Nấm móng, dùng thuốc gì?

Tôi năm nay 35 tuổi, sức khỏe bình thường. Thời gian gần đây móng chân

của tôi có hiện tượng khô và gãy, đi khám được chẩn đoán bị nấm móng. Bác sĩ

chỉ định cho dùng ketoconazole đường uống, nhưng ra hiệu thuốc lại được tư vấn

dùng glyseofulvin vì thuốc rẻ hơn mà lại có tác dụng tương tự. Tôi xin hỏi như vậy

có đúng không, tôi có thể thay thuốc được không?

Trần Thu Hương (Hà Tĩnh)

Glyseofulvin và ketoconazole đều là các thuốc có tác dụng điều trị nấm

toàn thân nói chung và nấm da nói riêng. Tuy nhiên khả năng hấp thu, chuyển hóa

và thải trừ của thuốc có khác nhau, vì vậy tác dụng điều trị, các tác dụng không

mong muốn, cũng như chỉ định dùng thuốc

có ít nhiều khác nhau.

Glyseofulvin là thuốc ít hấp thu qua

đường tiêu hoá. Hấp thu thuốc tăng lên khi

uống trong hoặc sau các bữa ăn có nhiều

chất béo. Khi vào cơ thể, thuốc phân bố Nấm móng.

nhiều ở da, tóc, móng, gan, mô mỡ và cơ

xương. Tích luỹ nhiều trong các tế bào tiền thân keratin và có ái lực cao với mô

nhiễm bệnh. Thuốc được chỉ định: điều trị các loại nấm da, tóc và móng nhạy cảm.

Tác dụng không mong muốn: thường gặp là nhức đầu, chán ăn, buồn nôn, nổi ban

da, rối loạn cảm giác, viêm dây thần kinh ngoại biên, ngủ gà, chóng mặt, giảm

bạch cầu. Do đó, thuốc chống chỉ định khi người dùng có rối loạn chuyển hoá

porphyrin, suy gan.

Ngược lại, ketoconazole lại là thuốc hấp thu được qua đường uống, tốt nhất

ở môi trường có độ pH thấp (tức là khi đói). Thuốc phân bố vào các mô mềm, da,

gân và các dịch như nước bọt, dịch khớp, mật, nước tiểu. Thuốc qua nhau thai và

sữa mẹ nhưng không qua được hàng rào máu não. Thuốc được chỉ định trong điều

trị các bệnh do nhiễm nấm nhạy cảm ở da, tóc, móng, đường tiêu hoá và nội tạng.

Dự phòng và trị nấm ở người suy giảm miễn dịch và viêm da do tăng tiết bã nhờn.

Nhưng tác dụng không mong muốn khi dùng (tùy theo thời gian và liều sử dụng)

có thể gặp là buồn nôn, nôn, táo bón, đầy hơi, tiêu chảy, chảy máu tiêu hoá; thiểu

năng tuyến thượng thận, gây chứng vú to ở nam giới và giảm tình dục; có thể gặp

nhức đầu, chóng mặt, kích động hoặc ngủ gà, viêm da, phát ban, mày đay, tăng

enzym gan.

Vì vậy, tốt nhất bạn không nên tự ý thay đổi đơn thuốc của bác sĩ, vừa

không khỏi bệnh vừa không lường hết được tác dụng không mong muốn có thể

xảy ra.

Khắc phục nấm móng

Móng tay của cháu rất dễ gãy, có nhiều vảy trắng, ngứa. Có phải cháu bị

nấm móng không? Bác sĩ tư vấn cho cháu cách khắc phục.

Bệnh nấm móng chân (tay) do nấm và vi khuẩn gây nên, có khả năng lây

lan rất nhanh. Một số nguyên nhân sau đây gây ra bệnh nấm móng: Vệ sinh cơ thể

không sạch sẽ; thường xuyên có các chấn thương nhẹ ở vùng móng chân; dùng

găng tay, tất và giày kín trong thời gian quá dài; thường xuyên có các hoạt động ở

nơi công cộng như bể bơi, phòng tập thể thao; gia đình có người bị mắc bệnh;

dùng chung đồ dùng cá nhân với người bị bệnh. Bệnh nấm móng nếu không được

chữa trị kịp thời, các vi khuẩn sẽ tấn công sâu hơn vào vùng da phía trong móng sẽ

ăn mòn và làm mục móng. Vùng da ở đầu các ngón chân, tay do bị mất lớp móng

bảo vệ nên dễ bị tổn thương và dị ứng. Bệnh nấm móng có thể chữa khỏi, nhưng

người bệnh cần kiên trì. Cháu nên đi khám da liễu để được tư vấn cụ thể hơn.

Hàng ngày cháu cần giữ tay, chân sạch sẽ; cần chú ý cắt gọn móng tay và hết sức

tránh gãi, đề phòng nấm phát triển lan vào móng tay; không dùng chung đồ dùng

với những người mắc bệnh; không sử dụng găng tay, tất và giầy kín trong thời

gian dài; hạn chế sinh hoạt ở các nơi công cộng vì đó là nguồn lây lan bệnh.

Nấm móng và cách dùng thuốc

Nấm móng chủ yếu do vi nấm Trichophyton (rubum hoặc menta -

rophyles) gây ra. Ngoài ra cũng có thể do một số vi nấm khác như Candida,

nấm hoại thư sinh hơi (aremonium sp, scopulariopsi, critalidium sp,

apergielus sp, fusarium) nhưng ít

hơn.

Một số điểm về nấm móng

Vi nấm có thể xâm lấn móng

bằng cách thâm nhập từ dưới móng,

Nấm móng.

từ bờ xa hay ở bờ gần (sát ngay da

móng) làm cho móng không còn vẻ

bóng, giòn ra, dày lên và màu bẩn, phần dưới móng có bột vụn, trên móng có rãnh,

lỗ chỗ. Lâu dần móng bị vẹm, phần còn lại xù xì, vàng đục. Cũng có khi vi nấm

xâm nhập thẳng vào phiến móng từ phía trên làm thành các mảng móng mất màu

dạng bột trắng (hay gặp ở trẻ em) gọi là nấm móng trắng nông. Đa số phát hiện

các trường hợp nấm móng hiện nay là dựa vào lâm sàng và soi kính hiển vi để

dùng thuốc.

Soi nấm dưới kinh hiển vi tiên đoán được chính xác 94%, lại rẻ tiền. Phức

tạp hơn là phải nuôi cấy nấm (tỷ lệ dương tính giả khá cao, chỉ chính xác được

khoảng 30-40%), có trường hợp biết một nấm bị nhiễm mà không liên quan đến

bệnh.

Trong trường hợp vi nấm không gây các tổn thương đáng kể, không có

triệu chứng lâm sàng kèm theo thì thường không dùng thuốc; song nên điều trị

nấm chân đi kèm để làm giảm viêm mô dưới da.

Những người trong gia đình cũng thường bị nấm móng. Chưa rõ đó là lây

truyền do tiếp xúc hay những người đó có tính cảm thụ giống nhau bị nhiễm nấm

trực tiếp từ cùng môi trường sống. Để chắc chắn, cần tránh các điều kiện gây lây

nhiễm (không dùng chung dụng cụ bấm móng, giày, tất...). Cần rửa sạch móng, lau

khô móng, dùng kem làm mềm móng... là những cách hỗ trợ cần thiết.

Thuốc thường dùng:

Thuốc toàn thân:

Terbinafin và intraconazol:

- Đánh giá so sánh hai thuốc: Về tỷ lệ khỏi lâm sàng khỏi 87,5% sang

thương móng. Nếu dùng terbinafin thì tỷ lệ người bệnh khỏi lâm sàng sau 12 tuần

dùng là 54% và sau 16 tuần dùng là 54%. Đối với intraconazol (vì có độc) nên

không dùng liên tục mà dùng 7 ngày trong tháng, dùng trong 3 tháng (12 tuần)

đến 4 tháng (16 tuần), thì tỷ lệ khỏi lâm sàng thấp hơn chỉ 32%. Về tỷ lệ khỏi hoàn

toàn (xét nghiệm không còn thấy nấm gây, móng lành hoàn toàn): nếu dùng

terbinafin thì tỷ lệ khỏi sau 12 tuần và 16 tuần điều trị là 46% và 55%, còn dùng

intraconazol tỷ lệ này thấp hơn tương ứng 23% và 26%. Như vậy, dùng terbinafin

cho hiệu quả cao hơn intraconazol.

- Về độ độc: Có tới 3,4% người bệnh dùng terbinafin phải ngừng thuốc vì

tác dụng phụ của thuốc. Phần lớn gây rối loạn tiêu hóa, đau đầu, đỏ da nhẹ, còn

tác dụng phụ nghiêm trọng chỉ khoảng 1% nhưng nếu xảy ra thì lại rất nặng bao

gồm: giảm bạch cầu trung tính, mất bạch cầu hạt. Sự giảm sút bạch cầu này dẫn

tới nhiễm khuẩn (gây viêm họng, lở loét, sốt); nhiễm độc gan nặng; có trường hợp

mất bạch cầu hạt và nhiễm độc gan nặng dẫn tới tử vong. Do vậy, không dùng

terbinafin cho người có tiền sử giảm bạch cầu, đặc biệt không dùng cho người có

bệnh gan mạn; cần làm xét nghiệm máu, chức năng gan trước và định kỳ trong

điều trị.

Đối với intraconazol người bệnh phải ngưng dùng thuốc vì những tác dụng

không mong muốn khoảng 2,6% (nếu dùng thuốc cách quãng) và 4,2% (nếu dùng

liên tục). Tác dụng phụ của intraconazol cũng như terbinafin nhưng còn thêm là

gây suy tim sung huyết, vì vậy còn có thêm chống chỉ định cho người suy tim

sung huyết.

Thời gian dùng thuốc:

- Terbinafin: dùng thuốc trong 6 tuần đối với nấm móng tay, từ 12-16 tuần

đối với nấm móng chân. Tuy nhiên nếu dùng thuốc trong 16 tuần cho hiệu quả cao

và bệnh ít tái phát hơn dùng thuốc trong 12 tuần.

- Intraconazol có hai cách dùng: Dùng cách quãng (dùng 1 tuần rồi nghỉ

dùng trong 3 tuần, nghĩa là trong một tháng chỉ dùng 1 tuần. Dùng như thế 2 tháng

với nấm móng tay hoặc 3 tháng với nấm móng chân) và dùng liên tục trong 12

tuần với nấm móng chân. Cách dùng cách quãng ít độc hơn.

Griseofulvin là loại thuốc kháng nấm phổ hẹp. Với nấm móng tay dùng

thuốc từ 4-8 tháng, với nấm móng chân dùng 6-12 tháng. Thuốc có thể gây đen

miệng, khó chịu ở dạ dày, ruột, nhức đầu buồn ngủ, lú lẫn, viêm thần kinh ngoại

biên, nhạy cảm với ánh nắng (gây sạm da), đặc biệt có thể giảm bạch cầu, mất

bạch cầu hạt, suy giảm chức năng gan. Cần kiểm tra hệ tạo máu chức năng gan

trước và định kỳ trước, trong khi dùng thuốc. Không được dùng griseofulvin cho

người mang thai, suy gan, rối loạn chuyển hóa porphyrin. Thận trọng với người

cho con bú. Khi dùng thuốc không được hút thuốc lá, uống rượu, dùng thuốc tránh

thai, thuốc ngủ (vì grisefpulvin có các tương tác bất lợi với các chất này).

Thuốc dùng ngoài: Một số thuốc sau

đây vốn là hóa chất sơn móng chân như

amorolfine, ciclopirox, olamin, tioconazol

được thử dùng để làm thuốc bôi trị nấm

móng chân. Kết quả thu được rất hạn chế

khoảng 20% - 54%, có trường hợp chỉ đạt

7%. Vì những thử nghiệm này không có đối

chứng nên khó đánh giá vì thế FDA cũng chưa chấp nhận cho dùng.

Các thuốc dùng ngoài thường dùng gồm: mỡ griseofulvin 5%, cream

terbinafin (laminazil), ketoconazol (nizoral) hay các loại azol khác. Chỉ dùng cho

những trường hợp nấm trắng nông hay những trường hợp nấm móng nhẹ. Cách

dùng: Dũa cho hết phần móng bị bệnh và dũa qua phần lành và bôi thuốc lên. Với

nấm móng chân cũng như móng tay phải dùng tối thiểu là 6 tháng, thậm chí có khi

tới 12 tháng.

Chữa nấm cần phải kiên trì. Bệnh nhẹ có thể dùng thuốc bôi (kết quả

không chắc chắn). Nếu bệnh ở mức độ vừa và nặng phải dùng thuốc uống (có thể

kết hợp thêm thuốc bôi). Trong 3 loại thuốc uống thì terbinafin là loại có tác dụng

mạnh nhất. Khi không dùng được terbinafin thì thay bằng intracona zol.

Griseofulvin kết quả không cao bằng và phải dùng kéo dài so với hai loại trên,

song là loại cổ điển, rẻ tiền hơn.