Múa rối nước

Một màn biểu diễn múa rối nước ở Việt Nam

Các con rối nước

Múa rối nước (hay còn gọi là trò rối nước) là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân

gian truyền thống độc đáo, một sáng tạo đặc biệt của người Việt.

Múa rối nước đã ra đời chừng hơn 10 thế kỷ trước ở vùng châu thổ sông Hồng. Loại

hình này thường diễn vào dịp lễ, hội làng, ngày vui, ngày Tết, dùng con rối diễn trò,

diễn kịch trên mặt nước. Trò rối nước cũng được coi là nét văn hóa phi vật thể đặc sắc

của dân tộc Việt Nam.

Nghệ thuật trò rối nước có những đặc điểm khác với múa rối thông thường: dùng

mặt nước làm sân khấu (gọi là nhà rối hay thủy đình), phía sau có phông che, xung

quanh trang trí cờ, quạt, voi, lọng, cổng hàng mã... trên "sân khấu" này là những con

rối (được làm bằng gỗ) biểu diễn nhờ sự điều khiển của những người phía sau phông

thông qua hệ thống sào, dây... Biểu diễn rối nước không thể thiếu những tiếng trống,

tiếng pháo phụ trợ.

Con rối làm bằng gỗ sung, loại gỗ nhẹ nổi trên mặt nước, được đục cốt, đẽo với những

đường nét cách điệu riêng sau đó gọt giũa, đánh bóng và trang trí với nhiều màu sơn

khác nhau để làm tôn thêm đường nét tính cách cho từng nhân vật. Hình thù của con

rối thường tươi tắn, ngộ nghĩnh, tính hài và tính tượng trưng cao.

Phần thân rối là phần nổi lên mặt nước thể hiện nhân vật, còn phần đế là phần chìm

dưới mặt nước giữ cho rối nổi bên trên và là nơi lắp máy điều khiển cho quân rối cử

động.

Máy điều khiển và kỹ xảo điều khiển trong múa rối nước tạo nên hành động của quân

rối nước trên sân khấu, đó chính là mấu chốt của nghệ thuật trò rối nước.

Máy điều khiển rối nước có thể được chia làm hai loại cơ bản: máy sào và máy dây

đều có nhiệm vụ làm di chuyển quân rối và tạo hành động cho nhân vật. Máy điều

khiển được giấu trong lòng nước, lợi dụng sức nước, tạo sự điều khiển từ xa, cống

hiến cho người xem nhiều điều kỳ lạ, bất ngờ.

Buồng trò rối nước là nhà rối hay thủy đình thường được dựng lên giữa ao, hồ với

kiến trúc cân đối tượng trưng cho mái đình của vùng nông thôn Việt Nam.

Người nghệ nhân rối nước đứng trong buồng trò để điều khiển con rối. Họ thao tác

từng cây sào, thừng, vọt... hoặc giật con rối bằng hệ thống dây bố trí ở bên ngoài hoặc

dưới nước Sự thành công của quân rối nước chủ yếu trông vào sự cử động của thân

hình, hành động làm trò đóng kịch của nó.

Sân khấu rối nước là khoảng trống trước mặt buồng trò . Buồng trò, sân khấu được

trang bị cờ, quạt, voi, lọng, cổng hàng mã...Buổi diễn rất nhộn nhịp với lời ca, tiếng

trỗng, mò, tù và, chen tiếng pháp chuột, pháo thăng thiên, pháo mở cờ từ dưới nước

lên, trong ánh sáng lung linh và màn khói huyền ảo.

Trò rối nước là trò khéo lấy động tác làm ngôn ngữ diễn đạt, rối nước gắn bó với âm

nhạc như nghệ thuật múa. Âm nhạc điều khiển tốc độ, giữ nhịp, dẫn dắt động tác, gây

không khí với tiết tấu truyền thống giữ vai trò chủ đạo của trò rối nước, nhạc rối nước

thường sử dụng các làn điệu chèo hoặc dân ca đồng bằng Bắc Bộ.

Theo các truyền thuyết, huyền thoại lịch sử, trò rối nước ra đời từ thời xây thành Cổ

Loa, Kinh An Dương Vương, năm 255 trước công nguyên. Còn theo sử sách, văn bia

trò rối nước ra đời năm 1121 (đời Lý).

Trong kho tàng trò rối nước của Việt Nam, có 30 tiết mục cổ truyền và hàng trăm tiết

mục rối hiện đại kể về những sự tích dân gian và cuộc sống hàng ngày của người dân

Việt. Các trò diễn thường được mở đầu bằng sự giới thiệu của chú Tiễu,mô tả:

 Những sinh hoạt đời thường như: công việc nhà nông, câu ếch, cáo bắt vịt,

 Lễ hội: múa rồng, múa sư tử, rước kiệu, đấu vật, đánh võ, chọi trâu.

 Trích đoạn một số tích cổ: Thạch Sanh, Tấm Cám...

Nghệ thuật rối nước là đặc phẩm văn hoá bản địa dân tộc Việt, phát triển ở hầu hết các

làng xã quanh kinh thành Thăng Long như Đào Thục, Đào Xá - Huyện Đông Anh,

chùa Nành - Gia Lâm,Phường rối nước xã Thanh Hải - Thanh Hà - Hải Dương và

nhiều phường rối ở hầu hết các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.

Năm 1992, Nhà hát Múa rối Thăng Long phục hồi 17 trò rối nước làm sống dậy trò rối

nước trên toàn quốc gồm 17 trò: Bật cờ, Chú Tễu, Múa rồng, Em bé chăn trâu, Cày

cấy, Cậu ếch, Bắt vịt, Đánh cá, Vinh quy bái tổ, Múa sư tử, Múa phượng, Lê Lợi trả

gươm, Nhi đồng vui chơi, Đua thuyền, Múa lân, Múa tiên, Tứ linh.

Thơ

Thời con nít, mê trò rối nước

Reo ầm lên: Giỏi quá ! Tài ghê!

Các chú rối úp nơm, bắt cá

Các cô rối múa đều, hết chê!

Xem, cứ tưởng Trời ban phép lạ

Biến đất thó, gỗ vụn thành người

Nghĩ, càng thấy lắm điều bí ẩn

Lại reo toáng: Tuyệt vời! tuyệt vời!

Xem trò rối nước - Trường Giang

Đặc trưng múa rối

Múa rối là nghệ thuật tạo hình không gian biểu cảm thông qua ngôn ngữ hành động

con rối. Múa rối giống như âm nhạc, xiếc có đặc tính dân tộc và quốc tế, tồn tại dưới

nhiều hình thức trình diễn rối dây, rối que, rối bóng… chia thành hai loại: rối cạn, rối

nước.

Cảnh trong vở rối Trấn Cổ Loa thành. Nhà hát múa

rối Thăng Long

Theo các truyền thuyết, huyền thoại lịch sử, múa rối ra đời từ thời xây thành Cổ Loa,

Kinh An Dương Vương, năm 255 trước công nguyên, là giả thuyết muốn nói múa rối

một hình thức nghệ thuật cổ xưa. Còn theo sử sách, văn bia ghi lại múa rối nước ra đời

năm 1121, diễn các trò múa rối, con rối cử động như người thật, đây là bằng chứng

xác thực múa rối ra đời trong triều đại phong kiến Việt Nam phát triển vững mạnh.

Nghệ thuật rối nước phát triển trò diễn khá hoàn chỉnh các mặt tạo hình con rối, kỹ

thuật biểu diễn sống thực. Múa rối lúc mới ra đời mang biểu tượng tâm linh cả hai

hình thức rối nước, rối cạn. Nghệ thuật rối nước gắn với lễ hội đình chùa, diễn phục

vụ nghi lễ, sau là vui chơi giải trí trước mọi đối tượng khán giả tham dự hội làng. Rối

cạn xuất hiện ở hầu hết các dân tộc thiểu số, con rối là vật hiển linh trừ tà ma treo

trước cửa nhà, mộ người mới chết, trong các lễ hội... Các dân tộc phía Bắc: Tày,

Nùng, Thái… có rối dây, rối que, thường diễn các trò Trung Quốc cổ xưa như Quan

Công, Trương Phi, Sơn Hậu, Ngọc Phù Dung... Đây là nghệ thuật rối do các dân tộc di

cư từ Trung Quốc sang nước ta vào thế kỷ III sau công nguyên. Các dân tộc phương

Nam, Miền Trung và Tây Nguyên, người Chăm có rối tay, rối bóng, nguồn gốc Ấn Độ

giáo thường diễn các tích thần thoại Ấn Độ. Đồng bào Tây Nguyên, Khơ Me Nam Bộ

có các trò rối que, rối dây, mang dấu tích văn hoá vùng Đông Nam Á. Qua khảo sát

thực tiễn, múa rối các dân tộc đã mai một gần hết bởi nhiều nghệ nhân giỏi đã ra đi,

rối cạn chỉ còn lại trong các đền chùa, ngôi mộ cổ, một số lễ hội các dân tộc treo con

rối biểu trưng, ít có nghệ thuật diễn. Nghệ thuật rối nước là đặc phẩm văn hoá bản địa

dân tộc Việt, phát triển ở hầu hết các làng xã quanh kinh thành Thăng Long như Đào

Thục, Đào Xá - Huyện Đông Anh, chùa Nành - Gia Lâm và nhiều phường rối ở hầu

hết các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Dù nguồn gốc văn hoá dân tộc bản địa, nhưng rối

nước bị quên lãng gần nửa thế kỷ. Các đoàn, nhà hát chỉ dựng và diễn rối cạn của các

dân tộc nâng lên thành vở diễn hoành tráng, kịch nói hoá rối cạn như một phát hiện

mới, đánh mất bản thể, đặc trưng múa rối. Vào những năm cuối thế kỷ XX, năm 1992,

Nhà hát Múa rối Thăng Long phục hồi 17 trò rối nước trở thành trào lưu sống dậy

múa rối nước trên toàn quốc. Nhiều đoàn, nhà hát lưu diễn ra nước ngoài, khán giả

khâm phục nghệ thuật độc đáo, khác lạ hấp dẫn, kỳ ngộ cuốn hút họ đến xem múa rối

nước. Nghệ thuật rối nước lấy mặt nước làm sân khấu trình diễn, các nghệ nhân chỉ

diễn trò vui giải trí, mô tả lại những nét sinh hoạt người nông dân ở đồng bằng Bắc

Bộ. Hiện nay, Nhà hát sưu tầm phục hồi 17 trò múa rối nước:

1. Bật cờ

2. Chú Tễu

3. Múa rồng

4. Em bé chăn trâu

5. Cày cấy

6. Cậu ếch

7. Bắt vịt

8. Đánh cá

9. Vinh quy bái tổ

10. Múa sư tử

11. Múa phượng

12. Lê Lợi trả gươm

13. Nhi đồng vui chơi

14. Đua thuyền

15. Múa lân

16. Múa tiên

17. Tứ linh

Cảnh trong vở rối Chuyện tò he của Nhà hát múa

rối Việt Nam

Liên kết 17 trò rối nước thành một chương trình hấp dẫn luôn thay đổi không khí, hình

thức trình diễn. Chú Tễu giữ vai trò nổi bật là người dẫn truyện nói rằng: Thấy sự đời

bối rối đa đoan, nên tôi phải lặn lội để lo toan sự rối! Đấy bà con ạ. Chú Tễu đã gỡ rối

cho nhiều đoàn nghệ thuật múa rối, sống dậy bằng văn hoá Việt Nam, nghệ thuật rối

dân tộc. Múa rối dù là rối nước hay rối cạn phương thức trình diễn sân khấu, kỹ thuật

khác nhau nhưng có chung những nét đặc trưng:

- Nghệ thuật xếp trò

- Nghệ thuật tạo hình con rối

- Kỹ thuật điều khiển con rối sống thực kỳ ngộ.

Dù là rối nước hay rối cạn, múa rối chung một khoảng không gian trình diễn, âm nhạc

phù trợ chắp cánh cho con rối biểu cảm nội tâm, tình huống sân khấu. Âm nhạc rối

nước thường sử dụng các làn điệu chèo hoặc dân ca đồng bằng Bắc Bộ. Âm nhạc rối

cạn do nghệ nhân ghép nhạc có trích đoạn nhạc tuồng theo các trò diễn tuồng, nhạc

dân ca các dân tộc theo trò diễn dân gian. Hiện nay, các đoàn, nhà hát trình diễn

những vở rối cạn, sáng tác nhạc mới kết hợp với dân ca vào vở diễn.

Nghệ thuật múa rối đang sống dậy mạnh mẽ dưới hai hình thức rối nước, rối cạn, phát

triển hài hoà đặc tính dân gian hiện đại. Mỗi hình thức thể hiện nhiều hướng nghệ

thuật khác lạ, đổi mới phương thức sân khấu ngang tầm nghệ thuật thế kỷ, đáp ứng

công chúng thời đại.