LUẬN VĂN:

Mỗi liên quan tương hỗ giữa

văn hoá và kinh doanh

Lời nói đầu

Lịch sử phát triển của triết học đã qua nhiều bứơc thăng trầm và ngày càng

hoàn thiện. Đỉnh cao của triết học loài người là triết học Mác - lênin. Tuy mới ra

đời trong một thời gian ngắn nhưng triết học Mác - lênin đã kế thừa được những

tinh hoá triết học.

Trong lịch sử và được biểu nghiệm qua thực tế cuộc sống loài người. Đặc

biệt với Việt Nam chúng ta - một đất nước đi lên từ chiến tranh nghèo đói thì triết

học Mác - lênin càng có vai trò quan trọng. Đây chính là ngọn đèn soi sáng dẫn

đường cho Việt Nam, chỉ ra những phương pháp luận phù hợp để đưa nước ta phát

triển trong mọi lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội.

Chính vai trò của triết học như vậy nên việc thấu hiểu và ứng dụng triết học

là vấn đề cần thiết của mỗi con người thời đại. Với tư cách là nhà doanh nghiệp

tương lai của đất nước giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng xã hội và phát

triển về lĩnh vực kinh tế thì việc học tập môn triết học bước chuẩn bị tất yếu về tư

tưởng và phương pháp luận biện chứng cho nghề nghiệp sau này, ở một phương

diện nào đó phải nói rõ ràng học triết học chính là rèn luyện bản lĩnh cho mỗi

người.

Nhận thức được vai trò to lớn đó của triết học nên các trường đại học của

nước ta luôn coi triết học là cơ sở bước đầu để đào tạo con người. Trường đại học

quản lý và kinh doanh cũng như vậy, luôn có nhiều đổi mới và nhiều phương pháp

giúp cho sinh viên tiếp thu tốt bộ môn khoa học này. Với mục tiêu phát huy tính chủ

động sáng tạo cho sinh viên trong trường nhằm khuyến khích mỗi sinh viên tự ứng

dụng lý thuyết vào thực hành bằng những bài tiểu luận nhỏ.

Bản thân tôi khi nghiên cứu môn triết học tôi cảm thấy rất yêu thích và tự tin

lên rất nhiều. Là sinh viên của trường tôi càng nhận thấy vai trò to lớn của môn triết

học với bản thân và nghề nghiệp trong tương lai. Trong bài tiểu luận nhỏ của sinh

viên năm thứ nhất tôi xin trình bày đề tài mang chủ đề: "Mỗi liên quan tương hỗ

giữa văn hoá và kinh doanh".

A - giới thiệu đề tài

Văn hoá là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội. Do đó nói đến sự phát

triển kinh tế trong thời đại hiện nay không thể không nói tới vai trò của văn hoá.

Văn hoá là phạm vi rộng lớn thể hiện trên nhiều lĩnh vực đời sống của con

người. Đề nghiên cứu văn hoá trên tất cả các lĩnh vực ấy thì không thể một sớm,

một chiều mà cần sự nỗ lực về trí tuệ và công sức đóng góp của nhiều thế hệ con

người của mỗi dân tộc qua từng giai đoạn lịch sử phát triển từ thấp đến cao, kế tiếp

vận động một cách không ngừng.

Giáo sư Nguyễn Xuân Nam đã nhận xét "Yếu tố hàng đầu của văn hoá là sự

hiểu biết bao gồm tri thức khoa học, kinh nghiệm và sự khôn ngoan tích luỹ được

trong quá trình học tập, lao động, sản xuất và đấu tranh để duy trì và phát triển của

một cộng đồng dân tộc và các thành viên trong cộng đồng ấy. Nhưng sự hiểu biết ấy

thôi chưa làm nên văn hoá. Sự hiểu biết ấy chỉ trở thành văn hoá khi nó làm nên và

định hướng cho thế ứng xử, của mỗi cá nhân và mỗi cộng đồng".

ở đây chúng ta hiểu thế ứng xử là hướng tới cái trân, thiện, mỹ trong cá quan

hệ giữa con người với con người, con người với môi trường xã hội và môi trường tự

nhiên. Chính từ điều này mà mỗi dân tộc rút ra những điểm riêng phù hợp với hoàn

cảnh và nhu cầu vật chất, tinh thần để xây dựng nền văn hoá dân tộc, cũng như

nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, văn hoá và kinh tế có mối quan hệ tương tác qua

lại.

Đặc điểm kinh tế của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc là một đặc điểm quan trọng

để xây dựng nền văn hoá dân tộc và ngược lại nền tảng kinh tế của một xã hội, chế

độ kinh tế chỉ định tồn tại và người lãnh đạo trên một nền tảng văn hoá. Nhận định

này một lẫn nữa được khẳng định cơ sở triết học duy vật biện chứng. Cơ sở hạ tầng

quyết định kiến trúc thượng tầng và kiến trúc thượng tầng có sự tác động trở lại đối

với cơ sở hạ tầng.

Tuy nhiên, khi nghiên cứu đến vấn đề văn hoá và kinh tế thì đặc điểm văn

hoá trong kinh doanh là đặc điểm quan trọng nhất bởi đây là vấn đề biểu tượng cho

văn hoá và kinh tế của xã hội Việt Nam nói riêng và mỗi quốc gia trên thế giới nói

chung.

Để mang tính khách quan và thiết thực với tư cách là một cá nhân tôi xin

trình bày một vấn đề có liên quan đến triết học đó là "Mối quan hệ tương hỗ giữa

văn hoá và kinh doanh". Vấn đề này khi nhìn từ góc độ triết học thì kiến thức còn

hạn hẹp và nguồn tư liệu khan hiếm đối với bản thân. Nhưng mong rằng sẽ mang

lại một cái nhìn mới trong việc kinh doanh một cách lành mạnh và có hiệu quả ở

nước ta hiện nay.

b - Nội dung

I - Khái niệm văn hoá và chức năng của văn hoá.

Văn hoá là từ Việt gốc Hán theo đó văn hoá là vẻ đẹp còn hoá là giáo hoá

thay đổi.

Nhưng theo cái nhìn của triết học duy vật biện chứng thì khi nói tới văn hoá

người ta hay quan niệm rằng đó là cái đối xứng với tự nhiên, với bản năng, là một

hiện tượng xã hội lịch sử có bao hàm tính nhân loại, phân biệt với bản năng động

vật. Nó có tính dân tộc do hoàn cảnh địa lý, sinh hoạt, tâm lý.. của dân tộc khác

nhau quy định.

Mỗi một dân tộc có một bản sắc văn hoá riêng của mình. Hiện nay sách báo

xuất hiện rất nhiều định thức khác nhau về khái niệm văn hoá. Trong tiểu luận này

em chủ yếu hiểu văn hoá theo quan niệm của giáo sư Trần Ngọc Thêm: "Văn hoá là

một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích

luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn trong mối tương tác giữa con người và môi

trường xã hội".

Theo quan niệm đó văn hoá có những đặc trưng cơ bản sau:

Tính hệ thống lâu nay xem văn hoá là phép cộng đơn thuần tri thức, tôn

giáo, bộ phận lịch sử về sân khấu, nghệ thuật... Nhưng tính hệ thống khác với sự

tập hợp và phép cộng đơn thuần và vì thế nó giúp ta phát hiện được mối quan hệ

mật thiết giữa các sự kiện nền văn hoá, phát hiện các đặc trưng quy luật hình thành

và phát triển của nó.

Tính giá trị khi nói đến văn hoá là nói đến giá trị. Những giá trị xuất phát

được từ những mối liên hệ tương tác giữa con người với tự nhiên, với xã hội với

chính bản thân mình. Có thể kể đến giá trị vật chất, tinh thần, giá trị lâu bền, giá trị

nhất thời, giá trí truyền thống, giá trị hiện tại. Theo thời gian có thể phân biệt giá trị

vĩnh cửu à nhất thời sự phân biệt theo thời gian cho phép có được cái nhìn biện

chứng và khách quan trong việc đánh giá được tính giá trị của các sự vật, hiện

tượng, tránh được những xu hướng cực đoan. Vì vậy về mặt đồng đại cùng một

hiện tượng có thể có giá trị nhiều hay ít tuỳ theo góc nhìn và bình diện được xem

xét. Muốn biết được hiện tượng có thuộc phạm trù văn hoá hay không phải xem xét

mỗi tương quan giữa các mức độ giá trị và phi giá trị của nó về mặt lịch đại cùng

một hiện tượng lịch sử có thể có giá trị hay không tuỳ thuộc vào chuẩn mực văn hoá

của từng giai đoạn lịch sử.

Ngoài ra tính nhân văn cũng luôn thể hiện đặc trưng văn hoá vì nhờ tính

nhân văn mà thể hiện được chuẩn mực để định chất giá trị khi xem xét các giá trị

cần phải vận dụng một cách thích đáng cái nhìn đồng đại và lịch đại còn phải có

nhân quan.

Lịch sử luôn gắn liền với đặc trưng văn hoá vì văn hoá được hình thành và

phát triển qua một quá trình lịch sử lâu dài, được tích luỹ, chọn lọc, lưu truyền,

điều chỉnh, củng cố qua chiều sâu. Nó buộc văn hoá thường xuyên phải tự điều

chỉnh, tiến hành phân loại và phân bố lại các giá trị. Tính lịch sử được duy trì bằng

truyền thống của dân tộc. Nhưng vấn đề đặt ra mọi người nên lưu truyền thống văn

hoá như thế nào cho đúng để duy trì được tính lịch sử.

Truyền thống văn hoá là cơ chế tích luỹ và truyền đạt kinh nghiệm qua

không gian và thời gian trong cộng đồng. Truyền thống văn hoá là những giá trị

tương đối ổn định bởi nó mang tính kinh nghiệm tập thể, thể hiện dưới dạng những

khuôn mẫu xã hội được tích luỹ và tái tạo trong cộng đồng người bằng những con

đường truyền đạt qua không gian và thời gian. Truyền thống văn hoá là một trong

những cơ chế vận hành của văn hoá. Nó được cố định hoá dưới dạng ngôn ngữ,

phong tục tập quán, nghi lễ và pháp luật. Truyền tống văn hoá có vai trò to lớn trong

việc định hình những nếp sống, lối sống phong tục tập quán của một cộng đồng nhất

định trong đó các cá nhân với tư cách là thành viên của cộng đồng.

Qua mỗi thời đại lịch sử nhất định thì con người cũng có cái nhìn vận động

phù hợp với hoàn cảnh đó về thế giới về cuộc sống để xây dựng truyền thống văn

hoá hay có thể nói phải dựa vào tính biện chứng của triết học vì triết học là hạt nhân

lý luận của thế giới quan. Bao hàm trong thế giới quan là nhân sinh quan, yếu tố này

tạo lên đặc trưng của văn hoá. Nhờ tính nhân sinh quan cho phép phân biệt văn hoá

như một hiện tượng xã hội do chịu sự tác động mà sản sinh qua văn hoá và khẳng

định vị trí của con người với xã hội văn hoá. Đó là không có con người thì không có

văn hoá.

Chính những đặc trưng của văn hoá mới gắn bó chặt chẽ với quá trình hình

thành và phát triển văn hoá. Biểu hiện tập trung bản chất của văn hoá làm chỗ dựa

tạm thời để phân ra hoạt động của con người tạo ra giá trị văn hoá trong mỗi quan hệ

tương tác với giới tự nhiên, với thế giới vật chất, với môi trường xã hội và với chính

bản thân văn hoá nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người và xã hội mà

đặc biệt là cuộc sống tinh thần.

Chính những đặc trưng văn hoá như vậy nên văn hoá có vai trò to lớn đối

với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Nếu xã hội gắn liền với văn hoá thì đó là một

xã hội ổn định văn hoá luôn tác động trở lại với xã hội, điều đó được thể hiện thành

những chức năng sau đây của văn hoá.

Chức năng tổ chức là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội. Văn hoá bao

trùm toàn bộ hoạt động xã hội nên thông qua chức năng tổ chức mà cung cấp mọi

phương tiện cần thiết để ứng phó với môi trường tự nhiên của xã hội và của chính

văn hoá.

Thực hiện chức năng văn hoá góp phần điều chỉnh xã hội. Văn hoá giúp cho

xã hội duy trì trạng thái cân bằng hoạt động của mình. Không ngừng tự hoàn thiện

và thích ứng với các điều kiện môi trường nhằm mục đích tự bảo vệ và phát triển

hay nói cách khác. nhờ có văn hoá giúp con người định hướng các chuẩn mực, làm

động lực cho sự phát triển xã hội, truyền thống làm việc được lưu truyền bằng giáo

dục hay văn hoá thực hiện chức năng giáo dục nhưng không phải chỉ bằng những

giá trí ổn định (truyền thống) mà cân bằng những giá trị đang hình thành, chính hai

loại giá trị đã và đang hình thành tạo thành một hệ thống chuẩn mực mà con người

hướng tới, nhờ đó mà văn hoá đóng vai trò quyết định trong hình thành nhân cách

con người. Từ chức năng gia đình văn hoá đã đảm bảo được tính kế thừa của lịch

sử, lưu truyền được những phẩm chất đạo đức của con người, cho các thế hệ mai

sau.

Ngoài ra, chức năng giao tiếp cũng là chức năng cơ bản của văn hoá này.

Nhờ chức năng này văn hoá làm nhiệm vụ liên kết, tổ chức đời sống cộng đồng,

điều chỉnh đời sống xã hội, xây dựng những chuẩn mực sinh hoạt nếp sống - lẽ

sống.

Qua tất cả các chức năng này ta có thể thấy văn hoá là cơ sở nền tảng là động

lực sống động trên phạm vi toàn cầu. Người ta nhận ra vai trò nòng cốt cơ sở của

văn hoá trong sự nghiệp phát triển mọi mặt của cộng đồng dân tộc, quốc gia, toàn

thể nhân loại toàn thể thế giới. Văn hoá không bao giờ nằm bên lề sự phát triển như

là một thứ ăn theo của phát triển mà ngược lại văn hoá là động lực mục tiêu của sự

phát triển. Có thể nói văn hoá là chìa khoá mở đường cho sự phát triển. Chính vì ý

nghĩa này văn hoá đem lại niềm vui hạnh phúc cho xã hội, cho từng thành viên của

xã hội qua việc định hướng phát triển vươn tới, chân, thiện, mỹ.

II. Mỗi quan hệ giữa văn hoá và kinh doanh.

Hoạt động kinh doanh là một trong những hoạt động thúc đẩy nền kinh tế xã

hội phát triển, mà mục tiêu chính là kiếm được nhiều lợi nhuận để thúc đẩy mặt vật

chât xã hội phát triển. Nhưng đời sống vật chất phát triển mà không quan tâm đến

đời sống tinh thần văn hoá, thì không thể gọi đấy à hoạt động kinh doanh lành mạnh

và bền vững. Vì hoạt động kinh doanh chỉ đạt được những mục đích hoàn thiện cả

về chất và lượng khi đưa được yếu tố văn hoá vào trong kinh doanh mà thể hiện rõ

nhất ở ba nội dung của kinh doanh là sản xuất, tiếp thị và quản lý tài chính.

Thực tế trong xã hội hiện nay khi nền kinh tế đạt đến trình độ kỹ thuật tiên

tiến và ngày càng tiến lên sự phát triển một nền kinh tế mới là nền kinh tế tri thức

thì vấn đề văn hoá và kinh doanh không phải là dễ dàng.

Khi nói đến kinh doanh thì ta phải hiểu rằng đó là một hoạt động đầu tư cho

sản xuất, buôn bán phân phối nhằm mục đích thu được nhiều lợi nhuận cho chủ

kinh doanh. Nếu không thu được lợi nhuận thực hiện tái đầu tư sản xuất mong tăng

lợi nhuận ngày càng nhiều đảm bảo cuộc sống, mục đích, lợi ích cho cả người quản

lý và người lao động thì kinh doanh không thể tồn tại và phát triển. Chính vì điều

này mà khi kinh doanh thì không ai muốn mình bị thất bại do đó người chủ phải

luôn tìm cách thu được nhiều lợi nhuận, nhưng có nhiều người bất chấp mọi thủ

đoạn để kiếm lời được nhiều đó là dựa vào những quan hệ kinh doanh biểu hiện cụ

thể là:

Giữa con người với con người mặt hạn chế của mỗi quan hệ này là người

quản lý lợi dụng mình có sở hữu về tư liệu sản xuất mà bóc lột quá sức lao động của

người làm công khiến cuộc sống của họ chỉ đạt đến mức cần mà chưa đạt đến mức

đủ.

ở Việt Nam chúng ta còn tồn tại một hiện tượng mà những người là những

người nước ngoài. khi đầu tư kinh doanh ở Việt Nam, thuê người Việt Nam làm

công đã không những bóc lột quá mức mà còn có hành vi thô bạo như đánh đập

người làm công hành vi này là một hành vi phi văn hoá nó không những ảnh hưởng

đến quan hệ văn hoá giữa con người với con người mà còn giữa quốc gia với quốc

gia và nó không thể tồn tại trong điều kiện hoàn cảnh xã hội Việt Nam hôm nay cần

sự lên tiếng của các cơ quan pháp luật.

Bên cạnh đó trong mỗi quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên có

những người đã lợi dụng khai thác bừa bãi tài nguyên thiên nhiên gây ô nhiễm

môi trường, để lại hậu quả cho cả một cộng đồng người. Về quy luật tự nhiên mà vô

tình gây lên hậu quả trên không hay là họ hiểu mà vẫn có tính vì cái lợi trước mắt.

vì những món lời lớn mà họ cho rằng những hành vi trên giúp họ kiếm được dễ

dàng.

Khi xã hội phát triển nhu cầu cuộc sống vật chất càng tăng thì mỗi quan hệ

này càng nảy sinh nhiều mâu thuẫn mà xã hội chỉ có những biện pháp tương đối

khắc phục những mâu thuẫn này, hàng ngày hàng giờ vẫn tồn tại trong thế giới

khách quan của mỗi người, mỗi cộng đồng người.

Có những cách kiếm được lợi nhuận dựa trên cách lợi dụng quan hệ xã hội

đó là bằng cách làm hàng giả, buôn lậu, chốn thuế, lừa đảo, đầu cơ hại bạn, làm

hàng cả trong và ngoài nước vì ích kỉ.

Tuy nhiên có một cách kiếm lời mà tất cả những người có văn hoá đều

hướng tới và coi đó là mục tiêu để phấn đấu đó là nắm bắt công nghệ mới, thông

tin mới và ứng dụng vào sản xuất. thực hiện được tiết kiệm nguyên liệu và nhiên

liệu quan tâm đến đời sống vật chất tinh thần của con người làm cho con người có ý

thức bảo vệ môi trường trong quá trình sản xuất. luôn đưa đến cái đẹp, hiện đại,

tiện nghi cho cuộc sống con người, giữ được chữ tín đối với bạn hàng trong và

ngoài nước.

Chỉ hiểu được những vấn đề này thì thể hiện được những ưu việt của phương

thức kinh doanh có văn hoá. Và văn hoá cũng phát huy được vai trò của mình trong

kinh doanh. Đảm bảo kết hợp được cái đúng, cái tốt cái đẹp vốn là những giá trị cốt

lõi của văn hoá với cái lợi của kinh doanh.

Triết lý kinh doanh là những giá trị mà hoạt động kinh doanh cần đạt tới. Tuy

nhiên ta hiểu giá trị ở đây là vật chất và tinh thần mà việc kinh doanh cần đạt tới,

do đó yếu tố văn hoá không thể thiếu trong việc để đưa ra một triết lý kinh doanh

đúng đắn.

Khi xã hội ngày càng phát triển đi lên có sự phân công xã hội ngày càng sâu.

Kéo theo sự tách rời sản xuất và tiêu dùng là điều tất nhiên nhu cầu tiêu dùng càng

tăng thì nhu cầu sản xuất cũng tăng mà phải thông qua tiền tệ và thị trường để

chuyển hoá cho nhau. Chính qua khâu trung gian này mà mâu thuẫn nảy sinh. Mỗi

người đều có nhu cầu về vật chất do đó làm cho người ta chỉ quan tâm đến vật chất

mà quyên đi đời sống tinh thần lúc nào không hay. Đây chính là biểu hiện nhưng

quan niệm sai lệch về văn hoá trong kinh tế phát triển mà khiến chúng ta nhìn rõ

nhất coi văn hoá chỉ ở bên lề của sự phát triển kinh tế văn hoá và triết lý kinh

doanh, mỗi quan hệ này luôn nhắc nhở, mỗi nhà kinh doanh hãy hiểu đúng về để có

thể kết hợp được hạnh phúc của cá nhân quan hệ mật thiết với hạnh phục của cộng

đồng, đời sống vật chất được tạo ra trong kinh doanh phải chuyên chở những đặc

trưng văn hoá.

III. Văn hoá trong kinh doanh và kinh doanh có văn hoá.

Văn hoá kinh doanh khi xét về mặt hình thức thì trong kinh doanh là một

hoạt động văn hoá vì đáp ứng được nhu cầu hưởng thụ hay thưởng thức của con

người. Dưới sự tác động của lực lượng sản xuất kinh doanh và quan hệ trong kinh

doanh mới cải biến được những vật chất tự nhiên sẵn có chuyển thành những sản

phẩm đáp ứng nhu cầu con người, làm đẹp nhưng quan hệ giữa người với người và

môi trường sống của họ, chính nhu cầu của cuộc sống đã kích thích những sáng tạo

vô biên của con người về cả chất lượng và số lượng tạo nên cái đẹp, thẩm mỹ cho

cuộc sống của con người. Chính vì nhu cầu này mà vật chất hàng hoá chuyên chở

trong đó văn hoá đã vượt qua biên giới, xuyên quốc gia nhằm tạo nên những tinh

hoa văn hoá mới, thúc đẩy xã hội tiến lên theo hướng văn minh chính từ văn hoá

trong kinh doanh giúp các quốc gia, các miền văn hoá khác nhau hiểu về văn hoá

đặc trưng của nhau. Từ đó rút ra những kiến thức để áp dụng phù hợp đưa xã hội

tiến lên. làm cho sản xuất kinh doanh cũng ngày càng được thúc đẩy, lợi nhuận

ngày càng được nhân lên để mỗi người, mỗi tập thể trở nên giàu có thì quốc gia

càng vững mạnh. Thành quả này chuỷên văn hoá có giá trị hơn từ đây yếu tố văn

hoá trong kinh doanh tiềm ẩn trong mỗi nhà kinh doanh. Mặt trái phải kinh doanh

cũng song song tồn tại. do đó giáo dục và văn hoá được phải điều chỉnh từ chính là

mọi hoạt động nhân văn có tính gia đình xã hội, quốc gia, quốc tế sâu sắc và phải có

giải pháp tổng thể về sự tiến bộ của con người.

ở Việt Nam chúng ta, văn hoá trong kinh doanh có nhiều biểu hiện đáng

mừng, nhất là trong thời kỳ mở cửa, kinh tế thị trường ngày càng đi lên, thì những

mặt tích cực này càng nhìn thấy rõ mà có những trường hợp rất điển hình tôi xin

nêu ra sau đây:

Ví dụ: như Hàng bánh kẹo Kinh Đô là một hàng bánh kẹo mới được thành

lập nhưng đã chiếm được lòng tin của khách hàng và thị trường nhanh chóng không

nhưng về mặt số lượng mà cả về chất lượng, mà rõ nhất là qua dịp trung thu vừa

qua. Bánh trung thu là một mặt hàng rất nhỏ trong những sản phẩm bánh kẹo của

hãng nhưng tất cả mọi người đều yêu thích và chọn sản phẩm này làm biểu tượng

cho một hoạt động văn hoá là vui tết trung có được thành công như thế thì hãng

bánh này không chỉ dựa vào thế mạnh vật chất mà hãng đã biết đưa văn hoá vào

trong kinh doanh. giá trị nhìn thấy rõ nhất biết bính trong chiếc bánh nó đẹp, chất

lượng thực phẩm đảm bảo, lịch sự phù hợp với thị hiếu, tâm lý của khách hàng vì

thế dù giá cả có hơi đắt nhưng vẫn được người tiêu dùng chấp nhận. Tuy nhiên

không ít người kinh doanh lợi dụng những điểm mạnh này để nhái lại những sản

phẩm của hãng và nhằm kiếm lời gây ảnh hưởng xấu đến hãng và chính bản thân

khách hàng làm sức khoẻ của họ không được đảm bảo, đó là những mặt trái, những

hành vi phi văn hoá mà vẫn tồn tại.

Kinh doanh có văn hoá chính là phần thể hiện cái tâm và là bản chất hoá của

người tham gia kinh doanh. Nó chính là thước đo trình độ văn hoá, giáo dục và tình

cản và trách nhiệm của người kinh doanh.

Trong điều kiện thực tế hiện nay. Có nhiều người kinh doanh và họ cảm thấy

niềm vui vì họ không những thu được lợi nhuận mà còn đem lại niềm vui, tiện nghi

cho những người kinh doanh, ví dụ như trên thị trường sản phẩm mỹ phẩm có

những nhà sản xuất phân phối vì họ muốn đem lại cái đẹp hiện đại cho phụ nữ

nhưng không ít nhà kinh doanh lợi dụng những nhu cầu này mà buôn bán đồ dởm,

kém chất lượng để lại những hậu quả xấu.

Trong tình hình việt nam đang trên đà phát triển và hội nhập thì văn hoá và

kinh doanh luôn là nền tảng thúc đẩy kinh tế phát triển đưa nước ta tới dân giầu

nước mạnh xã hội công bằng và văn minh.

C - Kết luận

Văn hoá xâm nhập sâu trong các lĩnh vực của đồi sống xã hội. Bản thân hoạt

động kinh doanh đã “chuyên chở” các đặc trưng văn hoá. Hoạt động kinh doanh của

mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành đều mang tập quán thông lệ quốc tế và đặc trưng văn

hoá bản địa của mỗi vùng, miền quốc gia, dân tộc. Văn hoá kinh doanh của người

việt nam vốn giản dị, biểu hiện nhường, mình dân là một thành tố hợp thành nền

văn hoá tinh thần Việt Nam. Đến nay, kể từ sau công cuộc đổi mới thì văn hoá ngày

càng có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy kinh doanh khi mọi cánh cửa đất nước rộng mở,

thông tin phát triển, giao thương tự do. Không có văn hoá thì bản thân các hoạt

động kinh doanh, xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, hướng dẫn tiêu dùng

cũng trở nên vô nghĩ.

Càng khó khăn bao nhiêu công cuộc cạnh tranh càng quyết liệt bấy nhiêu,

người ta càng mở rộng các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm mà

các hoạt động đó không thể tách rời các hoạt động văn hoá. Cỗ vũ cho văn hoá là cổ

vũ, hỗ trợ kinh doanh. Thông qua kinh doanh để quảng bá văn hoá, kinh doanh,

cùng với văn hoá ngày càng tiến tới các chuẩn mực cao tinh tế và đa dạng.

Trong tình hình việt nam đang trên đà phát triển và hội nhập, bước sang xã

hội công nghiệp thì văn hoá và kinh doanh luôn là nền tảng thúc đẩy kinh tế phát

triển đưa nước ta tới dân giầu, nước mạnh xã hội công bằng và văn minh.

Tài liệu tham khảo

1. Giaó trình thực hành triết

2. Tạp chí người làm chè số 51 ra ngày 27/9/2001

Mục lục

Trang

Lời nói đầu

A - giới thiệu đề tài

B - nội dung

I – Khái niệm văn hoá và chức năng của văn hoá

II - Mỗi quan hệ giữa văn hoá và kinh doanh

III – Văn hoá trong kinh doanh và kinh doanh có văn hoá

C - kết luận

14 Tài liệu tham khảo

1. Giáo trình thực hành triết - Trường Đại học Quản lý vằ Kinh

doanh Hà Nội - Tác giả Nguyên Phong

2. Tạp chí người làm chè số 51 ra ngày 27/9/2001 - Tác giả

3. Giáo trình cơ sở văn hoá Việt Nam - Trường Đại học Sư phạm

Hà Nội