ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------
NGUYỄN THỊ YẾN
NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN
VÀ TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN HỒNG TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Hà Văn Đức
1
Hà Nội - 2013
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
I. LÝ DO VÀ MỤC ĐÍCH LỰA CHỌN ĐỀ TÀI ..................................... 1
II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ ...................................................... 2
III. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN .................................................. 8
IV. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ...................................... 9
V. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................................................... 9
VI. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN ........................................................... 9
CHƢƠNG 1. NGƢỜI KỂ CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT
TRONG TRUYỆN VÀ TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN HỒNG
TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ................................................ 10
1. NGƢỜI KỂ CHUYỆN ......................................................................... 10
2. ĐiÓm nh×n trÇn thuËt vµ ng êi trÇn thuËt .................. 10
2.1. Phạm trù điểm nhìn trần thuật ............................................................ 10
2.2. Ng êi trÇn thuËt ................................................................................. 12
2.2.1 Ngƣời trần thuật hàm ẩn .................................................................. 12
2.2.2 Ngƣời trần thuật tƣờng minh ........................................................... 13
3. Ng êi trÇn thuËt trong v¨n xu«i Nguyªn Hång ..................................... 14
3.1. Ng êi kÓ chuyÖn hµm Èn ................................................................... 14
3.2 Ng êi kÓ chuyÖn t êng minh ............................................................. 22
CHƢƠNG 2. NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC KẾT CẤU VÀ CỐT
TRUYỆN TRONG TRUYỆN VÀ TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN
HỒNG TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ................................... 27
1. NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC KẾT CẤU ................................................ 27
1.1. KÕt cÊu ®¬n tuyÕn: ............................................................................. 28
1.2. KÕt cÊu theo m¹ch ph¸t triÓn t©m lÝ ................................................... 33
1.3. KÕt cÊu ®¶o lén trËt tù trÇn thuËt ........................................................ 35
3
1.4. KÕt cÊu l¾p ghÐp: ............................................................................... 37
2.NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC Cèt truyÖn ......................................... 41
2.1.Cốt truyện: ......................................................................................... 41
2.2 Cèt truyÖn trong s¸ng t¸c cña Nguyªn Hång ....................................... 43
2.2.1 Cốt truyện đơn giản ........................................................................ 43
2.2.2. Cốt truyện đan xen nhiều mạch truyện ........................................... 56
CHƢƠNG 3. NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU TRONG TRUYỆN VÀ
TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN HỒNG TRƢỚC CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM ......................................................................................... 61
1. Ngôn ngữ trần thuật . ............................................................................ 62
1.1. Ngôn ngữ đời sống giàu giá trị biểu cảm ........................................... 62
1.2. Ngôn ngữ trần thuật giàu cảm xúc. .................................................... 64
1.3. Ng«n ng÷ b×nh dÞ, sö dông c¸c thµnh ng÷, tôc ng÷, ca dao ................. 69
1.4. Ng«n ng÷ ®Æc biÖt ............................................................................. 74
1.5. Tõ ng÷ t«n gi¸o ................................................................................. 77
2. Giọng điệu trần thuật cña Nguyªn Hång ............................................... 81
2.1 Giäng ®iÖu c¶m th ¬ng thèng thiÕt ..................................................... 83
2.2 CÊu tróc tÇng tÇng líp líp theo m¹ch c¶m xóc cña lêi v¨n nghÖ thuËt .... 90
2.3. C¸c ®o¹n v¨n tr÷ t×nh ngo¹i ®Ò ........................................................... 91
KẾT LUẬN ............................................................................................. 98
4
Danh môc vµ tµi liÖu tham kh¶o. ..................................... 101
MỞ ĐẦU
I. LÝ DO VÀ MỤC ĐÍCH LỰA CHỌN ĐỀ TÀI
Trong tiến trình phát triển lịch sử văn học Việt Nam, một trong
những trào lƣu văn học đã làm thay đổi diện mạo của nền văn học dân tộc,
đó là dòng văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945. Những tác giả đã có
công lớn trong việc đổi mới này là: Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ
Trọng Phụng, Nam Cao... Nguyên Hồng là một trong những nhà văn tiêu
biểu, xuất sắc nhất đã đóng góp một thành tựu lớn trong sự phát triển này.
Tác phẩm của Nguyên Hồng phản ánh sâu sắc cuộc sống cùng khổ của con
ngƣời – tầng lớp đáy xã hội thành thị. Ông bƣớc vào nghề văn là để nói lên
nỗi thống khổ khôn cùng của con ngƣời, mà trƣớc hết là những ngƣời lao
động, những dân nghèo thành thị khi ông đƣợc chứng kiến và trải nghiệm
để từ đó lên tiếng bảo vệ và bênh vực họ. Hiện thực cuộc sống và số phận
những con ngƣời cùng khổ đã trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo trong các
sáng tác của ông, góp phần hình thành phong cách nghệ thuật độc đáo của
nhà văn. Điều này đã đƣợc minh chứng qua các trang viết ngập tràn tâm
huyết, cuốn hút niềm mê say và phong phú qua các thể tài đầy sáng tạo.
Với Nguyên Hồng sáng tác văn chƣơng là niềm đam mê lớn nhất của
cuộc đời. Viết về cuộc đời của chính mình, cho tầng lớp mình đó là mục
đích trong sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Ông đã hoà nhập vào cuộc
sống của những con ngƣời cùng khổ, vào những cảnh đời cực nhục để phân
tích, lý giải, thẩm bình và hơn nữa để bênh vực, bảo vệ xót thƣơng. Tác
phẩm của ông bao giờ cũng toát lên giá trị nhân văn sâu sắc.
Có lẽ cũng vì những lý do này, sáng tác của Nguyên Hồng luôn tạo
đƣợc ấn tƣợng trong lòng ngƣời đọc, luôn đánh thức tính bản thiện, tình
ngƣời trong mỗi con ngƣời. Với ông “...viết còn để tìm cho mình một đời
sống lâu dài trong tâm hồn mọi người và được yêu thương lại một cách
1
nồng nàn với những mối tình thắm thiết mênh mông”[16, 34].
Sự khẳng định tên tuổi, tài năng của Nguyên Hồng chính là lĩnh vực
văn xuôi trƣớc Cách mạng. Trong cuộc đời viết văn của mình, Nguyên
Hồng tập trung nhiều nhất cho tiểu thuyết. Từ tác phẩm đầu tay Bỉ Vỏ đến
Cửa biển, một tác phẩm mà ông dành nhiều tâm huyết và tác phẩm cuối
đời Núi rừng Yên Thế đều là những sáng tác để lại ấn tƣợng sâu đậm
trong lòng độc giả. Nhƣng có lẽ điều giúp mọi ngƣời đánh giá, nhìn nhận
về con ngƣời ông một cách chân xác lại là thiên tự truyện Những ngày thơ
ấu và để khẳng định cho tài năng, vị trí của Nguyên Hồng trên văn đàn là
các truyện ngắn đặc sắc. Những tác phẩm này đã đƣa tên tuổi của Nguyên
Hồng lên đỉnh cao của văn học hiện đại Việt Nam.
Việc nghiên cứu về Nguyên Hồng đã đƣợc rất nhiều các nhà khoa
học, các độc giả yêu quý văn chƣơng của ông quan tâm. Các bài phê bình,
tiểu luận, tham luận, luận văn...về thân thế, sự nghiệp, phong cách; về thể
loại, nhân vật, đặc điểm nghệ thuật...mà nhà văn lựa chọn đã đƣợc nhiều
ngƣời nghiên cứu, đề cập đến. Những thành tựu của ông đã đƣợc đánh giá
một cách đầy đủ, trọn vẹn, ngƣời viết với mong muốn khẳng định thêm
một khía cạnh quan trọng trong sự sáng tạo của Nguyên Hồng. Việc lựa
chọn đề tài: “Nghệ thuật trần thuật trong truyện và tiểu thuyết của
Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng tháng Tám”, chúng tôi muốn đƣa ra
một cách nhìn nhận, đánh giá về việc sáng tạo nghệ thuật của nhà văn dƣới
góc độ tìm hiểu nghệ thuật trần thuật, nhằm góp thêm một ý kiến khẳng
định tài năng nghệ thuật của Nguyên Hồng trên nhiều lĩnh vực. Hiện tại, tác
phẩm của Nguyên Hồng đang đƣợc giảng dạy trong chƣơng trình của các
nhà trƣờng; với mong muốn kết quả việc nghiên cứu của cá nhân sẽ góp
phần mở rộng sự quan tâm, tìm hiểu cho bạn đọc và là tài liệu tham khảo,
học tập trong các nhà trƣờng về các sáng tác của Nguyên Hồng.
II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Sơ lƣợc một số nghiên cứu về sáng tác văn xuôi của Nguyên
2
Hồng trƣớc cách mạng tháng Tám.
Tác phẩm đầu tay là truyện ngắn Linh hồn in trên Tiểu thuyết thứ
bảy năm 1936, tiểu thuyết Bỉ vỏ gây ấn tƣợng mạnh. Nhà văn Nhà phê bình
Vũ Ngọc Phan, trong cuốn Nhà văn hiện đại (1942) đã nhận xét: “Tập văn
của ông là tập Bỉ vỏ...Nhưng cái tư tưởng thâm trầm nó bao quát cả cuốn
tiểu thuyết Nguyên Hồng là cái tư tưởng: Tuy đã sa chân vào chốn truỵ lạc,
người ta vẫn có thể mang một tâm hồn trong sạch được”. “ Bỉ vỏ của
Nguyên Hồng là một cuốn tiểu thuyết chứa chan nhân đạo, nó làm cho ta
thương xót đến cả những kẻ đầy tội lỗi, nhưng Bỉ vỏ lại xây một khuôn luân
lý rất cao, nên dù ta thương xót họ mà ta vẫn không thể nào không ghê tởm
về hành vi của họ” [31, 25]. Đó là về những phƣơng diện tâm lý và luân lý.
Ông viết xong Bỉ vỏ nhƣ trút đƣợc gánh nặng của đôi vai, ông tâm
sự qua lời tựa trong Bỉ vỏ: “Bỉ vỏ đã viết xong trên một cái bàn kê bên
khung cửa trông ra vũng nước đen ngầu bọt của một bãi đất lấp dở dang
và chuồng lợn ngập ngụa phân tro; Bỉ vỏ đã viết xong trong một căn nhà
cứ đến chập tối là ran lên tiếng muỗi và tiếng trẻ khóc; Bỉ vỏ đã viết xong
trong một đêm lạnh lẽo, âm thầm mà mọi vật như đều rung lên cùng với
lòng thương yêu của một đứa trẻ ham sống dạt dào trong những bụi mưa
thấm thía” [18, 3].
Bỉ vỏ ra đời và đạt giải thƣởng của Tự lực văn đoàn năm 1937.
Cùng thời điểm Những ngày thơ ấu trở thành tác phẩm gây đƣợc sự
chú ý. Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đã đánh giá rất cao tác phẩm này “Mới
đọc tập tự truyện của Nguyên Hồng, tôi đã tưởng có dưới mắt một quyển
sách của một nhà văn Anh hay một nhà văn Nga. Không những thế, càng
đọc những trang sau, ta càng thấy Nguyên Hồng kể cho ta nghe hết cả
những cái cay đắng, những cái truỵ lạc của mình và những người thân
mình” [31, 35]. Cuốn tự truyện là những trang viết thấm đẫm nƣớc mắt về
chính cuộc đời nhà văn. Đó là một “cái tôi chân thật” (Vũ Ngọc Phan). .
Thạch Lam đã từng nhận xét“Những rung động cực điểm của một linh
3
hồn trẻ dại lạc loài trong những lề lối khắc nghiệt của một gia đình sắp
tàn” [22, 15]. và “Phải sống trong cảnh nghèo, phải luôn luôn gần gũi với
xã hội người nghèo mới có thể viết được những dòng thành thật và cảm
động như vậy” [31. 19] (Vũ Ngọc Phan). Năm 1941, tập truyện ngắn Bảy
Hựu tiếp tục ra mắt bạn đọc. Đây là tác phẩm xây dựng đƣợc những nhân
vật mang dáng vẻ phi thƣờng của ngƣời anh hùng. Đánh giá về Bảy Hựu
nhà phê bình Vũ Ngọc Phan nhận xét: “ Chỉ khi nào lòng yêu nhân loại lên
đến cực điểm, là người ta mới thiết tha đến những người bị xã hội ruồng
bỏ”. Tác phẩm Đây bóng tối thể hiện cái nhìn xót thƣơng giữa những con
ngƣời nghèo khổ bất hạnh nhƣng có tấm lòng độ lƣơng, nhân ái. Trong Nhà
sƣ nữ chùa âm hồn, Nguyên Hồng lại xây dựng nội dung truyện nhƣ một
truyện trinh thám với trí tƣởng tƣợng vô cùng phong phú, thể hiện mối tình
thống thiết của đôi vợ chồng hủi. Bên cạnh đó là những cuộc đời cơ cực, lầm
than trong cảnh khốn cùng nhƣ trong tác phẩm Sông máu, Linh hồn, Quán
nải, Hàng cơm đêm... của những nhân vật nhƣ Mũn, Nhân, chị Năng, Hai
mƣơi hai...những con ngƣời cơ cực nhƣng có tấm lòng thuỷ chung son sắt.
Tấm lòng nhân hậu của họ đều đạt tới mức “kỳ lạ”, “phi thường” hiếm có
trong cuộc đời thực.
Qua việc tìm hiểu, khảo sát tình hình nghiên cứu Nguyên Hồng trƣớc
Cách mạng tháng Tám năm 1945, chúng tôi nhận thấy các nhà nghiên cứu
phê bình đều đánh giá cao và khẳng định tài năng nghệ thuật của Nguyên
Hồng, ông là nhà văn của hiện thực, của tinh thần nhân đạo cao cả với những
nhận xét của Vũ Ngọc Phan về các tác phẩm truyện và tiểu thuyết của
Nguyên Hồng trƣớc cách mạng rất tinh tế“ở tập văn nào của Nguyên Hồng
tư tưởng nhân từ, bác ái của tác giả bao giờ cũng tràn lan” [31, 27]. Các bài
nghiên cứu, phê bình thƣờng tập trung nhiều vào mặt nội dung tƣ tƣởng, thế
giới nhân vật, đặc điểm nghệ thuật của các sáng tác văn xuôi trƣớc cách
mạng tháng Tám của ông (nghĩa là chú ý đến vấn đề nhân sinh quan) mà ít
đề cập đến vấn đề thế giới quan của nhà văn, điểm nhìn trần thuật của một
4
tài năng vẫn chƣa đƣợc nghiên cứu chuyên sâu trong giai đoạn này.
Tình hình nghiên cứu Nguyên Hồng từ sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945 đến nay.
Công cuộc Cách mạng tháng Tám mở ra một kỉ nguyên mới và
những nhận thức mới về chính trị đã nâng cao chất lƣợng nhiều truyện
ngắn của Nguyên Hồng. Đây cũng là thời điểm Nguyên Hồng cho ra đời
nhiều tác phẩm với quy mô đồ sộ, dung lƣợng lớn. Từ cái nhìn nhân đạo
đối với lớp ngƣời thị dân cùng khổ nói chung Nguyên Hồng đã dần chuyển
sang một cái nhìn ít nhiều mang tính giai cấp bằng một bút pháp rất gần với
bút pháp của các nhà văn hiện thực chủ nghĩa. Các nhà nghiên cứu phê
bình đã nhận thấy trong đó nhiều cái mới tiến bộ và càng đƣợc củng cố
mạnh mẽ hơn khi nhà văn tiếp nhận lý tƣởng Cách mạng của giai cấp vô
sản. Phan Cự Đệ đã đƣa ra ý kiến xác đáng, những nhận định khái quát
nhất về sự nghiệp sáng tác của Nguyên Hồng trong bài viết “ Những bƣớc
tiến mới về tiểu thuyết Nguyên Hồng sau Cách mạng tháng Tám”
“Lò lửa và Địa ngục là một cái mốc trên con đường sáng tạo của
Nguyên Hồng. Tuy về căn bản nó vẫn là những tác phẩm hiện thực phê
phán nhưng cái ánh sáng chiếu rọi vào thì lại là của một thế giới quan đã
bắt đầu đổi mới”.
“Bỉ vỏ và Sóng gầm là hai mốc về tiểu thuyết của Nguyên Hồng. Hai
tác phẩm cách nhau một phần tư thế kỷ và cũng là hai thời kì khác nhau
trên con đường nghệ thuật của Nguyên Hồng. Bỉ vỏ là những tình cảm yêu
thương dào dạt, là khát vọng ngây thơ, trong trắng hồn nhiên của buổi ban
đầu. Sóng gầm, Cơn bão đã đến...ra đời lúc cây bút Nguyên Hồng đã
trưởng thành, luôn luôn day dứt suy nghĩ về những vấn đề nghệ thuật và
đời sống”[7, 17].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh tiếp tục viết về “yếu tố trữ
tình”; “tình cảm lạc quan say sưa bồng bột” và trên hết vẫn là “tinh thần
5
nhân đạo chủ nghĩa thiết tha” (1973).
Chu Nga thì nhận thấy Nguyên Hồng đã đem đến tiếng nói mới,
tiếng nói riêng biệt góp phần vào dòng văn học hiện thực phê phán. Về căn
bản ông nhận thấy đó là tiếng nói yêu thƣơng, nhân đạo “sôi nổi lạc quan,
tràn đầy một niềm tin ở một ngày mai tươi sáng” vì nhìn thấy đƣợc những
phẩm chất đẹp đẽ ở những con ngƣời nghèo khổ hôm nay (1977).
Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, việc nghiên cứu về Nguyên
Hồng đã có nhiều đổi mới. Các tác phẩm của ông đã đƣợc các nhà phê
bình, giới nghiên cứu, các bạn đọc quan tâm đƣa ra những nhận định, ý
kiến đánh giá khách quan.
Nếu nhƣ trong thời kì đầu cầm bút, Nguyên Hồng hay viết về những
ngƣời dân nghèo lƣu manh hoá thì đến những năm 40 tƣ tƣởng nghệ thuật
của ông đã có sự biến chuyển, ánh sáng cách mạng và giai cấp đã soi sáng
cho những nhân vật lao động nghèo của Nguyên Hồng. Phan Diễm
Phƣơng trong bài viết Cảm hứng cần lao trong sáng tác của Nguyên
Hồng đã đƣa ra nhận định: “Từ đầu những năm bốn mươi, Nguyên Hồng
đã viết một số truyện ngắn, truyện dài có sắc thái hơi khác với những
truyện ngắn trước đó của ông: Cái bào thai, Hai dòng sữa, Một trƣa
nắng, Hơi thở tàn...Có thể xem đây là những cuộc tranh luận công khai về
nghệ thuật, cũng là sự bộc lộ công khai quan điểm nghệ thuật của tác giả,
bằng hình tượng nghệ thuật bằng những lời tuyên bố thẳng thắn, dứt
khoát”. GS. Phan Cự Đệ là một trong những ngƣời dành nhiều tâm huyết
trong việc nghiên cứu và đƣa tác phẩm của Nguyên Hồng đến với ngƣời
đọc. Trong lời giới thiệu cho cuốn Nguyên Hồng toàn tập (2000) ông đã
đƣa ra nhiều ý kiến đánh giá về truyện ngắn Nguyên Hồng trên các phƣơng
diện nhân vật, kết cấu, bút pháp nghệ thuật và khẳng định vị trí truyện ngắn
của Nguyên Hồng: “ Chúng ta có thể nói đến Nguyên Hồng như một phong
cách truyện ngắn trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. Sưu tầm và tuyển chọn
6
những tác phẩm trước và sau Cách mạng tháng Tám, chúng ta sẽ có một
tập truyện ngắn giá trị với nhiều màu sắc độc đáo” [8, 21]. Các nhà nghiên
cứu đã đi sâu khai thác nội dung cũng nhƣ hình thức nghệ thuật mà nhà văn
xây dựng, thấy rõ đƣợc vai trò của Nguyên Hồng trong văn học giai đoạn
sau Cách mạng.
Từ khi nhà văn qua đời đến nay
Nguyên Hồng mất khi sự nghiệp văn chƣơng của ông còn đang dang
dở, khát vọng lớn về bộ tiểu thuyết lịch sử mới hoàn thành một phần tâm
nguyện. Sự ra đi của Nguyên Hồng vào ngày 02-5-1982 đã để lại niềm
thƣơng tiếc cho ngƣời thân, bạn bè, đồng nghiệp, các độc giả yêu mến văn
chƣơng của ông. Nhƣng đúng nhƣ lời nhận xét của nhà thơ Xuân Diệu
“Nguyên Hồng mất đi nhưng cái văn của anh ấy vẫn còn rên rỉ”. Điều này
khẳng định sức sống bền bỉ của văn chƣơng Nguyên Hồng trong lòng bạn
đọc. Thời gian là sự minh chứng cho Nguyên Hồng, kể từ khi nhà văn qua
đời sự nghiệp văn chƣơng và cuộc đời con ngƣời nhà văn vẫn không ngừng
đƣợc tìm tòi, nghiên cứu. Hàng năm đã có thêm nhiều công trình khoa học,
các bài nghiên cứu phê bình vẫn khai thác ở nhiều góc độ. Tiêu biểu trong
cuốn sách Phong cách nghệ thuật Nguyên Hồng, với cách tiếp cận từ góc
độ văn học sử, tác giả Bạch Văn Hợp đã trình bày một cách hệ thống
những nét độc đáo tiêu biểu, có ý nghĩa thẩm mỹ cao và những biến chuyển
nhất quán của phong cách nghệ thuật Nguyên Hồng, từ đó góp phần khẳng
định những cống hiến và vị trí của nhà văn trong lịch sử phát triển văn học
Việt Nam hiện đại. Trong đó truyện ngắn của Nguyên Hồng là đối tƣợng
chính đƣợc tác giả tập trung khảo sát.
Nhà nghiên cứu Lê Hồng My với luận án “Lời văn nghệ thuật
Nguyên Hồng” đã nghiên cứu, chọn cách tiếp cận sáng tác của nhà văn từ
góc độ tìm hiểu ngôn từ - lời văn nghệ thuật để “khám phá các phương thức
tổ chức, đặc điểm và đặc sắc của lời văn; khám phá mối quan hệ giữa tư
tưởng nghệ thuật và lời văn nghệ thuật; xác định vai trò của lời văn nghệ
7
thuật đối với thế giới nghệ thuật và phong cách nghệ thuật Nguyên Hồng...”.
Trong luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Nguyễn Thu Hà (2004)
nghiên cứu “Tìm hiểu những đặc điểm nghệ thuật trong truyện ngắn và
tiểu thuyết của Nguyên Hồng trước Cách mạng” đã làm nổi bật những
đặc điểm về nghệ thuật qua các sáng tác truyện ngắn và tiểu thuyết của
Nguyên Hồng.
Năm 2011, Trần Thị Thanh Yến với đề tài “ Thế giới nhân vật
trong truyện ngắn Nguyên Hồng trƣớc cách mạng tháng Tám 1945” đã
đi sâu khai thác thế giới nhân vật ở nhiều góc độ và chủ yếu đó là tầng lớp
thị dân nghèo khổ trong một thế giới hỗn loạn, xô bồ.
Trên đây là những bài viết và những công trình nghiên cứu công phu,
mang tính khoa học đề cập đến rất nhiều phƣơng diện trong sáng tác của
Nguyên Hồng. Các tác giả đều có những phát hiện mới, chính xác đầy sức
thuyết phục về đặc điểm nghệ thuật, quan điểm sáng tác, phong cách nghệ
thuật trong các tác phẩm truyện và tiểu thuyết của Nguyên Hồng trƣớc Cách
mạng tháng Tám.
Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy những ý kiến, nghiên cứu đó chƣa đề
cập đến một vấn đề cũng không kém phần quan trọng, đó là vấn đề nghệ
thuât trần thuật - điểm nhìn của ngƣời kể chuyện trong mỗi tác phẩm.
Vì vậy những bài viết này đã giúp chúng tôi có một cái nhìn toàn diện về
nhà văn đồng thời nó cũng giúp chúng tôi có những căn cứ để đi sâu, phát
triển trong đề tài mới, trong hƣớng khai thác mới.
III. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
Nghiên cứu các tác phẩm truyện (tự truyện) và tiểu thuyết của nhà
văn Nguyên Hồng trƣớc cách mạng tháng Tám để tìm ra những đổi mới
trong tƣ duy nghệ thuật của nhà văn dƣới vai trò ngƣời kể chuyện ở nhiều
góc độ, đây là mục tiêu của luận văn, nhằm đóng góp thêm một cách lý giải
về tài năng của nhà văn ở nhiều góc độ, khẳng định những giá trị của
8
Nguyên Hồng trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam.. .
IV. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là tập trung tìm hiểu,
khảo sát: Nghệ thuật trần thuật trong truyện và tiểu thuyết của Nguyên
Hồng trƣớc cách mạng tháng Tám 1945. Đây là vấn đề tƣơng đối rộng
đòi hỏi ngƣời viết phải có sự khái quát để tìm ra mối tƣơng quan trong việc
trần thuật của nhà văn, dù ở góc độ nào cũng toát lên tấm lòng nhân hậu,
bác ái. Đây cũng là nét đặc sắc trong văn xuôi Nguyên Hồng trƣớc cách
mạng tháng Tám năm 1945.
V. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và trình bày đề tài, chúng tôi đã
vận dụng một số phƣơng pháp sau:
- Phƣơng pháp loại hình học
- Phƣơng pháp thống kê
- Phƣơng pháp so sánh đối chiếu
- Phƣơng pháp phân tích – tổng hợp
VI. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, nội dung chính của luận văn
gồm có 3 chƣơng:
Chƣơng 1: NGƢỜI KỂ CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TRẦN
THUẬT TRONG TRUYỆN Và TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN HỒNG
TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM.
Chƣơng 2: NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC KẾT CẤU VÀ CỐT
TRUYỆN TRONG TRUYỆN Và TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN HỒNG
TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM.
Chƣơng 3: NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG
TRUYỆN Và TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN HỒNG TRƢỚC CÁCH
MẠNG THÁNG TÁM.
CHƢƠNG 1
9
NGƢỜI KỂ CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT
TRONG TRUYỆN VÀ TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN HỒNG
TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
1. NGƢỜI KỂ CHUYỆN
Trong tác phẩm văn học, ngƣời trần thuật chỉ xuất hiện khi câu
chuyện đƣợc kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm. Đó có thể là hình
tƣợng của chính tác giả, có thể là nhân vật đặc biệt do tác giả sáng tạo ra, có
thể là một ngƣời biết một câu chuyện nào đó. Một tác phẩm có thể có một
hoặc nhiều ngƣời kể chuyện. Hình tƣợng ngƣời kể chuyện đem lại cho tác
phẩm một cái nhìn và một sự đánh giá bổ sung về mặt tâm lí, nghề nghiệp,
hay lập trƣờng xã hội cho cái nhìn tác giả, làm cho sự trình bày, tái tạo con
ngƣời và đời sống trong tác phẩm thêm phong phú, nhiều phối cảnh (Theo
Từ điển thuật ngữ văn học) .
2. ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT VÀ NGƢỜI TRẦN THUẬT
2.1. Phạm trù điểm nhìn trần thuật
Điểm nhìn nghệ thuật: là vấn đề cơ bản, then chốt của kết cấu. Đó
là từ một vị trí, một điểm, một chỗ đứng, một góc câu chuyện đó được
xem xét, miêu tả bình giá, kể về sự vật, hiện tượng trong tác phẩm. Trong
tác phẩm tự sự, tƣơng quan giữa nhà văn và chủ đề trần thuật hay giữa
điểm nhìn của ngƣời trần thuật với những gì nhà văn kể là điều đặc bịêt
quan trọng. Bởi trong truyện kể, vấn đề ai kể chuyện và câu chuyện đƣợc
kể nhƣ thế nào bao giờ cũng giữ một vai trò quan trọng. Ngƣời kể chuyện
có thể mang điểm nhìn của tác giả, song tác giả không phải là trung tâm
của truyện kể. Điểm nhìn nghệ thuật đƣợc xem nhƣ những thƣớc phim dẫn
dắt ngƣời đọc vào ngõ ngách của văn bản, đi sâu tìm hiểu số phận, tính
cách, cuộc đời của nhân vật. Nhà văn bao giờ cũng phải lựa chọn cho mình
một chỗ đứng thích hợp: Trực tiếp tham gia vào vào sự kiện, cốt truyện hay
10
đứng ngoài sự kiện. Việc tìm chỗ đứng này chi phối một hình thức kết cấu
văn bản và xác lập cho ngƣời kể một điểm nhìn trần thuật để từ đó câu
chuyện đƣợc bắt đầu. Trong tác phẩm, vấn đề ai kể chuyện và câu chuyện
đƣợc kể nhƣ thế nào bao giờ cũng đem lại hiệu quả.
Nhƣ trên đã nói, mỗi văn bản tự sự bao giờ cũng đƣợc kể từ một
điểm nhìn nhất định và bởi một ngƣời kể chuyện nào đó đóng vai ngƣời kể
chuyện để kể lại sự kiện xảy ra ở đâu? vào lúc nào? có nhân vật nào tham
gia câu chuyện? Pospelov khẳng định vai trò quan trọng của điểm nhìn trần
thuật trong tác phẩm tự sự: “Trong tác phẩm tự sự, điều quan trọng là
tương quan giữa các nhân vật với chủ thể trần thuật, hay nói cách khác,
điểm nhìn của người trần thuật đối với những gì mà anh ta miêu tả”. Theo
lý thuyết tự sự học, có các kiểu điểm nhìn phổ biến ở ngƣời kể chuyện:
- Điểm nhìn toàn tri, biết tuốt khi ngƣời kể chuyện có vai trò toàn
năng với cái nhìn thông suốt tất cả, ở ngôi thứ ba.
- Điểm nhìn bên trong thƣờng thể hiện độc thoại nội tâm của nhân
vật khi ngƣời kể chuyện là nhân vật xƣng “Tôi”.
Trong điểm nhìn nghệ thuật lại có các loại: Điểm nhìn tác giả, điểm
nhìn nhân vật, điểm nhìn không gian, điểm nhìn thời gian, điểm nhìn tâm
lý, điểm nhìn tƣ tƣởng...Thật ra, trong tác phẩm văn học, chọn kiểu nhìn
nào, xuất phát từ điểm nhìn nào để ngƣời kể chuyện kể lại “chuyện” chính
là do cách tổ chức “truyện” (Không gian, thời gian, nhân vật) có dụng ý của
nhà văn. Có những tác phẩm chỉ có một kiểu điểm nhìn từ đầu đến cuối, có
những tác phẩm phối ghép những kiểu điểm nhìn hoặc luân phiên trƣợt
điểm nhìn. Cách kể từ điểm nhìn toàn tri, bên ngoài, bên trong cũng đều
xuất phát từ sự hình thành phong cách ngƣời viết văn xuôi. Ở đây, trong
chuyên luận nghiên cứu sáng tác của Nguyên Hồng ta chủ yếu tìm hiểu hai
11
kiểu điểm nhìn đó là “Nhìn toàn tri, biết tuốt” và “Nhìn từ bên trong”.
2.2. Ngƣời trần thuật
Hình thái của hình tƣợng tác giả trong tác phẩm văn học nghệ thuật
là ngƣời mang tiếng nói, quan điểm tác giả trong tác phẩm văn xuôi. Ngƣời
trần thuật là ngƣời có vai trò kể lại câu chuyện mà anh ta mong muốn
truyền tải tới độc giả. Đây là chủ thể dẫn dắt ngƣời đọc đi sâu vào “truyện”.
Cách dẫn dắt này tuỳ thuộc vào sự lựa chọn của tác giả (trực tiếp hay gián
tiếp). Tuy nhiên tác phẩm văn xuôi bao giờ cũng đặt ra mối quan hệ giữa
các thời đại (những xung đột cơ bản của thời đại), theo quan điểm của một
nhà nghiên cứu: “Tất cả những gì thuộc về quá khứ đều hướng đến tương
lai”. Vì vậy nghiên cứu tác phẩm văn xuôi là nghiên cứu mối quan hệ giữa
các xung đột mà nhà văn miêu tả có mối liên quan gì với thời đại và sự ảnh
hƣởng của nó trong tƣơng lai. Vì vậy vai trò của ngƣời trần thuật là vô
cùng quan trọng trong tác phẩm.
2.2.1 Ngƣời trần thuật hàm ẩn (hình thức ẩn khuất của ngƣời kể
chuyện)
Căn cứ vào lý thuyết tự sự học, ngƣời kể chuyện (trần thuật) dƣới
hình thức hàm ẩn là do tác giả sáng tạo ra nhƣng lại là ngƣời “toàn tri”
“biết tuốt” thƣờng đứng ở ngôi trần thuật thứ ba bởi vậy lời trần thuật ở
đây mang tính khách quan hoá và trung tính. Ngƣời trần thuật đƣợc chứng
kiến câu chuyện và có khả năng kể lại toàn bộ câu chuyện theo cách riêng
của mình. Lời trần thuật ở đây có nhiệm vụ tái hiện và phân tích, lý giải thế
giới khách quan vật chất, sự việc và con ngƣời...tái hiện và phân tích, lý
giải lời nói ý thức ngƣời khác. Theo Bakhtin, lời văn trần thuật gián tiếp
này (khác với lời văn trực tiếp của nhân vật) có thể chia làm hai loại: Loại
thứ nhất gián tiếp một giọng, đó là lời trần thuật tái hiện, phẩm bình các
hiện tƣợng của thế giới trong ý nghĩ khách quan vốn có của chúng. Loại
thứ hai, là lời gián tiếp hai giọng, là lời trần thuật có hấp thu lời nhân vật,
tức là trong phát ngôn của ngƣời trần thuật cùng lúc có thể có cả lời trực
12
tiếp hay những suy tƣ gián tiếp của nhân vật, nó thể hiện sự đối thoại với ý
thức khác của cùng một đối tƣợng miêu tả. Loại thứ hai này cho phép tác
giả di chuyển “điểm nhìn” trần thuật và tạo nên tính chất đa thanh trong
ngôn ngữ trần thuật, ngôn ngữ tiểu thuyết. Điều này đƣợc nhà văn thể hiện
rõ trong các sáng tác: Bỉ vỏ, Bảy Hựu, Cái bào thai, Quán nải, ...
2.2 .2. Ngƣời trần thuật tƣờng minh
Ngƣời kể chuyện với “điểm nhìn bên trong” của nhân vật xƣng “tôi”
là nhân vật ngay trong câu chuyện – tác giả đóng vai trò ngƣời trần thuật đó
là hình thức trần thuật từ ngôi thứ nhất. Nhân vật trong câu chuyện là chính
tác giả với nhiệm vụ ngƣời kể chuyện, trần thuật lại. Điều này dễ nhận thấy
ở các tác phẩm tự truyện hoặc có dáng dấp tự truyện nó đòi hỏi các chuyện
phải kể về sự thật. Đó chính là câu chuyện đƣợc viết bởi chính những
ngƣời đã từng sống trong cuộc đời ấy. Với việc trần thuật ở ngôi thứ nhất,
tác giả đã viết về những điều mình đã trải qua, đã chứng kiến, nếm trải và
chiêm nghiệm. Đó chính là các tác phẩm tự truyện. Tự truyện tái hiện phần
hiện thực thƣờng nằm trong tầm nhìn của ngƣời viết căn cứ chủ yếu vào
những ấn tƣợng và hồi ức của bản thân ngƣời viết hoặc cái nhìn của ngƣời
viết vào tất cả những gì đƣợc kể lại, miêu tả lại. Hồi kí mang tính chủ quan
thƣờng là văn phong cảm động nêu cảm tƣởng trực tiếp của cá nhân tác giả.
Lối tự truyện này ở các nƣớc phƣơng Tây nhƣ Anh, Mĩ, Nga rất thịnh hành
nhƣng ở Việt Nam, Nguyên Hồng đƣợc đánh giá là ngƣời đầu tiên viết lối
tự truyện chân thành, với lời tâm sự thầm kín, thậm chí cả những tội lỗi
cũng đƣợc phơi trần ra ánh sáng, Nguyên Hồng đã phải trút bỏ hết cả
những thành kiến, đặt mình lên trên những dƣ luận hẹp hòi, gột rửa lòng tự
ái cá nhân. Tự truyện của Nguyên Hồng ra đời đã đánh dấu một bƣớc phát
triển mới của nền văn học Việt Nam mà ngay từ thời kì ấy đã gây không ít
ngỡ ngàng cho các nhà nghiên cứu, các nhà văn cùng thời.
Những ngày thơ ấu chính là lời tâm sự thiết tha thầm kín, những hồi
ức của chính tác giả về quãng đời thơ ấu đầy đau khổ của mình một cách
13
chân thành. Điểm nhìn của ngƣời kể chuyện chính là nhân vật xƣng “tôi”,
nhà văn đã tái hiện lại tuổi ấu thơ của mình một cách chân thành sâu lắng.
Sau này nhà văn còn sáng tác các tác phẩm: Cái bào thai, Sông máu, bút
kí Cuộc sống...là những tác phẩm mang tính tự truyện.
Từ những lý luận về nghệ thuật trần thuật trên đây, khi tìm hiểu các
tác phẩm truyện (tự truyện) và tiểu thuyết của Nguyên Hồng trƣớc Cách
mạng tháng Tám, ta có thể phân định rất rõ hai dạng trần thuật của nhà văn
nổi bật lên ở các sáng tác văn xuôi trƣớc cách mạng tháng Tám.
3. Ngƣời trần thuật trong văn xuôi Nguyên Hồng
Xuất phát từ vị trí của ngƣời kể chuyện gắn với điểm nhìn toàn tri,
biết tuốt, có vai trò toàn năng với cái nhìn thông suốt tất cả, ở ngôi thứ ba
và nhìn “từ bên trong” (gắn với điểm nhìn bên trong) khi ngƣời kể chuyện
là nhân vật xƣng “Tôi” điểm nhìn bên trong thƣờng thể hiện độc thoại nội
tâm của nhân vật. Nguyên Hồng đã dẫn dắt ngƣời đọc vào một thế giới
nhân vật, với những câu chuyện cảm động vừa mang tính chủ quan lại vừa
mang tính khách quan thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn.
3.1. Ngƣời kể chuyện hàm ẩn
Chuyên luận của đề tài là đi sâu tìm hiểu các tác phẩm của Nguyên
Hồng trƣớc cách mạng tháng Tám dưới góc độ trần thuật bởi vậy cần khai
thác yếu tố điểm nhìn của ngƣời kể chuyện. Sáng tác của Nguyên Hồng đã
để lại ấn tƣợng sâu đậm trong lòng độc giả ngay từ những tác phẩm đầu
tay. Tác giả - một chàng thanh niên với tuổi đời còn rất trẻ - mới 16 tuổi, sự
nghiệp học hành giang dở, cuộc sống gia đình sa sút phải sống trong cảnh
nghèo khổ đến cùng cực nhƣng đã dám đề cập đến những vấn đề nóng
bỏng của cuộc sống: xã hội của những kẻ lƣu manh, trộm cắp, đĩ
điếm...Với cuốn tiểu thuyết đầu tay Bỉ vỏ Nguyên Hồng đã bộc lộ rõ tƣ
tƣởng nhân đạo của một nhà văn hiện thực. Ông đã viết bằng tất cả những
khát khao đƣợc hiến dâng cho đời những cảm xúc chứa chan yêu thƣơng về
một nghịch cảnh trớ trêu đã đẩy con ngƣời, quá trình tha hoá của con ngƣời
14
từ bản tính Thiện đến chỗ xấu xa, bỉ ổi. Dƣới giác quan của ngƣời nghệ sĩ,
điểm nhìn nghệ thuật thuộc ngôi thứ ba, Nguyên Hồng trong vai trò là
ngƣời kể chuyện khách quan, đứng ngoài cuộc mà câu chuyện đƣợc miêu
tả nhƣ chính thân phận, đau với nỗi đau tột cùng trong mọi ngõ ngách của
tâm hồn nhân vật. Nhân vật chính là cô gái quê mùa chân chất nhƣng
nghịch cảnh xã hội đã đẩy cô đến tận cùng của sự băng hoại đạo đức, ném
cô trong các cơn lốc xoáy, tuy nhiên con ngƣời vẫn giữ đƣợc nét bản chất
cao đẹp. Ngay khi mới ra đời tiểu thuyết Bỉ vỏ của Nguyên Hồng đã chiếm
đƣợc lòng yêu mến của độc giả, tác phẩm có vai trò lớn trong việc khẳng
định tên tuổi của nhà văn. Vì sao tác giả lại đƣợc đông đảo công chúng đón
nhận? Điều này liên quan đến nội dung câu chuyện – một đề tài không mới
về thân phận của một kiếp ngƣời dƣới đáy xã hội – nhƣng lại đƣợc kể qua
điểm nhìn của một ngƣời đã “biết tuốt” về một xã hội thị dân với đầy rẫy
những bất công, những sự bạo hành, những trái ngang...nên câu chuyện ấy
đã dẫn dắt ngƣời đọc chứng kiến tất cả những gì thuộc về vô luân, vô nhân
nhất mà con ngƣời thật nhỏ bé phải đƣơng đầu với chúng. Trong vai ngƣời
kể chuyện (ngôi thứ ba, do tác giả sáng tạo ra), câu chuyện đƣợc dẫn dắt rất
khéo léo, tự nhiên dƣờng nhƣ không phải do ý kiến chủ quan, thể hiện ý đồ
của ngƣời sáng tạo. Với Bỉ vỏ, dƣờng nhƣ ngòi bút của ông không nhằm
mục đích tố cáo mà là để thể hiện niềm thƣơng cảm của nhà văn trƣớc số
phận con ngƣời. Nhân vật Tám Bính, là kết quả tất yếu của những kẻ quyền
thế bỉ ổi, sản phẩm của xã hội thị dân. Khi mang trong mình giọt máu của
kẻ ăn chơi sa đoạ, đã có lúc Bính rùng mình sợ hãi khi nhớ đến hình ảnh
một ngƣời đàn bà bị làng phạt vạ: “Một ngày tháng năm, đường đá, sân
gạch bỏng rẫy chân, thế mà chị Minh, người bị làng phạt vạ, phải quì ở
giữa sân đình, nón không có, bế đứa con mới được mười ngày, cũng đỏ hon
hỏn...giữa trời nắng chang chang...mặt mày tái mét, đẫm mồ hôi, răng thì
cắn chặt...” [18, 6]. Nhà văn dƣờng nhƣ thấu hiểu tận cùng nỗi đau của
nhân vật khi phải chịu những hình phạt hà khắc của một chế độ xã hội cổ
15
hủ, tàn nhẫn. Không những thế ngƣời đàn bà ấy còn phải chịu những nỗi
cay đắng tột cùng khi bị chính bố mẹ mình - những ngƣời tƣởng rằng là
điểm tựa trong lúc khốn cùng – thì chính họ lại đang tâm “cạo trọc đầu,
bôi vôi trắng hếu, úp rế lên, rồi rong chị đi khắp làng” [18, 7]. Cách làm
ấy chỉ để chứng minh rằng họ không hề dung túng, không nuông chiều con,
nhƣng họ có biết đâu điều đó đã làm cho ngƣời đàn ấy có lần định thắt cổ
tự tử cho hết nợ đời. Cái bài học xƣơng máu ấy, lại rơi đúng vào Bính, cảnh
ngộ của Bính cũng không khác gì ngƣời đàn bà năm xƣa: không chồng mà
chửa! Từ một cô thôn nữ xinh đẹp, lƣơng thiện, Bính đã phải lòng ông
“quan tham đạc điền” để rồi từ một cô gái ngây thơ “Một ngày kia, phải
một ngày thầm vụng, Bính đã buông phó cả thân thể cho y” [18, 6]. Và khi
Bính nhận ra cái thai mỗi ngày một lớn thì cũng là lúc tên Tham Chung,
bộc lộ rõ cái bộ mặt của kẻ phụ tình đã bỏ Bính mà đi không một lời từ
biệt. Ngƣời đàn bà ấy đâu chỉ là nạn nhân của xã hội mà còn là nạn nhân
của chính gia đình mình. Và cái bi kịch ấy của ngƣời đàn bà tiếp tục bị
vòng xoáy của xã hội cuốn đi, trôi phăng theo những rác rƣởi, những tanh
bẩn của xã hội vây bám. Ngay từ ngày đầu tiên ra thành phố, Bính đã bị lừa
bịp, bị cƣỡng hiếp, bị bắt bỏ tù một cách vô cớ và tệ hại hơn cái xã hội vô
luân nơi phố phƣờng thêm một lần nữa đẩy Bính tới đỉnh điểm của sự nhơ
nhớp, dồn Bính vào nhà thổ, nơi mặc nhiên Bính trở thành gái điếm mặc dù
chƣa một lần làm điếm. Một xã hội mà Bính mơ tƣởng sẽ thay đổi cuộc
đời, xoá đi vết nhục thì ra lại là nơi biến con ngƣời thành những thứ hàng
hoá rẻ mạt, tanh bẩn. Cuộc đời tủi nhục của thân phận làm gái điếm, của
cái nghề mạt hạng “bán thân nuôi miệng” nhƣng lại bị bóc lột đến kiệt
cùng sức lực. Sự cộng hƣởng của thói đểu giả thị thành cùng những cổ hủ
thôn quê đã hợp lực lại dồn đẩy con ngƣời lƣơng thiện vào bƣớc đƣờng
cùng, bế tắc. Cũng nhƣ Bính bao nhiêu cô gái đã bị mụ chủ chứa bóc lột
sức lực đến mức ho ra máu rồi chết. Cái chết của những kẻ làm nghề mạt
hạng ấy cũng giống nhƣ cái chết của hạng ăn mày, ăn xin nơi đầu đƣờng xó
16
chợ khốn cùng không họ hàng, không ngƣời thân thích, ngƣời ta thuê vài
ngƣời phu chợ đùm trong chiếc chăn cũ rồi đem chôn: “Tấm áo quan bằng
gỗ mỏng đu đi đu lại, cọ vào chiếc thừng treo lủng lẳng ở đầu đòn ống làm
thành những tiếng kẽo kẹt thay cho tiếng khóc viếng” [18, 25]. Với cái nhìn
xót thƣơng, dƣờng nhƣ nhà văn không muốn dừng lại nỗi đau thân phận
Bính, Bính vẫn tiếp tục bị dòng đời xô đẩy. Nếu so sánh với những ngƣời
con gái trong nhà chứa, Bính tƣởng chừng may mắn hơn khi đƣợc Năm Sài
Gòn cứu vớt, nhƣng thực chất Bính lại bị rơi vào bi kịch khác tồi tệ hơn.
Năm Sài Gòn thực chất là một tay “Chạy vỏ” khét tiếng, một “ông trùm”
của xã hội đen Hải Phòng, một kẻ chuyên sống bằng nghề đâm chém, giết
chóc. Bính sau nỗi đau thân xác, lại rơi vào cảnh sống lo âu, sợ hãi trƣớc
những cảnh chém giết, tù tội có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Và quy luật khắc
nghiệt của cuộc sống đã dần đào thải phần thanh sạch tâm hồn trong Bính,
nhào nặn Bính trở thành một kẻ lƣu manh, thậm chí thành dân “anh chị”có
máu mặt, một “bỉ vỏ” thứ thiệt, có số má. Bính từ một cô gái chân quê, biết
nhục khi bị làm nhục, biết ô danh khi bị đẩy vào nhà chứa thì nay Bính đã
tự nguyện đứng vào vai của kẻ lƣu manh không hổ thẹn, rất bài bản. Điều
gì đã xô đẩy thân phận con ngƣời? Nhà văn không lớn tiếng phê phán xã
hội nhƣng bản án của con ngƣời đã đƣợc định sẵn, đã dành cho một xã hội
bất công, một xã hội phi nhân tính. Một kết thúc bi thảm về cái vòng luẩn
quẩn tội lỗi của Tám Bính là cả Năm Sài Gòn và Tám Bính cùng bị bắt một
lúc, đau đớn hơn trong giây phút tủi cực ấy, Bính lại nhận ra đứa con của
mình bị chính Năm Sài Gòn giết chết. Những gì còn hy vọng và tin tƣởng
vào cuộc sống đều tan biến, khi Bính tra tay vào còng cũng là lúc Bính
chấm hết cuộc đời, tắt hết mọi niềm tin, hy vọng.
Nhân vật Tám Bính ám ảnh trong lòng ngƣời đọc, sự xô đẩy của
cuộc đời, của chính những ngƣời ruột thịt, của định kiến xã hội, của sự
băng hoại đạo đức, của xã hội mị dân “chó đểu”, của lai tạp tha hoá. Để có
đƣợc hình ảnh nhân vật Tám Bính, để đứng đƣợc ở góc nhìn về toàn bộ
17
cuộc đời Tám Bính, nhà văn đã phải trải qua những tháng ngày cùng khổ,
phải sống trong xã hội ấy, lăn lộn trong đám ngƣời tầng lớp đáy của xã hội
thị dân ấy, Nguyên Hồng phải sống ở môi trƣờng ấy. Chứng kiến và đồng
cảm. Đau đớn và xót thƣơng. Ông đã xây dựng nên một cô gái thơ ngây
trong trắng bị lừa phản, bị rơi vào cạm bẫy, phải chịu nhiều oan ức. Bệnh
tật bị xã hội reo rắc và huỷ hoại thân xác, tội ác tội lỗi đã phá hoại tinh
thần. Con ngƣời càng cố vùng lên thì lại càng bị nhấn xuống bùn sâu. Tám
Bính đã trải qua bao nhiêu cảnh đau đớn tủi nhục, tối tăm, tất cả linh hồn,
trái tim bị tàn phá, giày xéo. Một cảnh đời cơ cực không gì so sánh nổi. Tất
cả những ƣớc mơ trong sáng, tƣơi thắm đẹp đẽ nhất của cả một đời bị tàn
phá. Tất cả những gì lành mạnh, cao quý thiêng liêng nhất, thể chất cũng
nhƣ tinh thần đều bị thay đổi ngoài ý muốn của Bính. Bính bị cuốn đi, xô đi
bởi một sức mạnh tàn nhẫn và độc ác vô cùng.
Bỉ vỏ đã bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc tới thân phận bất hạnh của
con ngƣời. Trong vai ngƣời kể chuyện đứng ngoài cuộc nhƣng hơn ai hết
nhà văn đã thấu hiểu nỗi đau quằn xé của ngƣời mẹ mất con, nỗi đau thân
xác khi bị hành hạ, nỗi kinh tởm cho chính bản thân khi bị đẩy vào căn
bệnh xã hội...Thấm hiểu tƣờng tận ngõ ngách tâm hồn, phân tích những
diễn biến tinh vi diễn ra trong từng trạng thái cảm xúc của nhân vật, nhà
văn đã có khả năng khái quát hoá sự cùng cực của số phận con ngƣời để
xót thƣơng nhân vật.
Bên cạnh nhân vật Tám Bính, là những nhân vật mà nhà văn đã dành
nhiều tình cảm xót thƣơng, hình ảnh những ngƣời phụ nữ trong các sáng
tác của ông cũng thật tội nghiệp, đó là những ngƣời nhƣ Lệ Hà, Mũn,
Muống, Vịnh, Hai Mƣơi Hai, vợ Ký Phát...mỗi ngƣời một hoàn cảnh
nhƣng dầu họ ở vị trí nào là dân “tứ chiếng” hay ngƣời dân nghèo khổ
cũng vẫn với những công việc nặng nề: phu phen, đội than, đội đá, bốc vác,
đun goòng, buôn bán vặt...Họ lao động cực nhọc mà vẫn lam lũ, đói rách.
Khi không còn đủ sức để làm hay bị tàn phế vì tai nạn lao động thì phải đi
18
ăn mày, ăn xin...Nguyên Hồng viết những tác phẩm này khi tuổi đời còn rất
trẻ, ngƣời đọc hình dung ra hình bóng của một chàng thanh niên đi bên
ngoài lề cuộc sống thất nghiệp lang thang trên phố phƣờng của thành phố
Hải Phòng, của những xóm chợ nghèo khó để quan sát và thu vào thế giới
quan của mình và trải ra trang viết hết sức chân thực nhƣng vô cùng ám
ảnh. Đó là những con ngƣời bất hạnh, cơ cực vì miếng cơm manh áo,
những nạn nhân của xã hội “chó đểu”. Truyện ngắn đầu tay Linh hồn của
Nguyên Hồng là tiếng nói tố cáo bộ mặt tàn nhẫn của chế độ nhà tù, kẻ cai
tù bất lƣơng đã hãm hiếp một ngƣời đàn bà phải đi tù thay chồng, khi đang
mang thai đến mức xảy thai. Từ tác phẩm đầu tay này, hình ảnh ngƣời đàn
bà oan khổ dƣờng nhƣ theo đuổi và ám ảnh ngòi bút của ông nên ông đã
dành phần lớn những trang viết của mình cho những ngƣời phụ nữ. Họ là
những ngƣời dân nghèo, yếu đuối nhƣng cũng phải bƣơn trải làm đủ mọi
thứ nghề để kiếm sống: từ việc buôn thúng bán bƣng, bán hàng cơm đêm,
khâu thuê vá mƣớn, phu phen, đội than đội đá. Nhà văn đã lên tiếng cảm
thông, thƣơng xót và chia xẻ những nỗi đau mà họ gặp phải. Hình ảnh cô
gái trong Vực thẳm hàng ngày phải đan thuê cho tới tận khuya để kiếm lấy
vài hào phụ giúp gia đình là một tình cảnh đáng thƣơng. Gia đình cô “ngày
ngày chỉ kiếm được năm sáu hào mà gạo ăn đã mất bốn hào, còn thức ăn
chỉ mua rau muống, cá vụn, dưa, nước mắm vừa mà nhiều bữa không
đủ”[29, 67]. Cuộc sống đói khổ nhƣ thế nên cô gái ấy đã từ bỏ hết mọi thú
vui của một thời thiếu nữ, luôn ý thức đƣợc thân phận mình: “ Phận mình
con nhà nghèo, không nên đua đòi quá và cũng không thể đua đòi được, ta
cứ yên cái phận mình cho sung sướng” [29, 69]. Những cô gái vì nghèo đói
đã đành lòng đánh mất tuổi thanh xuân, phó thác thân phận cho cuộc đời.
Nhân vật Vịnh trong Hàng cơm đêm cũng âm thầm chịu đựng cuộc sống
mòn mỏi ngày này qua ngày khác, chỉ quanh quẩn bên cạnh quán ăn nhỏ
giúp mẹ bán hàng, cô không dám nghĩ đến bản thân mình. Kết thúc một
ngày là những buổi tối Vịnh phải thu xếp nồi niêu, xoong chảo, dao thớt, và
19
khi mọi ngƣời đi ngủ thì Vịnh cũng chƣa đƣợc ngủ, mặc dù cái mệt đã làm
cho Vịnh tƣởng chừng không chịu đựng nổi nữa: “Gió thổi mạnh, tát cái
lạnh vào mặt Vịnh, Vịnh run run ủ hai tay vào nách, nép sát người vào bức
vách. Sự mỏi mệt đã đè nặng lên lưng Vịnh, Vịnh thấy trên trán có một vật
gì tôi tối trĩu xuống, Vịnh gục mặt lên đầu gối nhắm mắt lại” [29, 78]. Vịnh
không dám nghĩ hạnh phúc cho riêng mình, cô thƣơng mẹ thƣơng em nên
chẳng ngại vất vả sớm khuya, không một lời kêu ca phàn nàn. Hàng cơm
đêm có một sức hấp dẫn đặc biệt. Nhà văn đã viết về một phố nhỏ gần chợ
với cảnh tiêu điều lam lũ, một thứ mùi nồng nặc của rác rƣởi. Trƣớc khi
chìm vào màn đêm cũng có những tiếng ồn ào, huyên náo, đó là tiếng
chuông xe đạp bấm liên thanh của học sinh và công chức, tiếng guốc khua,
tiếng xe bò chuyển ầm ầm vì đƣờng phố gồ ghề và tiếng va chạm của xẻng,
cuốc, ván gỗ trong thùng xe, tiếng mời chào mặc cả, cãi vã ầm ĩ hai bên
đƣờng. Và trong cửa hàng cơm là tiếng chuyện trò cƣời nói vui vẻ của phu
phen, thợ thuyền. Đó là những con ngƣời “Quần áo rách rưới và lấm láp
của họ thở ra những mùi khét lẹt của dầu mỡ, cát bụi và bùn lầy mà họ đã
đầm đìa ở những xưởng máy, những kho hàng, những hầm tầu, những lán
gỗ, tiếng đùa nghịch chòng ghẹo nhau của những chị phu hồ, phu than ríu
rít như bầy chim sẻ” [29. 68]. Mặc dù cuộc sống của họ vất vả gian khổ
nhƣng nhà văn vẫn nhìn thấy trong tâm hồn họ một niềm tin dù họ đang
phải đối mặt với cuộc sống khổ cực. Trong không gian buồn tẻ với những
ngọn đèn leo lét của những hàng cơm đêm, hàng phở, hàng tạp hoá, hàng
mã, hàng thiếc; của cái mái lá tồi tàn những gia đình phu phen lao động. Cả
một không gian thu nhỏ nhƣng ở đó đều chất chứa nỗi cực nhọc của con
ngƣời. Trong Đây bóng tối, ngƣời đọc đã vô cùng xúc động trƣớc tình cảm
mà Mũn dành cho chồng, cho con. Từ thuở ấu thơ Mũn đã phải sống trong
cảnh côi cút, cơ cực “Mồ côi cha mẹ, phải đi dắt thuê cho một bà lão ăn
mày, chẳng bao giờ được miếng ăn ngon” vì thế khi đƣợc Nhân cho ăn
những “miếng thịt lẫn lộn cơm và nước dãi” [ 29, 79]. Mũn đã cảm động
20
và sung sƣớng lắm rồi. Khi lấy Nhân, có cuộc sống gia đình Mũn vẫn phải
sống một cuộc sống nghèo túng, khổ cực nhƣng Mũn đã hết lòng yêu
chồng thƣơng con, giúp chồng xoá đi mặc cảm mù loà. Trong cuộc mƣu
sinh vì miếng cơm manh áo Mũn đã phải chết oan ức, chết mất xác để lại
nỗi bất hạnh lớn, không chỗ nƣơng tựa cho bố con Nhân. Trong con mắt
của nhà văn, số phận những con ngƣời nghèo khổ thật nhỏ nhoi, tội nghiệp,
với họ sự sống và cái chết chỉ còn trong gang tấc. Cái nghèo, cái đói đã
không buông tha họ khi họ đã cố gắng hết sức để chống trọi với đời. Họ đã
phải cả đời lam lũ vất vả mà vẫn bị đẩy đến cùng cực của cái nghèo, đói
mặc dù bản thân họ “Nào mình có lười biếng, đần độn mà sao càng đầu tắt
mặt tối thì lại càng công nợ, càng thiếu thốn” (Hai mẹ con). Trong tác
phẩm Sông máu ngƣời vợ, ngƣời mẹ bất hạnh này dù biết rõ cuộc mƣu
sinh bằng con đƣờng chở hàng lậu là vô cùng nguy hiểm đến tính mạng,
nhƣng chị vẫn cố gắng làm vì không biết trông chờ vào đâu, nợ nần ngày
càng nhiều, con cái thì nheo nhóc, chồng thì đã chết. Cái chết oan ức của
anh cu Năng đã cảnh tỉnh chị nhƣng trong cuộc mƣu sinh một sống một
còn ấy chị vẫn phải cố gắng để một mình chèo chống gia đình.
Nhà văn đã quan sát, thấu hiểu từ nhiều góc nhìn của một ngƣời
trong cuộc với những am hiểu tƣờng tận cuộc sống của những ngƣời dân
nghèo thành thị, những phu phen, thợ thuyền, những ngƣời bán hàng
rong...bởi vậy ngòi bút Nguyên Hồng nhƣ thấm đƣợm nƣớc mắt xót
thƣơng. Vì cuộc sống nghèo túng khổ cực nên những ngƣời phụ nữ bất
hạnh ấy luôn phải đầu tắt mặt tối. Nguyên Hồng đã chứng kiến, đã từng đi
bên cạnh họ nên ông rất thấu hiểu và cảm thông với những nỗi khốn khổ
của họ. Họ không ở đâu xa lạ, đó chính là những ngƣời hàng xóm nghèo
trong cái xóm Cấm của nhà văn. Họ bƣớc vào những trang văn của Nguyên
Hồng tự nhiên, không thêu dệt với những cảnh sống cùng cực đầy xót
thƣơng.
Bên cạnh hình ảnh những ngƣời phụ nữ bất hạnh, nhà văn còn dành
21
tình cảm cho những em bé sống lang thang vất vƣởng. Đó là những đứa trẻ
con nhà nghèo, những số phận đáng thƣơng, tội nghiệp mà chính tuổi thơ
của nhà văn là một phần trong đó nên hơn ai hết ông thấu hiểu. Những số
phận nhân vật dù chỉ xuất hiện không đáng kể trong con mắt trần thuật của
Nguyên Hồng nhƣng lại hết sức ám ảnh. Bên cạnh thiên hồi kí Những
ngày thơ ấu là tác phẩm Đàn chim non, nhà văn đã gợi lên hình ảnh
những đứa trẻ mồ côi phải sống lang thang, vất vƣởng phải sớm vào đời để
kiếm sống. Bút ký Cuộc sống với những trang viết đầy rung cảm khi nhà
văn vẽ lại chân dung của một loạt đứa trẻ nhà nghèo đƣợc gợi lên từ những
tấm ảnh. Trong Hơi thở tàn là hình ảnh những đứa bé hết sức đáng
thƣơng, bồng bế nhau lê la trong cát bụi, lại bắt chƣớc giọng van xin thê
thảm của một ngƣời đàn ông mù dắt con đi ăn mày nghe “rợn cả tâm trí”.
Tác phẩm Hai nhà nghề với cậu bé Nhân phải mua vui cho thiên hạ bằng
nghề nhào lộn vô cùng nguy hiểm. Cậu làm nghề để kiếm sống “cái nghề
nhào lộn ấy để kiếm cơm ăn”. Những đứa con của Mũn nheo nhếch, đói
khát, đứa con lớn, con của anh chị Năng trong Sông Máu phải dậy sớm
trông em để mẹ đi làm từ đêm vẫn ám ảnh về ngƣời cha, về những hình ảnh
ma quái vất vƣởng, hình ảnh Mũn mồ côi đói khát cả đời không biết miếng
ăn ngon nên khi đƣợc bạn dành cho “miếng thịt lẫn dãi dớt” Mũn cảm động
và ăn rất ngon lành...Hình ảnh đáng thƣơng và tội nghiệp. Nếu so sánh với
Hai đứa trẻ của Thạch Lam, hình ảnh chị em Liên và An cũng phải kiếm
sống trên một quán tạp hoá nhỏ với cái đói về tinh thần, về sự khát khao
niềm vui thì ở đây trong sáng tác của Nguyên Hồng chúng không những bị
đày đoạ về tinh thần mà còn đói khát khổ cực từ miếng cơm manh áo.
Những đứa trẻ gợi niềm thƣơng cảm, xót xa. Nhà văn đã đứng từ vị
trí của bản thân để quan sát đồng cảm và xót thƣơng, nhân vật trẻ em gợi
nỗi day dứt, ám ảnh đến tội nghiệp.
3.2. Ngƣời kể chuyện tƣờng minh (nhân vật xƣng Tôi)
Cuốn tự truyện đƣợc coi là đầu tiên ra đời trong văn học Việt Nam
22
là tác phẩm Những ngày thơ ấu, đây là tác phẩm đã để lại ấn tƣợng sâu
đậm trong lòng ngƣời đọc về một nghịch cảnh bất hạnh trẻ thơ: phải sống
cơ cực, tủi nhục ở ngay chính ngôi nhà của mình, bên những ngƣời ruột
thịt, máu mủ. Cuốn tự truyện không cần đi tìm nguyên mẫu, không cần
dụng công xây dựng nhân vật, nó là cuộc đời, là chính đời sống cực khổ
của nhà văn trong những ngày còn tuổi ấu thơ. Bằng lối viết chân thực
Nguyên Hồng đã cho ta tƣờng tận một quãng đời quá khứ của ông và nhà
văn đã không ngại ngùng diễn tả lại trên từng trang sách không che đậy,
không dấu diếm, dƣờng nhƣ ông phô bày hiện thực để vợi đi những mất
mát của một tâm hồn trẻ thơ không đƣợc sống trong thế giới tuổi thơ. Tập
hồi kí của Nguyên Hồng - trái tim của chàng trai 17 tuổi vốn nhạy cảm, dễ
xúc động đã khiến bao tâm hồn phải cảm thƣơng rơi lệ trƣớc cuộc sống của
chính bản thân nhà văn, khi nhận ra sự thật về cha mẹ mình, : “Thầy mẹ tôi
lấy nhau không phải vì thương yêu nhau, sự trái ngược cay đắng đó tôi đã
hiểu biết rõ rệt và thấm thía từ năm tôi lên bảy lên tám...” (19, 168). Hơn ai
hết Nguyên Hồng đã cảm nhận đƣợc cuộc sống thiếu hạnh phúc của họ, khi
họ lấy nhau : “chỉ vì hai bên cha mẹ, một bên hiếm hoi muộn cháu và có
của; một bên sợ nguy hiểm giữ con gái đẹp đến thì ở trong nhà ” (19, 168).
Là ngƣời nhạy cảm cậu bé Hồng cảm nhận đƣợc ngƣời mẹ trẻ xinh đẹp đã
phải sống nhẫn nhục bên ngƣời chồng già mà bà không yêu và thầm lặng
nhƣ “cái bóng ngắn của bức tường dày mãi mãi thần phục ở dưới chân để
rồi sẽ tan xuống đất nếu có ánh sáng soi tắt” [19, 125]. Đứa bé Hồng cô
đơn, lạc lõng, ngơ ngác ngay trong ngôi nhà tàn tạ của mình, vì ở đó cậu có
“một người cha và một người mẹ tính tình khác nhau, không hiểu biết,
không yêu nhau và gần như khinh miệt nhau” [19, 176]. Trong cái xã hội
bất công “trọng nam khinh nữ” ấy, họ không có hạnh phúc, không có tình
yêu, đồng thời họ còn phải chịu cảnh lẽ mọn khi ngƣời đàn ông đƣợc quyền
“năm thê bảy thiếp”. Ngƣời đàn bà bị tập tục phong kiến đè nặng, trói
buộc, họ không đƣợc tự do lựa chọn trong hôn nhân. Nạn ép duyên của chế
23
độ phong kiến với những lễ giáo hà khắc đã khiến những ngƣời con gái
phải chịu cảnh “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, họ lấy chồng đâu có tình
yêu. Hơn nữa họ phải chịu cảnh “Tam tòng tứ đức” trói buộc ghê gớm. Dù
chồng chết vẫn phải một lòng một dạ thờ chồng không đƣợc quyền đi bƣớc
nữa, không đƣợc phép đi tìm hạnh phúc cho riêng mình dù tiếng nói của
con tim khao khát, dù khát vọng lứa đôi rực cháy. Vì thế ngƣời mẹ trẻ trong
Những ngày thơ ấu khi tái giá đã phải chịu bao sự ruồng rẫy, khinh miệt
của gia đình nhà chồng, của dân làng đến mức phải rời bỏ con mình tha
phƣơng cầu thực. Xã hội ấy đã không chấp nhận một ngƣời đàn bà chƣa
đoạn tang chồng đã chửa đẻ với ngƣời khác, đó là một xã hội đầy những
thành kiến cổ hủ đã bóp nghẹt quyền sống của ngƣời phụ nữ. Chính vì thế
“Phong tục và lễ nghi cổ hủ đã bắt buộc người mẹ coi sự sinh nở khi chưa
đoạn tang chồng cũ ghê tởm hơn là những tội gian ác xấu xa nhất. Và các
thành kiến gông cùm từ ngàn xưa truyền lại đã nâng một đứa con trai chưa
đầy mười bốn tuổi lên một địa vị cao trọng để mẹ nó phải khuất phục cầu
khẩn” [19, 156]. Ngƣời mẹ đƣợc nhà văn xây dựng với nhiều ấn tƣợng đó
là một ngƣời đàn bà tràn đầy sinh lực – ngƣời đàn bà đang ở độ chín: “gò
má ửng hồng, cặp mắt sáng, khi cảm xúc dạt dào đôi mắt trở nên...sáng
quắc, làn môi tươi thắm, và thân thể nồng nàn một làn hương thơm tho lạ
thường” [19, 173]. Nguyên Hồng đã vận dụng “chủ nghĩa nhân bản” khi
mô tả những phút giao tình mê say qua ánh mắt của ngƣời đàn bà, của phần
con ngƣời đích thực với ngƣời cai kèn. Ngƣời đàn ông này đã bằng tia sét
ái tình mà nhận thấy ở ngƣời đàn bà trẻ đang dắt đứa con kia là cả một trời
hạnh phúc. Những ánh mắt giao nhau, gò má ngƣời đàn bà ửng lên, hơi thở
gấp gáp hổn hển, và phía đằng kia tiếng kèn trỗi lên thổn thức...Đó là tiếng
kêu gọi của hạnh phúc nhân bản bay lƣợn trên vũng sình lầy của một cuộc
đời đang rữa nát. Là tình yêu đích thực trỗi dậy từ trái tim con ngƣời. Tuy
khát khao hạnh phúc nhƣ vậy nhƣng ngƣời đàn bà (tên là Lộc) vẫn giữ gìn
đức hạnh cao đẹp. Mặc dù không yêu chồng, nhƣng ngƣời vợ ấy vẫn ứa
24
nƣớc mắt khi chồng “ôm ngực ho và rũ rượi nhổ”. Bà cắn răng chịu đựng
bao cay đắng, nghiệt ngã mà không một lời oán trách. Đấy chính là thực tế
cuộc đời ngƣời mẹ thân yêu của Nguyên Hồng. Và cậu bé Hồng với lòng
yêu mẹ tha thiết đã “cười dài trong tiếng khóc” với sự xót thƣơng cho
ngƣời mẹ mình và phẫn nộ đến tột cùng trƣớc những hủ tục ấy: “Giá
những cổ tục đã đầy đoạ mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thuỷ tinh,
đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kỳ nát
vụn mới thôi” [18, 83]. Tình cảm của cậu bé Nguyên Hồng với mẹ thật là
sâu sắc. Kí ức tuổi thơ không thể phai mờ trong tâm hồn nhà văn và tinh tế
hơn đó là việc nhà văn đi sâu mô tả chính xác bản chất tâm hồn trẻ thơ
thông qua cậu bé Hồng. Một đứa trẻ thông minh, lanh lợi, tâm hồn trong
sáng và rất nhạy cảm. Đứa trẻ với đầy đủ các tố chất của một tâm hồn thơ
ngây nhƣng lại rất dễ bị thƣơng tổn ấy lại lớn lên trong một gia đình đầy
trái ngang bất hạnh, nên hơn ai hết cậu bé cảm nhận và xót đau cho chính
bản thân, cho chính ngƣời thân (ngƣời mẹ) chính ngƣời trong cuộc.
Từ cái nhìn chủ quan về chính cuộc đời mình nhà văn đã giúp cho
ngƣời đọc cảm nhận thấm thía nỗi đau của chính ngƣời trong cuộc, nỗi ám
ảnh của một tâm hồn non dại trẻ thơ không có cuộc sống tuổi thơ. Hơn ai
hết lối trần thuật ấy đã gợi sự đồng cảm sâu sắc trong lòng ngƣời.
Nhƣ trên đã nói, hồi kí “Những ngày thơ ấu”, là những kỉ niệm
đong đầy nƣớc mắt của một cậu bé mà ngay những năm tháng tuổi thơ đã
nhiều bất hạnh. Đó là những ấn tƣợng sâu sắc, không thể phai mờ trong
tâm hồn của nhà văn. Theo các nhà tâm lý học, ấn tƣợng gắn bó đáng ghi
nhớ nhất của cuộc đời mỗi con ngƣời đó là giai đoạn tuổi thơ từ 3 tuổi đến
khoảng 15 tuổi. Đây là giai đoạn phát triển tuy ngắn so với cả chặng đƣờng
đời nhƣng kí ức mà cuộc đời mỗi con ngƣời nhớ nhất chính là giai đoạn
này. Với lối kể chuyện mộc mạc, chân thành nhà văn đã dẫn dắt ngƣời đọc
trở về chính tuổi ấu thơ của ông để đồng cảm trƣớc số phận cơ cực của một
25
em bé thơ ngây.
Qua điểm nhìn trần thuật, ngƣời đọc nhận ra dù dƣới góc độ nào, cái
nhìn của ngƣời trong cuộc hay cái nhìn khách quan thì nhân vật của
Nguyên Hồng cũng là những nhân vật hết sức đáng thƣơng, là những nhân
26
vật dám vƣơn lên để dành sự sống thể hiện cái nhìn nhân bản của nhà văn.
CHƢƠNG 2
NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC KẾT CẤU VÀ CỐT TRUYỆN
TRONG TRUYỆN VÀ TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN HỒNG
TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
1. NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC KẾT CẤU
Kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm. Tổ
chức tác phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, liên kết bên ngoài
(mối liên hệ kết nối giữa các phần, chƣơng, đoạn) mà còn cả sự liên kết bên
trong (cấu trúc nội dung) của tác phẩm. Bố cục là một phƣơng diện của kết
cấu. Đó là “phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật” có
“chức năng đa dạng bộc lộ tốt chủ đề tư tưởng của tác phẩm; triển khai
trình bày hấp dẫn cốt truyện, tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả tạo
nên tính toàn vẹn của tác phẩm như là một hiện tượng thẩm mĩ” [40, 70].
Nhƣ vậy kết cấu là một yếu tố của hình thức tham gia thể hiện chủ đề nội
dung và tƣ tƣởng tác phẩm, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành
một tác phẩm thành chỉnh thể nghệ thuật.
Tác phẩm nghệ thuật bao gồm nhiều yếu tố, nhiều thành phần phức
tạp. Tất cả những bộ phận khác nhau đó đƣợc nhà văn sắp xếp, tổ chức theo
một hệ thống, một trật tự nhất định gọi là kết cấu. Nhiệm vụ của kết cấu là
tổ chức mối liên hệ giữa các yếu tố thuộc nội dung tác phẩm: hoàn cảnh,
hành động, biến cố, tính cách...và các yếu tố thuộc hình thức: bố cục, hệ
thống, ngôn ngữ, giọng điệu...Kết cấu phải xử lý mối liên hệ giữa tuyến sự
kiện và tuyến nhân vật, phải tổ chức các yếu tố tự sự sinh động, miêu tả,
đối thoại giữa các nhân vật, độc thoại nội tâm, những lời bình luận trữ tình
phụ đề của tác giả, tổ chức hình thức bên ngoài của tác phẩm (bố cục). Kết
cấu là yếu tố thuộc hình thức. Khái niệm kết cấu rộng hơn khái niệm cốt
truyện vì có những tác phẩm có kết cấu nhƣng không có cốt truyện. Phạm
vi kết cấu bao gồm cả những yếu tố ngoài cốt truyện đó là những đoạn trữ
27
tình ngoại đề. Việc tổ chức kết cấu có quan hệ rất chặt chẽ với việc xây
dựng hệ thống hình tƣợng và xây dựng sƣờn truyện, cốt truyện. Nguyên tắc
chung của nghệ thuật kết cấu là phải làm sao cho tƣ tƣởng chủ đề thấm sâu
đến từng bộ phận của tác phẩm và phải góp phần tích cực nhất vào việc xây
dựng hệ thống tính cách nhân vật. Tác phẩm văn học phải đảm bảo sự
thống nhất về kết cấu.
Kết cấu của tác phẩm không chỉ tuân theo quy định thể loại trực
thuộc mà nó còn chịu sự chi phối của một số yếu tố khác nhƣ quan điểm mĩ
học của các nhà văn qua từng thời kì lịch sử. Vì vậy kết cấu thƣờng đa
dạng. Bất kể tác phẩm văn học nào cũng có một kết cấu nhất định.
1.1. Kết cấu đơn tuyến:
Là sự tổ chức kết cấu đơn giản “không có truyện”, không có những
tình tiết quan trọng mà chỉ là sự ghi lại những chuyển biến đáng kể trong
cuộc đời của nhân vật. Kết cấu đơn tuyến trong đó chỉ có một câu chuyện
với kết cấu tuyến tính, các sự kiện đƣợc sắp xếp theo trình tự thời gian, đi
từ tình thái đầu đến tình thái cuối của câu chuyện. Các hồi, đoạn trong
truyện nối tiếp nhau theo một trật tự dƣờng nhƣ không thể khác.
Trong hồi kí Những ngày thơ ấu, tiểu thuyết Hơi thở tàn, Quán
nải, Buổi chiều xám... thuộc loại truyện nhà văn đã sử dụng lối kết cấu
đơn tuyến để phù hợp với sự vận động cảm xúc của nhân vật. Các tác phẩm
viết theo dạng tự truyện, hồi kí của Nguyên Hồng với kết cấu tuyến tính
làm cho trình tự thời gian diễn ra lần lƣợt trong câu chuyện của Nguyên
Hồng khi gợi nhớ lại những kỉ niệm tuổi thơ, những kí ức không thể nhạt
nhoà về một thời điểm của cuộc đời. Ngƣời đọc bị cuốn theo các tình tiết
đƣợc sắp xếp nối tiếp nhau trong truyện. Truyện không “Đao to búa lớn”
mà thấm dần vào tâm hồn ngƣời đọc nỗi đau của chính bản thân nhà văn.
Giá trị tƣ tƣởng của tác phẩm nằm ngay chính sự đơn giản của kết cấu.
Trong tác phẩm Hơi thở tàn, đây là loại tiểu thuyết “không có
28
truyện”, nghĩa là không có những tình tiết quan trọng, gay cấn, những xung
đột, mâu thuẫn gay gắt mà đơn thuần chỉ ghi lại những chuyển biến đáng
kể trong cuộc đời nhân vật.
Vì hoàn cảnh gia đình, Sinh phải sớm bỏ học, xoay đi kiếm sống từ
năm 13, 14 tuổi bằng đủ mọi thứ nghề: dạy học tƣ, thƣ kí hiệu buôn, bán vé
rạp hát, ô tô, kẻ biển quảng cáo, phụ việc cho thơ mộc thợ xây...Nghĩa là
Sinh không từ chối bất kể việc gì miễn là có cơm ăn. Tuy nhiên không có
việc gì Sinh làm đƣợc quá 6 tháng, luôn luôn trong tình trạng nơm nớp bị
mất việc, thất nghiệp và đói khát. Cuộc sống của anh mong manh chỉ trông
chờ vào sự may mắn của số phận. Không những thế anh lại luôn ốm yếu,
nhiều lần ho ra máu, sức lực chỉ còn chút “hơi thở tàn”. Với sức khoẻ ấy,
công việc bấp bênh ấy dễ dẫn con ngƣời ta đến chỗ bi quan, chán nản, phó
thác cuộc đời. Nhƣng Sinh lại là một thanh niên khảng khái, có lòng tự
trọng và ý thức cao. Anh giàu nghị lực, ham học hỏi và muốn sống có ý
nghĩa. Cuộc sống ở vùng ngoại ô Hà Nội: Bạch Mai, bãi Phúc Xá...và khi
tiếp xúc với những ngƣời dân nghèo thợ thuyền trung hậu, đầy lòng vị tha
nhƣ cụ Năng, bà cụ An, cô Hào, bé Sao...đã giúp Sinh đấu tranh quyết liệt
với những ý nghĩ cay đắng, tuyệt vọng. Anh đã cảm nhận đƣợc niềm vui
trong lao động và giữ đƣợc niềm tin ở cuộc sống và tƣơng lai. Điều này là
một minh chứng cho quan niệm sống của Nguyên Hồng con ngƣời dù rơi
vào hoàn cảnh bi đát nhƣng vẫn có niềm tin vào những điều tốt đẹp.
Tác phẩm với lối kết cấu đơn giản, các sự kiện và tình tiết trong
truyện nối tiếp nhau theo trật tự trƣớc sau, trên trục chiều ngang của thời
gian, rất đơn giản, tạo ra ảo giác về tính đƣơng nhiên của của những gì sẽ
xảy ra. Một số tác phẩm trình bày theo từng chƣơng, từng đoạn hay thành
từng phần rõ ràng giống nhƣ các cảnh khác nhau trong một vở kịch hay
một bộ phim. Tác phẩm Những ngày thơ ấu nhà văn đã kể lại cuộc sống
của chính bản thân mình theo trình tự thời gian từ khi còn nhỏ. Từ lúc cậu
bé Hồng nhận ra cái bi kịch gia đình đang trên đà sụp đổ đến những mất
29
mát, thiếu thốn tình cảm của ngƣời thân, sự ghẻ lạnh của những ngƣời cùng
huyết thống và niềm vui mừng khi gặp lại ngƣời mẹ, đƣợc sống “Trong
lòng mẹ”... đó là những cảm xúc rất tự nhiên đƣợc miêu tả theo trục tuyến
tính thời gian, lần lƣợt xuất hiện nhƣ chính bản thân hiện thực vốn có.
Trong tác phẩm Quán Nải tác giả cũng sử dụng lối kết cấu tuyến tính theo
trình tự thời gian, nhà văn đã miêu tả cuộc đời nhân vật Muống trải qua hai
giai đoạn, tựa nhƣ những lớp lang, từng cảnh khác nhau nhƣ tác phẩm kịch
có chƣơng, hồi.
Đoạn thứ nhất: Muống là một cô gái quê xinh đẹp, trung hậu, đảm
đang. Cô đem lòng yêu anh giáo nghèo trƣờng làng tên Thân. Nhƣng do
nhà nghèo, mẹ chết, bố ốm nặng, cô phải lấy lẽ một gã nhà giàu tên là
Hƣơng Hoạch để gán nợ. Không chịu nổi sự độc ác của vợ cả, Muống, nhờ
sự giúp đỡ của chúng bạn, bỏ nhà trốn ra Hải Phòng, hy vọng tìm đƣợc
Thân đã chuyển đi dạy học ở đó.
Đoạn thứ hai: Muống đi Quán Nải tìm Thân, nhƣng không gặp. Bơ
vơ, không nơi nƣơng tựa, cô phải lấy Bếp Giống. Bếp Giống rất thƣơng
yêu vợ con, nhƣng là một gã tay chơi anh chị chuyên rƣợu chè, cờ bạc,
chạy hàng lậu, nên gia đình sống trong tình trạng bấp bênh, nguy hiểm. Sự
làm ăn của Bếp Giống ngày càng khó khăn, đến lúc sức tàn lực kiệt, con
ốm không thuốc thang, hắn phải làm hợp đồng đi phu sang Lào để có món
tiền đem về nhà. Nhƣng chƣa kịp đi thì Bếp Giống đã chết, để lại con thơ
vợ dại trong cảnh tuyệt vọng. Tuy nhiên, tác phẩm có kết cấu có phần lỏng
lẻo, chủ đề dƣờng nhƣ chƣa đƣợc xác định rõ rệt.
Với Buổi chiều xám, kết cấu đƣợc nhà văn xây dựng hết sức đơn
giản. Chỉ là: “Cái không khí u uất về chiều này! Cái cảnh tượng nhợt nhạt
của chiến tranh này! Cái hoang mang của sự sống qua những đói rét, tàn
phá và chết này” [30, 373]. Cái cảm xúc đau buồn ấy xuất phát từ hình ảnh
cả quê hƣơng đang ngập trong gót giầy quân xâm lƣợc Phát xít Nhật “Đó là
chiếc xe của quân đội Nhật lù lù như một con voi” trong số những tên lính
30
ấy có một “tên lính hình thù rất lạ”, “hai con mắt rất sáng, rất tợn”, “râu
ria xồm xoàm” – “Một con khỉ độc!”. Trong con mắt của Xan tên lính Nhật
trông thật dữ tợn, bởi bộ dạng bên ngoài và bởi thái độ, hành động kì quặc.
Khi thấy ngƣời vú em bế một đứa bé trai ra, ngay lập tức tên lính Nhật
“bỗng quẳng súng lên mặt hòm nước, nhảy bịch xuống đất, xồ đến người
đàn bà, hai cánh tay lông lá đưa ra như sắp ôm lấy. Người đàn bà rú lên,
quay ngoắt đi. Khủng khiếp vì cái hình thù quái đản ấy, đứa bé cũng choé
lên một tiếng rồi nhắm mắt lại, gục mặt xuống vai người bế” [30, 375].
Trƣớc tình cảnh ấy Xan lo lắng, Xan đã nguyền rủa những kẻ đi xâm lƣợc
thật dã man khi cƣớp nƣớc lại còn định dở những trò bỉ ổi, đê hèn với ngƣời
phụ nữ đáng thƣơng. Xan căm phẫn muốn hét lên vào mặt chúng: “ Khốn
nạn!.. Khốn nạn!... Sự khốn nạn đã đến tột cùng rồi. Đi bắn giết người, đi
cướp đất người, đi bóc lột của cải, vơ vét thóc gạo trong khi mùa màng mất
và sự đói kém tàn hại sinh linh chưa đủ, lại còn hãm hiếp đàn bà một cách
công nhiên nữa”. [30, 376]. Xan lo lắng theo dõi từng hành động của “con
khỉ đột” và khi hắn lại gần “Một tay hắn níu lấy cánh tay bế em của người
vú, một tay hắn vẫy vẫy đứa bé mà hắn ghé hẳn mặt nó vào mặt hắn, vừa
nháy mắt, vừa gật đầu, khẩn khoản ra hiệu với đứa bé đừng sợ gì nữa, hãy
theo hắn bế ẵm” [30, 357]. Xan đã trút đƣợc nỗi lo âu khi nhận ra bản chất,
tâm hồn của một ngƣời cha khi phải sống xa gia đình, xa đứa con trai. Giá trị
nhân văn của văn bản nằm ngay ở tình phụ tử. Ngƣời cha dù làm lính đi xâm
lƣợc nhƣng nỗi nhớ con vẫn da diết cồn cào. Hành động ôm hôn đứa trẻ của
“con khỉ độc” cũng chính là hành động tố cáo gay gắt chiến tranh, cuộc
chiến tranh xâm lƣợc Việt Nam. Chiến tranh là sự chia cắt, là nỗi mất mát, là
sự thƣơng tổn trực tiếp cho mỗi gia đình dù cuộc chiến ấy diễn ra ở đâu. Từ
những hình ảnh ấy, Xan đã nhận ra “một ánh sáng khác, một bầu trời khác”
Xan đã có những suy nghĩ khác về tình ngƣời, về hiện thực của chiến tranh.
Kết thúc truyện là câu chuyện mà Xan nghe kể, câu chuyện với những hình
ảnh gợi niềm xót thƣơng và ám ảnh trong lòng Xan . Đó là câu chuyện tƣởng
31
chừng rất đỗi bình thƣờng khi có hai ngƣời lính một ngƣời còn trẻ, một
ngƣời đã già vào gọi cà phê “Y móc trong aó ra một bức thư, một tấm hình
và một con búp bê nhỏ. Y đặt tất cả lên bàn,. mếu máo nhìn rồi khóc nức nở.
Xem bức thư, ngắm tấm hình và mân mê thứ đồ chơi của trẻ con nọ” [30,
381]. Và điều không ai ngờ tới là: “Đoàng...Đoàng...Hai tiếng súng vang
lên. Mọi người đều kinh hoàng. Người lính rút súng lục của viên quan ra
lúc nào không biết ghé vào thái dương mình bóp cò. Viên quan nhanh mắt
giằng được súng. Người lính già liền tuốt vội lưỡi lê, chạy vụt ra chỗ khác
mà tự rạch nát cổ và xỉa be bét vào ngực mình, viên quan trẻ tự bắn, chết
gục xuống bên cái thây sũng máu của người lính già tuỳ tùng” [30, 373].
Giây phút kinh hoàng diễn ra và hơn ai hết Xan đã hiểu ngọn ngành câu
chuyện, Xan bất chợt nhận ra “Cái hình thù dày bè bè và cái bộ mặt râu ria
xồm xoàm, mắt quăm quắm của tên lính mà Xan đã gặp” [30, 374], anh
nhận ra tên lính Nhật và nhớ lại hình ảnh “hai cánh tay lông lá thú vật ấy
giơ ra đón đứa bé bụ bẫm, và cả cái mũi, cái miệng râu ria che kín của hắn
cứ rít vào tay, vào trán, vào má, vào đùi, nhất là vào háng, vào dái đứa bé”
hình ảnh tên lính kì quái - ngƣời cha với tình yêu thƣơng con da diết, với
nỗi nhớ cồn cào vò xé trái tim đã in đậm trong suy nghĩ của Xan. Ngƣời
cha ấy khi bế đứa bé chắc đã hình dung, tƣởng tƣợng về đứa con yêu dấu
của mình nơi quê hƣơng xa xôi với tình yêu thƣơng đằm thắm “đã ôm ấp,
hôn hít lần cuối cùng rồi dứt ruột ra đi”. Cuộc chiến tranh xâm lƣợc ngoài
ý muốn của những ngƣời dân lƣơng thiện là tiếng nói tố cáo chiến tranh, là
sự phản ứng quyết liệt của con ngƣời. Giá trị nhân bản nằm trong phần kết
thúc đặc sắc này. Ngƣời cha đã tự kết liễu cuộc sống của mình bởi không
biết chiến tranh sẽ tồn tại bao lâu “Ba năm, năm năm, mười năm rồi! Hay
lâu hơn nữa cũng nên... với một người đã bị chiến tranh lôi đi không còn
biết tới đâu, không còn biết đến bao giờ, mà cả dân tộc của bọn đi xâm
chiếm và dân tộc bị xâm chiếm, đều ê chề, tàn hại” [30, 377]. Ngƣời cha ấy
đã chết “chết vì buồn nhớ, chán nản và đau khổ” [30, 378], cái chết là sự
32
minh chứng cho tình yêu thƣơng con, là sự phản ứng những cuộc chiến
tranh xâm lƣợc. Với lối kết cấu theo mạch diến biến của câu chuyện, truyện
đã dẫn dắt ngƣời đọc theo một trình tự tự nhiên và kết thúc bất ngờ.
Truyện có kết cấu tuyến tính thƣờng dễ đọc, dễ hiểu, nhƣng cũng dễ
trở nên nhàm chán. Bởi vậy các tác phẩm của Nguyên Hồng nhiều khi
không tạo đƣợc sự ám ảnh lâu dài, có những tác phẩm ngƣời đọc dễ lãng
quên bởi lối kết cấu đơn giản này.
1.2. Kết cấu theo mạch phát triển tâm lí
Kết cấu vòng tròn, đây là kiểu kết cấu thông dụng sau kết cấu tuyến
tính. Câu chuyện thƣờng đƣợc kể theo trình tự : hiện tại – quá khứ – hiện tại.
Tuy nhiên cũng theo kiểu kết cấu này nhƣng nhà văn đã lấy điểm “đắt” nhất
trong truyện để làm giao điểm vòng tròn. Nhà văn Nguyên Hồng đã xây
dựng một số văn bản theo lối kết cấu này Bỉ vỏ; Sông máu, Hơi thở tàn...
Trong Bỉ vỏ nhà văn đã theo dõi quá trình phát triển tâm lí của nhân
vật Bính từ một cô gái quê hiền lành trở thành một “bỉ vỏ” chuyên nghiệp.
Nguyên Hồng đã trình bày thành công mối quan hệ biện chứng giữa tính ổn
định và tính biến đổi trong tính cách Tám Bính. Tác phẩm đƣợc xây dựng
không cầu kỳ, số lƣợng nhân vật tham gia không nhiều, tác giả chủ yếu đã
tập trung xây dựng nhân vật Tám Bính, nhân vật trung tâm của tác phẩm và
theo dõi những diễn biến tâm lý của Bính rất sát sao và tài tình. Từ một cô
gái ngây thơ, chân chất mộc mạc do hoàn cảnh xô đẩy Bính đã trở thành
một cô gái lăn lóc trong đám bùn nhơ của nhà chứa rồi trở thành một “bỉ
vỏ” với những mánh lới tinh ranh của cái xã hội dƣới đáy tù túng. Bính
buộc phải hoà nhập vào cuộc sống của đám trộm cắp, lƣu manh, đã lấy
Năm Sài Gòn – một tên trùm tƣớng cƣớp và nghiễm nhiên Bính cũng trở
thành một kẻ trộm cắp chuyên nghiệp với nghề ăn cắp dọc ngang trên tàu.
Môi trƣờng vùi dập và xô đẩy, Bính buộc phải lăn lộn vào chốn ô hợp của
xã hội thị dân, thành trộm cắp, đĩ điếm nhƣng mỗi lần phạm một tội ác là
lƣơng tâm Bính lại bị dằn vặt, khổ sở. Bính sống trong môi trƣờng ấy
33
nhƣng tâm hồn không hề tha hoá, Bính vẫn tìm thời cơ để cảm hoá Năm đi
theo con đƣờng lƣơng thiện. Với Bính chấp nhận cuộc sống ấy nhƣng vẫn
luôn khát khao vẫn luôn nghĩ đến một ngày gột rửa sạch bụi bẩn để trở lại
làm ngƣời lƣơng thiện. Ƣớc mong đƣợc thay đổi ấy tựa nhƣ ngọn lửa âm ỉ
trong lòng Bính, khi Bính vẫn có một niềm tin cháy bỏng đang hằng ngày,
hằng giờ thôi thúc là đƣợc trở lại gặp đứa con thơ mà Bính đã phải dứt bỏ
cho đi. Đây là động lực, là sức sống trong mọi hoàn cảnh để Bính vƣơn lên
tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. Bên cạnh một Năm Sài Gòn hung ác, lạnh
lùng là một Tám Bính với tâm hồn còn những nét thanh sạch, lƣơng thiện,
thậm chí rất cao đẹp. Hình tƣợng nhân vật Bính vừa đáng thƣơng vừa đáng
trân trọng. Nhà văn nhƣ hoá thân vào nhân vật để thấu hiểu nỗi đau đớn
trong mọi hoàn cảnh với đủ các sắc thái tâm trạng của một con ngƣời càng
bị vùi lấp càng cố vƣơn lên.
Với “Sông máu”, từ một hiện thực về cuộc sông mƣu sinh đầy gian
khổ, chị Năng buộc lòng phải nhận chở một chuyến hàng lậu. Cũng từ
chuyến hàng này chị nhớ lại chuyến hàng định mệnh khi xƣa khi nó đã
cƣớp đi sinh mệnh của ngƣời chồng chị. Chị đã nhớ lại toàn bộ câu chuyện
hãi hùng đó và từ chính câu chuyện của cuộc đời mình, thân phận mình chị
đã quyết dứt bỏ con đƣờng đầy nguy hiểm. Với lối kết cấu vòng tròn, nhà
văn đã dõi theo những diễn biến tâm lí của nhân vật và cách giải quyết vấn
đề rất phù hợp với nỗi ám ảnh tâm lí của con ngƣời, lời nhắc nhở của anh
Năng nhƣng cũng là lời tự nhủ đối với chị :
“- Phải về thôi! Bỏ hẳn nghề này thôi!” [30, 157].
Với lối kết cấu theo mạch phát triển tâm lí, nhà văn nhƣ hoá thân vào
nhân vật, trăn trở, day dứt với những giằng xé của nội tâm nhân vật. Lối kết
cấu này tạo sự ám ảnh trong lòng ngƣời qua diến biến tâm lí phức tạp của
nhân vật. Cách điễn tả và phân tích tâm lý nhân vật gợi cảm giác nhƣ nhà
văn chính là ngƣời trong cuộc, đau nỗi đau của nhân vật bởi vậy tác phẩm
34
gây xúc động trong lòng độc giả.
1.3. Kết cấu đảo lộn trật tự trần thuật
Truyện có kết cấu đảo ngƣợc thƣờng mở đầu bằng tình huống kết
truyện, tiếp đến là những sự kiện dẫn dắt lần lƣợt trở về tình huống đầu tiên
và cũng là chỉ rõ nguyên nhân của kết truyện. Với lối kết cấu này thƣờng
hấp dẫn bởi chiến thuật khơi gợi trí tò mò của độc giả. Đứng trƣớc một sự
kiện lạ mở đầu câu chuyện, ngƣời đọc không thể không đặt câu hỏi
“chuyện gì đã xảy ra?” để rồi chăm chú theo dõi các sự kiện tình tiết trong
truyện mong tìm ra câu trả lời.
Truyện ngắn “Linh Hồn” là sự hồi tƣởng, ngƣợc dòng thời gian về
quá khứ “Cái năm ấy đã qua lâu rồi” [30, 128] để rồi là dòng hồi tƣởng về
thân phận tủi nhục trong một khoảng thời gian đã xa của nhân vật Hai mƣơi
hai. Nhân vật bị đẩy vào một tình thế đầy bi kịch, cái tình thế đã giết chết
tâm hồn, giết chết khát vọng, giết chết đứa con khi nó chƣa kịp cất lên tiếng
khóc chào đời, là nỗi khiếp sợ ám ảnh suốt cuộc đời. Ngƣời vợ ngoan hiền
ấy bị đặt vào một tình thế éo le, phải đi tù thay chồng khi đang bụng mang
dạ chửa sắp đến ngày sinh nở và hơn nữa cái vẻ đẹp đàn bà thiên phú ở
nhân vật nhiều khi là hiểm hoạ khôn lƣờng: “Cái khuôn mặt ấy lại hiển
hiện trước mắt Cai Năm – cái khuôn mặt dịu dàng long lanh, đôi mắt lờ đờ,
u ẩn không biết bao nhiêu tình tứ
Năm Béo mím môi, nắm chặt bàn tay trái đấm thật mạnh vào lòng
bàn tay phải. Cử chỉ đó tỏ rằng tâm trí Cai Năm bị một sự ao ước, thèm
muốn kích thích đến cực điểm. Sắc đẹp của Hai mươi hai trong cảnh tù tội
bó buộc, kham khổ đã hoàn toàn huyễn hoặc Năm, khiến Năm say mê,
khiến Năm sôi nổi, không sao nén được lửa dục tình” [30, 213]. Thói dâm
ô, cộng với quyền uy của kẻ đề lao đã thôi thúc hắn phải thực hiện bằng
đƣợc nhục dục đê hèn. Khát vọng thôi thúc hắn thực hiện bằng đƣợc ham
muốn chiếm hữu thân xác Hai mƣơi hai dù biết rằng nàng đang bụng mang
dạ chửa: “ Với tiền bạc. Năm quyết dùng để mua lấy những phút khoái lạc
35
mà xưa nay cái người tù nào có diễm phúc, có oai quyền, mới được hưởng
trong tù” [30, 213]. Với cách giới thiệu nhân vật và diễn biến câu chuyện,
ban đầu ngƣời đọc dƣờng nhƣ chỉ nhận ra cái hiểm hoạ ngẫu nhiên của một
con thú hoang dâm vô độ đến với ngƣời đàn bà đẹp mà đâu biết rằng ngƣời
phải chịu nhục hình của thói đểu giả ấy là ngƣời đàn bà bụng mang dạ chửa
chỉ “ Còn non nửa tháng nữa là tới kì sinh nở”[30, 214] đã bị rơi vào vòng
cạm bẫy của con mãnh thú khát máu. Hai mƣơi hai dù biết rơi vào bế tắc
nhƣng vẫn một lòng cƣơng quyết “Chết thì chết! Không khi nào chịu nhơ
nhuốc ấy” [30, 215]. Ngƣời đàn bà đức hạnh đã kiên quyết giữ gìn phẩm
giá, chối bỏ những dục vọng thấp hèn, kiên quyết không chấp nhận sự bỉ ổi
dùng tiền bạc để mua chuộc. Ngƣời đàn bà dù đang mang trong mình một
“linh hồn” bé bỏng vẫn chịu thay chồng cái án oan nghiệt “nhà đoan hai lần
khám thấy rượu lậu trong nhà, nàng đi chịu tám tháng tù thay chồng giữa
lúc nàng bụng mang dạ chửa ” [30, 215]. Bên cạnh nỗi khổ cực, vất vả của
cuộc sống tù đày ngƣời vợ ấy còn nơm nớp lo sợ bảo vệ bản thân, nhân
phẩm để khỏi thất tiết với chồng, hơn thế nữa là ngƣời mẹ luôn lo lắng bảo
vệ cho một sinh linh vô cùng bé bỏng nhƣng rất đỗi thiêng liêng còn đang
trong bụng. Tuy nhiên, “ Hai mươi hai nhận thấy tất cả mọi nỗi yếu hèn lạnh
lẽo của tấm thân vừa yếu đuối vừa nghèo nàn trong nơi tù ngục, không ai
che chở” [30, 216]. Nỗi sợ hãi mơ hồ của Hai mƣơi hai đã trở thành hiện
thực khi rắp tâm của Cai Năm đang thƣờng trực trong máu của kẻ đê tiện.
Không dùng uy, dùng tiền đƣợc hắn đã dùng sức mạnh của con mãnh thú để
hãm hiếp ngƣời đàn bà yếu đuối: “Nàng chực la lên, nhưng chưa kịp mở
miệng, đã bị Năm bóp chặt cổ, dằn ngửa xuống sàn gỗ. Nàng hết sức kháng
cự nhưng hai bàn tay Năm cứng như sắt” [30, 216]. Hắn đã bỏ ngoài tai bỏ
mặc tiếng khóc lóc và lời van lơn của nàng “xin buông tôi ra! Khổ tôi lắm!
Tôi bụng mang dạ chửa!”, lời khẩn cầu của Hai mƣơi hai không đƣợc để ý.
Không thèm đếm xỉa đến những lời van xin, không thèm biết đến nguy hiểm
sẽ đến với Hai mƣơi hai, hắn nhƣ một con mãnh thú say mồi phải chiếm đoạt
36
bằng đƣợc khát vọng. Dục vọng của con quỷ dữ đã chiến thắng và ngƣời mẹ
đáng thƣơng tội nghiệp ấy đã không giữ nổi đứa con còn nằm trong bụng
mình. Lời kết tội nằm ở cuối thiên truyện thật đau xót.
Với lối kết cấu đảo ngƣợc, câu chuyện thƣờng bắt đầu từ một sự kiện
quan trọng mang tính quyết định nội dung tƣ tƣởng.
Qua lối kết cấu đảo ngƣợc, văn bản hấp dẫn ngƣời đọc ở sự cuốn hút
của câu chuyện trong việc theo dõi các sự kiện, tình tiết diễn biến của
truyện. Ngƣời đọc nhƣ hoà nhập vào, cùng quay ngƣợc dòng thời gian để
cùng tìm hiểu các biến cố, theo dõi quá trình diễn tiến của câu chuyện
1.4.Kết cấu lắp ghép:
Với lối kết cấu này văn bản không tuân theo một qui luật định sẵn.
Tác phẩm giống nhƣ một bức tranh đƣợc ghép bởi nhiều mảnh khác nhau,
mỗi mảnh là một phần của câu chuyện theo kiểu “xếp hình tìm ý”. Đây là
lối kết cấu có tính chất nhiều tuyến, nhiều bình diện, sự luân phiên giữa
những cảnh khác nhau, sự đan chéo các sự kiện, tình tiết. Tiêu biểu cho lối
kết cấu này là tác phẩm Đây bóng tối... Với văn bản “Đây bóng tối”
đƣợc bắt đầu bằng sự hồi tƣởng của Nhân về tuổi thơ với “Hình ảnh Mũn
mãi in sâu trong trí nhớ” [30, 158] đó là những kỉ niệm, kí ức tƣơi đẹp
không thể phai mờ cùng với cô bạn nhỏ. Nhân đã từng coi Mũn nhƣ một vị
“cứu tinh” khi Nhân rơi vào hoàn cảnh trớ trêu trƣớc sự cƣời cợt của mọi
ngƣời, tình thế của Nhân đã làm thành trò cƣời cho thiên hạ khi cái dây
quần bị đứt, hai tay Nhân đang phải cầm hai bát thức ăn. Trƣớc tình cảnh
ấy Mũn đã không ngần ngại túm lấy cạp quần Nhân và cùng Nhân bƣớc đi
trong sự cƣời cợt, chế giễu của mọi ngƣời. Nhân thầm cám ơn Mũn về cái
tình của Mũn đã dành cho Nhân trong tình thế đầy kịch tính và cảm động
trƣớc hành động của ngƣời bạn nghèo.Tình thế ấy đã đƣa Nhân đến gần
Mũn hơn, Nhân hiểu hơn hoàn cảnh của Mũn. Mũn đã từng vất vả với cuộc
mƣu sinh, mồ côi cha mẹ không nơi nƣơng tựa, Mũn đành chấp nhận việc
dắt thuê cho bà lão ăn mày để kiếm miếng cơm ăn và trong Mũn cái tình
37
của Nhân với miếng thịt ngậm trong mồm mang ra cho Mũn đã làm Mũn
cảm động bởi đó nhƣ là sự ban ơn. Với Nhân: “Mũn là một người đàn bà,
một người bạn chịu mọi sự cùng khổ đau đớn với Nhân trong mười ba năm,
phải đúng mười ba năm ở những nơi nhớp nháp, kinh tởm riêng biệt cho
những người cùng khổ” [30, 158]. Nhƣng trong cuộc mƣu sinh mỗi ngƣời
đi theo một đời sống riêng, hoàn cảnh của Nhân và Mũn có sự thay đổi
“Mũn đi một ngả. Nhân đi một ngả” [30, 160], nhƣng rồi nhƣ số phận đã
xếp đặt Nhân gặp lại Mũn trong một hoàn cảnh ngẫu nhiên, khi Nhân đi
làm ăn tại Hà Đông. Sau những tháng ngày xa cách Nhân phải vất vả kiếm
sống, Mũn cũng phải tự mình bƣơn trải làm ăn, bởi vậy khi hai ngƣời gặp
lại nhau vừa mừng vừa vui nhƣng cũng đã làm Nhân vô cùng ngạc
nhiên:“Mũn trông lạ hẳn đi”, “Mũn phát đạt, sang trọng”, một cô bé Mũn
ngày xƣa rách rƣới, khổ sở, bẩn thỉu giờ trong trang phục “chiếc quần nái
mới, chiếc áo the mịn đổi vai, đôi vòng khuyên vàng lấp lánh dưới nếp
khăn vuông đen mượt” [30, 161]. Mũn đã thành một thiếu nữ đẹp, ý tứ,
duyên dáng và đặc biệt trong trang phục sang trọng làm Nhân không khỏi
nghi ngại về hoàn cảnh của riêng mình. Mũn thay đổi, Nhân cũng thay đổi,
nếu trƣớc đây Nhân luôn dành cho Mũn những miếng thịt dấu gia đình
ngậm trong mồm để chia xẻ cho Mũn thì nay dƣờng nhƣ vị thế đổi ngôi
nên Nhân e dè, ngại ngùng. Nhƣng chính cụôc gặp gỡ bất ngờ cùng kỉ niệm
ấu thơ không thể nào quên, lòng cảm thông, thƣơng cảm đã giúp họ đến với
nhau trong tình yêu thƣơng chồng vợ: “Trong cảnh nghèo nàn, hai người
vui vẻ với cái hạnh phúc bé nhỏ nhưng quý báu của đời họ” [30, 163]. Giá
cuộc sống ấy cứ êm đềm trôi đi! Mũn chịu thƣơng chịu khó, Nhân chăm
chỉ làm lụng. Họ hạnh phúc hơn khi những đứa con ra đời, cuộc sống tuy
có vất vả hơn, nhọc nhằn hơn nhƣng họ đƣợc hạnh phúc bên nhau. Nhƣng
trong cuộc mƣu sinh ấy với đói khát, ốm đau tật bệnh đã hành hạ họ, một
gia đình với bề bộn lo toan, cực khổ hơn khi Nhân sau bao ngày bị bệnh đã
đau đớn tột cùng thốt lên “- Tôi mù rồi! Tôi mù rồi! Mình ơi” [30, 164].
38
tiếng kêu của kiếp ngƣời từ đáy sâu lầm than cơ cực “Rồi không thể nén
được chua xót, Nhân ôm ngực, ngã gục xuống giường, Nhân thiếp đi trong
tiếng vợ con khóc như ri” [30, 164] Trƣớc nỗi thống khổ của kiếp ngƣời
bất hạnh, nhà văn cũng không nén đƣợc cảm xúc, kêu lên tiếng kêu tuỵêt
vọng“Sao lại có thể như thế được? Sao lại có thể khốn nạn đau đớn cho
hai người ấy như thế được? Sao hai người ấy đã cùng khổ mà lại còn phải
chịu nhiều sự cay đắng làm vậy?
Sao chỉ trút lên đầu những kẻ hiền lành chịu khổ như vợ chồng
Nhân những đoạ đày khổ ải? Mà sao cái hạnh phúc bé nhỏ như gây dựng
trên từng vũng mồ hôi, vũng nước mắt của vợ chồng Nhân lại chóng bị tàn
phá đi? ” [30, 164]. Sau những ngày cơ cực, Mũn hiểu và nhận ra rằng
mình chính là chỗ dựa duy nhất cho chồng, cho con. Mũn đã cố gắng làm
lụng không kể ngày đêm vất vả lăn lộn và hơn thế Mũn biết làm cho cuộc
sống tƣơi vui lên, làm cho Nhân “Dần dần quên hẳn sự đau đớn đui mù.
Lòng hy sinh của Mũn, sự thương mến của đàn con ríu rít đã làm mất hẳn
những tư tưởng hắc ám thường thì thầm xúi giục Nhân tìm cách chết đi để
Mũn nhẹ một gánh nặng trên vai. Không những thế, trong tình thương yêu
ấy, Nhân còn cảm thấy đời vui vẻ, Nhân ham thích sống, sống để làm
chồng một người đàn bà yếu đuối nhưng can đảm, để làm cha một bầy con
lúc nào cũng nhởn nhơ vui cười” [30, 165]. Tình yêu thƣơng của Mũn, ánh
sáng của cuộc sống đã cho Nhân niềm tin và niềm vui, khát khao đƣợc
sống mà quên đi nỗi đau của thể xác, quên đi sự đui mù của bản thân.
Nhƣng cuộc sống cay cực đã không buông tha gia đình Nhân, năm cái
miệng ăn trông chờ vào đôi bàn tay Mũn xoay sở, ngƣời đàn bà vì “ sự yên
vui trong gia đình mà Mũn phải chịu nhiều sự ức hiếp khổ sở quá. Nàng
như một tấm lá chắn đỡ lấy trăm nghìn mũi tên sắc nhọn để che chở cho
chồng con được vẹn toàn” [30, 165]. Trong cuộc mƣu sinh đầy khốc liệt ấy
Mũn đã phải dành giật trong cuộc tranh mua tranh bán khổ sở, Mũn đã phải
đƣơng đầu với biết bao nguy hiểm và cái thảm kịch không tránh khỏi đó là
39
một lần đi bán bánh Mũn đã phải trả giá bằng chính mạng sống của bản
thân, cuộc giao tranh đã giết chết Mũn trong một lần; “ Tàu đã súp lê lần
thứ ba, đã kéo neo, gần chạy rồi mà Mũn còn tranh nhau bán bánh. Người
bán cao lâu ở tàu thấy thế bèn đẩy Mũn ra ngoài. Giữa lúc đó một bọn soát
vé chợ đương hò hét gọi những người bán hàng khác Mũn dùng dằng không
muốn lên bờ. Người bán hàng ở tàu cáu tiết, cầm cả mâm bánh liệng xuống
phà. Mũn phải vội chạy theo, trượt chân, ngã nhào xuống sông. Nước chảy
mạnh, người ta cố công tìm vớt mà chưa thấy xác” [30, 166]. Cuộc mƣu sinh
đầy bất trắc, giữa sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc và ai ngờ đƣợc thảm
kịch ấy lại rơi đúng vào hoàn cảnh gia đình Mũn. Cái cực đã đẩy con ngƣời
tới tận cùng của sự tàn khốc. Việc Mũn nhảy theo cố vớt lấy mâm bánh để
phải đổi lấy cái chết thê thảm, chết mất xác, điều này đã khẳng định tình yêu
thƣơng sâu nặng của ngƣời vợ tần tảo, giàu lòng hy sinh. Mũn đã hy sinh
bản thân mình với hy vọng cứu đƣợc cuộc sống đang hằng ngày hành hạ, đói
khát, bệnh tật của chồng con nhƣng sự hy sinh của Mũn là sự trả giá bằng cái
chết tức tƣởi. Đối với Nhân “Mũn chết! Thế là hết! Đời cha con Nhân thế là
hết chỗ nương tựa...hết cả mọi sự yên vui, mọi ánh sáng, mọi hơi sưởi ấm!”
[30, 166] bởi với đôi mắt đui mù Nhân không biết phải làm gì ngoài việc
phải “lê la nay xó chợ này, mai xó chợ khác, hết ở dưới những mái hiên
trong các phố vắng vẻ thì lại nằm vạ vật ở gầm cầu, bãi cát, bờ sông” để đi
“ăm mày” một “cái nghề cùng mạt” [30, 168]. Hoàn cảnh thƣơng tâm đã xô
đẩy gia đình Nhân đến bên bờ vực thẳm. Bế tắc và cùng cực.
Với những mảnh chuyện đan xen nhà văn đã xây dƣng đƣợc một
kết cấu logíc về cuộc đời về thân phận nhân vật, về những số phận bất
hạnh, cơ cực qua những mảnh ghép khác nhau. Nhân vật bị dồn đẩy vào
bƣớc đƣờng cùng tạo nên những bi kịch đầy xót xa, đau đớn. Nhƣng đằng
sau những bi kịch ấy vẫn là những tấm lòng nhân hậu sáng chói, thể hiện
cái nhìn nhân bản của nhà văn. Với lối xây dựng kết cấu kiểu này, nhân vật
của Nguyên Hồng dù bị hoàn cảnh xã hội xô đẩy, có nhiều sự thay đổi
40
nhƣng họ vẫn không quên đƣợc nghĩa tình sâu đậm của tình ngƣời. Mũn
gặp lại Nhân trong thế đối lập với cuộc sống thuở ấu thơ, nhƣng chính kỉ
niệm thuở ấu thơ đã kéo xích họ lại với nhau trong tình yêu thƣơng. Họ
không chỉ sống với nhau bằng tình mà còn bằng nghĩa. Đây là điểm nhìn
lạc quan, tin tƣởng của nhà văn. Trong cuộc sống dù tối tăm cơ cực nhƣng
nhân vật trong tác phẩm của Nguyên Hồng vẫn muốn vƣơn lên tìm sự
sống. Đây là cái nhìn đôn hậu, là tinh thần lạc quan của nhà văn đã thấm
sâu vào từng trang viết. Điều này đã góp phần khẳng định: Kết cấu có vai
trò quan trong trong việc thể hiện tƣ tƣởng chủ đề của văn bản.
2.NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN
2.1. Cốt truyện:
Khi sáng tác một tác phẩm văn chƣơng, điều gây không ít khó khăn
cho nhà văn, đó là cốt truyện. Bởi cốt truyện giúp ngƣời đọc hình dung ra
nội dung câu chuyện mà nhà văn cần truyền tải. Ngƣời viết có thể xây dựng
đƣợc tƣ tƣởng chủ đề, hình thành ra các tuyến nhân vật, tìm bối cảnh và lựa
chọn đối thoại...nhƣng tất cả những điều ấy chƣa đủ để dẫn dắt nó đi đến
một kết thúc vừa ý mà nhà văn cần phải xây dựng một cốt truyện cho phù
hợp. Tác phẩm cần cốt truyện nhƣ cơ thể cần bộ xƣơng vậy. E.M.Forster
từng viết: “Truyện là sự trần thuật về một chuỗi sự kiện được sắp xếp theo
một trình tự thời gian nào đó. Một cốt truyện cũng là sự trần thuật về chuỗi
sự kiện, nhưng điểm nhấn rơi vào quan hệ nhân quả”. Quan điểm này đã
mở ra sự khác biệt giữa trần thuật – cách truyền tải, sắp xếp sự kiện và bản
thân truyện. Một cốt truyện thành công thƣờng hàm chứa những yếu tố bất
ngờ và độc đáo.
Cốt truyện: Là hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư
tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất
trong hình thức của tác phẩm văn học.
Cốt truyện có vai trò quan trọng trong việc làm nòng cốt cho sự diễn
biến các mối quan hệ và sự phát triển của tính cách nhân vật trong tác phẩm
41
văn học loại tự sự. Có thể tìm thấy qua một cốt truyện hai phƣơng diện gắn
bó hữu cơ: một mặt cốt truyện là một phƣơng tiện bộc lộ tính cách, nhờ cốt
truyện nhà văn tái hiện sự tác động qua lại giữa các tính cách; mặt khác,
cốt truyện còn là phƣơng tiện dể nhà văn tái hiện các xung đột xã hội. Cốt
truyện vừa góp phần bộc lộ có hiệu quả đặc điểm mỗi tính cách, tổ chức tốt
hệ thống tính cách, lại vừa trình bày một hệ thống sự kiện phản ánh chân
thực xung đột xã hội, có sức mạnh lôi cuốn và hấp dẫn ngƣời đọc. Cốt
truyện là một hiện tƣợng phức tạp. Trong thực tế văn học, cốt truyện các
tác phẩm hết sức đa dạng, kết tinh truyền thống văn học của mỗi dân tộc,
phản ánh những thành tựu văn học của mỗi thời kì lịch sử, thể hiện phong
cách, tài năng của nhà văn. Cốt truyện là hệ thống cụ thể những sự kiện và
hành động trong một tác phẩm, hệ thống đó bộc lộ các tính cách trong
những mối quan hệ và tác động qua lại dƣới sự chỉ đạo của một tƣ tƣởng
chủ đề nhất định. Cốt truyện dƣờng nhƣ có ba nhiệm vụ chủ yếu. Nó phải
là một phƣơng tiện để bộc lộ tính cách của các nhân vật. Nó phải phản ánh
đƣợc những mâu thuẫn và xung đột của hoàn cảnh xã hội mà nhà văn miêu
tả. Nó phải giúp cho tƣ tƣởng chủ đề và nội dung nghệ thuật có điều kiện
bộc lộ ra một cách đầy đủ nhất trong tác phẩm. Nếu nhƣ kết cấu là biểu
hiện của tính hình thức thì cốt truyện là sự truyền tải nội dung câu chuyện
mà nhà văn muốn gửi gắm tƣ tƣởng đến độc giả. Một nhà lí luận đã từng
nói: “Những kết luận khoa học nhƣ những thỏi vàng chỉ lƣu hành trong
những phạm vi nhỏ hẹp, còn tri thức từ các tác phẩm văn học nhƣ những
đồng tiền nhỏ dễ dàng lƣu thông, len lỏi đến với mọi ngƣời”. Tri thức ở đây
là tƣ tƣởng đƣợc nhà văn gửi gắm trong tác phẩm và để truyền tải tƣ tƣởng
này đó là cốt truyện. Đó chính là những tri thức cuộc sống đƣợc nhà văn
dẫn dắt chúng ta hiểu rõ vấn đề, văn học nghệ thuật tác động trực tiếp đến
con ngƣời, nâng cao khả năng nhận biết của con ngƣời về những vấn đề
trong cuộc sống. Với những kết luận của các nhà khoa học chỉ giới hạn
trong sự tìm hiểu của những ngƣời có mối quan tâm thì kết thúc của một
42
tác phẩm văn chƣơng đã đem lại sự chiêm nghiệm suy ngẫm đối với độc
giả. Trong sự nghiệp sáng tác của Nguyên Hồng nhà văn đã sử dụng nhiều
loại cốt truyện rất linh hoạt khi xây dựng các tác phẩm văn xuôi. Cách vận
dụng nhiều loại cốt truyện này đã tạo nên sức hấp dẫn của văn bản, sự
phong phú, đa dạng của nghệ thuật trần thuật trong văn xuôi Nguyên Hồng
trƣớc Cách mạng tháng Tám.
2.2. Cốt truyện trong sáng tác của Nguyên Hồng
2.2.1 Cốt truyện đơn giản (đơn tuyến)
Cũng có thể gọi đây là kiểu cốt truyện tâm lý do nhà văn dựa phần
lớn vào ký ức của nhân vật hoặc nhấn mạnh vai trò của giấc mơ, của hồi ức
để tổ chức kết cấu tác phẩm. Với lối kết cấu này nhà văn đã sử dụng hết
sức linh hoạt thời gian tự sự, trong đó quá khứ, hiện tại, tƣơng lai đều có
khả năng đồng hiện và những giấc mơ có sức ám ảnh dữ dội đến đƣờng đời
của nhân vật chính
Các tác phẩm Những ngày thơ ấu, Bỉ vỏ, Linh hồn, Quán nải,... là
những cốt truyện đơn giản với mạch truyện thƣờng diễn ra theo trật tự
tuyến tính, sự liền mạch theo trục thẳng tuần tự của thời gian từ quá khứ
sang hiện tại. Thời gian diễn biến của các sự kiện trùng với thời gian của
việc kể chuyện nhƣng câu chuyện cũng đầy ám ảnh.
Với Bỉ vỏ nhà văn đã xây dựng tác phẩm đƣợc phản ánh thông qua
cốt truyện đơn giản không có nhiều tình tiết, nhân vật, biến cố. Thời gian,
không gian đƣợc mở rộng hơn từ nông thôn đến thành thị, nhà máy, bến
tàu, bến xe. Truyện đƣợc xây dựng theo hành trình cuộc đời của nhân vật
Bính từ một cô gái nông thôn chân chất, quê mùa Bính bị mắc vào lƣới tình
với kẻ đồi bại là một ông Tham. Nỗi đau bị ngƣời yêu ruồng rẫy, phụ bạc
cũng không đau đớn bằng chính cha mẹ hắt hủi, lề thói xã hội khinh miệt.
Bính buộc phải tìm con đƣờng tự giải thoát, từ một cô gái ngây thơ, khờ
dại, ngày đầu tiên đặt chân lên mảnh đất phố phƣờng Bính đã bị mắc mƣu
và dấn thân vào cuộc sống thị thành với biết bao cạm bẫy. Ngày đầu tiên
43
cũng là ngày Binh bị đẩy vào những tình thế hết sức nguy hiểm phải tự
chống trả để bảo vệ nhân phẩm. Trong lòng Bính vẫn còn một chút hy vọng
“vẫn tin lời nói của Chung” nên Bính đã ngây thơ đi tìm con ngƣời bội bạc
ấy chốn phồn hoa đô hội để rồi trớc cái vòng đời nhơ nhớp Bính đã tự đƣa
thân vào mà không hề hay biết. Cô gái quê mộc mạc, ngây ngô đã tự đẩy
thân mình vào giữa cái đống cặn bã, giữa cái chốn ăn chơi truỵ lạc, sa đoạ
của đám ông Tham, ông Ký – hệ quả của chế độ thực dân và tự mình trói
tay mình, dẫn thân mình vào nhà chứa và cơ cực và ê chề hơn là bị đổ căn
bệnh xã hội, căn bệnh mà cho đến cuối đời Bính vẫn phải gánh chịu. Bính –
cô gái quê bỗng nhiên trở thành “hạng đĩ lậu ghê gớm” “đĩ trăm thằng,
nghìn thằng” “là một gái chuyên mại dâm không có giấy”. Bính mặc nhiên
trở thành gái nhà “thổ”, trở thành một Tám Bính trong nhà chứa của mụ
Tài – Sế - Cấu. Con đƣờng đầy tủi nhục, Tám Bính đã chịu biết bao nỗi
khổ sở của đám khách làng chơi – rặt những đám lƣu manh thất nghiệp bê
tha – Bính phải sống trong gian buồng tối tăm, chật hẹp bẩn thỉu và nhơ
nhớp của đời gái giang hồ. Đau đớn, xót xa, tủi nhục. Bính tởng tợng đến
một ngày Bính ốm nặng “Mỗi ngày thây một rữa ra, mãi khi bốc hơi thối
và nhung nhúc ròi bọ, hàng xóm mới biết. Người ta vội thuê vài người phu
chợ [18, 47]. đùm Bính trong chiếc khăn cũ rồi đem đi chôn”. Hình ảnh
luôn ám ảnh trong giấc mơ của Bính rất hãi hùng về những cái chết đầy
thƣơng tâm “ Tấm áo quan bằng gỗ mỏng đu đi đu lại, cọ vào chiếc thùng
treo lủng lẳng ở đầu đòn ống làm thành những tiếng kẽo kẹt thay cho tiếng
khóc viếng”. “Cái chết của Bính giống hệt cái chết của hạng người ăn mày
khốn cùng không thân thích chết đường chết chợ”. [18, 47]. Nỗi chua xót
của Bính tràn ngập cả trong lúc thức, lúc ngủ. Nỗi đau trở thành nỗi ám ảnh
trở đi trở lại trong cuộc sống của Bính. Nỗi đau đớn day dứt của Bính là cái
chết trƣớc một thảm cảnh của kẻ giang hồ phiêu bạt. Nhà văn nhƣ hoá thân
vào nhân vật để đau nỗi đau tận cùng của ngời phụ nữ đã bị đẩy xuống đáy
44
bùn nhơ. Dƣới góc độ trần thuật ở ngôi thứ ba, cái nhìn của nhà văn dƣờng
nhƣ khách quan nhƣng thực chất nỗi đau, vò xé ấy lại nhƣ chính cảnh ngộ
của ngƣời trong cuộc bị trà xát nhân phẩm, bị đẩy xuống tận cùng nỗi đau.
Tuy nhiên, nhà văn vẫn tạo cho nhân vật một cơ hội sống, đây là
điều mà ngƣời đọc nhận thấy trong văn Nguyên Hồng con ngƣời dù đau
khổ đến đâu vẫn có niềm tin, vẫn muốn vƣơn lên thoát khỏi những bế tắc.
Bên cạnh cuộc sống tủi nhục của những kẻ chỉ biết tranh giành miếng cơm
manh áo, vẫn có một Hai Liên tình nghĩa và có lòng thƣơng ngƣời. Sự
đồng cảm của Hai Liên đã giúp Bính đứng lên vƣợt qua số phận tủi nhục
của kiếp đời bán thân nuôi miệng. Cuộc gặp gỡ tình duyên của Bính với
Năm Sài Gòn do Hai Liên sắp đặt đã kéo Bính ra khỏi chốn lầu xanh nhơ
nhớp, Bính muốn thay đổi cuộc sống, muốn hoàn lƣơng. Tuy nhiên, sống
trong xã hội đó, trong đám thị dân nghèo khổ và giữa chốn lọc lừa thì ƣớc
mơ của Bính chỉ là ảo vọng. Lấy Năm, đời Bính đã sang trang nhƣng lại là
một trang đời cũng không kém phần tủi nhục. Sau khi thoát khỏi chốn bùn
lầy nhơ nhớp, Bính lại phải náu mình trong thế giới của những kẻ trộm cắp
sừng sỏ, những tay anh chị khét tiếng với nghề chính là “chạy vỏ”. Bính đã
“Cùng Năm Sài Gòn, năm tướng trên kia làm đại biểu cho tụi “anh chị”
càng ngày càng nhiều, càng hung tợn của đất đồng chua nước mặn nọ”.
[18, 49]. Bính gặp Năm dù biết rõ bản chất của Năm nhƣng không thể có
con đƣờng lựa chọn nào khác, Bính buộc phải gắn đời mình vào để hy vọng
có ngày thoát khỏi mọi sự ê chề, và với mong ƣớc lớn lao là đƣợc gặp lại
đứa con. Nhƣng Năm lại là một trùm, một tƣớng trong làng “chạy vỏ”, một
tay anh chị khét tiếng. Năm trở thành một ông trùm bạo ngƣợc với rất
nhiều ngón nghề và thể hiện cái uy quyền ấy “cho ai sống được sống, bắt
ai chết phải chết, bảo tù phải ngồi tù”. Sự tàn nhẫn và khét độc của Năm
làm cho cái xã hội vốn đã hỗn độn lại càng trở nên xô bồ.. Bính đã gắn bó
cuộc đời với Năm và lại tiếp tục bị cuộc sống xô đẩy cho trôi dạt, cho biến
hoá thành kẻ trộm cắp. Bính trở thành ngƣời đàn bà chuyên ăn tiền “bồi”
45
của đám đàn em. Tuy nhiên, từ sâu thẳm tâm hồn Bính vẫn có chút lƣơng
tâm và lƣơng tri. Mặc dù tham gia đầy đủ “chạy vỏ” “chạy dọc” và trở
thành một “Bỉ” Bính “hắc” lắm để đến mức thằng Minh - lũ đàn em của
Năm phải thầm nghĩ “rất sung sướng được thấy một người đàn bà thuỳ mị
như thế sa ngã ” và qua lời Tƣ Lập Lờ nói với Năm “chị ấy bây giờ ghê
gớm lắm anh ạ, chẳng kém anh tý nào. Chưa bao giờ tôi thấy một “bỉ vỏ”
nào “sừng kền” như thế” [18, 48]. Cuộc sống gian hồ không thể tồn tại
mãi. Bởi chính những kẻ lang bạt ấy sẽ tìm cách hại nhau. Bính không phải
ngoại lệ, mối tình chắp nối với Năm, cuộc sống gá nghĩa ấy đã bị chính bản
thân nó tự huỷ hoại. Sau trận thua bạc, sau những ghen tuông ngấm ngầm
Năm đã đuổi Bính đi. Bính trở về Nam Định nhƣng trong lòng vẫn không
nguôi nỗi nhớ Năm, thấm thía về sự cô độc của Năm, nhƣng Bính đã nhất
quyết không trở về quê cũng nhƣ nhất định không trở về sống với Năm.
Bính lại trở về với cuộc mƣu sinh của kẻ gồng thuê gánh mƣớn, trở về
đúng với bản chất và con ngƣời Bính. Cuộc đời Bính sẽ thay đổi, sẽ hoàn
lƣơng nếu không gặp phải những sự trớ trêu. Bính trở về và lại không thể
bỏ gia đình cha mẹ phải vào vòng lao lý. Những ngƣời cha ngƣời mẹ bạc ác
với Bính trƣớc kia, những ngƣời trực tiếp đẩy Bính vào vũng bùn nhơ nhớp
nhƣng phận làm con, hơn nữa với bản tính nhân văn Bính không thể quay
lƣng lại họ trong lúc họ không biết bấu víu vào ai, ngoài Bính. Bính gặp lại
em mừng rỡ và sung sƣớng nhƣng “nỗi lo lắng lại bừng bừng trong tâm
trí” vì thằng Cun tìm Bính để “chạy cho tiền nộp phạt, bằng không sẽ phải
ít ra cũng một năm tù mà còn nhà cửa đất cát sẽ bị mất hết” [18, 50]. Bính
đang trong cơn quẫn bách, thân mình còn đang phải dựa vào Hai Liên lại
gặp cảnh trái ngang lại đành chấp nhận trôi theo số phận “sự chua xót chiều
qua khi Bính liều nhận trăm bạc, món tiền của người mật thám bạn với
chồng Hai Liên bỏ ra cưới Bính cũng về làm lẽ” [18, 51]. Bính đành “liều
lấy lẽ một người có đạo, có vợ, có con” chỉ vì tấn kịch, vì món nợ oan uổng
của gia đình. Cuộc đời cứ xô đẩy Bính, trôi dạt. Làm vợ một mật thám
46
Bính vẫn canh cánh nghĩ về Năm Sài Gòn, vẫn lắng tai nghe theo dõi sự
tình về một kẻ bị tầm nã riết. Thành quả của ngƣời chồng mật thám “được
lên ngạch” là cuộc vây bắt Năm và Bính biết là Năm sẽ lại bị tiếp tục “đi
đày”. Tiếng hát của Năm trong đêm khuya đã gọi dậy tình yêu thƣơng
trong Bính “Tiếng hát bằng cái giọng ngao ngán khi xưa từng bào xé ruột
gan Bính trong những giờ vắng vẻ chán nản ở nhà chứa ấy, cái giọng đục
lờ lờ, thê thảm riêng biệt của hạng gái bán trôn nuôi miệng và hạng giai
“du côn” anh chị “chạy vỏ” ấy, nghe rợn người như một giọng hấp hối,
quằn quại đau thương và tuyệt vọng” [18, 53].. Bính đau xót khi nhận ra
Năm, nhận ra “sự tối tăm nhơ nhuốc của đời Năm, một tên “chạy vỏ” “anh
chị” đến kỳ mạt lộ. Bính tự ai oán trách mình là kẻ tệ bạc, Bính day dứt ân
hận “một năm nay mình êm ấm sung sướng còn Năm thì cùng cực khổ sở”,
Bính tƣởng tƣợng đến cuộc sống của những kẻ đi đầy và xót thƣơng để rồi
dẫn đến hành động quyết liệt “...Cánh cửa sắt nặng trịch của xà lim vừa hé
mở, khoá không kịp đóng lại, hai bóng đen đã cắm đầu chạy mỗi lúc một
nhỏ dần, rồi biến mất trên con đường xa tắp” [18, 54].
Nhà văn đã xây dựng đƣợc một kịch tính đầy mâu thuẫn, bắt buộc
con ngƣời ở vào thế phải lựa chọn. Đó là tình thế rất nan giải, tình thế này
sẽ quyết định số phận của Bính và buộc Bính phải lựa chọn giữa hai con
đƣờng: Sống yên ổn với thằng chồng mật thám hay mở của ngục cho Năm
Sài Gòn trốn thoát để rồi lại trở về với cuộc sống lƣu manh đầy bất trắc.
Tám Bính đã không chút đắn đo và chọn con đƣờng thứ hai mở cửa ngục
cho Năm và cùng Năm trốn chạy. Điều này là hợp quy luật tâm lý, hợp với
tính cách của cô, hợp với bản tính nghĩa tình thuỷ chung của Bính. Một con
ngƣời giàu lòng vị tha và tình nghĩa, sẵn sàng tha thứ kể cả những kẻ phản
bội mình nhƣ Tham Chung và những ngƣời đối xử tàn độc với mình nhƣ
cha mẹ, thì không thể quay lƣng với số phận của Năm ngƣời đàn ông duy
nhất trên đời yêu thƣơng cô và đã dang tay cứu vớt cô ra khỏi vũng bùn đen
của nghề ô nhục. Nhà văn đã rất sâu sắc khi diễn tả nét tâm lý của nhân vật
47
phù hợp với quy luật nội tại với mối quan hệ biện chứng nằm trong tính ổn
định và tính biến đổi trong tính cách của Bính. Sự giải thoát cho Năm cũng
là mong muốn giải thoát cho mình. Nhƣng Bính và Năm không thể trở về
con đƣờng lƣơng thiện, vẫn phải lao vào cái vòng xoáy của trộm cƣớp
ngang dọc các chuyến tàu. Và việc không khuyên nhủ đƣợc Năm cũng
đồng nghĩa với việc Bính phải tiếp tục sa chân vào kiếp đời “anh chị” ấy.
Bính đau buồn “Sáu năm đã qua...lâu biết bao...dài biết bao! mà biết đến
bao giờ Bính mới có được một cuộc đời trong sạch êm đềm như cuộc đời
của mọi người” vì “nếu Bính càng yêu thương Năm Sài Gòn, càng thắt
chặt lại với Năm và phải theo Năm mãi mãi”. Chấp nhận cuộc sống ấy với
Năm để Bính vẫn nuôi hy vọng một ngày nào đó đƣợc gặp lại đứa con yêu
thƣơng, và Bính vẫn sống với một niềm tin một sự hy vọng mong manh
nhƣng đủ ấm áp để Bính vƣợt qua những tủi nhục. Mặc dù sống bên Năm
Bính đã chứng kiến bàn tay ghê rợn của Năm và các đàn em của hắn. Bính
và Năm bị bắt đó là lẽ tất yếu và ngƣời bắt Bính không phải ai khác chính
là ngƣời mật thám đã lấy Bính trƣớc kia, Bính cay đắng nhận ra sự nghiệt
ngã của thân phận. Không phải ngẫu nhiên ba con ngƣời cùng liên quan,
cùng gắn bó với Bính lại đƣợc nhà văn cho gặp gỡ trong hoàn cảnh trớ trêu
này. Một ngƣời ở bƣớc đƣờng cùng (Bính), một ngƣời mà Bính yêu thƣơng
(đứa con) đã bị Năm lấy đi sự sống, một ngƣời mà Bính cũng đã mang ơn
rồi lại phụ ơn (ngƣời mật thám) lại chính tay bắt Năm và Bính. Đỉnh điểm
của kịch tính,cao trào của cốt truyện đã đẩy ngƣời đọc vào chỗ dƣờng nhƣ
nín thở, hụt hơi. Tƣơng lai trƣớc mặt Bính là một màn đêm, ở đó Bính
không còn gì để mất. Trái tim Bính đau xót “càng như rỉ máu”, nỗi đau tột
cùng “Rùng mình, Bính quay mặt nhanh về phía đứa con. Mắt Bính hoa
lên. Bính giật phắt cái xích sắt trong tay người chồng mật thám, rồi chạy
đến ôm chầm đứa bé, khóc nức nở”. “Năm Sài Gòn bỡ ngỡ không hiểu ra
sao, người mật thám nọ xô ngay lại, lôi Bính dậy, quấn nốt hai tay Binh
thêm mấy vòng xích sắt nữa” “Tám Bính tê mê như người mất hồn, lờ đờ
48
ngoái cổ nhìn với đứa con béo tốt nằm rũ trên chiếu” và trong giây phút
tuyệt vọng Bính đã nhận ra “mọi sự tuyệt vọng tối tăm từ nay trở đi không
lúc nào không xâu xé tâm can Bính, và Bính sẽ sống một đời khốn nạn dài
vô cùng tận”. Trong câu nói cuối cùng của Bính với Năm, cũng là câu nói
kết thúc cuộc đời mình “Thế là hết!” nghe chua xót và cay đắng.
Kết thúc truyện Bỉ vỏ nhà văn đã cố ý làm cho cùng một lúc xuất
hiện nhân vật Năm Sài Gòn, Tám Bính và đứa con bị chết của nàng, ngƣời
mật thám mà nàng đã lấy ở thành Nam và mấy viên cảnh sát. Tình huống
thật éo le, khi cuộc “hội ngộ” lại là những điều đau xót nhất mà Bính phải
chứng kiến. Cả một cuộc đời Bính sống lay lắt, khổ sở nhƣng tâm hồn vẫn
mang niềm khát khao mãnh liệt là đƣợc gặp lại đứa con thơ, bởi vậy Bính
đã cố sống, nuôi dƣỡng niềm tin, hi vọng. Nhƣng trái ngƣợc với niềm
mong mỏi của Bính là một kết thúc đau thƣơng. Với lối kết thúc bất ngờ
này Bính nhận ra nỗi cay đắng cùng cực của cuộc đời nàng và nàng đành
tuyệt vọng. Nỗi đau tột cùng khi gặp lại con thì cũng là lúc nhận ra đứa con
nàng vô cùng yêu thƣơng lại bị chính ngƣời đàn ông mà suốt chặng đƣờng
dài nàng mang ơn đã giết chết. Nghịch cảnh ấy càng làm nhói lòng ngƣời
đọc về thân phận của một ngƣời phụ nữ đã trải qua không biết bao nhiêu
thăng trầm mà số phận vẫn không buông tha nàng. Tuy nhiên với lối kết
thúc này đã thể hiện dụng ý can thiệp quá sâu của nhà văn làm cho mạch
truyện mất vẻ tự nhiên. Tuy nhiên, điều này liên quan đến kết cấu của tác
phẩm, tác giả đã xây dựng cốt truyện trên cơ sở một tấn bi kịch trung tâm,
khi tấn bi kịch đã đƣợc giải quyết thì câu chuyện cũng kết thúc.
Cốt truyện không có nhiều tình tiết, không có nhiều sự kiện, nhân
vật... nhƣng đã để lại ấn tƣợng sâu đậm trong lòng ngƣời về nỗi ám ảnh của
một kiếp ngƣời bị vùi dập về mọi phƣơng hƣớng. Cuộc đời Bính chƣa có
một chút niềm vui, tƣởng rằng cái lúc mà Bính đƣợc sống tự do thoát khỏi
nhà thổ của mụ Tài – Sế - Cấu là thoát khỏi cơ cực nhƣng Bính lại tiếp tục
bị vùi dập vào con đƣờng chông gai mới và con đƣờng tội lỗi ấy với kết
49
quả tất yếu là Bính rơi vào tù tội, phải đền tội. Khi xây dựng nhân vật có
khi nhà văn đã để cho nhân vật trầm lắng suy tƣ (độc thoại nội tâm), cũng
có khi say sƣa trong xúc động, trong sự hƣng phấn cao độ, cũng có lúc
Bính quằn quại trong đau khổ, tủi nhục ê chề. Tâm lí diễn biến hết sức
phức tạp nhƣng cũng rất phù hợp trong sự vận động nội tại tâm lí của nhân
vật.
Nếu nhƣ tác phẩm Bỉ vỏ phản ánh đúng nhƣ nhan đề kể về thân
phận của ngƣời đàn bà đĩ điếm, trộm cắp, đại diện cho tầng lớp đáy xã hội,
thì Những ngày thơ ấu lại là một thiên hồi ký rất cảm động về chính
quãng đời tuổi thơ của nhà văn. Một cuộc sống của một ngƣời không có
tuổi thơ, đong đầy nƣớc mắt bất hạnh. Viết theo thể loại tự truyện nên diễn
biến câu chuyện theo tiến trình của trục thời gian thẳng. Những hồi ức của
Nguyên Hồng đƣợc giãi bày hết sức chân thực và sống động. Câu chuyện
về một tuổi thơ cay đắng. Không, thời gian giới hạn trong khuôn khổ cuộc
sống của chính bản thân nhà văn. Các nhân vật cũng chính là nguyên mẫu
từ đời sống thực, đó là chính tác giả và ngƣời mẹ, ngƣời bà, ngƣời cha, bà
cô... của nhà văn. Truyện không cầu kỳ, không thi vị hoá mà hoàn toàn là
những nét chân thực đƣợc nhà văn phản ánh. Nếu nhƣ tìm hiểu về tiểu sử
nhà văn Nguyên Hồng, ta thấy nổi lên hai đặc điểm: thiếu tình yêu thƣơng
và phải tự lập kiếm sống từ nhỏ. Điều này phản ánh rất rõ trong tác phẩm.
Cha ông làm cai đề lao, sau thất nghiệp, cảnh nhà sa sút, lại nghiện ngập và
mắc bệnh lao, phải sống nghèo túng trong tâm trạng của kẻ bất đắc chí. Mẹ
ông là ngƣời đàn bà hiền thục, ngoan đạo giàu đức hy sinh nhƣng lại sống
không có hạnh phúc trong gia đình nhà chồng. Điều này đã đƣợc nhà văn
ghi lại rất chân thành trong cuốn hồi ký: “Hai thân tôi”. Sự phản ánh
những nét chân thực đầy xúc động giúp ngƣời đọc nhận ra một nhà văn đầy
bản lĩnh, không ngại ngùng khi “vạch áo cho người xem lưng”, và theo Vũ
Ngọc Phan cho rằng “can đảm lắm” mới viết ra nhƣ thế. Mặc dù là một
cậu bé mới 7,8 tuổi Nguyên Hồng đã cảm nhận rất rõ và nhớ rất lâu trong
50
ký ức tuổi thơ của mình những điều phải chứng kiến. Và trong cái ký ức ấy
đau xót hơn, có lẽ cậu bé Hồng chính là kết quả của một cuộc tình không
mong đợi, của một cuộc hôn nhân gƣợng gạo không có tình yêu. Cái tuổi
thơ ấy lại cứ bám riết lấy tâm trí non nớt của cậu bé, để rồi cậu lại chợt
nhận ra những khắc nghiệt của lề thói, của phong tục cổ hủ, của nỗi đau mà
chính ngƣời mẹ cậu vô cùng yêu thƣơng phải chịu đựng.
Mở đầu tác phẩm là hình ảnh một gia đình bất hạnh. Cha mẹ cậu lấy
nhau do bài tính của hai gia đình. Giữa họ trƣớc và sau khi lấy nhau không
hề có tình yêu. Một gia đình đã báo trƣớc những đổ vỡ, là nấm mồ chôn
sống hai con ngƣời nhƣng hậu quả lại rơi vào ngƣời phụ nữ. Hai đứa con,
một trai một gái, chỉ là kết quả của sự miễn cƣỡng nhằm thực hiện cái mục
đích “nối dõi tông đường” mà dòng họ yêu cầu. Kết quả của mối tình oan
trái ấy là cậu bé Hồng và em gái Quế. Vì không hạnh phúc và không lối
thoát, ngƣời đàn ông mau chóng thành một kẻ chán đời và bán linh hồn
mình cho nàng tiên nâu để quên đi cuộc sống tù túng, sống mà nhƣ chết.
Bao nhiêu nỗi đau khổ dồn lên ngƣời vợ, ngƣời mẹ. Ngƣời cha chết,
Nguyên Hồng lại càng thấm thía nỗi khổ cực. Đó là năm 12 tuổi, Nguyên
Hồng mồ côi cha, mẹ ông – với phong tục cổ hủ phải đoạn tang chồng (sau
ba năm) mới đƣợc tái giá - đã lén lút đi bƣớc nữa vì thế bà bị gia đình nhà
chồng ruồng bỏ, hắt hủi, không đƣợc tự do gần gũi chăm sóc con. Nguyên
Hồng phải sống nhờ bà cô và chịu sự rẻ rúng khinh miệt của bà ta. Tuổi thơ
của Nguyên Hồng đã phải trải qua những ngày tháng nhiều cay đắng và tủi
nhục vì đói ăn thiếu mặc, thiếu cả tình thƣơng yêu. Tấn bi kịch cuộc đời
của Nguyên Hồng thật đau xót. Để có thể tồn tại, sống đƣợc cậu bé Hồng
đã tự rèn luyện mình thành một “chuyên gia đánh đáo ăn tiền” việc làm
này để kiếm tiền ăn học, vì vậy cậu đã phải chung đụng với đủ mọi hạng trẻ
hƣ hỏng của các lớp cặn bã nơi vƣờn hoa, bến tàu, bến ô tô, bãi đá bóng.
Khi ngƣời mẹ trẻ phải dứt áo ra đi tìm kế sinh nhai, Hồng phải sống nhờ bà
cô, nhƣng nói là sống mà đâu ra sống. Cậu bị bỏ mặc cho đói rét thảm
51
thƣơng, thậm chí bị đánh đập hết sức vô lý. Những dòng hồi ký của ông đã
phản ánh rất trung thực tình cảnh này, đó là những dòng chữ đầy chua xót,
đau đớn làm ngƣời đọc phải nghẹn ngào về một cậu bé thơ ngây đã phải
chịu sự dập vùi của chính những ngƣời thân yêu của mình: “Ngày
14.11.1931 – Phải nhớ cái tát và câu rủa xả này cho đến chết: “Hồng ơi!
Bố mày nó chết đi nhưng còn có mẹ mày nó dạy mày. Cầm bằng mẹ mày
đánh đĩ theo giai, bỏ mày lêu lổng thì đã có chúng tao”.
Mẹ ơi! Con khổ quá mẹ ơi! Sao mẹ đi lâu thế? Mãi không về! Người
ta đánh con vì con dám cướp lại đồ chơi mà con người ta dằng lấy. Người
ta lại còn chửi con, chửi cả mẹ nữa. Mẹ xa con, mẹ có biết không?” [19,
121]. Bị gia đình ghẻ lạnh, đến trƣờng cậu lại bị thày giáo tra tấn bằng
những cực hình, mà đơn giản Hồng là đứa trẻ lông bông nơi “đầu đường xó
chợ” sự mặc cảm của ông thầy, thái độ khinh thị của con ngƣời đứng trên
đỉnh cao của giá trị nhân văn đã đẩy Hồng vào bƣớc đƣờng cùng phải bỏ
học. Nguyên nhân đơn giản nhƣng mặc cảm hằn sâu nên nó là cái cớ nhỡn
tiền để Hồng chịu tội. Hồi ký của Nguyên Hồng là tiếng chuông đánh thức
tấm lòng mỗi con ngƣời, gọi dậy chữ “nhân” trong lòng ngƣời bằng cách
phản ánh hiện thực cho mọi ngƣời thấy hết, không hề che đậy, dấu diếm về
một thực tế mà nhà văn đã chứng kiến và trải nghiệm.
Năm 16 tuổi, mới học hết bậc tiểu học, Nguyên Hồng phải thôi học,
cùng mẹ ra Hải Phòng kiếm sống: “Lần thứ hai tôi ra Hải Phòng là lần bỏ
hẳn quê hương Nam Định, thật sự tìm đường sinh sống. Đúng vào đầu kỳ
khai trường và những ngày đầu thu nắng đẹp. Nhưng tất cả những quang
cảnh thân yêu, thân thuộc ấy chỉ làm tôi xót xa” [19, 123]. Nỗi đau của một
cậu bé đƣợc khát khao đi học, đƣợc đến trƣờng mà vì cảnh đói túng, cảnh
cơm áo gạo tiền đã đè bẹp ƣớc mơ bình dị ấy nghe tội nghiệp, thƣơng tâm.
Bé Hồng buộc phải theo mẹ đi tìm kế sinh nhai, kiếm sống ở Hải Phòng –
thành phố kỹ nghệ lớn vào bậc nhất nƣớc ta hồi ấy, nơi buôn bán sầm uất,
tƣởng sẽ là nơi mẹ con ông có thể kiếm đƣợc việc làm. Nhƣng sự thật lại
52
quá phũ phàng cay đắng. Nguyên Hồng đã đi xin việc nhiều nơi, hết ngày
này sang ngày khác, lang thang khắp các ngõ hẻm chật vật khổ cực “Tôi ra
bến tàu Sáu kho” nói là đi xin việc chứ thực ra là Nguyên Hồng đã phải đi
rao bán sức lao động của mình mà thất nghiệp vẫn hoàn thất nghiệp. Thời
gian này gia đình ông phải thuê nhà để ở: “Gian nhà tôi thuê ở giữa xóm
Cấm, ngay dưới chân một gác chuông nhà thờ” đó là “cái khu lao động
nghèo khổ lầm than, gồm phần đông là thợ Máy tơ, phu khuân vác của Sáu
Kho, thợ sắt, thợ điện, thợ linh tinh, kéo xe, phu hồ trên phố và những
người buôn thúng bán bưng...Càng không thể tìm ra việc làm càng không
thể nhờ cạy vay mượn ai một thứ gì để lần hồi được nữa, tất cả những nhà
máy Xi măng, Máy tơ, Cốt phát, Máy gạch, Sở dầu, bến cảng Sáu Kho, hiệu
buôn Đét – cua - ca – bô, Sáp – phăng – giông, Lợi Thành, Lợi Ký ...mà tôi
chầu chực nghe ngóng hàng tháng hàng ngày kia đã hoàn toàn lạnh lùng
và khắc nghiệt đối với tôi, nghĩa là tôi càng đói, cơ hồ gần như tuyệt vọng”
[19, 132]. Sau khi đã trầy trật không kiếm đƣợc việc làm, ông đã dừng lại ở
xóm Cấm, sống bằng nghề dạy học tƣ cho con em của những ngƣời lao
động nghèo. Đó là những ngày sống với những ngƣời dân thành thị cùng
khổ nhất là những phu phen, thợ thuyền, ngƣời buôn bán lặt vặt và cả
những me Tây, gái điếm, du côn, trộm cắp...Nhƣng chính những con ngƣời
cùng khổ ấy đã hà hơi tiếp sức cho Nguyên Hồng khiến ông không những
không gục ngã mà còn tha thiết tin yêu, gắn bó với cuộc sống của họ. Ông
đã thấy ở cuộc sống này những cảnh tối tăm thê thảm của xã hội thuộc địa
và quan trọng hơn ông còn thấy ở đấy một cái gì tƣơi sáng, tinh tuý của
linh hồn dân tộc, của đạo lý nhân dân: “Tôi thấy chỉ trong đây mới thật sự
có sự tươi sáng, sự lành mạnh, niềm vui tin. Tôi thấy tất cả những ai khao
khát những cái gì là ngay thẳng, là công bằng, là nhân phẩm, là hạnh
phúc, là sáng tạo thì phải đi vào đây, gắn bó với đây, ở đây mà lao động và
đòi hỏi những cái đó với tận cùng lòng trung thành và ý chí quyết liệt của
mình” [19, 137]. Đó là tinh thần lạc quan yêu đời, đức tính cần cù lao
53
động, sự yêu thƣơng đùm bọc lẫn nhau trong tình làng nghĩa xóm, thái độ
căm ghét áp bức, bóc lột, ý chí kiên cƣờng bất khuất trƣớc kẻ thù. Đúng
nhƣ điều ông tâm niệm, cuộc sống ấy đã đem lại cảm hứng, khơi nguồn
sáng tạo cho ông buổi đầu cầm bút và trở thành một vùng đề tài ám ảnh
ngòi bút Nguyên Hồng trong suốt gần 50 năm lao động. Với ông, vốn sống,
sự hiểu biết phong phú cũng nhƣ tình cảm gắn bó sâu nặng thuộc về những
ngƣời lao động cùng khổ ở Hải Phòng, Nguyên Hồng đã sống cuộc sống
của chính họ, ông đã vì những con ngƣời ấy và vì cuộc sống của chính
mình mà cất lên tiếng nói yêu thƣơng tha thiết. Ông đã phải trải qua một
tuổi thơ đói khát, quẫn bách, tƣơng lai tiền đồ không có gì sáng sủa. Tuổi
thơ thiếu tình thƣơng, nhiều cay đắng tủi cực, lớn lên kiếm sống vất vả giữa
thế giới của những ngƣời cùng khổ, nhà văn đã sớm hình thành cá tính
riêng: dễ nhạy cảm, dễ xúc động. Đặc điểm tính cách này giống nhƣ một
thứ nam châm riêng. “Nó chỉ hút những cái gì phù hợp với cái tạng của
nhà văn”. Ông chia sẻ những nỗi khổ đau, oan trái với những con ngƣời
cùng khổ, bất hạnh trong gia đình và cả ngoài xã hội. Ông bất bình trƣớc
những thái độ, hành vi vô nhân đạo, rẻ rúng con ngƣời.
Trong hồi ký, Nguyên Hồng có thái độ đồng cảm, chia sẻ với nỗi
khát khao hạnh phúc của ngƣời mẹ trẻ mỗi khi bà rạo rực con tim chờ đợi,
lắng nghe tiếng kèn của cai H. Ông cũng thật sự bất bình, phẫn nộ trƣớc
thái độ khinh rẻ và hành vi ngăn cản tình mẫu tử của họ hàng bên nội đối
với mẹ mình khi bà đi bƣớc nữa theo tiếng gọi của con tim chứ không chịu
thân phận goá bụa thờ chồng theo quan điểm đạo đức phong kiến.
Cốt truyện “Những ngày thơ ấu” là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh
hƣớng sáng tạo “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Tập truyện chỉ vẻn vẹn có
khoảng 100 trang, nhƣng từng trang từng dòng đã lay động lòng ngƣời của
nhà văn.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của văn học là phản ánh hiện
thực, nhƣng đó không phải là sự sao chép máy móc, thụ động. Mỗi nhà văn
54
sử dụng hiện thực nhƣ một chất liệu để thể hiện ý tƣởng sáng tạo của mình,
trong đó xung đột là một trong những yếu tố đƣợc nhà văn khai thác. Mâu
thuẫn trong tác phẩm văn học bắt nguồn từ mâu thuẫn trong cuộc sống,
song chúng không đồng nhất với nhau mà qua sự sáng tạo độc đáo của
ngƣời nghệ sỹ đã tạo nên những giá trị đặc sắc. Chính vì vậy Pospelov cho
rằng: “chức năng quan trọng nhất của cốt truyện là bộc lộ những mâu
thuẫn đời sống, tức là những xung đột”. Trong các tác phẩm văn xuôi do
không bị hạn chế về không gian và thời gian nên có khả năng phản ánh cụ
thể, sinh động và sâu sắc nhiều mâu thuẫn phức tạp từ cuộc sống; từ những
mâu thuẫn đang hình thành đến những tình trạng xung đột gay gắt, quyết
liệt. Xung đột nghệ thuật trong tác phẩm văn chƣơng gắn liền với cảm
hứng chủ đạo, thể hiện tƣ tƣởng chủ đề của tác phẩm, thúc đẩy các hành
động của nhân vật phát triển, làm cho tính cách các nhân vật bộc lộ đầy đủ
và rõ ràng. Nếu nhƣ những xung đột trong tác phẩm Đây bóng tối,...xung
đột đƣợc đẩy lên đỉnh điểm và nhà văn đã tìm ra cách thức giải quyết
những mâu thuẫn ấy thì các tác phẩm Ngọn lửa, Linh hồn, Buổi chiều
xám...với những kết thúc hết sức bất ngờ, xung đột đƣợc đẩy lên đỉnh điểm
và tạo nên những ngỡ ngàng trong cảm nhận của độc giả, về những điều
“không lường trước được” theo lối bỏ ngỏ gợi lên những suy ngẫm, suy
diễn cho tất cả mọi ngƣời, họ dƣờng nhƣ là ngƣời đồng sáng tạo với nhà
văn khi tự cho mình cái quyền nên kết thúc thế nào cho phù hợp với ý đồ
sáng tạo của nhà văn.
Khi đọc một tác phẩm văn học chúng ta thƣờng có những dự đoán về
phần kết thúc của tác phẩm đó nhƣng cũng có những tác phẩm nhà văn đã
xây dựng đƣợc một kết thúc bất ngờ khi đặt nó vào một văn cảnh khó suy
diễn. Với lối kết thúc này sẽ tạo ra những yếu tố hấp dẫn giúp ngƣời đọc
thêm hứng thú.
Truyện ngắn Linh hồn là một kết thúc ám ảnh ngƣời đọc khi niềm
mong mỏi và hi vọng của Tín trong ngày vợ mãn hạn tù trở về anh sẽ đƣợc
55
gặp lại ngƣời vợ thân yêu, ngƣời đã vì anh mà hi sinh bản thân mình, chấp
nhận đi tù thay chồng. Hơn thế nữa niềm khắc khoải đợi chờ của anh còn
nhân lên gấp bội khi anh hồi hộp chờ đón sẽ đƣợc đƣợc bế đứa con nhỏ
trên tay bởi ngày vợ anh đi tù có mang trong lòng một sinh linh bé bỏng.
Anh đâu biết rằng cái chế độ nhà tù với những tên cai tù dâm đãng đã hãm
hại vợ anh, đã cƣớp mất đứa con anh để nó chết một cách oan uổng – chết
vì mẹ nó bị hãm hiếp. Thật đau xót nhƣờng nào. Với lối kết thúc bỏ ngỏ
của thiên truyện: “Anh hồi hộp chờ mong...” (7, 17), nhà văn đã hƣớng ƣớc
mơ khát vọng của Tín về một tƣơng lai tƣơi đẹp với mong ƣớc rất giản dị là
niềm hạnh phúc đƣợc làm cha và ngƣời vợ anh trở về khoẻ mạnh. Truyện
đã tạo sự day dứt trong lòng ngƣời đọc.
Trong Buổi chiều xám hình ảnh tên lính Nhật, kẻ đi xâm lƣợc nhƣng
lại là con ngƣời còn có lòng nhân bản, đã từng là một ngƣời cha bởi vậy
khi thấy đứa trẻ thơ tên lính Nhật đã ôm ấp, âu yếm trƣớc sự lo lắng, sợ hãi
của mọi ngƣời, bởi ngƣời ta nghĩ hắn sẽ làm hại đứa trẻ. Nhƣng điều hắn
làm mọi ngƣời ngỡ ngàng ngạc nhiên đó là tình cha, tình máu mủ ruột thịt
đang cuồn cuộn trỗi lên trong lòng hắn khi hắn nhớ về miền quê hƣơng với
đứa con nhỏ dại. Hắn ôm hôn đứa bé nhƣ để trút nỗi lòng nhớ thƣơng khi
làm lính đi xâm lƣợc ở vùng đất xa xôi. Và cái kết thúc bất ngờ khi hắn tự
kết liễu đời mình vì cuộc sống phục vụ chiến tranh không biết sẽ còn bao
lâu, không xác định đƣợc thời hạn. Từ bề sâu của tình phụ tử hắn đã hiểu ra
một điều chiến tranh là nguyên cớ chia cắt tình cha con. Với nỗi nhớ con,
nỗi day dứt vì đã tham gia chiến tranh của ten lính Nhật đã dẫn đến một kết
cục bi đát, một kết thúc bất ngờ. Cái chết trong phần cuối tác phẩm của
những ngƣời lính Nhật là lời minh chứng cho sự lên án chiến tranh. Chiến
tranh đã làm ly tán gia đình, chia lìa tình cha con. Với lối kết thúc này đã
tạo sức hấp dẫn và có ý nghĩa giáo dục sâu sắc.
Trong các sáng tác của Nguyên Hồng nhà văn đã tạo đƣợc sức hấp
dẫn khi sử dụng lối kết thúc bất ngờ này đối với độc giả.
56
2.2.2. Cốt truyện đan xen nhiều mạch truyện
Với cốt truyện đa tuyến là cốt truyện trình bày một hệ thống sự kiện
phức tạp nhằm tái hiện nhiều bình diện của đời sống ở một thời kì lịch sử,
tái hiện những con đƣờng diễn biến phức tạp của nhiều nhân vật, do đó nó
có một dung lƣợng lớn. Hệ thống sự kiện trong cốt truyện đa tuyến đƣợc
chia thành nhiều dòng, nhiều tuyến gắn liền với số phận các nhân vật chính
của tác phẩm. Ở kiểu cốt truyện này, ngƣời kể chuyện hàm ẩn của Nguyên
Hồng luôn chứng tỏ sức mạnh của mình khi sắp xếp các sự kiện, biến cố
tuân theo sự chi phối của luận đề mà tác phẩm đƣa ra. Dƣờng nhƣ mỗi tác
phẩm là một là một trăn trở về vấn đề thế sự, nhân sinh, về nỗi đau nhân
tình thế thái.
Với Sông máu nhà văn đã xây dựng đƣợc một cốt truyện có sự lồng
ghép đan xen nhiều mạch truyện về một câu chuyện ám ảnh của cuộc mƣu
sinh. Vì nghèo đói, cơ cực chị Năng buộc phải đi làm cái công việc nguy
hiểm đến tính mạng: chở hàng lậu. Chị phải chống trả với cuộc sống bao lo
toan cho một gia đình mà chồng chị cũng vì cái nghề mạo hiểm đã chết.
Chị phải một mình bƣơn chải vì “bốn đứa bé quần áo rách rưới”. “Cảnh
tiều tuỵ thê thảm đó làm dội lên trong lòng chị tất cả những cảm giác đau
đớn, chua xót” [30, 150]. Chính cảnh sống đó mà chị đã phải quyết dứt áo
ra đi, dù biết rằng công việc khó khăn và nguy hiểm đến tính mạng. Chị đã
“xiêu xiêu lòng và chắc dạ vì thấy trời tối, mưa to và gió lớn” [30, 151]. Sự
nguy hiểm của thiên nhiên lại trở thành điều kiện thuận lợi cho công việc
của chị vì để dễ bề thoát khỏi việc truy bắt “sà lúp của Đoan” không gì
may hơn là “đêm nay lại mưa to, gió lớn và tối trời, thật là tiện lợi đủ
đàng” [30, 151]. Biết là khó khăn, nguy hiểm đến tính mạng nhƣng vì cuộc
sống, vì những đứa con chị đành nhắm mắt đƣa chân. Trong hiện thực tủi
cực ấy hình ảnh ngƣời chồng hiện ra trƣớc mắt chị đầy ám ảnh. “Chị buồn
rầu và đau đớn nhớ đến một sức ủng hộ, thúc giục chị đấu tranh trong bao
nhiêu phen bão táp trên sông biển” [30, 153]. Anh Năng – chồng chị có đủ
57
sức khoẻ, sức mạnh và anh lại có “Một tâm hồn cương quyết rèn đúc thuần
bởi những nhát búa chắc chắn của đau khổ và lầm than, một tâm hồn, hồn
nhiên trong sáng giữa đời sống tranh cướp này”, “Nhưng anh Năng đã
chết rồi!” [30, 158]. Anh cũng chết vì nghề chèo thuyền chở hàng lậu, chết
trên dòng sông này, chết vì cuộc mƣu sinh. Cái chết của anh đã nằm trong
tiềm thức dự báo của vợ nhƣng cũng không tránh khỏi. Và kí ức kinh
hoàng ấy đã đeo bám chị trong lần quyết định này khi chị nghĩ đến cái cảnh
“khi cầm nắm bạc giấy về nhà , gọi hàng mấy chủ nợ ghê gớm, đanh đá
đến mà trang trải cho thoát khỏi sự nhục nhã bị họ réo rắt, đào bới xới rễ”
[30, 150].
Trong khi chèo thuyền, biết bao ý nghĩ về cuộc mƣu sinh, về anh
Năng, về cái chết đau đớn của ngƣời chồng. Nỗi tủi cực và cay đắng dần
hiện ra trong tâm tƣởng. Trƣớc mắt chị là cảnh tƣợng hãi hùng “Lại từng
thác nước mưa đổ xuống, lại những chớp sáng vụt xé các mảng trời nặng
nề, lại những tiếng sét lay chuyển vũ trụ, lại những luồng gió kêu gào thê
thảm” và rùng rợn hơn khi “Qua màng lệ mỏng, chị thấy dòng sông băng
băng đương từ màu xanh biếc biến sang màu đỏ lờ lờ, màu máu của bao
nhiêu kẻ thiệt mệnh mà trừ anh Cu, còn hết thảy có lẽ muôn muôn năm bị
quên hẳn trong đáy nước” [30, 156]. Trong nỗi sợ hãi ấy chị nhƣ nghe thấy
lời nhắc nhở của anh Năng “Phải về thôi! Bỏ hẳn nghề này thôi!” [30, 157].
Cái chết và lời nhắc nhở của anh Năng đã giúp chị nhận ra rõ hơn sự nguy
hiểm đến tính mạng và chị đã quyết định quay về. Truyện đƣợc xây dựng
với cốt truyện đan xen nhiều mạch truyện làm cho câu chuyện với nhiều
tình tiết cùng đƣợc mô tả làm cho câu chuyện trở nên sinh động, hấp dẫn
tạo sức cuốn hút cho ngƣời đọc. Trong truyện Hai nhà nghề đã diễn tả tâm
tƣ, suy nghĩ của Nhân, một cậu bé với nghề nhào lộn hết sức nguy hiểm để
mua vui cho thiên hạ nhƣng lại rất đau buồn trƣớc sự thờ ơ, dửng dƣng của
mọi ngƣời, khi Nhân đã làm xong những trò nhào lộn: “Nhân sắp sửa xin
tiền, đám khán giả càng khen và thúc giục:
58
- Làm nữa đi! Làm nữa đi!
... Nhân cười không đáp. Nhân trật cái mũ nồi đội lệch trên đầu ra.
Nhân thong thả đi lại chỗ những người vừa nói, lễ phép:
- Vâng, nhà nghề xin làm nữa, nhưng xin các chư ông chư bà hãy
thưởng cho ít nhiều để nhà nghề phấn khởi làm nhiều trò lạ về sau.
Nét mặt tươi tỉnh của những người nọ phút biến đi. Có người lắc đầu
một cái rồi ngoảnh mặt đi, lùi về đằng sau. Nếu là đứa trẻ ăn mày Nhân sẽ
kèo nhèo, nhưng đây chả ra gì Nhân cũng là một nhà nghề, một kẻ đem tài
năng mình ra phô diễn để kiếm tiền, nên Nhân chỉ đưa mắt nhì rồi chìa mũ
xin mấy người lính.
Sự làm thinh và vẻ luống cuống của người khách “loại” sang này
cũng làm Nhân chán ngán. Nhân phải đến xin người khác. Tuy ăn vận bảnh
bao, nhưng người này cũng lắc đầu như mấy người trước. và đến người thứ
mười...thứ mười mấy, đều lẳng lặng rồi bỏ ra đi hẳn chỗ khác”. [30, 201].
Tuy nhiên, nỗi buồn nỗi đau ấy của Nhân lại không bằng nỗi buồn
trƣớc sự bạc bẽo của tình ngƣời. Trƣớc kia, Nhân đã kèm cặp và giúp đỡ
cho “một thằng bé kém Nhân ba tuổi” “bỏ nghề ăn mày mà theo Nhân làm
xiếc” [30, 201].
“Cùng nhau lang thang nay đây mai đó được hơn một năm thì nó bỏ
Nhân, vì nó biết làm nhiều trò và có thể kiếm tiền một mình, còn Nhân thì
ốm yếu luôn, nhào lộn, thổi kèn và ca hát ít. Mấy hôm đầu Nhân khóc quên
cả ăn. Luôn ba tháng, Nhân buồn rầu và nhớ nó như có anh hay em chết, ở
dọc đường khi tha hương cầu thực. Nó bỏ ông già nọ vì sống với ông khổ
sở và bệ rạc bêu riếu quá, nhưng làm bạn với Nhân, được Nhân thương
mến, có cái gì cũng chia sẻ cho, mà nó đánh rơi ngay Nhân khi Nhân cùng
quẫn thì còn sự bội bạc nào khốn nạn hơn?” [30, 202]. Nỗi đau khi bị phụ
bạc, phản bội đã làm Nhân đau đớn tột cùng. Nhân đau khổ vì “một phen bị
phản bội, Nhân vẫn cố tìm một đứa bé kháu khỉnh và tinh nhanh khác để
59
truyền các môn múa lộn và thổi kèn. Nhưng, hơn hai năm, Nhân chẳng gặp
đứa nào hết”. Nhân đau buồn khi “Nghề làm xiếc của Nhân đến kỳ cùng
mạt rồi!” [30, 202].
Câu chuyện đƣợc xây dựng với những mảnh ghép cuộc đời hết sức
cơ cực. Nỗi cơ cực phải kiếm sống bằng sức lao động, bằng nghề nhào lộn
nguy hiểm để mua vui cho thiên hạ. Nhƣng có lẽ tủi cực hơn đó là phải
chứng kiến sự phản bội của tình ngƣời. Trong tác phẩm của Nguyên Hồng
những thân phận đáng thƣơng nhƣ len lỏi sâu vào tâm hồn của nhà văn, trở
thành nỗi day dứt, ám ảnh dƣờng nhƣ buộc nhà văn phải viết ra những cảnh
60
đời cực nhục ấy để giải tỏa nỗi đau đớn, để đồng cảm và xót thƣơng.
CHƢƠNG 3
NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU TRONG TRUYỆN
VÀ TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN HỒNG TRƢỚC
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
Bất kể tác phẩm văn chƣơng nào cũng phản ánh cuộc sống của con
ngƣời và ngƣời nghệ sĩ có vai trò dẫn dắt ngƣời đọc vào thế giới mà anh ta
miêu tả thông qua tất cả các nội dung và hình thức sáng tạo nghệ thuật. Nếu
nhƣ nội dung là điều đƣợc nhà văn hình dung và muốn truyền tải đến ngƣời
đọc thì hình thức chính là yếu tố đóng vai trò quyết định nên sự thành công
của văn bản. Một trong những đặc điểm để hình thành phong cách sáng tạo
của nhà văn đó là ngôn ngữ, giọng điệu. Qua những đặc trƣng này nhà văn
đã thể hiện sâu sắc thế giới quan của cá nhân mình, nhận thức rõ điều này,
Nguyên Hồng đã từng tâm sự: “Cái quan trọng trong tài năng văn học mà
tôi nghĩ rằng cũng có thể trong bất kỳ một tài năng nào là cái mà tôi muốn
gọi là tiếng nói riêng của mình. Đúng thế, cái quan trọng là tiếng nói của
mình, cái quan trọng là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm
thấy trong cổ họng của bất kể một người nào khác” [16, 23]. Nguyên Hồng
đã tạo ra cho mình một giọng điệu riêng ấy. Chỉ cần đọc qua một vài tác
phẩm của ông ngƣời đọc rất dễ dàng nhận ra cái chất giọng cảm thƣơng da
diết của nhà văn dành cho từng số phận nhân vật. Cái giọng điệu thành thật
nhƣ đƣợc dồn nén lâu ngày và khi nó đƣợc dịp bung nở ra sôi trào cảm xúc.
Ngƣời đọc nhận thấy ông không dụng công trong việc lựa chọn ngôn từ mà
dƣờng nhƣ ông viết văn là chịu sự thôi thúc từ bên trong của con tim dào
dạt. Đó là niềm đam mê đƣợc viết ra những gì thành thực nhất của cuộc
sống của những trải nghiệm mà chính bản thân ông chứng kiến. Viết là để
giãi bày và trút bỏ, gánh nặng cuộc đời chất lên gánh nặng văn chƣơng để
mong đƣợc chia sẻ với những ngƣời đồng cảm. Điều này dễ hiểu vì sao trải
qua bao năm tháng văn của Nguyên Hồng vẫn sống mãi trong tâm hồn các
61
thế hệ độc giả. Cùng thời với Nguyên Hồng đã có nhiều nhà văn xác định
cho mình những khuynh hƣớng khác nhau, bởi văn học thời kì này có sự
phân hoá phức tạp. Bản thân Nguyên Hồng chịu ảnh hƣởng rất lớn từ Thế
Lữ, một nhà thơ lãng mạn, nhƣng sự ảnh hƣởng ở đây là ảnh hƣởng về tƣ
tƣởng, về sự quyết định cho con đƣờng cầm bút viết văn chứ không phải sự
ảnh hƣỏng về thế giới nghệ thuật mà Thế Lữ đã đi. Ngay từ ngày đầu cầm
bút ông đã ý thức sâu sắc: “Trên cái võ đài văn chương nghệ thuật kia, tôi
không thể chỉ không nên bắt chước những ngòi bút mẫu mực có tiếng tăm
của thứ văn thơ thời thượng, mà ngay cả những ngòi bút cùng một khuynh
hướng với tôi, đã đi trước tôi, mở đường cho tôi, kích động tôi, tôi cũng
phải không là nô lệ, không là một cái bóng của sự quay cóp...Phải tự rèn,
tự luyện cho mình...Sắt thép của nó lấy ở quặng mỏ của sự sống, của cuộc
đời, muôn màu nhiệm và linh thiêng phải có máu thịt, máu thịt của con
người, của chính mình. Muốn sử dụng thật hiệu nghiệm thật có kết quả,
thật là tuyệt với sự mầu nhiệm và linh thiêng này, thì phải vừa học vừa
xung trận. Thày dạy là tổ tiên, là ông cha, là quần chúng là nhân loại” [16,
23]. Xét về cùng một khuynh hƣớng, trong đội ngũ các nhà văn hiện thực
đƣơng thời có rất nhiều các nhà văn đi sâu đề cập đến thân phận những
ngƣời nghèo bị áp bức, đày đoạ trƣớc những trái ngang của xã hội, làm cho
diện mạo văn học thời kì này rất đa dạng, phong phú nhƣ muôn mặt của đời
sống xã hội và tạo nên một trào lƣu đánh dấu một chặng đƣờng của văn
học. Tuy nhiên, hiếm có ngòi bút nào đề cập đến thân phận con ngƣời một
cách sâu sắc và thành thực một cách “thống thiết” nhƣ ngòi bút Nguyên
Hồng. Nói nhƣ Thạch Lam: “Người ta tưởng như nhà văn của “thập loại
chúng sinh” ấy từ trong lòng cái xã hội “thập loại chúng sinh” bước ra,
cầm lấy cây bút sắt chấm vào mồ hôi, nước mắt và máu của mình mà viết
ra văn chương riêng của mình” [22, 103].
1.Ngôn ngữ trần thuật.
1.1. Ngôn ngữ đời sống giàu giá trị biểu cảm
Ngôn ngữ là yếu tố căn bản trong hoạt động giao tiếp. Ngôn ngữ là
62
chất liệu, là phƣơng tiện biểu hiện mang tính đặc trƣng của văn học. Đây là
yếu tố đầu tiên đƣợc nhà văn sử dụng trong quá trình chuẩn bị và sáng tạo
tác phẩm, nó cũng là yếu tố xuất hiện đầu tiên trong sự tiếp xúc của ngƣời
đọc với tác phẩm. Theo M. Gorki “Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn
ngữ, công cụ chủ yếu của nó và cùng với các sự kiện, các hiện tượng của
cuộc sống là chất liệu của văn học” [52, 156]. Ngôn ngữ trong quá trình
sáng tạo văn học của mỗi nhà văn có sự khác nhau do trình độ văn hoá, do
nguồn gốc xuất thân, do hoàn cảnh xã hội...Đây là những yếu tố chi phối
đến thói quen và cách sử dụng ngôn ngữ của mỗi nhà văn. Chính vì sự chi
phối trên mà mỗi nhà văn khi cho ra đời một tác phẩm văn học đều mang
những phong cách ngôn ngữ riêng biệt của mình. Trong văn học nhà văn
giao tiếp với mọi ngƣời qua ngôn ngữ đƣợc sử dụng thông qua lời thoại của
nhân vật, lời thoại trữ tình ngoại đề, lời của ngƣời dẫn truyện...Bằng các
hình thức khác nhau, các nhà văn đã thể hiện rõ tài năng sáng tạo của bản
thân qua việc xây dựng một hệ thống ngôn ngữ tạo nên những sắc thái
riêng. Để làm đƣợc điều này đòi hỏi mỗi nhà văn khi sáng tạo tác phẩm cần
phải có vốn sống và ngôn từ phong phú, có khả năng tác động vào giác
quan ngƣời đọc. Sự thành công của một tác phẩm sẽ phụ thuộc vào việc lựa
chọn, sử dụng, sắp xếp từ ngữ của nhà văn trong tác phẩm đó. Khái niệm
ngôn ngữ nhân vật nhằm chỉ những lời nói của nhân vật trong tác phẩm.
Lời nói đó phản ánh kinh nghiệm sống cá nhân, trình độ văn hoá, tâm
lý...Đằng sau mỗi lời nói của mỗi con ngƣời đều có lịch sử riêng của nó. Vì
vậy nhà văn xây dựng tính cách nhân vật thông qua những nét riêng trong
việc sử dụng ngôn ngữ của nhân vật đó.
Nếu nhƣ các nhà văn cùng thời thƣờng xây dựng cho mình cách diễn
đạt độc đáo: Nam Cao lạnh lùng nhƣng sâu sắc của ngòi bút lý trí đầy tỉnh
táo; Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan mỉa mai, trào phúng, hả hê trƣớc
xã hội “chó đểu”; Thạch Lam trong sáng, nhẹ nhàng, lãng mạn và thi vị;
Nguyễn Tuân khinh bạc, chau chuốt, cầu kỳ trong sự mài giũa dụng công...
thì điều dễ dàng nhận thấy trong văn xuôi của Nguyên Hồng đó là việc
63
dùng nhiều các thành ngữ, ca dao ở ngôn ngữ đối thoại, độc thoại, sử dụng
ngôn ngữ đặc biệt “tiếng lóng” của đám lƣu manh, giang hồ và ngôn ngữ
bình dân mộc mạc, sử dụng các khẩu ngữ dân gian, văn nói nhà văn.
Nguyên Hồng đã lựa chọn thứ ngôn ngữ quen thuộc rất đời thƣờng, dân dã
nhƣng vẫn tạo đƣợc sức hấp dẫn riêng để giao tiếp với độc giả, tạo ấn
tƣợng sâu đậm trong lòng ngƣời đọc. Đó là thứ ngôn ngữ chắt lọc từ đời
sống cần lao của đủ các hạng ngƣời dƣới đáy xã hội, đậm chất biểu cảm thể
hiện tấm lòng cảm thƣơng sâu sắc của nhà văn trƣớc số phận con ngƣời.
Nhà văn đã khai thác và vận dụng sáng tạo, thành công khả năng biểu đạt
đan xen của nhiều loại hình ngôn ngữ để diễn tả nỗi đau khổ cùng cực và
những phẩm chất tinh thần tốt đẹp của ngƣời lao động. Đó là cách sử dụng
các thành ngữ dân gian, từ ngữ đời thƣờng, thán từ biểu cảm... một cách
linh hoạt. Tuỳ vào hoàn cảnh, nhân vật của Nguyên Hồng sử dụng ngôn
ngữ mà trong từng trƣờng hợp dƣờng nhƣ sinh ra chỉ để dùng cho loại
ngƣời ấy, con ngƣời ấy. Ông đã biết đặt đúng chỗ, đúng thứ ngôn ngữ mà
loại hình nhân vật nào sử dụng vì vậy mọi từ ngữ trong văn phong Nguyên
Hồng không bay lƣợn mà vẫn phát huy tối đa chức năng vốn có. Ngôn ngữ
trong văn của ông cũng không hề sắc sảo, gọt giũa mà vẫn gây ấn tƣợng, có
tác động trực tiếp tới các giác quan của ngƣời đọc. Thông qua ngôn ngữ
mỗi nhân vật sử dụng, tính cách của từng con ngƣời đƣợc bộc lộ đậm nét.
1.2. Ngôn ngữ trần thuật giàu cảm xúc.
Các tác phẩm của Nguyên Hồng đã sử dụng nhiều thán từ, ngữ thán
từ: “Người Tầu chạy loạn! Người Tầu chạy loạn! Chạy loạn!..” (30, 210).
Khi số phận Bính bị dồn đẩy phải lang thang phiêu dạt, Bính chua xót, đau
khổ cất lên tiếng hỏi lòng mình “Biết làm sao đêm nay?!!”(18, 28). Và nhƣ
những gì Bính lo lắng, Bính linh cảm Bính đã gặp toàn hạng ngƣời đểu giả,
dâm đãng, bởi vậy “Bính rùng mình. Đêm nay đối với Bính mới dài và cực
nhục làm sao? Còn ê chề cay đắng hơn cả một năm lam lũ! Bính nép người
bên góc tường, gục mặt vào bàn tay, tê tái những cảm xúc đau xót sôi nổi
64
trong lòng” [18, 32]. Khi phải sống cuộc sống của gái giang hồ, Bính đã
nhận đƣợc tình cảm, sự chia xẻ của Hai liên, sự đồng cảm của những kẻ
cùng thân phận “Em thương chị quá!”
Bính thổn thức:
- Em biết lắm! Trong nhà này chỉ có chị là thương em còn ai cũng
ghen ghét em...
- Đàn bà với nhau đấy!
Bính nuốt ừng ực sự nghẹn ngào:
- Mà sao cùng trong cảnh khổ lại như chỉ cực ăn thịt lẫn nhau?
Hai Liên lắc đầu, giọng nói lại cao hơn:
- Thôi! Chị nghĩ đến những chuyện ấy làm gì cho nẫu ruột! Đừng
buồn nữa chị ạ. Chị mà tự tử chỉ thiệt thân thôi. Bố mẹ, anh em ai biết đấy
là đâu! Mồ mả mình ai thăm viếng? Chị nên gắng gượng ăn uống cho lại
người rồi năm bảy tháng, một năm quen dần đi” [ 18, 45]
Những lời ân tình của Hai Liên đã an ủi Bính, giúp Bính vƣợt qua
những tháng ngày cực nhục. Giọng văn với những từ ngữ biểu cảm đầy xúc
động đã khơi gợi lên trong lòng ngƣời đọc sự cảm thƣơng, đồng cảm cho
thân phận đau khổ của Tám Bính. Ngôn ngữ trong Bỉ vỏ chủ yếu đƣợc thể
hiện thông qua hình thức đối thoại giữa các nhân vật để cho các nhân vật
bộc lộ cảm xúc, tính cách. Vì vậy ngôn ngữ đƣợc nhà văn sử dụng rất
phong phú, đa dạng phù hợp với từng loại nhân vật, tạo nên thứ ngôn ngữ
đa thanh, đa tầng.
Với hồi kí “Những ngày thơ ấu”, tâm trạng của cậu bé Hồng đƣợc
diễn tả vô cùng xúc động khi đƣợc gặp lại mẹ: “Xe chạy chậm chậm...Mẹ
tôi cầm nón vẫy tôi, vài giây sau, tôi đuổi kịp. Tôi thở hồng hộc, trán đẫm
mmò hôi, và khi trèo lên xe, tôi ríu cả chân lại. Mẹ tôi vừa kéo tay tôi, xoa
đầu tôi hỏi, thì tôi oà lên khóc rồi cứ thế nức nở. Mẹ tôi cũng sụt sùi theo:
Con nín đi! Mợ đã về với các con rồi mà”. [19, 184]. Nếu nhƣ Bỉ vỏ
đƣợc viết bằng giọng văn của một ngƣời đã từng lăn lộn trong cuộc đời lấm
65
láp bùn đen vừa cảm thƣơng vừa chua xót thì cuốn tự truyện của Nguyên
Hồng đƣợc viết bằng một giọng văn thƣơng cảm, một nỗi buồn da diết khi
nhớ lại mảnh đời tội nghiệp của một cậu bé Hồng nhỏ tuổi. Lời văn trong
sáng, hồn nhiên tựa hồ lời của ngƣời trong cuộc tại chính thời điểm miêu tả
chứ không phải của ngƣời đã trải nghiệm khi có trong tay một giải thƣởng
cao quý của văn chƣơng. Nghĩa là lời văn, ngôn ngữ trong Những ngày
thơ ấu đã đƣợc trẻ hoá, để phù hợp với giọng tâm tình, lời tự thuật của một
đứa trẻ rất ngây thơ. Tuy nhiên đứa bé ấy lại cũng bị chính dòng đời nghiệt
ngã xô đẩy, cũng bị chính những ngƣời thân, những ngƣời ruột thịt ghẻ
lạnh nên có khi ngôn ngữ biểu lộ sâu sắc cảm xúc xót thƣơng.
Còn ngôn ngữ trong “Những ngày thơ ấu” thì chủ yếu là những lời
độc thoại và độc thoại nội tâm. Bởi đặc trƣng của tự truyện là sự hồi tƣởng
nên dù là lời nhân vật đối thoại cũng đƣợc xây dựng trên mô hình độc
thoại. Đây là loại hình thể hiện thái độ chủ quan của nhà văn, nên những
dòng thƣơng cảm nhất cũng là những dòng hiện thực nhất về chính cuộc
đời nhà văn.
Ngôn ngữ trần thuật trong hồi kí, tự truyện của Nguyên Hồng là
kiểu: “ tự sự không giấu mình” ông đã công khai, tự phô bày ra tất cả
những gì là hiện thực mà cuộc đời ông từng nếm trải. Chính cái chất hiện
thực này đã làm rung lên nhịp đập trái tim biết bao ngƣời đồng cảm về thân
phận của nhà văn, về quãng đời đầy bất hạnh của tuổi thơ. Ta xót xa khi
một đứa trẻ đã sớm nhận ra cuộc sống địa ngục ngay chính môi trƣờng
đang sống: “Thầy mẹ tôi lấy nhau không phải vì thương yêu nhau”. Cậu bé
Hồng đã biết cảm nhận và phân tích sự hoà hợp của cuộc sống con ngƣời là
gì nếu không phải là sự hoà hợp đích thực của trái tim. Không dễ dàng khi
một đứa bé biết thông cảm với nỗi khát khao tình yêu nguyên thể từ trái tim
của ngƣời phụ nữ - ngƣời mẹ. Nguyên Hồng đọc đƣợc ra điều ấy qua “đôi
má ửng hồng” qua “ánh mắt” qua hành động và hơn nữa ông nhƣ nhìn
thấy cả trái tim đang run rẩy trong lồng ngực ngƣời vợ trẻ kia một tình yêu
66
đang cuồn cuộn dâng trào. Bé Hồng không trách mẹ (những đứa trẻ thông
thƣờng khác sẽ làm thế) mà đồng cảm và thƣơng xót mẹ hơn. Sự nhạy cảm
trƣớc ngƣời mẹ trẻ đang phải gồng mình lên để đè nén, ép xuống cái khát
khao hạnh phúc, trong khi hằng ngày lại phải đối mặt với một ông chồng
già, ốm đau, nghiện hút và nhất là không có một chút tình yêu thƣơng.
Nguyên Hồng không nỡ trách ngƣời mẹ trẻ khi hằng ngày mong ngóng,
chờ đợi tiếng kèn của cai H – điều này trái với luân thƣờng đạo lý – nhƣng
trƣớc hoàn cảnh của mẹ mình ông đã nhận ra “những buổi chiều làm tê tái
mẹ tôi hơn”. Đọc hồi kí của Nguyên Hồng ta nhận ra lối tự sự chân thật,
hồn nhiên giàu cảm xúc và một niềm tin, một tình yêu không gì chia cắt với
ngƣời mẹ thân thƣơng của nhà văn.
Mặc dù là những hồi ức nhƣng Nguyên Hồng đã lắng nghe đƣợc
những âm vang sâu thẳm của tâm hồn, ghi nhận đƣợc những cảm giác tinh
tế tự bên trong và diễn tả chúng qua cái nhìn rất hồn nhiên, tƣơi sáng của
tâm hồn trẻ thơ, khiến cho ai khi đọc văn bản cũng nhƣ thấy chính mình
đƣợc trở về sống trong cảm giác “thời thơ ấu của nhân loại”. Ngôn ngữ,
văn phong thật nhẹ nhàng mà cảm động giúp ngƣời đọc hình dung ra đƣợc
nỗi khao khát cháy bỏng của một đứa trẻ lâu ngày mới đƣợc gặp mẹ:
“...Tôi ngồi trên đệm xe, đùi áp đùi mẹ tôi, đầu ngả vào cánh tay mẹ tôi, tôi
thấy những cảm giác âm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da
thịt. Hơi quần áo mẹ tôi và những hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai
trầu phả ra lúc đó thơm tho lạ thường.
Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng
của người mẹ, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, và gãi rôm
ở sống lưng cho, mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng” [ 19, 184].
Cậu bé Hồng bé nhỏ lại trở nên bé bỏng hơn, yếu mềm hơn khi đƣợc
mẹ ôm ấp, che chở. Bao nhiêu cay đắng tủi cực từ ngày xa mẹ cậu phải
chịu đựng nay đã tiêu tan chỉ còn lại vòng tay mẹ chở che và nỗi sung
sƣớng cực độ khi đƣợc nằm, ngả nghiêng Trong lòng mẹ với dạt dào cảm
67
xúc. Nhà văn nhƣ đang sống lại cùng với cái cảm giác có thật ấy ngày nào.
Phải là ngƣời rất nhạy cảm và tinh tế, yêu mẹ tha thiết thì nhà văn mới lƣu
giữ lại đƣợc những tình cảm ấy và tái hiện lại sống động, cụ thể nhƣ thế.
Trái ngƣợc với cảm giác ấm áp ấy, là những cảm giác xót xa khi cậu
bé Hồng phải tự cố gắng để đấu chọi với những lời độc ác cay nghiệt của
bà cô, khi bà ta rắp tâm gieo rắc mối hoài nghi, ác cảm nhằm chia rẽ tình
máu mủ ruột thịt, tình mẹ con. Tâm địa ấy đã đƣợc Hồng nhận ra ngay sau
những ngôn từ đầy hàm ý:
“ - Hồng! Mày có muốn vào Thanh Hoá chơi với mợ mày không?
Tưởng đến vẻ mặt rầu rầu và sự hiền từ của mẹ tôi, và nghĩ đến cảnh thiếu
thốn một tình yêu thương ủ ấp từng phen làm tôi rớt nước mắt, tôi toan trả
lời có. Nhưng nhận ra ý nghĩ cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi
cười rất kịch của cô tôi kia, tôi cúi đầu không đáp. Vì tôi biết rõ,nhắc đến
mẹ tôi, cô tôi chỉ có ý gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh
miệt và ruồng rẫy mẹ tôi...” [19, 80].
Hai sắc thái tâm trạng trong cùng một con ngƣời nhƣng đều để diễn
tả sâu sắc tình thƣơng yêu mẹ khi cậu kiên quyết bảo vệ ngƣời mẹ thân yêu
của mình. Lời văn đã diễn tả rất thành công tâm trạng của một cậu bé tuổi
đời còn non nớt, chƣa va chạm, chƣa trải nghiệm nhƣng đã rất tinh tế khi
nhận ra cái thảm cảnh đang diễn ra từ chính gia đình mình. Ngôn ngữ nhân
vật gợi lòng thƣơng cảm về số phận của cậu bé thơ không có tuổi thơ.
Tình cảnh của Hai mƣơi hai trong tác phẩm Linh hồn đã gợi niềm
xót xa trƣớc thân phận của ngƣời phụ nữ, ngƣời mẹ, ngƣời vợ đầy đau khổ
khi bị hãm hiếp trong lúc bụng mang dạ chửa, nàng xót xa cho thân phận,
thƣơng cho ngƣời chồng và đặc biệt là một sinh linh bé bỏng đang nằm
trong bụng: “– Xin buông tha tôi ra! Khổ tôi lắm! Tôi bụng mang dạ
chửa!”. Tuy nhiên những vùng vẫy, cố gắng chống đỡ mong “thoát khỏi
nanh nanh vuốt con thú dữ” “song nàng dãy dụa bao nhiêu, dạ con trong
bụng lay chuyển bấy nhiêu, nàng thêm đau đớn, đau đớn vô cùng”. Và sức
68
chống đỡ của nàng không thể lại với kẻ mãnh thú ấy bởi vậy một hậu quả
bi thảm đén với nàng: “Cách non một tuần lễ sau, trong khoảng đêm khuya
im lặng, tại đề lao, trong lúc Hai mươi hai mê mệt nằm bên cái thai còn
nguyên rau long ra trên vũng máu tím bầm như sắc mặt nàng, thì ở nhà
quê anh Tín co ro ngồi cất vó bên bờ ngòi. Anh vẩn vơ trong gian nhà siêu
vẹo, tờ mờ nổi bóng dưới ánh trăng lạnh lẽo mùa đông, rồi anh mơ màng
thấy ngày xuân vui tươi sắp tới đây, trên tay anh thiêm thiếp ngủ đứa con
trai đầu lòng mà vợ anh khoẻ mạnh hết hạn rù sẽ bế về” [29, 17]. Cái
nghịch lí trong suy nghĩ, tâm tƣởng của ngƣời cha đã tố cáo tội ác dã man
của chế độ nhà tù thực dân, của sự băng hoại đạo đức ác man của con
ngƣời.
Với các từ ngữ biểu cảm gợi niềm xúc động, xót thƣơng trong văn
bản, tác giả đã sử dụng rất nhiều dấu câu cảm thán, từ ngữ mang tính biểu
cảm khiến ngƣời đọc phải cảm thƣơng rơi lệ.
1.3. Ngôn ngữ bình dị, sử dụng các thành ngữ, tục ngữ, ca dao
Các nhân vật trong các tác phẩm của Nguyên Hồng thuộc nhiều tầng
lớp xã hội khác nhau bởi vậy nhà văn đã tạo đƣợc tiếng nói, cách nói riêng
của từng lớp ngƣời mà nhân vật đó đại diện. Nguyên Hồng đã sử dụng rất
thành công ngôn ngữ của quần chúng lao khổ, đƣợc chắt lọc từ cuộc sống
lam lũ, đói nghèo của đủ các hạng ngƣời thị dân, nhiều khi những ngôn ngữ
ấy vẫn bám đầy bùn đất, bụi bặm lấm láp của phố phƣờng hỗn tạp nhƣ cái xã
hội ô hợp nửa tây nửa ta, nhiều khi đó là ngôn ngữ của mánh khoé, của lƣu
manh, trộm cắp. Điều này phù hợp thống nhất trong sự biểu đạt nội dung.
Trong Bỉ vỏ ngƣời đọc không thể hình dung đƣợc quá trình sáng tạo
của nhà văn nếu không đọc những dòng tự thuật “Tôi viết Bỉ vỏ”, ta ngỡ
ngàng về một tác giả khi tuổi đời còn quá trẻ với ánh mắt đang ở độ “xanh
non” “biếc rờn” (từ dùng của Xuân Diệu) nhƣng ngôn ngữ, văn phong thì
nhƣ ngƣời đã qua nhiều trải nghiệm. Khi đọc văn bản này ngƣời ta cứ ngỡ
nhƣ đang đối thoại với một ngƣời đã từng trải, am hiểu mọi ngõ ngách của
69
đời sống và là một ngƣời có trong mình đầy những kinh nghiệm xƣơng máu
khi vận dụng rất linh hoạt các thành ngữ rất thích hợp với từng hoàn cảnh.
Tần số xuất hiện dày đặc loại hình ngôn ngữ dân gian này thông qua phƣơng
thức tạo nghĩa mang sắc thái biểu cảm cho từng thời điểm rất chuẩn xác và
tinh tế. Khi xót đau cho thân phận, khi ai oán trách móc sự đời, khi ngậm
ngùi cam chịu...tất cả để diễn tả nỗi đau cùng cực của kiếp ngƣời.
Với tác phẩm tiểu thuyết đầu tay, một văn bản dung lƣợng không
nhiều, chỉ khoảng vài trăm trang nhƣng Bỉ vỏ đã đƣợc nhà văn vận dụng
rất nhiều thành ngữ với nhiều sắc thái khác nhau biểu đạt mọi phƣơng diện
của quá trình tha hoá ở nhân vật Tám Bính từ khi còn sống trong gia đình
tới khi bị gạt lìa khỏi cái nơi gọi là tổ ấm để lăn lộn vào chốn ô nhục ở Hải
Phòng. Những thành ngữ đƣợc sử dụng lại rất phù hợp với từng loại nhân
vật nên khi đọc lên, nhà văn không cần giải thích mà chúng ta vẫn có thể
nhận ra bức chân dung của từng con ngƣời cụ thể, tính cách cụ thể, không
cần tô mà vẫn rất đậm nét từng loại ngƣời.
Xuất hiện ngay phần đầu tác phẩm, hình ảnh bà mẹ Bính đã in đậm
dấu ấn trong lòng ngƣời đọc về một bà mẹ hết sức nhẫn tâm khi biết con
mình gặp nạn, khi biết con mình rơi vào cùng cực của nỗi ê chề bị phụ
bạc... Ngôn ngữ từ bà, không phải lời an ủi xót thƣơng của ngƣời mẹ mà là
một lời nói cay độc, tàn nhẫn. Bà không hề xót con mà cất lời đay chì, đay
nghiến: “Đấy, con gái lớn ông đấy! Đã sung sướng “Mát lòng mát ruột”
cho tôi chưa! Thật “ Bôi gio, chát trấu” vào mặt tôi”. Ngậm ngùi cho thân
phận, Bính thƣơng cảm cho số kiếp mình, cho những ngƣời con gái lầm lỡ
trong câu ca ngàn đời dành cho kẻ lỡ thì dại dột:
“Chót đa mang thì phải đèo bòng
Chót bế lên bụng phải bồng lấy con”.
Xuất phát từ lý do này, Bính đành chấp nhận mọi nỗi khổ nhục, kể cả
sự đối xử bất công, ghẻ lạnh của bố mẹ. Trƣớc sự lạnh lùng của bố mẹ,
Bính biết chẳng thể cầu xin, chẳng thể nƣơng nhờ chỉ làm Bính thêm cay
70
đắng vì sự “Cạn tàu ráo máng” của chính những ngƣời thân. Trƣớc hoàn
cảnh đầy éo le, chua xót của bản thân mình, Bính nhớ đến chị Minh, ngƣời
con gái chửa hoang đã bị dân làng ghẻ lạnh, đã phải chịu những cực hình
làm Bính run sợ khi bị “gọt gáy bôi vôi” dẫn đi khắp làng. Cái hình thức
phạt vạ vì trót hoang thai đó đã phát huy tác dụng với cha mẹ Bính khi
Bính phải nhắm mắt làm theo quyết định của bố mẹ vì nỗi sợ hãi. Đau xót
và cực nhục hơn khi đứa con nhỏ dại của Bính bị đem ra soi xét, dè bỉu
“Nòi nào theo giống ấy”. Trong cuộc mặc cả bán mua, Bính nhƣ đứt từng
khúc ruột, còn cha mẹ Bính thì hả hê, mơn trớn kẻ lắm bạc nhiều tiền
nhƣng trƣớc nỗi đau con ngƣời rẻ rúng “Mua rẻ bán đắt”, vẫn lả lƣớt nịnh
bợ: “Thưa vâng, ông bà “ăn ở phúc đức”, thương người như thế con chắc
ông bà còn là “giàu sang vinh hiển”. Chao ôi! Có nỗi đau nào hơn nỗi đau
khi chứng kiến chính ngƣời thân mình dứt xé tình máu mủ. Để rồi Bính
phải tự tìm ra lối thoát, những mong sẽ làm lại cuộc đời...Thành ngữ, ca
dao, tục ngữ từ ngàn đời xƣa do nhân dân sáng tạo ra, có lẽ ban đầu chỉ là
sự truyền miệng những câu nói có vần điệu nhƣng phù hợp với hoàn cảnh,
nhƣng sau đó là sự đúc kết những kinh nghiệm trong đời sống dân gian để
trở thành vốn tài sản vô giá của con ngƣời trong đời sống hiện thực. Mặc
dù thành ngữ chỉ là những từ ngữ hết sức dân dã biểu thị một khái niệm
nào đó, nhƣng Nguyên Hồng đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo, đúng thời
điểm đã tạo cho văn bản vừa đậm chất dân gian vừa thâm thuý, vừa vạch
đúng mặt, đúng tội, đúng bản chất của từng loại nhân vật và những thành
ngữ ấy đã góp phần không nhỏ vạch tội những kẻ vô lƣơng, vô đạo mà
không cần phải “đao to búa lớn” bộ mặt chúng vẫn phơi bày hiển hiện nhƣ
bản chất vốn có.
Thật xót xa khi Bính phải quyết định từ bỏ con thơ, từ bỏ gia đình,
dù sao cũng là “xảy nhà ra thất nghiệp” Bính đã bị đẩy luôn vào cái xã hội
ô trọc ngay trong lần đầu tiên đặt chân tới mảnh đất Hải Phòng, nơi Bính
hy vọng thay đổi đƣợc số phận, hy vọng tìm đƣợc kẻ phụ tình và mong ƣớc
71
mơ hồ sẽ gặp lại Tham Chung. Sự ngây thơ, trong sáng của Bính không
đáng trách, một cô gái quê, học hành không có, những ngƣời xung quanh
phần lớn là chân chất nên việc Bính tin tƣởng vào ngƣời mình yêu thƣơng
là điều dễ hiểu. Điều đáng phê phán là những kẻ lợi dụng niềm tin mơ hồ,
ngây thơ đó để làm điều bỉ ổi. Nhà văn đã vạch ra một lũ hợp lực lại cấu xé
thân phận Bính đến tả tơi. Từ kẻ trăng hoa dâm ô (thằng trẻ tuổi), đến kẻ
ghen tuông vu khống (vợ, bạn của vợ của thằng trẻ tuổi), cho đến những kẻ
quyền hành học thức (cai, đốc tờ) ...đều hùa nhau xô đẩy Bính vào bƣớc
đƣờng cùng với những lời nanh nọc, cho Bính là đồ “Voi giày ngựa xé” là
hạng gái hƣ hỏng “Thối thây dày da”, khi Bính cố chứng minh cho nỗi oan
uổng của mình lập tức bị đánh đập chửi mắng té tát, bị coi là loại ngƣời mạt
hạng “ Gái đĩ già mồm” chuyên nghề “ Bán trôn nuôi miệng” là loại gái
trơ lì “ Mặt dạn mày dày”. Thêm một lần thành ngữ lại phát huy tác dụng,
hiệu quả. Nếu chỉ cần bóc tách các thành ngữ có cùng trƣờng nghĩa đứng
riêng độc lập khi miêu tả trận đòn ghen tơi tả của vợ tên trẻ tuổi nơi phố
phƣờng, ngƣời đọc cũng đã nhận ra bộ mặt của cả một xã hội vào loại bậc
nhất với đủ hạng ngƣời trong đó hạng ngƣời đểu giả chiếm số đông, hạng
gái làm tiền đƣợc miêu tả thật chi tiết mà không cần lý giải.
Nguyên Hồng nhƣ hoá thân vào nhân vật, đi theo từng bƣớc chân
Bính, Bính đi đến đâu tủi nhục vây bám đến đấy. Bính buộc bị đẩy vào nhà
chứa của mụ Tài – Sế - Cấu, ở đây Bính cũng nhƣ những ngƣời đàn bà con
gái khác bị bóc lột thân xác đến tận cùng xƣơng tuỷ. Để đƣợc tồn tại, Bính
đã phải chịu đựng biết bao cực hình, khổ nhục “Vã mồ hôi sôi nước mắt”
trƣớc những kẻ sa đoạ trăng hoa mà chủ yếu lại là những kẻ đầu đƣờng xó
chợ, nghĩa là những hạng mạt hạng nhất trong dạng cố cùng. Bính đã để
mặc cho số phận buông trôi, phó thác đời mình cho dòng xoáy của số phận
“Hai tay buông xuôi”. Chấp nhận và tủi cực. Nhà văn dƣờng nhƣ quằn
quại với nỗi đau của Bính, ông đã vận dụng rất tài tình thứ ngôn ngữ bình
dân, đời thƣờng nhƣng nặng sức biểu cảm ấy để diễn tả nỗi đau tận cùng
72
của con ngƣời. Vì vậy khi đọc lên ai ai cũng thấy quen thuộc, ai cũng có
thể nhận ra một chân dung gần gũi, một thân phận đang chấp nhận sống
giữa cuộc đời của cái xã hội của lọc lừa đểu giả.
Nhân vật Muống trong Quán nải là một cô gái quê xinh đẹp, trung
hậu, đảm đang. Nhƣng do hoàn cảnh nghèo đói, mẹ lại chết sớm, cha ốm
nặng, cô buộc phải chấp nhận lấy lẽ Hƣơng Hoạch – một gã nhà giàu để
gán nợ, lại có ngƣời vợ cả hết sức độc ác vì vậy Muống phải làm quần quật
suốt ngày “Đầu tắt mặt tối” mà vẫn “còn khổ sở, đau đớn vì những sự day
dứt liên miên quanh đi quẩn lại có lẽ tới lúc Muống hay người đàn bà kia
chết thì mới hết” [30, 268]. Sống trong cơ cực Muống đã phải tìm lấy lối đi
riêng, tự giải thoát cho mình “Bỏ Hương Hoạch dù mang tiếng “trốn chúa
trốn chồng” (trốn chúa lộn chồng – thành ngữ), “vô ơn bạc nghĩa” hay gì
gì đi nữa, Muống chỉ đau đớn ít lâu thôi...vì Muống còn trẻ mà chồng thì
đứng tuổi và không còn thiết gì đến gia đình, vợ cả thì cay nghiệt, vậy “chả
chóng thì chầy” Muống cũng đến theo trai thôi”. Tuy nhiên, Muống cũng
băn khoăn và đắn đo vì nghĩ đến thân phận “có phúc có phận”. Trƣớc cảnh
sống ê chề tủi cực Muống nhƣ “Đứt từng khúc ruột”. Ra đi Muống đã kiên
quyết không mang theo tiền của vì sợ mang tiếng bởi vì “nó lại bảo ấy
không nhờ có những cái ấy thì rã họng ra chứ “mọc mũi sủi tăm” sao
được?” [30, 281].
Sau khi Muống bỏ đi, cả nhà Hƣơng Hoạch nháo nhác, không chỉ
ngƣời vợ cả mà còn cả bà mẹ của mụ vợ cả “Thôi thế là nó “Bôi tro trát
trấu” vào mặt tôi!”. Còn vợ cả của Hƣơng Hoạch thì “Không để lỡ cơ hội
tỏ ra chỉ có mình tuy hiếm hoi nhưng bao giờ cũng là “vợ cái con cột ”chỉ
có mình là người ra sức gánh vác chịu đựng mọi nỗi trong gia đình, mà
chồng dù có lấy thêm đến ai ai nữa cũng chỉ là “rước voi để giầy mồ”, mụ
Hương liền tru tréo lên vừa kể lể ầm ĩ”, “ Bà cụ Hương vội vàng xua tay
và năn nỉ: “- Thôi! Thôi! Dù sao cũng cứ xem sự thể ra sao rồi hãy hay.
“Môi hở răng lạnh”, mày đừng làm thế làng nướ c người ta không biết,
73
người ta chê cười cho” [29, 283]. Hay những tiếng chửi rủa “Cha mẹ con
voi giày”, “con quỷ quái kia”. Các thành ngữ, từ ngữ dân gian đƣợc nhà
văn sử dụng hết sức linh hoạt đã tạo cho câu văn có sức hấp dẫn riêng, đặc
biệt.
1.4. Ngôn ngữ đặc biệt (Tiếng lóng)
Là ngôn ngữ riêng của một nhóm xã hội hoặc nghề nghiệp có tổ
chức, gồm các yếu tố của một hoặc một số ngôn ngữ tự nhiên đã đƣợc chọn
lọc và biến đổi đi nhằm tạo ra sự cách biệt ngôn ngữ với những ngƣời
không liên đới. Nhiều ngƣời coi tiếng lóng là một hiện tƣợng không lành
mạnh làm cho ngôn ngữ thêm tối tăm, cần gạt nó ra khỏi ngôn ngữ văn học.
Tiếng lóng là một hình thức phƣơng ngữ xã hội không chính thức
của một ngôn ngữ, thƣờng đƣợc sử dụng trong giao tiếp thƣờng ngày, bởi
một nhóm ngƣời. Tiếng lóng ban đầu nhằm mục đích che dấu ý nghĩa diễn
đạt theo qui ƣớc chỉ những ngƣời nhất định mới hiểu. Tiếng lóng thƣờng
không mang ý nghĩa trực tiếp, nghĩa đen của từ phát ra mà mang ý nghĩa
tƣợng trƣng, nghĩa bóng. Từ lóng trong tiếng Việt đƣợc sử dụng bởi nhiều
thành phần xã hội. Tiếng lóng có khả năng thay đổi theo thời gian. Trong
giao tiếp, thông thƣờng tiếng lóng chỉ đƣợc sử dụng dƣới dạng văn nói, chứ
ít khi sử dụng vào văn viết, đặc biệt trong trong ngôn ngữ văn bản trang
trọng thì thƣờng hạn chế sử dụng tiếng lóng. Trong văn học, tiếng lóng
thƣờng đƣợc dùng gián tiếp, để chỉ những câu dẫn của nhân vật
Trong các sáng tác của Nguyên Hồng, ông coi tiếng lóng nhƣ một
phƣơng tiện nghệ thuật đích thực và sử dụng tiếng lóng vào sáng tác văn
học một cách chủ động. Tiếng lóng trong các tác phẩm của Nguyên Hồng
có nguồn gốc và các tiểu loại khác nhau. Các nhân vật trong sáng tác của
ông bên cạnh việc sử dụng thứ ngôn ngữ bình dân, tài sản của nhân dân lao
động là một bộ phận nhân vật sử dụng những ngôn ngữ mang nét đặc
trƣng của hạng ngƣời dƣới đáy: trộm cắp, đĩ điếm, lƣu manh, tha
hóa...Tiéng lóng lại đƣợc ông sử dụng rất đa dạng, có những tiếng vay
74
mƣợn ở nƣớc ngoài, có những tiếng là từ trong tiếng Việt đã biến âm hoặc
cấp cho nó thêm một nghĩa mới, nhƣng nhiều nhất là các tiếng lóng do nhà
văn sáng tạo ra. Trong các tác phẩm viết về nhân vật lƣu manh, giang hồ
tiếng lóng xuất hiện đậm đặc hơn, Nguyên Hồng đã sử dụng hàng loạt hệ
thống tiếng “lóng” để miêu tả hoàn cảnh sống của đối tƣợng này, chính thứ
ngôn ngữ đặc biệt này phản ánh rõ hơn tính cách nhân vật. Trong đám
ngƣời đó họ đều giao tiếp với nhau bằng tiếng lóng rất sành sỏi để “bí mật”
thông báo cho nhau về mối bất lợi, nguy hiểm trong cuộc mƣu sinh tội lỗi,
khốc liệt của họ, tiếng lóng góp phần tích cực trong việc thể hiện tính cách
giang hồ và mánh lới nghề nhiệp của các nhân vật. Bằng tiếng lóng,
Nguyên Hồng đã dƣa ngƣời đọc đến với tầng lớp cặn bã nhất của xã hội để
nhận biết sự thật đau xót về hạng ngƣời vẫn bị ngƣời đời khinh rẻ, bồi đắp
thêm giá trị hiện thực của các tác phẩm, làm cho bức tranh đời sống xã hội
Việt Nam trƣớc cách mạng tháng Tám thêm chân thực và sâu sắc. Sự xuất
hiện tiếng lóng đã lộ diện loại lƣu manh khá rõ. Điều này càng chứng minh
vì sao sống trong vòng xoáy đó sự hƣớng thiện trong bề sâu tâm hồn Bính
là điều đáng trân trọng. Có lẽ một phần đời Nguyên Hồng đã buộc phải
phải hoà nhập với môi trƣờng ấy trong những ngày tháng cực khổ nên hơn
ai hết ông đã đặt vào miệng từng nhân vật trong Bỉ vỏ đủ các ngôn từ của
chợ búa, của mánh khoé, của những tiếng “lóng” mà chỉ có ngƣời trong
cuộc mới hiểu rõ và thấu đáo nội dung. Ngay từ nhan đề nếu không tìm
hiểu ngƣời đọc sẽ khó mà biết đƣợc Bỉ vỏ là gì? sẽ không hiểu nổi các ngôn
từ “Te” (đẹp), đi “phiên” (khám bệnh), “hiếc” (lần lƣng móc túi), “khai”
(cắt túi, xẻo đẫy), “tễ bƣớu” (nhiều tiền), “vỏ lỏi” (kẻ ăn cắp còn nhỏ
tuổi), “trách hợm” (một chục), “ngũ đị” (chạy trốn)...Tiếng “lóng” là một
hiện tƣợng ngôn ngữ đƣợc sử dụng trong một bộ phận dân cƣ, không lành
mạnh trong đời sống xã hội, ở thời kì nào nó cũng tồn tại, đó là ngôn ngữ
phi chính thống nó làm sai lệch tƣ duy thậm chí bóp méo ý nghĩa của từ
ngữ. Tuy nhiên nếu không sử dụng những ngôn ngữ này Nguyên Hồng sẽ
75
khó lòng phơi bày cái mặt trái của xã hội thị dân đốn mạt, với trộm cắp, lƣu
manh, đĩ điếm, sẽ không thấy đƣợc ngƣời con gái hiền lành, ngoan đạo nhƣ
Bính phải sống trong cảnh ô hợp bị đẩy vào giữa chốn cặn bã ấy vẫn phải
chấp nhận hoà mình để sống. Thậm chí Bính cũng đành phải a dua, nói
theo thứ ngôn ngữ ấy cho xứng đáng là dân anh chị. Nhà văn không phải để
Bính dễ dãi tha hoá mà khi buộc vào môi trƣờng ấy con ngƣời không còn
lối ra nên đành chấp nhận. Ngôn ngữ ấy phản ánh sự băng hoại của một lớp
ngƣời gợi lên nỗi xót xa trƣớc số phận.
Các tác phẩm của Nguyên Hồng đã sử dụng rất nhiều các loại hình
ngôn ngữ. Đặc biệt hai thiên truyện gần nhƣ viết cùng thời điểm, khi nhà
văn tuổi đời còn rất trẻ chỉ khoảng từ 16 – 18 tuổi, Bỉ vỏ viết trƣớc nhƣng
ngôn ngữ lại hết sức rắn rỏi, già dặn nhƣ của một ngƣời đã qua nhiều trải
nghiệm. Còn Những ngày thơ ấu viết sau đó không lâu mà ngôn ngữ lại
trẻ trung, giàu cảm xúc thể hiện một cảm xúc tƣơi mới, trong sáng, dào dạt
của một cây bút trẻ dễ xúc động, dễ ngạc nhiên trƣớc cuộc sống. Điều này
thể hiện sự linh hoạt rất tài tình trong văn phong của Nguyên Hồng. Ông đã
sử dụng vốn ngôn ngữ phong phú của mình rất khéo léo khi đặt vào vai
nhân vật mà không hề gƣợng ép. Đánh giá phẩm chất một con ngƣời một
phần ghi nhận trong việc sử dụng ngôn ngữ của anh ta. Ở đây, trong sáng
tác của Nguyên Hồng nhân vật nào chúng ta cũng thấy hiện lên đúng với
bản chất của con ngƣời ấy không lẫn vào đâu. Dù miêu tả một Năm Sài
Gòn chai sần với tội ác, dã tâm, lọc lừa, một tay “anh chị” với bề dày là
những thành tích bất hảo đƣợc ghi nhận nơi nhà giam, bến xe, bến tàu, trộm
cƣớp, giết chóc...Khi miêu tả một cậu bé Hồng lang thang vất vƣởng bị
ném vào vòng xoáy cuộc đời cũng đã bị dao động đôi chút khi tìm kế sinh
nhai bằng đánh đáo ăn tiền với một bé Hồng ngồi trong lòng mẹ yếu đuối
và đáng thƣơng, đáng yêu. Ở tình thế nào ngôn ngữ đƣợc Nguyên Hồng sử
dụng cũng rất phù hợp và phát huy tích cực, đúng chức năng là truyền tải
những thông tin cho ngƣời đọc và tác động mạnh vào giác quan của con
76
ngƣời. Giúp ngƣời đọc nhận ra tƣ tƣởng nghệ thuật mà nhà văn biểu lộ. Với
Nguyên Hồng, tiếng lóng đã trở thành cầu nối đƣa nhà văn đễn với những
con ngƣời khốn khổ, vừa thể hiện đặc tính xã hội của nhân vật, vừa thể hiện
thái độ quan tâm của nhà văn tới lớp ngƣời cặn bã trong xã hội cũ.
Trong nền văn học Việt Nam, Nguyên Hồng là ngƣời đầu tiên mạnh
dạn sử dụng và sử dụng thành công tiếng lóng vào sáng tác văn học. Đó là
kết quả của một tấm lòng nhân đạo cao cả, của vốn sống thực tế phong phú
và một bản lĩnh nghệ thuật vững vàng.
1.5. Từ ngữ tôn giáo (Cơ đốc giáo)
Từ ngữ Cơ đốc giáo không phổ biến rộng trong giao tiếp cộng đồng
ngƣời Việt, sự xuất hiện của chúng trong tác phẩm càng ít hơn. Khi
Nguyên Hồng bắt đầu viết văn, từ ngữ Cơ đốc giáo hầu nhƣ nằm ngoài sự
lựa chọn của các cây bút văn xuôi có mặt trên văn đàn. Nguyên Hồng là
nhà văn sớm mạnh dạn sử dụng từ ngữ Cơ đốc giáo vào sáng tác văn học
và đã đạt đƣợc những thành công đáng kể.
Các từ ngữ tôn giáo Nguyên Hồng đƣợc Nguyên Hồng sử dụng rất
phong phú, thuộc mọi cấp độ: các từ, ngữ, tổ hợp từ cố định, câu hoặc đoạn
trong thánh kinh. Chúng đƣợc đƣa vào tất cả các thành phần trong lời văn
nghệ thuật. Tƣ tƣởng bác ái của Thiên Chúa giáo đã có ảnh hƣởng sâu sắc
đến niềm tin mãnh liệt vào thiện căn con ngƣời và lòng yêu thƣơng con
ngƣời tha thiết của ông. Sự ảnh hƣởng của tôn giáo một cách tự nhiên
khiến Nguyên Hồng cảm nhận, lý giải hiện thực theo cách của riêng ông:
“Cảm quan tôn giáo được xác định như là ý thức nghệ thuật đạt đến độ
chín muồi và thể hiện ra một cách tự nhiên thông qua sự cảm nhận, cắt
nghĩa hiện thực qua cái nhìn nghệ thuật đối với đời sống của nhà văn”
[30, 236].
Từ ngữ tôn giáo đã giúp ngòi bút Nguyên Hồng phản ánh đƣợc một
phạm vi hiện thực còn mới mẻ mà độc giả ít đƣợc biết đến. Nhiều ngƣời
bên “đời” thấy đạo của Chúa Giê-su là một lĩnh vực thật huyền bí, thâm
77
nghiêm. Sử dụng từ ngữ Cơ đốc giáo để nói về đạo, Nguyên Hồng đã mở
rộng khả năng phản ánh hiện thực của lời văn. Ông đã giúp ngƣời đọc hiểu
sâu hơn về cuộc sống của những ngƣời theo đạo Thiên Chúa, nhận thấy sự
nghiệt ngã sau bức màn thần bí. đây là mảng hiện thực phức tạp không phải
nhà văn nào cũng có thể đi sâu khai thác. Từ ngữ tôn giáo trong lời văn của
Nguyên Hồng còn có tác dụng biểu cảm và truyền cảm. Tấm lòng nhân đạo
đã chi phối ngòi bút nhà văn, tìm đến từ ngữ tôn giáo để thể hiện sâu sắc
hoàn cảnh sống và thế giới tâm linh của những nhân vật phụ nữ sùng đạo
nhƣng phải chịu đựng chồng chất nỗi bất hạnh nhƣ bà nội cậu bé Hồng,
Tám Bính, Huệ Chi, mẹ Thanh...từ đó nhằm khơi gợi sự đồng cảm của
ngƣời đọc. Từ ngữ tôn giáo vốn chỉ là phƣơng tiện giao tiếp trong lĩnh vực
tôn giáo nhƣng qua sự lựa chọn lời văn của Nguyên Hồng những từ ngữ
này đã thực sự trở thành ngôn ngữ văn học.
Ngôn ngữ của Nguyên Hồng chịu ảnh hƣởng của ngôn ngữ Kinh
Thánh, đọc các tác phẩm của ông ta bắt gặp một loạt các từ ngữ: Thiên
Chúa, Đức Chúa Giêsu, Đức mẹ ẩi, Thánh thể, dấu chỉ, xác tín, Đức
Tin...Ngoài ra còn có thể thấy một số từ ngữ chỉ có thể xuất phát từ lãnh địa
tôn giáo: Đấng hằng sống, Đấng toàn năng, Ngày phán xét, chốn luyện
hình...Đây là điều dễ hiểu bởi trƣớc khi trở thành nhà văn ông đã là một
con chiên của Chúa, đã đƣợc lãnh nhận các bí tích của Hội Thánh, luôn tâm
niệm với thế giới của Chúa...ngôn ngữ của Kinh Thánh đã đi vào các sáng
tác của ông rất tự nhiên. Ngôn ngữ trong văn Nguyên Hồng xuất hiện
những lớp từ thuộc về những lời cầu nguyện xuất phát từ tấm lòng mến đạo
thiết tha của ngƣời Kitô hữu: Con lạy Đức Mẹ hằng cứu giúp, lạy Mẹ là Mẹ
Chúa Cứu Thế, lạy Chúa Giêsu con tín thác vào Chúa, lạy Cha Đấng lòng
đầy trắc ẩn, tôi tin kính đức Chúa Giêsu Kitô...Có thể thấy những lời khấn
nguyện là sự thành tâm với tấm lòng chân thực của những con chiên dâng
lên đấng siêu hình với Đức Tin tuyệt đối.
Trong văn Nguyên Hồng, nhiều khi ngôn ngữ của ngƣời kể chuyện
78
và ngôn ngữ của nhân vật hoà làm một, có khi không thể phân biệt đâu là
ngôn ngữ nhân vật đâu là ngôn ngữ ngƣời kể chuyện bởi tất cả đƣợc hoà
vào trong một thứ ngôn ngữ mang khí vị tôn giáo rất đặc biệt. Khi viết về
những ngƣời cùng khổ, trƣớc những cảnh đời trái ngang, nhân vật của
Nguyên Hồng chỉ biết phó thác cuộc đời vào bàn tay của Chúa và cầu xin
sự an bài trong quyền năng Thiên Chúa. Đối với những ngƣời theo Đạo
giáo từ khi sinh ra cho đến khi nhắm mắt xuôi tay mọi sự đều nằm trong
tay Chúa.
Hƣớng về Chúa và tâm niệm sống trong Chúa Kitô là lẽ sống của
những ngƣời Kitô giáo. Gần nhƣ Nguyên Hồng đã để nhân vật của mình
sống đời sống đạo với một niềm tin mãnh liệt. Ông đã đặt vào họ thứ ngôn
ngữ của Đức Kitô. Trong Ngọn lửa nhân vật đã bày tỏ: “ơn Chúa thương
Chúa đã định, Thánh ý Đức Chúa giời, Nước Thiên đàng...” và cuối cùng
bà tôi lại bùi ngùi, tha thiết bảo tôi: “mọi sự ở thế gian này đều do Thánh ý
bề trên định cả. Con phải hết lòng trông cậy ơn Chúa mới được. Thế gian
này càng ngày càng nhiều những chước ma quỷ, mất ơn Chúa. Con phải
giữ cho vững Đức Tin. Chịu đựng mọi sự khốn khó mà vì mất ơn Chúa.
Con phải giữ cho vững Đức Tin. Chịu đựng mọi sự khốn khó mà vì mất ơn
Chúa, nên các con chiên phải chịu để chuộc tội đã làm cho Chúa Giêsu
đóng đanh chịu chết” [30, 125]. Nhân vật tôi cùng ngƣời bà tội nghiệp chỉ
biết trông cậy vào sự che chở của Chúa để hy vọng lần hồi cho cuộc sống
qua ngày và phải biết đến việc: “người ta phải đọc Kinh để cảm tạ ơn
Chúa”. Cuộc sống của nhân vật trong sáng tác của Nguyên Hồng phần lớn
là những ngƣời cùng khổ nhƣng dù khổ đến mức nào thì tấm lòng của họ
vẫn luôn hƣớng về Chúa, dành trong trái tim mình sự tôn kính: “phải cố
dành một khoảng để bày bàn thờ đầy đủ tượng ảnh, đèn hoa, chân nến hay
không đủ thì phải có một cây Thánh Giá và một tượng Đức Bà ở đầu chỗ
nằm. Cũng những thân hình còm cõi trong những gian nhà úp súp, giường
chiếu cũ nát, đồ đạc ấn nhét lên nhau, những gương mặt xanh xám, ai nấy
79
đều lịm đi trong sự van xin rầu rĩ...lạy Cha chúng con ở trên giời...xin Cha
cho chúng con hằng ngày dùng đủ và tha cho chúng con...Thánh Maria
Đức Mẹ Chúa giời cầu cho chúng con...sáng danh đức Chúa Cha và Đức
Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần...Amen!” [30, 126]. Là một cô gái quê
xinh đẹp, là một con chiên ngoan đạo, đáng lẽ Bính phải đƣợc sống một
cuộc sống sƣng sƣớng, hạnh phúc nhƣng Bính đã phải trải qua cảnh đời tủi
nhục nên Bính chỉ còn biết tin vào Chúa, đức Thánh thiêng liêng. Trong
Tám Bính luôn có hình ảnh của “Đức Chúa Giêsu đứng lại an ủi vùng
Giê–ru-sa-lem giữa khi chính mình không được một ai ngỏ một câu ái ngại
mà lại còn bị xỉ vả, lại còn phải vác cây thập ác nặng nề”, [30, 135] và
Tám Bính đã quyết noi theo tấm gƣơng của Chúa, khi bị dồn đẩy vào bƣớc
đƣờng cùng không biết làm gì chỉ một lòng cầu xin Đức Chúa chứng giám,
xót thƣơng.
Ngay cả những kẻ lƣu manh, trộm cắp, sống ngoài vòng pháp luật
nhƣng ngôn ngữ của những hạng ngƣời này khi nói về Chúa giời cũng vẫn
mang một thái độ trân trọng. Tám Bính mặc dù đã trở thành một “bỉ vỏ”
chuyên nghiệp, một đàn chị sắc sảo không ghê tay trƣớc tội ác nhƣng khi
trở về con ngƣời thật của chính mình Bính lại là một con ngƣời chân tình,
thánh thiện. Cứ mỗi lần gây ra tội ác là mỗi lần Bính xám hối, ăn năn: “ Xin
Chúa tha tội cho chúng con! Xin Chúa thương xót chúng con!” (29, 55).
Khi bị đẩy vào tình cảnh khốn cùng con ngƣời luôn hƣớng về Đức Chúa
giời để cầu xin tha thiết, họ cho rằng: “ Chúa bày đặt để thử thách lòng các
con chiên trung tín. Con đau đớn biết bao, lòng con như sắp nát
tan...nhưng Chúa thế nào cũng ngoảnh mặt lại, và thế nào cũng có một
ngày Chúa cắt gánh nặng trên vai con đi” [30, 60]. Những lời nói thiết tha
của Bính cũng là khát khao hƣớng thiện và Bính ƣớc ao rằng chỉ có Đức
Chúa mới có thể giúp đƣợc cô. Đó là thứ ngôn ngữ của những ngƣời có
đạo. Thứ ngôn ngữ khiêm nhƣờng, lễ độ, phép tắc và tín thác vào Chúa
Kitô. Gia đình Nguyên Hồng vốn là một gia đình có gốc theo đạo bởi vậy
80
ngôn ngữ tôn giáo đi vào văn Nguyên Hồng một cách rất tự nhiên.
Qua việc tìm hiểu tất cả các sáng tác văn xuôi của Nguyên Hồng ta
nhận thấy, dù là ngôn ngữ của ngƣời kể chuyện hay ngôn ngữ của nhân vật
thì kiểu ngôn ngữ thấm đẫm khí vị tôn giáo luôn xuất hiện dày đặc trên
từng trang viết. Trong các sáng tác của Nguyên Hồng, những con ngƣời có
đạo nói năng, thƣa gủi rất lễ độ, xử sự nhã nhặn. Ngôn ngữ trong văn
Nguyên Hồng vừa tràn đầy sắc thái biểu cảm vừa thể hiện tình yêu mến
Đức Chúa. Có thể nói, ngôn ngữ của nhân vật Nguyên Hồng là ngôn ngữ
của con chiên của Chúa!
2. Giọng điệu trần thuật của Nguyên Hồng
Giọng điệu có vai trò quan trọng trong việc xác lập phạm trù thẩm
mĩ của nhà văn, đây là yếu tố góp phần hình thành phong cách của nhà văn.
Giọng điệu là thứ hình thức nghệ thuật mang tính quan niệm, nó là thƣớc
đo không thể thiếu để xác định tài năng và phong cách độc đáo của một nhà
văn, nhà thơ. “Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo
đức của nhà văn với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy
định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa
gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm...”; “ Giọng
điệu là một yếu tố đặc trưng của hình tượng tác giả trong tác phẩm. Nếu
như trong đời sống, ta thường chỉ nghe giọng nói nhận ra con người thì
trong văn học, giọng điệu giúp chúng ta nhận ra tác giả” [40, 267].
Trong đời sống hằng ngày, giọng điệu là giọng nói, lời nói biểu thị
thông tin, thái độ nhất định. Trong văn học, giọng điệu là thái độ, tình cảm,
lập trƣờng, tƣ tƣởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tƣợng miêu tả thể
hiện trong lời văn, biểu lộ sắc điệu tình cảm. Giọng điệu là một phạm trù
thẩm mỹ của văn học, là yếu tố quan trọng để tạo nên phong cách của nhà
văn. Trong văn chƣơng, giọng điệu không phải xác định ở chỗ “nói cái gì?”
mà ở chỗ “nói như thế nào?”.Giọng điệu trong tác phẩm gắn với chất
giọng riêng của mỗi ngƣời, bởi vậy khi đọc một tác phẩm văn học ta có thể
81
xác định đƣợc tác giả. Trong một tác phẩm nghệ thuật có giọng điệu chủ
yếu và những giọng điệu khác đan xen. Giọng điệu chủ yếu tạo thành âm
hƣởng chung cho tác phẩm, nó quyết định nhiều khâu, nhiều yếu tố trong
việc xây dựng toàn bộ tác phẩm, kể cả cách thức, phƣơng thức xây dựng
nhân vật. Tìm ra giọng điệu phù hợp sẽ giúp nhà văn kể chuyện đƣợc hay
hơn, thể hiện rõ tƣ tƣởng và lý tƣởng thẩm mỹ của mình. Nhƣ vậy vấn đề
giọng điệu của tác giả mà chủ yếu là giọng điệu trần thuật cần đƣợc sự
quan tâm của cả ngƣời sáng tác, ngƣời thƣởng thức và ngƣời nghiên cứu.
Khi đọc một tác phẩm văn học, ngƣời đọc có thể nhận thấy tất cả
chiều sâu tƣ tƣởng thái độ, vị thế, phong cách, tài năng cũng nhƣ sở trƣờng
ngôn ngữ, cảm hứng sáng tạo của nghệ sĩ thông qua giọng điệu. Nền tảng
của giọng điệu là cảm hứng chủ đạo của nhà văn.
Giọng điệu vừa liên kết các yếu tố hình thức khác nhau, làm cho
chúng cùng mang một âm hƣởng nào đó, vừa là chỗ dựa chính để các yếu
tố của tác phẩm quy tụ lại và định hình thống nhất với nhau theo một kiểu
nào đó, trong chỉnh thể của giọng điệu ấy mỗi yếu tố hiện ra rõ hơn, thậm
chí mới mẻ hơn.
Trong các sáng tác của các nhà văn ƣu tú, ngƣời đọc dễ nhận ra
giọng điệu mang nét đặc trƣng của nhà văn, đây chính là biểu hiện cao của
tính cá nhân, cá tính sáng tạo. Giọng điệu chính là phong cách nhà văn.
Một nhà văn tài năng bao giờ cũng tạo đƣợc giọng điệu độc đáo: Nam Cao
– giọng điệu lạnh lùng – tƣởng chừng nhƣ ngƣời đứng ngoài cuộc nhìn
nhận nỗi đau nhân vật, nhƣng thực tế nỗi đau nhân tình thế thái đã thấm sâu
vào tâm hồn nhà văn trƣớc nỗi đau đồng loại. Vũ Trọng Phụng – Giọng
điệu cƣời cợt trƣớc hiện thực lố lăng của xã hội thị dân, ông dƣờng nhƣ
muốn phơi bày ra tất cả những gì tồi tàn, thối nát để mọi ngƣời cung nhìn
nhận, chiêm ngƣỡng và phần đánh giá thuộc về độc giả. Nguyễn Tuân –
Giọng điệu “ngông” biểu hiện của giọng văn khoe tài, uyên bác. Thạch
Lam – Giọng điệu buồn man mác. Với Nguyễn Công Hoan, cuộc đời tựa
82
một tấn trò hề: con cái diễn trò báo hiếu, vợ chồng diễn trò thuỷ chung, kẻ
giàu diễn trò nhân đạo, nhà nƣớc diễn trò pháp luật...Ngƣời kể chuyện là
ngƣời biết mọi thủ thuật làm trò của các vai diễn trên sân khấu cuộc đời. Vì
thế giọng điệu trong sáng tác của ông là giọng điệu hài hƣớc, giễu cợt,
châm biếm. Giọng điệu trần thuật trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng
thƣờng cay độc, đầy phẫn uất. Giọng điệu của Nguyễn Tuân tài hoa khinh
bạc. Giọng điệu của Tô Hoài dí dỏm...Ngƣời trần thuật trong sáng tác của
Ngyên Hồng đã tạo cho mình một giọng điệu riêng: Thƣơng cảm thống
thiết và thiết tha sôi nổi.
Xuất phát từ đời sống cần lao, gắn bó với lớp ngƣời dƣới đáy của tầng
lớp thị dân, Nguyên Hồng có một tình yêu sâu sắc và chân thành đối với con
ngƣời. Điều này đã giúp ông luôn sẵn sàng cảm thông với niềm vui nỗi buồn
của những ngƣời cùng cảnh ngộ. Nguyên Hồng viết văn là vì lòng thƣơng
cảm với những ngƣời cùng cảnh ngộ, cùng khổ, ông viết về họ nhƣng nhƣ
viết về chính cuộc đời mình với tất cả niềm cảm thông và thƣơng yêu, trân
trọng. Bởi vậy khi viết về cuộc sống của những ngƣời dân nghèo, Nguyên
Hồng thƣờng sử dụng giọng điệu thƣơng cảm thống thiết qua những câu văn
dài, lời văn chồng chất điệp từ, điệp ngữ và các yếu tố liệt kê.
2.1 Giọng điệu cảm thƣơng thống thiết
Văn Nguyên Hồng là hiện thực bề bộn và cảm xúc ngùn ngụt tràn
vào câu chữ, khiến khuôn khổ ngữ pháp thông thƣờng của câu không đủ
sức chứa tình ý tuôn chảy ào ạt trong tâm trí ngƣời viết. Cả vốn sống dồi
dào phong phú và nhu cầu giải toả cảm xúc mãnh liệt đều tạo nên nội lực
đẩy ngòi bút của ông vƣợt khung trên mọi cấp độ: thể loại, văn bản, đoạn
văn và nhất là câu văn. Các kiểu câu dài, cấu trúc tầng bậc, thành phần
phức tạp. Nguyên Hồng sử dụng nhiều điệp từ, điệp ngữ và các yếu tố liệt
kê trong câu hoặc chuỗi câu.
Có khi tác giả lặp lại một cụm từ, một kiểu phô diễn. Có khi kết hợp
các dạng với cấu trúc tầng bậc. điệp từ, điệp ngữ có trong tất cả các thành
83
phần lời văn của Nguyên Hồng, nhƣng phổ biến hơn là ở những đoạn trữ
tình ngoại đề và lời miêu tả. Chúng đƣợc sử dụng để nhấn mạnh đặc điểm
của đối tƣợng, nhấn mạnh cảm xúc, thái độ của tác giả hoặc của ngƣời trần
thuật. Hiệu quả nghệ thuật nổi bật nhất mà điệp ngữ mang lại cho lời văn
Nguyên Hồng là biểu hiện các trạng thái cảm xúc ở cƣờng độ cao. Điệp
ngữ làm cho nỗi buồn, niềm vui đƣợc “giải toả” trên trang viết nhanh,
mạnh, thấm thía hơn.
Lời văn Nguyên Hồng cũng chồng chất các yếu tố liệt kê. Mỗi nội
dung thông báo của câu hoặc đoạn văn thƣờng đƣợc triển khai bằng sự nối
tiếp các đơn vị cú pháp cùng loại thành loạt, thành dãy. Mỗi một yếu tố
đƣợc liệt kê làm sự việc, nhân vật, cảm xúc, tâm trạng hiện lên rõ nét;
nguyên tắc cụ thể hoá đối tƣợng miêu tả phản ánh đƣợc hiện thực hoá trong
lời văn một cách triệt để. Đây là nguyên nhân trực tiếp làm cho câu văn của
Nguyên Hồng thƣờng dài, cấu trúc tầng tầng, lớp lớp.
Trong tác phẩm Đây bóng tối , viết về nỗi đau khổ của Nhân và mũn
khi rơi vào tình cảnh tuyệt vọng, giọng văn Nguyên Hồng tha thiết, xót xa:
“- Tôi mù rồi! Tôi mù rồi! Mình ơi. Rồi không thể nén được chua
xót, Nhân ôm ngực, ngã gục xuống giường, Nhân thiếp đi trong tiếng vợ
con khóc như ri.Sao lại có thể như thế được? Sao lại có thể khốn nạn đau
đớn cho hai người ấy như thế được? Sao hai người ấy đã cùng khổ mà lại
còn phải chịu nhiều sự cay đắng làm vậy?
Sao chỉ trút lên đầu những kẻ hiền lành chịu khổ như vợ chồng Nhân
những đoạ đày khổ ải? Mà sao cái hạnh phúc bé nhỏ như gây dựng trên
từng vũng mồ hôi, vũng nước mắt của vợ chồng Nhân lại chóng bị tàn phá
đi? ” [30, 164].
Nguyên Hồng đƣợc là “nhà văn của thập loại chúng sinh” (Nguyễn
Minh Châu) và ông đã từ trong lòng cái xã hội với đủ hạng ngƣời đó “
bước ra , cầm lấy cây bút sắt chấm vào mồ hôi, nước mắt và máu của mình
mà viết ra văn chương của riêng mình”. Trong số nhân vật mà ông xây
84
dựng, ông lại dành nhiều tình cảm nhất cho những ngƣời phụ nữ và trẻ em.
Các tác phẩm của ông viết về hai đối tƣợng này đều hết sức cảm thƣơng,
đau xót, có khi ông đã miêu tả những cuộc đời những số phận bị đẩy đến
cùng cực của những khổ đau, bất hạnh.
Ngay từ truyện ngắn đầu tiên Cát bụi lầm, nhà văn đã vạch rõ bản
chất tồi tàn của chế độ nhà tù thực dân về câu chuyện kể về một bà cụ già
nhà quê ốm yếu phải ở tù mà không biết bị phạm tội gì. Sau những ngày
tháng kiệt sức, ngƣời đàn bà ấy đã chết. Và chính Nguyên Hồng đã kéo xe
đƣa bà cụ đi chôn mà trong lòng luôn bị ám ảnh bởi số phận bất hạnh của
cụ “Tôi vừa đi vừa nghĩ như thế mà đã sống được, và một người như thế thì
còn sức đâu để hãm hại ai, để phạm tội mà chịu tù đày” trƣớc cái chết đầy
xót thƣơng của bà cụ, cậu day dứt “giá tôi kiếm được miếng khăn mà liệm,
chắc linh hồn bà cũng đỡ lạnh lẽo tủi đau dưới suối vàng! Nhất là khăn và
chăn chiếu ấy lại là của tôi, một kẻ chỉ đáng tuổi cháu bà và là bạn tù của
bà”. Nỗi ám ảnh về những nghịch cảnh ngay từ thuở ấu thơ đã dồn đọng và
đi vào những trang viết của nhà văn gợi lên nỗi xót thƣơng trƣớc những
kiếp ngƣời bé nhỏ, bất hạnh. Giọng văn vừa thống thiết, day dứt bi thảm.
Lời văn của Nguyên Hồng ngày càng trở nên thiết tha hơn. Ngôn
ngữ trong nhân vật ngƣời phụ nữ trong truyện Vực thẳm nghe xót xa khi
nói về ngƣời mẹ lam lũ đáng thƣơng: “Những quang gánh thúng sọt nặng
trĩu những ngô khoai, rau muống, bèo kia, kĩu kịt trên những sống vai gầy
rạc của cái kiếp người tần tảo, lần hồi, nếu có thành điệu thơ thì phải là
những tiếng kêu thống thiết của sự đau đớn chua xót, đòi gọi sự thay đổi
cho cuộc đời được ấm no, yên vui, rất xứng đáng cho những người mẹ hiền
từ chịu khó” [30, 195].
Tấm lòng xót thƣơng của nhà văn thể hiện qua cái nhìn nhân bản về
cuộc đời, số phận của ngƣời con gái bất hạnh: Tám Bính. Nhà văn đã đi sâu
vào tận cùng ngõ ngách tâm hồn Bính để xót thƣơng, chia xẻ. Từ việc Bính
bị cha mẹ hắt hủi chỉ vì lỡ dở: “ hễ động thấy mặt Bính, bố mẹ Bính không
85
mắng mỏ thì chìa bỉu, day dứt, đay nghiên Bính chỉ vì sự lầm lỡ đó” (18,
20). Bính chua xót cho cuộc đời mình và thƣơng con dứt ruột, đứa con sinh
ra ngoài ý muốn và hơn nữa nó đã bị đối xử tàn tệ bằng chính những ngƣời
ruột thịt: “ Bính ôm ghì lấy đứa con vào ngực, nức nở trong bóng tối. Bính
lại thầm thì khóc. không thể sao ngồi yên được, Bính đi đi lại lại, và đã ba
hôm nay giọng khàn mất rồi, Bính lại phải rung rung cánh tay để ru con.
Thật Bính có ngờ đâu và cũng không bao giờ dám nghĩ tới nông nỗi này.
Lòng người Bính cứ tưởng như lời người nói. Còn sự tệ bạc Bính đinh ninh
một hạng người ăn học như thế không thể có được! Nhưng đến nay Bính
mới rõ cái bề ngoài che đậy sự khốn nạn độc ác thì đã muộn lắm rồi. Chắc
Bính phải đau khổ mãi vì sự lừa dối đó thôi.
Bính như không đủ sức nhắc nổi chân nữa, bèn ngồi xệp xuống
chõng, dựa lưng vào bức vách, đầu ngả về một bên, mỏi mệt nhìn bóng tối.
Phút chốc trong tâm tưởng Bính lại hiện ra những hình ảnh không bao xa”
[18, 102). Khi Bính phải dứt tình máu mủ bỏ đi lang bạt, trái tim nhà văn
nhƣ bị bóp nghẹt, đau đớn, giong văn chùng xuống đầy xót xa: “Đường xá
vắng tanh, vắng ngắt, Bính rùng mình. Đêm nay đối với Bính mới dài và
cực nhục làm sao? Còn ê chề cay đắng hơn cả một năm lam lũ. Bính nép
người bên góc tường, gục mặt vào bàn tay, tê tái những cảm xúc đau xót
sôi nổi trong lòng” [18, 89].
Sự đau xót trƣớc cảnh ngộ của những ngƣời cùng khổ đã giúp cho
nhà văn có cái nhìn chiều sâu nhân bản. Tấm lòng ông luôn hƣớng về
những ngƣời cùng khổ, đói rét, đày đoạ, ánh mắt ông thấu hiểu sâu sắc hơn
nỗi cơ cực của những em bé, trong đó có chính bản thân ông. Sự đồng cảm
của ông với Nhân, với Mũn Đây bóng tối trong tình yêu thƣơng giản dị mà
nồng ấm tình ngƣời. Từ sự mang ơn của Nhân với Mũn về một “sự cố” ,
Mũn đã giúp Nhân hiểu ra rằng: “ Con bé xanh xao xác xơ kia, bằng sự
giúp đỡ đầy tình thương xót Nhân, đã cười lên tận cả mặt đám người mọi
rợ nọ, Nhân chỉ cảm thấy rằng Mũn, đứa con gái ấy là tốt”. Cũng từ hôm
86
ấy, Nhân đã dành cho Mũn những tình cảm rất chân thành: “Chẳng một
thức ăn gì Nhân không để dành cho Mũn. Thậm chí, những buổi ế chợ,
thím Nhân phải đưa bún chả về nhà ăn trừ bữa thì Nhân tìm đủ mọi cách
để giấu chả và bún đi. Một bữa, không thể bỏ túi được, không thể giả vờ ra
ngoài được, Nhân đành lừa sáu bảy miếng chả lại bát cuối cùng. Rồi đến
lần và cuối cùng Nhân ấn đầy cả vào mồm, nhai vờ vờ, nói xin vô phép.
Vừa ra khỏi cửa, Nhân ù té chạy đi tìm Mũn” [21, 65]. Trong cảnh sống cơ
cực, lam lũ đó vẫn có những tấm lòng tƣơi đẹp. Tình ngƣời trong Nhân toả
rạng xoá tan những tăm tối mà Mũn đang gánh chịu khi hoàn cảnh của bản
thân Mũn vô cùng khổ sở: “Mũn mồ côi cha mẹ, phải đi dắt thuê cho một
bà lão ăn mày, chẳng bao giờ được miếng ăn ngon, nên khi chìa tay đón
lấy những miếng thịt lẫn lộn cơm và nước dãi, thì Mũn ngây người ra nhìn
Nhân có vẻ cảm động lắm” [21, 67]. Tình cảnh đáng thƣơng và cảm động,
đúng nhƣ dân gian đã từng nói “một miếng khi đói bằng một gói khi no”,
miếng ăn ấy đã giúp Mũn hiểu hơn cái tình của Nhân và giúp Nhân nhận rõ
hơn nỗi bất hạnh của Mũn. Hai con ngƣời ở hai thế đối lập đã sẵn sàng chia
xẻ cho nhau niềm vui và hạnh phúc nho nhỏ “Mũn không ăn một mình, bắt
Nhân lại bụi cây gần đấy, xé tơi thịt ra đựng đầy bàn tay ép Nhân cùng ăn
chung” [21, 69].
Trong cái đói, cái nghèo là tấm lòng rực sáng của tình yêu thƣơng.
Giọng văn vừa dịu dàng vừa da diết, rất cảm động. Nguyên Hồng đã
cực tả nỗi đau đớn, đói khổ của chính bản thân. Ngƣời đọc xót thƣơng
trƣớc tình cảnh một cậu bé sống trong đói khổ, cô đơn ngay chính tại nhà
mình, giữa những ngƣời thân đằng nội đạng bị cả cuộc đời vùi dập với
tiếng kêu ai oán xót thƣơng, tiếng cầu cứu mẹ, tiếng lòng của một sự thèm
khát giữa đói khổ: “Giá ai cho tôi một xu nhỉ? Chỉ một xu thôi! Để tôi mua
xôi hay bánh khúc. Vừa đi vừa cắn, ngon xiết bao! Không! Không ai cho
tôi cả, vì người ta có phải mẹ tôi đâu!” [19, 134]. Cái đói cái khổ đeo bám
lấy một cậu bé nghe não lòng và đáng thƣơng. Tình cảnh của bé Hồng rất
87
đáng thƣơng và gợi nỗi xót xa trong lòng ngƣời.
Với giọng điệu chủ yếu: cảm thƣơng thống thiết, các tác phẩm của
Nguyên Hồng đã đi sâu vào lòng ngƣời đọc. Đọc văn Nguyên Hồng ta nhƣ
nhìn thấy từng trang đời thấm đẫm nƣớc mắt, tuy nhiên ở họ vẫn sáng lên
niềm lạc quan tin tƣởng vào tƣơng lai nên giọng văn nhiều khi sôi nổi.
Điều làm cho ngƣời đọc nhận ra một cách dễ dàng là giọng điệu
“thống thiết” của lời văn và niềm lạc quan tin tƣởng vào tƣơng lai. Giọng
điệu này đã đi liền với cấu trúc lời văn nghệ thuật của Nguyên Hồng, câu
văn của ông thƣờng mở rộng thành phần câu theo kiểu tăng cấp, liệt kê.
Các đoạn văn thƣờng đƣợc tổ chức theo kết cấu tầng tầng lớp lớp, kết cấu
theo kiểu lặp cấu trúc câu. Vì vậy, nhịp điệu câu văn của Nguyên Hồng
luôn nhịp nhàng, dồi dào cảm xúc, giàu chất thơ và dễ đi vào lòng ngƣời.
Cùng với giọng điệu thống thiết ấy là một niềm tin vào tƣơng lai nên
giọng văn sôi nổi thiết tha tràn đầy cảm hứng. Giọng điệu đi liền với cấu
trúc tầng tầng, lớp lớp của lời văn nghệ thuật. Sử dụng các biện pháp liệt kê
liên tiếp, dồn dập, tăng cấp theo kiểu lặp cấu trúc câu.
Nhà văn đã phát huy tối đa các biện pháp tu từ nghệ thuật mà chủ
yếu là các điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc dƣới nhiều dạng thức khác nhau.
Sử dụng nhiều độc thoại nội tâm để diễn tả tâm trạng.
Trong Những mầm sống nhà văn đã thể hiện niềm tin tƣởng vào
tƣơng lai, vào một cuộc sống tốt đẹp: “ một ai dầu hoài nghi đến đâu, khi
nhìn cái hình thức tối tăm, cằn cỗi và như thối nát của sự sống một phần
nhân loại lầm than chỉ là một cái vỏ mỏng sắp sửa đổ vỡ. Vì trong cái vỏ
ấy, bao nhiêu cái mầm sống nẩy nở , đã chin muồi, sắp nhỏm dậy, xé tung
sự trùm lấn, đè ép để tự do thở hít ánh sáng và khí trời, để được reo rắc
mênh mông” [ 30, 209].
Với Bỉ Vỏ, nhà văn đã xây dựng nhân vật Bính trong tận cùng đau
khổ, nhƣng Bính luôn tin tƣởng vào tƣơng lai, luôn hi vọng có một cuộc
sống tƣơi đẹp vì vậy cứ có cơ hội là Tám bính lại động viên Năm Sài Gòn
88
tìm đến con đƣờng hƣớng thiện. Bính chịu đựng mọi sự đau khổ, sự trà sát
của cộc sống cũng với một hi vong mong manh sẽ có ngày tìm lại đƣợc đứa
con. Đứa con – chính là động lực để Bính tìm về sự sống với khát vọng
luôn rực cháy, với niềm mong mỏi khắc khoải.
Truyện Hai nhà nghề là lời tâm tình của cậu bé Nhân với nghề nhào
lộn mua vui cho thiên hạ. Một nghề chơi nhƣng vô cùng nguy hiểm đến
tính mạng: “ Nhân Đen đi ngược bằng tay ba bốn lần chung quanh hè, lại
đến trồng cây chuối và nhào lộn trên mặt đất.
Nhân như không phải là người bằng xương mà toàn bằng gân bằng
thịt. lưng Nhân lại uốn cong như lưng tôm, hai chân Nhân lộn ngược về
đằng sau quặc lấy cổ, cánh tay Nhân như rắn vờn trên mặt đất.
Nhưng, Nhân Đen đã thở bằng tai sau hai trò nhào lộn trên trên hai
sợi dây thép. Nhảy xuống đất rồi mà Nhân còn quay tròn đi một vòng vì
mắt Nhân bắt đầu tia ra những đốm sáng, và hình như trong đầu Nhân, óc
dào dạt đập vào thành sọ.
Nhân phải nhắm nghiền mắt lại đứng lặng đi”...và cuộc sống dù khổ
sở phải cố gắng để kiếm miếng cơm nhƣng Nhân đã không dám lơi là công
việc “Đời sống cấm ngặt Nhân không được một giây nào chán nản và uỷ mị,
phải luôn luôn hoạt động và hớn hở như là ánh nắng tưng bừng nô giỡn trên
cây cỏ đầy nhựa mạnh của trời xuân”. [30, 200]. Tuy nhiên, Nhân đã phải
chật vật với nghề vì sống trong sự thờ ơ, vô cảm của con ngƣời. Dù thế Nhân
vẫn tự dặn mình phải biết tin tƣởng vào cuộc sống, thể hiện niềm lạc quan.
Cùng với nhân vật Nhân, là Huân trong Trăng thu, “Huân chui rúc
trốn tránh trong những xóm thợ, những căn buồng tối tăm, bẩn thỉu. Với
những con người bị những khổ sở vất vả đày đoạ” [30, 92]. Nhân vật trong
sáng tác của Nguyên Hồng đƣợc miêu tả ở các hoàn cảnh khác nhau nhƣng
dù tình huống nào cũng thật đáng thƣơng. Họ phải bƣơn chải trong cuộc
mƣu sinh mà vẫn đói nghèo, khổ cực. Các số phận, những mảnh đời dù bị
đẩy đến tận cùng của đói rét, lam lũ nhƣng ở họ vẫn sáng lên một niềm tin
89
vào tƣơng lai. Đây là đặc trƣng của ngòi bút Nguyên Hồng dù rơi vào vực
thẳm tăm tối nhƣng ông vẫn nhìn ra ánh sáng soi rọi và tin tƣởng vào cuộc
sống.
2.2 Cấu trúc tầng tầng lớp lớp theo mạch cảm xúc của lời văn nghệ thuật
Lời văn tự sự của Nguyên Hồng khi hƣớng tới chức năng thông tin
thƣờng dễ bị rối bởi lối viết câu dài, rƣờm rà khiến ngƣời đọc thấy thiếu
một sự sáng tỏ rạch ròi của tƣ duy, ý tƣởng. Nhƣng khi hƣớng tới chức
năng biểu cảm, câu văn Nguyên Hồng lại tỏ ra mạch lạc, sáng sủa để laị
nhiều dƣ âm, dƣ vị đó là những câu dài, thậm chí rất dài. Vì thế khi đọc tác
phẩm của Nguyên Hông ta thƣờng cảm thấy hơi nặng nề vì sự hơi “tham”
trong việc truyền tải thông tin. Nhiều khi cách kể chuyện của nhà văn hơi
lan man nhất là những đoạn hồi ức về quá khứ, những câu văn cƣờng điệu
khi mô tả nhân vật. Tuy nhiên, điều đó không làm giảm đi sự lôi cuốn của
các tác phẩm. Các tác phẩm của ông đã thể hiện năng khiếu bẩm sinh và là
trái tim tràn trề, sung mãn tình yêu với cuộc sống. Dƣờng nhƣ Nguyên
Hồng đặt bút viết câu nào là sự sống tích tụ từ lâu trong tâm hồn khoẻ
mạnh ấyđua nhau, chen nhau, xô đẩy nhau mà ra. Và đúng nhƣ Linh Thi đã
nhận định: “Câu văn Nguyên Hồng lúc nào cũng nhƣ con cá đang thở gấp,
lúc nào cũng quẫy cựa, phập phồng sự sống, lấp lánh sự sống”.
Nguyên Hồng thích và thành công khi đặt câu, dựng đoạn theo kiểu
văn trữ tình. Ông hay mở rông thành phần câu theo kiểu liệt kê, tăng cấp và
dùng nhiều thành phần đồng chức năng khiến cho câu văn của ông thƣờng
có tầng, có lớp, nhiều khi rƣờm rà, bừa bộn.
Các điệp từ, điệp ngữ đƣợc sử dụng trong văn Nguyên Hồng với
nhiều dạng thức khác nhau. Có khi là sự lặp lại một từ trong nội dung
thông báo hoặc trọng tâm cảm xúc để thể hiện tâm trạng của nhân vật.
Trong Đây bóng tối, Nhân đau xót thốt lên: “Mũn chết? Thế là hết! Đời
cha con Nhân thật hết cả chỗ nương tựa...hết cả mọi sự yên vui, mọi ánh
90
sáng, mọi hơi ấm” [30, 68] .
Lời văn của Nguyên Hồng chồng chất các yếu tố liệt kê. Mỗi yếu tố
đƣợc liệt kê làm cho sự vật, sự viêc, nhân vật, cảm xúc, tâm trạng hiện lên
rõ nét hơn, giúp cho nhà văn cụ thể hoá đƣợc đối tƣợng miêu tả phản ánh
trong lời văn. Có những đoạn văn nhờ yếu tố liệt kê đã góp phần hoàn
chỉnh bức chân dung nhân vật, hình ảnh của một ông lão tội nghiệp, đáng
thƣơng trong Con chó vàng là một ví dụ: “Tưởng ai, đó là ông lão đầu râu
bạc phếch, mắt mù, quần áo rách rưới, ôm trong lòng một cái bị, một cái
rá, có một tảng xôi đã khô, mấy miếng thịt gà gặm dở và một con chó vàng
ngồi dưới nách” [ 30, 99].
Đoạn văn của ông cũng thƣờng tổ chức theo kết cấu chồng tầng bằng
biện pháp liệt kê gián tiếp, dồn dập, tăng cấp theo kiểu lặp cấu trúc câu.
2.3. Các đoạn văn trữ tình ngoại đề
Trữ tình ngoại đề là một thuật ngữ văn học dùng để chỉ một hình
thức của ngôn từ tác giả. Trữ tình ngoại đề là một trong những yếu tố ngoài
cốt truyện; một bộ phận của ngôn ngữ ngƣời kể chuyện trong các tác phẩm
thuộc loại hình tự sự, trong đó tác giả hoặc ngƣời kể chuyệng trực tiếp bộc
lộ những tƣ tƣởng, tình cảm, quan niệm của mình đối với cuộc sống và
nhân vật đƣợc trình bày qua cốt truyện. Trong tác phẩm văn học, đoạn trữ
tình ngoại đề có thể là những đoạn văn, đoạn thơ xen vào giữa quá trình
diễn biến của các sự kiện và nhân vật trong cốt truyện, từ khi cốt truyện bắt
đầu đƣợc triển khai cho đến khi kết thúc. Các đoạn trữ tình ngoại đề là một
phƣơng tiện quan trọng giúp tác giả soi sáng thêm nội dung tƣ tƣởng của
tác phẩm; bộc lộ đầy đủ, tập trung hơn thái độ, sự đánh giá của mình đối
với nhân vật cũng nhƣ những quan niệm nhân sinh của mình. Qua tác phẩm
văn học nhất là truyện ngắn và tiểu thuyết, những đoạn trữ tình ngoại đề
đƣợc tác giả thể hiện trực tiếp những điều muốn nhắn gửi của mình đến
ngƣời đọc. Đây là một yếu tố rất thƣờng gặp và quan trọng.
Trong sáng tác của Nguyên Hồng, các đoạn trữ tình ngoại đề đƣợc
91
nhà văn xây dựng dƣới góc độ là ngƣời trần thuật bị chệch ra ngoài việc
miêu tả các sự kiện trong cốt truyện nhằm bình luận hoặc đánh giá về
chúng, hoặc về những điều khác, không trực tiếp gắn với hành động của tác
phẩm. Bởi vậy trong các tác phẩm các đoạn trữ tình ngoại đề mang tính
biểu cảm cao hơn hẳn so với quá trình trần thuật trong cốt truyện. Trữ tình
ngoại đề trực tiếp đi vào thế giới tƣ tƣởng, lý tƣởng của tác giả nhƣ một
ngƣời trò chuyện “tâm giao” với độc giả. Nguyên Hồng bắt đầu cuộc đời
sáng tác của mình bằng “một đôi mắt xanh non, bằng một cái nhìn rất độc
đáo, tươi mới trẻ trung” (Phan Cự Đệ) bởi vậy tác phẩm của Nguyên
Hồng, cảnh sắc bao giờ cũng lao xao, phấp phới, chói loà rực rỡ hoặc âm
vang. Dƣờng nhƣ cái sức sống tự bên trong tâm hồn nhà văn đang thôi
thúc, say sƣa, rạo rực, tha thiết, tin yêu đã in dấu lên mọi cảnh vật, mọi màu
sắc. Nó làm cho những cảnh sắc đó sôi động hẳn lên, rung lên, vang lên
mạnh mẽ. Văn Nguyên Hồng “ luôn luôn có nắng gió lao xao, phấp phới,
rực rỡ và một bầu trời trong xanh rất đẹp” (Phan Cự Đệ). Dƣờng nhƣ
thiên nhiên trong các sáng tác của Nguyên Hồng là một yếu tố trữ tình
không thể thiếu. Nó làm nền cho nhân vật hoạt động, bộc lộ tâm trạng, thể
hiện tính cách. Nó hoà quyện với đời sống tinh thần của con ngƣời, làm
đẹp thêm cuộc sống và cũng mang đậm cá tính, phong cách của nhà văn.
Những bức tranh thiên nhiên của Nguyên Hồng nổi bật ở những gam
màu sáng và sống động. Nguyên Hồng đƣa các yếu tố thiên nhiên vào tác
phẩm tựa nhƣ một quy luật tất yếu, tựa cỏ cây hƣớng về ánh sáng. Đọc văn
ông ngƣời đọc cảm nhận rõ một không gian tràn đầy ánh sáng, nắng ngập
tràn, gió lao xao. Nghiên cứu về vấn đề này, Nguyễn Đăng Mạnh đã có
những nhận xét xác đáng: “Dưới ánh nắng ấy, mọi cảnh vật ông mô tả đều
tươi tốt, nở nang, màu mỡ, tràn đầy sức sống”. Từ mảnh đất lấm lem bùn
đất, bụi bặm của phố phƣờng cảnh vật vẫn sinh sôi, nảy nở, không gian vẫn
tràn ngập ánh sáng, cuộc sống thật tƣơi đẹp, tác giả đã từng tâm sự trong
Bƣớc đƣờng viết văn của tôi: “ Tôi đi giữa lúc đường phố đang đông,
92
đang vui, đang đẹp. Đông vui, đẹp vì trời nắng và học trò đến trường. Cuối
thu, không còn thứ hoa xoan tây mà nhiều người làm thơ, làm văn và nhất
là học sinh thường gọi là phượng vĩ. Nhưng đã có nắng dưới trời mây
trong sáng rực rỡ. Nắng trong những chòm cây gió thổi phấp phới. Nắng
theo những màu áo, như những cánh bướm, của những học trò con gái.
Nắng qua những tủ kính bày các thứ mẫu len, dạ, nhung và các thứ áo.
Nắng chiếu những sách bày nghiêng trên những giá mạ kền lót mặt gương.
Và đẹp nhất là nắng trong những tiếng reo cười, tiếng guốc học trò, và
nắng trên giá bày các tiểu thuyết, truyện ngắn và thơ mới xuất bản đang
lừng tiếng” luôn gắn chặt với cảm xúc thiết tha, lúc nào cũng tràn trề trong
lòng Nguyên Hồng. Trong Những mầm sống, ánh nắng đƣợc miêu tả ở
nhiều sắc thái đem đến sức sống, sự sinh sôi, phát triển: “Ánh nắng mênh
mông tràn ngập. Đường nhựa sáng loé như giát bằng vàng diệp. Lá cây
rung lên, muôn vàn tia hào quang bay phấp phới. Các mái ngói, các ống
mảng, các cửa kính, các cửa hàng lấp lánh những ánh ngời ” và “ánh nắng
chói loà thêm hào quang ở các viền mây cẩm châu tia ra đốt hết những cái
vẩn đục của da trời pha lê xanh biếc. Những ánh ngời của gỗ, đá, thuỷ
tinh, đồng, sắt, kẽm và các vật màu tươi láng đã thấm hết những hơi ướt át
còn thấm lại của mùa đông. Những màng nước cuối cùng còn vương trong
các bụi cây cỏ và những dòng nước cống rãnh chảy ri rỉ đã bốc thành hơi,
đã tan trong không khí” [30, 208]. Một sự sống đang cựa quậy, căng tràn
vƣơn mình vƣợt qua những tối tăm, phiền muộn. Ngƣời đọc có thể nhận
thấy dƣờng nhƣ nắng không thể tĩnh lặng, “đứng im” mà nó phải vui tƣơi
“nhảy nhót” ra ngoài. Đó là cái nắng đƣợc cảm nhận dƣới con mắt của
chàng thanh niên khi mới 17 tuổi mặc dù bụng lúc nào cũng đói, nhà lo
chạy ăn từng bữa mà không gian thì vẫn rất vui tƣơi. Nắng vàng và gió
lộng thƣờng xuất hiện nhiều trong những trang văn của ông và có giá trị
tinh thần, mang ý nghĩa thẩm mỹ độc đáo. Một thứ nắng của vùng biển
lồng lộng, mênh mông, phấp phới. Một thứ nắng nhƣ có sức sống, có linh
93
hồn cũng nhƣ hoạt động sôi nổi của con ngƣời, thậm chí có lúc reo vang
hoà nhịp với cuộc sống tƣng bừng náo nhiệt của thành phố Hải Phòng rực
màu hoa phƣợng tháng năm. Tuy nhiên, ánh nắng cũng có khi góp phần
diễn tả tâm trạng, cảm xúc buồn của ngƣời trong cuộc, cũng có khi ánh
nắng làm lòng ngƣời bùi ngùi. Nhân trong Hai nhà nghề rất buồn đau khi
bị bội phản, khi công việc của bản thân “đến thời kỳ cùng mạt”, cũng là
ánh nắng ấy mà nghe xót xa: “ánh nắng vàng tươi đã hửng khắp bầu trời
không gợn một vết mây đen, rồi tràn ngập mênh mông khắp vùng quê yên
lặng trong những màng nước mong manh. Khi mặt trời lên cao và gió lồng
lộng tung cát lên thì đâu đâu cũng vang động. Từ cánh đồng bao la luôn
luôn rướn cao lên và cúi rạp xuống những ngọn lúa xanh rờn, từ những
chòm cây, những luỹ tre lấp lánh đều ngun ngút sinh khí, đều kêu gọi lòng
ham sống của con người” [30, 198]. Với Những ngày thơ ấu, hình ảnh cậu
bé Hồng với cảm xúc dâng tràn khi nhìn không gian của buổi hoàng hôn để
nghĩ về ngƣời mẹ vừa cảm thông vừa xót xa: “Những buổi chiều vàng lặng
lẽ, lạnh lẽo của mùa đông, những buổi chiều mà bụi mưa như có một tiếng
van lơn thầm thì trong hơi gió vi vu, lửa lò than rực rỡ vờn lên chân tường
những ánh hồng lấp lánh hay rủ rê tâm trí người ta vào những cõi buồn
nhớ là những buổi chiều làm tê tái mẹ tôi hơn hết” [19, 168]. Viết nên
những dòng chữ này, nhà văn phải rất nhạy cảm và thƣơng yêu mẹ mình,
một cảnh tƣợng buồn tê tái trƣớc sự hiu hắt của cảnh vật và lòng ngƣời.
Dƣờng nhƣ trong tập hồi kí rất xúc động này Nguyên Hồng đã lắng nghe
đƣợc những âm thanh sâu lắng của tâm hồn, ghi nhận đƣợc những cảm xúc
tinh tế từ bên trong để rồi diễn tả lại qua cái nhìn hồn nhiên, tƣơi sáng của
tuổi thơ khiến ngƣời đọc bồi hồi nhớ lại quãng thời thơ ấu của mình.
Trong các sáng tác của mình, khi Nguyên Hồng tả nắng thƣờng
mang những nét riêng, rất sinh động, rất tinh tế qua các từ ngữ biểu hiện
sắc thái khác nhau. Nắng có khi “phấp phới những bụi vàng bụi bạc”
(Những ngày thơ ấu), khi lại phơn phớt hồng “rắc phấn trên những mái
94
ngói xanh mốc rồi dần tan trong màu tàn hương của chiều tàn” (Tết của tù
đàn bà). Cũng có khi nắng chuyển đổi nhiều trạng thái “ánh vàng ngùn
ngụt. Cây cỏ chỉ gờn gợn vài xao động”; “Nắng vàng non đã bừng sáng.
Những chòm long não lá lăn tăn và những cụm cà phê um tùmbỗng ánh cả
lên với màu xanh tươi mọng nhựa”, và trên một dải sông nắng đã “bắt đầu
lấp lánh những gợn vàng”.
Nắng trong sáng tác của Nguyên Hồng nhƣ có linh hồn, có tâm
trạng, nhƣ cùng đồng hành với trái tim ngƣời nghệ sỹ. Sự có mặt của
những tia nắng có mối liên hệ trong tƣ tƣởng sáng tạo của nhà văn. Đó là
“những tia nắng nảy lửa” của mấy ngƣời tù đàn bà trong đề lao Nam Định,
hay những tia nắng chợt loé lên trong lòng Tám Bính, và “những tia sáng
dọi vào dòng đời tối tăm cháy nặng nề” của những dân nghèo thành thị
trong tác phẩm Hai mẹ con; và trong tâm trí Vịnh - Hàng cơm đêm nắng
đã thành cả “một nguồn ánh sáng rực rỡ bên một cuộc đời mới”. Thứ ánh
sáng nhƣ mê hoặc tâm hồn ham mê thanh sắc, nhân vật trữ tình đang đắm
mình trong những cảnh đẹp rực rỡ, quyến rũ của thiên nhiên, của một bầu
trời xanh trong bát ngát “với ánh nắng rực rỡ phấp phới trên các cành lá
óng ả, mượt nõn và những chòm xoan xanh tươi hứa hẹn màu thắm của các
vừng hoa đỏ” (Những ngày thơ ấu).
Thiên nhiên trong văn Nguyên Hồng nhƣ đƣợc trau chuốt, mài giũa
nên các đoạn văn trữ tình ngoại đề miêu tả thiên nhiên giúp ngƣời đọc cảm
nhận rõ hơn nó là một vật thể có hồn, trạng thái xúc cảm để nói hộ lòng
ngƣời. Tâm trạng bồi hồi xúc cảm của Huân trong Trăng thu mang sắc
thái nhẹ nhàng sau bao ngày phải chịu những đoạ đày, đau đớn trong các
nhà lao, anh thấy tâm hồn thanh thản:“Trăng đã lơ lửng trên một cành tre
ở đầu vườn. Lá tre rụng xào xạc. Ánh trăng xao xuyến. Mấy cụm hồng
bạch long lanh sương đón lấy làn bụi nước mong manh và ở vành trăng
rắc xuống, mát lạnh và thơm ngát. Dưới gốc hồng, những lùm tóc tiên mềm
mại như mớ len bạc. Và trên nền mây sáng biếc, những chòm cau phất phơ
95
như những chổi bện bằng lông bạc” [30, 204]. Cảnh tựa hồ bức tranh với
những gam màu nhẹ nhàng, thanh khiết khiến lòng ngƣời man mác buồn.
Cảnh sắc cũng nhƣ thay đổi theo trạng thái của con ngƣời:“Gió càng mạnh.
Khí lạnh đêm khuya càng thấm. Những mảnh lá chạy xào xạc trên mặt
đường chạy cả vào lòng tôi cùng với những âm thanh mơ hồ như của tiếng
chim rủ rỉ ở đâu đây - ánh điện dần phơn phớt xám. Soi sáng cho cảnh vật
vắng lặng chìm đắm lúc bấy giờ là hơi sương bàng bạc, hơi sương sữa một
đêm trăng nặng mây. Trong lòng tôi, tiếng lá lao xao không bao giờ tắt.
Giá buốt quá. Trong lòng tôi xác lá vụn mãi ra, nhiều bao nhiêu lại biến đi
nhanh bấy nhiêu. Tôi đi, mê man, với hình ảnh một đám ma tẻ lạnh không
kèn trống” [18, 188]. Đoạn văn tràn đầy cảm xúc trƣớc tình cảnh một đứa
trẻ 12 tuổi mất cha đã thể hiện những xúc cảm nội tâm mãnh liệt. Đôi khi
ngoại cảnh là yếu tố quan trọng góp phần diễn tả nỗi lo lắng mơ hồ: “Bên
ngoài, gió vẫn thỉnh thoảng rít lên. Đồng thời một loạt tiếng rào rào ướt át
nổi dậy rồi biến mất trong hoang vắng. Những âm thanh lạnh lẽo ấy càng
gợi ra trong trí tưởng tôi những lùm cây cối xay mềm, lả xô cuốn nhau để
thoát khỏi mặt cỏ lùng bùng và những khóm cải hoa, thìa là tơi bời vì đã
vùng vẫy để cũng như cố vượt ra khỏi khoảng vườn chật hẹp, gai góc và ứ
bùn cống rãnh kia” [30, 192].
Trong văn Nguyên Hồng ta thƣờng bắt gặp những hình ảnh đã để lại
những ấn tƣợng sâu sắc về các trang viết tràn đầy chất trữ tình thắm thiết.
Đó là tâm hồn của một chàng thanh niên trẻ tuổi, dễ xúc động, của một tinh
thần lạc quan mãnh liệt. Bên cạnh đó cũng là những trang viết tràn ngập
cảm xúc bồi hồi, để lại những ấn tƣơng sâu sắc. Trong Bỉ vỏ, khi Bính phải
dứt tình máu mủ ra đi trong tâm trạng lo âu: “Bấy giờ trăng thu vừa mới hé
ra khỏi dải mây chì toả xuống những chòm cây một làn ánh sáng như hơi
suơng phảng phất. Đường xá vắng vẻ ít người qua lại. Hai bên hè lả lướt
những cây xoan lăn tăn lá, rào rào trước gió lạnh thổi từng cơn dài” không
gian đầy ám ảnh, u buồn nhƣ dự báo về một tƣơng lai tăm tối của Bính
96
“Bính chợt nghĩ tới ngày mai, tới một sự sống ở một nơi xa lạ” [ 30, 30].
Và dự cảm ấy đã len lỏi vào tâm trí Bính “Đường vắng vẻ quá, gió thổi lào
xào trong những bụm cỏ lù mù, vành trăng lại bị mây đen che đi” [30, 31].
Ngoài phố “những cây bàng cao to đẫm bóng tối, dán xuống đường
những bóng lá đen sẫm”; phố xá vắng vẻ với những bóng ngƣời đi lại lặng
lẽ, thƣa thớt và trong cái tĩnh mịch của phố quê ấy “thỉnh thoảng tiếng rao
phở phào lên rồi mất trong sương khuya”. Trong Buổi chiều xám, sự cảm
nhận của nhân vật về không gian của một buổi chiều ảm đạm đƣợc diễn tả
theo mạch cảm xúc, tâm lí “Trên đầu Xan, mây chì càng thấp xuống, và,
chung quanh Xan, cảnh vật càng thẫm lại. Gió thổi mạnh hơn. Bụi đường
cùng lá cây cuốn lên thành từng đám dày, chạy rào rào và quằn quại như
những chim chóc chạy trốn trước cơn bão” [30, 159].
Những sợ hãi vẫn bủa vây và bao bọc chị bởi những âm thanh ghê
rợn, những hình ảnh hãi hùng “Gió vẫn gào thét...sóng càng ầm ầm xô đẩy
vào bờ...tiếng sét luôn rung động sông núi sau những làn chớp nhoàng vụt
xé từng mây.
Đâu đâu cũng náo động! Đâu đâu cũng mịt mùng! Đâu đâu cũng
lăm le những cái khủng khiếp gieo tai vạ chó tất cả nhân loại chen chúc
nhau để kiếm sống. Tạo vật đã phô bày tất cả những sức mạnh hằn học,
giận giữ vô lương trong khoảng đêm đông tăm tối này”[30, 152].
Đan xen giữa mạch truyện là các dòng trữ tình ngoại đề tràn đầy chất
trữ tình thắm thiết dẫn dắt ngƣời đọc vào thế giới tự nhiên với cảnh sắc của
nắng, của gió, của trăng, của cỏ cây hoa lá...một không gian sinh động giúp
cho sự vận động của mạch truyện thêm sinh động, hấp dẫn. Đây chính là thể
hiện tài năng của ngƣời trần thuật làm cho mạch truyện không bị gò bó trong
khuôn khổ câu chuyện, không bị nặng nề bởi các tình tiết, sự kiện mang tính
tự sự. Trong văn Nguyên Hồng các đoạn văn trữ tình còn thể hiện tâm hồn
lãng mạn, một tinh thần lạc quan xuất phát từ bản tính yêu đời, yêu cuộc
97
sống, yêu nhân dân lao động đã thấm sâu vào máu thịt vào tâm hồn ông.
Điều này càng góp phần khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của một con ngƣời bao
giờ cũng sống hết mình vì cuộc sống, vì những ngƣời xung quanh.
KẾT LUẬN
Nguyên Hồng đƣợc mệnh danh là Goorki của Việt Nam, là “nhà văn
của những người cùng khổ”, đây là lời nhận xét vô cùng xác đáng vì cả hai
nhà văn gắn bó với cuộc sống cực khổ của những phu phen, thợ thuyền vì
vậy cả hai nhà văn trong công cuộc lao động nghệ thuật của mình cả hai
ông suốt đời viết về tầng lớp đáy của xã hội. Đó là những ngƣời nghèo khổ,
bất hạnh, đặc biệt là những ngƣời phụ nữ và trẻ em, phần lớn họ là những
ngƣời không có sức chống đỡ nên đành phó thác cho số phận mình. Điều
này có lẽ một phần cũng xuất phát từ cuộc sống khổ cực của bản thân hai
nhà văn có cùng cảnh ngộ ngay từ tuổi ấu thơ đã phải chấp nhận cuộc đời
lam lũ. Với Nguyên Hồng, ngay từ nhỏ đã chứng kiến cuộc sống địa ngục
ngay chính trong ngôi nhà mình. Khi trƣởng thành phải tự lần mò đi tìm sự
sống thì lại phải lăn lộn trong môi trƣờng sống bó buộc thân phận với
những ngƣời khốn khổ thuộc tầng lớp đáy của xã hội nhƣ kẻ ăn mày, ăn
xin, lƣu manh, trộm cắp, gái điếm...Cuộc sống ấy đã tạo cho ông một vốn
sống phong phú, một sự thấu hiểu đến tận chân tơ kẽ tóc những cực khổ
đoạ đầy của kiếp ngƣời và cũng từ đó nó đi vào văn ông một cách tự nhiên
98
không cần gọt giũa mà là hiện thực thật nhƣ chính bản thân cuộc sống, để
từ đó ông đồng cảm và dành cho nhân vật của mình những dòng tâm huyết
nhất, nóng bỏng nhất và tràn đầy tấm lòng trân trọng.
Nguyên Hồng là một trong những đại diện xuất sắc nhất của nền văn
học hiện thực tiến bộ Việt Nam. Những tác phẩm đầu tay Linh hồn, Bỉ vỏ,
Những ngày thơ ấu, Sông máu, Hơi thở tàn ...đó là những văn bản tiểu
biểu cho sáng tác của Nguyên Hồng trƣớc cách mạng thánh Tám đã bộc lộ
tài năng hiếm có ở Nguyên Hồng.
Gần 50 năm cầm bút, Nguyên Hồng đã đứng về phía những ngƣời
lao động nghèo khổ để đồng cảm và xót thƣơng. Trong các sáng tác của
ông bao giờ cũng là sự nồng ấm xót thƣơng cho những cuộc đời lam lũ.
Dƣờng nhƣ nhà văn đã dành những gì quý báu nhất để gửi gắm vào những
trang viết chứa chan tâm huyết. Không phải ngẫu nhiên ông đƣợc coi là
“nhà văn của những xóm thợ”, “nhà văn của những người cùng khổ”,
“nhà văn của những kiếp người dưới đáy”, “Gorki của Việt Nam” bởi khi
đọc văn ông ta nhận ra những con ngƣời hiền lành, giản dị, đôn hậu nhƣng
lại phải chịu một kiếp sống cơ cực, lầm than. Nhà văn đã dùng con mắt của
một nhà nhân đạo, của một ngƣời trong cuộc để tái hiện lại cuộc sống của
những con ngƣời “dưới đáy”, cặn bã, cùng khổ; bênh vực và xót thƣơng.
Tấm gƣơng sáng ngời mà Nguyên Hồng để lại cho để lại cho đời là lao
động quên mình cho nghệ thuật, là chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc đối với số
phận, cuộc đời đắng cay bi thảm. Âm hƣởng chủ đạo xuyên suốt toàn bộ
sáng tác của Nguyên Hồng là sự đồng cảm trƣớc những số phận đau
thƣơng, dƣờng nhƣ bất kể trang văn nào của Nguyên Hồng cũng là cuộc
đời thật của ông ẩn khuất đâu đó. Bởi vậy dù nhà văn trần thuật ở ngôi nào
ta cũng nhận ra con ngƣời nhà văn nằm trong ngay văn bản, một cái nhìn
yêu thƣơng, thiết tha với nhân vật chứ không phải là nhân chứng. Với vai
trò là ngƣời kể chuyện dù ở ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba ông cũng đều thể
hiện cái nhìn nhân bản, tác phẩm của ông luôn làm thức tỉnh tình yêu
99
thƣơng giữa con ngƣời với con ngƣời. Nhà văn đã thấu hiểu những nỗi đau
của nhân vật, bởi vậy khi miêu tả và phân tích tâm lý nhân vật trong tâm tƣ,
trong suy nghĩ ông đã đi sâu khai thác từng nét diễn biến hết sức tinh vi.
Đọc văn Nguyên Hồng ngƣời đọc khó lòng quên đƣợc cái giọng văn thiết
tha, sôi nổi, cuồn cuộn cảm xúc và đặc biệt dù rơi vào hoàn cảnh bế tắc
nhƣng những nhân vật trong sáng tác của Nguyên Hồng bao giờ cũng
hƣớng tới tƣơng lai, có niềm tin vào cuộc sống; đây chính là điều khác biệt
với các nhà văn hiện thực đƣơng thời. Trong văn Nguyên Hồng, ông không
cần dụng công mài giũa chỉ dùng ngôn ngữ của đời thƣờng, của đời sống
thợ thuyền mà khi đọc văn ông ai ai cũng phải xót thƣơng, rơi lệ, ngƣời đọc
nhận ra ngƣời kể chuyện dù ở bất kể ngôi vị nào cũng đều toát lên tấm lòng
nhân đạo, bác ái.
Cả cuộc đời Nguyên Hồng là sự cống hiến với một sự nghiệp lớn,
con ngƣời tận hiến ấy đã để lại cho nghệ thuật chân chính của dân tộc
những giá trị bền vững. Sáng tác của ông là những trang văn trang đời bằng
chính thế giới quan của con ngƣời xuất thân từ tầng lớp nhân dân dƣới đáy
của xã hội bần cùng, cực khổ nên ông viết nên tác phẩm mà không cần
dụng công vẫn gây nhiều xúc động bởi nhà văn đã thấu hiểu, cảm thông và
chia xẻ với những con ngƣời cùng cảnh ngộ. Dƣới góc nhìn ấy, giá trị văn
chƣơng của Nguyên Hồng thật hơn và sâu sắc hơn. Nghệ thuật trong sáng
tác của Nguyên Hồng là chất bùn đen mà vẫn trong sáng bởi đó là thứ nghệ
thuật chân thực nhất, mỗi tác phẩm của ông tựa những mảnh ghép của cuộc
100
sống ở đâu đó xung quanh hiện thực xã hội Việt Nam trƣớc Cách mạng.
DANH MỤC VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Lại Nguyên Ân, 150 thuạt ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003.
2. Lại Nguyên Ân, Văn học và phê bình, Nxb Tác phẩm mới, 1984.
3. Phan Huy Dũng, Tác phẩm văn học trong nhà trường phổ thông một
góc nhìn, một cách đọc, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2009.
4. Phan Cự Đệ chủ biên, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục Hà
Nội, 2004.
5. Phan Cự Đệ, Con người Nguyên Hồng – Hải Phòng với Nguyên Hồng
và Nguyên Hồng với Hải Phòng – Nxb Hải Phòng, 1986 .
6. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hƣợu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành
Khung, Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức, Văn học Việt Nam 1900 – 1945,
Nxb Giáo dục, Hà Nội 2004.
7. Phan Cự Đệ (T. chọn), Tuyển tập Nguyên Hồng , Tập 1, Nxb Văn học,
Hà Nội, 2000.
8. Phan Cự Đệ (T. chọn), Tuyển tập Nguyên Hồng , Tập 2, Nxb Văn học,
Hà Nội, 2000.
9. Phan Cự Đệ (T. chọn), Tuyển tập Nguyên Hồng , Tập 3, Nxb Văn học,
101
Hà Nội, 2000.
10. Phan Cự Đệ, Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tập II, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1975.
11. Nguyễn Đăng Điệp, “Đặc sắc hồi kí Nguyên Hồng”, Nguyên Hồng
tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội 2001.
12. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997.
13. Nguyễn Văn Hào, Sự thể hiện con người trong tác phẩm Nguyên
Hồng trước cách mạng, Nxb Văn học, Hà Nội, 1976.
14. Đỗ Đức Hiểu, Thi pháp hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000.
15. Tô Hoài, Tính cách Nguyên Hồng – Những gương mặt, Nxb Hội nhà
văn HN, 1995
16. Nguyên Hồng, Bước đường viết văn, Nxb Văn học, Hà Nội, 1970.
17. Nguyên Hồng, Những nhân vật ấy đã sống với tôi, Nxb Tác phẩm
mới, Hà Nội, 1978.
18. Nguyên Hồng, Bỉ vỏ, Nxb Hải Phòng, 1982.
19. Nguyên Hồng, Bỉ vỏ - Những ngày thơ ấu, Nxb Lao động, Hà Nội, 1982.
20. Đào Duy Hiệp, Phê bình văn học từ lí thuyết hiện đại, Nxb Giáo dục, 2008.
21. Đinh Gia Khánh (chủ biên) Tổng tập Văn Học Việt Nam, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội, 1997.
22. Thạch Lam, Đọc những ngày thơ ấu, Nxb Hải Phòng, 1997.
23. Kim Lân, Nguyên Hồng một nhà văn, Tạp chí Văn học, số 15, 1982.
24. Phƣơng Lựu (chủ biên), Lý luận văn học, Tập 1, Nxb Đại học Sƣ
phạm, Hà Nội, 2002.
25. Nguyễn Đăng Mạnh, Vài suy nghĩ về chỗ mạnh và chỗ yếu của tiểu
thuyết Nguyên Hồng, Tác phẩm mới, số 5, 1970.
26. Nguyễn Đăng Mạnh, Nhà văn, tư tưởng và phong cách, Nxb Giáo dục
Hà Nội, 1983.
27. Nguyễn Đăng Mạnh – Chu Văn Sơn, Nguyên Hồng, con người và sự
102
nghiệp, Nxb Hải Phòng, 1988.
28. Nguyễn Đăng Mạnh, Lịch sử Văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà
Nội, 1991.
29. Nguyễn Đăng Mạnh, Nhà văn tƣ tƣởng và phong cách, Nxb Giáo dục,
Hà Nội, 1983.
30. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên), Tổng tập văn học Việt Nam, tập 33,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000.
31. Nguyễn Đăng Mạnh, Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà
văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1996.
32. Nguyễn Đăng Mạnh, Dẫn luận nghiên cứu tác giả văn học, “ Thương
tiếc nhà văn Nguyên Hồng”, Trƣờng ĐHSPI Hà Nội, 1993.
33. Nguyễn Ánh Ngân, Nguyên Hồng tấm lòng qua những trang viết,
Nxb Văn hóa thông tin, 2002.
34. Vũ Ngọc Phan, Nguyên Hồng - Nhà văn hiện đại, Tập 2, Nxb Văn
học, Hà Nội, 1998.
35. Trần Đình Sử, Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội, 2005.
36. Lê Hữu Tỉnh – Nguyễn Trọng Hoàn, Nguyên Hồng – con người và
giai thoại, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998.
37. Khái Vinh, Nguyên Hồng nhà văn của những người lao động, “Vì một
nền văn học thuộc về nhân dân lao động”, Nxb Lao động, Hà Nội, 1974.
38. Tạp chí Văn học , “Cảm hứng chủ đạo và những xung đột nghệ thuật
cơ bản trong văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945”, 2001.
39. Triết học Mac – Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2008.
40. Từ điển thuật ngữ văn học, nhà xuất bản Giáo dục, H, 1992.
41. Tục ngữ, thành ngữ, ca dao, dân ca, Nxb Văn hoá dân tộc, H, 1999.
42. Nguyễn Thu Hà, Hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết và truyện
ngắn của Nguyên Hồng trước cách mạng, Khoá luận tốt nghiệp, ngành
103
Văn học, khoa Ngữ Văn, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
43. Nguyễn Thu Hà, Tìm hiểu những đặc điểm nghệ thuật trong truyện ngắn
và tiểu thuyết của Nguyên Hồng trước cách mạng, Luận văn thạc sĩ khoa
học, khoa Ngữ Văn, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
44. Nguyễn Thị Hƣơng, Bước chuyển biến của tiểu thuyết Nguyên Hồng
sau cách mạng, Luận văn tốt nghiệp khóa 25, khoa Ngữ Văn, Đại học
Tổng hợp, Hà Nội, 1984.
45. Bùi Thị Quỳnh Nga, Tìm hiểu sự ảnh hưởng của Đạo Thiên Chúa đến
một số sáng tác Nguyên Hồng trước cách mạng, Khoá luận tốt nghiệp,
sƣ phạm Ngữ văn, 2006.
46. Trần thị Xuân Mai, Cảm quan tôn giáo trong sáng tác của Nguyên
Hồng, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Trƣờng Đại học Vinh, 2011.
47. Hà Vinh, Tiểu thuyết “Cửa biển” và những bước tiến của Nguyên
Hồng, Luận văn tốt nghiệp, khoa Ngữ Văn, `Đại học Tổng hợp, Hà
Nội, 1976.
48. Trần Thị Thanh Yến, Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyên
Hồng trước cách mạng tháng Tám 1945, Luận văn thạc sĩ chuyên
ngành Văn học Việt Nam, khoa Ngữ Văn, Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn, Hà Nội, 2011.
49. Côginốp, Nguồn gốc của tiểu thuyết, Tƣ liệu dịch của khoa Ngữ văn,
Đại học Tổng hợp, Hà Nội.
50. M.B. Kharapchenko, Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển
văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội, 1978.
51. M. Go rki, Bàn về văn học, Tập II, Nxb Văn học, 1965
104
52. TZVETANTODOV, Thi pháp văn xuôi, Nxb Đại học Sƣ phạm, 2004.