TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

BỘ MÔN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

**********

NGUYỄN DUY QUỲNH

MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chính trị học

Mã số: 60.31.20

LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÍNH TRỊ HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Văn Vĩnh

Hà Nội – 2009

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ...................................................... Error! Bookmark not defined.

Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN

DÂN TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP

QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............. 10

1.1. Quan niệm chung về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa………………. .. 10

2.1. Quan niệm chung về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân………………….Error! Bookmark not defined.

Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ MỐI QUAN

HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAYError! Bookmark not defined.

2.1. Những điểm mạnh về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân ở Việt Nam

hiện nay …………………………………………………………………………..Error! Bookmark not defined.

2.2. Những hạn chế về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân ở Việt Nam hiện

nay ……………………………………………………………………………….Error! Bookmark not defined.

2.3. Những vấn đề đặt ra về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân ở Việt Nam

hiện nay …………………………………………………………………………..Error! Bookmark not defined.

Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG

CƢỜNG MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN

TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN

XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAYError! Bookmark not defined.

3.1. Phương hướng tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong điều

kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay…….Error! Bookmark not defined.

3.2. Một số giải pháp chủ yếu tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân

trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

hiện nay …………………………………………………………………………..Error! Bookmark not defined.

KẾT LUẬN .................................................. Error! Bookmark not defined.

1

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 12

MỤC LỤC

1. Tính cấp thiết của đề tài

Gần 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân

dân ta đã tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước,

xoá bỏ hoàn toàn chế độ thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam), tiến hành công

cuộc đổi mới, xây dựng đất nước theo còn đường xã hội chủ nghĩa.

Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phấn đấu hy sinh

vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc, ngoài ra không có lợi ích nào khác. Mối

quan hệ giữa Đảng với nhân dân là mối quan hệ đặc biệt, không thể tách rời.

Đây là một trong những quy luật tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt

Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt vấn đề phải xây dựng một Đảng sao cho

gắn bó máu thịt với nhân dân. Nếu khi nào đảng viên cộng sản, nhất là những

người giữ trọng trách trong các cơ quan Đảng và chính quyền xa rời quần chúng,

không sống với cuộc sống của nhân dân thì khi ấy Đảng sẽ đứng trước một nguy

cơ là mất ngay những điều kiện sống của chính bản thân mình. Điều ấy đã được

minh chứng qua sự tan rã của các Đảng Cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu kéo

theo sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Bởi thế, muốn gắn bó máu thịt với

nhân dân, đòi hỏi Đảng phải thường xuyên nỗ lực, tự đổi mới và chỉnh đốn, tự

phê bình và phê bình, nghĩa là bản thân Đảng phải có đủ lương tri và trí tuệ

những điều kiện để nhân dân tin yêu và kính trọng. Theo Hồ Chí Minh, mối

quan hệ giữa Đảng với nhân dân được hình thành và phát triển cùng với quá

trình cách mạng. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, Đảng chỉ là

người hướng dẫn, tổ chức và lãnh đạo mọi hoạt động của phong trào cách mạng.

Người còn nhắc nhở chúng ta phải hiểu sâu sắc ý nghĩa, vai trò của nhân dân

2

trong mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân.

Trong thời kỳ chiến tranh giải phóng dân tộc, do nhu cầu phải lãnh đạo

kịp thời cho kháng chiến, các chủ trương chính sách của Đảng được nhân dân

thực hiện trực tiếp. Sau khi hòa bình lập lại trên cả nước, những chủ trương của

Đảng về cơ bản đã dần được thể chế hóa thành pháp luật, người dân thực hiện

các chủ trương của Đảng thông qua các chính sách pháp luật của Nhà nước. Đến

thời kỳ chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới, việc thể chế hóa chủ trương của

Đảng bằng pháp luật được thể hiện ngày càng đậm nét hơn, đặc biệt kể từ đầu

những năm 90 của thế kỷ XX khi Đảng ta chủ trương xây dựng nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa thì vai trò của pháp luật ngày càng được coi trọng.

Trong hơn 23 năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Ðảng, toàn dân,

công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.

Ðến nay, mặc dù còn không ít khó khăn, hạn chế, đất nước ta đã có sự thay đổi

cơ bản và toàn diện. Kinh tế có sự tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa đang được đẩy mạnh. Ðời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được

cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng

cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ

vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Một trong

những nguyên nhân quan trọng dẫn đến những thành quả to lớn đó là Đảng tin

dân, dân tin Đảng. Nhiều cán bộ, đảng viên, nhiều tổ chức đảng đã phát huy và

thực hiện tốt đường lối quần chúng của Đảng nên ở những nơi đó mối quan hệ

giữa Đảng với nhân dân ngày càng gắn bó chặt chẽ.

Trong những năm qua, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam đã đạt được một số thành tựu nhất định. Luật pháp đang dần

dần giữ vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Nhân dân thực hiện chủ trương

của Đảng thông qua việc thực thi pháp luật. Tuy nhiên, việc xây dựng nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay vẫn đang bộc lộ những khó

khăn nhất định. Tình trạng mất dân chủ còn tồn tại, việc thực thi luật pháp ở nơi

3

này, nơi khác vẫn chưa nghiêm. Một số cán bộ đã lợi dụng chức quyền, nhân

danh Đảng, luật pháp để làm điều sai trái đã gây bất bình trong nhân dân. Kỷ

cương phép nước đôi lúc bị coi nhẹ. Chức năng của Đảng và Nhà nước đôi lúc

chưa được xác định rõ, nhiệm vụ còn chồng chéo. Tình trạng dân khiếu kiện

“biểu tình”, chống lại chính quyền, cán bộ, đảng viên ở một số nơi trong thời

gian qua là tiếng chuông cảnh tỉnh về nguy cơ Đảng và chính quyền nơi đó đã

mất chỗ dựa ở dân, cũng như dân ở nơi đó không còn tin vào những con người

nhân danh đại diện cho Đảng. Thực tế đó nếu không được khắc phục kịp thời thì

hậu quả khôn lường. Bởi vì như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng cảnh báo rằng,

một Đảng, một dân tộc và mỗi cá nhân ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn

lớn, nhưng không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến

và ca ngợi nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân.

Thực trạng đó đặt ra yêu cầu bức thiết là phải tiếp tục tăng cường và củng cố

mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân.

Mặt khác, trong bối cảnh toàn cầu hoá đang diễn ra ngày càng nhanh

chóng và sâu rộng thì mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân càng được coi trọng,

càng cần phải được củng cố và tăng cường hơn bao giờ hết. Đảng phải ra sức

chăm lo đến lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động,

sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới, với tình

hình thế giới đang diễn ra phức tạp trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.

Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Những ý

kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trò quan trọng trong việc

hình thành đường lối đổi mới của Ðảng. Dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực

tiễn phong phú của nhân dân, thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố

mới, từng bước tìm ra quy luật các mặt của cuộc sống để đi lên.

Vì vậy, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, góp phần

tìm ra những giải pháp để tăng cường mối quan hệ, gắn bó mật thiết giữa Đảng

với nhân dân trong điều kiện nước ta đang trong quá trình xây dựng nhà nước

pháp quyền có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng, vừa cấp thiết trước mắt,

4

vừa cơ bản lâu dài. Với tất cả những lý do đó, tôi đã lựa chọn đề tài: “Mối quan

hệ giữa Đảng với nhân dân trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ Chính trị

học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu

Cho đến nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa

Đảng với nhân dân cũng như nghiên cứu về nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam. Đó là những kết quả bước đầu đáng trân trọng của các nhà

khoa học.

Mối quan hệ Đảng với nhân dân đã được đề cập trong các công trình

nghiên cứu của nhiều học giả, trong đó có một số cuốn sách như: Phát huy dân

chủ xã hội chủ nghĩa xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân trong sạch

vững mạnh (Đỗ Mười, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998); Đổi mới, chỉnh

đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng (Nxb. Quân

đội nhân dân, Hà Nội, 2006); Mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân trong thời kỳ

đổi mới đất nước - Vấn đề và kinh nghiệm (Nguyễn Văn Sáu, Trần Xuân Sầm,

Lê Doãn Tá - đồng chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002); Xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân (Nxb. Quân đội

nhân dân, Hà Nội, 2003); Xây dựng Nhà nước Pháp quyền đáp ứng yêu cầu phát

triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay (Lê Minh

Quân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003); Mối quan hệ giữa Đảng và Dân

trong tư tưởng Hồ Chí Minh, (Đàm Văn Thọ, Vũ Hùng, Nxb. Chính trị Quốc

gia, Hà Nội 1997); Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng (Nguyễn Quốc Bảo, Nxb.

Lao Động, Hà Nội 2001) .

Đó là những công trình tiêu biểu viết về mối quan hệ Đảng với nhân dân.

Ngoài ra, còn một số bài đăng trên các tạp chí chuyên ngành có đề cặp đến vấn

đề này như là: Nâng cao sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng: tăng

cường mối quan hệ máu thịt với nhân dân, Đảng – dân một ý chí (Lê Khả Phiêu,

5

Sinh hoạt lý luận, 1999, số 2, tr.7 - 12); Đảng gắn bó máu thịt với dân (Võ Văn

Kiệt, Xây dựng Đảng, 2005, số 4, tr.11- 14); Dân tộc Việt Nam, con người Việt

Nam, nguồn sức mạnh, trí tuệ, sức sống của Đảng Cộng sản Việt Nam (Nguyễn

Văn Hồng, Thông tin lý luận, 2000, số 2, tr.13 -16); Đảng vừa là người lãnh đạo

vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân (Mạch Quang Thắng, Tư

tưởng văn hoá, 2000, số 1, tr.16 – 18); Đổi mới nhận thức về mối quan hệ giữa

Đảng và quần chúng (Hoàng Chí Bảo, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1/1991)…

Bên cạnh đó, vấn đề về nhà nước pháp quyền cũng như xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng đã được nhiều tác giả

nghiên cứu. Trong số những cuốn sách nghiên cứu về vấn đề này, có một số tác

phẩm tiêu biểu như: Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân

(Nguyễn Trọng Thóc, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2005); Cơ sở lý luận và

thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do

nhân dân, vì nhân dân (Trần Hậu Thành, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội 2005);

Xây dựng Nhà nước Pháp quyền đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước theo định

hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay (LêMinh Quân, Nxb. Chính trị

quốc gia, Hà Nội 2003; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

dân, do dân, vì dân (Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội 2003); Xây dựng Nhà

nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng (Nguyễn Văn Thảo, Nxb. Tư

pháp, Hà Nội 2006; Triết học Chính trị Montesquieu với việc xây dựng Nhà

nước pháp quyền Việt Nam (Lê Tuấn Huy, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh,

2006).

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã khái quát, đề cập tương đối

rộng và phản ánh được nhiều khía cạnh của mối quan hệ Đảng với nhân dân

cũng như những lý thuyết về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quá trình

xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, cụ thể là:

Thứ nhất, đã cơ bản thấy rõ được tầm quan trọng của Đảng trong việc

lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp

và đế quốc Mỹ. Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh

6

giành độc lập tự do cho Tổ quốc, thống nhất nước nhà và thực hiện công cuộc

đổi mới xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Từ ngày có Đảng,

nhân dân ta một lòng theo Đảng, đưa sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước

tiến bước vững chắc, viết nên những trang sử vẻ vang của dân tộc. Đảng vì dân,

dựa vào dân, dân tin vào sự lãnh đạo của Đảng, đi theo Đảng, đoàn kết xung

quanh Đảng làm cách mạng.

Thứ hai, đã cơ bản làm rõ được vai trò quan trọng của mối quan hệ giữa

Đảng với nhân dân trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ ba, đã nhận thức được mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân

dân là cội nguồn sức mạnh của cách mạng Việt Nam. Gắn bó mật thiết với nhân

dân là bản chất của Đảng. Ngoài việc phục vụ nhân dân, Đảng ta không có lợi

ích nào khác. Dân gắn bó mật thiết với Đảng vì Đảng là lực lượng tinh hoa, là trí

tuệ lãnh đạo nhân dân thực hiện mục tiêu lý tưởng của mình.

Thứ tư, các tác giả còn đề cập đến cơ sở khoa học của mối quan hệ giữa

Đảng với nhân dân; tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ máu thịt giữa Đảng

với nhân dân; những điều kiện đảm bảo giữ vững mối quan hệ máu thịt giữa

Đảng và nhân dân; về phương thức lãnh đạo của Đảng để tăng cường mối quan

hệ giữa Đảng với nhân dân…

Thư năm, đã bước đầu làm sáng tỏ hơn trên phương diện lý luận về nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam…

Tuy nhiên, vẫn chưa có một công trình chuyên khảo nào đề cập một cách

có hệ thống về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong điều kiện xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay; xây dựng nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt ra vấn đề gì cho mối quan hệ Đảng - nhân dân

hay ảnh hưởng của việc xây dựng nhà nước pháp quyền đối với mối quan hệ

Đảng – nhân dân. Trong khi, nghiên cứu mối quan hệ này sẽ góp phần tìm ra

những giải pháp để tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và dân trong điều kiện

7

mới, trong điều kiện mà Việt Nam đang ngày càng hoàn thiện việc xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng như hội nhập sâu rộng với thế giới,

đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích: Trên cơ sở làm rõ quan niệm chung về mối quan hệ giữa

Đảng với nhân dân, phân tích thực trạng và vấn đề đặt ra hiện nay về mối quan

hệ giữa Đảng với nhân dân, luận văn đề xuất phương hướng và một số giải pháp

chủ yếu tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong điều kiện xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

- Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ

thể sau đây:

+ Làm rõ quan niệm chung về Đảng Cộng sản, về nhân dân, về mối quan

hệ giữa Đảng với nhân dân, quan niệm chung về Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa.

+ Phân tích những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của hạn chế và

những vấn đề đặt ra về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân ở nước ta hiện nay.

+ Đề xuất phương hướng và giải pháp tăng cường mối quan hệ giữa

Đảng với nhân dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa ở nước ta hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Luận văn xác định giới hạn nghiên cứu là mối quan hệ giữa Đảng với

nhân dân trong điệu kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở

Việt Nam từ khi đổi mới (1986) đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận: Đề tài dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư

8

tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản về Đảng kiểu mới của

giai cấp công nhân, về vai trò của quần chúng nhân dân, về mối quan hệ giữa

Đảng với nhân dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa ở nước ta hiện nay.

- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu

biện chứng duy vật Mác xít và kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu chuyên

ngành chính trị học như: phương pháp lịch sử, so sách, lôgíc, hệ thống, cấu trúc,

quan sát thực tiễn …

6. Đóng góp của luận văn

- Góp phần làm rõ thêm những quan điểm và nội dung chủ yếu về mối

quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa, Việt

Nam đang từng bước hội nhập sâu rộng với quốc tế.

- Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra về mối quan hệ giữa Đảng

với nhân dân ở nước ta kể từ khi bắt đầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa đến nay.

- Góp phần đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường

mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp

quyền ở nước ta hiện nay.

- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tư liệu tham khảo cho

việc nghiên cứu và giảng dạy Chính trị học và Xây dựng Đảng; đồng thời làm

tài liệu tham khảo cho các nhà lãnh đạo, quản lý trong việc nghiên cứu đổi mới

hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,

9

luận văn được cấu trúc thành 3 chương, 7 tiết.

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN

TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI

CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. Quan niệm chung về nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Trong lịch sử nhân loại, tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã ra đời sớm

trong các học thuyết triết học, pháp luật của các nhà tư tưởng cổ đại Hy Lạp, La

Mã. Nhà nước pháp quyền được tạo bởi hai thành tố "nhà nước" và "pháp

quyền". Sự phức tạp, mâu thuẫn là ở chỗ, nhà nước đặt ra pháp luật nhưng nhà

nước lại phải tôn trọng pháp luật, đặt mình dưới pháp luật, coi pháp luật là

những chuẩn mực cho mọi hành vi hoạt động của mình. Chỉ quyền lực chính trị

sử dụng pháp luật vẫn chưa đủ để có nhà nước pháp quyền. Khi nào nhà nước

được thiết lập như một tổ chức pháp lý nhằm thực hiện công quyền thì khi đó tư

tưởng nhà nước pháp quyền mới trở thành hiện thực.

Điều cốt yếu khi xây dựng nhà nước pháp quyền là cần phải giải quyết

trên thực tế: quan hệ nhà nước và pháp luật; quan hệ nhà nước với dân cư; tạo

được các bảo đảm pháp lý, các tiền đề, điều kiện cho xây dựng nhà nước pháp

quyền. Nhà nước pháp quyền thực chất là việc nhận thức đúng mối quan hệ giữa

nhà nước và pháp luật. Hoặc là nhà nước đứng trên pháp luật hoặc là nhà nước

hoạt động tuyệt đối tuân theo pháp luật. Nội dung quan trọng của vấn đề nhà

nước pháp quyền là tính tối cao của hiến pháp, sự bảo vệ chặt chẽ, triệt để các

quyền công dân, bất cứ một quyết định nào của cơ quan nhà nước cũng đều bị

đưa ra xét xử tại tòa án, nếu nó vi phạm hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp

quyền đòi hỏi phải thiết lập sự kiểm tra và phán quyết tính hợp hiến của các đạo

luật và kiểm tra tính hợp pháp của các hành vi hành chính.

Ở những nước theo chủ nghĩa xã hội, người ta không nói đến nhà nước

10

pháp quyền mà chỉ nói đến nhà nước chuyên chính vô sản, cho đến 1988, trong

quá trình thực hiện kế hoạch cải tổ đất nước, Đảng Cộng sản Liên Xô đã bắt đầu

nói đến khái niệm "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" để chỉ một nhà nước

pháp quyền theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ở nước ta, mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập rất sớm tư tưởng về

nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, trong các Văn kiện của Đảng từ khi giành

được chính quyền đến Đại hội VII (1991), vấn đề xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa chưa được chính thức đặt ra. Phải đến Hội nghị đại biểu

toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đảng ta mới chính thức đưa vấn đề xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vào văn kiện của Đảng.

Phần thứ hai của Văn kiện Hội nghị đã nêu ra nhiệm vụ: "Xây dựng Nhà nước

pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân" với nội dung chủ

yếu là: "Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt

Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt

đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội

chủ nghĩa" [5, tr.56]. Có thể khẳng định, đây là lần đầu tiên trong Văn kiện quan

trọng của Đảng chính thức sử dụng thuật ngữ nhà nước pháp quyền và nêu cụ

thể, toàn diện những quan điểm, nguyên tắc, nội dung xây dựng Nhà nước pháp

quyền Việt Nam. Với cách thể hiện này trong Văn kiện này, tư tưởng về Nhà

nước pháp quyền Việt Nam đã có bước phát triển rõ nét và toàn diện. Việc xây

dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam trở thành chủ trương có tầm chiết lược,

bao trùm toàn bộ tổ chức, hoạt động của nhà nước, trở thành định hướng cho

toàn bộ quá trình và nội dung đổi mới tổ chức, hoạt động của nhà nước.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam,

Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục

xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững

mạnh. Tiếp tục phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, và vì dân” [6, tr.40].

Nghị quyêt chỉ rõ: “Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong

11

điều kiện chuyển đổi nền kinh tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của chúng ta còn

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoàng Chí Bảo (1991), Đổi mới nhận thức về mối quan hệ giữa Đảng và

quần chúng, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1.

2. Nguyễn Quốc Bảo (2001), Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, Nxb. Lao

Động, Hà Nội.

3. Nguyễn Doãn Chính, Nguyễn Văn Trịnh (2007), Tư tưởng pháp trị của

pháp gia với sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Nxb.

Chính trị Quốc gia

4. Nguyễn Đăng Dung (2002), Hiến pháp và bộ máy nhà nước, Nxb. Giao

thông vận tại, Hà nội

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc

giữa nhiệm kỳ khóa VII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Khoa VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà

Nội

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội

9. Đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu

của Đảng (2006), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội

10. Phạm Văn Đồng (1993), Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con

đường dân giàu nước mạnh, Nxb. Sự thật, Hà Nội

11. Nguyễn Văn Hồng (2000), Dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam, nguồn

sức mạnh, trí tuệ, sức sống của Đảng Cộng sản Việt Nam, Tạp chí Thông

tin lý luận, số 2

12. Lê Tuấn Huy (2006), Triết học Chính trị Montesquieu với việc xây dựng

12

Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh

13. Josef Thesing (2002), Nhà nước pháp quyền, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà

Nội

14. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập Tập 1 Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội

15. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 2 Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

16. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 3 Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

17. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 4 Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

18. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5 Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

19. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 6 Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

20. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 7 Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

21. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 8 Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

22. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 9 Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

23. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 10 Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

24. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

25. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

26. Đỗ Mười (1998), Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa xây dựng nhà nước

của dân, do dân, vì dân trong sạch vững mạnh Nxb. Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

27. Lê Khả Phiêu (1999), Nâng cao sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của

Đảng: tăng cường mối quan hệ máu thịt với nhân dân, Đảng – dân một ý

chí, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 2

28. Lê Minh Quân (2003), Xây dựng Nhà nước Pháp quyền đáp ứng yêu cầu

phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

29. Quốc hội nước Việt Nam (1995), Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959,

1980, 1992, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội

30. Nguyễn Duy Quý (1992), Một số suy nghĩ về vấn đề xây dựng Nhà nước

pháp quyền ở nước ta, Tạp chí nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, số 2

31. Nguyễn Văn Sáu, Trần Xuân Sầm, Lê Doãn Tá - đồng chủ biên (2002),

Mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân trong thời kỳ đổi mới đất nước - Vấn

13

đề và kinh nghiệm, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

32. Trần Hậu Thành (2005), Cở sở lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nxb.

Lý luận chính trị, Hà Nội.

33. Mạch Quang Thắng (2000), Đảng vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy

tớ thật trung thành của nhân dân, Tư tưởng văn hoá, số 1

34. Nguyễn Văn Thảo (2006), Xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh

đạo của Đảng, Nxb. Tư pháp, Hà Nội

35. Đàm Văn Thọ (1997), Mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong tư

tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội

36. Nguyễn Trọng Thóc (2005), Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do

dân, vì dân, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội

37. Nguyễn Trãi (1976) Toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội

38. Mạnh tử (1992), Quốc văn giải thích, Nxb Thành phố HCM

39. Đào Trí Úc (1995), Nhà nước pháp quyền: một số vấn đề cơ bản, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà nội

40. Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (1971), Lịch sử Việt Nam, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội

41. Nguyễn Cửu Việt (1993), Quy luật phát triển của nhà nước xã hội chủ

nghĩa – vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền. Giáo trình lý luận chung về

nhà nước pháp quyền, Khoa Luật, Đại học Tổng hợp Hà Nội, Hà Nội

42. Nguyễn Văn Vĩnh (2007), Đảng lãnh đạo nhà nước trong điều kiện xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Lý

luận chính trị

43. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân

14

(2003), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội