ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------

NGUYỄN THỊ YẾN

NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN

VÀ TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN HỒNG TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 34

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Hà Văn Đức

1

Hà Nội - 2013

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1

I. LÝ DO VÀ MỤC ĐÍCH LỰA CHỌN ĐỀ TÀI ..................................... 1

II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ ...................................................... 2

III. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN .................................................. 8

IV. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ...................................... 9

V. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................................................... 9

VI. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN ........................................................... 9

CHƢƠNG 1. NGƢỜI KỂ CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT

TRONG TRUYỆN VÀ TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN HỒNG

TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ................................................ 10

1. NGƢỜI KỂ CHUYỆN ......................................................................... 10

2. ĐiÓm nh×n trÇn thuËt vµ ng êi trÇn thuËt .................. 10

2.1. Phạm trù điểm nhìn trần thuật ............................................................ 10

2.2. Ng êi trÇn thuËt ................................................................................. 12

2.2.1 Ngƣời trần thuật hàm ẩn .................................................................. 12

2.2.2 Ngƣời trần thuật tƣờng minh ........................................................... 13

3. Ng êi trÇn thuËt trong v¨n xu«i Nguyªn Hång ..................................... 14

3.1. Ng êi kÓ chuyÖn hµm Èn ................................................................... 14

3.2 Ng êi kÓ chuyÖn t êng minh ............................................................. 22

CHƢƠNG 2. NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC KẾT CẤU VÀ CỐT

TRUYỆN TRONG TRUYỆN VÀ TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN

HỒNG TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ................................... 27

1. NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC KẾT CẤU ................................................ 27

1.1. KÕt cÊu ®¬n tuyÕn: ............................................................................. 28

1.2. KÕt cÊu theo m¹ch ph¸t triÓn t©m lÝ ................................................... 33

1.3. KÕt cÊu ®¶o lén trËt tù trÇn thuËt ........................................................ 35

3

1.4. KÕt cÊu l¾p ghÐp: ............................................................................... 37

2.NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC Cèt truyÖn ......................................... 41

2.1.Cốt truyện: ......................................................................................... 41

2.2 Cèt truyÖn trong s¸ng t¸c cña Nguyªn Hång ....................................... 43

2.2.1 Cốt truyện đơn giản ........................................................................ 43

2.2.2. Cốt truyện đan xen nhiều mạch truyện ........................................... 56

CHƢƠNG 3. NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU TRONG TRUYỆN VÀ

TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN HỒNG TRƢỚC CÁCH MẠNG

THÁNG TÁM ......................................................................................... 61

1. Ngôn ngữ trần thuật . ............................................................................ 62

1.1. Ngôn ngữ đời sống giàu giá trị biểu cảm ........................................... 62

1.2. Ngôn ngữ trần thuật giàu cảm xúc. .................................................... 64

1.3. Ng«n ng÷ b×nh dÞ, sö dông c¸c thµnh ng÷, tôc ng÷, ca dao ................. 69

1.4. Ng«n ng÷ ®Æc biÖt ............................................................................. 74

1.5. Tõ ng÷ t«n gi¸o ................................................................................. 77

2. Giọng điệu trần thuật cña Nguyªn Hång ............................................... 81

2.1 Giäng ®iÖu c¶m th ¬ng thèng thiÕt ..................................................... 83

2.2 CÊu tróc tÇng tÇng líp líp theo m¹ch c¶m xóc cña lêi v¨n nghÖ thuËt .... 90

2.3. C¸c ®o¹n v¨n tr÷ t×nh ngo¹i ®Ò ........................................................... 91

KẾT LUẬN ............................................................................................. 98

4

Danh môc vµ tµi liÖu tham kh¶o. ..................................... 101

MỞ ĐẦU

I. LÝ DO VÀ MỤC ĐÍCH LỰA CHỌN ĐỀ TÀI

Trong tiến trình phát triển lịch sử văn học Việt Nam, một trong

những trào lƣu văn học đã làm thay đổi diện mạo của nền văn học dân tộc,

đó là dòng văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945. Những tác giả đã có

công lớn trong việc đổi mới này là: Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ

Trọng Phụng, Nam Cao... Nguyên Hồng là một trong những nhà văn tiêu

biểu, xuất sắc nhất đã đóng góp một thành tựu lớn trong sự phát triển này.

Tác phẩm của Nguyên Hồng phản ánh sâu sắc cuộc sống cùng khổ của con

ngƣời – tầng lớp đáy xã hội thành thị. Ông bƣớc vào nghề văn là để nói lên

nỗi thống khổ khôn cùng của con ngƣời, mà trƣớc hết là những ngƣời lao

động, những dân nghèo thành thị khi ông đƣợc chứng kiến và trải nghiệm

để từ đó lên tiếng bảo vệ và bênh vực họ. Hiện thực cuộc sống và số phận

những con ngƣời cùng khổ đã trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo trong các

sáng tác của ông, góp phần hình thành phong cách nghệ thuật độc đáo của

nhà văn. Điều này đã đƣợc minh chứng qua các trang viết ngập tràn tâm

huyết, cuốn hút niềm mê say và phong phú qua các thể tài đầy sáng tạo.

Với Nguyên Hồng sáng tác văn chƣơng là niềm đam mê lớn nhất của

cuộc đời. Viết về cuộc đời của chính mình, cho tầng lớp mình đó là mục

đích trong sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Ông đã hoà nhập vào cuộc

sống của những con ngƣời cùng khổ, vào những cảnh đời cực nhục để phân

tích, lý giải, thẩm bình và hơn nữa để bênh vực, bảo vệ xót thƣơng. Tác

phẩm của ông bao giờ cũng toát lên giá trị nhân văn sâu sắc.

Có lẽ cũng vì những lý do này, sáng tác của Nguyên Hồng luôn tạo

đƣợc ấn tƣợng trong lòng ngƣời đọc, luôn đánh thức tính bản thiện, tình

ngƣời trong mỗi con ngƣời. Với ông “...viết còn để tìm cho mình một đời

sống lâu dài trong tâm hồn mọi người và được yêu thương lại một cách

1

nồng nàn với những mối tình thắm thiết mênh mông”[16, 34].

Sự khẳng định tên tuổi, tài năng của Nguyên Hồng chính là lĩnh vực

văn xuôi trƣớc Cách mạng. Trong cuộc đời viết văn của mình, Nguyên

Hồng tập trung nhiều nhất cho tiểu thuyết. Từ tác phẩm đầu tay Bỉ Vỏ đến

Cửa biển, một tác phẩm mà ông dành nhiều tâm huyết và tác phẩm cuối

đời Núi rừng Yên Thế đều là những sáng tác để lại ấn tƣợng sâu đậm

trong lòng độc giả. Nhƣng có lẽ điều giúp mọi ngƣời đánh giá, nhìn nhận

về con ngƣời ông một cách chân xác lại là thiên tự truyện Những ngày thơ

ấu và để khẳng định cho tài năng, vị trí của Nguyên Hồng trên văn đàn là

các truyện ngắn đặc sắc. Những tác phẩm này đã đƣa tên tuổi của Nguyên

Hồng lên đỉnh cao của văn học hiện đại Việt Nam.

Việc nghiên cứu về Nguyên Hồng đã đƣợc rất nhiều các nhà khoa

học, các độc giả yêu quý văn chƣơng của ông quan tâm. Các bài phê bình,

tiểu luận, tham luận, luận văn...về thân thế, sự nghiệp, phong cách; về thể

loại, nhân vật, đặc điểm nghệ thuật...mà nhà văn lựa chọn đã đƣợc nhiều

ngƣời nghiên cứu, đề cập đến. Những thành tựu của ông đã đƣợc đánh giá

một cách đầy đủ, trọn vẹn, ngƣời viết với mong muốn khẳng định thêm

một khía cạnh quan trọng trong sự sáng tạo của Nguyên Hồng. Việc lựa

chọn đề tài: “Nghệ thuật trần thuật trong truyện và tiểu thuyết của

Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng tháng Tám”, chúng tôi muốn đƣa ra

một cách nhìn nhận, đánh giá về việc sáng tạo nghệ thuật của nhà văn dƣới

góc độ tìm hiểu nghệ thuật trần thuật, nhằm góp thêm một ý kiến khẳng

định tài năng nghệ thuật của Nguyên Hồng trên nhiều lĩnh vực. Hiện tại, tác

phẩm của Nguyên Hồng đang đƣợc giảng dạy trong chƣơng trình của các

nhà trƣờng; với mong muốn kết quả việc nghiên cứu của cá nhân sẽ góp

phần mở rộng sự quan tâm, tìm hiểu cho bạn đọc và là tài liệu tham khảo,

học tập trong các nhà trƣờng về các sáng tác của Nguyên Hồng.

II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Sơ lƣợc một số nghiên cứu về sáng tác văn xuôi của Nguyên

2

Hồng trƣớc cách mạng tháng Tám.

Tác phẩm đầu tay là truyện ngắn Linh hồn in trên Tiểu thuyết thứ

bảy năm 1936, tiểu thuyết Bỉ vỏ gây ấn tƣợng mạnh. Nhà văn Nhà phê bình

Vũ Ngọc Phan, trong cuốn Nhà văn hiện đại (1942) đã nhận xét: “Tập văn

của ông là tập Bỉ vỏ...Nhưng cái tư tưởng thâm trầm nó bao quát cả cuốn

tiểu thuyết Nguyên Hồng là cái tư tưởng: Tuy đã sa chân vào chốn truỵ lạc,

người ta vẫn có thể mang một tâm hồn trong sạch được”. “ Bỉ vỏ của

Nguyên Hồng là một cuốn tiểu thuyết chứa chan nhân đạo, nó làm cho ta

thương xót đến cả những kẻ đầy tội lỗi, nhưng Bỉ vỏ lại xây một khuôn luân

lý rất cao, nên dù ta thương xót họ mà ta vẫn không thể nào không ghê tởm

về hành vi của họ” [31, 25]. Đó là về những phƣơng diện tâm lý và luân lý.

Ông viết xong Bỉ vỏ nhƣ trút đƣợc gánh nặng của đôi vai, ông tâm

sự qua lời tựa trong Bỉ vỏ: “Bỉ vỏ đã viết xong trên một cái bàn kê bên

khung cửa trông ra vũng nước đen ngầu bọt của một bãi đất lấp dở dang

và chuồng lợn ngập ngụa phân tro; Bỉ vỏ đã viết xong trong một căn nhà

cứ đến chập tối là ran lên tiếng muỗi và tiếng trẻ khóc; Bỉ vỏ đã viết xong

trong một đêm lạnh lẽo, âm thầm mà mọi vật như đều rung lên cùng với

lòng thương yêu của một đứa trẻ ham sống dạt dào trong những bụi mưa

thấm thía” [18, 3].

Bỉ vỏ ra đời và đạt giải thƣởng của Tự lực văn đoàn năm 1937.

Cùng thời điểm Những ngày thơ ấu trở thành tác phẩm gây đƣợc sự

chú ý. Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đã đánh giá rất cao tác phẩm này “Mới

đọc tập tự truyện của Nguyên Hồng, tôi đã tưởng có dưới mắt một quyển

sách của một nhà văn Anh hay một nhà văn Nga. Không những thế, càng

đọc những trang sau, ta càng thấy Nguyên Hồng kể cho ta nghe hết cả

những cái cay đắng, những cái truỵ lạc của mình và những người thân

mình” [31, 35]. Cuốn tự truyện là những trang viết thấm đẫm nƣớc mắt về

chính cuộc đời nhà văn. Đó là một “cái tôi chân thật” (Vũ Ngọc Phan). .

Thạch Lam đã từng nhận xét“Những rung động cực điểm của một linh

3

hồn trẻ dại lạc loài trong những lề lối khắc nghiệt của một gia đình sắp

tàn” [22, 15]. và “Phải sống trong cảnh nghèo, phải luôn luôn gần gũi với

xã hội người nghèo mới có thể viết được những dòng thành thật và cảm

động như vậy” [31. 19] (Vũ Ngọc Phan). Năm 1941, tập truyện ngắn Bảy

Hựu tiếp tục ra mắt bạn đọc. Đây là tác phẩm xây dựng đƣợc những nhân

vật mang dáng vẻ phi thƣờng của ngƣời anh hùng. Đánh giá về Bảy Hựu

nhà phê bình Vũ Ngọc Phan nhận xét: “ Chỉ khi nào lòng yêu nhân loại lên

đến cực điểm, là người ta mới thiết tha đến những người bị xã hội ruồng

bỏ”. Tác phẩm Đây bóng tối thể hiện cái nhìn xót thƣơng giữa những con

ngƣời nghèo khổ bất hạnh nhƣng có tấm lòng độ lƣơng, nhân ái. Trong Nhà

sƣ nữ chùa âm hồn, Nguyên Hồng lại xây dựng nội dung truyện nhƣ một

truyện trinh thám với trí tƣởng tƣợng vô cùng phong phú, thể hiện mối tình

thống thiết của đôi vợ chồng hủi. Bên cạnh đó là những cuộc đời cơ cực, lầm

than trong cảnh khốn cùng nhƣ trong tác phẩm Sông máu, Linh hồn, Quán

nải, Hàng cơm đêm... của những nhân vật nhƣ Mũn, Nhân, chị Năng, Hai

mƣơi hai...những con ngƣời cơ cực nhƣng có tấm lòng thuỷ chung son sắt.

Tấm lòng nhân hậu của họ đều đạt tới mức “kỳ lạ”, “phi thường” hiếm có

trong cuộc đời thực.

Qua việc tìm hiểu, khảo sát tình hình nghiên cứu Nguyên Hồng trƣớc

Cách mạng tháng Tám năm 1945, chúng tôi nhận thấy các nhà nghiên cứu

phê bình đều đánh giá cao và khẳng định tài năng nghệ thuật của Nguyên

Hồng, ông là nhà văn của hiện thực, của tinh thần nhân đạo cao cả với những

nhận xét của Vũ Ngọc Phan về các tác phẩm truyện và tiểu thuyết của

Nguyên Hồng trƣớc cách mạng rất tinh tế“ở tập văn nào của Nguyên Hồng

tư tưởng nhân từ, bác ái của tác giả bao giờ cũng tràn lan” [31, 27]. Các bài

nghiên cứu, phê bình thƣờng tập trung nhiều vào mặt nội dung tƣ tƣởng, thế

giới nhân vật, đặc điểm nghệ thuật của các sáng tác văn xuôi trƣớc cách

mạng tháng Tám của ông (nghĩa là chú ý đến vấn đề nhân sinh quan) mà ít

đề cập đến vấn đề thế giới quan của nhà văn, điểm nhìn trần thuật của một

4

tài năng vẫn chƣa đƣợc nghiên cứu chuyên sâu trong giai đoạn này.

Tình hình nghiên cứu Nguyên Hồng từ sau Cách mạng tháng

Tám năm 1945 đến nay.

Công cuộc Cách mạng tháng Tám mở ra một kỉ nguyên mới và

những nhận thức mới về chính trị đã nâng cao chất lƣợng nhiều truyện

ngắn của Nguyên Hồng. Đây cũng là thời điểm Nguyên Hồng cho ra đời

nhiều tác phẩm với quy mô đồ sộ, dung lƣợng lớn. Từ cái nhìn nhân đạo

đối với lớp ngƣời thị dân cùng khổ nói chung Nguyên Hồng đã dần chuyển

sang một cái nhìn ít nhiều mang tính giai cấp bằng một bút pháp rất gần với

bút pháp của các nhà văn hiện thực chủ nghĩa. Các nhà nghiên cứu phê

bình đã nhận thấy trong đó nhiều cái mới tiến bộ và càng đƣợc củng cố

mạnh mẽ hơn khi nhà văn tiếp nhận lý tƣởng Cách mạng của giai cấp vô

sản. Phan Cự Đệ đã đƣa ra ý kiến xác đáng, những nhận định khái quát

nhất về sự nghiệp sáng tác của Nguyên Hồng trong bài viết “ Những bƣớc

tiến mới về tiểu thuyết Nguyên Hồng sau Cách mạng tháng Tám”

“Lò lửa và Địa ngục là một cái mốc trên con đường sáng tạo của

Nguyên Hồng. Tuy về căn bản nó vẫn là những tác phẩm hiện thực phê

phán nhưng cái ánh sáng chiếu rọi vào thì lại là của một thế giới quan đã

bắt đầu đổi mới”.

“Bỉ vỏ và Sóng gầm là hai mốc về tiểu thuyết của Nguyên Hồng. Hai

tác phẩm cách nhau một phần tư thế kỷ và cũng là hai thời kì khác nhau

trên con đường nghệ thuật của Nguyên Hồng. Bỉ vỏ là những tình cảm yêu

thương dào dạt, là khát vọng ngây thơ, trong trắng hồn nhiên của buổi ban

đầu. Sóng gầm, Cơn bão đã đến...ra đời lúc cây bút Nguyên Hồng đã

trưởng thành, luôn luôn day dứt suy nghĩ về những vấn đề nghệ thuật và

đời sống”[7, 17].

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh tiếp tục viết về “yếu tố trữ

tình”; “tình cảm lạc quan say sưa bồng bột” và trên hết vẫn là “tinh thần

5

nhân đạo chủ nghĩa thiết tha” (1973).

Chu Nga thì nhận thấy Nguyên Hồng đã đem đến tiếng nói mới,

tiếng nói riêng biệt góp phần vào dòng văn học hiện thực phê phán. Về căn

bản ông nhận thấy đó là tiếng nói yêu thƣơng, nhân đạo “sôi nổi lạc quan,

tràn đầy một niềm tin ở một ngày mai tươi sáng” vì nhìn thấy đƣợc những

phẩm chất đẹp đẽ ở những con ngƣời nghèo khổ hôm nay (1977).

Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, việc nghiên cứu về Nguyên

Hồng đã có nhiều đổi mới. Các tác phẩm của ông đã đƣợc các nhà phê

bình, giới nghiên cứu, các bạn đọc quan tâm đƣa ra những nhận định, ý

kiến đánh giá khách quan.

Nếu nhƣ trong thời kì đầu cầm bút, Nguyên Hồng hay viết về những

ngƣời dân nghèo lƣu manh hoá thì đến những năm 40 tƣ tƣởng nghệ thuật

của ông đã có sự biến chuyển, ánh sáng cách mạng và giai cấp đã soi sáng

cho những nhân vật lao động nghèo của Nguyên Hồng. Phan Diễm

Phƣơng trong bài viết Cảm hứng cần lao trong sáng tác của Nguyên

Hồng đã đƣa ra nhận định: “Từ đầu những năm bốn mươi, Nguyên Hồng

đã viết một số truyện ngắn, truyện dài có sắc thái hơi khác với những

truyện ngắn trước đó của ông: Cái bào thai, Hai dòng sữa, Một trƣa

nắng, Hơi thở tàn...Có thể xem đây là những cuộc tranh luận công khai về

nghệ thuật, cũng là sự bộc lộ công khai quan điểm nghệ thuật của tác giả,

bằng hình tượng nghệ thuật bằng những lời tuyên bố thẳng thắn, dứt

khoát”. GS. Phan Cự Đệ là một trong những ngƣời dành nhiều tâm huyết

trong việc nghiên cứu và đƣa tác phẩm của Nguyên Hồng đến với ngƣời

đọc. Trong lời giới thiệu cho cuốn Nguyên Hồng toàn tập (2000) ông đã

đƣa ra nhiều ý kiến đánh giá về truyện ngắn Nguyên Hồng trên các phƣơng

diện nhân vật, kết cấu, bút pháp nghệ thuật và khẳng định vị trí truyện ngắn

của Nguyên Hồng: “ Chúng ta có thể nói đến Nguyên Hồng như một phong

cách truyện ngắn trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. Sưu tầm và tuyển chọn

6

những tác phẩm trước và sau Cách mạng tháng Tám, chúng ta sẽ có một

tập truyện ngắn giá trị với nhiều màu sắc độc đáo” [8, 21]. Các nhà nghiên

cứu đã đi sâu khai thác nội dung cũng nhƣ hình thức nghệ thuật mà nhà văn

xây dựng, thấy rõ đƣợc vai trò của Nguyên Hồng trong văn học giai đoạn

sau Cách mạng.

Từ khi nhà văn qua đời đến nay

Nguyên Hồng mất khi sự nghiệp văn chƣơng của ông còn đang dang

dở, khát vọng lớn về bộ tiểu thuyết lịch sử mới hoàn thành một phần tâm

nguyện. Sự ra đi của Nguyên Hồng vào ngày 02-5-1982 đã để lại niềm

thƣơng tiếc cho ngƣời thân, bạn bè, đồng nghiệp, các độc giả yêu mến văn

chƣơng của ông. Nhƣng đúng nhƣ lời nhận xét của nhà thơ Xuân Diệu

“Nguyên Hồng mất đi nhưng cái văn của anh ấy vẫn còn rên rỉ”. Điều này

khẳng định sức sống bền bỉ của văn chƣơng Nguyên Hồng trong lòng bạn

đọc. Thời gian là sự minh chứng cho Nguyên Hồng, kể từ khi nhà văn qua

đời sự nghiệp văn chƣơng và cuộc đời con ngƣời nhà văn vẫn không ngừng

đƣợc tìm tòi, nghiên cứu. Hàng năm đã có thêm nhiều công trình khoa học,

các bài nghiên cứu phê bình vẫn khai thác ở nhiều góc độ. Tiêu biểu trong

cuốn sách Phong cách nghệ thuật Nguyên Hồng, với cách tiếp cận từ góc

độ văn học sử, tác giả Bạch Văn Hợp đã trình bày một cách hệ thống

những nét độc đáo tiêu biểu, có ý nghĩa thẩm mỹ cao và những biến chuyển

nhất quán của phong cách nghệ thuật Nguyên Hồng, từ đó góp phần khẳng

định những cống hiến và vị trí của nhà văn trong lịch sử phát triển văn học

Việt Nam hiện đại. Trong đó truyện ngắn của Nguyên Hồng là đối tƣợng

chính đƣợc tác giả tập trung khảo sát.

Nhà nghiên cứu Lê Hồng My với luận án “Lời văn nghệ thuật

Nguyên Hồng” đã nghiên cứu, chọn cách tiếp cận sáng tác của nhà văn từ

góc độ tìm hiểu ngôn từ - lời văn nghệ thuật để “khám phá các phương thức

tổ chức, đặc điểm và đặc sắc của lời văn; khám phá mối quan hệ giữa tư

tưởng nghệ thuật và lời văn nghệ thuật; xác định vai trò của lời văn nghệ

7

thuật đối với thế giới nghệ thuật và phong cách nghệ thuật Nguyên Hồng...”.

Trong luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Nguyễn Thu Hà (2004)

nghiên cứu “Tìm hiểu những đặc điểm nghệ thuật trong truyện ngắn và

tiểu thuyết của Nguyên Hồng trước Cách mạng” đã làm nổi bật những

đặc điểm về nghệ thuật qua các sáng tác truyện ngắn và tiểu thuyết của

Nguyên Hồng.

Năm 2011, Trần Thị Thanh Yến với đề tài “ Thế giới nhân vật

trong truyện ngắn Nguyên Hồng trƣớc cách mạng tháng Tám 1945” đã

đi sâu khai thác thế giới nhân vật ở nhiều góc độ và chủ yếu đó là tầng lớp

thị dân nghèo khổ trong một thế giới hỗn loạn, xô bồ.

Trên đây là những bài viết và những công trình nghiên cứu công phu,

mang tính khoa học đề cập đến rất nhiều phƣơng diện trong sáng tác của

Nguyên Hồng. Các tác giả đều có những phát hiện mới, chính xác đầy sức

thuyết phục về đặc điểm nghệ thuật, quan điểm sáng tác, phong cách nghệ

thuật trong các tác phẩm truyện và tiểu thuyết của Nguyên Hồng trƣớc Cách

mạng tháng Tám.

Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy những ý kiến, nghiên cứu đó chƣa đề

cập đến một vấn đề cũng không kém phần quan trọng, đó là vấn đề nghệ

thuât trần thuật - điểm nhìn của ngƣời kể chuyện trong mỗi tác phẩm.

Vì vậy những bài viết này đã giúp chúng tôi có một cái nhìn toàn diện về

nhà văn đồng thời nó cũng giúp chúng tôi có những căn cứ để đi sâu, phát

triển trong đề tài mới, trong hƣớng khai thác mới.

III. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN

Nghiên cứu các tác phẩm truyện (tự truyện) và tiểu thuyết của nhà

văn Nguyên Hồng trƣớc cách mạng tháng Tám để tìm ra những đổi mới

trong tƣ duy nghệ thuật của nhà văn dƣới vai trò ngƣời kể chuyện ở nhiều

góc độ, đây là mục tiêu của luận văn, nhằm đóng góp thêm một cách lý giải

về tài năng của nhà văn ở nhiều góc độ, khẳng định những giá trị của

8

Nguyên Hồng trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam.. .

IV. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là tập trung tìm hiểu,

khảo sát: Nghệ thuật trần thuật trong truyện và tiểu thuyết của Nguyên

Hồng trƣớc cách mạng tháng Tám 1945. Đây là vấn đề tƣơng đối rộng

đòi hỏi ngƣời viết phải có sự khái quát để tìm ra mối tƣơng quan trong việc

trần thuật của nhà văn, dù ở góc độ nào cũng toát lên tấm lòng nhân hậu,

bác ái. Đây cũng là nét đặc sắc trong văn xuôi Nguyên Hồng trƣớc cách

mạng tháng Tám năm 1945.

V. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và trình bày đề tài, chúng tôi đã

vận dụng một số phƣơng pháp sau:

- Phƣơng pháp loại hình học

- Phƣơng pháp thống kê

- Phƣơng pháp so sánh đối chiếu

- Phƣơng pháp phân tích – tổng hợp

VI. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, nội dung chính của luận văn

gồm có 3 chƣơng:

Chƣơng 1: NGƢỜI KỂ CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TRẦN

THUẬT TRONG TRUYỆN Và TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN HỒNG

TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM.

Chƣơng 2: NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC KẾT CẤU VÀ CỐT

TRUYỆN TRONG TRUYỆN Và TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN HỒNG

TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM.

Chƣơng 3: NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG

TRUYỆN Và TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN HỒNG TRƢỚC CÁCH

MẠNG THÁNG TÁM.

CHƢƠNG 1

9

NGƢỜI KỂ CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT

TRONG TRUYỆN VÀ TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN HỒNG

TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

1. NGƢỜI KỂ CHUYỆN

Trong tác phẩm văn học, ngƣời trần thuật chỉ xuất hiện khi câu

chuyện đƣợc kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm. Đó có thể là hình

tƣợng của chính tác giả, có thể là nhân vật đặc biệt do tác giả sáng tạo ra, có

thể là một ngƣời biết một câu chuyện nào đó. Một tác phẩm có thể có một

hoặc nhiều ngƣời kể chuyện. Hình tƣợng ngƣời kể chuyện đem lại cho tác

phẩm một cái nhìn và một sự đánh giá bổ sung về mặt tâm lí, nghề nghiệp,

hay lập trƣờng xã hội cho cái nhìn tác giả, làm cho sự trình bày, tái tạo con

ngƣời và đời sống trong tác phẩm thêm phong phú, nhiều phối cảnh (Theo

Từ điển thuật ngữ văn học) .

2. ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT VÀ NGƢỜI TRẦN THUẬT

2.1. Phạm trù điểm nhìn trần thuật

Điểm nhìn nghệ thuật: là vấn đề cơ bản, then chốt của kết cấu. Đó

là từ một vị trí, một điểm, một chỗ đứng, một góc câu chuyện đó được

xem xét, miêu tả bình giá, kể về sự vật, hiện tượng trong tác phẩm. Trong

tác phẩm tự sự, tƣơng quan giữa nhà văn và chủ đề trần thuật hay giữa

điểm nhìn của ngƣời trần thuật với những gì nhà văn kể là điều đặc bịêt

quan trọng. Bởi trong truyện kể, vấn đề ai kể chuyện và câu chuyện đƣợc

kể nhƣ thế nào bao giờ cũng giữ một vai trò quan trọng. Ngƣời kể chuyện

có thể mang điểm nhìn của tác giả, song tác giả không phải là trung tâm

của truyện kể. Điểm nhìn nghệ thuật đƣợc xem nhƣ những thƣớc phim dẫn

dắt ngƣời đọc vào ngõ ngách của văn bản, đi sâu tìm hiểu số phận, tính

cách, cuộc đời của nhân vật. Nhà văn bao giờ cũng phải lựa chọn cho mình

một chỗ đứng thích hợp: Trực tiếp tham gia vào vào sự kiện, cốt truyện hay

10

đứng ngoài sự kiện. Việc tìm chỗ đứng này chi phối một hình thức kết cấu

văn bản và xác lập cho ngƣời kể một điểm nhìn trần thuật để từ đó câu

chuyện đƣợc bắt đầu. Trong tác phẩm, vấn đề ai kể chuyện và câu chuyện

đƣợc kể nhƣ thế nào bao giờ cũng đem lại hiệu quả.

Nhƣ trên đã nói, mỗi văn bản tự sự bao giờ cũng đƣợc kể từ một

điểm nhìn nhất định và bởi một ngƣời kể chuyện nào đó đóng vai ngƣời kể

chuyện để kể lại sự kiện xảy ra ở đâu? vào lúc nào? có nhân vật nào tham

gia câu chuyện? Pospelov khẳng định vai trò quan trọng của điểm nhìn trần

thuật trong tác phẩm tự sự: “Trong tác phẩm tự sự, điều quan trọng là

tương quan giữa các nhân vật với chủ thể trần thuật, hay nói cách khác,

điểm nhìn của người trần thuật đối với những gì mà anh ta miêu tả”. Theo

lý thuyết tự sự học, có các kiểu điểm nhìn phổ biến ở ngƣời kể chuyện:

- Điểm nhìn toàn tri, biết tuốt khi ngƣời kể chuyện có vai trò toàn

năng với cái nhìn thông suốt tất cả, ở ngôi thứ ba.

- Điểm nhìn bên trong thƣờng thể hiện độc thoại nội tâm của nhân

vật khi ngƣời kể chuyện là nhân vật xƣng “Tôi”.

Trong điểm nhìn nghệ thuật lại có các loại: Điểm nhìn tác giả, điểm

nhìn nhân vật, điểm nhìn không gian, điểm nhìn thời gian, điểm nhìn tâm

lý, điểm nhìn tƣ tƣởng...Thật ra, trong tác phẩm văn học, chọn kiểu nhìn

nào, xuất phát từ điểm nhìn nào để ngƣời kể chuyện kể lại “chuyện” chính

là do cách tổ chức “truyện” (Không gian, thời gian, nhân vật) có dụng ý của

nhà văn. Có những tác phẩm chỉ có một kiểu điểm nhìn từ đầu đến cuối, có

những tác phẩm phối ghép những kiểu điểm nhìn hoặc luân phiên trƣợt

điểm nhìn. Cách kể từ điểm nhìn toàn tri, bên ngoài, bên trong cũng đều

xuất phát từ sự hình thành phong cách ngƣời viết văn xuôi. Ở đây, trong

chuyên luận nghiên cứu sáng tác của Nguyên Hồng ta chủ yếu tìm hiểu hai

11

kiểu điểm nhìn đó là “Nhìn toàn tri, biết tuốt” và “Nhìn từ bên trong”.

2.2. Ngƣời trần thuật

Hình thái của hình tƣợng tác giả trong tác phẩm văn học nghệ thuật

là ngƣời mang tiếng nói, quan điểm tác giả trong tác phẩm văn xuôi. Ngƣời

trần thuật là ngƣời có vai trò kể lại câu chuyện mà anh ta mong muốn

truyền tải tới độc giả. Đây là chủ thể dẫn dắt ngƣời đọc đi sâu vào “truyện”.

Cách dẫn dắt này tuỳ thuộc vào sự lựa chọn của tác giả (trực tiếp hay gián

tiếp). Tuy nhiên tác phẩm văn xuôi bao giờ cũng đặt ra mối quan hệ giữa

các thời đại (những xung đột cơ bản của thời đại), theo quan điểm của một

nhà nghiên cứu: “Tất cả những gì thuộc về quá khứ đều hướng đến tương

lai”. Vì vậy nghiên cứu tác phẩm văn xuôi là nghiên cứu mối quan hệ giữa

các xung đột mà nhà văn miêu tả có mối liên quan gì với thời đại và sự ảnh

hƣởng của nó trong tƣơng lai. Vì vậy vai trò của ngƣời trần thuật là vô

cùng quan trọng trong tác phẩm.

2.2.1 Ngƣời trần thuật hàm ẩn (hình thức ẩn khuất của ngƣời kể

chuyện)

Căn cứ vào lý thuyết tự sự học, ngƣời kể chuyện (trần thuật) dƣới

hình thức hàm ẩn là do tác giả sáng tạo ra nhƣng lại là ngƣời “toàn tri”

“biết tuốt” thƣờng đứng ở ngôi trần thuật thứ ba bởi vậy lời trần thuật ở

đây mang tính khách quan hoá và trung tính. Ngƣời trần thuật đƣợc chứng

kiến câu chuyện và có khả năng kể lại toàn bộ câu chuyện theo cách riêng

của mình. Lời trần thuật ở đây có nhiệm vụ tái hiện và phân tích, lý giải thế

giới khách quan vật chất, sự việc và con ngƣời...tái hiện và phân tích, lý

giải lời nói ý thức ngƣời khác. Theo Bakhtin, lời văn trần thuật gián tiếp

này (khác với lời văn trực tiếp của nhân vật) có thể chia làm hai loại: Loại

thứ nhất gián tiếp một giọng, đó là lời trần thuật tái hiện, phẩm bình các

hiện tƣợng của thế giới trong ý nghĩ khách quan vốn có của chúng. Loại

thứ hai, là lời gián tiếp hai giọng, là lời trần thuật có hấp thu lời nhân vật,

tức là trong phát ngôn của ngƣời trần thuật cùng lúc có thể có cả lời trực

12

tiếp hay những suy tƣ gián tiếp của nhân vật, nó thể hiện sự đối thoại với ý

thức khác của cùng một đối tƣợng miêu tả. Loại thứ hai này cho phép tác

giả di chuyển “điểm nhìn” trần thuật và tạo nên tính chất đa thanh trong

ngôn ngữ trần thuật, ngôn ngữ tiểu thuyết. Điều này đƣợc nhà văn thể hiện

rõ trong các sáng tác: Bỉ vỏ, Bảy Hựu, Cái bào thai, Quán nải, ...

2.2 .2. Ngƣời trần thuật tƣờng minh

Ngƣời kể chuyện với “điểm nhìn bên trong” của nhân vật xƣng “tôi”

là nhân vật ngay trong câu chuyện – tác giả đóng vai trò ngƣời trần thuật đó

là hình thức trần thuật từ ngôi thứ nhất. Nhân vật trong câu chuyện là chính

tác giả với nhiệm vụ ngƣời kể chuyện, trần thuật lại. Điều này dễ nhận thấy

ở các tác phẩm tự truyện hoặc có dáng dấp tự truyện nó đòi hỏi các chuyện

phải kể về sự thật. Đó chính là câu chuyện đƣợc viết bởi chính những

ngƣời đã từng sống trong cuộc đời ấy. Với việc trần thuật ở ngôi thứ nhất,

tác giả đã viết về những điều mình đã trải qua, đã chứng kiến, nếm trải và

chiêm nghiệm. Đó chính là các tác phẩm tự truyện. Tự truyện tái hiện phần

hiện thực thƣờng nằm trong tầm nhìn của ngƣời viết căn cứ chủ yếu vào

những ấn tƣợng và hồi ức của bản thân ngƣời viết hoặc cái nhìn của ngƣời

viết vào tất cả những gì đƣợc kể lại, miêu tả lại. Hồi kí mang tính chủ quan

thƣờng là văn phong cảm động nêu cảm tƣởng trực tiếp của cá nhân tác giả.

Lối tự truyện này ở các nƣớc phƣơng Tây nhƣ Anh, Mĩ, Nga rất thịnh hành

nhƣng ở Việt Nam, Nguyên Hồng đƣợc đánh giá là ngƣời đầu tiên viết lối

tự truyện chân thành, với lời tâm sự thầm kín, thậm chí cả những tội lỗi

cũng đƣợc phơi trần ra ánh sáng, Nguyên Hồng đã phải trút bỏ hết cả

những thành kiến, đặt mình lên trên những dƣ luận hẹp hòi, gột rửa lòng tự

ái cá nhân. Tự truyện của Nguyên Hồng ra đời đã đánh dấu một bƣớc phát

triển mới của nền văn học Việt Nam mà ngay từ thời kì ấy đã gây không ít

ngỡ ngàng cho các nhà nghiên cứu, các nhà văn cùng thời.

Những ngày thơ ấu chính là lời tâm sự thiết tha thầm kín, những hồi

ức của chính tác giả về quãng đời thơ ấu đầy đau khổ của mình một cách

13

chân thành. Điểm nhìn của ngƣời kể chuyện chính là nhân vật xƣng “tôi”,

nhà văn đã tái hiện lại tuổi ấu thơ của mình một cách chân thành sâu lắng.

Sau này nhà văn còn sáng tác các tác phẩm: Cái bào thai, Sông máu, bút

kí Cuộc sống...là những tác phẩm mang tính tự truyện.

Từ những lý luận về nghệ thuật trần thuật trên đây, khi tìm hiểu các

tác phẩm truyện (tự truyện) và tiểu thuyết của Nguyên Hồng trƣớc Cách

mạng tháng Tám, ta có thể phân định rất rõ hai dạng trần thuật của nhà văn

nổi bật lên ở các sáng tác văn xuôi trƣớc cách mạng tháng Tám.

3. Ngƣời trần thuật trong văn xuôi Nguyên Hồng

Xuất phát từ vị trí của ngƣời kể chuyện gắn với điểm nhìn toàn tri,

biết tuốt, có vai trò toàn năng với cái nhìn thông suốt tất cả, ở ngôi thứ ba

và nhìn “từ bên trong” (gắn với điểm nhìn bên trong) khi ngƣời kể chuyện

là nhân vật xƣng “Tôi” điểm nhìn bên trong thƣờng thể hiện độc thoại nội

tâm của nhân vật. Nguyên Hồng đã dẫn dắt ngƣời đọc vào một thế giới

nhân vật, với những câu chuyện cảm động vừa mang tính chủ quan lại vừa

mang tính khách quan thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn.

3.1. Ngƣời kể chuyện hàm ẩn

Chuyên luận của đề tài là đi sâu tìm hiểu các tác phẩm của Nguyên

Hồng trƣớc cách mạng tháng Tám dưới góc độ trần thuật bởi vậy cần khai

thác yếu tố điểm nhìn của ngƣời kể chuyện. Sáng tác của Nguyên Hồng đã

để lại ấn tƣợng sâu đậm trong lòng độc giả ngay từ những tác phẩm đầu

tay. Tác giả - một chàng thanh niên với tuổi đời còn rất trẻ - mới 16 tuổi, sự

nghiệp học hành giang dở, cuộc sống gia đình sa sút phải sống trong cảnh

nghèo khổ đến cùng cực nhƣng đã dám đề cập đến những vấn đề nóng

bỏng của cuộc sống: xã hội của những kẻ lƣu manh, trộm cắp, đĩ

điếm...Với cuốn tiểu thuyết đầu tay Bỉ vỏ Nguyên Hồng đã bộc lộ rõ tƣ

tƣởng nhân đạo của một nhà văn hiện thực. Ông đã viết bằng tất cả những

khát khao đƣợc hiến dâng cho đời những cảm xúc chứa chan yêu thƣơng về

một nghịch cảnh trớ trêu đã đẩy con ngƣời, quá trình tha hoá của con ngƣời

14

từ bản tính Thiện đến chỗ xấu xa, bỉ ổi. Dƣới giác quan của ngƣời nghệ sĩ,

điểm nhìn nghệ thuật thuộc ngôi thứ ba, Nguyên Hồng trong vai trò là

ngƣời kể chuyện khách quan, đứng ngoài cuộc mà câu chuyện đƣợc miêu

tả nhƣ chính thân phận, đau với nỗi đau tột cùng trong mọi ngõ ngách của

tâm hồn nhân vật. Nhân vật chính là cô gái quê mùa chân chất nhƣng

nghịch cảnh xã hội đã đẩy cô đến tận cùng của sự băng hoại đạo đức, ném

cô trong các cơn lốc xoáy, tuy nhiên con ngƣời vẫn giữ đƣợc nét bản chất

cao đẹp. Ngay khi mới ra đời tiểu thuyết Bỉ vỏ của Nguyên Hồng đã chiếm

đƣợc lòng yêu mến của độc giả, tác phẩm có vai trò lớn trong việc khẳng

định tên tuổi của nhà văn. Vì sao tác giả lại đƣợc đông đảo công chúng đón

nhận? Điều này liên quan đến nội dung câu chuyện – một đề tài không mới

về thân phận của một kiếp ngƣời dƣới đáy xã hội – nhƣng lại đƣợc kể qua

điểm nhìn của một ngƣời đã “biết tuốt” về một xã hội thị dân với đầy rẫy

những bất công, những sự bạo hành, những trái ngang...nên câu chuyện ấy

đã dẫn dắt ngƣời đọc chứng kiến tất cả những gì thuộc về vô luân, vô nhân

nhất mà con ngƣời thật nhỏ bé phải đƣơng đầu với chúng. Trong vai ngƣời

kể chuyện (ngôi thứ ba, do tác giả sáng tạo ra), câu chuyện đƣợc dẫn dắt rất

khéo léo, tự nhiên dƣờng nhƣ không phải do ý kiến chủ quan, thể hiện ý đồ

của ngƣời sáng tạo. Với Bỉ vỏ, dƣờng nhƣ ngòi bút của ông không nhằm

mục đích tố cáo mà là để thể hiện niềm thƣơng cảm của nhà văn trƣớc số

phận con ngƣời. Nhân vật Tám Bính, là kết quả tất yếu của những kẻ quyền

thế bỉ ổi, sản phẩm của xã hội thị dân. Khi mang trong mình giọt máu của

kẻ ăn chơi sa đoạ, đã có lúc Bính rùng mình sợ hãi khi nhớ đến hình ảnh

một ngƣời đàn bà bị làng phạt vạ: “Một ngày tháng năm, đường đá, sân

gạch bỏng rẫy chân, thế mà chị Minh, người bị làng phạt vạ, phải quì ở

giữa sân đình, nón không có, bế đứa con mới được mười ngày, cũng đỏ hon

hỏn...giữa trời nắng chang chang...mặt mày tái mét, đẫm mồ hôi, răng thì

cắn chặt...” [18, 6]. Nhà văn dƣờng nhƣ thấu hiểu tận cùng nỗi đau của

nhân vật khi phải chịu những hình phạt hà khắc của một chế độ xã hội cổ

15

hủ, tàn nhẫn. Không những thế ngƣời đàn bà ấy còn phải chịu những nỗi

cay đắng tột cùng khi bị chính bố mẹ mình - những ngƣời tƣởng rằng là

điểm tựa trong lúc khốn cùng – thì chính họ lại đang tâm “cạo trọc đầu,

bôi vôi trắng hếu, úp rế lên, rồi rong chị đi khắp làng” [18, 7]. Cách làm

ấy chỉ để chứng minh rằng họ không hề dung túng, không nuông chiều con,

nhƣng họ có biết đâu điều đó đã làm cho ngƣời đàn ấy có lần định thắt cổ

tự tử cho hết nợ đời. Cái bài học xƣơng máu ấy, lại rơi đúng vào Bính, cảnh

ngộ của Bính cũng không khác gì ngƣời đàn bà năm xƣa: không chồng mà

chửa! Từ một cô thôn nữ xinh đẹp, lƣơng thiện, Bính đã phải lòng ông

“quan tham đạc điền” để rồi từ một cô gái ngây thơ “Một ngày kia, phải

một ngày thầm vụng, Bính đã buông phó cả thân thể cho y” [18, 6]. Và khi

Bính nhận ra cái thai mỗi ngày một lớn thì cũng là lúc tên Tham Chung,

bộc lộ rõ cái bộ mặt của kẻ phụ tình đã bỏ Bính mà đi không một lời từ

biệt. Ngƣời đàn bà ấy đâu chỉ là nạn nhân của xã hội mà còn là nạn nhân

của chính gia đình mình. Và cái bi kịch ấy của ngƣời đàn bà tiếp tục bị

vòng xoáy của xã hội cuốn đi, trôi phăng theo những rác rƣởi, những tanh

bẩn của xã hội vây bám. Ngay từ ngày đầu tiên ra thành phố, Bính đã bị lừa

bịp, bị cƣỡng hiếp, bị bắt bỏ tù một cách vô cớ và tệ hại hơn cái xã hội vô

luân nơi phố phƣờng thêm một lần nữa đẩy Bính tới đỉnh điểm của sự nhơ

nhớp, dồn Bính vào nhà thổ, nơi mặc nhiên Bính trở thành gái điếm mặc dù

chƣa một lần làm điếm. Một xã hội mà Bính mơ tƣởng sẽ thay đổi cuộc

đời, xoá đi vết nhục thì ra lại là nơi biến con ngƣời thành những thứ hàng

hoá rẻ mạt, tanh bẩn. Cuộc đời tủi nhục của thân phận làm gái điếm, của

cái nghề mạt hạng “bán thân nuôi miệng” nhƣng lại bị bóc lột đến kiệt

cùng sức lực. Sự cộng hƣởng của thói đểu giả thị thành cùng những cổ hủ

thôn quê đã hợp lực lại dồn đẩy con ngƣời lƣơng thiện vào bƣớc đƣờng

cùng, bế tắc. Cũng nhƣ Bính bao nhiêu cô gái đã bị mụ chủ chứa bóc lột

sức lực đến mức ho ra máu rồi chết. Cái chết của những kẻ làm nghề mạt

hạng ấy cũng giống nhƣ cái chết của hạng ăn mày, ăn xin nơi đầu đƣờng xó

16

chợ khốn cùng không họ hàng, không ngƣời thân thích, ngƣời ta thuê vài

ngƣời phu chợ đùm trong chiếc chăn cũ rồi đem chôn: “Tấm áo quan bằng

gỗ mỏng đu đi đu lại, cọ vào chiếc thừng treo lủng lẳng ở đầu đòn ống làm

thành những tiếng kẽo kẹt thay cho tiếng khóc viếng” [18, 25]. Với cái nhìn

xót thƣơng, dƣờng nhƣ nhà văn không muốn dừng lại nỗi đau thân phận

Bính, Bính vẫn tiếp tục bị dòng đời xô đẩy. Nếu so sánh với những ngƣời

con gái trong nhà chứa, Bính tƣởng chừng may mắn hơn khi đƣợc Năm Sài

Gòn cứu vớt, nhƣng thực chất Bính lại bị rơi vào bi kịch khác tồi tệ hơn.

Năm Sài Gòn thực chất là một tay “Chạy vỏ” khét tiếng, một “ông trùm”

của xã hội đen Hải Phòng, một kẻ chuyên sống bằng nghề đâm chém, giết

chóc. Bính sau nỗi đau thân xác, lại rơi vào cảnh sống lo âu, sợ hãi trƣớc

những cảnh chém giết, tù tội có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Và quy luật khắc

nghiệt của cuộc sống đã dần đào thải phần thanh sạch tâm hồn trong Bính,

nhào nặn Bính trở thành một kẻ lƣu manh, thậm chí thành dân “anh chị”có

máu mặt, một “bỉ vỏ” thứ thiệt, có số má. Bính từ một cô gái chân quê, biết

nhục khi bị làm nhục, biết ô danh khi bị đẩy vào nhà chứa thì nay Bính đã

tự nguyện đứng vào vai của kẻ lƣu manh không hổ thẹn, rất bài bản. Điều

gì đã xô đẩy thân phận con ngƣời? Nhà văn không lớn tiếng phê phán xã

hội nhƣng bản án của con ngƣời đã đƣợc định sẵn, đã dành cho một xã hội

bất công, một xã hội phi nhân tính. Một kết thúc bi thảm về cái vòng luẩn

quẩn tội lỗi của Tám Bính là cả Năm Sài Gòn và Tám Bính cùng bị bắt một

lúc, đau đớn hơn trong giây phút tủi cực ấy, Bính lại nhận ra đứa con của

mình bị chính Năm Sài Gòn giết chết. Những gì còn hy vọng và tin tƣởng

vào cuộc sống đều tan biến, khi Bính tra tay vào còng cũng là lúc Bính

chấm hết cuộc đời, tắt hết mọi niềm tin, hy vọng.

Nhân vật Tám Bính ám ảnh trong lòng ngƣời đọc, sự xô đẩy của

cuộc đời, của chính những ngƣời ruột thịt, của định kiến xã hội, của sự

băng hoại đạo đức, của xã hội mị dân “chó đểu”, của lai tạp tha hoá. Để có

đƣợc hình ảnh nhân vật Tám Bính, để đứng đƣợc ở góc nhìn về toàn bộ

17

cuộc đời Tám Bính, nhà văn đã phải trải qua những tháng ngày cùng khổ,

phải sống trong xã hội ấy, lăn lộn trong đám ngƣời tầng lớp đáy của xã hội

thị dân ấy, Nguyên Hồng phải sống ở môi trƣờng ấy. Chứng kiến và đồng

cảm. Đau đớn và xót thƣơng. Ông đã xây dựng nên một cô gái thơ ngây

trong trắng bị lừa phản, bị rơi vào cạm bẫy, phải chịu nhiều oan ức. Bệnh

tật bị xã hội reo rắc và huỷ hoại thân xác, tội ác tội lỗi đã phá hoại tinh

thần. Con ngƣời càng cố vùng lên thì lại càng bị nhấn xuống bùn sâu. Tám

Bính đã trải qua bao nhiêu cảnh đau đớn tủi nhục, tối tăm, tất cả linh hồn,

trái tim bị tàn phá, giày xéo. Một cảnh đời cơ cực không gì so sánh nổi. Tất

cả những ƣớc mơ trong sáng, tƣơi thắm đẹp đẽ nhất của cả một đời bị tàn

phá. Tất cả những gì lành mạnh, cao quý thiêng liêng nhất, thể chất cũng

nhƣ tinh thần đều bị thay đổi ngoài ý muốn của Bính. Bính bị cuốn đi, xô đi

bởi một sức mạnh tàn nhẫn và độc ác vô cùng.

Bỉ vỏ đã bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc tới thân phận bất hạnh của

con ngƣời. Trong vai ngƣời kể chuyện đứng ngoài cuộc nhƣng hơn ai hết

nhà văn đã thấu hiểu nỗi đau quằn xé của ngƣời mẹ mất con, nỗi đau thân

xác khi bị hành hạ, nỗi kinh tởm cho chính bản thân khi bị đẩy vào căn

bệnh xã hội...Thấm hiểu tƣờng tận ngõ ngách tâm hồn, phân tích những

diễn biến tinh vi diễn ra trong từng trạng thái cảm xúc của nhân vật, nhà

văn đã có khả năng khái quát hoá sự cùng cực của số phận con ngƣời để

xót thƣơng nhân vật.

Bên cạnh nhân vật Tám Bính, là những nhân vật mà nhà văn đã dành

nhiều tình cảm xót thƣơng, hình ảnh những ngƣời phụ nữ trong các sáng

tác của ông cũng thật tội nghiệp, đó là những ngƣời nhƣ Lệ Hà, Mũn,

Muống, Vịnh, Hai Mƣơi Hai, vợ Ký Phát...mỗi ngƣời một hoàn cảnh

nhƣng dầu họ ở vị trí nào là dân “tứ chiếng” hay ngƣời dân nghèo khổ

cũng vẫn với những công việc nặng nề: phu phen, đội than, đội đá, bốc vác,

đun goòng, buôn bán vặt...Họ lao động cực nhọc mà vẫn lam lũ, đói rách.

Khi không còn đủ sức để làm hay bị tàn phế vì tai nạn lao động thì phải đi

18

ăn mày, ăn xin...Nguyên Hồng viết những tác phẩm này khi tuổi đời còn rất

trẻ, ngƣời đọc hình dung ra hình bóng của một chàng thanh niên đi bên

ngoài lề cuộc sống thất nghiệp lang thang trên phố phƣờng của thành phố

Hải Phòng, của những xóm chợ nghèo khó để quan sát và thu vào thế giới

quan của mình và trải ra trang viết hết sức chân thực nhƣng vô cùng ám

ảnh. Đó là những con ngƣời bất hạnh, cơ cực vì miếng cơm manh áo,

những nạn nhân của xã hội “chó đểu”. Truyện ngắn đầu tay Linh hồn của

Nguyên Hồng là tiếng nói tố cáo bộ mặt tàn nhẫn của chế độ nhà tù, kẻ cai

tù bất lƣơng đã hãm hiếp một ngƣời đàn bà phải đi tù thay chồng, khi đang

mang thai đến mức xảy thai. Từ tác phẩm đầu tay này, hình ảnh ngƣời đàn

bà oan khổ dƣờng nhƣ theo đuổi và ám ảnh ngòi bút của ông nên ông đã

dành phần lớn những trang viết của mình cho những ngƣời phụ nữ. Họ là

những ngƣời dân nghèo, yếu đuối nhƣng cũng phải bƣơn trải làm đủ mọi

thứ nghề để kiếm sống: từ việc buôn thúng bán bƣng, bán hàng cơm đêm,

khâu thuê vá mƣớn, phu phen, đội than đội đá. Nhà văn đã lên tiếng cảm

thông, thƣơng xót và chia xẻ những nỗi đau mà họ gặp phải. Hình ảnh cô

gái trong Vực thẳm hàng ngày phải đan thuê cho tới tận khuya để kiếm lấy

vài hào phụ giúp gia đình là một tình cảnh đáng thƣơng. Gia đình cô “ngày

ngày chỉ kiếm được năm sáu hào mà gạo ăn đã mất bốn hào, còn thức ăn

chỉ mua rau muống, cá vụn, dưa, nước mắm vừa mà nhiều bữa không

đủ”[29, 67]. Cuộc sống đói khổ nhƣ thế nên cô gái ấy đã từ bỏ hết mọi thú

vui của một thời thiếu nữ, luôn ý thức đƣợc thân phận mình: “ Phận mình

con nhà nghèo, không nên đua đòi quá và cũng không thể đua đòi được, ta

cứ yên cái phận mình cho sung sướng” [29, 69]. Những cô gái vì nghèo đói

đã đành lòng đánh mất tuổi thanh xuân, phó thác thân phận cho cuộc đời.

Nhân vật Vịnh trong Hàng cơm đêm cũng âm thầm chịu đựng cuộc sống

mòn mỏi ngày này qua ngày khác, chỉ quanh quẩn bên cạnh quán ăn nhỏ

giúp mẹ bán hàng, cô không dám nghĩ đến bản thân mình. Kết thúc một

ngày là những buổi tối Vịnh phải thu xếp nồi niêu, xoong chảo, dao thớt, và

19

khi mọi ngƣời đi ngủ thì Vịnh cũng chƣa đƣợc ngủ, mặc dù cái mệt đã làm

cho Vịnh tƣởng chừng không chịu đựng nổi nữa: “Gió thổi mạnh, tát cái

lạnh vào mặt Vịnh, Vịnh run run ủ hai tay vào nách, nép sát người vào bức

vách. Sự mỏi mệt đã đè nặng lên lưng Vịnh, Vịnh thấy trên trán có một vật

gì tôi tối trĩu xuống, Vịnh gục mặt lên đầu gối nhắm mắt lại” [29, 78]. Vịnh

không dám nghĩ hạnh phúc cho riêng mình, cô thƣơng mẹ thƣơng em nên

chẳng ngại vất vả sớm khuya, không một lời kêu ca phàn nàn. Hàng cơm

đêm có một sức hấp dẫn đặc biệt. Nhà văn đã viết về một phố nhỏ gần chợ

với cảnh tiêu điều lam lũ, một thứ mùi nồng nặc của rác rƣởi. Trƣớc khi

chìm vào màn đêm cũng có những tiếng ồn ào, huyên náo, đó là tiếng

chuông xe đạp bấm liên thanh của học sinh và công chức, tiếng guốc khua,

tiếng xe bò chuyển ầm ầm vì đƣờng phố gồ ghề và tiếng va chạm của xẻng,

cuốc, ván gỗ trong thùng xe, tiếng mời chào mặc cả, cãi vã ầm ĩ hai bên

đƣờng. Và trong cửa hàng cơm là tiếng chuyện trò cƣời nói vui vẻ của phu

phen, thợ thuyền. Đó là những con ngƣời “Quần áo rách rưới và lấm láp

của họ thở ra những mùi khét lẹt của dầu mỡ, cát bụi và bùn lầy mà họ đã

đầm đìa ở những xưởng máy, những kho hàng, những hầm tầu, những lán

gỗ, tiếng đùa nghịch chòng ghẹo nhau của những chị phu hồ, phu than ríu

rít như bầy chim sẻ” [29. 68]. Mặc dù cuộc sống của họ vất vả gian khổ

nhƣng nhà văn vẫn nhìn thấy trong tâm hồn họ một niềm tin dù họ đang

phải đối mặt với cuộc sống khổ cực. Trong không gian buồn tẻ với những

ngọn đèn leo lét của những hàng cơm đêm, hàng phở, hàng tạp hoá, hàng

mã, hàng thiếc; của cái mái lá tồi tàn những gia đình phu phen lao động. Cả

một không gian thu nhỏ nhƣng ở đó đều chất chứa nỗi cực nhọc của con

ngƣời. Trong Đây bóng tối, ngƣời đọc đã vô cùng xúc động trƣớc tình cảm

mà Mũn dành cho chồng, cho con. Từ thuở ấu thơ Mũn đã phải sống trong

cảnh côi cút, cơ cực “Mồ côi cha mẹ, phải đi dắt thuê cho một bà lão ăn

mày, chẳng bao giờ được miếng ăn ngon” vì thế khi đƣợc Nhân cho ăn

những “miếng thịt lẫn lộn cơm và nước dãi” [ 29, 79]. Mũn đã cảm động

20

và sung sƣớng lắm rồi. Khi lấy Nhân, có cuộc sống gia đình Mũn vẫn phải

sống một cuộc sống nghèo túng, khổ cực nhƣng Mũn đã hết lòng yêu

chồng thƣơng con, giúp chồng xoá đi mặc cảm mù loà. Trong cuộc mƣu

sinh vì miếng cơm manh áo Mũn đã phải chết oan ức, chết mất xác để lại

nỗi bất hạnh lớn, không chỗ nƣơng tựa cho bố con Nhân. Trong con mắt

của nhà văn, số phận những con ngƣời nghèo khổ thật nhỏ nhoi, tội nghiệp,

với họ sự sống và cái chết chỉ còn trong gang tấc. Cái nghèo, cái đói đã

không buông tha họ khi họ đã cố gắng hết sức để chống trọi với đời. Họ đã

phải cả đời lam lũ vất vả mà vẫn bị đẩy đến cùng cực của cái nghèo, đói

mặc dù bản thân họ “Nào mình có lười biếng, đần độn mà sao càng đầu tắt

mặt tối thì lại càng công nợ, càng thiếu thốn” (Hai mẹ con). Trong tác

phẩm Sông máu ngƣời vợ, ngƣời mẹ bất hạnh này dù biết rõ cuộc mƣu

sinh bằng con đƣờng chở hàng lậu là vô cùng nguy hiểm đến tính mạng,

nhƣng chị vẫn cố gắng làm vì không biết trông chờ vào đâu, nợ nần ngày

càng nhiều, con cái thì nheo nhóc, chồng thì đã chết. Cái chết oan ức của

anh cu Năng đã cảnh tỉnh chị nhƣng trong cuộc mƣu sinh một sống một

còn ấy chị vẫn phải cố gắng để một mình chèo chống gia đình.

Nhà văn đã quan sát, thấu hiểu từ nhiều góc nhìn của một ngƣời

trong cuộc với những am hiểu tƣờng tận cuộc sống của những ngƣời dân

nghèo thành thị, những phu phen, thợ thuyền, những ngƣời bán hàng

rong...bởi vậy ngòi bút Nguyên Hồng nhƣ thấm đƣợm nƣớc mắt xót

thƣơng. Vì cuộc sống nghèo túng khổ cực nên những ngƣời phụ nữ bất

hạnh ấy luôn phải đầu tắt mặt tối. Nguyên Hồng đã chứng kiến, đã từng đi

bên cạnh họ nên ông rất thấu hiểu và cảm thông với những nỗi khốn khổ

của họ. Họ không ở đâu xa lạ, đó chính là những ngƣời hàng xóm nghèo

trong cái xóm Cấm của nhà văn. Họ bƣớc vào những trang văn của Nguyên

Hồng tự nhiên, không thêu dệt với những cảnh sống cùng cực đầy xót

thƣơng.

Bên cạnh hình ảnh những ngƣời phụ nữ bất hạnh, nhà văn còn dành

21

tình cảm cho những em bé sống lang thang vất vƣởng. Đó là những đứa trẻ

con nhà nghèo, những số phận đáng thƣơng, tội nghiệp mà chính tuổi thơ

của nhà văn là một phần trong đó nên hơn ai hết ông thấu hiểu. Những số

phận nhân vật dù chỉ xuất hiện không đáng kể trong con mắt trần thuật của

Nguyên Hồng nhƣng lại hết sức ám ảnh. Bên cạnh thiên hồi kí Những

ngày thơ ấu là tác phẩm Đàn chim non, nhà văn đã gợi lên hình ảnh

những đứa trẻ mồ côi phải sống lang thang, vất vƣởng phải sớm vào đời để

kiếm sống. Bút ký Cuộc sống với những trang viết đầy rung cảm khi nhà

văn vẽ lại chân dung của một loạt đứa trẻ nhà nghèo đƣợc gợi lên từ những

tấm ảnh. Trong Hơi thở tàn là hình ảnh những đứa bé hết sức đáng

thƣơng, bồng bế nhau lê la trong cát bụi, lại bắt chƣớc giọng van xin thê

thảm của một ngƣời đàn ông mù dắt con đi ăn mày nghe “rợn cả tâm trí”.

Tác phẩm Hai nhà nghề với cậu bé Nhân phải mua vui cho thiên hạ bằng

nghề nhào lộn vô cùng nguy hiểm. Cậu làm nghề để kiếm sống “cái nghề

nhào lộn ấy để kiếm cơm ăn”. Những đứa con của Mũn nheo nhếch, đói

khát, đứa con lớn, con của anh chị Năng trong Sông Máu phải dậy sớm

trông em để mẹ đi làm từ đêm vẫn ám ảnh về ngƣời cha, về những hình ảnh

ma quái vất vƣởng, hình ảnh Mũn mồ côi đói khát cả đời không biết miếng

ăn ngon nên khi đƣợc bạn dành cho “miếng thịt lẫn dãi dớt” Mũn cảm động

và ăn rất ngon lành...Hình ảnh đáng thƣơng và tội nghiệp. Nếu so sánh với

Hai đứa trẻ của Thạch Lam, hình ảnh chị em Liên và An cũng phải kiếm

sống trên một quán tạp hoá nhỏ với cái đói về tinh thần, về sự khát khao

niềm vui thì ở đây trong sáng tác của Nguyên Hồng chúng không những bị

đày đoạ về tinh thần mà còn đói khát khổ cực từ miếng cơm manh áo.

Những đứa trẻ gợi niềm thƣơng cảm, xót xa. Nhà văn đã đứng từ vị

trí của bản thân để quan sát đồng cảm và xót thƣơng, nhân vật trẻ em gợi

nỗi day dứt, ám ảnh đến tội nghiệp.

3.2. Ngƣời kể chuyện tƣờng minh (nhân vật xƣng Tôi)

Cuốn tự truyện đƣợc coi là đầu tiên ra đời trong văn học Việt Nam

22

là tác phẩm Những ngày thơ ấu, đây là tác phẩm đã để lại ấn tƣợng sâu

đậm trong lòng ngƣời đọc về một nghịch cảnh bất hạnh trẻ thơ: phải sống

cơ cực, tủi nhục ở ngay chính ngôi nhà của mình, bên những ngƣời ruột

thịt, máu mủ. Cuốn tự truyện không cần đi tìm nguyên mẫu, không cần

dụng công xây dựng nhân vật, nó là cuộc đời, là chính đời sống cực khổ

của nhà văn trong những ngày còn tuổi ấu thơ. Bằng lối viết chân thực

Nguyên Hồng đã cho ta tƣờng tận một quãng đời quá khứ của ông và nhà

văn đã không ngại ngùng diễn tả lại trên từng trang sách không che đậy,

không dấu diếm, dƣờng nhƣ ông phô bày hiện thực để vợi đi những mất

mát của một tâm hồn trẻ thơ không đƣợc sống trong thế giới tuổi thơ. Tập

hồi kí của Nguyên Hồng - trái tim của chàng trai 17 tuổi vốn nhạy cảm, dễ

xúc động đã khiến bao tâm hồn phải cảm thƣơng rơi lệ trƣớc cuộc sống của

chính bản thân nhà văn, khi nhận ra sự thật về cha mẹ mình, : “Thầy mẹ tôi

lấy nhau không phải vì thương yêu nhau, sự trái ngược cay đắng đó tôi đã

hiểu biết rõ rệt và thấm thía từ năm tôi lên bảy lên tám...” (19, 168). Hơn ai

hết Nguyên Hồng đã cảm nhận đƣợc cuộc sống thiếu hạnh phúc của họ, khi

họ lấy nhau : “chỉ vì hai bên cha mẹ, một bên hiếm hoi muộn cháu và có

của; một bên sợ nguy hiểm giữ con gái đẹp đến thì ở trong nhà ” (19, 168).

Là ngƣời nhạy cảm cậu bé Hồng cảm nhận đƣợc ngƣời mẹ trẻ xinh đẹp đã

phải sống nhẫn nhục bên ngƣời chồng già mà bà không yêu và thầm lặng

nhƣ “cái bóng ngắn của bức tường dày mãi mãi thần phục ở dưới chân để

rồi sẽ tan xuống đất nếu có ánh sáng soi tắt” [19, 125]. Đứa bé Hồng cô

đơn, lạc lõng, ngơ ngác ngay trong ngôi nhà tàn tạ của mình, vì ở đó cậu có

“một người cha và một người mẹ tính tình khác nhau, không hiểu biết,

không yêu nhau và gần như khinh miệt nhau” [19, 176]. Trong cái xã hội

bất công “trọng nam khinh nữ” ấy, họ không có hạnh phúc, không có tình

yêu, đồng thời họ còn phải chịu cảnh lẽ mọn khi ngƣời đàn ông đƣợc quyền

“năm thê bảy thiếp”. Ngƣời đàn bà bị tập tục phong kiến đè nặng, trói

buộc, họ không đƣợc tự do lựa chọn trong hôn nhân. Nạn ép duyên của chế

23

độ phong kiến với những lễ giáo hà khắc đã khiến những ngƣời con gái

phải chịu cảnh “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, họ lấy chồng đâu có tình

yêu. Hơn nữa họ phải chịu cảnh “Tam tòng tứ đức” trói buộc ghê gớm. Dù

chồng chết vẫn phải một lòng một dạ thờ chồng không đƣợc quyền đi bƣớc

nữa, không đƣợc phép đi tìm hạnh phúc cho riêng mình dù tiếng nói của

con tim khao khát, dù khát vọng lứa đôi rực cháy. Vì thế ngƣời mẹ trẻ trong

Những ngày thơ ấu khi tái giá đã phải chịu bao sự ruồng rẫy, khinh miệt

của gia đình nhà chồng, của dân làng đến mức phải rời bỏ con mình tha

phƣơng cầu thực. Xã hội ấy đã không chấp nhận một ngƣời đàn bà chƣa

đoạn tang chồng đã chửa đẻ với ngƣời khác, đó là một xã hội đầy những

thành kiến cổ hủ đã bóp nghẹt quyền sống của ngƣời phụ nữ. Chính vì thế

“Phong tục và lễ nghi cổ hủ đã bắt buộc người mẹ coi sự sinh nở khi chưa

đoạn tang chồng cũ ghê tởm hơn là những tội gian ác xấu xa nhất. Và các

thành kiến gông cùm từ ngàn xưa truyền lại đã nâng một đứa con trai chưa

đầy mười bốn tuổi lên một địa vị cao trọng để mẹ nó phải khuất phục cầu

khẩn” [19, 156]. Ngƣời mẹ đƣợc nhà văn xây dựng với nhiều ấn tƣợng đó

là một ngƣời đàn bà tràn đầy sinh lực – ngƣời đàn bà đang ở độ chín: “gò

má ửng hồng, cặp mắt sáng, khi cảm xúc dạt dào đôi mắt trở nên...sáng

quắc, làn môi tươi thắm, và thân thể nồng nàn một làn hương thơm tho lạ

thường” [19, 173]. Nguyên Hồng đã vận dụng “chủ nghĩa nhân bản” khi

mô tả những phút giao tình mê say qua ánh mắt của ngƣời đàn bà, của phần

con ngƣời đích thực với ngƣời cai kèn. Ngƣời đàn ông này đã bằng tia sét

ái tình mà nhận thấy ở ngƣời đàn bà trẻ đang dắt đứa con kia là cả một trời

hạnh phúc. Những ánh mắt giao nhau, gò má ngƣời đàn bà ửng lên, hơi thở

gấp gáp hổn hển, và phía đằng kia tiếng kèn trỗi lên thổn thức...Đó là tiếng

kêu gọi của hạnh phúc nhân bản bay lƣợn trên vũng sình lầy của một cuộc

đời đang rữa nát. Là tình yêu đích thực trỗi dậy từ trái tim con ngƣời. Tuy

khát khao hạnh phúc nhƣ vậy nhƣng ngƣời đàn bà (tên là Lộc) vẫn giữ gìn

đức hạnh cao đẹp. Mặc dù không yêu chồng, nhƣng ngƣời vợ ấy vẫn ứa

24

nƣớc mắt khi chồng “ôm ngực ho và rũ rượi nhổ”. Bà cắn răng chịu đựng

bao cay đắng, nghiệt ngã mà không một lời oán trách. Đấy chính là thực tế

cuộc đời ngƣời mẹ thân yêu của Nguyên Hồng. Và cậu bé Hồng với lòng

yêu mẹ tha thiết đã “cười dài trong tiếng khóc” với sự xót thƣơng cho

ngƣời mẹ mình và phẫn nộ đến tột cùng trƣớc những hủ tục ấy: “Giá

những cổ tục đã đầy đoạ mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thuỷ tinh,

đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kỳ nát

vụn mới thôi” [18, 83]. Tình cảm của cậu bé Nguyên Hồng với mẹ thật là

sâu sắc. Kí ức tuổi thơ không thể phai mờ trong tâm hồn nhà văn và tinh tế

hơn đó là việc nhà văn đi sâu mô tả chính xác bản chất tâm hồn trẻ thơ

thông qua cậu bé Hồng. Một đứa trẻ thông minh, lanh lợi, tâm hồn trong

sáng và rất nhạy cảm. Đứa trẻ với đầy đủ các tố chất của một tâm hồn thơ

ngây nhƣng lại rất dễ bị thƣơng tổn ấy lại lớn lên trong một gia đình đầy

trái ngang bất hạnh, nên hơn ai hết cậu bé cảm nhận và xót đau cho chính

bản thân, cho chính ngƣời thân (ngƣời mẹ) chính ngƣời trong cuộc.

Từ cái nhìn chủ quan về chính cuộc đời mình nhà văn đã giúp cho

ngƣời đọc cảm nhận thấm thía nỗi đau của chính ngƣời trong cuộc, nỗi ám

ảnh của một tâm hồn non dại trẻ thơ không có cuộc sống tuổi thơ. Hơn ai

hết lối trần thuật ấy đã gợi sự đồng cảm sâu sắc trong lòng ngƣời.

Nhƣ trên đã nói, hồi kí “Những ngày thơ ấu”, là những kỉ niệm

đong đầy nƣớc mắt của một cậu bé mà ngay những năm tháng tuổi thơ đã

nhiều bất hạnh. Đó là những ấn tƣợng sâu sắc, không thể phai mờ trong

tâm hồn của nhà văn. Theo các nhà tâm lý học, ấn tƣợng gắn bó đáng ghi

nhớ nhất của cuộc đời mỗi con ngƣời đó là giai đoạn tuổi thơ từ 3 tuổi đến

khoảng 15 tuổi. Đây là giai đoạn phát triển tuy ngắn so với cả chặng đƣờng

đời nhƣng kí ức mà cuộc đời mỗi con ngƣời nhớ nhất chính là giai đoạn

này. Với lối kể chuyện mộc mạc, chân thành nhà văn đã dẫn dắt ngƣời đọc

trở về chính tuổi ấu thơ của ông để đồng cảm trƣớc số phận cơ cực của một

25

em bé thơ ngây.

Qua điểm nhìn trần thuật, ngƣời đọc nhận ra dù dƣới góc độ nào, cái

nhìn của ngƣời trong cuộc hay cái nhìn khách quan thì nhân vật của

Nguyên Hồng cũng là những nhân vật hết sức đáng thƣơng, là những nhân

26

vật dám vƣơn lên để dành sự sống thể hiện cái nhìn nhân bản của nhà văn.

CHƢƠNG 2

NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC KẾT CẤU VÀ CỐT TRUYỆN

TRONG TRUYỆN VÀ TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN HỒNG

TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

1. NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC KẾT CẤU

Kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm. Tổ

chức tác phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, liên kết bên ngoài

(mối liên hệ kết nối giữa các phần, chƣơng, đoạn) mà còn cả sự liên kết bên

trong (cấu trúc nội dung) của tác phẩm. Bố cục là một phƣơng diện của kết

cấu. Đó là “phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật” có

“chức năng đa dạng bộc lộ tốt chủ đề tư tưởng của tác phẩm; triển khai

trình bày hấp dẫn cốt truyện, tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả tạo

nên tính toàn vẹn của tác phẩm như là một hiện tượng thẩm mĩ” [40, 70].

Nhƣ vậy kết cấu là một yếu tố của hình thức tham gia thể hiện chủ đề nội

dung và tƣ tƣởng tác phẩm, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành

một tác phẩm thành chỉnh thể nghệ thuật.

Tác phẩm nghệ thuật bao gồm nhiều yếu tố, nhiều thành phần phức

tạp. Tất cả những bộ phận khác nhau đó đƣợc nhà văn sắp xếp, tổ chức theo

một hệ thống, một trật tự nhất định gọi là kết cấu. Nhiệm vụ của kết cấu là

tổ chức mối liên hệ giữa các yếu tố thuộc nội dung tác phẩm: hoàn cảnh,

hành động, biến cố, tính cách...và các yếu tố thuộc hình thức: bố cục, hệ

thống, ngôn ngữ, giọng điệu...Kết cấu phải xử lý mối liên hệ giữa tuyến sự

kiện và tuyến nhân vật, phải tổ chức các yếu tố tự sự sinh động, miêu tả,

đối thoại giữa các nhân vật, độc thoại nội tâm, những lời bình luận trữ tình

phụ đề của tác giả, tổ chức hình thức bên ngoài của tác phẩm (bố cục). Kết

cấu là yếu tố thuộc hình thức. Khái niệm kết cấu rộng hơn khái niệm cốt

truyện vì có những tác phẩm có kết cấu nhƣng không có cốt truyện. Phạm

vi kết cấu bao gồm cả những yếu tố ngoài cốt truyện đó là những đoạn trữ

27

tình ngoại đề. Việc tổ chức kết cấu có quan hệ rất chặt chẽ với việc xây

dựng hệ thống hình tƣợng và xây dựng sƣờn truyện, cốt truyện. Nguyên tắc

chung của nghệ thuật kết cấu là phải làm sao cho tƣ tƣởng chủ đề thấm sâu

đến từng bộ phận của tác phẩm và phải góp phần tích cực nhất vào việc xây

dựng hệ thống tính cách nhân vật. Tác phẩm văn học phải đảm bảo sự

thống nhất về kết cấu.

Kết cấu của tác phẩm không chỉ tuân theo quy định thể loại trực

thuộc mà nó còn chịu sự chi phối của một số yếu tố khác nhƣ quan điểm mĩ

học của các nhà văn qua từng thời kì lịch sử. Vì vậy kết cấu thƣờng đa

dạng. Bất kể tác phẩm văn học nào cũng có một kết cấu nhất định.

1.1. Kết cấu đơn tuyến:

Là sự tổ chức kết cấu đơn giản “không có truyện”, không có những

tình tiết quan trọng mà chỉ là sự ghi lại những chuyển biến đáng kể trong

cuộc đời của nhân vật. Kết cấu đơn tuyến trong đó chỉ có một câu chuyện

với kết cấu tuyến tính, các sự kiện đƣợc sắp xếp theo trình tự thời gian, đi

từ tình thái đầu đến tình thái cuối của câu chuyện. Các hồi, đoạn trong

truyện nối tiếp nhau theo một trật tự dƣờng nhƣ không thể khác.

Trong hồi kí Những ngày thơ ấu, tiểu thuyết Hơi thở tàn, Quán

nải, Buổi chiều xám... thuộc loại truyện nhà văn đã sử dụng lối kết cấu

đơn tuyến để phù hợp với sự vận động cảm xúc của nhân vật. Các tác phẩm

viết theo dạng tự truyện, hồi kí của Nguyên Hồng với kết cấu tuyến tính

làm cho trình tự thời gian diễn ra lần lƣợt trong câu chuyện của Nguyên

Hồng khi gợi nhớ lại những kỉ niệm tuổi thơ, những kí ức không thể nhạt

nhoà về một thời điểm của cuộc đời. Ngƣời đọc bị cuốn theo các tình tiết

đƣợc sắp xếp nối tiếp nhau trong truyện. Truyện không “Đao to búa lớn”

mà thấm dần vào tâm hồn ngƣời đọc nỗi đau của chính bản thân nhà văn.

Giá trị tƣ tƣởng của tác phẩm nằm ngay chính sự đơn giản của kết cấu.

Trong tác phẩm Hơi thở tàn, đây là loại tiểu thuyết “không có

28

truyện”, nghĩa là không có những tình tiết quan trọng, gay cấn, những xung

đột, mâu thuẫn gay gắt mà đơn thuần chỉ ghi lại những chuyển biến đáng

kể trong cuộc đời nhân vật.

Vì hoàn cảnh gia đình, Sinh phải sớm bỏ học, xoay đi kiếm sống từ

năm 13, 14 tuổi bằng đủ mọi thứ nghề: dạy học tƣ, thƣ kí hiệu buôn, bán vé

rạp hát, ô tô, kẻ biển quảng cáo, phụ việc cho thơ mộc thợ xây...Nghĩa là

Sinh không từ chối bất kể việc gì miễn là có cơm ăn. Tuy nhiên không có

việc gì Sinh làm đƣợc quá 6 tháng, luôn luôn trong tình trạng nơm nớp bị

mất việc, thất nghiệp và đói khát. Cuộc sống của anh mong manh chỉ trông

chờ vào sự may mắn của số phận. Không những thế anh lại luôn ốm yếu,

nhiều lần ho ra máu, sức lực chỉ còn chút “hơi thở tàn”. Với sức khoẻ ấy,

công việc bấp bênh ấy dễ dẫn con ngƣời ta đến chỗ bi quan, chán nản, phó

thác cuộc đời. Nhƣng Sinh lại là một thanh niên khảng khái, có lòng tự

trọng và ý thức cao. Anh giàu nghị lực, ham học hỏi và muốn sống có ý

nghĩa. Cuộc sống ở vùng ngoại ô Hà Nội: Bạch Mai, bãi Phúc Xá...và khi

tiếp xúc với những ngƣời dân nghèo thợ thuyền trung hậu, đầy lòng vị tha

nhƣ cụ Năng, bà cụ An, cô Hào, bé Sao...đã giúp Sinh đấu tranh quyết liệt

với những ý nghĩ cay đắng, tuyệt vọng. Anh đã cảm nhận đƣợc niềm vui

trong lao động và giữ đƣợc niềm tin ở cuộc sống và tƣơng lai. Điều này là

một minh chứng cho quan niệm sống của Nguyên Hồng con ngƣời dù rơi

vào hoàn cảnh bi đát nhƣng vẫn có niềm tin vào những điều tốt đẹp.

Tác phẩm với lối kết cấu đơn giản, các sự kiện và tình tiết trong

truyện nối tiếp nhau theo trật tự trƣớc sau, trên trục chiều ngang của thời

gian, rất đơn giản, tạo ra ảo giác về tính đƣơng nhiên của của những gì sẽ

xảy ra. Một số tác phẩm trình bày theo từng chƣơng, từng đoạn hay thành

từng phần rõ ràng giống nhƣ các cảnh khác nhau trong một vở kịch hay

một bộ phim. Tác phẩm Những ngày thơ ấu nhà văn đã kể lại cuộc sống

của chính bản thân mình theo trình tự thời gian từ khi còn nhỏ. Từ lúc cậu

bé Hồng nhận ra cái bi kịch gia đình đang trên đà sụp đổ đến những mất

29

mát, thiếu thốn tình cảm của ngƣời thân, sự ghẻ lạnh của những ngƣời cùng

huyết thống và niềm vui mừng khi gặp lại ngƣời mẹ, đƣợc sống “Trong

lòng mẹ”... đó là những cảm xúc rất tự nhiên đƣợc miêu tả theo trục tuyến

tính thời gian, lần lƣợt xuất hiện nhƣ chính bản thân hiện thực vốn có.

Trong tác phẩm Quán Nải tác giả cũng sử dụng lối kết cấu tuyến tính theo

trình tự thời gian, nhà văn đã miêu tả cuộc đời nhân vật Muống trải qua hai

giai đoạn, tựa nhƣ những lớp lang, từng cảnh khác nhau nhƣ tác phẩm kịch

có chƣơng, hồi.

Đoạn thứ nhất: Muống là một cô gái quê xinh đẹp, trung hậu, đảm

đang. Cô đem lòng yêu anh giáo nghèo trƣờng làng tên Thân. Nhƣng do

nhà nghèo, mẹ chết, bố ốm nặng, cô phải lấy lẽ một gã nhà giàu tên là

Hƣơng Hoạch để gán nợ. Không chịu nổi sự độc ác của vợ cả, Muống, nhờ

sự giúp đỡ của chúng bạn, bỏ nhà trốn ra Hải Phòng, hy vọng tìm đƣợc

Thân đã chuyển đi dạy học ở đó.

Đoạn thứ hai: Muống đi Quán Nải tìm Thân, nhƣng không gặp. Bơ

vơ, không nơi nƣơng tựa, cô phải lấy Bếp Giống. Bếp Giống rất thƣơng

yêu vợ con, nhƣng là một gã tay chơi anh chị chuyên rƣợu chè, cờ bạc,

chạy hàng lậu, nên gia đình sống trong tình trạng bấp bênh, nguy hiểm. Sự

làm ăn của Bếp Giống ngày càng khó khăn, đến lúc sức tàn lực kiệt, con

ốm không thuốc thang, hắn phải làm hợp đồng đi phu sang Lào để có món

tiền đem về nhà. Nhƣng chƣa kịp đi thì Bếp Giống đã chết, để lại con thơ

vợ dại trong cảnh tuyệt vọng. Tuy nhiên, tác phẩm có kết cấu có phần lỏng

lẻo, chủ đề dƣờng nhƣ chƣa đƣợc xác định rõ rệt.

Với Buổi chiều xám, kết cấu đƣợc nhà văn xây dựng hết sức đơn

giản. Chỉ là: “Cái không khí u uất về chiều này! Cái cảnh tượng nhợt nhạt

của chiến tranh này! Cái hoang mang của sự sống qua những đói rét, tàn

phá và chết này” [30, 373]. Cái cảm xúc đau buồn ấy xuất phát từ hình ảnh

cả quê hƣơng đang ngập trong gót giầy quân xâm lƣợc Phát xít Nhật “Đó là

chiếc xe của quân đội Nhật lù lù như một con voi” trong số những tên lính

30

ấy có một “tên lính hình thù rất lạ”, “hai con mắt rất sáng, rất tợn”, “râu

ria xồm xoàm” – “Một con khỉ độc!”. Trong con mắt của Xan tên lính Nhật

trông thật dữ tợn, bởi bộ dạng bên ngoài và bởi thái độ, hành động kì quặc.

Khi thấy ngƣời vú em bế một đứa bé trai ra, ngay lập tức tên lính Nhật

“bỗng quẳng súng lên mặt hòm nước, nhảy bịch xuống đất, xồ đến người

đàn bà, hai cánh tay lông lá đưa ra như sắp ôm lấy. Người đàn bà rú lên,

quay ngoắt đi. Khủng khiếp vì cái hình thù quái đản ấy, đứa bé cũng choé

lên một tiếng rồi nhắm mắt lại, gục mặt xuống vai người bế” [30, 375].

Trƣớc tình cảnh ấy Xan lo lắng, Xan đã nguyền rủa những kẻ đi xâm lƣợc

thật dã man khi cƣớp nƣớc lại còn định dở những trò bỉ ổi, đê hèn với ngƣời

phụ nữ đáng thƣơng. Xan căm phẫn muốn hét lên vào mặt chúng: “ Khốn

nạn!.. Khốn nạn!... Sự khốn nạn đã đến tột cùng rồi. Đi bắn giết người, đi

cướp đất người, đi bóc lột của cải, vơ vét thóc gạo trong khi mùa màng mất

và sự đói kém tàn hại sinh linh chưa đủ, lại còn hãm hiếp đàn bà một cách

công nhiên nữa”. [30, 376]. Xan lo lắng theo dõi từng hành động của “con

khỉ đột” và khi hắn lại gần “Một tay hắn níu lấy cánh tay bế em của người

vú, một tay hắn vẫy vẫy đứa bé mà hắn ghé hẳn mặt nó vào mặt hắn, vừa

nháy mắt, vừa gật đầu, khẩn khoản ra hiệu với đứa bé đừng sợ gì nữa, hãy

theo hắn bế ẵm” [30, 357]. Xan đã trút đƣợc nỗi lo âu khi nhận ra bản chất,

tâm hồn của một ngƣời cha khi phải sống xa gia đình, xa đứa con trai. Giá trị

nhân văn của văn bản nằm ngay ở tình phụ tử. Ngƣời cha dù làm lính đi xâm

lƣợc nhƣng nỗi nhớ con vẫn da diết cồn cào. Hành động ôm hôn đứa trẻ của

“con khỉ độc” cũng chính là hành động tố cáo gay gắt chiến tranh, cuộc

chiến tranh xâm lƣợc Việt Nam. Chiến tranh là sự chia cắt, là nỗi mất mát, là

sự thƣơng tổn trực tiếp cho mỗi gia đình dù cuộc chiến ấy diễn ra ở đâu. Từ

những hình ảnh ấy, Xan đã nhận ra “một ánh sáng khác, một bầu trời khác”

Xan đã có những suy nghĩ khác về tình ngƣời, về hiện thực của chiến tranh.

Kết thúc truyện là câu chuyện mà Xan nghe kể, câu chuyện với những hình

ảnh gợi niềm xót thƣơng và ám ảnh trong lòng Xan . Đó là câu chuyện tƣởng

31

chừng rất đỗi bình thƣờng khi có hai ngƣời lính một ngƣời còn trẻ, một

ngƣời đã già vào gọi cà phê “Y móc trong aó ra một bức thư, một tấm hình

và một con búp bê nhỏ. Y đặt tất cả lên bàn,. mếu máo nhìn rồi khóc nức nở.

Xem bức thư, ngắm tấm hình và mân mê thứ đồ chơi của trẻ con nọ” [30,

381]. Và điều không ai ngờ tới là: “Đoàng...Đoàng...Hai tiếng súng vang

lên. Mọi người đều kinh hoàng. Người lính rút súng lục của viên quan ra

lúc nào không biết ghé vào thái dương mình bóp cò. Viên quan nhanh mắt

giằng được súng. Người lính già liền tuốt vội lưỡi lê, chạy vụt ra chỗ khác

mà tự rạch nát cổ và xỉa be bét vào ngực mình, viên quan trẻ tự bắn, chết

gục xuống bên cái thây sũng máu của người lính già tuỳ tùng” [30, 373].

Giây phút kinh hoàng diễn ra và hơn ai hết Xan đã hiểu ngọn ngành câu

chuyện, Xan bất chợt nhận ra “Cái hình thù dày bè bè và cái bộ mặt râu ria

xồm xoàm, mắt quăm quắm của tên lính mà Xan đã gặp” [30, 374], anh

nhận ra tên lính Nhật và nhớ lại hình ảnh “hai cánh tay lông lá thú vật ấy

giơ ra đón đứa bé bụ bẫm, và cả cái mũi, cái miệng râu ria che kín của hắn

cứ rít vào tay, vào trán, vào má, vào đùi, nhất là vào háng, vào dái đứa bé”

hình ảnh tên lính kì quái - ngƣời cha với tình yêu thƣơng con da diết, với

nỗi nhớ cồn cào vò xé trái tim đã in đậm trong suy nghĩ của Xan. Ngƣời

cha ấy khi bế đứa bé chắc đã hình dung, tƣởng tƣợng về đứa con yêu dấu

của mình nơi quê hƣơng xa xôi với tình yêu thƣơng đằm thắm “đã ôm ấp,

hôn hít lần cuối cùng rồi dứt ruột ra đi”. Cuộc chiến tranh xâm lƣợc ngoài

ý muốn của những ngƣời dân lƣơng thiện là tiếng nói tố cáo chiến tranh, là

sự phản ứng quyết liệt của con ngƣời. Giá trị nhân bản nằm trong phần kết

thúc đặc sắc này. Ngƣời cha đã tự kết liễu cuộc sống của mình bởi không

biết chiến tranh sẽ tồn tại bao lâu “Ba năm, năm năm, mười năm rồi! Hay

lâu hơn nữa cũng nên... với một người đã bị chiến tranh lôi đi không còn

biết tới đâu, không còn biết đến bao giờ, mà cả dân tộc của bọn đi xâm

chiếm và dân tộc bị xâm chiếm, đều ê chề, tàn hại” [30, 377]. Ngƣời cha ấy

đã chết “chết vì buồn nhớ, chán nản và đau khổ” [30, 378], cái chết là sự

32

minh chứng cho tình yêu thƣơng con, là sự phản ứng những cuộc chiến

tranh xâm lƣợc. Với lối kết cấu theo mạch diến biến của câu chuyện, truyện

đã dẫn dắt ngƣời đọc theo một trình tự tự nhiên và kết thúc bất ngờ.

Truyện có kết cấu tuyến tính thƣờng dễ đọc, dễ hiểu, nhƣng cũng dễ

trở nên nhàm chán. Bởi vậy các tác phẩm của Nguyên Hồng nhiều khi

không tạo đƣợc sự ám ảnh lâu dài, có những tác phẩm ngƣời đọc dễ lãng

quên bởi lối kết cấu đơn giản này.

1.2. Kết cấu theo mạch phát triển tâm lí

Kết cấu vòng tròn, đây là kiểu kết cấu thông dụng sau kết cấu tuyến

tính. Câu chuyện thƣờng đƣợc kể theo trình tự : hiện tại – quá khứ – hiện tại.

Tuy nhiên cũng theo kiểu kết cấu này nhƣng nhà văn đã lấy điểm “đắt” nhất

trong truyện để làm giao điểm vòng tròn. Nhà văn Nguyên Hồng đã xây

dựng một số văn bản theo lối kết cấu này Bỉ vỏ; Sông máu, Hơi thở tàn...

Trong Bỉ vỏ nhà văn đã theo dõi quá trình phát triển tâm lí của nhân

vật Bính từ một cô gái quê hiền lành trở thành một “bỉ vỏ” chuyên nghiệp.

Nguyên Hồng đã trình bày thành công mối quan hệ biện chứng giữa tính ổn

định và tính biến đổi trong tính cách Tám Bính. Tác phẩm đƣợc xây dựng

không cầu kỳ, số lƣợng nhân vật tham gia không nhiều, tác giả chủ yếu đã

tập trung xây dựng nhân vật Tám Bính, nhân vật trung tâm của tác phẩm và

theo dõi những diễn biến tâm lý của Bính rất sát sao và tài tình. Từ một cô

gái ngây thơ, chân chất mộc mạc do hoàn cảnh xô đẩy Bính đã trở thành

một cô gái lăn lóc trong đám bùn nhơ của nhà chứa rồi trở thành một “bỉ

vỏ” với những mánh lới tinh ranh của cái xã hội dƣới đáy tù túng. Bính

buộc phải hoà nhập vào cuộc sống của đám trộm cắp, lƣu manh, đã lấy

Năm Sài Gòn – một tên trùm tƣớng cƣớp và nghiễm nhiên Bính cũng trở

thành một kẻ trộm cắp chuyên nghiệp với nghề ăn cắp dọc ngang trên tàu.

Môi trƣờng vùi dập và xô đẩy, Bính buộc phải lăn lộn vào chốn ô hợp của

xã hội thị dân, thành trộm cắp, đĩ điếm nhƣng mỗi lần phạm một tội ác là

lƣơng tâm Bính lại bị dằn vặt, khổ sở. Bính sống trong môi trƣờng ấy

33

nhƣng tâm hồn không hề tha hoá, Bính vẫn tìm thời cơ để cảm hoá Năm đi

theo con đƣờng lƣơng thiện. Với Bính chấp nhận cuộc sống ấy nhƣng vẫn

luôn khát khao vẫn luôn nghĩ đến một ngày gột rửa sạch bụi bẩn để trở lại

làm ngƣời lƣơng thiện. Ƣớc mong đƣợc thay đổi ấy tựa nhƣ ngọn lửa âm ỉ

trong lòng Bính, khi Bính vẫn có một niềm tin cháy bỏng đang hằng ngày,

hằng giờ thôi thúc là đƣợc trở lại gặp đứa con thơ mà Bính đã phải dứt bỏ

cho đi. Đây là động lực, là sức sống trong mọi hoàn cảnh để Bính vƣơn lên

tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. Bên cạnh một Năm Sài Gòn hung ác, lạnh

lùng là một Tám Bính với tâm hồn còn những nét thanh sạch, lƣơng thiện,

thậm chí rất cao đẹp. Hình tƣợng nhân vật Bính vừa đáng thƣơng vừa đáng

trân trọng. Nhà văn nhƣ hoá thân vào nhân vật để thấu hiểu nỗi đau đớn

trong mọi hoàn cảnh với đủ các sắc thái tâm trạng của một con ngƣời càng

bị vùi lấp càng cố vƣơn lên.

Với “Sông máu”, từ một hiện thực về cuộc sông mƣu sinh đầy gian

khổ, chị Năng buộc lòng phải nhận chở một chuyến hàng lậu. Cũng từ

chuyến hàng này chị nhớ lại chuyến hàng định mệnh khi xƣa khi nó đã

cƣớp đi sinh mệnh của ngƣời chồng chị. Chị đã nhớ lại toàn bộ câu chuyện

hãi hùng đó và từ chính câu chuyện của cuộc đời mình, thân phận mình chị

đã quyết dứt bỏ con đƣờng đầy nguy hiểm. Với lối kết cấu vòng tròn, nhà

văn đã dõi theo những diễn biến tâm lí của nhân vật và cách giải quyết vấn

đề rất phù hợp với nỗi ám ảnh tâm lí của con ngƣời, lời nhắc nhở của anh

Năng nhƣng cũng là lời tự nhủ đối với chị :

“- Phải về thôi! Bỏ hẳn nghề này thôi!” [30, 157].

Với lối kết cấu theo mạch phát triển tâm lí, nhà văn nhƣ hoá thân vào

nhân vật, trăn trở, day dứt với những giằng xé của nội tâm nhân vật. Lối kết

cấu này tạo sự ám ảnh trong lòng ngƣời qua diến biến tâm lí phức tạp của

nhân vật. Cách điễn tả và phân tích tâm lý nhân vật gợi cảm giác nhƣ nhà

văn chính là ngƣời trong cuộc, đau nỗi đau của nhân vật bởi vậy tác phẩm

34

gây xúc động trong lòng độc giả.

1.3. Kết cấu đảo lộn trật tự trần thuật

Truyện có kết cấu đảo ngƣợc thƣờng mở đầu bằng tình huống kết

truyện, tiếp đến là những sự kiện dẫn dắt lần lƣợt trở về tình huống đầu tiên

và cũng là chỉ rõ nguyên nhân của kết truyện. Với lối kết cấu này thƣờng

hấp dẫn bởi chiến thuật khơi gợi trí tò mò của độc giả. Đứng trƣớc một sự

kiện lạ mở đầu câu chuyện, ngƣời đọc không thể không đặt câu hỏi

“chuyện gì đã xảy ra?” để rồi chăm chú theo dõi các sự kiện tình tiết trong

truyện mong tìm ra câu trả lời.

Truyện ngắn “Linh Hồn” là sự hồi tƣởng, ngƣợc dòng thời gian về

quá khứ “Cái năm ấy đã qua lâu rồi” [30, 128] để rồi là dòng hồi tƣởng về

thân phận tủi nhục trong một khoảng thời gian đã xa của nhân vật Hai mƣơi

hai. Nhân vật bị đẩy vào một tình thế đầy bi kịch, cái tình thế đã giết chết

tâm hồn, giết chết khát vọng, giết chết đứa con khi nó chƣa kịp cất lên tiếng

khóc chào đời, là nỗi khiếp sợ ám ảnh suốt cuộc đời. Ngƣời vợ ngoan hiền

ấy bị đặt vào một tình thế éo le, phải đi tù thay chồng khi đang bụng mang

dạ chửa sắp đến ngày sinh nở và hơn nữa cái vẻ đẹp đàn bà thiên phú ở

nhân vật nhiều khi là hiểm hoạ khôn lƣờng: “Cái khuôn mặt ấy lại hiển

hiện trước mắt Cai Năm – cái khuôn mặt dịu dàng long lanh, đôi mắt lờ đờ,

u ẩn không biết bao nhiêu tình tứ

Năm Béo mím môi, nắm chặt bàn tay trái đấm thật mạnh vào lòng

bàn tay phải. Cử chỉ đó tỏ rằng tâm trí Cai Năm bị một sự ao ước, thèm

muốn kích thích đến cực điểm. Sắc đẹp của Hai mươi hai trong cảnh tù tội

bó buộc, kham khổ đã hoàn toàn huyễn hoặc Năm, khiến Năm say mê,

khiến Năm sôi nổi, không sao nén được lửa dục tình” [30, 213]. Thói dâm

ô, cộng với quyền uy của kẻ đề lao đã thôi thúc hắn phải thực hiện bằng

đƣợc nhục dục đê hèn. Khát vọng thôi thúc hắn thực hiện bằng đƣợc ham

muốn chiếm hữu thân xác Hai mƣơi hai dù biết rằng nàng đang bụng mang

dạ chửa: “ Với tiền bạc. Năm quyết dùng để mua lấy những phút khoái lạc

35

mà xưa nay cái người tù nào có diễm phúc, có oai quyền, mới được hưởng

trong tù” [30, 213]. Với cách giới thiệu nhân vật và diễn biến câu chuyện,

ban đầu ngƣời đọc dƣờng nhƣ chỉ nhận ra cái hiểm hoạ ngẫu nhiên của một

con thú hoang dâm vô độ đến với ngƣời đàn bà đẹp mà đâu biết rằng ngƣời

phải chịu nhục hình của thói đểu giả ấy là ngƣời đàn bà bụng mang dạ chửa

chỉ “ Còn non nửa tháng nữa là tới kì sinh nở”[30, 214] đã bị rơi vào vòng

cạm bẫy của con mãnh thú khát máu. Hai mƣơi hai dù biết rơi vào bế tắc

nhƣng vẫn một lòng cƣơng quyết “Chết thì chết! Không khi nào chịu nhơ

nhuốc ấy” [30, 215]. Ngƣời đàn bà đức hạnh đã kiên quyết giữ gìn phẩm

giá, chối bỏ những dục vọng thấp hèn, kiên quyết không chấp nhận sự bỉ ổi

dùng tiền bạc để mua chuộc. Ngƣời đàn bà dù đang mang trong mình một

“linh hồn” bé bỏng vẫn chịu thay chồng cái án oan nghiệt “nhà đoan hai lần

khám thấy rượu lậu trong nhà, nàng đi chịu tám tháng tù thay chồng giữa

lúc nàng bụng mang dạ chửa ” [30, 215]. Bên cạnh nỗi khổ cực, vất vả của

cuộc sống tù đày ngƣời vợ ấy còn nơm nớp lo sợ bảo vệ bản thân, nhân

phẩm để khỏi thất tiết với chồng, hơn thế nữa là ngƣời mẹ luôn lo lắng bảo

vệ cho một sinh linh vô cùng bé bỏng nhƣng rất đỗi thiêng liêng còn đang

trong bụng. Tuy nhiên, “ Hai mươi hai nhận thấy tất cả mọi nỗi yếu hèn lạnh

lẽo của tấm thân vừa yếu đuối vừa nghèo nàn trong nơi tù ngục, không ai

che chở” [30, 216]. Nỗi sợ hãi mơ hồ của Hai mƣơi hai đã trở thành hiện

thực khi rắp tâm của Cai Năm đang thƣờng trực trong máu của kẻ đê tiện.

Không dùng uy, dùng tiền đƣợc hắn đã dùng sức mạnh của con mãnh thú để

hãm hiếp ngƣời đàn bà yếu đuối: “Nàng chực la lên, nhưng chưa kịp mở

miệng, đã bị Năm bóp chặt cổ, dằn ngửa xuống sàn gỗ. Nàng hết sức kháng

cự nhưng hai bàn tay Năm cứng như sắt” [30, 216]. Hắn đã bỏ ngoài tai bỏ

mặc tiếng khóc lóc và lời van lơn của nàng “xin buông tôi ra! Khổ tôi lắm!

Tôi bụng mang dạ chửa!”, lời khẩn cầu của Hai mƣơi hai không đƣợc để ý.

Không thèm đếm xỉa đến những lời van xin, không thèm biết đến nguy hiểm

sẽ đến với Hai mƣơi hai, hắn nhƣ một con mãnh thú say mồi phải chiếm đoạt

36

bằng đƣợc khát vọng. Dục vọng của con quỷ dữ đã chiến thắng và ngƣời mẹ

đáng thƣơng tội nghiệp ấy đã không giữ nổi đứa con còn nằm trong bụng

mình. Lời kết tội nằm ở cuối thiên truyện thật đau xót.

Với lối kết cấu đảo ngƣợc, câu chuyện thƣờng bắt đầu từ một sự kiện

quan trọng mang tính quyết định nội dung tƣ tƣởng.

Qua lối kết cấu đảo ngƣợc, văn bản hấp dẫn ngƣời đọc ở sự cuốn hút

của câu chuyện trong việc theo dõi các sự kiện, tình tiết diễn biến của

truyện. Ngƣời đọc nhƣ hoà nhập vào, cùng quay ngƣợc dòng thời gian để

cùng tìm hiểu các biến cố, theo dõi quá trình diễn tiến của câu chuyện

1.4.Kết cấu lắp ghép:

Với lối kết cấu này văn bản không tuân theo một qui luật định sẵn.

Tác phẩm giống nhƣ một bức tranh đƣợc ghép bởi nhiều mảnh khác nhau,

mỗi mảnh là một phần của câu chuyện theo kiểu “xếp hình tìm ý”. Đây là

lối kết cấu có tính chất nhiều tuyến, nhiều bình diện, sự luân phiên giữa

những cảnh khác nhau, sự đan chéo các sự kiện, tình tiết. Tiêu biểu cho lối

kết cấu này là tác phẩm Đây bóng tối... Với văn bản “Đây bóng tối”

đƣợc bắt đầu bằng sự hồi tƣởng của Nhân về tuổi thơ với “Hình ảnh Mũn

mãi in sâu trong trí nhớ” [30, 158] đó là những kỉ niệm, kí ức tƣơi đẹp

không thể phai mờ cùng với cô bạn nhỏ. Nhân đã từng coi Mũn nhƣ một vị

“cứu tinh” khi Nhân rơi vào hoàn cảnh trớ trêu trƣớc sự cƣời cợt của mọi

ngƣời, tình thế của Nhân đã làm thành trò cƣời cho thiên hạ khi cái dây

quần bị đứt, hai tay Nhân đang phải cầm hai bát thức ăn. Trƣớc tình cảnh

ấy Mũn đã không ngần ngại túm lấy cạp quần Nhân và cùng Nhân bƣớc đi

trong sự cƣời cợt, chế giễu của mọi ngƣời. Nhân thầm cám ơn Mũn về cái

tình của Mũn đã dành cho Nhân trong tình thế đầy kịch tính và cảm động

trƣớc hành động của ngƣời bạn nghèo.Tình thế ấy đã đƣa Nhân đến gần

Mũn hơn, Nhân hiểu hơn hoàn cảnh của Mũn. Mũn đã từng vất vả với cuộc

mƣu sinh, mồ côi cha mẹ không nơi nƣơng tựa, Mũn đành chấp nhận việc

dắt thuê cho bà lão ăn mày để kiếm miếng cơm ăn và trong Mũn cái tình

37

của Nhân với miếng thịt ngậm trong mồm mang ra cho Mũn đã làm Mũn

cảm động bởi đó nhƣ là sự ban ơn. Với Nhân: “Mũn là một người đàn bà,

một người bạn chịu mọi sự cùng khổ đau đớn với Nhân trong mười ba năm,

phải đúng mười ba năm ở những nơi nhớp nháp, kinh tởm riêng biệt cho

những người cùng khổ” [30, 158]. Nhƣng trong cuộc mƣu sinh mỗi ngƣời

đi theo một đời sống riêng, hoàn cảnh của Nhân và Mũn có sự thay đổi

“Mũn đi một ngả. Nhân đi một ngả” [30, 160], nhƣng rồi nhƣ số phận đã

xếp đặt Nhân gặp lại Mũn trong một hoàn cảnh ngẫu nhiên, khi Nhân đi

làm ăn tại Hà Đông. Sau những tháng ngày xa cách Nhân phải vất vả kiếm

sống, Mũn cũng phải tự mình bƣơn trải làm ăn, bởi vậy khi hai ngƣời gặp

lại nhau vừa mừng vừa vui nhƣng cũng đã làm Nhân vô cùng ngạc

nhiên:“Mũn trông lạ hẳn đi”, “Mũn phát đạt, sang trọng”, một cô bé Mũn

ngày xƣa rách rƣới, khổ sở, bẩn thỉu giờ trong trang phục “chiếc quần nái

mới, chiếc áo the mịn đổi vai, đôi vòng khuyên vàng lấp lánh dưới nếp

khăn vuông đen mượt” [30, 161]. Mũn đã thành một thiếu nữ đẹp, ý tứ,

duyên dáng và đặc biệt trong trang phục sang trọng làm Nhân không khỏi

nghi ngại về hoàn cảnh của riêng mình. Mũn thay đổi, Nhân cũng thay đổi,

nếu trƣớc đây Nhân luôn dành cho Mũn những miếng thịt dấu gia đình

ngậm trong mồm để chia xẻ cho Mũn thì nay dƣờng nhƣ vị thế đổi ngôi

nên Nhân e dè, ngại ngùng. Nhƣng chính cụôc gặp gỡ bất ngờ cùng kỉ niệm

ấu thơ không thể nào quên, lòng cảm thông, thƣơng cảm đã giúp họ đến với

nhau trong tình yêu thƣơng chồng vợ: “Trong cảnh nghèo nàn, hai người

vui vẻ với cái hạnh phúc bé nhỏ nhưng quý báu của đời họ” [30, 163]. Giá

cuộc sống ấy cứ êm đềm trôi đi! Mũn chịu thƣơng chịu khó, Nhân chăm

chỉ làm lụng. Họ hạnh phúc hơn khi những đứa con ra đời, cuộc sống tuy

có vất vả hơn, nhọc nhằn hơn nhƣng họ đƣợc hạnh phúc bên nhau. Nhƣng

trong cuộc mƣu sinh ấy với đói khát, ốm đau tật bệnh đã hành hạ họ, một

gia đình với bề bộn lo toan, cực khổ hơn khi Nhân sau bao ngày bị bệnh đã

đau đớn tột cùng thốt lên “- Tôi mù rồi! Tôi mù rồi! Mình ơi” [30, 164].

38

tiếng kêu của kiếp ngƣời từ đáy sâu lầm than cơ cực “Rồi không thể nén

được chua xót, Nhân ôm ngực, ngã gục xuống giường, Nhân thiếp đi trong

tiếng vợ con khóc như ri” [30, 164] Trƣớc nỗi thống khổ của kiếp ngƣời

bất hạnh, nhà văn cũng không nén đƣợc cảm xúc, kêu lên tiếng kêu tuỵêt

vọng“Sao lại có thể như thế được? Sao lại có thể khốn nạn đau đớn cho

hai người ấy như thế được? Sao hai người ấy đã cùng khổ mà lại còn phải

chịu nhiều sự cay đắng làm vậy?

Sao chỉ trút lên đầu những kẻ hiền lành chịu khổ như vợ chồng

Nhân những đoạ đày khổ ải? Mà sao cái hạnh phúc bé nhỏ như gây dựng

trên từng vũng mồ hôi, vũng nước mắt của vợ chồng Nhân lại chóng bị tàn

phá đi? ” [30, 164]. Sau những ngày cơ cực, Mũn hiểu và nhận ra rằng

mình chính là chỗ dựa duy nhất cho chồng, cho con. Mũn đã cố gắng làm

lụng không kể ngày đêm vất vả lăn lộn và hơn thế Mũn biết làm cho cuộc

sống tƣơi vui lên, làm cho Nhân “Dần dần quên hẳn sự đau đớn đui mù.

Lòng hy sinh của Mũn, sự thương mến của đàn con ríu rít đã làm mất hẳn

những tư tưởng hắc ám thường thì thầm xúi giục Nhân tìm cách chết đi để

Mũn nhẹ một gánh nặng trên vai. Không những thế, trong tình thương yêu

ấy, Nhân còn cảm thấy đời vui vẻ, Nhân ham thích sống, sống để làm

chồng một người đàn bà yếu đuối nhưng can đảm, để làm cha một bầy con

lúc nào cũng nhởn nhơ vui cười” [30, 165]. Tình yêu thƣơng của Mũn, ánh

sáng của cuộc sống đã cho Nhân niềm tin và niềm vui, khát khao đƣợc

sống mà quên đi nỗi đau của thể xác, quên đi sự đui mù của bản thân.

Nhƣng cuộc sống cay cực đã không buông tha gia đình Nhân, năm cái

miệng ăn trông chờ vào đôi bàn tay Mũn xoay sở, ngƣời đàn bà vì “ sự yên

vui trong gia đình mà Mũn phải chịu nhiều sự ức hiếp khổ sở quá. Nàng

như một tấm lá chắn đỡ lấy trăm nghìn mũi tên sắc nhọn để che chở cho

chồng con được vẹn toàn” [30, 165]. Trong cuộc mƣu sinh đầy khốc liệt ấy

Mũn đã phải dành giật trong cuộc tranh mua tranh bán khổ sở, Mũn đã phải

đƣơng đầu với biết bao nguy hiểm và cái thảm kịch không tránh khỏi đó là

39

một lần đi bán bánh Mũn đã phải trả giá bằng chính mạng sống của bản

thân, cuộc giao tranh đã giết chết Mũn trong một lần; “ Tàu đã súp lê lần

thứ ba, đã kéo neo, gần chạy rồi mà Mũn còn tranh nhau bán bánh. Người

bán cao lâu ở tàu thấy thế bèn đẩy Mũn ra ngoài. Giữa lúc đó một bọn soát

vé chợ đương hò hét gọi những người bán hàng khác Mũn dùng dằng không

muốn lên bờ. Người bán hàng ở tàu cáu tiết, cầm cả mâm bánh liệng xuống

phà. Mũn phải vội chạy theo, trượt chân, ngã nhào xuống sông. Nước chảy

mạnh, người ta cố công tìm vớt mà chưa thấy xác” [30, 166]. Cuộc mƣu sinh

đầy bất trắc, giữa sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc và ai ngờ đƣợc thảm

kịch ấy lại rơi đúng vào hoàn cảnh gia đình Mũn. Cái cực đã đẩy con ngƣời

tới tận cùng của sự tàn khốc. Việc Mũn nhảy theo cố vớt lấy mâm bánh để

phải đổi lấy cái chết thê thảm, chết mất xác, điều này đã khẳng định tình yêu

thƣơng sâu nặng của ngƣời vợ tần tảo, giàu lòng hy sinh. Mũn đã hy sinh

bản thân mình với hy vọng cứu đƣợc cuộc sống đang hằng ngày hành hạ, đói

khát, bệnh tật của chồng con nhƣng sự hy sinh của Mũn là sự trả giá bằng cái

chết tức tƣởi. Đối với Nhân “Mũn chết! Thế là hết! Đời cha con Nhân thế là

hết chỗ nương tựa...hết cả mọi sự yên vui, mọi ánh sáng, mọi hơi sưởi ấm!”

[30, 166] bởi với đôi mắt đui mù Nhân không biết phải làm gì ngoài việc

phải “lê la nay xó chợ này, mai xó chợ khác, hết ở dưới những mái hiên

trong các phố vắng vẻ thì lại nằm vạ vật ở gầm cầu, bãi cát, bờ sông” để đi

“ăm mày” một “cái nghề cùng mạt” [30, 168]. Hoàn cảnh thƣơng tâm đã xô

đẩy gia đình Nhân đến bên bờ vực thẳm. Bế tắc và cùng cực.

Với những mảnh chuyện đan xen nhà văn đã xây dƣng đƣợc một

kết cấu logíc về cuộc đời về thân phận nhân vật, về những số phận bất

hạnh, cơ cực qua những mảnh ghép khác nhau. Nhân vật bị dồn đẩy vào

bƣớc đƣờng cùng tạo nên những bi kịch đầy xót xa, đau đớn. Nhƣng đằng

sau những bi kịch ấy vẫn là những tấm lòng nhân hậu sáng chói, thể hiện

cái nhìn nhân bản của nhà văn. Với lối xây dựng kết cấu kiểu này, nhân vật

của Nguyên Hồng dù bị hoàn cảnh xã hội xô đẩy, có nhiều sự thay đổi

40

nhƣng họ vẫn không quên đƣợc nghĩa tình sâu đậm của tình ngƣời. Mũn

gặp lại Nhân trong thế đối lập với cuộc sống thuở ấu thơ, nhƣng chính kỉ

niệm thuở ấu thơ đã kéo xích họ lại với nhau trong tình yêu thƣơng. Họ

không chỉ sống với nhau bằng tình mà còn bằng nghĩa. Đây là điểm nhìn

lạc quan, tin tƣởng của nhà văn. Trong cuộc sống dù tối tăm cơ cực nhƣng

nhân vật trong tác phẩm của Nguyên Hồng vẫn muốn vƣơn lên tìm sự

sống. Đây là cái nhìn đôn hậu, là tinh thần lạc quan của nhà văn đã thấm

sâu vào từng trang viết. Điều này đã góp phần khẳng định: Kết cấu có vai

trò quan trong trong việc thể hiện tƣ tƣởng chủ đề của văn bản.

2.NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN

2.1. Cốt truyện:

Khi sáng tác một tác phẩm văn chƣơng, điều gây không ít khó khăn

cho nhà văn, đó là cốt truyện. Bởi cốt truyện giúp ngƣời đọc hình dung ra

nội dung câu chuyện mà nhà văn cần truyền tải. Ngƣời viết có thể xây dựng

đƣợc tƣ tƣởng chủ đề, hình thành ra các tuyến nhân vật, tìm bối cảnh và lựa

chọn đối thoại...nhƣng tất cả những điều ấy chƣa đủ để dẫn dắt nó đi đến

một kết thúc vừa ý mà nhà văn cần phải xây dựng một cốt truyện cho phù

hợp. Tác phẩm cần cốt truyện nhƣ cơ thể cần bộ xƣơng vậy. E.M.Forster

từng viết: “Truyện là sự trần thuật về một chuỗi sự kiện được sắp xếp theo

một trình tự thời gian nào đó. Một cốt truyện cũng là sự trần thuật về chuỗi

sự kiện, nhưng điểm nhấn rơi vào quan hệ nhân quả”. Quan điểm này đã

mở ra sự khác biệt giữa trần thuật – cách truyền tải, sắp xếp sự kiện và bản

thân truyện. Một cốt truyện thành công thƣờng hàm chứa những yếu tố bất

ngờ và độc đáo.

Cốt truyện: Là hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư

tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất

trong hình thức của tác phẩm văn học.

Cốt truyện có vai trò quan trọng trong việc làm nòng cốt cho sự diễn

biến các mối quan hệ và sự phát triển của tính cách nhân vật trong tác phẩm

41

văn học loại tự sự. Có thể tìm thấy qua một cốt truyện hai phƣơng diện gắn

bó hữu cơ: một mặt cốt truyện là một phƣơng tiện bộc lộ tính cách, nhờ cốt

truyện nhà văn tái hiện sự tác động qua lại giữa các tính cách; mặt khác,

cốt truyện còn là phƣơng tiện dể nhà văn tái hiện các xung đột xã hội. Cốt

truyện vừa góp phần bộc lộ có hiệu quả đặc điểm mỗi tính cách, tổ chức tốt

hệ thống tính cách, lại vừa trình bày một hệ thống sự kiện phản ánh chân

thực xung đột xã hội, có sức mạnh lôi cuốn và hấp dẫn ngƣời đọc. Cốt

truyện là một hiện tƣợng phức tạp. Trong thực tế văn học, cốt truyện các

tác phẩm hết sức đa dạng, kết tinh truyền thống văn học của mỗi dân tộc,

phản ánh những thành tựu văn học của mỗi thời kì lịch sử, thể hiện phong

cách, tài năng của nhà văn. Cốt truyện là hệ thống cụ thể những sự kiện và

hành động trong một tác phẩm, hệ thống đó bộc lộ các tính cách trong

những mối quan hệ và tác động qua lại dƣới sự chỉ đạo của một tƣ tƣởng

chủ đề nhất định. Cốt truyện dƣờng nhƣ có ba nhiệm vụ chủ yếu. Nó phải

là một phƣơng tiện để bộc lộ tính cách của các nhân vật. Nó phải phản ánh

đƣợc những mâu thuẫn và xung đột của hoàn cảnh xã hội mà nhà văn miêu

tả. Nó phải giúp cho tƣ tƣởng chủ đề và nội dung nghệ thuật có điều kiện

bộc lộ ra một cách đầy đủ nhất trong tác phẩm. Nếu nhƣ kết cấu là biểu

hiện của tính hình thức thì cốt truyện là sự truyền tải nội dung câu chuyện

mà nhà văn muốn gửi gắm tƣ tƣởng đến độc giả. Một nhà lí luận đã từng

nói: “Những kết luận khoa học nhƣ những thỏi vàng chỉ lƣu hành trong

những phạm vi nhỏ hẹp, còn tri thức từ các tác phẩm văn học nhƣ những

đồng tiền nhỏ dễ dàng lƣu thông, len lỏi đến với mọi ngƣời”. Tri thức ở đây

là tƣ tƣởng đƣợc nhà văn gửi gắm trong tác phẩm và để truyền tải tƣ tƣởng

này đó là cốt truyện. Đó chính là những tri thức cuộc sống đƣợc nhà văn

dẫn dắt chúng ta hiểu rõ vấn đề, văn học nghệ thuật tác động trực tiếp đến

con ngƣời, nâng cao khả năng nhận biết của con ngƣời về những vấn đề

trong cuộc sống. Với những kết luận của các nhà khoa học chỉ giới hạn

trong sự tìm hiểu của những ngƣời có mối quan tâm thì kết thúc của một

42

tác phẩm văn chƣơng đã đem lại sự chiêm nghiệm suy ngẫm đối với độc

giả. Trong sự nghiệp sáng tác của Nguyên Hồng nhà văn đã sử dụng nhiều

loại cốt truyện rất linh hoạt khi xây dựng các tác phẩm văn xuôi. Cách vận

dụng nhiều loại cốt truyện này đã tạo nên sức hấp dẫn của văn bản, sự

phong phú, đa dạng của nghệ thuật trần thuật trong văn xuôi Nguyên Hồng

trƣớc Cách mạng tháng Tám.

2.2. Cốt truyện trong sáng tác của Nguyên Hồng

2.2.1 Cốt truyện đơn giản (đơn tuyến)

Cũng có thể gọi đây là kiểu cốt truyện tâm lý do nhà văn dựa phần

lớn vào ký ức của nhân vật hoặc nhấn mạnh vai trò của giấc mơ, của hồi ức

để tổ chức kết cấu tác phẩm. Với lối kết cấu này nhà văn đã sử dụng hết

sức linh hoạt thời gian tự sự, trong đó quá khứ, hiện tại, tƣơng lai đều có

khả năng đồng hiện và những giấc mơ có sức ám ảnh dữ dội đến đƣờng đời

của nhân vật chính

Các tác phẩm Những ngày thơ ấu, Bỉ vỏ, Linh hồn, Quán nải,... là

những cốt truyện đơn giản với mạch truyện thƣờng diễn ra theo trật tự

tuyến tính, sự liền mạch theo trục thẳng tuần tự của thời gian từ quá khứ

sang hiện tại. Thời gian diễn biến của các sự kiện trùng với thời gian của

việc kể chuyện nhƣng câu chuyện cũng đầy ám ảnh.

Với Bỉ vỏ nhà văn đã xây dựng tác phẩm đƣợc phản ánh thông qua

cốt truyện đơn giản không có nhiều tình tiết, nhân vật, biến cố. Thời gian,

không gian đƣợc mở rộng hơn từ nông thôn đến thành thị, nhà máy, bến

tàu, bến xe. Truyện đƣợc xây dựng theo hành trình cuộc đời của nhân vật

Bính từ một cô gái nông thôn chân chất, quê mùa Bính bị mắc vào lƣới tình

với kẻ đồi bại là một ông Tham. Nỗi đau bị ngƣời yêu ruồng rẫy, phụ bạc

cũng không đau đớn bằng chính cha mẹ hắt hủi, lề thói xã hội khinh miệt.

Bính buộc phải tìm con đƣờng tự giải thoát, từ một cô gái ngây thơ, khờ

dại, ngày đầu tiên đặt chân lên mảnh đất phố phƣờng Bính đã bị mắc mƣu

và dấn thân vào cuộc sống thị thành với biết bao cạm bẫy. Ngày đầu tiên

43

cũng là ngày Binh bị đẩy vào những tình thế hết sức nguy hiểm phải tự

chống trả để bảo vệ nhân phẩm. Trong lòng Bính vẫn còn một chút hy vọng

“vẫn tin lời nói của Chung” nên Bính đã ngây thơ đi tìm con ngƣời bội bạc

ấy chốn phồn hoa đô hội để rồi trớc cái vòng đời nhơ nhớp Bính đã tự đƣa

thân vào mà không hề hay biết. Cô gái quê mộc mạc, ngây ngô đã tự đẩy

thân mình vào giữa cái đống cặn bã, giữa cái chốn ăn chơi truỵ lạc, sa đoạ

của đám ông Tham, ông Ký – hệ quả của chế độ thực dân và tự mình trói

tay mình, dẫn thân mình vào nhà chứa và cơ cực và ê chề hơn là bị đổ căn

bệnh xã hội, căn bệnh mà cho đến cuối đời Bính vẫn phải gánh chịu. Bính –

cô gái quê bỗng nhiên trở thành “hạng đĩ lậu ghê gớm” “đĩ trăm thằng,

nghìn thằng” “là một gái chuyên mại dâm không có giấy”. Bính mặc nhiên

trở thành gái nhà “thổ”, trở thành một Tám Bính trong nhà chứa của mụ

Tài – Sế - Cấu. Con đƣờng đầy tủi nhục, Tám Bính đã chịu biết bao nỗi

khổ sở của đám khách làng chơi – rặt những đám lƣu manh thất nghiệp bê

tha – Bính phải sống trong gian buồng tối tăm, chật hẹp bẩn thỉu và nhơ

nhớp của đời gái giang hồ. Đau đớn, xót xa, tủi nhục. Bính tởng tợng đến

một ngày Bính ốm nặng “Mỗi ngày thây một rữa ra, mãi khi bốc hơi thối

và nhung nhúc ròi bọ, hàng xóm mới biết. Người ta vội thuê vài người phu

chợ [18, 47]. đùm Bính trong chiếc khăn cũ rồi đem đi chôn”. Hình ảnh

luôn ám ảnh trong giấc mơ của Bính rất hãi hùng về những cái chết đầy

thƣơng tâm “ Tấm áo quan bằng gỗ mỏng đu đi đu lại, cọ vào chiếc thùng

treo lủng lẳng ở đầu đòn ống làm thành những tiếng kẽo kẹt thay cho tiếng

khóc viếng”. “Cái chết của Bính giống hệt cái chết của hạng người ăn mày

khốn cùng không thân thích chết đường chết chợ”. [18, 47]. Nỗi chua xót

của Bính tràn ngập cả trong lúc thức, lúc ngủ. Nỗi đau trở thành nỗi ám ảnh

trở đi trở lại trong cuộc sống của Bính. Nỗi đau đớn day dứt của Bính là cái

chết trƣớc một thảm cảnh của kẻ giang hồ phiêu bạt. Nhà văn nhƣ hoá thân

vào nhân vật để đau nỗi đau tận cùng của ngời phụ nữ đã bị đẩy xuống đáy

44

bùn nhơ. Dƣới góc độ trần thuật ở ngôi thứ ba, cái nhìn của nhà văn dƣờng

nhƣ khách quan nhƣng thực chất nỗi đau, vò xé ấy lại nhƣ chính cảnh ngộ

của ngƣời trong cuộc bị trà xát nhân phẩm, bị đẩy xuống tận cùng nỗi đau.

Tuy nhiên, nhà văn vẫn tạo cho nhân vật một cơ hội sống, đây là

điều mà ngƣời đọc nhận thấy trong văn Nguyên Hồng con ngƣời dù đau

khổ đến đâu vẫn có niềm tin, vẫn muốn vƣơn lên thoát khỏi những bế tắc.

Bên cạnh cuộc sống tủi nhục của những kẻ chỉ biết tranh giành miếng cơm

manh áo, vẫn có một Hai Liên tình nghĩa và có lòng thƣơng ngƣời. Sự

đồng cảm của Hai Liên đã giúp Bính đứng lên vƣợt qua số phận tủi nhục

của kiếp đời bán thân nuôi miệng. Cuộc gặp gỡ tình duyên của Bính với

Năm Sài Gòn do Hai Liên sắp đặt đã kéo Bính ra khỏi chốn lầu xanh nhơ

nhớp, Bính muốn thay đổi cuộc sống, muốn hoàn lƣơng. Tuy nhiên, sống

trong xã hội đó, trong đám thị dân nghèo khổ và giữa chốn lọc lừa thì ƣớc

mơ của Bính chỉ là ảo vọng. Lấy Năm, đời Bính đã sang trang nhƣng lại là

một trang đời cũng không kém phần tủi nhục. Sau khi thoát khỏi chốn bùn

lầy nhơ nhớp, Bính lại phải náu mình trong thế giới của những kẻ trộm cắp

sừng sỏ, những tay anh chị khét tiếng với nghề chính là “chạy vỏ”. Bính đã

“Cùng Năm Sài Gòn, năm tướng trên kia làm đại biểu cho tụi “anh chị”

càng ngày càng nhiều, càng hung tợn của đất đồng chua nước mặn nọ”.

[18, 49]. Bính gặp Năm dù biết rõ bản chất của Năm nhƣng không thể có

con đƣờng lựa chọn nào khác, Bính buộc phải gắn đời mình vào để hy vọng

có ngày thoát khỏi mọi sự ê chề, và với mong ƣớc lớn lao là đƣợc gặp lại

đứa con. Nhƣng Năm lại là một trùm, một tƣớng trong làng “chạy vỏ”, một

tay anh chị khét tiếng. Năm trở thành một ông trùm bạo ngƣợc với rất

nhiều ngón nghề và thể hiện cái uy quyền ấy “cho ai sống được sống, bắt

ai chết phải chết, bảo tù phải ngồi tù”. Sự tàn nhẫn và khét độc của Năm

làm cho cái xã hội vốn đã hỗn độn lại càng trở nên xô bồ.. Bính đã gắn bó

cuộc đời với Năm và lại tiếp tục bị cuộc sống xô đẩy cho trôi dạt, cho biến

hoá thành kẻ trộm cắp. Bính trở thành ngƣời đàn bà chuyên ăn tiền “bồi”

45

của đám đàn em. Tuy nhiên, từ sâu thẳm tâm hồn Bính vẫn có chút lƣơng

tâm và lƣơng tri. Mặc dù tham gia đầy đủ “chạy vỏ” “chạy dọc” và trở

thành một “Bỉ” Bính “hắc” lắm để đến mức thằng Minh - lũ đàn em của

Năm phải thầm nghĩ “rất sung sướng được thấy một người đàn bà thuỳ mị

như thế sa ngã ” và qua lời Tƣ Lập Lờ nói với Năm “chị ấy bây giờ ghê

gớm lắm anh ạ, chẳng kém anh tý nào. Chưa bao giờ tôi thấy một “bỉ vỏ”

nào “sừng kền” như thế” [18, 48]. Cuộc sống gian hồ không thể tồn tại

mãi. Bởi chính những kẻ lang bạt ấy sẽ tìm cách hại nhau. Bính không phải

ngoại lệ, mối tình chắp nối với Năm, cuộc sống gá nghĩa ấy đã bị chính bản

thân nó tự huỷ hoại. Sau trận thua bạc, sau những ghen tuông ngấm ngầm

Năm đã đuổi Bính đi. Bính trở về Nam Định nhƣng trong lòng vẫn không

nguôi nỗi nhớ Năm, thấm thía về sự cô độc của Năm, nhƣng Bính đã nhất

quyết không trở về quê cũng nhƣ nhất định không trở về sống với Năm.

Bính lại trở về với cuộc mƣu sinh của kẻ gồng thuê gánh mƣớn, trở về

đúng với bản chất và con ngƣời Bính. Cuộc đời Bính sẽ thay đổi, sẽ hoàn

lƣơng nếu không gặp phải những sự trớ trêu. Bính trở về và lại không thể

bỏ gia đình cha mẹ phải vào vòng lao lý. Những ngƣời cha ngƣời mẹ bạc ác

với Bính trƣớc kia, những ngƣời trực tiếp đẩy Bính vào vũng bùn nhơ nhớp

nhƣng phận làm con, hơn nữa với bản tính nhân văn Bính không thể quay

lƣng lại họ trong lúc họ không biết bấu víu vào ai, ngoài Bính. Bính gặp lại

em mừng rỡ và sung sƣớng nhƣng “nỗi lo lắng lại bừng bừng trong tâm

trí” vì thằng Cun tìm Bính để “chạy cho tiền nộp phạt, bằng không sẽ phải

ít ra cũng một năm tù mà còn nhà cửa đất cát sẽ bị mất hết” [18, 50]. Bính

đang trong cơn quẫn bách, thân mình còn đang phải dựa vào Hai Liên lại

gặp cảnh trái ngang lại đành chấp nhận trôi theo số phận “sự chua xót chiều

qua khi Bính liều nhận trăm bạc, món tiền của người mật thám bạn với

chồng Hai Liên bỏ ra cưới Bính cũng về làm lẽ” [18, 51]. Bính đành “liều

lấy lẽ một người có đạo, có vợ, có con” chỉ vì tấn kịch, vì món nợ oan uổng

của gia đình. Cuộc đời cứ xô đẩy Bính, trôi dạt. Làm vợ một mật thám

46

Bính vẫn canh cánh nghĩ về Năm Sài Gòn, vẫn lắng tai nghe theo dõi sự

tình về một kẻ bị tầm nã riết. Thành quả của ngƣời chồng mật thám “được

lên ngạch” là cuộc vây bắt Năm và Bính biết là Năm sẽ lại bị tiếp tục “đi

đày”. Tiếng hát của Năm trong đêm khuya đã gọi dậy tình yêu thƣơng

trong Bính “Tiếng hát bằng cái giọng ngao ngán khi xưa từng bào xé ruột

gan Bính trong những giờ vắng vẻ chán nản ở nhà chứa ấy, cái giọng đục

lờ lờ, thê thảm riêng biệt của hạng gái bán trôn nuôi miệng và hạng giai

“du côn” anh chị “chạy vỏ” ấy, nghe rợn người như một giọng hấp hối,

quằn quại đau thương và tuyệt vọng” [18, 53].. Bính đau xót khi nhận ra

Năm, nhận ra “sự tối tăm nhơ nhuốc của đời Năm, một tên “chạy vỏ” “anh

chị” đến kỳ mạt lộ. Bính tự ai oán trách mình là kẻ tệ bạc, Bính day dứt ân

hận “một năm nay mình êm ấm sung sướng còn Năm thì cùng cực khổ sở”,

Bính tƣởng tƣợng đến cuộc sống của những kẻ đi đầy và xót thƣơng để rồi

dẫn đến hành động quyết liệt “...Cánh cửa sắt nặng trịch của xà lim vừa hé

mở, khoá không kịp đóng lại, hai bóng đen đã cắm đầu chạy mỗi lúc một

nhỏ dần, rồi biến mất trên con đường xa tắp” [18, 54].

Nhà văn đã xây dựng đƣợc một kịch tính đầy mâu thuẫn, bắt buộc

con ngƣời ở vào thế phải lựa chọn. Đó là tình thế rất nan giải, tình thế này

sẽ quyết định số phận của Bính và buộc Bính phải lựa chọn giữa hai con

đƣờng: Sống yên ổn với thằng chồng mật thám hay mở của ngục cho Năm

Sài Gòn trốn thoát để rồi lại trở về với cuộc sống lƣu manh đầy bất trắc.

Tám Bính đã không chút đắn đo và chọn con đƣờng thứ hai mở cửa ngục

cho Năm và cùng Năm trốn chạy. Điều này là hợp quy luật tâm lý, hợp với

tính cách của cô, hợp với bản tính nghĩa tình thuỷ chung của Bính. Một con

ngƣời giàu lòng vị tha và tình nghĩa, sẵn sàng tha thứ kể cả những kẻ phản

bội mình nhƣ Tham Chung và những ngƣời đối xử tàn độc với mình nhƣ

cha mẹ, thì không thể quay lƣng với số phận của Năm ngƣời đàn ông duy

nhất trên đời yêu thƣơng cô và đã dang tay cứu vớt cô ra khỏi vũng bùn đen

của nghề ô nhục. Nhà văn đã rất sâu sắc khi diễn tả nét tâm lý của nhân vật

47

phù hợp với quy luật nội tại với mối quan hệ biện chứng nằm trong tính ổn

định và tính biến đổi trong tính cách của Bính. Sự giải thoát cho Năm cũng

là mong muốn giải thoát cho mình. Nhƣng Bính và Năm không thể trở về

con đƣờng lƣơng thiện, vẫn phải lao vào cái vòng xoáy của trộm cƣớp

ngang dọc các chuyến tàu. Và việc không khuyên nhủ đƣợc Năm cũng

đồng nghĩa với việc Bính phải tiếp tục sa chân vào kiếp đời “anh chị” ấy.

Bính đau buồn “Sáu năm đã qua...lâu biết bao...dài biết bao! mà biết đến

bao giờ Bính mới có được một cuộc đời trong sạch êm đềm như cuộc đời

của mọi người” vì “nếu Bính càng yêu thương Năm Sài Gòn, càng thắt

chặt lại với Năm và phải theo Năm mãi mãi”. Chấp nhận cuộc sống ấy với

Năm để Bính vẫn nuôi hy vọng một ngày nào đó đƣợc gặp lại đứa con yêu

thƣơng, và Bính vẫn sống với một niềm tin một sự hy vọng mong manh

nhƣng đủ ấm áp để Bính vƣợt qua những tủi nhục. Mặc dù sống bên Năm

Bính đã chứng kiến bàn tay ghê rợn của Năm và các đàn em của hắn. Bính

và Năm bị bắt đó là lẽ tất yếu và ngƣời bắt Bính không phải ai khác chính

là ngƣời mật thám đã lấy Bính trƣớc kia, Bính cay đắng nhận ra sự nghiệt

ngã của thân phận. Không phải ngẫu nhiên ba con ngƣời cùng liên quan,

cùng gắn bó với Bính lại đƣợc nhà văn cho gặp gỡ trong hoàn cảnh trớ trêu

này. Một ngƣời ở bƣớc đƣờng cùng (Bính), một ngƣời mà Bính yêu thƣơng

(đứa con) đã bị Năm lấy đi sự sống, một ngƣời mà Bính cũng đã mang ơn

rồi lại phụ ơn (ngƣời mật thám) lại chính tay bắt Năm và Bính. Đỉnh điểm

của kịch tính,cao trào của cốt truyện đã đẩy ngƣời đọc vào chỗ dƣờng nhƣ

nín thở, hụt hơi. Tƣơng lai trƣớc mặt Bính là một màn đêm, ở đó Bính

không còn gì để mất. Trái tim Bính đau xót “càng như rỉ máu”, nỗi đau tột

cùng “Rùng mình, Bính quay mặt nhanh về phía đứa con. Mắt Bính hoa

lên. Bính giật phắt cái xích sắt trong tay người chồng mật thám, rồi chạy

đến ôm chầm đứa bé, khóc nức nở”. “Năm Sài Gòn bỡ ngỡ không hiểu ra

sao, người mật thám nọ xô ngay lại, lôi Bính dậy, quấn nốt hai tay Binh

thêm mấy vòng xích sắt nữa” “Tám Bính tê mê như người mất hồn, lờ đờ

48

ngoái cổ nhìn với đứa con béo tốt nằm rũ trên chiếu” và trong giây phút

tuyệt vọng Bính đã nhận ra “mọi sự tuyệt vọng tối tăm từ nay trở đi không

lúc nào không xâu xé tâm can Bính, và Bính sẽ sống một đời khốn nạn dài

vô cùng tận”. Trong câu nói cuối cùng của Bính với Năm, cũng là câu nói

kết thúc cuộc đời mình “Thế là hết!” nghe chua xót và cay đắng.

Kết thúc truyện Bỉ vỏ nhà văn đã cố ý làm cho cùng một lúc xuất

hiện nhân vật Năm Sài Gòn, Tám Bính và đứa con bị chết của nàng, ngƣời

mật thám mà nàng đã lấy ở thành Nam và mấy viên cảnh sát. Tình huống

thật éo le, khi cuộc “hội ngộ” lại là những điều đau xót nhất mà Bính phải

chứng kiến. Cả một cuộc đời Bính sống lay lắt, khổ sở nhƣng tâm hồn vẫn

mang niềm khát khao mãnh liệt là đƣợc gặp lại đứa con thơ, bởi vậy Bính

đã cố sống, nuôi dƣỡng niềm tin, hi vọng. Nhƣng trái ngƣợc với niềm

mong mỏi của Bính là một kết thúc đau thƣơng. Với lối kết thúc bất ngờ

này Bính nhận ra nỗi cay đắng cùng cực của cuộc đời nàng và nàng đành

tuyệt vọng. Nỗi đau tột cùng khi gặp lại con thì cũng là lúc nhận ra đứa con

nàng vô cùng yêu thƣơng lại bị chính ngƣời đàn ông mà suốt chặng đƣờng

dài nàng mang ơn đã giết chết. Nghịch cảnh ấy càng làm nhói lòng ngƣời

đọc về thân phận của một ngƣời phụ nữ đã trải qua không biết bao nhiêu

thăng trầm mà số phận vẫn không buông tha nàng. Tuy nhiên với lối kết

thúc này đã thể hiện dụng ý can thiệp quá sâu của nhà văn làm cho mạch

truyện mất vẻ tự nhiên. Tuy nhiên, điều này liên quan đến kết cấu của tác

phẩm, tác giả đã xây dựng cốt truyện trên cơ sở một tấn bi kịch trung tâm,

khi tấn bi kịch đã đƣợc giải quyết thì câu chuyện cũng kết thúc.

Cốt truyện không có nhiều tình tiết, không có nhiều sự kiện, nhân

vật... nhƣng đã để lại ấn tƣợng sâu đậm trong lòng ngƣời về nỗi ám ảnh của

một kiếp ngƣời bị vùi dập về mọi phƣơng hƣớng. Cuộc đời Bính chƣa có

một chút niềm vui, tƣởng rằng cái lúc mà Bính đƣợc sống tự do thoát khỏi

nhà thổ của mụ Tài – Sế - Cấu là thoát khỏi cơ cực nhƣng Bính lại tiếp tục

bị vùi dập vào con đƣờng chông gai mới và con đƣờng tội lỗi ấy với kết

49

quả tất yếu là Bính rơi vào tù tội, phải đền tội. Khi xây dựng nhân vật có

khi nhà văn đã để cho nhân vật trầm lắng suy tƣ (độc thoại nội tâm), cũng

có khi say sƣa trong xúc động, trong sự hƣng phấn cao độ, cũng có lúc

Bính quằn quại trong đau khổ, tủi nhục ê chề. Tâm lí diễn biến hết sức

phức tạp nhƣng cũng rất phù hợp trong sự vận động nội tại tâm lí của nhân

vật.

Nếu nhƣ tác phẩm Bỉ vỏ phản ánh đúng nhƣ nhan đề kể về thân

phận của ngƣời đàn bà đĩ điếm, trộm cắp, đại diện cho tầng lớp đáy xã hội,

thì Những ngày thơ ấu lại là một thiên hồi ký rất cảm động về chính

quãng đời tuổi thơ của nhà văn. Một cuộc sống của một ngƣời không có

tuổi thơ, đong đầy nƣớc mắt bất hạnh. Viết theo thể loại tự truyện nên diễn

biến câu chuyện theo tiến trình của trục thời gian thẳng. Những hồi ức của

Nguyên Hồng đƣợc giãi bày hết sức chân thực và sống động. Câu chuyện

về một tuổi thơ cay đắng. Không, thời gian giới hạn trong khuôn khổ cuộc

sống của chính bản thân nhà văn. Các nhân vật cũng chính là nguyên mẫu

từ đời sống thực, đó là chính tác giả và ngƣời mẹ, ngƣời bà, ngƣời cha, bà

cô... của nhà văn. Truyện không cầu kỳ, không thi vị hoá mà hoàn toàn là

những nét chân thực đƣợc nhà văn phản ánh. Nếu nhƣ tìm hiểu về tiểu sử

nhà văn Nguyên Hồng, ta thấy nổi lên hai đặc điểm: thiếu tình yêu thƣơng

và phải tự lập kiếm sống từ nhỏ. Điều này phản ánh rất rõ trong tác phẩm.

Cha ông làm cai đề lao, sau thất nghiệp, cảnh nhà sa sút, lại nghiện ngập và

mắc bệnh lao, phải sống nghèo túng trong tâm trạng của kẻ bất đắc chí. Mẹ

ông là ngƣời đàn bà hiền thục, ngoan đạo giàu đức hy sinh nhƣng lại sống

không có hạnh phúc trong gia đình nhà chồng. Điều này đã đƣợc nhà văn

ghi lại rất chân thành trong cuốn hồi ký: “Hai thân tôi”. Sự phản ánh

những nét chân thực đầy xúc động giúp ngƣời đọc nhận ra một nhà văn đầy

bản lĩnh, không ngại ngùng khi “vạch áo cho người xem lưng”, và theo Vũ

Ngọc Phan cho rằng “can đảm lắm” mới viết ra nhƣ thế. Mặc dù là một

cậu bé mới 7,8 tuổi Nguyên Hồng đã cảm nhận rất rõ và nhớ rất lâu trong

50

ký ức tuổi thơ của mình những điều phải chứng kiến. Và trong cái ký ức ấy

đau xót hơn, có lẽ cậu bé Hồng chính là kết quả của một cuộc tình không

mong đợi, của một cuộc hôn nhân gƣợng gạo không có tình yêu. Cái tuổi

thơ ấy lại cứ bám riết lấy tâm trí non nớt của cậu bé, để rồi cậu lại chợt

nhận ra những khắc nghiệt của lề thói, của phong tục cổ hủ, của nỗi đau mà

chính ngƣời mẹ cậu vô cùng yêu thƣơng phải chịu đựng.

Mở đầu tác phẩm là hình ảnh một gia đình bất hạnh. Cha mẹ cậu lấy

nhau do bài tính của hai gia đình. Giữa họ trƣớc và sau khi lấy nhau không

hề có tình yêu. Một gia đình đã báo trƣớc những đổ vỡ, là nấm mồ chôn

sống hai con ngƣời nhƣng hậu quả lại rơi vào ngƣời phụ nữ. Hai đứa con,

một trai một gái, chỉ là kết quả của sự miễn cƣỡng nhằm thực hiện cái mục

đích “nối dõi tông đường” mà dòng họ yêu cầu. Kết quả của mối tình oan

trái ấy là cậu bé Hồng và em gái Quế. Vì không hạnh phúc và không lối

thoát, ngƣời đàn ông mau chóng thành một kẻ chán đời và bán linh hồn

mình cho nàng tiên nâu để quên đi cuộc sống tù túng, sống mà nhƣ chết.

Bao nhiêu nỗi đau khổ dồn lên ngƣời vợ, ngƣời mẹ. Ngƣời cha chết,

Nguyên Hồng lại càng thấm thía nỗi khổ cực. Đó là năm 12 tuổi, Nguyên

Hồng mồ côi cha, mẹ ông – với phong tục cổ hủ phải đoạn tang chồng (sau

ba năm) mới đƣợc tái giá - đã lén lút đi bƣớc nữa vì thế bà bị gia đình nhà

chồng ruồng bỏ, hắt hủi, không đƣợc tự do gần gũi chăm sóc con. Nguyên

Hồng phải sống nhờ bà cô và chịu sự rẻ rúng khinh miệt của bà ta. Tuổi thơ

của Nguyên Hồng đã phải trải qua những ngày tháng nhiều cay đắng và tủi

nhục vì đói ăn thiếu mặc, thiếu cả tình thƣơng yêu. Tấn bi kịch cuộc đời

của Nguyên Hồng thật đau xót. Để có thể tồn tại, sống đƣợc cậu bé Hồng

đã tự rèn luyện mình thành một “chuyên gia đánh đáo ăn tiền” việc làm

này để kiếm tiền ăn học, vì vậy cậu đã phải chung đụng với đủ mọi hạng trẻ

hƣ hỏng của các lớp cặn bã nơi vƣờn hoa, bến tàu, bến ô tô, bãi đá bóng.

Khi ngƣời mẹ trẻ phải dứt áo ra đi tìm kế sinh nhai, Hồng phải sống nhờ bà

cô, nhƣng nói là sống mà đâu ra sống. Cậu bị bỏ mặc cho đói rét thảm

51

thƣơng, thậm chí bị đánh đập hết sức vô lý. Những dòng hồi ký của ông đã

phản ánh rất trung thực tình cảnh này, đó là những dòng chữ đầy chua xót,

đau đớn làm ngƣời đọc phải nghẹn ngào về một cậu bé thơ ngây đã phải

chịu sự dập vùi của chính những ngƣời thân yêu của mình: “Ngày

14.11.1931 – Phải nhớ cái tát và câu rủa xả này cho đến chết: “Hồng ơi!

Bố mày nó chết đi nhưng còn có mẹ mày nó dạy mày. Cầm bằng mẹ mày

đánh đĩ theo giai, bỏ mày lêu lổng thì đã có chúng tao”.

Mẹ ơi! Con khổ quá mẹ ơi! Sao mẹ đi lâu thế? Mãi không về! Người

ta đánh con vì con dám cướp lại đồ chơi mà con người ta dằng lấy. Người

ta lại còn chửi con, chửi cả mẹ nữa. Mẹ xa con, mẹ có biết không?” [19,

121]. Bị gia đình ghẻ lạnh, đến trƣờng cậu lại bị thày giáo tra tấn bằng

những cực hình, mà đơn giản Hồng là đứa trẻ lông bông nơi “đầu đường xó

chợ” sự mặc cảm của ông thầy, thái độ khinh thị của con ngƣời đứng trên

đỉnh cao của giá trị nhân văn đã đẩy Hồng vào bƣớc đƣờng cùng phải bỏ

học. Nguyên nhân đơn giản nhƣng mặc cảm hằn sâu nên nó là cái cớ nhỡn

tiền để Hồng chịu tội. Hồi ký của Nguyên Hồng là tiếng chuông đánh thức

tấm lòng mỗi con ngƣời, gọi dậy chữ “nhân” trong lòng ngƣời bằng cách

phản ánh hiện thực cho mọi ngƣời thấy hết, không hề che đậy, dấu diếm về

một thực tế mà nhà văn đã chứng kiến và trải nghiệm.

Năm 16 tuổi, mới học hết bậc tiểu học, Nguyên Hồng phải thôi học,

cùng mẹ ra Hải Phòng kiếm sống: “Lần thứ hai tôi ra Hải Phòng là lần bỏ

hẳn quê hương Nam Định, thật sự tìm đường sinh sống. Đúng vào đầu kỳ

khai trường và những ngày đầu thu nắng đẹp. Nhưng tất cả những quang

cảnh thân yêu, thân thuộc ấy chỉ làm tôi xót xa” [19, 123]. Nỗi đau của một

cậu bé đƣợc khát khao đi học, đƣợc đến trƣờng mà vì cảnh đói túng, cảnh

cơm áo gạo tiền đã đè bẹp ƣớc mơ bình dị ấy nghe tội nghiệp, thƣơng tâm.

Bé Hồng buộc phải theo mẹ đi tìm kế sinh nhai, kiếm sống ở Hải Phòng –

thành phố kỹ nghệ lớn vào bậc nhất nƣớc ta hồi ấy, nơi buôn bán sầm uất,

tƣởng sẽ là nơi mẹ con ông có thể kiếm đƣợc việc làm. Nhƣng sự thật lại

52

quá phũ phàng cay đắng. Nguyên Hồng đã đi xin việc nhiều nơi, hết ngày

này sang ngày khác, lang thang khắp các ngõ hẻm chật vật khổ cực “Tôi ra

bến tàu Sáu kho” nói là đi xin việc chứ thực ra là Nguyên Hồng đã phải đi

rao bán sức lao động của mình mà thất nghiệp vẫn hoàn thất nghiệp. Thời

gian này gia đình ông phải thuê nhà để ở: “Gian nhà tôi thuê ở giữa xóm

Cấm, ngay dưới chân một gác chuông nhà thờ” đó là “cái khu lao động

nghèo khổ lầm than, gồm phần đông là thợ Máy tơ, phu khuân vác của Sáu

Kho, thợ sắt, thợ điện, thợ linh tinh, kéo xe, phu hồ trên phố và những

người buôn thúng bán bưng...Càng không thể tìm ra việc làm càng không

thể nhờ cạy vay mượn ai một thứ gì để lần hồi được nữa, tất cả những nhà

máy Xi măng, Máy tơ, Cốt phát, Máy gạch, Sở dầu, bến cảng Sáu Kho, hiệu

buôn Đét – cua - ca – bô, Sáp – phăng – giông, Lợi Thành, Lợi Ký ...mà tôi

chầu chực nghe ngóng hàng tháng hàng ngày kia đã hoàn toàn lạnh lùng

và khắc nghiệt đối với tôi, nghĩa là tôi càng đói, cơ hồ gần như tuyệt vọng”

[19, 132]. Sau khi đã trầy trật không kiếm đƣợc việc làm, ông đã dừng lại ở

xóm Cấm, sống bằng nghề dạy học tƣ cho con em của những ngƣời lao

động nghèo. Đó là những ngày sống với những ngƣời dân thành thị cùng

khổ nhất là những phu phen, thợ thuyền, ngƣời buôn bán lặt vặt và cả

những me Tây, gái điếm, du côn, trộm cắp...Nhƣng chính những con ngƣời

cùng khổ ấy đã hà hơi tiếp sức cho Nguyên Hồng khiến ông không những

không gục ngã mà còn tha thiết tin yêu, gắn bó với cuộc sống của họ. Ông

đã thấy ở cuộc sống này những cảnh tối tăm thê thảm của xã hội thuộc địa

và quan trọng hơn ông còn thấy ở đấy một cái gì tƣơi sáng, tinh tuý của

linh hồn dân tộc, của đạo lý nhân dân: “Tôi thấy chỉ trong đây mới thật sự

có sự tươi sáng, sự lành mạnh, niềm vui tin. Tôi thấy tất cả những ai khao

khát những cái gì là ngay thẳng, là công bằng, là nhân phẩm, là hạnh

phúc, là sáng tạo thì phải đi vào đây, gắn bó với đây, ở đây mà lao động và

đòi hỏi những cái đó với tận cùng lòng trung thành và ý chí quyết liệt của

mình” [19, 137]. Đó là tinh thần lạc quan yêu đời, đức tính cần cù lao

53

động, sự yêu thƣơng đùm bọc lẫn nhau trong tình làng nghĩa xóm, thái độ

căm ghét áp bức, bóc lột, ý chí kiên cƣờng bất khuất trƣớc kẻ thù. Đúng

nhƣ điều ông tâm niệm, cuộc sống ấy đã đem lại cảm hứng, khơi nguồn

sáng tạo cho ông buổi đầu cầm bút và trở thành một vùng đề tài ám ảnh

ngòi bút Nguyên Hồng trong suốt gần 50 năm lao động. Với ông, vốn sống,

sự hiểu biết phong phú cũng nhƣ tình cảm gắn bó sâu nặng thuộc về những

ngƣời lao động cùng khổ ở Hải Phòng, Nguyên Hồng đã sống cuộc sống

của chính họ, ông đã vì những con ngƣời ấy và vì cuộc sống của chính

mình mà cất lên tiếng nói yêu thƣơng tha thiết. Ông đã phải trải qua một

tuổi thơ đói khát, quẫn bách, tƣơng lai tiền đồ không có gì sáng sủa. Tuổi

thơ thiếu tình thƣơng, nhiều cay đắng tủi cực, lớn lên kiếm sống vất vả giữa

thế giới của những ngƣời cùng khổ, nhà văn đã sớm hình thành cá tính

riêng: dễ nhạy cảm, dễ xúc động. Đặc điểm tính cách này giống nhƣ một

thứ nam châm riêng. “Nó chỉ hút những cái gì phù hợp với cái tạng của

nhà văn”. Ông chia sẻ những nỗi khổ đau, oan trái với những con ngƣời

cùng khổ, bất hạnh trong gia đình và cả ngoài xã hội. Ông bất bình trƣớc

những thái độ, hành vi vô nhân đạo, rẻ rúng con ngƣời.

Trong hồi ký, Nguyên Hồng có thái độ đồng cảm, chia sẻ với nỗi

khát khao hạnh phúc của ngƣời mẹ trẻ mỗi khi bà rạo rực con tim chờ đợi,

lắng nghe tiếng kèn của cai H. Ông cũng thật sự bất bình, phẫn nộ trƣớc

thái độ khinh rẻ và hành vi ngăn cản tình mẫu tử của họ hàng bên nội đối

với mẹ mình khi bà đi bƣớc nữa theo tiếng gọi của con tim chứ không chịu

thân phận goá bụa thờ chồng theo quan điểm đạo đức phong kiến.

Cốt truyện “Những ngày thơ ấu” là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh

hƣớng sáng tạo “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Tập truyện chỉ vẻn vẹn có

khoảng 100 trang, nhƣng từng trang từng dòng đã lay động lòng ngƣời của

nhà văn.

Một trong những nhiệm vụ quan trọng của văn học là phản ánh hiện

thực, nhƣng đó không phải là sự sao chép máy móc, thụ động. Mỗi nhà văn

54

sử dụng hiện thực nhƣ một chất liệu để thể hiện ý tƣởng sáng tạo của mình,

trong đó xung đột là một trong những yếu tố đƣợc nhà văn khai thác. Mâu

thuẫn trong tác phẩm văn học bắt nguồn từ mâu thuẫn trong cuộc sống,

song chúng không đồng nhất với nhau mà qua sự sáng tạo độc đáo của

ngƣời nghệ sỹ đã tạo nên những giá trị đặc sắc. Chính vì vậy Pospelov cho

rằng: “chức năng quan trọng nhất của cốt truyện là bộc lộ những mâu

thuẫn đời sống, tức là những xung đột”. Trong các tác phẩm văn xuôi do

không bị hạn chế về không gian và thời gian nên có khả năng phản ánh cụ

thể, sinh động và sâu sắc nhiều mâu thuẫn phức tạp từ cuộc sống; từ những

mâu thuẫn đang hình thành đến những tình trạng xung đột gay gắt, quyết

liệt. Xung đột nghệ thuật trong tác phẩm văn chƣơng gắn liền với cảm

hứng chủ đạo, thể hiện tƣ tƣởng chủ đề của tác phẩm, thúc đẩy các hành

động của nhân vật phát triển, làm cho tính cách các nhân vật bộc lộ đầy đủ

và rõ ràng. Nếu nhƣ những xung đột trong tác phẩm Đây bóng tối,...xung

đột đƣợc đẩy lên đỉnh điểm và nhà văn đã tìm ra cách thức giải quyết

những mâu thuẫn ấy thì các tác phẩm Ngọn lửa, Linh hồn, Buổi chiều

xám...với những kết thúc hết sức bất ngờ, xung đột đƣợc đẩy lên đỉnh điểm

và tạo nên những ngỡ ngàng trong cảm nhận của độc giả, về những điều

“không lường trước được” theo lối bỏ ngỏ gợi lên những suy ngẫm, suy

diễn cho tất cả mọi ngƣời, họ dƣờng nhƣ là ngƣời đồng sáng tạo với nhà

văn khi tự cho mình cái quyền nên kết thúc thế nào cho phù hợp với ý đồ

sáng tạo của nhà văn.

Khi đọc một tác phẩm văn học chúng ta thƣờng có những dự đoán về

phần kết thúc của tác phẩm đó nhƣng cũng có những tác phẩm nhà văn đã

xây dựng đƣợc một kết thúc bất ngờ khi đặt nó vào một văn cảnh khó suy

diễn. Với lối kết thúc này sẽ tạo ra những yếu tố hấp dẫn giúp ngƣời đọc

thêm hứng thú.

Truyện ngắn Linh hồn là một kết thúc ám ảnh ngƣời đọc khi niềm

mong mỏi và hi vọng của Tín trong ngày vợ mãn hạn tù trở về anh sẽ đƣợc

55

gặp lại ngƣời vợ thân yêu, ngƣời đã vì anh mà hi sinh bản thân mình, chấp

nhận đi tù thay chồng. Hơn thế nữa niềm khắc khoải đợi chờ của anh còn

nhân lên gấp bội khi anh hồi hộp chờ đón sẽ đƣợc đƣợc bế đứa con nhỏ

trên tay bởi ngày vợ anh đi tù có mang trong lòng một sinh linh bé bỏng.

Anh đâu biết rằng cái chế độ nhà tù với những tên cai tù dâm đãng đã hãm

hại vợ anh, đã cƣớp mất đứa con anh để nó chết một cách oan uổng – chết

vì mẹ nó bị hãm hiếp. Thật đau xót nhƣờng nào. Với lối kết thúc bỏ ngỏ

của thiên truyện: “Anh hồi hộp chờ mong...” (7, 17), nhà văn đã hƣớng ƣớc

mơ khát vọng của Tín về một tƣơng lai tƣơi đẹp với mong ƣớc rất giản dị là

niềm hạnh phúc đƣợc làm cha và ngƣời vợ anh trở về khoẻ mạnh. Truyện

đã tạo sự day dứt trong lòng ngƣời đọc.

Trong Buổi chiều xám hình ảnh tên lính Nhật, kẻ đi xâm lƣợc nhƣng

lại là con ngƣời còn có lòng nhân bản, đã từng là một ngƣời cha bởi vậy

khi thấy đứa trẻ thơ tên lính Nhật đã ôm ấp, âu yếm trƣớc sự lo lắng, sợ hãi

của mọi ngƣời, bởi ngƣời ta nghĩ hắn sẽ làm hại đứa trẻ. Nhƣng điều hắn

làm mọi ngƣời ngỡ ngàng ngạc nhiên đó là tình cha, tình máu mủ ruột thịt

đang cuồn cuộn trỗi lên trong lòng hắn khi hắn nhớ về miền quê hƣơng với

đứa con nhỏ dại. Hắn ôm hôn đứa bé nhƣ để trút nỗi lòng nhớ thƣơng khi

làm lính đi xâm lƣợc ở vùng đất xa xôi. Và cái kết thúc bất ngờ khi hắn tự

kết liễu đời mình vì cuộc sống phục vụ chiến tranh không biết sẽ còn bao

lâu, không xác định đƣợc thời hạn. Từ bề sâu của tình phụ tử hắn đã hiểu ra

một điều chiến tranh là nguyên cớ chia cắt tình cha con. Với nỗi nhớ con,

nỗi day dứt vì đã tham gia chiến tranh của ten lính Nhật đã dẫn đến một kết

cục bi đát, một kết thúc bất ngờ. Cái chết trong phần cuối tác phẩm của

những ngƣời lính Nhật là lời minh chứng cho sự lên án chiến tranh. Chiến

tranh đã làm ly tán gia đình, chia lìa tình cha con. Với lối kết thúc này đã

tạo sức hấp dẫn và có ý nghĩa giáo dục sâu sắc.

Trong các sáng tác của Nguyên Hồng nhà văn đã tạo đƣợc sức hấp

dẫn khi sử dụng lối kết thúc bất ngờ này đối với độc giả.

56

2.2.2. Cốt truyện đan xen nhiều mạch truyện

Với cốt truyện đa tuyến là cốt truyện trình bày một hệ thống sự kiện

phức tạp nhằm tái hiện nhiều bình diện của đời sống ở một thời kì lịch sử,

tái hiện những con đƣờng diễn biến phức tạp của nhiều nhân vật, do đó nó

có một dung lƣợng lớn. Hệ thống sự kiện trong cốt truyện đa tuyến đƣợc

chia thành nhiều dòng, nhiều tuyến gắn liền với số phận các nhân vật chính

của tác phẩm. Ở kiểu cốt truyện này, ngƣời kể chuyện hàm ẩn của Nguyên

Hồng luôn chứng tỏ sức mạnh của mình khi sắp xếp các sự kiện, biến cố

tuân theo sự chi phối của luận đề mà tác phẩm đƣa ra. Dƣờng nhƣ mỗi tác

phẩm là một là một trăn trở về vấn đề thế sự, nhân sinh, về nỗi đau nhân

tình thế thái.

Với Sông máu nhà văn đã xây dựng đƣợc một cốt truyện có sự lồng

ghép đan xen nhiều mạch truyện về một câu chuyện ám ảnh của cuộc mƣu

sinh. Vì nghèo đói, cơ cực chị Năng buộc phải đi làm cái công việc nguy

hiểm đến tính mạng: chở hàng lậu. Chị phải chống trả với cuộc sống bao lo

toan cho một gia đình mà chồng chị cũng vì cái nghề mạo hiểm đã chết.

Chị phải một mình bƣơn chải vì “bốn đứa bé quần áo rách rưới”. “Cảnh

tiều tuỵ thê thảm đó làm dội lên trong lòng chị tất cả những cảm giác đau

đớn, chua xót” [30, 150]. Chính cảnh sống đó mà chị đã phải quyết dứt áo

ra đi, dù biết rằng công việc khó khăn và nguy hiểm đến tính mạng. Chị đã

“xiêu xiêu lòng và chắc dạ vì thấy trời tối, mưa to và gió lớn” [30, 151]. Sự

nguy hiểm của thiên nhiên lại trở thành điều kiện thuận lợi cho công việc

của chị vì để dễ bề thoát khỏi việc truy bắt “sà lúp của Đoan” không gì

may hơn là “đêm nay lại mưa to, gió lớn và tối trời, thật là tiện lợi đủ

đàng” [30, 151]. Biết là khó khăn, nguy hiểm đến tính mạng nhƣng vì cuộc

sống, vì những đứa con chị đành nhắm mắt đƣa chân. Trong hiện thực tủi

cực ấy hình ảnh ngƣời chồng hiện ra trƣớc mắt chị đầy ám ảnh. “Chị buồn

rầu và đau đớn nhớ đến một sức ủng hộ, thúc giục chị đấu tranh trong bao

nhiêu phen bão táp trên sông biển” [30, 153]. Anh Năng – chồng chị có đủ

57

sức khoẻ, sức mạnh và anh lại có “Một tâm hồn cương quyết rèn đúc thuần

bởi những nhát búa chắc chắn của đau khổ và lầm than, một tâm hồn, hồn

nhiên trong sáng giữa đời sống tranh cướp này”, “Nhưng anh Năng đã

chết rồi!” [30, 158]. Anh cũng chết vì nghề chèo thuyền chở hàng lậu, chết

trên dòng sông này, chết vì cuộc mƣu sinh. Cái chết của anh đã nằm trong

tiềm thức dự báo của vợ nhƣng cũng không tránh khỏi. Và kí ức kinh

hoàng ấy đã đeo bám chị trong lần quyết định này khi chị nghĩ đến cái cảnh

“khi cầm nắm bạc giấy về nhà , gọi hàng mấy chủ nợ ghê gớm, đanh đá

đến mà trang trải cho thoát khỏi sự nhục nhã bị họ réo rắt, đào bới xới rễ”

[30, 150].

Trong khi chèo thuyền, biết bao ý nghĩ về cuộc mƣu sinh, về anh

Năng, về cái chết đau đớn của ngƣời chồng. Nỗi tủi cực và cay đắng dần

hiện ra trong tâm tƣởng. Trƣớc mắt chị là cảnh tƣợng hãi hùng “Lại từng

thác nước mưa đổ xuống, lại những chớp sáng vụt xé các mảng trời nặng

nề, lại những tiếng sét lay chuyển vũ trụ, lại những luồng gió kêu gào thê

thảm” và rùng rợn hơn khi “Qua màng lệ mỏng, chị thấy dòng sông băng

băng đương từ màu xanh biếc biến sang màu đỏ lờ lờ, màu máu của bao

nhiêu kẻ thiệt mệnh mà trừ anh Cu, còn hết thảy có lẽ muôn muôn năm bị

quên hẳn trong đáy nước” [30, 156]. Trong nỗi sợ hãi ấy chị nhƣ nghe thấy

lời nhắc nhở của anh Năng “Phải về thôi! Bỏ hẳn nghề này thôi!” [30, 157].

Cái chết và lời nhắc nhở của anh Năng đã giúp chị nhận ra rõ hơn sự nguy

hiểm đến tính mạng và chị đã quyết định quay về. Truyện đƣợc xây dựng

với cốt truyện đan xen nhiều mạch truyện làm cho câu chuyện với nhiều

tình tiết cùng đƣợc mô tả làm cho câu chuyện trở nên sinh động, hấp dẫn

tạo sức cuốn hút cho ngƣời đọc. Trong truyện Hai nhà nghề đã diễn tả tâm

tƣ, suy nghĩ của Nhân, một cậu bé với nghề nhào lộn hết sức nguy hiểm để

mua vui cho thiên hạ nhƣng lại rất đau buồn trƣớc sự thờ ơ, dửng dƣng của

mọi ngƣời, khi Nhân đã làm xong những trò nhào lộn: “Nhân sắp sửa xin

tiền, đám khán giả càng khen và thúc giục:

58

- Làm nữa đi! Làm nữa đi!

... Nhân cười không đáp. Nhân trật cái mũ nồi đội lệch trên đầu ra.

Nhân thong thả đi lại chỗ những người vừa nói, lễ phép:

- Vâng, nhà nghề xin làm nữa, nhưng xin các chư ông chư bà hãy

thưởng cho ít nhiều để nhà nghề phấn khởi làm nhiều trò lạ về sau.

Nét mặt tươi tỉnh của những người nọ phút biến đi. Có người lắc đầu

một cái rồi ngoảnh mặt đi, lùi về đằng sau. Nếu là đứa trẻ ăn mày Nhân sẽ

kèo nhèo, nhưng đây chả ra gì Nhân cũng là một nhà nghề, một kẻ đem tài

năng mình ra phô diễn để kiếm tiền, nên Nhân chỉ đưa mắt nhì rồi chìa mũ

xin mấy người lính.

Sự làm thinh và vẻ luống cuống của người khách “loại” sang này

cũng làm Nhân chán ngán. Nhân phải đến xin người khác. Tuy ăn vận bảnh

bao, nhưng người này cũng lắc đầu như mấy người trước. và đến người thứ

mười...thứ mười mấy, đều lẳng lặng rồi bỏ ra đi hẳn chỗ khác”. [30, 201].

Tuy nhiên, nỗi buồn nỗi đau ấy của Nhân lại không bằng nỗi buồn

trƣớc sự bạc bẽo của tình ngƣời. Trƣớc kia, Nhân đã kèm cặp và giúp đỡ

cho “một thằng bé kém Nhân ba tuổi” “bỏ nghề ăn mày mà theo Nhân làm

xiếc” [30, 201].

“Cùng nhau lang thang nay đây mai đó được hơn một năm thì nó bỏ

Nhân, vì nó biết làm nhiều trò và có thể kiếm tiền một mình, còn Nhân thì

ốm yếu luôn, nhào lộn, thổi kèn và ca hát ít. Mấy hôm đầu Nhân khóc quên

cả ăn. Luôn ba tháng, Nhân buồn rầu và nhớ nó như có anh hay em chết, ở

dọc đường khi tha hương cầu thực. Nó bỏ ông già nọ vì sống với ông khổ

sở và bệ rạc bêu riếu quá, nhưng làm bạn với Nhân, được Nhân thương

mến, có cái gì cũng chia sẻ cho, mà nó đánh rơi ngay Nhân khi Nhân cùng

quẫn thì còn sự bội bạc nào khốn nạn hơn?” [30, 202]. Nỗi đau khi bị phụ

bạc, phản bội đã làm Nhân đau đớn tột cùng. Nhân đau khổ vì “một phen bị

phản bội, Nhân vẫn cố tìm một đứa bé kháu khỉnh và tinh nhanh khác để

59

truyền các môn múa lộn và thổi kèn. Nhưng, hơn hai năm, Nhân chẳng gặp

đứa nào hết”. Nhân đau buồn khi “Nghề làm xiếc của Nhân đến kỳ cùng

mạt rồi!” [30, 202].

Câu chuyện đƣợc xây dựng với những mảnh ghép cuộc đời hết sức

cơ cực. Nỗi cơ cực phải kiếm sống bằng sức lao động, bằng nghề nhào lộn

nguy hiểm để mua vui cho thiên hạ. Nhƣng có lẽ tủi cực hơn đó là phải

chứng kiến sự phản bội của tình ngƣời. Trong tác phẩm của Nguyên Hồng

những thân phận đáng thƣơng nhƣ len lỏi sâu vào tâm hồn của nhà văn, trở

thành nỗi day dứt, ám ảnh dƣờng nhƣ buộc nhà văn phải viết ra những cảnh

60

đời cực nhục ấy để giải tỏa nỗi đau đớn, để đồng cảm và xót thƣơng.

CHƢƠNG 3

NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU TRONG TRUYỆN

VÀ TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN HỒNG TRƢỚC

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

Bất kể tác phẩm văn chƣơng nào cũng phản ánh cuộc sống của con

ngƣời và ngƣời nghệ sĩ có vai trò dẫn dắt ngƣời đọc vào thế giới mà anh ta

miêu tả thông qua tất cả các nội dung và hình thức sáng tạo nghệ thuật. Nếu

nhƣ nội dung là điều đƣợc nhà văn hình dung và muốn truyền tải đến ngƣời

đọc thì hình thức chính là yếu tố đóng vai trò quyết định nên sự thành công

của văn bản. Một trong những đặc điểm để hình thành phong cách sáng tạo

của nhà văn đó là ngôn ngữ, giọng điệu. Qua những đặc trƣng này nhà văn

đã thể hiện sâu sắc thế giới quan của cá nhân mình, nhận thức rõ điều này,

Nguyên Hồng đã từng tâm sự: “Cái quan trọng trong tài năng văn học mà

tôi nghĩ rằng cũng có thể trong bất kỳ một tài năng nào là cái mà tôi muốn

gọi là tiếng nói riêng của mình. Đúng thế, cái quan trọng là tiếng nói của

mình, cái quan trọng là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm

thấy trong cổ họng của bất kể một người nào khác” [16, 23]. Nguyên Hồng

đã tạo ra cho mình một giọng điệu riêng ấy. Chỉ cần đọc qua một vài tác

phẩm của ông ngƣời đọc rất dễ dàng nhận ra cái chất giọng cảm thƣơng da

diết của nhà văn dành cho từng số phận nhân vật. Cái giọng điệu thành thật

nhƣ đƣợc dồn nén lâu ngày và khi nó đƣợc dịp bung nở ra sôi trào cảm xúc.

Ngƣời đọc nhận thấy ông không dụng công trong việc lựa chọn ngôn từ mà

dƣờng nhƣ ông viết văn là chịu sự thôi thúc từ bên trong của con tim dào

dạt. Đó là niềm đam mê đƣợc viết ra những gì thành thực nhất của cuộc

sống của những trải nghiệm mà chính bản thân ông chứng kiến. Viết là để

giãi bày và trút bỏ, gánh nặng cuộc đời chất lên gánh nặng văn chƣơng để

mong đƣợc chia sẻ với những ngƣời đồng cảm. Điều này dễ hiểu vì sao trải

qua bao năm tháng văn của Nguyên Hồng vẫn sống mãi trong tâm hồn các

61

thế hệ độc giả. Cùng thời với Nguyên Hồng đã có nhiều nhà văn xác định

cho mình những khuynh hƣớng khác nhau, bởi văn học thời kì này có sự

phân hoá phức tạp. Bản thân Nguyên Hồng chịu ảnh hƣởng rất lớn từ Thế

Lữ, một nhà thơ lãng mạn, nhƣng sự ảnh hƣởng ở đây là ảnh hƣởng về tƣ

tƣởng, về sự quyết định cho con đƣờng cầm bút viết văn chứ không phải sự

ảnh hƣỏng về thế giới nghệ thuật mà Thế Lữ đã đi. Ngay từ ngày đầu cầm

bút ông đã ý thức sâu sắc: “Trên cái võ đài văn chương nghệ thuật kia, tôi

không thể chỉ không nên bắt chước những ngòi bút mẫu mực có tiếng tăm

của thứ văn thơ thời thượng, mà ngay cả những ngòi bút cùng một khuynh

hướng với tôi, đã đi trước tôi, mở đường cho tôi, kích động tôi, tôi cũng

phải không là nô lệ, không là một cái bóng của sự quay cóp...Phải tự rèn,

tự luyện cho mình...Sắt thép của nó lấy ở quặng mỏ của sự sống, của cuộc

đời, muôn màu nhiệm và linh thiêng phải có máu thịt, máu thịt của con

người, của chính mình. Muốn sử dụng thật hiệu nghiệm thật có kết quả,

thật là tuyệt với sự mầu nhiệm và linh thiêng này, thì phải vừa học vừa

xung trận. Thày dạy là tổ tiên, là ông cha, là quần chúng là nhân loại” [16,

23]. Xét về cùng một khuynh hƣớng, trong đội ngũ các nhà văn hiện thực

đƣơng thời có rất nhiều các nhà văn đi sâu đề cập đến thân phận những

ngƣời nghèo bị áp bức, đày đoạ trƣớc những trái ngang của xã hội, làm cho

diện mạo văn học thời kì này rất đa dạng, phong phú nhƣ muôn mặt của đời

sống xã hội và tạo nên một trào lƣu đánh dấu một chặng đƣờng của văn

học. Tuy nhiên, hiếm có ngòi bút nào đề cập đến thân phận con ngƣời một

cách sâu sắc và thành thực một cách “thống thiết” nhƣ ngòi bút Nguyên

Hồng. Nói nhƣ Thạch Lam: “Người ta tưởng như nhà văn của “thập loại

chúng sinh” ấy từ trong lòng cái xã hội “thập loại chúng sinh” bước ra,

cầm lấy cây bút sắt chấm vào mồ hôi, nước mắt và máu của mình mà viết

ra văn chương riêng của mình” [22, 103].

1.Ngôn ngữ trần thuật.

1.1. Ngôn ngữ đời sống giàu giá trị biểu cảm

Ngôn ngữ là yếu tố căn bản trong hoạt động giao tiếp. Ngôn ngữ là

62

chất liệu, là phƣơng tiện biểu hiện mang tính đặc trƣng của văn học. Đây là

yếu tố đầu tiên đƣợc nhà văn sử dụng trong quá trình chuẩn bị và sáng tạo

tác phẩm, nó cũng là yếu tố xuất hiện đầu tiên trong sự tiếp xúc của ngƣời

đọc với tác phẩm. Theo M. Gorki “Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn

ngữ, công cụ chủ yếu của nó và cùng với các sự kiện, các hiện tượng của

cuộc sống là chất liệu của văn học” [52, 156]. Ngôn ngữ trong quá trình

sáng tạo văn học của mỗi nhà văn có sự khác nhau do trình độ văn hoá, do

nguồn gốc xuất thân, do hoàn cảnh xã hội...Đây là những yếu tố chi phối

đến thói quen và cách sử dụng ngôn ngữ của mỗi nhà văn. Chính vì sự chi

phối trên mà mỗi nhà văn khi cho ra đời một tác phẩm văn học đều mang

những phong cách ngôn ngữ riêng biệt của mình. Trong văn học nhà văn

giao tiếp với mọi ngƣời qua ngôn ngữ đƣợc sử dụng thông qua lời thoại của

nhân vật, lời thoại trữ tình ngoại đề, lời của ngƣời dẫn truyện...Bằng các

hình thức khác nhau, các nhà văn đã thể hiện rõ tài năng sáng tạo của bản

thân qua việc xây dựng một hệ thống ngôn ngữ tạo nên những sắc thái

riêng. Để làm đƣợc điều này đòi hỏi mỗi nhà văn khi sáng tạo tác phẩm cần

phải có vốn sống và ngôn từ phong phú, có khả năng tác động vào giác

quan ngƣời đọc. Sự thành công của một tác phẩm sẽ phụ thuộc vào việc lựa

chọn, sử dụng, sắp xếp từ ngữ của nhà văn trong tác phẩm đó. Khái niệm

ngôn ngữ nhân vật nhằm chỉ những lời nói của nhân vật trong tác phẩm.

Lời nói đó phản ánh kinh nghiệm sống cá nhân, trình độ văn hoá, tâm

lý...Đằng sau mỗi lời nói của mỗi con ngƣời đều có lịch sử riêng của nó. Vì

vậy nhà văn xây dựng tính cách nhân vật thông qua những nét riêng trong

việc sử dụng ngôn ngữ của nhân vật đó.

Nếu nhƣ các nhà văn cùng thời thƣờng xây dựng cho mình cách diễn

đạt độc đáo: Nam Cao lạnh lùng nhƣng sâu sắc của ngòi bút lý trí đầy tỉnh

táo; Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan mỉa mai, trào phúng, hả hê trƣớc

xã hội “chó đểu”; Thạch Lam trong sáng, nhẹ nhàng, lãng mạn và thi vị;

Nguyễn Tuân khinh bạc, chau chuốt, cầu kỳ trong sự mài giũa dụng công...

thì điều dễ dàng nhận thấy trong văn xuôi của Nguyên Hồng đó là việc

63

dùng nhiều các thành ngữ, ca dao ở ngôn ngữ đối thoại, độc thoại, sử dụng

ngôn ngữ đặc biệt “tiếng lóng” của đám lƣu manh, giang hồ và ngôn ngữ

bình dân mộc mạc, sử dụng các khẩu ngữ dân gian, văn nói nhà văn.

Nguyên Hồng đã lựa chọn thứ ngôn ngữ quen thuộc rất đời thƣờng, dân dã

nhƣng vẫn tạo đƣợc sức hấp dẫn riêng để giao tiếp với độc giả, tạo ấn

tƣợng sâu đậm trong lòng ngƣời đọc. Đó là thứ ngôn ngữ chắt lọc từ đời

sống cần lao của đủ các hạng ngƣời dƣới đáy xã hội, đậm chất biểu cảm thể

hiện tấm lòng cảm thƣơng sâu sắc của nhà văn trƣớc số phận con ngƣời.

Nhà văn đã khai thác và vận dụng sáng tạo, thành công khả năng biểu đạt

đan xen của nhiều loại hình ngôn ngữ để diễn tả nỗi đau khổ cùng cực và

những phẩm chất tinh thần tốt đẹp của ngƣời lao động. Đó là cách sử dụng

các thành ngữ dân gian, từ ngữ đời thƣờng, thán từ biểu cảm... một cách

linh hoạt. Tuỳ vào hoàn cảnh, nhân vật của Nguyên Hồng sử dụng ngôn

ngữ mà trong từng trƣờng hợp dƣờng nhƣ sinh ra chỉ để dùng cho loại

ngƣời ấy, con ngƣời ấy. Ông đã biết đặt đúng chỗ, đúng thứ ngôn ngữ mà

loại hình nhân vật nào sử dụng vì vậy mọi từ ngữ trong văn phong Nguyên

Hồng không bay lƣợn mà vẫn phát huy tối đa chức năng vốn có. Ngôn ngữ

trong văn của ông cũng không hề sắc sảo, gọt giũa mà vẫn gây ấn tƣợng, có

tác động trực tiếp tới các giác quan của ngƣời đọc. Thông qua ngôn ngữ

mỗi nhân vật sử dụng, tính cách của từng con ngƣời đƣợc bộc lộ đậm nét.

1.2. Ngôn ngữ trần thuật giàu cảm xúc.

Các tác phẩm của Nguyên Hồng đã sử dụng nhiều thán từ, ngữ thán

từ: “Người Tầu chạy loạn! Người Tầu chạy loạn! Chạy loạn!..” (30, 210).

Khi số phận Bính bị dồn đẩy phải lang thang phiêu dạt, Bính chua xót, đau

khổ cất lên tiếng hỏi lòng mình “Biết làm sao đêm nay?!!”(18, 28). Và nhƣ

những gì Bính lo lắng, Bính linh cảm Bính đã gặp toàn hạng ngƣời đểu giả,

dâm đãng, bởi vậy “Bính rùng mình. Đêm nay đối với Bính mới dài và cực

nhục làm sao? Còn ê chề cay đắng hơn cả một năm lam lũ! Bính nép người

bên góc tường, gục mặt vào bàn tay, tê tái những cảm xúc đau xót sôi nổi

64

trong lòng” [18, 32]. Khi phải sống cuộc sống của gái giang hồ, Bính đã

nhận đƣợc tình cảm, sự chia xẻ của Hai liên, sự đồng cảm của những kẻ

cùng thân phận “Em thương chị quá!”

Bính thổn thức:

- Em biết lắm! Trong nhà này chỉ có chị là thương em còn ai cũng

ghen ghét em...

- Đàn bà với nhau đấy!

Bính nuốt ừng ực sự nghẹn ngào:

- Mà sao cùng trong cảnh khổ lại như chỉ cực ăn thịt lẫn nhau?

Hai Liên lắc đầu, giọng nói lại cao hơn:

- Thôi! Chị nghĩ đến những chuyện ấy làm gì cho nẫu ruột! Đừng

buồn nữa chị ạ. Chị mà tự tử chỉ thiệt thân thôi. Bố mẹ, anh em ai biết đấy

là đâu! Mồ mả mình ai thăm viếng? Chị nên gắng gượng ăn uống cho lại

người rồi năm bảy tháng, một năm quen dần đi” [ 18, 45]

Những lời ân tình của Hai Liên đã an ủi Bính, giúp Bính vƣợt qua

những tháng ngày cực nhục. Giọng văn với những từ ngữ biểu cảm đầy xúc

động đã khơi gợi lên trong lòng ngƣời đọc sự cảm thƣơng, đồng cảm cho

thân phận đau khổ của Tám Bính. Ngôn ngữ trong Bỉ vỏ chủ yếu đƣợc thể

hiện thông qua hình thức đối thoại giữa các nhân vật để cho các nhân vật

bộc lộ cảm xúc, tính cách. Vì vậy ngôn ngữ đƣợc nhà văn sử dụng rất

phong phú, đa dạng phù hợp với từng loại nhân vật, tạo nên thứ ngôn ngữ

đa thanh, đa tầng.

Với hồi kí “Những ngày thơ ấu”, tâm trạng của cậu bé Hồng đƣợc

diễn tả vô cùng xúc động khi đƣợc gặp lại mẹ: “Xe chạy chậm chậm...Mẹ

tôi cầm nón vẫy tôi, vài giây sau, tôi đuổi kịp. Tôi thở hồng hộc, trán đẫm

mmò hôi, và khi trèo lên xe, tôi ríu cả chân lại. Mẹ tôi vừa kéo tay tôi, xoa

đầu tôi hỏi, thì tôi oà lên khóc rồi cứ thế nức nở. Mẹ tôi cũng sụt sùi theo:

Con nín đi! Mợ đã về với các con rồi mà”. [19, 184]. Nếu nhƣ Bỉ vỏ

đƣợc viết bằng giọng văn của một ngƣời đã từng lăn lộn trong cuộc đời lấm

65

láp bùn đen vừa cảm thƣơng vừa chua xót thì cuốn tự truyện của Nguyên

Hồng đƣợc viết bằng một giọng văn thƣơng cảm, một nỗi buồn da diết khi

nhớ lại mảnh đời tội nghiệp của một cậu bé Hồng nhỏ tuổi. Lời văn trong

sáng, hồn nhiên tựa hồ lời của ngƣời trong cuộc tại chính thời điểm miêu tả

chứ không phải của ngƣời đã trải nghiệm khi có trong tay một giải thƣởng

cao quý của văn chƣơng. Nghĩa là lời văn, ngôn ngữ trong Những ngày

thơ ấu đã đƣợc trẻ hoá, để phù hợp với giọng tâm tình, lời tự thuật của một

đứa trẻ rất ngây thơ. Tuy nhiên đứa bé ấy lại cũng bị chính dòng đời nghiệt

ngã xô đẩy, cũng bị chính những ngƣời thân, những ngƣời ruột thịt ghẻ

lạnh nên có khi ngôn ngữ biểu lộ sâu sắc cảm xúc xót thƣơng.

Còn ngôn ngữ trong “Những ngày thơ ấu” thì chủ yếu là những lời

độc thoại và độc thoại nội tâm. Bởi đặc trƣng của tự truyện là sự hồi tƣởng

nên dù là lời nhân vật đối thoại cũng đƣợc xây dựng trên mô hình độc

thoại. Đây là loại hình thể hiện thái độ chủ quan của nhà văn, nên những

dòng thƣơng cảm nhất cũng là những dòng hiện thực nhất về chính cuộc

đời nhà văn.

Ngôn ngữ trần thuật trong hồi kí, tự truyện của Nguyên Hồng là

kiểu: “ tự sự không giấu mình” ông đã công khai, tự phô bày ra tất cả

những gì là hiện thực mà cuộc đời ông từng nếm trải. Chính cái chất hiện

thực này đã làm rung lên nhịp đập trái tim biết bao ngƣời đồng cảm về thân

phận của nhà văn, về quãng đời đầy bất hạnh của tuổi thơ. Ta xót xa khi

một đứa trẻ đã sớm nhận ra cuộc sống địa ngục ngay chính môi trƣờng

đang sống: “Thầy mẹ tôi lấy nhau không phải vì thương yêu nhau”. Cậu bé

Hồng đã biết cảm nhận và phân tích sự hoà hợp của cuộc sống con ngƣời là

gì nếu không phải là sự hoà hợp đích thực của trái tim. Không dễ dàng khi

một đứa bé biết thông cảm với nỗi khát khao tình yêu nguyên thể từ trái tim

của ngƣời phụ nữ - ngƣời mẹ. Nguyên Hồng đọc đƣợc ra điều ấy qua “đôi

má ửng hồng” qua “ánh mắt” qua hành động và hơn nữa ông nhƣ nhìn

thấy cả trái tim đang run rẩy trong lồng ngực ngƣời vợ trẻ kia một tình yêu

66

đang cuồn cuộn dâng trào. Bé Hồng không trách mẹ (những đứa trẻ thông

thƣờng khác sẽ làm thế) mà đồng cảm và thƣơng xót mẹ hơn. Sự nhạy cảm

trƣớc ngƣời mẹ trẻ đang phải gồng mình lên để đè nén, ép xuống cái khát

khao hạnh phúc, trong khi hằng ngày lại phải đối mặt với một ông chồng

già, ốm đau, nghiện hút và nhất là không có một chút tình yêu thƣơng.

Nguyên Hồng không nỡ trách ngƣời mẹ trẻ khi hằng ngày mong ngóng,

chờ đợi tiếng kèn của cai H – điều này trái với luân thƣờng đạo lý – nhƣng

trƣớc hoàn cảnh của mẹ mình ông đã nhận ra “những buổi chiều làm tê tái

mẹ tôi hơn”. Đọc hồi kí của Nguyên Hồng ta nhận ra lối tự sự chân thật,

hồn nhiên giàu cảm xúc và một niềm tin, một tình yêu không gì chia cắt với

ngƣời mẹ thân thƣơng của nhà văn.

Mặc dù là những hồi ức nhƣng Nguyên Hồng đã lắng nghe đƣợc

những âm vang sâu thẳm của tâm hồn, ghi nhận đƣợc những cảm giác tinh

tế tự bên trong và diễn tả chúng qua cái nhìn rất hồn nhiên, tƣơi sáng của

tâm hồn trẻ thơ, khiến cho ai khi đọc văn bản cũng nhƣ thấy chính mình

đƣợc trở về sống trong cảm giác “thời thơ ấu của nhân loại”. Ngôn ngữ,

văn phong thật nhẹ nhàng mà cảm động giúp ngƣời đọc hình dung ra đƣợc

nỗi khao khát cháy bỏng của một đứa trẻ lâu ngày mới đƣợc gặp mẹ:

“...Tôi ngồi trên đệm xe, đùi áp đùi mẹ tôi, đầu ngả vào cánh tay mẹ tôi, tôi

thấy những cảm giác âm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da

thịt. Hơi quần áo mẹ tôi và những hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai

trầu phả ra lúc đó thơm tho lạ thường.

Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng

của người mẹ, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, và gãi rôm

ở sống lưng cho, mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng” [ 19, 184].

Cậu bé Hồng bé nhỏ lại trở nên bé bỏng hơn, yếu mềm hơn khi đƣợc

mẹ ôm ấp, che chở. Bao nhiêu cay đắng tủi cực từ ngày xa mẹ cậu phải

chịu đựng nay đã tiêu tan chỉ còn lại vòng tay mẹ chở che và nỗi sung

sƣớng cực độ khi đƣợc nằm, ngả nghiêng Trong lòng mẹ với dạt dào cảm

67

xúc. Nhà văn nhƣ đang sống lại cùng với cái cảm giác có thật ấy ngày nào.

Phải là ngƣời rất nhạy cảm và tinh tế, yêu mẹ tha thiết thì nhà văn mới lƣu

giữ lại đƣợc những tình cảm ấy và tái hiện lại sống động, cụ thể nhƣ thế.

Trái ngƣợc với cảm giác ấm áp ấy, là những cảm giác xót xa khi cậu

bé Hồng phải tự cố gắng để đấu chọi với những lời độc ác cay nghiệt của

bà cô, khi bà ta rắp tâm gieo rắc mối hoài nghi, ác cảm nhằm chia rẽ tình

máu mủ ruột thịt, tình mẹ con. Tâm địa ấy đã đƣợc Hồng nhận ra ngay sau

những ngôn từ đầy hàm ý:

“ - Hồng! Mày có muốn vào Thanh Hoá chơi với mợ mày không?

Tưởng đến vẻ mặt rầu rầu và sự hiền từ của mẹ tôi, và nghĩ đến cảnh thiếu

thốn một tình yêu thương ủ ấp từng phen làm tôi rớt nước mắt, tôi toan trả

lời có. Nhưng nhận ra ý nghĩ cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi

cười rất kịch của cô tôi kia, tôi cúi đầu không đáp. Vì tôi biết rõ,nhắc đến

mẹ tôi, cô tôi chỉ có ý gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh

miệt và ruồng rẫy mẹ tôi...” [19, 80].

Hai sắc thái tâm trạng trong cùng một con ngƣời nhƣng đều để diễn

tả sâu sắc tình thƣơng yêu mẹ khi cậu kiên quyết bảo vệ ngƣời mẹ thân yêu

của mình. Lời văn đã diễn tả rất thành công tâm trạng của một cậu bé tuổi

đời còn non nớt, chƣa va chạm, chƣa trải nghiệm nhƣng đã rất tinh tế khi

nhận ra cái thảm cảnh đang diễn ra từ chính gia đình mình. Ngôn ngữ nhân

vật gợi lòng thƣơng cảm về số phận của cậu bé thơ không có tuổi thơ.

Tình cảnh của Hai mƣơi hai trong tác phẩm Linh hồn đã gợi niềm

xót xa trƣớc thân phận của ngƣời phụ nữ, ngƣời mẹ, ngƣời vợ đầy đau khổ

khi bị hãm hiếp trong lúc bụng mang dạ chửa, nàng xót xa cho thân phận,

thƣơng cho ngƣời chồng và đặc biệt là một sinh linh bé bỏng đang nằm

trong bụng: “– Xin buông tha tôi ra! Khổ tôi lắm! Tôi bụng mang dạ

chửa!”. Tuy nhiên những vùng vẫy, cố gắng chống đỡ mong “thoát khỏi

nanh nanh vuốt con thú dữ” “song nàng dãy dụa bao nhiêu, dạ con trong

bụng lay chuyển bấy nhiêu, nàng thêm đau đớn, đau đớn vô cùng”. Và sức

68

chống đỡ của nàng không thể lại với kẻ mãnh thú ấy bởi vậy một hậu quả

bi thảm đén với nàng: “Cách non một tuần lễ sau, trong khoảng đêm khuya

im lặng, tại đề lao, trong lúc Hai mươi hai mê mệt nằm bên cái thai còn

nguyên rau long ra trên vũng máu tím bầm như sắc mặt nàng, thì ở nhà

quê anh Tín co ro ngồi cất vó bên bờ ngòi. Anh vẩn vơ trong gian nhà siêu

vẹo, tờ mờ nổi bóng dưới ánh trăng lạnh lẽo mùa đông, rồi anh mơ màng

thấy ngày xuân vui tươi sắp tới đây, trên tay anh thiêm thiếp ngủ đứa con

trai đầu lòng mà vợ anh khoẻ mạnh hết hạn rù sẽ bế về” [29, 17]. Cái

nghịch lí trong suy nghĩ, tâm tƣởng của ngƣời cha đã tố cáo tội ác dã man

của chế độ nhà tù thực dân, của sự băng hoại đạo đức ác man của con

ngƣời.

Với các từ ngữ biểu cảm gợi niềm xúc động, xót thƣơng trong văn

bản, tác giả đã sử dụng rất nhiều dấu câu cảm thán, từ ngữ mang tính biểu

cảm khiến ngƣời đọc phải cảm thƣơng rơi lệ.

1.3. Ngôn ngữ bình dị, sử dụng các thành ngữ, tục ngữ, ca dao

Các nhân vật trong các tác phẩm của Nguyên Hồng thuộc nhiều tầng

lớp xã hội khác nhau bởi vậy nhà văn đã tạo đƣợc tiếng nói, cách nói riêng

của từng lớp ngƣời mà nhân vật đó đại diện. Nguyên Hồng đã sử dụng rất

thành công ngôn ngữ của quần chúng lao khổ, đƣợc chắt lọc từ cuộc sống

lam lũ, đói nghèo của đủ các hạng ngƣời thị dân, nhiều khi những ngôn ngữ

ấy vẫn bám đầy bùn đất, bụi bặm lấm láp của phố phƣờng hỗn tạp nhƣ cái xã

hội ô hợp nửa tây nửa ta, nhiều khi đó là ngôn ngữ của mánh khoé, của lƣu

manh, trộm cắp. Điều này phù hợp thống nhất trong sự biểu đạt nội dung.

Trong Bỉ vỏ ngƣời đọc không thể hình dung đƣợc quá trình sáng tạo

của nhà văn nếu không đọc những dòng tự thuật “Tôi viết Bỉ vỏ”, ta ngỡ

ngàng về một tác giả khi tuổi đời còn quá trẻ với ánh mắt đang ở độ “xanh

non” “biếc rờn” (từ dùng của Xuân Diệu) nhƣng ngôn ngữ, văn phong thì

nhƣ ngƣời đã qua nhiều trải nghiệm. Khi đọc văn bản này ngƣời ta cứ ngỡ

nhƣ đang đối thoại với một ngƣời đã từng trải, am hiểu mọi ngõ ngách của

69

đời sống và là một ngƣời có trong mình đầy những kinh nghiệm xƣơng máu

khi vận dụng rất linh hoạt các thành ngữ rất thích hợp với từng hoàn cảnh.

Tần số xuất hiện dày đặc loại hình ngôn ngữ dân gian này thông qua phƣơng

thức tạo nghĩa mang sắc thái biểu cảm cho từng thời điểm rất chuẩn xác và

tinh tế. Khi xót đau cho thân phận, khi ai oán trách móc sự đời, khi ngậm

ngùi cam chịu...tất cả để diễn tả nỗi đau cùng cực của kiếp ngƣời.

Với tác phẩm tiểu thuyết đầu tay, một văn bản dung lƣợng không

nhiều, chỉ khoảng vài trăm trang nhƣng Bỉ vỏ đã đƣợc nhà văn vận dụng

rất nhiều thành ngữ với nhiều sắc thái khác nhau biểu đạt mọi phƣơng diện

của quá trình tha hoá ở nhân vật Tám Bính từ khi còn sống trong gia đình

tới khi bị gạt lìa khỏi cái nơi gọi là tổ ấm để lăn lộn vào chốn ô nhục ở Hải

Phòng. Những thành ngữ đƣợc sử dụng lại rất phù hợp với từng loại nhân

vật nên khi đọc lên, nhà văn không cần giải thích mà chúng ta vẫn có thể

nhận ra bức chân dung của từng con ngƣời cụ thể, tính cách cụ thể, không

cần tô mà vẫn rất đậm nét từng loại ngƣời.

Xuất hiện ngay phần đầu tác phẩm, hình ảnh bà mẹ Bính đã in đậm

dấu ấn trong lòng ngƣời đọc về một bà mẹ hết sức nhẫn tâm khi biết con

mình gặp nạn, khi biết con mình rơi vào cùng cực của nỗi ê chề bị phụ

bạc... Ngôn ngữ từ bà, không phải lời an ủi xót thƣơng của ngƣời mẹ mà là

một lời nói cay độc, tàn nhẫn. Bà không hề xót con mà cất lời đay chì, đay

nghiến: “Đấy, con gái lớn ông đấy! Đã sung sướng “Mát lòng mát ruột”

cho tôi chưa! Thật “ Bôi gio, chát trấu” vào mặt tôi”. Ngậm ngùi cho thân

phận, Bính thƣơng cảm cho số kiếp mình, cho những ngƣời con gái lầm lỡ

trong câu ca ngàn đời dành cho kẻ lỡ thì dại dột:

“Chót đa mang thì phải đèo bòng

Chót bế lên bụng phải bồng lấy con”.

Xuất phát từ lý do này, Bính đành chấp nhận mọi nỗi khổ nhục, kể cả

sự đối xử bất công, ghẻ lạnh của bố mẹ. Trƣớc sự lạnh lùng của bố mẹ,

Bính biết chẳng thể cầu xin, chẳng thể nƣơng nhờ chỉ làm Bính thêm cay

70

đắng vì sự “Cạn tàu ráo máng” của chính những ngƣời thân. Trƣớc hoàn

cảnh đầy éo le, chua xót của bản thân mình, Bính nhớ đến chị Minh, ngƣời

con gái chửa hoang đã bị dân làng ghẻ lạnh, đã phải chịu những cực hình

làm Bính run sợ khi bị “gọt gáy bôi vôi” dẫn đi khắp làng. Cái hình thức

phạt vạ vì trót hoang thai đó đã phát huy tác dụng với cha mẹ Bính khi

Bính phải nhắm mắt làm theo quyết định của bố mẹ vì nỗi sợ hãi. Đau xót

và cực nhục hơn khi đứa con nhỏ dại của Bính bị đem ra soi xét, dè bỉu

“Nòi nào theo giống ấy”. Trong cuộc mặc cả bán mua, Bính nhƣ đứt từng

khúc ruột, còn cha mẹ Bính thì hả hê, mơn trớn kẻ lắm bạc nhiều tiền

nhƣng trƣớc nỗi đau con ngƣời rẻ rúng “Mua rẻ bán đắt”, vẫn lả lƣớt nịnh

bợ: “Thưa vâng, ông bà “ăn ở phúc đức”, thương người như thế con chắc

ông bà còn là “giàu sang vinh hiển”. Chao ôi! Có nỗi đau nào hơn nỗi đau

khi chứng kiến chính ngƣời thân mình dứt xé tình máu mủ. Để rồi Bính

phải tự tìm ra lối thoát, những mong sẽ làm lại cuộc đời...Thành ngữ, ca

dao, tục ngữ từ ngàn đời xƣa do nhân dân sáng tạo ra, có lẽ ban đầu chỉ là

sự truyền miệng những câu nói có vần điệu nhƣng phù hợp với hoàn cảnh,

nhƣng sau đó là sự đúc kết những kinh nghiệm trong đời sống dân gian để

trở thành vốn tài sản vô giá của con ngƣời trong đời sống hiện thực. Mặc

dù thành ngữ chỉ là những từ ngữ hết sức dân dã biểu thị một khái niệm

nào đó, nhƣng Nguyên Hồng đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo, đúng thời

điểm đã tạo cho văn bản vừa đậm chất dân gian vừa thâm thuý, vừa vạch

đúng mặt, đúng tội, đúng bản chất của từng loại nhân vật và những thành

ngữ ấy đã góp phần không nhỏ vạch tội những kẻ vô lƣơng, vô đạo mà

không cần phải “đao to búa lớn” bộ mặt chúng vẫn phơi bày hiển hiện nhƣ

bản chất vốn có.

Thật xót xa khi Bính phải quyết định từ bỏ con thơ, từ bỏ gia đình,

dù sao cũng là “xảy nhà ra thất nghiệp” Bính đã bị đẩy luôn vào cái xã hội

ô trọc ngay trong lần đầu tiên đặt chân tới mảnh đất Hải Phòng, nơi Bính

hy vọng thay đổi đƣợc số phận, hy vọng tìm đƣợc kẻ phụ tình và mong ƣớc

71

mơ hồ sẽ gặp lại Tham Chung. Sự ngây thơ, trong sáng của Bính không

đáng trách, một cô gái quê, học hành không có, những ngƣời xung quanh

phần lớn là chân chất nên việc Bính tin tƣởng vào ngƣời mình yêu thƣơng

là điều dễ hiểu. Điều đáng phê phán là những kẻ lợi dụng niềm tin mơ hồ,

ngây thơ đó để làm điều bỉ ổi. Nhà văn đã vạch ra một lũ hợp lực lại cấu xé

thân phận Bính đến tả tơi. Từ kẻ trăng hoa dâm ô (thằng trẻ tuổi), đến kẻ

ghen tuông vu khống (vợ, bạn của vợ của thằng trẻ tuổi), cho đến những kẻ

quyền hành học thức (cai, đốc tờ) ...đều hùa nhau xô đẩy Bính vào bƣớc

đƣờng cùng với những lời nanh nọc, cho Bính là đồ “Voi giày ngựa xé” là

hạng gái hƣ hỏng “Thối thây dày da”, khi Bính cố chứng minh cho nỗi oan

uổng của mình lập tức bị đánh đập chửi mắng té tát, bị coi là loại ngƣời mạt

hạng “ Gái đĩ già mồm” chuyên nghề “ Bán trôn nuôi miệng” là loại gái

trơ lì “ Mặt dạn mày dày”. Thêm một lần thành ngữ lại phát huy tác dụng,

hiệu quả. Nếu chỉ cần bóc tách các thành ngữ có cùng trƣờng nghĩa đứng

riêng độc lập khi miêu tả trận đòn ghen tơi tả của vợ tên trẻ tuổi nơi phố

phƣờng, ngƣời đọc cũng đã nhận ra bộ mặt của cả một xã hội vào loại bậc

nhất với đủ hạng ngƣời trong đó hạng ngƣời đểu giả chiếm số đông, hạng

gái làm tiền đƣợc miêu tả thật chi tiết mà không cần lý giải.

Nguyên Hồng nhƣ hoá thân vào nhân vật, đi theo từng bƣớc chân

Bính, Bính đi đến đâu tủi nhục vây bám đến đấy. Bính buộc bị đẩy vào nhà

chứa của mụ Tài – Sế - Cấu, ở đây Bính cũng nhƣ những ngƣời đàn bà con

gái khác bị bóc lột thân xác đến tận cùng xƣơng tuỷ. Để đƣợc tồn tại, Bính

đã phải chịu đựng biết bao cực hình, khổ nhục “Vã mồ hôi sôi nước mắt”

trƣớc những kẻ sa đoạ trăng hoa mà chủ yếu lại là những kẻ đầu đƣờng xó

chợ, nghĩa là những hạng mạt hạng nhất trong dạng cố cùng. Bính đã để

mặc cho số phận buông trôi, phó thác đời mình cho dòng xoáy của số phận

“Hai tay buông xuôi”. Chấp nhận và tủi cực. Nhà văn dƣờng nhƣ quằn

quại với nỗi đau của Bính, ông đã vận dụng rất tài tình thứ ngôn ngữ bình

dân, đời thƣờng nhƣng nặng sức biểu cảm ấy để diễn tả nỗi đau tận cùng

72

của con ngƣời. Vì vậy khi đọc lên ai ai cũng thấy quen thuộc, ai cũng có

thể nhận ra một chân dung gần gũi, một thân phận đang chấp nhận sống

giữa cuộc đời của cái xã hội của lọc lừa đểu giả.

Nhân vật Muống trong Quán nải là một cô gái quê xinh đẹp, trung

hậu, đảm đang. Nhƣng do hoàn cảnh nghèo đói, mẹ lại chết sớm, cha ốm

nặng, cô buộc phải chấp nhận lấy lẽ Hƣơng Hoạch – một gã nhà giàu để

gán nợ, lại có ngƣời vợ cả hết sức độc ác vì vậy Muống phải làm quần quật

suốt ngày “Đầu tắt mặt tối” mà vẫn “còn khổ sở, đau đớn vì những sự day

dứt liên miên quanh đi quẩn lại có lẽ tới lúc Muống hay người đàn bà kia

chết thì mới hết” [30, 268]. Sống trong cơ cực Muống đã phải tìm lấy lối đi

riêng, tự giải thoát cho mình “Bỏ Hương Hoạch dù mang tiếng “trốn chúa

trốn chồng” (trốn chúa lộn chồng – thành ngữ), “vô ơn bạc nghĩa” hay gì

gì đi nữa, Muống chỉ đau đớn ít lâu thôi...vì Muống còn trẻ mà chồng thì

đứng tuổi và không còn thiết gì đến gia đình, vợ cả thì cay nghiệt, vậy “chả

chóng thì chầy” Muống cũng đến theo trai thôi”. Tuy nhiên, Muống cũng

băn khoăn và đắn đo vì nghĩ đến thân phận “có phúc có phận”. Trƣớc cảnh

sống ê chề tủi cực Muống nhƣ “Đứt từng khúc ruột”. Ra đi Muống đã kiên

quyết không mang theo tiền của vì sợ mang tiếng bởi vì “nó lại bảo ấy

không nhờ có những cái ấy thì rã họng ra chứ “mọc mũi sủi tăm” sao

được?” [30, 281].

Sau khi Muống bỏ đi, cả nhà Hƣơng Hoạch nháo nhác, không chỉ

ngƣời vợ cả mà còn cả bà mẹ của mụ vợ cả “Thôi thế là nó “Bôi tro trát

trấu” vào mặt tôi!”. Còn vợ cả của Hƣơng Hoạch thì “Không để lỡ cơ hội

tỏ ra chỉ có mình tuy hiếm hoi nhưng bao giờ cũng là “vợ cái con cột ”chỉ

có mình là người ra sức gánh vác chịu đựng mọi nỗi trong gia đình, mà

chồng dù có lấy thêm đến ai ai nữa cũng chỉ là “rước voi để giầy mồ”, mụ

Hương liền tru tréo lên vừa kể lể ầm ĩ”, “ Bà cụ Hương vội vàng xua tay

và năn nỉ: “- Thôi! Thôi! Dù sao cũng cứ xem sự thể ra sao rồi hãy hay.

“Môi hở răng lạnh”, mày đừng làm thế làng nướ c người ta không biết,

73

người ta chê cười cho” [29, 283]. Hay những tiếng chửi rủa “Cha mẹ con

voi giày”, “con quỷ quái kia”. Các thành ngữ, từ ngữ dân gian đƣợc nhà

văn sử dụng hết sức linh hoạt đã tạo cho câu văn có sức hấp dẫn riêng, đặc

biệt.

1.4. Ngôn ngữ đặc biệt (Tiếng lóng)

Là ngôn ngữ riêng của một nhóm xã hội hoặc nghề nghiệp có tổ

chức, gồm các yếu tố của một hoặc một số ngôn ngữ tự nhiên đã đƣợc chọn

lọc và biến đổi đi nhằm tạo ra sự cách biệt ngôn ngữ với những ngƣời

không liên đới. Nhiều ngƣời coi tiếng lóng là một hiện tƣợng không lành

mạnh làm cho ngôn ngữ thêm tối tăm, cần gạt nó ra khỏi ngôn ngữ văn học.

Tiếng lóng là một hình thức phƣơng ngữ xã hội không chính thức

của một ngôn ngữ, thƣờng đƣợc sử dụng trong giao tiếp thƣờng ngày, bởi

một nhóm ngƣời. Tiếng lóng ban đầu nhằm mục đích che dấu ý nghĩa diễn

đạt theo qui ƣớc chỉ những ngƣời nhất định mới hiểu. Tiếng lóng thƣờng

không mang ý nghĩa trực tiếp, nghĩa đen của từ phát ra mà mang ý nghĩa

tƣợng trƣng, nghĩa bóng. Từ lóng trong tiếng Việt đƣợc sử dụng bởi nhiều

thành phần xã hội. Tiếng lóng có khả năng thay đổi theo thời gian. Trong

giao tiếp, thông thƣờng tiếng lóng chỉ đƣợc sử dụng dƣới dạng văn nói, chứ

ít khi sử dụng vào văn viết, đặc biệt trong trong ngôn ngữ văn bản trang

trọng thì thƣờng hạn chế sử dụng tiếng lóng. Trong văn học, tiếng lóng

thƣờng đƣợc dùng gián tiếp, để chỉ những câu dẫn của nhân vật

Trong các sáng tác của Nguyên Hồng, ông coi tiếng lóng nhƣ một

phƣơng tiện nghệ thuật đích thực và sử dụng tiếng lóng vào sáng tác văn

học một cách chủ động. Tiếng lóng trong các tác phẩm của Nguyên Hồng

có nguồn gốc và các tiểu loại khác nhau. Các nhân vật trong sáng tác của

ông bên cạnh việc sử dụng thứ ngôn ngữ bình dân, tài sản của nhân dân lao

động là một bộ phận nhân vật sử dụng những ngôn ngữ mang nét đặc

trƣng của hạng ngƣời dƣới đáy: trộm cắp, đĩ điếm, lƣu manh, tha

hóa...Tiéng lóng lại đƣợc ông sử dụng rất đa dạng, có những tiếng vay

74

mƣợn ở nƣớc ngoài, có những tiếng là từ trong tiếng Việt đã biến âm hoặc

cấp cho nó thêm một nghĩa mới, nhƣng nhiều nhất là các tiếng lóng do nhà

văn sáng tạo ra. Trong các tác phẩm viết về nhân vật lƣu manh, giang hồ

tiếng lóng xuất hiện đậm đặc hơn, Nguyên Hồng đã sử dụng hàng loạt hệ

thống tiếng “lóng” để miêu tả hoàn cảnh sống của đối tƣợng này, chính thứ

ngôn ngữ đặc biệt này phản ánh rõ hơn tính cách nhân vật. Trong đám

ngƣời đó họ đều giao tiếp với nhau bằng tiếng lóng rất sành sỏi để “bí mật”

thông báo cho nhau về mối bất lợi, nguy hiểm trong cuộc mƣu sinh tội lỗi,

khốc liệt của họ, tiếng lóng góp phần tích cực trong việc thể hiện tính cách

giang hồ và mánh lới nghề nhiệp của các nhân vật. Bằng tiếng lóng,

Nguyên Hồng đã dƣa ngƣời đọc đến với tầng lớp cặn bã nhất của xã hội để

nhận biết sự thật đau xót về hạng ngƣời vẫn bị ngƣời đời khinh rẻ, bồi đắp

thêm giá trị hiện thực của các tác phẩm, làm cho bức tranh đời sống xã hội

Việt Nam trƣớc cách mạng tháng Tám thêm chân thực và sâu sắc. Sự xuất

hiện tiếng lóng đã lộ diện loại lƣu manh khá rõ. Điều này càng chứng minh

vì sao sống trong vòng xoáy đó sự hƣớng thiện trong bề sâu tâm hồn Bính

là điều đáng trân trọng. Có lẽ một phần đời Nguyên Hồng đã buộc phải

phải hoà nhập với môi trƣờng ấy trong những ngày tháng cực khổ nên hơn

ai hết ông đã đặt vào miệng từng nhân vật trong Bỉ vỏ đủ các ngôn từ của

chợ búa, của mánh khoé, của những tiếng “lóng” mà chỉ có ngƣời trong

cuộc mới hiểu rõ và thấu đáo nội dung. Ngay từ nhan đề nếu không tìm

hiểu ngƣời đọc sẽ khó mà biết đƣợc Bỉ vỏ là gì? sẽ không hiểu nổi các ngôn

từ “Te” (đẹp), đi “phiên” (khám bệnh), “hiếc” (lần lƣng móc túi), “khai”

(cắt túi, xẻo đẫy), “tễ bƣớu” (nhiều tiền), “vỏ lỏi” (kẻ ăn cắp còn nhỏ

tuổi), “trách hợm” (một chục), “ngũ đị” (chạy trốn)...Tiếng “lóng” là một

hiện tƣợng ngôn ngữ đƣợc sử dụng trong một bộ phận dân cƣ, không lành

mạnh trong đời sống xã hội, ở thời kì nào nó cũng tồn tại, đó là ngôn ngữ

phi chính thống nó làm sai lệch tƣ duy thậm chí bóp méo ý nghĩa của từ

ngữ. Tuy nhiên nếu không sử dụng những ngôn ngữ này Nguyên Hồng sẽ

75

khó lòng phơi bày cái mặt trái của xã hội thị dân đốn mạt, với trộm cắp, lƣu

manh, đĩ điếm, sẽ không thấy đƣợc ngƣời con gái hiền lành, ngoan đạo nhƣ

Bính phải sống trong cảnh ô hợp bị đẩy vào giữa chốn cặn bã ấy vẫn phải

chấp nhận hoà mình để sống. Thậm chí Bính cũng đành phải a dua, nói

theo thứ ngôn ngữ ấy cho xứng đáng là dân anh chị. Nhà văn không phải để

Bính dễ dãi tha hoá mà khi buộc vào môi trƣờng ấy con ngƣời không còn

lối ra nên đành chấp nhận. Ngôn ngữ ấy phản ánh sự băng hoại của một lớp

ngƣời gợi lên nỗi xót xa trƣớc số phận.

Các tác phẩm của Nguyên Hồng đã sử dụng rất nhiều các loại hình

ngôn ngữ. Đặc biệt hai thiên truyện gần nhƣ viết cùng thời điểm, khi nhà

văn tuổi đời còn rất trẻ chỉ khoảng từ 16 – 18 tuổi, Bỉ vỏ viết trƣớc nhƣng

ngôn ngữ lại hết sức rắn rỏi, già dặn nhƣ của một ngƣời đã qua nhiều trải

nghiệm. Còn Những ngày thơ ấu viết sau đó không lâu mà ngôn ngữ lại

trẻ trung, giàu cảm xúc thể hiện một cảm xúc tƣơi mới, trong sáng, dào dạt

của một cây bút trẻ dễ xúc động, dễ ngạc nhiên trƣớc cuộc sống. Điều này

thể hiện sự linh hoạt rất tài tình trong văn phong của Nguyên Hồng. Ông đã

sử dụng vốn ngôn ngữ phong phú của mình rất khéo léo khi đặt vào vai

nhân vật mà không hề gƣợng ép. Đánh giá phẩm chất một con ngƣời một

phần ghi nhận trong việc sử dụng ngôn ngữ của anh ta. Ở đây, trong sáng

tác của Nguyên Hồng nhân vật nào chúng ta cũng thấy hiện lên đúng với

bản chất của con ngƣời ấy không lẫn vào đâu. Dù miêu tả một Năm Sài

Gòn chai sần với tội ác, dã tâm, lọc lừa, một tay “anh chị” với bề dày là

những thành tích bất hảo đƣợc ghi nhận nơi nhà giam, bến xe, bến tàu, trộm

cƣớp, giết chóc...Khi miêu tả một cậu bé Hồng lang thang vất vƣởng bị

ném vào vòng xoáy cuộc đời cũng đã bị dao động đôi chút khi tìm kế sinh

nhai bằng đánh đáo ăn tiền với một bé Hồng ngồi trong lòng mẹ yếu đuối

và đáng thƣơng, đáng yêu. Ở tình thế nào ngôn ngữ đƣợc Nguyên Hồng sử

dụng cũng rất phù hợp và phát huy tích cực, đúng chức năng là truyền tải

những thông tin cho ngƣời đọc và tác động mạnh vào giác quan của con

76

ngƣời. Giúp ngƣời đọc nhận ra tƣ tƣởng nghệ thuật mà nhà văn biểu lộ. Với

Nguyên Hồng, tiếng lóng đã trở thành cầu nối đƣa nhà văn đễn với những

con ngƣời khốn khổ, vừa thể hiện đặc tính xã hội của nhân vật, vừa thể hiện

thái độ quan tâm của nhà văn tới lớp ngƣời cặn bã trong xã hội cũ.

Trong nền văn học Việt Nam, Nguyên Hồng là ngƣời đầu tiên mạnh

dạn sử dụng và sử dụng thành công tiếng lóng vào sáng tác văn học. Đó là

kết quả của một tấm lòng nhân đạo cao cả, của vốn sống thực tế phong phú

và một bản lĩnh nghệ thuật vững vàng.

1.5. Từ ngữ tôn giáo (Cơ đốc giáo)

Từ ngữ Cơ đốc giáo không phổ biến rộng trong giao tiếp cộng đồng

ngƣời Việt, sự xuất hiện của chúng trong tác phẩm càng ít hơn. Khi

Nguyên Hồng bắt đầu viết văn, từ ngữ Cơ đốc giáo hầu nhƣ nằm ngoài sự

lựa chọn của các cây bút văn xuôi có mặt trên văn đàn. Nguyên Hồng là

nhà văn sớm mạnh dạn sử dụng từ ngữ Cơ đốc giáo vào sáng tác văn học

và đã đạt đƣợc những thành công đáng kể.

Các từ ngữ tôn giáo Nguyên Hồng đƣợc Nguyên Hồng sử dụng rất

phong phú, thuộc mọi cấp độ: các từ, ngữ, tổ hợp từ cố định, câu hoặc đoạn

trong thánh kinh. Chúng đƣợc đƣa vào tất cả các thành phần trong lời văn

nghệ thuật. Tƣ tƣởng bác ái của Thiên Chúa giáo đã có ảnh hƣởng sâu sắc

đến niềm tin mãnh liệt vào thiện căn con ngƣời và lòng yêu thƣơng con

ngƣời tha thiết của ông. Sự ảnh hƣởng của tôn giáo một cách tự nhiên

khiến Nguyên Hồng cảm nhận, lý giải hiện thực theo cách của riêng ông:

“Cảm quan tôn giáo được xác định như là ý thức nghệ thuật đạt đến độ

chín muồi và thể hiện ra một cách tự nhiên thông qua sự cảm nhận, cắt

nghĩa hiện thực qua cái nhìn nghệ thuật đối với đời sống của nhà văn”

[30, 236].

Từ ngữ tôn giáo đã giúp ngòi bút Nguyên Hồng phản ánh đƣợc một

phạm vi hiện thực còn mới mẻ mà độc giả ít đƣợc biết đến. Nhiều ngƣời

bên “đời” thấy đạo của Chúa Giê-su là một lĩnh vực thật huyền bí, thâm

77

nghiêm. Sử dụng từ ngữ Cơ đốc giáo để nói về đạo, Nguyên Hồng đã mở

rộng khả năng phản ánh hiện thực của lời văn. Ông đã giúp ngƣời đọc hiểu

sâu hơn về cuộc sống của những ngƣời theo đạo Thiên Chúa, nhận thấy sự

nghiệt ngã sau bức màn thần bí. đây là mảng hiện thực phức tạp không phải

nhà văn nào cũng có thể đi sâu khai thác. Từ ngữ tôn giáo trong lời văn của

Nguyên Hồng còn có tác dụng biểu cảm và truyền cảm. Tấm lòng nhân đạo

đã chi phối ngòi bút nhà văn, tìm đến từ ngữ tôn giáo để thể hiện sâu sắc

hoàn cảnh sống và thế giới tâm linh của những nhân vật phụ nữ sùng đạo

nhƣng phải chịu đựng chồng chất nỗi bất hạnh nhƣ bà nội cậu bé Hồng,

Tám Bính, Huệ Chi, mẹ Thanh...từ đó nhằm khơi gợi sự đồng cảm của

ngƣời đọc. Từ ngữ tôn giáo vốn chỉ là phƣơng tiện giao tiếp trong lĩnh vực

tôn giáo nhƣng qua sự lựa chọn lời văn của Nguyên Hồng những từ ngữ

này đã thực sự trở thành ngôn ngữ văn học.

Ngôn ngữ của Nguyên Hồng chịu ảnh hƣởng của ngôn ngữ Kinh

Thánh, đọc các tác phẩm của ông ta bắt gặp một loạt các từ ngữ: Thiên

Chúa, Đức Chúa Giêsu, Đức mẹ ẩi, Thánh thể, dấu chỉ, xác tín, Đức

Tin...Ngoài ra còn có thể thấy một số từ ngữ chỉ có thể xuất phát từ lãnh địa

tôn giáo: Đấng hằng sống, Đấng toàn năng, Ngày phán xét, chốn luyện

hình...Đây là điều dễ hiểu bởi trƣớc khi trở thành nhà văn ông đã là một

con chiên của Chúa, đã đƣợc lãnh nhận các bí tích của Hội Thánh, luôn tâm

niệm với thế giới của Chúa...ngôn ngữ của Kinh Thánh đã đi vào các sáng

tác của ông rất tự nhiên. Ngôn ngữ trong văn Nguyên Hồng xuất hiện

những lớp từ thuộc về những lời cầu nguyện xuất phát từ tấm lòng mến đạo

thiết tha của ngƣời Kitô hữu: Con lạy Đức Mẹ hằng cứu giúp, lạy Mẹ là Mẹ

Chúa Cứu Thế, lạy Chúa Giêsu con tín thác vào Chúa, lạy Cha Đấng lòng

đầy trắc ẩn, tôi tin kính đức Chúa Giêsu Kitô...Có thể thấy những lời khấn

nguyện là sự thành tâm với tấm lòng chân thực của những con chiên dâng

lên đấng siêu hình với Đức Tin tuyệt đối.

Trong văn Nguyên Hồng, nhiều khi ngôn ngữ của ngƣời kể chuyện

78

và ngôn ngữ của nhân vật hoà làm một, có khi không thể phân biệt đâu là

ngôn ngữ nhân vật đâu là ngôn ngữ ngƣời kể chuyện bởi tất cả đƣợc hoà

vào trong một thứ ngôn ngữ mang khí vị tôn giáo rất đặc biệt. Khi viết về

những ngƣời cùng khổ, trƣớc những cảnh đời trái ngang, nhân vật của

Nguyên Hồng chỉ biết phó thác cuộc đời vào bàn tay của Chúa và cầu xin

sự an bài trong quyền năng Thiên Chúa. Đối với những ngƣời theo Đạo

giáo từ khi sinh ra cho đến khi nhắm mắt xuôi tay mọi sự đều nằm trong

tay Chúa.

Hƣớng về Chúa và tâm niệm sống trong Chúa Kitô là lẽ sống của

những ngƣời Kitô giáo. Gần nhƣ Nguyên Hồng đã để nhân vật của mình

sống đời sống đạo với một niềm tin mãnh liệt. Ông đã đặt vào họ thứ ngôn

ngữ của Đức Kitô. Trong Ngọn lửa nhân vật đã bày tỏ: “ơn Chúa thương

Chúa đã định, Thánh ý Đức Chúa giời, Nước Thiên đàng...” và cuối cùng

bà tôi lại bùi ngùi, tha thiết bảo tôi: “mọi sự ở thế gian này đều do Thánh ý

bề trên định cả. Con phải hết lòng trông cậy ơn Chúa mới được. Thế gian

này càng ngày càng nhiều những chước ma quỷ, mất ơn Chúa. Con phải

giữ cho vững Đức Tin. Chịu đựng mọi sự khốn khó mà vì mất ơn Chúa.

Con phải giữ cho vững Đức Tin. Chịu đựng mọi sự khốn khó mà vì mất ơn

Chúa, nên các con chiên phải chịu để chuộc tội đã làm cho Chúa Giêsu

đóng đanh chịu chết” [30, 125]. Nhân vật tôi cùng ngƣời bà tội nghiệp chỉ

biết trông cậy vào sự che chở của Chúa để hy vọng lần hồi cho cuộc sống

qua ngày và phải biết đến việc: “người ta phải đọc Kinh để cảm tạ ơn

Chúa”. Cuộc sống của nhân vật trong sáng tác của Nguyên Hồng phần lớn

là những ngƣời cùng khổ nhƣng dù khổ đến mức nào thì tấm lòng của họ

vẫn luôn hƣớng về Chúa, dành trong trái tim mình sự tôn kính: “phải cố

dành một khoảng để bày bàn thờ đầy đủ tượng ảnh, đèn hoa, chân nến hay

không đủ thì phải có một cây Thánh Giá và một tượng Đức Bà ở đầu chỗ

nằm. Cũng những thân hình còm cõi trong những gian nhà úp súp, giường

chiếu cũ nát, đồ đạc ấn nhét lên nhau, những gương mặt xanh xám, ai nấy

79

đều lịm đi trong sự van xin rầu rĩ...lạy Cha chúng con ở trên giời...xin Cha

cho chúng con hằng ngày dùng đủ và tha cho chúng con...Thánh Maria

Đức Mẹ Chúa giời cầu cho chúng con...sáng danh đức Chúa Cha và Đức

Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần...Amen!” [30, 126]. Là một cô gái quê

xinh đẹp, là một con chiên ngoan đạo, đáng lẽ Bính phải đƣợc sống một

cuộc sống sƣng sƣớng, hạnh phúc nhƣng Bính đã phải trải qua cảnh đời tủi

nhục nên Bính chỉ còn biết tin vào Chúa, đức Thánh thiêng liêng. Trong

Tám Bính luôn có hình ảnh của “Đức Chúa Giêsu đứng lại an ủi vùng

Giê–ru-sa-lem giữa khi chính mình không được một ai ngỏ một câu ái ngại

mà lại còn bị xỉ vả, lại còn phải vác cây thập ác nặng nề”, [30, 135] và

Tám Bính đã quyết noi theo tấm gƣơng của Chúa, khi bị dồn đẩy vào bƣớc

đƣờng cùng không biết làm gì chỉ một lòng cầu xin Đức Chúa chứng giám,

xót thƣơng.

Ngay cả những kẻ lƣu manh, trộm cắp, sống ngoài vòng pháp luật

nhƣng ngôn ngữ của những hạng ngƣời này khi nói về Chúa giời cũng vẫn

mang một thái độ trân trọng. Tám Bính mặc dù đã trở thành một “bỉ vỏ”

chuyên nghiệp, một đàn chị sắc sảo không ghê tay trƣớc tội ác nhƣng khi

trở về con ngƣời thật của chính mình Bính lại là một con ngƣời chân tình,

thánh thiện. Cứ mỗi lần gây ra tội ác là mỗi lần Bính xám hối, ăn năn: “ Xin

Chúa tha tội cho chúng con! Xin Chúa thương xót chúng con!” (29, 55).

Khi bị đẩy vào tình cảnh khốn cùng con ngƣời luôn hƣớng về Đức Chúa

giời để cầu xin tha thiết, họ cho rằng: “ Chúa bày đặt để thử thách lòng các

con chiên trung tín. Con đau đớn biết bao, lòng con như sắp nát

tan...nhưng Chúa thế nào cũng ngoảnh mặt lại, và thế nào cũng có một

ngày Chúa cắt gánh nặng trên vai con đi” [30, 60]. Những lời nói thiết tha

của Bính cũng là khát khao hƣớng thiện và Bính ƣớc ao rằng chỉ có Đức

Chúa mới có thể giúp đƣợc cô. Đó là thứ ngôn ngữ của những ngƣời có

đạo. Thứ ngôn ngữ khiêm nhƣờng, lễ độ, phép tắc và tín thác vào Chúa

Kitô. Gia đình Nguyên Hồng vốn là một gia đình có gốc theo đạo bởi vậy

80

ngôn ngữ tôn giáo đi vào văn Nguyên Hồng một cách rất tự nhiên.

Qua việc tìm hiểu tất cả các sáng tác văn xuôi của Nguyên Hồng ta

nhận thấy, dù là ngôn ngữ của ngƣời kể chuyện hay ngôn ngữ của nhân vật

thì kiểu ngôn ngữ thấm đẫm khí vị tôn giáo luôn xuất hiện dày đặc trên

từng trang viết. Trong các sáng tác của Nguyên Hồng, những con ngƣời có

đạo nói năng, thƣa gủi rất lễ độ, xử sự nhã nhặn. Ngôn ngữ trong văn

Nguyên Hồng vừa tràn đầy sắc thái biểu cảm vừa thể hiện tình yêu mến

Đức Chúa. Có thể nói, ngôn ngữ của nhân vật Nguyên Hồng là ngôn ngữ

của con chiên của Chúa!

2. Giọng điệu trần thuật của Nguyên Hồng

Giọng điệu có vai trò quan trọng trong việc xác lập phạm trù thẩm

mĩ của nhà văn, đây là yếu tố góp phần hình thành phong cách của nhà văn.

Giọng điệu là thứ hình thức nghệ thuật mang tính quan niệm, nó là thƣớc

đo không thể thiếu để xác định tài năng và phong cách độc đáo của một nhà

văn, nhà thơ. “Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo

đức của nhà văn với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy

định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa

gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm...”; “ Giọng

điệu là một yếu tố đặc trưng của hình tượng tác giả trong tác phẩm. Nếu

như trong đời sống, ta thường chỉ nghe giọng nói nhận ra con người thì

trong văn học, giọng điệu giúp chúng ta nhận ra tác giả” [40, 267].

Trong đời sống hằng ngày, giọng điệu là giọng nói, lời nói biểu thị

thông tin, thái độ nhất định. Trong văn học, giọng điệu là thái độ, tình cảm,

lập trƣờng, tƣ tƣởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tƣợng miêu tả thể

hiện trong lời văn, biểu lộ sắc điệu tình cảm. Giọng điệu là một phạm trù

thẩm mỹ của văn học, là yếu tố quan trọng để tạo nên phong cách của nhà

văn. Trong văn chƣơng, giọng điệu không phải xác định ở chỗ “nói cái gì?”

mà ở chỗ “nói như thế nào?”.Giọng điệu trong tác phẩm gắn với chất

giọng riêng của mỗi ngƣời, bởi vậy khi đọc một tác phẩm văn học ta có thể

81

xác định đƣợc tác giả. Trong một tác phẩm nghệ thuật có giọng điệu chủ

yếu và những giọng điệu khác đan xen. Giọng điệu chủ yếu tạo thành âm

hƣởng chung cho tác phẩm, nó quyết định nhiều khâu, nhiều yếu tố trong

việc xây dựng toàn bộ tác phẩm, kể cả cách thức, phƣơng thức xây dựng

nhân vật. Tìm ra giọng điệu phù hợp sẽ giúp nhà văn kể chuyện đƣợc hay

hơn, thể hiện rõ tƣ tƣởng và lý tƣởng thẩm mỹ của mình. Nhƣ vậy vấn đề

giọng điệu của tác giả mà chủ yếu là giọng điệu trần thuật cần đƣợc sự

quan tâm của cả ngƣời sáng tác, ngƣời thƣởng thức và ngƣời nghiên cứu.

Khi đọc một tác phẩm văn học, ngƣời đọc có thể nhận thấy tất cả

chiều sâu tƣ tƣởng thái độ, vị thế, phong cách, tài năng cũng nhƣ sở trƣờng

ngôn ngữ, cảm hứng sáng tạo của nghệ sĩ thông qua giọng điệu. Nền tảng

của giọng điệu là cảm hứng chủ đạo của nhà văn.

Giọng điệu vừa liên kết các yếu tố hình thức khác nhau, làm cho

chúng cùng mang một âm hƣởng nào đó, vừa là chỗ dựa chính để các yếu

tố của tác phẩm quy tụ lại và định hình thống nhất với nhau theo một kiểu

nào đó, trong chỉnh thể của giọng điệu ấy mỗi yếu tố hiện ra rõ hơn, thậm

chí mới mẻ hơn.

Trong các sáng tác của các nhà văn ƣu tú, ngƣời đọc dễ nhận ra

giọng điệu mang nét đặc trƣng của nhà văn, đây chính là biểu hiện cao của

tính cá nhân, cá tính sáng tạo. Giọng điệu chính là phong cách nhà văn.

Một nhà văn tài năng bao giờ cũng tạo đƣợc giọng điệu độc đáo: Nam Cao

– giọng điệu lạnh lùng – tƣởng chừng nhƣ ngƣời đứng ngoài cuộc nhìn

nhận nỗi đau nhân vật, nhƣng thực tế nỗi đau nhân tình thế thái đã thấm sâu

vào tâm hồn nhà văn trƣớc nỗi đau đồng loại. Vũ Trọng Phụng – Giọng

điệu cƣời cợt trƣớc hiện thực lố lăng của xã hội thị dân, ông dƣờng nhƣ

muốn phơi bày ra tất cả những gì tồi tàn, thối nát để mọi ngƣời cung nhìn

nhận, chiêm ngƣỡng và phần đánh giá thuộc về độc giả. Nguyễn Tuân –

Giọng điệu “ngông” biểu hiện của giọng văn khoe tài, uyên bác. Thạch

Lam – Giọng điệu buồn man mác. Với Nguyễn Công Hoan, cuộc đời tựa

82

một tấn trò hề: con cái diễn trò báo hiếu, vợ chồng diễn trò thuỷ chung, kẻ

giàu diễn trò nhân đạo, nhà nƣớc diễn trò pháp luật...Ngƣời kể chuyện là

ngƣời biết mọi thủ thuật làm trò của các vai diễn trên sân khấu cuộc đời. Vì

thế giọng điệu trong sáng tác của ông là giọng điệu hài hƣớc, giễu cợt,

châm biếm. Giọng điệu trần thuật trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng

thƣờng cay độc, đầy phẫn uất. Giọng điệu của Nguyễn Tuân tài hoa khinh

bạc. Giọng điệu của Tô Hoài dí dỏm...Ngƣời trần thuật trong sáng tác của

Ngyên Hồng đã tạo cho mình một giọng điệu riêng: Thƣơng cảm thống

thiết và thiết tha sôi nổi.

Xuất phát từ đời sống cần lao, gắn bó với lớp ngƣời dƣới đáy của tầng

lớp thị dân, Nguyên Hồng có một tình yêu sâu sắc và chân thành đối với con

ngƣời. Điều này đã giúp ông luôn sẵn sàng cảm thông với niềm vui nỗi buồn

của những ngƣời cùng cảnh ngộ. Nguyên Hồng viết văn là vì lòng thƣơng

cảm với những ngƣời cùng cảnh ngộ, cùng khổ, ông viết về họ nhƣng nhƣ

viết về chính cuộc đời mình với tất cả niềm cảm thông và thƣơng yêu, trân

trọng. Bởi vậy khi viết về cuộc sống của những ngƣời dân nghèo, Nguyên

Hồng thƣờng sử dụng giọng điệu thƣơng cảm thống thiết qua những câu văn

dài, lời văn chồng chất điệp từ, điệp ngữ và các yếu tố liệt kê.

2.1 Giọng điệu cảm thƣơng thống thiết

Văn Nguyên Hồng là hiện thực bề bộn và cảm xúc ngùn ngụt tràn

vào câu chữ, khiến khuôn khổ ngữ pháp thông thƣờng của câu không đủ

sức chứa tình ý tuôn chảy ào ạt trong tâm trí ngƣời viết. Cả vốn sống dồi

dào phong phú và nhu cầu giải toả cảm xúc mãnh liệt đều tạo nên nội lực

đẩy ngòi bút của ông vƣợt khung trên mọi cấp độ: thể loại, văn bản, đoạn

văn và nhất là câu văn. Các kiểu câu dài, cấu trúc tầng bậc, thành phần

phức tạp. Nguyên Hồng sử dụng nhiều điệp từ, điệp ngữ và các yếu tố liệt

kê trong câu hoặc chuỗi câu.

Có khi tác giả lặp lại một cụm từ, một kiểu phô diễn. Có khi kết hợp

các dạng với cấu trúc tầng bậc. điệp từ, điệp ngữ có trong tất cả các thành

83

phần lời văn của Nguyên Hồng, nhƣng phổ biến hơn là ở những đoạn trữ

tình ngoại đề và lời miêu tả. Chúng đƣợc sử dụng để nhấn mạnh đặc điểm

của đối tƣợng, nhấn mạnh cảm xúc, thái độ của tác giả hoặc của ngƣời trần

thuật. Hiệu quả nghệ thuật nổi bật nhất mà điệp ngữ mang lại cho lời văn

Nguyên Hồng là biểu hiện các trạng thái cảm xúc ở cƣờng độ cao. Điệp

ngữ làm cho nỗi buồn, niềm vui đƣợc “giải toả” trên trang viết nhanh,

mạnh, thấm thía hơn.

Lời văn Nguyên Hồng cũng chồng chất các yếu tố liệt kê. Mỗi nội

dung thông báo của câu hoặc đoạn văn thƣờng đƣợc triển khai bằng sự nối

tiếp các đơn vị cú pháp cùng loại thành loạt, thành dãy. Mỗi một yếu tố

đƣợc liệt kê làm sự việc, nhân vật, cảm xúc, tâm trạng hiện lên rõ nét;

nguyên tắc cụ thể hoá đối tƣợng miêu tả phản ánh đƣợc hiện thực hoá trong

lời văn một cách triệt để. Đây là nguyên nhân trực tiếp làm cho câu văn của

Nguyên Hồng thƣờng dài, cấu trúc tầng tầng, lớp lớp.

Trong tác phẩm Đây bóng tối , viết về nỗi đau khổ của Nhân và mũn

khi rơi vào tình cảnh tuyệt vọng, giọng văn Nguyên Hồng tha thiết, xót xa:

“- Tôi mù rồi! Tôi mù rồi! Mình ơi. Rồi không thể nén được chua

xót, Nhân ôm ngực, ngã gục xuống giường, Nhân thiếp đi trong tiếng vợ

con khóc như ri.Sao lại có thể như thế được? Sao lại có thể khốn nạn đau

đớn cho hai người ấy như thế được? Sao hai người ấy đã cùng khổ mà lại

còn phải chịu nhiều sự cay đắng làm vậy?

Sao chỉ trút lên đầu những kẻ hiền lành chịu khổ như vợ chồng Nhân

những đoạ đày khổ ải? Mà sao cái hạnh phúc bé nhỏ như gây dựng trên

từng vũng mồ hôi, vũng nước mắt của vợ chồng Nhân lại chóng bị tàn phá

đi? ” [30, 164].

Nguyên Hồng đƣợc là “nhà văn của thập loại chúng sinh” (Nguyễn

Minh Châu) và ông đã từ trong lòng cái xã hội với đủ hạng ngƣời đó “

bước ra , cầm lấy cây bút sắt chấm vào mồ hôi, nước mắt và máu của mình

mà viết ra văn chương của riêng mình”. Trong số nhân vật mà ông xây

84

dựng, ông lại dành nhiều tình cảm nhất cho những ngƣời phụ nữ và trẻ em.

Các tác phẩm của ông viết về hai đối tƣợng này đều hết sức cảm thƣơng,

đau xót, có khi ông đã miêu tả những cuộc đời những số phận bị đẩy đến

cùng cực của những khổ đau, bất hạnh.

Ngay từ truyện ngắn đầu tiên Cát bụi lầm, nhà văn đã vạch rõ bản

chất tồi tàn của chế độ nhà tù thực dân về câu chuyện kể về một bà cụ già

nhà quê ốm yếu phải ở tù mà không biết bị phạm tội gì. Sau những ngày

tháng kiệt sức, ngƣời đàn bà ấy đã chết. Và chính Nguyên Hồng đã kéo xe

đƣa bà cụ đi chôn mà trong lòng luôn bị ám ảnh bởi số phận bất hạnh của

cụ “Tôi vừa đi vừa nghĩ như thế mà đã sống được, và một người như thế thì

còn sức đâu để hãm hại ai, để phạm tội mà chịu tù đày” trƣớc cái chết đầy

xót thƣơng của bà cụ, cậu day dứt “giá tôi kiếm được miếng khăn mà liệm,

chắc linh hồn bà cũng đỡ lạnh lẽo tủi đau dưới suối vàng! Nhất là khăn và

chăn chiếu ấy lại là của tôi, một kẻ chỉ đáng tuổi cháu bà và là bạn tù của

bà”. Nỗi ám ảnh về những nghịch cảnh ngay từ thuở ấu thơ đã dồn đọng và

đi vào những trang viết của nhà văn gợi lên nỗi xót thƣơng trƣớc những

kiếp ngƣời bé nhỏ, bất hạnh. Giọng văn vừa thống thiết, day dứt bi thảm.

Lời văn của Nguyên Hồng ngày càng trở nên thiết tha hơn. Ngôn

ngữ trong nhân vật ngƣời phụ nữ trong truyện Vực thẳm nghe xót xa khi

nói về ngƣời mẹ lam lũ đáng thƣơng: “Những quang gánh thúng sọt nặng

trĩu những ngô khoai, rau muống, bèo kia, kĩu kịt trên những sống vai gầy

rạc của cái kiếp người tần tảo, lần hồi, nếu có thành điệu thơ thì phải là

những tiếng kêu thống thiết của sự đau đớn chua xót, đòi gọi sự thay đổi

cho cuộc đời được ấm no, yên vui, rất xứng đáng cho những người mẹ hiền

từ chịu khó” [30, 195].

Tấm lòng xót thƣơng của nhà văn thể hiện qua cái nhìn nhân bản về

cuộc đời, số phận của ngƣời con gái bất hạnh: Tám Bính. Nhà văn đã đi sâu

vào tận cùng ngõ ngách tâm hồn Bính để xót thƣơng, chia xẻ. Từ việc Bính

bị cha mẹ hắt hủi chỉ vì lỡ dở: “ hễ động thấy mặt Bính, bố mẹ Bính không

85

mắng mỏ thì chìa bỉu, day dứt, đay nghiên Bính chỉ vì sự lầm lỡ đó” (18,

20). Bính chua xót cho cuộc đời mình và thƣơng con dứt ruột, đứa con sinh

ra ngoài ý muốn và hơn nữa nó đã bị đối xử tàn tệ bằng chính những ngƣời

ruột thịt: “ Bính ôm ghì lấy đứa con vào ngực, nức nở trong bóng tối. Bính

lại thầm thì khóc. không thể sao ngồi yên được, Bính đi đi lại lại, và đã ba

hôm nay giọng khàn mất rồi, Bính lại phải rung rung cánh tay để ru con.

Thật Bính có ngờ đâu và cũng không bao giờ dám nghĩ tới nông nỗi này.

Lòng người Bính cứ tưởng như lời người nói. Còn sự tệ bạc Bính đinh ninh

một hạng người ăn học như thế không thể có được! Nhưng đến nay Bính

mới rõ cái bề ngoài che đậy sự khốn nạn độc ác thì đã muộn lắm rồi. Chắc

Bính phải đau khổ mãi vì sự lừa dối đó thôi.

Bính như không đủ sức nhắc nổi chân nữa, bèn ngồi xệp xuống

chõng, dựa lưng vào bức vách, đầu ngả về một bên, mỏi mệt nhìn bóng tối.

Phút chốc trong tâm tưởng Bính lại hiện ra những hình ảnh không bao xa”

[18, 102). Khi Bính phải dứt tình máu mủ bỏ đi lang bạt, trái tim nhà văn

nhƣ bị bóp nghẹt, đau đớn, giong văn chùng xuống đầy xót xa: “Đường xá

vắng tanh, vắng ngắt, Bính rùng mình. Đêm nay đối với Bính mới dài và

cực nhục làm sao? Còn ê chề cay đắng hơn cả một năm lam lũ. Bính nép

người bên góc tường, gục mặt vào bàn tay, tê tái những cảm xúc đau xót

sôi nổi trong lòng” [18, 89].

Sự đau xót trƣớc cảnh ngộ của những ngƣời cùng khổ đã giúp cho

nhà văn có cái nhìn chiều sâu nhân bản. Tấm lòng ông luôn hƣớng về

những ngƣời cùng khổ, đói rét, đày đoạ, ánh mắt ông thấu hiểu sâu sắc hơn

nỗi cơ cực của những em bé, trong đó có chính bản thân ông. Sự đồng cảm

của ông với Nhân, với Mũn Đây bóng tối trong tình yêu thƣơng giản dị mà

nồng ấm tình ngƣời. Từ sự mang ơn của Nhân với Mũn về một “sự cố” ,

Mũn đã giúp Nhân hiểu ra rằng: “ Con bé xanh xao xác xơ kia, bằng sự

giúp đỡ đầy tình thương xót Nhân, đã cười lên tận cả mặt đám người mọi

rợ nọ, Nhân chỉ cảm thấy rằng Mũn, đứa con gái ấy là tốt”. Cũng từ hôm

86

ấy, Nhân đã dành cho Mũn những tình cảm rất chân thành: “Chẳng một

thức ăn gì Nhân không để dành cho Mũn. Thậm chí, những buổi ế chợ,

thím Nhân phải đưa bún chả về nhà ăn trừ bữa thì Nhân tìm đủ mọi cách

để giấu chả và bún đi. Một bữa, không thể bỏ túi được, không thể giả vờ ra

ngoài được, Nhân đành lừa sáu bảy miếng chả lại bát cuối cùng. Rồi đến

lần và cuối cùng Nhân ấn đầy cả vào mồm, nhai vờ vờ, nói xin vô phép.

Vừa ra khỏi cửa, Nhân ù té chạy đi tìm Mũn” [21, 65]. Trong cảnh sống cơ

cực, lam lũ đó vẫn có những tấm lòng tƣơi đẹp. Tình ngƣời trong Nhân toả

rạng xoá tan những tăm tối mà Mũn đang gánh chịu khi hoàn cảnh của bản

thân Mũn vô cùng khổ sở: “Mũn mồ côi cha mẹ, phải đi dắt thuê cho một

bà lão ăn mày, chẳng bao giờ được miếng ăn ngon, nên khi chìa tay đón

lấy những miếng thịt lẫn lộn cơm và nước dãi, thì Mũn ngây người ra nhìn

Nhân có vẻ cảm động lắm” [21, 67]. Tình cảnh đáng thƣơng và cảm động,

đúng nhƣ dân gian đã từng nói “một miếng khi đói bằng một gói khi no”,

miếng ăn ấy đã giúp Mũn hiểu hơn cái tình của Nhân và giúp Nhân nhận rõ

hơn nỗi bất hạnh của Mũn. Hai con ngƣời ở hai thế đối lập đã sẵn sàng chia

xẻ cho nhau niềm vui và hạnh phúc nho nhỏ “Mũn không ăn một mình, bắt

Nhân lại bụi cây gần đấy, xé tơi thịt ra đựng đầy bàn tay ép Nhân cùng ăn

chung” [21, 69].

Trong cái đói, cái nghèo là tấm lòng rực sáng của tình yêu thƣơng.

Giọng văn vừa dịu dàng vừa da diết, rất cảm động. Nguyên Hồng đã

cực tả nỗi đau đớn, đói khổ của chính bản thân. Ngƣời đọc xót thƣơng

trƣớc tình cảnh một cậu bé sống trong đói khổ, cô đơn ngay chính tại nhà

mình, giữa những ngƣời thân đằng nội đạng bị cả cuộc đời vùi dập với

tiếng kêu ai oán xót thƣơng, tiếng cầu cứu mẹ, tiếng lòng của một sự thèm

khát giữa đói khổ: “Giá ai cho tôi một xu nhỉ? Chỉ một xu thôi! Để tôi mua

xôi hay bánh khúc. Vừa đi vừa cắn, ngon xiết bao! Không! Không ai cho

tôi cả, vì người ta có phải mẹ tôi đâu!” [19, 134]. Cái đói cái khổ đeo bám

lấy một cậu bé nghe não lòng và đáng thƣơng. Tình cảnh của bé Hồng rất

87

đáng thƣơng và gợi nỗi xót xa trong lòng ngƣời.

Với giọng điệu chủ yếu: cảm thƣơng thống thiết, các tác phẩm của

Nguyên Hồng đã đi sâu vào lòng ngƣời đọc. Đọc văn Nguyên Hồng ta nhƣ

nhìn thấy từng trang đời thấm đẫm nƣớc mắt, tuy nhiên ở họ vẫn sáng lên

niềm lạc quan tin tƣởng vào tƣơng lai nên giọng văn nhiều khi sôi nổi.

Điều làm cho ngƣời đọc nhận ra một cách dễ dàng là giọng điệu

“thống thiết” của lời văn và niềm lạc quan tin tƣởng vào tƣơng lai. Giọng

điệu này đã đi liền với cấu trúc lời văn nghệ thuật của Nguyên Hồng, câu

văn của ông thƣờng mở rộng thành phần câu theo kiểu tăng cấp, liệt kê.

Các đoạn văn thƣờng đƣợc tổ chức theo kết cấu tầng tầng lớp lớp, kết cấu

theo kiểu lặp cấu trúc câu. Vì vậy, nhịp điệu câu văn của Nguyên Hồng

luôn nhịp nhàng, dồi dào cảm xúc, giàu chất thơ và dễ đi vào lòng ngƣời.

Cùng với giọng điệu thống thiết ấy là một niềm tin vào tƣơng lai nên

giọng văn sôi nổi thiết tha tràn đầy cảm hứng. Giọng điệu đi liền với cấu

trúc tầng tầng, lớp lớp của lời văn nghệ thuật. Sử dụng các biện pháp liệt kê

liên tiếp, dồn dập, tăng cấp theo kiểu lặp cấu trúc câu.

Nhà văn đã phát huy tối đa các biện pháp tu từ nghệ thuật mà chủ

yếu là các điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc dƣới nhiều dạng thức khác nhau.

Sử dụng nhiều độc thoại nội tâm để diễn tả tâm trạng.

Trong Những mầm sống nhà văn đã thể hiện niềm tin tƣởng vào

tƣơng lai, vào một cuộc sống tốt đẹp: “ một ai dầu hoài nghi đến đâu, khi

nhìn cái hình thức tối tăm, cằn cỗi và như thối nát của sự sống một phần

nhân loại lầm than chỉ là một cái vỏ mỏng sắp sửa đổ vỡ. Vì trong cái vỏ

ấy, bao nhiêu cái mầm sống nẩy nở , đã chin muồi, sắp nhỏm dậy, xé tung

sự trùm lấn, đè ép để tự do thở hít ánh sáng và khí trời, để được reo rắc

mênh mông” [ 30, 209].

Với Bỉ Vỏ, nhà văn đã xây dựng nhân vật Bính trong tận cùng đau

khổ, nhƣng Bính luôn tin tƣởng vào tƣơng lai, luôn hi vọng có một cuộc

sống tƣơi đẹp vì vậy cứ có cơ hội là Tám bính lại động viên Năm Sài Gòn

88

tìm đến con đƣờng hƣớng thiện. Bính chịu đựng mọi sự đau khổ, sự trà sát

của cộc sống cũng với một hi vong mong manh sẽ có ngày tìm lại đƣợc đứa

con. Đứa con – chính là động lực để Bính tìm về sự sống với khát vọng

luôn rực cháy, với niềm mong mỏi khắc khoải.

Truyện Hai nhà nghề là lời tâm tình của cậu bé Nhân với nghề nhào

lộn mua vui cho thiên hạ. Một nghề chơi nhƣng vô cùng nguy hiểm đến

tính mạng: “ Nhân Đen đi ngược bằng tay ba bốn lần chung quanh hè, lại

đến trồng cây chuối và nhào lộn trên mặt đất.

Nhân như không phải là người bằng xương mà toàn bằng gân bằng

thịt. lưng Nhân lại uốn cong như lưng tôm, hai chân Nhân lộn ngược về

đằng sau quặc lấy cổ, cánh tay Nhân như rắn vờn trên mặt đất.

Nhưng, Nhân Đen đã thở bằng tai sau hai trò nhào lộn trên trên hai

sợi dây thép. Nhảy xuống đất rồi mà Nhân còn quay tròn đi một vòng vì

mắt Nhân bắt đầu tia ra những đốm sáng, và hình như trong đầu Nhân, óc

dào dạt đập vào thành sọ.

Nhân phải nhắm nghiền mắt lại đứng lặng đi”...và cuộc sống dù khổ

sở phải cố gắng để kiếm miếng cơm nhƣng Nhân đã không dám lơi là công

việc “Đời sống cấm ngặt Nhân không được một giây nào chán nản và uỷ mị,

phải luôn luôn hoạt động và hớn hở như là ánh nắng tưng bừng nô giỡn trên

cây cỏ đầy nhựa mạnh của trời xuân”. [30, 200]. Tuy nhiên, Nhân đã phải

chật vật với nghề vì sống trong sự thờ ơ, vô cảm của con ngƣời. Dù thế Nhân

vẫn tự dặn mình phải biết tin tƣởng vào cuộc sống, thể hiện niềm lạc quan.

Cùng với nhân vật Nhân, là Huân trong Trăng thu, “Huân chui rúc

trốn tránh trong những xóm thợ, những căn buồng tối tăm, bẩn thỉu. Với

những con người bị những khổ sở vất vả đày đoạ” [30, 92]. Nhân vật trong

sáng tác của Nguyên Hồng đƣợc miêu tả ở các hoàn cảnh khác nhau nhƣng

dù tình huống nào cũng thật đáng thƣơng. Họ phải bƣơn chải trong cuộc

mƣu sinh mà vẫn đói nghèo, khổ cực. Các số phận, những mảnh đời dù bị

đẩy đến tận cùng của đói rét, lam lũ nhƣng ở họ vẫn sáng lên một niềm tin

89

vào tƣơng lai. Đây là đặc trƣng của ngòi bút Nguyên Hồng dù rơi vào vực

thẳm tăm tối nhƣng ông vẫn nhìn ra ánh sáng soi rọi và tin tƣởng vào cuộc

sống.

2.2 Cấu trúc tầng tầng lớp lớp theo mạch cảm xúc của lời văn nghệ thuật

Lời văn tự sự của Nguyên Hồng khi hƣớng tới chức năng thông tin

thƣờng dễ bị rối bởi lối viết câu dài, rƣờm rà khiến ngƣời đọc thấy thiếu

một sự sáng tỏ rạch ròi của tƣ duy, ý tƣởng. Nhƣng khi hƣớng tới chức

năng biểu cảm, câu văn Nguyên Hồng lại tỏ ra mạch lạc, sáng sủa để laị

nhiều dƣ âm, dƣ vị đó là những câu dài, thậm chí rất dài. Vì thế khi đọc tác

phẩm của Nguyên Hông ta thƣờng cảm thấy hơi nặng nề vì sự hơi “tham”

trong việc truyền tải thông tin. Nhiều khi cách kể chuyện của nhà văn hơi

lan man nhất là những đoạn hồi ức về quá khứ, những câu văn cƣờng điệu

khi mô tả nhân vật. Tuy nhiên, điều đó không làm giảm đi sự lôi cuốn của

các tác phẩm. Các tác phẩm của ông đã thể hiện năng khiếu bẩm sinh và là

trái tim tràn trề, sung mãn tình yêu với cuộc sống. Dƣờng nhƣ Nguyên

Hồng đặt bút viết câu nào là sự sống tích tụ từ lâu trong tâm hồn khoẻ

mạnh ấyđua nhau, chen nhau, xô đẩy nhau mà ra. Và đúng nhƣ Linh Thi đã

nhận định: “Câu văn Nguyên Hồng lúc nào cũng nhƣ con cá đang thở gấp,

lúc nào cũng quẫy cựa, phập phồng sự sống, lấp lánh sự sống”.

Nguyên Hồng thích và thành công khi đặt câu, dựng đoạn theo kiểu

văn trữ tình. Ông hay mở rông thành phần câu theo kiểu liệt kê, tăng cấp và

dùng nhiều thành phần đồng chức năng khiến cho câu văn của ông thƣờng

có tầng, có lớp, nhiều khi rƣờm rà, bừa bộn.

Các điệp từ, điệp ngữ đƣợc sử dụng trong văn Nguyên Hồng với

nhiều dạng thức khác nhau. Có khi là sự lặp lại một từ trong nội dung

thông báo hoặc trọng tâm cảm xúc để thể hiện tâm trạng của nhân vật.

Trong Đây bóng tối, Nhân đau xót thốt lên: “Mũn chết? Thế là hết! Đời

cha con Nhân thật hết cả chỗ nương tựa...hết cả mọi sự yên vui, mọi ánh

90

sáng, mọi hơi ấm” [30, 68] .

Lời văn của Nguyên Hồng chồng chất các yếu tố liệt kê. Mỗi yếu tố

đƣợc liệt kê làm cho sự vật, sự viêc, nhân vật, cảm xúc, tâm trạng hiện lên

rõ nét hơn, giúp cho nhà văn cụ thể hoá đƣợc đối tƣợng miêu tả phản ánh

trong lời văn. Có những đoạn văn nhờ yếu tố liệt kê đã góp phần hoàn

chỉnh bức chân dung nhân vật, hình ảnh của một ông lão tội nghiệp, đáng

thƣơng trong Con chó vàng là một ví dụ: “Tưởng ai, đó là ông lão đầu râu

bạc phếch, mắt mù, quần áo rách rưới, ôm trong lòng một cái bị, một cái

rá, có một tảng xôi đã khô, mấy miếng thịt gà gặm dở và một con chó vàng

ngồi dưới nách” [ 30, 99].

Đoạn văn của ông cũng thƣờng tổ chức theo kết cấu chồng tầng bằng

biện pháp liệt kê gián tiếp, dồn dập, tăng cấp theo kiểu lặp cấu trúc câu.

2.3. Các đoạn văn trữ tình ngoại đề

Trữ tình ngoại đề là một thuật ngữ văn học dùng để chỉ một hình

thức của ngôn từ tác giả. Trữ tình ngoại đề là một trong những yếu tố ngoài

cốt truyện; một bộ phận của ngôn ngữ ngƣời kể chuyện trong các tác phẩm

thuộc loại hình tự sự, trong đó tác giả hoặc ngƣời kể chuyệng trực tiếp bộc

lộ những tƣ tƣởng, tình cảm, quan niệm của mình đối với cuộc sống và

nhân vật đƣợc trình bày qua cốt truyện. Trong tác phẩm văn học, đoạn trữ

tình ngoại đề có thể là những đoạn văn, đoạn thơ xen vào giữa quá trình

diễn biến của các sự kiện và nhân vật trong cốt truyện, từ khi cốt truyện bắt

đầu đƣợc triển khai cho đến khi kết thúc. Các đoạn trữ tình ngoại đề là một

phƣơng tiện quan trọng giúp tác giả soi sáng thêm nội dung tƣ tƣởng của

tác phẩm; bộc lộ đầy đủ, tập trung hơn thái độ, sự đánh giá của mình đối

với nhân vật cũng nhƣ những quan niệm nhân sinh của mình. Qua tác phẩm

văn học nhất là truyện ngắn và tiểu thuyết, những đoạn trữ tình ngoại đề

đƣợc tác giả thể hiện trực tiếp những điều muốn nhắn gửi của mình đến

ngƣời đọc. Đây là một yếu tố rất thƣờng gặp và quan trọng.

Trong sáng tác của Nguyên Hồng, các đoạn trữ tình ngoại đề đƣợc

91

nhà văn xây dựng dƣới góc độ là ngƣời trần thuật bị chệch ra ngoài việc

miêu tả các sự kiện trong cốt truyện nhằm bình luận hoặc đánh giá về

chúng, hoặc về những điều khác, không trực tiếp gắn với hành động của tác

phẩm. Bởi vậy trong các tác phẩm các đoạn trữ tình ngoại đề mang tính

biểu cảm cao hơn hẳn so với quá trình trần thuật trong cốt truyện. Trữ tình

ngoại đề trực tiếp đi vào thế giới tƣ tƣởng, lý tƣởng của tác giả nhƣ một

ngƣời trò chuyện “tâm giao” với độc giả. Nguyên Hồng bắt đầu cuộc đời

sáng tác của mình bằng “một đôi mắt xanh non, bằng một cái nhìn rất độc

đáo, tươi mới trẻ trung” (Phan Cự Đệ) bởi vậy tác phẩm của Nguyên

Hồng, cảnh sắc bao giờ cũng lao xao, phấp phới, chói loà rực rỡ hoặc âm

vang. Dƣờng nhƣ cái sức sống tự bên trong tâm hồn nhà văn đang thôi

thúc, say sƣa, rạo rực, tha thiết, tin yêu đã in dấu lên mọi cảnh vật, mọi màu

sắc. Nó làm cho những cảnh sắc đó sôi động hẳn lên, rung lên, vang lên

mạnh mẽ. Văn Nguyên Hồng “ luôn luôn có nắng gió lao xao, phấp phới,

rực rỡ và một bầu trời trong xanh rất đẹp” (Phan Cự Đệ). Dƣờng nhƣ

thiên nhiên trong các sáng tác của Nguyên Hồng là một yếu tố trữ tình

không thể thiếu. Nó làm nền cho nhân vật hoạt động, bộc lộ tâm trạng, thể

hiện tính cách. Nó hoà quyện với đời sống tinh thần của con ngƣời, làm

đẹp thêm cuộc sống và cũng mang đậm cá tính, phong cách của nhà văn.

Những bức tranh thiên nhiên của Nguyên Hồng nổi bật ở những gam

màu sáng và sống động. Nguyên Hồng đƣa các yếu tố thiên nhiên vào tác

phẩm tựa nhƣ một quy luật tất yếu, tựa cỏ cây hƣớng về ánh sáng. Đọc văn

ông ngƣời đọc cảm nhận rõ một không gian tràn đầy ánh sáng, nắng ngập

tràn, gió lao xao. Nghiên cứu về vấn đề này, Nguyễn Đăng Mạnh đã có

những nhận xét xác đáng: “Dưới ánh nắng ấy, mọi cảnh vật ông mô tả đều

tươi tốt, nở nang, màu mỡ, tràn đầy sức sống”. Từ mảnh đất lấm lem bùn

đất, bụi bặm của phố phƣờng cảnh vật vẫn sinh sôi, nảy nở, không gian vẫn

tràn ngập ánh sáng, cuộc sống thật tƣơi đẹp, tác giả đã từng tâm sự trong

Bƣớc đƣờng viết văn của tôi: “ Tôi đi giữa lúc đường phố đang đông,

92

đang vui, đang đẹp. Đông vui, đẹp vì trời nắng và học trò đến trường. Cuối

thu, không còn thứ hoa xoan tây mà nhiều người làm thơ, làm văn và nhất

là học sinh thường gọi là phượng vĩ. Nhưng đã có nắng dưới trời mây

trong sáng rực rỡ. Nắng trong những chòm cây gió thổi phấp phới. Nắng

theo những màu áo, như những cánh bướm, của những học trò con gái.

Nắng qua những tủ kính bày các thứ mẫu len, dạ, nhung và các thứ áo.

Nắng chiếu những sách bày nghiêng trên những giá mạ kền lót mặt gương.

Và đẹp nhất là nắng trong những tiếng reo cười, tiếng guốc học trò, và

nắng trên giá bày các tiểu thuyết, truyện ngắn và thơ mới xuất bản đang

lừng tiếng” luôn gắn chặt với cảm xúc thiết tha, lúc nào cũng tràn trề trong

lòng Nguyên Hồng. Trong Những mầm sống, ánh nắng đƣợc miêu tả ở

nhiều sắc thái đem đến sức sống, sự sinh sôi, phát triển: “Ánh nắng mênh

mông tràn ngập. Đường nhựa sáng loé như giát bằng vàng diệp. Lá cây

rung lên, muôn vàn tia hào quang bay phấp phới. Các mái ngói, các ống

mảng, các cửa kính, các cửa hàng lấp lánh những ánh ngời ” và “ánh nắng

chói loà thêm hào quang ở các viền mây cẩm châu tia ra đốt hết những cái

vẩn đục của da trời pha lê xanh biếc. Những ánh ngời của gỗ, đá, thuỷ

tinh, đồng, sắt, kẽm và các vật màu tươi láng đã thấm hết những hơi ướt át

còn thấm lại của mùa đông. Những màng nước cuối cùng còn vương trong

các bụi cây cỏ và những dòng nước cống rãnh chảy ri rỉ đã bốc thành hơi,

đã tan trong không khí” [30, 208]. Một sự sống đang cựa quậy, căng tràn

vƣơn mình vƣợt qua những tối tăm, phiền muộn. Ngƣời đọc có thể nhận

thấy dƣờng nhƣ nắng không thể tĩnh lặng, “đứng im” mà nó phải vui tƣơi

“nhảy nhót” ra ngoài. Đó là cái nắng đƣợc cảm nhận dƣới con mắt của

chàng thanh niên khi mới 17 tuổi mặc dù bụng lúc nào cũng đói, nhà lo

chạy ăn từng bữa mà không gian thì vẫn rất vui tƣơi. Nắng vàng và gió

lộng thƣờng xuất hiện nhiều trong những trang văn của ông và có giá trị

tinh thần, mang ý nghĩa thẩm mỹ độc đáo. Một thứ nắng của vùng biển

lồng lộng, mênh mông, phấp phới. Một thứ nắng nhƣ có sức sống, có linh

93

hồn cũng nhƣ hoạt động sôi nổi của con ngƣời, thậm chí có lúc reo vang

hoà nhịp với cuộc sống tƣng bừng náo nhiệt của thành phố Hải Phòng rực

màu hoa phƣợng tháng năm. Tuy nhiên, ánh nắng cũng có khi góp phần

diễn tả tâm trạng, cảm xúc buồn của ngƣời trong cuộc, cũng có khi ánh

nắng làm lòng ngƣời bùi ngùi. Nhân trong Hai nhà nghề rất buồn đau khi

bị bội phản, khi công việc của bản thân “đến thời kỳ cùng mạt”, cũng là

ánh nắng ấy mà nghe xót xa: “ánh nắng vàng tươi đã hửng khắp bầu trời

không gợn một vết mây đen, rồi tràn ngập mênh mông khắp vùng quê yên

lặng trong những màng nước mong manh. Khi mặt trời lên cao và gió lồng

lộng tung cát lên thì đâu đâu cũng vang động. Từ cánh đồng bao la luôn

luôn rướn cao lên và cúi rạp xuống những ngọn lúa xanh rờn, từ những

chòm cây, những luỹ tre lấp lánh đều ngun ngút sinh khí, đều kêu gọi lòng

ham sống của con người” [30, 198]. Với Những ngày thơ ấu, hình ảnh cậu

bé Hồng với cảm xúc dâng tràn khi nhìn không gian của buổi hoàng hôn để

nghĩ về ngƣời mẹ vừa cảm thông vừa xót xa: “Những buổi chiều vàng lặng

lẽ, lạnh lẽo của mùa đông, những buổi chiều mà bụi mưa như có một tiếng

van lơn thầm thì trong hơi gió vi vu, lửa lò than rực rỡ vờn lên chân tường

những ánh hồng lấp lánh hay rủ rê tâm trí người ta vào những cõi buồn

nhớ là những buổi chiều làm tê tái mẹ tôi hơn hết” [19, 168]. Viết nên

những dòng chữ này, nhà văn phải rất nhạy cảm và thƣơng yêu mẹ mình,

một cảnh tƣợng buồn tê tái trƣớc sự hiu hắt của cảnh vật và lòng ngƣời.

Dƣờng nhƣ trong tập hồi kí rất xúc động này Nguyên Hồng đã lắng nghe

đƣợc những âm thanh sâu lắng của tâm hồn, ghi nhận đƣợc những cảm xúc

tinh tế từ bên trong để rồi diễn tả lại qua cái nhìn hồn nhiên, tƣơi sáng của

tuổi thơ khiến ngƣời đọc bồi hồi nhớ lại quãng thời thơ ấu của mình.

Trong các sáng tác của mình, khi Nguyên Hồng tả nắng thƣờng

mang những nét riêng, rất sinh động, rất tinh tế qua các từ ngữ biểu hiện

sắc thái khác nhau. Nắng có khi “phấp phới những bụi vàng bụi bạc”

(Những ngày thơ ấu), khi lại phơn phớt hồng “rắc phấn trên những mái

94

ngói xanh mốc rồi dần tan trong màu tàn hương của chiều tàn” (Tết của tù

đàn bà). Cũng có khi nắng chuyển đổi nhiều trạng thái “ánh vàng ngùn

ngụt. Cây cỏ chỉ gờn gợn vài xao động”; “Nắng vàng non đã bừng sáng.

Những chòm long não lá lăn tăn và những cụm cà phê um tùmbỗng ánh cả

lên với màu xanh tươi mọng nhựa”, và trên một dải sông nắng đã “bắt đầu

lấp lánh những gợn vàng”.

Nắng trong sáng tác của Nguyên Hồng nhƣ có linh hồn, có tâm

trạng, nhƣ cùng đồng hành với trái tim ngƣời nghệ sỹ. Sự có mặt của

những tia nắng có mối liên hệ trong tƣ tƣởng sáng tạo của nhà văn. Đó là

“những tia nắng nảy lửa” của mấy ngƣời tù đàn bà trong đề lao Nam Định,

hay những tia nắng chợt loé lên trong lòng Tám Bính, và “những tia sáng

dọi vào dòng đời tối tăm cháy nặng nề” của những dân nghèo thành thị

trong tác phẩm Hai mẹ con; và trong tâm trí Vịnh - Hàng cơm đêm nắng

đã thành cả “một nguồn ánh sáng rực rỡ bên một cuộc đời mới”. Thứ ánh

sáng nhƣ mê hoặc tâm hồn ham mê thanh sắc, nhân vật trữ tình đang đắm

mình trong những cảnh đẹp rực rỡ, quyến rũ của thiên nhiên, của một bầu

trời xanh trong bát ngát “với ánh nắng rực rỡ phấp phới trên các cành lá

óng ả, mượt nõn và những chòm xoan xanh tươi hứa hẹn màu thắm của các

vừng hoa đỏ” (Những ngày thơ ấu).

Thiên nhiên trong văn Nguyên Hồng nhƣ đƣợc trau chuốt, mài giũa

nên các đoạn văn trữ tình ngoại đề miêu tả thiên nhiên giúp ngƣời đọc cảm

nhận rõ hơn nó là một vật thể có hồn, trạng thái xúc cảm để nói hộ lòng

ngƣời. Tâm trạng bồi hồi xúc cảm của Huân trong Trăng thu mang sắc

thái nhẹ nhàng sau bao ngày phải chịu những đoạ đày, đau đớn trong các

nhà lao, anh thấy tâm hồn thanh thản:“Trăng đã lơ lửng trên một cành tre

ở đầu vườn. Lá tre rụng xào xạc. Ánh trăng xao xuyến. Mấy cụm hồng

bạch long lanh sương đón lấy làn bụi nước mong manh và ở vành trăng

rắc xuống, mát lạnh và thơm ngát. Dưới gốc hồng, những lùm tóc tiên mềm

mại như mớ len bạc. Và trên nền mây sáng biếc, những chòm cau phất phơ

95

như những chổi bện bằng lông bạc” [30, 204]. Cảnh tựa hồ bức tranh với

những gam màu nhẹ nhàng, thanh khiết khiến lòng ngƣời man mác buồn.

Cảnh sắc cũng nhƣ thay đổi theo trạng thái của con ngƣời:“Gió càng mạnh.

Khí lạnh đêm khuya càng thấm. Những mảnh lá chạy xào xạc trên mặt

đường chạy cả vào lòng tôi cùng với những âm thanh mơ hồ như của tiếng

chim rủ rỉ ở đâu đây - ánh điện dần phơn phớt xám. Soi sáng cho cảnh vật

vắng lặng chìm đắm lúc bấy giờ là hơi sương bàng bạc, hơi sương sữa một

đêm trăng nặng mây. Trong lòng tôi, tiếng lá lao xao không bao giờ tắt.

Giá buốt quá. Trong lòng tôi xác lá vụn mãi ra, nhiều bao nhiêu lại biến đi

nhanh bấy nhiêu. Tôi đi, mê man, với hình ảnh một đám ma tẻ lạnh không

kèn trống” [18, 188]. Đoạn văn tràn đầy cảm xúc trƣớc tình cảnh một đứa

trẻ 12 tuổi mất cha đã thể hiện những xúc cảm nội tâm mãnh liệt. Đôi khi

ngoại cảnh là yếu tố quan trọng góp phần diễn tả nỗi lo lắng mơ hồ: “Bên

ngoài, gió vẫn thỉnh thoảng rít lên. Đồng thời một loạt tiếng rào rào ướt át

nổi dậy rồi biến mất trong hoang vắng. Những âm thanh lạnh lẽo ấy càng

gợi ra trong trí tưởng tôi những lùm cây cối xay mềm, lả xô cuốn nhau để

thoát khỏi mặt cỏ lùng bùng và những khóm cải hoa, thìa là tơi bời vì đã

vùng vẫy để cũng như cố vượt ra khỏi khoảng vườn chật hẹp, gai góc và ứ

bùn cống rãnh kia” [30, 192].

Trong văn Nguyên Hồng ta thƣờng bắt gặp những hình ảnh đã để lại

những ấn tƣợng sâu sắc về các trang viết tràn đầy chất trữ tình thắm thiết.

Đó là tâm hồn của một chàng thanh niên trẻ tuổi, dễ xúc động, của một tinh

thần lạc quan mãnh liệt. Bên cạnh đó cũng là những trang viết tràn ngập

cảm xúc bồi hồi, để lại những ấn tƣơng sâu sắc. Trong Bỉ vỏ, khi Bính phải

dứt tình máu mủ ra đi trong tâm trạng lo âu: “Bấy giờ trăng thu vừa mới hé

ra khỏi dải mây chì toả xuống những chòm cây một làn ánh sáng như hơi

suơng phảng phất. Đường xá vắng vẻ ít người qua lại. Hai bên hè lả lướt

những cây xoan lăn tăn lá, rào rào trước gió lạnh thổi từng cơn dài” không

gian đầy ám ảnh, u buồn nhƣ dự báo về một tƣơng lai tăm tối của Bính

96

“Bính chợt nghĩ tới ngày mai, tới một sự sống ở một nơi xa lạ” [ 30, 30].

Và dự cảm ấy đã len lỏi vào tâm trí Bính “Đường vắng vẻ quá, gió thổi lào

xào trong những bụm cỏ lù mù, vành trăng lại bị mây đen che đi” [30, 31].

Ngoài phố “những cây bàng cao to đẫm bóng tối, dán xuống đường

những bóng lá đen sẫm”; phố xá vắng vẻ với những bóng ngƣời đi lại lặng

lẽ, thƣa thớt và trong cái tĩnh mịch của phố quê ấy “thỉnh thoảng tiếng rao

phở phào lên rồi mất trong sương khuya”. Trong Buổi chiều xám, sự cảm

nhận của nhân vật về không gian của một buổi chiều ảm đạm đƣợc diễn tả

theo mạch cảm xúc, tâm lí “Trên đầu Xan, mây chì càng thấp xuống, và,

chung quanh Xan, cảnh vật càng thẫm lại. Gió thổi mạnh hơn. Bụi đường

cùng lá cây cuốn lên thành từng đám dày, chạy rào rào và quằn quại như

những chim chóc chạy trốn trước cơn bão” [30, 159].

Những sợ hãi vẫn bủa vây và bao bọc chị bởi những âm thanh ghê

rợn, những hình ảnh hãi hùng “Gió vẫn gào thét...sóng càng ầm ầm xô đẩy

vào bờ...tiếng sét luôn rung động sông núi sau những làn chớp nhoàng vụt

xé từng mây.

Đâu đâu cũng náo động! Đâu đâu cũng mịt mùng! Đâu đâu cũng

lăm le những cái khủng khiếp gieo tai vạ chó tất cả nhân loại chen chúc

nhau để kiếm sống. Tạo vật đã phô bày tất cả những sức mạnh hằn học,

giận giữ vô lương trong khoảng đêm đông tăm tối này”[30, 152].

Đan xen giữa mạch truyện là các dòng trữ tình ngoại đề tràn đầy chất

trữ tình thắm thiết dẫn dắt ngƣời đọc vào thế giới tự nhiên với cảnh sắc của

nắng, của gió, của trăng, của cỏ cây hoa lá...một không gian sinh động giúp

cho sự vận động của mạch truyện thêm sinh động, hấp dẫn. Đây chính là thể

hiện tài năng của ngƣời trần thuật làm cho mạch truyện không bị gò bó trong

khuôn khổ câu chuyện, không bị nặng nề bởi các tình tiết, sự kiện mang tính

tự sự. Trong văn Nguyên Hồng các đoạn văn trữ tình còn thể hiện tâm hồn

lãng mạn, một tinh thần lạc quan xuất phát từ bản tính yêu đời, yêu cuộc

97

sống, yêu nhân dân lao động đã thấm sâu vào máu thịt vào tâm hồn ông.

Điều này càng góp phần khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của một con ngƣời bao

giờ cũng sống hết mình vì cuộc sống, vì những ngƣời xung quanh.

KẾT LUẬN

Nguyên Hồng đƣợc mệnh danh là Goorki của Việt Nam, là “nhà văn

của những người cùng khổ”, đây là lời nhận xét vô cùng xác đáng vì cả hai

nhà văn gắn bó với cuộc sống cực khổ của những phu phen, thợ thuyền vì

vậy cả hai nhà văn trong công cuộc lao động nghệ thuật của mình cả hai

ông suốt đời viết về tầng lớp đáy của xã hội. Đó là những ngƣời nghèo khổ,

bất hạnh, đặc biệt là những ngƣời phụ nữ và trẻ em, phần lớn họ là những

ngƣời không có sức chống đỡ nên đành phó thác cho số phận mình. Điều

này có lẽ một phần cũng xuất phát từ cuộc sống khổ cực của bản thân hai

nhà văn có cùng cảnh ngộ ngay từ tuổi ấu thơ đã phải chấp nhận cuộc đời

lam lũ. Với Nguyên Hồng, ngay từ nhỏ đã chứng kiến cuộc sống địa ngục

ngay chính trong ngôi nhà mình. Khi trƣởng thành phải tự lần mò đi tìm sự

sống thì lại phải lăn lộn trong môi trƣờng sống bó buộc thân phận với

những ngƣời khốn khổ thuộc tầng lớp đáy của xã hội nhƣ kẻ ăn mày, ăn

xin, lƣu manh, trộm cắp, gái điếm...Cuộc sống ấy đã tạo cho ông một vốn

sống phong phú, một sự thấu hiểu đến tận chân tơ kẽ tóc những cực khổ

đoạ đầy của kiếp ngƣời và cũng từ đó nó đi vào văn ông một cách tự nhiên

98

không cần gọt giũa mà là hiện thực thật nhƣ chính bản thân cuộc sống, để

từ đó ông đồng cảm và dành cho nhân vật của mình những dòng tâm huyết

nhất, nóng bỏng nhất và tràn đầy tấm lòng trân trọng.

Nguyên Hồng là một trong những đại diện xuất sắc nhất của nền văn

học hiện thực tiến bộ Việt Nam. Những tác phẩm đầu tay Linh hồn, Bỉ vỏ,

Những ngày thơ ấu, Sông máu, Hơi thở tàn ...đó là những văn bản tiểu

biểu cho sáng tác của Nguyên Hồng trƣớc cách mạng thánh Tám đã bộc lộ

tài năng hiếm có ở Nguyên Hồng.

Gần 50 năm cầm bút, Nguyên Hồng đã đứng về phía những ngƣời

lao động nghèo khổ để đồng cảm và xót thƣơng. Trong các sáng tác của

ông bao giờ cũng là sự nồng ấm xót thƣơng cho những cuộc đời lam lũ.

Dƣờng nhƣ nhà văn đã dành những gì quý báu nhất để gửi gắm vào những

trang viết chứa chan tâm huyết. Không phải ngẫu nhiên ông đƣợc coi là

“nhà văn của những xóm thợ”, “nhà văn của những người cùng khổ”,

“nhà văn của những kiếp người dưới đáy”, “Gorki của Việt Nam” bởi khi

đọc văn ông ta nhận ra những con ngƣời hiền lành, giản dị, đôn hậu nhƣng

lại phải chịu một kiếp sống cơ cực, lầm than. Nhà văn đã dùng con mắt của

một nhà nhân đạo, của một ngƣời trong cuộc để tái hiện lại cuộc sống của

những con ngƣời “dưới đáy”, cặn bã, cùng khổ; bênh vực và xót thƣơng.

Tấm gƣơng sáng ngời mà Nguyên Hồng để lại cho để lại cho đời là lao

động quên mình cho nghệ thuật, là chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc đối với số

phận, cuộc đời đắng cay bi thảm. Âm hƣởng chủ đạo xuyên suốt toàn bộ

sáng tác của Nguyên Hồng là sự đồng cảm trƣớc những số phận đau

thƣơng, dƣờng nhƣ bất kể trang văn nào của Nguyên Hồng cũng là cuộc

đời thật của ông ẩn khuất đâu đó. Bởi vậy dù nhà văn trần thuật ở ngôi nào

ta cũng nhận ra con ngƣời nhà văn nằm trong ngay văn bản, một cái nhìn

yêu thƣơng, thiết tha với nhân vật chứ không phải là nhân chứng. Với vai

trò là ngƣời kể chuyện dù ở ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba ông cũng đều thể

hiện cái nhìn nhân bản, tác phẩm của ông luôn làm thức tỉnh tình yêu

99

thƣơng giữa con ngƣời với con ngƣời. Nhà văn đã thấu hiểu những nỗi đau

của nhân vật, bởi vậy khi miêu tả và phân tích tâm lý nhân vật trong tâm tƣ,

trong suy nghĩ ông đã đi sâu khai thác từng nét diễn biến hết sức tinh vi.

Đọc văn Nguyên Hồng ngƣời đọc khó lòng quên đƣợc cái giọng văn thiết

tha, sôi nổi, cuồn cuộn cảm xúc và đặc biệt dù rơi vào hoàn cảnh bế tắc

nhƣng những nhân vật trong sáng tác của Nguyên Hồng bao giờ cũng

hƣớng tới tƣơng lai, có niềm tin vào cuộc sống; đây chính là điều khác biệt

với các nhà văn hiện thực đƣơng thời. Trong văn Nguyên Hồng, ông không

cần dụng công mài giũa chỉ dùng ngôn ngữ của đời thƣờng, của đời sống

thợ thuyền mà khi đọc văn ông ai ai cũng phải xót thƣơng, rơi lệ, ngƣời đọc

nhận ra ngƣời kể chuyện dù ở bất kể ngôi vị nào cũng đều toát lên tấm lòng

nhân đạo, bác ái.

Cả cuộc đời Nguyên Hồng là sự cống hiến với một sự nghiệp lớn,

con ngƣời tận hiến ấy đã để lại cho nghệ thuật chân chính của dân tộc

những giá trị bền vững. Sáng tác của ông là những trang văn trang đời bằng

chính thế giới quan của con ngƣời xuất thân từ tầng lớp nhân dân dƣới đáy

của xã hội bần cùng, cực khổ nên ông viết nên tác phẩm mà không cần

dụng công vẫn gây nhiều xúc động bởi nhà văn đã thấu hiểu, cảm thông và

chia xẻ với những con ngƣời cùng cảnh ngộ. Dƣới góc nhìn ấy, giá trị văn

chƣơng của Nguyên Hồng thật hơn và sâu sắc hơn. Nghệ thuật trong sáng

tác của Nguyên Hồng là chất bùn đen mà vẫn trong sáng bởi đó là thứ nghệ

thuật chân thực nhất, mỗi tác phẩm của ông tựa những mảnh ghép của cuộc

100

sống ở đâu đó xung quanh hiện thực xã hội Việt Nam trƣớc Cách mạng.

DANH MỤC VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO.

1. Lại Nguyên Ân, 150 thuạt ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003.

2. Lại Nguyên Ân, Văn học và phê bình, Nxb Tác phẩm mới, 1984.

3. Phan Huy Dũng, Tác phẩm văn học trong nhà trường phổ thông một

góc nhìn, một cách đọc, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2009.

4. Phan Cự Đệ chủ biên, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục Hà

Nội, 2004.

5. Phan Cự Đệ, Con người Nguyên Hồng – Hải Phòng với Nguyên Hồng

và Nguyên Hồng với Hải Phòng – Nxb Hải Phòng, 1986 .

6. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hƣợu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành

Khung, Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức, Văn học Việt Nam 1900 – 1945,

Nxb Giáo dục, Hà Nội 2004.

7. Phan Cự Đệ (T. chọn), Tuyển tập Nguyên Hồng , Tập 1, Nxb Văn học,

Hà Nội, 2000.

8. Phan Cự Đệ (T. chọn), Tuyển tập Nguyên Hồng , Tập 2, Nxb Văn học,

Hà Nội, 2000.

9. Phan Cự Đệ (T. chọn), Tuyển tập Nguyên Hồng , Tập 3, Nxb Văn học,

101

Hà Nội, 2000.

10. Phan Cự Đệ, Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tập II, Nxb Đại học và

Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1975.

11. Nguyễn Đăng Điệp, “Đặc sắc hồi kí Nguyên Hồng”, Nguyên Hồng

tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội 2001.

12. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn

học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997.

13. Nguyễn Văn Hào, Sự thể hiện con người trong tác phẩm Nguyên

Hồng trước cách mạng, Nxb Văn học, Hà Nội, 1976.

14. Đỗ Đức Hiểu, Thi pháp hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000.

15. Tô Hoài, Tính cách Nguyên Hồng – Những gương mặt, Nxb Hội nhà

văn HN, 1995

16. Nguyên Hồng, Bước đường viết văn, Nxb Văn học, Hà Nội, 1970.

17. Nguyên Hồng, Những nhân vật ấy đã sống với tôi, Nxb Tác phẩm

mới, Hà Nội, 1978.

18. Nguyên Hồng, Bỉ vỏ, Nxb Hải Phòng, 1982.

19. Nguyên Hồng, Bỉ vỏ - Những ngày thơ ấu, Nxb Lao động, Hà Nội, 1982.

20. Đào Duy Hiệp, Phê bình văn học từ lí thuyết hiện đại, Nxb Giáo dục, 2008.

21. Đinh Gia Khánh (chủ biên) Tổng tập Văn Học Việt Nam, Nxb Khoa

học Xã hội, Hà Nội, 1997.

22. Thạch Lam, Đọc những ngày thơ ấu, Nxb Hải Phòng, 1997.

23. Kim Lân, Nguyên Hồng một nhà văn, Tạp chí Văn học, số 15, 1982.

24. Phƣơng Lựu (chủ biên), Lý luận văn học, Tập 1, Nxb Đại học Sƣ

phạm, Hà Nội, 2002.

25. Nguyễn Đăng Mạnh, Vài suy nghĩ về chỗ mạnh và chỗ yếu của tiểu

thuyết Nguyên Hồng, Tác phẩm mới, số 5, 1970.

26. Nguyễn Đăng Mạnh, Nhà văn, tư tưởng và phong cách, Nxb Giáo dục

Hà Nội, 1983.

27. Nguyễn Đăng Mạnh – Chu Văn Sơn, Nguyên Hồng, con người và sự

102

nghiệp, Nxb Hải Phòng, 1988.

28. Nguyễn Đăng Mạnh, Lịch sử Văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà

Nội, 1991.

29. Nguyễn Đăng Mạnh, Nhà văn tƣ tƣởng và phong cách, Nxb Giáo dục,

Hà Nội, 1983.

30. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên), Tổng tập văn học Việt Nam, tập 33,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000.

31. Nguyễn Đăng Mạnh, Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà

văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1996.

32. Nguyễn Đăng Mạnh, Dẫn luận nghiên cứu tác giả văn học, “ Thương

tiếc nhà văn Nguyên Hồng”, Trƣờng ĐHSPI Hà Nội, 1993.

33. Nguyễn Ánh Ngân, Nguyên Hồng tấm lòng qua những trang viết,

Nxb Văn hóa thông tin, 2002.

34. Vũ Ngọc Phan, Nguyên Hồng - Nhà văn hiện đại, Tập 2, Nxb Văn

học, Hà Nội, 1998.

35. Trần Đình Sử, Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học

Quốc gia, Hà Nội, 2005.

36. Lê Hữu Tỉnh – Nguyễn Trọng Hoàn, Nguyên Hồng – con người và

giai thoại, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998.

37. Khái Vinh, Nguyên Hồng nhà văn của những người lao động, “Vì một

nền văn học thuộc về nhân dân lao động”, Nxb Lao động, Hà Nội, 1974.

38. Tạp chí Văn học , “Cảm hứng chủ đạo và những xung đột nghệ thuật

cơ bản trong văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945”, 2001.

39. Triết học Mac – Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2008.

40. Từ điển thuật ngữ văn học, nhà xuất bản Giáo dục, H, 1992.

41. Tục ngữ, thành ngữ, ca dao, dân ca, Nxb Văn hoá dân tộc, H, 1999.

42. Nguyễn Thu Hà, Hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết và truyện

ngắn của Nguyên Hồng trước cách mạng, Khoá luận tốt nghiệp, ngành

103

Văn học, khoa Ngữ Văn, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

43. Nguyễn Thu Hà, Tìm hiểu những đặc điểm nghệ thuật trong truyện ngắn

và tiểu thuyết của Nguyên Hồng trước cách mạng, Luận văn thạc sĩ khoa

học, khoa Ngữ Văn, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

44. Nguyễn Thị Hƣơng, Bước chuyển biến của tiểu thuyết Nguyên Hồng

sau cách mạng, Luận văn tốt nghiệp khóa 25, khoa Ngữ Văn, Đại học

Tổng hợp, Hà Nội, 1984.

45. Bùi Thị Quỳnh Nga, Tìm hiểu sự ảnh hưởng của Đạo Thiên Chúa đến

một số sáng tác Nguyên Hồng trước cách mạng, Khoá luận tốt nghiệp,

sƣ phạm Ngữ văn, 2006.

46. Trần thị Xuân Mai, Cảm quan tôn giáo trong sáng tác của Nguyên

Hồng, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Trƣờng Đại học Vinh, 2011.

47. Hà Vinh, Tiểu thuyết “Cửa biển” và những bước tiến của Nguyên

Hồng, Luận văn tốt nghiệp, khoa Ngữ Văn, `Đại học Tổng hợp, Hà

Nội, 1976.

48. Trần Thị Thanh Yến, Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyên

Hồng trước cách mạng tháng Tám 1945, Luận văn thạc sĩ chuyên

ngành Văn học Việt Nam, khoa Ngữ Văn, Đại học Khoa học xã hội và

Nhân văn, Hà Nội, 2011.

49. Côginốp, Nguồn gốc của tiểu thuyết, Tƣ liệu dịch của khoa Ngữ văn,

Đại học Tổng hợp, Hà Nội.

50. M.B. Kharapchenko, Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển

văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội, 1978.

51. M. Go rki, Bàn về văn học, Tập II, Nxb Văn học, 1965

104

52. TZVETANTODOV, Thi pháp văn xuôi, Nxb Đại học Sƣ phạm, 2004.