TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

BÁO CÁO TỔNG HỢP

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƯỜI HỌC

VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT

ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM

TỪ NĂM 1941 ĐẾN 1975

Mã số đề tài: ĐTSV.2021.01

Chủ nhiệm đề tài : Đỗ Quốc Huy

Lớp : 1705CTHB

Cán bộ hướng dẫn : TS. Nguyễn Quốc Khương

Hà Nội, tháng 5 năm 2021

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

BÁO CÁO TỔNG HỢP

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƯỜI HỌC

VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT

ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM

TỪ NĂM 1941 ĐẾN 1975

Mã số đề tài: ĐTSV.2021.01

Chủ nhiệm đề tài : Đỗ Quốc Huy

Thành viên tham gia : Nguyễn Duy Công

Lớp : 1705CTHB

Hà Nội, tháng 5 năm 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng nhóm sinh viên

nghiên cứu khoa học chúng tôi. Các số liệu và tài liệu được sử dụng trong đề tài

có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu của đề tài chưa được

công bố ở bất cứ công trình nghiên cứu khoa học nào.

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

A. PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu: ................................................................ 2

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 3

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 3

6. Đóng góp mới của đề tài ............................................................................. 4

B. PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................... 5

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MẶT TRẬN DÂN TỘC

THỐNG NHẤT ................................................................................................... 5

1.1. Vị trí và vai trò của Mặt trận Dân tộc Thống nhất................................... 5

1.1.1. Vị trí ...................................................................................................... 5

1.1.2. Vai trò ................................................................................................... 5

1.2. Mối quan hệ của Mặt trận Dân tộc Thống nhất với các tổ chức trong hệ

thống chính trị ................................................................................................. 5

1.2.1. Mối quan hệ giữa Mặt trận với Đảng Cộng sản Việt Nam ................... 5

1.2.2. Mối quan hệ giữa Mặt trận với Nhà nước ............................................ 9

1.2.3. Mối quan hệ giữa Mặt trận với Nhân dân ............................................. 9

1.2.4. Mối quan hệ giữa Mặt trận với các tổ chức ........................................ 10

1.3. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Mặt trận Dân tộc Thống

nhất từ năm 1930 đến nay ............................................................................. 10

1.3.1. Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền cách mạng (1930 – 1945) ....... 11

1.3.1.1. Hội Phản đế Đồng minh (11/1930-3/1935) ..................................... 11

1.3.1.2. Hội Phản đế Liên minh (3/1935-10/1936) ....................................... 11

1.3.1.3. Mặt trận Thống nhất Nhân dân Phản đế Đông Dương (10/1936-

3/1938) .......................................................................................................... 12

1.3.1.4. Mặt trận Dân chủ Đông Dương (3/1938-11/1939) .......................... 12

1.3.1.5. Mặt trận Dân tộc Thống nhất Phản đế (11/1939-5/1941) ................ 12

1.3.1.6. Mặt trận Việt Minh (thành lập từ tháng 5/1941) ............................. 13

1.3.2. Thời kỳ bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng tháng Tám, tiến hành

kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1946 - 1975) ...... 14

1.3.2.1. Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam gọi tắt là Hội Liên Việt

(29/5/1946) tăng cường đoàn kết toàn dân góp phần bảo vệ và giữ vững

chính quyền cách mạng ................................................................................. 14

1.3.2.2. Mặt trận Thống nhất Việt Minh - Liên Việt (gọi tắt là Mặt trận Liên

Việt thành lập ngày 3/3/1951) đóng góp to lớn đưa cuộc kháng chiến chống

Pháp đến thắng lợi hoàn toàn ........................................................................ 15

1.3.2.3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền

Nam Việt Nam cùng với Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà

bình Việt Nam thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng ..................... 16

1.3.3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ đổi mới ............................ 17

Tiểu kết chương 1 ......................................................................................... 23

CHƯƠNG 2. NHỮNG TỔ CHỨC TRONG MẶT TRẬN DÂN TỘC

THỐNG NHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP

CÁCH MẠNG VIỆT NAM (1941 -1975) ........................................................ 24

2.1. Những tổ chức thành viên trong Mặt trận Dân tộc Thống nhất từ năm

1941 đến năm 1975 ....................................................................................... 24

2.1.1. Những tổ chức thành viên của Mặt trận thời kỳ 1941-1945 .............. 24

2.1.2. Những tổ chức thành viên của Mặt trận thời kỳ 1945-1975 ............... 26

2.1.2.1. Giai đoạn Kháng chiến Chống Pháp (1946-1954) ........................... 26

2.1.2.2. Giai đoạn Kháng chiến Chống Mỹ (1954-1975) ............................. 26

2.1.2.3. Giai đoạn Đất nước Thống nhất (sau 1975) .................................... 29

2.2. Vai trò của Mặt trận đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam (1941-

1975) ............................................................................................................. 30

2.2.1. Vai trò của Mặt trận đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc

(1941-1945) .................................................................................................... 30

2.2.2. Vai trò của Mặt trận thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế

quốc Mỹ xâm lược (1945-1975) ................................................................... 31

Tiểu kết chương 2 ......................................................................................... 32

CHƯƠNG 3. NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ............................................ 33

3.1. Nhận xét ................................................................................................. 33

3.1.1. Thành tựu ............................................................................................ 33

3.1.2. Hạn chế ............................................................................................... 34

3.2. Kinh nghiệm ........................................................................................... 35

3.2.1. Nhận thức đúng về vai trò, vị trí của Mặt trận dân tộc thống nhất trong

sự nghiệp cách mạng ..................................................................................... 35

3.2.2. Phải có chủ trương, chính sách đúng và hình thức tổ chức Mặt trận

phù hợp với từng thời kì cách mạng để luôn củng cố, mở rộng và phát triển

Mặt trận dân tộc thống nhất .......................................................................... 35

3.2.3. Luôn giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Mặt

trận................................................................................................................. 38

Tiểu kết chương 3 ......................................................................................... 44

C. KẾT LUẬN ................................................................................................... 45

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 46

PHỤ LỤC ........................................................................................................... 47

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Dân tộc Thống nhất là vấn đề chiến

lược đã được xác định ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Lịch sử dân

tộc Việt Nam trong hơn 90 năm qua đã chứng minh đây là một nhân tố quan

trọng để Đảng ta đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi

khác: Cách mạng Tháng Tám, kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ

và những thành tựu trong công cuộc đổi mới đất nước. Nhận thức rõ vai trò hết

sức quan trọng của Mặt trận Dân tộc Thống nhất trong xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc, trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã chỉ rõ:

“Thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần

kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong Đảng và

người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành viên

trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống ở trong nước hay ở nước ngoài.

Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước, ý chí tự

lực tự cường và lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc,

thống nhất vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm

điểm tương đồng; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung

của dân tộc, xoá bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai

cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương

lai”. Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng cũng đã khẳng định: “Phát huy

mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập,

thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn

minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi

ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu

nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong

và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước,

tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.

Trước âm mưu của các thế lực thù địch, phản động tìm cách chia rẽ, phá

1

hoại khối đoàn kết dân tộc và trong điều kiện của nền kinh tế thị trường đang

làm nảy sinh những mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa cá nhân với tập thể, cộng

đồng và xã hội đã và đang tác động đến tính bền vững của khối đại đoàn kết dân

tộc. Thực tiễn đòi hỏi phải tiếp tục củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn

dân tộc, phát huy sức mạnh to lớn của toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Nhận thức rõ ý nghĩa và tính cấp thiết của vấn đề, nhóm tác giả đã lựa

chọn đề tài: “Vai trò của Mặt trận Dân tộc Thống nhất đối với sự nghiệp cách

mạng Việt Nam từ năm 1941 đến 1975”.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu:

Đã có nhiều công trình nghiên cứu về Mặt trận Dân tộc Thống nhất và đã

được công bố như: Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội; Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (sơ thảo), tập 1

(1981), NXB Sự thật, Hà Nội; Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,

thắng lợi và bài học (1996), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội...

Các chuyên khảo về Mặt trận Dân tộc Thống nhất như: Lược sử Mặt trận

dân tộc thống nhất trong cách mạng Việt Nam của Uỷ ban Trung ương Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam (1995), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội; Mặt trận Dân tộc

Thống nhất trong cách mạng Việt Nam của Nguyễn Công Bình (1963), NXB

Khoa học, Hà Nội; Mặt trận Việt Minh của Nguyễn Thành (1991), NXB Sự thật,

Hà Nội… Các công trình này mới đề cập đến vấn đề nghiên cứu ở mức độ khái

quát và chủ yếu là dừng lại ở khía cạnh nghiên cứu làm rõ vai trò của Mặt trận

dân tộc thống nhất ở một số thời kỳ cụ thể trong cách mạng Việt Nam.

Nhiều bài viết của các nhà khoa học đã được đăng tải trên các tạp chí:

Cộng sản; Lịch sử Đảng; Nghiên cứu lịch sử; Lịch sử quân sự; Thông tin khoa

học xã hội nhân văn quân sự như: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Mặt trận

Dân tộc Thống nhất, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân - những kinh nghiệm

lịch sử của Trần Văn Đăng (2001), Thông tin khoa học xã hội nhân văn quân sự

(số 74); Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam - Sáng tạo độc đáo của Hồ Chí Minh

của Khuất Thị Hoa (2000), Tạp chí Lịch sử Đảng (số 7); Một số vấn đề về xây

2

dựng Mặt trận dân tộc thống nhất trong điều kiện hiện nay của Phạm Hồng

Chương (2001), Thông tin khoa học xã hội nhân văn quân sự (số 74)… đã

nghiên cứu về Mặt trận Dân tộc Thống nhất ở những góc độ khác nhau, những

giai đoạn, thời kỳ khác nhau.

Như vậy, cho đến nay tuy đã có những công trình đi sâu nghiên cứu về

Mặt trận Dân tộc Thống nhất, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một

cách hệ thống về vai trò của Mặt trận Dân tộc Thống nhất đối với sự nghiệp

cách mạng Việt Nam từ năm 1941 đến 1975

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục tiêu nghiên cứu:

Góp phần làm rõ vai trò của Mặt trận Dân tộc Thống nhất đối với sự

nghiệp cách mạng Việt Nam; để từ đó nêu lên những đóng góp của Mặt trận vào

tiến trình cách mạng Việt Nam từ năm 1941 đến năm 1975. Qua đó, rút ra một

số kinh nghiệm về xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất trong giai đoạn cách

mạng hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

Đề tài nghiên cứu, trình bày, phân tích, đánh giá vai trò của Mặt trận

Dân tộc Thống nhất đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam từ năm 1941 đến

năm 1975.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu vai trò của Mặt trận

Dân tộc Thống nhất đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong những năm

1941-1975.

- Phạm vi nghiên cứu:

+ Phạm vi không gian: Nhóm tác giả nghiên cứu những đóng góp của

Mặt trận Dân tộc Thống nhất đối với sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam

+ Phạm vi thời gian: Từ khi Mặt trận Việt Minh được thành lập (năm

1941) cho đến khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (năm 1975).

5. Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh,

3

quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, đề tài sử dụng phương

pháp lịch sử, phương pháp lôgíc và các phương pháp liên ngành như: so sánh,

thống kê, phân tích, tổng hợp... để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu.

6. Đóng góp mới của đề tài

- Về mặt lý luận:

+Đề tài góp phần hệ thống hóa tư liệu, làm sáng tỏ hơn vai trò của Mặt

trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam đối với thắng lợi của sự nghiệp cách mạng

giải phóng dân tộc và kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược;

+Nêu lên những thành tựu và chỉ ra một số kinh nghiệm lịch sử từ việc

tập hợp và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận

Dân tộc Thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, giai đoạn 1941-1975.

- Về mặt thực tiễn:

+Kết quả nghiên cứu của Đề tài có thể vận dụng vào xây dựng Mặt trận

Dân tộc Thống nhất Việt Nam trong giai đoạn hiện nay;

+Là tài liệu tham khảo để nghiên cứu các học phần như: Lịch sử Đảng

Cộng sản Việt Nam, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng chính trị,...

4

B. PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT

1.1. Vị trí và vai trò của Mặt trận Dân tộc Thống nhất

1.1.1. Vị trí

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự

nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các

cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người

Việt Nam định cư ở nước ngoài.

1.1.2. Vai trò

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân;

đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp,

phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường

đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà

nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ

chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước

tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt

trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động.

1.2. Mối quan hệ của Mặt trận Dân tộc Thống nhất với các tổ chức

trong hệ thống chính trị

1.2.1. Mối quan hệ giữa Mặt trận với Đảng Cộng sản Việt Nam

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng suốt hơn 90 năm qua, Đảng Cộng sản

Việt Nam luôn kiên trì quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về vai trò quyết

định của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Điều đó gắn liền với sự ra đời của

Mặt trận Dân tộc Thống nhất, nhằm đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng yêu nước

và tiến bộ. Trải qua nhiều thời kỳ, với các hình thức tổ chức có tên gọi khác

nhau, Mặt trận Dân tộc Thống nhất đã đoàn kết toàn dân tộc, tiến hành đấu

tranh, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng qua các giai đoạn lịch sử.

Thành công nổi bật của Đảng trong việc lãnh đạo Mặt trận Dân tộc Thống

5

nhất, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là đã giải quyết một

cách đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp để có thể tập hợp

rộng rãi mọi lực lượng cách mạng và hình thành liên minh chính trị phù hợp với

cơ cấu xã hội, cơ cấu giai cấp và tương quan lực lượng ở nước ta qua các thời kỳ

cách mạng.

Đảng ta luôn coi trọng vị trí của Mặt trận Dân tộc Thống nhất, tăng cường

sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận, đưa phong trào cách mạng phát triển,

vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đi từ thắng

lợi này đến thắng lợi khác. Mặt trận Dân tộc Thống nhất đã phát huy sức mạnh

vĩ đại của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần hoàn thành nhiệm vụ cơ bản

của cách mạng giải phóng dân tộc. Ngày nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp

tục xây dựng và tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp mọi

tầng lớp nhân dân chung ý chí và hành động đưa sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước đến thành công.

Trong bối cảnh hiện nay, càng phải tăng cường củng cố khối đại đoàn kết

toàn dân tộc, “phân biệt rõ ai là bạn, ai là thù”, thực hiện “thêm bầu bạn, bớt kẻ

thù” và phải thực sự coi “mọi người yêu nước và tiến bộ là bạn của ta”. Đây là một

trong những bài học lịch sử mà Đảng ta đã kiểm nghiệm qua thực tiễn và được Chủ

tịch Hồ Chí Minh đúc kết thành luận điểm nổi tiếng: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn

kết; Thành công, thành công, đại thành công”. Từ sự lãnh đạo của Đảng đối với

Mặt trận Dân tộc Thống nhất, có thể thấy một số đặc điểm nổi bật sau:

Thứ nhất, Đảng ta linh hoạt, nhạy bén đề ra khẩu hiệu đấu tranh và thành

lập tổ chức Mặt trận phù hợp với đặc điểm, yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng của

từng giai đoạn. Trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta đề ra những chủ

trương, đường lối, chính sách phù hợp nhằm đoàn kết toàn dân tộc thực hiện

mục tiêu, chương trình hành động thống nhất của tất cả các giai cấp, đảng phái,

dân tộc, tôn giáo. Đảng đã đề ra khẩu hiệu đấu tranh linh hoạt, lựa chọn các hình

thức tổ chức phù hợp với tên gọi của Mặt trận và từng giới, phù hợp với đặc

điểm của từng thời kỳ cách mạng khác nhau, như Hội Phản đế đồng minh (năm

1930), Mặt trận Dân chủ Đông Dương (năm 1938), Mặt trận Thống nhất dân tộc

6

phản đế Đông Dương (năm 1939), Mặt trận Việt Minh (năm 1941), Mặt trận

Liên Việt (năm 1951), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở miền Bắc (năm 1955), Mặt

trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (năm 1960), Liên minh các lực

lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam (năm 1968), Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam trong cả nước (từ năm 1977 đến nay).

Thứ hai, Đảng luôn giữ vững vai trò lãnh đạo trong Mặt trận, kiên trì

nguyên tắc đấu tranh chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ việc tranh

thủ tất cả các lực lượng có thể tranh thủ được; đồng thời, cũng chống khuynh

hướng đoàn kết một chiều, không đấu tranh đúng mức trong nội bộ Mặt trận.

Thực tiễn đã chứng minh rằng, trong đoàn kết dân tộc, chỉ có đấu tranh một cách

có nguyên tắc thì mới giữ vững được vai trò lãnh đạo của Đảng trong Mặt trận

Dân tộc Thống nhất, mới làm cho tính quần chúng rộng rãi của Mặt trận được

phát huy đầy đủ, khắc phục các xu hướng “tả khuynh”, “hữu khuynh” và những

thiếu sót khác; từ đó, giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp; tập

hợp, đoàn kết mọi lực lượng, tầng lớp nhân dân và phân hóa, cô lập các thế lực

thù địch.

Thứ ba, không ngừng củng cố khối liên minh giữa công nhân với nông

dân và trí thức; đồng thời, thu hút các giai cấp khác trong xã hội, thông qua các

hình thức tập hợp quần chúng ngày càng phong phú, đa dạng, phù hợp với đặc

điểm của từng đối tượng. Đó là con đường cơ bản để tăng cường và mở rộng

Mặt trận Dân tộc Thống nhất. Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, điều đó được thể hiện ở quan hệ giữa

công nghiệp và nông nghiệp, thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao

động chân tay; tạo điều kiện cho các giai tầng trong cộng đồng hỗ trợ, giúp đỡ

nhau, phấn đấu vì mục tiêu chung là Tổ quốc độc lập, thống nhất, dân giàu, nước

mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, là mẫu số chung và điểm tương đồng, là

con đường tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và Mặt trận Dân tộc

Thống nhất ngày nay.

Thứ tư, xác định rõ mối quan hệ giữa Đảng với Mặt trận thông qua

phương thức lãnh đạo thích hợp. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ

7

quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã chỉ rõ:

“Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận”.

Thực chất mối quan hệ giữa Đảng với Mặt trận chính là quan hệ giữa Đảng với

đại diện các tầng lớp nhân dân rộng rãi nhất, vì thế Đảng tham gia Mặt trận tức

là hòa mình trong quần chúng nhân dân.

Để tránh cho Đảng không rơi vào nguy cơ quan liêu, xa rời quần chúng,

thì Đảng cần hòa mình trong Mặt trận để, một mặt, đưa đường lối, chủ trương

của Đảng đến với nhân dân; mặt khác, lắng nghe và trao đổi về tâm tư, nguyện

vọng của các tầng lớp nhân dân nhằm hoàn thiện đường lối, chủ trương. Việc

trao đổi thông tin hai chiều trong môi trường hoạt động ở Mặt trận là điều kiện

thuận lợi để gắn bó Đảng, Nhà nước với nhân dân. Mặt trận không chỉ chấp

hành những nghị quyết của Đảng, mà còn tham gia xây dựng chủ trương, đường

lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bàn bạc, trao đổi, thảo luận

dân chủ cho thấu tình, đạt lý để vận động các tầng lớp nhân dân tự giác hưởng

ứng, thực hiện.

Là một thành viên trong Mặt trận, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện sự

lãnh đạo bằng cách phát huy vai trò hạt nhân chính trị, làm cho ảnh hưởng chính

trị của Đảng lan tỏa đến mọi thành viên khác. Thông qua đối thoại dân chủ, bàn

bạc, thống nhất hành động trong Mặt trận, Đảng biến đường lối của mình thành

phong trào hành động của các tầng lớp nhân dân, giành được sự đồng tình, ủng

hộ một cách tự giác của nhân dân, làm cho Mặt trận trở thành nơi Đảng bàn việc

nước với dân. Theo tinh thần ấy, phải thực hiện nền nếp việc Đảng và Nhà nước

cùng bàn bạc và tham khảo ý kiến của Mặt trận về chủ trương, đường lối. Đây là

sự tổng kết có ý nghĩa quan trọng, được rút ra từ thực tiễn hoạt động lãnh đạo

của Đảng trong lịch sử.

Đảng lãnh đạo Mặt trận bằng cách cử cán bộ của Đảng tham gia vào tổ

chức Mặt trận, nhất là bộ máy lãnh đạo Mặt trận. Muốn cho hoạt động Mặt trận

có hiệu quả, để tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân, Mặt trận rất cần

tạo dựng ngọn cờ tiêu biểu, những người có uy tín tham gia lãnh đạo Mặt trận.

Trước đây, trong những thời kỳ cách mạng còn “trứng nước” hoặc những lúc

8

gặp “sóng gió, thác ghềnh”, sở dĩ Mặt trận Dân tộc Thống nhất tập hợp được tất

thảy những người có thể tập hợp, chính là nhờ ảnh hưởng hết sức to lớn của lãnh

tụ Hồ Chí Minh. Người đứng đầu tổ chức Mặt trận phải thực sự là người được

nhân dân tin yêu bởi năng lực và phẩm chất, có tác phong và lối sống mẫu mực,

được nhân dân tin cậy, yêu mến. Những nhân vật tiêu biểu dù không phải là

đảng viên, nhưng nếu được nhân dân tin yêu thì vẫn được Đảng tín nhiệm, là

những người lãnh đạo nòng cốt trong Mặt trận.

1.2.2. Mối quan hệ giữa Mặt trận với Nhà nước

Quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Nhà nước là quan hệ phối

hợp để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi bên theo quy định của Hiến

pháp, pháp luật và quy chế phối hợp công tác do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam và cơ quan nhà nước có liên quan ở từng cấp ban hành.

Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch

Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thông tin kịp thời cho Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam việc thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân về những vấn

đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý của mình theo quy định của Hiến

pháp và pháp luật.

Cơ quan nhà nước có trách nhiệm xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị

của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo quy định của pháp luật.

Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoạt động có

hiệu quả.

1.2.3. Mối quan hệ giữa Mặt trận với Nhân dân

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,

chính đáng của Nhân dân; mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp đoàn

kết Nhân dân; động viên, hỗ trợ Nhân dân thực hiện dân chủ, quyền con người,

quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, thực hiện đường lối, chủ trương của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Nhân dân tham gia tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

thông qua các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cá nhân tiêu

biểu là Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và tham gia các hoạt

9

động do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động, tổ chức.

Thông qua Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành, viên

của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Nhân dân tham gia ý kiến, phản ánh, kiến nghị

với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về những vấn đề Nhân dân quan tâm để phản

ánh, kiến nghị với Đảng, Nhà nước.

Nhân dân giám sát hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để bảo đảm

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm theo quy

định của pháp luật.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thường xuyên đổi mới nội dung và phương

thức hoạt động để thực hiện trách nhiệm của mình với Nhân dân theo quy định

của Hiến pháp và pháp luật.

1.2.4. Mối quan hệ giữa Mặt trận với các tổ chức

Quan hệ giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các tổ chức thành

viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thực hiện theo Điều lệ Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam.

Quan hệ giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tổ chức kinh tế, tổ

chức sự nghiệp, tổ chức không phải là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam là quan hệ tự nguyện, được thực hiện theo quy định của pháp luật nhằm

mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính

đáng của Nhân dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện và mở rộng hoạt động đối ngoại

nhân dân, góp phần tăng cường tình hữu nghị, đoàn kết với các quốc gia, dân

tộc, vì hòa bình, hợp tác và phát triển.

1.3. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Mặt trận Dân

tộc Thống nhất từ năm 1930 đến nay

Kế thừa, phát huy truyền thống yêu nước và đoàn kết của dân tộc ta. Đảng

Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng là sự

nghiệp của quần chúng. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã chủ trương đoàn kết

mọi lực lượng dân tộc và dân chủ trong Mặt trận Dân tộc Thống nhất để cùng

nhau chống kẻ thù chung vì độc lập tự do của Tổ quốc.

10

Giữa lúc cao trào cách mạng đầu tiên do Đảng lãnh đạo mà đỉnh cao là

phong trào Xô viết Nghệ tĩnh đang diễn ra sôi nổi và rầm rộ trong cả nước, ngày

18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông dương ra chỉ thị

về vấn đề thành lập Hội phản đế Đồng minh, hình thức đầu tiên của Mặt trận

Dân tộc Thống nhất Việt nam.

Từ đó tới nay, ở mỗi thời kỳ khác nhau có những hình thức và tên gọi tổ

chức cụ thể khác nhau phù hợp với nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng nhưng

Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt nam nơi tập hợp các giai tầng trong xã hội vì

những mục tiêu lớn của dân tộc luôn tồn tại và phát triển, Đảng Cộng sản Việt

Nam - người chủ xướng việc hình thành Mặt trận Dân tộc thống nhất trong thời

hiện đại - vừa là thành viên tích cực của Mặt trận vừa bằng sự sáng tạo, đúng

dắn trong đường lối, chính sách, sự gương mẫu phấn đấu vì lợi ích chung của

dân tộc đã được các thành viên của Mặt trận thừa nhận vai trò lãnh đạo.

Hiện nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là hình thức tổ chức của Mặt trận

Dân tộc Thống nhất Việt nam với mục tiêu tập hợp và phát huy sức mạnh của

khối Đại đoàn kết toàn dân phấn đấu cho một nước Việt Nam độc lập, tự do,

hạnh phúc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.

1.3.1. Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền cách mạng (1930 – 1945)

1.3.1.1. Hội Phản đế Đồng minh (11/1930-3/1935)

Ngày 18/11/1930 Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản

Đông Dương ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế Đồng minh. Đây là hình thức đầu

tiên của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ

khi thành lập đến tháng 3/1935, Hội Phản đế Đồng minh đã có nhiều đóng góp

quan trọng cho cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.

1.3.1.2. Hội Phản đế Liên minh (3/1935-10/1936)

Tháng 3 năm 1935, Đại hội Đảng lần thứ nhất của Đảng thông qua Nghị

quyết về công tác Phản đế Liên minh. Nghị quyết xác định các nhiệm vụ cần

thiết trước mắt: lập tức tổ chức ra các Hội Phản đế Liên minh, đảng viên phải

vào Hội, mở rộng tổ chức Hội tới cấp toàn Đông Dương, lôi kéo rộng rãi các tổ

chức, cá nhân có tính chất phản đế phải liên kết cuộc vận động Phản đế Liên

11

minh vốn có những khẩu hiệu chung tuyên truyền lớn lao với các cuộc đấu tranh

đòi quyền lợi hàng ngày. Phải ra báo và tài liệu riêng cho Phản đế Liên minh;

cần sửa đổi những sai sót về tôn chỉ, điều lệ, các hình thức tổ chức Phản đế Liên

minh của các đảng bộ.

1.3.1.3. Mặt trận Thống nhất Nhân dân Phản đế Đông Dương (10/1936-

3/1938)

Những năm 1936-1939, tình hình thế giới diễn biến mau lẹ, phức tạp. Chủ

nghĩa phát xít xuất hiện, nguy cơ chiến tranh thế giới đang đến gần. Sau khi dự

Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 7 trở về, Đoàn đại biểu Đảng ta cùng với Ban

Chấp hành Trung ương họp Hội nghị (tháng 11/1936) xác định mục tiêu chủ yếu

và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam lúc này là đấu tranh chống chế

độ phản động thuộc địa, chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do,

dân chủ, cơm áo và hòa bình. Đảng quyết định tạm thời chưa nêu khẩu hiệu

“đánh đổ đế quốc Pháp và giai cấp địa chủ giành độc lập dân tộc và ruộng đất

cho dân cày” đồng thời chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất Nhân dân

Phản đế Đông Dương tập hợp các lực lượng toàn Đông Dương vào cuộc đấu

tranh chống đế quốc.

1.3.1.4. Mặt trận Dân chủ Đông Dương (3/1938-11/1939)

Để phù hợp với tình hình thực tế và yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, Hội

nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 3/1938 quyết định đổi tên

thành Mặt trận Thống nhất Dân chủ Đông Dương, gọi tắt là Mặt trận Dân chủ

Đông Dương. Nhờ có chính sách Mặt trận đúng đắn, có phương pháp vận động

khôn khéo, phương pháp đấu tranh linh hoạt nên Mặt trận đã tập hợp, đoàn kết

rộng rãi các giai tầng xã hội như công nhân, nông dân, tiểu thương, tiểu chủ tư

sản nhỏ, đồng thời còn bắt tay với các đảng phái cải lương, kể cả những người

Pháp tiến bộ ở Đông Dương nhằm chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh,

đòi tự do, cơm áo, hòa bình.

1.3.1.5. Mặt trận Dân tộc Thống nhất Phản đế (11/1939-5/1941)

Tháng 9 năm 1939,chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, Mặt trận Dân

chủ Đông dương bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp. Cùng với sự đầu hàng thoả

12

hiệp của thực dân Pháp với phát xít Nhật, vấn đề sống còn của các dân tộc Đông

Dương đã đặt ra. Tháng 11/1939 Đảng Cộng sản Đông Dương đã kịp thời

chuyển hướng chỉ đạo, chuyển cuộc vận động Mặt trận Dân chủ thành Mặt trận

Dân tộc thống nhất chống chiến tranh đế quốc với tên gọi chính thức: Mặt trận

Dân tộc thống nhất phản đế Đông dương nhằm liên hiệp tất cả các dân tộc Đông

Dương, các giai tầng, đảng phái, cá nhân có tinh thần phản đế muốn giải phóng

dân tộc chống đế quốc, bè lũ tay sai của chúng và vua chúa bản xứ phản bội

quyền lợi dân tộc. Các tổ chức phản đế phát triển nhanh chóng dưới hình thức bí

mật và công khai.

1.3.1.6. Mặt trận Việt Minh (thành lập từ tháng 5/1941)

Nhận thấy sự chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước có lợi cho

cách mạng Việt Nam, ngày 28/01/1941 Nguyễn Ái Quốc về nước (sau hơn 30

năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài). Tháng 5/1941 Người triệu tập Hội nghị

Trung ương Đảng lần thứ tám. Hội nghị nhận định: Cách mạng Việt Nam là

cách mạng dân tộc giải phóng, trước mắt tạm gác khẩu hiệu “cách mạng thổ địa”

để lôi kéo địa chủ tiến bộ, mở rộng Mặt trận Dân tộc Thống nhất chống Pháp,

Nhật nhằm giải quyết nhiệm vụ sống còn của dân tộc lúc này là giải phóng dân

tộc. Để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc theo đề nghị của đồng chí

Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập

Đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh bao gồm các hội cứu quốc của các

tầng lớp Nhân dân.

Tháng 10/1941,Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ.

Đây là lần đầu tiên một Mặt trận Dân tộc Thống nhất trình bày công khai đường

lối, chính sách, phương pháp tiến hành và tổ chức lực lượng đấu tranh để thực

hiện mục đích cứu nước của mình. Ngày 07/5/1944, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ

thị về sửa soạn khởi nghĩa. Tháng 10/1944 Bác Hồ có thư kêu gọi đồng bào ra

sức chuẩn bị để họp toàn quốc Đại hội, đại biểu cho tất cả các đảng phái cách

mệnh và các đoàn thể trong nước để bầu cử ra “Một cơ cấu đủ lực lượng và uy

tín, trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với

các hữu bang”.

13

Ngày 22/12/1944 Bác Hồ ra chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền

Giải phóng quân. Ngày 09/3/1945 Nhật lật đổ Pháp, độc chiếm Đông Dương.

Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động

của chúng ta”. Thực hiện Chỉ thị đó, một cao trào cách mạng đã xuất hiện ở

nhiều nơi; khu giải phóng Việt Bắc gồm 6 tỉnh được thành lập. Tình hình

chuyển biến mau lẹ, phát xít Đức đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh.

Đồng chí Nguyễn Ái Quốc kêu gọi đồng bào dũng cảm tiến lên dưới ngọn cờ

của Việt Minh hãy “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Đại hội Quốc dân do

Tổng bộ Việt Minh triệu tập họp ở Tân Trào trong 2 (ngày 16 -17/8/1945) đã

nhiệt liệt tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa do Đảng Cộng sản kiến nghị,

thông qua Lệnh khởi nghĩa và 10 chính sách lớn của Việt Minh, quyết định

Quốc kỳ, Quốc ca. “Đại hội đã cử ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam, sau

này trở thành Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” do

Lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chỉ trong vòng 2 tuần lễ chính quyền địch

hoàn toàn sụp đổ, Ủy ban Nhân dân lâm thời được thành lập khắp các địa

phương trong cả nước. Ngày 02/9/1945 tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc

Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ( nay là nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).

1.3.2. Thời kỳ bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng tháng Tám, tiến

hành kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1946 - 1975)

1.3.2.1. Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam gọi tắt là Hội Liên Việt

(29/5/1946) tăng cường đoàn kết toàn dân góp phần bảo vệ và giữ vững chính

quyền cách mạng

Năm 1946, giữa lúc nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vừa ra đời phải

đương đầu với nhiều khó khăn lớn, một Ban vận động thành lập Hội Liên hiệp

quốc dân Việt Nam gồm 27 người với đại biểu Việt Minh là Hồ Chí Minh, được

thành lập nhằm mở rộng hơn nữa khối đoàn kết dân tộc.

Việt Minh và Liên Việt đã cùng nhau làm chỗ dựa vững chắc cho chính

quyền cách mạng non trẻ đối phó có hiệu lực với thù trong giặc ngoài.

14

1.3.2.2. Mặt trận Thống nhất Việt Minh - Liên Việt (gọi tắt là Mặt trận

Liên Việt thành lập ngày 3/3/1951) đóng góp to lớn đưa cuộc kháng chiến chống

Pháp đến thắng lợi hoàn toàn

Để đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng và sự phát triển của

Mặt trận Dân tộc Thống nhất, Bác Hồ và Trung ương Đảng chủ trương vận động

thành lập Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Hội Liên Việt). Sau một thời gian

chuẩn bị, ngày 29/5/1946 Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam tuyên bố thành lập.

Cương lĩnh của Hội chỉ rõ: “Mục đích đoàn kết tất cả các đảng phái yêu nước và

đồng bào yêu nước vô đảng phái, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, xu hướng

chính trị, chủng tộc để làm cho nước Việt Nam độc lập – thống nhất – dân chủ –

phú cường”. Việc thành lập Hội Liên Việt là bước phát triển mới của Mặt trận

Dân tộc Thống nhất.

Thực hiện Lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí

Minh, Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt đã ra sức tuyên truyền, vận động

Nhân dân tham gia kháng chiến. Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt ngày càng

sát cánh bên nhau, đẩy mạnh mọi hoạt động, xây dựng tổ chức, phát triển lực

lượng nhằm mục tiêu chung là kháng chiến thắng lợi, giành độc lập dân tộc.

Việc thống nhất Việt Minh và Liên Việt trở thành yêu cầu khách quan của kháng

chiến và sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta nhằm củng cố và tăng cường

khối đại đoàn kết toàn dân.

Ngày 03/3/1951, Đại hội toàn quốc Mặt trận Thống nhất Việt Minh – Liên

Việt lấy tên là Mặt trận Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Mặt trận Liên

Việt) được tiến hành. Đại hội lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Đương

(5/1951), tuyên bố ra công khai với tên gọi là Đảng Lao động Việt Nam có sứ

mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam và lãnh đạo Mặt trận Dân tộc Thống nhất.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Liên Việt đã

thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ: Tăng cường đại đoàn kết toàn dân, vận động

các giới đồng bào chấp hành tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước, đập tan

mọi hoạt động tàn bạo và âm mưu thâm độc của kẻ thù, vận động Nhân dân thực

hiện giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất nhằm động viên khí thế cách mạng

15

của nông dân, tăng cường liên minh công nông, góp phần củng cố Mặt trận Dân

tộc Thống nhất.

Quá trình kháng chiến toàn dân, toàn diện làm cho Mặt trận Dân tộc

Thống nhất không ngừng lớn mạnh, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tạo

nên sức mạnh vật chất và tinh thần, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp

xâm lược đến thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, làm cơ sở cho cuộc đấu

tranh giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước. Qua 9 năm kháng

chiến, Mặt trận Liên Việt trở thành “… Một trong những trụ cột của Nhà nước

dân chủ nhân dân, là sức mạnh vô biên của cuộc kháng chiến, kiến quốc; là cơ

sở quần chúng rộng rãi làm thành một áo giáp vững bền của Đảng để đánh

thắng bọn xâm lược và tay sai của chúng”.

1.3.2.3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền

Nam Việt Nam cùng với Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình

Việt Nam thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng

Ngày 10/9/1955, Đại hội Mặt trận Dân tộc Thống nhất họp tại Hà Nội đã

quyết định thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và thông qua Cương lĩnh nhằm

đoàn kết mọi lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình trong cả nước để đấu tranh

chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ra sức vận

động các tầng lớp Nhân dân thi đua yêu nước, tham gia khôi phục kinh tế và

phát triển văn hóa, hàn gắn vết thương chiến tranh, cải tạo và xây dựng miền

Bắc xã hội chủ nghĩa thực sự là cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất

nước nhà.

Để Mặt trận không ngừng phát huy vai trò, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí

Minh thường xuyên quan tâm theo dõi và chỉ đạo công tác Mặt trận. Tại lớp

huấn luyện cán bộ Mặt trận (8/1962), Người chỉ rõ: “Chính sách Mặt trận là

một chính sách rất quan trọng. Công tác Mặt trận là công tác rất quan trọng

trong toàn bộ công tác cách mạng”. Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ III

năm 1960 của Đảng nêu rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đoàn kết các giai

cấp, các đảng phái, các dân tộc, các tôn giáo, các nhân sĩ yêu nước và tán thành

chủ nghĩa xã hội, nhờ đó đã động viên mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ của

16

dân tộc để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống

nhất nước nhà”.

Từ cao trào đấu tranh của Nhân dân miền Nam chống đế quốc Mỹ xâm

lược và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc

giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời với bản Tuyên ngôn và Chương trình

hành động 10 điểm, nội dung cơ bản là đoàn kết rộng rãi các tầng lớp Nhân dân

với mục tiêu đấu tranh “Phải hòa bình! Phải độc lập! Phải dân chủ! Phải cơm no,

áo ấm! Phải hòa bình, thống nhất Tổ quốc!” nhằm đánh đổ chế độ độc tài tay sai

của đế quốc Mỹ. Trong quá trình hoạt động, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền

Nam Việt Nam đã kịp thời đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm không

ngừng mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân. Đại hội lần thứ I (3/1962) quyết định

nhiều chính sách lớn về đối nội, đối ngoại như: vấn đề hòa bình, trung lập, dân

tộc, ruộng đất, trí thức, tư sản, tôn giáo, ngoại kiều và chính sách đối với binh

lính và ngụy quyền miền Nam… tạo điều kiện đoàn kết rộng rãi nhất, sẵn sàng

bắt tay với những ai tán thành chống Mỹ, cứu nước và thống nhất đất nước.

Ngày 20/4/1968, trong khí thế của Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân

1968, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam ra đời với

bản Cương lĩnh thích hợp nhằm đoàn kết, tranh thủ thêm tầng lớp trí thức, tư sản

dân tộc tiến bộ ở thành thị nhưng chưa tham gia Mặt trận Dân tộc giải phóng

miền Nam Việt Nam. Ngày 06/6/1969, Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam

Việt Nam đã bầu ra Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt

Nam và Hội đồng Cố vấn.

Từ khi ra đời, Mặt trận đã làm một phần chức năng của chính quyền dân chủ

Nhân dân. Sau khi có Chính phủ Cách mạng lâm thời, Mặt trận giữ vai trò trụ cột

và làm hậu thuẫn cho chính quyền cách mạng, không ngừng đẩy mạnh hoạt động

trên cả ba mặt quân sự, chính trị và ngoại giao, tiến tới cuộc Tổng tiến công và nổi

dậy mùa xuân 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

1.3.3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Từ ngày 31/01 đến 04/2/1977 tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đại hội Mặt

trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam quyết định hợp nhất 3 tổ chức: Mặt trận Tổ

17

quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh

các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, lấy tên chung là Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam. Đại hội đã thông qua chương trình chính trị và điều lệ mới

nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp Nhân dân, tăng cường sự nhất trí về chính

trị và tinh thần trong Nhân dân, phát huy nhiệt tình cách mạng và tinh thần làm

chủ, động viên nhân dân hăng hái tham gia xây dựng và củng cố chính quyền,

xây dựng Hiến pháp chung của cả nước; tổ chức bầu cử Quốc hội và Hội đồng

Nhân dân các cấp, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,

hàn gắn vết thương chiến tranh, khắc phục thiên tai, phát triển kinh tế…

Ngày 18/4/1983, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá V) ra Chỉ thị số 17

về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam trong giai đoạn mới” chỉ rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một tổ chức

chính trị – xã hội rộng lớn nhất, vừa có tính chất liên hiệp rộng rãi, vừa có tính

quần chúng sâu sắc. Mặt trận đại diện cho quyền làm chủ của Nhân dân lao

động, là sợi dây nối liền các tầng lớp xã hội rộng rãi với Đảng, là chỗ dựa vững

chắc của Nhà nước”.

- Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ II (từ 12 đến 14/5/1983)

thông qua Chương trình hành động và ra lời kêu gọi đồng bào chiến sĩ cả nước

đoàn kết phấn đấu khắc phục khó khăn, vượt qua thử thách, góp sức cùng với

Đảng và Nhà nước tìm ra những giải pháp có hiệu quả để đưa đất nước tiến lên.

- Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ III (họp từ ngày 2 đến ngày

4/11/1988) là Đại hội thực hiện công cuộc đổi mới do Đại hội VI (1986) của

Đảng đề ra, là “sự biểu dương lực lượng to lớn của toàn dân, đoàn kết một lòng

tiến hành công cuộc đổi mới”. Phương hướng tăng cường và đổi mới công tác

Mặt trận được Đại hội nêu ra là:

+Mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân; mở rộng Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam về hoạt động và tổ chức nhằm tập hợp mọi lực lượng, mọi khả năng, phấn

đấu vì sự phồn vinh của đất nước, vì hạnh phúc của Nhân dân.

+Hướng hoạt động của Ủy ban Mặt trận các cấp đi vào thực hiện một cách

thiết thực các nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của đất nước, địa phương và đời

18

sống của Nhân dân; tập trung vào việc vận động Nhân dân tham gia xây dựng

nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng chính quyền Nhân dân và thực hiện các

mục tiêu kinh tế - xã hội.

+ Phát huy tinh thần chủ động sáng tạo, tự lực vươn lên; ra sức khai thác

mọi tiềm năng và các điều kiện thuận lợi, khắc phục khó khăn, tự đổi mới và

góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới chung của đất nước.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

đã khẳng định “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò rất quan trọng trong sự

nghiệp đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” và xác định: “Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị của các đoàn thể Nhân dân và của

cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn

giáo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam

vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt trận”.

Sau Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng, Nhà nước đã đẩy mạnh việc

thể chế hóa vai trò, vị trí trách nhiệm của Mặt trận trên một số lĩnh vực hoạt

động. Ngày 17/11/1993, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ra

Nghị quyết 07-NQ/TW về “Đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân

tộc Thống nhất”, đề ra 4 chủ trương lớn, đồng thời là 4 quan điểm cơ bản chỉ

đạo quá trình tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc và tiếp tục đổi

mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Đại hội lần thứ IV Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (họp từ ngày 17 đến

19/8/1994) đã đề ra phương hướng tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt

động của Mặt trận nhằm làm tốt hơn nữa chức năng đoàn kết dân tộc, tập hợp

mọi lực lượng tán thành sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu độc lập dân tộc, chủ

quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu,

tiến lên dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Thực hiện các nghị

quyết Đại hội VIII, Đại hội IX của Đảng và chương trình Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam “Đại đoàn kết dân tộc xây dựng và bảo vệ đất nước”; kỳ họp thứ 5 Quốc

hội khoá X năm 1999 đã thông qua Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tạo cơ sở

pháp lý quan trọng để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoạt động có hiệu quả, mở

19

rộng về tổ chức và hoạt động, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân,

phát huy vị trí, vai trò của Mặt trận trong đời sống chính trị – xã hội. Hội nghị

lần thứ 2 Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (khóa IV) đã quyết

định mở Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân

cư”. Ngày 03/5/1995 Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam ra Thông tri 04 hướng dẫn thực hiện Cuộc vận động “Toàn dân đoàn

kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” (nay là Cuộc vận động “Toàn dân

đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”).

- Đại hội đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ V (họp từ ngày 26

đến 28/8/1999) đánh dấu cột mốc quan trọng trong việc thực hiện chính sách đại

đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc Thống nhất trong thời kỳ phát

triển mới của đất nước, là Đại hội phát huy tinh thần yêu nước, sức mạnh đại đoàn

kết toàn dân tộc, tăng cường Mặt trận Dân tộc Thống nhất, đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tháng 10 năm 2000, Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam phát động cuộc vận động “Ngày vì người nghèo” trong phạm vi toàn

quốc, thể hiện chủ trương phù hợp với lòng dân, ý Đảng, mang ý nghĩa chính trị,

xã hội và nhân văn sâu sắc.

- Đại hội đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VI (họp từ ngày

21/9 đến 23/9/2004) là Đại hội “Phát huy sức mạnh Đại đoàn kết toàn dân tộc,

nâng cao vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng,

dân chủ, văn minh”.

Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Mặt trận Tổ

quốc và các đoàn thể Nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, vận

động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp Nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp

pháp, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân; đưa chủ trương, chính sách của

Đảng, Nhà nước, chương trình kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh

thành hiện thực cuộc sống. Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam và các đoàn thể Nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội.

20

- Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VII được

tổ chức trong các ngày 28, 29 và 30/9/2009 tại Thủ đô Hà Nội. Chủ đề của Đại

hội là "Nâng cao vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phát huy dân chủ, tăng

cường đồng thuận xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu,

nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".

Đại hội đã đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và chương trình hành

động nhiệm kỳ 2009-2014 và chính thức phát động phong trào thi đua yêu nước

trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân lập thành tích chào mừng kỷ niệm 1.000

năm Thăng Long - Hà Nội, 80 năm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất

Việt Nam và các ngày lễ lớn của đất nước. Đại hội đã ra lời kêu gọi các tầng lớp

Nhân dân ở trong nước và ở nước ngoài đoàn kết, đồng tâm hiệp lực cùng toàn

Đảng, toàn quân và toàn dân phát huy cao độ lòng yêu nước, ý chí tự lực tự

cường, đồng lòng chung sức thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện

đại hoá đất nước vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,

văn minh".

Trong nhiệm kỳ Đại hội, ngày 12/12/2013, Bộ Chính trị đã ban hành

Quyết định 217-QĐ/TW về việc ban hành “Quy chế giám sát và phản biện xã

hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội” và Quyết

định 218-QĐ/TW về việc ban hành “Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và Nhân dân tham gia góp ý xây dựng

Đảng, xây dựng chính quyền”. Sau khi các Quyết định nêu trên được ban hành,

Đoàn Chủ tịch, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã ban

hành, phối hợp và đề xuất với các cơ quan chức năng ban hành nhiều văn bản

quán triệt, triển khai thực hiện giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng,

xây dựng chính quyền trong hệ thống MTTQ Việt Nam, như: Thông tri số

28/TTr-MTTW-BTT ngày 17/4/2014 hướng dẫn thực hiện một số điều Quyết

định số 217, Quyết định số 218; Kế hoạch số 471/KH-MTTW-BTT ngày

17/4/2014 về triển khai thực hiện Quyết định số 217, Quyết định số 218 trong hệ

thống MTTQ Việt Nam. Đến nay, các hoạt động giám sát, phản biện xã hội và

tham gia góp ý xây dựng Đảng, chính quyền của MTTQ Việt Nam từng bước đi

21

vào nề nếp. MTTQ Việt Nam các cấp đã tích cực bám sát chương trình, kế

hoạch của cấp ủy, chính quyền các cấp và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,

xây dựng Đảng, chính quyền của địa phương, những vấn đề xã hội và nhân dân

quan tâm, bức xúc để giám sát, phản biện xã hội hàng năm. Góp ý thường

xuyên, định kỳ, đột xuất được quan tâm hơn; gắn giám sát, phản biện xã hội với

nhiệm vụ lắng nghe ý kiến Nhân dân, vận động nhân dân thực hiện chính sách,

pháp luật, các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động.

- Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VIII (họp

từ ngày 25/9 đến 27/9/2014) được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội, với chủ đề “Đoàn

kết - Dân chủ - Đổi mới - Phát triển”. Đại hội đã đánh giá kết quả thực hiện

Nghị quyết Đại hội và Chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

lần thứ VII (2009 - 2014); rút ra những bài học kinh nghiệm, nhận định, đánh

giá cụ thể, toàn diện về tình hình khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đề ra mục tiêu,

phương hướng nhiệm vụ và Chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam nhiệm kỳ VIII (2014 - 2019). Với tinh thần “Đoàn kết - Dân chủ - Đổi

mới”, Đại hội đại biểu toàn quốc MTTQ Việt Nam lần thứ VIII thiết tha kêu gọi

toàn thể đồng bào Việt Nam ta ở trong nước và nước ngoài tích cực hưởng ứng

thực hiện 5 chương trình hành động của MTTQ Việt Nam, phát huy sức mạnh

đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng Đảng và Nhà nước tận dụng thời cơ, vượt qua

thách thức, quyết tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước, xây dựng nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, toàn vẹn

lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và hạnh phúc.

- Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ IX, nhiệm

kỳ 2019 - 2024 từ ngày 18 đến ngày 20/9/2019 tại Thủ đô Hà Nội, với chủ đề:

“Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao chất lượng, hiệu quả

hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ,

công bằng, văn minh”. Chương trình hành động Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ IX, nhiệm kỳ 2019 - 2024 là: Tiếp tục đổi mới

mạnh mẽ nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;

tăng cường củng cố liên minh chính trị, xây dựng và củng cố vững chắc khối đại

22

đoàn kết toàn dân tộc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng

của Nhân dân; thực hiện dân chủ, giám sát và phản biện xã hội, đấu tranh phòng,

chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm, tham gia xây dựng Đảng,

chính quyền trong sạch, vững mạnh; tăng cường đồng thuận xã hội, thúc đẩy

tinh thần thi đua sáng tạo, phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, giữ vững hòa bình, bảo vệ vững

chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ,

công bằng, văn minh.

Tiểu kết chương 1

Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, ngày nay là Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam và các đoàn thể thành viên có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn

kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là củng cố, tăng cường khối đại

đoàn kết toàn dân, tạo nên sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, thắt

chặt mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam đã ra

sức hoạt động, khơi dậy tinh thần yêu nước, phát huy sức mạnh vĩ đại của khối

đại đoàn kết dân tộc, kết hợp với sức mạnh của thời đại, góp sức đưa con thuyền

cách mạng Việt nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

23

CHƯƠNG 2

NHỮNG TỔ CHỨC TRONG MẶT TRẬN DÂN TỘC

THỐNG NHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP

CÁCH MẠNG VIỆT NAM (1941 -1975)

2.1. Những tổ chức thành viên trong Mặt trận Dân tộc Thống nhất từ

năm 1941 đến năm 1975

2.1.1. Những tổ chức thành viên của Mặt trận thời kỳ 1941-1945

Sau một thời gian nắm tình hình và chuẩn bị, Nguyễn Ái Quốc đã triệu

tập và chủ trì Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản

Đông Dương từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5 năm 1941 trong rừng Khuổi Nậm,

thuộc Pác Bó, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Hội nghị đã xác định cuộc cách

mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải

phóng và chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất riêng cho mỗi nước

Việt Nam, Lào, Campuchia. Ngoài ra, hội nghị cũng hoàn chỉnh hướng chỉ đạo

chiến lược cách mạng, được đề ra từ Hội nghị VI vào tháng 11 năm 1939, là nêu

cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Theo đề nghị của Nguyễn Ái

Quốc, vào ngày 19 tháng 5 năm 1941, Hội nghị quyết định thành lập Việt Nam

Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh, thay cho Mặt trận Thống nhất Dân tộc

Phản đế Đông Dương (thành lập theo Quyết nghị của Hội nghị Trung ương VI -

khóa I, tháng 11 năm 1939).

Sau Hội nghị Trung ương lần thứ VIII bế mạc, một đại hội (ngày 19-5-

1941) gồm đại diện đảng Cộng sản và các tổ chức quần chúng thành lập chính

thức Việt Minh.[3]

Ngoài Đảng Cộng sản, trong thời gian đầu có các tổ chức tham gia lần

lượt gồm Đảng Cách mệnh An Nam, Việt Nam Quốc dân Cách mệnh Đảng,

Đảng Quốc gia Cách mệnh An Nam, Phục quốc Hội, Việt Nam Độc lập Vận

động Đồng minh Hội, Đảng Đại Việt Quốc xã, Đảng Hưng Việt, Đảng Đại Việt,

Việt Cách… Sau khi Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng

hòa tan rã, một số đảng phái tiếp tục hợp tác với Việt Minh, một số khác thì tách

khỏi Việt Minh và ủng hộ Bảo Đại thành lập Quốc gia Việt Nam chống lại Việt

24

Minh còn Việt Minh gọi các đảng phái này là Việt gian, phản động.

Ngoài những đoàn thể cứu quốc có tính chất chính trị, cách mạng rõ rệt

(như Hội Công nhân Cứu quốc, Hội Nông dân Cứu quốc, Hội Phụ nữ Cứu quốc,

Hội Thanh niên Cứu quốc,...) còn có những đoàn thể không có điều lệ, hoạt động

công khai và bán công khai như Hội Cứu tế Thất nghiệp, Hội Tương tế, Hội Hiếu

hỉ, nhóm học Quốc ngữ, nhóm đọc sách, xem báo,... tham gia Việt Minh.

Việt Minh không chỉ có tổ chức thành viên là Đảng Cộng sản Đông

Dương và các đoàn thể cứu quốc mà còn có các đảng phái cách mạng theo

đường lối khác. Năm 1941 Đại hội thành lập Việt Minh thiết lập liên minh

chống phát xít của người Việt ngoài Đảng Cộng sản Đông Dương, có Tân Việt

Nam đảng (Tân Việt đảng), Hội Thanh niên cách mạng Việt Nam, một phần

Việt Nam Quốc dân Đảng, một số hội giải phóng dân tộc... góp phần vào việc

nâng cao uy tín Mặt trận. Một trong những biểu hiện rõ nét là vào năm 1943,

Đảng đưa ra "Đề cương Văn hóa Việt Nam", tập hợp đông đảo những nhà văn

hóa, văn nghệ, trí thức. Trên cơ sở đó, cuối năm 1944, Hội văn hóa cứu quốc

Việt Nam ra đời, trở thành một thành viên của Mặt trận Việt Minh. Tháng 6 năm

1944, Đảng Cộng sản Đông Dương giúp cho một số trí thức thành lập Đảng Dân

chủ Việt Nam. Đảng Dân chủ Việt Nam gia nhập Việt Minh.

Đảng Cộng sản Đông Dương còn mở rộng Mặt trận Việt Minh trong việc

liên lạc với một số người cộng sản và cánh tả thuộc Đảng Xã hội Pháp trong

quân đội Lê dương và giới công chức Pháp ở Việt Nam. Nhưng do quan điểm

khác nhau nên kế hoạch lập Hội của Đảng thất bại. Đảng còn tranh thủ sự giúp

đỡ của các lực lượng chống Nhật ở Trung Quốc, vận động thành lập Mặt trận

Trung-Việt liên minh, đặt quan hệ hợp tác với Việt Nam Cách mệnh Đồng minh

Hội (và một thời gian nhập vào tổ chức này trên danh nghĩa) - một tổ chức chính

trị của người Việt Nam ở Trung Quốc để tranh thủ đoàn kết rộng rãi với những

người Việt yêu nước hoạt động ở Trung Quốc. Ở Nam Kì, các cán bộ Đảng

trong khi tập hợp lực lượng đã vận động được nhiều đảng phái khác tham gia

Việt Minh. Kì bộ Việt Minh Nam Kì bao gồm Đảng Cộng sản Đông Dương,

Tân Dân chủ, Tổng Công đoàn, Thanh niên Tiền phong, Việt Nam Quốc gia,

25

Cao Đài hợp nhất, Việt Nam Cứu quốc Đoàn (Kì bộ cũ của Việt Minh), Quốc

gia Độc lập, Công giáo, Thanh niên Nghĩa dũng Đoàn.

2.1.2. Những tổ chức thành viên của Mặt trận thời kỳ 1945-1975

2.1.2.1. Giai đoạn Kháng chiến Chống Pháp (1946-1954)

Khi quân Pháp tái chiếm Đông Dương, lực lượng Việt Minh là thành phần

nòng cốt của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, huy động dân chúng

kháng chiến chống Pháp. Trên thực tế, các đảng viên Cộng sản đều hoạt động

dưới danh nghĩa cán bộ Việt Minh do Đảng Cộng sản Đông Dương đã tuyên bố

tự giải tán. Do đó, nhằm mở rộng hơn nữa khối đoàn kết dân tộc, các lãnh đạo

Cộng sản đã hình thành một Ban vận động thành lập Hội Liên hiệp Quốc dân

Việt Nam, gọi tắt là Hội Liên Việt, gồm 27 người, với đại biểu Việt Minh là Hồ

Chí Minh, chính thức ra mắt ngày 29/5/1946.[4]

Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam gồm các thành viên sau:

- Việt Minh

- Hội nghiên cứu chủ nghĩa Marx-Lenin (thành lập tháng 11/1945)

- Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (thành lập tháng 20/7/1946)

- Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (thành lập ngày 20/10/1945)

- Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam (thành lập năm 1946)

- Đảng Dân chủ Việt Nam (thành lập năm 1944),

- Đảng Xã hội Việt Nam (được thành lập vào tháng 7 năm 1946)

- Việt Nam Quốc dân Đảng

- Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội

Hai tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Cách mệnh Đồng minh

Hội chỉ tham gia vài tháng, sau chỉ một số thành phần tham gia. Lúc này Đảng

Cộng sản Đông Dương đã "giải thể" vào hoạt động bí mật, công khai trong hàng

ngũ những người Việt Minh hoặc Hội nghiên cứu chủ nghĩa Marx.

Năm 1951, Đảng Lao động Việt Nam ra công khai. Mặt trận Việt Minh và

Hội Liên Việt được hợp nhất thành Mặt trận Liên Việt ngày 3/3/1951.

2.1.2.2. Giai đoạn Kháng chiến Chống Mỹ (1954-1975)

Sau năm 1954, Việt Nam bị chia thành hai miền Nam Bắc với hai chính

26

thể khác nhau. Mục tiêu của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại miền

Bắc là tiến tới hòa hợp thống nhất đất nước. Đảng Lao động Việt Nam quyết

định chủ trương thành lập một tổ chức chính trị mới là Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam (gồm Đảng Lao động, Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội,...) thay thế Mặt trận

Liên Việt, tham gia cuộc tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Sau đó nhiệm vụ

của Mặt trận là huy động lực lượng toàn dân tiến hành cách mạng xã hội chủ

nghĩa ở miền Bắc và hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam.

Ngày 10/9/1955, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời với mục đích "đoàn

kết mọi lực lượng dân tộc và dân chủ, đấu tranh đánh bại đế quốc Mỹ xâm lược

và tay sai, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình thống nhất, độc lập, dân chủ

và giàu mạnh".

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã động viên đồng bào và chiến sĩ chống

chiến tranh phá hoại Mỹ và ủng hộ cuộc cách mạng tại miền Nam. Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam cũng tích cực tham gia cải tạo Xã hội chủ nghĩa đối với nông

nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và giúp đỡ các nhà tư sản dân tộc

thông suốt chính sách làm cho cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh

tiến hành thuận lợi, đạt kết quả. Mặt trận cũng thực hiện việc động viên nhân dân

tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, xây dựng chính quyền,

phát triển sản xuất, xây dựng kinh tế, cải tạo văn hóa - tư tưởng tại miền Bắc.

Tại miền Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam được

thành lập ngày 20/12/1960, để chống lại Quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng

hòa. Các lãnh đạo chủ chốt là Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Phùng Văn

Cung, Võ Chí Công. Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam được sự hỗ trợ

mạnh mẽ từ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Các tổ chức thành viên của Mặt trận

gồm có: Hội Liên hiệp Sinh viên Học sinh Giải phóng: Chủ tịch Trần Bạch

Đằng, Phó Chủ tịch Lê Văn Thanh, thành lập 24/4/1961; Hội Liên hiệp Thanh

niên Học sinh: Chủ tịch Trần Bửu Kiếm, thành lập 9/1/1961; Đảng Dân chủ

Miền Nam Việt Nam: Chủ tịch Trần Bửu Kiếm, Tổng thư ký Huỳnh Tấn Phát,

Phó Tổng thư ký Ung Ngọc Kỳ, thành lập 31/1/1961; Đảng Xã hội Cấp tiến

Miền Nam Việt Nam: Tổng thư ký Nguyễn Văn Hiếu, sau là Nguyễn Văn Tiến,

27

Phó Tổng thư ký Nguyễn Ngọc Thương, ủy viên Trung ương Lê Văn Thà, thành

lập 1/7/1961; Thông tấn xã Giải phóng; Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam;

Hội Phụ nữ Giải phóng: Chủ tịch Nguyễn Thị Tú (về sau là Nguyễn Thị Định),

thành lập 8/3/1961; Ủy ban Tự trị Dân tộc Tây Nguyên (sau là Phong trào Các

Dân tộc Tự Trị Tây Nguyên): Chủ tịch Y Bih Aleo, thành lập 19/5/1961; Hội

Những người Công giáo kính Chúa yêu nước: Chủ tịch Joseph Marie Hồ Huệ

Bá; Hội Lục hòa Phật tử: Chủ tịch Thích Thiện Hào; Hội Nông dân Giải phóng:

Chủ tịch Nguyễn Hữu Thế, thành lập 20-2-1961; Hội Lao động Giải phóng (sau

đổi là Liên hiệp đoàn Giải phóng): Chủ tịch Phạm Xuân Thái, Phó Chủ tịch

Đặng Trần Thi; Hội Văn nghệ Giải phóng: Chủ tịch Lưu Hữu Phước; Ủy ban

Đoàn kết Á Phi của miền Nam Việt Nam: Chủ tịch Nguyễn Ngọc Thương; Ủy

ban Bảo vệ Hòa bình Thế giới của miền Nam Việt Nam: Chủ tịch Phùng Văn

Cung; Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam (bộ phận của Đảng Lao động Việt

Nam ở miền Nam Việt Nam); Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng Việt Nam

(sau đổi tên Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng Hồ Chí Minh): Chủ tịch

Trần Bạch Đằng; Hồng thập tự Giải phóng: Chủ tịch Phùng Văn Cung; Hội

đồng Quân Dân Y; Hội Nhà giáo yêu nước: Chủ tịch Lê Văn Vỵ; Báo Giải

phóng; Ủy ban nhân dân miền Nam Việt Nam đoàn kết với nhân dân Mỹ: Chủ

tịch Hồ Thu; Hội nhà báo dân chủ và hòa bình: Chủ tịch Tân Đức; Hội phục

hưng thiểu số hiến dâng cho Hòa Hảo: Chủ tịch Nguyễn Thị Biên, Huỳnh Văn

Trí; Hội Phật giáo Yêu nước: Chủ tịch Thích Thiện Hảo; Ban Củng cố Hoà bình

chung sống đạo Cao Đài (Tòa Thánh Tây Ninh); Cao Đài chi phái Tiên Thiên: do

Ngọc Đầu sư Nguyễn Văn Ngợi lãnh đạo; Ủy ban hòa bình thế giới Nam Việt

Nam: do Ung Ngọc Kỳ lãnh đạo; Ủy ban đoàn kết với nhân dân Mỹ Latinh: Chủ

tịch Thích Thiện Hảo, Tổng thư ký Phạm Văn Quang và Lê Văn Huấn; Ủy ban

bảo vệ trẻ em và phụ nữ: Chủ tịch Bùi Thị Mê; Hội những người kháng chiến cũ

ở miền Nam Việt Nam: Chủ tịch Phan Văn Đáng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư

ký Trần Bạch Đằng; Nhóm những người đấu tranh cho hòa bình thống nhất độc

lập Tổ quốc Việt Nam: bao gồm những binh sĩ trong quân đội Việt Nam Cộng

hòa theo cách mạng, thành lập 4/1/1961.

28

Ngoài ra ngày 20/4/1968, một mặt trận mới ra đời là Liên minh các Lực

lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam do Trịnh Đình Thảo làm Chủ

tịch. Liên minh này được xem là một tổ chức lớn hơn và rộng khắp để đoàn kết

nhân dân miền Nam và những người chống đối chế độ Việt Nam Cộng hòa và

Hoa Kỳ, mà không phải là thành viên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền

Nam Việt Nam.

2.1.2.3. Giai đoạn Đất nước Thống nhất (sau 1975)

Sau khi Việt Nam thống nhất, các lãnh đạo của 3 tổ chức gồm Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên

minh các lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Việt Nam đã thành lập Ban

trù bị Mặt trận Dân tộc thống nhất từ mùa thu năm 1976, gồm đại biểu của 3 tổ

chức: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt

Nam, Liên minh các lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hoà bình Việt Nam để bàn

việc thống nhất thành một tổ chức chính trị thống nhất. Trong kỳ họp từ 31

tháng 1 đến 4 tháng 2 năm 1977 tại thành phố Hồ Chí Minh, thống nhất ba tổ

chức này thành một tổ chức chính trị duy nhất lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam và cái tên đó vẫn đang được sử dụng cho tới ngày nay.

Các thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bao gồm: Đảng Cộng sản

Việt Nam; Đảng Dân chủ Việt Nam (giải thể năm 1988); Đảng Xã hội Việt Nam

(giải thể năm 1988); Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; Hội Nông dân Việt

Nam; Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt

Nam; Hội Cựu chiến binh Việt Nam; Quân đội Nhân dân Việt Nam; Liên hiệp

các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam; Hiệp hội các hội Văn học - Nghệ thuật

Việt Nam; Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Việt Nam; Hội Liên hiệp Thanh niên

Việt Nam; Liên minh Hợp tác xã Việt Nam; Phòng Thương mại và Công nghiệp

Việt Nam; Hội Chữ thập đỏ Việt Nam; Hội Luật gia Việt Nam; Hội Nhà báo

Việt Nam; Giáo hội Phật giáo Việt Nam; Uỷ ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam;

Hội Làm vườn Việt Nam; Hội Người mù Việt Nam; Hội Sinh vật cảnh Việt

Nam; Hội Đông y Việt Nam; Tổng hội Y dược học Việt Nam; Hội Người cao

tuổi Việt Nam; Hội Kế hoạch hoá gia đình Việt Nam; Hội Khuyến học Việt

29

Nam; Hội Bảo trợ tàn tật và Trẻ mồ côi Việt Nam; Hội Châm cứu Việt Nam;

Tổng hội Thánh Tin lành Việt Nam; Hội Liên lạc với người Việt Nam ở nước

ngoài; Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam; Hội Nạn nhân chất độc da cam/đioxin

Việt Nam; Hội Mỹ nghệ - Kim hoàn - Đá quý Việt Nam; Hội Cựu Giáo chức

Việt Nam; Hội Xuất bản - In - Phát hành sách Việt Nam; Hội Nghề cá Việt

Nam; Hiệp hội Sản xuất kinh doanh của Người tàn tật Việt Nam; Hội Cứu trợ

trẻ em tàn tật Việt Nam; Hội Y tế Cộng đồng Việt Nam; Hội Cựu Thanh niên

xung phong Việt Nam; Hiệp hội Các trường Đại học, Cao đẳng ngoài công lập

Việt Nam; Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam; Hội Doanh nghiệp nhỏ

và vừa Việt-Đức; Hiệp hội Làng nghề Việt Nam.

Trong đó, Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức thành viên và hạt nhân

lãnh đạo của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Ngoài ra, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam còn có các Hội đồng Tư vấn: Hội

đồng tư vấn về lĩnh vực Văn hoá - Xã hội; Hội đồng tư vấn về Đối ngoại và

Kiều bào; Hội đồng tư vấn về Kinh tế; Hội đồng tư vấn về Dân tộc; Hội đồng tư

vấn về Khoa học - Giáo dục; Hội đồng tư vấn về Tôn giáo; Hội đồng tư vấn về

Dân chủ Pháp luật.

2.2. Vai trò của Mặt trận đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam

(1941-1975)

2.2.1. Vai trò của Mặt trận đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc

(1941-1945)

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa ra đời, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố,

trong đó Mặt trận Việt Minh là nhân tố quan trọng góp phần tập hợp đông đảo

quần chúng, hình thành lực lượng chính trị hùng hậu để xây dựng khối đoàn kết

toàn dân, đưa Cách mạng Tháng Tám đi tới thắng lợi vẻ vang.

Đây là thắng lợi của sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của

Đảng và Mặt trận Việt Minh với những chủ trương, chính sách mềm dẻo, đúng

đắn. Mặt trận Việt Minh đã tập hợp, phát động được đông đảo quần chúng từ

30

nông thôn đến thành thị, từ chiến khu về đồng bằng đồng lòng đứng lên khởi

nghĩa giành chính quyền. Chính khí thế khởi nghĩa cùng tinh thần đoàn kết dân

tộc đã góp phần thu phục được một bộ phận không nhỏ những người làm việc

cho bộ máy đế quốc thực dân ngả theo cách mạng như một số lý trưởng, chánh

tổng, tri phủ, tri huyện, một số binh lính bảo an, công chức, cảnh sát… Ở khắp

các địa phương trên cả nước, những lực lượng này đã chủ động liên hệ với Việt

Minh, ủng hộ cách mạng, kể cả một số người đứng đầu những tôn giáo, đảng

phái như Cao Đài, Hòa Hảo ở Long Xuyên, Sa Đéc. Ở Ninh Bình có nơi đội bảo

an của địch đã được thu phục thành đội tự vệ của ta. Thực tế đó càng khẳng định

chính sách đại đoàn kết dân tộc mà Đảng và Mặt trận Việt Minh đề ra và thực

hiện là đúng đắn, đã huy động được sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc tổng khởi

nghĩa giành chính quyền thành công trên cả nước khi điều kiện đã chín muồi.[6]

Cách mạng Tháng Tám giành thắng lợi oanh liệt và nhanh chóng do nhiều

nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân chủ yếu do có chính sách đại

đoàn kết dân tộc của Mặt trận Việt Minh do Đảng Cộng sản Đông Dương và

lãnh tụ Hồ Chí Minh thành lập và lãnh đạo. Mặt trận Việt Minh được thành lập

từ năm 1941 đã giương cao ngọn cờ dân tộc, xác định đúng kẻ thù, có những

chủ trương, chính sách đúng đắn, những khẩu hiệu đấu tranh thích hợp, đáp ứng

yêu cầu cách mạng, phù hợp với nguyện vọng và quyền lợi bức thiết của mọi

tầng lớp nhân dân, được đông đảo quần chúng nhân dân ủng hộ, trở thành ngọn

cờ tập hợp sức mạnh toàn dân, là động lực cơ bản của Cách mạng Tháng Tám.

Thành công của Mặt trận Việt Minh không chỉ tạo dấu ấn lịch sử trong thắng lợi

của Cách mạng Tháng Tám, mà còn để lại những bài học kinh nghiệm quý báu

cho công tác xây dựng Mặt trận, tập hợp lực lượng, đoàn kết dân tộc trong các

giai đoạn cách mạng sau này.[7]

2.2.2. Vai trò của Mặt trận thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp

và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975)

Trong giai đoạn 1945-1954, Mặt trận đã hoàn thành xuất sắc vai trò đoàn

kết các tầng lớp nhân dân, không phân biệt già trẻ, gái trai, tôn giáo, đảng phái,

xu hướng chính trị, giai cấp, hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

31

“Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không

chịu làm nô lệ”, tạo nên sức mạnh đoàn kết dân tộc vô cùng to lớn bảo vệ vững

chắc chính quyền cách mạng non trẻ, chiến thắng giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại

xâm, thực hiện thành công đồng thời hai nhiệm vụ “kháng chiến, kiến quốc”, làm

nên chiến thắng Ðiện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hào hùng của dân tộc

(1954 - 1975), ở hậu phương lớn miền bắc, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tập

hợp, động viên nhân dân hăng hái thi đua học tập, lao động sản xuất, xây dựng

chủ nghĩa xã hội, chi viện cho tiền tuyến lớn miền nam đấu tranh thống nhất

nước nhà. Ở miền nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và

Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam đã phối hợp

chặt chẽ, công khai giương cao ngọn cờ đoàn kết rộng rãi các lực lượng và cá

nhân yêu nước, đấu tranh chống lại sự xâm lược của đế quốc Mỹ, sự đàn áp

khốc liệt của chính quyền tay sai, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, nhân

dân và các lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế giới, góp phần đưa

cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đi đến thắng lợi hoàn toàn, để dân tộc

Việt Nam tự hào bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, thống nhất và đi

lên chủ nghĩa xã hội.

Tiểu kết chương 2

Từ khi có Đảng là có Mặt trận, ngay sau khi nhân dân giành được chính

quyền, Mặt trận đã trở thành một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị, và

đoàn kết là sợi dây xuyên suốt để Mặt trận thực hiện sứ mệnh của mình. Nhờ có

sự đoàn kết mà nhân dân ta đã tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp thắng

lợi, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và không ngừng lớn mạnh trở thành

hậu phương của tiền tuyến lớn miền Nam. Và cuối cùng, nhân dân ta đã làm tròn

nhiệm vụ lịch sử vẻ vang giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn

thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả nước.

32

CHƯƠNG 3

NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM

3.1. Nhận xét

3.1.1. Thành tựu

Hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, Mặt trận Dân tộc Thống

nhất Việt Nam luôn vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng

Hồ Chí Minh, phát huy trí tuệ và bản lĩnh cách mạng, đã khơi dậy truyền thống

yêu nước, tinh thần đoàn kết, chung sức đồng lòng của cả dân tộc và mỗi người

Việt Nam, hoàn thành xuất sắc sứ mệnh được Ðảng và toàn thể dân tộc giao phó

trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước đây

cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ

nghĩa thân yêu của chúng ta ngày nay.

Trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập (1930-1945), Mặt trận đã phát huy

được vai trò tập hợp toàn thể nhân dân Việt Nam yêu nước thành một khối đại

đoàn kết xung quanh Ðảng, với tinh thần “dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy

cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”, đã làm nên

thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nước Việt

Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước Dân chủ nhân dân đầu tiên ở Ðông - Nam

Á, đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do và

chủ nghĩa xã hội.

Trong giai đoạn 1945-1954, Mặt trận đã hoàn thành xuất sắc vai trò đoàn

kết các tầng lớp nhân dân, không phân biệt già trẻ, gái trai, tôn giáo, đảng phái,

xu hướng chính trị, giai cấp, hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

“Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định

không chịu làm nô lệ”, tạo nên sức mạnh đoàn kết dân tộc vô cùng to lớn bảo

vệ vững chắc chính quyền cách mạng non trẻ, chiến thắng giặc đói, giặc dốt,

giặc ngoại xâm, thực hiện thành công đồng thời hai nhiệm vụ “kháng chiến,

kiến quốc”, làm nên chiến thắng Ðiện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động

địa cầu”. [1]

Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hào hùng của dân tộc

33

(1954 - 1975), ở hậu phương lớn miền bắc, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tập

hợp, động viên nhân dân hăng hái thi đua học tập, lao động sản xuất, xây dựng

chủ nghĩa xã hội, chi viện cho tiền tuyến lớn miền nam đấu tranh thống nhất

nước nhà. Ở miền nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và

Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam đã phối hợp

chặt chẽ, công khai giương cao ngọn cờ đoàn kết rộng rãi các lực lượng và cá

nhân yêu nước, đấu tranh chống lại sự xâm lược của đế quốc Mỹ, sự đàn áp

khốc liệt của chính quyền tay sai, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, nhân

dân và các lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế giới, góp phần đưa

cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đi đến thắng lợi hoàn toàn, để dân tộc

Việt Nam tự hào bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, thống nhất và đi

lên chủ nghĩa xã hội.

35 năm qua, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với vai trò là người đại diện, tập

hợp, tổ chức các lực lượng nhân dân, đã thể hiện rõ nhất sự đồng tình, ủng hộ

của nhân dân đối với Ðảng, đối với sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển

của đất nước dưới sự lãnh đạo của Ðảng, khơi dậy và huy động được mọi tiềm

năng, trí tuệ, tinh thần và lực lượng to lớn của xã hội, góp sức to lớn vào sự

nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc để đất nước ta có được cơ

đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày hôm nay.

3.1.2. Hạn chế

Tuy đã có nhiều thành tựu to lớn nhưng vẫn có những hạn chế, yếu kém

trong công tác mặt trận như hoạt động của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở

một số nơi chưa theo kịp tình hình, có lúc, có nơi còn thiếu chủ động trong tham

mưu cho cấp ủy, phối hợp với chính quyền để đề ra các giải pháp, tháo gỡ

những khó khăn, vướng mắc cho công tác. Công tác vận động nhân dân tham

gia xây dựng đô thị văn minh và thực hiện phong trào đoàn kết sáng tạo chưa có

nhiều giải pháp mới và hiệu quả. Chất lượng giám sát và phản biện xã hội của

Mặt trận chưa đồng đều ở các cấp, nhất là ở cấp cơ sở, một số nơi chưa tổ chức

phản biện xã hội. Công tác nắm tình hình nhân dân của Mặt trận có nơi, có thời

điểm chưa kịp thời…

34

3.2. Kinh nghiệm

3.2.1. Nhận thức đúng về vai trò, vị trí của Mặt trận dân tộc thống nhất

trong sự nghiệp cách mạng

Kế thừa, phát huy truyền thống yêu nước và đoàn kết của dân tộc ta. Đảng

Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng là sự

nghiệp của quần chúng. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã chủ trương đoàn kết

mọi lực lượng dân tộc và dân chủ trong Mặt trận Dân tộc Thống nhất để cùng

nhau chống kẻ thù chung vì độc lập tự do của Tổ quốc.

Giữa lúc cao trào cách mạng đầu tiên do Đảng lãnh đạo mà đỉnh cao là

phong trào Xô viết Nghệ tĩnh đang diễn ra sôi nổi và rầm rộ trong cả nước, ngày

18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông dương ra chỉ thị

về vấn đề thành lập Hội phản đế Đồng minh, hình thức đầu tiên của Mặt trận

Dân tộc Thống nhất Việt nam.

Từ đó tới nay, ở mỗi thời kỳ khác nhau có những hình thức và tên gọi tổ

chức cụ thể khác nhau phù hợp với nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng nhưng

Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt nam nơi tập hợp các giai tầng trong xã hội vì

những mục tiêu lớn của dân tộc luôn tồn tại và phát triển, Đảng Cộng sản Việt

Nam - người chủ xướng việc hình thành Mặt trận Dân tộc thống nhất trong thời

hiện đại - vừa là thành viên tích cực của Mặt trận vừa bằng sự sáng tạo, đúng

dắn trong đường lối, chính sách, sự gương mẫu phấn đấu vì lợi ích chung của

dân tộc đã được các thành viên của Mặt trận thừa nhận vai trò lãnh đạo.

Hiện nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là hình thức tổ chức của Mặt trận

Dân tộc Thống nhất Việt nam với mục tiêu tập hợp và phát huy sức mạnh của

khối Đại đoàn kết toàn dân phấn đấu cho một nước Việt Nam độc lập, tự do,

hạnh phúc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.

3.2.2. Phải có chủ trương, chính sách đúng và hình thức tổ chức Mặt

trận phù hợp với từng thời kì cách mạng để luôn củng cố, mở rộng và phát

triển Mặt trận dân tộc thống nhất

Nhìn lại chặng đường đã qua của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam,

có thể khẳng định rằng chủ trương của Đảng thành lập và lãnh đạo Mặt trận Dân

35

tộc Thống nhất là hoàn toàn đúng đắn, là sự vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-

Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Bằng sự sáng tạo độc đáo mang tính

lịch sử ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định vai trò lãnh đạo xã hội và

đất nước, gắn bó máu thịt với nhân dân, trung thành tuyệt đối với dân tộc, được

nhân dân tin yêu và coi Đảng ta là Đảng của chính mình. Cũng từ đó, Mặt trận

Dân tộc thống nhất Việt Nam đã trở thành cầu nối vững chắc giữa nhân dân với

Đảng, Nhà nước, không một thế lực nào có thể chia cắt được.

Hiện nay tình hình thế giới và khu vực vẫn đang có những diễn biến

nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, đất

nước ta phải đương đầu với không ít khó khăn, thách thức, Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam cần quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo cách mạng là sự nghiệp của

nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và chính nhân dân là người làm nên những

thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đại đoàn kết dân tộc là chủ trương chiến

lược, có ý nghĩa sống còn, quyết định sự thành bại của cách mạng, là sợi chỉ đỏ

xuyên suốt trong đường lối chiến lược cách mạng của Đảng ta.

Lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam là quá trình hình thành,

hoàn thiện và phát triển về lý luận, phong trào và tổ chức. Dưới ngọn cờ của các

tổ chức Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, nhân dân ta đã đoàn kết tiến

hành các phong trào đấu tranh cách mạng, mà sự ra đời của Mặt trận Việt Minh

ngày 19/5/1941 là bước trưởng thành vượt bậc của Mặt trận về cả đường lối, tổ

chức và hoạt động, làm nên thắng lợi của Cách mạng tháng Tám (năm 1945)

lịch sử, giành chính quyền về tay nhân dân, lập nên nước Việt Nam Dân chủ

cộng hòa (ngày 2/9/1945), mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc: kỷ nguyên độc lập

dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.[9]

Để đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng và sự phát triển của

Mặt trận Dân tộc thống nhất, ngày 29/5/1946, Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam

(Hội Liên Việt) được thành lập - đây là bước phát triển mới của Mặt trận Dân

tộc thống nhất. Thực hiện Lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch

Hồ Chí Minh, Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt đã ra sức tuyên truyền, vận

động nhân dân tham gia kháng chiến, sát cánh bên nhau, đẩy mạnh mọi hoạt

36

động, xây dựng tổ chức, phát triển lực lượng nhằm mục tiêu chung là kháng

chiến thắng lợi, giành độc lập dân tộc. Việc thống nhất Việt Minh và Liên Việt

trở thành yêu cầu khách quan của kháng chiến và sự nghiệp cách mạng của nhân

dân ta nhằm củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Ngày 3/3/1951,

Đại hội toàn quốc Mặt trận thống nhất Việt Minh - Liên Việt lấy tên là Mặt trận

Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Mặt trận Liên Việt) được tiến hành.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Liên Việt đã

thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, góp phần củng cố Mặt trận Dân tộc thống

nhất. Quá trình kháng chiến toàn dân, toàn diện làm cho Mặt trận Dân tộc thống

nhất không ngừng lớn mạnh, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sức

mạnh to lớn, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đến thắng lợi

cuối cùng.

Bước vào giai đoạn chống Mỹ, cứu nước, ngày 10/9/1955, Đại hội Mặt

trận Dân tộc thống nhất họp tại Hà Nội đã quyết định thành lập Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam và thông qua Cương lĩnh nhằm đoàn kết mọi lực lượng dân tộc,

dân chủ và hòa bình trong cả nước để đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay

sai. MTTQ Việt Nam đã ra sức vận động các tầng lớp nhân dân thi đua yêu

nước, tham gia khôi phục kinh tế và phát triển văn hóa, hàn gắn vết thương

chiến tranh và xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Ở miền Nam, từ cao trào

đấu tranh của nhân dân miền Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược và chính quyền

tay sai Ngô Đình Diệm, ngày 20/12/1960, Mặt Trận Dân tộc giải phóng miền

Nam Việt Nam ra đời và Liên minh Các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình

Việt Nam được thành lập ngày 20/4/1968 đã tập hợp rộng rãi các tầng lớp, giai

cấp, tôn giáo, dân tộc và mọi người dân yêu nước.

Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước

(30/4/1975), từ ngày 31/1 - 4/2/1977 tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đại hội Mặt

trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam quyết định hợp nhất 3 tổ chức: Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh

các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, lấy tên chung là Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam. Đại hội đã thông qua chương trình chính trị và điều lệ mới

37

nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị

và tinh thần trong Nhân dân, phát huy nhiệt tình cách mạng và tinh thần làm

chủ, động viên nhân dân hăng hái tham gia xây dựng và củng cố chính quyền,

xây dựng Hiến pháp chung của cả nước; tổ chức bầu cử Quốc hội và Hội đồng

Nhân dân các cấp, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,

hàn gắn vết thương chiến tranh, khắc phục thiên tai, phát triển kinh tế...

Ôn lại truyền thống vẻ vang của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hơn 90

năm qua là dịp để tiếp tục kế thừa và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết

toàn dân tộc, coi đó là nhân tố cơ bản để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới,

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, phấn đấu

xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu

mạnh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

3.2.3. Luôn giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với

Mặt trận

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930), chưa đầy 10 tháng sau, Mặt

trận Dân tộc Thống nhất được thành lập (18/11/1930) và từ đó đến nay trong

lịch sử cách mạng Việt Nam không bao giờ vắng bóng tổ chức Mặt trận. Khi

Đảng Cộng sản Việt Nam chưa giành được chính quyền, Mặt trận đã tổ chức

thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, vận động, giác ngộ, tập hợp nhân dân

đấu tranh lật đổ chính quyền địch, giành chính quyền về tay nhân dân, đồng thời

thực hiện một số chức năng, nhiệm vụ của chính quyền ở vùng mới giải phóng.

Với tư cách là một tổ chức cách mạng, một tổ chức liên minh chính trị, Mặt trận

Dân tộc Thống nhất đã sớm xác định vị trí của mình trên thực tế. Vị trí đó đã

được nhân dân thừa nhận.

Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam giành được chính quyền, Mặt trận cùng

với Đảng, Nhà nước là công cụ để thực hiện và phát huy quyền làm chủ của

nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, Mặt trận đã

vận động các tầng lớp nhân dân đoàn kết chiến đấu, đánh thắng các thế lực xâm

lược bảo vệ chính quyền, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, khôi

phục và phát triển kinh tế, văn hoá, từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật

38

của chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vị trí của Mặt

trận càng được xác định rõ hơn. Vị trí đó không chỉ được công nhận trong tiềm

thức của nhân dân, trong đường lối, chủ trương của Đảng mà được thể chế hoá

trong Hiến pháp, trong các luật, đặc biệt là Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa thực chất là việc đổi mới và kiện toàn

hệ thống chính trị. Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị Việt

Nam giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã

hội, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.

Mặt khác, xem xét vị trí của Mặt trận từ thể chế chính trị của Việt Nam

"chế độ ta là chế độ dân chủ, mọi quyền lực thuộc về nhân dân", Chủ tịch Hồ

Chí Minh đã chỉ rõ: "Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Nhân dân là

người chủ đất nước, nhân dân tổ chức ra Nhà nước của mình và thực hiện quyền

làm chủ của mình bằng các thiết chế Nhà nước, bằng các tổ chức và các hoạt

động của Mặt trận, các đoàn thể, các tổ chức xã hội, bằng quyền và nghĩa vụ

công dân.

Như vậy, cả về vị trí pháp lý, cả về lịch sử và hoạt động thực tiễn đều

khẳng định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận không thể thiếu được

của hệ thống chính trị nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng

Cộng sản Việt Nam, các tổ chức quần chúng do Đảng ta thành lập và lãnh đạo,

đặc biệt là Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội luôn giữ một vị trí

quan trọng. Ở mỗi một giai đoạn cách mạng, kể cả lúc thăng trầm hay cao trào,

lúc chưa có chính quyền và trong điều kiện giành được chính quyền, Mặt trận

Tổ quốc đều là thành viên chiến lược quan trọng trong hệ thống chính trị.

Mặt trận ngày nay là sự kế tục truyền thống, kinh nghiệm quý báu của

Mặt trận Dân tộc Thống nhất trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc

cũng như truyền thống của nền chính trị dựa vào sức mạnh của nhân dân. Vị trí

của Mặt trận trong giai đoạn hiện nay thực sự đòi hỏi khách quan của sự nghiệp

đổi mới, đặc biệt là yêu cầu phát huy bản chất, nâng cao sức mạnh của hệ thống

chính trị để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Thực tế cho thấy, công cuộc

39

đổi mới đất nước từ 1986 đến nay đã tạo ra những tiền đề thực tiễn rất mới mẻ.

Cùng với quá trình tranh thủ nội lực, phát huy sức mạnh toàn dân, tư duy mới về

chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Việc phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân dân để

thực hiện mục tiêu chính trị mà Đảng ta đề ra, trở thành yêu cầu, đòi hỏi bức xúc

trong việc xác lập vị trí, vai trò của Mặt trận.

Xét về lý luận và thực tiễn, nếu trong hệ thống chính trị không có Mặt

trận và các đoàn thể chính trị - xã hội thì không còn là tổng thể lực lượng chính

trị được vận hành trong cơ cấu ổn định và cũng có nghĩa là không còn tổng thể

quan hệ chính trị để đảm bảo cơ chế vận hành của hệ thống chính trị nhằm phát

huy quyền lực nhân dân. Điều này một mặt làm suy yếu vai trò lãnh đạo của

Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước; không có cơ chế để kiểm soát xu hướng

quan liêu hoá, lạm quyền và những tiêu cực khác trong bộ máy Nhà nước; hạn

chế việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân và gây ra nhiều khó khăn khác

cho hoạt động của hệ thống chính trị. Mặt khác, trong điều kiện hiện nay, trước

những quan hệ chính trị - xã hội phức tạp, nhạy cảm của các tổ chức, giai cấp,

dân tộc, tôn giáo, nếu chỉ đơn thuần giải quyết bằng thể chế, pháp luật của Nhà

nước mà thiếu những biện pháp vận động,thuyết phục, hoà giải, tuyên truyền,

hiệp thương của Mặt trận thì hiệu quả tập hợp nhân dân không cao. Do đó, vị trí

của Mặt trận trong hệ thống chính trị xét dưới góc độ khoa học và quan hệ cơ

cấu xã hội là một tất yếu khách quan.

Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị còn là trung tâm của khối đại

đoàn kết toàn dân tộc. Đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị ở nước ta hiện

nay mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.

Mọi mục tiêu, cương lĩnh, nguyên tắc hoạt động của Mặt trận đều thể hiện đậm

nét những đặc trưng này.

Với tư cách là vị trí chiến lược trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện

nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tất yếu sẽ có vai trò to lớn trong hệ thống chính

trị. Hiện nay, hệ thống chính trị ở nước ta đang ổn định và tích cực thích ứng với

những thay đổi của cơ sở hạ tầng trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá

40

đất nước. Tuy nhiên, thực tiễn công cuộc đổi mới cũng đang ngày càng làm

chuyển đổi, phát sinh những vấn đề mới, như: các quan hệ xã hội về cơ cấu lao

động, phân công lao động, sở hữu và hưởng thụ, tích luỹ và tiêu dùng, nông thôn

và thành thị, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội… Do vậy, một mặt không

chỉ kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và mục tiêu mà Đảng, Bác Hồ

và nhân dân ta đã lựa chọn, mặt khác, phải phát huy tính sáng tạo, linh hoạt

trong việc huy động tất cả các lực lượng xã hội, các thành phần xã hội thực hiện

thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong thực tế lãnh đạo, có lúc, có nơi do nhiều nguyên nhân khác nhau

“Đảng chưa đáp ứng được nhu cầu trong việc giải quyết nhiều vấn đề kinh tế -

xã hội, trong phong cách lãnh đạo và cả trong rèn luyện phẩm chất cán bộ đảng

viên”. Tăng cường sức mạnh của Đảng trên cơ sở khắc phục những hạn chế,

khiếm khuyết trong tổ chức và hoạt động của Đảng là yêu cầu cấp bách, khách

quan trong tình hình hiện nay. Sức mạnh của Đảng chỉ có thể được phát huy cao

nhất thông qua việc tăng cường, củng cố mối quan hệ “máu thịt” với nhân dân.

Bởi vì, thông qua thực tiễn mối liên hệ giữa quần chúng nhân dân với Đảng,

Đảng mới xây dựng được đường lối chính trị đúng đắn làm định hướng cho mọi

quá trình phát triển tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; Đảng mới phát hiện

được những khiếm khuyết trong lãnh đạo và chỉ đạo thực tiễn, trong tổ chức và

cán bộ của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “mỗi công việc của Đảng

phải giữ nguyên tắc và phải liên hệ chặt chẽ với quần chúng” và “giữ chặt mối

liên hệ với quần chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng mà nhờ đó Đảng

thắng lợi”; cho nên, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã

hội, với tư cách đại diện cho nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết

toàn dân có vai trò to lớn đối với việc phát huy sức mạnh của Đảng.

Để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng phải xây dựng được bộ máy tổ

chức Đảng trong sạch, vững mạnh ở các cấp khác nhau và vận hành thống nhất

trong phạm vi cả nước. Với tư cách là cơ sở quần chúng của Đảng, Mặt trận và

các đoàn thể chính trị - xã hội thông qua hoạt động của mình đã góp phần phát

huy sức mạnh bộ máy tổ chức Đảng, thể hiện ở các mặt sau:

41

Một là, phối hợp hành động của các tổ chức thành viên thực hiện tốt chủ

trương, nghị quyết của Đảng về công tác xây dựng Đảng nói chung, xây dựng

bộ máy, tổ chức Đảng nói riêng. Vận động toàn thể nhân dân phát huy tích cực

bằng các hoạt động của mình trong việc xây dựng và bảo vệ Đảng; giám sát hoạt

động của cấp uỷ Đảng tại địa phương để kịp thời phát hiện những sai sót, khiếm

khuyết của cấp uỷ Đảng trong công tác lãnh đạo của địa phương.

Hai là, phối hợp hành động của các tổ chức thành viên trong việc tuyên

truyền, vận động nhân dân thực hiện các cuộc vận động lớn của Đảng, nhằm xây

dựng Đảng vững mạnh, nâng cao uy tín của Đảng trong đời sống chính trị - xã

hội. Thông qua các phong trào thực tiễn, tuỳ thuộc vào điều kiện đặc thù của tổ

chức mình, Mặt trận và các tổ chức thành viên bên cạnh việc giáo dục chính trị -

tư tưởng cho đoàn viên, hội viên đã phát hiện và bồi dưỡng những quần chúng

ưu tú, tích cực, có năng lực giới thiệu cho Đảng tiến hành kết nạp để tăng số

lượng và chất lượng công tác phát triển đảng viên mới của Đảng.

Vai trò lãnh đạo chính trị đòi hỏi Đảng phải nắm vững và làm tốt mặt lãnh

đạo, tổ chức công tác thực tiễn. Đảng lãnh đạo bằng tổ chức, bằng đường lối.

Đường lối của Đảng thể hiện qua các chủ trương, chính sách của Đảng và phải

xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Bằng thực tiễn, mới

kiểm tra được tính đúng đắn, hiệu quả, bởi mỗi một khẩu hiệu, mỗi một công

tác, phải được tổng kết từ những sáng kiến và kinh nghiệm của nhân dân, phù

hợp với thực tiễn phát triển của đất nước. Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã

hội có vai trò quan trọng trong việc góp phần xây dựng các chủ trương, chính

sách của Đảng. Vai trò này thể hiện ở chỗ, Mặt trận và các đoàn thể chính trị -

xã hội phản ánh ý kiến của nhân dân về các vấn đề bức xúc trong đời sống xã

hội cho Đảng để Đảng kịp thời đề ra những chủ trương, chính sách hợp lý trong

quá trình lãnh đạo nhằm giải quyết có hiệu quả. Đối với những chủ trương,

chính sách lớn của Đảng ảnh hưởng đến đại bộ phận nhân dân, các dự thảo Nghị

quyết Đại hội Đảng trước các kỳ Đại hội của Đảng, Mặt trận Tổ quốc các cấp và

các tổ chức thành viên tổ chức các hội nghị để lấy ý kiến đóng góp của nhân

dân. Thông qua ý kiến đóng góp đó, Đảng kịp thời điều chỉnh những vấn đề

42

chưa phù hợp, bổ sung những vấn đề còn thiếu sót, đảm bảo tính hiệu quả và giá

trị thực tiễn trong các chủ trương, chính sách, nghị quyết khi ban hành.

Không chỉ dừng lại ở việc góp phần xây dựng các chủ trương, chính sách,

vai trò của Mặt trận và các đoàn thể còn thể hiện trong việc đưa đường lối, chính

sách, các nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Mặt trận với vai trò là liên minh

chính trị rộng rãi, phối hợp sức mạnh của các tổ chức thành viên, tích cực tuyên

truyền, vận động nhân dân nhận thức rõ về đường lối, chủ trương, chính sách và

các nghị quyết của Đảng. Uỷ ban Mặt trận các cấp tổ chức cho nhân dân học tập,

nghiên cứu về các chính sách, nghị quyết của Đảng. Thông qua các hình thức,

như: tuyên truyền phổ biến các tài liệu, thông qua hệ thống cơ quan truyền thông

của Mặt trận, thông qua các cuộc thi tìm hiểu, các diễn đàn nhân dân,... Mặt trận

và các đoàn thể tích cực phổ biến chủ trương, chính sách, các nghị quyết của

Đảng vào đời sống nhân dân. Cùng với việc tuyên truyền, phổ biến, Uỷ ban Mặt

trận các cấp, phối hợp với chính quyền và các đoàn thể vận động nhân dân thực

hiện tốt các chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng.

Trong quá trình vận động nhân dân thực hiện chủ trương chính sách, nghị

quyết của Đảng, thông qua ý kiến quần chúng nhân dân, Mặt trận và các đoàn

thể chính trị - xã hội kịp thời đề xuất với Đảng những khó khăn, vướng mắc để

Đảng có những giải pháp chỉ đạo kịp thời nâng cao hiệu quả trong thực tiễn đời

sống nhân dân. Thông qua việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng

trong lĩnh vực đời sống xã hội, Đảng rút ra những kinh nghiệm quý báu trong

việc đề ra các quyết định cụ thể của mình.

Mặt trận là cơ sở quần chúng của Đảng, là cầu nối giữa Đảng với nhân

dân để làm cho Đảng ngày càng liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Với vai trò liên

minh chính trị “Mặt trận Tổ quốc không đứng ngoài cuộc mà cùng Đảng đồng

tâm hiệp lực trong đội ngũ cách mạng kiên cường, khắc phục khó khăn, phấn

đấu ổn định tình hình kinh tế - xã hội bằng những hành động cụ thể, nói đi đôi

với làm”. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi cơ sở sức mạnh của Đảng là sự

liên hệ chặt chẽ với nhân dân, Đảng phải biết phát huy trí tuệ của nhân dân trong

quá trình lãnh đạo của mình. Toàn Đảng cũng như mọi cán bộ, đảng viên phải

43

“tin vào dân chúng, đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải

quyết”. Người cho rằng, dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn

giản, mau chóng, đầy đủ mà người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi

không ra: “Nghị quyết mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa

chữa. Dựa vào ý kiến của quần chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức Đảng”.

Mặt trận và các đoàn thể bằng thực tiễn hoạt động của mình, góp phần củng cố

và tăng cường mối liên hệ chặt chẽ giữa Nhân dân với Đảng.

Thông qua mối quan hệ chặt chẽ giữa Mặt trận và các đoàn thể chính trị -

xã hội với Đảng, mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân, giữa Nhân dân với Đảng

được củng cố, phát triển; sức mạnh của Đảng được tăng cường. Nhờ đó, nhân

dân ngày càng giác ngộ sâu sắc về chủ nghĩa xã hội, tin tưởng vào đường lối

lãnh đạo của Đảng; hăng hái tham gia các phong trào hành động cách mạng, thi

đua yêu nước, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ

quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tiểu kết chương 3

Kể từ khi thành lập đến nay, ở bất kỳ thời kỳ nào, tổ chức Mặt trận cũng

thể hiện rất rõ và thực hiện rất tốt vai trò, vị trí của mình, luôn trung thành với

tôn chỉ, mục đích tập hợp các tầng lớp nhân dân thành một khối đoàn kết thống

nhất về ý chí và hành động, tinh thần và lực lượng, tạo thành sức mạnh to lớn

của cả dân tộc để hoàn thành những mục tiêu cách mạng cao cả do Đảng ta khởi

xướng và lãnh đạo.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã có nhiều cố gắng, nỗ lực đổi mới phương

thức hoạt động, đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, đẩy mạnh thực

hành dân chủ ở cở, thực hiện giám sát và phản biện xã hội, góp phần xây dựng

Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh.

Mặt trận cần phải thực sự là trung tâm đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng xã

hội, đóng góp trí tuệ, công sức cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt

Nam xã hội chủ nghĩa.

44

C. KẾT LUẬN

Hơn 90 năm qua, trải qua nhiều chặng đường lịch sử, để phù hợp với yêu

cầu và nhiệm vụ cách mạng dù mang nhiều tên gọi khác nhau, nhưng Mặt trận

Dân tộc Thống nhất Việt Nam luôn thống nhất về tôn chỉ, mục đích. Đó là đoàn

kết, thống nhất toàn dân tộc Việt Nam, vì mục tiêu hòa bình, độc lập, thống

nhất, dân chủ, giàu mạnh và vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong bất kỳ

hoàn cảnh nào, dù trong thời kỳ vận động cách mạng, kháng chiến kiến quốc

hay trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, dù ở miền Bắc hay miền Nam

khi đất nước đang bị chia cắt; dù trong thời kỳ bom đạn khốc liệt của chiến

tranh, những lúc khó khăn nhất của thời kỳ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập

trung, bao cấp hay trong công cuộc đổi mới hiện nay, Mặt trận Dân tộc Thống

nhất luôn là hình ảnh cao đẹp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; là biểu tượng

sinh động và rõ ràng nhất cho chủ trương đường lối nhất quán, xuyên suốt về đại

đoàn kết dân tộc của Đảng ta, là minh chứng hùng hồn cho sức mạnh thống nhất

Việt Nam. Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam luôn trung thành với lợi ích

của nhân dân, tiêu biểu cho truyền thống đoàn kết dân tộc, là biểu tượng về lòng

tự hào, tự tôn dân tộc, là trí tuệ, sức mạnh không gì lay chuyển nổi của các thế

hệ người Việt Nam yêu nước trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống

nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

45

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Dân vận Trung ương (1995), Tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ

Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Trường Chinh (1951), Về Mặt trận dân tộc thống nhất, Tài liệu hiện

được bảo quản tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phòng đồng chí

Trường Chinh, ĐCBQ: 1095, tập 3.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 8, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 9, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 10, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 11, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 12, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Hồ Chí Minh (1951), “Bài nói tại buổi khai mạc Đại hội thống nhất

Việt Minh - Liên Việt”, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội 2000.

9. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2001), Văn kiện

Đảng về Mặt trận dân tộc thống nhất, tập 2 (1945-1977), Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

46

PHỤ LỤC

Phụ lục 1:

Hai Đảng phái Chính trị cùng sát cánh với Đảng Cộng sản Việt Nam trong

sự nghiệp Cách mạng Giải phóng dân tộc.

1. Đảng Dân chủ Việt Nam

Đảng Dân chủ Việt Nam là một chính đảng từng hoạt động hợp pháp tại

Việt Nam trước năm 1988. Đảng Dân chủ Việt Nam là “chính đảng của tư sản

dân tộc và tiểu tư sản, trí thức yêu nước và tiến bộ Việt Nam“, thành lập ngày

30/06/1944, tên ban đầu là Việt Nam Dân chủ Đảng (theo cách viết Hán Văn lúc

bấy giờ).

Tiền thân của Đảng Dân chủ Việt Nam là Tổng hội sinh viên Đại học

Tổng hợp Hà nội năm 1940, sau các nhóm sinh viên yêu nước hợp nhất thành

lập đảng. Đảng tham gia Việt Minh, Dương Đức Hiền tham gia Tổng bộ Việt

Minh, sau đó lại tách ra và rồi lại tham gia Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam.

Trong Quốc hội khóa I năm 1946 đảng giành 46 ghế, do hai ông Đỗ Đức

Dục và Tôn Quang Phiệt lãnh đạo. Đảng Dân chủ Việt Nam có số ghế cao thứ 2,

chỉ sau Việt Minh. Đảng có 2 ghế trong Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam

(Dương Đức Hiền, Cù Huy Cận) và 4 ghế trong chính phủ lâm thời đến tháng

3/1946 (Dương Đức Hiền, Cù Huy Cận, Vũ Trọng Khánh, Vũ Đình Hòe). Ở

Nam bộ ban đầu các Đảng viên hoạt động như là nhóm Tân Dân chủ (Huỳnh

Văn Tiểng lãnh đạo, năm 1945). Sau khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ tháng

12 năm 1946, Đảng lại gia nhập Việt Minh.

Đảng kỳ của Đảng Dân chủ là một lá cờ màu xanh đậm với vòng tròn

vàng ở trung tâm và có 5 ngôi sao xung quanh. 5 ngôi sao đại diện cho “sĩ-nông-

công-thương-binh”. Hình tròn vàng thể hiện cho dân tộc Việt Nam da vàng. Tất

cả được đặt trên nền “Màu xanh Dân chủ, sáng soi muôn đời”. Khẩu hiệu của

Đảng là “Dân chủ - Đoàn kết - Phát triển”

Từ năm 1954 đến 1975 đảng hoạt động tại miền Bắc Việt Nam (Đảng bộ

tại miền Nam về hình thức tách ra năm 1961 vẫn lấy ngày thành lập năm 1944,

thành lập Đảng Dân chủ tham gia Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam tới

47

1975), và từ 1975 đến 1988 Đảng Dân chủ Việt Nam lại thống nhất trên toàn

Việt Nam. Vì một số lý do nội bộ, từ đầu năm 1976, Đảng Dân chủ Việt Nam

không kết nạp đảng viên mới.

Tổng Thư ký là chức vụ cao nhất trong Đảng Dân chủ Việt Nam. Chức vụ

Tổng Bí thư Đảng Dân chủ Việt Nam chi để Truy tặng cho ông Dương Đức Hiền,

cố Tổng thư ký và là một trong các thành viên sáng lập của Đảng – mất năm

1963. Người giữ chức vụ Tổng Thư ký lâu nhất của Đảng Dân chủ Việt Nam là

ông Nghiêm Xuân Yêm, giữ chức vụ từ năm 1958 đến khi giải thể vào năm 1988.

(Trước đó là ông Hoàng Minh Chính – đến thập niên 1960, ông này bị khai trừ

Đảng Dân chủ và tới năm 2006 ông Hoàng Minh Chính thành lập một đảng

chống phá chính quyền ở hải ngoại cũng lấy tên Đảng Dân chủ Việt Nam thế kỷ

21).

Đảng viên Đảng Dân chủ Việt Nam nổi tiếng bao gồm nhiều tri thức, nhà

khoa học, nhà thơ, nhà văn…nổi tiếng đương thời và nhiều người là Bộ trưởng

trong chính phủ Việt Nam: Dương Đức Hiền, Nghiêm Xuân Yêm, Cù Huy Cận,

Vũ Trọng Khánh, Vũ Đình Hòe, Trần Đăng Khoa, Huỳnh Văn Tiểng, Tôn

Quang Phiệt…

Đến năm 1988, với lý do đã kết thúc sứ mạng lịch sử của mình, Đại hội

đại biểu toàn quốc Đảng Dân chủ họp từ ngày 18 đến ngày 20/10/1988 đã ra

tuyên bố giải thể Đảng. Một số Đảng viên chủ chốt của Đảng Dân chủ Việt Nam

sau đó đã xin gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Đảng Xã hội Việt Nam

Đảng Xã hội Việt Nam là một đảng chính trị từng hoạt động hợp pháp ở

Việt Nam. Đảng Xã hội Việt Nam tên mới thành lập là Việt Nam Xã hội Đảng

(hồi đó tất cả đảng phái đều viết chữ Hán, theo ngữ pháp Hán) là một chính

đảng của giới trí thức Việt Nam, thiên tả, xu hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng Xã

hội lập ra dưới sự vận động của Mặt trận Việt Minh và Đảng Cộng sản Đông

Dương nhằm mục đích "tập hợp, đoàn kết mọi trí thức yêu nước và dân chủ".

Đảng Xã hội Việt Nam thành lập ngày 22 tháng 7 năm 1946, với tổng thư

ký lần lượt Phan Tư Nghĩa, Nguyễn Xiển, với người bảo trợ chính trị là Võ

48

Nguyên Giáp. Đảng có 24 ghế trong Quốc hội khóa I VNDCCH, tập hợp trong

khối cánh tả. Một số thành viên như Hoàng Minh Giám, Phan Anh, Nguyễn Văn

Huyên, Đặng Phúc Thông tham gia chính phủ Việt Nam. Ngay sau thành lập,

Đảng Xã hội đã gia nhập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam. Trong Đảng Xã hội

có một số đảng viên vốn cũng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Tiền thân

của Đảng Xã hội là Liên minh XHCN ở Đông Dương trước thế chiến II, bao

gồm cả các thành viên ở Pháp và Việt Nam, như là một đảng bộ của Đảng Xã

hội Pháp.

Đảng Xã hội Việt Nam cùng với Đảng Lao Động Việt Nam (Đảng Cộng

Sản Việt Nam) và Đảng Dân chủ đã là 3 đảng Hợp pháp trong chính quyền Việt

Nam Dân Chủ Cộng Hòa (sau là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam) từ

năm 1954 đến năm 1988. Đảng Xã hội Việt Nam cũng từng tham gia Mặt Trận

Tổ Quốc Việt Nam. Vì một số lý do nội bộ, sau năm 1975, Đảng không kết nạp

thêm Đảng viên mới.

Chức vụ cao nhất trong Đảng là Tổng Thư ký Đảng Xã hội Việt Nam.

Chức vụ thứ hai là Phó Tổng Thư ký Đảng. Tổng Thư ký Đảng Xã hội Việt

Nam đầu tiên là cụ Phan Tư Nghĩa, nhiệm kỳ từ năm 1946 đến năm 1956. Tổng

Thư ký Đảng Xã hội Việt Nam thứ hai và cuối cùng là cụ Nguyễn Xiển (từ năm

1946 đến năm 1956 là Phó Tổng Thư ký, từ năm 1956 đến năm 1988 là Tổng

Thư ký). Cụ Hoàng Minh Giám là Phó Tổng Thư ký từ năm 1956 đến năm

1988. Ngoài ra, các Ủy viên Trung ương của Đảng Xã hội Việt Nam cũng là

những bậc chí sĩ yêu nước nổi tiếng như Luật sư Phan Anh, Thiếu tướng – Bác

sĩ Đỗ Xuân Hợp, Kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện…

Với lý do đã kết thúc sứ mạng lịch sử của mình, Đại hội đại biểu Đảng Xã

hội họp từ ngày 21 đến ngày 22 tháng 7 năm 1988 đã ra tuyên bố giải thể Đảng.

Đảng Dân chủ cũng tuyên bố giải thể cùng năm 1988. Đảng Cộng sản Việt Nam

là chính đảng hợp pháp duy nhất tại Việt Nam từ năm 1988 tới nay.

49

Phụ lục 2:

Sơ đồ tổ chức Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam

50

Phụ lục 3:

Ý nghĩa Biểu trưng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Biểu trưng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thống nhất được thông qua tại

Kỳ họp thứ nhất Đại hội thứ nhất Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1977.

- Biểu trưng hình tròn tượng trưng cho khối thống nhất dân tộc chung mục

đích xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân

chủ và văn minh.

- Nền biểu trưng là lá cờ tổ quốc với sao vàng trên nền đỏ.

- Hoa sen trắng cách điệu tượng trưng cho hình tượng Hồ chủ tịch, vị lãnh

tụ vĩ đại, người đã sáng lập ra Mặt trận Dân tộc thống nhất nay là Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam. Những cánh sen liên kết thành một khối chính là sự đoàn kết

thống nhất chính trị của tất cả người Việt Nam yêu nước.

- Đường ngoài vòng cung cách điệu hai nhánh lúa nâng dòng chữ Mặt

trận Tổ quốc.

- Phía dưới là nửa bánh xe cách điệu tượng trưng cho giai cấp công nhân,

giai cấp tiên phong trong sự nghiệp cách mạng với hai chữ Việt Nam.

51