ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

NGUYỄN ĐỨC THỌ

NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG KINH PHÍ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH - SỰ NGHIỆP THUỘC BỘ TÀI CHÍNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI – 2007

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ==============

NGUYỄN ĐỨC THỌ

NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG KINH PHÍ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH - SỰ NGHIỆP THUỘC BỘ TÀI CHÍNH

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị Mã số: 603101

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Văn Dũng

HÀ NỘI – 2007

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU

1

7

Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ, SỬ DỤNG KINH PHÍ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC TẠI CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH - SỰ NGHIỆP

1.1 Ngân sách nhà nước và đặc điểm của ngân sách nhà nước trong nền kinh

7

tế thị trường

1.1.1 Một số vấn đề cơ bản về ngân sách nhà nước

7

1.1.2 Những đặc điểm của ngân sách nhà nước

15

1.1.3 Cơ chế quản lý ngân sách nhà nước

17

1.2. Một số vấn đề cơ bản về quản lý kinh phí ngân sách nhà nước tại các cơ

20

quan hành chính - sự nghiệp

1.2.1 Cơ quan hành chính - sự nghiệp và vai trò của chúng

20

1.2.2 Sự cần thiết phải quản lý kinh phí ngân sách nhà nước tại các cơ quan

22

hành chính - sự nghiệp

1.2.3 Nội dung quản lý kinh phí ngân sách nhà nước tại các cơ quan hành

23

chính - sự nghiệp

1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý kinh phí ngân sách nhà nước tại các

27

cơ quan hành chính - sự nghiệp

1.2.5 Hiệu quả quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước tại các cơ quan

30

hành chính - sự nghiệp

1.3. Kinh nghiệm của một số nước và bài học vận dụng cho Việt Nam

31

1.3.1 Tình hình quản lý chi kinh phí ngân sách nhà nước ở một số nước

31

1.3.2 Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam

37

41

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG KINH PHÍ NGÂN

Chƣơng 2

SÁCH NHÀ NƢỚC TẠI CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH - SỰ NGHIỆP

THUỘC BỘ TÀI CHÍNH

2.1. Đặc điểm công tác quản lý, sử dụng kinh phí tại các cơ quan hành chính -

41

sự nghiệp thuộc Bộ Tài chính

2.1.1 Khái quát về nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Bộ Tài chính

41

2.1.2 Đặc điểm công tác quản lý, sử dụng kinh phí tại các cơ quan hành chính -

43

sự nghiệp thuộc Bộ Tài chính

2.2. Tình hình quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước tại các cơ

44

quan hành chính - sự nghiệp thuộc Bộ Tài chính

2.2.1 Tổ chức bộ máy làm nhiệm vụ quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách nhà

44

nước tại các cơ quan hành chính - sự nghiệp thuộc Bộ Tài chính

2.2.2 Định mức phân bổ kinh phí ngân sách nhà nước cho các cơ quan hành

48

chính - sự nghiệp hiện nay

2.2.3 Công tác hướng dẫn, cụ thể hoá các chế độ, chính sách, tiêu chuẩn, định

51

mức theo quy định của Nhà nước

2.2.4 Công tác lập, phân bổ, giao dự toán; chấp hành và quyết toán kinh phí

53

ngân sách nhà nước tại các cơ quan hành chính-sự nghiệp thuộc Bộ Tài

chính

2.2.5 Công tác kiểm tra, tự kiểm tra nội bộ về quản lý và sử dụng kinh phí ngân

67

sách nhà nước

2.3. Đánh giá chung

69

2.3.1 Những thành tựu

69

2.3.2 Những hạn chế

71

78

Chƣơng 3 CÁC QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG KINH PHÍ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC TẠI CÁC CƠ

QUAN HÀNH CHÍNH - SỰ NGHIỆP

3.1. Mục tiêu chiến lược tài chính, định hướng phát triển công tác quản lý và

78

sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước của Bộ Tài chính đến năm 2010 và

tầm nhìn đến năm 2015

3.1.1 Hướng dẫn, cụ thể hoá các chính sách, chế độ, định mức trong quản lý và

79

sử dụng kinh phí đảm bảo đồng bộ, đầy đủ và phù hợp với các cơ quan

hành chính-sự nghiệp thuộc Bộ Tài chính

3.1.2 Đẩy mạnh thực hiện cải cách hành chính theo hướng mở rộng phân cấp,

80

giao quyền chủ động cho các đơn vị trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ

trên cơ sở xây dựng quy trình quản lý tài chính, đầu tư và quản lý tài sản

đảm bảo tính minh bạch, công khai

3.1.3 Hoạch định và phát triển một cách mạnh mẽ và toàn diện việc ứng dụng

82

công nghệ thông tin trong công tác quản lý và sử dụng kinh phí nhằm hỗ

trợ có hiệu quả nhất cho việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của các

đơn vị

3.1.4 Triệt để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng kinh phí; thực

83

hiện nghiêm túc các quy định về công khai trong các lĩnh vực quản lý;

nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, tự kiểm tra nội bộ trong các lĩnh

vực quản lý

3.1.5 Kiện toàn và ổn định bộ máy, tăng cường công tác đào tạo, nâng cao

84

nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ, công chức làm nhiệm vụ quản lý kinh

phí tại các đơn vị thuộc Bộ Tài chính

3.2. Những quan điểm hoàn thiện công tác quản lý và sử dụng kinh phí ngân

85

sách nhà nước tại các cơ quan hành chính - sự nghiệp thuộc Bộ Tài chính

cũng như tại các cơ quan hành chính - sự nghiệp của nước ta

3.2.1 Thực hiện đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý phù hợp với sự phát triển

85

kinh tế - xã hội của đất nước, phù hợp với tổ chức bộ máy và đồng bộ với

chủ trương cải cách hành chính

3.2.2 Đầu tư, bố trí kinh phí ngân sách nhà nước phải xuất phát từ mục tiêu

86

hoàn thành chức năng, nhiệm vụ chuyên môn của các cơ quan hành chính

- sự nghiệp

3.2.3 Quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước tại các cơ quan hành

86

chính - sự nghiệp phải quán triệt quan điểm tiết kiệm và đánh giá hiệu

quả thông qua kết quả đầu ra

3.3. Các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách

87

nhà nước tại các cơ quan hành chính - sự nghiệp thuộc Bộ Tài chính cũng

như tại các cơ quan hành chính - sự nghiệp của nước ta

3.3.1 Các giải pháp đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước

87

3.3.2 Các giải pháp đổi mới công tác kiểm tra, tự kiểm tra nội bộ

94

3.3.3 Xây dựng kế hoạch từ 3 - 5 năm về sử dụng kinh phí của các cơ quan

97

hành chính sự nghiệp

3.3.4

Thu gọn số lượng các đơn vị dự toán của các Bộ, ngành

97

KẾT LUẬN

99

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

100

PHỤ LỤC

103

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài

Các cơ quan hành chính - sự nghiệp (HCSN) là những bộ phận cấu

thành bộ máy Nhà nước, có chức năng thực thi công tác quản lý của Nhà

nước; hoạch định và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế, xã hội. Do

đó, chi ngân sách nhà nước (NSNN) cho các cơ quan HCSN là tất yếu khách

quan, là một trong những điều kiện quan trọng để đảm bảo duy trì hoạt động

của các cơ quan HCSN, để tăng cường công tác quản lý của Nhà nước, nâng

cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước.

Trong những năm qua, kinh phí NSNN dành cho lĩnh vực HCSN ngày

càng tăng cao cả về số tuyệt đối và tỉ trọng. Tuy nhiên, vẫn còn những khoảng

cách khá xa so với nhu cầu chi tiêu thực tế phát sinh tại các cơ quan HCSN để

đảm bảo thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ được giao. Đây là mâu thuẫn

không phải chỉ đối với Việt Nam do NSNN còn hạn hẹp, mà nhiều nước, kể

các các nước phát triển cũng phải đối mặt với nó. Để giải quyết mâu thuẫn

này không thể chỉ thực hiện bằng biện pháp tăng chi NSNN cho lĩnh vực

HCSN, mà vấn đề đặt ra là phải xây dựng được cơ chế quản lý và sử dụng

hợp lý, có hiệu quả nguồn kinh phí NSNN dành cho lĩnh vực HCSN để đảm

bảo mục tiêu, yêu cầu tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ

quan HCSN, đồng thời thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí trong chi tiêu

NSNN.

Hiện nay Việt Nam đã có Luật NSNN. Đây một đạo Luật tương đối

hoàn chỉnh để điều chỉnh các mối quan hệ trong lĩnh vực NSNN. Đặc biệt

trong công tác quản lý chi NSNN, Luật NSNN và các văn bản quy phạm pháp

luật quy định chi tiết, hướng dẫn Luật đã quy định cụ thể toàn bộ quy trình

lập, chấp hành, kế toán và quyết toán NSNN. Tuy nhiên trong quá trình triển

khai thực hiện Luật NSNN tại các cơ quan HCSN đã phát sinh, bộc lộ một số

1

điểm tồn tại làm hạn chế hiệu quả quản lý của các cơ quan chức năng, ảnh

hưởng không tốt đến công tác quản lý và sử dụng NSNN.

Bộ Tài chính là một cơ quan HCSN đa ngành, đa lĩnh vực với các

đơn vị trực thuộc trải rộng từ Trung ương đến các huyện trong phạm vi toàn

quốc, các đơn vị thuộc Bộ Tài chính hoạt động bao trùm trong hầu hết các sự

nghiệp thuộc lĩnh vực HCSN. Với số lượng cán bộ, công chức, viên chức

đông đảo nhất và hàng năm Bộ Tài chính sử dụng một lượng kinh phí NSNN

lớn nhất so với các cơ quan HCSN ở Trung ương. Do đó, hầu hết những điểm

tồn tại, những vấn đề phát sinh từ thực tiễn chi kinh phí NSNN trong lĩnh vực

HCSN đều được thể hiện tại các đơn vị thuộc Bộ Tài chính. Vì vậy, tôi đã

chọn Bộ Tài chính là một cơ quan điển hình trong lĩnh vực HCSN.

Từ thực tế khách quan nêu trên, từng bước hoàn thiện công tác quản lý

và sử dụng kinh phí tại các cơ quan HCSN đang đặt ra là một yêu cầu cấp

bách. Vì thế tôi chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng kinh phí

ngân sách nhà nước tại các cơ quan hành chính - sự nghiệp thuộc Bộ Tài

chính” làm đề tài nghiên cứu.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong những năm qua, vấn đề quản lý và sử dụng kinh phí đã được

quan tâm nghiên cứu khá toàn diện trên các giác độ, khía cạnh, lĩnh vực khác

nhau nhưng đều cùng một mục tiêu thống nhất là bảo đảm hiệu quả tối đa các

khoản chi kinh phí nhằm phục vụ lợi ích toàn xã hội. Về tổng thể, các đề tài

nghiên cứu nêu trên được chia thành 2 hướng như sau:

- Hướng nghiên cứu của các cơ quan Nhà nước: thuộc hướng này có Đề

án chiến lược tài chính; Đề án hiện đại hoá ngành Tài chính giai đoạn từ 2001

đến 2010; Đề án và các tiểu đề án thuộc Chương trình 6; Đề án chương trình

phát triển hệ thống tin học ngành Tài chính giai đoạn 2001 đến 2010... do Bộ

Tài chính chủ trì. Tuy nhiên vấn đề quản lý chi kinh phí của các cơ quan

2

HCSN là một nội dung mang tính khái quát trong một phạm vi rất rộng, liên

quan đến nhiều chủ trương, cơ chế chính sách... nên các kết quả nghiên cứu

về công tác quản lý chi kinh phí cho các hoạt động HCSN vẫn chưa được đề

cập một cách rõ nét và cụ thể, chưa có những lời giải đáp thấu đáo đến những

vướng mắc phát sinh từ thực tiễn quản lý trong lĩnh vực HCSN tại các đơn vị

trực tiếp sử dụng kinh phí.

- Các công trình nghiên cứu của các cá nhân bao gồm rất nhiều bài báo,

tạp chí khác nhau, như:

- Biện pháp thực hiện chi ngân sách theo dự toán năm 2004: thoáng

nhưng chưa thông (Vĩnh Sang, Tạp chí Tài chính tháng 3/2004).

- Về đổi mới quy trình ngân sách hiện hành và vai trò của các cơ quan

dân cử trong lĩnh vực NSNN ở Việt Nam (Vũ Văn Hóa, Tạp chí Tài chính

tháng 6/2004).

- Đổi mới quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra, gắn với tầm nhìn

trung hạn (Bùi Đường Nghêu, Tạp chí Tài chính tháng 7/2004).

- Phân cấp trong lĩnh vực quản lý tài chính – ngân sách ở Việt Nam

(Phạm Đình Cường, Tạp chí Tài chính tháng 7/2004).

- Nhìn lại 2 năm mở rộng thí điểm khoán biên chế và kinh phí quản lý

hành chính (Nguyễn Ngô Thị Hoài Thu, Tạp chí Tài chính tháng 10/2004).

- Sau một năm thực hiện Luật ngân sách nhà nước (sửa đổi) (Nguyễn

Công Điều, Tạp chí Tài chính tháng 12/2004).

- Chống lãng phí, thất thoát vốn NSNN - vấn đề hết sức quan trọng

hiện nay (Lý Hoàng Ánh – Chu Nguyên Khương, Tạp chí Tài chính tháng

12/2004).

- Đổi mới chính sách tài chính giai đoạn 2001 – 2005 và định hướng

đổi mới giai đoạn 2006 - 2010 (Nguyễn Công Nghiệp, Tạp chí Tài chính

tháng 1/2005).

3

- Cải cách hành chính trong công tác tài chính: nhanh hơn, mạnh hơn,

toàn diện hơn... (Trần Văn Tá, Tạp chí Tài chính tháng 1/2005).

- “Thêm tai, thêm mắt” cho giám sát (Quỳnh Mai, Tạp chí Tài chính

tháng 2/2005).

- Quyết toán NSNN năm 2003, những vấn đề về quản lý (Trần Văn

Hiền, Tạp chí Tài chính tháng 7/2005).

- Nhiệm vụ NSNN những tháng cuối năm 2005 (Trần Văn Hiền, Tạp

chí Tài chính tháng 8/2005).

- Chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí

quản lý hành chính trong các cơ quan Nhà nước (Nguyễn Trường Giang, Tạp

chí Tài chính tháng 11/2005).

- Tiếp tục hoàn thiện chính sách chi tiêu công đáp ứng tiến trình cải

cách hành chính (Vũ Thị Nhài, Tạp chí Tài chính tháng 5/2006)...

Các nghiên cứu này mới chủ yếu đề cập đến từng khía cạnh cụ thể của

một vấn đề hoặc từng nội dung cụ thể trong quản lý và sử dụng kinh phí

NSNN trong lĩnh vực HCSN. Chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên

sâu về công tác quản lý và sử dụng kinh phí NSNN ở các cơ quan HCSN

thuộc Bộ Tài chính. Do đó, việc nghiên cứu công tác quản lý và sử dụng kinh

phí NSNN ở các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính là rất cần thiết.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục tiêu của Luận văn: từ việc nghiên cứu thực trạng quản lý và sử

dụng kinh phí NSNN tại các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính, luận văn đưa

ra các giải pháp để sử dụng có hiệu quả kinh phí NSNN ở các cơ quan HCSN

thuộc Bộ Tài chính và các cơ quan HCSN nói chung.

- Nhiệm vụ của Luận văn:

+ Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về ngân sách và chi kinh phí

NSNN các cơ quan HCSN.

4

+ Hệ thống hoá công tác quản lý và sử dụng kinh phí NSNN trong lĩnh

vực HCSN theo quy định hiện hành của Nhà nước.

+ Phân tích thực trạng công tác quản lý và sử dụng kinh phí NSNN

trong lĩnh vực HCSN tại các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính, từ đó chỉ ra

những tồn tại yếu kém và nguyên nhân (khách quan, chủ quan) dẫn đến tình

trạng đó.

+ Đề xuất những kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản

lý, nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng kinh phí NSNN tại các cơ quan

HCSN thuộc Bộ Tài chính và các cơ quan HCSN nói chung.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu hoạt động quản lý và sử dụng kinh

phí NSNN tại các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính dưới góc độ Kinh tế

chính trị.

- Phạm vi nghiên cứu: chi kinh phí trong các cơ quan HCSN có phạm

vi rất rộng. Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá tình hình,

số liệu quản lý và sử dụng kinh phí NSNN trong phạm vi các cơ quan HCSN

thuộc Bộ Tài chính đối với các nội dung chi thường xuyên; các số liệu và tình

hình thực tế tập trung ở giai đoạn 2001 - 2007.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp luận để nghiên cứu là duy vật biện

chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu.

Các phương pháp nghiên cứu cụ thể là: phân tích và tổng hợp, lô gic và

lịch sử, diễn dịch và quy nạp.... trên cơ sở tình hình, số liệu khảo sát thực tế

tại Bộ Tài chính. Luận văn còn sử dụng phương pháp đối chiếu và so sánh

trong một số vấn đề.

6. Dự kiến những đóng góp mới về khoa học của luận văn

5

- Từ việc nghiên cứu quản lý và sử dụng kinh phí NSNN trong lĩnh vực

HCSN ở một số nước, luận văn rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt

Nam.

- Phân tích thực trạng công tác quản lý và sử dụng kinh phí NSNN

trong lĩnh vực HCSN tại các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính để chỉ ra

những thành công và những tồn tại, yếu kém.

- Đề xuất những quan điểm, giải pháp để góp phần xây dựng, hoàn

thiện hệ thống định chế pháp lý quản lý và sử dụng kinh phí NSNN trong lĩnh

vực HCSN cũng như tại các cơ quan HCSN ở Việt Nam.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục;

Luận văn được trình bày trong 3 chương, cụ thể như sau:

Chƣơng 1: Những vấn đề cơ bản về ngân sách nhà nƣớc và công

tác quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách nhà nƣớc tại các cơ quan HCSN.

Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động quản lý và sử dụng kinh phí ngân

sách nhà nƣớc tại các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính.

Chƣơng 3: Các quan điểm định hƣớng và giải pháp hoàn thiện

công tác quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nƣớc tại các cơ quan

HCSN.

6

CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC

VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ, SỬ DỤNG KINH PHÍ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC TẠI

CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH - SỰ NGHIỆP

1.1. Ngân sách nhà nƣớc và đặc điểm của ngân sách nhà nƣớc trong nền

kinh tế thị trƣờng

1.1.1. Một số vấn đề cơ bản về ngân sách nhà nước

1.1.1.1. Khái niệm và bản chất của ngân sách nhà nước

Nhà nước hình thành gắn liền với sự phân hoá giai cấp trong xã hội,

theo học thuyết Mác-Lê nin thì Nhà nước là một cơ quan thống trị của một

giai cấp, là cơ quan quyền lực bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, đồng thời

Nhà nước là một tổ chức công quyền thống nhất quản lý toàn xã hội về mọi

mặt. Để thực hiện được chức năng, nhiệm vụ quản lý của mình, Nhà nước cần

có đảm bảo vật chất và nguồn lực tài chính nhất định hay nói cách khác Nhà

nước cần phải có ngân sách để hoạt động. Như vậy, NSNN được hình thành

để đảm bảo nguồn lực tài chính phục vụ cho hoạt động của Nhà nước.

Luật ngân sách Nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 16 tháng 12

năm 2002 đã quy định: ”Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi

của Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được

thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của

Nhà nước”.

Nhà nước trong mọi hình thái xã hội đều mang tính chất giai cấp. Nhà

nước sử dụng quyền lực của Nhà nước để nắm kinh tế và dùng kinh tế để duy

trì quyền lực của giai cấp mình. Do NSNN gắn với một Nhà nước cụ thể, gắn

với một chế độ chính trị nhất định và là công cụ cơ bản để thực hiện các chức

năng của Nhà nước nên NSNN cũng mang tính giai cấp. Bản chất của NSNN

gắn liền với bản chất của Nhà nước sinh ra ngân sách đồng thời cũng là đối

tượng để ngân sách phục vụ.

7

NSNN là nền tảng vật chất có vai trò quyết định sự tồn tại, phát triển

của Nhà nước. NSNN đảm bảo nguồn lực tài chính để Nhà nước duy trì bộ

máy cai trị bảo vệ quyền lực Nhà nước gồm các cơ quan hành chính, quân

đội, cảnh sát, toà án... Đồng thời, NSNN cũng là nguồn lực cơ bản để Nhà

nước thực hiện vai trò quản lý kinh tế xã hội, đầu tư thúc đẩy phát triển các

lĩnh vực kinh tế - xã hội như: nông nghiệp, thuỷ lợi, công nghiệp, giao thông,

thương mại, y tế, giáo dục...

Trong thực tế luôn luôn tồn tại mâu thuẫn giữa Nhà nước với các chủ

thể kinh tế trong xã hội trong việc huy động một phần nguồn thu nhập của họ

vào NSNN. Để giải quyết mâu thuẫn này, đáp ứng yêu cầu về chi tiêu của

Nhà nước, Nhà nước đã sử dụng quyền lực của Nhà nước để quy định hệ

thống pháp luật tài chính và thuế khoá bắt buộc mọi pháp nhân và thể nhân

trong xã hội phải nộp một phần thu nhập của mình cho Nhà nước. Xuất phát

từ tính giai cấp của NSNN nên NSNN của bất kỳ quốc gia nào cũng đều do cơ

quan quyền lực Nhà nước cao nhất quyết định. Các khoản thu, chi của NSNN

đều được quy định rõ bằng hệ thống pháp luật, các khoản chi của ngân sách

đều nhằm duy trì quyền lực của Nhà nước, đảm cho Nhà nước thực hiện các

chức năng quản lý kinh tế, chính trị, xã hội của mình.

Thu NSNN bao gồm: các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu

từ hoạt động kinh tế của Nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức và cá

nhân; các khoản viện trợ; các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.

Thu NSNN thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức và cá nhân

trong xã hội trong việc các tổ chức và cá nhân thực hiện nghĩa vụ đóng góp

theo luật định một phần thu nhập của họ nộp vào NSNN và các nguồn đóng

góp này sẽ không được hoàn trả trực tiếp. Thông qua việc Nhà nước quy định

đối tượng điều tiết, nội dung hoạt động kinh tế phải điều tiết và tỷ lệ điều tiết

cho thấy ngoài việc tham gia vào phân phối và phân phối lại thu nhập quốc

dân, tăng nguồn thu vào ngân sách, chính sách thu ngân sách còn có tác động

8

tới việc thực hiện chính sách khuyến khích phát triển, thu hẹp đối với hoạt

động sản xuất kinh doanh, đối với từng thành phần kinh tế trong từng lĩnh

vực, từng ngành nghề...

Chi NSNN bao gồm: các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm

quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy Nhà nước; chi trả nợ của

Nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.Chi

NSNN ngoài việc đảm bảo duy trì hoạt động của bộ máy quản lý hành chính

Nhà nước, duy trì quyền lực của giai cấp thống trị, phát triển kinh tế - xã hội,

còn thực hiện chính sách phâp phối lại thu nhập giữa người giầu với người

nghèo, chính sách phát triển con người, thực hiện bảo trợ xã hội...

Hoạt động thu, chi NSNN được tiến hành rất đa dạng và phong phú

trên hầu hết các lĩnh vực đời sống, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh... và

tác động đến mọi chủ thể xã hội. Thu, chi NSNN bên cạnh việc đem lại các

kết quả trực tiếp như đã trình bày ở trên còn có tác dụng trong việc điều chỉnh

vĩ mô nền kinh tế. Hoạt động thu, chi ngân sách vừa tác động trực tiếp vừa

gián tiếp tới một số cân đối lớn của nền kinh tế như: cân đối tích luỹ và tiêu

dùng, cơ cấu chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, đồng thời tạo lập môi

trường kinh tế ổn định làm tiền đề khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham

gia vào hoạt động kinh tế của đất nước.

Hoạt động thu, chi của NSNN được hiểu là hoạt động phân phối các

nguồn tài chính, là quá trình giải quyết quyền lợi kinh tế giữa Nhà nước và xã

hội, với kết quả là các nguồn tài chính được chia thành hai phần: phần nộp

vào NSNN và phần để lại cho các thành viên của xã hội. Phần nộp vào NSNN

sẽ tiếp tục được phân phối lại, thể hiện qua các khoản chi từ ngân sách cho

các mục đích tiêu dùng và đầu tư. Sự tham gia của NSNN vào quá trình phân

phối các nguồn tài chính làm xuất hiện các quan hệ tài chính. Hệ thống các

9

quan hệ tài chính là sự thể hiện bản chất của NSNN; dưới các hình thức cụ

thể, đó là các mối quan hệ như sau:

Thứ nhất, quan hệ tài chính giữa Nhà nước và các doanh nghiệp, trong

đó Nhà nước ban hành chính sách huy động một phần thu nhập tài chính của

doanh nghiệp vào NSNN; nhà nước tái đầu tư lại cho doanh nghiệp dưới hình

thức trực tiếp và gián tiếp và tạo dựng môi trường tài chính cần thiết để doanh

nghiệp hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật.

Thứ hai, quan hệ giữa NSNN với các cơ quan quản lý nhà nước trong

các lĩnh vực hành chính, sự nghiệp giáo dục, sự nghiệp y tế và thực hiện

nhiệm vụ an ninh quốc phòng… thể hiện trong mối quan hệ phân phối lại

nguồn thu từ NSNN để các cơ quan này chi tiêu, thực hiện nhiệm vụ quản lý

nhà nước trong các lĩnh vực được phân công quản lý.

Thứ ba, quan hệ giữa NSNN với hộ gia đình và dân cư. Mối quan hệ

này được thể hiện dưới hình thức dân cư làm nghĩa vụ tài chính đối với Nhà

nước thông qua đóng các khoản nộp thuế, phí và các khoản đóng góp khác,

đồng thời dân cư được hưởng các lợi ích xã hội thông qua chi NSNN cho đầu

tư cho các công trình phúc lợi xã hội như cơ sở hạ tầng giao thông, liên lạc,

thuỷ lợi, y tế, giáo dục đào tạo, hoặc được hưởng trợ cấp trực tiếp khi gặp

thiên tai, dịch bệnh...

Thứ tƣ, quan hệ giữa NSNN và thị trường tài chính. Chi tiêu của

NSNN có ảnh hưởng và tác động gián tiếp đến thị trường tiền tệ và cung cầu

về vốn trên thị trường tài chính. Ngoài ra NSNN còn có thể tham gia trực tiếp

vào thị trường tài chính thông qua việc phát hành các trái phiếu vay nợ hoặc

bán nợ trực tiếp trên thị trường tài chính.

Tóm lại, cơ sở lý luận và thực tiễn đều cho thấy NSNN là không thể

thiếu được đối với một Nhà nước. Nhà nước luôn là chủ thể thường xuyên và

chủ thể có quyền lực trong việc huy động và phân phối các nguồn tài chính

10

quốc gia. Trong mối quan hệ NSNN để thực hiện quá trình phân phối, lợi ích

mà Nhà nước hướng tới chủ yếu là các lợi ích về kinh tế để phục vụ các mục

tiêu chính trị. Do đó bản chất của NSNN là hệ thống các mối quan hệ kinh tế

và xã hội phát sinh trong qúa trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn

tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng quản lý và điều

hành nền kinh tế - xã hội của mình.

1.1.1.2. Những đặc trưng chủ yếu của ngân sách nhà nước

NSNN là sự phối hợp giữa hai quá trình thu và chi, hay tạo lập và sử

dụng nguồn lực tài chính của Nhà nước để thực hiện chức năng quản lý của

Nhà nước, là một trong những công cụ để điều chỉnh kinh tế vĩ mô và vi mô

của nền kinh tế trên tất cả các lĩnh vực, xã hội và thị trường... Do đó NSNN

có một số đặc trưng chủ yếu như sau:

Về mặt kinh tế: NSNN có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tạo điều

kiện cho nền kinh tế thị trường phát triển theo đúng định hướng của Nhà nước

đã vạch ra, ngoài ra nó còn có tác dụng khắc phục những khuyết tật vốn có

của kinh tế thị trường. Nhà nước sử dụng công cụ ngân sách để định hướng và

hình thành một cơ cấu kinh tế mới đảm bảo thúc đẩy nền kinh tế phát triển

cân đối, bền vững, chống độc quyền, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên và

các nguồn lực khác...

Thông qua chính sách thu NSNN, Nhà nước tạo điều kiện cho các

ngành kinh tế mũi nhọn phát triển, thực hiện các chính sách tài chính hỗ trợ

phát triển kinh tế - xã hội tại các vùng, khu vực, ngành nghề, lĩnh vực cần

khuyến khích đầu tư ... Thông qua chính sách chi NSNN, Nhà nước đầu tư cơ

sở hạ tầng kinh tế như: giao thông, công nghệ thông tin, cải tạo môi trường...

để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp ra đời và phát triển. Bên cạnh đó, Nhà

nước sử dụng chức năng thu, chi NSNN là một công cụ để thiết lập một cơ

11

cấu kinh tế ổn định, cân bằng và hợp lý phù hợp với đặc điểm và điều kiện

chung của đất nước trong từng giai đoạn phát triển.

Về mặt xã hội: thông qua chính sách thu, chi NSNN, Nhà nước thực

hiện phân phối thu nhập và thực hiện công bằng xã hội. Bằng chính sách thu

ngân sách, Nhà nước thực hiện điều tiết một phần thu nhập của những người

có thu nhập cao, tạo nên một sự công bằng hợp lý trong xã hội, thu hẹp

khoảng cách chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Bằng chính

sách chi ngân sách, Nhà nước thực hiện các chính sách về việc làm, chính

sách bảo trợ xã hội, chính sách chăm sóc sức khỏe nhân dân... Với chính sách

thu, chi NSNN hợp lý, phù hợp với từng giai đoạn phát triển, NSNN có vai

trò tích cực tạo sự ổn định về mặt chính trị và xã hội, tạo điều kiện quan trọng

thúc đẩy đất nước phát triển.

Về mặt thị trƣờng: đối với thị trường, chính sách thu, chi ngân sách

của Nhà nước có tác dụng mạnh mẽ và rõ nét nhất; sự thay đổi về chính sách

thu, chi NSNN, sẽ tác động trực tiếp và tạo nên những biến đổi sâu rộng trên

tất cả các lĩnh vực của thị trường. Nhà nước sử dụng chính sách thu tạo điều

kiện cho yếu tố của thị trường vốn và thị trường lao động hình thành và phát

triển. Sự hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước sẽ có tác động trực

tiếp đến cung và cầu hàng hoá trên thị trường, góp phần bình ổn giá cả, chống

lạm phát và giảm phát. Mọi sự thay đổi về quy mô và cơ cấu NSNN trong cả

lĩnh vực thu hoặc lĩnh vực chi đều ảnh hưởng, tác động đến các thị trường. Do

đó, Nhà nước sử dụng NSNN như một công cụ hữu hiệu để định hướng cho

các thị trường hoạt động và phát triển theo định hướng của Nhà nước.

1.1.1.3. Vai trò của ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường

Có nhiều quan điểm nói về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị

trường. Từ thời kỳ Adam Smith đến thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đều cho rằng

Nhà nước chỉ nên giới hạn trong chức năng giữ gìn an ninh chính trị và quản

12

lý xã hội chứ không nên can thiệp vào kinh tế, hoạt động kinh tế nên để cho tự

thị trường quyết định. Nhưng đến cuộc tổng khủng hoảng kinh tế giai đoạn

1929 – 1933 đã cho thấy học thuyết này đã không có khả năng giải quyết

được tất cả các vấn đề nảy sinh trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là các

nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế.

Năm 1936, nhà kinh tế học M.J Keynes trong tác phẩm “Lãi xuất, việc

làm, thu nhập” sau khi phân tích nguyên nhân của cuộc suy thoái kinh tế giai

đoạn 1929 - 1933 đã đưa khuyến nghị cần phải có sự gia tăng vai trò can thiệp

của Nhà nước vào quá trình kinh tế. Từ đó đến nay, nhiều nhà kinh tế đều cho

rằng trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, không thể không có sự can

thiệp của Nhà nước. Tuy nhiên cách thức, mức độ, phạm vi can thiệp của Nhà

nước vào hoạt động của nền kinh tế thị trường là vấn đề cần cân nhắc và có sự

nhìn nhận khác nhau.

Thực tế, nền kinh tế thị trường trong quá trình vận hành sẽ nảy sinh các

khiếm khuyết, đó là những nguyên nhân tiềm tàng dẫn đến việc sử dụng

không hiệu quả các nguồn lực xã hội, dẫn đến phân phối không công bằng,

mất ổn định và khủng hoảng kinh tế. Do đó vai trò Nhà nước trong nền kinh

tế thị trường là hết sức cần thiết, thông qua các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô,

Nhà nước thực hiện can thiệp kịp thời, khắc phục các khiếm khuyết nảy sinh

từ sự phát triển tự phát của thị trường, giúp thị trường vận hành suôn sẻ và

khắc phục được các tồn tại mang tính chất chu kỳ kinh doanh của nền kinh tế

thị trường.

Để Nhà nước thực hiện được chức năng của mình trong nền kinh tế thị

trường, đòi hỏi Nhà nước phải có sức mạnh về kinh tế, trong đó NSNN được

sử dụng như một công cụ chủ yếu của Nhà nước để thực hiện chức năng quản

lý Nhà nước, can thiệp và tác động vào thị trường theo định hướng của Nhà

13

nước. Trên phương diện lý luận, cũng như thực tiễn, NSNN ngày càng đóng

vai trò quan trọng thể hiện trên các mặt sau:

Thứ nhất, huy động nguồn tài chính để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của

Nhà nước, đồng thời thực hiện cân đối giữa các khoản thu và chi của Nhà

nước. Đây là một trong những vai trò quan trọng của NSNN, vai trò này bắt

nguồn từ nhu cầu tồn tại và phát triển của bộ máy quản lý Nhà nước, để tồn

tại và phát triển, Nhà nước phải tập trung được một nguồn lực tài chính nhất

định và NSNN là một trong những công cụ thực hiện yêu cầu đó.

Để đáp ứng vai trò này, yêu cầu NSNN phải xác định được nguồn thu,

đối tượng thu, khả năng thu và cách thức tổ chức thu. Việc thực hiện tất cả

các công việc này làm phát sinh mối quan hệ phân phối vật chất giữa Nhà

nước và các chủ thể kinh tế trong xã hội, phát sinh mâu thuẫn trong việc phân

chia thu nhập xã hội. Yêu cầu đối với NSNN là phải giải quyết được hài hoà

mối quan hệ phân phối này. Giải quyết mối quan hệ này chính là giải quyết

được vấn đề lợi ích giữa Nhà nước và các chủ thể kinh tế, vừa đảm bảo nguồn

thu cho Nhà nước, vừa tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế trong xã hội có

nguồn tài chính cần thiết để tái đầu tư, phát triển sản xuất hay nói cách khác là

bồi dưỡng nguồn thu. Đây cũng chính là việc giải quyết mối quan hệ giữa tích

luỹ và tiêu dùng, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của nền kinh tế.

Thứ hai, NSNN có vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội: hoạt

động kinh tế thị trường chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế thị trường,

động lực hoạt động của kinh tế thị trường là cạnh tranh và lợi nhuận. Do cạnh

tranh và lợi nhuận làm cho nền kinh tế phát triển mất cân đối, mất công bằng

trong phân phối, dẫn đến phân hoá giàu, nghèo, tạo ra những nguyên nhân

tiềm ẩn gây bất ổn cho nền kinh tế.... Nhà nước đã sử dụng NSNN là một

trong những công cụ kinh tế cơ bản để tác động vào thị trường. Nhà nước

thông qua việc thực hiện chính sách điều tiết ngân sách, tăng hoặc giảm chi

14

tiêu của NSNN trong từng thời kỳ, trong từng lĩnh vực đã tác động tới nguồn

vốn đưa vào thị trường, tác động tới việc kiềm chế lạm phát, ổn định thị

trường tài chính, tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng sản xuất, tăng trưởng xuất nhập

khẩu, tác động tới quan hệ tích luỹ và tiêu dùng.

Bằng việc quy định đối tượng thu ngân sách, tỷ lệ động viên thu nhập

vào ngân sách, chính sách miễn giảm thu, NSNN góp phần khuyến khích mở

rộng hay thu hẹp quy mô phát triển của từng lĩnh vực, ngành nghề, khu vực

địa lý... tạo lập môi trường thuận lợi để khuyến khích hay hạn chế các nguồn

đầu tư ngoài ngân sách. Ngoài việc NSNN có tác động trực tiếp tới hoạt động

kinh tế của các chủ thể kinh tế, nó còn tạo ra các động lực gián tiếp thông qua

việc tạo lập môi trường đầu tư, thu hút, thúc đẩy luân chuyển các nguồn vốn,

tư liệu sản xuất và lao động là các nhân tố cơ bản của quá trình sản xuất, thúc

đẩy phát triển các ngành nghề, lĩnh vực sản xuất mới theo yêu cầu phát triển

của Nhà nước trong từng thời kỳ. Nhà nước sử dụng chính sách động viên thu

ngân sách một cách linh hoạt hợp với yêu cầu của Nhà nước trong từng giải

đoạn phát triển của nền kinh tế.

Chi NSNN là điều kiện vật chất cơ bản để Nhà nước thực hiện vai trò

của mình đối với nền kinh tế - xã hội. Thông qua chi NSNN để thực hiện vai

trò đảm bảo an ninh, quốc phòng, duy trì hoạt động của bộ máy quản lý hành

chính Nhà nước, thực hiện đảm bảo cung cấp dịch vụ giáo dục đào tạo, y tế,

xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, định hướng hình thành các cơ cấu kinh tế.

Mặt khác chính sách thu, chi ngân sách góp phần vào việc phân phối lại sản

phẩm xã hội từ người có thu nhập cao sang người có thu nhập thấp, thu hẹp

sự phân phối không bình đẳng trong xã hội, thực hiện chức năng bảo trợ xã

hội đối với những người già, trẻ em không nơi nương tựa, người tàn tật...

1.1.2. Những đặc điểm của ngân sách nhà nước

15

Đặc điểm của NSNN được biểu hiện thông qua hoạt động tài chính, đây

vừa là công cụ trọng yếu để Nhà nước điều hành kinh tế vĩ mô có hiệu quả,

vừa là lĩnh vực hoạt động theo các yêu cầu của nền kinh tế, góp phần thực

hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường càng

phát triển, các đặc điểm của NSNN càng thể hiện rõ thông qua vai trò quan

trọng và có mối liên hệ chặt chẽ của NSNN với các hoạt động của nền kinh tế

quốc dân, đặc biệt trong việc quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài

chính để thực hiện các kế hoạch, mục tiêu đã đề ra. Nhìn chung trong nền

kinh tế thị trường, NSNN có một số đặc điểm như sau:

- Thu, chi NSNN gắn chặt với bộ máy Nhà nước và những nhiệm vụ

kinh tế, chính trị, xã hội do Nhà nước đó đảm nhận, do đó quy mô của tổ chức

bộ máy Nhà nước, khối lượng, phạm vi do Nhà nước đảm đương có quan hệ

tỷ lệ thuận với tổng mức thu, chi ngân sách.

- Các khoản thu, chi NSNN mang tính chất không hoàn trả trực tiếp, thế

hiện ở chỗ không phải mọi khoản thu với mức độ và số lượng của những địa

chỉ cụ thể, điều được hoàn lại bằng các khoản chi của NSNN và ngược lại.

Đặc điểm này được quyết định bởi chức năng tổng hợp về kinh tế - xã hội

của Nhà nước, đây cũng là đặc điểm để phân biệt các khoản thu, chi NSNN

với các khoản tín dụng.

- Các khoản thu, chi NSNN được xem xét hiệu quả trên tầm vĩ mô, như

vậy có ý nghĩa hiệu quả thu, chi NSNN phải được xem xét toàn diện dựa vào

mức độ hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội mà kế hoạch, chương trình

phát triển kinh tế - xã hội đã vạch ra trong từng năm hoặc nhiều năm. Do đó,

sử dụng các chỉ tiêu định lượng để đánh giá hiệu quả các khoản chi NSNN

trong một trường hợp cụ thể sẽ gặp khó khăn hoặc đánh giá không toàn diện.

Vì vậy, tất cả nội dung, mức độ, cơ cấu thu, chi của NSNN thường do cơ quan

quyền lực cao nhất của Nhà nước quyết định, như ở Việt Nam đó là Quốc hội.

16

- Các khoản thu, chi NSNN gắn chặt với sự vận động của các phạm trù

giá trị khác như: tiền lương, giá cả, lãi suất và các phạm trù khác thuộc lĩnh

vực tiền tệ.

1.1.3. Cơ chế quản lý ngân sách nhà nước

Cơ chế quản lý NSNN là hệ thống các nguyên tắc, hình thức và phương

pháp quản lý điều hành NSNN trong từng giai đoạn phát triển kinh tế. Cơ chế

quản lý ngân sách trong nền kinh tế trị trường phải xuất phát từ đặc điểm của

nền kinh tế thị trường và vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường.

Mặt khác cơ chế quản lý ngân sách còn phải phù hợp với đặc điểm hoạt động

của NSNN trong nền kinh tế thị trường.

NSNN tác động vào nền kinh tế thị trường thông qua hai phương thức

khác nhau. Thứ nhất NSNN là công cụ quản lý của Nhà nước, Nhà nước

thông qua các chính sách thu, chi cân đối ngân sách để đáp ứng nhu cầu chi

tiêu và tác động điều tiết vĩ mô nền kinh tế, với phương thức này chính sách

ngân sách mang tính chất pháp lý và bắt buộc phải thực hiện. Phương thức

thứ hai xuất phát từ đặc điểm NSNN là một quỹ tiền tệ tập trung lớn của Nhà

nước, NSNN tham gia đầu tư vào thị trường với vai trò là một chủ thể kinh tế

độc lập, bình đẳng với các chủ thể kinh tế khác trong thị trường; trong trường

hợp này, với tư cách một chủ thể kinh tế có tiềm lực lớn, sự tham gia của

NSNN có ý nghĩa định hướng thị trường, làm phong phú thêm hoạt động của

thị trường, tạo thêm tiềm lực cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế theo định

hướng của Nhà nước.

Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước tham gia trực tiếp

vào mọi hoạt động kinh tế, nên NSNN cũng phải đi theo để phục vụ hoạt

động của Nhà nước dẫn đến NSNN bị dàn trải, manh mún, nhỏ bé, đầu tư

không có trọng tâm, trọng điểm, yêu cầu chi luôn quá sức động viên của ngân

sách. Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước hạn chế việc tham gia vào các

17

hoạt động điều hành trực tiếp nền kinh tế, vai trò quản lý điều hành của Nhà

nước là ở tầm vĩ mô, thông qua các công cụ tài chính, ngân sách mà tác động

tới thị trường. Do vậy NSNN cần phải trở thành một nguồn vốn tiền tệ tập

trung đủ mạnh của Nhà nước, tác động tới thị trường, vận động thị trường

phát triển theo định hướng của Nhà nước.

Yêu cầu xây dựng cơ cấu thu, chi NSNN hợp lý trong từng thời kỳ trên

nguyên tắc là đảm bảo chi tiêu dùng thường xuyên nhưng cần phải giành một

tỷ lệ thoả đáng cho chi đầu tư phát triển vì qua đầu tư phát triển sẽ tạo ra động

lực phát triển cho nền kinh tế. Muốn vậy phải xem xét lại cơ cấu chi tiêu

NSNN, kiên quyết cắt giảm những khoản chi mang tính chất bao cấp, những

nội dung chi mà thị trường có thể đảm bảo được thì phải từng bước thị trường

hoá, nhất là các dịch vụ công mà trong cơ chế cũ vẫn do NSNN bao cấp. Ưu

tiên đầu tư cho phát triển con người nhằm thực hiện chiến lược phát triển kinh

tế - xã hội, thực hiện tiết kiệm chi tiêu, chống lãng phí. Trong chi đầu tư phát

triển phải thực hiện nguyên tắc đầu tư tập trung, chống phân tán, dài trải, ưu

tiên cho phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, cho các ngành kinh tế giữ vị

trí trọng yếu, then chốt tạo môi trường kinh tế cho các thành phần kinh tế

khác. Đồng thời chi NSNN phải thể hiện được chính sách xã hội của Nhà

nước trong việc thu hẹp sự bất bình đẳng trong phân phối do cơ chế thị trường

mang lại. Thực hiện chính sách hỗ trợ, trợ cấp đối với người già, trẻ em mồ

côi, gia đình nghèo có khó khăn về kinh tế. Cơ cấu chi ngân sách cũng phải

tính tới sự phát triển cân đối giữa các vùng miền, điều kiện kinh tế xã hội và

địa lý... đảm bảo phát huy được thế mạnh của mọi khu vực, hạn chế sự chênh

lệch về trình độ phát triển giữa các khu vực địa lý trong cả nước.

Trong phân phối chi tiêu NSNN cần ưu tiên chi NSNN cho các nội

dung chi mang tính chất công cộng, có ảnh hưởng sâu rộng đối với nền kinh

tế và số đông dân cư, mang lại hiệu ứng xã hội lớn, có tác động nhân rộng kết

quả của nội dung chi đối với toàn xã hội. Hạn chế bố trí chi tiêu NSNN cho

18

các nội dung chi mang tính chất tiêu dùng cá nhân là những nội dung chi chỉ

phục vụ trực tiếp cho một số hạn chế đối tượng thụ hưởng, đối với những nội

dung chi này nên có cơ chế huy động sự đóng góp của người sử dụng dịch vụ

để tự bù đắp chi phí, giảm nhẹ gánh nặng chi tiêu cho NSNN.

Cân đối NSNN phải trên nguyên tắc tích cực: Nhà nước phải chủ động

trong điều hành cân đối ngân sách, chi tiêu dùng chỉ sắp xếp trong khả năng

thu, không thực hiện bội chi ngân sách cho chi tiêu dùng, chỉ thực hiện bội chi

ngân sách cho chi đầu tư phát triển, khống chế tỷ lệ bội chi ngân sách trong

một khuôn khổ cho phép, tính toán mức bội chi ngân sách không được ảnh

hưởng tiêu cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế, gây lạm phát. Chỉ thực

hiện bội chi ngân sách khi đã có phương án tìm nguồn bù đắp cho bội chi.

Nhà nước không phát hành tiền, thực hiện đi vay để bù đắp bội chi NSNN.

Ngoài ra, cơ chế quản lý điều hành NSNN phải thực hiện được yêu cầu

tiết kiệm, vì thực hiện tiết kiệm sẽ dành được nguồn lực đáng kể của ngân

sách cho đầu tư phát triển. Tiết kiệm ở đây phải thể hiện nay từ khâu lập dự

toán ngân sách, xác định phương án chi tiêu và trong quá trình sử dụng ngân

sách. Để thực hiện tiết kiệm trong sử dụng ngân sách, đòi hỏi Nhà nước phải

ban hành thống nhất các chế độ chi tiêu, hệ thống quy định về các định mức

chi ngân sách, tiêu chuẩn chi ngân sách làm căn cứ xây dựng dự toán, phân bổ

dự toán ngân sách và thực hiện và giám sát, kiểm tra sử dụng ngân sách. Hơn

nữa phải thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý ngân sách, thực

hiện công khai ngân sách ngân sách đối với mọi cấp ngân sách để nhân dân

được tham gia giám sát quá trình sử dụng NSNN.

Tiết kiệm trong sử dụng NSNN phải đi liền với sử dụng đúng mục đích

và hiệu quả. Do vậy bên cạnh việc đánh giá kết quả sử dụng NSNN theo dự

toán, đánh giá việc chấp hành chế độ chi tiêu tài chính trong sử dụng ngân

sách như hiện nay, cần phải nghiên cứu thực hiện cơ chế đánh giá kết quả sử

19

dụng ngân sách theo mục tiêu, theo kết quả mang lại. Hay nói cách khác cần

phải chuyển dần việc đánh giá kết quả sử dụng NSNN còn thiên về các yếu tố

đầu vào như hiện nay sang thực hiện việc đánh giá kết quả sử dụng ngân sách

theo kết quả đầu ra, gắn việc sử dụng ngân sách với kết quả đạt được.

Khác với cơ chế quản lý NSNN trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập

trung, nơi NSNN được coi là nguồn lực cơ bản, duy nhất của Nhà nước để

thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội theo kế hoạch của Nhà nước.

Trong nền kinh tế thị trường, NSNN không còn là nguồn lực duy nhất, mà là

nguồn lực giữ vai trò chủ đạo có vai trò định hướng và hướng dẫn chi tiêu.

NSNN được ưu tiên sử dụng để thực hiện những nhiệm riêng có của Nhà

nước, những công việc mà thị trường không thể thực hiện hoặc không thể

giao cho thị trường thực hiện. Bên cạnh đó cơ chế quản lý NSNN trong nền

kinh tế thị trường cần phải tạo ra môi trường để thu hút, khuyến khích sự

tham gia của các nguồn vốn khác trong thị trường để bổ sung cho nguồn lực

NSNN, do đó Nhà nước cần có chính sách phù hợp để huy động được các

nguồn vốn ngoài NSNN như: nguồn đóng góp từ dân cư, từ các thành phần

kinh tế khác.. để thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội theo định

hướng của Nhà nước. Đây là điểm khác biệt rất cơ bản về cơ chế quản lý

NSNN trong nền kinh tế thị trường với cơ chế quản lý NSNN trong nền kinh

tế kế hoạch hoá tập trung.

1.2. Một số vấn đề cơ bản về quản lý kinh phí ngân sách nhà nƣớc tại các

cơ quan hành chính - sự nghiệp

1.2.1. Cơ quan hành chính - sự nghiệp và vai trò của chúng

Các cơ quan HCSN là một loại hình đơn vị được Nhà nước thành lập

để thực hiện các chức năng quản lý nhà nước hay thực hiện các nhiệm vụ

chuyên môn nhất định nhằm hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà

nước giao.

20

Các cơ quan HCSN thường được thiết lập theo hệ thống dọc từ Trung

ương đến địa phương trong cùng một ngành. Chúng hình thành nên các cấp

dự toán khác nhau, tuỳ theo trách nhiệm trong việc quản lý tài chính. Mọi

khoản chi tiêu của các cơ quan HCSN được bố trí trong kế hoạch và được

duyệt trong dự toán chi tiêu NSNN hàng năm, vì thế nó còn được gọi là đơn

vị dự toán. Luật NSNN quy định các cơ quan HCSN trong cùng một ngành

được phân thành ba cấp đó là: đơn vị dự toán cấp I, đơn vị dự toán cấp II, đơn

vị dự toán cấp III.

Các cơ quan HCSN có số lượng lớn và có vai trò rất quan trọng trong

nền kinh tế - xã hội. Một bộ phận của các cơ quan HCSN là các cơ quan hành

chính, bao gồm các cơ quan trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp,

với tư cách cơ quan thuộc bộ máy quản lý Nhà nước, mang tính công quyền,

là lực lượng chính giúp Nhà nước thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước

từ Trung ương đến địa phương. Bên cạnh đó, các cơ quan HCSN còn bao

gồm các đơn vị thuộc các lĩnh vực hoạt động như giáo dục, đào tạo, thông tin,

nghiên cứu khoa học...Đây là những đơn vị, ngoài việc thực hiện nhiệm vụ

chính trị, nhiệm vụ chuyên môn được giao, còn là nơi sáng tạo ra các sản

phẩm đặc biệt ở dạng vật chất hoặc phi vật chất cung cấp cho xã hội. Có thể

nói các cơ quan HCSN là một phần sức mạnh của Nhà nước và thể hiện sức

mạnh của Nhà nước.

Ngày nay, khi các Nhà nước hiện đại có xu hướng chuyển sang Nhà

nước dịch vụ thì các cơ quan HCSN của Nhà nước chính là mắt khâu tiếp nối

giữa kinh tế thị trường cạnh tranh và quản lý hành chính của Nhà nước, giúp

Nhà nước vừa cung cấp nhiều dịch vụ mà xã hội cần, vừa nâng cao hiệu quả

phục vụ, giảm chi phí từ NSNN. Bởi vì, thông qua các cơ quan HCSN được

tổ chức hạch toán giống mô hình doanh nghiệp, Nhà nước có thể buộc các

công chức nâng cao hiệu quả công tác của mình theo hướng cung cấp dịch vụ

21

gì mà xã hội cần, theo chi phí cạnh tranh mà xã hội chịu được và coi người

được phục vụ là khách hàng chứ không phải đối tượng bị quản lý.

Các cơ quan HCSN của Nhà nước còn là nơi Nhà nước thể hiện nghĩa

vụ cung cấp phúc lợi ngày càng cao và theo hướng công bằng hơn cho xã hội.

Mỗi hệ thống các cơ quan HCSN của Nhà nước cung cấp một loại dịch vụ

nằm trong tổng phúc lợi xã hội mà Nhà nước có nghĩa vụ phải cung cấp ngày

càng nhiều hơn, chất lượng ngày càng cao hơn. Hệ thống các cơ quan HCSN

ngày càng phát triển càng chứng tỏ Nhà nước có khả năng cung cấp nhiều loại

hình dịch vụ phúc lợi chung cho xã hội. Tuy nhiên, dù Nhà nước có vững

mạnh đến đâu thì NSNN cũng có hạn, do đó cung cấp nhiều dịch vụ hơn đồng

nghĩa với sử dụng NSNN hiệu quả hơn. Nói cách khác, cung cách hoạt động

của hệ thống các cơ quan HCSN của Nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến hiệu

lực, hiệu quả, uy tín của Nhà nước. Chính vì thế cải cách hoạt động của các

cơ quan HCSN của Nhà nước luôn đồng hành cùng cải cách hành chính Nhà

nước.

1.2.2. Sự cần thiết phải quản lý kinh phí ngân sách nhà nước tại các

cơ quan hành chính - sự nghiệp

Sự cần thiết quản lý các nguồn kinh phí, trong đó có kinh phí NSNN tại

các cơ quan HCSN có thể được xem xét dưới nhiều khía cạnh: kinh tế, văn

hóa, tinh thần.... Song ở đây chỉ đề cập đến kinh phí NSNN trên khía cạnh

kinh tế, về mặt kinh tế, sự cần thiết được thể hiện:

Thứ nhất, tại tất cả các cơ quan, đơn vị, nguồn lực tài chính chính là

nền tảng, là tiềm lực phát triển, là cơ sở để tăng cường cơ sở vật chất và góp

phần quan trọng để cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người lao

động...Tại các cơ quan HCSN, nguồn kinh phí NSNN luôn giữ tỉ trọng lớn

nhất và là nguồn lực tài chính chủ yếu để tăng cường cơ sở vật chất, thực hiện

22

nhiệm vụ chuyên môn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, công

chức trong đơn vị.

Thứ hai, kinh phí NSNN là điều kiện không thể thiếu để các cơ quan

HCSN thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Vì nó đảm bảo cho các cơ

quan HCSN có một số tài sản tối thiểu để phục vụ nhiệm vụ chuyên môn như:

trụ sở làm việc, phương tiện máy móc, thiết bị, đây chính là các phương tiện,

cơ sở vật chất để các cơ quan HCSN cũng như các cán bộ, công chức, người

lao động của các cơ quan HCSN có thể hoạt động được; kinh phí NSNN cũng

là nguồn kinh phí chủ yếu để đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên của

các đơn vị...

Thứ ba, hiệu quả hoạt động của các cơ quan HCSN, ngoài yếu tố quyết

định là con người như các cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan

HCSN, thì các yếu tố như tài sản, thiết bị, kinh phí đảm bảo hoạt động là điều

kiện quan trọng để duy trì và nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan cũng

như hiệu quả công tác của mỗi cán bộ, công chức, viên chức. Trong các cơ

quan HCSN, nguồn kinh phí để đảm bảo các yếu tố này phải dựa chủ yếu vào

nguồn kinh phí NSNN. Do đó kinh phí NSNN là nhân tố góp phần bảo đảm

và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan HCSN cũng như các cán bộ,

công chức, viên chức trong các cơ quan HCSN.

1.2.3. Nội dung quản lý kinh phí ngân sách nhà nước tại các cơ quan

hành chính - sự nghiệp

1.2.3.1. Công tác hướng dẫn, cụ thể hóa các chế độ, chính sách, tiêu

chuẩn định mức theo quy định của Nhà nước

Đây là nội dung quan trọng làm nền tảng cho công tác quản lý và sử

dụng kinh phí tại các đơn vị, Nhà nước ban hành các chế độ, chính sách, tiêu

chuẩn, định mức theo quy định. Các cơ quan HCSN, đặc biệt là các đơn vị dự

toán cấp I có trách nhiệm chủ động nghiên cứu, tiếp tục hướng dẫn, cụ thể hóa

23

trong từng ngành, lĩnh vực, đảm bảo theo quy định của Nhà nước, phù hợp

với đặc điểm, đặc thù của mỗi ngành mỗi lĩnh vực cụ thể làm căn cứ để các

đơn vị trực thuộc triển khai thực hiện.

1.2.3.2. Tổ chức bộ máy thực hiện nhiệm vụ quản lý kinh phí ngân sách

nhà nước

Đây là việc tổ chức một hệ thống bộ máy quản lý kinh phí NSNN tại

các cơ quan HCSN trực tiếp sử dụng kinh phí, tại các đơn vị quản lý các cấp

để thực hiện nhiệm vụ quản lý, kiểm tra, giám sát các nội dung chi kinh phí

NSNN nhằm mục tiêu đảm bảo cho công tác quản lý và sử dụng kinh phí

NSNN tại các cơ quan HCSN được thực hiện có hiệu quả nhất. Việc tổ chức

bộ máy thực hiện nhiệm vụ quản lý kinh phí NSNN phải đảm bảo các nguyên

tắc:

- Tổ chức bộ máy từ Trung ương đến các cơ quan HCSN trực tiếp sử

dụng kinh phí NSNN phải gọn nhẹ theo hướng thu gọn các đầu mối cơ quan

quản lý và đơn giản hoá thủ tục hành chính.

- Phân định và phân cấp cụ thể giữa các cơ quan trong quá trình quản

lý chi kinh phí NSNN đảm bảo quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm, công

khai, thuận lợi cho kiểm tra, giám sát.

- Tổ chức bộ máy quản lý kinh phí NSNN phải phù hợp với chức năng,

nhiệm vụ của mỗi đơn vị, phù hợp với việc ứng dụng các thành tựu khoa học

trong quản lý như công nghệ thông tin... và phù hợp với sự tình hình kinh tế -

xã hội của đất nước trong từng giai đoạn.

1.2.3.3.Công tác xây dựng, phân bổ; thẩm định và phê duyệt dự toán

kinh phí ngân sách nhà nước

Công tác xây dựng, phân bổ; thẩm định và phê duyệt dự toán kinh phí

NSNN có ý nghĩa rất quan trọng đến chất lượng và hiệu quả của các khâu

chấp hành và quyết toán chi kinh phí NSNN. Dự toán chi kinh phí NSNN

24

được xây dựng, phân bổ, thẩm định và phê duyệt trên cơ sở khoa học và thực

tế sẽ có tác dụng quan trọng trong quản lý chặt chẽ, có hiệu quả các khoản chi

kinh phí NSNN.

Công tác xây dựng, phân bổ; thẩm định và phê duyệt dự toán chi kinh

phí NSNN của các cơ quan HCSN phải dựa trên các căn cứ như: kết quả phân

tích dự báo kinh tế của các cơ quan chức năng; mục tiêu, kế hoạch phát triển

kinh tế - xã hội, tài chính quốc gia trong từng giai đoạn và từng thời điểm cụ

thể...; kết quả đánh giá việc chấp hành kinh phí NSNN của các năm trước và

các nội dung, nhiệm vụ, chương trình công tác năm kế hoạch....

Yêu cầu của công tác xây dựng, phân bổ; thẩm định và phê duyệt dự

toán chi kinh phí NSNN là phải đảm bảo đáp ứng theo hệ thống chế độ, chính

sách và tiêu chuẩn, định mức hiện hành, phù hợp với thực tiễn, đặc điểm, đặc

thù của từng đơn vị; theo đúng trình tự và thời gian quy định; nội dung, chi

tiết dự toán phải đảm bảo phù hợp với hệ thống mục lục ngân sách hiện hành.

Bên cạnh đó dự toán kinh phí NSNN của các cơ quan HCSN phải đảm bảo

phù hợp với thực tiễn, đặc điểm, đặc thù của từng đơn vị và bám sát với nhu

cầu chi tiêu của đơn vị theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Trong giai đoạn

hiện nay, dự toán kinh phí NSNN của các cơ quan HCSN còn phải đảm bảo

đáp ứng các mục tiêu, yêu cầu: tăng cường cơ sở vật chất phục vụ nhiệm vụ

chuyên môn của cơ quan HCSN, phục vụ chiến lược hiện đại hóa và yêu cầu

cải cách hành chính Nhà nước.

1.2.3.4. Công tác chấp hành dự toán kinh phí ngân sách nhà nước

Sau khi dự toán kinh phí NSNN của cơ quan HCSN được cấp có thẩm

quyền phê duyệt, phân bổ và giao dự toán thì quá trình chấp hành ngân sách

tại các đơn vị được triển khai thực hiện. Nội dung của quá trình này là việc bố

trí kinh phí đáp ứng kịp thời các nhu cầu chi của từng đơn vị thụ hưởng

NSNN theo dự toán đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đồng thời cơ quan

25

quản lý các cấp có trách nhiệm kiểm soát mọi khoản chi kinh phí NSNN đảm

bảo đúng dự toán, đúng chế độ, định mức theo quy định hiện hành. Thực chất

của quá trình chấp hành dự toán kinh phí NSNN chính là quá trình tổ chức

triển khai các nội dung chi kinh phí đảm bảo tiết kiệm và có hiệu quả, đúng

chế độ quy định và đơn giản hoá thủ tục hành chính. Để đạt mục tiêu trên,

công tác chấp hành dự toán kinh phí NSNN phải đảm bảo một số nguyên tắc:

- Quy định cụ thể trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan HCSN với trách

nhiệm của các cơ quan quản lý như: cơ quan tài chính, đơn vị dự toán cấp

trên, Kho bạc Nhà nước.

- NSNN phải đáp ứng đầy đủ, kịp thời các nhu cầu chi của các cơ quan

HCSN thụ hưởng kinh phí NSNN theo đúng dự toán đã được cấp có thẩm

quyền phê duyệt.

- Mọi khoản chi NSNN phải được Kho bạc Nhà nước thực hiện kiểm

soát trước khi chi trả. Kho bạc Nhà nước nơi đơn vị mở tài khoản sẽ thanh

toán cho các nhà cung cấp sản phẩm, hàng hoá, các loại dịch vụ và tiền lương

của từng cán bộ, công chức, viên chức của đơn vị bằng chuyển khoản.

Các cơ quan HCSN có trách nhiệm tổ chức ghi chép, phản ánh, hạch

toán chính xác, kịp thời, đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, các nội dung

chi kinh phí NSNN theo đúng quy định của chế độ kế toán.

1.2.3.5. Công tác quyết toán chi kinh phí ngân sách nhà nước

Quyết toán chi kinh phí NSNN tại các cơ quan HCSN bao gồm các

công việc tổng hợp, phân tích, đánh giá các nội dung, nhiệm vụ chi kinh phí

NSNN đã được thực hiện trong niên độ ngân sách và phải được cơ quan quản

lý các cấp phê duyệt theo đúng quy định. Công tác quyết toán chi ngân sách

nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc:

26

- Phản ánh trung thực, đầy đủ, chính xác, kịp thời toàn bộ các nội dung

chi kinh phí NSNN trong niên độ ngân sách theo đúng mẫu biểu báo cáo, tài

khoản, mục lục NSNN theo quy định.

- Theo đúng trình tự thủ tục và thời gian quy định tại mỗi đơn vị dự

toán, mỗi cơ quan HCSN.

- Phải được kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ tại tất cả các khâu, các giai

đoạn, các đơn vị trước khi tổng hợp, thẩm định, phê duyệt báo cáo quyết toán

của mỗi cơ quan HCSN, mỗi cấp, mỗi đơn vị dự toán.

1.2.3.6. Kiểm tra, tự kiểm tra quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách

nhà nước

Công tác kiểm tra, tự kiểm tra không chỉ có tác dụng đối với mỗi đơn vị

cụ thể mà còn rút ra được những bài học, những kết luận phục vụ cho công

tác quản lý, chỉ đạo của các cơ quan quản lý cấp trên. Qua kiểm tra, tự kiểm

tra để đánh giá tình hình thực hiện các chủ trương, chính sách, uốn nắn sai

lệch trong quá trình thực hiện và đề xuất chủ trương, biện pháp mới. Bên cạnh

đó qua hoạt động kiểm tra, tự kiểm tra sẽ giúp rà soát lại tính đúng đắn, tính

khả thi của chính sách, quy định hiện hành để có các kiến nghị với các cơ

quan chức năng không ngừng hoàn thiện. Đây là khâu cuối cùng trong các nội

dung quản lý và sử dụng kinh phí của mỗi đơn vị.

1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý kinh phí ngân sách nhà

nước tại các cơ quan hành chính - sự nghiệp

Nguồn lực là hữu hạn, trong khi đó nhu cầu thường rất lớn. Do đó, việc

quản lý và sử dụng kinh phí NSNN trong lĩnh vực HCSN đạt được hiệu quả

cao nhất khi biết phát huy, tận dụng tối đa những nhân tố ảnh hưởng tích cực

và hạn chế đến mức độ tối thiểu các nhân tố ảnh hưởng tiêu cực. Một số nhân

tố ảnh hưởng chủ yếu như sau:

27

1.2.4.1. Quan điểm và hệ thống giải pháp chiến lược của Đảng và

Nhà nước về lĩnh vực HCSN

Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng Nhà nước XHCN của nhân

dân, do nhân dân và vì nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân

dân. Việc thực thi các giải pháp chiến lược của Đảng và Nhà nước đối với

lĩnh vực HCSN có tác động quan trọng đến quản lý kinh phí NSNN trong lĩnh

vực HCSN, những giải pháp này sẽ cho phép sử dụng nguồn lực tài chính một

cách hiệu quả.

1.2.4.2. Quan điểm về dịch vụ công

Xét trên giác độ kinh tế học, dịch vụ công là các hoạt động cung ứng

cho xã hội những hàng hoá công cộng, đây là những hàng hoá và dịch vụ

được Nhà nước cung cấp vì lợi ích của tất cả hay đa số nhân dân. Trước đây,

người ta ít chú ý đến khía cạnh phục vụ của bộ máy Nhà nước mà thường

nhấn mạnh tính quyền lực của Nhà nước trong việc ban hành những mệnh

lệnh nhằm duy trì xã hội theo mong muốn của những người cầm quyền. Hiện

nay, vai trò của Nhà nước có sự chuyển hướng dần sang phục vụ nhân dân là

chính, nhân dân trở thành khách hàng của bộ máy hành chính Nhà nước. Do

đó, có những khoản chi của lĩnh vực HCSN nhằm tạo ra phúc lợi xã hội phục

vụ nhân dân.

1.2.4.3. Số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức

Đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước ta hiện nay là một lực lượng khá

đông đảo, đang tích cực đóng góp sức mình vào hoạt động của các cơ quan

HCSN. Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử của đất nước, đội ngũ cán bộ, công

chức được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, năng lực và trình độ chuyên

môn nghiệp vụ không đồng đều. Hiện tượng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ trong

các cơ quan Nhà nước không chỉ phổ biến ở thời kỳ nền kinh tế bao cấp mà

ngay cả trong cơ chế thị trường hiện nay, chúng ta còn thiếu những cán bộ

28

giỏi và chuyên gia đầu ngành. Còn nhiều cán bộ, công chức hình thành và

phát triển từ cơ chế cũ, vì vậy, những thói quen trong cơ chế cũ đã hằn sâu

trong tiềm thức không chỉ cán bộ, công chức nói chung mà cả trong đội ngũ

cán bộ lãnh đạo. Tâm lý xin phép và hành động theo mệnh lệnh của cán bộ

công chức đã làm cho nhiều cấp hành chính bị động, lúng túng trước những

vấn đề phát sinh trong cuộc sống hàng ngày, làm hạn chế sự năng động sáng

tạo của cán bộ công chức, một điều hết sức cần thiết trong cơ chế thị trường.

Nếu không sớm khắc phục tình trạng này thì hiệu quả quản lý kinh phí NSNN

trong lĩnh vực HCSN khó có thể đạt hiệu quả cao.

1.2.4.4. Chính sách tiền lương cán bộ công chức

Chính sách này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của những

người hưởng lương mà còn ảnh hưởng đến sản xuất, quan hệ tích luỹ với tiêu

dùng, quan hệ giữa các tầng lớp lao động, giữa các ngành nghề, các khu vực

khác nhau, đến năng suất và hiệu quả lao động của các bộ công chức. Chính

sách tiền lương cũng liên quan trực tiếp đến việc tuyển dụng và sử dụng cán

bộ công chức có chất lượng cao. Nếu chính sách tiền lương không tạo thành

động lực của cán bộ công chức thì hiệu quả hoạt động của các cơ quan HCSN

sẽ thấp và khó có thể đáp ứng được yêu cầu và những thách thức trong quá

trình hội nhập khu vực và quốc tế.

1.2.4.5. Tổ chức bộ máy quản lý hành chính nhà nước và việc phân

định chức năng nhiệm vụ của các cơ quan trong bộ máy quản lý hành chính

nhà nước

Tuy đã có nhiều thay đổi tích cực theo hướng tinh giản, gọn nhẹ song

bộ máy này vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc. Hệ thống thể chế hành chính

chưa đồng bộ, còn chồng chéo và thiếu thống nhất. Chức năng, nhiệm vụ

quản lý Nhà nước của bộ máy hành chính chưa được xác định thật rõ và phù

hợp, sự phân công giữa các ngành, các cấp chưa thật rành mạch. Thực chất,

29

cải cách hành chính Nhà nước là thay đổi phương thức hoạt động quản lý Nhà

nước nhằm thích ứng với môi trường và đem lại hiệu quả cao hơn, tuy nhiên,

đây là vấn đề phức tạp vì sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của một số cán bộ công

chức. Sự tác động của cải cách hành chính đến đội ngũ cán bộ công chức khá

toàn diện: từ nhận thức, tư duy đến hành động; từ quy trình, phương pháp đến

kết quả cuối cùng; từ lợi ích cá nhân, lợi ích công đến lợi ích chung, lợi ích xã

hội... Cải cách hành chính sẽ tạo ra sự thay đổi lớn trong tổ chức, hoạt động

của các cơ quan HCSN, những tác động tích cực của công cuộc cải cách hành

chính sẽ ảnh hưởng đáng kể đối với hiệu quả quản lý và sử dụng kinh phí

NSNN của lĩnh vực HCSN.

1.2.5. Hiệu quả quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước tại

các cơ quan hành chính - sự nghiệp

Hiệu quả thường được xem xét, đánh giá trên cơ sở chi phí bỏ ra và

kết quả đạt được, chi phí càng nhỏ nhưng kết quả càng lớn thì hiệu quả của

chi phí đó càng cao. Hiệu quả quản lý và sử dụng kinh phí NSNN trong lĩnh

vực HCSN luôn gắn liền và có tác dụng thúc đẩy năng suất, hiệu quả hoạt

động của các cơ quan HCSN, do vậy cần phải được xem xét dưới hai tiêu chí:

Thứ nhất, chi phí quản lý so với kết quả đạt được phải ở mức thấp

nhất: chi phí quản lý thấp nhất không có nghĩa là giảm thiểu tất cả các loại chi

phí, mà cần được hiểu là phải quản lý chặt chẽ các khoản chi tiêu trong các cơ

quan HCSN, phòng ngừa và xử lý nghiêm khắc đối với những hành vi tham ô,

lãng phí, thất thoát kinh phí...; có chế độ, định mức chi tiêu và cơ chế quản lý

rõ ràng minh bạch; có cơ chế giám sát quản lý sát sao, gắn trách nhiệm của

người đứng đầu cơ quan với việc quản lý và sử dụng kinh phí tại mỗi cơ quan,

đơn vị.

Trong đó cần phải quan tâm, đánh giá đúng mức đến các yếu tố mang

tính tổng quan, dài hạn, vì: một số nội dung có thể lượng hóa được, nhưng

30

một số nội dung khó có thể lượng hóa, như: có thể lượng hóa được số lượng

các văn bản pháp quy được ban hành hàng năm, nhưng rất khó lượng hóa

được đầy đủ về tác động của những văn bản pháp quy đó đến các lĩnh vực của

nền kinh tế - xã hội; hoặc chi phí tiền lương cao cho một số lĩnh vực, một số

người tài để thu hút những cán bộ, công chức giỏi có điều kiện cống hiến lâu

dài cho đất nước có thể không thấy được hiệu quả trong thời gian ngắn, nhưng

sẽ thấy được hiệu quả rõ rệt trong dài hạn.

Thứ hai, năng suất, hiệu quả hoạt động của các cơ quan HCSN đạt

được ở mức cao nhất: được thể hiện qua một số mặt như: đổi mới tổ chức bộ

máy, đổi mới thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ hành chính có chất lượng;

giảm được công sức, tiền bạc của nhân dân; giảm tỷ lệ phạm tội hoặc các tệ

nạn xã hội; các cơ chế, chính sách của Nhà nước có tác động tích cực đến mọi

lĩnh vực của đất nước; tạo môi trường lành mạnh và tạo sự phát triển toàn

diện trên tất cả các lĩnh vực.

Kết quả này phụ thuộc rất nhiều đội ngũ cán bộ công chức, như: số

lượng, chất lượng cán bộ, mức độ nhiệt tình với công việc, động cơ làm việc...

Tuy nhiên, điều này liên quan trực tiếp đến công tác đào tạo, tuyển dụng cán

bộ công chức; cơ chế, chính sách tiền lương, thu nhập để có thể đảm bảo cuộc

sống của bản thân và gia đình; cơ chế thưởng, phạt công minh, kịp thời; phân

công trách nhiệm rõ ràng; trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ công tác

chuyên môn.

1.3. Kinh nghiệm của một số nƣớc và bài học vận dụng cho Việt Nam

1.3.1. Tình hình quản lý chi kinh phí ngân sách nhà nước ở một số

nước

1.3.1.1. Tình hình quản lý chi kinh phí ngân sách nhà nước ở Hàn

Quốc

- Xây dựng dự toán và phê duyệt dự toán ngân sách của các Bộ:

31

+ Cuối tháng 2 năm trước, các Bộ lập dự toán NSNN gửi Bộ Kế hoạch

Ngân sách, dự toán phải kế hoạch được các nhu cầu chi của năm kế hoạch.

+ Cuối tháng 3 năm trước, Bộ Kế hoạch và Ngân sách gửi hướng dẫn

lập dự toán ngân sách cho các Bộ, tài liệu hướng dẫn ngân sách gồm những

chỉ tiêu: dự báo nền kinh tế trong nước; dự kiến tổng số tăng chi của Chính

phủ, những mục tiêu cần ưu tiên phân bổ ngân sách...

+ Cuối tháng 5 năm trước, các Bộ hoàn chỉnh dự toán ngân sách gửi

cho Bộ Kế hoạch và Ngân sách. Dự toán ngân sách phải tuân thủ hướng dẫn

ngân sách của Bộ Kế hoạch và Ngân sách, đây là khâu quan trọng nhất và là

cơ sở để thực hiện khi dự toán ngân sách được Quốc hội phê chuẩn

+ Từ tháng 6 đến tháng 8 năm trước, Bộ Kế hoạch và Ngân sách xem

xét dự toán ngân sách của các Bộ, sau đó sẽ tiến hành thảo luận với các Bộ để

hoàn chỉnh dự toán. Dự toán ngân sách của các Bộ sẽ được Bộ Kế hoạch và

Ngân sách trình Chính phủ, Tổng thống xem xét thông qua trong tháng 9 và

gửi sang Quốc hội.

+ Trong tháng 10 năm trước, Ủy ban Ngân sách và Kế toán của Quốc

hội sẽ thảo luận, chất vấn Chính phủ, trực tiếp thảo luận với các Bộ; sau đó

Ủy ban Ngân sách và Kế toán báo cáo Quốc hội trong tháng 11 để Quốc hội

thảo luận, bỏ phiếu thông qua và phê chuẩn dự toán ngân sách của các Bộ vào

ngày 2/12 năm trước.

- Chấp hành dự toán ngân sách của các Bộ:

+ Sau khi Quốc hội phê chuẩn dự toán ngân sách, các Bộ phân bổ dự

toán năm theo từng quý gửi Bộ Kế hoạch và Ngân sách để tổng hợp gửi

Chính phủ và Tổng thống phê duyệt. Trên cơ sở đó Bộ Kế hoạch và Ngân

sách ban hành hướng dẫn thực hiện ngân sách của các Bộ, trong hướng dẫn có

quy định chi tiết định mức, tiêu chuẩn các Bộ ngành phải tuân thủ và mỗi Bộ

đều có kế hoạch ngân sách năm được chia theo 4 quý. Năm ngân sách được

tính theo năm dương lịch.

32

+ Việc chấp hành ngân sách của các Bộ luôn tuân thủ theo dự toán năm

đã được Quốc hội quyết định, kế hoạch quý đã được tổng thống phê duyệt và

các định mức, tiêu chuẩn theo quy định. Việc điều chỉnh dự toán giữa các nội

dung, hạng mục ngân sách vẫn được cho phép ở một chừng mực nhất định để

đảm bảo tính linh hoạt; Việc điều chỉnh chỉ được cho phép trong những

trường hợp đã được quy định trong quy định chung của Luật ngân sách, hoặc

khi có sự phê chuẩn của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Ngân sách, trong một số

trường hợp, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Ngân sách có thể uỷ nhiệm cho Bộ

trưởng các Bộ quyết định. Việc bổ sung dự toán ngân sách ngoài dự toán

được phê duyệt, Bộ Tài chính được quyết định trong phạm vi nhất định,

trường hợp vượt giới hạn phải trình Quốc hội quyết định.

+ Trường hợp Quốc hội chưa phê duyệt được dự toán ngân sách khi

năm tài khoá đã bắt đầu thì trong quý 1, các Bộ được giữ nguyên mức chi

kinh phí thường xuyên như năm trước.

- Công tác quyết toán, kiểm toán ngân sách các Bộ:

+ Tại mỗi Bộ có một Vụ Kiểm toán nội bộ để kiểm toán thực hiện ngân

sách năm của Bộ mình trong quá trình thực hiện và trước khi lập, gửi báo cáo

quyết toán ngân sách năm.

+ Trong 2 tháng đầu năm sau, các Bộ phải hoàn thành báo cáo quyết

toán ngân sách năm bao gồm các nội dung chi trong năm, đến cuối tháng 2

năm sau sẽ gửi báo cáo quyết toán ngân sách năm (kèm theo các thuyết minh,

giải trình) cho Bộ Tài chính Kinh tế, Cục Kiểm toán và Thanh tra.

+ Cục Kiểm toán và Thanh tra là cơ quan thuộc Chính phủ để thực hiện

nhiệm vụ kiểm tra quyết toán của các Bộ, việc kiểm tra được thực hiện trong

vòng 6 tháng, đảm bảo đến 20/8 sẽ có ý kiến chính thức về báo cáo quyết toán

của mỗi Bộ để gửi Bộ Tài chính và Kinh tế, Bộ Tài chính và Kinh tế sẽ tổng

hợp quyết toán các Bộ, ngành trình Chính phủ để trình Quốc hội phê chuẩn

vào ngày 20/9.

33

1.3.1.2. Tình hình quản lý chi kinh phí ngân sách nhà nước ở Trung

Quốc

- Xây dựng dự toán và phê duyệt toán ngân sách của các Bộ:

+ Vào tháng 6 năm trước, Bộ Tài chính ban hành hướng dẫn lập dự

toán ngân sách, tài liệu hướng dẫn ngân sách gồm những chỉ tiêu: dự báo nền

kinh tế; dự kiến tổng số tăng chi của Chính phủ, những mục tiêu cần ưu tiên

phân bổ ngân sách...và gửi cho các Bộ. Sau đó các Bộ lập dự toán ngân sách

theo hướng dẫn lập dự toán ngân sách của Bộ Tài chính và các chế độ, định

mức quy định để gửi cho Bộ Tài chính.

+ Khoảng tháng 9 - 10 năm trước, sau khi Bộ Tài chính nhận được dự

toán của các Bộ, sẽ tiến hành xem xét và yêu cầu các Bộ lập lại dự toán trên

cơ sở cắt giảm một số nội dung chi theo khả năng cân đối của ngân sách. Sau

đó các Bộ điều chỉnh dự toán ngân sách của Bộ mình và gửi dự toán cho Bộ

Tài chính (dự toán lần 2) trước ngày 15/12 hàng năm. Bộ Tài chính không

thảo luận dự toán trực tiếp với các Bộ

+ Dự toán ngân sách của các Bộ sẽ được Bộ Tài chính tổng hợp để

trình Chính phủ cho ý kiến, sau đó trình Quốc hội thảo luận và phê chuẩn dự

toán. Trong vòng 1 tháng sau đó, Bộ Tài chính giao dự toán chính thức cho

các Bộ.

- Chấp hành dự toán ngân sách của các Bộ:

+ Sau khi được Bộ Tài chính giao dự toán chính thức, các Bộ tiếp tục

phân bổ, giao dự toán cho các đơn vị cấp dưới, đồng thời gửi báo cáo Bộ Tài

chính để lưu hồ sơ. Bộ Tài chính không thẩm định dự toán phân bổ chi tiết

của các Bộ.

+ Việc chấp hành ngân sách của các Bộ luôn tuân thủ theo dự toán năm

đã được Quốc hội quyết định và các định mức, tiêu chuẩn theo quy định. Năm

ngân sách được tính theo năm dương lịch.

34

+ Việc điều chỉnh dự toán ngân sách được thực hiện khi xảy ra các yếu

tố không dự kiến được như thay đổi chính sách, thiên tai... Các Bộ phải đề

nghị Bộ Tài chính điều chỉnh dự toán, Bộ Tài chính sẽ xem xét và nếu không

đầy đủ lý do hoặc lý do không chính đáng sẽ không phê duyệt điều chỉnh dự

toán.

+ Trường hợp Quốc hội chưa phê duyệt được dự toán ngân sách, trong

thời gian quý 1 hàng năm, các Bộ được tạm ứng chi thường xuyên theo số

quyết toán năm trước.

1.3.1.3. Tình hình quản lý chi kinh phí ngân sách nhà nước ở Cộng hòa

Liên Bang Đức

- Xây dựng dự toán và phê duyệt dự toán ngân sách của các Bộ:

+ Công tác xây dựng dự toán ngân sách của các Bộ được kéo dài hơn 1

năm: bắt đầu từ tháng 12 của năm trước nữa, Bộ Tài chính có hướng dẫn lập

dự toán ngân sách, trong đó có hướng dẫn cụ thể về cơ sở tính toán các nội

dung chi, nguyên tắc mua sắm, định mức trang bị tài sản... Tại Đức, các chế

độ, định mức chi tiêu đều được quy định cụ thể cho từng đối tượng sử dụng.

Các Bộ căn cứ nhiệm vụ được giao, cơ sở tính toán các nội dung chi để xây

dựng, tổng hợp dự toán ngân sách của Bộ và gửi cho Bộ Tài chính vào tháng

3 năm trước.

+ Trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 6 năm trước là quá trình đàm

phán dự toán ngân sách giữa Bộ Tài chính và các Bộ: trong dự toán ngân sách

hàng năm của các Bộ đã có khoảng 90% số kinh phí đã có các nội dung bắt

buộc phải chi trong năm dự toán, như: chi nhân sự, công trình xây dựng dở

dang..., các nội dung này không phải đàm phán, các Bộ chỉ căn cứ vào các kế

hoạch để đưa vào dự toán ngân sách hàng năm của Bộ mình. Việc đàm phán

tiến hành qua nhiều vòng khác nhau từ chuyên viên đến cấp Bộ trưởng và chỉ

đàm phán, thảo luận về về khoảng 10% kinh phí còn lại.

35

+ Trong tháng 6 năm trước, trên cơ sở kết quả đàm phán, Bộ Tài chính

tổng hợp dự toán của các Bộ để trình Chính phủ, sau đó Chính phủ họp để để

thống nhất dự toán ngân sách của từng Bộ.

+ Từ tháng 8 đến tháng 12 năm trước: dự toán ngân sách được Quốc

hội thảo luận qua 3 lần:

Lần thứ nhất, Bộ Tài chính trình bày những vấn đề chính về dự toán

ngân sách của Chính phủ trước Quốc hội, các đại biểu Quốc hội sẽ thảo luận;

sau đó dự toán ngân sách được chuyển qua Ủy ban Ngân sách của Quốc hội

và Ủy ban Ngân sách sẽ chủ trì cùng các ủy ban khác của Quốc hội thảo luận

từng vấn đề trong dự toán ngân sách.

Lần thứ hai, Ủy ban Ngân sách tổng hợp ý kiến và trình bày trước Quốc

hội, Quốc hội sẽ thảo luận những vấn đề được các Ủy ban của Quốc hội đưa

ra và sau đó thông qua dự toán ngân sách của từng Bộ.

Lần thứ ba, Quốc hội tiếp tục thảo luận những vấn đề còn chưa thống

nhất, sau khi giải quyết được các vấn đề cần được sửa đổi, Quốc hội sẽ biểu

quyết ngân sách của từng Bộ và tổng dự toán ngân sách bằng một đạo luật

ngân sách năm.

- Chấp hành dự toán ngân sách của các Bộ:

+ Việc chấp hành dự toán ngân sách của các Bộ được thực hiện từ đầu

năm sau khi được Quốc hội biểu quyết thông qua, về nguyên tắc chấp hành

ngân sách phải trên cơ sở dự toán ngân sách đã được Quốc hội quyết định, các

Bộ chịu trách nhiệm đảm bảo sử dụng kinh phí có hiệu quả. Năm ngân sách

được tính theo năm dương lịch.

+ Nếu có sự thay đổi nội dung, mục chi trong dự toán ngân sách đã

được phê duyệt: trước khi thực hiện Bộ chủ quản phải giải trình với Bộ Tài

chính về việc cắt giảm các mục chi này để bổ sung cho mục chi khác nhưng

không được làm ảnh hưởng tới nhiệm vụ chi bị cắt giảm kinh phí và phải

được sự đồng ý của Bộ Tài chính trước khi thực hiện.

36

+ Đối với các khoản chi ngoài dự toán, chỉ được thực hiện với các nội

dung không lường trước được như thiên tai, dịch bệnh... các Bộ phải báo cáo

Bộ Tài chính và căn cứ theo quy định Bộ Tài chính có thể bổ sung dự toán

(đối với khoản chi từ 5 triệu euro trở xuống), hoặc báo cáo Quốc hội quyết

định.

+ Trường hợp Quốc hội chưa phê duyệt được dự toán ngân sách khi

năm tài khoá đã bắt đầu thì đối với các khoản chi tiêu thường xuyên của 1

tháng được tạm chi bằng mức 1/12 của mức chi thường xuyên năm trước; đối

với các trường hợp khác thì Bộ chủ quản phải giải trình với Bộ Tài chính để

xem xét cụ thể từng trường hợp.

- Công tác quyết toán, kiểm toán ngân sách các Bộ:

+ Các Bộ thực hiện quyết toán toàn bộ các khoản chi trong năm, theo

quy định sau ngày 27/12 các đơn vị không được phép chi. Trong 1 tháng đầu

năm sau, các Bộ phải hoàn thành báo cáo quyết toán ngân sách năm, sau đó

gửi cho Bộ Tài chính để tổng hợp trình Quốc hội vào thời điểm 30/6 năm sau,

Bộ Tài chính không duyệt hoặc thẩm định số chi ngân sách của các Bộ.

+ Kiểm toán Nhà nước Liên bang (Cơ quan độc lập với Chính phủ và

Quốc hội) sẽ tiến hành kiểm toán quyết toán ngân sách các Bộ. Đến khoảng

giữa năm sau nữa, báo cáo kiểm toán được chuyển cho Quốc hội và kiểm toán

có trách nhiệm giải trình với Quốc hội về quyết toán ngân sách của các Bộ,

sau đó Ủy bản đặc biệt của Quốc hội tiếp tục thảo luận và phải đến tháng 8

hoặc tháng 9 năm sau nữa thì Ủy ban đặc biệt mới hoàn thành báo cáo quyết

toán ngân sách, khoảng tháng 10 năm sau nữa Quốc hội mới thông qua quyết

toán ngân sách của các Bộ, như vậy thời gian quyết toán kéo dài khoảng 20

tháng sau khi năm ngân sách kết thúc.

1.3.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam

37

Từ kinh nghiệm quản lý và sử dụng kinh phí NSNN của một số nước

như: Hàn Quốc, Trung Quốc, Đức đã nêu trên, có thể rút ra một số bài học

kinh nghiệm cho Việt Nam như sau:

Mặc dù có chế độ xã hội khác nhau, nhưng các nước đều có chung một

quan niệm về kinh phí NSNN là nguồn lực đặc biệt được gắn chặt với quyền

lực của Nhà nước. Vì thế, mục đích, nội dung quản lý và sử dụng kinh phí

NSNN luôn được gắn với bản chất của Nhà nước và được quy định bằng các

văn bản pháp lý có hiệu lực cao. Quyền quyết định tối cao về phân bổ, quyết

toán kinh phí NSNN đều thuộc về Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất

của đất nước; quy trình phân bổ, điều hành, quyết toán kinh phí NSNN được

thực hiện thông qua một quy trình chặt chẽ và được ràng buộc bằng một hệ

thống các chế độ, định mức...

Nhà nước ta là Nhà nước XHCN, sự ra đời và phát triển của Nhà nước

ta gắn liền với quá trình giành độc lập và xây dựng quan hệ sản xuất XHCN,

Nhà nước thay mặt toàn dân đứng ra quản lý toàn bộ nguồn lực của đất nước.

Để thực hiện tốt vai trò của mình, Nhà nước phải phát huy chức năng quản lý

đối với mọi nguồn lực của đất nước nói chung cũng như NSNN nói riêng để

buộc tất cả mọi đối tượng được phân bổ, sử dụng kinh phí NSNN phải có

trách nhiệm sử dụng một cách có hiệu quả nhất để phục vụ sự phát triển kinh

tế - xã hội của đất nước. Để làm tốt điều này, Nhà nước ta cần tiếp tục sử

dụng tổng hợp các hình thức, phương tiện, công cụ quản lý đa dạng, cụ thể

như sau:

Thứ nhất, các nước đều xây dựng hệ thống các quy chế đầy đủ về tất

cả lĩnh vực, các nội dung trong quá trình quản lý và sử dụng kinh phí NSNN.

Đây là một hình thức quản lý Nhà nước hữu hiệu và một biện pháp hàng

quản lý đầu để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh phí NSNN. Thông

qua các quy chế, Nhà nước có thể buộc các cơ quan, đơn vị sử dụng kinh phí

38

phải tuân thủ ý chí của Nhà nước với tư cách người chủ sở hữu và người điều

hành đất nước. Biện pháp tốt nhất là nên đưa các quy định, định mức, nội

dung chi thành luật để chúng có hiệu lực pháp lý cao.

Thứ hai, các nước đều sử dụng các công cụ kinh tế để quản lý kinh phí

NSNN tại các cơ quan HCSN. Các công cụ kinh tế này bao gồm hệ thống

định mức kinh tế, kỹ thuật được xây dựng trên cơ sở khoa học và phù hợp với

thực tế, đặc thù từng ngành, từng lĩnh vực và được điều chỉnh hợp lý trong

từng giai đoạn thích hợp. Ngoài ra, cần chú trọng các đòn bẩy khuyến khích

như phạt và thưởng nhằm khuyến khích các cơ quan HCSN sử dụng tiết kiệm,

có hiệu quả nguồn kinh phí được giao.

Thứ ba, cần có phân cấp trong quản lý và sử dụng kinh phí NSNN một

cách hợp lý. Tại các nước phát triển, có trình độ quản lý cao đều phân định rõ

phạm vi, nội dung và trách nhiệm, quyền hạn giữa các cơ quan thực hiện sự

quản lý Nhà nước, cơ quan trực tiếp quản lý, sử dụng kinh phí NSNN và các

cá nhân liên quan. Bởi vì quyền sở hữu và quyền sử dụng kinh phí NSNN

thường là tách khỏi nhau, nhưng trong quá trình quản lý và sử dụng luôn có

sự đan xen quyền hạn, trách nhiệm giữa các cấp, các cơ quan với nhau. Lâu

nay ở nước ta, việc xác định quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của các cấp,

các cơ quan, các các nhân chưa được rõ ràng, nên việc quy trách nhiệm cho

một cơ quan, một cá nhân trong việc quản lý và sử dụng kinh phí NSNN

không hiệu quả, lãng phí... thường khó khăn hoặc không rõ ràng. Do đó, Nhà

nước ta tiếp tục phân định cụ thể hơn về nghĩa vụ, trách nhiệm, thẩm quyền

của các cơ quan, cá nhân thì việc quản lý, sử dụng kinh phí NSNN sẽ tránh

được lãng phí, thất thoát và đảm bảo nâng cao hiệu quả hơn nữa trong việc

thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Thứ tƣ, tại các nước đều rất coi trọng công tác kiểm toán, kiểm tra,

giám sát và xây dựng chế tài xử lý vi phạm trong quá trình quản lý, sử dụng

39

kinh phí NSNN. Nhà nước ở các nước đó bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật,

cơ chế chính sách còn thông qua cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ và xử lý

vi phạm nghiêm khắc để bảo đảm cho việc quản lý, sử dụng kinh phí NSNN

có hiệu quả, đúng theo cơ chế chính sách đã qui định. Đây là một thực tế để

cho thấy Nhà nước muốn đảm bảo quản lý và sử dụng kinh phí có hiệu quả,

cần cải thiện chất lượng các phương thức và công cụ kiểm tra, giám sát; đồng

thời cần quy định cụ thể nghĩa vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan,

các cá nhân thực hiện công tác kiểm toán, kiểm tra, giám sát.

Thứ năm, các nước đều chú trọng hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý.

Kinh nghiệm của các nước cho thấy nước nào có hệ thống cơ quan quản lý

đồng bộ; có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm rõ ràng và không

có sự chồng chéo giữa các bộ phận, các cơ quan trong quá trình quản lý thì

kinh phí ở nước đó được quản lý và sử dụng có hiệu quả. Nhà nước ta cũng

phải tiếp tục xây dựng, củng cố và hoàn thiện hệ thống các cơ quan quản lý

kinh phí NSNN từ trung ương đến địa phương và trong từng cơ quan, đơn vị,

bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách

nhiệm của mỗi cơ quan, mỗi cá nhân một cách rõ ràng và không có sự chồng

chéo; các cơ quan cũng cần được trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, được bố trí

các cán bộ có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ.

40

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG KINH PHÍ

NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC TẠI CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH - SỰ NGHIỆP

THUỘC BỘ TÀI CHÍNH

2.1. Đặc điểm công tác quản lý, sử dụng kinh phí tại các cơ quan hành

chính - sự nghiệp thuộc Bộ Tài chính

2.1.1. Khái quát về nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Bộ Tài chính

Bộ Tài chính là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý

nhà nước về tài chính, NSNN, thuế, phí, lệ phí và thu khác của NSNN, dự trữ

quốc gia, các quỹ tài chính nhà nước, đầu tư tài chính, tài chính doanh nghiệp

và hoạt động dịch vụ tài chính (gọi chung là lĩnh vực tài chính - ngân sách),

hải quan, kế toán, kiểm toán độc lập, giá cả, chứng khoán và thị trường chứng

khoán trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong lĩnh

vực tài chính - ngân sách, hải quan, kế toán, kiểm toán độc lập, giá cả, chứng

khoán và thị trường chứng khoán; thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của

nhà nước tại doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.

Theo quy định tại Nghị định số 77/2003/NĐ - CP ngày 01/7/2003 của

Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của

Bộ Tài chính, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của Bộ Tài chính gồm: (i) Trình

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các dự án luật, pháp lệnh và dự thảo các

văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch phát triển, kế hoạch dài

hạn, năm năm và hàng năm về các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ; (ii) Ban

hành các văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi quản lý nhà nước của

Bộ; (iii) Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và chịu trách nhiệm thực hiện các văn

bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; thông tin tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý

của Bộ; (iv) Quản lý NSNN; (v) Quản lý thu thuế, phí, lệ phí và thu khác của

NSNN; (vi) Quản lý quỹ ngân sách, quỹ dự trữ nhà nước và các quỹ tài chính

41

khác của Nhà nước; (vii) Quản lý dự trữ quốc gia; (viii) Quản lý tài sản nhà

nước; (ix) Quản lý tài chính doanh nghiệp và quản lý vốn của Nhà nước tại

doanh nghiệp; (x) Quản lý vay nợ, trả nợ trong nước, ngoài nước của Chính

phủ và nguồn viện trợ quốc tế; (xi) Quản lý nhà nước về kế toán, kiểm toán;

(xii) Quản lý tài chính các ngân hàng, tổ chức tài chính phi ngân hàng và dịch

vụ tài chính; (xiii) Quản lý hoạt động hải quan; (xv) Quản lý nhà nước về giá;

(xvi) Phát hành công trái, trái phiếu Chính phủ theo quy định của pháp luật;

(xvii) Quản lý, giám sát chứng khoán và thị trường chứng khoán; (xviii) Tổ

chức và chỉ đạo thực hiện công tác thống kê trong các lĩnh vực thuộc phạm vi

quản lý nhà nước của Bộ; (xix) Hợp tác quốc tế và hội nhập quốc tế trong các

lĩnh vực quản lý của Bộ; (xx) Tổ chức và chỉ đạo thực hiện kế hoạch nghiên

cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong các lĩnh vực thuộc

phạm vi quản lý của Bộ; (xxi) Quyết định các chủ trương, biện pháp cụ thể và

chỉ đạo việc thực hiện cơ chế hoạt động của các tổ chức dịch vụ công trong

các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ theo quy định của pháp luật; quản

lý và chỉ đạo hoạt động đối với các tổ chức sự nghiệp thuộc Bộ; (xxii) Quản

lý nhà nước đối với các hoạt động của hội và tổ chức phi Chính phủ trong các

lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ; (xxiii) Thanh tra, kiểm tra, giải quyết

khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng, tiêu cực và xử lý theo thẩm quyền hoặc

kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật đối với các vi

phạm về chế độ quản lý tài chính - ngân sách và các lĩnh vực khác thuộc

phạm vi quản lý của Bộ; (xxiv) Thực hiện cải cách hành chính theo chương

trình của Chính phủ; (xxv) Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế; chỉ đạo thực

hiện chế độ tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật

đối với cán bộ công chức, viên chức nhà nước thuộc phạm vi quản lý của Bộ;

đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức, viên

chức trong toàn ngành thuộc phạm vi quản lý của Bộ; (xxvi) Quản lý tài

42

chính, tài sản được giao và tổ chức thực hiện ngân sách được phân bổ theo

quy định của pháp luật.

(Tổ chức bộ máy của Bộ Tài chính theo sơ đồ số 1).

2.1.2. Đặc điểm công tác quản lý, sử dụng kinh phí tại các cơ quan

hành chính - sự nghiệp thuộc Bộ Tài chính

Do chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy của Bộ Tài chính,

nên việc quản lý và sử dụng kinh phí NSNN tại các cơ quan HCSN thuộc Bộ

Tài chính có một số đặc điểm cơ bản như sau:

Thứ nhất, Bộ Tài chính là Bộ đa ngành, đa lĩnh vực, bao gồm nhiều

đầu mối trực thuộc; trong đó có nhiều tổ chức có hệ thống dọc, bao gồm:

- Tổng cục Thuế có Cục thuế tại các tỉnh, thành phố; các Chi cục Thuế

tại các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các Đội thuế phường, xã

hoặc liên phường, xã.

- Tổng cục Hải quan có các Cục Hải quan liên tỉnh và các Chi cục Hải

quan cửa khẩu.

- Kho bạc Nhà nước có Kho bạc Nhà nước các tỉnh, thành phố; Kho

bạc Nhà nước các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

- Cục Dự trữ quốc gia có Dự trữ quốc gia theo khu vực và các Tổng

kho Dự trữ Quốc gia.

Thứ hai, trong các đơn vị quản lý nhà nước chuyên ngành cũng có các

đơn vị sự nghiệp trực thuộc như các đơn vị sự nghiệp có thu thuộc Tổng cục

Thuế, Kho bạc Nhà nước, Cục Quản lý công sản, Cục Tin học và thống kê tài

chính… Các đơn vị này có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập tương tự các

đơn vị sự nghiệp khác. Do vậy, ngoài phần kinh phí NSNN giao để phục vụ

công tác quản lý nhà nước, trong các đơn vị này còn có các khoản thu phục vụ

các hoạt động sự nghiệp.

43

Thứ ba, ngoài các hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động sự nghiệp

thông thường như những đơn vị khác, một số đơn vị thuộc Bộ Tài chính có

các hoạt động đặc thù như chống buôn lậu, kiểm soát hàng hoá qua cửa khẩu,

dự trữ quốc gia… Để đảm bảo hoàn thành các nhiệm vụ đặc thù được giao,

trong cơ cấu kinh phí NSNN của các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính còn

có các khoản kinh phí đặc thù như: kinh phí bảo quản hàng dự trữ quốc gia;

kinh phí mua sắm các thiết bị kiểm soát hải quan, thiết bị, phương tiện chống

buôn lậu, phương tiện vận chuyển các ấn chỉ, chứng chỉ có giá...

Xuất phát từ đặc điểm, sự đa dạng về chức năng hoạt động và quản lý

của Bộ Tài chính, điều này đã chi phối và có tác động lớn đến công tác quản

lý, đòi hỏi công tác quản lý và sử dụng kinh phí NSNN của Bộ Tài chính phải

thực sự được đổi mới và hoàn thiện nhằm đáp ứng những yêu cầu có tính đặc

thù về nhiệm vụ chuyên môn và yêu cầu hiện đại hoá.

2.2. Tình hình quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nƣớc tại các cơ

quan hành chính - sự nghiệp thuộc Bộ Tài chính

2.2.1. Tổ chức bộ máy làm nhiệm vụ quản lý, sử dụng kinh phí ngân

sách nhà nước tại các cơ quan hành chính - sự nghiệp thuộc Bộ Tài chính

Theo quy định tại Nghị định số 77/2003/NĐ-CP ngày 01/7/2003 của

Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của

Bộ Tài chính, Bộ Tài chính bao gồm hệ thống các tổ chức, đơn vị rải rộng từ

Trung ương đến cấp huyện trong phạm vi cả nước, do đó đòi hỏi công tác

quản lý và sử dụng kinh phí NSNN tại các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính

cũng phải được tổ chức thành nhiều cấp, bao gồm: đơn vị dự toán cấp I, các

đơn vị dự toán cấp II, các đơn vị dự toán cấp III và các đơn vị cấp dưới của

đơn vị dự toán cấp III. Tổng số gồm 1.790 đơn vị dự toán các cấp.

44

Bảng 2.1: Số lƣợng các đơn vị dự toán thuộc Bộ Tài chính

Đơn vị: đơn vị dự toán

TT

Nội dung

Tổng cộng

Tổng cục Thuế

Kho bạc NN

Tổng cục Hải quan

Ủy ban CK NN

Các đơn vị khác

Cục Dự trữ Quốc gia

Tổng cộng

1.790

806

760

46

151

18

9

1 Đơn vị dự toán cấp I

1

1

2

152

65

65

1

20

1

0

2.1

5

1

1

1

1

1

2.2

147

64

64

19

3

1.637

741

695

45

131

8

17

3.1

36

4

1

11

2

1

17

3.2

188

64

64

34

19

7

3.3

1.413

673

630

110

Đơn vị dự toán cấp II Đơn vị dự toán cấp II cấp trung ương Đơn vị dự toán cấp II cấp tỉnh Đơn vị dự toán cấp III Đơn vị dự toán cấp III cấp trung ương Đơn vị dự toán cấp III cấp tỉnh Đơn vị dự toán cấp III cấp huyện, tổng kho Dự trữ Quốc gia

(Nguồn: Bộ Tài chính)

- Đơn vị dự toán cấp I là Bộ Tài chính (Vụ Tài vụ quản trị), đây là

đơn vị trực tiếp nhận dự toán kinh phí NSNN hàng năm do Chính phủ giao,

phân bổ và giao dự toán NSNN cho các đơn vị dự toán cấp dưới trực thuộc.

Chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc tổ chức thực hiện công tác kế toán,

quyết toán ngân sách của cấp mình và công tác kế toán, quyết toán của các

đơn vị dự toán cấp dưới trực thuộc.

- Đơn vị dự toán cấp II là đơn vị cấp dưới đơn vị dự toán cấp I, bao

gồm các đơn vị dự toán cấp II cấp Trung ương: Tổng cục Thuế, Kho bạc Nhà

nước, Tổng cục Hải quan, Cục Dự trữ Quốc gia, Ủy ban Chứng khoán Nhà

nước; các đơn vị dự toán cấp II cấp tỉnh: các Cục Thuế, Kho bạc Nhà nước

45

tỉnh, Cục Hải quan... được đơn vị dự toán cấp I giao dự toán và phân bổ dự

toán được giao cho các đơn vị dự toán cấp III. Chịu trách nhiệm trước Nhà

nước về việc tổ chức thực hiện công tác kế toán, quyết toán kinh phí NSNN

của cấp mình và công tác kế toán, quyết toán của các đơn vị dự toán cấp dưới

trực thuộc.

- Đơn vị dự toán cấp III là đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí NSNN, bao

gồm các đơn vị: Văn phòng Tổng Cục Thuế, Tổng cục Hải quan, Cục Dự trữ

Quốc gia, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước; Văn phòng các Cục Thuế, Kho

bạc Nhà nước tỉnh, Cục Hải quan, Dự trữ Quốc gia khu vực; các Chi cục

Thuế, Kho bạc Nhà nước huyện, Tổng kho Dự trữ Quốc gia... Ngoài ra còn có

các đơn vị dự toán cấp III trực thuộc đơn vị dự toán cấp I như: các Trường

Cao đẳng, Đại diện Cơ quan Bộ Tài chính tại thành phố Hồ Chí Minh, Cơ

quan Bộ Tài chính, các Cục thuộc Bộ.... Đây là các đơn vị được đơn vị dự

toán cấp I hoặc đơn vị dự toán cấp II giao dự toán, chịu trách nhiệm tổ chức

thực hiện công tác kế toán và quyết toán kinh phí NSNN của đơn vị mình và

các đơn vị sử dụng ngân sách trực thuộc.

- Các đơn vị cấp dưới của đơn vị dự toán cấp III, bao gồm: các Chi cục

Hải quan được nhận kinh phí để thực hiện phần công việc cụ thể, khi chi tiêu

phải thực hiện công tác kế toán, quyết toán theo quy định.

Những mặt tích cực: giai đoạn 2001-2007 là giai đoạn có nhiều thay

đổi nhiều về cơ chế chính sách trong các lĩnh vực quản lý, do đó đã tác động

và đòi hỏi trình độ của đội ngũ cán bộ của Bộ Tài chính nói chung và các cán

bộ làm công tác quản lý kinh phí nội bộ ngành nói riêng đã được củng cố và

nâng cao; góp phần tăng cường công tác quản lý kinh phí tại các cơ quan

HCSN thuộc Bộ Tài chính. Trên cơ sở chiến lược đào tạo nguồn nhân lực của

Bộ Tài chính, được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, thời gian qua, đội ngũ

cán bộ làm công tác quản lý và sử dụng kinh phí NSNN tại các cơ quan

46

HCSN thuộc Bộ Tài chính liên tục được đào tạo, bổ sung kiến thức. Công tác

điều hành dự toán, Bộ Tài chính và các cơ quan HCSN thuộc Bộ đã có điều

chỉnh về cơ cấu bố trí ngân sách, hàng năm đã dành nguồn kinh phí cho thực

hiện nhiệm vụ đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ trên cơ sở thực hiện đề án

đào tạo đến năm 2010 của Bộ Tài chính. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích

cực, còn một số hạn chế như sau:

Thứ nhất, do số lượng các đơn vị dự toán quá lớn, nhận thức của lãnh

đạo các đơn vị về công tác quản lý nội bộ chưa đồng nhất, nên tại một số cơ

quan HCSN thuộc Bộ Tài chính, sự quan tâm của các cấp lãnh đạo đối với

công tác quản lý kinh phí, tài sản nội bộ ngành chưa đúng mức, mức độ quan

tâm đầu tư về số lượng và chất lượng cán bộ làm công tác quản lý và sử dụng

kinh phí chưa thoả đáng, nên lực lượng cán bộ làm công tác quản lý kinh phí

còn chưa thực sự ổn định, có nơi còn thiếu cán bộ, có nơi cán bộ làm kiêm

nhiệm dẫn đến tính chuyên môn hoá không cao, phần lớn trình độ cán bộ tại

các cấp cơ sở còn chưa tương xứng với nhiệm vụ. Từ đó dẫn đến tình trạng bộ

máy tổ chức, biên chế chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ

chuyên môn, với quy mô ngân sách, số lượng, giá trị tài sản càng lớn, các yêu

cầu quản lý đòi hỏi chất lượng ngày càng cao, làm giảm hiệu quả ứng dụng

công nghệ thông tin và các trang thiết bị tiên tiến hiện đại phục vụ quản lý...

Thứ hai, theo số liệu tại Bảng 2.1, đối với các hệ thống dọc như Tổng

cục Thuế, Kho bạc Nhà nước, Cục Dự trữ Quốc gia: việc phân cấp quản lý và

sử dụng kinh phí thành 3 cấp gắn với 3 cấp quản lý là Trung ương, tỉnh,

huyện như trên có mặt tích cực là trao quyền chủ động về quản lý và sử dụng

kinh phí NSNN cho từng cấp gắn với từng nhiệm vụ của từng đơn vị cụ thể.

Tuy nhiên nó cũng có hạn chế về sự phân chia thành nhiều cấp như: Tổng cục

Thuế có đến 806 đơn vị dự toán, trong đó có tới 741 đơn vị dự toán cấp III

(673 đơn vị dự toán cấp III tại các huyện, 64 đơn vị dự toán cấp III tại các

tỉnh, 4 đơn vị dự toán cấp III tại trung ương); Kho bạc Nhà nước có đến 760

47

đơn vị dự toán, trong đó có tới 695 đơn vị dự toán cấp III (630 đơn vị dự toán

cấp III tại các huyện, 64 đơn vị dự toán cấp III cấp tỉnh, 1 đơn vị dự toán cấp

III tại trung ương); Cục Dự trữ Quốc gia có đến 151 đơn vị dự toán, trong đó

có tới 131 đơn vị dự toán cấp III (110 đơn vị dự toán cấp III là các Tổng kho

dự trữ đặt tại các huyện, xã trong phạm vi toàn quốc, 19 đơn vị dự toán cấp III

tại các tỉnh, 1 đơn vị dự toán cấp III tại trung ương), có những vùng sâu, vùng

xa khoảng cách từ đơn vị dự toán cấp III đến đơn vị dự toán cấp II đến hơn

200 km, chưa có hệ thống mạng internet, đường giao thông rất khó khăn. Do

đó đã kéo dài thời gian lập, tổng hợp dự toán và quyết toán; hạn chế trong chỉ

đạo, điều hành chung; các hồ sơ, chứng từ chi kinh phí được lưu trữ không tập

trung, một phần lưu trữ tại đơn vị cấp tỉnh, một phần lưu trữ tại các đơn vị cấp

huyện... dẫn đến hạn chế công tác kiểm tra, giám sát, kiểm toán nội bộ.

Có một số đơn vị dự toán cấp III như Kho bạc Nhà nước huyện, Tổng

kho Dự trữ Quốc gia... có số lượng cán bộ, công chức chỉ khoảng 10 người,

dự toán kinh phí hàng năm khoảng 500-700 triệu đồng, trong đó chi các

khoản thanh toán cho cá nhân (tiền lương, phụ cấp) chiếm tỉ trong lớn. Nhưng

đây là một đơn vị dự toán nên vẫn phải bố trí cán bộ kế toán và thực hiện các

công việc như: lập dự toán, tổng hợp báo cáo quyết toán hàng năm... theo quy

định đối với một đơn vị dự toán đã dẫn đến phải sử dụng một cán bộ làm

nhiệm vụ này, bố trí diện tích lưu trữ hồ sơ, chứng từ... quản lý và sử dụng

kinh phí.

2.2.2. Định mức phân bổ kinh phí ngân sách nhà nước cho các cơ

quan hành chính hiện nay

Định mức phân bổ kinh phí NSNN là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp và

có vai trò quan trọng trong việc phân bổ nguồn lực ngân sách. Nhà nước ta sử

dụng định mức phân bổ ngân sách để phân bổ kinh phí NSNN cho các Bộ,

ngành, lĩnh vực.

48

Đối với các cơ quan hành chính, từ năm 2006 về trước được áp dụng

theo định mức quy định tại Quyết định số 139/2003/QĐ-TTg ngày 11/7/2003

của Thủ tướng Chính phủ; từ năm 2007 trở đi được áp dụng theo Quyết định

số 151/2006/QĐ-TTg ngày 29/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ

Bảng 2.2:Định mức phân bổ kinh phí NSNN cho các cơ quan hành chính

Đơn vị: triệu đồng/biên chế/năm

TT

Nội dung

Định mức phân bổ kinh phí NSNN từ năm 2006 về trƣớc

Định mức phân bổ kinh phí NSNN năm 2007

1 Các cơ quan Trung ương (không phải ngành dọc)

37,0

1.1 Trên 500 biên chế

24,5

38,1

1.2 Từ 401 đến 500 biên chế

25,2

39,3

1.3 Từ 301 đến 400 biên chế

26

40,4

1.4 Từ 201 đến 300 biên chế

26,7

41,6

1.5 Từ 101 đến 200 biên chế

27,4

42,9

1.6 Dưới 101 biên chế

28,2

32,5

2 Các cơ quan ngành dọc

20

(Nguồn: các Quyết định số 139/2003/QĐ-TTg và 151/2006/QĐ-TTg

của Thủ tướng Chính phủ).

Định mức nêu trong Bảng 2.2 không bao gồm các nhiệm vụ chi: đóng

niên liễm, thực hiện nhiệm vụ đặc thù, mua sắm tài sản cố định có số lượng

hoặc có giá trị lớn, nâng cấp cơ sở vật chất quy mô lớn. Kinh phí chi cho các

nhiệm vụ này thực hiện theo các quyết định cụ thể, các dự án đầu tư được cấp

có thẩm quyền phê duyệt. Định mức nêu trên quy định đối với một số cơ quan

đặc thù như: Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Viện Kiểm sát

nhân dân tối cao... được tính thêm một số nhiệm vụ đặc thù hoặc một tỉ lệ

tăng thêm nhất định so với định mức áp dụng chung cho các Bộ, ngành.

49

Định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên kinh phí NSNN nêu trên

có ưu điểm làm cơ sở cho việc phân bổ, bố trí kinh phí NSNN cho các cơ

quan, tuy nhiên theo số liệu tại Bảng 2.2, định mức dự toán hiện nay của các

cơ quan hành chính được tính toán và phân bổ theo số lượng biên chế của các

đơn vị, nên có một số hạn chế:

Thứ nhất, do căn cứ xây dựng dự toán của các Bộ, ngành, đơn vị được

xác định theo một số nội dung, trong đó chủ yếu là theo các nhiệm vụ của

năm kế hoạch, nhưng căn cứ phân bổ dự toán của Nhà nước lại theo biên chế,

trong khi đó đối với các cơ quan hành chính Nhà nước hiện nay vẫn chưa có

một căn cứ xác đáng để quy định tỉ lệ giữa khối lượng công việc chuyên môn

của mỗi cơ quan so với số lượng biên chế như thế nào là phù hợp, do đó có

một số cơ quan có khối lượng nhiệm vụ chuyên môn vừa phải nhưng có số

lượng biên chế nhiều, trong khi đó cũng có một số cơ quan phải đảm đương

một khối lượng công việc lớn nhưng biên chế lại thấp, nên tại một số cơ quan

hành chính hiện nay nhu cầu chi kinh phí cũng không hoàn toàn tỉ lệ thuận

với số lượng biên chế. Theo một khía cạnh nào đấy, việc phân bổ ngân sách

theo định mức biên chế sẽ có tác động tiêu cực đến việc thực hiện tinh giản

biên chế, khuyến khích các cơ quan HCSN tăng số lượng biên chế so với

nhiệm vụ được giao.

Thứ hai, hiện nay, Nhà nước ta đang thực hiện cải cách hành chính,

tăng cường cơ sở vật chất, hiện đại hóa các cơ quan hành chính Nhà nước, do

đó mặc dù vẫn có một số cơ quan hành chính đang phải sử dụng trụ sở chật

hẹp, trang thiết bị lạc hậu nên có lượng điện năng tiêu thụ ít, nhưng cũng có

một số cơ quan hành chính đã được xây dựng trụ sở khang trang, trang thiết bị

hiện đại nên điện năng tiêu thụ lớn...

Do đó, nếu chỉ áp dụng một định mức phân bổ ngân sách theo biên chế

mà chưa quan tâm đến nhiệm vụ cụ thể của mỗi cơ quan hành chính Nhà

50

nước và hệ thống các công sở, trang thiết bị của mỗi cơ quan có thể sẽ dẫn

đến hiện tượng có cơ quan được đảm bảo đủ nguồn lực tài chính, nhưng cũng

có cơ quan không đủ nguồn lực tài chính phục vụ nhiệm vụ chuyên môn.

2.2.3. Công tác hướng dẫn, cụ thể hóa các chế độ, chính sách, tiêu

chuẩn định mức theo quy định của Nhà nước

Đáp ứng yêu cầu tăng cường công tác quản lý và sử dụng kinh phí tại

các cơ quan HCSN, các cơ quan quản lý Nhà nước đã ban hành các văn bản

quy phạm pháp luật quy định về chế độ, định mức sử dụng kinh phí, tài sản,

trang thiết bị... để áp dụng thống nhất đối với các cơ quan HCSN và các cán

bộ, công chức Nhà nước trong phạm vi cả nước. Tuy nhiên mỗi Bộ, ngành

đều có những đặc thù về hoạt động chuyên môn, về tổ chức bộ máy... do đó

các Bộ, ngành phải tiếp tục có sự hướng dẫn, cụ thể hóa để áp dụng đối với

các cơ quan HCSN thuộc phạm vi quản lý.

Đối với Bộ Tài chính, trên cơ sở các chế độ, định mức quy định của

Nhà nước, Bộ Tài chính đã có các văn bản hướng dẫn, cụ thể hóa đảm bảo

phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và đặc thù hoạt động để làm

căn cứ tổ chức triển khai hoạt động và áp dụng thống nhất đối với tất cả các

cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính. Nhìn chung, các chế độ, tiêu chuẩn định

mức theo quy định của Nhà nước được Bộ Tài chính hướng dẫn, cụ thể hóa

theo các nội dung như sau:

2.2.3.1. Các văn bản hướng dẫn, cụ thể hóa về chế độ chi cho cá nhân,

bao gồm: các văn bản hướng dẫn về tiền lương, tiền công như: lương ngạch

bậc, lương tập sự, lượng hợp đồng dài hạn, tiền công hợp đồng theo vụ việc...

Các loại phụ cấp mang tính chất được trả theo thời gian thực tế đảm nhiệm

công vụ như: phụ cấp chức vụ, khu vực, thu hút, đắt đỏ, phụ cấp trách nhiệm,

độc hại, nguy hiểm, làm đêm thêm giờ... Các khoản chi học bổng cho sinh

viên của các trường đào tạo thuộc Bộ Tài chính; các khoản sinh hoạt phí của

51

cán bộ, công chức đi công tác, học tập... phát sinh thường xuyên trong hoạt

động của các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính. Các khoản chi khen thưởng,

phúc lợi như: chi tiền thuốc chữa bệnh thông thường, chế độ bảo hiểm xã hội,

bảo hiểm y tế ... và các khoản chi thanh toán khác cho cá nhân.

2.2.3.2. Các văn bản hướng dẫn, cụ thể hóa về chế độ chi nghiệp vụ,

bao gồm: các khoản chi hành chính như chi hội nghị, công tác phí, tiền điện

nước, vệ sinh cơ quan, bưu phí, điện thoại, đoàn ra, đoàn vào... các khoản chi

mua sắm hàng hóa, dịch vụ như: nhiên liệu xăng xe ô tô, văn phòng phẩm,

công cụ, dụng cụ, thuê máy móc thiết bị và các khoản chi phục vụ nghiệp vụ

chuyên môn của các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính như kinh phí hỗ trợ

xây dựng văn bản quy phạm pháp luật...

2.2.3.3. Các văn bản hướng dẫn, cụ thể hóa về chế độ chi mua sắm, sửa

chữa tài sản, bao gồm: các chế độ, mức chi trang bị điện thoại cố định tại nhà

riêng và điện thoại di động đối với các cán bộ, công chức có tiêu chuẩn; về

định mức diện tích làm việc, diện tích đặc thù; về trang thiết bị như bàn, ghế,

máy tính... đối với mỗi chức danh cán bộ, công chức, viên chức....

(Chi tiết một số văn bản hướng dẫn theo phụ lục kèm theo).

Qua công tác hướng dẫn, cụ thể hóa các chế độ, chính sách, tiêu chuẩn

định mức theo quy định của Nhà nước, Bộ Tài chính đã tạo lập được một hệ

thống các quy định về quản lý và sử dụng kinh phí đối với các cơ quan HCSN

trực thuộc. Các nội dung, định mức của Nhà nước được Bộ Tài chính hướng

dẫn, cụ thể hóa là cơ sở để các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính xây dựng

dự toán và tổ chức thực hiện dự toán hàng năm; làm cơ sở để các cơ quan

quản lý cấp trên, cơ quan tài chính bố trí nguồn kinh phí, thực hiện thẩm tra,

xét duyệt và tổng hợp quyết toán, tạo điều kiện để thực hiện tiết kiệm, có hiệu

quả trong quản lý và sử dụng kinh phí; tạo lập một số nội dung, chỉ tiêu thống

52

nhất, đảm bảo phù hợp trong lĩnh vực tài chính giữa các cơ quan HCSN thuộc

Bộ Tài chính và phù hợp giữa Bộ Tài chính với các Bộ, ngành khác.

Bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, còn có một số hạn chế: một số

chính sách, chế độ, định mức quy định của Nhà nước chưa điều chỉnh được

toàn bộ các lĩnh vực, các nội dung phát sinh trong thực tiễn, chưa theo kịp với

sự phát triển kinh tế - xã hội. Các định mức, tiêu chuẩn của Nhà nước chưa

quy định đầy đủ, bao trùm được toàn bộ các nội dung chi; một số định mức

quy định có tính khả thi thấp, chưa phù hợp với thực tiễn... điều này đã ảnh

hưởng đến công tác hướng dẫn, cụ thể hóa các chế độ, chính sách của Bộ Tài

chính và ảnh hưởng đến việc tổ chức triển khai thực hiện của các cơ quan

HCSN thuộc Bộ Tài chính.

2.2.4. Công tác lập, phân bổ, giao dự toán; chấp hành và quyết toán

kinh phí ngân sách nhà nước tại các cơ quan hành chính, sự nghiệp thuộc

Bộ Tài chính

Công tác lập, phân bổ, giao dự toán; chấp hành và quyết toán kinh phí

NSNN tại các cơ quan HCSN đã được quy định tại Luật NSNN số

01/2002/QH11 ngày 16/12/2002, Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày

06/6/2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật

NSNN, được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư số 59/2003/TT-BTC ngày

23/6/2003 của Bộ Tài chính và các văn bản pháp luật liên quan. Trên cơ sở

các quy định của Nhà nước, Bộ Tài chính đã có hướng dẫn, cụ thể hóa để tổ

chức triển khai tại các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính.

Qua số liệu về dự toán của Bộ Tài chính giai đoạn 2001 - 2007 cho

thấy, dự toán kinh phí NSNN của Bộ Tài chính là khá lớn, đạt bình quân

3.649.000 triệu đồng/năm, nếu không tính số dự toán tăng cơ học do Tổng cục

Hải quan sáp nhập về Bộ Tài chính năm 2002 (từ năm 2003 trở đi, dự toán

53

của Bộ Tài chính bao gồm cả dự toán của Tổng cục Hải quan), thì tốc độ tăng

dự toán bình quân trong cả giai đoạn khoảng 17%

Trong tổng số dự toán của Bộ Tài chính, chi quản lý hành chính là lớn

nhất, bình quân 3.455.000 triệu đồng với tỉ trọng bình quân 94%, do trong bộ

máy của Bộ Tài chính có 3 tổ chức là Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan,

Kho bạc Nhà nước, dự toán kinh phí NSNN của 3 tổ chức này chủ yếu là kinh

phí quản lý hành chính, trong giai đoạn 2001 - 2007: Tổng cục Thuế, Tổng

cục Hải quan được thực hiện cơ chế khoán kinh phí hoạt động trên số thu thực

nộp vào NSNN hàng năm (Tổng cục Thuế là 2%, Tổng cục Hải quan là

1,6%); Kho bạc Nhà nước được giao khoán kinh phí NSN bình quân 210.000

triệu đồng/năm. Trong giai đoạn này Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan luôn

hoàn thành vượt kế hoạch thu được giao hàng năm, do đó dự toán kinh phí

khoán của 2 tổ chức này cũng được tăng cùng mức độ hoàn thành vượt kế

hoạch thu NSNN.

Bảng 2.3:Dự toán kinh phí NSNN của Bộ Tài chính giai đoạn 2001-2007

TT

Nội dung

Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003

Năm 2004

Đơn vị: triệu đồng Năm Năm 2007 2006

Năm 2005

Cộng

1.520.012

1.631.706 2.624.188 3.560.879 4.675.460 5.299.390 6.234.920

1

62.652

67.415

76.078

78.395

111.740

115.400

173.000

2

9.500

14.630

38.689

52.573

3

5.493

5.360

11.209

14.970

15.997

17.390

19.270

4

1.411.023

1.509.811 2.440.793 3.360.471 4.452.821 5.103.950 5.910.070

5

30.264

33.380

53.379

47.010

49.522

55.890

73.620

180

110

780 160

4.700 160

42.470 160

3.300 160

160

8

800

Sự nghiệp kinh tế Quan hệ tài chính Sự nghiệp KHCN Quản lý hành chính Sự nghiệp GDĐT Đảm bảo xã 6 hội 7 Trợ giá Bảo vệ môi trường Chương trình mục tiêu

9

900

1.000

3.100

2.600

2.750

3.300

8.000

10 Chi khác

50.000

(Nguồn: Bộ Tài chính)

54

Qua tỉ trọng của số dự toán kinh phí quản lý hành chính cũng cho thấy

trong nhiệm vụ chuyên môn của Bộ Tài chính, sự nghiệp quản lý hành chính

là chủ yếu, còn các sự nghiệp khác như đào tạo, xuất bản, khoa học công

nghệ... là rất nhỏ, điều này liên quan mật thiết đến cơ cấu tổ chức, số lượng

các đơn vị dự toán các cấp của Bộ Tài chính chủ yếu là các đơn vị dự toán

trực thuộc Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan, Kho bạc Nhà nước trải rộng từ

Trung ương đến cấp huyện trên phạm vi toàn quốc.

2.2.4.1. Công tác lập dự toán ngân sách nhà nước

Bảng 2.4: Thời gian thông báo số kiểm tra dự toán và thời gian

các đơn vị tổng hợp, báo cáo dự toán năm sau với đơn vị cấp trên

TT

Nội dung

Thời gian các đơn vị tổng hợp, báo cáo dự toán năm kế hoạch với đơn vị cấp trên

Thời gian thông báo số kiểm tra dự toán năm kế hoạch cho các đơn vị trực thuộc

1 Cơ quan Tài chính

Trước 10/6 năm trước Trước 20/7 năm trước

2 Đơn vị dự toán cấp I

Trước 15/6 năm trước Trước 10/7 năm trước

3 Đơn vị dự toán cấp II cấp TW

Trước 20/6 năm trước

Trước 5/7 năm trước

4 Đơn vị dự toán cấp II cấp tỉnh

Trước 25/6 năm trước

Trước 1/7 năm trước

(Nguồn: Bộ Tài chính)

- Quy trình thông báo số kiểm tra dự toán năm sau:

Căn cứ vào Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm sau, cơ quan Tài

chính ban hành Thông tư hướng dẫn về yêu cầu, nội dung, thời hạn lập dự

toán NSNN và thông báo số kiểm tra dự toán kinh phí NSNN phục vụ cho các

nội dung, nhiệm vụ chi tiêu thường xuyên của các Bộ, ngành ở Trung ương,

trong đó có Bộ Tài chính trước ngày 10/6 hàng năm.

Trên cơ sở số kiểm tra dự toán kinh phí NSNN được cơ quan Tài chính

thông báo, Bộ Tài chính tiếp tục thông báo số kiểm tra dự toán cho các đơn vị

55

dự toán cấp II cấp Trung ương có tổ chức hệ thống ngành dọc như: Tổng cục

Thuế, Kho bạc Nhà nước, Tổng cục Hải quan, Cục Dự trữ Quốc gia, Ủy ban

Chứng khoán Nhà nước... trước ngày 15/6 hàng năm. Các đơn vị dự toán cấp

II cấp Trung ương có tổ chức hệ thống ngành dọc căn cứ số kiểm tra theo

thông báo của Bộ Tài chính để thông báo cho các đơn vị dự toán cấp II cấp

tỉnh có tổ chức hệ thống ngành dọc như: Cục thuế, Kho bạc Nhà nước tỉnh,

Cục Hải quan... trước ngày 20/6 hàng năm.

Một số đơn vị dự toán cấp II cấp tỉnh như Cục Thuế, Kho bạc Nhà

nước tỉnh... tiếp tục thông báo số kiểm tra cho các đơn vị cấp dưới trực thuộc

là các đơn vị dự toán cấp III như Chi cục Thuế, Kho bạc Nhà nước huyện...

trước ngày 25/6 hàng năm.

- Quy trình tổng hợp, báo cáo số kiểm tra dự toán năm sau: căn cứ số

kiểm tra được thông báo theo nhóm mục chi, căn cứ nhu cầu thực tế chi tiêu

của năm kế hoạch, căn cứ chế độ chi tiêu, căn cứ mức giao khoán của các

năm liền kề, căn cứ vào số thu, số biên chế được giao khoán... các đơn vị thực

hiện lập dự toán hàng năm như sau:

Các đơn vị dự toán cấp III là đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí căn cứ

vào các văn bản hướng dẫn của các cơ quan quản lý tài chính cấp trên, các

quy định về tiêu chuẩn, định mức quy định... lập dự toán thu, chi NSNN theo

mục lục NSNN và theo nhóm mục chi, kèm theo các báo cáo thuyết minh cơ

sở tính toán, thuyết minh các nhiệm vụ chi trọng tâm, đột xuất, các kiến nghị.

gửi đơn vị dự toán cấp II cấp tỉnh trước ngày 01/7 hàng năm.

Các đơn vị dự toán cấp II cấp tỉnh tiến hành thẩm tra chi tiết các nội

dung chi do các đơn vị dự toán cấp III trực thuộc xây dựng và tổng hợp dự

toán thu, chi NSNN của đơn vị theo mục lục NSNN, theo nhóm mục và theo

từng đơn vị dự toán cấp III trực thuộc kèm theo thuyết minh cơ sở tính dự

toán thu, chi của đơn vị trình đơn vị dự toán cấp II cấp Trung ương trước

ngày 05/7 hàng năm.

56

Các đơn vị dự toán cấp II cấp Trung ương tiếp tục thực hiện theo đúng

các quy trình như của các đơn vị dự toán cấp II cấp tỉnh đã thực hiện, ngoài

ra, tập hợp và lập dự toán các khoản chi tập trung, các khoản chi nhiệm vụ

đặc thù của toàn bộ hệ thống, các khoản chi chưa được bố trí nguồn của năm

trước… trình Bộ Tài chính trước ngày 10/7 hàng năm.

Bộ Tài chính với vai trò là đơn vị dự toán cấp I có trách nhiệm xem xét,

tổng hợp chung dự toán của toàn bộ các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính

và gửi cơ quan Tài chính trước ngày 20/7 hàng năm.

Bộ Tài chính cũng như các bộ, ngành khác ở Trung ương, bên cạnh dự

toán kinh phí NSNN cho hoạt động thường xuyên còn phải lập dự toán chi

đầu tư phát triển gửi Cơ quan Kế hoạch và Đầu tư. Trên cơ sở kế hoạch phát

triển kinh tế - xã hội của cả nước và các cân đối chủ yếu của nền kinh tế, Cơ

quan Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan chủ trì tổng hợp, lập dự toán ngân sách

chi đầu tư phát triển, lập phương án phân bổ dự toán chi đầu tư phát triển

hàng năm cho các Bộ, ngành trong đó có Bộ Tài chính.

(Quy trình xây dựng dự toán; phân bổ, giao dự toán; điều chỉnh dự toán

và quyết toán kinh phí theo sơ đồ số 2).

Qua công tác lập, tổng hợp dự toán kinh phí NSNN hàng năm của Bộ

Tài chính được thực hiện theo các chế độ quy định, hướng dẫn của Nhà nước

đã bộc lộ một số hạn chế như sau:

Thứ nhất, các chế độ, tiêu chuẩn, định mức theo quy định của Nhà

nước còn chưa đầy đủ, chưa bao quát toàn bộ các nội dung phát sinh trong

thực tiễn, đặc biệt là các nội dung, nhiệm vụ đặc thù của một số ngành, lĩnh

vực như đã phân tích ở trên, do đó Bộ Tài chính cũng chưa thể có một hệ

thống tiêu chuẩn, định mức chi tiêu nội bộ phù hợp với đặc điểm, đặc thù của

các cơ quan HCSN trực thuộc. Điều này đã dẫn đến việc chưa đủ căn cứ để

57

các cơ quan HCSN lập dự toán và chưa đủ căn cứ để cơ quan Tài chính bố trí

dự toán đảm bảo theo yêu cầu, nhiệm vụ của các đơn vị.

Thứ hai, theo tình hình, dữ liệu tại Bảng 2.4, thời gian từ khi cơ quan

Tài chính thông báo số kiểm tra dự toán kinh phí NSNN cho đến khi các Bộ,

ngành lập dự toán gửi về cơ quan Tài chính đã được quy định cứng trong

khoảng thời gian hơn 40 ngày (trước ngày 10/6 đến 20/7 năm trước), thời gian

này không căn cứ theo quy mô, cơ cấu tổ chức, số lượng các đơn vị dự toán

của mỗi Bộ, ngành.

Nếu với mỗi đơn vị cụ thể và với số kiểm tra dự toán nhỏ thì thời gian

trên 40 ngày là dài, nhưng với những Bộ, ngành như Bộ Tài chính có cơ cấu

tổ chức, các cấp dự toán trải rộng từ Trung ương đến cấp huyện với 1.790 đơn

vị dự toán các cấp và số kiểm tra dự toán hàng năm được thông báo khá lớn,

chỉ tính trong giai đoạn từ năm 2004 (từ khi Luật NSNN sửa đổi, bổ sung có

hiệu lực thi hành) đến năm 2007, dự toán bình quân hàng năm của Bộ Tài

chính đạt đến trên 5.400.000 triệu đồng/năm, phần lớn các đơn vị dự toán đều

ở tại các cấp huyện và cấp tỉnh thì thời gian 40 ngày là rất hạn hẹp, do đó Bộ

Tài đã phải phân chia thời gian đơn vị cấp trên thực hiện phân bổ, thông báo

số kiểm tra dự toán cho đơn vị cấp dưới chỉ trong khoảng thời gian 5 ngày;

thời gian đơn vị cấp trên thẩm định, tổng hợp dự toán của các đơn vị cấp dưới

cũng chỉ trong khoảng thời gian từ 5 đến 10 ngày, bao gồm cả thời gian các

văn bản trên đường. Trong khi đó có những đơn vị dự toán cấp II cấp tỉnh đã

phải phân bổ số kiểm tra dự toán, thẩm định và tổng hợp dự toán kinh phí

NSNN của gần 30 đơn vị dự toán cấp dưới trực thuộc; có những đơn vị dự

toán cấp II cấp Trung ương đã phải phân bổ số kiểm tra dự toán, thẩm định và

tổng hợp dự toán kinh phí của rất nhiều đơn vị trực thuộc, như Tổng cục Thuế

gồm 806 đơn vị trực thuộc, Kho bạc Nhà nước gồm 760 đơn vị trực thuộc,

Cục Dự trữ Quốc gia gồm 151 đơn vị trực thuộc....

58

Với thời gian hạn hẹp như vậy, để đảm bảo chất lượng của công tác lập,

phân bổ, tổng hợp dự toán kinh phí NSNN phải được thực hiện trong điều

kiện hệ thống công nghệ thông tin hiện đại và trên cơ sở các đơn vị dự toán

các cấp, các cơ quan HCSN phải xây dựng được các kế hoạch từ 3 - 5 năm có

tính khả thi cao. Thực tế hiện nay, nhìn chung các cơ quan HCSN chưa có các

chiến lược về về sử dụng kinh phí, tăng cường cơ sở vật chất từ 3 - 5 năm

được cấp có thẩm quyền phê duyệt và có tính khả thi cao, từ đó dẫn đến việc

lập dự toán kinh phí NSNN hàng năm trong thời gian rất ngắn như đã phân

tích nêu trên là khó khăn và có tính khả thi không cao.

Thứ ba, về mối quan hệ giữa dự toán chi hoạt động thường xuyên và

chi đầu tư phát triển: nguồn lực NSNN là hạn chế, nên tăng nguồn chi đầu tư

phát triển tất yếu sẽ kéo theo sự giảm nguồn chi thường xuyên và ngược lại,

vì vậy phải xây dựng một cơ cấu chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên

hợp lý, phù hợp với tình hình thực tế từng thời kỳ. Do công trình xây dựng

hoàn thành đưa vào sử dụng sẽ kéo theo một nguồn chi thường xuyên đáng kể

cho vận hành, sử dụng công trình. Bên cạnh đó khi bố trí cơ cấu chi đầu tư

phát triển cũng phải tính tới tác động của các công trình, trang thiết bị hoàn

thành bàn giao đưa vào sử dụng hoặc phải cải tạo sửa chữa... sẽ làm tăng chi

thường xuyên.

Mặc dù mối quan hệ nêu trên có liên quan mật thiết đến công tác lập và

phân bổ dự toán kinh phí NSNN, nhưng hiện nay, đối với các Bộ, ngành ở

Trung ương dự toán kinh phí hoạt động thường xuyên và dự toán đầu tư phát

triển được thẩm định theo hai quy trình độc lập: Cơ quan Tài chính thực hiện

quản lý phân bổ kinh phí thường xuyên chủ yếu dựa trên cơ sở biên chế của

mỗi đơn vị; Cơ quan Kế hoạch và Đầu tư chủ trì quản lý và phân bổ vốn đầu

tư phát triển trên cơ sở nhu cầu của các đơn vị và khả năng của ngân sách, do

đó sự liên kết, phù hợp giữa hai quy trình lập, phân bổ dự toán chi hoạt động

thường xuyên và chi đầu tư còn chưa cao và chưa được quan tâm đúng mức.

59

2.2.4.2. Công tác phân bổ và giao dự toán ngân sách nhà nước

Trên cơ sở dự toán kinh phí NSNN được Quốc hội thông qua, Thủ

tướng Chính phủ và Cơ quan Tài chính có quyết định giao dự toán cho các

Bộ, ngành ở Trung ương, trong đó có Bộ Tài chính. Với vai trò là đơn vị dự

toán cấp I, Bộ Tài chính phân bổ dự toán kinh phí NSNN theo các nội dung:

kinh phí tự chủ, kinh phí không tự chủ hoặc kinh phí hoạt động thường xuyên,

kinh phí không thường xuyên; theo 04 nhóm mục chi và theo một số định

hướng trong công tác điều hành dự toán, thông báo tổng mức dự toán chi kinh

phí NSNN theo nội dung, nhóm mục và các định hướng được phê duyệt cho

các đơn vị dự toán trực thuộc.

Các đơn vị dự toán cấp II cấp Trung ương căn cứ tổng mức dự toán

được thông báo, dự kiến phân bổ số dự toán và thông báo cho các các đơn vị

dự toán cấp II cấp tỉnh, trong đó có số dự kiến chi tập trung, dự phòng theo

quy định. Một số đơn vị dự toán cấp II cấp tỉnh có các đơn vị dự toán cấp III

trực thuộc tiếp tục dự kiến phân bổ số dự toán được thông báo cho từng đơn

vị dự toán cấp III trực thuộc.

Các đơn vị dự toán cấp III trực tiếp sử dụng kinh phí căn cứ vào mức

dự toán kinh phí NSNN được thông báo, xây dựng dự toán năm kế hoạch của

đơn vị theo mục lục NSNN, theo các nội dung, nhóm mục chi và theo tình

hình thực tế phát sinh tại đơn vị. Số dự toán được xây dựng phải đảm bảo

nguyên tắc bằng hoặc thấp hơn mức dự toán được thông báo, trường hợp do

nhiệm vụ được giao có đề nghị cao hơn phải được lập một cột riêng và kèm

theo thuyết minh chi tiết.

Quy trình tổng hợp dự toán từ các đơn vị dự toán cấp III lên đến đơn vị

dự toán cấp II cấp Trung ương được tổng hợp theo nguyên tắc nằm trong mức

dự toán đã được thông báo. Đối với từng cấp, được căn cứ vào nhiệm vụ được

60

giao, các định mức quy định và nhiệm vụ đột xuất khác có thể cân đối, điều

chỉnh nhóm mục chi cho phù hợp nhưng đảm bảo trong tổng mức.

Trên cơ sở số dự toán được các đơn vị tổng hợp. Bộ Tài chính tổng hợp

số dự kiến phân bổ dự toán kinh phí NSNN năm theo nội dung, nhóm mục chi

gửi Cơ quan Tài chính để thẩm định số liệu phân bổ. Sau khi có ý kiến thẩm

định của Cơ quan Tài chính, Bộ Tài chính thực hiện giao dự toán cho các cơ

quan HCSN trực thuộc theo các nội dung: kinh phí tự chủ, kinh phí không tự

chủ hoặc kinh phí hoạt động thường xuyên, kinh phí không thường xuyên.

Sau khi nhận được dự toán kinh phí NSNN được giao, các đơn vị dự

toán tiếp tục phân bổ và giao dự toán cho các đơn vị trực thuộc trước ngày 31

tháng 12 năm trước. Tuy nhiên chế độ cũng quy định đối với các Bộ, ngành

được tổ chức theo ngành dọc, chưa có điều kiện phân bổ và giao dự toán trực

tiếp đến các đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí NSNN thì có thể phân bổ đến

đơn vị dự toán cấp II và uỷ quyền cho đơn vị này phân bổ, giao dự toán cho

đơn vị sử dụng ngân sách trực thuộc.

Các quy định của Nhà nước về phân bổ và giao dự toán kinh phí NSNN

như đã nêu trên giúp các cơ quan HCSN được chủ động bố trí nguồn kinh phí

đảm bảo cho các nội dung, nhiệm vụ của năm kế hoạch ngay từ đầu năm,

tránh tình trạng chưa có kinh phí hoạt động trong đầu năm kế hoạch.

Tuy nhiên có một số hạn chế như sau: trường hợp các Bộ, ngành có tổ

chức bộ máy có nhiều cấp, nhiều đơn vị trực thuộc như Bộ Tài chính, chế độ

cho phép đơn vị dự toán cấp I có thể ủy quyền cho đơn vị dự toán cấp II tiếp

tục phân bổ và giao dự toán cho các đơn vị cấp III trực thuộc. Nếu thực hiện

như vậy sẽ kéo dài thời gian làm thủ tục phân bổ và giao dự toán, có thể dẫn

đến tình trạng đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí sẽ chưa nhận được dự toán

được giao ngay trong đầu năm kế hoạch; làm giảm vai trò thẩm định, giám sát

61

của Cơ quan Tài chính và của đơn vị dự toán cấp I đối với các đơn vị trực tiếp

sử dụng kinh phí.

2.2.4.3. Công tác thực hiện dự toán

Theo quy định hiện hành, các đơn vị dự toán mở tài khoản tại Kho bạc

Nhà nước, chịu sự kiểm tra, kiểm soát của cơ quan tài chính, đơn vị dự toán

cấp trên và Kho bạc Nhà nước trong quá trình thanh toán, sử dụng kinh phí.

Căn cứ vào dự toán chi kinh phí NSNN năm được giao và yêu cầu thực hiện

nhiệm vụ chuyên môn của các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính, Kho bạc

Nhà nước thực hiện tạm ứng, thanh toán các nội dung chi kinh phí NSNN

theo nguyên tắc thanh toán trực tiếp từ Kho bạc Nhà nước cho người hưởng

lương, người cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Trong thời gian trước mắt, khi chưa

đủ điều kiện thực hiện đầy đủ nguyên tắc chi trả, thanh toán trực tiếp nêu trên,

việc chi trả, thanh toán đối với một số khoản chi như tiền lương, chi hành

chính... Kho bạc Nhà nước tạm ứng kinh phí cho các đơn vị, sau khi hoàn

thành công việc và có đủ chứng từ thanh toán thì chuyển từ tạm ứng sang

thanh toán kinh phí, việc chi trả đối với một số nội dung như sau:

- Đối với các khoản chi tiền lương, phụ cấp, các khoản đóng góp theo

lương và các khoản chi hành chính thường xuyên...: căn cứ vào dự toán được

phê duyệt cho đơn vị và các tiêu chuẩn, định mức chi tiêu hiện hành để làm

thủ tục tạm ứng, thanh toán cho đơn vị theo định kỳ hàng tháng.

- Đối với các khoản chi mua sắm hàng hóa, dịch vụ: phải có các điều

kiện như: nội dung chi phải có dự toán được phê duyệt; đã hoàn chỉnh thủ tục

mua sắm như đấu thầu, chào hàng cạnh tranh... theo quy định.

- Đối với các khoản chi xây dựng, cải tạo mở rộng trụ sở ngoài các yêu

cầu về quản lý như mua sắm tài sản, đơn vị còn phải thực hiện theo đúng quy

định về trình tự, thủ tục về đầu tư và xây dựng công trình.

62

(Các quy trình thanh toán các khoản mua sắm hàng hóa, dịch vụ của

các đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí theo sơ đồ số 3; thanh toán các khoản

cho cá nhân của các đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí theo sơ đồ số 4).

2.2.4.4. Công tác tổng hợp báo cáo quyết toán hàng năm

Hàng năm căn cứ quy định của Nhà nước về công tác tổng hợp báo cáo

quyết toán NSNN, Bộ Tài chính có hướng dẫn cụ thể về các nội dung, nguyên

tắc, biện pháp xử lý một số nội dung cụ thể trong công tác khóa sổ, quyết toán

chi NSNN hàng năm đối với các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính. Công tác

lập, xét duyệt, tổng hợp báo cáo quyết toán năm của các cơ quan HCSN thuộc

Bộ Tài chính được thực hiện theo quy định hiện hành về chế độ kế toán đơn

vị HCSN; hướng dẫn xét duyệt, thẩm định và thông báo quyết toán năm đối

với các cơ quan HCSN, với trình tự được thực hiện từ dưới lên trên, cụ thể

như sau:

Sau khi kết thúc năm kế hoạch, các đơn vị dự toán cấp III trực tiếp sử

dụng kinh phí lập và gửi báo cáo quyết toán về đơn vị dự toán cấp II cấp tỉnh

trước ngày 31/01 năm sau; các đơn vị dự toán cấp II cấp tỉnh xét duyệt, lập và

tổng hợp báo cáo quyết toán năm của toàn bộ các đơn vị trực thuộc gửi đơn vị

dự toán cấp II cấp Trung ương trước ngày ngày 30/3 năm sau. Sau khi nhận

được báo cáo quyết toán của đơn vị dự toán cấp dưới, đơn vị dự toán cấp trên

có trách nhiệm xét duyệt quyết toán và thông báo kết quả xét duyệt quyết toán

cho đơn vị dự toán cấp dưới. Trong phạm vi 10 ngày kể từ ngày nhận được

thông báo xét duyệt quyết toán, đơn vị dự toán cấp dưới phải thực hiện xong

những yêu cầu trong thông báo xét duyệt quyết toán. Trường hợp đơn vị dự

toán cấp III có ý kiến không thống nhất với thông báo duyệt quyết toán của

đơn vị dự toán cấp II cấp tỉnh thì phải có văn bản gửi đơn vị dự toán cấp II

cấp Trung ương để xem xét và quyết định.

63

Các đơn vị dự toán cấp II cấp Trung ương xét duyệt, lập và tổng hợp

báo cáo quyết toán năm của toàn bộ các đơn vị trực thuộc gửi Bộ Tài chính

trước ngày 30/6 năm sau. Bộ Tài chính xét duyệt, lập và tổng hợp báo cáo

quyết toán năm của toàn bộ các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính gửi Cơ

quan Tài chính trước ngày 01/10 năm sau.

Cơ quan Tài chính có trách nhiệm thẩm định quyết toán năm trong thời

gian tối đa 30 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo quyết toán, trong phạm vi

10 ngày kể từ khi nhận được thông báo thẩm định quyết toán năm của Cơ

quan Tài chính, Bộ Tài chính phải thực hiện xong những yêu cầu trong thông

báo nhận xét quyết toán của Cơ quan Tài chính. Trường hợp Bộ Tài chính có

ý kiến không thống nhất với thông báo thẩm định quyết toán của Cơ quan Tài

chính thì phải trình Thủ tướng Chính phủ để xem xét và quyết định, trong khi

chờ ý kiến quyết định của Thủ tướng Chính phủ thì phải chấp hành theo quyết

định của Cơ quan Tài chính.

Về thời gian chỉnh lý quyết toán ngân sách hàng năm: được thực hiện

từ ngày 01/01 đến hết ngày 31/5 năm sau đối với ngân sách Trung ương,

trong đó có các đơn vị dự toán thuộc Bộ Tài chính. Đây là thời gian các cơ

quan HCSN thuộc Bộ Tài chính được phép thực hiện một số công việc như:

hạch toán tiếp các khoản thu, chi NSNN phát sinh từ ngày 31/12 trở về trước

nhưng chứng từ đang luân chuyển; hạch toán chi ngân sách các khoản tạm

ứng đã đủ thủ tục thanh toán; hạch toán tiếp các khoản ghi thu, ghi chi vốn

ngoài nước, các khoản chi kinh phí NSNN thuộc nhiệm vụ chi của năm trước

nếu được cấp có thẩm quyền quyết định cho chi tiếp vào niên độ ngân sách

năm trước; đối chiếu và điều chỉnh những sai sót trong quá trình hạch toán...

Trường hợp hết thời gian chỉnh lý quyết toán vẫn chưa đủ thủ tục thanh toán

thì đơn vị dự toán trực tiếp sử dụng kinh phí NSNN phải báo cáo Bộ Tài

chính để tổng hợp đề nghị Cơ quan Tài chính cho phép chuyển tạm ứng năm

trước sang tạm ứng năm sau; nếu được chấp thuận thì hạch toán và quyết toán

64

vào ngân sách năm sau, nếu không được chấp thuận thì Kho bạc Nhà nước

thực hiện thu hồi số tạm ứng.

Bảng2.5:Quyếttoán kinh phí NSNN của Bộ Tài chính giai đoạn 2001-2006

Đơn vị: triệu đồng

STT

Nội dung

Năm 2001

Năm 2002

Năm 2003

Năm 2004

Năm 2005

Dự kiến năm 2006

Cộng

1.430.563 1.589.514 2.435.987 3.184.812 3.505.856

4.557.613

1

56.098

62.331

76.306

77.914

110.619

143.805

Sự nghiệp kinh tế Quan hệ tài chính

2

34.148

37.942

29.665

33.569

47.620

61.906

3

9.549

11.199

15.073

19.595

4

1.322.825 1.469.806 2.269.111 3.005.649 3.271.483

4.252.928

5

17.492

19.435

50.396

51.107

56.903

73.974

6

480

4.983

3.622

4.709

7

160

160

189

246

Sự nghiệp khoa học công nghệ Quản lý hành chính Sự nghiệpgiáo dục đào tạo Chương trình mục tiêu Trợ giá Chi khác

10

320

231

347

451

(Nguồn: Bộ Tài chính)

Giai đoạn này là giai đoạn thực hiện chuyển đổi cơ chế cấp phát, từ cấp

phát qua tài khoản hạn mức chuyển sang hình thức rút kinh phí trực tiếp qua

tài khoản dự toán tại Kho bạc Nhà nước, các đơn vị dự toán các cấp của Bộ

Tài chính đã kịp thời nắm bắt các quy trình mới, không để tình trạng chậm

kinh phí dẫn đến không đảm bảo nhiệm vụ chuyên môn; chấp hành đầy đủ

các thủ tục, chế độ kiểm soát chi của Nhà nước.

Qua số liệu quyết toán kinh phí NSNN của Bộ Tài chính giai đoạn

2001 - 2006 nêu trên cho thấy, số quyết toán toán kinh phí NSNN của Bộ Tài

chính là khá lớn, đạt bình quân 2.784.057 triệu đồng/năm. Trong quyết toán

kinh phí NSNN của Bộ Tài chính, chi quản lý hành chính là lớn nhất, bình

65

quân 2.598.634 triệu đồng/năm với tỉ trọng bình quân 93%, do trong bộ máy

của Bộ Tài chính có 3 tổ chức là Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan, Kho bạc

Nhà nước, dự toán kinh phí NSNN của 3 tổ chức này chủ yếu là kinh phí quản

lý hành chính như đã phân tích ở trên.

Quyết toán kinh phí NSNN cấp cho hoạt động trợ giá chiếm tỉ trọng

nhỏ nhất, bình quân là 126 triệu đồng/năm, do Bộ Tài chính có một số tạp chí,

tờ báo của ngành, ngoài các hoạt động hướng dẫn các chế độ, chính sách,

tuyên truyền hoạt động của ngành Tài chính còn có nhiệm vụ tuyên truyền về

chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước, do đó được NSNN bố trí một

phần kinh phí hỗ trợ cho hoạt động xuất bản, in ấn.

Số liệu quyết toán chi kinh phí của Bộ Tài chính có quan hệ mật thiết

với tình hình thực hiện thu NSNN. Trong giai đoạn này, tổng thu NSNN luôn

đạt tốc độ tăng trưởng trên 15% năm sau so với năm trước, để đạt được tốc độ

tăng thu NSNN, các đơn vị thuộc các hệ thống Thuế, Hải quan, Kho bạc Nhà

nước cũng đã phải tăng chi cho các nội dung phục vụ nghiệp vụ chuyên môn,

tăng cường cơ sở vật chất hiện đại hoá phục vụ công tác thu, nên số kinh phí

quyết toán của năm sau tăng hơn so với năm trước

Bên cạnh đó theo lộ trình cải cách tiền lương của Nhà nước: tiền lương

tối thiểu đã tăng từ 210.000 đồng lên các mức: 290.000 đồng (năm 2004),

350.000 đồng (năm 2005), 450.000 đồng (năm 2006). Do tiền lương tối thiểu

tăng nên các khoản chi thanh toán cho cá nhân cũng tăng lên tương ứng.

Tuy nhiên, tình hình thực hiện kế hoạch mua sắm, đầu tư xây dựng và

tiến độ giải ngân của các đơn vị dự toán thuộc Bộ Tài chính vẫn chưa đảm

bảo theo kế hoạch được phê duyệt: các tồn tại này chủ yếu do vấn đề ban

hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn các Luật

như: Luật Đấu thầu và Luật Xây dựng.. còn chưa kịp thời và chưa đồng bộ,

nên mặc dù cơ sở vật chất của các đơn vị trong nội bộ ngành Tài chính còn

66

thiếu nhiều (trang thiết bị lạc hậu, cũ kỹ; trụ sở chật hẹp, xuống cấp, nhiều nơi

không có trụ sở phải đi thuê...) nhưng việc triển khai trình tự, thủ tục đầu tư

xây dựng, mua sắm tài sản phải làm nhiều thủ tục, qua nhiều cơ quan thẩm

định, phê duyệt... do đó thường mất nhiều thời gian, nên đã làm ảnh hưởng

đến tình hình thực hiện kế hoạch và tiến độ giải ngân kinh phí.

Về công tác quyết toán kinh phí của Bộ Tài chính: do tổ chức bộ máy

của Bộ Tài chính trải rộng từ Trung ương đến cấp huyện, một số nội dung chi

đến cấp xã, phường như: lập sổ bộ thuế, ủy nhiệm thu xã phường... do đó

công tác tập hợp chứng từ, hạch toán và tổng hợp báo cáo quyết toán thường

mất nhiều thời gian, nên một số đơn vị tổng hợp báo cáo quyết toán năm gửi

về Bộ Tài chính thường chưa đáp ứng yêu cầu về tiến độ. Một số nội dung chi

được triển khai chậm, nên dẫn đến kinh phí chưa sử dụng chuyển sang năm

sau còn nhiều. Đối với công tác kiểm tra xét duyệt quyết toán, do số lượng

các đơn vị dự toán các cấp quá lớn, thời gian có hạn nên việc kiểm tra quyết

toán chưa đi sâu xem xét các chứng từ chi kinh phí.

2.2.5. Công tác kiểm tra, tự kiểm tra nội bộ về quản lý và sử dụng

kinh phí ngân sách nhà nước

Công tác kiểm tra, tự kiểm tra nội bộ về quản lý và sử dụng kinh phí

NSNN tại các cơ quan HCSN đã được Nhà nước quy định tại Thông tư số

59/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện

Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ quy định chi tiết

và hướng dẫn thi hành Luật NSNN và Quyết định số 67/2004/QĐ-BTC ngày

13/8/2004 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành Quy chế về tự kiểm

tra tài chính, kế toán tại các cơ quan, đơn vị có sử dụng kinh phí NSNN.

Để đảm bảo triển khai công tác kiểm tra, tự kiểm tra nội bộ phù hợp với

đặc điểm, đặc thù của các cơ quan HCSN trong ngành, Bộ Tài chính đã có

hướng dẫn, cụ thể hóa tại Quyết định số 1871/QĐ-BTC ngày 06/6/2005 của

67

Bộ trưởng Bộ Tài chính, theo đó: công tác kiểm tra, tự kiểm tra nội bộ được

thực hiện trong quá trình quản lý và sử dụng kinh phí các tại đơn vị. Tuỳ theo

đặc điểm hoạt động, tổ chức bộ máy, tình hình thực tế và yêu cầu quản lý cụ

thể, các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính có thể áp dụng các hình thức kiểm

tra, tự kiểm tra nội bộ phù hợp, cụ thể như sau:

2.2.5.1. Công tác tự kiểm tra nội bộ là việc các cơ quan hành chính-sự

nghiệp tiến hành tự kiểm tra tại chính đơn vị

a. Hình thức tự kiểm tra thường xuyên theo kế hoạch: được mỗi cơ

quan HCSN lập kế hoạch cho cả năm tài chính. Kế hoạch được lập bao gồm:

nội dung, phạm vi, các đối tượng và thời gian tiến hành tự kiểm tra. Hình thức

này nhằm mục đích tạo ra nề nếp, lề lối hoạt động của đơn vị.

b. Hình thức tự kiểm tra thường xuyên mọi hoạt động tài chính, kế toán

của các cơ quan HCSN: hình thức này không nhất thiết phải tổ chức các cuộc

kiểm tra mà đơn vị cần có những biện pháp kiểm tra chéo giữa các bộ phận

thực hiện công tác quản lý kinh phí, hoặc kiểm tra tuần tự giữa các khâu trong

hoạt động tại đơn vị. Hình thức này nhằm tăng cường tính tự giác của cán bộ,

công chức trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình, đồng thời kịp thời phát

hiện những sai phạm, tồn tại của các cá nhân, các khâu tổ chức công việc.

c. Hình thức tự kiểm tra đột xuất được thực hiện khi có các biến động

có tính chất bất thường và theo yêu cầu của thủ trưởng đơn vị.

2.2.5.2. Công tác kiểm tra nội bộ là việc các đơn vị cấp trên tiến hành

kiểm tra tại đơn vị cấp dưới thuộc phạm vi quản lý

Công tác kiểm tra được thực hiện bởi Tổ kiểm tra do thủ trưởng cơ

quan HCSN cấp trên, thủ trưởng đơn vị dự toán cấp trên thành lập. Tuỳ theo

yêu cầu quản lý mà người ký quyết định kiểm tra quy định những nội dung,

thời kỳ kiểm tra và thời gian kiểm tra phù hợp, đáp ứng yêu cầu quản lý. Thời

gian tiến hành kiểm tra tại mỗi đơn vị không quá 15 ngày, trường hợp phát

68

sinh những tình tiết mới cần phải kéo dài thời gian kiểm tra, Tổ trưởng Tổ

kiểm tra phải báo cáo người ký quyết định kiểm tra để phê duyệt kéo dài thời

gian kiểm tra, nhưng thời gian kiểm tra cũng chỉ được kéo dài thêm không

quá 10 ngày.

a. Hình thức kiểm tra thường xuyên theo kế hoạch được thực hiện theo

kế hoạch kiểm tra hàng năm của cơ quan quản lý cấp trên, đơn vị dự toán cấp

trên, Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt kế hoạch kiểm tra nội bộ của các đơn

vị dự toán cấp II cấp tỉnh trở lên trước 31/12 năm trước.

b. Hình thức kiểm tra đột xuất được thực hiện theo yêu cầu của thủ

trưởng đơn vị cấp trên, thủ trưởng đơn vị dự toán cấp trên

Mặc dù bao gồm đến 1.790 đơn vị dự toán trong phạm vi cả nước,

nhưng Bộ Tài chính cũng như các hệ thống trực thuộc chưa có bộ phận

chuyên trách thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, kiểm toán nội bộ, do đó việc kiểm

tra nội bộ của Bộ Tài chính với vai trò là đơn vị dự toán cấp I đối với các đơn

vị dự toán trực thuộc đều do các cán bộ làm công tác quản lý thực hiện kiêm

nhiệm, với số lượng cán bộ quản lý còn ít, nên thời gian cũng như số lượng

cán bộ dành cho công tác này còn rất hạn chế, bình quân mỗi năm Bộ Tài

chính với vai trò là đơn vị dự toán cấp I cũng chỉ thành lập các Tổ kiểm tra để

thực hiện kiểm tra nội bộ đối với khoảng 20 đơn vị dự toán cấp tỉnh trên địa

bàn từ 6-8 tỉnh, với mỗi đơn vị được kiểm tra trong thời gian khoảng 2 ngày,

việc kiểm tra nội bộ chủ yếu được tiến hành sau khi các nội dung, nghiệp vụ

kinh tế đã phát sinh hoặc đã hoàn thành và cũng không đủ thời gian để kiểm

tra, xem xét toàn bộ các hồ sơ, chứng từ hoặc thực hiện kiểm tra tại các đơn vị

dự toán trực thuộc. Việc tự kiểm tra nội bộ của các đơn vị dự toán nhìn chung

còn ít.

2.3. Đánh giá chung

2.3.1. Những thành tựu

69

Trong những năm qua, việc quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách nhà

nước tại các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính đã đạt được những thành tựu

chủ yếu sau:

- Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý và sử dụng kinh phí NSNN tại

các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính: được đào tạo, bổ sung kiến thức

thường xuyên. Công tác điều hành dự toán, Bộ Tài chính và các cơ quan

HCSN thuộc Bộ đã có điều chỉnh về cơ cấu bố trí ngân sách, hàng năm đã

dành nguồn kinh phí cho thực hiện nhiệm vụ đào tạo, nâng cao trình độ cán

bộ trên cơ sở thực hiện đề án đào tạo đến năm 2010 của Bộ Tài chính.

- Công tác hướng dẫn, cụ thể hóa các chế độ, chính sách, tiêu chuẩn

định mức: Bộ Tài chính đã tạo lập được một hệ thống các quy định về quản

lý và sử dụng kinh phí đối với các cơ quan HCSN trực thuộc. Các nội dung,

định mức của Nhà nước được Bộ Tài chính hướng dẫn, cụ thể hóa là cơ sở để

các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính xây dựng dự toán và tổ chức thực hiện

dự toán hàng năm; làm cơ sở để các cơ quan quản lý cấp trên, cơ quan tài

chính bố trí nguồn kinh phí, thực hiện thẩm tra, xét duyệt và tổng hợp quyết

toán, tạo điều kiện để thực hiện tiết kiệm, có hiệu quả trong quản lý và sử

dụng kinh phí; tạo lập một số nội dung, chỉ tiêu thống nhất, đảm bảo phù hợp

trong lĩnh vực tài chính giữa các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính và phù

hợp giữa Bộ Tài chính với các Bộ, ngành khác.

- Về công tác thực hiện dự toán: Các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài

chính, mặc dù có số lượng lớn và trải rộng trên phạm vi toàn quốc, nhưng

trong công tác thực hiện dự toán đã tuân thủ đầy đủ các quy trình, chế độ quy

định. Mặc dù chế độ cho phép một số nội dung có thể được thanh toán bằng

tiền mặt, nhưng các đơn vị đã hạn chế tối đa việc rút dự toán kinh phí NSNN

bằng tiền mặt từ Kho bạc Nhà nước, môt số đơn vị đã thực hiện chi trả tiền

lương, phụ cấp... cho các cán bộ qua tài khoản cá nhân.

70

- Về cơ chế quyết toán kinh phí: mặt tích cực là quy định rõ ràng về thời

gian, trách nhiệm của các đơn vị trong công tác tổng hợp, quyết toán kinh phí;

tạo điều kiện tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan Tài chính và các đơn vị,

các cấp quản lý và sử dụng kinh phí; tăng cường kiểm tra, giám sát của cơ

quan Tài chính, đơn vị dự toán cấp trên đối với đơn vị trực tiếp sử dụng kinh

phí. Quy định về thời gian chỉnh lý quyết toán giúp các đơn vị có điều kiện

tổng hợp, đánh giá đúng đắn kết quả sử dụng kinh phí theo các nội dung

nhiệm vụ của năm quyết toán, giảm số kinh phí chưa được quyết toán phải

chuyển sang năm sau...

- Về công tác kiểm tra, tự kiểm tra nội bộ: đã chỉ ra các tồn tại cần khắc

phục, sửa chữa; phát hiện và chấn chỉnh kịp thời các sai sót trong nghiệp vụ.

Những thông tin qua kiểm tra, tự kiểm tra và những kiến nghị đề xuất, chấn

chỉnh đã phục vụ đắc lực cho công tác quản lý, chỉ đạo của Nhà nước, của các

cơ quan quản lý cấp trên; góp phần bổ sung, hoàn thiện hệ thống cơ chế,

chính sách của Nhà nước và hệ thống các văn bản hướng dẫn, cụ thể hóa cơ

chế, chính sách phục vụ quản lý và sử dụng kinh phí của Bộ Tài chính. Bên

cạnh đó cũng đã phát hiện các việc chi tiêu vượt định mức, chi tiêu không

hiệu quả... góp phần không nhỏ vào việc chống lãng phí và thực hành tiết

kiệm.

Những thành tựu trên đã góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả sử

dụng kinh phí thuộc các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính.

2.3.2. Những hạn chế

Bên cạnh những mặt tích cực, còn một số hạn chế như sau:

- Công tác cán bộ:lực lượng cán bộ làm công tác quản lý và sử dụng

kinh phí còn chưa thực sự ổn định, có nơi còn thiếu cán bộ, có nơi cán bộ làm

kiêm nhiệm dẫn đến tính chuyên môn hoá không cao, phần lớn trình độ cán

bộ tại các cấp cơ sở chưa tương xứng với nhiệm vụ. Từ đó dẫn đến tình trạng

71

bộ máy tổ chức, biên chế chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ

chuyên môn, với quy mô ngân sách, số lượng, giá trị tài sản càng lớn, các yêu

cầu quản lý đòi hỏi chất lượng ngày càng cao, làm giảm hiệu quả của các ứng

dụng công nghệ thông tin và các trang thiết bị tiên tiến hiện đại phục vụ quản

lý...

- Định mức dự toán hiện nay của các cơ quan hành chính được tính

toán và phân bổ theo số lượng biên chế của các đơn vị, nên có một số hạn

chế: Thứ nhất, việc phân bổ ngân sách theo định mức biên chế sẽ có tác động

tiêu cực đến việc thực hiện tinh giản biên chế, khuyến khích các cơ quan

HCSN tăng số lượng biên chế so với nhiệm vụ được giao. Thứ hai, nếu chỉ áp

dụng một định mức phân bổ ngân sách theo biên chế mà chưa quan tâm đến

nhiệm vụ cụ thể của mỗi cơ quan hành chính Nhà nước sẽ dẫn đến hiện tượng

có cơ quan không đủ nguồn lực tài chính phục vụ nhiệm vụ chuyên môn.

- Quá trình thực hiện dự toán: Theo quy định tại Nghị định số

130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ và Thông tư số

03/2006/TTLT-BTC-BNV ngày 17/01/2006 của Liên tịch Bộ Tài chính-Bộ

Nội vụ, các cơ quan hành chính được Nhà nước giao biên chế và kinh phí

quản lý hành chính được thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử

dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính, kinh phí tiết kiệm được sử

dụng cho một số nội dung như: bổ sung thu nhập cho cán bộ, chi khen thưởng

cho tập thể và cá nhân có thành tích...và có thể trích một phần số tiết kiệm để

lập quỹ dự phòng ổn định thu nhập cho cán bộ. Đối với Tổng cục Thuế, Tổng

cục Hải quan là các cơ quan được thực hiện thí điểm khoán biên chế và kinh

phí hoạt động giai đoạn 2005-2007 theo các Quyết định số 107/2005/QĐ-TTg

và số 109/2005/QĐ-TTg ngày 16/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ cũng quy

định: kinh phí tiết kiệm từ các khoản chi do thực hiện khoán được sử dụng

cho một số nội dung như: bổ sung tăng cường cơ sở vật chất, bổ sung đào tạo

cán bộ, công chức... và được trích lập các quỹ phát triển hoạt động ngành và

72

quỹ dự phòng ổn định thu nhập. Đối với các cơ quan hành chính, việc thực

hiện trích quỹ từ nguồn kinh phí NSNN tiết kiệm được cũng là thực hiện

chuyển kinh phí từ tài khoản dự toán sang tài khoản tiền gửi tại Kho bạc Nhà

nước, do đó việc sử dụng các quỹ được trích lập nêu trên cũng chính là sử

dụng là kinh phí NSNN.

Theo quy định hiện nay, trong báo cáo quyết toán kinh phí hàng năm

của các cơ quan HCSN, yêu cầu tổng hợp báo cáo việc quản lý và sử dụng các

nguồn quỹ còn rất sơ sài; Kho bạc Nhà nước là cơ quan thực hiện kiểm soát

chi cũng chủ yếu chỉ kiểm soát quá trình rút dự toán, thanh toán và sử dụng

dự toán kinh phí của các đơn vị, việc kiểm soát đối với các nội dung chi từ tài

khoản tiền gửi của các đơn vị cũng chưa được quy định cụ thể. Do đó vai trò

kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước đối với việc quản lý và sử dụng

các quỹ được trích lập từ kinh phí NSNN còn còn hạn chế.

- Cơ chế quyết toán kinh phí của Nhà nước:

Thứ nhất, chế độ quy định đơn vị dự toán cấp trên kiểm tra xét duyệt

quyết toán cho đơn vị dự toán cấp dưới, cơ quan Tài chính thẩm định quyết

toán của đơn vị dự toán cấp I. Do số lượng đơn vị dự toán trực thuộc nhiều, số

quyết toán kinh phí lớn, thời gian Bộ Tài chính dành cho việc kiểm tra xét

duyệt quyết toán hàng năm tại mỗi đơn vị chỉ được từ 3-5 ngày... Do đó, công

tác xét duyệt, thẩm định quyết toán chưa thể đảm bảo đáp ứng đầy đủ các mục

tiêu, yêu cầu của công tác quản lý, nhưng đơn vị dự toán cấp trên, cơ quan Tài

chính trở thành đồng chịu trách nhiệm đối với các nội dung, mức chi của đơn

vị trực tiếp sử dụng kinh phí, dẫn tới ý thức tự chịu trách nhiệm về quyết định

chi tiêu của thủ trưởng các đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí không cao.

Thứ hai, theo chế độ quy định hiện hành, việc quyết toán kinh phí

NSNN mới mang tính chất tài chính đơn thuần, thường công tác quyết toán

kinh phí chỉ quan tâm đến việc sử dụng kinh phí thừa hay thiếu, có chấp hành

73

theo các chính sách, chế độ, định mức quy định hay không....Vì chế độ quy

định của Nhà nước cũng chưa quy định các tiêu chí đánh giá kết quả hoạt

động chuyên môn của các cơ quan HCSN theo định kỳ hàng năm; nên công

tác quyết toán kinh phí chưa có căn cứ để gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ

chuyên môn, với kết quả đạt được về các mục tiêu, kế hoạch đã đề ra, chưa có

sự quan tâm đúng mức đến kết quả đã đạt được của các đơn vị tương ứng với

số kinh phí được sử dụng và quyết toán trong năm.

Thứ ba, quy định của Nhà nước về thời gian chỉnh lý quyết toán ngân

sách hàng năm: đối với các đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí, sẽ có sự khác

nhau giữa số liệu quyết toán tại thời điểm kết thúc năm và thời điểm kết thúc

thời gian chỉnh lý quyết toán; một số nội dung được quyết toán trong niên độ

ngân sách năm trước nhưng do công việc được kết thúc vào năm sau nên thời

gian lập và phê duyệt chứng từ vào năm sau. Trong thời gian chỉnh lý quyết

toán, đơn vị phải đồng thời theo dõi, hạch toán theo hai khoản dự toán kinh

phí là dự toán năm trước chuyển sang tiếp tục sử dụng cho các nội dung chi

của năm trước và dự toán được giao của năm sau để sử dụng cho các nội dung

chi của năm sau; một số đơn vị sử dụng kinh phí ngân sách Trung ương phải

kết thúc thời gian chỉnh lý quyết toán là 31/5 năm sau mới có báo cáo quyết

toán chính thức của niên độ ngân sách năm trước. Từ đó dẫn đến phức tạp

trong tập hợp, lưu trữ chứng từ, hạch toán, theo dõi nguồn kinh phí, tổng hợp

số liệu và kéo dài thời gian tổng hợp báo cáo quyết toán kinh phí hàng năm;

phát sinh thêm một khối lượng công việc cho các đơn vị dự toán, vì ngoài

việc phải làm thủ tục chuyển số dư dự toán tại Kho bạc Nhà nước vào thời

điểm 31/12 hàng năm còn phải làm thủ tục chuyển số dư tạm ứng tại Kho bạc

Nhà nước vào thời điểm kết thúc thời gian chỉnh lý quyết toán.

Đối với các đơn vị dự toán cấp trên, quy định về thời gian chỉnh lý

quyết toán ngân sách sẽ dẫn đến phức tạp trong tổng hợp số liệu quyết toán,

kéo dài quá trình tổng hợp báo cáo quyết toán và làm chậm thời gian tổng hợp

74

báo cáo quyết toán hàng năm: bởi vì với các đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí

mặc dù có thể đã lập báo cáo quyết toán năm gửi lên đơn vị cấp trên, nhưng

khi kết thúc thời gian chỉnh lý quyết toán sẽ tiếp tục được thực hiện điều

chỉnh số liệu quyết toán và tổng hợp báo cáo quyết toán chính thức của niên

độ ngân sách năm trước để tiếp tục gửi lên đơn vị cấp trên. Cụ thể như đối với

các Bộ, ngành ở Trung ương: sau thời gian chỉnh lý quyết toán là ngày 31/5

năm sau, các đơn vị dự toán trực thuộc sẽ tiếp tục được điều chỉnh số liệu, lập

báo cáo quyết toán chính thức của niên độ ngân sách năm trước, trường hợp

Bộ, ngành có nhiều cấp, nhiều đơn vị dự toán như Bộ Tài chính và các đơn vị

dự toán đều thực hiện điều chỉnh số liệu quyết toán sau khi kết thúc thời gian

chỉnh lý quyết toán thì thời gian từ khi 1.637 đơn vị dự toán cấp III trực tiếp

sử dụng kinh phí (trong đó có 1.413 đơn vị dự toán tại cấp huyện) thực hiện

điều chỉnh số liệu, lập báo cáo quyết toán chính thức của niên độ ngân sách,

tổng hợp qua 147 đơn vị dự toán cấp II cấp tỉnh và 5 đơn vị dự toán cấp II cấp

Trung ương cho đến khi đơn vị dự toán cấp I là Bộ Tài chính thực hiện tổng

hợp báo cáo quyết toán niên độ ngân sách để gửi Cơ quan Tài chính chỉ được

tiến hành trong thời gian từ từ 01/6 đến 30/9 năm sau. Như vậy thực chất tại

tất cả các đơn vị dự toán các cấp, để có số liệu quyết toán chính thức làm căn

cứ tổng hợp báo cáo quyết toán hàng năm thì phải tiến hành sau thời gian

chỉnh lý quyết toán chứ không phải từ ngày 01/01 của năm sau.

Đối với các Cơ quan Tài chính, Kho bạc Nhà nước cũng phát sinh thêm

một khối lượng công việc, vì ngoài việc phải làm thủ tục, phê duyệt chuyển

số dư dự toán tại Kho bạc Nhà nước vào thời điểm 13/12 hàng năm sang năm

sau tiếp tục sử dụng, còn phải làm thủ tục, phê duyệt cho các đơn vị dự toán

được chuyển số dư tạm ứng kinh phí của Kho bạc Nhà nước sang năm sau

tiếp tục sử dụng tại thời điểm kết thúc thời gian chỉnh lý quyết toán niên độ

ngân sách.

- Công tác kiểm tra, tự kiểm tra nội bộ:

75

Thứ nhất, về tổ chức bộ máy: hiện nay tại Bộ Tài chính cũng như tại

các đơn vị dự toán các cấp chưa có một bộ phận hoặc cán bộ chuyên trách

làm công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ. Số lượng cán bộ, thời gian giành cho

công tác kiểm tra nội bộ còn rất ít, nên phần lớn các kiến nghị còn chưa mang

tính tổng quát, việc xử lý trách nhiệm đối với cá nhân sai phạm còn chung

chung; việc đề xuất bổ sung, sửa đổi cơ chế, chính sách còn ít.

Bên cạnh đó, số lượng các đơn vị dự toán được kiểm tra nội bộ còn rất

ít, như đã phân tích ở trên. Trong giai đoạn vừa qua Bộ Tài chính với vai trò

là đơn vị dự toán cấp I mỗi năm chỉ kiểm tra nội bộ đối với khoảng 20 đơn vị

dự toán cấp tỉnh trên địa bàn từ 6 - 8 tỉnh trên tổng số 1.790 đơn vị dự toán

trực thuộc, nếu chỉ tính đối với các đơn vị dự toán cấp tỉnh và với kế hoạch

kiểm tra như hiện nay thì cũng phải từ 8-10 năm mới có điều kiện tiến hành

kiểm tra nội bộ lần thứ 2 đối với đơn vị đó, chưa tính đến việc kiểm tra nội bộ

đối với 1.413 đơn vị dự toán cấp huyện và các đơn vị dự toán cấp Trung ương

trực thuộc.

Thứ hai, về tổ chức thực hiện kiểm tra nội bộ: thường tổ chức thành Tổ

kiểm tra, hoạt động kiểm tra nội bộ theo mô hình Tổ có ưu điểm là phát huy

được đầy đủ trí tuệ của từng cán bộ, có sự kèm cặp, hướng dẫn giữa cán bộ cũ

và cán bộ mới, song nó cũng có hạn chế về chế độ trách nhiệm, hạn chế về

phát huy tính sáng tạo, độc lập của từng cán bộ, công chức được giao nhiệm

vụ kiểm tra.

Thứ ba, về nội dung kiểm tra, tự kiểm tra nội bộ: việc kiểm tra, tự kiểm

tra nội bộ phải được tiến hành cả trước, trong và sau quá trình hoạt động quản

lý và sử dụng kinh phí.

Như trên đã phân tích ở trên, công tác kiểm tra, tự kiểm tra nội bộ mới

được thực hiện sau khi những hoạt động tài chính, sử dụng kinh phí đã kết

thúc hoặc niên độ ngân sách đã kết thúc. Mặc dù khối lượng công việc phải

76

kiểm tra nhiều, nhưng khi đó mọi hoạt động đã diễn ra, việc hạch toán đã

được phản ánh đầy đủ trên sổ sách, chứng từ kế toán, do đó các tồn tại dễ bị

phát hiện và thuận lợi trong việc đưa ra kết luận đúng, sai, nhưng chưa có tác

dụng ngăn chặn vì những tồn tại, sai phạm đã diễn ra hoặc đã hoàn thành;

điều này dẫn đến hạn chế là chưa phát hiện, ngăn chặn kịp thời các tồn tại

trong quản lý trước chúng khi xảy ra.

Thứ tư, việc tự kiểm tra nội bộ của các đơn vị dự toán nhìn chung còn

ít. Nguyên nhân: đây là quy định mới đối với các đơn vị dự toán, nên hàng

năm các đơn vị chưa tập trung đến việc lập kế hoạch và thực hiện công tác tự

kiểm tra nội bộ tại chính đơn vị. Bên cạnh đó còn có nguyên nhân tại các đơn

vị dự toán chỉ có một vài cán bộ làm công tác quản lý kinh phí, nên chưa có

đủ số lượng cán bộ để thực hiện kiểm tra chéo giữa các bộ phận, giữa các cán

bộ làm công tác quản lý kinh phí tại đơn vị.

Những hạn chế trên đây đòi hỏi phải được khắc phục trong thời gian tới

nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý và sử dụng kinh phí NSNN tại các

cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính.

77

CHƢƠNG 3

CÁC QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC

QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG KINH PHÍ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC TẠI CÁC

CƠ QUAN HÀNH CHÍNH - SỰ NGHIỆP

3.1. Mục tiêu chiến lƣợc tài chính, định hƣớng phát triển công tác quản

lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nƣớc của Bộ Tài chính đến năm

2010 và tầm nhìn đến năm 2015

Với mục tiêu tổng quát về định hướng phát triển ngành Tài chính Việt

Nam đến năm 2010 theo tinh thần Quyết định số 211/2004/QĐ-TTg ngày

14/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ là: bảo đảm tiềm lực tài chính quốc gia

đủ mạnh để chủ động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả và bền

vững, có khả năng kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ, giá cả và thị trường; hệ

thống chính sách động viên, phân phối tài chính có hiệu lực cao, đảm bảo

công bằng, năng động, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng

XHCN, có tác động mở đường khai thông các nguồn nội lực, thu hút ngoại

lực và sử dụng hiệu quả toàn bộ các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội

của đất nước; xây dựng nền tài chính quốc gia lành mạnh, công khai, minh

bạch, dân chủ, được quản lý và kiểm toán chặt chẽ, làm cho tài chính trở

thành thước đo hiệu quả mọi hoạt động kinh tế, là động lực thúc đẩy phát

triển kinh tế - xã hội; năng lực, hiệu lực quản lý Nhà nước về tài chính được

tăng cường và đổi mới trên cơ sở đẩy mạnh cải cách hành chính, hiện đại hoá

công cụ và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý tài chính; củng cố và

nâng cao vị thế tài chính Việt Nam trong quan hệ quốc tế trên cơ sở bảo đảm

độc lập tự chủ và an ninh tài chính quốc gia.

Từ những mục tiêu tổng quát nêu trên đã đặt cho công tác quản lý và sử

dụng kinh phí NSNN của Bộ Tài chính giai đoạn từ nay đến năm 2010 và định

hướng đến năm 2015 phải được đổi mới cơ bản cả về chất và lượng, nhận thức

được đầy đủ vai trò của nhiệm vụ điều hành và quản lý tài chính ngân sách

78

trong thực hiện các chiến lược về cơ sở vật chất và chiến lược đào tạo nguồn

nhân lực nhằm tạo động lực cho thực hiện thắng lợi mục tiêu hiện đại hóa

ngành từ nay đến 2010 và tạo tiền đề vững chắc cho giai đoạn 2010-2015.

Giai đoạn 2007-2015 ngân sách của Bộ Tài chính cũng như của các cơ quan

HCSN thuộc Bộ Tài chính phải xây dựng một cơ cấu chi hợp lý, phù hợp mục

tiêu của giai đoạn, dự toán và kế hoạch của mỗi năm, của từng đơn vị phải

được đặt trong kế hoạch tổng thể của cả giai đoạn 2006-2010 và theo định

hướng đến năm 2015, tính toán đầy đủ các nhiệm vụ chi theo lộ trình từng

chương trình, đề án đã được Bộ duyệt như: Chiến lược cải cách Thuế đến năm

2010; Kế hoạch cải cách, phát triển và hiện đại hoá ngành Hải quan; Dự án

hiện đại hoá đến 2010 của các hệ thống Kho bạc Nhà nước, Dự trữ Quốc gia.

Đảm bảo đủ nguồn cho duy trì và phát triển thị trường tài chính, các Trung

tâm giao dịch chứng khoán và nâng cấp các Trung tâm thành Sở giao dịch

chứng khoán, nâng cấp mở rộng quy mô trụ sở của một số trường đào tạo phù

hợp với định hướng quy hoạch đào tạo của Bộ Tài chính, tạo điều kiện về cơ

sở vật chất cho thực hiện chiến lược đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức thực

sự đáp ứng yêu cầu quản lý nền tài chính trong điều kiện hội nhập khu vực và

thế giới.

Để đạt được mục tiêu tổng quát của Bộ Tài chính, cần phải có sự phối

hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Tài chính và các đơn vị chức

năng của Nhà nước trong quá trình triển khai thực hiện theo các mục tiêu,

định hướng về công tác quản lý và sử dụng kinh phí cụ thể như sau:

3.1.1. Hướng dẫn, cụ thể hoá các chính sách, chế độ, định mức trong

quản lý và sử dụng kinh phí đảm bảo đồng bộ, đầy đủ và phù hợp với các

cơ quan hành chính - sự nghiệp thuộc Bộ Tài chính

- Tiếp tục rà soát để hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính, tài sản theo

quy định các bộ Luật có liên quan (Luật NSNN, Luật Kế toán, Luật Xây

79

dựng, công khai ngân sách, quy chế dân chủ cơ sở...) với mục tiêu phân cấp rõ

thẩm quyền từng cấp quản lý, từng đơn vị, xác định rõ trách nhiệm, trong tổ

chức thực hiện, chế độ báo cáo, phù hợp với đặc thù của tổ chức bộ máy quản

lý và sử dụng kinh phí NSNN của Bộ Tài chính, tạo điều kiện cho các đơn vị

chủ động triển khai nhiệm vụ, nâng cao tính tự chủ và trách nhiệm trong việc

quản lý, sử dụng kinh phí, tài sản Nhà nước và các nguồn kinh phí hợp pháp

khác.

- Tiếp tục nghiên cứu xây dựng đồng bộ và đầy đủ các định mức, tiêu

chuẩn về sử dụng kinh phí NSNN, về trang bị và sử dụng tài sản Nhà nước

trên cơ sở các quy định của Nhà nước nhằm thể chế cho phù hợp với hoạt

động đặc thù đa ngành đa lĩnh vực của Bộ Tài chính, với mục tiêu sử dụng

nguồn kinh phí hiệu quả và tiết kiệm nhất.

- Xây dựng và hoàn thiện các quy trình, thủ tục trong triển khai từng

nhiệm vụ quản lý và sử dụng kinh phí NSNN theo hướng gọn nhẹ, rõ ràng về

thẩm quyền, nhiệm vụ và trách nhiệm, giảm các thủ tục hành chính trung gian

không cần thiết, đảm bảo yêu cầu quản lý trong điều kiện có nhiều thay đổi

của cơ chế quản lý tài chính và các điều kiện về hiện đại hoá công sở.

3.1.2. Đẩy mạnh thực hiện cải cách hành chính theo hướng mở rộng

phân cấp, giao quyền chủ động cho các đơn vị trong tổ chức thực hiện

nhiệm vụ trên cơ sở xây dựng quy trình quản lý tài chính, đầu tư và quản lý

tài sản đảm bảo tính minh bạch, công khai

- Thực hiện khoán chi hành chính và giao quyền tự chủ cho tất cả các

cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính theo quy định của Nhà nước, đảm bảo

hoàn thành nhiệm vụ khoán chi cho tất cả các cơ quan hành chính, đơn vị sự

nghiệp thuộc Bộ Tài chính đã ổn định tổ chức bộ máy và chức năng nhiệm vụ,

nhằm phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo trong quản lý, sử dụng

kinh phí NSNN và nguồn tài chính tại các đơn vị.

80

- Đối với các đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ Tài chính: tiếp tục đổi mới cơ

chế quản lý theo hướng tự chủ mạnh mẽ hơn cho các đơn vị sự nghiệp, nhằm

tạo điều kiện mở rộng hoạt động sự nghiệp, tăng cường chất lượng dịch vụ để

tăng thu, giảm dần và tiến tới xoá bỏ cơ chế bao cấp từ ngân sách.

- Xây dựng quy trình lập, phân bổ dự toán cho các đơn vị theo hướng

đồng bộ giữa các nội dung: kế hoạch tài chính, kế hoạch đầu tư xây dựng và

kế hoạch trang bị tài sản. Nâng cao chất lượng công tác dự toán, coi công tác

dự toán là khâu then chốt trong qúa trình quản lý và điều hành kinh phí; xây

dựng kế hoạch, hướng dẫn và triển khai dự toán từ các đơn vị trực tiếp sử

dụng kinh phí, đảm bảo tính khả thi cao, hạn chế tối đa việc điều chỉnh dự

toán của các đơn vị.

- Mỗi cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính phải chủ động xây dựng kế

hoạch tài chính, đầu tư và trang bị tài sản theo chiến lược hiện đại hoá cơ sở

vật chất, theo kế hoạch dài hạn từ 3-5 năm, đảm bảo tới 2010 các cơ quan

HCSN về cơ bản có trụ sở tương đối ổn định và các điều kiện về trang thiết bị

làm việc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

- Xây dựng hệ thống chế độ thông tin báo cáo thống nhất và ổn định

trong các đơn vị dự toán các cấp, các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính,

nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu công tác quản lý tài chính chung của Nhà

nước và của Bộ Tài chính, trên cơ sở đó xây dựng các chương trình phần

mềm quản lý tài chính, tài sản... của Bộ Tài chính đảm bảo thống nhất, tiện

ích, hỗ trợ đắc lực cho các mục tiêu trong công tác quản lý và sử dụng kinh

phí của Bộ Tài chính.

- Đổi mới, cải cách phương thức và quy trình trong quản lý tài chính

ngân sách theo hướng các cơ quan HCSN trực tiếp sử dụng kinh phí thay đổi

trình tự báo cáo báo từ hình thức văn bản giấy tờ sang hình thức trao đổi bằng

hệ thống công nghệ thông tin, chữ ký điện tử, nhằm đáp ứng tiến độ và yêu

81

cầu của công tác quản lý, điều hành, kiểm tra, kiểm soát của các đơn vị dự

toán cấp trên và phù hợp với quy mô tổ chức bộ máy của Bộ Tài chính.

- Việc cải cách phương thức làm việc phải được gắn liền với công tác

phân cấp cho từng cấp quản lý, từng đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí về thẩm

quyền, trách nhiệm, tổ chức thực hiện, chế độ báo cáo, chế độ công khai... tạo

điều kiện cho các đơn vị chủ động triển khai nhiệm vụ, nâng cao tính tự chủ

và tự chịu trách nhiệm trong việc quản lý, sử dụng kinh phí và tài sản Nhà

nước, đảm bảo phù hợp với đặc thù tổ chức bộ máy quản lý và sử dụng kinh

phí của Bộ Tài chính.

3.1.3. Hoạch định và phát triển một cách mạnh mẽ và toàn diện việc

ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý và sử dụng kinh phí

nhằm hỗ trợ có hiệu quả nhất cho việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn

của các đơn vị

- Thực hiện mục tiêu chiến lược đến năm 2010 và định hướng đến năm

2015, xây dựng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại được tích hợp thống

nhất từ Trung ương đến địa phương, đảm bảo tin học hoá cơ bản các quy trình

nghiệp vụ; hỗ trợ công tác chỉ đạo, điều hành và hoạch định chính sách; cung

cấp số liệu kịp thời, đầy đủ, chính xác cho công tác thống kê và phân tích,

phấn đấu đến năm 2010, hệ thống thông tin phục vụ quản lý và sử dụng kinh

phí của Bộ Tài chính đáp ứng được yêu cầu điều hành tập trung.

- Đảm bảo toàn bộ các quy trình nghiệp vụ của các cơ quan HCSN

thuộc Bộ Tài chính, từ Trung ương đến địa phương được tin học hoá đáp ứng

các yêu cầu quản lý. Đảm bảo 100% các yêu cầu quản lý nghiệp vụ của các

đơn vị, tổ chức thuộc Bộ Tài chính được áp dụng công nghệ thông tin trong

việc triển khai thực hiện, các hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin phải

được xây dựng tổng thể, kết nối cung cấp và khai thác, đối chiếu với các

82

ngành kinh tế - xã hội trong nước; được xây dựng theo chuẩn quốc tế, có đủ

điều kiện trong việc hội nhập trong khu vực cũng như trên toàn thế giới.

- Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý và sử dụng

kinh phí của các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính phải được xây dựng theo

quy trình khép kín về nghiệp vụ: công tác dự toán, công tác triển khai dự toán,

công tác quyết toán chi kinh phí NSNN, công tác quản lý tài sản, kiểm tra và

đối chiếu các số liệu trong từng lĩnh vực quản lý. Khép kín từ cơ quan quản lý

Tài chính của nhà nước, cơ quan kiểm soát chi đến các đơn vị trực tiếp sử

dụng kinh phí NSNN thông qua các cấp quản lý từ đơn vị dự toán cấp I đến

đơn vị dự toán cấp III.

- Do đặc điểm tổ chức bộ máy của các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài

chính trải trong phạm vi từ Trung ương đến các huyện, một số địa phương

còn đến cấp xã, phường. Do đó, việc cải cách và áp dụng công nghệ thông tin

trong quá trình quản lý và sử dụng kinh phí, chi tiêu nội bộ phải đáp ứng yêu

cầu về chất lượng cũng như thời gian triển khai thực hiện và thời gian tổng

hợp báo cáo từ các đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí, qua các cấp trung gian

lên đến đơn vị dự toán cấp I của Bộ Tài chính.

3.1.4. Triệt để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng

kinh phí; thực hiện nghiêm túc các quy định về công khai trong các lĩnh

vực quản lý; nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, tự kiểm tra nội bộ

trong các lĩnh vực quản lý

- Trong điều hành, bố trí kinh phí của các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài

chính phải quán triệt sâu sắc Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Thực

hiện theo thứ tự ưu tiên cho các nhiệm vụ trọng tâm và các đề án hiện đại hoá;

bố trí đồng bộ các trang thiết bị để đảm bảo phát huy hiệu quả của các dự án

đầu tư; khẩn trương đưa các công trình xây dựng vào sử dụng, tránh lãng phí

trong đầu tư. Kiên quyết không bố trí cho các nhiệm vụ chi chưa thực sự cần

83

thiết, không mua sắm các hàng hoá đắt tiền, các tài sản không phục vụ trực

tiếp cho nhiệm vụ chuyên môn, đặc biệt trong chi tiêu hành chính phải triệt để

tiết kiệm trong các nội dung: hội nghị, hội thảo, tiếp khách... Nghiêm cấm

việc sử dụng kinh phí NSNN cho các hoạt động giao lưu giữa các đơn vị

không vì mục tiêu nhiệm vụ...

- Đưa công tác kiểm tra và tự kiểm tra nội bộ vào nề nếp, các đơn vị

phải xác định đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác quản

lý và sử dụng kinh phí của Bộ Tài chính. Các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài

chính nghiêm túc triển khai thực hiện theo đúng quy định, hướng dẫn của Bộ

Tài chính về công tác kiểm tra và tự kiểm tra nội bộ trong quản lý và sử dụng

kinh phí, qua công tác kiểm tra, tự kiểm tra nội bộ phải có đề xuất xử lý

nghiêm túc trách nhiệm cá nhân theo đúng quy định. Đồng thời tổ chức rút

kinh nghiệm, đánh giá những tồn tại, tìm ra nguyên nhân và đưa ra phương

hướng, biện pháp khắc phục.

- Xây dựng các chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động quản lý, đánh

giá hiệu quả của việc sử dụng nguồn kinh phí trong việc thực hiện các nhiệm

vụ chuyên môn của các đơn vị thông qua việc chấp hành dự toán, chấp hành

các cơ chế, chính sách; quản lý và sử dụng tài sản, đầu tư và xây dựng của các

cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính

- Thực hiện nghiêm túc quy định về công khai trong quản lý và sử

dụng kinh phí NSNN và các nguồn kinh phí hợp pháp khác; công khai các

quy trình, hồ sơ cần thiết trong quá trình xử lý công vụ, nhiệm vụ thuộc chức

năng, thẩm quyền theo từng cấp, từng cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính.

3.1.5. Kiện toàn và ổn định bộ máy, tăng cường công tác đào tạo,

nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ, công chức làm nhiệm vụ quản

lý kinh phí tại các đơn vị thuộc Bộ Tài chính

84

- Trên cơ sở định hướng phát triển tới năm 2010 và tầm nhìn đến năm

2015 của Bộ Tài chính, tập trung kiện toàn bộ máy quản lý kinh phí tại các cơ

quan HCSN thuộc Bộ Tài chính từ Trung ương đến địa phương đảm bảo ổn

định và đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ quản lý kinh phí theo quy định của

pháp luật và đáp ứng mục tiêu, yêu cầu hiện đại hóa.

- Kiện toàn và tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý kinh

phí. Xây dựng kế hoạch nâng cao trình độ cán bộ, công chức làm nhiệm vụ

quản lý kinh phí, quản lý chi tiêu nội bộ đảm bảo đáp ứng được yêu cầu theo

quy định của pháp luật và mục tiêu, yêu cầu hiện đại hóa. Về trình độ chuyên

môn nghiệp vụ cán bộ làm công tác quản lý kinh phí tại các cơ quan HCSN

thuộc Bộ Tài chính: phấn đấu đến năm 2010, toàn bộ cán bộ phải có trình độ

từ Trung cấp trở lên, từ 50- 60% cán bộ có trình độ đại học, 100% cán bộ

được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức sử dụng tin học, cán bộ phụ trách công tác

kế toán của toàn bộ các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính phải có trình độ

đại học; đến năm 2015, toàn bộ cán bộ phải có trình độ đại học trở lên.

3.2. Những quan điểm hoàn thiện công tác quản lý và sử dụng kinh phí

ngân sách nhà nƣớc tại các cơ quan hành chính - sự nghiệp thuộc Bộ Tài

chính cũng nhƣ tại các cơ quan hành chính - sự nghiệp của nƣớc ta

3.2.1. Thực hiện đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý phù hợp với sự

phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phù hợp với tổ chức bộ máy và

đồng bộ với chủ trương cải cách hành chính

Đổi mới, hoàn thiện cơ chế cơ chế quản lý và sử dụng kinh phí NSNN

tại các cơ quan HCSN phải xuất phát từ thực tiễn kinh tế - xã hội và nền hành

chính nước ta; đảm bảo phù hợp với hệ thống luật pháp, hệ thống cơ chế

chính sách quản lý kinh tế - xã hội; phù hợp với đường lối phát triển của đất

nước trong từng giai đoạn của nền kinh tế thị trường đang trong quá trình hội

85

nhập quốc tế. Mặt khác, qua quản lý và sử dụng kinh phí NSNN phải góp

phần bổ sung, hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế quản lý kinh tế - xã hội.

Đổi mới và hoàn thiện cơ chế cơ chế quản lý và sử dụng kinh phí

NSNN tại các cơ quan HCSN phải gắn liền với cải cách, thể chế hóa các thủ

tục hành chính; rà soát chức năng, nhiệm vụ của hệ thống các cơ quan HCSN

đảm bảo tránh chồng chéo; bố trí, sắp xếp lại hệ thống các cơ quan HCSN

theo hướng thu gọn tổ chức bộ máy, quản lý đa ngành, đa lĩnh vực và tiếp tục

thực hiện tinh giản biên chế.

3.2.2. Đầu tư, bố trí kinh phí ngân sách nhà nước phải xuất phát từ

mục tiêu hoàn thành chức năng, nhiệm vụ chuyên môn của các cơ quan

hành chính - sự nghiệp

Kinh phí NSNN là nguồn lực chủ đạo của các cơ quan HCSN để thực

hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước. Đầu tư kinh phí NSNN cho lĩnh

vực HCSN cũng chính là đầu tư nguồn lực cho tăng cường hiệu lực, hiệu quả

của bộ máy quản lý nhà nước, điều này giữ một vai trò hết sức quan trọng

trong thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước và thúc đẩy sự phát triển

kinh tế-xã hội.

Để đảm bảo cho các cơ quan HCSN hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên

môn, ngoài những yếu tố như: cơ chế, chính sách, con người... thì kinh phí

giữ một vai trò vô cùng quan trọng và có mối quan hệ mật thiết với việc thực

hiện nhiệm vụ. Không thể có một cơ quan HCSN cũng như một tổ chức bộ

máy thực hiện chức năng quản lý Nhà nước hoạt động có hiệu quả trong điều

kiện nguồn kinh phí dành cho nó còn quá thiếu thốn, trang thiết bị lạc hậu

không đáp được yêu cầu của nhiệm vụ chuyên môn.

3.2.3. Quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước tại các cơ

quan hành chính - sự nghiệp phải quán triệt quan điểm tiết kiệm và đánh

giá hiệu quả thông qua kết quả đầu ra

86

Việc sử dụng kinh phí NSNN mặc dù được thực hiện qua nhiều cấp,

nhiều cơ quan quản lý, tuy nhiên vẫn có những kẽ hở dẫn đến các hiện tượng

như chi tiêu không đúng nội dung, mục đích, chi tiêu kém hiệu quả... Thực

hành tiết kiệm trong quản lý và sử dụng kinh phí tại các cơ quan HCSN

không có nghĩa là cắt giảm kinh phí, cắt giảm nội dung chi không tính toán

đến chức năng, nhiệm vụ và hoạt động chuyên môn của các cơ quan; việc tiết

kiệm kinh phí phải trên cơ sở các chế độ, định mức quy định, phù hợp với các

lĩnh vực, nhiệm vụ chuyên môn nghiệp vụ của mỗi cơ quan HCSN và phù

hợp với điều kiện địa lý, tự nhiên của mỗi vùng, khu vực...

Về đánh giá hiệu quả quản lý và sử dụng kinh phí của các cơ quan

HCSN, ngoài việc thực hiện theo các chế độ, định mức quy định, phải gắn với

kết quả tổ chức triển khai thực hiện các nội dung, nhiệm vụ, kết quả thực hiện

các mục tiêu, hiệu quả đạt được của mỗi cơ quan cũng như của mỗi lĩnh vực

HCSN đã đạt được trong từng giai đoạn nhất định.

3.3. Các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý và sử dụng kinh phí ngân

sách nhà nƣớc tại các cơ quan hành chính - sự nghiệp thuộc Bộ Tài chính

cũng nhƣ tại các cơ quan hành chính - sự nghiệp của nƣớc ta

3.3.1. Các giải pháp đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước

3.3.1.1. Đổi mới, điều chỉnh cơ cấu chi kinh phí ngân sách nhà nước

trong lĩnh vực hành chính sự nghiệp

Thực hiện đổi mới, điều chỉnh cơ cấu chi kinh phí NSNN trong lĩnh

vực HCSN để phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước

trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng trong việc sử dụng hợp lý,

có hiệu quả nguồn lực tài chính của đất nước dành cho mỗi cơ quan HCSN.

Nguyên tắc cơ bản như sau: Nhà nước từng bước trang bị đầy đủ cơ sở

vật chất cho các cơ quan hành chính trong việc thực hiện nhiệm vụ chuyên

môn, đảm bảo đời sống vật chất cho đội ngũ cán bộ, công chức có thể yên tâm

87

cống hiến, toàn tâm, toàn ý với nhiệm vụ được giao. Đối với các đơn vị sự

nghiệp công lập: phải giảm dần kinh phí NSNN; đồng thời thông qua cơ chế,

chính sách để tạo điều kiện, khuyến khích những nhân tố tích cực của thị

trường trong tạo lập nguồn lực tài chính và điều chỉnh, giảm thiểu những

khiếm khuyết của thị trường trong các lĩnh vực dịch vụ như y tế, giáo dục...

trên cơ sở đó thúc đẩy sự phát triển của các ngành này theo định hướng của

Nhà nước.

Qua phân tích các hạn chế về quan hệ, tính đồng bộ giữa dự toán chi

thường xuyên và chi đầu tư phát triển tại chương 2, để hạn chế và khắc phục

được điều này, trong phân bổ kinh phí NSNN cho lĩnh vực HCSN, Nhà nước

cần thực hiện điều chỉnh cơ cấu chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên

theo một số biện pháp:

- Việc bố trí dự toán kinh phí NSNN cho đầu tư phát triển và cho chi

thường xuyên của các cơ quan HCSN nên thay đổi theo hướng tập trung vào

một quy trình xây dựng dự toán NSNN thống nhất đối với các cơ quan

HCSN. Nhà nước nên cân đối, bố trí tổng dự toán kinh phí NSNN hàng năm

cho mỗi cơ quan HCSN, bao gồm: chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên,

trên cơ sở đó mỗi cơ quan HCSN sẽ được chủ động phân phối, xác định cơ

cấu chi giữa dự toán chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên phù hợp với

điều kiện, nhiệm vụ của mỗi đơn vị.

- Cùng với việc tập trung vào một quy trình xây dựng dự toán nêu trên,

nên thay đổi nhiệm vụ của các cơ quan quản lý Nhà nước trong công tác xây

dựng dự toán kinh phí cho đầu tư phát triển và chi thường xuyên trong lĩnh

vực HCSN theo hướng tập trung vào một đầu mối là Cơ quan Tài chính, qua

đó sẽ đơn giản về thủ tục, tiết kiệm về thời gian xây dựng dự toán kinh phí

NSNN; đồng thời việc bố trí, tính toán và xác định ảnh hưởng của kinh phí

88

NSNN trong lĩnh vực HCSN cho đầu tư phát triển và chi thường xuyên sẽ có

hiệu quả cao hơn.

- Trong quá trình cân đối, phân bổ kinh phí NSNN chi thường xuyên

cho mỗi cơ quan HCSN cần lưu ý tới việc đưa các trang thiết bị, công trình

xây dựng đi vào hoạt động. Quá trình tính toán, phân bổ dự toán kinh phí

NSNN cho mỗi cơ quan HCSN, bên cạnh việc xác định nhu cầu kinh phí cho

chi thường xuyên như: thanh toán cá nhân, nhiệm vụ chuyên môn... theo chế

độ quy định cần tính toán đầy đủ các nhân tố làm tăng nhu cầu chi thường

xuyên như: các trang thiết bị, công trình xây dựng hoàn thành sẽ đưa vào sử

dụng trong năm kế hoạch.

3.3.1.2. Đổi mới phương pháp xây dựng định mức phân bổ ngân sách

nhà nước trong lĩnh vực hành chính - sự nghiệp

Mỗi tiêu thức phân bổ kinh phí NSNN đều có những ưu điểm, nhược

điểm khác nhau, vì vậy việc lựa chọn tiêu thức phân bổ là rất quan trọng để

phát huy các ưu điểm, hạn chế các nhược điểm, đảm bảo tiết kiệm kinh phí và

giúp cho các cơ quan hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn. Định mức phân bổ

NSNN trong lĩnh vực hành chính phải đáp ứng được một số yêu cầu sau:

- Phải phù hợp với khả năng của NSNN, việc phân bổ, sử dụng định

mức không được vượt quá khả năng NSNN dành cho ngành, lĩnh vực.

- Xuất phát từ mục tiêu, yêu cầu của NSNN dành cho lĩnh vực HCSN;

từ chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan hành chính, định mức phân bổ

NSNN đối với từng lĩnh vực hành chính, từng loại hình cơ quan hành chính

cũng cần có sự khác nhau để đảm bảo phù hợp với quy mô, nhiệm vụ quản lý

Nhà nước, đảm bảo mỗi cơ quan hành chính đều có mức kinh phí NSNN tối

thiểu, cần thiết trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn.

Do đó định mức phân bổ NSNN đối với các cơ quan hành chính Nhà

nước, ngoài căn cứ theo biên chế cần phải có thêm các căn cứ khác như: chức

89

năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước được giao, quy mô, cơ cấu tổ chức bộ máy

của mỗi cơ quan; hệ thống các công sở, trang thiết bị được trang bị...

3.3.1.3. Đổi mới quy trình lập, phân bổ, quyết toán kinh phí ngân sách

nhà nước đối với các cơ quan hành chính - sự nghiệp

+ Việc lập dự toán kinh phí ngân sách nhà nƣớc

Như đã phân tích tại chương 2, công tác lập dự toán kinh phí NSNN

của các cơ quan HCSN nói chung chưa được coi trọng đúng mức, chất lượng

dự toán chưa cao, có nhiều nguyên nhân làm hạn chế chất lượng dự toán,

trong đó một nguyên nhân cơ bản là thời gian lập dự toán của các đơn vị còn

hạn hẹp, đặc biệt là đối với các Bộ, ngành có cơ cấu tổ chức và các cấp dự

toán từ Trung ương đến cấp huyện như Bộ Tài chính.

Để giải quyết hạn chế này, qua kinh nghiệm của một số nước và thực tế

công tác lập dự toán của các cơ quan HCSN hiện nay, nên sửa đổi quy định về

lập dự toán kinh phí NSNN theo hướng kéo dài thời gian lập dự toán của các

của các cơ quan HCSN: Cơ quan Tài chính hướng dẫn lập dự toán, thông báo

số kiểm tra dự toán cho các Bộ, ngành ngay từ đầu năm trước; trong 6 tháng

đầu năm trước là thời gian để các đơn vị lập dự toán và các Bộ, ngành với vai

trò là đơn vị dự toán cấp I thực hiện công tác thẩm định, tổng hợp dự toán

năm sau của toàn bộ các cơ quan HCSN trực thuộc; đến đầu tháng 7 năm

trước các các Bộ, ngành sẽ gửi dự toán của Bộ, ngành cho Cơ quan Tài chính

theo quy định.

Để nâng cao chất lượng, đảm bảo tính khả thi của dự toán, các cơ quan

HCSN lập dự toán kinh phí phải gắn kết chặt chẽ với Kế hoạch từ 3 - 5 năm

về sử dụng kinh phí đã được phê duyệt và coi đây là một yêu cầu bắt buộc

trong quy trình lập dự toán và hồ sơ dự toán của các cơ quan HCSN. Khi đó

đơn vị dự toán cấp trên, Cơ quan Tài chính thẩm định, bố trí dự toán kinh phí

90

hàng năm cho các cơ quan HCSN trên cơ sở Kế hoạch sử dụng kinh phí được

phê duyệt.

+ Việc phân bổ và giao dự toán kinh phí ngân sách nhà nƣớc

Đối với các cơ quan HCSN có nhiều cấp, bao gồm từ cấp Trung ương,

cấp tỉnh, cấp huyện. Nếu thực hiện phân bổ và giao dự toán theo tuần tự qua

các cấp trung gian sẽ dẫn tới các hạn chế như đã phân tích tại chương 2.

Do đó không nên quy định trong một số trường hợp đơn vị dự toán cấp

I phân bổ, giao dự toán cho đơn vị dự toán cấp II và uỷ quyền cho đơn vị này

tiếp tục phân bổ, giao dự toán cho đơn vị dự toán cấp III trực tiếp sử dụng

kinh phí NSNN. Nên quy định bắt buộc đơn vị dự toán cấp I tiến hành phân

bổ và giao dự toán kinh phí NSNN cho các đơn vị dự toán cấp III trực tiếp sử

dụng kinh phí thuộc phạm vi quản lý.

+ Việc quyết toán kinh phí ngân sách nhà nƣớc

Thực hiện theo chế độ quy định hiện hành là đơn vị dự toán cấp trên

phê duyệt quyết toán của đơn vị dự toán cấp dưới, cơ quan Tài chính thẩm

định quyết toán của đơn vị sử dụng kinh phí NSNN sẽ dẫn tới các hạn chế

như đã phân tích tại chương 2. Để khắc phục hạn chế các hạn chế này, cần

thay đổi quy định về xét duyệt, thẩm định quyết toán kinh phí NSNN của các

cơ quan HCSN hiện nay theo hướng: các đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí

NSNN phải chịu trách nhiệm toàn bộ về quản lý và sử dụng kinh phí NSNN

tại đơn vị, quy định này hoàn toàn phù hợp với các quy định hiện hành về

trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị đối với các nội dung, nhiệm vụ của đơn vị

và phù hợp với chủ trương cải cách hành chính, nâng cao tính tự chủ và tăng

cường chế độ trách nhiệm với người đứng đầu các cơ quan, đơn vị. Trong quá

trình tổng hợp báo cáo quyết toán ngân sách hàng năm, các đơn vị dự toán

cấp trên và Cơ quan Tài chính chỉ thực hiện đối chiếu dự toán, tổng hợp quyết

toán kinh phí NSNN của các cơ quan HCSN thuộc phạm vi quản lý.

91

Cần bổ sung nội dung báo cáo quyết toán hàng năm của các cơ quan

HCSN: ngoài việc phản ánh kết quả sử dụng kinh phí NSNN trong năm, phải

có Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, kết quả thực

hiện các kế hoạch, đề án được phê duyệt gắn liền với kết quả sử dụng kinh phí

của đơn vị.

+ Sửa đổi quy định về thời gian chỉnh lý quyết toán ngân sách đối

với quyết toán chi kinh phí hàng năm các cơ quan HCSN

Quá trình quản lý và sử dụng kinh phí của các cơ quan HCSN là một

quá trình liên tục, đến thời điểm 31/12 hàng năm nếu một nội dung, nhiệm vụ

chưa hoàn thành sẽ được tiếp tục thực hiện trong năm sau và đồng thời

chuyển khoản kinh phí bố trí cho nội dung, nhiệm vụ đó sang năm sau để tiếp

tục sử dụng. Do đó quy định về thời gian chỉnh lý quyết toán ngân sách đối

với quyết toán chi kinh phí hàng năm của các cơ quan HCSN đã dẫn đến một

số hạn chế như đã phân tích tại chương 2.

Để khắc phục các hạn chế này, đề nghị không nên quy định thời gian

chỉnh lý quyết toán ngân sách đối với quyết toán chi kinh phí hàng năm của

các cơ quan HCSN. Các cơ quan HCSN thực hiện tổng hợp quyết toán chi

kinh phí hàng năm đối với toàn bộ các nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh

trong thời gian từ 01/01 đến 31/12 hàng năm, đối với các nghiệp vụ kinh tế,

tài chính phát sinh sau ngày 31/12 sẽ hạch toán và tổng hợp trong quyết toán

của năm sau.

Quy định như vậy sẽ phù hợp với nguyên tắc phản ánh các nội dung

phát sinh theo đúng theo thời gian, cũng phù hợp với quy định về phân bổ và

giao dự toán hiện nay đối với các cơ quan HCSN là phải xác định được các

nội dung, nhiệm vụ chi tiêu trước 31/12 năm trước để làm căn cứ phân bổ và

giao dự toán của năm sau để các đơn vị có đủ thời gian thực hiện các nhiệm

vụ theo kế hoạch phải triển khai và hoàn thành trong năm. Quy định này cũng

92

giúp làm giảm khối lượng công việc của các đơn vị dự toán, Cơ quan Tài

chính và Kho bạc Nhà nước trong quá trình làm thủ tục, phê duyệt việc

chuyển số dư dự toán, số dư tạm ứng kinh phí tại Kho bạc Nhà nước sang

năm sau tiếp tục sử dụng, vì khi đó sẽ không phải làm thủ tục chuyển số dư

tạm ứng kinh phí của Kho bạc Nhà nước tại thời điểm kết thúc thời gian chỉnh

lý quyết toán niên độ ngân sách theo như quy định hiện nay.

+ Sửa đổi quy định về trích lập quỹ của cơ quan hành chính

Quy định hiện hành cho phép các cơ quan hành chính Nhà nước được

trích lập các quỹ từ nguồn tiết kiệm kinh phí quản lý hành chính sẽ dẫn đến

hạn chế vai trò kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý các cấp như đã

phân tích ở chương 2. Đề nghị sửa đổi quy định này theo hướng không cho

phép các cơ quan hành chính Nhà nước được trích lập các quỹ từ các nguồn

kinh phí kể cả từ nguồn tiết kiệm kinh phí quản lý hành chính.

Quy định như vậy sẽ phản ánh đúng bản chất của việc sử dụng nguồn

kinh phí quản lý hành chính; đảm bảo cho các đơn vị được chủ động sử dụng

nguồn tiết kiệm kinh phí quản lý hành chính cho các nội dung, nhiệm vụ theo

quy định; nhưng vẫn đảm bảo được vai trò kiểm tra, giám sát của các cơ quan

quản lý cấp trên, cơ quan Tài chính, Kho bạc Nhà nước.

+ Xây dựng cơ chế đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan

hành chính

Từ trước đến nay, việc đánh giá hiệu quả hoạt động các cơ quan hành

chính Nhà nước cũng như hiệu quả của việc quản lý và sử dụng kinh phí

NSNN tại các cơ quan hành chính Nhà nước vẫn còn hạn chế do chúng ta

chưa xây dựng được một cơ chế đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan

hành chính Nhà nước. Trong khi đó, đối với khu vực doanh nghiệp, việc đánh

giá hiệu quả sản xuất kinh doanh, gắn hiệu quả sản xuất kinh doanh với hiệu

quả sử dụng vốn đã trở thành một hoạt động thường xuyên, đây cũng là một

93

trong những yếu tố tạo ra sự năng động của khu vực doanh nghiệp so với khu

vực quản lý Nhà nước.

Tại mỗi cơ quan hành chính, công tác quản lý và sử dụng kinh phí

NSNN luôn đi đôi, gắn liền với hiệu quả hoạt động của đơn vị. Cơ chế đánh

giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước chính là thước

đo hiệu quả hoạt động của đơn vị và cũng là thước đo hiệu quả quản lý và sử

dụng kinh phí NSNN tại đơn vị. Qua cơ chế đánh giá sẽ cho phép xác định

đúng đắn những mặt tích cực, các tồn tại của việc quản lý và sử dụng kinh phí

NSNN tại mỗi cơ quan, đơn vị, cũng như những mặt tích cực, các tồn tại

trong hoạt động của mỗi cơ quan hành chính nói riêng và hoạt động của bộ

máy hành chính Nhà nước nói chung, qua cơ chế đánh giá sẽ là cơ sở để bổ

sung, hoàn thiện, hoặc xây dựng cơ chế quản lý mới phù hợp hơn.

3.3.2. Các giải pháp đổi mới công tác kiểm tra, tự kiểm tra nội bộ

Theo các giải pháp đã trình bày ở trên, trong đó có giải pháp các cơ

quan quản lý cấp trên, cơ quan Tài chính không thực hiện kiểm tra xét duyệt,

thẩm định quyết toán kinh phí hàng năm đối với các đơn vị sử dụng kinh phí

NSNN. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là buông lỏng quản lý, các đơn vị

cấp trên phải tăng cường quản lý thông qua công tác kiểm tra nội bộ đối với

các đơn vị trực thuộc và các đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí phải thực hiện

công tác tự kiểm tra nội bộ tại đơn vị.

3.3.2.1. Về công tác kiểm tra nội bộ của đơn vị dự toán cấp trên đối với

các đơn vị dự toán cấp dưới

- Mỗi Bộ, ngành phải xây dựng, ban hành các tiêu chí đánh giá cụ thể

về thực hiện một số nội dung chủ yếu trong quản lý và sử dụng kinh phí, về

mức độ hoàn thành nhiệm vụ, kế hoạch, dự án đã được phê duyệt trong từng

thời kỳ đối với các cơ quan HCSN thuộc phạm vi quản lý. Trên cơ sở các tiêu

chí để thực hiện giám sát làm căn cứ đề xuất kiểm tra, tự kiểm tra nội bộ.

- Kiện toàn bộ máy quản lý kinh phí NSNN tại các các Bộ, ngành theo

hướng: bổ sung số lượng, chất lượng cán bộ, công chức để thành lập bộ phận

94

kiểm tra nội bộ tại các Vụ làm công tác kế hoạch tài chính của các Bộ, ngành,

trước mắt có thể thành lập ở các Bộ, ngành quản lý và sử dụng kinh phí

NSNN nhiều hoặc có nhiều cấp, nhiều đơn vị trực thuộc như Bộ Tài chính,

Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo... Điều này cũng phù hợp với xu hướng cải

cách hành chính và tinh giản biên chế của Nhà nước, vì tinh giản biên chế

không có nghĩa là giảm cán bộ đồng đều tại tất cả các cơ quan, các bộ phận;

bản chất của việc tinh giản là có thể giảm về số lượng nhưng phải tăng về chất

lượng cán bộ, phải có sự sắp xếp, bố trí cán bộ giữa các bộ phận trong mỗi

đơn vị, giữa các ngành, lĩnh vực đảm bảo phù hợp với chức năng, nhiệm vụ

và đồng thời các đơn vị phải được bố trí đủ lực lượng cán bộ có chuyên môn

để đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ.

- Tại bộ phận làm công tác kiểm tra nội bộ: thực hiện phân công nhiệm

vụ của các cán bộ, mỗi cán bộ phải theo dõi một số đơn vị trực thuộc hoặc

một số nội dung, lĩnh vực theo chuyên đề. Có trách nhiệm giám sát tất cả các

đơn vị, các nội dung, lĩnh vực được phân công theo dõi, trên cơ sở đó kịp thời

phát hiện những tồn tại, những dấu hiệu vi phạm trong công tác quản lý và sử

dụng kinh phí để có đề xuất trong công tác lập kế hoạch kiểm tra nội bộ hoặc

đề xuất kiểm tra nội bộ đột xuất.

- Tổ chức kiểm tra nội bộ: để đảm bảo gọn nhẹ, linh hoạt, công tác

kiểm tra nội bộ chủ yếu do từng cán bộ thực hiện, không thành lập Tổ kiểm

tra. Việc thành lập Tổ kiểm tra chỉ được thực hiện đối với các đợt kiểm tra

theo chuyên đề tại một số đơn vị hoặc các cuộc kiểm tra nội bộ tại một đơn vị

có quy mô lớn hoặc có tính chất phức tạp.

- Thực hiện kiểm tra nội bộ: kiểm tra nội bộ theo kế hoạch được thực

hiện theo kế hoạch được phê duyệt; kiểm tra nội bộ đột xuất được thực hiện

ngay khi phát hiện thấy có tồn tại, vi phạm. Trong đó tập trung chủ yếu vào

việc kiểm tra trong và trước là quá trình kiểm tra những hoạt động quản lý và

sử dụng kinh phí đang diễn ra hoặc sắp sửa diễn ra, trên cơ sở đó để phát hiện

những sai phạm, những bất hợp lý, tính không hiệu quả của các hoạt động tài

chính đang và sắp sửa diễn ra và có kiến nghị xử lý, ngăn chặn kịp thời, đây là

95

điều hết sức cần thiết và mang lại hiệu quả thiết thực. Tuy nhiên để thực hiện

được việc kiểm tra trong và trước như đã phân tích nêu trên, có liên quan mật

thiết đến chất lượng cán bộ làm công tác kiểm tra nội bộ, vì để làm được việc

này đòi hỏi cán bộ phải có nghiệp vụ chuyên môn cao mới có thể phát hiện

được các tồn tại, các bất hợp lý của các hoạt động tài chính đang hoặc sắp

diễn ra; bên cạnh đó cần có bản lĩnh nghề nghiệp vì khi đó không chỉ liên

quan tới đơn vị được kiểm tra nội bộ mà còn liên quan, đụng chạm tới nhiều

cơ quan quản lý các cấp.

- Nội dung Báo cáo kết quả kiểm tra nội bộ: bên cạnh các kiến nghị xử

lý đối với các tồn tại, vi phạm trong công tác quản lý và sử dụng kinh phí;

kiến nghị sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách đảm bảo phù hợp với đặc thù

từng đơn vị, từng lĩnh vực, cần mạnh dạn có các kiến nghị với các cấp, các cơ

quan quản lý về trách nhiệm cá nhân của các cán bộ, công chức và lãnh đạo

các đơn vị, các cấp.

3.3.2.2. Về công tác tự kiểm tra nội bộ của các đơn vị trực tiếp sử dụng

kinh phí

- Kết thúc năm ngân sách, trước khi lập báo cáo quyết toán kinh phí

hàng năm, các đơn vị phải thực hiện tự kiểm tra nội bộ theo kế hoạch đối với

toàn diện các nội dung quản lý và sử dụng kinh phí tại đơn vị, kết thúc tự

kiểm tra phải lập Báo cáo kết quả tự kiểm tra nội bộ theo kế hoạch với các nội

dung như đối với báo cáo kết quả kiểm tra nội bộ nêu trên, Báo cáo này là

một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống các báo cáo quyết toán kinh phí

hàng năm của đơn vị.

- Định kỳ hàng quý, các đơn vị phải tự đánh giá việc thực hiện một số

nội dung chủ yếu trong quản lý và sử dụng kinh phí, về mức độ hoàn thành

nhiệm vụ, kế hoạch, dự án đã được phê duyệt tại đơn vị theo các tiêu chí đánh

giá được Bộ, ngành ban hành. Trên cơ sở tự đánh giá, nếu thấy có tồn tại, các

đơn vị phải tiến hành tự kiểm tra nội bộ đột xuất và Báo cáo kết quả lên cơ

quan quản lý cấp trên trực tiếp.

96

3.3.3. Xây dựng kế hoạch từ 3 - 5 năm về sử dụng kinh phí của các

cơ quan hành chính sự nghiệp

Căn cứ vào cơ chế, chính sách của Nhà nước, các mục tiêu phát triển

kinh tế-xã hội, chiến lược phát triển của Bộ, ngành, đơn vị... các Bộ, ngành,

các cơ quan HCSN cần xây dựng kế hoạch từ 3 - 5 năm về sử dụng kinh phí,

Kế hoạch phải bao gồm các nội dung: các chương trình, dự án, tăng cường cơ

sở vật chất... của mỗi Bộ, ngành, mỗi cơ quan HCSN trong thời gian từ 3 - 5

năm; xác định, sắp xếp thứ tự ưu tiên cho từng chương trình, dự án của Bộ,

ngành, đơn vị và dự kiến kinh phí cho từng chương trình, dự án qua từng

năm... Kế hoạch của các của các Bộ, ngành phải được Cơ quan Tài chính phê

duyệt, kế hoạch của các cơ quan HCSN phải được đơn vị cấp trên trực tiếp

phê duyệt để bố trí nguồn kinh phí.

Kế hoạch từ 3 - 5 năm về sử dụng kinh phí của các Bộ, ngành, cơ quan

HCSN được phê duyệt là căn cứ để các cơ quan quản lý cấp trên, Cơ quan Tài

chính cân đối, bố trí kinh phí cho cả giai đoạn cũng như từng năm cụ thể.

Trên cơ sở kế hoạch từ 3 - 5 năm về sử dụng kinh phí được phê duyệt, công

tác xây dựng dự toán kinh phí hàng năm của mỗi Bộ, ngành, cơ quan HCSN

là quá trình tiếp tục xây dựng kế hoạch thực hiện chi tiết, bố trí dự toán kinh

phí cụ thể trong từng năm theo lộ trình trong Kế hoạch đã được phê duyệt.

Đây là một điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng công tác xây dựng dự

toán và đảm bảo tính khả thi của dự toán được giao.

3.3.4. Thu gọn số lượng các đơn vị dự toán của các Bộ, ngành

Như đã phân tích tại chương 2, Các Bộ, ngành nên nghiên cứu, sắp xếp

theo hướng: giảm bớt số lượng các đơn vị dự toán trực thuộc. Như đối với Bộ

Tài chính, không nên quy định các Chi cục Thuế, Kho bạc Nhà nước huyện,

Tổng kho Dự trữ Quốc gia là đơn vị dự toán; khi đó các Cục Thuế, Kho bạc

97

Nhà nước tỉnh, Dự trữ Quốc gia Khu vực sẽ là các đơn vị dự toán cấp III trực

tiếp sử dụng kinh phí.

Để giải quyết vấn đề thanh toán các nội dung chi của các đơn vị như

Chi cục Thuế, Kho bạc Nhà nước huyện, Tổng kho Dự trữ Quốc gia khi các

đơn vị này không còn là đơn vị dự toán sẽ được thực hiện như sau: các khoản

chi có tỉ trọng lớn nhất là thanh toán cho cá nhân (tiền lương, phụ cấp) sẽ

được thanh toán qua tài khoản của các cá nhân tại Kho bạc Nhà nước hoặc tại

ngân hàng thương mại có trụ sở tại cấp huyện, vì hiện nay Kho bạc Nhà nước,

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã có cơ sở đến cấp huyện

trong phạm vi toàn quốc; các khoản chi mua sắm hàng hoá, dịch vụ sẽ được

thanh toán qua tài khoản của các đơn vị cung cấp, điều này hoàn toàn phù hợp

với chủ trương của Nhà nước là hạn chế thanh toán bằng tiền mặt, chi trả tiền

lương cho các đối tượng thụ hưởng qua tài khoản cá nhân. Đối với các khoản

chi hành chính, các đơn vị sẽ thực hiện tạm ứng kinh phí, theo định kỳ hàng

tháng các đơn vị sẽ tập hợp các chứng từ để làm thủ tục thanh toán tạm ứng

với đơn vị cấp trên trực tiếp theo quy định hiện hành.

98

KẾT LUẬN

Ở nước ta, các cơ quan HCSN có số lượng lớn và có vai trò rất quan

trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Các cơ quan HCSN là những đơn

vị thực hiện nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ chuyên môn theo quy định của Nhà

nước và cũng là những đơn vị sáng tạo ra các sản phẩm đặc biệt ở dạng vật

chất hoặc phi vật chất của đất nước.

Hàng năm, kinh phí NSNN được các cơ quan HCSN quản lý và sử

dụng rất lớn, việc quản lý và sử dụng nguồn lực này chính là trách nhiệm đối

với sự phát triển triển kinh tế - xã hội của đất nước và đối với nhân dân. Do

đó công tác quản lý và sử dụng kinh phí NSNN tại các cơ quan HCSN phải

được thực hiện trên cơ sở khoa học, cơ sở pháp lý, đạt được hiệu quả cao và

phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước trong từng thời kỳ nhất định.

Trong những năm qua, kinh phí NSNN được các cơ quan HCSN thuộc

Bộ Tài chính quản lý và sử dụng ngày càng có hiệu quả hơn, góp phần thực

hiện tốt hơn các chức năng, nhiệm vụ được giao.

Tuy nhiên công tác quản lý và sử dụng kinh phí NSNN trong lĩnh vực

HCSN vẫn còn những hạn chế nhất định; chưa đạt được kết quả, hiệu quả như

mong muốn, chính vì thế cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý và

sử dụng kinh phí NSNN tại các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài chính.

Với những kết quả đã đạt được trong thời gian vừa qua; với sự nỗi lực

của các cơ quan chức năng, chúng ta hoàn toàn tin tưởng trong thời gian tới,

việc quản lý và sử dụng kinh phí NSNN tại các cơ quan HCSN thuộc Bộ Tài

chính sẽ ngày càng tiết kiệm, hiệu quả, đóng góp nhiều hơn nữa vào sự phát

triển chung của đất nước./.

99

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lý Hoàng Ánh – Chu Nguyên Khương: Chống lãng phí, thất thoát vốn

NSNN - vấn đề hết sức quan trọng hiện nay. Tạp chí Tài chính tháng 12/2004.

2. Bộ Tài chính (2002), Đổi mới cơ chế tài chính đối với cơ quan hành

chính và đơn vị sự nghiệp, NXB Tài chính, Hà Nội.

3. Báo cáo tổng kết công tác quản lý tài chính, đầu tư xây dựng và tài sản

công trong các đơn vị thuộc ngành Tài chính giai đoạn 2001 - 2005 và mục

tiêu nhiệm vụ giai đoạn 2006 - 2010 tại Hội nghị của Bộ Tài chính tổ chức tại

tỉnh Bình Thuận năm 2005.

3. Phạm Đình Cường: Phân cấp trong lĩnh vực quản lý tài chính - ngân

sách ở Việt Nam. Tạp chí Tài chính tháng 7/2004.

4. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IX, X. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội-2001, 2006.

5. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (Bộ Tài chính) năm 1998: Đổi mới

và hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính nội bộ ngành tài chính phù hợp với việc

triển khai thực hiện luật Ngân sách Nhà nước.

6. Nguyễn Công Điều: Sau một năm thực hiện Luật ngân sách nhà nước

(sửa đổi), Tạp chí Tài chính tháng 12/2004.

7. Nguyễn Trường Giang: Chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng

biên chế và kinh phí quản lý hành chính trong các cơ quan Nhà nước. Tạp chí

Tài chính tháng 11/2005.

8. Giáo trình "Lý thuyết tài chính", NXB Tài chính, 2002.

9. Trần Văn Hiền: Quyết toán NSNN năm 2003, những vấn đề về quản lý.

Tạp chí Tài chính tháng 7/2005.

10. Trần Văn Hiền: Nhiệm vụ NSNN những tháng cuối năm 2005. Tạp chí

Tài chính tháng 8/2005.

100

11. Vũ Văn Hóa: Về đổi mới quy trình ngân sách hiện hành và vai trò của

các cơ quan dân cử trong lĩnh vực NSNN ở Việt Nam. Tạp chí Tài chính

tháng 6/2004.

12. Luật NSNN số 01/2002/QH11 ngày 16/12/2002.

13. Quỳnh Mai: “Thêm tai, thêm mắt” cho giám sát. Tạp chí Tài chính

tháng 2/2005.

14. Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ quy định

chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật NSNN.

15. Nghị định số 77/2003/NĐ-CP ngày 01/7/2003 của Chính phủ quy định

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính.

16. Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ quy

định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản

lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước.

17. Bùi Đường Nghêu: Đổi mới quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra, gắn

với tầm nhìn trung hạn. Tạp chí Tài chính tháng 7/2004.

18. Nguyễn Công Nghiệp: Đổi mới chính sách tài chính giai đoạn 2001 –

2005 và định hướng đổi mới giai đoạn 2006 – 2010. Tạp chí Tài chính tháng

1/2005.

19. Vũ Thị Nhài: Tiếp tục hoàn thiện chính sách chi tiêu công đáp ứng tiến

trình cải cách hành chính. Tạp chí Tài chính tháng 5/2006.

20. Quyết định số 139/2003/QĐ-TTg ngày 11/7/2003 của Thủ tướng

Chính phủ về định mức phân bổ ngân sách.

21. Quyết định số 67/2004/QĐ-BTC ngày 13/8/2004 của Bộ trưởng Bộ

Tài chính về việc ban hành Quy chế về tự kiểm tra tài chính, kế toán tại các

cơ quan, đơn vị có sử dụng kinh phí NSNN.

22. Quyết định số 211/2004/QĐ-TTg ngày 14/12/2004 của Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt định hướng phát triển ngành Tài chính Việt Nam đến

năm 2010.

101

23. Quyết định số 107/2005/QĐ-TTg và số Quyết định số 109/2005/QĐ-

TTg ngày 16/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện thí điểm khoán

biên chế và kinh phí hoạt động của Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan giai

đoạn 2005-2007.

24. Quyết định số 169/2005/QĐ-TTg ngày 07/7/2005 của Thủ tướng

Chính phủ về thực hiện thí điểm khoán biên chế và kinh phí hoạt động của

Kho bạc Nhà nước giai đoạn 2005-2007.

25. Quyết định số 2358/QĐ-BTC ngày 13/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài

chính ban hành Chương trình hành động và kế hoạch thực hiện công tác quản

lý tài chính, đầu tư xây dựng và tài sản công trong nội bộ ngành Tài chính giai

đoạn 2006 – 2010.

26. Quyết định 151/2006/QĐ-TTg ngày 29/6/2006 của Thủ tướng Chính

phủ về định mức phân bổ ngân sách.

27. Vĩnh Sang: Biện pháp thực hiện chi ngân sách theo dự toán năm 2004:

thoáng nhưng chưa thông. Tạp chí Tài chính tháng 3/2004.

28. Trần Văn Tá: Cải cách hành chính trong công tác tài chính: nhanh hơn,

mạnh hơn, toàn diện hơn... Tạp chí Tài chính tháng 1/2005.

29. Tài liệu nghiên cứu, khảo sát về công tác quản lý kinh phí NSNN của

một số nước: Trung Quốc, Hàn Quốc, Đức.

30. Thông tư số 59/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003 của Bộ Tài chính hướng

dẫn thực hiện Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ.

31. Thông tư số 03/2006/TTLT-BTC-BNV ngày 17/01/2006 của Liên Bộ

Tài chính - Bộ Nội vụ Hướng dẫn thực hiện Nghị định số 130/2005/NĐ-CP

ngày 17/10/2005 của Chính phủ.

32. Nguyễn Ngô Thị Hoài Thu: Nhìn lại 2 năm mở rộng thí điểm khoán

biên chế và kinh phí quản lý hành chính. Tạp chí Tài chính tháng 10/2004.

33. Viện Khoa học Tài chính (năm 2004), Chuyên đề nghiên cứu: Nâng

cao hiệu quả quản lý chi ngân sách trong khu vực hành chính Nhà nước.

102

PHỤ LỤC

MỘT SỐ VĂN BẢN HƢỚNG DẪN, CỤ THỂ HOÁ CÁC CHẾ ĐỘ, CHÍNH SÁCH

ĐỂ ÁP DỤNG TRONG CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH - SỰ NGHIỆP

THUỘC BỘ TÀI CHÍNH

1. Một số văn bản hƣớng dẫn chế độ chi cho cá nhân:

- Văn bản số 587 TC/TVQT ngày 17/01/2005 về việc hướng dẫn trích

nộp kinh phí công đoàn.

- Văn bản số 3845 TC/TVQT ngày 04/4/2005 về việc hướng dẫn thực

hiện thông tư số 118/2004/TT-BTC thực hiện chế độ công tác phí, chế độ chi

hội nghị.

- Quyết định số 1148/QĐ-BTC ngày 2/3/2006 về việc hướng dẫn phụ

cấp trách nhiệm của cán bộ chỉ huy dân quân tự vệ.

- Văn bản số 5220/BTC- TCCB ngày 19/4/2006 về hướng dẫn thực

hiện chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với Thanh tra viên.

- Văn bản số 8260/BTC-TVQT ngày 04/7/2006 hướng dẫn thực hiện

Thông tư Liên tịch số 40/2006/TTLT-BTC-BTTUBTWMTTQVN-

TLĐLĐVN ngày 12/5/2006 của Bộ Tài chính-Ban thường trực Ủy ban Trung

ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam-Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

- Văn bản số 7227/BTC-TVQT ngày 01/6/2007 về việc hướng dẫn

thực hiện Thông tư số 23/2007/TT-BTC về chế độ công tác phí, hội nghị...

2. Một số văn bản hƣớng dẫn chế độ chi nghiệp vụ chuyên môn:

- Văn bản số 4019/BTC-TVQT ngày 28/3/2006 hướng dẫn thực hiện

thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-BTC-BNV ngày 17/01/2006 về chế độ tự

chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính.

- Quyết định số 2539/QĐ-BTC ngày 27/7/2006 về thí điểm thực hiện

khoán xe công tại Cơ quan Bộ.

103

- Văn bản số 1651/BTC-TVQT ngày 30/01/2007 về việc hướng dẫn

việc quản lý, sử dụng, quyết toán kinh phí hỗ trợ xây dựng văn bản quy phạm

pháp luật.

- Quyết định số 938/QĐ-BTC ngày 07/3/2007 ban hành Quy chế tự

chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ Tài

chính.

- Văn bản số 6945/BTC-TVQT ngày 25/5/2007 về việc thực hiện bảo

hiểm cháy nổ bắt buộc theo NĐ 130/2006/NĐ-CP...

3. Một số văn bản hƣớng dẫn chế độ chi mua sắm, sửa chữa tài

sản:

- Quyết định số 3399/QĐ-BTC ngày 03/10/2005 về việc ban hành Quy

chế thực hiện mua sắm đồ dùng, vật tư, trang thiết bị, phương tiện làm việc và

hàng hoá dịch vụ trong các đơn vị, tổ chức thuộc Bộ Tài chính.

- Quyết định số 3128/QĐ-BTC ngày 14/9/2005 về việc ban hành quy

chế quản lý tài sản nhà nước tại các tổ chức, đơn vị HCSN thuộc Bộ Tài

chính.

- Các Văn bản số 9040 BTC-TVQT ngày 18/7/2005, số 14529/ BTC-

TVQT ngày 16/11/2005, số 14531/ BTC-TVQT ngày 16/11/2005, số 14532/

BTC-TVQT ngày 16/11/2005 về hướng dẫn công tác đầu tư xây dựng.

- Các Văn bản số 5556/BTC-TVQT ngày 28/4/2006, số 8539/BTC-

TVQT ngày 11/7/2006 về việc thực hiện Luật Đấu thầu, xây dựng công trình.

- Quyết định số 2286QĐ-BTC ngày 05/7/2007 phân cấp và uỷ quyền

thực hiện nhiệm vụ quản lý tài chính, tài sản nhà nước và đầu tư XDCB trong

các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ Tài chính....

104

SƠ ĐỒ 1: TỔ CHỨC BỘ MÁY CỦA BỘ TÀI CHÍNH

105

SƠ ĐỒ 2. QUY TRÌNH XÂY DỰNG DỰ TOÁN; PHÂN BỔ, GIAO DỰ TOÁN; ĐIỀU CHỈNH

DỰ TOÁN VÀ QUYẾT TOÁN KINH PHÍ CỦA CÁC CƠ QUAN HCSN THUỘC BỘ TÀI CHÍNH

1 6 7 12

Đơn vị dự toán cấp I

13

2

5 8 11

14

Đơn vị dự toán cấp II

3 4 9 10

Đơn vị trực tiếp

Sử dụng kinh phí

Cơ quan tài chính nhà nước

1. Cơ quan Tài chính Nhà nước thông báo số kiểm tra dự toán do đơn vị dự

toán cấp I.

2. Đơn vị dự toán cấp I phân bổ và thông báo số kiểm tra dự toán cho đơn vị

dự toán cấp II.

3. Đơn vị dự toán cấp II phân bổ và thông báo số kiểm tra dự toán cho đơn vị

trực tiếp sử dụng kinh phí (đơn vị dự toán cấp III).

4. Đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí lập dự toán gửi đơn vị dự toán cấp II.

5. Đơn vị dự toán cấp II tổng hợp dự toán gửi đơn vị dự toán cấp I.

6. Đơn vị dự toán cấp I tổng hợp dự toán gửi Cơ quan Tài chính Nhà nước.

7. Cơ quan Tài chính Nhà nước giao dự toán cho đơn vị dự toán cấp I.

8. Đơn vị dự toán cấp I phân bổ và giao dự toán cho đơn vị dự toán cấp II.

106

9. Đơn vị dự toán cấp II phân bổ và giao dự toán cho đơn vị trực tiếp sử dụng

kinh phí.

10. Đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí tổng hợp báo cáo quyết toán gửi đơn vị

dự toán cấp II.

11. Đơn vị dự toán cấp II tổng hợp báo cáo quyết toán gửi đơn vị dự toán cấp

I.

12. Đơn vị dự toán cấp I tổng hợp báo cáo quyết toán gửi Cơ quan Tài chính

Nhà nước.

13. Quá trình điều chỉnh, bổ sung dự toán của Cơ quan Tài chính Nhà nước

cho các đơn vị dự toán và quá trình điều chỉnh, bổ sung dự toán của đơn vị

dự toán cấp trên cho đơn vị dự toán cấp dưới.

14. Quá trình thẩm định, phê duyệt quyết toán của Cơ quan Tài chính Nhà

nước cho đơn vị dự toán cấp I và của đơn vị dự toán cấp trên do đơn vị dự

toán cấp dưới.

107

SƠ ĐỒ 3: QUY TRÌNH THANH TOÁN CÁC KHOẢN MUA SẮM HÀNG HOÁ, DỊCH VỤ CỦA

CÁC CƠ QUAN HCSN THUỘC BỘ TÀI CHÍNH (Đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí)

Đơn vị dự toán cấp trên

1 1

3

Kho bạc nhà nước Đơn vị trực tiếp

4 sử dụng kinh phí

5

Ngân hàng thương mại

5

2

Nhà cung cấp hàng hoá dịch vụ

1. Đơn vị dự toán cấp trên phê duyệt, giao dự toán cho đơn vị trực tiếp sử

dụng kinh phí và thông báo cho Kho bạc Nhà nước.

2. Đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí ký hợp đồng mua sắm hàng hoá, dịch vụ

với nhà cung cấp hàng hoá dịch vụ.

3. Đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí gửi chứng từ, hồ sơ đề nghị thanh toán

cho Kho bạc Nhà nước.

4. Kho bạc Nhà nước kiểm tra hồ sơ, chứng từ và đối chiếu với dự toán của

đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí.

5. Kho bạc Nhà nước chi trả (tạm ứng, thanh toán) cho nhà cung cấp hàng

hóa, dịch vụ, qua tài khoản ngân hàng thương mại và ngân hàng thương mại

thông báo đã thu được tiền cho nhà cung cấp hàng hoá, dịch vụ.

108

SƠ ĐỒ 4: QUY TRÌNH THANH TOÁN CÁC KHOẢN CHO CÁ NHÂN CỦA CÁC CƠ QUAN

HCSN THUỘC BỘ TÀI CHÍNH (Đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí)

Đơn vị dự toán cấp trên

1 1

2

Kho bạc nhà nước Đơn vị trực tiếp sử

4 dụng kinh phí

3

Các cá nhân

1. Đơn vị dự toán cấp trên phê duyệt, giao dự toán cho đơn vị trực tiếp sử

dụng kinh phí và thông báo cho Kho bạc Nhà nước.

2. Đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí làm thủ tục tạm ứng kinh phí từ Kho bạc

Nhà nước.

3. Đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí chi trả cho các cá nhân được hưởng kinh

phí.

4. Đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí gửi chứng từ đã thanh toán cho Kho bạc

Nhà nước để làm thủ tục thanh toán khoản kinh phí đã tạm ứng.

109

110

Thank you for evaluating AnyBizSoft PDF Merger! To remove this page, please register your program!

Go to Purchase Now>>

AnyBizSoft

PDF Merger

 Merge multiple PDF files into one

 Select page range of PDF to merge

 Select specific page(s) to merge

 Extract page(s) from different PDF

files and merge into one