Nghệ thuật sân khấu tuồng
Tuồng loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền đặc sắc
của Việt Nam được hình thành trên sở ca nhạc các trò
diễn xướng dân gian vốn từ lâu đời rất phong phú của dân
tộc Việt Nam.
Đến cuối thế kỷ XVIII, Tuồng đã phát triển một cách hoàn chỉnh mọi
mặt từ kịch bản văn học đến nghệ thuật biểu diễn.
Sân khấu của những anh hùng
Khác với c loại hình sân khấu khác như chèo, cải lương, Tuồng
mang theo âm hưởng hùng tráng với những tấm gương nhân vật tận
trung báo quốc, xả thân đại nghĩa, những bài học về lẽ ứng xcủa con
người giữa cái chung cái riêng, giữa gia đình và Tổ quốc, chất bi hùng
một đặc trưng thẩm mỹ của nghệ thuật Tuồng. thể nói Tuồng sân
khấu của những người anh hùng.
Những đặc trưng trên đã chi phối nghệ thuật trình diễn. Sân khấu
tuồng thực chất n khấu gợi cảm, gợi tưởng tượng. Từ đó, các nghệ sỹ
tuồng đã sử dụng phương pháp nghệ thuật ước lệ, cách điệu.
Nghệ thuật tuồng không tả thực tả ý, không đi sâu vào những
chi tiết tỉ mỉ chú trọng lột tả cái thần( phần cốt i, bản chất) của sự
kiện con người; dùng phương pháp gợi tả đ lôi kéo, kích thích trí
tưởng tượng của khán giả cùng tham gia sáng tạo đồng cảm với nghệ
sỹ biểu diễn. "Cái thần" chính là đỉnh cao của nghệ thuật biểu diễn Tuồng.
Trên n khấu Tuồng, tất cả bắt đầu tngười diễn viên. Cùng với
người diễn viên, cảnh tượng mới dần hiện lên; địa điểm thời gian mới
được xác định. Với một câu hát, một điệu múa, người nghệ sỹ dựng lên
một trời tưởng tượng; lúc biển cả mênh mông, khi núi rừng bát ngát;
vừa là triều đình, thoắt đã là bãi chiến trờng.
Nhiệm vụ của người diễn viên kiêm cả việc bài cảnh. Nhưng để
dựng được cảnh sắc trong tâm trí người xem, người nghệ sỹ tuồng phải
dùng những động tác tưởng tượng, với giả định có cảnh thực trước mắt.
Đây những động tác điêu luyện được cách điệu cao giàu sức biểu
hiện.
Nhờ những động tác tưởng tưởng này người nghệ sỹ tuồng vượt ra
ngoài khuôn khổ chật hẹp của sân khấu, tạo n toàn bộ cuộc sống
hội. Thông qua sbiểu hiện của người nghệ sỹ, khán giả không chỉ nhận
biết được những thay đổi v không gian, thời gian còn thấy những
xung đột giằng xé trong nội tâm nhân vật.
Tiêu chuẩn đánh giá tài ng của người nghệ sỹ Tuồng thanh,
sắc, thục, tinh, khí, thần. Skết hợp tổng thể các yếu tố hát, múa, diễn
xuất nhạc đệm tạo nên cảm xúc mạnh mẽ đối với người xem. Người xem
cảm nhận được sự tinh tế trong nghệ thuật biểu diễn của người nghệ sỹ
Tuồng.
Múa tuồng
Múa Tuồng được nh thành từ những động tác sinh hoạt hành
động tấm lý trong cuộc sống xã hội của con người.
Múa tuồng những nguyên tắc nghiêm ngặt: nội ngoại tương
quan, tả hữu tương ứng, thượng hạ tương phù. Nghĩa nh động bên
trong, hành động bên ngoài phải tương ứng; phải trái phải cân đối; trên,
dưới, phải phù hợp trong hoàn cảnh quy định.
Múa tuồng chức ng minh hoạ, chức năng bài cảnh. Trong một
vài hoàn cảnh nào đó, múa tuồng khả năng độc lập; thể thay thế
cho lời nói, điệu hát để diễn đạt tâm trạng, tính cách của nhân vật.
Hát tuồng
Hát tuồng xuất phát trên sở tế lễ, tụng niệm trong nhà chùa,
trong lối kể chuyện, t xướng dân gian; được viết theo các thể thơ lục
bát, tứ tuyệt, song thất lục bát....
Hát tuồng một hệ thống nhịp điệu từ nói thường chuyển sang nói
lối. Nói lối Tuồng viết theo n biền ngẫu từ 4 đến 8 từ. Có nhiều kiểu nói
lối khác nhau: Nói lối thường, bóp, ai, xuân, đạp, xuân nữ...
Mỗi loại nói lối cách ngắt chữ, nhả chữ khác nhau, tuỳ theo tính
cách nhân vật và hoàn cảnh quy định để vận dụng cho phù hợp. Nói lối
tuồng được quy định vế trống, vế i. Câu đầu vế trống, câu thhai
câu mái. Câu trống thường vần trắc, i cao giọng, câu mái vần bằng,
nói hạ giọng.
Múa hát Tuồng hai phương tiện quan trọng nhất để người diễn
viên tuồng xây dựng hình tượng nhân vật.
Người diễn viên tuồng sử dụng múa, t để lột tả tâm trạng, tính
cách của nhân vật; mặt khác, tính cách, m trạng nhân vật tác động lại
quy định cho nhân vật những đạo, i bản, làn điệu màu sắc riêng
biệt.
Các đạo, nói lối, bài bản, làn điệu gắn với nhau hết sức hữu
cơ, nếu tước bỏ nó sẽ không còn là nghệ thuật Tuồng.
Mặt nạ tuồng
Mặt nạ đeo: Trước đây, người khả năng biểu diễn không nhiều,
một diễn viên phải sắm nhiều vai, vậy, họ dùng mặt nạ đeo để thay đổi
vai cho dễ
Hóa trang kiểu mặt nạ: Ngày nay, người ta thay mặt nạ đeo bằng
mặt vẽ, mới đây, người ta dùng cách hóa trang để chân thật hơn, gần
cuộc sống hơn. u sắc dùng để hóa trang kiểu mặt nạ phổ biến trắng
hồng, đỏ và màu mốc.
Một số hình ảnh mẫu hóa trang thành các loại mặt: Mặt trắng (diện
mạo đẹp đẽ, tính cách trầm tĩnh), mặt đỏ (người trí dũng, chững chạc),
mặt rằn (diện mạo xấu xí, tính cách ng nảy), mặt tròng xéo đen (tướng
phản, hai bên thái dương vết đỏ người nóng nảy, nếu tròng xéo đen
nền đỏ thắm hay xanh người dũng), mặt mốc (nịnh), mặt lưỡi cày
(người đoản hậu, nhát gan).
Âm nhạc trong sân khấu tuồng
Trong tuồng có nhiều yếu tố nghệ thuật tham gia, trong đó âm nhạc
giữ một vai trò hết sức quan trọng. Ngoài việc đệm cho hát, cho múa, cho
các hiệu quả sân khấu như phong ba bão tố, chiến trận sa trường, đăng
đàn i tướng, âm nhạc trong sân khấu tuồng còn thể hiện nh cảm nhân
vật trong các lớp diễn không lời còn làm cầu nối của thế giới nội tâm
nhân vật tới khán giả.
Dàn nhạc tuồng gồm bộ (trống, thanh la, ...), bộ hơi (kèn,
sáo, chủ yếu kèn), bdây (nhị, cò, hồ, đại, tiểu...) và bộ gảy (tam, tứ,
nguyệt...).
Trong đó, nhạc ctrống luôn luôn làm nhiệm vụ dẫn dắt, mở đầu
cho mọi nh huống sân khấu. T“điểmcho nhân vật ra, vào hay khởi
đầu cho câu nói, điệu t của vai diễn đều phải theo trình tự là: Trống,
tiếp đến dàn nhạc diễn tấu rồi mới đến diễn viên nói hoặc t tuỳ theo
nhân vật. Nguyên tắc này được vận dụng cho tất ccác vai diễn, vdiễn
của Tuồng truyền thống./.