Ơ
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------
VŨ THỊ HẢI YẾN
NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Hà Nội - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------
VŨ THỊ HẢI YẾN
NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 01 21
Người hướng dẫn khoa học : PGS. TS Hà Văn Đức
Hà Nội - 2012
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
1.Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 3
3.Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu ............................................. 12
4.Phương pháp nghiên cứu. .......................................................................... 13
5.Cấu trúc luận văn ...................................................................................... 13
PHẦN NỘI DUNG ...................................................................................... 14
CHƯƠNG 1: NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN NGỌC TƯ .................................................................................. 14
1.1Giới thuyết về người kể chuyện trong tác phẩm tự sự .......................... 14
1.1.1 Khái niệm người kể chuyện......................................................................14
1.1.2 Vai trò, chức năng của người kể chuyện ..................................................16
1.1.3 Người kể chuyện chi phối điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm tự sự.18
1.2 Ngôi kể và điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư .. 19
1.2.1 Người kể chuyện lộ diện trực tiếp ở ngôi thứ nhất với điểm nhìn
bên trong ............................................................................................................19
1.2.1.1 Cái tôi tự kể về mình .............................................................. 20
1.2.1.2 Cái “tôi” kể chuyện người khác ............................................. 25
1.2.2 Người kể chuyện ẩn mình qua hình thức trần thuật từ ngôi thứ ba ..........27
1.2.2.1 Kể theo điểm nhìn của chính mình ......................................... 28
1.2.2.2 Kể theo điểm nhìn của nhân vật .............................................. 30
1.2.3 Người kể chuyện toàn tri với điểm nhìn di động......................................32
CHƯƠNG 2: NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN VÀ KẾT CẤU
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ ....................................... 36
2.1 Nghệ thuật tổ chức cốt truyện ............................................................. 36
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
2.1.1 Khái niệm cốt truyện ................................................................................36
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
2.1.2 Tổ chức cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư .........................38
2.1.2.1 Cốt truyện truyền thống .......................................................... 39
2.1.2.2 Cốt truyện tâm lý .................................................................... 46
2.1.3 Nghệ thuật xây dựng cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư ...56
2.1.3.1 Chi tiết nghệ thuật .................................................................. 56
2.1.3.2 Kết thúc mở gợi nhiều day dứt, trăn trở .................................. 59
2.2 Nghệ thuật tổ chức kết cấu. ................................................................. 61
2.2.1 Khái niệm kết cấu. ....................................................................................61
2.2.2 Tổ chức kết cấu trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư ..............................64
2.2.2.1 Truyện thường có lời đề từ ..................................................... 64
2.2.2.2 Kết cấu đảo trật tự thời gian, sự kiện ...................................... 69
2.2.2.3 Kết cấu mở ............................................................................. 73
CHƯƠNG 3: NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ ..................................................... 77
3.1 Ngôn ngữ trần thuật ............................................................................ 77
3.1.1 Giới thuyết về ngôn ngữ trần thuật trong tác phẩm tự sự .........................77
3.1.2 Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư .......................79
3.1.2.1 Ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ .................................................. 79
3.1.2.2 Tính chất đa thanh trong ngôn ngữ trần thuật .......................... 82
3.2 Giọng điệu trần thuật ........................................................................... 88
3.2.1 Giới thuyết về giọng điệu trần thuật trong tác phẩm tự sự .......................88
3.2.2 Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư ....................89
3.2.2.1 Giọng điệu trữ tình – lo âu, khắc khoải ................................... 89
3.2.2.2 Giọng điệu dân dã, mộc mạc ................................................... 94
KẾT LUẬN ................................................................................................ 100
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 103
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn trẻ của vùng đất tận cùng Tổ quốc. Chị
sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau trong một
gia đình nông dân. Sau hơn mười năm cầm bút, chị đã trở thành một hiện
tượng độc đáo khiến bạn đọc trong nước và ngoài nước quan tâm. Người
con đất Mũi, người con gái miền Tây xuất thân từ nông dân bằng tài năng
của mình đã góp phần làm sống động nền văn học đương đại. Nhà văn Dạ
Ngân đã tâm sự: “tôi nhớ mãi cảm giác của người trong nghề, lại là dân
biên tập, tôi nghĩ hình như mình đang tiếp cận một ngôi sao không biết nó
sẽ tỏa sáng đến đâu” (“May mà có Nguyễn Ngọc Tư” – Báo Văn nghệ).
Với Nguyễn Ngọc Tư “viết văn là một lựa chọn khó, đầy nhọc nhằn, nặng
nề, dằn vặt”. Nhiều khi nhà văn phải nuôi nỗi cô đơn “cô đơn là sự tối cần
của người viết, nó là một điều kiện hàng đầu của nhà văn” (Nguyễn Ngọc
Tư). Nhưng với tài năng thiên bẩm, với đam mê nghiệp văn, Nguyễn Ngọc
Tư đã gặt hái được những thành công liên tiếp. Thành công khởi nghiệp của
Nguyễn Ngọc Tư là tác phẩm Ngọn đèn không tắt, đạt giải 3 Báo chí trong
năm 1997. Năm 2000, chị nhận Giải nhất cuộc vận động sáng tác văn học
tuổi 20 lần II với tác phẩm Ngọn đèn không tắt. Ngay năm sau, chị được
trao tặng giải B giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam với tập truyện ngắn
Ngọn đèn không tắt. Cùng năm 2001, Nguyễn Ngọc Tư nhận tặng thưởng
dành cho các tác giả trẻ của Ủy ban toàn quốc liên hiệp các Hội văn học
nghệ thuật Việt Nam cho tập Ngọn đèn không tắt. Truyện ngắn Cánh đồng
bất tận là một trong mười truyện ngắn hay nhất năm 2005 do báo Văn nghệ
bình chọn. Hội nghị Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam lần thứ 6, khóa
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
1
VI (13-10-2006) đã quyết định trao tặng giải thưởng của Hội nhà văn Việt
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nam năm 2006 cho truyện Cánh đồng bất tận. Năm 2008, chị được Hội nhà
vănViệt Nam đề cử nhận giải thưởng Văn học ASEAN. Đây cũng là năm
đầu tiên Hội nhà văn đề cử trao giải cho một tác giả trẻ dưới 40 tuổi. Đó là
niềm vinh dự lớn đối với Nguyễn Ngọc Tư. Bên cạnh truyện ngắn, Nguyễn
Ngọc Tư còn sáng tác nhiều tản văn. Nhưng có thể thấy, ở lĩnh vực truyện
ngắn chị đang khẳng định được ưu thế của mình. Truyện của Nguyễn Ngọc
Tư vừa mang hơi thở của cuộc sống hiện đại vừa mang nét duyên của “trái
sầu riêng” Nam Bộ, có người thích, khen thơm, có người bưng mũi quay đi
vì chê nó nặng mùi. Tuy vậy, chúng tôi nhận thấy truyện ngắn của chị thực
sự tạo được “hiệu ứng” với bạn đọc. Điều gì đã làm nên thành công vang
dội của một nhà văn trẻ tuổi ở những bước đầu tiên đến với văn chương
nghệ thuật? Muốn lí giải điều đó chúng tôi đã chọn đề tài: Nghệ thuật tự sự
trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Đặc trưng của phương thức tự sự nói chung và truyện ngắn nói riêng là
nghệ thuật trần thuật. Nắm được những đặc điểm trần thuật sẽ giúp chúng ta
khám phá những tầng sâu kín, những vẻ đẹp độc đáo của truyện ngắn. Ở
lĩnh vực văn xuôi, truyện ngắn đang khẳng định được ưu thế. Với những
đặc điểm riêng, truyện ngắn có thể coi là một thể loại bắt nhịp nhanh với
những chuyển biến muôn màu của đời sống hiện đại. Nó là thể loại phát
triển mạnh nhất trong văn học đương đại, góp phần làm nên diện mạo chính
của nền văn học hôm nay. Việc tìm hiểu nghệ thuật trần thuật trong truyện
ngắn của một nhà văn trẻ như Nguyễn Ngọc Tư sẽ cho chúng ta thấy được
sự đóng góp của chị trong quá trình vận động chung của truyện ngắn Việt
Nam đương đại. Qua đó cũng cho người đọc một cái nhìn khái quát về
những chuyến biến mạnh mẽ cả về nội dung phản ánh và hình thức thể hiện
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
2
của thể loại truyện ngắn trong nền văn học hiện nay.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
2. Lịch sử vấn đề
PGS.TS Lý Hoài Thu khi tổng kết sự vận động của các thể loại văn xuôi
trong thời kỳ đổi mới đã nhận xét “Bên cạnh tiểu thuyết, truyện vừa và
truyện ngắn (trung thiên tiểu thuyết và đoản thiên tiểu thuyết) trong các
thập niên vừa qua phát triển mạnh mẽ, có thể gọi là rực rỡ. Không phải
ngẫu nhiên mà người ta gọi đây là thời kỳ “lên ngôi” của truyện ngắn.
Điều này hoàn toàn có thể cắt nghĩa được bởi nhịp độ của đời sống công
nghiệp hiện đại, dưới sức ép từ phía các phương tiện nghe nhìn, truyện
ngắn đã phát huy được ưu thế của mình một cách hiệu quả”(Lý Hoài Thu,
Sự vận động của các thể loại văn xuôi trong văn học thời kỳ đổi mới, http:
//www. Tapchisonghuong. com. vn). Đã có cả một đội ngũ đông đảo các nhà
văn với sức trẻ, tài năng, họ đã tạo cho nền truyện ngắn Việt Nam đương
đại một vườn hoa nhiều màu sắc rực rỡ. Bên cạnh những tên tuổi quen
thuộc như: Sương Nguyệt Minh, Đỗ Bích Thúy, Phong Điệp, Nguyễn Thị
Châu Giang,… Nguyễn Ngọc Tư cũng là một nhà văn trẻ đầy tài năng. Là
một nhà văn được yêu mến không chỉ trong nước mà còn cả ở nước ngoài,
vì thế những bài viết tìm hiểu về truyện ngắn và tạp văn của chị thường
xuyên được đăng tải trên các phương tiện truyền thông. Từ tập truyện ngắn
đầu tay năm 2000 Ngọn đèn không tắt đến tập truyện ngắn xuất bản năm
2010 Khói trời lộng lẫy, Nguyễn Ngọc Tư thực sự đã tạo nên “thương hiệu”
riêng cho mình trong nền văn học hiện đại. Khen có, chê cũng không ít
khiến cho việc tìm hiểu và nghiên cứu văn chương của chị càng hấp dẫn với
độc giả yêu văn.
Trên cơ sở tìm hiểu những bài nghiên cứu, phê bình, thảo luận về
Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi xin điểm lại một số ý kiến bàn đến sáng tác của
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
3
Nguyễn Ngọc Tư có liên quan đến phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
2.1 Lịch sử nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo ở Cà Mau – vùng
đất phương Nam cuối cùng của Tổ quốc, mới mở mắt chào đời Nguyễn
Ngọc Tư đã quen với mùi hăng hăng của cỏ khi sa mưa, mùi nồng nồng oi
oi của đất, mùi thơm dậy từ nồi mắm chấm rau đồng,…Chị chỉ học hết lớp
chín phổ thông, cấp ba bổ túc, sống giản dị cùng người chồng thợ bạc chẳng
bao giờ đọc truyện vợ viết nhưng chị thực sự là một tài năng rực sáng của
Văn học Việt Nam đương đại. Chị cầm bút viết văn từ chính hiện thực quê
nghèo với kênh rạch chằng chịt, con người đi lại đều trên mặt nước, một
bước cũng phải ghe xuồng.
Xuất hiện lần đầu tiên với truyện Ngọn đèn không tắt, Nguyễn Ngọc Tư
ngay lập tức chiếm được cảm tình của đông đảo độc giả bằng giọng văn nhẹ
nhàng, một tấm lòng trong trẻo, sự tài hoa mộc mạc đầy nắng gió phương
Nam. Từ sự hứng khởi ban đầu đó, người đọc tiếp tục chào đón những tập
truyện khác của chị như: Nước chảy mây trôi, Giao thừa, Cánh đồng bất
tận, Gió lẻ và chín câu chuyện khác và Khói trời lộng lẫy với một sự thích
thú đặc biệt.
Từ tập truyện ngắn đầu tay Ngọn đèn không tắt (2000), Nguyễn Ngọc
Tư đã sớm nổi tiếng. Mặc dù không gây xôn xao dư luận, nhưng tập truyện
ngắn đã chiếm được cảm tình của đông đảo bạn đọc và giới chuyên môn.
Khi viết bài “May mà có Nguyễn Ngọc Tư” đăng trên báo Văn nghệ, nhà
văn Dạ Ngân đã bộc bạch tâm sự: “Chính văn nghệ đã in cho tác giả này
một truyện đậm chất Nam Bộ dù truyện khá mảnh”. Cũng trên báo Văn
nghệ, nhà văn Dạ Ngân đã trả lời: “tôi đã viết bài “Nguyễn Ngọc Tư như
thế nào?” bằng tâm trạng thú vị khi nhớ tới lời khen mà người ta từng
giành cho Solokhov: “trên bầu trời văn học nước Nga, một con đại bàng
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
4
non vừa cất lên đôi cánh mênh mông từ sông Đông”.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng - Tổng thư ký Hội nhà văn Thành Phố Hồ
Chí Minh, trưởng ban chung khảo cuộc thi sáng tác văn học tuổi 20 lần thứ
II năm 2000 đã nhận xét về tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt như sau:
“Tập truyện ngắn “Ngọn đèn không tắt” của Nguyễn Ngọc Tư có truyện
“Ngọn đèn không tắt” là truyện ngắn nổi bật nhất. Với giọng văn mộc mạc
bình dị, với ngôn ngữ đời thường đã tạo nên một không khí rất tự nhiên về
màu sắc, hương vị của mảnh đất cuối cùng Tổ quốc – mũi Cà Mau của
những con người mà cha ông là người tứ xứ về mũi đất của rừng, của sông
nước, của biển cả đã dày công khai phá, đã đứng lên khởi nghĩa. Qua ngòi
bút của Nguyễn Ngọc Tư, những con người lam lũ, giản dị, bộc trực ấy
chứa bên trong cả một tâm hồn vừa nhân hậu vừa tinh tế qua cách đối nhân
xử thế…”.
Nhà văn Huỳnh Kim cũng nhận xét: “đọc tập truyện “Ngọn đèn không
tắt” thật là thích vì văn chương sâu sắc mà dung dị, tinh tế mà lại tràn trề
tánh nết của người dân Nam Bộ trong khi tác giả mới 24 tuổi. Với tôi truyện
của Nguyễn Ngọc Tư là những câu chuyện nhà quê. Ở trong đó, ai đọc, dù
không hợp gu, cũng như tìm gặp được bóng dáng nhà quê của riêng mình”.
Nhà văn Phạm Xuân Nguyên lại tiếp cận tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư từ
góc độ khác: “Truyện “Ngọn đèn không tắt” đã cho thấy Tư biết kể những
truyện nhân tình bằng một giọng chân tình khiến người đọc dễ nghe và dễ
chịu”. Hoàng Thiên Nga đã tâm sự: “tôi chưa từng gặp nhưng đã yêu
Nguyễn Ngọc Tư qua ngòi bút chị quá đỗi tinh tế, nhân hậu và trong lành”
[20, 3].
Cũng vì yêu mến Nguyễn Ngọc Tư mà giáo sư kinh tế Trần Hữu Dũng -
một Việt kiều Mỹ đã lập một tủ sách Nguyễn Ngọc Tư trong trang web
“Văn hóa và giáo dục” của mình. Ông tự bạch trong website của mình: “tôi
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
5
lập trang web với mục đích trước hết, cho tôi thu thập vào một nơi những
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
bài của (và về) Nguyễn Ngọc Tư rải rác trên các web và sau đó chia sẻ với
những bạn thích văn Nguyễn Ngọc Tư như tôi”. Ông đặc biệt ấn tượng với
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư vì theo ông trong văn chương của
Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta, khắp mọi phương trời, tìm lại được cái quê
hương đích thực trong tâm tưởng, những tình tự ngủ quên trong lòng mình,
những kỉ niệm mà mình tưởng không ai chia sẻ cùng. Ông đánh giá “những
trang viết của Nguyễn Ngọc Tư là bữa ăn thịnh soạn, dọn bày chu đáo với
đặc sản miệt vườn, với những vật liệu hảo hạng, tươi sống” [11,1].
Có thể thấy, ấn tượng mà Nguyễn Ngọc Tư để lại trong độc giả là một
nhà văn có “bút pháp giản dị, gọn ghẽ, đầy ắp âm sắc Nam Bộ”. Nhưng
nhiều người bắt đầu sốt ruột về Nguyễn Ngọc Tư khi nghĩ rằng chị đang
bằng lòng với những vinh quang chị đã có: “Đọc mãi, thấy lo lo, hình như
tác giả viết bắt đầu trơn tay, ít thể nghiệm. Có cảm giác Nguyễn Ngọc Tư
đang quá thảnh thơi trên con đường mà dư luận nhiều ưu ái đã phát quang
cho, sự kỳ vọng bắt đầu trở thành sự sốt ruột, kiên nhẫn” [21,1]. Giáo sư
kinh tế Trần Hữu Dũng trong bài viết: Nguyễn Ngọc Tư, “đặc sản” miền
Nam, cũng có những nhận xét tương tự: “Phần nào, sự chuyên biệt của
Nguyễn Ngọc Tư vào những truyện loại này, có thể làm người đọc lo ngại.
Chẳng lẽ nghiệp văn của cô sẽ khoanh trong thể loại những mối tình không
trọn, những kí sự đồng quê? Quả là Nguyễn Ngọc Tư có tài thiên phú, cô
viết rất nhiều (trong vòng 3 năm đã ra bốn tập truyện ngắn). Nhưng cái
đáng lo là ở chỗ đó. Người đọc bắt đầu thấy quá quen thuộc với truyện của
cô. Chúng na ná như nhau…Sự quanh quẩn trong những không gian, hoàn
cảnh quen thuộc có thể là cái chớp đèn vàng (nhưng chưa đỏ) trên con
đường văn chương của Nguyễn Ngọc Tư” [11,3].
Tháng 8 năm 2005, truyện Cánh đồng bất tận đã ra mắt bạn đọc. Một
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
6
Nguyễn Ngọc Tư rất mới khuấy động đời sống văn học, những nhận định
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
trái chiều về chị được đăng trên các báo tạo thành một “hiện tượng văn học”
đáng chú ý của năm 2005. Đã có nhiều ý kiến, đánh giá và những bài báo tỏ
ra không có cảm tình thậm chí phê phán gay gắt về tác phẩm. Ban tuyên
giáo Tỉnh Ủy Cà Mau yêu cầu kiểm điểm nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Thạc
sĩ Vưu Nghị Lực, phó giám đốc sở văn hóa - thể thao tỉnh Cà Mau viết bài
đăng trên báo Tuổi trẻ với tiêu đề Có một vũng lầy bất tận. Trong đó ông đã
lên án gay gắt: “ “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư là ở đâu vậy;
một cánh đồng bệnh hoạn về nhân cách; tồn tại không kỉ, không cương,
không pháp luật” [4, 22]. Trên báo Tuổi trẻ, Đỗ Hồng Ngọc đã nhận xét:
“Tôi như cảm thông sâu sắc với người cha của Nguyễn Ngọc Tư khi ông
đọc bản thảo của con mình đã im lặng…Nguyễn Ngọc Tư của ông đã là một
cơn gió mát rượi của đất phương Nam bỗng trở thành cơn lốc xoáy lên,
chướng lên trên cánh đồng bất tận thì ông đành phải im lặng và giấu sau đó
một tiếng thở dài. Tiếng thở dài rất nhẹ mà tôi ngờ rằng một người rất nhạy
cảm như Nguyễn Ngọc Tư cũng có thể sẽ không nghe thấy, nhưng đó sẽ là
tiếng thở dài bất tận nếu Nguyễn Ngọc Tư tiếp tục thổi phồng lên, tiếp tục
khai thác, tiếp tục tô đậm phần con, phần cái ác cái xấu…” [22,1].
Tuy nhiên, đã có nhiều ý kiến đánh giá của các nhà phê bình, các nhà
văn lên tiếng ủng hộ Cánh đồng bất tận và Nguyễn Ngọc Tư.
Đoàn Ánh Dương khẳng định: “đến truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”
trong tập truyện cùng tên, người đọc thực sự ngỡ ngàng trước sự bứt phá
của tác giả. Tác phẩm kết thúc một bước quá độ dài để khẳng định sự
trưởng thành của ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư, đồng thời cũng là một tín hiệu
đáng mừng cho đời sống văn học đương đại” [10,1].
Phạm Xuân Nguyên thì nhận thấy: “ “Cánh đồng bất tận” đã chia đoạn
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
7
sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư thành những truyện trước và sau nó” [23,1].
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nhà văn Hữu Thỉnh - chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam nhận xét: “đây là
một tác phẩm văn chương, không phải là một bút kí hay phóng sự. Tác giả
hoàn toàn có quyền hư cấu hay sáng tạo nhằm chuyển tải tốt nhất thông
điệp nghệ thuật đến người đọc” [4,57].
Nhà văn Dạ Ngân đã phát biểu trên báo Văn Nghệ: “theo tôi chúng ta
đáng lẽ phải mừng vì ở tận cùng đất nước, ở miền đất xa xôi ấy, có một cây
bút nữ như Nguyễn Ngọc Tư. Tôi luôn cho rằng văn học Nam Bộ mà có
thêm Nguyễn Ngọc Tư là cao thêm mấy tấc nữa rồi”. Và “tôi tin Nguyễn
Ngọc Tư có bản lĩnh. Không thể so sánh một tác phẩm văn học với hiện
thực đời sống một cách máy móc…nhà văn nào cũng phải chịu xây xước để
khẳng định mình” [4, 27].
Những khó khăn, vấp váp trên con đường văn chương đối với một người
trẻ tuổi như Nguyễn Ngọc Tư là khó tránh khỏi. Đáp lại những nhận xét,
đánh giá, Nguyễn Ngọc Tư vẫn tiếp tục trau dồi và không ngừng sáng tác.
Khi Gió lẻ và chín câu chuyện khác ra đời, cũng có nhiều cảm nhận về
tập truyện mang nhiều nét mới trong cách kể, ngôn ngữ,... Phạm Xuân
Nguyên trên báo Tuổi trẻ nhận thấy: “Truyện hứa hẹn là một đột phá mới
của người viết. Nhưng “Gió lẻ” chưa được đến độ như mong đợi”.
Sau này, khi Khói trời lộng lẫy ra mắt bạn đọc, Phạm Xuân Nguyên
cũng khẳng định: “Sách mỏng mà hay như thế này ngày nay cực hiếm”.
Đúng là, mỏng manh, nhẹ nhàng như khói nhưng vẫn có thể gây cay mắt và
choáng ngợp.
Hiện nay, Nguyễn Ngọc Tư vẫn đang sung sức trên con đường văn
chương và những nhận xét, đánh giá về chị cũng rất sôi động. Đó là những
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
8
gợi ý sâu sắc cho chúng tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
2.2 Lịch sử nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư
Đến với văn học bằng những truyện ngắn giản dị mà sâu sắc, Nguyễn
Ngọc Tư nhanh chóng tìm được chỗ đứng trong nền văn học hiện đại và
trong lòng độc giả. Những bài nghiên cứu, phê bình hoặc những cảm nhận
ban đầu về truyện ngắn của chị xuất hiện ngày càng nhiều. Hiện có nhiều
bài viết in trên các báo và tạp chí của các nhà nghiên cứu tìm hiểu sáng tác
của chị dưới góc nhìn Trần thuật học về cốt truyện, nhân vật, kết cấu,
giọng điệu, ngôn ngữ,…. Chúng tôi xin điểm qua một số bài viết và những
nhận xét tiêu biểu
Giáo sư kinh tế Trần Hữu Dũng - người đặc biệt quan tâm đến các sáng
tác của Nguyễn Ngọc Tư có nhận xét: “Trong cách lựa chọn tình tiết, cốt
truyện, Nguyễn Ngọc Tư “trung thành” với cái tình tự Nam Bộ của quê
hương cô. Chỉ những người sống và lớn lên ở địa phương, thật sự mến yêu
họ hàng, làng xóm của mình, mới thể hiện tình tự với quê hương mình được
như thế. Và bởi ở đâu cũng có cái đặc thù, chính tính đặc thù lại là độc đáo
nhất. Sự cá biệt của phương ngữ, khi được sử dụng để diễn đạt những tình
tự của cuộc sống con người, có khả năng vạch ra cái chung của cái riêng”
[11,2].
Khi viết bài “Sức lôi cuốn của ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư”, Phan Quý
Bích nhận định: “Nhiều người viết truyện ngắn thường cố tìm ra những cốt
truyện li kỳ, những sự kiện mà người ta hay gọi là đắt giá. Không phải
trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư không có những chân dung lạ, những sự
kiện ít gặp trong cuộc sống của chúng ta vì hình như bức tranh không có
chút gì đặc biệt thì nó khó thành bức tranh của truyện ngắn. Nhưng những
câu chuyện như thế không nhiều. Thường thì Nguyễn Ngọc Tư cho ta biết
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
9
những cái “tin” giản dị: một cô gái sửa soạn đồ mang theo trong ngày
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
cưới, một anh bạn trẻ thấy nhớ ông già hàng xóm đã đi xa. Những cái tin
như thế không cần đến những cốt truyện li kỳ, những biến cố giật gân, mà
chỉ như sự thông báo về những gì diễn ra quanh ta với những con người mà
ta có thể bắt gặp thường ngày mà thôi. Tuy vậy, nó vẫn là “tin”, vẫn đáng
chú ý vì có một cái gì đó khiến ta phải suy nghĩ, phải chiêm nghiệm. Và đây
mới là điều đáng nói” [8, 1]. Đồng thời, nhà nghiên cứu cũng nhận thấy:
“Nguyễn Ngọc Tư thường kể cho ta nghe những chuyện buồn, rất buồn.
Những cảnh đời éo le, những thân phận đau đớn” [8, 2].
Về nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, Trần Phỏng Diều có
những nhận xét rất tinh tế: “Mặc dù phần lớn người nông dân Nam Bộ
trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư đều nghèo, đều có một số phận long
đong, vất vả, nhưng trên hết, họ sống với nhau bằng cái tình, bằng sự yêu
thương và đùm bọc lẫn nhau…Nguyễn Ngọc Tư quả có cái nhìn sâu sắc,
tinh tế, có khả năng phát hiện ra những ngõ sâu trong tâm hồn những người
nông dân Nam Bộ, những niềm vui, nỗi buồn, cốt cách đặc trưng cũng như
bản chất cố hữu của họ” [9, 4].
Nhà phê bình Văn Công Hùng đã khẳng định: “Cái làm nên Nguyễn
Ngọc Tư còn là ngôn ngữ. Nguyễn Ngọc Tư đã thiết lập cho riêng mình một
hệ thống ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ nhưng không dị mọ ăn theo mà tung
tẩy, thăng hoa theo từng ngữ cảnh cụ thể” [17, 1].
Đoàn Ánh Dương trong bài viết “Cánh đồng bất tận nhìn từ mô hình tự
sự và ngôn ngữ trần thuật” nhận xét: “Tác giả đã lồng ghép hai hệ thống tự
sự với ba mô hình cốt truyện trong “Cánh đồng bất tận”. Trực diện với tác
phẩm, cốt truyện sự kiện đã ít nhiều bị phân rã và cốt truyện tâm lí đã có
phần lấn lướt. Truyện như một bức tranh ghép mảnh những mảng kí ức
chắp nối, đứt đoạn của nhân vật. Ở đó, nhân vật tan chảy thành dòng xúc
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
10
cảm hỗn độn giữa quá khứ và hiện tại, tâm cảnh và ngoại cảnh mà một sự
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
phục dựng đầy đủ chỉ có được khi người đọc đã lật đến trang cuối cùng.
Điều này đem đến cho người đọc cái hứng thú được thể nghiệm “một hiện
thực chưa hoàn kết”, được cùng theo đuổi và trải nghiệm với nhân vật, tức
là gia tăng sự tham gia của người đọc vào câu chuyện. Đó là khuynh hướng
tự sự giàu tính hiện đại” [10, 2]. Đồng thời ông còn chú ý đến giọng điệu và
người kể chuyện: “Để có một giọng văn chân thật, một mặt như đã nói, tác
giả rời chuyển ngôi kể từ người kể chuyện sang nhân vật chính, cho nhân
vật “nói” bằng ngôn ngữ cảm xúc, suy tưởng, mặt khác, đẩy ngôn ngữ đối
thoại, ngôn ngữ của nhân vật khác lọc qua lăng kính tâm lý của nhân vật
chính, đưa nó vào trường cảm nhận của nhân vật chính” [10, 3].
Phạm Phú Phong trong bài Lời đề từ trong Truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư nhận xét: “Lời đề từ có thể là một danh ngôn, một đoạn trích từ kinh
Phật, một câu hát dân gian, hoặc đôi khi chỉ là một ý nghĩ bâng quơ, nêu
một sở thích ngộ nghĩnh, hoặc một đoạn tự sự tồn tại song song với
truyện…nhưng tất cả đều có thể vận vào, đều thể hiện chiều sâu của tư
tưởng, là một phần bổ sung không thể thiếu cho văn bản tác phẩm…” [25].
Ở cuối bài viết tác giả khẳng định: “Những gì hiện ra trên văn bản, trên
ngôn từ mà ta thường gọi là hiển ngôn hữu hạn hơn rất nhiều so với sự hàm
ngôn, ở tầng sâu hơn, chị có khả năng mở ra những ngóc ngách tận đáy
tâm hồn của con người, trong sự đồng hiện, đồng cảm giữa người đọc và
thế giới nhân vật. Một trong những thủ pháp nghệ thuật tạo cho chị thành
công, đó chính là việc sử dụng nhuần nhuyễn các lời đề từ” [25].
Có thể nói, những ý kiến, nhận định về truyện ngắn của cây bút trẻ
Nguyễn Ngọc Tư đều có những phát hiện sâu sắc về nét riêng trong cách kể
chuyện, hành văn của chị. Điều đó góp phần làm cho các sáng tác của chị
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
11
ngày càng được độc giả đón nhận nồng nhiệt.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Hiện cũng đã có một số luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp đề cập
đến một vài khía cạnh của nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư như:
Khám phá thế giới nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, Khóa
luận tốt nghiệp của Vũ Thị Thu Hà, Đại học KHXH & NV Hà Nội, năm
2006.
Tiếp cận sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư và Đỗ Bích Thúy từ phương
diện giá trị văn học - văn hóa, Luận văn thạc sĩ của Dương Thị Kim Thoa,
Đại học KHXH & NV Hà Nội, năm 2008.
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, Khóa
luận tốt nghiệp của Lương Thúy Hà, Đại học KHXH & NV Hà Nội, năm
2009.
Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu sâu và có
hệ thống về nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Trên
tinh thần kế thừa những thành tựu nghiên cứu của người đi trước chúng tôi
tiếp tục đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về nghệ thuật
trần thuật trong truyện ngắn của chị; hi vọng sẽ góp tiếng nói của mình vào
việc khẳng định tài năng, cũng như những đóng góp của Nguyễn Ngọc Tư
với thể loại truyện ngắn nói riêng và với nền văn học đương đại nói chung.
3. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu
Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi khảo sát các tập truyện ngắn sau
của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư:
- Ngọn đèn không tắt (Tập truyện ngắn , NXB Trẻ, 2000).
- Ông ngoại (Tập truyện, NXB Kim Đồng, 2001).
- Biển người mênh mông (Tập truyện, NXB Trẻ, 2003).
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
12
- Giao thừa (Tập truyện, NXB Trẻ, 2003).
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
- Nước chảy mây trôi (Tập truyện và kí, NXB Văn nghệ
TPHCM, 2004).
- Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (Tập truyện, NXB Văn hóa
Sài Gòn, 2005).
- Cánh đồng bất tận (Tập truyện, NXB Trẻ, 2005).
- Gió lẻ và 9 câu chuyện khác (Tập truyện, NXB Trẻ,
2008).
- Khói trời lộng lẫy (Tập truyện, NXB Thời đại, 2010).
Tìm hiểu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của một nhà văn trẻ
đang trên con đường kiếm tìm và định hình phong cách, chúng tôi hy vọng sẽ
góp phần làm nổi bật một số nét phong cách trong nghệ thuật viết truyện ngắn
của Nguyễn Ngọc Tư đồng thời cũng thấy được rõ hơn những đóng góp của
chị trong sự vận động của Văn học Việt Nam đương đại.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để đạt được mục đích trên, chúng tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau: Phương pháp phân tích tác phẩm; Phương pháp so sánh, đối
chiếu; Phương pháp phân loại, thống kê; Phương pháp hệ thống, tổng hợp.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận văn được
triển khai phần nội dung thành 3 chương :
Chương 1: Người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
Chương 2: Nghệ thuật tổ chức cốt truyện và kết cấu trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư.
Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
13
Ngọc Tư.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN NGỌC TƯ
1.1 Giới thuyết về người kể chuyện trong tác phẩm tự sự
1.1.1 Khái niệm người kể chuyện
Tz.Todorov đã khẳng định: “Người kể chuyện là yếu tố tích cực trong
việc kiến tạo thế giới tưởng tượng…Không thể có trần thuật thiếu người kể
chuyện. Người kể chuyện không nói như các nhân vật tham thoại khác mà kể
chuyện. Như vậy, kết hợp đồng thời trong mình cả nhân vật và người kể, nhân
vật mà nhân danh nó cuốn sách được kể có một vị trí hoàn toàn đặc biệt…”.
Vấn đề người kể chuyện là một trong những vấn đề trung tâm của thi pháp
văn xuôi hiện đại. Tìm hiểu người kể chuyện sẽ giúp ta hiểu được phương
diện chủ thể của tác phẩm tự sự, sẽ hiểu tác phẩm một cách sâu sắc, trọn vẹn
hơn. Trong tác phẩm trữ tình và trong kịch không cần sự xuất hiện của người
kể chuyện nhưng trong tác phẩm tự sự người kể chuyện lại đóng một vai trò
hết sức quan trọng. Người kể chuyện được xây dựng để phát ngôn cho ý đồ
nghệ thuật của nhà văn. Người kể chuyện chính là loại người môi giới giữa
các hiện tượng được miêu tả và người tiếp nhận tác phẩm, là người chứng
kiến, cắt nghĩa của sự việc xảy ra còn nhà văn giống như người “chép hộ” lời
lẽ của người kể chuyện do mình tạo ra, “chỉ như người ghi, người sao lục lời
kể hoặc là người nghe trộm người kể”. Cho nên không thể đồng nhất tác giả
với người kể chuyện bởi khi đó tác giả đã hóa thân vào hình tượng tác giả
trong tác phẩm, xuất hiện như cái tôi thứ hai, trung tâm giá trị trong tác phẩm.
Người kể chuyện do nhà văn sáng tạo ra và phụ thuộc chặt chẽ vào tác giả
nhưng nó vẫn có những chức năng nhất định như can thiệp vào việc kể
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
14
chuyện, kể nhanh, chậm, mách bảo, phân tích miêu tả hay chỉ điểm cho người
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
đọc…Vì vậy mà người kể chuyện không chỉ có mối liên hệ gắn bó với tác giả
mà còn với bản thân câu chuyện kể và người tiếp nhận nó.
Trong tác phẩm tự sự, nhà văn trình bày, tái hiện một cách sáng tạo thế
giới hiện thực thông qua lời kể, lời miêu tả,…của một người trần thuật nào
đó. Người kể chuyện là sản phẩm của quá trình hư cấu của nhà văn, nó khác
với người kể chuyện thực tế trong đời sống. Khi nhà văn lựa chọn dạng thức
xuất hiện của người kể chuyện trong tác phẩm tự sự cũng là cách để nhà văn
thể hiện ý đồ sáng tác. Có nhiều cách phân loại người kể chuyện. Nếu căn cứ
vào vị trí của người kể chuyện trong tác phẩm, ta có: người kể chuyện ở ngôi
thứ nhất, ngôi thứ ba, cá biệt có trường hợp người kể chuyện vừa ở ngôi thứ
nhất vừa ở ngôi thứ ba (Linh Sơn – Cao Hành Kiện). Người kể chuyện ở ngôi
thứ nhất kể về câu chuyện mình chứng kiến hay câu chuyện của bản thân
mình nên khoảng cách giữa người kể với câu chuyện được kể bị triệt tiêu
(Lão Hạc – Nam Cao, Sợi tóc - Thạch Lam, Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn
Minh Châu). Tham dự vào truyện như một nhân vật, người kể chuyện đứng ở
vị trí bên trong như một chủ thể, được tự do quan sát bàn luận, có điều kiện đi
sâu tìm hiểu, khám phá thế giới hiện thực trong tác phẩm. Lời kể bộc lộ tính
chất chủ quan và sắc thái cảm xúc cao độ. Người kể chuyện ở ngôi này có thể
mang quan điểm của tác giả nhưng không phải lúc nào cũng trùng khít với tác
giả. Người kể chuyện ở ngôi thứ ba phổ biến hơn, là hình thức kể khi người
kể chưa được ý thức (như trong truyện thần thoại, truyện cổ tích,…) hoặc là
đã được ý thức nhưng cố ý giấu mình (như trong truyện ngắn, tiểu thuyết hiện
đại). Ngôi kể này làm cho câu chuyện hoàn toàn khách quan, người kể chuyện
vốn có tài “hiểu biết hết” mọi chuyện. Nếu căn cứ vào vai trò của người kể
chuyện, sẽ có hai loại: Người kể chuyện không đáng tin cậy, không biết hết và
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
15
người kể chuyện đáng tin cậy
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Tuy nhiên, vấn đề người kể chuyện trong tác phẩm tự sự “cho đến nay, nó
vẫn là vấn đề đòi hỏi phải tiếp tục xem xét và nghiên cứu” (Nguyễn Hải
Phong). Mặc dù vậy chúng ta không thể phủ nhận vai trò và chức năng của
người kể chuyện trong tác phẩm tự sự nói chung và trong truyện ngắn nói
riêng.
1.1.2 Vai trò, chức năng của người kể chuyện
Là một nhân vật đặc biệt trong tác phẩm tự sự, người kể chuyện là một
sản phẩm của sự sáng tạo nghệ thuật, một công cụ do nhà văn hư cấu nên để
kể chuyện. Việc tác giả lựa chọn kiểu người kể chuyện nào để kể hoàn toàn
không phải là một sự ngẫu nhiên mà nó mang tính quan niệm, nhằm mục đích
chuyển tải tư tưởng, nội dung một cách hiệu quả nhất. Có thể khẳng định
trong truyện ngắn nói riêng cũng như trong tác phẩm tự sự nói chung người
kể chuyện có vai trò quan trọng trong việc tổ chức kết cấu tác phẩm. Viết
truyện, nhà văn thường xây dựng những kết cấu riêng. Người kể chuyện phải
thay mặt nhà văn cố gắng tìm cho mình một kết cấu tốt nhất để làm câu
chuyện hấp dẫn, lôi cuốn được người đọc. Với những cách kể chuyện khác
nhau, cách xuất hiện khác nhau của người kể chuyện, ta sẽ có các dạng cốt
truyện khác nhau: cốt truyện tuyến tính, cốt truyện tâm lý, cốt truyện “chuyện
lồng chuyện”…Có tác phẩm chỉ có một người kể chuyện và cũng chỉ kể một
câu chuyện (Đồng hào có ma - Nguyễn Công Hoan). Có tác phẩm chỉ có một
người kể chuyện nhưng kể nhiều câu chuyện khác nhau (Đất kinh kì - Nguyễn
Khải). Có tác phẩm trong đó nhiều người kể chuyện cùng kể về một câu
chuyện (Khách ở quê ra - Nguyễn Minh Châu). Cũng có tác phẩm trong đó
nhiều người kể chuyện kể nhiều chuyện khác nhau (Người đàn bà trên chuyến
tàu tốc hành - Nguyễn Minh Châu),…Có thể thấy, người kể chuyện có một
vai trò rất lớn trong việc tổ chức kết cấu tác phẩm. Timofiev đã từng khẳng
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
16
định: “Hình tượng này có tầm quan trọng hết sức to lớn trong việc xây dựng
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
tác phẩm bởi các quan niệm, các biến cố xảy ra, cách đánh giá các nhân vật
và các biến cố đều xuất phát từ cá nhân người kể” [44, 204].
Không chỉ góp phần tổ chức kết cấu tác phẩm, người kể chuyện còn có
chức năng môi giới, dẫn dắt người đọc tiếp cận thế giới nghệ thuật. Nhà văn
Gorki khẳng định: “Trong tiểu thuyết, trong truyện ngắn, những con người
được tác giả thể hiện đều hành động với sự giúp đỡ của tác giả; tác giả luôn
bên cạnh họ, tác giả mách cho người đọc hiểu rõ cần phải hiểu như thế nào,
giải thích cho người đọc hiểu những ý nghĩa thầm kín, những động cơ bí ẩn ở
phía sau những hành động của các nhân vật được miêu tả”. “Tác giả” mà
Gorki nói tới chính là người kể chuyện, bởi trong tác phẩm người kể chuyện
thay mặt tác giả dẫn dắt người đọc thâm nhập vào thế giới nghệ thuật. Người
kể chuyện sẽ gợi mở, giúp người đọc tiếp cận với nhân vật, hiểu được những
động cơ thầm kín trong những hành động của nhân vật, rút ngắn khoảng cách
giữa nhân vật với mình. Không chỉ giúp người đọc hiểu rõ hơn, sâu hơn về
nhân vật mà người kể chuyện còn hướng người đọc cùng suy ngẫm, chia sẻ và
đồng cảm với những chiêm nghiệm, những suy nghĩ của mình về cuộc đời.
Nhiều khi, người kể chuyện còn đối thoại, tranh luận với người đọc để cùng
nhau khám phá, kiếm tìm những chân lý của cuộc sống.
Mang tiếng nói, quan điểm của tác giả, người kể chuyện thay mặt nhà
văn trình bày những quan điểm về cuộc sống, nghệ thuật. Mỗi tác phẩm nghệ
thuật là một đứa con tinh thần của nhà văn và thông qua tác phẩm nhà văn
trình bày một cách nghệ thuật những quan niệm của mình.
Qua sự phân tích trên, ta có thể thấy vai trò đặc biệt quan trọng của
người kể chuyện trong tác phẩm tự sự để từ đó giúp chúng ta đánh giá, phân
tích tác phẩm sâu hơn, trọn vẹn hơn. Khảo sát các tập truyện ngắn của
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
17
Nguyễn Ngọc Tư, có thể thấy nhà văn đã sử dụng tất cả các dạng thức xuất
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
hiện của người kể chuyện tạo nên nét duyên, cái tạng riêng cho mỗi trang văn
của chị.
1.1.3 Người kể chuyện chi phối điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm tự sự
Văn học là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Nhà văn muốn
phản ánh được thế giới ấy thì phải chọn cho mình một chỗ đứng, một điểm
nhìn để từ đó quan sát, chiêm nghiệm. Marcel Proust cho rằng vấn đề quan
trọng nhất của phong cách là điểm nhìn. Điểm nhìn chi phối cảm hứng sáng
tác và bộc lộ cá tính sáng tạo của nhà văn. Chọn được điểm nhìn thích hợp
nhà văn sẽ tạo được cho mình một ấn tượng riêng, độc đáo trong từng trang
viết, làm nên phong cách không thể trộn lẫn với ai. Theo GS. Trần Đình Sử
thì “trước đây người ta thường chú ý tới “ngôi” trần thuật, nhưng đó chỉ là
một biểu hiện ngữ pháp, nội hàm vấn đề chỉ gắn với điểm nhìn mới được xem
xét toàn diện”. Khi trần thuật thì bất kì một người kể chuyện nào cũng phải
xác định cho mình một điểm nhìn để tái hiện đời sống, nó giống như “ mở
một con đường đi vào rừng rậm” vậy. Điểm nhìn là “cái vị trí dùng để quan
sát, cảm nhận, đánh giá, bao gồm cả khoảng cách giữa chủ thể và khách thể,
cả phương diện vật lí, tâm lí, văn hóa” [42, 149].
Bản chất của khái niệm điểm nhìn là sự phản ánh mối quan hệ giữa chủ
thể ngôn từ tức là người kể chuyện và khách thể ngôn từ là đối tượng được kể
lại. Điểm nhìn trần thuật gắn bó mật thiết với ngôi kể. Điểm nhìn thể hiện vị
trí người kể dựa vào điểm quan sát trần thuật các nhân vật và sự kiện. Người
ta phân chia thành nhiều loại điểm nhìn trần thuật: điểm nhìn bên trong, điểm
nhìn bên ngoài, điểm nhìn không gian - thời gian, điểm nhìn di động. Điểm
nhìn bên trong là kể xuyên qua cảm nhận của nhân vật. Điểm nhìn bên trong
được “biểu hiện bằng hình thức tự quan sát của nhân vật “tôi”, bằng sự thú
nhận, hoặc bằng hình thức người trần thuật tựa vào giác quan, tâm hồn nhân
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
18
vật để biểu hiện cảm nhận về thế giới”. Điểm nhìn bên ngoài là điểm nhìn mà
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
người kể miêu tả sự vật từ phía bên ngoài nhân vật, kể những điều nhân vật
không biết. Điểm nhìn không gian là nhìn xa hay cận cảnh, điểm nhìn thời
gian là nhìn từ thời điểm hiện tại như sự việc đang diễn ra hay nhìn lại quá
khứ, kí ức. Điểm nhìn di động là sự di chuyển điểm nhìn từ đối tượng này
sang đối tượng khác. Vận dụng linh hoạt các điểm nhìn trần thuật sẽ góp phần
tạo nên tính sinh động, hấp dẫn cho tác phẩm văn học bởi tác phẩm văn học
chính là tấm gương phản chiếu đời sống. Sự đa dạng về điểm nhìn có thể phản
ánh được hiện thực đời sống ở nhiều góc cạnh đa dạng nhất.
Tìm hiểu Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
chúng tôi nhận thấy các sáng tác của chị có sức hấp dẫn ở cách xây dựng nhân
vật người kể chuyện kết hợp với hệ thống điểm nhìn trần thuật vừa linh hoạt
vừa độc đáo.
1.2 Ngôi kể và điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
1.2.1 Người kể chuyện lộ diện trực tiếp ở ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên
trong
Điểm nhìn bên trong giúp người kể chuyện dẫn người đọc vào trạng
thái tâm tình, khiến họ có cảm giác thấy cuộc sống qua tâm hồn người trong
cuộc, nên những gì họ thẩm thấu được đều đáng tin, đáng nhớ. Từ điểm nhìn
của một nhân vật trong câu chuyện những điều được kể mang đậm tính chủ
quan, những sự việc biến cố dần dần được hiện lên qua những gì nhân vật
cảm thấy, nhận thấy rồi suy ngẫm và bộc lộ thái độ. Với điểm nhìn này người
kể chuyện dễ dàng tái hiện các quá trình trong tâm hồn nhân vật. Ở đó người
kể chuyện đồng thời cũng là nhân vật chính, xưng “tôi”, vừa là chủ thể diễn
ngôn, vừa là chủ thể hành động trong câu chuyện. Để có thể diễn tả được tất
cả các ngõ ngách của đời sống và nội tâm con người của vùng đất Nam Bộ
máu thịt, Nguyễn Ngọc Tư đã chọn cho người kể chuyện kể lại câu chuyện từ
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
19
điểm nhìn bên trong.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
1.2.1.1 Cái tôi tự kể về mình
Một số truyện của Nguyễn Ngọc Tư có người kể chuyện ở ngôi thứ
nhất, kể về chính câu chuyện của bản thân mình. Là cái “tôi” tự kể về mình
nên câu chuyện thường được kể theo sự vận động của nội tâm, dòng chảy của
tâm lý nhân vật: Ngổn ngang, Nhà cổ, Một mối tình, Cánh đồng bất tận, Khói
trời lộng lẫy, Của ngày đã mất, Thổ Sầu, Khói trời lộng lẫy,…
Của ngày đã mất, người kể chuyện xưng “tôi” để giãi bày những trạng
thái yêu thương, dằn vặt, đau khổ,…của mình trước mối tình “so le” về tuổi
tác: “Khi ấy tôi đã sáu mươi chín tuổi. Em mới hai mươi hai”. “Tôi” ý thức
rất rõ sự chênh lệch đó: “Tôi không bao giờ muốn nhớ điều đó, nhưng đôi
kính lão, dáng người héo như chỉ là da bọc lấy những đốt xương rời, mái tóc
đã ngả màu bông lau chín…tất cả những gì đã thuộc về tôi đều nhắc nhở, tôi
đã quá già”. Trong chuyến đi khảo cứu dân ca, nhân vật “tôi” - người thầy, đã
từ chối thẳng sẽ không cho cô sinh viên trẻ, mà thầy biết là rất yêu mình đi
theo. Nhưng cô vẫn đi. Và trong chuyến đi ấy, biết bao cảm xúc của nhân vật
bùng nổ. Đó là những cảm xúc của con người đầy trải nghiệm nên càng sâu
sắc, càng đớn đau. Trước sự hồn nhiên, trẻ trung của “em”, “tôi” thấy mình
thật già nua: “Nhiều lần đầu em dục dặc mất điểm tựa, tôi đã lén kéo vào
mình, nhưng bàng hoàng nhận ra vai tôi đã cứng khoèo…Cái cảm giác mình
đang khô đi khiến tôi rã rời, hầu như không có một cơn rạo rực nào khiến tôi
có thể ôm lấy em”. Nhưng nhiều khi giữa những dằn vặt đầy đau khổ ấy nhân
vật cũng có những cảm xúc rất thật trước tình cảm mãnh liệt của cô sinh viên
trẻ: “Cái cảm giác chỉ có em và tôi và cây cỏ dại trên đồng làm tôi thấy dễ
chịu. Thậm chí tôi chủ động nắm tay em, và bàn tay nhỏ nhắn đó thoáng lạnh
đi vì bất ngờ”. Nhưng đó chỉ là những phút giây ngắn ngủi, ngay khi gặp
người khác, ngay khi có thể nhìn thấy hình bóng mình ở đâu đó thì sự già nua
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
20
hiện hình rất rõ, nên nhân vật càng thấy thấm thía nỗi đau hơn: “Nhưng tôi đã
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
không giữ tay em được lâu, vì khi rình bắt con chuồn chuồn gần cái ao nhỏ
sắp cạn nước bên bờ ruộng, tôi đã thấy lại mái tóc trắng xóa của mình…vì chỉ
cần chút nữa, gặp người đời, tôi sẽ thấy lại tuổi sáu mươi chín của mình trong
mắt họ”. Hạnh phúc thoáng qua, còn lại là những dằn vặt, đau đớn khi nhận ra
thực tại khiến nhân vật “gần như không dám nhìn vào cái cười trong trẻo đó
vì sợ mình sẽ nhớ lâu”. Và cho đến kết thúc truyện vẫn là sự trăn trở, nỗi đau
của một người từng trải, hiểu sâu sắc cuộc đời này: “May quá, mai kia khi trút
hơi thở cuối cùng, tôi chẳng phải nặng lo cho em, lúc đó ngồi cạnh tôi với
gương mặt ướt”. Những cảm xúc thật đó trải ra từng trang giấy khiến người
đọc có cảm giác như đang trực tiếp nghe nhân vật giãi bày.
Cũng giống như nhà văn Thạch Lam, các truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tư không mang tính chất tự thuật về cuộc đời mà chỉ kể về những trải
nghiệm tâm lý của con người. Với tư cách là kẻ trong cuộc, hình thức cái
“tôi” trải nghiệm của người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư đã
mang tính thuyết phục người đọc rất cao ở sự chân thực của cảm xúc.
Truyện Cánh đồng bất tận là những khúc xạ tâm lý và suy nghĩ của
một cô gái mới lớn sống cơ cực từ nhỏ. Câu chuyện thương tâm của gia đình
và cả những mất mát của bản thân cô được kể một cách chân thực. Không
rành rọt thời gian, hiện tại và quá khứ đan xen, người đọc nương theo những
cảm nhận và suy nghĩ của nhân vật sẽ thấy những cảnh đời, những con người
bất hạnh, những ngang trái ở đời. Có thể nói, toàn truyện là chuỗi tâm trạng,
những hồi ức, kỉ niệm đau đớn của nhân vật Nương về những gì cô phải trải
qua và chứng kiến.
Kể theo dòng chảy nội tâm của nhân vật nên các sự kiện đứt nối, không
liền mạch. Đang từ cảnh sống trong hiện tại trên cánh đồng không có tên, chị
em Nương đã cứu cô gái điếm, lại quay về kí ức ngày bà mẹ bỏ đi, rồi trở về
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
21
cuộc sống hiện tại, kí ức lại hiện về với những cuộc tình của người cha, sự bất
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
thường của Điền, cuối cùng là cuộc sống sau khi chị Sương và Điền bỏ đi.
Người đọc có thể hình dung rất chân thực hình ảnh cô gái mới lớn trên con
thuyền trôi dạt từ cánh đồng này sang cánh đồng khác để mưu sinh bên cạnh
người cha khác người và đứa em đặc biệt. Có những lúc cô bươn chải theo
cuộc sống hiện tại, đau nỗi đau hiện tại, có những lúc quay về với quá khứ.
Bắt đầu là kỉ niệm trên cánh đồng không tên: “Cánh đồng không có tên.
Nhưng với tôi và Điền, chẳng có nơi nào là vô danh, chúng tôi nhắc, chúng
tôi gọi tên bằng những kỉ niệm mà chúng tôi có trên những cánh đồng…”, rồi
đến những cảm xúc đau buồn về má: “Những chiều ghe chúng tôi đi ngang
qua những người đàn bà ngồi giặt giũ dưới bến sông, tôi hay hỏi lòng, có phải
tôi vừa ngang qua má không. Tôi cố giữ trong lòng hình ảnh má nhưng rồi
ngày càng tuyệt vọng khi thấy nó nhạt nhòa dần, cứ nghĩ mai nầy gặp lại mà
không nhận ra nhau, lòng nghe buồn thiệt buồn”. Rồi đến những cuộc tình của
cha: “với nét mặt tràn ngập những rắp tâm, chưa gặp mặt đã tính chuyện phũ
phàng”, rồi những lo sợ khi nhận ra sự bất thường của Điền: “Điền đã lạnh
ngắt. Nó dửng dưng nhìn những đứa con gái làm cỏ lúa, quần xắn cao, đùi
non mởn…Phải rất lâu, tôi mới nhìn Điền một cách bình thường”. Và nhân
vật “tôi” giãi bày tình cảm rất chân thực của mình: “Cha đẩy chúng tôi vào
những thiếu thốn triền miên. Mỗi lần rời khỏi một nơi nào đó, thật khó để
phân biệt chúng tôi bỏ đi hay chạy trốn. Chúng tôi đánh mất cái quyền được
đưa tiễn, được xao xuyến nhìn những cái vẫy tay, được nhận vài món quà
quê…”. Đó là nỗi đau rất thật của một cô gái khát khao có cuộc sống bình
thường, có những cảm xúc như bao người nhưng bị chính cha ruột của mình
mang trong lòng sự hận thù sâu sắc cướp đi mất. Và “tôi” sống nương tựa vào
người thân duy nhất đó là đứa em trai. Nên khi Điền bỏ đi thì “Tôi nhớ nó (và
nhớ chị) không thôi. Những lần dọn cơm tôi hay lấy chén đũa cho cả bốn
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
22
người…Tôi ngồi một mình, chan nước vào chén cơm như chan nỗi trống trải
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
khủng khiếp”. Và cho đến cuối truyện cũng vẫn là những dòng tâm trạng của
nhân vật: “Tôi biết lấy ai trong số đó?...Tôi lấy ai bây giờ, một người thợ gặt?
Một anh chạy đò?”.
Con người luôn thành thực nhất khi đối diện với chính mình. Những
khổ đau, dằn vặt, những cung bậc tâm trạng của nhân vật Nương trong truyện
rất thực, rất đời.
`Cũng kể theo ngôi thứ nhất với điểm nhìn hướng nội, Khói trời lộng
lẫy, truyện vừa mới xuất bản là tác phẩm đan xen giữa kí ức, thực tại và ước
mơ của một cô gái đã mang đứa em trai nhỏ của mình bỏ trốn cuộc sống phố
thị đến sống tại một xóm nghèo trên chiếc cồn hoang vắng của sóng nước
miền Tây. Giữa thiên nhiên hoang sơ, giữa những con người có tâm sự u uẩn,
hai chị em bị lầm tưởng là hai mẹ con đang dắt díu, tha phương tìm đất sống.
Không phát triển theo trình tự thời gian, sự kiện, truyện là những kí ức, những
suy nghĩ của nhân vật chính - một cô gái mới lớn. Ngay từ nhỏ “tôi” đã không
nhận được tình thương của người cha. Và câu hỏi về cha mình là câu hỏi
thường trực kể cả khi người mẹ đã ra đi. Cho đến khi đã gặp cha, “tôi” đau
đớn nhận ra rằng: “Trong kí ức ông không còn hình ảnh nào của tôi, đã đứt
bằn bặt. Tôi không lấy điều đó làm buồn, vì năm đứa con gái lớn lên bên ông
mà đôi khi còn bị lẫn lộn tên…Tôi chắp vá những lời kể thảng hoặc, bất chợt
từ những người sống quanh ông, cố hiểu tại sao ông lại dè sẻn tình thương
từng giọt từng giọt một”. Cùng đó là nỗi đau về một mối tình không thể có kết
thúc vì người ấy đã có vợ: “Tôi tự hỏi tại sao khi đi giữ dòng suối ngầu sôi
kia, khi thấy tôi chới với, anh đã chụp tay tôi rồi, cũng chặt như vầy, nhưng
anh đã buông, anh thả những ngón tay anh cũng nhanh như khi nắm vậy. Tôi
đã chìm ngay lúc ấy, dù sau đó anh sực tỉnh rướn theo, chới với tìm”. Những
khổ đau dồn nén khiến “Giờ tự tôi khép tôi lại”. Chạy trốn nỗi đau, chạy trốn
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
23
hiện tại, cô đã đến một nơi xa xôi không ai biết thân phận thật của mình với
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
đứa em cùng cha khác mẹ. Những dòng tâm sự, những trăn trở của chính nhân
vật trong cuộc chạy trốn cuộc sống được bộc bạch một cách tự nhiên: “Mười
một năm sống một mình trở thành thói quen. Tôi thường đi băm bổ làm Phiên
rớt lại đằng sau…Nhưng giờ tôi đã là mẹ thằng Phiên, tôi luôn dặn mình điều
đó”, và “Tôi giữ cho tuổi thơ Phiên đẹp như Phiên có. Hoang dã. Trong veo”,
nhưng nhân vật cũng bộc bạch rất thật “Phiên lớn dần mà tôi vẫn chưa bớt ưu
phiền”. Mang em đi theo với niềm đau khổ và trái tim hận thù người cha
nhưng một cô gái mới lớn vẫn muốn giữ lại cho em trai điều tốt đẹp nào đó
trong cuộc đời “Tôi đã trôi đi không tăm tích giữa cuộc đời này, thỉnh thoảng
có ai đó níu lấy rồi ruồng bỏ. Giờ tôi lại đi giành dụm một kí ức rực rỡ cho
Phiên”. Đối với “tôi”, tài sản không có nghĩa lý gì, cô chỉ cần một lời xin lỗi
từ cha. Đó là nỗi lòng của một đứa con gái đáng thương. Khép lại truyện, tôi
đau đớn cho em trai biết thân phận thực của mình, và đau đớn hơn khi nhận
thấy “Khoảnh khắc đó tôi nhận ra em trai tôi cũng khiếm khuyết, tật nguyền.
Phiên gần như không biết biểu lộ sự giận dữ, bàng hoàng, đau đớn,…dù trong
nó có tất cả cảm giác đó, chúng bị quăng quật trong lòng”. Từ đầu đến cuối,
cuộc đời của nhân vật chính được kể rất thật, rất thấm thía qua những kí ức
của chính cô. Câu chuyện vì thế mang đậm tính chủ quan, chân thật.
Chọn ngôi kể thứ nhất, với điểm nhìn bên trong, Nguyễn Ngọc Tư đã đi
sâu vào những ngóc ngách trong tâm hồn con người, mở ra những cung bậc,
trạng thái tình cảm thầm kín nhất. Nhờ vậy, chị đã thể hiện sự đồng cảm sâu
sắc của mình với những cảnh đời ngang trái, những câu chuyện éo le. Hơn
nữa, với cách kể chuyện này, chị đã để người đọc thật sự được sống và trải
nghiệm cùng những nhận vật của mình. Và nhiều khi người đọc nhận thấy đó
cũng là cảm xúc, tâm trạng của chính mình, của những người xung quanh
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
24
mình.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Cũng kể theo ngôi thứ nhất, nhưng một số truyện của Nguyễn Ngọc Tư
người kể chuyện kể chuyện của một người thân, một người hàng xóm,…mà
người đó được chứng kiến.
1.2.1.2 Cái “tôi” kể chuyện người khác
Nhiều truyện của Nguyễn Ngọc Tư, người kể chuyện ngôi thứ nhất
nhưng không kể chuyện mình mà kể chuyện người khác. Ở đó, “tôi” đóng vai
trò của người quan sát, tỏ ra thấu hiểu cuộc đời, tâm hồn nhân vật và tái hiện
lại bằng lời kể của mình. Đó là những truyện: Dòng nhớ, Cái nhìn khắc khoải,
Người năm cũ, Nước chảy mây trôi, Núi lở, Tình lơ,…
Không kể về những gì mình trải qua như cái “tôi” kể chuyện mình, cái
“tôi” kể chuyện người khác chỉ giữ vai trò như một chứng nhân trong câu
chuyện, kể lại những gì mình biết, mình chứng kiến. Nhờ vậy, những gì được
kể mang tính chủ quan. Tuy không phải là đồng nhất nhưng dạng thức xuất
hiện này của người kể chuyện được cho là hình thái của hình tượng tác giả -
mang tiếng nói, quan điểm của tác giả. Tác phẩm trở thành một “chứng minh
thư tâm lý” bởi với hình thức kể chuyện này nhà văn có cơ hội tự biểu hiện
một cách có hiệu quả nhất.
Người kể chuyện trong Dòng nhớ cũng là nhân vật xưng “tôi”. Là
người trực tiếp chứng kiến câu chuyện đầy éo le của ba má mình và dì (vợ
trước của ba), “tôi” đã kể lại những gì mình cảm nhận được, kể một cách
điềm tĩnh nhưng rất thấu hiểu bi kịch của cha với nỗi đau khi đã phụ bạc dì:
“không phải ba tôi không nhớ vườn xưa mà chống gậy về, ông nhớ sông, một
ngày ba bốn lượt lủi thủi chống gậy ra bến, cặp mắt như ngó mong, như hờn
giận. Ba tôi vốn là người của sông mà. Ông đang ở đây nhưng tâm hồn ông,
tấm lòng ông chảy tan vào dòng nước tự lâu rồi”. Người kể đã thực sự đồng
cảm cùng cha mẹ mình với những cung bậc cảm xúc riêng tư nhất: “Mà, cũng
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
25
vì ba tôi quên không được má tôi mới thương ông nhiều, sau nầy, lớn lên, biết
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
yêu thương rồi, tôi mới ngộ ra. Con người ta, nhất là đàn ông thương ai, mà vì
nỗi gì đó quay lưng lại quên mất tiêu thì đúng là không tử tế, không đáng tin
chút nào. Với tôi, ba tôi thì quên hay không cũng được, ba đã sống tốt với cả
nhà tôi lắm rồi. Ông sống tử tế đến vô cùng, đến thừa, dường như ông gửi
gắm tình thương yêu đến cả những người vắng mặt”. Đối với người cha của
mình, người kể chuyện tỏ ra hiểu cha, thậm chí bao dung và thương cảm cho
tình cảnh riêng tư của cha. Còn đối với má, nhân vật “tôi” cũng hiểu hết
những tâm sự thầm kín, những dằn vặt trong lòng má: “má tôi bứt ba phải xa
sông, nhưng chính bà cũng biết những dòng nhớ vẫn tiếp tục chảy mãi trong
hồn ông…Đó là nỗ lực cuối cùng má tôi làm để chấm dứt cái cảnh ba nằm
bên má mà hồn vẫn hướng về những dòng sông miên man chảy”. Với vị trí là
một người con, nhân vật “tôi” đã kể câu chuyện về ba má mình vừa chân
thành vừa thấu hiểu và đầy vị tha.
Là người trực tiếp chứng kiến câu chuyện, nhân vật “tôi” trong Tình lơ
đã kể lại chuyện tình giữa ba người dì, dượng (chồng dì) và má mình. “Tôi”
hiểu được cái cảm giác bẽ bàng khi Dượng Bảy nhận ra mình đã nhầm lẫn
giữa hai chị em sinh đôi: “Dượng Bảy cũng cầm khay rượu há hốc ra, hết nhìn
cô chị rồi tới cô em. Bẽ bàng. Lỡ làng”. Và những khổ đau trong cuộc sống
vợ chồng được tạo ra từ sự nhầm lẫn đó cũng được người kể chuyện chứng
kiến và kể lại thấm thía. Biết bao lần Dượng Bảy nói: “Cô không phải người
tôi thương” với nhiều lí do: “…người kia thấy máu trên phim còn không dám
nhìn…đàn bà gì đâu mà chua lè, người ta kia thơm phức như múi mít…người
kia thấy người ta đánh nhau trên phim còn sợ…người kia tóc nắm một vốc,
mướt rượi…người kia mủ mỉ thật thà…”. Và tình cảm thật của dượng sau bao
năm sống cùng dì đã được tôi cảm nhận, thấu hiểu: “Buổi đó nhá nhem, đèn
đỏ ối, dượng Bảy nhìn má tôi rồi ngơ ngác ngó quanh tìm dì, rướn cái cổ lên
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
26
duợng nói từng chữ lục cà lục cục. “chị không phải người tôi thương…”.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Đồng thời, “tôi” cũng hiểu rõ tình cảnh trớ trêu của dì mình khi đứng trước
cảnh tình chị mà duyên em: “Dì kệ, để tay mình ở đó, mặt héo lòng hon rồi
bàng hoàng…nhưng dì biết nói gì cũng muộn, người nhầm lẫn là chồng dì, tối
đó đúng là tối tân hôn”. Và sống cùng nỗi đau nhưng dì vẫn luôn yêu thương,
cảm thông cho chồng: “Dượng nghe chảy nước mắt. Dì hết hồn, hớt hải nhắn
xuống xóm Rẫy kêu má tôi qua, để an ủi tinh thần dượng”. Với cách kể này,
câu chuyện vừa chân thực vừa khách quan. Người kể chuyện ở đây ít bộc lộ
cảm xúc của mình, chỉ kể lại sự quan sát, cảm nhận tinh tế, sâu sắc của mình.
Cách kể này đã tạo những “khoảng trống” cộng hưởng cảm xúc ở độc giả. Cái
“tôi” chứng kiến và kể lại trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư thường có
quan hệ gần gũi với nhân vật chính trong truyện kể. Bởi truyện của chị
thường viết về những con người gần gũi với chính mình, những cảnh đời số
phận thực như ùa vào mỗi truyện.
Chọn ngôi kể thứ nhất và điểm nhìn bên trong là kiểu kể chuyện quen
thuộc trong truyện ngắn của nhà văn trẻ nhiều day dứt, trăn trở về cuộc đời,
về con người, về nỗi đau,...Với cách kể này, Nguyễn Ngọc Tư thật sự khơi
gợi được sự đồng cảm nơi bạn đọc.
1.2.2 Người kể chuyện ẩn mình qua hình thức trần thuật từ ngôi thứ ba
Tìm hiểu các sáng tác của nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư, bên cạnh
nhiều truyện được kể theo ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong còn xuất
hiện người kể chuyện ẩn mình qua hình thức trần thuật từ ngôi thứ ba. Đây
không phải là hình thức trần thuật mới mẻ trong lịch sử phát triển của thể loại
tự sự, nó đã có trong truyện kể văn học dân gian và văn học trung đại. Nhưng
bước vào quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam, cùng với việc xuất hiện
hình thức trần thuật từ ngôi thứ nhất, hình thức trần thuật từ ngôi thứ ba cũng
có những biến đổi đáng kể. Đến văn học đương đại, hình thức trần thuật từ
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
27
ngôi thứ ba thực sự phát huy tác dụng. Ở đó, người kể chuyện đã hòa nhập
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
vào nhân vật, giúp nhân vật nói lên những tâm sự thầm kín của nhân vật, cũng
chính là tựa vào giác quan, tâm hồn nhân vật để người kể biểu hiện cảm nhận
về thế giới. Một số truyện của Nguyễn Ngọc Tư được kể theo ngôi thứ ba
như: Nhớ sông, Huệ lấy chồng, Đau gì như thể, Chuyện của Điệp, Cuối mùa
nhan sắc, Ngày đùa, Bởi yêu thương,…Nếu như ở ngôi kể thứ nhất, câu
chuyện mang đậm tính chủ quan thì truyện được kể theo ngôi kể thứ ba lại
mang tính khách quan.
1.2.2.1 Kể theo điểm nhìn của chính mình
Với điểm nhìn của chính mình, người kể chuyện đứng ở bên ngoài thế
giới truyện kể để quan sát, hoặc hoàn toàn giấu mình, kể lại câu chuyện một
cách khách quan, lạnh lùng hoặc tự bộc lộ qua ngôn ngữ biểu cảm, qua những
lời giải thích, bình luận xen vào câu chuyện. Đây là dạng thức kể chuyện quen
thuộc trong hình thức trần thuật từ ngôi thứ ba. Khảo sát các tập truyện ngắn
của Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi nhận thấy rằng phương thức tự sự này chỉ tồn
tại ở cấp độ thấp hơn văn bản (đoạn, cảnh, câu) chứ không xuất hiện ở cấp độ
toàn văn bản. Như truyện Hiu hiu gió bấc và Cảm giác trên đây vừa được kể
theo điểm nhìn của chính người kể chuyện hàm ẩn vừa kể theo điểm nhìn của
các nhân vật trong truyện.
Ngay đầu truyện Hiu hiu gió bấc người kể chuyện giới thiệu về nhân
vật: “Ở cái xóm nhỏ ven thành phố này người ta nhắc tới anh Hết còn nhiều
hơn chủ tịch tỉnh đi họp. Đứa nào hỗn hào, lười biếng, má nó biểu lại coi
thằng Hết kìa, ba mươi mấy tuổi đầu rồi, ngày đi làm thuê, chiều về lụi hụi
chui vô bếp nấu cơm, gặt giũ cho cha già, hiếu thảo thấy mà thương”. Đó là
lời của người kể chuyện hàm ẩn không những giới thiệu về nhân vật chính là
anh Hết mà còn bộc lộ tình cảm của người kể trước cảnh tình của anh “thấy
mà thương”. Với giọng điệu ấy người kể chuyện hàm ẩn đã kể lại chuyện tình
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
28
buồn giữa anh Hết và chị Hoài. Có những lúc người kể chuyện không hề che
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
giấu cảm xúc của cá nhân: “Ai nghe nói cũng thương. Đúng là tên sao thì
người vậy, chịu thương chịu khó hết mình, hiếu thảo hết mình…Thời đó, tuổi
đó, người ta thương không nhìn gia cảnh, địa vị. Tuổi đó, người ta yêu không
ngại ngần, không e dè, rào cản, họ để lòng tự nhiên như dòng chảy của sông”.
Có thể thấy trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, người kể chuyện hàm ẩn
nhiều khi công khai thể hiện những cảm xúc và nhận xét của chính mình.
Những câu hỏi kết thúc truyện, những câu văn buông lơi như chính tiếng lòng
đồng cảm của người kể chuyện với nhân vật: “Nhưng mà chờ tới chừng nào
lận? Ai mà biết. Mùa này gió bấc hiu hiu lại về”. Tuy nhiên, ở nhiều đoạn,
điểm nhìn đã được trao cho nhân vật. Đó là khi anh Hết thể hiện lòng thương
tía: “Chừng này tuổi rồi, mỗi khi anh đặt lưng xuống bộ vạc, lại nhớ ngơ nhớ
ngẩn lời hát của tía anh ngày xưa. Buồn lắm, nghe đứt ruột lắm. Càng nhớ anh
càng thương ông”. Và khi anh muốn bộc bạch nỗi lòng với chị Hảo, người để
lòng thương anh: “Anh chưa dám nhìn thẳng vô mắt chị Hoài để cười, chưa
dám nựng nịu con của chị Hoài mỗi khi chị bồng nó đi tiêm ngừa. Chưa thanh
thản để chào nhau như một người bạn gặp một người bạn. Hảo có hiểu
không?”.
Cảm giác trên đây cũng là câu chuyện được kể dưới điểm nhìn của
chính nhân vật người kể chuyện. Mở đầu vẫn là lời giới thiệu về nhân vật:
“Cô nghĩa vừa qua tuổi bốn mươi sáu, suốt từ trẻ đến giờ chỉ yêu và cưới
đúng một người, sinh cho chồng hai thằng con đẹp trai như cha chúng. Mười
tám năm cô dạy lịch sử cấp ba ở trường Phù Đổng, mười tám năm cô tới
trường đúng giờ, kiểu thời trang ưa thích là áo dài, tóc dài”. Rồi bằng cái nhìn
và giọng điệu của chính mình, người kể chuyện hàm ẩn đã nhận xét cụ thể
hơn về cô Nghĩa: “Cô ăn nói nhỏ nhẹ, cười khẽ khàng, vui lắm cũng không
thành tiếng. Đề tài ưa thích của cô khi tán gẫu với đồng nghiệp là chuyện cải
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
29
cách sách giáo khoa và giá cả, rau đang lên. Cô không thỏa hiệp với những lời
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
nói đùa kiểu như “cô đẹp lắm…”, cô nghĩ ai đó mỉa mai mình”. Nhưng đến
đoạn về biến cố trong cuộc đời cô khi gặp phải đứa học trò tinh quái, điểm
nhìn đã được trao cho nhân vật: “Những lời yêu cô gặp nhiều hồi chưa lấy
chồng, nhưng hơn chục năm rồi ít ai nhắc tới, nghe xa lạ quá chừng…Cô quay
đi và nghĩ trò đùa này đã kết thúc…Cô nghĩ ngợi cho buổi chiều này bình
thường như mọi buổi chiều đã trôi đi không tăm tích trong đời không có ai đó
nói yêu cô”. Người trần thuật đã kể lại chuyện theo cái nhìn và cảm giác của
nhân vật: “Cô Nghĩa thấy căng thẳng, cô chưa từng gặp phụ huynh học sinh
để nói một chuyện giống như vầy…Tội nghiệp. Cô nghĩ tới hai từ đó suốt
đường về, nhưng đi tới đầu hẻm thì mất hết cảm giác…Nghĩ trời đất ơi hên
thiệt, thằng nhỏ giỡn chơi thôi, phải yêu thật thì nó sẽ khổ tâm lâu lắm, cô hơn
nó tới hai mươi bốn tuổi, tình này sẽ không đi tới đâu hết…”.
Không giấu giếm, người kể chuyện hàm ẩn dưới điểm nhìn của chính
mình trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư thể hiện những nhận
xét, cảm xúc một cách thẳng thắn, tự nhiên. Đó là sự đồng cảm, thấu hiểu sâu
sắc của nhà văn giành cho mỗi nhân vật, mỗi cảnh đời trong truyện. Tuy
nhiên, để người kể chuyện bộc lộ mình một cách thuyết phục hơn còn có một
hình thức kể khác, đó là khi người kể hóa thân vào nhân vật. Lúc này, câu
chuyện được kể theo cái nhìn, giọng điệu của chính nhân vật trong truyện kể.
1.2.2.2 Kể theo điểm nhìn của nhân vật
Với điểm nhìn của nhân vật, người kể chuyện dễ dàng thuật lại những
diễn biến khách quan của tình tiết, sự kiện. Lúc này, khung cảnh, sự vật, con
người,…trong câu chuyện không phải do người kể miêu tả nữa mà nó được
dựng lên dưới sự quan sát, cảm nhận của chính người trong truyện. Khảo sát
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi nhận thấy đây là dạng kể chuyện
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
30
được sử dụng nhiều trong tác phẩm của chị. Tiêu biểu như: Đau gì như thể,
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Chuyện của Điệp, Nửa mùa, Nhớ sông, Nước chảy mây trôi, Biển người mênh
mông, Duyên phận so le, Ngày đùa, Bởi yêu thương, Mộ gió, Rượu trắng,…
Phải là người sinh ra, sống và gắn bó sâu nặng với sông nước mới có
những cảm nhận: “Mỗi lần qua sông Cái Lớn, Giang lại nghĩ, chắc tới già, tới
chết, mình sẽ chẳng bao giờ rời chiếc ghe nầy đâu. Cũng khúc sông nầy, năm
Giang mười tuổi, má Giang chết. Hôm đó, trời mưa nhỏ, nhưng gió nhiều, gió
tạt tay chèo liêu xiêu. Nước từ vàm sông cuồn cuộn đổ ra. Chiếc ghe bạt nước
tấp vô xà lan chở cát” (Nhớ sông). Với Giang, dòng sông có một ý nghĩa đặc
biệt, là nơi lưu giữ xác người mẹ xấu số, nơi gia đình Giang lênh đênh kiếp
thương hồ. Dòng sông là nỗi nhớ luôn thường trực trong lòng Giang, cô đã
thuộc từng con kinh, con rạch, xuôi dòng, ngược dòng,…Dù đã cất bước theo
chồng mà Giang không thể quên nổi ghe, muốn cất bước quay về “trời ơi, con
nhớ ghe quá trời đất đi”. Từng cảnh, từng sự việc trong truyện diễn ra theo
cảm nhận của nhân vật vì thế câu chuyện diễn ra vừa chân thực vừa sinh
động.
Đặt dưới điểm nhìn của nhân vật, những gì được kể, tả đều nhuốm màu
tâm trạng của người trải nghiệm: “Sáng mai thôi nó sẽ xuống Võ rồi ở miết
nhà người ta. Nhớ cái cối xay bột dựa hàng kệ đựng tiêu, tỏi, dầu ăn, nước
mắm…con mèo ngủ thiu thiu trên đầu bộ ngựa, mấy võng giăng quây quần
quanh bồ lúa. Lối vô nhà trải đất đỏ, người đi ra đi vô mòn mấy hòn tròn tròn
trọc lóc. Lối này đổ ra con đường chạy dài tới Vịnh Dừa. Đi chút nữa là tới
đám trâm bầu, chỗ con đập vào xóm Kinh Cụt…Và nhà ở đó” (Huệ lấy
chồng).
Ở truyện Thềm nắng sau lưng là những suy nghĩ đầy yêu thương, nhân
hậu của chàng trai trẻ: “Đôi lúc cậu thấy buồn, vì mình đã làm họ thất vọng
vài ba lần…Có đôi lúc Bằng thấy đời mình hơi buồn. Bằng cố gắng giận ba
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
31
về cái việc ông giang hồ ham chơi…Nhưng giận dữ và day dứt lại làm Bằng
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
thấy buồn hơn. Quên bỏ thì thấy nhẹ nhõm, hớn hở”. Hóa thân vào nhân vật,
người kể chuyện đã cảm và hiểu hết những suy nghĩ sâu kín trong lòng nhân
vật. Vì vậy, những nỗi đau khó diễn tả của nhân vật đã được người kể chuyện
nói thay rất xúc động: “Nhưng rồi đến đây ông không biết phải diễn tả nỗi đau
của mình như thế nào. Nỗi đau của một người mới hôm trước còn đề huề sống
trong tình làng nghĩa xóm, chiều chiều khề khà vài chung rượu với mấy bạn
già, say rồi hát tỉ tì ti, hôm sau đã thui thủi một mình. Làm sao diễn tả nỗi đau
của người cha hôm trước còn bắt kiến vàng bu trên tóc con gái hôm sau đã
phải nghẹn ngào đứng xa xa ngó nó khổ đau” (Đau gì như thể).
Trong nghệ thuật tự sự truyền thống, người trần thuật thường phát huy
một cách tối đa vai trò của mình khi kể chuyện. Người kể chuyện thường xuất
phát từ điểm nhìn của chính mình để miêu tả thiên nhiên, chân dung và tâm lí
nhân vật. Nhưng đến văn học đương đại, cách thức trần thuật đã thay đổi. Với
việc di chuyển điểm nhìn vào nhân vật, người kể chuyện đã thu hẹp điểm nhìn
của mình. Người kể chuyện chỉ kể, tả những gì mà nhân vật biết, thấy bằng
chính cảm nhận của nhân vật. Điều đó đã tăng độ chân thực, khách quan cho
câu chuyện. Trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, người kể chuyện hàm
ẩn đã di chuyển điểm nhìn sang cho nhân vật, tạo nên cách kể chuyện đầy tính
chất chủ quan, chất chứa những cảm xúc, tình cảm, trải nghiệm của cá nhân
con người. Đó là lối kể chuyện mang chiều sâu đời sống nội tâm của chính
chủ thể thẩm mĩ.
1.2.3 Người kể chuyện toàn tri với điểm nhìn di động
Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư không chỉ lôi cuốn người đọc bởi
những câu chuyện tâm tình ở ngôi thứ nhất, chia sẻ những cảm xúc cùng nhân
vật ở ngôi thứ ba mà còn có sự xuất hiện của người kể chuyện toàn tri với
điểm nhìn di động. Người kể chuyện có khi kể chuyện mình, có khi lại kể
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
32
chuyện người khác, các sự kiện vừa được hiện lên từ cái nhìn bên trong của
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
người tham dự vừa được hiện lên từ cái nhìn bên ngoài của người chứng kiến.
Tiêu biểu của kiểu kể truyện này là một số tác phẩm như: Cuối mùa nhan sắc,
Ngày đùa, Cánh đồng bất tận, Dòng nhớ, Nỗi buồn rất lạ, Hiu hiu gió bấc,
Cải ơi,…
Truyện ngắn Nỗi buồn rất lạ được kể luân phiên qua các điểm nhìn. Từ
điểm nhìn của nhân vật “tôi” sang điểm nhìn của “ba tôi” và ngược lại, thậm
chí có cả điểm nhìn của đối tượng được kể “ông Tư Đờ”. Chuyện kể về ông
Tư Đờ là một người lính đã vượt qua biết bao gian khổ trong chiến tranh
nhưng khi sống trong thời bình, bắt tay vào làm kinh tế, ông lại không chiến
thắng được chính bản thân mình. Truyện mở ra qua cái nhìn khách quan của
nhân vật “tôi”: “Vậy là ông Tư Đờ, giám đốc công ty xuất nhập khẩu bị bắt
rồi. Tôi có biết ông, ông từng giàu có, từng hào phóng, từng nổi tiếng là chịu
làm và làm mạnh, táo bạo…”. Với cái nhìn của một nhà báo, “tôi” có những
đánh giá sâu sắc về sự giàu có nhanh chóng của ông trong khi “công ty ông ta
thâm hụt mấy tỉ” đã dẫn đến “kết cuộc như vậy thôi, làm lớn mà”. Nhưng là
một người bạn đã từng chiến đấu với nhau trong chiến tranh, “ba tôi” thật hết
sức sửng sốt khi nghe tin bạn bị bắt: “Thằng Tư Đờ sao mậy, tao nghe đài nói
như búa bổ, nó bị bắt phải không?”. Trong suy nghĩ và cảm nhận của ông, Tư
Đờ luôn luôn là hình mẫu lý tưởng về “người tốt nhứt” trong những người tốt
nên không thể có chuyện như thế xảy ra. Và nếu có thật thì “cha tôi” cũng
cảm thấy “tao không đang tâm”. Không chỉ mở ra dưới cái nhìn của “tôi”, “ba
tôi”, điểm nhìn có khi được di chuyển vào bên trong đối tượng được phản
ánh. Ông Tư Đờ tự cảm thấy: “Chưa bao giờ tui sống được một ngày bình
yên. Giặc bây giờ nằm tứ phía. Tụi nó giết mình ngọt ngào mà không hay.
Bây giờ tụi nó bắn tui bằng đạn đường không hà. Ngấm đạn rồi mới hay. Đau
lắm. Cực lắm”. Đó là cảm nhận đau đớn của người trong cuộc khi ngộ ra thì
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
33
đã muộn màng rồi. Nhưng với cái nhìn bên ngoài, "tôi” tỏ ra lạnh lùng “Ổng
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
nói vậy cho mát lòng ba chứ cực nỗi gì”. Nhưng sau bao biến cố xảy ra, “tôi”
có dịp nhìn lại mình và nhận ra sự lạnh lùng đến tàn nhẫn của chính mình đã
thốt lên: “…Tôi thấy mình thà chết còn sướng hơn, chứ còn trai trẻ mà sống
làm chi dửng dưng, tạnh quẽ với cuộc đời như thế này”.
Trong truyện Hiu hiu gió bấc, nhà văn cũng sử dụng sự luân phiên
điểm nhìn ở đoạn: “Bữa nào anh Hết cũng chổng mông thổi lửa, rồi dọn cơm
sẵn, ngồi dựa cửa trước chờ tía anh về. Có bữa chờ tới mỏi mòn, để bụng đói,
ngủ gà, ngủ gật. Người ở xóm bảo cứ ăn trước đi chứ chờ gì, anh cười, mâm
cơm có ấm cúng, tía tôi mới vui miệng ăn nhiều. Nhưng có bữa, anh vừa mới
giở cửa chui vô nhà, ông già đã ngồi nhai cơm cháy, mắt ầng ậc nước. Anh
thương tía quá chừng vội chạy đi vo gạo”. Từ điểm nhìn bên ngoài đến điểm
nhìn bên trong đều khiến cho người đọc xúc động sâu sắc trước tình cảm hiếu
thảo, yêu thương của anh Hết giành cho cha mình.
Chọn hình thức người kể chuyện biết hết với điểm nhìn di động tuy
không nhiều trong các sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư nhưng qua đó chúng ta
cũng nhận thấy cái nhìn đa chiều, nhiều góc độ về cuộc sống và con người
miền cực Nam của Tổ quốc.
* Tiểu kết chương 1
Tìm hiểu về người kể chuyện trong các sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
chúng tôi nhận thấy tài năng của chị trong việc kể chuyện, dẫn truyện và đặc
biệt là khả năng thâm nhập vào đời sống nội tâm của nhân vật để phản ánh
được những góc khuất, mặt tối của nó. Dù lộ diện ở ngôi thứ nhất hay hàm ẩn
qua hình thức trần thuật từ ngôi thứ ba, người kể chuyện trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư luôn mang điểm nhìn bên trong, điểm nhìn tâm lí để kể câu
chuyện. Ở điểm nhìn này, nhà văn có điều kiện khơi sâu nội tâm nhân vật với
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
34
những kỉ niệm, hồi ức; giãi bày những tình cảm, suy nghĩ thay cho nhân vật.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Đó là cái nhìn cận cảnh, cái nhìn của sự nếm trải của một nhà văn luôn trăn
trở về con người, về cuộc đời đầy ngang trái.
Dù trần thật diễn ra dưới hình thức nào thì nó vẫn thể hiện cái nhìn bao
quát của tác giả, một Nguyễn Ngọc Tư luôn có ý thức nhìn vào tận sâu bản
chất cuộc sống, một trái tim nhạy cảm trước sự nghiệt ngã của cuộc đời. Vì
thế mà truyện của chị mới là những câu chuyện nhỏ về gia đình, bạn bè, làng
xóm,…thân thuộc nhưng được bạn đọc đón nhận nồng nhiệt và đồng cảm sâu
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
35
sắc.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
CHƯƠNG 2: NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN VÀ KẾT CẤU
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
2.1 Nghệ thuật tổ chức cốt truyện
2.1.1 Khái niệm cốt truyện
Cốt truyện là yếu tố quan trọng bậc nhất, không thể thiếu trong bất kì
một hình thức tự sự nào. Trong tác phẩm tự sự, “cốt truyện là cái khung để đỡ
cho toàn bộ tòa nhà nghệ thuật ngôn từ đứng vững” [44,181]. Aristote, nhà
nghiên cứu đầu tiên trên thế giới quan tâm đến cốt truyện đã cho rằng: “Cốt
truyện là cơ sở, là linh hồn của bi kịch sau đó mới tính đến tính cách; bi kịch
bắt chước hành động và vì vậy nó phải bắt chước những con người hành
động”. Điều đó cho thấy Aristote chú ý tới yếu tố hành động của cốt truyện,
cốt truyện là cơ sở của bi kịch. Macxim Gorki thì nhấn mạnh đến sự kiện,
hành động luôn thể hiện những mối quan hệ khác nhau giữa các nhân vật:
“Cốt truyện là những liên hệ, những mâu thuẫn, những thiện cảm và ác cảm
và nói chung là những mối quan hệ qua lại của con người, là lịch sử phát
triển và tổ chức của tính cách này hay khác”. Nhiều nhà nghiên cứu đề cao
vai trò của cốt truyện, coi cốt truyện là một yếu tố không thể thiếu trong việc
quyết định thành công của tác phẩm: “Còn gì quan trọng hơn cốt truyện, nếu
thiếu nó thì cả nền lí luận nghệ thuật còn ra gì nữa? Nếu cốt truyện không
dùng được thì tài năng ta cũng sẽ lãng phí vô ích” (Gớt). Một nhà tiểu thuyết
Anh cũng đã khẳng định “Nhà văn sống bằng cốt truyện, y như họa sĩ sống
bằng màu và bút vẽ vậy” [12, 798]. Trong Từ điển thuật ngữ văn học do Lê
Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên cũng viết: “Hệ thống
sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định,
tạo thành một bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
36
phẩm văn học thuộc loại hình tự sự và kịch… Có thể tìm thấy qua một cốt
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
truyện hai phương diện gắn bó hữu cơ: một mặt, cốt truyện là một phương
diện bộc lộ nhân vật, nhờ cốt truyện, nhà văn thể hiện sự tác động qua lại
giữa các tính cách nhân vật; mặt khác, cốt truyện còn là phương tiện để nhà
văn tái hiện các xung đột xã hội” [13; 99,100]. Theo giáo trình Lí luận văn
học của trường Đại học Tổng hợp thì “cốt truyện là một hệ thống các sự kiện
phản ánh những diễn biến của cuộc sống và nhất là các xung đột xã hội một
cách nghệ thuật, qua đó các tính cách hình thành và phát triển trong những
mối quan hệ qua lại của chúng nhằm làm sáng tỏ chủ để và tư tưởng tác
phẩm”. Có thể nói, cốt truyện được hình thành bởi các sự kiện, những mâu
thuẫn xã hội, những sự tác động qua lại giữa các nhân vật trong một bối cảnh
cụ thể và được tổ chức có hệ thống bởi tư duy nghệ thuật của tác giả. Là một
trong những phương diện cơ bản của nghệ thuật tự sự, cốt truyện là sự cụ thể
hóa, sinh động hóa chủ đề, tư tưởng tác phẩm, thể hiện tài năng, phong cách
và quan niệm nghệ thuật của mỗi nhà văn. Chất liệu cơ bản để tạo thành một
cốt truyện chính là các sự kiện - những việc có tác động và ảnh hưởng đáng
kể đến số phận và tính cách của nhân vật (những sự kiện lớn có thể tạo thành
những bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời nhân vật thường được gọi là các
biến cố; còn những yếu tố cụ thể tạo thành sự kiện được gọi là các tình tiết).
Trong một tác phẩm tự sự, cốt truyện luôn giữ vị trí “xương sống”, nó
liên kết các chi tiết, các sự kiện thành một hệ thống. Bởi thế, tác giả Bùi Việt
Thắng trong cuốn sách “Truyện ngắn - những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể
loại” đã khẳng định: “Cốt truyện là một hệ thống các sự kiện phản ánh những
diễn biến của cuộc sống và nhất là các xung đột xã hội một cách nghệ thuật,
qua đó các tính cách hình thành và phát triển trong những mối quan hệ của
chúng nhằm sáng tỏ chủ đề tư tưởng tác phẩm” [27,70].
Theo cách hiểu truyền thống, cốt truyện là cái lõi của truyện, thể hiện
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
37
những biến cố quan trọng, đảm bảo sự mạch lạc của diễn biến câu chuyện,
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
gồm các thành phần: trình bày, thắt nút, phát triển, cao trào và kết thúc.
Nhưng trong văn xuôi hiện đại, cốt truyện không còn giữ vị trí độc tôn nữa,
nó bị xóa bỏ quan hệ nhân quả, phá hủy tính hiện thực - những yếu tố không
thể thiếu của cốt truyện theo quan niệm truyền thống. Các nhà truyện ngắn
hiện đại không loại bỏ cốt truyện mà chỉ khiến cho vai trò của cốt truyện mờ
nhạt đi. Nhà nghiên cứu văn học hậu hiện đại Brry Lewish cũng nhấn mạnh:
“Cốt truyện bị nghiền nát thành những viên nhỏ của biến cố và hoàn cảnh,
nhân vật được phân tán thành một bó khát vọng và nhức nhối”. Nền văn học
thế giới, cùng với sự ra đời của chủ nghĩa hậu hiện đại, đã chứng kiến nhiều
sự thay đổi về cách trần thuật, trong đó có cốt truyện. Văn học đương đại Việt
Nam đang có sự chuyển biến mạnh mẽ về nghệ thuật tổ chức cốt truyện với
nhiều cách tân, khám phá mới mẻ. Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn trẻ sáng
tác sung sức nhất ở lĩnh vực truyện ngắn. Chị viết về những điều bình thường
trong cuộc sống của những con người nơi cực Nam của Tổ quốc, viết về
những nỗi đau âm thầm, dai dẳng…Truyện ngắn của chị với những kiểu cốt
truyện vừa quen thuộc vừa hiện đại đã giúp chị tái hiện và phản ánh những
mâu thuẫn, xung đột, giằng xé trong cuộc đời thực một cách thấm thía nhất,
xúc động nhất.
2.1.2 Tổ chức cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Là một nhà văn trẻ, Nguyễn Ngọc Tư cũng như nhiều nhà văn khác
luôn tìm tòi đổi mới từ ngôn ngữ, giọng điệu, cốt truyện,…Bên cạnh việc phát
huy những yếu tố hiện đại chị đã kế thừa những yếu tố truyền thống như một
phương thức nghệ thuật hữu hiệu để chiếm lĩnh đời sống. Tùy vào cách tổ
chức cốt truyện theo sự vận động của chuỗi các sự kiện, biến cố hay theo sự
vận động của tư tưởng, suy nghĩ, tình cảm của nhân vật với quá trình tự nhận
thức…mà chúng ta có thể phân chia thành nhiều kiểu cốt truyện khác nhau.
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
38
Trong các sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, chị đã sử dụng phổ biến kiểu cốt
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
truyện tâm lí (cốt truyện là sự vận động của các trạng thái tâm lí con người),
nhưng cốt truyện truyền thống vẫn phát huy được vai trò trong một số truyện
ngắn của chị.
2.1.2.1 Cốt truyện truyền thống
Đây là kiểu cốt truyện chú ý đến các sự kiện (còn gọi là cốt truyện sự
kiện). Trong văn học trung đại, cách kể chuyện theo trật tự cái gì xảy ra trước
thì kể trước, cái gì xảy ra sau thì kể sau và chủ yếu là kể về hành động hơn là
đi sâu khám phá thế giới nội tâm nhân vật. Đặc trưng nổi bật của kiểu cốt
truyện này là câu chuyện diễn ra theo một trật tự đã thành quy tắc: Hội ngộ -
Lưu lạc – Đoàn viên. Tuy vậy, khi sử dụng kiểu cốt truyện truyền thống,
Nguyễn Ngọc Tư cũng làm mới mẻ cho kiểu cốt truyện này đó là chú ý hơn
đến đời sống nội tâm nhân vật. Có thể nhắc đến một vài truyện ngắn của chị
kể theo cốt truyện truyền thống như: Bến đò xóm Miễu, Chuyện vui điện
ảnh,…
Truyện vui điện ảnh có một cốt truyện truyền thống xoay quanh nhân
vật chính là chú Sa với sự kiện nổi bật, có tính chất đặc biệt đó là việc chú Sa
tham gia đóng phim. Sự vận động của các sự kiện, biến cố cho thấy cốt truyện
được xây dựng từ quan niệm truyền thống với đầy đủ các phần. Phần trình
bày mở đầu câu chuyện giống với các truyện dân gian, truyện thời kì trung
đại, đó là giới thiệu về nhân vật và hoàn cảnh sống của họ. Chuyện kể về
những con người sống ở hẻm Cựa Gà, cái hẻm được gọi với tên rất kêu là
“Hẻm văn hóa 115” để thay cho tên gọi “Hẻm văn hóa Cựa Gà”. Người dân ở
trong con hẻm này sống bằng nhiều nghề khác nhau: từ cán bộ công chức tới
cán bộ về hưu, từ công nhân cho đến bán bắp luộc, từ mua ve chai lông vịt
cho đến thiến heo,… Đó là nghề “tay mặt” và họ còn có chung một nghề “tay
trái” là đóng phim. Trong số họ, chú Sa làm nghề “bảo vệ kiêm thêm trồng
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
39
bông xén cỏ” được bà con trong xóm rất yêu quý. Do làm việc trồng bông xén
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
cỏ ở hãng phim nên chú đã được đóng vai một người nông dân “là vai có da
có thịt, mặt mày rõ ràng nhất của chú”. Không để cho hàng trăm khuôn mặt
những người dân trong hẻm đó sống âm thầm, bị kẹt lại trong con hẻm thâm
hun hút nên chú Sa đã đưa họ đến với phim trường. Phần truyện này chủ yếu
để giới thiệu về hoàn cảnh, nguyên nhân dẫn đến những xung đột, các sự kiện
cơ bản của truyện.
Phần hai (phần thắt nút) mở ra những xung đột, những nghịch lý trớ
trêu. Sự kiện đặc biệt quan trọng trong diễn biến của cốt truyện đó là khi chú
Sa được tham gia đóng “vai lớn” sau lời mời của ông đạo diễn Long Xưởng
đi kèm với số tiền năm triệu. Nhưng đó không phải là một vai thiện mà là vai
ác. Vai thiện thì giao cho các nghệ sĩ nổi tiếng rồi, ai bảo biểu hiện của chú Sa
khi ông đạo diễn nhìn thấy lại xuất thần quá, đúng với mong đợi của ông khi
ông đang tìm một người đóng được vai ác, mà chi phí lại không cao nữa. Cho
đến khi cầm kịch bản mà chú vẫn còn “run run”. Nhưng chú Sa không thể ngờ
được rằng sự kiện này sẽ đảo lộn cuộc sống êm đềm tình làng nghĩa xóm của
chú Sa, đưa chú vào tình thế dở khóc dở cười. Cả cái xóm Cựa Gà bị một
phen đảo lộn sau sự kiện này. Xung đột truyện thực sự đã bùng nổ: đó là sự
nhầm lẫn giữa diễn viên với con người thật ngoài cuộc đời, sự nhầm lẫn giữa
nghệ thuật và cuộc đời. Chú Sa càng đóng đạt, càng làm tốt công việc nghệ
thuật của một diễn viên bao nhiêu thì trong mắt mọi người chú càng tàn ác
bấy nhiêu. Nghịch lý ở một nỗi chú thực sự đóng rất đạt, thậm chí hơn cả
những nghệ sĩ chuyên nghiệp. Và vì vậy người ta sợ chú, con nít ngây thơ
càng sợ hơn.
Những xung đột tiếp tục được đẩy cao hơn trong phần phát triển. Các
sự kiện, biến cố xảy ra ở xóm Cựa Gà liên tiếp ảnh hưởng đến cuộc sống của
chú Sa. Đặc biệt là sau khi bộ phim “Chiến tranh” được phát trên truyền hình.
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
40
Lúc trước khi hay tin chú Sa được đóng vai lớn cả xóm Cựa Gà ủng hộ chú
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
hết mình: cô Thư, người mà chú Sa thương thầm nhớ trộm lấy sữa hột gà
nóng đem cho chú bồi dưỡng; tối tối mọi người trong xóm còn “kéo đến nhà,
đọc thuộc lòng kịch bản, vô vai cho chú diễn thử luôn”; rồi đến ông Long
Xưởng không hết lời khen ngợi chú trên báo chí “từ hồi tôi làm đạo diễn tới
giờ, chưa diễn viên nào đóng hay như thế”. Thậm chí chú Sa đã lâng lâng
sống trong niềm hạnh phúc khi biết cô Thư cũng có tình ý với chú. Chú sống
trong niềm vui, niềm hi vọng. Nhưng mọi chuyện thực sự không như chú từng
mong đợi. Sau cái nô nức, nhiệt tình khi mọi người chuẩn bị xem phim chú đã
thực sự bước vào thời gian buồn thảm. Bởi đó là một bộ phim nói về chiến
tranh, mà chiến tranh thì nhiều tội ác, chú đã đóng vai ác rất đạt, rất thật. Sau
khi xem xong người lớn thì lẳng lặng ra về còn trẻ con thì sợ hãi khóc thét
lên. Lúc đó, chú Sa thực sự nhận thấy mình “đã đánh mất một cái gì đó, lớn
lắm, quả tình không gì bù đắp được”. Không khí thật tức tối, ngột ngạt cho
đến tận khi màn hình ti vi hiện ra dòng chữ “Sản xuất năm 2000”. Biến cố
truyện đã đến độ căng, đẩy lên thành cao trào.
Đỉnh điểm của sự kiện đó khiến nhân vật chú Sa thực sự rơi vào bi
kịch. Đối với các diễn viên chuyên nghiệp, họ phục tài chú, họ kiêng nể chú
bao nhiêu thì trong mắt người dân xóm Cựa Gà chú thật tàn ác, thật đáng sợ
bấy nhiêu. Sống giữa những người hàng xóm vốn nghèo khó nhưng thân thiết,
tình cảm; lúc này chú lại thấy mình cô đơn giữa những con người chú vốn
thân thuộc. Đến người bạn chí cốt của chú là bác Tư Cự cũng xa lánh chú. Và
con Mẻn, con gái cô Thư, cũng vùng vằng với mẹ “mai mốt đừng cho ổng ghé
đây nữa nghen má?...Con thấy mặt ổng là con ghét”. Tưởng là niềm vui, là
điều tốt đẹp thì sự kiện chú nổi tiếng vì đóng phim thực sự là điều bất hạnh,
nó giống như thứ tai nạn bất ngờ mà người ta không thể chống đỡ, không thể
phòng tránh được. Liệu chú chống đỡ được đến bao giờ, cú sốc đó, tai nạn đó
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
41
có vùi lấp cuộc sống tốt đẹp của chú không?
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Câu chuyện đã được đẩy lên đến đỉnh điểm đòi hỏi phải có cách giải
quyết mâu thuẫn. Kết thúc truyện là cảnh chú Sa và cô Thư bắc ghế ngồi
trước cửa “giả bộ nhìn trời nhìn đất thực ra là nhìn nhau”. Điểm tựa cho cuộc
sống hiện tại của chú Sa là những kí ức ngọt ngào về tình cảm giữa chú với bà
con, với những giọt nước mắt buồn tủi của cô Thư và cái bóng cô ngồi trước
cửa. Mọi người vẫn chưa thực sự hiểu cho chú nhưng những biến cố dường
như cũng đã lắng lại, chú Sa “đã thấy niềm vui cháy le lói trở lại”, chú đã có
hi vọng trở lại cuốc sống tốt đẹp khi chưa xảy ra biến cố đóng phim.
Viết Truyện vui điện ảnh, Nguyễn Ngọc Tư đã chọn kiểu cốt truyện
truyền thống với kiểu trình tự quen thuộc, cái gì xảy ra trước kể trước, cái gì
xảy ra sau kể sau và cốt truyện có đầy đủ các phần. Mặc dù vậy, truyện ngắn
mang hơi thở thời đại, mang đặc trưng riêng của nhà văn trẻ nên vẫn thu hút
người đọc. Cốt truyện không hề tĩnh mà luôn ở trạng thái động, khiến cho
người đọc luôn phải trăn trở, suy nghĩ cùng nhân vật, cùng tác giả. Kiểu cốt
truyện này đã giúp Nguyễn Ngọc Tư chuyển tải thành công những trăn trở
ngổn ngang của nhiều nghệ sĩ trong cuộc sống hiện đại ngày nay về mối quan
hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật.
Kiểu cốt truyện truyền thống cũng được Nguyễn Ngọc Tư sử dụng
trong truyện ngắn Bến đò xóm Miễu.
Truyện cũng mở đầu bằng cách giới thiệu khái quát về nhân vật chính
là chàng trai nghèo, xấu xí tên Lương. Không có cha, má lại mất sớm, anh
làm nghề chèo đò mướn ở bến đò xóm Miễu từ năm mười hai tuổi. Anh có
hình dáng xấu xí: đàn ông mà “tướng Lương nhỏ xíu, teo héo. Đầu to, tóc
dày, cứng, cháy nắng”, con mắt thì mất đoàn kết “lé xẹ”, “nhìn lại, người ta
tưởng anh ngó đâu đâu”, suốt ngày anh “hệch miệng ra cười, làm như vui,
làm như không, khó nắm bắt”. Thế nên đã ba mươi mốt tuổi, “già câng già
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
42
cấc, già cóc thùng thiếc” mà Lương vẫn chưa lấy được vợ. Nhà cũng ở bến đò
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
xóm Miễu nên “Bông mê đi sông”, thường năn nỉ Lương cho nó ngồi đằng
mũi “thò chân xuống nước quậy quậy chơi”. Bông thường mặc cái áo trắng
bằng vải soa lông vịt, hơi ố vàng. Nhà Bông cũng nghèo, má Bông bơi xuồng
vớt chai nhựa dưới sông, ba nó thường hay nhậu xỉn rồi đánh má nó. Lương
và Bông biết nhau từ hồi Bông còn đi học. Ở phần mở đầu mới chỉ giới thiệu
về hai nhân vật chính, mối liên hệ giữa hai nhân vật chứ chưa hé mở những sự
kiện, biến cố quan trọng. Cách giới thiệu về hai nhân vật khiến ta hình dung
đến những chàng trai nghèo và cô gái đáng thương xinh đẹp trong những câu
chuyện cổ tích bà và mẹ thường kể.
Truyện thực sự xuất hiện những mâu thuẫn, xung đột đó là khi Lương
bắt đầu thích nhìn Bông, khoái soi mình xuống sông những khi vắng khách.
Cho đến khi Bông thôi học, mặc dù vẫn qua đò “nhưng nó đã khác, con Bông
đã khác”. Bông không còn là đứa con gái ngây thơ ngày ngày ngồi trên đò
Lương đến trường nữa, nó qua đò sang sông để đi bán bia ở quán “Đêm sầu”.
Chính sự kiện này đã thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện với nhiều tình tiết
xảy ra liên quan đến hai nhân vật chính. Từ đây nhà văn sẽ để nhân vật Lương
thể hiện rõ tình cảm của mình và những góc khuất trong tâm hồn, tính cách
của nhân vật Bông sẽ được phơi bày. Từ đó, mối quan hệ tất yếu giữa hai
nhân vật chính sẽ phát triển, khiến cho câu chuyện được kể một cách tự nhiên.
Phần phát triển của câu chuyện diễn ra với nhiều sự kiện, biến cố liên
quan đến mối quan hệ giữa Bông và Lương. Hàng ngày chở Bông qua đò
sang sông bán bia, Lương chứng kiến sự đổi thay của Bông. Buổi sáng, Bông
mặc áo rách xác xơ; buổi chiều về “trên mình là chiếc váy ngắn, áo yếm, vai
quàng hờ hững hai cái dây nhỏ xíu vịn hờ cái áo khỏi tuột xuống”. Rồi Bông
thay đổi từng ngày, từng ngày “quần áo xốc xếch, tóc mai dính bết vào khuôn
mặt dày son phấn. Đôi mắt dại đi vì say, vì mất ngủ, người sềnh sệch mùi
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
43
bia”. Đến một hôm, Bông xòe nắm tiền trước mặt Lương, rồi cười cay đắng
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
“tui giàu rùi nè” và than thở “chừng nào có người cưới tui…thân tui còn gì
kén chọn nữa”. Lương nhen nhóm hi vọng sau câu nói ấy của Bông. Trước
mọi sự đổi thay của Bông, Lương chỉ cười, chỉ biết ở bên cạnh Bông. Lương
đã đi xin cây vụn về để đẽo một cái hộp đựng tiền, chờ một ngày bà Tư
nhượng lại bến đò và còn biết bao dự tính nữa. Nhưng Lương mắc cỡ lắm,
anh không nói với ai, kể cả với Bông. Chưa ai biết những dự tính ấy thì nó đã
có nguy cơ không thể thực hiện được khi Bông khoe “Chắc tui bỏ nghề, tui
lấy chồng”. Mà người Bông lấy chắc chắn không phải Lương, đó là một ông
già vẫn thường đưa Bông về xóm Miễu “người ta nói, con Bông ham nhà giàu
nên ráng kêu ông ngoại đó bằng anh”. Lương đau đớn đến chết lặng khi nghe
tin ấy, muốn sụm giò, song “miệng vẫn cười hịch hạc”. Chắc Lương nghĩ
mình không thể có hi vọng nữa cho đến khi Bông lại xảy ra chuyện, vợ ông
già kia cùng bầy con đến nhà Bông đánh ghen. Bông bị “rọc nham nhở mái
tóc dài”, “bị xé quần áo” và bị “lột sạch những đồ trang sức đang đeo”. Lương
đã chủ bụng chuyến về, đám người đó sang sông, Lương sẽ “trù trừ” chờ tàu
cao tốc chạy qua rồi nương theo sóng lớn nhấn chìm đò luôn. Vợ ông già đó
không chết nhưng hành động của Lương đã khiến Bông cảm động và nhận ra
tình cảm thầm kín của anh. Lần đầu tiên, Bông gọi Lương theo đúng tên của
anh chứ không gọi anh như mọi ngày là “khùng”, là “đò” nữa. Bông còn bảo
Lương có thương Bông thì ngồi gần Bông, bảo Lương nắm tay Bông, thậm
chí Bông còn bảo “ôm tui đi”; nhưng Lương nhút nhát lắm, Lương không
dám làm những việc đó. Lương không muốn mình như bao thằng đàn ông
khác, đối với Bông như một món đồ chơi. Nhưng Bông lại nghĩ rằng đến
người xấu xí khùng khùng như Lương mà còn chê Bông nhơ nhớp nên những
ngày sau đó họ lại xa cách, dửng dưng như chưa hề có chuyện gì. Rồi, Lương
lại phải chứng kiến Bông đi với một thằng con trai mới, thằng này “trẻ măng,
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
44
quần áo thơm, đầu tóc thơm, chiếc xe phân khối lớn nổ tè tè ra đám khói cũng
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
thơm”. Những lúc như thế, Lương vẫn lặng lẽ cười, còn Bông lòng quặn đau.
Bông muốn nhìn thấy Lương buồn, thấy Lương ghen tức; có lẽ như thế cuộc
đời Bông đã khác.
Truyện sẽ chưa thể kết thúc nếu mọi mâu thuẫn, xung đột không đạt
đến đỉnh điểm và cần giải quyết. Đỉnh điểm của câu chuyện đó là một chiều
Lương đưa “Bông tươi hồng qua sông”, rồi sáng hôm sau nhận lại tin từ má
Bông “con Bông nó bị tai nạn”. Một tai nạn thảm khốc đã xảy ra trong cuộc
đua xe đến nỗi “Bông không còn có thể đi lại trên đôi chân của mình”. Điểm
dừng cho cuộc đời đầy xô bồ, đau đớn của Bông chính là vụ tai nạn lấy đi đôi
chân; cũng là sự kiện để Lương có cơ hội bộc bạch, tháo gỡ những vướng
mắc trong lòng mình.
Kết thúc truyện, bến đò xóm Miễu đã thay đổi chủ. Trên con đò quen
thuộc Lương vẫn chăm chỉ chèo đò. Lúc này, đã là vợ Lương, Bông ngồi trên
bến để thu tiền. Những người lạ qua lại không biết chuyện thì tỏ ra thương
tiếc “Bông xinh đẹp tươi hồng rồi đọ với vẻ mặt già háp của Lương…tiếc đôi
đũa mốc gác lên mâm son, tiếc bông hoa lài thơm mà cắm nhầm bãi cứt
trâu…”. Nhưng người dân xóm Miễu biết họ thì thấu hiểu hơn, họ thấy được
tấm lòng nhân hậu, cao thượng của Lương, sự thiệt thòi của anh khi anh “cưu
mang đứa con gái đã lỡ lầm còn tàn tật”. Nhưng câu chuyện đã khép lại bằng
cái kết thúc có hậu, chàng trai nghèo xấu xí và cô gái xinh đẹp nhưng lầm lỡ
và tàn tật sống bên nhau. Không còn toan tính, không còn những xô bồ, cạm
bẫy, cái còn lại là tình thương. Người đời có dị nghị, có bàn tán nhưng “lỡ
thương quá chừng rồi” thì biết làm sao.
Câu chuyện tựa như những chuyện cổ tích ngày xưa về những chàng
trai mồ côi nghèo nàn, xấu xí nhưng lương thiện và tốt bụng sẽ có được cuộc
sống hạnh phúc. Nhưng đọc kĩ, nhìn vào cuộc đời thực chúng ta sẽ thấy nó
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
45
nỏng bỏng hơi thở của thời đại, lại hệt như bản tính của con người Nam Bộ
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
“yêu ai yêu đến hết mình”. Từ những sự kiện, biến cố, nhà văn đã xây dựng
thành cốt truyện có vai trò quan trọng trong việc chuyển tải những thông điệp
tốt đẹp về cuộc sống. Tình nhân ái, yêu thương có sức mạnh nâng đỡ con
người trong vòng xoáy cuộc đời đầy chông gai, cạm bẫy.
Kiểu cốt truyện truyền thống tuy xuất hiện và phát huy được vai trò của
nó trong một số sáng tác của nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư nhưng đó không
phải là kiểu cốt truyện thường gặp trong những sáng tác của chị. Với Nguyễn
Ngọc Tư, xây dựng những cốt truyện tâm lý để khám phá những ngóc ngách
sâu kín trong tâm hồn con người giữa bộn bề những toan tính của cuộc sống
hiện đại mới thực sự là nguồn nội lực tiềm tàng ở chị.
2.1.2.2 Cốt truyện tâm lý
Với kiểu kiểu cốt truyện tâm lý, câu chuyện được tổ chức theo mạch
vận động của tâm lý nhân vật, những cảm xúc, suy nghĩ, liên tưởng,…Vì thế
cốt truyện tâm lý thường “lỏng lẻo”, khó có thể tìm thấy đầy đủ sự phát triển
của các tình tiết. Kiểu cốt truyện này đặc biệt phát huy tác dụng khi nhà văn
muốn diễn tả thế giới nội tâm con người, một hiện thực khó nắm bắt hơn rất
nhiều so với khám phá cuộc sống bên ngoài. Mặc dù vậy, cốt truyện tâm lý
không loại bỏ hoàn toàn sự kiện trong mạch vận động của câu chuyện. Nhưng
sự kiện đó chỉ là cái cớ để khơi dậy dòng chảy nội tâm của con người. Nó
không ảnh hưởng gì đáng kể đến số phận và tính cách nhân vật, song nó tạo ra
những “chấn động” tâm lý làm nảy sinh những cảm xúc, liên tưởng miên
man,…Kiểu cốt truyện này được các nhà văn giai đoạn 1930-1945 sử dụng
thành công, tiêu biểu như: Nam Cao, Thạch Lam,...
Cốt truyện tâm lý cũng tạo ra kiểu truyện không có chuyện, đánh dấu
sự cách tân nghệ thuật lớn của các nhà văn trong khi trần thuật. Truyện không
có chuyện khắc họa những biến thái tinh vi với sự đan cài phức tạp tự sự với
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
46
trữ tình và những miêu tả đời sống nội tâm nhân vật. Ở loại truyện này, nội
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
dung của nó chỉ được cảm nhận trực tiếp mà khó có thể kể lại được. Sự kiện
xuất hiện trong kiểu cốt truyện tâm lý thường có tác dụng thể hiện dòng chảy
nội tâm nhân vật, nhưng cũng có lúc nó tồn tại như một bộ khung ngầm ẩn
nâng đỡ những trạng thái cảm xúc, tâm lý con người. Cũng có những xung
đột, biến cố nhưng chúng thường không có chức năng tạo ra hệ quả mà chỉ
tồn tại như những đường viền mờ của thế giới nội tâm nhân vật.
Những câu chuyện nhỏ của Nguyễn Ngọc Tư được chị chắt chiu từ
hiên thực cuộc sống nghèo quê hương chị, từ những trải nghiệm của một nhà
văn trẻ đầy trăn trở về cuộc sống được người đọc dễ dàng đồng cảm nhờ tài
dẫn dắt bằng tâm lý nhân vật. Những khoảnh khắc, những mảnh vỡ tâm trạng,
những dằn vặt, băn khoăn,…nhưng chứa đựng trong nó biết bao chiêm
nghiệm, chân lí về cuộc đời, về con người.
Điển hình trong kiểu cốt truyện tâm lý là kiểu truyện được triển khai
dựa trên tâm lý nhân vật với những bức xúc, dằn vặt nội tâm. Nhiều truyện
ngắn của Nguyễn Ngọc Tư thường thể hiện những thăng trầm trong cảm xúc,
suy tư của nhân vật hướng người đọc khám phá những vỉa tầng sâu kín trong
nội tâm con người. Tiêu biểu như các truyện: Nhớ sông, Dòng nhớ, Huệ lấy
chồng, Ngổn ngang, Biển người mênh mông, Nước như nước mắt,…
Được tạo dựng theo cách kể chuyện quen thuộc của Nguyễn Ngọc Tư,
Ngổn ngang là một truyện ngắn đầy ắp tâm trạng. Cũng là một câu chuyện
tình đầy lỡ dở, đầy đau thương nhưng không hề có những sự kiện, biến cố gay
cấn. Truyện là lời kể của Viên, cô phóng viên trẻ với má mình về tình yêu của
cô. Bàng bạc trong câu chuyện là những ưu tư, những dòng cảm xúc đan xen
giữa hiện tại và quá khứ, những suy tư về nghề nghiệp, về cuộc đời. Truyện
có rất ít đối thoại (chỉ có vài câu má con Viên nói với nhau), chủ yếu là độc
thoại của nhân vật tôi đã tạo nên dấu ấn rất đậm cho kiểu cốt truyện tâm lý.
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
47
Thời gian của các sự kiện xáo trộn góp phần thể hiện chiều sâu nội tâm nhân
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
vật. Đầu tiên, Viên nhớ lại những kỉ niệm về mối tình với Bảo “tôi hay lại nhà
Bảo chơi…phòng Bảo, cái ban công nhà Bảo, với tôi, có cái gì đó vương vấn
thiêng liêng…Chúng tôi thường hôn nhau rất vội”. Rồi cái giây phút bẽ bàng
khi tôi nhớ sinh nhật Bảo, trải qua một quãng đường dài đến với Bảo thì nhìn
thấy sự phản bội hiện hữu thật rõ ràng “Từ đằng xa thấy Bảo âu yếm hôn một
cô gái dưới ban công. Ủa, lạ lùng thiệt người con gái đó không phải là mình.
Tôi không biết là Bảo thích một người con gái da trắng, tóc dài chứ không
mạnh mẽ bụi bặm như tôi”. Không có hành động gào khóc, cũng không có
việc chạy lại hỏi cho rõ nguồn cơn, hay những hành động đánh ghen vẫn
thường thấy, mà là những dòng chảy tâm trạng “Tôi lặng lẽ về, nghe lòng
buồn như ông Lưu Nguyễn ngơ ngác trở lại trần gian, mà Đào Nguyên phía
sau lưng đã đi biền biệt mất rồi”. Cho đến cuối truyện vẫn là những dòng tâm
trạng, những ý nghĩ và cảm xúc của nhân vật tôi “Tôi không nói gì hết vì sợ
mình để rớt nước mắt lên đỉnh đầu đã trống huơ của má…Tự dưng tôi thấy
thèm được dốc hết lòng yêu thương ai đó để chia sẻ, dìu dắt nhau đi trên con
đường đời ngổn ngang mà vì một nỗi đam mê nào đó tôi đã đánh mất rất
nhiều”. Câu chuyện được thêu dệt bởi những trăn trở về tình yêu, về nghề
nghiệp, về cuộc đời của một cô gái mới lớn bằng một giọng kể nhẹ nhàng
nhưng nặng suy tư đã bộc lộ tài năng của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư.
Nước như nước mắt là truyện ngắn được xây dựng bằng những cảm
xúc, những dằn vặt của nhân vật Sáo khi kể về câu chuyện của chính mình.
Sự kiện trong truyện được tạo dựng nhằm bộc lộ tâm trạng của nhân vật. Có
thể chia truyện thành 7 đoạn gắn với những sự kiện cơ bản: 1- Chồng Sáo
chết vì mấy lá ngò gai; 2- Sáo cãi nhau với nhà chức trách, khẳng định chồng
mình chết vì mấy lá ngò gai; 3- Kí ức về những ngày Sáo sống bên chồng; 4-
Sáo nhớ lại việc mình lấy chồng vì mẹ ưng nhà chồng có nhiều đất. Em chồng
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
48
Sáo vốn là giang hồ quyết đi tìm nguyên nhân cái chết của anh nhưng bị bắt.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Sáo quyết định đến bè Đại Thanh tìm cách trả thù; 5- Sáo xin vào làm công ở
bè Đại Thanh, tiếp cận được kẻ thù, vốn là người yêu cũ của Sáo, nhưng
nhiều lần mà Sáo vẫn chưa đâm chết hắn được; 6- Sống cô đơn trên bè, mọi
người khinh miệt Sáo. Sáo vẫn chưa trả được thù chồng; 7- Sáo đi theo người
yêu cũ, người mà Sáo định trả thù cho chồng.
Nhìn từ góc độ cốt truyện sự kiện, nhà văn kể về cuộc đời của một
người con gái tên Sáo. Sáo có người yêu, một người hiền lành lắm, ngập
ngừng mãi mới dám nắm bàn tay con gái. Nhưng mười chín tuổi, nghe má ao
ước lúc chết được nằm trên đất của mình, Sáo không chọn người mình yêu
suốt ngày lênh đênh trên sông nước, Sáo chọn người có nhiều đất thỏa mong
muốn của má. Nhưng nước đuổi vào Châu Thổ, không còn cái rẫy nào, đất -
thứ mà Sáo lấy chồng cũng trở nên vô nghĩa. Không hiểu vì chưa có phép
màu hay vì lí do gì đó mà Sáo và chồng mãi chưa có con. Sáo nghĩ Sáo chưa
có con vì những “khoảnh khắc chới với” khi gần chồng. Rồi chồng Sáo chết
vì mấy lá gò gai. Hơn nữa, kẻ thù khiến chồng Sáo chết chính là cái người
hiền lành ngày xưa giờ trở nên chai lì, giàu có. Sáo tiếp cận để trả thù nhưng
thù không trả được, Sáo đi theo tiếng gọi của trái tim. Câu chuyện sẽ đầy kịch
tính, căng thẳng nhưng Nguyễn Ngọc Tư đã tối giản cốt truyện đến mức gần
như không đủ sức để xâu chuỗi mạch truyện tạo sự lấn lướt của ngôn ngữ tâm
trạng so với ngôn ngữ miêu tả, kể. Bị cuốn theo mạch tâm trạng của nhân vật,
dường như người đọc quên bẵng cốt truyện. Sự kiện giật gân đầu truyện
“Chồng Sáo chết vì mấy lá ngò gai” nhanh chóng bị cuốn đi trong dòng tâm
trạng của Sáo “Ngay khi Sáo ôm siết chồng đang nằm thõng thượt trên cái
bàn dài đặt giữa văn phòng nhà chức trách, ngay khi nó vùi mặt mình vào cơ
thể lạnh lẽo chi chít những chỗ tím bầm, ràn rụa tìm kiếm hơi thở của anh núp
trốn đâu đó…Khi lướt qua đôi môi dập nát nó nghe phảng phất mùi ngò gai.
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
49
Trời đất ơi, chồng nó đã nhấm nháp thưởng thức mùi vị chúng ngay khi vừa
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
hái được. Anh vẫn chưa nuốt trôi khỏi cổ, ý nghĩ đó làm nó nghẹt thở. Rồi
những kí ức miên man khi Sáo ôm xác chồng về ghe. Sáo nhớ lại khi hai vợ
chồng sau sáu ngày bắt được cặp cá Bạc Đầu – mà theo má chồng nói vợ
chồng nào hiếm muộn con cái nuốt loại cá này thể nào cũng cấn thai. Chồng
Sáo sướng như con nít “Chưa bao giờ Sáo thấy anh hạnh phúc, hân hoan đến
vậy, đến nỗi nó chạnh lòng ngay lúc đó”. Những kí ức sống cùng chồng hiện
ra, Sáo nhớ đến người chồng ưa nói hai từ “đúng điệu” làm Sáo sợ. Và sợ
nhất là khi vợ chồng gần nhau chồng Sáo cũng thích đúng điệu. Sự đúng điệu
ấy hình như làm Sáo “chới với”. Sáo hồ nghi vì cái “khoảnh khắc chới với”
ấy mà trẻ con không chịu ra đời. Rồi đến nỗi đau của Sáo vẫn dừng lại ở
những cảm nhận, suy nghĩ “Sáo nghe xong tưởng trong lồng ngực có thứ gì
vừa đứt phựt, nó hức lên, anh ơi sao anh tới chỗ đó mà chết. Ủa, vậy chồng
mình chết chỗ khác thì mình đỡ đau lòng hơn sao?”. Đến khi đứng trước kẻ
thù giết chồng, “mặt anh ta phẳng lặng, giọng cũng đều đặn mà buốt nhức” thì
Sáo “ngơ ngác, Sáo bỏ đi. Sáo nghi chắc tại phải chèo đò xa mệt mỏi nên sự
căm thù hao hụt”. Nhưng rồi, Sáo không bao giờ có thể nguôi oán giận “Sáo
ngồi bó rau bồ ngót ở sàn nước và nghe gan bàn chân tê tái bởi ý nghĩ chồng
mình đã bị người ta đánh đập, lăn lộn đau đớn ở đây”. Sáo hết căm thù, tuyệt
vọng rồi đến ân hận khi luẩn quẩn gần mộ chồng. “Mỗi khi nhìn những bông
quao trắng muốt, Sáo nghiến ngầm trong bụng, thằng gian ác thằng gian ác,
mình căm thù mình căm thù mình căm thù”. Nhưng Sáo đã muốn khóc khi
nghe câu nói “Em đi với tôi nghen”. Nó dằn vặt Sáo dữ lắm, câu nói quen
thuộc ấy Sáo đã nghe bao lần, dù Sáo có trốn đi đâu, có cài bao nhiêu cửa Sáo
vẫn nghe thấy câu nói ấy. Cho đến lần cuối cùng Sáo nghĩ đến việc nắm tay
Câu Nói ra đi là khi chồng Sáo nhảy lên chiếc xuồng câu bơi đi hái trộm ngò
gai nêm canh cá Bạc Đầu. Kết thúc của những oán hờn, căm thù, tuyệt vọng
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
50
và ân hận vẫn là những ý nghĩ “ Nó rớt nước mắt. Đi cùng nó có gì vui đâu
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
mà người này cứ đòi phải đi cho được, bảy năm trời không chịu thôi”. Và Sáo
“bơi đến kiệt sức, đến trống rỗng, đến mức có thể chìm trôi, có thể quên hết
quá khứ. Chớ Sáo biết đi đâu với người đã làm chồng nó chết, bởi một cơn
nóng giận, bởi một lầm lẫn, tưởng đạp rào là sẽ lướt qua”
Có thể thấy cốt truyện sự kiện đã bị phân rã và cốt truyện tâm lý đã lấn
lướt. Truyện là những mảnh gép đứt nối giữa hiện tại và quá khứ. Chất keo
kết dính chính là dòng chảy tâm trạng. Truyện đã chứng tỏ tài năng của
Nguyễn Ngọc Tư trong việc thâm nhập vào ngõ ngách sâu kín của nội tâm
của con người, thấy được ranh giới giữa yêu thương và căm hận.
Cùng kiểu cốt truyện sự kiện bị phân rã và thay thế vào đó là cốt truyện
tâm lý, Cánh đồng bất tận là câu chuyện được Nguyễn Ngọc Tư dày công
chăm chút và cũng được nhận lại nhiều phản hồi nhất.
Cánh đồng bất tận viết về một người đàn ông bị vợ phụ tình đâm ra
căm ghét đàn bà và say mê trong những ý định trả thù những người phụ nữ
bước qua đời ông. Khao khát trả thù, người đàn ông đó đã quên đi trách
nhiệm của mình với hai đứa con ruột, một trai và một gái. Đến khi, cô gái
điếm chen vào cuộc sống của họ, đã làm xáo trộn cuộc sống của ba cha con.
Đứa con trai theo đuổi hình bóng của cô gái điếm, cô gái điếm theo đuổi
người cha nhưng nhận thấy sự bạc ác của người cha cô gái điếm ra đi, người
con trai cũng biến mất. Người con gái trong tận cùng đau khổ, tủi nhục nhưng
cố chìa tay ra để kéo người cha về thế giới của mình nhưng vô vọng. Trong
hoạn nạn, hai cha con gần sát nhau nhưng vẫn thuộc về hai thế giới xa cách.
Người đọc bị cuốn theo dòng chảy miên man của cảm xúc. Những ý nghĩ cứ
từ từ dồn đến rồi nghẹn cứng, ứ mọng, căng đầy đến ngộp thở.
“Cảm thức lưu lạc” tạo ra mạch tự sự tâm lý riêng cho Cánh đồng bất
tận. Đó cũng là cảm thức quen thuộc bàng bạc trong các trang văn của các
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
51
nhà văn Nam Bộ như: Mạc Can, Nguyễn Ngọc Thuần,….Nhưng đến Nguyễn
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Ngọc Tư cảm thức ấy nó đậm đặc hơn, day dứt hơn. Không trôi theo những
thay đổi không gian mà bám đuổi vào mạch cảm xúc và suy tưởng của nhân
vật với những mảnh kí ức chắp nối, rời rạc; làm cho thời gian nhòe đi tính
biên niên, không khí truyện bị kéo căng ra ngột ngạt. Điều đó làm cho sự ý
thức về thân phận con người giằng xé hơn, hay dứt hơn và đau đớn hơn.
Trong truyện, ba cha con người nuôi vịt chạy đồng có cuộc đời trôi nổi là hiển
nhiên nhưng hơn thế, tất cả những con người trong truyện đều chịu những
kiếp sống lưu lạc, mỗi người chỉ dạt vào câu chuyện một chốc lát, nhiệt thành
thể hiện khát vọng sống mãnh liệt bằng sự chấp nhận và đánh đổi, rồi lại dạt
trôi đến một phương trời khác. Truyện ngắn vì thế như một chuỗi dài những
phiến đoạn tâm lý. Ở đó cứ le lói những khát khao được sống một cuộc sống
đời thường, được gặp người quen cũ “…nhiều lúc tôi nhớ hơi con - người. Họ
ở trong cái xóm nhỏ kia, chỉ cách chỗ chúng tôi dựng trại vài ba công đất. Họ
lúc nhúc trên thị trấn kia, nơi chúng tôi vẫn thường ghé lại mua gạo, cám,
mắm, muối,…dự trữ cho những chuyến chạy đồng xa. Và họ ở gần ngay đây,
họ vừa gặt lúa vừa nói chuyện tục tĩu rồi cười vang bên bày vịt đang rúc rích
tìm thức ăn. Nhưng tôi vẫn nhớ…”. Có thể nói, bao trùm câu chuyện là nỗi
khắc khoải về số phận con người. Nguyễn Ngọc Tư đã gia giảm đến mức tối
đa cốt truyến sự kiện và gia tăng thật nhiều những yếu tố tâm lý để từ điểm
nhìn của nhân vật chính, triết luận nhân sinh được đưa ra không hề khiên
cưỡng: đó là khát vọng xây dựng lại cuộc đời từ những đứa con tên Thương,
Nhớ, Dịu, Xuyến,…
Chiếm một số lượng lớn trong các sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư là
những truyện ngắn tâm lý dựa trên những câu chuyện giản dị hàng ngày,
những chi tiết nhỏ nhặt. Tiêu biểu cho kiểu truyện này có: Thương quá rau
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
52
răm, Cuối mùa nhan sắc, Cải ơi, Chuyện của Điệp, Một mối tình, Duyên phận
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
so le, Một trái tim khô, Cái nhìn khắc khoải, Hiu hiu gió bấc, Mối tình năm
cũ, Chuồn chuồn đạp nước…
Đầu thế kỷ XX, đặc biệt ở giai đoạn văn học 1930-1945, kiểu cốt
truyện tâm lý dựa trên những chi tiết nhỏ nhặt hàng ngày đã được nhiều nhà
văn thể nghiệm và đạt được thành công đáng ghi nhận như: Nam Cao, Thạch
Lam,… Đến thời kì đổi mới, kiểu cốt truyện này tiếp tục phát huy vai trò của
nó. Với Nguyễn Ngọc Tư, chị thường viết về những chuyện nhỏ xíu ở xung
quanh mình, với những con người và sự kiện của thời hôm nay liên quan đến
cuộc sống của ngày hôm nay. Đó là một ông già bị mắc tiếng oan là làm cho
con riêng của vợ có bầu (Đau gì như thể); đó là một người con gái đã yêu và
dâng hiến đến nỗi không còn khả năng tiếp nhận một tình yêu khác sau khi bị
ruồng bỏ (Duyên phận so le); đó là một cô Huệ lấy chồng với vẻ ngoài hạnh
phúc, nhưng che đậy bên trong nỗi đau bị phụ tình (Huệ lấy chồng),…
Tiêu biểu cho kiểu truyện ngắn này phải kể đến truyện Cải ơi. Tập
trung khai thác những chi tiết nhỏ nhặt trong đời thường, nhà văn khẳng định
những triết lý nhân sinh sâu sắc. Câu chuyện xoay quanh nhân vật chính là
ông già Năm Nhỏ. Vợ ông có một đứa con gái riêng với chồng trước tên là
Cải. Mười ba tuổi, mê chơi nó làm mất trâu, sợ bị đánh, nó trốn nhà. Nhưng
vợ ông nghĩ ông vẫn thù nó là con riêng nên xua đuổi nó, giết oan nó. Gần hai
mươi năm kiếm tìm giữa biển người mênh mông nhưng ông vẫn chưa tìm
thấy nó. Sống lăn lộn khắp nơi bằng nhiều nghề: làm chân sai vặt trong đoàn
ca múa nhạc, bán kẹo kéo,… ông già vẫn quyết tâm tìm con bé, giải nỗi oan
cho mình. Nhiều đêm ngã ba sương thổn thức trong tiếng “Cải ơi !!!...” nghe
não lòng, khắc khoải. Ông còn chấp nhận tiếng ăn cắp trâu mong được truyền
hình “bêu riếu” để nhắn tìm con, nhưng câu nói quan trọng nhất lại không
được phát. Cảnh đời ông Năm Nhỏ khiến người ta rớt nước mắt. Con người
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
53
đầy đau khổ nhưng thật nhân hậu, đáng kính.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Chuồn chuồn đạp nước là câu chuyện xoay quanh hiện tượng “chuồn
chuồn đạp nước”. Dưới ngòi bút tài tình, hóm hỉnh của Nguyễn Ngọc Tư,
hình ảnh người cha hiện ra thật dễ mến với cuộc sống nội tâm dư thừa trí
tưởng tượng …nhưng cũng rất con người. Trong cuộc sống đôi lúc có những
vấn đề tưởng như rất nhỏ nhặt nhưng cứ ám ảnh chúng ta, bắt chúng ta phải
suy nghĩ, lo âu, thậm chí mất ăn, mất ngủ. Một người cha, một nhà văn “viết
ra những trang văn đầy góc cạnh, nóng bỏng, thấu đáo mọi sự được mất, triết
lý sâu xa, là một người mất căn bản trầm trọng về…chuồn chuồn”. Một người
anh đối với đứa em luôn là “một sự cao quý xa vời”, “luôn ở trước mặt em
mình với tư thế đĩnh đạc”, nay cũng chỉ vì chuồn chuồn đạp nước mà trước
em trai trở nên “câm lặng”, “lủi thủi”. Giây phút nghiệt ngã đó làm người cha
bị tổn thương, quyết tâm nhớ đến hàng trăm chuyện vụn vặt, vùi đầu vào
sách, đặc biệt là chuyện chuồn chuồn để phòng khi con ông cần đến. Từ sự
trăn trở tự vấn rất tự nhiên của nhân vật người cha cho chúng ta thấy chính
những điều tưởng như nhỏ bé đó đã làm nên con người chúng ta với bao ngõ
ngách của miền sâu thẳm tâm hồn. Từng viết bao nhiêu trang báo to tát về nhà
quê, vậy mà cái chuyện nhỏ xíu lại không biết…Người cha bị ám ảnh mãi bởi
lũ chuồn chuồn. Đó là nỗi ám ảnh đầy trách nhiệm. Lòng tự trọng, ý thức
vươn lên sự hoàn hảo luôn thao thức thì con người càng cao quý. Bởi vậy,
truyện mang tính nhân văn sâu sắc.
Cũng là một câu chuyện nhẹ nhàng nhưng chứa đựng triết lý nhân sinh
sâu sắc, Thương quá rau răm kể về cuộc sống của những con người nơi vùng
đất hẻo lánh, xa xôi Mút Cà Tha. Con người nơi đây sống gần như tách biệt
với cuộc sống bên ngoài, đó là nơi “nằm hiu hắt, lâu lâu mới thấy bóng dáng
một con tàu lớ ngớ chạy vào rồi lại tẽn tò quay ra vì lầm đường, vì không biết
đằng sau cù lao, sông cụt”. Chứng kiến cái chết đau thương của ông bạn láng
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
54
giềng, trưởng ấp Tư Mốt tha thiết mong muốn có bác sĩ về đây làm việc, chữa
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
bệnh cho người dân. Khi người bác sĩ trẻ Văn đến nơi đây làm việc, ông dành
tình cảm chân thành để giữ chân anh lại. Nhưng cuối cùng, họ cũng ra đi hết
bởi sống ở cù lao buồn tẻ quá “…nửa khuya ngồi ăn mì gói, nghe cú kêu lẫn
tiếng rađiô khọt khẹt…, vạch đi vạch lại tờ báo cũ mèm, họ sực nhớ phải về
quê lấy vợ, lấy chồng, sực nhớ vợ mình mới sinh, sực nhớ tội nghiệp ba má
đã già…Và họ từ giã cù lao”. Cũng như những người trước, Văn ra đi không
một lời từ biệt để lại trong lòng Tư Mốt nỗi đau tiếc. Khó có thể tìm thấy ở
truyện ngắn này những sự kiện lớn lao của một cốt truyện phức tạp. Trong
truyện, thời gian vận động của cốt truyện bị cắt ngang, ghép nối bởi cách
chiếm lĩnh đời sống theo khoảnh khắc. Tính cách nhân vật cũng vậy, nó
không có quá trình bộc lộ, phát triển mà như dòng chảy của sông, không ồn
ào mà nặng trong từng cử chỉ, lời nói. Truyện không có biến cố gì nổi bật,
ngay cả khi Văn theo đám bạn về thành phố không một lời từ biệt, đi như
chạy trốn. Qua truyện ngắn, Nguyễn Ngọc Tư đã đề cập đến một vấn đề rất
đời thường của cuộc sống nhưng người đọc cảm nhận được từ đó tấm lòng
nhân hậu của con người vùng đất Mũi. Họ không sống bằng triết lý màu mè
mà bằng chính tấm lòng yêu thương chân thành với đất và con người quê
hương, mong muốn đem đến những điều tốt đẹp cho bà con mình.
Trong những truyện ngắn có cốt truyện tâm lý, các sự kiện và hành
động của nhân vật đã mất vai trò thúc đẩy sự phát triển của câu chuyện mà chỉ
còn biểu hiện những trạng thái tình cảm, tâm lý thuần túy, mạch truyện không
đi theo luật nhân quả. Những câu chuyện này thường hướng người đọc suy
ngẫm về những điều ẩn giấu sau mỗi số phận, mỗi cảnh đời.
Tìm hiểu các sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, ta nhận ra có những câu
chuyện giản dị như chính cuộc sống. Không có biến cố, cao trào, hay một
xung đột dữ dội nào nhưng truyện vẫn để lại những bài học nhân sinh lớn lao.
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
55
Miêu tả những bi kịch đời thường, những câu chuyện buồn vui của người lao
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
động, mảng truyện này của Nguyễn Ngọc Tư là những đóng góp rất đáng trân
trọng cho nền văn học đương đại. Có được điều đó chính là nhờ tài năng của
nhà văn trẻ đầy nhiệt tâm với cuộc đời, với con người.
2.1.3 Nghệ thuật xây dựng cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Không phải ngẫu nhiên một nhà văn trẻ tuổi và trẻ nghề như Nguyễn
Ngọc Tư nhanh chóng đạt được những thành công vang dội khi cầm bút. Đọc
truyện của chị, chúng ta thấy những câu chuyện giản dị về cuộc sống con
người vùng đất Mũi cùng với những trăn trở, suy nghiệm. Khen có, chê cũng
có nhưng truyện ngắn của chị vẫn không ngừng đến với bạn đọc. Có được
điều đó chính nhờ tài năng kể chuyện của chị. Một trong những thành công
tạo nên nét riêng trong cách kể chuyện của Nguyễn Ngọc Tư ở khía cạnh cốt
truyện chính là những chi tiết nghệ thuật.
2.1.3.1 Chi tiết nghệ thuật
Trong mỗi truyện ngắn, chi tiết nghệ thuật đóng vai trò vật liệu xây
dựng, làm tiền đề cho cốt truyện phát triển. Nên những truyện ngắn không có
một cốt truyện tiêu biểu vẫn sống được là nhờ vào các chi tiết hay. Các chi
tiết hay tạo cho tác phẩm có sức ám ảnh đối với người đọc. Nói về vai trò của
chi tiết nhà văn Nguyễn Công Hoan đã khẳng định “Truyện ngắn không phải
là truyện mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết”. Chính Nguyễn
Ngọc Tư cũng đã nói: “Truyện ngắn có thể có cốt truyện, thậm chí cốt truyện
ly kì, gay cấn, kể được. Truyện ngắn có thể chẳng có cốt truyện gì cả, không
kể được nhưng truyện ngắn không thể nghèo chi tiết. Nó sẽ như nước lã”.
Với Nguyễn Ngọc Tư, ấn tượng mà chị để lại qua mỗi truyện ngắn
chính là những chi tiết nghệ thuật gợi nhiều ám ảnh
Trong truyện Làm má đâu có dễ, nhân vật chị Diệu thật đáng thương.
Là má, nhưng chị chưa bao giờ được con gọi bằng tiếng “má” bởi chị đã để
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
56
con ở lại cho mẹ nuôi, đi theo niềm đam mê ca hát, thực hiện ước mơ trở
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
thành một cô đào hát nổi tiếng. Nỗi niềm đau đớn khi chị bỏ con chạy theo
ước mơ chính là việc con gái chị không bao giờ nhận chị là má khiến cho
nhiều lần đứng trên sân khấu lòng chị đau tê tái khi bạn diễn gọi mình là
“má”. Tiếng gọi ấy đã đánh thức nỗi đau dai dẳng, sâu kín trong lòng cô đào
hát. Hết băn khoăn, rồi chị thật sự hối hận, quyết định từ bỏ ánh đèn sân khấu
để “về nhà làm con của má, làm má của con” thay cho ước mơ làm đào hát
nổi tiếng. Chị đã dứt khoát quyết định trở về để được làm má đích thực.
Nhưng San, con chị, đã coi chị như người dưng, như một người khách đến
nhà chơi “Ủa, chế mới về hả? Hồi sáng này em nấu nước, nghe lửa cười, biết
thể nào cũng có khách, hỏng dè là chế”. Nỗi đau bao năm nay càng trở nên
đau đớn, quặn thắt hơn “Chị nghe niềm vui như ngọn đèn vừa bị thổi chao
ngọn, San ơi, má là khách sao, má mà là khách à, con?”. Chỉ một chi tiết này
thôi người đọc thấy được nỗi đau dồn nén của một người mẹ trước sự lạnh
lùng của đứa con. Đó là nỗi bất hạnh, là sự mất mát dường như chị không bao
giờ có thể lấy lại được, cũng không bao giờ có thể khỏa lấp được. Chính vì
vậy, nó tạo ra sức ám ảnh đối với người đọc. Trong cuộc đời này, có bao
nhiêu người chịu nỗi đau làm má như chị Diệu?
Cũng nhờ tài xây dựng chi tiết, Nguyễn Ngọc Tư đã diễn tả sâu sắc cái
cô đơn buồn tủi của Phi trong truyện ngắn Biển người mênh mông. Cuối
truyện, khi ông Sáu Đèo ra đi có tặng lại cho Phi con bìm bịp. Nhưng nó
không ăn uống gì “cả đêm kêu thê thiết, những tiếng bịp bịp nhỏ xuống cái
xóm Rạch Chùa từng giọt như giọt máu”. Không chịu được tiếng nó kêu, Phi
đã thả cho nó đi. Ông Sáu Đèo cũng không trở lại. Vắng ông, sống giữa biển
người mênh mông nhưng “không ai nhắc Phi cắt tóc đi, đàn ông đàn ang ai để
tóc dài”. Ngày anh còn nhỏ, má anh theo chồng ra sống ngoài thành phố, anh
ở với ngoại, ngoại là người quan tâm, nhắc nhở anh về tóc tai. Ngoại mất rồi,
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
57
làm bạn với ông Sáu Đèo, ông là người nhắc anh cắt tóc. Giờ ông Sáu Đèo đi
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
mất không trở lại, cũng không còn ai nhắc Phi cắt tóc nữa. Chi tiết tưởng như
bình thường ấy nhưng đối với Phi nó khơi gợi sự lẻ loi, cô đơn đến tận cùng
của anh khi ở giữa biển người cô đơn. Như vậy, không cần biến cố, hay khắc
sâu những diễn biến nội tâm, chỉ bằng một chi tiết nhỏ, Nguyễn Ngọc Tư đã
khơi đúng cái mạch ngầm tâm trạng của nhân vật, thức dậy sự đồng cảm ở
mỗi người đọc đối với Phi.
Góp phần làm nên thành công cho truyện ngắn Cánh đồng bất tận,
đánh dấu sự đổi mới trong hành trình sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư chính là
những chi tiết đầy ám ảnh. Câu chuyện về hai chị em Nương và Điền sống
trong sự thù hận của người cha khi bị vợ mình phản bội thật đáng thương.
Sống lang thang nay đây mai đó hai đứa trẻ như cỏ cây hoang dại, chúng phải
tự học đủ thứ, không biết thì thử, không hiểu thì chất thành khối trong lòng.
Và nhiều khi để hiểu được một vấn đề nào đó chúng phải trả một giá rất cao.
Chi tiết thằng Điền tìm được một cây ô môi nhỏ và hai chị em trồng cây, nhìn
thấy cây bén rễ đã ao ước “Ước gì đây là đất của mình” thật đáng thương.
Sống xa con người, lênh đênh khắp đồng này đến bãi kia, hai đứa trẻ khao
khát được sống như con người bình thường. Rồi đến chi tiết về lần đầu tiên
Nương ra máu tháng thật xót xa: “Máu chảy giữa hai đùi không tạnh được, tôi
thụp xuống, bụm chỗ ấy lại. Máu từ từ chảy qua kẽ tay, tôi thấy mình rỗng ra,
tái nhợt chết dần. Thằng Điền vói bứt đọt chuối, tọng vào miệng nhai ngốn
ngấu, điên dại, để lấy bả rịt lại chỗ máu. Thuốc gò nghe nói cầm máu rất tốt,
cũng chẳng ăn thua. Hai đứa nhìn nhau khóc, tôi đã mơ thấy ngôi mộ của
mình, như chiếc giường giữa bốn bề đồng nước…”. Thật tội nghiệp cho đứa
con gái dậy thì thiếu tình thương và sự chỉ bảo của người mẹ. Có những điều
người ta chỉ gặp một lần trong đời, nên sự trải nghiệm đối với hai đứa trẻ
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
58
trong truyện cũng không giúp được gì cho chúng. Bởi cái mà chúng cần là
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
tình yêu thương, là cuộc sống thực sự của con người lại là điều khó lòng mà
chúng có được.
Sự thù hận không chỉ giết chết tuổi thơ tươi đẹp mà nó khiến con người
trở nên tàn nhẫn đến đáng sợ. Sự xuất hiện của cô gái điếm khiến cuộc sống
của chị em Nương ánh lên niềm hi vọng, thì sự tàn nhẫn của người cha như
một gáo nước lạnh xua tan niềm hi vọng đó. Chi tiết trong bữa cơm sáng, khi
nhà đủ mặt, người cha điềm nhiên phủi đít đủng đỉnh đứng lên, với sự khinh
miệt và đắc thắng no nê trong mắt đưa cho chị ít tiền và nói “Tôi trả cho hồi
hôm…”. Người đàn ông bị phụ tình, bị nỗi hận thù giằng xé đã trở nên méo
mó “cha hơi khác con-người. Nhạt nhẽo hơn cả việc quan hệ theo mùa, theo
bản năng, trong cha tôi không còn một chút cảm xúc nào, nét mặt tràn ngập
những rắp tâm, chưa gặp mặt đã tính chuyện phũ phàng”. Con người như thế
thật đáng sợ hơn cả thú dữ.
Đọc truyện của Nguyễn Ngọc Tư chúng ta thấy rất ít những chi tiết dư
thừa. Dù đặt ở vị trí nào trong tác phẩm, mỗi chi tiết đều là sự sắp đặt đầy
nghệ thuật của nhà văn để chuyển tải nội dung truyện. Một số chi tiết thực sự
gây ám ảnh, day dứt đối với người đọc.
Truyện ngắn là một lát cắt của cuộc sống. Để tái hiện thành công những
lát cắt đó, nhà văn sử dụng những tình huống truyện, những chi tiết nghệ thuật
đắt giá. Viết về những điều ngang trái, những nỗi đau,…trong cuộc đời này,
Nguyễn Ngọc Tư đã sử dụng những chi tiết nghệ thuật đặc sắc.
2.1.3.2 Kết thúc mở gợi nhiều day dứt, trăn trở
D. Phuôcmanôp từng khẳng định: “Sức mạnh của cú đấm (nghệ thuật)
là thuộc về đoạn cuối”. Trong truyện ngắn, cách vào đầu và kết thúc truyện
bao giờ cũng tác động mạnh và gây sự chú ý đặc biệt đến người đọc. Cùng
với lối vào truyện rất đơn giản và đầy tự tin, Nguyễn Ngọc Tư còn có cách
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
59
xây dựng đoạn kết đầy những bất ngờ và thú vị.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nhiều truyện ngắn của chị có kết thúc khá bất ngờ đối với người đọc.
Tư tưởng, chủ đề của tác phẩm thường được thể hiện đột ngột, cô đọng ở
đoạn cuối tác phẩm. Đầu truyện nhà văn dẫn dắt người đọc bằng những chi
tiết nhỏ nhặt để đến đoạn kết của tác phẩm mới để cho người đọc nhận ra sự
việc đã xảy ra trước đó. Điều này tạo sự hấp dẫn cho câu chuyện.
Đọc truyện Một trái tim khô đến hồi kết nhà văn mới hé lộ câu chuyện
của Hậu. Bí mật Hậu cất giấu được hé lộ qua suy nghĩ của chị: “Sau bữa tiệc
nho nhỏ sẽ là đêm động phòng (chớ còn gì nữa). Nhâm sẽ phát hiện Hậu có
một cái thẹo lớn trên vai. Thảo nào Nhâm cũng hỏi tại sao, mà Hậu không
nghĩ ra được câu chuyện gì để nói. Kể thật sự rằng một bữa đi qua cua Bún
Bò, Hậu bị đâm, sợ Nhâm sẽ đau. Tuần trăng mật chưa bắt đầu đã bị lịm
buồn, dở cười dở mếu…”. Người đàn ông sống bên cạnh mẹ con Hậu lâu nay,
người luôn tỏ ra quan tâm, đỡ đần, người duy nhất không sợ khi nghe Hậu nói
chị từng “bị điên” và muốn được sống một nhà với Hậu trớ trêu thay lại chính
là Nhâm - người được chồng cũ của Hậu thuê giết chị. Đó là cái kết thúc bất
ngờ, giải mã cho lời thú tội của Nhâm “tôi đã có lần điên vì tiền, lúc đó con
gái tôi đau nặng lắm…”, lí giải vì sao Hậu không thể nhận lời lấy Nhâm. Điều
đó cũng bất ngờ với chính nhà văn và độc giả: “Nhiều khi không thể tin được,
làm gì có chuyện trùng hợp lạ lùng vầy. Nghĩ đời thiệt mắc cười, sao biết
nhau ở đây, để thương nhau đến mức nầy, để rồi nhận ra lúc trước đã gặp gỡ
một lần, ở cua Bún Bò, trong một tối đèn thì u ám vàng vọt mà cái vệt sắc
lạnh của con dao lại lóe lên”. Sự trăn trở ấy của Hậu cũng chính là điều mà
nhà văn muốn nói qua truyện ngắn này: tất cả mọi chuyện đều có thể xảy ra,
kể cả những nghịch lý, những trùng hợp đáng buồn, những trớ trêu,…
Truyện ngắn Nước như nước mắt mở đầu bằng chi tiết giật gân “Chồng
Sáo chết vì mấy lá ngò gai”. Những phần tiếp theo tưởng sẽ là nỗi đau triền
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
60
miên của người vợ đi kiếm tìm nguyên nhân cái chết của chồng, cô đơn trước
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
sự ra đi đột ngột của chồng. Cho đến khi “Sáo tuyệt vọng”, “oán hận đong
đầy” có lẽ vẫn là những đau khổ trước cái chết của chồng. Người chồng lúc
nào cũng thích “đúng điệu” chết làm Sáo đau khổ đến mức thế Sao? Cho đến
đoạn kết chúng ta mới thấy hết nguyên nhân những đau khổ và tuyệt vọng của
Sáo. Người giết chồng Sáo không phải ai khác chính là người yêu ngày xưa
Sáo đã phụ bạc để lấy người có nhiều đất theo mong ước của má Sáo. Sáo
căm thù, Sáo muốn trả thù cho chồng nhưng hình như Sáo vẫn chưa thôi quên
tình yêu với kẻ thù “Như không thể đinh ninh vậy thì Sáo sẽ coi anh ta như
người yêu cũ mất”. Và thật bất ngờ khi Sáo không những không trả thù được
kẻ đã giết chồng mình mà còn sẵn sàng đi theo Câu Nói “em đi với tôi nghen”
“thậm chí không lấy ghe, cứ ào xuống nước bơi về phía bờ mà ai cũng biết là
đã không còn bờ từ nước đuổi”. Và “quanh hai con người đau đớn, cá Sầu
Ngư đang nhởn nhơ họp bầy”. Cả Sáo, chồng Sáo, Câu Nói đều là những con
người đau khổ, bị rơi vào bi kịch không lối thoát. Giữa hận và yêu giằng xé,
Sáo không có sự lựa chọn nào khác. Sự ra đi dường như là kết thúc không thể
khác. Trong cuộc đời cũng vậy, có những bi kịch con người không thể tránh
và khi mắc vào người ta cũng khó có thể tìm lối thoát an toàn mà không đau
đớn, không mất mát, không phải trả giá.
2.2 Nghệ thuật tổ chức kết cấu.
2.2.1 Khái niệm kết cấu.
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng từng tâm sự: “Viết truyện ngắn là chơi
bố cục, thú lắm. Theo tôi quan niệm, truyện ngắn phải có “chuyện” tức là có
thể kể lại cho người khác nghe được. Mà muốn kể, câu chuyện phải chặt chẽ,
hấp dẫn. Yêu cầu bố cục đặt ra từ đấy”. Trong đó “Bố cục là một phương
diện của kết cấu. Ngoài bố cục, kết cấu bao gồm: tổ chức hệ thống tính cách,
tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật của tác phẩm, nghệ thuật tổ chức
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
61
những liên kết cụ thể các thành phần cốt truyện, nghệ thuật trình bày, bố trí
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
các yếu tố ngoài cốt truyện,…sao cho toàn bộ tác phẩm thực sự trở thành một
chỉnh thể nghệ thuật” [13, 156]. Mọi liên kết bên trong (giữa các sự kiện, các
chi tiết trong cốt truyện) và bên ngoài (giữa cốt truyện và các thành phần khác
của tác phẩm) đều là nhiệm vụ của kết cấu. Trong Giáo trình lý luận văn học
(Hà Minh Đức chủ biên, NXB Giáo dục, H, 2008) định nghĩa về kết cấu:
“…các tác phẩm văn học không chỉ khác nhau về chất liệu hiện thực (với thơ,
đó là hệ thống cảm xúc và suy nghĩ, là hình ảnh, hình tượng thơ; với văn xuôi
và kịch, đó là hệ thống sự kiện, hệ thống tính cách,…), mà còn khác nhau về
cách bố trí, sắp xếp, tổ chức sự xuất hiện của các chất liệu hiện thực đó trong
tác phẩm, khác nhau về cách bố cục tác phẩm (với thơ, đó là cách cấu tạo các
câu thơ, khổ thơ, đoạn thơ,…; với văn xuôi và kịch, đó là cách dựng các lớp,
cảnh, chương, phần, tập,…)…Tóm lại, kết cấu là sự tạo thành và liên kết các
bộ phận trong bố cục của tác phẩm, là sự tổ chức, sắp xếp các yếu tố, các
chất liệu tạo thành nội dung của tác phẩm trên cơ sở đời sống khách quan và
theo một chiều hướng tư tưởng nhất định”. Tác giả Bùi Việt Thắng trong
công trình Bình luận truyện ngắn, kế thừa định nghĩa của Từ điển thuật ngữ
văn học, ông chỉ ra: “kết cấu là chiến lược, còn bố cục là chiến thuật “sắp xếp
các chương đoạn, các bộ phận của tác phẩm theo một trình tự nhất định; bố
cục là một phương diện của kết cấu” [28].
Có thể khẳng định, kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động
của tác phẩm. Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng có một kết cấu nhất định.
Kết cấu là phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật. Là một yếu
tố của hình thức, kết cấu đảm nhiệm các chức năng rất đa dạng. Trong mối
liên hệ giữa kết cấu với chủ đề - tư tưởng của tác phẩm, kết cấu có nhiệm vụ
tổ chức tác phẩm sao cho chủ đề tập trung, tư tưởng thống nhất, sao cho chủ
đề tư tưởng thấm sâu vào từng bộ phận của tác phẩm, kể cả những chi tiết nhỏ
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
62
nhất. Kết cấu cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện sự thống nhất
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
chặt chẽ giữa chủ đề tư tưởng với hệ thống tính cách. Đối với cốt truyện,
nhiệm vụ chủ yếu của kết cấu là tổ chức bố cục của cốt truyện thành các phần,
chương, đoạn, lớp, cảnh một cách hợp lý; đồng thời nó bố trí, sắp xếp các chi
tiết, các sự kiện thành những bộ phận hữu cơ của một quá trình phát triển biện
chứng, và cái đích cuối cùng của quá trình đó vẫn là bộc lộ đặc điểm của tính
cách và khẳng định chủ đề - tư tưởng tác phẩm. Ngoài ra, kết cấu còn bố trí,
sắp xếp sự xuất hiện một cách hợp lý của các yếu tố ngoài cốt truyện như: lời
nói đầu và lời nói cuối của tác giả, những đoạn bình luận trữ tình ngoại đề,
những đoạn phụ đề, những bức tranh phong cảnh,...Có thể nói, kết cấu góp
phần đặc biệt quan trọng tạo ra tính toàn vẹn của tác phẩm như là một hiện
tượng thẩm mĩ.
Nếu những yếu tố kĩ thuật, thủ pháp là có giới hạn thì kết cấu là vô hạn,
vì mỗi tác phẩm là một “sinh mệnh”, một “cơ thể sống” nên kết cấu tác phẩm
là một kiến trúc, một tổ chức cụ thể, phù hợp với nội dung cụ thể của tác
phẩm. Kết cấu của một tác phẩm không chỉ bao hàm việc sắp đặt một bố cục
các tình tiết, sự kiện “mà còn bao hàm cả việc sử dụng và tổ chức, phối hợp
các kĩ thuật trần thuật để tạo nên một công trình nghệ thuật nhân tạo mang
dấu ấn của sáng tạo nghệ thuật của nghệ sĩ” (Phạm Xuân Thạch, Truyện
ngắn Thạch Lam dưới ánh sáng trần thuật học). Có thể khẳng định, kết cấu
bộc lộ nhận thức, tài năng và phong cách của nhà văn.
Gom góp những buồn vui trong đời, con “sóng ngầm” Nguyễn Ngọc
Tư đã tạo ra nhiều truyện ngắn đặc sắc, thổi lên một luồng gió mới của truyện
ngắn Nam Bộ. Cách tổ chức kết cấu trong các truyện ngắn của Nguyễn Ngọc
Tư đã giúp chị đi sâu khai thác mảng hiện thực đang phơi bày trước mắt, một
hiện thực đang được rung chuông báo động, ở đó đầy những va chạm, bụi
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
63
bặm và ngột ngạt của cuộc sống đời thường.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
2.2.2 Tổ chức kết cấu trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
2.2.2.1 Truyện thường có lời đề từ
Thuật ngữ kết cấu thể hiện một nội dung rộng rãi, phức tạp. Cách tổ
chức các yếu tố bên trong và bên ngoài tác phẩm được gọi là kết cấu. Một
trong những đặc điểm nghệ thuật nổi bật của Nguyễn Ngọc Tư, thu hút đông
đảo người đọc, đó chính là những yếu tố nằm ngoài cốt truyện, mà chủ yếu là
những yếu tố thuộc về thi pháp hình thức độc đáo như cách đặt tên tác phẩm,
tên nhân vật, lời đề từ, đề tặng, những đoạn trữ tình ngoại đề, hình thức trình
bày tác phẩm,…Một trong những yếu tố để lại hiệu quả nghệ thuật và ấn
tượng sâu sắc cho nhiều truyện ngắn của nhà văn đất Mũi là việc sử dụng lời
đề từ ở đầu truyện.
Là “thành phần nằm ngoài văn bản của một tác phẩm, được viết ở đầu
sách hoặc sau tiêu đề ở mỗi chương trong cuốn sách nhằm hướng người đọc
vào ý đồ nghệ thuật của tác giả hoặc tư tưởng của tác phẩm” [13, 112], hình
thức của lời đề từ rất phong phú. Đó có thể là một câu hay một trích đoạn
trong tác phẩm. Nó cũng có thể là lời mượn của người khác: một câu thơ, một
lời nói, một câu tục ngữ,… đã phổ biến và được nhiều người thích. Ví như
câu nói của Hồ Chí Minh được dùng làm lời đề từ cho tiểu thuyết Dấu chân
người lính của Nguyễn Minh Châu: “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước
ta thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó”. Lời đề từ cũng có khi khơi nguồn
cảm hứng cho tác giả trong quá trình sáng tạo. Nguyễn Tuân đã đề từ tùy bút
Người lái đò Sông Đà bằng hai câu thơ: “Chúng thủy giai Đông tẩu. Đà giang
độc Bắc lưu” và “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”. Cảm hứng này
được phát triển trong tùy bút.
Nguyễn Ngọc Tư là một trong số ít nhà văn sử dụng lời đề từ cho
truyện ngắn. Điều này đã tạo nên nét riêng cho nhiều truyện ngắn của chị,
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
64
nhất là những truyện ngắn được sáng tác gần đây. Trong truyện của chị, “lời
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
đề từ có thể là một danh ngôn, một đoạn trích từ kinh Phật, một câu hát dân
gian, hoặc đôi khi chỉ là một ý nghĩ bâng quơ, nêu một sở thích ngộ nghĩnh,
hoặc một đoạn tự sự tồn tại song song với truyện…nhưng tất cả đều có thể
vận vào, đều thể hiện chiều sâu tư tưởng, là một phần bổ sung không thể thiếu
cho văn bản tác phẩm, góp phần tạo nên sự toàn vẹn của chỉnh thể,…thể hiện
ý đồ sáng tạo của tác giả và tư tưởng - nghệ thuật của tác phẩm” [25, 2].
Đọc truyện Nguyễn Ngọc Tư, người đọc sẽ bắt gặp những nhân vật, số
phận, mảnh đời, và con đường đời của những người dân bình dị, dễ mến. Nhà
nghiên cứu Nguyễn Trọng Bình khẳng định ở Nguyễn Ngọc Tư mang một ý
thức trân trọng, gìn giữ truyền thống văn hóa dân tộc. Điều đó không chỉ thể
hiện ở ngôn ngữ, nhân vật, bức tranh thiên nhiên, những nét sinh hoạt hàng
ngày,…mà còn thể hiện qua ý thức gìn giữ những câu ca dao, những lời ca
vọng cổ. Ngay trong lời đề từ của truyện Cải ơi! là câu hát cửa miệng của
người dân Nam Bộ “Mỗi lần nghe câu hát “Gió đưa cây cải về trời. Rau răm ở
lại…”, tôi hơi quạu, ông bà mình quá hiền lành đi, thí dụ có bị phụ phàng, thì
cũng cố chanh chua, hằn học một tí, “Gió đưa thằng quỷ sứ về thành. Để tui ở
lại chành ành… đắng cay”. Đau, tức vậy mà cứ trách nhẹ hều…Dường như
người ta vẫn yêu, yêu đến mức không thể giằn dỗi, nặng lời. Và mình thì chưa
bao giờ yêu ai đến như vậy?!!!”. Ông Năm Nhỏ cả đời mang nỗi oan giết đứa
con riêng của vợ tên là Cải. Năm mười ba tuổi, khi đi chăn trâu, ham chơi làm
lạc mất trâu, nó sợ quá bỏ đi không dám trở về nhà. Ông bố dượng là người
đáng nghi nhất. Từ vợ ông đến bà con hàng xóm đều cho rằng chính ông là
người đã xua đuổi, thậm chí đánh chết con Cải rồi vùi xác ở đâu đó. Để giải
oan cho mình, hơn mười hai năm ông lang thang đây đó, làm chân sai vặt cho
đoàn ca múa nhạc, để trước giờ biểu diễn, ông lên thông báo tìm con “Cải ơi,
ba là Năm Nhỏ nè con”. Không tìm thấy con, ông cố tình vi phạm pháp luật
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
65
để bị bắt, được lên ti vi, cũng chỉ để được gọi hai tiếng “Cải ơi…”. Nhưng
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
ông không kịp nói, ông không tìm thấy con Cải, nỗi oan của ông chưa thể
giải.
Truyện Gió lẻ có lời đề từ ngắn gọn: “Tại sao người ta không nhìn thấy
mình khi mình còn sống? - Lời của một con ma” khơi mở cho một câu chuyện
đầy xúc cảm về nỗi cô đơn, tổn thương, sự mất mát và cái chết. Truyện viết
về một cô bé quên mất tiếng nói loài người khiến ai cũng tưởng cô bị câm.
Trong nỗi hoang mang của kẻ lạc loài, số phận run rủi cho cô gặp hai kẻ đồng
hành kém may mắn khác; và họ đã dạy cho cô những tiếng nói quen thuộc
“Giọng cô đầy ngượng nghịu. Gã buồn cười, chắc là lâu lắm ngôn ngữ rời bỏ
cô gái này, và khi chúng ùa trở lại trong một cơn lốc, cô phải xóc xổ khối hỗn
độn đó, nhặt lấy từng chắp nối thành câu”. Nhưng rồi tình cảnh thật trớ trêu
khi cô nhận ra mình mãi mãi không thể hòa nhập được với thế giới con người
mà cô từng bị chối bỏ, bởi cô nhận ra giữa tiếng nói, hơi thở và “những ý nghĩ
chạy xuyên qua mạch máu” đôi khi hoàn toàn không giống nhau. Và cô nghĩ
“tiếng nói của con vật không dùng để làm tổn thương nhau…Có lần em đã
học nói giống con người, chỉ vài từ ngắn ngủi thôi, nhưng em mướt mồ hôi,
kiệt sức”. Thất vọng khi khoảng cách với thế giới người ngày càng xa vời vợi
khiến cô gái co mình vào một cõi riêng bất định…Ở đó ranh giới giữa sự sống
và cái chết gần như bị xóa nhòa “Và em thấy mình thực sự trôi, bồng bềnh và
mộng mị trong một không gian tối dần, tối dần và rồi, bóng tối bắt đầu vô
tận…Em, cũng là một con ma, hoang mang với một điều thuộc về con người
mà em vừa biết. Một niềm tuyệt vọng chậm rãi kéo cái kén bọc lấy em”. Ở
Gió lẻ, chúng ta nhận thấy một Nguyễn Ngọc Tư rất mới trong cách kể
chuyện, câu chữ kỳ ảo, nhưng đó vẫn là những rung động thật về kiếp người
và những góc cạnh rất thật của từng con người trong cuộc đời này.
Cũng có một lời đề từ ngắn gọn là truyện Thềm nắng sau lưng. Câu
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
66
chuyện được khơi mở bằng câu thơ của nhà thơ Nguyễn Đình Thi “người ra
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
đi đầu không ngoảnh lại…”. Đây cũng là nguồn cảm hứng chung của toàn
truyện. Vẫn là kiểu truyện quen thuộc của Nguyễn Ngọc Tư, đó là những
dòng tâm trạng, những ý nghĩ của nhân vật chính tên Bằng. Anh sinh ra “má
đã thất vọng rã người, khi phải đẻ rớt cậu trên xuồng” và bà thở dài ngay khi
vừa sinh anh “nhà đã có một người đẻ trôi nổi rồi, chưa đủ sao?”. Người ấy
chính là ba Bằng. Ông ít khi có mặt ở nhà, đến khi Bằng đầy tháng ông mới
trở về. Rồi khi anh lớn lên, những chuyến đi của ông ngày càng nhiều hơn. Bà
ngoại và mẹ Bằng oán hận cha anh, muốn anh cũng oán hận cha mình vì cái
tội vô tình, nhưng Bằng không làm được. Đến khi anh đã lớn, bà và mẹ còn
cho rằng ba anh phải chịu trách nhiệm về tất cả các vết thẹo trên người anh,
lúc đó Bằng cũng không oán hận cha. Bằng vẫn nhớ những kỉ niệm đẹp khi
cha anh ở nhà. Khi biết cha đi ở với người thương, má đi bước nữa, “Có đôi
lúc Bằng thấy đời mình hơi buồn. Bằng cố gắng giận ba về cái việc ông giang
hồ ham chơi. Nó cố gắng giận má về việc bà đi bước nữa…nhưng giận dữ và
day dứt lại làm Bằng thấy buồn hơn”. Cho đến cuối truyện Bằng cũng ra đi
mang theo trong tim một bóng hình người anh thương. Câu chuyện khép lại
nhưng người đọc vẫn thấy những chuyến đi nối tiếp không dứt. Đó cũng là
quy luật của cuộc sống.
Cũng có khi lời đề từ của truyện lại trích dẫn lời của Phật giáo thể hiện
tư tưởng nhân quả của nhà Phật. Đó là trường hợp của Cánh đồng bất tận:
“Tôi hiểu biết về Phật giáo không nhiều, vớ được quyển sách nào thì đọc cái
ấy. Cũng có điều hiểu được, học được, làm được, nhưng nhiều điều buộc phải
“bó tay”. Ví dụ như mấy lời nầy: “Khi nào bạn bực tức, giận dữ, hãy bất
động! Ngay tại đó! Đừng cử động! Đừng làm gì cả! Đừng nói gì – dù chỉ một
lời. Hãy yên lặng và bất động hoàn toàn. Tuyệt đối không biết gì đến kẻ hoặc
sự việc làm cho mình giận giữ” (Hạn chế sân hận, trải rộng tình thương - Tỳ
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
67
theo VISUDDHÀCÀRAZ). Trời ơi, mình giận muốn chết, muốn gào thét,
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
muốn cào cấu, muốn đập phá mà không cho mình nhúc nhích, sao có thể hả
hê? Đạt được mới khó làm sao…”.
Nhiều khi lời đề từ là những dòng cảm nhận, suy nghĩ của tác giả hay
cũng chính của mọi người ở một số truyện như: Hiu hiu gió bấc, Mối tình
năm cũ, Nhà cổ, Cái nhìn khắc khoải. Truyện Hiu hiu gió bấc kể về mối tình
của anh Hết và Chị Hoài yêu nhau say đắm mà không lấy được nhau, do mẹ
chị Hoài chê anh Hết nghèo. Anh thầm lặng chôn chặt tình yêu trong lòng.
Anh đâu biết bên cạnh anh còn có chị Hảo, thương anh, chờ đợi anh đến
thành gái lỡ thì, tác giả có lời đề từ đầy ưu tư: “Tôi thường đợi gió chướng về
với một tâm trạng lộn xộn, ngổn ngang. Mừng đó rồi bực đó. Sao tôi lại chờ
đợi nó, chẳng phải năm nào cũng vậy, lúc cầm cây chổi ra quét sân, đứng
trong gió đầm đìa tôi cũng buồn. Trời ơi, gió nầy là hết năm đây, già thêm
một tuổi đây, mình đã kịp sống gì đâu, tay vẫn trắng như vầy…Mỗi lần gió về
lại cảm giác mình mất một cái gì đó không rõ ràng, không giải thích được,
như ai đó đuổi theo đằng sau, tôi gấp rãi ăn gấp rãi nói, gấp rãi cười khi ngày
bắt đầu rụng xuống…Cuối mùa gió chướng, trời bỗng lạnh hơn, thêm vào một
chút buốt, nó kìa, gió bấc! Những đám cưới được tôi cho xuất hiện trên cái
nền gió nầy, nhưng chỉ là cái cớ cho buồn thẫm hơn, sắc lại trên những mối
tình dang dở. Chắc tại gió quá dịu dàng, nên có cảm giác gờn gợn buồn, có
cảm giác như gió mồ côi, cúi đầu hiu hắt đi giữa đời. Hay tại tôi đã già, đã
nhận ra không mùa vui nào là vui trọn. Đến đám cưới vốn là hỷ sự, tôi cũng
“gậy sự” để nó phải buồn chút chút. Chỉ có đám trẻ con là không biết, nên
mới sướng rơn vỗ tay cười hát “Cô dâu chú rể. Làm bể bình bông. Đổ thừa
con nít…”. Hà hà, thấy vậy mà không phải vậy đâu mấy cưng…”. Kiểu lời đề
từ như vậy hướng người đọc có những trăn trở, suy nghĩ cùng tác giả ngay khi
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
68
bắt đầu câu chuyện.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Truyện của Nguyễn Ngọc Tư còn có những lời đề từ rất dài, nó như
một câu chuyện bổ sung, tồn tại song song bên cạnh tác phẩm, vừa góp phần
làm nổi bật tư tưởng - chủ đề của tác phẩm, vừa như một đoạn trữ tình ngoại
đề thổi vào không gian tâm tưởng của người đọc những day dứt khôn nguôi.
Đó là những truyện: Cuối mùa nhan sắc, Nhớ sông. Cũng có khi lời đề từ là
lời tự sự bổ sung của tác giả như truyện Duyên phận so le viết về nhóm tiếp
viên nhà hàng một khu du lịch ở đất Mũi. Có khi, lời đề từ là phần mở đầu
cho câu chuyện, một bộ phận của câu chuyện đó như truyện Biển người mênh
mông: “Ngày ngày kẹt giữa đám đông, chen chúc trên những con đường đông
nghịt người, nhiều khi tôi giật mình, trời ơi, họ kìa, đồng loại mình kia. Sao
mình lại cô đơn đến rã rời…Lúc ấy, tôi có một cảm giác kỳ lạ, chỉ mình trên
đời nầy, chỉ một mình…Chẳng ai là tri ân, chẳng ai cả…”.
Mở đầu cho tập truyện mới xuất bản của mình, Nguyễn Ngọc Tư cũng
có lời đề từ ngắn gọn: “Tặng những chuyến vào đời bâng quơ…” để tiếp nối
cho những câu chuyện của chị về cuộc đời, về con người quê chị.
Là một nhà văn trẻ nhưng Nguyễn Ngọc Tư sớm đạt được những thành
công rực rỡ ngay từ những tập truyện ngắn đầu tay. Cho đến nay, tập truyện
ngắn thứ chín của chị đã được xuất bản và được bạn đọc nhiệt tình đón nhận.
Góp phần vào thành công vang dội đó phải kể đến nghệ thuật kể truyện từ
việc xây dựng cốt truyện và cao hơn là kiến tạo một kết cấu truyện hay, độc
đáo. Việc sử dụng lời đề từ trong truyện ngắn đã tạo cho chị khả năng mở ra
những ngóc ngách tận đáy tâm hồn của con người, trong sự đồng hiện, đồng
cảm giữa người đọc và thế giới nhân vật.
2.2.2.2 Kết cấu đảo trật tự thời gian, sự kiện
Nếu như truyện ngắn truyền thống thường kể theo trật tự thời gian
tuyến tính từ quá khứ, hiện tại rồi đến tương lai, thì trong nhiều truyện ngắn
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
69
hiện đại trật tự ấy đã bị đảo lộn. Biến cố truyện bị xáo trộn, không tuân theo
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
quy luật nhân quả hay logic của đời sống. Nghĩa là thời gian lịch sử và thời
gian trần thuật không trùng khít. Nhà văn chủ động tạo ra sự xáo trộn về thời
gian của hệ thống sự kiện xảy ra trong truyện nhằm phục vụ tối đa cho ý đồ
nghệ thuật. Truyện có kiểu kết cấu này thường được mở đầu bằng những sự
kiện của hiện tại, sau đó ngược dòng quá khứ rồi có thể từ đó, hướng tới
tương lai. Ở truyện ngắn hiện đại chúng ta thấy các nhà văn sử dụng nhiều thủ
thuật miêu tả dòng hồi tưởng của nhân vật. Theo đó, các mốc thời gian có thể
kéo dài đến vô tận.
Có thể thấy trong nhiều truyện ngắn của nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư
kiểu kết cấu đảo trật tự thời gian, sự kiện thực sự tạo ra hiệu quả nghệ thuật.
Cánh đồng bất tận là một truyện ngắn có cấu trúc lỏng. Hệ thống sự kiện bị
phân rã, chắp nối theo chuỗi ký ức đứt đoạn của nhân vật tôi. Đó là một câu
chuyện mở, một tác phẩm được dệt bởi sự đan cài giữa xúc cảm và suy tưởng
của nhân vật chính trên phông nền là cuộc sống của những kiếp người nhọc
nhằn, tủi cực. Xét về mặt văn bản, truyện được kết cấu thành 8 phần, được
nhà văn đánh số rõ ràng. Từ cách kết cấu này, chúng ta có thể thấy rõ sự đảo
lộn trật tự thời gian trong quá trình kể chuyện của nhà văn.
Trình tự sự kiện được kể Thời gian xảy ra sự kiện
-1. Hai chị em Nương và Điền cứu cô gái điếm Hiện tại
-2. Cuộc sống của gia đình khi có thêm cô gái Hiện tại
-3. Ký ức về ngày bà mẹ bỏ đi Quá khứ xa
-4. Cuộc sống lang thang sau ngày đó Quá khứ xa
-5. Những cuộc tình chớp nhoáng của cha Quá khứ gần
-6. Cha Nương trả thù đàn bà Quá khứ gần
-7. Cô gái điếm bán thân cứu đàn vịt Hiện tại
Điền bỏ nhà đi
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
70
-8. Cuộc đối đầu với bọn cướp vịt Hiện tại tiếp diễn
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nương bị hãm hiếp
Nếu quan niệm hệ thống sự kiện là yếu tố cốt lõi của cốt truyện thì trục
vận động chính của cốt truyện là quan hệ nhân quả. Nếu sắp xếp theo quan hệ
nhân quả và trật tự thời gian trong chuỗi sự kiện, thì cốt truyện của Cánh
đồng bất tận được sắp xếp là: đoạn 3,4,5,5,1,2,7,8. Như vậy, có thể thấy trật
tự thông thường của thời gian sự kiện đã hoàn toàn bị phá vỡ. Từ thời gian
hiện tại, nhà văn ngược về quá khứ, rồi lại quay về hiện tại. Truyện như một
bức tranh ghép mảnh những mảng ký ức chắp nối, đứt đoạn của nhân vật hay
chính là sự lắp ghép những thân phận, mảnh đời của các nhân vật. Ở đó, nhân
vật tan chảy thành dòng cảm xúc hỗn độn giữa quá khứ và hiện tại, tâm cảnh
và ngoại cảnh,…mà một sự phục dựng đầy đủ chỉ có được khi người đọc đã
lật đến trang cuối cùng. Điều này đem đến cho người đọc cái hứng thú được
thể nghiệm “một hiện thực chưa hoàn kết”, được cùng theo đuổi và trải
nghiệm với nhân vật, tức là gia tăng sự tham gia của người đọc vào câu
chuyện. Lối kể chuyện tự do này cũng giúp cho truyện ngắn phá vỡ khuôn
khổ dung lượng chật hẹp, phần nào cạnh tranh được với tiểu thuyết về quy mô
hiện thực được phản ánh trong tác phẩm.
Nước như nước mắt cũng là truyện ngắn có kết cấu đảo lộn thời gian
tuyến tính. Trên văn bản, Nguyễn Ngọc Tư cũng đánh dấu rõ ràng, truyện
được kết cấu thành 7 phần. Qua đó, ta cũng nhận thấy sự đảo lộn trật tự thời
gian trong quá trình kể chuyện của nhà văn
Trình tự sự kiện được kể Thời gian xảy ra sự kiện
-1. Chồng Sáo chết vì mấy lá ngò gai Hiện tại
-2. Nhà chức trách nghi ngờ chồng Sáo ăn trộm Hiện tại
Sáo khẳng định chồng chết vì lá ngò gai
-3. Những ngày Sáo sống bên chồng Quá khứ gần
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
71
-4. Lý do Sáo lấy chồng Quá khứ xa
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
-5. Sáo xin vào làm ở bè Đại Thanh, Hiện tại
quyết tâm trả thù cho chồng
-6. Sáo tuyệt vọng vì không trả thù được Hiện tại
-7. Sáo đi theo Câu Nói - kẻ thù Hiện tại tiếp diễn
Nếu theo trật tự tuyến tính thì kết cấu truyện phải được sắp xếp lại là:
đoạn 4,3,1,2,5,6,7. Trong truyện, từ biến cố trong hiện tại, nhà văn đã đưa
nhân vật trở về quá khứ rồi quay lại hiện tại. Truyện vận động theo mạch tâm
lý của nhân vật chính là Sáo. Các lớp sự kiện, biến cố được xâu chuỗi lại bởi
mạch tâm lý đó. Nhờ vậy, nhà văn đã đưa người đọc vào những ngách sâu
trong tâm lý nhân vật, những giằng xé giữa thù hận và thương yêu, giữa hiện
thực và khát vọng,…
Cũng là một câu chuyện dài được in trong tập truyện mới nhất của
Nguyễn Ngọc Tư, Khói trời lộng lẫy là một truyện ngắn miên man đan xen
giữa ký ức, thực tại và ước mơ của một cô gái đã mang đứa em trai nhỏ của
mình bỏ trốn cuộc sống phố thị đến sống tại một xóm nghèo trên chiếc Cồn
hoang vắng của sóng nước miền Tây. Phần 1: mở đầu truyện là cuộc sống
hiện tại của hai chị em Phiên ở xóm Cồn. Phần 2: Tôi nhớ lại ước mơ được
làm ở Viện di sản thiên nhiên. Phần 3: Những lời đồn đại về lai lịch của hai
chị em mà mọi người lầm tưởng là hai mẹ con. Phần 4: Tôi nhớ lại những
ngày làm ở Viện di sản thiên nhiên. Phần 5: Tôi nhớ lại những ngày đầu sống
ở xóm Cồn. Phần 6: Tôi nhớ lại kỉ niệm ngày làm ở Viện di sản thiên nhiên.
Phần 7: Những ngày sống ở xóm Cồn. Phần 8: Kỉ niệm về mối tình dang dở
với người đàn ông làm cùng Viện đã có vợ. Phần 9: Thằng Phiên lớn lên từng
ngày, nó bắt đầu hỏi về bố, tôi càng thấy lo sợ. Phần 10: Tôi chia tay với Anh.
Phần 11: Lí do tôi đưa Phiên đi. Phần 12: Tôi lo sợ mất Phiên khi xóm Cồn có
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
72
sự xuất hiện của người ngoài. Phần 13: Thằng Phiên bỏ đi.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Kiểu kết cấu truyện này khiến cho câu chuyện vừa linh động vừa hấp
dẫn. Truyện ngắn không chỉ là những lát cắt mà đã phản ánh được những
mảnh đời, những số phận của nhiều nhân vật. Sức khái quát và quy mô phản
ánh hiện thực của truyện ngắn được mở rộng hơn. Đó cũng là khuynh hướng
tự sự giàu tính hiện đại, nó phù hợp với kiểu cốt truyện tâm lý - một đặc điểm
nổi bật trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.
2.2.2.3 Kết cấu mở
Truyện truyền thống là một cấu trúc khép kín. Nó thường giới thiệu về
một câu chuyện đã xảy ra và đã chấm dứt tại một thời điểm trong quá khứ.
Câu chuyện truyền thống thường bao giờ cũng có kết thúc trong quá khứ một
cách trọn vẹn. Truyện ngắn hiện đại thường đưa người đọc vào chính giữa
dòng chảy đang xảy ra của các sự kiện và không hề khép lại khi câu chuyện
được ngừng kể. Câu chuyện dường như không thể kết thúc được bởi những
băn khoăn trăn trở, và những hành động còn đang được tiếp diễn của các nhân
vật. Theo tác giả Lê Thị Hường trong bài viết Các kiểu kết thúc của truyện
ngắn hôm nay (Tạp chí Văn học, số 4/1995) viết: “Hình thức kết cấu của
truyện ngắn hôm nay phần lớn vượt ra khỏi kết cấu của truyện ngắn truyền
thống…có kết cấu tự do hơn. Kết thúc truyện ngắn hôm nay là kiểu kết thúc
để ngỏ”. Đây là nghệ thuật tạo cho cốt truyện độ mở, tăng cường khả năng
đồng sáng tạo của độc giả trong khi thưởng thức tác phẩm. Kiểu kết cấu mở là
cách tổ chức chi tiết, sự kiện trong thế phát triển chưa hoàn thành của hiện
thực. Nhà văn có vai trò đặt vấn đề, gợi mở những cách tiếp cận mới cho độc
giả. Để tạo nên những khoảng trống cho tác phẩm, nhà văn thường tạo ra
những chi tiết bất ngờ vào cuối truyện mà không đưa ra lời giải thích thỏa
đáng. Kiểu kết cấu này thường gặp ở nhiều nhà văn như: Nguyễn Huy Thiệp,
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
73
Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh,…Với nhiều nỗ lực sáng tạo trong
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
truyện ngắn, Nguyễn Ngọc Tư cũng tạo ra nhiều kết cấu mở ở truyện của
mình để cùng người đọc sẻ chia và đồng sáng tạo.
Truyện Hiu hiu gió bấc kể về anh Hết đã sống hết mình cho người yêu,
gánh tội phụ tình để chị Hoài yên lòng với duyên mới. Yêu quá nặng lòng,
anh không thể đến được với người con gái nào khác, dù chị Hảo vẫn chờ anh,
dù “ …chờ tới chừng nào lận? Ai mà biết? Mùa này gió bấc hiu hiu lại về”.
Hay truyện Cuối mùa nhan sắc kể về Đào Hồng chung tình với Thường
Khanh mà kết cục phải chết trong nghèo khổ và chờ đợi vô vọng…Ông Chín
thấy mình đã đóng được một vai chính trong cuộc đời ấy là vai con của Đào
Hồng trong giây phút bà lâm chung và thấy bà mỉm cười “Chỉ vậy thôi à. Ừ
chỉ vậy thôi. Nhưng tụi trẻ bây thì biết gì chuyện tình cảm của người lớn…”.
Kết cục ấy rất nhân văn mà vẫn đầy day dứt.
Truyện Cánh đồng bất tận có kết thúc mở thật sự buồn thương, ám ảnh.
Người cha của Nương sau khi bị vợ phản bội, bỏ đi đã trở nên khô cứng, chai
lì. Do vậy, cái linh cảm của Nương dành cho số phận mình như niềm dự cảm
trước. Nhưng có lẽ “lấy chủ đề báo ứng làm điểm tựa, câu chuyện hướng về
mọi người, trở thành chuyện của nhiều người, của xã hội…truyện đặt ra một
vấn đề xã hội mang tính khẩn thiết về thân phận người phụ nữ nghèo trong xã
hội hôm nay” [36, 148]. Đó là những kiếp người mòn mỏi sống tù túng, nghèo
nàn, không hi vọng như mẹ Nương. Đó là những kiếp người phải sống ở vùng
khí hậu khắc nghiệt đến mức ước sao trước lúc chết “được tắm một bữa đã
đời’. Đó là những phụ nữ quê mùa lam lũ bị những ông chồng vũ phu hành hạ
như là con ở, là nô lệ tình dục. Đó là thân phận hèn hạ của những cô gái điếm.
Đặc biệt là thân phận trẻ em nữ như Nương - phải hứng chịu tội lỗi của người
lớn, bị cưỡng hiếp nhưng vẫn không hận đời, hận tình như người lớn mà trái
lại đầy niềm tin: “Đứa bé đó, nhất định nó sẽ tên là Thương, là Nhớ, là Dịu,
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
74
Xuyến, Hường,… Đứa bé không cha nhưng chắc chắn được đến trường, sẽ
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
tươi tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời, vì được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên
tha thứ lỗi lầm của người lớn”. Những dòng kết này tạo cho truyện một kết
cấu mở, gieo vào lòng người đọc một niềm hi vọng vào cuộc đời, vào tình
người. Cho dù cuộc đời có đầy rẫy bi kịch thì con người cũng không nên thôi
hi vọng vào tương lai, vẫn không thôi ấp ủ những khát vọng tốt đẹp.
Người đọc cũng dễ dàng nhận thấy trong một số truyện ngắn, Nguyễn
Ngọc Tư đã sử dụng khá hữu hiệu “khoảng trống” tự do ở cuối truyện, để cho
độ mở ở đoạn kết được rộng, để tăng sức hấp dẫn cho mỗi câu chuyện. Sức
ám ảnh và niềm day dứt dồn nén ở những câu hỏi tu từ khép kín một cái gì
mới hình thành:
“Thí dụ như con cá, lá rau, hạt gạo mến thương của người cù lao không
ràng buộc được một con người (như đã từng rịt chân ông lại), thì cái bóng nhỏ
nhoi của đứa con gái đang tuyệt vọng đứng ngóng chờ dưới bến không có ý
nghĩa gì sao? Tuyệt không đáng gì à?” (Thương quá rau răm).
“Nhưng nói để làm gì ta?” (Huệ lấy chồng).
“Nhưng cô muốn tới đâu? Tới đâu là tới đâu? Tới một chỗ nào?” (Cảm
giác trên đây).
“Không ai nghĩ mù cũng biết thương nhớ, biết ngóng chờ (trong nỗi
tuyệt vọng), rằng cái người đó, mùa mưa này liệu đã mỏi chân mà trở lại
không?” (Nửa mùa).
Những câu hỏi đó gieo vào lòng người đọc bao nỗi suy tư, liên tưởng
mạnh mẽ về cuộc sống. Kết truyện đầy ngổn ngang, dang dở ấy khiến người
đọc day dứt cho số phận con người: người tốt nhưng chưa chắc đã được
hưởng hạnh phúc. Những truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, dù cái kết không
có hậu, quá day dứt, hệt như đời thực nhưng nó vẫn mang đầy ý nghĩa nhân
văn. Người đọc khi đến với những sáng tác của chị thường được đắm mình
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
75
trong những ưu tư, trăn trở, những ao ước rất đời qua những kết truyện mở.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
* Tiểu kết chương 2
Nhìn vào đời sống văn học đương đại chúng ta có thể thấy, việc đổi
mới nghệ thuật xây dựng cốt truyện và kết cấu góp một phần quan trọng đối
với việc không ngừng hiện đại hóa thể loại truyện ngắn. Khảo sát truyện ngắn
của Nguyễn Ngọc Tư chúng tôi nhận thấy tổ chức cốt truyện và kết cấu trong
các truyện của chị là cả một nghệ thuật. Đọc truyện của chị, người đọc bị lôi
cuốn bởi những dòng chảy tâm trạng, cảm xúc nhẹ nhàng và những chiêm
nghiệm sâu sắc chứ không phải các biến cố, hay sự kiện giật gân. Đó là kiểu
truyện ngắn không có cốt truyện. Truyện phát triển theo dòng chảy tâm lý
nhân vật đã tạo ra những kiểu kết cấu tự do hơn, mang tính hiện đại hơn. Đó
là kết cấu tâm lý; kết cấu đảo lộn thời gian, sự kiện và sử dụng các yếu tố
ngoài cốt truyện như lời đề từ. Việc đổi mới cốt truyện và kết cấu đã đem lại
hiệu quả nghệ thuật cao trong việc chuyển tải nội dung tư tưởng cho nhiều
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
76
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
CHƯƠNG 3: NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
3.1 Ngôn ngữ trần thuật
3.1.1 Giới thuyết về ngôn ngữ trần thuật trong tác phẩm tự sự
“Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học, vì vậy văn học
được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ” [13,215]. Ngôn ngữ chính là chất
liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của văn học. Không có
ngôn ngữ thì không thể có tác phẩm văn học. Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên mà
nhà văn sử dụng trong quá trình chuẩn bị và sáng tạo tác phẩm; nó cũng là
yếu tố xuất hiện đầu tiên trong sự tiếp xúc của người đọc với tác phẩm. Vì
vậy mà ngôn ngữ trở thành yếu tố không thể thiếu của văn học, như sắc màu
đối với hội họa, âm thanh đối với âm nhạc, hình khối đối với kiến trúc. Chính
M. Gorki đã khẳng định: “Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ
chủ yếu của nó cùng với các sự kiện, các hiện tượng cuộc sống là chất liệu
văn học”.
Ngôn ngữ của tác phẩm văn học cũng là ngôn ngữ của đời sống, ngôn
ngữ của toàn dân, nhưng đã được nâng lên đến trình độ nghệ thuật. Trong
“ngàn cân quặng chữ” người nghệ sĩ ngôn từ phải lao động nghiêm túc, công
phu mới thu về “một chữ”. Đúng như Nguyễn Tuân đã nói: “Mỗi nhà văn là
một anh phu chữ”. Một nhà văn lớn bao giờ cũng là tấm gương sáng về mặt
hiểu biết sâu sắc ngôn ngữ nhân dân, cần cù lao động để trau dồi ngôn ngữ
trong quá trình sáng tác. Nguyễn Minh Châu đã từng ví nhà văn như một
người thợ thủ công: “bằng một cách thức tài nghệ phù hợp riêng biệt của
mình, phải đập từng chữ ra để tìm cho được cái nghĩa nguyên thủy của nó,
rồi lại bằng một cách thức riêng biệt không có ai giống ai và không thể bắt
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
77
chước được, đem ghép những con chữ ấy lại với nhau thành câu, thành đoạn,
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
thành chương, cuối cùng trở thành một thứ có cả thể xác và tâm hồn: một tác
phẩm văn học” và cũng theo Nguyễn Minh Châu thì: “Viết văn là đem đến
cho tâm hồn người ta đồng thời sự yên ổn và không yên ổn, cùng một lúc vừa
cởi giải vừa gây băn khoăn, thắc mắc…chuỗi quá trình ấy…diễn ra liên tục
thông qua…vẻ đẹp của ngôn ngữ”
Trong phương thức tự sự, ngôn ngữ trần thuật không những đóng vai
trò then chốt, mà còn thể hiện phong cách, cái nhìn, giọng điệu, cá tính của
tác giả. Ngôn ngữ trần thuật mang tính chính xác, cá thể hóa. Mỗi câu, mỗi
chữ trong tác phẩm có thể chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa, nhiều cách giải
thích. Ngôn ngữ trần thuật còn là ngôn ngữ đa thanh vì đặc trưng của ngôn
ngữ văn xuôi là sự tác động qua lại rất phức tạp giữa tiếng nói tác giả, người
kể chuyện và nhân vật, giữa ngôn ngữ miêu tả và ngôn ngữ được miêu tả.
Do đổi mới tư duy nghệ thuật và cách tân về thi pháp nên hiện nay
ngôn ngữ trần thuật còn mang tính hiện đại. Ngôn ngữ trần thuật không còn là
tiếng nói quyền uy mà trở nên gần với ngôn ngữ đời sống hơn bao giờ hết;
tính chất văn hóa vùng miền trong ngôn ngữ trần thuật thể hiện ở chất giọng
nhà văn, người trần thuật không những kể chuyện mà còn chuyển tải những
giá trị văn hóa nằm sâu dưới lớp ngôn ngữ, làm cho nội dung trần thuật phong
phú, đặc trưng. Có thể thấy, một trong những cách tân của văn xuôi Việt Nam
đương đại là sự đổi mới ngôn ngữ với sự xuất hiện một loạt các cây bút với
nhiều phong cách mới và đa dạng như: Nguyễn Huy Thiệp, Đỗ Bích Thúy,
Phạm Thị Hoài, Y Ban,…Không màu mè, không làm duyên làm dáng,
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
78
Nguyễn Ngọc Tư có một lối viết văn giản dị, tự nhiên.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
3.1.2 Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
3.1.2.1 Ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ
Sinh ra lớn lên trên mảnh đất Nam Bộ nghèo khó, tuổi thơ của Nguyễn
Ngọc Tư gắn liền với những dòng sông uốn khúc, rừng đước bạt ngàn, đồng
lúa mênh mang, những con người lam lũ mà thật thà, hồn hậu. Khi cầm bút,
chị viết về “những cảnh người, cảnh đời bên cạnh mình, những ngôn ngữ
bình dị hàng ngày cứ ùa vào” (lời tâm sự của Nguyễn Ngọc Tư). Nhà văn
Nguyên Ngọc đã khẳng định: “Mấy năm nay chúng ta đều rất thích Nguyễn
Ngọc Tư. Cô ấy như một cái cây tự nhiên mọc lên giữa rừng tràm hay rừng
đước Nam Bộ vậy, tươi tắn lạ thường, đem đến cho văn học một luồng gió
mới mát rượi, tinh tế mà chân chất, đặc biệt “Nam Bộ” một cách như
không”. Văn Nguyễn Ngọc Tư là sự chân chất vốn có. Chị viết bằng lời ăn
tiếng nói hàng ngày của người dân quê chị bởi theo chị chỉ có ngôn ngữ ấy
mới lột tả hết được cái tình của người dân quê mình. Bằng thứ ngôn ngữ ấy,
chị cũng thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với những kiếp người, với mảnh đất đã
nuôi dưỡng tâm hồn chị.
Khi Nguyễn Ngọc Tư đến với văn chương, văn học Nam Bộ đã có
những tên tuổi khá nổi tiếng như: Sơn Nam, Đoàn Giỏi, Nguyễn Thị Diệp
Mai,…nhưng chị vẫn khẳng định được vị trí của mình trong làng văn chương
hiện đại bằng một giọng văn “đặc sệt” Nam Bộ.
Trần Hữu Dũng từng nhận định: “cái nhìn đầu tiên làm người đọc
choáng váng (cái thích thú) là nồng độ phương ngữ miền Nam trong truyện
của Tư. Nếu bạn là người Nam và nhất là bạn đã xa quê hương lâu năm, thì
chỉ những chữ mà Nguyễn Ngọc Tư dùng cũng đủ làm bạn sống lại những
ngày xa xôi ấy. Từ vựng của Nguyễn Ngọc Tư không quý phái hay độc sang
(như của Mai Ninh chẳng hạn) nhưng, đối nghịch, đó là một từ vựng dân dã,
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
79
lấy thẳng từ cuộc sống chung quanh” [11,11]. Ngôn ngữ trong tất cả các
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
truyện ngắn của chị từ ngôn ngữ dẫn truyện đến ngôn ngữ nhân vật đều khá
thuần chất Nam Bộ. Điều đó tạo nên một văn phong riêng, đặc biệt ấn tượng
với người đọc.
Theo kết quả nghiên cứu của nhà báo Huỳnh Công Tín thì Nguyễn
Ngọc Tư đã sử dụng từ ngữ, phương ngữ Nam Bộ rất nhiều trong các truyện
ngắn của chị. Đó là cách xưng gọi mang sắc thái Nam Bộ: “má, tía, chế, bây,
ổng,…”cùng những biến âm: “tui, hổng, dè, kinh, thiệt, bi nhiêu, mươi mốt,
nè,…” tạo cảm giác gần gũi thân mật. Rồi đến cách xưng gọi thứ kết hợp với
tên: “Hai, Ba, Tư, Chín, Út,...”; “Tư Nhớ, Năm Nhỏ, Sáu Đèo….”. Những câu
chữ tưởng như rất quê mùa nhưng khi đưa vào truyện của Nguyễn Ngọc Tư
người đọc cảm thấy rất “văn chương” – văn chương Nam Bộ”. Đến những từ
ngữ chỉ trạng thái, tính chất như: “buồn thiu, đong đưa, lãng xẹt, lừ lừ, im re,
rã gánh, thong dong, bằm lặt, lỉnh lảng, lông lông, long chong, ngộ, rớt, tệ hệ,
trùng trình, nhẹ hều, tém tẻ, rã gánh, cà chớn, sương sương, tạnh hột,...”. Và
nhiều những từ chỉ địa hình, sản vật gắn với một vùng sông nước: “áo bà ba,
bà chằn, bình bát, bông súng, bông trang, cà ràng, cây còng, cây tra, chợ nổi,
dừa nước, đậu phộng, đèn chong, đùng đình, mùng, rạch, sạp ghe, tà lỏn,…”.
Hay những từ ngữ chỉ hoạt động, sinh hoạt: “biên thư, biểu, búng thun, chào
rân, nhậu nhẹt, thiến heo, giăng mùng, tợp,…”
Rồi cách diễn đạt của người Nam Bộ: “bảnh thiệt, cà lơ phất phơ, cá
chốt rỉa, coi giò coi cẳng, mát trời ông địa, mần chi, mắc mớ, đã thiệt, quá
giang, mắc mớ, mừng húm,…”. Đó còn là những tình thái từ có màu sắc Nam
Bộ: “hen, nghen, vậy ta, khỉ khô,…”. Đến những địa danh Nam Bộ, những
vùng đất xa xôi nhưng luôn ấm áp tình người như: “Mút Cà Tha, Hóc Bà Tó,
xóm Giồng Mới, Mũi So Le,…”
Sức hấp dẫn của truyện Nguyễn Ngọc Tư không phải ở kho từ vựng
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
80
miền Nam dồi dào, mà ở chỗ sử dụng phương ngữ tối đa đúng vào những câu
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
chuyện thật miền Nam. Như một đoạn đối thoại trong truyện Cái nhìn khắc
khoải: “Buổi chiều ông về sớm, chị rũ áo mưa của ông phơi lên vách miệng
quở ông là trời mưa dai thấy sợ. Chị xúc chén lúa đổ cho con cộc, miệng hỏi
lãng như không” “Cộc mưa lạnh hôn con?”. Cộc không trả lời, nó nghênh
lên ý nói: Vịt mà lạnh gì? Ông lạnh sao không hỏi, thiệt tình?”. Và cánh đồng
của người phương Nam cũng được miêu tả rất ấn tượng: “Một cánh đồng
miền viễn với gió lắt lay những khói nắng héo xèo, một nhúm mây rất mỏng
và rời rạc bay tha thểu trên cao. Đường chân trời mờ mờ xa ngái. Một vài gò
mả loang lổ dưới chòm trâm bầu. Tiếng chim kêu nhỏ từng giọt thiu thỉu.
Mùi rạ mới quyện với bùn tanh tanh. Bầy vịt rúc đầu vào nách, ngủ ơ hờ dưới
bóng cây tra treo từng chùm bông vàng tuyệt vọng lay như những chiếc
chuông câm” (Cánh đồng bất tận). Chính điều đó làm nên sức lôi cuốn cho
mỗi truyện chị viết.
Đọc văn chị ta có cảm tưởng mình đang ở trên mảnh đất Nam Bộ, bận
rộn theo những chuyến đò xuôi ngược nơi con nước, dòng sông. Những câu
chuyện mở ra không gian Nam Bộ của vùng đất U Minh với tên đất, tên làng
quen thuộc. Đó là địa danh: “Vàm Cỏ Xước, Rạch Ráng, Rạch Mũi, Xẻo Mê,
Kinh Mười Hai, Vàm Mắm,…”. Đó còn là tên ấp đậm sắc màu Nam Bộ:
“xóm Kinh Cụt, Xóm Nước, đất Trảng Cỏ, Mút Cà Tha,…”. Phải yêu và gắn
bó với mảnh đất quê mình lắm Nguyễn Ngọc Tư mới miêu tả chân thực cuộc
sống, sinh hoạt mang đặc trưng riêng của vùng sông nước. Chính cách sử
dụng phương ngữ khéo léo, tự nhiên không hề gọt rũa, chị đang dần giúp
người đọc khám phá miền Nam “tỉnh nhỏ” trong những trang văn hấp dẫn.
Tuy nhiên, có người đã cho rằng văn chị sử dụng nhiều phương ngữ sẽ
gây trở ngại cho sự tiếp nhận của bạn đọc. Nhưng nếu đọc lại truyện của
Nguyễn Ngọc Tư có thể thấy rằng chị vừa sử dụng phương ngữ một cách có ý
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
81
thức vừa không quên tạo dựng một bối cảnh giúp người đọc hiểu được những
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
phương ngữ đó. Ví dụ như chữ “tệ hệ” trong truyện Nỗi buồn rất lạ, nếu bình
thường có lẽ không mấy người hiểu hai chữ đó nghĩa như thế nào, nhưng nếu
đặt vào câu nói: “Mày nói làm sao chớ, thằng Tư Đờ đâu có tệ hệ vậy, tao biết
nó mấy chục năm trời…”, thì có lẽ ai cũng hiểu được “tệ hệ” có một phần
nghĩa là “tệ”.
Có thể khẳng định, chính việc sử dụng ngôn ngữ địa phương, những
hình ảnh tạo không gian Nam Bộ đặc trưng đã góp phần không nhỏ để
Nguyễn Ngọc Tư tái hiện chân thực, sống động không khí Nam Bộ. Điều đó
cũng khiến những câu chuyện được kể lôi cuốn người đọc vào một thế giới
chân thực, bình dị của những con người lam lũ miền sông nước.
Cùng với cách sử dụng đậm đặc những phương ngữ trong truyện tạo
dấu ấn văn hóa vùng miền, kéo ngôn ngữ văn chương về gần với ngôn ngữ
đời thường, đọc truyện của Nguyễn Ngọc Tư, ngôn ngữ trần thuật còn mang
tính đa thanh.
3.1.2.2 Tính chất đa thanh trong ngôn ngữ trần thuật
Thái Phan Vàng Anh trong bài Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn
đương đại đã khẳng định: “Truyện ngắn Việt Nam đương đại không còn mang
tính chất một giọng, đơn bè, như các thời kỳ trước…khảo sát tính chất đối
thoại trong ngôn ngữ trần thuật hay lời nửa trực tiếp (phát ngôn đồng thời
của người trần thuật và nhân vật) có thể thấy rõ tính chất đa thanh của ngôn
ngữ trần thuật trong truyện ngắn thời kỳ này” [5, 4]. Theo xu hướng đổi mới
đó, đọc văn của Nguyễn Ngọc Tư chúng ta cũng nhận thấy sự đa dạng trong
ngôn ngữ trần thuật. Ngay trong bản thân các phát ngôn của người trần thuật,
cùng lúc có thể có cả lời trực tiếp hay những suy tư gián tiếp của nhân vật.
Khảo sát tính chất đối thoại trong ngôn ngữ trần thuật và lời nửa trực tiếp,
chúng ta có thể thấy tính chất đa thanh của ngôn ngữ trần thuật trong truyện
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
82
ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Tính chất đối thoại trong ngôn ngữ trần thuật. Đây là một dạng lời
phát ngôn trực tiếp, mang tính cá thể hóa cao của nhân vật khi tham gia giao
tiếp. Theo Lại Nguyên Ân thì đối thoại là “sự giao tiếp qua lại (thường là
giữa hai phía) trong đó sự chủ động và thụ động được chuyển đổi luân phiên
từ phía này sang phía kia (giữa những phía tham gia giao tiếp); mỗi phát
ngôn đều được kích thích bởi phát ngôn có trước và là sự phản xạ lại phát
ngôn ấy…” [6, 333]. Trong truyện ngắn, hình thức đối thoại được sử dụng
rộng rãi và có vai trò quan trọng trong việc biểu đạt nội dung. Có kiểu đối
thoại theo hình thức phân vai, có kiểu lời đối thoại được nhấn mạnh nhờ
những chỉ dẫn của người trần thuật nhằm giản lược hoạt động giao tiếp,…Tuy
nhiên, người trần thuật vẫn có thể biến lời thoại của nhân vật thành lời của
bản thân. Không gai góc, như Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê; không trần
trụi, quyết liệt như Y Ban,…lời đối thoại trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư
mang tính chất độc thoại đầy thấp thỏm, da diết. Đối thoại giữa các nhân vật
trong truyện của chị nhiều khi không đảm bảo yêu cầu của một cuộc thoại
thông thường. Người tham gia cuộc thoại có khi không trả lời, nếu có thì đáp
lại bằng một phát ngôn không cụ thể. Ở truyện Cái nhìn khắc khoải, cuộc đối
thoại giữa “chị” và “anh Hai” thực chất chỉ là những lời độc thoại của “anh
Hai”, còn nhân vật “chị” chỉ thốt lên “anh Hai”:
- “Sáng nay tôi gặp thằng bạn, nó mới chạy bầy vịt từ nông trường qua.
Tôi hỏi, nghe nó nói thợ gặt An Bình ở đó.
- Anh Hai!
- Ảnh tên Sinh phải hôn, cô Út? Ờ, Sinh, ảnh…cũng đang gặt bên đó, cô
Út à.
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
83
- Anh Hai!
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
- Tàu từ xã chạy nông trường lúc năm giờ, ngang đây, chắc cỡ sáu rưỡi.
Cô ráng đón chuyến đó. Để lỡ tới bữa sau, sợ mấy ảnh lại chuyển đồng,
kiếm mệt lắm. Thôi, tính vậy nghen, cô Út.”
Mang tâm trạng xúc động nghẹn ngào và lòng biết ơn, nhân vật cô Út
không thể nói được điều gì ngoài hai từ “anh Hai”. Còn người phát ngôn (anh
Hai) cũng cố nói cho nhanh những gì muốn nói như sợ người nghe thấy được
cảm xúc thực của mình.
Hay trong truyện Biển người mênh mông, cuộc trò chuyện của ông Sáu
Đèo với Phi: “Chú mầy uống đi, buồn gì, hai đứa mình có duyên gặp lại đây,
có phải vui biết bao nhiêu không? Nhưng qua có lời dặn lại, chú em đừng bao
giờ uống say quá, chỉ những người sầu muộn mới uống say thôi”. Ở đây,
người đọc chỉ thấy lời phát ngôn một chiều của ông Sáu. Đó là lời tâm sự,
phơi trải nỗi sầu muộn của mình và sự đồng cảm với Phi. Đối thoại này là sự
độc thoại với nhu cầu chia sẻ.
Đọc truyện của Nguyễn Ngọc Tư chúng ta nhận thấy, hầu hết nhân vật
của chị ít hành động nên lời đối thoại chiếm số lượng ít hơn so với lời người
kể chuyện và lời độc thoại nội tâm.
Dễ dàng nhận biết lời đối thoại của các nhân vật tách hẳn ra khỏi lời
người kể chuyện qua những dấu gạch đầu dòng:
“ – Gió mát thiệt, hen?
– Lương !
– Gì ?
– Ôm tôi đi.
– Ý trời, người ta dòm.
– Thây kệ họ. Ôm tui đi.
– Thôi, kỳ lắm…” ( Trích Bến đò xóm Miễu)
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
84
“ - Mới năm sáu tuổi mà lanh quá…Giống ai mà lanh vậy con?
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
- Giống má.
- Ủa, má đâu không thấy?” (Trích Có con thuyền đã buông bờ).
Có khi lời đối thoại của nhân vật trong truyện nằm trong lời người dẫn
truyện, không có dấu hiệu xuống dòng và gạch đầu dòng như thông thường.
Trong truyện Bến đò xóm Miễu có đoạn: “Nhưng Bông đã nói trước, Bông
khoe, “Chắc tui bỏ nghề, tui lấy chồng”. Lương rà rà mái chèo cho đò cập
bến, Lương hỏi Bông lấy ai? Bông cười: “Cái ông hồi nãy đưa tui về”. Lương
muốn sụm bộ giò, lặng người mà miệng vẫn cười hịch hạc, “Sướng nghen”.
Hay ở truyện Huệ lấy chồng, kiểu lời người trần thuật đan xen với lời thoại
nhân vật cũng được Nguyễn Ngọc Tư sử dụng nhằm làm tăng hiệu quả biểu
đạt: “Huệ cười, người ta vậy, mầy còn nhắc làm chi. Mà, sao bữa nay nghe
gió lạnh quá chừng, gió te tái đưa tới một tiếng gà đang gáy, nghe từng giọt,
từng tiếng buồn thỉu”. Bằng cách giữ nguyên lời nói của nhân vật trong câu
kể, người trần thuật ở đoạn văn trên đã chuyển từ lời đối thoại sang lời độc
thoại. Vẫn như đang nói với Điềm, song cái cảm giác “buồn thỉu” bởi gió
lạnh, bởi tiếng gà te tái chỉ có thể là của riêng Huệ trước ngày lấy chồng, khi
bóng dáng người cũ chưa thể phai nhòa. Với kiểu trần thuật này Nguyễn Ngọc
Tư đã giúp độc giả thâm nhập sâu hơn vào thế giới nội tâm nhân vật. Sự
chuyển đổi từ lời đối thoại sang lời kể đã làm lạ hóa kiểu trần thuật đơn âm,
tiến tới một kiểu trần thuật đa giọng điệu.
Có thể thấy, chịu sự chi phối từ cách lựa chọn đối tượng phản ánh và
cảm hứng sáng tạo của nhà văn, ẩn sau mỗi lời thoại của chị (dù của nhân vật
hay của người dẫn truyện) là những tâm tình kín đáo, những dằn vặt nội tâm
sâu sắc, mang tính nhân văn cao cả.
Lời nửa trực tiếp là “Lời trần thuật của tác giả và lời độc thoại của
nhân vật có khi hòa nhập với nhau, xuyên thấu nhau tạo thành lời nửa trực
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
85
tiếp” (Bakhtin). Còn trong Từ điển thuật ngữ văn học thì đó là “biện pháp
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
diễn đạt lời văn khi lời của nhân vật có bề ngoài thuộc về tác giả (về mặt
chấm câu, ngữ pháp) nhưng về nội dung và phong cách lại thuộc về nhân vật”
[13,187]. Nếu lời gián tiếp là lời trần thuật ngôi thứ ba kể về đối tượng, lời
trực tiếp là lời nhân vật được truyền đạt thông qua độc thoại và đối thoại thì
lời nửa trực tiếp là kiểu nói kết hợp đồng thời hình thức phát ngôn gián tiếp
(bởi người trần thuật) và trực tiếp (bởi nhân vật). Tuy nhiên, không đơn nghĩa
như lời trực tiếp, lời nửa trực tiếp thường mở ra nhiều hướng tiếp nhận, trở
thành kiểu lời nói đặc trưng cho ngôn ngữ trần thuật phức hợp, đa thanh. Như
đoạn văn trong truyện Nước chảy mây trôi: “Lúc về Diệp ôm vai mẹ, Diệp
bảo mớ khô cá sặc rằn này hôm nào mẹ con tiễn đi, mẹ nướng rồi xé trộn xoài
sống, con thích món này lắm”. Thông điệp “Diệp ôm vai mẹ, Diệp bảo thích
món cá khô trộn xoài sống” (bao gồm cả hành động của nhân vật) được người
trần thuật truyền đạt lại. Lời kể chứa đựng ngôn ngữ nói biểu cảm của nhân
vật nên lời người trần thuật và lời nhân vật hòa vào nhau.
Những lời nửa trực tiếp trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư vẫn là lời
người trần thuật nhưng đồng thời là tiếng lòng của nhân vật. Dòng tâm trạng
nhân vật đan xen trong lời người trần thuật. Nó là ý nghĩ mang ngôn ngữ bên
trong của nhân vật song tồn tại như những diễn từ của người trần thuật. Đó là
ngôn ngữ trong trẻo nhưng nhiều suy tư của Diệp ở những đoạn độc thoại nội
tâm được “thốt lên” bởi người trần thuật: “Đâu nè, đâu phải muốn là làm,
cũng phải suy nghĩ đắn đo dữ lắm. Coi lại, làm gì có chuyện con người được
sống hồn nhiên như nước chảy mây trôi? Phải chọn lựa và trả giá
chớ…”(Nước chảy mây trôi). Đó là lời nói đầy yêu thương mà người trần
thuật chỉ có thể có được từ ngôn ngữ độc thoại của trái tim người mẹ: “Có nên
nói hay không lời xưa rày má thường dạy thằng con trai lớn, rằng sống trên
đời, thấy phải thì làm, mà làm cũng đừng nghĩ sẽ được đáp đền xứng đáng, vì
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
86
có những thứ quý giá lắm, chẳng gì bù đắp được đâu” (Qua cầu nhớ người).
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Từ điểm nhìn nhân vật, mượn ngôn ngữ giọng điệu nhân vật, người trần thuật
trong nhiều tác phẩm của chị đã kể chuyện với con mắt của chính người trong
cuộc. Những băn khoăn của Tiên trong Nửa mùa về người yêu vừa phụ bạc
mình được kể đầy xót xa: “Cuối cùng, nó nuốt nước mắt, tin rằng chuyện này
cũng giống như trong phim, chắc là anh mặc cảm, anh không muốn làm gánh
nặng cho nó nên mới ra đi. Chắc là anh không dùng cách giả đò thân mật với
một cô gái khác vì sợ làm nát tan lòng nó. Chắc là anh đứng gián chỗ hàng
rào một hồi, câm lặng nuốt nước mắt nhìn nó ngủ…Và nếu giống như trong
phim thì Tiên phải đi tìm anh, dù ở cùng trời cuối đất, để nói với anh rằng, nó
có thấy nặng nề, cực nhọc gì đâu, cả nghĩ tới điều đó nó còn không mảy may
nữa là…”. Hay ở một đoạn trong Giao thừa, người kể chuyện đã nói hộ
những nỗi niềm buồn tủi của nhân vật: “Cô thấy mình giống như cây cỏ ven
đường, người ta đi qua đạp, đi lại đạp vẫn ngoi lên sống, sống cỗi cằn. Những
mùa lam lũ. Những mùa cực nhọc. Một mình chống chọi. Đàn ông con trai
coi được một chút mới lòng vòng ở ngoài đã nghe thiên hạ rần lên “Thứ gái
hư đâm đầu vô làm gì”. Ai mà muốn, chỉ tại con nhỏ, thấy gió yêu gió, thấy
hoa yêu hoa, đam mê bồng bột. Nghĩ mình học chưa đến đâu nhưng là học
những bài học bự nhất, đắt nhất”. Niềm thương dường như tan chảy trong
từng câu chữ.
Qua việc phân tích việc sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Ngọc Tư khi
trần thuật, chúng ta nhận thấy tài năng và cá tính riêng của nhà văn Nam Bộ
trẻ tuổi này. Chị đã vận dụng linh hoạt ngôn ngữ trần thuật, đặc biệt là việc sử
dụng phương ngữ, hình thức đối thoại và độc thoại nội tâm nhằm làm nổi bật
thế giới tâm hồn của người dân quê chị. Đồng thời, những lời nửa trực tiếp
được sử dụng đậm đặc trong truyện tạo cho ngôn ngữ trần thuật của chị trở
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
87
nên giàu sức gợi hơn.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
3.2 Giọng điệu trần thuật
3.2.1 Giới thuyết về giọng điệu trần thuật trong tác phẩm tự sự
Nhà văn T. Sêkhốp từng khẳng định: “Nếu tác giả nào đó không có lối
nói riêng của mình thì người đó không bao giờ là nhà văn cả”. Không giống
các hoạt động khác trong xã hội, hoạt động nghệ thuật là một hoạt động mang
tính đặc thù. Đó là lĩnh vực của cái độc đáo, nên điều quan trọng nhất với một
nhà văn là phải tạo được giọng điệu riêng không lẫn với ai. Giọng điệu được
hiểu là “thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với
hiện thực được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên,
dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay
suồng sã, ngợi ca hay châm biếm…” [13,134].
Là một trong những yếu tố cấu thành hình thức nghệ thuật của một tác
phẩm, giọng điệu chính là yếu tố hàng đầu tạo nên phong cách riêng của mỗi
nhà văn, tạo ra sự khác nhau giữa nhà văn này với nhà văn khác. “Giọng điệu
là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học” [13,135]. Nó phản ánh lập
trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả và có tác dụng
truyền cảm đến cho người đọc. Giọng điệu bộc lộ tình cảm chủ quan, thái độ
và cách đánh giá của nhà văn đối với con người và những hiện tượng được
miêu tả. Cho nên, một nhà văn thực sự có tài phải có một giọng điệu riêng và
nó được thể hiện qua toàn bộ sáng tác của nhà văn đó. Qua giọng điệu trong
tác phẩm, người am hiểu văn học có thể nhận ra được tác giả của nó. Giọng
điệu là cơ sở giúp người đọc có thể khai thông tác phẩm để khám phá thế giới
nghệ thuật của nhà văn.
Trong tác phẩm, giọng điệu không phải là phép cộng đơn giản các
phương tiện ngôn ngữ. Nó được thể hiện ở nhiều cấp độ (từ ngữ, nhịp điệu,
ngữ điệu,…) nhưng chúng ta chỉ nhận ra nó ở cái âm hưởng chung mà sự kết
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
88
hợp nhuần nhuyễn giữa các yếu tố ngôn ngữ mang lại. Có thể khẳng định,
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
giọng điệu nghệ thuật là yếu tố siêu ngôn ngữ bao trùm lên toàn bộ tác phẩm.
Giọng điệu nghệ thuật là cảm xúc đã được “hình thức hóa, điệu thức hóa” cho
nên không thể đồng nhất nó với giọng điệu tác giả vốn có ngoài đời. Trong
mỗi tác phẩm văn học thường bao giờ cũng có một giọng điệu chủ yếu, bên
cạnh những giọng điệu khác được sử dụng làm bè đệm. Giọng điệu đó lặp lại
nhiều lần ở những tác phẩm khác nhau sẽ tạo ra giọng điệu riêng của nhà văn.
Đối với tác phẩm tự sự, giọng điệu trần thuật có một có một vị trí rất
quan trọng. Qua giọng điệu trần thuật, người đọc có thể cảm nhận được thái
độ, tình cảm của người kể chuyện đối với đối tượng được kể. Không ồn ào,
chao chát như Đỗ Hoàng Diệu; không lạnh lùng, sâu cay như Phan Thị Vàng
Anh; không “đanh” như Lê Minh Khuê…Nguyễn Ngọc Tư đã tạo dựng cho
mình một giọng điệu riêng. Qua việc tìm hiểu giọng điệu trong các sáng tác
của chị, chúng tôi nhận thấy giọng điệu chủ đạo của người kể chuyện là giọng
trữ tình – lo âu, khắc khoải bên cạnh giọng điệu dân dã, mộc mạc.
3.2.2 Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
3.2.2.1 Giọng điệu trữ tình – lo âu, khắc khoải
Đây là giọng điệu nổi bật trong các sáng tác của nhà văn trẻ Nam Bộ.
Trước sự đổi thay không ngừng của xã hội hiện đại, giọng điệu trong các sáng
tác của các nhà văn trẻ cũng có nhiều biến đổi. Đó là giọng hoài nghi phản
ánh tâm lý thất vọng trước thực tại xã hội; giọng chất vấn, đay đả đầy mỉa mai
khi nói về những điều phi lý ở đời; giọng giễu nhại chống lại những nguyên
tắc bảo thủ, lỗi thời;…Tự bao giờ, Nguyễn Ngọc Tư đã “gom góp những
buồn vui” để viết, để “trả nợ” những yêu thương và cả những chấp chới, khổ
đau mà chị nhận được từ cuộc đời. Chị đi sâu khai thác mảng hiện thực đang
phơi bày ra trước mắt, một hiện thực đang được rung chuông báo động, ở đó
đầy những va chạm, bụi bặm và ngột ngạt của cuộc sống đời thường. Chị viết
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
89
về những con người chân lấm tay bùn thật thà, chất phác; những người nghệ
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
sĩ nghèo khổ thiết tha với nghề nhưng tất cả đều chung nhau một điểm, mỗi
nhân vật mang trong mình một nỗi đau, một niềm “uẩn khúc riêng”. Vì vậy,
giọng văn của chị vừa dung dị, sâu lắng; vừa bâng khuâng, trăn trở suy tư và
đầy tâm trạng. Ở đó có cái mềm mại nữ tính của người con gái lại có cái khắc
khoải, hụt hẫng, lo âu về những điều bất trắc sẽ xảy ra.
Chưa đọc truyện của Nguyễn Ngọc Tư, chỉ nghe những nhan đề thôi đã
đậm chất thơ nhưng ẩn giấu những lo âu, khắc khoải. Đó là những: Ngọn đèn
không tắt, Đau gì như thể…, Lý con sáo sang sông, Biển người mênh mông,
Nước chảy mây trôi, Cánh đồng bất tận, Gió lẻ, Cải ơi, Nhớ sông, Sầu trên
đỉnh Puvan, Của ngày đã mất, Thổ Sầu, Nước như nước mắt, Khói trời lộng
lẫy,…
Văn của chị vừa trữ tình nhẹ nhàng, vừa đầy tâm trạng suy tư được gọi
ra bằng những câu văn nghe như nhạc: “Và chiếc ghe, cánh đồng, dòng sông
thênh thang mãi…” (Cánh đồng bất tận); “Chiều nay bìm bịp kêu, nắng chỉm
lỉm theo” (Khói trời lộng lẫy). Nhiều câu trong trẻo và buồn như một bản
vọng cổ hoài lang “tự dưng nghe buồn, nghe thất vọng quá trời đất” (Một mái
nhà); “mà, lòng người là thứ dễ thương tổn, dòng sông cũng có thể cắt nát,
sau đó thì ánh mắt, tiếng nói, nước mắt,…”; “những buổi trưa tháng mười mờ
mờ, lợt lạt quay về trên khu phố nhà tôi” (Vết chim trời). Những câu văn nhoi
nhói một niềm đau: “Những cơn buốt lạnh chợt tới, chợt đi, thảng thốt”; “và
em thấy mình thực sự trôi, bồng bềnh và mộng mị trong một không gian tối
dần, tối dần và rồi, bóng tối bắt đầu vô tận” (Gió lẻ). “Má thở dài, thở dài”
(Chuyện của điệp). Những câu văn buông ra nhẹ nhàng lại có thể gieo vào
lòng người đọc những trăn trở, suy tư nặng trĩu về cuộc đời. Có được điều đó
chính là nhờ tài năng và tấm lòng của nhà văn.
Nhiều khi đọc truyện của Nguyễn Ngọc Tư thấy sao buồn quá. Số phận
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
90
con người thật nhỏ bé và đáng thương. Tuổi đời chưa nhiều nhưng hình như ở
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
nhà văn trẻ này vốn sống và kinh nghiệm đã có đầy. Chị viết giản dị nhưng
không kém phần trữ tình, sâu lắng. Truyện của chị hầu hết là những khoảnh
khắc tâm lý, nhẹ nhàng, ít tình tiết giật gân, nhưng đọc xong người ta cứ phải
nghĩ. Những cuộc đời, những số phận luôn luôn bị bao bọc bởi những điều bất
trắc, khổ đau. Hàng loạt câu văn bỏ lửng, hàng loạt dấu “…” giữa những
trang văn:
“Biển người thì mênh mông vậy…” (Biển người mênh mông).
“May mà không bao giờ nhìn thấy nụ cười đó, nhưng câu nói con người
Tiên thiệt thà, hỏi sao cậu biết thì cậu cười, “Thì đui thử như tui đi, rồi
biết…”. Trời, ai ngu sao…” (Nửa mùa).
“Ai mà biết, mùa này gió bấc hiu hiu lại về…” (Hiu hiu gió bấc).
“Chớ biết làm sao, lỡ thương quá chừng rồi…” (Bến đò xóm Miễu).
“Đêm đó, ngoài nhà xuồng, nó nghe ông thở dài. Tự mình làm mình
chịu, ai biểu…” (Cái nhìn khắc khoải).
“Mà có đau, dường như cũng trễ…” (Cánh đồng bất tận).
“Chị không hỏi em đã đi đâu, chẳng ích gì…Đàn ông rong ruổi đường
xa đàn bà vật vạ ngồi canh cửa, đời phân công vậy mà…” (Mộ gió).
“Osho nếu thật từng tồn tại, thì ông ta có nói những lời vá víu nỗi đau
đó không? Vĩnh không biết. Nhưng cô gái bốn mươi hai kí lô là có thật…”
(Osho và bồ).
Đằng sau những dấu chấm lửng ấy là tâm trạng lo âu, thắc thỏm của
nhà văn trước cảnh đời và tình người.
Giọng điệu trữ tình – lo âu đầy thắc thỏm còn được thể hiện qua việc sử
dụng hàng loạt những câu hỏi tu từ. Đó là sự thổn thức trước cuộc đời đa
đoan, sự vỡ nhẽ trước cuộc sống,…và cũng là sự đồng cảm sâu sắc của nhà
văn. Câu hỏi tu từ xuất hiện khá đậm đặc trong nhiều truyện ngắn của Nguyễn
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
91
Ngọc Tư, tạo nên nét đặc trưng nghệ thuật trong sáng tác của chị. Nó thường
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
xuất hiện khi nhân vật phải tự đào sâu vào bên trong tâm hồn mình, tự hỏi
mình để hiểu mình, hiểu đời. Nó có khả năng tái hiện tự nhiên, ám ảnh mọi
diễn biến trong thế giới nội tâm nhân vật cho nên nó mang đậm chất trữ tình
nhưng đầy khắc khoải, âu lo.
Sử dụng nhiều câu hỏi tu từ nhất có lẽ là truyện Cánh đồng bất tận.
Người kể chuyện cũng chính là nhân vật, tự cất lên tiếng lòng của mình khiến
cho những câu hỏi cứ trào ra những day dứt, đau đớn xoáy sâu vào sự đồng
cảm của người đọc:
“Chịu hết nổi cảnh sống này rồi hả? Bao giờ đi?”.
“Đêm nay, sao tôi thế này, vì nhìn thấy niềm hi vọng ư?”.
“Có ai chờ chúng tôi trên những cánh đồng khơi?”.
“Tôi sặc ra một bụm cười, trời ơi, tôi biết lấy ai bây giờ?...Tôi biết lấy
ai trong số đó?”.
Những cô đơn, lênh đênh, hi vọng rồi thất vọng trong lòng nhân vật
bùng nổ trong những câu hỏi không lời đáp tạo ra sự da diết, ám ảnh về thân
phận con người.
Nhiều khi đó là nỗi niềm bơ vơ, không bến đỗ trong cuộc đời:
“Nếu giật mình nghe tiếng khóc của cô gái gọi vào những khuya xa,
anh chỉ nằm im, nghĩ, sắp sáng rồi, bữa nay làm gì, đi đâu ta?” (Sầu trên đỉnh
Puvan).
Hay những trăn trở, những dằn vặt không thể giải đáp cho dù có đi suốt
cuộc đời:
“Vào những khoảnh khắc đó anh đã nghĩ gì, nghĩ gì, nghĩ gì?”.
“Tại sao tôi chọn thằng nhỏ này để làm chuyên đề khi có hàng ngàn
đứa trẻ khác? Tôi tìm kiếm, hi vọng gì ở đây?” (Khói trời lộng lẫy).
Đặc biệt khi những dấu chấm lửng, những câu hỏi ở kết truyện vừa day
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
92
dứt, trăn trở vừa khơi mở ra chân trời cảm xúc, suy tư nơi độc giả:
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
“Con Nga đứng đằng sau, ngó cái lưng bắt đầu còng xuống của người
cha, nghe gió thổi qua lòng mê miết, nghĩ mình ngu thiệt, mình nuôi hận
người ấy làm chi đây, mình trả đũa làm chi, đổi lấy cái gì? Có đáng không
những năm tháng dài vằng vặc? Những tâm hồn thương tổn? Và kia, một mái
đầu bạc phơ xơ xác?
Có đáng không? Trời ơi, có đáng không?” (Đau gì như thể).
“Coi lại, làm gì có chuyện con người được sống hồn nhiên như nước
chảy mây trôi?” (Nước chảy mây trôi).
“Thí dụ như con cá, lá rau, hạt gạo mến thương của người cù lao không
ràng buộc được một con người (như đã từng rịt chân ông lại), thì cái bóng nhỏ
nhoi của đứa con gái đang tuyệt vọng đứng ngóng chờ dưới bến không có ý
nghĩa gì sao? Tuyệt không đáng gì à?” (Thương quá rau răm).
“Hay vì tôi đang khóc, nên nghĩ vậy…” (Một chuyện hẹn hò).
“Nhưng cô muốn tới đâu? Tới đâu là tới đâu? Tới một chỗ nào?” (Cảm
giác trên đây).
“Nó chỉ lấy cắp chiếc xe đạp thôi mà, mắc gì ông già mủi lòng đau đớn
vậy? Làm như nó đã giết con nhỏ, không bằng…”
Có thể thấy, dấu chấm lửng và câu hỏi tu từ là phương tiện hiệu quả thể
hiện giọng điệu trữ tình nhưng đầy khắc khoải, lo âu trong các truyện ngắn
của Nguyễn Ngọc Tư. Giọng điệu này còn được thể hiện qua những từ ngữ,
hình ảnh đặc trưng như: “dòng sông”, “cánh đồng”, “gió”, “nỗi nhớ”, “giọt
nước mắt”,…
Chính giọng điệu trữ tình – lo âu đầy khắc khoải đã tạo nên nét riêng
cho những truyện ngắn của chị. Những lời tha thiết, những dòng cảm xúc của
nhà văn trước cuộc đời bàng bạc trong từng trang văn, khiến người đọc truyện
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
93
của chị xong rồi vẫn cứ suy nghĩ, trăn trở khôn nguôi.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Cùng với giọng điệu trữ tình – âu lo đầy khắc khoải, nổi lên trong sáng
tác của Nguyễn Ngọc Tư là chất giọng dân dã, mộc mạc.
3.2.2.2 Giọng điệu dân dã, mộc mạc
Với tấm lòng của một người ăn cơm nông dân, tắm nước sông và nghĩ
về nông thôn với tất cả sự thuần hậu yêu thương, Nguyễn Ngọc Tư đã viết
nên những câu chuyện mang đậm chất giọng tâm tình của người dân quê, mộc
mạc mà chứa chan nghĩa tình. Văn của chị là văn của người nhà quê mang
cách cảm nhận của dân quê : “Nguyễn Ngọc Tư giỏi ở chỗ cái tưởng như
không có gì mà Tư cũng viết được lại viết rất có duyên” [3, 1]. Từ cái duyên
ấy, chị khui mở trước mắt chúng ta những sinh hoạt thân thuộc, những tình
cảm đời thường,…khiến chúng ta có thể khám phá sự phong phú của chính
tâm hồn ta. Điều ấy trước hết được thể hiện ở cách kể chuyện hay lời nói của
các nhân vật theo kiểu người dân quê. Không triết lý, màu mè hay rao giảng
về đạo đức, họ nghĩ sao nói vậy. Đây là nỗi lo của người nông dân mất đất
canh tác được diễn tả nhẹ nhàng, điềm tĩnh mà chứa chan xúc động: “Lát sau,
anh cán bộ văn phòng hôm qua ra và ái ngại thưa: Kẹt quá chú ơi, sáng nay
chủ tịch bữa nay phải dự triển khai chỉ thị gì đó, chú hẹn cuối giờ chiều. Chủ
tịch dặn mấy lời chú vô Ủy ban ngồi nghĩ đỡ. Và Ba Già, trưởng đoàn Trảng
Cỏ, ông già có gương mặt khắc khổ, nhăn nhó nhất, mạnh giỏi nhất, ăn nói
văn vẻ trơn tru bỗng dưng hức lên, khóc ngon lành: Vậy là đất Trảng Cỏ trễ
thêm một mùa nữa rồi, mấy chú ơi” (Lỡ mùa). Còn đây là nỗi buồn của người
dân trước sự thay đổi của quê hương: “Tía nhìn thấy cảnh đó, ngao ngán lắc
đầu. Lại nói, tao chết à, Đậu. Với tía tôi, chỉ ở Thổ Sầu hoặc chết, phải tía
kêu, mình dời đi chỗ khác, Đậu ơi” (Thổ Sầu). Câu văn với từ hô gọi “chú
ơi”, “Đậu ơi” gần gũi như lời ăn tiếng nói hàng ngày của người lao động đã
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
94
góp phần tạo nên giọng điệu dân dã mộc mạc.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Trong truyện Thương quá rau răm, chất dân quê được bộc lộ rất tự
nhiên khi kể về chuyện hai bạn trẻ đèo nhau đi chơi: “Quẹo qua quẹo lại, nói
đất nói trời (chỉ thiếu lời thương yêu), cuối cùng hai đứa ra bãi đào khoai. Văn
hỏi má Nga đâu, nó cười, chết rồi, chết hồi sanh em, chết trên xuồng”. Phải có
sự thấu hiểu sâu sắc với đôi bạn trẻ, người kể chuyện mới có được giọng điệu
đầy chia sẻ đó. Hay khi nói về anh chàng Lương nghèo khổ, xấu trai nhưng
tốt bụng cũng vẫn là giọng điệu đó: “Chỉ Lương là già câng già cấc, già cóc
thùng thiếc rồi mà chưa lấy vợ. Hỏi Lương, Lương cười hì hịch : “Tui xấu
muốn chết, ai mà thèm ưng…”. Lương xấu trai thật” (Bến đò xóm Miễu). Rồi
đến cách biểu hiện tình cảm rất mộc mạc của người nông dân : “Mỗi chiều
Xuyến ra bến chơi, anh cũng xách dao dọn cỏ, tỉa cây gần đó, anh nói láp váp
đủ chuyện dưới đất trên trời (như thể mình im lặng là Xuyến sẽ khóc mất).
Anh nhằn gió trên trời, thổi chi cho tội, nhằn ai phơi khô cá thòi lòi không
đặng nắng để bốc mùi thúi ủm. Nhằn cả chuyện độ rày giá gạo cá lên cao quá
chừng…(ủa, chuyện này mắc mớ gì đàn ông lo)” (Duyên phận so le). Với
giọng điệu đó, người kể chuyện kể về gia đình, ông bà, cha mẹ, hàng xóm,
những “nhân vật nhỏ bé”… với tấm lòng chan chứa yêu thương biểu hiện
qua giọng văn tâm tình của người dân quê, mộc mạc mà nghĩa tình.
Viết văn, Nguyễn Ngọc Tư không chỉ khui mở những tâm tình của
người dân quê mình, chị còn đưa người đọc đến với thiên nhiên, cuộc sống
sinh hoạt của Nam Bộ bằng giọng kể dân dã, mộc mạc. Đó là những trang văn
viết về dòng sông như một người bạn tâm tình: “Đêm sông trăng, ngồi trên
nhà có thể nhìn thấy một dòng chảy líu ríu, sáng loáng. Ban đêm, con sông
trước nhà tôi không ngủ, nó thức theo những chiếc tàu rầm rì chảy qua, theo
tiếng mái chèo quẫy chách bụp rất đều. Dài từ ngã ba Vàm đến đây, nước
chảy êm, khuất gió, những chiếc ghe đi đêm hay đậu lại, nghỉ ngơi” (Dòng
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
95
nhớ). Hay những đoạn văn viết về cánh đồng hòa trộn giữa kể và tả: “Bây giờ,
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
gió chướng non xập xòe trên khắp cánh đồng Bất Tận. Ven các bờ ruộng,
bông cỏ mực như những điền viền nhỏ liu riu làm dịu lại mảng rực vàng của
lúa” (Cánh đồng bất tận). Câu văn có chất thơ, đó là khúc nhạc lòng thiên
nhiên Nam Bộ dân dã, tự nhiên nhưng cũng đầy vẻ quyến rũ vút lên từ những
trang văn của cô gái Nam Bộ. Đó còn là những lối đi, là con xóm nhỏ quen
thuộc đối với người dân Nam Bộ: “Lối vô nhà trải đất đỏ, người đi ra đi vô đã
mòn mấy hòn tròn tròn trọc lóc. Lối này đổ ra con đường xóm xáng múc hôn
hang chạy dài tới Vịnh Dừa. Đi chút nữa là tới đám trâm bầu, chỗ con đập vào
xóm Kinh Cụt, bẹ dừa kéo xuồng nằm vảnh cổ, có bẹ đã khô quắt, có bẹ còn
tươi thơm. Xóm kinh ăn sâu vô đồng, từ vườn nhà Huệ dèo xéo về phía tây,
bỏ cánh đồng lúa lơ thơ gốc rạ là một vệt xanh rờn của dừa, của chuối” (Huệ
lấy chồng). Cảnh sắc Nam Bộ tràn vào trong tác phẩm cứ gần gũi, tự nhiên
như chính vùng đất ấy: “Chân trời chỉ nước và cây, mặt trời mọc trên sông rồi
lặn vào sông, bờ bắc bờ nam nhiều bụi rậm mọc hoang lẫn trong những chòm
cây cối. Chiều nay bìm bịp kêu, nắng chìm lỉm theo” (Khói trời lộng lẫy);
“Dọc triền sông, cỏ kết dày, từ trên bờ thò xuống nước như đất đang gục đầu
gội tóc, những cây bần de xa khỏi mé sông, những cây sộp rũ rượi xõa chùm
rễ nâu, những thân cau lẻ đâm thẳng lên trời, vài tiếng gà nhói lên xa
xa…Những chiều phai, nhìn ra sông thấy lục bình trôi, lơ phơ mấy cái bông
lục bình quá thì, cũng phai như chiều. Ngó ra sau nhà thấy một vạt đồng trũng
sâu, ngoi lên mặt nước những bông lúa thưa thớt, xanh xao. Vườn cũ có vài
cây vú sữa, mù u rụng trái đầy mặt đất, mấy bụi tre bụi trúc vút lên trời một
vòm xanh ngắt…” (Thổ Sầu).
Với giọng điệu dân dã, mộc mạc, Nguyễn Ngọc Tư đã trần thuật một
cách dễ dàng với lời văn gần lời nói, ở đó, có sự mộc mạc, dung dị khi nói về
cuộc sống vất vả của người dân Nam Bộ. Sự thiếu thốn về vật chất, sự khắc
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
96
nghiệt của thiên nhiên được trải ra bằng chất giọng đặc sệt giọng quê Nam Bộ
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
“Buổi chiều đi làm mướn về, họ tụt xuống ao tắm táp thứ nước chua lét vì
phèn, rồi xối lại đúng hai gàu. Nước vo cơm dùng để rửa rau, rửa rau xong
dành rửa cá” (Cánh đồng bất tận). Hay nét sinh hoạt đặc trưng của một vùng
sông nước: “Sáng nay, má tôi lại ra đứng tần ngần ở chợ Ba Bảy Chín, một
hồi, biểu con nhỏ chèo đò chèo dài dài chợ nổi. Chợ rao bán rau trái dậy động
cả một khúc sông” (Dòng nhớ). Văn của Nguyễn Ngọc Tư là văn của lời nói.
Câu chữ dùng rất nhiều khẩu ngữ, như được viết ra trong cuộc trò truyện thoải
mái giữa bạn bè, người thân đã tạo nên giọng điệu tâm tình dân dã, tự nhiên:
“Chuyện Thi thế là thôi rồi, mấy thím buổi trưa ngồi quán chú Mười
Ba cong miệng nói với nhau, nghe phong thanh Thi đi lại với con gái trưởng
phòng giáo dục huyện, cô nọ mang thai, chuẩn bị cưới. Đâu nè, thầy Thi đâu
có tệ như vậy. Ừ, nhưng nghe nói thầy Thi bị “gài” như trong Lan và Điệp.
Tội nghiệp” (Huệ lấy chồng).
“Ba mươi giây bắt đầu. Cha nói, b là trúng phóc. Nhỏ con hỏi vặn vẹo,
chắc hôn nghen. Cha hơi tự ái, chắc trăm phần trăm” (Chuồn chuồn đạp
nước).
“Sáo nhớ chồng nó nói câu đó khi đang ngồi ễnh ra, se miết mấy ngón
tay da cổ làm đất rụng xuống lả tả. Gọi là tắm khô, kỳ cọ bằng mồ hôi xong sẽ
tắm ướt bằng hai gàu nước” (Nước như nước mắt).
Đến lối ngắt câu, xuống dòng rất phóng túng cũng tạo ra những dòng
cảm xúc tự nhiên, sinh động:
“Những mùa lam lũ. Những mùa cực nhọc. Một mình chống chọi”
(Cánh đồng bất tận).
“Nó muốn chạy vô xóm, tới nhà Thi, gặp anh và nói cho anh hay rằng
hết thương Thi rồi, nó quên anh, quên thiệt.
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
97
Nhưng nói để làm gì ta?” (Huệ lấy chồng).
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
“Thăm thẳm. Đen nhức. Như một cái biển sâu và tối mà bà ngụp lặn
chỉ với đôi tay” (Gió lẻ).
Và lối vào truyện rất đơn giản, đầy tự tin:
“Người ta gửi tới nhà Tư Lai một lá thơ. Thơ đề “Kính tặng ông Hai
Tương”. Cả nhà bối rối không ít” (Ngọn đèn không tắt)
“Bấc về. Như thể trong đời này chỉ còn gió. Gió lạnh căm căm mà khô
nẻ môi người ta. Da tôi mốc cời. Tàu chạy lừ lừ dọc theo những sông, những
quãng không có nhà sậy mọc thành. Những bông sậy chín mềm, trắng phau
phau. Đã nhiều bông lìa cành, trùng trình bay. Nước mặn rin rít da. Nghe gió
này là mùa cưới đến” (Lý con sáo sang sông).
Cái tài của Nguyễn Ngọc Tư là đem những cảnh tượng rất bình thường,
khoanh lại, biến nó thành châu báu “Cãi qua cãi lại, hai má con ngã ngửa ra,
ủa, hơi đâu mà nói chuyện của người ta” (Nhà cổ)
Viết về cuộc sống sinh hoạt đời thường gần gũi của người Nam Bộ,
Nguyễn Ngọc Tư đã chọn cho mình một giọng điệu dân dã, mộc mạc cứ tự
nhiên chảy ra từ vốn sống của nhà văn gắn bó với mảnh đất Nam Bộ cùng với
niềm cảm thông chia sẻ. Giọng mộc mạc, dân dã ấy xuất phát từ cảm hứng
của nhà văn về cuộc sống và số phận của những người nông dân nhếch nhác
bùn đất và những người nghệ sĩ nghèo khổ, bất hạnh nhưng giàu lòng yêu
nghề. Giọng điệu ấy được chưng cất bằng mật độ đậm đặc của ngôn ngữ Nam
Bộ và sự ùa vào của khẩu ngữ. Điều này góp phần tạo bối cảnh cho truyện
đậm đặc chất Nam Bộ từ cảnh sắc thiên nhiên tới cuộc sống sinh hoạt và tạo
cho nhà văn một phong cách trần thuật độc đáo.
Giọng điệu mộc mạc, dân dã pha trộn cùng với giọng trữ tình – lo âu
đầy khắc khoải tạo nên giọng điệu riêng cho truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư:
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
98
vừa đằm thắm da diết rất nữ tính, vừa chân tình mộc mạc rất Nam Bộ.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
* Tiểu kết chương 3
Tìm hiểu về ngôn ngữ và giọng điệu trong các truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tư chúng tôi nhận thấy có nhiều nét riêng, độc đáo. Là một nhà văn trẻ
của vùng đất Nam Bộ, chị đã “thiết lập riêng cho mình một hệ thống ngôn
ngữ đặc chất Nam Bộ nhưng không dị mọ ăn theo mà tung tẩy, thăng hoa
trong từng ngữ cảnh cụ thể” [17, 1]. Chính nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã
khẳng định: “Làm văn chương mà có cá tính không phải dễ tìm. Chất Nam Bộ
trong văn cổ đậm đặc, từ hình dáng thân thể con người, cách sống, tính cách
cho tới ngôn từ. Thoại trong văn Tư không hề bị lai, rặt Nam Bộ mà người
đọc vẫn hiểu và cảm thấu trọn vẹn”. Vì thế, trước những bậc đàn anh như:
Nguyễn Quang Sáng, Sơn Nam, Ý Anh, Diệp Mai,…Nguyễn Ngọc Tư đã tạo
cho mình được chỗ đứng vững chắc. Dường như mảnh đất đầy nắng gió Nam
Bộ đã hun đúc cho chị một cách nhìn giản dị mà sâu sắc. Nỗi đau của từng
cảnh ngộ luôn được chị cảm thông, chia sẻ với giọng điệu vừa da diết vừa
khắc khoải. Con người trẻ tuổi ấy vẫn mải miết đi trên con đường văn chương
của mình, góp nhặt những nỗi buồn, những khổ đau trong cuộc đời này bởi:
“Tôi nghĩ nếu nói tới sự hạnh phúc, sự vui vẻ, không ai thấy bối rối, người ta
sẽ hiểu và cảm nhận ngay những điều đó. Đơn giản như ta ngoác miệng ra
cười ha ha ha. Chỉ có nỗi buồn, nỗi đau người ta mới cần văn chương chạm
tới. Có thể, khi đọc, ai đó sẽ nói: Ờ, đúng là tôi đã từng thấy buồn giống như
vậy…”. Điều mà chị muốn hướng tới và kiếm tìm chính là tiếng nói tri âm từ
phía người nghe. Đó cũng là khao khát muôn đời của những nghệ sĩ chân
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
99
chính.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
KẾT LUẬN
Nếu “Nhà văn là người thư kí trung thành của thời đại” thì Nguyễn
Ngọc Tư xứng đáng là “một thứ kí” giỏi. Chị đã sống, đã cảm nhận và viết về
những con người, những cảnh đời xung quanh mình một cách sâu sắc và chân
thật nhất. Mỗi trang viết của chị là một bức tranh sống động về cuộc sống
vùng Nam Bộ với thiên nhiên sông nước khắc nghiệt mà rất trữ tình; với con
người Nam Bộ bộc trực, dễ mến, giàu lòng yêu thương nhưng gặp nhiều bất
hạnh trong cuộc đời. Bằng tài năng và bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ, Nguyễn
Ngọc Tư không chỉ đưa người đọc đến với mảnh đất Nam Bộ, chị còn làm
“dày thêm” cho văn chương vùng đất này.
Nghiên cứu truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư dưới góc độ trần thuật ở
các phương diện: người kể chuyện, cốt truyện, kết cấu, ngôn ngữ và giọng
điệu chúng tôi nhận thấy chị đã khẳng định được nét riêng của mình bằng cái
tài và cái tâm của người cầm bút.
Là nhân tố trung tâm của nghệ thuật trần thuật, dù lộ diện trực tiếp ở
ngôi thứ nhất, tự kể về mình hoặc kể chuyện người khác, hay hàm ẩn qua hình
thức trần thuật từ ngôi thứ ba, bao giờ người kể chuyện trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư cũng tìm thấy sự cộng hưởng cảm xúc tự nhiên, chân thành
ở người nghe. Với điểm nhìn bên trong, người kể chuyện đã thâm nhập rất
sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật đồng thời tạo nên một phương thức
quan sát rất đặc biệt: vừa hiện thực lại vừa lãng mạn, giàu chất thơ. Những
tâm tình, cảm xúc được bộc lộ một cách tự nhiên qua cách kể, cách quan sát
của người trần thuật tinh tế, đa cảm, đầy thắc thỏm, âu lo trước tình đời, tình
người.
Trong nghệ thuật tổ chức cốt truyện, tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
100
vừa mang những đặc điểm của cốt truyện truyền thống đồng thời cũng mang
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
nét riêng rất độc đáo. Đặc biệt kiểu cốt truyện tâm lý – truyện mà lại không có
chuyện tạo nên nét phong cách riêng cho nhà văn. Không có nhiều sự kiện,
xung đột giật gân, Nguyễn Ngọc Tư chinh phục người đọc bằng những chi
tiết và kết thúc mở đầy day dứt, ám ảnh. Cách tổ chức cốt truyện này phù hợp
với xu hướng chung của văn học hiện đại. Ở đó cốt truyện đã được giải phóng
ra khỏi chức năng kể việc thuần túy, sự lên ngôi của tâm lý, ý thức con người
đã lấn át dòng chảy của sự kiện biến cố. Đồng thời, Nguyễn Ngọc Tư còn tạo
được dấu ấn riêng qua cách tổ chức kết cấu tác phẩm. Đó là kiểu kết cấu mở,
mạch truyện kết cấu theo sự phát triển tâm lý chứ không tuân theo trật tự thời
gian. Đồng thời, với việc sử dụng yếu tố nằm ngoài tác phẩm là lời đề từ đã
tạo ra hiệu quả nghệ thuật cao trong việc chuyển tải chủ đề tư tưởng của
truyện và thông điệp của nhà văn tới bạn đọc.
Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư mang nét
phong cách riêng của nhà văn và diễn tả được cái hồn cốt của người Nam Bộ.
Đó là thứ ngôn ngữ tràn ngập những khẩu ngữ, những lời đối thoại tâm tình
của con người Nam Bộ kết hợp với giọng điệu dân dã, mộc mạc như tươm ra
từ chính cuộc sống đầy lam lũ. Đó là những lời nửa trực tiếp vừa như chia sẻ,
vừa như giãi bày, bộc bạch những điều sâu kín nhất trong cõi lòng mỗi con
người. Nhờ vậy, truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư vừa trữ tình, da diết; vừa lo
âu, thắc thỏm về những điều bất trắc, đau khổ trong cuộc đời.
Trong khuôn khổ của một luận văn, chúng tôi mới chỉ giới hạn tìm hiểu
nghệ thuật trần thuật trong các truyện ngắn đã công bố của Nguyễn Ngọc Tư.
Đó là những tập truyện đánh dấu một đoạn đường sáng tác của nhà văn trẻ
đang ở giai đoạn sung sức. Con đường văn chương của chị sẽ còn rộng mở.
Những nhận xét và đánh giá của chúng tôi về nghệ thuật trần thuật trong
truyện ngắn của chị mới là những “khám phá” ban đầu nên chắc không tránh
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
101
khỏi hạn chế, thiếu sót. Để có một cái nhìn toàn diện, bao quát hơn về một
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
phong cách nghệ thuật độc đáo, sẽ còn một chặng dài phía trước cho cả người
sáng tác và nghiên cứu.
Ở lời tựa tập truyện Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, chị đã tự nhận:
“Văn chương của mình (và cả bản thân mình) sao giống trái sầu riêng quá
trời”. Và hiện nay chị vẫn không ngừng đem loại trái quý ấy đến với bạn đọc
cho dù lời khen, tiếng chê vẫn không ngứt. Chúng ta hi vọng những thành
công tiếp theo của chị không chỉ ở lĩnh vực truyện ngắn và tạp văn như hiện
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
102
nay.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tâm An, Nguyễn Ngọc Tư của những cơn gió lẻ, 2008,
http://tuanvietnam.net.
2. Tạ Duy Anh (biên soạn), Nghệ thuật viết truyện ngắn và ký, NXB Thanh niên.
3. Kim Anh, Hỏi chuyện nhà văn Dạ Ngân: Nguyễn Ngọc Tư-Điềm đạm mà
thấu đáo, VNT số 15 ra ngày 11/4/2004.
4. Lí Nguyên Anh, Nạn đạo văn chương – văn hóa hay đạo đức, Văn nghệ
trẻ, 2006.
5. Thái Phan Vàng Anh, Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn đương đại,
Tạp chí Sông Hương số 237.
6. Lại Nguyên Ân, Văn học và phê bình, NXB Tác phẩm mới, H.1994.
7. Lại Nguyên Ân, 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội,
2004.
8. Phan Quý Bích, Sức lôi cuốn của ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư, VNT số 46 ra
ngày 12/11/2006.
9. Trần Phỏng Diều, Thị hiếu thẩm mĩ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư,
http:// www.Evan.com.vn ngày 14/06/2006.
10. Đoàn Ánh Dương, CĐBT, nhìn từ mô hình tự sự và ngôn ngữ trần thuật,
http://tieuluan-hopto-org, tháng 8/2006.
11. Trần Hữu Dũng, Nguyễn Ngọc Tư- đặc sản miền Nam. Báo diễn đàn tháng
2/2005.
12. Phan Cự Đệ, Tuyển tập (tập 3), NXB Giáo dục, 2006.
13. Lê Bá Hán, Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, 1992.
14. Nguyễn Thái Hòa, Những vấn đề thi pháp của truyện, NXB Giáo dục, H.
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
103
2001.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
15. Lương Thúy Hà, Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc
Tư, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học KHXH&NV Hà Nội, 2009.
16. Vũ Thị Thu Hà, Khám phá thế giới nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học KHXH&NV Hà Nội, 2006.
17. Văn Công Hùng, Bất tận với Nguyễn Ngọc Tư, VNT số 25, ra ngày
24/6/2007.
18. Manfret Jahn, Trần thuật học: Nhập môn lí thuyết trần thuật. Nguyễn Thị
Như Trang dịch – SV K46 Văn chất lượng cao, trường Đại học KHXH &NV.
19. Phương Lựu, Lý luận văn học, NXB Giáo dục, 2002.
20. Hoàng Thiên Nga, Đọc Nguyễn Ngọc Tư qua “Cánh đồng bất tận”, Báo
Văn nghệ ngày 13/08/2005.
21. Dạ Ngân, May mà có Nguyễn Ngọc Tư, Báo Tuổi trẻ cuối tuần ngày
16/04/2006.
22. Đỗ Hồng Ngọc, Tiếng thở dài của “Cánh đồng bất tận”, http:// www.
Tuổi trẻ online.com.vn, ngày 30/11/2005.
23. Phạm Xuân Nguyên, “Cánh đồng bất tận” dữ dội và nhân tình,
http://vietbao.vn, ngày 03/12/2005.
24. Báo Nhân Dân: “Nguyễn Ngọc Tư sợ nhất sự vô cảm” của Trần Hoàng
Thiên Kim. Số ra ngày 3/2/2006.
25. Phạm Phú Phong, Lời đề từ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, Tạp chí
Nghiên cứu văn học số 6-2008.
26. Phạm Thị Thanh Phượng, Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Thạch Lam,
Luận văn thạc sĩ, Đại học KHXH&NV Hà Nội, 2008.
27. Bùi Việt Thắng, Truyện ngắn, những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể
loại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007.
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
104
28. Bùi Việt Thắng, Bình luận truyện ngắn, NXB Văn học, Hà Nội, 1999.
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
29. Vũ Thị Thêm, Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Lê Minh Khuê
sau đổi mới, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học KHXH&NV Hà Nội, 2009.
30. Minh Thi, Nguyễn Ngọc Tư và những bộ mặt tâm trạng, 2004,
http://laodong.com.
31. Huỳnh Công Tín, Nguyễn Ngọc Tư-nhà văn trẻ Nam Bộ, 2006,
http://vanngheongcuulong.org.
32. Kiệt Tuấn, Cái rầu bất tận của Nguyễn Ngọc Tư. 2007,
http://www.viet.studies.info.
33. Nguyễn Ngọc Tư, Ngọn đèn không tắt, Tập truyện ngắn, NXB Trẻ, 2000.
34. Nguyễn Ngọc Tư, Ông ngoại, Tập truyện, NXB Kim Đồng, 2001.
35. Nguyễn Ngọc Tư, Biển người mênh mông, Tập truyện, NXB Trẻ, 2003.
36. Nguyễn Ngọc Tư, Giao thừa, Tập truyện, NXB Trẻ, 2003.
37. Nguyễn Ngọc Tư, Nước chảy mây trôi, Tập truyện và kí, NXB Văn nghệ
TPHCM, 2004.
38. Nguyễn Ngọc Tư, Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, Tập truyện, NXB Văn
hóa Sài Gòn, 2005.
39. Nguyễn Ngọc Tư, Cánh đồng bất tận, Tập truyện, NXB Trẻ, 2005.
40. Nguyễn Ngọc Tư, Gió lẻ và 9 câu chuyện khác, Tập truyện, NXB Trẻ,
2008.
41. Nguyễn Ngọc Tư, Khói trời lộng lẫy, Tập truyện, NXB Thời đại, 1010.
42. Trần Đình Sử, Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, 1998.
43. Trần Đình Sử, Tự sự học- một số vấn đề lí luận và lịch sử, NXB Đại học
sư phạm, 2004.
44. Trần Đình Sử, Tự sự học- một số vấn đề lí luận và lịch sử, Phần 2, NXB
Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
105
Đại học sư phạm, 2008.