VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN KIÊN TRUNG

XỬ LÝ NỢ XẤU THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TIÊN PHONG (TPBANK)

Ngành: Luật Kinh tế

Mã số: 8.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS.PHẠM THỊ GIANG THU

HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá

nhân tôi, chưa được công bố trong bất kỳ chương trình nghiên cứu nào trước

đây. Các số liệu, nội dung được trình bày trong luận văn hoàn toàn hợp lệ và

đảm bảo tuân thủ các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ theo quy định.

Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.

Tác giả

NGUYỄN KIÊN TRUNG

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

AMC : Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản

BTC : Bộ tài chính

BTNMT : Bộ Tài nguyên môi trường

BLDS : Bộ luật dân sự

BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự

DATC : Công ty TNHH Mua bán nợ Việt Nam

KHXH : Khoa học xã hội

HĐQT : Hội đồng quản trị

HĐTD : Hợp đồng tín dụng

HĐBĐ : Hợp đồng bảo đảm

NHNN : Ngân hàng nhà nước

NHTM : Ngân hàng thương mại

NHCP : Ngân hàng cổ phần

TCTD : Tổ chức tín dụng

TPBank : Ngân hàng thương mại cổ phần Tiên Phong

TSBĐ : Tài sản bảo đảm

THADS : Thi hành án dân sự

TMCP : Thương mại cổ phần

VAMC : Công ty Quản lý tài sản của các Tổ chức tín dụng Việt Nam

MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU VÀ PHÁP

LUẬT XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ................. 5

1.1. Những vấn đề chung về xử lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại ............ 5

1.2. Những vấn đề chung về pháp luật xử lý nợ xấu của Ngân hàng thương

mại ................................................................................................................... 23

Tiểu kết Chương 1 ........................................................................................... 27

Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN TẠI TPBANK ........... 29

2.1. Thực trạng pháp luật về xử lý nợ xấu của NHTM ................................... 29

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý nợ xấu tại TPBank ....................... 43

Tiểu kết Chương 2 ........................................................................................... 60

Chương 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LÝ

VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT

NAM ............................................................................................................... 62

3.1. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ xấu tại các Ngân hàng

thương mại Việt Nam ...................................................................................... 62

3.2. Một số kiến nghị nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về xử lý nợ xấu

tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam ........................................................ 70

Tiểu kết Chương 3 ........................................................................................... 79

KẾT LUẬN .................................................................................................... 80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Là một lĩnh vực quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, ngành ngân

hàng đã và đang phải đối mặt với nhiều thách thức cũng như chịu nhiều ảnh

hưởng nhất trong giai đoạn hiện nay.

Trong toàn bộ hệ thống các hoạt động của ngân hàng, hoạt động xử lý

nợ xấu là một trong những hoạt động cơ bản, bên cạnh những hoạt động

truyền thống như hoạt động tín dụng,…Có thể nói trong những năm qua, pháp

luật về ngân hàng nói chung và pháp luật về hoạt động xử lý nợ xấu nói riêng

đã và đang được cải thiện. Các văn bản pháp lý được xây dựng và ban hành

tạo một khung pháp lý quan trọng, để từ đó góp phần tạo đà phát triển cho

hoạt động của các NHTM, cũng như thúc đẩy tăng trường kinh tế. Tuy nhiên,

vẫn còn tồn tại không ít những bất cập trong quá trình áp dụng quy định của

pháp luật vào thực tiễn xử lý nợ xấu tại các NHTM. Vì những lý do trên, tác

giả lựa chọn đề tài “Xử lý nợ xấu theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực

tiễn Ngân hàng TMCP Tiên Phong” để thông qua thực tiễn tại Ngân hàng

này đưa ra được những giải pháp nhằm cải thiện và khắc phục những hạn chế

hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại là vấn đề được

nhiều tác giả nghiên cứu, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi pháp luật về

ngân hàng nói chung và pháp luật về hoạt động xử lý nợ xấu nói riêng đã và

đang được cải thiện. Có thể kể đến một số luận văn, báo cáo nghiên cứu sau:

- Luận văn “Thực trạng và giải pháp xử lý nợ xấu trong hoạt động tín

dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam” của tác

giả Lê Thị Duyên, năm 2013. Luận văn đã đánh giá thực tiễn hoạt động xử lý

nợ xấu tại Hệ thống ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Thương

1

mại cổ phần Ngoại thương nói riêng.

- Luận văn “Giải pháp xử lý và ngăn ngừa nợ quá hạn của các ngân

hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Trà Vinh” của tác giả Trần Thị Thắm, năm

2013. Luận văn đã đánh giá thực tiễn nợ xấu của Ngân hàng thương mại trên

địa bàn tỉnh Trà Vinh, đồng thời đưa ra các giải pháp để ngăn ngừa nợ quá hạn.

- Luận văn “Pháp luật về xử lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại từ

thực tiễn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam” của tác

giả Cao Thị Thúy, năm 2015. Luận văn đã đánh giá thực tiễn hoạt động xử lý

nợ xấu của Ngân hàng thương mại từ thực tiến tại Ngân hàng thương mại cổ

phần Ngoại Thương Việt Nam.

- Luận văn “Pháp luật về xử lý nợ quá hạn trong hoạt động cho vay

của ngân hàng thương mại ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hương,

năm 2011. Luận văn đã đánh giá thực tiễn hoạt động cho vay của hệ thống

ngân hàng thương mại tại Việt Nam và các giải pháp để nâng cao chất lượng

của quá trình giải quyết nợ xấu.

- Báo cáo nghiên cứu “Những bài học về xử lý nợ xấu mà Việt Nam có

thể áp dụng từ kinh nghiệm quốc tế” của Vụ Pháp chế Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam, năm 2017. Báo cáo nghiên cứu về thực tiễn của quá trình giải

quyết nợ xấu tại một số quốc gia và đưa ra những bài học mà Việt Nam có thể

áp dụng.

Như vậy, có thể thấy vấn đề về xử lý nợ xấu đã được nghiên cứu khá

nhiều trong thời gian qua. Tuy nhiên, các nghiên cứu điển hình nêu trên mới

chỉ tiếp cận dưới góc độ thực tiễn, cũng như kinh nghiệm giải quyết và đưa ra

các giải pháp, nhưng chưa tập trung nghiên cứu sâu đối với pháp luật về xử lý

nợ xấu.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật Việt

Nam về xử lý nợ xấu của NHTM. Trên cơ sở phân tích thực trạng áp dụng các

2

quy định đó tại TPBank, chỉ ra những bất cập còn tồn tại trong quá trình áp

dụng pháp luật liên quan, qua đó đưa ra được các kiến nghị nhằm hoàn thiện

hơn nữa quy định của pháp luật Việt Nam về xử lý nợ xấu.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Trong nội dung nghiên cứu của luận văn, tác giả chỉ tập trung nghiên

cứu các vấn đề lý luận về xử lý nợ xấu của NHTM, và cụ thể thực tiễn áp

dụng quy định của pháp luật tại TPBank, phân tích và đưa ra những nội dung

bất cập trong quá trình thực hiện pháp luật. Trên cơ sở đó đưa ra những đề

xuất về giải pháp khắc phục các bất cập đó và hoàn thiện pháp luật về cho vay

của NHTM.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa

Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước

ta về Nhà nước và Pháp luật.

Bên cạnh đó, luận văn đã sử dụng những phương pháp nêu trên đồng

thời kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu chung của KHXH và các

phương pháp đặc thù của luật học để nghiên cứu đề tài, gồm:

- Phương pháp phân tích: được sử dụng chủ yếu để làm sáng tỏ những

quy định của pháp luật liên quan đến các vấn đề lý luận về xử lý nợ xấu của

NHTM.

- Phương pháp tổng hợp: được sử dụng để khái quát hóa nội dung

nghiên cứu một cách hệ thống, làm cho vấn đề nghiên cứu trở nên hợp lý, dễ

hiểu.

Ngoài ra, luận văn có kế thừa và sử dụng các kết quả nghiên cứu khoa

học của các tác giả khác làm cơ sở cho kết luận khoa học.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Kết quả luận văn thể hiện qua một số điểm mới sau đây:

Thứ nhất, luận văn đã làm rõ một số vấn đề về xử lý nợ xấu của ngân

3

hàng thương mại.

Thứ hai, luận văn đánh giá thực trạng về pháp luật xử lý nợ xấu hiện

nay; nêu rõ những hạn chế, bất cập về xử lý nợ xấu của NHTM và nguyên

nhân.

Thứ ba, luận văn đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện khung pháp lý về

xử lý nợ xấu tại các NHTM.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần phụ lục, tài liệu tham khảo, đề tài gồm nội dung chính như

sau:

Chương 1: Những vấn đề cơ bản về xử lý nợ xấu và pháp luật xử lý nợ

xấu của ngân hàng thương mại

Chương 2: Thực trạng pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương

mại từ thực tiễn TPBank

Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện khung pháp lý về xử lý nợ xấu

4

tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU VÀ PHÁP LUẬT XỬ

LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. Những vấn đề chung về xử lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại

1.1.1. Ngân hàng thương mại – Chủ thể nắm giữ và có nhu cầu xử lý

nợ xấu

1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại

Hiện nay, hệ thống ngân hàng có nhiều khái niệm về NHTM như sau:

“Tại Hoa kỳ: NHTM là một tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ,

chuyên cung cấp các dịch vụ về tài chính như nhận tiền gửi, chuyển tiền,

thanh toán, cho vay, đầu tư, đổi tiền, mua bán ngoại hối và các dịch vụ khác

liên quan đến tiền như bảo quản, ủy thác, làm đại lý trong nước và quốc tế.

Tại Pháp: Theo đạo luật ngân hàng Pháp năm 1941, NHTM là những

xí nghiệp hay là những cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc

của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử

dụng số tiền đó cho chính họ trong các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng và cung

cấp dịch vụ tài chính” [29, tr.3-4]

Tại Việt Nam, có một số khái niệm về NHTM như sau:

“NHTM là tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật, kinh

doanh trong lĩnh vực tiền tệ, với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi dưới

nhiều hình thức khác nhau và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch

vụ thanh toán cho các chủ thể trong nền kinh tế, nhằm mục tiêu lợi nhuận.

NHTM là loại ngân hàng trực tiếp giao dịch với các tổ chức kinh tế, cơ

quan đoàn thể và các cá nhân bằng việc nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm...cho vay

và cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng nói trên” [8, tr.4-5]

Mặc dù có nhiều khái niệm về NHTM, nhưng có thể thấy hoạt động kinh

doanh của NHTM là hoạt động kinh doanh tiền tệ và các hoạt động khác, gồm:

5

- Huy động vốn là hoạt động nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân dưới

hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát

hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu,...

- Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một

khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một tài sản theo nguyên tắc có

hoàn trả và lãi bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao

thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.

- Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản là việc cung ứng phương

tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ

thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác

cho khách hàng thông qua tài khoản tiền gửi của khách hàng.

- Các hoạt động kinh doanh khác của NHTM: dịch vụ ngân quỹ, dịch

vụ ủy thác, dịch vụ môi giới tiền tệ, dịch vụ kinh doanh ngoại hối, quản lý tài

sản, tư vấn tài chính,... [8, tr.4-5]

1.1.1.2. Phân loại ngân hàng thương mại [28, tr.18-21]

a. Các loại hình NHTM chia theo hình thức sở hữu:

(i). Ngân hàng sở hữu cá nhân:

Là ngân hàng do cá nhân thành lập bằng vốn cá nhân hoặc gia đình.

Loại ngân hàng thường nhỏ, phạm vi hoạt động trong từng địa phương, gắn

liền với doanh nghiệp và cá nhân ở địa phương. Tuy nhiên, do kém đa đạng,

nên khi địa phương đó gặp rủi ro (mất mùa,...) ngân hàng thường không tránh

được tổn thất lớn.

(ii) Ngân hàng sở hữu của các cổ đông (ngân hàng cổ phần)

Ngân hàng được thành lập thông qua phát hành các cổ phiếu. Việc

nắm giữ cổ phiếu cho phép người sở hữu có quyền tham gia quyết định các

hoạt động của ngân hàng, hưởng cổ tức từ thu nhập của ngân hàng. NHCP có

khả năng tăng vốn nhanh chóng, vì vậy thường là các ngân hàng lớn. NHCP

6

thường có phạm vi hoạt động rộng, hoạt động đa năng, có nhiều chi nhánh

hoặc công ty con. Khả năng đa dạng hóa cao nên NHCP có thể giảm rủi ro

song thường phải gánh chịu các rủi ro từ cơ chế quản lý phân quyền.

(iii) Ngân hàng sở hữu Nhà nước:

Đây là loại hình ngân hàng mà vốn sở hữu do Nhà nước cấp, có thể là

nhà nước trung ương hoặc tỉnh, thành phố. Ngân hàng này được thành lập

nhằm thực hiện một số mục tiêu nhất định thường là do chính sách của chính

quyền trung ương hoặc địa phương quy định. Những ngân hàng sở hữu Nhà

nước thường được Nhà nước hỗ trợ về tài chính và bảo lãnh phát hành giấy

nợ, do vậy rất ít khi bị phá sản.

(iv) Ngân hàng liên doanh

Ngân hàng liên doanh được hình thành dựa trên góp vốn của hai hoặc

nhiều bên, thường là giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài,

hoặc ngân hàng với công ty tài chính để tận dụng ưu thế của nhau.

Như vậy, mục đích khi chia NHTM theo hình thức sở hữu là để phân

biệt được bản chất nắm giữ ngân hàng, từ đó có chính sách áp dụng riêng cho

từng loại ngân hàng, tránh sở hữu chồng chéo lần nhau, dẫn đến tình trạng

việc sử dụng vốn không minh bạch, trên thực tế đã có rất nhiều trường hợp

các ngân hàng sở hữu vốn chồng chéo lẫn nhau nên nhiều sự việc bất cập đã

xảy ra. Hệ thống ngân hàng có tính phụ thuộc lẫn nhau rất lớn, rủi ro trong

hoạt động ngân hàng có tính lan tỏa rất nhanh. Hoạt động như một hệ thống

các mắt xích liên kết chặt chẽ, chỉ cần một NHTM gặp khó khăn trong hoạt

động, đặc biệt là khó khăn về thanh khoản, là có thể dẫn đến nguy cơ phá sập

hệ thống. Đối với công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế, việc nắm bắt được cơ

chế hoạt động, ảnh hưởng lẫn nhau của các thành phần trong hệ thống tài

chính là một trong những vấn đề cốt yếu, quyết định thành bại.

b. Các loại hình NHTM theo tính chất hoạt động:

7

(i) Tính chất đơn năng/chuyên doanh

Ngân hàng hoạt động theo hướng đơn năng: chỉ tập trung cung cấp một

số dịch vụ ngân hàng ví dụ như chỉ cho vay đối với xây dựng cơ bản, hoặc đối

với nông nghiệp; hoặc chỉ cho vay (không bảo lãnh hoặc cho thuê)...Tính chuyên

môn hóa cao cho phép ngân hàng có được đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, tinh

thông nghiệp vụ. Ngân hàng đơn năng có thể là ngân hàng nhỏ, phạm vi hoạt

động hẹp, hoặc là những ngân hàng sở hữu của công ty.

(ii) Tính chất đa năng

Là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng cho mọi đối tượng. Đây

là xu hướng chủ yếu hiện nay của các NHTM. Ngân hàng đa năng thường là

ngân hàng lớn (hoặc sở hữu công ty). Tính đa dạng sẽ giúp ngân hàng và hạn

chế rủi ro.

(iii) Tính chất dịch vụ bán buôn

Dịch vụ ngân hàng cung cấp cho Chính phủ, các định chế tài chính và

các doanh nghiệp lớn với giá trị dịch vụ lớn.

(iv) Tính chất dịch vụ bán lẻ

Dịch vụ ngân hàng cung cấp cho hàng triệu khách hàng cá nhân, doanh

nghiệp vừa và nhỏ dựa trên việc sử dụng e-banking...

Như vậy, việc chia NHTM theo tính chất hoạt động, cho phép ngân

hàng có định hướng phát triển phù hợp với chính sách, quy mô của mình trên

thị trường, từ đó ngân hàng có thể tập trung khai thác nhóm đối tượng phù

hợp, đối với cơ quan quản lý vĩ mô việc phân tách nêu trên giúp cho việc áp

dụng chính sách đối với từng loại ngân hàng được linh hoạt hơn.

c. Các loại hình NHTM chia theo cơ cấu tổ chức:

(i) Ngân hàng sở hữu công ty

Ngân hàng thường sở hữu các công ty như chứng khoán, mua bán nợ,

bảo hiểm,...Do luật nhiều nước cấm hoặc hạn chế ngân hàng tham gia trực

8

tiếp vào một số loại hình kinh doanh như chứng khoán, bất động sản, cho thuê

tài chính....nên các ngân hàng lớn đã thành lập, hoặc mua lại công ty hoạt

động trong các lĩnh vực trên nhằm mở rộng hoạt động.

(ii) Ngân hàng thuộc sở hữu công ty

Nhiều tập đoàn kinh tế/tập đoàn tài chính thành lập ngân hàng để đa dạng

và hỗ trợ các hoạt động của tập đoàn. Ngân hàng có thể là sở hữu của các tập đoàn

công nghiệp (ngân hàng công nghiệp), hoặc năng lượng, thương mại,...

(iii) Ngân hàng đơn nhất

Ngân hàng đơn nhất là ngân hàng không có chi nhánh, tức là các dịch

vụ ngân hàng chỉ do một hội sở ngân hàng cung cấp.

(iv) Ngân hàng có chi nhánh

Ngân hàng có chi nhánh là ngân hàng cung cấp dịch vụ ngân hàng

thông qua nhiều đơn vị ngân hàng. Việc thành lập chi nhánh thường bị kiểm

soát chặt chẽ bởi ngân hàng trung ương thông qua các quy định về mức vốn

sở hữu, về chuyên môn đội ngũ cán bộ, về sự cần thiết của dịch vụ ngân hàng

trong vùng...

Như vậy, việc phân loại NHTM theo cơ cấu tổ chức có thể đánh giá

được quy mô của từng loại ngân hàng, định hướng phát triển của ngân hàng

đó. Đối với nhà quản lý vĩ mô, việc phân loại trên sẽ giúp cho việc quản lý và

điều tiết việc phát triển mạng lưới của các ngân hàng được dễ dàng hơn.

1.1.1.3. Chức năng của ngân hàng thương mại [28, tr.8-12]

a. Trung gian tài chính

NHTM là một trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển

tiết kiệm thành đầu tư dưới hình thức nhận tiền gửi và cấp tín dụng. Hai loại

cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời có

nhu cầu chi tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập/hoặc vốn hiện có, vì vậy

phát sinh nhu cầu bổ sung vốn; và (2) các cá nhân và tổ chức có thu nhập/

hoặc vốn hiện tại lớn hơn các khoản chi cho hàng hóa, dịch vụ, vì vậy có tiền

9

để tiết kiệm. Tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ (2) sang nhóm thứ (1) nếu cả hai

cùng có lợi. Như vậy lợi nhuận là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa

hai nhóm.

b. Trung gian thanh toán

Khi ngân hàng nhận tiền gửi và cho vay – trung gian tài chính – tất yếu

dẫn đến cơ sở của thanh toán hộ. Trước tiên là thanh toán hộ giữa những

khách hàng có tiền gửi ở cùng một ngân hàng, sau đó mở rộng ra khi hệ thống

thanh toán liên ngân hàng hình thành.

Tiền được chuyển từ tài khoản của khách hàng A tại ngân hàng này

sang tài khoản của khách hàng B tại ngân hàng khác, mở đầu hoặc kết thúc

một quá trình luân chuyển hàng hóa, hoặc quan hệ kinh tế. Để việc thanh toán

nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách

hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ

thu, thẻ...Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua

ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ

thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công

nghệ đó càng được mở rộng.

c. Tạo phương tiện thanh toán

Tiền có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán, hệ

thống ngân hàng tham gia tạo nên phương tiện thanh toán là tiền ghi sổ. Ban

đầu các ngân hàng đã tạo ra tiền giấy thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng

tiền kim loại đang nắm giữ.

Với nhu cầu có đồng tiên quốc giá duy nhất đã dẫn đến việc Nhà nước

tập trung quyền lực phát hành (in) tiền giấy vào một tổ chức, Bộ tài chính

hoặc là Ngân hàng trung ương, chấm dứt việc các NHTM tạo ra giấy bạc của

riêng mình. Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách

hàng nhận thấy nếu họ có dố dư trên tài khoản tiền gửi thánh toán, họ sẽ chi

trả để có được hàng hóa và các dịch vụ theo yêu cầu. Tiền trên tài khoản tiền

10

gửi thanh toán tại ngân hàng là phương tiện thanh toán song hành cùng tiền

giấy. Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ

nhất là tiền giấy trong lưu thông, thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi thanh

toán của khách hàng tại ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên tài khoản tiền gửi

tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn,...

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm nợ xấu và các yếu tố liên quan đến nợ xấu

của Ngân hàng thương mại

1.1.2.1. Khái niệm nợ xấu

Đối với Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), nợ xấu được giải thích là: “Một

khoản cho vay được coi là không sinh lời (nợ xấu) khi tiền thanh toán lãi

và/hoặc tiền gốc đã quá hạn từ 90 ngày trở lên, hoặc các khoản thanh toán

lãi đến 90 ngày hoặc hơn đã được tái cơ cấu hay gia hạn nợ, hoặc các khoản

thanh toán dưới 90 ngày nhưng có các nguyên nhân nghi ngờ việc trả nợ sẽ

được thực hiện đầy đủ”. Với định nghĩa này, nợ xấu được xác định trên hai

khía cạnh thời gian quá hạn và khả năng trả nợ của khách hàng.

Còn xét trong phạm vi Việt Nam, nợ xấu được định nghĩa theo pháp

luật như sau:

Nợ xấu trong hoạt động tín dụng của NHTM chính là các khoản tiền

mà mà ngân hàng cho khách hàng vay nhưng khi đến hạn thu hồi nợ lại

không thể đòi được do yếu tố chủ quan từ chính phía khách hàng như doanh

nghiệp, tổ chức vay tín dụng làm ăn thua lỗ, phá sản dẫn đến tình trạng mất

khả năng thanh toán khoản nợ đã vay của ngân hàng khi đến kỳ hạn.

Nợ xấu là những khoản nợ được ngân hàng liệt vào nhóm 3 (nhóm dưới

tiêu chuẩn), nhóm 4 (nghi ngờ) và nhóm 5 (khả năng mất vốn cao) [24, Đ.3]

1.1.2.2. Đặc điểm cơ bản của nợ xấu

Thứ nhất, Người mắc nợ trốn hoặc mất tích, không còn tài sản để thanh

11

toán nợ.

Thứ hai, những khoản nợ mà chủ nợ không thể liên lạc được với người

mắc nợ hoặc không thể tìm được người mắc nợ.

Thứ ba, những khoản nợ mà khách nợ chấm dứt hoạt động kinh doanh,

thanh lý tài sản, hoặc kinh doanh bị thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả

nợ.

1.1.2.3. Bản chất của nợ xấu và dấu hiệu nhận biết

Bản chất của nợ xấu là một khoản tiền cho vay mà chủ nợ xác định

khó có thể thu hồi lại được. Đối với các ngân hàng, nợ xấu là các

khoản tiền cho khách hàng vay mà không thể thu hồi lại được. Các dấu hiệu

của khoản nợ có vấn đề có thể được chia thành các nhóm sau:

 Dấu hiệu từ hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng

Trong quá trình hạch toán của khách hàng, xu hướng của các tài khoản

của khách hàng qua một quá trình để cung cấp cho ngân hàng một số dấu hiệu

quan trọng gồm: Khó khăn trong thanh toán lương; Sự giảm sút số dư tài

khoản tiền gửi; Tăng mức sử dụng bình quân trong các tài khoản; Gia tăng

các khoản nợ thương mại hoặc không có khả năng thanh toán nợ khi đến hạn.

Các hoạt động cho vay như: Mức độ vay thường xuyên gia tăng; Thanh toán

chậm các khoản nợ gốc và lãi; Giảm các khoản phải trả và tăng các khoản

phải thu; Các hệ số thanh toán phát triển theo chiều hướng xấu,…

 Dấu hiệu thuộc về quản lý của khách hàng

Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản trị hoặc BĐH. Hệ

thống điều hành luôn bất đồng vì mục đích, quản trị, điều hành độc đoán hoặc

quá phân tán. Cách thức hoạch định của khách hàng có biểu hiện: i) Được

hoạch định bởi HĐQT hoặc Giám đốc điều hành ít hay không có kinh

nghiệm;… ii) Có các chi phí quản lý bất hợp lí: BĐH hoặc thành viên góp

vốn sử dụng tiền của doanh nghiệp vào mục đích riêng của cá nhân,…

12

 Dấu hiệu từ các thông tin tài chính

Chuẩn bị không đầy đủ số liệu tài chính hoặc chậm trễ, trì hoãn các

báo cáo tài chính và qua phân tích cho thấy: Sự gia tăng không cân đối về tỷ

lệ nợ thường xuyên; Tăng doanh số nhưng giảm lãi hoặc không có lãi; Các tài

khoản hạch toán vốn lưu động không khớp; Lượng hàng hóa tăng nhanh hơn

doanh số bán…

Ngoài ra còn có các dấu hiệu phi tài chính khác: Là dấu hiệu mà mắt

thường cán bộ tín dụng có thể nhận biết được như: Những vấn đề về đạo đức;

Sự xuống cấp trông thấy của nơi kinh doanh; Nơi lưu trữ hàng hóa quá nhiều,

hư hỏng, lạc hậu…

1.1.2.3. Phân loại nợ xấu và trích lập dự phòng nợ xấu

Có rất nhiều tiêu chí phân loại nợ xấu, trên khía cạnh kinh tế, nợ xấu

có thể phân chia thành những nhóm sau:

(i) Căn cứ vào đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng đối với từng

khoản vay trong hiện tại và tương lai, không phân biệt khoản vay hiện tại có

quá hạn hay chưa, người ta chia nợ xấu thành: Nợ xấu thông thường: đảm bảo

thu hồi đủ 100%; Nợ xấu khó đòi: chỉ có khả năng thu hồi được một phần

hoặc thu hồi đầy đủ nhưng thời gian thu hồi kéo dài; Nợ xấu mất trắng: không

có khả năng thu hồi.

(ii) Căn cứ nguyên nhân có thể chia nợ xấu thành:

- Nợ xấu do nguyên nhân bất khả kháng: do thiên tai, do thay đổi cơ

chế chính sách, ốm đau,...

- Nợ xấu do lỗi của người vay: trình độ quản lý yếu kém, khả năng cạnh

tranh kém dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh; cố tình trây ỳ không trả nợ…

- Nợ xấu do lỗi của người cho vay: trình độ chuyên môn, nghiệp vụ

kém dẫn đến không quản lý, theo dõi và phát hiện sớm sai phạm của khách

hàng; đồng tình với những sai phạm của khách hàng.

(iii) Căn cứ việc xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng chia nợ xấu

13

thành:

Nợ chưa được xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng - Nợ hạch toán

nội bảng; Nợ đã được xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng - Nợ hạch toán

ngoại bảng

(iv) Phân loại nợ xấu:

Các TCTD căn cứ vào các tiêu chuẩn định tính và định lượng để đánh

giá mức độ rủi ro của các khoản vay và cam kết ngoại bảng, trên cơ sở đó

phân loại vào các nhóm nợ thích hợp. Mục đích của việc phân loại trên là

trong trường hợp có khoản nợ được phân loại định lượng bị lọt vào nhóm có

khả năng rủi ro cao (nợ xấu), thì các TCTD cần phải điều chỉnh nhóm nợ cho

phù hợp. Ngoài ra, các TCTD cũng phải phân loại với tài sản có vi phạm

nhóm nợ rủi ro cao, đồng thời phải xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội

bộ để xếp hạng khách hàng vay vốn theo định kỳ, đây cũng chính là cơ sở để

các TCTD cho vay, quản lý chất lượng nợ vay cũng như chính sách dự phòng

rủi ro thích hợp. Bên cạnh đó, còn có phân loại nợ theo phương pháp suy

đoán, khi khách hàng có từ hai khoản vay trở lên tại một hoặc nhiều TCTD

mà có một khoản nợ bất kỳ được xác định là nợ xấu thì toàn bộ các khoản nợ

còn lại cũng được xác định là nợ xấu, mục đích của phương pháp phân loại

này là tránh việc các TCTD không nắm được tình trạng vay nợ của khách

hàng đối với các đơn vị khác, dẫn đến việc đánh giá không chính xác và kịp

thời khả năng trả nợ của khách hàng.

(v) Trích lập dự phòng nợ xấu

Tùy theo tính chất riêng, mỗi khoản nợ sẽ có tỷ lệ trích lập dự phòng

rủi ro theo tỷ lệ nhất định theo quy định của pháp luật, số tiền sự phòng không

thể chỉ phụ thuộc vào giá trị khoản nợ và tỷ lệ trích lập dự phòng, mà còn phụ

thuộc vào giá trị TSBĐ. Thông thường, việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro

được thực hiện theo nguyên tắc sử dụng dự phòng cụ thể đối với từng khoản

nợ trước, phát mại TSBĐ để thu hồi nợ, và cuối cùng nếu phát mại tài sản

14

không đủ bù đắp thì mới được sử dụng dự phòng chung. Mục đích của việc

trích lập dự phòng nợ xấu là làm giảm thiểu những rủi ro về tài chính và bù

đắp tổn thất đối với các khoản nợ của TCTD khi thiệt hại thực tế xảy ra.

1.1.2.4. Những chỉ tiêu cơ bản phản ánh nợ xấu của ngân hàng thương mại

a. Mục đích của việc sử dụng các tiêu chí cơ bản phản ánh nợ xấu của

Ngân hàng thương mại:

Việc đưa ra các chỉ tiêu cơ bản phản ánh nợ xấu của NHTM sẽ giúp

cho NHTM có các biện pháp phòng ngừa và hạn chế nợ xấu, bên cạnh đó có

các điều chỉnh kịp thời đối với khảu vị cấp tín dụng của ngân hàng đó, cũng

như có biện pháp kiểm soát đối với các khách hàng đặc thù, ngành nghề cho

vay,...Từ đó, có thể đánh giá được chất lượng tín dụng của ngân hàng, đánh

giá được phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của

bản thân ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường, các chỉ

tiêu phản ánh nợ xấu bao gồm: (i) Tổng số nợ xấu; (ii) Tỷ lệ giữa giá trị các

khoản nợ xấu/tổng dư nợ; (iii) Tỷ lệ nợ khó đòi/tổng dư nợ và Nợ khó đòi/nợ

xấu; (iv) Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi ro/nợ xấu.

b. Nội dung của các chỉ tiêu phản ánh nợ xấu của Ngân hàng thương mại:

(i) Tổng số nợ xấu: đây là chỉ tiêu phản ánh chung giá trị tuyệt đối của

toàn bộ khoản nợ xấu của ngân hàng. Chỉ tiêu này chưa cho biết trong tổng số

dư nợ đó, nợ không có khả năng thu hồi là bao nhiêu và nợ có khả năng thu

hồi là bao nhiêu. Chỉ tiêu này chỉ giúp ích cho nhà quản lý biết được tỷ trọng

nợ xấu của ngân hàng mình để có những điều chỉnh về chính sách và quản trị

phù hợp nhằm giảm tỷ lệ nợ xấu về mức an toàn. Chỉ số này cho biết mức độ

hoạt động hiệu quả của một ngân hàng trong việc quản lý chất lượng tín dụng.

(ii) Tỷ lệ giữa giá trị các khoản nợ xấu/ tổng dư nợ: chỉ tiêu này phản

ánh mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng. Chỉ tiêu này cho biết mức độ rủi ro

của ngân hàng, tỷ lệ này phản ánh cứ một đơn vị đơn vị tiền tệ khi ngân hàng

cho vay thì có bao nhiêu đơn vị tiền tệ mà ngân hàng xác định khó có khả

15

năng thu hồi hoặc không thu hồi được đúng hạn tại thời điểm xác định khó có

khả năng thu hồi hoặc không thu hồi được đúng hạn tại thời điểm xác định.

Tỷ lệ này càng cao thì khả năng rủi ro càng cao. Tuy nhiên, các con số được

sử dụng để tính chỉ số này được đo tại một thời điểm nhất định nên chưa phản

ánh một cách chính xác chất lượng tín dụng của ngân hàng.

(iii) Tỷ lệ nợ khó đòi/ tổng dư nợ và nợ khó đòi/ nợ xấu: các chỉ số này

phản ánh chỉ tiêu tương đối của nợ khó đòi, tỷ lệ này cho biết chỉ tiêu tương

đối của nợ khó đòi – một cấu phần quan trọng của nợ xấu. Đây là những chỉ

tiêu phản ánh khá trung thực về thực tế và nguy cơ mất vốn của ngân hàng.

Tỷ lệ này càng lớn thì khả năng rủi ro mất vốn của ngân hàng càng cao.

(iv) Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi ro/ nợ xấu hay tỷ lệ bao nợ xấu: tỷ lệ này

cho biết quỹ dự phòng rủi ro có khả năng bù đắp bao nhiêu cho các khoản nợ

xấu khi chúng chuyển thành các khoản nợ mất vốn. Nếu tỷ lệ này càng cao thì

khả năng quỹ dự phòng rủi ro đủ bù đắp các thiệt hại có thể xảy ra trong quá

trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng cao và ngược lại.

1.1.2.5. Nguyên nhân của nợ xấu

Nguyên nhân phát sinh nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM

phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, có thể kể đến như sau:

a. Nguyên nhân khách quan:

(i) Môi trường thiên nhiên

Thiên tai, bão lụt, hỏa hoạn, mất mùa, dịch bệnh...là những nguyên nhân

khách quan do sự biến đổi của môi trường thiên nhiên đã gây ra sự hoạt động

thất bại của khách hàng vay vốn, nhất là các khách hàng kinh doanh trong lĩnh

vực nông nghiệp, dẫn đến nợ xấu phát sinh. Nguyên nhân này nằm ngoài tầm

kiểm soát và mong muốn của cả NHTM và các khách hàng vay vốn.

(ii) Môi trường kinh tế

Nếu môi trường kinh tế chưa thực sự phát triển, cạnh tranh trên thị

trường chưa thực sự bình đẳng, tốc độ cũng như trình độ phát triển chưa cao

16

cùng với sự thay đổi liên tục trong các chính sách kinh tế vĩ mô như sự thay

đổi về cơ chế lãi suất, tỷ giá...chính sách xuất nhập khẩu, hàng tiêu

dùng...thay đổi quy hoạch xây dựng hạ tầng, thay đổi cơ chế tài chính, cơ chế

sử dụng đất đai...cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các cá nhân, tổ

chức, doanh nghiệp, khiến các đối tượng này rơi vào thế bị động, do đó nó

gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng nợ của các đối tượng này tại NHTM.

(iii) Môi trường pháp lý

Môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng chưa đầy đủ là nguyên

nhân quan trọng góp phần gây ra nợ xấu. Sự bất cập và chồng chéo của các

luật sẽ khiến cơ quan hữu quan lúng túng trong việc xử lý tranh chấp về tài

sản đảm bảo, các quy định về kế toán kiểm toán chưa đủ sức mạnh thực hiện

sẽ khiến số liệu không đủ cơ sở vững chắc để thẩm định cho vay.

(iv) Cho vay theo chỉ định của chính phủ

Theo kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế kế hoạch hóa

hoặc chuyển đổi, nợ xấu thường là do vấn đề các NHTM quốc doanh bị ràng

buộc bởi chính sách “mềm”, dẫn đến việc các ngân hàng không quan tâm

đánh giá sát sao năng lực tài chính của người vay. Ngoài ra, tại những nước

này, chính quyền trung ương có xu hướng gây áp lực hay khuyến khích các

ngân hàng cấp tín dụng vượt quá mức an toàn cho phép để đạt được những

mục tiêu nhất định đã đề ra.

(v) Sự yếu kém trong hoạt động kinh doanh của khách hàng

Năng lực tài chính của khách hàng không tốt ảnh hưởng trực tiếp đến

hiệu quả kinh doanh. Mặt khác, năng lực điều hành, quản lý kinh doanh của

khách hàng vay vốn yếu kém cũng dẫn đến hoạt động kinh doanh kém hiệu

quả từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho ngân hàng.

(vi) Đạo đức khách hàng

Một số khách hàng chủ ý thông báo tình hình kinh doanh, nguồn thu

nhập của mình không chính xác, gây sai lệch trong việc thẩm định và cấp tín

17

dụng đã dẫn đến khó khăn trong việc thu hồi nợ ngân hàng. Hoặc bản thân

khách hàng thiếu ý thức trong vấn đề sử dụng vốn vay và trả nợ, không quan

tâm đến món nợ đối với ngân hàng mặc dù khách hàng có khả năng tài chính.

Một số khách hàng thì lại có tư tưởng lợi dụng kẽ hở của pháp luật để tính

toán, lừa đảo, móc ngoặc, sử dụng vốn sai mục đích kiếm lời, vay không có ý

định trả nợ (rủi ro đạo đức).

b. Nguyên nhân chủ quan

Đây là những nguyên nhân xuất phát từ chính bản thân các ngân hàng.

Đó có thể là do một chính hiệu quả sách tín dụng kém, sự lỏng lẻo trong công

tác kiểm tra, giám sát hay các vấn đề liên quan đến chất lượng nguồn nhân lực

ngân hàng.

(i) Chính sách tín dụng

Một chính sách tín dụng không đầy đủ, không đồng bộ và thống nhất

sẽ dẫn tới việc cấp tín dụng không đúng đối tượng, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cho

ngân hàng. Mặt khác để thu hút khách hàng và chiếm lĩnh thị phần, nhiều

NHTM đã bỏ qua một số bước trong quy trình tín dụng, cơ chế cho vay được

đơn giản hóa, tự ý hạ thấp tiêu chuẩn đánh giá khách hàng. Đây là những

khoản cho vay chất lượng thấp với mức rủi ro cao. Các khoản cho vay này

không được xem xét kỹ lưỡng về khả năng thanh toán của khách hàng và

thường được bảo đảm bởi rất ít hoặc không có giấy tờ chứng minh khả năng

tài chính của người đi vay.

(ii) Công tác tổ chức kiểm tra, kiểm soát

Nhiệm vụ của công tác kiểm tra, kiểm soát là phát hiện sớm những sai

phạm trong hoạt động cho vay đề ngăn ngừa rủi ro. Tuy nhiên, công tác tổ

chức, kiểm tra, kiểm soát của các NHTM nếu quá yếu kém và lỏng lẻo sẽ dẫn

đến việc phát hiện và xử lý không kịp thời những trường hợp vi phạm, lợi

dụng trong hoạt động cho vay, và nợ xấu phát sinh là điều tất yếu.

18

(iii) Đạo đức của cán bộ ngân hàng

Một bộ phận cán bộ của một số ngân hàng thoái hóa biến chất, lợi

dụng chức vụ quyền hạn, cấu kết với khách hàng để cố ý làm trái các quy

định của pháp luật. Rủi ro đạo đức còn đến từ chính sự lựa chọn, bố trí sử

dụng nhân sự ngân hàng thiếu năng lực, phẩm chất, tư cách đạo đức nghề

nghiệp, dẫn đến sự thông đồng giữa cán bộ quản lý và nhân viên ngân hàng

với khách hàng để che giấu thông tin thật, nâng khống giá trị tài sản thế chấp

và cố tình vi phạm các quy định về bảo đảm an toàn cho vay, là một trong

những nguyên nhân dẫn đến tình trạng quá hạn của khách hàng vay vốn.

1.1.2.6. Tác động của nợ xấu đến Ngân hàng thương mại

(i) Nợ xấu xuất hiện đồng nghĩa với việc ngân hàng không thu hồi đủ

vốn bỏ ra cho vay, trong khi chi phí dự phòng tăng lên làm giảm lợi nhuận

ngân hàng, giảm tích lũy để đầu tư mới. Nợ xấu gia tăng có khi còn làm cho

ngân hàng thua lỗ do bị thâm hụt vào nguồn vốn cho vay. Đến một lúc nào

đó, ngân hàng không thể trả cho người gửi tiền khi đến hạn, ngân hàng sẽ lâm

vào tình cảnh mất khả năng thanh toán. Trước tình hình này, ngân hàng buộc

phải đi vay tại các TCTD khác hoặc chịu sự can thiệp của NHNN, hoặc có thể

đi đến phá sản.

(ii) Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tăng cao sẽ làm uy tín của ngân

hàng giảm, dẫn đến việc thu hút nguồn vốn để phục vụ cho kế hoạch mở rộng

sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, tỷ lệ nợ xấu cao còn hạn

chế khả năng cho vay của ngân hàng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả

kinh doanh của ngân hàng.

(iii) Mặt khác, nợ xấu sẽ làm chậm quá trình luân chuyển vốn của các

TCTD, giảm vòng quay vốn, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng.

Bên cạnh đó, mặc dù nhiều ngân hàng của Việt Nam đã đạt mức tỷ lệ đảm

bảo vốn tự có tối thiểu (Capital Adequacy Ratio - CAR) nhưng trên bình diện

chung, tỷ lệ CAR này cũng rất khác nhau giữa các ngân hàng và nhóm ngân

19

hàng. Quan trọng hơn, tỷ lệ này sẽ bị sụt giảm rất nhanh nếu như hạch toán

đúng dự phòng cho các khoản nợ xấu. Lý do là chất lượng tài sản suy giảm

làm cho chi phí dự phòng gia tăng, làm ăn mòn lợi nhuận lũy kế và từ đó

giảm vốn tự có.

1.1.3. Khái niệm, đặc điểm và nội dung xử lý nợ xấu của Ngân hàng

thương mại

1.1.3.1. Khái niệm, đặc điểm xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại

Hiện nay, pháp luật chưa có một văn bản thống nhất về khái niệm “xử

lý nợ của NHTM” mà chỉ đưa ra các quy định để các ngân hàng làm căn cứ để

xử lý nợ xấu bằng việc sử dụng các biện pháp, công cụ như: xử lý TSBĐ, mua

bán nợ, bù đắp bằng quỹ dự phòng và rủi ro tín dụng, sử dụng giải pháp pháp

lý để đòi nợ (khởi kiện), xử lý trách nhiệm với cán bộ để xảy ra nợ xấu,…

Cho nên, hiểu một cách đơn giản, xử lý nợ xấu là quá trình ngân hàng tìm

phương án và tiến hành giải quyết để làm giảm bớt các khoản nợ xấu trên

thực tế, dựa vào các chính sách về nợ xấu đã xây dựng, nhằm đảm bảo mục

tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững của ngân hàng đó.

Qua đó, ta nhận thấy được việc xử lý nợ xấu mang những đặc điểm

sau đây:

Thứ nhất, chủ thể xử lý nợ xấu chủ yếu là NHTM. Hoạt động cho vay

luôn chứa đựng những rủi ro và khả năng phát sinh nợ xấu là một biểu hiện rõ

nhất của rủi ro tín dụng. Nợ xấu phát sinh sẽ gây hậu quả không nhỏ không

chỉ đến hoạt động của các TCTD mà còn tác động đến cả nền kinh tế. NHTM

trước tiên cũng phải tự tìm cách xử lý các khoản nợ xấu của mình, nếu không

thể tự xử lý được có thể bán nợ cho các tổ chức khác, tùy thuộc vào mục tiêu

và chiến lược kinh doanh của ngân hàng.

Thứ hai, đích của việc xử lý nợ xấu là giảm bớt dư nợ tín dụng, duy trì

tỷ lệ nợ xấu phù hợp với mục tiêu kinh doanh. Nợ xấu quá nhiều sẽ làm cho

nguồn vốn của ngân hàng bị thất thoát nghiêm trọng, đồng thời, ảnh hưởng

20

đến uy tín về tiềm lực tài chính của ngân hàng bị suy giảm, ảnh hưởng đến

toàn bộ hoạt động kinh doanh; tỷ lệ nợ xấu thấp cũng chưa hẳn là tốt. Trên

thực tế, bởi sự hiện hữu của hoạt động tín dụng, không có một tổ chức tài

chính nào không tồn tại nợ xấu và có khả năng giải quyết triệt để được toàn

bộ nợ xấu.

Thứ ba, việc xử lý nợ xấu của NHTM phải tuân theo các chính sách về

nợ xấu mà ngân hàng đã đặt ra. Cụ thể, đối với ngân hàng, chính sách về xử

lý nợ xấu chính là kim chỉ nam cho tất cả những người có trách nhiệm trong

khâu xử lý nợ thực hiện chuyên môn của mình. Theo đó, mọi kế hoạch,

phương án xử lý nợ tồn đọng không được trái hoặc nằm ngoài những chính

sách mà ngân hàng đang áp dụng.

1.1.3.2. Nội dung xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại

Để thực hiện được công tác xử lý nợ được hiệu quả, các NHTM

thường sử dụng phối hợp các biện pháp sau:

 Đôn đốc thu hồi nợ

Các NHTM cần tiến hành phân tích, phân loại các khoản nợ xấu để từ

đó đề ra biện pháp đôn đốc, thu hồi, xử lý phù hợp với từng khoản vay. Cần

quản lý tài chính chặt chẽ với các khách hàng có nợ xấu, đặc biệt là các khách

hàng lớn. Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động thì cần tạo điều kiện để

họ duy trì hoạt động bình thường.

 Tái cơ cấu các khoản nợ, tái cấu trúc doanh nghiệp

Biện pháp này được áp dụng đối với những khoản nợ có khả năng thu

hồi, ngân hàng có thể áp dụng các phương pháp sau:

- Gia hạn nợ: là việc khách hàng được phép kéo dài thêm thời hạn trả

nợ cuối cùng. Đây là phương án giúp khách hàng giảm bớt được áp lực thanh

toán nợ trong một khoảng thời gian nhất định, từ đó có thể phục hồi hoạt động

kinh doanh cũng như thu xếp vốn để trả nợ ngân hàng.

- Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ: là việc khách hàng được thay đổi thời gian

21

trả từng phần của khoản nợ hoặc thay đổi số tiền từng kỳ trả nợ đã thỏa thuận

ban đầu nhưng không làm thay đổi tổng số tiền phải trả và thời hạn trả hết nợ

cuối cùng.

- Cấp thêm vốn cho khách hàng: Ngân hàng chỉ xem xét cấp thêm vốn

khi khách hàng chứng minh được kế hoạch kinh doanh sẽ giúp khách hàng

vượt qua giai đoạn khó khăn và chắc chắn có hiệu quả. Việc áp dụng phương

pháp này có tính mạo hiểm vì thế cần được cân nhắc và kiểm soát chặt chẽ.

- Chứng khoán hóa các khoản nợ: Ngân hàng có thể chuyển các khoản

nợ xấu thành vốn cổ phần đối với các doanh nghiệp cổ phần. Ngân hàng áp

dụng biện pháp này khi các khách hàng gặp khó khăn nhưng được đánh giá là

có triển vọng phục hồi.

 Xử lý tài sản bảo đảm, yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ

bảo lãnh

- Thanh lý tài sản bảo đảm tiền vay: Thông thường khi xét duyệt cho

vay, khách hàng cần có TSBĐ nhất định để đảm bảo cho nghĩa vụ của khoản

nợ tại Ngân hàng. Khi khách hàng không trả nợ, ngân hàng sẽ xem xét áp

dụng biện pháp xử lý TSBĐ để thu hồi nợ. Tài sản bảo đảm sau khi hoàn tất

các thủ tục pháp lý để bàn giao cho Ngân hàng, ngân hàng có thể sẽ tự bán

công khai tài sản; hoặc bán qua trung tâm bán đấu giá tài sản; hoặc bán cho

Công ty mua bán nợ.

- Quản lý, khai thác tài sản: Tùy theo trường hợp cụ thể, ngân hàng có

thể tiếp nhận tài sản, tiếp tục quản lý, khai thác tài sản để thu hồi nợ.

- Yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh: Trong trường hợp

việc đòi nợ từ phía người vay gặp khó khăn, ngân hàng có thể yêu cầu người bảo

lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh dưới hình thức thanh toán nợ trực tiếp hoặc xử

lý TSBĐ của người bảo lãnh.

 Bán các khoản nợ

Ngân hàng thường áp dụng biện pháp này khi không muốn mất thời gian

22

hoặc bản thân ngân hàng đã có một tổ chức chuyên môn hóa trong việc xử lý nợ đó

là AMC. Việc bán lại các khoản nợ xấu (hay quyền đòi nợ) cho một tổ chức khác

(có thể là một ngân hàng hoặc AMC) sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu được nợ xấu.

 Sử dụng công cụ pháp lý để đòi nợ

Để áp dụng biện pháp này đạt hiệu quả, ngân hàng cần đảm bảo hồ sơ

khoản vay đầy đủ và phù hợp về mặt pháp lý. Ngân hàng thực hiện kiện khách

hàng ra tòa để đòi nợ. Phán quyết của Tòa án sẽ buộc khách hàng trả nợ hoặc

chuyển giao TSBĐ tiền vay cho ngân hàng để xử lý thu hồi nợ. Trường hợp

khách hàng là các doanh nghiệp không trả được nợ, ngân hàng với tư cách là chủ

nợ chính có thể làm đơn xin mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo luật

phá sản.

 Xử lý bằng vốn Ngân sách

Nợ xấu phát sinh từ các khoản cho vay theo chính sách của Chính phủ thì

Chính phủ phải đứng ra giải quyết, bù đắp tổn thất cho các NHTM. Chính phủ sẽ

dùng vốn ngân sách để mua lại toàn bộ nợ xấu thuộc diện cho vay theo chính

sách của Chính phủ, sau đó xử lý dần trong một số năm. Biện pháp này có hạn

chế do ngân sách là có hạn, Chính phủ luôn phải cân nhắc chi tiêu ngân sách và

không phải khoản nợ xấu nào phát sinh cũng được xử lý trong thời gian ngắn.

1.2. Những vấn đề chung về pháp luật xử lý nợ xấu của Ngân hàng

thương mại

1.2.1. Khái niệm pháp luật xử lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại

Trước hết, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban

hành và đảm bảo thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Vậy từ khái

niệm này có thể suy ra: Pháp luật về xử lý nợ xấu của NHTM chính là hệ

thống các quy định mà Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện để điều

chỉnh quan hệ về xử lý nợ xấu của các NHTM.

1.2.2.Đặc điểm pháp luật xử lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại

Với định nghĩa nêu trên, có thể nhận thấy pháp luật về xử lý nợ xấu

23

mang đặc điểm như sau:

Do quan hệ về xử lý nợ xấu là một loại quan hệ cụ thể, liên quan đến

nhiều lĩnh vực do vậy những quy định điều chỉnh về quan hệ pháp luật này

thường nằm rải rác tại nhiều văn bản luật khác nhau. Tuy nhiên, xử lý nợ xấu

với bản chất là một trong những hoạt động cơ bản của các TCTD nói chung

và các NHTM nói riêng, cho nên pháp luật điều chỉnh hoạt động này nằm

trong bộ phận pháp luật về ngân hàng là chủ yếu.

Ngoài ra, một số nghiệp vụ xử lý nợ có liên quan đến TSBĐ thì lại

được điều chỉnh bởi pháp luật dân sự và thậm chí được điều chỉnh bởi pháp

luật tố tụng trong trường hợp ngân hàng tiến hành biện pháp thu hồi nợ bằng

việc khởi kiện khách hàng ra Tòa án hay các cơ quan tố tụng khác có thẩm

quyền,…

1.2.3. Các bộ phận pháp luật xử lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại

Với sự đa dạng và phức tạp của hoạt động tín dụng về chủ thể (Tổ

chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức Nhà nước sở hữu

100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của tổ chức tín

dụng; khách hàng vay vốn; các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan) và mục

đích vay vốn mà hoạt động xử lý nợ xấu cũng phải trở nên phong phú và linh

hoạt về các phương thức, mà mỗi phương thức này lại được quy định và điều

chỉnh bởi văn bản luật khác nhau, chẳng hạn như:

Đối với chủ thể có nợ xấu cần tại ngân hàng là doanh nghiệp thì các

biện pháp mà ngân hàng áp dụng để xử lý nợ với bên này cũng phải phù hợp

với các quy định của Luật doanh nghiệp, đặc biệt khi Doanh nghiệp bị tuyên

bố phá sản thì phải dựa vào Luật phá sản.

Đối với chủ thể có nợ xấu là những khách hàng cá nhân là những

người có gia đình, vấn đề thanh toán nợ lại liên quan đến nghĩa vụ về tài sản

chung, tài sản riêng của vợ/chồng trong thời kỳ hôn nhân, theo quy định của

pháp luật hôn nhân và gia đình. Hợp đồng tín dụng có TSBĐ không chỉ chịu

24

sự điều chỉnh của pháp luật dân sự, mà tùy vào loại tài sản mà lại được điều

chỉnh bằng những luật chuyên ngành khác nhau, ví dụ như đối với TSBĐ là

bất động sản thì ngoài luật dân sự còn có Luật kinh doanh bất động sản hay

Luật đất đai điều chỉnh,…

1.2.4. Pháp luật Hàn Quốc về xử lý nợ xấu và Bài học kinh nghiệm

cho Việt Nam [31, tr.1-4]

Sở dĩ lựa chọn Hàn Quốc để rút ra bài học cho Việt Nam bởi có thể

nói rằng đây là quốc gia thành công trong việc giải quyết nợ xấu. Với việc

đưa ra hàng loạt những chính sách và thực hiện các biện pháp phù hợp mà “tỷ

lệ nợ xấu của Hàn Quốc đã giảm từ 11,7% xuống còn 3,9% trong vòng 4 năm

(1998 – 2002) và duy trì mức ổn định khoảng 1% ở hiện tại.”

1.2.4.1. Hệ thống pháp luật của Hàn Quốc về xử lý nợ xấu

Là một nước phát triển và có mức độ hội nhập quốc tế sâu rộng, cũng

như nhiều nước phát triển khác, “Hàn Quốc đã chịu tác động sâu sắc từ các

cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu và trong nước, trong đó lĩnh vực

tài chính, ngân hàng là lĩnh vực chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất và bị tổn

thương nặng nề nhất. Để vực dậy nền kinh tế và hệ thống tài chính, ngân hàng

sau các cuộc khủng hoảng, từ năm 1996 đến nay, Hàn Quốc đã buộc phải tiến

hành nhiều đợt tái cơ cấu hệ thống tài chính nói chung và tái cơ cấu, xử lý nợ

xấu hệ thống ngân hàng nói riêng bằng một hệ thống các giải pháp đột phá,

mạnh mẽ và kịp thời với sự đồng thuận và quyết tâm cao trong nhận thức

cũng như trong hành động từ Quốc hội, Chính phủ đến các chủ thể trong hệ

thống tài chính, ngân hàng và doanh nghiệp, người dân về sự cần thiết, quan

điểm và cách thức tái cơ cấu, xử lý nợ xấu.

Trong thời kỳ này, Hàn Quốc đã thiết lập hành lang pháp lý đầy đủ, kịp

thời. Đây được xem là điều kiện tiên quyết, đảm bảo cho các biện pháp tái cơ

cấu và xử lý nợ xấu được thực thi nghiêm túc, nhanh chóng và công khai, minh

bạch, hiệu quả, giảm thiểu tối đa các tranh chấp, xung đột lợi ích và những tác

25

động bất lợi từ khủng hoảng. Riêng trong lĩnh vực ngân hàng, đã có không dưới

6 bộ luật, quy định điều chỉnh cụ thể các nội dung hoạt động, trong đó có nhiều

bộ luật, quy định chuyên biệt, như: Luật về tăng cường tái cấu trúc trong lĩnh

vực tài chính; Quy định riêng về “Hành động chấn chỉnh kịp thời” đối với hoạt

động của các ngân hàng, ngân hàng tiết kiệm tương hỗ,…

Với một hệ thống pháp lý đầy đủ, cụ thể, rõ ràng, khuyến khích các tổ

chức và cá nhân cùng tham gia và chú trọng tạo sự chủ động, linh hoạt cho

các cơ quan chức năng trong việc can thiệp và áp dụng các công cụ chính

sách, quá trình tái cơ cấu và xử lý nợ xấu hệ thống ngân hàng tại Hàn Quốc đã

được tiến hành nhanh chóng, kịp thời, minh bạch và đạt hiệu quả cao. Trong

đó, việc ban hành Luật về tăng cường tái cấu trúc trong lĩnh vực tài chính và

Luật về cải tổ chức năng và nhiệm vụ của Công ty quản lý tài sản Hàn Quốc

(KAMCO) đã tạo cơ sở pháp lý rõ ràng về cơ chế phối hợp, sử dụng nguồn

lực và quyền hạn của các cơ quan chức năng và tổ chức tài chính, nhất là các

ngân hàng yếu kém trong việc lựa chọn và thực thi các biện pháp cơ cấu lại và

xử lý nợ xấu phù hợp nhằm đạt được mục tiêu đặt ra là nhanh chóng xử lý dứt

điểm những vấn đề yếu kém, không gây ảnh hưởng xấu lan truyền trong hệ

thống, cải thiện và phục hồi hoạt động của hệ thống tài chính, ngân hàng với

chi phí thấp nhất.”

1.2.4.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Thứ nhất, Chính phủ Việt Nam cần có những chính sách hỗ trợ xử lý

nợ xấu. Để nhanh chóng xử lý nợ xấu tại các tổ chức tài chính, hầu hết Chính

phủ của các nước đều bơm vốn (bằng tiền mặt hoặc bằng trái phiếu được

Chính phủ bảo lãnh) cho một số ngân hàng lớn, cho các công ty xử lý nợ tập

trung để ngay lập tức làm sạch sổ sách cho các ngân hàng, không gây áp lực

trích lập cho các ngân hàng trong ngắn hạn, đảm bảo các ngân hàng nhận vốn

đều đáp ứng các quy định về an toàn vốn để thực hiện mở rộng tín dụng cho

nền kinh tế và giúp đẩy nhanh quá trình thu mua nợ của các công ty xử lý nợ

26

tập trung.

Thứ hai, áp dụng cơ chế xử lý ngoài Tòa án. Cơ chế xử lý ngoài tòa án

góp phần đảm bảo quyền chủ nợ của TCTD. Việc cho phép áp dụng cơ chế

xử lý ngoài tòa đối với các khoản nợ có bảo đảm của doanh nghiệp đã tránh

được quy trình xử lý kéo dài tại Tòa án và rút ngắn thời gian thu hồi nợ kéo

dài hàng năm trước kia xuống chỉ còn vài tháng.

Thứ ba, cần xây dựng khung pháp lý cho các công ty quản lý tài sản.

Để các Công ty AMC hoạt động thực sự hiệu quả thì các Công ty AMC phải

được giao quyền lực đủ mạnh. Quyền hạn của các Công ty AMC phải được

giao cụ thể với nguồn ngân sách nhất định, gắn với một thời hạn cụ thể để

giúp xử lý các khoản nợ xấu đang ở mức cao.

Thứ tư, cần phát triển khung pháp lý cho thị trường mua - bán và xử lý

tài sản xấu. Từ bài học của Hàn Quốc cho thấy, mua bán nợ chính là một

trong những biện pháp quan trọng để thoát khỏi khủng hoảng và áp lực nợ

xấu. Việc tham gia của các thành phần kinh tế có chức năng kinh doanh mua,

bán nợ xấu sẽ tận dụng được các nguồn lực xã hội, góp phần cùng AMC đẩy

nhanh tốc độ và chất lượng xử lý nợ xấu.

Thứ năm, đa dạng hóa các hình thức xử lý nợ xấu. Hàn Quốc áp dụng

rất nhiều biện pháp xử lý nợ xấu từ bán buôn, bán lẻ các khoản nợ xấu cho

các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đến phát hành các chứng khoán

được đảm bảo bằng tài sản, bán đấu giá các khoản nợ có chủ nợ bị phá sản,

bán tài sản thu hồi nợ, đấu thầu quốc tế và tái cấu trúc nợ, chuyển nợ thành

vốn góp để tranh thủ trình độ quản lý, điều hành của các nguồn lực đặc biệt là

nguồn lực nước ngoài để đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu, tái cấu trúc doanh

nghiệp.” [33, tr.1-3]

Tiểu kết Chương 1

Với chức năng đa dạng, NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc

27

bình ổn và thúc đẩy nền kinh tế. Việc phân chia NHTM theo các tiêu chí khác

nhau cho phép các ngân hàng phát triển phù hợp với chính sách, quy mô của

mình trên thị trường, đồng thời cho phép cơ quan quản lý vĩ mô có thể áp

dụng các chính sách phù hợp và kinh hoạt hơn.

Trong số các chức năng của mình là hoạt động cấp tín dụng là hoạt

động chính giúp cho NHTM tạo ra nguồn lợi nhuận chính. Tuy nhiên, bên

cạnh đó là vấn đề tiềm ẩn rủi ro nợ xấu, khi ngân hàng cho khách hàng vay

tiền nhưng khi đến hạn thu hồi lại không thể đòi được nợ, dẫn đến việc ngân

hàng bị giảm về lợi nhuận, thậm chí có thể dẫn đến nguy cơ mất vốn nếu

không thu hồi được khoản nợ. Việc phát sinh nợ xấu có thể xuất phát từ

những nguyên nhân chủ quan và khách quan. Xét cho cùng nợ xấu ảnh hưởng

không nỏ đến hoạt động của ngân hàng, nợ xấu gia tăng làm cho ngân hàng

thua lỗ do bị thâm hụt vào nguồn vốn cho vay. Bên cạnh đó là uy tín của ngân

hàng giảm, dẫn đến việc thu hút nguồn vốn để phục vụ cho kế hoạch mở rộng

sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, nợ xấu sẽ làm chậm

quá trình luân chuyển vốn của các ngân hàng, giảm vòng quay vốn, làm giảm

hiệu quả sử dụng vốn của các ngân hàng.

Các NHTM cần tiến hành phân tích, phân loại các khoản nợ xấu để từ

đó đề ra các biện pháp thu nợ phù hợp với từng khoản vay. Hơn nữa, các quy

định được nâng lên thành Luật là hết sức cần thiết, góp phần tăng tính hiệu

lực của văn bản và nâng cao hiệu quả áp dụng và thực hiện pháp luật; kịp thời

bổ sung các chế tài và các biện pháp xử lý để giảm thiểu sự chống đối, bất

hợp tác từ phía khách hàng vay vốn, giúp cho hoạt động tín dụng nói chung

28

cũng như hoạt đông thu hồi nợ của các NHTM đạt được hiệu quả hơn.

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN TẠI TPBANK

2.1. Thực trạng pháp luật về xử lý nợ xấu của NHTM

2.1.1. Những ưu điểm về xử lý nợ xấu của NHTM

Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 42/2017 nhằm giải quyết phần lớn

các khó khăn, vướng mắc liên quan đến cơ chế, chính sách, tạo hành lang

pháp lý thông thoáng trong hoạt động xử lý nợ xấu. Nghị quyết 42/2017 tuy

chưa được Quốc hội ban hành như một Bộ Luật riêng về xử lý nợ xấu nhưng

là văn bản pháp luật cao nhất từ trước đến nay đối với hệ thống TCTD chỉ sau

Luật các TCTD. Kể từ khi Nghị quyết này có hiệu lực, các cơ quan thi hành

án dân sự đã tích cực, chủ động triển khai thực hiện Nghị quyết cũng như các

văn bản hướng dẫn thi hành. Về cơ bản, Nghị quyết được ban hành với những

quy định tiến bộ đã tạo nhiều thuận lợi, bảo đảm cho quyền lợi của các

TCTD; nâng cao hơn ý thức của cá nhân, tổ chức trong việc thực hiện các

khoản nợ của các TCTD. Cụ thể như sau:

2.1.1.1. Quy định về nguyên tắc xử lý nợ xấu

Để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, Điều 3 của

Nghị quyết quy định khi xử lý nợ xấu, TSBĐ của khoản nợ xấu phải bảo đảm

các nguyên tắc như: “công khai, minh bạch, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp,

chính đáng của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử

lý nợ xấu và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; phù hợp với cơ chế thị

trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và

giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống; không sử dụng ngân sách nhà nước để

xử lý nợ xấu; cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật để xảy

ra nợ xấu và trong quá trình xử lý nợ xấu phải chịu trách nhiệm theo quy định

của pháp luật.” [16, Đ3]. Việc quy định như nói trên, có thể thấy rằng, Nghị

29

quyết khẳng định không sử dụng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu, cơ

quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật để xảy ra nợ xấu và trong

quá trình xử lý nợ xấu phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.

2.1.1.2. Quy định về việc mua, bán nợ xấu, tài sản bảo đảm

Nghị quyết quy định “tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu được bán nợ xấu

cho pháp nhân, cá nhân, bao gồm cả doanh nghiệp không có chức năng kinh

doanh mua, bán nợ” [16, Đ6]. Có thể thấy rằng, đối tượng được bán nợ đã

được Nghị quyết bổ sung và quy định rõ ràng và khắc phục được bất cập giới

hạn về chủ thể được mua nợ của VAMC và bảo đảm quyền bình đẳng trong

hoạt động xử lý nợ của VAMC như các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước

ngoài, góp phần tạo lập, phát triển thị trường mua bán nợ.

Ngoài ra, để tháo gỡ vướng mắc, e ngại bị xử lý về trách nhiệm khi

bán nợ xấu, TSBĐ trước đây, Nghị quyết đã cho phép các tổ chức nêu trên

được bán nợ xấu mà “TSBĐ của khoản nợ xấu với giá bán phù hợp với giá thị

trường, có thể cao hơn hoặc thấp hơn dư nợ gốc của khoản nợ” [16, Đ5].

Điều đặc biệt là Nghị quyết đã tạo điều kiện cho việc xử lý nợ xấu hiệu quả

hơn khi cho phép các TCTD được phép bán các khoản nợ xấu có TSBĐ đang

bị kê biên cho tổ chức mua, bán, xử lý nợ xấu, doanh nghiệp có chức năng

mua, bán nợ với điều kiện: “TCTD có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, trung

thực thông tin về tình trạng bị kê biên của TSBĐ trước khi thực hiện mua, bán

khoản nợ xấu; bên mua tự xác định rủi ro đối với việc mua khoản nợ này;

việc bán TSBĐ đang bị kê biên được thực hiện theo quy định của pháp luật”

[16, Đ13]. Quy định này nhằm khẳng định rõ ràng hơn quyền của người bán

được quyền bán nợ xấu, TSBĐ theo đúng quy định pháp luật, kể cả việc bán

thấp hơn dư nợ gốc của khoản nợ và đây được coi là một trong những điểm

mở cho việc xử lý nợ của các TCTD.

Về việc mua, bán, chuyển nhượng TSBĐ, Nghị quyết đã quy định “cơ

quan có thẩm quyền đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản có trách

30

nhiệm thực hiện thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản cho bên

mua, bên nhận chuyển nhượng TSBĐ của khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng;

Việc nộp thuế của bên bảo đảm, bên nhận chuyển nhượng liên quan đến

chuyển nhượng TSBĐ thực hiện theo quy định của pháp luật về thuế. Bên

nhận bảo đảm, bên nhận chuyển nhượng không phải thực hiện nghĩa vụ thuế,

phí khác của bên bảo đảm từ số tiền chuyển nhượng TSBĐ khi thực hiện thủ

tục đăng ký, thay đổi quyền sở hữu, quyền sử dụng TSBĐ” [16, Đ15]. Việc

quy định như trên giúp các TCTD phần nào khắc phục được tình trạng các cơ

quan thuế yêu cầu bên nhận bảo đảm trích số tiền thu được từ việc bán TSBĐ

để thanh toán nghĩa vụ nợ thuế khác của bên bảo đảm thì mới làm thủ tục xác

nhận hoàn thành nghĩa vụ tài chính khi làm thủ tục sang tên TSBĐ cho bên

mua, bên nhận chuyển nhượng, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của bên nhận

bảo đảm, bên nhận chuyển nhượng TSBĐ.

2.1.1.3. Quy định về quyền thu giữ và xử lý tài sản bảo đảm

Về nguyên tắc, chủ sở hữu tài sản phải có trách nhiệm bàn giao toàn

bộ tài sản và các giấy tờ có liên quan về tài sản cho TCTD thực hiện phát mại

tài sản để thu hồi nợ, tuy nhiên, trên thực tế khách hàng thường không hợp tác

và không bàn giao tài sản, do đó, việc xử lý nợ từ việc bán TSBĐ của các

TCTD là tương đối khó khăn. Từ việc khó khăn trên của các TCTD, Nghị

quyết đã quy định và cho phép nếu “bên bảo đảm, bên giữ tài sản không giao

TSBĐ cho TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý

nợ xấu để xử lý thì TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua

bán, xử lý nợ xấu được thu giữ TSBĐ theo quy định” [16, Đ15]. Việc quy

định này đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho TCTD trong việc thu giữ và phát

mại tài sản trong việc xử lý nợ xấu của TCTD.

Điểm mới khác của Nghị quyết là cho phép được chuyển nhượng và

xử lý TSBĐ của khoản nợ xấu là dự án bất động sản. Việc quy định này nhằm

khắc phục bất cập trong quy định tại Điều 49 Luật kinh doanh bất động sản về

31

điều kiện chuyển nhượng dự án bất động sản không phù hợp với việc xử lý

TSBĐ là dự án bất động sản, tạo cơ sở pháp lý cho bên nhận thế chấp xử lý

được TSBĐ là các dự án bất động sản.

2.1.1.4. Quy định về áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh

chấp liên quan đến tài sản bảo đảm tại tòa án

Đây được coi là một trong những quy định mở và có lợi hơn rất nhiều

cho TCTD trong việc khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền vì rút ngắn

được quá trình giải quyết tranh chấp qua tòa án, đồng thời tăng hiệu quả hoạt

động xử lý TSBĐ. Thông thường, một vụ việc khi TCTD khởi kiện khách hàng

ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền về trình tự thủ tục và thời gian phải mất từ 2

đến 3 năm sau đó mới thi hành án được và đến lúc thi hành án thì TSBĐ đã bị

hao mòn, mất giá trị. Tuy nhiên, với việc quy định thủ tục rút gọn trong giải

quyết tranh chấp, Nghị quyết đã “thổi một làn gió mát” cho hoạt động khởi kiện

nói riêng và hoạt động thu hồi nợ nói chung tại các TCTD.

2.1.1.5. Quy định về kê biên tài sản bảo đảm của bên phải thi hành án

“Các TSBĐ của khoản nợ xấu của bên phải thi hành án đang bảo đảm

cho nghĩa vụ trả nợ tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua

bán, xử lý nợ xấu không bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định

tại Điều 90 của Luật Thi hành án dân sự.” [16, Đ11] Các văn bản pháp luật

trước đây khi đề cập đến việc xử lý nợ tại các TCTD thường cho phép chấp

hành viên kê biên cả TSBĐ của bên phải thi hành án đang thế chấp, cầm cố

tại TCTD để đảm bảo cho khoản vay theo Luật thi hành án dân sự nên đã ảnh

hưởng lớn đến quyền lợi hợp pháp của TCTD và phần nào đó đã gia tăng nợ

xấu cho hệ thống TCTD, đặc biệt trong trường hợp TSBĐ là tài sản hình

thành từ vốn vay hoặc là nguồn thu nhập chính để trả nợ, do đó, việc Nghị

quyết 42 quy định các TSBĐ của khoản nợ xấu của bên phải thi hành án đang

bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tại TCTD không bị kê biên đã tạo điều kiện

32

thuận lợi hơn cho TCTD trong việc xử lý thu hồi nợ.

2.1.1.6. Tính minh bạch giữa xử lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại

so với hoạt động thu hồi nợ của các công ty thu hồi nợ do tổ chức, cá nhân

thành lập

Do quan hệ về xử lý nợ xấu là một loại quan hệ cụ thể, liên quan đến

nhiều lĩnh vực do vậy những quy định điều chỉnh về quan hệ pháp luật này

thường nằm rải rác tại nhiều văn bản luật khác nhau. Trong quá trình xử lý nợ

xấu của các NHTM được hỗ trợ bằng một hệ thống các quy định pháp luật

liên quan, pháp luật điều chỉnh hoạt động này nằm trong bộ phận pháp luật về

ngân hàng là chủ yếu. Ngoài ra, một số nghiệp vụ xử lý nợ của NHTM có liên

quan đến TSBĐ thì lại được điều chỉnh bởi pháp luật dân sự và thậm chí được

điều chỉnh bởi pháp luật tố tụng trong trường hợp ngân hàng tiến hành biện

pháp thu hồi nợ bằng việc khởi kiện khách hàng ra Tòa án hay các cơ quan tố

tụng khác có thẩm quyền,…

Trong khi đó, hiện nay các công ty thu hồi nợ do các tổ chức, cá nhân

thành lập vẫn chưa có khung pháp lý điều chỉnh rõ ràng, chỉ những doanh

nghiệp được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ này mới được

phép hoạt động dịch vụ thu hồi nợ. Các doanh nghiệp này chỉ được thực hiện

các biện pháp thu hồi nợ phù hợp với quy định của pháp luật. Hoạt động này

chỉ được thực hiện theo hợp đồng ủy quyền được ký kết giữa chủ nợ và khách

nợ với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ này trong phạm vi được pháp luật

công nhận.

2.1.2. Những hạn chế về xử lý nợ xấu của NHTM và nguyên nhân

2.1.2.1. Quy định về xử lý tài sản bảo đảm và quyền thu giữ tài sản

bảo đảm

Theo quy định tại Điều 299 Bộ luật Dân sự năm 2015, các trường hợp

xử lý TSBĐ gồm có: (i) Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có

nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ;(ii) Bên có

33

nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước hạn do vi phạm nghĩa

vụ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của luật;(iii) Trường hợp khác do các

bên thỏa thuận hoặc luật có quy định.

Người đang giữ TSBĐ có nghĩa vụ giao TSBĐ cho bên nhận bảo đảm để

xử lý khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 299 nêu trên. Trường

hợp người đang giữ TSBĐ không giao tài sản thì bên nhận bảo đảm có quyền

yêu cầu Tòa án giải quyết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.

Trên thực tiễn, trường hợp khách hàng vay có nợ xấu, thế chấp TSBĐ là

tài sản hình thành trong tương lai và/hoặc các quyền tài sản phát sinh từ hợp

đồng hợp tác đầu tư với chủ đầu tư để thực hiện dự án đấu tư xây dựng bất động

sản (không phải trực tiếp là chủ đầu tư dự án), khi khách hàng không hợp tác,

không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, thì không thể áp dụng biện pháp thu giữ TSBĐ.

Việc xử lý phải thông qua hoạt động khởi kiện, trong trường hợp có bản án thì

việc thi hành án để phát mại tài sản là quyền tài sản cũng rất khó khăn.

Quy định về quyền thu giữ TSBĐ của các TCTD không phải là quy

định mới của pháp luật mà đã được ghi nhận, thực hiện nhiều năm theo quy

định tại Điều 63 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính

phủ về giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, kể từ ngày BLDS 2015 có hiệu lực, cơ

sở pháp lý về quyền thu giữ TSBĐ của ngân hàng đã không được khẳng định

rõ ràng. Do đó, quyền lợi hợp pháp chính đáng của ngân hàng trong việc thu

giữ TSBĐ để xử lý thu hồi nợ xấu đã không được pháp luật bảo vệ, tạo điều

kiện cho khách hàng vay vốn chây ỳ, cố tình trốn tránh và kéo dài thời gian

thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng.

Nghị quyết 42/2017 mới chỉ phần nào khắc phục được điều này bằng

cách trao quyền thu giữ TSBĐ cho các TCTD và VAMC. Tuy nhiên, điều

kiện lớn nhất để các tổ chức này có quyền thu giữ TSBĐ chính là tại hợp

đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho TCTD có quyền

thu giữ TSBĐ. Do vậy, nếu hợp đồng bảo đảm không thỏa thuận cụ thể về

quyền thu giữ hoặc có thỏa thuận những nội dung không rõ ràng có thể gây

34

bất lợi cho TCTD trong việc phối hợp với các cơ quan chức năng để thực hiện

quyền lợi của mình. Hơn nữa, Nghị quyết 42/2017 còn bỏ ra ngoài đối tượng

người mua khoản nợ xấu là các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài được

quyền thu giữ TSBĐ. Chính vì thế, nhà đầu tư chỉ có thể khởi kiện nếu người

thế chấp không bàn giao tài sản. Điều này khiến cho các nhà đầu tư không

mặn mà để mua các khoản nợ xấu từ các định chế tài chính Việt Nam. Bên

cạnh đó, khi các TCTD tiến hành thu giữ tài sản thì việc hỗ trợ của các cơ

quan chính quyền là chưa cao, trên thực tế các cơ quan này chỉ là bên chứng

kiến và đảm bảo an ninh trật tự khi các TCTD tiến hành thu giữ tài sản chứ

chưa có cơ chế về việc hỗ trợ cho các TCTD. Do đó, số vụ việc mà các TCTD

tự thực hiện thu giữ thành công là không nhiều.

2.1.2.2. Quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm

Theo quy định tại Điều 307 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì “số tiền có

được từ việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp sau khi thanh toán chi phí bảo

quản, thu giữ và xử lý tài sản cầm cố, thế chấp được thanh toán cho bên nhận

bảo đảm. Trường hợp số tiền có được từ việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp

sau khi thanh toán chi phí bảo quản, thu giữ và xử lý tài sản cầm cố, thế chấp

lớn hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm thì số tiền chênh lệch phải được trả

cho bên bảo đảm. Nếu số tiền có được từ việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp

sau khi thanh toán chi phí bảo quản, thu giữ và xử lý tài sản cầm cố, thế chấp

nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm thì phần nghĩa vụ chưa được thanh

toán được xác định là nghĩa vụ không có bảo đảm, trừ trường hợp các bên có

thỏa thuận bổ sung tài sản bảo đảm. Bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu bên

có nghĩa vụ được bảo đảm phải thực hiện phần nghĩa vụ chưa được thanh

toán.” [4, Đ1]

Hiện nay, pháp luật về thuế chỉ miễn thuế giá trị gia tăng (VAT) đối

với tiền bán TSBĐ tiền vay do tổ chức tín dụng hoặc cơ quan thi hành án thực

hiện. Tuy nhiên, đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, cơ quan thuế vẫn áp

dụng và thu loại thuế này tính trên số tiền bán TSBĐ thu được do TCTD

35

thực hiện. Thực tế, sau khi ngân hàng bán được TSBĐ của doanh nghiệp, cơ

quan thuế đã áp dụng biện pháp ngăn chặn, không cho người mua thực hiện

thủ tục sang tên đối với TSBĐ bắt buộc phải đăng ký quyền sở hữu theo quy

định của pháp luật. Cho nên, nếu người mua hoặc bên bán không đáp ứng yêu

cầu của cơ quan thuế (nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với mức thuế suất

20% tính trên số tiền bán TSBĐ thì người mua không thể làm hoàn thiện

được thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với TSBĐ, qua đó ngân hàng không

thể thu hồi được nợ xấu. Trường hợp đáp ứng yêu cầu của cơ quan thuế thì cơ

hội thu hồi nợ xấu của ngân hàng bị giảm đáng kể sau khi trừ chi phí xử lý

TSBĐ và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Thực tế, để bán được TSBĐ thu

hồi nợ, ngân hàng đã phải mất nhiều công sức và thanh toán các chi phí liên

quan. Nhiều trường hợp khách hàng vay là doanh nghiệp đã ngừng hoạt động

kinh doanh trên thực tế, không có doanh thu từ hoạt động kinh doanh và âm

vốn chủ sở hữu trong nhiều năm, nên khách hàng không có thu nhập để nộp

thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định. Nguồn trả nợ vay ngân hàng lúc

này chỉ còn duy nhất là các TSBĐ. Việc xử lý TSBĐ là biện pháp thu hồi nợ,

không phải là hoạt động kinh doanh tài sản của ngân hàng. Do đó, khoản nợ

có bảo đảm của ngân hàng phải được ưu tiên thanh toán trước theo đúng quy

định của pháp luật dân sự (Điều 307 Bộ luật Dân sự năm 2015), thỏa thuận

trong hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm so với khoản nợ không có bảo

đảm khác (kể cả thuế thu nhập doanh nghiệp) từ số tiền xử lý tài sản thế chấp,

cầm cố hợp pháp tại ngân hàng.

Ở khía cạnh khác, liên quan thuế thu nhập cá nhân khi chuyển nhượng

bất động sản thì người có tài sản chuyển nhượng (kể cả người phải thi hành

án) thuộc đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân theo quy định tại khoản 5

Điều 3 Nghị định số 65/2013/NĐ-CP ngày 27/6/2013 của Chính phủ quy định

chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và Luật sửa đổi,

bổ sung một số điều của thuế thu nhập cá nhân. Tuy nhiên, tại Điều 12 Nghị

quyết số 42 lại quy định số tiền thu từ TSBĐ được ưu tiên thanh toán cho

36

TCTD trước khi thực hiện nghĩa vụ thuế. Hầu hết các trường hợp, số tiền thu

được từ việc xử lý tài sản không đủ để thanh toán cho TCTD nên không còn

để thanh toán nghĩa vụ thuế. Trong khi đó, tại Công văn số 4606/BTC-TCT

ngày 20/4/2018 của Bộ Tài chính quán triệt thực hiện Nghị quyết số 42 chưa

hướng dẫn cụ thể về trường hợp này.

2.1.2.3. Quá trình giải quyết tranh chấp Hợp đồng tín dụng tại Tòa án

Thực tiễn thu hồi nợ xấu cho thấy, TCTD phải sử dụng nhiều giải pháp để

xử lý nợ và giải pháp cuối cùng khi thu hồi nợ là khởi kiện ra Tòa án. Tuy nhiên,

việc khởi kiện thu hồi nợ của TCTD trên thực tế gặp nhiều rào cản như sau:

Thứ nhất, Về quan điểm xác định thẩm quyền xem xét, giải quyết vụ

án, các Tòa án hiện nay hiểu rất khác nhau. Theo đó, có Tòa án tôn trọng thỏa

thuận của các bên được nêu trong các hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp,

tạo điều kiện cho TCTD tập trung xử lý các vụ việc thuận lợi, chấp nhận nội

dung thỏa thuận chọn Tòa án nơi có rụ sở hoạt động của TCTD, Chi nhánh,

Phòng giao dịch của TCTD. Tuy nhiên, cũng có nhiều Tòa án không chấp

nhận mà cho rằng phải là nơi Tòa án nơi có tài sản thế chấp hoặc nơi thường

trú của bị đơn.

Thứ hai, Tòa án không tống đạt được cho khách hàng, bị đơn và người

liên quan đến vụ việc. Do bên bị khởi kiện cố tình trốn tránh, hợp hợp tác...

Tòa án lại phải ra quyết định trả lại đơn khởi kiện cho TCTD, hoặc đình chỉ

vụ án vì cho rằng chưa đủ điều kiện khởi kiện. Trong khi đó, mọi quyền lợi,

nghĩa vụ của các bên liên quan đã được thỏa thuận rất chi tiết, cụ thể trong

Hợp đồng tín dụng, Hợp đồng thế chấp và các văn bản thỏa thuận khác.

Không những thế, tài sản thế chấp vẫn tồn tại trên thực tế nhưng Tòa án vẫn

trả lại đơn khởi kiện, đình chỉ vụ án vị các lý do không triệu tập được bị đơn,

khách hàng, người liên quan. Đây là yếu tố chủ yếu gây ra tình trạng trì trệ

đối với quá trình tố tụng khi TCTD đi khởi kiện khách hàng, bên thế chấp.

Thứ ba, Sự bất hợp tác của người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa

vụ liên quan trong trường hợp này sẽ làm cho việc giải quyết vụ án của Tòa

37

án bị kéo dài. Tòa án phải tiến hành xác minh, niêm yết văn bản tố tụng theo

quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự mới có thể xét xử vắng mặt họ. Ngoài

ra, có người bị kiện còn ủy quyền cho Luật sư tham gia tố tụng với mục đích

kéo dài thời gian giải quyết vụ án càng lâu càng tốt (đề nghị thu thập thêm tài

liệu, chứng cứ, tiến hành trưng cầu giám định tài liệu,...). Đối với những vụ án

phức tạp có nhiều người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì phiên tòa xét xử

bị hoãn nhiều lần là điều khó tránh khỏi, gây bức xúc mệt mỏi cho TCTD

trong việc tham gia tố tụng.

Thứ tư, vướng mắc từ hợp đồng mua bán nợ với VAMC.

Theo quy định tại Điều 14 Nghị định số 53/2013/NĐ-CP ngày 18/5/2013

của Chính phủ về thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản

của các TCTD Việt Nam (VAMC); Điều 5 của Thông tư số 19/2013/TT-NHNN

ngày 06/9/2013 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì VAMC có quyền mua

lại các khoản nợ tại các TCTD khi các khoản nợ có đủ điều kiện theo quy định

của Nghị định số 53/2013/NĐ-CP và Thông tư số 19/2013/TT-NHNN. Việc

mua bán nợ được thực hiện giữa các TCTD với Công ty VAMC thông qua hợp

đồng mua bán nợ.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Thông tư số 19/2013/TT-NHNN thì

trong hoạt động mua, bán nợ giữa VAMC và TCTD, toàn bộ các quyền và lợi

ích gắn liền với khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm và biện pháp bảo đảm khác

cho khoản nợ xấu được bên bán nợ giữ nguyên hiện trạng và chuyển giao cho

bên mua nợ theo hợp đồng mua, bán nợ. Vấn đề đặt ra là, đối với các khoản

nợ đã được bán cho VAMC mà TCTD đã tiến hành khởi kiện trước đó và Tòa

án các cấp đã thụ lý giải quyết (đã thụ lý xác minh thu thập chứng cứ, đã hòa

giải, đã xét xử sơ thẩm) thì xử lý như thế nào. Đây là vướng mắc của tất cả

các TCTD hiện nay.

Thứ năm, về thời gian tố tụng. Theo quy định tại Điều 179 của Bộ luật

Tố tụng dân sự năm 2015, đối với các vụ án dân sự, kinh doanh thương mại là

tranh chấp liên quan đến Hợp đồng tín dụng thì thời hạn chuẩn bị xét xử là 02

38

tháng kể từ ngày thụ lý vụ án (đối với những vụ án có tính chất phức tạp thì

Chánh án Tòa án có thể gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02

tháng), tuy nhiên trên thực tế nhiều Tòa án không thực hiện đúng quy định về

thời hạn chuẩn bị xét xử mà Bộ Luật tố tụng dân sự quy định [17, tr 1-3].

2.1.2.4. Quy định về thủ tục rút gọn khi giải quyết tranh chấp

Điều 8 Nghị quyết 42/2017 quy định việc tòa án được áp dụng thủ tục

rút gọn để giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao TSBĐ hoặc tranh chấp về

quyền xử lý TSBĐ của khoản nợ xấu. Ngày 15/5/2018 Hội đồng thẩm phán

Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP

hướng dẫn về việc áp dụng thủ tục rút gọn theo Điều 8 Nghị quyết 42. Theo

đó, khi áp dụng thủ tục rút gọn tại Tòa án, TCTD cần lưu ý về điều kiện áp

dụng thủ tục rút gọn, cụ thể, chỉ được áp dụng khi hợp đồng bảo đảm có thỏa

thuận về việc bên bảo đảm có nghĩa vụ giao TSBĐ của khoản nợ xấu cho bên

nhận bảo đảm hoặc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC có

quyền xử lý TSBĐ; Giao dịch bảo đảm, biện pháp bảo đảm đã đăng ký theo

quy định của pháp luật; Không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh

chấp ở nước ngoài, trừ trường hợp đương sự ở nước ngoài và đương sự ở Việt

Nam có thỏa thuận đề nghị Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn hoặc các

đương sự giải trình được chứng cứ về quyền sở hữu hợp pháp tài sản và có

thỏa thuận thống nhất về việc xử lý tài sản.

Tuy nhiên, theo quy định tại Khoản 3 Điều 317 về điều kiện áp dụng

thủ tục tố tụng rút gọn và Khoản 4 Điều 323 BLTTDS 2015 quy định về thời

hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn, trong giai đoạn chuẩn bị

xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn, nếu xuất hiện tình tiết mới mà các bên

đương sự không thống nhất làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải

quyết theo thủ tục rút gọn thì Tòa án phải ra quyết định chuyển vụ án sang

giải quyết theo thủ tục thông thường. Như vậy, trường hợp bên có nghĩa vụ

trả nợ/chủ tài sản/bên bảo đảm không hợp tác, chống đối, rất dễ dẫn đến

trường hợp cố tình tạo ra các tình tiết mới để đưa vụ án về thủ tục tố tụng

39

thông thường, nhằm mục đích kéo dài thời gian giải quyết vụ việc. Do đó, nếu

không có hướng dẫn cụ thể với những quy định nêu trên, biện pháp áp dụng

các thủ tục rút gọn có thể không phát huy được hiệu quả xử lý trong thực tế

như kỳ vọng khi Ban hành Nghị quyết 42/2017.

Một vấn đề nữa là việc áp dụng thủ tục rút gọn đối với tranh chấp về

nghĩa vụ giao TSBÐ, tranh chấp về quyền xử lý TSBÐ của khoản nợ xấu.

Mặc dù được kỳ vọng giúp bớt ngân hàng giảm thời gian và chi phí trong việc

đeo đuổi giải quyết tranh chấp liên quan đến TSBĐ tại Tòa án, nhưng việc áp

dụng theo thủ tục rút gọn rất hạn chế. Theo rà soát sơ bộ, đến nay vẫn chưa có vụ án nào được áp dụng trong thực tế theo hướng dẫn thủ tục rút gọn.

2.1.2.5. Quy định về hình thành sàn giao dịch nợ và thị trường mua bán

nợ xấu

Hiện tại, về hành lang pháp lý cho việc hình thành sàn giao dịch nợ

cũng như thị trường mua bán nợ, Chính phủ mới chỉ ban hành Nghị định quy

định về điều kiện kinh doanh dịch vụ mua bán nợ và Bộ Tài chính mới đang

được giao xúc tiến xây dựng Dự thảo Nghị định quy định về hoạt động mua

bán nợ. Các khoản nợ được giao dịch trên thị trường mua bán nợ hoặc sàn

giao dịch mua bán nợ sẽ phải được giao dịch công khai, cho mọi đối tượng đủ

điều kiện, có nhu cầu mua có thể tiếp cận. Tuy nhiên, các khoản nợ trước khi

được phép bán thỏa thuận trên thị trường phải trải qua nhiều thủ tục và điều

kiện. Đối với các khoản nợ mua bằng trái phiếu đặc biệt, phải trải qua bước

bán đấu giá hoặc chào giá cạnh tranh ít nhất một lần không thành thì bên xử

lý nợ mới được bán khoản nợ theo phương thức thỏa thuận. Đối với khoản nợ

mua theo giá trị thị trường, cũng chỉ được bán khoản nợ theo phương thức

thỏa thuận trực tiếp khi đáp ứng được điều kiện giá bán khoản nợ không thấp

hơn giá trị ghi sổ số dư nợ gốc của khoản nợ xấu tại hoặc sau khi đã bán nợ

theo phương thức đấu giá hoặc chào giá cạnh tranh không thành. Những quy

định này nhằm đảm bảo công khai, minh bạch, hạn chế việc thông đồng giữa

người mua, người bán trong hoạt động xử lý nợ, tuy nhiên, mặt khác lại làm

40

hạn chế khả năng tham gia cũng như việc khẳng định vai trò trung tâm phát

triển thị trường mua bán nợ. Đặc biệt gây khó khăn đối với chủ thể xử lý nợ

đặc biệt như VAMC, tham gia thị trường mua bán nợ với vai trò bình đẳng

như các chủ thể khác vừa bị chi phối bởi biến động của thị trường mua bán nợ

song vừa phải bảo toàn vốn Nhà nước theo quy định của pháp luật.

Có quá ít công ty mua nợ dẫn tới tình trạng độc quyền mua. Chính vì

vậy, giá chào mua của Công ty TNHH Mua bán nợ Việt Nam (DATC) rất

thấp, chỉ từ 30 - 40% giá trị nợ gốc, điều này đã làm hạn chế sự phát triển của

thị trường và tác động đến nhu cầu muốn bán nợ của các TCTD. Trong khi

đó, từ khi thành lập đến nay, trung bình mỗi năm, DATC xử lý được gần

1.000 tỷ đồng nợ xấu, một con số quá nhỏ so với dư nợ xấu cần giải quyết.

Thông tin về hàng hóa nợ xấu trên thị trường thiếu minh bạch, còn nhiều bất

cập. Nguồn cung hàng hóa cho thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp về nợ

xấu chủ yếu từ các TCTD, tuy nhiên số liệu về nợ xấu của các TCTD hiện

nay chỉ được báo cáo với cơ quan quản lý Nhà nước, việc tiếp cận số liệu là

rất khó khăn. Các TCTD rất hạn chế trong việc công khai về các khoản nợ

xấu, chủ yếu hiện nay việc bán nợ của TCTD là do sức ép từ quy định giới

hạn về tỷ lệ nợ xấu của NHNN. Thêm vào đó, TCTD có thể dùng kỹ thuật tài

chính để đẩy tỷ lệ nợ xấu xuống dưới 3%. Khi đó, các TCTD sẽ không có sức

ép để xử lý tiếp nợ xấu, khiến cho thị trường mua bán nợ xấu sơ cấp ít hoạt

động, thị trường mua bán nợ xấu nói chung khó có thể phát triển do nhu cầu

mua bán nợ không còn lớn, không tạo được hàng hóa cho thị trường hoạt

động. [6, tr 5-6].

2.1.2.6. Xử lý nợ xấu qua thi hành án còn nhiều vướng mắc

Về nguyên nhân khách quan, một số nguyên nhân từ các TCTD, Ngân

hàng có thể kể đến như: Khi thẩm định giá tài sản thế chấp trước khi cho vay

cao hơn nhiều lần so với giá thẩm định khi kê biên đấu giá; tài sản thực tế

không đúng, là nhà tình nghĩa, nhà tình thương, nhà đại đoàn kết, có mồ mả

trên đất. Bên cạnh đó, ý thức chấp hành pháp luật của người phải thi hành án

41

còn chưa cao, phần lớn người phải thi hành án tìm cách trốn tránh, chây ỳ,

chống đối quyết liệt việc thi hành án (thay đổi liên tục người đại diện, thay

đổi địa chỉ, trốn tránh không làm việc, thậm chí lợi dụng thủ tục yêu cầu

tuyên bố phá sản, khiếu nại tố cáo, quyền khởi kiện ra Tòa án nhằm kéo dài

thời gian tổ chức thi hành án)...

Cùng với đó là sự bất cập, chồng chéo, chưa rõ ràng của pháp luật có liên

quan như: chưa cụ thể thủ tục thi hành án khi có liên quan đến biện pháp ngăn

chặn (các đại án ngân hàng); việc xử lý tài sản hình thành trong tương lai, các dự

án còn chưa có tính khả thi; quy định về mức lãi phạt, lãi chậm thi hành án trong

bản án không rõ; chưa thống nhất bảo vệ người mua trúng đấu giá.

Ngoài ra, công tác phối hợp với một số cơ quan, đơn vị có liên quan

hiệu quả còn chưa cao như: phối hợp với Tòa án, chính quyền địa phương,

Công an trong bảo vệ cưỡng chế, xử lý hình sự hành vi cản trở, chống đối

việc thi hành án; với Sở Tài nguyên - Môi trường trong việc xử lý nghiêm các

trường hợp vi phạm, đặc biệt là vi phạm trong thủ tục chuyển quyền sử dụng

đất nhằm trốn tránh thi hành án, phối hợp cung cấp thông tin, phối hợp thực

hiện cưỡng chế thi hành án và xử lý các vướng mắc liên quan; với Viện kiểm

sát trong việc kiểm sát và xử lý nghiêm các hành vi cản trở, trốn tránh việc thi

hành án, việc áp dụng các quy định pháp luật liên quan.

Một nguyên nhân khách quan nữa đó là tâm lý e ngại của người dân

mua tài sản thi hành án vì hầu hết họ cho rằng tài sản bị xiết nợ là không may

mắn; lo ngại chậm được giao tài sản;

Về nguyên nhân chủ quan, một số Thủ trưởng cơ quan THADS (nhất

là cấp huyện) chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm thu hồi nợ xấu, chưa tích

cực chủ động mà phó mặc cho Chấp hành viên; một số Chấp hành viên còn

chậm tổ chức thi hành án hoặc cố tình trì hoãn việc tổ chức thi hành án, chưa

kiên quyết áp dụng các quy định của pháp luật để tổ chức thi hành án, để việc

42

thi hành án kéo dài. [23, tr 5-6].

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý nợ xấu tại TPBank

2.2.1. Giới thiệu chung về TPBank [27, tr 1-30].

2.2.1.1. Lịch sử thành lập và hoạt động của TPBank

- Tháng 5/2008: TPBank nhận Giấy phép thành lập của Ngân hàng

Nhà nước Việt Nam và đã triển khai hệ thống ngân hàng lõi Flex-cube.

- Tháng 6/2008: TPBank chính thức khai trương hoạt động.

- Tháng 8/2008: TPBank gia nhập chính thức liên minh mạng thanh toán

lớn nhất Việt Nam – SmartLink, ra mắt mắt hệ thống ngân hàng tự động

MiniBank 24/7.

- Tháng 9/2008: TPBank chính thức đăng ký với Uỷ ban chứng khoán

hoạt động dưới hình thức Công ty đại chúng.

- Tháng 10/2008: TPBank khai trương TPBank - Chi nhánh TP.Hồ Chí

Minh và ra mắt dịch vụ Internet Banking dành cho khách hàng cá nhân và

doanh nghiệp.

- Tháng 12/2008: TPBank nhận chứng chỉ ISO 9001: 2000 cho toàn bộ

hoạt động, sản phẩm, dịch vụ của TPBank.

- Năm 2009: Đại hội đồng cổ đông lần thứ nhất của TPBank được tổ

chức tại tháng 3/2009 với việc thông qua các báo cáo, nghị quyết quan trọng

là định hướng phát triển cho TPBank trong năm 2009 và các năm tiếp theo.

- Năm 2010: TPBank tổ chức Đại hội đồng cổ đông lần thứ hai vào tháng

3/2010. Tháng 8/2010, TPBank tiến hành tăng vốn điều lệ lên 2.000 tỷ đồng.

- Năm 2011: Tổ chức Đại hội đồng cổ đông bất thường vào tháng

8/2011 và Đại hội đồng cổ đông lần thứ ba vào tháng 4/2011.

- Năm 2012: Tổ chức Đại hội đồng Cổ đông vào tháng 4/2012. Tháng

11/2012, TPBank đạt Giải thưởng “Tin và Dùng”.

- Năm 2013: Ngân hàng chính thức tham gia thị trường vàng vào tháng

43

1/2013; ra mắt nhận diện thương hiệu mới với tên viết tắt là TPBank.

- Năm 2014: TPBank trở thành Ngân hàng đầu tiên trên cả nước ra mắt

phiên bản eBank trên nền công nghệ HTML5 có tính năng nhất thể hóa cả hai

phiên bản Mobile Banking và Internet Banking vào tháng 9/2014.

- Năm 2015: Trong năm này, TPBank đẩy mạnh việc khai trương ở

nhiều địa điểm trên các địa bàn trên toàn quốc.

- Năm 2016: TPBank ra mắt phiên bản Ebank v.7.0 – tự do cá nhân

hóa & Ebank Biz – HTML5 cho doanh nghiệp vào tháng 6/2016 và ra mắt thẻ

tín dụng TPBank World MasterCard vào tháng 8/2016.

- Năm 2018: TPBank đã niêm yết thành công 555 triệu cổ phiếu trên

sàn chứng khoán TP. Hồ Chí Minh. TPBank cũng được Tạp chí The Asian

Banker bình chọn nằm trong Top 10 Ngân hàng mạnh nhất Việt Nam, Top

500 Ngân hàng mạnh nhất Châu Á

2.2.1.2. Cơ cấu tổ chức của TPBank

TPBank được tổ chức và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp số

68/2014/QH13 và Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12.

2.2.1.3. Tình hình hoạt động của TPBank

 Hoạt động huy động vốn

Huy động vốn là hoạt động được TPBank chú trọng nhằm đảm bảo

nguồn giải ngân cho hoạt động cho vay, an toàn thanh khoản và tạo điều kiện

cho sự tăng trưởng của hoạt động tín dụng, đầu tư. Các sản phẩm huy động

vốn của TP Bank đáp ứng tốt nhu cầu tiền gửi, thanh toán của dân cư, tổ chức

và doanh nghiệp bằng ngoại tệ và nội tệ.

Trên thị trường 1 (khách hàng là cá nhân và các tổ chức kinh tế),

TPBank đưa ra các sản phẩm huy động vốn đa dạng, tiện ích, cạnh tranh.

Thị trường 2: Là mảng thị trường tập trung vào các định chế tài chính

(Tổ chức tín dụng, công ty tài chính…). Bên cạnh việc huy động vốn trên thị

trường liên ngân hàng, TP Bank đồng thời tham gia nhận vốn tài trợ của các

định chế quốc tế như IFC, ADB trong các chương trình tài trợ thương mại.

44

Chi tiết nguồn vốn huy động của TP Bank trong các năm qua như sau:

Bảng 2.1. Cơ cấu nguồn vốn huy động của TPBank

Chỉ

Năm 2017

Năm 2018

tiêu

Giá trị

Giá trị

Tỷ trọng Giá trị

Tỷ trọng

Năm 2016 Tỷ trọng

41.245.246

41,2%

38.251.634

32,57%

33.491.419

26,67%

55.082.028 55,03%

70.298.586

59,86%

76.138.072

60,65%

-

-

3.481.154

2,96%

8.715.178

6,94%

96.327.274 96,23% 112.031.374

95.39% 118.344.669

94,26%

trả

3.773.249

3,77%

5.410.656

4,61%

7.213.049

5,74%

100.100.523

100% 117.442.030

100% 125.557.718

100%

Tiền gửi và vay các TCTD khác Tiền gửi của khách hàng Phát hành giấy tờ có giá nguồn Tổng huy động TT1 & TT2 Nợ phải khác Tổng nợ phải trả

Đơn vị: triệu đồng

(Nguồn: Báo cáo tài chính TPBank đã được kiểm toán 2016, 2017 và 2018)

Huy động thị trường 1 tại 31/12/2018 đạt 84.853 tỷ đồng, tăng 15% so

với năm 2017. Trong đó tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng đạt 14.552 tỷ

đồng, chiếm 17,15% huy động thị trường 1. Huy động bằng ngoại tệ đạt 9.302

tỷ đồng, tăng 1.458 tỷ đồng (18,6%) so cuối năm trước, chiếm 11% trên huy

động thị trường 1. Đặc biệt, trong năm 2018 TP Bank duy trì một định hướng

huy động hiệu quả và định vị TPBank là một ngân hàng hoạt động an toàn với

mức lãi suất huy động các kỳ hạn chỉ ở tầm trung của thị trường.

 Hoạt động tín dụng

Dư nợ tín dụng thị trường 1 đến cuối năm 2018 toàn hàng đạt 84.329

tỷ đồng, trong đó dư nợ cho vay khách hàng 78.458 tỷ đồng (chiếm 93%), trái

45

phiếu doanh nghiệp đạt 5.871 tỷ đồng (chiếm 7%).

Đối với phân khúc khách hàng cá nhân, năm 2018 cho vay khách hàng

cá nhân tăng 51% so với năm 2017, cho thấy những nỗ lực cũng như năng lực

của đội ngũ bán hàng, tính hiệu quả các sản phẩm vay đáp ứng nhu cầu đa

dạng của khách hàng. Lãi suất cho vay tăng 0,3% đến từ các điều chỉnh chủ

động về giá đóng góp đáng kể vào tăng trưởng thu thuần từ lãi vay tạo thêm

lợi cho ngân hàng.

Đối với phân khúc khách hàng doanh nghiệp, năm 2018 dư nợ tăng

3% so với năm 2017. Một số sản phẩm đã và đang triển khai thành công như:

sản phẩm cho vay mua xe ôtô khách hàng doanh nghiệp, sản phẩm cho vay

nhanh…ngày càng thu hút được nhiều khách hàng mới, doanh số giải ngân

tăng; sản phẩm tài trợ trọn gói ngành xây lắp đã tạo điều kiện thuận lợi cho

đơn vị kinh doanh tiếp cận và cấp tín dụng cho các doanh nghiệp trong ngành

này.... Những nỗ lực trong việc xử lý nợ xấu tồn đọng và tăng trưởng tín dụng

có chất lượng tốt đã giúp cho chất lượng tín dụng tiếp tục được cải thiện, tỷ lệ

nợ xấu của ngân hàng chỉ ở mức 0,82% còn nếu bao gồm cả nợ xấu kéo theo

do phân loại lại theo nhóm nợ cao nhất của khách hàng tại ngân hàng khác thì

cũng chỉ ở mức 1,1% tại thời điểm 31/12/2018, thấp hơn nhiều so với trung

bình ngành.

 Hoạt động đầu tư kinh doanh ngoại tệ và vàng

Theo quy định của NHNN, TPBank luôn đảm bảo trạng thái ngoại tệ trong

biên độ (- 20%, +20%) trên vốn tự có. Chi phí vốn của việc dương trạng thái

ngoại tệ phục vụ nhu cầu khách hàng đã ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh

ngoại tệ. Tuy nhiên, bù lại Ngân hàng phát triển tốt được dịch vụ thanh toán,

thương mại quốc tế, phát triển hệ thống khách hàng mới và thu phí ngoài lãi.

TPBank tiếp tục được Bộ Tài chính công nhận là nhà tạo lập thị trường

công cụ nợ của Chính phủ năm 2019 trong số 12 ngân hàng đủ điều kiện.

46

Hoạt động ngoại hối cho khách hàng doanh nghiệp, dịch vụ cá nhân khởi sắc,

mạng lưới khách hàng mở rộng, doanh số tăng mạnh. Năm 2018 mảng kinh

doanh này mang lại lợi nhuận cho ngân hàng trên 81,3 tỷ đồng.

 Hoạt động kinh doanh chứng khoán

Bảng 2.2. Hoạt động kinh doanh chứng khoán của TPBank

Đơn vị: triệu đồng

Hạng mục Năm 2017 Năm 2018

Chứng khoán đầu tư sẵn sàng để bán 24.938.137 24.641.343

Chứng khoán nợ 24.622.968 24.326.174

Trái phiếu chính phủ 10.984.557 13.120.203

Chứng khoán nợ của các TCTD khác trong 5.793.942 5.186.615

nước

Chứng khoán nợ của các tổ chức kinh tế 6.294.469 5.069.306

trong nước

Chứng chỉ tiền gửi 1.550.000 950.000

Chứng khoán vốn 315.169 315.169

Chứng khoán vốn do các TCTD trong nước 315.169 315.169

phát hành

Chứng khoán đầu tư giữ đến ngày đáo hạn 994.187 801.205

Trái phiếu VAMC 949.487 756.515

Trái phiếu DATC 44.700 44.700

Dự phòng chứng khoán đầu tư (467.322) (543.035)

Dự phòng chứng khoán sẵn sàng để bán (135.049) (179.659)

Dự phòng chứng khoán giữ đến ngày đáo (332.273) (363.376)

hạn

- Dự phòng trái phiếu VAMC (331.938) (363.041)

- Dự phòng trái phiếu DATC (335) (335)

47

(Nguồn: Báo cáo tài chính TPBank đã được kiểm toán 2016, 2017 và 2018)

Tại thời điểm 31/12/2018, 53,9% tổng số dư chứng khoán TPBank đầu

tư là trái phiếu chính phủ, 21,3% là trái phiếu các tổ chức tín dụng. Đây là các

chứng khoán có tính thanh khoản cao, an toàn về giá trị được giao dịch phổ

biến trên thị trường 2.

2.2.2. Tình hình nợ xấu tại TPBank [7, tr 7-8]

Tổng dư nợ của TPBank có sự tăng trưởng mạnh mẽ trong các năm

2016 – 2018 (Năm 2016: 47.325.782 triệu đồng; Năm 2017: 64.007.248 triệu

đồng, Năm 2018: 77.185.418 triệu đồng), tập trung chủ yếu vào các phân

khúc khách hàng cá nhân và SME. Cụ thể như sau:

Bảng 2.3. Phân loại dư nợ theo khách hàng của TPBank

Hạng mục

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Công ty Cổ phần khác

12.737.446

19.814.857

19.056.862

Công ty Cổ phần Nhà nước

751.740

1.191.101

1.278.205

Kinh tế tập thể, hợp tác xã

37.123

64.599

114.859

Công ty TNHH khác

9.188.522

14.010.224

16.804.865

Công ty TNHH Nhà nước 100%

-

1.704.430

1.502.575

Doanh nghiệp tư nhân

712.515

256.805

199.425

Doanh nghiệp có vốn đầu tư

58.651

35.305

41.533

nước ngoài

Công ty hợp danh

932

582

207

Đơn vị hành chính sự nghiệp,

643.037

214.742

196.538

Đảng, đoàn thể và hiệp hội

Hộ kinh doanh – kinh tế cá thể

20.530.206

25.831.630

38.990.040

Công ty Nhà nước

1.140.953

-

-

Khác

841.852

298.768

39

Đơn vị: triệu đồng

(Nguồn: Báo cáo tài chính TPBank đã được kiểm toán 2016, 2017 và 2018)

48

Theo thời hạn cho vay gốc, dư nợ được phân thành 3 nhóm chính như sau:

Bảng 2.4. Phân loại dư nợ theo thời hạn vay của TPBank

Đơn vị: triệu đồng

Loại nợ Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018

Nợ ngắn hạn 17.905.580 18.703.802 17.367.653

Nợ trung hạn 16.159.684 21.098.417 24.545.522

Nợ dài hạn 13.260.518 24.205.029 35.271.973

(Nguồn: Báo cáo tài chính đã được kiểm toán 2016, 2017 và 2018)

Mặt khác, phân tích chất lượng nợ cho vay của TPBank qua các năm

tại bảng dưới đây:

Bảng 2.5. Chất lượng tín dụng của TPBank

Đơn vị: triệu đồng

Loại nợ Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018

Nợ đủ tiêu chuẩn (Nhóm 1) 48.808.218 62.211.116 74.732.049

Nợ cần chú ý (Nhóm 2) 1.167.691 1.101.526 1.591.765

Nợ dưới tiêu chuẩn (Nhóm 3) 81.831 254.740 295.942

Nợ nghi ngờ (Nhóm 4) 79.322 153.408 242.441

Nợ có khả năng mất vốn 169.905 280.933 322.951

(Nhóm 5)

Nợ tồn đọng không có TSBĐ 18.815 5.575 -

và không còn đối tượng thu

nợ

Tỷ lệ nợ quá hạn 3,17% 2,8% 3,18%

Tổng nợ xấu (Nhóm 3,4,5) 331.058 689.081 861.334

Tỷ lệ nợ xấu 0,70% 1,08% 1,12%

(Nguồn: Báo cáo tài chính đã được kiểm toán 2016, 2017 và 2018)

Về chất lượng tín dụng, tỷ lệ nợ xấu của TPBank trong các năm 2016

49

– 2018 luôn duy trì ổn định ở mức dưới 2% (từ 0,7% đến 1,12% tổng dư nợ).

2.2.3. Thực trạng hoạt động xử lý nợ xấu tại TPBank

Cơ cấu dự phòng được trích lập của TPBank trong năm 2018:

Bảng 2.6. Phân loại trích lập dự phòng theo ngành nghề

Đơn vị: triệu đồng

Số trích lập dự phòng cụ thể đã trích lập

Phân loại theo ngành nghề Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5 Nợ tồn

Bán buôn và bán lẻ, sửa 171 5.246 138 57.869

chữa ô tô, mô tô, xe máy và

xe có động cơ khác

Công nghiệp chế biến, chế 186 203 759 3.484 -

tạo

Cung cấp nước, hoạt động 46 - - -

quản lý và xử lý nước thải,

rác thải.

Dịch vụ lưu trú và ăn uống 4 14 6 99

Giáo dục và đào tạo 2 - - -

Hoạt động chuyên môn, 19 23 - -

khoa học và công nghệ

Hoạt động dịch vụ khác 5.808 2.274 5.567 40.449

Hoạt động hành chính và 13 - - -

dịch vụ hỗ trợ

Hoạt động kinh doanh bất 3 21 376 -

động sản

Hoạt động làm thuê các 15.530 6.775 19.884 46.760

công việc trong hộ gia đình,

sản xuất sản phẩm vật chất

50

và dịch vụ tự tiêu dùng của

hộ gia đình

Hoạt động tài chính, ngân - - - 39

hàng và bảo hiểm

Khai khoáng 10 - - 361

Nghệ thuật, vui chơi và giải 79 - - 288

trí

Nông nghiệp, lâm nghiệp và 30 - - 19

thủy sản

Thông tin truyền thông 25 27 61 298

Vận tải, kho bãi 219 25 281 1.074

Xây dựng 99 131 302 2.880

Tổng 22.243 14.700 26.239 151.271 3.884

(Nguồn: Báo cáo tài chính đã được kiểm toán 2016, 2017 và 2018)

Tính đến 31/12/2018 Nợ xấu của TPBank là 1,12%, tính đến hết Quý

I/2019 tỷ lệ nợ xấu của TPBank là dưới 1,5% ở mức thấp trên toàn hệ thống

các ngân hàng. TPBank áp dụng các biện pháp để kiểm soát nợ xấu như sau:

- TPBank luôn chú trọng tới công tác kiểm soát rủi ro tín dụng, đánh

giá lại chất lượng và khả năng thu hồi của các khoản nợ để có biện pháp xử lý

thích hợp. Đồng thời, TPBank thực hiện rà soát lại toàn bộ danh mục khách

hàng, phân loại khách hàng theo thực tế tình hình tài chính như: nhóm khách

hàng tài chính tốt, nhóm khách hàng có hoạt động kinh doanh tạm thời gặp

khó khăn nhưng có khả năng hồi phục nếu được hỗ trợ, nhóm khách hàng

không có khả năng trả nợ.

- Đối với những khách hàng có hoạt động kinh doanh tạm thời gặp khó

khăn và chưa thể phục hồi ngay do ảnh hưởng của thị trường, TPBank thường

51

xuyên theo dõi diễn biến dư nợ của khách hàng, đôn đốc khách hàng trả nợ đúng

hạn, thực hiện cơ cấu lại nợ cho khách hàng, hỗ trợ vốn để khách hàng có thể

khắc phục được khó khăn.

- Đối với những khách hàng nợ xấu không còn hoạt động kinh doanh,

TPBank đã trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro theo đúng quy định

của NHNN. Đồng thời, TPBank tăng cường công tác thu nợ và áp dụng các

biện pháp xử lý tài sản đảm bảo theo quy định của Nghị quyết số 42/2017 của

Quốc hội. Trong trường hợp, Đại diện của TPBank đã làm việc nhiều lần mà

khách hàng không hợp tác, TPBank sẽ tiến hành các biện pháp khởi kiện, thi

hành án, xử lý phát mại tài sản đảm bảo của khách hàng/ bên bảo đảm để thu

hồi nợ.

Ngoài ra, để khai thác triệt để các ưu đãi, lợi thế, thuận lợi của hoạt

động bán nợ cho Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam

(VAMC), TPBank đã hoàn thiện hồ sơ, bán được nợ cho VAMC theo đúng

quy định của pháp luật, góp phần “giãn” tiến độ, đưa nợ xấu vào vùng kiểm

soát an toàn. Tổng hợp kế hoạch xử lý nợ xấu của TPBank được tóm lược

trong bảng sau:

Bảng 2.6. bảng kế hoạch thu hồi nợ xấu trong 5 năm tiếp theo

Đơn vị: triệu đồng

Kế hoạch thu hồi nợ xấu tại thời điểm 31/12/2018

Tổng nợ xấu 861.334

Kế hoạch thu hồi nợ xấu

Năm 2019 215.333

Năm 2020 143.555

Năm 2021 172.266

Năm 2022 244.047

Năm 2023 86.133

52

(Nguồn: Báo cáo tài chính đã được kiểm toán 2016, 2017 và 2018)

Kết luận: Từ những số liệu thực tế trong quá trình xử lý nợ xấu tại

TPBank đã nêu ở trên có thể thấy, TPBank đã rất tích cực tập trung nguồn lực

đối với việc xử lý nợ xấu trong quá trình phát triển từ giai đoạn cơ cấu lại

ngân hàng cho đến nay, việc áp dụng các quy định liên quan đến xử lý nợ xấu

hiện nay đã mang đến cho TPBank những kết quả khả quan, tuy nhiên bên

cạnh đó vẫn còn những bất cập và hạn chế trong quá trình triển khai thực hiện

áp dụng các quy định pháp luật này. Vì vậy, qua việc đánh giá thực trạng xử

lý nợ xấu tại TPBank để từ đó có thể đưa ra được các giải pháp chung trong

vấn đề xử lý nợ xấu của các NHTM trong giai đoạn hiện nay.

2.2.4. Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về xử lý nợ xấu tại

TPBank [7, tr 10-20]

2.2.4.1. Những thành tựu đã đạt được

Việc tuân thủ đúng các quy định pháp luật về xử lý nợ xấu, đặc biệt là

xây dựng và thực thi hệ thống QTRR và quản lý nợ xấu phù hợp với quy định

của Nghị quyết 42/2017, nên tỷ lệ nợ xấu của TPBank đã được duy trì theo kế

hoạch và thấp hơn nhiều so với mức cho phép của NHNN, không phát sinh

các tổn thất vận hành và sự kiện rủi ro tiềm tàng, các chỉ tiêu an toàn trong

hoạt động được duy trì và được cải thiện một cách tích cực. Tính đến hết Quý

I/2019, tỷ lệ nợ xấu của TPBank đã kiểm soát được dưới 1,5%.

Một số nội dung cơ bản đã được triển khai liên quan đến nâng cao

năng lực QTRR vận hành như: thực hiện tốt các công việc để tuân thủ

Basel II, Thông tư 41/2016/TT-NHNN và Thông tư 13/2018/TT-NHNN

với các cấu phần quản lý rủi ro thị trường, quản lý rủi ro thanh khoản, quản

lý rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng, quản lý rủi ro tín dụng định chế tài

chính, rủi ro đối tác và rủi ro tín dụng với các khoản có tài sản bảo đảm là

cổ phiếu; Tăng cường chất lượng cảnh báo sớm rủi ro tín dụng thông qua

việc rà soát định kỳ các hồ sơ tín dụng, thực hiện cảnh báo, hỗ trợ đơn vị

53

kinh doanh lên phương án xử lý kịp thời, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.

TPBank luôn tuân thủ chặt chẽ các quy định về đảm bảo an toàn vốn

của NHNN và cam kết với các đối tác nước ngoài, cụ thể theo yêu cầu của

Thông tư số: 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 “Quy định các giới hạn, tỷ

lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước

ngoài”, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu luôn được duy trì ở mức trên 9%, Tỷ lệ giữa

tổng tài sản có thanh toán ngay và tổng nợ phải trả luôn được duy trì ở mức

trên 10% (quy định của NHNN không dưới 10%), tỷ lệ thanh toán trong 30

ngày tiếp theo của từng loại tiền luôn duy trì trên 50% đối với VNĐ; trên 10%

đối với ngoại tệ quy đổi sang VNĐ theo đúng quy định của NHNN, Tỷ lệ

nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn luôn được duy trì ở mức nhỏ hơn

45% (quy định của NHNN không vượt 45% vào cuối năm 2018), tại

31/12/2018, tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn của TPBank là 33%.

Tại thời điểm 31/12/2018, Tỷ lệ dự trữ thanh khoản 15,82%; Tỷ lệ thanh toán

trong 30 ngày tiếp theo đối với VNĐ là 173,88%.

Các hồ sơ khởi kiện tại các Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm, phúc thẩm

có tỷ lệ thụ lý cao chiếm trên 80%/tổng số hồ sơ đã khởi kiện, số hồ sơ thu

được nợ từ khâu thi hành án đạt trên 70%/tổng số vụ việc đã chuyển sang cơ

quan thi hành án dân sự, số vụ thu giữ theo nghị Quyết 42/2017 đạt tỷ lệ

60%/tổng số vụ việc triển khai theo Nghị quyết này.

Theo kế hoạch xử lý nợ xấu trong năm 2019 của TPBank thì TPBank

sẽ xử lý tối thiểu 500 tỷ đồng các khoản nợ xấu đã bán. Đồng thời lên kế

hoạch thành lập riêng công ty quản lý và khai thác tài sản TPBank AMC với

số vốn điều lệ vào khoảng 50 tỷ đồng để tập trung mua lại nợ từ VAMC và xử

lý các khoản nợ xấu nội bảng hiện hữu.

2.2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân còn tồn tại

Kể từ thời điểm tái cấu trúc theo yêu cầu của NHNN năm 2012 đến

nay hoạt động xử lý nợ xấu của TPBank đã đạt được nhiều khả quan, tuy

54

nhiên bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế, có thể kể đến như sau:

a. Hạn chế từ bản thân nội tại ngân hàng:

Bên cạnh việc còn tồn đọng nhiều khoản nợ xấu kéo dài nhiều năm

chưa được xử lý thì vẫn có phát sinh nhiều khoản nợ xấu mới trong giai đoạn

gần đây, nguyên nhân là do:

- Do đạo đức của cán bộ của các tổ chức tín dụng gây ra. Trong quá

trình tìm hiểu thông tin khách hàng vay vốn, bên bảo lãnh vay vốn, thẩm định

khách hàng và tài sản bảo đảm, do năng lực cán bộ tín dụng hoặc do cán bộ

tín dụng thông đồng với bên vay vốn, bên bảo lãnh cố ý làm trái quy định của

ngân hàng, pháp luật trong việc thế chấp, đăng ký thế chấp tài sản bảo đảm

gây thiệt hại cho TCTD. Có nhiều hợp đồng thế chấp tài sản có những vi

phạm nêu trên khi xét xử Tòa án đều tuyên hợp đồng thế chấp tài sản vô hiệu,

buộc TCTD phải trả lại tài sản bảo đảm cho chủ sở hữu hợp pháp, điển hình

như khi nhận tài sản thế chấp, trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ

ghi tên ông A và ông A đã cung cấp giấy xác nhận độc thân, nên khi ký Hợp

đồng thế chấp chỉ một mình ông A ký. Tuy nhiên, khi khởi kiện ra Tòa thì

mới vỡ lẽ ông A đã kết hôn với bà B ở nước ngoài và có xác nhận của lãnh sự

quán, dẫn đến việc Hợp đồng thế chấp bị tuyên vô hiệu.

- Công tác kiểm soát sau vay khi cấp vốn chưa chặt chẽ. Sau khi phát

tiền vay cho khách hàng theo quy định của chế độ tín dụng thì cán bộ tín dụng

phải có biện pháp theo dõi, nắm bắt đầy đủ mọi diễn biến của quá trình sử

dụng tiền vay và tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng. Từ đó không

phát hiện được khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, hoặc kinh doanh thua lỗ

để có biện pháp xử lý kịp thời.

- Do tư cách đạo đức của người đi vay. Đến hạn trả nợ lãi, cho dù

được đôn đốc, họ vẫn không chịu trả trong thời gian dài khiến cho các khoản

vay đều bị chuyển thành nợ xấu, thậm chí có trường hợp chống đối, hành

55

hung cán bộ xử lý nợ khi họ thực hiện nhiệm vụ.

- Đội ngũ cán bộ xử lý nợ có ít chuyên gia giỏi, có hiểu biết sâu về

pháp luật. Hơn nữa, vấn đề tuyển dụng các vị trí này của TPBank thường gặp

nhiều khó khăn do đặc trưng của công việc phải linh hoạt, nhạy bén và có

kinh nghiệm thực tế nên ít ứng viên đáp ứng được. Hay có thời kỳ, số lượng

cán bộ xử lý nợ được tuyển dụng nhiều nhưng hiệu quả công việc cũng không

được như kỳ vọng vì năng lực chuyên môn của họ chưa đủ.

b. Hạn chế từ việc áp dụng quy định tại Nghị quyết 42/2017

Vẫn còn nhiều khoản vay tuy đã làm đầy đủ các thủ tục thu giữ theo

Nghị quyết 42, tuy nhiên đến nay trong một thời gian dài vẫn chưa đạt được

kết quả, có một số nguyên nhân như sau:

- Thực tế có rất nhiều khoản nợ xấu khi TPBank cương quyết thực

hiện quyền thu giữ tài sản theo quy định tại Khoản 2, Điều 7 Nghị quyết 42

khi bên bảo đảm không tự nguyện bàn giao TSBĐ; chủ tài sản không hợp tác,

chống đối hoặc không có mặt theo thông báo thì rất khó để việc tiến hành thu

giữ thành công.

- Ngoài ra, trong trường hợp Ngân hàng có lập biên bản thu giữ TSBĐ

có sự chứng kiến và ký biên bản của đại diện chính quyền địa phương nơi tiến

hành thu giữ. Tuy nhiên, do thông tư 24/2014/TT-BTNMT của Bộ tài nguyên

và Môi trường chưa quy định thành phần hồ sơ đăng ký biến động quyền sử

dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất trong trường hợp TCTD thực

hiện quyền thu giữ TSBĐ theo quy định tại Điều 7 Nghị quyết 42 để xử lý tài

sản thế chấp, nên nhiều văn phòng đăng ký đất đai không chấp nhận biên bản

thu giữ TSBĐ và từ chối việc đăng ký cho người mua tài sản thế chấp.

c. Hạn chế trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án

Đến nay, tại TPBank vẫn còn nhiều khoản nợ xấu đã được tiến hành

khởi kiện ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều hồ

sơ chưa được Tòa án thụ lý và tiến hành xử lý, một trong những nguyên nhân

56

là do:

- Có rất nhiều khoản nợ xấu mà khách hàng vay và chủ tài sản bảo

đảm hoặc người có quyền và lợi ích liên quan không có thông tin, không liên

lạc được. Theo quy định tại Nghị quyết 04/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa

án nhân dân tối cao hướng dân thì không cần phải niêm yết và đăng tin liên

quan đến vụ kiện. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn rất nhiều Tòa án vẫn áp dụng

hình thức này. Dẫn đến việc chi phí xử lý vụ việc bị phát sinh lên cao.

- Bên cạnh đó, có rất nhiều khoản nợ xấu khi có phát sinh tranh chấp

giữa chủ tài sản bảo đảm với bên thứ ba, hoặc trên tài sản bảo đảm có bên thứ

ba sinh sống thì Tòa án có xu hướng ngại xử lý vì thời gian giải quyết hồ sơ

sẽ bị kéo dài. Một số trường hợp, khi đưa ra Tòa án giải quyết thì khách hàng

vay không còn sống, chủ tài sản bảo đảm chết dẫn tới việc kê khai di sản thừa

kế gặp khó khăn nếu những người có liên quan không hợp tác. Do đó, Tòa án

có xu hướng ngại giải quyết những hồ sơ như trên.

- Đối với Tài sản bảo đảm là động sản (ô tô,...) thì việc xác định vị trí

của tài sản là rất khó, do vậy kể cả khi Tòa án có thụ lý hồ sơ để giải quyết thì

khi đến khâu xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án thì hồ sơ lại bị đình chỉ vì

lý do không thực hiện được thủ tục trên, do đó hồ sơ quá hạn lại bị kéo dài mà

không được xử lý.

- Có nhiều trường hợp, khi TPBank tiến hành khởi kiện một doanh

nghiệp ra Tòa án thì khi thực hiện xác minh tình trạng hoạt động của Doanh

nghiệp đó tại nơi cấp Đăng ký kinh doanh thì nhận được thông tin là doanh

nghiệp đã làm thủ tục phá sản từ trước, do đó nhiều thẩm phán lấy lý do là

không còn chủ thể để khởi kiện. Do vậy, trường hợp này chỉ có thể khởi kiện

dưới hình thức kiện đòi tài sản, tuy vậy, dù hiện tại Hội đồng thẩm phán Tòa

án nhân dân tối cao đã có Nghị quyết hướng dẫn về việc áp dụng thủ tục giải

quyết đối với tranh chấp về nghĩa vụ giao TSBĐ, tuy nhiên rất nhiều hồ sơ

57

TPBank đã nộp khởi kiện theo thủ tục này nhưng vẫn chưa được giải quyết.

- Nhiều khoản nợ xấu đã được bán cho VAMC, tuy nhiên khi TPBank

nộp đơn khởi kiện ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền thì lại gặp nhiều vướng

mắc, cụ thể Theo quy định tại Điều 14 Nghị định số 53/2013/NĐ-CP ngày

18/5/2013 của Chính phủ về thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty

Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC); Điều 5 của Thông tư số

19/2013/TT-NHNN ngày 06/9/2013 của NHNN Việt Nam thì VAMC có

quyền mua lại các khoản nợ tại các TCTD khi các khoản nợ có đủ điều kiện

theo quy định của Nghị định số 53/2013/NĐ-CP và Thông tư số 19/2013/TT-

NHNN. Việc mua bán nợ được thực hiện giữa các TCTD với Công ty VAMC

thông qua hợp đồng mua bán nợ. Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Thông tư

số 19/2013/TT-NHNN thì trong hoạt động mua, bán nợ giữa VAMC và

TCTD, toàn bộ các quyền và lợi ích gắn liền với khoản nợ xấu, tài sản bảo

đảm và biện pháp bảo đảm khác cho khoản nợ xấu được bên bán nợ giữ

nguyên hiện trạng và chuyển giao cho bên mua nợ theo hợp đồng mua, bán

nợ. Vấn đề đặt ra là, đối với các khoản nợ đã được bán cho VAMC mà

TPBank đã tiến hành khởi kiện trước đó và Tòa án các cấp đã thụ lý giải

quyết (đã thụ lý xác minh thu thập chứng cứ, đã hòa giải, đã xét xử sơ thẩm)

thì chưa có hướng để xử lý. Rất nhiều trường hợp, TPBank đã khởi kiện và

Tòa án các cấp đã tiến hành các thủ tục tố tụng để giải quyết vụ kiện như tiến

hành hòa giải, xét xử sơ thẩm, tuy nhiên sau đó lại phải rút đơn khởi kiện gây

lãng phí về thời gian và chi phí. Đối với các trường hợp Tòa án các cấp chấp

nhận cho bổ sung tài liệu (do VAMC cung cấp sau khi mua bán nợ với

TCTD) để tiếp tục giải quyết vụ kiện thì vẫn còn nhiều hồ sơ chưa được đưa

ra xét xử vì vẫn chưa hoàn thiện được vấn đề pháp lý trong ủy quyền của

VAMC cho TPBank.

d. Hạn chế khi giải quyết tại cơ quan Thi hành án có thẩm quyền

Trong các năm vẫn còn nhiều hồ sơ bị kéo dài chưa được giải quyết,

58

một số nguyên nhân như sau:

- Rất nhiều Tài sản bảo đảm tại thời điểm cho vay đã thay đổi so với

thời điểm Tòa án xét xử, hoặc kể cả sau khi Bản án/ Quyết định công nhận sự

thỏa thuận có hiệu lực thì hiện trạng Tài sản lại bị thay đổi so với bản án, có

thể chủ tài sản xây dựng thêm, phá bỏ,...Vì vậy khi cơ quan thi hành án có

thẩm quyền đi xác mình thì rất khó để xử lý theo Quyết định tại Bản án.

- Khi cơ quan thi hành án tiến hành khảo sát, thẩm định sau khi nhận

được đơn yêu cầu đề nghi thi hành án của TPBank thì đương sự chống đối, có

nhiều trường hợp gây thương tích cho chấp hành viên và những người liên

quan, do đó vụ việc không thể tiến hành theo thời hạn quy định.

- Một số khoản vay khi thẩm định tài sản thế chấp trước khi cho vay

cao hơn nhiều lần so với giá trị thẩm định khi cơ quan thi hành án thực hiện

thẩm định khi kê biên đấu giá, tài sản thực tế không đúng, nhiều tài sản đã

giảm giá nhiều lần nhưng vẫn không bán được tài sản, trong trường hợp có

bán được tài sản thì số tiền thu được sau khi trừ đi các chi phí liên quan cũng

không đủ thu gốc.

e. Hạn chế trong việc thu hồi triệt để nợ gốc của các khoản nợ xấu

Đến nay, rất nhiều khoản nợ đã thu hồi được một phần nợ xấu, tuy

nhiên không thu được toàn bộ nợ gốc của khoản vay và rơi vào tình trạng mất

vốn, một trong những nguyên nhân như sau:

- Khi tiến hành xử lý tài sản thì giá trị tài sản không đủ đảm bảo cho

khoản vay và khách hàng không có tài sản khác để bổ sung, điển hình là cho

vay mua xe ô tô, doanh nghiệp thế chấp bằng tài sản bảo đảm là Quyền đòi

nợ, hàng tồn kho chậm luân chuyển,...

- Trong những năm gần đây, các khoản cho vay tín chấp có chiều

hướng gia tăng, tuy nhiên chỉ một thời gian ngắn sau khi được cấp vốn rất

nhiều khách hàng chây ỳ trả nợ, Ngân hàng đã dùng nhiều biện pháp để thu

hồi nợ tuy nhiên đều không mang lại hiệu quả vì khoản vay không có tài sản

59

bảo đảm, do đó không có tính răn đe đối với khách hàng. Hoặc, khách hàng

phá sản, không còn khả năng chi trả, nên việc đòi các khoản nợ tín chấp rơi

vào bế tắc, kể cả khi Tòa án có thụ lý và đưa ra xét xử thì khi chuyển bản án

sang cơ quan thi hành án để giải quyết thì khách hàng cũng không đủ điều

kiện để thi hành án. Do đó, rất nhiều hồ sơ mà cơ quan thi hành án đã ra quyết

định về việc khách hàng không đủ điều kiện thi hành án.

- Một trường hợp điển hình nữa có thể kể đến là việc khi vay vốn,

Khách hàng đã làm giả giấy tờ tài sản bảo đảm, nhưng trên thực tế không có

tài sản đó, khi khách hàng bị cơ quan cảnh sát điều tra truy tố và sau đó đưa

vụ việc ra xét xử thì TPBank tham gia với tư cách nguyên đơn dân sự trong

vụ án hình sự, tuy rằng Tòa án có tuyên các bị cáo khắc phục lại thiệt hại cho

TPBank nhưng trên thực tế là các bị cáo không thể thực hiện, dẫn đến việc

mất vốn cho TPBank.

Tiểu kết Chương 2

Nghị quyết 42/2017 đã giải quyết phần lớn các khó khăn, vướng mắc

liên quan đến cơ chế, chính sách, tạo hành lang pháp lý thông thoáng trong

hoạt động xử lý nợ xấu. Về cơ bản, Nghị quyết được ban hành với những quy

định tiến bộ đã tạo nhiều thuận lợi, bảo đảm cho quyền lợi của các TCTD;

nâng cao hơn ý thức của cá nhân, tổ chức trong việc thực hiện các khoản nợ

của các TCTD.

Tuy nhiên, trên thực tế việc áp dụng các quy định về pháp luật xử lý

nợ xấu vẫn còn có các hạn chế. Trên thực tiễn, khi khách hàng không hợp tác,

không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, thì không thể áp dụng biện pháp thu giữ

TSBĐ. Việc xử lý phải thông qua hoạt động khởi kiện, trong trường hợp có

bản án thì việc thi hành án để phát mại tài sản là quyền tài sản cũng rất khó

khăn.Cùng với đó là sự bất cập, chồng chéo, chưa rõ ràng của pháp luật có

liên quan như: chưa cụ thể thủ tục thi hành án khi có liên quan đến biện pháp

60

ngăn chặn; việc xử lý tài sản hình thành trong tương lai, các dự án còn chưa

có tính khả thi; quy định về mức lãi phạt, lãi chậm thi hành án trong bản án

không rõ; chưa thống nhất bảo vệ người mua trúng đấu giá,...

TPBank là một trong những NHTM trong những năm gần đây có

những bước phát triển trong việc cấp tín dụng. Từ những số liệu thực tế trong

quá trình xử lý nợ xấu tại TPBank đã nêu ở trên có thể thấy, TPBank đã rất

tích cực tập trung nguồn lực đối với việc xử lý nợ xấu trong quá trình phát

triển từ giai đoạn cơ cấu lại ngân hàng cho đến nay, việc áp dụng các quy

định liên quan đến xử lý nợ xấu hiện nay đã mang đến cho TPBank những kết

quả khả quan, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những bất cập và hạn chế trong

quá trình triển khai thực hiện áp dụng các quy định pháp luật này. Vì vậy, qua

việc đánh giá thực trạng xử lý nợ xấu tại TPBank để từ đó có thể cho người

đọc một cái nhìn tổng quan về mặt tích cực cũng như hạn chế của việc áp

61

dụng pháp luật xử lý nợ xấu trong giai đoạn hiện nay.

Chương 3

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LÝ VỀ XỬ LÝ

NỢ XẤU TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Để xử lý nợ xấu một cách triệt để, chúng ta cần phải có giải pháp tổng

thể và lâu dài. Trong bối cảnh thị trường bất động sản đóng băng kéo dài, giá

bất động sản giảm mạnh và các khó khăn, phức tạp trong thủ tục pháp lý liên

quan đến xử lý TSBĐ gây khó khăn cho TCTD trong việc xử lý TSBĐ và thu

nợ. Hơn lúc nào hết, Chính phủ cần có các biện pháp thúc đẩy thị trường mua

bán nợ phát triển; khuyến khích việc phát hành, mua bán trái phiếu doanh

nghiệp và mua bán nợ…

3.1. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ xấu tại các

Ngân hàng thương mại Việt Nam

Cuối năm 2018, NHNN đã có dự thảo trình Quốc hội “Luật hỗ trợ tái

cơ cấu các TCTD và xử lý nợ xấu”. Đây có thể coi như là một bước đi đúng

đắn để có thể tiếp tục khắc phục được những hạn chế, bất cập của các quy

định pháp luật sau khi thí điểm theo Nghị quyết 42/2017. Nếu như được thông

qua và ban hành, Luật này mang ý nghĩa rất lớn. Bởi các vướng mắc pháp lý

hầu hết đều liên quan đến quy định tại các luật chuyên ngành, nên luật này sẽ

giúp cân bằng giá trị pháp lý với các luật khác, trong khi các văn bản cũ về xử

lý nợ xấu có hiệu lực thấp hơn. Tuy nhiên, theo người viết, khi thông qua luật

này cần lưu ý các quy định và có thể hoàn thiện chúng theo hướng sau:

3.1.1. Quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm

Như đã trình bày, các quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán còn chồng

chéo nhau, gây ra cách hiểu không thống nhất dẫn đến những khó khăn,

vướng mắc trong việc thực thi. Do vậy, trước tiên, các cơ quan có thẩm quyền

nên ban hành thêm một văn bản để giải thích chi tiết và thống nhất áp dụng về

thứ tự ưu tiên thanh toán trong thi hành án nói chung, cũng như đối với thứ tự

62

ưu tiên thanh toán khi xử lý TSBĐ nói riêng. Điển hình là đối với trường hợp

ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản của bên thứ ba bảo lãnh. Đối với các

trường hợp số tiền còn dư, cần có quy định giải thích: “Sau khi ưu tiên thanh

toán hết các khoản chi phí cưỡng chế thi hành án và thanh toán cho nghĩa vụ

nợ được bảo đảm cho TCTD mà vẫn còn dư tiền, các chấp hành viên của cơ

quan thi hành án cần phải chủ động, thuyết phục, giải thích cho người thứ ba

bảo lãnh có tài sản bị xử lý. Nếu họ đồng ý cho khấu trừ thì thực hiện khấu trừ

thì thực hiện khấu trừ án phí vào số tiền còn dư, nếu không đồng ý thì không

thực hiện khấu trừ án phí.” Ngược lại, trong trường hợp tiền thu được từ việc

xử lý tài sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ thuế chuyển nhượng tài sản,

theo tác giả Bộ tài chính nên đưa ra những quy định cụ thể và tạo điều kiện

hơn, chẳng hạn, số tiền thuế phải nộp sẽ được chia đều cho các bên và đưa ra

thời hạn để các bên hoàn thành nghĩa vụ này.

3.1.2. Quy định về việc xử lý tài sản và thu giữ tài sản của Ngân hàng

thương mại

Như đã trình bày ở phần 2.1.2.1, việc thu giữ và xử lý đối với các

TSBĐ là bất động sản được hình thành trong tương lai vẫn là bài toán khó cho

các NHTM.

Hơn nữa, Nghị quyết 42/2017 cũng quy định: “Chính quyền địa

phương, công an địa phương có trách nhiệm giữ gìn an ninh trật tự trong quá

trình ngân hàng thu giữ tài sản.” [16, Đ7] Nhưng để quá trình thu giữ và

chuyển giao có bảo đảm được việc này thì phải có quy định rất rõ về trình tự,

thủ tục nhằm bảo đảm tính pháp lý, chứ quy định chung chung như vậy thì rất

khó thực hiện. Do đó, muốn bảo đảm quyền này được thực hiện trên thực tế,

trên cơ sơ Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ ban hành nghị định hướng dẫn

cụ thể các bộ và ủy ban nhân dân các cấp phối hợp với các tổ chức tín dụng

thực hiện hiệu quả quyền thu giữ tài sản. Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn

63

và cơ quan Công an nơi tiến hành thu giữ tài sản cần coi việc giữ gìn an ninh,

trật tự và giám sát việc thu giữ TSBĐ của tổ chức tín dụng là nhiệm vụ, trách

nhiệm của mình trong quá trình tổ chức tín dụng thu giữ TSBĐ.

Cần kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn để thực hiện Nghị quyết

số 42/2017/NĐ-CP. Cần quy định rõ trách nhiệm bồi thường trong các trường

hợp hoãn xử lý tài sản bảo đảm. Không chỉ Nghị quyết số 42/2017/NĐ-CP

khi phát sinh tranh chấp thì không thể thu giữ tài sản, mà trong tố tụng cũng

vậy, khi phát sinh tranh chấp thì đương nhiên được tham gia tố tụng với tư

cách là người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Bộ Công an và lãnh đạo Công

an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có ý kiến chỉ đạo để Công an

các địa phương hiểu và hỗ trợ cho các TCTD trong việc thu giữ tài sản bảo

đảm để xử lý thu hồi nợ, xác minh tình trạng cư trú của các khách hàng trên

địa bàn quản lý làm cơ sở cho việc khởi kiện khách hàng của TCTD, phối hợp

chặt chẽ với Cơ quan Thi hành án địa phương trong công tác cưỡng chế thi

hành án để đẩy nhanh hơn nữa tiến độ thi hành án của Cơ quan thi hành án.

Bên cạnh đó, tăng cường phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong xử lý

các vấn đề liên quan và hỗ trợ TCTD, VAMC trong xử lý nợ xấu, nhất là

hoàn thiện hồ sơ pháp lý, thu hồi nợ và xử lý tài sản bảo đảm.

Bộ Tư pháp và Ngân hàng Nhà nước phối hợp kiến nghị Chính phủ

sửa đổi Nghị định số 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ theo hướng quy định rõ

trách nhiệm của Cơ quan Công an trong việc hỗ trợ TCTD thực hiện việc thu

giữ tài sản bảo đảm và chế tài xử lý nếu bên nắm giữ tài sản (hoặc bên thứ ba)

chống đối, cản trở việc TCTD thực hiện thu giữ tài sản.

3.1.3. Quy định về kê biên tài sản bảo đảm

Về việc kê biên tài sản đang thế chấp, cầm cố tại ngân hàng để thực

hiện nghĩa vụ khác. Theo ý kiến của người viết, các khoản nợ khác của bên

thế chấp, cầm cố không được bảo đảm bằng tài sản đang thế chấp, cầm cố tại

ngân hàng thì cơ quan thi hành không được kê biên tài sản thế chấp, cầm cố

64

để thực hiện thanh toán các khoản nợ không được bảo đảm bằng chính tài sản

đó. Trong trường hợp này, nên chăng cơ quan thi hành có văn bản thông báo

cho ngân hàng biết để phối hợp thi hành án, thực hiện nghĩa vụ khác của bên

bảo đảm. Thông báo này cũng phải được gửi cho bên thế chấp, cầm cố tài sản

(người phải thi hành án) biết, thực hiện. Sau khi thu hồi hết nợ, nếu tiền bán

tài sản bảo đảm vẫn còn, ngân hàng chuyển số tiền còn lại đó vào một tài

khoản do cơ quan thi hành án chỉ định phù hợp với quy định của pháp luật.

Do vậy, một văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý tương đương Luật

thi hành án dân sự cần quy định tài sản bảo đảm khoản nợ xấu của người phải

thi hành án đang bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tại ngân hàng không bị kê biên

để thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định pháp luật về thi hành án, trừ trường

hợp có sự đồng ý trước bằng văn bản của ngân hàng nhận bảo đảm.

Với cơ quan thi hành án, khi phát sinh tranh chấp phải ngưng ngay

việc thi hành án, gây cản trở cho quá trình kê biên. Do đó, phải ban hành các

quy định để xử lý hình sự đối với các hành vi giả tranh chấp để cản trở việc

xử lý tài sản, như vậy việc tiến hành kê biên của cơ quan thi hành án mới có

thể đẩy nhanh và không bị kéo dài.

3.1.4. Quy định về thủ tục khi giải quyết tranh chấp

Nền tư pháp Việt Nam đã có bước chuyển biến tích cực và phù hợp

với thời đại hội nhập khi kế thừa áp dụng thủ tục rút gọn trong việc giải quyết

vụ/việc dân sự nói chung. Do vậy, khi thủ tục rút gọn được áp dụng, vì xuất

hiện tình tiết, vụ/việc lại được đưa trở lại thủ tục thông thường khiến cho thủ

tục này không thực sự phát huy được tính ưu việt về và ý nghĩa tồn tại của nó.

Vì thế những nhà làm luật cần làm rõ hơn những “tình tiết mới” làm cho vụ/

việc không còn đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn là gì, mức độ ảnh hưởng

của chúng đến việc quyết định chuyển vụ/việc từ thủ tục rút gọn sang thủ tục

thông thường như thế nào, có cần thiết hay không; đồng thời nghiên cứu để

đưa ra các biện pháp hạn chế phải chuyển từ thủ tục rút gọn sang thủ tục

65

thông thường bằng những văn bản có giá trị hiệu lực pháp lý.

Để việc khởi kiện và thu hồi nợ của TCTD theo đúng quy định của

pháp luật, việc áp dụng pháp luật giải quyết các tranh chấp do TCTD khởi

kiện được thống nhất đề nghị Tòa án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn cụ

thể việc xử lý đối với trường hợp người vay vốn vắng mặt tại nơi cư trú (cá

nhân), bỏ địa chỉ đăng ký kinh doanh (pháp nhân) và việc VAMC kế thừa

quyền và nghĩa vụ của TCTD trong khởi kiện để bảo đảm được quyền lợi hợp

pháp cho các TCTD đồng thời giảm được số lượng nợ xấu trên toàn hệ thống

các TCTD.

Hoàn thiện các quy định pháp luật quy định rõ trách nhiệm của các cơ

quan thực thi pháp luật trong việc phối hợp thu hồi, xử lý nợ xấu; áp dụng thủ

tục rút gọn đối với vụ việc liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm; Tòa không

được từ chối thụ lý vụ án không có lý do chính đáng; Bảo vệ giao dịch dân sự

ngay tình trong trường hợp Hợp đồng bảo đảm giữa khách hàng và TCTD là

giao dịch hợp pháp.

Tòa án Nhân dân tối cao cần chỉ đạo Tòa án nhân dân cấp địa phương

(đặc biệt là tòa án nhân dân cấp quận, huyện, thị xã…) sớm giải quyết các vụ

án tranh chấp liên quan đến hoạt động ngân hàng, tín dụng phù hợp với quy

định về thủ tục tố tụng và quy định có liên quan khác sau khi thụ lý vụ án.

Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao có văn bản chỉ đạo Viện kiểm sát

nhân dân các địa phương tăng cường giám sát việc tuân thủ pháp luật của Tòa

án và cơ quan thi hành án, Theo đó, nếu thấy Tòa án và cơ quan thi hành án

cùng cấp vi phạm quy định của pháp luật thì trong phạm vi chức năng nhiệm

vụ của mình, Viện Kiểm soát nhân dân cần có văn bản gửi Tòa án, cơ quan thi

hành án cùng cấp yêu cầu tuân thủ quy định của pháp luật hoặc có văn bản

kiến nghị cơ quan/người có thẩm quyền giải quyết và có văn bản trả lời ngân

hàng khi nhận được đơn thư khiếu nại việc vi phạm pháp luật của Tòa án, cơ

66

quan thi hành án.

3.1.5. Có cơ chế đẩy mạnh sự phát triển của các Công ty AMC

Việc xử lý nợ xấu thông qua công ty mua bán nợ là một cơ chế rất phổ

biến trong các nền kinh tế thị trường - nơi mà Nhà nước, tư nhân hay bất kỳ

thành phần kinh tế nào khác đều bình đẳng trước pháp luật. Ðặc biệt, tài

sản/nguồn lực của các thành phần chủ sở hữu đó đều được vốn hóa hoặc luôn

được xếp hạng, định giá cập nhật theo giá thị trường (kể cả khi ngân sách nhà

nước hay thậm chí ngân hàng trung ương bỏ tiền ra mua nợ rồi thoái vốn cũng

hoàn toàn dựa theo cơ chế thị trường).

Ở một số nước, có những công ty chuyên mua bán nợ, thực chất hoàn

toàn là những công ty tư nhân, hoạt động theo cơ chế thị trường. Ở Việt Nam

chưa có loại công ty này, nếu như tư nhân được phép tham gia vào quá trình

mua bán, xử lý nợ xấu ngân hàng thì chúng ta có thể đa dạng được nguồn lực

phục vụ cho quá trình xử lý. Ðối với công ty mua bán nợ tư nhân, nếu như

được phép thành lập, mục tiêu chủ đạo của họ là lợi nhuận. Quá trình họ được

phép tham gia, có thể tạo ra hiệu ứng tương hỗ đối với các TCTD. Các ngân

hàng thay vì đợi chuyển nhượng các món nợ xấu cho AMC vốn Nhà nước (có

thể vì khối lượng nợ xấu hiện rất lớn khiến họ phải đợi chờ để AMC quốc gia

giải quyết), họ có thể mặc cả nhanh chóng với các công ty tư nhân này. Cơ

chế mua bán nợ theo cơ chế thị trường, thuận mua vừa bán. Với việc lấy lợi

nhuận là mục đích hoạt động, các công ty mua bán nợ tư nhân có thể giúp quá

trình xử lý nợ xấu diễn ra nhanh hơn. Các NHTM cũng vì thế mà có thể đẩy

nhanh những món nợ xấu ấy cho một đơn vị khác “chuyên nghiệp” giải quyết,

họ sẽ được rảnh hơn để tập trung vào các hoạt động kinh doanh chủ đạo của

mình. Tuy nhiên, trước khi cho phép thành lập công ty tư nhân độc lập

chuyên mua bán nợ ở nước ta thì cần phải hoàn thiện môi trường pháp lý và

phải định giá, hàng hóa các nguồn tài lực, trí lực và vật lực của khu vực kinh

tế nhà nước. Bởi vì, thực tế nội hàm nhiều chính sách thị trường đối với các

67

thành phần kinh tế của chúng ta chưa thật bình đẳng, chưa hoàn hảo, nên

trong trường hợp các công ty tư nhân này hoạt động trong khu vực các doanh

nghiệp nhà nước, khi mà khu vực này đang có nợ xấu lớn nhất và cũng là nơi

mà giá trị tài sản thế chấp trên sổ sách thường được định giá rất thấp, thì tài

sản Nhà nước sẽ bị thất thoát lớn.

Hiện nay, thị trường mua bán nợ xấu chưa phát triển và thiếu tính cạnh

tranh, số lượng chủ thể tham gia còn ít, Để thị trường mua bán nợ xấu phát

triển, điều quan trọng là phải có nhiều bên tham gia, trong đó các tổ chức mua

bán nợ chính là lực lượng chủ yếu. Thực tế dù nguồn cung về nợ xấu khá lớn

nhưng số lượng công ty chuyên về mua bán nợ xấu lại không nhiều, mới chỉ

có VAMC, DATC, AMC của các TCTD và một số tổ chức, cá nhân khác

tham gia vào hoạt động mua bán nợ xấu, trong đó, một số AMC của TCTD

hiện nay chỉ hoạt động trong phạm vi các tài sản và khoản nợ của chính

TCTD đó, thay vì tham gia thị trường mua bán nợ như các AMC khác. Ngoài

ra, các chủ thể trung gian tham gia thị trường: các đơn vị xếp hạng, các đơn vị

môi giới chuyên nghiệp, tư vấn tại Việt Nam chưa thực sự phát triển, số lượng

còn hạn chế, thậm chí chưa được hình thành.

3.1.6. Cần có các hành lang pháp lý để đã dạng phương thức mua bán

nợ xấu

Các phương thức mua bán nợ xấu còn thiếu đa dạng, chủ yếu do thỏa

thuận, việc mua, bán nợ xấu bằng các phương thức khác như: đấu thầu, đấu

giá hiện chưa được áp dụng rộng rãi. Đối với một thị trường hàng hóa, cần sự

phong phú và đa dạng trong mua bán và trao đổi hàng hóa thì mua bán, trao

đổi bằng những phương thức như trên là quá đơn giản và sẽ hạn chế sự phát

triển của thị trường.

Bên cạnh đó, còn thiếu các nhà môi giới chuyên nghiệp, đơn vị môi

giới trên thị trường mua bán nợ là đội ngũ nắm giữ toàn bộ các thông tin thị

68

trường, đầu mối sắp xếp cho bên mua, bên bán gặp nhau. Nhờ có đội ngũ này,

hoạt động mua bán nợ mới được thực hiện một cách chuyên nghiệp, hợp

pháp, cũng như bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư.

Đồng thời, cần có một tổ chức có vai trò đứng ra tạo lập thị trường

mua bán nợ xấu. Hình thành thị trường mua bán nợ xấu tại Việt Nam là rất

cần thiết để tăng tính thanh khoản cho các khoản nợ xấu, tạo kênh đầu tư mới

trên thị trường, thúc đẩy kinh tế phát triển và là giải pháp bền vững để duy trì

tỷ lệ nợ xấu ở mức an toàn.

3.1.7. Nâng cao vai trò của VAMC để việc xử lý nợ đi vào bản chất

Việc phát hành trái phiếu đặc biệt VAMC và cho phép TCTD có thể

cầm cố để vay tái cấp vốn của NHNN chỉ là giải pháp hỗ trợ tạm thời, tạo

thanh khoản cho các ngân hàng khi bán nợ xấu cho VAMC nhưng thực chất

không có nguồn tiền thực sự chuyển cho các ngân hàng khi bán nợ xấu cho

VAMC. Do đó, để xử lý nợ xấu thành công, cần có nguồn lực tài chính vững

mạnh để thúc đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu. Theo đó, cần có các phương

án tài chính để mua trực tiếp và dứt điểm nợ xấu của các ngân hàng, chuyển

số tiền mua nợ xấu cho các ngân hàng để ổn định kinh doanh, tăng cường

hoạt động xử lý nợ xấu VAMC thông qua tái cấu trúc, bán cho các nhà đầu tư

theo giá thị trường, xử lý tài sản bảo đảm, thanh lý tài sản bảo đảm...

Để đẩy nhanh tiến trình xử lý nợ xấu, đặc biệt để xử lý nhanh nợ và tài

sản bảo đảm của khoản nợ đã mua của VAMC, một trong những giải pháp

quan trọng là cần nâng cao tiềm lực tài chính cho VAMC, cho đến nay

VAMC vẫn chưa được cấp vốn như lộ trình đề ra, trong khi các cơ chế, chính

sách, quy định pháp lý mang tính đặc thù, gây ảnh hưởng lớn đến mục tiêu,

hạn chế hiệu quả hoạt động của VAMC với vai trò là công cụ đặc biệt của

Nhà nước nhằm góp phần xử lý nhanh nợ xấu.

Tiếp tục nghiên cứu mở rộng phạm vi đối tượng mua nợ và các khoản

đầu tư của VAMC để VAMC từng bước trở thành trung tâm tái tài trợ các

69

khoản nợ, khoản đầu tư của TCTD, doanh nghiệp, hỗ trợ cho việc cơ cấu lại

nợ. Cần có văn bản quy định rõ các trường hợp, điều kiện nào thì VAMC sẽ

đứng danh nghĩa trực tiếp thu giữ TSBĐ hay ủy quyền cho TCTD thu giữ

TSBĐ, sự phối hợp giữa VAMC và TCTD.

3.1.8. Cần có các quy định để thông tin hàng hóa nợ xấu trên thị

trường minh bạch

Thị trường mua bán nợ hiện nay thông tin còn thiếu đồng nhất và minh

bạch. Nguồn cung hàng hóa cho thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp về nợ

xấu chủ yếu từ các TCTD, tuy nhiên số liệu về nợ xấu của các TCTD hiện

nay chỉ được báo cáo với Cơ quan quản lý Nhà nước, việc tiếp cận số liệu là

rất khó khăn. Các TCTD rất hạn chế trong việc công khai về các khoản nợ

xấu, chủ yếu việc bán nợ của các TCTD là do sức ép từ quy định giới hạn về

tỷ lệ nợ xấu của Ngân hàng Nhà nước. Nhiều TCTD chưa chủ động, tích cực

trong việc bán nợ xấu cho các công ty mua bán nợ, thêm vào đó, TCTD có thể

dùng kỹ thuật tài chính để đẩy tỷ lệ nợ xấu xuống theo mức quy định, khi đó

các TCTD sẽ không có sức ép để xử lý tiếp nợ xấu, khiến cho thị trường mua

bán nợ xấu sơ cấp ít hoạt động, thị trường mua bán nợ xấu nói chung khó có

thể phát triển do nhu cầu mua bán nợ không còn lớn, không tạo được hàng

hóa cho thị trường hoạt động.

3.2. Một số kiến nghị nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về

xử lý nợ xấu tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam

3.2.1. Những kiến nghị nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về xử

lý nợ xấu từ phía Nhà nước và các cơ quan hữu quan

3.2.1.1. Tổng kết, đánh giá hiệu quả thực hiện pháp luật về xử lý nợ

xấu định kỳ

Định kỳ hàng năm, NHNN tổng kết, đánh giá hiệu quả thi hành Nghị

quyết liên quan đến việc xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng. Do

vậy, sau khi được ban hành và thực hiện, tổng kết từ thực tiễn, Nghị quyết

70

42/2017 của Quốc hội về xử lý nợ xấu cần được xem xét, ban hành dưới hình

thức Luật để bảo đảm tính chất tương đương với các văn bản quy phạm pháp

luật khác có liên quan do Quốc hội ban hành như BLDS, Luật THADS, Luật

thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp…

Đối với NHNN, cần phát huy vai trò quản lý vĩ mô của mình:

Tăng cường công tác thanh tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết

42/2017, đồng thời, xử lý nghiêm theo thẩm quyền quy định đối với các vi

phạm pháp luật của các TCTD trong quá trình triển khai thực hiện. Tăng

cường công tác thanh tra, giám sát TCTD, VAMC trong việc chấp hành các

quy định của pháp luật về mua, bán nợ. Tiếp tục chỉ đạo, kiểm tra, giám sát

chặt chẽ các TCTD trong việc thực hiện Nghị quyết 42/2017 và các văn bản

liên quan về giải quyết nợ xấu.

Tiếp tục chỉ đạo các TCTD có nợ xấu cao chủ động xây dựng phương

án, kế hoạch xử lý nợ xấu, có giải pháp ngăn chặn nợ xấu phát sinh; rà soát

việc phân loại nợ, đảm bảo phản ánh đúng chất lượng khoản vay, trích lập dự

phòng rủi ro đầy đủ theo quy định. Rà soát đánh giá các khách hàng khó khăn

để đề xuất, quyết định miễn, giảm lãi tiền vay theo quy định tại Luật Các

TCTD, Thông tư và quy định có liên quan.

Tăng cường thanh tra, giám sát chặt chẽ việc chấp hành quy định về an

toàn hoạt động và phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro, hoạt động cấp tín

dụng, chất lượng tín dụng, nợ xấu để phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời

rủi ro gây tổn thất, mất an toàn và vi phạm pháp luật trong hoạt động cấp tín

dụng của TCTD; kiểm soát tốc độ và chất lượng tăng trưởng tín dụng hợp lý;

phát hiện và xử lý kịp thời xu hướng đầu tư, cấp tín dụng vào các lĩnh vực,

ngành nghề, đối tượng tiềm ẩn nhiều rủi ro.

Tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hệ thống giám sát, đánh giá

chất lượng tín dụng của NHNN đối với các TCTD. Phát triển hệ thống thông

tin tín dụng quốc gia và cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp, ngành, lĩnh vực kinh

71

tế để hỗ trợ cho quá trình giám sát và cảnh báo rủi ro tín dụng, nợ xấu phát

sinh. Sửa đổi, bổ sung các quy định, chính sách về hoạt động tín dụng theo

hướng (i) đảm bảo phải có sự tham gia vốn hợp lý của chủ đầu tư trong các dự

án đầu tư; (ii) nâng cao nguyên tắc, kỷ luật thị trường trong hoạt động tín

dụng; (iii) công khai, minh bạch, tăng cường sự giám sát của thị trường, nhà

đầu tư và người gửi tiền đối với hoạt động tín dụng; (iv) tăng cường hạn chế,

kiểm soát chặt chẽ việc cấp tín dụng đối với cổ đông lớn và người có liên

quan; (v) phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng trong hoạt động tín dụng; (vi) tăng

cường trách nhiệm của HĐQT, hội đồng thành viên, ban kiểm soát và ban

điều hành đối với hoạt động tín dụng.

Điều hành linh hoạt, chặt chẽ, thận trọng chính sách tiền tệ và lượng

tiền cung ứng phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,

duy trì mặt bằng lãi suất hợp lý, ổn định tỷ giá để hỗ trợ cho hoạt động sản

xuất kinh doanh, hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng và bảo đảm an

toàn thanh khoản của hệ thống ngân hàng.

Ban hành và triển khai các nguyên tắc, chuẩn mực an toàn hoạt động

tín dụng phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế và điều kiện thực tiễn của

Việt Nam. Tiếp tục triển khai tái cơ cấu, kiên quyết xử lý dứt điểm và loại bỏ

những TCTD yếu kém, tiềm ẩn rủi ro gây mất an toàn hệ thống. NHNN và

VAMC cần có quyền chủ động can thiệp bắt buộc xử lý, mua, bán nợ và tài

sản bảo đảm trong trường hợp cần thiết để bảo đảm an toàn hoạt động của

TCTD và bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại TCTD.

Chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan tiếp tục nghiên

cứu, hoàn thiện các quy định về tổ chức, hoạt động và tài chính của VAMC;

nghiên cứu, bổ sung vào văn bản Luật quy định những vấn đề đặc thù về tổ

chức, hoạt động, tài chính và thẩm quyền của VAMC. Tiếp tục tăng cường

công tác tuyên truyền để tạo sự hiểu biết, thống nhất và ủng hộ của dư luận xã

hội về vai trò, ý nghĩa, mục tiêu của chính sách, giải pháp xử lý nợ xấu của hệ

72

thống các TCTD, tạo sự đồng thuận trong xã hội; triển khai đầy đủ, kịp thời

các chỉ đạo của Chính phủ, NHNN về xử lý nợ xấu để các TCTD thực hiện có

hiệu quả.

3.2.1.2. Nghiên cứu để ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung văn bản quy

phạm pháp luật về xử lý nợ xấu

Hiện tại, rất nhiều trở ngại về mặt chính sách đối với hoạt động xử lý

nợ xấu đã được tháo gỡ, tuy nhiên, việc phát triển thị trường mua bán nợ tại

Việt Nam lại mới ở bước khởi đầu. Vì thế, để các nhà đầu tư nhiệt tình tham

gia vào thị trường mua, bán nợ tại Việt Nam cần có sự phối hợp chặt chẽ của

các Bộ, Ngành có liên quan trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn quy

định pháp luật, thống nhất cách hiểu các quy định pháp luật, cách xử lý đối

với các vụ việc để đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu,… Người viết đề xuất

như sau:

Thứ nhất, Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện việc thu thuế thu nhập

doanh nghiệp, thu nhập cá nhân trong trường hợp chuyển nhượng TSBĐ để

thu hồi nợ xấu, bảo đảm tính thực thi cho quy định về “Thứ tự ưu tiên thanh

toán khi xử lý TSBĐ”, “Bảo đảm quyền lợi của bên mua TSBĐ”.

Thứ hai, Bộ tài nguyên môi trường sớm ban hành quy định về:

(i) Bổ sung hướng dẫn đối với quyền nhận thế chấp, đăng ký thế chấp

quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai là

TSBĐ cho các khoản nợ mà các tổ chức, cá nhân mua lại từ VAMC” theo quy

định tại Khoản 1 Điều 9 Nghị quyết 42/2017;

(ii) Bổ sung đối tượng được miễn chữ ký trên đơn đăng ký giao dịch

bảo đảm để đảm bảo tính nhất quán trong thực thi quy định về quyền nhận thế

chấp, đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất hình thành

trong tương lai là TSBĐ của khoản nợ đã mua của Công ty Quản lý tài sản”

theo Nghị quyết 42/2017;

(iii) Hướng dẫn thủ tục chuyển nhượng TSBĐ của khoản nợ xấu là dự

73

án bất động sản đang dở dang.

Thứ ba, Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên môi trường ban hành Thông tư

thay thế Thông tư liên tịch số 09/2016/TTLT-BTP-BTNMT hướng dẫn việc

đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, trong đó, đề nghị

giữ nguyên nội dung về việc ghi nhận Hợp đồng mua bán nợ là tài liệu chứng

minh nội dung thay đổi (như đang quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 24

Thông tư liên tịch số 09/2016/TTLT-BTP-BTNMT)

Thứ tư, các quy định của pháp luật hướng dẫn cụ thể về hoạt động mua

bán nợ sớm được ban hành để tạo hành lang pháp lý vững chắc cho thị trường

mua bán nợ của Việt Nam.

Ngoài ra, các cơ quan chức năng có liên quan tiếp tục nghiên cứu, xây

dựng trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc đề xuất sửa đổi, bổ sung văn bản

quy phạm pháp luật quy định về quyền thu giữ của tổ chức tín dụng đối với

một số tài sản đặc thù khác (như phương tiện vận tải đường bộ, đường thủy,

đường hàng không...).

3.2.1.3. Nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự về xử lý nợ xấu

Các nhà làm luật và các cơ quan chức năng cần quy định rõ ràng hơn

về thủ tục hành chính theo hướng tiết kiệm về thời gian và chi phí cho người

được thi hành án: từ việc hoàn thiện mẫu giấy tờ cần có trong hoạt động thi

hành án, cơ chế phối hợp giữa Tòa án và cơ quan thi hành án dân sự trong

việc bàn giao bản án nhanh chóng, xây dựng chế định pháp lý đối với hoạt

động, thủ tục thi hành án dân sự bằng phương thức điện tử...

Ngoài ra, cũng cần xây dựng quy trình tổ chức thi hành án riêng đối

với doanh nghiệp, án kinh doanh, thương mại theo hướng rút gọn hơn nữa.

Ðồng thời, cần có các quy định chặt chẽ về đăng ký vốn, tài sản và tài khoản

tại các ngân hàng, tổ chức tín dụng; quy định chế tài về kiểm tra, xử lý đối với

các doanh nghiệp không chấp hành nghĩa vụ thi hành án. Theo đó, cần thống

nhất quy định các vấn đề liên quan tài sản của doanh nghiệp, trách nhiệm,

74

nghĩa vụ của chủ sở hữu doanh nghiệp, nghĩa vụ, trách nhiệm của đại diện

pháp luật giữa Luật Thi hành án dân sự và Luật Ðất đai, Luật Nhà ở, Luật

Kinh doanh bất động sản...

Cần sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về Tố tụng dân sự với

Luật Đấu giá tài sản và Luật THADS. Chẳng hạn, theo quy định tại Điều 102

Luật THADS thì chỉ có 2 đối tượng là chấp hành viên và người mua trúng đấu

giá tài sản mới có quyền yêu cầu Tòa án xem xét hủy kết quả bán đấu giá.

Tuy nhiên, trên thực tiễn TAND các cấp vẫn thụ lý đơn khởi kiện của người

phải thi hành án để giải quyết việc yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá dẫn đến

việc đương sự lợi dụng quy định này để trốn tránh nghĩa vụ giao tài sản và

kéo dài việc thi hành án. Về vấn đề này, Bộ Tư pháp cần tiếp tục phối hợp với

Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao để có biện pháp

hướng dẫn thực hiện hoặc tham mưu cho cấp có thẩm quyền sửa đổi các quy

định cho đồng bộ, có tính liên thông để áp dụng. Ngoài ra, cần sửa đổi, bổ

sung các quy định pháp luật về THADS cho phù hợp với Luật Đấu giá tài sản.

Ví dụ, để thực hiện quy định về việc thông báo lựa chọn tổ chức đấu giá tại

Điều 56 Luật Đấu giá tài sản, cần sửa đổi quy định tại khoản 2 Điều 101 Luật

THADS cho phù hợp, tránh các cơ quan THADS hiểu nhầm về thời hạn ký

hợp đồng dịch vụ bán đấu giá với thời hạn lựa chọn tổ chức bán đấu giá tài

sản. Hay quy định về đấu giá tài sản thi hành án trong trường hợp bán lần 1

mà chỉ có 1 người đăng ký tham gia đấu giá thì coi như bán đấu giá không

thành và sẽ phải thực hiện việc giảm giá để bán đấu giá lần 2 là chưa phù hợp,

làm giảm giá trị tài sản kê biên. Đây là quy định gây nhiều hiểu lầm, khiến

nhiều cơ quan THADS và tổ chức bán đấu giá lúng túng khi thực hiện.

Không những thế, phải tiếp tục tăng cường việc tuyên truyền, phổ biến

các quy định của pháp luật về đấu giá tài sản và pháp luật về THADS theo

hướng đa dạng hóa về hình thức và phong phú về nội dung, qua đó nâng cao

75

nhận thức pháp luật cho nhân dân, giúp họ nắm được và chấp hành nghiêm

chỉnh các quy định pháp luật nói chung và pháp luật về đấu giá tài sản, về

THADS nói riêng.

3.2.2. Những kiến nghị nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật pháp

luật về xử lý nợ xấu từ phía các NHTM

3.2.2.1. Nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ pháp lý của đội

ngũ cán bộ xử lý nợ xấu

Mỗi NHTM cần tích cực đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý,

trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của các cán bộ thông qua việc tổ chức thường

xuyên các buổi chuyên đề trao đổi kinh nghiệm về hạn chế và xử lý nợ xấu.

Thường xuyên giáo dục nâng cao đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ

cán bộ làm công tác tín dụng lẫn đội ngũ cán bộ xử lý nợ xấu cũng là một vấn

đề quan trọng. Có thể thấy, rất nhiều khoản dư nợ của ngân hàng hiện nay có

nguyên nhân chính là đạo đức nghề nghiệp của các cán bộ ngân hàng, chẳng

hạn như việc nâng giá trị TSBĐ, TSBĐ khống, cho vay khách hàng không đủ

điều kiện vay vốn, cho vay thông qua cò tín dụng,…để trục lợi cá nhân hay

lợi ích nhóm.

Một vấn đề khác cũng cần được chú trọng không kém đó chính là việc

đào tạo về kiến thức pháp lý cho các cán bộ xử lý nợ. Thực tiễn ở trên không

chỉ gây ra những mặt tiêu cực trong hoạt động tín dụng nói chung và hoạt

động xử lý nợ nói riêng mà còn dẫn đến những hệ lụy xấu hơn là gây thất

thoát nghiêm trọng tài sản của ngân hàng, thậm chí những cán bộ ngân hàng

có thể còn bị khởi kiện hình sự. Vì vậy, đào tạo cho cán bộ hiểu biết về kiến

thức pháp lý giúp các NHTM hạn chế được các hành vi giận lận. Đối với

chính các cán bộ, việc nắm vững để tuân thủ đúng các quy định của pháp luật

vừa là cách thức để bảo vệ mình khỏi những “cạm bẫy của vòng lao lý”, vừa

là công cụ để thực hiện tốt chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt trong công tác xử

76

lý nợ xấu.

3.2.2.2. Tăng cường đội ngũ chuyên gia pháp luật trong hoạt động xử

lý nợ xấu

Trong thời buổi hội nhập kinh tế quốc tế, việc đảm bảo hoạt động kinh

doanh nói chung cũng như hoạt động xử lý nợ của các NHTM đúng pháp luật,

phòng tránh rủi ro pháp lý là vô cùng quan trọng. Vì vậy, vai trò của các cố

vấn pháp lý ngày càng được củng cố và xem trọng. Những người này có thể là

các luật sư tư vấn, chuyên gia pháp lý hoặc tổ chức pháp chế trong ngân hàng.

Đặc biệt, đối với các nước phát triển, quá trình hoạt động của ngân

hàng không thể thiếu bóng dáng của các cố vấn pháp lý.

Có thể nói rằng, trong toàn bộ hoạt động của ngân hàng thì hoạt động

xử lý nợ xấu sử dụng công cụ pháp luật nhiều nhất: từ việc xây dựng các tờ

trình, văn bản nội bộ đến việc thi hành án, khởi kiện, thẩm định giá, bán đấu

giá TSBĐ,… Mọi hoạt động xử lý nợ đều là sự phối kết hợp giữa nhiều bộ

phận, cá nhân trong ngân hàng. Hơn nữa, sản phẩm tín dụng của các ngân

hàng là rất đa dạng cho nên tất nhiên cũng đa dạng về phương thức xử lý nợ,

thường được phân thành hai nhóm chính: xử lý nợ theo thủ tục tố tụng và xử

lý phi tố tụng. Trong đó, hoạt động xử lý nợ tố tụng đặc biệt cần những người

có thể đại diện để bảo vệ quyền lợi của ngân hàng trong những vụ tranh chấp

tại tòa án, trọng tài thương mại hay các cơ quan tố tụng trong và ngoài nước

khác – chính là những luật sư hoặc chuyên viên pháp chế của ngân hàng.

Ngân hàng nên đẩy mạnh mô hình luật sư nội bộ, đặc biệt là tăng

cường chuyên gia pháp chế xử lý nợ. Những người này có trách nhiệm luôn

phải đảm bảo đáp ứng được lợi ích và mục tiêu của ngân hàng lên hàng đầu,

bởi họ chịu sự ràng buộc trực tiếp của đơn vị thông qua hợp đồng lao động.

Chính những người này sẽ là đại diện hợp pháp thích hợp nhất nếu như có

tranh chấp về nợ tín dụng xảy ra tại Tòa án hoặc những cơ quan tố tụng khác.

3.2.2.3. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật và các

chính sách về xử lý nợ xấu trong nội bộ ngân hàng

Hoạt động xử lý nợ xấu có hiệu quả, đảm bảo tuân thủ đúng pháp luật

77

và các chính sách hay không không chỉ phụ thuộc vào chính bản thân những

người đảm nhiệm công tác xử lý nợ xấu mà còn phụ thuộc rất nhiều vào khâu

kiểm tra, giám sát. Việc kiểm tra, giám sát này có thể được tiến hành bởi các

cấp lãnh đạo, cũng có thể theo cơ chế giám sát chéo của các phòng, ban, bộ

phận khác có liên quan; thậm chí là tự giám sát, tức là những người cùng

thuộc bộ phận xử lý nợ tự giám sát hoạt động lẫn nhau và tự kiểm tra, giám

sát công việc của chính mình.

Ngoài ra, để hiệu quả của hoạt động xử lý nợ xấu được phát huy, cũng

cần kết hợp kiểm tra, giám sát cả về quy trình, nghiệp vụ bằng việc thường

xuyên phân tích, đánh giá thực trạng, nguyên nhân phát sinh nợ xấu; làm rõ

trách nhiệm của cá nhân có liên quan nhất là ở những bộ phận, cá nhân phụ

trách có tỷ lệ nợ xấu tăng nhanh, gắn với trách nhiệm thu hồi nợ xấu, nợ đã xử

lý rủi ro với trách nhiệm của cá nhân trong cho vay; Tập trung đánh giá chất

lượng và khả năng thu hồi các khoản nợ, đồng thời đưa ra các biện pháp xử lý

thích hợp; tăng cường trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu;…

Nghiêm chỉnh chấp hành quy định của pháp luật về cấp tín dụng, bảo

đảm tiền vay, các quy định an toàn, thận trọng trong hoạt động tín dụng; thực

hiện phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro đầy đủ theo quy định

của pháp luật, bao gồm cả việc trích lập dự phòng rủi ro trái phiếu đặc biệt.

Thường xuyên rà soát, sửa đổi và hoàn thiện các quy định, chính sách

quy trình, thủ tục quản lý, kiểm soát, giám sát cấp tín dụng theo hướng chặt

chẽ, phòng ngừa, ngăn chặn rủi ro và vi phạm pháp luật trong hoạt động tín

dụng; nâng cao năng lực quản trị, điều hành, hệ thống kiểm soát, kiểm toán

nội bộ đối với hoạt động tín dụng; phát triển hệ thống quản trị rủi ro phù hợp

với thông lệ, chuẩn mực quốc tế; triển khai đồng bộ các giải pháp phòng

ngừa, phát hiện sớm và xử lý các hành vi vi phạm, tiêu cực, tham nhũng trong

hoạt động cấp tín dụng. Phát triển và quản lý có hiệu quả đội ngũ cán bộ ngân

hàng, đặc biệt là nâng cao năng lực đánh giá, thẩm định tín dụng và đạo đức

78

nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng.

Tiểu kết Chương 3

Để xử lý nợ xấu một cách triệt để, chúng ta cần phải có giải pháp tổng

thể và lâu dài. Trong bối cảnh thị trường bất động sản đóng băng kéo dài, giá

bất động sản giảm mạnh và các khó khăn, phức tạp trong thủ tục pháp lý liên

quan đến xử lý TSBĐ gây khó khăn cho TCTD trong việc xử lý TSBĐ và thu

nợ. Hơn lúc nào hết, Chính phủ cần có các biện pháp thúc đẩy thị trường mua

bán nợ phát triển; khuyến khích việc phát hành, mua bán trái phiếu doanh

nghiệp và mua bán nợ…Cần hơn nữa các quy định pháp luật về xử lý nợ xấu,

tránh tình trạng chồng chéo luật như hiện nay.

Ngoài ra, cần có các quy định phối hơp giữa một số cơ quan, đơn vị có

liên quan hiệu quả như: phối hợp với Tòa án, chính quyền địa phương, Công an

trong bảo vệ cưỡng chế, xử lý hình sự hành vi cản trở, chống đối việc thi hành

án; với Sở Tài nguyên - Môi trường trong việc xử lý nghiêm các trường hợp vi

phạm, đặc biệt là vi phạm trong thủ tục chuyển quyền sử dụng đất nhằm trốn

tránh thi hành án, phối hợp cung cấp thông tin, phối hợp thực hiện cưỡng chế thi

hành án và xử lý các vướng mắc liên quan; với Viện kiểm sát trong việc kiểm sát

và xử lý nghiêm các hành vi cản trở, trốn tránh việc thi hành án, việc áp dụng

các quy định pháp luật liên quan....Đồng thời, phải tạo các hành lang pháp lý để

đa dạng hóa hình thức mua bán nợ cấu, cũng như có các quy định để thông tin

hàng hóa nợ xấu trên thị trường được minh bạch hơn.

Đối với bản thân các NHTM, cần thường xuyên rà soát, sửa đổi và

hoàn thiện các quy định, chính sách quy trình, thủ tục quản lý, kiểm soát,

giám sát trong hoạt động cấp tín dụng; nâng cao năng lực quản trị, điều hành,

hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng; phát triển hệ

thống quản trị rủi ro phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế; triển khai đồng

bộ các giải pháp phòng ngừa, phát hiện sớm và xử lý các hành vi vi phạm,

79

tiêu cực, tham nhũng trong hoạt động cấp tín dụng.

KẾT LUẬN

Hệ thống NHTM Việt Nam ngày càng hoàn thiện và phát triển, đóng

vai trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế. Bên cạnh những thành tựu

đạt được thì vẫn còn đó những hạn chế và thách thức, trong đó nguy cơ nợ

xấu cũng có chiều hướng tăng cao. Mặc dù, nợ xấu là một tất yếu của hoạt

động NHTM trong nền kinh tế thị trường, là một vấn đề lớn trong tiến trình

lành mạnh hóa tài chính của các NHTM. Như vậy, nếu không có giải pháp

căn cơ, phù hợp để giải quyết nợ xấu thì sẽ gây ra hệ lụy xấu cho chính các

NHTM và cả nền kinh tế. Tuy nhiên việc xử lý nợ xấu luôn phải được nhìn

nhận như một tiêu chí để đánh giá chất lượng hoạt động cho vay, là một trong

những nhân tố quyết định đến hiệu quả hoạt động của NHTM.

Vấn đề xử lý nợ xấu trong giai đoạn hiện nay cần phải được quan tâm

hơn nữa từ bản thân các NHTM và cả hệ thống chính trị, pháp luật bởi khi có

hành lang pháp lý vững chắc, hoạt động này mới được đảm bảo thực hiện

thống nhất và có hiệu quả. Trong khuôn khổ của luận văn, tác giả đã xuất phát

từ những kiến thức kinh tế cơ bản nhất về ngân hàng và hoạt động xử lý nợ

của các NHTM Việt Nam, cùng với việc nghiên cứu trọng tâm về pháp luật

xử lý nợ xấu, bằng góc nhìn và kinh nghiệm chuyên môn của mình đưa ra

những kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý nợ xấu của các

NHTM, qua thực tiễn tại đơn vị tác giả công tác – Ngân hàng TMCP Tiên

Phong (TPBank). Trong đó, cần chú trọng nâng cao hai giải pháp chính là:

hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động

xử lý nợ xấu của các NHTM, nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về xử

80

lý nợ xấu.

1. Báo cáo tài chính TPBank đã được kiểm toán 2016

2. Báo cáo tài chính TPBank đã được kiểm toán 2017

3. Báo cáo tài chính TPBank đã được kiểm toán 2018

4. Bộ Luật Dân sự 2015 số 91/2015/QH3 ban hành ngày 24/11/2015

5. Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015 số 92/2015/QH13 ban hành ngày 25/11/2015

6. TS.Nguyễn Tiến Đông (2019), Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty Quản lý tài

sản các TCTD Việt Nam (VAMC), Đặc san Toàn cảnh Ngân hàng Việt Nam

7. Kế hoạch công bố của TPBank năm 2019

8. TS.Nguyễn Minh Kiều (2017),Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại,

tr.4-5

9. Luật các Tổ chức tín dụng 2010 số 47/2010/QH12 ban hành ngày 17/6/2010

10. Luật Trọng tài thương mại năm 2010 số 54/2010/QH12 ban hành ngày

17/6/2010

11. Luật kinh doanh bất động sản năm 2014 số 66/2014/QH13 ban hành ngày

25/11/2014

12. Nghị định của Chính phủ về giao dịch bảo đảm số 163/2006/NĐ-CP ban hành

ngày 29/12/2006

13. Nghị định của Chính Phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định

163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm số 11/2012/NĐ-CP

ban hành ngày 10/4/2012

14. Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn về xử

lý nợ xấu TSBĐ của khoản nợ xấu số 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15/05/2018

15. Nghị quyết Hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 BLTTDS số

92/2015/QH13 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số

04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/05/2017

16. Nghị quyết về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng số

42/2017/QH14 ngày 21/6/2017.

17. TS.Đào Lê Kiều Oanh, TS.Phan Thị Linh – Trường Đại học Ngân hàng TP.

Hồ Chí Minh, Tạp chí tài chính Kỳ 1 – Tháng 5/2019.

81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

18. Quyết định của Thống đốc NHNN về phương pháp tính và hạch toán thu, trả

lãi của NHNN về các TCTD số 652/2001/QĐ-NHNN ban hành ngày

17/05/2001

19. Quyết định 22/VBHN-NHNN/2014 của Ngân hàng Nhà nước.

20. Số liệu nội bộ của TPBank các năm 2016

21. Số liệu nội bộ của TPBank các năm 2017

22. Số liệu nội bộ của TPBank các năm 2018

23. Minh Tâm (2018), Tạp chí Vietnamfinance tháng 10/2018

24. Thông tư Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp lập dự

phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của

TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài số 02/2013/TT-NHNN ban hành

ngày 21/01/2013

25. Thông tin công bố của TPBank các năm 2017

26. Thông tin công bố của TPBank các năm 2018

27. Thông tin công bố của TPBank các năm 2019

28. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2018), Giáo trình Ngân hàng thương mại,

tr.3-4, tr.8-12, tr.18-21, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân.

29. Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh, Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng,

tr.3-6

30. Trường Đại học Ngân hàng TP.Hồ Chí Minh TS.Đào Lê Kiều Oanh, TS.Phan

Thị Linh (2019); Tạp chí tài chính Kỳ 1-Tháng 5/2019

31. TS.Đào Minh Tú – Phó Thống Đốc NHNN Việt Nam (2017), Kinh nghiệm xử

lý của Hàn Quốc và tái cơ cấu ngân hàng và xử lý nợ xấu, Tạp chí Ngân hàng

số 23 (tháng 12/2017).

32. Nguyễn Vũ (2019), Thời báo Ngân hàng tháng 7/2019

33. Vụ Pháp chế - NHNN Việt Nam (2017), Những bài học về xử lý nợ xấu mà

Việt Nam có thể áp dụng từ kinh nghiệm quốc tế.

82