ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN TRUNG CƯỜNG
Nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của chi nhánh ngân hàng phát triển ở Hà Tây
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Người hướng dẫn: PGS.TS. Phan Thanh Phố
Hà nội - 2007
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 4
Chƣơng 1 LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ...................................................... 10
VỀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐẦU TƢ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƢỚC .. 10
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI Ở VIỆT NAM .................. 10
1.1- Một số vấn đề lý luận về tín dụng đầu tƣ phát triển của nhà nƣớc ..... 10
1.1.1- Tín dụng và các hình thức của tín dụng. .................................... 10
1.1.2- Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước. .................................. 15
1.2- Nội dung, nhân tố ảnh hƣởng và sƣ cần thiết nâng cao hiệu quả tín
dụng đầu tƣ phát triển của nhà nƣớc. ........................................................ 24
1.2.1- Nội dung nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của nhà
nước. .................................................................................................... 24
1.2.2- Những nhân tố ảnh hưởng đến viêc nâng cao hiệu quả tín dụng
vốn đầu tư phát triển của nhà nước. ..................................................... 30
1.2.3- Sự cần thiết khách quan nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát
triển của nhà nước. ............................................................................... 37
1.3- Kinh nghiệm một số địa phƣơng trong nƣớc về nâng cao hiệu quả tín
dụng vốn đầu tƣ phát triển của nhà nƣớc. ................................................. 39
1.3.1- Tổng quan kinh nghiệm một số địa phương trong nước. ............ 40
1.3.2- Rút ra một số bài học kinh nghiệm chung tham khảo vận dụng ở
Hà Tây. ................................................................................................. 42
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐẦU TƢ PHÁT
TRIỂN CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN Ở HÀ TÂY ..... 43
THỜI GIAN QUA........................................................................................ 43
2.1- Khái quát tình hình Chi nhánh Ngân hàng phát triển ở Hà Tây- nhìn từ
góc độ thuận lợi và khó khăn. ................................................................... 43
2.1.1- Quá trình hình thành và phát triển. ........................................... 43
1
2.1.2- Những thuận lợi và khó khăn của Chi nhánh Ngân hàng phát triển
2.2- Tình hình tín dụng đầu tƣ phát triển tại Chi nhánh Ngân hàng phát
triển ở Hà Tây. ......................................................................................... 46
2.2.1- Tình hình tiếp nhận vốn của Trung ương và vốn huy động thời
gian qua ở Hà Tây. ............................................................................... 47
Biểu 2.1: Nguồn vốn tiếp nhận tư Trung ương từ năm 2000-2006 ........ 47
2.2.2- Tình hình cho vay các dự án đầu tư phát triển thời gian qua. ..... 49
2.3- Đánh giá chung về hiệu quả tín dụng đầu tƣ phát triển. ..................... 53
2.3.1- Về thành tựu. .............................................................................. 53
2.3.2 - Những hạn chế .............................................................................. 61
Chƣơng 3 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM ............. 71
NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐẦU TƢ PHÁT TRIỂN CỦA CHI
NHÁNH NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN THỜI GIAN TỚI Ở HÀ TÂY ...... 71
3.1-Phƣơng hƣớng nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tƣ phát triển ở Hà Tây.
................................................................................................................. 71
3.1.1- Quan điểm và mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội Hà Tây giai đoạn
2006-2010 và tầm nhìn 2020. ............................................................... 71
3.1.2- Định hướng tín dụng và nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát
triển của Chi nhánh Ngân hàng phát ở Hà Tây. ................................... 74
3.2- Các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tƣ phát
triển của nhà nƣớc ở Hà Tây giai đoạn 2006-2010. .................................. 80
3.2.1-Nhóm giải pháp đối với Chi nhánh ngân hàng phát triển Hà Tây.
............................................................................................................. 80
3.2.2-Nhóm giải pháp đối với các chủ dự án vay và sử dụng vốn tín dụng
đầu tư phát triển nhà nước. .................................................................. 90
3.3- Nhóm giải pháp (kiến nghị) đối với Chính phủ, cơ quan cấp trên và các
cơ quan có liên quan. ................................................................................ 91
3.3.1- Đối với Chính phủ. .................................................................... 92
2
3.3.2- Đối với Ngân hàng Nhà nước: .................................................... 99
3.3.3- Đối với Ngân hàng phát triển Việt Nam...................................... 99
3.3.4- Kiến nghị với Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây. ............................ 102
KẾT LUẬN ................................................................................................ 103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 105
3
MỞ ĐẦU
1- Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và phát triển KTTT định hướng
XHCN diễn ra trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, mở cửa và hội
nhập, đã và đang đòi hỏi nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển với quy mô ngày
càng lớn.
Đầu tư và phát triển kinh tế- xã hội có mối quan hệ biện chứng nội tại
với nhau, trong đó phát triển kinh tế -xã hội là mục tiêu, hệ quả tất yếu của
đầu tư. Vốn đầu tư cho phát triển được hình thành bởi nhiều nguồn, trong đó
có nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, một nguồn vốn mà đặc
điểm của nó gắn với chính sách lãi suất ưu đãi, không vì mục đích lợi nhuận,
nên không hoàn toàn giống các hình thức tín dụng khác trong nền KTTT.
Ở nước ta, tín dụng ưu đãi, ngoài Ngân hàng Chính sách phục vụ cho đối
tượng người nghèo, còn có các đối tượng khác cần tín dụng ưu đãi, đòi hỏi
phải có hình thức tổ chức tín dụng thích hợp để thực hiện. Tổ chức tín dụng
đó là Ngân hàng phát triển Việt Nam, mà mỗi tỉnh là một chi nhánh. Trải qua
15 năm, tổ chức này mà tiền thân của nó là Quỹ hỗ trở phát triển, đã chứng
minh được tính ưu việt của nó trong việc huy động các nguồn lực và cho vay,
góp phần đáp ứng cho nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế-xã hội cả nước trong
đó có Hà Tây.
Ngân hàng phát triển Việt Nam - Chi nhánh Hà Tây- đơn vị được giao
nhiệm vụ thực hiện tín dụng đầu tư phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn, đã
chủ động tìm kiếm nguồn vốn hỗ trợ cho đầu tư các dự án phát triển của Tỉnh
thời gian qua. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, vẫn còn những bất cập
và gặp không ít khó khăn vướng mắc làm hạn chế việc cung ứng vốn và nâng
1
cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh thời gian qua.
Để góp phần tháo gỡ những bất cập và khó khăn nói trên nhằm thực
hiện tốt mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội ở Hà Tây giai đoạn 2006-2010 và
tầm nhìn 2020, một yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay là tìm ra lời giải trên cả 2
mặt lý luận và thực tiễn.
Là một người làm công tác tín dụng đầu tư phát triển thuộc Ngân hàng
phát triển Việt Nam- Chi nhánh Hà Tây, tôi mong muốn góp phần nhỏ bé của
mình vào việc tìm ra lời giải cho vấn đề đặt ra nói trên. Đề tài: Nâng cao hiệu
quả tín dụng đầu tư phát triển của Chi nhánh Ngân hàng phát triển ở Hà Tây,
được chọn để nghiên cứu làm luận văn thạc sỹ kinh tế chính tri là trên ý nghĩa
đó.
2- Tình hình nghiên cứu đề tài
Xung quanh hoạt động tín dụng đầu tư phát triển nhà nước, từ khi thành
lập đến nay đã có một số nhà nghiên cứu và các nhà hoạt động thực tiễn
nghiên cứu viết bài đăng trên các tạp chí, các đề tài khoa học nghiên cứu và
công bố. Nhưng cho đến nay về số lượng chưa nhiều, một số vấn đề trọng yếu
(như hiệu quả) còn đang bỏ ngỏ, nhất là nghiên cứu với tư cách là một đề tài
độc lập và có hệ thống đối với Chi nhánh Ngân hàng phát triển và ở Hà Tây
hầu như chưa được đề cập.
Dưới đây là các công trình tiêu biểu đã được đăng tải và công bố liên
quan đến chủ đề :
Về Nghị định, Quyết định :
- Nghị Định của Chính phủ số 43/1999/NĐ-CP, ban hành ngày 29
tháng 6 năm 1999 về: Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
- Quyết định số 01/QĐ-QHTPT, ban hành ngày 20 tháng 12 năm 1999
2
của Thủ tướng Chính phủ về việc: Thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển.
- Quyết định số 108/2006/QĐ-TTg, ban hành ngày 19 tháng 5 năm
2006, về việc thành lập Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
Các bài viết có liên quan trên các tạp chí, đáng chú ý là các bài sau:
- Những cơ hội và thách thức đối với Ngân hàng phát triển Việt Nam
trong quan hệ quốc tế - của Kiều Thiệu- Tạp chí Hỗ trợ phát triển số 5, tháng
11 năm 2006.
- Ngân hàng phát triển Việt Nam hỗ trợ DNVVN, của Vũ Mạnh Tiến-
Tạp chí Hỗ trợ phát triển số 6 tháng 12 năm 2006.
- Suy nghĩ về xây dựng NHPT hiện đại - của Kiều Thiệu- Tạp chí Hỗ
trợ phát triển số 9, tháng 3 năm 2007.
- Hoàn thiện bước 1 mô hình tổ chức bộ máy trong hệ thống ngân hàng
phát triển Việt Nam, của Nguyễn Đức Kháng - Tạp chí Hỗ trợ phát triển số 11
tháng 5 năm 2007.
- Xây dựng VDB chuyên nghiệp, hiện đại phục vụ sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước, của Nguyễn Quang Dũng- Tạp chí Hỗ trợ phát triển số Xuân
Đinh Hợi 2007.
- Chất lượng tín dụng- Vấn đề cần được quan tâm, của Nguyễn Khắc
Bình- Tạp chí Hỗ trợ phát triển số 10 tháng 4 năm 2007.
- Một số suy nghĩ về hiệu quả đổi mới của các ngân hàng Thương mại
cổ phần, của Nguyễn Thành Long - Tạp chí ngân hàng số 5 tháng 3 năm
2007. Nhìn chung các công trình nói trên, đã đề cập được qua một số khía
cạnh mà luận văn có thể kế thừa. Song so với chủ đề mà luận văn nghiên cứu
vẫn còn một số khía cạnh chưa được đề cập, hoặc có đề cập nhưng chưa sâu,
chưa mang tính hệ thống, đặc biệt là đối với Chi nhánh ngân hàng phát triển ở
Hà Tây.
3
3- Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.
Về mục tiêu:
Trên cơ sở vận dụng có chọn lọc lý luận về tín dụng nhà nước, hiệu quả tín
dụng nhà nước và phân tích đánh giá thực trạng hiệu quả tín dụng đầu tư phát
triển của nhà nước, từ đó xác định phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm
nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Chi nhánh Ngân hàng phát
triển ở Hà Tây trong thời gian tới.
Về nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa có chọn lọc lý luận cơ bản về tín dụng và hiệu quả tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
- Xây dựng khái niệm và các chỉ tiêu định tính và định lượng về hiệu
quả tín dụng đầu tư phát triển nhà nước đối với sự phát triển kinh tế-xã hội.
- Khảo sát và rút kinh nghiệm về nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư
phát triển của nhà nước ở một số địa phương trong nước.
- Phân tích đánh giá thực trạng hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của
nhà nước ở Hà tây thời gian qua.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đầu
tư phát triển của nhà nước trong thời gian tới ở Hà Tây.
4- Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
- Luận văn lấy việc nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của
Chi nhánh Ngân hàng phát triển ở Hà Tây làm đối tượng nghiên cứu.
- Lý luận, phương hướng và giải pháp về tín dụng và nâng cao hiệu quả
tín dụng có nhiều, luận văn chỉ nghiên cứu lý luận, phương hướng và giải
pháp cơ bản về tín dụng và nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển gắn
với chính sách lãi suất ưu đãi của Nhà nước- luận văn tập trung vào hình thức
4
cho vay đầu tư phát triển.
- Luận văn lấy địa bàn Hà Tây làm không gian nghiên cứu và việc khảo
sát thực trạng lấy mốc thời gian kể từ ngày Quỹ hỗ trợ phát triển ở Hà Tây bắt
đầu hoạt động và lấy giai đoạn 2006-2010 và tầm nhìn đến 2020 để xác định
phương hướng và giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát
triển của Nhà nước.
5-Phƣơng pháp nghiên cứu.
Luận văn lấy phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm
phương pháp luận chung, đặc biệt coi trọng phương pháp trìu tượng hoá.
Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp thống kê so sánh định lượng, phân
tích, tổng hợp, mô hình, đồ thị, nhằm tạo ra một tổng thể phương pháp cho
phép tiếp cận nhanh mục đích và đối tượng nghiên cứu mà đề tài đặt ra.
6- Những đóng góp mới và ý nghĩa của luận văn.
Những đóng góp mới:
- Làm rõ thêm khái niệm và đặc điểm để có cái nhìn đúng về tín dụng
đầu tư phát triển của nhà nước, hiệu quả tín dụng và vai trò của nó đối với sự
phát triển kinh tế-xã hội.
- Đưa ra những phân tích, đánh giá xác đáng thực trạng hiệu quả tín
dụng đầu tư phát triển Nhà nước của Chi nhánh Hà Tây thời gian qua.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả tín
dụng đầu tư phát triển của nhà nước của Chi nhánh Hà Tây giai đoạn 2006-2010 và
tầm nhìn đến 2020.
Ý nghiã của luận văn:
- Giúp cho Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây thấy được vai trò
quan trọng của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trong phát triển kinh
tế - xã hội để có phương hướng và giải pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả tín
5
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trên địa bàn tỉnh.
- Làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy phần có liên quan
ở các Trường đại học và cao đẳng.
7- Kết cấu của luận văn.
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận và thực tiễn về hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển
của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Chi
nhánh Ngân hàng phát triển ở Hà Tây thời gian qua.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả
tín dụng đầu tư phát triển của Chi nhánh Ngân hàng phát triển thời gian tới ở
6
Hà Tây.
Chƣơng 1
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐẦU TƢ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƢỚC
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1.1- Một số vấn đề lý luận về tín dụng đầu tƣ phát triển của nhà
nƣớc
1.1.1- Tín dụng và các hình thức của tín dụng.
Tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và người
vay có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, hay nói một cách
khác tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh quan hệ kinh tế trong đó mỗi
tổ chức, cá nhân nhường quyền sử dụng một khối lượng giá trị hay hiện vật
cho một tổ chức hay cá nhân với những điều kiện ràng buộc nhất định: về thời
hạn hoàn trả (gốc và lãi); lãi suất; cách thức vay mượn và thu hồi.
Quan hệ tín dụng có một quá trình hình thành và phát triển rất lâu dài.
Trong chế độ công xã nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất ở một trình độ rất thấp
kém, công cụ lao động hết sức thô sơ, cuộc sống phải dựa vào tự nhiên, phân
công lao động chưa phát triển, do lực lượng sản xuất thấp kém như vậy nên
chưa thể có sản phẩm dư thừa để dự trữ và do vậy chưa có cơ sở để nảy sinh
mầm mống của đầu óc tư hữu và trong xã hội nguyên thuỷ chưa thể có quan
hệ trao đổi, mua bán và vay mượn. Lực lượng sản xuất phát triển, cùng với sự
phát triển của phân công lao động xã hội, lúc này con người sản xuất sản
7
phẩm không chỉ đủ cho tiêu dùng mà còn một phần để tích luỹ dự trữ, do đó,
xuất hiện mầm mống của chế độ tư hữu cả về tư liệu sản xuất và sản phẩm
làm ra, xã hội lúc này đã có sự phân chia kẻ giàu, người nghèo và các giai cấp
được hình thành. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất cùng với sự phân công lao
động xã hội là cơ sở cho sản xuất hàng hoá ra đời, do đó các quan hệ mua,
bán trao đổi và vay mượn cũng ra đời và những hình thức vay mượn đầu tiên
chính là nguồn gốc sâu xa của quan hệ tín dụng.
Như vậy có thể khẳng định tín dụng là một phạm trù kinh tế của nền
kinh tế sản xuất hàng hoá, ra đời, tồn tại và phát triển cùng với nền sản xuất
hàng hoá, trong điều kiện nền kinh tế sản xuất hàng hoá và quan hệ hàng hoá,
tiền tệ tồn tại thì tín dụng là một tất yếu khách quan, bởi vì nền sản xuất hàng
hoá và mối quan hệ hàng hoá hình thành quan hệ hàng hoá tiền tệ trong xã
hội, sự tuần hoàn trong quy trình đó của vốn tiền tệ là tiền đề khách quan làm
cho các quan hệ tín dụng nảy sinh.
Do đặc điểm của chu chuyển vốn trong sản xuất kinh doanh, sự vận
động của tiền tệ trong quá trình sản xuất kinh doanh tất yếu làm nảy sinh hiện
tượng phổ biến là trong cùng một thời gian có rất nhiều doanh nghiệp, tổ chức
kinh tế, cá nhân phát sinh nhu cầu vốn cần được bổ sung với khối lượng và
thời gian cần thiết, đồng thời, trong thời gian đó có nhiều doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế và dân cư có những lượng tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong một
thời gian nhất định, mâu thuẫn đó xảy ra thường xuyên và xem kẽ lẫn nhau
trong quá trình tuần hoàn vốn tiền tệ, mâu thuẫn đó phải được giải quyết bằng
các phương pháp nhất định sao cho phù hợp với quá trình tuần hoàn, có nghĩa
là phải tiến hành tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ trên nguyên tắc có
hoàn trả nhằm điều hoà kịp thời giữa cung và cầu vốn tiền tệ trong phạm vi
toàn xã hội đảm bảo cho quá trình tái sản xuất liên tục và tiết kiệm vốn. Như
vậy, đặc điểm của tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp, các tổ chức đã nảy sinh mâu thuẫn, đòi hỏi phải được
8
giải quyết bằng các quan hệ kinh tế tập trung và phân phối lại các nguồn tiền
tệ tạm thời nhàn rỗi trên nguyên tắc có hoàn trả, quan hệ này trở thành một
yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy xã hội loài người đi tới văn minh, thịnh
vượng trong nền kinh tế thị trường dựa trên nền sản xuất lớn hiện đại đó là
quan hệ tín dụng.
Tín dụng, xét về bản chất là hệ thống quan hệ kinh tế phát sinh giữa
người đi vay và người cho vay, nhờ quan hệ ấy mà vốn tiền tệ được vận động
từ chủ thể này sang chủ thể khác để sử dụng cho các nhu cầu khác nhau trong
nền kinh tế xã hội, tín dụng bao giờ cũng có thời hạn và phải được “hoàn trả”.
Giá trị của tín dụng không những được bảo tồn mà còn được nâng cao nhờ lợi
tức tín dụng.
Tín dụng được sử dụng như là công cụ khai thác và động viên có hiệu quả
nhất những lượng tiền tệ tạm thời nhàn rỗi phù hợp với quá trình vận động
của tiền tệ trong xã hội, tín dụng có các chức năng chính sau:
- Chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ. Đây là chức năng cơ
bản nhất của tín dụng, nhờ chức năng này của tín dụng mà các nguồn vốn tiền
tệ trong xã hội được điều hoà từ nơi thừa sang nơi thiếu để sử dụng nhằm phát
triển nền kinh tế. Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ là hai mặt hợp thành
chức năng cốt lõi của tín dụng. Cả hai mặt tập trung và phân phối lại vốn tiền
tệ đều đựơc thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả vì vậy tín dụng có ưu thế rõ
rệt, nó kích thích mặt tập trung vốn đồng thời thúc đẩy việc sử dụng vốn có
hiệu quả.
- Chức năng tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội: Hoạt
động của tín dụng, trước hết tạo điều kiện cho sự ra đời của các công cụ lưu
thông tín dụng như thương phiếu, kỳ phiếu ngân hàng, các loại séc, chuyển
khoản hoặc bù trừ cho phép thay thế một số lượng lớn tiền mặt lưu hành, nhờ
đó làm giảm bớt các chi phí có liên quan như in, đúc tiền, vận chuyển, bảo
9
quản tiền.
- Chức năng phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế: Đây là chức
năng phát sinh, hệ quả của hai chức năng nói trên. Sự vận động của vốn tín
dụng phần lớn là sự vận động gắn liền với sự vận động của vật tư, hàng hoá,
chi phí trong các doanh nghiệp, vì vậy qua đó tín dụng không những là tấm
gương phản ánh hoạt động kinh tế của doanh nghiệp mà còn thông qua đó
thực hiện việc kiểm soát các hoạt động ấy nhằm ngăn chặn các hiện tượng
tiêu cực, lãng phí, vi phạm pháp luật trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp.
* Các hình thức của tín dụng:
- Tín dụng thương mại.
Là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế với
nhau, được thực hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá cho nhau. Tín
dụng thương mại ra đời sớm hơn các hình thức tín dụng khác và giữ vai trò là
tiền đề, cơ sở cho sự ra đời các hình thức tín dụng khác. Tín dụng thương mại
ra đời dựa trên nền tảng khách quan là quá trình luân chuyển vốn và chu kỳ
sản xuất kinh doanh không ăn khớp lẫn nhau không những giữa các doanh
nghiệp khác ngành (như công nghiệp, thương mại, xây dựng) mà còn giữa các
doanh nghiệp trong cùng một ngành. Sự không ăn khớp này dẫn đến hiện
tượng trong một thời điểm, một số doanh nghiệp đã sản xuất ra một lượng
hàng hoá đang cần bán, nhưng chưa cần phải thu tiền ngay, trong khi một số
doanh nghiệp khác lại cần mua những sản phẩm hàng hoá ấy để đáp ứng nhu
cầu sản xuất kinh doanh nhưng lại chưa có tiền. Hiện tượng này có thể giải
quyết nếu các doanh nghiệp tiến hành mua bán chịu hàng hoá cho nhau. Đó
chính là tín dụng thương mại. Như vậy tín dụng thương mại có lợi đối với cả
hai phía, và có lợi đối với tiến trình phát triển của nền kinh tế, bởi vậy tín
dụng thương mại đã tồn tại và phát triển rất mạnh trong điều kiện của nền
kinh tế hàng hoá chưa phát triển cao như hiện nay.
10
- Tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng với các
doanh nghiệp và cá nhân được thực hiện dưới hình thức ngân hàng đứng ra
huy động vốn bằng tiền và cho vay (cấp tín dụng) cho các đối tượng. Nó là
một nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ của ngân hàng đựơc thực hiện theo nguyên
tắc hoàn trả và có lãi.
Đặc điểm của tín dụng ngân hàng là cho vay dưới hình thái tiền tệ.
Nguồn vốn tín dụng mà ngân hàng cho vay ra được hình thành từ khoản tiền
tạm thời nhàn rỗi ngân hàng huy động đựơc. Trong quan hệ với các doanh
nghiệp và cá nhân, vừa đóng vai trò là “người đi vay”, vừa đóng vai trò
“người cho vay”. Tín dụng ngân hàng ra đời phát triển cùng với sự ra đời và
phát triển của hệ thống ngân hàng, khác với tín dụng thương mại, tín dụng
ngân hàng là hình thức tín dụng chuyên nghiệp, hoạt động của nó hết sức đa
dạng và phong phú.
- Tín dụng nhà nước.
Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa nhà nước (bao gồm chính
phủ, chính quyền địa phương) với các đơn vị, cá nhân trong xã hội, trong đó,
chủ yếu nhà nước đứng ra huy động vốn của các tổ chức và cá nhân bằng phát
hành trái phiếu để sử dụng vì mục đích và lợi ích chung của toàn xã hội.
Khác với các loại hình tín dụng khác, tín dụng nhà nước không phụ vụ
các đối tượng kinh tế đơn thuần, mà là các đối tượng vừa có tính chất kinh tế
vừa có tính chất xã hội, để thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế trong
từng thời kỳ nhất định.
Cũng giống như mọi loại hình tín dụng khác là thể hiện tính hoàn trả,
có thời hạn và phải trả ngoài khoản vốn gốc còn có một khoản tiền về sử dụng
vốn vay. Trong tín dụng nhà nước, vốn tiền tệ huy động được dưới hình thức
công trái (trái phiếu chính phủ) thuộc quyền sử dụng của nhà nước, chúng
11
được chuyển thành nguồn tài chính bổ sung của nhà nước. Vốn ngân sách là
nguồn để hoàn trả tiền vay và lãi vay. Tín dụng nhà nước gắn liền với hoạt
động của kiến trúc thượng tầng chính trị thông qua sự vận động của vốn ngân
sách, biểu hiện một bộ phận của quan hệ tài chính nhà nước.
Toàn bộ nguồn vốn huy động được dưới hình thức tín dụng nhà nước
chủ yếu để cho vay ưu đãi, ưu tiên cho các dự án và công trình xây dựng hoặc
cải tạo kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội hoặc đầu tư các dự án phát triển sản
xuất kinh doanh.
1.1.2- Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.
Khái niệm tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.
Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một bộ phận của tín dụng
nhà nước. Nó là hình thức tín dụng đặc biệt xuất hiện khi mục địch của tín
dụng nhà nước chuyển từ chi tiêu sang đầu tư dưới dạng cho vay có hoàn trả.
Tính kinh tế của hoạt động tín dụng vốn ĐTPT của nhà nước xuất hiện khi
các hoạt động đầu tư được sử dụng từ nguồn vốn này để tạo ra nguồn thu có
khả năng hoàn trả vốn đã sử dụng. Giống như các hình thức tín dụng khác, cơ
chế vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước không chỉ thực hiện tập trung được
nguồn vốn cần thiết mà còn có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng, bảo toàn
và phát triển được nguồn vốn của Nhà nước. Qua đó, Nhà nước có thể mở
rộng và chủ động trong việc giải quyết các mục tiêu về đầu tư phát triển.
Tuy nhiên, tín dụng vốn ĐTPT của Nhà nước lại là một hình thức tín
dụng đặc biệt, ở đây tính kinh tế của tín dụng Nhà nước không phải là kinh tế
đơn thuần. Thông thường tín dụng vốn ĐTPT của Nhà nước có những đặc
12
tính sau:
- Tính kinh tế vĩ mô: tín dụng vốn ĐTPT của Nhà nước sẽ tập trung vào
các lĩnh vực then chốt, có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân cả
nước, hoặc một vùng, một ngành hay lĩnh vực.
- Tính xã hội: tín dụng vốn ĐTPT của Nhà nước sẽ tập trung vào các
lĩnh vực mà tín dụng thương mại với mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận có thể
không đầu tư (vì hiệu quả kinh tế trực tiếp của nhà đầu tư không được bảo
đảm, hoặc quy mô vốn quá lớn, hay thời gian thu hồi vốn đầu tư quá dài) để
giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước: việc làm cho người lao động, xoá
đói, nghèo, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế vùng, miền v.v.
Chức năng của tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.
Xuất phát từ mục đích của tín dụng vốn ĐTPT của Nhà nước là đầu tư,
hỗ trợ cho các dự án đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế thuộc một số
ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước hoặc vùng khó khăn
cần khuyến khích đầu tư, Tín dụng vốn đầu tư phát triển của Nhà nước có ba
chức năng chủ yếu:
Một là, chức năng bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước.
Đây là chức năng cơ bản nhất của tín dụng nhà nước nói chung và tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nói riêng. Tín dụng Nhà nước ra đời,
thoạt tiên là để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhằm bù đắp các khoản chi dùng
thường xuyên, nó không tham gia vào chu trình tái sản xuất của nền kinh tế.
Qua quá trình phát triển, chức năng nhiệm vụ của Nhà nước trong xã hội
không ngừng được cải tiến, theo đó chức năng bù đắp thiếu hụt ngân sách của
tín dụng Nhà nước được sử dụng tích cực hơn, nó nhằm để bù đắp những
khoản chi cho đầu tư phát triển kinh tế tăng thêm nguồn lực tài chính cho Nhà
nước để thực hiện các chính sách quản lý vĩ mô nền kinh tế và mở rộng quan
hệ kinh tế đối ngoại với cộng đồng kinh tế thế giới.
13
Hai là, chức năng phân phối lại nguồn vốn .
Nhờ vào hoạt động của tín dụng nhà nước có thể huy động mọi nguồn
vốn, nhận được một phần tài nguyên trong và ngoài nước để đầu tư phát triển
kinh tế. Mặt khác, nhờ vào hoạt động của tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước,
các chủ thể khác được phân phối lại một phần tài nguyên của xã hội từ ngân
sách Nhà nước. Qua đó, có thể thoả mãn nhu cầu đầu tư hoặc tiêu dùng. Cũng
cần phân biệt chức năng phân phối của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước là có hoàn lại, nó khác với chức năng phân phối của các khoản thu chi
ngân sách thường xuyên là không hoàn lại. Sự vận động giá trị từ tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước còn thúc đẩy lưu thông hàng hoá phát triển,
thông qua tín dụng của Nhà nước các chủ thể nhận được một lượng giá trị để
thoả mãn nhu cầu của mình, nhờ đó có tác động kích cầu làm cho lưu thông
hàng hoá phát triển nhanh hơn. Tín dụng đầu tư phát triển được sử dụng như
một biện pháp hỗ trợ từ phía Nhà nước cho các dự án đầu tư, các chương trình
mục tiêu của Chính phủ nhằm mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm đồng
thời tạo điều kiện để pháp huy hiệu quả sử dụng vốn, giảm thiểu tính bao cấp
của ngân sách Nhà nước. Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là cơ sở để
Nhà nước tổ chức quỹ tiền tệ Nhà nước một cách hiệu quả nhất làm cho quỹ
này luôn vận động và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong phát triển hạ
tầng kinh tế kỹ thuật của nền kinh tế.
Ba là, chức năng kiểm soát các hoạt động kinh tế.
Thông qua chức năng phân phối Nhà nước đầu tư vốn cho các dự án để
thực hiện theo các chương trình, các lĩnh vực kinh tế thì đồng thời Nhà nước
phải tiến hành kiểm soát các hoạt động của các chủ thể nhận và sử dụng vốn.
Với chức năng tổ chức và quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân, Nhà nước sử
dụng tín dụng nhà nước nói chung và tín dụng đầu tư phát triển nói riêng như
một công cụ kiểm soát các mặt hoạt động kinh tế, các quá trình sản xuất, phân
phối sản phẩm xã hội nhằm đảm bảo cho việc sử dụng nguồn vốn ngân sách
14
một cách có hiệu quả. Mặt khác, thông qua kế hoạch huy động và cho vay vốn
tín dụng đầu tư phát triển, Nhà nước cũng có thể nắm được mức độ phát triển
của nền kinh tế cũng như nhu cầu vốn cho đầu tư qua đó đưa ra những can
thiệp kịp thời nhằm đảm bảo cho nền kinh tế quốc dân tăng trưởng và phát
triển ổn định.
Đặc điểm của tín dụng ĐTPT của Nhà nước và sự phân biệt nó với các
hình thức tín dụng khác.
* Đặc điểm của tín dụng ĐTPT của Nhà nước.
- Nguồn vốn để cho vay đầu tư là vốn của ngân sách, hoặc nguồn vốn
huy động theo kế hoạch của nhà nước để phục vụ đầu tư theo chủ chương của
Nhà nước.
- Tổ chức và làm nhiệm vụ quản lý và cho vay tín dụng vốn ĐTPT của
Nhà nước là hệ thống những đơn vị, cơ quan chuyên môn của nhà nước, được
thành lập và hoạt động theo Nghị định của Chính phủ.
- Đối tượng cho vay của tín dụng vốn ĐTPT của Nhà nước là những
dự án đầu tư theo các chương trình, mục tiêu, định hướng và chủ trương đầu
tư của nhà nước, theo chính sách kinh tế vĩ mô, nhằm chuyển dịch cơ cấu
kinh tế quốc dân theo hướng đã được quy định trong chiến lược phát triển
kinh tế – xã hội.
- Chu kỳ vay thường dài, lãi suất cho vay của vốn tín dụng ĐTPT của
Nhà nước là lãi suất ưu đãi, thấp hơn lãi suất thị trường, do Chính phủ quy
định phù hợp với chủ trương khuyến kích đầu tư phát triển kinh tế- xã hội
trong từng thời kỳ nhất định.
* Phân biệt tín dụng ĐTPT của Nhà nước với các hình thức tín dụng khác.
So với các hình thức tín dụng: tín dụng thương mại, tín dụng ngân
hàng, tín dụng quốc tế, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cũng hoạt
15
động theo nguyên tắc vay trả. Tuy nhiên, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước với bản chất riêng nên có những đặc thù so với các loại hình tín dụng
khác, cụ thể :
- Tín dụng ĐTPT của Nhà nước gắn với việc điều tiết kinh tế vĩ mô
theo chủ trương của Nhà nước.
- Đối tượng đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước tập
trung vào các lĩnh vực theo chốt, có tác động tăng trưởng kinh tế, mà các
thành phần kinh tế khác không đảm nhận được vì các lý do như mức độ sinh
lời thấp, nhu cầu vốn lớn, thời hạn đầu tư dài, nên thường phải gắn với những
ưu đãi nhất định. Chẳng hạn lãi suất thường thấp hơn lãi suất thị trường cùng
kỳ, qui mô cho vay lớn hơn và các điều kiện đảm bảo nợ vay với gía trị thấp
hơn khoản vay.
- Tín dụng ĐTPT của Nhà nước có tính lịch sử, thường tồn tại và phát
triển trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế đất nước. Khi nền kinh tế thị
trường phát triển, các nhà đầu tư đã quen với hoạt động cạnh trạnh thì vai trò
can thiệp, điều tiết kinh tế của Nhà nước giảm, nên phạm vi tín dụng đầu tư
của Nhà nước thu hẹp lại để chuyển dần sang tín dụng thương mại.
- Đối tượng cho vay của tín dụng ĐTPT của Nhà nước do Nhà nước
xác định và được bố trí thông qua kế hoạch đầu tư của Nhà nước.
Vai trò của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Xét trên nhiều phương diện, tín dụng ĐTPT của Nhà nước không chỉ là
biện pháp huy động nguồn vốn nhàn rỗi bổ sung cho nguồn vốn tài chính Nhà
nước mà còn là công cụ tài chính quan trọng để Nhà nước thực hiện điều tiết
và kiểm soát vĩ mô. Vai trò điều tiết nền kinh tế và kiểm soát vĩ mô bằng tín
dụng ĐTPT của Nhà nước được biểu hiện trên các khía cạnh chủ yếu sau :
- Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một công cụ sắc bén
16
trong việc lành mạnh hoá nền tài chính – tiền tệ quốc gia.
Tín dụng ĐTPT của Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc tạo dựng
và phân bổ nguồn vốn một cách hiệu quả cho các hoạt động đầu tư. Việc tập
trung và phân bổ nguồn vốn luôn có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát
triển. Nhà nước có thể tập trung một cách nhanh chóng một khối lượng vốn
theo nhu cầu với thời gian dài và chi phí không cao. Khả năng này sẽ giúp
Nhà nước chủ động trong việc điều tiết vĩ mô thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
kéo theo sự cải thiện tiềm lực tài chính quốc gia.
Việc ra đời của cơ chế tín dụng ĐTPT Nhà nước còn là một tác nhân
quan trọng trên thị trường tài chính, đó là sự phát triển của thị trường chứng
khoán và của khu vực các thể chế tài chính phi ngân hàng.
Đối với lĩnh vực tiền tệ, vai trò của tín dụng ĐTPT của Nhà nước cũng
hết sức quan trọng. Việc xoá bỏ cơ chế tiền tệ hoá thâm hụt ngân sách là nền
tảng cho việc lành mạnh hoá khu vực tiền tệ- ngân hàng, góp phần duy trì sự
ổn định giá trị đồng tiền nội tệ.
Cơ chế tín dụng ĐTPT của Nhà nước ra đời là cơ sở để tách các hoạt
động tín dụng mang tính kinh tế - xã hội ra khỏi hoạt động có tính thương mại
của khu vực trung gian tài chính, chuyển hoạt động của các tổ chức trung gian
tài chính sang cơ chế hạch toán kinh doanh hoàn toàn. Việc tách bạch tín
dụng chính sách và tín dụng ngân hàng có tác dụng tích cực trong việc hạn
chế rủi ro về tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại.
Vấn đề có ý nghĩa sâu rộng hơn là sự phát triển tín dụng ĐTPT Nhà
nước đã tạo ra một thị trường tài chính năng động, thực hiện tốt chức năng
chu chuyển, điều hoà các nguồn tài chính trong nền kinh tế - một vấn để thiết
yếu đối với việc duy trì liên tục và mở rộng phát triển nền sản xuất hàng hoá.
- Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước góp phần điều chỉnh cơ cấu
17
kinh tế.
Cùng với các chính sách kinh tế khác như chính sách thuế, chính sách
tiền tệ. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước là một công cụ đắc lực, hữu hiệu của
nhà nước điều tiết vĩ mô, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu đặt ra đối với tín dụng
ĐTPT là thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế, một mặt phải tập trung vào
những lĩnh vực, ngành nghề cần thiết cho phát triển bền vững, nhằm trực tiếp
hoặc gián tiếp phát triển các lĩnh vực ngành nghề, điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
Mặt khác, tín dụng ĐTPT của nhà nước sẽ tập trung vào những ngành nghề,
lĩnh vực công nghệ mới, có tác dụng thúc đẩy năng suất lao động, tăng sản
phẩm xã hội, nhằm cải thiện đời sống, rút ngắn khoảng cách phát triển với các
nước, bảo đảm không tụt hậu hoặc đi chệch xu hướng phát triển chung của
nền kinh tế thế giới, khu vực.
- Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nâng cao hiệu quả đầu tư,
xoá bao cấp về đầu tư.
Tín dụng ĐTPT của Nhà nước làm giảm sự bao cấp trực tiếp của Nhà
nước đối với lĩnh vực đầu tư có khả năng hoàn vốn mà trước đây vẫn được
Nhà nước cấp không hoàn lại. Từ đó đã giảm đáng kể áp lực về nguồn vốn
đối với ngân sách Nhà nước. Đồng thời tín dụng ĐTPT của Nhà nước cũng
góp phần đa dạng hoá các hình thức huy động vốn đầu tư, thúc đẩy huy động
vốn đặc biệt là huy động vốn dài hạn trong mọi thành phần kinh tế, các tầng
lớp dân cư nhằm thực hiện chủ trương phát huy nội lực cho phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó tín dụng ĐTPT của Nhà nước còn góp phần nâng cao hiệu
quả trong đầu tư. Các cơ chế, chính sách quản lý tín dụng ĐTPT của Nhà
nước được đưa ra chặt chẽ nhằm kiểm tra, giám sát trước và trong quá trình
đầu tư một cách nghiêm ngặt. Dưới áp lực này, chủ đầu tư buộc phải tăng
cường công tác hạch toán kế toán, phải chứng minh và chịu sự giám sát chặt
18
chẽ của cơ quan quản lý nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước về khả năng
tạo ra nguồn thu nhập cao hơn chi phí đầu tư để không chỉ bù đắp được các
khoản chi phí đã bỏ ra mà phải trả lãi cho khoản tín dụng Nhà nước. Đây
cũng là động lực mạnh mẽ tạo nên tư duy làm ăn có hiệu qủa, là yếu tố quan
trọng trong việc động viên trí tuệ, sức lực của toàn dân nhằm phát huy nội lực
cho tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội.
- Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước giúp các doanh nghiệp mở
rộng đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất kinh doanh.
Khi được tiếp nhận nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước,
các doanh nghiệp thuộc đối tượng sẽ có cơ hội mở rộng sản xuất kinh doanh
dưới các hình thức đầu tư mới hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, tăng qui mô
phát triển sản xuất kinh doanh.
Mặt khác, hoạt động đầu tư của Nhà nươc sẽ khuyến khích và lôi kéo
các thành phần kinh tế mở rộng sản xuất kinh doanh thông qua việc tạo ra các
cơ sở hạ tầng thiết yếu cho sản xuất hoặc phát triển một số khâu nào đó của
quá trình sản xuất. Khi một dự án đầu tư đi vào hoạt động với máy móc được
trang bị đầy đủ sẽ làm cho năng lực sản xuất tăng lên, hàng hoá được sản xuất
ra nhiều hơn, đa dạng về mẫu mã, phong phú về chủng loại và chất lượng cao,
trình độ công nghệ, năng suất lao động của xã hội được nâng lên. Từ đó sẽ tiết
kiệm được một khoản ngoại tệ lớn do không phải nhập máy móc thiết bị từ
nước ngoài vào, tạo điều kiện để người tiêu dùng tiếp cận với sản phẩm mới
với chất lượng đảm bảo, giá cả hợp lý và xa hơn thế xuất khẩu ra nước ngoài
để thu ngoại tệ. Các dự án về cơ sở hạ tầng như: thông tin liên lạc, các công
trình giao thông đường không, bộ, thuỷ, khu công nghệ cao có một ý nghĩa vô
cùng quan trọng làm tiền đề để phát triển cho các ngành kinh tế khác.
- Tín dụng ĐTPTcủa Nhà nước góp phần tạo việc làm cho người lao
19
động, giữ vững an ninh chính trị, ổn định trật tự xã hội.
Trong bối cảnh hiện nay, việc giải quyết việc làm là vấn đề hết sức
quan trọng được Đảng và Nhà nước rất quan tâm. Tín dụng ĐTPT của Nhà
nước với mục đích là hỗ trợ các dự án đầu tư phát triển của các thành phần
kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn, các
lĩnh vực mà không có ưu đãi đầu tư của nhà nước thì sẽ không phát triển
được, hoặc các lĩnh vực sản xuất kinh doanh ít có hiệu quả trực tiếp, do đó,
khi thực hiện đầu tư phát triến sản xuất tại các địa bàn có điều kiện kinh tế- xã
hội khó khăn và đặc biệt khó khăn như: các tỉnh miền núi, biên giới hải đảo,
vùng sâu, vùng xa hoặc các ngành thuộc diện khuyến khích ưu đãi đầu tư của
Nhà nước đối với các thành phần kinh tế, ngoài ý nghĩa về mặt kinh tế là thúc
đẩy sản xuất phát triển, tăng thu ngân sách, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế… còn góp phần tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, giữ vững an
ninh chính trị, ổn định xã hội.
- Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước góp phần mở rộng quan hệ
kinh tế quốc tế.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước dành cho đầu tư
phát triển ở nước ta một phần được hình thành từ nguồn vốn vay nước ngoài
và một phần từ nguồn tài trợ phát triển chính thức ODA của nước ngoài thông
qua các Hiệp định tín dụng của Nhà nước.
Trên cơ sở các văn bản luật, pháp lệnh về khuyến khích đầu tư phát
triển đã được ban hành. Nhà nước chủ động tạo ra môi trường đầu tư và hành
lang pháp lý để thu hút các nguồn vốn tư bản nước ngoài - nguồn vốn này chủ
yếu được đầu tư vào các cơ sở hạ tầng, các công trình kinh tế trọng điểm, nhờ
đó sẽ tạo điều kiện thúc đẩy tăng tưởng kinh tế và nâng cao mức sống vật chất
của nhân dân. Mặt khác, trên cơ sở ký kết các hợp đồng tín dụng Nhà nước, sẽ
tạo ra được các mối quan hệ kinh tế Quốc tế, thúc đẩy sự hoà nhập quan hệ
20
kinh tế - xã hội của nước ta với cộng đồng Quốc tế.
1.2- Nội dung, nhân tố ảnh hƣởng và sƣ cần thiết nâng cao hiệu quả
tín dụng đầu tƣ phát triển của nhà nƣớc.
1.2.1- Nội dung nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của nhà
nước.
Khái niệm và chỉ tiêu xác định hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của
nhà nước.
Theo Từ điển Tiếng Việt, "Hiệu quả là kết quả như yêu cầu của việc
làm mang lại". Đây là khái niệm chung nhất về hiệu quả. Nói cách khác, hiệu
quả là tiết kiệm không lãng phí nhưng có quan hệ chặt chẽ với việc sử dụng
năng lực sản xuất hiện có, cốt lõi của mọi hoạt động khắc phục sự hạn chế và
khan hiếm của nguồn lực (sự thiếu hụt).
Trong quá trình CNH, HĐH và xây dựng nền KTTT định hướng XHCN,
Đảng ta luôn đòi hỏi phải quán triệt quan điểm hiệu quả kinh tế- xã hội và
quan điểm tăng trưởng kinh tế bền vững trong mọi phương án đầu tư và phát
triển.
Hiệu quả kinh tế - xã hội là khái niệm phản ảnh sự kết hợp hài hòa giữa
hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội trong mỗi phương án đầu tư và phát triển.
Đảng ta khi nói về quan điểm phát triển đã chỉ rõ: Phát triển nhanh, hiệu quả
và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội và bảo vệ môi trường .
Những quan điểm đúng đắn nói trên, sẽ không là ngoại lệ đối với việc
xác định hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Ngân hàng phát triển nói
chung và ở Hà Tây nói riêng.
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng phát triển được xem là có hiệu quả
21
theo chúng tôi, khi nó mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội cho cả ngân hàng, các
đối tượng khác trong quan hệ tín dụng và cả nền kinh tế quốc dân. Điều đó có
nghĩa:
- Bên cho vay, trong đó có Ngân hàng phát triển thu được nợ gốc và lãi
định mức tương ứng với khoảng thời gian trong hạn của khế ước vay và cho
vay.
- Bên khách hàng vay vốn, nhờ sử dụng vốn tín dụng được vay đã góp
phần làm cho sản xuất kinh doanh phát triển, làm cho vốn vay thực hiện được
chức năng của nó, chức năng bảo tồn vốn và sinh lợi, và theo đó đảm bảo
điều kiện cho việc phân phối lợi ích gắn với quyền sở hữu và quyền sử dụng
vốn tín dụng trong khế ước vay và cho vay mà hai bên đã thỏa thuận.
- Đối với nền kinh tế quốc dân, khoản tín dụng đó phải có ảnh hưởng tích
cực không chỉ đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước, mà còn
ảnh hưởng tích cực đến tiến bộ và công bằng xã hội, tăng công ăn việc làm,
tăng thu nhập và nâng cao đời sống của nhân dân đến xã hội. Nói cách khác
phải vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vừa gắn với tiến bộ kinh tế, tiến bộ và
công băng xã hội.
Từ khái niệm trên có thể đưa ra các chỉ tiêu xác định hiệu quả tín dụng
ĐTPT của Nhà nước.
Các chỉ tiêu về định tính.
Như trên đã phân tích hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước được thể hiện qua khả năng thu được nợ gốc và lãi trong khoảng thời
gian đã quy định trong hợp đồng tín dụng đối với Ngân hàng phát triển; kết
quả sản xuất kinh doanh của các khách hàng vay vốn từ Ngân hàng và kết quả
22
tác động đến sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Do đó, về mặt định
tính, hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước được đánh giá tổng
hợp qua 3 chỉ tiêu sau:
Chỉ tiêu về bên cho vay - Ngân hàng phát triển.
Hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước được thể hiện: Một
là, khả năng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Nói một cách khác, đối với
bên đi vay thì điều này trước hết biểu hiện ở chỗ cung cấp vốn đầy đủ, nhanh
chóng, kịp thời, thủ tục đơn giản, thuận tiện (tuy nhiên, vẫn phải bảo đảm
những nguyên tắc an toàn cần thiết và theo những quy trình nhất định), tiết
kiệm được các chi phí giao dịch, tiết kiệm thời gian và nhất là sẽ không bỏ lỡ
những cơ hội sản xuất kinh doanh tốt. Hai là, khả năng thu được nợ gốc và
lợi tức trong khoảng thời gian đã quy định trong hợp đồng tín dụng. Nghĩa là,
phải bảo đảm để Ngân hàng Phát triển thực hiện được chức năng mà Nhà
nước đã giao, đồng thời phải mang lại thu nhập đủ trang trải các khoản chi
phí liên quan và hạn chế thấp nhất nguy cơ rủi ro (không thu hồi được vốn
cho vay hoặc thu hồi chậm).
Chỉ tiêu về bên đi vay.
Khả năng sử dụng vốn vay có hiệu quả của bên đi vay. Nói một cách
khác, bên đi vay sử dụng vốn tín dụng được vay đã làm cho sản xuất kinh
doanh có lãi, làm cho vốn vay thực hiện được chức năng của nó, chức năng
bảo tồn vốn và sinh lợi, và theo đó đảm bảo điều kiện cho việc phân phối lợi
ích gắn với quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn tín dụng trong khế ước vay
và cho vay mà hai bên đã thỏa thuận. Vốn vay được từ Ngân hàng phát triển
phục vụ tốt hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như mục tiêu khi đi vay đề
ra.
Chỉ tiêu về phía nền kinh tế-xã hội.
Đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của vùng, địa
23
phương và cả nước. Đây là hệ quả tất yếu đạt được khi cả bên đi vay và Ngân
hàng phát triển đều hoạt động tốt. Nó được biểu hiện ở chỗ, hoạt động của
Ngân hàng sẽ đóng góp vào việc tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, thúc đẩy
sản xuất phát triển, thúc đẩy phát triển kim ngạch xuất khẩu, thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo thêm việc
làm tăng thu nhập cho người lao động góp phần nâng cao đời sống của nhân
dân.
Có thể nói, hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển là một chỉ tiêu rất tổng
hợp, được đánh giá trên quan điểm kết hợp hài hòa giữa hiệu quả kinh tế và
hiệu quả xã hội gắn với ba đối tượng tham gia: Ngân hàng phát triển, khách
hàng vay vốn của Ngân hàng và nền kinh tế-xã hội.
Các chỉ tiêu định lượng.
Các chỉ tiêu định tính nói trên là những căn cứ đánh giá hiệu quả tín
dụng đầu tư phát triển mang tính tổng hợp là rất quan trọng, cơ bản và cần
thiết. Song để đánh giá về mặt lượng, cần dựa thêm vào một số chỉ tiêu định
lượng gắn với hoạt động tín dụng đầu tư phát triển mà Ngân hàng phát triển
có thể lượng hóa được. Những chỉ tiêu đó là:
Tốc độ tăng doanh số:
Là tỷ số so sánh tính theo phần trăm về doanh số giữa hai kỳ cho vay,
được thể hiện qua công thức:
Doanh số cho vay kỳ này
Tốc độ tăng doanh số cho vay = X100
%
Doanh số cho vay kỳ trước
Trong đó: Doanh số cho vay thể hiện quy mô tuyệt đối của hoạt động
tín dụng, nhưng bản thân doanh số cho vay nhiều hay ít còn phụ thuộc vào
khả năng huy động vốn của Ngân hàng và nhu cầu của người đi vay. Còn tốc
24
độ tăng doanh số cho vay thể hiện khả năng mở rộng quy mô và hình thức
cho vay qua các thời kỳ. Doanh số cho vay lớn và tốc độ cho vay tăng nhanh
cho thấy khả năng mở rộng tín dụng của Ngân hàng. Tuy nhiên, như trên đã
phân tích, đó mới chỉ là điều kiện chứ chưa thể khẳng định hiệu quả tín dụng
của Ngân hàng mà cần phải kết hợp nghiên cứu, phân tích các chỉ tiêu khác.
Hiệu suất sử dụng vốn:
Tổng dư nợ
Hiệu suất sử dụng vốn = X 100 %
Tổng nguồn vốn
Hiệu suất sử dụng vốn nói lên khả năng cho vay vốn so với tổng
nguồn vốn của Ngân hàng. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả hoạt động tín
dụng của Ngân hàng có thể ngày càng cao và ngược lại. Tuy nhiên, chúng ta
cũng cần kết hợp với các chỉ tiêu khác để đánh giá một cách tổng quát, không
chỉ dựa trên cơ sở chỉ tiêu trên để đánh giá hiệu quả tín dụng của Ngân hàng.
Bởi vì, đánh giá như vậy là phiến diện, sẽ dễ dẫn đến đánh giá sai lệch. Chẳng
hạn, tỷ lệ nợ quá hạn cao trong khi hiệu suất sử dụng vốn cũng cao thì hiệu
quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng phát triển chưa chắc đã cao, thậm chí
còn thấp.
Tỷ lệ nợ quá hạn:
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = X 100 %
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này phản ánh khái quát về tình hình nợ quá hạn của Ngân
hàng trong quá trình cho vay. Chỉ tiêu này càng thấp thì hiệu quả hoạt động
của Ngân hàng càng tốt và ngược lại. Bởi vì, chỉ tiêu này cao sẽ chứng tỏ
Ngân hàng đang gặp nhiều rủi ro. Tuy nhiên, trong thực tế, do những rủi ro
trong hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng của Ngân hàng là
25
không thể thể tránh khỏi. Vì vậy, chấp nhận một tỷ lệ nợ quá hạn nhất định
được coi như giới hạn an toàn. Theo khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới, tỷ
lệ này nên ở mức dưới 5% là có thể chấp nhận được.
Cần nhấn mạnh rằng, hoạt động tín dụng của Ngân hàng phát triển là
một hoạt động tín dụng gắn với chính sách đầu tư phát triển, không vì mục
đích lợi nhuận, hoạt động của Ngân hàng chủ yếu hoạt động và tổ chức thực
hiện cho vay đầu tư theo định hướng và chỉ đạo của Nhà nước. Vì vậy, nên
các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng phát triển
mang nhiều tính chất định tính hơn là tính định lượng (đây là một đặc điểm
khác biệt lớn so với hoạt động của các Ngân hàng thương mại). Hơn nữa,
riêng về hiệu quả xã hội rất khó có các chỉ tiêu định lượng để đo lường tác
động cụ thể đối với từng hoạt động tín dụng của Ngân hàng phát triển đến sự
phát triển chung đối với phát triển kinh tế của đất nước. Đồng thời, do nhân tố
bên đi vay của Ngân hàng cũng rất đa dạng như các doanh nghiệp, các dự án,
các chương trình mục tiêu nên cũng rất khó đưa ra được các chỉ tiêu định
lượng cụ thể chung cho đối tượng này. Do đó, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà
người ta có thể đánh giá hiệu quả kinh tế trên cả hai mặt định tính và định
lượng, đôi khi chỉ đánh giá trên các khía cạnh ở tầm vĩ mô.
Nội dung nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển.
Nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển là việc Ngân hàng phát
triển cùng các đối tượng khác trong quan hệ tín dụng và các cơ quan chức
năng có liên quan chủ động tìm ra giải pháp để bên cho vay hạn chế tới mức
thấp nhất nợ quá hạn phát sinh; bên đi vay vốn sản xuất kinh doanh sử dụng
vốn vay có hiệu quả, có lợi nhuận, mở rộng sản xuẩt đổi mới kỹ thuật, công
nghệ, tăng công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần thúc
đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội của đất nước theo hướng bền
26
vững.
Sự phân tích trên cho thấy những gì nói về khái niệm và chỉ tiêu xác
định hiệu quả tín dựng đầu tư phát triển của nhà nước đã phân tích đều có giá
trị để nói về nội dung của việc nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển
của Nhà nước hiện nay. Do đó, nội dung nâng cao hiệu quả tín dụng vốn đầu
tư phát triển của nhà nước bao gồm:
- Nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước của Chi nhánh
Ngân hàng phát triển Hà Tây - Đơn vị cho vay.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước đối với các đơn vị đi vay.
- Nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước qua kết
quả thu được đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Hà Tây.
1.2.2- Những nhân tố ảnh hưởng đến viêc nâng cao hiệu quả tín
dụng vốn đầu tư phát triển của nhà nước.
Hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước chịu ảnh hưởng của rất
nhiều nhân tố khác nhau gây nên những tác động cả tích cực và tiêu cực. Vì
vậy, để phát huy những nhân tố tích cực và hạn chế tối đa những ảnh hưởng
tiêu cực nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển, chúng ta cần
nghiên cứu những tác động sau đây:
Nhóm nhân tố tác động bởi môi trường kinh tế vĩ mô trong và ngoài
nước.
Môi trường kinh tế vĩ mô trong nước và thế giới là nhân tố gián tiếp tác
động đến hoạt động cho vay đầu tư phát triển của nhà nước. Đường lối kinh tế
của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là các cơ chế, chính sách của Chính phủ là
môi trường pháp lý cho mọi hoạt động kinh tế của đất nước nói chung và hoạt
động tín dụng ưu đãi nói riêng. Trên cơ sở các định hướng kinh tế chung của
đất nước trong từng thời kỳ, Chính phủ sẽ hoạch định những vùng, những
27
ngành, lĩnh vực được ưu tiên phát triển. Đó là cơ sở để đưa ra các qui định về
đối tượng được hưởng tín dụng ưu đãi và mức độ ưu đãi. Căn cứ vào tình hình
kinh tế vĩ mô trong từng thời kỳ mà chính sách tín dụng đầu tư phát triển của
Nhà nước có sự điều chỉnh linh hoạt, hợp lý, đảm bảo mục tiêu tăng trưởng và
phát triển ổn định, có trọng tâm của nền kinh tế. Chính sách kinh tế của Nhà
nước là nhân tố tác động trực tiếp đến hoạt động cho vay đầu tư phát triển.
Nếu phù hợp, chúng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư và cho các
đơn vị thực hiện tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, trên cơ sở đó thúc
đẩy hiệu quả hoạt động cho vay. Ngược lại, nếu bất hợp lý, đó sẽ là nguyên
nhân chính dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ngân sách trong khi nhu cầu vốn
cho đầu tư phát triển của xã hội không có nguồn để đáp ứng.
Tuỳ theo điều kiện kinh tế vĩ mô khác nhau mà Chính phủ có những
điều chỉnh trong chính sách tài chính quốc gia như điều chỉnh về tỷ giá, lãi
suất, chính sách tài chính, tiền tệ. Đến lượt mình, các nhân tố này lại tác động
đến hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay đầu tư phát triển của
nhà nước nói riêng. Chẳng hạn, trong điều kiện nền kinh tế giảm phát, Nhà
nước thường có chủ trương cắt giảm lãi suất ngân hàng để kích cầu nền kinh
tế, kích thích đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư đổi mới công nghệ,
hạ giá thành và giá bán sản phẩm. Điều này dẫn đến lãi suất cho vay đầu tư
phát triển của nhà nước cũng phải giảm theo để đảm bảo tính chất ưu đãi. Hơn
thế nữa, các dự án đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ, dự án đầu tư chiều
sâu cho sản xuất kinh doanh sẽ được xếp vào danh mục được hưởng ưu đãi
dẫn đến những thay đổi trong cơ cấu các ngành, các lĩnh vực được phép vay
vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước. Ngoài ra, trong trường hợp này,
Chính phủ thường có thêm những biện pháp khác như giảm thuế thu nhập
doanh nghiệp hay hỗ trợ lãi suất sau đầu tư để tạo điều kiện cho doanh nghiệp
hạ giá thành sản phẩm thực hiện mục tiêu kích cầu tiêu dùng từ phía nền kinh
tế. Những biện pháp này tác động trực tiếp đến lợi ích của doanh nghiệp,
28
khuyến khích họ vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước để đầu tư
phát triển sản xuất của bản thân doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế quốc
dân. Mức độ hoạt động kinh tế, sự biến động của thị trường và cạnh tranh
trong điều kiện toàn cầu hóa và HNKTQT, nhất là khi nước ta là thành viên
của WTO.
Đây là những nhân tố ảnh hưởng gián tiếp đến hoạt động cho vay đầu
tư phát triển của nhà nước. Các khoản vay gia tăng nhanh và có khả năng trả
nợ cao hơn trong các thời kỳ hưng thịnh của nền kinh tế so với các giai đoạn
suy thoái hơn. Trong điều kiện kinh tế thị trường, cạnh tranh là tất yếu, nó tồn
tại một cách khách quan và buộc tất cả các đơn vị kinh tế đều phải tham gia
để chiếm được một vị trí trên thị trường. Tuy nhiên, điều kiện của thị trường
lại thường xuyên thay đổi do tác động của rất nhiều nhân tố cả chủ quan và
khách quan khác. Thị trường biến động đòi hỏi chủ đầu tư phải có những thay
đổi linh hoạt để thích ứng. Vì vậy, có nhiều dự án do những thay đổi của thị
trường và cạnh tranh mà không thể thực hiện được hoặc thực hiện không đúng
tiến độ hay không đem lại hiệu quả như phương án tài chính. Điều đó gây nên
những tác động không nhỏ cho hoạt động cho vay đầu tư phát triển của nhà
nước.
Nhóm nhân tố thuộc về Ngân hàng phát triển.
Cơ quan thực hiện cho vay đầu tư phát triển của nhà nước gồm có các
cơ quan quản lý nhà nước và các kênh thực hiện cho vay như các ngân hàng
thương mại quốc doanh, các quỹ đầu tư phát triển,... Hoạt động của các cơ
quan này trực tiếp tác động đến hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển
của nhà nước.
- Các quy định về quy trình, thủ tục thực hiện.
Các quy định này gồm có: quy trình lập kế hoạch và giao vốn tín dụng
đầu tư phát triển của nhà nước, thẩm định và xét duyệt dự án được hưởng ưu
đãi, quy định về lãi suất cho vay, mức cho vay, thời hạn cho vay, quy định về
29
giải ngân và thu hồi vốn... Căn cứ vào mục tiêu chiến lược lớn trong từng thời
kỳ của đất nước mà các quy định này được điều chỉnh linh hoạt cho phù hợp.
Tuy nhiên, sự điều chỉnh này không phải lúc nào cũng phù hợp với điều kiện
thực tế thúc đẩy hoạt động cho vay đầu tư phát triển của nhà nước. Mặt khác,
chính sự thay đổi thường xuyên của các quy định này lại gây nên không ít khó
khăn cho không chỉ chủ đầu tư mà cho chính hoạt động của các đơn vị thực
hiện cho vay đầu tư phát triển như các ngân hàng thương mại quốc doanh,
Ngân hàng phát triển...
Một nhân tố khác cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động này là thủ
tục hành chính. Trong điều kiện thực tế ở Việt Nam hiện nay, mặc dù việc cải
cách hành chính đã và đang được thực hiện nhưng nhìn chung vẫn còn rất
nặng nề. Trong khi đó, tín dụng ưu đãi của nhà nước lại thuộc lĩnh vực tài
chính nhà nước, nghĩa là gắn liền với những thủ tục phức tạp, rườm rà, cứng
nhắc không phù hợp với những biến động chung của tình hình. Điều này dẫn
đến tâm lý ngại vay vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước của chủ đầu tư do phải
thực hiện quá nhiều thủ tục hoặc phải thay đổi các yếu tố của dự án để đáp
ứng đủ thủ tục vay vốn, mặt khác cũng gây khó khăn và làm giảm hiệu quả
hoạt động của các đơn vị thực hiện.
- Sự phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ, các Bộ ngành có liên quan, Uỷ
ban nhân dân tỉnh (thành phố) và các cơ quan có liên quan.
Tín dụng ưu đãi của nhà nước là một lĩnh vực của tài chính nhà nước.
Do đó, nó cần được sự quản lý và chỉ đạo của rất nhiều các cơ quan nhà nước
để đảm bảo thực hiện đúng bản chất của nó và tránh những hiện tượng lạm
dụng hay lãng phí vốn ngân sách. Tuy nhiên, để thực hiện tốt việc quản lý này
trên cơ sở không gây làm cản trở hoạt động cho vay thì cần phải có sự kết hợp
hoạt động chặt chẽ giữa các cơ quan có liên quan đồng thời có sự phân định
rõ ràng về trách nhiệm, thẩm quyền của từng đơn vị. Điều này không chỉ góp
phần làm giảm thủ tục hành chính phiền hà, giảm thời gian và chi phí cho chủ
30
đầu tư khi tiến hành làm thủ tục xin được vay vốn mà còn giúp cho việc xác
định trách nhiệm khi có các vướng mắc nảy sinh, tránh trường hợp đùn đẩy
trách nhiệm dẫn đến tình trạng ách tắc trong quá trình thực hiện. Hơn nữa, sự
nhất quán trong quan điểm chỉ đạo hoạt động của các cơ quan quản lý cũng
tạo nên một môi trường ổn định cho các nhà đầu tư khi tiến hành lập phương
án tài chính, phương án trả nợ là cơ sở để thực hiện cho vay tín dụng ưu đãi
của nhà nước.
- Trình độ cơ sở vật chất, địa điểm, công nghệ.
Khách hàng mong muốn tiến hành giao dịch kinh doanh với một chi
nhánh có trụ sở kiên cố và bề thế thuận tiện với các nhân viên dễ mến, thân
thiện, lịch sự, nhanh chóng.
Các hệ thống thiết bị, máy móc hiện đại, các công nghệ mới áp dụng
trong quá trình thực hiện thao tác nghiệp vụ sẽ ảnh hưởng đến sự nhanh
chóng, thời gian, chất lượng thực hiện nghiệp vụ cụ thể.
- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ.
Con người bao giờ cũng đóng vai trò trung tâm trong mọi hoạt động
của xã hội. Do đó, nhân tố có ảnh hưởng lớn nhất đến hiệu quả hoạt động cho
vay tín dụng ưu đãi của nhà nước chính là trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
cũng như tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, từ đội ngũ cán bộ quản lý
ở cơ quan giao kế hoạch đến cán bộ trực tiếp thực hiện cho vay tại các cơ
quan giải ngân vốn vay. Cán bộ quản lý thành thạo nghiệp vụ, có tinh thần
trách nhiệm cao thì việc bố trí kế hoạch vốn được thực hiên đúng thời hạn.
Cũng như vậy, trình độ và ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ tín dụng sẽ
đóng vai trò quyết định trong việc hướng dẫn các đơn vị được vay hoàn chỉnh
thủ tục hồ sơ xin vay vốn sẽ tạo điều kiện giải ngân nhanh vốn vay, nhanh
chóng đưa dự án đi vào cuộc sống, đồng thời thẩm định chính xác hiệu quả
kinh tế-xã hội của dự án, đảm bảo đồng vốn tín dụng ưu đãi được thực hiện
31
đúng mục đích và bảo toàn phát triển nguồn vốn ngân sánh.
Bên cạnh đó, sự phối hơp hoạt động và phân công trách nhiệm rõ ràng
giữa từng cá nhân cũng như sự quản lý điều hành tốt của các cán bộ quản lý
sẽ là cơ sở để giảm chi phí hành chính, tiết kiệm và chống lãng phí trong sử
dụng vốn tín dụng ưu đãi. Vì vậy, trong quá trình nâng cao hiệu quả hoạt
động cho vay đầu tư phát triển thì vấn đề nâng cao trình độ nghiệp vụ và ý
thực trách nhiệm của đội ngũ cán bộ phải được đặc biệt quan tâm đến song
song với việc hoàn thiện cơ chế tín dụng, cải cách thủ tục hành chính.
Nhóm nhân tố từ phía chủ dự án vay vốn.
Chủ đầu tư đóng vai trò trọng tâm trong việc thực hiện dự án đầu tư
phát triển. Đó là người trực tiếp quản lý và sử dụng nguồn vốn tín dụng ưu đãi
của nhà nước. Do đó, những nhân tố từ phía chủ đầu tư luôn là một trong
những nhân tố chủ quan quan trọng nhất tác động đến hoạt động cho vay đầu
tư phát triển. Các nhân tố từ phía chủ đầu tư gồm có:
- Nhận thức của chủ đầu tư về tín dụng ưu đãi của nhà nước.
Đây là nhân tố đóng vai trò quan trọng quyết định hành vi của chủ đầu
tư. Nếu nhận thức đúng đắn về tín dụng ưu đãi của nhà nước, chủ đầu tư sẽ có
ý thức cao trong việc sử dụng vốn vay đồng thời có những biện pháp tốt nhất
đảm bảo sử dụng hiệu quả, đúng mục đích, bảo toàn và phát triển vốn, đảm
bảo khả năng trả nợ đúng hạn. Đó là cơ sở để các kênh cho vay thực hiện tốt
chức năng của mình, đảm bảo hiệu quả của vốn ngân sách nhà nước, các
nguồn vốn huy động khác cho tín dụng ưu đãi. Mặt khác, nếu chưa nhận thức
đúng đắn và đầy đủ về bản chất của tín dụng ưu đãi của nhà nước, chủ đầu tư
sẽ coi đó như một biến tướng của hình thức cấp phát vốn. Do đó hoặc là
không có ý thức trách nhiệm đối với vốn vay dẫn đến mất khả năng trả nợ làm
ảnh hưởng đến khả năng tái đầu tư cho các dự án khác của nhà nước hoặc là
coi nó như là cơ chế xin-cho, chỉ chú trọng đến việc được ghi kế hoạch vốn
32
mà không chú ý đến việc xây dựng dự án có hiệu quả.
- Ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình hoạt động kinh
doanh và mối quan hệ của doanh nghiệp trên thị trường.
Ngành nghề kinh doanh hay lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp là
căn cứ để xác định xem nó có được hưởng tín dụng ưu đãi (tín dụng đầu tư
phát triển) của nhà nước hay không. Qua đó, quyết định tín dụng đầu tư phát
triển có được thực hiện đối với doanh nghiệp hay không. Trong điều kiện kinh
tế thị trường, ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh quyết định khả năng mở
rộng sản xuất của doanh nghiệp, khả năng đảm bảo tài chính của doanh
nghiệp. Cùng với tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, những
yếu tố này sẽ quyết định khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Các mối quan hệ
thị trường của doanh nghiệp bao gồm quan hệ với khách hàng, quan hệ với
nhà cung cấp, với các cơ quan quản lý nhà nước, các kênh cho vay và các tổ
chức tài chính trung gian khác sẽ tạo nên tính linh hoạt của doanh nghiệp, tạo
điều kiện cho doanh nghiệp có khả năng huy động nguồn vốn bổ sung cho dự
án, phối hợp giải quyết các vấn đề chuẩn bị cho dự án như hoàn tất thủ tục,
lựa chọn công nghệ thiết bị hợp lý, tổ chức đấu thầu thi công nhanh gọn và
giải phóng mặt bằng. Đó là cơ sở đảm bảo cho doanh nghiệp có khả năng
thực hiện được dự án đầu tư phát triển và thực hiện có hiệu quả. Do đó, nó
cũng được coi là nhân tố chủ quan tác động đến hoạt động cho vay tín dụng
ưu đãi của nhà nước.
- Trình độ quản lý và trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ trong
doanh nghiệp.
Nhân tố này trước hết đóng vai trò quyết định đối với việc xây dựng và
lựa chọn dự án đầu tư là cơ sở để thực hiện tín dụng ưu đãi của nhà nước. Mặt
khác, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ nhân viên của doanh nghiệp là
nhân tố quan trọng tác động đến việc thực hiện dự án, đến khả năng thanh
toán nợ vay. Không những thế, trình độ của cán bộ trong từng bộ phận sẽ đảm
33
bảo cho từng khâu thực hiện dư án theo qui định một cách nhanh chóng đảm
bảo dự án được ký kết hợp đồng tín dụng và giải ngân nhanh chóng theo đúng
kế hoạch.
1.2.3- Sự cần thiết khách quan nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư
phát triển của nhà nước.
Do yêu cầu của của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện
các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội, từ sử
dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động
với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát
triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng xuất lao
động xã hội cao.
Nước ta có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội từ đầu từ không đến có, từ
gốc đến ngọn thông qua công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mỗi bước tiến của quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một bước tăng cường cơ sở vật chất -
kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp
phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà Đảng
và nhân dân ta đã đề ra thì đòi hỏi phải có rất nhiều giải pháp từ vi mô đến vĩ
mô, trong đó để tăng cường và xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật phải đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đòi hỏi nhiều nguồn vốn đầu
tư. Khác với các nguồn vốn khác nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của
Nhà nước với mục đích là hỗ trợ các dự án tín dụng đầu tư phát triển của các
thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình
kinh tế lớn có tác động trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế bền vững.
34
Do yêu cầu của phát triển thể chế KTTT định hướng XHCN.
Trong quá trình xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn coi phát
triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm. Trong những năm tới, chúng ta chủ
trương tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, để
hoàn thiện thể chế kinh tế thi trường định hướng XHCN, mục đích là thực
hiện dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; giải phóng
mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân
dân. Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính
sách phát triển, đảm bảo vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Bằng nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước điều tiết vĩ mô nền
kinh tế thông qua các chính sách ưu đãi cho từng thời kỳ, thúc đẩy sự vận
hành phát triển và đồng bộ các loại thị trường như: Thị trường hàng hoá, dịch
vụ, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ, thị trường vốn,
trong đó có nguồn vốn tín dụng đầu tư ưu đãi. Bằng cách đó tín dụng đầu tư
phát triển của nhà nước góp phần hỗ trợ cho các vùng khó khăn, hỗ trợ các
thành phần kinh tế cần được khuyến kích đầu tư, từng bước khắc phục sự
mất công bằng giữa các vùng miền, giữa các thành phần kinh tế để cùng phát
triển.
Đáp ứng yêu cầu của việc hạ giá thành, nâng cao năng lực cạnh tranh
và chủ động HNKTQT.
Thông qua nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho vay
các đối tượng trong nền kinh tế được ưu đãi và cần khuyến kích đầu tư, các
đối tượng được vay là các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có hoạt động sản
35
xuất kinh doanh, do chi phí lãi suất của vốn tín dụng đầu tư phát triển thấp
hơn lãi suất của các ngân hàng thương mại, do đó sử dụng vốn tín dụng ưu đãi
làm giảm chi phí đầu vào cho các doanh nghiệp từ đó làm giảm giá thành của
sản phẩm sản xuất ra, tăng sức canh tranh của sản phẩm trên thị trường. Hơn
thế nữa hiện nay xu thế hội nhập là tất yếu, các doanh nghiệp Việt Nam hiện
nay còn rất non yếu so với các doanh nghiệp trong khu vực và trên thế giới,
được sử dụng nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước làm tăng thêm sức
mạnh cho các doanh nghiệp, giúp họ có thêm sức mạnh để hội nhập với nền
kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà
nước có hạn và nhất là khi Việt Nam là thành viên của WTO, không thể hỗ
trợ một cách tràn lan được mà hỗ trợ có điều kiện và chỉ trong những năm
đầu. Do vậy, chỉ nên coi vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước chỉ như
làm mồi cho các doanh nghiệp và các đối tượng được ưu đãi giúp họ nâng
cao năng lực cạnh tranh để có đủ sức mạnh trong HNKTQT.
Góp phần thực hiện tăng trưởng và phát triển bền vững.
Tăng trưởng và phát triển bền vững do nhiều nhân tố ảnh hưởng như:
Vốn, con người, khoa học công nghệ, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và quản
lý nhà nước, các yếu tố thuộc về lực lượng sản xuất, những yếu tố thuộc về
quan hệ sản xuất, những yếu tố thuộc về kiến trúc thượng tầng, trong đó vốn
có vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững. Vì vốn đầu tư
có quan hệ với sự gia tăng GDP và hệ số ICOR - hiệu suất sử dụng vốn sản
phẩm gia tăng - tỉ lệ tăng đầu tư chia cho tỉ lệ tăng GDP. Những nền kinh tế
thành công thường khởi đầu quá trình phát triển với hệ số ICOR thấp, thường
không quá 3%, có nghĩa là phải tăng vốn đầu tư 3% để tăng 1% GDP. Do vậy
vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã góp phần thực hiện việc tăng
trưởng và phát triển bền vững.
1.3- Kinh nghiệm một số địa phƣơng trong nƣớc về nâng cao hiệu
36
quả tín dụng vốn đầu tƣ phát triển của nhà nƣớc.
1.3.1- Tổng quan kinh nghiệm một số địa phương trong nước.
Tỉnh Cà Mau.
Là một Chi nhánh của Ngân hàng phát triển Việt Nam thực hiện chính
sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, Chi nhánh chủ động vận dụng
bằng các giải pháp sau:
Một là, tăng dần đối tượng cho vay các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh
tế tập thể và tư nhân.Trên thực tế đây là những thành phần kinh tế năng động,
hoạt động có hiệu quả và trả nợ vay tốt (giai đoạn 2001-2005 , nợ quá hạn
của khối kinh tế tư nhân chỉ chiếm xấp xỉ 6,5%-12,07% trong tổng nợ quá
hạn của Chi nhánh, còn đối với kinh tế tập thể thì hầu như không có nợ quá
hạn). Điều này còn thể hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về sự bình
đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Hai là, Chi nhánh ưu tiên đầu tư những dự án quy mô lớn, bảo đảm tính cạnh
tranh của sản phẩm dự án, phải tính toán đến cung cầu về sản phẩm hàng hoá
của dự án. Nhờ đó đã hạn chế tình trạng đầu tư manh mún, dàn trải cho nhiều
dự án trong thời gian qua là một trong những nguyên nhân giảm nợ xấu tại
Chi nhánh. Tính từ 2001-2005, ngoài hai nhóm dự án có vốn đầu tư lớn:
chương trình kiên cố hoá kênh mương và các dự án xây dựng nhà máy chế
biến thuỷ sản.
Ba là, ưu tiên cho những dự án đầu tư vào những lĩnh vực, ngành nghề nhằm
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Với vị trí địa lý và điều kiện tự
nhiên ưu đãi (chiều dài bờ biển trên 254 km, diện tích nuôi tôm hiện trên
240.000 ha), nhiều năm qua Cà Mau luôn dẫn đầu cả nước về kim ngạch xuất
khẩu thuỷ sản ( kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản gian đoạn 2001-2005 đạt gần
2 tỷ USD, riêng năm 2005 là 520 triệu USD) thuỷ sản được xem là ngành
kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Do vậy, chiến lược cho tín dụng đầu tư phát triển
37
của Chi nhánh được tập trung vào ngành kinh tế này, đặc biệt là đầu tư cho
công nghiệp chế biến thuỷ sản sử dụng công nghệ mới, sản xuất sản phẩm giá
trị gia tăng cao, làm tăng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh; đồng thời đây cũng là
những dự án sử dụng nhiều lao động, góp phần giải quyết việc làm.
Tỉnh Tuyên Quang.
Là một tỉnh miền núi phía Bắc, điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó
khăn, nguồn vốn đầu tư chủ yếu từ ngân sách Trung ương. Trong những năm
qua, cùng với nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các dự
án, trong đó có cả dự án nhóm A (thuỷ điện Tuyên Quang), chương trình kiên
cố hoá kênh mương của Chính phủ đã thực sự phát huy hiệu quả tại tỉnh
Tuyên Quang trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Từ năm 2000, hàng năm ngoài vốn ngân sách trung ương, Chính phủ đã
giao chỉ tiêu kế hoạch sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
nhằm khuyến khích tỉnh huy động mọi nguồn lực và tạo cơ chế thuận lợi
nhằm đẩy nhanh tiến độ thực hiện việc kiên cố hoá kênh mương các công
trình thuỷ lợi. Sở tài chính tỉnh Tuyên Quang đã ký 07 hợp đồng tín dụng đầu
tư phát triển với Quỹ hỗ trợ phát triển Tuyên Quang (nay là Chi nhánh Ngân
hàng phát triển Tuyên Quang) về tiếp nhận vốn và cho vay chương trình kiên
cố hoá kênh mương và đường giao thông nông thôn theo kế hoạch đã được
UBND tỉnh phê duyệt, với tổng số vốn vay tín dụng ĐTPT của Nhà nước qua
các năm từ 2000 đến 2006 là 120 tỷ đồng.
Qua 6 năm thực hiện, cùng với nguồn vốn đóng góp của nhân dân, tỉnh
Tuyên Quang đã kiên cố hoá được 1.677 km kênh mương nội đồng phục vụ
tưới tiêu đồng ruộng và nâng cấp 384 km đường giao thông nông thôn góp
phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn.
Được sự chỉ đạo của UBND tỉnh, hàng năm Sở tài chính đều lập dự
toán ngân sách và bố trí nguồn vốn trả nợ chương trình kiên cố hoá kênh
38
mương và đường giao thông nông thôn để trình HĐND tỉnh phê duyệt; vào
tháng 12 hàng năm Sở tài chính đều chuyển trả Chi nhánh NHPT số vốn đúng
hợp đồng tín dụng đã ký kết giữa hai bên. Trong năm năm qua (2001-2005)
ngân sách tỉnh đã trả vốn 47 tỷ đồng, không có nợ quá hạn, dư nợ đến
01/01/2006 là 73 tỷ đồng.
Để có được sự quan tâm chỉ đạo của tỉnh, Chi nhánh Ngân hàng phát
triển Tuyên Quang đã tạo lập mối quan hệ chặt chẽ với tỉnh uỷ, HĐND tỉnh
và các ngành có liên quan, bán sát địa bàn, nắm vững chính sách, tạo điều
kiện thuận lợi để địa phương sử dụng nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà
nước có hiệu quả.
1.3.2- Rút ra một số bài học kinh nghiệm chung tham khảo vận dụng
ở Hà Tây.
Thứ nhất, thực hiện nghiêm các Nghị định và sự chỉ đạo của Ngân hàng
phát triển Việt Nam, Chính phủ, Bộ, Ngành, đồng thời phát huy tính chủ
động, độc lập, tự chủ trong việc quản lý vốn tín dụng đầu tư phát triển của
Nhà nước nhằm quản lý tốt và có hiệu quả cao.
Thứ hai, làm cho các doanh nghiệp và nhân dân nhận thức rõ chính
sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, qua đó mở rộng được khách
hàng vay, để có thể sàng lọc được những dự án vay thực sự hiệu quả, công
khai hoá và đảm bảo tính công bằng xã hội.
Thứ ba, biết khai thác, tìm kiếm các đối tượng vay có thế mạnh được
hưởng ưu đãi tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trên địa bàn để tập
trung đầu tư đảm bảo đầu tư có hiệu quả kinh tế- xã hội và phù hợp chủ
39
trương của Đảng và Nhà nước.
Thứ tư, xây dựng và duy trì mối quan hệ với Đảng, Hội đồng nhân dân
và Chính quyền địa phương với Ngân hàng phát triển trong huy động vốn đầu
tư và thu hồi nợ vay tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Với tinh thần gạn đục khơi trong, các bài học kinh nghiệm nói trên, rất
đáng trân trọng, có tác dụng tham khảo và vận dụng một cách sáng tạo nhằm
nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển ở Hà Tây trong thời gian tới.
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐẦU TƢ PHÁT TRIỂN
CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN Ở HÀ TÂY
THỜI GIAN QUA
2.1- Khái quát tình hình Chi nhánh Ngân hàng phát triển ở Hà
Tây- nhìn từ góc độ thuận lợi và khó khăn.
2.1.1- Quá trình hình thành và phát triển.
Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước (hay còn gọi là tín dụng ưu
đãi) đã trải qua gần 15 năm thực hiện. Loại hình tín dụng này trước đây do
Ngân hàng Kiến thiết (thuộc Bộ Tài chính) sau đó đổi tên là Ngân hàng Đầu
tư và Xây dựng, nay là Ngân hàng phát triển thực hiện. Năm 1996, thực hiện
Nghị định 53/HĐBT về đổi mới hoạt động ngân hàng, Ngân hàng Đầu tư phát
40
triển chuyển sang hoạt động với vai trò là một ngân hàng thương mại, tiến
hành kinh doanh tiền tệ theo tín hiệu thị trường. Do đó việc tiếp nhận vốn
ngân sách nhà nước, trên cơ sở đó tiến hành đầu tư phát triển kinh tế chuyển
sang thuộc về chức năng của Bộ Tài chính, cụ thể là Tổng cục đầu tư phát
triển.
Để đáp ứng những yêu cầu đặt ra trong quá trình đổi mới nền kinh tế,
đặc biệt là đổi mới hệ thống tài chính quốc gia, năm 2000 Quỹ Hỗ trợ phát
triển được thành lập theo Nghị định 50/1999 NĐ- CP ngày 8/7/1999 và Quyết
định số 231/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ và chính thức đi vào
hoạt động từ 1/1/2000, đến nay được đổi tên thành Ngân hàng phát triển Việt
Nam và về tổ chức được hình thành từ trung ương đến các địa phương.
Chính vì vậy, Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển ở các địa phương trong
đó có Hà Tây cũng đựơc đổi tên thành Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà
Tây theo Quyết định số 03/QĐ-NHPT ngày 01 tháng 7 năm 2006.
Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây là một tổ chức tài chính nhà
nước, có tư cách pháp nhân, có bảng cân đối, có con dấu riêng, đước mở tài
khoản tại Kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại quốc doanh trên
địa bàn Tỉnh, thành phố; là đơn vị hạch toán, thuộc Ngân hàng phát triển Việt
Nam.
Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây có chức năng nhiệm vụ là :
- Tổ chức việc tạo nguồn vốn đầu tư thông qua thực hiện việc thực hiện
tiếp nhận vốn của Nhà nước, huy động vốn trung và dài hạn ;
- Tổ chức quản lý và sử dụng (cho vay) các nguồn vốn của nhà nước
(bao gồm cả vốn trong và ngoài nước) thông qua hoạt động tín dụng nhằm
thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển của nhà nước trên địa bàn Hà
Tây.
Dưới đây là sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng
phát triển Hà Tây.
41
Sơ đồ 2.1 : Tổ chức bộ máy hoạt động của Ngân hàng phát triển Hà Tây.
GIÁM ĐỐC
Phòng
Phòng
Phòng
tài chính
Phó giám đốc
tín dụng
tín dụng
kế toán
II
hợp
I
Phòng tổ chức hành chính - nhân sự
Phòng Tổng
2.1.2- Những thuận lợi và khó khăn của Chi nhánh Ngân hàng phát
triển Hà Tây.
Hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây có những thuận
lợi và khó khăn:
Những thuận lơi.
Việc ban hành Nghị định 43 CP của Chính phủ nhằm nâng cao hiệu
quả kinh tế-xã hội của các dự án, nâng cao chất lượng quản lý vốn tín dụng
đầu tư phát triển đã tạo khung pháp lý cho hoạt động của hệ thống. Bên cạnh
đó, cùng với các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định của Hội
đồng Quản lý và Tổng giám đốc Quỹ Hỗ trợ phát triển nay là Ngân hàng phát
triển Việt Nam ban hành điều lệ tổ chức và qui trình hoạt động cũng như
hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật có liên quan cũng là những điều
kiện thuận lợi để Chi nhánh triển khai hoạt động.
Được sự chỉ đạo chặt chẽ, sát sao của Ngân hàng phát triển Việt Nam,
Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây không chỉ về chủ trương, biện pháp và
các cơ chế chính sách; điều kiện vật chất, tổ chức điều hành trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ.
Được thành lập trên cơ sở Cục đầu tư phát triển Hà Tây cũ, Chi nhánh
42
đã kế thừa cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ viên chức có tinh thần trách
nhiệm cao, có năng lực và trình độ để hoàn thành nhiệm vụ đồng thời có kinh
nghiệm về nghiệp vụ công tác tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.
Những khó khăn.
Những khó khăn chủ yếu trong quá trình hoạt động của Chi nhánh gồm
có:
Các cơ chế, chính sách về tín dụng đầu tư phát triển chưa đồng bộ, đặc
biệt là đối tượng, mức vốn cho vay, lãi suất cho vay; các hướng dẫn thực hiện
chưa kịp thời và thiếu đồng bộ.
Cơ sở vật chất của Chi nhánh khi đi vào hoạt động còn thiếu, số lượng
cán bộ tiếp nhận còn hạn chế, trình độ và năng lực cán bộ viên chức chưa
đồng đều còn thiếu cán bộ chủ chốt.
Địa bàn tỉnh Hà Tây có it đối tượng thuộc diện khó khăn cần được hỗ
trợ đầu tư theo tinh thần Nghị định 43, nên đối tượng cho vay hẹp, việc tìm dự
án bố trí kế hoạch gặp nhiều khó khăn.
Tình hình kinh tế Việt Nam trong một vài năm trước đây đang trong
tình trạng bấp bênh. Điều này tác động lớn đến hoạt động của các doanh
nghiệp và vì vậy gây khó khăn cho hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng phát
triển Hà Tây.
Với những khó khăn và thuận lợi nêu trên, trong năm qua cán bộ nhân
viên Chi nhánh đã đoàn kết dưới sự chỉ đạo của lãnh đạo Quỹ Hỗ trợ phát
triển Hà Tây nay là Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây, Ngân hàng phát
triển Việt Nam đồng thời với sự phối hợp hoạt động của các ban ngành có
liên quan nhằm khắc phục những khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch
được giao.
2.2- Tình hình tín dụng đầu tƣ phát triển tại Chi nhánh Ngân
43
hàng phát triển ở Hà Tây.
2.2.1- Tình hình tiếp nhận vốn của Trung ương và vốn huy động thời
gian qua ở Hà Tây.
Do đặc thù của mình, không giống như các ngân hàng thương mại, vốn
cho hoạt động của Chi nhánh chủ yếu là vốn tiếp nhận từ ngân sách nhà nước
theo kế hoạch vốn hàng năm. Vì vậy việc lập kế hoạch và tiếp nhận vốn ngân
sách là một trong những hoạt động cơ bản trong công tác huy động vốn của
Ngân hàng phát triển. Do không phải cạnh tranh với các ngân hàng thương
mại trong việc huy động vốn từ các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư
(trong cuộc cạnh tranh này, các ngân hàng thương mại thường chiếm ưu thế
do có mối quan hệ thị trường rộng lớn hơn và có thể chủ động hơn trong việc
đưa ra mức lãi suất huy động linh hoạt, hấp dẫn) đồng thời giúp Ngân hàng
phát triển có được một nguồn vốn tương đối ổn định và có thể kế hoạch hóa
trước, tránh được rủi ro đó là mặt thuận lợi. Tuy nhiên, mặt trái của nó là làm
cho hoạt động của Ngân hàng phát triển lệ thuộc rất nhiều vào nguồn vốn
cung cấp của Nhà nước, nên không tạo được thế chủ động trong việc bố trí
vốn vay cho từng dự án dẫn đến khả năng một số dự án, nhất là các dự án có
tổng vốn đầu tư lớn không được đáp ứng đủ làm cho dự án hoạt động kém
hiệu quả, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ.
Tình hình tiếp nhận vốn từ Ngân hàng phát triển Việt Nam.
Căn cứ vào lượng vốn hiện có và huy động của Ngân hàng phát triển
Việt Nam và kế hoạch vốn tại chi nhánh Hà Tây mà Ngân hàng phát triển
Việt Nam phân bổ trong thới gian qua (từ năm 2000 đến năm 2006), Chi
nhánh Hà Tây đã tiếp nhận nguồn vốn của Trung ương qua các năm thể hiện
ở biểu 2.1 sau:
Biểu 2.1: Nguồn vốn tiếp nhận tư Trung ương từ năm 2000-2006
2004
2001
2000
2002
2003
2005
2006
44
Đơn vị tính : Triệu đồng và % Năm
Chỉ tiêu Vốn tiếp nhận 65.000
208.000
174.000 55.000
54.000
57.978
431.374
+ 320,0
+663,6
+267,6
- 16,9
- 15,3
-10,8
100
Tăng, giảm (so với năm 2000) Nguån: báo cáo tiếp nhận nguồn TW từ năm 2000-2006 tại Chi nhánh NHPT Hà Tây[2]
Qua biểu số liệu trên cho thấy: Vốn tiếp nhận của Trung ương nhiều
năm tăng lên nhất là năm 2001, 2002 và 2006, trừ các năm 2003, 2004 và
2005 có hiện tượng giảm so với năm 2000. Đó là do nguyên nhân: các dự án
đầu tư đã ký hợp đồng tín dụng nhưng chưa đăng ký kế hoạch vốn do chưa có
khối lượng hoàn thành, do đó Trung ương cũng chỉ phân bổ nguồn cho Chi
nhánh theo thực tế các dự án có đăng ký kế hoạch và có khối lượng hoàn
thành đảm bảo điều kiện giải ngân.
Tình hình huy động vốn.
Trước đây việc huy động vốn tập trung tại Ngân hàng phát triển Việt
Nam (TW) ; do việc huy động vốn trong những năm gần đây khó khăn và
nguồn vốn cấp từ ngân sách hạn hẹp, để tăng cường nguồn vốn dành cho đầu
tư phát triển bước sang năm 2002 Ngân hàng phát triển Việt Nam (TW) đã
giao thêm nhiệm vụ huy động vốn cho các Chi nhánh trong toàn hệ thống.
Ngoài nhiệm vụ tiếp nhận. Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây còn
có nhiệm vụ mới là huy động đựơc một lượng vốn đáng kể qua các năm, cụ
thể ở biểu 2.2:
Biểu 2.2: Vốn huy động qua các năm (2002-2006)
Đơn vị tính : Triệu đồng
Tổng số vốn huy động
Tổng số
Tỷ lệ hoàn thành
Kế hoạch
Trong đó
KH (%)
thực hiện
45
Năm
Vốn trung,
Vốn ngăn hạn
dài hạn
2002
10.000
10.000
10.000
-
100,0
2003
40.000
42.000
32.000
10.000
105,0
2004
13.000
11.000
10.000
84,6
1.000
2005
28.800
32.034
30.000
2.034
111,2
2006
100.000
114.238
34.238
80.000
114,2
Nguån:Báo cáo huy động nguồn từ 2000-2006 tại Chi nhánh NHPT Hà Tây[2]
2.2.2- Tình hình cho vay các dự án đầu tư phát triển thời gian qua.
Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây nhận bàn giao từ Cục đầu tư
phát triển Hà Tây sang; khối lượng công việc nhận bàn giao gồm hai mảng
chủ yếu là cho vay vốn tín dụng đầu tư phát triển và cấp phát vốn uỷ thác,
trong đó cho vay vốn tín dụng đầu tư phát triển là 45 dự án với dư nợ là 106 tỉ
đồng.
Thực hiện Nghị định 43/1999/NĐ-CP từ 01/01/2000 đến 26/4/2004 và
từ 27/4/2004 là Nghị định 106/2004/NĐ-CP của Chính phủ về tín dụng tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đến nay là Nghị định 151/2006/NĐ-CP
ngày 20/12/2006 về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước.
- Mục đích của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là hỗ trợ các dự
án tín dụng đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành,
lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn có tác động trực tiếp đến chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững. Với
mục đích như trên, đối tượng cho vay được chính phủ quy định là các dự án
được vay tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là các dự án có khả năng
thu hồi vốn trực tiếp thuộc danh mục các dự án, chương trình do Chính phủ
46
quyết định cho từng thời kỳ. Thời hạn ưu đãi, danh mục các dự án, chương
trình với các dự án được chi tiết theo từng đối tượng, thời hạn ưu đãi do Bộ
tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, Cơ quan liên quan trình Chính phủ
quyết định. Cụ thể :
- Về điệu kiện cho vay đầu tư : Thuộc đối tượng quy đinh của Chính
phủ; Đã hoàn thành đầu tư theo quy định của Nhà nước; Chủ đầu tư là tổ chức
và cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; Đối với dự án đầu tư xây dựng
mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ thiết bị, chủ đầu tư phải có tình hình tài
chính bảo đảm khả năng thanh toán; Có phương án sản xuất kinh doanh có
lãi; được Chi nhánh Ngân hàng phát triển thẩm định phương án tài chính,
phương án trả nợ và chấp thuận cho vay trước khi quyết định đầu tư.
Thực hiện quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định tại Nghị định về
tín dụng đầu tư phát triển. Đối với tài sản hình thành từ vốn vay thuộc đối
tượng mua bảo hiểm bắt buộc, thì chủ đầu tư phải cam kết mua bảo hiểm tài
sản trong suốt thời hạn vay vốn tại một công ty bảo hiểm hoạt động hợp phát
tại Việt Nam.
- Mức vốn cho vay đầu tư: Mức vốn cho vay đối với từng dự án do
Ngân hàng phát triển quyết định, tối đa bằng 70% tổng số vốn đầu tư của dự
án, số vốn còn lại, chủ đầu tư phải xác định được nguồn và các điều kiện tài
chính cụ thể, bảo đảm tính khả thi của dự án. Trong quá trình giải ngân, Ngân
hàng phát triển thực hiện theo cơ cấu nguồn vốn đã xác định theo điều 1 của
khoản này.
- Thời hạn cho vay: thời hạn cho vay xác định theo khả năng thu hồi vốn
phù hợp với đặc điểm sản xuất, kinh doanh của dự án và khả năng trả nợ của
chủ đầu tư nhưng tối đa không quá 12 năm; Một số dự án đặc thù như trồng
rừng có thời hạn thu hồi vốn dài, thời hạn thu hồi vốn tối đa không quá 15
47
năm.
- Lãi suất cho vay vốn đầu tư: Lãi suất cho vay đầu tư được xác định
tương đương 70% lãi suất cho vay trung và dài hạn bình quân của các ngân
hàng thương mại nhà nước. Bộ trưởng Bộ tài chính quy định lãi suất cho vay
đầu tư trong từng thời kỳ; Khi lãi suất thị trường có sự biến động từ 15 % trở
lên, Bộ trưởng Bộ tài chính quyết định điều chỉnh lãi suất cho vay. Số lần
điều chỉnh lãi suất cho vay mỗi năm tối đa 2 lần. Đối với một dự án, lãi suất
vay vốn được xác định tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng đầu tiên và được
giữ nguyên trong suốt thời hạn cho vay; Lãi suất nợ quá hạn theo Nghị định
43/NĐ-CP là 130%, theo Nghị định 106/NĐ-CP ngày 01/04/2004 là 150% lãi
suất cho vay trong hạn ghi trong hợp đồng tín dụng; Trong thời hạn ân hạn
chủ đầu tư chưa phải trả nợ gốc nhưng phải trả lãi.
Với mục đính, đối tượng và các điều kiện cho vay của Chính phủ trong
thời gian qua Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây đã thực hiện nhiệm vụ
của Chính phủ và của Ngân hàng phát triển Việt Nam về cho vay đầu tư phát
triển, kết quả cụ thể (xem biểu 2.3)
Biểu 2.3: Kết quả số dự án và vốn đăng ký cho vay và số vốn giải ngân qua
các năm từ năm 2000-2006.
48
Đơn vị tính: Triệu đồng
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Chỉ tiêu
Tổng số dự án
14
60
23
11
14
03
12
cho vay
Số vốn ký hợp
161.040
122.880
129.610
97.460
164.920
663.038
639.931
đồng tín dụng
Số vốn giải
139.613
235.144
203.618
163.820
97.072
100.794
431.374
ngân
Nguån: báo cáo cho vay thu nợ từ năm 2000-2006 tại Chi nhánh NHPT Hà Tây[2]
Qua bảng số liệu trên cho thấy: số vốn cho vay qua các năm có tăng lên
nhất là năm 2005 và 2006. Số lượng dự án có xu hướng giảm, nhưng xét về
giá trị quy mô cho vay của mỗi dự án ngày càng lớn hơn. Nếu 2001 quy mô
cho vay mỗi dự án là (122880/60 = 2.048 triệu đồng), thì năm 2006 quy mô
cho vay mỗi dự án là (639931/12 = 53.327 triệu đồng).
Trong đó, chia theo ngành nghề kinh tế:
- Cho vay đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội với số tiền là 160,6 tỉ đồng
và cho vay chương trình kiên cố hoá kênh mương là 125 tỉ đồng;
- Cho vay đầu tư nhà máy và nhà xưởng sản xuất hàng xuất khẩu với số
tiền là 118,4 tỉ đồng, cho vay mở rộng và đầu tư chiều sâu đổi mới thiết bị sản
xuất công nghiệp cơ khí là 33,4 tỉ đồng, cho vay đầu tư nhà xưởng, máy móc
thiết bị chế biến nông lâm sản là 38 ,5 tỉ đồng;
- Cho vay sản xuất nông nghiệp là 20 tỉ đồng;
- Cho vay đầu tư cơ sở theo chương trình xã hội hoá giáo dục, y tế, thể
49
dụng thể thao là 10 tỉ đồng.
Tuy vậy, cũng qua biểu số liệu trên cho thấy số vốn giải ngân so với vốn
ký kết trong hợp đồng, qua các năm thực hiện chưa tương xứng. Có thể mô
phỏng số vốn giải ngân của các năm qua đồ thị sau:
Nguồn: báo cáo cho vay thu nợ từ năm 2000-2006 tại Chi nhánh NHPT Hà Tây
Đồ thị 2.1: Vốn giải ngân qua các năm (2000-2006)
2.3- Đánh giá chung về hiệu quả tín dụng đầu tƣ phát triển.
Luận văn đánh giá hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển trên cả 2 mặt
thành tựu, hạn chế và nguyên nhân qua các nội dung: Mức độ tăng trưởng tín
dụng; khả năng đáp ứng nhu cầu tín dụng; hiệu quả tín dụng đối với sự phát
triển kinh tế- xã hội của tỉnh và mức nợ quá hạn.
2.3.1- Về thành tựu.
Thứ nhất: Mức tăng trưởng tín dụng đầu tư phát triển gia tăng.
Hiệu quả của tín dụng được đánh giá trước hết ở mức tăng trưởng tín
dụng gia tăng qua các năm. Dưới góc độ Ngân hàng phát triển được thể hiện ở
50
mức dư nợ gia tăng qua các năm. Trong thời gian qua, Ngân hàng phát triển
Hà Tây đã có nhiều biện pháp trong việc tiếp nhận vốn trung ương và tích cực
thực hiện việc huy động các nguồn vốn, làm tốt công tác thẩm định các dự án
và cho vay và giải ngân kịp thời, nhờ đó kết quả làm cho dư nợ tín dụng tăng
lên qua các năm. Điều đó thể hiện ở biểu sau:(xem biểu 2.4)
Biểu 2.4: Mức dư nợ tín dụng gia tăng qua các năm (2000-2006)
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
C/ tiêu
Dư nợ
228.625
392.642
571.276
622.433
545.493
508.682
868.221
Đơn vị: triệu đồng
Nguồn : báo cáo cho vay thu nợ từ năm 2000-2006 tại Chi nhánh NHPT Hà Tây[2]
Có thể mô phỏng tình hình tăng trưởng tín dụng qua các năm (2000-2006)
qua đồ thị 2.2:
Đồ thị 2.2 : Dư nợ Ngân hàng qua các năm (2000-2006)
Thứ hai : Khả năng đáp ứng nhu cầu vốn của vốn tín dụng đầu tư phát
triển của nhà nước trên địa bàn tỉnh ngày một tăng lên.
Hàng năm căn cứ vào nhu cầu vốn của các dự án tín dụng đã được ký hợp
đồng tín dụng, Chi nhánh đăng ký kế hoạch vốn trong năm với Ngân hàng
51
phát triển Trung ương, trên cơ sở đó Ngân hàng trung ương phân bổ cho Chi
nhánh theo từng dự án. Tư đó, Chi nhánh ngân hàng phát triển Hà Tây tổng
hợp nhu cầu thực tế của địa phương về vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà
nước trên địa bàn tỉnh Hà Tây để cho vay.
Qua số liệu điều tra của Chi nhánh ngân hàng phát triển Hà Tây trong
thời gian qua tính từ năm 2000 đến 2006, kết quả đã đáp ứng nhu cầu của
vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước trên địa bàn tỉnh Hà Tây qua các
năm cho thấy : Mức đáp ứng vốn của Chi nhánh so với nhu cầu vốn của Hà
Tây qua các năm đều tăng lên. Trong đó năm 2006 có mức tăng cao nhất
(487,8 tỷ đồng). Tổng số vốn đã đáp ứng qua 7 năm là 1.418, 884 tỷ đồng.
Khả năng đáp ứng năm cao nhất khoảng 47% và năm thấp nhất là 17,5% so
với nhu cầu. Và tính khả năng đáp ứng ở mức trung bình so với nhu cầu
chung của Hà Tây là 28,49%. Điều đó thể hiện ở biểu 2.5: ở trang sau
Biểu 2.5: Khả năng đáp ứng nhu cầu vốn của vốn tín dụng
đầu tư phát triển của nhà nước trên địa bàn tỉnh Hà Tây thời kỳ
(2000-2006).
Chỉ tiêu Khả năng đáp Nhu cầu vốn Đáp ứng vốn ứng nhu cầu (tỷ đồng) (tỷ đồng) Năm vốn (%)
2000 19,340 38,70 50,000
2001 235,144 47,03 500,000
2002 204,500 29,21 700,000
2003 157,900 21,05 750,000
2004 136,800 17,53 780,000
2005 177,400 19,71 900,000
2006 487,800 37,53 1300,000
Tổng 4980,000 1418,884
Nguồn: Tổng hợp báo cáo khả năng nhu cầu tín dụng đầu tư phát triển
52
Trung bình 28,49%
trên địa bàn tại Chi nhánh NHPT Hà Tây năm 2006[2]
Thứ ba : Tín dụng đầu tư phát triển của Chi nhánh đã góp phần nâng
cao hiệu quả kinh tế - xã hội ở Hà Tây qua các năm.
Sự phát triển toàn diện trên các mặt về kinh tế - xã hội của Tỉnh Hà Tây có
một phần đóng góp không nhỏ của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
mà Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây đã thực thi thời gian qua. Như đã
trình bày trong phần tổng quan tình hình cho vay, 7 năm qua với tổng số dự
án cho vay trên địa bàn là 137 dự án với số tiền giải ngân là 1.371 tỉ đồng, Chi
nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây đã góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế -
xã hội của Hà Tây qua các năm. Biểu hiện:
Về hiệu quả kinh tế:
- Góp phần thúc đẩy tăng GDP và tăng trưởng kinh tế của Hà Tây qua
các năm. (Xem biểu 2.6)
Đơn vị tính : Tỷ đồng và %
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Chỉ tiêu
GDP(giá
so
5736
6190,3
6798,8 7411,2
8204,2
9186,6
10361,7
sánh 94)
Tăng trưởng
năm sau so với
9,83
7,9
9,8
9,0
10,7
12
12,8
năm trước
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hà Tây 2006[19]
Biểu 2.6 : GDP và tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hà Tây
- Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,HĐH,
53
phát triển Kinh tế thị trường định hướng XHCN và chủ động HNKTQT. Điều
đó thể hiện rõ ở sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Hà Tây thời gian
qua. Biểu 2.7 cho thấy điều đó.
Biểu 2.7: Cơ cấu ngành kinh tế của Hà Tây qua các năm
Đơn vị tính : Tỷ đồng và %
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Chỉ tiêu
Công ghiệp :
- Giá trị
2336,3 2050,9
2252
2714,0
3148,1
3734,2 4520,5
- Tỷ trọng
40,65
33,13
33,12
36,62
38,37
40,65
43,63
Nông nghiệp :
- Giá trị
1824,5 2401,1
2637,1
2684,0
2813,2
2915,9 2994,4
- Tỷ trọng
31,74
38,79
38,79
36,22
34,29
31,74
28,90
Dịch vụ :
- Giá trị
1587,2 1738,3
1909,8
2013,2
2242,9
2536,5 2846,8
- Tỷ trọng
27,61
28,08
28,09
27,16
27,34
27,61
27,47
Nguồn : Niên giám thống kê Hà Tây năm 2006[19]
- Ngoài những thành tựu trên, trong 7 năm qua bằng đồng vốn tín dụng
của nhà nước Chi nhánh đầu tư cho các Chủ đầu tư trên địa bàn, nhờ đó các
Chủ đầu tư có vốn để đầu tư mới và mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm
cho hàng nghìn lao động, nhờ đồng vốn tín dụng của nhà nước mà các Chủ
đầu tư đã nộp cho ngân sách nhà nước tăng thêm mỗi năm khoảng 6 tỷ đồng.
Trên đây chúng ta đã đánh giá hiệu quả kinh tế nhìn từ góc độ kết quả
54
đối với địa phương Hà Tây mà ở đó tín dụng đầu tư phát triển của chi nhánh
đã có một phần đóng góp. Song nếu xem xét hiệu quả kinh tế dưới góc độ
nghiệp vụ tính toán của Chi nhánh thì còn phức tạp hơn nhiều. Chẳng hạn:
Do đặc điểm các dự án đầu tư thường rất dài và mức độ rủi ro lớn, việc
đánh giá hiệu quả kinh tế - tài chính các dự án người ta dùng chỉ số NPV,
IRR, B/C. Trên cơ sở dư án do chủ đầu tư lập hoặc các cơ quan tư vấn lập,
Chi nhánh thẩm định tính hiệu qủa về mặt kinh tế - tài chính dự án có loại trừ
các yếu tố chủ quan cũng như lường trước các rủi ro có thể gây ra đối với dự
án. NPV là giá trị hiện tại thuần dòng thu nhập thuần tuý mà dự án mang lại
trong cả vòng đời dự án. Hiệu quả của dự án được biểu hiện bằng một đại
lượng tuyệt đối cho ta một hình dung rõ nét và cụ thể về lợi ích mà dự án
mang lại về mặt kinh tê - tài chính, những căn cứ để xác định chỉ tiêu NPV là
tổng doanh thu của dự án và tổng chi phí của dự án , tỉ lệ chiết khấu và vòng
đời của dự án. Tuy nhiên, độ tin cậy của chỉ tiêu này phụ thuộc rất nhiều vào
việc lựa chọn tỉ suất chiết khấu và các căn cứ xác định doanh thu và chi phí,
tránh bỏ sót, hoặc trùng lặp. Mặt khác ý nghĩa của NPV có thể là khó hiểu đối
với các nhà chính trị hoặc những nhà quản lý không chuyên kinh tế.
Hoạt động đầu tư có đặc điểm là thường sử dụng một khối lượng lớn các
nguồn lực và kết quả của nó mang tính chiến lược lâu dài, những sai lầm
trong quyết định đầu tư có thể gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng
cho từng doanh nghiệp cũng như gây ra cú xốc cho nền kinh tế. Bởi vậy việc
xác định NPV là vô vùng quan trọng đối với các dự án đầu tư dài hạn.
Ngoài NPV, hiệu quả về kinh tế - tài chính dự án còn tính hệ số kết quả chi
phí BCR là tỉ lệ giữa tổng giá trị hiện tại các dòng thu với tổng giá trị hiện tại
của dòng chi phí (gồm chi phí về vốn đầu tư và chi phí vận hành).
Một chỉ tiêu quan trọng không thể thiếu khi chúng ta tính hiệu quả về mặt
55
kinh tế - tài chính dự án là tỉ suất chiết khấu IRR. Đó là tỉ suất chiết khẩu mà
nếu dùng nó để tính chuyển các khoản thu và chi của dự án về hiện tại thì sẽ
làm cho NPV=0.
IRR phản ánh lãi suất tối đa mà dự án có thể chấp nhận trả cho vốn vay
bởi vì nếu vay với lãi suất bằng IRR thì dự án sẽ vừa hoà vốn.
Trong những năm qua thực hiện nhiệm vụ tín dụng đầu tư phát triển của
nhà nước trên địa bàn tỉnh Hà Tây kể từ khi Chi nhánh Hà Tây được thành
lập, Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây đã vượt qua các khó khăn hoàn
thành nhiệm vụ trong đó có nhiệm vụ về cho vay tín dụng đầu tư phát triển.
Trong những năm qua tổng các dự án Chi nhánh đã thẩm định ký hợp đồng
tín dụng và cho vay được 137 dự án, với tổng số tiền giải ngân lên tới 1,4
nghìn tỷ đồng, đóng góp cho ngân sách nhà nước về số tuyệt đối trên 6 tỉ
đồng mỗi năm chưa tính đến hiệu ứng của việc đầu tư mang lại, đó cũng phản
ánh một thành tích của Chi nhánh. Bên cạnh các dự án hiệu qủa, trên thực tế
cũng có quá nhiều dự án không đem lại kỳ vọng như thẩm định ban đầu do
tính chất dài hạn của dự án đầu tư; một phần do sự biến động của thị trường,
do môi trường pháp lý có sự thay đổi, nhiều dự án đầu tư xây dựng cơ sơ hạ
tầng xong lại thiếu nguồn nguyên liệu, nhiều dự án do dân cư địa phương
không ủng hộ do mức đền bù đất không thoả đáng và chính quyền yếu kém
dẫn đến dự án không hoàn thành đúng tiến độ và dự án không có doanh thu.
Từ thực tế đó làm cho hiệu quả của đồng vốn tín dụng nhà nước không hiệu
quả, làm ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của Chi nhánh cụ thể là không
hoàn thành nhiệm vụ do Trung ương và Chính phủ giao, số dự án và tỉ lệ nợ
quá hạn ngày một tăng do đó không thúc đẩy nên kinh tế phát triển như kỳ
vọng của chúng ta.
56
Về hiệu quả xã hội:
Hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước về mặt xã hội qua các
năm tăng lên rõ rệt. Các dự án cho vay đã góp phần giải quyết cho trên 6.000
lao động tại địa phương, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Thu nhập bình quân tháng đạt
trên 700.000 đồng/ lao động, góp phần giảm thiểu có hiệu quả tỷ lệ nghèo,
nâng cao đời sống vật chất của nhân dân. Sự nghiệp giáo dục và đào tạo, y tế,
văn hóa, thể thao, thể dục có bước phát triển đáng kể điều đó thể hiện ở sự gia
tăng chỉ số phát triển con người (HDI) qua các năm (Xem biểu số liệu 2.8)
Biểu 2.8 : Một số chỉ tiêu của HDI ở Hà Tây qua các mốc
Chỉ số
Trình độ học vấn ( số học sinh )
Thu
nhập BQ
Tuổi
Trung học
Cao
đầu
thọ
chuyên
Trung
đẳng,
Tiểu
người (
trung
nghiệp
học cơ
PTTH
đại học
học
Ng.đồng
bình
sở
( tốt
( tôt
Năm
)
nghiệp)
nghiệp)
2
3
4
5
6
7
8
thời gian từ năm 2000-2006
1
2000
3128,7
254458
221980
98788
1926
2346
2001
3436,3
256802
217981
100325
2015
3892
2002
3774
246833
209965
100634
2947
4835
2003
4304,6
220516
207924
106756
4507
3654
71,5
2004
5028
209452
204364
111611
4638
5850
2005
6009,9
198956
192161
119968
5204
5576
2006
7061,8
194278
181675
118398
5156
4162
Nguồn: Niêm giám thống kê Hà Tây năm 2006[19]
57
Tóm lại, hoạt động cho vay đầu tư phát triển của Chi nhánh Ngân hàng
phát triểm Hà Tây trong những năm qua đã đạt được những thành tựu đáng
khích lệ. Hầu hết các dự án được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển đã được
triển khai và đi vào hoạt động có hiệu quả. Sự thành công này đã góp phần
làm gia tăng sản lượng, doanh thu, lợi nhuận và nộp ngân sách nhà nước của
chủ đầu tư. Ngoài ra, các dự án đi vào hoạt động còn tạo công ăn việc làm,
tăng thu nhập cho người lao động góp phần cải thiện đời sống dân cư, gia tăng
tiêu dùng và tích luỹ để tái đầu tư cho tỉnh nói riêng và toàn xã hội nói chung.
2.3.2 - Những hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động cho vay đầu tư phát triển
của Nhà nước tại Chi nhánh còn tồn tại nhiều hạn chế làm ảnh hưởng đến
hiệu quả hoạt động của Chi nhánh nói riêng và hiệu quả đầu tư của toàn tỉnh
nói chung. Những hạn chế đó thể hiện trên các mặt sau:
Một là, khả năng vốn tiếp nhận và vốn huy động của Chi nhánh để đáp ứng
nhu cầu vốn cho vay các dự án của tỉnh còn ở mức độ thấp.
Nhu cầu vốn tín dụng đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh Hà Tây rất lớn, với
tốc độ phát triển bình quân hàng năm xấp xỉ 10% thì nguồn vốn tín dụng ưu
đãi của nhà nước phải tăng lên, nhưng thực tế do việc hạn chế ưu đãi của
Chính phủ và do nguồn vốn hạn hẹp do đó chỉ đáp ứng được một phần rất
nhỏ, số dự án được vay vốn ưu đại của nhà nước trên địa bàn không đáng kể,
với nhu cầu vốn tín dụng đầu tư phát triển các năm rất lớn nhưng nguồn vốn
hạn hẹp, nhỏ giọt, Ngân hàng trung ương phải giao chỉ tiêu huy động cho
từng Chi nhánh, cụ thể hơn là giao theo tỉ lệ giai ngân cho từng dự án, chi
nhánh phải đảm bảo huy động ít nhất là 30% để cho vay trong một dự án điều
này đã gây không ít khó khăn cho Chi nhánh, nhiều dự án đã ký hợp đồng tín
dụng nhưng do Chi nhánh không huy động được nên dự án cũng không được
58
giải ngân nó không chỉ làm ảnh hưởng đến hoạt động tại Chi nhánh mà còn
làm ảnh hưởng tới phía chủ đầu tư, làm cho dự án không hoàn thành đúng tiến
độ đầu tư, chậm đưa công trình vào sử dụng, gây ra một loạt hiệu ứng cho
nhiều đối tác khác.
Qua số liệu thực tế ở biểu 2.5 cho thấy: Khả năng đáp ứng nhu cầu bình
quân qua các năm mới đạt tỷ lệ 28%. Năm cao nhất cũng chỉ đạt khoảng 47%,
nhiều năm chỉ đạt khoảng 17-18% so với nhu cầu. Hạn chế này, tất yếu làm
cho hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội của tín dụng vốn đầu tư phát triển của
Nhà nước hạn chế phát sinh tác dụng.
Hai là, việc giao kế hoạch vốn còn nhiều bất cập, bố trí vốn đầu tư cho dự án
còn bất hợp lý.
Theo quy định, kế hoạch tín dụng ưu đãi phải được thông báo từ đầu năm
nhưng trên thực tế bao giờ cũng phải đến tháng 4, tháng 5 hàng năm tỉnh mới
nhận được kế hoạch vốn của Chính phủ. Hơn nữa, kế hoạch vốn lại được giao
rải rác thành nhiều đợt thậm chí đến tận tháng 10 mới có kế hoạch vốn bổ
sung. Điều này gây khó khăn trong việc bố trí vốn đầu tư cho từng dự án. Chi
nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây đều luôn ở trong tình trạng bị động, phải
chờ kế hoạch vốn rồi mới tiến hành phân bổ vốn vay cho từng dự án. Do đó,
tiến độ thực hiện ký hợp đồng tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước thường
rất chậm, thậm chí đến tháng 6 vẫn chưa ký được một hợp đồng tín dụng nào.
Khâu bố trí vốn đầu tư cho từng dự án cũng còn nhiều bất hợp lý. Hiện nay
còn tồn tại rất nhiều dự án lại bị bố trí vốn rải rác thành nhiều năm. Điều này
làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện của dự án, làm giảm hiệu quả hoạt động
hoặc lỡ cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp.
Ba là, tiến độ giải ngân vốn tín dụng đã ký hợp đồng vay và cho vay giữa Chi
nhánh và chủ đầu tư còn rất chậm, việc theo dõi và đánh giá hiệu quả dự án
sau đầu tư còn chưa được chú trọng.
Theo số liệu thống kê của Chi nhánh ở biểu 2.3, tỷ lệ giải ngân qua các năm
59
đạt rất thấp. Tiến độ giải ngân vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước tại
Chi nhánh hiện nay khá chậm. Nhiều dự án đã ký hợp đồng tín dụng nhưng
qua nhiều năm vẫn chưa giải ngân hết hoặc những dự án ký hợp đồng tín
dụng nhưng không giải ngân được do nhiều vướng mắc. Điều này không chỉ
làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Chi nhánh mà còn gây khó khăn
cho việc triển khai thực hiện dự án.
Việc theo dõi và đánh giá hiệu quả dự án sau đầu tư là vấn đề còn bỏ ngỏ.
Chi nhánh hiện nay chỉ thực hiện bám sát dự án đầu tư để thu lãi và thu nợ,
việc theo dõi, đánh giá tổng hợp kết quả dự án sau đầu tư còn chưa được quan
tâm thực hiện. Tuy nhiên, hiệu quả cho vay đầu tư phát triển không chỉ được
xác định trên tỷ lệ nợ quá hạn hay lãi treo mà còn ở hiệu quả tài chính và hiệu
quả xã hội của dự án. Đây mới chính là mục tiêu cuả tín dụng đầu tư phát
triển của nhà nước bởi vì khi tiến hành cho vay ưu đãi, cái mà Chi nhánh cần
quan tâm không phải chỉ đơn thuần là bảo toàn và phát triển vốn mà điều
quan trọng hơn là tác động của vốn tín dụng đầu tư phát triển đến sự phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh nói riêng và đất nước nói chung.
Bốn là, thủ tục cho vay còn rườm rà, thủ tục hành chính quá nặng nề.
Để tiếp cận được vốn tín dụng ưu đãi phải qua nhiều thủ tục rất rắc rối từ phê
duyệt dự án, ghi kế hoạch vốn, quyết định cho vay, giải phóng mặt bằng, đấu
thầu thực hiện dự án…Trong khi đó, hầu hết các cơ quan hành chính nhà
nước này vẫn còn mang nặng thái độ làm việc kiểu bao cấp gây khó khăn và
chậm trễ cho việc thực hiện dự án của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, thủ tục cho
vay của Chi nhánh hiện nay còn tương đối rườm rà, phức tạp. Thời gian thẩm
định còn kéo dài, sự phối hợp giữa thẩm định và tín dụng chưa đồng bộ và
nhịp nhàng làm kéo dài thời gian thẩm định và quyết định cho vay. Thủ tục
giải ngân còn phức tạp mang tính hành chính. Những vướng mắc này đang
ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của Chi nhánh.
60
Năm là, Nợ quá hạn của tín dụng đầu tư phát triển còn lớn.
Tình hình nợ quá hạn vốn tín dụng đầu tư phát của Chi nhánh Ngân hàng phát
triển Hà Tây qua các năm còn lớn. Điều đó cho thấy năng lực, hiệu quả quản
lý và sử dụng vốn cho vay của các chủ dự án còn nhiều bất cập. Có thể thấy
nhận xét trên qua biểu số liệu sau:(Biểu 2.9)
Biểu 2.9: Tình hình nợ quá hạn vốn tín dụng đầu tư phát triển ở Hà Tây qua
các năm từ 2000-2006.
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Chỉ tiêu
Dư nợ Quá hạn
4.984
12.164 13.460
16.316
17.120
28.569 155.594
Tỉ lệ nợ quá hạn
2,18%
3,1%
2,36%
2,62%
3,14%
5,6%
17,92%
trên dư nợ
Nguồn: báo cáo cho vay thu nợ từ năm 2000-2006 tại Chi nhánh NHPT Hà Tây[2]
Đơn vị : triệu đồng
Có thể mô phỏng tình hình nợ quá hạn các năm qua đồ thị 2.3:
Đồ thị 2.3: Tình hình nợ quá hạn vốn đầu tư phát triển ở Hà Tây
2.3.3-Nguyên nhân của những hạn chế.
Qua phân tích có thể thấy vấn đề thực hiện cho vay đầu tư phát triển
61
của nhà nước tại Chi nhánh trong thời gian qua còn nhiều mặt hạn chế. Để
khắc phục được những hạn chế đó nhằm thúc đẩy hoạt động cho vay ta cần
tìm hiểu những nguyên nhân của nó. Những hạn chế trên có cả nguyên nhân
khách quan và chủ quan tác động. Những nguyên nhân khách quan như:
- Sự điều chỉnh liên tục các định hướng chiến lược phát triển kinh tế xã
hội của Nhà nước. Các chiến lược này làm thay đổi trọng tâm ưu tiên phát
triển dẫn đến thay đổi đối tượng được hưởng và chính sách ưu đãi. Mặt khác,
định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội lâu dài cũng thường hướng
tới mục tiêu xã hội mà chưa thực sự quan tâm đến hiệu quả của dự án. Trong
khi đó, xét trên một góc độ nào đó, việc ưu tiên đầu tư phát triển không có
nghĩa là cứ phải mang vốn đến các vùng, các ngành khó khăn bởi vì sự phát
triển mạnh của một ngành kinh tế luôn có tác dụng lôi kéo các ngành khác
phát triển theo.
- Do những điều kiện kinh tế vĩ mô của đất nước nói chung và của tỉnh
Hà Tây nói riêng. Tình hình kinh tế đất nước và tỉnh trong vài năm gần đây
đang ở trong tình trạng bấp bênh làm ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh
doanh và tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp, đến khả năng triển khai
thực hiện dự án và đến khả năng trả lãi, trả nợ của chủ đầu tư. Những điều
này gây tác động không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của Chi nhánh.
Ngoài những nguyên nhân khách quan, cần nhấn mạnh đến những
nguyên nhân chủ quan sau đây đến từ cả 3 phía: các cơ quan quản lý vốn cấp
trên và Tỉnh, bản thân Chi nhánh và từ các doanh nghiệp (chủ đầu tư dự án):
Thứ nhất : Những nguyên nhân về phía các cơ quan quản lý vốn cấp trên
và Chính quyền địa phương (tỉnh).
- Cơ quan quản lý vốn cấp trên thường chậm trễ trong việc giao kế hoạch
vốn hàng năm. Hơn nữa lượng vốn cân đối quá ít so với nhu cầu, làm cho việc
cho vay vốn tín dụng ưu đãi manh mún, dàn trải và phân tán.
- Việc xây dựng và ban hành quy chế vốn tín dụng ưu đãi về lãi suất, thời
62
hạn vay vốn, bảo đảm tiền vay chưa thực sự phù hợp, còn cứng nhắc và chậm
đổi mới trước tình hình kinh tế có nhiều biến động mới hiện nay. Cu thể:
Chính sách ưu đãi chưa rõ ràng và chưa thật sự ưu đãi đối với toàn bộ các đối
tượng được hưởng. Một thực tế hiện nay ở Chi nhánh Ngân hàng phát triển
Hà Tây có nhiều chủ đầu tư của những dự án đúng đối tượng và đảm bảo hiệu
quả đã chuyển hồ sơ vay vốn sang các ngân hàng thương mại chứ không vay
vốn đầu tư ưu đãi tại Chi nhánh. Trong khi đó, các ngân hàng thương mại
quốc doanh trên địa bàn tỉnh đều sẵn sàng cho các dự án này vay với những
điều kiện tương đối mở và lãi suất gần tương đương với lãi suất ưu đãi. Vì
vậy có thể nhận định chính sách ưu đãi của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước hiện nay là chưa rõ ràng và chưa thật sự ưu đãi. Về lãi suất: Lãi suất ưu
đãi trong thời gian qua chưa thực sự hấp dẫn đối với chủ đầu tư. Năm 2000,
Chính phủ đã có quyết định số 490/QĐ-TTg cho phép hạ lãi suất tín dụng đầu
tư phát triển của nhà nước xuống 7%/năm (0,58%/tháng) đối với vốn giải
ngân sau 1/1/2000. Tuy nhiên các dự án đã ký hợp đồng tín dụng và đã giải
ngân trước 1/1/2000 thì vẫn phải chịu mức lãi suất 9,72%/năm. Trong thời
gian này, các ngân hàng thương mại do cạnh tranh lẫn nhau cũng đã đồng loạt
hạ lãi suất cho vay trung và dài hạn. Có những thời kỳ mức lãi suất cho vay
của các ngân hàng thương mại quốc doanh đều xấp xỉ mức lãi suất tín dụng
ưu đãi: ngân hàng Ngoại thương 7,2%/năm, ngân hàng Công thương
7,05%/năm, ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn 7%/năm, ngân
hàng Đầu tư phát triển 7%/năm. Đối với những khách hàng lớn và có mối
quan hệ tín dụng tốt với ngân hàng thì lãi suất này thậm chí còn thấp hơn nữa,
có thể xuống tới 6,5-6,8%/năm. Như vậy, nếu so sánh trên thực tế thì lãi suất
ưu đãi vừa cứng nhắc lại chưa đảm bảo tính ưu đãi đối với các đối tượng. Kể
từ tháng 6 năm 2001 mức lãi suất ưu đãi giảm xuống còn 5,4%, đến năm 2004
mức lãi suất tăng dần lên 7,8% và hiện nay lãi suất ưu đãi bằng 70% lãi suất
cho vay của các ngân hàng thương mại. Về mức vốn cho vay: Theo quy định
63
của Nghị định 43 của Chính phủ thì mức vốn cho vay tối đa đối với hầu hết
các dự án là 50% tổng vốn đầu tư, một số còn lại được vay tối đa 70% tổng
vốn đầu tư (trừ một số dự án thuộc các nhóm ngành đặc biệt theo quy định tại
các văn bản khác như cơ khí được vay 100%, sản xuất hàng xuất khẩu được
vay tối đa 90%). Phần còn lại chủ đầu tư phải tự huy động từ các nguồn khác
mà chủ yếu là ở các ngân hàng thương mại. Điều này không mang lại sự ưu
đãi cho chủ đầu tư bởi vì vốn phải vay ở 2 kênh khác nhau gây khó khăn cho
việc quản lý vốn và tính toán hiệu quả của dự án. Mặt khác, dự án phải qua 2
lần thẩm định làm tốn kém thời gian và chi phí. Một số dự án nếu không huy
động được vốn đối ứng thì sẽ không thể thực hiện được dự án hoặc thực hiện
không hiệu quả dẫn đến nguy cơ không thu hồi được vốn tín dụng đầu tư phát
triển của nhà nước cho Chi nhánh. Hơn nưa chủ đầu tư phải tham gia hết vốn
tự có thì mới được giải ngân, còn một điều phi lý nữa là chủ đầu tư phải bỏ
vốn tự có của mình vào Chi nhánh theo tỉ lệ giải ngân từng lần, điều này gây
khó khăn cho chủ đầu tư vừa mất thời gian, chi phí lẫn việc bị giám sát làm
cho hoạt động của doanh nghiệp mất tính chủ động. Về việc bảo đảm tiền
vay: Theo quy định, chủ đầu tư là doanh nghiệp nhà nước được dùng tài sản
hình thành bằng vốn vay để thế chấp. Chủ đầu tư không phải là doanh nghiệp
nhà nước phải có tài sản thế chấp trị giá 30% mức vốn vay (trước đây là
50%). Kết hợp với điều kiện về mức vốn cho vay thì chủ đầu tư phải tự đảm
bảo một lượng vốn không nhỏ. Nếu mức vốn cho vay là 70% thì chủ đầu tư
phải tự huy động 30% còn lại cùng với ít nhất 21% nữa là tài sản thế chấp.
Nghĩa là để vay được 1 đồng vốn tín dụng ưu đãi thì chủ đầu tư phải tự lo
được 0,73 đồng. Tương tự nếu mức vốn cho vay là 50% thì chủ đầu tư phải tự
bỏ ra 1,15 đồng để vay được 1 đồng vốn ưu đãi. Điều này không chỉ thể hiện
sự bất bình đẳng giữa khu vực kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh mà
còn không đảm bảo tính ưu đãi đối với các chủ đầu tư ngoài quốc doanh, đến
nay theo Nghị định 106 và Nghị định 151 của Chính phủ thì đã có xu hướng
64
mở hơn là tất cả các chủ đầu tư vay vốn tín dụng đầu tư phát triển đều được
dùng tài sản hình thành sau đầu tư để bảo đảm tiền vay hay là thế chấp. Hầu
hết các chủ dự án của khu vực này đều có tiềm lực vốn thấp lại ít có mối quan
hệ với các ngân hàng thương mại nên việc huy động đủ vốn để đáp ứng
những yêu cầu đặt ra của Quỹ Hỗ trợ phát triển (nay là ngân hàng phát triển)
là rất khó khăn. Về đối tượng cho vay: Đối tượng cho vay những năm trước
đây một mặt quá dàn trải, mở rộng khiến ưu đãi trở thành tràn lan như trong
lĩnh vực cơ khí, mặt khác lại chưa được triển khai đối với một số lĩnh vực cần
được khuyến khích đầu tư. Việc quy định đối tượng cho vay đầu tư phát triển
hiện nay mang tính xã hội nhiều hơn là hướng tới mục tiêu hiệu quả kinh tế
khiến cho nhiều dự án có tính khả thi, có hiệu quả kinh tế cao lại không được
vay.
- Thiếu và chậm ban hành một hệ thống văn bản hướng dẫn chi tiết về
thực hiện các quy định của tín dụng đầu tư phát triển và các công việc có liên
quan như thủ tục đấu thầu, thủ tục giải phóng mặt bằng, các quy chế về quản
lý đầu tư và xây dựng gây khó khăn cho tất cả các bên trong quá trình thực
hiện. Nhiều Nghị quyết, Quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
mới được ban hành nhưng việc hướng dẫn thực hiện lại chậm trễ và không
đồng bộ, không thống nhất làm cho Chi nhánh lúng túng trong việc thi hành.
- Thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức năng trong việc
hướng dẫn thực hiện. Các văn bản ban hành có khi được thực hiện theo Quyết
định của Thủ tướng Chính phủ, có khi lại thực hiện theo văn bản hướng dẫn
của các Bộ.
- Chưa có sự phân công trách nhiệm quyền hạn rõ ràng giữa các cơ quan
quản lý. Thêm vào đó, sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan này cũng chưa
tốt gây cản trở cho việc thực hiện. Các cơ quan có trách nhiệm hoặc là buông
lỏng quản lý hoặc can thiệp quá sâu vào tiến trình thực hiện dự án gây khó
65
khăn cho hoạt động của Chi nhánh và Chủ đầu tư.
Thứ hai: Những nguyên nhân chủ quan về phía Chi nhánh Ngân hàng
phát triển
- Công tác kế hoạch nói chung chưa đáp ứng được yêu cầu định hướng
cho đầu tư phát triển tỉnh. Chất lượng của công tác kế hoạch kém, nội dung sơ
sài nên việc bố trí vốn cho nhiều dự án không phù hợp đến khi điều chỉnh vốn
từ dự án này sang dự án khác thì lại không kịp thời gây ra hiện tượng đọng
vốn.
- Chưa kịp thời hướng dẫn doanh nghiệp trong việc hoàn tất các thủ tục
đầu tư xây dựng, hướng dẫn chuẩn bị dự án nên các khâu này thường phải
làm đi làm lại nhiều lần. Việc tư vấn cho chủ đầu tư trong việc lựa chọn công
nghệ, thiết bị, thiết kế tổng dự toán, lựa chọn giá xét thầu còn chưa được thực
hiện làm ảnh hưởng đến chất lượng vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà
nước.
- Trình độ quản lý và trình độ nghiệp vụ của bộ máy hoạt động của Chi
nhánh chưa theo kịp yêu cầu được giao. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa
đồng đều. Một số cán bộ năng lực nghiệp vụ còn hạn chế hoặc chưa nắm
vững hết các chế độ chính sách của Nhà nước trong hoạt động chuyên môn.
Một số cán bộ chưa bám sát đơn vị hoặc bị động trong công tác nên chất
lượng công việc chưa cao. Công tác thẩm định dự án chưa tốt. Khả năng thu
thập những thông tin về năng lực tài chính, khả năng trả nợ cũng như tính khả
thi của dự án tại Chi nhánh chưa thật hiệu quả và chính xác. Khi thẩm định dự
án việc xem xét đánh giá những biến động của thị trường cũng chưa được tập
trung chú ý nên nhiều dự án khi thẩm định có tính khả thi, có phương án trả
nợ tốt nhưng khi thực hiện lại không có hiệu quả, không có khả năng trả nợ
hình thành lãi treo và nợ quá hạn.
- Chất lượng tư vấn thiết kế các dự án đầu tư chưa cao kéo dài thời gian
thẩm tra đồng thời phải bổ sung điều chỉnh trong quá trình thực hiện dự án.
66
Sự phối hợp hoạt động giữa thẩm định và tín dụng chưa tốt nên việc giải
quyết công việc chuyên môn còn chậm. Bên cạnh đó, chưa có sự phân công
trách nhiệm rõ ràng của từng bộ phận, khi có rủi ro xảy ra khó xác định trách
nhiệm thuộc về ai và đến đâu.
- Trang thiết bị phục vụ công việc còn thiếu, đặc biệt là thiết bị tin học.
Mạng lưới tin học chưa đồng bộ làm ảnh hưởng đến khả năng quản lý và điều
chỉnh vốn tín dụng đầu tư phát triển của Chi nhánh. Trang bị tin học văn
phòng còn thiếu làm giảm hiệu quả công việc, kéo dài thời gian thẩm định và
ký hợp đồng tín dụng.
Qua phân tích ta có thể thấy có rất nhiều nguyên nhân chủ quan cũng
như khách quan tác động làm giảm hiệu quả hoạt động của Chi nhánh Quỹ
Hỗ trợ phát triển Hà Tây nay là Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây trong
việc thực hiện cho vay đầu tư phát triển của nhà nước trên địa bàn tỉnh. Đó là
cơ sở để các bên tham gia vào tín dụng đầu tư phát triển tìm ra những giải
pháp tháo gỡ những khó khăn, ách tắc để nâng cao hiệu quả hoạt động và hiệu
quả của vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước trên địa bàn.
Thứ ba: Những nguyên nhân chủ quan về phía chủ đầu tư.
- Nhận thức của chủ đầu tư về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
nhiều khi còn lệch lạc. Nhiều đơn vị chỉ chú trọng vào việc được ghi kế hoạch
vốn mà không chú ý đến việc xây dựng và thực hiện hiệu quả dự án.
- Ý thức trách nhiệm trong việc sử dụng vốn tín dụng của chủ đầu tư còn
thấp, coi nhẹ trách nhiệm trả nợ, nếu không trả được nợ thì xin hoãn nợ, giãn
nợ, giảm lãi suất, đảo nợ, hoặc cứ chây ì không trả vì mức lãi suất phạt quá
hạn vẫn nhỏ hơn lãi suất các ngân hàng thương mại làm ảnh hưởng đến hiệu
quả vốn tín dụng đầu tư phát triển.
- Trình độ quản lý vốn tín dụng đầu tư của các chủ dự án chưa đáp ứng
yêu cầu nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển. Thực tế cho thấy chất
67
lượng và hiệu quả của các dự án đầu tư hiện nay còn thấp. Chủ đầu tư thường
có tư tưởng rụt rè, sợ đầu tư chiều sâu, ngại đi sâu tìm kiếm hướng đầu tư và
dự án có hiệu quả, đến việc thực hiện dự án trong khi đó lại thường xuyên có
những thay đổi so với quyết định ban đầu. Bên cạnh đó, các chủ đầu tư
thường ít thông thạo các quy định về thủ tục như duyệt thiết kế tổng dự toán,
giấy phép xây dựng, tổ chức đấu thầu còn chậm, chưa đáp ứng được các quy
định của tổ chức cho vay về hồ sơ vay vốn nên việc thực hiện còn kéo dài.
Khả năng thiết lập dự án, lựa chọn dự án khả thi, xác định chính xác mức vốn
đầu tư của dự án còn hạn chế. Khi tính toán, chủ đầu tư thường chưa xem xét
kỹ các yếu tố bên ngoài như những biến động về môi trường công nghệ nên
hiệu quả dự án thường thấp hơn nhiều so với dự kiến gây ảnh hưởng đến việc
trả nợ. Vì vậy, trong khi nguồn vốn cân đối rất hạn hẹp chưa đủ khả năng đáp
ứng nhu cầu đầu tư phát triển của tỉnh nhiều khi lại rất thiếu dự án đầu tư có
hiệu quả thật sự để bố trí vốn.
Tóm lại, việc đánh giá phân tích những thành tựu và hạn chế, nhất là
nguyên nhân của những hạn chế cũng chính là tìm ra những vấn đề bức xúc
cần đặt ra làm cơ sở thực tiễn cho việc xác định phương hướng và giải pháp
nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở
Hà Tây trong chương tiếp theo.
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐẦU TƢ PHÁT TRIỂN CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN THỜI GIAN TỚI Ở HÀ TÂY
3.1-Phƣơng hƣớng nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tƣ phát triển ở
68
Hà Tây.
3.1.1- Quan điểm và mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội Hà Tây giai
đoạn 2006-2010 và tầm nhìn 2020.
( Trích Quyết định số 195/2006/QĐ-TTg ngày 25/8/2006, Phê duyệt Quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Hà Tây đến năm 2020 của Thủ
tướng Chính phủ)
Quan điểm phát triển:
Thứ nhất: Huy động mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế, tháo gỡ những
khó khăn cản trở để phát triển Hà Tây với tốc độ nhanh hơn kỳ vừa qua. Phát
triển kinh tế đi đôi với cơ cấu lại kinh tế một cách hợp lý để phát huy các lợi
thế so sánh về vị trí địa kinh tế, tài nguyên thiên nhiên và con người theo
hướng tăng tỉ trọng các ngành công nghhiệp, dịch vụ, giảm tương đối tỉ trọng
ngành nông nghiệp lâm nghiệp. Phấn đấu đến năm 2015 Hà Tây cơ bản trở
thành một tỉnh công nghiệp.
Thứ hai: Đặt sự phát triển của Hà Tây trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh
quốc tế, trong sự hợp tác chặt chẽ với các tỉnh trong nước, gắn với vùng kinh
tế trọng điểm Bắc Bộ, trong quá trình đổi mới của đất nước để phát triển kinh
tế có chất lượng cao hơn.
Thứ ba: Phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ với phát triển xã hội, gắn tăng
trưởng kinh tế với công bằng, tiến bộ xã hội. Nâng cao đời sống vật chất, đời
sống văn hoá của nhân dân; xoá đói nghèo và các tệ nạn xã hội; kết hợp đồng
bộ giữa phát triển sản xuất với phát triển kết cấu hạ tầng.
Thứ tư: Kết hợp giữa phát triển đô thị như một trung tâm phát triển gắn với
vành đai nông thôn. Nhanh chóng đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá cả Hà Tây, các
đô thị của Hà Tây phải được phát triển hiện đại, đảm bảo được chức năng các
đô thị vệ tinh của Thủ đô Hà Nội. Nông thôn Hà Tây phải được phát triển
theo hướng văn minh, bảo tồn được các giá trị văn hoá của các làng, xã và đặc
69
trưng cho nông thôn Việt Nam.
Thứ năm: Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường, cân băng sinh thái.
Không làm tổn hại và suy thoái cảnh quan thiên nhiên.
Thứ sáu: Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và củng cố an ninh quốc
phòng, củng cố hệ thống chính trị và nền hành chính vững mạnh.
Các mục tiêu phát triển.
Mục tiêu tổng quát.
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng phát
triển mạnh kinh tế công nghiệp để tăng nhanh tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ.
Huy động mọi nguồn lực để thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế ở mức độ cao,
bền vững, nhanh chóng đưa Hà Tây trở thành tỉnh công nghiệp với một hệ
thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội tương đối hiện đại và đồng bộ gắn kết
chặt chẽ với hệ thống hạ tầng của vùng thủ đô Hà Nội, văn hoá phát triển lành
mạnh hiện đại và đậm đà bản sắc dân tộc. Kinh tế phát triển đạt và vượt mức
phát triển kinh tế bình quân chung của cả nước, từng bước trở thành động lực
phát triển kinh tế - xã hội của vùng Đồng bằng sông Hồng và Vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ. Trở thành một trong những trung tâm đào tạo nguồn nhân
lực tạo nguồn nhân lực và y tế chất lượng cao của vùng. Đảm bảo an ninh
quốc phòng, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao tích luỹ nội bộ.
Mục tiêu cụ thể:
Về phát triển kinh tế.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm giai đoạn 2006-2010 ít
nhất đạt 13-13,5% và 2011-2015 đạt trên 13% và thời kỳ 2016-2020 tăng
khoảng trên 13,5-14%. Nhanh chóng đưa mức GDP bình quân đầu người đạt
70
và vượt mức trung bình cả nước trước năm 2015.
Tổng kim ngạch xuất khẩu thời kỳ 2006-2010 tăng trên 22% và đến năm
2010 đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu gấp 2,8 lần năm 2005 và năm 2020 đạt
gấp 4 lần năm 2010.
Đưa cơ cấu ngành kinh tế trong tỉnh đạt tỉ lệ: nông nghiệp khoảng 21%;
công nghiệp 45% và dịch vụ trên 34% vào năm 2010. Đến năm 2020 tỷ trọng
nông nghiệp của tỉnh trong cơ cấu GDP còn dưới 9%; công nghiệp và dịch vụ
chiếm tới 91%.
Về phát triển xã hội:
Phấn đấu tỉ lệ giảm sinh mỗi năm 0,6%0, phấn đấu đến năm 2010 giảm
2/3 tỷ lệ nghèo so với năm 2005, nâng mức sống của các hộ đã thoát ngheo,
tránh tình trạng tái ngheo.
Đến năm 2020, tỷ lệ đô thị hoá ít nhất đạt khoảng 45-50%, tỷ lệ lao động
phi nông nghiệp trong tổng số lao động khoảng 77%.
Đến năm 2010, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt khoảng 40%, đến
năm 2020 khoảng 50-60%. Đến năm 2010, có 80-85% lao động có việc làm
sau khi đào tạo.
Về môi trường:
Môi trường được giữ vững, không còn tình trạng ô nhiễm ở các làng
nghề. Đến năm 2010 khoảng 92% dân số được sử dụng nước sạch; thu gom
và xử lý trên 90% rác thải sinh hoạt; quản lý và xử lý 100% chất thải công
nghiệp nguy hại, chất thải y tế.
Bảo tồn và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa
dạng sinh học, các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể được bảo tồn và tôn
tạo.
3.1.2- Định hướng tín dụng và nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát
71
triển của Chi nhánh Ngân hàng phát ở Hà Tây.
Thứ nhất: Định hướng tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước giai đoạn
2006-2010.
Về huy động vốn.
Với nhu cầu vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước trên địa bàn trong
những năm tới như đã trình bày ở phần trên ngày một nhiều, do vậy đòi hỏi
Ngân hàng phát triển mức đáp ứng phải cao hơn các năm trước, Chi nhánh
phải tăng mức huy động tối thiểu là 30% để cho vay một dự án. Do đó để chủ
động hơn nguồn vốn cho vay Chi nhánh đặt ra một mục tiêu huy động đảm
bảo tối thiểu đạt theo kế hoạch và phấn đấu vượt mức kế hoạch của Ngân
hàng phát triển giao cho Chi nhánh. Từ nay đến 2010 và những năm tiếp theo,
Chi nhánh tiếp tục huy động các nguồn vốn từ các tổ chức như bảo hiểm xã
hội, tiết kiệm bưu điện và các tổ chức khác với tỷ lệ ở mức cao hơn. Dưới đây
là chỉ tiêu kế hoạch tiếp nhận và huy động vốn. (Xem biểu 3.1)
Biểu 3.1: Chỉ tiêu tiếp nhận và huy động vốn tín dụng đầu tư phát triển của
Chi nhánh ngân hàng phát triển Hà Tây đến 2010 và 2020
Chỉ tiêu
2006
2008
2010
2020
1-Vốn tiếp nhận từ NH phát triển TW (tỷ đồng )
431,374
864,3 1.119,0
4.528,0
2-Vốn huy động của Chi nhánh (tỷ đồng).
114,238
280
340
1.400
Trong đó : - Ngắn hạn
34,238
20
40
100
- Dài hạn
80
260
300
1.300
Nguồn: Báo cáo phương hướng hoạt động và phát triển của Chi nhánh NHPT Hà Tây giai
đoạn 2006-2010 và các năm tiếp theo (năm 2006) [2]
Về cho vay vốn.
Theo định hướng phát triển của kinh tế -xã hội và theo đó là nhu cầu
vốn đầu tư của Hà Tây, Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây với chức
năng đóng góp tín dụng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đã đề ra
72
mục tiêu hoạt động cụ thể nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả hoạt động tín
dụng đầu tư, góp phần hoàn thành thắng lợi các mục tiêu phát triển của tỉnh
đến năm 2010 và những năm tiếp theo.
Theo kế hoạch, để duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân của tỉnh
giai đoạn 2006-2010 là 13,5%, thì tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư phát triển
toàn tỉnh trong giai đoạn tương ứng là khoảng 20%. Nguồn vốn đầu tư phát
triển này bao gồm cả vốn tín dụng đầu tư, vốn ngân sách, vốn doanh nghiệp
và dân cư, vốn FDI. Trong đó vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch là tăng
trưởng bình quân giai đoạn là khoảng 15%. Trên cơ sở đó, dự kiến vốn tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tại Chi nhánh như sau: (Xem biểu 3.2 )
Biểu 3.2: Dự kiến khả năng cho vay tín dụng đầu tư phát triển tại Chi nhánh
Chỉ tiêu
2006
2008
2010
%
100
100
100
Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển
tỷ đồng
5.787
8.300
12.000
Nguồn vốn tín dụng ĐTPT của NN
tỷ đồng
868
1.248
1.818
Khả năng cho vay so với nhu cầu
%
15
15,03
15,15
Nguồn: Niên giám thống kê Cục thống kê tỉnh Hà Tây năm 2006[19]
Ngân hàng phát triển Hà Tây giai đoạn 2006-2010
Trong thời gian tới, định hướng bố trí vốn tín dụng cho vay đầu tư phát
triển vẫn tiếp tục tập trung vào các dự án thuộc đối tựơng theo tinh thần Nghị
định 151/NĐ-CP ngày 20/12/2006 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đầu
tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước:
Trên cơ sở các lĩnh vực ưu tiên như trên, tập trung vốn cho những dự
án đang vay dở để hoàn thành dứt điểm công trình, sớm đưa dự án vào hoạt
động và khai thác. Nguồn vốn còn lại bố trí cho những dự án có tính khả thi
cao, đạt hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội, có khả năng hoàn trả nợ
vay.
Nghiệp vụ hoạt động chính của Chi nhánh trong giai đoạn tới vẫn là
73
cho vay đầu tư phát triển. Trên cơ sở nguồn vốn do ngân sách cấp chủ động
phối hợp với Sở kế hoạch đầu tư tỉnh và các chủ đầu tư để hoàn tất thủ tục
triển khai ký kết hợp đồng tín dụng và giải ngân vốn vay.
Hoạt động cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước, trong những năm
tiếp theo, Chi nhánh chủ trương đẩy nhanh tiến độ thẩm định dự án, ký kết
hợp đồng tín dụng và giải ngân vốn vay, đảm bảo thực hiện 100% vốn kế
hoạch. Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay, giảm thiểu nợ quá hạn và lãi
treo. Chủ động và kịp thời giải quyết những món nợ “có vấn đề”, tìm hiểu
nguyên nhân để đưa ra biện pháp tháo gỡ, trình cấp trên xem xét và quyết
định. Trong những năm tới, cho vay đầu tư phát triển của nhà nước phải thực
sự trở thành công cụ kích thích đầu tư, đem lại hiệu quả cao cho tỉnh.
Thứ hai: Định hướng nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển ở Hà Tây
giai đoạn 2006-2010 và những năm tiếp theo.
Như đã trình bày ở chương 1 hiệu qủa tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước được xem là có hiệu quả khi nó mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội cho
cả Ngân hàng, các đối tượng trong quan hệ tín dụng và cả nền kinh tế quốc
dân. Do đó trong những năm tới Chi nhánh tập trung vào các mục tiêu nâng
cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Đối với Chi nhánh:
- Phân đấu tăng doanh số cho vay đảm bảo sự tăng trưởng kỳ sau cao
hơn kỳ trước, tính trung bình cho cả giai đoạn là tăng trưởng bình quân 15%.
- Giảm tới mức thấp nhất tỷ lệ nợ quá hạn, kế hoạch đạt ra cho giai đoạn
giảm tỷ lệ quá hạn còn dưới 3%.
- Về hiệu suất sử dụng vốn vay đảm bảo luôn lớn hơn 1.
- Giảm tối đa các thủ tục hành chính rườm ra, tạo điều kiện thuận lợi cho
các chủ thể vay vốn đảm bảo cung cấp vốn kịp thời, đẩy đủ, nhanh chóng và
74
tiết kiệm chí phi cho các chủ thể vay vốn.
- Phấn đấu thu lãi đủ theo hợp đồng tín dụng, không phát sinh lãi treo,
đảm bảo chênh lệch thu chi của Chi nhánh luôn dương, Chi nhánh phấn đấu
được hưởng mức lương vào tốp đầu trong hệ thống Ngân hàng phát triển.
Đối với các chủ thể vay vốn:
Để bảo đảm hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, trong thời
gian tới, các chủ thể vay vốn cần:
- Tập trung vay và sử dụng vốn vay đúng đối tượng theo quy định của
Chính phủ về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
- Tránh dàn trải, tập trung vào các dự án đảm bảo đạt hiệu quả kinh tế, các
dự án có số lượng lao động lớn đặc biệt là thu hút lao động trên địa bàn.
- Nâng cao năng lực của các chủ dự án là các cá nhân, doanh nhân có đủ
năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có khả năng sử dụng vốn tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước tốt nhất, từ đó giảm tình trạng nợ vay quá hạn.
Đối với hiệu quả kinh tế – xã hội tỉnh:
Thông qua cho vay, Chi nhánh ngân hàng phát triển Hà Tây sẽ góp phần
vào việc cùng với địa phương nâng cao các chỉ tiêu phát triển kinh tế -xã hội
của tỉnh trong thời gian tới. Dưới đây là các chỉ tiêu về kinh tế -xã hội của Hà
Tây.
Về chỉ tiêu phát triển kinh tế ( xem biểu 3.3).
75
Biểu 3.3 : Một số chỉ tiêu về phát triển kinh tế Hà Tây đến năm 2010 và 2020
Năm
ĐVT
2006-2010
2011-2020
Chỉ tiêu
1-Tốc độ tăng trưởng GDP
%
13-13,5
> 13,5-14,0
2- Tổng kim ngạch xuất khẩu
Lần
2,8 lần so với 2005
4
lần so với
2010
3- Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP:
21,0
9,0
%
- Nông , lâm, ngư nghiệp
45,0
91,0
%
- Công nghiệp và xây dựng
34,0
%
- Dịch vụ
Nguån: Quy ho¹ch ph¸t triÓn kinh tÕ-x· héi giai ®o¹n 2006-2010 vµ tiÕp theo cña
tØnh Hµ T©y n¨m 2006. [29]
Về chỉ tiêu phát triển xã hội.
Trong thời gian tới, Chi nhánh tiếp tục và chú trọng cho vay các dự án thuộc các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư đảm bảo tạo nhiều công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập, từng bước nâng cao đời sống và thực hiện công bằng xã hội trên địa bàn. (Xen biểu số liệu 3.4 ).
Năm
Đơn vị
2006-2010
2016-2020
tính
Chỉ tiêu
1-Tỷ lệ giảm sinh bình quân
%0
0,6
2- Tỷ lệ giảm nghèo so với 2005
Lần
2/3
3- Đô thị hóa
%
45-50
4- Tỷ lệ dân số phi nông nghiệp
%
77,0
5- Tỷ lệ lao động qua đào tạo
%
40,0
50-60
6-Số lao động có việc làm sau khi đào tạo
%
80-85
Nguồn: Quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2006-2010 và tiếp theo của
tỉnh Hà Tây năm 2006. [29]
76
Biểu 3.4 : Một số chỉ tiêu về phát triển xã hội Hà Tây đến năm 2010 và 2020
3.2- Các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tƣ
phát triển của nhà nƣớc ở Hà Tây giai đoạn 2006-2010.
3.2.1-Nhóm giải pháp đối với Chi nhánh ngân hàng phát triển Hà Tây.
Thư nhất: Nâng cao năng lực và phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ
quản lý và nhân viên của Chi nhánh trong thực hiện chức năng nhiệm vụ
được giao.
Con người luôn luôn đóng vai trò trung tâm trong mọi hoạt động xã hội
và là nhân tố quyết định hiệu quả của hoạt động đó. Chi nhánh NHPT Hà Tây
cũng không nằm ngoài thông lệ đó.
Trong thời gian tới, phát huy nhân tố con người phải được coi là mục
tiêu hàng đầu của Chi nhánh, do vậy cần tiếp tục công tác bồi dưỡng nghiệp
vụ, phổ biến các quy định của Chính phủ và Hội đồng quản lý NHPT được
thực hiện thường xuyên. Bên cạnh đó, Chi nhánh còn phải chú trọng chăm lo
đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ nhân viên tạo điều kiện nâng cao
hiệu suất lao động. Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa nhân tố con nguời đem lại
hiệu quả hoạt động cao hơn và tương xứng với tiềm năng của Chi nhánh,
trong thời gian tới Chi nhánh nên chú ý một số vấn đề sau:
Bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng. Chi
nhánh nên thường xuyên tổ chức tập huấn cho cán bộ về các nghiệp vụ có liên
quan như thẩm định dự án, quy trình cho vay. Để các bài giảng này phát huy
hiệu quả hơn nữa có thể mời các chuyên gia hoặc cán bộ của NHPT TW về
trực tiếp thực hiện. Sau đó, đề nghị cán bộ tham gia tập huấn viết báo cáo thu
hoạch để xem kiến thức được tiếp thu đến đâu. Qua học nghiệp vụ như vậy,
làm cho cán bộ tín dụng có khả năng kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết và
thực tế, giữa kinh nghiệm và kiến thức để nâng cao chất lượng công việc.
Mặt khác, nghiệp vụ cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước chịu điều
tiết của rất nhiều những văn bản pháp luật khác nhau. Trong khi đó, với điều
77
kiện Việt Nam hệ thống những văn bản này thường xuyên thay đổi. Vì vậy,
mỗi khi có những quy định và hướng dẫn thực hiện mới Chi nhánh nên tổ
chức một buổi tập huấn cho cán bộ. Qua đó cũng thu thập các ý kiến đóng
góp của cán bộ về vấn đề trong thực tế để trình NHPT TW và Chính phủ xem
xét sửa đổi cho phù hợp.
Coi trọng việc nâng cao đạo đức nghề nghiệp và thái độ giao dịch với
khách hàng của cán bộ nhận viên, đặc biệt là cán bộ tín dụng là những người
tiếp xúc trực tiếp và thường xuyên với khách hàng.
Phát huy vai trò chủ động của cán bộ tín dụng trong việc tìm kiếm dự án
đầu tư, đóng góp ý kiến để hoàn thiện dự án và chủ động phối hợp với chủ
đầu tư trong việc hoàn tất hồ sơ thủ tục. Với chức năng của mình cán bộ tín
dụng nên chủ động tìm kiếm các dự án đúng đối tượng và hướng dẫn chủ đầu
tư hoàn tất thủ tục vay vốn. Mặt khác, trong quá trình thẩm định cũng nên
cùng với chủ đầu tư xây dựng dự án, đóng góp ý kiến để hoàn thiện dự án.
Tuy vậy, trên góc độ của mình, cán bộ tín dụng chỉ nên đề xuất các định
hướng chứ không nên đưa ra các con số cụ thể để tránh việc vừa lập vừa thẩm
định dự án.
Quy định rõ trách nhiệm và quyền lợi của cán bộ. Đối với nghiệp vụ cho
vay, công việc quy định càng cụ thể bao nhiêu thì hiệu quả đạt được càng cao
bấy nhiêu. Vì vậy, Chi nhánh nên quy định rõ trách nhiệm của từng bộ phận
và phân định quyền hạn và chức năng cụ thể của từng bộ phận giữa thẩm định
và tín dụng để trong trường hợp có rủi ro xảy ra thì xác định được trách nhiệm
thuộc về ai, có sai phạm trong quá trình thực hiện hay không và sai phạm đến
đâu. Bên cạnh đó, Chi nhánh cũng nên xây dựng một quy chế khen thưởng
kịp thời và phù hợp đối với những cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Có thể
gắn quyền lợi vật chất của cán bộ với chất lượng công việc được đánh giá
tổng hợp qua những chỉ tiêu nhất định như dư nợ cho vay, tiến độ giải ngân
78
vốn vay, thời gian thực hiện, số nợ quá hạn và lãi treo.
Thứ hai: Chủ động khơi tăng nguồn vốn và cho vay tín dụng đầu tư
phát triển.
Cùng với đà phát triển kinh tế của đất nước, nhu cầu vốn cho đầu tư phát
triển ngày càng tăng. Trong khi đó, nguồn vốn tín dụng của nhà nước lại hạn
chế. Thực hiện quan điểm bồi dưỡng nguồn thu của Chính phủ, hiện nay chỉ
có khoảng 18% GDP được động viên vào ngân sách hàng năm. Mặt khác, nhu
cầu chi thường xuyên và tích luỹ trả nợ nước ngoài ngày càng tăng gây sức ép
lên ngân sách Nhà nước. Do đó, trong thời gian tới vốn tín dụng đầu tư phát
triển của Nhà nước chắc chắn không thể đảm bảo đáp ứng được nhu cầu.
Trong tình hình đó, để nâng cao hiệu quả hoạt động, Chi nhánh không nên thụ
động trông chờ vào nguồn vốn kế hoạch được Chính phủ cân đối. Nên chủ
động tìm kiếm các nguồn vốn nhàn rỗi như các quỹ tiết kiệm bưu điện, tích
luỹ trả nợ nước ngoài, bảo hiểm xã hội…một nguồn vốn khá lớn còn bỏ ngỏ
mà Chi nhánh có thể huy động hiện nay là vốn vay từ các tổ chức phi chính
phủ, các tổ chức hỗ trợ phát triển nước ngoài như Quỹ hỗ trợ phát triển Châu
Á ADF (Asian Development Fund). Đa số các tổ chức này đều sẵn sàng cấp
tín dụng với lãi suất ưu đãi cho các chương trình phát triển của đất nước. Tuy
nhiên, việc huy động từ các nguồn này cần được xem xét cẩn thận để tránh rủi
ro và những ràng buộc có thể xảy ra.
Mặt khác, Chi nhánh cũng nên phối hợp với các ngân hàng thương mại
trên địa bàn cho vay đồng tài trợ với những dự án chưa được bố trí đủ vốn.
Các dự án được đánh giá là khả thi, có hiệu quả cao, có khả năng trả nợ mà
gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn vốn đối ứng để ký hợp đồng tín
dụng, Chi nhánh nên xem xét để thực hiện bảo lãnh cho chủ đầu tư vay vốn
tại các ngân hàng thương mại hoặc trực tiếp cho vay bằng vốn tạm thời nhàn
rỗi hoặc các nguồn tự huy động khác để sớm đưa dự án đi vào hoạt động.
Thứ ba: Cải tiến quy trình, thủ tục cho vay và giải ngân theo hướng
79
đơn giản thuận tiện hơn cho các chủ thể vay vốn.
Như đã trình bày ở phần trên, đối với hình thức cho vay đầu tư phát triển
của Nhà nước, để được vay vốn doanh nghiệp phải thực hiện những thủ tục
hành chính hết sức nặng nề. Trong điều kiện hiện nay, chủ trương cải cách
hành chính đã và đang được đề ra nhưng để thực hiện được nó thì không phải
một sớm một chiều. Do đó, trong phạm vi khả năng của mình, Chi nhánh nên
xem xét việc cải tiến quy trình, thủ tục cho vay và giải ngân để góp phần giảm
bớt những khó khăn cho Chủ đầu tư. Đó cũng là cơ sở để nâng cao hiệu quả
hoạt động của Chi nhánh. Một số điểm cần lưu ý là:
Xây dựng một cơ cấu tổ chức và quy trình thực hiện hợp lý. Hiện nay tại
Chi nhánh, cán bộ tín dụng gần như đảm đương toàn bộ các công việc từ đầu
đến cuối để ký kết hợp đồng tín dụng và giải ngân vốn vay cho dự án. Trong
khi đó, quy trình thực hiện còn tương đối phức tạp, để ký được hợp đồng tín
dụng hay giải ngân được vốn vay, hồ sơ chứng từ của dự án phải qua hàng
loạt những bước khác nhau từ phòng tín dụng sang phòng kế hoạch nguồn
vốn rồi đến phòng kế toán với chữ ký của Giám đốc Chi nhánh, của các
trưởng phòng, các cán bộ. Vì vậy, Chi nhánh nên nghiên cứu xây dựng cơ cấu
tổ chức và trình tự thực hiện hợp lý hơn để góp phần đẩy nhanh tiến độ thực
hiện.
Về việc ký khế ước nhận nợ của doanh nghiệp khi giải ngân vốn vay, để
thuận tiện cho cả 2 phía: Chi nhánh và doanh nghiệp, Chi nhánh nên lập khế
ước thành 2 bản có giá trị như nhau, mỗi phía giữ một bản. Mỗi khi doanh
nghiệp yêu cầu giải ngân vốn vay, sau khi Chi nhánh đã thẩm tra và đồng ý
giải ngân thì có thể báo cho doanh nghiệp biết để chủ đầu tư ký vào bản khế
ước nhận nợ đang giữ sau đó nộp cho Chi nhánh và nhận bản tại Chi nhánh về
doanh nghiệp và cứ như vậy cho các lần tiếp theo. Mỗi bên sẽ tự chịu trách
nhiệm về nội dung khế ước mà mình giữ trong từng thời kỳ.
Chi nhánh nên linh hoạt hơn trong công tác thẩm định và giải ngân vốn
80
vay. Các quy định trong quy trình cho vay và giải ngân là cần thiết tuy nhiên
đôi khi lại tỏ ra quá cứng nhắc gây khó khăn cho khách hàng. Một vấn đề nữa
là đối với những dự án có vốn đầu tư lớn được bố trí kế hoạch trong nhiều
năm thì việc thẩm định hiệu quả tài chính của từng khoản vốn được bố trí cho
dự án là không chính xác bởi vì hiệu quả của dự án là hiệu quả tổng thể sau
khi đã đầu tư. Do đó, Chi nhánh nên linh động hơn trong việc này, nghĩa là
nếu tổng thể dự án đã được thẩm định và chứng minh hiệu quả tài chính thì
không nhất thiết phải chứng minh hiệu quả của từng món vay.
Thứ tư: Tăng cường cơ sở vật chất và nhanh chóng ứng dụng Marketing
ngân hàng theo hướng hiện đại cho hoạt động tín dụng đầu tư phát triển.
Cho vay đầu tư phát triển của nhà nước về mặt nội dung và phương pháp
thực hiện cũng gần giống như các hình thức cho vay trung dài hạn của các
ngân hàng thương mại. Vì vậy, Chi nhánh hoàn toàn có căn cứ để nghiên cứu
ứng dụng marketing ngân hàng để khắc phục thực trạng hiện nay tạo điều
kiện để mở rộng hoạt động cho vay.
Marketing ngân hàng, tại các ngân hàng thương mại là một hình thức tư
duy hướng tới lợi nhuận. Đó là một quá trình xuyên suốt từ trước, trong và
sau khi cho vay nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu của nhóm khách hàng mục
tiêu và hướng tới mục tiêu sinh lợi cao nhất đó là lợi nhuận của ngân hàng và
sự tăng trưởng phát triển kinh tế xã hội. Trên cơ sở nghiên cứu thị trường, các
ngân hàng tiến hành xây dựng chiến lược marketing và vận dụng linh hoạt
công cụ của Marketing tuỳ thuộc vào mục tiêu và các điều kiện của ngân hàng
mình. Xét trên góc độ của Ngân hàng phát triển, tuy lợi nhuận không phải là
mục tiêu hàng đầu song việc mở rộng cho vay trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả
hoạt động của mình là cần thiết. Để thực hiện được điều này, Chi nhánh nên
nghiên cứu sử dụng các biện pháp marketing phù hợp. Với khả năng còn hạn
chế của bản thân, xin đưa ra một số biện pháp:
Chấn chỉnh lề lối làm việc và thái độ giao dịch của cán bộ đối với khách
81
hàng. Chi nhánh cần xoá bỏ hoàn toàn tác phong làm việc kiểu quan liêu bao
cấp đồng thời nâng cao trình độ nghiệp vụ cũng như thái độ phục vụ của đội
ngũ cán bộ nhằm tạo nên hình ảnh của Chi nhánh đối với khách hàng.
Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ cung ứng bằng cách thực hiện tư
vấn cho doanh nghiệp trong việc lựa chọn dự án, hoàn thiện hồ sơ, thực hiện
các quy định về đấu thầu, giải phóng mặt bằng…Điều này hoàn toàn có cơ sở
để thực hiện vì hầu hết cán bộ của Chi nhánh đều am hiểu các quy định, chính
sách có liên quan của Nhà nước. Trong khi đó, thực hiện công tác này sẽ giúp
doanh nghiệp đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án kéo theo đó là tiến độ kí kết
hợp đồng tín dụng và giải ngân vốn vay. Mặt khác, cũng giúp chủ đầu tư xoá
bỏ tâm lý e ngại khi tiếp cận vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước do
thủ tục quá phức tạp. Đó là cơ sở để Chi nhánh mở rộng cho vay và nâng cao
hiệu quả hoạt động.
Thực hiện các biện pháp quảng cáo khuếch trương. Do đặc trưng và lĩnh
vực hoạt động, các hình thức khuếch trương của Chi nhánh nên được thực
hiện dưới dạng các nghiên cứu chuyên đề trên báo chí, đài phát thanh và
truyền hình. Chi nhánh cũng có thể gửi công văn giới thiệu về hoạt động của
mình, về các điều kiện ưu đãi của hình thức cho vay đầu tư phát triển tại Chi
nhánh đến các đơn vị trên địa bàn.
Thứ năm: Nâng cao năng lực thẩm định, kiểm tra phân loại nợ vay để có biện
pháp xử lý kịp thời.
Công tác thẩm định đóng vai trò then chốt trong hiệu quả hoạt động của
Chi nhánh. Thẩm định là bước đầu tiên dẫn đến việc Chi nhánh có cho vay
đúng đối tượng và có khả năng thu hồi nợ vay hay không. Vạn sự khởi đầu
nan, nếu trong quá trình thẩm định mà mắc phải sai lầm thì hậu quả rất khó
lường. Đối với riêng Chi nhánh, những sai sót trong công tác thẩm định
không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Chi nhánh, đến hiệu quả
đầu tư trên địa bàn mà xa hơn nữa là đến ngân sách nhà nước, đến sự phát
82
triển của toàn xã hội.
Với tư cách là người đi vay, các chủ đầu tư thường tìm mọi cách để “làm
đẹp” hồ sơ xin vay của mình. Trách nhiệm của thẩm định là phải đánh giá
đúng năng lực của chủ đầu tư và hiệu quả của dự án, phát hiện ra những rủi ro
tiềm ẩn làm cơ sở cho quyết định cho vay hay không của Ngân hàng phát
triển. Một số việc cần thực hiện để nâng cao năng lực thẩm định hiện nay tại
Chi nhánh:
Về thu thập thông tin khách hàng.
Để đánh giá được năng lực của chủ đầu tư, Chi nhánh cần thu thập
những thông tin về ngành nghề hoạt động, tình hình hoạt động kinh doanh,
trình độ quản lý của đội ngũ lãnh đạo và lịch sử quan hệ tín dụng của doanh
nghiệp. Những thông tin này góp phần đánh giá được mức độ an toàn của Chi
nhánh khi giao vốn cho doanh nghiệp. Các thông tin này có thể có được từ
các nguồn sau:
- Kiểm tra tại doanh nghiệp: cán bộ tín dụng trực tiếp xuống tận cơ sở
sản xuất kinh doanh để kiểm tra thực trạng của doanh nghiệp, trong đó cần
đặc biệt chú ý đến máy móc thiết bị của doanh nghiệp lạc hậu hay hiện đại,
được bảo quản tốt hay không, số lượng hàng tồn kho.
-Xem xét các báo cáo tài chính của doanh nghiệp: Trong hồ sơ xin vay, Chi
nhánh yêu cầu doanh nghiệp nộp báo cáo tài chính 2 năm gần nhất. Thông
qua phân tích các báo cáo này, Chi nhánh có thể đánh giá được năng lực hoạt
động của doanh nghiệp. Tuy nhiên để việc phân tích đưa lại kết quả chính xác
cần chú ý bồi dưỡng kiến thức về phân tích báo cáo tài chính cho cán bộ thẩm
định đồng thời với việc kiểm tra mức độ chính xác của các báo cáo tài chính
trên cơ sở điều tra tại doanh nghiệp, thu thập thông tin từ cơ quan quản lý cấp
trên của doanh nghiệp và từ các cơ quan thuế.
- Thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước
(CIC): Trong trường hợp cần thiết, đặc biệt là đối với dự án vay của các chủ
83
đầu tư thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, Chi nhánh nên tham khảo
thông tin về khách hàng từ CIC. Trung tâm này cung cấp những thông tin về
lịch sử quan hệ tín dụng của khách hàng, các khoản vay, tình hình thực hiện
nghĩa vụ trả lãi và trả nợ, các khoản nợ quá hạn trước đây của đơn vị. Qua đó
giúp Chi nhánh đánh giá được ý thức và khả năng trả nợ của khách hàng. Mặt
khác, CIC còn cung cấp thông tin về tài sản thế chấp giúp Chi nhánh ngăn
ngừa được tình trạng đơn vị đem tài sản thế chấp đi thế chấp tại ngân hàng
khác hoặc dùng tài sản đã thế chấp để bảo đảm nợ vay.
Về thẩm định dự án.
Yếu tố trực tiếp quyết định đến quyết định cho vay là hiệu quả tài chính
của dự án. Hiện nay, Chi nhánh thường sử dụng 4 phương pháp để đánh giá
hiệu quả tài chính của dự án đó là phương pháp tính giá trị hiện tại ròng
(NPV), phương pháp tính tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR), phương pháp tính
thời gian hoàn vốn đầu tư (PP) và phương pháp tính hệ số sinh lời của dự án
(BCR). Ngoài ra cũng xem xét đánh giá kế hoạch thị trường của dự án. Tuy
nhiên, để đánh giá chính xác hơn hiệu quả của dự án trong điều kiện những
biến động của môi trường, Chi nhánh nên kết hợp sử dụng phương pháp phân
tích tình huống trong thẩm định dự án. Phân tích tình huống là một kỹ thuật
phân tích rủi ro hiện đại. Trong phương pháp này đòi hỏi phải xem xét cả tập
hợp những hoàn cảnh tài chính tốt và xấu và sắc xuất xảy ra so với trường
hợp có sắc xuất xảy ra lớn nhất (trường hợp cơ sở). Tập hợp những hoàn cảnh
tài chính xấu là hoàn cảnh trong đó số lượng bán thấp, giá bán thấp, chi phí
biến đổi cao…và ngược lại đối với tập hợp những hoàn cảnh tài chính tốt.
Trong từng trường hợp ta sẽ tính NPV và so sánh với NPV cơ sở từ đó xác
định được NPV mong đợi của dự án.
là sắc xuất xảy ra tình huống i
là NPV của dự án trong tình huống i
84
Trong đó:
NPV mong đợi cho phép đánh giá đúng hơn khả năng sinh lợi của dự án.
* Nghiệp vụ thẩm định tại Chi nhánh có thêm một bước nữa là xác định
đối tượng áp dụng cho vay đầu tư phát triển của nhà nước của dự án để làm
cơ sở cho việc ký kết hợp đồng tín dụng, xác định mức lãi suất cho vay và
thời hạn cho vay. Tuy Chính phủ và Ngân hàng phát triển đã ra nhiều văn bản
hướng dẫn thực hiện song trên thực tế, việc xác định đối tượng trong nhiều
trường hợp là rất khó khăn, đặc biết là đối với những lĩnh vực chưa có quy
hoạch cụ thể như xã hội hoá giáo dục, văn hoá, y tế, thể dục thể thao hoặc
những dự án có nhiều hạng mục thuộc các đối tượng khác nhau. Trong trường
hợp này, Chi nhánh cần tham khảo quy hoạch phát triển ngành của các Bộ,
ngành có liên quan trên cơ sở vận dụng các văn bản pháp luật và kế hoạch
vốn do Sở kế hoạch đầu tư bố trí.
Đối với việc theo dõi nợ vay của Chi nhánh hiện nay hoàn toàn do các
cán bộ tín dụng đảm nhiệm. Cán bộ phụ trách cho vay dự án nào sẽ tiến hành
theo dõi và phân loại nợ vay đối với dự án đó. Điều này cho phép Chi nhánh
nắm được thông tin một cách đầy đủ và toàn diện hơn do cán bộ cho vay quản
lý dự án từ đầu đến cuối nên nắm vững tình hình của chủ đầu tư và việc thực
hiện dự án. Định kỳ, Chi nhánh sẽ tiến hành rà soát phân loại nợ vay trên cơ
sở thu lãi, thu gốc và báo cáo của cán bộ tín dụng phụ trách dự án. Trong thời
gian tới, để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động cho vay, đánh giá kịp thời
và ngăn chặn những rủi ro có thể xảy ra, Chi nhánh nên có bộ phận chuyên
trách về vấn đề này. Bộ phận này sẽ làm nhiệm vụ tập hợp thông tin từ các
cán bộ tín dụng trên cơ sở xem xét tình hình thực tế để tiến hành phân loại nợ
vay, từ đó có những biện pháp xử lý thích hợp. Trên thực tế, những dấu hiệu
cho thấy một khoản dư nợ có thể xảy ra rủi ro là:
- Doanh nghiệp chậm trễ trong việc báo cáo kết quả hoạt động kinh
85
doanh của mình với Chi nhánh.
- Doanh nghiệp có biểu hiện trốn tránh khi cán bộ tín dụng xuống kiểm tra
đơn vị.
- Hoàn trả lãi vay và nợ gốc chậm hoặc không đầy đủ theo hợp đồng tín
dụng đã ký.
Khi phát sinh những biểu hiện trên, cần nhanh chóng tìm hiểu nguyên
nhân và tuỳ thuộc vào nguyên nhân mà đề xuất với lãnh đạo Chi nhánh hoặc
trình cấp trên phương hướng giải quyết.
Đối với những dự án gặp khó khăn tạm thời do những biến động của tình
hình thị trường ngoài khả năng tính toán thì nên xem xét miễn giảm lãi vay
đồng thời phối hợp với chủ dự án để nhanh chóng tìm phương hướng khắc
phục. Trong một số trường hợp không nên ngừng giải ngân đối với các dự án
thuộc diện này mà nên đẩy nhanh giải ngân vì tăng vốn đầu tư trong giai đoạn
này có thể giúp doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh. Nếu không có
khoản gia tăng đầu tư kịp thời này, doanh nghiệp có thể mất khả năng thanh
toán và rủi ro của Chi nhánh càng lớn hơn.
Đối với những khoản nợ quá hạn do nguyên nhân khách quan (được quy
định cụ thể trong Quy chế cho vay) thì phối hợp với chủ đầu tư hoàn thiện hồ
sơ trình Ngân hàng phát triển trung ương và Chính phủ xem xét khả năng gia
hạn nợ hoặc khoanh nợ. Chú ý rằng những khoản nợ này sau khi được gia hạn
hoặc khoanh nợ vẫn cần theo dõi thường xuyên để hạn chế các rủi ro tiếp theo
và thu hồi vốn kịp thời cho Chi nhánh khi có khả năng.
Đối với những khoản nợ khó đòi mà chủ đầu tư mất khả năng thanh toán
do các nguyên nhân khách quan thì phối hợp với chủ đầu tư lập hồ sơ trình
Chính phủ xem xét xoá nợ. Trong trường hợp này cũng cần theo sát đơn vị để
thu hồi phần nào vốn vay từ tiền bồi thường của cơ quan bảo hiểm. Bên cạnh
đó, đồng thời tiến hành các thủ tục bù đắp rủi ro từ Quỹ dự phòng rủi ro.
Đối với những khoản nợ khó đòi (sau khi đã thực hiện đầy đủ các biện
86
pháp giãn nợ, khoanh nợ) do nguyên nhân chủ quan của chủ đầu tư trước hết
cần báo cáo kịp thời với cơ quan chủ quản và cơ quan ra quyết định đầu tư.
Trong thời gian đó chuẩn bị đầy đủ hồ sơ thủ tục cho việc phát mại tài sản
hình thành bằng vốn vay hoặc tài sản thế chấp để thu hồi vốn cho Chi nhánh.
3.2.2-Nhóm giải pháp đối với các chủ dự án vay và sử dụng vốn tín
dụng đầu tư phát triển nhà nước.
Một là : Giáo dục ý thức lấy chất lượng và hiệu quả làm hướng phấn đấu
đồng thời đi đôi với kiểm tra, giám sát nhằm khắc phục hiện tượng lãng phí
thất thoát, tham ô, tham nhũng làm giảm hiệu quả sử dụng vốn tín dụng đầu
tư phát triển trong từng công trình, từng dự án.
Để nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước yếu tố chủ
thể vay sử dụng vốn tín dụng ĐTPT có vai trò hết sức quan trọng, một mặt
cần quán triện, tuyên truyền cho các chủ thể vay vốn biết đây là nguồn vốn ưu
đãi của Nhà nước, nguồn vốn này rất hạn hẹp, một phần được hình thành từ
ngân sách nhà nước cấp hàng năm, một phần ngân hàng phát triển phải huy
động bằng trái phiếu Chính phủ và huy động của các tổ chức khác, các nguồn
huy động này nhà nước phải cấp bù chênh lệch lãi suất theo thị trường để cho
vay. Bởi vậy các chủ thể vay vốn phải biết sử dụng một cách tiết kiệm, hiệu
quả tránh gây thất thoát, lãng phí. Đồng thời bên cạnh việc tuyên truyền đó thì
công tác kiểm tra, giám sát vốn vay đối với từng món vay, từng lần giải ngân
phải được kiểm tra thường xuyên, tránh tình trạng chủ thể vay vốn sử dụng
vốn vay sai mục đích hoặc nâng khống khối lượng nhằm rút vốn vay của nhà
nước. Việc này không chỉ giúp cho các chủ thể sử dụng vốn vay thực hiện
đúng các quy định về tín dụng đầu tư của nhà nước mà thông qua kiểm tra,
giám sát vốn vay cán bộ Ngân hàng có thể nắm bắt được quá trình hoạt động
của doanh nghiệp cũng như tiến độ thực hiện dự án mà đưa ra những biện
87
pháp xử lý kịp thời hoặc là tư vấn cho chủ thể vay vốn nhằm phát huy tốt nhất
hiệu quả từng đồng vốn của Nhà nước, tránh được hiện tượng tham ô, tham
nhũng gây thất thoát, lãng phí vốn của Nhà nước.
Hai là : Đẩy mạnh việc ứng dụng những thành tựu khoa học-công nghệ tiên
tiến và giải phóng mặt bằng để rút ngắn thời gian thi công đưa nhanh công
trình vào sản xuất, nâng cao chất lượng và hạ giá thành dự án đầu tư.
Tiến độ thực hiện dự án có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hiệu quả
của dự án, dự án thực hiện đúng tiến độ sẽ đảm bảo cho công trình đưa vào
khai thác sử dụng, tạo doanh thu, tạo công ăn việc làm cho người lao động,
bởi vậy các chủ thể vay vốn phải có kế hoạch, biện pháp cụ thể đặc biệt là
phải biết vận dụng các tiến bộ khoa học – kỹ thuật, các công nghệ hiện đại
trong quá trình triển khai dự án nhưng phải đảm bảo chi phí, hạ giá thành
nhằm sớm đưa công trình vào khai thác sử dụng.
Ba là: Nâng cao năng lực quản lý và tay nghề của đội ngũ cán bộ quản lý và
công nhân viên.
Để vận hành một dự án tốt thì yếu tố con người có ý nghĩa quyết định lớn
nhất để thực hiện thành công dự án. Một dự án tốt nhưng đội ngũ cán bộ quản
lý, trình độ tay nghề công nhân kém thì dự án vẫn khó thành công. Ngược lại
một dự án kém nhưng độ ngũ quản lý có năng lực, trình độ tay nghề của công
nhân tốt thì họ vẫn có thể xoay sở tìm ra hướng giải quyết. Do đó cần phải bồi
dưỡng về năng lực quản lý, điều hành cho đội ngũ cán bộ, công nhân trong
thực hiện dự án là yếu tố quan trọng để dự án thành công.
3.3- Nhóm giải pháp (kiến nghị) đối với Chính phủ, cơ quan cấp trên
và các cơ quan có liên quan.
Cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước là một nghiệp vụ thuộc lĩnh vực
88
tài chính công. Do đó, Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây chỉ có thể
nâng cao chất lượng hoạt động cho vay đầu tư phát triển nếu được sự chỉ đạo
đúng đắn của Chính phủ và các cơ quan Nhà nước và sự phối hợp với các
ngành có liên quan. Xuất phát từ đặc trưng đó, trên cơ sở nghiên cứu đề tài,
xin đề xuất một số kiến nghị với Chí phủ, Ngân hàng cấp trên, địa phương và
các đơn vị có liên quan. Các kiến nghị đều xuất phát từ lợi ích của cả 3 phía:
Nhà nước, Chi nhánh và chủ đầu tư như tiêu chí của tín dụng đầu tư phát triển
và hướng vào mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển
của Nhà nước tại Chi nhánh .
3.3.1- Đối với Chính phủ.
Hoàn thiện chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước.
- Cần đa dạng hoá hình thức tín dụng ĐTPT của Nhà nước.
Với xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, các doanh nghiệp thường có
quy mô vốn nhỏ, công nghệ sản xuất lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường, trình
độ quản lý ở mức độ thấp nên muốn cạnh tranh được, các doanh nghiệp trong
nước rất cần sự hỗ trợ tài chính của Nhà nước. Trong những năm qua hình
thức chủ yếu của hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước vẫn chủ
yếu là cho vay đầu tư phát triển, theo như hiện trạng đã phân tích nguồn vốn
của Nhà nước để cho vay hiện nay rất hạn hẹp, một phần nguồn vốn này được
hình thành từ ngân sách nhà nước, phần còn lại phải huy động, hiện nay công
tác huy động vốn cũng gặp không ít khó khăn, để giảm bớt khó khăn về
nguồn vốn trực tiếp hỗ trợ cho vay các dự án, Đề nghị với Chính phủ nên mở
rộng hình thức hỗ trợ gián tiếp cho các dự án cần được khuyến khích đầu tư
như hình thức Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bằng hình thức này Chính phủ chỉ
cần bỏ ra một khối lượng ít vốn mà vẫn có thể hỗ trợ cho các dự án cần
khuyến khích đầu tư. Bằng hình thức này Chính phủ sẽ hỗ trợ một phần lãi
suất cho các dự án có vay vốn ở các Ngân hàng thương mại trong nước, số
tiền hỗ trợ bằng chênh lệch giữa lãi suất vay thương mại với lãi suất ưu đãi
89
của nhà nước, như vậy nhà nước sẽ không phải bỏ ra một lượng vốn lớn cho
vay với lãi suất thấp mà vẫn có thể hỗ trợ cho các đối tượng cần khuyến khích
đầu tư.
- Về đối tượng cho vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước.
Với những phân tích nói ở chương 1 ta thấy, đối tượng cho vay vốn tín
dụng ĐTPT của Nhà nước không giống với đối tượng vay vốn thương mai.
Lựa chọn đối tượng vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước cần đảm bảo mục
tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội. Một mặt, vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước
phải là vốn „mồi‟ khuyến khích các thành phần kinh tế khác nhau phát huy
tiềm năng, vật lực để đưa vào sản xuất tạo ra của cải vật chất mới cho xã hội,
mặt khác nhằm thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, từng bước rút ngắn
khoảng cách giầu nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội.
Theo chúng tôi, đối tượng vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước phải đựơc mở rộng bao gồm cả những chương trình phát triển của Chính
phủ, những vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn.
Ngay trong việc lựa chọn đối tượng cho vay vốn tín dụng đầu tư phát
triển của Nhà nước cũng có sự mô thuẫn. Một mặt, tín dụng đầu tư phát triển
của Nhà nước phải đảm bảo tính hiệu quả, phải đảm bảo sự hoàn trả vốn như
bất kỳ vốn tín dụng nào khác, mặt khác lại phải đảm bảo tính xã hội, chú
trọng đầu tư vào những dự án mà phần lớn hiệu quả trực tiếp không cao.
Để đồng thời đáp ứng nguyên tắc tín dụng "hoàn trả" và mục đích điều
tiết kinh tế của Chính phủ, theo chúng tôi việc lựa chọn đối tượng cho vay
vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc sau:
+ Đối tượng cho vay phải phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã
hội nói chung và chiến lược đầu tư phát triển của Nhà nước trong những thời
kỳ cụ thể nói riêng.
+ Đối tượng cho vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước phải
90
chủ yếu thuộc các lĩnh vực, các ngành, các chương trình Nhà nước cần được
khuyến khích đầu tư và những vùng kinh tế khó khăn nếu không có sự hỗ trợ
của Nhà nước thì không phát triển được.
+ Đối tượng cho vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước phải
có vị trí xung yếu trong nền kinh tế, trong từng vùng và lĩnh vực.
+ Đối tượng vay vốn phải có tác dụng tạo đà, lôi kéo các ngành, các
vùng, các lĩnh vực phát triển. Sau khi hoàn thành sứ mạng của mình, đối
tượng vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước phải được thay đổi
phù hợp với mục tiêu kinh tế xã hội từng thời kỳ cụ thể.
+ Đối tượng vay vốn phải đảm bảo sự an toàn vốn vay (nguyên tắc
chung đối với tín dụng), đảm bảo cho việc quản lý và sử dụng nguồn vốn tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đúng mục đích và hiệu quả. An toàn và
hiệu quả trở thành một nguyên tắc quan trọng trong việc lựa chọn đối tượng
cho vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
+ Như vậy, việc lựa chọn đối tượng cho vay vốn tín dụng đầu tư phát
triển của Nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc quản lý, sử dụng
loại vốn tín dụng này. Nó thực sự là một công cụ tài chính – tín dụng nhằm
đáp ứng yêu cầu quản lý nền kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Đối tượng vay vốn
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cần được ổn định trên cơ sở kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội của đất nước và trong giai đoạn 2006 – 2010 cần tập
trung vào những ngành, lĩnh vực nhằm thực hiện chính sách chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của Đảng và Nhà nước. Như vậy không nên quy định chỉ những
dự án đầu tư thuộc vùng kinh tế khó khăn mới được vay vốn tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước.
- Tăng tính chủ động cho Ngân hàng phát triển Việt Nam trong việc
quyết định lãi suất huy động vốn.
Hiện nay, lãi suất huy động vốn của Ngân hàng phát triển do Thủ tướng
91
Chính phủ quyết định hàng năm (vay Bảo hiểm xã hội), một số nguồn do Bộ
trưởng Bộ Tài chính quyết định hàng tháng, hàng quý (trái phiếu Chính phủ,
Tiết kiệm bưu điện, huy động vốn của các tổ chức khác...). Để chủ động và
linh hoạt cho Ngân hàng phát triển, kiến nghị Chính phủ và Thủ tướng Chính
phủ:
- Đối với vốn vay các Quỹ: Tiết kiệm Bưu điện, Bảo hiểm Xã hội Việt
Nam, các nguồn vốn và các quỹ khác của Nhà nước: Lãi suất tối đa bằng lãi
suất trái phiếu Chính phủ cùng kỳ hạn.
- Đối với các nguồn vốn huy động khác: Không cao hơn lãi suất huy
động của các ngân hàng thương mại Nhà nước.
- Lãi suất huy động vốn trong từng thời kỳ do Tổng Giám đốc Ngân hàng
phát triển quyết định theo nguyên tắc nêu trên.
Cơ sở của kiến nghị là thực hiện theo cơ chế này sẽ giúp tăng tính chủ
động của Ngân hàng phát triển trong huy động vốn, cân đối vốn cho vay đầu
tư các dự án, thực hiện được cơ chế kế hoạch hoá theo hướng đổi mới. Đồng
thời với lãi suất huy động không cao hơn lãi suất huy động của các ngân hàng
thương mại Nhà nước không gây ảnh hưởng đến thị trường vốn, vẫn đảm bảo
sự lành mạnh của thị trường.
- Mở rộng các hình thức huy động vốn của Ngân hàng phát triển.
Theo quy định hiện nay, Ngân hàng phát triển không được huy động
vốn ngắn hạn từ dân cư và không được huy động vốn bằng ngoại tệ. Để Ngân
hàng phát triển có nguồn cho vay ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu với chi phí thấp,
thay vì phải huy động vốn dài hạn với lãi suất cao để cho vay như hiện nay,
kiến nghị Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ cho phép Ngân hàng phát triển
được huy động vốn ngắn hạn từ dân cư và các tổ chức kinh tế để cho vay
92
ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu. Cơ chế huy động vốn cũng nên cho Ngân hàng
phát triển được quyền chủ động trên cơ sở khống chế mức cấp bù chênh lệch
hàng năm.
Ngân hàng phát triển cần được huy động vốn bằng ngoại tệ để đáp ứng
nhu cầu vốn cho các dự án có nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị bằng ngoại
tệ.
- Hoàn thiện cơ chế kế hoạch hoá.
Theo qui định hiện nay, Thủ tướng Chính phủ giao cho Ngân hàng phát
triển tổng mức vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước chia theo các hình thức:
Cho vay đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư và hỗ trợ LSSĐT phân theo cơ cấu
ngành, lĩnh vực và vùng. Căn cứ kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ giao,
Ngân hàng phát triển thông báo tổng mức cho các Bộ, ngành, địa phương.
Căn cứ kế hoạch được Ngân hàng phát triển thông báo, các Bộ ngành, địa
phương phân khai kế hoạch cho từng dự án. Cơ chế này dẫn đến đầu tư tràn
lan, không dứt điểm, giảm hiệu quả đầu tư của các dự án.
Để khắc phục tình trạng trên, kiến nghị Chính phủ và Thủ tướng Chính
phủ hoàn thiện cơ chế kế hoạch hoá theo hướng:
Kế hoạch tín dụng hỗ trợ phát triển của Nhà nước chỉ mang tính định
hướng, hàng năm Thủ tướng Chính phủ giao một số chỉ tiêu quan trọng, bao
gồm:
+ Vốn NSNN cấp bù chênh lệch lãi suất đối với việc cho vay đầu tư
trung dài hạn, bảo lãnh tín dụng đầu tư. Vốn NSNN cấp hỗ trợ LSSĐT.
+ Vốn ODA cho vay lại.
+ Vốn NSNN cho vay đầu tư ra nước ngoài theo Hiệp định của Chính
phủ.
+ Vốn NSNN dành cho cho vay theo các chương trình mục tiêu của
93
Chính phủ.
+ Danh mục và mức vốn cho vay của các dự án Nhóm A và một số dự
án quan trọng khác của Chính phủ.
- Chủ đầu tư các dự án thuộc đối tượng theo qui định đăng ký trực tiếp
với Ngân hàng phát triển về nhu cầu vay vốn và các hình thức hỗ trợ đầu tư.
- Ngân hàng phát triển có trách nhiệm tổng hợp và thông báo cho các
Bộ, ngành và UBND Tỉnh, thành phố về tình hình tín dụng hỗ trợ phát triển
của Bộ, ngành và trên địa bàn. Trong trường hợp vượt kế hoạch được giao thì
Ngân hàng phát triển cân đối khả năng, nhu cầu đầu tư báo cáo Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, Bộ Tài chính để tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ.
Lý do: Thực hiện như vậy giúp tăng tính chủ động của Ngân hàng phát
triển trong huy động vốn trong phạm vi số vốn Ngân sánh Nhà nước cấp bù
chênh lệch lãi suất, tạo tiền đề căn bản và thuận lợi cho huy động vốn theo lãi
suất thị trường; đồng thời Ngân hàng phát triển hoàn toàn chủ động trong việc
điều hành kế hoạch, quyết định cho vay và phân bổ vốn trực tiếp tới từng dự
án. Đồng thời giảm bớt các khâu trung gian trong việc lập và thông báo kế
hoạch, tiết kiệm thời gian, tạo điều kiện cho chủ đầu tư chớp thời cơ đầu tư
phát triển sản xuất.
- Thực hiện cho vay bằng ngoại tệ.
Hiện nay nhiều dự án thuộc đối tượng phục vụ có nhu cầu vay vốn
bằng ngoại tệ, việc cho vay các dự án cần ngoại tệ để nhập khẩu thiết bị và
công nghệ từ nước ngoài là con đường ngắn nhất và tích cực nhất hỗ trợ cho
dự án thay vì chỉ cho dự án vay nội tệ như hiện nay, để dự án phải vay ngoại
tệ từ thị trường hoặc phải dùng nội tệ để mua ngoại tệ đáp ứng yêu cầu đầu tư.
Cho vay bằng ngoại tệ sẽ giảm rủi ro trong thanh toán của các dự án khi dùng
94
nội tệ mua ngoại tệ để thanh toán các khoản cần thiết.
- Chỉ đạo các cơ quan có thẩm quyền xử lý dứt điểm nợ xấu cho Ngân
hàng phát triển.
Như đã trình bày ở chương 2, nợ quá hạn và lãi đến hạn chưa trả của
Chi nhánh có xu hướng ngày càng tăng do các dự án thuộc diện xử lý nợ chưa
được xử lý dứt điểm. Các dự án đầu tư Quỹ HTPT nhận bàn giao từ Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển, các dự án thuộc chương trình của Chính phủ như
kiên cố hoá kênh mương, nhiều hồ sơ dự án Chi nhánh trình Ngân hàng Phát
triển TW nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau mà Ngân hàng phát triển
TW vẫn chưa xử lý kịp thời. Kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ
đạo các cơ quan có thẩm quyền xử lý nợ xấu dứt điểm.
Việc xử lý nợ gắn chặt với tiến trình cổ phần hoá, bán khoán cho thuê
doanh nghiệp Nhà nước. Do đó cần có sự quan tâm chỉ đạo kịp thời đối với
các khoản nợ tín dụng Nhà nước tại các doanh nghiệp theo một cơ chế thật rõ
ràng, tránh tình trạng xử lý nợ tín dụng Nhà nước đang phải vận dụng các văn
bản quy định xử lý nợ tín dụng ngân hàng.
- Nâng vốn điều lệ cho Ngân hàng phát triển
Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo về việc nâng vốn điều lệ cho
Ngân hàng phát triển lên 10.000 tỷ đồng. Trong điều kiện hiện nay, việc tăng
cường tiềm lực tài chính cho hệ thống Ngân hàng phát triển là rất cần thiết để
góp phần đáp ứng yêu cầu tăng trưởng nền kinh tế, phục vụ cho các mục tiêu
chiến lược của Chính phủ. Vì vậy, kiến nghị Chính Phủ, Thủ tướng chính phủ
xem xét dành một phần vốn hàng năm từ phát hành trái phiếu Chính phủ cấp
bổ sung vốn điều lệ cho Ngân hàng phát triển, việc này không chỉ tạo điều
kiện tăng nguồn vốn cho Ngân hàng phát triển TW, thông quá đó cơ chế tín
dụng tại các Chi nhánh cũng được cởi mở hơn.
Về thời hạn cho vay, thời hạn cho vay tối đa 12 (riêng đối với dự án
95
trồng rừng là có thể 15 năm) hiện nay là không phù hợp. Do đó, Chính phủ
cần nghiên cứu qui định thời gian cho vay đối với các dự án đảm bảo tiêu chí
của đầu tư phát triển. Mặt khác, thời hạn cho vay được xác định từ khi nhận
được khoản vay đầu tiên đến khi trả hết nợ. Tuy nhiên, do đặc trưng của các
dự án đầu tư phát triển, trên thực tế có một số dự án trong thời gian thực hiện
bị gián đoạn không giải ngân tiếp được do những điều kiện khách quan như
những vướng mắc trong giải phóng mặt bằng, đấu thầu máy móc thiết bị nên
thời gian sử dụng vốn thực tế ít hơn nhiều. Vì vậy các cơ quan chức năng cần
nghiên cứu đưa ra qui định cụ thể đối với những trường hợp này. Ngoài ra,
qui định về thời gian ân hạn đối với dự án được tính từ thời điểm rút vốn cũng
chưa thật hợp lý, đặc biệt là đối với những dự án có thời gian đầu tư dài và
giải ngân rải rác. Vì vậy, Chính phủ nên qui định thời gian ân hạn được tính là
từ khi khởi công hay rút vốn vay đến khi dự án hoàn thành đưa vào sử dụng
như vậy sẽ trách được tình trạng dự án chưa đưa vào sử dụng đã phải trả nợ
gốc dẫn đến phát sinh nợ quá hạn.
3.3.2- Đối với Ngân hàng Nhà nước:
- Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ, quản
lý ngoại hối và thanh toán của Ngân hàng phát triển.
- Hướng dẫn Ngân hàng phát triển tham gia hệ thống thanh toán và
cung cấp dịch vụ thanh toán cho khách hàng theo đúng quy định. Chỉ đạo
Ngân hàng Chính sách xã hội, các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín
dụng phối hợp vơi Ngân hàng phát triển thực hiện các nghiệp vụ uỷ thác cho
vay, bảo lãnh và hỗ trợ LSSĐT theo quy định của Ngân hàng phát triển và
quy chế hoạt động của Ngân hàng và các tổ chức tín dụng.
3.3.3- Đối với Ngân hàng phát triển Việt Nam
Về việc giao kế hoạch vốn tín dụng.
Việc chậm trễ trong giao kế hoạch vốn hàng năm của Ngân hàng phát triển
96
trung ương luôn luôn ở trong tình trạng bị động. Nhiều dự án có hiệu quả cao
đã không được chấp thuận cho vay do chưa có kế hoạch vốn. Hơn nữa, việc
giao kế hoạch vốn nhỏ giọt, số vốn cân đối quá ít so với nhu cầu cũng làm cho
đầu tư dàn trải và manh mún. Vì vậy để tạo điều kiện cho Chi nhánh nâng cao
hiệu quả hoạt động của mình, đề nghị Ngân hàng phát triển thực hiện giao kế
hoạch hàng năm đúng theo qui định vào khoảng tháng 10 năm trước, cùng với
tiến độ giao các kế hoạch kinh tế xã hội khác. Mặt khác, cũng nên thực hiện
cân đối vốn luôn một lần, tránh trường hợp đến cuối năm mới thông báo kế
hoạch vốn bổ sung gây khó khăn cho hoạt động của Chi nhánh. Đó là cơ sở để
cho Chi nhánh xây dựng kế hoạch hoạt động và triển khai thực hiện cho vay
phát triển ngay từ đầu năm. Có như vậy mới đảm bảo hoàn thành kế hoạch
vốn được giao và có điều kiện tìm kiếm hỗ trợ cho các dự án đầu tư phát triển
bằng các nguồn khác.
Phân cấp hơn nữa cho Chi nhánh trong thực hiện công việc.
- Phân cấp thẩm quyền trong thẩm định và quyết định cho vay dự án tín
dụng ĐTPT của Nhà nước;
Kiến nghị với Ngân hàng phát triển giao cho Chi nhánh quyền chủ động
hơn nữa trong việc thực hiện nhiệm vụ tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước trên địa bàn; đặc biệt là việc phân cấp thẩm định, quyết định cho vay các
dự án tín dụng đầu tư phát triển, vì hiện nay Ngân hàng phát triển mới phân
cấp cho Chi nhánh thẩm định và quyết định cho vay các dự án có tổng mức
đầu tư dưới 50% của nhóm B, còn các dự án có tổng mức đầu tư lớn hơn 50%
nhóm B trở lên Chi nhánh phải trình Ngân hàng phát triển quyết định. Việc
này không chỉ tạo điều kiện cho Chủ đầu tư phải quan hệ qua nhiều khâu,
nhiều cấp gây tốn kém chi phí và mất thời gian mà hơn thế nữa là tạo quyền
chủ động cho Chi nhánh và cũng là để thực hiện cơ chế một cửa theo đúng
97
tinh thần của Đảng và nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
- Phân cấp thẩm quyền gia hạn nợ vốn vay tín dụng ĐTPT của Nhà
nước;
Đề nghị với Ngân hàng phát triển phân cấp cho Chi nhánh được gia hạn
nợ đối với các dự án có nợ quá hạn tạm thời, vì hiện nay số dự án nợ quá hạn
và tỷ lệ nợ quá hạn tại Chi nhánh tương đối cao là do các thủ tục và trình tự
gia hạn nợ Chi nhánh đều phải trình Ngân hàng phát triển, trong khi đó các
khâu thực hiện việc xem xét gia hạn cho các chủ đầu tư tại Ngân hàng phát
triển lại chưa kịp thời và có những dự án Chi nhánh đã hoàn tất thủ tục, hồ sơ
trình Ngân hàng phát triển nhưng quyết định của Ngân hàng phát triển thường
chậm trễ, việc này sẽ giúp Chi nhánh giảm tỉ lệ nợ quá hạn cũng như giúp cho
các chủ đầu tư trong việc cân đối nguồn tài chính trả nợ Chi nhánh.
Về việc xử lý nợ xấu:
Đề nghị Ngân hàng phát triển ban hành chi tiết các thụ tục, quy trình về
việc xử lý nợ xấu cho từng đối tượng vay vốn của hệ thống Ngân hàng phát
triển đặc biệt là các dự án thuộc loại hình doanh nghiệp nhà nước, vì hiện nay
tại Chi nhánh NHPT Hà Tây cũng như nhiều Chi nhánh khác đại đa số các
doanh nghiệp này đang thực hiện tiến trình cổ phần hoá, và các doanh nghiệp
nhà nước làm ăn thua lỗ thì bắt buộc phải chuyển đổi theo hình thức, Bán,
Khoán, Cho thuê mà rất nhiều doanh nghiệp này hiện đang có dự nợ tại Hệ
thống Ngân hàng phát triện, ở Hà Tây có 4 doanh nghiệp thuộc diện cổ phần
hoá, bán khoán…có vay vốn tại Chi nhánh và hầu như đến nay đã quá hạn
100% mà số vốn vay tương đối lớn, việc xử lý nợ tại Chi nhánh còn gặp rất
nhiều lúng túng, xử lý rất điểm các món nợ quá hạn này sẽ giúp cho Chi
nhánh giảm tỷ lệ nợ quá hạn và lãi treo, cũng như giúp cho các Chi nhánh
khác trong hệ thống thực hiện hiệu quả hơn công tác tín dụng đầu tư phát triển
của Nhà nước.
Công tác xử lý nợ tốt sẽ làm cho lành mạnh hoá tài Chính tại Chi nhánh
98
cũng như góp phần làm lành mạnh hoá tài chính trong toàn hệ thống Ngân
hàng phát triển, với xu thế hội nhập hiện nay tài chính lành mạnh là yếu tố
quan trọng để tham gia một sân chơi chung trong khu vực cũng như sân chơi
quốc tế, đặc biệt là công tác huy động vốn cho hệ thống Ngân hàng phát triển.
3.3.4- Kiến nghị với Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây.
Về việc trả nợ vốn vay tín dụng đầu tư phát của Nhà nước.
Đề nghị UBND tỉnh Chỉ đạo Sở tài chính lập dự toán Ngân sách hàng
năm trình Hội đồng nhân dân tỉnh nguồn để trả nợ Chương trình kiên cố hoá
kênh mương mà Chi nhánh cho Ngân sách tỉnh vay để thực hiện kiên cố hoá
kênh mương nội đồng, việc này không chỉ giúp cho chi nhánh nâng cao hiệu
quả hoạt động mà cũng là giúp cho tỉnh trong thời gian tới sẽ tiếp cận thêm
được nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước vì chỉ khi nào tỉnh
trả hết nợ quá hạn vốn vay tín dụng đầu tư phát triển thì Chính phủ và Ngân
hàng phát triển mới bố trí bổ sung nguồn tín dụng này để cho Ngân sách tỉnh
vay.
Đối với công tác quy hoạch, giải phóng mặt bằng.
Đề nghị UBND tỉnh sớm rà soát, quy hoạch và công bố chi tiết các điểm
công nghiệp, khu công nghiệp trong toàn tỉnh cũng như giải quyết tốt công tác
đền bù, giải phóng mặt bằng tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư thực
hiện dự án, việc này không chỉ làm tăng sức hấp dẫn đầu tư của tỉnh mà còn
giúp cho các dự án có vay vốn tín dụng đầu tư phát triển tại Chi nhánh sớm
đưa công trình vào khai thác sử dụng, tạo công ăn việc làm cho người lao
động trên địa bàn, tạo doanh thu, giúp cho các dự án thực hiện được mục tiêu
99
từ đó mà trả nợ đúng hạn cho Chi nhánh Ngân hàng phát triển Hà Tây.
KẾT LUẬN
Kết quả của luận văn thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
1) Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một bộ phận của tín dụng
nhà nước. Nó là hình thức tín dụng đặc biệt, xuất hiện khi mục địch của tín
dụng nhà nước chuyển từ chi tiêu sang đầu tư dưới dạng cho vay có hoàn trả,
nhưng không vì mục tiêu lợi nhuận.
2)Thông qua việc thực hiện chức năng của mình, tín dụng đầu tư phát
triển của nhà nước có vai trò rất quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước, nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là
một tất yếu khách quan hiện nay ở nước ta. Hoạt động tín dụng của Ngân
hàng phát triển được xem là có hiệu quả, khi nó mang lại hiệu quả kinh tế-xã
hội cho cả ngân hàng, các đối tượng khác trong quan hệ tín dụng và nền kinh
tế quốc dân. Hiệu quả kinh tế - xã hội là khái niệm phản ảnh sự kết hợp hài
hòa giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội trong mỗi dự án tín dụng đầu tư
phát triển của nhà nước, không thể không tính đến.
3) Hoạt động tín dụng của Chi nhánh ngân hàng phát triển Hà Tây từ
khi thành lập đến nay (tính hết năm 2006) đã đạt được những thành tựu đáng
kể trên các mặt: huy động, tiếp nhận và cho vay vốn, đã góp phần nâng cao
hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước thể hiện qua các chỉ tiêu định
tính và định lượng cho cả các bên Ngân hàng phát triển Hà Tây, các chủ đầu
tư với tư cách là người đi vay và hiệu quả kinh tế xã hội mang lại cho nền
kinh tế quốc dân Hà Tây trong thời gian qua.
4) Bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động tín dụng đầu tư phát
100
triển của Nhà nước tại Chi nhánh Hà Tây còn tồn tại nhiều hạn chế: khả năng
đáp ứng nhu cầu vốn cho vay các dự án của tỉnh còn ở mức độ thấp; việc giao
kế hoạch và bố trí vốn đầu tư cho các dự án còn có chổ chưa hợp lý; tiến độ
giải ngân vốn tín dụng đã ký hợp đồng vay và cho vay giữa Chi nhánh và chủ
đầu tư còn rất chậm; việc theo dõi và đánh giá hiệu quả dự án sau đầu tư còn
chưa được chú trọng; thủ tục cho vay còn rườm rà, thủ tục hành chính quá
nặng nề ; nợ quá hạn của tín dụng đầu tư phát triển còn lớn và hiệu quả tín
dụng chưa thật cao. Những hạn chế trên có cả nguyên nhân khách quan lẫn
chủ quan, song luận án nhấn mạnh nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.
5) Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động, đánh giá những mặt
được, những điểm còn hạn chế, đồng thời đưa ra nguyên nhân của các hạn
chế, luận văn đã trình bày một hệ thống phương hướng và các giải pháp có
căn cứ lý luận và phù hợp tình hình thực tiễn, có tính khả thi, cùng các kiến
nghị với cơ quan có thẩm quyền, nếu được thực hiện sẽ góp phần nâng cao
hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước trong thời gian tới ở Hà Tây.
6) Đề tài có nội dung phong phú, mới và khó, kết quả đạt được chỉ mới
là bước đầu, mặc dù tác giả đã có nhiều cố gắng, nhưng do năng lực có hạn
chắc không tránh khỏi những hạn chế nhất định, rất mong sự góp ý của các
101
thầy cô giáo và các nhà khoa học.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào Tạo (2006), Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
2.
Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Hà Tây (2006), Báo cáo kết quả hoạt động các năm từ 2000 đến 2006.
3.
Chính phủ (1999), Nghị định số 43/1999/NĐ-CP về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, ngày 29/6/1999.
4. Chính phủ (1999), Quyết định số 231/1999/QĐ-CP phê duyệt điều lệ tổ chức
và hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển, ngày 17/12/1999.
5.
Chính phủ (1999), Nghị định số 52/1999/NĐ-CP, ngày 08/7/1999 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế Quản lý Đầu tư và Xây dựng.
6. Chính phủ (1999), Nghị định số 50/1999/NĐ-CP về việc thành lập Quỹ Hỗ
trợ phát triển, ngày 08/7/1999.
7. Chính phủ (2000), Nghị định số 12/2000/NĐ-CP; sửa đổi một số điều của Quy chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản của Chính phủ, ngày 05/5/2000.
8. Chính phủ (2003), Nghị định số 07/2003/NĐ-CP; sửa đổi một số điều của Quy chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản của Chính phủ, ngày 30/01/2003.
9.
Chính phủ (2004), Nghị định số 106/2004/NĐ-CP, về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, ngày 01/4/2004.
10. Chính phủ (2005), Nghị định số 16/NĐ-CP ngày 07/02/2005 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế Quản lý Đầu tư và Xây dựng của Chính phủ.
11. Chính phủ (2006), Nghị định số 108/2006/QĐ- TTg của Chính phủ về việc
thành lập Ngân hàng Phát triển Việt Nam, ngày 19/5/2006.
102
12. Chính phủ (2006), Nghị định số 151/2006/NĐ-CP về tín dụng đầu tư phát
triển và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, ngày 20/12/2006.
13. Chính phủ (2006), Quyết định số 110/2006/QĐ-CP phê duyệt điều lệ tổ chức
và hoạt động của Ngân hàng phát triển Việt Nam, ngày 19/5/2006.
14. Đảng CSVN (2001), Văn kiện Đại hội IX, NXB chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
15. Đảng CSVN (2006), Văn kiện Đại hội X, NXB chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
16. Vũ Duy Hào, Đàm Văn Nhuệ, Nguyễn Quang Ninh (1998), Quản trị tài
chính doanh nghiệp, NXB Thống kê , Hà Nội.
17. C.Mác- Ăng ghen (1993), Toàn tập tập 251, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
18. Ngân hàng Phát triển Việt Nam(2006), Các Quy chế, quy trình nghiệp vụ
liên quan của tín dụng đầu tư phát triển.
19. Niêm giám thống kê Hà Tây (2006)
20. TS Nguyễn Bạch Nguyệt (1998), Lập và quản lý dự án đầu tư, NXB Thống
kê, Hà Nội.
21. PGS.TS Phan Thanh Phố(2005), Việt Nam với tiến trình gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam(2002), Luật Ngân sách Nhà nước.
23. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam(2003), Luật Ngân hàng Nhà nước.
24. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam(2004), Luật các Tổ chức tín dụng.
25. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam(2005), Luật Khuyến khích đầu tư trong
nước sửa đổi.
26. Quỹ hỗ trợ phát triển Trung ương (1999), Quyết định số 01/QHTPT về thành lập Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển tại các tỉnh, thành phố trực thuộc, ngày 20/12/1999.
27. Quỹ hỗ trợ phát triển Trung ương(1999), Quyết định số 03/1999/ QHTPT về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, ngày 21/12/1999.
103
28. Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Tây(2006), Phụ lục số liệu kinh tế -xã hội,
2001-2005 và 2006- 2010.
29. Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Tây(2006), Hà Tây tiềm năng và lợi thế.
30. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân(1999), Chương trình và dự án phát triển kinh tế xã hội.
31. Tạp chí Hỗ trợ phát triển (2006), (5).
32. Tạp chí Hỗ trợ phát triển (2006), (6).
33. Tạp chí Hỗ trợ phát triển (2007), (9).
34. Tạp chí Hỗ trợ phát triển (2007), (10).
35. Tạp chí Hỗ trợ phát triển (2007), (11).
104
36. PGS.TS Ngô Doãn Vịnh và PGS.TS Bùi Tất Thắng (2006), „„Một số ý kiến về định hướng phát triển kinh tế Việt Nam đến 2020’’, Tạp chí kinh tế và dự báo, ( 9).
1. Bộ Giáo dục và Đào Tạo (2006), Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
2. Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Hà Tây (2006), Báo cáo kết quả hoạt động
các năm từ 2000 đến 2006.
3. Chính phủ (2006), Nghị định số 43/1999/NĐ-CP về tín dụng đầu tư phát
triển của Nhà nước, ngày 29/6/1999.
4. Chính phủ (1999), Quyết định số 231/1999/QĐ-CP phê duyệt điều lệ tổ
chức và hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển, ngày 17/12/1999.
5. Chính phủ (1999), Nghị định số 52/1999/NĐ-CP, ngày 08/7/1999 của
Chính phủ về việc ban hành Quy chế Quản lý Đầu tư và Xây dựng.
6. Chính phủ (1999), Nghị định số 50/1999/NĐ-CP về việc thành lập Quỹ Hỗ
trợ phát triển, ngày 08/7/1999.
7. Chính phủ (2000), Nghị định số 12/2000/NĐ-CP; sửa đổi một số điều của
Quy chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản của Chính phủ, ngày 05/5/2000.
8. Chính phủ (2003), Nghị định số 07/2003/NĐ-CP; sửa đổi một số điều của
Quy chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản của Chính phủ, ngày 30/01/2003.
9. Chính phủ (2004), Nghị định số 106/2004/NĐ-CP, về tín dụng đầu tư phát
triển của Nhà nước, ngày 01/4/2004.
10. Chính phủ (2005), Nghị định số 16/NĐ-CP ngày 07/02/2005 của Chính
phủ về việc ban hành Quy chế Quản lý Đầu tư và Xây dựng của Chính phủ.
11. Chính phủ (2006), Nghị định số 108/2006/QĐ- TTg của Chính phủ về
việc thành lập Ngân hàng Phát triển Việt Nam, ngày 19/5/2006.
12. Chính phủ (2006), Nghị định số 151/2006/NĐ-CP về tín dụng đầu tư phát
105
triển và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, ngày 20/12/2006.
13. Chính phủ (2006), Quyết định số 110/2006/QĐ-CP phê duyệt điều lệ tổ
chức và hoạt động của Ngân hàng phát triển Việt Nam, ngày 19/5/2006.
14. Đảng CSVN (2001), Văn kiện Đại hội IX, NXB chính trị Quốc Gia, Hà
Nội.
15. Đảng CSVN (2006), Văn kiện Đại hội X, NXB chính trị Quốc Gia, Hà
Nội.
16. Vũ Duy Hào, Đàm Văn Nhuệ, Nguyễn Quang Ninh (1998), Quản trị tài
chính doanh nghiệp, NXB Thống kê , Hà Nội.
17. C.Mác- Ăng ghen (1993), Toàn tập tập 251, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
18. Ngân hàng Phát triển Việt Nam(2006), Các Quy chế, quy trình nghiệp vụ
liên quan của tín dụng đầu tư phát triển.
19. Niêm giám thống kê Hà Tây (2006)
20. TS Nguyễn Bạch Nguyệt (1998), Lập và quản lý dự án đầu tư, NXB
Thống kê, Hà Nội.
21. PGS.TS Phan Thanh Phố(2005), Việt Nam với tiến trình gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam(2002), Luật Ngân sách Nhà nước.
23. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam(2003), Luật Ngân hàng Nhà nước.
24. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam(2004), Luật các Tổ chức tín dụng.
25. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam(2005), Luật Khuyến khích đầu tư
trong nước sửa đổi.
26. Quỹ hỗ trợ phát triển Trung ương (1999), Quyết định số 01/QHTPT về
thành lập Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển tại các tỉnh, thành phố trực thuộc,
106
ngày 20/12/1999.
27. Quỹ hỗ trợ phát triển Trung ương(1999), Quyết định số 03/1999/ QHTPT
về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Chi nhánh Quỹ hỗ trợ
phát triển các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, ngày 21/12/1999.
28. Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Tây(2006), Phụ lục số liệu kinh tế -xã hội,
2001-2005 và 2006- 2010.
29. Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Tây(2006), Hà Tây tiềm năng và lợi thế.
30. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân(1999), Chương trình và dự án phát
triển kinh tế xã hội.
31. Tạp chí Hỗ trợ phát triển (2006), số (5), (6).
32. Tạp chí Hỗ trợ phát triển (2007), số (9), (10), (11).
33. PGS.TS Ngô Doãn Vịnh và PGS.TS Bùi Tất Thắng (2006), „„Một số ý
kiến về định hướng phát triển kinh tế Việt Nam đến 2020’’, tạp chí kinh tế và
107
dự báo, (số 9).