn bất đồng vì mục đích, quản trị, điều hành độc đoán hoặc
quá phân tán. Cách thức hoạch định của khách hàng có biểu hiện: i) Được
hoạch định bởi HĐQT hoặc Giám đốc điều hành ít hay không có kinh
nghiệm;… ii) Có các chi phí quản lý bất hợp lí: BĐH hoặc thành viên góp
vốn sử dụng tiền của doanh nghiệp vào mục đích riêng của cá nhân,…
12
Dấu hiệu từ các thông tin tài chính
Chuẩn bị không đầy đủ số liệu tài chính hoặc chậm trễ, trì hoãn các
báo cáo tài chính và qua phân tích cho thấy: Sự gia tăng không cân đối về tỷ
lệ nợ thường xuyên; Tăng doanh số nhưng giảm lãi hoặc không có lãi; Các tài
khoản hạch toán vốn lưu động không khớp; Lượng hàng hóa tăng nhanh hơn
doanh số bán…
Ngoài ra còn có các dấu hiệu phi tài chính khác: Là dấu hiệu mà mắt
thường cán bộ tín dụng có thể nhận biết được như: Những vấn đề về đạo đức;
Sự xuống cấp trông thấy của nơi kinh doanh; Nơi lưu trữ hàng hóa quá nhiều,
hư hỏng, lạc hậu…
1.1.2.3. Phân loại nợ xấu và trích lập dự phòng nợ xấu
Có rất nhiều tiêu chí phân loại nợ xấu, trên khía cạnh kinh tế, nợ xấu
có thể phân chia thành những nhóm sau:
(i) Căn cứ vào đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng đối với từng
khoản vay trong hiện tại và tương lai, không phân biệt khoản vay hiện tại có
quá hạn hay chưa, người ta chia nợ xấu thành: Nợ xấu thông thường: đảm bảo
thu hồi đủ 100%; Nợ xấu khó đòi: chỉ có khả năng thu hồi được một phần
hoặc thu hồi đầy đủ nhưng thời gian thu hồi kéo dài; Nợ xấu mất trắng: không
có khả năng thu hồi.
(ii) Căn cứ nguyên nhân có thể chia nợ xấu thành:
- Nợ xấu do nguyên nhân bất khả kháng: do thiên tai, do thay đổi cơ
chế chính sách, ốm đau,...
- Nợ xấu do lỗi của người vay: trình độ quản lý yếu kém, khả năng cạnh
tranh kém dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh; cố tình trây ỳ không trả nợ…
- Nợ xấu do lỗi của người cho vay: trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
kém dẫn đến không quản lý, theo dõi và phát hiện sớm sai phạm của khách
hàng; đồng tình với những sai phạm của khách hàng.
(iii) Căn cứ việc xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng chia nợ xấu
13
thành:
Nợ chưa được xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng - Nợ hạch toán
nội bảng; Nợ đã được xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng - Nợ hạch toán
ngoại bảng
(iv) Phân loại nợ xấu:
Các TCTD căn cứ vào các tiêu chuẩn định tính và định lượng để đánh
giá mức độ rủi ro của các khoản vay và cam kết ngoại bảng, trên cơ sở đó
phân loại vào các nhóm nợ thích hợp. Mục đích của việc phân loại trên là
trong trường hợp có khoản nợ được phân loại định lượng bị lọt vào nhóm có
khả năng rủi ro cao (nợ xấu), thì các TCTD cần phải điều chỉnh nhóm nợ cho
phù hợp. Ngoài ra, các TCTD cũng phải phân loại với tài sản có vi phạm
nhóm nợ rủi ro cao, đồng thời phải xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội
bộ để xếp hạng khách hàng vay vốn theo định kỳ, đây cũng chính là cơ sở để
các TCTD cho vay, quản lý chất lượng nợ vay cũng như chính sách dự phòng
rủi ro thích hợp. Bên cạnh đó, còn có phân loại nợ theo phương pháp suy
đoán, khi khách hàng có từ hai khoản vay trở lên tại một hoặc nhiều TCTD
mà có một khoản nợ bất kỳ được xác định là nợ xấu thì toàn bộ các khoản nợ
còn lại cũng được xác định là nợ xấu, mục đích của phương pháp phân loại
này là tránh việc các TCTD không nắm được tình trạng vay nợ của khách
hàng đối với các đơn vị khác, dẫn đến việc đánh giá không chính xác và kịp
thời khả năng trả nợ của khách hàng.
(v) Trích lập dự phòng nợ xấu
Tùy theo tính chất riêng, mỗi khoản nợ sẽ có tỷ lệ trích lập dự phòng
rủi ro theo tỷ lệ nhất định theo quy định của pháp luật, số tiền sự phòng không
thể chỉ phụ thuộc vào giá trị khoản nợ và tỷ lệ trích lập dự phòng, mà còn phụ
thuộc vào giá trị TSBĐ. Thông thường, việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro
được thực hiện theo nguyên tắc sử dụng dự phòng cụ thể đối với từng khoản
nợ trước, phát mại TSBĐ để thu hồi nợ, và cuối cùng nếu phát mại tài sản
14
không đủ bù đắp thì mới được sử dụng dự phòng chung. Mục đích của việc
trích lập dự phòng nợ xấu là làm giảm thiểu những rủi ro về tài chính và bù
đắp tổn thất đối với các khoản nợ của TCTD khi thiệt hại thực tế xảy ra.
1.1.2.4. Những chỉ tiêu cơ bản phản ánh nợ xấu của ngân hàng thương mại
a. Mục đích của việc sử dụng các tiêu chí cơ bản phản ánh nợ xấu của
Ngân hàng thương mại:
Việc đưa ra các chỉ tiêu cơ bản phản ánh nợ xấu của NHTM sẽ giúp
cho NHTM có các biện pháp phòng ngừa và hạn chế nợ xấu, bên cạnh đó có
các điều chỉnh kịp thời đối với khảu vị cấp tín dụng của ngân hàng đó, cũng
như có biện pháp kiểm soát đối với các khách hàng đặc thù, ngành nghề cho
vay,...Từ đó, có thể đánh giá được chất lượng tín dụng của ngân hàng, đánh
giá được phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của
bản thân ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường, các chỉ
tiêu phản ánh nợ xấu bao gồm: (i) Tổng số nợ xấu; (ii) Tỷ lệ giữa giá trị các
khoản nợ xấu/tổng dư nợ; (iii) Tỷ lệ nợ khó đòi/tổng dư nợ và Nợ khó đòi/nợ
xấu; (iv) Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi ro/nợ xấu.
b. Nội dung của các chỉ tiêu phản ánh nợ xấu của Ngân hàng thương mại:
(i) Tổng số nợ xấu: đây là chỉ tiêu phản ánh chung giá trị tuyệt đối của
toàn bộ khoản nợ xấu của ngân hàng. Chỉ tiêu này chưa cho biết trong tổng số
dư nợ đó, nợ không có khả năng thu hồi là bao nhiêu và nợ có khả năng thu
hồi là bao nhiêu. Chỉ tiêu này chỉ giúp ích cho nhà quản lý biết được tỷ trọng
nợ xấu của ngân hàng mình để có những điều chỉnh về chính sách và quản trị
phù hợp nhằm giảm tỷ lệ nợ xấu về mức an toàn. Chỉ số này cho biết mức độ
hoạt động hiệu quả của một ngân hàng trong việc quản lý chất lượng tín dụng.
(ii) Tỷ lệ giữa giá trị các khoản nợ xấu/ tổng dư nợ: chỉ tiêu này phản
ánh mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng. Chỉ tiêu này cho biết mức độ rủi ro
của ngân hàng, tỷ lệ này phản ánh cứ một đơn vị đơn vị tiền tệ khi ngân hàng
cho vay thì có bao nhiêu đơn vị tiền tệ mà ngân hàng xác định khó có khả
15
năng thu hồi hoặc không thu hồi được đúng hạn tại thời điểm xác định khó có
khả năng thu hồi hoặc không thu hồi được đúng hạn tại thời điểm xác định.
Tỷ lệ này càng cao thì khả năng rủi ro càng cao. Tuy nhiên, các con số được
sử dụng để tính chỉ số này được đo tại một thời điểm nhất định nên chưa phản
ánh một cách chính xác chất lượng tín dụng của ngân hàng.
(iii) Tỷ lệ nợ khó đòi/ tổng dư nợ và nợ khó đòi/ nợ xấu: các chỉ số này
phản ánh chỉ tiêu tương đối của nợ khó đòi, tỷ lệ này cho biết chỉ tiêu tương
đối của nợ khó đòi – một cấu phần quan trọng của nợ xấu. Đây là những chỉ
tiêu phản ánh khá trung thực về thực tế và nguy cơ mất vốn của ngân hàng.
Tỷ lệ này càng lớn thì khả năng rủi ro mất vốn của ngân hàng càng cao.
(iv) Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi ro/ nợ xấu hay tỷ lệ bao nợ xấu: tỷ lệ này
cho biết quỹ dự phòng rủi ro có khả năng bù đắp bao nhiêu cho các khoản nợ
xấu khi chúng chuyển thành các khoản nợ mất vốn. Nếu tỷ lệ này càng cao thì
khả năng quỹ dự phòng rủi ro đủ bù đắp các thiệt hại có thể xảy ra trong quá
trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng cao và ngược lại.
1.1.2.5. Nguyên nhân của nợ xấu
Nguyên nhân phát sinh nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM
phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, có thể kể đến như sau:
a. Nguyên nhân khách quan:
(i) Môi trường thiên nhiên
Thiên tai, bão lụt, hỏa hoạn, mất mùa, dịch bệnh...là những nguyên nhân
khách quan do sự biến đổi của môi trường thiên nhiên đã gây ra sự hoạt động
thất bại của khách hàng vay vốn, nhất là các khách hàng kinh doanh trong lĩnh
vực nông nghiệp, dẫn đến nợ xấu phát sinh. Nguyên nhân này nằm ngoài tầm
kiểm soát và mong muốn của cả NHTM và các khách hàng vay vốn.
(ii) Môi trường kinh tế
Nếu môi trường kinh tế chưa thực sự phát triển, cạnh tranh trên thị
trường chưa thực sự bình đẳng, tốc độ cũng như trình độ phát triển chưa cao
16
cùng với sự thay đổi liên tục trong các chính sách kinh tế vĩ mô như sự thay
đổi về cơ chế lãi suất, tỷ giá...chính sách xuất nhập khẩu, hàng tiêu
dùng...thay đổi quy hoạch xây dựng hạ tầng, thay đổi cơ chế tài chính, cơ chế
sử dụng đất đai...cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các cá nhân, tổ
chức, doanh nghiệp, khiến các đối tượng này rơi vào thế bị động, do đó nó
gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng nợ của các đối tượng này tại NHTM.
(iii) Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng chưa đầy đủ là nguyên
nhân quan trọng góp phần gây ra nợ xấu. Sự bất cập và chồng chéo của các
luật sẽ khiến cơ quan hữu quan lúng túng trong việc xử lý tranh chấp về tài
sản đảm bảo, các quy định về kế toán kiểm toán chưa đủ sức mạnh thực hiện
sẽ khiến số liệu không đủ cơ sở vững chắc để thẩm định cho vay.
(iv) Cho vay theo chỉ định của chính phủ
Theo kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế kế hoạch hóa
hoặc chuyển đổi, nợ xấu thường là do vấn đề các NHTM quốc doanh bị ràng
buộc bởi chính sách “mềm”, dẫn đến việc các ngân hàng không quan tâm
đánh giá sát sao năng lực tài chính của người vay. Ngoài ra, tại những nước
này, chính quyền trung ương có xu hướng gây áp lực hay khuyến khích các
ngân hàng cấp tín dụng vượt quá mức an toàn cho phép để đạt được những
mục tiêu nhất định đã đề ra.
(v) Sự yếu kém trong hoạt động kinh doanh của khách hàng
Năng lực tài chính của khách hàng không tốt ảnh hưởng trực tiếp đến
hiệu quả kinh doanh. Mặt khác, năng lực điều hành, quản lý kinh doanh của
khách hàng vay vốn yếu kém cũng dẫn đến hoạt động kinh doanh kém hiệu
quả từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho ngân hàng.
(vi) Đạo đức khách hàng
Một số khách hàng chủ ý thông báo tình hình kinh doanh, nguồn thu
nhập của mình không chính xác, gây sai lệch trong việc thẩm định và cấp tín
17
dụng đã dẫn đến khó khăn trong việc thu hồi nợ ngân hàng. Hoặc bản thân
khách hàng thiếu ý thức trong vấn đề sử dụng vốn vay và trả nợ, không quan
tâm đến món nợ đối với ngân hàng mặc dù khách hàng có khả năng tài chính.
Một số khách hàng thì lại có tư tưởng lợi dụng kẽ hở của pháp luật để tính
toán, lừa đảo, móc ngoặc, sử dụng vốn sai mục đích kiếm lời, vay không có ý
định trả nợ (rủi ro đạo đức).
b. Nguyên nhân chủ quan
Đây là những nguyên nhân xuất phát từ chính bản thân các ngân hàng.
Đó có thể là do một chính hiệu quả sách tín dụng kém, sự lỏng lẻo trong công
tác kiểm tra, giám sát hay các vấn đề liên quan đến chất lượng nguồn nhân lực
ngân hàng.
(i) Chính sách tín dụng
Một chính sách tín dụng không đầy đủ, không đồng bộ và thống nhất
sẽ dẫn tới việc cấp tín dụng không đúng đối tượng, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cho
ngân hàng. Mặt khác để thu hút khách hàng và chiếm lĩnh thị phần, nhiều
NHTM đã bỏ qua một số bước trong quy trình tín dụng, cơ chế cho vay được
đơn giản hóa, tự ý hạ thấp tiêu chuẩn đánh giá khách hàng. Đây là những
khoản cho vay chất lượng thấp với mức rủi ro cao. Các khoản cho vay này
không được xem xét kỹ lưỡng về khả năng thanh toán của khách hàng và
thường được bảo đảm bởi rất ít hoặc không có giấy tờ chứng minh khả năng
tài chính của người đi vay.
(ii) Công tác tổ chức kiểm tra, kiểm soát
Nhiệm vụ của công tác kiểm tra, kiểm soát là phát hiện sớm những sai
phạm trong hoạt động cho vay đề ngăn ngừa rủi ro. Tuy nhiên, công tác tổ
chức, kiểm tra, kiểm soát của các NHTM nếu quá yếu kém và lỏng lẻo sẽ dẫn
đến việc phát hiện và xử lý không kịp thời những trường hợp vi phạm, lợi
dụng trong hoạt động cho vay, và nợ xấu phát sinh là điều tất yếu.
18
(iii) Đạo đức của cán bộ ngân hàng
Một bộ phận cán bộ của một số ngân hàng thoái hóa biến chất, lợi
dụng chức vụ quyền hạn, cấu kết với khách hàng để cố ý làm trái các quy
định của pháp luật. Rủi ro đạo đức còn đến từ chính sự lựa chọn, bố trí sử
dụng nhân sự ngân hàng thiếu năng lực, phẩm chất, tư cách đạo đức nghề
nghiệp, dẫn đến sự thông đồng giữa cán bộ quản lý và nhân viên ngân hàng
với khách hàng để che giấu thông tin thật, nâng khống giá trị tài sản thế chấp
và cố tình vi phạm các quy định về bảo đảm an toàn cho vay, là một trong
những nguyên nhân dẫn đến tình trạng quá hạn của khách hàng vay vốn.
1.1.2.6. Tác động của nợ xấu đến Ngân hàng thương mại
(i) Nợ xấu xuất hiện đồng nghĩa với việc ngân hàng không thu hồi đủ
vốn bỏ ra cho vay, trong khi chi phí dự phòng tăng lên làm giảm lợi nhuận
ngân hàng, giảm tích lũy để đầu tư mới. Nợ xấu gia tăng có khi còn làm cho
ngân hàng thua lỗ do bị thâm hụt vào nguồn vốn cho vay. Đến một lúc nào
đó, ngân hàng không thể trả cho người gửi tiền khi đến hạn, ngân hàng sẽ lâm
vào tình cảnh mất khả năng thanh toán. Trước tình hình này, ngân hàng buộc
phải đi vay tại các TCTD khác hoặc chịu sự can thiệp của NHNN, hoặc có thể
đi đến phá sản.
(ii) Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tăng cao sẽ làm uy tín của ngân
hàng giảm, dẫn đến việc thu hút nguồn vốn để phục vụ cho kế hoạch mở rộng
sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, tỷ lệ nợ xấu cao còn hạn
chế khả năng cho vay của ngân hàng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả
kinh doanh của ngân hàng.
(iii) Mặt khác, nợ xấu sẽ làm chậm quá trình luân chuyển vốn của các
TCTD, giảm vòng quay vốn, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng.
Bên cạnh đó, mặc dù nhiều ngân hàng của Việt Nam đã đạt mức tỷ lệ đảm
bảo vốn tự có tối thiểu (Capital Adequacy Ratio - CAR) nhưng trên bình diện
chung, tỷ lệ CAR này cũng rất khác nhau giữa các ngân hàng và nhóm ngân
19
hàng. Quan trọng hơn, tỷ lệ này sẽ bị sụt giảm rất nhanh nếu như hạch toán
đúng dự phòng cho các khoản nợ xấu. Lý do là chất lượng tài sản suy giảm
làm cho chi phí dự phòng gia tăng, làm ăn mòn lợi nhuận lũy kế và từ đó
giảm vốn tự có.
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm và nội dung xử lý nợ xấu của Ngân hàng
thương mại
1.1.3.1. Khái niệm, đặc điểm xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại
Hiện nay, pháp luật chưa có một văn bản thống nhất về khái niệm “xử
lý nợ của NHTM” mà chỉ đưa ra các quy định để các ngân hàng làm căn cứ để
xử lý nợ xấu bằng việc sử dụng các biện pháp, công cụ như: xử lý TSBĐ, mua
bán nợ, bù đắp bằng quỹ dự phòng và rủi ro tín dụng, sử dụng giải pháp pháp
lý để đòi nợ (khởi kiện), xử lý trách nhiệm với cán bộ để xảy ra nợ xấu,…
Cho nên, hiểu một cách đơn giản, xử lý nợ xấu là quá trình ngân hàng tìm
phương án và tiến hành giải quyết để làm giảm bớt các khoản nợ xấu trên
thực tế, dựa vào các chính sách về nợ xấu đã xây dựng, nhằm đảm bảo mục
tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững của ngân hàng đó.
Qua đó, ta nhận thấy được việc xử lý nợ xấu mang những đặc điểm
sau đây:
Thứ nhất, chủ thể xử lý nợ xấu chủ yếu là NHTM. Hoạt động cho vay
luôn chứa đựng những rủi ro và khả năng phát sinh nợ xấu là một biểu hiện rõ
nhất của rủi ro tín dụng. Nợ xấu phát sinh sẽ gây hậu quả không nhỏ không
chỉ đến hoạt động của các TCTD mà còn tác động đến cả nền kinh tế. NHTM
trước tiên cũng phải tự tìm cách xử lý các khoản nợ xấu của mình, nếu không
thể tự xử lý được có thể bán nợ cho các tổ chức khác, tùy thuộc vào mục tiêu
và chiến lược kinh doanh của ngân hàng.
Thứ hai, đích của việc xử lý nợ xấu là giảm bớt dư nợ tín dụng, duy trì
tỷ lệ nợ xấu phù hợp với mục tiêu kinh doanh. Nợ xấu quá nhiều sẽ làm cho
nguồn vốn của ngân hàng bị thất thoát nghiêm trọng, đồng thời, ảnh hưởng
20
đến uy tín về tiềm lực tài chính của ngân hàng bị suy giảm, ảnh hưởng đến
toàn bộ hoạt động kinh doanh; tỷ lệ nợ xấu thấp cũng chưa hẳn là tốt. Trên
thực tế, bởi sự hiện hữu của hoạt động tín dụng, không có một tổ chức tài
chính nào không tồn tại nợ xấu và có khả năng giải quyết triệt để được toàn
bộ nợ xấu.
Thứ ba, việc xử lý nợ xấu của NHTM phải tuân theo các chính sách về
nợ xấu mà ngân hàng đã đặt ra. Cụ thể, đối với ngân hàng, chính sách về xử
lý nợ xấu chính là kim chỉ nam cho tất cả những người có trách nhiệm trong
khâu xử lý nợ thực hiện chuyên môn của mình. Theo đó, mọi kế hoạch,
phương án xử lý nợ tồn đọng không được trái hoặc nằm ngoài những chính
sách mà ngân hàng đang áp dụng.
1.1.3.2. Nội dung xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại
Để thực hiện được công tác xử lý nợ được hiệu quả, các NHTM
thường sử dụng phối hợp các biện pháp sau:
Đôn đốc thu hồi nợ
Các NHTM cần tiến hành phân tích, phân loại các khoản nợ xấu để từ
đó đề ra biện pháp đôn đốc, thu hồi, xử lý phù hợp với từng khoản vay. Cần
quản lý tài chính chặt chẽ với các khách hàng có nợ xấu, đặc biệt là các khách
hàng lớn. Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động thì cần tạo điều kiện để
họ duy trì hoạt động bình thường.
Tái cơ cấu các khoản nợ, tái cấu trúc doanh nghiệp
Biện pháp này được áp dụng đối với những khoản nợ có khả năng thu
hồi, ngân hàng có thể áp dụng các phương pháp sau:
- Gia hạn nợ: là việc khách hàng được phép kéo dài thêm thời hạn trả
nợ cuối cùng. Đây là phương án giúp khách hàng giảm bớt được áp lực thanh
toán nợ trong một khoảng thời gian nhất định, từ đó có thể phục hồi hoạt động
kinh doanh cũng như thu xếp vốn để trả nợ ngân hàng.
- Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ: là việc khách hàng được thay đổi thời gian
21
trả từng phần của khoản nợ hoặc thay đổi số tiền từng kỳ trả nợ đã thỏa thuận
ban đầu nhưng không làm thay đổi tổng số tiền phải trả và thời hạn trả hết nợ
cuối cùng.
- Cấp thêm vốn cho khách hàng: Ngân hàng chỉ xem xét cấp thêm vốn
khi khách hàng chứng minh được kế hoạch kinh doanh sẽ giúp khách hàng
vượt qua giai đoạn khó khăn và chắc chắn có hiệu quả. Việc áp dụng phương
pháp này có tính mạo hiểm vì thế cần được cân nhắc và kiểm soát chặt chẽ.
- Chứng khoán hóa các khoản nợ: Ngân hàng có thể chuyển các khoản
nợ xấu thành vốn cổ phần đối với các doanh nghiệp cổ phần. Ngân hàng áp
dụng biện pháp này khi các khách hàng gặp khó khăn nhưng được đánh giá là
có triển vọng phục hồi.
Xử lý tài sản bảo đảm, yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh
- Thanh lý tài sản bảo đảm tiền vay: Thông thường khi xét duyệt cho
vay, khách hàng cần có TSBĐ nhất định để đảm bảo cho nghĩa vụ của khoản
nợ tại Ngân hàng. Khi khách hàng không trả nợ, ngân hàng sẽ xem xét áp
dụng biện pháp xử lý TSBĐ để thu hồi nợ. Tài sản bảo đảm sau khi hoàn tất
các thủ tục pháp lý để bàn giao cho Ngân hàng, ngân hàng có thể sẽ tự bán
công khai tài sản; hoặc bán qua trung tâm bán đấu giá tài sản; hoặc bán cho
Công ty mua bán nợ.
- Quản lý, khai thác tài sản: Tùy theo trường hợp cụ thể, ngân hàng có
thể tiếp nhận tài sản, tiếp tục quản lý, khai thác tài sản để thu hồi nợ.
- Yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh: Trong trường hợp
việc đòi nợ từ phía người vay gặp khó khăn, ngân hàng có thể yêu cầu người bảo
lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh dưới hình thức thanh toán nợ trực tiếp hoặc xử
lý TSBĐ của người bảo lãnh.
Bán các khoản nợ
Ngân hàng thường áp dụng biện pháp này khi không muốn mất thời gian
22
hoặc bản thân ngân hàng đã có một tổ chức chuyên môn hóa trong việc xử lý nợ đó
là AMC. Việc bán lại các khoản nợ xấu (hay quyền đòi nợ) cho một tổ chức khác
(có thể là một ngân hàng hoặc AMC) sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu được nợ xấu.
Sử dụng công cụ pháp lý để đòi nợ
Để áp dụng biện pháp này đạt hiệu quả, ngân hàng cần đảm bảo hồ sơ
khoản vay đầy đủ và phù hợp về mặt pháp lý. Ngân hàng thực hiện kiện khách
hàng ra tòa để đòi nợ. Phán quyết của Tòa án sẽ buộc khách hàng trả nợ hoặc
chuyển giao TSBĐ tiền vay cho ngân hàng để xử lý thu hồi nợ. Trường hợp
khách hàng là các doanh nghiệp không trả được nợ, ngân hàng với tư cách là chủ
nợ chính có thể làm đơn xin mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo luật
phá sản.
Xử lý bằng vốn Ngân sách
Nợ xấu phát sinh từ các khoản cho vay theo chính sách của Chính phủ thì
Chính phủ phải đứng ra giải quyết, bù đắp tổn thất cho các NHTM. Chính phủ sẽ
dùng vốn ngân sách để mua lại toàn bộ nợ xấu thuộc diện cho vay theo chính
sách của Chính phủ, sau đó xử lý dần trong một số năm. Biện pháp này có hạn
chế do ngân sách là có hạn, Chính phủ luôn phải cân nhắc chi tiêu ngân sách và
không phải khoản nợ xấu nào phát sinh cũng được xử lý trong thời gian ngắn.
1.2. Những vấn đề chung về pháp luật xử lý nợ xấu của Ngân hàng
thương mại
1.2.1. Khái niệm pháp luật xử lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại
Trước hết, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban
hành và đảm bảo thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Vậy từ khái
niệm này có thể suy ra: Pháp luật về xử lý nợ xấu của NHTM chính là hệ
thống các quy định mà Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện để điều
chỉnh quan hệ về xử lý nợ xấu của các NHTM.
1.2.2.Đặc điểm pháp luật xử lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại
Với định nghĩa nêu trên, có thể nhận thấy pháp luật về xử lý nợ xấu
23
mang đặc điểm như sau:
Do quan hệ về xử lý nợ xấu là một loại quan hệ cụ thể, liên quan đến
nhiều lĩnh vực do vậy những quy định điều chỉnh về quan hệ pháp luật này
thường nằm rải rác tại nhiều văn bản luật khác nhau. Tuy nhiên, xử lý nợ xấu
với bản chất là một trong những hoạt động cơ bản của các TCTD nói chung
và các NHTM nói riêng, cho nên pháp luật điều chỉnh hoạt động này nằm
trong bộ phận pháp luật về ngân hàng là chủ yếu.
Ngoài ra, một số nghiệp vụ xử lý nợ có liên quan đến TSBĐ thì lại
được điều chỉnh bởi pháp luật dân sự và thậm chí được điều chỉnh bởi pháp
luật tố tụng trong trường hợp ngân hàng tiến hành biện pháp thu hồi nợ bằng
việc khởi kiện khách hàng ra Tòa án hay các cơ quan tố tụng khác có thẩm
quyền,…
1.2.3. Các bộ phận pháp luật xử lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại
Với sự đa dạng và phức tạp của hoạt động tín dụng về chủ thể (Tổ
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức Nhà nước sở hữu
100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của tổ chức tín
dụng; khách hàng vay vốn; các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan) và mục
đích vay vốn mà hoạt động xử lý nợ xấu cũng phải trở nên phong phú và linh
hoạt về các phương thức, mà mỗi phương thức này lại được quy định và điều
chỉnh bởi văn bản luật khác nhau, chẳng hạn như:
Đối với chủ thể có nợ xấu cần tại ngân hàng là doanh nghiệp thì các
biện pháp mà ngân hàng áp dụng để xử lý nợ với bên này cũng phải phù hợp
với các quy định của Luật doanh nghiệp, đặc biệt khi Doanh nghiệp bị tuyên
bố phá sản thì phải dựa vào Luật phá sản.
Đối với chủ thể có nợ xấu là những khách hàng cá nhân là những
người có gia đình, vấn đề thanh toán nợ lại liên quan đến nghĩa vụ về tài sản
chung, tài sản riêng của vợ/chồng trong thời kỳ hôn nhân, theo quy định của
pháp luật hôn nhân và gia đình. Hợp đồng tín dụng có TSBĐ không chỉ chịu
24
sự điều chỉnh của pháp luật dân sự, mà tùy vào loại tài sản mà lại được điều
chỉnh bằng những luật chuyên ngành khác nhau, ví dụ như đối với TSBĐ là
bất động sản thì ngoài luật dân sự còn có Luật kinh doanh bất động sản hay
Luật đất đai điều chỉnh,…
1.2.4. Pháp luật Hàn Quốc về xử lý nợ xấu và Bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam [31, tr.1-4]
Sở dĩ lựa chọn Hàn Quốc để rút ra bài học cho Việt Nam bởi có thể
nói rằng đây là quốc gia thành công trong việc giải quyết nợ xấu. Với việc
đưa ra hàng loạt những chính sách và thực hiện các biện pháp phù hợp mà “tỷ
lệ nợ xấu của Hàn Quốc đã giảm từ 11,7% xuống còn 3,9% trong vòng 4 năm
(1998 – 2002) và duy trì mức ổn định khoảng 1% ở hiện tại.”
1.2.4.1. Hệ thống pháp luật của Hàn Quốc về xử lý nợ xấu
Là một nước phát triển và có mức độ hội nhập quốc tế sâu rộng, cũng
như nhiều nước phát triển khác, “Hàn Quốc đã chịu tác động sâu sắc từ các
cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu và trong nước, trong đó lĩnh vực
tài chính, ngân hàng là lĩnh vực chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất và bị tổn
thương nặng nề nhất. Để vực dậy nền kinh tế và hệ thống tài chính, ngân hàng
sau các cuộc khủng hoảng, từ năm 1996 đến nay, Hàn Quốc đã buộc phải tiến
hành nhiều đợt tái cơ cấu hệ thống tài chính nói chung và tái cơ cấu, xử lý nợ
xấu hệ thống ngân hàng nói riêng bằng một hệ thống các giải pháp đột phá,
mạnh mẽ và kịp thời với sự đồng thuận và quyết tâm cao trong nhận thức
cũng như trong hành động từ Quốc hội, Chính phủ đến các chủ thể trong hệ
thống tài chính, ngân hàng và doanh nghiệp, người dân về sự cần thiết, quan
điểm và cách thức tái cơ cấu, xử lý nợ xấu.
Trong thời kỳ này, Hàn Quốc đã thiết lập hành lang pháp lý đầy đủ, kịp
thời. Đây được xem là điều kiện tiên quyết, đảm bảo cho các biện pháp tái cơ
cấu và xử lý nợ xấu được thực thi nghiêm túc, nhanh chóng và công khai, minh
bạch, hiệu quả, giảm thiểu tối đa các tranh chấp, xung đột lợi ích và những tác
25
động bất lợi từ khủng hoảng. Riêng trong lĩnh vực ngân hàng, đã có không dưới
6 bộ luật, quy định điều chỉnh cụ thể các nội dung hoạt động, trong đó có nhiều
bộ luật, quy định chuyên biệt, như: Luật về tăng cường tái cấu trúc trong lĩnh
vực tài chính; Quy định riêng về “Hành động chấn chỉnh kịp thời” đối với hoạt
động của các ngân hàng, ngân hàng tiết kiệm tương hỗ,…
Với một hệ thống pháp lý đầy đủ, cụ thể, rõ ràng, khuyến khích các tổ
chức và cá nhân cùng tham gia và chú trọng tạo sự chủ động, linh hoạt cho
các cơ quan chức năng trong việc can thiệp và áp dụng các công cụ chính
sách, quá trình tái cơ cấu và xử lý nợ xấu hệ thống ngân hàng tại Hàn Quốc đã
được tiến hành nhanh chóng, kịp thời, minh bạch và đạt hiệu quả cao. Trong
đó, việc ban hành Luật về tăng cường tái cấu trúc trong lĩnh vực tài chính và
Luật về cải tổ chức năng và nhiệm vụ của Công ty quản lý tài sản Hàn Quốc
(KAMCO) đã tạo cơ sở pháp lý rõ ràng về cơ chế phối hợp, sử dụng nguồn
lực và quyền hạn của các cơ quan chức năng và tổ chức tài chính, nhất là các
ngân hàng yếu kém trong việc lựa chọn và thực thi các biện pháp cơ cấu lại và
xử lý nợ xấu phù hợp nhằm đạt được mục tiêu đặt ra là nhanh chóng xử lý dứt
điểm những vấn đề yếu kém, không gây ảnh hưởng xấu lan truyền trong hệ
thống, cải thiện và phục hồi hoạt động của hệ thống tài chính, ngân hàng với
chi phí thấp nhất.”
1.2.4.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Thứ nhất, Chính phủ Việt Nam cần có những chính sách hỗ trợ xử lý
nợ xấu. Để nhanh chóng xử lý nợ xấu tại các tổ chức tài chính, hầu hết Chính
phủ của các nước đều bơm vốn (bằng tiền mặt hoặc bằng trái phiếu được
Chính phủ bảo lãnh) cho một số ngân hàng lớn, cho các công ty xử lý nợ tập
trung để ngay lập tức làm sạch sổ sách cho các ngân hàng, không gây áp lực
trích lập cho các ngân hàng trong ngắn hạn, đảm bảo các ngân hàng nhận vốn
đều đáp ứng các quy định về an toàn vốn để thực hiện mở rộng tín dụng cho
nền kinh tế và giúp đẩy nhanh quá trình thu mua nợ của các công ty xử lý nợ
26
tập trung.
Thứ hai, áp dụng cơ chế xử lý ngoài Tòa án. Cơ chế xử lý ngoài tòa án
góp phần đảm bảo quyền chủ nợ của TCTD. Việc cho phép áp dụng cơ chế
xử lý ngoài tòa đối với các khoản nợ có bảo đảm của doanh nghiệp đã tránh
được quy trình xử lý kéo dài tại Tòa án và rút ngắn thời gian thu hồi nợ kéo
dài hàng năm trước kia xuống chỉ còn vài tháng.
Thứ ba, cần xây dựng khung pháp lý cho các công ty quản lý tài sản.
Để các Công ty AMC hoạt động thực sự hiệu quả thì các Công ty AMC phải
được giao quyền lực đủ mạnh. Quyền hạn của các Công ty AMC phải được
giao cụ thể với nguồn ngân sách nhất định, gắn với một thời hạn cụ thể để
giúp xử lý các khoản nợ xấu đang ở mức cao.
Thứ tư, cần phát triển khung pháp lý cho thị trường mua - bán và xử lý
tài sản xấu. Từ bài học của Hàn Quốc cho thấy, mua bán nợ chính là một
trong những biện pháp quan trọng để thoát khỏi khủng hoảng và áp lực nợ
xấu. Việc tham gia của các thành phần kinh tế có chức năng kinh doanh mua,
bán nợ xấu sẽ tận dụng được các nguồn lực xã hội, góp phần cùng AMC đẩy
nhanh tốc độ và chất lượng xử lý nợ xấu.
Thứ năm, đa dạng hóa các hình thức xử lý nợ xấu. Hàn Quốc áp dụng
rất nhiều biện pháp xử lý nợ xấu từ bán buôn, bán lẻ các khoản nợ xấu cho
các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đến phát hành các chứng khoán
được đảm bảo bằng tài sản, bán đấu giá các khoản nợ có chủ nợ bị phá sản,
bán tài sản thu hồi nợ, đấu thầu quốc tế và tái cấu trúc nợ, chuyển nợ thành
vốn góp để tranh thủ trình độ quản lý, điều hành của các nguồn lực đặc biệt là
nguồn lực nước ngoài để đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu, tái cấu trúc doanh
nghiệp.” [33, tr.1-3]
Tiểu kết Chương 1
Với chức năng đa dạng, NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc
27
bình ổn và thúc đẩy nền kinh tế. Việc phân chia NHTM theo các tiêu chí khác
nhau cho phép các ngân hàng phát triển phù hợp với chính sách, quy mô của
mình trên thị trường, đồng thời cho phép cơ quan quản lý vĩ mô có thể áp
dụng các chính sách phù hợp và kinh hoạt hơn.
Trong số các chức năng của mình là hoạt động cấp tín dụng là hoạt
động chính giúp cho NHTM tạo ra nguồn lợi nhuận chính. Tuy nhiên, bên
cạnh đó là vấn đề tiềm ẩn rủi ro nợ xấu, khi ngân hàng cho khách hàng vay
tiền nhưng khi đến hạn thu hồi lại không thể đòi được nợ, dẫn đến việc ngân
hàng bị giảm về lợi nhuận, thậm chí có thể dẫn đến nguy cơ mất vốn nếu
không thu hồi được khoản nợ. Việc phát sinh nợ xấu có thể xuất phát từ
những nguyên nhân chủ quan và khách quan. Xét cho cùng nợ xấu ảnh hưởng
không nỏ đến hoạt động của ngân hàng, nợ xấu gia tăng làm cho ngân hàng
thua lỗ do bị thâm hụt vào nguồn vốn cho vay. Bên cạnh đó là uy tín của ngân
hàng giảm, dẫn đến việc thu hút nguồn vốn để phục vụ cho kế hoạch mở rộng
sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, nợ xấu sẽ làm chậm
quá trình luân chuyển vốn của các ngân hàng, giảm vòng quay vốn, làm giảm
hiệu quả sử dụng vốn của các ngân hàng.
Các NHTM cần tiến hành phân tích, phân loại các khoản nợ xấu để từ
đó đề ra các biện pháp thu nợ phù hợp với từng khoản vay. Hơn nữa, các quy
định được nâng lên thành Luật là hết sức cần thiết, góp phần tăng tính hiệu
lực của văn bản và nâng cao hiệu quả áp dụng và thực hiện pháp luật; kịp thời
bổ sung các chế tài và các biện pháp xử lý để giảm thiểu sự chống đối, bất
hợp tác từ phía khách hàng vay vốn, giúp cho hoạt động tín dụng nói chung
28
cũng như hoạt đông thu hồi nợ của các NHTM đạt được hiệu quả hơn.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN TẠI TPBANK
2.1. Thực trạng pháp luật về xử lý nợ xấu của NHTM
2.1.1. Những ưu điểm về xử lý nợ xấu của NHTM
Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 42/2017 nhằm giải quyết phần lớn
các khó khăn, vướng mắc liên quan đến cơ chế, chính sách, tạo hành lang
pháp lý thông thoáng trong hoạt động xử lý nợ xấu. Nghị quyết 42/2017 tuy
chưa được Quốc hội ban hành như một Bộ Luật riêng về xử lý nợ xấu nhưng
là văn bản pháp luật cao nhất từ trước đến nay đối với hệ thống TCTD chỉ sau
Luật các TCTD. Kể từ khi Nghị quyết này có hiệu lực, các cơ quan thi hành
án dân sự đã tích cực, chủ động triển khai thực hiện Nghị quyết cũng như các
văn bản hướng dẫn thi hành. Về cơ bản, Nghị quyết được ban hành với những
quy định tiến bộ đã tạo nhiều thuận lợi, bảo đảm cho quyền lợi của các
TCTD; nâng cao hơn ý thức của cá nhân, tổ chức trong việc thực hiện các
khoản nợ của các TCTD. Cụ thể như sau:
2.1.1.1. Quy định về nguyên tắc xử lý nợ xấu
Để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, Điều 3 của
Nghị quyết quy định khi xử lý nợ xấu, TSBĐ của khoản nợ xấu phải bảo đảm
các nguyên tắc như: “công khai, minh bạch, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử
lý nợ xấu và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; phù hợp với cơ chế thị
trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và
giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống; không sử dụng ngân sách nhà nước để
xử lý nợ xấu; cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật để xảy
ra nợ xấu và trong quá trình xử lý nợ xấu phải chịu trách nhiệm theo quy định
của pháp luật.” [16, Đ3]. Việc quy định như nói trên, có thể thấy rằng, Nghị
29
quyết khẳng định không sử dụng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu, cơ
quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật để xảy ra nợ xấu và trong
quá trình xử lý nợ xấu phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
2.1.1.2. Quy định về việc mua, bán nợ xấu, tài sản bảo đảm
Nghị quyết quy định “tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu được bán nợ xấu
cho pháp nhân, cá nhân, bao gồm cả doanh nghiệp không có chức năng kinh
doanh mua, bán nợ” [16, Đ6]. Có thể thấy rằng, đối tượng được bán nợ đã
được Nghị quyết bổ sung và quy định rõ ràng và khắc phục được bất cập giới
hạn về chủ thể được mua nợ của VAMC và bảo đảm quyền bình đẳng trong
hoạt động xử lý nợ của VAMC như các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, góp phần tạo lập, phát triển thị trường mua bán nợ.
Ngoài ra, để tháo gỡ vướng mắc, e ngại bị xử lý về trách nhiệm khi
bán nợ xấu, TSBĐ trước đây, Nghị quyết đã cho phép các tổ chức nêu trên
được bán nợ xấu mà “TSBĐ của khoản nợ xấu với giá bán phù hợp với giá thị
trường, có thể cao hơn hoặc thấp hơn dư nợ gốc của khoản nợ” [16, Đ5].
Điều đặc biệt là Nghị quyết đã tạo điều kiện cho việc xử lý nợ xấu hiệu quả
hơn khi cho phép các TCTD được phép bán các khoản nợ xấu có TSBĐ đang
bị kê biên cho tổ chức mua, bán, xử lý nợ xấu, doanh nghiệp có chức năng
mua, bán nợ với điều kiện: “TCTD có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, trung
thực thông tin về tình trạng bị kê biên của TSBĐ trước khi thực hiện mua, bán
khoản nợ xấu; bên mua tự xác định rủi ro đối với việc mua khoản nợ này;
việc bán TSBĐ đang bị kê biên được thực hiện theo quy định của pháp luật”
[16, Đ13]. Quy định này nhằm khẳng định rõ ràng hơn quyền của người bán
được quyền bán nợ xấu, TSBĐ theo đúng quy định pháp luật, kể cả việc bán
thấp hơn dư nợ gốc của khoản nợ và đây được coi là một trong những điểm
mở cho việc xử lý nợ của các TCTD.
Về việc mua, bán, chuyển nhượng TSBĐ, Nghị quyết đã quy định “cơ
quan có thẩm quyền đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản có trách
30
nhiệm thực hiện thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản cho bên
mua, bên nhận chuyển nhượng TSBĐ của khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng;
Việc nộp thuế của bên bảo đảm, bên nhận chuyển nhượng liên quan đến
chuyển nhượng TSBĐ thực hiện theo quy định của pháp luật về thuế. Bên
nhận bảo đảm, bên nhận chuyển nhượng không phải thực hiện nghĩa vụ thuế,
phí khác của bên bảo đảm từ số tiền chuyển nhượng TSBĐ khi thực hiện thủ
tục đăng ký, thay đổi quyền sở hữu, quyền sử dụng TSBĐ” [16, Đ15]. Việc
quy định như trên giúp các TCTD phần nào khắc phục được tình trạng các cơ
quan thuế yêu cầu bên nhận bảo đảm trích số tiền thu được từ việc bán TSBĐ
để thanh toán nghĩa vụ nợ thuế khác của bên bảo đảm thì mới làm thủ tục xác
nhận hoàn thành nghĩa vụ tài chính khi làm thủ tục sang tên TSBĐ cho bên
mua, bên nhận chuyển nhượng, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của bên nhận
bảo đảm, bên nhận chuyển nhượng TSBĐ.
2.1.1.3. Quy định về quyền thu giữ và xử lý tài sản bảo đảm
Về nguyên tắc, chủ sở hữu tài sản phải có trách nhiệm bàn giao toàn
bộ tài sản và các giấy tờ có liên quan về tài sản cho TCTD thực hiện phát mại
tài sản để thu hồi nợ, tuy nhiên, trên thực tế khách hàng thường không hợp tác
và không bàn giao tài sản, do đó, việc xử lý nợ từ việc bán TSBĐ của các
TCTD là tương đối khó khăn. Từ việc khó khăn trên của các TCTD, Nghị
quyết đã quy định và cho phép nếu “bên bảo đảm, bên giữ tài sản không giao
TSBĐ cho TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý
nợ xấu để xử lý thì TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua
bán, xử lý nợ xấu được thu giữ TSBĐ theo quy định” [16, Đ15]. Việc quy
định này đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho TCTD trong việc thu giữ và phát
mại tài sản trong việc xử lý nợ xấu của TCTD.
Điểm mới khác của Nghị quyết là cho phép được chuyển nhượng và
xử lý TSBĐ của khoản nợ xấu là dự án bất động sản. Việc quy định này nhằm
khắc phục bất cập trong quy định tại Điều 49 Luật kinh doanh bất động sản về
31
điều kiện chuyển nhượng dự án bất động sản không phù hợp với việc xử lý
TSBĐ là dự án bất động sản, tạo cơ sở pháp lý cho bên nhận thế chấp xử lý
được TSBĐ là các dự án bất động sản.
2.1.1.4. Quy định về áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh
chấp liên quan đến tài sản bảo đảm tại tòa án
Đây được coi là một trong những quy định mở và có lợi hơn rất nhiều
cho TCTD trong việc khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền vì rút ngắn
được quá trình giải quyết tranh chấp qua tòa án, đồng thời tăng hiệu quả hoạt
động xử lý TSBĐ. Thông thường, một vụ việc khi TCTD khởi kiện khách hàng
ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền về trình tự thủ tục và thời gian phải mất từ 2
đến 3 năm sau đó mới thi hành án được và đến lúc thi hành án thì TSBĐ đã bị
hao mòn, mất giá trị. Tuy nhiên, với việc quy định thủ tục rút gọn trong giải
quyết tranh chấp, Nghị quyết đã “thổi một làn gió mát” cho hoạt động khởi kiện
nói riêng và hoạt động thu hồi nợ nói chung tại các TCTD.
2.1.1.5. Quy định về kê biên tài sản bảo đảm của bên phải thi hành án
“Các TSBĐ của khoản nợ xấu của bên phải thi hành án đang bảo đảm
cho nghĩa vụ trả nợ tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua
bán, xử lý nợ xấu không bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định
tại Điều 90 của Luật Thi hành án dân sự.” [16, Đ11] Các văn bản pháp luật
trước đây khi đề cập đến việc xử lý nợ tại các TCTD thường cho phép chấp
hành viên kê biên cả TSBĐ của bên phải thi hành án đang thế chấp, cầm cố
tại TCTD để đảm bảo cho khoản vay theo Luật thi hành án dân sự nên đã ảnh
hưởng lớn đến quyền lợi hợp pháp của TCTD và phần nào đó đã gia tăng nợ
xấu cho hệ thống TCTD, đặc biệt trong trường hợp TSBĐ là tài sản hình
thành từ vốn vay hoặc là nguồn thu nhập chính để trả nợ, do đó, việc Nghị
quyết 42 quy định các TSBĐ của khoản nợ xấu của bên phải thi hành án đang
bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tại TCTD không bị kê biên đã tạo điều kiện
32
thuận lợi hơn cho TCTD trong việc xử lý thu hồi nợ.
2.1.1.6. Tính minh bạch giữa xử lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại
so với hoạt động thu hồi nợ của các công ty thu hồi nợ do tổ chức, cá nhân
thành lập
Do quan hệ về xử lý nợ xấu là một loại quan hệ cụ thể, liên quan đến
nhiều lĩnh vực do vậy những quy định điều chỉnh về quan hệ pháp luật này
thường nằm rải rác tại nhiều văn bản luật khác nhau. Trong quá trình xử lý nợ
xấu của các NHTM được hỗ trợ bằng một hệ thống các quy định pháp luật
liên quan, pháp luật điều chỉnh hoạt động này nằm trong bộ phận pháp luật về
ngân hàng là chủ yếu. Ngoài ra, một số nghiệp vụ xử lý nợ của NHTM có liên
quan đến TSBĐ thì lại được điều chỉnh bởi pháp luật dân sự và thậm chí được
điều chỉnh bởi pháp luật tố tụng trong trường hợp ngân hàng tiến hành biện
pháp thu hồi nợ bằng việc khởi kiện khách hàng ra Tòa án hay các cơ quan tố
tụng khác có thẩm quyền,…
Trong khi đó, hiện nay các công ty thu hồi nợ do các tổ chức, cá nhân
thành lập vẫn chưa có khung pháp lý điều chỉnh rõ ràng, chỉ những doanh
nghiệp được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ này mới được
phép hoạt động dịch vụ thu hồi nợ. Các doanh nghiệp này chỉ được thực hiện
các biện pháp thu hồi nợ phù hợp với quy định của pháp luật. Hoạt động này
chỉ được thực hiện theo hợp đồng ủy quyền được ký kết giữa chủ nợ và khách
nợ với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ này trong phạm vi được pháp luật
công nhận.
2.1.2. Những hạn chế về xử lý nợ xấu của NHTM và nguyên nhân
2.1.2.1. Quy định về xử lý tài sản bảo đảm và quyền thu giữ tài sản
bảo đảm
Theo quy định tại Điều 299 Bộ luật Dân sự năm 2015, các trường hợp
xử lý TSBĐ gồm có: (i) Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có
nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ;(ii) Bên có
33
nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước hạn do vi phạm nghĩa
vụ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của luật;(iii) Trường hợp khác do các
bên thỏa thuận hoặc luật có quy định.
Người đang giữ TSBĐ có nghĩa vụ giao TSBĐ cho bên nhận bảo đảm để
xử lý khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 299 nêu trên. Trường
hợp người đang giữ TSBĐ không giao tài sản thì bên nhận bảo đảm có quyền
yêu cầu Tòa án giải quyết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.
Trên thực tiễn, trường hợp khách hàng vay có nợ xấu, thế chấp TSBĐ là
tài sản hình thành trong tương lai và/hoặc các quyền tài sản phát sinh từ hợp
đồng hợp tác đầu tư với chủ đầu tư để thực hiện dự án đấu tư xây dựng bất động
sản (không phải trực tiếp là chủ đầu tư dự án), khi khách hàng không hợp tác,
không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, thì không thể áp dụng biện pháp thu giữ TSBĐ.
Việc xử lý phải thông qua hoạt động khởi kiện, trong trường hợp có bản án thì
việc thi hành án để phát mại tài sản là quyền tài sản cũng rất khó khăn.
Quy định về quyền thu giữ TSBĐ của các TCTD không phải là quy
định mới của pháp luật mà đã được ghi nhận, thực hiện nhiều năm theo quy
định tại Điều 63 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính
phủ về giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, kể từ ngày BLDS 2015 có hiệu lực, cơ
sở pháp lý về quyền thu giữ TSBĐ của ngân hàng đã không được khẳng định
rõ ràng. Do đó, quyền lợi hợp pháp chính đáng của ngân hàng trong việc thu
giữ TSBĐ để xử lý thu hồi nợ xấu đã không được pháp luật bảo vệ, tạo điều
kiện cho khách hàng vay vốn chây ỳ, cố tình trốn tránh và kéo dài thời gian
thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng.
Nghị quyết 42/2017 mới chỉ phần nào khắc phục được điều này bằng
cách trao quyền thu giữ TSBĐ cho các TCTD và VAMC. Tuy nhiên, điều
kiện lớn nhất để các tổ chức này có quyền thu giữ TSBĐ chính là tại hợp
đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho TCTD có quyền
thu giữ TSBĐ. Do vậy, nếu hợp đồng bảo đảm không thỏa thuận cụ thể về
quyền thu giữ hoặc có thỏa thuận những nội dung không rõ ràng có thể gây
34
bất lợi cho TCTD trong việc phối hợp với các cơ quan chức năng để thực hiện
quyền lợi của mình. Hơn nữa, Nghị quyết 42/2017 còn bỏ ra ngoài đối tượng
người mua khoản nợ xấu là các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài được
quyền thu giữ TSBĐ. Chính vì thế, nhà đầu tư chỉ có thể khởi kiện nếu người
thế chấp không bàn giao tài sản. Điều này khiến cho các nhà đầu tư không
mặn mà để mua các khoản nợ xấu từ các định chế tài chính Việt Nam. Bên
cạnh đó, khi các TCTD tiến hành thu giữ tài sản thì việc hỗ trợ của các cơ
quan chính quyền là chưa cao, trên thực tế các cơ quan này chỉ là bên chứng
kiến và đảm bảo an ninh trật tự khi các TCTD tiến hành thu giữ tài sản chứ
chưa có cơ chế về việc hỗ trợ cho các TCTD. Do đó, số vụ việc mà các TCTD
tự thực hiện thu giữ thành công là không nhiều.
2.1.2.2. Quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm
Theo quy định tại Điều 307 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì “số tiền có
được từ việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp sau khi thanh toán chi phí bảo
quản, thu giữ và xử lý tài sản cầm cố, thế chấp được thanh toán cho bên nhận
bảo đảm. Trường hợp số tiền có được từ việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp
sau khi thanh toán chi phí bảo quản, thu giữ và xử lý tài sản cầm cố, thế chấp
lớn hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm thì số tiền chênh lệch phải được trả
cho bên bảo đảm. Nếu số tiền có được từ việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp
sau khi thanh toán chi phí bảo quản, thu giữ và xử lý tài sản cầm cố, thế chấp
nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm thì phần nghĩa vụ chưa được thanh
toán được xác định là nghĩa vụ không có bảo đảm, trừ trường hợp các bên có
thỏa thuận bổ sung tài sản bảo đảm. Bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu bên
có nghĩa vụ được bảo đảm phải thực hiện phần nghĩa vụ chưa được thanh
toán.” [4, Đ1]
Hiện nay, pháp luật về thuế chỉ miễn thuế giá trị gia tăng (VAT) đối
với tiền bán TSBĐ tiền vay do tổ chức tín dụng hoặc cơ quan thi hành án thực
hiện. Tuy nhiên, đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, cơ quan thuế vẫn áp
dụng và thu loại thuế này tính trên số tiền bán TSBĐ thu được do TCTD
35
thực hiện. Thực tế, sau khi ngân hàng bán được TSBĐ của doanh nghiệp, cơ
quan thuế đã áp dụng biện pháp ngăn chặn, không cho người mua thực hiện
thủ tục sang tên đối với TSBĐ bắt buộc phải đăng ký quyền sở hữu theo quy
định của pháp luật. Cho nên, nếu người mua hoặc bên bán không đáp ứng yêu
cầu của cơ quan thuế (nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với mức thuế suất
20% tính trên số tiền bán TSBĐ thì người mua không thể làm hoàn thiện
được thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với TSBĐ, qua đó ngân hàng không
thể thu hồi được nợ xấu. Trường hợp đáp ứng yêu cầu của cơ quan thuế thì cơ
hội thu hồi nợ xấu của ngân hàng bị giảm đáng kể sau khi trừ chi phí xử lý
TSBĐ và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Thực tế, để bán được TSBĐ thu
hồi nợ, ngân hàng đã phải mất nhiều công sức và thanh toán các chi phí liên
quan. Nhiều trường hợp khách hàng vay là doanh nghiệp đã ngừng hoạt động
kinh doanh trên thực tế, không có doanh thu từ hoạt động kinh doanh và âm
vốn chủ sở hữu trong nhiều năm, nên khách hàng không có thu nhập để nộp
thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định. Nguồn trả nợ vay ngân hàng lúc
này chỉ còn duy nhất là các TSBĐ. Việc xử lý TSBĐ là biện pháp thu hồi nợ,
không phải là hoạt động kinh doanh tài sản của ngân hàng. Do đó, khoản nợ
có bảo đảm của ngân hàng phải được ưu tiên thanh toán trước theo đúng quy
định của pháp luật dân sự (Điều 307 Bộ luật Dân sự năm 2015), thỏa thuận
trong hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm so với khoản nợ không có bảo
đảm khác (kể cả thuế thu nhập doanh nghiệp) từ số tiền xử lý tài sản thế chấp,
cầm cố hợp pháp tại ngân hàng.
Ở khía cạnh khác, liên quan thuế thu nhập cá nhân khi chuyển nhượng
bất động sản thì người có tài sản chuyển nhượng (kể cả người phải thi hành
án) thuộc đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân theo quy định tại khoản 5
Điều 3 Nghị định số 65/2013/NĐ-CP ngày 27/6/2013 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của thuế thu nhập cá nhân. Tuy nhiên, tại Điều 12 Nghị
quyết số 42 lại quy định số tiền thu từ TSBĐ được ưu tiên thanh toán cho
36
TCTD trước khi thực hiện nghĩa vụ thuế. Hầu hết các trường hợp, số tiền thu
được từ việc xử lý tài sản không đủ để thanh toán cho TCTD nên không còn
để thanh toán nghĩa vụ thuế. Trong khi đó, tại Công văn số 4606/BTC-TCT
ngày 20/4/2018 của Bộ Tài chính quán triệt thực hiện Nghị quyết số 42 chưa
hướng dẫn cụ thể về trường hợp này.
2.1.2.3. Quá trình giải quyết tranh chấp Hợp đồng tín dụng tại Tòa án
Thực tiễn thu hồi nợ xấu cho thấy, TCTD phải sử dụng nhiều giải pháp để
xử lý nợ và giải pháp cuối cùng khi thu hồi nợ là khởi kiện ra Tòa án. Tuy nhiên,
việc khởi kiện thu hồi nợ của TCTD trên thực tế gặp nhiều rào cản như sau:
Thứ nhất, Về quan điểm xác định thẩm quyền xem xét, giải quyết vụ
án, các Tòa án hiện nay hiểu rất khác nhau. Theo đó, có Tòa án tôn trọng thỏa
thuận của các bên được nêu trong các hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp,
tạo điều kiện cho TCTD tập trung xử lý các vụ việc thuận lợi, chấp nhận nội
dung thỏa thuận chọn Tòa án nơi có rụ sở hoạt động của TCTD, Chi nhánh,
Phòng giao dịch của TCTD. Tuy nhiên, cũng có nhiều Tòa án không chấp
nhận mà cho rằng phải là nơi Tòa án nơi có tài sản thế chấp hoặc nơi thường
trú của bị đơn.
Thứ hai, Tòa án không tống đạt được cho khách hàng, bị đơn và người
liên quan đến vụ việc. Do bên bị khởi kiện cố tình trốn tránh, hợp hợp tác...
Tòa án lại phải ra quyết định trả lại đơn khởi kiện cho TCTD, hoặc đình chỉ
vụ án vì cho rằng chưa đủ điều kiện khởi kiện. Trong khi đó, mọi quyền lợi,
nghĩa vụ của các bên liên quan đã được thỏa thuận rất chi tiết, cụ thể trong
Hợp đồng tín dụng, Hợp đồng thế chấp và các văn bản thỏa thuận khác.
Không những thế, tài sản thế chấp vẫn tồn tại trên thực tế nhưng Tòa án vẫn
trả lại đơn khởi kiện, đình chỉ vụ án vị các lý do không triệu tập được bị đơn,
khách hàng, người liên quan. Đây là yếu tố chủ yếu gây ra tình trạng trì trệ
đối với quá trình tố tụng khi TCTD đi khởi kiện khách hàng, bên thế chấp.
Thứ ba, Sự bất hợp tác của người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan trong trường hợp này sẽ làm cho việc giải quyết vụ án của Tòa
37
án bị kéo dài. Tòa án phải tiến hành xác minh, niêm yết văn bản tố tụng theo
quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự mới có thể xét xử vắng mặt họ. Ngoài
ra, có người bị kiện còn ủy quyền cho Luật sư tham gia tố tụng với mục đích
kéo dài thời gian giải quyết vụ án càng lâu càng tốt (đề nghị thu thập thêm tài
liệu, chứng cứ, tiến hành trưng cầu giám định tài liệu,...). Đối với những vụ án
phức tạp có nhiều người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì phiên tòa xét xử
bị hoãn nhiều lần là điều khó tránh khỏi, gây bức xúc mệt mỏi cho TCTD
trong việc tham gia tố tụng.
Thứ tư, vướng mắc từ hợp đồng mua bán nợ với VAMC.
Theo quy định tại Điều 14 Nghị định số 53/2013/NĐ-CP ngày 18/5/2013
của Chính phủ về thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản
của các TCTD Việt Nam (VAMC); Điều 5 của Thông tư số 19/2013/TT-NHNN
ngày 06/9/2013 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì VAMC có quyền mua
lại các khoản nợ tại các TCTD khi các khoản nợ có đủ điều kiện theo quy định
của Nghị định số 53/2013/NĐ-CP và Thông tư số 19/2013/TT-NHNN. Việc
mua bán nợ được thực hiện giữa các TCTD với Công ty VAMC thông qua hợp
đồng mua bán nợ.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Thông tư số 19/2013/TT-NHNN thì
trong hoạt động mua, bán nợ giữa VAMC và TCTD, toàn bộ các quyền và lợi
ích gắn liền với khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm và biện pháp bảo đảm khác
cho khoản nợ xấu được bên bán nợ giữ nguyên hiện trạng và chuyển giao cho
bên mua nợ theo hợp đồng mua, bán nợ. Vấn đề đặt ra là, đối với các khoản
nợ đã được bán cho VAMC mà TCTD đã tiến hành khởi kiện trước đó và Tòa
án các cấp đã thụ lý giải quyết (đã thụ lý xác minh thu thập chứng cứ, đã hòa
giải, đã xét xử sơ thẩm) thì xử lý như thế nào. Đây là vướng mắc của tất cả
các TCTD hiện nay.
Thứ năm, về thời gian tố tụng. Theo quy định tại Điều 179 của Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015, đối với các vụ án dân sự, kinh doanh thương mại là
tranh chấp liên quan đến Hợp đồng tín dụng thì thời hạn chuẩn bị xét xử là 02
38
tháng kể từ ngày thụ lý vụ án (đối với những vụ án có tính chất phức tạp thì
Chánh án Tòa án có thể gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02
tháng), tuy nhiên trên thực tế nhiều Tòa án không thực hiện đúng quy định về
thời hạn chuẩn bị xét xử mà Bộ Luật tố tụng dân sự quy định [17, tr 1-3].
2.1.2.4. Quy định về thủ tục rút gọn khi giải quyết tranh chấp
Điều 8 Nghị quyết 42/2017 quy định việc tòa án được áp dụng thủ tục
rút gọn để giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao TSBĐ hoặc tranh chấp về
quyền xử lý TSBĐ của khoản nợ xấu. Ngày 15/5/2018 Hội đồng thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP
hướng dẫn về việc áp dụng thủ tục rút gọn theo Điều 8 Nghị quyết 42. Theo
đó, khi áp dụng thủ tục rút gọn tại Tòa án, TCTD cần lưu ý về điều kiện áp
dụng thủ tục rút gọn, cụ thể, chỉ được áp dụng khi hợp đồng bảo đảm có thỏa
thuận về việc bên bảo đảm có nghĩa vụ giao TSBĐ của khoản nợ xấu cho bên
nhận bảo đảm hoặc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC có
quyền xử lý TSBĐ; Giao dịch bảo đảm, biện pháp bảo đảm đã đăng ký theo
quy định của pháp luật; Không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh
chấp ở nước ngoài, trừ trường hợp đương sự ở nước ngoài và đương sự ở Việt
Nam có thỏa thuận đề nghị Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn hoặc các
đương sự giải trình được chứng cứ về quyền sở hữu hợp pháp tài sản và có
thỏa thuận thống nhất về việc xử lý tài sản.
Tuy nhiên, theo quy định tại Khoản 3 Điều 317 về điều kiện áp dụng
thủ tục tố tụng rút gọn và Khoản 4 Điều 323 BLTTDS 2015 quy định về thời
hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn, trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn, nếu xuất hiện tình tiết mới mà các bên
đương sự không thống nhất làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải
quyết theo thủ tục rút gọn thì Tòa án phải ra quyết định chuyển vụ án sang
giải quyết theo thủ tục thông thường. Như vậy, trường hợp bên có nghĩa vụ
trả nợ/chủ tài sản/bên bảo đảm không hợp tác, chống đối, rất dễ dẫn đến
trường hợp cố tình tạo ra các tình tiết mới để đưa vụ án về thủ tục tố tụng
39
thông thường, nhằm mục đích kéo dài thời gian giải quyết vụ việc. Do đó, nếu
không có hướng dẫn cụ thể với những quy định nêu trên, biện pháp áp dụng
các thủ tục rút gọn có thể không phát huy được hiệu quả xử lý trong thực tế
như kỳ vọng khi Ban hành Nghị quyết 42/2017.
Một vấn đề nữa là việc áp dụng thủ tục rút gọn đối với tranh chấp về
nghĩa vụ giao TSBÐ, tranh chấp về quyền xử lý TSBÐ của khoản nợ xấu.
Mặc dù được kỳ vọng giúp bớt ngân hàng giảm thời gian và chi phí trong việc
đeo đuổi giải quyết tranh chấp liên quan đến TSBĐ tại Tòa án, nhưng việc áp
dụng theo thủ tục rút gọn rất hạn chế. Theo rà soát sơ bộ, đến nay vẫn chưa có vụ án nào được áp dụng trong thực tế theo hướng dẫn thủ tục rút gọn.
2.1.2.5. Quy định về hình thành sàn giao dịch nợ và thị trường mua bán
nợ xấu
Hiện tại, về hành lang pháp lý cho việc hình thành sàn giao dịch nợ
cũng như thị trường mua bán nợ, Chính phủ mới chỉ ban hành Nghị định quy
định về điều kiện kinh doanh dịch vụ mua bán nợ và Bộ Tài chính mới đang
được giao xúc tiến xây dựng Dự thảo Nghị định quy định về hoạt động mua
bán nợ. Các khoản nợ được giao dịch trên thị trường mua bán nợ hoặc sàn
giao dịch mua bán nợ sẽ phải được giao dịch công khai, cho mọi đối tượng đủ
điều kiện, có nhu cầu mua có thể tiếp cận. Tuy nhiên, các khoản nợ trước khi
được phép bán thỏa thuận trên thị trường phải trải qua nhiều thủ tục và điều
kiện. Đối với các khoản nợ mua bằng trái phiếu đặc biệt, phải trải qua bước
bán đấu giá hoặc chào giá cạnh tranh ít nhất một lần không thành thì bên xử
lý nợ mới được bán khoản nợ theo phương thức thỏa thuận. Đối với khoản nợ
mua theo giá trị thị trường, cũng chỉ được bán khoản nợ theo phương thức
thỏa thuận trực tiếp khi đáp ứng được điều kiện giá bán khoản nợ không thấp
hơn giá trị ghi sổ số dư nợ gốc của khoản nợ xấu tại hoặc sau khi đã bán nợ
theo phương thức đấu giá hoặc chào giá cạnh tranh không thành. Những quy
định này nhằm đảm bảo công khai, minh bạch, hạn chế việc thông đồng giữa
người mua, người bán trong hoạt động xử lý nợ, tuy nhiên, mặt khác lại làm
40
hạn chế khả năng tham gia cũng như việc khẳng định vai trò trung tâm phát
triển thị trường mua bán nợ. Đặc biệt gây khó khăn đối với chủ thể xử lý nợ
đặc biệt như VAMC, tham gia thị trường mua bán nợ với vai trò bình đẳng
như các chủ thể khác vừa bị chi phối bởi biến động của thị trường mua bán nợ
song vừa phải bảo toàn vốn Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Có quá ít công ty mua nợ dẫn tới tình trạng độc quyền mua. Chính vì
vậy, giá chào mua của Công ty TNHH Mua bán nợ Việt Nam (DATC) rất
thấp, chỉ từ 30 - 40% giá trị nợ gốc, điều này đã làm hạn chế sự phát triển của
thị trường và tác động đến nhu cầu muốn bán nợ của các TCTD. Trong khi
đó, từ khi thành lập đến nay, trung bình mỗi năm, DATC xử lý được gần
1.000 tỷ đồng nợ xấu, một con số quá nhỏ so với dư nợ xấu cần giải quyết.
Thông tin về hàng hóa nợ xấu trên thị trường thiếu minh bạch, còn nhiều bất
cập. Nguồn cung hàng hóa cho thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp về nợ
xấu chủ yếu từ các TCTD, tuy nhiên số liệu về nợ xấu của các TCTD hiện
nay chỉ được báo cáo với cơ quan quản lý Nhà nước, việc tiếp cận số liệu là
rất khó khăn. Các TCTD rất hạn chế trong việc công khai về các khoản nợ
xấu, chủ yếu hiện nay việc bán nợ của TCTD là do sức ép từ quy định giới
hạn về tỷ lệ nợ xấu của NHNN. Thêm vào đó, TCTD có thể dùng kỹ thuật tài
chính để đẩy tỷ lệ nợ xấu xuống dưới 3%. Khi đó, các TCTD sẽ không có sức
ép để xử lý tiếp nợ xấu, khiến cho thị trường mua bán nợ xấu sơ cấp ít hoạt
động, thị trường mua bán nợ xấu nói chung khó có thể phát triển do nhu cầu
mua bán nợ không còn lớn, không tạo được hàng hóa cho thị trường hoạt
động. [6, tr 5-6].
2.1.2.6. Xử lý nợ xấu qua thi hành án còn nhiều vướng mắc
Về nguyên nhân khách quan, một số nguyên nhân từ các TCTD, Ngân
hàng có thể kể đến như: Khi thẩm định giá tài sản thế chấp trước khi cho vay
cao hơn nhiều lần so với giá thẩm định khi kê biên đấu giá; tài sản thực tế
không đúng, là nhà tình nghĩa, nhà tình thương, nhà đại đoàn kết, có mồ mả
trên đất. Bên cạnh đó, ý thức chấp hành pháp luật của người phải thi hành án
41
còn chưa cao, phần lớn người phải thi hành án tìm cách trốn tránh, chây ỳ,
chống đối quyết liệt việc thi hành án (thay đổi liên tục người đại diện, thay
đổi địa chỉ, trốn tránh không làm việc, thậm chí lợi dụng thủ tục yêu cầu
tuyên bố phá sản, khiếu nại tố cáo, quyền khởi kiện ra Tòa án nhằm kéo dài
thời gian tổ chức thi hành án)...
Cùng với đó là sự bất cập, chồng chéo, chưa rõ ràng của pháp luật có liên
quan như: chưa cụ thể thủ tục thi hành án khi có liên quan đến biện pháp ngăn
chặn (các đại án ngân hàng); việc xử lý tài sản hình thành trong tương lai, các dự
án còn chưa có tính khả thi; quy định về mức lãi phạt, lãi chậm thi hành án trong
bản án không rõ; chưa thống nhất bảo vệ người mua trúng đấu giá.
Ngoài ra, công tác phối hợp với một số cơ quan, đơn vị có liên quan
hiệu quả còn chưa cao như: phối hợp với Tòa án, chính quyền địa phương,
Công an trong bảo vệ cưỡng chế, xử lý hình sự hành vi cản trở, chống đối
việc thi hành án; với Sở Tài nguyên - Môi trường trong việc xử lý nghiêm các
trường hợp vi phạm, đặc biệt là vi phạm trong thủ tục chuyển quyền sử dụng
đất nhằm trốn tránh thi hành án, phối hợp cung cấp thông tin, phối hợp thực
hiện cưỡng chế thi hành án và xử lý các vướng mắc liên quan; với Viện kiểm
sát trong việc kiểm sát và xử lý nghiêm các hành vi cản trở, trốn tránh việc thi
hành án, việc áp dụng các quy định pháp luật liên quan.
Một nguyên nhân khách quan nữa đó là tâm lý e ngại của người dân
mua tài sản thi hành án vì hầu hết họ cho rằng tài sản bị xiết nợ là không may
mắn; lo ngại chậm được giao tài sản;
Về nguyên nhân chủ quan, một số Thủ trưởng cơ quan THADS (nhất
là cấp huyện) chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm thu hồi nợ xấu, chưa tích
cực chủ động mà phó mặc cho Chấp hành viên; một số Chấp hành viên còn
chậm tổ chức thi hành án hoặc cố tình trì hoãn việc tổ chức thi hành án, chưa
kiên quyết áp dụng các quy định của pháp luật để tổ chức thi hành án, để việc
42
thi hành án kéo dài. [23, tr 5-6].
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý nợ xấu tại TPBank
2.2.1. Giới thiệu chung về TPBank [27, tr 1-30].
2.2.1.1. Lịch sử thành lập và hoạt động của TPBank
- Tháng 5/2008: TPBank nhận Giấy phép thành lập của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam và đã triển khai hệ thống ngân hàng lõi Flex-cube.
- Tháng 6/2008: TPBank chính thức khai trương hoạt động.
- Tháng 8/2008: TPBank gia nhập chính thức liên minh mạng thanh toán
lớn nhất Việt Nam – SmartLink, ra mắt mắt hệ thống ngân hàng tự động
MiniBank 24/7.
- Tháng 9/2008: TPBank chính thức đăng ký với Uỷ ban chứng khoán
hoạt động dưới hình thức Công ty đại chúng.
- Tháng 10/2008: TPBank khai trương TPBank - Chi nhánh TP.Hồ Chí
Minh và ra mắt dịch vụ Internet Banking dành cho khách hàng cá nhân và
doanh nghiệp.
- Tháng 12/2008: TPBank nhận chứng chỉ ISO 9001: 2000 cho toàn bộ
hoạt động, sản phẩm, dịch vụ của TPBank.
- Năm 2009: Đại hội đồng cổ đông lần thứ nhất của TPBank được tổ
chức tại tháng 3/2009 với việc thông qua các báo cáo, nghị quyết quan trọng
là định hướng phát triển cho TPBank trong năm 2009 và các năm tiếp theo.
- Năm 2010: TPBank tổ chức Đại hội đồng cổ đông lần thứ hai vào tháng
3/2010. Tháng 8/2010, TPBank tiến hành tăng vốn điều lệ lên 2.000 tỷ đồng.
- Năm 2011: Tổ chức Đại hội đồng cổ đông bất thường vào tháng
8/2011 và Đại hội đồng cổ đông lần thứ ba vào tháng 4/2011.
- Năm 2012: Tổ chức Đại hội đồng Cổ đông vào tháng 4/2012. Tháng
11/2012, TPBank đạt Giải thưởng “Tin và Dùng”.
- Năm 2013: Ngân hàng chính thức tham gia thị trường vàng vào tháng
43
1/2013; ra mắt nhận diện thương hiệu mới với tên viết tắt là TPBank.
- Năm 2014: TPBank trở thành Ngân hàng đầu tiên trên cả nước ra mắt
phiên bản eBank trên nền công nghệ HTML5 có tính năng nhất thể hóa cả hai
phiên bản Mobile Banking và Internet Banking vào tháng 9/2014.
- Năm 2015: Trong năm này, TPBank đẩy mạnh việc khai trương ở
nhiều địa điểm trên các địa bàn trên toàn quốc.
- Năm 2016: TPBank ra mắt phiên bản Ebank v.7.0 – tự do cá nhân
hóa & Ebank Biz – HTML5 cho doanh nghiệp vào tháng 6/2016 và ra mắt thẻ
tín dụng TPBank World MasterCard vào tháng 8/2016.
- Năm 2018: TPBank đã niêm yết thành công 555 triệu cổ phiếu trên
sàn chứng khoán TP. Hồ Chí Minh. TPBank cũng được Tạp chí The Asian
Banker bình chọn nằm trong Top 10 Ngân hàng mạnh nhất Việt Nam, Top
500 Ngân hàng mạnh nhất Châu Á
2.2.1.2. Cơ cấu tổ chức của TPBank
TPBank được tổ chức và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp số
68/2014/QH13 và Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12.
2.2.1.3. Tình hình hoạt động của TPBank
Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là hoạt động được TPBank chú trọng nhằm đảm bảo
nguồn giải ngân cho hoạt động cho vay, an toàn thanh khoản và tạo điều kiện
cho sự tăng trưởng của hoạt động tín dụng, đầu tư. Các sản phẩm huy động
vốn của TP Bank đáp ứng tốt nhu cầu tiền gửi, thanh toán của dân cư, tổ chức
và doanh nghiệp bằng ngoại tệ và nội tệ.
Trên thị trường 1 (khách hàng là cá nhân và các tổ chức kinh tế),
TPBank đưa ra các sản phẩm huy động vốn đa dạng, tiện ích, cạnh tranh.
Thị trường 2: Là mảng thị trường tập trung vào các định chế tài chính
(Tổ chức tín dụng, công ty tài chính…). Bên cạnh việc huy động vốn trên thị
trường liên ngân hàng, TP Bank đồng thời tham gia nhận vốn tài trợ của các
định chế quốc tế như IFC, ADB trong các chương trình tài trợ thương mại.
44
Chi tiết nguồn vốn huy động của TP Bank trong các năm qua như sau:
Bảng 2.1. Cơ cấu nguồn vốn huy động của TPBank
Chỉ
Năm 2017
Năm 2018
tiêu
Giá trị
Giá trị
Tỷ trọng Giá trị
Tỷ trọng
Năm 2016 Tỷ trọng
41.245.246
41,2%
38.251.634
32,57%
33.491.419
26,67%
55.082.028 55,03%
70.298.586
59,86%
76.138.072
60,65%
-
-
3.481.154
2,96%
8.715.178
6,94%
96.327.274 96,23% 112.031.374
95.39% 118.344.669
94,26%
trả
3.773.249
3,77%
5.410.656
4,61%
7.213.049
5,74%
100.100.523
100% 117.442.030
100% 125.557.718
100%
Tiền gửi và vay các TCTD khác Tiền gửi của khách hàng Phát hành giấy tờ có giá nguồn Tổng huy động TT1 & TT2 Nợ phải khác Tổng nợ phải trả
Đơn vị: triệu đồng
(Nguồn: Báo cáo tài chính TPBank đã được kiểm toán 2016, 2017 và 2018)
Huy động thị trường 1 tại 31/12/2018 đạt 84.853 tỷ đồng, tăng 15% so
với năm 2017. Trong đó tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng đạt 14.552 tỷ
đồng, chiếm 17,15% huy động thị trường 1. Huy động bằng ngoại tệ đạt 9.302
tỷ đồng, tăng 1.458 tỷ đồng (18,6%) so cuối năm trước, chiếm 11% trên huy
động thị trường 1. Đặc biệt, trong năm 2018 TP Bank duy trì một định hướng
huy động hiệu quả và định vị TPBank là một ngân hàng hoạt động an toàn với
mức lãi suất huy động các kỳ hạn chỉ ở tầm trung của thị trường.
Hoạt động tín dụng
Dư nợ tín dụng thị trường 1 đến cuối năm 2018 toàn hàng đạt 84.329
tỷ đồng, trong đó dư nợ cho vay khách hàng 78.458 tỷ đồng (chiếm 93%), trái
45
phiếu doanh nghiệp đạt 5.871 tỷ đồng (chiếm 7%).
Đối với phân khúc khách hàng cá nhân, năm 2018 cho vay khách hàng
cá nhân tăng 51% so với năm 2017, cho thấy những nỗ lực cũng như năng lực
của đội ngũ bán hàng, tính hiệu quả các sản phẩm vay đáp ứng nhu cầu đa
dạng của khách hàng. Lãi suất cho vay tăng 0,3% đến từ các điều chỉnh chủ
động về giá đóng góp đáng kể vào tăng trưởng thu thuần từ lãi vay tạo thêm
lợi cho ngân hàng.
Đối với phân khúc khách hàng doanh nghiệp, năm 2018 dư nợ tăng
3% so với năm 2017. Một số sản phẩm đã và đang triển khai thành công như:
sản phẩm cho vay mua xe ôtô khách hàng doanh nghiệp, sản phẩm cho vay
nhanh…ngày càng thu hút được nhiều khách hàng mới, doanh số giải ngân
tăng; sản phẩm tài trợ trọn gói ngành xây lắp đã tạo điều kiện thuận lợi cho
đơn vị kinh doanh tiếp cận và cấp tín dụng cho các doanh nghiệp trong ngành
này.... Những nỗ lực trong việc xử lý nợ xấu tồn đọng và tăng trưởng tín dụng
có chất lượng tốt đã giúp cho chất lượng tín dụng tiếp tục được cải thiện, tỷ lệ
nợ xấu của ngân hàng chỉ ở mức 0,82% còn nếu bao gồm cả nợ xấu kéo theo
do phân loại lại theo nhóm nợ cao nhất của khách hàng tại ngân hàng khác thì
cũng chỉ ở mức 1,1% tại thời điểm 31/12/2018, thấp hơn nhiều so với trung
bình ngành.
Hoạt động đầu tư kinh doanh ngoại tệ và vàng
Theo quy định của NHNN, TPBank luôn đảm bảo trạng thái ngoại tệ trong
biên độ (- 20%, +20%) trên vốn tự có. Chi phí vốn của việc dương trạng thái
ngoại tệ phục vụ nhu cầu khách hàng đã ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh
ngoại tệ. Tuy nhiên, bù lại Ngân hàng phát triển tốt được dịch vụ thanh toán,
thương mại quốc tế, phát triển hệ thống khách hàng mới và thu phí ngoài lãi.
TPBank tiếp tục được Bộ Tài chính công nhận là nhà tạo lập thị trường
công cụ nợ của Chính phủ năm 2019 trong số 12 ngân hàng đủ điều kiện.
46
Hoạt động ngoại hối cho khách hàng doanh nghiệp, dịch vụ cá nhân khởi sắc,
mạng lưới khách hàng mở rộng, doanh số tăng mạnh. Năm 2018 mảng kinh
doanh này mang lại lợi nhuận cho ngân hàng trên 81,3 tỷ đồng.
Hoạt động kinh doanh chứng khoán
Bảng 2.2. Hoạt động kinh doanh chứng khoán của TPBank
Đơn vị: triệu đồng
Hạng mục Năm 2017 Năm 2018
Chứng khoán đầu tư sẵn sàng để bán 24.938.137 24.641.343
Chứng khoán nợ 24.622.968 24.326.174
Trái phiếu chính phủ 10.984.557 13.120.203
Chứng khoán nợ của các TCTD khác trong 5.793.942 5.186.615
nước
Chứng khoán nợ của các tổ chức kinh tế 6.294.469 5.069.306
trong nước
Chứng chỉ tiền gửi 1.550.000 950.000
Chứng khoán vốn 315.169 315.169
Chứng khoán vốn do các TCTD trong nước 315.169 315.169
phát hành
Chứng khoán đầu tư giữ đến ngày đáo hạn 994.187 801.205
Trái phiếu VAMC 949.487 756.515
Trái phiếu DATC 44.700 44.700
Dự phòng chứng khoán đầu tư (467.322) (543.035)
Dự phòng chứng khoán sẵn sàng để bán (135.049) (179.659)
Dự phòng chứng khoán giữ đến ngày đáo (332.273) (363.376)
hạn
- Dự phòng trái phiếu VAMC (331.938) (363.041)
- Dự phòng trái phiếu DATC (335) (335)
47
(Nguồn: Báo cáo tài chính TPBank đã được kiểm toán 2016, 2017 và 2018)
Tại thời điểm 31/12/2018, 53,9% tổng số dư chứng khoán TPBank đầu
tư là trái phiếu chính phủ, 21,3% là trái phiếu các tổ chức tín dụng. Đây là các
chứng khoán có tính thanh khoản cao, an toàn về giá trị được giao dịch phổ
biến trên thị trường 2.
2.2.2. Tình hình nợ xấu tại TPBank [7, tr 7-8]
Tổng dư nợ của TPBank có sự tăng trưởng mạnh mẽ trong các năm
2016 – 2018 (Năm 2016: 47.325.782 triệu đồng; Năm 2017: 64.007.248 triệu
đồng, Năm 2018: 77.185.418 triệu đồng), tập trung chủ yếu vào các phân
khúc khách hàng cá nhân và SME. Cụ thể như sau:
Bảng 2.3. Phân loại dư nợ theo khách hàng của TPBank
Hạng mục
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
Công ty Cổ phần khác
12.737.446
19.814.857
19.056.862
Công ty Cổ phần Nhà nước
751.740
1.191.101
1.278.205
Kinh tế tập thể, hợp tác xã
37.123
64.599
114.859
Công ty TNHH khác
9.188.522
14.010.224
16.804.865
Công ty TNHH Nhà nước 100%
-
1.704.430
1.502.575
Doanh nghiệp tư nhân
712.515
256.805
199.425
Doanh nghiệp có vốn đầu tư
58.651
35.305
41.533
nước ngoài
Công ty hợp danh
932
582
207
Đơn vị hành chính sự nghiệp,
643.037
214.742
196.538
Đảng, đoàn thể và hiệp hội
Hộ kinh doanh – kinh tế cá thể
20.530.206
25.831.630
38.990.040
Công ty Nhà nước
1.140.953
-
-
Khác
841.852
298.768
39
Đơn vị: triệu đồng
(Nguồn: Báo cáo tài chính TPBank đã được kiểm toán 2016, 2017 và 2018)
48
Theo thời hạn cho vay gốc, dư nợ được phân thành 3 nhóm chính như sau:
Bảng 2.4. Phân loại dư nợ theo thời hạn vay của TPBank
Đơn vị: triệu đồng
Loại nợ Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018
Nợ ngắn hạn 17.905.580 18.703.802 17.367.653
Nợ trung hạn 16.159.684 21.098.417 24.545.522
Nợ dài hạn 13.260.518 24.205.029 35.271.973
(Nguồn: Báo cáo tài chính đã được kiểm toán 2016, 2017 và 2018)
Mặt khác, phân tích chất lượng nợ cho vay của TPBank qua các năm
tại bảng dưới đây:
Bảng 2.5. Chất lượng tín dụng của TPBank
Đơn vị: triệu đồng
Loại nợ Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018
Nợ đủ tiêu chuẩn (Nhóm 1) 48.808.218 62.211.116 74.732.049
Nợ cần chú ý (Nhóm 2) 1.167.691 1.101.526 1.591.765
Nợ dưới tiêu chuẩn (Nhóm 3) 81.831 254.740 295.942
Nợ nghi ngờ (Nhóm 4) 79.322 153.408 242.441
Nợ có khả năng mất vốn 169.905 280.933 322.951
(Nhóm 5)
Nợ tồn đọng không có TSBĐ 18.815 5.575 -
và không còn đối tượng thu
nợ
Tỷ lệ nợ quá hạn 3,17% 2,8% 3,18%
Tổng nợ xấu (Nhóm 3,4,5) 331.058 689.081 861.334
Tỷ lệ nợ xấu 0,70% 1,08% 1,12%
(Nguồn: Báo cáo tài chính đã được kiểm toán 2016, 2017 và 2018)
Về chất lượng tín dụng, tỷ lệ nợ xấu của TPBank trong các năm 2016
49
– 2018 luôn duy trì ổn định ở mức dưới 2% (từ 0,7% đến 1,12% tổng dư nợ).
2.2.3. Thực trạng hoạt động xử lý nợ xấu tại TPBank
Cơ cấu dự phòng được trích lập của TPBank trong năm 2018:
Bảng 2.6. Phân loại trích lập dự phòng theo ngành nghề
Đơn vị: triệu đồng
Số trích lập dự phòng cụ thể đã trích lập
Phân loại theo ngành nghề Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5 Nợ tồn
Bán buôn và bán lẻ, sửa 171 5.246 138 57.869
chữa ô tô, mô tô, xe máy và
xe có động cơ khác
Công nghiệp chế biến, chế 186 203 759 3.484 -
tạo
Cung cấp nước, hoạt động 46 - - -
quản lý và xử lý nước thải,
rác thải.
Dịch vụ lưu trú và ăn uống 4 14 6 99
Giáo dục và đào tạo 2 - - -
Hoạt động chuyên môn, 19 23 - -
khoa học và công nghệ
Hoạt động dịch vụ khác 5.808 2.274 5.567 40.449
Hoạt động hành chính và 13 - - -
dịch vụ hỗ trợ
Hoạt động kinh doanh bất 3 21 376 -
động sản
Hoạt động làm thuê các 15.530 6.775 19.884 46.760
công việc trong hộ gia đình,
sản xuất sản phẩm vật chất
50
và dịch vụ tự tiêu dùng của
hộ gia đình
Hoạt động tài chính, ngân - - - 39
hàng và bảo hiểm
Khai khoáng 10 - - 361
Nghệ thuật, vui chơi và giải 79 - - 288
trí
Nông nghiệp, lâm nghiệp và 30 - - 19
thủy sản
Thông tin truyền thông 25 27 61 298
Vận tải, kho bãi 219 25 281 1.074
Xây dựng 99 131 302 2.880
Tổng 22.243 14.700 26.239 151.271 3.884
(Nguồn: Báo cáo tài chính đã được kiểm toán 2016, 2017 và 2018)
Tính đến 31/12/2018 Nợ xấu của TPBank là 1,12%, tính đến hết Quý
I/2019 tỷ lệ nợ xấu của TPBank là dưới 1,5% ở mức thấp trên toàn hệ thống
các ngân hàng. TPBank áp dụng các biện pháp để kiểm soát nợ xấu như sau:
- TPBank luôn chú trọng tới công tác kiểm soát rủi ro tín dụng, đánh
giá lại chất lượng và khả năng thu hồi của các khoản nợ để có biện pháp xử lý
thích hợp. Đồng thời, TPBank thực hiện rà soát lại toàn bộ danh mục khách
hàng, phân loại khách hàng theo thực tế tình hình tài chính như: nhóm khách
hàng tài chính tốt, nhóm khách hàng có hoạt động kinh doanh tạm thời gặp
khó khăn nhưng có khả năng hồi phục nếu được hỗ trợ, nhóm khách hàng
không có khả năng trả nợ.
- Đối với những khách hàng có hoạt động kinh doanh tạm thời gặp khó
khăn và chưa thể phục hồi ngay do ảnh hưởng của thị trường, TPBank thường
51
xuyên theo dõi diễn biến dư nợ của khách hàng, đôn đốc khách hàng trả nợ đúng
hạn, thực hiện cơ cấu lại nợ cho khách hàng, hỗ trợ vốn để khách hàng có thể
khắc phục được khó khăn.
- Đối với những khách hàng nợ xấu không còn hoạt động kinh doanh,
TPBank đã trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro theo đúng quy định
của NHNN. Đồng thời, TPBank tăng cường công tác thu nợ và áp dụng các
biện pháp xử lý tài sản đảm bảo theo quy định của Nghị quyết số 42/2017 của
Quốc hội. Trong trường hợp, Đại diện của TPBank đã làm việc nhiều lần mà
khách hàng không hợp tác, TPBank sẽ tiến hành các biện pháp khởi kiện, thi
hành án, xử lý phát mại tài sản đảm bảo của khách hàng/ bên bảo đảm để thu
hồi nợ.
Ngoài ra, để khai thác triệt để các ưu đãi, lợi thế, thuận lợi của hoạt
động bán nợ cho Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam
(VAMC), TPBank đã hoàn thiện hồ sơ, bán được nợ cho VAMC theo đúng
quy định của pháp luật, góp phần “giãn” tiến độ, đưa nợ xấu vào vùng kiểm
soát an toàn. Tổng hợp kế hoạch xử lý nợ xấu của TPBank được tóm lược
trong bảng sau:
Bảng 2.6. bảng kế hoạch thu hồi nợ xấu trong 5 năm tiếp theo
Đơn vị: triệu đồng
Kế hoạch thu hồi nợ xấu tại thời điểm 31/12/2018
Tổng nợ xấu 861.334
Kế hoạch thu hồi nợ xấu
Năm 2019 215.333
Năm 2020 143.555
Năm 2021 172.266
Năm 2022 244.047
Năm 2023 86.133
52
(Nguồn: Báo cáo tài chính đã được kiểm toán 2016, 2017 và 2018)
Kết luận: Từ những số liệu thực tế trong quá trình xử lý nợ xấu tại
TPBank đã nêu ở trên có thể thấy, TPBank đã rất tích cực tập trung nguồn lực
đối với việc xử lý nợ xấu trong quá trình phát triển từ giai đoạn cơ cấu lại
ngân hàng cho đến nay, việc áp dụng các quy định liên quan đến xử lý nợ xấu
hiện nay đã mang đến cho TPBank những kết quả khả quan, tuy nhiên bên
cạnh đó vẫn còn những bất cập và hạn chế trong quá trình triển khai thực hiện
áp dụng các quy định pháp luật này. Vì vậy, qua việc đánh giá thực trạng xử
lý nợ xấu tại TPBank để từ đó có thể đưa ra được các giải pháp chung trong
vấn đề xử lý nợ xấu của các NHTM trong giai đoạn hiện nay.
2.2.4. Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về xử lý nợ xấu tại
TPBank [7, tr 10-20]
2.2.4.1. Những thành tựu đã đạt được
Việc tuân thủ đúng các quy định pháp luật về xử lý nợ xấu, đặc biệt là
xây dựng và thực thi hệ thống QTRR và quản lý nợ xấu phù hợp với quy định
của Nghị quyết 42/2017, nên tỷ lệ nợ xấu của TPBank đã được duy trì theo kế
hoạch và thấp hơn nhiều so với mức cho phép của NHNN, không phát sinh
các tổn thất vận hành và sự kiện rủi ro tiềm tàng, các chỉ tiêu an toàn trong
hoạt động được duy trì và được cải thiện một cách tích cực. Tính đến hết Quý
I/2019, tỷ lệ nợ xấu của TPBank đã kiểm soát được dưới 1,5%.
Một số nội dung cơ bản đã được triển khai liên quan đến nâng cao
năng lực QTRR vận hành như: thực hiện tốt các công việc để tuân thủ
Basel II, Thông tư 41/2016/TT-NHNN và Thông tư 13/2018/TT-NHNN
với các cấu phần quản lý rủi ro thị trường, quản lý rủi ro thanh khoản, quản
lý rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng, quản lý rủi ro tín dụng định chế tài
chính, rủi ro đối tác và rủi ro tín dụng với các khoản có tài sản bảo đảm là
cổ phiếu; Tăng cường chất lượng cảnh báo sớm rủi ro tín dụng thông qua
việc rà soát định kỳ các hồ sơ tín dụng, thực hiện cảnh báo, hỗ trợ đơn vị
53
kinh doanh lên phương án xử lý kịp thời, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
TPBank luôn tuân thủ chặt chẽ các quy định về đảm bảo an toàn vốn
của NHNN và cam kết với các đối tác nước ngoài, cụ thể theo yêu cầu của
Thông tư số: 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 “Quy định các giới hạn, tỷ
lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài”, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu luôn được duy trì ở mức trên 9%, Tỷ lệ giữa
tổng tài sản có thanh toán ngay và tổng nợ phải trả luôn được duy trì ở mức
trên 10% (quy định của NHNN không dưới 10%), tỷ lệ thanh toán trong 30
ngày tiếp theo của từng loại tiền luôn duy trì trên 50% đối với VNĐ; trên 10%
đối với ngoại tệ quy đổi sang VNĐ theo đúng quy định của NHNN, Tỷ lệ
nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn luôn được duy trì ở mức nhỏ hơn
45% (quy định của NHNN không vượt 45% vào cuối năm 2018), tại
31/12/2018, tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn của TPBank là 33%.
Tại thời điểm 31/12/2018, Tỷ lệ dự trữ thanh khoản 15,82%; Tỷ lệ thanh toán
trong 30 ngày tiếp theo đối với VNĐ là 173,88%.
Các hồ sơ khởi kiện tại các Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm, phúc thẩm
có tỷ lệ thụ lý cao chiếm trên 80%/tổng số hồ sơ đã khởi kiện, số hồ sơ thu
được nợ từ khâu thi hành án đạt trên 70%/tổng số vụ việc đã chuyển sang cơ
quan thi hành án dân sự, số vụ thu giữ theo nghị Quyết 42/2017 đạt tỷ lệ
60%/tổng số vụ việc triển khai theo Nghị quyết này.
Theo kế hoạch xử lý nợ xấu trong năm 2019 của TPBank thì TPBank
sẽ xử lý tối thiểu 500 tỷ đồng các khoản nợ xấu đã bán. Đồng thời lên kế
hoạch thành lập riêng công ty quản lý và khai thác tài sản TPBank AMC với
số vốn điều lệ vào khoảng 50 tỷ đồng để tập trung mua lại nợ từ VAMC và xử
lý các khoản nợ xấu nội bảng hiện hữu.
2.2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân còn tồn tại
Kể từ thời điểm tái cấu trúc theo yêu cầu của NHNN năm 2012 đến
nay hoạt động xử lý nợ xấu của TPBank đã đạt được nhiều khả quan, tuy
54
nhiên bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế, có thể kể đến như sau:
a. Hạn chế từ bản thân nội tại ngân hàng:
Bên cạnh việc còn tồn đọng nhiều khoản nợ xấu kéo dài nhiều năm
chưa được xử lý thì vẫn có phát sinh nhiều khoản nợ xấu mới trong giai đoạn
gần đây, nguyên nhân là do:
- Do đạo đức của cán bộ của các tổ chức tín dụng gây ra. Trong quá
trình tìm hiểu thông tin khách hàng vay vốn, bên bảo lãnh vay vốn, thẩm định
khách hàng và tài sản bảo đảm, do năng lực cán bộ tín dụng hoặc do cán bộ
tín dụng thông đồng với bên vay vốn, bên bảo lãnh cố ý làm trái quy định của
ngân hàng, pháp luật trong việc thế chấp, đăng ký thế chấp tài sản bảo đảm
gây thiệt hại cho TCTD. Có nhiều hợp đồng thế chấp tài sản có những vi
phạm nêu trên khi xét xử Tòa án đều tuyên hợp đồng thế chấp tài sản vô hiệu,
buộc TCTD phải trả lại tài sản bảo đảm cho chủ sở hữu hợp pháp, điển hình
như khi nhận tài sản thế chấp, trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ
ghi tên ông A và ông A đã cung cấp giấy xác nhận độc thân, nên khi ký Hợp
đồng thế chấp chỉ một mình ông A ký. Tuy nhiên, khi khởi kiện ra Tòa thì
mới vỡ lẽ ông A đã kết hôn với bà B ở nước ngoài và có xác nhận của lãnh sự
quán, dẫn đến việc Hợp đồng thế chấp bị tuyên vô hiệu.
- Công tác kiểm soát sau vay khi cấp vốn chưa chặt chẽ. Sau khi phát
tiền vay cho khách hàng theo quy định của chế độ tín dụng thì cán bộ tín dụng
phải có biện pháp theo dõi, nắm bắt đầy đủ mọi diễn biến của quá trình sử
dụng tiền vay và tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng. Từ đó không
phát hiện được khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, hoặc kinh doanh thua lỗ
để có biện pháp xử lý kịp thời.
- Do tư cách đạo đức của người đi vay. Đến hạn trả nợ lãi, cho dù
được đôn đốc, họ vẫn không chịu trả trong thời gian dài khiến cho các khoản
vay đều bị chuyển thành nợ xấu, thậm chí có trường hợp chống đối, hành
55
hung cán bộ xử lý nợ khi họ thực hiện nhiệm vụ.
- Đội ngũ cán bộ xử lý nợ có ít chuyên gia giỏi, có hiểu biết sâu về
pháp luật. Hơn nữa, vấn đề tuyển dụng các vị trí này của TPBank thường gặp
nhiều khó khăn do đặc trưng của công việc phải linh hoạt, nhạy bén và có
kinh nghiệm thực tế nên ít ứng viên đáp ứng được. Hay có thời kỳ, số lượng
cán bộ xử lý nợ được tuyển dụng nhiều nhưng hiệu quả công việc cũng không
được như kỳ vọng vì năng lực chuyên môn của họ chưa đủ.
b. Hạn chế từ việc áp dụng quy định tại Nghị quyết 42/2017
Vẫn còn nhiều khoản vay tuy đã làm đầy đủ các thủ tục thu giữ theo
Nghị quyết 42, tuy nhiên đến nay trong một thời gian dài vẫn chưa đạt được
kết quả, có một số nguyên nhân như sau:
- Thực tế có rất nhiều khoản nợ xấu khi TPBank cương quyết thực
hiện quyền thu giữ tài sản theo quy định tại Khoản 2, Điều 7 Nghị quyết 42
khi bên bảo đảm không tự nguyện bàn giao TSBĐ; chủ tài sản không hợp tác,
chống đối hoặc không có mặt theo thông báo thì rất khó để việc tiến hành thu
giữ thành công.
- Ngoài ra, trong trường hợp Ngân hàng có lập biên bản thu giữ TSBĐ
có sự chứng kiến và ký biên bản của đại diện chính quyền địa phương nơi tiến
hành thu giữ. Tuy nhiên, do thông tư 24/2014/TT-BTNMT của Bộ tài nguyên
và Môi trường chưa quy định thành phần hồ sơ đăng ký biến động quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất trong trường hợp TCTD thực
hiện quyền thu giữ TSBĐ theo quy định tại Điều 7 Nghị quyết 42 để xử lý tài
sản thế chấp, nên nhiều văn phòng đăng ký đất đai không chấp nhận biên bản
thu giữ TSBĐ và từ chối việc đăng ký cho người mua tài sản thế chấp.
c. Hạn chế trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án
Đến nay, tại TPBank vẫn còn nhiều khoản nợ xấu đã được tiến hành
khởi kiện ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều hồ
sơ chưa được Tòa án thụ lý và tiến hành xử lý, một trong những nguyên nhân
56
là do:
- Có rất nhiều khoản nợ xấu mà khách hàng vay và chủ tài sản bảo
đảm hoặc người có quyền và lợi ích liên quan không có thông tin, không liên
lạc được. Theo quy định tại Nghị quyết 04/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao hướng dân thì không cần phải niêm yết và đăng tin liên
quan đến vụ kiện. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn rất nhiều Tòa án vẫn áp dụng
hình thức này. Dẫn đến việc chi phí xử lý vụ việc bị phát sinh lên cao.
- Bên cạnh đó, có rất nhiều khoản nợ xấu khi có phát sinh tranh chấp
giữa chủ tài sản bảo đảm với bên thứ ba, hoặc trên tài sản bảo đảm có bên thứ
ba sinh sống thì Tòa án có xu hướng ngại xử lý vì thời gian giải quyết hồ sơ
sẽ bị kéo dài. Một số trường hợp, khi đưa ra Tòa án giải quyết thì khách hàng
vay không còn sống, chủ tài sản bảo đảm chết dẫn tới việc kê khai di sản thừa
kế gặp khó khăn nếu những người có liên quan không hợp tác. Do đó, Tòa án
có xu hướng ngại giải quyết những hồ sơ như trên.
- Đối với Tài sản bảo đảm là động sản (ô tô,...) thì việc xác định vị trí
của tài sản là rất khó, do vậy kể cả khi Tòa án có thụ lý hồ sơ để giải quyết thì
khi đến khâu xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án thì hồ sơ lại bị đình chỉ vì
lý do không thực hiện được thủ tục trên, do đó hồ sơ quá hạn lại bị kéo dài mà
không được xử lý.
- Có nhiều trường hợp, khi TPBank tiến hành khởi kiện một doanh
nghiệp ra Tòa án thì khi thực hiện xác minh tình trạng hoạt động của Doanh
nghiệp đó tại nơi cấp Đăng ký kinh doanh thì nhận được thông tin là doanh
nghiệp đã làm thủ tục phá sản từ trước, do đó nhiều thẩm phán lấy lý do là
không còn chủ thể để khởi kiện. Do vậy, trường hợp này chỉ có thể khởi kiện
dưới hình thức kiện đòi tài sản, tuy vậy, dù hiện tại Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao đã có Nghị quyết hướng dẫn về việc áp dụng thủ tục giải
quyết đối với tranh chấp về nghĩa vụ giao TSBĐ, tuy nhiên rất nhiều hồ sơ
57
TPBank đã nộp khởi kiện theo thủ tục này nhưng vẫn chưa được giải quyết.
- Nhiều khoản nợ xấu đã được bán cho VAMC, tuy nhiên khi TPBank
nộp đơn khởi kiện ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền thì lại gặp nhiều vướng
mắc, cụ thể Theo quy định tại Điều 14 Nghị định số 53/2013/NĐ-CP ngày
18/5/2013 của Chính phủ về thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty
Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC); Điều 5 của Thông tư số
19/2013/TT-NHNN ngày 06/9/2013 của NHNN Việt Nam thì VAMC có
quyền mua lại các khoản nợ tại các TCTD khi các khoản nợ có đủ điều kiện
theo quy định của Nghị định số 53/2013/NĐ-CP và Thông tư số 19/2013/TT-
NHNN. Việc mua bán nợ được thực hiện giữa các TCTD với Công ty VAMC
thông qua hợp đồng mua bán nợ. Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Thông tư
số 19/2013/TT-NHNN thì trong hoạt động mua, bán nợ giữa VAMC và
TCTD, toàn bộ các quyền và lợi ích gắn liền với khoản nợ xấu, tài sản bảo
đảm và biện pháp bảo đảm khác cho khoản nợ xấu được bên bán nợ giữ
nguyên hiện trạng và chuyển giao cho bên mua nợ theo hợp đồng mua, bán
nợ. Vấn đề đặt ra là, đối với các khoản nợ đã được bán cho VAMC mà
TPBank đã tiến hành khởi kiện trước đó và Tòa án các cấp đã thụ lý giải
quyết (đã thụ lý xác minh thu thập chứng cứ, đã hòa giải, đã xét xử sơ thẩm)
thì chưa có hướng để xử lý. Rất nhiều trường hợp, TPBank đã khởi kiện và
Tòa án các cấp đã tiến hành các thủ tục tố tụng để giải quyết vụ kiện như tiến
hành hòa giải, xét xử sơ thẩm, tuy nhiên sau đó lại phải rút đơn khởi kiện gây
lãng phí về thời gian và chi phí. Đối với các trường hợp Tòa án các cấp chấp
nhận cho bổ sung tài liệu (do VAMC cung cấp sau khi mua bán nợ với
TCTD) để tiếp tục giải quyết vụ kiện thì vẫn còn nhiều hồ sơ chưa được đưa
ra xét xử vì vẫn chưa hoàn thiện được vấn đề pháp lý trong ủy quyền của
VAMC cho TPBank.
d. Hạn chế khi giải quyết tại cơ quan Thi hành án có thẩm quyền
Trong các năm vẫn còn nhiều hồ sơ bị kéo dài chưa được giải quyết,
58
một số nguyên nhân như sau:
- Rất nhiều Tài sản bảo đảm tại thời điểm cho vay đã thay đổi so với
thời điểm Tòa án xét xử, hoặc kể cả sau khi Bản án/ Quyết định công nhận sự
thỏa thuận có hiệu lực thì hiện trạng Tài sản lại bị thay đổi so với bản án, có
thể chủ tài sản xây dựng thêm, phá bỏ,...Vì vậy khi cơ quan thi hành án có
thẩm quyền đi xác mình thì rất khó để xử lý theo Quyết định tại Bản án.
- Khi cơ quan thi hành án tiến hành khảo sát, thẩm định sau khi nhận
được đơn yêu cầu đề nghi thi hành án của TPBank thì đương sự chống đối, có
nhiều trường hợp gây thương tích cho chấp hành viên và những người liên
quan, do đó vụ việc không thể tiến hành theo thời hạn quy định.
- Một số khoản vay khi thẩm định tài sản thế chấp trước khi cho vay
cao hơn nhiều lần so với giá trị thẩm định khi cơ quan thi hành án thực hiện
thẩm định khi kê biên đấu giá, tài sản thực tế không đúng, nhiều tài sản đã
giảm giá nhiều lần nhưng vẫn không bán được tài sản, trong trường hợp có
bán được tài sản thì số tiền thu được sau khi trừ đi các chi phí liên quan cũng
không đủ thu gốc.
e. Hạn chế trong việc thu hồi triệt để nợ gốc của các khoản nợ xấu
Đến nay, rất nhiều khoản nợ đã thu hồi được một phần nợ xấu, tuy
nhiên không thu được toàn bộ nợ gốc của khoản vay và rơi vào tình trạng mất
vốn, một trong những nguyên nhân như sau:
- Khi tiến hành xử lý tài sản thì giá trị tài sản không đủ đảm bảo cho
khoản vay và khách hàng không có tài sản khác để bổ sung, điển hình là cho
vay mua xe ô tô, doanh nghiệp thế chấp bằng tài sản bảo đảm là Quyền đòi
nợ, hàng tồn kho chậm luân chuyển,...
- Trong những năm gần đây, các khoản cho vay tín chấp có chiều
hướng gia tăng, tuy nhiên chỉ một thời gian ngắn sau khi được cấp vốn rất
nhiều khách hàng chây ỳ trả nợ, Ngân hàng đã dùng nhiều biện pháp để thu
hồi nợ tuy nhiên đều không mang lại hiệu quả vì khoản vay không có tài sản
59
bảo đảm, do đó không có tính răn đe đối với khách hàng. Hoặc, khách hàng
phá sản, không còn khả năng chi trả, nên việc đòi các khoản nợ tín chấp rơi
vào bế tắc, kể cả khi Tòa án có thụ lý và đưa ra xét xử thì khi chuyển bản án
sang cơ quan thi hành án để giải quyết thì khách hàng cũng không đủ điều
kiện để thi hành án. Do đó, rất nhiều hồ sơ mà cơ quan thi hành án đã ra quyết
định về việc khách hàng không đủ điều kiện thi hành án.
- Một trường hợp điển hình nữa có thể kể đến là việc khi vay vốn,
Khách hàng đã làm giả giấy tờ tài sản bảo đảm, nhưng trên thực tế không có
tài sản đó, khi khách hàng bị cơ quan cảnh sát điều tra truy tố và sau đó đưa
vụ việc ra xét xử thì TPBank tham gia với tư cách nguyên đơn dân sự trong
vụ án hình sự, tuy rằng Tòa án có tuyên các bị cáo khắc phục lại thiệt hại cho
TPBank nhưng trên thực tế là các bị cáo không thể thực hiện, dẫn đến việc
mất vốn cho TPBank.
Tiểu kết Chương 2
Nghị quyết 42/2017 đã giải quyết phần lớn các khó khăn, vướng mắc
liên quan đến cơ chế, chính sách, tạo hành lang pháp lý thông thoáng trong
hoạt động xử lý nợ xấu. Về cơ bản, Nghị quyết được ban hành với những quy
định tiến bộ đã tạo nhiều thuận lợi, bảo đảm cho quyền lợi của các TCTD;
nâng cao hơn ý thức của cá nhân, tổ chức trong việc thực hiện các khoản nợ
của các TCTD.
Tuy nhiên, trên thực tế việc áp dụng các quy định về pháp luật xử lý
nợ xấu vẫn còn có các hạn chế. Trên thực tiễn, khi khách hàng không hợp tác,
không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, thì không thể áp dụng biện pháp thu giữ
TSBĐ. Việc xử lý phải thông qua hoạt động khởi kiện, trong trường hợp có
bản án thì việc thi hành án để phát mại tài sản là quyền tài sản cũng rất khó
khăn.Cùng với đó là sự bất cập, chồng chéo, chưa rõ ràng của pháp luật có
liên quan như: chưa cụ thể thủ tục thi hành án khi có liên quan đến biện pháp
60
ngăn chặn; việc xử lý tài sản hình thành trong tương lai, các dự án còn chưa
có tính khả thi; quy định về mức lãi phạt, lãi chậm thi hành án trong bản án
không rõ; chưa thống nhất bảo vệ người mua trúng đấu giá,...
TPBank là một trong những NHTM trong những năm gần đây có
những bước phát triển trong việc cấp tín dụng. Từ những số liệu thực tế trong
quá trình xử lý nợ xấu tại TPBank đã nêu ở trên có thể thấy, TPBank đã rất
tích cực tập trung nguồn lực đối với việc xử lý nợ xấu trong quá trình phát
triển từ giai đoạn cơ cấu lại ngân hàng cho đến nay, việc áp dụng các quy
định liên quan đến xử lý nợ xấu hiện nay đã mang đến cho TPBank những kết
quả khả quan, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những bất cập và hạn chế trong
quá trình triển khai thực hiện áp dụng các quy định pháp luật này. Vì vậy, qua
việc đánh giá thực trạng xử lý nợ xấu tại TPBank để từ đó có thể cho người
đọc một cái nhìn tổng quan về mặt tích cực cũng như hạn chế của việc áp
61
dụng pháp luật xử lý nợ xấu trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LÝ VỀ XỬ LÝ
NỢ XẤU TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Để xử lý nợ xấu một cách triệt để, chúng ta cần phải có giải pháp tổng
thể và lâu dài. Trong bối cảnh thị trường bất động sản đóng băng kéo dài, giá
bất động sản giảm mạnh và các khó khăn, phức tạp trong thủ tục pháp lý liên
quan đến xử lý TSBĐ gây khó khăn cho TCTD trong việc xử lý TSBĐ và thu
nợ. Hơn lúc nào hết, Chính phủ cần có các biện pháp thúc đẩy thị trường mua
bán nợ phát triển; khuyến khích việc phát hành, mua bán trái phiếu doanh
nghiệp và mua bán nợ…
3.1. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ xấu tại các
Ngân hàng thương mại Việt Nam
Cuối năm 2018, NHNN đã có dự thảo trình Quốc hội “Luật hỗ trợ tái
cơ cấu các TCTD và xử lý nợ xấu”. Đây có thể coi như là một bước đi đúng
đắn để có thể tiếp tục khắc phục được những hạn chế, bất cập của các quy
định pháp luật sau khi thí điểm theo Nghị quyết 42/2017. Nếu như được thông
qua và ban hành, Luật này mang ý nghĩa rất lớn. Bởi các vướng mắc pháp lý
hầu hết đều liên quan đến quy định tại các luật chuyên ngành, nên luật này sẽ
giúp cân bằng giá trị pháp lý với các luật khác, trong khi các văn bản cũ về xử
lý nợ xấu có hiệu lực thấp hơn. Tuy nhiên, theo người viết, khi thông qua luật
này cần lưu ý các quy định và có thể hoàn thiện chúng theo hướng sau:
3.1.1. Quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm
Như đã trình bày, các quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán còn chồng
chéo nhau, gây ra cách hiểu không thống nhất dẫn đến những khó khăn,
vướng mắc trong việc thực thi. Do vậy, trước tiên, các cơ quan có thẩm quyền
nên ban hành thêm một văn bản để giải thích chi tiết và thống nhất áp dụng về
thứ tự ưu tiên thanh toán trong thi hành án nói chung, cũng như đối với thứ tự
62
ưu tiên thanh toán khi xử lý TSBĐ nói riêng. Điển hình là đối với trường hợp
ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản của bên thứ ba bảo lãnh. Đối với các
trường hợp số tiền còn dư, cần có quy định giải thích: “Sau khi ưu tiên thanh
toán hết các khoản chi phí cưỡng chế thi hành án và thanh toán cho nghĩa vụ
nợ được bảo đảm cho TCTD mà vẫn còn dư tiền, các chấp hành viên của cơ
quan thi hành án cần phải chủ động, thuyết phục, giải thích cho người thứ ba
bảo lãnh có tài sản bị xử lý. Nếu họ đồng ý cho khấu trừ thì thực hiện khấu trừ
thì thực hiện khấu trừ án phí vào số tiền còn dư, nếu không đồng ý thì không
thực hiện khấu trừ án phí.” Ngược lại, trong trường hợp tiền thu được từ việc
xử lý tài sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ thuế chuyển nhượng tài sản,
theo tác giả Bộ tài chính nên đưa ra những quy định cụ thể và tạo điều kiện
hơn, chẳng hạn, số tiền thuế phải nộp sẽ được chia đều cho các bên và đưa ra
thời hạn để các bên hoàn thành nghĩa vụ này.
3.1.2. Quy định về việc xử lý tài sản và thu giữ tài sản của Ngân hàng
thương mại
Như đã trình bày ở phần 2.1.2.1, việc thu giữ và xử lý đối với các
TSBĐ là bất động sản được hình thành trong tương lai vẫn là bài toán khó cho
các NHTM.
Hơn nữa, Nghị quyết 42/2017 cũng quy định: “Chính quyền địa
phương, công an địa phương có trách nhiệm giữ gìn an ninh trật tự trong quá
trình ngân hàng thu giữ tài sản.” [16, Đ7] Nhưng để quá trình thu giữ và
chuyển giao có bảo đảm được việc này thì phải có quy định rất rõ về trình tự,
thủ tục nhằm bảo đảm tính pháp lý, chứ quy định chung chung như vậy thì rất
khó thực hiện. Do đó, muốn bảo đảm quyền này được thực hiện trên thực tế,
trên cơ sơ Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ ban hành nghị định hướng dẫn
cụ thể các bộ và ủy ban nhân dân các cấp phối hợp với các tổ chức tín dụng
thực hiện hiệu quả quyền thu giữ tài sản. Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
63
và cơ quan Công an nơi tiến hành thu giữ tài sản cần coi việc giữ gìn an ninh,
trật tự và giám sát việc thu giữ TSBĐ của tổ chức tín dụng là nhiệm vụ, trách
nhiệm của mình trong quá trình tổ chức tín dụng thu giữ TSBĐ.
Cần kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn để thực hiện Nghị quyết
số 42/2017/NĐ-CP. Cần quy định rõ trách nhiệm bồi thường trong các trường
hợp hoãn xử lý tài sản bảo đảm. Không chỉ Nghị quyết số 42/2017/NĐ-CP
khi phát sinh tranh chấp thì không thể thu giữ tài sản, mà trong tố tụng cũng
vậy, khi phát sinh tranh chấp thì đương nhiên được tham gia tố tụng với tư
cách là người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Bộ Công an và lãnh đạo Công
an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có ý kiến chỉ đạo để Công an
các địa phương hiểu và hỗ trợ cho các TCTD trong việc thu giữ tài sản bảo
đảm để xử lý thu hồi nợ, xác minh tình trạng cư trú của các khách hàng trên
địa bàn quản lý làm cơ sở cho việc khởi kiện khách hàng của TCTD, phối hợp
chặt chẽ với Cơ quan Thi hành án địa phương trong công tác cưỡng chế thi
hành án để đẩy nhanh hơn nữa tiến độ thi hành án của Cơ quan thi hành án.
Bên cạnh đó, tăng cường phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong xử lý
các vấn đề liên quan và hỗ trợ TCTD, VAMC trong xử lý nợ xấu, nhất là
hoàn thiện hồ sơ pháp lý, thu hồi nợ và xử lý tài sản bảo đảm.
Bộ Tư pháp và Ngân hàng Nhà nước phối hợp kiến nghị Chính phủ
sửa đổi Nghị định số 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ theo hướng quy định rõ
trách nhiệm của Cơ quan Công an trong việc hỗ trợ TCTD thực hiện việc thu
giữ tài sản bảo đảm và chế tài xử lý nếu bên nắm giữ tài sản (hoặc bên thứ ba)
chống đối, cản trở việc TCTD thực hiện thu giữ tài sản.
3.1.3. Quy định về kê biên tài sản bảo đảm
Về việc kê biên tài sản đang thế chấp, cầm cố tại ngân hàng để thực
hiện nghĩa vụ khác. Theo ý kiến của người viết, các khoản nợ khác của bên
thế chấp, cầm cố không được bảo đảm bằng tài sản đang thế chấp, cầm cố tại
ngân hàng thì cơ quan thi hành không được kê biên tài sản thế chấp, cầm cố
64
để thực hiện thanh toán các khoản nợ không được bảo đảm bằng chính tài sản
đó. Trong trường hợp này, nên chăng cơ quan thi hành có văn bản thông báo
cho ngân hàng biết để phối hợp thi hành án, thực hiện nghĩa vụ khác của bên
bảo đảm. Thông báo này cũng phải được gửi cho bên thế chấp, cầm cố tài sản
(người phải thi hành án) biết, thực hiện. Sau khi thu hồi hết nợ, nếu tiền bán
tài sản bảo đảm vẫn còn, ngân hàng chuyển số tiền còn lại đó vào một tài
khoản do cơ quan thi hành án chỉ định phù hợp với quy định của pháp luật.
Do vậy, một văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý tương đương Luật
thi hành án dân sự cần quy định tài sản bảo đảm khoản nợ xấu của người phải
thi hành án đang bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tại ngân hàng không bị kê biên
để thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định pháp luật về thi hành án, trừ trường
hợp có sự đồng ý trước bằng văn bản của ngân hàng nhận bảo đảm.
Với cơ quan thi hành án, khi phát sinh tranh chấp phải ngưng ngay
việc thi hành án, gây cản trở cho quá trình kê biên. Do đó, phải ban hành các
quy định để xử lý hình sự đối với các hành vi giả tranh chấp để cản trở việc
xử lý tài sản, như vậy việc tiến hành kê biên của cơ quan thi hành án mới có
thể đẩy nhanh và không bị kéo dài.
3.1.4. Quy định về thủ tục khi giải quyết tranh chấp
Nền tư pháp Việt Nam đã có bước chuyển biến tích cực và phù hợp
với thời đại hội nhập khi kế thừa áp dụng thủ tục rút gọn trong việc giải quyết
vụ/việc dân sự nói chung. Do vậy, khi thủ tục rút gọn được áp dụng, vì xuất
hiện tình tiết, vụ/việc lại được đưa trở lại thủ tục thông thường khiến cho thủ
tục này không thực sự phát huy được tính ưu việt về và ý nghĩa tồn tại của nó.
Vì thế những nhà làm luật cần làm rõ hơn những “tình tiết mới” làm cho vụ/
việc không còn đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn là gì, mức độ ảnh hưởng
của chúng đến việc quyết định chuyển vụ/việc từ thủ tục rút gọn sang thủ tục
thông thường như thế nào, có cần thiết hay không; đồng thời nghiên cứu để
đưa ra các biện pháp hạn chế phải chuyển từ thủ tục rút gọn sang thủ tục
65
thông thường bằng những văn bản có giá trị hiệu lực pháp lý.
Để việc khởi kiện và thu hồi nợ của TCTD theo đúng quy định của
pháp luật, việc áp dụng pháp luật giải quyết các tranh chấp do TCTD khởi
kiện được thống nhất đề nghị Tòa án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn cụ
thể việc xử lý đối với trường hợp người vay vốn vắng mặt tại nơi cư trú (cá
nhân), bỏ địa chỉ đăng ký kinh doanh (pháp nhân) và việc VAMC kế thừa
quyền và nghĩa vụ của TCTD trong khởi kiện để bảo đảm được quyền lợi hợp
pháp cho các TCTD đồng thời giảm được số lượng nợ xấu trên toàn hệ thống
các TCTD.
Hoàn thiện các quy định pháp luật quy định rõ trách nhiệm của các cơ
quan thực thi pháp luật trong việc phối hợp thu hồi, xử lý nợ xấu; áp dụng thủ
tục rút gọn đối với vụ việc liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm; Tòa không
được từ chối thụ lý vụ án không có lý do chính đáng; Bảo vệ giao dịch dân sự
ngay tình trong trường hợp Hợp đồng bảo đảm giữa khách hàng và TCTD là
giao dịch hợp pháp.
Tòa án Nhân dân tối cao cần chỉ đạo Tòa án nhân dân cấp địa phương
(đặc biệt là tòa án nhân dân cấp quận, huyện, thị xã…) sớm giải quyết các vụ
án tranh chấp liên quan đến hoạt động ngân hàng, tín dụng phù hợp với quy
định về thủ tục tố tụng và quy định có liên quan khác sau khi thụ lý vụ án.
Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao có văn bản chỉ đạo Viện kiểm sát
nhân dân các địa phương tăng cường giám sát việc tuân thủ pháp luật của Tòa
án và cơ quan thi hành án, Theo đó, nếu thấy Tòa án và cơ quan thi hành án
cùng cấp vi phạm quy định của pháp luật thì trong phạm vi chức năng nhiệm
vụ của mình, Viện Kiểm soát nhân dân cần có văn bản gửi Tòa án, cơ quan thi
hành án cùng cấp yêu cầu tuân thủ quy định của pháp luật hoặc có văn bản
kiến nghị cơ quan/người có thẩm quyền giải quyết và có văn bản trả lời ngân
hàng khi nhận được đơn thư khiếu nại việc vi phạm pháp luật của Tòa án, cơ
66
quan thi hành án.
3.1.5. Có cơ chế đẩy mạnh sự phát triển của các Công ty AMC
Việc xử lý nợ xấu thông qua công ty mua bán nợ là một cơ chế rất phổ
biến trong các nền kinh tế thị trường - nơi mà Nhà nước, tư nhân hay bất kỳ
thành phần kinh tế nào khác đều bình đẳng trước pháp luật. Ðặc biệt, tài
sản/nguồn lực của các thành phần chủ sở hữu đó đều được vốn hóa hoặc luôn
được xếp hạng, định giá cập nhật theo giá thị trường (kể cả khi ngân sách nhà
nước hay thậm chí ngân hàng trung ương bỏ tiền ra mua nợ rồi thoái vốn cũng
hoàn toàn dựa theo cơ chế thị trường).
Ở một số nước, có những công ty chuyên mua bán nợ, thực chất hoàn
toàn là những công ty tư nhân, hoạt động theo cơ chế thị trường. Ở Việt Nam
chưa có loại công ty này, nếu như tư nhân được phép tham gia vào quá trình
mua bán, xử lý nợ xấu ngân hàng thì chúng ta có thể đa dạng được nguồn lực
phục vụ cho quá trình xử lý. Ðối với công ty mua bán nợ tư nhân, nếu như
được phép thành lập, mục tiêu chủ đạo của họ là lợi nhuận. Quá trình họ được
phép tham gia, có thể tạo ra hiệu ứng tương hỗ đối với các TCTD. Các ngân
hàng thay vì đợi chuyển nhượng các món nợ xấu cho AMC vốn Nhà nước (có
thể vì khối lượng nợ xấu hiện rất lớn khiến họ phải đợi chờ để AMC quốc gia
giải quyết), họ có thể mặc cả nhanh chóng với các công ty tư nhân này. Cơ
chế mua bán nợ theo cơ chế thị trường, thuận mua vừa bán. Với việc lấy lợi
nhuận là mục đích hoạt động, các công ty mua bán nợ tư nhân có thể giúp quá
trình xử lý nợ xấu diễn ra nhanh hơn. Các NHTM cũng vì thế mà có thể đẩy
nhanh những món nợ xấu ấy cho một đơn vị khác “chuyên nghiệp” giải quyết,
họ sẽ được rảnh hơn để tập trung vào các hoạt động kinh doanh chủ đạo của
mình. Tuy nhiên, trước khi cho phép thành lập công ty tư nhân độc lập
chuyên mua bán nợ ở nước ta thì cần phải hoàn thiện môi trường pháp lý và
phải định giá, hàng hóa các nguồn tài lực, trí lực và vật lực của khu vực kinh
tế nhà nước. Bởi vì, thực tế nội hàm nhiều chính sách thị trường đối với các
67
thành phần kinh tế của chúng ta chưa thật bình đẳng, chưa hoàn hảo, nên
trong trường hợp các công ty tư nhân này hoạt động trong khu vực các doanh
nghiệp nhà nước, khi mà khu vực này đang có nợ xấu lớn nhất và cũng là nơi
mà giá trị tài sản thế chấp trên sổ sách thường được định giá rất thấp, thì tài
sản Nhà nước sẽ bị thất thoát lớn.
Hiện nay, thị trường mua bán nợ xấu chưa phát triển và thiếu tính cạnh
tranh, số lượng chủ thể tham gia còn ít, Để thị trường mua bán nợ xấu phát
triển, điều quan trọng là phải có nhiều bên tham gia, trong đó các tổ chức mua
bán nợ chính là lực lượng chủ yếu. Thực tế dù nguồn cung về nợ xấu khá lớn
nhưng số lượng công ty chuyên về mua bán nợ xấu lại không nhiều, mới chỉ
có VAMC, DATC, AMC của các TCTD và một số tổ chức, cá nhân khác
tham gia vào hoạt động mua bán nợ xấu, trong đó, một số AMC của TCTD
hiện nay chỉ hoạt động trong phạm vi các tài sản và khoản nợ của chính
TCTD đó, thay vì tham gia thị trường mua bán nợ như các AMC khác. Ngoài
ra, các chủ thể trung gian tham gia thị trường: các đơn vị xếp hạng, các đơn vị
môi giới chuyên nghiệp, tư vấn tại Việt Nam chưa thực sự phát triển, số lượng
còn hạn chế, thậm chí chưa được hình thành.
3.1.6. Cần có các hành lang pháp lý để đã dạng phương thức mua bán
nợ xấu
Các phương thức mua bán nợ xấu còn thiếu đa dạng, chủ yếu do thỏa
thuận, việc mua, bán nợ xấu bằng các phương thức khác như: đấu thầu, đấu
giá hiện chưa được áp dụng rộng rãi. Đối với một thị trường hàng hóa, cần sự
phong phú và đa dạng trong mua bán và trao đổi hàng hóa thì mua bán, trao
đổi bằng những phương thức như trên là quá đơn giản và sẽ hạn chế sự phát
triển của thị trường.
Bên cạnh đó, còn thiếu các nhà môi giới chuyên nghiệp, đơn vị môi
giới trên thị trường mua bán nợ là đội ngũ nắm giữ toàn bộ các thông tin thị
68
trường, đầu mối sắp xếp cho bên mua, bên bán gặp nhau. Nhờ có đội ngũ này,
hoạt động mua bán nợ mới được thực hiện một cách chuyên nghiệp, hợp
pháp, cũng như bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư.
Đồng thời, cần có một tổ chức có vai trò đứng ra tạo lập thị trường
mua bán nợ xấu. Hình thành thị trường mua bán nợ xấu tại Việt Nam là rất
cần thiết để tăng tính thanh khoản cho các khoản nợ xấu, tạo kênh đầu tư mới
trên thị trường, thúc đẩy kinh tế phát triển và là giải pháp bền vững để duy trì
tỷ lệ nợ xấu ở mức an toàn.
3.1.7. Nâng cao vai trò của VAMC để việc xử lý nợ đi vào bản chất
Việc phát hành trái phiếu đặc biệt VAMC và cho phép TCTD có thể
cầm cố để vay tái cấp vốn của NHNN chỉ là giải pháp hỗ trợ tạm thời, tạo
thanh khoản cho các ngân hàng khi bán nợ xấu cho VAMC nhưng thực chất
không có nguồn tiền thực sự chuyển cho các ngân hàng khi bán nợ xấu cho
VAMC. Do đó, để xử lý nợ xấu thành công, cần có nguồn lực tài chính vững
mạnh để thúc đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu. Theo đó, cần có các phương
án tài chính để mua trực tiếp và dứt điểm nợ xấu của các ngân hàng, chuyển
số tiền mua nợ xấu cho các ngân hàng để ổn định kinh doanh, tăng cường
hoạt động xử lý nợ xấu VAMC thông qua tái cấu trúc, bán cho các nhà đầu tư
theo giá thị trường, xử lý tài sản bảo đảm, thanh lý tài sản bảo đảm...
Để đẩy nhanh tiến trình xử lý nợ xấu, đặc biệt để xử lý nhanh nợ và tài
sản bảo đảm của khoản nợ đã mua của VAMC, một trong những giải pháp
quan trọng là cần nâng cao tiềm lực tài chính cho VAMC, cho đến nay
VAMC vẫn chưa được cấp vốn như lộ trình đề ra, trong khi các cơ chế, chính
sách, quy định pháp lý mang tính đặc thù, gây ảnh hưởng lớn đến mục tiêu,
hạn chế hiệu quả hoạt động của VAMC với vai trò là công cụ đặc biệt của
Nhà nước nhằm góp phần xử lý nhanh nợ xấu.
Tiếp tục nghiên cứu mở rộng phạm vi đối tượng mua nợ và các khoản
đầu tư của VAMC để VAMC từng bước trở thành trung tâm tái tài trợ các
69
khoản nợ, khoản đầu tư của TCTD, doanh nghiệp, hỗ trợ cho việc cơ cấu lại
nợ. Cần có văn bản quy định rõ các trường hợp, điều kiện nào thì VAMC sẽ
đứng danh nghĩa trực tiếp thu giữ TSBĐ hay ủy quyền cho TCTD thu giữ
TSBĐ, sự phối hợp giữa VAMC và TCTD.
3.1.8. Cần có các quy định để thông tin hàng hóa nợ xấu trên thị
trường minh bạch
Thị trường mua bán nợ hiện nay thông tin còn thiếu đồng nhất và minh
bạch. Nguồn cung hàng hóa cho thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp về nợ
xấu chủ yếu từ các TCTD, tuy nhiên số liệu về nợ xấu của các TCTD hiện
nay chỉ được báo cáo với Cơ quan quản lý Nhà nước, việc tiếp cận số liệu là
rất khó khăn. Các TCTD rất hạn chế trong việc công khai về các khoản nợ
xấu, chủ yếu việc bán nợ của các TCTD là do sức ép từ quy định giới hạn về
tỷ lệ nợ xấu của Ngân hàng Nhà nước. Nhiều TCTD chưa chủ động, tích cực
trong việc bán nợ xấu cho các công ty mua bán nợ, thêm vào đó, TCTD có thể
dùng kỹ thuật tài chính để đẩy tỷ lệ nợ xấu xuống theo mức quy định, khi đó
các TCTD sẽ không có sức ép để xử lý tiếp nợ xấu, khiến cho thị trường mua
bán nợ xấu sơ cấp ít hoạt động, thị trường mua bán nợ xấu nói chung khó có
thể phát triển do nhu cầu mua bán nợ không còn lớn, không tạo được hàng
hóa cho thị trường hoạt động.
3.2. Một số kiến nghị nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về
xử lý nợ xấu tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
3.2.1. Những kiến nghị nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về xử
lý nợ xấu từ phía Nhà nước và các cơ quan hữu quan
3.2.1.1. Tổng kết, đánh giá hiệu quả thực hiện pháp luật về xử lý nợ
xấu định kỳ
Định kỳ hàng năm, NHNN tổng kết, đánh giá hiệu quả thi hành Nghị
quyết liên quan đến việc xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng. Do
vậy, sau khi được ban hành và thực hiện, tổng kết từ thực tiễn, Nghị quyết
70
42/2017 của Quốc hội về xử lý nợ xấu cần được xem xét, ban hành dưới hình
thức Luật để bảo đảm tính chất tương đương với các văn bản quy phạm pháp
luật khác có liên quan do Quốc hội ban hành như BLDS, Luật THADS, Luật
thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp…
Đối với NHNN, cần phát huy vai trò quản lý vĩ mô của mình:
Tăng cường công tác thanh tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết
42/2017, đồng thời, xử lý nghiêm theo thẩm quyền quy định đối với các vi
phạm pháp luật của các TCTD trong quá trình triển khai thực hiện. Tăng
cường công tác thanh tra, giám sát TCTD, VAMC trong việc chấp hành các
quy định của pháp luật về mua, bán nợ. Tiếp tục chỉ đạo, kiểm tra, giám sát
chặt chẽ các TCTD trong việc thực hiện Nghị quyết 42/2017 và các văn bản
liên quan về giải quyết nợ xấu.
Tiếp tục chỉ đạo các TCTD có nợ xấu cao chủ động xây dựng phương
án, kế hoạch xử lý nợ xấu, có giải pháp ngăn chặn nợ xấu phát sinh; rà soát
việc phân loại nợ, đảm bảo phản ánh đúng chất lượng khoản vay, trích lập dự
phòng rủi ro đầy đủ theo quy định. Rà soát đánh giá các khách hàng khó khăn
để đề xuất, quyết định miễn, giảm lãi tiền vay theo quy định tại Luật Các
TCTD, Thông tư và quy định có liên quan.
Tăng cường thanh tra, giám sát chặt chẽ việc chấp hành quy định về an
toàn hoạt động và phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro, hoạt động cấp tín
dụng, chất lượng tín dụng, nợ xấu để phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời
rủi ro gây tổn thất, mất an toàn và vi phạm pháp luật trong hoạt động cấp tín
dụng của TCTD; kiểm soát tốc độ và chất lượng tăng trưởng tín dụng hợp lý;
phát hiện và xử lý kịp thời xu hướng đầu tư, cấp tín dụng vào các lĩnh vực,
ngành nghề, đối tượng tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hệ thống giám sát, đánh giá
chất lượng tín dụng của NHNN đối với các TCTD. Phát triển hệ thống thông
tin tín dụng quốc gia và cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp, ngành, lĩnh vực kinh
71
tế để hỗ trợ cho quá trình giám sát và cảnh báo rủi ro tín dụng, nợ xấu phát
sinh. Sửa đổi, bổ sung các quy định, chính sách về hoạt động tín dụng theo
hướng (i) đảm bảo phải có sự tham gia vốn hợp lý của chủ đầu tư trong các dự
án đầu tư; (ii) nâng cao nguyên tắc, kỷ luật thị trường trong hoạt động tín
dụng; (iii) công khai, minh bạch, tăng cường sự giám sát của thị trường, nhà
đầu tư và người gửi tiền đối với hoạt động tín dụng; (iv) tăng cường hạn chế,
kiểm soát chặt chẽ việc cấp tín dụng đối với cổ đông lớn và người có liên
quan; (v) phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng trong hoạt động tín dụng; (vi) tăng
cường trách nhiệm của HĐQT, hội đồng thành viên, ban kiểm soát và ban
điều hành đối với hoạt động tín dụng.
Điều hành linh hoạt, chặt chẽ, thận trọng chính sách tiền tệ và lượng
tiền cung ứng phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
duy trì mặt bằng lãi suất hợp lý, ổn định tỷ giá để hỗ trợ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh, hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng và bảo đảm an
toàn thanh khoản của hệ thống ngân hàng.
Ban hành và triển khai các nguyên tắc, chuẩn mực an toàn hoạt động
tín dụng phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế và điều kiện thực tiễn của
Việt Nam. Tiếp tục triển khai tái cơ cấu, kiên quyết xử lý dứt điểm và loại bỏ
những TCTD yếu kém, tiềm ẩn rủi ro gây mất an toàn hệ thống. NHNN và
VAMC cần có quyền chủ động can thiệp bắt buộc xử lý, mua, bán nợ và tài
sản bảo đảm trong trường hợp cần thiết để bảo đảm an toàn hoạt động của
TCTD và bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại TCTD.
Chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan tiếp tục nghiên
cứu, hoàn thiện các quy định về tổ chức, hoạt động và tài chính của VAMC;
nghiên cứu, bổ sung vào văn bản Luật quy định những vấn đề đặc thù về tổ
chức, hoạt động, tài chính và thẩm quyền của VAMC. Tiếp tục tăng cường
công tác tuyên truyền để tạo sự hiểu biết, thống nhất và ủng hộ của dư luận xã
hội về vai trò, ý nghĩa, mục tiêu của chính sách, giải pháp xử lý nợ xấu của hệ
72
thống các TCTD, tạo sự đồng thuận trong xã hội; triển khai đầy đủ, kịp thời
các chỉ đạo của Chính phủ, NHNN về xử lý nợ xấu để các TCTD thực hiện có
hiệu quả.
3.2.1.2. Nghiên cứu để ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung văn bản quy
phạm pháp luật về xử lý nợ xấu
Hiện tại, rất nhiều trở ngại về mặt chính sách đối với hoạt động xử lý
nợ xấu đã được tháo gỡ, tuy nhiên, việc phát triển thị trường mua bán nợ tại
Việt Nam lại mới ở bước khởi đầu. Vì thế, để các nhà đầu tư nhiệt tình tham
gia vào thị trường mua, bán nợ tại Việt Nam cần có sự phối hợp chặt chẽ của
các Bộ, Ngành có liên quan trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn quy
định pháp luật, thống nhất cách hiểu các quy định pháp luật, cách xử lý đối
với các vụ việc để đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu,… Người viết đề xuất
như sau:
Thứ nhất, Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện việc thu thuế thu nhập
doanh nghiệp, thu nhập cá nhân trong trường hợp chuyển nhượng TSBĐ để
thu hồi nợ xấu, bảo đảm tính thực thi cho quy định về “Thứ tự ưu tiên thanh
toán khi xử lý TSBĐ”, “Bảo đảm quyền lợi của bên mua TSBĐ”.
Thứ hai, Bộ tài nguyên môi trường sớm ban hành quy định về:
(i) Bổ sung hướng dẫn đối với quyền nhận thế chấp, đăng ký thế chấp
quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai là
TSBĐ cho các khoản nợ mà các tổ chức, cá nhân mua lại từ VAMC” theo quy
định tại Khoản 1 Điều 9 Nghị quyết 42/2017;
(ii) Bổ sung đối tượng được miễn chữ ký trên đơn đăng ký giao dịch
bảo đảm để đảm bảo tính nhất quán trong thực thi quy định về quyền nhận thế
chấp, đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất hình thành
trong tương lai là TSBĐ của khoản nợ đã mua của Công ty Quản lý tài sản”
theo Nghị quyết 42/2017;
(iii) Hướng dẫn thủ tục chuyển nhượng TSBĐ của khoản nợ xấu là dự
73
án bất động sản đang dở dang.
Thứ ba, Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên môi trường ban hành Thông tư
thay thế Thông tư liên tịch số 09/2016/TTLT-BTP-BTNMT hướng dẫn việc
đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, trong đó, đề nghị
giữ nguyên nội dung về việc ghi nhận Hợp đồng mua bán nợ là tài liệu chứng
minh nội dung thay đổi (như đang quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 24
Thông tư liên tịch số 09/2016/TTLT-BTP-BTNMT)
Thứ tư, các quy định của pháp luật hướng dẫn cụ thể về hoạt động mua
bán nợ sớm được ban hành để tạo hành lang pháp lý vững chắc cho thị trường
mua bán nợ của Việt Nam.
Ngoài ra, các cơ quan chức năng có liên quan tiếp tục nghiên cứu, xây
dựng trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc đề xuất sửa đổi, bổ sung văn bản
quy phạm pháp luật quy định về quyền thu giữ của tổ chức tín dụng đối với
một số tài sản đặc thù khác (như phương tiện vận tải đường bộ, đường thủy,
đường hàng không...).
3.2.1.3. Nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự về xử lý nợ xấu
Các nhà làm luật và các cơ quan chức năng cần quy định rõ ràng hơn
về thủ tục hành chính theo hướng tiết kiệm về thời gian và chi phí cho người
được thi hành án: từ việc hoàn thiện mẫu giấy tờ cần có trong hoạt động thi
hành án, cơ chế phối hợp giữa Tòa án và cơ quan thi hành án dân sự trong
việc bàn giao bản án nhanh chóng, xây dựng chế định pháp lý đối với hoạt
động, thủ tục thi hành án dân sự bằng phương thức điện tử...
Ngoài ra, cũng cần xây dựng quy trình tổ chức thi hành án riêng đối
với doanh nghiệp, án kinh doanh, thương mại theo hướng rút gọn hơn nữa.
Ðồng thời, cần có các quy định chặt chẽ về đăng ký vốn, tài sản và tài khoản
tại các ngân hàng, tổ chức tín dụng; quy định chế tài về kiểm tra, xử lý đối với
các doanh nghiệp không chấp hành nghĩa vụ thi hành án. Theo đó, cần thống
nhất quy định các vấn đề liên quan tài sản của doanh nghiệp, trách nhiệm,
74
nghĩa vụ của chủ sở hữu doanh nghiệp, nghĩa vụ, trách nhiệm của đại diện
pháp luật giữa Luật Thi hành án dân sự và Luật Ðất đai, Luật Nhà ở, Luật
Kinh doanh bất động sản...
Cần sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về Tố tụng dân sự với
Luật Đấu giá tài sản và Luật THADS. Chẳng hạn, theo quy định tại Điều 102
Luật THADS thì chỉ có 2 đối tượng là chấp hành viên và người mua trúng đấu
giá tài sản mới có quyền yêu cầu Tòa án xem xét hủy kết quả bán đấu giá.
Tuy nhiên, trên thực tiễn TAND các cấp vẫn thụ lý đơn khởi kiện của người
phải thi hành án để giải quyết việc yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá dẫn đến
việc đương sự lợi dụng quy định này để trốn tránh nghĩa vụ giao tài sản và
kéo dài việc thi hành án. Về vấn đề này, Bộ Tư pháp cần tiếp tục phối hợp với
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao để có biện pháp
hướng dẫn thực hiện hoặc tham mưu cho cấp có thẩm quyền sửa đổi các quy
định cho đồng bộ, có tính liên thông để áp dụng. Ngoài ra, cần sửa đổi, bổ
sung các quy định pháp luật về THADS cho phù hợp với Luật Đấu giá tài sản.
Ví dụ, để thực hiện quy định về việc thông báo lựa chọn tổ chức đấu giá tại
Điều 56 Luật Đấu giá tài sản, cần sửa đổi quy định tại khoản 2 Điều 101 Luật
THADS cho phù hợp, tránh các cơ quan THADS hiểu nhầm về thời hạn ký
hợp đồng dịch vụ bán đấu giá với thời hạn lựa chọn tổ chức bán đấu giá tài
sản. Hay quy định về đấu giá tài sản thi hành án trong trường hợp bán lần 1
mà chỉ có 1 người đăng ký tham gia đấu giá thì coi như bán đấu giá không
thành và sẽ phải thực hiện việc giảm giá để bán đấu giá lần 2 là chưa phù hợp,
làm giảm giá trị tài sản kê biên. Đây là quy định gây nhiều hiểu lầm, khiến
nhiều cơ quan THADS và tổ chức bán đấu giá lúng túng khi thực hiện.
Không những thế, phải tiếp tục tăng cường việc tuyên truyền, phổ biến
các quy định của pháp luật về đấu giá tài sản và pháp luật về THADS theo
hướng đa dạng hóa về hình thức và phong phú về nội dung, qua đó nâng cao
75
nhận thức pháp luật cho nhân dân, giúp họ nắm được và chấp hành nghiêm
chỉnh các quy định pháp luật nói chung và pháp luật về đấu giá tài sản, về
THADS nói riêng.
3.2.2. Những kiến nghị nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật pháp
luật về xử lý nợ xấu từ phía các NHTM
3.2.2.1. Nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ pháp lý của đội
ngũ cán bộ xử lý nợ xấu
Mỗi NHTM cần tích cực đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý,
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của các cán bộ thông qua việc tổ chức thường
xuyên các buổi chuyên đề trao đổi kinh nghiệm về hạn chế và xử lý nợ xấu.
Thường xuyên giáo dục nâng cao đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ
cán bộ làm công tác tín dụng lẫn đội ngũ cán bộ xử lý nợ xấu cũng là một vấn
đề quan trọng. Có thể thấy, rất nhiều khoản dư nợ của ngân hàng hiện nay có
nguyên nhân chính là đạo đức nghề nghiệp của các cán bộ ngân hàng, chẳng
hạn như việc nâng giá trị TSBĐ, TSBĐ khống, cho vay khách hàng không đủ
điều kiện vay vốn, cho vay thông qua cò tín dụng,…để trục lợi cá nhân hay
lợi ích nhóm.
Một vấn đề khác cũng cần được chú trọng không kém đó chính là việc
đào tạo về kiến thức pháp lý cho các cán bộ xử lý nợ. Thực tiễn ở trên không
chỉ gây ra những mặt tiêu cực trong hoạt động tín dụng nói chung và hoạt
động xử lý nợ nói riêng mà còn dẫn đến những hệ lụy xấu hơn là gây thất
thoát nghiêm trọng tài sản của ngân hàng, thậm chí những cán bộ ngân hàng
có thể còn bị khởi kiện hình sự. Vì vậy, đào tạo cho cán bộ hiểu biết về kiến
thức pháp lý giúp các NHTM hạn chế được các hành vi giận lận. Đối với
chính các cán bộ, việc nắm vững để tuân thủ đúng các quy định của pháp luật
vừa là cách thức để bảo vệ mình khỏi những “cạm bẫy của vòng lao lý”, vừa
là công cụ để thực hiện tốt chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt trong công tác xử
76
lý nợ xấu.
3.2.2.2. Tăng cường đội ngũ chuyên gia pháp luật trong hoạt động xử
lý nợ xấu
Trong thời buổi hội nhập kinh tế quốc tế, việc đảm bảo hoạt động kinh
doanh nói chung cũng như hoạt động xử lý nợ của các NHTM đúng pháp luật,
phòng tránh rủi ro pháp lý là vô cùng quan trọng. Vì vậy, vai trò của các cố
vấn pháp lý ngày càng được củng cố và xem trọng. Những người này có thể là
các luật sư tư vấn, chuyên gia pháp lý hoặc tổ chức pháp chế trong ngân hàng.
Đặc biệt, đối với các nước phát triển, quá trình hoạt động của ngân
hàng không thể thiếu bóng dáng của các cố vấn pháp lý.
Có thể nói rằng, trong toàn bộ hoạt động của ngân hàng thì hoạt động
xử lý nợ xấu sử dụng công cụ pháp luật nhiều nhất: từ việc xây dựng các tờ
trình, văn bản nội bộ đến việc thi hành án, khởi kiện, thẩm định giá, bán đấu
giá TSBĐ,… Mọi hoạt động xử lý nợ đều là sự phối kết hợp giữa nhiều bộ
phận, cá nhân trong ngân hàng. Hơn nữa, sản phẩm tín dụng của các ngân
hàng là rất đa dạng cho nên tất nhiên cũng đa dạng về phương thức xử lý nợ,
thường được phân thành hai nhóm chính: xử lý nợ theo thủ tục tố tụng và xử
lý phi tố tụng. Trong đó, hoạt động xử lý nợ tố tụng đặc biệt cần những người
có thể đại diện để bảo vệ quyền lợi của ngân hàng trong những vụ tranh chấp
tại tòa án, trọng tài thương mại hay các cơ quan tố tụng trong và ngoài nước
khác – chính là những luật sư hoặc chuyên viên pháp chế của ngân hàng.
Ngân hàng nên đẩy mạnh mô hình luật sư nội bộ, đặc biệt là tăng
cường chuyên gia pháp chế xử lý nợ. Những người này có trách nhiệm luôn
phải đảm bảo đáp ứng được lợi ích và mục tiêu của ngân hàng lên hàng đầu,
bởi họ chịu sự ràng buộc trực tiếp của đơn vị thông qua hợp đồng lao động.
Chính những người này sẽ là đại diện hợp pháp thích hợp nhất nếu như có
tranh chấp về nợ tín dụng xảy ra tại Tòa án hoặc những cơ quan tố tụng khác.
3.2.2.3. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật và các
chính sách về xử lý nợ xấu trong nội bộ ngân hàng
Hoạt động xử lý nợ xấu có hiệu quả, đảm bảo tuân thủ đúng pháp luật
77
và các chính sách hay không không chỉ phụ thuộc vào chính bản thân những
người đảm nhiệm công tác xử lý nợ xấu mà còn phụ thuộc rất nhiều vào khâu
kiểm tra, giám sát. Việc kiểm tra, giám sát này có thể được tiến hành bởi các
cấp lãnh đạo, cũng có thể theo cơ chế giám sát chéo của các phòng, ban, bộ
phận khác có liên quan; thậm chí là tự giám sát, tức là những người cùng
thuộc bộ phận xử lý nợ tự giám sát hoạt động lẫn nhau và tự kiểm tra, giám
sát công việc của chính mình.
Ngoài ra, để hiệu quả của hoạt động xử lý nợ xấu được phát huy, cũng
cần kết hợp kiểm tra, giám sát cả về quy trình, nghiệp vụ bằng việc thường
xuyên phân tích, đánh giá thực trạng, nguyên nhân phát sinh nợ xấu; làm rõ
trách nhiệm của cá nhân có liên quan nhất là ở những bộ phận, cá nhân phụ
trách có tỷ lệ nợ xấu tăng nhanh, gắn với trách nhiệm thu hồi nợ xấu, nợ đã xử
lý rủi ro với trách nhiệm của cá nhân trong cho vay; Tập trung đánh giá chất
lượng và khả năng thu hồi các khoản nợ, đồng thời đưa ra các biện pháp xử lý
thích hợp; tăng cường trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu;…
Nghiêm chỉnh chấp hành quy định của pháp luật về cấp tín dụng, bảo
đảm tiền vay, các quy định an toàn, thận trọng trong hoạt động tín dụng; thực
hiện phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro đầy đủ theo quy định
của pháp luật, bao gồm cả việc trích lập dự phòng rủi ro trái phiếu đặc biệt.
Thường xuyên rà soát, sửa đổi và hoàn thiện các quy định, chính sách
quy trình, thủ tục quản lý, kiểm soát, giám sát cấp tín dụng theo hướng chặt
chẽ, phòng ngừa, ngăn chặn rủi ro và vi phạm pháp luật trong hoạt động tín
dụng; nâng cao năng lực quản trị, điều hành, hệ thống kiểm soát, kiểm toán
nội bộ đối với hoạt động tín dụng; phát triển hệ thống quản trị rủi ro phù hợp
với thông lệ, chuẩn mực quốc tế; triển khai đồng bộ các giải pháp phòng
ngừa, phát hiện sớm và xử lý các hành vi vi phạm, tiêu cực, tham nhũng trong
hoạt động cấp tín dụng. Phát triển và quản lý có hiệu quả đội ngũ cán bộ ngân
hàng, đặc biệt là nâng cao năng lực đánh giá, thẩm định tín dụng và đạo đức
78
nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng.
Tiểu kết Chương 3
Để xử lý nợ xấu một cách triệt để, chúng ta cần phải có giải pháp tổng
thể và lâu dài. Trong bối cảnh thị trường bất động sản đóng băng kéo dài, giá
bất động sản giảm mạnh và các khó khăn, phức tạp trong thủ tục pháp lý liên
quan đến xử lý TSBĐ gây khó khăn cho TCTD trong việc xử lý TSBĐ và thu
nợ. Hơn lúc nào hết, Chính phủ cần có các biện pháp thúc đẩy thị trường mua
bán nợ phát triển; khuyến khích việc phát hành, mua bán trái phiếu doanh
nghiệp và mua bán nợ…Cần hơn nữa các quy định pháp luật về xử lý nợ xấu,
tránh tình trạng chồng chéo luật như hiện nay.
Ngoài ra, cần có các quy định phối hơp giữa một số cơ quan, đơn vị có
liên quan hiệu quả như: phối hợp với Tòa án, chính quyền địa phương, Công an
trong bảo vệ cưỡng chế, xử lý hình sự hành vi cản trở, chống đối việc thi hành
án; với Sở Tài nguyên - Môi trường trong việc xử lý nghiêm các trường hợp vi
phạm, đặc biệt là vi phạm trong thủ tục chuyển quyền sử dụng đất nhằm trốn
tránh thi hành án, phối hợp cung cấp thông tin, phối hợp thực hiện cưỡng chế thi
hành án và xử lý các vướng mắc liên quan; với Viện kiểm sát trong việc kiểm sát
và xử lý nghiêm các hành vi cản trở, trốn tránh việc thi hành án, việc áp dụng
các quy định pháp luật liên quan....Đồng thời, phải tạo các hành lang pháp lý để
đa dạng hóa hình thức mua bán nợ cấu, cũng như có các quy định để thông tin
hàng hóa nợ xấu trên thị trường được minh bạch hơn.
Đối với bản thân các NHTM, cần thường xuyên rà soát, sửa đổi và
hoàn thiện các quy định, chính sách quy trình, thủ tục quản lý, kiểm soát,
giám sát trong hoạt động cấp tín dụng; nâng cao năng lực quản trị, điều hành,
hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng; phát triển hệ
thống quản trị rủi ro phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế; triển khai đồng
bộ các giải pháp phòng ngừa, phát hiện sớm và xử lý các hành vi vi phạm,
79
tiêu cực, tham nhũng trong hoạt động cấp tín dụng.
KẾT LUẬN
Hệ thống NHTM Việt Nam ngày càng hoàn thiện và phát triển, đóng
vai trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế. Bên cạnh những thành tựu
đạt được thì vẫn còn đó những hạn chế và thách thức, trong đó nguy cơ nợ
xấu cũng có chiều hướng tăng cao. Mặc dù, nợ xấu là một tất yếu của hoạt
động NHTM trong nền kinh tế thị trường, là một vấn đề lớn trong tiến trình
lành mạnh hóa tài chính của các NHTM. Như vậy, nếu không có giải pháp
căn cơ, phù hợp để giải quyết nợ xấu thì sẽ gây ra hệ lụy xấu cho chính các
NHTM và cả nền kinh tế. Tuy nhiên việc xử lý nợ xấu luôn phải được nhìn
nhận như một tiêu chí để đánh giá chất lượng hoạt động cho vay, là một trong
những nhân tố quyết định đến hiệu quả hoạt động của NHTM.
Vấn đề xử lý nợ xấu trong giai đoạn hiện nay cần phải được quan tâm
hơn nữa từ bản thân các NHTM và cả hệ thống chính trị, pháp luật bởi khi có
hành lang pháp lý vững chắc, hoạt động này mới được đảm bảo thực hiện
thống nhất và có hiệu quả. Trong khuôn khổ của luận văn, tác giả đã xuất phát
từ những kiến thức kinh tế cơ bản nhất về ngân hàng và hoạt động xử lý nợ
của các NHTM Việt Nam, cùng với việc nghiên cứu trọng tâm về pháp luật
xử lý nợ xấu, bằng góc nhìn và kinh nghiệm chuyên môn của mình đưa ra
những kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý nợ xấu của các
NHTM, qua thực tiễn tại đơn vị tác giả công tác – Ngân hàng TMCP Tiên
Phong (TPBank). Trong đó, cần chú trọng nâng cao hai giải pháp chính là:
hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động
xử lý nợ xấu của các NHTM, nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về xử
80
lý nợ xấu.
1. Báo cáo tài chính TPBank đã được kiểm toán 2016
2. Báo cáo tài chính TPBank đã được kiểm toán 2017
3. Báo cáo tài chính TPBank đã được kiểm toán 2018
4. Bộ Luật Dân sự 2015 số 91/2015/QH3 ban hành ngày 24/11/2015
5. Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015 số 92/2015/QH13 ban hành ngày 25/11/2015
6. TS.Nguyễn Tiến Đông (2019), Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty Quản lý tài
sản các TCTD Việt Nam (VAMC), Đặc san Toàn cảnh Ngân hàng Việt Nam
7. Kế hoạch công bố của TPBank năm 2019
8. TS.Nguyễn Minh Kiều (2017),Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại,
tr.4-5
9. Luật các Tổ chức tín dụng 2010 số 47/2010/QH12 ban hành ngày 17/6/2010
10. Luật Trọng tài thương mại năm 2010 số 54/2010/QH12 ban hành ngày
17/6/2010
11. Luật kinh doanh bất động sản năm 2014 số 66/2014/QH13 ban hành ngày
25/11/2014
12. Nghị định của Chính phủ về giao dịch bảo đảm số 163/2006/NĐ-CP ban hành
ngày 29/12/2006
13. Nghị định của Chính Phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm số 11/2012/NĐ-CP
ban hành ngày 10/4/2012
14. Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn về xử
lý nợ xấu TSBĐ của khoản nợ xấu số 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15/05/2018
15. Nghị quyết Hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 BLTTDS số
92/2015/QH13 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số
04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/05/2017
16. Nghị quyết về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng số
42/2017/QH14 ngày 21/6/2017.
17. TS.Đào Lê Kiều Oanh, TS.Phan Thị Linh – Trường Đại học Ngân hàng TP.
Hồ Chí Minh, Tạp chí tài chính Kỳ 1 – Tháng 5/2019.
81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
18. Quyết định của Thống đốc NHNN về phương pháp tính và hạch toán thu, trả
lãi của NHNN về các TCTD số 652/2001/QĐ-NHNN ban hành ngày
17/05/2001
19. Quyết định 22/VBHN-NHNN/2014 của Ngân hàng Nhà nước.
20. Số liệu nội bộ của TPBank các năm 2016
21. Số liệu nội bộ của TPBank các năm 2017
22. Số liệu nội bộ của TPBank các năm 2018
23. Minh Tâm (2018), Tạp chí Vietnamfinance tháng 10/2018
24. Thông tư Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp lập dự
phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của
TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài số 02/2013/TT-NHNN ban hành
ngày 21/01/2013
25. Thông tin công bố của TPBank các năm 2017
26. Thông tin công bố của TPBank các năm 2018
27. Thông tin công bố của TPBank các năm 2019
28. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2018), Giáo trình Ngân hàng thương mại,
tr.3-4, tr.8-12, tr.18-21, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân.
29. Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh, Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng,
tr.3-6
30. Trường Đại học Ngân hàng TP.Hồ Chí Minh TS.Đào Lê Kiều Oanh, TS.Phan
Thị Linh (2019); Tạp chí tài chính Kỳ 1-Tháng 5/2019
31. TS.Đào Minh Tú – Phó Thống Đốc NHNN Việt Nam (2017), Kinh nghiệm xử
lý của Hàn Quốc và tái cơ cấu ngân hàng và xử lý nợ xấu, Tạp chí Ngân hàng
số 23 (tháng 12/2017).
32. Nguyễn Vũ (2019), Thời báo Ngân hàng tháng 7/2019
33. Vụ Pháp chế - NHNN Việt Nam (2017), Những bài học về xử lý nợ xấu mà
Việt Nam có thể áp dụng từ kinh nghiệm quốc tế.
82