ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
VŨ THỊ MINH TRANG
NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN NGUYỄN CÔNG HOAN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Phan Trọng Thƣởng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Thái Nguyên, năm 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn của
PGS.TS. Phan Trọng Thưởng. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn này là trung
thực và chưa từng công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Vũ Thị Minh Trang
LỜI CẢM ƠN
Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, tác giả luận văn xin chân thành
cảm ơn PGS.TS. Phan Trọng Thưởng - người đã tận tình hướng dẫn, động viên và
giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy, cô giáo khoa Ngữ
văn, khoa Sau đại học, cán bộ phòng Quản lý khoa học trường Đại học Sư phạm –
Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt quá trình học
tập, nghiên cứu tại trường.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Thư viện trường Đại học Sư phạm - Đại học
Thái Nguyên, Trung tâm học liệu và Thư viện Quốc gia Hà Nội đã giúp đỡ tác giả
trong suốt thời gian thực hiện luận văn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn những nhận xét, đánh giá, góp ý quý báu của
Hội đồng khoa học đánh giá luận văn.
Cuối cùng tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã động
viên, quan tâm, chia sẻ và tạo điều kiện giúp tác giả hoàn thành tốt luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 7 năm 2015
Tác giả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Vũ Thị Minh Trang
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan ..................................................................................................................i
Lời cảm ơn .................................................................................................................... ii
Mục lục ........................................................................................................................ iii
Mở đầu ........................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NGUYỄN CÔNG HOAN TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC VIỆT
NAM HIỆN ĐẠI ........................................................................................................ 13
1.1. Tiểu sử và quá trình sáng tác ............................................................................ 13
1.2. Đóng góp của Nguyễn Công Hoan trên phương diện thể loại ......................... 20
1.3. Đóng góp của Nguyễn Công Hoan trên phương diện nội dung ....................... 25
Chƣơng 2: NGUYỄN CÔNG HOAN - BẬC THẦY VỀ NGHỆ THUẬT VIẾT
TRUYỆN NGẮN ........................................................................................................ 32
2.1. Cốt truyện ......................................................................................................... 32
2.1.1. Khái niệm "cốt truyện" .................................................................................. 32
2.1.2. Các đặc điểm cốt truyện truyện ngắn Nguyễn Công Hoan ........................... 32
2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .......................................................................... 44
2.2.1. Khái niệm "nhân vật" .................................................................................... 44
2.2.2. Số lượng và thành phần ................................................................................. 46
2.2.3. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật ........................................................ 47
2.2.4. Nghệ thuật miêu tả hành động nhân vật ........................................................ 53
2.3. Nghệ thuật trần thuật ........................................................................................ 60
2.3.1. Điểm nhìn trần thuật ...................................................................................... 60
2.3.2. Giọng điệu trần thuật ..................................................................................... 62
2.3.3. Ngôn ngữ trần thuật và nhịp điệu trần thuât .................................................. 67
Chƣơng 3: PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT NGUYỄN CÔNG HOAN ............. 71
3.1. Giới thuyết về phong cách ................................................................................ 71
3.2. Nét độc đáo về phong cách Nguyễn Công Hoan ............................................. 72
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
3.2.1. Tư tưởng nghệ thuật - quan niệm về hiện thực và con người ....................... 72
3.2.2. Ngôn ngữ ....................................................................................................... 74
3.2.3. Lối kể chuyện, dẫn truyện ............................................................................. 79
3.2.4. Sử dụng đậm đặc các thủ pháp nghệ thuật .................................................... 83
3.3. Những yếu tố tạo nên phong cách Nguyễn Công Hoan ................................... 88
3.3.1. Tài năng của bản thân .................................................................................... 88
3.3.2. Môi trường gia đình, xã hội ........................................................................... 90
3.3.3. Thế giới quan của nhà văn ............................................................................. 91
3.3.4. Ý thức kế thừa truyền thống .......................................................................... 92
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 95
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 97
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nguyễn Công Hoan là nhà văn thuộc lớp kỳ cựu. Ông sáng tác ngay từ
buổi binh minh của nền văn xuôi "Quốc ngữ" - khi mà văn xuôi "Quốc ngữ" còn đang
chập chững những bước đi đầu tiên. Ông cũng là cây bút tiêu biểu và xuất sắc của trào
lưu văn học hiện thực phê phán Việt Nam trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945 đồng
thời là một trong những người đặt nền móng cho nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Sáng
tác của ông đã góp phần quan trọng vào sự phát triển mạnh mẽ của văn xuôi dân tộc
trong thời kì đang trên đường hiện đại hóa hết sức khẩn trương. Nhà văn Tô Hoài khi
đánh giá về sự nghiệp văn chương, về vị trí của Nguyễn Công Hoan trong tiến trình
lịch sử văn học dân tộc đã viết: "Nếu ta nhẩm từ cái hồi mà lời văn bổng trầm khóc
đứng khóc ngồi đến thời kì văn chương sạch sẽ kiểu Tự Lực thì lực lưỡng như một tay
đô vật không có địch thủ, từ Kiếp hồng nhan đến nay, truyện ngắn, truyện dài Nguyễn
Công Hoan sừng sững tạo thành một cái thế Tam Đảo, Ba Vì hùng vĩ, vượt qua hai
thời kì tiến vào Cách mạng tháng 8..." (Người bạn đọc ấy). Các sáng tác của Nguyễn
Công Hoan không chỉ chiếm được cảm tình, sự quan tâm, yêu mến của bạn đọc lúc bấy
giờ mà còn cho đến tận ngày nay nó vẫn còn nguyên sự lôi cuốn đó.
Nguyễn Công Hoan là nhà văn có một nguồn cảm hứng dồi dào, một sự
nghiệp sáng tác hết sức đồ sộ. Cả cuộc đời viết văn gần 60 năm, ông đã để lại cho nền
văn học Việt Nam hơn 200 truyện ngắn, gần 30 truyện dài và nhiều bài nghiên cứu
phê bình văn học nghệ thuật, cùng với những tập hồi ức, tự sự mang dấu ấn lịch sử
của thời đại mà ông sống. Mặc dù sáng tác nhiều thể loại khác nhau nhưng thể loại
thành công hơn cả, ghi dấu tên tuổi của ông trong nền văn học dân tộc lại là thể loại
truyện ngắn. Nói đến Nguyễn Công Hoan người ta thường nhớ đến một bậc thầy về
thể loại truyện ngắn.
1.2. Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan mở ra trước mắt người đọc một thế giới
nghệ thuật mới lạ. Với cách thể hiện tài tình của mình, ông đã vẽ lên một bức tranh
hiện thực nhiều màu, nhiều vẻ của cái xã hội thực dân nửa phong kiến lố lăng, kệch
cỡm, đầy bất công, ngang trái. Ngòi bút của Nguyễn Công Hoan hướng tới mọi loại
1
người thuộc mọi tầng lớp khác nhau trong xã hội: từ bọn địa chủ, quan lại, bọn tư sản,
nhà giàu đến những người thuộc tầng lớp nhà nho lỗi thời và những người dân lao
động nghèo khổ.
Nguyễn Công Hoan được coi là "cây bút bậc thầy", "một tài năng lớn" về
nghệ thuật viết truyện ngắn. Nhà nghiên cứu Xô Viết N.Niculin đã từng nói: "chính
trong loại truyện ngắn trào phúng đó, thiên tài xuất sắc của nhà văn mới được nảy
nở hết sức mạnh mẽ". Đọc truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan ta thấy nhà văn đã
xây dựng và khẳng định được một phong cách riêng của mình. Truyện ngắn của ông
không giống với truyện ngắn của Thạch Lam chứa đầy chất thơ ngay trong chính
cuộc sống hàng ngày, nhẹ và thấm; cũng không giống với truyện ngắn Nam Cao quá
đỗi chân thực mà ta tưởng như đó chỉ là cuộc đời thực không hề hư cấu nhưng lại
mang ý vị triết lí sâu xa... Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan thuộc loại hồn nhiên, mặn
mà, có cái hóm hỉnh thông minh của một trí thức tiểu tư sản. Tiếng cười trào phúng
trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan không thuộc loại nhẹ nhàng, thâm trầm mà
thường giòn giã, sảng khoái ném thẳng vào mặt kẻ thù. Cho đến nay, nghệ thuật
truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan vẫn luôn được các nhà nghiên cứu, phê bình, các
độc giả thế hệ sau quan tâm tìm hiểu.
Trong sáng tác văn học, nghệ thuật là một yếu tố vô cùng quan trọng. Chính
nghệ thuật cùng với nội dung đã làm lên tác phẩm văn học của nhà văn. Nghệ thuật là
toàn bộ những yếu tố về mặt hình thức của tác phẩm như là cốt truyện, kết cấu, nhân
vật, lời văn, các biện pháp nghệ thuật... Nghệ thuật chính là cái để nhà văn thể hiện,
truyền tải nội dung tác phẩm. Nghệ thuật quyết định việc nội dung tác phẩm ấy - cái
hiện thực mà nhà văn muốn thể hiện có gây được ấn tượng mạnh, sâu sắc trong lòng
người đọc hay không và tác phẩm đó có sống mãi với thời gian được hay không. Đọc
truyện của Nguyễn Công Hoan ta thấy nhà văn rất chú ý đến vấn đề: làm thế nào để
xây dựng được một nghệ thuật độc đáo nhằm có thể truyền tải được những nội dung
mà mình muốn thể hiện một cách có hiệu quả nhất. Có thể nói, chính nghệ thuật đã
làm nên thành công về thể loại truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan.
1.3. Trong khoa học giáo dục Việt Nam, Nguyễn Công Hoan là một trong số
những tác giả tiêu biểu được đưa vào chương trình giảng dạy ở nhà trường, đặc biệt là
2
trong chương trình của bậc cao đẳng và đại học. Thực hiện đề tài này, chúng tôi
mong muốn có thể đóng góp một cách đọc - hiểu mới tác phẩm của nhà văn Nguyễn
Công Hoan nói riêng cũng như tác phẩm của các nhà văn khác nói chung. Điều này
góp phần bổ sung và làm mới cách thức tiếp cận văn học cũng như công tác giảng
dạy của chúng tôi trong nhà trường. Đó là khi tiếp cận một tác phẩm của một nhà văn,
ta không chỉ tiếp cận từ phương diện nội dung mà còn cần thiết phải tiếp cận từ
phương diện nghệ thuật của tác phẩm. Với hướng tiếp cận tác phẩm văn chương từ
phương diện nghệ thuật sẽ giúp cho chúng ta hiểu sâu sắc hơn về tác phẩm, từ đó
nhận ra phong cách, cá tính sáng tạo của nhà văn.
Đó là những lí do khiến chúng tôi quyết định chọn đề tài "Nghệ thuật truyện
ngắn Nguyễn Công Hoan trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945", nhằm tìm ra nét đặc
trưng trong phương diện nghệ thuật, thể hiện sức sáng tạo và sự khác biệt của Nguyễn
Công Hoan so với các nhà văn khác.
2. Lịch sử vấn đề
Ngay từ khi những truyện ngắn đầu tiên mới ra đời, nó đã gây được sự chú ý
của dư luận. Đặc biệt là sau khi tập truyện Kép Tư Bền được xuất bản năm 1935 thì
truyện ngắn của ông càng được giới nghiên cứu quan tâm, chú ý. Từ đó đến nay đã có
rất nhiều công trình nghiên cứu, tìm hiểu, đánh giá về nội dung - nghệ thuật của
truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, trong đó những công trình nghiên cứu về nghệ thuật
chiếm số lượng chủ yếu. Sau đây là một số nhận định, đánh giá mà chúng tôi thống
kê được có liên quan đến nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Công Hoan trước Cách
mạng. Các tài liệu, nhận định này được chia làm 2 giai đoạn:
2.1. Giai đoạn trƣớc cách mạng tháng 8
Năm 1932, Trúc Hà trong bài "Một ngọn bút mới" đã khá tinh vi khi nhận ra
giọng văn mới mẻ pha chút hài hước của Nguyễn Công Hoan: "văn ông có cái hay, rõ
ràng, sáng sủa, thiết thực, hơi văn nhanh và gọn, lời văn hàm một giọng trào phúng -
lại thường hay đệm một vài câu hoặc một vài chữ có ý nghĩa khôi hài bông nhơn thú
vị" [20, tr.47].
Năm 1935, Trần Hạc Đình khi phê bình Kép Tư Bền in trên báo Bắc Hà tháng
8 đã viết: "Cái biệt tài viết tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan chỉ có ở trong truyện
3
ngắn. Nguyễn Công Hoan là nhà văn ưa tả, ưa vẽ cái xấu xa, hèn mạt, đê tiện của
một hạng người xưa nay vẫn đeo cái mặt lạ giả dối. Ông không hề có tỉ mỉ, lôi thôi
như phần nhiều các nhà văn tả chân. Vậy mà từ một lời nói, từ một cử chỉ của những
nhân vật trong truyện đều như chép nguyên sự thực. Ông làm sống một cách sinh
động những nhân vật" [15, tr.40].
Cũng trong năm này trước những ý kiến khen chê trái ngược nhau thì phái
Nghệ thuật vị nhân sinh, tiêu biểu là Hải Triều đã đánh giá rất cao nội dung hiện thực
và giá trị nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan. Hải Triều đã tỏ ra rất
nhạy cảm trong việc cảm thụ nghệ thuật gây cười của nhà văn: "với những câu văn
rất thành thực, chắc chắn, hý hởn, ngộ nghĩnh, nhiều khi cục cằn, thô bỉ nữa" và "Cái
chủ trương nghệ thuật vị nhân sinh của tôi ngày nay đã được biểu hiện rõ bằng
những bức tranh rất linh hoạt dưới ngòi bút tài tình của nhà văn Nguyễn Công
Hoan" [58, tr.277].
Phái Nghệ thuật vị nghệ thuật mà đại diện là Hoài Thanh cũng khen truyện
ngắn Nguyễn Công Hoan. Đặc biệt là khi nói về nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn
Công Hoan ông viết: "Tài nghệ của nhà văn là ở cách kể chuyện. Nguyễn Công
Hoan đã khéo lấy những điều quan sát có ý vị lắp vào những cốt truyện không có
gì. Đó là cái đặc sắc của ông" và "Tài quan sát của Nguyễn Công Hoan trước sau
không thay đổi mấy nhưng nghệ thuật của ông thay đổi rất nhiều" [57, tr.265-
268]. Cùng với Hoài Thanh thì Thiếu Sơn trong "Phê bình Kép Tư Bền của
Nguyễn Công Hoan" cũng đã đánh giá cao nghệ thuật viết truyện của Nguyễn
Công Hoan: "Cái đặc sắc của Nguyễn Công Hoan là ở chỗ ông biết quan sát
những gì xung quanh mình, biết kiếm ra truyện tức cười, biết vẽ người bằng những
nét ngộ nghĩnh, thần tình. Biết vấn đáp bằng những giọng hoạt kê lí thú và biết kết
cấu bằng những tấn bi hài kịch" [54, tr.275].
Năm 1936, Lê Tràng Kiều lại đưa ra ý kiến trái ngược khi đánh giá về truyện
ngắn Nguyễn Công Hoan. Ông chê nội dung truyện Nguyễn Công Hoan cũng chẳng
ra gì: "Nguyễn công Hoan, theo chúng tôi chỉ là một anh Kép hát được vài câu bông
nhơn có duyên thế thôi".
Năm 1939, Trương Chính trong "Dưới mắt tôi" bên cạch việc cho rằng:
"Nguyễn Công Hoan chỉ là một anh pha trò, tàn nhẫn, tinh quái, thô lỗ" thì đã đánh
4
giá rất cao một số ưu điểm của Nguyễn Công Hoan như: "tài quan sát tinh vi", "cách
dùng chữ ngộ nghĩnh", "cách kể chuyện tự nhiên".
Năm 1944, Vũ Ngọc Phan trong "Nhà văn hiện đại" đã có ý kiến sắc sảo
khi chỉ ra những ưu, nhược điểm về nhân vật của Nguyễn Công Hoan: "Ông tả đủ
hạng người trong xã hội nhưng ít khi ông tả những ý nghĩ của họ, nhất là những
điều u uẩn của họ thì không bao giờ ông đả động đến. Bao giờ ông cũng đặt họ
vào những khuôn riêng, đó là khuôn lễ giáo hay phong tục mà họ đã ra trò với
những bộ mặt phường tuồng của họ". Ông còn nhận xét hết sức sâu sắc và xác
đáng về Nguyễn Công Hoan ở cả hai thể loại: "Người ta nhận thấy Nguyễn Công
Hoan sở trường về truyện ngắn hơn truyện dài. Trong các truyện dài có nhiều chỗ
lúng túng rồi ông kết thúc giản dị quá, không xứng với một truyện to tát ông dựng.
Trái lại ở truyện ngắn ông tỏ ra là một người kể chuyện có duyên. Phần nhiều
truyện ngắn của ông linh động lại có nhiều cái bất ngờ, làm cho người đọc khoái
trá vô cùng. Những truyện ngắn của ông tiêu biểu cho một thứ văn rất vui, thứ văn
mà có lẽ từ ngày nước Việt Nam có tiểu thuyết viết theo lối mới, người ta chỉ thấy
ở ngòi bút của ông thôi" [53, tr.979].
Qua nhận xét đó có thể thấy, Vũ Ngọc Phan là một trong số ít những nhà
nghiên cứu trước Cách mạng nhìn nhận một cách thấu đáo về nhân vật cũng như ngòi
bút xây dựng truyện của Nguyễn Công Hoan.
Như vậy, ngay từ giai đoạn trước Cách mạng, truyện ngắn của Nguyễn Công
Hoan đã được giới nghiên cứu, phê bình quan tâm và đã có nhiều ý kiến trái chiều
nhau về giá trị của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan nhưng chúng ta thấy khen vẫn
nhiều hơn chê. Những người ở cả hai phái Nghệ thuật vị nhân sinh và Nghệ thuật vị
nghệ thuật và ngay cả những nhà phê bình không nằm trong hai trường phái này như
Hạc Đình, Thúc Thuận... cũng đều thừa nhận nghệ thuật viết truyện tài tình của
Nguyễn Công Hoan.
2.2. Giai đoạn sau Cách mạng Tháng 8
Sau Cách mạng Tháng 8, công tác nghiên cứu, phê bình có một bước phát triển
mới. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Công Hoan đã được đánh giá cao hơn, xác đáng
hơn. Các công trình nghiên cứu, các giáo trình đại học, các bài báo, tạp chí và gần
đây là những luận văn thạc sĩ, tiến sĩ... đã đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về nhiều khía
5
cạnh, nhiều mặt trong truyện ngắn của ông như là về tiếng cười, thế giới nhân vật,
tính kịch, ngôn ngữ, lời văn...
Năm 1957, khi đánh giá về nghệ thuật trào phúng của Nguyễn Công Hoan,
Trương Chính đã có nhận xét chưa đúng về truyện ngắn của ông: "kể cũng buồn cười,
Nguyễn Công Hoan là một nhà mô phạm lâu năm như thế, nhưng trong văn chương
ông không nghiêm túc tí nào cả. Âu đó cũng là hai mặt của một con người và trong
nhiều truyện của ông tiếng cười làm dịu mất nỗi chua xót, đánh tan mất lòng căm
phẫn". Tuy nhiên đa số các nhà nghiên cứu đều có những đánh giá xác thực, đúng
đắn về truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan.
Năm 1968, tác giả Nguyễn Đức Đàn đã đưa ra nhận định về các khía cạnh như
là độ dài của truyện, lời văn, cốt truyện, kết cục của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan:
"Về nghệ thuật viết truyện ngắn phải nói rằng Nguyễn Công Hoan là người có nhiều
khả năng và kinh nghiệm. Truyện của ông thường rất ngắn. Lời văn khúc chiết, giản
dị. Cốt truyện được dẫn dắt một cách có nghệ thuật để hấp dẫn người đọc. Thường
kết cục bao giờ cũng đột ngột. Mỗi truyện thường như một màn kịch ngắn có giới
thiệu, thắt nút và mở nút. Cố nhiên không phải tất cả mọi truyện đều đạt cả. Nhưng
thường thì những truyện không đạt chủ yếu là do nội dung tư tưởng" [7, tr.71-88].
Và ông cũng đưa ra nhận xét về thế giới nhân vật trong truyện ngắn của
Nguyễn Công Hoan: "Với một số lượng khá lớn như vậy... truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan hợp thành một bức tranh rộng lớn khá đầy đủ về xã hội cũ. Hầu hết trong xã
hội thực dân phong kiến đều có mặt: nông dân, công nhân, tiểu tư sản, trí thức làm
các nghề tự do như thầy thuốc, làm báo, nhà văn, nhà giáo, các nghệ sĩ, rồi tư sản,
nhà buôn, nhà thầu khoán, địa chủ, quan lại, cường hào, nghị viên, công chức, học
sinh, cô đào, nhà thổ, đứa ở, phu xe, kẻ cắp, anh hát xẩm, chị bán hàng rong, binh
lính, bồi bếp... từ các giai cấp bị áp bức, bóc lột, các giai cấp thống trị và các tầng
lớp trung gian cho đến những người ở dưới đáy của một xã hội hết sức phức tạp" [7].
Năm 1973, Nguyễn Trác khi nói về thế giới nhân vật của Nguyễn Công Hoan
đã đưa ra nhận định đó là "thế giới những kẻ khốn khổ, đáng thương", còn về cách
viết thì "văn ông giản dị, tự nhiên và đậm đà màu sắc dân tộc. Ông biết sử dụng ngôn
ngữ hợp với tâm lí các nhân vật thuộc nhiều hạng khác nhau trong xã hội".
6
Năm 1974, Vũ Ngọc Khánh trong "Thơ văn trào phúng Việt Nam" đã nhận xét
về thủ pháp nghệ thuật gây cười của Nguyễn Công Hoan: "Thủ pháp quen thuộc và
độc đáo của Nguyễn Công Hoan là hay làm cho bộ mặt đối tượng trở lên méo mó
hơn, lố bịch hơn để bản chất ti tiện của nó được nổi rõ hơn. Tuy vậy nụ cười phũ
phàng này nhiều lúc cũng rơi vào đối tượng không đáng châm biếm hoặc sa vào chủ
nghĩa tự nhiên ngoài ý muốn của tác giả" [39, tr.375].
Năm 1976, Phong Lê trong cuốn "Văn và Người" đã nhận định tiếng cười của
Nguyễn Công Hoan là "Một thứ vũ khí. Ông đứng trên tất cả mà cười. Cười với mọi
cung bậc: hả hê, khoái trá, chua chát, chế giễu, khinh bỉ, đau xót, căm giận... Có cái
cười ra nước mắt của một tấm lòng ưu ái nhân hậu. Nhưng lại cũng có cái cười để
mà cười của một người vô tình hay vô tâm, thậm chí có khi lạc điệu. Cho nên cần
thấy được cái nét đặc sắc trong cái cười của Nguyễn Công Hoan, nhưng cũng phải
thấy không phải cái cười nào của ông cũng đúng chỗ và có ý nghĩa" [42, tr.87].
Năm 1977, tập thể tác giả cuốn "Lược thảo Lịch sử văn học Việt Nam 1930 -
1945" đã nhận xét: "Ông sở trường về cách mô tả tư cách hèn hạ, đê tiện hết chỗ
nói của bọn quan lại sâu mọt, bọn nha lại hãnh tiến giàu có sang trọng và khinh
người" [3, tr.101]
Năm 1978, Nguyễn Đăng Mạnh trong "Con đường đi vào thế giới nghệ thuật
của nhà văn" đã nhận xét về nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Công Hoan: "Đọc
truyện ngắn Nguyễn Công Hoan thấy tài hoa của ông chủ yếu dồn vào cốt truyện và
cách kể chuyện (...). Ông có một cái duyên kể chuyện hết sức hấp dẫn (...). Phương
thức kể chuyện biến hóa, tài vẽ hình, vẽ cảnh sinh động, khả năng dựng đối thoại có
kịch tính, giọng kể chuyện tự nhiên hoạt bát, lối ví von so sánh độc đáo, cách chơi
chữ táo bạo, dí dỏm (...). Nhưng về đại thể bí quyết chủ yếu vẫn là nghệ thuật dẫn dắt
tình tiết sao cho mâu thuẫn trào phúng, tình thế hài hước bật ra ở cuối tác phẩm một
cách đột ngột bất ngờ" [50, tr.107].
Năm 1979, Lê Thị Đức Hạnh - người đã dành nhiều tâm huyết nghiên cứu
về Nguyễn Công Hoan trong "Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan" đã viết:
"Đề tài và các vấn đề xã hội mà Nguyễn Công Hoan nêu ra trong truyện trào
phúng của ông rất đa dạng, tạo thành những bức tranh giàu sức sống và sáng tạo,
7
đem lại cho độc giả những cảm xúc lí thú, bất ngờ" [24, tr.136] và "Nguyễn Công
Hoan đã có một nếp cảm nghĩ riêng, xây dựng được hàng mấy trăm truyện ngắn,
với biết bao nhiêu kiểu cười làm cho độc giả thì khoan khoái, hả hê mà đối tượng
bị đả kích thì cay cú, ê chề. Nhà văn có nhiều cách để tạo nên những cốt truyện
mang chất trào phúng" [25, tr.140].
Và trong công trình "Nghệ thuật viết truyện ngắn đặc sắc và độc đáo của
Nguyễn Công Hoan" Lê Thị Đức Hạnh cũng nhận xét: "Nguyễn công Hoan tiếp nhận
phần lớn những hình ảnh hay, tốt, gạn lọc lấy những phần tinh túy, nhuần nhuyễn
vào ngòi bút, tạo thành một phần máu thịt trong câu văn của ông (...). Ngôn ngữ
Nguyễn Công Hoan là ngôn ngữ của quần chúng được chọn lọc và nâng cao, đậm
hương vị ca dao, tục ngữ, có khi tác giả đưa ca dao, tục ngữ vào truyện một cách rất
tự nhiên thoải mái. Những chữ dùng của ông thường giản dị, giàu hình ảnh - cụ thể,
so sánh, ví von làm cho người đọc dễ có liên tưởng thú vị" [24, tr.394].
Năm 1983, Phan Cự Đệ khi nhận xét về cấu trúc tác phẩm của Nguyễn Công
Hoan đã viết: "Nguyễn Công Hoan là người có phong cách truyện ngắn độc đáo (...),
biết tổ chức cấu trúc chặt chẽ và thay đổi hình thức cấu trúc linh hoạt". Truyện
Nguyễn Công Hoan "bộc lộ những mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng, giữa nội
dung và hình thức để làm bật lên tiếng cười đả kích...", "có nhiều nét gần gũi với
truyện cười dân gian. Chú ý xây dựng cốt truyện hơn là xây dựng nhân vật" và
thường "dấu cái sự kiện trung tâm mang chủ đề, chỉ ở mấy câu cuối cùng, thậm chí
có khi ở năm sáu chữ cuối cùng tác giả mới đột ngột trở lại với nó".
Năm 1988, Nguyễn Hoành Khung trong "Từ điển văn học" đã nhận xét: "Về
mặt nghệ thuật, Nguyễn Công Hoan tỏ ra khá già dặn, độc đáo trong thể loại truyện
ngắn trào phúng. Ông giỏi phát hiện ra những tình huống mâu thuẫn đáng cười và có
cách kể chuyện thật tự nhiên, có duyên, hấp dẫn với một ngôn ngữ sinh động, rất gần
với khẩu ngữ hàng ngày không chút gì sách vở" [40, tr.1114]. Và trong Văn học Việt
Nam 1930 - 1945: "Nguyễn Công Hoan xứng đáng được coi là "cây bút bậc thầy",
"với một tài năng lớn" chủ yếu thể hiện ở thể loại truyện ngắn" [41, tr.370], "Có thể
nói, sự nhạy bén đặc biệt trước những mâu thuẫn trào phúng trong đời sống là một
đặc điểm quan trọng nhất trong tư duy nghệ thuật Nguyễn Công Hoan" [41, tr.371].
8
Đồng thời Nguyễn Hoành Khung cũng giải thích rằng tính trào phúng ở Nguyễn
Công Hoan là thuộc về "năng khiếu thiên bẩm", là sự kế thừa truyền thống trào phúng
của văn học dân tộc.
Cũng trong thời gian này, nhóm tác giả Trần Đình Hượu - Lê Chí Dũng
trong "Văn học Việt Nam giao thời 1900 - 1930" cũng đưa ra nhận định: "Nguyễn
Công Hoan, mỗi truyện ngắn chỉ khai thác một tình huống, một mâu thuẫn. Ông
biết cách đẩy mâu thuẫn lên thật cao rồi kết thúc đột ngột. Câu văn của ông gọn,
sáng sủa. Đọc ông độc giả phân biệt rõ đâu là ngôn ngữ của tác giả, đâu là ngôn
ngữ nhân vật và mỗi ngôn ngữ nhân vật đều có ngôn ngữ riêng của mình. Với
Nguyễn Công Hoan có thể nói, truyện ngắn hiện đại và ngôn ngữ nghệ thuật hiện
đại đã hình thành" [4, tr.263].
Các nhà nghiên cứu như Nguyễn Văn Đấu, Nguyễn Minh Châu... trong các
công trình nghiên cứu của mình cũng đã đề cập đến vấn đề tính kịch trong truyện
ngắn của Nguyễn Công Hoan nhưng mới chỉ đề cập một cách chung chung, chứ chưa
đi vào phân tích cụ thể những biểu hiện của tính kịch trong truyện ngắn của Nguyễn
Công Hoan. Cụ thể là:
Tác giả Nguyễn Văn Đấu trong bài viết "Chất kịch trong truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan" có viết: "Kịch hóa trở thành cảm hứng, thành phương thức xây dựng tác
phẩm, chi phối trực tiếp đến các cấu trúc cùng các thành tố cơ bản của các sáng tác
Nguyễn Công Hoan, mỗi truyện ngắn của ông là một tình huống, một xung đột giàu
tính kịch nhất".
Tác giả Nguyễn Minh Châu trong "Trang giấy trước đèn" cũng đã nhận xét:
"Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan hiện ra trước mắt chúng ta với những lớp lang
và đối thoại như trong một màn kịch".
Năm 2001, Trần Đình Sử và Nguyễn Thanh Tú trong cuốn "Thi pháp truyện
ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan" đã xem xét tính kịch ở nhiều khía cạnh: về
không gian - thời gian: "Nhà văn tổ chức xây dựng không gian và thời gian theo yêu
cầu của thể loại kịch. Không gian trong truyện của ông thường hẹp, chật chội mang
tính sâu khấu. Thời gian bị dồn nén, căng thẳng phù hợp với kịch. Thời gian, không
gian nhằm tạo khung cho sự phát triển của cốt truyện, vì vậy chúng mang tính chất sân
9
khấu", về trần thuật "Trần thuật được kịch hóa tức trần thuật phải theo những quy tắc
nhất định của nghệ thuật kịch", nhân vật cũng được xây dựng theo nguyên tắc kịch.
Trên đây là những công trình nghiên cứu từ trước tới nay về nghệ thuật truyện
ngắn Nguyễn Công Hoan trước Cách mạng. Tuy nhiên những công trình này chỉ
dừng lại ở việc nghiên cứu một khía cạnh, một yếu tố của nghệ thuật truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan chứ chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, sâu
sắc và có hệ thống về toàn bộ nghệ thuật của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan trước
Cách mạng. Qua những công trình trên chúng ta thấy, truyện ngắn của Nguyễn Công
Hoan đã thu hút được đông đảo các nhà nghiên cứu, phê bình mọi thế hệ. Từ kết quả
nghiên cứu của những người đi trước, chúng tôi có được sự gợi mở, nhận xét, đánh
giá tin cậy để triển khai nghiên cứu đề tài của mình.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Công Hoan.
- Phạm vi nghiên cứu: Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan trước Cách mạng
tháng 8 năm 1945 (có so sánh với một số nhà văn hiện thực khác).
4. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Luận văn đi sâu nghiên cứu các phương diện nghệ
thuật và phong cách truyện ngắn để thấy rõ cá tính sáng tạo của nhà văn, từ đó góp
phần khẳng định vị trí của một đại biểu cho cả một khuynh hướng, một thể loại, một
phong cách. Đồng thời qua đó, hiểu rõ hơn về "một cây bút bậc thầy", "một tài năng
lớn" ở thể loại truyện ngắn.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: tìm hiểu nghệ thuật truyện ngắn của Nguyễn Công
Hoan trước Cách mạng một cách có hệ thống dưới góc độ thi pháp. Từ đó tìm ra cái
riêng của nhà văn trong sự đóng góp vào mảng văn học hiện thực và tiến trình phát
triển của văn học dân tộc.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
5.1. Phƣơng pháp khảo sát, thống kê, phân loại
Để thực hiện đề tài này chúng tôi tiến hành khảo sát toàn bộ các tác phẩm
truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan trước Cách mạng, tìm hiểu những khía cạnh,
10
những nét đặc sắc về nghệ thuật trong truyện ngắn của nhà văn. Do đó chúng tôi vận
dụng phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại trong luận văn.
5.2. Phƣơng pháp hệ thống
Nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là một hệ thống cấu trúc bao gồm
nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành. Vì vậy, các vấn đề cụ thể, các yếu
tố, các khía cạnh được triển khai trong luận văn được đặt trong mối quan hệ hệ thống.
5.3. Phƣơng pháp đối chiếu, so sánh
Để chỉ ra những nét đặc sắc và những đóng góp của Nguyễn Công Hoan trên
phương diện nghệ thuật truyện ngắn thì chúng tôi không chỉ tiến hành đối chiếu, so
sánh trong nội bộ các sáng tác của Nguyễn Công Hoan mà còn mở rộng ra đối chiếu,
so sánh với các sáng tác của các nhà văn hiện đại khác nhằm làm nổi bật rõ đối tượng
nghiên cứu.
5.4. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp
Từ việc khảo sát, phân tích tác phẩm ở các khía cạnh, vấn đề mà đề tài khoa
học đặt ra, người viết chú ý đến những đặc sắc trong nghệ thuật để có thể làm hiện
diện ra một phong cách riêng, độc đáo. Và từ việc phân tích đó, chúng tôi có cơ sở để
đi đến những kết luận có tính chất tổng hợp, khoa học.
6. Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở khảo sát những truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Công Hoan, luận
văn tiến hành khảo sát nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, phân tích những
nét độc đáo và khẳng định vai trò, giá trị của nó trong việc truyền tải nội dung. Qua
đó góp phần khẳng định vị trí, tầm quan trọng của Nguyễn Công Hoan trong thể loại
truyện ngắn hiện đại nói riêng và trong tiến trình lịch sử văn học Việt Nam hiện đại
nói chung. Nghiên cứu toàn bộ nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, luận văn
sẽ cung cấp một cái nhìn toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về tất cả những mặt, những
khía cạnh, những yếu tố thuộc về phương diện nghệ thuật của truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945.
11
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Thư mục tham khảo thì Luận văn gồm
có ba chương:
Chương 1: Nguyễn Công Hoan trong tiến trình văn học Việt Nam hiện đại
Chương 2: Nguyễn Công Hoan - bậc thầy về nghệ thuật viết truyện ngắn
Chương 3: Phong cách nghệ thuật Nguyễn Công Hoan
12
Chƣơng 1
NGUYỄN CÔNG HOAN TRONG
TIẾN TRÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
1.1. Tiểu sử và quá trình sáng tác
Nguyễn Công Hoan sinh ngày 6 tháng 3 năm 1903 tại làng Xuân Cầu, huyện
Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc tỉnh Hưng Yên), trong một gia đình quan lại phong
kiến xuất thân khoa bảng bắt đầu sa sút. Cha là Nguyễn Đạo Khang từng đỗ tú tài và làm
Huấn đạo. Vì nhà nghèo lại đông anh em nên ngay từ năm lên bốn Nguyễn Công Hoan
đã được cha gửi đến ăn học ở nhà bác là ông Phó bảng Nguyễn Đạo Quán (đỗ Phó bảng,
được bổ làm tri huyện sau thăng lên tri phủ). Ông Nguyễn Đạo Quán là một người luôn
nhận chăm sóc việc học hành của con cháu trong nhà và cũng là một người rất thích sưu
tầm những phương ngôn, tục ngữ, ca dao, ngụ ngôn và soạn sách dạy chữ Nho với đề tài
Việt Nam. Đến ở nhà bác, Nguyễn Công Hoan thường xuyên được tiếp xúc với bà nội.
Bà nội ông hay dạy truyền khẩu thơ phú, truyện cổ dân gian cho các cháu trong đó có
Nguyễn Công Hoan cho nên những niêm luật của thơ ca, thanh điệu của ngôn ngữ và sự
say mê văn học đã thấm dần vào ông ngay từ thời thơ ấu.
Năm lên 6 tuổi, Nguyễn Công Hoan được bác cho học chữ Nho sau đó chuyển
sang học chữ Pháp. Chín tuổi, ông bắt đầu lên Hà Nội học ở trường Bưởi, trong
khoảng thời gian học ở đây mặc dù không đăng báo nhưng ông đã bắt đầu viết văn
(khoảng từ năm 1920). Đến năm 1922, ông thi đỗ vào trường Nam Sư phạm. Những
năm học ở đây Nguyễn Công Hoan được học văn học một cách tương đối có hệ
thống, nhất là văn học Pháp, còn về văn học cổ Việt Nam thì ông được học "toàn là
một loạt thơ trào phúng, nhạo đời" [31, tr.50] và ông cũng thừa nhận là "Được nhập
tâm những thơ văn hay, tôi chịu ảnh hưởng của các bậc tiền nhân không nhỏ" [tr.50].
Năm ông 20 tuổi (tức là năm 1923) ông cho ra mắt tập truyện ngắn đầu tiên
với nhan đề "Kiếp hồng nhan" nhằm phê phán những cô gái ham giàu sang, sống bám
vào ngoại kiều. Tập truyện ngắn này chỉ mang tính chất "thử bút" của Nguyễn Công
Hoan, ngay chính bản thân ông cũng đã từng nói trong "Đời viết văn của tôi" rằng tập
truyện ngắn này "không có nghĩa lý gì, không có mục đích nào" [tr.81] và " toàn thể
13
cuốn sách không nổi lên một hướng nào về chính trị hoặc nghệ thuật" [tr.83]. Tuy
nhiên, dù chưa thật rõ nét nhưng chúng ta cũng thấy ở tập truyện ngắn đầu tay này
phần nào cái tinh thần, tư tưởng cơ bản của nhà văn.
Năm 1926, Nguyễn Công Hoan tốt nghiệp trường Cao đẳng Sư phạm và bắt
đầu đi dạy học - một nghề bị bạc đãi trong xã hội lúc bấy giờ. Mặc dù là nghề bị xã
hội bạc đãi nhưng trong số tất cả các nghề có thể làm thì Nguyễn Công Hoan lại yêu
nghề dạy học, đơn giản vì theo ông đó là cách kiếm ăn ít nô lệ nhất. Ít nhất thì làm
thầy giáo cũng có thể làm chủ bản thân, có quyền quyết định mọi việc diễn ra trong
lớp học mà không cần phải nghe theo mệnh lệnh hay luồn cúi bất kì ai. Khi dạy học,
xen lẫn vào các bài giảng của mình, ông lại trau dồi vào tâm trí những lớp học trò
lòng yêu nước và giúp cho học trò hiểu sự thật của hoàn cảnh lịch sử đất nước ta lúc
bấy giờ nhằm gợi sự căm giận đối với kẻ thù xâm lược và bán nước trong học trò.
Năm 1928, ông gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng cùng với Nguyễn Thái
Học. Và cũng bắt đầu từ đây, ông vừa dạy học vừa viết văn. Khi tham gia tổ chức này
Nguyễn Công Hoan có điều kiện đọc các báo như: "Việt Nam hồn", "LE PARIA" (do
Nguyễn Ái Quốc chủ trương) bên Pháp gửi về, những sách "Một bầu tâm sự" (của
Trần Huy Liệu), "Tờ cớ mất quyền tự do" (của Trần Hữu Độ) từ Sài Gòn gửi ra và
những lịch sử về Giăng - đi, Tôn Văn, Phan Bội Châu, Lênin... thậm chí có điều kiện
tiếp xúc với cả những sách chính trị bị cấm nữa. Qua đó ý chí chống đối và lòng căm
thù đối với chế độ thực dân vốn đã có từ thuở nhỏ của ông ngày càng được bồi đắp
hơn. Bên cạnh đó, với việc làm nghề dạy học - một nghề mà theo quan niệm của mọi
người là nghề hiền lành, không làm hại ai thì Nguyễn Công Hoan được mọi người tin
tưởng, yêu quý; họ sẵn sàng thổ lộ, giãi bày với ông mọi uẩn khúc, nỗi niềm sâu kín
trong lòng từ đó ông được biết, được hiểu rất nhiều cảnh ngộ, nhiều cuộc đời khác
nhau trong xã hội. Cộng với khả năng quan sát, lượm nhặt những hiện tượng trực tiếp
xảy ra trước mắt trong thời kì này đã trở thành một vốn sống dồi dào, đó là kho tư
liệu quý giá quyết định cả sự nghiệp sáng tác của ông.
Đến năm 1930, Nguyễn Công Hoan có nhiều truyện đăng ở mục "Việt Nam
nhị thập thế kỷ xã hội ba đào ký" của tờ báo "An Nam tạp chí" do Tản Đà làm chủ
báo. Những truyện của ông được độc giả chú ý, thích thú theo dõi, thậm chí có cả một
14
người viết bài khen ngợi nữa. Chính điều đó đã kích thích khả năng, hứng thú sáng
tác của ông. Ngay sau đó, các báo như Nhật Tân, Nông công thương, Phong hóa...
cũng mời ông viết. Ông đồng ý và gửi cho họ những tác phẩm cả truyện ngắn lẫn
truyện dài. Năm 1934, "Tiểu thuyết thứ bảy" xuất bản, Vũ Đình Long đã mời ông viết
bài cho báo. Truyện đầu tiên mà ông gửi cho "Tiểu thuyết thứ bảy" là "Tôi chủ báo,
anh chủ báo, nó chủ báo". Điều mà Nguyễn Công Hoan không ngờ là cuối tháng ông
đã được nhận một khoản tiền nhuận bút kha khá. Nó đã kích thích ông rất nhiều trong
sáng tác, bản thân ông cũng đã thừa nhận rằng: "cũng do ham tiền nhuận bút, cũng do
thấy mình viết sung sức" và "cũng do sự thúc giục khéo léo của Vũ Đình Long mà tôi
viết được nhiều" [31, tr.177].
Năm 1935, tập truyện ngắn "Kép Tư Bền" (gồm 15 truyện) ra đời, tập hợp một
số truyện Nguyễn Công Hoan đã viết và đăng rải rác trên các báo trong mấy năm gần
đấy. Tập truyện có nội dung tiến bộ với nghệ thuật đặc sắc, tiêu biểu cho một xu
hướng văn học mới. Tập truyện ra đời lập tức đã gây được tiếng vang lớn, được nhiều
báo chí khen ngợi. Đặc biệt là nó đã gây lên cuộc bút chiến sôi nổi giữa hai trường
phái văn học lúc bấy giờ là phái "Nghệ thuật vị nhân sinh" do Hải Triều đứng đầu và
phái "Nghệ thuật vị nghệ thuật" mà đại diện tiêu biểu là Hoài Thanh, Thiếu Sơn.
Riêng đối với chính bản thân Nguyễn Công Hoan, ông nói "việc cuốn Kép Tư Bền
được hoan nghênh làm tôi tin rằng tôi có thể viết nổi tiểu thuyết và tôi có thể theo
đuổi được nghề viết văn" [31, tr.188].
Tháng 9/1936, ông đổi về dạy học ở trường Nam Định. Tại đây ông có dịp tiếp
xúc với công nhân của các nhà máy tơ, máy sợi. Họ thường cung cấp cho ông những
đề tài để viết, cũng kể từ đây ông luôn luôn bị người của Sở mật thám theo dõi. Và
cũng trong năm này, ở Nam Định cũng như ở những nơi khác, nhiều chính trị phạm
bị nhà cầm quyền bắt trước đó đã được thả (do ở Pháp, Mặt trận bình dân lên nắm
quyền), Nguyễn Công Hoan có cơ hội tiếp xúc với họ, cũng từ đây Đảng cộng sản
Đông Dương đã có ảnh hưởng trực tiếp tới ông.
Đến tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, Mặt trận bình dân
không còn nắm quyền ở Pháp. Ở Đông Dương cũng như ở Việt Nam, mọi hoạt động
không còn được tự do như thời kì 1936 - 1939 nữa, chế độ kiểm duyệt sách báo được
15
tái lập. Bọn thực dân do thấy ông viết một số tác phẩm có tinh thần phản chiến nên đã
đến khám nhà ông và đưa ông ra tòa Nam án để kết tội nhưng vì ông có giấy khai
sinh là người Hà Nội nên bản án của chúng không có hiệu lực. Đây là thời kì mà gia
đình cũng như cá nhân ông đã gặp rất nhiều khó khăn: trong nhà hết người này đến
người kia bị thực dân bắt, các tác phẩm của ông bị kiểm duyệt rất gắt gao, phần lớn
các tác phẩm không được xuất bản...
Để tránh tình trạng bị "lừa" như đối với "Bước đường cùng", bọn chính quyền
không chấp nhận cho truyện của ông được kiểm duyệt theo từng hồi như trước mà
phải đưa cả quyển rồi chúng mới quyết định cho in hay không. Nhiều truyện của ông
đã bị cấm, kể cả những truyện đã đăng được mấy hồi trên báo (Cái thủ lợn). Tới khi
phát xít Nhật vào Đông Dương thì chế độ kiểm duyệt càng khắt khe hơn. Một loạt
truyện viết về những vấn đề liên quan đến chiến tranh mà ông lấy tên chung là "Hồi
còi báo động" đều bị kiểm duyệt xóa hết, truyện "Eu êu mê đo" cũng cùng chung số
phận. Số truyện của ông in từ năm 1940 rất thưa thớt, có truyện được đăng nhưng lại
bị kiểm duyệt xóa mất từng đoạn mà chúng cho là không được phép. Biết mình bị
treo giò nên Nguyễn Công Hoan cảm thấy vô cùng chán ngán nhưng sau đó ông liền
quay ra viết truyện của thiếu nhi, không dám lấy tên thật, ông ký tên là Ngọc Oanh.
Thấy lọt qua được kiểm duyệt, không bị làm sao ông nhận ra rằng không đề cập đến
chiến tranh là được. Từ đó, ông mạnh dạn kí tên mình và dần dần ông lấn tới viết
truyện cho người lớn. Không thể trực tiếp vạch mặt bọn quan lại thì ông lên án chúng
bằng cách nêu gương những quan lại nổi tiếng tốt, thương dân thời trước để bạn đọc
so sánh sự khác nhau giữa xưa và nay: "Thanh đạm", "Danh tiết", "Nghịch cảnh"...
Đúng theo suy đoán của ông, những tác phẩm này đều không gặp bất kì khó khăn gì
khi kiểm duyệt.
Đầu năm 1945, Nguyễn Công Hoan bị Nhật bắt vì tội chính trị tại thị xã Thái
Bình - nơi ông đang dạy học và được đưa về giam ở nhà giam Dầu Sen - Hà Nội (nay
là cơ quan của Ủy ban Khoa học nhà nước, số 39 đường Trần Hưng Đạo - Hà Nội).
Ông bị giam cầm cho tới tận khi Cách mạng Tháng 8 nổ ra. Trong thời gian ở tù ông
được tiếp xúc với đủ mọi hạng người trong xã hội từ những người làm cách mạng cho
16
đến những kẻ đầu trộm đuôi cướp, thụt két lừa đảo, những bọn gác ngục và bọn giặc
lùn. Điều này đã cung cấp rất nhiều tư liệu thực tế cho quá trình sáng tác của ông.
Tháng 8/1945, Cách mạng Tháng 8 thành công đã đem đến một cuộc sống
hoàn toàn mới cho dân tộc, một niềm vui, một niềm tin mạnh mẽ cho nhân dân. Gia
đình ông cũng hòa vào niềm vui đó, những người trong gia đình ông bấy lâu bị chia
lìa vì tù đầy và hoạt động bí mật nay đã dần dần trở về. Ông được bầu làm Giám đốc
sở tuyên truyền Bắc bộ. Trong quá trình công tác ông đã dần tìm được những tư liệu
chính xác liên quan đến việc trồng đay và thu thóc của hai kẻ thù xâm lược là Thực
dân Pháp và Phát xít Nhật - nguồn gốc gây ra nạn đói năm 1945 mà ông tận mắt
chứng kiến. Dựa vào những tư liệu đó ông viết "Tranh tối tranh sáng".
Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp, Nguyễn Công
Hoan đã tình nguyện gia nhập quân đội. Ông liên tục hoạt động ở nhiều cương vị,
nhiều lĩnh vực khác nhau như là làm báo "Vệ Quốc Quân" rồi giám đốc trường Văn
hóa quân dân, chủ nhiệm tờ "Quân dân học báo". Được tiếp xúc với những người
chiến sĩ cách mạng, ông có thêm những mẫu nhân vật mới để viết "Đồng chí Tơ"
(1946), "Xổng cũi" (1947), "Nông dân với địa chủ" (1955).
Đến năm 1954, hòa bình lặp lại trên miền bắc, ông trở về Hà Nội công tác
trong Hội Văn nghệ Việt Nam và được bầu làm chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam
khóa I (1957). Điều này tạo cho Nguyễn Công Hoan có nhiều thời gian cũng như
có nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho việc sáng tác. Thời kì này, ông tiếp tục viết
nhiều bài cho các báo, đặc biệt là tập trung viết nhiều tiểu thuyết từ những gì mà
ông tích lũy được về xã hội cũ trong suốt quá trình hoạt động trước đó. Tiêu biểu
là "Tranh tối tranh sáng" (1956), "Hỗn canh hỗn cư" (1961), "Bà Năm đi tản cư",
"Đống rác cũ" (1963)...
Kháng chiến chống Mỹ bùng nổ, mặc dù đã ở cái tuổi (có thể gọi là) xế
chiều (65 tuổi) nhưng Nguyễn Công Hoan vẫn không hề chịu thua những nhà văn
thuộc lớp sau, sức sáng tác của ông vẫn vô cùng dồi dào. Từ những thực tế mới
của cuộc kháng chiến chống Mỹ ông viết những bộ tiểu thuyết "Anh con trai
người bạn đọc ấy", "nếu không có anh" (Xuất bản dưới tên "Một kiếp người" -
năm 1989) , "Trong ấy ngoài này"...
17
Năm 1960, nhờ nghe những người thân kể lại mà Nguyễn Công Hoan đã viết
được hai bài bút kí hay, được đánh giá cao: "Những này tháng 8 ở Côn Đảo" và
"Người cặp rằng hầm xay lúa ở ngục Côn Lôn năm 1930".
Không chỉ sáng tác mà Nguyễn Công Hoan còn có rất nhiều công trình nghiên
cứu nhằm cung cấp cho người đọc những nhận định, những tư liệu quý để khắc họa
một chân dung văn học (ví dụ như Tú Mỡ, Tản Đà) hay xác định một văn bản, một
tiểu sử... Ông còn viết những bài nhằm đính chính lại xuất xứ hay viết chú thích cho
các bài thơ cổ. Điều này đã thể hiện rất rõ khả năng và hiểu biết của ông về thơ cổ
thật sâu sắc: "Con Người Tú Xương", "Về cuốn thơ văn Nguyễn Khuyến".
Tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Công Hoan thời kì này là hồi kí "Đời viết
văn của tôi" (1971) dày 403 trang. Đây là tác phẩm Nguyễn Công Hoan nhìn lại đời
viết văn của mình từ khi mới bắt đầu, vì tinh nghịch mà viết truyện đến khi trở thành
một cây bút có tên tuổi. Đồng thời qua đó, ông phác lại quá trình hình thành, phát
triển của ngành Báo chí và Xuất bản Việt Nam trước Cách mạng Tháng 8.
Ngoài những tác phẩm văn học, ông còn làm công việc của một nhà nghiên
cứu, cụ thể là ông tham gia vào công trình soạn thảo "Từ điển Tiếng Việt" do Ủy ban
Khoa học xã hội Việt Nam chủ trì. Bài cuối cùng của ông xuất hiện trên báo Văn
nghệ là "Chữ nhà" - một trong những bài viết về Chữ và Nghĩa, một thể tài mà ông là
người mở đầu.
Vào hồi 8 giờ 05 phút ngày 6 tháng 6 năm 1977, trái tim Nguyễn Công Hoan
đã ngừng đập.
Cuộc đời viết văn của ông bắt đầu từ tuổi 17, đến 20 tuổi ra sách của riêng
mình và sáng tác cho đến tận năm 76 tuổi. Từ một cậu bé yêu văn học, thích tạo ra
tiếng cười cho những người xung quanh đến một nhà văn trào phúng bậc thầy lỗi lạc.
Như một cái cây kiên cường đứng giữa bão táp: bão táp của dư luận (Nghiên cứu toàn
bộ sự nghiệp sáng tác của ông chúng tôi thấy rằng: không phải truyện của ông ngay
từ đầu đã được giới quan sát thừa nhận, ngay từ những tập truyện ngắn đầu tiên của
ông như "Kép Tư Bền" đã nhận được rất nhiều những ý kiến khen - chê khác nhau từ
những nhà phê bình thuộc nhiều trường phái khác nhau. Và cũng không phải truyện
ngắn nào của ông cũng được độc giả đón nhận, hiểu đúng ý đồ sáng tác, thậm chí ông
18
còn bị độc giả hiểu nhầm. Khi cuốn "Thanh Đạm" ra đời năm 1942, ông đã bị dư luận
cho là "tán dương quan trường" [31, tr.219], lúc đó ông đã rất "hậm hực, buồn bã hết
sức, đâm ra chán nản với nghề" [tr.220] và mãi đến tận hơn mười năm sau ông mới
tự mình thanh minh được) và bão táp của cường quyền (truyện của ông luôn bị kiểm
duyệt gắt gao, mấy lần bị chính quyền Thực dân gọi ra tòa và cũng đã phải ngồi tù
trong một thời gian khá dài). Mặc dù liên tiếp gặp bão táp nhưng ông không hề nản
chí, vẫn luôn giữ trong mình một niềm tin để tiếp tục tạo ra những tác phẩm xuất sắc.
Cả cuộc đời 57 năm cầm bút của ông đã gắn liền với số phận của dân tộc, gắn
bó với cách mạng. Và cũng có thể khẳng định rằng ở thế hệ ông, ít có nhà văn nào lại
phải trải qua những cảnh đời như ông đã từng thử thách và gánh chịu. Trước Cách
mạng Tháng 8, ông và gia đình luôn luôn phải sống trong sự theo dõi của bọn mật
thám, rồi những vụ khám xét và bắt bớ, kết tội của chính quyền Thực dân đã khiến
cho gia đình ông tan tác. Ông thường xuyên phải tận mắt chứng kiến cảnh người thân
của mình bị tra tấn, tù đầy. Niềm đau xót của ông lên đến tận cùng khi nhận được tin
người con trai cả đã hi sinh (trong kháng chiến chống Thực dân Pháp) khi anh mới ở
độ tuổi 20. Đó là người con mà ông yêu quý nhất, người con giống ông từ dáng hình
đến tính cách con người, người con thông minh và đầy tài năng. Không chỉ chứng
kiến một người con ngã xuống mà cứ sáu tháng một lần trong những năm đầu của
cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp, những người ruột thịt trong gia đình ông
theo nhau hi sinh. Kháng chiến chín năm gia đình ông đã hiến dâng cho Tổ quốc sáu
người. Nỗi đau đã không ngừng đến với ông và rồi không còn gì đau đớn hơn khi có
tin rằng người con trai duy nhất còn lại của ông được lệnh đi chiến trường miền Nam
chống Mỹ đã bị địch bắt và có thể đã bị thủ tiêu.
Cuộc đời viết văn của Nguyễn Công Hoan mở ra sừng sững trước mắt người
đọc nhưng không vì thế mà xa lạ, ngược lại nó rất gần gũi, thân thương với chúng ta.
Những trang viết, những dòng chữ, những nhân vật, những nỗi lòng sau mỗi lần đọc
ta không thể quên; chúng như đang tâm sự, như nói hộ nỗi lòng của cả một thế hệ
người trong một giai đoạn khổ đau và hào hùng của dân tộc, như chia sẻ buồn vui,
khích lệ họ vượt qua mọi trở ngại để vươn lên. Cuộc đời nhà văn luôn sống mãi trong
những trang viết. Cuộc đời ấy đã chứng minh cho chúng ta thấy rằng: cái đáng tồn tại
19
sẽ được tồn tại, cái qua đi sẽ buộc phải qua đi và những gì còn đọng lại trong trái tim
mọi người - cái đó sẽ không bao giờ mất.
Cho đến ngày nay, các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan đã được dịch ra rất
nhiều thứ tiếng trên thế giới như: Liên Xô, Bungari, Hungari, Anbani, Trung Quốc,
Tiệp Khắc, Cộng hòa dân chủ Đức, Cuba, Ấn Độ, Pháp, Nhật Bản, Tây Ban Nha...
trong đó có nhiều nước đã có những công trình nghiên cứu về ông và tác phẩm của
ông. Đặc biệt tên của ông có trong từ điển "Bách khoa toàn thư Liên Xô" mục
"Danh nhân thế giới".
1.2. Đóng góp của Nguyễn Công Hoan trên phƣơng diện thể loại
Thể loại văn học trong tiếng Pháp gọi là genre litte'raire còn tiếng Nga
gọi là literaturnyi zhanr. Theo Từ điển thuật ngữ Văn học : "Thể loại văn học
trong bản chất phản ánh những khuynh hướng phát triển vững bền, vĩnh hằng
của văn học và các thể loại văn học tồn tại để gìn giữ, đổi mới thường xuyên các
khuynh hướng ấy. Do đó mà thể loại văn học luôn luôn vừa mới, vừa cũ, vừa
biến đổi, vừa ổn định" [tr.300].
Các tác giả "Lí luận văn học" lại dựa vào các yếu tố ổn định mà chia tác phẩm
văn học ra thành các loại và các thể (thể loại, thể tài) khác nhau. Loại rộng hơn thể,
thể nằm trong loại. Các nhà nghiên cứu cho rằng không một tác phẩm văn học nào là
không nằm trong một loại nhất định nào đó và có một hình thức thể nào đó. Họ cũng
cho rằng tác phẩm văn học có ba loại là tự sự, trữ tình và kịch. Mỗi loại trên lại bao
gồm các thể khác nhau. Chẳng hạn như : trong kịch có bi kịch, hài kịch, chính kịch...,
trong loại tự sự có truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài, ngụ ngôn...
"Thể loại là dạng thức tồn tại chỉnh thể của tác phẩm. Cùng một loại nhưng
các thể khác nhau rất sâu sắc. Ngoài đặc trưng của loại, các thể còn phân biệt nhau
bởi hình thức lời văn (thơ và văn xuôi), dung lượng (truyện dài, truyện ngắn...), loại
nội dung cảm hứng (bi kịch, hài kịch, thơ trào phúng, thơ ca ngợi...)" [tr.301].
Theo D.Li-kha-chốp thể loại văn học "là một phạm trù lịch sử. Nó chỉ xuất
hiện vào một giai đoạn phát triển nhất định của văn học và sau đó biến đổi và
được thay thế."
20
Trong giai đoạn từ 1900 - 1945, nền văn học Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu trên nhiều lĩnh vực như thể loại, nhân vật, đội ngũ sáng tác... cũng như về
nội dung phản ánh, rất nhiều cây bút tài hoa, có phong cách riêng, độc đáo đã xuất
hiện như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng.... trong đó chúng
ta không thể không nhắc đến sự đóng góp của nhà văn Nguyễn Công Hoan về mặt thể
loại. Trong suốt mấy mươi năm cầm bút, ông đã sáng tác với nhiều thể loại khác
nhau, từ truyện dài, tiểu thuyết, truyện ngắn đến các tác phẩm viết theo thể khác để
rồi khi ra đi ông đã để lại cho nền văn học Việt Nam hiện đại một sự nghiệp văn học
đồ sộ với hơn 200 truyện ngắn, gần 30 truyện dài và nhiều bài nghiên cứu, phê bình
văn học nghệ thuật cùng với những tập hồi kí, tự sự.
Mặc dù sáng tác với nhiều thể loại khác nhau nhưng Nguyễn Công Hoan lại
được các nhà nghiên cứu và độc giả nhận định và đánh giá là người có đóng góp lớn
nhất và thành công nhất ở thể truyện ngắn. Vì vậy mà khi đánh giá về vị trí của
Nguyễn Công Hoan trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc cũng như đánh giá về
phong cách của ông chúng ta không thể bỏ qua truyện ngắn, thậm chí còn phải lấy
truyện ngắn làm tiêu chí hàng đầu để nhận diện.
Đóng góp đầu tiên của Nguyễn Công Hoan cho kho tàng truyện ngắn của dân
tộc là về số lượng: hơn 200 truyện ngắn là một con số đồ sộ, hiếm có một nhà văn
nào lại có sức sáng tác dẻo dai và lâu bền đến vậy.
Nguyễn Công Hoan là người đặt nền móng cho văn học Hiện thực phê phán
Việt Nam đầu thế kỉ XX, là người đặt cầu nối cho truyện ngắn cũ và truyện ngắn mới.
Thế giới truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan rất phong phú, đa dạng, đặc biệt là đã
phản ánh rất rõ hiện thực cuộc sống và con người Việt Nam những năm trước Cách
mạng. Đó là những cảnh xấu xa, bỉ ổi; những chuyện bất công, ngang trái và những
con người ghê tởm, đáng khinh bỉ. Truyện ngắn của ông khi mới đọc thì người đọc
phải phá lên cười vì sự bất ngờ, thú vị nhưng ngay sau đó lại thấy chua chát, cay
đắng. Chính vì vậy mà ngay từ khi tác phẩm đầu tiên của ông ra mắt công chúng là
tập truyện "Kép Tư Bền" (1927) đã gây ra một cuộc chấn động trên văn đàn, dẫn đến
một cuộc bút chiến gay gắt giữa hai trường phái văn học lớn lúc bấy giờ là Nghệ
thuật vị nghệ thuật và Nghệ thuật vị nhân sinh.
21
Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan có những nét rất gần với truyện cười dân
gian. Ông đã tiếp thu, kế thừa được truyền thống lạc quan của nhân dân ta và thể hiện
nó trong các tác phẩm của mình thật đặc sắc: đó là dùng tiếng cười như một thứ vũ
khí để tống tiễn những cái xấu xa, lạc hậu ra khỏi cuộc sống. Ông đứng lên trên tất cả
để mà cười, ông cười ở mọi cung bậc: hả hê, khoái trá, chua chát, chế giễu, khinh bỉ,
đau xót, căm giận... Có cái cười ra nước mắt của một tấm lòng ưu ái, nhân hậu, cảm
thông. Nhưng cũng có cái cười chỉ để mà cười của một người vui tính hay vô tâm
thậm chí là lạc điệu. Đóng góp của ông trong truyện ngắn chính là ở cái cười phê
phán, là xây dựng những nhân vật phản diện. Nguyễn Công Hoan phê phán xã hội
nhưng ông khác với Vũ Trọng Phụng ở chỗ là ông không phủ định sạch trơn, trong
những tác phẩm của ông vẫn còn le lói một chút ánh sáng toát ra từ lòng tốt của
những con người lương thiện (cô giáo Minh, thầy giáo Nhượng...).
Nếu như truyện ngắn của Thạch Lam tác động chủ yếu đến tình cảm của người
đọc, truyện ngắn của Nam Cao đi sâu vào đời sống nội tâm của các nhân vật thì
truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan lại nâng cao khả năng nhận thức và khám phá
những hiện thực vốn phức tạp của xã hội. Chế độ Thực dân phong kiến đầy dẫy
những mưu mô, toan tính; những giả dối, lố lăng và những kẻ tàn ác, thâm độc nhất là
những tên quan lại, những kẻ giàu có lại luôn tỏ ra mình là người nghiêm chỉnh, mở
miệng ra là nói đạo đức, nhân nghĩa. Chính vì vậy mà hầu hết các truyện ngắn của
Nguyễn Công Hoan đều nhằm bộc lộ những mâu thuẫn đó.
Nguyễn Công Hoan không ngần ngại "công phá" vào thành trì của những
khuôn khổ giáo lí và tiếp nhận của văn học giai đoạn trước. Đối với sự hình thành của
Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam, các nhà nghiên cứu đều thống nhất với
nhau về ý kiến cho rằng ông là người có vị trí, vai trò quan trọng trong việc hình
thành Chủ nghĩa hiện thực. Nguyễn Công Hoan đã dám một mình dùng ngòi bút của
mình để viết về những chuyện xảy ra trong đời sống hàng ngày, về những số phận bất
hạnh, cùng cực bị những thế lực tàn ác trong xã hội chèn ép, áp bức, bóc lột; bằng cái
nhìn giễu cợt, đả kích chua cay; với một tấm lòng căm giận bọn cường quyền, áp bức
đến tận xương tủy và sự cảm thông sâu sắc với những số phận bất hạnh. Truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan hiện lên như một tấn trò đời phong phú, đa dạng.
22
Trong thời kì các thể loại văn xuôi Việt Nam đang còn chập chững những
bước đi đầu tiên với việc sử dụng chữ viết của dân tộc là chữ Quốc ngữ thì các tác
phẩm truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan có đóng góp quan trọng trong cách sử
dụng từ ngữ và nghệ thuật viết truyện ngắn.
Khi tổng kết về quá trình sáng tác truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, các
nhà nghiên cứu thường bỏ qua tập truyện "Kiếp hồng nhan" (in năm 1923) vì đây là
tập truyện đầu tay mang tính thử bút của nhà văn. Tuy nhiên, mặc dù tập "Kiếp hồng
nhan" không để lại tiếng vang đáng kể về sau nhưng trong tình hình văn học những
năm 20 - 30 đó, khi mà các thể loại văn xuôi như truyện ngắn cũng như tiểu thuyết
hầu như chưa có gì mấy thì tập truyện này cũng gây được một sự chú ý và đóng góp
nhất định. Chính Nguyễn Công Hoan sau này khi nhắc đến đứa con đầu lòng ấy cũng
đã rất tự hào vì nó là "Cuốn sách đầu tiên gồm toàn truyện sáng tác chứ không phải
vừa soạn vừa dịch như những sách ra trước" [31, tr.81].
Đầu thế kỉ XX do quá trình giao lưu văn hóa và việc mở các trường học tiếng
Pháp, dạy văn học Pháp của Thực dân Pháp mà trên văn đàn văn học Việt Nam giai
đoạn này chủ yếu xuất hiện những tác phẩm dịch từ các tác phẩm nước ngoài hay
những tác phẩm viết theo thể phóng tác (tức là dựa vào nhân vật, cốt truyện, tình tiết,
cách viết của các tác phẩm văn học nước ngoài để sáng tác). Còn những tác phẩm
sáng tác thực sự chưa có nhiều. Việc những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan ra
đời sớm hơn nữa lại vô cùng đặc sắc đã trở thành một định hướng lớn, chỉ đường cho
các nhà văn khác cùng thời.
Hầu như các nhà văn đầu thế kỉ đều sáng tác theo khuynh hướng lãng mạn,
bay bổng, mơ mộng với những câu chuyện tình lãng mạn. Thông qua các tác phẩm
của mình, Nguyễn Công Hoan đã định hướng cho họ về cái nhìn cuộc sống, về xu
hướng tiếp cận đời sống sao cho phù hợp với hiện thực cuộc sống, sao cho phản ánh
được những vấn đề nóng bỏng, những ung nhọt... của xã hội.
Không chỉ định hướng cho các nhà văn cùng thời hướng tiếp cận đời sống,
truyện ngắn Nguyễn Công Hoan còn giúp cho họ cách thức làm thế nào để truyền tải
hiện thực cuộc sống một cách sắc nét, sinh động, hấp dẫn... đó chính là nghệ thuật
23
viết truyện ngắn. Nguyễn Công Hoan đã được đánh giá là bậc thầy viết truyện ngắn
của văn học Việt Nam hiện đại.
Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan hấp dẫn, sinh động là do nhà văn trong
quá trình sáng tác của mình đã luôn luôn thay đổi các thủ pháp nghệ thuật, thay đổi
màu sắc và các cung bậc tình cảm. Có truyện tác giả viết nhằm gợi lên sự căm hờn
trong lòng bạn đọc (Sáng - chị phu mỏ), lại có truyện được viết nhằm tạo ra sự kinh
tởm (Gói đồ nữ trang), có truyện lại được viết để làm thức dậy lòng thương người
(Anh xẩm), cũng có những truyện chỉ đơn giản viết ra để cười khoái trá (Samandjil,
Anh hùng tương ngộ)...
Nguyễn Công Hoan là người biết tổ chức cấu trúc chặt chẽ và thay đổi cấu trúc
rất linh hoạt. Có những truyện là tấn bi hài kịch ba màn (Ai khôn, Đàn bà là giống
yếu, Một tấm gương sáng), có khi lại có sự trộn lẫn giữa bi - hài kịch (Thằng ăn
cắp)..., có truyện nhân vật không phải là người mà lại là một vật vô tri vô giác (Chiếc
quan tài), có truyện tác giả lại tự nhận mình là nhân vật chính (Tôi tự tử)...
Nhà văn cũng là một người có sở trường trong nghệ thuật khắc họa nhân vật,
đặc biệt là nhân vật phản diện. Với ngòi bút tài tình của mình ông đã làm cho các
nhân vật hiện lên một cách sinh động, đặc biệt là qua hành động và lời nói dần dần
bản chất của chúng được bộc lộ chân thực, bất ngờ.
Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan rất tập trung, cô đọng, cảm hứng đi liền
một mạch từ đầu đến cuối. Nhà văn đã thực hiện rất điêu luyện hai đặc trưng cơ bản
của thể loại truyện ngắn là ngắn (về hình thức) và thanh giản (về tinh thần). Mỗi
truyện chỉ mô tả một cảnh, một việc, một nỗi lòng thậm chí nhiều khi còn không có
chuyện gì. Ông có lối viết văn lí luận rất Việt Nam, vừa giản dị lại vừa dí dỏm.
Nguyễn Công Hoan quan niệm viết truyện ngắn cũng giống như việc đánh cá bằng
lờ ở chỗ nước chảy. Người đánh cá cắm đăng, chăng lưới rồi gõ cạnh cạnh để lừa cá
chui tọt vào hom. Ví dụ như ở truyện ngắn "Đào kép mới" ta thấy có rất nhiều chi
tiết thú vị.
Nhiều truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan đã trở thành những tác phẩm văn
học "cổ điển" trong chương trình các cấp học ở trường phổ thông và đại học. Nguyễn
24
Công Hoan đã gây ra một ảnh hưởng sâu đậm đối với nhiều nhà văn thế hệ sau như
Tô Hoài, Bùi Hiển, Nguyễn Khải, Chu An...
1.3. Đóng góp của Nguyễn Công Hoan trên phƣơng diện nội dung
Nội dung là một trong hai phương diện cơ bản thống nhất không thể tách rời của
các tác phẩm văn học. Theo "Từ điển thuật ngữ văn học": "Nội dung tác phẩm là hiện thực
cuộc sống được phản ánh trong sự cảm nhận, suy ngẫm và đánh giá của nhà văn. Đó là
hệ thống gồm nhiều yếu tố khách quan và chủ quan xuyên thấm vào nhau".
Thông qua các tác phẩm của mình, Nguyễn Công Hoan đã làm xuất hiện trước
mắt người đọc một bức tranh xã hội nhiều màu sắc. Ông đề cập đến mọi phương diện
của đời sống: từ những cảnh thối tha, nhơ nhuốc, những thủ đoạn, mưu mô trong giới
những người có thế lực, có địa vị đến những cảnh khốn khổ, cùng đường, không có
tiền, bị áp bức, bóc lột của những kẻ thấp cổ bé họng trong xã hội; từ sự lố lăng, kệch
cỡm của những cô gái "tân thời" đến số phận bất hạnh nhưng vẫn toát lên sự trong
sạch trong tâm hồn của những người công nhân; từ những hủ tục vốn đè nặng lên tâm
trí của những người ở chốn thôn quê đến những cảnh chạy chọt đủ mọi cách để leo
lên địa vị "người ngồi trên"...
Trong cái xã hội thực dân nửa phong kiến - một xã hội bất công ngang trái,
một xã hội mà đồng tiền có sức mạnh ngự trị rất lớn, nó có thể đổi trắng thay đen,
làm người ta chết đi sống lại rất dễ dàng; một xã hội tràn ngập sự hiện diện của những
tiệm hút, nhà chứa, sòng bạc... thì những người dân lao động bị bóc lột đến tận xương
tủy, thậm chí còn bị đẩy đến mức bần cùng hóa, cuối cùng dẫn đến tha hóa là những
hiện tượng không khó tìm. Những người dân nghèo trong cái xã hội đó phải chịu
đựng rất nhiều nỗi đau khổ khác nhau, họ không chỉ khổ vì nghèo đói mà còn khổ vì
bị xúc phạm về nhân phẩm và bị trà đạp đến phũ phàng, không chỉ chịu nỗi đau về
thể xác mà họ còn phải chịu những nỗi đau về mặt tinh thần, họ bị cái dư luận thành
kiến bất công của cái xã hội đó gán cho đủ mọi thứ tội xấu xa mà tất cả điều đó suy
cho cùng cũng chỉ vì do nghèo đói mà ra. (Thằng ăn cắp, Bữa no... đòn, Thế cho nó
chừa, Hai thằng khốn nạn, Thằng ăn cướp...).
"Kép Tư Bền" là truyện ngắn tiêu biểu, gây được ấn tượng mạnh ngay từ khi
mới ra mắt công chúng của Nguyễn Công Hoan. Nhân vật chính là Tư Bền - một kép
25
hát có tài năng "Các ngài thích xem hát bội, hẳn chẳng ai là không biết tên kép Tư
Bền. Ấy, anh ta chỉ nổi tiếng về cái tài bông lơn, lắm lúc ra sân khấu, chẳng cần nói
một câu khôi hài nào, nhưng chỉ nhìn một cái điệu bộ cỏn con của anh ta, các khán
quan cũng đủ phải ôm bụng mà cười, vỗ tay đồm độp." [tr.159], bà con Hà Thành hễ
đọc chương trình thấy có tên kép Tư Bền đóng " là cũng nô nức đi xem", cho nên
"những tối có hát có anh giúp, thì các ký viện đều trưng lên là buổi hát đặc biệt." Nhà
thì nghèo, bố thì ốm nặng, kép Tư Bền đành phải kí "giao kèo" với ông chủ rạp hát
"Kịch trường". Trong khi ở nhà cha anh bệnh rất nặng, có thể nguy hiểm đến tính
mạng bất cứ lúc nào, lòng dạ đau đớn, thấp thỏm không yên nhưng anh vẫn phải ra
sức pha trò bông lơn trên sân khấu để làm cho đám khán giả có tiền ở dưới khán đài
kia được cười hả hê, sung sướng "... Ban nãy, lúc anh ở nhà ra đi, đã thấy nguy lắm
rồi. Thôi! Nhưng mà mặc kệ. Anh phải quên đi, mà bông, mà đùa, mà pha trò trên
sân khấu, cho chúng tôi cười, hét lên mà cười, cười đến nỗi phải lăn cả ra đất".
Số phận, hoàn cảnh của kép Tư Bền có lẽ cũng chính là số phận, hoàn cảnh
của những người làm kép hát nói chung, vì phải kiếm tiền mà họ không được tự do
trong cả việc khóc cười - một việc tưởng như rất đỗi tự nhiên của con người, trong
lúc muốn khóc họ lại phải cười, trong lúc muốn cười họ lại phải khóc, chỉ vì sự cười
khóc của họ đã được người ta mua bằng tiền mất rồi.
"Ngựa người người ngựa" cũng là tác phẩm mang dư vị chua chát thấm thía,
đi vào tình huống oái oăm, dở khóc dở cười mà toát lên nỗi cay cực khốn khổ trong
xã hội đồng tiền như "Kép Tư Bền" . Trong đêm giao thừa, một anh phu xe "đói"
khách đã không may đụng độ với một cô gái làng chơi cũng đang ế khách, phải đi tìm
khách. Anh phu xe vừa mới ốm một trận "thập tử nhất sinh", "cố vay được cái vốn để
đi mua xe, kiếm bữa gạo để ăn tết" nhưng mời mỏi miệng mà chẳng có ai đi, mãi mới
có một người đi nhưng thật không may cho anh lại gặp phải "người đồng cảnh ngộ".
Cô gái giang hồ đó vì không tìm được khách nên đã quỵt tiền xe của anh, bỏ mặc anh
lại trong đêm giao thừa sau khi bắt anh chạy liên tục suốt mấy tiếng đồng hồ, thậm
chí lại còn "vay không" của anh hai hào nữa. Kết thúc truyện là sự bàng hoàng của
anh phu xe khi biết mình bị lừa, bao nhiêu hi vọng, bao nhiêu dự định của anh đều tan
theo mây khói, lòng anh chết lặng đi, anh lủi thủi dắt xe đi giữa lúc tiếng pháo chào
26
đón năm mới nổ ran. Đằng sau tiếng cười là niềm thương cảm chân thành của tác giả
đối với số phận của những người nghèo.
Bản thân Nguyễn Công Hoan là một nhà văn thuộc trào lưu Văn học hiện thực
phê phán nên ông hiểu rất rõ một điều rằng trong cái xã hội Thực dân nửa nửa phong
kiến thì dù ở nông thôn hay ở thành thị cũng đều tồn tại những ung nhọt đang ngày
càng tấy lên nghiêm trọng, không thể che giấu được. Hiểu sâu sắc điều đó, nhà văn đã
không bỏ qua một cơ hội nào để vạch trần những ung nhọt xấu xa đó.
Trong xã hội đồng tiền vô nhân đạo thì mọi giá trị đạo đức, mọi mối quan hệ
tốt đẹp giữa người với người (không chỉ bên ngoài xã hội mà cả mối quan hệ, tình
cảm giữa những người trong cùng gia đình như giữa con với cha, con với mẹ, anh chị
em trong nhà...) dường như đã bị mất đi, bị "tha hóa, biến chất". Cái thế thái nhân
tình trong xã hội giàu sang đó đã bị Nguyễn Công Hoan đả kích thẳng tay trong hàng
loạt truyện (Mất cái ví, Bà chủ mất trộm, Thế là mợ nó đi Tây, Báo hiếu: trả nghĩa
cha, Báo hiếu: trả nghĩa mẹ, Thằng điên...).
"Mất cái ví" là truyện nói lên sự bạc bẽo của một ông Tham đối với ông cụ
cậu ruột của mình. Chỉ vì sợ tốn kém, không muốn ông cậu ra nhà mình chơi mà
ông Tham đã "chơi trò mất cắp" với ông cậu và vật mất cắp là một chiếc ví trong
đựng bốn mươi đồng bạc. Mặc dù nói "mợ khẽ để ông ngủ" nhưng họ lại "làm điếc
cả tai"; mặc dù nói không dám nghi ngờ cho ông cụ nhưng lại đưa ra những lời lẽ
và dẫn chứng khiến mọi người đều nghĩ đến ông cụ. Cuối cùng mục đích của ông
Tham đã đạt được, ông cậu đã giận dữ bỏ đi và thề không bao giờ trở lại. Kết thúc
tác phẩm là hành động "quẳng cái ví đánh bẹt xuống mặt phản" của ông Tham, ông
Tham quẳng cái ví xuống mặt phản như là ông đã quẳng xuống đất cái tình người,
tình thân của mình vậy. Nó là biểu hiện của sự bạc bẽo của con người trong cái xã
hội mà đồng tiền chi phối.
Hành động bất hiếu bất nghĩa, đạo đức giả tới mức kinh tởm của những "ông
chủ", "bà chủ" được thể hiện rõ nhất trong hai truyện ngắn "Báo hiếu: trả nghĩa cha"
và "Báo hiếu: trả nghĩa mẹ". Cả hai tác phẩm Nguyễn Công Hoan đều cho ta thấy sự
đối lập đến gay gắt trong hành động của vợ chồng ông bà chủ của hiệu xe Con Cọp.
"Báo hiếu: trả nghĩa cha" là sự đối lập giữa hành động tổ chức một bữa tiệc linh
27
đình, mời mọc cho thực đông khách trong ngày giỗ bố của ông chủ với hành động
vừa trợn mắt, vừa gắt, vừa mắng đối với một bà cụ rách rới, bẩn thỉu. Bà cụ đó không
ai khác chính là mẹ ruột của ông chủ đây, bà đã phải đội mưa, đội gió trong thời tiết
rét buốt để đến thăm con, thắp hương cho chồng. Nào ngờ đến nơi, không những
không được chào đón mà bà còn bị mắng, bị gắt, không được ăn cơm và bị đuổi về
ngay trong đêm tối. Thậm chí, đứa con "có hiếu" đó còn tàn nhẫn đến mức cấm người
làm không ai được kéo bà ấy, cho bà ấy đi bộ với mục đích "để bận sau mà chừa".
Tiếp nối "Báo hiếu: trả nghĩa cha" là truyện "Báo hiếu: trả nghĩa mẹ", ở
truyện trước người đọc cũng đã thấy rõ cái hành động "có hiếu" của ông chủ hãng xe
Con Cọp đối với mẹ đến mức nào rồi nhưng sang đến truyện "Báo hiếu: trả nghĩa
mẹ" này thì tác giả lại cho độc giả thấy rõ hơn sự "tận hiếu" của người con khi mẹ
qua đời. Không ai rõ bà cụ vì sao mà chết, chỉ biết tờ cáo phó viết là "chẳng may thụ
bệnh". Đám ma được tổ chức hết sức linh đình, uy vệ, tiếng khóc than kêu gào thảm
thiết, người con trai thì "đi trước linh cữu thì giật lùi từng bước. Lúc nào cũng bưng
miệng mà khóc, còng lưng xuống mà khóc, đến nỗi phải chống gậy.", người con dâu
kêu khóc đến khản cả cổ, đến lúc hạ huyệt vì không muốn "mất" mẹ mà nhảy đánh
tụp xuống, ôm chặt lấy quan tài mà hờ mà khóc, đến nỗi ngất cả đi. Giá mà độc giả
không đọc "Báo hiếu: trả nghĩa cha" thì có lẽ khi đọc truyện này sẽ phải "khóc" mà
tấm tắc khen vợ chồng ông chủ hãng xe Con Cọp có hiếu thực nhưng tiếc rằng không
thể như vậy. Người đọc sẽ phải khóc nhưng là khóc cho cái bạc bẽo, giả dối của tình
người, sức mạnh của đồng tiền đã làm tha hóa đi tất cả, thậm chí cả tình mẫu tử cũng
không ngoại trừ.
Khi phê phán tình trạng đồi bại của xã hội về mặt đạo đức, ngòi bút Nguyễn
Công Hoan tỏ ra rất sắc sảo khi miêu tả sự lố lăng, kệch cỡm, nhõng nhẽo, đua đòi ăn
diện và yêu đương tự do của đám con gái "mới lớn" con nhà giàu. Ông lên án một
cách dứt khoát cái làn sóng "Âu hóa", "vui vẻ trẻ trung" đang lan tràn khắp nơi đó.
Bản thân âu hóa không phải là xấu nhưng nếu âu hóa đến mức quá trớn và đặt trong
tình cảnh lầm than của nhân dân ta lúc bấy giờ thì nó lại là xấu. Xuất phát từ lập
trường đạo đức, từ quan điểm xã hội, Nguyễn Công Hoan không thể khoan nhượng
28
với lối sống sa hoa, đú đởn, tự do quá trớn đó (Cô Kếu gái tân thời, Chồng cô Kếu
gái tân thời, Nỗi lòng ai tỏ, Oẳn tà roằn, Người vợ lẽ bạn tôi).
"Cô Kếu, gái tân thời" châm biếm thói đua đòi ăn diện đang là cơn sốt trong
đám thanh niên nhà giàu ở thành thị lúc bấy giờ. Cô Kếu - một cô gái mới lớn, có
nhan sắc, nhà giàu, cô luôn oán cha trách mẹ vì đã đặt cho cô cái tên xấu và quê mùa
quá; cô phải nhờ người đặt hộ cho cái tên khác mĩ miều hơn, tân thời hơn là Bạch
Nhạn. Cô luôn tỏ ra ganh tị với những cô bạn của mình và bực với mẹ "sao lại có bà
cụ nghiệt như mẹ cô bao giờ". Bà không cho cô ăn mặc theo lối tân thời mà "cứ bắt
na bắt nết, bắt tập những nết ăn, ý ở, bắt học những câu nói, việc làm" cũ. Đến nỗi,
cô phải giấu mẹ "sắm một mẻ toàn những thứ tân thời" nhưng không dám để ở nhà
mà gửi ở nhà bạn, mỗi buổi chiều cô đến chơi nhà bạn để bận những đồ đó trong
khoảng nửa giờ cho đỡ thèm rồi đi về. Thậm chí, những hôm chẳng may trời đổ mưa,
cô không đi được thì "cô nóng ruột gan. Mà cứ đến cái giờ ấy, quái lạ, cô nằm bẹp
dí, chẳng thiết làm cái phải gió gì cả".
"Oẳn tà roằn" là truyện kể về một người con gái chưa có chồng nhưng đã có
chửa, cô thề chung thủy với hết người này đến người khác, cô còn lấy cái chết ra để
chứng tỏ sự chung thủy của mình. Tất cả đều tin lòng chung thủy của cô nhưng thật
bất ngờ đến ngày sinh con thì tất cả những chàng trai đó phải "ngậm ngùi" thở dài mà
thất vọng vì đứa bé đó chẳng có một đặc điểm gì giống mình cả, nói một cách rộng
hơn nữa thì nó "không phải con Rồng cháu Tiên". Thằng bé có "nước da lại đen như
cái cột nhà cháy!... Nó là giống Oẳn tà roằn không biết chống gậy". Thông qua câu
chuyện của mình nhà văn muốn vạch trần cái lối sống buông thả của một bộ phận
thanh niên trong xã hội Thực dân nửa phong kiến ấy.
Bên cạnh đó, Nguyễn Công Hoan còn đặc biệt đi sâu vạch trần cái hiện thực
nhem nhuốc, tối tăm ở chốn quan trường. Quan lại dưới ngòi bút của ông đều là
những kẻ bất nhân, vô đạo, tàn ác và nhem nhuốc. Chúng không chỉ hống hách bóp
nặn của dân đen mà còn thẳng tay bóp nặn của cả đám thuộc hạ của chúng một cách
trắng trợn (Cái nạn ô tô, Đàn bà là giống yếu, Cụ Chánh Bá mất giày...), là những kẻ
dâm ô, bỉ ổi. "Vẫn còn trịnh thượng", "Chiếc đèn pin", "Nạn râu" là bộ ba truyện
ngắn kể về những chuyện bê bối của một ông quan huyện "dê già", dám làm những
29
điều xằng bậy, bị bắt quả tang nhiều lần mà vẫn chứng nào tật ấy; ăn tiền một cách
trắng trợn dưới nhiều hình thức, thủ đoạn bẩn thỉu khác nhau (Thịt người chết, Thằng
ăn cướp, Cái nạn ô tô, Ngượng mồm, Gánh khoai lang, Chính sách thân dân...).
"Thịt người chết" kể về thói "ăn bẩn" ghê tởm của một ông huyện tư pháp.
Không chỉ là một tên quan vô trách nhiệm, người nhà của người xấu số lên báo quan
từ sáng chủ nhật nhưng đến tận 9 giờ sáng ngày thứ hai mới thấy "còi ô tô đằng xa
bỗng thét vang" và để có thể kiếm chác bỏ vào túi riêng của mình, ông huyện tư pháp
đã cố tình dây dưa, dọa dẫm người nhà nạn nhân, không cho chôn ngay (mặc dù cái
xác chết đó đã trương thối lên rồi). Hắn lại còn thản nhiên mặc cả số tiền đút lót ngay
ở hiện trường nữa. Chi tiết kết thúc truyện thật mỉa mai, đầy hàm ý :
"Và một giờ sau, lũ ruồi, lũ nhặng, lũ cá, lũ quạ, tiếc ngẩn ngơ.
Chúng có biết đâu rằng quan Huyện tư pháp đã tranh mất món mồi ngon của
chúng." [tr.446]
Như vậy trước cái món mồi béo bở là món "Thịt người chết" thì quan Huyện
cũng chỉ giống như thứ ruồi, nhặng kia mà thôi, không hơn không kém.
Trong "Thằng ăn cướp", nhà văn đã vạch trần bản chất ăn cướp của đám quan
lại, thủ đoạn ăn cướp của chúng còn ghê gớm, trắng trợn hơn cả kẻ ăn cướp. Những
kẻ ăn cướp của dân, của con buôn, của nhà giàu là những kẻ ăn cướp bất hợp pháp
nên luôn sợ bị quan bắt. Còn quan lại ăn cướp là ăn cướp hợp pháp, công khai, không
cần phải sợ ai cả. Kẻ ăn cướp bất hợp pháp ăn cướp của dân nhưng lại bị ăn cướp bởi
thằng ăn cướp hợp pháp. Cuối cùng, kẻ ăn cướp bất hợp pháp kia đã phải bỏ nghề vì
theo họ "nghề ăn cướp nguy hiểm mà không có lợi, nhất là vào thời điểm này" khi
xuất hiện những thằng ăn cướp hợp pháp.
Nói tóm lại về phương diện nội dung, Nguyễn Công Hoan có sự đóng góp lớn
cho trào lưu Văn học hiện thực phê phán trên cả hai phương diện. Thứ nhất là qua các
tác phẩm của mình Nguyễn Công Hoan đã phê phán, đả kích mạnh mẽ, gay gắt bọn
nhà giàu, đặc biệt là bọn quan lại, cường hào, lính lệ - những kẻ có quyền thế trong xã
hội đồng thời qua đó bộc lộ sự xót xa, thương cảm cho những người nghèo, những
người thấp cổ bé họng, những nạn nhân của xã hội đó. Thứ hai là nhà văn đã phê
phán tình trạng đồi bại của xã hội về mặt đạo đức xoay quanh vấn đề về luyến ái, hôn
30
nhân và vấn đề phụ nữ. Với hai nội dung chính này, nhà văn đã khắc họa lên hiện
thực cuộc sống, xã hội Việt Nam thời kì trước Cách mạng Tháng 8.
Tiểu kết:
Nguyễn Công Hoan là bậc thầy truyện ngắn trong văn học Việt Nam hiện đại.
Dư luận đều thống nhất đánh giá cao công lao của ông trong việc xây dựng một nền
truyện ngắn Việt Nam hiện đại. Đồng thời là người cắm ngọn cờ đầu cho Văn học
Hiện thực phê phán Việt Nam. Có mặt ngay từ buổi bình minh của nền văn học "quốc
ngữ", bằng sức sáng tạo dồi dào, dẻo dai, bằng một tài năng xuất sắc, độc đáo, thấm
đượm bản sắc dân tộc, Nguyễn Công Hoan đã góp phần quan trọng vào quá trình hiện
đại hóa văn học Việt Nam thế kỉ XX.
Có rất nhiều tác giả đang nổi danh như cồn bỗng nhiên bị lãng quên là một
điều không hiếm trong lịch sử văn học Việt Nam. Nhưng Nguyễn Công Hoan lại
khác: ông là nhà văn chưa từng bị lãng quên mà ngược lại là người thường xuyên
được nhắc đến trong làng văn Việt Nam hiện đại.
31
Chƣơng 2
NGUYỄN CÔNG HOAN - BẬC THẦY VỀ
NGHỆ THUẬT VIẾT TRUYỆN NGẮN
Nguyễn Công Hoan là nhà văn được các nhà nghiên cứu đánh giá là người có
sức sáng tác dồi dào, phong phú. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông sáng tác
song song cả ở hai thể loại: truyện ngắn và truyện dài nhưng thể loại làm lên tên tuổi,
vị trí của ông lại chính là thể loại truyện ngắn. Và khi nhắc đến truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan, chúng ta không thể không nhắc đến nghệ thuật viết truyện ngắn của ông.
2.1. Cốt truyện
2.1.1. Khái niệm "cốt truyện"
"Cốt truyện" trong tiếng Anh là plot, tiếng Nga là siujet, tiếng Pháp là sujet.
Theo "Từ điển thuật ngữ Văn học": cốt truyện là "hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ
chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản,
quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự
và kịch" [tr.99].
Đồng thời các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khác Phi cũng đã
khẳng định: "Có thể tìm thấy qua một cốt truyện hai phương diện gắn bó hữu cơ:
một mặt, cốt truyện là một phương diện bộc lộ nhân vật, nhờ cốt truyện, nhà văn
thể hiện sự tác động qua lại giữa các tính cách nhân vật; mặt khác, cốt truyện còn
là phương tiện để nhà văn tái hiện các xung đột xã hội... Cốt truyện là một hiện
tượng phức tạp" [tr.100].
Bên cạnh khái niệm cốt truyện được hiểu theo tinh thần truyền thống ấy thì các
tác giả của cuốn "Từ điển thuật ngữ văn học" còn đưa ra một cách hiểu khác, cốt
truyện còn được hiểu "như là toàn bộ các biến cố, sự kiện được nhà văn kể ra, là cái
mà người đọc có thể đem kể lại (histoire)" [tr.101].
2.1.2. Các đặc điểm cốt truyện truyện ngắn Nguyễn Công Hoan
Đọc truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, chúng tôi nhận thấy phần lớn các
truyện ngắn của ông khá ngắn gọn, có chủ đề rõ ràng, không rờm rà, rắc rối mà cả
truyện chỉ có một tuyến tình tiết đơn giản, dễ theo dõi, nhận biết. Kết cấu truyện ngắn
32
của Nguyễn Công Hoan cũng rất gần với kết cấu truyện kể dân gian, trong đó cốt
truyện đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Nguyễn Công Hoan thường tạo cho mình
một cốt truyện giàu kịch tính; ông cũng cố gắng tìm tòi, sáng tạo ra những cốt truyện
phong phú, đa dạng, có khả năng diễn đạt sự việc một cách linh hoạt và đặc biệt là cốt
truyện trong các truyện ngắn của nhà văn thường được xây dựng dựa trên những mâu
thuẫn trào phúng.
2.1.2.1. Cốt truyện giàu tính kịch
Theo quan niệm truyền thống, một truyện được coi là có kịch tính cao khi
truyện đó phải có những phần lắt léo, những sự kiện mang tính kịch, kết thúc phải
thật bất ngờ, tạo cho người đọc sự ngạc nhiên.
Các tác phẩm của các nhà văn thời kì trước Nguyễn công Hoan - thời kì những
năm đầu thế kỉ XX như là: "Câu chuyện nhà sư" của Nguyễn Bá Học, "Tái sinh sinh",
"Sùng bái giai nhân" của Phan Bội Châu... đã bắt đầu có tính kịch. Tuy nhiên đa số các
tác phẩm ở thời kì này có cốt truyện sơ sài, không mấy hấp dẫn, nặng về lí thuyết,
chẳng hạn như: "Chiến sĩ Cao Thắng" của Phan Bội Châu, "Một cánh hoa chìm" của
Nguyễn Văn Cơ, "Bác nghiện" của Vũ Miễn Nam... Ở những tác phẩm này, tính cách
của nhân vật chưa được chú tâm xây dựng, dường như nhân vật được xây dựng lên chỉ
để minh họa, làm rõ hơn cho các mệnh đề tư tưởng. Chính vì vậy mà truyện trở lên
kém hấp dẫn, nhân vật chỉ là những hình bóng mờ nhạt hoặc cứng nhắc.
Đến giai đoạn 1920 - 1930, cùng với giai đoạn đầu sáng tác của Nguyễn Công
Hoan, các tác phẩm của một số nhà văn trong đó có Nguyễn Công Hoan được bắt đầu
bằng những tình huống có tính cao trào, có tính kịch, tạo ra mâu thuẫn từ đó xoáy sâu
vào phản ánh một hiện tượng, một sự việc, một mâu thuẫn, một loại người trong xã
hội. Chẳng hạn như tác phẩm "Sống chết mặc bay" của Phạm Duy Tốn, mở đầu đã là
một cảnh đối lập mang nhiều tính kịch: đó là cảnh hàng ngàn người đang náo loạn
trước nguy cơ bị vỡ đê với cảnh quan phụ mẫu vẫn "uy nghi, chễm chệ ngồi...", ngài
vẫn mải "ù thông tôm, chi chi nẩy, điều mày...", chứ không hề chú ý đến mọi sự xung
quanh... Tính kịch cứ theo đó mà được đẩy lên mãi để rồi đến khi kết thúc truyện,
người đọc đã vô cùng phẫn nộ trước sự vô lương tâm, vô trách nhiệm, mất hết lương
tri của tên quan "phụ mẫu" đối với tính mạng của những người dân nghèo.
33
Khi tiến hành khảo sát, chúng tôi nhận thấy một điều: trong các sáng tác của các
nhà văn cùng thời như Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Tam Lang... cốt truyện có phần ít
dụng công về tính kịch hơn và có phần nhẹ nhàng hơn. Còn ở truyện ngắn của Nguyễn
Công Hoan lại khác. Với mục đích châm biếm, phê phán những lố bịch, giả dối của
tầng lớp quan lại, tay sai, địa chủ - những kẻ có quyền, có tiền, có thế trong xã hội
Thực dân nửa phong kiến, ông đã luôn trăn trở, suy nghĩ để tìm ra, tạo ra những cốt
truyện giàu kịch tính, kết thúc bất ngờ, tạo sự bất ngờ cho người đọc. Từ đó tiếng cười
được bật ra một cách tự nhiên nhưng đằng sau tiếng cười ấy là cả một sự đau đớn, chua
chát, một sự ám ảnh khôn nguôi. Ở mỗi một truyện, nhà văn lại xây dựng những cốt
truyện khác nhau, tạo cho người đọc những ấn tượng nghệ thuật mới mẻ.
Ở truyện "Răng con chó của nhà tư sản" tình huống kịch tính của tác phẩm
được đặt ở cuối tác phẩm, khi mà người ăn mày chỉ vì đói quá, giành ăn với con chó
giống Bleu d'Auvergne của nhà tư sản mà "chẳng may" làm gãy của nó mất hai cái
răng. Tên nhà giàu đã tức điên lên, hắn "thương con chó" quá, rồi hắn "nghiến răng...
nhảy tót lên xe ô tô..." phóng nhanh hết sức với niềm quyết tâm "... ông chỉ kẹp cho
mày chết tươi, rồi ông đền mạng. Bất quá ba chục bạc là cùng!". Không cần phải
nhiều lời bình luận, đánh giá bởi ngay chính bản thân hành động và lời nói của nhân
vật đã thể hiện rõ, sinh động và khách quan bản chất là một con ác thú, phi nhân tính
của hắn. Kết thúc tác phẩm là dấu ba chấm, tác giả không nói rõ kết quả của hành
động phóng xe điên cuồng ấy là gì, không nói đến cái chết của người ăn mày nhưng
người đọc hoàn toàn đoán biết được điều đó. Từ đó, mục đích phê phán đã đạt đến
đích, bản chất nhân vật được bộc lộ tối đa... đồng thời kết thúc truyện cũng thể hiện
tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Công Hoan.
Truyện ngắn "Oẳn tà roằn" tình huống kịch tính của tác phẩm cũng nằm ở
cuối truyện. Ngày chủ nhật, sau khi Nguyệt sinh có tới bốn người đến nhận làm cha
đứa bé nhưng họ nhìn mặt đứa bé xong thì đều nhẹ nhàng đặt đứa bé xuống rồi lui ra
ngoài đi về, người thì "rúc rích nhìn nhau cười", người thì "thở dài một cái rõ dài,
nét mặt thất vọng". Vậy nguyên nhân vì đâu mà họ lại có thái độ như vậy? Đó chính
là do thằng bé mà họ tưởng là "con" của họ lại có "nước da đen như cột nhà cháy!",
vậy là nó "không phải là con Rồng cháu Tiên. Nó là g..ống Oằn tà rroằn không biết
34
chống gậy". Không cần kể nể, bình luận mà chỉ cần qua tình huống kịch tính đó
người đọc cũng vỡ òa bao điều về phẩm chất, sự chung thủy đến mức phải lấy cái
chết ra để thề của Nguyệt. Trước đó, mặc dù người đọc đã ngờ ngợ về cái tính "chung
thủy" của Nguyệt nhưng họ vẫn có chút "hi vọng" rằng trong số những người đàn ông
mà cô thề ấy sẽ có một người là cha đứa trẻ. Tác giả đã rất tài tình khi để cho độc giả
của mình "hi vọng", chờ đợi trong suốt quá trình diễn biến câu chuyện để rồi lại
"thẳng tay" dập tắt nó khi miêu tả về ngoại hình của đứa bé. Cái ngoại hình đó làm
cho người đọc hoàn toàn choáng váng, có lẽ ngay chính bản thân Nguyệt cũng không
thể ngờ rằng mình lại sinh ra một đứa con như vậ y. Bởi nếu không cô đã chẳng dám
ra sức thề sống thề chết với những người đàn ông "An Nam" kia.
Ngoài ra một loạt những truyện ngắn khác của Nguyễn Công Hoan như: Hai
thằng khốn nạn, Sống chết mặc bay, Bà chủ mất trộm, Sáu mạng người... cốt truyện
cũng mang đậm tính kịch.
2.1.2.2. Hình thức cốt truyện phong phú, đa dạng, linh hoạt
Hình thức cốt truyện là cách thức trình bày câu chuyện sao cho hay, hấp dẫn,
sinh động, gây được ấn tượng mạnh đối với người đọc và thể hiện đến mức tối đa ý
nghĩa mà tác giả muốn gửi gắm ở trong câu chuyện đó. Điều này rất ít người viết
truyện để ý đến. Chúng tôi nhận thấy các tác giả khác của dòng Văn học Hiện thực
phê phán như: Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao... thường chỉ đóng vai người
kể chuyện. Nghĩa là đóng vai trò như là một người ngoài nhưng biết rất rõ về câu
chuyện nên kể lại cho người khác nghe. Nguyễn Công Hoan không như vậy, ông
nhận thấy trong văn học không chỉ có một hình thức cốt truyện ấy mà còn rất nhiều
hình thức cốt truyện khác.
Dựa trên tinh thần của kiểu cốt truyện giàu kịch tính của mình, Nguyễn Công
Hoan đã thật sự nghiêm túc trong việc suy nghĩ, tìm tòi để sáng tạo ra nhiều hình thức
cốt truyện, nhiều cách dựng truyện linh hoạt khác nhau và cuối cùng là tiến hành thử
nghiệm trong các tác phẩm của mình. Chính sự mạnh dạn, táo bạo đó đã đem đến cho
các truyện ngắn của ông một hiệu quả nghệ thuật cao, mới lạ, tạo được sự hấp dẫn, tò
mò, lí thú ở người đọc.
35
Trước tiên, Nguyễn Công Hoan cũng sử dụng hai hình thức cốt truyện phổ
biến là hình thức tác giả đóng vai người kể chuyện về người khác và hình thức tác
giả đóng vai người kể chuyện về chính bản thân mình. Tuy nhiên, khi lựa chọn sử
dụng hai kiểu hình thức này ông cũng đã dụng công suy nghĩ xem trong trường
hợp nào thì mình đóng vai kể chuyện về người khác? Khi nào thì đóng vai kể
chuyện về chính mình?
Trong "Đời viết văn của tôi", Nguyễn Công Hoan đã đưa ra nhận xét rất rõ
ràng: "khi một truyện diễn ra từ đầu đến cuối bằng nhiều cảnh, nhiều việc, thì tác giả
nên đóng vai người ngoài đã nhìn thấy những cảnh, những việc ấy, mà kể lại cho độc
giả nghe. Vì hầu hết mọi tiểu thuyết là cuộc biểu diễn của cảnh, của việc nên hình
thức kể chuyện được coi là hình thức rất thông thường" [tr.355].
Nhưng "một tiểu thuyết chỉ tựa vào cảnh, vào việc để nói lên sự diễn biến của
tâm lí, của tư tưởng, thì người viết truyện dùng hình thức kể chuyện cũng không sao.
Nhưng tốt hơn là nên dùng hình thức mình kể chuyện mình, mình nói tâm lý tư tưởng
mình, thì được người nghe dễ tin là thực, là đúng. Hơn thế nữa, nếu vai trò chủ động
là một người có nhiều tâm lý xấu, hoặc có nhiều ý nghĩ ngốc nghếch, dại dột, đáng
buồn cười, thì chi bằng tác giả nhận phăng vai ấy là mình. Mình kể chuyện mình,
xưng là tôi, thì dù ai có xấu, ngốc dại như người trong truyện, có bị chạm nọc, họ
cũng không giận tác giả đã lật tẩy họ" [tr.356].
Chẳng hạn những truyện như: Hai thằng khốn nạn, Thầy cáu, Thanh! Dạ!, Cụ
Chánh Bá mất giày, Báo hiếu: trả nghĩa mẹ, Báo hiếu: trả nghĩa cha... tác giả không
dùng hình thức mình kể chuyện mình mà dùng hình thức mình kể chuyện người khác.
Bởi những truyện này cần tả nhiều cảnh, nhiều việc. Ngược lại, trong những truyện
như: "Tôi chủ báo, anh chủ báo, nó chủ báo" hay "Cái lò gạch bí mật" thì ông lại
không dùng hình thức mình kể chuyện người khác mà lại dùng hình thức mình kể
chuyện mình. Trong những truyện này, nhà văn đóng luôn vai trò làm nhân vật chính
để vạch trần bản chất xấu xa, giả dối... trong xã hội.
"Tôi chủ báo, anh chủ báo, nó chủ báo" là truyện ngắn vạch trần những ý nghĩ
bẩn thỉu, vụ lợi, lợi dụng người khác (kể cả bạn bè) của bọn con nhà giàu lắm tiền,
thích ăn sẵn, không có đầu óc làm lãnh đạo nhưng lại muốn có danh hão để "oai" với
36
thiên hạ. Họ cậy mình có tiền nên bỏ ra để "mua" lấy chức "Chủ báo" rồi ngày ngày
chỉ biết đến ngồi không, uống nước, hút thuốc... đến khi tờ báo không có khả năng
hoạt động tiếp nữa họ lại đi "dụ" người khác lắm tiền hơn, "nhẹ dạ" hơn để thay thế
họ. Trong truyện này, Nguyễn Công Hoan đã xưng tôi, đóng vai trò là một kẻ có tiền,
cũng nhẹ dạ, muốn có danh hão như bao kẻ giàu khác để rồi bị "lừa" đưa tiền ra đầu
tư. Khi tờ báo đứng trên bờ vực phá sản, "tôi" đã nhận ra cái sự ngờ nghệch của
mình, đến lúc này "tôi" lại tỏ ra là một người lõi đời: "tôi" dùng chính thủ đoạn, mánh
khóe mà mình đã mắc lừa để đi lừa người khác.
Còn "Cái lò gạch bí mật" lại là truyện ngắn thể hiện sự châm biếm sâu sắc,
cay độc của nhà văn đối với những "Nhà viết truyện trinh thám Annam". Ở truyện
này tác giả xưng "tôi" nhưng lại đóng vai trò là vai phụ chứ không phải là vai chính
như trong truyện "Tôi chủ báo, anh chủ báo, nó chủ báo". Là vai phụ nhưng đã bộc lộ
rất nhiều suy nghĩ - đó là một anh lố phục vụ, làm theo yêu cầu của một anh lố khác
bởi anh lố khác đã tự cho mình là tình khôn.
Nguyễn Công Hoan là nhà văn không vừa lòng với những gì sẵn có, để làm
cho câu chuyện của mình thêm hấp dẫn, tránh làm cho người đọc cảm thấy nhàm
chán thì bên cạnh hai hình thức trình bày trên, ông đã luôn tìm tòi, sáng tạo ra những
lối kể chuyện mới, lạ. Chính nhà văn đã cảm thấy hài lòng với những nỗ lực sáng tạo
của mình: "tôi rất lấy làm tự hào vì đã tìm ra một vài lối kể chuyện mà tôi cho là mới,
là khác thường" [31, tr.356].
"Hai cái bụng" là truyện không có chuyện, thậm chí còn không có cả hành
động. Truyện do hai mẩu truyện về hai người không liên quan đến nhau tạo thành.
Hai cái bụng là bụng của "nó" - một kẻ ăn mày và bụng của "bà ấy" - một người đàn
bà giàu. Hai mẩu truyện tưởng như không có gì liên quan đến nhau nhưng thực ra lại
có liên quan đến nhau rất nhiều, đọc hai mẩu truyện trong cùng một truyện ngắn ấy
người đọc nhận ra ngay cái bức tranh tương phản sâu sắc giữa "nó" và "bà ấy". Cả
hai người đều không có bệnh gì nhưng lại như người có bệnh bởi "nó" thì gầy quá,
còm nhom, người đét lại, "không đủ sức lê tấm thân đã mòn" nữa, "chân nó lúc nào
cũng run rẩy như cầy sấy", mắt thì lờ đờ; còn "bà ấy" lại do béo quá, tác giả viết:
"Gớm! Béo đâu có béo lạ béo lùng thế! - Béo đến nỗi hai má chảy ra, cổ rụt lại. Béo
37
đễn nỗi bụng sệ xuống. Béo đến nỗi trông phát ngấy lên!". Cả hai đều muốn ăn nhưng
khác nhau ở chỗ nó thì "chỉ thèm được ăn" còn bà ấy lại "chỉ thèm ăn được". Chỉ có
hai từ "được" và "ăn" đổi vị trí cho nhau thôi nhưng nhà văn đã khái quát lên cuộc
sống của hai lớp người đối lập nhau gay gắt trong xã hội Thực dân nửa phong kiến
lúc bấy giờ.
"Chiếc quan tài" lại là truyện không có nhân vật, chủ động ở đây là chiếc quan
tài - một vật vô tri vô giác nhưng lại có hành động hết sức linh hoạt. Một người lao
động nghèo chết vào giữa mùa nước lũ, chiếc quan tài của người đó đã được mọi
người chôn ở một nơi cao nhất là khu giữa vườn nhà ông Lý rồi mà vẫn bị bật lên,
trôi nổi dập dềnh trên cánh đồng quê lụt lội. Chiếc quan tài ấy phải chăng chính là
biểu tượng cho kiếp sống khốn khổ, thê thảm, chết còn bị sóng gió đọa đầy, không
yên của người nông dân lao động nghèo.
Hay "Cô Kếu - gái tân thời", "Nỗi lòng ai tỏ" cũng là những truyện không có chuyện.
Còn "Thế là mợ nó đi Tây" lại là truyện chỉ gồm 9 bức thư, đó là những bức
thư của người vợ đi du học bên Pháp gửi về cho chồng ở Việt Nam. Trong truyện,
không hề có một bức thư nào của người chồng cũng không hề có một hành động, lời
nói nào nhưng thông qua những lời lẽ mà người vợ đã nói trong những bức thư thì
người đọc cảm nhận được đức hi sinh cao cả, quên mình của người chồng. Trong suốt
thời gian vợ đi học, anh đã phải nuôi con, nuôi mẹ vợ, rồi lại phải kiếm tiền để gửi
sang cho vợ. Anh làm việc nhiều đến mức mắc bệnh. Bù lại tất cả, anh nhận được chỉ
là sự bạc bẽo của người vợ.
"Thịt người chết" là một truyện đề cập đến một vấn đề muôn thuở đó là quan
ăn tiền của dân, thậm chí là ăn trên xác chết của người dân - một cách ăn "bẩn", "bốc
mùi"... Ông Huyện ăn tiền của người nhà nạn nhân một cách trắng trợn, công khai,
không hề kiêng nể ai; ông công khai hỏi giá "anh định tạ tôi bao nhiêu?", mặc cả như
con buôn "anh phải biết cứ tiền dầu xăng khứ hồi ô tô tôi về đây cũng đã đáng một
nén rồi" và ra giá một bách, đôi bên mặc cả rồi cuối cùng quyết định số tiền tạ quan
là bảy mươi đồng. Viết về một chuyện cũ nhưng lại không hề cũ một chút nào bởi
nhà văn đã tìm cách làm mới câu chuyện bằng cách: "tôi đã tìm được bọn ghen với
38
quan, là những con quạ, con cá mương, con ruồi, con nhặng, con giòi, con bọ, để cho
câu kết của truyện khá ngộ nghĩnh." [31, tr.357].
"Tinh thần thể dục" là truyện do ghép những mẩu đối thoại riêng biệt. Trong
khi đó, "1930 - 1932" lại là truyện nhà văn không hề viết một chữ nào mà ông cắt
những mẩu báo đăng về một sự việc diễn ra trong suốt quãng thời gian hai năm ấy;
Các mẩu báo này được xếp theo trình tự thời gian rồi dán lại tạo thành một truyện có
đầu có đuôi đầy đủ như những truyện khác.
Không chỉ vậy, Nguyễn Công Hoan không dừng ở đó, ông cho rằng những
hình thức truyện trên còn đơn giản và có "tham vọng" muốn thử viết những hình thức
truyện có cách trình bày phức tạp hơn, khó khăn hơn như: một truyện mà từ đầu đến
cuối chỉ là sự kết hợp của những cảnh không liên quan đến nhau hoặc một truyện có
chủ động không phải là một người, một cá nhân riêng biệt mà là cả một tập thể hay có
thể là một truyện mà chỉ có lời nói của một người nào đó đương nói chuyện với người
khác bằng điện thoại. Cái "tham vọng" này đã được chính nhà văn bày tỏ trong tập
hồi kí "Đời viết văn của tôi".
2.1.2.3. Cốt truyện được xây dựng dựa trên những mâu thuẫn trào phúng
Như đã nói ở trên, cốt truyện trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan có
hình thức rất phong phú, đa dạng, linh hoạt nhưng dù được xây dựng với hình thức
như thế nào thì nhà văn cũng thường dẫn dắt tình tiết sao cho để mâu thuẫn trào
phúng ngày càng phát triển và cuối cùng được bộc lộ một cách bất ngờ, từ đó tiếng
cười bật ra một cách tự nhiên.
Từ trước tới nay, chúng ta vẫn biết một trong nhiệm vụ quan trọng của văn học
là phản ánh hiện thực. Tuy nhiên phản ánh không có nghĩa là hiện thực được đưa vào
văn học một cách y nguyên, thô sơ, máy móc mà bao giờ nó cũng được phản ánh
sáng tạo thông qua lăng kính, nhãn quan, quan niệm về hiện thực và con người của
nhà văn nhằm phản ánh những tư tưởng nhất định của nhà văn đó. Trong chất liệu
hiện thực ấy thì các nhà văn rất chú tâm khai thác yếu tố mâu thuẫn, đặc biệt các nhà
văn Hiện thực phê phán lại càng quan tâm nhiều hơn. Thực chất mâu thuẫn trong tác
phẩm luôn luôn có nguồn gốc từ mâu thuẫn trong cuộc sống, song chúng không đồng
39
nhất với nhau bởi vì mâu thuẫn trong tác phẩm đã trải qua một quá trình sáng tạo
mang tính độc đáo của người nghệ sĩ.
Ở mỗi tác phẩm, mỗi nhà văn, các mâu thuẫn trong cuộc sống lại được phản
ánh với mức độ đậm nhạt khác nhau. Các mâu thuẫn luôn có tác dụng thúc đẩy hành
động của nhân vật phát triển qua đó làm cho tính cách của nhân vật bộc lộ rõ nét.
Mâu thuẫn cũng là một trong những yếu tố làm nên thành công của một tác phẩm văn
học. Một nhà văn có tài sẽ phát hiện ra được những mâu thuẫn, những xung đột cơ
bản trong xã hội, phản ánh được những vấn đề cấp thiết của xã hội; cao hơn nữa là sẽ
biết tổ chức và tìm ra cách giải quyết những mâu thuẫn, xung đột ấy một cách đặc sắc
nhất, nhằm đem lại hiệu quả nghệ thuật cao nhất.
Các kiểu mâu thuẫn, xung đột luôn luôn gắn liền với những cảm hứng chủ đạo
nhất định. Chúng tôi nhận thấy cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của Nguyễn Công
Hoan và Vũ Trọng Phụng đều là cảm hứng trào phúng, chính cảm hứng này đã hướng
ngòi bút của cả hai nhà văn tập trung vào khai thác và thể hiện những mâu thuẫn,
xung đột trào phúng. Mặc dù, cả hai cùng hướng vào những mâu thuẫn trào phúng
nhưng việc thể hiện những mâu thuẫn trào phúng ấy ở họ lại hoàn toàn khác nhau.
Với mục đích lật tẩy sự giả dối, lừa bịp, tham lam, đạo đức giả... của xã hội
Thực dân nửa phong kiến, Nguyễn Công Hoan đã sáng tạo ra nhiều kiểu xung đột
trào phúng khác nhau. Mỗi loại lại có một nét đặc sắc riêng, có hiệu quả nghệ thuật
riêng, thể hiện được những bản chất xấu xa, đê tiện khác nhau của những kẻ có địa vị,
có tiền bạc trong xã hội đương thời.
Kiểu mâu thuẫn chủ yếu trong những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan là
mâu thuẫn giữa hình thức bên ngoài và nội dung bên trong. Hình thức luôn tỏ ra đẹp
đẽ nhưng nội dung lại xấu xa, đê tiện, khinh bỉ. Kiểu mâu thuẫn này xuất hiện ở một
loạt các truyện ngắn như: Tinh thần thể dục, Đồng hào có ma, Xuất giá tòng phu,
Chính sách thân dân, Báo hiếu: trả nghĩa cha, Báo hiếu: trả nghĩa mẹ... Tuy các
truyện này đều thể hiện mối mâu thuẫn giữa hình thức và nội dung trong các sự việc,
con người nhưng ở mỗi truyện nó lại được diễn đạt với những dạng thức riêng, không
truyện nào giống với truyện nào. Điều đó đã làm cho các tác phẩm của Nguyễn Công
Hoan luôn mới mẻ, cuốn hút.
40
"Tinh thần thể dục" là truyện ngắn đã lật tẩy cái mặt trái của chủ trương thể
dục thể thao bịp bợm của chính quyền thực dân nhằm lừa dối người dân. Tri huyện
huyện XX tổ chức một buổi đá bóng thi với mục đích bên ngoài được đưa ra là để
làm trò giải trí, phục vụ đời sống tinh thần của người dân nhưng thực chất chỉ để lợi
cho ông mà thôi, để các quan trên thấy mà khen, mà thưởng cho ông vì ông biết
"quan tâm" đến dân. Thế là cuộc vận động đi xem bóng đá đã diễn ra nhưng người
đọc lại có cảm giác đó như một cuộc chạy đua thì đúng hơn: cuộc chạy đua giữa
những người "đi vận động" với những người "được vận động". Người "đi vận động"
thì phải lùng, phải sục, tay cầm thước cầm gậy; nếu không vận động được thì sẵn
sàng "lôi cổ", "đánh sặc tiết chúng nó ra"... còn kẻ "được vận động" thì lẩn, thì trốn
hoặc tìm đủ mọi cách khác. Họ trốn đi xem bóng đá như đi "lánh nạn", "như trốn
giặc"... Những người không trốn được thì bị Tuần kèm xung quanh như tù nhân đặc
biệt vậy. Như vậy cái cuộc đá bóng mà quan trên hết sức dàn dựng "vì giúp dân giải
trí ấy" đối với người dân làng Ngũ Vọng nói riêng và dân nghèo nói chung chỉ là tai
họa mà thôi chứ không hơn.
Còn truyện ngắn "Báo hiếu: trả nghĩa cha" lại làm hé lộ bản chất đạo đức giả,
bạc bẽo, không có tình người của những kẻ có tiền trong xã hội, những kẻ đó bạc bẽo
với cả những người đã sinh ra chúng. Ông chủ hãng xe con Cọp là một người "danh
giá", là "hạng tai mắt" trong phố phường. Nhân ngày giỗ bố, ông làm cỗ hết sức "linh
đình", mời rất đông khách tới dự mà toàn là những ông to bà lớn - những hạng cũng
tai mắt như ông để tỏ cho mọi người biết rằng ông không phải là "hạng uống nước
quên nguồn", ông muốn báo hiếu với cha mẹ để chứng tỏ mình là người hiếu thảo.
Vợ chồng ông cũng lấy "làm ân hận" vì chưa thể chăm sóc chu toàn cho mẹ. Quả thật
những hành động, cử chỉ, lời nói đó đã làm cho tất thảy quan khách đều cảm thấy
"xấu hổ vì bất hiếu". Người đọc cũng cảm thấy "mát lòng mát dạ" vì thấy có người
con hiếu thảo đến vậy cho đến khi một bà lão xuất hiện. Bà ấy đã phải đội mưa, đội
gió giữa trời rét buốt để tìm đến nhà con trai thắp hương cho chồng. Thật bất ngờ, con
trai bà lại chính là ông chủ hãng xe con Cọp kia, nếu vậy thì cần gì phải lo nữa? ông
ấy chắc sẽ rất lo lắng và lấy làm đau khổ khi thấy mẹ khổ cực như vậy, rồi ông ấy sẽ
hối người làm mang quần áo, mang nước nóng, chuẩn bị cơm canh cho bà... Nhưng lạ
41
chưa, ông ấy lại sai người làm đưa bà vào cửa sau, bắt bà chờ rất lâu mới đến gặp,
không những không lo lắng mà ông ấy lại quát mắng bà, ấn vào tay bà "một cái tròn
tròn" rồi "đuổi" bà ấy về. Thậm chí, còn không cho ai kéo xe chở bà ấy "để bận sau
mà chừa" không đến nữa. Tác giả kết bằng một câu "Mưa để khóc, gió để rên. Rét để
cắt đứt ruột mẹ người con mà họ đương khen là hiếu tử". Đến lúc này thì người đọc
mới "ngã ngửa" ra vì cái bản chất "hiếu thảo" thật của ông chủ hãng xe con Cọp.
Mâu thuẫn thứ hai mà Nguyễn Công Hoan thể hiện trong các tác phẩm của
mình là mâu thuẫn giữa phúc và họa. Mâu thuẫn này được thể hiện rất rõ trong những
tác phẩm: Hé! Hé! Hé!, Được chuyến khách, Thật là phúc, Người ngựa ngựa người...
Trong các truyện ngắn này, nhà văn đều tạo ra tình huống khiến cho các nhân vật
chính tưởng là được phúc nhưng hóa ra điều họ tưởng là phúc ấy lại mang lại những
tai họa không thể lường trước được, làm cho cuộc đời họ càng trở lên bi đát, khổ cực
hơn. Mâu thuẫn này thường xuất hiện ở những con người nghèo khổ.
Chẳng hạn như trong "Hé! Hé! Hé!" bà Chánh Tiền tưởng mình được phúc
lớn khi được cụ lớn Tuần bắt chuyện, nắm tay nói những câu nói "tế nhị, nhã
nhặn, dễ dãi, phúc hậu", được mời về nhà, được cụ lớn Tuần nhường cho đi xe
nhà và đặc biệt là cụ đong cho một nghìn bạc thóc (nhưng lại đong "chịu" và cũng
không mang thóc về mà vẫn gửi ở nhà bà). Bà Chánh Tiền tự nhiên bán được số
lượng lớn thóc thì vui sướng. Về đến nhà, bà đi khoe cho cả làng biết cụ lớn Tuần
tốt như thế nào. Nhưng bà đâu ngờ rằng chính cái "tốt", cái nhã nhặn ấy của cụ lớn
Tuần mà bà từ chủ nợ biến thành "con nợ", bà phải chạy đi khắp nơi để bán thóc
mà không ai mua. Cuối cùng không còn cách nào để có năm trăm đồng bạc bà đã
phải cắn răng đi vay ở chỗ khác.
Ngược lại, ở truyện ngắn "Thật là phúc", nhân vật chính lại từ "họa" mà được
"phúc". Chị Tam thì suýt nữa bị tên Van - một người "nhà nước, lại có sức, có
quyền" làm nhục; anh Tam thì bị hắn đánh, hắn chửi. Vợ chồng anh sau khi bàn bạc
rất lâu mới dám đi kiện lên quan huyện. Nhưng vì ngài mải chơi tổ tôm nên lời kể lể,
kêu oan của kẻ bị ức hiếp khốn khổ kia chẳng thể lọt vào tai ngài câu nào. Đến khi
chơi xong, ngài ngẩng lên nhìn anh Tam rồi cho gọi chị Tam vào ngắm một lúc, hai
con mắt ngài "sáng quắc như đèn trời", ngài chẳng thèm biết nếp tẻ ra sao, ngài
42
"sang sảng tiếng truyền xuống như ông Long thần ban hạnh phúc cho chúng sinh":
đáng lẽ vợ chồng anh Tam sẽ bị bỏ tù "hăm bốn giờ" nhưng "ông cho về mà làm ăn
lương thiện". Nghe vậy anh Tam thụp xuống lạy hai lạy rồi lấy làm vui vẻ lắm. Câu
nói của anh Tam với vợ ở cuối truyện " May quá! Suýt nữa thì phải ngồi tù. Thật là
phúc! Lạy quan lớn ngàn năm". Cái "phúc" ấy suýt chút nữa thì được đánh đổi bằng
sự trong trắng của vợ anh và nỗi nhục mà anh phải chịu đựng. Qua truyện, nhà văn hé
mở cái thực trạng quan trường lúc bấy giờ: lính tráng thì đểu cáng, hống hách, bắt nạt
người một cách trắng trợn; quan phụ mẫu thì vô trách nhiệm, không thèm đếm xỉa
đến công lý và luật pháp. Thử hỏi trong xã hội như thế thì người dân biết kêu ai đây?
Mâu thuẫn thứ ba là mâu thuẫn giữa nguyên nhân nhỏ nhặt nhưng kết quả lại
to lớn, nghiêm trọng. "Nỗi lòng ai tỏ", "Cái lò gạch bí mật", "Lại chuyện con mèo",
"Thằng ăn căp", " Thế cho nó chừa"... là những chuyện thể hiện kiểu mâu thuẫn này.
Cô Tuyết trong truyện ngắn "Nỗi lòng ai tỏ" vốn là người vui vẻ, không ai
thấy cô buồn bã bao giờ, suốt ngày cô chỉ quanh đi quẩn lại có mấy việc: làm đẹp -
đọc tiểu thuyết - làm đẹp. Thế mà bỗng dưng hôm nay cô cứ "thở vắn than dài", lên
giường đắp chăn nằm khóc thút thít; cô nổi cáu với anh xe, với con Sen rồi còn đánh
cả con Sen nữa, ngay cả mẹ cô cũng không cách nào an ủi được cô cũng không hỏi
được vì sao cô buồn thế. Mẹ cô vừa bực vừa thương con, như một phản xạ vốn thấy
của một người mẹ, trong đầu mẹ cô đặt ra biết bao nhiêu câu hỏi nhằm giải đáp thắc
mắc nhưng không được. Mẹ cô đâm lo, "nước mắt chạy nhanh" bèn lập tức sai con
Sen đi mời người bạn chí thân của cô tên là Mai. Khi cô Mai đến thì mọi chuyện đã
được làm sáng tỏ, hóa ra nguyên nhân khiến cho Tuyết trở lên "trái tính trái nết" lại
chỉ là do nhân vật Vân trong cuốn tiểu thuyết mà cô đang đọc "chết". Tác giả đã rất
khéo léo khi đưa ra cái hậu quả trước khiến cho người đọc hồi hộp, lo lắng cùng bà
mẹ để rồi khi nguyên nhân được hé lộ thì tiếng cười tự nhiên được bật ra.
Truyện ngắn "Lại chuyện con mèo" cũng là một truyện có kiểu mâu thuẫn
này. Ở đây, Nguyễn Công Hoan cũng đưa kết quả lên trước nguyên nhân gây ra
một sự hiểu lầm cho người đọc, chỉ khác ở chỗ nhà văn lại đóng vai trò là nhân vật
"tôi" kể lại chuyện xảy ra ở cổng sở - nơi mà "tôi" làm việc cũng như là nơi ở của
gia đình ông chủ.
43
Mâu thuẫn thứ tư được thể hiện trong các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan là
mâu thuẫn nội tâm nhân vật. Ở mâu thuẫn này, nhân vật trào phúng tự diễn trò với
chính mình: "Tôi cũng không hiểu tại làm sao 1" và "Tôi cũng không hiểu tại làm sao
2". Kiểu mâu thuẫn này chiếm số lượng rất ít trong số những tác phẩm của Nguyễn
Công Hoan nhưng không có nghĩa là nó không đặc sắc, không đem lại hiệu quả nghệ
thuật cao. Ngược lại, nó góp phần làm cho tiếng cười của tác giả thêm phong phú,
nhiều màu sắc. Và tiếng cười ở loại mâu thuẫn này cất lên rất cay đắng, chua chát bởi
nó là mâu thuẫn trong nội tâm nhân vật.
"Tôi cũng không hiểu tại làm sao 1" và "Tôi cũng không hiểu tại làm sao 2" là
cặp truyện ngắn có chung một chủ đề. Nhân vật chính của cả hai truyện là Sinh -
nhân viên làm ở phòng giấy trong sở. Khi đọc hai truyện ngắn này, chúng ta đều thấy
ở cả hai truyện, Sinh luôn bị dằn vặt bởi những suy nghĩ và lương tâm. Ở truyện thứ
nhất, chứng kiến cảnh Nghĩa phải há mồm ra cho ông Sếp kiểm tra, nhìn thấy sự
khinh bỉ của ông ta hiện ra rõ nét, Sinh đã "căm tức lạ lùng", "anh nhịn thở dài", cắm
mặt xuống bàn; anh giận bạn vì đã để cho ông ta làm nhục rồi "càng nghĩ càng ngấm
nghía, anh càng thấy chán nản, lắm lúc hăng máu anh run bắn cả người". Đến lúc
về, Sinh đã mắng bạn. Truyện đầu tiên, Nguyễn Công Hoan để cho nhân vật chính
của mình chứng kiến và bộc lộ suy nghĩ; đến truyện thứ hai thì nhà văn lại để cho
chính nhân vật của mình rơi vào hoàn cảnh buộc phải lựa chọn giữa lương tâm, lòng
tự trọng hay là từ bỏ lương tâm, tự trọng để bám lấy cái sinh nhai.
2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
2.2.1. Khái niệm "nhân vật"
Nhân vật văn học trong tiếng Anh được gọi là: Character, tiếng Nga gọi là:
personazh. Theo "Từ điển thuật ngữ văn học" của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi thì nhân vật văn học là "con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn
học", "Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng
nhất nó với con người có thật trong đời sống. Chức năng cơ bản của nhân vật văn
học là khái quát tính cách của con người... Vì tính cách là kết tinh của môi trường
nên nhân vật văn học là người dẫn dắt độc giả vào các môi trường khác nhau của đời
sống." [tr.235].
44
"Nhân vật văn học còn thể hiện quan niệm nghệ thuật và lí tưởng thẩm mĩ của
nhà văn về con người" và "Nhân vật văn học được miêu tả qua các biến cố, xung đột,
mâu thuẫn và mọi chi tiết các loại. Đó là mâu thuẫn nội tâm của nhân vật, mâu thuẫn
giữa nhân vật này với nhân vật kia, giữa tuyến nhân vật này với tuyến nhân vật khác.
Cho nên nhân vật luôn luôn gắn liền với cốt truyện. Nhờ được miêu tả qua xung đột,
mâu thuẫn nên khác với hình tượng hội họa và điêu khắc, nhân vật văn học là một
chỉnh thể vận động, có tính cách được bộc lộ dần trong không gian, thời gian, mang
tính chất quá trình." [tr.236].
Nói như vậy có nghĩa là nhân vật văn học là một con người cụ thể, nó được bắt
nguồn từ trong cuộc sống nhưng không hoàn toàn đồng nhất với con người trong
cuộc sống mà là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ thông qua lăng kính riêng, quan
niệm riêng, lý tưởng thẩm mĩ riêng... của mỗi người nghệ sĩ. Thông qua nhân vật văn
học, nhà văn thể hiện nội dung, chủ đề, tư tưởng mà mình muốn thể hiện. Nói cách
khác, nó là một trong những phương tiện thể hiện của nhà văn; đồng thời qua nhân
vât, người đọc khám phá ra được điều mà nhà văn muốn thể hiện về cuộc sống và con
người được phản ánh trong tác phẩm.
Nhân vật văn học là một chỉnh thể nhưng không bao giờ được định hình ngay từ
đầu mà phải thông qua một quá trình, thông qua diễn biến của câu chuyện với một loạt
những tình tiết, biến cố, xung đột khác nhau. Qua những chi tiết, biến cố, mâu thuẫn,
xung đột ấy mà nhân vật ngày càng được hiện ra rõ nét; bản chất, tính cách của nhân
vật dần bộc lộ. Cuối cùng khi kết thúc tác phẩm, nhân vật hoàn thiện về mọi mặt.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật văn học là cách thức, là bút pháp xây dựng nhân
vật của nhà văn. Mỗi nhà văn tùy vào năng khiếu, sở trường; tùy vào quan niệm thẩm
mĩ, nội dung tư tưởng mà mình muốn thể hiện lại có một cách xây dựng nhân vật
riêng, không ai giống ai. Từ đó tạo nên nét đặc sắc riêng cho nhà văn.
Nguyễn Công Hoan với sở trường tìm ra những mặt xấu của con người "Tôi vẽ
người xấu nhậy hơn người tốt. Bởi vì tôi vốn bi quan, nên nhìn mọi vật bằng con mắt
hoài nghi, chỉ thấy phía xấu. Phía xấu nhập tâm hơn phía tốt. Cho nên tôi nhớ rất kĩ"
[31, tr.351] cho nên ông rất chú ý đến ngoại hình, hành động và đặc biệt là ngôn ngữ
đối thoại của nhân vật.
45
2.2.2. Số lƣợng và thành phần
Dưới cảm hướng hiện thực phê phán, bằng sự từng trải và kinh nghiệm sống
dồi dào, cộng với cái nhìn nghệ thuật độc đáo của mình là ông luôn luôn nhìn vào mặt
trái của cuộc sống, của con người; dưới mắt nhà văn cuộc đời không khác gì một sân
khấu hài kịch, đầy rẫy những xấu xa, đồi bại, lố lăng, kệch cỡm, đê tiện, thấp hèn mà
thế giới nhân vật trong truyện ngắn trước Cách mạng của Nguyễn Công Hoan rất
đông đảo, phong phú và đa dạng. Nhà văn đã dựng lên một xã hội với đủ mọi hạng
người thuộc mọi tầng lớp người, từ những kẻ thuộc bộ máy cai trị như: lý trưởng,
cường hào, nghị viên, nghị lại, quan phủ, quan tuần, quan huyện, lính tráng, tây đen...
đến những kẻ giàu có trong xã hội như: ông chủ, bà chủ, tư sản, chủ báo... và cả
những kẻ thuộc tầng lớp dưới như: công chức, cô đầu, gái điếm, phu xe, con sen, đứa
ở, kẻ cắp, hát xẩm, bồi bếp, me Tây... Tất cả đã làm thành một bức tranh đời sống
nhiều màu sắc, một tấn trò đời với nhiều cung bậc tình cảm khác nhau.
Nguyễn Công Hoan là nhà văn luôn nhìn đời theo quan niệm giàu - nghèo,
cách nhìn đời này đã tỏ ra khá hữu hiệu trong cái xã hội Thực dân nửa phong kiến ẩn
chứa đầy những mâu thuẫn. Chính cái nhìn đó đã giúp cho nhà văn phát hiện ra biết
bao nhiêu chuyện bất công, vô lý, vô nghĩa, xấu xa, giả dối trong xã hội đương thời.
Một đằng thì ăn chơi phè phỡn mà vẫn có tiền, vẫn được sung sướng còn một đằng
thì làm cật lực, làm đến "ộc máu" ra mà vẫn chẳng đủ ăn, vẫn đói rách hoàn đói rách,
vẫn rơi vào cảnh cùng đường tuyệt vọng.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung khi đề cập đến vấn đề này đã từng đưa
ra nhận xét: "Mâu thuẫn giữa giàu - nghèo trong xã hội là nỗi ám ảnh thường trực,
trở thành ý thức nghệ thuật của Nguyễn Công Hoan, chi phối cả cách dựng truyện,
cách kết cấu, xây dựng nhân vật trong tác phẩm của ông".
Khi tiến hành khảo sát, chúng tôi thấy rằng hầu hết các tác phẩm của Nguyễn
Công Hoan (không chỉ truyện ngắn mà kể cả các tác phẩm thuộc thể loại tiểu thuyết)
đều xoay quanh mâu thuẫn, xung đột giàu - nghèo. Kẻ giàu là bọn có thế lực, địa vị,
giàu có trong xã hội: bọn quan Tây, quan ta (cả bà quan và ông quan), bọn tư sản, địa
chủ, cường hào, lý trưởng, lính tráng - chúng chính là thủ phạm, là nguyên nhân của
46
biết bao sự xấu xa, nhơ bẩn, tàn nhẫn trong xã hội. Còn người nghèo là những dân
nghèo thành thị, người ở, phu xe, kép hát, kẻ cắp, ăn mày, gái điếm, công nhân...
Với cái nhìn trào lộng của một người "bi quan", nhìn đâu cũng ra tiếng cười,
cuộc đời toàn những chuyện đáng cười; tiếng cười của nhà văn không phải là tiếng
cười nhẹ nhàng, vui vẻ mà là cái cười ra nước mắt, cười với mục đích để khinh bỉ,
chế giễu, để bộc lộ sự đau đớn, chua chát nên thế giới nhân vật trong sáng tác của
Nguyễn Công Hoan dù là kẻ giàu hay người nghèo cũng đều hiện lên với những nết
xấu, những thói tật. Nhân vật của nhà văn đã trở thành nhân vật trào phúng mang ý
nghĩa nhân sinh sâu sắc.
2.2.3. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật
Nhà nghiên cứu người Nga G.N.POSPELOV trong cuốn "Dẫn luận nghiên
cứu văn học" đã phát biểu: "Các nhà văn hài hước và các nhà văn châm biếm thường
hầu như không thể hiện thế giới nội tâm nhân vật (hoặc chỉ thể hiện ở một mức ít ỏi),
nhưng trong tác phẩm của mình họ lại nêu bật và tô đậm chất hài của những chi tiết
tạo hình bên ngoài".
Nếu soi chiếu nhận định này vào trong thế giới truyện ngắn của Nguyễn
Công Hoan ta sẽ thấy nhận định này khá chính xác. Trong truyện ngắn của mình,
Nguyễn Công Hoan cũng không chú ý đến việc miêu tả hay xây dựng thế giới nội
tâm của nhân vật mà chủ yếu khắc họa rõ nét, nổi bật ngoại hình nhân vật bên
cạnh những hành động và ngôn ngữ nhân vật. Để có thể khắc họa đầy đủ và ấn
tượng ngoại hình nhân vật, nhà văn đã sử dụng thủ pháp kệch hóa, lố bịch hóa và
vật hóa. Thông qua những thủ pháp này, các nhân vật của nhà văn hiện lên với vẻ
ngoài xấu xí, biến dạng.
2.2.3.1. Miêu tả ngoại hình nhân vật "người nghèo"
Nhân vật người nghèo khổ là những nhân vật chính diện bộc lộ sự đau đớn,
xót xa của tác giả, họ chính là nạn nhân của xã hội. Trăm nỗi khổ thì nỗi khổ về
miếng cơm manh áo là nỗi khổ thường trực nhất của những người nghèo. Trong
truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, hầu như những người nghèo, những con người
vốn lương thiện đều vì cái đói, vì miếng cơm manh áo mà bị biến dạng, trở thành
những con người thảm thương đến cùng cực. Viết về những con người đáng thương
47
ấy, Nguyễn Công Hoan đã đi miêu tả, khắc họa họ với vẻ bề ngoài thật xấu xí, nhem
nhuốc thậm chí là "vật hóa" họ. Nhà văn miêu tả tỉ mỉ từng chi tiết nhưng dù miêu tả
như vậy thì nhà văn cũng không có ý nhạo báng hay khinh bỉ họ mà chỉ nhằm mục
đích cốt để cho người đọc thấy được trạng thái thảm hại, hoàn cảnh khốn khổ của họ
mà thôi. Qua đó lên án, phê phán xã hội đương thời.
Chân dung của "nó" (Thằng ăn cắp) được Nguyễn Công Hoan miêu tả như
sau: "Trông nó đáng sợ thật. Hai mắt trắng dã, lấm la lấm lét. Tóc thì bồng lên như
tổ quạ. Da đen thui thủi, mặt rạn như men lọ cổ".
Hay ngoại hình của một con ma đói, con quỷ gian suốt đời chỉ mặc như thế
"Cái quần cháo lòng xắn lá tọa, ống cao ống thấp, thì bở tơi, nhưng dầy cồm cộp như
đất, bùn và ghét. Cái áo dài vải tây đen, nay còn giữ được màu nước dưa, thì ở lưng,
vai, tay, ngực, bướp ra, mà năm khuy thì về hưu trí bốn". Vì suốt đời nó chỉ mặc có
thế nên người ta đều biết, đều quen nó và đều chẳng cho nó đến gần. Kết quả là nó
chẳng ăn cắp được gì, cái "nghề" của nó chẳng thể phát huy tác dụng và thế là nó đói.
Mặc dù cái áo của nó không còn được lành lặn nhưng vẫn còn đến hai công dụng:
"Vừa để che cái thân khẳng khiu, khô đét, cho khỏi rõ những mạch máu và bộ xương
sườn, vừa để giấu tạm thời cái thứ lấy cắp". Tuy nhiên dù sao, kẻ ăn cắp vẫn là kẻ ăn
cắp, cái thần khí của kẻ ăn cắp bao giờ cũng có đôi chút khác người bình thường, đặc
biệt là khi đã lâu lắm nó chưa ăn cắp được gì thì cái thần khí ấy lại càng bộc lộ rõ:
"nó chẳng bưng bít được khí cục của nó hiện lên cả ở trên đầu, không có gì che đậy.
Đầu nó chỉ còn hình cái sọ cắm trên cái cổ dai ngoách, mà luồng gân kheo như kéo
nổi lên, mấp mô như thớ chiếc kẹo kéo. Da mặt bọc ít thịt quá, thành ra thừa nhiều,
nó nhăn lại, mà những đường nhăn chi chít như vết rạn của men cái lọ cổ. Tóc nó
chịu nằm ẹp trên đầu, không dậy được, như những ngọn lúa bị bão, mà chảy cả
xuống, quắp vào trán, vào gáy, vào mang tai." (Bữa no...đòn).
Trong "Hai cái bụng" nhà văn lại khắc họa một chân dung khác đáng sợ, thảm
thương hơn nhiều: "nó có một cái sọ đếm được tóc. Không biết một thứ bệnh gì
hương hỏa của cha mẹ đã làm cho cả da chỗ ấy nhẵn thín, bóng lộn, đỏ đòng đọc
như cái mụn đương loét, khiến tóc nó chỉ có thể mọc lơ thơ, như vầng cỏ trên tảng đá
cằn.". Là người thì ai cũng có mặt, nó trong truyện này cũng có mặt nhưng khi nói về
48
cái mặt của nó, nhà văn đã không thể không thốt lên "mẹ ơi!" vì "Không biết có gọi
được là mặt không đấy!". Sở dĩ như vậy là do trên khuôn mặt ấy "mắt đâu mà có thứ
mắt xung quanh là một hình bầu dục, vẽ bằng vành thịt trơ đỏ nhầy nhậy, lúc nào
cũng ứa ra một dòng nước vàng và giữa thì lờ đờ một hột nhãn, thứ hột nhãn non
choèn, vàng ễnh. Còn cái miệng nó thì dô ra như miệng khỉ, hai hàm răng to tướng,
lúc nào cũng cầm cập hục hặc với nhau. Nhưng không phải để nhai, mà để run. Vì
trời rét." Còn quần áo mà nó mang trên người theo như nhà văn nói thì chỉ có một
mục đích duy nhất là để che thân, thực ra đó cũng chẳng phải là quần áo mà chỉ là
những thứ giẻ lau người ta vứt đi; nó nhặt lấy, buộc chúng với nhau để làm quần áo.
Đoạn văn nói về nó chỉ dài có hai trang rưỡi mà có tới gần hai trang tả về ngoại hình
của nó, tác giả miêu tả cụ thể đến từng chi tiết nhỏ càng làm khắc sâu, tạo ấn tượng
mạnh, gây ra một sự ám ảnh sâu sắc cho độc giả về tình cảnh, số phận của những
người nghèo trong xã hội Thực dân nửa phong kiến.
Không chỉ giúp người đọc hình dung rõ về tình cảnh, số phận của những
người nghèo trong xã hội mà thông qua việc khắc họa tỉ mỉ, chi tiết chân dung ngoại
hình nhân vật, Nguyễn Công Hoan đã vạch trần sự xấu xa của xã hội phi nhân tính,
đã chèn ép, đẩy những con người lương thiện đến con đường tha hóa. Những con
người giống hình nhân đồ vật kia chỉ là nạn nhân của sự vô lương tâm, sự xấu xa,
tàn ác của xã hội. Hơn nữa, đằng sau sự miêu tả ấy người đọc còn cảm nhận thấy
một lòng căm thù, ghê tởm đối với một xã hội đầy rẫy sự tàn bạo, thối nát, chính cái
xã hội đó đã làm cho con người không còn là người nữa. Cách miêu tả tưởng chừng
như khách quan, nhà văn đứng ngoài cuộc để miêu tả, thuật lại với một thái độ lạnh
lùng nhưng không có nghĩa là vô cảm; toát lên tất cả là tấm lòng nhân đạo, tha thiết
của Nguyễn Công Hoan.
Mẹ vốn là người đáng kính, đáng trân trọng trong xã hội nhưng ngòi bút của
Nguyễn Công Hoan cũng không loại trừ. Nhân vật mẹ trong truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan cũng bị nhà văn khắc họa với vẻ ngoài xấu xí, quê mùa, thô kệch hết mức
và cũng bị "vật" hóa như những nhân vật người nghèo khác. Trong "Báo hiếu: trả
nghĩa cha" nhà văn viết: "Người đàn bà ấy trạc ngoài sáu mươi tuổi, trông rõ quê
mùa, đần ngốc. Mặt mũi đen thủi, dăn deo, xấu như khỉ. Hai mắt thì toét nhoèn
49
những nhử. Cái hàm trên thì chìa ra như mái hiên. Hai tay thì lóng cóng, gí cái nút
buộc ở dải yếm vào tận mắt, lúng túng cởi mãi mới lấy được một miếng trầu, bỏ vào
mồm, nhai phóm phém. Trông lại càng xấu". Đó là chân dung mẹ của một kẻ giàu có,
sang trọng, một kẻ thì như bạn bè của hắn nói thì rất mực hiếu thảo. Người đọc tự hỏi
mẹ của một kẻ giàu có như vậy đáng lẽ phải có ngoại hình đẹp đẽ, quần là áo lượt chứ
sao lại xấu xí như thế kia? xấu đến mức trông như "khỉ". Bà ấy xấu xí, trông như một
bà lão ăn mày là do chính bản thân con trai bà còn không kính trọng, không yêu
thương, chăm sóc thì bà có khác gì kẻ ăn mày đâu. Bà bị chính con trai "hiếu thảo"
của mình mắng, quát, đuổi đi, cấm. Chứng kiến cái cảnh ấy thật khiến cho người ta
đau xót, căm phẫn. Ngoại hình của bà mẹ đã góp phần thể hiện sắc nét sự lên án, phê
phán thói đạo đức giả, sự lạnh lùng, vô ơn, vô nghĩa, không biết đến nguồn gốc của
những kẻ giàu có trong xã hội. Chúng bạc bẽo không chỉ với người ngoài mà chúng
còn bạc bẽo ngay cả với người đã sinh ra chúng.
2.2.3.2. Miêu tả ngoại hình nhân vật "người giàu"
Cũng được chú trọng khắc họa chân dung ngoại hình nhưng nếu như các nhân
vật người nghèo hiện lên với ngoại hình xấu xí do gầy quá, đói quá, thiếu ăn quá thì
các nhân vật người giàu trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan lại hiện lên với
một ngoại hình rất béo. Nhà văn thường phóng đại hết cỡ nét ngoại hình đó làm cho
nhân vật biến dạng, xấu xí, không còn giống người nữa. Ở các nhân vật người giàu
này, chúng tôi thấy nhà văn đã thống nhất ngoại hình với tính cách của nhân vật. Tức
là xấu xí về ngoại hình thì cũng đồng nghĩa với xấu xí về tính cách, về phẩm chất.
"Chà! Chà! Béo ơi là béo! Béo đến nỗi giá có thằng dân nào vô ý, buộc mồm
nói ra một câu sáo rằng: "Nhờ bóng quan lớn", là ông tưởng ngay nó nói xỏ ông. Tức
thì cái bàn là một, mặt nó là hai, bị vả đôm đốp". Đó là ngoại hình của viên quan
Huyện Hinh (Đồng hào có ma), ông quan đó thật đúng như người ta vẫn nói: có tật
giật mình, người ta muốn nói đến cái quyền uy thì lại nghĩ người ta mỉa mai cái ngoại
hình "quá khổ" của mình, rồi thì chuyên quyền vô cớ đánh người. Không những thế
để thỏa mãn cơn tức giận, ông quyết truy cho đến cùng bởi vì trong tay ông có cả
"một mớ pháp luật" cơ mà nên việc đó có gì khó với ông đâu? Nhà văn đã rất tỉ mỉ
quan sát, cố gắng không bỏ sót một chi tiết nào nên đã phát hiện ra: "Trên mép ông,
50
ông đã bao công trình mới cấy được từng ấy râu " nhưng vì "Nguyên cái da mặt ông
nhỏ mà có lẽ vì ông béo quá, nên lỗ chân lông căng ra, căng thẳng quá, đến nỗi râu
không có chỗ nào lách ra ngoài được". Đó là lí do mà nhà văn đưa ra để giải thích
cho việc đến tận năm "bốn mươi tuổi mà mặt ông nó cứ nhẵn thín như thường", ông
đã vô cùng bực bội, ông đưa ra lệnh cấm đối với các thợ cạo. Cuối cùng sau một thời
gian chăm chút thì "đến bây giờ, đứng giữa hai bên miệng ông, nó thành hình hai cái
dấu chua nghĩa".
Và đây là vẻ ngoài của ông Nghị (Hai thằng khốn nạn) qua ngòi bút tài tình
của Nguyễn Công Hoan: "... một người mặt mũi phương phi, cổ rụt, bụng phệ, môi
trễ mà không có râu, mặc quần áo lụa, phe phẩy cái quạt, ra vườn chơi". Ông Nghị
cũng như ông quan Huyện Hinh đều có vẻ ngoài rất to béo, các ông béo đến mức nhà
văn phải thốt lên những câu bộc lộ cảm xúc ngạc nhiên, béo đễn nỗi mà râu còn
không có chỗ nào có thể lách lên được.
Qua cái vẻ ngoài to lớn đến ngỡ ngàng của các vị quan, tác giả muốn nói đến cái
quyền thế, địa vị to lớn, bệ vệ của họ đồng thời cũng ẩn chứa một lời kết tội: vì đâu mà
họ lại béo đến thế trong khi những người dân thì đói khổ đến cùng cực? đáng lẽ làm
quan, phải lo nhiều việc thì họ phải gầy chứ sao lại béo? điều đó chỉ có thể giải thích là
họ làm quan nhưng đâu có làm gì nặng nhọc, đâu có phải suy nghĩ điều gì. Đặc biệt họ
chính là những kẻ "ăn cướp" của dân, họ ăn cướp, ăn cắp một cách trắng trợn, công
khai mà không cần phải sợ bất kì ai bởi họ chính là đại diện của pháp luật rồi.
Trong các sáng tác của Nguyễn Công Hoan, chúng tôi thấy không chỉ có các
quan ông được miêu tả nhất loạt đều béo mà các quan bà cũng vậy, cũng béo không
kém. Chẳng hạn như: "vậy thì bà nằm đó. Nhưng thoạt trông đố ai dám bảo là một
người. Nếu người ta chưa nom rõ cái mặt phị, cái cổ rụt, cái thân nung núc và bốn
tay chân ngắn chùn chụt thì phải bảo là một đống hai ba bốn cái chăn bông cuộn lại
với nhau sắp đem cất đi" (Phành phạch). Với cách miêu tả ấy Nguyễn Công Hoan đã
làm cho nhân vật của mình không còn là người nữa mà như một thứ đồ vật vậy.
Hay "bà ấy" (Hai cái bụng) cũng được nhà văn khắc họa với vẻ ngoài béo đến
mức kệch cỡm, lố bịch, thô thiển: "Nguyên là bà ấy béo quá - Gớm! Béo đâu có béo
lạ béo lùng thế! - Béo đễn nỗi hai má chảy ra, cổ rụt lại. Béo đến nỗi bụng sệ xuống.
51
Béo đến nỗi trông phát ngấy lên!". Với giọng văn mỉa mai đã bộc lộ sự kinh bỉ, kinh
tởm của nhà văn. "Bà ấy" béo đến mức chán cả ăn, ăn gì cũng thấy chẳng ngon, có
đến một tháng nay bà ấy phải uống thuốc liên tục vì bà ấy tưởng mình bị bệnh.
Điều đặc biệt mà chúng tôi nhận thấy khi tiến hành khảo sát các truyện ngắn
của Nguyễn Công Hoan là khi miêu tả, khắc họa ngoại hình của nhân vật nhà văn đặc
biệt quan tâm đến việc khắc họa khuôn mặt, nhất là khuôn mặt béo phị của những
nhân vật người giàu. Đối chiếu với các nhà văn khác cùng thời với ông, chúng tôi
thấy không có nhà văn nào khắc họa khuôn mặt con người rõ nét và thảm hại đến như
vậy. Điều này có lẽ là do xuất phát từ cảm hứng phê phán trong tư tưởng nghệ thuật;
từ tấm lòng đau đớn, chua chát, căm phẫn của nhà văn khi chứng kiến những cảnh bất
công, ngang trái trong xã hội đương thời. Mặc dù, mỗi nhân vật qua ngòi bút của
Nguyễn Công Hoan lại hiện lên với một vẻ ngoài khác nhau nhưng nói như vậy
không có nghĩa là chúng không có điểm chung. Trong bút pháp miêu tả ngoại hình
nhân vật, nhà văn có sự thống nhất cao độ: những người nghèo đều hiện lên với ngoại
hình gầy guộc, xanh xao, không có sức sống, quần áo thì rách nát, chắp vá, nhơ nhuốc
còn những kẻ giàu thì ngược lại đều rất béo tốt, mặt mũi trương phi, quần là áo lượt,
béo đến mức "béo lạ béo lùng". Nếu xét về mặt ý nghĩa xã hội thì việc miêu tả ngoại
hình đối lập nhau giữa hai loại nhân vật có ý nghĩa phân hóa giai cấp sâu sắc.
Riêng đối với nhân vật người giàu, Nguyễn Công Hoan không chỉ dừng lại ở
việc miêu tả, khắc họa vẻ ngoài béo tốt của họ mà ông còn "cố gắng" cắt nghĩa, đi
tìm hiểu nguyên nhân vì đâu mà họ lại "béo quá", "béo lạ béo lùng" đến như vậy. Và
cuối cùng, nhà văn đã đưa ra cách lí giải hết sức thú vị: "Tôi cực lực công kích sách
vệ sinh đã dạy ta ăn uống phải sạch sẽ, nếu ta muốn được khỏe mạnh, béo tốt. Thuyết
ấy sai! Nghìn lần sai! Vì tôi thấy sự thực, ở đời này, bao nhiêu những anh béo, khỏe,
đều là những anh thích ăn bẩn cả" (Đồng hào có ma). Như vậy theo nhà văn tất cả
những kẻ béo đều là do ăn bẩn, từ "ăn bẩn" ở đây phải hiểu là ăn cắp, ăn cướp, là đục
khoét, bóc lột của dân. Cái sự "ăn bẩn" này không chỉ được thể hiện trong một truyện
như "Đồng hào có ma" mà nó được thể hiện trong một loạt những truyện ngắn của
Nguyễn Công Hoan. Trong mỗi truyện, mỗi viên quan lại có một cách "ăn bẩn" khác
nhau miễn sao ăn được là ăn: quan huyện tư pháp (Thịt người chết) thì ăn tranh cả thịt
52
người chết dưới ao với lũ ruồi, nhặng, cá, quạ làm chúng tiếc ngẩn ngơ; cụ thư ký,
ông Quản Lộ (Người thứ ba) cũng tìm đủ mọi cách ăn bẩn của chị Cu Sứt từ cái chết
của mẹ chị; ông Phán (Thằng Quít) ăn cắp mười đồng tiền công của đầy tớ một cách
đểu giả, độc ác, vô lương tâm; cụ Chánh Bá (Cụ Chánh Bá mất giày) cũng là một tên
ăn cắp không hơn, không kém, cụ bầy trò ăn cắp chính đôi giày của mình để được
nhà chủ đền cho đôi giày mới đúng như miêu tả của anh đầy tớ: "mới nguyên, kiểu
Gia Định, đế cờ lếp, mua những ngót ba đồng"...
Từ "ăn bẩn" theo nghĩa đen chỉ áp dụng cho động vật, súc vật thích ăn những
thứ không được sạch sẽ nhưng ở đây được dùng cho những viên quan "phụ mẫu" đã
diễn tả được sắc nét cách kiếm chác đầy ti tiện, bẩn thỉu của bọn quan lại sâu mọt, lúc
nào cũng chỉ tìm đủ mọi cách để có thể bóc lột của nhân dân. Bằng sự tài tình của
mình, Nguyễn Công Hoan đã đưa các nhân vật tầng lớp thống trị lên cái sân khấu hài
kịch, cho chúng tự bộc lộ bản chất xấu xa, đê tiện, bẩn thỉu của chúng.
Có thể nói, miêu tả ngoại hình nhân vật là một trong những thành công của
truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Dù là nhân vật người nghèo hay nhân vật người
giàu thì đều hiện lên với vẻ ngoài xấu xí, thô kệch, lố bịch hóa, đồ vật hóa, vật hóa.
Nó in đậm cái nhìn nghệ thuật độc đáo đồng thời cũng góp phần thể hiện tư tưởng
phê phán, lên án xã hội Thực dân nửa phong kiến của nhà văn.
2.2.4. Nghệ thuật miêu tả hành động nhân vật
Ở điểm này, Nguyễn Công Hoan đã có sự tiếp thu, kế thừa tinh hoa của văn
học truyền thống. Văn học truyền thống chủ yếu xây dựng những nhân vật tính cách,
nhân vật mặt nạ nên miêu tả hành động được coi là thủ pháp quan trọng, mang tính
đặc trưng của thủ pháp văn học truyền thống.
Nguyễn Công Hoan khi khắc họa, xây dựng nhân vật của mình, dù là nhân vật
người nghèo hay nhân vật người giàu, nhân vật chính diện hay nhân vật phản diện
nhà văn cũng đều không đi sâu miêu tả tâm lí nhân vật mà chủ yếu hướng vào, làm
nổi bật hành động của nhân vật. Nhân vật nào cũng có hành động, thông qua hành
động của mình mà nhân vật tự bộc lộ bản chất, tính cách một cách tự nhiên. Hành
động của nhân vật cũng chính là phương tiện nghệ thuật để nhà văn xây dựng nhân
vật, chuyển tải nội dung, tư tưởng. Nói cách khác, hành động của nhân vật có vai trò
53
rất lớn trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan: nó vừa góp phần bộc lộ tính cách của
nhân vật vừa làm tăng bản chất trào phúng của nhân vật.
2.2.4.1. Hành động góp phần bộc lộ bản chất, tính cách của nhân vật
Suốt nửa thế kỉ cầm bút, truyện ngắn trước Cách mạng Tháng 8 nói riêng và
trong toàn bộ sáng tác nói chung, tiếng nói nghệ thuật vang dội nhất của Nguyễn
Công Hoan là tiếng nói tố cáo gay gắt, đanh thép xã hội Việt Nam thuộc địa nửa
phong kiến đầy bất công và hết sức lố lăng, thối nát; là tiếng nói bênh vực chân
thành những con người nghèo khổ bị chà đạp, xúc phạm. Điều đáng lưu ý là tất cả
những cái xấu xa, bất công, lố lăng của xã hội đều được thể hiện qua tính cách của
nhân vật, đặc biệt là tính cách của những nhân vật có chức, có quyền, có tiền hay
nói cách khác là những nhân vật thuộc tầng lớp trên của xã hội. Để có thể đạt được
sự khách quan trong thể hiện, làm cho nội dung truyền tải có sức thuyết phục, hình
tượng chân thực, nhà văn đã cho nhân vật của mình tự bộc lộ bản chất, tính cách
thông qua hành động bên ngoài.
"Ông Huyện Hinh cứ ngồi yên sau bàn giấy để nhìn theo con mẹ khốn nạn. Rồi
khi thấy nó đã đi khuất, ông mới đưa mắt xuống chân, dịch chiếc giày ra một tý. Và
vẫn tự nhiên như không, ông cúi xuống, thò tay nhặt đồng hào đôi sáng loáng, thổi
những hạt cát nhỏ ở đế giày bám vào, rồi bỏ tọt vào túi", đó là hành động ăn cắp của
ông Huyện Hinh trong truyện ngắn "Đồng hào có ma". Cái hành động đó đã hé mở
cho người đọc về bản chất, tính cách của ông: vẻ ngoài là một viên quan huyện oai
nghiêm, bệ vệ nhưng thực chất bên trong lại là một kẻ ăn cắp lõi đời, thản nhiên, trơ
tráo. Vì đã ăn cắp lõi đời nên ông mới ăn cắp đồng hào đôi của "con mẹ Nuôi" một
cách "tự nhiên như không" đến như vậy. Hơn nữa nơi mà hắn ăn cắp không phải là
những nơi bình thường như ngoài đường, nhà dân hay ở một nơi nào đó mà lại là ở
chính nơi công đường - nơi dùng để xử án, để thực thi và bảo vệ công lý. "Con mẹ
Nuôi" khốn khổ ấy có nằm mơ cũng không thể ngờ rằng vào đến cửa quan rồi mà vẫn
còn bị mất trộm và lại càng không thể ngờ rằng kẻ trộm lại chính là kẻ ngồi trên bàn
xử án ở trước công đường kia.
Trong toàn bộ câu chuyện thì chi tiết kết thúc truyện này là chi tiết đắt giá
nhất, nó bộc lộ rõ bản chất của tên Huyện Hinh - một kẻ ăn cắp xấu xa, nhơ bẩn; hắn
54
ăn cắp một cách thản nhiên, lõi đời ngay chốn công đường, đối với hắn công lý chẳng
là gì. Đồng thời qua đó cũng cho ta thấy cuộc sống khốn khổ của những người dân
nghèo, dù ở đâu họ cũng bị chèn ép, ức hiếp, bị người ta tìm đủ mọi cách để ăn cướp,
họ không thể đòi được công lý trong cái xã hội đen tối đó khi mà cả những viên quan
phụ mẫu cũng tìm đủ mọi cách, mọi cơ hội để có thể "ăn cắp" của họ.
Tên quan huyện trong hai truyện ngắn "Ngượng mồn", "Gánh khoai lang"
cũng có hành động. Khác với khi khắc họa nhân vật quan Huyện Hinh (Đồng hào có
ma), cụ Chánh Bá (Cụ Chánh Bá mất giày) (hành động được miêu tả một cách chậm
rãi, kĩ lưỡng, tường tận), hành động của tên quan huyện trong "Ngượng mồm" và
"Gánh khoai lang" chỉ được nhà văn phác họa sơ qua bằng một chi tiết rất nhỏ,
nhanh. Nói như vậy không có nghĩa là hành động ấy không diễn tả, bộc lộ được bản
chất, tính cách của nhân vật mà ngược lại qua hành động nhanh, nhỏ ấy, bản tính của
nhân vật càng được bộc lộ một cách sinh động hơn.
Chúng ta hãy thử xem lại hành động của tên quan huyện trong truyện ngắn
"Ngượng mồm": "Ông Huyện mở sổ ra, lấy bút gạch chéo một cái... Nói đoạn ông giơ
tay, gión hai tờ giấy bạc bỏ vào túi". Cái hành động nhanh, gọn ấy đã bộc lộ rõ bản
chất ăn tiền thản nhiên đến trắng trợn của tên quan huyện.
Cái cách ăn tiền của tên quan huyện trong "Gánh khoai lang" cũng nhanh gọn,
thản nhiên không kém, hắn ăn tiền một cách công khai giống như đó là việc vô cùng
bình thường, là lẽ đương nhiên vậy; hơn nữa lại còn sẵn sàng mở miệng đòi, khi
không được đút lót đúng ý muốn thì nổi cơn tức giận, đòi bỏ tù người không làm theo
ý hắn: "... quan phụ mẫu nhanh nhẹn gión món tiền bỏ túi".
Nói tóm lại dù được miêu tả chậm rãi hay nhanh gọn thì những hành động của
những tên quan - những kẻ thực thi công lý cũng khiến cho người đọc không khỏi
giật mình về bản chất của chúng và tình hình thực tại xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Một xã hội mà những kẻ được gọi là quan "phụ mẫu" lại chẳng biết gì khác, chẳng
quan tâm đến điều gì ngoài việc làm thế nào để có thể vơ vét, ăn cắp được của dân thì
việc xã hội ấy đầy rẫy những điều xấu xa, lố lăng, bất công, ngang trái là điều không
thể tránh khỏi.
55
Nguyễn Công Hoan là người có khả năng quan sát tinh tế, sắc sảo cộng với
một chút "tinh quái, ranh mãnh", ông đã làm cho nhân vật của mình hiện lên với
những hành động hết sức tự nhiên, vừa sinh động vừa chân thật, tạo được ấn tượng
và sự ám ảnh sâu sắc nơi người đọc. Bằng sự tài tình của mình, nhà văn đã nắm
được cái thần, bắt trúng cái huyệt của nhân vật từ đó tóm sống hắn, tiêu diệt hắn
bằng ngòi bút của mình.
Những nhân vật ông chủ, bà chủ trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan cũng
hiện lên với hành động đặc trưng cho tính cách, bản chất của những kẻ lắm tiền,
nhiều của trong xã hội. Họ mua con sen, con ở về hầu hạ; bắt làm đủ mọi việc, không
vừa ý là thẳng tay đánh đập không cần suy nghĩ. Đây là hành động của bà chủ trong
"Thanh! Dạ!":
"Rồi cô Tuyết rón rén dòm vào sân, thì thấy mẹ, cái đuôi gà ở đầu khăn ngỏng
ngược lên trời, mặt đỏ nhừ, tay cầm thanh củi, trỏ vào thạp nước, trợn tròn mắt, rồi
phang vào đầu, vào mặt, vào lưng con Thanh túi bụi, để đánh nhịp với những tiếng:
- Lười! Lười! Lười! Lười! Lười! Lười! Lười!..."
Hành động cầm thanh củi phang vào đầu, vào mặt con Thanh đã bộc lộ rõ bản
chất độc ác, coi người làm như công cụ làm việc của nhân vật phản diện bà chủ. Bà
chủ ở truyện này chính là đại diện tiêu biểu của những kẻ học đòi bắt chước theo lối
sống tư sản - lối sống của những ông chủ, bà chủ mới nhưng không bắt chước được.
Gọi là "me" (cách gọi mẹ theo kiểu phương tây) mà bà vẫn phải lao đầu vào bếp, đầu
tóc thì chẳng ra đâu vào đâu, mặt thì đỏ lừ, chân tay, mặt mũi thì đẫm mồ hôi.
Hay qua hành động của bà chủ trong "Phành phạch": "Bà ngóc đầu dậy, quệt
dòng nước dãi chảy dòng dòng xuống má, bà nhìn vào tận mặt nó. Rồi đưa tay ra, bà
giúi vào nó một cái thực mạnh. Rồi lại nằm xuống.... Rồi bà cựa mình, quay mặt lại
nó. Bà duỗi cánh tay đến gần nó, để mỗi khi thấy nó uể oải, thì đập vào nó một cái".
cũng đủ làm cho người đọc biết được là bà ấy tốt, nhân đạo đến mức nào.
Không chỉ bóc lột sức lao động, đánh đập người làm mà những kẻ giàu trong
xã hội đó còn coi mạng sống của những người nghèo không ra gì, thậm chí còn không
sánh bằng chiếc răng của một con chó:
56
"Ông tức, nóng ran cả người. Nghĩ thương con chó gẫy hai cái răng,
ông nghiến răng, nhìn theo, rồi nhảy tót lên ô tô, mở máy sình sịch:
- À, mày đánh gãy răng chó ông, ông chỉ kẹp cho mày chết tươi, rồi ông
đền mạng. Bất quá ba chục bạc là cùng!
Nói đoạn, ông tắt đèn pha, phóng xe hết sức nhanh để đuổi theo..."
Đây chính là hành động của một nhà tư sản khi con chó yêu quý của ông ta
bị người ăn mày đánh làm gãy mất hai cái răng. Truyện kết thúc ở hành động ông
ta tắt đèn pha, phóng xe nhanh hết mức để đuổi theo người ăn mày mà không hề
nói đến kết quả hành động đó như thế nào? Người ăn mày đó có bị ông ta đâm
chết hay không? Ông ta có phải chịu tội trước pháp luật không? Nhưng người đọc
thông qua lời nói và hành động kiên quyết của ông ta đã đoán được kết quả như
thế nào. Qua đó tính cách, bản chất của nhân vật được bộc lộ: đó là một kẻ không
những thích khoe của mà còn là kẻ coi thường mạng sống của người khác, nhất là
khi người đó lại là kẻ nghèo, không tiền, không quyền trong xã hội; đó là kẻ quan
niệm có tiền là làm được tất cả, kể cả việc giết người. Qua nhân vật này, nhà văn
cũng nói đến cái thực trạng đen tối của xã hội bị chi phối bởi đồng tiền lúc bấy
giờ, đồng tiền có thể đổi trắng thay đen, có thể biến kẻ có tội thành không tội, có
thể mua được tình cảm của con người.
2.2.4.2. Hành động làm tăng tính trào phúng, bộc lộ bản chất trào phúng
của nhân vật
Nguyễn Công Hoan là một trong số những nhà văn kế thừa thủ pháp xây dựng
nhân vật thông qua hành động (chứ không chú ý đến diễn biến tâm lí) của văn học
truyền thống. Nhưng hành động nhân vật của nhà văn không chỉ góp phần bộc lộ tính
cách, bản chất của nhân vật mà còn có tác dụng làm tăng tính trào phúng, bộc lộ bản
chất trào phúng của nhân vật. Đây chính là một sáng tạo, một cách tân của Nguyễn
Công Hoan so với văn học truyền thống về nghệ thuật xây dựng nhân vật. Nét cách
tân đó xuất phát từ việc nhân vật trong sáng tác của nhà văn không phải là nhân vật
bình thường mà là nhân vật trào phúng; thông qua nhân vật, tiếng cười mỉa mai, châm
biếm được bật ra một cách tự nhiên nhằm chế giễu, lên án, phê phán những xấu xa, lố
lăng, kệch cỡm của con người và cuộc sống trong xã hội Thuộc địa nửa phong kiến.
57
Hành động viết câu đối phúng cho đám thanh niên của cụ Nghè trong truyện
ngắn "Xin chữ cụ Nghè" là một minh chứng điển hình. Sau một loạt những hành động
ra vẻ suy nghĩ, trầm ngâm, vừa nói vừa nắn nót viết lên giấy từ dòng chữ mé tay phải,
đến dòng chữ mé tay trái khiến cho đám thanh niên châu đầu vào nhìn cụ viết, hồi
hộp chờ đợi bốn chữ mà cụ cho là "rõ hay ho ấy" thì tới hành động cuối cùng - hành
động hạ bút viết bốn chữ chính:
"Lúc ấy cụ lại ra dáng nghĩ ngợi hơn, gục hẳn mặt vào bàn tay mà rung
chân mạnh hơn trước. Rồi ngẩng dậy, cụ đặt bút, chấm vào mực, lăn mãi ngòi
vào nghiên...
Độ năm phút sau, cụ đặt bút xuống chiếu, gãi chân, rồi kêu nực, rồi
rung đùi. Một chốc cụ lại xoay bút, không rung đùi nữa, đặt hẳn ngòi lên mặt
tờ giấy, đưa đi đưa lại cái phản, ngoáy ngoáy trên không để lấy gân, rồi dí
hẳn xuống, nắn nót, viết bốn nét chữ rậm rì to tướng."
Nhà văn đã miêu tả rất tỉ mỉ, cặn kẽ từng cử chỉ, hành động nhỏ nhặt của cụ
Nghè qua đó thấy được sự chăm chú, tâm trạng hồi hộp chờ đợi để được trông thấy
những chữ bác học, mới mẻ của "chúng tôi". Thiết nghĩ, với hành động "ra dáng nghĩ
ngợi" ấy của cụ thì cụ phải viết ra dòng chữ nào hay, mới mẻ lắm cơ, ai ngờ lại là
dòng chữ mà ngay cả bọn "ù cạc như vịt nghe sấm" như "chúng tôi" cũng biết: "Hạc
giá tiên du". Tác giả kết thúc truyện bằng chi tiết: "Hiểu rồi, chúng tôi nhìn nhau,
chỉ sợ có anh nào cười thì chết!..". Họ nói hiểu rồi là hiểu cái gì? Hiểu bốn chữ ấy
có nghĩa là gì? Hay hiểu sự tài giỏi, hay chữ của cụ Nghè như thế nào? Và tại sao họ
lại cười? Hành động viết chữ của cụ Nghè còn làm chính bản thân những người
trong cuộc thấy buồn cười nữa là người ngoài cuộc như chúng ta. Họ cười là vì
trước đó họ biết đến cụ Nghè là người nổi tiếng hay chữ, những thơ phú, câu đối cụ
làm toàn bằng chữ nho cả; vì họ cũng biết rằng khi đi phúng đám ma các cụ già
người ta hay dùng bốn chữ: "Hạc giá tiên du", họ định viết bốn chữ ấy nhưng bốn
chữ ấy sẵn lắm "tuy hợp nghĩa, nhưng nó cũ rích, lại chẳng hay ho gì, không tỏ
được cái tình thân mật"; vì họ chờ mong những chữ mới mẻ, có ý nghĩa ở nơi cụ
Nghè. Nhưng cuối cùng, người vốn được coi là lắm chữ, hay chữ ấy lại cũng chỉ
viết cho họ bốn chữ cũ rích "Hạc giá tiên du". Như vậy, chính hành động viết chữ
58
đã tố cáo cái sự ít học, ít chữ của cụ Nghè. Không lên gân, gò bó mà ngược lại tiếng
cười trào phúng bật ra rất tự nhiên.
Hay hành động bắt người dân đi xem bóng đá trong truyện ngắn "Tinh thần thể
dục" cũng là một minh chứng rất rõ nét. Thể dục thể thao vốn rất tốt cho tinh thần của
người dân vậy mà người dân làng Ngũ Vọng lại chẳng ai muốn đi, người thì lạy,
người thì trốn, người thì phải đút tiền cho ông Lý để được ở nhà, "họ làm như lánh
nạn", họ trốn "như trốn giặc". Cuộc vận động đi xem bóng đã diễn ra trong những
tiếng chạy huỳnh huỵch, tiếng oang oang, tiếng chó sủa, tiếng trẻ con khóc; với
những thước, những gậy... Nhưng "cuộc săn dù ráo riết đến đâu cũng không sao tróc
đủ một trăm người", chín mươi tư người không may mắn bị bắt thì bị áp giải như tù
binh. Người đọc bật cười trước cái chủ trương rởm hợm của chính quyền thực dân và
sự "tận tình" quá mức của đám tay sai đối với đời sống tinh thần của người dân. Bản
thân thể dục thể thao không phải là xấu nhưng trong trường hợp này thì nó lại là xấu,
là giả dối, là rởm đời. Trong hoàn cảnh đời sống kinh tế người dân đang ngày một
tiêu điều, họ phải chạy ăn từng bữa, vất vả chạy ngược chạy xuôi mà chẳng đủ ăn thì
làm gì còn thời gian mà nghĩ đến chuyện đi ngồi không xem bóng đá. Chính vì vậy
mà cái chính sách đó của chính quyền thực dân đã trở lên lố lăng, kệch cỡm, là nỗi ác
mộng đối với người dân.
Hành động đến viếng và đưa ma ông Thủ quỹ làng An Đạo cũng bộc lộ bản
chất trào phúng của quan tri huyện Lê Thăng (Chính sách thân dân) - đó là một kẻ
đạo đức giả, lấy danh nghĩa "thân dân" để đến vòi vĩnh, ăn uống no say, xoay tiền của
gia quyến người thuộc hạ đã chết. Qua truyện này, nhà văn cũng đề cập đến một thực
trạng đó là: bọn giai cấp thống trị không những tìm đủ mọi cách để bóc lột của dân
mà chúng còn thẳng tay bóc lột cả những kẻ là tay chân của chúng. So với hai truyện
trên thì tiếng cười ở truyện ngắn này bật lên chua chát, cay đắng, uất ức hơn.
Có thể nói, việc miêu tả hành động đã đem lại hiệu quả rất lớn trong việc khắc
họa nhân vật trào phúng, phơi bày, lên án, tố cáo những điều xấu xa, lố lăng trong
truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan. Nhưng đôi khi, nhà văn lại bị sa đà, miêu tả quá
cụ thể, chi tiết hành động của nhân vật làm cho tính thẩm mĩ, tính tư tưởng của truyện
59
bị giảm đi rất nhiều. Chẳng hạn như cảnh thằng ăn cắp (Bữa no...đòn) cố sống cố chết
để nuốt trôi củ khoai giữa trận mưa đòn.
2.3. Nghệ thuật trần thuật
Trần thuật - thế giới miêu tả của thế giới nghệ thuật, đồng thời cũng là biện
pháp cơ bản nhất để tạo thành văn bản văn học. Theo "Từ điển thuật ngữ văn học":
"thành phần của trần thuật không chỉ là lời thuật, chức năng của nó không chỉ là kể
chuyện". Trần thuật cho người đọc biết ai, xuất hiện ở đâu, khi nào, làm việc gì, trong
tình huống nào... Về bản chất, trần thuật là hành vi ngôn ngữ dùng để kể, tả, cung cấp
thông tin về sự kiện, nhân vật theo một trật tự nhất định trong không gian, thời gian
và về ý nghĩa.
Trần thuật đòi hỏi phải có người kể, người thổ lộ. Người kể và chuỗi ngôn từ
là hai yếu tố quy định trần thuật. Từ người kể chuyện ta có điểm nhìn trần thuật. Từ
chuỗi ngôn từ ta có ngôn ngữ trần thuật, giọng điệu trần thuật.
Như vậy, các yếu tố cơ bản của nghệ thuật trần thuật là điểm nhìn trần thuật,
giọng điệu trần thuật, ngôn ngữ và nhịp điệu trần thuật.
2.3.1. Điểm nhìn trần thuật
Điểm nhìn trần thuật hay điểm nhìn nghệ thuật trong tiếng Nga gọi là
khudojestvennaya tochka zreniya, trong tiếng Anh gọi là point of view là "Vị trí từ đó
người trần thuật nhìn ra và miêu tả sự vật trong tác phẩm. Không thể có nghệ thuật
nếu không có điểm nhìn, bởi nó thể hiện sự chú ý, quan tâm và đặc điểm của chủ thể
trong việc tạo ra cái nhìn nghệ thuật. Giá trị của sáng tạo nghệ thuật một phần không
nhỏ là do đem lại cho người thưởng thức một cái nhìn mới đối với cuộc sống. Sự đổi
thay của nghệ thuật bắt đầu từ đổi thay điểm nhìn" [21, tr.113].
"Điểm nhìn nghệ thuật có thể được phân ra thành điểm nhìn không gian
và thời gian... Có điểm nhìn tâm lí...; bên trong hay bên ngoài. Có điểm nhìn
quang học, hoàn toàn khách quan. Có điểm nhìn theo một mô hình văn hóa
nào đó... Có điểm nhìn theo một hệ tư tưởng nhất định với lập trường, quan
niệm có tính giai cấp, xã hội rõ rệt." [tr.113].
Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, chúng tôi nhận thấy điểm nhìn
trong truyện ngắn của ông rất phong phú: có điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên
60
ngoài; có điểm nhìn không gian (không gian xoay quanh một vùng quê, khu phố, ở
chợ búa, trong nhà hay ở bệnh viện...) và điểm nhìn thời gian (thời gian vào tối 30 tết
trong "Ngựa người, người ngựa", khoảng thời gian sang Tây du học: "Thế là mợ nó
đi Tây"...). Cũng có nhiều người đã đi theo hướng tiếp cận này, xong ở đây, chúng tôi
lại chọn đi theo hướng tiếp cận điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan theo một hệ tư tưởng nhất định với một lập trường, quan niệm có tính giai cấp,
xã hội rõ rệt.
Sở dĩ chúng tôi chọn cách tiếp cận này là bởi điều này được thể hiện rất rõ
trong truyện ngắn của ông trước cách mạng. Trong các tác phẩm của mình, Nguyễn
Công Hoan thường đứng trên lập trường xã hội tiến bộ, màu sắc quan điểm giàu -
nghèo, có những lúc là đứng trên lập trường đạo đức phong kiến để sáng tác.
Cùng sáng tác trong dòng Văn học hiện thực phê phán với ông có Nam Cao,
Vũ Trọng Phụng... Nếu như Nam Cao nhìn thấy cuộc đời của mỗi con người chỉ là
những cuộc đời sống mòn, vô nghĩa lý, cuộc đời bỏ đi hay bị xã hội làm cho tha hóa,
không lối thoát; Vũ Trọng Phụng nhìn thấy cái xã hội đương thời là một xã hội chó
đểu, con người trong xã hội đó cũng chó đểu, rởm đời thì dưới con mắt của Nguyễn
Công Hoan cuộc đời giống như một sân khấu hài kịch, cả xã hội đầy rẫy những lố
lăng, kệch cỡm. Chính từ cái nhìn đó khiến cho ông nhìn đâu cũng chỉ thấy toàn
những xấu xa, giả dối, những chuyện đáng cười, đáng giễu.
Đứng trên quan điểm giàu - nghèo, Nguyễn Công Hoan nhận thấy mọi hành
động, việc làm của bọn quan lại đều toát lên vẻ giả dối, luôn diễn tuồng đạo đức trước
dân; xu nịnh, bợ đỡ bề trên; tìm đủ mọi cách để bóc lột của dân; những chính sách mà
chúng đưa ra cũng được nhà văn vạch trần, đó chỉ là những chiêu bài mị dân. Chính
những hành động và việc làm ấy của chúng đã đẩy người dân vào những trường hợp
dở khóc dở cười (Cụ Chánh Bá mất giày, Đồng hào có ma, Thằng ăn cướp, Cái nạn ô
tô, Tinh thần thể dục, Chính sách thân dân...). Cùng với đó, đứng trên quan điểm đạo
đức, Nguyễn Công Hoan thấy những thanh niên nam nữ, nhất là ở thành thị đua đòi
chạy theo lối ăn mặc, ăn nói lố lăng, kệch cỡm, có lối sống buông thả trong tình yêu
(Oẳn tà rroằn, Nỗi lòng ai tỏ, Cô Kếu - gái tân thời...); những ông chủ, bà chủ thì chỉ
giỏi diễn trò trước mặt người khác để che giấu cái bản chất thực: bất hiếu, coi mạng
61
người như cỏ rác, bóc lột người làm đến cùng cực (Báo hiếu: trả nghĩa cha, Báo
hiếu: trả nghĩa mẹ; Răng con chó của nhà tư sản, Quyền chủ, Phành phạch, Thằng
Quýt I, II...).
Điểm nhìn, quan điểm, lập trường trên đã thể hiện rất rõ trong truyện ngắn của
Nguyễn Công Hoan. Tất cả các sự việc, các nhân vật, kể cả nhân vật chính diện lẫn
nhân vật phản diện đều được miêu tả, được khắc họa từ góc độ xấu xí, đáng cười,
đáng phê phán. Tuy nhiên, tiếng cười ở hai loại này lại có sự khác nhau. Những sự
việc, những hành động liên quan đến nhân vật phản diện thì tiếng cười vang lên đầy
châm biếm, mang màu sắc phê phán, lên án gay gắt, thể hiện sự khinh bỉ của tác giả.
Còn khi miêu tả, trần thuật về những sự việc, hành động liên quan đến nhân vật chính
diện - những con người bị áp bức, thuộc tầng lớp dưới trong xã hội tiếng cười cũng
được bật ra nhưng đằng sau tiếng cười đó là cả một sự đau đớn, chua chát, thương xót
của tác giả.
2.3.2. Giọng điệu trần thuật
Giọng điệu trong tiếng Anh gọi là tone, là "Thái độ, tình cảm, lập trường tư
tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn
quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần,
thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm,..." và theo các tác giả Lê
Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi thì giọng điệu có một vai trò đặc biệt quan
trọng: "Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ
của tác giả có, vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và tác dụng
truyền cảm cho người đọc. Thiếu một giọng điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết ra
được tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu và sắp xếp trong hệ thống nhân vật." [21,
tr.134-135].
Đồng thời các tác giả cũng nhận định: "Giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ
của tác phẩm văn học. Nó đòi hỏi người trần thuật, kể chuyện hay nhà thơ trữ tình
phải có khẩu khí, có giọng điệu..." [tr.135].
Trong nền văn học Việt Nam, mỗi nhà văn có phong cách đều có một giọng
điệu chủ đạo - giọng điệu "trời phú" làm nên bản sắc riêng. Nếu như giọng điệu của
Nam Cao là giọng cay đắng, chua chát trước những bi kịch của con người; giọng điệu
62
của Nguyên Hồng là giọng cảm thương thống thiết trước những nỗi thống khổ của
kiếp người; giọng điệu của Tô Hoài là giọng dí dỏm hài hước, giọng suồng sã tự
nhiên và giọng trữ tình bàng bạc chất thơ bộc lộ thái độ, tình cảm của tác giả trước
mọi biểu hiện tự nhiên của cuộc sống... thì ở Nguyễn Công Hoan, giọng điệu "trời
phú" làm nên bản sắc riêng của nhà văn là giọng điệu hài hước mỉa mai, giọng giễu
nhại và giọng châm biếm sâu cay nhằm phê phán, lên án sự lố bịch, giả dối của xã hội
thực dân phong kiến.
2.3.2.1. Giọng điệu hài hước mỉa mai
Giọng điệu hài hước mỉa mai là một trong ba giọng điệu trần thuật chủ đạo của
Nguyễn Công Hoan. Khác với giọng điệu dí dỏm hài hước không nhằm bộc lộ thái độ
mỉa mai hay phê phán trong sáng tác của Tô Hoài, tiếng cười của Nguyễn Công Hoan
trong giọng điệu chủ đạo này thường hài hước, sảng khoái nhưng cũng bộc lộ sự mỉa
mai của tác giả. Với năng khiếu nhạy cảm, nhìn đâu cũng ra chuyện đáng cười đã
giúp cho ngòi bút của nhà văn có thể dễ dàng truyền tải mọi cái xấu, cái dở, cái đáng
cười của nhiều hạng người trong xã hội vào trong những trang văn của mình.
Chúng ta thấy trong gia tài đồ sộ của Nguyễn Công Hoan, từ những chuyện cô
Tuyết vì một nhân vật truyện chết mà buồn bã, thở ngắn than dài (Nỗi lòng ai tỏ),
chuyện ông Bảo Sơn rào đón, chào mời khách, canh chừng khách (Một tin buồn),
chuyện truy lùng thủ phạm của thầy đồ (Thầy cáu), chuyện ăn tết của ba nhà văn
Trần, Lê, Nguyễn (Cái tết của những đại văn hào)... đều xuất hiện giọng điệu này
trên nhiều trang văn.
Cuộc điều tra của thầy đồ trong truyện ngắn "Thầy cáu" được Nguyễn Công
Hoan trần thuật lại như sau:
"Rồi học trò đứa nọ thì thào với đứa kia, để loan báo cái tin dữ dội của
người đã làm rối cuộc trị an trong lớp.
Ông giáo tìm không ra mối, tức lắm, mà mũi ông không thể tránh không
giao thiệp với cái không khí không được êm đềm. Ông liền công nhiên mở
cuộc phỏng vấn. Rồi xong cuộc phỏng vấn không công hiệu, ông định nhúng
tay vào cuộc điều tra."
63
Qua lời trần thuật, người đọc cảm nhận được một sự mỉa mai của nhà văn đối
với thầy đồ dạy học - người đáng lẽ ra được cả xã hội tôn trọng, cung kính. Chỉ vì
một việc cỏn con là tìm ra người học trò đã chẳng may đưa cái mùi theo như nhà văn
nói là không mấy êm đềm vào trong lớp mà thầy đồ đã phải mở hẳn một cuộc phỏng
vấn như những người làm công tác tuyển chọn, rồi phỏng vấn không xong thầy lại
định "nhúng tay vào cuộc điều tra" như những mật vụ, điệp viên.
Giọng điệu hài hước mỉa mai trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan
thường xuất hiện khi nhà văn kể lại, miêu tả lại những thói tật hay những hoàn
cảnh dở khóc dở cười của các nhân vật. Ở giọng điệu này tiếng cười thường nhẹ
nhàng, sảng khoái.
2.3.2.2. Giọng điệu giễu nhại
Giọng điệu giễu nhại cùng với thủ pháp giễu nhại đã góp phần làm nên nét đặc
trưng riêng của Nguyễn Công Hoan. Thực ra ở các nhà văn khác, giọng điệu giễu
nhại cũng xuất hiện nhưng do đối tượng phê phán, cảm quan khác nhau mà ở mỗi nhà
văn khác nhau giọng điệu giễu nhại lại có những biểu hiện khác nhau. Giọng điệu
nhiễu nhại trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng được nhà văn sử dụng với quy mô
toàn xã hội, khi kể lại hàng loạt những tình huống vô nghĩa lý hay khi miêu tả hàng
loạt những chân dung nhân vật vô nghĩa lý. Nam cao luôn nhìn đời với con mắt của
tình thương nên tiếng cười, giọng văn của ông cũng mang âm hưởng của tình thương;
ông dùng tiếng cười để giúp con người nhận ra và biết xấu hổ với những gì phàm tục,
tầm thường của bản thân trong cái môi trường xã hội u ám, tù hãm xung quanh họ.
Còn Nguyễn Công Hoan lại chủ yếu dùng giọng điệu giễu nhại trong trường hợp: ông
muốn chế giễu một cách nói, phong cách nói của một loại nhân vật đại diện cho một
lớp người nào đấy. Ở những trường hợp này, giọng điệu giễu nhại tỏ ra có hiệu quả
hơn bất kì một thủ pháp nghệ thuật nào trong việc thể hiện thái độ, tư tưởng, sự phê
phán của nhà văn.
Trong truyện ngắn "Cụ Chánh Bá mất giày" chi tiết: "đôi giày mới nguyên,
kiểu Gia Định, đế cờ - lếp" là lời của anh đầy tớ khi nhà chủ hỏi về đôi giày của cụ
Chánh Bá. Nhưng chi tiết này đã được người trần thuật nhại lại ba lần trong lời trần
64
thuật của mình. Ba lần nhại không hoàn toàn giống nhau nhưng tất cả đều bộc lộ sự
mỉa mai, châm biếm của tác giả. Mỗi lần lại đem lại một hiệu quả nghệ thuật riêng.
Lần nhại thứ nhất đã vạch trần cái thực trạng đôi giày của cụ Chánh Bá: "Anh
người nhà nói rằng nó mới, kiểu Gia Định, đế cờ - lếp, là anh đã làm một lối văn "cổ
điển" đẹp lời, chứ nếu theo giọng "tả chân" thì phải nói rằng nó xấu và cũng không
có chữ để tả nữa!". [tr.139]
Lần nhại thứ hai lại nhằm vào chính chủ nhân của đôi giày mà mỉa mai, châm
biếm, mà thể hiện sự khinh thường: " Cụ thét ra lửa thực hay dối? Ấy là tán rộng thế
cho nó hay đấy. Chứ nếu biết rằng mất giày mà cụ thét ra lửa thực, thì cháy tiệt cả
nhà, còn gì nữa? Mà nhà nước thấy cụ có phép lạ, thì đã gủi toách cụ sang Tây từ
đời nào, để viện Hàn lâm khoa học, các ông Bouvier, Caullery, Gravier, Joubin,
Marchal, Mesnil khảo cứu. Và như thế thì chắc chắn cụ được đôi giày tây để đi, chứ
cụ có còn ở nhà nữa đâu mà mất đôi giày Gia Định, đế cờ - lếp.". [tr.143]
Đến lần nhại thứ ba thì đôi giày mới của cụ Chánh Bá vốn không hề có thật,
không hề tồn tại, giờ lại trở thành có thật: "Khi chỉ còn một mình cụ ở lại, cụ mới
quành cái khăn vào cánh tay, rồi lấy đóm soi đôi giày dưới đất. Đôi giày của cụ thật
mới, bóng nhoáng, kiểu Gia Định, và đế cờ - lếp, để cẩn thận bên gậm sập." [tr.144].
Giọng điệu giễu nhại ở lần này như kéo dài ra, dường như người trần thuật muốn
miêu tả thật chậm, thật kĩ, nhằm khắc sâu cái đôi giày mới của cụ Chánh Bá.
Truyện ngắn "Ông chủ báo chẳng bằng lòng" cũng có giọng điệu trần thuật
chủ đạo là giọng giễu nhại. Giọng giễu nhại dường như bao trùm toàn bộ tác phẩm.
Với việc dùng giọng điệu nhiễu nhại lại lối văn báo chí trong khi trần thuật lại câu
chuyện, sự việc đã tạo ra cảm giác nhà văn kể chuyện mà như đang viết báo vậy. Qua
đó cũng bộc lộ sự chế giễu đối với cách viết bài, đưa tin nhằm câu khách của những
tay viết báo đương thời.
Giọng điệu giễu nhại không chỉ xuất hiện trong những truyện ngắn trên mà
còn hiện diện trong nhiều tác phẩm khác nữa. Nhưng dù ở tác phẩm nào thì giọng
điệu giễu nhại cũng có chức năng chung là hạ bệ, vạch trần những cái có vẻ ngoài hào
nhoáng nhưng thực chất lại rất lố bịch, đáng cười, đáng chế giễu.
65
2.3.2.3. Giọng điệu châm biếm sâu cay
Nếu như đối tượng phê phán của Vũ Trọng Phụng là lũ người dốt nát, văn
minh dởm; của Tô Hoài là những thói hư tật xấu, những suy thoái biến chất của con
người... thì đối tượng phê phán của Nguyễn Công Hoan lại là thế giới nhân vật quan
trường, những ông chủ, bà chủ trong xã hội. Và nếu như Tô Hoài chỉ lấy giọng điệu
nhẹ nhàng, dí dỏm khi thì mát mẻ, khi lại mỉa mai làm phương tiện cho sự phê phán
thì Nguyễn Công Hoan lại không ngần ngại lên án đanh thép, phủ nhận hoàn toàn vai
trò hay lật tẩy không thương tiếc bản chất tàn ác, đạo đức giả của nhân vật trào
phúng. Chính vì thế mà giọng điệu châm biếm sâu cay đã trở thành giọng điệu chủ
đạo trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan. Chúng tôi thấy, mức độ xuất hiện của
giọng điệu này rất đậm đặc, hầu như ở tất cả các tác phẩm đều có, vấn đề chỉ là nhiều
hay ít mà thôi.
Nguyễn Công Hoan không ngần ngại nói ra cái ý định, cái suy nghĩ đầy tính
toán của tên Tri Châu trong truyện ngắn "Sáu mạng người": "... Song ông cố đợi
vài tháng nữa, đến kì thăng thưởng cuối năm, ông sẽ vận động thăng Tri phủ và
xoay về một huyện nào tôn tốt ở trung châu. Lúc bấy giờ ông mới có thể nghĩ đến
chuyện làm giàu và sung sướng được. Chứ ở đây, tiếng là quan cai trị, mà quanh
năm, ông chẳng xơ múi được gì.". Chỉ bằng có vài câu văn thôi, nhà văn đã vạch
trần cái tâm địa đầy mưu mô, mua quan tiến chức, bản chất bóc lột, tham lam của
tên Tri Châu. Suy nghĩ của hắn cũng chính là điển hình cho lối suy nghĩ của giới
quan lại trong cái xã hội lúc bấy giờ. Rồi cái hành động dã man được ông Tri
Châu thực hiện một cách lạnh lùng, không hề do dự cũng được Nguyễn Công
Hoan trần thuật lại một cách vô cùng lạnh lùng:
"... Rồi ông làm gì?
Rồi... đoành! Đoành! Ông chia cho mỗi người một phát đạn, không hơn
không kém, để họ đỡ tị với bạn.
Rồi... còn ba người đương ngoắc ngoải, ông cũng sinh phúc cho thêm mỗi
người một phát, để họ được thoát khổ, mà rủ nhau cả một lượt về suối vàng."
Với cái giọng điệu lạnh lùng, châm biếm sâu cay khi miêu tả hành động giết
người của tên Tri Châu, tác giả đã khiến cho người đọc không khỏi lạnh sống lưng,
66
hoảng hốt... từ đó mà lòng căm thù đối với bọn quan lại - tay sai của thực dân, những
kẻ giết người không ghê tay dâng lên đến tột điểm.
Giọng điệu châm biếm sâu cay cũng là giọng điệu chủ đạo được sử dụng
trong truyện ngắn "Thịt người chết". Giọng điệu này xuất hiện ngay từ những
dòng mở đầu tác phẩm:
"Vì mới chết lần này là lần đầu, nên anh Xích chưa có lịch duyệt về
khoản ấy.
Thực vậy, nếu chết ở tỉnh, thì ai láu, nên chọn vào đêm thứ sáu. Như thế
vợ con có vừa vặn thì giờ để cáo phó lên báo. Và đến chủ nhật, cất đám có đủ
các cụ, các quan, các ông, các bà, thân bằng cố hữu đi đưa đông. Ở nhà quê,
nếu chết vì tai nạn, người khôn ngoan bao giờ cũng tránh ngày chủ nhật hoặc
ngày lễ, thì sự khám xét, tống táng mới mau chóng được.
Nhưng khốn nỗi, xưa nay, không ai chết đến lần thứ hai để được bài học
kinh nghiệm về cách chết. Vì vậy, vẫn có nhiều người chết một cách ngờ nghệch."
[34, tr.437].
Mới đầu đọc, người đọc có cảm giác nhà văn đang trách cứ nhiều người dân đã
không biết cách chọn ngày mà chết để thuận lợi cho con cháu, để không bị xét nét
nhiều, để có nhiều người đi đưa ma. Nhưng thực chất là nhà văn đang nhằm vào giới
quan lại, nhằm vào cách làm việc, vào thái độ vô trách nhiệm, hạnh họe, phức tạp hóa
vấn đề để moi tiền của chúng mà châm biếm, mà đả kích. Càng về cuối tác phẩm
giọng điệu châm biếm, đả kích, lên án sâu cay càng thể hiện rõ trong cách kể, cách tả
của nhà văn.
Tuy nhiên, chúng tôi hiểu rằng chất giọng trần thuật chủ đạo của nhà văn
không bó hẹp trong một giọng điệu văn chương nào mà luôn luôn có sự đa dạng về
giọng điệu dựa trên một giọng điệu cơ bản chủ đạo. Giọng điệu trần thuật cũng góp
phần quan trọng trong việc khẳng định phong cách nghệ thuật của nhà văn.
2.3.3. Ngôn ngữ trần thuật và nhịp điệu trần thuât
Ngôn ngữ trần thuật, ngôn ngữ người trần thuật hay ngôn ngữ người kể chuyện
là "phần lời văn độc thoại thể hiện quan điểm tác giả hay quan điểm người kể chuyện
67
(sản phẩm sáng tạo của tác giả) đối với cuộc sống được miêu tả... Ngôn ngữ người
trần thuật chẳng những có vai trò then chốt trong phương thức tự sự (X. trần thuật,
tự sự) mà còn là yếu tố cơ bản thể hiện phong cách nhà văn, truyền đạt cái nhìn,
giọng điệu, cá tính của tác giả", đồng thời ngôn ngữ người trần thuật còn mang "các
sắc thái, quan điểm bổ sung do lập trường, đặc điểm tâm lý, cá tính của nhân vật -
người kể chuyện mang lại" [21, tr.213-214].
Trong ngôn ngữ trần thuật của mình, Nguyễn Công Hoan rất hay dùng lối nói
của nhân vật với những từ ngữ vừa gián tiếp bộc lộ tính cách nhân vật vừa làm cho
câu chuyện trở lên sống động, chân thực và hóm hỉnh "Xưa nay cụ chúa ghét những
thói gian giảo. Ngay như đầy tớ của cụ, đứa nào mà lảng vảng ra chợ, tắt mắt đồ đạc
của người ta, người ta có bắt được và trình với cụ, thì cụ cũng không tha. Cụ nhất
định giữ lấy đồ ăn cắp rồi sai đánh cho một trận thật" (Cụ Chánh Bá mất giày). Lối
nói này đã phơi bày bản chất giả dối, tham lam của cụ Chánh Bá. Mới đầu đọc ta
tưởng rằng đó là một vị quan thanh liêm, chính trực, thương dân nhưng thực chất lại
là một kẻ ăn cắp một cách trắng trợn, công khai; một kẻ đạo đức giả.
Hay trong "Thật là phúc" khi kể về câu chuyện "lấy thịt đè người" của gã lính
cơ "Ván cách", nhà văn cũng dùng ngôn ngữ của nhân vật lính tráng, xen lẫn những
tiếng Tây bồi lính cẩm: "ma phăm anh hàng giò", "đề mi tua", "lập gioòng", "cẩm ma
lách", "sú ca nia", "đi la mát", "kèn la vầy"...
Trong "Một tin buồn", Nguyễn Công Hoan lại dùng lối nói, lối suy nghĩ của
chính nhân vật ông Bảo Sơn - nhân vật chính trong ngôn ngữ trần thuật của mình.
Ngôn ngữ trần thuật ngoài việc góp phần khắc họa lên nhân vật trào phúng còn
có tác dụng xây dựng mâu thuẫn trào phúng và tình huống trào phúng.
"... Ấy thế mà mới chập tối, họ đã để ngay đứa nào đó xà lọt mất đôi
giày mới của cụ, có chết không! Ừ thì đông người thì đông chứ, nhà có việc,
nhà nào chả có nhiều kẻ ra vào! Nhưng cụ ngồi chơi tận trên nhà trên thăm
thẳm, thì còn kẻ gian nào dám lẻn vào đó? Vả riêng mình cụ ngồi ở sập giữa,
thì còn ngờ ai đi lẫn được giày? " (Cụ Chánh Bá mất giày).
Lời kể chuyện đầy vẻ hoài nghi, vừa như muốn khẳng định lại vừa như muốn
phủ định từ đó tạo ra tình huống trào phúng: cụ Chánh Bá ngồi một mình ở sập giữa
68
trên nhà mà gian nhà đó lại sâu thăm thẳm, không có ai dám bén bảng đến mà cụ lại
bị mất giày. Một tình huống mất giày hết sức đáng ngờ.
Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan là ngôn ngữ
bình dân, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân. Văn của ông rất tự
nhiên, thoải mái và vô cùng linh hoạt. Nhà văn đã mạnh dạn đưa lời ăn tiếng nói của
người dân vào trong tác phẩm văn chương làm cho văn của ông mất đi vẻ đài các mà
gần với cuộc sống của nhân dân lao động hơn. Trong thời điểm mà ngôn ngữ của các
tác giả khác vẫn còn rất "sạch sẽ", "kiểu cách" thì việc đưa lời ăn tiếng nói hàng ngày,
những từ ngữ mang tính khẩu ngữ, cũng như tiếng lóng vào trong văn chương là một
đóng góp lớn của Nguyễn Công Hoan cho nền văn xuôi Việt Nam về mặt ngôn ngữ.
Ngôn ngữ trần thuật, đặc biệt là những từ ngữ mang tính chất khẩu ngữ, những
tiếng lóng được nhà văn sử dụng một cách đắc địa đã góp phần thể hiện có hiệu quả
tư tưởng chủ đề của truyện hay gián tiếp bộc lộ bản chất, tính cách của nhân vật trào
phúng. Chẳng hạn như những từ ngữ mang tính chất khẩu ngữ như: "xơi", "hỗn", "xà
lọn", "tiệt", "toách" (Cụ Chánh Bá mất giày) đặt trong những câu văn cụ thể đã thể
hiện sự mỉa mai, châm biếm, lên án thói tham lam, đạo đức giả của cụ Chánh Bá.
Về nhịp điệu trần thuật, qua hàng loạt truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan
chúng tôi thấy: do chú trọng hành động hơn là diễn biến tâm lí nên nhịp điệu trần
thuật trong truyện ngắn của nhà văn thường rất nhanh, mạnh, chỉ trong một thời gian
ngắn mà có biết bao nhiêu sự việc, hành động xảy ra. Để có được nhịp điệu nhanh
như vậy, ông thường dùng những câu văn ngắn. Đây là đoạn nhà văn miêu tả cảnh ăn
cắp và cảnh bắt ăn cắp:
"Nó liếc mắt xuống, nhằm củ khoai to nhất. Bà hàng đương lúi húi cúi
gục vào dải yếm, vét tí vôi ăn trầu.
Nhất định nó liều. Nó khuỵu cẳng. Ngã phịch. Một củ khoai ở mẹt biến mất.
...
Người ta chạy huỳnh huỵch. Tán loạn.
Mặc kệ. Nó nuốt lấy nuốt để. Miếng khoai trôi xuống, cổ nó phình ra.
Nó lại vội vàng ngoạm miếng nữa, nhai ngấu nghiến.
69
Bà hàng ôm chặt lấy chân nó. Nó khỏe hơn, giằng ra được.
Người ta xúm lại, tóm ngang lưng nó. Nó không chạy. Nhưng nó vẫn
nhai, vẫn nuốt. Rồi biết thế nguy, nó không nhai, trợn mắt lên để nuốt chửng.
Rồi lại hấp tấp ngốn luôn miếng nữa.
Chửi. Kêu. Đấm. Đá. Thụi. Bịch. Cẳng chân. Cẳng tay. Như mưa vào
đầu. Như mưa vào lưng. Như mưa vào chân nó." (Bữa no... đòn)
Đọc đoạn văn người đọc dường như bị "choáng" với diễn biến quá nhanh của
câu chuyện, qua đó sự tác động, ấn tượng cũng mạnh hơn, sâu hơn.
Nhịp điệu nhanh trong các sáng tác của Nguyễn Công Hoan cũng nằm trong
xu hướng chung của nền văn học lúc bấy giờ. Khác với nhịp điệu chậm lại, giãn ra
trong văn xuôi giai đoạn sau 1975, văn xuôi giai đoạn trước 1975 hay hẹp hơn là
trước 1945 thường có nhịp điệu nhanh. Điều đó là do trung tâm chú ý của văn xuôi
giai đoạn này là sự kiện, hành động.
Tiểu kết:
Với nghệ thuật viết truyện ngắn rất phong phú, đa dạng, đặc sắc, truyện ngắn
của Nguyễn Công Hoan hầu hết đều sinh động, hấp dẫn, độc đáo. Đặc biệt là với sự
tài hoa trong nghệ thuật viết truyện ngắn, tiếng cười trào phúng trong sáng tác của
ông được đánh giá rất cao. Bởi trước Nguyễn Công Hoan, chưa có nhà văn nào lại có
thể bộc lộ tài tình tiếng cười trào phúng đến như vậy.
Nói như vậy không có nghĩa là trong nghệ thuật viết truyện ngắn, Nguyễn
Công Hoan hoàn toàn hoàn hảo, không hề mắc khuyết điểm. Trong quá trình sáng tác
cũng có những lúc nhà văn sa vào chủ nghĩa tự nhiên, đã đi sâu tả quá tỉ mỉ một chi
tiết thô lỗ nào đó khiến người đọc có cảm giác kinh tởm, có những truyện bị làm hài
quá đà nên mất đi cảm giác chân thực. Tuy nhiên trong sự nghiệp sáng tác của mỗi
nhà văn không thể tránh khỏi có những lúc chưa thật tài tình, chưa thật sắc nét.
Mặc dù có một số hạn chế nhỏ, có những truyện chưa được hay song nói
chung truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan vẫn là một di sản quý báu của nền văn
học Việt Nam. Và nói về truyện ngắn, ông vẫn được các nhà nghiên cứu đánh giá là
bậc thầy trong nghệ thuật viết truyện ngắn.
70
Chƣơng 3
PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT NGUYỄN CÔNG HOAN
3.1. Giới thuyết về phong cách
Từ trước tới nay có rất nhiều định nghĩa, quan niệm khác nhau về phong cách
nghệ thuật:
Viện sĩ M.B.Khrapchencô sau khi đã tìm hiểu và thống kê một số định nghĩa
xung quanh phạm trù phong cách cá nhân, đã đưa ra quan niệm: "Phong cách cần
phải được định nghĩa như thủ pháp biểu hiện cách khai thác hình tượng đối với cuộc
sống, như thủ pháp thuyết phục và thu hút độc giả" [44, tr.152].
Về vấn đề này, Viện sĩ Nga D.X.Likhatsep trong cuốn "Thi pháp văn học Nga
cổ" đưa ra định nghĩa: phong cách "là một hệ thống hình thức và nội dung nhất định",
là "nguyên tắc thẩm mỹ để cấu trúc toàn bộ nội dung và toàn bộ hình thức" [tr.32].
Như vậy, tới nay vẫn chưa có sự nhất quán giữa các quan điểm của các nhà
nghiên cứu về khái niệm phong cách nhưng tựu chung lại có hai ý kiến sau: Một nhấn
mạnh sự thống nhất của các yếu tố nội dung và các yếu tố tạo nên tính hình thức của
tác phẩm. Một lại cho rằng phong cách được coi như là hình thức toàn vẹn có tính
chất nội dung.
Mặc dù tách bạch như vậy nhưng giữa hai ý kiến đó vẫn có sự thống nhất bởi
các nhà nghiên cứu đều quan tâm đặc biệt đến hai yếu tố bộc lộ tài năng độc đáo của
người nghệ sĩ đó là nội dung và hình thức của tác phẩm văn chương.
Trước sự không thống nhất ấy, M.B.Khrapchencô đã phát biểu ý kiến: "Không
nên thần thánh hóa những thuật ngữ và những định nghĩa , không nên cho rằng
chúng là chiếc chìa khóa duy nhất để khám phá tất cả những bí mật của nghệ thuật
(...). Vấn đề chỉ là ở chỗ những định nghĩa không phải là mục đích tự thân và không
phải là chiếc gậy thần có thể làm ra những điều kì diệu, chúng chỉ là phương tiện
nhận thức những hiện tượng, những quá trình".
Các nhà lí luận, nghiên cứu văn học nước ta cũng đưa ra những quan niệm
khác nhau về vấn đề phong cách nghệ thuật:
71
Các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đã định nghĩa:
"Phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm mỹ, chịu sự thống nhất tương đối ổn
định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói đến cái
nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong một tác phẩm riêng lẻ, trong trào
lưu văn học hay văn học dân tộc". Các tác giả này cũng khẳng định: "Trong chỉnh thể
"nhà văn" (hiểu theo nghĩa là các sáng tác của một nhà văn), cái riêng tạo nên sự
thống nhất lặp lại ấy biểu hiện tập trung ở cách cảm nhận độc đáo về thế giới và ở hệ
thống bút pháp nghệ thuật phù hợp với cách cảm nhận ấy" [21, tr.170-171].
Thống nhất với quan điểm đó, các tác giả Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn
Xuân Nam, La Khắc Hòa, Thành Thế Thái Bình trong cuốn "Lí luận văn học" đã định
nghĩa: "Phong cách là chỗ độc đáo về tư tưởng cũng như nghệ thuật có phẩm chất
thẩm mỹ thể hiện trong sáng tác của những nhà văn ưu tú" [tr.482].
Như vậy, theo ý kiến của các nhà nghiên cứu thì tính độc đáo thẩm mỹ là yếu
tố quyết định tạo phong cách nghệ thuật. Cụ thể hóa các yếu tố tạo phong cách nghệ
thuật tác giả, các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng: nhà văn muốn có phong cách
riêng, trước hết phải có "tư tưởng nghệ thuật độc đáo, có cách cảm nhận thế giới độc
đáo, có cảm hứng độc đáo, có hệ thống phương thức riêng độc đáo, lẽ dĩ nhiên phải
là tính chất độc đáo chân chính" (Hêghen).
Từ những quan niệm, định nghĩa của các nhà nghiên cứu, chúng tôi nhất trí
rằng: Phong cách là sự biểu hiện độc đáo của tài năng sáng tạo nghệ thuật, có tính
thống nhất và tương đối ổn định, được lặp đi lặp lại trong nhiều tác phẩm của nhà
văn, thể hiện cái nhìn và sự chiếm lĩnh nghệ thuật độc đáo của nhà văn đối với thế
giới và con người.
3.2. Nét độc đáo về phong cách Nguyễn Công Hoan
3.2.1. Tƣ tƣởng nghệ thuật - quan niệm về hiện thực và con ngƣời
Tư tưởng nghệ thuật là một trong những yếu tố quan trọng hình thành lên
phong cách nghệ thuật Nguyễn Công Hoan. Bởi chính tư tưởng nghệ thuật cùng với
những tìm tòi, sáng tạo về nghệ thuật mà Nguyễn Công Hoan đã trở thành một trong
những cây bút tiêu biểu của trào lưu Văn học hiện thực phê phán Việt Nam trước
Cách mạng, là người đặt nền móng cho nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
72
Tư tưởng nghệ thuật là sự nhận thức, lí giải và thái độ đối với toàn bộ nội dung
cũng như những vấn đề nhân sinh được đặt ra trong toàn bộ quá trình sáng tác. Tư
tưởng nghệ thuật luôn luôn chịu sự chi phối của thế giới quan, vốn sống và tài năng
của nhà văn.
Nguyễn Công Hoan luôn nhìn cuộc sống qua lăng kính hài hước, qua lăng
kính ấy xã hội hiện lên như là một sân khấu hài kịch, còn con người trong xã hội ấy là
những diễn viên hài đầy tiềm năng. Thêm vào đó, ông bị chính quyền thực dân "đẩy"
đi dạy học ở nhiều nơi, chính điều đó đã khiến ông có một vốn sống vô cùng phong
phú, dồi dào; ông đã được tận mắt chứng kiến và nghe người khác kể lại biết bao
nhiêu chuyện của đủ mọi hạng người trong xã hội. Hơn nữa, nhà văn lại là người có
năng khiếu khôi hài ngay từ rất nhỏ, chỉ từ một chi tiết rất nhỏ ông cũng có thể dựng
lên được một câu chuyện trào phúng toàn vẹn. Trong thời điểm các nhà văn còn đang
vật lộn giữa hai con đường "Nghệ thuật vị nghệ thuật" và "Nghệ thuật vị nhân sinh"
thì Nguyễn Công Hoan đã không ngần ngại, mạnh dạn chọn cho mình một con đường
riêng. Ông được coi là người khơi nguồn cho dòng văn học "tả chân", "vị nhân sinh"
tiến bộ chảy xiết và cũng là người cắm ngọn cờ chiến thắng vẻ vang cho nó trong đời
sống văn học khu vực hợp pháp.
Tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Công Hoan chúng tôi thấy các sáng
tác của ông đều xoay quanh vấn đề nhân sinh: "Suốt nửa thế kỉ cầm bút, tiếng nói
nghệ thuật vang đội nhất của Nguyễn Công Hoan là tiếng nói tố cáo gay gắt, đanh
thép xã hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến đầy bất công và hết sức lố lăng thối
nát, là tiếng nói bênh vực chân thành những con người nghèo khổ bị chà đạp, xúc
phạm." [14, tr.388].
Có hai quan điểm tư tưởng hình thành nên tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn
Công Hoan đó là quan điểm xã hội và quan điểm đạo đức. Trong đó, sự đối lập giàu -
nghèo chính là quan điểm xã hội chủ yếu. Giàu là những kẻ có tiền, có thế, có địa vị
trong xã hội còn nghèo là những con người thấp cổ bé họng, không có tiền, bị lép vế.
Bằng kinh nghiệm sống và lập trường nhân sinh kiên định, bao giờ nhà văn cũng
bênh vực người nghèo, lên án, phê phán kẻ giàu. Điều đó đã làm cho các sáng tác của
73
ông mang sức chiến đấu cao. Quan điểm này gần với quan điểm giai cấp và thường
những tác phẩm của nhà văn nhằm rất trúng đích.
Còn về quan điểm đạo đức thì Nguyễn Công Hoan luôn đi sâu khai thác những
"quái thai, dị dạng" ở chốn quan trường do xã hội đương thời tạo ra. Đồng thời
những vấn đề về luyến ái, hôn nhân gia đình, những vấn đề về đạo đức cũng được
nhà văn đi sâu phản ánh. Ở những trường hợp này, nhà văn thường thể hiện rõ quan
niệm, thái độ phê phán, lên án gay gắt của mình. Tiếng cười ở đây cũng vang lên một
cách chua chát, cay đắng bộc lộ sự đau đớn, trăn trở của tác giả.
3.2.2. Ngôn ngữ
3.2.2.1. Ngôn ngữ đặc trưng cho từng nhân vật, mang đậm dấu ấn của lời ăn
tiếng nói hàng ngày
Theo "Từ điển thuật ngữ văn học" ngôn ngữ nhân vật là "Lời nói của nhân vật
trong các tác phẩm thuộc các loại hình tự sự và kịch".
"Ngôn ngữ nhân vật là một trong các phương tiện quan trọng được nhà
văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống và cá tính nhân vật. Trong tác phẩm,
nhà văn có thể cá thể hóa ngôn ngữ nhân vật bằng nhiều cách: nhấn mạnh
cách đặt câu, ghép từ, lời phát âm đặc biệt của nhân vật, cho nhân vật lặp lại
những từ, câu mà nhân vật thích nói kể cả từ ngoại quốc và từ địa phương...
Trong các tác phẩm tự sự, nhà văn còn thường trực tiếp miêu tả phong cách
ngôn ngữ của nhân vật" [tr.214].
Như vậy, theo quan niệm trên thì ngôn ngữ nhân vật chỉ xuất hiện trong các
tác phẩm tự sự và kịch còn trong tác phẩm trữ tình không có ngôn ngữ nhân vật.
Thông qua ngôn ngữ, mỗi nhân vật bộc lộ cá tính riêng của mình, cuộc sống qua đó
cũng được thể hiện. Ngôn ngữ nhân vật được cá thể hóa cao độ tức là mỗi nhân vật có
một thứ ngôn ngữ riêng, mang tính chất đặc trưng, không ai giống ai. Chẳng hạn như
nhắc đến nhân vật cụ cố Hồng trong "Số đỏ" của Vũ Trọng Phụng là ta nhớ ngay đến
câu nói cửa miệng của cụ: "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi" hay nhân vật Xuân Tóc Đỏ là
câu chửi thề "Mẹ kiếp!"...
74
Đọc truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, ta thấy ngôn ngữ nhân vật trong các
truyện ngắn của ông rất rõ nét. Nhà văn rất thuộc lời ăn tiếng nói của mỗi hạng người
trong xã hội. Quan lại, lính tráng, chánh tổng, lý trưởng, me Tây, đầy tớ, phu xe... loại
nào có ngôn ngữ của loại ấy, không trộn lẫn với nhau. Thông qua ngôn ngữ của mình,
bản chất tính cách của nhân vật cũng được bộc lộ một cách sinh động. Hơn nữa trong
một truyện không chỉ xuất hiện ngôn ngữ của một loại nhân vật mà thông thường có
nhiều loại ngôn ngữ của nhiều loại nhân vật. Ví dụ như trong truyện "Cụ Chánh Bá
mất giày" chúng tôi thấy xuất hiện ngôn ngữ của ba loại nhân vật đó là ngôn ngữ của
anh đầy tớ, ngôn ngữ của nhân vật chủ nhà và ngôn ngữ của nhân vật cụ Chánh Bá.
Mặc dù trong truyện ngắn này xuất hiện rất ít những lời nói trực tiếp nhưng
bản chất, tính cách của mỗi nhân vật vẫn được bộc lộ một cách sinh động. Anh đầy tớ
trước mặt cụ Chánh Bá thì chỉ gãi tai, không dám trả lời hay chỉ dám trả lời bằng một
tiếng "dạ" nhưng lại tỏ ra hách dịch, kênh kiệu, trả lời trống không với chủ nhà. Còn
nhân vật chủ nhà - một người dân không chức, không quyền thì luôn tỏ ra luồn cúi, lo
sợ, không chỉ khúm núm trước người có địa vị như cụ Chánh Bá mà còn khúm núm
trước cả tên đầy tớ của cụ. Trong ngôn ngữ của ba loại nhân vật thì ngôn ngữ của
nhân vật cụ Chánh Bá là đặc sắc hơn cả, nó mang tính chất trào phúng bộc lộ rõ bản
chất của người phát ngôn ra nó - một kẻ hách dịch, keo kiệt, vô lí, tham lam:
"_ Tao không thể đi đôi giày này được nữa. Kệ chúng bay! Muốn làm thế nào
thì làm." [tr.140]
Câu nói của cụ Chánh Bá thật khiến người đọc bật cười và cảm thấy vô lí hết
mức, giày là giày của cụ, nó xấu nó đẹp là do cụ chứ sao lại gắt, lại ăn vạ đầy tớ? Cụ
Chánh Bá chính là đại diện cho những kẻ quan lại, tay sai thời đó: tham lam, luôn tìm
cách vơ vét của dân nhưng lại bủn xỉn, keo kiệt không muốn bỏ ra một chút dù đó là
cho chính mình.
Đám tiểu thư con nhà giàu thì có giọng nhõng nhẽo, làm nũng (Nỗi lòng ai tỏ),
giọng đon đả thớ lớ của bà lớn Tuần (Hé! Hé! Hé!) - đó là giọng có thể cướp đi sự
cảnh giác của người khác nhằm moi tài sản của họ; ngôn ngữ chợ búa của những
người bán hàng (Thằng ăn cắp); ngôn ngữ khúm núm, van xin của những kẻ ăn xin,
ăn mày (Thằng ăn cắp, Bữa no...đòn, Thế cho nó chừa...)... Trong đó nổi bật lên ngôn
75
ngữ của nhân vật quan lại (Cụ Chánh Bá mất giày, Thịt người chết, Ngượng mồm,
Gánh khoai lang...).
Một điểm đặc biệt là ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan
mang đậm dấu ấn của lời ăn tiếng nói hàng ngày. Nguyễn Công Hoan là nhà văn đã
mạnh dạn đưa lời ăn tiếng nói hàng ngày của quần chúng nhân dân vào trong văn
chương một cách rộng rãi khiến cho văn chương đường như mất hết đi vẻ "đài các"
mà trở thành thứ ngôn ngữ của đời sống hàng ngày. Khi nói về vấn đề này, nhà phê
bình Vũ Ngọc Phan đã có nhận xét hết sức thú vị là: "Những truyện ngắn của Nguyễn
Công Hoan tiêu biểu cho một thứ văn rất vui" (Nhà văn hiện đại). Với việc đưa ngôn
ngữ của lời ăn tiếng nói hàng ngày vào trong văn chương, Nguyễn Công Hoan đã có
sự đóng góp đáng kể cho sự phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Mặc dù ở
truyện ngắn đầu tay của ông, chúng tôi thấy thỉnh thoảng vẫn còn xuất hiện một vài
câu văn du dương, trầm bổng, xen lẫn văn vần nhưng bắt đầu từ những truyện ngắn
giai đoạn 1929 - 1930 trở đi đến trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thì ngôn ngữ
của ông mất hẳn tính đó, nó trở lên gần gũi với đời sống hơn.
Chúng tôi đã thử khảo sát đối sánh truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan với
các tác phẩm của Tự lực văn đoàn - sáng tác cùng thời với ông, cụ thể là chúng tôi
đối sách giữa truyện ngắn "Cụ Chánh Bá mất giày" (Nguyễn Công Hoan) với "Nửa
chừng xuân" (Khái Hưng - một trong những cây bút chủ lực của Tự lực văn đoàn).
Trong "Nửa chừng xuân" cũng như các tác phẩm khác của "Tự lực văn đoàn" cũng có
ngôn ngữ nhân vật nhưng ngôn ngữ mang đậm phong cách tiểu tư sản (đối tượng
chính) còn trong "Cụ Chánh Bá mất giày" có ngôn ngữ của ba loại nhân vật đó là
ngôn ngữ của nhân vật anh đầy tớ, ngôn ngữ của cụ Chánh Bá và ngôn ngữ của nhân
vật chủ nhà. Mỗi loại lại có ngôn ngữ riêng nhằm bộc lộ bản chất, tính cách và địa vị
của mình. Ngôn ngữ trong "Nửa chừng xuân" là thứ ngôn ngữ lãng mạn, mơ mộng,
đắm say trong tình yêu: "Anh xin thề với em rằng, anh viện những sự thiêng liêng
nhất trên đời, anh thề với em rằng, đối với anh, chỉ mình em là vợ, là người vợ mà
anh đã, mà anh vẫn, mà anh sẽ mãi mãi đem hết tâm trí, đem hết linh hồn ra anh yêu
mến." [Nửa chừng xuân, tr.241]. Đó là thứ ngôn ngữ sạch sẽ, kiểu cách khác hoàn
toàn với ngôn ngữ nhân vật nói riêng và ngôn ngữ nói chung trong truyện ngắn
76
Nguyễn Công Hoan. Trong "Cụ Chánh Bá mất giày" nhà văn sử dụng những từ ngữ
thông tục của đời sống hàng ngày như: xà lọn, cháy tiệt, gửi toách. Các nhân vật
trong "Tự lực văn đoàn" xưng hô với nhau là anh - em, chàng - nàng còn trong truyện
ngắn của Nguyễn Công Hoan cách xưng hô "dân dã, thông tục" hơn nhiều, cụ thể là
cụ Chánh Bá đã xưng "tao" gọi đầy tớ là "mày" (Cụ Chánh Bá mất giày).
Qua sự đối sánh đó, chúng tôi thấy được sự cách tân lớn của Nguyễn Công
Hoan về mặt ngôn ngữ nói chung và ngôn ngữ nhân vật nói riêng. Ông đã có công
đưa lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân vào trong văn chương, mở đường cho
sự phát triển của trào lưu Văn học hiện thực phê phán nói riêng và văn xuôi Việt Nam
hiện đại nói chung.
3.2.2.2. Ngôn ngữ đối thoại
Trong ngôn ngữ nhân vật của Nguyễn Công Hoan, ngôn ngữ đối thoại được
đánh giá là đặc sắc hơn cả. Các đoạn đối thoại đều rất hay, sinh động, đạt được giá trị
nghệ thuật cao khi diễn tả được bản chất, tính cách và mối quan hệ giữa các nhân vật.
Khi đề cập đến khía cạnh này, GS Nguyễn Đăng Mạnh đã đưa ra nhận định: "Nhiều
đoạn đối thoại của Nguyễn Công Hoan có thể chuyển thành kịch bản sân khấu. Đặc
điểm này khiến cho đối thoại nói riêng và truyện ngắn nói chung rất sinh động, hấp
dẫn; người đọc cũng bị cuốn hút bởi tiết tấu nhanh, mạnh của nó".
Đem đối sánh Nguyễn Công Hoan với Nam Cao thì thấy rằng ngôn ngữ đối
thoại trong sáng tác của cả hai nhà văn đều bắt ngồn từ hiện thực cuộc sống. Mặc dù
vậy, vẫn có sự khác nhau trong ngôn ngữ đối thoại giữa hai nhà văn này. Nếu như
những đoạn đối thoại giữa các nhân vật trong sáng tác của Nam Cao chân thực đến
gai góc, có cảm tưởng như nhà văn ghi âm từ chính đối thoại ngoài hiện thực vậy; thì
Nguyễn Công Hoan lại có sự cường điệu, phóng đại những đối thoại từ hiện thực
cuộc sống thành những đoạn đối thoại như một phần của bức tranh biếm họa, vạch
trần cái mặt trái của hiện thực xấu xa, lố lăng, tàn nhẫn.
Những truyện ngắn như: "Oẳn tà rroằn", "Ngựa người và người ngựa",
"Thằng ăn cắp", "Mất cái ví", "Xuất giá tòng phu", "Hé! Hé! Hé!", "Ngượng mồm",
"Gánh khoai lang"... là những truyện ngắn tiểu biểu có ngôn ngữ đối thoại rất đặc
77
sắc. Ở đây, chúng tôi chỉ lấy một vài dẫn chứng tiêu biểu chứng minh cho việc ngôn
ngữ đối thoại có khả năng bộc lộ sắc nét bản chất thật của nhân vật.
Đoạn đối thoại giữa vợ chồng ông Lý (Gánh khoai lang) đã gián tiếp bộc lộ
cái bản chất bóc lột, ăn cướp không nương tay của quan Huyện; cả tiền dùng để mua
đồ cúng tết ông bà, ông vải nhà người ta hắn cũng không tha:
"- Làm lý trưởng một làng quèn quèn có hơn trăm suất đinh, mà nay tết,
mai tết lại phải những hai đồng, cũng chẳng dám mở miệng ra mà kêu.
Ông Lý bực mình, gắt lại:
- U mày lên huyện mà kêu. Cứ ở nhà nói đổng thì ai chẳng làm được.
Lại không biết người ta ra làm quan chỉ cốt có việc lặn khoét thôi à.
Bỗng một lát nghĩ ngợi, ông Lý hỏi:
- Thế đồng bạc để mua thịt ngày mai đâu, u mày đưa đây vậy.
Bà Lý bĩu môi:
- Dễ nghe nhỉ. Cả nhà ăn tết, chỉ có đồng bạc, thầy nó định lấy đem vào
quan hay sao?
- Chứ làm thế nào?
Bà Lý nguýt:
- Rồi không có gì sửa mâm cơm cúng hôm mùng một, để ngoài người ta
nói cho ấy à?
(...)
Bà Lý chợt nghĩ được một điều, ôn tồn nói:
- Thầy mày cứ gánh thúng khoai này lên huyện mà tết quan. Khoai mà
không có tiền à. Gặp lúc đói kém, nó lại không quý hơn vàng ấy à?
Thấy vợ dịu, ông Lý mỉm cười:
- Thì tôi cũng đã nghĩ như thế, món khoai này cũng trị giá đến đồng
bạc. Nhưng một khoai thôi vẫn chưa đủ lệ, phải có thêm đồng nữa, ông ấy mới
nhận cho.
Bà Lý xung tiết:
- Ăn gì mà ăn lắm thế."
78
Đoạn đối thoại của vợ chồng ông Lý đã vạch trần cái bản chất tham lam, bóc
lột đến tàn ác của quan huyện, với cách đó nhà văn đã làm cho bản chất của nhân vật
trào phúng (quan huyện) hiện lên rất đỗi chân thực, khách quan; không phải là do nhà
văn ác cảm, căm ghét viên quan huyện đó nên nói xấu mà đây chính là lời nhận xét,
cảm nghĩ của người dân, cụ thể là của chính tay sai của quan. Đồng thời qua đoạn đối
thoại ấy người đọc cũng cảm nhận được sự khốn khổ, khốn nạn khi phải chạy tiền tết
cho quan trên của vợ chồng ông Lý. Đó cũng chính là tình cảnh chung của những
"quan nhỏ" trong xã hội lúc bấy giờ.
Không chỉ được bộc lộ gián tiếp qua lời đối thoại giữa hai vợ chồng ông Lý
mà bản chất tham lam, ăn cướp một cách trắng trợn, không mảy may ngượng ngùng
ấy còn được bộc lộ trực tiếp qua lời nói, giọng nói của chính tên quan Huyện.
Hay đoạn đối thoại của Nguyệt với những nhân tình (Oẳn tà rroằn) đã vạch
trần bản chất lẳng lơ , trăng hoa, diễn trò trâm anh, nghi lễ của cô.
Trên đây chỉ là một vài ví dụ nhỏ chứng minh cho việc ngôn ngữ đối thoại là
một trong những nét đặc sắc làm nên phong cách nghệ thuật của Nguyễn Công Hoan.
3.2.3. Lối kể chuyện, dẫn truyện
3.2.3.1. Lối kể chuyện li kì, hấp dẫn, đánh lạc hướng người đọc
Nguyễn Công Hoan là người luôn luôn trăn trở trong cách viết của mình. Vấn
đề làm thế nào để truyền tải hết nội dung, tư tưởng mà mình muốn thể hiện cũng như
làm thế nào để gây được ấn tượng mạnh đối với người đọc luôn được ông đặt ra. Để
dẫn truyện một cách tự nhiên và gây được hứng thú bất ngờ, Nguyễn Công Hoan
thường dùng thủ thuật đánh lạc hướng người đọc. Chỉ bằng khả năng sử dụng ngôn
ngữ tài tình, một chi tiết lập lờ, gài bẫy, khiến người đọc mắc lừa, tưởng mọi chuyện
như thế này nhưng hóa ra lại như thế khác.
Nhà văn sáng tạo ra một loại nhân vật - loại nhân vật "tôi" có vẻ ngu ngơ, ngờ
nghệch, thật thà (Lại chuyện con mèo, Nỗi lòng ai tỏ, Xuất giá tòng phu, Samandji,
Cái lò gạch bí mật, Oẳn tà rroằn...). Loại nhân vật "tôi" này là loại nhân vật đóng vai
người trong cuộc trực tiếp tham gia vào biến cố của câu chuyện hay trực tiếp chứng
kiến câu chuyện. Chính sự ngu ngơ, ngờ nghệch của nhân vật "tôi" này mà người đọc
cũng bị ngu ngơ, ngờ nghệch theo. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã đưa ra một nhận
79
xét rất xác đáng trong "Nhà văn tư tưởng và phong cách": "Một trong những thủ
pháp hóm hỉnh nhất của nhà văn (tức Nguyễn Công Hoan - TVH) là dùng những chi
tiết đánh lạc hướng độc giả khỏi cái đích thực sự của câu chuyện. Người đọc càng bị
lạc đi xa bao nhiêu thì khi kết thúc, càng bị bất ngờ bấy nhiêu. Đây là chỗ mà nhà
trào phúng có thể nghĩ ra đủ thứ cạm bẫy "thú vị". Cũng là thủ thuật đánh lạc hướng,
nhưng ở nhiều trường hợp, tác giả lại dùng một loại nhân vật đóng vai người trong
cuộc hay người chứng kiến. Nhân vật này bộ dạng thường thật thà, ngớ ngẩn, kỳ thực
mang tất cả cái hóm hỉnh, ranh mãnh của nhà văn." [49].
Trong chuyện "Nỗi lòng ai tỏ", nhân vật ngờ nghệch là bà mẹ. Nhân vật này
ngờ nghệch trước nguyên nhân nỗi buồn của Tuyết - cô con gái yêu. Trước nỗi buồn
không hiểu tại sao của cô con gái yêu, bà đã đưa ra những phán đoán ngờ nghệch, nào
là do cô muốn may một bộ quần áo, nào là do cô bị người ta nói xấu, hay do cô nghe
thấy ai nói người yêu cô có nhân tình nhân ngãi... rất nhiều phán đoán đã được bà mẹ
đưa ra, gần như tất cả đều dính dáng đến cuộc hôn nhân của cô vì bà cho rằng đó là
chuyện quan trọng nhất. Chính những phán đoán ngờ nghệch và thái độ lo lắng,
hoảng hốt, bần thần của bà đã làm cho người đọc cũng bị ngờ nghệch đi theo những
phán đoán ấy. Để rồi khi nguyên nhân nỗi buồn của Tuyết lộ ra thì người đọc không
khỏi bất ngờ, tiếng cười cũng không thể không bật ra.
Nhân vật ngờ nghệch trong "Cái lò gạch bí mật" là "tôi", "tôi" ngờ nghệch,
ngu ngơ, không hiểu gì cứ đi theo từng chặng đường ngăn cản một vụ ám sát của
Trinh như một cái máy vô điều kiện. Trải qua từng sự việc, "tôi" cũng có lúc nghi
ngờ, cảm thấy khó hiểu nhưng sau đó lại tin những lời bạn nói; "tôi" vừa lo lắng, sợ
hãi vừa hồi hộp, tò mò. Chính sự phức tạp trong tâm trạng và sự rối bời trong suy
nghĩ của "tôi" đã ảnh hưởng đến người đọc, người đọc cũng như "tôi" cứ "ngu ngốc"
theo dõi từng diễn biến của câu chuyện cho tới khi bắt được tang vật thì người đọc
được một trận cười hả hê, mọi sự rắc rối trong tâm trạng đã được giải quyết. Hóa ra,
mọi chuyện đâu có phức tạp, nguy hiểm như Trinh nghĩ, tất cả chỉ do anh tưởng
tượng mà thôi.
Thông qua các nhân vật có vẻ ngờ nghệch, ngu ngốc ấy, người đọc có thể nhận
ra khá rõ sự thông minh, hóm hỉnh, tinh quái của Nguyễn Công Hoan.
80
3.2.3.2. Trữ tình ngoại đề
Trữ tình ngoại đề trong tiếng Pháp: digression lyrique, là "một trong những
yếu tố ngoài cốt truyện; một bộ phận của ngôn ngữ người kể chuyện trong các tác
phẩm thuộc loại hình tự sự, trong đó tác giả hoặc người kể chuyện trực tiếp bộc lộ
những tư tưởng, tình cảm, quan niệm của mình đối với cuộc sống và nhân vật được
trình bày qua cốt truyện" [21, tr.375].
Trữ tình ngoại đề có thể là lời mở đầu tác phẩm cũng có thể là lời gói ở cuối
tác phẩm. Theo các tác giả của cuốn "Từ điển thuật ngữ văn học" thì: "Trữ tình ngoại
đề là phương tiện quan trọng giúp tác giả soi sáng thêm nội dung tư tưởng của tác
phẩm; bộc lộ đầy đủ, tập trung hơn thái độ, sự đánh giá của mình đối với nhân vật
cũng như quan niệm nhân sinh của mình..." và đối với các truyện ngắn, tiểu thuyết
hiện đại "trữ tình ngoại đề là một yếu tố thường gặp và quan trọng" [tr.375].
Là một nhà văn hiện đại, Nguyễn Công Hoan cũng coi trữ tình ngoại đề là một
phương tiện quan trọng. Trần Văn Hiếu trong "Chất trí tuệ của tiếng cười và óc châm
chọc tinh quái của Nguyễn Công Hoan" đã viết: "Nguyễn Công Hoan được xem như
cái cầu nối giữa truyện truyền thống thuyết lý đạo đức (tiêu biểu là truyện của Phạm
Duy Tốn, Nguyễn Bá Học) với truyện hiện đại (thời kỳ 1930 - 1945)" [59, tr.224].
Trong nhiều truyện, Nguyễn Công Hoan thường đứng ra trực tiếp thuyết giảng về đạo
đức, ông chú trọng cốt truyện hơn là nhân vật, tính cách; bản chất nhân vật được bộc
lộ chủ yếu qua hành động, lời nói chứ không phải qua diễn biến tâm lí - đó là đặc
trưng của truyện ngắn truyền thống. Tuy nhiên, ở truyện ngắn của ông cũng đã xuất
hiện yếu tố mới mẻ, hấp dẫn, thể hiện sự cách tân của nghệ thuật trần thuật hiện đại
đó chính là lời trữ tình ngoại đề.
Vì là một yếu tố quan trọng cho nên nó được tất cả các nhà văn hiện đại sử
dụng. Tuy nhiên có lẽ chỉ trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, trữ tình ngoại đề
mới đạt hiệu quả thành công đến như vậy. Khác với Nhất Linh, Nguyễn Tuân... cũng
như các tác giả cùng thời khác, ông không dùng trữ tình ngoại đề để thuyết minh,
biện luận nhằm mở rộng tư tưởng của tác giả. Những lời trữ tình ngoại đề trong sáng
tác của ông thường ngắn gọn nhưng rất độc đáo, sắc sảo, được đưa vào tác phẩm một
cách điểm xuyết, thích hợp với từng trường hợp: khi thì ở đầu tác phẩm, khi thì ở
81
giữa, lại có khi ở cuối tác phẩm. Do đó, nó đã đem lại một hiểu quả trào phúng cao.
Chúng thường là những lời nói suồng sã, vui đùa thoải mái nhưng đầy thông minh,
tinh quái, hóm hỉnh. Đây chính là một nét độc đáo trong phong cách trào phúng của
Nguyễn Công Hoan.
Chẳng hạn như mở đầu truyện ngắn "Đồng hào có ma", Nguyễn Công Hoan
viết: "Tôi cực kì công kích sách vệ sinh đã dạy ta ăn uống phải sạch sẽ, nếu ta muốn
được khỏe mạnh, béo tốt. Thuyết ấy sai. Trăm lần sai! Nghìn lần sai! Vì tôi thấy sự
thực, ở đời này, bao nhiêu những anh béo, khỏe, đều là những anh thích ăn bẩn cả"
[34, tr.406]. Cách nói đầy dí dỏm hài hước, tỏ vẻ như hồn nhiên, khách quan nhưng
đầy hiểm hóc, phũ phàng đã vạch trần bản chất, tính cách của tên tri huyện.
Hay mở đầu truyện "Cái lò gạch bí mật" nhà văn viết:
"- Vô phép các ngài!
Xưa nay, chỉ có khi người ta ăn cơm, mới phải "vô phép" nhau. Nhưng
tôi đây, vừa mới bắt đầu viết truyện này, tôi đã phải "vô phép" các ngài ngay,
là vì truyện tuy ly kỳ không kém gì các truyện trinh thám đại bí mật xẩy ra ở
đất An Nam - từ khi có một vài ông văn sĩ được trông thấy hẳn hoi - nhưng
khốn thay, tác giả truyện Cái lò gạch bí mật này lại chẳng là nhà viết tiểu
thuyết trinh thám chính ngạch!
Vậy thì trong khi kể chuyện có điều gì sơ suất, xin các cụ, các quan, các
ông (nhất là các ông viết tiểu thuyết trinh thám chuyên môn), các bà, bỏ quá đi
cho, tôi được đội ơn vạn bội." [34, tr.309].
Với đoạn trữ tình ngoại đề này, nhà văn đã đánh đòn phủ đầu đối với người
đọc, nhất là những người viết tiểu thuyết trinh thám chuyên môn. Vì đã làm công tác
xin phép được lượng thứ trước khi bắt đầu viết truyện nên dù có biết là nhà văn đang
phê phán lối bắt chước, lối tư duy, suy nghĩ hoang tưởng của một số người trong xã
hội cũng không thể trách cứ được gì. Đó chính là chất trí tuệ, sự tinh quái của Nguyễn
Công Hoan.
Trong một số truyện khác như: "Chính sách thân dân", "Một tấm gương
sáng", "Thịt người chết",... cũng có trữ tình ngoại đề. Trữ tình ngoại đề trong những
82
truyện này cũng bộc lộ rất rõ thái độ cũng như sự đánh giá của nhà văn đối với nhân
vật trào phúng.
3.2.4. Sử dụng đậm đặc các thủ pháp nghệ thuật
Khi tiến hành phê phán, lên án bọn thực dân, phong kiến; phơi bày nỗi cực khổ
của nhân dân; phê phán những thói hư tật xấu của nhiều hạng người trong xã hội,
Nguyễn Công Hoan đã sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật. Việc đó đã đem lại hiệu
quả nghệ thuật cao, nó đã góp phần làm cho người đọc thu nhận được những hình ảnh
thực, đầy sức sống.
3.2.4.1. Phóng đại
Trong sáng tác của mình, Nguyễn Công Hoan thường phản ánh những mâu
thuẫn trào phúng của các sự vật, hiện tượng, nhân vật. Để đạt được điều đó, nhà
văn thường dùng biện pháp phóng đại. Đối với văn trào phúng nói chung thì
phóng đại vốn được coi là một đặc điểm không thể thiếu của sự hư cấu nghệ
thuật. Lênin khi nhận xét về nghệ thuật trào phúng đã nói: thủ pháp phóng đại có
tác dụng thể hiện "một thái độ nào đó châm biếm hoặc hoài nghi những cái được
thừa nhận, có khuynh hướng lật mặt trái, hơi xuyên tạc đi một tí, chỉ ra cái
không hợp lý trong cái bình thường".
Hàng loạt các truyện ngắn như: Kép Tư Bền, Ngựa người người ngựa, Cụ
Chánh Bá mất giày, Lập gioòng, Thật là phúc, Hai thằng khốn nạn, Báo hiếu:
trả nghĩa cha, Đàn bà là giống yếu... đều có sự hiện diện của thủ pháp này. Thủ
pháp phóng đại đã làm cho mâu thuẫn và chất trào phúng của truyện ngày càng
đậm đà hơn.
Chẳng hạn như trong truyện "Báo hiếu: trả nghĩa cha", ông chủ hãng xe con
cọp đã làm cỗ giỗ bố linh đình nhằm lấy tiếng, phô trương với thiên hạ rằng mình là
người con có hiếu. Nhưng ông ấy có thật sự có hiếu? Thưa rằng không, ông ấy không
những không có hiếu mà còn là một kẻ vô cùng bất hiếu. Người đọc có thể nhận thấy
rõ được bản chất của hắn thông qua thái độ của hắn với bà lão - mẹ ruột của hắn. Có
thể chuyện đó không hoàn toàn có thật, sự bất hiếu của tên nhà giàu không đến mức
đấy nhưng vì truyện vẫn có lí của sự thật nên vẫn có sức thuyết phục. Mục đích của
83
Nguyễn Công Hoan khi sử dụng thủ pháp phóng đại trong truyện này chỉ là nhà văn
muốn vạch trần cái bản chất đạo đức giả của những kẻ giàu có trong xã hội lúc bấy giờ.
Hay thủ pháp phóng đại đã gây cho người đọc một ấn tượng xấu về những
quan ông, quan bà trong truyện ngắn "Đàn bà là giống yếu": "Quan ông vừa nói tiếp
vừa lả lơi cười, rồi ôm chầm lấy quan bà: một con nhái bén bám vào một quả dưa
chuột!" [34, tr.193]. Quan bà thì hiện lên với những nét rất "long trọng", những nét
ấy đã nói lên cái bụng dạ của mụ: "Người ta tưởng chiếc bánh giày đám cưới, ở giữa
đặt một quả chuối ngự, và ngay đầu quả chuối nằm dài hai múi cà chua. Rồi khi hai
múi cà chua tách ra để theo nhịp với cặp mắt híp, đưa quan ông vào chốn nát bàn, thì
ai cũng phải thấy một cái hố sâu thăm thẳm, sâu như bụng dạ một người đàn bà"
[tr.191]. Ngoại hình của quan ông cũng được tác giả cường điệu, phóng đại nhằm thể
hiện nội tâm, tính cách của nhân vật: "Quan ông lại có cái hình thể khác hẳn, vì ở
người ngài cái gì cũng cong, từ cái sống mũi đến cái lương tâm, từ cái lưng đến cách
xử kiện" [tr.192-193].
Phần lớn thủ pháp phóng đại được sử dụng trong các truyện ngắn đều đạt được
giá trị nghệ thuật cao, nó giúp cho nhà văn thể hiện chân thực vấn đề. Tuy nhiên,
trong một vài trường hợp (Báo hiếu: trả nghĩa mẹ, Thằng Quýt I, Thằng Quýt II) nhà
văn đã sử dụng thủ pháp này quá đà làm cho câu chuyện mất đi vẻ chân thực.
3.2.4.2. Lối giễu nhại - mô phỏng
Để làm tăng hiệu quả phản ánh, trong các sáng tác của mình, Nguyễn Công
Hoan cũng sử dụng thủ pháp giễu nhại - mô phỏng. Nhà văn thường giễu nhại - mô
phỏng lời nói, giọng điệu của một nhân vật hay một phong cách ngôn ngữ của một
tầng lớp người nào đấy. Bằng cách đó, nhà văn đã biến những gì tưởng chừng như
trang nghiêm trở thành trò cười của mọi người.
Thủ pháp này không được nhà văn sử dụng đơn lẻ mà thường được kết hợp
với thủ pháp cường điệu, phóng đại nhằm tô đậm bản chất giả dối, lố bịch của đối
tượng trào phúng, qua đó tiếng cười bật ra tự nhiên. Trong dòng văn trào phúng lúc
bấy giờ, không phải chỉ có một mình Nguyễn Công Hoan sử dụng thủ pháp này mà
các tác giả khác cũng có sử dụng. Tuy nhiên, mỗi nhà văn do có sở trường và tài nghệ
riêng nên cũng có cách sử dụng khác nhau đối với thủ pháp này. Ở đây, chúng tôi xin
84
đối sách cách thức sử dụng thủ pháp giễu nhại - mô phỏng giữa Nguyễn Công Hoan
với Vũ Trọng Phụng - cũng là một cây bút trào phúng xuất sắc, nhà văn được mệnh
danh là ông vua phóng sự Bắc Kỳ. Cụ thể, chúng tôi lấy tác phẩm "Số Đỏ" của Vũ
Trọng Phụng làm đối tượng để so sánh. Ở "Số đỏ", Vũ Trọng Phụng đã giễu nhại ở
tầm vĩ mô, nghĩa là đối tượng giễu nhại là cả xã hội - một xã hội chó đểu, một xã hội
vô nghĩa lý. Còn thủ pháp giễu nhại trong các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan lại
được dùng ở tầm vi mô. Nhà văn không giễu nhại cả xã hội mà chỉ giễu nhại lại
phong cách ngôn ngữ của một loại nhân vật hay một phong cách ngôn ngữ nào đấy.
Nói như vậy không có nghĩa là lối giễu nhại của Nguyễn Công Hoan không có
chiều sâu, không sát sao được nhiều vấn đề. Ngược lại, lối giễu nhại của ông lại rất
phong phú, đa dạng: giễu nhại ngôn ngữ quan lại (Gánh khoai lang), giễu nhại ngôn
ngữ trí thức Tây học (Cái ví ấy của ai), giễu nhại ngôn ngữ hát tuồng (Đào kép mới),
giễu nhại ngôn ngữ lính tráng (Thật là phúc), giễu nhại ngôn ngữ thầy đồ (Thầy cáu),
giễu nhại ngôn ngữ hối lộ (Tinh thần thể dục)... Không chỉ giễu nhại ngôn ngữ của
một loại người mà Nguyễn Công Hoan còn giễu nhại lại cả một phong cách ngôn ngữ
như: giễu nhại phong cách ngôn ngữ hành chính (Tinh thần thể dục, Đi giầy, Chính
sách thân dân), giễu nhại ngôn ngữ văn trinh thám (Cái lò gạch cũ), giễu nhại lối văn
cáo phó (Báo hiếu: trả nghĩa mẹ), giễu nhại ngôn ngữ văn chương lãng mạn (Thế là
mợ nó đi Tây), giễu nhại văn báo chí - công luận (Thằng Quýt, Ông chủ báo chẳng
bằng lòng, Một tấm gương sáng)...
Trong truyện ngắn "Tinh thần thể dục", Nguyễn Công Hoan đã giễu nhại lại
phong cách ngôn ngữ hành chính. Văn bản hành chính dùng để ban hành một chính
sách hay một quyết định nào đó. Ngôn ngữ được sử dụng trong đó phải chính xác,
trang trọng, không được dùng những từ ngữ bộc lộ tình cảm, cảm xúc, sự đánh giá
mang tính chất cá nhân của người viết. So sánh với văn bản của tên tri huyện Lê
Thăng viết trong "Tinh thần thể dục", chúng ta thấy rõ một điều là văn bản ấy không
hề đáp ứng đúng cấu trúc cần đạt được của một văn bản hành chính, hành văn lộn
xộn, không theo trình tự. Ngôn ngữ được dùng trong đó cũng không hề trang nghiêm,
vẫn có những từ ngữ thể hiện tình cảm, sự đánh giá cá nhân như: "nhiều chiến tướng
đá rất hay, mọi nhẽ" [tr.454]. Đọc tờ sức ấy, người đọc có thể nhận ra rằng tên Lê
85
Thăng là một kẻ dốt nát chứ chẳng hề giỏi giang gì, mang tiếng là tri huyện mà ngay
cả một tờ sức cũng không biết phải viết thế nào cho đúng. Thay vào sự nghiêm túc,
trang trọng là tiếng cười, là sự mỉa mai.
Ngoài ra, Nguyễn Công Hoan còn giễu nhại lại một cách nghĩ, một cách nhìn
của một lớp người trong xã hội (Thầy cáu).
3.2.4.3. So sánh ví von, chơi chữ, dùng từ hai nghĩa
Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã từng đưa ra nhận xét khi nói về truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan: "Những truyện ngắn của ông tiêu biểu cho một thứ văn rất vui,
thứ văn mà có lẽ từ ngày nước Việt Nam có tiểu thuyết viết theo lối mới người ta chỉ
thấy ở ngòi bút ông thôi" [53]. Để có được "thứ văn rất vui" ấy, Nguyễn Công Hoan
đã cần đến "sự hỗ trợ" của nhiều thủ pháp nghệ thuật, trong đó có chơi chữ, dùng từ
hai nghĩa, so sánh ví von, liên tưởng. Thủ pháp chơi chữ, dùng từ hai nghĩa được sử
dụng trong các tác phẩm như: "Cụ Chánh Bá mất giày", "Thế là mợ nó đi Tây",
"Thích ăn bẩn", "Xuất giá tòng phu", "Hai thằng khốn nạn"...
Ngay ở nhan đề tác phẩm "Cụ Chánh Bá mất giày", Nguyễn Công Hoan đã sử
dụng lối chơi chữ, dùng từ hai nghĩa, điều đó đã tạo ra một sự "hiểu nhầm" ở người
đọc. Khi đọc nhan đề tác phẩm người đọc sẽ nghĩ cụ Chánh Bá mất giày thật đồng
thời gợi lên một sự thắc mắc, tò mò cho người đọc, rất nhiều câu hỏi được đặt ra như:
tại sao cụ Chánh Bá lại mất giày? Kẻ nào to gan dám lấy cắp cả giày của một người
có địa vị cao như cụ Chánh Bá?... Để rồi sau khi đọc xong tác phẩm, người đọc mới
vỡ lẽ ra rằng: cụ Chánh Bá đâu có mất giày, đúng là chẳng có kẻ nào dám to gan lấy
giày của cụ cả (khi mà cụ chưa cho phép). Thông qua đó, bản chất của nhân vật được
bộc lộ bất ngờ - đó là một kẻ keo kiệt, ăn vạ người làm một cách vô lý, miu mô, tham
lam, sẵn sàng vơ vét khi có cơ hội.
Từ hai nghĩa cũng được sử dụng trong lời của anh đầy tớ khi miêu tả lại chiếc
giày của chủ: "Mới nguyên, kiểu Gia Định, đế cờ - lếp, mua những ngót ba đồng". Sự
thật thì giày của cụ Chánh Bá đâu có tốt, có mới đến như vậy. Thậm chí nó còn xấu,
còn cũ đến mức mà theo tác giả là không có chữ nào có thể diễn tả được nữa, đến nỗi
mà "bọn thợ khâu giày phải trốn như trạch". Nhà văn đã sử dụng một lối so sánh bất
ngờ, thú vị: lấy "trạch" - một loại cá không có vẩy, rất trơn, đặc biệt là có khả năng
86
lẩn trốn rất nhanh để ví với những người thợ khâu giày. Chỉ với cách so sánh này thôi
tác giả cũng đã làm bật lên được cái "thực trạng" đôi giày của cụ Chánh Bá. Một so
sánh nữa cũng được nhà văn sử dụng khi nói về bản chất, tính cách của cụ Chánh Bá:
"Xưa nay cụ dữ như con hùm, khét tiếng trong hàng tổng là quyền hành, hách dịch,
thét ra lửa" [tr.143].
Chơi chữ trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan được dùng với nhiều kiểu
khác nhau: có khi ông đặt nghĩa đen, nghĩa bóng lấp lửng bên nhau (Bộ ấm chén cổ),
có khi bông đùa nhẹ nhàng (Samandji, Truyện Trạng Quỳnh...); đặc biệt nhà văn
thường hay chơi chữ, dùng từ hai nghĩa ở hầu hết các nhan đề của truyện nhằm tạo ra
sự tò mò, thắc mắc, thu hút người đọc (Ngựa người người ngựa, Ngượng mồm, Thế là
mợ nó đi Tây, Cô Kếu - gái tân thời, Tinh thần thể dục, Xuất giá tòng phu...).
So sánh trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan thường rất bất ngờ và thú
vị: cái áo của cô Kếu vẽ hoa "rắc rối như thời cục nước Tàu", cái ngực của chị vợ
anh lính da đen Samandji thì "đầy như cái ví của nhà tư sản, chứ không như cái óc
của ông Nghị ngay cả trước ngày họp hội đồng", những người dân ở xã Ngũ Vọng
trốn đi xem đá bóng "như lánh nạn"... Những so sánh này tạo ấn tượng sâu đậm về
ngoại hình nhân vật hay làm nổi bật mâu thuẫn trào phúng, bản chất trào phúng của
đối tượng trào phúng.
3.2.4.4. Phép nghịch nghĩa
Trong truyện ngắn nói riêng và trong các sáng tác khác nói chung, phép nghịch
nghĩa cũng được coi như một thủ pháp tạo dựng cái hài, làm cho tiếng cười bật ra.
Nguyễn Công Hoan đã đem những từ Hán Việt có sắc thái trang trọng đặt cạnh những
từ Thuần Việt có sắc thái thông tục.
"Thì lúc ấy, trên bờ đầm, quan Huyện tư pháp là một, cụ Lục sự là hai, cậu
lính lệ là ba, cùng trịnh trọng làm việc, trịnh trọng khạc nhổ." (Thịt người chết).
"trịnh trọng" (từ Hán Việt) với "khạc nhổ" (từ Thuần Việt) là hai từ không hợp
nhau về nghĩa lại được đặt cạnh nhau đã nêu bật được cái cách làm việc chẳng có gì
là nghiêm túc, trách nhiệm của tên quan Huyện tư pháp. Cái sắc thái thông tục, có
phần gợi lên sự bẩn thỉu của từ "khạc nhổ" đã làm mất đi hoàn toàn cái sắc thái nghĩa
trạng trọng, nghiêm túc của từ "trịnh trọng".
87
Hay trong "Thầy cáu": "Lại còn lắm đứa sợ thầy đánh, hoặc nó vô ý không biết, cứ
đưa cả vào lớp cho thầy và bạn hưởng chung cái tác phẩm của nhà soạn giả ẩn danh"
[tr.211]. Cái "tác phẩm" ấy chính là "mùi thối của phân" còn "nhà soạn giả ẩn danh" ấy
chính là những con chó. Ở đây, nhà văn đã không dùng cách nói thông tục để nói toẹt ra
mà dùng toàn những từ Hán Việt rất trang trọng để nói về cái thông tục. Chính điều đó đã
tạo ra chất hài hước mang đậm phong cách Nguyễn Công Hoan.
Ở các tác phẩm khác như: "Chính sách thân dân", "Bữa no... đòn"... cũng có
sự xuất hiện của phép nghịch nghĩa. Trong các sáng tác của các nhà văn khác, từ Hán
Việt thường được dùng để diễn tả không khí hay thái độ trang trọng, nghiêm túc, thể
hiện sự tôn trọng của người viết đối với sự việc, đối tượng được nói đến. Nhưng trong
các sáng tác của Nguyễn Công Hoan chúng tôi thấy có điều ngượi lại: hầu như các từ
Hán Việt được dùng không nhằm mục đích gợi sự trang trọng mà chủ yếu lại được
dùng để tạo ra sự hài hước. Bản thân những từ Hán Việt mang sắc thái trang trọng
nhưng lại được dùng để chỉ những việc không có gì là trang trọng. Qua cách sử dụng
từ ngữ ấy đã hé lộ thái độ mỉa mai, coi thường của nhà văn.
3.3. Những yếu tố tạo nên phong cách Nguyễn Công Hoan
3.3.1. Tài năng của bản thân
Nguyễn Công Hoan là nhà văn có năng khiếu khôi hài dường như là bẩm sinh.
Ngay từ hồi còn rất nhỏ, ông đã có tài bắt chước Mô-li-e làm hài kịch. Ban đầu,
những hài kịch của ông mới chỉ là những màn ngắn chủ yếu để trưng ra chế giễu ông
thầy bói, thầy cúng phỏng theo truyện tiếu lâm.
Điểm đặc biệt là Nguyễn Công Hoan là người làm hài kịch nhưng ông cũng
chính là diễn viên trong những vở kịch của mình. Ông luôn luôn đảm nhiệm những
vai chính còn những vai phụ được giao cho những anh em trong nhà - những người
sàn sàn bằng tuổi ông. Nguyễn Công Hoan làm diễn viên hài kịch cũng tài năng như
ông viết văn vậy: "Vì tôi pha trò có duyên, lại học được nhiều điệu bộ của Năm Tồn,
Hai Giò là những kép diễu ở rạp Quảng Lạc Hà Nội, nên buổi diễn thu hút được
nhiều khán giả dần." [31, tr.66], ông diễn đạt đến mức "lần nào vai tôi ra, chưa mở
miệng nói gì, họ đã cười rầm rĩ" [tr.67]. Chỉ qua biểu hiện của người xem cũng đủ
biết ông có tài diễn hài như thế nào rồi. Mới đầu, khán giả của ông chỉ là anh em và
88
những người giúp việc trong nhà; dần dần tiếng cười vang xa, người nọ đồn người kia
thì những người hàng xóm, thậm chí là cả những người lính ở những trại lệ, trại cơ
cũng rủ nhau đến xem ông làm trò. Chính sự thích thú, hào hứng của người xem đã
kích thích ông có động lực để sáng tạo thêm các hài kịch.
Nhà văn cũng thừa nhận rằng: "Hài kịch của tôi trước hết chỉ có mục đích làm
cho mọi người cười sặc sụa, chứ không có ý nghĩa gì." [31, tr.66]. Nhưng sau đó do
tối nào ông cũng diễn, tối nào người xem cũng kéo đến xem, hơn nữa lại ngày một
đông nên ông sợ nếu cứ chỉ có mỗi mấy trò đó thôi thì mọi người sẽ thấy nhàm chán.
Cuối cùng, ông nghĩ ra cách không phải đi tìm đề tài gì ở đâu xa xôi mà ông lấy chính
những thói hư tật xấu của những người xung quanh ông để làm đề tài cho những vở
kịch của mình. Và buổi diễn đó sẽ càng náo nhiệt, sân khấu sẽ càng được ông trang
hoàng rực rỡ, cẩn thận nếu như hôm đó bác của ông đi vắng.
Những thói xấu của những người trong gia đình rồi cả những người ngoài gia
đình cũng đã được ông khai thác triệt để. Viết và diễn thường xuyên như vậy cho nên
có những lúc Nguyễn Công Hoan cũng bị bí đề tài. Nhưng vấn đề này không "gây
hại" nhiều vì sau đó có rất nhiều người đã đến cung cấp đề tài cho ông. Có lẽ một
phần là vì họ muốn tiếp tục được xem ông pha trò, một phần là vì họ muốn những
thói hư tật xấu của những kẻ xấu trong xã hội bị vạch trần ra, bị chế giễu, phê phán.
Những chuyện như: ông thừa phái ăn tiền, anh lính bóp vú gái... đều được ông đưa
lên sân khấu. Mỗi màn kịch của ông chỉ là một cảnh mà thôi.
Nguyễn Công Hoan say sưa, cao hứng diễn kịch đến mức một lần bác của ông
có ở nhà mà ông cũng dám lấy trộm mũ áo đại triều của bác ra mặc để diễn kịch (mặc
dù ở trong nhà, bác là người ông luôn luôn thấy sợ nhất). Trong màn kịch này, đề tài
của ông đã đi rất xa, nhân vật chính không còn là những người dân thường hay những
viên quan nhỏ bé nữa mà là vua. Chúng tôi thiết nghĩ ngay cả vua mà Nguyễn Công
Hoan còn dám lấy để làm trò nữa thì còn loại người nào ông bỏ sót?
Thậm chí ngay cả việc nghiêm túc là đi làm giấy khai sinh ông cũng không bỏ
qua. Ông kể: "Muốn ngày sinh tháng đẻ của tôi có ý nghĩa dối trá, tôi đã lấy ngày 1
tháng 4, là ngày mà phong tục nước Pháp cho phép cả nước được nói lừa để đùa
nhau. Tôi khai đẻ năm 1905, lậu 2 tuổi" [31, tr.51].
89
3.3.2. Môi trƣờng gia đình, xã hội
Nguyễn Công Hoan sinh ra trong một gia đình quan lại sa sút, cha là Nguyễn
Đạo Khang, đỗ tú tài khoa Canh Tý, làm chức Huấn đạo. Bác ruột là Nguyễn Đạo
Quán, đỗ phó bảng khoa Mậu Tuất, do đỗ to nên được bổ ngay chức tri huyện sau đó
được thăng lên tri phủ. Ảnh hưởng to lớn của gia đình đã được ông chia sẻ rất đỗi
chân thực trong hồi kí "Đời viết văn của tôi": "Những năm tôi còn bé, tôi chưa hiểu
biết gì nhưng đã chịu ảnh hưởng ngay về văn học" [tr.9]. Nói cụ thể hơn thì nhà văn
đã chịu ảnh hưởng từ người bà, người cha và người bác ruột.
Cha Nguyễn Công Hoan là người sống gần gũi với con cháu. Vào mỗi buổi
tối, ông lại ngồi kể chuyện cho anh em Nguyễn Công Hoan nghe, không chỉ vậy kể
xong ông còn giảng để con cháu hiểu được một điều là người nghèo thì phải chăm
học và hà tiện. Anh em Nguyễn Công Hoan lần lượt được nghe hết từ truyện "Tam
quốc" đến những chuyện thời thượng ở Việt Nam như chuyện ông Đề Thám thắng
Pháp như thế nào? Lời kêu gọi của Phan Bội Châu, chuyện những văn thơ của Đông
Kinh nghĩa thục đã làm thức tỉnh đồng bào ta, rồi cả những tư tưởng về văn hóa mới
của các sĩ phu yêu nước đầu thế kỉ, chuyện về quan ta và quan Tây cũng được nhắc
đến. Và do "Cha tôi kể bằng cả một nhiệt tình có lập trường của một người lỗi thời,
bị lép vế, muốn trút hết nỗi hằn học đối với thời cục" nên "Chúng tôi nghe những
chuyện ấy, hàng ngày, hàng ngày, như được khắc vào thói quen một nếp thích biết
chuyện quan trường, thích biết chuyện quanh công đường và trong tư thất". Đồng
thời, những chuyện đó đã giáo dục cho Nguyễn Công Hoan "một lập trường biết chia
ranh giới giữa cái gì là cái đáng trọng với cái gì là cái đáng khinh, giữa ai đáng
thương với ai đáng ghét." [31, tr.17-18].
Năm lên bốn tuổi, Nguyễn Công Hoan đã rời gia đình đến ở nhà bác ruột. Tại
đây, nhà văn đã chịu ảnh hưởng của hai người là người bà và bác ruột là ông Nguyễn
Đạo Quán. Bà nội nhà văn thuộc dòng dõi nhà nho, thuộc rất nhiều sách vở, thơ phú;
từ những tác phẩm nổi tiếng của Việt Nam như Truyện Kiều, Nhị độ mai... đến những
sách của Trung Quốc như Luận ngữ, Mạnh Tử, thơ Đường, thơ Thiên Thai... bà đều
thuộc và hiểu rất rõ. Mỗi tối trước khi đi ngủ, bà thường ngâm nga và dạy truyền
khẩu cho anh em Nguyễn Công Hoan nghe cả thơ lẫn thuổng. Chính điều đó mà niêm
90
luật của thơ, nhạc điệu của ngôn ngữ được luyện vào tai nhà văn, nhuyễn vào óc nhà
văn từ hồi còn rất bé.
Bác của Nguyễn Công Hoan làm quan nhưng là người rất chú ý săn sóc đến
việc học hành của con cháu. Đặc biệt là người rất thích sưu tầm phương ngôn, tục
ngữ, ca dao, ngụ ngôn; ông còn soạn sách dạy chữ Nho bằng đề tài Việt Nam cho con
cháu. Trong lớp học gia đình, Nguyễn Đạo Quán thường đặt ra giải thưởng và người
hay được khen, được thưởng ko ai khác lại chính là Nguyễn Công Hoan. Vì có tiếng
là sáng dạ, học thông nên sinh ra tự phụ, tự cao. Chính nhà văn cũng thừa nhận cái
tính khí ấy đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời ông sau này, nó đã đúc kết lòng tự hào
dân tộc trong ông, khiến ông biết thù ghét những cái gì làm tổn thương đến hào khí
dân tộc. Đặc biệt là Nguyễn Công Hoan thường xuyên được chứng kiến rất nhiều
chuyện ở chốn quan trường trong đó ông đặc biệt chú ý, quan tâm đến những ngày có
"Tây về", đến những chuyện bất thường, đen tối của tầng lớp quan lại. Từ đó mà ông
am hiểu rất rõ bản chất của những kẻ được gọi là "quan" kia. Nó giải thích vì sao mà
trong kho tàng truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, đối tượng chính mà ông vạch
trần, phê phán lại là quan lại, những kẻ có chức, có quyền, có tiền trong xã hội.
Bên cạnh môi trường gia đình, hoàn cảnh xã hội nước ta lúc bấy giờ cũng có
sự tác động không nhỏ đến Nguyễn Công Hoan. Nguyễn Công Hoan sinh ra và lớn
lên vào cái thời Thực dân Pháp đã áp đặt xong chế độ cai trị trên đất nước ta. Ở khắp
mọi nơi, bọn quan lại ra sức nhũng nhiễu, bóp nặn, tìm đủ mọi cách để "ăn cướp" của
dân; kẻ giàu thì sống phè phỡn, người nghèo thì đói khổ, chật vật với mưu kế sinh
nhai. Được đi nhiều nơi, chứng kiến nhiều cảnh "chướng tai gai mắt", ông đã sớm có
tư tưởng căm ghét những kẻ thuộc tầng lớp trên; cảm thông, thương xót cho những
người thuộc tầng lớp dưới.
3.3.3. Thế giới quan của nhà văn
Trong "Đời viết văn của tôi" Nguyễn Công Hoan từng viết: "Sống dưới chế độ
thống trị của thực dân, tôi thấy cái gì cũng là giả dối, lừa bịp, đáng khôi hài. Thế mà
thằng làm trò khôi hài là thằng thực dân, lại làm ra mặt nghiêm chỉnh. Thật là buồn
cười". Nhà văn cũng thổ lộ là trong cái xã hội đó thì ông nhìn đâu cũng thấy chỉ toàn
là những trò cười và việc gì ông cũng muốn biến thành chuyện cười; nhìn đâu cũng
91
thấy toàn những giả dối, bất công; toàn những mâu thuẫn... dường như tất cả đều
mang một chiếc mặt nạ bên ngoài cái mặt thật của mình, đặc biệt là những kẻ thuộc
tầng lớp trên: quan lại, những ông chủ, bà chủ... - những kẻ có chức, có tiền có thể
làm mưa, làm gió trong xã hội lúc bấy giờ.
Với tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, lòng khinh ghét những gì bất công,
ông không thể bỏ qua những vấn đề chướng tai gai mắt ấy. Nhà văn đã dùng ngòi bút
phê phán của mình để vạch trần, phê phán, lên án sâu cay bọn thực dân, phong kiến;
đồng thời cũng phơi bày, thương xót cho những nỗi cực khổ của những người dân lao
động nghèo. Bên cạnh đó, Nguyễn Công Hoan cũng luôn quan tâm đến những thói
hư, tật xấu của mọi hạng người trong xã hội.
Chính thế giới quan đã mài sắc thêm năng khiếu của Nguyễn Công Hoan.
Khảo sát truyện ngắn của ông, chúng tôi nhận thấy rằng phần lớn truyện ngắn của
ông thuộc loại trào phúng còn những truyện chỉ đi vào tâm tình, không có yếu tố trào
phúng chiếm số lượng rất ít. Sở dĩ như vậy là bởi vì "với thói quen, với nếp cảm, nếp
nghĩ riêng nên có những truyện của ông trong cốt truyện không có gì trào phúng
nhưng vẫn có những chi tiết hoặc lời văn, ngôn ngữ mang chất trào phúng xen vào"
[25, tr.133]. Với cái nhìn mạnh dạn đầy sức khám phá, Nguyễn Công Hoan đã không
ngần ngại chiếu thẳng ống kính của mình vào nhiều mặt, nhiều vẻ, nhiều góc độ khác
nhau của những hình tượng mà ông xây dựng, nhất là các nhân vật phản diện hiện lên
rất đỗi sinh động, chân thật, nhiều chiều.
3.3.4. Ý thức kế thừa truyền thống
Khác với tiếng cười nhẹ nhàng, hóm hỉnh không bộc lộ thái độ mỉa mai hay
phê phán trong sáng tác của Tô Hoài; khác với tiếng cười phong hóa của Tự lực văn
đoàn; khác với tiếng cười nhếch mép, cười nửa miệng, tiếng cười nuốt vào bên trong
cái vị mặn chát của Nam Cao hay tiếng cười dí dỏm, sâu sắc của Ngô Tất Tố... tiếng
cười trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan thường giòn giã, sảng khoái vỗ thẳng vào
mặt đối tượng. Tiếng cười này đã được nhà văn kế thừa từ trong truyền thống, đặc
biệt là từ văn học dân gian.
Tiếng cười Việt Nam vốn có khả năng bộc lộ rất nhiều trạng thái, tâm trạng,
cảm xúc khác nhau của con người. Tiếng cười không đơn thuần chỉ dùng để thể hiện
92
tâm trạng vui, hân hoan, sung sướng, phấn khởi mà ngay cả khi cảm thấy buồn, đau
đớn, căm giận, phẫn nộ, thương xót hay muốn chê trách một điều gì... người ta cũng
dùng tiếng cười để thể hiện. Ở những trường hợp này, tiếng cười mang một nỗi ám
ảnh sâu sắc. Thực tế này đã làm cho tiếng cười Việt Nam trở thành một nét đặc sắc,
một truyền thống, một cách để thể hiện tinh thần lạc quan trong mọi hoàn cảnh của
nhân dân ta.
Lịch sử đất nước ta đã trải qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước với biết
bao nhiêu biến cố thăng trầm của thời đại, có lúc thịnh lúc suy; có những lúc nhân
dân ta cười hả hê, hạnh phúc khi được sống trong hòa bình, trong sự tương thân
tương ái nhưng cũng có lúc phải gồng mình lên đánh giặc, phải hứng chịu biết bao
đau thương, mất mát... khi đó tiếng cười cũng bật ra nhưng đó là tiếng cười đau
thương, cay đắng, chua chát. Qua khảo sát, chúng tôi thấy tiếng cười bật lên trong
phần lớn sáng tác của Nguyễn Công Hoan là tiếng cười ở trường hợp thứ hai. Đó là
tiếng cười mang ý nghĩa xã hội sâu sắc, nó nhằm thẳng vào những mặt trái, những
mâu thuẫn, xung đột, những tệ nạn, sự giả dối, xấu xa... trong xã hội đương thời. Tất
cả những xấu xa, nhơ nhuốc, đen tối; những tệ nạn, những mâu thuẫn, xung đột trong
xã hội Thực dân nửa phong kiến đều được phủ bên ngoài một lớp sơn hào nhoáng,
một mặt nạ đẹp đẽ; bằng ngòi bút tài tình của mình, Nguyễn Công Hoan đã từng bước
vạch trần tất cả để chế giễu, mỉa mai, lên án.
Tiểu kết:
Nguyễn Công Hoan là một trong số những nhà văn tự tạo cho mình một phong
cách riêng, độc đáo. Nếu đem so sánh Nguyễn Công Hoan với một số nhà văn đương
thời, cùng sáng tác trong trào lưu văn học hiện thực phê phán như Ngô Tất Tố,
Nguyên Hồng, Nam Cao... thì chúng ta thấy giữa họ có sự giống nhau về phương
pháp sáng tác. Tuy nhiên giữa Nguyễn Công Hoan với các nhà văn này có sự khác
nhau về cơ sở của những đặc tính nghệ thuật và tư tưởng căn bản vốn có trong mỗi
sáng tác. Chính điều này đã tạo nên phong cách riêng của Nguyễn Công Hoan.
Phong cách của Nguyễn Công Hoan cũng có sự thay đổi giữa những sáng tác
viết ở thời kì đầu với những sáng tác ở những thời kì sau. Điều đó không phải là do
93
phong cách của nhà văn không ổn định mà nó phản ánh quá trình phát triển trong
nhận thức cuộc sống và trên con đường sáng tạo nghệ thuật của nhà văn.
Nhà văn Mácxim Goócki khi nói về tài viết truyện ngắn của Guyđơ
Môpátxăng đã nói: "không ai bắt chước nổi". Đối với trường hợp của Nguyễn Công
Hoan, chúng ta cũng có thể mạnh dạn sử dụng nhận định này, tài viết truyện ngắn của
ông không nhà văn nào có thể bắt chước được. Chính sự điêu luyện trong nghệ thuật
viết truyện ngắn mà Nguyễn Công Hoan đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự
phát triển của nền văn xuôi Việt Nam thời kì sau 1930.
94
KẾT LUẬN
1. Nguyễn Công Hoan là bậc thầy trong thể loại truyện ngắn. Ông nổi lên là
người có quá trình sáng tác dồi dào, dẻo dai, bền bỉ: hơn nửa thế kỉ cầm bút, ông
đã để lại một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, chỉ tính riêng truyện ngắn đã lên đến con
số hơn 200. Nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, chúng tôi cũng thấy ông
là nhà văn có cá tính sáng tạo độc đáo, không ai có thể bắt chước được. Sự độc
đáo đó không chỉ thể hiện ở nội dung: đầu thế kỷ XX, khi mà các nhà văn khác
còn đang loay hoay chọn con đường đi cho mình thì Nguyễn Công Hoan đã không
ngần ngại hướng ngòi bút của mình đến cuộc sống đời thường, đến những con
người tốt - xấu để bộc lộ thái độ, tình cảm của mình; mà sự độc đáo đó còn được
thể hiện ở hình thức hay nghệ thuật tác phẩm: nghệ thuật viết truyện ngắn của
Nguyễn Công Hoan vô cùng đa dạng, phong phú và đặc sắc khiến cho các tác
phẩm của ông luôn luôn tạo được ấn tượng mạnh, hấp dẫn đối với người đọc. Có
thể nói, chính điều đó đã làm cho Nguyễn Công Hoan trở thành nhà văn chưa từng
bị lãng quên trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc.
2. Thế giới truyện ngắn Nguyễn Công Hoan rất phong phú, đa dạng; kho tàng
truyện ngắn của ông được coi là một cuốn "bách khoa toàn thư" về xã hội Thực dân
nửa phong kiến Việt Nam đầu thế kỷ XX. Nguyễn Công Hoan sáng tác ngay từ buổi
giao thời, ông chính là cầu nối giữa hai thời đại văn học. Đó là lí do mà trong sáng tác
của ông vừa tồn tại những yếu tố kế thừa từ trong truyền thống vừa xuất hiện những
yếu tố mang tính cách tân, sáng tạo của nhà văn.
Đặc biệt, Nguyễn Công Hoan là người có vai trò, vị trí quan trọng đối với sự
hình thành của Chủ nghĩa hiện thực phê phán Việt Nam. Ngay từ những tác phầm đầu
tay, ông đã tìm đề tài trong những người nghèo khổ, những số phận khốn cùng của xã
hội. Đa số nhân vật phản diện đều thuộc tầng lớp quan lại, cường hào, những ông
chủ, bà chủ - những kẻ có tiền, có quyền, có thế trong xã hội. Hiện lên trong truyện
ngắn của ông toàn là những cảnh xấu xa, bỉ ổi; những chuyện bất công, ngang trái;
những con người ghê tởm, đáng khinh bỉ. Ngòi bút Nguyễn Công Hoan rất tài tình
khi tạo ra những tình huống bất ngờ làm người đọc phải phá lên cười nhưng đằng sau
95
tiếng cười ấy là cả một sự cay đắng, xót xa. Đối với hiện thực, ông luôn luôn tuân
theo một chủ nghĩa khách quan lịch sử khi miêu tả.
3. Trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân - phong kiến đô hộ (đầu thế kỷ XX),
văn học lại đang bị thống trị bởi dòng văn học lãng mạn, xa dời thực tế thì các sáng
tác của Nguyễn Công Hoan đã mở ra một góc nhìn mới, một cách tiếp cận mới đối
với cuộc sống. Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan với những đặc điểm của nó đã nâng
khả năng nhận thức và khám phá các hiện tượng xã hội phức tạp. Với truyện ngắn của
mình, ông đã làm thức tỉnh hàng loạt các nhà văn đương thời trong việc nhận thức
cuộc sống lúc bấy giờ. Ngay sau Nguyễn Công Hoan, một loạt các nhà văn khác như
Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nam Cao... cũng đã chọn Chủ nghĩa hiện thực
phê phán làm con đường đi cho mình, coi đó như là một thứ vũ khí chiến đấu, góp
phần vào cuộc đấu tranh chung của cả dân tộc.
Trong tình hình sáng tác văn học hiện nay đang diễn ra những cách tân, đổi
mới về mặt nghệ thuật ở tất cả các thể loại thì việc nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan đã đem đến cho các nhà văn những bài học kinh nghiệm quý giá. Đó là
tiến hành cách tân, đổi mới mà chỉ quan tâm đến đổi mới về hình thức thôi là chưa đủ
bởi làm lên một tác phẩm văn học cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa hai phương diện
nội dung và hình thức cho nên cần tiến hành đổi mới song song cả hai phương diện
này. Còn nếu chỉ cách tân một mặt thôi thì sẽ chỉ dừng lại là cách tân nửa vời, không
đi đến đâu, không đạt được kết quả như mong đợi. Nguyễn Công Hoan luôn nhạy
cảm, tinh tế khi quan sát, cảm nhận cuộc sống từ đó phát hiện ra những số phận,
những hoàn cảnh, những tính cách, bản chất tốt - xấu trong xã hội để rồi sau đó thể
hiện một cách tài tình bằng một nghệ thuật độc đáo trong tác phẩm của mình. Đây
chính là một bài học quý cho các nhà văn thời đại mới khi mà xã hội hiện nay cũng
đang diễn biến hết sức phức tạp, muôn hình muôn vẻ.
96
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Nguyễn Đình Chú (1998), Khái quát về văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến
cách mạng tháng 8 - 1945, Nxb Giáo dục.
3. Trương Chính (1977), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam tập III, Nxb Xây dựng.
4. Lê Chí Dũng, Trần Đình Hượu (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900
- 1930, Nxb ĐH & TH chuyên nghiệp.
5. Trần Ngọc Dung (1992), Ba phong cách truyện ngắn trong văn học Việt Nam thời
kỳ đầu những năm 1930 - 1945 Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao,
Luận văn thạc sĩ trường ĐHSP Hà Nội.
6. Lò Thị Duyên (1998), Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật truyện ngắn trào phúng
Nguyễn Công Hoan trước cách mạng tháng 8, Luận văn thạc sĩ trường ĐHSP
Hà Nội.
7. Nguyễn Đức Đàn (1968), Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội.
8. Nguyễn Đức Đàn (1964), Đặc điểm văn học hiện thực phê phán Việt Nam, Nxb
Văn học.
9. Nguyễn Đức Đàn, "Trào lưu chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam 1930 -
1945", Tạp chí văn học (số 5).
10. Nguyễn Văn Đấu (1999), "Chất kịch trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan", Tạp
chí văn học (số 5).
11. Phan Cự Đệ (1981), Lời giới thiệu "Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam 1930-1945,
Nxb ĐH và TH chuyên nghiệp.
12. Phan Cự Đệ (1983), Lời giới thiệu "Tuyển tập Nguyễn Công Hoan" tập I, Nxb
Văn học Hà Nội
13. Phan Cự Đệ (1983), Nguyễn Công Hoan trong Nhà văn Việt Nam 1945 - 1975 tập
II, Nxb ĐH và TH chuyên nghiệp.
14. Phan Cự Đệ (2010), Văn học Việt Nam 1900 - 1945, Nxb Giáo dục Việt Nam.
15. Trần Hạc Đình (1936), Phê bình Kép Tư Bền Hà Nội báo (số 2).
16. Hà Minh Đức (1971), Nhà văn và tác phẩm, Nxb Văn học.
97
17. Hà Minh Đức (1998), Văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Hà Nội.
18. Nguyễn Minh Châu (1994), Nhà văn Nguyễn Công Hoan, in lại trong Trang giấy
trước đèn, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội.
19. Trương Chính (1985), Đọc "Tuyển tập Nguyễn Công Hoan", Tuần báo văn
nghệ (số 48).
20. Trúc Hà (2003), Một ngọn bút mới, in lại trong Nguyễn Công Hoan về tác gia tác
phẩm, Nxb Giáo dục.
21. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật ngữ văn học,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
22. Lê Thị Đức Hạnh (1970), "Mấy vấn đề nông dân và cuộc sống nông thôn trong
truyện của Nguyễn công Hoan trước cách mạng", Tạp chí văn học (số 6).
23. Lê Thị Đức Hạnh (1975), "Nghệ thuật trào phúng trong truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan", Tạp chí văn học (số 5).
24. Lê Thị Đức Hạnh (1977), "Nghệ thuật viết truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan",
Tạp chí văn học (số 4).
25. Lê Thị Đức Hạnh (1979), Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, Nxb Khoa
học xã hội.
26. Lê Thị Đức Hạnh (1991), Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977), Nxb KHXH, Hà Nội.
27. Lê Thị Đức Hạnh (1993), Một nhà văn hiện thức lớn in trong "Nguyễn Công
Hoan - nhà văn hiện thực lớn", Nxb Hội nhà văn Hà Nội.
28. Lê Thị Đức Hạnh (1996), "Nguyễn Công Hoan - Tài năng và nhân cách", Tạp chí
tác phẩm mới (số 12).
29. Lê Thị Đức Hạnh (2003), Nguyễn Công Hoan - về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo
dục.
30. Hà Thị Hoa (1990), Tìm hiểu nguồn gốc, sức sống mạnh mẽ của truyện ngắn trào
phúng Nguyễn Công Hoan trước cách mạng, Luận văn thạc sĩ trường ĐHSP Hà
Nội.
31. Nguyễn Công Hoan (1971), Đời viết văn của tôi, Nxb Văn học, Hà Nội.
32. Nguyễn Công Hoan (1992), Chân dung văn học, Trường viết văn Nguyễn Du Hà
Nội.
98
33. Nguyễn Công Hoan (1997), Trên đường sự nghiệp, Nxb Hội nhà văn.
34. Nguyễn Công Hoan (2010), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Thời Đại.
35. Nguyễn Khắc Hiếu (1999), Phê bình câu chuyện Ngựa người và Người ngựa,
Thanh Nghệ Tĩnh tuần báo số 2.
36. Tô Hoài (2002), Người bạn đọc ấy, In lại trong Tác giả - tác phẩm, Nxb Giáo dục.
37. Tô Hoài (2002), Ngòi bút Nguyễn Công Hoan lực lưỡng, dũng khí, lạnh lùng, In
lại trong Tác giả - tác phẩm, Nxb Giáo dục.
38. Nguyên Hồng (2002), Thư Nguyên Hồng gửi Nguyễn Công Hoan nhân dịp
Nguyễn Công Hoan tròn 60 tuổi, In lại trong Tác gia - tác phẩm, Nxb Giáo dục.
39. Vũ Ngọc Khánh (1974), Thơ văn trào phúng Việt Nam, Nxb Văn học Hà Nội.
40. Nguyễn Hoành Khung (1984), Nguyễn Công Hoan trong từ điển văn văn học (tập
2), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
41. Nguyễn Hoành Khung (1988), (viết chung) Văn học Việt Nam 1930 - 1945, Tập
1, Nxb ĐH & TH chuyên nghiệp.
42. Phong Lê (1976), Nguyễn Công Hoan "văn và người", Nxb Văn học Hà Nội.
43. Phong Lê (1993), "Nguyễn Công Hoan một đời văn lực lưỡng", Tạp chí văn
học (số 6).
44. Phương Lựu (2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
45. Hoàng Như Mai (1997), Lời giới thiệu Nguyễn Công Hoan trong tác phẩm Trên
đường sự nghiệp, Nxb Hội nhà văn.
46. Nguyễn Đăng Mạnh (1978), Lịch sử văn học Việt Nam tập 5 chương VII, Nxb
Giáo dục.
47. Nguyễn Đăng Mạnh (1993), Dẫn luận nghiên cứu tác gia văn học, Trường ĐHSP
Hà Nội.
48. Nguyễn Đăng Mạnh (1999), Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
49. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn - Tư tưởng và phong cách, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
50. Nguyễn Đăng Mạnh (2002), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,
Nxb Giáo dục Hà Nội.
99
51. Lê Minh (1993), Nguyễn Công Hoan - nhà văn hiện thực lớn (sách sưu tầm, biên
soạn), Nxb Hội nhà văn.
52. Vương Trí Nhàn (2003), Những cái nháy mắt tinh nghịch, In lại trong Nguyễn
Công Hoan cây bút hiện thực xuất sắc, Nxb Văn hóa - thông tin.
53. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại, Nxb Khoa học xã hội.
54. Thiếu Sơn (2003), Phê bình Kép Tư Bền, in lại trong Nguyễn Công Hoan về tác
gia tác phẩm, Nxb Giáo dục.
55. Trần Đình Sử (2005), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục.
56. Trần Đình Sử - Nguyễn Thanh Tú (2001), Thi pháp trào phúng Nguyễn Công
Hoan, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
57. Hoài Thanh (2003), Nhân xem quyển Kép Tư Bền: Nguyễn Công Hoan, nhà văn có
nhiều hi vọng, in lại trong Nguyễn Công Hoan về tác gia tác phẩm, Nxb Giáo dục.
58. Hải Triều (2003), Kép Tư Bền một tác phẩm thuộc về cái Triều Lưu "Nghệ thuật
vị dân sinh" ở nước ta, in lại trong Nguyễn Công Hoan về tác gia tác phẩm, Nxb
Giáo dục.
59. Vũ Thanh Việt (2003), Nguyễn Công Hoan cây bút hiện thực xuất sắc, Nxb Văn
hóa - Thông tin.