ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN TRUNG CƯỜNG

Nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của chi nhánh ngân hàng phát triển ở Hà Tây

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Người hướng dẫn: PGS.TS. Phan Thanh Phố

Hà nội - 2007

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 4

Chƣơng 1 LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ...................................................... 10

VỀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐẦU TƢ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƢỚC .. 10

ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI Ở VIỆT NAM .................. 10

1.1- Một số vấn đề lý luận về tín dụng đầu tƣ phát triển của nhà nƣớc ..... 10

1.1.1- Tín dụng và các hình thức của tín dụng. .................................... 10

1.1.2- Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước. .................................. 15

1.2- Nội dung, nhân tố ảnh hƣởng và sƣ cần thiết nâng cao hiệu quả tín

dụng đầu tƣ phát triển của nhà nƣớc. ........................................................ 24

1.2.1- Nội dung nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của nhà

nước. .................................................................................................... 24

1.2.2- Những nhân tố ảnh hưởng đến viêc nâng cao hiệu quả tín dụng

vốn đầu tư phát triển của nhà nước. ..................................................... 30

1.2.3- Sự cần thiết khách quan nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát

triển của nhà nước. ............................................................................... 37

1.3- Kinh nghiệm một số địa phƣơng trong nƣớc về nâng cao hiệu quả tín

dụng vốn đầu tƣ phát triển của nhà nƣớc. ................................................. 39

1.3.1- Tổng quan kinh nghiệm một số địa phương trong nước. ............ 40

1.3.2- Rút ra một số bài học kinh nghiệm chung tham khảo vận dụng ở

Hà Tây. ................................................................................................. 42

Chƣơng 2 THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐẦU TƢ PHÁT

TRIỂN CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN Ở HÀ TÂY ..... 43

THỜI GIAN QUA........................................................................................ 43

2.1- Khái quát tình hình Chi nhánh Ngân hàng phát triển ở Hà Tây- nhìn từ

góc độ thuận lợi và khó khăn. ................................................................... 43

2.1.1- Quá trình hình thành và phát triển. ........................................... 43

1

2.1.2- Những thuận lợi và khó khăn của Chi nhánh Ngân hàng phát triển

2.2- Tình hình tín dụng đầu tƣ phát triển tại Chi nhánh Ngân hàng phát

triển ở Hà Tây. ......................................................................................... 46

2.2.1- Tình hình tiếp nhận vốn của Trung ương và vốn huy động thời

gian qua ở Hà Tây. ............................................................................... 47

Biểu 2.1: Nguồn vốn tiếp nhận tư Trung ương từ năm 2000-2006 ........ 47

2.2.2- Tình hình cho vay các dự án đầu tư phát triển thời gian qua. ..... 49

2.3- Đánh giá chung về hiệu quả tín dụng đầu tƣ phát triển. ..................... 53

2.3.1- Về thành tựu. .............................................................................. 53

2.3.2 - Những hạn chế .............................................................................. 61

Chƣơng 3 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM ............. 71

NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐẦU TƢ PHÁT TRIỂN CỦA CHI

NHÁNH NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN THỜI GIAN TỚI Ở HÀ TÂY ...... 71

3.1-Phƣơng hƣớng nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tƣ phát triển ở Hà Tây.

................................................................................................................. 71

3.1.1- Quan điểm và mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội Hà Tây giai đoạn

2006-2010 và tầm nhìn 2020. ............................................................... 71

3.1.2- Định hướng tín dụng và nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát

triển của Chi nhánh Ngân hàng phát ở Hà Tây. ................................... 74

3.2- Các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tƣ phát

triển của nhà nƣớc ở Hà Tây giai đoạn 2006-2010. .................................. 80

3.2.1-Nhóm giải pháp đối với Chi nhánh ngân hàng phát triển Hà Tây.

............................................................................................................. 80

3.2.2-Nhóm giải pháp đối với các chủ dự án vay và sử dụng vốn tín dụng

đầu tư phát triển nhà nước. .................................................................. 90

3.3- Nhóm giải pháp (kiến nghị) đối với Chính phủ, cơ quan cấp trên và các

cơ quan có liên quan. ................................................................................ 91

3.3.1- Đối với Chính phủ. .................................................................... 92

2

3.3.2- Đối với Ngân hàng Nhà nước: .................................................... 99

3.3.3- Đối với Ngân hàng phát triển Việt Nam...................................... 99

3.3.4- Kiến nghị với Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây. ............................ 102

KẾT LUẬN ................................................................................................ 103

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 105

3

MỞ ĐẦU

1- Lý do chọn đề tài

Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và phát triển KTTT định hướng

XHCN diễn ra trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, mở cửa và hội

nhập, đã và đang đòi hỏi nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển với quy mô ngày

càng lớn.

Đầu tư và phát triển kinh tế- xã hội có mối quan hệ biện chứng nội tại

với nhau, trong đó phát triển kinh tế -xã hội là mục tiêu, hệ quả tất yếu của

đầu tư. Vốn đầu tư cho phát triển được hình thành bởi nhiều nguồn, trong đó

có nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, một nguồn vốn mà đặc

điểm của nó gắn với chính sách lãi suất ưu đãi, không vì mục đích lợi nhuận,

nên không hoàn toàn giống các hình thức tín dụng khác trong nền KTTT.

Ở nước ta, tín dụng ưu đãi, ngoài Ngân hàng Chính sách phục vụ cho đối

tượng người nghèo, còn có các đối tượng khác cần tín dụng ưu đãi, đòi hỏi

phải có hình thức tổ chức tín dụng thích hợp để thực hiện. Tổ chức tín dụng

đó là Ngân hàng phát triển Việt Nam, mà mỗi tỉnh là một chi nhánh. Trải qua

15 năm, tổ chức này mà tiền thân của nó là Quỹ hỗ trở phát triển, đã chứng

minh được tính ưu việt của nó trong việc huy động các nguồn lực và cho vay,

góp phần đáp ứng cho nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế-xã hội cả nước trong

đó có Hà Tây.

Ngân hàng phát triển Việt Nam - Chi nhánh Hà Tây- đơn vị được giao

nhiệm vụ thực hiện tín dụng đầu tư phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn, đã

chủ động tìm kiếm nguồn vốn hỗ trợ cho đầu tư các dự án phát triển của Tỉnh

thời gian qua. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, vẫn còn những bất cập

và gặp không ít khó khăn vướng mắc làm hạn chế việc cung ứng vốn và nâng

1

cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh thời gian qua.

Để góp phần tháo gỡ những bất cập và khó khăn nói trên nhằm thực

hiện tốt mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội ở Hà Tây giai đoạn 2006-2010 và

tầm nhìn 2020, một yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay là tìm ra lời giải trên cả 2

mặt lý luận và thực tiễn.

Là một người làm công tác tín dụng đầu tư phát triển thuộc Ngân hàng

phát triển Việt Nam- Chi nhánh Hà Tây, tôi mong muốn góp phần nhỏ bé của

mình vào việc tìm ra lời giải cho vấn đề đặt ra nói trên. Đề tài: Nâng cao hiệu

quả tín dụng đầu tư phát triển của Chi nhánh Ngân hàng phát triển ở Hà Tây,

được chọn để nghiên cứu làm luận văn thạc sỹ kinh tế chính tri là trên ý nghĩa

đó.

2- Tình hình nghiên cứu đề tài

Xung quanh hoạt động tín dụng đầu tư phát triển nhà nước, từ khi thành

lập đến nay đã có một số nhà nghiên cứu và các nhà hoạt động thực tiễn

nghiên cứu viết bài đăng trên các tạp chí, các đề tài khoa học nghiên cứu và

công bố. Nhưng cho đến nay về số lượng chưa nhiều, một số vấn đề trọng yếu

(như hiệu quả) còn đang bỏ ngỏ, nhất là nghiên cứu với tư cách là một đề tài

độc lập và có hệ thống đối với Chi nhánh Ngân hàng phát triển và ở Hà Tây

hầu như chưa được đề cập.

Dưới đây là các công trình tiêu biểu đã được đăng tải và công bố liên

quan đến chủ đề :

 Về Nghị định, Quyết định :

- Nghị Định của Chính phủ số 43/1999/NĐ-CP, ban hành ngày 29

tháng 6 năm 1999 về: Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.

- Quyết định số 01/QĐ-QHTPT, ban hành ngày 20 tháng 12 năm 1999

2

của Thủ tướng Chính phủ về việc: Thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển.

- Quyết định số 108/2006/QĐ-TTg, ban hành ngày 19 tháng 5 năm

2006, về việc thành lập Ngân hàng Phát triển Việt Nam.

 Các bài viết có liên quan trên các tạp chí, đáng chú ý là các bài sau:

- Những cơ hội và thách thức đối với Ngân hàng phát triển Việt Nam

trong quan hệ quốc tế - của Kiều Thiệu- Tạp chí Hỗ trợ phát triển số 5, tháng

11 năm 2006.

- Ngân hàng phát triển Việt Nam hỗ trợ DNVVN, của Vũ Mạnh Tiến-

Tạp chí Hỗ trợ phát triển số 6 tháng 12 năm 2006.

- Suy nghĩ về xây dựng NHPT hiện đại - của Kiều Thiệu- Tạp chí Hỗ

trợ phát triển số 9, tháng 3 năm 2007.

- Hoàn thiện bước 1 mô hình tổ chức bộ máy trong hệ thống ngân hàng

phát triển Việt Nam, của Nguyễn Đức Kháng - Tạp chí Hỗ trợ phát triển số 11

tháng 5 năm 2007.

- Xây dựng VDB chuyên nghiệp, hiện đại phục vụ sự nghiệp CNH,

HĐH đất nước, của Nguyễn Quang Dũng- Tạp chí Hỗ trợ phát triển số Xuân

Đinh Hợi 2007.

- Chất lượng tín dụng- Vấn đề cần được quan tâm, của Nguyễn Khắc

Bình- Tạp chí Hỗ trợ phát triển số 10 tháng 4 năm 2007.

- Một số suy nghĩ về hiệu quả đổi mới của các ngân hàng Thương mại

cổ phần, của Nguyễn Thành Long - Tạp chí ngân hàng số 5 tháng 3 năm

2007. Nhìn chung các công trình nói trên, đã đề cập được qua một số khía

cạnh mà luận văn có thể kế thừa. Song so với chủ đề mà luận văn nghiên cứu

vẫn còn một số khía cạnh chưa được đề cập, hoặc có đề cập nhưng chưa sâu,

chưa mang tính hệ thống, đặc biệt là đối với Chi nhánh ngân hàng phát triển ở

Hà Tây.

3

3- Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.

 Về mục tiêu:

Trên cơ sở vận dụng có chọn lọc lý luận về tín dụng nhà nước, hiệu quả tín

dụng nhà nước và phân tích đánh giá thực trạng hiệu quả tín dụng đầu tư phát

triển của nhà nước, từ đó xác định phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm

nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Chi nhánh Ngân hàng phát

triển ở Hà Tây trong thời gian tới.

 Về nhiệm vụ:

- Hệ thống hóa có chọn lọc lý luận cơ bản về tín dụng và hiệu quả tín

dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.

- Xây dựng khái niệm và các chỉ tiêu định tính và định lượng về hiệu

quả tín dụng đầu tư phát triển nhà nước đối với sự phát triển kinh tế-xã hội.

- Khảo sát và rút kinh nghiệm về nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư

phát triển của nhà nước ở một số địa phương trong nước.

- Phân tích đánh giá thực trạng hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của

nhà nước ở Hà tây thời gian qua.

- Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đầu

tư phát triển của nhà nước trong thời gian tới ở Hà Tây.

4- Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.

- Luận văn lấy việc nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của

Chi nhánh Ngân hàng phát triển ở Hà Tây làm đối tượng nghiên cứu.

- Lý luận, phương hướng và giải pháp về tín dụng và nâng cao hiệu quả

tín dụng có nhiều, luận văn chỉ nghiên cứu lý luận, phương hướng và giải

pháp cơ bản về tín dụng và nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển gắn

với chính sách lãi suất ưu đãi của Nhà nước- luận văn tập trung vào hình thức

4

cho vay đầu tư phát triển.

- Luận văn lấy địa bàn Hà Tây làm không gian nghiên cứu và việc khảo

sát thực trạng lấy mốc thời gian kể từ ngày Quỹ hỗ trợ phát triển ở Hà Tây bắt

đầu hoạt động và lấy giai đoạn 2006-2010 và tầm nhìn đến 2020 để xác định

phương hướng và giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát

triển của Nhà nước.

5-Phƣơng pháp nghiên cứu.

Luận văn lấy phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm

phương pháp luận chung, đặc biệt coi trọng phương pháp trìu tượng hoá.

Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp thống kê so sánh định lượng, phân

tích, tổng hợp, mô hình, đồ thị, nhằm tạo ra một tổng thể phương pháp cho

phép tiếp cận nhanh mục đích và đối tượng nghiên cứu mà đề tài đặt ra.

6- Những đóng góp mới và ý nghĩa của luận văn.

 Những đóng góp mới:

- Làm rõ thêm khái niệm và đặc điểm để có cái nhìn đúng về tín dụng

đầu tư phát triển của nhà nước, hiệu quả tín dụng và vai trò của nó đối với sự

phát triển kinh tế-xã hội.

- Đưa ra những phân tích, đánh giá xác đáng thực trạng hiệu quả tín

dụng đầu tư phát triển Nhà nước của Chi nhánh Hà Tây thời gian qua.

- Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả tín

dụng đầu tư phát triển của nhà nước của Chi nhánh Hà Tây giai đoạn 2006-2010 và

tầm nhìn đến 2020.

 Ý nghiã của luận văn:

- Giúp cho Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây thấy được vai trò

quan trọng của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trong phát triển kinh

tế - xã hội để có phương hướng và giải pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả tín

5

dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trên địa bàn tỉnh.

- Làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy phần có liên quan

ở các Trường đại học và cao đẳng.

7- Kết cấu của luận văn.

Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận

văn gồm 3 chương:

Chương 1: Lý luận và thực tiễn về hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển

của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam.

Chương 2: Thực trạng hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Chi

nhánh Ngân hàng phát triển ở Hà Tây thời gian qua.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả

tín dụng đầu tư phát triển của Chi nhánh Ngân hàng phát triển thời gian tới ở

6

Hà Tây.

Chƣơng 1

LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

VỀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐẦU TƢ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƢỚC

ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

1.1- Một số vấn đề lý luận về tín dụng đầu tƣ phát triển của nhà

nƣớc

1.1.1- Tín dụng và các hình thức của tín dụng.

Tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và người

vay có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, hay nói một cách

khác tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh quan hệ kinh tế trong đó mỗi

tổ chức, cá nhân nhường quyền sử dụng một khối lượng giá trị hay hiện vật

cho một tổ chức hay cá nhân với những điều kiện ràng buộc nhất định: về thời

hạn hoàn trả (gốc và lãi); lãi suất; cách thức vay mượn và thu hồi.

Quan hệ tín dụng có một quá trình hình thành và phát triển rất lâu dài.

Trong chế độ công xã nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất ở một trình độ rất thấp

kém, công cụ lao động hết sức thô sơ, cuộc sống phải dựa vào tự nhiên, phân

công lao động chưa phát triển, do lực lượng sản xuất thấp kém như vậy nên

chưa thể có sản phẩm dư thừa để dự trữ và do vậy chưa có cơ sở để nảy sinh

mầm mống của đầu óc tư hữu và trong xã hội nguyên thuỷ chưa thể có quan

hệ trao đổi, mua bán và vay mượn. Lực lượng sản xuất phát triển, cùng với sự

phát triển của phân công lao động xã hội, lúc này con người sản xuất sản

7

phẩm không chỉ đủ cho tiêu dùng mà còn một phần để tích luỹ dự trữ, do đó,

xuất hiện mầm mống của chế độ tư hữu cả về tư liệu sản xuất và sản phẩm

làm ra, xã hội lúc này đã có sự phân chia kẻ giàu, người nghèo và các giai cấp

được hình thành. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất cùng với sự phân công lao

động xã hội là cơ sở cho sản xuất hàng hoá ra đời, do đó các quan hệ mua,

bán trao đổi và vay mượn cũng ra đời và những hình thức vay mượn đầu tiên

chính là nguồn gốc sâu xa của quan hệ tín dụng.

Như vậy có thể khẳng định tín dụng là một phạm trù kinh tế của nền

kinh tế sản xuất hàng hoá, ra đời, tồn tại và phát triển cùng với nền sản xuất

hàng hoá, trong điều kiện nền kinh tế sản xuất hàng hoá và quan hệ hàng hoá,

tiền tệ tồn tại thì tín dụng là một tất yếu khách quan, bởi vì nền sản xuất hàng

hoá và mối quan hệ hàng hoá hình thành quan hệ hàng hoá tiền tệ trong xã

hội, sự tuần hoàn trong quy trình đó của vốn tiền tệ là tiền đề khách quan làm

cho các quan hệ tín dụng nảy sinh.

Do đặc điểm của chu chuyển vốn trong sản xuất kinh doanh, sự vận

động của tiền tệ trong quá trình sản xuất kinh doanh tất yếu làm nảy sinh hiện

tượng phổ biến là trong cùng một thời gian có rất nhiều doanh nghiệp, tổ chức

kinh tế, cá nhân phát sinh nhu cầu vốn cần được bổ sung với khối lượng và

thời gian cần thiết, đồng thời, trong thời gian đó có nhiều doanh nghiệp, tổ

chức kinh tế và dân cư có những lượng tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong một

thời gian nhất định, mâu thuẫn đó xảy ra thường xuyên và xem kẽ lẫn nhau

trong quá trình tuần hoàn vốn tiền tệ, mâu thuẫn đó phải được giải quyết bằng

các phương pháp nhất định sao cho phù hợp với quá trình tuần hoàn, có nghĩa

là phải tiến hành tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ trên nguyên tắc có

hoàn trả nhằm điều hoà kịp thời giữa cung và cầu vốn tiền tệ trong phạm vi

toàn xã hội đảm bảo cho quá trình tái sản xuất liên tục và tiết kiệm vốn. Như

vậy, đặc điểm của tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình sản xuất kinh doanh

của các doanh nghiệp, các tổ chức đã nảy sinh mâu thuẫn, đòi hỏi phải được

8

giải quyết bằng các quan hệ kinh tế tập trung và phân phối lại các nguồn tiền

tệ tạm thời nhàn rỗi trên nguyên tắc có hoàn trả, quan hệ này trở thành một

yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy xã hội loài người đi tới văn minh, thịnh

vượng trong nền kinh tế thị trường dựa trên nền sản xuất lớn hiện đại đó là

quan hệ tín dụng.

Tín dụng, xét về bản chất là hệ thống quan hệ kinh tế phát sinh giữa

người đi vay và người cho vay, nhờ quan hệ ấy mà vốn tiền tệ được vận động

từ chủ thể này sang chủ thể khác để sử dụng cho các nhu cầu khác nhau trong

nền kinh tế xã hội, tín dụng bao giờ cũng có thời hạn và phải được “hoàn trả”.

Giá trị của tín dụng không những được bảo tồn mà còn được nâng cao nhờ lợi

tức tín dụng.

Tín dụng được sử dụng như là công cụ khai thác và động viên có hiệu quả

nhất những lượng tiền tệ tạm thời nhàn rỗi phù hợp với quá trình vận động

của tiền tệ trong xã hội, tín dụng có các chức năng chính sau:

- Chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ. Đây là chức năng cơ

bản nhất của tín dụng, nhờ chức năng này của tín dụng mà các nguồn vốn tiền

tệ trong xã hội được điều hoà từ nơi thừa sang nơi thiếu để sử dụng nhằm phát

triển nền kinh tế. Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ là hai mặt hợp thành

chức năng cốt lõi của tín dụng. Cả hai mặt tập trung và phân phối lại vốn tiền

tệ đều đựơc thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả vì vậy tín dụng có ưu thế rõ

rệt, nó kích thích mặt tập trung vốn đồng thời thúc đẩy việc sử dụng vốn có

hiệu quả.

- Chức năng tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội: Hoạt

động của tín dụng, trước hết tạo điều kiện cho sự ra đời của các công cụ lưu

thông tín dụng như thương phiếu, kỳ phiếu ngân hàng, các loại séc, chuyển

khoản hoặc bù trừ cho phép thay thế một số lượng lớn tiền mặt lưu hành, nhờ

đó làm giảm bớt các chi phí có liên quan như in, đúc tiền, vận chuyển, bảo

9

quản tiền.

- Chức năng phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế: Đây là chức

năng phát sinh, hệ quả của hai chức năng nói trên. Sự vận động của vốn tín

dụng phần lớn là sự vận động gắn liền với sự vận động của vật tư, hàng hoá,

chi phí trong các doanh nghiệp, vì vậy qua đó tín dụng không những là tấm

gương phản ánh hoạt động kinh tế của doanh nghiệp mà còn thông qua đó

thực hiện việc kiểm soát các hoạt động ấy nhằm ngăn chặn các hiện tượng

tiêu cực, lãng phí, vi phạm pháp luật trong hoạt động sản xuất kinh doanh của

các doanh nghiệp.

* Các hình thức của tín dụng:

- Tín dụng thương mại.

Là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế với

nhau, được thực hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá cho nhau. Tín

dụng thương mại ra đời sớm hơn các hình thức tín dụng khác và giữ vai trò là

tiền đề, cơ sở cho sự ra đời các hình thức tín dụng khác. Tín dụng thương mại

ra đời dựa trên nền tảng khách quan là quá trình luân chuyển vốn và chu kỳ

sản xuất kinh doanh không ăn khớp lẫn nhau không những giữa các doanh

nghiệp khác ngành (như công nghiệp, thương mại, xây dựng) mà còn giữa các

doanh nghiệp trong cùng một ngành. Sự không ăn khớp này dẫn đến hiện

tượng trong một thời điểm, một số doanh nghiệp đã sản xuất ra một lượng

hàng hoá đang cần bán, nhưng chưa cần phải thu tiền ngay, trong khi một số

doanh nghiệp khác lại cần mua những sản phẩm hàng hoá ấy để đáp ứng nhu

cầu sản xuất kinh doanh nhưng lại chưa có tiền. Hiện tượng này có thể giải

quyết nếu các doanh nghiệp tiến hành mua bán chịu hàng hoá cho nhau. Đó

chính là tín dụng thương mại. Như vậy tín dụng thương mại có lợi đối với cả

hai phía, và có lợi đối với tiến trình phát triển của nền kinh tế, bởi vậy tín

dụng thương mại đã tồn tại và phát triển rất mạnh trong điều kiện của nền

kinh tế hàng hoá chưa phát triển cao như hiện nay.

10

- Tín dụng ngân hàng.

Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng với các

doanh nghiệp và cá nhân được thực hiện dưới hình thức ngân hàng đứng ra

huy động vốn bằng tiền và cho vay (cấp tín dụng) cho các đối tượng. Nó là

một nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ của ngân hàng đựơc thực hiện theo nguyên

tắc hoàn trả và có lãi.

Đặc điểm của tín dụng ngân hàng là cho vay dưới hình thái tiền tệ.

Nguồn vốn tín dụng mà ngân hàng cho vay ra được hình thành từ khoản tiền

tạm thời nhàn rỗi ngân hàng huy động đựơc. Trong quan hệ với các doanh

nghiệp và cá nhân, vừa đóng vai trò là “người đi vay”, vừa đóng vai trò

“người cho vay”. Tín dụng ngân hàng ra đời phát triển cùng với sự ra đời và

phát triển của hệ thống ngân hàng, khác với tín dụng thương mại, tín dụng

ngân hàng là hình thức tín dụng chuyên nghiệp, hoạt động của nó hết sức đa

dạng và phong phú.

- Tín dụng nhà nước.

Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa nhà nước (bao gồm chính

phủ, chính quyền địa phương) với các đơn vị, cá nhân trong xã hội, trong đó,

chủ yếu nhà nước đứng ra huy động vốn của các tổ chức và cá nhân bằng phát

hành trái phiếu để sử dụng vì mục đích và lợi ích chung của toàn xã hội.

Khác với các loại hình tín dụng khác, tín dụng nhà nước không phụ vụ

các đối tượng kinh tế đơn thuần, mà là các đối tượng vừa có tính chất kinh tế

vừa có tính chất xã hội, để thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế trong

từng thời kỳ nhất định.

Cũng giống như mọi loại hình tín dụng khác là thể hiện tính hoàn trả,

có thời hạn và phải trả ngoài khoản vốn gốc còn có một khoản tiền về sử dụng

vốn vay. Trong tín dụng nhà nước, vốn tiền tệ huy động được dưới hình thức

công trái (trái phiếu chính phủ) thuộc quyền sử dụng của nhà nước, chúng

11

được chuyển thành nguồn tài chính bổ sung của nhà nước. Vốn ngân sách là

nguồn để hoàn trả tiền vay và lãi vay. Tín dụng nhà nước gắn liền với hoạt

động của kiến trúc thượng tầng chính trị thông qua sự vận động của vốn ngân

sách, biểu hiện một bộ phận của quan hệ tài chính nhà nước.

Toàn bộ nguồn vốn huy động được dưới hình thức tín dụng nhà nước

chủ yếu để cho vay ưu đãi, ưu tiên cho các dự án và công trình xây dựng hoặc

cải tạo kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội hoặc đầu tư các dự án phát triển sản

xuất kinh doanh.

1.1.2- Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.

 Khái niệm tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.

Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một bộ phận của tín dụng

nhà nước. Nó là hình thức tín dụng đặc biệt xuất hiện khi mục địch của tín

dụng nhà nước chuyển từ chi tiêu sang đầu tư dưới dạng cho vay có hoàn trả.

Tính kinh tế của hoạt động tín dụng vốn ĐTPT của nhà nước xuất hiện khi

các hoạt động đầu tư được sử dụng từ nguồn vốn này để tạo ra nguồn thu có

khả năng hoàn trả vốn đã sử dụng. Giống như các hình thức tín dụng khác, cơ

chế vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước không chỉ thực hiện tập trung được

nguồn vốn cần thiết mà còn có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng, bảo toàn

và phát triển được nguồn vốn của Nhà nước. Qua đó, Nhà nước có thể mở

rộng và chủ động trong việc giải quyết các mục tiêu về đầu tư phát triển.

Tuy nhiên, tín dụng vốn ĐTPT của Nhà nước lại là một hình thức tín

dụng đặc biệt, ở đây tính kinh tế của tín dụng Nhà nước không phải là kinh tế

đơn thuần. Thông thường tín dụng vốn ĐTPT của Nhà nước có những đặc

12

tính sau:

- Tính kinh tế vĩ mô: tín dụng vốn ĐTPT của Nhà nước sẽ tập trung vào

các lĩnh vực then chốt, có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân cả

nước, hoặc một vùng, một ngành hay lĩnh vực.

- Tính xã hội: tín dụng vốn ĐTPT của Nhà nước sẽ tập trung vào các

lĩnh vực mà tín dụng thương mại với mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận có thể

không đầu tư (vì hiệu quả kinh tế trực tiếp của nhà đầu tư không được bảo

đảm, hoặc quy mô vốn quá lớn, hay thời gian thu hồi vốn đầu tư quá dài) để

giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước: việc làm cho người lao động, xoá

đói, nghèo, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế vùng, miền v.v.

 Chức năng của tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.

Xuất phát từ mục đích của tín dụng vốn ĐTPT của Nhà nước là đầu tư,

hỗ trợ cho các dự án đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế thuộc một số

ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước hoặc vùng khó khăn

cần khuyến khích đầu tư, Tín dụng vốn đầu tư phát triển của Nhà nước có ba

chức năng chủ yếu:

Một là, chức năng bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước.

Đây là chức năng cơ bản nhất của tín dụng nhà nước nói chung và tín

dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nói riêng. Tín dụng Nhà nước ra đời,

thoạt tiên là để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhằm bù đắp các khoản chi dùng

thường xuyên, nó không tham gia vào chu trình tái sản xuất của nền kinh tế.

Qua quá trình phát triển, chức năng nhiệm vụ của Nhà nước trong xã hội

không ngừng được cải tiến, theo đó chức năng bù đắp thiếu hụt ngân sách của

tín dụng Nhà nước được sử dụng tích cực hơn, nó nhằm để bù đắp những

khoản chi cho đầu tư phát triển kinh tế tăng thêm nguồn lực tài chính cho Nhà

nước để thực hiện các chính sách quản lý vĩ mô nền kinh tế và mở rộng quan

hệ kinh tế đối ngoại với cộng đồng kinh tế thế giới.

13

Hai là, chức năng phân phối lại nguồn vốn .

Nhờ vào hoạt động của tín dụng nhà nước có thể huy động mọi nguồn

vốn, nhận được một phần tài nguyên trong và ngoài nước để đầu tư phát triển

kinh tế. Mặt khác, nhờ vào hoạt động của tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước,

các chủ thể khác được phân phối lại một phần tài nguyên của xã hội từ ngân

sách Nhà nước. Qua đó, có thể thoả mãn nhu cầu đầu tư hoặc tiêu dùng. Cũng

cần phân biệt chức năng phân phối của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà

nước là có hoàn lại, nó khác với chức năng phân phối của các khoản thu chi

ngân sách thường xuyên là không hoàn lại. Sự vận động giá trị từ tín dụng

đầu tư phát triển của Nhà nước còn thúc đẩy lưu thông hàng hoá phát triển,

thông qua tín dụng của Nhà nước các chủ thể nhận được một lượng giá trị để

thoả mãn nhu cầu của mình, nhờ đó có tác động kích cầu làm cho lưu thông

hàng hoá phát triển nhanh hơn. Tín dụng đầu tư phát triển được sử dụng như

một biện pháp hỗ trợ từ phía Nhà nước cho các dự án đầu tư, các chương trình

mục tiêu của Chính phủ nhằm mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm đồng

thời tạo điều kiện để pháp huy hiệu quả sử dụng vốn, giảm thiểu tính bao cấp

của ngân sách Nhà nước. Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là cơ sở để

Nhà nước tổ chức quỹ tiền tệ Nhà nước một cách hiệu quả nhất làm cho quỹ

này luôn vận động và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong phát triển hạ

tầng kinh tế kỹ thuật của nền kinh tế.

Ba là, chức năng kiểm soát các hoạt động kinh tế.

Thông qua chức năng phân phối Nhà nước đầu tư vốn cho các dự án để

thực hiện theo các chương trình, các lĩnh vực kinh tế thì đồng thời Nhà nước

phải tiến hành kiểm soát các hoạt động của các chủ thể nhận và sử dụng vốn.

Với chức năng tổ chức và quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân, Nhà nước sử

dụng tín dụng nhà nước nói chung và tín dụng đầu tư phát triển nói riêng như

một công cụ kiểm soát các mặt hoạt động kinh tế, các quá trình sản xuất, phân

phối sản phẩm xã hội nhằm đảm bảo cho việc sử dụng nguồn vốn ngân sách

14

một cách có hiệu quả. Mặt khác, thông qua kế hoạch huy động và cho vay vốn

tín dụng đầu tư phát triển, Nhà nước cũng có thể nắm được mức độ phát triển

của nền kinh tế cũng như nhu cầu vốn cho đầu tư qua đó đưa ra những can

thiệp kịp thời nhằm đảm bảo cho nền kinh tế quốc dân tăng trưởng và phát

triển ổn định.

 Đặc điểm của tín dụng ĐTPT của Nhà nước và sự phân biệt nó với các

hình thức tín dụng khác.

* Đặc điểm của tín dụng ĐTPT của Nhà nước.

- Nguồn vốn để cho vay đầu tư là vốn của ngân sách, hoặc nguồn vốn

huy động theo kế hoạch của nhà nước để phục vụ đầu tư theo chủ chương của

Nhà nước.

- Tổ chức và làm nhiệm vụ quản lý và cho vay tín dụng vốn ĐTPT của

Nhà nước là hệ thống những đơn vị, cơ quan chuyên môn của nhà nước, được

thành lập và hoạt động theo Nghị định của Chính phủ.

- Đối tượng cho vay của tín dụng vốn ĐTPT của Nhà nước là những

dự án đầu tư theo các chương trình, mục tiêu, định hướng và chủ trương đầu

tư của nhà nước, theo chính sách kinh tế vĩ mô, nhằm chuyển dịch cơ cấu

kinh tế quốc dân theo hướng đã được quy định trong chiến lược phát triển

kinh tế – xã hội.

- Chu kỳ vay thường dài, lãi suất cho vay của vốn tín dụng ĐTPT của

Nhà nước là lãi suất ưu đãi, thấp hơn lãi suất thị trường, do Chính phủ quy

định phù hợp với chủ trương khuyến kích đầu tư phát triển kinh tế- xã hội

trong từng thời kỳ nhất định.

* Phân biệt tín dụng ĐTPT của Nhà nước với các hình thức tín dụng khác.

So với các hình thức tín dụng: tín dụng thương mại, tín dụng ngân

hàng, tín dụng quốc tế, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cũng hoạt

15

động theo nguyên tắc vay trả. Tuy nhiên, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà

nước với bản chất riêng nên có những đặc thù so với các loại hình tín dụng

khác, cụ thể :

- Tín dụng ĐTPT của Nhà nước gắn với việc điều tiết kinh tế vĩ mô

theo chủ trương của Nhà nước.

- Đối tượng đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước tập

trung vào các lĩnh vực theo chốt, có tác động tăng trưởng kinh tế, mà các

thành phần kinh tế khác không đảm nhận được vì các lý do như mức độ sinh

lời thấp, nhu cầu vốn lớn, thời hạn đầu tư dài, nên thường phải gắn với những

ưu đãi nhất định. Chẳng hạn lãi suất thường thấp hơn lãi suất thị trường cùng

kỳ, qui mô cho vay lớn hơn và các điều kiện đảm bảo nợ vay với gía trị thấp

hơn khoản vay.

- Tín dụng ĐTPT của Nhà nước có tính lịch sử, thường tồn tại và phát

triển trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế đất nước. Khi nền kinh tế thị

trường phát triển, các nhà đầu tư đã quen với hoạt động cạnh trạnh thì vai trò

can thiệp, điều tiết kinh tế của Nhà nước giảm, nên phạm vi tín dụng đầu tư

của Nhà nước thu hẹp lại để chuyển dần sang tín dụng thương mại.

- Đối tượng cho vay của tín dụng ĐTPT của Nhà nước do Nhà nước

xác định và được bố trí thông qua kế hoạch đầu tư của Nhà nước.

 Vai trò của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.

Xét trên nhiều phương diện, tín dụng ĐTPT của Nhà nước không chỉ là

biện pháp huy động nguồn vốn nhàn rỗi bổ sung cho nguồn vốn tài chính Nhà

nước mà còn là công cụ tài chính quan trọng để Nhà nước thực hiện điều tiết

và kiểm soát vĩ mô. Vai trò điều tiết nền kinh tế và kiểm soát vĩ mô bằng tín

dụng ĐTPT của Nhà nước được biểu hiện trên các khía cạnh chủ yếu sau :

- Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một công cụ sắc bén

16

trong việc lành mạnh hoá nền tài chính – tiền tệ quốc gia.

Tín dụng ĐTPT của Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc tạo dựng

và phân bổ nguồn vốn một cách hiệu quả cho các hoạt động đầu tư. Việc tập

trung và phân bổ nguồn vốn luôn có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát

triển. Nhà nước có thể tập trung một cách nhanh chóng một khối lượng vốn

theo nhu cầu với thời gian dài và chi phí không cao. Khả năng này sẽ giúp

Nhà nước chủ động trong việc điều tiết vĩ mô thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,

kéo theo sự cải thiện tiềm lực tài chính quốc gia.

Việc ra đời của cơ chế tín dụng ĐTPT Nhà nước còn là một tác nhân

quan trọng trên thị trường tài chính, đó là sự phát triển của thị trường chứng

khoán và của khu vực các thể chế tài chính phi ngân hàng.

Đối với lĩnh vực tiền tệ, vai trò của tín dụng ĐTPT của Nhà nước cũng

hết sức quan trọng. Việc xoá bỏ cơ chế tiền tệ hoá thâm hụt ngân sách là nền

tảng cho việc lành mạnh hoá khu vực tiền tệ- ngân hàng, góp phần duy trì sự

ổn định giá trị đồng tiền nội tệ.

Cơ chế tín dụng ĐTPT của Nhà nước ra đời là cơ sở để tách các hoạt

động tín dụng mang tính kinh tế - xã hội ra khỏi hoạt động có tính thương mại

của khu vực trung gian tài chính, chuyển hoạt động của các tổ chức trung gian

tài chính sang cơ chế hạch toán kinh doanh hoàn toàn. Việc tách bạch tín

dụng chính sách và tín dụng ngân hàng có tác dụng tích cực trong việc hạn

chế rủi ro về tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại.

Vấn đề có ý nghĩa sâu rộng hơn là sự phát triển tín dụng ĐTPT Nhà

nước đã tạo ra một thị trường tài chính năng động, thực hiện tốt chức năng

chu chuyển, điều hoà các nguồn tài chính trong nền kinh tế - một vấn để thiết

yếu đối với việc duy trì liên tục và mở rộng phát triển nền sản xuất hàng hoá.

- Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước góp phần điều chỉnh cơ cấu

17

kinh tế.

Cùng với các chính sách kinh tế khác như chính sách thuế, chính sách

tiền tệ. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước là một công cụ đắc lực, hữu hiệu của

nhà nước điều tiết vĩ mô, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu đặt ra đối với tín dụng

ĐTPT là thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế, một mặt phải tập trung vào

những lĩnh vực, ngành nghề cần thiết cho phát triển bền vững, nhằm trực tiếp

hoặc gián tiếp phát triển các lĩnh vực ngành nghề, điều chỉnh cơ cấu kinh tế.

Mặt khác, tín dụng ĐTPT của nhà nước sẽ tập trung vào những ngành nghề,

lĩnh vực công nghệ mới, có tác dụng thúc đẩy năng suất lao động, tăng sản

phẩm xã hội, nhằm cải thiện đời sống, rút ngắn khoảng cách phát triển với các

nước, bảo đảm không tụt hậu hoặc đi chệch xu hướng phát triển chung của

nền kinh tế thế giới, khu vực.

- Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nâng cao hiệu quả đầu tư,

xoá bao cấp về đầu tư.

Tín dụng ĐTPT của Nhà nước làm giảm sự bao cấp trực tiếp của Nhà

nước đối với lĩnh vực đầu tư có khả năng hoàn vốn mà trước đây vẫn được

Nhà nước cấp không hoàn lại. Từ đó đã giảm đáng kể áp lực về nguồn vốn

đối với ngân sách Nhà nước. Đồng thời tín dụng ĐTPT của Nhà nước cũng

góp phần đa dạng hoá các hình thức huy động vốn đầu tư, thúc đẩy huy động

vốn đặc biệt là huy động vốn dài hạn trong mọi thành phần kinh tế, các tầng

lớp dân cư nhằm thực hiện chủ trương phát huy nội lực cho phát triển kinh tế.

Bên cạnh đó tín dụng ĐTPT của Nhà nước còn góp phần nâng cao hiệu

quả trong đầu tư. Các cơ chế, chính sách quản lý tín dụng ĐTPT của Nhà

nước được đưa ra chặt chẽ nhằm kiểm tra, giám sát trước và trong quá trình

đầu tư một cách nghiêm ngặt. Dưới áp lực này, chủ đầu tư buộc phải tăng

cường công tác hạch toán kế toán, phải chứng minh và chịu sự giám sát chặt

18

chẽ của cơ quan quản lý nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước về khả năng

tạo ra nguồn thu nhập cao hơn chi phí đầu tư để không chỉ bù đắp được các

khoản chi phí đã bỏ ra mà phải trả lãi cho khoản tín dụng Nhà nước. Đây

cũng là động lực mạnh mẽ tạo nên tư duy làm ăn có hiệu qủa, là yếu tố quan

trọng trong việc động viên trí tuệ, sức lực của toàn dân nhằm phát huy nội lực

cho tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội.

- Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước giúp các doanh nghiệp mở

rộng đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất kinh doanh.

Khi được tiếp nhận nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước,

các doanh nghiệp thuộc đối tượng sẽ có cơ hội mở rộng sản xuất kinh doanh

dưới các hình thức đầu tư mới hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, tăng qui mô

phát triển sản xuất kinh doanh.

Mặt khác, hoạt động đầu tư của Nhà nươc sẽ khuyến khích và lôi kéo

các thành phần kinh tế mở rộng sản xuất kinh doanh thông qua việc tạo ra các

cơ sở hạ tầng thiết yếu cho sản xuất hoặc phát triển một số khâu nào đó của

quá trình sản xuất. Khi một dự án đầu tư đi vào hoạt động với máy móc được

trang bị đầy đủ sẽ làm cho năng lực sản xuất tăng lên, hàng hoá được sản xuất

ra nhiều hơn, đa dạng về mẫu mã, phong phú về chủng loại và chất lượng cao,

trình độ công nghệ, năng suất lao động của xã hội được nâng lên. Từ đó sẽ tiết

kiệm được một khoản ngoại tệ lớn do không phải nhập máy móc thiết bị từ

nước ngoài vào, tạo điều kiện để người tiêu dùng tiếp cận với sản phẩm mới

với chất lượng đảm bảo, giá cả hợp lý và xa hơn thế xuất khẩu ra nước ngoài

để thu ngoại tệ. Các dự án về cơ sở hạ tầng như: thông tin liên lạc, các công

trình giao thông đường không, bộ, thuỷ, khu công nghệ cao có một ý nghĩa vô

cùng quan trọng làm tiền đề để phát triển cho các ngành kinh tế khác.

- Tín dụng ĐTPTcủa Nhà nước góp phần tạo việc làm cho người lao

19

động, giữ vững an ninh chính trị, ổn định trật tự xã hội.

Trong bối cảnh hiện nay, việc giải quyết việc làm là vấn đề hết sức

quan trọng được Đảng và Nhà nước rất quan tâm. Tín dụng ĐTPT của Nhà

nước với mục đích là hỗ trợ các dự án đầu tư phát triển của các thành phần

kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn, các

lĩnh vực mà không có ưu đãi đầu tư của nhà nước thì sẽ không phát triển

được, hoặc các lĩnh vực sản xuất kinh doanh ít có hiệu quả trực tiếp, do đó,

khi thực hiện đầu tư phát triến sản xuất tại các địa bàn có điều kiện kinh tế- xã

hội khó khăn và đặc biệt khó khăn như: các tỉnh miền núi, biên giới hải đảo,

vùng sâu, vùng xa hoặc các ngành thuộc diện khuyến khích ưu đãi đầu tư của

Nhà nước đối với các thành phần kinh tế, ngoài ý nghĩa về mặt kinh tế là thúc

đẩy sản xuất phát triển, tăng thu ngân sách, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh

tế… còn góp phần tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, giữ vững an

ninh chính trị, ổn định xã hội.

- Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước góp phần mở rộng quan hệ

kinh tế quốc tế.

Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước dành cho đầu tư

phát triển ở nước ta một phần được hình thành từ nguồn vốn vay nước ngoài

và một phần từ nguồn tài trợ phát triển chính thức ODA của nước ngoài thông

qua các Hiệp định tín dụng của Nhà nước.

Trên cơ sở các văn bản luật, pháp lệnh về khuyến khích đầu tư phát

triển đã được ban hành. Nhà nước chủ động tạo ra môi trường đầu tư và hành

lang pháp lý để thu hút các nguồn vốn tư bản nước ngoài - nguồn vốn này chủ

yếu được đầu tư vào các cơ sở hạ tầng, các công trình kinh tế trọng điểm, nhờ

đó sẽ tạo điều kiện thúc đẩy tăng tưởng kinh tế và nâng cao mức sống vật chất

của nhân dân. Mặt khác, trên cơ sở ký kết các hợp đồng tín dụng Nhà nước, sẽ

tạo ra được các mối quan hệ kinh tế Quốc tế, thúc đẩy sự hoà nhập quan hệ

20

kinh tế - xã hội của nước ta với cộng đồng Quốc tế.

1.2- Nội dung, nhân tố ảnh hƣởng và sƣ cần thiết nâng cao hiệu quả

tín dụng đầu tƣ phát triển của nhà nƣớc.

1.2.1- Nội dung nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của nhà

nước.

 Khái niệm và chỉ tiêu xác định hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của

nhà nước.

Theo Từ điển Tiếng Việt, "Hiệu quả là kết quả như yêu cầu của việc

làm mang lại". Đây là khái niệm chung nhất về hiệu quả. Nói cách khác, hiệu

quả là tiết kiệm không lãng phí nhưng có quan hệ chặt chẽ với việc sử dụng

năng lực sản xuất hiện có, cốt lõi của mọi hoạt động khắc phục sự hạn chế và

khan hiếm của nguồn lực (sự thiếu hụt).

Trong quá trình CNH, HĐH và xây dựng nền KTTT định hướng XHCN,

Đảng ta luôn đòi hỏi phải quán triệt quan điểm hiệu quả kinh tế- xã hội và

quan điểm tăng trưởng kinh tế bền vững trong mọi phương án đầu tư và phát

triển.

Hiệu quả kinh tế - xã hội là khái niệm phản ảnh sự kết hợp hài hòa giữa

hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội trong mỗi phương án đầu tư và phát triển.

Đảng ta khi nói về quan điểm phát triển đã chỉ rõ: Phát triển nhanh, hiệu quả

và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã

hội và bảo vệ môi trường .

Những quan điểm đúng đắn nói trên, sẽ không là ngoại lệ đối với việc

xác định hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Ngân hàng phát triển nói

chung và ở Hà Tây nói riêng.

Hoạt động tín dụng của Ngân hàng phát triển được xem là có hiệu quả

21

theo chúng tôi, khi nó mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội cho cả ngân hàng, các

đối tượng khác trong quan hệ tín dụng và cả nền kinh tế quốc dân. Điều đó có

nghĩa:

- Bên cho vay, trong đó có Ngân hàng phát triển thu được nợ gốc và lãi

định mức tương ứng với khoảng thời gian trong hạn của khế ước vay và cho

vay.

- Bên khách hàng vay vốn, nhờ sử dụng vốn tín dụng được vay đã góp

phần làm cho sản xuất kinh doanh phát triển, làm cho vốn vay thực hiện được

chức năng của nó, chức năng bảo tồn vốn và sinh lợi, và theo đó đảm bảo

điều kiện cho việc phân phối lợi ích gắn với quyền sở hữu và quyền sử dụng

vốn tín dụng trong khế ước vay và cho vay mà hai bên đã thỏa thuận.

- Đối với nền kinh tế quốc dân, khoản tín dụng đó phải có ảnh hưởng tích

cực không chỉ đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước, mà còn

ảnh hưởng tích cực đến tiến bộ và công bằng xã hội, tăng công ăn việc làm,

tăng thu nhập và nâng cao đời sống của nhân dân đến xã hội. Nói cách khác

phải vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vừa gắn với tiến bộ kinh tế, tiến bộ và

công băng xã hội.

Từ khái niệm trên có thể đưa ra các chỉ tiêu xác định hiệu quả tín dụng

ĐTPT của Nhà nước.

 Các chỉ tiêu về định tính.

Như trên đã phân tích hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà

nước được thể hiện qua khả năng thu được nợ gốc và lãi trong khoảng thời

gian đã quy định trong hợp đồng tín dụng đối với Ngân hàng phát triển; kết

quả sản xuất kinh doanh của các khách hàng vay vốn từ Ngân hàng và kết quả

22

tác động đến sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Do đó, về mặt định

tính, hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước được đánh giá tổng

hợp qua 3 chỉ tiêu sau:

 Chỉ tiêu về bên cho vay - Ngân hàng phát triển.

Hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước được thể hiện: Một

là, khả năng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Nói một cách khác, đối với

bên đi vay thì điều này trước hết biểu hiện ở chỗ cung cấp vốn đầy đủ, nhanh

chóng, kịp thời, thủ tục đơn giản, thuận tiện (tuy nhiên, vẫn phải bảo đảm

những nguyên tắc an toàn cần thiết và theo những quy trình nhất định), tiết

kiệm được các chi phí giao dịch, tiết kiệm thời gian và nhất là sẽ không bỏ lỡ

những cơ hội sản xuất kinh doanh tốt. Hai là, khả năng thu được nợ gốc và

lợi tức trong khoảng thời gian đã quy định trong hợp đồng tín dụng. Nghĩa là,

phải bảo đảm để Ngân hàng Phát triển thực hiện được chức năng mà Nhà

nước đã giao, đồng thời phải mang lại thu nhập đủ trang trải các khoản chi

phí liên quan và hạn chế thấp nhất nguy cơ rủi ro (không thu hồi được vốn

cho vay hoặc thu hồi chậm).

 Chỉ tiêu về bên đi vay.

Khả năng sử dụng vốn vay có hiệu quả của bên đi vay. Nói một cách

khác, bên đi vay sử dụng vốn tín dụng được vay đã làm cho sản xuất kinh

doanh có lãi, làm cho vốn vay thực hiện được chức năng của nó, chức năng

bảo tồn vốn và sinh lợi, và theo đó đảm bảo điều kiện cho việc phân phối lợi

ích gắn với quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn tín dụng trong khế ước vay

và cho vay mà hai bên đã thỏa thuận. Vốn vay được từ Ngân hàng phát triển

phục vụ tốt hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như mục tiêu khi đi vay đề

ra.

 Chỉ tiêu về phía nền kinh tế-xã hội.

Đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của vùng, địa

23

phương và cả nước. Đây là hệ quả tất yếu đạt được khi cả bên đi vay và Ngân

hàng phát triển đều hoạt động tốt. Nó được biểu hiện ở chỗ, hoạt động của

Ngân hàng sẽ đóng góp vào việc tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, thúc đẩy

sản xuất phát triển, thúc đẩy phát triển kim ngạch xuất khẩu, thúc đẩy chuyển

dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo thêm việc

làm tăng thu nhập cho người lao động góp phần nâng cao đời sống của nhân

dân.

Có thể nói, hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển là một chỉ tiêu rất tổng

hợp, được đánh giá trên quan điểm kết hợp hài hòa giữa hiệu quả kinh tế và

hiệu quả xã hội gắn với ba đối tượng tham gia: Ngân hàng phát triển, khách

hàng vay vốn của Ngân hàng và nền kinh tế-xã hội.

 Các chỉ tiêu định lượng.

Các chỉ tiêu định tính nói trên là những căn cứ đánh giá hiệu quả tín

dụng đầu tư phát triển mang tính tổng hợp là rất quan trọng, cơ bản và cần

thiết. Song để đánh giá về mặt lượng, cần dựa thêm vào một số chỉ tiêu định

lượng gắn với hoạt động tín dụng đầu tư phát triển mà Ngân hàng phát triển

có thể lượng hóa được. Những chỉ tiêu đó là:

 Tốc độ tăng doanh số:

Là tỷ số so sánh tính theo phần trăm về doanh số giữa hai kỳ cho vay,

được thể hiện qua công thức:

Doanh số cho vay kỳ này

Tốc độ tăng doanh số cho vay = X100

%

Doanh số cho vay kỳ trước

Trong đó: Doanh số cho vay thể hiện quy mô tuyệt đối của hoạt động

tín dụng, nhưng bản thân doanh số cho vay nhiều hay ít còn phụ thuộc vào

khả năng huy động vốn của Ngân hàng và nhu cầu của người đi vay. Còn tốc

24

độ tăng doanh số cho vay thể hiện khả năng mở rộng quy mô và hình thức

cho vay qua các thời kỳ. Doanh số cho vay lớn và tốc độ cho vay tăng nhanh

cho thấy khả năng mở rộng tín dụng của Ngân hàng. Tuy nhiên, như trên đã

phân tích, đó mới chỉ là điều kiện chứ chưa thể khẳng định hiệu quả tín dụng

của Ngân hàng mà cần phải kết hợp nghiên cứu, phân tích các chỉ tiêu khác.

 Hiệu suất sử dụng vốn:

Tổng dư nợ

Hiệu suất sử dụng vốn = X 100 %

Tổng nguồn vốn

Hiệu suất sử dụng vốn nói lên khả năng cho vay vốn so với tổng

nguồn vốn của Ngân hàng. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả hoạt động tín

dụng của Ngân hàng có thể ngày càng cao và ngược lại. Tuy nhiên, chúng ta

cũng cần kết hợp với các chỉ tiêu khác để đánh giá một cách tổng quát, không

chỉ dựa trên cơ sở chỉ tiêu trên để đánh giá hiệu quả tín dụng của Ngân hàng.

Bởi vì, đánh giá như vậy là phiến diện, sẽ dễ dẫn đến đánh giá sai lệch. Chẳng

hạn, tỷ lệ nợ quá hạn cao trong khi hiệu suất sử dụng vốn cũng cao thì hiệu

quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng phát triển chưa chắc đã cao, thậm chí

còn thấp.

 Tỷ lệ nợ quá hạn:

Dư nợ quá hạn

Tỷ lệ nợ quá hạn = X 100 %

Tổng dư nợ

Chỉ tiêu này phản ánh khái quát về tình hình nợ quá hạn của Ngân

hàng trong quá trình cho vay. Chỉ tiêu này càng thấp thì hiệu quả hoạt động

của Ngân hàng càng tốt và ngược lại. Bởi vì, chỉ tiêu này cao sẽ chứng tỏ

Ngân hàng đang gặp nhiều rủi ro. Tuy nhiên, trong thực tế, do những rủi ro

trong hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng của Ngân hàng là

25

không thể thể tránh khỏi. Vì vậy, chấp nhận một tỷ lệ nợ quá hạn nhất định

được coi như giới hạn an toàn. Theo khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới, tỷ

lệ này nên ở mức dưới 5% là có thể chấp nhận được.

Cần nhấn mạnh rằng, hoạt động tín dụng của Ngân hàng phát triển là

một hoạt động tín dụng gắn với chính sách đầu tư phát triển, không vì mục

đích lợi nhuận, hoạt động của Ngân hàng chủ yếu hoạt động và tổ chức thực

hiện cho vay đầu tư theo định hướng và chỉ đạo của Nhà nước. Vì vậy, nên

các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng phát triển

mang nhiều tính chất định tính hơn là tính định lượng (đây là một đặc điểm

khác biệt lớn so với hoạt động của các Ngân hàng thương mại). Hơn nữa,

riêng về hiệu quả xã hội rất khó có các chỉ tiêu định lượng để đo lường tác

động cụ thể đối với từng hoạt động tín dụng của Ngân hàng phát triển đến sự

phát triển chung đối với phát triển kinh tế của đất nước. Đồng thời, do nhân tố

bên đi vay của Ngân hàng cũng rất đa dạng như các doanh nghiệp, các dự án,

các chương trình mục tiêu nên cũng rất khó đưa ra được các chỉ tiêu định

lượng cụ thể chung cho đối tượng này. Do đó, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà

người ta có thể đánh giá hiệu quả kinh tế trên cả hai mặt định tính và định

lượng, đôi khi chỉ đánh giá trên các khía cạnh ở tầm vĩ mô.

 Nội dung nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển.

Nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển là việc Ngân hàng phát

triển cùng các đối tượng khác trong quan hệ tín dụng và các cơ quan chức

năng có liên quan chủ động tìm ra giải pháp để bên cho vay hạn chế tới mức

thấp nhất nợ quá hạn phát sinh; bên đi vay vốn sản xuất kinh doanh sử dụng

vốn vay có hiệu quả, có lợi nhuận, mở rộng sản xuẩt đổi mới kỹ thuật, công

nghệ, tăng công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần thúc

đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội của đất nước theo hướng bền

26

vững.

Sự phân tích trên cho thấy những gì nói về khái niệm và chỉ tiêu xác

định hiệu quả tín dựng đầu tư phát triển của nhà nước đã phân tích đều có giá

trị để nói về nội dung của việc nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển

của Nhà nước hiện nay. Do đó, nội dung nâng cao hiệu quả tín dụng vốn đầu

tư phát triển của nhà nước bao gồm:

- Nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước của Chi nhánh

Ngân hàng phát triển Hà Tây - Đơn vị cho vay.

- Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà

nước đối với các đơn vị đi vay.

- Nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước qua kết

quả thu được đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Hà Tây.

1.2.2- Những nhân tố ảnh hưởng đến viêc nâng cao hiệu quả tín

dụng vốn đầu tư phát triển của nhà nước.

Hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước chịu ảnh hưởng của rất

nhiều nhân tố khác nhau gây nên những tác động cả tích cực và tiêu cực. Vì

vậy, để phát huy những nhân tố tích cực và hạn chế tối đa những ảnh hưởng

tiêu cực nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển, chúng ta cần

nghiên cứu những tác động sau đây:

 Nhóm nhân tố tác động bởi môi trường kinh tế vĩ mô trong và ngoài

nước.

Môi trường kinh tế vĩ mô trong nước và thế giới là nhân tố gián tiếp tác

động đến hoạt động cho vay đầu tư phát triển của nhà nước. Đường lối kinh tế

của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là các cơ chế, chính sách của Chính phủ là

môi trường pháp lý cho mọi hoạt động kinh tế của đất nước nói chung và hoạt

động tín dụng ưu đãi nói riêng. Trên cơ sở các định hướng kinh tế chung của

đất nước trong từng thời kỳ, Chính phủ sẽ hoạch định những vùng, những

27

ngành, lĩnh vực được ưu tiên phát triển. Đó là cơ sở để đưa ra các qui định về

đối tượng được hưởng tín dụng ưu đãi và mức độ ưu đãi. Căn cứ vào tình hình

kinh tế vĩ mô trong từng thời kỳ mà chính sách tín dụng đầu tư phát triển của

Nhà nước có sự điều chỉnh linh hoạt, hợp lý, đảm bảo mục tiêu tăng trưởng và

phát triển ổn định, có trọng tâm của nền kinh tế. Chính sách kinh tế của Nhà

nước là nhân tố tác động trực tiếp đến hoạt động cho vay đầu tư phát triển.

Nếu phù hợp, chúng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư và cho các

đơn vị thực hiện tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, trên cơ sở đó thúc

đẩy hiệu quả hoạt động cho vay. Ngược lại, nếu bất hợp lý, đó sẽ là nguyên

nhân chính dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ngân sách trong khi nhu cầu vốn

cho đầu tư phát triển của xã hội không có nguồn để đáp ứng.

Tuỳ theo điều kiện kinh tế vĩ mô khác nhau mà Chính phủ có những

điều chỉnh trong chính sách tài chính quốc gia như điều chỉnh về tỷ giá, lãi

suất, chính sách tài chính, tiền tệ. Đến lượt mình, các nhân tố này lại tác động

đến hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay đầu tư phát triển của

nhà nước nói riêng. Chẳng hạn, trong điều kiện nền kinh tế giảm phát, Nhà

nước thường có chủ trương cắt giảm lãi suất ngân hàng để kích cầu nền kinh

tế, kích thích đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư đổi mới công nghệ,

hạ giá thành và giá bán sản phẩm. Điều này dẫn đến lãi suất cho vay đầu tư

phát triển của nhà nước cũng phải giảm theo để đảm bảo tính chất ưu đãi. Hơn

thế nữa, các dự án đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ, dự án đầu tư chiều

sâu cho sản xuất kinh doanh sẽ được xếp vào danh mục được hưởng ưu đãi

dẫn đến những thay đổi trong cơ cấu các ngành, các lĩnh vực được phép vay

vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước. Ngoài ra, trong trường hợp này,

Chính phủ thường có thêm những biện pháp khác như giảm thuế thu nhập

doanh nghiệp hay hỗ trợ lãi suất sau đầu tư để tạo điều kiện cho doanh nghiệp

hạ giá thành sản phẩm thực hiện mục tiêu kích cầu tiêu dùng từ phía nền kinh

tế. Những biện pháp này tác động trực tiếp đến lợi ích của doanh nghiệp,

28

khuyến khích họ vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước để đầu tư

phát triển sản xuất của bản thân doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế quốc

dân. Mức độ hoạt động kinh tế, sự biến động của thị trường và cạnh tranh

trong điều kiện toàn cầu hóa và HNKTQT, nhất là khi nước ta là thành viên

của WTO.

Đây là những nhân tố ảnh hưởng gián tiếp đến hoạt động cho vay đầu

tư phát triển của nhà nước. Các khoản vay gia tăng nhanh và có khả năng trả

nợ cao hơn trong các thời kỳ hưng thịnh của nền kinh tế so với các giai đoạn

suy thoái hơn. Trong điều kiện kinh tế thị trường, cạnh tranh là tất yếu, nó tồn

tại một cách khách quan và buộc tất cả các đơn vị kinh tế đều phải tham gia

để chiếm được một vị trí trên thị trường. Tuy nhiên, điều kiện của thị trường

lại thường xuyên thay đổi do tác động của rất nhiều nhân tố cả chủ quan và

khách quan khác. Thị trường biến động đòi hỏi chủ đầu tư phải có những thay

đổi linh hoạt để thích ứng. Vì vậy, có nhiều dự án do những thay đổi của thị

trường và cạnh tranh mà không thể thực hiện được hoặc thực hiện không đúng

tiến độ hay không đem lại hiệu quả như phương án tài chính. Điều đó gây nên

những tác động không nhỏ cho hoạt động cho vay đầu tư phát triển của nhà

nước.

 Nhóm nhân tố thuộc về Ngân hàng phát triển.

Cơ quan thực hiện cho vay đầu tư phát triển của nhà nước gồm có các

cơ quan quản lý nhà nước và các kênh thực hiện cho vay như các ngân hàng

thương mại quốc doanh, các quỹ đầu tư phát triển,... Hoạt động của các cơ

quan này trực tiếp tác động đến hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển

của nhà nước.

- Các quy định về quy trình, thủ tục thực hiện.

Các quy định này gồm có: quy trình lập kế hoạch và giao vốn tín dụng

đầu tư phát triển của nhà nước, thẩm định và xét duyệt dự án được hưởng ưu

đãi, quy định về lãi suất cho vay, mức cho vay, thời hạn cho vay, quy định về

29

giải ngân và thu hồi vốn... Căn cứ vào mục tiêu chiến lược lớn trong từng thời

kỳ của đất nước mà các quy định này được điều chỉnh linh hoạt cho phù hợp.

Tuy nhiên, sự điều chỉnh này không phải lúc nào cũng phù hợp với điều kiện

thực tế thúc đẩy hoạt động cho vay đầu tư phát triển của nhà nước. Mặt khác,

chính sự thay đổi thường xuyên của các quy định này lại gây nên không ít khó

khăn cho không chỉ chủ đầu tư mà cho chính hoạt động của các đơn vị thực

hiện cho vay đầu tư phát triển như các ngân hàng thương mại quốc doanh,

Ngân hàng phát triển...

Một nhân tố khác cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động này là thủ

tục hành chính. Trong điều kiện thực tế ở Việt Nam hiện nay, mặc dù việc cải

cách hành chính đã và đang được thực hiện nhưng nhìn chung vẫn còn rất

nặng nề. Trong khi đó, tín dụng ưu đãi của nhà nước lại thuộc lĩnh vực tài

chính nhà nước, nghĩa là gắn liền với những thủ tục phức tạp, rườm rà, cứng

nhắc không phù hợp với những biến động chung của tình hình. Điều này dẫn

đến tâm lý ngại vay vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước của chủ đầu tư do phải

thực hiện quá nhiều thủ tục hoặc phải thay đổi các yếu tố của dự án để đáp

ứng đủ thủ tục vay vốn, mặt khác cũng gây khó khăn và làm giảm hiệu quả

hoạt động của các đơn vị thực hiện.

- Sự phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ, các Bộ ngành có liên quan, Uỷ

ban nhân dân tỉnh (thành phố) và các cơ quan có liên quan.

Tín dụng ưu đãi của nhà nước là một lĩnh vực của tài chính nhà nước.

Do đó, nó cần được sự quản lý và chỉ đạo của rất nhiều các cơ quan nhà nước

để đảm bảo thực hiện đúng bản chất của nó và tránh những hiện tượng lạm

dụng hay lãng phí vốn ngân sách. Tuy nhiên, để thực hiện tốt việc quản lý này

trên cơ sở không gây làm cản trở hoạt động cho vay thì cần phải có sự kết hợp

hoạt động chặt chẽ giữa các cơ quan có liên quan đồng thời có sự phân định

rõ ràng về trách nhiệm, thẩm quyền của từng đơn vị. Điều này không chỉ góp

phần làm giảm thủ tục hành chính phiền hà, giảm thời gian và chi phí cho chủ

30

đầu tư khi tiến hành làm thủ tục xin được vay vốn mà còn giúp cho việc xác

định trách nhiệm khi có các vướng mắc nảy sinh, tránh trường hợp đùn đẩy

trách nhiệm dẫn đến tình trạng ách tắc trong quá trình thực hiện. Hơn nữa, sự

nhất quán trong quan điểm chỉ đạo hoạt động của các cơ quan quản lý cũng

tạo nên một môi trường ổn định cho các nhà đầu tư khi tiến hành lập phương

án tài chính, phương án trả nợ là cơ sở để thực hiện cho vay tín dụng ưu đãi

của nhà nước.

- Trình độ cơ sở vật chất, địa điểm, công nghệ.

Khách hàng mong muốn tiến hành giao dịch kinh doanh với một chi

nhánh có trụ sở kiên cố và bề thế thuận tiện với các nhân viên dễ mến, thân

thiện, lịch sự, nhanh chóng.

Các hệ thống thiết bị, máy móc hiện đại, các công nghệ mới áp dụng

trong quá trình thực hiện thao tác nghiệp vụ sẽ ảnh hưởng đến sự nhanh

chóng, thời gian, chất lượng thực hiện nghiệp vụ cụ thể.

- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ.

Con người bao giờ cũng đóng vai trò trung tâm trong mọi hoạt động

của xã hội. Do đó, nhân tố có ảnh hưởng lớn nhất đến hiệu quả hoạt động cho

vay tín dụng ưu đãi của nhà nước chính là trình độ chuyên môn, nghiệp vụ

cũng như tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, từ đội ngũ cán bộ quản lý

ở cơ quan giao kế hoạch đến cán bộ trực tiếp thực hiện cho vay tại các cơ

quan giải ngân vốn vay. Cán bộ quản lý thành thạo nghiệp vụ, có tinh thần

trách nhiệm cao thì việc bố trí kế hoạch vốn được thực hiên đúng thời hạn.

Cũng như vậy, trình độ và ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ tín dụng sẽ

đóng vai trò quyết định trong việc hướng dẫn các đơn vị được vay hoàn chỉnh

thủ tục hồ sơ xin vay vốn sẽ tạo điều kiện giải ngân nhanh vốn vay, nhanh

chóng đưa dự án đi vào cuộc sống, đồng thời thẩm định chính xác hiệu quả

kinh tế-xã hội của dự án, đảm bảo đồng vốn tín dụng ưu đãi được thực hiện

31

đúng mục đích và bảo toàn phát triển nguồn vốn ngân sánh.

Bên cạnh đó, sự phối hơp hoạt động và phân công trách nhiệm rõ ràng

giữa từng cá nhân cũng như sự quản lý điều hành tốt của các cán bộ quản lý

sẽ là cơ sở để giảm chi phí hành chính, tiết kiệm và chống lãng phí trong sử

dụng vốn tín dụng ưu đãi. Vì vậy, trong quá trình nâng cao hiệu quả hoạt

động cho vay đầu tư phát triển thì vấn đề nâng cao trình độ nghiệp vụ và ý

thực trách nhiệm của đội ngũ cán bộ phải được đặc biệt quan tâm đến song

song với việc hoàn thiện cơ chế tín dụng, cải cách thủ tục hành chính.

 Nhóm nhân tố từ phía chủ dự án vay vốn.

Chủ đầu tư đóng vai trò trọng tâm trong việc thực hiện dự án đầu tư

phát triển. Đó là người trực tiếp quản lý và sử dụng nguồn vốn tín dụng ưu đãi

của nhà nước. Do đó, những nhân tố từ phía chủ đầu tư luôn là một trong

những nhân tố chủ quan quan trọng nhất tác động đến hoạt động cho vay đầu

tư phát triển. Các nhân tố từ phía chủ đầu tư gồm có:

- Nhận thức của chủ đầu tư về tín dụng ưu đãi của nhà nước.

Đây là nhân tố đóng vai trò quan trọng quyết định hành vi của chủ đầu

tư. Nếu nhận thức đúng đắn về tín dụng ưu đãi của nhà nước, chủ đầu tư sẽ có

ý thức cao trong việc sử dụng vốn vay đồng thời có những biện pháp tốt nhất

đảm bảo sử dụng hiệu quả, đúng mục đích, bảo toàn và phát triển vốn, đảm

bảo khả năng trả nợ đúng hạn. Đó là cơ sở để các kênh cho vay thực hiện tốt

chức năng của mình, đảm bảo hiệu quả của vốn ngân sách nhà nước, các

nguồn vốn huy động khác cho tín dụng ưu đãi. Mặt khác, nếu chưa nhận thức

đúng đắn và đầy đủ về bản chất của tín dụng ưu đãi của nhà nước, chủ đầu tư

sẽ coi đó như một biến tướng của hình thức cấp phát vốn. Do đó hoặc là

không có ý thức trách nhiệm đối với vốn vay dẫn đến mất khả năng trả nợ làm

ảnh hưởng đến khả năng tái đầu tư cho các dự án khác của nhà nước hoặc là

coi nó như là cơ chế xin-cho, chỉ chú trọng đến việc được ghi kế hoạch vốn

32

mà không chú ý đến việc xây dựng dự án có hiệu quả.

- Ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình hoạt động kinh

doanh và mối quan hệ của doanh nghiệp trên thị trường.

Ngành nghề kinh doanh hay lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp là

căn cứ để xác định xem nó có được hưởng tín dụng ưu đãi (tín dụng đầu tư

phát triển) của nhà nước hay không. Qua đó, quyết định tín dụng đầu tư phát

triển có được thực hiện đối với doanh nghiệp hay không. Trong điều kiện kinh

tế thị trường, ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh quyết định khả năng mở

rộng sản xuất của doanh nghiệp, khả năng đảm bảo tài chính của doanh

nghiệp. Cùng với tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, những

yếu tố này sẽ quyết định khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Các mối quan hệ

thị trường của doanh nghiệp bao gồm quan hệ với khách hàng, quan hệ với

nhà cung cấp, với các cơ quan quản lý nhà nước, các kênh cho vay và các tổ

chức tài chính trung gian khác sẽ tạo nên tính linh hoạt của doanh nghiệp, tạo

điều kiện cho doanh nghiệp có khả năng huy động nguồn vốn bổ sung cho dự

án, phối hợp giải quyết các vấn đề chuẩn bị cho dự án như hoàn tất thủ tục,

lựa chọn công nghệ thiết bị hợp lý, tổ chức đấu thầu thi công nhanh gọn và

giải phóng mặt bằng. Đó là cơ sở đảm bảo cho doanh nghiệp có khả năng

thực hiện được dự án đầu tư phát triển và thực hiện có hiệu quả. Do đó, nó

cũng được coi là nhân tố chủ quan tác động đến hoạt động cho vay tín dụng

ưu đãi của nhà nước.

- Trình độ quản lý và trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ trong

doanh nghiệp.

Nhân tố này trước hết đóng vai trò quyết định đối với việc xây dựng và

lựa chọn dự án đầu tư là cơ sở để thực hiện tín dụng ưu đãi của nhà nước. Mặt

khác, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ nhân viên của doanh nghiệp là

nhân tố quan trọng tác động đến việc thực hiện dự án, đến khả năng thanh

toán nợ vay. Không những thế, trình độ của cán bộ trong từng bộ phận sẽ đảm

33

bảo cho từng khâu thực hiện dư án theo qui định một cách nhanh chóng đảm

bảo dự án được ký kết hợp đồng tín dụng và giải ngân nhanh chóng theo đúng

kế hoạch.

1.2.3- Sự cần thiết khách quan nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư

phát triển của nhà nước.

 Do yêu cầu của của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện

các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội, từ sử

dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động

với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát

triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng xuất lao

động xã hội cao.

Nước ta có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây

dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội từ đầu từ không đến có, từ

gốc đến ngọn thông qua công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mỗi bước tiến của quá

trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một bước tăng cường cơ sở vật chất -

kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp

phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà Đảng

và nhân dân ta đã đề ra thì đòi hỏi phải có rất nhiều giải pháp từ vi mô đến vĩ

mô, trong đó để tăng cường và xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật phải đẩy

nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đòi hỏi nhiều nguồn vốn đầu

tư. Khác với các nguồn vốn khác nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của

Nhà nước với mục đích là hỗ trợ các dự án tín dụng đầu tư phát triển của các

thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình

kinh tế lớn có tác động trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng

trưởng và phát triển kinh tế bền vững.

34

 Do yêu cầu của phát triển thể chế KTTT định hướng XHCN.

Trong quá trình xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn coi phát

triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm. Trong những năm tới, chúng ta chủ

trương tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, để

hoàn thiện thể chế kinh tế thi trường định hướng XHCN, mục đích là thực

hiện dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; giải phóng

mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân

dân. Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,

trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh

tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.

Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính

sách phát triển, đảm bảo vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Bằng nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước điều tiết vĩ mô nền

kinh tế thông qua các chính sách ưu đãi cho từng thời kỳ, thúc đẩy sự vận

hành phát triển và đồng bộ các loại thị trường như: Thị trường hàng hoá, dịch

vụ, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ, thị trường vốn,

trong đó có nguồn vốn tín dụng đầu tư ưu đãi. Bằng cách đó tín dụng đầu tư

phát triển của nhà nước góp phần hỗ trợ cho các vùng khó khăn, hỗ trợ các

thành phần kinh tế cần được khuyến kích đầu tư, từng bước khắc phục sự

mất công bằng giữa các vùng miền, giữa các thành phần kinh tế để cùng phát

triển.

 Đáp ứng yêu cầu của việc hạ giá thành, nâng cao năng lực cạnh tranh

và chủ động HNKTQT.

Thông qua nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho vay

các đối tượng trong nền kinh tế được ưu đãi và cần khuyến kích đầu tư, các

đối tượng được vay là các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có hoạt động sản

35

xuất kinh doanh, do chi phí lãi suất của vốn tín dụng đầu tư phát triển thấp

hơn lãi suất của các ngân hàng thương mại, do đó sử dụng vốn tín dụng ưu đãi

làm giảm chi phí đầu vào cho các doanh nghiệp từ đó làm giảm giá thành của

sản phẩm sản xuất ra, tăng sức canh tranh của sản phẩm trên thị trường. Hơn

thế nữa hiện nay xu thế hội nhập là tất yếu, các doanh nghiệp Việt Nam hiện

nay còn rất non yếu so với các doanh nghiệp trong khu vực và trên thế giới,

được sử dụng nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước làm tăng thêm sức

mạnh cho các doanh nghiệp, giúp họ có thêm sức mạnh để hội nhập với nền

kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà

nước có hạn và nhất là khi Việt Nam là thành viên của WTO, không thể hỗ

trợ một cách tràn lan được mà hỗ trợ có điều kiện và chỉ trong những năm

đầu. Do vậy, chỉ nên coi vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước chỉ như

làm mồi cho các doanh nghiệp và các đối tượng được ưu đãi giúp họ nâng

cao năng lực cạnh tranh để có đủ sức mạnh trong HNKTQT.

 Góp phần thực hiện tăng trưởng và phát triển bền vững.

Tăng trưởng và phát triển bền vững do nhiều nhân tố ảnh hưởng như:

Vốn, con người, khoa học công nghệ, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và quản

lý nhà nước, các yếu tố thuộc về lực lượng sản xuất, những yếu tố thuộc về

quan hệ sản xuất, những yếu tố thuộc về kiến trúc thượng tầng, trong đó vốn

có vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững. Vì vốn đầu tư

có quan hệ với sự gia tăng GDP và hệ số ICOR - hiệu suất sử dụng vốn sản

phẩm gia tăng - tỉ lệ tăng đầu tư chia cho tỉ lệ tăng GDP. Những nền kinh tế

thành công thường khởi đầu quá trình phát triển với hệ số ICOR thấp, thường

không quá 3%, có nghĩa là phải tăng vốn đầu tư 3% để tăng 1% GDP. Do vậy

vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã góp phần thực hiện việc tăng

trưởng và phát triển bền vững.

1.3- Kinh nghiệm một số địa phƣơng trong nƣớc về nâng cao hiệu

36

quả tín dụng vốn đầu tƣ phát triển của nhà nƣớc.

1.3.1- Tổng quan kinh nghiệm một số địa phương trong nước.

 Tỉnh Cà Mau.

Là một Chi nhánh của Ngân hàng phát triển Việt Nam thực hiện chính

sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, Chi nhánh chủ động vận dụng

bằng các giải pháp sau:

Một là, tăng dần đối tượng cho vay các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh

tế tập thể và tư nhân.Trên thực tế đây là những thành phần kinh tế năng động,

hoạt động có hiệu quả và trả nợ vay tốt (giai đoạn 2001-2005 , nợ quá hạn

của khối kinh tế tư nhân chỉ chiếm xấp xỉ 6,5%-12,07% trong tổng nợ quá

hạn của Chi nhánh, còn đối với kinh tế tập thể thì hầu như không có nợ quá

hạn). Điều này còn thể hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về sự bình

đẳng giữa các thành phần kinh tế.

Hai là, Chi nhánh ưu tiên đầu tư những dự án quy mô lớn, bảo đảm tính cạnh

tranh của sản phẩm dự án, phải tính toán đến cung cầu về sản phẩm hàng hoá

của dự án. Nhờ đó đã hạn chế tình trạng đầu tư manh mún, dàn trải cho nhiều

dự án trong thời gian qua là một trong những nguyên nhân giảm nợ xấu tại

Chi nhánh. Tính từ 2001-2005, ngoài hai nhóm dự án có vốn đầu tư lớn:

chương trình kiên cố hoá kênh mương và các dự án xây dựng nhà máy chế

biến thuỷ sản.

Ba là, ưu tiên cho những dự án đầu tư vào những lĩnh vực, ngành nghề nhằm

mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Với vị trí địa lý và điều kiện tự

nhiên ưu đãi (chiều dài bờ biển trên 254 km, diện tích nuôi tôm hiện trên

240.000 ha), nhiều năm qua Cà Mau luôn dẫn đầu cả nước về kim ngạch xuất

khẩu thuỷ sản ( kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản gian đoạn 2001-2005 đạt gần

2 tỷ USD, riêng năm 2005 là 520 triệu USD) thuỷ sản được xem là ngành

kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Do vậy, chiến lược cho tín dụng đầu tư phát triển

37

của Chi nhánh được tập trung vào ngành kinh tế này, đặc biệt là đầu tư cho

công nghiệp chế biến thuỷ sản sử dụng công nghệ mới, sản xuất sản phẩm giá

trị gia tăng cao, làm tăng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh; đồng thời đây cũng là

những dự án sử dụng nhiều lao động, góp phần giải quyết việc làm.

 Tỉnh Tuyên Quang.

Là một tỉnh miền núi phía Bắc, điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó

khăn, nguồn vốn đầu tư chủ yếu từ ngân sách Trung ương. Trong những năm

qua, cùng với nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các dự

án, trong đó có cả dự án nhóm A (thuỷ điện Tuyên Quang), chương trình kiên

cố hoá kênh mương của Chính phủ đã thực sự phát huy hiệu quả tại tỉnh

Tuyên Quang trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn.

Từ năm 2000, hàng năm ngoài vốn ngân sách trung ương, Chính phủ đã

giao chỉ tiêu kế hoạch sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước

nhằm khuyến khích tỉnh huy động mọi nguồn lực và tạo cơ chế thuận lợi

nhằm đẩy nhanh tiến độ thực hiện việc kiên cố hoá kênh mương các công

trình thuỷ lợi. Sở tài chính tỉnh Tuyên Quang đã ký 07 hợp đồng tín dụng đầu

tư phát triển với Quỹ hỗ trợ phát triển Tuyên Quang (nay là Chi nhánh Ngân

hàng phát triển Tuyên Quang) về tiếp nhận vốn và cho vay chương trình kiên

cố hoá kênh mương và đường giao thông nông thôn theo kế hoạch đã được

UBND tỉnh phê duyệt, với tổng số vốn vay tín dụng ĐTPT của Nhà nước qua

các năm từ 2000 đến 2006 là 120 tỷ đồng.

Qua 6 năm thực hiện, cùng với nguồn vốn đóng góp của nhân dân, tỉnh

Tuyên Quang đã kiên cố hoá được 1.677 km kênh mương nội đồng phục vụ

tưới tiêu đồng ruộng và nâng cấp 384 km đường giao thông nông thôn góp

phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn.

Được sự chỉ đạo của UBND tỉnh, hàng năm Sở tài chính đều lập dự

toán ngân sách và bố trí nguồn vốn trả nợ chương trình kiên cố hoá kênh

38

mương và đường giao thông nông thôn để trình HĐND tỉnh phê duyệt; vào

tháng 12 hàng năm Sở tài chính đều chuyển trả Chi nhánh NHPT số vốn đúng

hợp đồng tín dụng đã ký kết giữa hai bên. Trong năm năm qua (2001-2005)

ngân sách tỉnh đã trả vốn 47 tỷ đồng, không có nợ quá hạn, dư nợ đến

01/01/2006 là 73 tỷ đồng.

Để có được sự quan tâm chỉ đạo của tỉnh, Chi nhánh Ngân hàng phát

triển Tuyên Quang đã tạo lập mối quan hệ chặt chẽ với tỉnh uỷ, HĐND tỉnh

và các ngành có liên quan, bán sát địa bàn, nắm vững chính sách, tạo điều

kiện thuận lợi để địa phương sử dụng nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà

nước có hiệu quả.

1.3.2- Rút ra một số bài học kinh nghiệm chung tham khảo vận dụng

ở Hà Tây.

Thứ nhất, thực hiện nghiêm các Nghị định và sự chỉ đạo của Ngân hàng

phát triển Việt Nam, Chính phủ, Bộ, Ngành, đồng thời phát huy tính chủ

động, độc lập, tự chủ trong việc quản lý vốn tín dụng đầu tư phát triển của

Nhà nước nhằm quản lý tốt và có hiệu quả cao.

Thứ hai, làm cho các doanh nghiệp và nhân dân nhận thức rõ chính

sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, qua đó mở rộng được khách

hàng vay, để có thể sàng lọc được những dự án vay thực sự hiệu quả, công

khai hoá và đảm bảo tính công bằng xã hội.

Thứ ba, biết khai thác, tìm kiếm các đối tượng vay có thế mạnh được

hưởng ưu đãi tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trên địa bàn để tập

trung đầu tư đảm bảo đầu tư có hiệu quả kinh tế- xã hội và phù hợp chủ

39

trương của Đảng và Nhà nước.

Thứ tư, xây dựng và duy trì mối quan hệ với Đảng, Hội đồng nhân dân

và Chính quyền địa phương với Ngân hàng phát triển trong huy động vốn đầu

tư và thu hồi nợ vay tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.

Với tinh thần gạn đục khơi trong, các bài học kinh nghiệm nói trên, rất

đáng trân trọng, có tác dụng tham khảo và vận dụng một cách sáng tạo nhằm

nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển ở Hà Tây trong thời gian tới.

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐẦU TƢ PHÁT TRIỂN

CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN Ở HÀ TÂY

THỜI GIAN QUA

2.1- Khái quát tình hình Chi nhánh Ngân hàng phát triển ở Hà

Tây- nhìn từ góc độ thuận lợi và khó khăn.

2.1.1- Quá trình hình thành và phát triển.

Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước (hay còn gọi là tín dụng ưu

đãi) đã trải qua gần 15 năm thực hiện. Loại hình tín dụng này trước đây do

Ngân hàng Kiến thiết (thuộc Bộ Tài chính) sau đó đổi tên là Ngân hàng Đầu

tư và Xây dựng, nay là Ngân hàng phát triển thực hiện. Năm 1996, thực hiện

Nghị định 53/HĐBT về đổi mới hoạt động ngân hàng, Ngân hàng Đầu tư phát

40

triển chuyển sang hoạt động với vai trò là một ngân hàng thương mại, tiến

hành kinh doanh tiền tệ theo tín hiệu thị trường. Do đó việc tiếp nhận vốn

ngân sách nhà nước, trên cơ sở đó tiến hành đầu tư phát triển kinh tế chuyển

sang thuộc về chức năng của Bộ Tài chính, cụ thể là Tổng cục đầu tư phát

triển.

Để đáp ứng những yêu cầu đặt ra trong quá trình đổi mới nền kinh tế,

đặc biệt là đổi mới hệ thống tài chính quốc gia, năm 2000 Quỹ Hỗ trợ phát

triển được thành lập theo Nghị định 50/1999 NĐ- CP ngày 8/7/1999 và Quyết

định số 231/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ và chính thức đi vào

hoạt động từ 1/1/2000, đến nay được đổi tên thành Ngân hàng phát triển Việt

Nam và về tổ chức được hình thành từ trung ương đến các địa phương.

Chính vì vậy, Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển ở các địa phương trong

đó có Hà Tây cũng đựơc đổi tên thành Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà

Tây theo Quyết định số 03/QĐ-NHPT ngày 01 tháng 7 năm 2006.

Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây là một tổ chức tài chính nhà

nước, có tư cách pháp nhân, có bảng cân đối, có con dấu riêng, đước mở tài

khoản tại Kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại quốc doanh trên

địa bàn Tỉnh, thành phố; là đơn vị hạch toán, thuộc Ngân hàng phát triển Việt

Nam.

Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây có chức năng nhiệm vụ là :

- Tổ chức việc tạo nguồn vốn đầu tư thông qua thực hiện việc thực hiện

tiếp nhận vốn của Nhà nước, huy động vốn trung và dài hạn ;

- Tổ chức quản lý và sử dụng (cho vay) các nguồn vốn của nhà nước

(bao gồm cả vốn trong và ngoài nước) thông qua hoạt động tín dụng nhằm

thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển của nhà nước trên địa bàn Hà

Tây.

Dưới đây là sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng

phát triển Hà Tây.

41

Sơ đồ 2.1 : Tổ chức bộ máy hoạt động của Ngân hàng phát triển Hà Tây.

GIÁM ĐỐC

Phòng

Phòng

Phòng

tài chính

Phó giám đốc

tín dụng

tín dụng

kế toán

II

hợp

I

Phòng tổ chức hành chính - nhân sự

Phòng Tổng

2.1.2- Những thuận lợi và khó khăn của Chi nhánh Ngân hàng phát

triển Hà Tây.

Hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây có những thuận

lợi và khó khăn:

 Những thuận lơi.

Việc ban hành Nghị định 43 CP của Chính phủ nhằm nâng cao hiệu

quả kinh tế-xã hội của các dự án, nâng cao chất lượng quản lý vốn tín dụng

đầu tư phát triển đã tạo khung pháp lý cho hoạt động của hệ thống. Bên cạnh

đó, cùng với các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định của Hội

đồng Quản lý và Tổng giám đốc Quỹ Hỗ trợ phát triển nay là Ngân hàng phát

triển Việt Nam ban hành điều lệ tổ chức và qui trình hoạt động cũng như

hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật có liên quan cũng là những điều

kiện thuận lợi để Chi nhánh triển khai hoạt động.

Được sự chỉ đạo chặt chẽ, sát sao của Ngân hàng phát triển Việt Nam,

Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây không chỉ về chủ trương, biện pháp và

các cơ chế chính sách; điều kiện vật chất, tổ chức điều hành trong quá trình

thực hiện nhiệm vụ.

Được thành lập trên cơ sở Cục đầu tư phát triển Hà Tây cũ, Chi nhánh

42

đã kế thừa cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ viên chức có tinh thần trách

nhiệm cao, có năng lực và trình độ để hoàn thành nhiệm vụ đồng thời có kinh

nghiệm về nghiệp vụ công tác tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.

 Những khó khăn.

Những khó khăn chủ yếu trong quá trình hoạt động của Chi nhánh gồm

có:

Các cơ chế, chính sách về tín dụng đầu tư phát triển chưa đồng bộ, đặc

biệt là đối tượng, mức vốn cho vay, lãi suất cho vay; các hướng dẫn thực hiện

chưa kịp thời và thiếu đồng bộ.

Cơ sở vật chất của Chi nhánh khi đi vào hoạt động còn thiếu, số lượng

cán bộ tiếp nhận còn hạn chế, trình độ và năng lực cán bộ viên chức chưa

đồng đều còn thiếu cán bộ chủ chốt.

Địa bàn tỉnh Hà Tây có it đối tượng thuộc diện khó khăn cần được hỗ

trợ đầu tư theo tinh thần Nghị định 43, nên đối tượng cho vay hẹp, việc tìm dự

án bố trí kế hoạch gặp nhiều khó khăn.

Tình hình kinh tế Việt Nam trong một vài năm trước đây đang trong

tình trạng bấp bênh. Điều này tác động lớn đến hoạt động của các doanh

nghiệp và vì vậy gây khó khăn cho hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng phát

triển Hà Tây.

Với những khó khăn và thuận lợi nêu trên, trong năm qua cán bộ nhân

viên Chi nhánh đã đoàn kết dưới sự chỉ đạo của lãnh đạo Quỹ Hỗ trợ phát

triển Hà Tây nay là Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây, Ngân hàng phát

triển Việt Nam đồng thời với sự phối hợp hoạt động của các ban ngành có

liên quan nhằm khắc phục những khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch

được giao.

2.2- Tình hình tín dụng đầu tƣ phát triển tại Chi nhánh Ngân

43

hàng phát triển ở Hà Tây.

2.2.1- Tình hình tiếp nhận vốn của Trung ương và vốn huy động thời

gian qua ở Hà Tây.

Do đặc thù của mình, không giống như các ngân hàng thương mại, vốn

cho hoạt động của Chi nhánh chủ yếu là vốn tiếp nhận từ ngân sách nhà nước

theo kế hoạch vốn hàng năm. Vì vậy việc lập kế hoạch và tiếp nhận vốn ngân

sách là một trong những hoạt động cơ bản trong công tác huy động vốn của

Ngân hàng phát triển. Do không phải cạnh tranh với các ngân hàng thương

mại trong việc huy động vốn từ các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư

(trong cuộc cạnh tranh này, các ngân hàng thương mại thường chiếm ưu thế

do có mối quan hệ thị trường rộng lớn hơn và có thể chủ động hơn trong việc

đưa ra mức lãi suất huy động linh hoạt, hấp dẫn) đồng thời giúp Ngân hàng

phát triển có được một nguồn vốn tương đối ổn định và có thể kế hoạch hóa

trước, tránh được rủi ro đó là mặt thuận lợi. Tuy nhiên, mặt trái của nó là làm

cho hoạt động của Ngân hàng phát triển lệ thuộc rất nhiều vào nguồn vốn

cung cấp của Nhà nước, nên không tạo được thế chủ động trong việc bố trí

vốn vay cho từng dự án dẫn đến khả năng một số dự án, nhất là các dự án có

tổng vốn đầu tư lớn không được đáp ứng đủ làm cho dự án hoạt động kém

hiệu quả, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ.

 Tình hình tiếp nhận vốn từ Ngân hàng phát triển Việt Nam.

Căn cứ vào lượng vốn hiện có và huy động của Ngân hàng phát triển

Việt Nam và kế hoạch vốn tại chi nhánh Hà Tây mà Ngân hàng phát triển

Việt Nam phân bổ trong thới gian qua (từ năm 2000 đến năm 2006), Chi

nhánh Hà Tây đã tiếp nhận nguồn vốn của Trung ương qua các năm thể hiện

ở biểu 2.1 sau:

Biểu 2.1: Nguồn vốn tiếp nhận tư Trung ương từ năm 2000-2006

2004

2001

2000

2002

2003

2005

2006

44

Đơn vị tính : Triệu đồng và % Năm

Chỉ tiêu Vốn tiếp nhận 65.000

208.000

174.000 55.000

54.000

57.978

431.374

+ 320,0

+663,6

+267,6

- 16,9

- 15,3

-10,8

100

Tăng, giảm (so với năm 2000) Nguån: báo cáo tiếp nhận nguồn TW từ năm 2000-2006 tại Chi nhánh NHPT Hà Tây[2]

Qua biểu số liệu trên cho thấy: Vốn tiếp nhận của Trung ương nhiều

năm tăng lên nhất là năm 2001, 2002 và 2006, trừ các năm 2003, 2004 và

2005 có hiện tượng giảm so với năm 2000. Đó là do nguyên nhân: các dự án

đầu tư đã ký hợp đồng tín dụng nhưng chưa đăng ký kế hoạch vốn do chưa có

khối lượng hoàn thành, do đó Trung ương cũng chỉ phân bổ nguồn cho Chi

nhánh theo thực tế các dự án có đăng ký kế hoạch và có khối lượng hoàn

thành đảm bảo điều kiện giải ngân.

 Tình hình huy động vốn.

Trước đây việc huy động vốn tập trung tại Ngân hàng phát triển Việt

Nam (TW) ; do việc huy động vốn trong những năm gần đây khó khăn và

nguồn vốn cấp từ ngân sách hạn hẹp, để tăng cường nguồn vốn dành cho đầu

tư phát triển bước sang năm 2002 Ngân hàng phát triển Việt Nam (TW) đã

giao thêm nhiệm vụ huy động vốn cho các Chi nhánh trong toàn hệ thống.

Ngoài nhiệm vụ tiếp nhận. Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây còn

có nhiệm vụ mới là huy động đựơc một lượng vốn đáng kể qua các năm, cụ

thể ở biểu 2.2:

Biểu 2.2: Vốn huy động qua các năm (2002-2006)

Đơn vị tính : Triệu đồng

Tổng số vốn huy động

Tổng số

Tỷ lệ hoàn thành

Kế hoạch

Trong đó

KH (%)

thực hiện

45

Năm

Vốn trung,

Vốn ngăn hạn

dài hạn

2002

10.000

10.000

10.000

-

100,0

2003

40.000

42.000

32.000

10.000

105,0

2004

13.000

11.000

10.000

84,6

1.000

2005

28.800

32.034

30.000

2.034

111,2

2006

100.000

114.238

34.238

80.000

114,2

Nguån:Báo cáo huy động nguồn từ 2000-2006 tại Chi nhánh NHPT Hà Tây[2]

2.2.2- Tình hình cho vay các dự án đầu tư phát triển thời gian qua.

Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây nhận bàn giao từ Cục đầu tư

phát triển Hà Tây sang; khối lượng công việc nhận bàn giao gồm hai mảng

chủ yếu là cho vay vốn tín dụng đầu tư phát triển và cấp phát vốn uỷ thác,

trong đó cho vay vốn tín dụng đầu tư phát triển là 45 dự án với dư nợ là 106 tỉ

đồng.

Thực hiện Nghị định 43/1999/NĐ-CP từ 01/01/2000 đến 26/4/2004 và

từ 27/4/2004 là Nghị định 106/2004/NĐ-CP của Chính phủ về tín dụng tín

dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đến nay là Nghị định 151/2006/NĐ-CP

ngày 20/12/2006 về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước.

- Mục đích của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là hỗ trợ các dự

án tín dụng đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành,

lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn có tác động trực tiếp đến chuyển

dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững. Với

mục đích như trên, đối tượng cho vay được chính phủ quy định là các dự án

được vay tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là các dự án có khả năng

thu hồi vốn trực tiếp thuộc danh mục các dự án, chương trình do Chính phủ

46

quyết định cho từng thời kỳ. Thời hạn ưu đãi, danh mục các dự án, chương

trình với các dự án được chi tiết theo từng đối tượng, thời hạn ưu đãi do Bộ

tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, Cơ quan liên quan trình Chính phủ

quyết định. Cụ thể :

- Về điệu kiện cho vay đầu tư : Thuộc đối tượng quy đinh của Chính

phủ; Đã hoàn thành đầu tư theo quy định của Nhà nước; Chủ đầu tư là tổ chức

và cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; Đối với dự án đầu tư xây dựng

mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ thiết bị, chủ đầu tư phải có tình hình tài

chính bảo đảm khả năng thanh toán; Có phương án sản xuất kinh doanh có

lãi; được Chi nhánh Ngân hàng phát triển thẩm định phương án tài chính,

phương án trả nợ và chấp thuận cho vay trước khi quyết định đầu tư.

Thực hiện quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định tại Nghị định về

tín dụng đầu tư phát triển. Đối với tài sản hình thành từ vốn vay thuộc đối

tượng mua bảo hiểm bắt buộc, thì chủ đầu tư phải cam kết mua bảo hiểm tài

sản trong suốt thời hạn vay vốn tại một công ty bảo hiểm hoạt động hợp phát

tại Việt Nam.

- Mức vốn cho vay đầu tư: Mức vốn cho vay đối với từng dự án do

Ngân hàng phát triển quyết định, tối đa bằng 70% tổng số vốn đầu tư của dự

án, số vốn còn lại, chủ đầu tư phải xác định được nguồn và các điều kiện tài

chính cụ thể, bảo đảm tính khả thi của dự án. Trong quá trình giải ngân, Ngân

hàng phát triển thực hiện theo cơ cấu nguồn vốn đã xác định theo điều 1 của

khoản này.

- Thời hạn cho vay: thời hạn cho vay xác định theo khả năng thu hồi vốn

phù hợp với đặc điểm sản xuất, kinh doanh của dự án và khả năng trả nợ của

chủ đầu tư nhưng tối đa không quá 12 năm; Một số dự án đặc thù như trồng

rừng có thời hạn thu hồi vốn dài, thời hạn thu hồi vốn tối đa không quá 15

47

năm.

- Lãi suất cho vay vốn đầu tư: Lãi suất cho vay đầu tư được xác định

tương đương 70% lãi suất cho vay trung và dài hạn bình quân của các ngân

hàng thương mại nhà nước. Bộ trưởng Bộ tài chính quy định lãi suất cho vay

đầu tư trong từng thời kỳ; Khi lãi suất thị trường có sự biến động từ 15 % trở

lên, Bộ trưởng Bộ tài chính quyết định điều chỉnh lãi suất cho vay. Số lần

điều chỉnh lãi suất cho vay mỗi năm tối đa 2 lần. Đối với một dự án, lãi suất

vay vốn được xác định tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng đầu tiên và được

giữ nguyên trong suốt thời hạn cho vay; Lãi suất nợ quá hạn theo Nghị định

43/NĐ-CP là 130%, theo Nghị định 106/NĐ-CP ngày 01/04/2004 là 150% lãi

suất cho vay trong hạn ghi trong hợp đồng tín dụng; Trong thời hạn ân hạn

chủ đầu tư chưa phải trả nợ gốc nhưng phải trả lãi.

Với mục đính, đối tượng và các điều kiện cho vay của Chính phủ trong

thời gian qua Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây đã thực hiện nhiệm vụ

của Chính phủ và của Ngân hàng phát triển Việt Nam về cho vay đầu tư phát

triển, kết quả cụ thể (xem biểu 2.3)

Biểu 2.3: Kết quả số dự án và vốn đăng ký cho vay và số vốn giải ngân qua

các năm từ năm 2000-2006.

48

Đơn vị tính: Triệu đồng

Năm

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

Chỉ tiêu

Tổng số dự án

14

60

23

11

14

03

12

cho vay

Số vốn ký hợp

161.040

122.880

129.610

97.460

164.920

663.038

639.931

đồng tín dụng

Số vốn giải

139.613

235.144

203.618

163.820

97.072

100.794

431.374

ngân

Nguån: báo cáo cho vay thu nợ từ năm 2000-2006 tại Chi nhánh NHPT Hà Tây[2]

Qua bảng số liệu trên cho thấy: số vốn cho vay qua các năm có tăng lên

nhất là năm 2005 và 2006. Số lượng dự án có xu hướng giảm, nhưng xét về

giá trị quy mô cho vay của mỗi dự án ngày càng lớn hơn. Nếu 2001 quy mô

cho vay mỗi dự án là (122880/60 = 2.048 triệu đồng), thì năm 2006 quy mô

cho vay mỗi dự án là (639931/12 = 53.327 triệu đồng).

Trong đó, chia theo ngành nghề kinh tế:

- Cho vay đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội với số tiền là 160,6 tỉ đồng

và cho vay chương trình kiên cố hoá kênh mương là 125 tỉ đồng;

- Cho vay đầu tư nhà máy và nhà xưởng sản xuất hàng xuất khẩu với số

tiền là 118,4 tỉ đồng, cho vay mở rộng và đầu tư chiều sâu đổi mới thiết bị sản

xuất công nghiệp cơ khí là 33,4 tỉ đồng, cho vay đầu tư nhà xưởng, máy móc

thiết bị chế biến nông lâm sản là 38 ,5 tỉ đồng;

- Cho vay sản xuất nông nghiệp là 20 tỉ đồng;

- Cho vay đầu tư cơ sở theo chương trình xã hội hoá giáo dục, y tế, thể

49

dụng thể thao là 10 tỉ đồng.

Tuy vậy, cũng qua biểu số liệu trên cho thấy số vốn giải ngân so với vốn

ký kết trong hợp đồng, qua các năm thực hiện chưa tương xứng. Có thể mô

phỏng số vốn giải ngân của các năm qua đồ thị sau:

Nguồn: báo cáo cho vay thu nợ từ năm 2000-2006 tại Chi nhánh NHPT Hà Tây

Đồ thị 2.1: Vốn giải ngân qua các năm (2000-2006)

2.3- Đánh giá chung về hiệu quả tín dụng đầu tƣ phát triển.

Luận văn đánh giá hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển trên cả 2 mặt

thành tựu, hạn chế và nguyên nhân qua các nội dung: Mức độ tăng trưởng tín

dụng; khả năng đáp ứng nhu cầu tín dụng; hiệu quả tín dụng đối với sự phát

triển kinh tế- xã hội của tỉnh và mức nợ quá hạn.

2.3.1- Về thành tựu.

Thứ nhất: Mức tăng trưởng tín dụng đầu tư phát triển gia tăng.

Hiệu quả của tín dụng được đánh giá trước hết ở mức tăng trưởng tín

dụng gia tăng qua các năm. Dưới góc độ Ngân hàng phát triển được thể hiện ở

50

mức dư nợ gia tăng qua các năm. Trong thời gian qua, Ngân hàng phát triển

Hà Tây đã có nhiều biện pháp trong việc tiếp nhận vốn trung ương và tích cực

thực hiện việc huy động các nguồn vốn, làm tốt công tác thẩm định các dự án

và cho vay và giải ngân kịp thời, nhờ đó kết quả làm cho dư nợ tín dụng tăng

lên qua các năm. Điều đó thể hiện ở biểu sau:(xem biểu 2.4)

Biểu 2.4: Mức dư nợ tín dụng gia tăng qua các năm (2000-2006)

Năm

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

C/ tiêu

Dư nợ

228.625

392.642

571.276

622.433

545.493

508.682

868.221

Đơn vị: triệu đồng

Nguồn : báo cáo cho vay thu nợ từ năm 2000-2006 tại Chi nhánh NHPT Hà Tây[2]

Có thể mô phỏng tình hình tăng trưởng tín dụng qua các năm (2000-2006)

qua đồ thị 2.2:

Đồ thị 2.2 : Dư nợ Ngân hàng qua các năm (2000-2006)

Thứ hai : Khả năng đáp ứng nhu cầu vốn của vốn tín dụng đầu tư phát

triển của nhà nước trên địa bàn tỉnh ngày một tăng lên.

Hàng năm căn cứ vào nhu cầu vốn của các dự án tín dụng đã được ký hợp

đồng tín dụng, Chi nhánh đăng ký kế hoạch vốn trong năm với Ngân hàng

51

phát triển Trung ương, trên cơ sở đó Ngân hàng trung ương phân bổ cho Chi

nhánh theo từng dự án. Tư đó, Chi nhánh ngân hàng phát triển Hà Tây tổng

hợp nhu cầu thực tế của địa phương về vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà

nước trên địa bàn tỉnh Hà Tây để cho vay.

Qua số liệu điều tra của Chi nhánh ngân hàng phát triển Hà Tây trong

thời gian qua tính từ năm 2000 đến 2006, kết quả đã đáp ứng nhu cầu của

vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước trên địa bàn tỉnh Hà Tây qua các

năm cho thấy : Mức đáp ứng vốn của Chi nhánh so với nhu cầu vốn của Hà

Tây qua các năm đều tăng lên. Trong đó năm 2006 có mức tăng cao nhất

(487,8 tỷ đồng). Tổng số vốn đã đáp ứng qua 7 năm là 1.418, 884 tỷ đồng.

Khả năng đáp ứng năm cao nhất khoảng 47% và năm thấp nhất là 17,5% so

với nhu cầu. Và tính khả năng đáp ứng ở mức trung bình so với nhu cầu

chung của Hà Tây là 28,49%. Điều đó thể hiện ở biểu 2.5: ở trang sau

Biểu 2.5: Khả năng đáp ứng nhu cầu vốn của vốn tín dụng

đầu tư phát triển của nhà nước trên địa bàn tỉnh Hà Tây thời kỳ

(2000-2006).

Chỉ tiêu Khả năng đáp Nhu cầu vốn Đáp ứng vốn ứng nhu cầu (tỷ đồng) (tỷ đồng) Năm vốn (%)

2000 19,340 38,70 50,000

2001 235,144 47,03 500,000

2002 204,500 29,21 700,000

2003 157,900 21,05 750,000

2004 136,800 17,53 780,000

2005 177,400 19,71 900,000

2006 487,800 37,53 1300,000

Tổng 4980,000 1418,884

Nguồn: Tổng hợp báo cáo khả năng nhu cầu tín dụng đầu tư phát triển

52

Trung bình 28,49%

trên địa bàn tại Chi nhánh NHPT Hà Tây năm 2006[2]

Thứ ba : Tín dụng đầu tư phát triển của Chi nhánh đã góp phần nâng

cao hiệu quả kinh tế - xã hội ở Hà Tây qua các năm.

Sự phát triển toàn diện trên các mặt về kinh tế - xã hội của Tỉnh Hà Tây có

một phần đóng góp không nhỏ của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước

mà Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây đã thực thi thời gian qua. Như đã

trình bày trong phần tổng quan tình hình cho vay, 7 năm qua với tổng số dự

án cho vay trên địa bàn là 137 dự án với số tiền giải ngân là 1.371 tỉ đồng, Chi

nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây đã góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế -

xã hội của Hà Tây qua các năm. Biểu hiện:

 Về hiệu quả kinh tế:

- Góp phần thúc đẩy tăng GDP và tăng trưởng kinh tế của Hà Tây qua

các năm. (Xem biểu 2.6)

Đơn vị tính : Tỷ đồng và %

Năm

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

Chỉ tiêu

GDP(giá

so

5736

6190,3

6798,8 7411,2

8204,2

9186,6

10361,7

sánh 94)

Tăng trưởng

năm sau so với

9,83

7,9

9,8

9,0

10,7

12

12,8

năm trước

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hà Tây 2006[19]

Biểu 2.6 : GDP và tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hà Tây

- Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,HĐH,

53

phát triển Kinh tế thị trường định hướng XHCN và chủ động HNKTQT. Điều

đó thể hiện rõ ở sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Hà Tây thời gian

qua. Biểu 2.7 cho thấy điều đó.

Biểu 2.7: Cơ cấu ngành kinh tế của Hà Tây qua các năm

Đơn vị tính : Tỷ đồng và %

Năm

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

Chỉ tiêu

Công ghiệp :

- Giá trị

2336,3 2050,9

2252

2714,0

3148,1

3734,2 4520,5

- Tỷ trọng

40,65

33,13

33,12

36,62

38,37

40,65

43,63

Nông nghiệp :

- Giá trị

1824,5 2401,1

2637,1

2684,0

2813,2

2915,9 2994,4

- Tỷ trọng

31,74

38,79

38,79

36,22

34,29

31,74

28,90

Dịch vụ :

- Giá trị

1587,2 1738,3

1909,8

2013,2

2242,9

2536,5 2846,8

- Tỷ trọng

27,61

28,08

28,09

27,16

27,34

27,61

27,47

Nguồn : Niên giám thống kê Hà Tây năm 2006[19]

- Ngoài những thành tựu trên, trong 7 năm qua bằng đồng vốn tín dụng

của nhà nước Chi nhánh đầu tư cho các Chủ đầu tư trên địa bàn, nhờ đó các

Chủ đầu tư có vốn để đầu tư mới và mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm

cho hàng nghìn lao động, nhờ đồng vốn tín dụng của nhà nước mà các Chủ

đầu tư đã nộp cho ngân sách nhà nước tăng thêm mỗi năm khoảng 6 tỷ đồng.

Trên đây chúng ta đã đánh giá hiệu quả kinh tế nhìn từ góc độ kết quả

54

đối với địa phương Hà Tây mà ở đó tín dụng đầu tư phát triển của chi nhánh

đã có một phần đóng góp. Song nếu xem xét hiệu quả kinh tế dưới góc độ

nghiệp vụ tính toán của Chi nhánh thì còn phức tạp hơn nhiều. Chẳng hạn:

Do đặc điểm các dự án đầu tư thường rất dài và mức độ rủi ro lớn, việc

đánh giá hiệu quả kinh tế - tài chính các dự án người ta dùng chỉ số NPV,

IRR, B/C. Trên cơ sở dư án do chủ đầu tư lập hoặc các cơ quan tư vấn lập,

Chi nhánh thẩm định tính hiệu qủa về mặt kinh tế - tài chính dự án có loại trừ

các yếu tố chủ quan cũng như lường trước các rủi ro có thể gây ra đối với dự

án. NPV là giá trị hiện tại thuần dòng thu nhập thuần tuý mà dự án mang lại

trong cả vòng đời dự án. Hiệu quả của dự án được biểu hiện bằng một đại

lượng tuyệt đối cho ta một hình dung rõ nét và cụ thể về lợi ích mà dự án

mang lại về mặt kinh tê - tài chính, những căn cứ để xác định chỉ tiêu NPV là

tổng doanh thu của dự án và tổng chi phí của dự án , tỉ lệ chiết khấu và vòng

đời của dự án. Tuy nhiên, độ tin cậy của chỉ tiêu này phụ thuộc rất nhiều vào

việc lựa chọn tỉ suất chiết khấu và các căn cứ xác định doanh thu và chi phí,

tránh bỏ sót, hoặc trùng lặp. Mặt khác ý nghĩa của NPV có thể là khó hiểu đối

với các nhà chính trị hoặc những nhà quản lý không chuyên kinh tế.

Hoạt động đầu tư có đặc điểm là thường sử dụng một khối lượng lớn các

nguồn lực và kết quả của nó mang tính chiến lược lâu dài, những sai lầm

trong quyết định đầu tư có thể gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng

cho từng doanh nghiệp cũng như gây ra cú xốc cho nền kinh tế. Bởi vậy việc

xác định NPV là vô vùng quan trọng đối với các dự án đầu tư dài hạn.

Ngoài NPV, hiệu quả về kinh tế - tài chính dự án còn tính hệ số kết quả chi

phí BCR là tỉ lệ giữa tổng giá trị hiện tại các dòng thu với tổng giá trị hiện tại

của dòng chi phí (gồm chi phí về vốn đầu tư và chi phí vận hành).

Một chỉ tiêu quan trọng không thể thiếu khi chúng ta tính hiệu quả về mặt

55

kinh tế - tài chính dự án là tỉ suất chiết khấu IRR. Đó là tỉ suất chiết khẩu mà

nếu dùng nó để tính chuyển các khoản thu và chi của dự án về hiện tại thì sẽ

làm cho NPV=0.

IRR phản ánh lãi suất tối đa mà dự án có thể chấp nhận trả cho vốn vay

bởi vì nếu vay với lãi suất bằng IRR thì dự án sẽ vừa hoà vốn.

Trong những năm qua thực hiện nhiệm vụ tín dụng đầu tư phát triển của

nhà nước trên địa bàn tỉnh Hà Tây kể từ khi Chi nhánh Hà Tây được thành

lập, Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây đã vượt qua các khó khăn hoàn

thành nhiệm vụ trong đó có nhiệm vụ về cho vay tín dụng đầu tư phát triển.

Trong những năm qua tổng các dự án Chi nhánh đã thẩm định ký hợp đồng

tín dụng và cho vay được 137 dự án, với tổng số tiền giải ngân lên tới 1,4

nghìn tỷ đồng, đóng góp cho ngân sách nhà nước về số tuyệt đối trên 6 tỉ

đồng mỗi năm chưa tính đến hiệu ứng của việc đầu tư mang lại, đó cũng phản

ánh một thành tích của Chi nhánh. Bên cạnh các dự án hiệu qủa, trên thực tế

cũng có quá nhiều dự án không đem lại kỳ vọng như thẩm định ban đầu do

tính chất dài hạn của dự án đầu tư; một phần do sự biến động của thị trường,

do môi trường pháp lý có sự thay đổi, nhiều dự án đầu tư xây dựng cơ sơ hạ

tầng xong lại thiếu nguồn nguyên liệu, nhiều dự án do dân cư địa phương

không ủng hộ do mức đền bù đất không thoả đáng và chính quyền yếu kém

dẫn đến dự án không hoàn thành đúng tiến độ và dự án không có doanh thu.

Từ thực tế đó làm cho hiệu quả của đồng vốn tín dụng nhà nước không hiệu

quả, làm ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của Chi nhánh cụ thể là không

hoàn thành nhiệm vụ do Trung ương và Chính phủ giao, số dự án và tỉ lệ nợ

quá hạn ngày một tăng do đó không thúc đẩy nên kinh tế phát triển như kỳ

vọng của chúng ta.

56

 Về hiệu quả xã hội:

Hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước về mặt xã hội qua các

năm tăng lên rõ rệt. Các dự án cho vay đã góp phần giải quyết cho trên 6.000

lao động tại địa phương, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Thu nhập bình quân tháng đạt

trên 700.000 đồng/ lao động, góp phần giảm thiểu có hiệu quả tỷ lệ nghèo,

nâng cao đời sống vật chất của nhân dân. Sự nghiệp giáo dục và đào tạo, y tế,

văn hóa, thể thao, thể dục có bước phát triển đáng kể điều đó thể hiện ở sự gia

tăng chỉ số phát triển con người (HDI) qua các năm (Xem biểu số liệu 2.8)

Biểu 2.8 : Một số chỉ tiêu của HDI ở Hà Tây qua các mốc

Chỉ số

Trình độ học vấn ( số học sinh )

Thu

nhập BQ

Tuổi

Trung học

Cao

đầu

thọ

chuyên

Trung

đẳng,

Tiểu

người (

trung

nghiệp

học cơ

PTTH

đại học

học

Ng.đồng

bình

sở

( tốt

( tôt

Năm

)

nghiệp)

nghiệp)

2

3

4

5

6

7

8

thời gian từ năm 2000-2006

1

2000

3128,7

254458

221980

98788

1926

2346

2001

3436,3

256802

217981

100325

2015

3892

2002

3774

246833

209965

100634

2947

4835

2003

4304,6

220516

207924

106756

4507

3654

71,5

2004

5028

209452

204364

111611

4638

5850

2005

6009,9

198956

192161

119968

5204

5576

2006

7061,8

194278

181675

118398

5156

4162

Nguồn: Niêm giám thống kê Hà Tây năm 2006[19]

57

Tóm lại, hoạt động cho vay đầu tư phát triển của Chi nhánh Ngân hàng

phát triểm Hà Tây trong những năm qua đã đạt được những thành tựu đáng

khích lệ. Hầu hết các dự án được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển đã được

triển khai và đi vào hoạt động có hiệu quả. Sự thành công này đã góp phần

làm gia tăng sản lượng, doanh thu, lợi nhuận và nộp ngân sách nhà nước của

chủ đầu tư. Ngoài ra, các dự án đi vào hoạt động còn tạo công ăn việc làm,

tăng thu nhập cho người lao động góp phần cải thiện đời sống dân cư, gia tăng

tiêu dùng và tích luỹ để tái đầu tư cho tỉnh nói riêng và toàn xã hội nói chung.

2.3.2 - Những hạn chế

Bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động cho vay đầu tư phát triển

của Nhà nước tại Chi nhánh còn tồn tại nhiều hạn chế làm ảnh hưởng đến

hiệu quả hoạt động của Chi nhánh nói riêng và hiệu quả đầu tư của toàn tỉnh

nói chung. Những hạn chế đó thể hiện trên các mặt sau:

Một là, khả năng vốn tiếp nhận và vốn huy động của Chi nhánh để đáp ứng

nhu cầu vốn cho vay các dự án của tỉnh còn ở mức độ thấp.

Nhu cầu vốn tín dụng đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh Hà Tây rất lớn, với

tốc độ phát triển bình quân hàng năm xấp xỉ 10% thì nguồn vốn tín dụng ưu

đãi của nhà nước phải tăng lên, nhưng thực tế do việc hạn chế ưu đãi của

Chính phủ và do nguồn vốn hạn hẹp do đó chỉ đáp ứng được một phần rất

nhỏ, số dự án được vay vốn ưu đại của nhà nước trên địa bàn không đáng kể,

với nhu cầu vốn tín dụng đầu tư phát triển các năm rất lớn nhưng nguồn vốn

hạn hẹp, nhỏ giọt, Ngân hàng trung ương phải giao chỉ tiêu huy động cho

từng Chi nhánh, cụ thể hơn là giao theo tỉ lệ giai ngân cho từng dự án, chi

nhánh phải đảm bảo huy động ít nhất là 30% để cho vay trong một dự án điều

này đã gây không ít khó khăn cho Chi nhánh, nhiều dự án đã ký hợp đồng tín

dụng nhưng do Chi nhánh không huy động được nên dự án cũng không được

58

giải ngân nó không chỉ làm ảnh hưởng đến hoạt động tại Chi nhánh mà còn

làm ảnh hưởng tới phía chủ đầu tư, làm cho dự án không hoàn thành đúng tiến

độ đầu tư, chậm đưa công trình vào sử dụng, gây ra một loạt hiệu ứng cho

nhiều đối tác khác.

Qua số liệu thực tế ở biểu 2.5 cho thấy: Khả năng đáp ứng nhu cầu bình

quân qua các năm mới đạt tỷ lệ 28%. Năm cao nhất cũng chỉ đạt khoảng 47%,

nhiều năm chỉ đạt khoảng 17-18% so với nhu cầu. Hạn chế này, tất yếu làm

cho hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội của tín dụng vốn đầu tư phát triển của

Nhà nước hạn chế phát sinh tác dụng.

Hai là, việc giao kế hoạch vốn còn nhiều bất cập, bố trí vốn đầu tư cho dự án

còn bất hợp lý.

Theo quy định, kế hoạch tín dụng ưu đãi phải được thông báo từ đầu năm

nhưng trên thực tế bao giờ cũng phải đến tháng 4, tháng 5 hàng năm tỉnh mới

nhận được kế hoạch vốn của Chính phủ. Hơn nữa, kế hoạch vốn lại được giao

rải rác thành nhiều đợt thậm chí đến tận tháng 10 mới có kế hoạch vốn bổ

sung. Điều này gây khó khăn trong việc bố trí vốn đầu tư cho từng dự án. Chi

nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây đều luôn ở trong tình trạng bị động, phải

chờ kế hoạch vốn rồi mới tiến hành phân bổ vốn vay cho từng dự án. Do đó,

tiến độ thực hiện ký hợp đồng tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước thường

rất chậm, thậm chí đến tháng 6 vẫn chưa ký được một hợp đồng tín dụng nào.

Khâu bố trí vốn đầu tư cho từng dự án cũng còn nhiều bất hợp lý. Hiện nay

còn tồn tại rất nhiều dự án lại bị bố trí vốn rải rác thành nhiều năm. Điều này

làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện của dự án, làm giảm hiệu quả hoạt động

hoặc lỡ cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp.

Ba là, tiến độ giải ngân vốn tín dụng đã ký hợp đồng vay và cho vay giữa Chi

nhánh và chủ đầu tư còn rất chậm, việc theo dõi và đánh giá hiệu quả dự án

sau đầu tư còn chưa được chú trọng.

Theo số liệu thống kê của Chi nhánh ở biểu 2.3, tỷ lệ giải ngân qua các năm

59

đạt rất thấp. Tiến độ giải ngân vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước tại

Chi nhánh hiện nay khá chậm. Nhiều dự án đã ký hợp đồng tín dụng nhưng

qua nhiều năm vẫn chưa giải ngân hết hoặc những dự án ký hợp đồng tín

dụng nhưng không giải ngân được do nhiều vướng mắc. Điều này không chỉ

làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Chi nhánh mà còn gây khó khăn

cho việc triển khai thực hiện dự án.

Việc theo dõi và đánh giá hiệu quả dự án sau đầu tư là vấn đề còn bỏ ngỏ.

Chi nhánh hiện nay chỉ thực hiện bám sát dự án đầu tư để thu lãi và thu nợ,

việc theo dõi, đánh giá tổng hợp kết quả dự án sau đầu tư còn chưa được quan

tâm thực hiện. Tuy nhiên, hiệu quả cho vay đầu tư phát triển không chỉ được

xác định trên tỷ lệ nợ quá hạn hay lãi treo mà còn ở hiệu quả tài chính và hiệu

quả xã hội của dự án. Đây mới chính là mục tiêu cuả tín dụng đầu tư phát

triển của nhà nước bởi vì khi tiến hành cho vay ưu đãi, cái mà Chi nhánh cần

quan tâm không phải chỉ đơn thuần là bảo toàn và phát triển vốn mà điều

quan trọng hơn là tác động của vốn tín dụng đầu tư phát triển đến sự phát

triển kinh tế xã hội của tỉnh nói riêng và đất nước nói chung.

Bốn là, thủ tục cho vay còn rườm rà, thủ tục hành chính quá nặng nề.

Để tiếp cận được vốn tín dụng ưu đãi phải qua nhiều thủ tục rất rắc rối từ phê

duyệt dự án, ghi kế hoạch vốn, quyết định cho vay, giải phóng mặt bằng, đấu

thầu thực hiện dự án…Trong khi đó, hầu hết các cơ quan hành chính nhà

nước này vẫn còn mang nặng thái độ làm việc kiểu bao cấp gây khó khăn và

chậm trễ cho việc thực hiện dự án của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, thủ tục cho

vay của Chi nhánh hiện nay còn tương đối rườm rà, phức tạp. Thời gian thẩm

định còn kéo dài, sự phối hợp giữa thẩm định và tín dụng chưa đồng bộ và

nhịp nhàng làm kéo dài thời gian thẩm định và quyết định cho vay. Thủ tục

giải ngân còn phức tạp mang tính hành chính. Những vướng mắc này đang

ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của Chi nhánh.

60

Năm là, Nợ quá hạn của tín dụng đầu tư phát triển còn lớn.

Tình hình nợ quá hạn vốn tín dụng đầu tư phát của Chi nhánh Ngân hàng phát

triển Hà Tây qua các năm còn lớn. Điều đó cho thấy năng lực, hiệu quả quản

lý và sử dụng vốn cho vay của các chủ dự án còn nhiều bất cập. Có thể thấy

nhận xét trên qua biểu số liệu sau:(Biểu 2.9)

Biểu 2.9: Tình hình nợ quá hạn vốn tín dụng đầu tư phát triển ở Hà Tây qua

các năm từ 2000-2006.

Năm

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

Chỉ tiêu

Dư nợ Quá hạn

4.984

12.164 13.460

16.316

17.120

28.569 155.594

Tỉ lệ nợ quá hạn

2,18%

3,1%

2,36%

2,62%

3,14%

5,6%

17,92%

trên dư nợ

Nguồn: báo cáo cho vay thu nợ từ năm 2000-2006 tại Chi nhánh NHPT Hà Tây[2]

Đơn vị : triệu đồng

Có thể mô phỏng tình hình nợ quá hạn các năm qua đồ thị 2.3:

Đồ thị 2.3: Tình hình nợ quá hạn vốn đầu tư phát triển ở Hà Tây

2.3.3-Nguyên nhân của những hạn chế.

Qua phân tích có thể thấy vấn đề thực hiện cho vay đầu tư phát triển

61

của nhà nước tại Chi nhánh trong thời gian qua còn nhiều mặt hạn chế. Để

khắc phục được những hạn chế đó nhằm thúc đẩy hoạt động cho vay ta cần

tìm hiểu những nguyên nhân của nó. Những hạn chế trên có cả nguyên nhân

khách quan và chủ quan tác động. Những nguyên nhân khách quan như:

- Sự điều chỉnh liên tục các định hướng chiến lược phát triển kinh tế xã

hội của Nhà nước. Các chiến lược này làm thay đổi trọng tâm ưu tiên phát

triển dẫn đến thay đổi đối tượng được hưởng và chính sách ưu đãi. Mặt khác,

định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội lâu dài cũng thường hướng

tới mục tiêu xã hội mà chưa thực sự quan tâm đến hiệu quả của dự án. Trong

khi đó, xét trên một góc độ nào đó, việc ưu tiên đầu tư phát triển không có

nghĩa là cứ phải mang vốn đến các vùng, các ngành khó khăn bởi vì sự phát

triển mạnh của một ngành kinh tế luôn có tác dụng lôi kéo các ngành khác

phát triển theo.

- Do những điều kiện kinh tế vĩ mô của đất nước nói chung và của tỉnh

Hà Tây nói riêng. Tình hình kinh tế đất nước và tỉnh trong vài năm gần đây

đang ở trong tình trạng bấp bênh làm ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh

doanh và tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp, đến khả năng triển khai

thực hiện dự án và đến khả năng trả lãi, trả nợ của chủ đầu tư. Những điều

này gây tác động không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của Chi nhánh.

Ngoài những nguyên nhân khách quan, cần nhấn mạnh đến những

nguyên nhân chủ quan sau đây đến từ cả 3 phía: các cơ quan quản lý vốn cấp

trên và Tỉnh, bản thân Chi nhánh và từ các doanh nghiệp (chủ đầu tư dự án):

Thứ nhất : Những nguyên nhân về phía các cơ quan quản lý vốn cấp trên

và Chính quyền địa phương (tỉnh).

- Cơ quan quản lý vốn cấp trên thường chậm trễ trong việc giao kế hoạch

vốn hàng năm. Hơn nữa lượng vốn cân đối quá ít so với nhu cầu, làm cho việc

cho vay vốn tín dụng ưu đãi manh mún, dàn trải và phân tán.

- Việc xây dựng và ban hành quy chế vốn tín dụng ưu đãi về lãi suất, thời

62

hạn vay vốn, bảo đảm tiền vay chưa thực sự phù hợp, còn cứng nhắc và chậm

đổi mới trước tình hình kinh tế có nhiều biến động mới hiện nay. Cu thể:

Chính sách ưu đãi chưa rõ ràng và chưa thật sự ưu đãi đối với toàn bộ các đối

tượng được hưởng. Một thực tế hiện nay ở Chi nhánh Ngân hàng phát triển

Hà Tây có nhiều chủ đầu tư của những dự án đúng đối tượng và đảm bảo hiệu

quả đã chuyển hồ sơ vay vốn sang các ngân hàng thương mại chứ không vay

vốn đầu tư ưu đãi tại Chi nhánh. Trong khi đó, các ngân hàng thương mại

quốc doanh trên địa bàn tỉnh đều sẵn sàng cho các dự án này vay với những

điều kiện tương đối mở và lãi suất gần tương đương với lãi suất ưu đãi. Vì

vậy có thể nhận định chính sách ưu đãi của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà

nước hiện nay là chưa rõ ràng và chưa thật sự ưu đãi. Về lãi suất: Lãi suất ưu

đãi trong thời gian qua chưa thực sự hấp dẫn đối với chủ đầu tư. Năm 2000,

Chính phủ đã có quyết định số 490/QĐ-TTg cho phép hạ lãi suất tín dụng đầu

tư phát triển của nhà nước xuống 7%/năm (0,58%/tháng) đối với vốn giải

ngân sau 1/1/2000. Tuy nhiên các dự án đã ký hợp đồng tín dụng và đã giải

ngân trước 1/1/2000 thì vẫn phải chịu mức lãi suất 9,72%/năm. Trong thời

gian này, các ngân hàng thương mại do cạnh tranh lẫn nhau cũng đã đồng loạt

hạ lãi suất cho vay trung và dài hạn. Có những thời kỳ mức lãi suất cho vay

của các ngân hàng thương mại quốc doanh đều xấp xỉ mức lãi suất tín dụng

ưu đãi: ngân hàng Ngoại thương 7,2%/năm, ngân hàng Công thương

7,05%/năm, ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn 7%/năm, ngân

hàng Đầu tư phát triển 7%/năm. Đối với những khách hàng lớn và có mối

quan hệ tín dụng tốt với ngân hàng thì lãi suất này thậm chí còn thấp hơn nữa,

có thể xuống tới 6,5-6,8%/năm. Như vậy, nếu so sánh trên thực tế thì lãi suất

ưu đãi vừa cứng nhắc lại chưa đảm bảo tính ưu đãi đối với các đối tượng. Kể

từ tháng 6 năm 2001 mức lãi suất ưu đãi giảm xuống còn 5,4%, đến năm 2004

mức lãi suất tăng dần lên 7,8% và hiện nay lãi suất ưu đãi bằng 70% lãi suất

cho vay của các ngân hàng thương mại. Về mức vốn cho vay: Theo quy định

63

của Nghị định 43 của Chính phủ thì mức vốn cho vay tối đa đối với hầu hết

các dự án là 50% tổng vốn đầu tư, một số còn lại được vay tối đa 70% tổng

vốn đầu tư (trừ một số dự án thuộc các nhóm ngành đặc biệt theo quy định tại

các văn bản khác như cơ khí được vay 100%, sản xuất hàng xuất khẩu được

vay tối đa 90%). Phần còn lại chủ đầu tư phải tự huy động từ các nguồn khác

mà chủ yếu là ở các ngân hàng thương mại. Điều này không mang lại sự ưu

đãi cho chủ đầu tư bởi vì vốn phải vay ở 2 kênh khác nhau gây khó khăn cho

việc quản lý vốn và tính toán hiệu quả của dự án. Mặt khác, dự án phải qua 2

lần thẩm định làm tốn kém thời gian và chi phí. Một số dự án nếu không huy

động được vốn đối ứng thì sẽ không thể thực hiện được dự án hoặc thực hiện

không hiệu quả dẫn đến nguy cơ không thu hồi được vốn tín dụng đầu tư phát

triển của nhà nước cho Chi nhánh. Hơn nưa chủ đầu tư phải tham gia hết vốn

tự có thì mới được giải ngân, còn một điều phi lý nữa là chủ đầu tư phải bỏ

vốn tự có của mình vào Chi nhánh theo tỉ lệ giải ngân từng lần, điều này gây

khó khăn cho chủ đầu tư vừa mất thời gian, chi phí lẫn việc bị giám sát làm

cho hoạt động của doanh nghiệp mất tính chủ động. Về việc bảo đảm tiền

vay: Theo quy định, chủ đầu tư là doanh nghiệp nhà nước được dùng tài sản

hình thành bằng vốn vay để thế chấp. Chủ đầu tư không phải là doanh nghiệp

nhà nước phải có tài sản thế chấp trị giá 30% mức vốn vay (trước đây là

50%). Kết hợp với điều kiện về mức vốn cho vay thì chủ đầu tư phải tự đảm

bảo một lượng vốn không nhỏ. Nếu mức vốn cho vay là 70% thì chủ đầu tư

phải tự huy động 30% còn lại cùng với ít nhất 21% nữa là tài sản thế chấp.

Nghĩa là để vay được 1 đồng vốn tín dụng ưu đãi thì chủ đầu tư phải tự lo

được 0,73 đồng. Tương tự nếu mức vốn cho vay là 50% thì chủ đầu tư phải tự

bỏ ra 1,15 đồng để vay được 1 đồng vốn ưu đãi. Điều này không chỉ thể hiện

sự bất bình đẳng giữa khu vực kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh mà

còn không đảm bảo tính ưu đãi đối với các chủ đầu tư ngoài quốc doanh, đến

nay theo Nghị định 106 và Nghị định 151 của Chính phủ thì đã có xu hướng

64

mở hơn là tất cả các chủ đầu tư vay vốn tín dụng đầu tư phát triển đều được

dùng tài sản hình thành sau đầu tư để bảo đảm tiền vay hay là thế chấp. Hầu

hết các chủ dự án của khu vực này đều có tiềm lực vốn thấp lại ít có mối quan

hệ với các ngân hàng thương mại nên việc huy động đủ vốn để đáp ứng

những yêu cầu đặt ra của Quỹ Hỗ trợ phát triển (nay là ngân hàng phát triển)

là rất khó khăn. Về đối tượng cho vay: Đối tượng cho vay những năm trước

đây một mặt quá dàn trải, mở rộng khiến ưu đãi trở thành tràn lan như trong

lĩnh vực cơ khí, mặt khác lại chưa được triển khai đối với một số lĩnh vực cần

được khuyến khích đầu tư. Việc quy định đối tượng cho vay đầu tư phát triển

hiện nay mang tính xã hội nhiều hơn là hướng tới mục tiêu hiệu quả kinh tế

khiến cho nhiều dự án có tính khả thi, có hiệu quả kinh tế cao lại không được

vay.

- Thiếu và chậm ban hành một hệ thống văn bản hướng dẫn chi tiết về

thực hiện các quy định của tín dụng đầu tư phát triển và các công việc có liên

quan như thủ tục đấu thầu, thủ tục giải phóng mặt bằng, các quy chế về quản

lý đầu tư và xây dựng gây khó khăn cho tất cả các bên trong quá trình thực

hiện. Nhiều Nghị quyết, Quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ

mới được ban hành nhưng việc hướng dẫn thực hiện lại chậm trễ và không

đồng bộ, không thống nhất làm cho Chi nhánh lúng túng trong việc thi hành.

- Thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức năng trong việc

hướng dẫn thực hiện. Các văn bản ban hành có khi được thực hiện theo Quyết

định của Thủ tướng Chính phủ, có khi lại thực hiện theo văn bản hướng dẫn

của các Bộ.

- Chưa có sự phân công trách nhiệm quyền hạn rõ ràng giữa các cơ quan

quản lý. Thêm vào đó, sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan này cũng chưa

tốt gây cản trở cho việc thực hiện. Các cơ quan có trách nhiệm hoặc là buông

lỏng quản lý hoặc can thiệp quá sâu vào tiến trình thực hiện dự án gây khó

65

khăn cho hoạt động của Chi nhánh và Chủ đầu tư.

Thứ hai: Những nguyên nhân chủ quan về phía Chi nhánh Ngân hàng

phát triển

- Công tác kế hoạch nói chung chưa đáp ứng được yêu cầu định hướng

cho đầu tư phát triển tỉnh. Chất lượng của công tác kế hoạch kém, nội dung sơ

sài nên việc bố trí vốn cho nhiều dự án không phù hợp đến khi điều chỉnh vốn

từ dự án này sang dự án khác thì lại không kịp thời gây ra hiện tượng đọng

vốn.

- Chưa kịp thời hướng dẫn doanh nghiệp trong việc hoàn tất các thủ tục

đầu tư xây dựng, hướng dẫn chuẩn bị dự án nên các khâu này thường phải

làm đi làm lại nhiều lần. Việc tư vấn cho chủ đầu tư trong việc lựa chọn công

nghệ, thiết bị, thiết kế tổng dự toán, lựa chọn giá xét thầu còn chưa được thực

hiện làm ảnh hưởng đến chất lượng vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà

nước.

- Trình độ quản lý và trình độ nghiệp vụ của bộ máy hoạt động của Chi

nhánh chưa theo kịp yêu cầu được giao. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa

đồng đều. Một số cán bộ năng lực nghiệp vụ còn hạn chế hoặc chưa nắm

vững hết các chế độ chính sách của Nhà nước trong hoạt động chuyên môn.

Một số cán bộ chưa bám sát đơn vị hoặc bị động trong công tác nên chất

lượng công việc chưa cao. Công tác thẩm định dự án chưa tốt. Khả năng thu

thập những thông tin về năng lực tài chính, khả năng trả nợ cũng như tính khả

thi của dự án tại Chi nhánh chưa thật hiệu quả và chính xác. Khi thẩm định dự

án việc xem xét đánh giá những biến động của thị trường cũng chưa được tập

trung chú ý nên nhiều dự án khi thẩm định có tính khả thi, có phương án trả

nợ tốt nhưng khi thực hiện lại không có hiệu quả, không có khả năng trả nợ

hình thành lãi treo và nợ quá hạn.

- Chất lượng tư vấn thiết kế các dự án đầu tư chưa cao kéo dài thời gian

thẩm tra đồng thời phải bổ sung điều chỉnh trong quá trình thực hiện dự án.

66

Sự phối hợp hoạt động giữa thẩm định và tín dụng chưa tốt nên việc giải

quyết công việc chuyên môn còn chậm. Bên cạnh đó, chưa có sự phân công

trách nhiệm rõ ràng của từng bộ phận, khi có rủi ro xảy ra khó xác định trách

nhiệm thuộc về ai và đến đâu.

- Trang thiết bị phục vụ công việc còn thiếu, đặc biệt là thiết bị tin học.

Mạng lưới tin học chưa đồng bộ làm ảnh hưởng đến khả năng quản lý và điều

chỉnh vốn tín dụng đầu tư phát triển của Chi nhánh. Trang bị tin học văn

phòng còn thiếu làm giảm hiệu quả công việc, kéo dài thời gian thẩm định và

ký hợp đồng tín dụng.

Qua phân tích ta có thể thấy có rất nhiều nguyên nhân chủ quan cũng

như khách quan tác động làm giảm hiệu quả hoạt động của Chi nhánh Quỹ

Hỗ trợ phát triển Hà Tây nay là Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây trong

việc thực hiện cho vay đầu tư phát triển của nhà nước trên địa bàn tỉnh. Đó là

cơ sở để các bên tham gia vào tín dụng đầu tư phát triển tìm ra những giải

pháp tháo gỡ những khó khăn, ách tắc để nâng cao hiệu quả hoạt động và hiệu

quả của vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước trên địa bàn.

Thứ ba: Những nguyên nhân chủ quan về phía chủ đầu tư.

- Nhận thức của chủ đầu tư về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước

nhiều khi còn lệch lạc. Nhiều đơn vị chỉ chú trọng vào việc được ghi kế hoạch

vốn mà không chú ý đến việc xây dựng và thực hiện hiệu quả dự án.

- Ý thức trách nhiệm trong việc sử dụng vốn tín dụng của chủ đầu tư còn

thấp, coi nhẹ trách nhiệm trả nợ, nếu không trả được nợ thì xin hoãn nợ, giãn

nợ, giảm lãi suất, đảo nợ, hoặc cứ chây ì không trả vì mức lãi suất phạt quá

hạn vẫn nhỏ hơn lãi suất các ngân hàng thương mại làm ảnh hưởng đến hiệu

quả vốn tín dụng đầu tư phát triển.

- Trình độ quản lý vốn tín dụng đầu tư của các chủ dự án chưa đáp ứng

yêu cầu nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển. Thực tế cho thấy chất

67

lượng và hiệu quả của các dự án đầu tư hiện nay còn thấp. Chủ đầu tư thường

có tư tưởng rụt rè, sợ đầu tư chiều sâu, ngại đi sâu tìm kiếm hướng đầu tư và

dự án có hiệu quả, đến việc thực hiện dự án trong khi đó lại thường xuyên có

những thay đổi so với quyết định ban đầu. Bên cạnh đó, các chủ đầu tư

thường ít thông thạo các quy định về thủ tục như duyệt thiết kế tổng dự toán,

giấy phép xây dựng, tổ chức đấu thầu còn chậm, chưa đáp ứng được các quy

định của tổ chức cho vay về hồ sơ vay vốn nên việc thực hiện còn kéo dài.

Khả năng thiết lập dự án, lựa chọn dự án khả thi, xác định chính xác mức vốn

đầu tư của dự án còn hạn chế. Khi tính toán, chủ đầu tư thường chưa xem xét

kỹ các yếu tố bên ngoài như những biến động về môi trường công nghệ nên

hiệu quả dự án thường thấp hơn nhiều so với dự kiến gây ảnh hưởng đến việc

trả nợ. Vì vậy, trong khi nguồn vốn cân đối rất hạn hẹp chưa đủ khả năng đáp

ứng nhu cầu đầu tư phát triển của tỉnh nhiều khi lại rất thiếu dự án đầu tư có

hiệu quả thật sự để bố trí vốn.

Tóm lại, việc đánh giá phân tích những thành tựu và hạn chế, nhất là

nguyên nhân của những hạn chế cũng chính là tìm ra những vấn đề bức xúc

cần đặt ra làm cơ sở thực tiễn cho việc xác định phương hướng và giải pháp

nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở

Hà Tây trong chương tiếp theo.

Chƣơng 3

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐẦU TƢ PHÁT TRIỂN CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN THỜI GIAN TỚI Ở HÀ TÂY

3.1-Phƣơng hƣớng nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tƣ phát triển ở

68

Hà Tây.

3.1.1- Quan điểm và mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội Hà Tây giai

đoạn 2006-2010 và tầm nhìn 2020.

( Trích Quyết định số 195/2006/QĐ-TTg ngày 25/8/2006, Phê duyệt Quy

hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Hà Tây đến năm 2020 của Thủ

tướng Chính phủ)

 Quan điểm phát triển:

Thứ nhất: Huy động mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế, tháo gỡ những

khó khăn cản trở để phát triển Hà Tây với tốc độ nhanh hơn kỳ vừa qua. Phát

triển kinh tế đi đôi với cơ cấu lại kinh tế một cách hợp lý để phát huy các lợi

thế so sánh về vị trí địa kinh tế, tài nguyên thiên nhiên và con người theo

hướng tăng tỉ trọng các ngành công nghhiệp, dịch vụ, giảm tương đối tỉ trọng

ngành nông nghiệp lâm nghiệp. Phấn đấu đến năm 2015 Hà Tây cơ bản trở

thành một tỉnh công nghiệp.

Thứ hai: Đặt sự phát triển của Hà Tây trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh

quốc tế, trong sự hợp tác chặt chẽ với các tỉnh trong nước, gắn với vùng kinh

tế trọng điểm Bắc Bộ, trong quá trình đổi mới của đất nước để phát triển kinh

tế có chất lượng cao hơn.

Thứ ba: Phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ với phát triển xã hội, gắn tăng

trưởng kinh tế với công bằng, tiến bộ xã hội. Nâng cao đời sống vật chất, đời

sống văn hoá của nhân dân; xoá đói nghèo và các tệ nạn xã hội; kết hợp đồng

bộ giữa phát triển sản xuất với phát triển kết cấu hạ tầng.

Thứ tư: Kết hợp giữa phát triển đô thị như một trung tâm phát triển gắn với

vành đai nông thôn. Nhanh chóng đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá cả Hà Tây, các

đô thị của Hà Tây phải được phát triển hiện đại, đảm bảo được chức năng các

đô thị vệ tinh của Thủ đô Hà Nội. Nông thôn Hà Tây phải được phát triển

theo hướng văn minh, bảo tồn được các giá trị văn hoá của các làng, xã và đặc

69

trưng cho nông thôn Việt Nam.

Thứ năm: Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường, cân băng sinh thái.

Không làm tổn hại và suy thoái cảnh quan thiên nhiên.

Thứ sáu: Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và củng cố an ninh quốc

phòng, củng cố hệ thống chính trị và nền hành chính vững mạnh.

 Các mục tiêu phát triển.

 Mục tiêu tổng quát.

Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng phát

triển mạnh kinh tế công nghiệp để tăng nhanh tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ.

Huy động mọi nguồn lực để thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế ở mức độ cao,

bền vững, nhanh chóng đưa Hà Tây trở thành tỉnh công nghiệp với một hệ

thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội tương đối hiện đại và đồng bộ gắn kết

chặt chẽ với hệ thống hạ tầng của vùng thủ đô Hà Nội, văn hoá phát triển lành

mạnh hiện đại và đậm đà bản sắc dân tộc. Kinh tế phát triển đạt và vượt mức

phát triển kinh tế bình quân chung của cả nước, từng bước trở thành động lực

phát triển kinh tế - xã hội của vùng Đồng bằng sông Hồng và Vùng kinh tế

trọng điểm Bắc Bộ. Trở thành một trong những trung tâm đào tạo nguồn nhân

lực tạo nguồn nhân lực và y tế chất lượng cao của vùng. Đảm bảo an ninh

quốc phòng, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao tích luỹ nội bộ.

 Mục tiêu cụ thể:

 Về phát triển kinh tế.

Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm giai đoạn 2006-2010 ít

nhất đạt 13-13,5% và 2011-2015 đạt trên 13% và thời kỳ 2016-2020 tăng

khoảng trên 13,5-14%. Nhanh chóng đưa mức GDP bình quân đầu người đạt

70

và vượt mức trung bình cả nước trước năm 2015.

Tổng kim ngạch xuất khẩu thời kỳ 2006-2010 tăng trên 22% và đến năm

2010 đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu gấp 2,8 lần năm 2005 và năm 2020 đạt

gấp 4 lần năm 2010.

Đưa cơ cấu ngành kinh tế trong tỉnh đạt tỉ lệ: nông nghiệp khoảng 21%;

công nghiệp 45% và dịch vụ trên 34% vào năm 2010. Đến năm 2020 tỷ trọng

nông nghiệp của tỉnh trong cơ cấu GDP còn dưới 9%; công nghiệp và dịch vụ

chiếm tới 91%.

 Về phát triển xã hội:

Phấn đấu tỉ lệ giảm sinh mỗi năm 0,6%0, phấn đấu đến năm 2010 giảm

2/3 tỷ lệ nghèo so với năm 2005, nâng mức sống của các hộ đã thoát ngheo,

tránh tình trạng tái ngheo.

Đến năm 2020, tỷ lệ đô thị hoá ít nhất đạt khoảng 45-50%, tỷ lệ lao động

phi nông nghiệp trong tổng số lao động khoảng 77%.

Đến năm 2010, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt khoảng 40%, đến

năm 2020 khoảng 50-60%. Đến năm 2010, có 80-85% lao động có việc làm

sau khi đào tạo.

 Về môi trường:

Môi trường được giữ vững, không còn tình trạng ô nhiễm ở các làng

nghề. Đến năm 2010 khoảng 92% dân số được sử dụng nước sạch; thu gom

và xử lý trên 90% rác thải sinh hoạt; quản lý và xử lý 100% chất thải công

nghiệp nguy hại, chất thải y tế.

Bảo tồn và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa

dạng sinh học, các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể được bảo tồn và tôn

tạo.

3.1.2- Định hướng tín dụng và nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát

71

triển của Chi nhánh Ngân hàng phát ở Hà Tây.

Thứ nhất: Định hướng tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước giai đoạn

2006-2010.

 Về huy động vốn.

Với nhu cầu vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước trên địa bàn trong

những năm tới như đã trình bày ở phần trên ngày một nhiều, do vậy đòi hỏi

Ngân hàng phát triển mức đáp ứng phải cao hơn các năm trước, Chi nhánh

phải tăng mức huy động tối thiểu là 30% để cho vay một dự án. Do đó để chủ

động hơn nguồn vốn cho vay Chi nhánh đặt ra một mục tiêu huy động đảm

bảo tối thiểu đạt theo kế hoạch và phấn đấu vượt mức kế hoạch của Ngân

hàng phát triển giao cho Chi nhánh. Từ nay đến 2010 và những năm tiếp theo,

Chi nhánh tiếp tục huy động các nguồn vốn từ các tổ chức như bảo hiểm xã

hội, tiết kiệm bưu điện và các tổ chức khác với tỷ lệ ở mức cao hơn. Dưới đây

là chỉ tiêu kế hoạch tiếp nhận và huy động vốn. (Xem biểu 3.1)

Biểu 3.1: Chỉ tiêu tiếp nhận và huy động vốn tín dụng đầu tư phát triển của

Chi nhánh ngân hàng phát triển Hà Tây đến 2010 và 2020

Chỉ tiêu

2006

2008

2010

2020

1-Vốn tiếp nhận từ NH phát triển TW (tỷ đồng )

431,374

864,3 1.119,0

4.528,0

2-Vốn huy động của Chi nhánh (tỷ đồng).

114,238

280

340

1.400

Trong đó : - Ngắn hạn

34,238

20

40

100

- Dài hạn

80

260

300

1.300

Nguồn: Báo cáo phương hướng hoạt động và phát triển của Chi nhánh NHPT Hà Tây giai

đoạn 2006-2010 và các năm tiếp theo (năm 2006) [2]

 Về cho vay vốn.

Theo định hướng phát triển của kinh tế -xã hội và theo đó là nhu cầu

vốn đầu tư của Hà Tây, Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây với chức

năng đóng góp tín dụng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đã đề ra

72

mục tiêu hoạt động cụ thể nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả hoạt động tín

dụng đầu tư, góp phần hoàn thành thắng lợi các mục tiêu phát triển của tỉnh

đến năm 2010 và những năm tiếp theo.

Theo kế hoạch, để duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân của tỉnh

giai đoạn 2006-2010 là 13,5%, thì tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư phát triển

toàn tỉnh trong giai đoạn tương ứng là khoảng 20%. Nguồn vốn đầu tư phát

triển này bao gồm cả vốn tín dụng đầu tư, vốn ngân sách, vốn doanh nghiệp

và dân cư, vốn FDI. Trong đó vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch là tăng

trưởng bình quân giai đoạn là khoảng 15%. Trên cơ sở đó, dự kiến vốn tín

dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tại Chi nhánh như sau: (Xem biểu 3.2 )

Biểu 3.2: Dự kiến khả năng cho vay tín dụng đầu tư phát triển tại Chi nhánh

Chỉ tiêu

2006

2008

2010

%

100

100

100

Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển

tỷ đồng

5.787

8.300

12.000

Nguồn vốn tín dụng ĐTPT của NN

tỷ đồng

868

1.248

1.818

Khả năng cho vay so với nhu cầu

%

15

15,03

15,15

Nguồn: Niên giám thống kê Cục thống kê tỉnh Hà Tây năm 2006[19]

Ngân hàng phát triển Hà Tây giai đoạn 2006-2010

Trong thời gian tới, định hướng bố trí vốn tín dụng cho vay đầu tư phát

triển vẫn tiếp tục tập trung vào các dự án thuộc đối tựơng theo tinh thần Nghị

định 151/NĐ-CP ngày 20/12/2006 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đầu

tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước:

Trên cơ sở các lĩnh vực ưu tiên như trên, tập trung vốn cho những dự

án đang vay dở để hoàn thành dứt điểm công trình, sớm đưa dự án vào hoạt

động và khai thác. Nguồn vốn còn lại bố trí cho những dự án có tính khả thi

cao, đạt hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội, có khả năng hoàn trả nợ

vay.

Nghiệp vụ hoạt động chính của Chi nhánh trong giai đoạn tới vẫn là

73

cho vay đầu tư phát triển. Trên cơ sở nguồn vốn do ngân sách cấp chủ động

phối hợp với Sở kế hoạch đầu tư tỉnh và các chủ đầu tư để hoàn tất thủ tục

triển khai ký kết hợp đồng tín dụng và giải ngân vốn vay.

Hoạt động cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước, trong những năm

tiếp theo, Chi nhánh chủ trương đẩy nhanh tiến độ thẩm định dự án, ký kết

hợp đồng tín dụng và giải ngân vốn vay, đảm bảo thực hiện 100% vốn kế

hoạch. Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay, giảm thiểu nợ quá hạn và lãi

treo. Chủ động và kịp thời giải quyết những món nợ “có vấn đề”, tìm hiểu

nguyên nhân để đưa ra biện pháp tháo gỡ, trình cấp trên xem xét và quyết

định. Trong những năm tới, cho vay đầu tư phát triển của nhà nước phải thực

sự trở thành công cụ kích thích đầu tư, đem lại hiệu quả cao cho tỉnh.

Thứ hai: Định hướng nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển ở Hà Tây

giai đoạn 2006-2010 và những năm tiếp theo.

Như đã trình bày ở chương 1 hiệu qủa tín dụng đầu tư phát triển của Nhà

nước được xem là có hiệu quả khi nó mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội cho

cả Ngân hàng, các đối tượng trong quan hệ tín dụng và cả nền kinh tế quốc

dân. Do đó trong những năm tới Chi nhánh tập trung vào các mục tiêu nâng

cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.

 Đối với Chi nhánh:

- Phân đấu tăng doanh số cho vay đảm bảo sự tăng trưởng kỳ sau cao

hơn kỳ trước, tính trung bình cho cả giai đoạn là tăng trưởng bình quân 15%.

- Giảm tới mức thấp nhất tỷ lệ nợ quá hạn, kế hoạch đạt ra cho giai đoạn

giảm tỷ lệ quá hạn còn dưới 3%.

- Về hiệu suất sử dụng vốn vay đảm bảo luôn lớn hơn 1.

- Giảm tối đa các thủ tục hành chính rườm ra, tạo điều kiện thuận lợi cho

các chủ thể vay vốn đảm bảo cung cấp vốn kịp thời, đẩy đủ, nhanh chóng và

74

tiết kiệm chí phi cho các chủ thể vay vốn.

- Phấn đấu thu lãi đủ theo hợp đồng tín dụng, không phát sinh lãi treo,

đảm bảo chênh lệch thu chi của Chi nhánh luôn dương, Chi nhánh phấn đấu

được hưởng mức lương vào tốp đầu trong hệ thống Ngân hàng phát triển.

 Đối với các chủ thể vay vốn:

Để bảo đảm hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, trong thời

gian tới, các chủ thể vay vốn cần:

- Tập trung vay và sử dụng vốn vay đúng đối tượng theo quy định của

Chính phủ về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.

- Tránh dàn trải, tập trung vào các dự án đảm bảo đạt hiệu quả kinh tế, các

dự án có số lượng lao động lớn đặc biệt là thu hút lao động trên địa bàn.

- Nâng cao năng lực của các chủ dự án là các cá nhân, doanh nhân có đủ

năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có khả năng sử dụng vốn tín dụng

đầu tư phát triển của Nhà nước tốt nhất, từ đó giảm tình trạng nợ vay quá hạn.

 Đối với hiệu quả kinh tế – xã hội tỉnh:

Thông qua cho vay, Chi nhánh ngân hàng phát triển Hà Tây sẽ góp phần

vào việc cùng với địa phương nâng cao các chỉ tiêu phát triển kinh tế -xã hội

của tỉnh trong thời gian tới. Dưới đây là các chỉ tiêu về kinh tế -xã hội của Hà

Tây.

 Về chỉ tiêu phát triển kinh tế ( xem biểu 3.3).

75

Biểu 3.3 : Một số chỉ tiêu về phát triển kinh tế Hà Tây đến năm 2010 và 2020

Năm

ĐVT

2006-2010

2011-2020

Chỉ tiêu

1-Tốc độ tăng trưởng GDP

%

13-13,5

> 13,5-14,0

2- Tổng kim ngạch xuất khẩu

Lần

2,8 lần so với 2005

4

lần so với

2010

3- Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP:

21,0

9,0

%

- Nông , lâm, ngư nghiệp

45,0

91,0

%

- Công nghiệp và xây dựng

34,0

%

- Dịch vụ

Nguån: Quy ho¹ch ph¸t triÓn kinh tÕ-x· héi giai ®o¹n 2006-2010 vµ tiÕp theo cña

tØnh Hµ T©y n¨m 2006. [29]

 Về chỉ tiêu phát triển xã hội.

Trong thời gian tới, Chi nhánh tiếp tục và chú trọng cho vay các dự án thuộc các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư đảm bảo tạo nhiều công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập, từng bước nâng cao đời sống và thực hiện công bằng xã hội trên địa bàn. (Xen biểu số liệu 3.4 ).

Năm

Đơn vị

2006-2010

2016-2020

tính

Chỉ tiêu

1-Tỷ lệ giảm sinh bình quân

%0

0,6

2- Tỷ lệ giảm nghèo so với 2005

Lần

2/3

3- Đô thị hóa

%

45-50

4- Tỷ lệ dân số phi nông nghiệp

%

77,0

5- Tỷ lệ lao động qua đào tạo

%

40,0

50-60

6-Số lao động có việc làm sau khi đào tạo

%

80-85

Nguồn: Quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2006-2010 và tiếp theo của

tỉnh Hà Tây năm 2006. [29]

76

Biểu 3.4 : Một số chỉ tiêu về phát triển xã hội Hà Tây đến năm 2010 và 2020

3.2- Các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tƣ

phát triển của nhà nƣớc ở Hà Tây giai đoạn 2006-2010.

3.2.1-Nhóm giải pháp đối với Chi nhánh ngân hàng phát triển Hà Tây.

Thư nhất: Nâng cao năng lực và phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ

quản lý và nhân viên của Chi nhánh trong thực hiện chức năng nhiệm vụ

được giao.

Con người luôn luôn đóng vai trò trung tâm trong mọi hoạt động xã hội

và là nhân tố quyết định hiệu quả của hoạt động đó. Chi nhánh NHPT Hà Tây

cũng không nằm ngoài thông lệ đó.

Trong thời gian tới, phát huy nhân tố con người phải được coi là mục

tiêu hàng đầu của Chi nhánh, do vậy cần tiếp tục công tác bồi dưỡng nghiệp

vụ, phổ biến các quy định của Chính phủ và Hội đồng quản lý NHPT được

thực hiện thường xuyên. Bên cạnh đó, Chi nhánh còn phải chú trọng chăm lo

đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ nhân viên tạo điều kiện nâng cao

hiệu suất lao động. Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa nhân tố con nguời đem lại

hiệu quả hoạt động cao hơn và tương xứng với tiềm năng của Chi nhánh,

trong thời gian tới Chi nhánh nên chú ý một số vấn đề sau:

Bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng. Chi

nhánh nên thường xuyên tổ chức tập huấn cho cán bộ về các nghiệp vụ có liên

quan như thẩm định dự án, quy trình cho vay. Để các bài giảng này phát huy

hiệu quả hơn nữa có thể mời các chuyên gia hoặc cán bộ của NHPT TW về

trực tiếp thực hiện. Sau đó, đề nghị cán bộ tham gia tập huấn viết báo cáo thu

hoạch để xem kiến thức được tiếp thu đến đâu. Qua học nghiệp vụ như vậy,

làm cho cán bộ tín dụng có khả năng kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết và

thực tế, giữa kinh nghiệm và kiến thức để nâng cao chất lượng công việc.

Mặt khác, nghiệp vụ cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước chịu điều

tiết của rất nhiều những văn bản pháp luật khác nhau. Trong khi đó, với điều

77

kiện Việt Nam hệ thống những văn bản này thường xuyên thay đổi. Vì vậy,

mỗi khi có những quy định và hướng dẫn thực hiện mới Chi nhánh nên tổ

chức một buổi tập huấn cho cán bộ. Qua đó cũng thu thập các ý kiến đóng

góp của cán bộ về vấn đề trong thực tế để trình NHPT TW và Chính phủ xem

xét sửa đổi cho phù hợp.

Coi trọng việc nâng cao đạo đức nghề nghiệp và thái độ giao dịch với

khách hàng của cán bộ nhận viên, đặc biệt là cán bộ tín dụng là những người

tiếp xúc trực tiếp và thường xuyên với khách hàng.

Phát huy vai trò chủ động của cán bộ tín dụng trong việc tìm kiếm dự án

đầu tư, đóng góp ý kiến để hoàn thiện dự án và chủ động phối hợp với chủ

đầu tư trong việc hoàn tất hồ sơ thủ tục. Với chức năng của mình cán bộ tín

dụng nên chủ động tìm kiếm các dự án đúng đối tượng và hướng dẫn chủ đầu

tư hoàn tất thủ tục vay vốn. Mặt khác, trong quá trình thẩm định cũng nên

cùng với chủ đầu tư xây dựng dự án, đóng góp ý kiến để hoàn thiện dự án.

Tuy vậy, trên góc độ của mình, cán bộ tín dụng chỉ nên đề xuất các định

hướng chứ không nên đưa ra các con số cụ thể để tránh việc vừa lập vừa thẩm

định dự án.

Quy định rõ trách nhiệm và quyền lợi của cán bộ. Đối với nghiệp vụ cho

vay, công việc quy định càng cụ thể bao nhiêu thì hiệu quả đạt được càng cao

bấy nhiêu. Vì vậy, Chi nhánh nên quy định rõ trách nhiệm của từng bộ phận

và phân định quyền hạn và chức năng cụ thể của từng bộ phận giữa thẩm định

và tín dụng để trong trường hợp có rủi ro xảy ra thì xác định được trách nhiệm

thuộc về ai, có sai phạm trong quá trình thực hiện hay không và sai phạm đến

đâu. Bên cạnh đó, Chi nhánh cũng nên xây dựng một quy chế khen thưởng

kịp thời và phù hợp đối với những cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Có thể

gắn quyền lợi vật chất của cán bộ với chất lượng công việc được đánh giá

tổng hợp qua những chỉ tiêu nhất định như dư nợ cho vay, tiến độ giải ngân

78

vốn vay, thời gian thực hiện, số nợ quá hạn và lãi treo.

Thứ hai: Chủ động khơi tăng nguồn vốn và cho vay tín dụng đầu tư

phát triển.

Cùng với đà phát triển kinh tế của đất nước, nhu cầu vốn cho đầu tư phát

triển ngày càng tăng. Trong khi đó, nguồn vốn tín dụng của nhà nước lại hạn

chế. Thực hiện quan điểm bồi dưỡng nguồn thu của Chính phủ, hiện nay chỉ

có khoảng 18% GDP được động viên vào ngân sách hàng năm. Mặt khác, nhu

cầu chi thường xuyên và tích luỹ trả nợ nước ngoài ngày càng tăng gây sức ép

lên ngân sách Nhà nước. Do đó, trong thời gian tới vốn tín dụng đầu tư phát

triển của Nhà nước chắc chắn không thể đảm bảo đáp ứng được nhu cầu.

Trong tình hình đó, để nâng cao hiệu quả hoạt động, Chi nhánh không nên thụ

động trông chờ vào nguồn vốn kế hoạch được Chính phủ cân đối. Nên chủ

động tìm kiếm các nguồn vốn nhàn rỗi như các quỹ tiết kiệm bưu điện, tích

luỹ trả nợ nước ngoài, bảo hiểm xã hội…một nguồn vốn khá lớn còn bỏ ngỏ

mà Chi nhánh có thể huy động hiện nay là vốn vay từ các tổ chức phi chính

phủ, các tổ chức hỗ trợ phát triển nước ngoài như Quỹ hỗ trợ phát triển Châu

Á ADF (Asian Development Fund). Đa số các tổ chức này đều sẵn sàng cấp

tín dụng với lãi suất ưu đãi cho các chương trình phát triển của đất nước. Tuy

nhiên, việc huy động từ các nguồn này cần được xem xét cẩn thận để tránh rủi

ro và những ràng buộc có thể xảy ra.

Mặt khác, Chi nhánh cũng nên phối hợp với các ngân hàng thương mại

trên địa bàn cho vay đồng tài trợ với những dự án chưa được bố trí đủ vốn.

Các dự án được đánh giá là khả thi, có hiệu quả cao, có khả năng trả nợ mà

gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn vốn đối ứng để ký hợp đồng tín

dụng, Chi nhánh nên xem xét để thực hiện bảo lãnh cho chủ đầu tư vay vốn

tại các ngân hàng thương mại hoặc trực tiếp cho vay bằng vốn tạm thời nhàn

rỗi hoặc các nguồn tự huy động khác để sớm đưa dự án đi vào hoạt động.

Thứ ba: Cải tiến quy trình, thủ tục cho vay và giải ngân theo hướng

79

đơn giản thuận tiện hơn cho các chủ thể vay vốn.

Như đã trình bày ở phần trên, đối với hình thức cho vay đầu tư phát triển

của Nhà nước, để được vay vốn doanh nghiệp phải thực hiện những thủ tục

hành chính hết sức nặng nề. Trong điều kiện hiện nay, chủ trương cải cách

hành chính đã và đang được đề ra nhưng để thực hiện được nó thì không phải

một sớm một chiều. Do đó, trong phạm vi khả năng của mình, Chi nhánh nên

xem xét việc cải tiến quy trình, thủ tục cho vay và giải ngân để góp phần giảm

bớt những khó khăn cho Chủ đầu tư. Đó cũng là cơ sở để nâng cao hiệu quả

hoạt động của Chi nhánh. Một số điểm cần lưu ý là:

Xây dựng một cơ cấu tổ chức và quy trình thực hiện hợp lý. Hiện nay tại

Chi nhánh, cán bộ tín dụng gần như đảm đương toàn bộ các công việc từ đầu

đến cuối để ký kết hợp đồng tín dụng và giải ngân vốn vay cho dự án. Trong

khi đó, quy trình thực hiện còn tương đối phức tạp, để ký được hợp đồng tín

dụng hay giải ngân được vốn vay, hồ sơ chứng từ của dự án phải qua hàng

loạt những bước khác nhau từ phòng tín dụng sang phòng kế hoạch nguồn

vốn rồi đến phòng kế toán với chữ ký của Giám đốc Chi nhánh, của các

trưởng phòng, các cán bộ. Vì vậy, Chi nhánh nên nghiên cứu xây dựng cơ cấu

tổ chức và trình tự thực hiện hợp lý hơn để góp phần đẩy nhanh tiến độ thực

hiện.

Về việc ký khế ước nhận nợ của doanh nghiệp khi giải ngân vốn vay, để

thuận tiện cho cả 2 phía: Chi nhánh và doanh nghiệp, Chi nhánh nên lập khế

ước thành 2 bản có giá trị như nhau, mỗi phía giữ một bản. Mỗi khi doanh

nghiệp yêu cầu giải ngân vốn vay, sau khi Chi nhánh đã thẩm tra và đồng ý

giải ngân thì có thể báo cho doanh nghiệp biết để chủ đầu tư ký vào bản khế

ước nhận nợ đang giữ sau đó nộp cho Chi nhánh và nhận bản tại Chi nhánh về

doanh nghiệp và cứ như vậy cho các lần tiếp theo. Mỗi bên sẽ tự chịu trách

nhiệm về nội dung khế ước mà mình giữ trong từng thời kỳ.

Chi nhánh nên linh hoạt hơn trong công tác thẩm định và giải ngân vốn

80

vay. Các quy định trong quy trình cho vay và giải ngân là cần thiết tuy nhiên

đôi khi lại tỏ ra quá cứng nhắc gây khó khăn cho khách hàng. Một vấn đề nữa

là đối với những dự án có vốn đầu tư lớn được bố trí kế hoạch trong nhiều

năm thì việc thẩm định hiệu quả tài chính của từng khoản vốn được bố trí cho

dự án là không chính xác bởi vì hiệu quả của dự án là hiệu quả tổng thể sau

khi đã đầu tư. Do đó, Chi nhánh nên linh động hơn trong việc này, nghĩa là

nếu tổng thể dự án đã được thẩm định và chứng minh hiệu quả tài chính thì

không nhất thiết phải chứng minh hiệu quả của từng món vay.

Thứ tư: Tăng cường cơ sở vật chất và nhanh chóng ứng dụng Marketing

ngân hàng theo hướng hiện đại cho hoạt động tín dụng đầu tư phát triển.

Cho vay đầu tư phát triển của nhà nước về mặt nội dung và phương pháp

thực hiện cũng gần giống như các hình thức cho vay trung dài hạn của các

ngân hàng thương mại. Vì vậy, Chi nhánh hoàn toàn có căn cứ để nghiên cứu

ứng dụng marketing ngân hàng để khắc phục thực trạng hiện nay tạo điều

kiện để mở rộng hoạt động cho vay.

Marketing ngân hàng, tại các ngân hàng thương mại là một hình thức tư

duy hướng tới lợi nhuận. Đó là một quá trình xuyên suốt từ trước, trong và

sau khi cho vay nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu của nhóm khách hàng mục

tiêu và hướng tới mục tiêu sinh lợi cao nhất đó là lợi nhuận của ngân hàng và

sự tăng trưởng phát triển kinh tế xã hội. Trên cơ sở nghiên cứu thị trường, các

ngân hàng tiến hành xây dựng chiến lược marketing và vận dụng linh hoạt

công cụ của Marketing tuỳ thuộc vào mục tiêu và các điều kiện của ngân hàng

mình. Xét trên góc độ của Ngân hàng phát triển, tuy lợi nhuận không phải là

mục tiêu hàng đầu song việc mở rộng cho vay trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả

hoạt động của mình là cần thiết. Để thực hiện được điều này, Chi nhánh nên

nghiên cứu sử dụng các biện pháp marketing phù hợp. Với khả năng còn hạn

chế của bản thân, xin đưa ra một số biện pháp:

Chấn chỉnh lề lối làm việc và thái độ giao dịch của cán bộ đối với khách

81

hàng. Chi nhánh cần xoá bỏ hoàn toàn tác phong làm việc kiểu quan liêu bao

cấp đồng thời nâng cao trình độ nghiệp vụ cũng như thái độ phục vụ của đội

ngũ cán bộ nhằm tạo nên hình ảnh của Chi nhánh đối với khách hàng.

Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ cung ứng bằng cách thực hiện tư

vấn cho doanh nghiệp trong việc lựa chọn dự án, hoàn thiện hồ sơ, thực hiện

các quy định về đấu thầu, giải phóng mặt bằng…Điều này hoàn toàn có cơ sở

để thực hiện vì hầu hết cán bộ của Chi nhánh đều am hiểu các quy định, chính

sách có liên quan của Nhà nước. Trong khi đó, thực hiện công tác này sẽ giúp

doanh nghiệp đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án kéo theo đó là tiến độ kí kết

hợp đồng tín dụng và giải ngân vốn vay. Mặt khác, cũng giúp chủ đầu tư xoá

bỏ tâm lý e ngại khi tiếp cận vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước do

thủ tục quá phức tạp. Đó là cơ sở để Chi nhánh mở rộng cho vay và nâng cao

hiệu quả hoạt động.

Thực hiện các biện pháp quảng cáo khuếch trương. Do đặc trưng và lĩnh

vực hoạt động, các hình thức khuếch trương của Chi nhánh nên được thực

hiện dưới dạng các nghiên cứu chuyên đề trên báo chí, đài phát thanh và

truyền hình. Chi nhánh cũng có thể gửi công văn giới thiệu về hoạt động của

mình, về các điều kiện ưu đãi của hình thức cho vay đầu tư phát triển tại Chi

nhánh đến các đơn vị trên địa bàn.

Thứ năm: Nâng cao năng lực thẩm định, kiểm tra phân loại nợ vay để có biện

pháp xử lý kịp thời.

Công tác thẩm định đóng vai trò then chốt trong hiệu quả hoạt động của

Chi nhánh. Thẩm định là bước đầu tiên dẫn đến việc Chi nhánh có cho vay

đúng đối tượng và có khả năng thu hồi nợ vay hay không. Vạn sự khởi đầu

nan, nếu trong quá trình thẩm định mà mắc phải sai lầm thì hậu quả rất khó

lường. Đối với riêng Chi nhánh, những sai sót trong công tác thẩm định

không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Chi nhánh, đến hiệu quả

đầu tư trên địa bàn mà xa hơn nữa là đến ngân sách nhà nước, đến sự phát

82

triển của toàn xã hội.

Với tư cách là người đi vay, các chủ đầu tư thường tìm mọi cách để “làm

đẹp” hồ sơ xin vay của mình. Trách nhiệm của thẩm định là phải đánh giá

đúng năng lực của chủ đầu tư và hiệu quả của dự án, phát hiện ra những rủi ro

tiềm ẩn làm cơ sở cho quyết định cho vay hay không của Ngân hàng phát

triển. Một số việc cần thực hiện để nâng cao năng lực thẩm định hiện nay tại

Chi nhánh:

 Về thu thập thông tin khách hàng.

Để đánh giá được năng lực của chủ đầu tư, Chi nhánh cần thu thập

những thông tin về ngành nghề hoạt động, tình hình hoạt động kinh doanh,

trình độ quản lý của đội ngũ lãnh đạo và lịch sử quan hệ tín dụng của doanh

nghiệp. Những thông tin này góp phần đánh giá được mức độ an toàn của Chi

nhánh khi giao vốn cho doanh nghiệp. Các thông tin này có thể có được từ

các nguồn sau:

- Kiểm tra tại doanh nghiệp: cán bộ tín dụng trực tiếp xuống tận cơ sở

sản xuất kinh doanh để kiểm tra thực trạng của doanh nghiệp, trong đó cần

đặc biệt chú ý đến máy móc thiết bị của doanh nghiệp lạc hậu hay hiện đại,

được bảo quản tốt hay không, số lượng hàng tồn kho.

-Xem xét các báo cáo tài chính của doanh nghiệp: Trong hồ sơ xin vay, Chi

nhánh yêu cầu doanh nghiệp nộp báo cáo tài chính 2 năm gần nhất. Thông

qua phân tích các báo cáo này, Chi nhánh có thể đánh giá được năng lực hoạt

động của doanh nghiệp. Tuy nhiên để việc phân tích đưa lại kết quả chính xác

cần chú ý bồi dưỡng kiến thức về phân tích báo cáo tài chính cho cán bộ thẩm

định đồng thời với việc kiểm tra mức độ chính xác của các báo cáo tài chính

trên cơ sở điều tra tại doanh nghiệp, thu thập thông tin từ cơ quan quản lý cấp

trên của doanh nghiệp và từ các cơ quan thuế.

- Thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước

(CIC): Trong trường hợp cần thiết, đặc biệt là đối với dự án vay của các chủ

83

đầu tư thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, Chi nhánh nên tham khảo

thông tin về khách hàng từ CIC. Trung tâm này cung cấp những thông tin về

lịch sử quan hệ tín dụng của khách hàng, các khoản vay, tình hình thực hiện

nghĩa vụ trả lãi và trả nợ, các khoản nợ quá hạn trước đây của đơn vị. Qua đó

giúp Chi nhánh đánh giá được ý thức và khả năng trả nợ của khách hàng. Mặt

khác, CIC còn cung cấp thông tin về tài sản thế chấp giúp Chi nhánh ngăn

ngừa được tình trạng đơn vị đem tài sản thế chấp đi thế chấp tại ngân hàng

khác hoặc dùng tài sản đã thế chấp để bảo đảm nợ vay.

 Về thẩm định dự án.

Yếu tố trực tiếp quyết định đến quyết định cho vay là hiệu quả tài chính

của dự án. Hiện nay, Chi nhánh thường sử dụng 4 phương pháp để đánh giá

hiệu quả tài chính của dự án đó là phương pháp tính giá trị hiện tại ròng

(NPV), phương pháp tính tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR), phương pháp tính

thời gian hoàn vốn đầu tư (PP) và phương pháp tính hệ số sinh lời của dự án

(BCR). Ngoài ra cũng xem xét đánh giá kế hoạch thị trường của dự án. Tuy

nhiên, để đánh giá chính xác hơn hiệu quả của dự án trong điều kiện những

biến động của môi trường, Chi nhánh nên kết hợp sử dụng phương pháp phân

tích tình huống trong thẩm định dự án. Phân tích tình huống là một kỹ thuật

phân tích rủi ro hiện đại. Trong phương pháp này đòi hỏi phải xem xét cả tập

hợp những hoàn cảnh tài chính tốt và xấu và sắc xuất xảy ra so với trường

hợp có sắc xuất xảy ra lớn nhất (trường hợp cơ sở). Tập hợp những hoàn cảnh

tài chính xấu là hoàn cảnh trong đó số lượng bán thấp, giá bán thấp, chi phí

biến đổi cao…và ngược lại đối với tập hợp những hoàn cảnh tài chính tốt.

Trong từng trường hợp ta sẽ tính NPV và so sánh với NPV cơ sở từ đó xác

định được NPV mong đợi của dự án.

là sắc xuất xảy ra tình huống i

là NPV của dự án trong tình huống i

84

Trong đó:

NPV mong đợi cho phép đánh giá đúng hơn khả năng sinh lợi của dự án.

* Nghiệp vụ thẩm định tại Chi nhánh có thêm một bước nữa là xác định

đối tượng áp dụng cho vay đầu tư phát triển của nhà nước của dự án để làm

cơ sở cho việc ký kết hợp đồng tín dụng, xác định mức lãi suất cho vay và

thời hạn cho vay. Tuy Chính phủ và Ngân hàng phát triển đã ra nhiều văn bản

hướng dẫn thực hiện song trên thực tế, việc xác định đối tượng trong nhiều

trường hợp là rất khó khăn, đặc biết là đối với những lĩnh vực chưa có quy

hoạch cụ thể như xã hội hoá giáo dục, văn hoá, y tế, thể dục thể thao hoặc

những dự án có nhiều hạng mục thuộc các đối tượng khác nhau. Trong trường

hợp này, Chi nhánh cần tham khảo quy hoạch phát triển ngành của các Bộ,

ngành có liên quan trên cơ sở vận dụng các văn bản pháp luật và kế hoạch

vốn do Sở kế hoạch đầu tư bố trí.

Đối với việc theo dõi nợ vay của Chi nhánh hiện nay hoàn toàn do các

cán bộ tín dụng đảm nhiệm. Cán bộ phụ trách cho vay dự án nào sẽ tiến hành

theo dõi và phân loại nợ vay đối với dự án đó. Điều này cho phép Chi nhánh

nắm được thông tin một cách đầy đủ và toàn diện hơn do cán bộ cho vay quản

lý dự án từ đầu đến cuối nên nắm vững tình hình của chủ đầu tư và việc thực

hiện dự án. Định kỳ, Chi nhánh sẽ tiến hành rà soát phân loại nợ vay trên cơ

sở thu lãi, thu gốc và báo cáo của cán bộ tín dụng phụ trách dự án. Trong thời

gian tới, để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động cho vay, đánh giá kịp thời

và ngăn chặn những rủi ro có thể xảy ra, Chi nhánh nên có bộ phận chuyên

trách về vấn đề này. Bộ phận này sẽ làm nhiệm vụ tập hợp thông tin từ các

cán bộ tín dụng trên cơ sở xem xét tình hình thực tế để tiến hành phân loại nợ

vay, từ đó có những biện pháp xử lý thích hợp. Trên thực tế, những dấu hiệu

cho thấy một khoản dư nợ có thể xảy ra rủi ro là:

- Doanh nghiệp chậm trễ trong việc báo cáo kết quả hoạt động kinh

85

doanh của mình với Chi nhánh.

- Doanh nghiệp có biểu hiện trốn tránh khi cán bộ tín dụng xuống kiểm tra

đơn vị.

- Hoàn trả lãi vay và nợ gốc chậm hoặc không đầy đủ theo hợp đồng tín

dụng đã ký.

Khi phát sinh những biểu hiện trên, cần nhanh chóng tìm hiểu nguyên

nhân và tuỳ thuộc vào nguyên nhân mà đề xuất với lãnh đạo Chi nhánh hoặc

trình cấp trên phương hướng giải quyết.

Đối với những dự án gặp khó khăn tạm thời do những biến động của tình

hình thị trường ngoài khả năng tính toán thì nên xem xét miễn giảm lãi vay

đồng thời phối hợp với chủ dự án để nhanh chóng tìm phương hướng khắc

phục. Trong một số trường hợp không nên ngừng giải ngân đối với các dự án

thuộc diện này mà nên đẩy nhanh giải ngân vì tăng vốn đầu tư trong giai đoạn

này có thể giúp doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh. Nếu không có

khoản gia tăng đầu tư kịp thời này, doanh nghiệp có thể mất khả năng thanh

toán và rủi ro của Chi nhánh càng lớn hơn.

Đối với những khoản nợ quá hạn do nguyên nhân khách quan (được quy

định cụ thể trong Quy chế cho vay) thì phối hợp với chủ đầu tư hoàn thiện hồ

sơ trình Ngân hàng phát triển trung ương và Chính phủ xem xét khả năng gia

hạn nợ hoặc khoanh nợ. Chú ý rằng những khoản nợ này sau khi được gia hạn

hoặc khoanh nợ vẫn cần theo dõi thường xuyên để hạn chế các rủi ro tiếp theo

và thu hồi vốn kịp thời cho Chi nhánh khi có khả năng.

Đối với những khoản nợ khó đòi mà chủ đầu tư mất khả năng thanh toán

do các nguyên nhân khách quan thì phối hợp với chủ đầu tư lập hồ sơ trình

Chính phủ xem xét xoá nợ. Trong trường hợp này cũng cần theo sát đơn vị để

thu hồi phần nào vốn vay từ tiền bồi thường của cơ quan bảo hiểm. Bên cạnh

đó, đồng thời tiến hành các thủ tục bù đắp rủi ro từ Quỹ dự phòng rủi ro.

Đối với những khoản nợ khó đòi (sau khi đã thực hiện đầy đủ các biện

86

pháp giãn nợ, khoanh nợ) do nguyên nhân chủ quan của chủ đầu tư trước hết

cần báo cáo kịp thời với cơ quan chủ quản và cơ quan ra quyết định đầu tư.

Trong thời gian đó chuẩn bị đầy đủ hồ sơ thủ tục cho việc phát mại tài sản

hình thành bằng vốn vay hoặc tài sản thế chấp để thu hồi vốn cho Chi nhánh.

3.2.2-Nhóm giải pháp đối với các chủ dự án vay và sử dụng vốn tín

dụng đầu tư phát triển nhà nước.

Một là : Giáo dục ý thức lấy chất lượng và hiệu quả làm hướng phấn đấu

đồng thời đi đôi với kiểm tra, giám sát nhằm khắc phục hiện tượng lãng phí

thất thoát, tham ô, tham nhũng làm giảm hiệu quả sử dụng vốn tín dụng đầu

tư phát triển trong từng công trình, từng dự án.

Để nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước yếu tố chủ

thể vay sử dụng vốn tín dụng ĐTPT có vai trò hết sức quan trọng, một mặt

cần quán triện, tuyên truyền cho các chủ thể vay vốn biết đây là nguồn vốn ưu

đãi của Nhà nước, nguồn vốn này rất hạn hẹp, một phần được hình thành từ

ngân sách nhà nước cấp hàng năm, một phần ngân hàng phát triển phải huy

động bằng trái phiếu Chính phủ và huy động của các tổ chức khác, các nguồn

huy động này nhà nước phải cấp bù chênh lệch lãi suất theo thị trường để cho

vay. Bởi vậy các chủ thể vay vốn phải biết sử dụng một cách tiết kiệm, hiệu

quả tránh gây thất thoát, lãng phí. Đồng thời bên cạnh việc tuyên truyền đó thì

công tác kiểm tra, giám sát vốn vay đối với từng món vay, từng lần giải ngân

phải được kiểm tra thường xuyên, tránh tình trạng chủ thể vay vốn sử dụng

vốn vay sai mục đích hoặc nâng khống khối lượng nhằm rút vốn vay của nhà

nước. Việc này không chỉ giúp cho các chủ thể sử dụng vốn vay thực hiện

đúng các quy định về tín dụng đầu tư của nhà nước mà thông qua kiểm tra,

giám sát vốn vay cán bộ Ngân hàng có thể nắm bắt được quá trình hoạt động

của doanh nghiệp cũng như tiến độ thực hiện dự án mà đưa ra những biện

87

pháp xử lý kịp thời hoặc là tư vấn cho chủ thể vay vốn nhằm phát huy tốt nhất

hiệu quả từng đồng vốn của Nhà nước, tránh được hiện tượng tham ô, tham

nhũng gây thất thoát, lãng phí vốn của Nhà nước.

Hai là : Đẩy mạnh việc ứng dụng những thành tựu khoa học-công nghệ tiên

tiến và giải phóng mặt bằng để rút ngắn thời gian thi công đưa nhanh công

trình vào sản xuất, nâng cao chất lượng và hạ giá thành dự án đầu tư.

Tiến độ thực hiện dự án có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hiệu quả

của dự án, dự án thực hiện đúng tiến độ sẽ đảm bảo cho công trình đưa vào

khai thác sử dụng, tạo doanh thu, tạo công ăn việc làm cho người lao động,

bởi vậy các chủ thể vay vốn phải có kế hoạch, biện pháp cụ thể đặc biệt là

phải biết vận dụng các tiến bộ khoa học – kỹ thuật, các công nghệ hiện đại

trong quá trình triển khai dự án nhưng phải đảm bảo chi phí, hạ giá thành

nhằm sớm đưa công trình vào khai thác sử dụng.

Ba là: Nâng cao năng lực quản lý và tay nghề của đội ngũ cán bộ quản lý và

công nhân viên.

Để vận hành một dự án tốt thì yếu tố con người có ý nghĩa quyết định lớn

nhất để thực hiện thành công dự án. Một dự án tốt nhưng đội ngũ cán bộ quản

lý, trình độ tay nghề công nhân kém thì dự án vẫn khó thành công. Ngược lại

một dự án kém nhưng độ ngũ quản lý có năng lực, trình độ tay nghề của công

nhân tốt thì họ vẫn có thể xoay sở tìm ra hướng giải quyết. Do đó cần phải bồi

dưỡng về năng lực quản lý, điều hành cho đội ngũ cán bộ, công nhân trong

thực hiện dự án là yếu tố quan trọng để dự án thành công.

3.3- Nhóm giải pháp (kiến nghị) đối với Chính phủ, cơ quan cấp trên

và các cơ quan có liên quan.

Cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước là một nghiệp vụ thuộc lĩnh vực

88

tài chính công. Do đó, Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây chỉ có thể

nâng cao chất lượng hoạt động cho vay đầu tư phát triển nếu được sự chỉ đạo

đúng đắn của Chính phủ và các cơ quan Nhà nước và sự phối hợp với các

ngành có liên quan. Xuất phát từ đặc trưng đó, trên cơ sở nghiên cứu đề tài,

xin đề xuất một số kiến nghị với Chí phủ, Ngân hàng cấp trên, địa phương và

các đơn vị có liên quan. Các kiến nghị đều xuất phát từ lợi ích của cả 3 phía:

Nhà nước, Chi nhánh và chủ đầu tư như tiêu chí của tín dụng đầu tư phát triển

và hướng vào mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển

của Nhà nước tại Chi nhánh .

3.3.1- Đối với Chính phủ.

Hoàn thiện chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước.

- Cần đa dạng hoá hình thức tín dụng ĐTPT của Nhà nước.

Với xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, các doanh nghiệp thường có

quy mô vốn nhỏ, công nghệ sản xuất lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường, trình

độ quản lý ở mức độ thấp nên muốn cạnh tranh được, các doanh nghiệp trong

nước rất cần sự hỗ trợ tài chính của Nhà nước. Trong những năm qua hình

thức chủ yếu của hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước vẫn chủ

yếu là cho vay đầu tư phát triển, theo như hiện trạng đã phân tích nguồn vốn

của Nhà nước để cho vay hiện nay rất hạn hẹp, một phần nguồn vốn này được

hình thành từ ngân sách nhà nước, phần còn lại phải huy động, hiện nay công

tác huy động vốn cũng gặp không ít khó khăn, để giảm bớt khó khăn về

nguồn vốn trực tiếp hỗ trợ cho vay các dự án, Đề nghị với Chính phủ nên mở

rộng hình thức hỗ trợ gián tiếp cho các dự án cần được khuyến khích đầu tư

như hình thức Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bằng hình thức này Chính phủ chỉ

cần bỏ ra một khối lượng ít vốn mà vẫn có thể hỗ trợ cho các dự án cần

khuyến khích đầu tư. Bằng hình thức này Chính phủ sẽ hỗ trợ một phần lãi

suất cho các dự án có vay vốn ở các Ngân hàng thương mại trong nước, số

tiền hỗ trợ bằng chênh lệch giữa lãi suất vay thương mại với lãi suất ưu đãi

89

của nhà nước, như vậy nhà nước sẽ không phải bỏ ra một lượng vốn lớn cho

vay với lãi suất thấp mà vẫn có thể hỗ trợ cho các đối tượng cần khuyến khích

đầu tư.

- Về đối tượng cho vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước.

Với những phân tích nói ở chương 1 ta thấy, đối tượng cho vay vốn tín

dụng ĐTPT của Nhà nước không giống với đối tượng vay vốn thương mai.

Lựa chọn đối tượng vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước cần đảm bảo mục

tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội. Một mặt, vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước

phải là vốn „mồi‟ khuyến khích các thành phần kinh tế khác nhau phát huy

tiềm năng, vật lực để đưa vào sản xuất tạo ra của cải vật chất mới cho xã hội,

mặt khác nhằm thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, từng bước rút ngắn

khoảng cách giầu nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội.

Theo chúng tôi, đối tượng vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà

nước phải đựơc mở rộng bao gồm cả những chương trình phát triển của Chính

phủ, những vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn.

Ngay trong việc lựa chọn đối tượng cho vay vốn tín dụng đầu tư phát

triển của Nhà nước cũng có sự mô thuẫn. Một mặt, tín dụng đầu tư phát triển

của Nhà nước phải đảm bảo tính hiệu quả, phải đảm bảo sự hoàn trả vốn như

bất kỳ vốn tín dụng nào khác, mặt khác lại phải đảm bảo tính xã hội, chú

trọng đầu tư vào những dự án mà phần lớn hiệu quả trực tiếp không cao.

Để đồng thời đáp ứng nguyên tắc tín dụng "hoàn trả" và mục đích điều

tiết kinh tế của Chính phủ, theo chúng tôi việc lựa chọn đối tượng cho vay

vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc sau:

+ Đối tượng cho vay phải phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã

hội nói chung và chiến lược đầu tư phát triển của Nhà nước trong những thời

kỳ cụ thể nói riêng.

+ Đối tượng cho vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước phải

90

chủ yếu thuộc các lĩnh vực, các ngành, các chương trình Nhà nước cần được

khuyến khích đầu tư và những vùng kinh tế khó khăn nếu không có sự hỗ trợ

của Nhà nước thì không phát triển được.

+ Đối tượng cho vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước phải

có vị trí xung yếu trong nền kinh tế, trong từng vùng và lĩnh vực.

+ Đối tượng vay vốn phải có tác dụng tạo đà, lôi kéo các ngành, các

vùng, các lĩnh vực phát triển. Sau khi hoàn thành sứ mạng của mình, đối

tượng vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước phải được thay đổi

phù hợp với mục tiêu kinh tế xã hội từng thời kỳ cụ thể.

+ Đối tượng vay vốn phải đảm bảo sự an toàn vốn vay (nguyên tắc

chung đối với tín dụng), đảm bảo cho việc quản lý và sử dụng nguồn vốn tín

dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đúng mục đích và hiệu quả. An toàn và

hiệu quả trở thành một nguyên tắc quan trọng trong việc lựa chọn đối tượng

cho vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.

+ Như vậy, việc lựa chọn đối tượng cho vay vốn tín dụng đầu tư phát

triển của Nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc quản lý, sử dụng

loại vốn tín dụng này. Nó thực sự là một công cụ tài chính – tín dụng nhằm

đáp ứng yêu cầu quản lý nền kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Đối tượng vay vốn

tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cần được ổn định trên cơ sở kế hoạch

phát triển kinh tế xã hội của đất nước và trong giai đoạn 2006 – 2010 cần tập

trung vào những ngành, lĩnh vực nhằm thực hiện chính sách chuyển dịch cơ

cấu kinh tế của Đảng và Nhà nước. Như vậy không nên quy định chỉ những

dự án đầu tư thuộc vùng kinh tế khó khăn mới được vay vốn tín dụng đầu tư

phát triển của Nhà nước.

- Tăng tính chủ động cho Ngân hàng phát triển Việt Nam trong việc

quyết định lãi suất huy động vốn.

Hiện nay, lãi suất huy động vốn của Ngân hàng phát triển do Thủ tướng

91

Chính phủ quyết định hàng năm (vay Bảo hiểm xã hội), một số nguồn do Bộ

trưởng Bộ Tài chính quyết định hàng tháng, hàng quý (trái phiếu Chính phủ,

Tiết kiệm bưu điện, huy động vốn của các tổ chức khác...). Để chủ động và

linh hoạt cho Ngân hàng phát triển, kiến nghị Chính phủ và Thủ tướng Chính

phủ:

- Đối với vốn vay các Quỹ: Tiết kiệm Bưu điện, Bảo hiểm Xã hội Việt

Nam, các nguồn vốn và các quỹ khác của Nhà nước: Lãi suất tối đa bằng lãi

suất trái phiếu Chính phủ cùng kỳ hạn.

- Đối với các nguồn vốn huy động khác: Không cao hơn lãi suất huy

động của các ngân hàng thương mại Nhà nước.

- Lãi suất huy động vốn trong từng thời kỳ do Tổng Giám đốc Ngân hàng

phát triển quyết định theo nguyên tắc nêu trên.

Cơ sở của kiến nghị là thực hiện theo cơ chế này sẽ giúp tăng tính chủ

động của Ngân hàng phát triển trong huy động vốn, cân đối vốn cho vay đầu

tư các dự án, thực hiện được cơ chế kế hoạch hoá theo hướng đổi mới. Đồng

thời với lãi suất huy động không cao hơn lãi suất huy động của các ngân hàng

thương mại Nhà nước không gây ảnh hưởng đến thị trường vốn, vẫn đảm bảo

sự lành mạnh của thị trường.

- Mở rộng các hình thức huy động vốn của Ngân hàng phát triển.

Theo quy định hiện nay, Ngân hàng phát triển không được huy động

vốn ngắn hạn từ dân cư và không được huy động vốn bằng ngoại tệ. Để Ngân

hàng phát triển có nguồn cho vay ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu với chi phí thấp,

thay vì phải huy động vốn dài hạn với lãi suất cao để cho vay như hiện nay,

kiến nghị Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ cho phép Ngân hàng phát triển

được huy động vốn ngắn hạn từ dân cư và các tổ chức kinh tế để cho vay

92

ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu. Cơ chế huy động vốn cũng nên cho Ngân hàng

phát triển được quyền chủ động trên cơ sở khống chế mức cấp bù chênh lệch

hàng năm.

Ngân hàng phát triển cần được huy động vốn bằng ngoại tệ để đáp ứng

nhu cầu vốn cho các dự án có nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị bằng ngoại

tệ.

- Hoàn thiện cơ chế kế hoạch hoá.

Theo qui định hiện nay, Thủ tướng Chính phủ giao cho Ngân hàng phát

triển tổng mức vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước chia theo các hình thức:

Cho vay đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư và hỗ trợ LSSĐT phân theo cơ cấu

ngành, lĩnh vực và vùng. Căn cứ kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ giao,

Ngân hàng phát triển thông báo tổng mức cho các Bộ, ngành, địa phương.

Căn cứ kế hoạch được Ngân hàng phát triển thông báo, các Bộ ngành, địa

phương phân khai kế hoạch cho từng dự án. Cơ chế này dẫn đến đầu tư tràn

lan, không dứt điểm, giảm hiệu quả đầu tư của các dự án.

Để khắc phục tình trạng trên, kiến nghị Chính phủ và Thủ tướng Chính

phủ hoàn thiện cơ chế kế hoạch hoá theo hướng:

Kế hoạch tín dụng hỗ trợ phát triển của Nhà nước chỉ mang tính định

hướng, hàng năm Thủ tướng Chính phủ giao một số chỉ tiêu quan trọng, bao

gồm:

+ Vốn NSNN cấp bù chênh lệch lãi suất đối với việc cho vay đầu tư

trung dài hạn, bảo lãnh tín dụng đầu tư. Vốn NSNN cấp hỗ trợ LSSĐT.

+ Vốn ODA cho vay lại.

+ Vốn NSNN cho vay đầu tư ra nước ngoài theo Hiệp định của Chính

phủ.

+ Vốn NSNN dành cho cho vay theo các chương trình mục tiêu của

93

Chính phủ.

+ Danh mục và mức vốn cho vay của các dự án Nhóm A và một số dự

án quan trọng khác của Chính phủ.

- Chủ đầu tư các dự án thuộc đối tượng theo qui định đăng ký trực tiếp

với Ngân hàng phát triển về nhu cầu vay vốn và các hình thức hỗ trợ đầu tư.

- Ngân hàng phát triển có trách nhiệm tổng hợp và thông báo cho các

Bộ, ngành và UBND Tỉnh, thành phố về tình hình tín dụng hỗ trợ phát triển

của Bộ, ngành và trên địa bàn. Trong trường hợp vượt kế hoạch được giao thì

Ngân hàng phát triển cân đối khả năng, nhu cầu đầu tư báo cáo Bộ Kế hoạch

và Đầu tư, Bộ Tài chính để tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ.

Lý do: Thực hiện như vậy giúp tăng tính chủ động của Ngân hàng phát

triển trong huy động vốn trong phạm vi số vốn Ngân sánh Nhà nước cấp bù

chênh lệch lãi suất, tạo tiền đề căn bản và thuận lợi cho huy động vốn theo lãi

suất thị trường; đồng thời Ngân hàng phát triển hoàn toàn chủ động trong việc

điều hành kế hoạch, quyết định cho vay và phân bổ vốn trực tiếp tới từng dự

án. Đồng thời giảm bớt các khâu trung gian trong việc lập và thông báo kế

hoạch, tiết kiệm thời gian, tạo điều kiện cho chủ đầu tư chớp thời cơ đầu tư

phát triển sản xuất.

- Thực hiện cho vay bằng ngoại tệ.

Hiện nay nhiều dự án thuộc đối tượng phục vụ có nhu cầu vay vốn

bằng ngoại tệ, việc cho vay các dự án cần ngoại tệ để nhập khẩu thiết bị và

công nghệ từ nước ngoài là con đường ngắn nhất và tích cực nhất hỗ trợ cho

dự án thay vì chỉ cho dự án vay nội tệ như hiện nay, để dự án phải vay ngoại

tệ từ thị trường hoặc phải dùng nội tệ để mua ngoại tệ đáp ứng yêu cầu đầu tư.

Cho vay bằng ngoại tệ sẽ giảm rủi ro trong thanh toán của các dự án khi dùng

94

nội tệ mua ngoại tệ để thanh toán các khoản cần thiết.

- Chỉ đạo các cơ quan có thẩm quyền xử lý dứt điểm nợ xấu cho Ngân

hàng phát triển.

Như đã trình bày ở chương 2, nợ quá hạn và lãi đến hạn chưa trả của

Chi nhánh có xu hướng ngày càng tăng do các dự án thuộc diện xử lý nợ chưa

được xử lý dứt điểm. Các dự án đầu tư Quỹ HTPT nhận bàn giao từ Ngân

hàng Đầu tư và Phát triển, các dự án thuộc chương trình của Chính phủ như

kiên cố hoá kênh mương, nhiều hồ sơ dự án Chi nhánh trình Ngân hàng Phát

triển TW nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau mà Ngân hàng phát triển

TW vẫn chưa xử lý kịp thời. Kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ

đạo các cơ quan có thẩm quyền xử lý nợ xấu dứt điểm.

Việc xử lý nợ gắn chặt với tiến trình cổ phần hoá, bán khoán cho thuê

doanh nghiệp Nhà nước. Do đó cần có sự quan tâm chỉ đạo kịp thời đối với

các khoản nợ tín dụng Nhà nước tại các doanh nghiệp theo một cơ chế thật rõ

ràng, tránh tình trạng xử lý nợ tín dụng Nhà nước đang phải vận dụng các văn

bản quy định xử lý nợ tín dụng ngân hàng.

- Nâng vốn điều lệ cho Ngân hàng phát triển

Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo về việc nâng vốn điều lệ cho

Ngân hàng phát triển lên 10.000 tỷ đồng. Trong điều kiện hiện nay, việc tăng

cường tiềm lực tài chính cho hệ thống Ngân hàng phát triển là rất cần thiết để

góp phần đáp ứng yêu cầu tăng trưởng nền kinh tế, phục vụ cho các mục tiêu

chiến lược của Chính phủ. Vì vậy, kiến nghị Chính Phủ, Thủ tướng chính phủ

xem xét dành một phần vốn hàng năm từ phát hành trái phiếu Chính phủ cấp

bổ sung vốn điều lệ cho Ngân hàng phát triển, việc này không chỉ tạo điều

kiện tăng nguồn vốn cho Ngân hàng phát triển TW, thông quá đó cơ chế tín

dụng tại các Chi nhánh cũng được cởi mở hơn.

Về thời hạn cho vay, thời hạn cho vay tối đa 12 (riêng đối với dự án

95

trồng rừng là có thể 15 năm) hiện nay là không phù hợp. Do đó, Chính phủ

cần nghiên cứu qui định thời gian cho vay đối với các dự án đảm bảo tiêu chí

của đầu tư phát triển. Mặt khác, thời hạn cho vay được xác định từ khi nhận

được khoản vay đầu tiên đến khi trả hết nợ. Tuy nhiên, do đặc trưng của các

dự án đầu tư phát triển, trên thực tế có một số dự án trong thời gian thực hiện

bị gián đoạn không giải ngân tiếp được do những điều kiện khách quan như

những vướng mắc trong giải phóng mặt bằng, đấu thầu máy móc thiết bị nên

thời gian sử dụng vốn thực tế ít hơn nhiều. Vì vậy các cơ quan chức năng cần

nghiên cứu đưa ra qui định cụ thể đối với những trường hợp này. Ngoài ra,

qui định về thời gian ân hạn đối với dự án được tính từ thời điểm rút vốn cũng

chưa thật hợp lý, đặc biệt là đối với những dự án có thời gian đầu tư dài và

giải ngân rải rác. Vì vậy, Chính phủ nên qui định thời gian ân hạn được tính là

từ khi khởi công hay rút vốn vay đến khi dự án hoàn thành đưa vào sử dụng

như vậy sẽ trách được tình trạng dự án chưa đưa vào sử dụng đã phải trả nợ

gốc dẫn đến phát sinh nợ quá hạn.

3.3.2- Đối với Ngân hàng Nhà nước:

- Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ, quản

lý ngoại hối và thanh toán của Ngân hàng phát triển.

- Hướng dẫn Ngân hàng phát triển tham gia hệ thống thanh toán và

cung cấp dịch vụ thanh toán cho khách hàng theo đúng quy định. Chỉ đạo

Ngân hàng Chính sách xã hội, các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín

dụng phối hợp vơi Ngân hàng phát triển thực hiện các nghiệp vụ uỷ thác cho

vay, bảo lãnh và hỗ trợ LSSĐT theo quy định của Ngân hàng phát triển và

quy chế hoạt động của Ngân hàng và các tổ chức tín dụng.

3.3.3- Đối với Ngân hàng phát triển Việt Nam

 Về việc giao kế hoạch vốn tín dụng.

Việc chậm trễ trong giao kế hoạch vốn hàng năm của Ngân hàng phát triển

96

trung ương luôn luôn ở trong tình trạng bị động. Nhiều dự án có hiệu quả cao

đã không được chấp thuận cho vay do chưa có kế hoạch vốn. Hơn nữa, việc

giao kế hoạch vốn nhỏ giọt, số vốn cân đối quá ít so với nhu cầu cũng làm cho

đầu tư dàn trải và manh mún. Vì vậy để tạo điều kiện cho Chi nhánh nâng cao

hiệu quả hoạt động của mình, đề nghị Ngân hàng phát triển thực hiện giao kế

hoạch hàng năm đúng theo qui định vào khoảng tháng 10 năm trước, cùng với

tiến độ giao các kế hoạch kinh tế xã hội khác. Mặt khác, cũng nên thực hiện

cân đối vốn luôn một lần, tránh trường hợp đến cuối năm mới thông báo kế

hoạch vốn bổ sung gây khó khăn cho hoạt động của Chi nhánh. Đó là cơ sở để

cho Chi nhánh xây dựng kế hoạch hoạt động và triển khai thực hiện cho vay

phát triển ngay từ đầu năm. Có như vậy mới đảm bảo hoàn thành kế hoạch

vốn được giao và có điều kiện tìm kiếm hỗ trợ cho các dự án đầu tư phát triển

bằng các nguồn khác.

 Phân cấp hơn nữa cho Chi nhánh trong thực hiện công việc.

- Phân cấp thẩm quyền trong thẩm định và quyết định cho vay dự án tín

dụng ĐTPT của Nhà nước;

Kiến nghị với Ngân hàng phát triển giao cho Chi nhánh quyền chủ động

hơn nữa trong việc thực hiện nhiệm vụ tín dụng đầu tư phát triển của Nhà

nước trên địa bàn; đặc biệt là việc phân cấp thẩm định, quyết định cho vay các

dự án tín dụng đầu tư phát triển, vì hiện nay Ngân hàng phát triển mới phân

cấp cho Chi nhánh thẩm định và quyết định cho vay các dự án có tổng mức

đầu tư dưới 50% của nhóm B, còn các dự án có tổng mức đầu tư lớn hơn 50%

nhóm B trở lên Chi nhánh phải trình Ngân hàng phát triển quyết định. Việc

này không chỉ tạo điều kiện cho Chủ đầu tư phải quan hệ qua nhiều khâu,

nhiều cấp gây tốn kém chi phí và mất thời gian mà hơn thế nữa là tạo quyền

chủ động cho Chi nhánh và cũng là để thực hiện cơ chế một cửa theo đúng

97

tinh thần của Đảng và nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới hiện nay.

- Phân cấp thẩm quyền gia hạn nợ vốn vay tín dụng ĐTPT của Nhà

nước;

Đề nghị với Ngân hàng phát triển phân cấp cho Chi nhánh được gia hạn

nợ đối với các dự án có nợ quá hạn tạm thời, vì hiện nay số dự án nợ quá hạn

và tỷ lệ nợ quá hạn tại Chi nhánh tương đối cao là do các thủ tục và trình tự

gia hạn nợ Chi nhánh đều phải trình Ngân hàng phát triển, trong khi đó các

khâu thực hiện việc xem xét gia hạn cho các chủ đầu tư tại Ngân hàng phát

triển lại chưa kịp thời và có những dự án Chi nhánh đã hoàn tất thủ tục, hồ sơ

trình Ngân hàng phát triển nhưng quyết định của Ngân hàng phát triển thường

chậm trễ, việc này sẽ giúp Chi nhánh giảm tỉ lệ nợ quá hạn cũng như giúp cho

các chủ đầu tư trong việc cân đối nguồn tài chính trả nợ Chi nhánh.

 Về việc xử lý nợ xấu:

Đề nghị Ngân hàng phát triển ban hành chi tiết các thụ tục, quy trình về

việc xử lý nợ xấu cho từng đối tượng vay vốn của hệ thống Ngân hàng phát

triển đặc biệt là các dự án thuộc loại hình doanh nghiệp nhà nước, vì hiện nay

tại Chi nhánh NHPT Hà Tây cũng như nhiều Chi nhánh khác đại đa số các

doanh nghiệp này đang thực hiện tiến trình cổ phần hoá, và các doanh nghiệp

nhà nước làm ăn thua lỗ thì bắt buộc phải chuyển đổi theo hình thức, Bán,

Khoán, Cho thuê mà rất nhiều doanh nghiệp này hiện đang có dự nợ tại Hệ

thống Ngân hàng phát triện, ở Hà Tây có 4 doanh nghiệp thuộc diện cổ phần

hoá, bán khoán…có vay vốn tại Chi nhánh và hầu như đến nay đã quá hạn

100% mà số vốn vay tương đối lớn, việc xử lý nợ tại Chi nhánh còn gặp rất

nhiều lúng túng, xử lý rất điểm các món nợ quá hạn này sẽ giúp cho Chi

nhánh giảm tỷ lệ nợ quá hạn và lãi treo, cũng như giúp cho các Chi nhánh

khác trong hệ thống thực hiện hiệu quả hơn công tác tín dụng đầu tư phát triển

của Nhà nước.

Công tác xử lý nợ tốt sẽ làm cho lành mạnh hoá tài Chính tại Chi nhánh

98

cũng như góp phần làm lành mạnh hoá tài chính trong toàn hệ thống Ngân

hàng phát triển, với xu thế hội nhập hiện nay tài chính lành mạnh là yếu tố

quan trọng để tham gia một sân chơi chung trong khu vực cũng như sân chơi

quốc tế, đặc biệt là công tác huy động vốn cho hệ thống Ngân hàng phát triển.

3.3.4- Kiến nghị với Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây.

 Về việc trả nợ vốn vay tín dụng đầu tư phát của Nhà nước.

Đề nghị UBND tỉnh Chỉ đạo Sở tài chính lập dự toán Ngân sách hàng

năm trình Hội đồng nhân dân tỉnh nguồn để trả nợ Chương trình kiên cố hoá

kênh mương mà Chi nhánh cho Ngân sách tỉnh vay để thực hiện kiên cố hoá

kênh mương nội đồng, việc này không chỉ giúp cho chi nhánh nâng cao hiệu

quả hoạt động mà cũng là giúp cho tỉnh trong thời gian tới sẽ tiếp cận thêm

được nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước vì chỉ khi nào tỉnh

trả hết nợ quá hạn vốn vay tín dụng đầu tư phát triển thì Chính phủ và Ngân

hàng phát triển mới bố trí bổ sung nguồn tín dụng này để cho Ngân sách tỉnh

vay.

 Đối với công tác quy hoạch, giải phóng mặt bằng.

Đề nghị UBND tỉnh sớm rà soát, quy hoạch và công bố chi tiết các điểm

công nghiệp, khu công nghiệp trong toàn tỉnh cũng như giải quyết tốt công tác

đền bù, giải phóng mặt bằng tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư thực

hiện dự án, việc này không chỉ làm tăng sức hấp dẫn đầu tư của tỉnh mà còn

giúp cho các dự án có vay vốn tín dụng đầu tư phát triển tại Chi nhánh sớm

đưa công trình vào khai thác sử dụng, tạo công ăn việc làm cho người lao

động trên địa bàn, tạo doanh thu, giúp cho các dự án thực hiện được mục tiêu

99

từ đó mà trả nợ đúng hạn cho Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây.

KẾT LUẬN

Kết quả của luận văn thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:

1) Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một bộ phận của tín dụng

nhà nước. Nó là hình thức tín dụng đặc biệt, xuất hiện khi mục địch của tín

dụng nhà nước chuyển từ chi tiêu sang đầu tư dưới dạng cho vay có hoàn trả,

nhưng không vì mục tiêu lợi nhuận.

2)Thông qua việc thực hiện chức năng của mình, tín dụng đầu tư phát

triển của nhà nước có vai trò rất quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội

của đất nước, nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là

một tất yếu khách quan hiện nay ở nước ta. Hoạt động tín dụng của Ngân

hàng phát triển được xem là có hiệu quả, khi nó mang lại hiệu quả kinh tế-xã

hội cho cả ngân hàng, các đối tượng khác trong quan hệ tín dụng và nền kinh

tế quốc dân. Hiệu quả kinh tế - xã hội là khái niệm phản ảnh sự kết hợp hài

hòa giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội trong mỗi dự án tín dụng đầu tư

phát triển của nhà nước, không thể không tính đến.

3) Hoạt động tín dụng của Chi nhánh ngân hàng phát triển Hà Tây từ

khi thành lập đến nay (tính hết năm 2006) đã đạt được những thành tựu đáng

kể trên các mặt: huy động, tiếp nhận và cho vay vốn, đã góp phần nâng cao

hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước thể hiện qua các chỉ tiêu định

tính và định lượng cho cả các bên Ngân hàng phát triển Hà Tây, các chủ đầu

tư với tư cách là người đi vay và hiệu quả kinh tế xã hội mang lại cho nền

kinh tế quốc dân Hà Tây trong thời gian qua.

4) Bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động tín dụng đầu tư phát

100

triển của Nhà nước tại Chi nhánh Hà Tây còn tồn tại nhiều hạn chế: khả năng

đáp ứng nhu cầu vốn cho vay các dự án của tỉnh còn ở mức độ thấp; việc giao

kế hoạch và bố trí vốn đầu tư cho các dự án còn có chổ chưa hợp lý; tiến độ

giải ngân vốn tín dụng đã ký hợp đồng vay và cho vay giữa Chi nhánh và chủ

đầu tư còn rất chậm; việc theo dõi và đánh giá hiệu quả dự án sau đầu tư còn

chưa được chú trọng; thủ tục cho vay còn rườm rà, thủ tục hành chính quá

nặng nề ; nợ quá hạn của tín dụng đầu tư phát triển còn lớn và hiệu quả tín

dụng chưa thật cao. Những hạn chế trên có cả nguyên nhân khách quan lẫn

chủ quan, song luận án nhấn mạnh nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.

5) Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động, đánh giá những mặt

được, những điểm còn hạn chế, đồng thời đưa ra nguyên nhân của các hạn

chế, luận văn đã trình bày một hệ thống phương hướng và các giải pháp có

căn cứ lý luận và phù hợp tình hình thực tiễn, có tính khả thi, cùng các kiến

nghị với cơ quan có thẩm quyền, nếu được thực hiện sẽ góp phần nâng cao

hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước trong thời gian tới ở Hà Tây.

6) Đề tài có nội dung phong phú, mới và khó, kết quả đạt được chỉ mới

là bước đầu, mặc dù tác giả đã có nhiều cố gắng, nhưng do năng lực có hạn

chắc không tránh khỏi những hạn chế nhất định, rất mong sự góp ý của các

101

thầy cô giáo và các nhà khoa học.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào Tạo (2006), Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin,

NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

2.

Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Hà Tây (2006), Báo cáo kết quả hoạt động các năm từ 2000 đến 2006.

3.

Chính phủ (1999), Nghị định số 43/1999/NĐ-CP về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, ngày 29/6/1999.

4. Chính phủ (1999), Quyết định số 231/1999/QĐ-CP phê duyệt điều lệ tổ chức

và hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển, ngày 17/12/1999.

5.

Chính phủ (1999), Nghị định số 52/1999/NĐ-CP, ngày 08/7/1999 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế Quản lý Đầu tư và Xây dựng.

6. Chính phủ (1999), Nghị định số 50/1999/NĐ-CP về việc thành lập Quỹ Hỗ

trợ phát triển, ngày 08/7/1999.

7. Chính phủ (2000), Nghị định số 12/2000/NĐ-CP; sửa đổi một số điều của Quy chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản của Chính phủ, ngày 05/5/2000.

8. Chính phủ (2003), Nghị định số 07/2003/NĐ-CP; sửa đổi một số điều của Quy chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản của Chính phủ, ngày 30/01/2003.

9.

Chính phủ (2004), Nghị định số 106/2004/NĐ-CP, về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, ngày 01/4/2004.

10. Chính phủ (2005), Nghị định số 16/NĐ-CP ngày 07/02/2005 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế Quản lý Đầu tư và Xây dựng của Chính phủ.

11. Chính phủ (2006), Nghị định số 108/2006/QĐ- TTg của Chính phủ về việc

thành lập Ngân hàng Phát triển Việt Nam, ngày 19/5/2006.

102

12. Chính phủ (2006), Nghị định số 151/2006/NĐ-CP về tín dụng đầu tư phát

triển và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, ngày 20/12/2006.

13. Chính phủ (2006), Quyết định số 110/2006/QĐ-CP phê duyệt điều lệ tổ chức

và hoạt động của Ngân hàng phát triển Việt Nam, ngày 19/5/2006.

14. Đảng CSVN (2001), Văn kiện Đại hội IX, NXB chính trị Quốc Gia, Hà Nội.

15. Đảng CSVN (2006), Văn kiện Đại hội X, NXB chính trị Quốc Gia, Hà Nội.

16. Vũ Duy Hào, Đàm Văn Nhuệ, Nguyễn Quang Ninh (1998), Quản trị tài

chính doanh nghiệp, NXB Thống kê , Hà Nội.

17. C.Mác- Ăng ghen (1993), Toàn tập tập 251, NXB Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

18. Ngân hàng Phát triển Việt Nam(2006), Các Quy chế, quy trình nghiệp vụ

liên quan của tín dụng đầu tư phát triển.

19. Niêm giám thống kê Hà Tây (2006)

20. TS Nguyễn Bạch Nguyệt (1998), Lập và quản lý dự án đầu tư, NXB Thống

kê, Hà Nội.

21. PGS.TS Phan Thanh Phố(2005), Việt Nam với tiến trình gia nhập Tổ chức

Thương mại Thế giới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

22. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam(2002), Luật Ngân sách Nhà nước.

23. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam(2003), Luật Ngân hàng Nhà nước.

24. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam(2004), Luật các Tổ chức tín dụng.

25. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam(2005), Luật Khuyến khích đầu tư trong

nước sửa đổi.

26. Quỹ hỗ trợ phát triển Trung ương (1999), Quyết định số 01/QHTPT về thành lập Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển tại các tỉnh, thành phố trực thuộc, ngày 20/12/1999.

27. Quỹ hỗ trợ phát triển Trung ương(1999), Quyết định số 03/1999/ QHTPT về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, ngày 21/12/1999.

103

28. Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Tây(2006), Phụ lục số liệu kinh tế -xã hội,

2001-2005 và 2006- 2010.

29. Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Tây(2006), Hà Tây tiềm năng và lợi thế.

30. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân(1999), Chương trình và dự án phát triển kinh tế xã hội.

31. Tạp chí Hỗ trợ phát triển (2006), (5).

32. Tạp chí Hỗ trợ phát triển (2006), (6).

33. Tạp chí Hỗ trợ phát triển (2007), (9).

34. Tạp chí Hỗ trợ phát triển (2007), (10).

35. Tạp chí Hỗ trợ phát triển (2007), (11).

104

36. PGS.TS Ngô Doãn Vịnh và PGS.TS Bùi Tất Thắng (2006), „„Một số ý kiến về định hướng phát triển kinh tế Việt Nam đến 2020’’, Tạp chí kinh tế và dự báo, ( 9).

1. Bộ Giáo dục và Đào Tạo (2006), Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin,

NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

2. Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Hà Tây (2006), Báo cáo kết quả hoạt động

các năm từ 2000 đến 2006.

3. Chính phủ (2006), Nghị định số 43/1999/NĐ-CP về tín dụng đầu tư phát

triển của Nhà nước, ngày 29/6/1999.

4. Chính phủ (1999), Quyết định số 231/1999/QĐ-CP phê duyệt điều lệ tổ

chức và hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển, ngày 17/12/1999.

5. Chính phủ (1999), Nghị định số 52/1999/NĐ-CP, ngày 08/7/1999 của

Chính phủ về việc ban hành Quy chế Quản lý Đầu tư và Xây dựng.

6. Chính phủ (1999), Nghị định số 50/1999/NĐ-CP về việc thành lập Quỹ Hỗ

trợ phát triển, ngày 08/7/1999.

7. Chính phủ (2000), Nghị định số 12/2000/NĐ-CP; sửa đổi một số điều của

Quy chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản của Chính phủ, ngày 05/5/2000.

8. Chính phủ (2003), Nghị định số 07/2003/NĐ-CP; sửa đổi một số điều của

Quy chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản của Chính phủ, ngày 30/01/2003.

9. Chính phủ (2004), Nghị định số 106/2004/NĐ-CP, về tín dụng đầu tư phát

triển của Nhà nước, ngày 01/4/2004.

10. Chính phủ (2005), Nghị định số 16/NĐ-CP ngày 07/02/2005 của Chính

phủ về việc ban hành Quy chế Quản lý Đầu tư và Xây dựng của Chính phủ.

11. Chính phủ (2006), Nghị định số 108/2006/QĐ- TTg của Chính phủ về

việc thành lập Ngân hàng Phát triển Việt Nam, ngày 19/5/2006.

12. Chính phủ (2006), Nghị định số 151/2006/NĐ-CP về tín dụng đầu tư phát

105

triển và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, ngày 20/12/2006.

13. Chính phủ (2006), Quyết định số 110/2006/QĐ-CP phê duyệt điều lệ tổ

chức và hoạt động của Ngân hàng phát triển Việt Nam, ngày 19/5/2006.

14. Đảng CSVN (2001), Văn kiện Đại hội IX, NXB chính trị Quốc Gia, Hà

Nội.

15. Đảng CSVN (2006), Văn kiện Đại hội X, NXB chính trị Quốc Gia, Hà

Nội.

16. Vũ Duy Hào, Đàm Văn Nhuệ, Nguyễn Quang Ninh (1998), Quản trị tài

chính doanh nghiệp, NXB Thống kê , Hà Nội.

17. C.Mác- Ăng ghen (1993), Toàn tập tập 251, NXB Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

18. Ngân hàng Phát triển Việt Nam(2006), Các Quy chế, quy trình nghiệp vụ

liên quan của tín dụng đầu tư phát triển.

19. Niêm giám thống kê Hà Tây (2006)

20. TS Nguyễn Bạch Nguyệt (1998), Lập và quản lý dự án đầu tư, NXB

Thống kê, Hà Nội.

21. PGS.TS Phan Thanh Phố(2005), Việt Nam với tiến trình gia nhập Tổ chức

Thương mại Thế giới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

22. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam(2002), Luật Ngân sách Nhà nước.

23. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam(2003), Luật Ngân hàng Nhà nước.

24. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam(2004), Luật các Tổ chức tín dụng.

25. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam(2005), Luật Khuyến khích đầu tư

trong nước sửa đổi.

26. Quỹ hỗ trợ phát triển Trung ương (1999), Quyết định số 01/QHTPT về

thành lập Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển tại các tỉnh, thành phố trực thuộc,

106

ngày 20/12/1999.

27. Quỹ hỗ trợ phát triển Trung ương(1999), Quyết định số 03/1999/ QHTPT

về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Chi nhánh Quỹ hỗ trợ

phát triển các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, ngày 21/12/1999.

28. Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Tây(2006), Phụ lục số liệu kinh tế -xã hội,

2001-2005 và 2006- 2010.

29. Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Tây(2006), Hà Tây tiềm năng và lợi thế.

30. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân(1999), Chương trình và dự án phát

triển kinh tế xã hội.

31. Tạp chí Hỗ trợ phát triển (2006), số (5), (6).

32. Tạp chí Hỗ trợ phát triển (2007), số (9), (10), (11).

33. PGS.TS Ngô Doãn Vịnh và PGS.TS Bùi Tất Thắng (2006), „„Một số ý

kiến về định hướng phát triển kinh tế Việt Nam đến 2020’’, tạp chí kinh tế và

107

dự báo, (số 9).