ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LÊ VIỆT HÙNG

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

NGUỒN NHÂN LỰC THỂ THAO Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC

THỂ DỤC THỂ THAO TRUNG ƯƠNG I

TỪ SƠN BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Mã số: 60 22 85

Người hướng dẫn: TS. Phạm Công Nhất

HÀ NỘI - 2008

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

Chƣơng 1 KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VẤN ĐỀ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC THỂ THAO Ở NƢỚC TA HIỆN NAY............................................................................................................... 8

1.1. Khái niệm và đặc điểm nguồn nhân lực thể thao .................................. 8

1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực thể thao ................................................ 8

1.1.2. Những đặc điểm cơ bản của nguồn nhân lực thể thao ở nước ta hiện nay.................................................................................................. 19

1.2. Vấn đề nâng cao chất lƣợng đào tạo nguồn nhân lực thể thao hiện nay ở nƣớc ta ...................................................................................................... 26

1.2.1. Vai trò của giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực thể thao ............... 26

1.2.2. Nhiệm vụ đặt ra cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực TDTT ở nước ta hiện nay ....................................................................... 28

Chƣơng 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỐI VỚI NGUỒN NHÂN LỰC THỂ DỤC THỂ THAO QUA KHẢO SÁT TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO I TỪ SƠN BẮC NINH ........ 31

2.1. Khái quát hoạt động của Trƣờng đại học Thể dục thể thao I ............... 31

2.2. Thực trạng .......................................................................................... 40

2.2.1. Đào tạo sinh viên.......................................................................... 41

2.2.2. Đào tạo nguồn lực con người đảm nhiệm công tác thể dục thể thao quần chúng và thể dục thể thao trong các lực lượng vũ trang ................ 43

2.2.3. Đào tạo nguồn nhân lực đảm nhiệm công tác thể dục thể theo trường học ......................................................................................................... 46

2.2.4. Đào tạo nguồn nhân lực con người đảm nhiệm công tác huấn luyện thể thao .................................................................................................. 51

88

2.2.5. Đào tạo nguồn lực con người đảm nhiệm công tác y sinh học trong các hoạt động thể dục thể thao ............................................................... 53

2.2.6. Đào tạo lực lượng vận động viên tài năng trẻ quốc gia ................ 54

2.2.7. Đào tạo nhân lực thể dục thể thao sau đại học ............................. 55

2.3. Đánh giá những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra .............................................................................................................. 57

2.3.1. Đánh giá những thành tựu và nguyên nhân .................................. 57

2.3.2. Đánh giá những hạn chế và nguyên nhân ..................................... 60

2.3.3. Những vấn đề đặt ra ..................................................................... 62

Chƣơng 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC Ở TRƢỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO I HIỆN NAY ......................................... 65

3.1. Phƣơng hƣớng .................................................................................... 65

3.1.1. Giáo dục - đào tạo phải đồng bộ .................................................. 65

3.1.2. Tăng cường áp dụng các thành tựu khoa học và công nghệ vào trong giáo dục - đào tạo ......................................................................... 67

3.1.3. Nội dung giáo dục - đào tạo phải gắn với thực tiễn ...................... 68

3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lƣợng giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực thể dục thể thao ở Trƣờng Đại học Thể dục thể thao I ...... 69

3.2.1. Đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy đối với các môn học .. 69

3.2.2. Tăng cường và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên .............. 72

3.2.3. Tích cực phát hiện, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài thể thao ............... 73

3.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất cho công tác giáo dục - đào tạo ......... 74

3.2.5. Giải pháp thành lập trung tâm khảo thí và kiểm định chất lượng . 75

3.2.6. Giải pháp về tăng cường quản lý học tập đối với sinh viên........... 76

KẾT LUẬN .................................................................................................. 80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 82

PHỤ LỤC .........................................................Error! Bookmark not defined.

89

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong các nguồn lực để phát triển kinh tế xã hội thì nguồn lực con

người có một vai trò hết sức đặc biệt, bởi nó vừa là chủ thể của quá trình sản

xuất đồng thời nó còn là yếu tố quyết định sự phát triển của một xã hội. Tuy

nhiên trong thực tế việc xây dựng và phát triển nguồn lực con người phải phù

hợp với quá trình phát triển chung của vấn đề kinh tế, xã hội. Nếu không nó

sẽ dẫn tới 2 khả năng: Một là, số lượng nguồn nhân lực tăng quá nhanh sẽ dẫn

tới tỡnh trạng thừa nhõn lực và gia tăng tỷ lệ thất nghiệp đối với nguồn lao

động, từ đó gây khó khăn và ảnh hưởng tới đời sống dân cư và sự phát triển

kinh tế - xó hội. Hai là, quỏ trỡnh xõy dựng và phỏt triển nguồn nhõn lực diễn

ra với tốc độ chậm, hoặc năng lực nội tại của nguồn nhân lực không đáp ứng

được nhu cầu phát triển kinh tế - xó hội của đất nước. Thực tế phát triển của

các nền kinh tế - xó hội của nhiều quốc gia trên thế giới trước đây cũng như

hiện nay đều gặp cả hai trường hợp này.

Với tư cách là mục tiêu, động lực của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa

thì việc tìm ra các đặc trưng, phương hướng và biện pháp, để khơi dậy các

tiềm năng to lớn của con người cũng như rèn luyện cho con người phù hợp

với điều kiện của xã hội là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp xây

dựng và phát triển đất nước ta nói chung cũng như phát triển sự nghiệp thể

dục thể thao (TDTT) nói riêng.

Thể dục thể thao là một trong những hoạt động đặc trưng do con người

sáng tạo ra, nhằm hoàn thiện năng lực thể chất và tinh thần cho bản thân con

người trong quá trình lao động sản xuất, cải tạo tự nhiên và xã hội.

Thể dục thể thao còn là một bộ phận của nền văn hoá mỗi dân tộc cũng

như của nền văn minh nhân loại. Trình độ phát triển TDTT là một trong

những tiêu chí đánh giá trình độ văn hoá và năng lực sáng tạo của dân tộc, là

phương tiện để giao lưu văn hoá nói chung, văn hoá thể chất nói riêng, và mở

1

rộng các quan hệ quốc tế, đối ngoại. Các hoạt động TDTT không chỉ có tác

dụng như những hoạt động giải trí, nghỉ ngơi mà nó còn mang lại niềm vui,

khích lệ lòng tự hoà dân tộc, sự cổ vũ to lớn cho nhân dân.

Dưới chế độ ta tất cả các lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội đều đặt con

người ở vị trí trung tâm. Mục tiêu cuối cùng của sự nghiệp phát triển kinh tế

và xã hội theo định hướng XHCN ở nước ta là đem lại đời sống ấm no, tự do,

hạnh phúc cho con người.

Thể dục thể thao là một phương tiện có hiệu quả để nâng cao sức khoẻ

và thể lực cho nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, góp phần tích cực bồi dưỡng

nguồn nhân lực con người, đáp ứng nhu cầu lao động và sẵn sàng bảo vệ tổ

quốc trong điều kiện thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Do vậy

việc phát triển TDTT được coi như một nội dung quan trọng của chính sách

xã hội nhằm chăm lo, bồi dưỡng nguồn lực con người. Khi phân tích về

nguồn lực để phát triển đất nước Đảng ta xác định. Nguồn lực con người là

nguồn lực quan trọng nhất. Đồng thời cũng chỉ rõ: Người Việt Nam đang có

những hạn chế về thể lực, kiến thức và tay nghề. Khắc phục được những

nhược điểm đó thì nguồn nhân lực mới thực sự trở thành thế mạnh của đất

nước. Như vậy có thể khẳng định phát triển TDTT để tăng cường sức khoẻ,

nâng cao thể lực của nhân dân là một yêu cầu khách quan trong thời kỳ phát

triển mới của đất nước.

Từ các cơ sở đã trình bày ở trên có thể khẳng định, trong bất kỳ điều

kiện nào cũng cần chủ động phát triển những hoạt động TDTT trong nhân dân

và hướng hoạt động TDTT vào những mục tiêu chủ yếu nhằm nâng cao sức

khoẻ, xây dựng con người mới làm phong phú đời sống văn hoá tinh thần của

nhân dân, góp phần mở rộng giao lưu quốc tế phục vụ các nhiệm vụ phát triển

Kinh tế - Xã hội, quốc phòng của đất nước.

Trường đại học Thể dục thể thao I - Từ Sơn - Bắc Ninh là nơi đào tạo

và cung cấp chủ yếu đội ngũ cán bộ, giáo viên, huấn luyện viên, vận động

viên trẻ cho toàn ngành TDTT và phục vụ sự nghiệp phát triển TDTT của tất

2

cả mọi miền của đất nước, là cái nôi giáo dục, đào tạo đầu tiên của ngành

TDTT.

Sự nghiệp TDTT của đất nước có phát triển được hay không phụ thuộc

rất nhiều vào chất lượng giáo dục, đào tạo của trường. Xuất phát từ yêu cầu

khách quan đó, để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo đối với nguồn

nhân lực thể thao phục vụ công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của nước ta

hiện nay đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước. Chúng tôi chọn vấn đề: “Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo

nguồn nhân lực thể dục thể thao ở Trường đại học thể dục thể thao I” làm

đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội

khoa học.

2. Tình hình nghiên cứu

Nghiên cứu về nguồn nhân lực hay nguồn lực con người ở Việt Nam là

vấn đề được nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm, và được tiếp cận ở

nhiều góc độ khác nhau, với những kết quả thu được cũng khác nhau.

Trong cuốn: “Phát triển nguồn nhân lực: Kinh ngiệm thế giới và thực

tiễn nước ta” (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996), các tác giả Trần Văn

Tùng, Lê Ái Lâm đã phân tích nền kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong quá trình

đổi mới đất nước, chính sách phát triển nguồn nhân lực của một số nước trên

thế giới và Việt Nam, mức độ phát triển nguồn nhân lực hiện nay.

Tác giả Phan Thanh Tâm, năm 1996, trong luận án TS khoa học kinh

tế: “Các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ nhu

cầu công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước” đó trỡnh bày rừ luận cứ khoa

học về vai trũ quyết định của nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực

trong phát triển kinh tế - xó hội. Đưa ra các chỉ tiêu đánh giá chất lượng trí

lực cuả nguồn nhân lực. Đánh giá chất lượng và hạn chế của nguồn nhân lực

Việt Nam hiện nay và phân tích các nguyên nhân tạo ra các hạn chế đó, làm

rừ sự bức xỳc phải nõng cao chất lượng nguồn nhân lực và đặt vấn đề nâng

cao chất lượng đó thông qua cải thiện chất lượng về giáo dục, đào tạo. Đề

3

xuất hệ thống 4 giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực ở

Việt Nam hiện nay .

Năm 1999, tác giả Hà Quý Tình trong Luận án tiến sĩ kinh tế: “Vai trò

nhà nước trong việc tạo tiền đề nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá hiện đại

ở nước ta”, đã phân tích ý nghĩa của nguồn nhân lực, tạo lập nguồn nhân lực,

thực trạng nguồn nhân lực và vai trò của nhà nước đối với nguồn nhân lực.

Năm 1999, tác giả Mai Quốc Chánh trong cuốn: “Nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”

(Sỏch tham khảo), Nxb. Chớnh trị quốc gia, Hà Nội, đó nờu lờn vai trũ của

nguồn nhõn lực và sự cần thiết phải nõng cao chất lượng nguồn nhân lực;

Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực và những giải pháp nhằm nâng cao

chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước.

Năm 2001, tác giả Phạm Minh Hạc trên cơ sở kết quả nghiên cứu của

đề tài Khoa học cấp Nhà nước, đã viết cuốn: “Nghiên cứu con người và

nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, (Nxb. Chính trị quốc

gia, Hà Nội). Trong cuốn sách này tác giả đã trình bày khái quát lịch sử hình

thành và phát triển của ngành khoa học xã hội nghiên cứu con người trên thế

giới và Việt Nam. Một số kết quả trong công trình nghiên cứu con người và

nguồn nhân lực, đề xuất và kiến nghị về chiến lược và chính sách nhằm phát

triển toàn diện con người và nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn hiện

nay.

Năm 2003, tác giả Lê Ái Lâm trong cuốn: “Phát triển nguồn nhân lực

thông qua giáo dục và đào tạo: Kinh nghiệm các nước khu vực Đông Á”,

(Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội) đã nêu lên một số luận giải lý thuyết cùng

những thực tiễn Đông Á và bài học kinh nghiệm trong phát triển nguồn nhân

lực thông qua giáo dục và đào tạo.

Năm 2004 tác giả Phạm Minh Hạc (chủ biên) Phạm Thành Nghị, Vũ

Minh Chi, trong cuốn: “nghiên cứu con người và nguồn nhân lực”, (Nxb.

4

Khoa học xã hội, Hà Nội) đã công bố quyết định của Chính phủ về việc thành

lập Viện Nghiên cứu con người. Một vài quan niệm và phương pháp nghiên

cứu.

Năm 2005 tác giả Trần Văn Tùng trong cuốn: “Đào tạo , bồi dưỡng và

sử dụng nguồn nhân lực tài năng - Kinh nghiệm, của thế giới” đã trình bày

những kinh nghiệm trong việc phát hiện và đào tạo, sử dụng tài năng, khoa

học và công nghệ, sản xuất kinh doanh của một số cuốc gia Châu Âu và Châu

Á.

Năm 2006, các tác giả Nguyễn Viết Vượng, Nguyễn Khắc Thanh,

Nguyễn Quang Hồng... đó cho xuất bản cuốn Kỷ yếu Hội thảo khoa học với

chủ đề: “Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực trong thời kỳ công

nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam và vai trũ của tổ chức Công đoàn”.

Trong cuốn Kỷ yếu này, các tác giả đó giới thiệu kỷ yếu hội thảo khoa học

của Trường Đại học Công đoàn Việt Nam bao gồm các tham luận về chủ đề

nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hoá,

hiện đại hoá ở Việt Nam và vai trũ của tổ chức cụng đoàn trong việc xây dựng

và phát triển nguồn nhân lực Việt Nam.

Gần đây nhất năm 2007, tác giả Phạm Công Nhất (chủ biên) trong cuốn

“Phát huy nhân tố con người trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam

hiện nay”, (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội), đã khái quát quá trình xây dựng

và phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới, những

thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra. Đồng thời trong

cuốn sách này tác giả cũng đã bước đầu nêu lên một số phương hướng, đề

xuất các giải pháp cơ bản nhằm xây dựng và phát triển nguồn nhân lực Việt

Nam trong giai đoạn đổi mới tiếp tục thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá,

hiện đại hoá và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.

Về cơ bản tất cả các công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã nghiên

cứu và trình bày các kết quả nghiên cứu về nguồn nhân lực Việt Nam một

5

cách khá toàn diện, dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay

chưa thấy có tác giả và công trình nghiên cứu nào đi sâu nghiên cứu và đề

xuất các giải pháp phát triển nguồn nhân lực thể thao ở Việt Nam, đặc biệt là

các đề tài có liên quan đến việc nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo đối với

nguồn nhân lực thể thao ở một trường thể thao đầu ngành như Trường Đại

học Thể dục thể thao Trung ương I - Từ Sơn, Bắc Ninh hiện nay. Đề tài luận

văn này được đặt ra và nghiên cứu nhằm bổ sung vào phần khiếm khuyết đó.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

* Mục đích:

Trên cơ sở luận giải và làm rõ vai trò của giáo dục và đào tạo trong

việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thể thao, và qua khảo sát tại Trường

Đại học TDTT I - Từ Sơn - Bắc Ninh. Tác giả muốn đề xuất một số giải pháp

góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực này ở một trường đại

học cụ thể nói riêng, và tại các trường đào tạo nguồn nhân lực thể thao trong

cả nước nói chung.

* Nhiệm vụ:

Để đạt được mục đích nêu trên luận văn cần tập trung giải quyết các

nhiệm vụ sau: (3 nhiệm vụ)

- Làm rõ những vấn đề lý luận có liên quan đến khái niệm nguồn nhân

lực thể thao và vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo đối với nguồn

nhân lực thể thao ở nước ta hiện nay.

- Phân tích khảo sát thực trạng đối với công tác đào tạo nguồn nhân lực

thể thao ở nước ta qua khảo sát thực tế tại Trường Đại học TDTT I Từ Sơn -

Bắc Ninh.

- Bước đầu đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng

công tác giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực thể thao ở nước ta hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu:

6

Vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo nguồn nhân lực thể dục

thể thao ở Trường Đại học TDTT I Từ sơn Bắc Ninh hiện nay.

* Phạm vi nghiên cứu:

Luận văn nghiên cứu đề cập việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

thể thao dưới góc độ giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, qua thực tế khảo sát

tại Trường Đại học TDTT I Từ sơn Bắc Ninh.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

* Cơ sở lý luận:

Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa

Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ thống các quan điểm chính sách của

Đảng và Nhà nước ta đối với việc xây dựng đào tạo và phát triển nguồn nhân

lực thể thao.

* Phương pháp nghiên cứu.

Luận văn đã sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện

chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử; các phương pháp lôgic- lịch sử; so sánh -

tổng hợp. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp có tính liên ngành

như: thống kê, điều tra xã hội học... để nghiên cứu và trình bày các kết quả

nghiên cứu của luận văn.

6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn

- Về mặt lý luận: luận văn góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý

luận có liên quan đến việc xây dựng phát triển một loại hình nhân lực đặc

biệt, nguồn nhân lực thể thao.

- Về mặt thực tiễn: kết quả nghiên cứu của luận văn là nguồn tài liệu

nghiên cứu và giảng dạy tại các trường đại học và cao đẳng đang đào tạo

nguồn nhân lực thể thao trong cả nước.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

được chia làm 3 chương, 7 tiết.

7

Chƣơng 1

KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VẤN ĐỀ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG

ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC THỂ THAO Ở NƢỚC TA HIỆN NAY

1.1. Khái niệm và đặc điểm nguồn nhân lực thể thao

1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực thể thao

Trong các nguồn lực mà loài người hiện có và đang sử dụng trong quá

trình phát triển xã hội thì nguồn nhân lực hay nguồn lực con người có vai trò

quyết định nhất. Bởi vì "Con người là đối tượng trung tâm của sự phát triển"

đồng thời là nguồn lực chủ yếu có ý nghĩa quyết định tới mọi nguồn lực của

sự phát triển "Nguồn lực con người là nguồn lực của mọi nguồn lực" [64,

tr.42], là tài nguyên của mọi tài nguyên. Đuke, một tổ hợp công nghiệp Mỹ

cho rằng, bí quyết thành công của họ về sự phát triển gồm "ba điều cốt yếu:

Trước hết là con người, kế đó là con người và sau hết cũng là con người" [36,

tr.35]. Điều này nói lên con người vừa là mục đích vừa là động lực chủ yếu

của sự phát triển.

Khái niệm nguồn nhân lực đã được các tổ chức quốc tế nêu lên. Các nhà

khoa học và trong một số luận văn, luận án thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ta cũng đã đưa ra

những khái niệm về nguồn nhân lực quốc gia có sự tương đồng và khác nhau nhất

định.

Liên Hiệp quốc cho rằng, nguồn nhân lực bao gồm những kiến thức, kỹ

năng và năng lực của con người có quan hệ với sự phát triển quốc gia. Quan

8

niệm này đề cập về mặt chất lượng và hoạt động của nguồn nhân lực, không

đả động gì tới số lượng con người của nguồn nhân lực.

Cũng như Liên Hiệp quốc, Ngân hàng thế giới đưa ra khái niệm nguồn

nhân lực, chỉ đề cập tới mặt chất lượng, không nêu về mặt số lượng con người

và thậm chí chẳng nói đến vai trò của nguồn nhân lực.

Ở nước ta, các khái niệm về nguồn nhân lực có tính cụ thể và đầy đủ

hơn. Nhìn chung, các khái niệm có sự tương đồng nhất định, song về nội hàm

còn có sự khác biệt. Sau đây chúng tôi xin nêu lên một số quan niệm còn có

sự khác biệt nhau đó:

Trong luận văn Thạc sĩ triết học của Lương Thị Hải Thảo nêu lên khái

niệm nguồn nhân lực: "Theo nghĩa chung nhất, chúng ta có thể hiểu "Nguồn

nhân lực con người" là tổng hợp toàn bộ các yếu tố thể chất và tinh thần của

con người, các hoạt động vật chất và tinh thần của họ, đang và sẽ tạo ra năng

lực, sức mạnh phát triển xã hội" [49, tr.12].

Nếu như khái niệm về nguồn nhân lực mà không đề cập tới số lượng

con người trong độ tuổi lao động đang và sẽ tham gia vào quá trình hoạt động,

mà chỉ nói tới mặt hoạt động với mặt phẩm chất năng lực thì rõ ràng thiên về

khái niệm nhân tố con người.

GS, VS Phạm Minh Hạc quan niệm về nguồn nhân lực bao hàm cả hai

mặt: Số lượng con người và chất lượng con người. Ông cho rằng: "Nguồn

nhân lực là số lượng (số dân) và chất lượng con người bao gồm cả thể chất và

tinh thần, sức khoẻ, năng lực và phẩm chất" [27, tr.24].

Một khái niệm về nguồn nhân lực khác trong Đề tài khoa học - công

nghệ cấp nhà nước: "Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát

triển kinh tế - xã hội" mang mã số KX-07, cũng thống nhất với khái niệm của

GS, VS Phạm Minh Hạc nêu ở trên, nhưng nội hàm có phần phong phú hơn:

"Nguồn nhân lực được hiểu là số dân và chất lượng con người bao hàm cả thể

chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm chất, thái độ và phong

cách làm việc..." [26, tr.38].

9

Thiết nghĩ hai khái niệm về nguồn nhân lực nêu trên phù hợp với cấu

trúc của sự vật, hiện tượng ở chỗ nguồn nhân lực là sự thống nhất bởi hai mặt

số lượng và chất lượng con người. Hai mặt đó không thể tách rời nhau. Có sự

ảnh hưởng qua lại với nhau, trong đó mặt chất lượng là quyết định sức mạnh

của nguồn nhân lực. Tuy vậy, hai khái niệm trên vẫn chưa nói tới yếu tố hoạt

động, tức là vai trò và quy định trong phạm vi độ tuổi lao động của nguồn

nhân lực. Bởi vì nguồn nhân lực không phải bao quát mọi lứa tuổi, mà chỉ

giới hạn trong độ tuổi lao động và không chỉ tồn tại, phát triển dưới dạng tiềm

năng (đang được giáo dục - đào tạo), phần lớn là đang hoạt động, đang sáng

tạo ra của cải vật chất, tinh thần.

Khái niệm nguồn nhân lực sau đây cũng có cấu trúc hợp lý và là những

con người trong độ tuổi lao động có thể huy động được: "Nguồn nhân lực là

một bộ phận của dân số trong độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật,

có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt:

về số lượng, đó là tổng số những người đang trong độ tuổi lao động và thời

gian làm việc có thể huy động được họ... Về chất lượng nguồn nhân lực, đó là

trình độ chuyên môn và sức khoẻ của người lao động" [10, tr.31].

Chúng tôi tiếp thu những yếu tố hợp lý, sự cấu trúc đúng đắn của các

khái niệm về nguồn nhân lực trên đây và đề cập thêm một số yếu tố cần thiết

với sự xác định vai trò to lớn của nguồn nhân lực, xin đưa ra khái niệm như

sau: "Nguồn nhân lực (hay nguồn lực con người) là toàn bộ tiềm năng về dân

số, tiềm năng về lao động của một quốc gia hay cộng đồng, đang và sẽ tham

gia vào các quá trình hoạt động nhằm tạo ra các của cải vật chất và tinh thần,

nhằm thúc đẩy quá trình phát triển của quốc gia hay cộng đồng đó”.

Trong khi đưa ra khái niệm nguồn nhân lực, ngày nay do yêu cầu thúc

đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển nhanh các nhà nghiên cứu còn phát triển

mở rộng thêm nội dung khái niệm nguồn nhân lực, từ đó hình thành nên nhiều

khái niệm mới trong đó có khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao.

10

Nguồn nhân lực chất lượng cao là tổng thể các yếu tố như: Sức khoẻ,

tri thức, đạo đức và tính tích cực của cá nhân trong nguồn nhân lực, các yếu tố

này góp phần tạo nên chất lượng nguồn nhân lực, các yếu tố này có quan hệ

biên chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, tất cả các yếu tố này càng có

chất lượng thì nguồn nhân lực đó càng có chất lượng cao.

Sau đây là một số nét về thuộc tính và vai trò các yếu tố của chất lượng

nguồn nhân lực.

Sức khoẻ, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mọi con người kể từ

lúc sinh ra cho đến cuối đời. Đối với mỗi người, sức khoẻ còn là điều kiện

tiên quyết để mỗi cá nhân học tập tiếp nhận tri thức, kỹ năng, rèn luyện đạo

đức và tính tích cực, năng động sẵn sàng tham gia vào các hoạt động sáng

tạo. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII chỉ ra răng: "Sự cường tráng về

thể chất là nhu cầu của bản thân con người, đồng thời là vốn quý để tạo ra

tài sản trí tuệ và vật chất cho xã hội" [19, tr.30].

Mỗi con người trong nguồn nhân lực cần có sức khoẻ để thực hiện việc

chuyển tải tri thức chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của mình một cách có

hiệu quả trong hoạt động thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh:

"Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có

sức khoẻ mới làm thành công" [35, tr.212]. Người còn lưu ý mọi người:

"Muốn lao động tốt, công tác và học tập thì cần có sức khoẻ" [36, tr.200].

Nhưng sức khoẻ là gì ? Cần nhận rõ một cách khái quát với những tiêu

chí cơ bản, từ đó để xác định con người như thế nào là có sức khoẻ, như thế

nào là không có sức khoẻ. Hồ Chí Minh nêu lên khái niệm về sức khoẻ rất

sớm, từ đầu năm 1946: "Khí huyết lưu thông, tinh thần đầy đủ. Như vậy là

sức khỏe" [35, tr.212].

Trong khái niệm đó, Người đã nêu lên hai tiêu chí cơ bản của sức khoẻ

con người, tiêu chí thứ nhất là “khí huyết lưu thông" và tiêu chí thứ hai "tinh

thần đầy đủ". Hai tiêu chí này có quan hệ mật thiết với nhau, thống nhất biện

chứng trong khái niệm sức khoẻ.

11

Thế giới cũng đưa ra những khái niệm về sức khoẻ con người. Có

những khái niệm về sức khoẻ thể hiện sự tương đồng về nội hàm. Chẳng hạn

các nhà khoa học Mỹ năm 1968 nêu lên khái niệm: "Sức khoẻ không chỉ đơn

thuần là không bệnh tật, không yếu đuối, mà còn là trạng thái lành mạnh, đầy

đủ về thể chất, tinh thần và sự thoải mái về xã hội" [23, tr.3]. Mười năm sau,

năm 1978, trong tuyên ngôn AlmaAta Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã thống

nhất và đưa ra quan niệm mới về sức khoẻ. Theo đó: "Sức khoẻ là trạng thái

thoải mái cả về thể chất lẫn tâm thần xã hội chứ không chỉ đơn thuần là tình

trạng không bị bệnh tật hay không bị chấn thương [43, tr. 34].

Sức khoẻ con người với những tiêu chí cơ bản như các khái niệm nêu

lên ở trên đây đối với con người nói chung và nguồn nhân lực nói riêng thì ai

cũng có thể chăm sóc, rèn luyện, giữ gìn để có được. Mỗi người phải biết quý

trọng sức khoẻ tức là quý trọng sự tồn tại và phát triển của cá nhân mình, của

cộng đồng, để cho cuộc sống hạnh phúc, tươi đẹp, đầy ý nghĩa. Bởi vì con

người có sức khoẻ là có thêm một nội lực thúc đẩy mạnh mẽ ý chí. Sự quyết

tâm, phấn khích trong học tập, trong mọi hoạt động có kết quả tốt.

Để có sức khoẻ cả thể chất và tinh thần, mỗi người trong nguồn nhân

lực ngoài các điều kiện sống như ăn, mặc, ở đầy đủ, với điều kiện môi trường

tự nhiên, môi trường sinh thái trong lành, môi trường xã hội lành mạnh,

phương tiện phòng bệnh, chữa bệnh tốt, thì ai cũng cần thiết dành một số thời

gian nhất định hằng ngày cho việc rèn luyện thân thể, vui chơi thể thao. Thời

gian dành cho sự rèn luyện sức khoẻ, tinh thần đó không bao giờ hoài phí nó

đem lại lợi ích to lớn đối với mỗi con người, cộng đồng và toàn xã hội, trong

hiện tại và cả tương lai.

Tri thức, là sự hiểu biết của con người về tự nhiên, xã hội và bản thân

con người. Mỗi người trong nguồn nhân lực ai cũng cần thiết sở hữu một vốn

tri thức nhất định, nhiều hay ít phụ thuộc vào sự học tập, nghiên cứu của mỗi

cá nhân. Tri thức được trang bị, thu nhận từ trong nhà trường phổ thông các

cấp, cao hơn là ở các bậc đại học, trên đại học. Tri thức của mỗi người trong

12

nguồn nhân lực vừa được tiếp nhận, tích luỹ trong nhà trường, vừa được thu

nhận trong hoạt động thực tiễn.

GS.V.S Hoàng Trinh viết rằng: "Tri thức là những hiểu biết tổng kết

kinh nghiệm, do tiếp xúc, do học hỏi đưa lại, giúp con người hiểu biểu, khám

phá và sáng tạo, một yêu cầu cơ bản của sự nghiệp dựng nước, cứu nước và

sự nghiệp phát triển nói chung" [53, tr.31].

Tri thức quyết định sự học hỏi, trau dồi kỹ năng nghề nghiệp , quyết

định sự vận dụng, sáng tạo của chủ thể trong các hoạt động sống, trong hoạt

động thực tiễn. Tri thức là một loại hình tinh thần, tồn tại trong đầu óc con

người, quyết định hành động có mục đích của con người "Tất cả những gì

thúc đẩy con người hành động đều tất yếu phải thông qua đầu óc của họ" [33,

tr.409].

Đầu tư tri thức cho nguồn nhân lực chính là đầu tư cho sự phát triển.

Theo GS Vũ Đình Cự: "Các cơ quan nghiên cứu của Liên Hợp Quốc trong đó

có Ngân hàng thế giới đã rút ra kết luận rằng, sự phát triển là do biết dựa vào

tri thức. Một số nước nghèo chưa biết dựa vào tri thức thì vẫn kém phát triển,

vẫn nghèo... Việc biết sử dụng tri thức để phát triển, kể cả phát triển nhanh,

trở thành một sự thật hiển nhiên" [12, tr.4]. Nguồn nhân lực được giáo dục -

đào tạo có tri thức tiếp cận với sự phát triển sẽ trở thành một nhân tố mạnh

trong cạnh tranh và hội nhập.

Kỹ năng nghề nghiệp, tức là chuyên môn, nghiệp vụ thành thạo. Ngày

nay ở nước ta có hàng trăm ngành nghề, ngành nghề nào cũng đòi hỏi sự vận

hành, thao tác thành thạo của con người. Mọi sản phẩm vật chất và tinh thần

xuất phát từ những con người thành thạo nghề nghiệp làm ra.

Nhân dân giàu có, nước nhà phú cường là nhờ sự sáng tạo của khối óc

thông minh, sáng tạo và bàn tay thành thạo nghề nghiệp của nguồn nhân lực

hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Sức khoẻ, tri thức là điều kiện tất yếu, thường xuyên cho sự tiếp thu,

trau dồi kỹ năng nghề nghiệp của con người. Nhưng chính kỹ năng nghề

13

nghiệp của con người tự nó không tạo ra được các giá trị vật chất, tinh thần

mà phải thông qua hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn không chỉ tạo ra các

giá trị vật chất, tinh thần cho nhân dân, cho đất nước mà còn kiểm định, đánh

giá kỹ năng nghề nghiệp của con người, của nguồn nhân lực.

Khoa học công nghệ đang phát triển mạnh ở nước ta, kinh tế tri thức

ngày càng được con người quan tâm, nghĩa là thực tiễn đòi hỏi nguồn nhân

lực có kỹ năng nghề nghiệp vững vàng, tinh thông được sàng lọc và rèn luyện

từ trong hoạt động. Học tập trong nhà trường mới chỉ là lý thuyết, sử dụng lý

thuyết vào hành động sáng tạo sẽ giúp con người những gì là đúng, những gì

chưa đúng trong nhận thức của mình, giúp cho nguồn nhân lực ngày càng có

kinh nghiệm và nâng cao chất lượng nghề nghiệp, nâng cao chất lượng hoạt

động và hiệu quả của lao động sáng tạo.

Đạo đức và tính tích cực của cá nhân trong nguồn nhân lực. Đây là hai

yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau. Con người có đạo đức thì tính tích cực

vì lợi ích chung mới phát sinh, phát triển. Ngược lại tính tích cực vì lợi ích

chung thể hiện đạo đức mới của người lao động.

Theo Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc của con người, gốc có vững bền thì

cây mới tốt tươi. Đạo đức là một hình thái của ý thức xã hội, là giá trị tinh

thần cao đẹp của con người, của xã hội. Đạo đức không trực tiếp tạo ra các

giá trị vật chất, văn hoá, song nó là cội nguồn của mọi hoạt động tích cực,

sáng tạo vì lợi ích của toàn xã hội. Đồng thời đạo đức hướng con người tạo

dựng nên cuộc sống cộng đồng, bình đẳng, bác ái, nhân hoà, tươi đẹp, con

người sống khoẻ mạnh hơn, hoạt động năng động và có hiệu quả hơn.

Bởi vậy, mỗi người trong nguồn nhân lực được "vun trồng" đạo đức

tốt thì dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam tăng thêm sức mạnh hạnh

phúc và chóng phú cường.

Tính tích cực của cá nhân trong nguồn nhân lực tức là tinh thần ý thức

tự giác hoạt động, lao động, học tập siêng năng, sáng tạo vì lợi ích chung, lợi

ích cộng đồng và bản thân. Mỗi người trong nguồn nhân lực nếu ai cũng có

14

tính tích cực, năng động trong mọi công việc thì đó là động lực to lớn thúc

đẩy nhanh chóng hơn sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thiếu tính

tích cực cá nhân thì dù người lao động được đào tạo nghề nghiệp tốt cũng

thiếu đi một yếu tố sức mạnh thể chất và tinh thần làm hạn chế hiệu quả hoạt

động sáng tạo. Chính vì thế mà văn hoá trong đó văn hoá con người có ý

nghĩa quyết định trong mối quan hệ vững bền với sự phát triển kinh tế - xã hội

(văn hoá và phát triển).

Trên đây là các yếu tố hoặc các thành phần tạo dựng lên chất lượng

nguồn nhân lực, các yếu tố đó có mối quan hệ với nhau, ảnh hưởng qua lại lẫn

nhau. Tất cả các yếu tố đó càng có chất lượng thì nguồn nhân lực cũng có chất

lượng cao. Chăm lo chất lượng nguồn nhân lực chính là chăm lo các yếu tố

sức khỏe, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, đạo đức và tính tích cực của con

người, đó là sự chăm lo sức mạnh của nguồn nhân lực, chăm lo vai trò quyết

định của nguồn nhân lực con người đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.

Sức mạnh của nguồn nhân lực có hai mặt: lượng và chất. Lượng là số

người của nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực của nước ta hiện nay có số người

trong độ tuổi lao động rất đông đảo, đó là một lợi thế là sức mạnh để phát

triển kinh tế - xã hội. Tuy vậy chất lượng của nguồn nhân lực tạo ra sức mạnh

to lớn hơn nhiều so với sức mạnh của số lượng người đông đảo nhưng kém về

chất lượng. Như vậy nguồn nhân lực vừa có sức mạnh về lượng vừa có sức

mạnh về chất: "Sức mạnh của nguồn lực con người bởi sự thống nhất giữa hai

mặt chất và lương, trong đó mặt chất có vai trò lớn hơn" [58, tr.19].

Thế giới và nước ta hiện nay rất chú trọng nâng cao chất lượng dân số

là nền tảng vững chắc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực một cách thường

xuyên, liên tục. Do đó cần phải không ngừng thúc đẩy sự nâng cao chất lượng

dân số để ngày càng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đối với sự gia tăng

dân số thì phải hợp lý, không nhanh quá mà cũng không chậm quá. Sự gia

tăng dân số nhanh quá thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển kinh tế - xã

hội. Nếu sự gia tăng dân số chậm quá thì sẽ dẫn tới sự thiếu hụt nguồn nhân

15

lực để phát triển kinh tế - xã hội. Cho nên Nhà nước có chính sách điều tiết sự

gia tăng dân số phải hợp lý, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội

của đất nước, nhằm đảm bảo sức mạnh của nguồn nhân lực về lượng và nhất

là về chất. Chính vì vậy, trong cuốn “ Con người và nguồn lực con người”

(Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội), tác giả dẫn: "Sự phát triển nhanh chóng

kinh tế - xã hội và kỹ thuật không chỉ cần một số lượng lớn lao động mà còn

yêu cầu cao hơn về chất lượng của người lao động" [65, tr.40]. Tinh thần này

cũng nhằm đáp ứng với một xu thế lớn của thời đại đặc trưng cho vai trò thập

kỷ đầu của thế kỷ XXI: toàn cầu hoá, công nghệ cao, nhất là công nghệ thông

tin, kinh tế tri thức, xã hội thông tin.

Nguồn nhân lực của nước ta hiện nay có số lượng người đông đảo do

quy mô dân số lớn. Đó là lợi thế và có sức mạnh về lượng. Tuy vậy, chất

lượng của nguồn nhân lực nước ta hiện nay rất hạn chế. Chất lượng của nguồn

nhân lực phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng giáo dục - đào tạo. Giáo dục - đào

tạo của nước ta hiện nay còn nhiều yếu kém. Theo báo cáo của Ngân hàng thế

giới (WB) năm 2006, giáo dục Việt Nam đang bị tụt hậu so với các nước

trong khu vực, hàng cuối cùng so với các nước Châu Á. Giáo dục nước ta

đang yếu kém như vậy cho nên đào tạo ra nguồn nhân lực quốc gia chất lượng

rất thấp. Theo Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm 2005, chất lượng nguồn

nhân lực của Việt Nam xếp thứ 53 trong số 59 quốc gia được khảo sát. Bởi

vậy cần phải đổi mới nền giáo dục - đào tạo của nước ta hiện nay một cách

toàn diện nhằm đào tạo ra nguồn nhân lực cho tất cả các lĩnh vực đảm bảo về

mặt chất lượng đáp ứng với xu thế phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,

vững vàng hoà nhập với thế giới.

Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có vai trò quan trọng

bảo đảm tính bền vững của sự tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Đồng

thời nó cũng tạo điều kiện và thúc đẩy việc cải thiện môi trường đầu tư, thu

hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Kinh nghiệm thế giới cho thấy

16

rằng, nguồn nhân lực chất lượng cao đảm bảo cho việc tiếp thu công nghệ

mới, công nghệ nguồn, làm chủ kỹ thuật và quy trình công nghệ sẽ đảm bảo

cho các công ty xuyên quốc gia có thể sử dụng tại chỗ và thực hiện cho việc

triển khai công nghệ tiên tiến. Khác với một số quốc gia, để tăng trưởng kinh

tế bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện toàn cầu hoá, trước

hết phải dựa trên cơ sở chất lượng và công nghệ tiên tiến chứ không chỉ cạnh

tranh trên cơ sở các nguồn tài nguyên hay giá nhân công rẻ. Bởi vậy giáo dục

- đào tạo nhằm phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quốc gia đối

với nước ta có ý nghĩa to lớn không chỉ trước mắt mà cả lâu dài, đặc biệt đối

với việc thu hút nguồn vốn FDI có hiệu quả trong tiến trình phát triển kinh tế -

xã hội ở nước ta.

Tiếp tục phát triển và mở rộng khái niệm nguồn nhân lực chất lượng

cao, các nhà khoa học lại nhắc tới một khái niệm, khái niệm tuy không mới

nhưng lại rất phù hợp với điều kiện phát triển ở nước ta hiện nay, đó là khái

niệm nguồn nhân lực thể thao (NNLTT).

Nguồn nhân lực thể thao ở nước ta hiện nay được hiểu là đó là tập hợp

những con người có năng lực về thể chất (sức khoẻ), về trí tuệ (trình độ

chuyên môn nghiệp vụ) và những phẩm chất nghề nghiệp cần thiết (đạo đức

thể thao) qua đó có thể phát huy vào việc xây dựng và phát triển sự nghiệp thể

dục thể thao của đất nước trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế. Như

thế, khái niệm NNLTT được hiểu là một khái niệm bộ phận nằm trong khái

niệm NNL chất lượng cao nói chung.

Thể dục thể thao là một bộ phận của nền văn hoá xã hội, là những

thành tựu do con người sáng tạo ra nhằm hoàn thiện năng lực thể chất và tinh

thần của bản thân con người, đó là một loại hình hoạt động vận động được thể

hiện thông qua các cách thức rèn luyện thân thể nhằm tăng cường thể chất cho

con người nâng cao thành tích thể thao góp phần làm phong phú đời sống văn

hoá tinh thần và giáo dục con người phát triển toàn diện.

17

Mục tiêu chủ yếu của TDTT là sức khoẻ cho mọi người, phát triển và

hoàn thiện thể chất cho thế hệ trẻ nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của

công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. TDTT còn góp phần vào công tác giáo

dục đạo đức ý chí, xây dựng lối sống lành mạnh, góp phần làm phong phú đời

sống văn hoá tinh thần cho nhân dân. TDTT được coi là phương tiện để mở

rộng và giao lưu văn hoá, tăng cường tình đoàn kết , thúc đẩy quan hệ hợp tác

trong nước, đồng thời là phương tiện để mở rộng hợp tác quốc tế.

Phát triển TDTT là một yêu cầu khách quan, một mặt quan trọng của

chính sách xã hội, một biện pháp tích cực để giữ gìn và nâng cao sức khoẻ

làm phong phú đời sống văn hoá tinh thần cho nhân dân. Dưới chế độ ta tất cả

các lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội đều đặt con người ở vị trí trung tâm,

mục tiêu cuối cùng của sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội theo định hướng xã

hội chủ nghĩa ở nước ta là đem lại đời sống ấm no hạnh phúc cho con người.

TDTT là một phương tiện có hiệu quả để nâng cao sức khoẻ và thể lực cho

nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, góp phần tích cực vào bồi dưỡng nguồn lực

con người, đáp ứng yêu cầu lao động và sãn sàng bảo vệ tổ quốc trong điều

kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Do vậy phát triển

TDTT được coi như một nội dung quan trọng của chính sách xã hội nhăm

chăm lo và bồi dưỡng nguồn lực con người.

Khi phân tích về các nguồn lực để phát triển đất nước, Đảng ta đã xác

định “Ngồn lực con người là nguồn lưc quan trọng nhất”, dồng thời cũng chỉ

rõ người Việt Nam đang có những hạn chế về thể lực, kiến thức và tay nghề,

khắc phục được những nhược điểm đó thì nguồn nhân lực và nhân tố con

người mới thực sự trở thành thế mạnh của đất nước. Như vậy có thể khẳng

định phát triển TDTT để tăng cường sức khoẻ, nâng cao thể lực cho nhân dân

là một yêu cầu khách quan trong thời kỳ phát triển mới của đất nước.

Thể dục thể thao là một bộ phận của nền văn hoá mỗi dân tộc, cũng

như của nền văn minh nhân loại. Trình độ phát triển TDTT là một trong

18

những tiêu chí đánh giá trình độ văn hoá và năng lưc sáng tạo của mỗi dân

tộc, là phương tiện để giao lưu văn hoá nói chung, văn hoá thể chất nói riêng

và mở rộng quan hệ của nước ta với quốc tế. Các hoạt động TDTT quần

chúng cũng như các hoạt động thi đấu, biểu diễn thể thao thành tích cao dần

trở thành nhu cầu của nhân dân. Các hoạt động đó không chỉ có tác dụng như

một hình thức giải trí, nghỉ ngơi tích cực mà còn mang lại niềm vui, khích lệ

lòng tự hào dân tộc, sự cổ vũ to lớn cho nhân dân.

Từ các cơ sở đã trình bày ở trên, có thể khẳng định, trong bất kỳ điều

kiện nào cũng cần chủ động phát triển các hoạt động TDTT trong nhân dân và

hướng hoạt động TDTT vào những mục tiêu chủ yếu là nâng cao sức khoẻ,

xây dựng con người mới, làm phong phú đời sống văn hoá tinh thần cho nhân

dân, góp phần phục vụ các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng của

đất nước.

Có thể hiểu nguồn lực thể thao gắn liền với nguồn lực con người, nó

khác so với các dạng nguồn lực khác như nguồn lực khoa học công nghệ,

nguồn lưc tự nhiên, nguồn lực thể thao không cạn kiệt, mà càng khai thác

càng phát huy và càng phục vụ tốt hơn cho sự phát triển của đất nước.

1.1.2. Những đặc điểm cơ bản của nguồn nhân lực thể thao ở nước

ta hiện nay

Nguồn nhân lực thể thao là một bộ phận của nguồn nhân lực quốc gia,

nó có những đặc điểm chung như khái niệm về nguồn nhân lực đã nêu ở tiết

1.1.1, và có một số đặc điểm riêng cơ bản sau đây:

Đặc điểm về số lượng: Số lượng nguồn nhân lực thể thao tăng lên theo

tiến trình phát triển kinh tế xã hội, giáo dục - đào tạo và thể thao đỉnh cao. Số

lượng nguồn nhân lực thể thao nước ta hiện nay không nhiều, có khoảng gần

70.000 người trong đó khoảng 30.000 đang được đào tạo trong các trường Đại

học TDTT, các khoa Giáo dục thể chất của các trường đại học và cao đẳng sư

19

phạm. Số lượng nguồn nhân lực thể thao chưa tới 1/1000 nguồn nhân lực

quốc gia.

Nguồn nhân lực thể thao, số lượng phải không ngừng tăng lên để phục

vụ sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Các cơ sở sản xuất công nghiệp với các nhà máy, công ty lớn ngày

càng nhiều, do đó ngày càng thu hút đông đảo người lao động. Họ cần được

bảo vệ và tăng cường sức khoẻ, nâng cao đời sống. Họ cần có sự tổ chức,

hướng dẫn tập luyện, vui chơi lành mạnh, đòi hỏi có thêm nhân lực thể thao

phục vụ. Mỗi năm có thêm hơn một triệu lao động vậy phải có thêm ít nhất

một nghìn người trong nguồn nhân lực thể thao đáp ứng. Đồng thời đối với

toàn dân do kinh tế phát triển, đời sống vật chất của nhân dân tăng lên, mọi

người ngày càng có nhu cầu về sức khoẻ và văn hoá tinh thần tham gia rèn

luyện thân thể vui chơi thể thao trong các câu lạc bộ, nhà văn hoá... Tình hình

đó ngày càng cần đến nhiều nhân lực thể thao để huấn luyện, hướng dẫn, tổ

chức cho nhân dân tập luyện, giao lưu thể thao.

Nguồn nhân lực thể thao số lượng không ngừng phải được tăng lên để

phục vụ sự nghiệp phát triển giáo dục - đào tạo của đất nước. Giáo dục và đào

tạo của nước ta ngày càng phát triển, trường học các cấp, các bậc học ngày

càng được thành lập kể cả công lập và ngoài công lập, thu hút ngày càng

nhiều người vào học. Điều đó không chỉ nhằm mục đích phổ cập giáo dục,

nâng cao dân trí mà còn với mục đích quan trọng là đào tạo ngày càng đông

đảo nguồn nhân lực để phát triển đất nước. Sự phát triển giáo dục - đào tạo

như vậy đòi hỏi ngày càng bổ sung một số lượng tương đối lớn nguồn nhân

lực thể thao vào làm giảng viên, giáo viên thể dục ở các trường học.

Số lượng nguồn nhân lực thể thao, không ngừng phải được tăng lên để

đáp ứng trước sự đòi hỏi ngày càng phát triển của thể thao thành tích cao của

nước ta và thế giới, có nghĩa là thể thao thành tích cao của khu vực, châu lục,

thế giới phát triển mạnh, thể thao thành tích cao của Việt Nam phải phấn đấu

tiến lên để hoà nhập và không bị tụt hậu.

20

Để đẩy mạnh sự phát triển thể thao thành tích cao của nước ta cần đào

tạo nhiều vận động viên, nhiều huấn luyện viên, phát triển nhiều môn thể thao

hiện đại. Do đó sự tăng cường về số lượng nguồn nhân lực về thể thao thành

tích cao của nước ta là một tất yếu.

Tóm lại, đặc điểm về số lượng chỉ rõ nguồn nhân lực thể thao không

ngừng tăng lên về mặt số lượng mức độ nhất định, phù hợp với nhu cầu của

thực tiễn. Sự tăng lên về số lượng nguồn nhân lực thể thao như vậy nhằm đáp

ứng nhu cầu phát triển TDTT quần chúng, giáo dục thể chất trường học và thể

thao thành tích cao, có ý nghĩa góp phần tích cực vào công cuộc phát triển

kinh tế xã hội của đất nước.

Đặc điểm về chất lượng: Nguồn nhân lực thể thao cũng như nguồn

nhân lực của các lĩnh vực khác hoàn toàn giống nhau về hình thức các yếu tố

của chất lượng. Nguồn nhân lực của lĩnh vực nào cũng vậy kể cả nguồn nhân

lực thể thao đều có các yếu tố như sức khoẻ, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp,

đạo đức và tính tích cực của con người. Song đặc điểm của các yếu tố chất

lượng đó của nguồn nhân lực giữa các lĩnh vực có sự khác nhau nhất định về

mức độ. Các yếu tố chất lượng của nguồn nhân lực thể thao càng cho thấy

điều đó. Đặc điểm về chất lượng nguồn nhân lực thể thao, thể hiện ở các điểm

sau đây:

Thứ nhất, nguồn nhân lực thể thao phải có yếu tố sức khoẻ, hơn nữa là

thể lực. Thể lực là cấp độ cao của sức khỏe con người. Thể lực thể hiện qua

chiều cao và cân nặng với các tố chất nhanh, mạnh bền bỉ và sự khéo léo.

Nguồn nhân lực thể thao kể cả đang hoạt động và đang được giáo dục - đào

tạo, về sức khoẻ phải có cơ thể lành mạnh, không ốm đau, không bệnh tật,

trạng thái tâm thần bình thường, về thể lực phải có chiều cao đứng đối với

nam từ 165cm trở lên, và nữ từ 155cm trở lên (trừ một số người có năng

khiếu và thành tích thể thao tốt, đoạt huy chương tại các cuộc thi đấu quốc gia

và quốc tế, chiều cao có thể thấp hơn), phải có sức nhanh, sức mạnh, sức bền

bỉ dẻo dai và sự khéo léo. Đó là điều kiện, tiêu chuẩn về sức khoẻ, thể lực đào

21

tạo phát triển nguồn nhân lực thể tao đảm bảo cho học tập hoạt động thực tiễn

TDTT có kết quả tốt. Không có sức khoẻ, thể lực như vậy thì không thể tiếp

thu, rèn luyện được các kỹ năng chuyên môn, không thể thực hiện được các

động tác, bài tập phức tạp, không thể ứng phó được với cường độ cao, lượng

vận động lớn và không thể thực thi được nhiệm vụ nghề nghiệp của mình.

Bởi vậy để đào tạo nguồn nhân lực thể thao, yếu tố sức khỏe, thể lực là

một điều kiện, một tiêu chuẩn đầu tiên không thể thiếu. Phải có điều kiện, tiêu

chuẩn về sức khoẻ, thể lực thì người học mới tiếp thu mới rèn luyện được các

kỹ năng vận động và tăng cường sức khoẻ, thể lực nhiều hơn nữa trong quá

trình đào tạo. Sau khi kết thúc đào tạo trong nhà trường các sinh viên sẽ có

sức khỏe và thể lực tốt, kỹ năng chuyên môn vững vàng, họ tham gia hoạt

động trong lĩnh vực TDTT mới có tính khả thi.

Thứ hai, nguồn nhân lực thể thao phải có yếu tố tri thức văn hoá tương

đối toàn diện. Tri thức của nguồn nhân lực thể thao là những điều hiểu biết về

tự nhiên, xã hội và con người như ở bậc trung học phổ thông mà còn phải

được nâng cao hơn ở bậc đại học. Nguồn nhân lực thể thao sau khi đã tốt

nghiệp đại học, cao đẳng cần học tiếp và nâng cao như toán, lý, hoá, sinh, giải

phẫu học, sinh lý học, vệ sinh học TDTT, y học TDTT, các kiến thức cần thiết

như : các môn thuộc khoa học xã hội và nhân văn trong đó có tâm lý học, giáo

dục học, kinh tế học TDTT, xã hội học TDTT và các môn lý luận, lý thuyết

TDTT, lý thuyết ứng dụng vv... ở bậc cao học, nghiên cứu sinh còn học sâu

hơn.

Những tri thức đó là sự cần thiết đối với nguồn nhân lực thể thao để

vận dụng và ứng xử trong hoạt động thực tiễn một cách đúng đắn có hiệu quả.

Những tri thức đó còn là cơ sở khoa học đối với nguồn nhân lực thể thao

trong hoạt động sáng tạo, trong nghiên cứu phát hiện những vấn đề mới của

TDTT.

Khi đề cập tới năng lực vận dụng, sáng tạo nghiên cứu phát hiện và

được duy trì bền lâu, tức trí lực đối với nguồn nhân lực thể thao là hết sức

22

quan trọng. Trí lực đó luôn luôn được duy trì và tái hiện từ trong đầu óc, trong

vỏ não, thông qua hệ thần kinh trung ương, điều khiển các bộ phận của cơ thể

thao tác động tác, bài tập khi thị phạm (làm mẫu) và chỉ dẫn uốn nắn động tác

trong giảng dạy thực hành, của người giáo viên, trong huấn luyện của huấn

luyện viên, trong tập luyện và thi đấu của vận động viên...

Như vậy, tri thức, trí lực đối với nguồn nhân lực thể thao là một trong

những yếu tố cơ bản, nếu như thiếu nó thì sự tiếp nhận các kỹ năng chuyên

môn nghề nghiệp rất khó khăn, và thực hiện vai trò của con người trong hoạt

động thực tiễn chắc chắn không có hiệu lực, không đem lại lợi ích mà chỉ có

thể phản tác dụng.

Thứ ba, nghề nghiệp TDTT là một yếu tố và đặc trưng cơ bản của

nguồn nhân lực thể thao. Nguồn nhân lực của lĩnh vực nào cũng đều phải có

yếu tố nghề nghiệp đặc trưng của nguồn nhân lực lĩnh vực ấy. Yếu tố đặc

trưng của nguồn nhân lực thể thao bao gồm các hoạt động như: Quản lý, điều

hành, hướng dẫn phong trào TDTT quần chúng, giảng dạy TDTT cho học

sinh, sinh viên trong tất cả các trường học, các cấp các bậc học; huấn luyện

thể thao cho lực lượng vận động viên; làm trọng tài; thực hiện nhiệm vụ thi

đấu trong và ngoài nước.

Nguồn nhân lực thể thao phải được rèn luyện về mặt kỹ năng nghề

nghiệp TDTT. Kỹ năng nghề nghiệp TDTT khá phức tạp, đòi hỏi phải vận

động cơ thể toàn diện và thường xuyên, phải biết phối hợp nhịp nhàng các bộ

phận của cơ thể như chân tay, thân mình, đầu, cổ để thực hiện động tác, bài

tập; phải mau lẹ, linh hoạt, mạnh mẽ và khéo léo trong khi thao tác kỹ thuật

vận động của cơ thể; tinh thần ý chí phải quyết tâm, dũng cảm kiên cường tập

luyện hoặc tham gia thi đấu.

Thứ tư, đạo đức của nguồn nhân lực thể thao có hai mặt: đạo đức chung

và đạo đức nghề nghiệp. Về đạo đức chung, cũng như nguồn nhân lực của các

lĩnh vực khác, nguồn nhân lực thể thao nhất thiết phải có sự quan hệ tốt đẹp

với con người, với cộng đồng xã hội. Mỗi người trong nguồn nhân lực thể

23

thao phải sống lành mạnh, trong sáng v.v... Về đạo đức nghề nghiệp của

nguồn nhân lực thể thao, thể hiện sự quý trọng, tận tình đồi với quần chúng

khi điều hành, hướng dẫn họ rèn luyện thân thể, thể hiện sự yêu quý nhiệt

thành, lành mạnh đối với học sinh, sinh viên khi lên lớp dạy TDTT cho họ,

thể hiện sự yêu quý, chân tình, trong sáng đối với vận động viên khi huấn

luyện họ tập luyện, thể hiện tinh thần học hỏi lẫn nhau "thắng không kiêu, bại

không nản" không chơi xấu, ẩu đả nhau gây chấn thương cho đối phương,

không dùng chất kích thích trong thi đấu, không mua bán độ, không ăn thua

cay cú, công bằng, lẽ phải, với tinh thần thể thao "chơi đẹp", "thắng đẹp"...

Đạo đức nghề nghiệp TDTT chính là một loại hình văn hoá thể chất nhất thiết

phải được rèn luyện đối với nguồn nhân lực thể thao nước ta hiện nay.

Thứ năm, tính tích cực năng động của con người trong nguồn nhân lực

thể thao, xét cho cùng thì đó cũng thuộc về phạm trù đạo đức. Bởi vì tích cực,

năng động trong hoạt động nghề nghiệp của mình, tích cực, năng động vì lợi

ích của nhân dân, đất nước, của ngành TDTT của gia đình và bản thân mình.

Đặc tính của nguồn nhân lực thể thao là tính tích cực và năng động luôn luôn

gắn liền với nhau. Tích cực năng động cả thể chất lẫn tinh thần đó là tinh thần

hăng hái "luôn luôn sẵn sàng", (Phạm Văn Đồng), cố gắng, chăm chỉ thực

hiện nhiệm vụ như tích cực năng động trong học tập rèn luyện; tích cực, năng

động trong nghiên cứu, sáng tạo; tích cực năng động trong tổ chức, điều hành

hướng dẫn quần chúng rèn luyện thân thể, tích cực năng động trong GDTC

cho học sinh, sinh viên; tích cực năng động trong huấn luyện đào tạo vận

động viên; tích cực năng động trong tập luyện để thi đấu đạt thành tích tốt của

vận động viên. Mỗi người "Để đạt được mục đích đã đề ra mỗi cá nhân phải

có ý chí, tích cực vượt khó. Thành công trong hoạt động, chất lượng của hoạt

động phụ thuộc vào sự chủ động, nỗ lực của mỗi người".

Như vậy nguồn nhân lực thể thao có đặc điểm về số lượng và về chất

lượng, trong đó đặc điểm về chất lượng là điển hình, đặc trưng nhất. Đặc

điểm về chất và lượng đã chỉ ra bản chất của nguồn nhân lực thể thao. Đặc

24

điểm về chất và lượng là sự quy định nội dung và quy mô giáo dục - đào tạo

nguồn nhân lực thể thao.

Đặc điểm về tiềm năng phát triển nguồn nhân lực.

Trước hết về cơ cấu dân số, Việt Nam thuộc vào nhóm quốc gia có dân

số trẻ. Gần 50% dân số dưới 25 tuổi, hơn 1/5 dân số trong độ tuổi vị thành

niên. Đây là một yếu tố phát triển số lượng nguồn nhân lực nước ta hiện nay,

nhất là nguồn nhân lực trẻ. Với hơn 80 triệu dân trong cả nước, đây là một

tiềm năng rất lớn để cung cấp cho việc hình thành nguồn nhân lực thể thap ở

nước ta hiện nay.

Sự phát triển dân số là một tất yếu, khách quan, mặc dù có sự điều tiết

của con người về sự gia tăng hợp lý phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế -

xã hội của đất nước. Hiện nay mỗi năm dân số nước ta tăng thêm khoảng 1,5

triệu người, và mỗi năm số người trong độ tuổi lao động tăng lên một cách

tương ứng. Trong khi đó số người hết tuổi lao động mỗi năm khoảng một

triệu người. Như vậy, số người trong độ tuổi lao động của nước ta ngày nay

càng tăng do dân số ngày càng tăng. Số người trong độ tuổi lao động ngày

càng tăng, tất yếu nguồn nhân lực ngày càng đông đảo, ngày càng lớn mạnh.

Điều đó cho thấy sự gia tăng dân số là tiềm năng về số lượng của nguồn nhân

lực nước ta.

Còn tiềm năng về chất lượng của nguồn nhân lực của nước ta là khá

lớn, do những yếu tố như sau:

Con người Việt Nam cần cù, thông minh, tuổi trẻ thì hiếu học, năng

động, cầu tiến bộ. Đó là một yếu tố cơ bản cho sự phát triển chất lượng

của nguồn nhân lực.

Nền kinh tế của nước nhà phát triển là yếu tố vật chất cho mọi sự phát

triển con người, cho sự phát triển toàn diện chất lượng của nguồn nhân lực.

Hệ thống giáo dục quốc dân ngày càng mở rộng và phát triển. Mọi

người dân nước ta ai cũng có điều kiện học tập. Tuổi trẻ ngày càng được học

hành chu đáo và học lên các bậc học cao. Ngành nghề đào tạo đa dạng, phong

25

phú ngày càng thu hút tuổi trẻ mọi nơi mọi lúc vào trường để trở thành những

người lao động. Hàng năm nhà nước đã dùng một nguồn ngân sách đáng kể

để xây dựng và phát triển nguồn nhân lực. Đầu tư cho giáo dục sẽ được nâng

lên 18% và có thể tới 25% ngân sách nhà nước trong kế hoạch 5 năm 2006-

2010. Như vậy tuổi trẻ được giáo dục và đào tạo có chất lượng sẽ trở thành bộ

phận đông đảo của nguồn nhân lực quốc gia.

Như vậy cùng với số lượng và chất lượng thì tiềm năng phát triển dồi

dào cũng là một đặc điểm quan trọng của NNLTT ở nước ta hiện nay.

1.2. Vấn đề nâng cao chất lƣợng đào tạo nguồn nhân lực thể

thao hiện nay ở nƣớc ta

1.2.1. Vai trò của giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực thể thao

Giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực thể thao là một lĩnh vực quan trọng

trong nền giáo dục quốc dân của nước ta hiện nay. Bởi vì nó cùng với các lĩnh vực

giáo dục - đào tạo khác đào tạo ra nguồn nhân lực quốc gia đồng bộ các ngành

nghề để phát triển đất nước một cách toàn diện cả về kinh tế, văn hoá, giáo dục, y

tế, TDTT... trong cuốn “Hồ Chí Minh về công tác khoa giáo” GS, Đỗ Nguyên

Phương viết: "Giáo dục là một hệ thống xã hội rộng lớn liên quan đến nhiều

lĩnh vực, có ảnh hưởng quyết định đến tương lai của đất nước, sức mạnh của

dân tộc". [43, tr.37].

Trong suốt sự nghiệp cách mạng Việt nam Đảng, Nhà nước ta rất coi

trọng giáo dục-đào tạo nguồn nhân lực thể thao. Ngay sau khi cách mạng

tháng tám năm 1945 thành công, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan

tâm tới phát triển nền TDTT quốc dân. Để phát triển nền TDTT quốc dân cần

phải đào tạo ra một đội ngũ những người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ đó, tức

là nguồn nhân lực thể thao.

Đầu năm 1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyến khích Nha thể dục Trung

ương, Bộ Thanh niên và Bộ Quốc gia Giáo dục mở các lớp đào tạo cấp tốc

các loại cán bộ, giáo viên, huấn luyện viên, hướng dẫn viên TDTT, trong đó

26

có lớp đào tạo được mang tên Người, "lớp đào tạo cán bộ thể dục thể thao Hồ

Chí Minh".

Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi vẻ vang, đất

nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền và thực hiện đồng thời hai nhiệm

vụ chiến lược: Miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Nam

tiếp tục tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất nước, để

góp phần vào sự nghiệp cách mạng đó của đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh

rất quan tâm tới việc đào tạo cán bộ cho các ngành nghề, trong đó có TDTT.

Người chỉ rõ rằng: "Đào tạo cán bộ để xây dựng nước nhà, giữ gìn sức khoẻ

nhân nhân, phát triển thuần phong mỹ tục" [36, tr.347] .

Chỉ thị số 180-CT/TW, ngày 26 tháng 8 năm 1970 chủ trương: "Tăng

cường công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ thể dục thể thao, trước mắt là bồi

dưỡng số cán bộ hiện có, nhằm từng bước xây dựng một đội ngũ cán bộ tin

cậy về chính trị, bảo đảm về đạo đức và giỏi về nghiệp vụ, chuyên môn". Để

thực hiện chủ trương đó của Ban Bí thư, Chính phủ chỉ thị: "Trường huấn

luyện kỹ thuật, trường đào tạo cán bộ thể dục thể thao Trung ương phải củng

cố để làm tốt nhiệm vụ đào tạo cán bộ và nâng cao kỹ thuật thể dục thể thao".

Đảng và Nhà nước cho mở và nâng cấp các trường, các trung tâm đào

tạo nguồn nhân lực thể thao: Trường Đại học Thể dục thể thao I, Trường Đại

học Thể dục thể thao II, Trường Đại học Thể dục thể thao III, Trường Đại học

Sư phạm thể dục thể thao I, Trường Đại học Sư phạm thể dục thể thao II, các

khoa Giáo dục thể chất trong các trường đại học, cao đẳng sư phạm, và các

trung tâm thể dục thể thao quốc gia…

Tất các những vấn đề trên đây nói lên vai trò của giáo dục - đào tạo

nguồn nhân lực thể thao. Nguồn nhân lực thể thao phải được kinh qua giáo

dục và đào tạo có chất lượng cao trong nhà trường mới đảm đương được

nhiệm vụ trước yêu cầu phục vụ đắc lực sức khoẻ nhân dân cũng như sức

khoẻ của nguồn nhân lực quốc gia nhằm đẩy mạnh sự phát triển kinh tế - xã

hội, phát triển đất nước.

27

Đứng trước yêu cầu tăng cường chất lượng nguồn nhân lực con người.

Thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng quan hệ

quốc tế, phát triển nền TDTT Việt Nam có tính chất nhân dân, dân tộc, hiện

đại và khoa học, vai trò giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực thể thao ngày càng

tăng đối với các trường đại học thể dục thể thao, các khoa giáo dục thể chất,

các trung tâm thể thao ở nước ta. Trong tính tất yếu đó, Trường Đại học thể

dục thể thao I có vai trò đáng kể không chỉ hiện nay mà cả sau này.

1.2.2. Nhiệm vụ đặt ra cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo nguồn nhân

lực TDTT ở nước ta hiện nay

Trước hết cần nắm được mục tiêu chung của giáo dục - đào tạo nguồn

nhân lực thể thao nước ta hiện nay là: Giáo dục đào tạo ra các loại hình nguồn

nhân lực thể thao nhằm phục vụ sự nghiệp "Phát triển nền thể dục thể thao

Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và nhân dân" góp phần đắc lực nâng

cao sức khoẻ, tầm vóc, tinh thần con người Việt Nam, không ngừng gia tăng

vị thế của thể thao nước ta trên đấu trường khu vực, châu lục, thế giới, góp

phần đẩy mạnh công cuộc chấn hưng đất nước, dân giàu nước mạnh và hạnh

phúc cho mọi người.

Tính từ sau cách mạng tháng tám 1945 đến nay, chế độ mới đã đào tạo

ra nguồn nhân lực thể thao hàng trăm nghìn người, bao gồm các trình độ sơ

cấp, trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học với hai loại hình đào tạo: loại

hình cán bộ TDTT và loại hình vận động viên thể thao quốc gia. Đối với loại

hình cán bộ TDTT đảm đương các nhiệm vụ như phát triển phong trào TDTT

quần chúng ngoài xã hội, trong các lực lượng vũ trang, Giáo dục thể chất

trong các trường học, huấn luyện thể thao. Còn loại hình vận động viên quốc

gia làm nhiệm vụ thi đấu trong nước, ngoài nước và quốc tế. Nguồn nhân lực

thể thao đó đã góp phần quan trọng phát triển sự nghiệp TDTT vì sức khoẻ và

đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân, vì công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ

quốc. Tuy vậy chất lượng nguồn nhân lực thể thao đã được đào tạo ra còn

nhiều hạn chế. Hạn chế về kỹ năng chuyên môn và hạn chế về nghiệp vụ

28

chuyên ngành. Hạn chế về kỹ năng chuyên môn là do việc dạy và học chưa

đảm bảo chất lượng, chương trình, giáo trình chưa được hoàn chỉnh còn

những khiếm khuyết về mặt nội dung hạn chế về mặt nghiệp vụ chuyên ngành

là do chưa thực hiện đào tạo đồng bộ các loại hình nguồn nhân lực, nghĩa là

chưa chia tách loại hình đào tạo cán bộ TDTT thành các loại hình chuyên

ngành cụ thể.

Từ những kết quả tích cực và hạn chế nhất định của hàng chục năm

giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực thể thao nước ta với nhu cầu của thực tiễn

hoạt động TDTT, nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quan hệ quốc tế,

nhiệm vụ chung giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực thể thao của nước ta hiện

nay để thực hiện mục tiêu chung trên đây là: công tác giáo dục - đào tạo các

loại hình nguồn nhân lực thể thao có trình độ chủ yếu từ cao đẳng, đại học

đến sau đại học, ngày càng phải đảm bảo chất lượng, đủ số lượng nhằm đáp

ứng nhu cầu các hoạt động TDTT trong cả nước.

Về phía Đảng, trong văn kiện Đại Hội Đảng toàn quốc lần X, Nxb.

Chính trị quốc gia 2006 (trang 220 - 221). Đảng ta khảng định:

“Đẩy mạnh các hoạt động thể dục thể thao cả về quy mô và chất lượng.

Khuyến khích và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia hoạt động và phát triển

sự nghiệp thể dục thể thao. Phát triển mạnh thể thao quần chúng, thể thao

nghiệp dư, trước hết là trong thanh niên, thiếu niên. làm tốt công tác giáo dục

thể chất trong trường học. Mở rộng quá trình chuyên môn hoá thể thao thành

tích cao. Đổi mới và tăng cường hệ thống đào tạo vận động viên trẻ. Từng

bước chuyển các đơn vị sự nghiệp TDTT công lập sang áp dụng chế độ tự chủ

tài chính, tiến tới tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện như các tổ chức dịch

vụ công cộng khác. Khuyến khích các doanh nghiệp ngoài công lập đầu tư và

kinh doanh cơ sở tập luyện, thi đấu thể thao. Phân định rõ trách nhiệm giữa cơ

quan quản lý hành chính nhà nước và các tổ chức, liên đoàn, hiệp hội thể

thao. Chuyển giao hoạt động tác nghiệp về thể thao cho các tổ chức xã hội và

các cơ sở ngoài công lập thực hiện”.

29

Đối với các trường Đai học, cao đẳng... đang đào tạo nguồn nhân lực

thể thao hiện nay, tất cả các trường đều phải đổi mới phương pháp giảng dạy,

thực hiện chống tiêu cự trong thi và kiểm tra, thực hiện đổi mới hình thức thi

tuyển, đảm bảo nâng cao chất lượng đầu vào cho các trường.

Về phía Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch, là bộ phận trực tiếp quản lý

chuyên môn của tất cả các trường TDTT, Bộ cần tạo điều kiện hơn nữa về cơ

sở vật chất, trang thiết bị tập luyện, cũng như chỉ tiêu, biên chế để tăng cường

về mặt số lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên TDTT phục vụ trong các trường

Đại học và Cao đẳng TDTT.

Về phía Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ cần tăng thêm chỉ tiêu tuyển sinh

cho các trường, đây là điều kiện để các trường tăng thêm về số lượng nguồn

nhân lực TDTT, trên cơ sở số lượng, các trường sẽ đổi mới nâng cao về mặt

chất lượng nguồn nhân lực thể thao, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp

công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước hiện nay.

Về phía các Sở TDTT các tỉnh và thành phố, cũng như đội ngũ giảng

viên của các khoa Giáo dục thể chất trong các trường Đại học, các tổ thể dục

trong các trường khối phổ thông, đây được coi là thị trường sử dụng nguồn

nhân lực thể thao, vậy về phía các sở TDTT, các sở cần tạo điều kiện tối đa để

sản phẩm nguồn nhân lực thể thao sau khi tốt nghiệp các trường TDTT, có

được công việc đúng với chuyên môn, chuyên ngành được đào tạo, đây được

coi là điều kiện cần thiết đảm bảo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thể

thao ở các trường TDTT nói chung và Đại học TDTT Trung ương I nói riêng.

Trên đây là nhiệm vụ đặt ra cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo nguồn

nhân lực thể thao ở nước ta hiện nay, căn cứ vào nhiệm vụ nêu trên đòi hỏi tất

cả các trường, các trung tâm đào tạo các loại hình nguồn nhân lực thể thao các

lĩnh vực trực thuộc hoặc có liên quan đến hoạt động TDTT đều phải có vai trò, trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ nêu trên.

Trong thực tế do tính chất, chức năng điều kiện và vai trò của mỗi trường, mỗi trung tâm TDTT việc thực hiện giáo dục - đào tạo các loại hình

nguồn nhân lực thể thao cũng có sự khác nhau. Chẳng hạn các trường Đại học

Thể dục thể thao II (Thành phố Hồ Chí Minh), Trường Đại học Thể dục thể

30

thao III (thành phố Đà Nẵng) chủ yếu đào tạo loại hình nguồn nhân lực phát

triển phong trào TDTT quần chúng. Các trường Đại học Sư phạm thể dục thể

thao I (Hà Tây) và các khoa Giáo dục thể chất của các trường đại học sư

phạm, cao đẳng sư phạm trong cả nước đào tạo ra loại hình nguồn nhân lực

công tác TDTT học đường. Riêng Trường Đại học Thể dục thể thao I (Từ

Sơn, Bắc Ninh) được đào tạo tất cả các loại hình nguồn nhân lực thể thao cho

các mặt hoạt động TDTT của nước ta hiện nay (sẽ được đề cập ở tiết 1

chương 2).

Trên đây là nội dung của chương 1. Chương này đã bao quát những

vấn đề chủ yếu như khái niệm về nguồn nhân lực quốc gia và đề cập tới đặc

điểm của nguồn nhân lực thể thao trong đó cơ bản là đặc điểm về chất lượng.

Vấn đề tiềm năng của nguồn nhân lực quốc gia trong đó một bộ phận là

nguồn nhân lực thể thao cũng đã được nêu lên. Trong chương 1 cũng đã đề

cập một cách khái quát vai trò và nhiệm vụ chung giáo dục - đào tạo nguồn

nhân lực thể thao trên phương diện cả nước ta hiện nay. Như vậy chương 1 đề

cập những vấn đề chung để làm cơ sở triển khai nội dung của chương 2 và

chương 3 của đề tài này.

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỐI VỚI NGUỒN NHÂN LỰC THỂ DỤC THỂ THAO QUA KHẢO SÁT TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO I TỪ SƠN BẮC NINH

2.1. Khái quát hoạt động của Trƣờng đại học Thể dục thể thao I

Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta dành

được thắng lợi vẻ vang (tháng 5- 1954) miền Bắc hoàn toàn được giải phóng,

miền Nam tạm thời sống dưới chế độ thực dân mới của Mỹ. Cách mạng cả

nước vẫn tiếp tục tiến lên và tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược:

Miền Bắc tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Nam tiếp tục tiến

hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Hai nhiệm vụ chiến lược của hai

miền có tính chất khác nhau nhưng chung một mục tiêu lớn: giải phóng miền

Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

31

Đứng trước những nhiệm vụ hết sức trọng đại đó của cách mạng Việt

Nam nói chung và miền Bắc nói riêng, công tác giáo dục - đào tạo cán bộ cho

các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, TDTT... trở nên rất cấp

thiết. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Đào tạo cán bộ để xây dựng nước nhà,

giữ gìn sức khoẻ nhân dân, phát triển thuần phong mỹ tục" [36, tr.341].

Đối với sự nghiệp phát triển TDTT vì sức khoẻ nhân dân, đáp ứng với

công cuộc xây dựng miền Bắc vững mạnh, đấu tranh giải phóng miền Nam

được Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm.

Nhưng nguồn nhân lực trực tiếp thực hiện sự nghiệp phát triển TDTT

miền Bắc nước ta lúc ấy rất thiếu và yếu kém. Số huấn luyện viên TDTT do

Pháp đào tạo trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 được giữ lại cộng với số

cán bộ, giáo viên, hướng dẫn viên được chế độ mới đào tạo sau cách mạng

tháng tám chỉ có vài trăm người, hầu hết trình độ sơ cấp TDTT, không thể đáp

ứng nhiệm vụ phát triển TDTT cách mạng trong giai đoạn mới. Do sự đòi hỏi

bức xúc về nguồn nhân lực thể thao, Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí

Minh cho mở trường trung cấp thể dục thể thao Trung ương vào tháng 9 năm

1959. Trường này nhằm đào tạo nguồn nhân lực thể thao có trình độ trung

cấp, chưa từng có ở nước ta kể cả các thời kỳ Pháp mở các trường lớp TDTT

toàn Đông Dương.

Trường Trung cấp thể dục thể thao Trung ương được xây dựng trên

một khu đất rộng 19 ha (nay được mở rộng tới gần 30 ha), vốn là rừng sặt

thuộc xã Đồng Quang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, cách trung tâm thành

phố Hà Nội gần 20km. Nơi đây quang cảnh đẹp, thoáng mát, đường giao

thông thuận lợi.

Cơ cấu của nhà trường khi mới thành lập bao gồm Ban Giám hiệu,

Phòng Đào tạo, Phòng Tổ chức, Phòng Hành chính Quản trị và 9 bộ môn: Thể

dục, Điền kinh, Bóng đá, Bóng chuyền, Bóng rổ, Chính trị, Lý luận, Y sinh,

Ngoại ngữ.

32

Cơ sở vật chất ban đầu gồm các sân tập, giảng đường, dụng cụ tập

luyện cho từng môn. Các phòng làm việc, ký túc xá sinh viên, nhà ăn tập thể

đầy đủ song hầu hết là vách đất, mái lá. Riêng nhà làm việc của Ban giám

hiệu, hội trường lớn được xây bằng vôi gạch mái ngói.

Đội ngũ cán bộ nhân viên, giáo viên của nhà trường thời kỳ đầu trường

mới thành lập chưa tới 50 người, trong đó chỉ có 20 giáo viên. Số giáo viên

trợ lý chuyên môn TDTT chỉ mới đạt trình độ sơ cấp, các giáo viên y sinh

học, ngoại ngữ đã tốt nghiệp đại học. Nhà trường phải mời 5 chuyên gia Liên

Xô sang giảng dạy một số môn thực hành cần thiết.

Nhà trường tuyển sinh đào tạo khoá đầu tiên được hơn 300 học sinh tốt

nghiệp cấp II (tương đương trung học cơ sở hiện nay) và một số ít tốt nghiệp

cấp III (tương đương trung học phổ thông hiện nay). Học sinh nữ chiếm xấp

xỉ 1/3, một số ít học sinh người dân tộc Thái, Tày, 5 học sinh người Việt gốc

Hoa trong đó có 3 nữ sinh. Từ khoá II trở đi nhà trường tuyển sinh đông hơn.

Một vinh dự lớn cho nhà trường, đó là vào sáng ngày 14 tháng 12 năm

1961, Bác Hồ đã đến thăm Nhà trường. Người căn dặn lãnh đạo Nhà trường

phải tổ chức dạy và học cho tốt, chú ý con em các dân tộc và học sinh gái.

Nói chuyện trên hội trường lớn, Người dạy học sinh rằng: "Các cháu học thể

dục thể thao ở đây để làm người cán bộ phục vụ đắc lực nhân dân, đem hiểu

biết của mình ra hướng dẫn mọi người cùng tập luyện để nâng cao sức khoẻ

đầy lùi bệnh tật" [59, tr.106]. Bác Hồ còn hỏi học sinh: "Các cháu có muốn

Bác về thăm trường luôn không ?" Học sinh trả lời: "Thưa Bác chúng cháu

muốn Bác về thăm trường luôn ạ". Bác rất vui: "Vậy thì các cháu phải ra sức

thi đua học tốt, phục vụ tốt, báo cáo cho Bác biết, Bác sẽ về thăm trường" [59,

tr.107]. Thực tế đó là sự quan tâm lớn của Bác Hồ về công tác giáo dục - đào

tạo nguồn nhân lực thể thao có chất lượng của Trường trung cấp thể dục thể

thao Trung ương.

Nhờ có được sự vinh dự to lớn đó và làm theo lời căn dặn, dạy bảo của

Bác Hồ, lãnh đạo, cán bộ, giáo viên và học sinh toàn trường từ đó dấy lên

33

phong trào thi đua dạy tốt, học tốt, phục vụ tốt. Công tác giáo dục - đào tạo

của nhà trường phát triển mạnh, cơ sở vật chất và trang thiết bị cho việc dạy

và học ngày càng được tăng cường, đời sống ăn ở của học sinh khá hơn.

Tháng 1 năm 1964, Trường trung cấp Thể dục Thể thao Trung ương

được Chính phủ cho đổi tên thành trường Cán bộ Thể dục thể thao Trung

ương, đảm đương nhiệm vụ lớn hơn: Tiếp tục đào tạo cán bộ TDTT trình độ

trung cấp, xúc tiến đào tạo cán bộ TDTT trình độ đại học chính quy, đại học

chuyên tu, dự bị đại học, mở hệ văn hoá thể thao. Cơ cấu của Nhà trường

cũng được tăng cường: thiết lập thêm Phòng tuyên huấn, Bộ môn võ, Bóng

bàn, Thể thao quốc phòng. Đội ngũ giáo viên được bổ sung nhiều hơn, lưu

học sinh đại học TDTT ở các nước Trung Quốc, Liên Xô tốt nghiệp về trường

làm giảng viên có tới 10 người. Nhà trường mời thêm chuyên gia Trung Quốc

và chuyên gia Liên Xô sang dạy nhằm nâng cao chất lượng đào tạo.

Giữa năm 1964 Nhà trường vinh dự được đón Thủ tướng Phạm Văn

Đồng đến thăm. Thủ tướng nhắc nhở lãnh đạo nhà trường quan tâm công

tác giáo dục đào tạo có kết quả tốt hơn. Thủ tướng động viên khuyến khích

cán bộ, giáo viên, học sinh, sinh viên tích cực trong công tác, giảng dạy và

học tập đưa nhà trường tiến lên hơn nữa.

Cuối năm 1964, Nhà trường vinh dự được đón Đại tướng Võ Nguyên

Giáp đến thăm. Đại tướng thăm hỏi các điều kiện công tác, giảng dạy, học tập

của nhà trường. Đại tướng mong rằng nhà trường cần có những nỗ lực trong

giáo dục đào tạo, sẵn sàng đáp ứng với nhu cầu của thực tiễn.

Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, cả nước tiến lên

chủ nghĩa xã hội, Nhà trường nhiều lần có vinh dự được đón tiếp các đồng chí

lãnh đạo Đảng và Nhà nước qua các thời kỳ đến thăm và chỉ đạo hoạt động.

Trong thời kỳ đất nước có chiến tranh (1964 - 1975) Trường cán bộ Thể dục

Thể thao Trung ương đi sơ tán lên các vùng Tân Yên, Hiệp Hoà (Bắc Giang),

mặc dù điều kiện, phương tiện rất thiếu thốn, khó khăn, nơi ăn chốn ở của cán

bộ giáo viên, học sinh, sinh viên phải dựa vào dân, sân bãi, dụng cụ quá eo

34

hẹp và thô sơ, giảng đường lên lớp chỉ là những cái lán cột tre mái lá... Thế

nhưng nhà trường vẫn tiến hành đào tạo, không chững lại, chương trình, nội

dung các môn học về cơ bản vẫn đảm bảo, mỗi năm cho ra trường hàng trăm

học sinh, sinh viên tốt nghiệp. Trong 10 năm (1965-1975), nhà trường cung

cấp một lực lượng cán bộ TDTT đáng kể, gần 5000 người có trình độ đại học

và trung cấp TDTT cho sự nghiệp TDTT đất nước, góp phần vào cuộc chống

Mỹ của nhân dân ta đi tới thắng lợi.

Từ sau ngày miền Nam được giải phóng năm 1975, non sông thu về

một mối, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, Trường Cán bộ Thể dục Thể thao

Trung ương bước sang một giai đoạn mới. Trường không chỉ đào tạo nguồn

nhân lực cung cấp cho cả nước mà còn phân phối một bộ phận cán bộ, giảng

viênvà sinh viên tốt nghiệp đảm nhiệm công tác giáo dục - đào tạo cho hai

trường vừa được chính phủ ra quyết định thành lập đó là trường Trung cấp

Thể dục thể thao Trung ương II (nay là trường Đại học Thể dục thể thao II

Thành phố Hồ Chí Minh) và trường Trung cấp Thể dục thể thao Trung ương

III (nay là trường Đại học thể dục thể thao III, thành phố Đà Nẵng). Trường

Đại học TDTT còn cung cấp các phương tiện, dụng cụ và tài liệu, giáo trình

TDTT cho hai trường đó.

Ngày 22 tháng 5 năm 1981 Trường Cán bộ thể dục thể thao Trung

ương được Chính phủ ra quyết định nâng lên thành Trường Đại học Thể dục

thể thao Trung ương I. Sau đó, ngày 28 tháng 11 năm 1992, Nghị định số

11/CP của Thủ tướng Chính phủ đổi tên Trường Đại học Thể dục thể thao

Trung ương thành Trường Đại học Thể dục thể thao I.

Trường Cán bộ Thể dục thể thao Trung ương - Thành phố Hồ Chí

Minh được nâng lên thành Trường Đại học Thể dục thể thao II. Còn Trường

Cao đẳng thể dục thể thao - Thành phố Đà Nẵng năm 2006 được Thủ tướng

Chính phủ ra Nghị định nâng lên thành Trường Đại học Thể dục Thể thao

Trung ương III.

35

Kể từ ngày được nâng lên thành trường đại học, Trường Đại học Thể

dục Thể thao I bắt đầu bước vào một thời kỳ thực hiện các nhiệm vụ theo

chức năng của một trường Đại học. Đó là giáo dục - đào tạo và nghiên cứu

khoa học đúng nghĩa của nó. Trường có 7 khoa: Khoa Khoa học xã hội, Khoa

Khoa học tự nhiên, Khoa Điền kinh, Khoa Thể dục, Khoa Các môn bóng,

Khoa Bơi lội, Khoa Thể thao quốc phòng và có 5 phòng chức năng. Cán bộ,

giáo viên nhà trường được tăng cường, nhất là đội ngũ giảng viên có tới gần

100 người trong đó có các Tiến sỹ và Phó giáo sư.

Trên đà phát triển, cơ cấu của nhà trường hiện nay có quy mô lớn hơn,

nội dung phong phú hơn. Có 21 bộ môn trong đó 18 bộ môn chuyên ngành

thực hành và lý luận TDTT, 5 khoa trong đó có 4 khoa quản lý sinh viên theo

chuyên ngành đào tạo: Khoa Sư phạm thể dục thể thao, Khoa Huấn luyện thể

dục thể thao, Khoa Y sinh học TDTT, Khoa Quản lý thể dục thể thao, có 5

phòng đảm trách các nhiệm vụ cụ thể đáp ứng cho công tác giáo dục - đào tạo

của nhà trường.

Đội ngũ cán bộ giáo viên hiện có trên 250 người, trong đó có gần 200

giảng viên; có 1 giáo sư và 2 phó giáo sư; gần 2/3 là thạc sỹ, tiến sĩ và giảng

viên chính; nhiều giảng viên đang học thạc sĩ và tiến sĩ trong và ngoài trường,

kể cả ở nước ngoài.

Sinh viên của nhà trường ngày càng đông, do chỉ tiêu tuyển sinh đào

tạo ngày càng tăng. Có gần 2000 sinh viên đại học chính quy, 200 sinh viên

đại học hoàn thiện, 150 sinh viên đại học tại chức dài hạn đang học tại trường.

Ngoài ra nhà trường còn liên kết với các tỉnh, thành phố đào tạo hàng trăm

sinh viên đại học tại chức, liên kết với các trường đại học sư phạm thể dục thể

thao I, đại học sư phạm thể dục thể thao II đang đào tạo gần 300 sinh viên đại

học chính quy và đại học tại chức, liên kết với trường đại học thể dục thể thao

Quảng Tây (Trung Quốc) đang đào tạo hai khoá đại học chính quy gần 200

sinh viên.

36

Lực lượng vận động viên tài năng trẻ quốc gia đang được Nhà trường

đào tạo với con số gần 100, gồm những môn thể thao hiện đại, thể thao

olimpic.

Học viên cao học đang được nhà trường đào tạo, có 3 khoá với trên 200

người theo hình thức tại chức.

Cơ sở vật chất của nhà trường hiện nay được tăng cường đáng kể.

Trường nằm trên một khu đất cả cũ và mới mở rộng gần 70ha. Sân tập, nhà

tập, nhà thi đấu, bể bơi tương đối hiện đại, có gần 100 giảng đường rộng rãi

trong đó nhiều giảng đường được trang bị máy móc đáp ứng một phần cho

công nghệ dạy học. Thư viện khang trang, có gần 1000 đầu sách và hàng chục

tờ báo các loại. Các phòng học vi tính, ngoại ngữ và thực nghiệm y sinh học

được trang bị tương đối đầy đủ máy móc, phương tiện cho việc dạy và học.

Trang thiết bị cho các môn thực hành đầy đủ và đảm bảo an toan cho sinh

viên học tập.

Từ ngày thành lập trường (9-1959) đến nay đã gần 50 năm, Trường Đại

học Thể dục Thể thao I từng bước phát triền về nhiều mặt như: quy mô và

chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu khoa học, phục vụ sản xuất,

nhiệm vụ chiến đấu, phục vụ các hoạt động chính trị, văn hoá, tăng cường cơ

sở vật chất, trang thiết bị ngày càng đáp ứng cho công tác giáo dục - đào tạo.

Lực lượng cán bộ, công chức, nhất là đội ngũ giảng viên của nhà trường ngày

càng đông, trình độ học vị học hàm được gia tăng.

Trong mọi tình huống như thời kỳ cả nước có chiến tranh, thời kỳ bao

cấp, trường sở và điều kiện đào tạo rất khó khăn và thiếu thốn, nhưng nhà

trường hàng năm vẫn tuyển sinh, vẫn tiến hành tổ chức dạy và học ngày càng

gia tăng. Số lượng sinh viên được đào tạo ra trường ngày càng đông.

Từ ngày đất nước đổi mới (1986) đến nay đã hơn 20 năm, Trường Đại

học Thể dục thể thao I có điều kiện phát triển thuận lợi về giáo dục - đào tạo

và cả cơ sở vật chất. Đội ngũ giáo viên của trường có điều kiện đảm bảo cho

việc bổ sung và nâng cao trình độ.

37

Gần 50 năm, Nhà trường đã đào tạo ra hàng chục nghìn nhân lực thể

thao trình độ khác nhau, trong đó hơn 10 ngàn đại học chính quy, gần 2 ngàn

đại học chuyên tu, khoảng 1500 đại học tại chức, 1000 đại học hoàn thiện, 10

ngàn trung cấp, 600 cao học. Số lượng các khoá, các hình thức đã được đào

tạo: Đại học chính quy 40 khoá, đại học tại chức trong và ngoài trường 30

khoá, đại học hoàn thiện 11 khoá. Nhà trường cũng đã liên kết với các trường

Đại học Thể dục thể thao III (Đà Nẵng), Đại học Sư phạm thể dục thể thao I

(Hà Tây), Đại học Sư phạm thể dục thể thao II (Thành phố Hồ Chí Minh) đào

tạo được 10 khoá đại học chính quy. Về cao học, nhà trường đã đào tạo được

12 khoá.

Nhà trường cũng đã đào tạo được 200 vận động viên tài năng trẻ tham

gia các đội tuyển quốc gia thi đấu quốc tế dành được những tấm huy chương,

mang lại niềm vinh dự cho thể thao Việt Nam, vinh dự cho Tổ quốc.

Lực lượng cán bộ, giảng viên của nhà trường đã trải qua 3 thế hệ với

300 con người góp phần đắc lực vào sự nghiệp giáo dục - đào tạo của nhà

trường. Những người đến tuổi lần lượt về hưu được thay thế bởi các cán bộ,

giảng viên trẻ.

Nhà trường đã cung cấp nhiều cán bộ giảng viên làm công tác quản lý từ

cấp Vụ phó đến cấp Bộ trưởng cho Uỷ ban thể dục thể thao, quản lý các trung

tâm thể dục thể thao quốc gia, Hiệu trưởng, Hiệu phó các trường đại học thể dục

thể thao II, III.

Trong quá trình đổi mới hiện nay, Nhà trường đã bước đầu chuyển

hướng đào tạo phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa, phù hợp với thực tiễn hoạt động TDTT ngoài xã hội, cụ thể là: Đa dạng

hoá mục tiêu đào tạo, đa dạng hoá loại hình đào tạo (cán bộ quản lý, giáo

viên, huấn luyện viên, vận động viên, chính quy, tại chức, hoàn thiện, tín chỉ,

cao học, liên kết...).

Nhà trường đã xây dựng được lực lượng giảng viên hiện có là 170

người. Trong đó giảng viên các môn cơ sở, cơ bản, ngoại ngữ và lý luận

38

chuyên ngành 58 người, giảng viên các môn thực hành là 112 người. Tỷ lệ

giảng viên nữ chiếm 1/3 tổng số giảng viên. Tỷ lệ giảng viên có trình độ trên

đại học 59,4% tổng số giảng viên toàn trường. Trong số đó có 1 GS, 2 PGS,

hàng chục tiến sĩ.

Cơ sở vật chất và trang thiết bị đáp ứng cho công tác giáo dục - đào tạo

ngày càng tăng lên đáng kể. Hiện nay nhà trường đã xây dựng được trên 100

phòng học tương đối hiện đại, trong đó 8 phòng học sử dụng máy chiếu, giảng

bằng giáo án diện tử, nhiều nhà tập, phòng tập, sân tập rộng rãi, bể bơi đúng

tiêu chuẩn quốc tế, các công cụ máy móc trang thiết bị cho giảng dạy, học tập,

nghiên cứu khoa học, thực nghiệm được mua sắm, xây dựng mới đảm bảo

đúng tiêu chuẩn.

Nhiều công trình, đề tài nghiên cứu khoa học của giảng viên nhà

trường phục vụ cho công tác giáo dục - đào tạo được nghiệm thu và được ứng

dụng, góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng tuyển sinh, đào tạo,

giáo dục và luận văn tốt nghiệp đại học, cao học.

Từ ngày thành lập đến nay, Trường đại học Thể dục thể thao I đã được

vinh dự đón nhận những phần thưởng cao quý sau đây:

Huân chương Chiến công hạng Ba (1972)

Huân chương Lao động hạng Ba (1974)

Huân chương Lao động hạng Nhì (1982)

Huân chương Lao động hạng Nhất (1994)

Huân chương Độc lập hạng Ba (1999)

Hai bộ môn Thể dục và Điền kinh được thưởng Huân chương Lao động

hạng Ba.

Ngoài ra, nhà trường còn được những phần thưởng khác như lẵng hoa

của Phó Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng (1974), cờ và bằng khen của Thủ

tướng Chính phủ (1997 và 1998), nhiều phần thưởng của Uỷ ban TDTT, của

tỉnh Hà Bắc (trước đây) và tỉnh Bắc Ninh.

39

Đó là những thành tựu chung của cán bộ, giảng viên và sinh viên

Trường Đại học Thể dục thể thao I trong công tác xây dựng nhà trường, công

tác giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ. Các thế hệ sinh viên

sau khi tốt nghiệp ra trường toả khắp đất nước phát triển sự nghiệp TDTT, vì

nước vì dân, luôn luôn hướng về trường, mong rằng Trường Đại học thể dục

thể thao gặt hái được nhiều thành tựu hơn nữa. Họ đã và đang phát huy những

phẩm chất năng lực của mình được đào tạo trong nhà trường trong hoạt động

thực tiễn TDTT. Đa phần trưởng thành được quần chúng tin yêu.

Những thành tựu trên chứng minh cho sự phát triển không ngừng của

Trường Đại học Thể dục thể thao I. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của

mình, nhà trường cũng có những vấp váp những khuyết điểm. Những khuyết

điểm đó đã làm ảnh hưởng và hạn chế không ít tốc độ, tiến trình phát triển của

Trường Đại học thể dục thể thao I. Và điều đó cũng đã hạn chế nhất định chất

lượng giáo dục - đào tạo. Nguồn nhân lực do nhà trường đào tạo ra không ít

người năng lực yếu phải bỏ nghề, chuyển sang lĩnh vực khác, một số chưa xin

được việc làm. Qua điều tra sơ bộ những năm gần đây, số sinh viên tốt nghiệp

Trường Đại học Thể dục thể thao I có khoảng từ 10-15% chuyển sang làm các

công việc hành chính, sự vụ, giao dịch mua bán hàng hoá, và có từ 20-25%

chưa được tuyển dụng vào làm việc, nhất là đối với những sinh viên mới tốt

nghiệp ra trường cách đây vài ba năm.

2.2. Thực trạng

Thực trạng hoạt động giáo dục - đào tạo của trường đại học thể dục thể

thao thể hiện ở một số mặt sau và được trình bày như dưới đây.

2.2.1. Đào tạo sinh viên

Hoạt động của nguồn nhân lực TDTT chủ yếu là việc chuyển tải những

kỹ năng vận động gồm những động tác, bài tập của mình cho người tập một

cách chính xác. Bởi vậy nguồn nhân lực được đào tạo trong nhà trường TDTT

cốt yếu là phải tiếp thu, nắm vững được những kỹ năng vận động các động

tác, bài tập của tất cả các môn thực hành, nhất là môn chuyên sâu. Các môn lý

40

luận chuyên ngành nhằm hướng dẫn, soi sáng cho sinh viên những cơ sở khoa

học, phương pháp giảng dạy, huấn luyện, tập luyện các môn thực hành. Còn

các môn học cơ sở, cơ bản chủ yếu trang bị cho sinh viên những tri thức văn

hoá chung để giúp sinh viên nhận thức đúng và sâu hơn khoa học chuyên

ngành và kỹ thuật thực hành, giải quyết có hiệu quả các vấn đề nẩy sinh trong

hoạt động thực tiễn sau khi tốt nghiệp ra trường. Các môn ngoại ngữ (tiếng

Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Trung) giúp sinh viên giao tiếp chuyên môn

với người nước ngoài khi cần. Còn đối với chuyên ngành y sinh học thì sự

gắn chặt và thống nhất giữa lý thuyết, thực hành và thực nghiệm một cách

nhất quán.

Về các môn thể thao chuyên ngành thì hiện nay nhà trường đang đào

tạo 14 môn thể thao chuyên ngành : Điền kinh, Bòng đá, Bơi lội, Thể dục

dụng cụ, Vật, Võ, Quần vợt, Bóng chuyền, Bóng rổ, Bóng bàn, Cờ vua, Bóng

ném, Bắn súng, Cầu lông. Các môn thể thao chuyên ngành được phân phối

trương trình trong cả 8 kỳ từ năm thứ nhất cho đến năm thứ tư.

Như vậy khối lượng thời gian đào tạo của các môn thực hành nhiều

nhất so với khối lượng thời gian đào tạo các môn học đại cương và các môn

học chuyên ngành. Điều này cho thấy so với các trường đại học chuyên ngành

các lĩnh vực khác thì Trường Đại học Thể dục thể thao I có khối lượng thời

gian đào tạo thực hành lớn hơn nhiều.

Từ khối lượng đào tạo các môn thực hành nhiều như vậy, đồng thời

biên chế của mỗi lớp lên lớp các môn thực hành không quá 30 sinh viên và

phải có 2 giảng viên đứng lớp, cho nên ngoài số lượng giảng viên chuyên

trách dạy thực hành, nhà trường cũng đã quyết định 50 giảng viên giảng dạy

các môn học cơ sở, cơ bản và các môn lý luận chuyên ngành kiêm dạy các

môn thực hành.

Về số lượng sinh viên thì hàng năm nhà trường tuyển sinh từ 600 đến

800 chỉ tiêu, trong đó số sinh viên được tuyển thẳng chiếm khoảng 15 phần

trăm.

41

Về công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên, hàng năm nhà trương tổ

chức học chính trị đầu năm cho sinh viên thời gian học 1 tuần, ngoài ra phòng

công tác chính trị và quản lý sinh viên cũng thường xuyên tổ chức các buổi

nghe thời sự cho sinh viên, công tác tuyên truyền giáo dục chình trị tư tưởng

của Đoàn thanh niên cũng được Nhà trường rất quan tâm, điều này cho thấy

vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên trong trường là tương đối tốt.

Các hoạt động đoàn thể cũng được duy trì thường xuyên vào các ngày

lễ trong năm, ngoài ra nhà trương còn tổ chức các buổi giao lưu văn nghệ,

TDTT với các trường bạn.

Về phương pháp giảng dạy: Qua khảo sát cho thấy hiện nay đã có tới

30% tổng số giảng viên áp dụng phương pháp dạy học tích cực trong đó áp

dụng cả công nghệ thông tin.

Đối với sinh viên, trong tiến trình học tập mỗi ngày, mỗi tuần mỗi học

kỳ, mỗi năm học thường xuyên phải lên lớp học gần 1/2 thời gian thực hành

ngoài trời, trong nhà tập, còn 1/2 thời gian lên lớp lý thuyết, lý luận trên giảng

đường. Cho nên sinh viên học tập khá vất vả, cần có sức khoẻ, thể lực tốt mới

đảm bảo hoàn thành khoá học có chất lượng.

Do phần lớn các môn thực hành lên lớp ngoài trời, tức ngoài sân như

bóng đá, bóng rổ, quần vợt, bóng ném, bóng chuyền, đá cầu, bơi, nếu trời

mưa to gió lớn thì không thể lên lớp được. Nếu như vậy thì tiến trình, tiến độ

giảng dạy và học tập không thực hiện được đầy đủ, ảnh hưởng lớn đến chất

lượng đào tạo. Cho nên nhà trường còn phải dự phòng một khối lượng thời

gian nhất định để bù vào số thời gian không lên lớp được của các môn thực

hành ngoài trời do thời tiết xấu.

Các hoạt động thi đấu của sinh viên các khoá về các môn thực hành

điều này không những chỉ nâng cao kỹ năng, thể lực cho sinh viên, mà còn

gây không khí vui tươi lành mạnh, sôi nổi trong toàn trường. Do đó nhà

trường cũng dành một khối lượng thời gian đáng kể cho các môn thực hành

42

để có điều kiện thực hiện được các hoạt động thi đấu trong sinh viên giữa các

khoá của nhà trường.

Trên đây là một số đặc điểm về công tác giáo dục và đào tạo ở Trường

Đại học Thể dục thể thao I hiện nay cũng như thực trạng giáo dục - đào tạo

của nhà trường.

2.2.2. Đào tạo nguồn lực con người đảm nhiệm công tác thể dục thể

thao quần chúng và thể dục thể thao trong các lực lượng vũ trang

Đây là loại hình nguồn nhân lực thể thao được đào tạo từ trước tới nay

và ngày càng mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng. Nguồn nhân lực này

đảm đương hoạt động thực tiễn như: tổ chức điều hành và hướng dẫn phong

trào TDTT quần chúng ở các cơ sở xã, phường, thị trấn; tổ chức, điều hành,

hướng dẫn phong trào TDTT của những người lao động trong các nhà máy,

hầm mỏ, công ty, doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước và các lực lượng vũ

trang (quân đội, công an).

Phong trào TDTT quần chúng hàng chục năm qua nhất là những năm

đầu thế kỷ 21 này phát triển khá mạnh, tính đến năm 2007 có tới 21% số dân

trong cả nước tập luyện TDTT thường xuyên. Quần chúng thường tập các loại

hình rèn luyện thân thể như thể dục sáng, đi bộ, chạy bền, thể dục dưỡng sinh,

thái cực quyền và các môn thể thao như cầu lông, bóng bàn, bóng chuyền,

những nơi có điều kiện thì còn tập cả quần vợt.

Thi đấu thể thao phong trào sôi nổi giữa các câu lạc bộ huyện này với

huyện khác, quận này với quận khác, giữa các tỉnh với nhau, giữa các cơ

quan, nhà máy, các doanh nghiệp với nhau, giữa các câu lạc bộ người cao tuổi

này với các câu lạc bộ người cao tuổi kia.

Tuy vậy phong trào TDTT quần chúng phát triển thiếu đồng bộ, chưa

rộng khắp. Chẳng hạn ở nông thôn những vùng xa thành thị, vùng sâu, vùng

xa số người tập TDTT còn rất ít, không ít xã, ấp bản miền núi vắng bóng

người tập, gọi là "xã trắng". Đối với những cơ sở có số người tập luyện tích

cực đông đảo như những vùng giáp ranh thành thị, các cơ quan, nhà máy, hầm

43

mỏ, công ty, doanh nghiệp nhưng chất lượng thấp. Biểu hiện động tác, bài tập

thiếu chính xác, phương pháp và cường độ tập luyện không phù hợp với độ

tuổi, giới tính, kỹ thuật và chiến thuật trong thi đấu các môn thể thao phong

trào (thể thao quần chúng) còn nhiều hạn chế.

Về cơ sở vật chất, nhất là nhà tập, sân tập còn thiếu nhiều. Điều này

cũng hạn chế phần lớn công chúng hứng thú tập luyện và chậm thu hút mọi

người tham gia rèn luyện sức khoẻ.

Tình hình phong trào TDTT quần chúng như trên và nhu cầu tập luyện

ngày càng tăng về cả số lượng và chất lượng, nhất là đối với những người

đang lao động, đòi hỏi phải có nguồn nhân lực thể thao có năng lực trực tiếp

hướng dẫn, tổ chức điều hành các hoạt động TDTT ở các cơ sở nông thôn,

thành thị, cơ quan, nhà máy, công ty, doanh nghiệp. Nguồn nhân lực thể thao

đảm trách công tác đó phải được đào tạo có chất lượng.

Đặc biệt đối với lực lượng lao động hiện nay có nhu cầu lớn về nâng

cao chất lượng trong đó có yếu tố sức khoẻ, thể lực rất quan trọng. Lao động

không chỉ trong các công ty, nhà máy, các cơ sở sản xuất công nghiệp của

nước ta mà cả của nước ngoài, sức khoẻ của người lao động là một những yếu

tố có tính chất quyết định hiệu quả kinh tế. Bởi vậy cần có đủ những cán bộ,

hướng dẫn viên TDTT vững vàng đảm trách phát triển phong trào TDTT của

những người lao động hiện nay.

Trường Đại học Thể dục thể thao I có vai trò và nhiệm vụ lớn đảm

nhiệm đào tạo loại hình nguồn nhân lực công tác TDTT quần chúng nhân dân

nói chung và những người lao động nói riêng.

Đối với phong trào TDTT trong các lực lượng vũ trang hiện nay nói

chung tốt. Toàn thể cán bộ chiến sĩ (100%) rất tích cực tập luyện TDTT

thường xuyên. Các hoạt động thể thao ở các đơn vị sôi nổi. Các hội thao toàn

quân được tổ chức thành công. Thể thao quân đội và thể thao công an đã và

đang đóng góp nhiều vận động viên ưu tú cho các đội tuyển quốc gia tham gia

44

các giải thể thao quốc tế và các đại hội thể thao khu vực, châu lục và thế giới,

dành được những thành tích, lập được những kỷ lục vẻ vang.

Tuy vậy, phong trào TDTT của các lực lượng vũ trang còn những hạn

chế như: Nhiều bài tập thể lực chưa phù hợp với các binh chủng, các lực

lượng cụ thể chưa phù hợp với địa bàn đóng quân, nhất là các đơn vị ở miền

núi, hải đảo...

Hiện nay trong quân đội đang triển khai mạnh tiêu chuẩn rèn luyện thể

lực, bao gồm: tiêu chuẩn rèn luyện thể lực của bộ đội địa phương, tiêu chuẩn

rèn luyện thể lực của các quân nhân trên tàu thuyền và học viện các trường

Hải quân. Tiêu chuẩn rèn luyện thể lực trong quân đội là nội dung huấn luyện

bắt buộc đối với cán bộ chiến sỹ trong toàn quân, là tiêu chí đánh giá trình độ

thể lực của quân nhân và từng cấp đơn vị nhằm đáp ứng nâng cao sức chiến

đấu.

Tình hình đó cần phải có một bộ phận nguồn nhân lực thể thao có chất

lượng tốt mà Trường đại học Thể dục thể thao I phải đóng góp một phần quan

trọng, phần lớn là loại hình nguồn nhân lực công tác TDTT trong các lực

lượng vũ trang.

Hiện nay Bộ Quốc phòng có nhu cầu lớn về loại hình nguồn nhân lực

thể thao đó nhằm cung cấp cho các quân khu, các binh chủng, các doanh trại

đóng quân. Bộ công an có nhu cầu ít hơn so với Bộ Quốc phòng song lại cần

cho các hoạt động thể thao ở các đơn vị công an của Bộ, sở công an tỉnh thành

phố, các đơn vị công an vũ trang lớn.

Như vậy, Trường Đại học Thể dục thể thao I hiện nay có nhiệm vụ đào

tạo loại hình nguồn nhân lực đảm nhiệm công tác TDTT quần chúng, công tác

TDTT trong các lực lượng vũ trang là rất cần thiết, phù hợp với nhu cầu của

thực tiễn. Quần chúng nhân dân, các lực lượng vũ trang ngày càng có nhu cầu

về sức khoẻ, thể lực, về đời sống vui tươi lành mạnh, để đáp ứng cho nhu cầu

đó, phải có nguồn nhân lực thể thao được đào tạo có chất lượng, ngành nghề

phù hợp với các hoạt động TDTT của các đối tượng, giới tính, lứa tuổi.

45

Trường Đại học TDTT I vẫn là trọng điểm cung cấp loại hình nguồn nhân lực

cho phong trào TDTT của quần chúng nhân dân, phong trào TDTT của những

người lao động và phong trào TDTT của các đơn vị quân đội, công an.

2.2.3. Đào tạo nguồn nhân lực đảm nhiệm công tác thể dục thể theo

trường học

Do sự gia tăng số trường học và số lượng người học kể cả các bậc phổ

thông, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề, cao đẳng, đại học công lập, ngoài

công lập, và các trường của quân đội, công an, cho nên nhu cầu ngày càng lớn

về loại hình nguồn nhân lực đảm nhiệm công tác TDTT trường học.

Cần nhận rõ vai trò của TDTT trường học có tác dụng rất quan trọng nâng

cao sức khoẻ, thể lực và tầm vóc của tuổi trẻ học sinh, sinh viên, góp phần tích

cực vào công tác giáo dục đào tạo và phát triển nguồn nhân lực quốc gia chất

lượng cao và từng bước cải thiện tầm vóc, thể trạng nòi giống Việt Nam, đồng

thời góp phần tích cực vào sự phát triển con người toàn diện. Trong bài phát biểu

của ông J.A.Samaranch, Chủ tịch Uỷ ban Olimpic Quốc tế, tại khoá họp lần thứ

50 Đại hội đồng Liên hiệp quốc (New York, 6-11-1995) đã nêu lên quan điểm

đúng rằng: "Muốn thay đổi thế giới, người ta trước hết phải đem lại sự thay đổi

cho ngay dân tộc mình, và chắc chắn là trong lĩnh vực này, vai trò của thể thao

như là một triết học sẽ phát huy tác dụng, bằng cách thúc đẩy việc thực hiện lý

tưởng phát triển con người toàn diện" [60, tr.87].

Do quy mô giáo dục - đào tạo ngày càng mở rộng với vai trò quan

trọng của TDTT học đường, cần phải đào tạo ra một lực lượng lớn, có chất

lượng cao nguồn nhân lực đảm nhiệm công tác TDTT trong tất cả các trường

học của nước ta.

Thể dục thể thao trường học bao gồm giáo dục thể chất chính khoá và

thể thao ngoại khoá, trong đó giáo dục thể chất chính khoá là cơ bản, là một

trong những mặt quan trọng "làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có

của các em" [35, tr.32]. Luật thể dục thể thao năm 2006, Điều 20 ghi rằng:

"Giáo dục thể chất là môn chính khoá thuộc chương trinh giáo dục nhằm cung

46

cấp kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản cho người học thông qua các bài tập

và trò chơi vận động nhằm thực hiện mục tiêu toàn diện" [63, tr.14]. Giáo dục

thể chất học đường đó là giáo dục rèn luyện, nâng cao năng lực thể chất và

năng lực tinh thần cho học sinh, sinh viên, cho tuổi trẻ thiếu nhi, thanh niên.

"Sức mạnh của dân tộc của đất nước phụ thuộc một phần quan trọng những

năng lực của tuổi trẻ. Giáo dục và rèn luyện thể chất có tác dụng tăng cường

năng lực sinh thể và năng lực tinh thần cho tuổi trẻ" [60, tr.136].

Thể thao ngoại khoá được tiến hành theo sở thích, tính tự giác, năng

lực của học sinh, sinh viên, nhằm tăng cường hiệu quả tích cực của giáo dục

thể chất, gây sự hứng thú và phát triển tài năng thể thao cho tuổi trẻ. Luật thể

dục, thể thao năm 2006, điều 20 chỉ rõ: "Hoạt động thể thao trong nhà trường

là hoạt động tự nguyện của người học được tổ chức theo phương thức ngoại

khoá phù hợp với sở thích giới tính, lứa tuổi và sức khoẻ nhằm tạo điều kiện

cho người học thực hiện quyền vui chơi, giải trí, phát triển năng khiếu thể

thao" [63, tr.15].

Mấy chục năm qua, nhất là từ ngày đất nước bước vào thời kỳ đổi mới

đến nay, giáo dục - đào tạo nước ta đã có bước phát triển quan trọng, đào tạo

ra các thế hệ lao động nối tiếp nhau cho đất nước, nguồn nhân lực to lớn đó là

kết quả tổng hợp của nhiều mặt giáo dục, trong đó giáo dục thể chất góp phần

không nhỏ. Nguồn nhân lực to lớn đó đóng vai trò chủ yếu trong sự phát triển

kinh tế - xã hội một cách bền vững của đất nước, trong tiến trình hội nhập với

thế giới.

Tuy vậy nền giáo dục và đào tạo của nước ta những năm qua mở rộng

quy mô đã không kết hợp một cách hài hoà với sự đổi mới nâng cao chất

lượng, trong đó có mặt chất lượng của TDTT trường học. Cho nên chất lượng

giáo dục - đào tạo của nước ta vẫn còn nhiều yếu kém về tất cả các mặt.

Trong sự yếu kém chất lượng nguồn nhân lực như vậy của nước ta hiện nay,

có sự yếu kém về yếu tố sức khoẻ, thể lực.

47

Việt Nam đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá,

đang đứng trước những thách thức của thời đại cách mạng tri thức gắn liền

với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế với sự đẩy nhanh tiến trình

phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, do đó cần phải có nguồn nhân lực

chất lượng cao được đào tạo một cách có hệ thống, quy củ, có phương pháp

đúng đắn, khoa học trong nhà trường sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của hoạt

động thực tiễn.

Sức khoẻ, thể lực của học sinh, sinh viên là một yếu tố cơ bản mà

nhiệm vụ giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cần phải thực hiện

được. Nguồn nhân lực chất lượng cao trong đó có yếu tố sức khoẻ, thể lực

mới đáp ứng được những yêu cầu của lao động phức tạp với tần suất cao,

cường độ lớn đòi hỏi người lao động phải có thể chất mạnh mẽ, nhanh nhẹn,

bền bỉ, linh hoạt, kiên định. Giáo dục thể chất, rèn luyện thể thao trong trường

học có chất lượng cao nhằm đem lại cho nguồn nhân lực sức khoẻ, thể lực

như vậy.

Bởi thế, quan tâm tới chất lượng TDTT trường học tức là quan tâm tới

giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Việt Nam đã trở thành

thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) với xu thế toàn

cầu hoá kinh tế và hiện đại hoá công nghệ thông tin, kinh tế tri thức ở các

nước tiên tiến mà nước ta đang từng bước tiếp cận, phát triển, vấn đề đào tạo

nguồn nhân lực chất lượng cao từ trong trường học trở nên cấp thiết để tăng

cường và thay thế dần nguồn nhân lực hiện đang lao động nhưng chất lượng

thấp kém như WEF khảo sát và xếp hạng.

Mấy chục năm qua, nhất là từ ngày đất nước bước vào thời kỳ đổi mới

đến nay, TDTT trường học nước ta đã đạt được những thành tựu nổi bật như:

Tuyệt đại đa số trường học thực hiện giáo dục thể chất có nề nếp, câu lạc bộ

thể thao trường học hình thành ngày càng nhiều thu hút đông đảo học sinh,

sinh viên đến tập luyện, thành tích nhiều môn thể thao tại các Hội khoẻ Phù

Đổng, tại các giải thể thao học sinh, sinh viên toàn quốc và quốc tế ngày càng

48

cao hơn so với những năm trước, đội ngũ giáo viên thể dục được tăng cường

cả về số lượng và chất lượng, tính đến nay đã có trên 30 ngàn giảng viên,

hàng chục tiến sĩ và thạc sĩ giáo dục học TDTT cơ sở vật chất phục vụ cho

giáo dục thể chất và hoạt động thể thao của các trường cũng được xây dựng,

nâng cấp, bổ sung nhiều, tính đến nay cả nước có trên 15 ngàn sân tập, 300

nhà tập đúng tiêu chuẩn, hàng nghìn phòng tập các loại hình TDTT. Giáo dục

thể chất và thể thao trường học thực sự đã góp phần tích cực thúc đẩy việc

học tập, rèn luyện toàn diện của học sinh, sinh viên trong sự nghiệp giáo dục -

đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước.

Tuy vậy TDTT trường học còn không ít khó khăn yếu kém như: Sự

nhận thức của các cấp quản lý giáo dục về vai trò của TDTT trường học chưa

đầy đủ, chưa coi trọng hoặc chưa đặt đúng vị trí và sự bình đẳng của môn học

giáo dục thể chất như những môn học khác trong nhà trường; Cơ sở vật chất,

trang thiết bị TDTT chưa đáp ứng đầu đủ cho giáo dục thể chất, nhất là đối

với các trường ngoài công lập, nhiều trường trung học phổ thông và đại học,

cao đẳng, trung học chuyên nghiệp ngoài công lập mở ra thu hút đông đảo

học sinh, sinh viên vào học những cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho

giáo dục thể chất thiếu nghiêm trọng, đội ngũ giảng viên, giáo viên còn thiếu

nhiều, nhất là đối với các trường tiểu học và trung học cơ sở, hiện nay còn

phải phân công hơn 4 ngàn giáo viên kiêm nhiệm, trình độ giảng viên, giáo

viên có văn bằng tiễn sĩ giáo dục học TDTT chưa đến một chục người, thạc sĩ

cũng còn rất ít ở bậc đại học và trung học phổ thông. Như thành phố Hà Nội

có hơn 100 trường trung học phổ thông trong đó 41 trường công lập chưa

có trường nào có giáo viên thể dục trình độ thạc sĩ...

Do những khó khăn, yếu kém như trên đã ảnh hưởng tiêu cực đến chất

lượng giáo dục thể chất và hoạt động thể thao trường học. Kết quả học tập,

sức khoẻ, thể thực của học sinh, sinh viên thể hiện trong các kỳ kiểm tra các

nội dung môn học giáo dục thể chất nói chung còn thấp. Trong thực tế, nhiều

học sinh, sinh viên của không ít trường không đạt được yêu cầu về kỹ thuật và

49

thành tích tối thiểu các nội dung, nhất là nội dung chạy bền ít có học sinh,

sinh viên đạt được tiêu chuẩn.

Sức khoẻ của học sinh, sinh viên nước ta hiện nay có được cải thiện

như những chỉ số chiều cao đứng, cân nặng, vòng ngực, pignet tăng lên mức

độ nhất định, nhưng nói chung tăng chậm và còn thấp kém so với học sinh,

sinh viên các nước trong khu vực, châu lục. Nhiều học sinh sinh viên Việt

Nam mắc các bệnh học đường như cong vẹo cột sống, béo phì, cận thị... đã

ảnh hưởng tiêu cực tới học tập, rèn luyện và sự phát triển thể chất.

Đứng trước những bức xúc về tình hình giáo dục thể chất trường học

và sức khoẻ của học sinh, sinh viên khó khăn, yếu kém như trên phải có sự

quan tâm nhiều hơn nữa của các cấp quản lý giáo dục về nâng cao chất lượng

giáo dục thể chất và hoạt động thể thao trường học. Trong sự quan tâm đó,

đặc biệt cần phải tăng cường đủ số lượng giảng viên, giáo viên có chất lượng

cao.

Đứng trước yêu cầu đó, các trường Đại học TDTT, cao đẳng TDTT các

khoa giáo dục thể chất của các trường Đại học và cao đẳng sư phạm có nhiệm

vụ nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực sư phạm TDTT

nhằm đáp ứng với công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguồn

nhân lực chất lượng cao trong đó có yếu tố sức khoẻ, thể lực chỉ có thể được

đào tạo từ tuổi trẻ học sinh, sinh viên, từ bậc học cơ sở đến bậc học cao. Sau

khi tốt nghiệp ra trường, nguồn nhân lực đó tiếp tục trau dồi thêm, phát huy

và vận dụng các yếu tố chất lượng của mình tham gia vào các hoạt động thực

tiễn ngày càng có hiệu quả tích cực. Các thế hệ học sinh, sinh viên được đào

tạo toàn diện trong đó có giáo dục thể chất với sư phạm quan tâm không

ngừng nâng cao chất lượng, chắc chắn rằng trong vài chục năm tới đất nước ta

sẽ có nguồn nhân lực dồi dào chất lượng cao.

Nhiệm vụ giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực sư phạm TDTT có chất

lượng cao là rất quan trọng và trở nên cấp thiết trước sự đòi hỏi của thực tiễn

50

đặt ra. Nguồn nhân lực này được đào tạo có chất lượng tốt, sau khi ra trường

họ sẽ phục vụ đắc lực công tác TDTT ở các trường học.

2.2.4. Đào tạo nguồn nhân lực con người đảm nhiệm công tác huấn

luyện thể thao

Bộ phận nguồn nhân lực này ngày càng có nhu cầu lớn về chất lượng

và số lượng.

Mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực này là: Đào tạo ra đội ngũ huấn

luyên viên thể thao có phẩm chất và năng lực tốt vững vàng cho các trung

tâm đào tạo vận động viên cấp quốc gia, cấp tỉnh, thành phố và các ngành

(nhất là quân đội, công an).

Nhu cầu phát triển thể thao thành tích cao ở nước ta hiện nay rất lớn.

Đó là do tổ chức thi đấu, giao lưu thể thao trong nước và ngoài nước ngày

càng tăng; do thể thao khu vực, châu lục và thế giới ngày càng mạnh; do sự

phát triển của du lịch ở nước ta cần có các hoạt động thể thao; do sự phát triển

kinh tế - xã hội và nhu cầu hưởng thụ của nhân dân gia tăng, do các hoạt động

thể thao trong các lực lượng vũ trang đòi hỏi nâng cao về chất lượng kỹ thuật

và thành tích. Đồng thời phát triển thể thao thành tích cao ở nước ta hiện nay

còn nhằm phục vụ tích cực nhiệm vụ đối ngoại của Đảng, Nhà nước và góp

phần nâng cao tinh thần dân tộc, lòng tự hào tổ quốc Việt Nam.

Nhu cầu quan trọng đó của sự phát triển thể thao thành tích cao, đòi hỏi

phải có nguồn nhân lực lớn mạnh. Trước hết là nguồn nhân lực huấn luyện

viên chất lượng cao nhằm để đào tạo nguồn nhân lực vận động viên giỏi đáp

ứng với mọi nhiệm vụ thi đấu, giao lưu thể thao trong nước, khu vực, châu lục

và thế giới, nâng cao vị thế của thể thao Việt Nam.

Thể thao thành tích cao của nước ta hiện nay có bước phát triển nhất

định. Nếu như cách đây 15 năm thành tích thi đấu của thể thao nước ta xếp

gần cuối khu vực Đông Nam Á thì nay được xếp trong những nước hàng đầu

khu vực. Đặc biệt, tại Seagame 22 (năm 2003) lần đầu tiên Việt Nam đã tổ

chức thành công Đại hội thể thao Đông Nam Á, và đồng thời thành tích thi

51

đấu của Đoàn thể thao Việt Nam xếp thứ nhất trên 10 đoàn tham dự Đại hội.

Thành tích thể thao Việt Nam trong các kỳ đại hội thể thao Châu Á cũng đã

đoạt được những tấm huy chương rất có giá trị và đã đoạt được huy chương

bạc tại Thế vận hội Olimpic ở Xit ni (Ôxtraylia).

Tuy vậy, thể thao Việt Nam so với nhiều nước trong khu vực và trên

thế giới vẫn còn nhiều hạn chế. Chúng ta còn thấp kém một số môn so với

khu vực Đông Nam Á. Rất nhiều môn thể thao Việt Nam chưa phát triển được

và không ít môn còn lạc hậu so với châu lục, thế giới. Đội ngũ huấn luyện

viên giỏi, có chất lượng cao của nước ta mới chỉ đếm trên đầu ngón tay, do đó

tất yếu phải mời các huấn luyện viên nước ngoài. Điều này do một nguyên

nhân cơ bản là chất lượng đào tạo huấn luyện viên ở các trường đại học

TDTT nước ta còn rất hạn chế.

Lực lượng vận động viên tài năng còn mỏng, nguồn cung cấp từ cơ sở

rất ít. Nhiều môn thể thao hiện đại có nhu cầu thi đấu giao lưu ở khu vực,

châu lục và thế giới nhưng nước ta chưa đào tạo được vận động viên. Cơ sở

vật chất và trang thiết bị hiện đại cho thể thao thành tích cao của nước ta còn

kém rất xa so với các nước "siêu cường" thể thao ở châu Á và thế giới.

Trong cuộc đua tranh thể thao thành tích cao việc đào tạo ra nguồn

nhân lực huấn luyện viên chất lượng cao và nguồn nhân lực này tuyển chọn

và đào tạo ra nguồn nhân lực vận động viên đẳng cấp cao, nhiều tài năng có ý

nghĩa quyết định sự thành công trên đấu trường quốc tế. Do đó nhiệm vụ đào

tạo đội ngũ huấn luyện viên thể thao chất lượng cao ở nước ta hiện nay là hết

sức quan trọng. Trường Đại học Thể dục thể thao I đã và đang đảm đương sứ

mệnh này ngày càng nhận thấy tầm quan trọng của nhiệm vụ đó. Nâng cao

chất lượng giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực thể thao thành tích cao là cấp

thiết của Trường Đại học Thể dục thể thao I hiện nay.

2.2.5. Đào tạo nguồn lực con người đảm nhiệm công tác y sinh học

trong các hoạt động thể dục thể thao

52

Phong trào TDTT ngày càng phát triển ở nước ta, thể thao phong trào

và thể thao thành tích cao ngày càng gia tăng cả về số người tập luyện và thi

đấu. Vì thế phải có một bộ phận nguồn nhân lực đảm trách công tác phòng

chữa chấn thương vệ sinh dinh dưỡng.

Thể thao phong trào phát triển từ phong trào TDTT quần chúng ở các

cơ sở nông thôn, thành thị, ở các cơ quan, nhà máy, công ty, trong các lực

lượng vũ trang. Đông đảo con người cả nam lẫn nữ, thanh niên, trung niên,

cao niên rất hăng hái tập luyện và giao lưu, thi đấu. Thể thao trường học phát

triển từ phong trào giáo dục thể chất học đường, đông đảo học sinh, sinh viên

tham gia tập luyện, giao lưu, thi đấu. Kể cả thể thao phong trào và thể thao

trường học đã từng xảy ra những chấn thương đáng tiếc trong tập luyện giao

lưu, thi đấu, nhưng chưa có bác sĩ thể thao hoặc cán bộ chuyên môn phòng

chữa, chấn thương. Vấn đề vệ sinh và dinh dưỡng cho tập luyện và thi đấu

chưa hợp lý. Nghĩa là phải có một bộ phận nhân lực công tác trong các hoạt

động thể thao phong trào, thể thao trường học để trực tiếp với những người

tập, giao lưu thi đấu chỉ dẫn cách thức đề phòng chấn thương và kịp thời sơ

cứu ngay sau khi vận động viên xảy ra chấn thương, cũng như vệ sinh và dinh

dưỡng đối với họ.

Về thể thao thành tích cao ở nước ta đã có một bộ phận nguồn nhân lực

đảm nhận phòng chữa chấn thương vệ sinh, dinh dưỡng trong thể thao, nhưng

chủ yếu tập trung ở các trung tâm thể thao quốc gia, còn trung tâm thể thao,

các khu vực, các tỉnh, thành và các ngành chưa có. Do đó cần có một số

lượng nhân lực chuyên trách về mặt y sinh học thể thao trong sinh hoạt, tập

luyện và thi đấu của vận động viên.

Trường Đại học Thể dục thể thao I bắt đầu từ năm học 2007 - 2008

trở đi tuyển sinh đào tạo nguồn nhân lực y sinh học TDTT. Trong tương lai

gần, trường đại học thể dục thể thao I sẽ cung cấp cho các trung tâm thể thao

tỉnh, thành, cho các ngành, các trường học mỗi năm một số nhân lực đó.

53

Nguồn nhân lực này phải được đào tạo ra có chất lượng cao mới đảm nhận

tốt công việc của mình.

Để đào tạo nguồn nhân lực này đảm trách được công việc hữu hiệu sau

khi tốt nghiệp ra trường phải có một đội ngũ giảng viên chuyên môn y học thể

thao và y khoa có năng lực, trực tiếp giáo dục - đào tạo sinh viên từ năm thứ

nhất cho tới khi tốt nghiệp ra trường. Muốn vậy nhà trường có nhiệm vụ phối

hợp với Trường Đại học Y khoa Hà Nội trong công tác đào tạo nguồn nhân

lực cần thiết này.

2.2.6. Đào tạo lực lượng vận động viên tài năng trẻ quốc gia

Nhiệm vụ đào tạo vận động viên trẻ ở các tỉnh, thành phố là do các

trung tâm thể thao của tỉnh, thành phố đảm nhiệm, các trung tâm thể thao của

tỉnh, thành phố đào tạo vận động viên trẻ cho các tỉnh, thành phố làm nhiệm

vụ thi đấu các giải thể thao trong nước, các đại hội thể thao toàn quốc.

Đối với trường đại học thể dục thể thao, nhiệm vụ đào tạo vận động

viên tài năng trẻ là cung cấp cho các đội tuyển quốc gia tham dự các giải thể

thao quốc tế, các đại hội TDTT khu vực, châu lục và thế giới. Bởi vậy việc

tuyển chọn cũng như đào tạo vận động viên tài năng trẻ của trường đại học

thể dục thể thao I phải đảm bảo đúng quy trình và tính khoa học xác thực.

Tài năng trẻ trong lĩnh vực thể thao phải đào tạo có chất lượng cao. TS

Trương Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Sức khoẻ Ban tuyên giáo Trung ương

Đảng, nguyên Phó hiệu trưởng Trường Đại học Thể dục thể thao I từng nhấn

mạnh: "Để có lực lượng vận động viên tài năng trẻ của Trường Đại học Thể

dục thể thao I phải được đào tạo có hệ thống khoa học" [57, tr.216].

Đào tạo nguồn nhân lực này phải có những giảng viên, huấn luyện viên

giàu kinh nghiệm, từng là vận động viên quốc gia của nhà trường. Ngoài ra

nhà trường còn phải mời các chuyên gia nước ngoài trực tiếp huấn luyện, đào

tạo.

Mười năm qua nhà trường đã đào tạo trên 100 vận động viên tài năng

trẻ đạt đẳng cấp kiện tướng. Hầu hết các vận động viên tham gia các đội tuyển

54

quốc gia làm nhiệm vụ thi đấu trên các đấu trường quốc tế. Họ đem về cho tổ

quốc nhiều tấm huy chương rất có ý nghĩa. Số vận động viên trẻ đang được

đào tạo tại trường cũng có nhiều triển vọng. Cũng như các lĩnh vực khác,

trong lĩnh vực thể thao nhà trường quán triệt sâu sắc lời dạy của Bác Hồ:

"Thành tích thể thao của thế giới phát triển mạnh, Việt Nam ta hãy cố gắng

tiến kịp" [60, tr.152]. Tuy nhiên nhà trường mới tiến hành đào tạo vận động

viên của 4 môn thể thao so với yêu cầu thì còn ít, sắp tới sẽ được tăng lên một

số môn thể thao cần thiết nhằm đáp ứng với sự đòi hỏi tăng cường hơn nữa

nguồn nhân lực vận động viên quốc gia. Đồng thời nhà trường tiến hành giáo

dục - đào tạo các vận động viên trẻ có chất lượng cao hơn, chóng trưởng

thành về mặt thành tích và phẩm chất đạo đức.

2.2.7. Đào tạo nhân lực thể dục thể thao sau đại học

Trường đại học Thể dục thể thao tuy chưa thực hiện đào tạo bậc học

Tiến sĩ, nhưng đã tiến hành đào tạo bậc học Thạc sĩ từ năm 1992. Trường đã

đào tạo được trên 500 thạc sĩ và hiện nay đang tiến hành đào tạo hai khoá cao

học với số lượng trên 100 học viên.

Quy môn đào tạo thạc sĩ giáo dục TDTT ngày càng mở rộng do nhu

cầu của thực tiễn phát triển nguồn nhân lực này mỗi khoá tuyển sinh hàng

năm được Bộ Giáo dục và Đào tạo gia tăng chỉ tiêu. Khoá đầu tiên được Bộ

giáo dục và Đào tạo cho chỉ tiêu 14 học viên. Nhưng đến khoá cao học 16

(2007-2010) Bộ giáo dục và Đào tạo đã cho chỉ tiêu 80 học viên. Trong quá

trình học tập hầu hết các học viên được bảo vệ luận văn tốt nghiệp, rất ít

trường hợp bảo vệ sau và không có học viên nào bỏ dở.

Trước đây đào tạo cao học chỉ dành cho những người có bằng đại học

TDTT chính quy. Từ năm 2003 trở đi Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép hệ tại

chức và chuyên tu dự thi cao học ngay sau khi tốt nghiệp, nếu có bằng khá trở

lên. Nhờ đó hằng năm số người đăng ký thi cao học ngày càng đông. Dự kiến

những năm tới Nhà trường sẽ đào tạo học viên cao học với số lượng tối thiểu

100 người mỗi khoá. Những người đăng ký thi và trúng tuyển cao học phần

55

đông là giảng viên Trường Đại học Thể dục thể thao I, giảng viên GDTC ở

các trường đại học, cao đẳng. Một số người là cán bộ TDTT các ngành, các

tỉnh, thành phố.

Chất lượng đào tạo khá hơn sơ với những khoá ban đầu. Khối lượng

kiến thức khá phong phú, phù hợp với yêu cầu của Bộ Giáo dục và Đào tạo,

của ngành và của hoạt động thực tiễn. Luận văn tốt nghiệp của học viên cao

học đã có những cố gắng về mặt thực chất luận văn được đánh giá chính xác

bởi hội đồng có trách nhiệm GS, TS Lưu Quang Hiệp, Hiệu trưởng Trường

Đại học Thể dục thể thao I đánh giá rằng: "Việc tổ chức bảo vệ luận văn thạc

sĩ của Trường Đại học Thể dục thể thao I được tiến hành nghiêm túc và là một

hình thức sinh hoạt khoa học. Các thành viên hội đồng là các cán bộ khoa học

có trình độ cao (GS, PGS, TS) về các chuyên ngành có liên quan" [62, tr.50].

Tuy vậy trong đào tạo cao học của trường đại học TDTT còn có những

hạn chế về mặt chất lượng như: một số học viên chọn đề tại luận văn quá hẹp,

một số luận văn sao chép từ các tài liệu khác. Luận văn của một số học viên

thiếu tính sáng tạo, vận dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học hạn chế,

rất nhiều học viên do hạn chế ngoại ngữ do đó không thể tham khảo được các

tài liệu nước ngoài.

Đánh giá kết quả 15 năm đào tạo cao học, thạc sĩ Nguyễn Thị Minh,

Trưởng khoa Sau đại học Trường Đại học Thể dục thể thao I, trong bài "Mười

lăm năm đào tạo cao học của Trường Đại học TDTT I" nhận định: "Mặc dù

có nhiều cải tiến quan từng khoá học, song các luận văn tốt nghiệp chưa đáp

ứng và còn ít có ý nghĩa trong việc giải quyết các vấn đề cấp thiết của ngành"

[62, tr.59].

Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế về đào tạo sau đại học theo

GS, TS Lưu Quang Hiệp là do "Xu thế tăng nhanh số lượng trong khi các điều

kiện đảm bảo chất lượng không phù hợp" [62, tr.65].

Bởi vậy trong thời gian tới trường đại học Thể dục thể thao sẽ cải tiến,

nâng cấp, bổ sung những điều kiện cho công tác đào tạo cao học có chất

56

lượng hơn nữa. Chỉ tiêu tuyển sinh tăng lên nhưng mức độ nhất định, nhưng

các điều kiện đảm bảo cho công tác nâng cao chất lượng đào tạo phải hết sức

chú trọng.

Với lịch sử, thực trạng của nhà trường và đứng trước những yêu cầu

của sự tăng cường chất lượng nguồn nhân lực quốc gia, phát triển kinh tế - xã

hội, phát triển nền thể dục thể thao Việt Nam ngày càng vững mạnh vì nước

vì dân, Trường Đại học Thể dục thể thao I tiến hành 6 nhiệm vụ quan trọng

hiện nay và trong thời gian tới. Đó là sáu nhiệm vụ công tác giáo dục - đào

tạo, cốt lõi của chúng là nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực thể thao.

Để thực thi thành công các nhiệm vụ đó phải có những giải pháp đúng. Chúng

tôi kiến nghị một số giải pháp cần thiết và chủ yếu, phần kiến nghị sẽ được

trình bày ở chương 3 .

2.3. Đánh giá những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những

vấn đề đặt ra

2.3.1. Đánh giá những thành tựu và nguyên nhân

Hoạt động giáo dục - đào tạo của Trường Đại học Thể dục thể thao I

hiện nay tiếp tục ổn định và phát triển về các mặt quản lý điều hành, dạy và

học, nghiên cứu khoa học phục vụ dạy và học, cơ sở vật chất trang thiết bị...

Công tác quản lý điều hành: Từ Ban Giám hiệu xuống các phòng, trung

tâm, các khoa, các bộ môn luôn luôn quán triệt trong tư tưởng, quan điểm với

hành động là thực thi có hiệu quả tốt nhiệm vụ giáo dục và đào tạo của nhà

trường đã đề ra.

Ban giám hiệu hàng tuần tổ chức họp giao ban để nắm tình hình từ các

phòng, trung tâm, khoa, bộ môn phản ánh về các mặt dạy và học, giáo dục và

quản lý sinh viên, nghiên cứu khoa học và tăng cường cơ sở vật chất phục vụ

giáo dục - đào tạo. Từ đó lãnh đạo nhà trường đã có những chủ trương chỉ đạo

kịp thời, sâu sát. Một số chủ trương quan trọng của nhà trường gần đây đang

được thực hiện như sau:

57

Thứ nhất, bước đầu tích cực đổi mới phương pháp dạy và học để nâng

cao chất lượng đào tạo của nhà trường. Lần đầu tiên nhà trường đã tổ chức

thành công hội giảng vào cuối tháng 12/2007.

Thứ hai, tăng cường lực lượng giảng viên, nhất là mặt chất lượng như

chuyên môn, phương pháp giảng dạy, năng lực nghiên cứu khoa học để đảm

bảo cho tiến trình nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo của nhà trường.

Trường đang tổ chức cho các giảng viên học các lớp ngoại ngữ, tin học,

và sinh hoạt chuyên môn hàng tuần.

Thứ ba, tăng cường giảng viên các môn học lý luân chuyên ngành, lý

luận cơ bản kiêm giảng thực hành nhằm gắn lý luận với thực tiễn ngay trong

công tác giáo dục - đào tạo của nhà trường.

Nhà trường vừa phân công và tiếp tục điều động một số tiến sĩ, thạc sĩ

đang giảng dạy thực hành chuyển sang giảng dạy lý luận chuyên ngành. Nhà

trường cũng đang xúc tiến tuyển một số giảng viên các môn khoa học xã hội

và nhân văn.

Thứ tư, công tác nghiên cứu khoa học cần tập trung thực hiện những đề

tài thiết yếu phục vụ cho công tác giáo dục - đào tạo có chất lượng tốt. Hiện

tại nhà trường đang kiểm tra tiến độ và rà soát chất lượng của những đề tài

cấp trường nghiên cứu theo hướng đó.

Thứ năm, thúc đẩy sự giao lưu trao đổi và học tập kinh nghiệm giáo

dục - đào tạo của Trường Đại học Thể dục thể thao I với các trường Đại học

Thể dục thể thao II, Đại học Thể dục thể thao III, Đại học Sư phạm thể dục

thể thao I, Đại học Sư phạm thể dục thể thao II và các trường đại học thể dục

thể thao của Trung Quốc, Nga, Đức, Thái Lan...

Nhà trường vừa cử các đoàn cán bộ, giảng viên sang Trường Đại học

tổng hợp Hoàng gia Thái Lan, trường đại học TDTT Bắc Kinh - Trung Quốc

giao lưu, khảo sát về công tác đào tạo. Sắp tới nhà trường tiếp tục cử các đoàn

đi khảo cứu ở một số trường đại học TDTT ở Nga - Đức.

58

Thứ sáu, tăng cường giáo dục quản lý sinh viên về sinh hoạt, học tập,

đạo đức, nâng cao tính tích cực học tập, rèn luyện của sinh viên. Các khóa đại

học hiện đang thực hiện tích cực chủ trương này.

Thứ bảy, đẩy nhanh tiến độ xây dựng thêm sân tập, nhà tập, phòng học,

giảng đường, tiếp tục trang bị máy móc, thiết bị kịp thời đáp ứng nhu cầu dậy

và học. Thư viện phải đảm bảo đầy đủ giáo trình, giáo khoa, tài liệu, sách báo

cần thiết phục vụ cho việc giảng dạy của giảng viên và học tập của sinh viên.

Chủ trương này đang được thực hiện có hiệu quả.

Những chủ trương kịp thời đó của lãnh đạo nhà trường hiện nay bước

đầu đã phát huy tác dụng tích cực. Công tác giáo dục - đào tạo có sự chuyển

biến tốt. Các mặt dạy và học có chiều hướng thuận lợi và khí thế hơn. Đội ngũ

giảng viên quan tâm nhiều đến việc đổi mới phương pháp giảng dạy, quản lý

sinh viên trên lớp, đầu tư thời gian cho việc học tập thêm về chuyên môn,

ngoại ngữ, vi tính. Giáo viên không còn hiện tượng chậm giờ, quên giờ...

Chất lượng học tập của sinh viên năm 2007 có sự chuyển biến hơn các

năm học trước. Trên cơ sở kết quả kiểm định chất lượng 3 khoá đại học của

nhà trường cuối năm 2007 vừa rồi cho thấy ý thức, tính tích cực học tập, kết

quả các bài kiểm tra giữa kỳ, các bài thi học phần, thi kết thúc môn nói chung

khá hơn những năm trước. Điểm giỏi và điểm xuất sắc nhiều hơn, tỷ lệ đạt

yêu cầu trở lên cao hơn so với những năm trước, những khoá trước.

Thực trạng về những ưu điểm trên đây do những nguyên nhân chính

sau đây:

Thứ nhất, tính năng động, tích cực, sát thực về sự chỉ đạo, điều hành

của lãnh đạo nhà trường, sự thực thi công việc tham mưu của các phòng chức

năng một cách khẩn trương, kịp thời, có hiệu quả, sự quản lý điều hành trực

tiếp của các khoa, các bộ môn đi vào chiều sâu, cụ thể và sát thực hơn trước.

Thứ hai, đội ngũ giảng viên có ý thức trách nhiệm cao, tận tâm đầu tư

thời gian cho công tác giảng dạy nhiều hơn những năm trước đây.

59

Thứ ba, kết hợp công tác giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học với

tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị. Sự kết hợp có tính chất đồng bộ đó

đã tạo ra một động lực chung cải thiện bước đầu chất lượng giáo dục - đào tạo

của nhà trường.

Thứ tư, sự điều phối thời gian biểu của nhà trường hợp lý. Không có sự

chồng chéo, trùng lặp giờ, không có sự nhầm lẫn phòng học, lưu lượng sinh

viên giữa học thực hành, học lý thuyết, lý luận tương đối ngang bằng nhau, có

sự sắp xếp xen kẽ và sự luân đổi giữa các lớp sinh viên học lý thuyết, lý luận

trên giảng đường với học thực hành ngoài trời, trong nhà tập hợp lý.

Bốn nguyên nhân chính trên đây cùng tác động đồng thời đối với công

tác giáo dục - đào tạo hiện hành của Trường đại học Thể dục thể thao I. Đó là

những nguyên nhân tác động tích cực, năng động cho nên đem lại những kết

quả thiết thực sau mỗi tuần, mỗi tháng, mỗi học kỳ cho công tác dạy và học ở

Trường Đại học Thể dục thể thao I hiện nay.

2.3.2. Đánh giá những hạn chế và nguyên nhân

Thứ nhất, nhìn chung các bộ môn chưa phát triển ngang tầm so với yêu

cầu của công tác giáo dục - đào tạo hiện nay, do đó đã hạn chế nhất định về

các mặt quản lý, giảng dạy, nghiên cứu khoa học, hướng dẫn luận văn tốt

nghiệp của sinh viên.

Thứ hai, các Trưởng bộ môn chưa quan tâm tới việc dự giờ của các

giảng viên thuộc bộ môn, nhất là đối với giảng viên trẻ, giảng viên mới vào

nghề, để đánh giá, góp ý về hình thức, nội dung, phương pháp giảng bài của

giảng viên. Điều này đã hạn chế nhiều tới tính tích cực chuẩn bị bài giảng và

đổi mới phương pháp của giảng viên.

Hội giảng năm 2007 vừa qua cho thấy các giảng viên có số điểm cao

chủ yếu là nữ từng giảng dạy nhiều năm, số giảng viên điểm thấp phần đông

là mới vào nghề từ 3 - 5 năm nay.

Thứ ba, đa số giảng viên trẻ của nhà trường chưa đổi mới phương pháp

giảng dạy.

60

Qua khảo sát, tìm hiểu các trưởng bộ môn, hiện nay chỉ mới có 20% số

giảng viên áp dụng phương pháp dạy học tích cực, số giảng viên áp dụng

phương pháp "giảng giải thông báo" là 18%, số giảng viên áp dụng phương

pháp "Đọc chép, xen kẽ giảng giải" là 42%, với số giảng viên áp dụng phương

pháp sử dụng công nghệ thông tin 20%. Như vậy phần lớn giảng viên còn áp

dụng các phương pháp cũ trong giảng dạy (chủ yếu là giảng viên trẻ), chiếm

tới 60%.

Thứ tư, do việc đổi mới phương pháp giảng dạy chưa trở thành phổ biến

trong đội ngũ giảng viên nhà trường cho nên sinh viên chưa phát huy được tính

tích cực trong học tập, nhất là đối với các môn học cơ bản, các môn khoa học

xã hội và nhân văn. Nguyên nhân là đội ngũ giảng viên trong quá trình được

đào tạo chỉ được tiếp thu phương pháp dạy học theo lối cũ, học tập của bản

thân cũng theo cách cổ điển, chỉ một chiều, không được kích thích suy nghĩ,

sáng tạo, nghĩ và làm theo một hướng nhất định, nghĩa là họ được "đào tạo để

nghĩ theo một chiều" [3, tr.72].

Qua khảo sát ở thư viện, sinh viên đọc giáo trình và tài liệu để nắm

được tốt hơn nội dung bài giảng của môn học đang học, thể hiện cụ thể như

sau:

Bài giảng, môn học do giảng viên thực hiện phương pháp giảng dạy

tích cự thì có khoảng 60% số sinh viên đến thư viện đọc giáo trình, tài liệu;

còn bài giảng, môn học do giảng viên giảng theo các phương pháp cũ thì chỉ

có gần 20% số sinh viên đến thư viện đọc giáo trình, tài liệu tham khảo. Như

vậy số lượng sinh viên thiếu tính tích cực đến thư viện khảo cứu tài liệu, giáo

trình rất đông bởi đa số các giảng viên chưa đổi mới phương pháp giảng dạy.

Thứ năm, do thiếu kiểm tra, đôn đốc của các khoa, của giảng viên phụ

trách môn học, cho nên giờ tự học của sinh viên, nhất là sinh viên năm thứ

nhất chưa tích cực, nhiều sinh viên chỉ tìm đến Internet, hoặc đi chơi bóng.

Qua tìm hiểu các ban cán sự lớp của các khoá cho thấy số sinh viên

quan tâm, tích cực đối với giờ tự học như đọc giáo trình, tài liệu, làm bài tập,

61

năm thứ nhất khoảng 30%, năm thứ hai khoảng 34%, năm thứ ba khoảng

55%, năm thứ tư gần 60%.

Thứ sáu, do những hạn chế và nguyên nhân trên đây cho nên chất

lượng học tập của sinh viên tuy bước đầu được cải thiện, nhưng nói chung

còn nhiều hạn chế, nhất là đối với các môn học cơ sở, cơ bản, ngoại ngữ và

các môn khoa học xã hội - nhân văn.

Trên đây là những hạn chế chính và nguyên nhân của chúng về giáo

dục - đào tạo ở Trường Đại học Thể dục thể thao I hiện nay, chủ yếu là các

khâu dạy và học. Đây cũng là tình hình thực trạng tiêu cực trong công tác đào

tạo của nhà trường cần được khắc phục sớm, cần có những biện pháp khả thi

phát huy những tiến bộ loại trừ những hiện tượng lạc hậu để không ngừng

thúc đẩy sự phát triển Trường Đại học Thể dục thể thao I.

2.3.3. Những vấn đề đặt ra

Trên cơ sở những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của nó, trên cơ sở

thực trạng của Trường Đại học TDTT hiện nay cũng như đòi hỏi của xã hộ về

nguồn nhân lực thể thao hiện nay. Chúng tôi thấy hiện nay công tác giáo dục

và đào tạo của nhà trường hiện nay đang nảy sinh một số bất cập chưa hợp lý,

do đòi hỏi khách quan của xã hội. Hiện nay, điều này đỏi hỏi nhà trường phải

nhanh chóng đề ra phương hướng, giải pháp cho giáo dục và đào tạo của nhà

trường trong giai đoạn mới hiện nay.

Về nhu cầu nguồn nhân lực của xã hội hiện nay thì chúng ta thấy là

phong trào TDTT quần chúng đã phát triển mạnh hơn so với trước kia rất

nhiều, số lượng quần chúng thường xuyên tập luyện TDTT rèn luyện thân thể

đã tăng lên, tuy nhiên phong trào TDTT quần chúng hiện nay so với nhịp độ

phát triển kinh tế thì vẫn còn thấp, thiếu đồng bộ, chưa được rộng khắp vẫn

còn hạn chế ở những vùng sâu, vùng xa, lực lượng nguồn nhân lực thể thao ở

vùng sâu, vùng xa còn hạn chế về mặt chuyên môn… Với lực lượng vũ trang

62

cũng vậy phong trào TDTT ở đây vẫn còn rất nhiều hạn chế chưa phù hợp với

thực tiễn xã hội hiện nay.

Trong các trường học thì bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong

thời gian qua, TDTT trường học cũng không ít những yếu kém bất cập, bất

cập ở đây là do nhận thức của các cấp quản lý vẫn còn coi nhẹ chưa coi trọng

TDTT trường học, vẫn coi TDTT trường học chưa được ngang tầm như các

môn học khác trong nhà trường, xuất phát từ nhận thức đó dẫn tới đầu tư cho

các hoạt động TDTT trường học còn rất yếu kém, cơ sở vật chất phục vụ cho

hoạt động TDTT còn rất ít, tụt hậu, chất lượng kém, điều này không thể thu

hút đông đảo số lượng học sinh, sinh viên tham gia tập luyện TDTT, đội ngũ

giảng viên phục vụ công tác TDTT trường học còn ít, chuyên môn còn thấp…

Do những khó khăn yếu kém đó, điều này ảnh hưởng không ít đến giáo dục

thể chất trong các trường học.

Đối với công tác huấn luyện TDTT thì thể thao thành tích cao hiện nay

của chúng ta đã có những bước phát triển đáng kể so với khu vực và trên thế

giới tuy nhiên vẫn còn rất nhiều những hạn chế chẳng hạn đội ngũ huấn luyện

viên giỏi rất ít, lực lượng vận động viên tài năng còn mỏng, nguồn cung cấp

lại ít, một số môn thể thao còn ở trình độ yếu kém so với khu vực và châu

lục…

Đối với công tác y sinh học trong các hoạt động TDTT bắt đầu từ năm

học 2007 - 2008 nhà trường sẽ đào tạo nguồn nhân lực Y sinh học thể dục thể

thao, nguồn nhân lực này không bao lâu nữa sẽ được cung cấp cho xã hội đáp

ứng phong trào và sự phát triển của nền thể dục thể thao đất nước, nguồn

nhân lực này cần phải đào tạo có chất lượng tốt mới có thể đảm nhiệm được

công việc của mình.

Đối với công tác đào tạo nguồn nhân lực thể thao sau đại học mặc dù

trong những năm gần đây có nhiều tiền bộ nhưng vẫn còn một số hạn chế về

chất lượng, một số đề tài cấp thạc sĩ, vẫn còn thiếu tính sáng tạo, phạm vi đề

63

tài hẹp, hiện tượng sao chép vẫn còn phổ biến… Điều này ít nhiều ảnh hưởng

đến nguồn nhân lực sau đại học.

Trên đây là một số vấn đề đặt ra, căn cứ vào những bất cập, những vấn

đề đặt ra đó chúng tôi để xuất một số phương hướng và giải pháp sau. Toàn

bộ phần phương hướng và giải pháp sẽ được trình bày ở Chương 3 sau đây.

64

Chƣơng 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC Ở TRƢỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO I HIỆN NAY

3.1. Phƣơng hƣớng

Để đẩy mạnh công tác giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực thể thao và

không ngừng nâng cao chất lượng công tác đó, trường đại học thể dục thể

thao I cần xác định phương hướng đúng đắn cho công tác đó. Trên cơ sở thực

trạng những thành tựu hạn chế và nguyên nhân của chúng, với những nhiệm

vụ cơ bản giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực, trường đại học Thể dục thể thao

I xác định phương hướng công tác giáo dục - đào tạo như sau:

3.1.1. Giáo dục - đào tạo phải đồng bộ

Đồng bộ về loại hình nguồn nhân lực:

Trường Đại học Thể dục thể thao nhiều năm nay đào tạo nguồn nhân

lực các loại hình như: Nguồn nhân lực đảm trách công tác phát triển phong

trào TDTT quần chúng, nguồn nhân lực đảm trách công tác TDTT trường

học, nguồn nhân lực đảm trách công tác huấn luyện thể thao thành tích cao,

nguồn nhân lực vận động viên trẻ, nguồn nhân lực trên đại học. Nguồn nhân

lực đảm trách công tác phòng, chữa chấn thương thể thao.

Tuy vậy các loại hình đào tạo đó chưa thật đồng bộ. Để thật sự đồng bộ

và đáp ứng đầy đủ đối với yêu cầu của thực tiễn, phương hướng tới, Trường

Đại học Thể dục thể thao I cần bổ sung vào nhiệm vụ đào tạo một loại hình

thiết yếu: Đào tạo nguồn nhân lực đảm trách công tác TDTT trong lực lượng

vũ trang. Trong các trường Đại học, Cao đẳng của quân đội, công an không

có khoa đào tạo nguồn nhân lực thể thao. Cho nên các ngành quân đội, công

an tuyển nhân lực thể thao từ các Trường Đại học TDTT I, Đại học TDTT II.

Do đặc điểm tính chất và nhiệm vụ hoạt động của quân đội, công an, cần phải

có nguồn nhân lực thể thao chuyên biệt đáp ứng với đối tượng đó. Nghĩa là

nội dung giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực đảm trách công tác TDTT trong

65

lực lượng vũ trang phải phù hợp với thể chất của các chiến sĩ quân đội, công

an, phải phù hợp với nội dung huấn luyện thể lực của quân đội, công an và

phải có tác dụng phục vụ cho các nhiệm vụ công tác của các chiến sỹ quân

đội, các chiến sĩ công an.

Do đó loại hình nguồn nhân lực đảm trách công tác TDTT quần chúng

không thích ứng với việc đảm trách công tác TDTT trong lực lượng vũ trang.

Bởi vậy, phương hướng bổ sung đào tạo loại hình nguồn nhân lực đảm

trách công tác TDTT trong lực lượng vũ trang của trường đại học Thể dục thể

thao I là hết sức cần thiết. Các lực lượng vũ trang đang và sẽ có nhu cầu ngày

càng tăng đối với nguồn nhân lực đó.

Đồng bộ về nội dung giáo dục - đào tạo:

Về đại học chính quy và tại chức dài hạn, nội dung đào tạo giống nhau.

Sinh viên cần được trang bị các kiến thức đại cương chung, các môn học

chuyên nghiệp và thực tập nghề nghiệp.

Song mỗi loại hình nguồn nhân lực, nội dung giáo dục - đào tạo về

nghiệp vụ và thực tập nghề nghiệp về cơ bản là khác nhau.

Tuy vậy nội dung giáo dục - đào tạo của Trường Đại học Thể dục thể

thao I, phương hướng tới là phải đồng bộ: Cấu trúc chương trình phải bao

hàm các môn học cơ sở, cơ bản, các môn khoa học xã hội và nhân văn, các

môn học chuyên môn, nghiệp vụ (lý thuyết) các môn học cơ sở và kiến thức

ngành (lý thuyết), các môn học chuyên sâu (cả lý thuyết và thực hành), các

môn ngoại ngữ, thực tập nghiệp vụ.

Luận văn hoặc thi cuối khoá đối với các môn học trong cấu trúc

chương trình cũng cần có sự đồng bộ: Hiện nay trong chương trình giáo dục -

đào tạo của nhà trường về ngoại ngữ có tiến Anh và tiếng Pháp. Phương

hướng tới cần bổ sung thêm tiếng Trung, và có môn tâm lý học TDTT, cần bổ

sung môn xã hội học TDTT đối với các hình thức đào tạo chính quy và tại

chức, cần bổ sung một số môn thể thao dân tộc đào tạo chuyên sâu như môn

Đá cầu, vật cổ truyền, Việt võ đạo để có sự đồng bộ không chỉ các môn

66

chuyên sâu thể thao dân tộc nhằm đáp ứng với thực tiễn phát triền nền TDTT

có tính dân tộc khoa học hiện đại và nhân dân.

Đối với loại hình đào tạo vận động viên trẻ chỉ mới có trong chương

trình một số môn thể thao hiện đại như Điền kinh, bóng bàn, cầu lông, cần bổ

sung thêm những môn khác nữa như thể dục dụng cụ, khiêu vũ thể thao, bơi...

Đối với loại hình đào tạo trên đại học, luận văn tốt nghiệp chưa đồng

bộ, mới chỉ nghiên cứu các đề tài một số lĩnh vực như quản lý TDTT, thể thao

trường học, Giáo dục thể chất, huấn luyện thể thao, tâm lý thể thao, cần phát

triển các đề tài thuộc các lĩnh vực như kinh tế thể thao, xã hội học TDTT, lịch

sử TDTT, nhân trắc học TDTT... có như vậy các đề tài mới phong phú và

đồng bộ, ít trùng lặp hoặc giống nhau, sao chép lẫn nhau.

3.1.2. Tăng cường áp dụng các thành tựu khoa học và công nghệ vào

trong giáo dục - đào tạo

Những năm gần đây trường đại học thể dục thể thao đã tích cực áp

dụng những thành tựu khoa học và công nghệ vào trong giáo dục - đào tạo đối

với tất cả các môn học, song còn ít và hiệu quả thấp. Chẳng hạn áp dụng các

phương pháp hiện đại nhất là áp dụng công nghệ dạy học, nhưng chỉ mới một

số giảng đường được trang bị máy móc, đa số các giảng đường chưa có, cho

nên nhiều môn học hoặc nhiều tiết học vẫn phải dạy theo phương pháp truyền

thống, thiếu sinh động chất lượng hạn chế. Còn các môn thực hành ngoài sân,

trong nhà tập cũng chưa áp dụng được nhiều về các thành tựu khoa học kỹ

thuật thể dục thể thao hiện đại.

Phương hướng tới nhà trường sẽ tăng cường áp dụng khoa công nghệ

vào trong giáo dục - đào tạo. Nhà trường sẽ trang bị máy chiếu cho hầu hết

các giảng đường và radio casstte, máy thu hình cho một số giảng đường cần

thiết, nhằm đảm bảo cho tất cả các giảng viên, các môn học, các tiết học (trừ

thực hành) thực sự sử dụng được công nghệ dạy học.

Với các môn học thực hành và các môn y sinh học nhà trường sẽ trang

bị các công cụ máy móc đo lực cơ, đo nhịp tim, đo dung tích của phổi v.v...

67

để xác định và phân loại cũng như sự tăng cường sức khoẻ, thể lực của sinh

viên trong tập luyện để có sự điều tiết nhịp độ và cường độ của mỗi tiết học.

Đối với công tác giáo dục - đào tạo vận động viên trẻ, nhà trường sẽ

quan tâm hơn điều kiện và phương tiện kỹ thuật hiện đại tiếp thu những thành

tựu mới của thế giới nhằm áp dụng vào huấn luyện, tập luyện học tập cho vận

động viên trẻ ngay từ những ngày đầu tiên.

Về công tác đào tạo trên đại học, nhà trường cũng sẽ tăng cường các

công cụ máy móc thực hiện công nghệ dạy học, đồng thời gia tăng các tài liệu

khoa học công nghệ TDTT tiếng nước ngoài để học viên tham khảo, nghiên

cứu trong quá trình học tập và viết luận văn.

3.1.3. Nội dung giáo dục - đào tạo phải gắn với thực tiễn

Trong chương trình giáo dục- đào tạo của trường đại học Thể dục thể

thao I có nhiều môn lý luận, ngoài các môn lý luận Mác-Lênin Tư tưởng Hồ

Chí Minh gắn liền với thực tiễn chung của đất nước, các môn lý luận chuyên

ngành TDTT phải gắn liền với thực tiễn hoạt động TDTT. Phương hướng tới

như sau đây:

Những môn lý luận chuyên nghiệp như: Tâm lý học TDTT phải gắn

với thực tiễn huấn luyện thể thao, thi đấu thể thao đối với vận động viên; Giáo

dục học TDTT phải gắn với thực tiễn Giáo dục thể chất trường học, giáo dục

vận động viên thể thao, quản lý TDTT phải gắn với thực tiễn công tác tổ chức

phát triển phong trào TDTT quần chúng, tổ chức quản lý các cơ sở TDTT

ngoài công lập...

Trong nhà trường mỗi bộ môn chuyên nghiệp thực hành có một số môn

học, môn học nào cũng phải gắn với thực tiễn. Chẳng hạn bộ môn Võ có

những môn học như Tekwondo, Karatedo, Pencatxilat,; Bộ môn thể dục có

những môn như Thể dục dụng cụ, Thể dục nghệ thuật, âm nhạc vũ đạo (Khiêu

vũ thể thao); Bộ môn Điền kinh có những môn như chạy, nhảy, đẩy tạ, phóng

lao, nhảy sào, và các bộ môn thực hành khác cũng có một số môn học nhất

định. Tất cả các môn học của các bộ môn thực hành đều phải gắn với thực

68

tiễn giảng dạy, huấn luyện, tập luyện, thi đấu TDTT. Sự gắn liền đó nhằm để

xác định những động tác bài tập có hiệu quả cao, những động tác, bài tập hiệu

quả thấp hoặc không có hiệu quả, khối lượng vận động phù hợp hoặc quá cao,

quá thấp... Từ đó để các bộ môn điều chỉnh.

Tất cả các môn học lý luận chuyên ngành và thực hành TDTT gắn với

thực tiễn thông qua kiến tập sư phạm và thực tập nghiệp vụ của sinh viên

có sự hướng dẫn của các giảng viên các môn học đó. Đồng thời các giảng

viên của mỗi môn học cần thiết đi thực tế, vừa có thể tham gia hoạt động,

vừa tìm hiểu, thu thập dữ liệu. Có như vậy nội dung của giáo trình các môn

học ngày càng được sàng lọc, bổ sung, hoàn thiện đảm bảo chất lượng.

3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lƣợng giáo dục -

đào tạo nguồn nhân lực thể dục thể thao ở Trƣờng Đại học Thể dục thể

thao I

Quán triệt và thực hiện Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 02 tháng

11 năm 2005 của Chính phủ về sự đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại

học Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020. Đồng thời để nâng cao chất lượng công

tác giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực TDTT chất lượng cao, Trường Đại học

Thể dục thể thao I cần thiết tiến hành thực hiện một số giải pháp có tính khả

thi. Qua trao đổi và điều tra xã hội học trong hàng ngũ giảng viên, chúng tôi

đã lựa chon đề xuất 6 giải pháp chủ yếu sau đây.

3.2.1. Đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy đối với các môn học

Đổi mới nội dung dạy học: Nội dung dạy học ở bậc đại học bao gồm hệ

thống những tri thức cơ sở, cơ bản, chuyên ngành và hệ thống những kỹ năng

tương ứng, gắn liền với nghề nghiệp của sinh viên sau khi tốt nghiệp ra

trường đảm trách nhiệm vụ. Do đó việc đổi mới nội dung các môn học của

Trường Đại học Thể dục thể thao I không được xa rời mục tiêu đào tạo chung

và mục tiêu của mỗi môn học. Trường Đại học TDTT I hiện nay có gần 100%

môn học đã có giáo trình do các giảng viên của nhà trường biên soạn. Nội

dung và hình thức nói chung đảm bảo chất lượng, tuy vậy nhiều giáo trình

69

viết chưa chặt chẽ, chưa tinh gọn, một số giáo trình viết đã hơn chục năm cho

nên có những nội dung đã lạc hậu.

Đổi mới nội dung các môn học tức là đổi mới nội dung giáo trình, giáo

khoa các môn học. Trường Đại học Thể dục thể thao I cần rà soát toàn bộ

giáo trình, giáo khoa các môn học (trừ những môn do Bộ Giáo dục và Đào tạo

viết giáo trình), những giáo trình nào phải viết lại, những giáo trình nào phải

sửa chữa, những giáo trình nào phải bổ sung. Điều quan trọng là nội dung của

giáo trình môn học nào cũng phải tăng cường các yếu tố khoa học, áp dụng

những thành tựu khoa học- công nghệ hiện đại và phù hợp với thực tiễn các

hoạt động TDTT Việt Nam.

Đổi mới nội dung giáo trình các môn học cùng với việc đổi mới nội

dung giáo án, bài giảng của giảng viên. Giáo án được biên soạn trên cơ sở

giáo trình đã đổi mới. Giáo án cần gia công những vấn đề cơ bản, chủ yếu,

lướt qua những vấn đề trong giáo trình đã đề cập cụ thể, những vấn đề này để

cho sinh viên đọc giáo trình, tham khảo tài liệu.

Như vậy đổi mới nội dung các môn học là phải đổi mới nội dung

giáo trình và tương ứng với sự đổi mới giáo trình là đổi mới nội dung giáo

án, bài giảng của giảng viên. Đổi mới nội dung môn học đồng thời với đổi

mới phương pháp giảng dạy.

Đổi mới phương pháp giảng dạy: Trước hết cần nhận thức quá trình

dạy học là một quá trình không ngừng phát triển các tri thức, kỹ năng, rèn

luyện đạo đức đối với người học, từng bước nâng cao và hoàn thiện trình độ

chuyên môn, năng lực sư phạm của người thầy. Đồng thời với hai mặt đặc

trưng đó của quá trình dạy học đại học là đời sống xã hội, thực tiễn cuộc sống,

khoa học và công nghệ ngày càng hiện đại, tạo ra sự tác động tổng hợp thúc

đẩy nội dung các môn học phát triển phong phú. Quá trình dạy học như vậy

đòi hỏi phải lựa chọn, đổi mới phương pháp giảng dạy để thích ứng và có hiệu

quả.

70

Những năm gần đây Trường Đại học Thể dục thể thao I đã nghiên cứu

nhiều đề tài vận dụng các phương pháp hiện đại vào trong quá trình dạy học,

đã thu được một số kết quả tích cực. Nhưng đó chỉ là bước đầu và mới triển

khai trong phạm vi các môn lý luận, ngoại ngữ, nhiều môn cơ sở, cơ bản,

chuyên ngành còn chậm xúc tiến nghiên cứu áp dụng. Việc nhà trường đã cố

gắng trang bị các công cụ máy móc cho dạy học là rất tốt, nhưng còn hạn

chế. Do đó nhiều môn học chưa thực sự đổi mới phương pháp giảng dạy một

cách thực chất, đa phần các giảng viên chủ yếu giảng theo phương pháp

truyền thống, một số giảng viên trẻ giảng theo lối "thầy đọc trò ghi".

Để đổi mới phương pháp giảng dạy một cách đồng bộ, tích cực và có

hiệu quả cần tổ chức hội giảng thường xuyên hằng năm. Việc tổ chức Hội

giảng toàn trường là một trong những động lực thúc đẩy đội ngũ giảng viên

đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.

Cuối tháng 12-2007 lần đầu tiên Trường Đại học Thể dục thể thao I tổ

chức hội giảng, bước đầu có kết quả tốt, nhất là đánh giá được giảng như thế

nào là tốt, như thế nào là chưa tốt, nghĩa là tìm ra phương pháp giảng tối ưu.

Qua hội giảng nhận thấy áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực và

sử dụng phương tiện công nghệ thông tin và truyền thông mới (NICT) vào

dạy học là tốt. Song mỗi môn học có nội dung, hình thức khác nhau, cần phải

có sự biểu đạt, diễn giải, hỏi đáp với thời lượng khác nhau, chẳng hạn giảng

toán phải vận dụng công nghệ thông tin khác với giảng môn lịch sự đảng,

giảng ngoại ngữ phải sử dụng công nghệ thông tin khác với giảng sinh lý

TDTT, thời lượng hỏi đáp và diễn giải không ngang bằng nhau...

Mỗi năm cần tiến hành tổ chức hội giảng một lần vào tuần đầu tháng

11 lấy thành tích chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11. Công việc

chuẩn bị giảng viên tham gia giảng bài ở hội giảng phải chu đáo từ các bộ

môn của nhà trường.

Mỗi môn học phải có 1 giáo viên tham gia giảng bài, lần lượt thay nhau

hàng năm, nhằm đảm bảo giảng viên nào cũng được tham gia giảng.

71

Mỗi hội giảng cần có số giảng viên 3 độ tuổi: thanh niên, trung niên và

độ tuổi 51-55 đối với nam, 45-50 đối với nữ. Nhưng độ tuổi thanh niên và

trung niên cần có số lượng tham dự thi giảng bài nhiều hơn.

Tóm lại tổ chức hội giảng hàng năm ở Trường Đại học Thể dục thể

thao I phải được coi là một hoạt động quan trọng của nhà trường nhằm nâng

cao chất lượng giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực.

Thể dục thể thao đã bước đầu có sự cải thiện chất lượng giáo dục - đào

tạo mức độ nhất đinh, song còn không ít hạn chế, so với yêu cầu thì chất

lượng nguồn nhân lực đào tạo ra còn thấp. Do đó cần phải có sự đổi mới

phương pháp giảng dạy một cách tích cự và đồng bộ đối với tất cả các giảng

viên.

Đổi mới phương pháp giảng dạy không phải loại bỏ tất cả các phương

pháp truyền thống, áp dụng tất cả các phương pháp hiện đại, mà phải là vận

dụng các phương pháp dạy học tích cực, áp dụng công nghệ thông tin kết hợp

với phương pháp diễn giảng phù hợp với đặc điểm của từng môn học.

3.2.2. Tăng cường và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên

Đội ngũ giáo viên - nhân tố đầu tiên quyết định chất lượng giáo dục và

đào tạo. Hiện nay Trường Đại học Thể dục thể thao I có tất cả 180 giảng viên,

trong đó thạc sĩ trên 70, tiến sĩ gần 20. Như vậy giảng viên có trình độ sau đại

học đạt 50% tổng số giảng viên toàn trường.

Những số liệu trên trong tình hình hiện nay và thời gian tới do quy môn

đào tạo mở rộng thì số lượng 180 giảng viên còn thiếu hàng chục người, chủ

yếu là giảng viên các môn thực hành, các môn khoa học xã hội và nhân văn,

các môn y sinh học. Số lượng giảng viên thiếu này cần tuyển những sinh viên

tốt nghiệp Trường Đại học Thể dục thể thao I, các trường đại học khoa học xã

hội - nhân văn, đại học y khoa... thông qua thi tuyển. Về trình độ giảng viên,

cần được chuẩn hoá giảng viên bậc đại học là phải từ thạc sĩ trở lên.

Điều quan trọng là chất lượng giảng viên ở Trường Đại học Thể dục

thể thao I phải được nâng lên, không chỉ bằng cấp mà quan tâm thật sự về các

72

mặt tri thức chung, kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và ngoại ngữ,

đặc biệt là phương pháp giảng dạy.

3.2.3. Tích cực phát hiện, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài thể thao

Trường Đại học Thể dục thể thao I chỉ đảm nhiệm phát hiện và đào tạo

vận động viên trẻ trở thành vận động viên có tài. Trên thực tế nhiều năm qua

nhà trường đã phát hiện và đào tạo được một số vận động viên có tài cung cấp

cho các đội tuyển quốc gia, giành được những thành tích đáng khích lệ trên

các đấu trường quốc tế. Nhưng so với yêu cầu hiện nay và những năm tới thì

còn nhiều hạn chế. Bởi vậy cần tăng cường tuyển chọn và đào tạo hơn nữa

vận động viên thể thao trẻ trở thành nhân tài thể thao, với những biện pháp

như sáu:

Thứ nhất, tuyển chọn vận động viên trẻ từ thành tích thi đấu của vận

động viên tại các giải thể thao các trường trung học cơ sở, các trường trung

học phổ thông, tại các Hội khoẻ Phù Đổng của học sinh các trường phổ thông

cấp huyện, quận, tỉnh, thành phố và toàn quốc, việc tuyển chọn này không chỉ

căn cứ vào thành tích thi đấu mà còn phải xem xét về sức khoẻ, thể lực và độ

tuổi.

Thứ hai, mở rộng quy mô cả về số lượng vận động viên và loại hình

đào tạo. Nhà trường cần thiết xin tăng kinh phí để thực hiện mở rộng quy mô

đào tạo vận động viên trẻ. Số lượng đào tạo hiện nay mới chỉ 80 vận động

viên trẻ, cần tăng lên 100 vận động viên một hai năm tới. Số môn thể thao

cũng cần được tăng lên từ 6 môn lên 8 môn.

Thứ ba, trong quá trình đào tạo hàng năm tiến hành sàng lọc những vận

động viên không có sự phát triển về thành tích và về thể lực, tuyển chọn số

vận động viên khác bổ sung.

Thứ tư, ngoài việc quan tâm tới trang bị kỹ thuật, rèn luyện kỹ năng

chuyên môn cho VĐV cần phải tăng cường giáo dục phẩm chất đạo đức cho

các em. Tài đức phải thống nhất, không thể thiếu mặt nào đối với VĐV. ở

nước ta những năm qua có một số vận động viên tài năng, nhưng vì đạo đức

73

kém cho nên phải bị loại. Bởi vậy đào tạo VĐV thể thao trẻ cho đất nước

pahri quan tâm cả hai mặt tài và đức để các em phát triển và trở thành những

VĐV quốc gia ưu tú.

Thứ năm, tăng cường chất lượng các giảng viên, huấn luyện viên có

kinh nghiệm cùng với các chuyên gia nước ngoài lựa chọn các phương pháp

tối ưu đào tạo đội ngũ vận động viên trẻ trở thành nhiều tài năng thể thao

cung cấp cho các đội tuyển quốc gia đảm trách nhiệm vụ thi đấu quốc tế đạt

thành tích cao.

Như vậy, nhà trường thực hiện giải pháp này tức là thực hiện năm biện

pháp như đã trình bày ở trên. Nhân tài thể thao chỉ có thể được tuyển chọn và

đào tạo từ đội tuổi thiếu nhi đến thành niên và thanh niên. Trường Đại học

Thể dục thể thao I đảm nhiệm tuyển chọn và đào tạo vận động viên trẻ độ tuổi

thiếu nhi và thành niên cung cấp cho đất nước là một vinh dự.

3.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất cho công tác giáo dục - đào tạo

Hiện nay Trường Đại học Thể dục thể thao I có nhu cầu tăng cường cơ

sở vật chất cho các mặt hoạt động của nhà trường. Nhưng cần tập trung tăng

cường cơ sở vật chất cho công tác đào tạo, nhất là những phương tiện hiện

đại.

Có thể nói cơ sở vật chất phục vụ cho công tác giáo dục - đào tạo hiện

nay của trường đại học Thể dục thể thao I là tương đối đầy đủ, đồng bộ và có

nhiều phương tiện hiện đại. Nhưng nếu tiến hành đổi mới phương pháp giảng

dạy trong tất cả các môn học thì phải tăng cường cơ sở vật chất, điều kiện và

phương tiện giảng dạy thích ứng với công nghệ dạy học. Đó là phải làm mới

và nâng cấp hàng chục giảng đường có trang bị máy chiếu, bảng hình, loa đài,

micro... để thực thi công nghệ dạy học, giảng viên tiến hành được giảng dạy

theo phương pháp hiện đại, sinh viên dễ dàng theo dõi bài giảng của thầy, cô

giáo.

Cần xây dựng thêm một số nhà tập cho các môn còn phải tập ngoài trời

nắng mưa như: Đá cầu, quần vợt, bóng ném, bóng rổ. Cần trang bị súng thể

74

thao đời mới thay thế những khẩu súng đã quá cũ để cho sinh viên và vận

động viên tập luyện hiệu quả hơn.

Thư viện nhà trường vừa được xây dựng khang trang, rộng rãi. Nhưng

để phục vụ tích cực cho công tác giáo dục - đào tạo, ngoài giáo trình, giáo

khoa đầy đủ mà còn phải mua các đầu sách, tài liệu về khoa học, công nghệ,

khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và các loại báo chí cần thiết, sách văn

nghệ, văn học để cán bộ, giảng viên, sinh viên nhà trường tham khảo, nghiên

cứu, tiếp cận, lĩnh hội.

Mỗi bộ môn ngoài máy móc, dụng cụ khác cần thiết tự xây dựng tủ tư

liệu phục vụ cho công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học của giảng viên.

Cơ sở vật chất là một nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới chất lượng giáo dục

- đào tạo nguồn nhân lực. Cho nên Trường Đại học Thể dục thể thao I cần

quan tâm tăng cường cơ sở vật chất đáp ứng cho công tác giáo dục - đào tạo

ngày càng có chất lượng.

3.2.5. Giải pháp thành lập trung tâm khảo thí và kiểm định chất lượng

Hiện nay Trường Đại học Thể dục thể thao I đã thành lập Ban Kiểm

định chất lượng với chức năng giúp nhà trường và chỉ ra phương hướng, biện

pháp phát triển các nguồn lực, nâng cao chất lượng công tác giáo dục - đào

tạo trong thời gian tới.

Chúng tôi kiến nghị Ban Kiểm định chất lượng cần bổ sung một chức

năng nữa, đó là tổ chức điều hành công việc thi và chấm thi các học phần, các

môn học. Chức năng này trước đây là do các bộ môn đảm đương, hiện nay là

do Phòng Đào tạo thực hiện. Chức năng này gọi là khảo thí.

Chức năng kiểm định chất lượng và chức năng khảo thí có liên quan

mật thiết với nhau, ảnh hưởng tích cực lẫn nhau, thúc đẩy công tác giáo dục -

đào tạo ngày càng quan tâm nâng cao chất lương. Khi thực hiện hai chức năng

khảo thí và kiểm định chất lượng thì Ban Kiểm định chất lượng đổi thành

trung tâm khảo thí và kiểm định chất lượng.

3.2.6. Giải pháp về tăng cường quản lý học tập đối với sinh viên

75

Đối với sinh viên Trường Đại học Thể dục thể thao I, tăng cường quản lý

học tập sẽ có tác dụng nâng cao chất lượng học tập của họ. Cụ thể là quản lý,

giáo dục sinh viên tinh thần, thái độ tích cực học tập trên lớp, trong những giờ

thảo luận, giờ tự học của mỗi học phần, mỗi môn học. Giảng viên giảng dạy học

phần là người có vai trò chủ yếu quản lý sinh viên trong các khâu học tập đó,

bằng các hình thức như sau:

Một là, quản lý sinh viên trên lớp như điểm danh, tinh thần ý thức, kỷ

luật học tập. Hình thức quản lý này nhằm rèn luyện sinh viên tích cực lên lớp

và tiếp thu bài giảng của giảng viên. Thông qua hình thức quản lý này, giảng

viên đánh giá, xác định điểm ý thức học tập của sinh viên đối với môn học

phần.

Hai là, quản lý sinh viên các giờ thảo luận, tự học. Hình thức quản lý

này nhằm thúc đẩy sinh viên tính tích cực, năng động, sáng tạo trong học tập,

tiếp nhận kiến thức phong phú hơn.

Giờ thảo luận của sinh viên trên lớp do giảng viên điều hành, quản lý.

Nhưng giờ tự học của sinh viên do giảng viên yêu cầu, quy định như tham

khảo tài liệu, đọc sách giáo khoa giáo trình, làm bài tập, viết tiểu luận thì

giảng viên quản lý phải thông qua Ban cán sự lớp, Ban chấp hành chi đoàn

thanh niên.

Tự học của sinh viên ngoài giờ quy định của giảng viên, của nhà

trường thì chủ yếu là do tính tự giác của sinh viên, do thời gian nhàn rỗi của

sinh viên không ai có thể ép buộc được, đó chỉ là sự động viên khuyên bảo mà

thôi. Tự học của sinh viên do đó là hoạt động do bản thân người học quyết

định, thực hiện và điều chỉnh một cách tự giác, tích cực, nhằm đạt tới các mục

tiêu do giảng viên và bản thân đề ra.

Thông qua hình thức quản lý này để giảng viên xác định, cho điểm ý

thức học tập của sinh viên một cách chính xác và toàn diện hơn.

Ba là, quản lý sinh viên làm bài kiểm tra giữa kỳ. Bài kiểm tra giữa kỳ

sẽ được chấm điểm, cho nên giảng viên coi kiểm tra phải nghiêm túc, chặt

chẽ.

76

Thông qua bài kiểm tra giữa kỳ để tính điểm giữa kỳ của học phần.

Hiện nay hầu hết các giảng viên của Trường Đại học Thể dục thể thao I xác

định điểm giữa kỳ chỉ căn cứ vào điểm của bài kiểm tra. Chúng tôi đề xuất

việc cho điểm giữa kỳ phải căn cứ không chỉ điểm của bài kiểm tra mà cần

tham khảo cả chất lượng của các bài tập, các tiểu luận hoặc các lần trả lời của

sinh viên. Có như vậy điểm giữa kỳ mới xác đáng và khách quan.

Ba hình thức quản lý trên của người giảng viên giúp sinh viên học tập

có kết quả tốt và giúp giảng viên xác định được hai loại điểm một cách đúng

đắn, đó là điểm ý thức học tập và điểm giữa kỳ. Theo quy định của Bộ Giáo

dục và Đào tạo, điểm học phần là tổng của điểm ý thức, điểm giữa kỳ và điểm

thi học phần. Tỷ lệ của mỗi loại điểm đó thì do các trường đại học, cao đẳng

tự quyết định. Trường Đại học Thể dục thể thao I xác định như sau: Điểm ý

thức tối đa 10%, điểm giữa kỳ tối đa 30%, điểm thi học phần tối đa 60%, song

tỷ trọng của điểm ý thức thì hơi thấp, cần nâng lên 20% để nhằm phát huy

tính tích cực và ý thức học tập của sinh viên. Còn điểm giữa kỳ nên giảm

xuống, chỉ cần 20% là đúng đắn.

3.2.7. Giải pháp về tăng cường xây dựng, phát triển các bộ môn vững mạnh

Bộ môn là cơ sở trực tiếp thực hiện nhiệm vụ giáo dục - đào tạo của

nhà trường. Việc xây dựng và phát triển các bộ môn vững mạnh là một trong

những nhân tố có ý nghĩa quyết định sự thúc đẩy nhanh và có hiệu quả tiến

trình nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo của nhà trường.

Hiện nay Trường Đại học Thể dục thể thao I có 18 bộ môn, trong đó

một số bộ môn tương đối mạnh cả về chất lượng, số lượng, với năng lực quản

lý, giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Song đa số các bộ môn còn hạn chế vả

về chất lượng và số lượng. Không ít bộ môn chưa giảng viên nào (kể cả trưởng, phó bộ môn) có bằng tiến sỹ, thậm chí có một số bộ môn chưa giảng

viên nào (kể cả trưởng, phó bộ môn) có trình độ trên đại học. Có một số bộ môn chỉ có 2 đến 3 giảng viên trẻ dạy cả đại học chính quy và đại học tại

chức, trong và ngoài trường rất vất vả. Có bộ môn chỉ có 3 người mà có tới 2 người quản lý (một trưởng và một phó bộ môn). Tình hình như vậy dẫn đến

77

hiện trạng không ít bộ môn năng lực quản lý, thực hiện các nhiệm vụ giảng

dạy, nghiên cứu khoa học, hiệu quả thấp.

Bởi vậy tăng cường xây dựng và phát triển các bộ môn vững mạnh là

một trong những giải pháp cấp thiết, nhất là đối với những bộ môn còn yếu cả

về chất và số lượng, về con người quản lý.

Vấn đề đưa ra những giải pháp trên đây đã qua khảo sát, điều tra xã hội

học, đối tượng là giảng viên trong đó có các trưởng bộ môn, các tiến sĩ, thạc

sĩ, giảng viên chính, giảng viên lâu năm và giảng viên trẻ. Chúng tôi dự kiến

10 giải pháp (xem phụ lục), nhưng có 7 giải pháp được lựa chọn đề xuất trên

đây do số giảng viên nhất trí cao, cụ thể: giải pháp thứ nhất có 96,6% số giảng

viên nhất trí, giải pháp thứ hai có 93,3% số giảng viên nhất trí, giải pháp thứ

ba có 100% số giảng viên đồng ý, giải pháp thứ tư có 100% số giảng viên

nhất trí, giải pháp thứ năm có 80% số giảng viên, giải pháp thứ sáu và giải

pháp thứ bẩy có tới 100% số giảng viên nhất trí. Như vậy 7 giải pháp đó được

sự đồng tình cao của lực lượng giảng viên Trường Đại học Thể dục thể thao I.

Trên đây là 7 giải pháp chủ yếu, Trường Đại học Thể dục thể thao I

cũng như các trường đại học Thể dục thể thao khác của nước ta có thể tham

khảo áp dụng vào trong công tác giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực TDTT hiện nay. Chúng tôi tin rằng 7 giải pháp đó có tính khả

thi không chỉ trước mắt mà trong nhiều năm tới.

78

79

KẾT LUẬN

Nguồn nhân lực thể thao là một bộ phận của nguồn nhân lực quốc gia.

Với bản chất và vai trò của mình, nguồn nhân lực thể thao góp phần tích cực

vào việc đào tạo và tăng cường nguồn nhân lực to lớn của đất nước có chất

lượng cao. Để làm tốt sứ mạng đó nguồn nhân lực thể thao phải được đào tạo

ra có chất lượng tốt từ trong các trường đại học thể dục thể thao, trong các

trường đại học sư phạm thể dục thể thao, trong các khoa của các trường đại

học và cao đẳng sư phạm của nước ta. Trong số các trường đại học đó, trường

đại học thể dục thể thao I có vai trò và vị trí quan trọng nhất, đã đang và sẽ

đào tạo ra nguồn nhân lực thể thao đông đảo, đủ các loại hình thiết yếu.

Trường Đại học Thể dục thể thao I từ ngày thành lập đến nay đã gần 50

năm đào tạo ra được nguồn nhân lực đông đảo góp phần quan trọng phục vụ

sức khoẻ nhân dân, phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, tăng

cường cán bộ TDTT cho ngành TDTT và các ngành giáo dục, quân đội, công

an, xây dựng và phát triển các trường đại học TDTT và đại học sư phạm

TDTT cả ba miền Bắc - Trung - Nam của Tổ quốc.

Tuy vậy nguồn nhân lực thể thao do Trường Đại học Thể dục thể thao I

đào tạo ra cũng còn những hạn chế nhất định chủ yếu là về chất lượng do việc

dạy và học chậm đổi mới về chương trình, nội dung môn học và phương pháp

giảng dạy. Chất lượng nguồn nhân lực thể thao do Trường Đại học Thể dục

thể thao I đào tạo ra vẫn còn thấp trước sự đòi hỏi của nhiệm vụ tăng cường

sức khoẻ nhân dân, nhất là tuổi trẻ, nhằm phát triển nguồn nhân lực của đất

nước có chất lượng cao.

Hiện nay Trường Đại học Thể dục thể thao I xác đinh trọng tâm của

mọi hoạt động trong nhà trường phải nhằm đáp ứng cho công tác nâng cao

chất lượng giáo dục vào đào tạo nguồn nhân lực thể thao, triển khai việc mở

rộng quy mô đào tạo do nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhu cầu phát triển

sự nghiệp TDTT của đất nước đặt ra, với nhiệm vụ chủ yếu là: Nâng cao chất

80

lượng giáo dục đào tạo các loại hình nguồn lực con người đảm trách công tác

TDTT quần chúng (nhất là đối với những người lao động), TDTT trong các

lực lượng vũ trang, TDTT trường học, huấn luyện viên thể thao và vận động

viên tài năng trẻ.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên đây, Trường Đại học Thể dục thể thao I

cần thực hiện phương hướng và các giải pháp chủ yếu như: Giáo dục - đào tạo

phải đồng bộ về loại hình, chương trình nội dung đào tạo, tăng cường áp dụng

các thành tựu khoa học, công nghệ, gắn với thực tiễn hoạt động TDTT, với 7

giải pháp chính là: đổi mới nội dung các môn học và phương pháp dạy và

học, tăng cường chất lượng đội ngũ giảng viên, coi trọng hơn nữa việc phát

hiện và đào tạo tài năng trẻ, tăng cường cơ sở vật chất, tăng cường phát triển

các bộ môn vững mạnh, tăng cường quản lý học tập đối với sinh viên.

Việc thực hiện có kết quả tốt phương hướng, nhiệm vụ với áp dụng các

giải pháp trên đây, từ nay đến năm 2020, Trường Đại học Thể dục thể thao I

chắc chắn sẽ nâng cao hơn nữa vị thế của mình về công tác giáo dục - đào tạo

nguồn nhân lực thể thao chất lượng cao, phục vụ đắc lực sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá vì dân giàu nước mạnh, và góp phần quan trọng nâng

cao thành tích thể thao Việt Nam ở khu vực, từng bước tiến lên sánh vai với

các cường quốc thể thao trên thế giới.

81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đặng Nguyên Anh (2006), “Biến đổi dân số thời kỳ công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nước”, Tạp chí Khoa học xã hội, (3).

2. Phạm Ngọc Anh (1995), “Quyền lực con người - nhân tố quyết định quá

trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (2).

3. Alvin Toffler (1992), Cú sốc tương lai, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội.

4. Bàn về chiến lược phát triển con người (1990), Nxb. Sự thật, Hà Nội.

5. Hoàng Chí Bảo (1998), “Con người mới xã hội chủ nghĩa - lý luận và

phương pháp nghiên cứu”, Tạp chí Triết học, (2).

6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học -

Dùng trong các trường đại học và cao đẳng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Tuyển tập nghiên cứu khoa học giáo

dục thể thất, y tế trường học, Nxb. Thể dục thể thao, Hà Nội.

8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin

(Dùng cho các khối ngành Kinh tế - Quản trị kinh doanh trong các

trường đại học, cao đẳng), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2000), Thực trạng lao động và

việc làm ở Việt Nam, Nxb. Thống kê, Hà Nội.

10. Bộ môn Kinh tế phát triển - Đại học kinh tế quốc dân (1997), Giáo trình

Kinh tế học phát triển, Hà Nội.

82

11. Bốn mươi năm xây dựng và phát triển Trường Đại học Thể dục thể thao

I (1999), Nxb. Thể dục thể thao, Hà Nội.

12. Vũ Đình Cự (29/7/2007), “Tri thức phục vụ phát triển”, Báo Nhân Dân,

(18975).

13. Nguyễn Trọng Chuẩn (1990), “Nguồn lực con người trong chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội của nước ta”, Tạp chí Triết học, (4).

14. Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), Một số vấn đề về triết học con người - xã

hội, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

15. Chương trình KHCN cấp nhà nước KX – 07, Đề tài KX07 - 08 Viện

khoa học Giáo dục (1995), Kết quả điều tra về vai trò của nhà trường

trong việc hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam, Hà

Nội.

16. Ngô Cương (2001), Cơ sở đánh giá giáo dục hiện đại, Nxb. Học Lâm -

Trung Quốc (Tiếng Trung).

17. Nguyễn Như Diện (1995), Con người và nguồn lực con người trong

phát triển, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

18. Hồ Anh Dũng (1994), Yếu tố con người trong lực lượng sản xuất và việc

phát huy nhân tố đó ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà

Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ Ba Ban

chấp hành Trung ương (khoá VIII), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

83

22. Nguyễn Đình Đường (1996), Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nguồn

nhân lực trong điều kiện hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

23. K.L. Jones, LW. Shainberg, C.O.Byber (1968), Health Science, New

York (Bản Tiếng Anh).

24. Lê Thanh Hà (2001), Nguồn nhân lực, tập bài giảng dùng cho sinh viên

hệ Cao đẳng chuyên ngành Quản lý lao động, Nxb. Lao động, Hà Nội.

25. Bùi Thanh Hà (2003), Công nhân công nghiệp trong các doanh nghiệp

liên doanh ở nước ta thời kỳ đổi mới, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

26. Phạm Minh Hạc (chủ biên, 1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp

công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Phạm Minh Hạc (7/1999), Chăm sóc, đào tạo, phát huy nguồn lực con

người phục vụ công nghiệp hoá, Đặc san báo Công an Tp. Hồ Chí Minh.

28. Lê Quang Hoan (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người với việc

phát huy nhân tố con người trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt

Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội.

29. Nguyễn Xuân Kính (2003), Con người, môi trường và văn hoá, Nxb.

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

30. Nguyễn Đức Khang (2002), Phát huy nhân tố con người bộ đội pháo

binh Việt Nam trong việc bảo vệ quốc phòng hiện nay, luận án Tiến sĩ

Triết học, Hà Nội.

31. Lê Trung Lâm - Nguyễn Ái Lâm (1996), Phát triển nguồn nhân lực -

Kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

32. Vũ Mạnh Lợi (2006), “Một số xu hướng và thái độ của thanh niên Việt

Nam đối với vấn đề việc làm”, Tạp chí Xã hội học, (3).

33. C.Mác- Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, Tập 21, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

84

34. Hồ Chí Minh với sự nghiệp hoá giáo dục (1990), Nxb. Sự thật, Hà Nội.

35. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội..

36. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Nguyễn Thế Nghĩa (1996), Nguồn nhân lực- động lực công nghiệp hoá,

hiện đại hoá, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

38. Phạm Công Nhất (2007), Phát huy nhân tố con người trong phát triển

lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay, Sách chuyên khảo. Nxb. Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

39. Phạm Công Nhất (2007), “Công tác phát triển, bồi dưỡng và phát huy

nhân tài ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, (392 -

11), (kỳ 2), tr.10-13.

40. Phạm Công Nhất (25/9/2007), “Nhân tài và trọng dụng nhân tài ở nước

ta hiện nay”, Báo Lao động xã hội, (115 - 1578), tr.6.

41. Phạm Công Nhất (11/2007), “Đổi mới tư duy giáo dục để phát triển

nguồn nhân lực trong điều kiện Việt Nam hội nhập quốc tế hiện nay”,

Tạp chí Khoa giáo.

42. Hồ Quý Sỹ (2007), Con người và phát triển con người, Nxb. Giáo dục,

Hà Nội.

43. Đỗ Nguyễn Phương (chủ biên, 1998), Chiến lược phát triển ngành y tế

nước ta trong giai đoạn hiện nay, Nxb. Y học, Hà Nội.

44. Paul Kennedy (1995), Chuẩn bị cho thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

45. Nguyễn Quán (1995), Chỉ tiêu và chỉ số phát triển con người, Nxb.

Thống kê, Hà Nội.

46. Quyền con người trong thế giới hiện đại (1995), Viện Thông tin khoa

học xã hội, Hà Nội.

85

47. Phan Thanh Tâm (2000), Các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực phục vụ nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước, Luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội.

48. Lê Hữu Tầng (1997), Về động lực phát triển kinh tế - xã hội, Nxb. Giáo

dục, Hà Nội.

49. Lương Thị Hải Thảo (2006), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trẻ

trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Bình Dương, Luận

văn Thạc sĩ triết học, Hà Nội.

50. Trần Thị Thuỷ (2000), Nhân tố con người và những biện pháp phát huy

nhân tố con người trong điều kiện mới ở Việt Nam hiện nay, Luận án

Tiến sĩ Triết học, Hà Nội.

51. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục (2005), Nxb. Lao động, Hà Nội.

52. Lưu Minh Tri - Phan Khôi (1997), Phát huy nguồn nhân lực chất xám

phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Hà Nội.

53. Hoàng Trinh (1996), Vấn đề văn hoá và phát triển, Nxb. Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

54. Lưu Ngọc Trịnh (1996), Chiến lược con người trong "Thần kỳ" kinh tế

Nhật Bản, Hà Nội.

55. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia (1999), Phát triển

con người: Từ quan niệm đến chiến lược và hành động, Nxb. Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

56. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia (2001), Báo cáo phát

triển con người năm 2001- Đổi mới và sự nghiệp phát triển con người,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

57. Trường Đại học Thể dục thể thao I (1997), Hội thảo khoa học đào tạo

vận động viên trẻ.

86

58. Trương Quốc Uyên (1996), Mối quan hệ giữa sự gia tăng dân số với

phát triển kinh tế, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Hà Nội.

59. Trương Quốc Uyên (2003), Chủ tịch Hồ Chí Minh với thể dục thể thao,

Nxb. Thể dục thể thao, Hà Nội.

60. Trương Quốc Uyên (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về thể dục thể thao,

Nxb. Thể dục thể thao, Hà Nội.

61. Uỷ ban Thể dục thể thao (1999), Xây dựng và phát triển nền Thể dục thể

thao Việt Nam, dân tộc, khoa học, và nhân văn, Nxb. Thể dục thể thao,

Hà Nội.

62. Uỷ ban Thể dục thể thao (2005), Thể dục thể thao, Nxb. Thể dục thể

thao, Hà Nội.

63. Uỷ ban Thể dục thể thao (2006), Một số văn bản quy phạm pháp luật về

Thể dục thể thao, Nxb. Thể dục thể thao, Hà Nội.

64. Viện khoa học xã hội Việt Nam (3/2006), Tạp chí Xã hội học, (3).

65. Viện thông tin Khoa học xã hội (1995), Con người và nguồn lực con

người, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

66. Viện Khoa học xã hội Việt Nam - UNDP (2006), Báo cáo phát triển con

người Việt Nam 1999 - 2004. Những thay đổi và xu hướng chủ yếu Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

87

PHỤ LỤC

Phiếu 1. Phỏng vấn các trưởng bộ môn về việc số lượng giảng viên áp

dụng các phương pháp giảng dạy.

Phiếu 2. Tổng hợp kết quả phỏng vấn các trưởng bộ môn về việc số

lượng giảng viên áp dụng các phương pháp giảng dạy.

Phiếu 3. Phỏng vấn các giảng viên lựa chọn các giải pháp nâng cao

chất lượng giáo dục - đào tạo.

Phiếu 4. Tổng hợp kết quả phỏng vấn các giảng viên về lựa chọn các

giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo.

Ảnh 1. Công sở trường đại học Thể dục thể thao I.

Ảnh 2. Một góc sân tập của Nhà Trường.

Ảnh 3. Bác Hồ về thăm trường.

Ảnh 4. Đài tưởng niệm.

Ảnh 5. Văn phòng đoàn.

Ảnh 6. Một góc giảng đường.

Ảnh 7. Giờ học Sinh lý của sinh viên trên lớp.

Ảnh 8. Giờ học Vi tính của sinh viên trên lớp.

Ảnh 9. Giờ học Thể dục của sinh viên trong Nhà tập.

Ảnh 10. Giờ học Bóng đá của sinh viên nữ ngoài sân tập.

Ảnh 11. Giờ học thực nghiệm Sinh lý của sinh trong phòng thí nghiệm.

Ảnh 12. Sinh viên học môn Võ.

Ảnh 13. Sinh viên học môn Ngoại ngữ trên giảng đường.

Ảnh 14. Sinh viên học môn Bóng chuyền.

Ảnh 15. Sinh viên học Bắn súng thể thao trong trường bắn.

Ảnh 16. Sinh viên học môn Vật. Ảnh 17. Bể bơi của Trường. Ảnh 18. Ký túc xá Sinh viên.

Ảnh 19. Nhà thi đấu của trường.

Ảnh 20. Lễ đón nhận chức danh khoa học.

88

Ảnh 21. Phó chủ tịch nước : Trương Mỹ Hoa trao tặng Huân chương

lao động hạng 3 cho Bộ môn Thể dục.

ảnh 22. Sinh viên tập thể lực trong phòng tập.

89

PHIẾU SỐ 1

PHIẾU PHỎNG VẤN

Lê Việt Hùng. Giảng viên Bộ môn Mác - Lênin Trƣờng đại học TDTT I -----------------

Kính gửi: ........................................................

Để đề xuất các giải pháp trong luận văn Thạc sĩ triết học về đề tài

"Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực Thể dục thể thao ở

Trường Đại học Thể dục thể thao I, chúng tôi xin đề nghị.........................cho

biết số giảng viên của bộ môn........... đang áp dụng các phương pháp giảng

dạy trong bảng dưới đây:

TT Nội dung phỏng vấn (các phƣơng pháp giảng dạy) Số giảng viên áp dụng (%)

Phương pháp giảng dạy tích cực (nêu vấn đề kết

hợp diễn giảng)

1

Phương pháp giảng dạy thông báo

2

Phương pháp đọc chép xen kẽ giảng giải

3

Sử dụng phương tiện công nghệ thông tin và

truyền thông mới (NICT)

4

Bắc Ninh, ngày 1 tháng 8 năm 2007 Ngƣời phỏng vấn

Lê Việt Hùng

90

PHIẾU SỐ 2 BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ PHỎNG VẤN

Chúng tôi phát ra 18 phiếu phỏng vấn 18 trưởng bộ môn của Trường

Đại học Thể dục thể thao I, thu về 18 phiếu trả lời, đạt tỷ lệ 100%. Sau khi xử

lý có được kết quả như bảng dưới đây:

TT Các phƣơng pháp giảng dạy

Phương pháp giảng dạy tích cực (nêu vấn đề kết

Tỷ lệ giảng viên áp dụng (%)

hợp diễn giảng)

Phương pháp giảng dạy thông báo

20 1

Phương pháp đọc chép xen kẽ giảng giải

18 2

Sử dụng phương tiện công nghệ thông tin và truyền

42 3

thông mới (NICT)

20 4

91

PHIẾU SỐ 3

PHIẾU PHỎNG VẤN

Lê Việt Hùng. Giảng viên Bộ môn Mác - Lê nin Trƣờng đại học TDTT I -----------------

Kính gửi: ........................................................

Để đề xuất các giải pháp trong luận văn Thạc sĩ triết học về đề tài

"Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực Thể dục thể thao ở

trường đại học Thể dục thể thao I, chúng tôi xin đề nghị.....

...........................................giúp đỡ, trả lời đồng ý hay không đồng ý đối với

các giải pháp dự kiến ở bảng dưới đây.

(Cách trả lời: đồng ý đánh dấu +, không đồng ý ghi số 0).

Số giảng viên

Không TT Nội dung phỏng vấn (các giải pháp) Đồng ý đồng ý

để dễ quản lý học tập

1 Quy định 100% sinh viên ở ký túc xá nhà trường

Đổi mới nội dung các môn học và phương pháp giảng dạy

2

Tăng cường giáo dục sinh viên tinh thần, ý thức học tập.

Tăng cường đội ngũ giảng viên

3

4

Tích cực phát hiện và giáo dục đào tạo nhân tài thể thao trẻ.

5

Tăng cường kiểm tra miệng và giấy những bài đã học đối với sinh viên.

6

Tăng cường cơ sở vật chất cho công tác giáo dục - đào tạo.

7

Thành lập Trung tâm khảo thí và kiểm định chất lượng.

Tăng cường quản lý học tập đối với sinh viên.

8

9

10 Tăng cường xây dựng và phát triển các bộ môn

92

vững mạnh.

Bắc Ninh, ngày 1 tháng 8 năm 2007 Ngƣời phỏng vấn

Lê Việt Hùng

PHIẾU SỐ 4

BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ PHỎNG VẤN

Chúng tôi phát tra 170 phiếu phỏng vấn tất cả (100%) giảng viên của

Trường Đại học Thể dục thể thao I, thu về được 150 phiếu trả lời, đạt tỷ lệ

88,2%. Đây là tỷ lệ cao, đảm bảo cho độ tin cậy. Chúng tôi lựa chọn để xuất 7

giải pháp (3, 4, 6, 7, 8, 9, 10 ) có số giảng viên đồng ý cao. Cụ thể như bảng

dưới đây:

Số giảng viên đồng ý TT Các giải pháp

Người %

trường để dễ quản lý học tập.

Tăng cường giáo dục sinh viên tinh thần, ý

1 Quy định 100% sinh viên ở ký túc xá nhà 55/150 36,6

thức học tập.

Đổi mới nội dung các môn học và phương

2 60/150 40,0

pháp giảng dạy

Tăng cường đội ngũ giảng viên

3 145/150 96,6

Tăng cường kiểm tra miệng và giấy những bài

143/150 93,3 4

đã học đối với sinh viên.

Tích cực phát hiện và giáo dục đào tạo nhân

5 50/150 33,3

tài thể thao trẻ.

Tăng cường cơ sở vật chất cho công tác giáo

6 150/150 100

dục - đào tạo.

7 150/150 100

93

Thành lập Trung tâm khảo thí và kiểm định

chất lượng.

Tăng cường quản lý học tập đối với sinh viên.

8 120/150 80

9 150/150 100

vững mạnh

10 Tăng cường xây dựng và phát triển bộ môn 150/150 100

94