ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- MAI THỊ NGA NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT TÔ HOÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Hà Nội-2012
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- MAI THỊ NGA NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT TÔ HOÀI Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐOÀN ĐỨC PHƯƠNG Hà Nội-2012
2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tà 2. Lịch sử vấn đề 3. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu 4. Phương pháp nghiên cứu 5. Cấu trúc của luận văn
2 2 3 5 6 6 7
NỘI DUNG
7 7 7 8 10 10 11 14
18 18 19 27 37 39 44 56
4
Chương 1: Khái lược về nghệ thuật tự sự và hành trình sáng tác của Tô Hoài 1.1. Khái lược về nghệ thuật tự sự 1.1.1. Tự sự 1.1.2. Tự sự học 1.2. Hành trình sáng tác của Tô Hoài 1.2.1. Sơ lược tiểu sử 1.2.2. Hành trình sáng tác 1.2.3. Tiểu thuyết của Tô Hoài Chương 2: Nghệ thuật tổ chức cốt truyện và xây dựng nhân vật 2.1. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện 2.1.1. Cốt truyện sự kiện trong tiểu thuyết của Tô Hoài 2.1.2. Tổ chức diễn biến cốt truyện trong tiểu thuyết Tô Hoài 2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật 2.2.1. Khắc họa nhân vật qua các chi tiết 2.2.2. Khắc họa nhân vật qua ngoại hình và hành động 2.2.3. Khắc họa nhân vật qua biểu hiện nội tâm và ngôn ngữ Chương 3: Người kể chuyện và ngôn ngữ trần thuật 3.1. Người kể chuyện trong tiểu thuyết của Tô Hoài 3.1.1. Người kể chuyện 3.1.2. Điểm nhìn trần thuật 3.1.3. Giọng điệu trần thuật 3.1.3.1. Giọng dửng dưng lạnh lùng, pha chút mỉa mai, châm biếm 3.1.3.2. Giọng điệu trữ tình, ấm áp, tươi vui 3.1.3.3. Giọng điệu dí dỏm, hài hước. 3.2. Ngôn ngữ trần thuật 67 67 67 74 79 80 81 84 86
87 92 96
3.2.1. Ngôn ngữ giàu tính tạo hình 3.2.2. Ngôn ngữ giàu tính khẩu ngữ 3.2.3. Lớp ngôn từ gợi không khí một thời
101
KẾT LUẬN
5
TÀI LIỆU THAM KHẢO 105
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trên 60 năm “phiêu lưu” qua hơn 20 quốc gia Dế Mèn phiêu lưu ký vẫn là tác
phẩm được yêu thích của bạn đọc. Và thật may mắn khi cha đẻ của nó mặc dù đã
qua tuổi 90 vẫn ung dung, hóm hỉnh nụ cười với thế thái nhân tình. Trời cho Tô
Hoài vốn sức khỏe và chính ông làm cho vốn ấy ngày càng có lãi. Hơn ai hết Tô
Hoài hiểu lao động là hạnh phúc. Mỗi ngày với ông không một chút lãng phí, không
một giây nào không có ý nghĩa. Khi tuổi còn đang ở độ hừng hực ông “viết như là
chạy thi”; khi đã đủ chín chắn và muốn hiểu thêm về những cuộc đời, những vùng
miền ông hăng hái “lên vùng cao đất mới”; rồi khi thấy cần một nơi yên tĩnh để
chiêm nghiệm lại mọi thứ ông “trở về với những miền thân thuộc”; trở về là để
chuẩn bị cho một cuộc “phiêu lưu” mới và giờ đây khi thế hệ trẻ non nớt đang cần
những chú Dế Mèn có tâm hồn để đối trọng với thế giới hiện đại vô cảm thì Tô
Hoài lại sẵn sàng cho những điều còn trăn trở, còn bỏ ngỏ khi ông ở tuổi đôi mươi.
Cuộc “phiêu lưu” của nhà văn Tô Hoài có lẽ là cuộc phiêu lưu trường kì, ý nghĩa và
nhiều kết quả nhất mà nhà văn nào cũng ao ước có được trong cuộc đời cầm bút của
mình. Khi nhắc đến Tô Hoài, người ta nhớ đến “một nhà văn có nhiều cái nhất”,
một nhà văn là “vinh dự cho Hà Nội, tài sản của Hà Nội” (Hữu Thỉnh). Tác phẩm
của Tô Hoài không chỉ là một kho tri thức khổng lồ mà còn là những bài học khiến
chúng ta đọc rồi phải suy ngẫm về hôm qua, hôm nay và cả mai sau. Mỗi lần tìm
hiểu về những tác phẩm của Tô Hoài là một lần người ta tìm ra những tầng vỉa ẩn
sau lớp chữ nghĩa giản dị, đời thường. Do vậy, hết thế hệ này đến thế hệ khác vẫn
không nguôi ý định tìm hiểu vẻ đẹp những tác phẩm của Tô Hoài. Chúng tôi cũng
muốn góp một phần bé nhỏ trong công việc của người nghiên cứu để hiểu hơn về
6
phong cách của một nhà văn cả đời miệt mài đi tìm con chữ cống hiến cho đời.
Việc viết lách của nhà văn trở thành cơm bữa hàng ngày không thể thiếu. Vì
thế ở Tô Hoài không chỉ có khối lượng tác phẩm đồ sộ mà còn tập hợp đa dạng các
thể loại như một cánh rừng với đủ các loại thảo mộc lớn nhỏ thuộc các chủng loại
khác nhau. Ở mỗi thể loại, Tô Hoài thể hiện một “gương mặt”, một dấu ấn riêng
không thể nhòe lẫn. Tiểu thuyết có lẽ là thể loại mà ở đó Tô Hoài nếm đủ vị đời của
văn chương : có cay đắng, ngọt bùi, vinh quang và cả thờ ơ. Nhưng cũng chính ở
thể loại này người ta mới nhận ra sự tích tụ từ những thể loại khác mà nhà văn đã có
cả một quá trình vun góp. Nếu các truyện ngắn là những mảnh nhỏ của cảnh đời,
những ký họa chân dung con người, thì tiểu thuyết là cả một dòng sông cuộc đời
trôi chảy của bao nhiêu sự việc, câu chuyện, đời người. Tìm hiểu về tiểu thuyết của
Tô Hoài theo hướng tự sự học sẽ góp phần làm sáng tỏ sự tích tụ, sự thống nhất, sự
phát triển của phong cách nhà văn theo dòng thời gian.
Nghiên cứu truyện kể dưới góc độ tự sự học đang là xu hướng có nhiều triển
vọng trên thế giới và trong nước. Đó không chỉ là cách thức kể chuyện sao cho câu
chuyện trở nên hấp dẫn mà còn là cách để nhà văn lý giải sự vật, hiện tượng một
cách hiệu quả. Tìm hiểu kĩ thuật viết tiểu thuyết của Tô Hoài, chúng ta sẽ lí giải
được sức sống, sự hấp dẫn, mới mẻ của tiểu thuyết Tô Hoài.
2. Lịch sử vấn đề
Tính đến nay, Tô Hoài đã có ngót 70 năm cầm bút, dấn thân vào nghiệp văn
chương. Kết quả ông gặt hái được là một khối lượng đồ sộ về tác phẩm và một chỗ
đứng vững chắc trong làng văn chương Việt Nam. Việc nghiên cứu về Tô Hoài đã
bắt đầu từ trước năm 1945 và đến nay vẫn tiếp tục.
Trước năm 1945, các truyện ngắn về đề tài nông thôn, dân quê và thiếu nhi
được bạn đọc đón nhận và bước đầu ghi nhận một dấu ấn riêng của nhà văn Tô
Hoài. Vũ Ngọc Phan đã xếp Tô Hoài vào nhóm “các tác giả tả chân” và đánh giá Tô
Hoài là “nhà văn có biệt tài viết về những cảnh nghèo nàn của dân quê” [13; 21].
Sau năm 1945, Tô Hoài viết nhiều hơn, dày hơn, ở nhiều thể loại, ở nhiều
mảng đề tài khác nhau nhưng tiêu biểu hơn cả là đề tài miền núi và Hà Nội. Thời
7
điểm này Tô Hoài đã nhận được nhiều lời khen về khả năng bao quát đời sống hiện
thực, sự khắc họa công phu đời sống và thiên nhiên miền núi. Tuy vậy cũng có
những đánh giá không đồng tình về tư tưởng và quan điểm nghệ thuật của Tô Hoài
ở một số tiểu thuyết. Nhiều tác phẩm vẫn được người đọc đón nhận, nhưng lại ít có
bài bàn bạc và bình luận.
Sau năm 1975, cùng với các bài phê bình, giới thiệu tác phẩm, các công trình
nghiên cứu về Tô Hoài trở nên sôi nổi và có nhiều kết quả. Tiêu biểu là các tiểu
luận của Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Vân Thanh,…Phan Cự Đệ đã nhận xét: “Tô
Hoài không chìm đắm trong thiên nhiên, không tìm ở thiên nhiên một lối thoát, một
niềm an ủi như các nhà lãng mạn tiêu cực, nhưng bao giờ anh cũng chắt chiu, trân
trọng những vẻ đẹp và chất thơ của đời sống” [13; 87 ]. Hà Minh Đức thì cho rằng :
“Tác phẩm của Tô Hoài luôn khai thác ở mạch chìm sâu của cuộc đời nơi bóng tối
đang còn đè nặng”[13; 119] và “Tô Hoài, một cây bút văn xuôi sắc sảo và đa dạng”
[13; 131]. Vương Trí Nhàn là người có những bài viết sâu sắc, hấp dẫn về Tô Hoài.
Nhà phê bình đã không quá lời khi nhận xét Tô Hoài đã “viết là say và viết là tỉnh.
Viết để ghi lại những gì đã sống, viết lại chính mình là sự sống nữa”[13; 195], bởi
thực tế cuộc đời cầm bút cần mẫn và chuyên nghiệp của Tô Hoài đã chứng minh
cho sự sống mãnh liệt, dẻo dai, bền bỉ của ông.
Để có cái nhìn đầy đủ hơn về nhà văn, NXB Giáo dục đã cho xuất bản và tái
bản nhiều lần cuốn Tô Hoài về tác gia và tác phẩm. Đây thực sự là cuốn sách tổng
hợp tương đối đầy đủ và toàn diện các bài nghiên cứu về Tô Hoài từ trước đến nay.
Điều này cho thấy vị trí của Tô Hoài trong nền văn học nước nhà – một tác giả lớn
của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam.
Trong những thập niên gần đây, có nhiều khóa luận, luận văn, luận án đi sâu
vào tìm tòi, phát hiện những sáng tạo độc đáo, chất thẩm mĩ mới trong văn chương
Tô Hoài (Tìm hiểu sáng tác miền núi, người kể chuyện trong hồi kí và tự truyện, đặc
điểm nghệ thuật truyện ngắn… ).
Như vậy, có thể khẳng định Tô Hoài là một hiện tượng văn học được nghiên
cứu nhiều. Các nghiên cứu về Tô Hoài và tác phẩm của ông đều hướng đến đánh
8
giá cao bút lực dồi dào, độc đáo, và giá trị đích thực của văn chương ông.
Trong khối lượng tác phẩm đồ sộ của Tô Hoài không thể không nhắc tới tiểu
thuyết - con đẻ của thời hiện đại. Tuy số lượng tiểu thuyết so với các thể loại khác
không nhiều nhưng thực sự nó rải đều cả quá trình sáng tác của nhà văn, và cũng là
thể loại tác giả dồn nhiều tâm huyết nhất. Đã có không ít các bài viết về tiểu thuyết
của Tô Hoài. Có thể kể đến: Như Phong với Vấn đề tiểu thuyết Mười năm, Tô Hoài
với Miền Tây, Phan Cự Đệ với Tiểu thuyết Đảo hoang của Tô Hoài; Hà Minh Đức
với, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, tuổi trẻ kiên cường và bất khuất, Tiểu thuyết Mười
năm của Tô Hoài … Đặc biệt là những nghiên cứu dưới góc độ tự sự học, một
hướng nghiên cứu có nhiều triển vọng để giải mã nghệ thuật ngôn từ. Đó là các
khóa luận, luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Ba người khác của Tô
Hoài (Nguyễn Thị Thùy Dương), Cốt truyện và nhân vật trong tiểu thuyết Ba người
khác của nhà văn Tô Hoài (Nguyễn Thị Thanh Thủy)…
Những nghiên cứu trên đây là kết quả có ý nghĩa để người đọc hiểu biết thêm
về Tô Hoài và tác phẩm của ông. Tuy vậy, các nghiên cứu đó một là mới dừng lại
tìm hiểu ở từng tiểu thuyết của Tô Hoài, hai là mới nghiên cứu riêng lẻ một số yếu
tố thuộc nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài. Chúng tôi lĩnh hội những kết
quả của người nghiên cứu trước và thông qua luận văn của mình muốn được nghiên
cứu một cách đầy đủ, thấu đáo, đặt các yếu tố thuộc nghệ thuật tự sự liên kết với
nhau trong một cấu trúc tự sự chỉnh thể để làm nổi bật “vai trò của chủ thể trần
thuật” theo quan niệm của tự sự học.
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Luận văn tìm hiểu cách nhà văn trần thuật để từ đó lý giải những vấn đề nhà
văn đặt ra trong cuộc sống, đồng thời rút ra được phong cách nghệ thuật độc đáo
của Tô Hoài. Luận văn lựa chọn các phương diện của nghệ thuật tự sự trong tiểu
thuyết của Tô Hoài làm đối tượng nghiên cứu của mình. Đó là Nghệ thuật tổ chức
cốt truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, người kể chuyện và ngôn ngữ trần thuật
Tô Hoài có 7 tiểu thuyết và một số truyện dài được coi như tiểu thuyết thuộc
các giai đoạn sáng tác khác nhau. Tuy nhiên phạm vi khảo sát của luận văn chỉ gồm
9
bốn tiểu thuyết Miền Tây (Nhà xuất bản văn học, 1973), Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ
(Nhà xuất bản Thanh Niên, 1971), Đảo hoang (Nhà xuất bản văn học, 1969), Ba
người khác (Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007).
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt mục đích trên, chúng tôi sử dụng các phương pháp: Phương pháp tiếp
cận thi pháp học, Phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh, phương pháp phân
tích, phương pháp tổng hợp v.v…
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Khái lược về nghệ thuật tự sự và hành trình sáng tác của Tô Hoài.
Chương 2: Nghệ thuật tổ chức cốt truyện và xây dựng nhân vật.
10
Chương 3: Người kể chuyện và ngôn ngữ trần thuật.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI LƯỢC VỀ NGHỆ THUẬT TỰ SỰ VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC
CỦA TÔ HOÀI
1.1. Khái lược về nghệ thuật tự sự
1.1.1. Tự sự
Roland Barthes nói: "đã có bản thân lịch sử loài người, thì đã có tự sự" [19;
13]. Và như vậy, bản chất của tự sự ngày nay được hiểu là một sự truyền đạt thông
tin, là quá trình phát ra trong quá trình giao tiếp, văn bản tự sự là cụm thông tin
được phát ra, và tự sự có thể thực hiện bằng nhiều phương thức, con đường. Hội
họa, hình thức kí hiệu ghi chép tối sơ của loài người, có thể miêu tả đối tượng săn
bắt, chỉ ra bộ phận phải bắn trúng, kế hoạch vây bắt. Điêu khắc, kiến trúc... đều là
phương tiện tự sự. Tự sự nằm trong bản chất của con người, bởi con người là một
động vật biết tự sự. Muốn hiểu một sự vật nào thì người ta kể câu chuyện về sự vật
đó. Nhà giải cấu trúc Mĩ J.H.Miller có nói (1993): "Tự sự là cách để ta đưa các sự
việc vào một trật tự, và từ trật tự ấy mà chúng có được ý nghĩa [19; 12]. Tự sự là
cách tạo nghĩa cho sự kiện, biến cố"; và Jonathan Culler (1998) cũng nói: "Tự sự là
phương thức chủ yếu để con người hiểu biết sự vật" [19; 12]. Như vậy, tự sự là một
khái niệm được sử dụng rộng rãi và có tính chất liên ngành.
Tự sự tồn tại và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực, tuy vậy, trong các hình
thức tự sự, chỉ có tự sự văn học là phức tạp nhất, và nó làm thành đối tượng chủ yếu
của tự sự học. Với ý nghĩa tự sự như một phương thức tạo nghĩa và truyền thông tin
trong văn học, tự sự có trong thơ, trong kịch, chứ không chỉ là trong truyện ngắn,
tiểu thuyết, ngụ ngôn... Và đối tượng chủ yếu của tự sự học là nghệ thuật tự sự.
11
1.1.2. Tự sự học
Tự sự học (Narratology) là thuật ngữ do nhà nghiên cứu người Pháp
T.Todorov đề xuất năm 1969, và nó là “một bộ phận cấu thành của hệ hình lý luận
hiện đại”. Và lý thuyết về tự sự đã bổ sung cho lý thuyết về tiểu thuyết, trở thành
một trong những vấn đề chủ yếu của nghiên cứu văn học.
Từ thời cổ đại, đã có tự sự học, nhưng tự sự học lúc đó được hiểu trong giới
hạn của tu từ học. Ban đầu người ta biết phân biệt các loại tự sự : tự sự lịch sử khác
tự sự nghệ thuật. Sau đó phân biệt đến tự sự mô phỏng với tự sự giải thích, tự sự
hỗn hợp. Như vậy tự sự học đã được cha ông ta biết đến từ xa xưa, từ thời của
Platon và Aristote. Tuy được biết đến từ lâu nhưng từ cuối thế kỉ XIX tự sự học
hiện đại mới manh nha hình thành. Những thập niên đầu B.Tomasepxki,
V.Shklovski, V.Propp, Bakhtin là những người mở đường cho tự sự học hiện đại.
Và sự phát triển của tự sự học theo thời gian, thành tựu có thể chia làm ba thời kì.
Thời kì trước chủ nghĩa cấu trúc, tự sự học chủ yếu nghiên cứu các thành phần và
chức năng của tự sự như cốt truyện, nhân vật, ngôn từ trần thuật, điểm nhìn… Có
thể kể đến các công trình của B.Tomasepxki nghiên cứu các yếu tố và đơn vị của tự
sự (1925), V.Propp nghiên cứu cấu trúc và chức năng tự sự của truyện cổ tích
(1928), các vấn đề điểm nhìn, dòng ý thức được quan tâm với Percy Lubbock…
Các sáng tác của các nhà tiểu thuyết phương Tây thời kì này đã khơi gợi cho các
nhà nghiên cứu những tìm tòi, khám phá về tự sự học gắn với ý thức về kĩ thuật của
tiểu thuyết. Giai đoạn tiếp theo của tự sự học là thời kì cấu trúc chủ nghĩa với vấn
đề nghiên cứu chủ yếu là bản chất ngôn ngữ và ngữ pháp của tự sự nhằm tìm ra một
cách đọc mà không cần đến sự đối chiếu giữa tác phẩm tự sự và hiện thực khách
quan. Với mục đích như trên, chủ nghĩa cấu trúc có đặc điểm là lấy ngôn ngữ học
làm hình mẫu, xem tự sự học là sự mở rộng của cú pháp học, còn trữ tình là sự mở
rộng của ẩn dụ. Tiêu biểu cho giai đoạn nghiên cứu này là G.Genette với tuyên bố
“mỗi câu chuyện là sự mở rộng của một câu - chủ yếu là vị ngữ động từ” [19; 14].
Thời kì thứ ba của tự sự học là thời kì hậu cấu trúc chủ nghĩa coi tự sự học gắn liền
với kí hiệu học và siêu kí hiệu học, lấy văn bản làm cơ sở và ý nghĩa tác phẩm được
12
biểu hiện qua hình thức tự sự. Các đại diện tiêu biểu thời kì này là I.Lotman,
B.Uspenski, Pierre Acherey. Họ coi trọng phân tích hình thức như các tác giả thời
kì thứ hai nhưng lại không tán thành việc sao phỏng giản đơn các mô hình ngôn ngữ
học. Họ coi trọng vai trò tác động của hình thái ý thức, nêu yêu cầu lí thuyết tự sự
phải gắn với chức năng nhận thức và giao tiếp.
Tự sự học là một lĩnh vực tri thức rộng lớn, trở thành một trong những lĩnh
vực học thuật được phổ biến, quan tâm trên thế giới và lý thuyết về tự sự học không
ngừng được khám phá từ xưa tới nay. Đã có nhiều thành tựu với hệ thống chặt chẽ,
kiến thức rộng và sâu, song tự sự học vẫn còn không ngừng mở rộng và phát triển.
Mỗi giai đoạn ta nhận thấy sự thay đổi về hệ hình lí thuyết, các tầng bậc và phương
pháp nghiên cứu tự sự. Ở giai đoạn đầu tương ứng là hệ hình tự sự học kinh điển tập
trung nghiên cứu cấu trúc của truyện, mối quan hệ của các sự kiện tạo nên truyện.
Bước phát triển thứ hai của tự sự học là theo hướng chủ nghĩa cấu trúc kinh điển,
hướng này chủ yếu nghiên cứu lời kể, cách kể, hay còn gọi là nghiên cứu diễn ngôn
tự sự. Và ngày nay, hướng thứ ba là mô hình tự sự học có công thức “tự sự học +
X”. Quan niệm này thực sự mở rộng phạm vi của tự sự học, tạo ra mối liên kết, liên
ngành giữa tự sự học với các lĩnh vực khác có liên quan.
Với sự phát triển không ngừng của tự sự học như vậy có thể khẳng định tự sự
học có một vai trò rất lớn trong nghiên cứu cấu trúc tự sự. Tự sự học hiện đại cho
chúng ta thấy rõ vai trò của chủ thể trong trần thuật khi phân biệt kể cái gì và kể
như thế nào. Lần đầu tiên nó làm cho người trần thuật vô hình vốn ít được người ta
chú ý phân tích, được hiện ra như là một hệ thống biểu đạt. Lí thuyết tự sự cũng chỉ
ra kết cấu của các tầng bậc trần thuật và theo đó xuất hiện các kiểu người trần thuật
khác nhau. Lí thuyết tự sự hiện đại đã nêu ra các khái niệm về góc nhìn, điểm nhìn,
tiêu cự… điều đó giúp phân tích, nhận dạng hình thức tự sự.
Nghiên cứu tự sự học đang là một xu thế có nhiều triển vọng trong lí luận văn
học và nó ngày càng có ý nghĩa văn hóa rộng lớn. Nó không chỉ mở ra khả năng
nghiên cứu truyền thống tự sự trong mỗi nền văn học, và nghiên cứu so sánh quốc
tế về phương diện tự sự, nghiên cứu loại hình ảnh hưởng, và trở thành một bộ phận
13
của thi pháp học so sánh; mà nó còn giúp hiểu rõ mọi hình thức tự sự, nghệ thuật và
phi nghệ thuật. Tìm hiểu về tự sự học sẽ cho ta thấy kĩ thuật trần thuật của các thể
loại, các nhà văn, truyền thống văn hóa và từ đó nhìn nhận các vấn đề văn học sử
một cách sâu sắc hơn.
Văn học Việt Nam có truyền thống tự sự lâu đời và đó là một lợi thế để chúng
ta vận dụng lí thuyết tự sự học vào nghiên cứu văn học dân tộc. Những nghiên cứu,
những bài viết dưới góc độ tự sự học ngày càng nhiều và nó chứng tỏ vai trò, ý
nghĩa lớn lao của tự sự học trong nghiên cứu văn học, đặc biệt là những tác phẩm tự
sự.
1.2. Hành trình sáng tác của Tô Hoài
1.2.1. Sơ lược tiểu sử
Tô Hoài sinh năm 1920, tên thật là Nguyễn Sen. Bút danh Tô Hoài gắn liền
với những địa danh quen thuộc của quê hương ông (sông Tô Lịch, phủ Hoài Đức).
Bút danh ấy đã theo Tô Hoài suốt cuộc đời cầm bút và trở nên quá đỗi quen thuộc
với nhiều thế hệ bạn đọc. Tô Hoài xuất thân trong một gia đình làm nghề thủ công
dệt lụa. Ông học hết bậc Tiểu học, sau đó vừa tự học vừa đi làm để kiểm sống.
Trước khi cầm bút viết văn, ông đã từng làm nhiều nghề như thợ thủ công, dạy học
tư, bán hàng, kế toán hiệu buôn,… Có lẽ chính cuộc sống bươn chải trong nhiều
ngành nghề khác nhau và gần gũi với nhân dân nên các trang viết của ông sau này
mới ẩn chứa một kho kiến thức phong phú, đa dạng và đậm chất thôn quê, dân dã
như vậy.
Trước Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài đã tham gia các phong trào do Mặt trận
Dân chủ khởi xướng ngay ở quê hương ông. Cũng thời gian đó ông viết những sáng
tác đầu tiên. Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia phong trào Nam tiến, lên
Việt Bắc làm báo Cứu quốc, chủ nhiệm Cứu quốc Việt Bắc, chủ bút Tạp chí Cứu
quốc. Sau đó ông về công tác ở hội văn nghệ Việt Nam (1951). Hòa bình lập lại,
ông tham gia nhiều chức vụ trong Hội nhà văn Việt Nam: Tổng thư kí (1957), ủy
viên Ban chấp hành (1958 – 1980), Phó tổng thư kí. Sau đó những năm từ 1966 đến
1996 ông là Chủ tịch Hội văn nghệ Hà Nội. Ngoài ra Tô Hoài còn tham gia nhiều
14
công tác xã hội khác từ tổ trưởng dân phố đến đại biểu Quốc hội.
Cuộc sống của Tô Hoài vẫn tiếp diễn, ở tuổi ngoài 90 ông vẫn là một nhà văn
làm việc hăng say, có nhiều đóng góp cho văn nghệ nước nhà và luôn được đông
đảo bạn đọc đón nhận.
1.2.2. Hành trình sáng tác
Tô Hoài đã có một quá trình viết bền bỉ, liên tục, không ngừng nghỉ, trên rất
nhiều đề tài của văn học Việt Nam hiện đại. Ông viết cho thiếu nhi, viết dã sử, rồi từ
nông thôn đến thành thị, từ miền xuôi lên miền núi, từ cách mạng đến đời thường,
trong chiến tranh rồi trở lại hòa bình, viết về đời sống rộng lớn của các tầng lớp
nhân dân rồi trải lòng với những hồi ức riêng tư của mình. Trên hành trình lao động
không mệt mỏi, nhà văn đã tạo một chỗ đứng nhất định trong nền văn học nước nhà.
Quá trình viết ấy để lại một khối lượng đồ sộ với trên 160 đầu sách, được trải đều
theo các chặng của giai đoạn lịch sử nước nhà và cuộc đời cầm bút của nhà văn.
1.2.2.1. Trước Cách mạng tháng Tám
Thời kì Tô Hoài bước vào nghề văn cũng là lúc trào lưu lãng mạn đang thịnh
hành ở nước ta và ít nhiều ông cũng ảnh hưởng. Ban đầu ông cũng làm thơ lãng
mạn nhưng rồi ông sớm nhận ra đó không phải là lĩnh vực ông có duyên. Mặt khác,
dù thích đọc truyện của Khái Hưng nhưng ông cũng cho rằng mình không thích
hợp để viết về những đôi lứa “lá ngọc cành vàng”. Với ông điều mà ông tâm niệm
có lẽ là cuộc sống giản dị xung quanh mình, cuộc sống lam lũ, hiện thực như chính
đời nhà văn: “Đời sống xã hội quanh tôi, tư tưởng và hoàn cảnh của chính tôi đã
vào cả những sáng tác của tôi, ý nghĩ tự nhiên của tôi bấy giờ là viết những sự thực
xảy ra trong nhà, trong làng, quanh mình”. Chính vì quan niệm như vậy nên từ
những tác phẩm đầu tay Tô Hoài đã cho thấy xu hướng “tả chân”, và cùng với Nam
Cao ông trở thành một dấu ấn đặc trưng của văn học hiện thực Việt Nam những
năm tiền cách mạng.
Tô Hoài bắt đầu nghề viết văn với những sáng tác đăng trên báo Hà Nội tân
văn Chủ nhật và Tiểu thuyết thứ bảy của ông bà chủ bút Vũ Ngọc Phan và Hằng
Phương (Nước lên, Bụi ô tô, Một đêm sáng giăng suông, Bệnh già, Trê cóc, Ông
15
Trạng Chuối, Con gà mái ri…). Những sáng tác đó bước đầu đem đến cho nhà văn
khoản thù lao để sau đó ông chuyển hẳn sang nghề viết văn; đồng thời nó cũng
chứng tỏ sở trường của ông khi viết về nỗi cực khổ của người dân và niềm thích thú
của những trẻ thơ trong các truyện cho thiếu nhi.
Rời Hà Nội tân văn, Tô Hoài bắt đầu viết cho báo Tân Dân của Vũ Đình
Long. Với đề tài dành cho đối tượng thiếu nhi, Tô Hoài đã viết Con dế mèn rồi sau
đó là Dế Mèn phiêu lưu ký (1941). Tác phẩm viết cho thiếu nhi nhưng đã gây được
ấn tượng mạnh với nhiều đối tượng độc giả và được tái bản nhiều lần cho đến ngày
nay. Từ sau tác phẩm đó, Tô Hoài viết đều, viết khỏe, viết thành nếp. Và ông đã tự
thổ lộ: “tôi vào nghề văn có trong ngoài ba năm trước Cách mạng tháng Tám 1945
mà tôi viết như chạy thi được năm truyện dài, truyện vừa, ba tập truyện ngắn, còn
truyện thiếu nhi như Dế Mèn thì mấy chục truyện…” ( trích theo[13; 24]).
Tổng kết thành quả lao động trước Cách mạng tháng Tám của một nhà văn có
tuổi đời trên hai mươi và tuổi nghề chưa được 5 năm, ta khẳng định đó là một thành
công lớn lao hiếm nhà văn nào có được, và chính xác đó là một cuộc “chạy thi”. Có
thể kể đến những tác phẩm tiêu biểu của ông với hai đề tài là viết về thiếu nhi và
người dân quê. Viết cho thiếu nhi có Dế Mèn phiêu lưu ký, O chuột, Trê và Cóc,
Võ sĩ bọ ngựa, Đám cưới chuột, Chuột thành phố,… Trong những tác phẩm viết
về thế giới loài vật, nhà văn đã đưa vào truyện mạch ngầm khát vọng tuổi trẻ, trải
nghiệm của cái tuổi bồng bột, sôi nổi, và thế giới đại đồng hòa thuận của con
người. Trong đó nổi bật nhất là Dế Mèn phiêu lưu ký, một thiên đồng thoại xuất
sắc thể hiện được khát vọng chính đáng của người lao động, mơ ước một cuộc sống
hòa bình yên vui. Viết về cảnh và người lao động vùng quê có Nhà nghèo, Nước
lên, Giăng thề, Quê người, Đêm mưa, Xóm giềng… Tác giả lấy bối cảnh và con
người một vùng ven đô là quê ngoại để miêu tả cảnh vật, kể chuyện đời người thân,
kẻ sơ của tác giả. Vùng quê ấy có sự thâm nhập của sự sống thành thị nhưng còn xa
cách và biệt lập với thành thị. Tô Hoài đã để lại dấu ấn phong tục trong những tác
phẩm của mình, và đằng sau cái bề mặt phong tục ấy là một dòng sống luôn tuôn
chảy ở phía sâu – nó là sự phôi pha, sự tàn lụi của những số phận, những kiếp
16
người.
Như vậy, trước năm 1945, ngòi bút Tô Hoài đã cùng lúc viết về hai đối tượng.
Một là cuộc sống xung quanh mình, cuộc sống của một vùng quê đang ngấm dần
và mở rộng sự bần hàn, túng bấn… Hai là sự theo đuổi thế giới riêng của trẻ thơ,
của loài vật với những ước mơ, tưởng tượng, khát khao…Tuy viết về hai mảng đề
tài khác nhau nhưng thực ra nó cùng thống nhất, hội tụ vào nhau trong một thế giới
nghệ thuật chung mang cảm quan, đặc điểm của nghệ thuật Tô Hoài - một kiểu
khám phá hiện thực riêng.
1.2.2.2. Sau Cách mạng tháng Tám
Với các nhà văn, Cách mạng tháng Tám đánh dấu một bước chuyển biến trong
tư tưởng và sáng tác . Tô Hoài cũng vậy nhưng ông sớm bắt nhịp với sự đổi thay để
bám vào các vấn đề mới của đời sống và viết. Quãng thời gian này nhà văn đã viết
dồi dào, sung sức và đạt được nhiều thành công hơn bao giờ hết.
Những năm kháng chiến chống Pháp, Tô Hoài đi vào đời sống các dân tộc Tây
Bắc, tìm hiểu và mô tả cuộc sống của họ. Nhà văn đã viết về sự đổi thay của cuộc
sống, của con người đặc biệt là về mặt tư tưởng của họ từ khi có cách mạng. Tiêu
biểu phải kể đến tập truyện Núi cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Cứu đất cứu mường…
Hòa bình lập lại sau năm 1954 ở miền Bắc, và sau đó những năm kháng chiến
chống Mỹ và cuộc sống xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở miền Bắc, ngòi bút Tô Hoài
hướng vào đề tài quen thuộc trước Cách mạng ông đã viết, đó là cuộc sống nơi phố
phường Hà Nội với: Mười năm, Người ven thành, Những ngõ phố người đường
phố, Quê nhà,…Mặt khác mạch nguồn cảm hứng về miền núi chảy suốt trong các
tác phẩm: Vợ chồng A Phủ, Miền Tây, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Họ Giàng ở
Phìn Sa,… Viết về Hà Nội ven đô thời kì này nhà văn vừa trải rộng, đào sâu vào
thế giới bên ngoài và bên trong của nó để thấy được Hà Nội trong ba chiều quá khứ,
hiện tại, tương lai. Viết về đề tài vùng cao, Tô Hoài không những cho ta thấy bức
tranh rộng lớn của miền núi trong buổi đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội mà ông còn
thành công khi cố gắng xây dựng vẻ đẹp toàn diện về hình ảnh những con người
cách mạng miền núi – con người mới xã hội chủ nghĩa. Tất cả đều được đặt trong sự
17
thay đổi giữa hai chế độ.
Trong thời gian dài sau Cách mạng, gặt hái được nhiều thành công về những
đề tài trên, Tô Hoài vẫn không quên sáng tác cho thiếu nhi – mảng đề tài thuở đầu
làm nên vóc dáng Tô Hoài. Nhà văn đã viết đủ các thể loại từ truyện, kịch, kịch
phim, hoạt họa, đồng thoại… Số lượng đạt trên ba mươi tác phẩm nhưng thành
công vẫn là ở truyện. Tiêu biểu có Chiến sĩ Hà Nội, Chiếc xe bí mật, Con gà lờ đờ,
Chim hải âu, Vừ A Dính, Đàn chim gáy, Kim Đồng, Đảo hoang, Chiếc nỏ thần…
1.2.2.3. Thời kì đổi mới
Thời gian cứ trôi chảy, cuộc sống luôn biến chuyển, xoay vần đòi hỏi người
nghệ sĩ phải có cái tinh tường, cái kiên trì, dẻo dai để nắm bắt mạch nguồn ấy, viết
thành những dòng chữ cho bạn đọc cùng suy ngẫm. Bước sang thời kì đổi mới, xã
hội có nhiều thay đổi và văn học cũng vậy. Tô Hoài ghi lại những đổi thay, quan sát
xung quanh và khám phá ra mạch ngầm của dòng chảy cuộc sống. Ông không đi tới
những miền xa xôi của Tổ quốc mà trở về với những gì thân thuộc đã từng gắn bó
với mình từ nhỏ, trở về với lòng mình để trải nghiệm, để suy ngẫm. Chính vì thế
trong thời kì này chủ yếu là các sáng tác thuộc thể loại kí và tiểu thuyết. Tiêu biểu
có: Cát bụi chân ai (1992), Chuyện cũ Hà Nội I, II (1998, 2000), Chiều chiều
(1999), Ba người khác (2006)
Ở độ tuổi có thể nói là điều gì cũng đã từng trải qua, Tô Hoài mạnh dạn thể
hiện những suy ngẫm, chiêm nghiệm, hồi ức riêng tư về cuộc đời, về con người, về
thời kỳ lịch sử đã qua. Mỗi trang viết của ông trong các tác phẩm này có khi đưa
người đọc từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, cũng có khi khiến người ta phải lặng
mình suy nghĩ. Đó là sự thống nhất, là cái cốt văn phong mà Tô Hoài đã rèn dũa
trong hành trình văn chương mấy chục năm của mình. Giờ đây nó không những vẫn
đọng lại trong các trang sách của ông mà nó còn sâu sắc, còn đạt tới độ chín muồi.
“Dao có mài mới sắc”, “Gừng càng già càng cay”, với sự cần mẫn, bền bỉ, dẻo
dai, không ngừng học hỏi, tích lũy, tự vượt mình để sáng tạo, Tô Hoài đã tạo dựng
một chỗ đứng vững chãi trên nền văn học dân tộc.
18
1.2.3. Tiểu thuyết của Tô Hoài
Tô Hoài là một nhà văn lớn của dân tộc, có rất nhiều phương diện làm nên tầm
vóc đó của tác giả. Tô Hoài của những sáng tác về Hà Nội, Tô Hoài với miền núi
Tây Bắc, Việt Bắc, Tô Hoài của Dế Mèn phiêu lưu ký và những sáng tác cho thiếu
nhi, Tô Hoài của hồi ký tự truyện... Ở phương diện nào, Tô Hoài cũng tạo lập được
một giá trị riêng, một gương mặt riêng không thể nhòe lẫn. Trong thế giới nghệ
thuật hết sức đa dạng ấy, về mặt thể loại, không thể không nói đến tiểu thuyết, bên
cạnh truyện ngắn, hồi ký, bút ký, chân dung văn học. Nếu tính về số lượng thì trong
hơn 150 đầu sách của Tô Hoài, tiểu thuyết chỉ chiếm khoảng chục cuốn, đó là một
con số nhỏ bé so với toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông. Và hành trình viết tiểu
thuyết của Tô Hoài cũng trải đều qua các thời kì sáng tác từ khi ông mới khăn gói
vào nghề cho đến khi lên “lão làng” trong nền văn chương nước nhà. Hành trình ấy
kéo dài suốt nửa thế kỉ từ tiểu thuyết Mười năm (1958), đến gần đây nhất là cuốn
Ba người khác (2006). Thời gian viết các cuốn tiểu thuyết cách nhau rất đều, nếu
để ý sẽ thấy nhà văn luôn viết truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài trước, rồi sau đó
cho ra đời tiểu thuyết. Rất đều đặn, nhịp nhàng như là có kế hoạch trước. Và có lẽ
đó là một cách tích tụ tâm huyết, một bước đi “tích tiểu thành đại” của nhà văn trên
chặng đường viết tiểu thuyết của mình.
Tiểu thuyết là thể loại mà Tô Hoài được đánh giá một cách đa chiều hơn. Có
khen, có chê, có giải thưởng và có cả sự trầm lặng bình thản không buông lời. Vinh
quang và cay đắng trong cuộc đời cầm bút của một nhà văn, Tô Hoài đều nếm trải.
Tiểu thuyết Miền Tây đem đến cho Tô Hoài giải thưởng Hoa Sen của Hội nhà văn
Á - Phi, nhưng Mười năm lại từng bị chỉ trích gay gắt của một số cây bút phê bình
và giới lãnh đạo văn nghệ đương thời, còn một số tiểu thuyết được tác giả viết với
nhiều tâm huyết, công phu và vốn sống thì lại gặp sự thờ ơ của dư luận.
Nhìn đề tài, tiểu thuyết Tô Hoài có ba mảng lớn: về Hà Nội (chủ yếu vùng quê
ven thành) về miền núi (Tây Bắc, Việt Bắc), về thời huyền sử xa xưa của đất nước
(khai thác các truyền thuyết, cổ tích), ngoài ra còn có mảng đề tài khác viết về thời
cải cách như Ba người khác. Tô Hoài - nhà văn của Hà Nội, không chỉ ở tập ký đặc
19
sắc Chuyện cũ Hà Nội và những tập truyện ngắn Nhà nghèo, Giăng thề, Người
ven thành..., mà còn phần quan trọng là ở tiểu thuyết, trong đó phải kể đến Mười
năm (1958), Quê nhà (1980). Ở đề tài miền núi, Tô Hoài không chỉ xuất sắc trong
các truyện ngắn, các tập truyện ký, bút ký mà còn ở các tiểu thuyết Miền Tây, Tuổi
trẻ Hoàng Văn Thụ, Nhớ Mai Châu. Ở đề tài huyền sử xa xưa có thể kể đến Đảo
hoang, Chuyện nỏ thần, Nhà Chử.
Tiểu thuyết Tô Hoài là hình ảnh của dòng đời tự nhiên, chảy trôi miên viễn.
Cuộc sống hiện ra dưới cái nhìn của Tô Hoài thật dung dị tự nhiên như nó vốn thế:
có mọi thứ của sinh hoạt đời thường, vặt vãnh, cái tốt đẹp và cái tầm thường, có đời
sống xã hội, vận động của lịch sử và đời sống thế sự, sinh hoạt phong tục. Tô Hoài
vẫn được coi là nhà văn của những “chuyện thường, người thường, đời thường”.
Nhưng cũng không vì thế mà lại không thấy ở tác phẩm của ông, nhất là tiểu thuyết,
sự phản ánh những vấn đề xã hội và lịch sử, theo một cách riêng, xã hội và lịch sử
được nhìn nhận, được tái hiện trong những sự việc, chi tiết của đời sống sinh hoạt,
thế sự, gắn kết tự nhiên với đời sống thường nhật, với công việc làm ăn, những
buồn vui, đổi thay của số phận con người. Sự xen lẫn đan dệt một cách tự nhiên
giữa những hoạt động cách mạng với những chuyện làm ăn, mưu sinh, yêu đương,
mọi tập tục quen thuộc trong đời sống một làng quê. Nhãn quan phong tục đem lại
cho tiểu thuyết (và cả những thể loại khác) của Tô Hoài sức hấp dẫn riêng biệt và
độc đáo. Đọc Tô Hoài, người đọc được tiếp xúc với vô số phong tục, tập tục từ sinh
hoạt trong gia đình, trong nhà, đến những sinh hoạt cộng đồng, lễ hội, ma chay,
cưới hỏi..., ở rất nhiều vùng, từ làng quê ven thành, vùng đồng bằng Bắc Bộ đến
vùng đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền núi, cả ở những xứ sở xa xôi ngoài biên
giới. Bất cứ nhà dân tộc học, xã hội học nào cũng mong có được một vốn hiểu biết
cực kỳ phong phú, sinh động như của nhà văn Tô Hoài. Trong những tác phẩm viết
về thời dựng nước xa xưa, Tô Hoài tạo dựng được không khí và màu sắc huyền sử
bằng những bức tranh chi tiết cụ thể sống động về phong tục, sinh hoạt, lao động
của thời xưa cùng với những bức tranh thiên nhiên, trong thời kỳ mà bước chân và
bàn tay khai phá của con người đang lấn dần từ vùng đồi núi xuống vùng châu thổ
20
còn hoang sơ, rậm rạp, mênh mông, đến cả những hòn đảo ngoài biển. Có thể nói
tiểu thuyết là thể loại tập hợp hầu hết cá tính văn chương của nhà văn. Như vậy, khi
chọn thể loại tiểu thuyết để nghiên cứu dưới góc độ tự sự học thực sự sẽ giúp cho
người nghiên cứu cũng như độc giả hiểu một cách sâu sắc, nhất quán về phong
21
cách một nhà văn lớn của dân tộc.
CHƯƠNG 2
NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN VÀ XÂY DỰNG NHÂN VẬT
2.1. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện
Tổ chức cốt truyện là một trong những phương diện cơ bản của nghệ thuật tự
sự. Đó là sự cụ thể hóa, sinh động hóa chủ đề, tư tưởng tác phẩm, thể hiện tài năng,
phong cách và quan niệm nghệ thuật của mỗi nhà văn. Nếu cốt truyện hấp dẫn thì
không những lôi cuốn được người đọc ngay từ những trang đầu tiên mà còn giúp
nhà văn xây dựng được những tính cách sinh động từ đó bộc lộ tư tưởng, chủ đề
một cách sâu sắc. Một nhà tiểu thuyết Anh đã khẳng định: “Nhà văn sống bằng cốt
truyện y như họa sĩ sống bằng màu và bút vẽ vậy” (trích theo [29; 41]). Trong tác
phẩm tự sự, cốt truyện là cái khung để đỡ cho toàn bộ tòa nhà nghệ thuật ngôn từ
đứng vững. Loại bỏ cốt truyện, văn bản tự sự lập tức chuyển sang dạng văn bản
khác. Từ thế kỉ XIX trở về trước, nhà văn khi bắt tay vào kể câu chuyện, là lúc họ
đã có được một cốt truyện độc đáo, đáng chú ý theo kiểu riêng của mình. Về cơ bản,
kể từ văn bản tự sự cổ xưa nhất trong văn học viết còn lưu được cho đến nay, Anh
hùng ca về Gilgamesh, cốt truyện của tự sự hầu hết tuân thủ nguyên tắc: có truyện
để kể. Kèm thêm một điều kiện bất di dịch: sự hấp dẫn li kì được đặt trong tiến trình
kịch tính. Sang thế kỉ XX, đã xuất hiện hiện tượng không ít nhà nghiên cứu phê
bình lẫn nhà văn đều tuyên bố cốt truyện không còn trong tác phẩm tự sự nữa.
Những nhà văn “mạnh mồm” nhất cho loại tuyên ngôn này là nhóm tác giả thuộc
trào lưu Tiểu thuyết Mới. Sau một hồi say mê đến mức cực đoan với những nỗ lực
cách tân, họ quả quyết, cốt truyện (cùng với nhân vật,...) đã biến mất khỏi địa hạt tự
sự. Thế là một hậu quả nghịch lí kì khôi xuất hiện: với tư cách là những người đang
sáng tạo tiểu thuyết, đang đảm bảo cho sự phát triển của thể loại, họ lại đưa ra tuyên
bố: tiểu thuyết đã chết. Trong khi đó, vĩnh viễn tiểu thuyết cũng như mọi hình thức
tự sự khác đều không bao giờ chết. Điều này đồng nghĩa với việc cốt truyện cũng sẽ
luôn là thành tố cốt lõi, đồng hành với bất kì hình thức tự sự nào. Chỉ có điều, qua
22
thời gian, cốt truyện phải được đổi khác để đáp ứng những nhu cầu mới về thẩm mĩ.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về cốt truyện. Theo giáo trình Lí luận văn học
của trường Đại học Sư phạm Hà Nội, cốt truyện là “hệ thống sự kiện cụ thể được tổ
chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản,
quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc loại tự sự và
kịch” [15; 88]. Còn theo giáo trình Lí luận văn học của khoa Ngữ văn, trường đại
học Tổng hợp Hà Nội, ( nay thuộc Đại học Quốc gia) “cốt truyện là một hệ thống
các sự kiện phản ánh những diễn biến của cuộc sống và nhất là các xung đột xã hội
một cách nghệ thuật, qua đó các tính cách hình thành và phát triển trong những mối
quan hệ qua lại của chúng nhằm làm sáng tỏ chủ đề và tư tưởng tác phẩm” [9; 137].
Chất liệu cơ bản để tạo nên cốt truyện là các sự kiện, biến cố, tình tiết. Trong đó sự
kiện – đó là những việc có tác động và ảnh hưởng đáng kể đến số phận và tính
cách của nhân vật. Biến cố là những sự kiện lớn, có thể tạo thành những bước ngoặt
quan trọng trong cuộc đời nhân vật. Còn những yếu tố cụ thể tạo thành sự kiện được
gọi là tình tiết.
Cốt truyện có rất nhiều cách phân loại khác nhau: Có các kiểu cốt truyện chia
theo tiêu chí hình thức thể hiện, các kiểu cốt truyện dựa trên tiêu chí nội dung
(cốt truyện triết học, cốt truyện luận đề,...), kết cấu (cốt truyện mở, cốt truyện
đóng, cốt truyện kết thúc bất ngờ,...), trường phái (cốt truyện lãng mạn, cốt
truyện hiện thực, cốt truyện hiện thực huyền ảo, cốt truyện cực hạn,...). Thậm
chí còn có thể chia nhỏ hơn dựa vào các thể loại và tiểu loại như cốt truyện cổ
tích, cốt truyện ngụ ngôn, cốt truyện trinh thám, cốt truyện kinh dị,...Lựa chọn
cách phân chia nào là tùy thuộc vào quan điểm cá nhân. Tuy vậy, đối với tác
phẩm tự sự cách phân chia cốt truyện theo tiêu chí hình thức thể hiện được sử
dụng phổ biến hơn cả. Theo đó có ba tiêu chí cơ bản là dựa vào sự kiện, thời
gian, nhân vật. Trên ba tiêu chí cơ bản đó có nhiều các loại hình cốt truyện
khác nhau.
2.1.1. Cốt truyện sự kiện trong tiểu thuyết của Tô Hoài
Khảo sát bốn tiểu thuyết của Tô Hoài chúng tôi nhận thấy tác giả thiên về
23
việc sử dụng kiểu cốt truyện truyền thống là cốt truyện sự kiện (Cốt truyện sự
kiện có đặc điểm là các sự kiện, biến cố của cuộc đời, số phận nhân vật được kể theo trật
tự biên niên giống như thực tế đã xảy ra và chủ yếu kể hành động hơn là đi sâu khám phá
thế giới nội tâm nhân vật. Các sự kiện quan hệ theo mạch nhân quả, được triển khai liên
tục, cho đến hết truyện). Trong những sáng tác của mình, Tô Hoài ít khi sử dụng
thuần túy cốt truyện tâm lí ( Truyện được triển khai dựa trên tâm lí của nhân vật với
những bức xúc, dằn vặt nội tâm, sự vận động nội tâm đó là cơ sở thúc đẩy truyện phát
triển ), đó không phải là sở trường của ông. Mặt mạnh của ông có lẽ là ở cốt truyện
sự kiện. Tuy nhiên, Tô Hoài đã sử dụng một cách linh hoạt loại hình cốt truyện sự kiện
để tạo nên sự hấp dẫn riêng cho mỗi tác phẩm.
Ở các tiểu thuyết Đảo hoang, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Miền Tây, cốt truyện
phát triển theo trật tự thời gian trước sau và có mối liên hệ nhân quả nhất định. Các sự
kiện tương đối nhiều nhưng lại ít biến cố lớn làm thay đổi mạch truyện. Dường như cốt
truyện là một chu trình đã được lên giây cót, chạy đều, ít mâu thuẫn, xung đột căng
thẳng, ít kịch tính. Ở các tiểu thuyết của mình, Tô Hoài đã biết cách tổ chức các sự kiện,
các chi tiết, tình tiết truyện sao cho đạt hiệu quả cao nhất, thể hiện được ý đồ nghệ thuật.
Tiểu thuyết Đảo hoang được phát triển trên cơ sở của truyện cổ tích Quả dưa hấu
nên kết cấu truyện giống với truyện Quả dưa hấu. Đó là hành trình Mai An Tiêm từ lúc
bị đầy ra đảo đến lúc trở về đoàn tụ. Tuy vậy, cốt truyện đó được Tô Hoài xây dựng một
cách công phu, sáng tạo gây hấp dẫn cho người đọc. Trạng thái khởi đầu được kể qua các
chi tiết: Mai An Tiêm xin đi chống lũ ở vùng sông Cái, xây dựng vùng nước lũ trở
thành một vùng đất mới tên là Bãi Lở. Sự kiện này được Tô Hoài kể theo mối quan
hệ nhân - quả nhưng kết quả đặt trước và nguyên nhân kể sau. Đó là một thói quen
nhưng cũng chính là một dấu ấn riêng mà Tô Hoài hay sử dụng trong các sáng tác
của mình. Biến cố đầu tiên, là nền tảng cho các biến cố tiếp theo bắt đầu bằng sự
kiện dân Bãi Lở dưới sự lãnh đạo của Mai An Tiêm giành chiến thắng ở tất cả các
phần thi: “Tin cõi Bãi Lở đã giật giải cơm thi lại giật giải vật, làm cho khắp nơi
càng rộn rịch hơn”. Và sự kiện trung tâm là khi Vua Hùng nghe lời xu nịnh của
mưu sĩ mà đầy gia đình An Tiêm ra đảo: “Mưu sĩ tâu: An Tiêm có tội, phải khép nó
24
vào tội chết mới được” vì “Hơn mười năm nay, An Tiêm toàn mưu đồ những
chuyện phạm thượng và phản trắc” nên “Ngoài bể Đông có dải đất chưa ai đến bao
giờ, nó xấc xược như thế thì bắt nó phải chung thân biệt xứ ra đảo hoang giữa bể để
xem nó có phép biến chết thành sống, để xem nó có thân lập nổi thân như nó thường
khoác lác hay không. Vả chăng, như thế cũng để dứt mối lo về sau” và “Thế là cả
nhà An Tiêm bị bắt bỏ ngục” rồi “Một sớm kia, Phong Châu còn ngủ im trong làn
sương dày” thì cả nhà An Tiêm bị áp giải ra đảo. Biến cố ấy là bước ngoặt khiến gia
đình An Tiêm rơi vào hoàn cảnh khó khăn, thậm chí là cái chết có thể đến bất cứ lúc
nào; nhưng nó cũng là khởi đầu cho một cuộc sống mới, một cuộc chiến đấu giành
sự sống, một bài ca về lòng dũng cảm, nghị lực phi thường và tình yêu vô bờ của
gia đình Mai An Tiêm. Từ biến cố khởi đầu đó, cốt truyện được tập trung vào cuộc
sống của gia đình An Tiêm trên đảo. Cuộc sống ấy kéo dài tưởng chừng như không
có thời gian với hàng loạt các sự kiện, các biến cố tiếp tục nối kết nhau theo vòng
thời gian để đẩy câu chuyện càng ngày càng trở nên hấp dẫn. Trong cốt truyện của
Đảo hoang ta thấy các sự kiện, hành động của nhân vật là nhân tố quan trọng nhất
thúc đẩy sự vận động của mạch truyện, tạo ra những điểm thắt nút, tạo nên cao trào
cho sự phát triển của cốt truyện. Trong các sự kiện đó, có sự kiện trung tâm trở
thành biến cố làm thay đổi cuộc sống của gia đình An Tiêm trên đảo. Đó là sự kiện
rồng cuốn nước phá tan ngôi nhà trong rừng của gia đình An Tiêm, khiến gia đình li
tán, bố mẹ và em gái ở một phương, cậu con trai của An Tiêm là Mon ở một
phương: “Trời ơi! Rồng cuốn nước đến đây rồi…Một con nước xô lên quá nóc lều
rồi những con nước ập xuống, cả bóng tối khoảng rừng ngụp vào. Mon lật đật
quàng tay ôm cây thang. Nước đánh dựng lên rồi ngã xuống”. Nếu biến cố đầu tiên
là gia đình An Tiêm bị đầy ra đảo thì biến cố thứ hai là gia đình An Tiêm bị chia li
trong cơn bão ngoài đảo. Biến cố này là sự tiếp nối của biến cố thứ nhất củng cố
những khó khăn chồng chất mà các thành viên trong gia đình gặp phải, đặc biệt là
khi họ bị tách rời; mặt khác nó cũng là sự kiện đánh dấu sự trưởng thành của con
trai Mai An Tiêm là Mon, là sự kiện khẳng định chắc chắn hơn nữa nghị lực phi
thường, vượt lên tất cả, luôn tin tưởng, hy vọng vào những điều tốt đẹp của các
25
thành viên trong gia đình An Tiêm. Sự kiện Mon đưa mọi người ra đảo để lập vùng
đất mới đóng vai trò như sự kiện kết thúc. Sự kiện kết thúc đóng lại cốt truyện và ta
thấy ở đó là một sự sáng tạo, một sự khác biệt với cốt truyện cổ tích ta đã đọc. Đó là
một sự phát triển, một bước nâng cao ý nghĩa cho câu chuyện. Sự kiện trước là
nguyên nhân, là nền tảng để sự kiện sau hình thành. Việc cơn bão đánh tan ngôi nhà
của An Tiêm, khiến Mon phải sống xa gia đình, là để Mon sống tự lập, rèn luyện
chí hướng, tinh thần quả cảm giống như An Tiêm, để Mon trưởng thành, đủ điều
kiện nối chí cha ra lập vùng đất mới ở phía nam của Tổ quốc. Cốt truyện tuy không
mang độ căng của những mâu thuẫn, xung đột xã hội gay gắt nhưng vẫn có sức hấp
dẫn, vẫn đầy kịch tính nhờ các sự kiện, biến cố đầy tính sáng tạo của nhà văn. Tiểu
thuyết Đảo hoang có nhiều sự kiện và biến cố được thiết lập thành một chu trình
đầu cuối khá hoàn hảo nhưng không phải để lí giải về giống dưa hấu như truyện cổ
tích, mà là nhằm ca ngợi ý chí, nghị lực, lòng quả cảm, tình yêu lao động, yêu động
vật và trên hết tình thương, niềm tin giữa những người trong gia đình. Cuộc sống
nếu có những đức tính đó sẽ chiến thắng mọi trở ngại, mọi khó khăn, nguy hiểm
trên đời.
Nếu ở Đảo hoang tác giả xây dựng cốt truyện về ý chí của con người trong
cuộc sống hàng ngày thì với Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ tác giả xây dựng cốt truyện
về ý chí của người Cộng sản khi làm cách mạng. Tiểu thuyết Tuổi trẻ Hoàng Văn
Thụ cũng mang mô hình của loại tiểu thuyết sự kiện theo dòng thời gian. Chính Tô
Hoài có nói ông muốn “thể nghiệm một cách viết người thực việc thực”. Chính vì
viết về người thực việc thực nên các sự việc và nhân vật trong tác phẩm đều thực,
Tô Hoài không hư cấu, cũng không thêm bớt, thay đổi ngày tháng. Sự thể nghiệm
cách viết này của Tô Hoài lại có những thú vị, hấp dẫn riêng bởi “không có câu
chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do cuộc sống viết ra”. Viết về một giai đoạn
cách mạng, một thực tế đời sống cách mạng lúc bấy giờ là một đòi hỏi, một sự mới
mẻ bởi: “Thực tế cách mạng Việt Nam phong phú và kì diệu đến mức nhiều sự việc
đã diễn biến phức tạp, éo le, đầy đủ. Chặt chẽ, sinh động và cao đẹp vượt xa những
chuyện tưởng tượng công phu, nhiều quần chúng và cán bộ cách mạng do bản thân
26
trải qua những thử thách ác liệt, những giây phút một mất một còn, đã phát huy
được trí tuệ và phẩm chất để tự mình trở thành những điển hình hoàn hảo của thời
đại, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng” [13; 348]. Tô Hoài đã tìm hiểu, đã nghe,
nói chuyện với các nhân vật thực để có được kho tư liệu phong phú viết nên tác
phẩm. Bằng sự tinh tế, khả năng cảm thụ và chọn lọc của mình ông đã miêu tả và
diễn đạt các sự việc lịch sử một cách thoải mái, sinh động và cụ thể như chính Tô
Hoài là người trong cuộc. Cốt truyện của Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ kể lại hành trình
của hai người trẻ tuổi, đặc biệt là Hoàng Văn Thụ, từ khi đi tìm đường cho đến khi
tổ chức được cơ sở Đảng rộng khắp các huyện, các tỉnh, ra cả Hà Nội và sang nước
ngoài. Hành trình của người cộng sản trải qua rất nhiều sự kiện, bắt đầu từ lúc Thụ
và Chi lên đường đi tìm cách mạng, ngây thơ và hào hứng như đi vào một cuộc
phiêu lưu của tuổi trẻ cho đến mùa thu năm 1935 khi Thụ đã mở rộng được căn cứ
cách mạng, trở thành một cán bộ, lên đường về Thủ đô. Cốt truyện chỉ tập trung
xoay quanh một phần cuộc đời nhân vật là khi anh còn trẻ, với hai giai đoạn: giai
đoạn đầu nhiều bỡ ngỡ, khó khăn, giai đoạn hai trưởng thành, dày dặn. Trên hành
trình đi tìm đường cách mạng nhân vật Thụ gặp phải muôn vàn khó khăn, “tính
mệnh có khi được bàn trong một bữa rượu”. Rồi tổ chức cách mạng đầu tiên được
lập ra chỉ với ba người trẻ tuổi đập chén rượu thề cùng sống chết như cuộc kết nghĩa
vườn đào, gọt trọc đầu để vào lính Quốc dân đảng, tạm tránh nguy cơ cạn tiền, cạn
gạo, cuộc đi thê thảm lên vũ Hán giữa cái lộn xộn, chết chóc của đất nước Trung
Hoa thời Tưởng Giới Thạch, sự đi không thành thì trở về có khi mót dây khoai, lúc
rình bắt thỏ rừng có khi phải đi ăn mày; có lúc Thụ còn sắm bộ đồ cắt tóc kiếm ăn,
đeo đại đao tham gia Long Châu Đỏ. Bằng hàng loạt các sự việc sống động mà
phảng phất không khí giang hồ mãi võ, Tô Hoài đã dựng lại một cách chân thực
chặng đường đầu đến với cách mạng của Hoàng Văn Thụ. Các sự kiện đó phản ánh
được nhiệt tình hăng hái của không chỉ riêng Hoàng Văn Thụ mà còn là của những
thanh niên yêu nước Việt Nam thời bấy giờ, không do dự, tính toán, với tất cả lòng
tin tưởng và sự say mê của tuổi hai mươi. Sau hàng loạt các sự kiện kể về chặng
đường vượt khó của Hoàng Văn Thụ, sự kiện chính là Hoàng Văn Thụ về lại Long
27
Châu gặp lại Chi và nói : “Bây giờ thì làm gì cũng được chúng ta đã khác lắm rồi”.
Câu nói đó đánh dấu bước ngoặt trưởng thành của Thụ. Hành trình cách mạng của
anh rẽ sang một hướng mới. Trong chặng thứ hai đó các sự kiện chính tập trung vào
sự mở rộng của cơ sở cách mạng, sự trưởng thành của nhân vật Thụ. Cái làm nên
xương thịt của tiểu thuyết là nhân vật – con người. Nhưng ở đây chính sự việc lại
làm cho nhân vật tràn đầy sức sống, làm cho câu chuyện có sức hấp dẫn, lôi cuốn
người đọc. Với vốn sống phong phú, sự quan sát tinh tường, Tô Hoài đã không tự
giới hạn câu chuyện trong phạm vi một cuộc đời, không chỉ kể lại quá trình hoạt
động của Hoàng Văn Thụ khi còn trẻ mà qua các sự kiện, các chi tiết sinh động, tác
giả đã dựng lại bộ mặt chung của một phong trào đang nhen nhúm, trưởng thành
trong lòng những người dân nghèo yêu nước. Không chỉ kể được về một nhân vật
lịch sử mà còn kể về những con người quần chúng, những con người đóng góp lớn
cho sự thành công của cách mạng, điều mà sách lịch sử không làm được.
Trong lịch sử phát triển của nghệ thuật tự sự, loại hình cốt truyện sự kiện ra
đời rất sớm và được sử dụng rộng rãi, đặc biệt được phát huy khi viết những tác
phẩm thuộc trào lưu hiện thực phê phán. Loại cốt truyện này thường có những xung
đột xã hội gay gắt, được đẩy lên cao trào để qua đó tính cách nhân vật được bộc lộ
và phát triển, từ đó khái quát thành những vấn đề xã hội điển hình. Ở hai tiểu thuyết
Đảo hoang và Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ tác giả không xây dựng những xung đột xã
hội gay gắt, không tạo ra những mâu thuẫn đòi hỏi nhất định phải giải quyết nhưng
tác phẩm vẫn hấp dẫn người đọc, vẫn có những sự kiện thu hút, kích thích khả năng
tưởng tượng của độc giả. Bởi vấn đề Tô Hoài hướng đến là vấn đề hàng ngày của
mỗi người, những chuyện thường nhật, những suy nghĩ, những đức tính cao đẹp của
con người, nhất là những con người của cách mạng, con người của một thời kì cộng
sản. Cả hai tiểu thuyết trên đều có sườn truyện từ trước, song cốt truyện mà Tô Hoài
dựng lên thực sự vẫn là một cái mới, một cốt truyện gợi lại được không khí huyền
sử xa xưa và không khí sôi sục cách mạng một thời của dân tộc, đồng thời vẫn còn
nguyên giá trị với cuộc sống con người hiện đại. Bằng khả năng sáng tạo, Tô Hoài
đã bồi đắp vào sườn truyện đó như khớp nối phần xương rời rạc thành một khối
28
thống nhất.
Cốt truyện của tiểu thuyết Miền Tây tập trung vào việc miêu tả công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở vùng cao vì thế các sự kiện của truyện là sự thay đổi về
kinh tế, chính trị, xã hội; về văn hóa, tư tưởng và về con người. Để thấy được sự
thay đổi đó, tác giả đã xây dựng hai cảnh đời trái ngược nhau: cảnh đời trước Cách
mạng và sau Cách mạng mà cảnh hai phiên chợ là môi trường, hoàn cảnh cũng là sự
việc trung tâm thể hiện sự thay đổi đó. Phiên chợ Phiềng Sa trước kia với các chi
tiết thể hiện sự khốn khổ của người dân vùng cao: những đoàn ngựa của bọn lái
buôn bất chấp mọi điều vơ vét cho đầy túi tiền qua các phiên chợ, các cô gái nghèo
đi chợ ngượng ngùng vì váy áo rách rưới, những khuôn mặt gầy guộc, bạc phếch
của những ông già suốt đời không ăn một hạt muối, cảnh nhân dân chen chúc, dẫm
đạp, xô đẩy nhau mua muối của lão khách Sìn, những tên lính dõng hung hăng la
hét vừa đi vừa cướp hàng để thu thuế…Và phiên chợ sau Cách mạng với không khí
lao động hồ hởi, vui tươi của người dân: ngựa thồ lọc cọc, leng keng kéo nhau đi
từng đàn, các chị ríu rít vui đùa với trẻ con, tranh nhau nắm đuôi ngựa để leo dốc,
các cụ bà ngồi se lanh thêu áo, trẻ con đốt lửa nướng ngô, trai gái vui vẻ đi mua
hàng, hàng rượu và hàng thắng cố tấp nập người ra vào chè chén nhưng họ vào để
nói chuyện về việc làm ăn, lao động như tổ đổi công, hàng sắp lên, thuốc trừ
sâu…Song song với cảnh hai phiên chợ tác giả tập trung vào làm rõ sự thay đổi về
con người qua gia đình bà Giàng Súa. Trước kia thì chui rúc như những bóng ma,
dắt díu nhau chạy trốn vào trong rừng và luôn ở trong trạng thái bất an, sống tách
biệt với mọi người. Nhưng nay cuộc sống của gia đình bà đã khác, con trai, con gái
trở thành cán bộ, bản thân bà được tôn trọng, được sống trong tình cảm làng bản,
trong niềm vui đổi mới của cộng đồng. Truyện ít những sự kiện, chi tiết miêu tả
cuộc sống cũ, mà chủ yếu là tập trung vào những sự kiện, chi tiết ở cuộc sống mới.
Đó là những đổi thay trong cuộc sống sau ngày chính quyền cách mạng thành lập.
Tác giả miêu tả mở rộng với nhiều sự kiện, chi tiết riêng lẻ nhưng được đặt trong
mối liên hệ ràng buộc với hoàn cảnh xã hội. Đó là những đổi thay về kinh tế, không
còn cảnh phụ thuộc, cảnh nô lệ, cướp bóc, thay vào đó là cảnh nô nức lao động,
29
khắp nơi giúp đỡ nhau làm nương, làm rẫy… Đó là đổi thay về chính trị, không còn
cảnh những quan tây, những bọn thống lý cai trị, mà là những cán bộ cách mạng
xuất thân từ tầng lớp người lao động; tuy có được chính quyền nhưng phải cảnh
giác với âm mưu mới của kẻ thù…Đó là thay đổi trong con người, bà Giàng Súa với
niềm vui khi được sống như một con người thực sự; Thào Khay, Thào Mỵ trưởng
thành, đi học để xây dựng xóm thôn đổi mới, Vừ Sá Tỏa trở thành cán bộ được
nhân dân yêu mến… Hệ thống sự kiện về kinh tế, chính trị làm nền cho quá trình
vận động đổi mới của nhân vật. Tô Hoài đã kết hợp đan xen giữa hệ thống sự kiện
làm nền và bức tranh tâm trạng của nhân vật để dẫn dắt sự phát triển của cốt truyện.
Cốt truyện của Miền Tây ít những biến cố lớn bởi thực tế cách mạng thắng lợi đã là
một biến cố lớn chi phối sự phát triển của câu chuyện. Tô Hoài không miêu tả sự.
Chính vì không nhằm mục đích phê phán hiện thực, không nhằm nêu lên sự đấu
tranh của các giai cấp mà chủ yếu là tái hiện cuộc sống mới ở miền Tây nên tác
phẩm không có xung đột, mâu thuẫn chính trị - xã hội cấp thiết phải giải quyết.
Cả ba tiểu thuyết trên theo dòng thời gian là sự trải nghiệm của Tô Hoài ở mỗi
chặng khác nhau của cuộc đời nhà văn, đồng thời đó cũng là các thời kì phát triển
của lịch sử dân tộc. Và dù là viết về thời huyền sử xa xưa, về thời kì cách mạng sôi
sục, về kết quả tốt đẹp mà cách mạng mang lại thì đều có một điểm chung là tác giả
đã xây dựng cốt truyện phát triển theo thời gian tuyến tính, các sự kiện, chi tiết xảy
ra có trật tự trước sau, sự kiện sau là bước phát triển của sự kiện trước. Cách xây
dựng cốt truyện này mang tính chất truyền thống tuy đơn giản, không sử dụng đến
các thủ pháp giải mã tình tiết, hành động nhưng xét ở góc độ lịch sử nó lại là cách tổ
chức hợp lí, tạo được hiệu quả nghệ thuật và từ đó càng khẳng định sự thống nhất
cũng như sự liền mạch của phong cách nhà văn không chỉ trong truyện ngắn, ký mà
trong cả thể loại tiểu thuyết.
Vẫn là cốt truyện ít cầu kì, phức tạp; ít biến cố, xung đột, nhưng ở Ba người
khác đã có sự linh hoạt trong cách tổ chức các sự kiện, chi tiết. Hành động, sự việc
trong truyện không còn tuân thủ nguyên tắc trước sau về mặt thời gian mà đã bị đảo
lộn, nhảy cóc. Cốt truyện không phát triển theo một chuỗi sự kiện có trình tự mà là
30
sự lắp ghép các sự việc của một thời kì đã qua và hiện lên qua hồi ức của một nhân
vật anh đội xưng “tôi”. Tiểu thuyết lấy bối cảnh chung là nông thôn Việt Nam trong
những năm đầu diễn ra cuộc cải cách ruộng đất nhưng cốt truyện của tác phẩm
không đi vào miêu tả toàn bộ diện mạo của cuộc cải cách mà chỉ tập trung vào một
vài khía cạnh. Đó là những sinh hoạt thường ngày, công việc cải cách của đội cải
cách. Cốt truyện nương theo mạch hồi tưởng của anh đội Bối – nhân vật xưng “tôi”,
trung tâm của cốt truyện là ở phần hồi tưởng về thời cải cách. Mở đầu là sự kiện đội
cải cách do Cự dẫn đầu về làm cải cách ở “vùng hai trăm ngày”. Sau sự kiện này là
hàng loạt các sự kiện về những con người tham gia cải cách và người nông dân. Câu
chuyện không nhiều sự kiện, biến cố lớn, các sự kiện không có mối quan hệ nhân
quả với nhau mà nó là các phần riêng lẻ hiện lên trong kí ức anh đội do đó mạch
truyện phóng túng, rất khó có thể tóm tắt câu chuyện một cách gọn gàng. Bắt đầu
Bối kể lại chuyện kể khổ ở hội nghị của một anh rễ rồi lại trở về hiện tại với hoạt
động cải cách ruộng đất, sau đó lại hồi tưởng kể lại chuyện trước khi tham gia cải
cách. Có lúc đang kể chuyện cải cách lại bắt sang kể chuyện về Đình bị bắt như thế
nào, và cuộc gặp lại 20 năm rồi sau đó trở lại với không khí của những ngày đi cải
cách ruộng đất, sau đó lại tiếp tục kể về cuộc sống của mình mười mấy năm sau với
cuộc gặp gỡ với Tư Nhỡ và kết thúc bằng câu chuyện về Cự.
2.1.2. Tổ chức diễn biến cốt truyện trong tiểu thuyết của Tô Hoài
Có cốt truyện chỉ là những diễn biến bình thường, thầm lặng của đời sống, khó
mà kể lại cho hấp dẫn, nhưng đa số các cốt truyện đều đi sâu khai thác những xung
đột khác nhau của đời sống. Và do đó nhìn vào cốt truyện người ta có thể tìm ra các
bước diễn biến của cốt truyện. Đó là một quá trình tương đối hoàn chỉnh giống như
quá trình vận động của một xung đột, nghĩa là có mở đầu, thắt nút, phát triển và kết
thúc. Tiểu thuyết của Tô Hoài chủ yếu sử dụng loại cốt truyện sự kiện nên diễn biến
của cốt truyện cũng được nhà văn tổ chức theo mô hình vận động của một câu
chuyện hoàn chỉnh.
Phần trình bày thường có nhiệm vụ giới thiệu một cách khái quát hoàn cảnh
nảy sinh xung đột chính của tác phẩm, đồng thời giới thiệu một cách sơ lược lai lịch
31
của các nhân vật về lứa tuổi, nghề nghiệp, quan hệ gia đình, quan hệ xã hội. Các
nhân vật lúc đó chưa có sự vận động trong tính cách, trong hoàn cảnh xung đột.
Phần trình bày có thể ở đầu, có thể ở giữa, và có thể ở kết thúc tác phẩm chứ không
nhất thiết phải ở phần đầu của văn bản. Phần trình bày ở vị trí nào là một thủ pháp
kĩ thuật, là sự lựa chọn có “chiến lược” theo ý đồ thẩm mỹ của nhà văn.
Phần trình bày mang tính truyền thống thường là câu chuyện được bắt đầu
bằng một giới thiệu tóm tắt về nhân vật và bối cảnh của câu chuyện. Một số tiểu
thuyết của Tô Hoài có phần trình bày như vậy. Ta có thể nhận thấy điều đó qua tiểu
thuyết Miền Tây và Ba người khác. Trong tiểu thuyết Miền Tây, sau khi giới thiệu
về đoàn lái buôn mang hàng lên vùng cao, là những lời giới thiệu về gia đình bà
Giàng Súa, một cách bài bản về gia cảnh, về cuộc sống và số phận hiện tại của bà:
“Bà Giàng Súa bỗng sợ hãi nghĩ đến các con…Đời bà con ngựa chỉ mang tai họa
đến mà thôi. Năm ấy, đương vụ làm nương xuân, chồng bà Giàng Súa phải bỏ cày.
Mùa nương nhà dân sao bằng mùa thuốc nhà quan, ông Giàng Súa đành cắm cái cày
giữa nương đi tải thuốc phiện cho nhà thống lý. Con ngựa tải thuốc phiện chuyến ấy
chẳng may tuột chân xuống vách đá”. Có rất nhiều lời đồn thổi về cái chết của
chồng bà, chẳng biết thực hư thế nào nhưng sau đó cả làng đồn thổi nhau “Giàng
Súa là con ma”, rồi họ tìm cách giết mẹ con bà, cả nhà phải dắt díu nhau chạy trốn
vào trong rừng sâu và sống cuộc sống tách biệt với cộng đồng. Như vậy, ngay ở
phần mở đầu của tác phẩm, tác giả đã trình bày bối cảnh diễn ra câu chuyện là ở
vùng cao miền Tây, bắt đầu từ những phiên chợ Phiềng Sa, rồi số phận của gia đình
bà Giàng Súa để sau này thấy được sự thay đổi do cách mạng mang lại. Phần trình
bày trong tiểu thuyết Ba người khác cũng là những lời giới thiệu sơ lược về bối
cảnh nảy sinh câu chuyện và lai lịch của anh đội Bối – nhân vật “tôi”. Đó là hội
nghị tổng kết công tác cải cách ở các huyện lị với câu chuyện chảy nước mắt về một
cố nông, và sau đó là sự ra đi rầm rộ của các đội cải cách mới. Trong đó có những
dòng giới thiệu về việc đội cải cách mới của anh Bối cùng đội với đội trưởng Cự và
anh đội Đình: “Tổng kết xong các đội lại đi đợt mới. Cuộc ra quân rầm rộ có xếp
hàng nghe mệnh lệnh xuất kích như chiến dịch thời kháng chiên. Đợt này khu vực
32
làm bao trùm cả Hải Dương, Kiến An, cải cách thẳng không qua giảm tô”. Tiếp sau
hành trình về làng làm cải cách của đội cải cách mười hai người là phần giới thiệu
sơ lược về tiểu sử của nhân vật “tôi”: “Năm ấy, tôi ngót ba mươi. Từ tấm bé chỉ ở
thành phố. Đến tuổi đi làm kiếm được chân giữ cửa trông kẻ cắp cho hiệu thịt bò
“Sáp phăng giông” phố Tràng Tiền. Cách mạng thì vào tự vệ phố, đến lúc kháng
chiến không còn đội tự vệ nữa, nhưng tự cho mình đã là Việt Minh, tôi đi theo
kháng chiến lên Việt Bắc. ..” Tác giả đã để cho anh đội Bối tự giới thiệu về phần
đời trước của mình từ lúc còn bé, đến khi bắt đầu đi làm, rồi tham gia cách mạng,
trốn tự vệ tìm mọi cách để trốn khỏi trạm kiểm soát đi tìm vợ và con gái, rồi sau đó
lại quanh quẩn đi hết vùng này đến vùng kia và trở về Hà Nội lấy vợ, sinh con, sau
đó tham gia đội cải cách. Cách giới thiệu ở phần đầu mang tính truyền thống này dự
báo phần diễn biến sau đó là các lớp sự kiện, chi tiết tập trung làm nổi bật tính cách
nhân vật và môi trường hoạt động của nhân vật đó.
Cùng với cách thể hiện phần trình bày mang tính truyền thống, Tô Hoài cũng
sử dụng cách thức tổ chức phần trình bày linh hoạt với phần mở đầu bằng những
dòng miêu tả về thiên nhiên – mùi hương hồi của đất Lạng Sơn : “Rõ ràng trong
bóng tối mà mắt trông thấy được, cuồn cuộn thành luống qua những khe tường đất
bên nách cửa, có một mùi ấm và thơm lạ lùng. Chả mấy chốc mùi thơm đã đầy nhà,
nồng nàn đến tận chân tóc (…). Buổi sáng mọi người đều đổ ra đường. Ai cũng
đứng ngửng lên cho thấy mùi hồi chín chảy qua mặt. Rừng hồi ngào ngạt xanh thẫm
trên các quả đồi quanh làng. Những cơn gió sớm đẫm mùi hồ, từ các đồi trọc Lộc
Bình xôn xao xuống, tràn vào cánh đồng Thất Khê, ùa lên những hang đá Văn
Uyên, Thoát Lãng trên biên giới xuống Cao Lộc, Chi Lăng, qua những vùng hồi mà
một mảnh lá gãy cũng dậy mùi thơm, gió cang thơm ngát (…). Và cứ khi mùi hồi
chín lại thấy cơ man người đi trèo hồi, hái thuê…” (Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ). Đọc
phần đầu người đọc dường như tự thắc mắc tại sao kể về cuộc đời Hoàng Văn Thụ
mà lại mở đầu bằng hương hồi và cuộc sống của người dân với hồi, chẳng có sự
móc nối nào. Nhưng Tô Hoài không giới thiệu về Hoàng Văn Thụ như cách trình
bày thông thường bởi nó đã quá đủ đầy trong những tư liệu lịch sử, và sẽ là thừa
33
nếu giới thiệu trong tiểu thuyết này. Tác giả đã lựa chọn hương hồi là hương vị của
thiên nhiên vùng biên giới Tổ quốc để mở đầu, để giới thiệu nhằm ẩn ý hướng tới
hành trình cách mạng của nhân vật. Ở đây, ta thấy có nét tương đồng với truyện
ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, cũng mở đầu bằng hình ảnh rừng xà
nu bạt ngàn, hùng vĩ nhưng đau thương như chính con người Tây Nguyên vậy. Ở
tiểu thuyết này hương hồi vô tình hay hữu ý đã trở thành một nhân vật tượng trưng.
Hồi là sản phẩm, hương liệu là sự giàu có của đất nước. Nhưng hồi cũng là nguồn
gốc đau khổ, chết chóc khi cả đất nước là một nhà tù, cả dân tộc còn là nô lệ. Mùi
hồi có vị và có sắc phảng phất suốt tập truyện khiến ta có cảm giác có sự hoạt động
của Đảng thông qua nhân vật Hoàng Văn Thụ - gắn chặt với mùi thơm của hương
hồi có hình, có sắc ẩn hiện đậm đà và say mê như trong không khí thơ ca. Xuyên
qua mùi hương hồi bát ngát, Thụ và Chi lên đường cách mạng ngây thơ và hào
hứng như đi vào một cuộc phiêu lưu của tuổi trẻ: “Trong mùi hồi bốc lên mặt nước
vẫn âm tiếng bom nổ thật kích động, thật lạ lùng. Muốn làm cách mệnh, cứu đất
nước, phải đứng lên đánh thằng Tây như thế mới được. Trông khóe mắt cháy rực
của hai người thanh niên cùng sôi nổi một khát vọng” [1; 13]. Dạng thức trình bày
này khiến cho tiểu thuyết lịch sử mang đậm phong vị trữ tình, khiến cho câu chuyện
có nhiều ý nghĩa khi soi chiếu vào một nhân vật có thực.
Bên cạnh hai cách trình bày trên, trong tiểu thuyết Đảo hoang ta còn bắt gặp
một kiểu trình bày nữa đó là cách khởi đầu ở chính giữa hành động truyện. Cốt
truyện bắt đầu ở “khúc giữa” của câu chuyện, một lát cắt trong cuộc sống của nhân
vật – thường là một hành động của nhân vật sau đó mới làm rõ dần lí lịch, tình cảnh
của họ. Đọc Đảo hoang, ta thấy khởi đầu là những sự kiện: Mai An Tiêm lập công
khi đi mở vùng đất mới Bãi Lở, trở về kinh tham dự hội thi và giành được thắng lợi,
sau đó vua Hùng nghe lời dèm pha của mưu sĩ mà đầy gia đình Mai An Tiêm ra đảo
hoang. Trên hành trình ra đảo tác giả mới để cho nhân vật kể về lai lịch, giới thiệu
về bản thân mình: “Mới sinh ra, An Tiêm ở bờ biển. Những đợt sóng cao lù lù từ
ngoài khơi chạy vào, vừa chạy vừa gào, ập xuống, muốn lôi ngay thằng bé ra khơi.
Nhưng thằng bé vẫn bám được vào đất. Thằng bé vẫn lang thang sống trên dọc biển
34
Đông. An Tiêm lớn lên, cha mẹ mất từ lúc ẵm ngửa, không biết mình là ai. Những
chòm xóm ven biển đã chuyền tay nhau nuôi thằng bé. Mới đầu thì ai cũng có lòng
thương. Nhưng sau vì mỗi người đều phải đêm ngày mải miết đi đâm cá, đi gõ hà,
gõ ngao kiếm miếng ăn, thế là thằng bé cứ bò đi vơ vẩn, người phải đổi tay nuôi,
người này vứt cho người khác. Có người không muốn nuôi, đem bỏ nó ra bãi cho
sóng liếm đi. Có người thương, lại ra ẵm về. Bồng bềnh giữa cái sống cái chết như
thế, thằng bé trải gian truân từng ngày, vừa lớn lên, vừa lưu lạc, đi nhiều quá đến
nỗi trí nhớ mỏng manh của nó không còn nhớ được hôm qua, năm qua ở đâu nữa.
Quãng mười tuổi, trạc như Mon, như Gái - như tuổi các con bây giờ, bằng tuổi ấy,
bé An Tiêm đã dày dạn lắm, khắp mình đã trổ chàm vằn vèo, xám xịt, để hằng ngày
xuống mò cái ăn dưới nước thì cá mập, cá trình khó nhìn thấy mà đuổi bắt ăn
thịt(…). An Tiêm lớn lên giữa những hiểm nghèo ấy. Trong cái chết mà không chết,
thì cái sống phải mạnh(…). Đến một ngày kia, vua cha xuống bộ Ninh Hải mở hội
thi cày(…). An Tiêm cày vừa nhanh vừa chắc, được nhà vua thưởng lụa, cho đứng
ngang hàng những người cày giỏi. Sau đó, nhà vua gọi An Tiêm đến, rồi cho theo
về kinh đô”. Cách mở đầu như thế tạo sự tự nhiên, “giống như thực” của cốt truyện.
Đó cũng là cách mà tác phẩm tự sự hiện đại hay sử dụng.
Với cách thức tổ chức phần trình bày như trên ta thấy nhà văn luôn cố gắng để
làm đa dạng, phong phú các cách thức tổ chức diễn biến cốt truyện trong tác phẩm
của mình. Đó là một cố gắng đáng ghi nhận.
Với cốt truyện, phần vận động là phần quan trọng nhất, ở đó các nhân vật
được bộc lộ tính cách, các xung đột xã hội bắt đầu nảy sinh và theo đó được đẩy lên
đỉnh điểm rồi đưa ra cách giải quyết; hoàn cảnh, môi trường nhân vật hoạt động
cũng không còn là tĩnh tại, mà là hoàn cảnh xung đột. Phần vận động có thể chia
làm ba giai đoạn là: sự kiện thắt nút, sự kiện phát triển và sự kiện mở nút. Sự kiện
thắt nút là giai đoạn đánh dấu sự bắt đầu của diễn biến đời sống, mở đầu cho sự vận
động của xung đột. Sự kiện này có tác dụng đưa các nhân vật tham gia vào xung
đột, qua đó sẽ bộc lộ những nét bản chất, những đặc điểm cơ bản. Và theo đó, nhân
vật, hoàn cảnh, tính cách cũng bắt đầu vận động. Trong toàn bộ cốt truyện thì phần
35
dài nhất là phần phát triển, phần này miêu tả cụ thể quá trình diễn biến của hiện
thực, nó bao gồm một chuỗi các sự kiện hoặc biến cố nối tiếp nhau để làm cho xung
đột được đẩy lên đến mức căng thẳng hơn, gay gắt hơn, qua đó khẳng định bản chất
của các nhân vật, các tính cách một cách rõ ràng trong những tình huống khác nhau.
Nối tiếp phần phát triển, đưa sự kiện lên cao trào là giai đoạn căng thẳng nhất - sự
kiện đỉnh điểm. Ngay sau sự kiện này là sự kiện mở nút, nó cho thấy cách giải quyết
của nhà văn đối với xung đột đã được miêu tả, hoặc cho thấy những khả năng trong
việc giải quyết xung đột đó.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh có một nhận xét: “Có thể nói, Tô Hoài là
nhà văn của người thường, của chuyện thường, của đời thường” [16; 45]. Đúng thế,
Tô Hoài không viết về những đôi lứa lá ngọc cành vàng, không thi vị hóa đời sống,
không vẽ vời, lý tưởng hóa các chân dung. Ông chỉ viết về những điều mà ông đã
nhìn thấy: “Tôi đã miêu tả tâm trạng của tôi, gia đình tôi, làng tôi, mọi cái của mình,
quanh mình” (Tự truyện). Chính vì cái sở trường đó mà tác phẩm của Tô Hoài tuy
có cốt truyện sự kiện nhưng diễn trình vận động của nó lại ít khi tuân theo nguyên
tắc là được xây dựng trên sự vận động của một xung đột đầy đủ. Tiểu thuyết của
ông có những tác phẩm có cốt truyện sự kiện mang dáng dấp sự vận động của một
xung đột, còn đa phần là các sự kiện vận động một cách linh hoạt y như sự việc diễn
ra trong đời sống hàng ngày.
Sự vận động trong tiểu thuyết Đảo hoang không giống với mô hình phát triển
một xung đột như ta thường thấy mà nó vận động theo diễn biến của đời sống hàng
ngày. Câu chuyện Đảo hoang chỉ thực sự bắt đầu khi gia đình An Tiêm bị đầy ra
đảo. Các sự kiện, chi tiết, tình tiết nhỏ nhất đều tập trung miêu tả diễn biến cuộc
sống của gia đình An Tiêm ngoài đảo. Đó là những ngày đi tìm chỗ trú ẩn trên
những vách đá; rồi cả nhà chia nhau vào rừng đi tìm nước uống; tìm chỗ làm nhà,
tìm cách giữ nước, lấy thức ăn; và rồi “trận rồng cuốn nước” khiến cả nhà li tán; họ
vừa tìm cách sống sót vừa đi tìm nhau; Mon trồng được giống dưa hấu và họ thả
dưa hấu ra biển mong có ngày đến được đất liền. Cả chuỗi sự kiện, chi tiết chỉ nhằm
miêu tả, kể về hành trình tìm cách thích nghi với cuộc sống ngoài đảo. Đó là những
36
diễn biến của cuộc sống hàng ngày với cái ăn, cái mặc, sự sống, cái chết, những
khám phá về cuộc sống, về thực động vật, tình yêu thương của con người. Ở tiểu
thuyết Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ và Miền Tây ta thấy diễn trình vận động của các
sự kiện cũng là những sự kiện của cuộc sống, của nhịp sống hàng ngày song nó lại
dựa trên nền của xung đột lịch sử có trước là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với
thực dân Pháp, là mâu thuẫn giai cấp giữa người lao động và địa chủ phong kiến.
Đối với tiểu thuyết Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Tô Hoài đã viết nên câu chuyện về
người chiến sĩ trẻ tuổi Hoàng Văn Thụ trên con đường đến với cách mạng. Tô Hoài
miêu tả hành trình đi tìm đường của Hoàng Văn Thụ theo các sự kiện lịch sử mà
nhân vật có thực đã trải qua. Có điều đọc kĩ ta sẽ thấy các chi tiết, tình tiết trong
truyện chủ yếu kể về những khó khăn gian khổ, những vấp váp, hi sinh, những
chuyện của cuộc sống hàng ngày, chứ không nhấn mạnh đến những sự kiện lớn, đặc
biệt là tác giả không kể về những ngày ở trong xà lim, và sự hi sinh cao đẹp của
nhân vật. Kể về một nhân vật lịch sử, sự kiện sẽ nương theo các hoạt động có thực
của nhân vật do đó nó có sự phát triển theo một lộ trình có trước gắn bó với tiến
trình phát triển của cách mạng Việt Nam, nên có thể nói cốt truyện vận động theo
sự kiện lịch sử. Song Tô Hoài ý thức rất rõ sự khô khan của sự kiện lịch sử nên ông
đã “nêm gia vị” của cuộc sống vào đó, hòa trộn và tạo nên những trang viết xúc
động, giàu hình ảnh. Ẩn hiện trong quá trình đi tìm đường cách mạng là những sự
việc của cuộc sống, những gian nan Hoàng Văn Thụ trải qua là gian nan của lịch sử
đối với tất cả những thanh niên trẻ tuổi lúc bấy giờ, và cũng là khó khăn trong cuộc
sống đời thường. Đối với tiểu thuyết Miền Tây, tác giả đã dựng nên hai cảnh đời
trái ngược nhau trước và sau Cách mạng ở một vùng núi cao. Các sự kiện trong đó
diễn biến theo hai cảnh đời đó. Trước Cách mạng thì cuộc sống nhân dân cay đắng,
tủi nhục với những cuộc bày mưu tranh ăn của bọn quan đồn, bọn thống lý và lái
buôn, cảnh đời đau khổ tủi nhục của những người phu ngựa, cảnh nhốn nháo, hỗn
loạn của phiên chợ Phiềng Sa, và nạn mê tín dị đoan đe dọa sinh mạng của những
con người lương thiện như bà Giàng Súa. Những cảnh đời ấy được rải đều trên
trang giấy, tập trung làm rõ nối khốn khổ của cảnh đời cũ. Và những sự kiện ấy là
37
những sự kiện của đời sống được xây dựng trên nền của một mâu thuẫn có từ trước,
do đó sự phát triển của nó mang tính chất của nhịp sống – nhịp sống của người dân
tộc vùng cao khi chưa có cách mạng về. Phần sau với các sự kiện về cảnh đời đổi
thay khi cách mạng về. Cảnh lao động hăng say, cảnh chợ đông vui mà không còn
xô bồ, cuộc sống, suy nghĩ của những người dân vùng cao đã thay đổi. Bằng những
hình ảnh tương phản về những sinh hoạt, những cảnh sống hằng ngày của nhân dân
vùng cao, Tô Hoài đã dụng công lột tả được sự khác nhau giữa hai chế độ xã hội mà
không cần xây dựng xung đột, mâu thuẫn xã hội gay gắt.
Bên cạnh sự vận động theo nhịp sống hàng ngày và sự kiện lịch sử thì tác
phẩm của Tô Hoài còn có cốt truyện vận động theo mạch hồi tưởng của nhân vật.
Ta bắt gặp điều đó trong tiểu thuyết Ba người khác. Viết về cải cách ruộng đất –
một sự kiện lịch sử chứa đầy những chuyện li kì Tô Hoài chú tâm thể hiện mặt trái
của cuộc cải cách với ba nhân vật anh đội và những việc xảy ra khi họ xuống vùng
“hai trăm ngày” làm cải cách. Tiểu thuyết có hai mảng sự kiện lớn là những sự kiện
về thời cải cách ruộng đất và những việc xảy ra với ba anh đội nhất là sau cải cách.
Cả hai mảng sự kiện này đều được kể lại thông qua hồi ức của một nhân vật là anh
đội Bối. Chỉ có điều rất khó để xâu chuỗi những sự kiện này thành một cốt truyện
với mối quan hệ nhân quả, liên quan, tác động đến nhau. Các sự kiện đó, bản thân
nó là yếu tố nền tạo nên cốt truyện nhưng nó lại không có tác dụng tạo sự phát triển
cho câu chuyện bởi diễn biến của nó ít liên hệ với nhau. Cái tạo nên sự phát triển
cho cốt truyện, dẫn dắt các sự kiện chính là hồi ức của nhân vật. Hai mảng sự kiện
chính đó là hai mảng kí ức của nhân vật “tôi” và nó được kể lại đan cài vào nhau.
Chúng là những sự kiện đời thường thể hiện diễn biến của cuộc đời nhân vật, làm rõ
bản chất của nhân vật, nếu thiếu đi một sự kiện nào đó thì không ảnh hưởng nhiều
đến sự phát triển cốt truyện. Giữa những sự kiện tưởng như không có mối liên hệ ấy
lại có một sự thống nhất, mối dây liên hệ chung : nhân vật người kể chuyện với hồi
ức của anh ta chính là dấu nối giữa những sự kiện đó, anh ta có mối liên hệ với tất
cả, hoặc anh ta tham gia hoặc anh ta được chứng kiến, được nghe kể lại. Điều đó tạo
nên sự phát triển và nhất quán cho cốt truyện. Như vậy, diễn biến của cốt truyện
38
trong Ba người khác vận động theo nhịp hồi tưởng của chính nhân vật trong truyện.
Cũng là “tả chân”, là kể về những cảnh đời, cuộc sống của con người, đặc biệt
là người dân nhưng ở Nam Cao, ở Nguyễn Công Hoan, cốt truyện thường có những
xung đột và nó được đẩy lên cao trào để rồi đưa nhà văn đưa ra cách giải quyết
nhưng Tô Hoài lại rẽ theo một hướng khác, ông tập trung vào những sinh hoạt hàng
ngày, những việc nhỏ nhặt trong đời sống, đi sâu vào miêu tả, kể một cách cụ thể,
chi tiết. Và sự phát triển của cốt truyện chính là sự phát triển của những sự việc nhỏ
nhặt như vậy. Qua cốt truyện bức tranh cuộc sống, sinh hoạt và cả những suy nghĩ,
tình cảm của con người được thể hiện một cách sinh động. Đó là lối đi riêng của
nhà văn mà không phải ai cũng làm được.
Phần kết thúc thường là phần mà người đọc chờ đợi, háo hức để đánh giá cách
giải quyết của nhà văn tức là cho thấy cách kết quả của những xung đột, những diễn
biến đời sống xã hội mà nhà văn đã đặt ra. Chính vì thế Sêkhôp có viết: “Khi viết
một truyện ngắn tốt nhất là hãy tô đậm cái mở đầu và kết thúc”. Phần kết thúc có
khi được coi là “sức mạnh của quả đấm nghệ thuật”, nó có thể được đặt ở đầu hoặc
ở cuối tác phẩm, và nó có cách thể hiện khác nhau. Tác phẩm có thể có một cách
kết thúc, hoặc nhiều cách kết thúc, hoặc không có kết thúc.
Ở các tiểu thuyết của Tô Hoài, cốt truyện được xây dựng theo mô hình của cốt
truyện sự kiện song diễn biến cốt truyện lại không phát triển theo xung đột nên khi
kết thúc tác phẩm ta ít gặp sự bất ngờ, sự nuối tiếc hay háo hức, vui sướng mà trong
đó là âm thanh của cuộc sống, có khi nó đọng lại, có khi nó còn ngân vang. Với tiểu
thuyết Đảo hoang và Ba người khác tác giả đã dựng nên một cái kết trọn vẹn (câu
chuyện được kết thúc với vấn đề được giải quyết triệt để.). Nếu diễn biến của cốt
truyện tiểu thuyết Đảo hoang mở đầu là hành trình ra đảo của gia đình Mai An
Tiêm thì kết thúc tác phẩm là sự trở về của họ giữa niềm vui hân hoan, sự đón chào
của nhân dân. Không dừng lại như kết thúc của truyện cổ tích, Tô Hoài kéo dài kết
thúc : sau sự trở về của gia đình An Tiêm là hành trình ngược ra đảo của Mon. Mon
dẫn theo một đoàn người ra đảo lập vùng đất mới, vùng đất phía nam của Tổ quốc:
“Mon trở lại đảo cùng một đoàn hơn ba mươi chiếc thuyền…Về sau, Mon cho lập
39
trại, lập làng ở bờ biển quanh chân núi. Mỗi hôm, mặt trời ngả sau núi, bóng núi lại
che xanh thẫm trên các xóm. Chỗ doi đá hình mõm gấu vươn dài uống nước, thành
cái bến - thuyền bè các nơi đi đến tấp nập, nhất là tới mùa trảy dưa đỏ”. Đó thực sự
là một kết thúc có hậu như kết thúc của một câu chuyện cổ tích. Ở Ba người khác,
ta thấy có hai mảng sự kiện lớn song song nhau nên khi kết thúc ta cũng nhận thấy
có hai kết thúc. Đối với sự kiện đội cải cách xuống làm cải cách ở vùng“hai trăm
ngày” thì được kết thúc là đợt cải cách không thành công, cấp trên phải cử một đội
cải cách khác xuống. Còn đối với mảng sự kiện về ba anh đội thì cuối cùng ba anh
có ba kết cục khác nhau. Sau hai mươi năm anh đội Đình với gia cảnh khốn cùng và
có dự tính đi vùng đất mới; Bối thì làm thuê cho Tư Nhỡ, bị hắn lừa đánh cho thê
thảm; Cự thì được đồn thổi là trở thành tên phản bội và bị tiêu diệt. Cách kết thúc
như vậy, xét một cách chung nhất đó là kết thúc trọn vẹn và phản ánh đúng qui luật
của đời sống con người – gieo nhân nào gặp quả ấy. Cả ba anh đội khi đi làm cải
cách đều sống với bản tính xấu xa, làm những việc khiến người ta căm ghét, tuy tác
giả không kể về quãng đời hai mươi năm sau cải cách nhưng qua kết thúc như vậy
người đọc cũng có thể đoán định được số phận của ba anh đội. Chỉ có điều cái kết
thúc thứ nhất và kết thúc thứ hai nó ít có sự liên quan, hay nói cách khác nó không
ràng buộc gì, nhưng đó lại là kết thúc hợp lí theo diễn biến của cốt truyện.
Có kết thúc trọn vẹn, nhưng cũng có kết thúc dang dở (hành động truyện vẫn
còn đang tiếp diễn, có nhiều hướng giải quyết), cũng có tác phẩm không có kết
thúc. Tiểu thuyết Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ và Miền Tây có kết thúc theo mô hình
dang dở. Kết thúc của tiểu thuyết Miền Tây là những suy nghĩ của Nghĩa, những
sinh hoạt thường ngày của người dân vùng cao và cuộc trò chuyện của Nghĩa và
Mỵ. Ta nhận thấy đó dường như vẫn là những chi tiết của cuộc sống, mọi thứ vẫn
đang diễn ra như trong các bước diễn biến của chuyện. Kết thúc của tiểu thuyết
Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ là hình ảnh Hoàng Văn Thụ “chít khăn lượt vố, mặc tấm
áo chàm cũ đã bạc quẩy một gánh nâu đi tắt rừng xuống đồng bằng”. Hành trình
cách mạng của Thụ trải qua bao gian truân đến đây chưa phải là chấm dứt nhưng
với với dụng ý dựng lại một thời trẻ đầy hoài bão, khí phách của người Cộng sản
40
kiên trung thì Tô Hoài đã dừng đúng chỗ. Ông kết thúc tác phẩm bằng hình ảnh
nhân vật tiếp tục đi, nhưng đi trong sự thành công, đi trong sự trưởng thành và cái
kết đó khiến người đọc có ấn tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ cách mạng.
Cách kết thúc tưởng như là hết nhưng lại đang mở ra những diễn biến khác của đời
sống và kết thúc như vậy giống với thì “thì hiện tại chưa hoàn thành”, nó để lại dư
âm, khơi gợi sự tiếp nối trong trí tưởng tượng của người đọc.
Không hấp dẫn ở các sự kiện, biến cố lắt léo, giàu kịch tính như Nam Cao,
Nguyễn Công Hoan, cũng không thâm trầm, tinh tế, giàu chất thơ như Thạch Lam,
cốt truyện trong những tiểu thuyết của Tô Hoài mang đến những khám phá sâu sắc,
tỉ mỉ, sinh động, giàu hình ảnh về cuộc sống sinh hoạt của con người. Nghệ thuật tổ
chức cốt truyện của Tô Hoài có sự linh hoạt, có sự đan xen giữa truyền thống và
hiện đại, có sự tiếp nối giá trị cũ và lĩnh hội thêm nét mới trong nghệ thuật tự sự
hiện đại nó tạo nên một sắc thái riêng, cái tạng của nhà văn. Có lẽ đó là một trong
những lí do khiến tác phẩm của Tô Hoài không “cũ” trong đời sống hôm nay.
2.2 . Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Nhân vật văn học là một khái niệm với phạm vi rất rộng: đó không chỉ là con
người mà còn có thể là những sự vật, loài vật khác ít nhiều mang bóng dáng, tính
cách của con người, không chỉ là những con người, sự vật cụ thể mà còn là một hiện
tượng về con người, có liên quan đến con người, được thể hiện nổi bật trong tác
phẩm. Nhân vật không phải là sự sao chụp mà chỉ giữ lai những đặc điểm bản chất,
do đó có thể nói nhân vật là một hình tượng nghệ thuật mang tính ước lệ. Trong tác
phẩm tự sự, nhân vật được chia thành nhiều loại khác nhau theo tiêu chí về vai trò
và quan hệ với tư tưởng của tác giả và thời đại. Theo quan niệm truyền thống, một
nhân vật được thể hiện với một chất lượng tư tưởng và nghệ thuật cao phải gắn với
vấn đề tính cách. Đó là bản sắc riêng, độc đáo của một con người cá biệt, cụ thể,
nhưng lại mang những nét chung tiêu biểu cho nhiều người khác ở một mức độ nhất
định, đồng thời nó có một quá trình phát triển hợp với logic cuộc sống. Tính riêng,
tính chung và tính logic ấy của tính cách có thể quy vào những đặc tính quan trọng
nhất : tính chất cá biệt của các trạng thái tâm lí (quyết định bản sắc cá nhân), tính
41
chung về mặt giai cấp (quyết định bản chất xã hội), sự phát triển theo những quy
luật tất yếu của đời sống (liên quan mật thiết đến hoàn cảnh). Nhân vật trong các tác
phẩm văn học hiện thực phê phán đã thể hiện rất rõ những đặc tính đó và chúng
không chỉ dừng lại ở những tính cách đó mà còn đạt đến chất lượng trở thành những
tính cách điển hình.
M.Gorki có lần khuyên một nhà văn trẻ: “Anh hãy bỏ nghề viết đi. Đó không
phải là việc của anh, có thể thấy rõ như thế. Anh hoàn toàn không có khả năng miêu
tả con người cho sinh động mà đấy lại là điều chủ yếu” [9; 126]. Miêu tả con người
chính là việc nhà văn xây dựng nhân vật trong tác phẩm. Bởi nhân vật chính là linh
hồn của tác phẩm văn xuôi nói chung và của tiểu thuyết nói riêng. Nó là phương
tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tượng. Đó cũng là phương
tiện thể hiện quan niệm nghệ thuật và lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn về con người.
Với tiểu thuyết, nhân vật lại đóng một vai trò hết sức quan trọng. Nguyễn Đình Thi
quan niệm vấn đề trung tâm của nghệ thuật viết tiểu thuyết là miêu tả những con
người, và tìm hiểu con đường đi của họ trong xã hội. Người viết tiểu thuyết nghĩ
mọi vấn đề đều phải thông qua nhân vật, xuất phát từ nhân vật hơn là từ sự việc. Có
thể nói nhân vật là hạt nhân của sự sáng tạo nghệ thuật, là trọng điểm để nhà văn lí
giải mọi vấn đề của cuộc sống. Nhân vật tiểu thuyết có thể chỉ là sự hóa thân, là
hình bóng, là mộng tưởng của chính tác giả trong tiểu thuyết lãng mạn; cũng có thể
được xây dựng từ những nguyên mẫu của đời sống kết hợp với năng lực hư cấu của
tác giả như trong tiểu thuyết hiện thực. Với vai trò, ý nghĩa quan trọng như vậy, nên
những nhà tiểu thuyết lớn xưa nay đều bộc lộ tài năng của mình rõ rệt nhất trong
việc xây dựng nhân vật như Xecvăngtet, Bandăc, Lỗ Tấn…
Với Tô Hoài, ông quan niệm “con người là con người” nên ông coi trọng việc
xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết : “Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy,
giải quyết hết thảy trong một sáng tác”. Người ta thường nói Tô Hoài là nhà văn của
chuyện đời thường, do đó nhân vật trong tác phẩm của ông thường được xây dựng ở
mặt đời thường nhất, đặt nhân vật trong môi trường sinh hoạt, cuộc sống hàng ngày
với những phẩm chất tốt đẹp lẫn những thói xấu; không tô hồng lí tưởng hóa nhân
42
vật. Nhà văn thể hiện con người như vốn có của nó, do đó người đọc cảm thấy gần
gũi với chính mình. Với một quan niệm giản dị như vậy, Tô Hoài đã tạo nên một
cách thức riêng biểu hiện thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của mình. Nhân vật của
ông thường hiện lên với đầy đủ mọi mặt từ ngoại hình, hành động, đến nội tâm và
ngôn ngữ; đặc biệt ông rất xuất sắc trong việc khắc họa nhân vật qua các chi tiết.
2.2.1. Khắc họa nhân vật qua các chi tiết
Để xây dựng nhân vật trong tác phẩm, nhà văn phải miêu tả nhân vật trên rất
nhiều phương diện và phương tiện cơ bản nhất để miêu tả là chi tiết – những nét cụ
thể tạo nên sự sống động của hình tượng. Theo Từ điển thuật ngữ Văn học thì chi
tiết “có khả năng thể hiện, giải thích, làm minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn,
trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tác giả trong tác phẩm (…) đóng vai trò vật liệu
xây dựng làm tiền đề cho cốt truyện phát triển thuận lợi và hợp lí” [12; 51]. Sêkhốp
từng phát biểu: “Tài hoa của nhà văn là ở cách dùng chi tiết”. Chi tiết đó là những
cái rất nhỏ nhưng ý nghĩa rất lớn: “những điều nho nhỏ, một nét mặt, một cử chỉ,
một giọng nói, cho chúng ta biết rõ tâm lí của một người hơn những công việc và
quyết định hệ trọng (…). Những cái mà ta thường coi là nhỏ nhặt, vụn vặt hay tỉ mỉ
lại chính là những cốt yếu của tiểu thuyết hay” (trích theo [29; 90].
Nhân vật trong tiểu thuyết của Tô Hoài rất đa dạng, đó không chỉ là hình
tượng người nông dân ở vùng đồng bằng, vùng cao, đó còn là hình ảnh về những
con người lịch sử, những chiến sĩ cộng sản, những anh đội…Họ có một vai trò riêng
trong tác phẩm và cách Tô Hoài sử dụng chi tiết để miêu tả họ là vô cùng linh hoạt.
Đó cũng là sở trường của ông khi viết tiểu thuyết. Mỗi đối tượng nhân vật cứ dần
dần hiện rõ qua sự kết hợp sử dụng các chi tiết hàng ngày, với các chi tiết được
chọn lọc.
Tô Hoài đề cao bản chất con người thực và muốn làm cho con người hiện lên
một cách chân thực, sống động như nó vốn có. Vì thế trong tiểu thuyết của Tô Hoài
ta bắt gặp rất nhiều chi tiết nhỏ nhặt, bình thường của cuộc sống hàng ngày, các chi
tiết hết sức tự nhiên, như bản thân cuộc sống, có khi “tầm thường” nhưng chính
những chi tiết hiện thực ấy lại làm nên cái “không khí sống” hết sức tự nhiên, chân
43
thực cho các nhân vật. Ở tiểu thuyết Miền Tây, để thể hiện cuộc sống tối tăm, cô
quạnh trong rừng sâu của mẹ con bà Giàng Súa khi bị dân làng xua đuổi tác giả đã
dùng các chi tiết rất đời thường. Miêu tả cuộc sống khốn khó và sự ngạc nhiên đến
thẫn thờ của các con bà khi thấy từng đoàn ngựa lên núi: “Cái địu nhẹ thếch trên
vai, buông thõng một dây nghiêng xuống lưng. Trong địu lăn ra mấy bắp ngô khấp
khểnh, hạt long, hạt chuột gặm, mỗi bắp rơi một nơi. Chưa ai buồn nhặt, có gì mà
nhặt, Khay đứng trố mắt như hỏi Nhìa”. Trong Đảo hoang để làm nổi bật sự dũng
cảm, khả năng chịu đựng và số phận lúc còn bé của Mai An Tiêm, tác giả đã sử
dụng các chi tiết về cuộc sống trôi nổi ở bờ biển, qua tay người này, người khác:
“Những đợt sóng cao lù lù từ ngoài khơi chạy vào, vừa chạy vừa gào, ập xuống,
muốn lôi ngay thằng bé ra khơi. Nhưng thằng bé vẫn bám được vào đất. Thằng bé
vẫn lang thang sống trên dọc biển Đông, khắp mình đã trổ chàm vằn vèo, xám xịt”.
Khi kể về sự trở về của gia đình An Tiêm, để làm rõ sự khổ nhọc, lam lũ và cuộc
sống cô quạnh tách biệt xã hội loài người khi gia đình An Tiêm ở ngoài đảo, tác giả
đã miêu tả họ như những người rừng mà khi gặp lại quan quân tưởng người rừng
thực định giơ cung bắn : “Chỉ có một đám lửa trơ trọi lởm nhởm trên đống đá mốc
xám. Nhưng, rồi đống đá mốc ấy rùng rùng đứng dậy (…) Bây giờ, đã trông rõ có
ba người đàn ông mình xăm chàm vằn vèo và hai người đàn bà váy áo lá lướp tướp.
Những mớ tóc dài xuống đến bắp chân và mặt những người đàn ông thì râu rậm rịt
quấn lẫn cả tóc, chẳng khác mặt con gấu đương bò thủng thỉnh đằng sau. Những chi
tiết đọc thoạt tưởng là “thừa”, chẳng liên quan đến cốt truyện nhưng nó lại làm nên
cái sinh động của cuộc sống bao bọc lấy nhân vật. Đọc đến Ba người khác, tác giả
không kể một cách vắn tắt mà mỗi sự kiện đều tả rất tỉ mỉ, cụ thể. Ví như sự kiện
đấu tố địa chủ Thìn, tác giả dựng cảnh bắn y như thật từ cảnh buổi sớm Bối cho
người vào bắt địa chủ Thìn khiêng ra ngoài bãi: “Lão tù bị buộc chân, hai người
khoác súng xỏ đòn ống, khiêng bổng đi ” đến cảnh bãi mít tinh đông nghịt, khi tên
địa chủ được đặt xuống ngồi tựa vào cái cọc thì “cuộc đấu lên nổ liên tiếp” “người
chạy lên chạy xuống tới tấp”, thảm sao cái cảnh “lão Thìn lả người lăn quay ra giữa
bãi”. Những chi tiết ấy gây ám ảnh cho bạn đọc về hiện thực u ám, gây ghê sợ căm
44
phẫn với những người làm đấu tố. Hay cái chi tiết lão Diệc con rể địa chủ Thìn “run
run bước lên, chỉ tay vào địa chủ Thìn: - Tao thù mày, tao thù …Rồi khóc rống lên
chạy xuống” làm người ta thấy thực, vừa đáng tội vừa buồn cười, đúng là bản tính
hiền lành chân chất của những nông dân lao động sớm chịu khổ cực nên khi được
nổi dậy họ cũng chỉ biết làm theo bản năng mà bỏ qua cả tình nghĩa cha - con. Cũng
vẫn những trang làm người đọc chăm chú bởi sự thường nhật mà đến sinh động của
các chi tiết, ta cảm nhận ra cuộc sống tàn tạ, bản chất xấu xa, ngu ngơ, như thời cải
cách của Bối mặc dù đã hai mươi năm trôi qua khi anh ta định tự tử : “Tôi đứng lên
mặt bàn, buộc một đầu ruột tượng lên sàn nhà, bên kia thòng xuống, thắt nút thòng
lọng lại. Tôi ngắm nghía. Chui vào, đạp đổ cái bàn dưới chân thì tôi bằng thằng
Vách. Tôi ngồi thừ một lúc lâu. Không phải tôi ngần ngừ mà tôi mỏi như sắp chết,
tôi ngồi thế này chắc một lúc nữa tôi cũng chết. Không phải. Tôi nhớ ra tôi sắp lả vì
đói. Thế thì đi ăn cái gì chẳng nên làm con ma đói”. Ngay cả khi xây dựng một
nhân vật lịch sử như Hoàng Văn Thụ, Tô Hoài cũng không gò ngòi bút của mình
trên những trang tư liệu có sẵn, ông miêu tả nhân vật với những chi tiết tưởng
chừng chỉ có thể để nói với nhau mà không thể đưa lên trang sách. Đó là chi tiết
Thụ gọt trọc đầu vào Quốc dân đảng để tránh nguy cơ cạn tiền cạn gạo; hay khi từ
Vũ Hán về có lúc đi mót dây khoai, lúc thì rình bắt thỏ rừng, thậm chí cả việc đi ăn
mày để qua cơn đói. Hàng loạt các chi tiết hết sức bình dị, vừa phảng phất chất
giang hồ, vừa thể hiện cái cơ cực, gian khổ mà người chiến sĩ phải trải qua trên con
đường đến với cách mạng.
Bên cạnh những chi tiết như nhập thẳng từ cuộc sống tự nhiên, Tô Hoài cũng
chú ý đến việc lựa chọn những chi tiết tiêu biểu, bởi chính những chi tiết đó nếu
được sử dụng một cách hợp lí, sinh động nó sẽ có ý nghĩa trong việc khắc họa nhân
vật, tính cách và từ đó thể hiện được ý đồ tư tưởng của nhà văn. Trong tiểu thuyết
của Tô Hoài ta bắt gặp nhiều chi tiết được tác giả lựa chọn, những chi tiết đó thực
sự rất “đắt” mà có khi chỉ Tô Hoài mới dám sử dụng. Trong tiểu thuyết Ba người
khác, mở đầu là chi tiết một cố nông kể khổ anh ta phải mút bòi địa chủ mắc bệnh
tim la và đã lây cái máu dê từ tên địa chủ ấy. Chi tiết ấy gây ám ảnh, ghê rợn cho
45
người đọc về hình ảnh khốn cùng của người nông dân và sự ác bá của địa chủ. Hay
chi tiết đội cải cách đi qua chợ, đội trưởng Cự lén lút mua bánh đúc giấu vào ba lô
bị Bối biết và ăn trộm, sau đó Đình biết Bối ăn trộm nên đòi chia phần: “Tôi luồn
tay dưới ba lô, thó luôn cả gói, bỏ nhẹm vào túi xách của tôi trong bụng đầy hả hê
(…). Ông anh nhanh quá đấy. Tớ nhìn thấy trước đằng ấy cơ”. Trong rất nhiều chi
tiết của cuộc sống, Tô Hoài đã lọc lấy chi tiết ăn trộm bánh đúc vừa buồn cười vừa
ái ngại, qua đó phơi bày hiện thực u ám thời cải cách và bản chất tham lam, giả dối
của các anh đội. Cũng bằng các chi tiết, khi kể về anh đội Cự tác giả viết: “Đội
trưởng Cự nổi cáu đập sổ tay, sừng sộ: - Nhà mụ lọt lưới đáy, xấp xỉ phú đấy. Đừng
có quá lời, chẻ hoe xóm này cho mà xem. (…). Cho trung nông là phúc bảy mươi
đời, muốn lên địa phú hả ? Ai muốn lên thì đội cho lên. Thoải mái”. Rồi đội trưởng
Cự cho bà lão lên phú nông thật và kết cục bà lão về đến cổng ngã lăn ra chết. Qua
chi tiết ấy, ta thấy được Cự là kẻ lúc nào cũng tỏ ra quyền thế, thích dọa nạt người
khác, ham thành tích, sống giả dối và biết cách che đậy bản chất xấu xa của mình.
Đọc chi tiết ấy, ta thấy căm giận những anh đội, và thương tâm người nông dân sức
cùng lực kiệt. Sức nặng của chi tiết nằm ở chỗ đó. Ở Miền Tây, ta cũng đọc được
những chi tiết rất tiêu biểu, có giá trị cao. Để diễn tả cuộc sống đói nghèo, tủi cực,
xô bồ, hỗn loạn của người dân vùng cao trước cách mạng Tô Hoài đã chọn ra các
chi tiết rất hay về cảnh phiên chợ Phiềng Sa – môi trường, hoàn cảnh phản ánh rõ
nét nhất cách sinh hoạt của người dân. Đó là cảnh các cô gái nghèo đi chợ ngượng
ngùng vì váy áo rách rưới, những người phụ nữ suốt đời vất vả, nhẫn nại cầm ô che
cho chồng, những khuôn mặt gầy guộc, bạc phếch của những cụ già không bao giờ
ăn một hạt muối, cảnh nhân dân chen chúc, xô đẩy nhau mua muối, cảnh đổi chác
cả một bộ xương hổ, gấu vất vả lắm mới săn được để lấy một bát muối, cảnh tên
lính đồn hung hăng, táo tợn, vừa phi ngựa vừa la hét đòi thu thuế, cướp hàng. Cũng
miêu tả phiên chợ Phiềng Sa, nhưng là sau Cách mạng, tác giả cũng dùng những
chi tiết chọn lọc thể hiện được cuộc sống sinh hoạt vui tươi, hồ hởi của người dân.
Đó là ngựa thồ “lọc cọc, leng keng” kéo nhau đi từng đàn. Là các chị ríu rít chơi
đùa với trẻ con, tranh nhau nắm đuôi ngựa để leo dốc, các cụ già nghề mộc vung
46
tay vung búa, vung rìu lao động, khắp nơi chi chít tiếng đẽo đá, đẽo gỗ, bễ rèn thở
phì phò, các cụ bà ngồi se lanh thêu áo…Tất cả đều là những phác thảo tươi tắn
giàu thực tế, những bức tranh giàu màu sắc, uyển chuyển và sinh động. Nó được Tô
Hoài quan sát, ghi chép và chắt lọc đưa vào tác phẩm khiến ta cảm nhận được sự
luồng gió mới cách mạng đã thổi đến vùng cao. Để phản ánh nạn mê tín dị đoan ám
ảnh lên cuộc sống cũ, lên cuộc đời của mẹ con bà Giàng Súa, Tô Hoài đã sử dụng
chi tiết bà Giàng Súa làm theo lời của mọi người “xuống suối lấy sỏi ngậm hàng
tháng, con ma sẽ hóa cục máu ra theo hòn sỏi” nhưng “ hòn sỏi nằm trong miệng bà
đủ ba mươi đêm, bà Giàng Súa nhổ ra, cũng chẳng thấy có cục máu ra”, không có
máu trong mồm nên bà và các con phải trốn chui lủi vào rừng sâu. Khi kể về cuộc
đời mới, với con người mới, Tô Hoài đã xây dựng nhân vật Vừ Sá Tỏa rất sinh
động. Tính tình Sá Tỏa thẳng thắn bộc trực, đôi khi hơi nóng nảy nhưng Sóa Tỏa rất
vui với mọi người, hăng hái trong công việc; để làm nổi bật tính cách ấy của Sóa
Tỏa, Tô Hoài đã đưa chi tiết khi nghe Tào Nhìa nhắc lại họ cũ của mình, Sóa Tỏa
như bị nhói vào chỗ đau đớn tủi nhục cũ mà quát lên: - “Thằng hổ vồ, mày muốn
chết rồi, họ Vừ nhà tao không thèm đội nhờ đầu họ Mùa nhà Sống Cổ, tao ném họ
Mùa xuống suối từ lâu rồi.”
Khi viết về người thực, việc thực trong tiểu thuyết Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ,
nhà văn đã biết nhặt lấy những chi tiết “đắt giá” “như nhặt khối than đốt cho động
cơ tác phẩm của mình”[13; 351]. Mỗi việc có thể xảy ra trong bất cứ cuộc vận động
cách mạng nào, nhưng trên trang giấy của tác giả nó ánh lên màu vẻ riêng biệt khiến
chỉ đọc một lần là nhớ lâu. Kể về các bước phát triển phong trào, về hành động bạo
dạn, nhiệt tình “cách mạng” của Thụ, tác giả sử dụng chi tiết Thụ tự làm lấy băng
đỏ đeo lên cánh tay áo, xách mã tấu vào huyện để nói: “các đồng chí Hồng quân cho
tôi làm cách mệnh”; khi Nông Kỳ Lâm quẩy sọt củ nâu và con trăn đến bắt liên lạc
với Thụ, Thụ một mình đến thăm tên trùm phỉ Chính Hiền, hành động đó giống như
Quan Vân Trường đơn đao phó hội. Hay khi miêu tả nỗi ấm ức của Mã Hợp khi đi
rải truyền đơn bị bắt rồi bị tra khảo: “Thằng Tây chửi mình áo rách thì đúng rồi,
47
nhưng chửi đúng vào chỗ mình không biết chữ thì tức quá”. Tinh thần cách mạng
len lỏi, phát triển và thấm ngầm vào cả những người như mẹ Mã Hợp. Mẹ Mã Hợp
hỏi Thụ: “Mẹ già thế này mẹ có cách mệnh cộng sản được không”.
Quan sát và ghi chép ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào là thói quen của Tô Hoài mà
không phải ai cũng học được. Chính vì sự cần mẫn, cẩn thận đều đặn như thế mà
ông đã tạo cho mình một kho tư liệu dồi dào, phong phú, đa dạng về đời sống, làm
chất liệu cho sáng tác, giúp ông đi sâu vào kể, tả chi tiết. Trên trang giấy của ông
người ta có thể liệt kê ra hàng loạt các chi tiết đời thường đến không tưởng bởi nó
tràn ngập, nó thành một chuỗi dài tạo nên sự kiện, cốt truyện, tạo nên cái tạng riêng
của nhà văn, nhưng cũng trên trang giấy ấy, người ta nhìn thoáng, đọc thoáng cũng
có thể nhớ được những chi tiết được ông bỏ công nghiền ngẫm, chọn đưa vào tác
phẩm. Sự kết hợp một cách linh hoạt các chi tiết hàng ngày với các chi tiết tiêu biểu
đã giúp Tô Hoài dựng nên những nhân vật, những tính cách mà mỗi lần nhắc đến ta
đều biết nó là sản phẩm của Tô Hoài. Chính bởi thế nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng
Mạnh đã có lí khi nhận xét: “Nhà văn có khiếu quan sát hết sức phong phú và sắc
sảo, tài hoa, hiểu theo nghĩa vận dụng toàn bộ các giác quan để ghi nhận cảnh vật
bên ngoài với tất cả hình dáng, sự sinh động, âm thanh, màu sắc, mùi vị của
nó…Ông có trí tưởng tượng mạnh mẽ giúp ông rất nhiều khi miêu tả…, đồng thời
có vốn ngôn ngữ giàu có mà ông cần cù tích lũy để tạo nên những bức tranh chân
thực, góc cạnh và đầy hương sắc” [16; 46].
2.2.2. Khắc họa nhân vật qua ngoại hình và hành động
Ngoại hình là một khái niệm chỉ tất cả những gì tạo nên dáng vẻ bên ngoài của
nhân vật, đó là hình dáng, diện mạo, trang phục, cử chỉ, tác phong…Ngoại hình của
nhân vật có thể được khắc họa trực tiếp thông qua ngôn ngữ của người kể chuyện,
cũng có thể được miêu tả qua cái nhìn, sự đánh giá của các nhân vật khác trong tác
phẩm. Nhà văn có thể tập trung miêu tả ngoại hình của nhân vật trong một đoạn
văn, cũng có thể miêu tả rải rác ở các chương, các đoạn, các tình huống và hoàn
cảnh khác nhau của nhân vật. Để nêu bật đặc điểm tính cách, thần thái của nhân vật
và giúp cá biệt hóa các nhân vật, nhà văn phải chọn được các chi tiết tiêu biểu về
48
ngoại hình.
Nếu Nam Cao, Thạch Lam thường đi sâu miêu tả thế giới bên trong của nhân
vật thì Tô Hoài lại có biệt tài miêu tả ngoại hình nhân vật. Sở trường ấy được thể
hiện rất rõ trong truyện ngắn, và nó được tiếp nối trong tiểu thuyết của ông. Khi
miêu tả ngoại hình của các nhân vật, Tô Hoài đã quan sát rất kĩ, tìm ra đặc điểm
riêng và vận dụng vốn ngôn ngữ đời sống phong phú của mình để lột tả nhân vật.
Dù tác phẩm ít hay nhiều nhân vật, đối tượng nhân vật giống hay khác nhau thì ta
đều tìm thấy bộ mặt riêng của mỗi nhân vật.
Nhà văn có khi miêu tả ngoại hình nhân vật chỉ bằng vài chi tiết thoáng qua
khi nhân vật đó “ngẫu nhiên xuất hiện” như trường hợp của vị thường trực đoàn ủy
trong tác phẩm Ba người khác: “Một người nhỏ nhắn, bộ áo nâu son mới sáng sủa,
mặt trắng trẻo đeo kính trắng như học sinh mắt cận thị”, hay với ông cán bộ cấp trên
về sửa sai: “đã đứng tuổi, mép để hàng ria con kiến, đằng lưng áo gồ hẳn lên chuôi
khẩu súng lục to”. Nhưng cũng có khi tác giả để tâm, “chăm chút” cho vẻ bề ngoài
của nhân vật ngay từ khi giới thiệu về họ, như trường hợp của nhân vật Cự trong Ba
người khác “không uống rượu nhưng mặt lúc nào cũng đỏ găng, Cự lườm một cái
lộn lòng trắng mắt, ai đương nói cũng phải nghẹn lời, đợi nghe Cự, mỗi tiếng Cự
ném ra cục cằn như ném gạch”, hay Mai An Tiêm trong Đảo hoang “Mình lẳn
mình trắm. Đôi mày dựng ngược. Con mắt sắc. Nước da đỏ lịm như đồng hun. Một
trang quắc thước, hiên ngang lạ lùng”.
Có khi nhân vật hiện lên dưới con mắt và giọng điệu của người kể chuyện
cũng có khi người kể chuyện đóng vai trò là nhân vật miêu tả về nhân vật khác
trong truyện. Mai An Tiêm dưới cái nhìn của người kể chuyện là một trang anh
hùng, một người có sức khỏe vô song, thần thái hiên ngang, từ bé “đã dày dạn lắm,
khắp mình đã trổ chàm vằn vèo, xám xịt”, lớn lên Mai An Tiêm trở thành người có
chí khí, sống độc lập và luôn tin vào khả năng của mình, nhưng chàng cũng là một
người giàu tình cảm, yêu thương và che chở cho vợ con hết mực “An Tiêm cười,
quen tay xoa mớ tóc đuôi bò nhỏ mướt, lưa thưa trên đầu con gái”. Trải qua gian
truân, gia đình thất lạc nhau, tấm lòng, tình yêu dành cho nhau không thay đổi,
49
nhưng ngoại hình thì có nhiều nét khác và để thấy rõ sự thay đổi về diện mạo ấy,
nhà văn miêu tả qua con mắt của các nhân vật. Khi gặp lại nhau, bố con An Tiêm
mừng khôn xiết, trong nỗi mừng vui ngày gặp lại ấy, An Tiêm đã để ý thấy Mon đã
lớn “ngoài mười lăm, mười bảy rồi”, và đã “cao bằng bố”, “tóc nó đen nhánh, rối
một nắm dài xuống quá lưng” rồi ở chàng trai lưu lạc ấy còn có “Lông mày lông má
trổ ra vàng xuộm như mặt con đười ươi”; trong cái khố trần, “bắp chân nó nổi
chão”; An Tiêm cũng nhận ra qua cái dáng ấy, Mon “tinh nhanh, tháo vát” hơn
nhiều, thực thụ là một chàng trai khỏe mạnh. Trong niềm hân hoan vui mừng cùng
bố trở về gặp mẹ con nàng Hoa, Mon cũng đã để ý tới bố, Mon thấy “bố đã già thật
rồi”, sự già nua ấy thể hiện rõ nhất qua mái tóc, và bộ râu “tóc bố dài xõa giữa lưng,
ngày trước dày đen một đệp, bây giờ chỉ thấy lơ thơ lốm đốm bạc. Hai bên tóc mai
đã bạc hẳn như bong” rồi “râu ria mọc kín mặt, cả đến hai bên lông mày cũng đã có
như giắt bông. Sự thay đổi đó chứng tỏ quãng thời gian bố con xa cách đã rất lâu,
song Mon cũng nhìn thấy bên cạnh đó, bố vẫn khỏe mạnh như xưa “khắp mình các
bắp tay, lốt xăm chàm mới vẫn vằn lên và răng bố đen nhoáng” và Mon biết “hằng
ngày bố vẫn xuống biển săn cá, bước bố đi còn khỏe lắm, nhanh như vượn
Ngoại hình là vẻ bên ngoài của nhân vật, nhưng nó cũng thể hiện thần thái,
tính cách của nhân vật, do đó Tô Hoài đã chọn lọc các chi tiết rất nhỏ, rất cụ thể để
chỉ bằng mấy dòng có thể làm cho nhân vật đó hiện lên sắc nét, sinh động như thực.
Trong Ba người khác, cùng là miêu tả anh đội nhưng mỗi anh đội dưới con mắt của
Bối lại hiện lên với đặc điểm nhận dạng khác nhau. Anh đội Cự là đội trưởng đội
cải cách, ít học, ăn nói thô thiển “mỗi tiếng cự ném ra cục cằn như ném gạch”
nhưng thích “đao to búa lớn”, “không uống rượu nhưng mặt lúc nào cũng đỏ găng”,
thích quát nạt người khác để ra oai, hay tỏ ra quyền thế và sống gian giảo, cơ hội
“cười nhếch mép, cười nhẹ nhàng”. Với Đình thì tác giả chú ý đến cái “dáng lêu
nghêu, cái mũi đỏ, đuôi mắt có ve, lúc nói nháy lia lịa, bộ râu xồm xoàm tuổi tác và
con mắt ốc nhồi”. Đúng là diện mạo của một kẻ luôn ảo tưởng, sống gian giảo, thích
nói hơn thích làm. Còn Bối thì tác giả không miêu tả nhiều, chỉ qua mấy chữ ở phần
cuối “tôi béo tốt hẳn hoi, râu mọc um tùm đen mỡ ra”, cộng với cái lí lịch dày đặc
50
những mánh khóe, những gian lận và những chuyện đểu giả khiến người đọc thấy
ghê sợ một con người đội lốt tri thức, “lọt lưới” lên anh đội. Đặc biệt chỉ trong vài
chi tiết ngắn gọn nhưng hình ảnh người nông dân hiện lên méo mó, dị dạng, trông
thảm hại, ghê sợ. Cố nông Vách với “Cái mặt người này dại dại, mắt trơ tráo, không
biết nó dở hay nó là thằng địch trắng trợn ra đặt bẫy”, hay khi miêu tả người đàn bà
tật nguyền “Hai con mắt cùi nhãn ngước ra. Người đàn bà như con cóc ngồi gậm
giường, bàn tay vêu vao khô đét, đen như đất, rờ lên lỗ hổng miếng cái cối” rồi
“Hai con mắt đục mờ, hai đầu gối, cái khoeo teo lại như cái sống tàu lá chuối héo”.
Với dụng ý nghệ thuật rõ ràng nhà văn đã tô vẽ cho vẻ bề ngoài của nhân vật những
chi tiết hết sức cụ thể, đầy ấn tượng, ám ảnh, để lại trong trí nhớ người đọc những
“chứng minh thư” riêng biệt.
Trong khi miêu tả ngoại hình của nhân vật, Tô Hoài thường ít khi miêu tả hình
dáng chung chung, mà thường chú ý đến khuôn mặt nhiều hơn. Trong khuôn mặt,
Tô Hoài hay miêu tả đôi mắt bởi “đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn”. Tác giả nhìn thấy
ở Đơm - cô gái tuổi dậy thì không chỉ “nét mặt xanh xao bỗng đỏ hồng xinh hẳn”
mà còn ở “con mắt thì ngon như củ khoai lùi ăn được”, rồi khi khóc thì “con mắt
ướt tình”. Khi miêu tả hai người vợ của Vách và Diệc tác giả cũng chú ý đến đôi
mắt, người thì “Hai con mắt cùi nhãn ngước ra”, người kia thì “Hai con mắt đục
mờ,” Vách hiện ra với cũng “mắt trơ tráo”. Và An Tiêm rất ít được miêu tả, nhưng
khi miêu tả đến chàng, Tô Hoài cũng chú ý đến “ đôi mày dựng ngược. Con mắt
sắc” rồi, khi gặp Mon, Mon thấy bố “chỉ còn hai con mắt lay láy giữa bộ râu quai
nón lốm đốm bạc mọc trùm lên cả đuôi mắt” Còn với Mon thì ánh mắt được miêu tả
với nhiều sắc thái khác nhau, khi thì “mắt Mon rưng rưng”, lúc lại “mắt mở choàng,
rồi khép như chờ đợi”. Cái gái thì “mặt nó trắng hồng, hai mắt sáng tươi cười”. Đặc
biệt khi miêu tả về anh thợ chài chết đuối được gia đình Mai An Tiêm vớt lên, Tô
Hoài đã tập trung miêu tả con mắt, thể hiện tất cả những cảm giác khác nhau của
người này khi nhìn thấy gia đình An Tiêm. Khi người ấy dần dần tỉnh lại thì “hai
mắt từ từ mở. Con mắt nhợt nhạt mở ra. Rồi lơ láo nhìn quanh”; rồi mấy ngày sau,
“người này đờ đẫn, mặt trắng bệch ra như mặt nạ gỗ”, đặc biệt liên tiếp tác giả chú
51
ý đến miêu tả con mắt người này khi họ dần dần tỉnh “hai con mắt hôm qua lim him
nhắm, bây giờ cứ mở tráo trâng, không biết nhắm nữa. Mí mắt đã cứng lại, con
ngươi dại đi, hai tròng mắt cứ trô trố muốn long ra. Suốt ngày, người ấy ngồi rục
đầu một xó. Hai mí mắt lúc nãy căng rách, muốn rơi con ngươi xuống, bây giờ mới
sụp lại, đóng khít lại”. Qua các chi tiết miêu tả về khuôn mặt, đôi mắt như trên, ta
biết được vốn ngôn ngữ phong phú của tác giả, tài quan sát, khả năng liên tưởng
tuyệt vời. Chỉ đôi mắt, nhưng ở mỗi nhân vật, mỗi hoàn cảnh, mỗi tình huống ta lại
bắt gặp một đôi mắt khác nhau. Tác giả miêu tả những đôi mắt như “biết nói”,
chúng thể hiện được hết thần thái, tính tình của nhân vật, đúng là một “cánh rừng
hoa đủ màu sắc, đủ chủng loại” mà không loài nào lẫn với loài nào.
Bên cạnh việc chú ý chọn lựa các chi tiết đặc sắc để miêu tả khuôn mặt và đôi
mắt của các nhân vật, Tô Hoài cũng thường quan sát và khoác lên các nhân vật
những bộ trang phục khác nhau, qua đó người đọc vừa nhận dạng nhân vật, vừa
thấy được những nét bản sắc của từng vùng miền, từng thời kì. Lúc đầu người đọc
nhận diện các anh đội qua “quần áo nâu bàng bạc”, còn vị thường trực đoàn thì “bộ
áo nâu non mới sáng sủa”; với người nông dân thì vẫn trang phục nâu nhưng “ cố
nông Diệc - quần nâu bạc đã tuông cả gấu” và cô Duyên người con gái nông thôn
nhanh nhẹn tuổi dậy thì với “áo vải phin nâu”. Trang phục “nâu” đó là dấu hiệu để
ta biết về thời kì cải cách, nhưng mỗi màu “nâu” cũ, mới khác nhau đó cho ta biết
về cấp bậc, tầng lớp của nhân vật và đồng thời qua cách ăn mặc ta cũng một phần
hiểu được tính tình của nhân vật. Khi miêu tả gia đình An Tiêm ở ngoài đảo, điều
Tô Hoài quan tâm miêu tả vẻ bề ngoài cũng là ngoại hình với trang phục “rách lướp
tướp”; rồi thì như những con “ma rừng trần truồng, đóng khố, cái khố cỏ vàng
sạm”; dưới con mắt của người trai chài lưới thì mẹ con nàng Hoa hiện ra với trang
phục “Những người đàn bà trần trùng trục, da đen nhánh, không giống da người.
Những cái váy bùng nhùng, váy da dê núi hay da trăn”; và Gái sau bao năm xa cách
anh Mon, giờ đây thể hiện vẻ dậy thì của mình qua “cái váy khép vạt cồng kềnh
từng nan nâu nan mây vồng trước vồng sau”. Ngoài đảo, gia đình An Tiêm chỉ
mong sao có cái ăn, có cái mặc, và trang phục là cái mà nàng Hoa luôn mang bên
52
mình, coi nó là thứ “tối quan trọng”, trang phục ấy chẳng có gì nổi bật về màu sắc,
về hình dáng mà nó chủ yếu được mô tả ở chất liệu và cách ăn mặc. Ở Miền Tây,
Tô Hoài tả không nhiều nhưng mỗi lần tả hầu như đều có những chi tiết về trang
phục. Với bà Giàng Súa diện mạo không được mô tả kĩ nhưng tác giả đã mô tả bà
với nỗi sợ hãi, nỗi đau khổ qua vạt áo khi người ta bắt Thào Nhìa đi : “ Bà khép hai
mảnh vạt áo đã rách mòn hở đến ngang ngực”. Với Mỵ, cô gái người Mèo đẹp nhất,
tác giả cũng sử dụng các chi tiết về trang phục, cô đẹp ngay cả khi “vẫn bộ váy áo
ấy từ khi ở khu du kích, đã cũ, bạc trắng” và cô trở nên một cô gái xinh xắn, đáng
yêu qua cái nhìn của Nghĩa khi cô mặc “áo trắng, quần đen”. Thào Khay, người y tá
của bản làng thì hiện lên với trang phục “mặc quần áo dạ đen, kín cổ”, và khi anh
tiêm thuốc thì mặc áo “lui” (blu); trưởng thôn Pàng lại có “quần áo vải thô không
nhuộm, đen xỉn như trát đất”. Tô Hoài còn sử dụng chi tiết miêu tả trang phục để
nhận diện nhân vật. Một người phản cách mạng, dụ dỗ nhân dân vượt biên được Tô
Hoài miêu tả qua bộ quần áo hắn mặc mà không có thêm chi tiết miêu tả về những
đặc điểm khác “Thằng áo đen lại đến, cái lưng áo lúc nãy còn lành, giờ đã rách
trống hốc”. Thào Nhìa khi mới xuất hiện, cái nổi bật để mọi người biết hắn là biệt
kích đó là bộ quần áo và túi vải hắn đem theo “quần áo tay chân nó loang lổ như
con trăn đang lột” (…), “những cái túi màu da con tắc kè xanh xám lẫn màu cỏ. Bộ
quần áo dù xám ngoét”. Quả đúng là nhìn vào bộ quần áo đó, Thào Nhìa trông khác
biệt với tất cả những người ở Phìn Sa. Quan sát kĩ nên Tô Hoài đã làm nổi bật sự
khác nhau giữa các dân tộc, người con gái Mèo thì “mặc áo chàm, chít khăn đen, về
sau đổi ra mặc áo váy thêu”; ông cụ người Xá thì “cởi trần, khăn quấn quanh, búi
tóc cao”; còn người Dao với “chiếc áo chàm dài có hai hàng khuy mở suốt lồng
ngực vạm vỡ”. Khi miêu tả một đoàn người bị dụ dỗ vượt biên, Tô Hoài cũng chỉ
chú ý lột tả họ qua trang phục họ có trên người. Lúc chuẩn bị vượt biên thì “họ mặc
áo nẹp đỏ, lưng thêu dấu áo quán và áo quản mán, có người áo thầy cúng vạt dài,
Có người quần chàm quấn vải mộc, rách toang”; còn khi họ bị bắt lại thì “Cả bọn
vẫn lòng thòng nguyên những quần áo thống lý, quản mán. Nẹp viền sặc sỡ, tua ngũ
sắc đeo cổ, dấu vuông đỏ đóng lưng áo”. Tuyệt nhiên không có chi tiết nào thể hiện
53
tính cách của họ, nhưng qua trang phục họ mặc ta hiểu họ là những người còn mê
tín, còn tin vào vua, vào sự tuyên truyền giả dối của địch, họ nhốn nháo, đủ “màu
sắc”, chứ chưa vững vàng về một phía. Tô Hoài không tập trung tả trong một đoạn
mà tả xen kẽ với sự xuất hiện của mỗi nhân vật, và ông cũng không dài dòng, không
cầu kì miên man vào tả trang phục của họ, chỉ mấy câu văn ngắn gọn, vài chi tiết
nhỏ nhưng nó góp phần làm cho nhân vật trở nên sống động, khắc họa được một số
nét tính cách của nhân vật.
Cách miêu tả của Tô Hoài có lúc cảm tưởng như thoáng qua, nhưng những nét
vẽ đó gọn gàng ít khi thừa, đúng là có dụng ý nghệ thuật. Cách miêu tả ngoại hình
của Tô Hoài chứng tỏ thế mạnh của ông trong việc khắc họa nhân vật. Và sở trường
ấy có được là bởi ông luôn quan sát không ngừng nghỉ, lắng nghe không mệt mỏi,
chăm chỉ học hỏi để hoàn thiện văn phong của mình.
Cùng với việc tập trung khắc họa nhân vật ở ngoại hình, Tô Hoài cũng thường
miêu tả hành động của các nhân vật. Tần số nhân vật hành động trong truyện là
tương đối nhiều, đủ để nhân vật bộc lộ được nét tính cách của mình. Không chỉ là
yếu tố cần thiết để nhân vật bộc lộ tính cách, hành động còn là yếu tố thúc đẩy diễn
biến của cốt truyện. Nó là mối dây liên kết các nhân vật trong cốt truyện. Đó là
những việc làm cụ thể của nhân vật trong quan hệ ứng xử với các nhân vật khác và
trong những tình huống khác nhau của cuộc sống. Hành động của nhân vật có khi
được miêu tả thông qua ngôn ngữ của người kể chuyện, cũng có khi qua ngôn ngữ
của các nhân vật khác trong truyện. Và quan trọng là các hành động của nhân vật
phải nhất quán, liền mạch trong một chuỗi, có thế thì tính cách mới bộc lộ rõ nét.
Do đó bên cạnh việc mô tả hành động của nhân vật nhà văn còn phải để ý xâu chuỗi
các việc làm đó theo một trình tự thống nhất trước sau phù hợp với quy luật tất yếu
của đời sống.
Trong các tiểu thuyết của mình, Tô Hoài miêu tả hành động của nhân vật như
là các bước để phát triển cốt truyện. Do đó, các hoạt động của nhân vật thường diễn
ra nhiều hơn là tâm lí. Từ hành động nhỏ nhặt, thường ngày, tới những hành động
chi phối tạo nên sự kiện trong cốt truyện. Ở tiểu thuyết Đảo hoang, khi kể về cuộc
54
sống của gia đình An Tiêm ở đảo, tác giả miêu tả rất nhiều hoạt động của nhân vật
trong đó tập trung vào nhân vật An Tiêm và Mon. Một chuỗi các hành động của An
Tiêm được mô tả: “bíu đá, nhón chân bước ra”, rồi “hai chân bước mò”, gặp cơn
sóng thì “vội nằm xuống” và khi tìm được túi bánh thì “vác bổng lên một bên vai”
và “ré chân trèo thốc lên”, sau đó “sờ xem nút buộc có chắc không”. Câu chuyện
được kể theo hành động của gia đình An Tiêm trên đảo, từ lúc bước xuống thuyền,
sau đó là hành trình chia nhau vào rừng đi tìm nước uống. An Tiêm và Mon đi
xuyên vào rừng, An Tiềm “ngẩng lên nhìn những cây cọ” rồi không ngần ngừ chàng
“tót lên một cây rậm và cao nhất ( …) cầm dao, vạch vào giữa bẹ cọ” và “đâm dao
liền hai nhát vào nõn cọ”. Sau đó An Tiêm “bưng ngược”, “đặt lá”, rồi “phủ lên”.
Hành động của An Tiêm là những hành động tìm cách để sinh tồn. Những hoạt
động đó của An Tiêm là những chi tiết thúc đẩy sự vận động của cốt truyện, và qua
đó thấy được bản tính của An Tiêm, đó là một con người không sợ chết, luôn thích
nghi được với mọi hoàn cảnh, can đảm trước sự dữ tợn của thiên nhiên, sự hoang vu
của biển đảo, luôn biết tìm ra cách để tồn tại. Bên cạnh việc mô tả hành động của
An Tiêm, Tô Hoài tập trung bút lực thuật lại các hành động của Mon – người con
trai nối được chí cha. Khi lưu lạc, sống một mình không có gì ngoài cái thang gỗ
hỏng, Mon vẫn tìm được cách để sống tốt. Khi miêu tả hành động của Mon, tác giả
dùng một loạt các động từ “cúi xuống, nhặt hòn cuội đập, hút hết hơn chục con
ngán to”; “tước mo nang thành sợi”, “tìm được hòn cuội to, mài vạt đi một phía,
làm con dao đá”; rồi Mon “chọn mấy cây tre to, đẽo hai đốt một làm ống đựng
nước, vác ra suối, vục nước đem về”; “Mon cặm cụi làm lều ở, Mon xếp đá cao lên,
dựng sáu cái cột sàn to. Và sau đó “tìm đẵn những tàu dứa dại, gỡ mạng lá dứa đã
rữa ra thành xương lá, lấy dao đá đập dẹt lại”. Qua các hành động của Mon cũng
giống như Mai An Tiêm, ta thấy các hoạt động đó được miêu tả một cách liên tục,
phản ánh cuộc sống một mình của Mon trên đảo. Một chuỗi các hành động đó là để
thích ứng với cuộc sống ngoài đảo và chuẩn bị cho sự trưởng thành, cho ngày gặp
lại gia đình. Sự phát triển của cốt truyện không theo thời gian mà theo hành động
của nhân vật. Qua hành động, ta thấy Mon là một chàng trai trẻ thừa kế được tính
55
kiên trì, chăm chỉ, can đảm và đặc biệt là nghị lực phi thường của bố. Trong gian
khổ, thiếu thốn, trong nguy hiểm, trong sự lưu lạc, Mon đã rèn luyện sức khỏe, rèn
luyện tinh thần qua các hành động đó. Đặc biệt ở Mon ta còn thấy có một tình yêu
thương loài vật sâu sắc, Mon chăm hai chú gấu, nói chuyện và coi chúng như là anh
em, như là bạn bè, ngay cả lúc gặp gia đình rồi, và cả khi trở về đất liền Mon vẫn
không quên gấu. Tình cảm mà Mon dành cho hai anh em gấu thực sự làm người đọc
xúc động. Đó là những hành động nhân văn cao đẹp.
Tô Hoài hay kể chuyện đời thường với những cảnh kiếm ăn, chuyện mưu sinh,
tình cảm bình dị nên các hành động trong tiểu thuyết của ông cũng thường là những
hành động rất nhỏ, rất đời thường nhưng phản ánh được tính cách nhân vật. Đọc Ba
người khác, ta thấy hành động của các anh đội, của người nông dân dưới cái nhìn
của người kể chuyện cũng là một nhân vật trong truyện phản ánh tính cách xấu xa,
thấp hèn của con người và mặt trái của cuộc cải cách. Người đọc thực sự thấy
“ngán” với hành động của những “cán bộ” khi họ vào chợ kiếm cái ăn. Khi nghe
đội trưởng Cự nói vào chợ kiếm cái ăn, các anh đội có hành động giống như vẻ
ngoan ngoãn của trẻ con khi được mẹ cho quà “cả bọn đi hàng một từ tốn bước sau
Cự”. Thật trong cái đói khổ, người lớn cũng đánh mất nhân cách, ham hố cái ăn để
đến nỗi hành động giống như con nít. Ở đây, chi tiết của Tô Hoài mới thật là sắc
nhọn, đánh trúng vào bản chất đê hèn của các anh đội. Rồi không chỉ dừng ở đấy,
khi họ họp nhau để báo cáo tình hình tại ngôi đền hoang lúc đêm khuya với quang
cảnh tối tăm, đổ nát, hành động cũng mờ ám, lén lút y như bản chất của họ “chúng
tôi xuống, vào ngôi đền…lại cái đền hoang…đội trưởng Cự nhìn quanh…Cả bọn
chui vào qua cái sân cỏ mọc…”. Từ “lại” và động từ “nhìn quanh”, “chui” đã nói rõ
việc làm này thường xuyên xảy ra, và nó chui lủi, không đường hoàng như lũ chuột
trong ngôi đền hoang đó vậy. Và trong các cuộc hội ý ai cũng xấu, cũng nhếch
nhác, cũng hình thức như ai nhưng ai cũng tỏ ra là mình cọ xát với quần chúng
“người thì cái giỏ đeo đít, người cái cuốc trên vai hạ xuống, có người quang gánh
long thong để ngoài thềm, cái thừng và chiếc nõ xỏ mũi trâu trong đám cỏ”. Thật là
những hành động “vải thưa che mắt thánh”. Nhà văn rất tinh tế khi lựa chọn được
56
những chi tiết tiêu biểu, sinh động miêu tả hành động của các anh đội qua đó thể
hiện được tính giả dối, hình thức, khoe mẽ, bản chất thấp hèn, trong con người
những người xưng là “anh đội” xuống giúp dân cải cách. Trong các nhân vật anh
đội đó thì nhân vật Bối là nhân vật được Tô Hoài tập trung miêu tả nhiều, và chính
anh ta lại là người kể chuyện – người trong cuộc kể về chính những hành động của
mình. Điều đó vừa thể hiện tính chân thực, vừa thể hiện tính khách quan và do đó
càng thuyết phục người đọc. Anh Bối tuy không được tả nhiều về ngoại hình nhưng
lại có một lí lịch hết sức đen tối, thể hiện rõ bản chất đê tiện của anh ta. Lí lịch ấy
được kể tóm gọn nhưng khá đầy đủ. Khi đến tuổi đi làm Bối làm “loong toong, làm
cu li giữ cửa”. Sau khi lập gia đình thì vào tự vệ phố và sau đó là có hành động
“trốn tự vệ trà trộn trong đám người lố nhố ra. Trời lạnh tôi chít sùm sụp cái khăn
vuông mỏ quạ, giả làm bà già”. Hành động này quả là thấp hèn, là nhút nhát trong
khi trai tráng đều vào tự vệ thành phố để chiến đấu thì anh ta lại đóng giả đàn bà, trẻ
con để mong thoát ra hưởng sự bình yên. Xét hẹp thì đó là hành động của kẻ ham
sống sợ chết, xét rộng thì đó là hành động của kẻ đảo ngũ, không có tinh thần dân
tộc, lòng yêu đất nước. Chỉ một câu kể ngắn gọn hành động của Bối trong quá khứ
mà Tô Hoài đã lột tả được nhân cách không tốt đẹp gì của Bối. Và rồi khi vào được
một cơ quan trong khi mọi người thực hiện lệnh “cấm ăn quà ngoài đường, không
mua bán” thì Bối “tối tối vẫn lẩn đi chén phở”. Khi lấy vợ mới, có con sáu tuổi thì
Bối bắt buộc phải đi cải cách vì không thể nào trốn được nữa. Và đợt cải cách mới
này Bối thể hiện rõ bản chất của một kẻ vô học, thiếu tính người. Hành động đầu
tiên là ăn cắp bánh đúc ở chợ. Hành động đó được Tô Hoài mô tả bằng một loạt các
động từ có giá trị theo một chuỗi liên hoàn “duỗi chân đụng vào đít cái ba lô (…) lé
con mắt đương hoa vang mở (…). Bấm thấy mềm mềm. Tôi quờ tay (…). Tôi
ngước mắt (…) Tôi luồn tay dưới ba lô, thó luôn cả gói, bỏ nhẹm vào túi xách, rồi
lại vờ lơ láo nhìn mọi người.” Chỉ một hành động mà Tô Hoài miêu tả đến nửa
trang giấy, ông dụng công cho hành động ấy để chứng minh cho tính tham ăn, ham
hố đói khát của Bối. Không chỉ dừng lại đây, trong trang sách của mình Tô Hoài
còn miêu tả nhiều hành động làm tình của Bối. Anh ta “thở dốc, ngoi lên hớp từng
57
hơi”, rồi “chống hai tay như con ếch” “như con lươn luồn đi”, “ đến lúc tôi chỉ còn
như con chó què bước xiêu vẹo, lử khử, lần được về nhà nằm uỵch xuống chõng,
thiếp đi”. Bối không chỉ ngủ với Đơm, với Duyên mà còn với “đám đông” các cô
dân quân khác. Hành động hủ hóa đó của Bối được Tô Hoài tả rất kĩ, với những từ
ngữ, ví von “tự nhiên”, qua đó ta thấy được bản năng tính dục của Bối giống như
loài vật. Không chỉ dừng ở đó, nhà văn còn làm rõ bản chất của nhân vật qua hành
động “cấy lúa thần kì”. Trong khi mọi người đi tìm giống, lo nước vào thì Bối “ở
nhà đẽo cái que tre dài bằng đòn gánh. Một tờ bìa cặp đầu que dán mảnh giấy trắng,
đổ thuốc đỏ trộn mực bút máy, đóng khung trang trọng nắn nót kẻ hàng chữ: Lúa
thần kì”; sau đó anh ta “đứng trên bờ lãnh đạo mít tinh hô khẩu hiệu” cho mọi người
ở dưới cấy, và luống cuống quay loa : “A lô…A lô…Tôi tuyên bố bắt đầu cấy…”.
Rồi khi lúa có triệu chứng thối gốc vì cách làm thiếu kĩ thuật thì Đình lại cho rằng
nó toát mồ hôi nên hô hào mang quạt ra quạt lúa “lúa đổ mồ hôi thì đem quạt ra
quạt cho nó ráo. Có thế thôi” Quả đúng là những hành động đến nực cười, thể hiện
sự dốt nát, thiếu học lại phô trương, khoe mẽ cái sự dốt ấy. Đọc đến đó người đọc
không khỏi thấy buồn, thấy ghét và có khi còn thương hại cho cái dốt của anh đội
Bối. Với các anh đội thì Tô Hoài tập trung bút lực xây dựng nhân vật Bối, qua
những hành động của Bối ta hiểu hết về đội cải cách. Còn với người nông dân thì
ngoài diện mạo nhà văn cũng chú ý miêu tả họ ở hành động. Hành động của họ là
hủ hóa với các anh đội để kiếm chác, để thỏa mãn nhu cầu “như gà” của mình
“Duyên rên ư ử như con chó mê ngủ rồi lăn ra” “Duyên nằm đè lên tôi quẫy huỳnh
huỵch, chẳng ra ngủ chẳng ra thức”. Đó là các cuộc tranh giành nhau quả thực, phân
chia ruộng đất đến nỗi xô xát, chửi bới, đánh nhau. Họ quên hết tình làng nghĩa xóm
vì lợi nhỏ trước mắt. Không những thế man rợ nhất là cảnh xử tội địa chủ Thìn và
anh đội Đình. Họ là những đám đông a dua, hành động theo bản năng mà không
suy xét, nhìn thiển cận và bộc lộ sự dốt nát, ngu muội của mình. Trước mắt họ
không phải là con người mà là kẻ thù, họ chỉ có những lời chửi cục cằn, những hành
động ném, đánh, những cái nhìn căm thù và sự hả hê trước cái chết của một địa chủ
58
đã “sắp xuống lỗ”.
Song song với việc để cho nhân vật hành động, Tô Hoài còn khéo léo trong
việc sắp xếp các hành động đó, và tất nhiên nó theo một quy luật logic của cuộc
sống, mỗi hành động trước, sau đều có sự thống nhất là làm nổi bật tính cách nhân
vật. Sự nhất quán ở hành động của Bối trong Ba người khác được thể hiện là việc
Bối hay ăn vụng trộm, thể hiện tính háu đói, tham ăn, phàm ăn tục uống của anh ta.
Từ khi còn làm đợt cải cách cũ anh ta đã hay lén ra chợ đi ăn quà khi thì “kẹo
bánh”, khi thì “bát bánh đúc”, khi thì “bát phở”…rồi sau đó trong đợt cải cách mới
thể hiện rõ nhất ở hành động ăn cắp bánh đúc của Cự và đưa tiền cho Đơm lén mua
bánh đúc cho mình, thi thoảng lại lén lút, ngó nghiêng không có ai để ý là ra chợ ăn
bún chan cua. Hai mươi năm sau đó anh đội Bối vẫn không thay đổi, chấp nhận làm
thuê và chịu nhục với Tư Nhỡ để có miếng ăn. Rồi thì hành động hủ hóa liên tiếp
không chỉ với Đơm, với Duyên, mà với tập thể dân quân. Hai nét tính cách cơ bản
là tham ăn, đê hèn và dâm ô, “hủ hóa” đó được Tô Hoài thể hiện rõ nét. Đó là một
thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Tô Hoài. Đọc Tuổi trẻ Hoàng
Văn Thụ, ta cũng nhận thấy cách thức nhà văn khắc họa nhân vật qua hành động
như vậy. Hành động của Hoàng Văn Thụ nhằm mục đích để đến với cách mạng một
cách đúng đắn, để phát triển phong trào ngày càng rộng rãi. Do đó các hoạt động
của Thụ là các bước phát triển từ thấp lên cao. Nhưng ở đây bên cạnh việc liệt kê
các địa điểm, các sự việc có thực mà Hoàng Văn Thụ trải qua, nhà văn còn muốn
phác thảo quá trình hoạt động cách mạng của nhân vật qua một loạt các hành động
trong đời sống thường ngày và các hành động gan dạ trong khi làm cách mạng. Đó
là việc lập ra tổ chức cách mạng đầu tiên với ba người trẻ tuổi đập chén rượu thề
cùng sống chết như cuộc kết nghĩa vườn đào; gọt trọc đầu để vào lính Quốc dân
đảng; cuộc đi thê thảm lên Vũ Hán giữa cái lộn xộn, chết chóc của đất nước Trung
Hoa thời Tưởng Giới Thạch, sự đi không thành thì trở về có khi mót dây khoai, lúc
rình bắt thỏ rừng có khi phải đi ăn mày; có lúc Thụ còn sắm bộ đồ cắt tóc kiếm ăn,
đeo đại đao tham gia Long Châu Đỏ. Đó là những hoạt động trên chặng đường đầu,
nó thể hiện sự nhiệt tình, hăng hái, quyết tâm xông vào con đường cách mạng cứu
59
nước, không do dự không tính toán, với tất cả lòng tin tưởng và sự say mê của tuổi
hai mươi. Chặng thứ hai Hoàng Văn Thụ đã trưởng thành hơn với các hoạt động rải
truyền đơn, vận động công khai dân phu đường sắt, làm vỡ phiên chợ Đồng
Đăng…Qua các hoạt động đó ta thấy Tô Hoài đã dựng nên một Hoàng Văn Thụ anh
hùng quần chúng, từ nhân dân lớn lên thành cán bộ dày dặn kinh nghiệm. Anh gần
gũi với quần chúng, nghĩ được chủ trường đường lối thông qua các cuộc trò chuyện,
những đêm tâm sự, những buổi dạy hát. Ngay từ cái “Đêm 30 tết ngồi đốt đống củi
to, kể chuyện mãi tận khuya, rồi đốt pháo ở nhà Mã Hợp tại Lũng Nghìu”, đã cho
thấy nét tính cách đó ở Hoàng Văn Thụ. Anh không chỉ yêu thương quan tâm dến
mọi người chung chung mà còn đặc biệt quý trọng người già, yêu thương trẻ con.
Hành động đưa cả tiền và thường xuyên nói chuyện cách mạng với mẹ Mã Hợp cho
ta biết điều đó. Rồi khi anh biết cắt tóc anh đã kéo tất cả bọn trẻ con, cắt cho từng
đứa một: “Thụ đứng xoay quanh nghiêng ngả, ngắm nghía. Tay cầm con dao, vểnh
cong hai ngón út, điệu khi cạo đầu”. Không những là con người giàu tình cảm được
mọi người yêu quý mà còn là một con người hành động quả cảm, cương quyết, bình
tĩnh, chắc chắn, vững vàng. Tô Hoài khắc họa nhân vật rất đa dạng nhưng lại thống
nhất thành dạng anh hùng quần chúng, tập hợp được kinh nghiệm và trí tuệ của
nhân dân bởi vậy nên cũng rất bình thường, rất gần gũi với mọi con người chúng ta.
Cùng với ngoại hình, hành động là yếu tố đầu tiên để nhà văn khắc họa cá tính
nhân vật. Trong tiểu thuyết của mình, Tô Hoài đã vận dụng kết hợp, khéo léo các
phương pháp miêu tả ngoại hình và hành động của nhân vật. Bên cạnh những chi
tiết tưởng như “dư thừa”, “râu ria”, thì Tô Hoài cũng lựa chọn được những chi tiết
tiêu biểu, đáng giá. Sự kết hợp ấy giúp Tô Hoài vừa xây dựng được nhân vật một
cách đời thường, gắn với sinh hoạt hàng ngày, vừa khắc họa được những nét tính
cách riêng biệt mà chỉ nhân vật đó mới có.
2.2.3. Khắc họa nhân vật qua biểu hiện nội tâm và ngôn ngữ
Nhân vật không chỉ hiện lên với ngoại hình, hành động mà còn phải biểu hiện
được đời sống nội tâm. Khái niệm nội tâm được hiểu là để chỉ toàn bộ đời sống bên
trong của nhân vật, đó là những tâm trạng, suy nghĩ, cảm xúc, cảm giác; những
60
phản ứng tâm lí của bản thân nhân vật trước cảnh ngộ, tình huống mà nhân vật
chứng kiến hoặc thể nghiệm trên bước đường đời của mình. Đời sống ấy của nhân
vật có thể được biểu hiện qua ngôn ngữ của người kể chuyện, cũng có thể được biểu
hiện qua độc thoại nội tâm và đối thoại nội tâm của chính bản thân nhân vật. Thế
giới bên trong của nhân vật là một thế giới bí ẩn, khó nắm bắt, nhưng miêu tả được
nội tâm là một phương thức tối ưu trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Không phải
nhà văn nào cũng có thế mạnh trong khắc họa nhân vật qua nội tâm. Tô Hoài được
nhắc đến với thành công trong việc khắc họa nhân vật qua ngoại hình và hành động,
do đó trong đời sống nội tâm ông không phải là nhà văn “chuyên sâu”.
Đọc Ba người khác, ta thấy tâm trạng, suy nghĩ của các nhân vật trong tiểu
thuyết được biểu hiện qua lời của người kể chuyện (là một nhân vật trong truyện).
Trước nhất, anh ta đã tự kể về mình, tự giới thiệu lai lịch, và những nét tính cách cơ
bản của anh ta: “Bố mẹ tôi mất đã lâu, tôi chỉ nhớ vợ con.(…). Tôi hồi hộp về chỗ
nhà cũ ở Tám Mái (…). Tôi như đuổi theo cái bóng. Cũng chẳng buồn, chẳng ngán
ngẩm(…). Lúc đầu tôi lo cứ rối tinh. Nhưng rồi cả tháng vừa nghe vừa hỏi thì cảm
như mọi việc khuôn phép dần đâu vào đấy, công tác này cũng thế thôi. Còn gì khó
hơn cái sổ sách kế toán, mình chẳng học mà cũng thành nghề cộng trừ nhân chia,
thế ra đi cải cách không đáng sợ như những đứa đã đi về đồn thổi, doạ dẫm”. Nội
tâm của Bối chủ yếu là bộc lộ qua những suy nghĩ, cảm nhận của anh ta về những
việc, những người xung quanh anh ta. Khi lấy cắp được bánh đúc anh ta nghĩ “cho
thằng đạo đức giả hôm nay đói rã họng”. Hay khi nói chuyện với Đình, với Duyên
bên ngoài anh ta nói cười, nhưng trong lòng thì “tôi tái người”, rồi “tôi yên yên cơn
lo”, “tôi chợt hoảng”. Tâm trạng của Bối thường được miêu tả bằng các câu ngắn,
vụt lên trong tâm trí, suy nghĩ của “tôi” khi anh ta đang đối thoại với người khác.
Mà tâm trạng đó chủ yếu là những lo lắng, bứt rứt không yên của một người làm
nhiều điều sai trái “ôi trời nó đi báo cáo thì toi mạng. Nhưng tôi lại dửng dưng
ngay”, “tôi sợ rợn gai cả người”. Hành động dập khuôn, hình thức bởi dốt nát, ít học
nên trong khi làm cải cách không tránh khỏi tâm trạng “cả mấy đợt chỉ thấy thành
tích, trên bảo sao làm vậy tôi chẳng thấy sai chỗ nào, bây giờ lại sửa, biết sửa rồi
61
đến đâu hay là sai cả”. Là con người dâm ô, đi đâu cũng nghĩ đến chuyện “hủ hóa”
nên cho dù nghi ngại chuyện Duyên nói và tỏ ra lặng lẽ nhưng trong lòng lại nghĩ
“Nhưng tôi lại nghĩ đến cô dân quân thôn Chuôm ấy nhiều hơn, người đi rồi mà vẫn
như còn đâu đây. Cái vai lẳn, cái cười mắt tít lá dăm khác hẳn Đơm, ôm trói lại rồi
mà mặt vẫn đực ra”. Có lúc nhân vật “tôi” lại tự độc thoại nhưng số lần không nhiều
“tôi chẳng biết”, “tôi chẳng để ý đến”, “họ giỏi thế thật sao?”. Tâm lý của các nhân
vật anh đội khác được đánh giá qua lời của Bối. Khi bị bắt Đình được miêu tả “Đình
hốt hoảng, run rẩy nhưng rồi Đình lại tỉnh hẳn (…). Đình đau đớn ruột xót như bào
(…) những hy vọng vừa mơ màng tới, lại tối sầm. Từng đợt hô khẩu hiệu ồn ào bốn
phía làm cho Đình xanh xám”. Tâm trạng ấy chứng tỏ Đình cũng chỉ là một con
người tầm thường, chỉ giỏi nói “phét”, hô to, đến lúc bị bắt thì như “con chó cụp
đuôi”, hốt hoảng, lo sợ. Bản thân Bối dâm ô và Bối cũng biết rõ điều đó ở Cự nên
bề ngoài tỏ vẻ thân mật, gần gũi lấy lòng nhưng sự thực thì Bối nghĩ “Thằng dê cụ
này đến chỉ vì cái mùi đũng quần đàn bà thôi (…) chỉ thế, chẳng ba cùng ba càng,
họ hàng nhà ma, đi guốc vào bụng nhau cả”. Tiểu thuyết của Tô Hoài thường có cốt
truyện sự kiện, do đó hành động của nhân vật làm nên sự phát triển của câu chuyện,
còn tâm lý đóng vai trò xen kẽ bên cạnh, đi cùng hành động để biểu hiện sâu thêm
cá tính nhân vật. Qua Ba người khác, ta nhận thấy Tô Hoài không dành trọn trang
giấy nào để miêu tả nội tâm nhân vật mà có chăng chỉ là những suy tính ngắn gọn đi
kèm theo sau một hành động đã được thực hiện hoặc trước một hành động sắp diễn
ra.
Ở Đảo hoang, ta cũng nhận thấy cách khắc họa nhân vật kiểu đó. Suốt chiều
dài câu chuyện chủ yếu là chuỗi hành động tìm kiếm thức ăn, nước uống, chỗ ở, các
tình huống tránh bão, gió…Đời sống nội tâm của các nhân vật rất ít khi được tập
trung mô tả trong một đoạn dài, cũng không có những dằn vặt bên trong, những đau
đớn hay giằng xé nào cả. Tâm trạng, suy nghĩ của nhân vật thường kèm theo với
hành động, được mô tả ngắn gọn, thoáng qua. Trên hành trình đi tìm gia đình, cùng
với các hoạt động tìm kiếm thức ăn, dựng nhà, cứu hai chú gấu, trong lòng Mon lúc
nào cũng nghĩ đến gia đình. Trước biển cả bao la, “Mon ngồi duỗi thẳng chân, trông
62
ra biển”. Nghĩ về cảnh gia đình trước khi gặp “rồng cuốn nước”, ngồi trong cái nhà
mới dựng “Mon nhìn ra cửa cái lỗ”. Mỗi lần nghĩ tới cảnh gia đình li tán “Mon lại
thấy cực thân, nước mắt ứa lên mí”. Thế là “Tỉnh giấc, Mon lại nghẹn ngào” (…)
“Mon tụt xuống gốc cây và đi ngay”. Có lúc đi mãi không thấy có dấu vết gì Mon
buồn nhưng rồi lại nghĩ “Không, bố ta đã phải bơ vơ lưu lạc từ khi còn ít tuổi hơn ta
nữa kia”. Và không tránh khỏi sự cô đơn, Mon suy nghĩ: “Bãi Lở ở đằng ấy a, đằng
ấy có bao nhiêu người nhìn, còn ở đây không có người nào, chẳng có người nào, chỉ
một mình mình. Ở Bãi Lở, có làng có bãi trên bờ sông, khi mặt trời lên, có chim gáy
cúc cu rộn ràng, có đàn khướu mun líu lo, có đàn ri đàn sẻ ào ào vừa bay vừa kêu
trong gió. Ở đây, mặt trời lên, trong rừng chỉ rền rĩ tiếng ve mãi không thôi. Bây
giờ, mặt trời lên, bố mẹ mình, em mình ở đâu, có đương thấy mặt trời lên ở đây”.
Tác giả muốn khắc họa nhân vật qua hành động để ca ngợi bản lĩnh, ý chí, sức
mạnh của con người trước thử thách của thiên nhiên, cuộc sống. Nếu tập trung miêu
tả tâm trạng Mon có khi làm cho nhân vật trở nên yếu mềm, thiếu ý chí và mục đích
nhà văn không thực hiện được. Nhân vật Hoàng Văn Thụ cũng được khắc họa như
vậy. Ở anh, ta thấy chủ yếu là hành động, hành động cương quyết chứ tâm trạng ít
khi được miêu tả. Mặc dù cảm thương cho người bạn gái phải lỡ dở vì mình nhưng
Hoàng Văn Thụ không hiện lên với những trang mô tả nỗi lòng đau đớn, buồn bã,
mà thay vào đó là hành động đốt pháo. Hay cảm thấy tiếc, thấy buồn trước gia cảnh
nhà Viết khiến Viết không thể đi cùng mình được nhưng Thụ cũng chỉ “im lặng
nhìn, không chú ý vào bếp và không đáp(…) Thụ nhìn Viết vẻ ngạc nhiên (…)
nhưng nghĩ thế Thụ chi thấy thương Viết”.
Tuy thường khắc họa nhân vật ở hành động, nhưng cũng có một số nhân vật
được Tô Hoài chú ý miêu tả đời sống nội tâm. Đọc Miền Tây, ta không thể quên
nhân vật Giàng Súa, Thào Nhìa, Nghĩa, Thào Khay. Ở mỗi nhân vật, Tô Hoài có
cách khắc họa riêng để họ hiện lên chân thật và sinh động như thực. Ta nhận thấy
Nghĩa là một cán bộ nhiệt tình, tâm huyết với cách mạng, yêu quần chúng, dân tộc
Tây Bắc, thích Thào Mỵ, nhưng trong anh luôn ẩn hiện sự phân vân, có lúc anh
muốn về xuôi, muốn lấy vợ xuôi, anh nghĩ về quê hương mình, cái tình cảm tuyệt
63
đối với Miền Tây không có ở Nghĩa “Nếu bây giờ Nghĩa nói một câu yêu Mỵ, chỉ
lát sau cả Phìn Sa đều biết Nghĩa đã nói yêu Mỵ, cả vùng sẽ biết Nghĩa cho Mỵ
chiếc khăn…” Đó cũng là một lẽ đương nhiên trong tâm trạng của bất kì một thanh
niên nào dưới xuôi lên miền núi làm cách mạng. Khác với Thào Khay và Nghĩa, bà
Giàng Súa được Tô Hoài chú ý miêu tả tâm trạng – đó là tâm trạng của một người
sống trong cuộc đời cũ và mới, tâm trạng của một người mẹ có con đi biệt kích.
Trong cuộc đời cũ bà khổ vì chồng chết, vì dân làng xa lánh, xua đuổi, phải mang
con vào rừng trốn. Ở trong rừng lâu bà có tâm lý sợ sệt “bà Giàng Súa sợ hãi khép
hai mảnh vạt áo đã cũ rách”, nhưng luôn khao khát, luôn lắng nghe âm thanh của
cuộc sống vọng lại “Những tiếng xa xôi ngoài núi tranh chen chúc những làng xóm
xa kia đã làm cho người tù rừng càng khát nghe. Bà Giàng Súa thèm nghe tiếng gà
lợn kêu điếc tai, con bò rung chuông, con ngựa lọc cọc trên đá. Tiếng ai đó đương
vọng ra nương…Nhớ làm sao những ngọn nguồn cơn vui trong núi, những buổi đi
làm từ mờ sớm đến mờ tối ngoài nương suốt ngày như mọi người cuốn trong công
việc”. Ở trong rừng lâu, bà chẳng biết đến ngày tháng, đến tuổi tác, nghĩ tương lai
chẳng còn gì: “Dù sao ngày hôm qua còn tốt hơn ngày hôm nay và đời người thì
ngày càng tàn lụi như cái củi nào rồi cũng cháy thành than”. Cách mạng về, đem lại
cuộc sống mới, đem lại niềm tin, niềm vui cho, bà không phải “cúi mặt ” khi đi ra
đường nữa. “Bà níu lấy cái vui. Mỗi lúc càng nhiều người đi qua, bà Giàng Súa một
vui hơn. Một đời tan nát, bà không dám khi nào mơ tưởng thoát được ra ngoài nỗi
khổ. Đời người nghĩ mỗi lúc một buồn hơn, hôm trước cái củi, hôm sau là cục than,
hôm sau thành đống tro tàn, Nhưng không, bây giờ bà đã thấy trời sáng trên Phìn
Sa. Đống than đã rực hồng, ta chất củi vào mãi không bao giờ nhạt lửa được nữa.”
Đúng là Tô Hoài đã xây dựng nhân vật bà Giàng Súa là người của hai thời kì trước
và sau Cách mạng, ông tập trung vào mô tả tâm trạng của bà để qua đó thấy rõ sự
thay đổi của số phận con người miền núi khi cách mạng về. Bên cạnh đó ông cũng
đi sâu phân tích diễn biến tâm trạng của một người mẹ khi có đứa con đi biệt kích.
Đó là tâm trạng phức tạp phản ánh nhiều chiều, những suy nghĩ, lo lắng, vui sướng,
buồn khổ khi theo tâm trạng và hành động của đứa con. Khi nghe tin thằng biệt kích
64
bị bắt nói nó họ Thào, bà bủn rủn, không thốt ra tiếng, ấp úng hỏi lại. Rồi khi bà tận
mắt nhìn thấy con, bà cảm thấy ngạc nhiên lẫn đau buồn: “Nhưng sao lạ quá. Không
phải nó chỉ lạ vì bộ quần áo của ma quỷ đế quốc kia. Lạ vì con mắt người mẹ và
đứa con nhìn nhau bây giờ thật khác, nhìn nhau mà không thấy nhau (…) thằng
ngồi dưới đất kia có phỉa thằng Nhìa không, không, nó khác làm sao, khác đến nỗi
trông thấy nó mà bà Giàng Súa dửng dưng bà không bước lại, miệng bà không cất
nổi một tiếng gọi. Đúng cái thằng Nhìa hóa hổ chết ở Nậm ngù thì hồn người khác
đã nhận tranh vào xác nó rồi, hồn thằng Nhìa lạc mất rồi”. Bà không nhận ra con
không phải chỉ bởi hình dáng, trang phục nó thay đổi mà còn bởi ánh mắt của nó đã
khác xưa. Bà vẫn nghĩ nó đã chết vì hổ vồ rồi nhưng khi nghe nó kể lại chuyện ngày
xưa bà không khỏi động lòng “nhưng chuyện buồn ngày trước nó nói đúng thế, nó
nói như con làm bà Giàng Súa lại càng khóc to hơn”. Mỗi khi nhận thấy con có
hành động khác thường bà lại nghĩ nó đã chết, “khổ thân nó, thằng Nhìa đã bị cướp
bắn chết cùng với ông Sìn ”. Buồn đau, phân vân, dằn vặt nhưng cũng có lúc bà vui
vì thấy con được thả về, thấy con có những thay đổi “Bà Giàng Súa sung sướng
giàn dụa nước mắt. Trông cái dáng thằng con lưu lạc bấy lâu giờ vẫn biết vào bếp,
cúi xuống tìm cái thìa gỗ, lấy bát ngô, thuộc chỗ như nó vẫn ở nhà thường ngày.
Còn sung sướng nào hơn ! Thế là từ đây con cái đầy đủ xung quanh bà (…) Nó thật
là người của ta rồi”. Tâm trạng của một người mẹ với con của mình rất phức tạp,
nhất là gia đình bà đã theo cách mạng, bà đã là con người mới, bà không thể chấp
nhận đứa con biệt kích, nhưng bà cũng không thể ruồng bỏ nó như không có quan
hệ máu mủ gì. Chứng kiến quá trình thay đổi, tâm trạng và hành động khác thường
của con, bà không thể không nghĩ, không thể không buồn, và trước cái chết của con,
bà không thể không đau lòng cho được: “Một lúc, lặng im lắng lại. Cả quãng đời
nặng như núi đương trở về. Bao nhiêu oan khuất, đắng cay mới thoáng nghĩ đến đã
bủn rủn cả chân tay.” Tuy hướng tâm trạng của bà Giàng Súa về niềm vui, về sự tin
tưởng với cách mạng nhưng mỗi dòng chữ Tô Hoài viết ta đều nhận ra tấm lòng của
một người mẹ dành cho đứa con lầm lỗi, lạc đường: “cái nghĩ ấy đau đớn quá,
không thành được tiếng nói, Bà khóc lặng trong lòng bàn tay”. Cùng với tâm trạng
65
của bà Giàng Súa, Tô Hoài cũng chú ý khắc họa nhân vật Thào Nhìa qua diễn biến
nội tâm. Từ khi bị bắt đi tải ngựa cho nhà thống lý rồi lưu lạc sang đất khách quê
người, Thào Nhìa đã không còn nguyên vẹn bản tính tốt đẹp chăm chỉ của một đứa
trẻ ở Phìn Sa. Thào Nhìa học “thần học”, đầu óc u mê, nửa con người đã theo cha
đạo, nhưng khi trở về anh ta đã có những cảm nhận rất giản dị như của một người
con xa quê hương, xa mẹ già “Đã từ lâu lắm, từ năm nào, Thào Nhìa mới lại được
ăn hạt đậu răng ngựa (…) Mẹ ơi! Chỉ nhai vài hạt đậu trong miêng mà đã quen
tưởng như vừa mới ra khỏi nhà ban chiều. Thào Nhìa thấy mình bé lại, bằng hôm
mới đi. Những ngày tháng gian khổ và xa lạ đã qua rồi, chỉ còn lại trước mặt có một
mẹ và một thằng Nhìa bé bỏng ngày xưa. (…) Mẹ ơi, không còn gì nữa. Không có
gì đâu. Chỉ có người mẹ và đứa con.” Tâm trạng ấy cho thấy trong Nhìa vẫn còn
tình thương mẹ , kỉ niệm của thời thơ ấu. Thào Nhìa muốn quay đầu, muốn trở về
với gia đình với bà Giàng Súa, nhưng rồi trong anh lại chất chứa bao điều – những
ám ảnh của những ngày bên cha đạo, những điều được học để trở thành biệt kích
“Thào Nhìa chợt bàng hoàng nhớ. Cha dạy đạo đã dặn : nó không phải là mẹ, nó
không phải là anh em, ai đi theo cộng sản cũng thành ma quỉ cả rồi…con ơi!”. Và
sự đấu tranh trong Thào Nhìa được Tô Hoài khắc họa qua một loạt trạng thái mâu
thuẫn. Lúc nhớ mẹ, thương mẹ, muốn sống cùng gia đình, lúc lại muốn rủ mẹ và em
sang Lào theo cha đạo. Và trước mặt Thào Khay, Thào Nhìa định nói, nhưng nhìn
ánh mắt đứa em, nghe giọng quả quyết của nó thì “Thào Nhìa vờ ngủ để tránh cái
nhìn xói móc của Thào Khay. Trong lòng nghĩ ngợi ngổn ngang”. Sự đấu tranh tâm
lý trong nhân vật thằng biệt kích được Tô Hoài khắc họa rõ nét hơn các nhân vật
khác, thể hiện được logic tâm lý của một người từ bé đã lưu lạc, theo đạo rồi trở về
trong sự thay đổi của gia đình, bản làng và thấy chống chếnh, thấy bất an trước dự
tính đã sắp sẵn.
Qua tiểu thuyết của Tô Hoài, ta nhận thấy nội tâm của nhân vật được khắc họa
chủ yếu qua ngôn ngữ của người kể chuyện. Có lẽ bởi ông chú trọng hành động,
ngoại hình nên thường để người dẫn chuyện chi phối do đó ở những đoạn, những
dòng mô tả tâm lý nhân vật, người kể chuyện cũng thực hiện luôn vai trò đó. Đời
66
sống nội tâm của các nhân vật trong tiểu thuyết của ông không được biểu hiện toàn
bộ với sự phức tạp của nó, cũng ít có những “ca” tâm lý dữ dội, những dằn vặt,
mâu thuẫn sâu sắc mà thường chỉ là những biểu hiện tâm lý đơn giản. Đời sống bên
trong của nhân vật thường gắn bó hữu cơ với hành động, với suy nghĩ, và thường
được miêu thuật chủ yếu qua lời của người kể chuyện. Cũng có khi nó xuất phát từ
tâm lý bên trong, trong lời độc thoại của nhân vật nhưng trường hợp đó ít.
Cùng với nội tâm thì ngôn ngữ là yếu tố quan trọng để nhận diện tính cách của
con người. Thông qua ngôn ngữ ta biết được người khác nghĩ gì, làm gì. Ngôn ngữ
là phương tiện quan trọng để biểu hiện tính cách của nhân vật, có tác dụng thúc đẩy
diễn biến của cốt truyện và đóng vai trò quan trọng trong quá trình cá biệt hóa nhân
vật. Vì thế cùng với ngoại hình, hành động và nội tâm, Tô Hoài cũng rất chú trọng
trong khi lựa chọn ngôn ngữ cho nhân vật của mình. Những bôn ba trong nghề
nghiệp và kinh nghiệm mấy chục năm trong nghề đã cho Tô Hoài tiếp xúc với nhiều
kiểu người trên nhiều vùng miền khác nhau, do đó ông có một vốn sống phong phú,
hiểu biết sâu sắc ngôn ngữ, lời ăn tiếng nói của nhiều tầng lớp trong xã hội . Trong
tiểu thuyết của mình, Tô Hoài đã chú ý khắc họa ngôn ngữ để mỗi nhân vật có một
ngôn ngữ riêng thể hiện tính cách riêng. Mai An Tiêm được khắc họa là một nhân
vật lịch sử, có chí khí, có nghị lực và nhân cách của một anh hùng. Vì thế trong lời
nói của An Tiêm với mọi người rất ngắn gọn, rõ ràng, dứt khoát ngay với vua: “Tôi
xin đi.” Khi đối thoại với nhân dân vùng Bãi Lở, An Tiêm tỏ rõ mình là một chủ
tướng có chí khí, nhiệt huyết. Mỗi khi An Tiêm giọng điệu không lên gân nhưng
vẫn tỏ rõ bản lĩnh của một người việc gì cũng làm được, tỏ rõ sự tin tưởng vào năng
lực của bản thân. Khi người dân Bãi Lỡ tỏ ra buồn bã, lo lắng cho vận mệnh của gia
đình An Tiêm thì chàng dõng dạc nói: “Cái nghĩa làm người, có chí thì nên (…) lão
chớ lo cho tôi. Gian nan đến như khi Bãi Lở, thì cũng đến thế mà thôi. Chân cứng
đá mềm, ông lão ạ. Những người ấy không hiểu được ta. Khám thì khám, phỏng thử
đem đi một mảy thóc, một mảy hạt vừng thì có khó nỗi gì! Nhưng ta không mang,
ta nhất quyết không khuất tất, không mang. Con người nương tựa ở bàn chân bàn
tay này chứ còn ở đâu. Ta chẳng cần một mảy may gì ”. Rồi để động viên hai con
67
và vợ, chàng khẳng khái nói : “ Phải, như bây giờ. Trong bốn bức tường đá, mà
không buồn, vẫn có tiếng cười, các con vẫn cười. Tường đá có dày mấy cũng không
giữ nổi chân con người đâu”. Không những là con người thẳng thắn, có chí, một anh
hùng không sợ cường quyền, dám hành động, An Tiêm còn là một người cha đáng
kính trọng, một người chồng đáng yêu. Khi nói chuyện, trả lời các con An Tiêm
cũng nói rất ngắn nhưng luôn mang lại niềm tin cho các con, trong đó luôn chứa
đựng tình yêu thương các con: “Đợi xem, con ạ (…). Bố chưa biết. Các con nằm
xuống, ghếch đầu lên cái nải này. Gió chỉ ở ngoài kia thôi, sóng chỉ xô đến dưới kia
thôi, không sợ. Ngủ đi, ngủ yên, Gái ạ. (…). Lặng gió rồi, con thấy không? (…).
Rồi hôm nào bố con mình sẽ đi (…). Con ơi! Nước đây!”. Với Mon – nhân vật được
Tô Hoài tập trung khắc họa sự trưởng thành tiếp nối được chí cha nên hành động
của Mon rất dũng cảm, can đảm. Tuy nhiên Mon vẫn là đứa trẻ, đặc biệt khi sống xa
gia đình, lại càng cần được yêu thương nên trong ngôn ngữ của Mon khi nói chuyện
với hai con gấu thể hiện Mon là một đứa trẻ giàu tình cảm “Gấu! Gấu! Gấu! Chúng
mày nhớ không? (…) hai thằng kia, mày đi đâu, mày đi với ai? (…) Gấu ơi gấu!
Mon đây mà. Anh mày đây mà! Đừng bỏ tao một mình nhé. Anh em ta đây, anh em
mình đây cơ mà”. Đọc Ba người khác, các nhân vật thể hiện rõ nhân cách của mình
qua đối thoại và qua lời kể của anh đội Bối. Duyên hiện rõ là một cô gái táo tợn,
ghê gớm khi nói với Bối về tội hủ hóa của Đình mà tỉnh bơ: “Hủ hoá em ạ.”, rồi
trong khi ngủ với Bối, Duyên thẳng thừng nói những câu: “chẳng phải thề cá trê
chui ống, cứ chui vào đây này”, “chẳng sợ, có thật thì người ta mới cho tha hồ, chứ
không để mà chửa hoang với ai. Mai kia, thằng con đầu em đặt tên nó là thằng
Bối”(…). “Duyên ngoạm vào mặt tôi, lại đè tôi ra, hùng hục: "Xem con ai nào!
Xem con ai nào". Vách lại là một kẻ tinh ranh, nửa khùng nửa điên, ăn nói thô tục,
thái độ bất cần, nên cách nói của anh ta thể hiện tính cách đó: “Cái gì cũng bảo để
trên xét, trên huyện cũng nói để xét rồi mất hút con mẹ hàng lươn. Để xét thì ăn mẹ
gì”, “Thôi mời anh cút, cút đi”, “ông đếch sợ anh đội”. Các anh đội thông qua hành
động và ngoại hình ta cũng đã biết được nhân cách thấp hèn, yếu kém, nhiều tội lỗi
trong cuộc cải cách, nhưng qua ngôn ngữ khi họ đối thoại với nhau ta càng hiểu rõ
68
bản chất của mỗi người. Với anh đội Đình, khi còn là anh đội công tác ở thôn Đìa
thì hay lên giọng dạy đời, thường “mộng mơ” nhưng lại ít học, tục tĩu mà thong
manh ngay ở những câu nói cửa miệng “Ở lại đấy để mà chết mất ngáp à?”, “hỏi
xẵng”, “thằng đểu, cười chó gì?”. Anh ta tỏ ra là người giỏi giang, thành tích qua
cách báo cáo: “Tôi đến đây họp thì ở nhà rễ chuỗi còn đương cụng đầu tố khổ, quên
cả cơm trưa. Trưởng thôn cũ nghe mong manh đã chạy trốn, tôi cho đuổi tóm được
giải về cũi vào chuồng trâu rồi”. Khi nói chuyện với Bối anh ta cũng tỏ ra là kẻ dày
dặn kinh nghiệm, lõi đời, khoe khoang: “Nếu bấy giờ uỷ ban tỉnh mà nghe kế hoạch
của tớ thì bây giờ cả tỉnh, cả nước đã thành trại đại đồng rồi.”; “Mỗ đây chứ còn ai
vào đấy!” rồi “Này mày hãy lo cái thân mày đã nhé. Mày chưa moi được thằng địa
nào. Rễ chuỗi mày liên quan đến nhà địa, thối um lên, không ngửi thấy à? Lão Cự
sắp làm thịt mày. Khôn hồn thì cút mẹ mày đi”; “đằng ấy ở phường phố, lớ quớ
chẳng hiểu mẹ gì nông thôn”. Nhưng khi bị bắt thì anh ta cũng khúm núm lo sợ,
hèn nhát chả khác gì con chó cụp đuôi. Thái độ lo lắng, sợ hãi của Đình khi bị bắt
thể hiện qua những lời van xin: “Dạ, em…thưa, con…”, “bẩm bẩm…”. Còn đội
trưởng Cự thường nói những câu diễn ngôn chính trị to tát, thể hiện thùng rỗng
nhưng kêu to qua hai tiếng “đòm bào”, rồi qua cách nói năng băm bổ, kêu gào khi
họp các anh đội “... Liền hai đêm đội họp rễ chuỗi. Cụng đầu tố khổ luôn, bộc lộ tức
khắc tình hình. Tinh thần nông dân lên, chặn đứng mọi thủ đoạn âm mưu địa chủ.
Đêm qua họp xóm tố khổ suốt sáng. Phải cản lại chứ nhiều người cầm dao vừa chạy
vừa khóc đi tìm địa chủ”. Đến Bối thì chủ yếu được khắc họa qua những lời đối
thoại với các cô gái anh ta “hủ hóa”. Khi nói chuyện với Đơm, tay anh ta hành động
“luồn qua vạt áo rách” nhưng giọng anh ta lại rất tử tế “Anh xem cái chỗ để tiền.”,
“Anh nhầm.” “Em có cái túi hay nhỉ?” "Em ngoan quá", rồi ngay tức khắc anh ta
dặn dò Đơm luôn như một kẻ ăn vụng quá biết các mánh khóe: “Cầm lấy, thỉnh
thoảng mua bánh đúc cho anh. Đừng để ai trông thấy nhá. Anh đương phải ba
cùng”. Qua ngôn ngữ của Bối, người ta nhận ra sự giả dối, đểu giả của một kẻ nhân
cách kém cỏi. Không những ngôn ngữ nhân vật có tác dụng giúp thể hiện cá tính
nhân vật mà nó còn là yếu tố thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện. Ở Tuổi trẻ
69
Hoàng Văn Thụ, có nhiều đoạn hội thoại, đối đáp trò chuyện giữa các nhân vật với
nhau. Khi Mã Hợp hỏi về cách mệnh, Thụ đã giải thích với Mã Hợp: “Nước ta bây
giờ chỉ toàn người khổ, chỉ vì thằng Tây đến cướp của , ăn hiếp nhiều quá. Chúng
mình sẽ làm cách mệnh, đánh chết thằng Tây và thằng quan đi, như thế cho mọi
người đỡ khổ”. Đó là cách giải thích của Thụ khi anh còn rất trẻ, đang trên những
bước đầu tiên đến với cách mạng, anh chỉ hiểu một cách đơn giản là thằng Tây cướp
của nhiều nên làm thế nào cho mọi người đỡ khổ là làm cách mệnh. Hay khi nói
chuyện với Chi, muốn Chi tin tưởng Thụ không chỉ động viên “Chi cố nhé” mà còn
sôi nổi nói: “Chúng mình chuyến này về đến Long Châu thì đã thành một người
luân lạc, xốc vác lắm rồi, mình có thể đi kiếm củi, có thể làm nghề đốt than, chỉ khổ
thôi chứ không khó như anh Bùi nói đâu (…). Chúng ta sẽ ở Long Châu làm gì cũng
được, đợi cách mệnh cho kì được”. Lòng nhiệt tình, sự kiên định, vững vàng của
Thụ với con đường cách mạng được thể hiện rất rõ trong những lời nói đó, đói khổ
chẳng là gì khi đến được với cách mạng. Khi trở thành cán bộ trưởng thành, có kinh
nghiệm, có tài lãnh đạo thì ngôn ngữ của Thụ lại thể hiện sự chững chạc, chắc nịch:
“Các đồng chí ạ, đây là những giấy tờ có tiếng nói của cách mệnh, gọi là tờ truyền
đơn (…) thằng Tây sợ cái truyền đơn này nhất (…), công tác này quan trọng, các tổ
phải bàn kĩ rồi đi đấu tranh mới thắng lợi được”.
Ngôn ngữ là một phương diện quan trọng trong nghệ thuật xây dựng nhân
vật. Tô Hoài hiểu được tầm quan trọng của ngôn ngữ nhân vật nên trong tiểu thuyết
70
ông đã chú ý tạo cho nhân vật của mình mang một thứ ngôn ngữ riêng.
CHƯƠNG 3
NGƯỜI KỂ CHUYỆN VÀ NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT
3.1. Người kể chuyện trong tiểu thuyết của Tô Hoài.
Trần thuật bao giờ cũng được tiến hành từ phía một người nào đó. Trong sử
thi, cổ tích, truyện ngắn, tiểu thuyết trực tiếp hay gián tiếp đều có người kể chuyện.
Người kể chuyện không những chỉ tổ chức ngôn ngữ, mà còn đóng vai trò quan
trọng về mặt kết cấu, chi phối ngôn ngữ của nhân vật. Theo Trần Đình Sử quan
niệm “người kể chuyện là hình tượng ước lệ về người trần thuật trong tác phẩm văn
học, chỉ xuất hiện khi nào câu chuyện được kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác
phẩm. Đó chính là hình tượng của chính tác giả, dĩ nhiên không nên đồng nhất hoàn
toàn với tác giả ngoài đời, có thể là nhân vật đặc biệt do tác giả sáng tạo ra , có thể
là người biết một câu chuyện nào đó. Tác phẩm có thể có một hoặc nhiều người kể
chuyện” (trích theo [23; 11]. Dù không đồng nhất người kể chuyện với tác giả
nhưng ở một khía cạnh nào đó có thể thấy bóng dáng tác giả qua người kể chuyện vì
người kể chuyện là người thay mặt tác giả xuất hiện trong việc quan sát, miêu tả.
3.1.1. Người kể chuyện
Bất cứ tác giả tiểu thuyết nào cũng đều phải chọn lựa ngôi kể cho tác phẩm
của mình, một trong hai cách chủ yếu là : kể ở ngôi thứ nhất hay kể ở ngôi thứ ba.
Trần thuật ở ngôi thứ nhất, tác giả viết về những điều mình đã trải qua, đã chứng
kiến, nếm trải và chiêm nghiệm. Và tất nhiên, với tính chất hư cấu của tiểu thuyết,
“tôi” không hẳn là tác giả mà chỉ là một nhân vật của truyện. Lời trần thuật ở đây
vừa là ngôn ngữ trần thuật của tác giả vừa là ngôn ngữ trần thuật của nhân vật, tức
vừa là lời trực tiếp, vừa là lời gián tiếp (của nhân vật). Việc trần thuật ở ngôi thứ
nhất làm toát lên quyền lực của nhà văn mê hoặc độc giả chấp nhận lời mình nói.
Mặt khác nó giúp nhân vật tự “mổ xẻ” bản thân mình thành thật và sâu sắc hơn. Câu
chuyện được kể trở thành câu chuyện về một cái tôi cá nhân cụ thể nào đó, bởi lẽ
cái tôi riêng ấy là nhân chứng duy nhất của sự kiện được kể. Trần thuật ở ngôi thứ
ba dưới hình thức người kể chuyện (do tác giả sáng tạo ra), lời trần thuật ở đây
71
mang tính khách quan hoá và trung tính. Người trần thuật được chứng kiến câu
chuyện và có khả năng kể lại toàn bộ câu chuyện theo cách riêng của mình. Lời trần
thuật ở đây còn có nhiệm vụ tái hiện và phân tích, lý giải thế giới khách quan vật
chất, sự việc, con người…; tái hiện và phân tích, lý giải lời nói ý thức người khác.
Theo Bakhtin, lời văn trần thuật gián tiếp này (khác với lời văn trực tiếp của nhân
vật) có thể chia làm hai loại: loại thứ nhất là gián tiếp một giọng, là lời trần thuật tái
hiện, phẩm bình các hiện tượng của thế giới trong ý nghĩa khách quan vốn có của
chúng. Loại thứ hai là lời gián tiếp hai giọng, là lời trần thuật có hấp thu lời nhân
vật, tức là trong phát ngôn của người trần thuật cùng lúc có thể có cả lời trực tiếp
hay những suy tư gián tiếp của nhân vật, nó thể hiện sự đối thoại với ý thức khác
của cùng một đối tượng miêu tả. Loại thứ hai này cho phép tác giả di chuyển “điểm
nhìn” trần thuật và tạo nên tính chất đa thanh trong ngôn ngữ trần thuật, ngôn ngữ
tiểu thuyết. Ngoài việc tác giả trần thuật theo hai dạng thức nói trên, nhân vật còn
có vai trò là người trần thuật. Trong tiểu thuyết, nhân vật có vị trí rất quan trọng, là
then chốt của cốt truyện, giữ vị trí trung tâm trong việc thể hiện đề tài, chủ đề và tư
tưởng tác phẩm. Có nhân vật thì có ngôn ngữ nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật là một
trong những phương tiện quan trọng được nhà văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống
và cá tính nhân vật. Ngôn ngữ trần thuật của nhân vật là lời trực tiếp của nhân vật
trong tác phẩm, là thứ ngôn ngữ được miêu tả. Đó thực chất cũng là ngôn ngữ của
tác giả, nhưng tác giả để cho nhân vật tự giải bày về mình..
Tô Hoài là một nhà văn từng trải, tiểu thuyết của ông là thể loại tích hợp được
vốn kinh nghiệm phong phú ấy trong nghệ thuật trần thuật. Và do vậy người kể
chuyện trong tiểu thuyết của ông cũng biến đổi đa dạng, linh hoạt để phù hợp với ý
đồ nghệ thuật của tác giả. Nngười kể chuyện trong tiểu thuyết của Tô Hoài lúc ở
ngôi thứ nhất lúc ở ngôi thứ ba.
Ở ngôi kể thứ ba (Miền Tây, Đảo hoang, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ), Tô Hoài
đã tạo ra một khoảng cách thích hợp để quan sát và tỉnh táo bình luận, để kể lại một
cách khách quan câu chuyện. Người kể chuyện ở ngôi thứ ba không xưng danh,
không biết là ai chỉ thấy có một người kể chuyện trần thuật lại tất cả mọi sự việc
72
trong truyện. Với ngôi kể thứ ba, Người kể chuyện thỏa sức tự do trong việc xâu
chuỗi các sự việc. Người kể chuyện có thể đang kể hiện tại nhưng lại dễ dàng quay
ngược về quá khứ để kể cho rõ sự việc. Ví như ở Đảo hoang, người kể chuyện đang
kể về những hoạt động chuẩn bị của đội Bãi Lở: “Tiếng chiêng... bi... ly... bi... ly...
cùng tiếng người hí, người reo xôn xao suốt đêm trên bờ sông. Hàng tháng nay,
vùng Bãi Lở rộn rịch lên. Càng gần ngày về hội đầu năm ở kinh đô, lại càng náo
nức…” thì lại quay ngược thời gian thuật lại sự việc Mai An Tiêm xin đi trấn vùng
đất mới mà nay gọi là Bãi Lở: “Hơn mười năm trước, An Tiêm được nhà vua cho ra
mở đất ven sông Cái. Nhớ lại những khó khăn ngập đầu lúc ấy, chồng chất không
biết bao nhiêu mà đếm xuể!”. Hay đang thuật về chuyến đi đầy ra đảo của gia đình
An Tiêm, người kể chuyện lại ngược về quá khứ kể chuyện Mai An Tiêm sinh ra,
lớn lên và được vua cho đi theo: “Nhớ lại chuyện An Tiêm ngày trước từng sống ở
đất kẻ bể. Sông nước, bể khơi, coi như đồng bãi bằng phẳng”. Với ngôi kể thứ ba,
người kể chuyện đã thuật lại được mọi điều xảy ra trên đảo của gia đình An Tiêm.
Cách lựa chọn ngôi kể đó thích hợp cho một tiểu thuyết về đề tài lịch sử, khó có thể
để ngôi kể thứ nhất trong tác phẩm này vì nó không thích hợp trong việc miêu tả
một cách khách quan cuộc sống của gia đình An Tiêm, bởi chẳng ai có thể là “tôi”
để chứng kiến một câu chuyện của thời huyền sử. Cũng không thích hợp để một
nhân vật trong truyện kể vì điều đó sẽ khiến cho độ rộng về không gian, chiều dài
về thời gian và số lượng các sự kiện giảm đi, không thể hiện hết được những nỗi
gian truân, vất vả của mọi người trong gia đình An Tiêm trên đảo. Người kể chuyện
trong Miền Tây cũng có được cái nhìn toàn cảnh, xuyên hiện tại, hồi tưởng quá
khứ. Ta thấy mở đầu truyện đang kể về đoàn ngựa của ông khách Sìn tải hàng lên
Phìn Sa và hình ảnh bà Giàng Súa “đang nhìn xuống” trên khe núi, rồi bà sợ hãi
nghĩ đến các con thì lại quay ngược về: “Năm ấy, đương vụ làm nương xuân” để kể
về việc vì sao bà Giàng Súa và các con phải sống chui lủi trong rừng như những
bóng ma. Hay khi cuộc sống ở Phìn Sa đã thay đổi thì Thào Nhìa mất tích nhiều
năm trời nay trở về với bộ dạng của một tên biệt kích. Hắn đứng ra kể lại quá trình
tại sao mình trở thành biệt kích và sau lời kể của Thào Nhìa, người kể chuyện tiếp
73
tục đứng ra kể chi tiết hơn về những năm tháng lưu lạc của Thào Nhìa “(Khách Sìn
bị một bọn nửa buôn nửa cướp khác giết chết. Vẫn những chuyện tranh cướp mồi và
cướp của của các chủ ngựa, chủ hàng. Thào Nhìa phải sang tay đi đuổi ngựa cho
chủ mới..)”. Nghĩa là một cán bộ lên hoạt động trên vùng Tây Bắc và anh là một
người thẳng thắn, nhiệt tình trong công việc. Quá khứ của anh cũng được người kể
chuyện lồng vào kể đan xen với hiện tại mỗi khi anh nghĩ đến quê hương và việc
lấy vợ. Với việc lựa chọn ngôi kể thứ ba, Tô Hoài đã thể hiện được sự thay đổi
nhiều mặt của cuộc sống và con người vùng núi cao. Sự lựa chọn này là thích hợp
và có hiệu quả bởi tiểu thuyết có một dung lượng lớn các sự việc xoay quanh sự đổi
mới của đồng bào vùng núi khi cách mạng về, số lượng các nhân vật với số phận
khác nhau cũng không ít. Nếu lựa chọn ngôi kể thứ nhất hoặc để một nhân vật kể có
lẽ sẽ không thể khái quát hết, không thể tập trung vào bức tranh rộng lớn về cuộc
sống mới với những thành tựu lớn lao của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và
số phận những con người nơi đây.
Trong Đảo hoang, người kể chuyện có thể cùng lúc kể các sự việc, chi tiết về
cuộc sống của Mon và cuộc sống của gia đình An Tiêm khi họ lưu lạc nhau, và khi
họ gặp nhau người kể chuyện lại có thể vừa miêu tả về sự thay đổi của Mon, vừa
miêu tả về sự thay đổi của An Tiêm, nàng Hoa và bé Gái. Với Miền Tây, người kể
chuyện vừa thâm nhập vào đời sống tâm lý của bà Giàng Súa để miêu tả khi bà ở
cuộc đời cũ và khi bà được hưởng sự đổi thay ở cuộc đời mới, cũng như tâm trạng
của một người mẹ khi có đứa con là biệt kích, vừa miêu tả được tâm trạng bứt rứt,
giằng xé của Thào Nhìa khi một nửa muốn về với mẹ, một nửa muốn rủ mẹ và em
đi theo sang bên Lào. Cũng như vậy, người kể chuyện vừa có thể miêu tả tâm lý của
ông cụ người Xá khi nghĩ về cán bộ, về cách mạng, lại vừa có thể bày tỏ thái độ và
suy nghĩ của cán bộ Nghĩa và Thào Khay về ông cụ đó, về những người chưa tin
hẳn vào cách mạng. Ở Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, các hành động của Thụ rất nhiều,
và sự kiện, chi tiết trong truyện không đơn thuần là chỉ kể về Hoàng Văn Thụ mà
còn kể về những nhân vật khác như Mã Hợp, Khén Chang, Khi Chang, Chu Sảo
Kính… Và để có thể kể được nhiều nhất, đầy đủ nhất mọi hoạt động nhất là các
74
việc thường ngày của Thụ và các nhân vật này thì chỉ có ngôi kể thứ ba mới làm
được. Những việc kiếm ăn, những cuộc đi mót dây khoai, cắt tóc, ăn mày, đập chén
rượu ăn thề, đeo băng đỏ lên cánh tay áo…bản thân nhân vật Thụ là một nhân vật
lịch sử nên ít có khả năng kể lại những sự việc “đời thường” ấy, và nhân vật khác
cũng khó có thể kể vì không thể biết hết các hành động của Thụ. Và ngôi kể thứ ba
là thích hợp nhất cho việc mô tả những hoạt động thể hiện nhiệt tình cách mạng và
gian khổ mà một anh hùng có thể trải qua. Với ngôi kể thứ ba này, sự đa dạng về
tâm trạng, về hành động của nhân vật cùng một lúc được miêu tả rõ nét, đó là điều
mà người kể chuyện “toàn tri” có thể làm được.
Ngôi kể thứ ba, còn cho phép người kể chuyện đan xen những bức tranh thiên
nhiên vào giữa các sự kiện mà thiên nhiên ở đây có ảnh hưởng đến cuộc sống con
người. Thiên nhiên là người bạn gần gũi, có lúc hắt hiu như một nỗi buồn, rạng rỡ
như một niềm vui, thiết tha như một niềm tâm sự, ôm ấp gắn bó với con người.
Đang kể về những chuyến ngựa thồ của khách Sìn vượt qua những vùng đồi núi
hiểm trở với sự vất vả của người phu ngựa thì người kể chuyện xen vào miêu tả:
“Đàn ngựa kéo dài qua những vùng vàng rươi cỏ tranh cứ xoay tròn lên lưng trời, đi
cả ngày trông xuống vẫn thấy độc có một vết dốc vượt hôm trước. Không một tiếng
người, chỉ nghe tiếng vó ngựa và tiếng roi quất dứ qua quãng kẹt núi dựng, tiếng gió
gào quấn trên đầu sóng cỏ tranh, chốc lại xô lên, lấp cả người, cả ngựa. Đôi khi mặt
trời rầu rĩ nhô ra làm cho các mỏm núi và đến cả các khe suối xa bỗng nhiên nhuộm
nắng úa xuộm”. Thiên nhiên được người kể chuyện miêu tả phù hợp với cảnh ngộ
con người. Nó hòa quyện với nếp suy nghĩ, và tâm trạng con người. Trên “đảo
hoang”, cuộc sống với nhiều thiếu thốn, nhiều gian nan nhưng con người vẫn tràn
đầy sức sống như những bụi tầm xuân: “bụi tầm xuân từ bao giờ mọc lên, những
khúc dây quấn quít cuồn cuộn cao như tường. Đương vào mùa hoa tầm xuân, khắp
nơi, ửng màu hồng nhạt. Hoa tầm xuân, hoa hồng dại, các cõi đất quê ta, đâu cũng
có, từ triền Tam Đảo xuống qua vùng đồng bãi hai bên sông Cái sang đến vườn Tản
Viên, ngoài rừng tre rừng mía, những bờ bụi tầm xuân nở đầy”. Người kể chuyện
thỏa sức đan xen, lồng ghép các đoạn tả cảnh thiên nhiên trữ tình, làm cho nhịp
75
truyện dãn cách, chầm chậm, khiến người đọc được nhẩn nha suy xét. Cũng có lúc
trước khi vào câu chuyện, người kể chuyện miêu tả cảnh thiên nhiên – mùi hương
hồi của đất Lạng Sơn, mùi hương có hình có sắc, ẩn hiện đậm đà và say mê như
chính người thanh niên giàu nhiệt huyết xuyên qua hương hồi lên đường đi tìm cách
mệnh: “Những cơn gió sớm đẫm mùi hương hồi, từ đồi trọc Lộc Bình xôn xao
xuống, tràn vào cánh đồng Thất Khê, ùa lên những hang đá (…). Qua những vùng
hồi mà một mảnh lá gãy cũng dậy mùi thơm, gió càng thơm ngát, tỏa cái nắng tháng
bảy rưng rưng ở các đầu rừng lao xao tiếng người đánh xe ngựa chở hồi cho lái
buôn”. Những đoạn miêu tả thiên nhiên xen lẫn vào các sự kiện, chi tiết của câu
chuyện được người kể chuyện đưa vào như một cách vô tình nhưng nó lại hấp dẫn
người vì vẻ đẹp nên thơ, giọng trữ tình. Đó cũng là một cách thể hiện sự tinh tế,
nhạy cảm của nhà văn.
Ở ngôi kể thứ nhất (Ba người khác), Tô Hoài là một người kể chuyện nhìn lại
quá khứ của mình, quá khứ của một thời – cuộc cải cách ruộng đất. Ngôi kể thứ
nhất nhưng là ở vị trí chủ quan – nhân vật “tôi” là một nhân vật anh đội tham gia
vào cốt truyện, dẫn dắt câu chuyện, kể chuyện mình và kể chuyện người khác. Tiểu
thuyết Ba người khác với người kể chuyện xưng “tôi” đã thể hiện một điểm nhìn
tối hảo để kể một câu chuyện về thời đã qua. Cải cách ruộng đất – một thời đã qua,
đã quá quen thuộc với mỗi người nhưng với ngôi kể thứ nhất một lần nữa những bi
kịch về số phận con người, sai lầm của một thời kì được dựng lại một cách chân
thực, sinh động như vừa mới xảy ra. Điểm nhìn hoàn toàn mới đó là sự hồi tưởng
của anh đội Bối - một phó đội cải cách năm xưa. Anh ta đã kể lại một cách thành
thật, tự nhiên, không giấu diếm tất cả những gì mình đã làm, đã chứng kiến, đã trải
qua trong và sau đợt cải cách ấy. Mở đầu tác phẩm “tôi” dẫn người đọc bước vào
thời cải cách bằng không khí sôi sục của hội nghị tổng kết các đội công tác tại vùng
đồng bằng sông Hồng. Rồi theo hồi tưởng của người kể chuyện đưa người đọc cùng
đội cải cách đến vùng “200 ngày”; ở đây chúng ta như được tận mắt chứng kiến các
anh đội thực hiện “ba cùng” như thế nào, như được xem các cuộc đấu tố, xử địa chủ
ra sao, và hình ảnh những người nông dân vùng quê ấy như thế nào. Bối vừa là một
76
người quan sát viên, vừa là một người trực tiếp tham gia cải cách nên anh ta có đủ
điều kiện tốt nhất để nhìn nhận “chân tơ kẽ tóc” của cuộc cải cách. Anh ta không
chỉ tường thuật lại một cách tỉ mỉ, cụ thể từng sự kiện xảy ra mà còn trực tiếp bày tỏ
cảm giác, suy nghĩ về chính bản thân mình và về các nhân vật khác. Đó là một cái
“tôi” tự thú trung thực, một người kể chuyện đáng tin cậy. Cách người kể chuyện kể
cũng rất thú vị. Anh ta cứ bình thản, tự nhiên, thẳng thắn đến bất ngờ kể lại tất cả
những toan tính, dục vọng, nhược điểm, sai trái của chính bản thân và của những
người anh ta biết không một chút ăn năn, hối lỗi, không một chút thanh minh, biện
bạch, anh ta để khoảng trống đó cho người đọc nhận xét, đánh giá. Bối kể về người
khác cũng như kể về chính mình, tường tận tỉ mỉ, thành thực. Anh ta nhập vai Đình
kể về cách bắt rễ của Đình: “Thoạt đầu Đình sục sạo khắp xóm một lúc, vào nhà
nào cũng kê tiêu chuẩn ra hỏi ngay: - Mấy nhân khẩu? Có bao nhiêu? (…). Trung
nông rồi – tôi bị thằng Thìn đánh nhét cứt trâu vào miệng… Không, cứ trung nông
cái đã, còn cái ấy để rồi tố khổ”. Ở một đề tài nhạy cảm, khó khai thác như vậy
nhưng Tô Hoài đã để lại dấu ấn riêng cho mình qua nghệ thuật trần thuật trong đó
phải kể đến tác dụng của người kể chuyện. Bởi người kể chuyện xưng “tôi” ấy thực
sự đã để lại ấn tượng trong lòng người đọc với nhiều vai trò. Người kể chuyện với
tư cách là một nhân vật chính dẫn truyện – một đội cải cách phụ trách tòa án, một
quan sát viên, một nhân chứng, một kẻ tội phạm, một kẻ đồng lõa, một nạn nhân.
Anh ta đã kể lại câu chuyện bằng cái nhìn của một người trong cuộc, bằng cái tôi
trần tình, bằng khả năng kể rất sinh động. Độc giả theo dõi những việc anh ta kể mà
thấy bàng hoàng trước sự thật của một thời u ám. Ngạc nhiên đến khó tin nhưng vẫn
phải tin vì nó gợi cho ta cảm giác chân thực, chân thực như vừa mới xảy ra trước
mắt ta. Như vậy, ngôi kể thứ nhất đã giúp nhà văn “trần tình” dễ dàng hơn và tạo
được sự tin cậy cho người đọc hơn là việc sử dụng ngôi kể thứ ba. Với ngôi kể này
quyền của người viết cũng bị hạn chế nhưng nhà văn lại xác lập được cái chủ thể
mang tính lí tưởng. Cái “tôi” trùng khít với nhân vật Bối nhưng không đồng nhất
với tác giả. Và với ngôi kể thứ nhất ấy tác phẩm đã đạt được hiệu quả nghệ thuật tối
77
ưu.
Văn học truyền thống không đề cao vai trò của người kể chuyện nhưng càng
ngày chúng ta càng nhận ra vai trò của hình tượng đó. Việc lựa chọn được ngôi kể
thích hợp đã là thành công bước đầu của một tác phẩm. Tô Hoài đã linh hoạt sử
dụng các ngôi kể trong tiểu thuyết của mình, mỗi ngôi kể đã được nhà văn lựa chọn
một cách phù hợp với mục đích, ý đồ và đạt được hiệu quả nghệ thuật tốt nhất.
3.1.2. Điểm nhìn trần thuật
Người ta không thể miêu tả nếu không có người miêu tả và không bắt đầu từ
một điểm nhìn nào. Trần thuật bắt đầu từ điểm nhìn nên xem xét nghệ thuật trần
thuật trong một tác phẩm cũng phải bắt đầu từ điểm nhìn trần thuật và vai trò của
người kể chuyện. Khi nói đến trần thuật thì điểm nhìn có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Nó là cái vị trí dùng để quan sát, cảm nhận, đánh giá bao gồm cả khoảng cách
giữa chủ thể và khách thể, cả phương diện vật lý, tâm lý, văn hóa. Điểm nhìn trần
thuật thể hiện tư tưởng, dụng ý nghệ thuật của nhà văn, xuất phát từ nhân vật nào đó
sẽ tạo nên tính chất chủ quan, độ tin cậy ở sự thật được nói đến trong tác phẩm. Nếu
là điểm nhìn bên ngoài sẽ tạo được sự khách quan, chỉ nhìn thấy cái bề ngoài, không
đi sâu vào thế giới nội tâm nhân vật. Còn điểm nhìn “biết tuốt” thì nhà văn là người
“toàn tri” kể lại toàn bộ câu chuyện.
Trong tiểu thuyết của mình, Tô Hoài đã lựa chọn điểm nhìn từ nhiều vị trí. Có
khi là điểm nhìn bên trong từ một nhân vật trong truyện, cũng có khi là điểm nhìn
bên ngoài từ người kể chuyện ngôi thứ ba, và trong đó, ta nhận thấy có sự di chuyển
điểm nhìn, cũng như sự kết hợp linh hoạt điểm nhìn bên trong và bên ngoài.
Điểm nhìn trong Đảo hoang cơ bản là điểm nhìn của người kể chuyện. Mọi sự
việc, chi tiết, hoạt động, trạng thái, tình cảm của các nhân vật đều được đặt dưới
điểm nhìn của người kể chuyện ngôi thứ ba. Từ điểm nhìn bên ngoài đó, người kể
chuyện kể lại toàn bộ sự việc diễn ra từ lúc Mai An Tiêm còn bé, sống nhờ mọi
người bên bờ biến, đến lúc lớn lên gặp vua rồi theo vua về kinh đô, và sau đó là
chuỗi những năm tháng dài gia đình An Tiêm sống ngoài đảo. Nó được bắt đầu từ
sự kiện Mai An Tiêm và dân Bãi Lở giành chiến thắng tuyệt đối ở tất cả các phần
78
thi trong hội thi Vua Hùng tổ chức. Dưới điểm nhìn bên ngoài đó, người dân Bãi Lở
và Mai An Tiêm đã thi đấu hết mình, công bằng, dù gặp phải khó khăn khi đội vật
của cõi Ất dở trò nhưng họ vẫn vượt qua để giành về vinh quang chưa đội nào giành
được trong ngần ấy năm tổ chức ngoài cõi Ất ra. Tuy nhiên, chính sự công tâm và
chính trực, ngay thẳng của An Tiêm và người dân Bãi Lở đã khiến những kẻ xu
nịnh ghen ghét và tìm cách đẩy gia đình An Tiêm ra đảo. Cuộc sống ngoài đảo vô
cùng gian nan, nhưng bằng sức khỏe và ý chí, gia đình An Tiêm đã vượt qua.
Những khó khăn đó được kể một cách rất hiển nhiên, rất khách quan như thực, như
là người kể chuyện đang sống ngoài đảo, được chứng kiến tất cả. Đó là những ngày
đi tìm chỗ trú ẩn trên những vách đá; rồi cả nhà chia nhau vào rừng đi tìm nước
uống; tìm chỗ làm nhà, tìm cách giữ nước, lấy thức ăn; và rồi “trận rồng cuốn nước”
khiến cả nhà li tán; họ vừa tìm cách sống sót vừa đi tìm nhau; Mon trồng được
giống dưa hấu và họ thả dưa hấu ra biển mong có ngày đến được đất liền. Với ngôi
kể thứ ba, điểm nhìn bên ngoài, Tô Hoài đã thành công khi miêu tả đầy đủ hành
trình gian nan của con người chiến đấu chống lại thiên nhiên, chứng minh cho mọi
người thấy sức mạnh của “bàn tay con người”. Không chỉ sử dụng một điểm nhìn,
trong tiểu thuyết mặc dù không nhiều nhưng tác giả cũng đã có sự kết hợp điểm
nhìn bên ngoài và bên trong ngay trong một đoạn văn. Khi gặp trận rồng cuốn nước,
Mon thất lạc gia đình, cả nhà đều nhớ Mon, nhất là nàng Hoa. Người kể chuyện kể:
“Nàng Hoa vào trong lều, nét mặt Nàng Hoa lặng lẽ và nghiêm. An Tiêm biết câu
nói của mình đã thấm ý nghĩa. Nàng Hoa nghe ra rồi”; sau khi nghe An Tiêm
khuyên nhủ, tâm trạng nàng Hoa đã bớt đau buồn và lúc này người kể chuyện di
chuyển điểm nhìn khiến ta nhận ra nàng đang tự nhủ thầm: “Khóc thương không thể
làm gì. Chỉ có mạnh chân khỏe tay mới có hy vọng tìm lại được người”. Sự di
chuyển từ điểm nhìn bên ngoài của người kể chuyện đến điểm nhìn bên trong của
nhân vật đã làm rõ tâm trạng nhớ con, đau khổ vì không biết con đang ở đâu của vợ
An Tiêm, qua đó ta cũng thấy được tình yêu và sức mạnh ý chí của con người có
thể vượt qua hết thảy mọi xa cách. Sự di chuyển điểm nhìn còn được thể hiện rõ qua
chi tiết bố con An Tiêm gặp nhau. Lúc này nỗi nhớ con, niềm xúc động, vui sướng
79
của An Tiêm không thể kiềm chế mà bật thành những câu hỏi, tưởng như khi vui
quá chỉ có thể hỏi mà không thể làm gì khác được nữa: “Mon đấy ư? Thằng Mon
đấy ư? Thằng này là thằng Mon ư? Thằng Mon lạc nhà bao nhiêu năm nay, bây giờ
nó đây, nó là người thế này đây ư?”. Một loạt câu hỏi tu từ nối tiếp nhau thể hiện
tâm trạng của một người cha và qua đó ta nhận bên cạnh sự mạnh mẽ tưởng như chỉ
có ý chí ấy ở An Tiêm thì trong chàng còn tình yêu thương con, nỗi nhớ con của
một người cha giản dị như bao người khác.
Đọc Miền Tây, ta nhận thấy câu chuyện cũng được kể ở ngôi thứ ba điểm nhìn
bên ngoài. Với điểm nhìn đó, toàn bộ cảnh đời ở Phiềng Sa trước và sau cách mạng
đều được mô tả một cách chi tiết, đầy đủ với cái nhìn bao quát, khách quan. Từ
những đau khổ của người dân đồng bào miền núi được thể hiện chủ yếu qua phiên
chợ Phiềng Sa cho đến những sinh hoạt cộng đồng, những số phận thay đổi trong
cuộc đời mới. Người kể chuyện cứ lần lượt kể tự nhiên, tuần tự các sự kiện xảy ra
với vùng núi Miền Tây để người đọc thấy được sự đổi đời do cách mạng mang lại,
thấy được các vấn đề khi tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở vùng núi. Tô Hoài
cũng đã kết hợp điểm nhìn bên ngoài và bên trong trong đoạn văn kể lại cảnh bà
Giàng Súa mua muối. Khi chủ tịch Tỏa bán muối cho bà Giàng Súa, người kể
chuyện đang kể ở ngôi thứ ba điểm nhìn bên ngoài: “Rồi bà cúi đầu, nhắm mắt,
ngồi yên” để nhớ lại, tưởng đến con suối “Nậm Ngù mù mịt” – một thời quá khứ
đau khổ của mẹ con bà thì ngay sau đó người kể chuyện đã thâm nhập vào nội tâm
nhân vật với điểm nhìn bên trong để thể hiện tâm trạng bất ngờ, vui mừng của bà
khi nhận được cân muối: “Hạt muối, hạt muối trắng hơn sợi lanh đập rồi” và lại kể
ở điểm nhìn bên ngoài: “Lúc xúc động là lúc im lặng. Người ta nhắm mắt lại mà
chiêm bao thì ngẫm ra nhiều điều” thì ngay sau đó lại là lời độc thoại của bà Giàng
Súa tự nhớ lại câu nói của cán bộ Nghĩa bằng điểm nhìn bên trong: “Cán bộ Nghĩa
vừa nói: Thằng Khay học giỏi lắm” và tự nhủ mình: “Khay sẽ về, Khay sắp về”. Sự
kết hợp điểm nhìn bên ngoài của người kể chuyện với điểm nhìn bên trong của nhân
vật bà Giàng Súa đã cho thấy rõ tâm trạng vui mừng, phấn khởi của số phận con
người trong cuộc sống mới. Không chỉ kết hợp điểm nhìn mà tác giả còn di chuyển
80
điểm nhìn. Đọc đoạn Thào Khay đi học trở về bản ta nhận thấy vẫn là ngôi kể thứ
ba nhưng đã có sự sự di chuyển điểm nhìn từ người kể chuyện sang người đi làm
nương. Đây là đoạn người kể chuyện kể: “Một hôm, người đi làm nương sớm nhìn
thấy từ dưới núi đi lên một đốm trăng trắng. Rồi sau mỗi lúc trông một rõ ra đây là
một người cưỡi ngựa (…). Người trên nương không đoán được ai quen”; và điểm
nhìn được chuyển sang những người đi làm nương một cách rất tự nhiên qua cách
gọi Thào Khay là: “đồng chí bộ đội” và sự thắc mắc, không biết ai qua cách lí giải,
đoán mò: “Có lẽ bộ đội dưới châu lên. Bộ đội thật, vì đồng chí ấy đội cái mũ lạ và
có chiếc túi da đeo lưng”, rồi sau đó là các câu hỏi: “Ai mà thổi sáo khéo đến thế?”,
“Hay là lại có người trở về”, “thế thì ai đây?” và những câu đối thoại khi Thào
Khay hỏi có biết anh ta không: “Nhớ lắm”, “là đồng chí bộ đội”. Sự di chuyển điểm
nhìn này cho phép người đi làm nương cùng tham gia câu chuyện, nó càng thể hiện
sự đổi thay trong nếp nghĩ, sự bất ngờ, vui mừng trước vẻ bề ngoài đẹp đẽ, trước
con người Thào Khay khi anh đã trở thành cán bộ cách mạng. Anh trở về trong sự
thay đổi đó, trong sự đón chào ngạc nhiên, vui mừng của đồng bào như chính cách
mạng trở về để làm thay đổi cuộc sống của họ.
Bên cạnh điểm nhìn bên ngoài từ người kể chuyện ngôi thứ ba ở các tiểu
thuyết trên, Tô Hoài còn sử dụng điểm nhìn bên trong từ một nhân vật trong truyện
xưng “tôi”. Điểm nhìn trong Ba người khác đặt trong điểm nhìn của anh đội Bối khi
Bối kể và nhận xét về các nhân vật khác. Dưới điểm nhìn của Bối các anh đội đều
tham ăn, dâm dục, dốt nát. Chân dung của họ hiện lên chân thực, sinh động. Đi làm
cải cách, phải thực hiện “ba cùng” với người nông dân, bên ngoài thì họ tỏ ra kỉ
luật, đứng đắn nhưng thực chất thì ăn vụng bánh đúc, “hủ hóa” với các nữ dân quân,
sợ phải đi làm đồng, hô hào quần chúng cấy lúa trong khi không biết gì về nông
nghiệp, xử địa chủ một cách tàn ác trong khi cũng để lọt địa chủ thực sự. Trong các
việc làm bỉ ổi, sai trái đó, chuyện “hủ hóa” được kể chi tiết với những cảnh “sinh
hoạt như gà”. Điểm nhìn bên trong đó đã khiến cho sự thật về một thời cải cách
được phơi bày trần trụi và sống động. Đó là một bức tranh xã hội với gam màu xám
chủ đạo bởi những anh đội mang phẩm chất “cải cách” đi cải cách mọi nhà song lại
81
không cải cách được chính mình. Điểm nhìn của Bối có khi lại ẩn dưới điểm nhìn
của người khác, của ngôi thứ ba. Cái nhìn của “tôi” vừa mang tính cá nhân lại vừa
mang tính đại chúng khiến cho điểm nhìn di chuyển linh hoạt đa dạng. Câu chuyện
được kể vừa mang tính chủ quan của người trong cuộc lại có tính khách quan của
người ngoài cuộc. Cụ thể về sự di chuyển điểm nhìn đó qua đoạn kể của Bối:
“Đương nhiên khi nông nhàn, đồng áng lơ xơ, xa xa mấy người lúi húi cào cỏ. Thấy
người lội đồng, đội mũ, quần xoe trên gối, người ta ngẩng lên rồi lại cúi xuống quờ
tay quanh gốc lúa. Anh đội, anh đội thăm đồng đấy à”. Lúc đầu điểm nhìn là của
Bối nhưng ở câu cuối điểm đã di chuyển sang phía bà con làm đồng. Sự di chuyển
điểm nhìn như vậy tạo nên tính chân thực cho sự việc được kể. Điểm nhìn của Bối
còn được di chuyển sang điểm nhìn của ngôi kể thứ ba khi tác giả kể về việc Đình
bị bắt giam và xử. Bối chỉ được nghe Cự kể là Đình bị ô tô bắt đi đêm qua, như vậy
nhân vật “tôi” không được chứng kiến cảnh Đình bị bắt, cũng không được tham gia
xét xử nhưng từ lúc Đình bị bắt đến cuộc sống tù ngục và cái án tử hình Bối đều kể
rất rành rọt. Cái nhìn của “tôi” lúc ấy có khi ẩn dưới điểm nhìn của người xem xử
:“Ối giời ơi, cái áo kẻ ca rô mà tháng trước…Thằng cu nhà Đình! Thằng cu nhà
Đình! Mẹ nó xốc nó lên cho Đình trông thấy”, có khi là của bọn cai tù: “Dây bìm
bám rêu trùm lên lù lù tựa quả đồi xanh om, bên trong các xà lim, các buồng giam
lồi lõm như hang hốc, núi đá,…”; có lúc lại của cán bộ xử án: “Toà hỏi lại, trả lời
cho rõ: mày vào đảng phản động bao giờ, ai đưa vào, ai tổ chức cho mày trá hình
chui vào Việt Minh, ai ra lệnh cho mày tập trung người, giết người. Không chỉ di
chuyển điểm nhìn mà Tô Hoài còn kết hợp linh hoạt điểm nhìn bên trong và điểm
nhìn bên ngoài. Bối với điểm nhìn bên trong đi sâu vào tâm lí, nội tâm của mình và
của mọi người. Bối tự thể hiện mình là anh đội dốt nát, tham ăn, dâm dục. Tính
cách ấy được Bối thuật lại rõ ràng qua tiểu sử của mình và qua đợt cải cách Bối đi
xuống vùng “200 ngày”. Sự dốt nát được bộc lộ qua trình độ chưa hêt bậc sơ cấp
chỉ có “đôi ba chữ”; tính tham ăn thể hiện qua việc ăn cắp bánh đúc; và sự dâm dục:
“Tôi rình xem Đơm có về. Tôi nhớ cái vú nây nây.Con mèo đợi vồ chuột”. Điểm
nhìn bên trong còn được thể hiện ở việc Đình bị tra tấn, đánh đập trong tù và Bối
82
không có trong tù nhưng vẫn đưa ra nhận xét về tâm lý của Đình: “Tuy đau, những
nuốt được vào bụng của ngọc thực, Đình cũng tinh tỉnh đôi chút. Càng tỉnh càng
thấy sợ, có lúc muốn đập đầu chết ngay, cũng có lúc tự dưng muốn tắt thở. Làm sao
nên nông nỗi này? Làm sao cái trại đại đồng lại lên trại Quốc Dân đảng? Những
người ở dưới xuôi tản cư lên không quen thung thổ ốm sốt rét ngã nước, cả vùng ai
cũng biết. Thế là thế nào? bí thư, chủ tịch còn cả đấy, ở huyện, ở trên tỉnh à.. à…”.
Những câu hỏi, những câu văn nửa trực tiếp như chính lời độc thoại nội tâm của
Đình. Tâm lý của Đình được phân tích một cách rõ nét do có điểm nhìn bên trong ,
người kể chuyện – Bối như thấu hiểu trong lòng nhân vật nghĩ gì để kể lại do đó câu
chuyện có độ sâu, có độ tin cậy. Điểm nhìn bên ngoài được thể hiện với cách nhìn
nhận của Bối về cuộc cải cách ruộng đất. Đó là một phong trào lật đổ địa chủ, chia
ruộng đất cho nông dân, thiết lập lại bộ máy chính quyền thôn xã. Là một nhân
chứng, cũng là một nạn nhân người kể chuyện không né tránh những sai phạm, hạn
chế của cuộc cải cách mà nói thẳng, nói thực tất cả những gì đã diễn ra trong quá
khứ. Đó là những cách bắt rễ, xâu chuỗi một cách cảm tính, chủ quan, dập khuôn; là
những cuộc đấu tố, xử án dã man, rùng rợn; là cảnh người nông dân nhếch nhác, đói
khổ mà đầy tham lam…Tất cả đều được kể với cái nhìn khách quan, dửng dưng,
lạnh lùng càng phơi bày rõ nét hiện trạng của cuộc cải cách. Như vậy, trong điểm
nhìn của “tôi” có cả điểm nhìn bên trong lẫn điểm nhìn bên ngoài. Việc sử dụng kết
hợp đó góp phần giúp người đọc cảm nhận bức tranh cải cách chân thực mà không
phải sự dối tránh né. Điều này còn giúp tạo ra giọng điệu đa thanh cho tác phẩm.
Không có một điểm nhìn nào là lý tưởng cho mọi chuyện, do đó việc kết hợp
điểm nhìn và di chuyển điểm nhìn là một trong những yếu tố quan trọng trong nghệ
thuật kể chuyện. Tô Hoài đã nắm bắt được điều này để tạo nên sức hấp dẫn cho câu
chuyện mà ông viết.
3.1.3. Giọng điệu trần thuật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường,
đạo đức của nhà văn với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định
cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thành kính
83
hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm…”[20; 134]. Giọng điệu là một yếu tố đặc
trưng của hình tượng tác giả trong tác phẩm. Nếu như trong đời sống, ta thường chỉ
nghe giọng nói nhận ra con người thì trong văn học, giọng điệu giúp chúng ta nhận
ra tác giả. Người đọc có thể nhận thấy tất cả các chiều sâu tư tưởng, thái độ, vị thế,
phong cách, tài năng cũng như sở trường ngôn ngữ, cảm hứng sáng tạo của người
nghệ sĩ thông qua giọng điệu. Nền tảng của giọng điệu là cảm hứng chủ đạo của nhà
văn. Trong khi trần thuật, tác giả sử dụng nhiều giọng điệu, nhiều sắc thái trên cơ sở
một giọng điệu cơ bản chủ đạo, chứ không đơn điệu. Nói chung tiểu thuyết là đa
thanh, nhiều bè, nhiều giọng điệu. Tạo được giọng điệu đa dạng, phong phú là đánh
dấu một bước trưởng thành trong tư duy nghệ thuật.
3.1.3.1. Giọng dửng dưng, bình thản pha chút mỉa mai, châm biếm
Giọng điệu chủ đạo ta thường nhận thấy là Giọng dửng dưng, bình thản. Ba
người khác là một tác phẩm viết về vấn đề lớn của dân tộc, tuy không khai thác
toàn bộ diện mạo của cuộc cải cách nhưng ông lại đi vào kể về những mặt tiêu cực,
hạn chế, mặt trái của cuộc cải cách và đọc tác phẩm người ta thấy giọng của người
kể chuyện rất bình tĩnh, dung dị, thản nhiên nhưng lại hết sức ám ảnh. Trước cảnh
Đình bị tra tấn, mặc dù là một người cùng đội nhưng Bối kể lại rất tỉ mỉ những đau
đớn Đình trải qua không một chút thương tiếc: “Đình bị trói quặt tay chân nằm còng
queo dưới sàn xe, không thể cựa được (…). Nơi giam Đình ở cũi phía ngoài lô cốt.
Không một lỗ cửa sổ, trên mái trống hốc mà như tối mù. Nhiều người đã bị nhốt
trước ở đấy, bùn cứt thối khẳn lõng bõng ngập mắt cá chân (…). Đình phải trói
đứng suốt ngày. Đêm ngủ lả đầu xuống, lưng cong như con tôm, hai tay vẫn treo lên
cái vấu tre. Lúc lúc lại quờ quạng dật dờ ngọ ngoạy. (…). Một cái gộc tre xù xì đập
bốp vào mồm Đình còn đương há hốc. Ba chiếc răng cửa Đình văng ra như những
hòn cuội, máu tuôn lênh láng. Đình lăn ra, thở sằng sặc. Những đầu mấu tre giáng
xuống như giã giò, thình thịch, vun vút, bất kể vào đầu, vào lưng. Đình trợn ngược
mắt, nhuôi ra. Chiếc gậy chọc vào lưng, lay đi lay lại. Rồi gậy lại chan chát xuống,
như thử biết người còn sống không. Hai bàn tay Đình duỗi như búng con quay rồi
đuỗn thẳng không nhúc nhích”. Rồi trước cảnh xử bắn địa chủ Thìn, tuy là địa chủ
84
nhưng ông ta cũng là con người và trước cảnh rùng rợn ấy người kể chuyện cứ lẳng
lặng kể,, không thể hiện thái độ gì: “Thế là địa chủ Thìn chết, chết trước cả khi tòa
án phúc tra. Chẳng biết địa chủ Thìn bị xử chậm lại gặp đội sửa sai thì có được tha
không, nhưng dẫu có may thế, chắc lão cũng ốm chết trước đấy lâu rồi (…). Tôi
trông rõ cái đầu trên hõm cối một mớ tóc đốm nâu đốm bạc bùi nhùi rũ rượi. Đích
thị là chết thật. Đội trưởng Cự vào trong vách cầm ra cái đòn gánh khều ngửa mặt
người chết. Cổ đã cứng ngẳng, vạc xuống lằn máu tím đen vằn vèo như con gà bị
cắt tiết”. Chính cách miêu tả chi tiết với giọng điệu bình thản, không chút biểu cảm
gì đã tăng thêm hiệu quả nghệ thuật khiến người đọc cảm nhận rõ hơn về mặt trái
của cuộc cải cách, thấy ghê sợ chính những con người tham gia cải cách đó.
Không chỉ bình thản trước những đau đớn về thể xác của con người, giọng
điệu của người kể chuyện còn mang sắc thái mỉa mai, châm biếm chính những việc
anh ta làm và đồng đội anh ta làm. Hủ hóa là việc làm vi phạm kỉ luật nặng nhất mà
Bối coi như không. Kỉ luật hủ hóa phải ngồi chuồng trâu, phải đuổi về nhà mà Bối
cũng chẳng sợ, đã có hẳn bài báo về kỉ luật của Nguyễn Bổn mà Bối luôn cầm trong
tay nhưng anh ta vẫn hủ hóa: “Tôi vừa dăng nhện cái Đơm lại cái Duyên (…).
Thằng đàn ông như cái đó vác đi đơm, thế thôi”. Bối không chỉ “vạch áo cho người
xem lưng”, anh ta còn mỉa mai đội cải cách trong đó có anh ta một cách thành thực
như phơi bày ra giữa thiên hạ cho mọi người chê cười: “ Nhưng ai nấy có khôn mà
chẳng có ngoan. Sợi dây thừng gác bếp còn rơi ra cả tảng bồ hóng. Biết tẩy nhay
cả”. Và Bối cũng tự thú thay cho cả đội: “Chúng tôi như bọn lén lút cờ bạc lận, kéo
ra đây đánh xóc đĩa lột nhau giữa nơi hoang phế, đồng không mông quạnh”.
3.1.3.2. Giọng điệu trữ tình, ấm áp, vui tươi
Cùng với những trang văn khiến người đọc thấy người kể chuyện như đứng
ngoài cuộc trước những cái xấu của nhân vật thì trong tác phẩm của Tô Hoài ta còn
nhận ra nhịp kể chậm, mang chất trữ tình, ấm áp mà vui tươi. Người kể chuyện cứ
nhẩn nha, bình thản mà kể, mà tả với nhịp điệu chậm, thong thả.
Giọng trữ tình của tác phẩm thường được biểu hiện ở những trang viết về
thiên nhiên. Cảnh làng xóm thanh bình, yên ả gợi cho tâm hồn ta được thanh thản.
85
Đó là: “Những khoang tre xanh ngắt nơi xóm làng ven con đê quai. Từng khúc đầm
nước trong veo lác đác đám lá sen già đưa mùi thơm như rơm mới” (Ba người
khác). Rồi cánh đồng thôn xã trong nắng sớm: “Ngoài đồng đương lúi húi người
cào cỏ. Đuôi lúa con gái ngậm rập rờn, phe phẩy mơn man trong làn gió nhẹ như
sắp thấy hạt thóc mẩy đuổi bắt đi bát cám trộn”. Ở Ba người khác, đâu đâu cũng
thấy cái xấu, cái bon chen, cái thô tục, không gian “vùng 200” tưởng như chìm
trong gam màu u ám nhưng len lỏi trong đó ta vẫn nhìn thấy những cảnh vật nơi
làng quê đẹp, và thanh bình đến vậy. Và làng bản vùng cao trong những ngày giáp
tết mang vẻ đặc trưng của vùng cao Phía Bắc: “trong xóm, tối mịt. Gió thổi hun hút
từ khe núi lại, phút chốc, cái xóm Bó Sa chìm vào hơi buốt đêm cuối năm” (Tuổi
trẻ Hoàng Văn Thụ). Đó còn là cảnh nhân dân Bãi Lở an cư lạc nghiệp bên bờ
sông cái: “làng xóm an cư, người ở yên tâm trồng cau, trồng mít, đắp nền nhà, tính
chuyện lâu dài. Năm nào mùa màng cũng rờ rỡ, trên đồng đầy tiếng hát và tiếng
sáo. Trong làng, khói bếp suốt ngày đến canh khuya” (Đảo hoang). Thôn quê vùng
cao hay miền xuôi dưới con mắt của tác giả, ngôn ngữ của người kể chuyện đã tạo
nên nhịp kể chậm, nhẹ nhàng, như “ru” người ta trở về với những năm tháng thơ dại
khi còn bên gốc tre, giếng nước, bên khe núi, con suối. Nhờ những đoạn văn như
thế mà bức tranh đời sống trong tác phẩm có phần nên thơ.
Không chỉ có cảnh thanh bình nơi làng xóm mà thiên nhiên trong tác phẩm
của Tô Hoài còn phổ rộng ra mọi cảnh. Đó là khung cảnh đẹp tuyệt khi có nắng
sớm trên những vùng núi cao: “Nắng sớm cuồn cuộn vàng hoe chan hòa lên từng
tảng sương tan xanh lơ, để lộ ra những mép núi long lánh sáng. Những triền đá,
những cánh đồi tranh tối qua đi ngủ bây giờ trở dậy, rướn lên một làn song chàm
thẫm biếc, trang nghiêm” (Miền Tây); là “Những con sóng dịu dàng đưa phù sa đắp
vào chân đá, bồi thêm làn cát đỏ mịn, nổi thành bãi mới”; và thẫn thờ với cảnh sắc
hút hồn trên biển: “Biển im như tờ, ánh nắng hắt màu rong rêu ở đáy nước, làm cho
mặt biển đổi màu xanh ngắt. Lặng lẽ, những đợt sóng nhỏ sáng sớm của con nước
thấp vừa âm thầm rút xuống, trơ lại tảng đá rêu xanh mướt. Làn mây mỏng phủ dài
cuối biển. Mặt trời ủ trong mây, giữa trưa mà như chiều êm đềm”. Rồi ta như nghe
86
được “Những ngọn gió đông từ những vùng trời xa xôi nào đến, giỡn trên những
khe đá, những hang, những vực, tiếng vờn, tiếng vui, khiến con người bỗng nhiên
không còn cảm thấy ngập trong nỗi lo sợ tuyệt vọng nữa, mà thấy như đâu đây,
thiên hạ đâu đâu cũng có người, tiếng vang tiếng ấm của con người từ trong bờ quê,
sông quê đem đến trong tiếng gió những hy vọng khác thường (Đảo hoang). Và
những đêm trăng trong sáng, đẹp vời vợi: “Những đêm đầu mùa hè mây dày từng
mớ, từng lớp vàng đẫm ánh trăng ủ trên những cánh rừng tít tắp chân mây, những
thung lũng làng mạc xa lạ…”(Miền Tây); “ông trăng ngoài rằm thảnh thơi tỏa ánh
sáng nhạt xuống, như mỗi chiều ai chợt nhớ, lại thấy ông trăng trở lại chơi nhởn
trong lùm cây và trên con đường cát mịn ngoài ngõ” (Đảo hoang).
Bên cạnh cảnh đẹp yên ả, là cảnh vui tươi, ấm áp được tạo ra bởi sự đan xen
kết hợp của những âm thanh khác nhau. Không khí rộn ràng, những âm thanh tươi
vui nơi làng quê “Có con chim chích chòe hót sáng sớm. Con chim cu gáy báo hiệu
giờ trưa chiều. Con tu hú về mùa quả vải. Khi hoa gạo nở đỏ khé, hàng đàn sáo đã
đến đậu trên cành cãi cọ vang vang” (Ba người khác). Bầu trời đêm tĩnh lặng trên
vùng cao bỗng được “đánh thức” bởi âm thanh của “Tiếng nõ điếu sòng sọc rít của
ông già vẫn ngồi đan lưới trong ổ lá vừa dứt, con ngựa đứng dưới gầm sàn bỗng
rùng mình, hắt hơi loạn một chặp rồi im” (Miền Tây). Thiên nhiên có hình, có âm,
có sắc và có cả hương: “Đồi cọ, lá già xanh biếc, lá non nõn như lụa; đồi chẩu vào
hè hoa trắng; mùi dứa đương mùa thơm đến ngọt cả nắng” (Miền Tây). Thứ hương
thơm của cây hồi được cảm nhận vô cùng tinh tế với phép ẩn dụ chuyển đổi cảm
giác “Buổi sáng, tất cả mọi người đều đổ ra đường. Ai cũng đứng ngửng lên cho
thấy mùi hồi chín chảy qua mặt. Rừng hồi ngào ngạt xanh thẫm trên các quả đồi
quanh làng” (Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ).
Những trang miêu tả thiên nhiên của Tô Hoài luôn khiến người đọc cảm thấy
thích thú. Nó là điểm nhấn tạo nên giọng điệu trữ tình, ấm áp trong tiểu thuyết của
ông. Cùng với thiên nhiên, bức tranh sinh hoạt của con người cũng được tác giả chú
ý miêu tả để tăng thêm chất trữ tình, đầm ấm trong những trang văn của mình. Ta
bắt gặp hình ảnh sinh hoạt thường nhật nhưng rất đỗi yên bình: “Chiều chiều
87
thường thường lúc nãy cổng đồng có người đi làm về, những con trâu bước thong
dong, đàn vịt rúc bờ ruộng chân tre, trẻ con đương vác sào ra dồn về”; “Cái bãi lau
chen chúc loi thoi, đầm nước trắng đằng cuối. Những con chim đen tuyền, những
đàn cò trắng không dám đậu xuống, lượn quanh trên trời với mấy con diều hâu” (Ba
người khác). Khi cách mạng về, khung cảnh làng bản vùng cao trở nên vui tươi,
ấm áp “Trai gái được khi thanh nhàn đợi gặt hái, từ làng xa cũng chịu khó hẹn nhau
một chợ, hai chợ cùng đi. Người ham chơi đã vào rừng bẫy họa mi về chơi hội chọi
chim. Người chăm việc vác cày ra làm miếng nương gần soạn sẵn đất trồng đỗ
tương thu”. Và cuộc sống yên vui bắt đầu từ đây “Trạm xá Phìn Sa từ buổi sáng đã
đông người tới xin thuốc, tiêm thuốc đứng quanh cả căn nhà, lạ mắt nhất có tường
quét vôi trắng, có rèm vải hoa trên cửa sổ và cửa sổ mở ra bốn phía. Trên vách dán
những bức tranh em bé ngủ, em bé cười, bé nào cũng bụ bẫm như quả bí ngô”
(Miền Tây). Rồi những lời thủ thỉ, tâm tình của Mon dành cho hai con gấu khiến
chúng ta cảm thấy yêu đời, thấy trân trọng tuổi thơ êm đẹp: “Thằng này lười hơn
thằng em! Lười thưỡn lưng ra thôi! Đi vác nước đi! Lại còn vờ vờ hé mắt nhìn cái
gì? Ra suối, ra đằng kia, suối đằng kia! Làm như hét cho cả trăm người nghe. Hôm
ấy ba đứa đi bới măng. Các cánh rừng đều rực rỡ nắng. Lại sắp bắt đầu một mùa
nắng, rừng sáng xanh lên. Sắp có sấm mới, lại đi tìm măng ngọt” (Đảo hoang).
Rõ ràng bên cạnh giọng điệu dửng dưng, tự nhiên, Tô Hoài còn có chất giọng
trữ tình, ấm áp. Tô Hoài là nhà văn của con người và cuộc sống đời thường, ở đó
ông bộc lộ thái độ trước muôn màu muôn vẻ của cuộc sống do đó giọng điệu trong
sáng tác của ông cũng đậm chất thơ, hơi thở ấm áp, bình dị vốn có của đời sống
thường nhật.
3.1.3.3. Giọng điệu dí dỏm, hài hước
Tô Hoài không tự thu lại theo một giọng điệu văn chương nào. Cùng với giọng
điệu lạnh lùng, bình thản và giọng trữ tình, vui tươi, đọc tác phẩm của Tô Hoài ta
còn nhận thấy giọng điệu dí dỏm, hài hước.
Ở Ba người khác chi tiết mang quạt ra quạt cho “lúa thần kì” vì “lúa đổ mồ
hôi” là chi tiết người kể chuyện – anh đội Bối tự giễu cợt mình, tự mỉa mai mình
88
ngu dốt, ngu ngơ trước kiến thức nông nghiệp và chính sự giễu cợt ấy làm người
đọc thấy trong đó một sự nực cười, hài hước. Không chỉ thế người đọc còn bật cười
trước chi tiết Bối bắc loa bắt nhịp “bắt đầu cấy” như là quản ca bắt nhịp cho trẻ con
hát; không chỉ dừng ở đấy, ta còn không thể không cười trước chi tiết đội trưởng Cự
lên loa tuyên truyền cấy lúa, hô khẩu hiệu với hai từ “đòm bào”. Và người nông dân
trong con mắt người kể chuyện vừa đói khổ, nhếch nhách, dị dạng nhưng lại cũng
buồn cười ra trò: “Vách mặc áo nâu bạc, đóng cái khố đuôi lươn, đít hóp lại, hai đầu
gối nhô ra như hai hòn cuội (…) có người hỏi đi mít tinh mà đóng khố à? Ấy ra đây
kiếm cái quần địa chủ để mặc, phải cởi truồng sẵn cho đỡ vướng”. Chúng ta vừa
đọc vừa cười một cách giễu nhại, châm biếm với những hình tượng nhân vật trên.
Nhưng trong tác phẩm của Tô Hoài khi đọc ta cũng cười nhưng là nụ cười vui vẻ,
hìa hước của đời thường rất đỗi dễ thương. Hãy xem cuộc vật nhau đọ sức giữa
người và gấu: “Nhưng gấu vật nhau với gấu có đến nửa ngày, hai thằng cứ rầm rập
chèn lên chèn xuống, cát lầm lên giữa đám bụi nắng, chẳng ai chịu thua ai. Các anh
chàng này chỉ cậy có sức mà không có mẹo. Cứ đẩy nhau đến chán thì buông ra.”
(Đảo hoang). Những từ “hai thằng”, “các anh chàng” làm thế giới loài vật trở nên
gần gũi với con người đồng thời khiến ta cảm thấy vui vẻ, như chính nhân vật Mon
trong tác phẩm. Hay cảnh đàn gấu chó trong rừng cứ đi theo Mon và anh em gấu
làm Mon thấy sợ, sợ gấu sẽ bỏ theo đàn, sợ cô đơn, sợ chơ vơ giữa đảo. Và cách
Mon giữ chúng lại, cách Mon nói chuyện, thuyết phục khiến chúng ta không khỏi
buồn cười vì nó gấu ở đây như là anh em của Mon rồi “Mon giũi đầu bíu cả hai tay
lên vai gấu. ở bên kia rừng, đàn gấu từ nãy vẫn nhìn sang. Mon giơ hai tay, nắm
mõm hai con gấu, thủ thỉ nói: chúng mày nghĩ phải. Anh em ta đây, anh em mình
đây cơ mà. Gấu anh và Gấu em cùng thè cái lưỡi âm ấm liếm hai bàn tay Mon. (...)
Gấu ơi! ở với tao! Chúng mày ở với tao! Đừng theo chúng nó. Anh mày đây mà!
Đừng bỏ tao một mình nhé” (Đảo hoang). Những chuyện hài hước, buồn cười
thường bắt đầu từ những nghịch lý với đời thường. Chỉ có chuyện cơm ăn nhưng
trên đường đi tìm cách mạng, nhóm người đã tranh cãi, thậm chí đánh nhau vì chia
cơm không đều. Đọc đến đây, ta vừa thấy khổ và vùa thấy hài hước: “Chúng mày
89
thổi cơm xong, chúng mày lại chia. Thế thì chúng mày ăn gian hết, để tao ở giữa
đứng ra chia mới công bằng được (…). Một hôm sắp được ăn thì xảy ra trận đánh
nhau lõa lợi chảy máu miệng, máu đầu”(Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ). Hành trình đi
tìm cách mạng của Hoàng Văn Thụ là vô cùng gian nan, và trên con đường ấy,
không thiếu gì cảnh khiến người ta không thể không bật ra tiếng cười. Lúc cùng
đường, để kiếm kế sinh nhai tiếp tục đi Thụ đã xin vào phụ cho một nhóm bán
thuốc dạo ở chợ. Cảnh bán thuốc được miêu tả: “Cao Sơn Đông gia truyền mười
đời… Nhọt mưng mủ, nhọt bọc, trẻ con hay khóc đêm…đái giắt…vợ chồng hiếm
hoi…khỏi hết…phèng… phèng… phèng” (Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ). Rồi đó là
cảnh đuổi bắt thỏ trong rừng, cảnh đi ăn mày… Những câu chuyện nhỏ nhặt, thể
hiện gian khó, hiểm nguy ấy của người cách mạng được Tô Hoài viết với giọng hài
hước nhẹ nhàng khiến người đọc vừa ngạc nhiên, vừa hứng thú.
Trên sáu mươi lăm năm sáng tác, dù viết về đề tài gì, đối tượng thẩm mỹ và
thể loại nào, Tô Hoài cũng chủ yếu dựa trên cảm hứng nhân văn đời thường. Chính
cảm hứng ấy nó khiến cho giọng điệu của nhà văn trở nên phức hợp. Ở đó có sự kết
hợp giữa giọng dửng dưng, lạnh lùng với giọng trữ tình, vui tươi và giọng dí dỏm,
hài hước. Giọng điệu đó là cái đầu tiên người ta cảm nhận được khi đọc những sáng
tác của Tô Hoài. Bằng giọng điệu ấy, Tô Hoài cứ điềm nhiên kể mọi chuyện có
trong đời sống và nhờ giọng điệu này mà chúng ta nhận ra từ những sự việc vốn rất
bình thường trong cuộc sống đều có thể trở thành chất liệu cho sáng tác nghệ thuật.
3.2. Ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết của Tô Hoài
Ngôn ngữ là phương tiện đặc trưng kiến tạo nên văn bản nghệ thuật. Nó không
chỉ là chất liệu để sáng tạo ra thế giới nghệ thuật mà nó còn là một trong các yếu tố
thể hiện rõ nét cá tính sáng tạo của nhà văn. Trần thuật là phần lời của tác giả, của
người trần thuật. Ngôn ngữ trần thuật do vậy là nơi bộc lộ ý thức sử dụng ngôn ngữ
có chủ ý của nhà văn, thể hiện quan điểm của tác giả hay quan điểm của người kể
chuyện đối với cuộc sống được miêu tả. Ngôn ngữ trần thuật có những nguyên tắc
thống nhất trong việc lựa chọn các phương tiện tạo hình và biểu hiện ngôn ngữ để
thể hiện cảm xúc, quan điểm của tác giả. Ngôn ngữ trần thuật là yếu tố cơ bản thể
90
hiện phong cách nhà văn, truyền đạt cái nhìn, giọng điệu, cá tính của tác giả. Mỗi
câu, mỗi chữ trong tác phẩm có thể chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa, nhiều cách giải
thích. Ngôn ngữ trần thuật còn là ngôn ngữ đa thanh vì đặc trưng của ngôn ngữ văn
xuôi là sự tác động qua lại rất phức tạp giữa tiếng nói tác giả, người kể chuyện và
nhân vật, giữa ngôn ngữ miêu tả và ngôn ngữ được miêu tả.
Trong tiểu thuyết của Tô Hoài, lời dẫn của người kể chuyện thường chiếm ưu
thế hơn lời thoại của nhân vật. Vì vậy, đề cập đến vấn đề ngôn ngữ trong tiểu thuyết
của ông chúng tôi thiên về phân tích ngôn ngữ của người kể chuyện. Người kể
chuyện trong tác phẩm ít nhiều đều mang bóng hình của tác giả, do đó ngôn ngữ
của người kể chuyện là sự sáng tạo của tác giả. Tô Hoài là người luôn “lượm lặt”
những sự việc trong đời sống thường ngày và đưa chúng vào tác phẩm một cách có
nghệ thuật do đó ngôn ngữ trong tác phẩm của ông là thứ ngôn ngữ không một chút
dụng công, không trau chuốt, cầu kì, kiểu cách mà giản dị như chính cuộc sống đời
thường. Tìm hiểu ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết của Tô Hoài chúng tôi thiên
về tìm hiểu thứ ngôn ngữ “quần chúng” ấy.
3.2.1. Ngôn ngữ giàu tính tạo hình
Bức tranh thiên nhiên, đời sống và thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Tô
Hoài được tái hiện qua lời người kể chuyện chân thưc, sinh động là bởi thứ ngôn
ngữ giàu chất tạo hình bắt nguồn từ tiếng nói dân dã của nhân dân.
Nhờ việc sử dụng đa dạng, phong phú các từ láy mà chân dung các nhân vật
qua lời của người kể chuyện trở nên sống động và có hồn. Tô Hoài đặc biệt sử dụng
nhiều từ láy để miêu tả ngoại hình và hành động của nhân vật. Mai An Tiêm khi còn
thanh niên được miêu tả với đôi mắt “long lanh”, lưng và lườn, chân tay chàm “vằn
vèo” hình thủy quái, còn khi đã trải qua bao gian khổ ở đảo, bộ râu quai nón “lốm
đốm” , tóc thì “lơ thơ bạc” nhưng hai mắt vẫn “lay láy”. Mon thì được chú ý ở mái
tóc “cun cún”, nét mặt oai “chắm chắm” và “lụ khụ” như ông già khi mặc áo sui để
chuẩn bị lên đấu vật.(Đảo hoang). Trong Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, khi Thụ mải
ngắm nhìn cái buồng xưởng máy, anh thấy “nó vừa quan trọng nó vừa xơ xác”
nhưng mọi người đều “làm việc chăm chú, thận trọng, loay hoay và im lặng”. Bạn
91
Thụ là Chi thì “ngồi lúi húi góc trong. Khuôn mặt còn xanh rớt và cái đầu rụng tóc
trọc loang lổ như đắp nhọ cháo”. Điều đó cho thấy sự đối lập giữa thực tế xưởng
máy và sự nhiệt tình của mọi người nhưng qua đó thể hiện được mong ước thiết tha
của Thụ và của anh em là dựng được một cái xưởng – đó là bước đầu của cách
mạng. Đình hiện lên với cái dáng “lêu nghêu, đuôi mắt có ve lúc nói nháy lia lịa,
bộ râu xồm xoàm tuổi tác”. Chỉ ba từ láy miêu tả hình dáng, đôi mắt và bộ râu mà
gợi cho ta hình dung được hình ảnh một anh đội không đứng đắn. Anh đội Bối thì
hiện rõ là một người hèn nhát, cơ hội ở chi tiết trốn tự vệ “tôi chít sùm sụp cái khăn
vuông mỏ quạ, giả làm bà già”. Từ sùm sụp vừa gợi được cái dáng cố tình che giấu,
vừa gợi cho người ta về tính cách của một người không đàng hoàng. Một loạt các từ
láy kế tiếp nhau được xuất hiện để mô tả hành động, trạng thái của nhân vật : “Đội
trưởng Cự nói đến đoạn hăng, bắt đầu băm bổ bàn tay liên liến, hai con mắt trợn
trừng như muốn bật ra. Tôi luồn tay dưới ba lô thó luôn cả gói bỏ nhẹm vào túi xách
của tôi. Rồi lại vờ lơ láo nhìn mọi người. Ai nấy vẫn đăm đăm. Người hí hoáy ghi
sổ tay. Người chăm chú vừa thờ ơ nhìn đội trưởng” (Ba người khác). Những từ láy
này được sử dụng đúng chỗ, giúp người đọc hình dung ra điệu bộ giả tạo, đáng cười
của các anh đội khi họp một cách hình thức. Đặc biệt ta cảm thấy ám ảnh ghê rợn
trước cảnh tượng Đình bị tra tấn. Nó được miêu tả bằng một loạt các từ láy “xù xì”,
“há hốc”, “lênh láng”, “sằng sặc”, “thình thịch”, “vun vút”, “chan chát” kết hợp với
một chuỗi các động từ “đập”, “văng ra”, “tuôn”, “giáng”, “chọc”, “bốp” vừa gợi
hình ảnh ghê rợn, vừa tạo nên âm thanh khô khốc, rùng rợn, dã man. Những từ láy
được dùng để diễn tả nỗi khổ, số phận của bà Giàng Súa là những từ bản thân nó đã
gợi cho người ta cảm được tăm tối, sự thấp thỏm không sáng sủa gì “Đàn ngựa thấp
thoáng lên qua khúc đường còn sót một chút nắng loang lổ. Bà Giàng Súa không
đếm được từng con. Bà chỉ thấy mờ mờ lố nhố”. Ở trong rừng lâu quá, con người
thèm được nghe âm thanh của cuộc sống và cái thèm ấy được diễn tả qua hành
động, trạng thái của Mỵ khi nghe tiếng ngựa lên núi: “Bé Mỵ cũng lật đật chạy ra
khỏi đám lửa lom đom. Bé Mỵ run rẩy, lập cập hàm răng, hỏi anh”.
Các nhân vật trong tiểu thuyết của Tô Hoài thường “làm” nhiều hơn “nghĩ”
92
nên qua lời người kể chuyện hành động của các nhân vật thường được xâu chuỗi từ
một loạt các động từ. Đó là một loạt động từ miêu tả cảnh An Tiêm vùng vẫy trốn
khỏi cá mập An Tiêm “quẫy”, rồi “vừa bơi lùi, vừa giơ xĩa lên chống đỡ”, “ đâm”,
“co chân, quay xĩa lại, đâm suốt”, “vùng vẫy” “lùi vào”, “lóp ngóp bò vào bờ. ”.
Hay cảnh An Tiêm phải quay lại lấy tay nải khi gặp cơn bão, các động từ cũng được
sử dụng hết “tần suất”: “An Tiêm “vớ”, An Tiêm “vác”, “ré chân trèo thốc lên”,
“nắm hai cái tay nải”, “sờ”, “nắn thấy”,“vừa hú vừa nhô khỏi gờ đá”. Khi miêu tả
cuộc sống lưu lạc của Mon sau trận rồng cuốn, ta thấy một loạt các động từ được sử
dụng để làm nổi bật hành động tìm kiếm thức ăn, nước uống, dựng nhà cửa của
Mon, để chứng mình cho câu nói “Trong rừng dưới bể, con người ở đâu mà biết
chịu khó cũng tìm ra cái nuôi sống mình". Chủ thể hành động là Mon với một loạt
các động từ miêu tả hoạt động: “Mon nằm nghiêng trong hốc, chân duỗi thò ra
ngoài. Mon đứng dậy. Mon nhìn ra cửa cái lỗ. Mon vào rừng tre. Mon trở lại chỗ
cây thông. Mon cặm cụi ngồi tước mo nang thành sợi. Mon xách dao đá sang rừng
tre(...) Mon lại mài đá nữa(…) Mon chọn mấy cây tre to, đẽo hai đốt một làm ống
đựng nước, vác ra suối, vục nước đem về. Thế là Mon đi(.. .) Mon quay lại(…)
Mon xếp đá cao lên. Mon đẵn về một đống tre, trúc(…)Mon đẽo những con dao đá
sắc hơn(…)Mon dựng sáu cái cột sàn to(…)Mon lội qua suối về(…)Mon ra gỡ
mạng lá dứa (…)Mon lấy dao đá đập dẹt. (Đảo hoang). Hành động ăn cắp của Bối
được thuật lại với sự nối tiếp nhau một cách liên tục của các động từ: “Tôi duỗi
chân đụng vào đít cái ba lô trước mặt để đặt bản đồ. Ngón chân hình như vướng vào
mảnh lá chuối. Tôi lé con mắt dương hoa vàng mờ, cũng nhận ra cái lá chuối lòi ở
góc mảnh bạt nắp ba lô. Bấm thấy mềm mềm. Tôi quờ tay. Ôi chao, tôi nhận ra cái
lá bánh đúc ngô ở chợ. Tôi ngước mắt. Đội trưởng đương nói đến đoạn hăng, bắt
đầu băm bổ bàn tay liên liến, hai con mắt trợn trừng như muốn bật ra. Tôi luồn tay
dưới ba lô, thó luôn cả gói, bỏ nhẹm vào cái túi xách của tôi” (Ba người khác).
Không chỉ con người mà thiên nhiên và con vật cũng được miêu tả rất sinh
động nhờ hàng loạt các từ láy gợi hình, gợi cảm. Mùa hạ trên vùng núi Tây Bắc
được mô tả có hình, có khối, có hương, có sắc và có cả tâm trạng với “Nắng sớm
93
cuồn cuộn vàng hoe chan hòa lên từng tảng sương tan xanh lơ, để lộ ra những mép
núi long lánh sáng.”, rồi khi chiều xuống: “Đôi khi mặt trời buổi chiều tưởng đã
chìm hẳn lại rầu rĩ nhô ra” và đêm đến “Đêm đầu mùa hạ trên núi, hiu hiu lạnh như
đêm tháng mười dưới vùng thấp (Miền Tây). Trời khuya có trăng là vật duy nhất
tỏa sáng và trăng cũng được mô tả bằng các từ láy gợi hình “ông trăng ngoài rằm
thảnh thơi tỏa ánh sáng nhạt xuống” và “Rõ ràng mắt chúng tôi đã trông thấy nửa
đêm trăng vằng vặc sáng”, và những đêm “trăng hè trong leo lẻo, trắng rợn trên khe
lá” (Đảo hoang). Rồi “trăng mùng mười lơ lửng xuống sau rặng tre bên kia” (Ba
người khác). Và tiếng mưa cũng được miêu tả với những âm thanh khác nhau
“Những hạt mưa lẹt đẹt trên bàn tay”, “Mưa lộp bộp trên cái nải”, “Tiếng rào rào
liên miên đan khít hai bên tai”. Âm thanh, hoạt động của những con chim trên đảo
được mô tả qua cái nhìn của Mon “Lạ quá, nghe lao xao như tiếng người cãi nhau
trong hốc đá. Tiếng người? Tiếng người cãi nhau to. Không, tiếng gì lào xào. Như
tiếng gió quết trên bụi mía, bụi ngô. Rồi lại phảng phất xa (...). Đàn chim đương
xúm xít vộc đuôi, châu mỏ dưới chân tảng đá. Chúng lại tranh ăn dưới ấy. Tiếng lầm
rầm nghe là tiếng đạp, tiếng xô cánh, tiếng kêu, tiếng mỏ chọi nhau của những con
chim cướp cái ăn, như lúc nãy ở trên trời. Bây giờ chim mới chịu lả tả bay tản ra,
thế nhưng vẫn chới với tiếc rẻ liệng quanh” (Đảo hoang). Với các từ láy đó cảnh
đàn chim tranh mồi hiện lên thực sự sinh động, giống như hoạt động của con người.
Tô Hoài thường tỏ ra rất tinh tế trong những quan sát và mô tả như vậy.
Tô Hoài từng thổ lộ: “Trước tiên, khi viết văn, bao giờ tôi cũng nghĩ là mỗi
câu văn là do từng hình ảnh xuất hiện liên tiếp, từng chữ mang hình ảnh nối vào
nhau. Chữ của câu văn phải như gõ vào, nó kêu được. Chữ phải làm nổi hình ảnh
liên tiếp. Cho nên tôi cố gắng, một là chỉ cho người đọc thấy được dáng câu, chứ
không thấy được kiến trúc câu; hai là cách cấu tạo câu phải là hình ảnh, hình ảnh
liên tiếp. Người ta đọc bằng mắt, chữ vào trong óc, bao giờ cũng trở thành hình ảnh
trước, tôi cố gắng làm theo những cách trên” [6; 51]. Với quan niệm như vậy, trong
tác phẩm của mình Tô Hoài rất chú ý đưa vào các hình ảnh so sánh ví von, có thể
nói nó là một đặc trưng quan trọng của việc sử dụng ngôn ngữ trong tác phẩm của
94
riêng nhà văn. Hầu như trang nào ta cũng có thể bắt gặp những hình ảnh so sánh từ
đơn giản đến tinh tế, từ giản dị, dễ hiểu đến độc đáo, thú vị. Ta bắt gặp những so
sánh rất đời thường, vế được đem ra so sánh rất đỗi gần gũi, bình dị trong cuộc sống
hàng ngày nên đọc đến ta có thể hình dung, tưởng tượng ra ngay “Miếng màu năm
thước ruộng bé như lỗ mũi trâu”, “Người đem trẻ con đi bán như quảy quả mít”,
“Những gốc lúa nóng hầm hập như bắp ngô luộc”, “thửa ruộng chon von ngả màu
đỏ úa như cái lò gạch nung đã chín”. (Ba người khác). Sự vật, con người được
miêu tả một cách sinh động và gần gũi với hình ảnh “Con người mắc vào đá như
những hòn sỏi, như những con chuột bị lắc đi lắc lại trong ống”, và “rêu đá chất
đống cao như gò rơm”. Cái rét được miêu tả bằng cảm giác như “gai châm”. Và
trong cái rét ấy “thì xống áo vợ chồng con cái bạc và rách như xơ mướp” (Đảo
hoang). Cái chết của người trèo hồi cũng được so sánh với những vật vô cùng gần
gũi, nhỏ mọn như cái bao tải và cành cây nhưng nó lại diễn tả đúng trạng thái của
một người đang hấp hối, cái dáng của họ đúng là chỉ còn như những vật vô tri vô
giác, khô khốc không một chút sức sống “Người trèo hồi nằm trong đống bao tải
thừa, cũng xám ngắt như cái bao tải (…). Cái hình người bây giờ dẹp đét, mỏng
dính lại kênh lên như một cành cây” (Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ). Khi bé Mỵ và
Thào Nhìa xuống chợ vì tò mò, thích thú sau bao năm phải chui lủi trong rừng, hình
ảnh hai đứa trẻ ngây thơ, tội nghiệp được so sánh: “Mỗi đứa che lưng một cái tết
đệp đay móc đen, tóc xõa bết kết xuống hai vai. Chẳng khác hai con gấu nhỏ vừa
chui từ trong rừng kín ra chỗ núi tranh trống…”; hình ảnh bà Giàng Súa và các con
đốt đống lửa khi trốn trong rừng được so sánh với hình ảnh của gà mái ấp con: “mọi
người mẹ đều tựa gà mái ấp, muốn được các con mình ở cạnh”. Hình ảnh đó thật
gần gũi, ấm áp, thân thương mà gợi cho ta cảm giác thương cảm với mẹ con bà
Giàng Súa trong cảnh đời cũ (Miền Tây). Một loạt các sự vật rất đỗi bình thường,
giản dị, nhỏ bé và có mặt khắp trong đời sống của chúng ta, không cần dụng công,
“vắt óc” cho những hình ảnh “mĩ miều”, các so sánh của Tô Hoài hết sức sinh động
và có hồn, chính xác nó như lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân. Đó là một
95
nét riêng biệt tạo nên phong cách của Tô Hoài – nhà văn của đời thường.
3.2.2. Ngôn ngữ giàu tính khẩu ngữ
Tô Hoài từng nói: “Tôi tôn trọng cái tinh hoa ngôn ngữ, trọng đến mức bái
phục. Nhân dân chính là ông thầy lớn của mình về tiếng nói” [5; 50]. Chính vì thế,
ngôn ngữ trong tác phẩm của Tô Hoài không phải là thứ “ngôn ngữ óng ả, sặc mùi
sách vở”, chữ nghĩa của ông toát lên từ đời sống. Đó là thứ ngôn ngữ ông tích lũy,
học hỏi từ nhân dân. Ông chịu khó ghi chép, ghi nhớ những câu nói chỉ có trong dân
gian, và lựa lấy để đưa vào tác phẩm một cách thích hợp.
Ngôn ngữ của Tô Hoài là thứ ngôn ngữ của đời sống nhân dân, đặc biệt là
ngôn ngữ của người nông dân, người lao động chân chất. Ông đi nhiều, am hiểu đời
sống của nhân dân, phong tục của địa phương, vùng miền, nên ngôn ngữ trần thuật
của người kể chuyện thể hiện nét phong tục độc đáo ấy. Khi viết về miền núi, không
chỉ phong tục, tập quán của người dân tộc được tái hiện một cách rõ nét mà ngôn
ngữ địa phương cũng được Tô Hoài làm nổi bật. Tác giả không lạm dụng tiếng địa
phương mà chú ý nhiều hơn đến cách cảm nghĩ của nhân vật và gìn giữ được tính
chất trong sáng, thuần nhất của ngôn ngữ tác phẩm. Tô Hoài đã chú ý miêu tả suy
nghĩ, thái độ, hành động và ngôn ngữ của nhân vật mang bản sắc của người dân
vùng cao. Trong Miền Tây, khi chồng bà Giàng Súa chết, cả làng đồn thổi chuyện
nhà bà có ma. Cách nghĩ và cách nói của họ thể hiện bản sắc dân tộc, họ gọi Giàng
Súa là “con ma Giàng Súa” và cách họ đối xử với mẹ con bà: “Người làng xôn xao,
giận giữ bàn tán : làng cho mẹ con nhà Giàng Súa ăn Tết này xong rồi làng phải
đem giết. Nếu không, có lúc ma nhà nó làm chết hết làng”. Thào Nhìa theo biệt kích
và trong nhân vật này diễn ra sự giằng xé nội tâm. Nhưng ngay cả khi mâu thuẫn
ngôn ngữ miêu tả nhân vật này cũng vẫn mang đậm chất của người Mèo. Khi đi lấy
củi, Thào Nhìa đã nghĩ: “Thào Nhìa muốn ngã ngay xuống giữa gian nhà – gian nhà
giữa thiêng liêng của người Mèo, chỉ khi có người chết rồi mới được khiêng đến
cho nằm đấy. Thào Nhìa muốn ngã xuống gian giữa nhà, kêu lên : Mẹ ơi! Nhìa đi
đây. Năm trước, thằng Nhìa đi với khách Sìn. Bây giờ thằng Nhìa đã bán mình theo
ông dạy đạo, nó phải đi theo ông dạy đạo, ông dạy đạo bảo gì nó phải nghe, bây giờ
96
nó phải nghe lời ông dạy đạo. Chẳng biết có còn lần nào về được không? Cả đời
nhớ Phìn Sa, bây giờ về Phìn Sa lại phải đi…”. Suy nghĩ của Thào Nhìa được miêu
tả bằng thứ ngôn ngữ rất giản dị, tự nhiên, mỗi tiếng phát ra ngắn ngủi, chân thật,
thẳng thắn y như tâm hồn của người dân vùng cao. Hay lúc miêu tả tâm trạng của
Pàng khi thấy người đến nhà mình, tác giả cũng đã sử dụng sáng tạo thứ ngôn ngữ
đậm chất địa phương ấy “Những người còn sức đương chống lại, chống lại đến
cùng! Pàng đứng dậy, cả vợ con Pàng đây. Hổ báo nào, ma quỷ nào định bắt Pàng
đi theo vua theo quan. Cứ vào đây. Pàng không đi đâu, Pàng đã về đến Ná Đắng.
Pàng chỉ có một sống một chết.” (Miền Tây). Đó là cách cảm, cách nghĩ của người
dân tộc, Pàng trung thành với cách mạng, ghét vua quan nên khi Nghĩa đến tưởng
có người đến bắt mình theo vua quan thì Pàng đã nghĩ đến cái chết. Người xấu, kẻ
ác thường được người dân tộc gọi là hổ, báo, rắn. Gọi họ với những tên của những
con vật dữ trong rừng là cách thể hiện thái độ của người dân vùng cao. Suy nghĩ của
ông cụ người Xá được miêu tả: “Có phải người nào để lộ điều bí mật vua ra với
người khác họ, với cán bộ thì con hổ, con rắn sẽ tìm đến cắn chết? Rồi mỗi lúc ông
cụ một lo người của vua đến báo thù, tối nào cũng sợ con hổ, con rắn về tìm ông.
Người của vua đã biết ta ở đây, người của vua sẽ về giết ta…con hổ chỉ rùng mình
một cái cũng đổ nhà này…”. Tình cảm của người dân tộc dành cho cách mạng thật
là thủy chung, son sắt, và những người nghèo họ luôn mong muốn cách mạng thắng
lợi. Người kể chuyện đã nhập vai vào suy nghĩ của người mẹ vùng cao – mẹ Mã
Hợp. Bà đã từng đưa người ra biên giới đi làm cách mạng và khi mẹ nhìn thấy Thụ
và Chi đến nhà mình đang nói chuyện về cách mạng, mẹ đã nghĩ cách mạng sắp
đến, và sự thành công của cách mạng được mẹ nghĩ thật giản đơn như là khoảng
cách sang bên ngoại nhà mẹ “Như thế cách mệnh đã về gần đến bên quê ngoại rồi,
cách mệnh đã về gần lắm rồi” (Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ). Chất dân tộc, địa phương
trong ngôn ngữ còn được thể hiện qua những đoạn miêu tả thiên nhiên, đời sống
sinh hoạt của các dân tộc vùng cao. Mỗi trang sách, mỗi cảnh thiên nhiên, con vật
đều mang hơi hướng của người dân tộc. Đó là cảnh các làng đương vào những ngày
giáp tết “Gặt xong, mọi công nợ bắt đầu trang trải. Trước nhất, thóc nhà khó bắt đầu
97
vào yên bồ nhà giàu. Trong làng vẻ tết đã dần dần hiện ra. Chưa phải chuyện yên
vui mà những lo lắng đến trước. Con ngựa là cái chân giúp người kiếm ra tiền. Tết
đến, nhà ai có ngựa thì phải buộc cái cây tiền ấy vào trong tàu rồi đành ngày ngày đi
cắt cỏ về cho nó ăn” (Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ). Phiềng Sa với những dốc dài hun
hút, mù mịt của Châu Yên, ù ù thổi xám ngày đêm. Và người dân suốt đời bị ám
ảnh bởi tiếng chân ngựa của lính dõng, quan bang, thống lý, của những đoàn ngựa
tải súng và dầu lửa lên các đồn ải đế quốc trên biên giới. Tất cả được tái hiện bằng
thứ ngôn ngữ giản dị, tự nhiên nhưng đậm chất địa phương, nhờ thế mà bức tranh
thiên nhiên, đời sống của vùng núi hiện lên sắc nét. Cảnh tải ngựa được miêu tả
dưới cái nhìn của người kể chuyện: “Cả đoàn dừng lại. Những người phu nhảy
xuống chạy quanh ngựa, ai nấy hấp tấp rút trên túi ngực ra một ống nứa đựng rượu
ngâm củ gấu đặc xẫm. Họ lần lượt xách chiếc thừng cương kéo mõm từng con ngựa
lên rồi dốc ngược cả gống rượu vào họng ngựa” (Miền Tây).
Bên cạnh việc miêu tả thiên nhiên, đời sống, con người vùng cao bằng chính
ngôn ngữ của họ, tác giả còn đưa vào trang viết của mình những tên làng, tên bản,
những địa danh mang dấu ấn của vùng núi Tây Bắc. Đó là Châu Yên, Phìn Sa, Nà
Đắng, Bản Đay, Nà Sầm, Đồng Đăng, Kỳ Lừa, Bò Tát, Cò Noong, Phố Lẩu, Kéo
Sa, Tà Lài…Tên các nhân vật trong tiểu thuyết cũng thể hiện tính địa phương trong
tác phẩm: “ông khách Sìn, Mỵ, Khúa Ly, Giàng Súa, Thào Khay, Thào Nhìa, Pàng,
Mẩy, Chu Sảo Kính, Khén Chang, Khi Chang. Từ các tên gọi, địa danh đến cách
nói, cách giao tiếp, của các nhân vật đều được người kể chuyện phả chất dân tộc
vào đó. Khi bọn phản động trở về Phìn Sa, được tin các cụ già trong bản đã dạy con
cháu “giặc cướp lại về hại nhân dân rồi, nó tràn về Ná Đắng rồi. Không thể được.
Con cháu phải đi giết nó! Không được cho nó đến Phìn Sa. Đế quốc vua quan lại
ngóc cổ! phải đi đánh bẹp đầu con dê thối mới được!” (Miền Tây). Người ta ví vua
quan lại với con dê thối và cách họ nói thật hồn nhiên. Rồi khi những người cách
mạng bắt được con hổ, họ cũng ví “Đánh hổ cũng giống đánh thằng Tây” (Tuổi trẻ
Hoàng Văn Thụ). Hình ảnh so sánh ấy thật mộc mạc mà sâu sắc. Ngay cả cách gọi
98
tên địch cũng thể hiện sự thẳng thắn, chân chất, thật thà của người vùng cao. Họ gọi
Mùa Sống Cổ là “vua Mèo”, thực dân Pháp là “thằng”, “thằng Tây”, còn cách mạng
là “chính phủ ta”.
Không chỉ được coi là nhà văn phong tục mà ở một khía cạnh nào đó, có lẽ Tô
Hoài cũng được coi là nhà văn “thích” sử dụng những từ ngữ thông tục. Đó là lớp từ
cửa miệng trong giao tiếp hàng ngày của người dân được Tô Hoài đưa vào tác phẩm
trở thành ngôn ngữ viết vô cùng chân thật về con người và cuộc sống của nhân dân.
Để khắc họa đặc điểm của người nông dân trong vùng cải cách, tác giả để họ tuôn
ra những câu nói có phần thô tục nhưng chính xác nó là thứ ngôn ngữ cửa miệng mà
hàng ngày người ta thường nói với nhau. Nào là “mất hút con mẹ hàng lươn”, “ăn
mẹ gì”, “chết mất ngáp à?”, “xẵng”, “cười chó gì”, “làm mẹ gì cho tốn nước bọt”,
“tiên nhân đứa nào”. Rồi câu kêu than quen thuộc “ối giời ôi”, những từ ngữ xưng
hô suồng sã, cách gọi nhân vật bằng các đại từ không có chút trang trọng, lịch sự
“mày”, “tao”, “thằng tôi”, “thằng lười”, “thằng này”, “Con này”, “lão”, “bọn”. Và
suy nghĩ của Bối về đội trưởng Cự nghe đúng là giọng của một kẻ “lõi đời”, một kẻ
tục tĩu, đầu óc chuyên nghĩ đến những chuyện “hủ hóa” “Thằng dê cụ này đến chỉ
vì cái mùi đũng quần đàn bà mà thôi. Con vợ dưới xóm Đìa nó tống đi cán bộ rồi,
lên xóm Am nằm với cái Đơm, bây giờ lại sang tòm tem cái Duyên. Chỉ thế, chẳng
ba cùng ba càng, chẳng tổng kết, bồ kếp giời hỡi gì ở đây. Chắc thế, họ hàng nhà
ma, đi guốc vào bụng nhau cả”. Duyên là một nữ thanh niên, tổ trưởng dân quân
nhưng cách nói của Duyên giống như là cách nói của một người phụ nữ đã đáo để,
quá hiểu chuyện đời “Nhà em nhớn bé già trẻ mười bốn khẩu, để xem chia bơi thế
nào (…) Con này mà tố ra thì anh chết ngỏm đầu nước chứ không phải ai đâu” (Ba
người khác). Những từ ngữ, những câu nói có phần thô tục ấy khiến ta cảm thấy
khó nghe nhưng nó lại cần thiết làm nổi bật chân dung vốn có của người nông dân,
đông thời bản chất xấu xa của các nhân vật càng được biểu hiện rõ nét. Qua cách sử
dụng ngôn ngữ này, bức tranh đời sống thời cải cách và cá tính các nhân vật được
phản ánh sinh động và chân thực vô cùng.
Nói đến Tô Hoài không thể không nói đến tài năng sử dụng ngôn ngữ của ông.
99
Ngôn ngữ trong tác phẩm của Tô Hoài là ngôn ngữ xuất phát từ đời sống quần
chúng. Tô Hoài quan niệm đó là kho của cải vô giá và ông đã biết cách chọn lựa,
nâng cao và nghệ thuật hóa trong các sáng tác của mình để tăng thêm giá trị của nó.
Ông khẳng định: “Mỗi chữ phải là một hạt ngọc buông xuống những trang bản thảo,
hạt ngọc mới nhất của mình tìm được, do phong cách văn chương của mình mà
có”…“Câu nói là bộ mặt của ý. Ý không bao giờ lặp lại, cũng như cuộc sống không
bao giờ trở lại giống nhau như đúc thì lời văn cũng phải thế”. Chính thứ ngôn ngữ
“đời thường” ấy tạo cho tác phẩm của ông sự thú vị và hấp dẫn, đồng thời cũng
chính nó góp phần thể hiện phong cách nhà văn.
3.2.3. Lớp ngôn từ khơi gợi không khí một thời
Tô Hoài đặc biệt giỏi trong nghệ thuật tạo không khí. Đặc sắc của nhà văn,
một phần phụ thuộc vào cách tạo các lớp không khí cho tác phẩm. Có nhiều lớp
không khí khác nhau: không khí của thời đại, không khí như một môi cảnh giao
tiếp, không khí để độc thoại và đối thoại, không khí để tái dựng các chân dung,
không khí để thực hiện các xen ngoại đề, bình luận... Viết về người hay vật, viết về
cổ hay kim, Tô Hoài đều biết cách đặt chúng trong không khí nào. Màu sắc đời
sống, không khí lịch sử trong truyện của Tô Hoài ám rất sâu vào tâm trí người đọc
vì đó là thứ không khí toát lên từ tình thế, từ các chi tiết rất gần gũi đời thường. Biệt
tài dựng không khí truyện của Tô Hoài trước hết và rõ rệt nhất được thể hiện trong
việc làm sống lại không khí lịch sử của thời kì đã qua.
Ở Ba người khác, Tô Hoài đã sử dụng một hệ thống ngôn ngữ để làm sống lại
không khí của thời kì cải cách ruộng đất đã lùi xa gần nửa thế kỉ. Trước hết ta nhận
thấy không khí ấy qua cách tác giả đặt tên các địa danh : Hải Dương, Kiến An,
Nông Cống, Quỳnh Côi, vùng “200 ngày”. Đó là các địa danh đã từng diễn ra cuộc
cải cách ruộng đất. Những danh từ chỉ giai cấp, tầng lớp xuất hiện lặp đi lặp lại
trong tác phẩm. Đó là bần cố nông, cố nông, trung nông, địa phú, “anh đội”, “rễ”,
“chuỗi”. Và việc làm trong đợt cải cách được tác giả kể lại qua một hệ thống các từ
ngữ hiện nay trong đời sống của chúng ta không còn dùng: bắt rễ, xâu chuỗi, công
tác ba cùng, cụng đầu tố khổ, đấu địa chủ, hủ hóa, cắm thẻ nhận ruộng, chia quả
100
thực, mít tinh xóa bỏ giai cấp địa chủ, kết nạp đảng viên cho rễ chuỗi. Ta thấy các
khẩu hiệu, các diễn ngôn như thế này: “vì nông dân quyết chiến thắng”, “giải phóng
nông dân lao động khỏi ách địa chủ, phong kiến”, “Cải cách ruộng đất thắng lợi,
sửa sai và tiến lên”, “mít tinh tuyên bố xoá bỏ giai cấp địa chủ toàn xã”, “Hoan hô
giai cấp nông dân! Kiên quyết tử hình Việt gian”(Ba người khác) chỉ có thể diễn ra
thời cách mạng và đặc biệt là trong thời kì cải cách trên miền Bắc. Không khí sôi
sục của thời kì cải cách đã được tái hiện qua các từ ngữ này. Chính lớp ngôn ngữ
ấy, cùng với tính cách của các nhân vật, và hệ thống các sự kiện, chi tiết đã dựng lại
một cách chân xác bức tranh đời sống của con người, của thời đại khi nước ta thực
hiện cuộc cải cách.
Ta không thể quên được cảnh phiên chợ Phiềng Sa với những cảnh đời tủi
nhục đau khổ của những người dân vùng cao. Bộ mặt của xã hội cũ được miêu tả
bằng thứ ngôn ngữ chân thực, giản dị nhưng gợi cho đọc những xúc cảm, những
cảm thông chia sẻ với số phận buồn tủi, nhếch nhác của người dân tộc, và sự căm
phẫn với bọn thống lý, bọn chủ buôn khi chúng bóc lột, chè chén no nê trên nỗi khổ
của người khác: “Những cô gái nghèo chẳng có váy áo mới để thay thì vẫn đi thẳng
(…). Người hút thuốc phiện nằm ngổn ngang trong các lều giữa bãi, rì rầm những
chuyện bán súng và bán lậu bạc trắng (…). Tiếng súng bắn thử, tiếng chửi, tiếng
cười, tiếng kêu khóc của những người đằng kia chen nhau vào mua muối, tiếng
khèn rờn rợn nhảy tập tòe suốt ngày ” (Miền Tây). Chỉ có ở miền núi, cũng chỉ có ở
thời kì trước khi cách mạng về thì mới có những cảnh hỗn loạn, nhố nhăng, buồn
tủi như vậy xảy ra. Và Tô Hoài đã gợi được lại được không khí thời kì đau khổ
trước Cách mạng của người dân qua những trang miêu tả với ngôn từ rất đỗi gần
gũi, không một chút mài dũa.
Hẳn người đọc không thể quên những trang miêu tả hương hồi của đất Lạng
Sơn. Trong chương đầu đó, tác giả đã tạo dựng được không khí đau thương, mất
mát của dân tộc trong thời kì tiền khởi nghĩa nhưng trong đó vẫn ẩn khuất niềm hy
vọng, tin tưởng vào ngày mai tốt đẹp. Các từ ngữ chỉ sự đen tối, màu xám xịt xuất
hiện liên tục “nửa đêm kia”, “trong bóng tối”, “từ nửa đêm”, “bóng tối chập
101
choạng”, “Đêm càng xuống, bóng tối trong các hang núi đá bò ra đen sẫm” “đen
bóng những mồ hôi”, “mờ vào bóng tối”, kết hợp với âm thanh của tiếng ngựa
“nhong nhong tiếng ngựa”, “tiếng nhạc xoang xoảng”, “tiếng nhạc ngựa đằng xa
lanh canh”, “cái xe ngựa lại lọc cọc”, “vừa thở vừa hí vang” và âm thanh hỗn loạn
của “tiếng quát chửi ầm ĩ”, “tiếng trống mở đố chữ đánh thùng thùng”. Những âm
thanh ấy ẩn hiện, vang lên trong bóng đêm như tiếng kêu than đau khổ của đồng
bào, của nhân dân trước sự kìm kẹp, đô hộ của thực dân, của phong kiến. Tuy vậy,
trong không khí buồn thương ấy vẫn le lói tia hy vọng qua sự hòa quyện của tiếng
gió và mùi hồi đưa lại “mùi ấm và thơm lạ lùng”, “mùi thơm nồng nàn đến tận óc”,
“cơn gió sớm đẫm mùi hồi”, “gió càng thơm ngát”, “mùi thơm trong vắt lượn
quanh”, “mùi hồi chín chảy qua mặt”, “gió hồi miên man về”, “mùi hồi càng quẩn
nặng như khói bếp trên các làng xóm” (Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ).
Câu chuyện cổ tích Quả dưa hấu đã in sâu vào tâm trí của mỗi chúng ta và
giờ đây nó được Tô Hoài làm sống dậy qua tiểu thuyết Đảo hoang. Tác giả đã dựng
lại cả một thời huyền sử xa xưa mang lại cho người đọc âm hưởng vừa hào hùng,
vừa lãng mạn như bản ca đi mở đất của vua Hùng. Ta như được sống trong thời kì
của huyền thoại, của những anh hùng. Trước hết không khí ấy được tác giả dựng lên
qua một lớp từ ngữ cổ: “chàng”, “nàng”, “vua cha”, “mưu sĩ”, “”quan lạc tướng”,
“quan quân”, “anh lính dõng”, “mười lăm bộ”, “kinh đô” “quan văn quan võ”,
“kiệu”, “trảy kinh xem hội” “tâu”, “chủ tướng”, “lính tuần”. Và sau đó là âm thanh
của tiếng chiêng đấu vật “Bi... ly... bi... ly... Tiếng chiêng âm vào núi, dội lại” ;
tiếng trống từ mặt nước vang lên “Bùng... bi... bi... bùng...” – “tiếng trống uy
nghiêm gióng lên, âm vang đi, lại tưởng trăm nghìn vạn cỗ xe trâu sầm sập đổ
xuống, không lúc nào ngớt”; tiếng ốc tù rúc lên lúc thâu canh” tù và... tu... tu...”.
Đó là âm thanh của những vật mà đến giờ nó chỉ còn được trưng bày trong bảo
tàng. Tác giả đã đưa tiếng của những loại nhạc cụ này vào tác phẩm, nó đại diện cho
tiếng của ngàn xưa, tiếng của âm vang lịch sử. Qua những âm thanh đó, người ta
như cảm được cái không khí hào hùng, vang dội của lịch sử cha ông, của những
triều vua Hùng oanh liệt. Đó là một cách để thu hút độc giả dần dần chìm vào câu
102
chuyện của thời huyền sử xa xưa. Cùng với tiếng chiêng, tiếng trống là âm thanh
của con người. Để diễn tả thành công cuộc sống ngoài đảo của gia đình An Tiêm,
tác giả dùng tiếng hú : “hú….hú…hú…”. Đó là tiếng của An Tiêm và Mon gọi tìm
nhau trong thất lạc, cũng là thứ ngôn ngữ đặc trưng của người rừng, của những bộ
tộc sống lâu trong hang hốc, rừng núi. Để gợi ra không khí của một thời kì mà việc
mở đất là hệ trọng, tức là bốn cõi sóng nước, biển khơi, rừng núi đang còn hoang
vu, tác giả đã đệm cùng tiếng chiêng, tiếng trống là âm thanh của thiên nhiên. Đó là
tiếng sóng biển, tiếng nước sông, tiếng suối, tiếng ve núi, tiếng hươu nai… “Tiếng
ve! Tiếng ve kêu! Nghe thấy chưa? Tiếng ve! Mọi người lắng tai, nghe lẫn trong
tiếng suối róc rách, nếu không để ý kỹ không biết được, từ nguồn nước xa đưa lại
tiếng con ve núi giọng kim kêu lanh lảnh. Tiếng ve núi giọng kim trong vắt, thường
núi nào cũng có ve kêu lúc xẩm tối dưới gốc cây, ve kêu nửa đêm trên lưng cây”.
Đó còn là cách tác giả miêu tả hành động và trang phục của gia đình An Tiêm trên
đảo “An Tiêm đi trước, lưng giắt con dao. Mon theo bên bố. Gái bước cạnh Mon và
Nàng Hoa, vắt cái tay nải nhẹ nhàng trên vai… “lớp sợi tơ ra như sợi bông, bết
thành nạm trắng xám, càng phơi, nạm tơ sui càng kết lại(...) Thừa bao nhiêu, buộc
từng mảnh, thế là mỗi người còn được cái chăn đắp. Váy áo vỏ sui trắng bệch, trắng
xám, ai trông cũng lúi húi, lọm khọm như nhà gấu trắng ở núi (…). An Tiêm đeo
cái ống nước dài như chiếc đòn ống, lưng giắt dao, hai tay xách hai cái lao trúc.
Nàng Hoa theo sau, vác những buộc dây thịt khô, những bọc măng khô. Cái Gái đeo
thêm cái mo nang bọc xống áo. Đi suốt mấy ngày, đêm ngủ lại đâu thì đốt lên đống
lửa to”. Đặc biệt Tô Hoài đã sử dụng một hệ thống các từ ngữ, câu chỉ thời gian mà
tính bằng ngày, tháng, mùa…Nó thực sự có tác dụng gợi lên cái không khí của thời
kì xa xưa khi cha ông ta dựng nước. Không phải tính bằng giây, phút, giờ như con
người hiện đại bây giờ. Ta thấy để diễn tả thời điểm các buổi trong ngày tác giả
dùng những cụm từ: “Trời đã sáng hẳn... đã quá nửa đêm… chiều xuống”. Để thể
hiện sự trôi chảy của thời gian mà người xưa không dùng đồng hồ, họ chỉ có thể
dùng mùa, theo dõi mặt trăng, mặt trời để biết sự trôi chảy của thời gian: “Chẳng
biết nằm như thế đã mấy ngày mấy đêm hay hàng tháng rồi”; “Rồi hôm sau”, “Mấy
103
mùa nắng rồi”, “Mùa nắng đã lại đến”, “Mùa gió bấc đưa thuyền bè và những đàn
sếu, đàn bồ nông về phía nam”, “Chẳng bao lâu, lại sắp bắt đầu những ngày mát
trời”, “Ngày lại năm, lại đến mùa mát trời”, “Ngày tháng qua”, “Lại có đến mấy
năm nữa qua”, “Bấy giờ lại đương còn những ngày thanh thả đầu năm”, “Năm sau,
đến mùa gió bấc thổi”. Cứ mỗi chương, mỗi một sự kiện lớn tác giả lại dùng những
cụm từ đếm thời gian như trên. Lớp từ đó như minh chứng cho thời kì ở ngoài đảo
của An Tiêm là không kể ngày, kể tháng, kể năm, không thể đong đếm chính xác.
Chẳng biết nó từ bao lâu, nhưng qua đó tác giả muốn thể hiện tinh thần, ý chí, nghị
lực của con người mới là điều quan trọng, dù có bao mùa qua đi, gia đình An Tiêm
vẫn sống, vẫn khỏe mạnh và tràn đầy hy vọng. Qua lớp ngôn ngữ biểu hiện thời
gian bằng những con số ước lượng ấy, tác giả muốn thể hiện tinh thần sức mạnh lớn
lao của dân tộc, truyền thống chiến đấu chống thiên nhiên, chống ngoại xâm, giành
quyền sống và phát triển qua tất cả các đời. Đó là bản hùng ca sôi nổi từ nghìn năm
dựng nước tới nay trên bờ biển.
Tô Hoài đã xác lập được một nhãn quan ngôn ngữ tự sự cho chính bản thân
ông. Cũng giống như chàng thợ sơn guốc Kim Lân, thuở nhỏ, Tô Hoài không có
điều kiện học hành. Đó là một thiệt thòi lớn. Nhưng ông đã biết cách bù lại bằng
khả năng tự học mà nếu không bền chí, hẳn ông đã rất khác so với một Tô Hoài
vạm vỡ hôm nay. Với ông: “Học chữ và tiếng nói là cần thiết. Trong ba cửa: tiếng
nói quần chúng, tiếng nói trong vốn cũ và trong vốn nước ngoài, học tiếng nói quần
chúng là quan trọng hơn cả”. Nhờ ý thức bám lấy ngôn từ của đời sống và dám tạo
nên những cách nói mới mà văn Tô Hoài có khả năng gây ám ảnh. Ai kia viết văn
có thể tùy hứng, Tô Hoài thì không. Ông có ý thức nghệ thuật riêng.. Có thể, cái
kinh nghiệm này của Tô Hoài chưa chắc đã ứng hoàn toàn với các nhà văn khác.
Nhưng với ông, đó là một quan niệm, và quan niệm ấy hiệu quả với con đường viết
104
văn của chính ông.
KẾT LUẬN
Nói đến Tô Hoài, người đọc nhớ ngay đến Tô Hoài của những sáng tác về Hà
Nội, Tô Hoài với miền núi Tây Bắc, Việt Bắc, Tô Hoài của Dế Mèn phiêu lưu ký
và những sáng tác cho thiếu nhi, Tô Hoài của hồi ký tự truyện. Trong cái thế giới
nghệ thuật hết sức đa dạng ấy, về mặt thể loại, không thể không nói đến tiểu thuyết.
Bởi thể loại này là sự tích tụ không chỉ tâm huyết một đời của nhà văn, mà còn là sự
tích lũy về mọi mặt của nghệ thuật có từ các thể loại khác, đặc biệt là truyện ngắn.
Cũng ở tiểu thuyết, ta bắt gặp hầu hết các đề tài quen thuộc mà Tô Hoài thường khai
thác. Qua khảo sát, phân tích bốn phương diện của nghệ thuật tự sự trong tiểu
thuyết của Tô Hoài (nghệ thuật tổ chức cốt truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật,
người kể chuyện và ngôn ngữ trần thuật), chúng tôi nhận ra sự phát triển có tính
chất tiếp nối, kế thừa, thống nhất về nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Tô Hoài.
Dù là thể loại truyện ngắn, bút kí, tự truyện hay tiểu thuyết, dù là đề tài miền
núi, thời huyền sử hay cải cách ta đều nhận thấy một điểm thống nhất trong nghệ
thuật tổ chức cốt truyện của Tô Hoài. Đó là một dạng cốt truyện không có sự phức
tạp, ít những sự kiện, biến cố quan trọng và do đó ít những tình huống kịch tính, gấp
gáp, căng thẳng. Tô Hoài không hấp dẫn độc giả bằng các thủ pháp mới lạ trong
cách viết, trong nghệ thuật kết cấu tác phẩm. Nhà văn cứ để dòng đời trên trang
sách trôi chảy tự nhiên, nhiều khi khá lặng lẽ, với nhiều quãng dừng, mạch rẽ ở
những chỗ miêu tả sinh hoạt, phong tục thiên nhiên. Mạch truyện vì vậy thường
chậm, ít có những chỗ được đẩy tới căng thẳng, những cao trào. Cốt truyện mà Tô
Hoài hướng đến chính là cốt truyện của “đời sống hàng ngày”. Cuộc sống dung dị
tự nhiên như nó vốn thế: có mọi thứ của sinh hoạt đời thường, vặt vãnh, cái tốt đẹp
và cái tầm thường, có đời sống xã hội, vận động của lịch sử và đời sống thế sự, sinh
hoạt phong tục. Tất cả được trải đều trên trang sách từ đầu tới cuối. Dạng cốt truyện
ấy cũng thường vận động theo một chu trình đi từ tối ra sáng, từ khổ đau đến hạnh
phúc, từ thất bại đến thành công. Trong mạch thống nhất, tiếp nối ấy, nhà văn đã thể
hiện sự lĩnh hội cái mới, phát triển nó trên nền cái cũ. Từ cốt truyện nghiêng hẳn về
105
hành động, sự kiện (Đảo hoang, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ), đến cốt truyện có sự
kết hợp đan xen sự kiện, hành động với tâm lý (Miền Tây, Ba người khác). Từ cốt
truyện được trần thuật theo dòng thời gian tuyến tính(Đảo hoang, Tuổi trẻ Hoàng
Văn Thụ) đến cốt truyện có sự đảo ngược thời gian (Miền Tây) và thời gian bị xáo
lộn theo dòng hồi tưởng của nhân vật (Ba người khác). Mạch vận động của cốt
truyện cũng có sự kế thừa phát triển qua các tiểu thuyết. Ở ba tiểu thuyết viết trước
thời kì đổi mới (Đảo hoang, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Miền Tây) ta thấy mạch
truyện vận động từ ra đi đến trở về; từ gian khổ, khó khăn, đến thành công, trưởng
thành; từ đau khổ, tủi nhục đến vui tươi, yên bình. Nhưng sang đến Ba người khác
mạch vận động không còn tuân theo quy luật ấy nữa mà đã biến đổi gần với hiện
thực cuộc sống, đầy góc cạnh, gân guốc với những sự việc bắt đầu đã đen tối, và kết
thúc cũng mịt mờ, không ánh sáng. Như vậy, cốt truyện không dừng ở những sự vận
động là luôn luôn hướng bắt đầu từ cái xấu, cái khổ đến cái tốt, cái hạnh phúc mà nó
đã có sự phát triển tuân theo quy luật của cuộc sống hiện thực. Điều đó càng làm
cho tiểu thuyết của Tô Hoài gần với tạng tiểu thuyết hiện đại hơn.
Ở nghệ thuật xây dựng nhân vật, ta nhận thấy có điểm chung ở các tiểu thuyết
của Tô Hoài đó là các nhân vật được chú trọng miêu tả về ngoại hình và hành động.
Thông qua đặc điểm về ngoại hình, hành động người đọc nhận ra bản chất của nhân
vật. Song bên cạnh lối khắc họa nhân vật một cách truyền thống ấy thì cũng đôi lúc
tác giả tập trung miêu tả đời sống nội tâm nhân vật khi cần thiết. Đời sống nội tâm
của các nhân vật Mai An Tiêm, Hoàng Văn Thụ…còn rất đơn giản, hầu như chí lóe
lên trong phút chốc, trong suy nghĩ, còn hành động chi phối tất cả. Nhưng đến bà
Giàng Súa, Thào Nhìa, tác giả đã dành nhiều trang viết hơn để miêu tả sự giằng xé,
sự mâu thuẫn trong suy nghĩ của một người mẹ vùng cao và của một người con đã
lỡ theo biệt kích. Đến các nhân vật anh đội, tất nhiên hành động vẫn duy trì mạch
truyện nhưng đời sống nội tâm – tiếng nói bên trong và ngôn ngữ của nhân vật được
chú ý xen kẽ thích hợp. Cứ sau mỗi hành động của các nhân vật là anh đội Bối lại
bày tỏ suy nghĩ, thái độ, đánh giá, bình luận. Tất nhiên đòi hỏi một sự thay đổi tuyệt
đối ở những trang văn thuần túy miêu tả đời sống nội tâm của nhân vật ở Tô Hoài là
106
không thể được, bởi đó không phải là sở trường của ông.
Tiểu thuyết của Tô Hoài về cơ bản là tồn tại dạng thức người kể chuyện hàm
ẩn qua hình thức trần thuật ngôi thứ ba, kể theo điểm nhìn của chính mình – một
hình thức trần thuật truyền thống. Tuy sử dụng hình thức truyền thống đó nhưng
người kể chuyện trong tiểu thuyết của Tô Hoài đã dần dần từ bỏ quyền uy của
người kể chuyện “biết tuốt” bằng cách di chuyển và kết hợp linh hoạt điểm nhìn cho
nhân vật (ngôi thứ ba – nhân vật trong truyện). Mỗi câu chuyện Tô Hoài kể mang
đậm tính chất khách quan của góc nhìn “hạn tri” nhưng lại thấm đẫm sự trải
nghiệm, vốn sống phong phú của cá nhân nhà văn. Người kể chuyện trong tiểu
thuyết của Tô Hoài có lúc đã trần thuật theo ngôi thứ nhất, kể theo điểm nhìn bên
trong – kí ức của nhân vật. Hình thức này tiệm cận với người kể chuyện trong tự
truyện, hồi kí. Sự gần gũi đó, chứng tỏ sự thành thạo và linh hoạt trong kĩ thuật viết
văn của Tô Hoài.
Mang đậm chất “dân gian”, “quần chúng”, đời thường, ngôn ngữ trong tiểu
thuyết của Tô Hoài toát lên sự bình dị, tự nhiên gần gũi với lời ăn tiếng nói của
nhân dân. Thực chất lời thoại và lời dẫn đều được nhà văn tích lũy qua quá trình học
hỏi ngôn ngữ của người dân, và được nâng lên thành ngôn ngữ nghệ thuật. Sự “xào
xáo” thứ ngôn ngữ bình dị trong đời sống hàng ngày, thậm chí “quê mùa” ấy bằng
vốn sống phong phú và tài năng “trời phú”, Tô Hoài đã viết lên những trang văn còn
mãi với thời gian. Thứ ngôn ngữ mà nhà văn sử dụng, ngày càng trở nên thật gần,
thật giống, thật là ngôn ngữ của đời sống. Có lúc nó gần quá đến mức suồng sã, đến
mức “trần trụi”, (đặc biệt là viết về cái xấu) song ở một khía cạnh nào đó nó càng
chứng tỏ bản lĩnh, tuổi nghề, trải nghiệm của nhà văn, bởi chỉ khi người ta không
còn biết sợ người ta mớ dám viết những điều người khác không dám nghe. Nhưng
“thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng” .
Tô Hoài là một cây bút có sức sáng tạo cực kỳ dồi dào, phong phú hiếm có. Ở
mỗi thể loại ông đều có ít nhất hàng chục tác phẩm, tiểu thuyết cũng vậy. Trong
khuôn khổ một luận văn chúng tôi chưa thể khảo sát hết toàn bộ tiểu thuyết của ông,
mà chỉ giới hạn ở bốn tiểu thuyết với các đề tài khác nhau theo một trình tự thời
107
gian trước sau. Giữa tiểu thuyết và các thể loại khác của Tô Hoài luôn có sự giao
thoa, đan xen và để có một cái nhìn đầy đủ, bao quát hơn thì cần có những nghiên
cứu thể hiện sự so sánh đó.
“Tích tiểu thành đại”, “góp gió thành bão”, với sự cần mẫn, bền bỉ, dẻo dai,
không ngừng học hỏi, tích lũy, tự vượt mình để sáng tạo, Tô Hoài đã đạt được
những thành tựu to lớn sau hơn nửa thế kỉ sáng tạo nghệ thuật. Tô Hoài xứng đáng
là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, là tấm
108
gương lao động nghệ thuật cho văn nghệ sĩ noi theo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TÁC PHẨM
1. Tô Hoài, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Nxb Thanh niên, 1971.
2. Tô Hoài, Miền Tây, Nxb Văn học, 1971.
3. Tô Hoài, Ba người khác, Nxb Đà Nẵng, 2007.
4. Tô Hoài, Đảo hoang, Nxb Văn học, 1969.
5. Tô Hoài, Nghệ thuật và phương pháp viết văn, Nxb Văn học, 1997.
6. Tô Hoài, Một số kinh nghiệm viết văn miêu tả, Nxb Giáo dục, 2005.
II. NGHIÊN CỨU, LÍ LUẬN, PHÊ BÌNH
7. M. Bakhtin, Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn, 2003.
8. Phan Cự Đệ (chủ biên), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục, 2005
9. Hà Minh Đức (chủ biên), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, 2003
10. Hà Minh Đức, Tô Hoài, đời văn và tác phẩm, Lý , Nxb Văn học, 2007.
11. Manfred Jahn, Trần thuật học: Nhập môn lí thuyết trần thuật, Nguyễn Thị Như
Trang dịch, Trường ĐHHXH&NV.
12. Lê Bá Hán, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, 1992.
13. Phong Lê (giới thiệu), Vân Thanh (tuyển chọn), Tô Hoài về tac gia và tác phẩm,
Nxb Giáo dục, 2003.
14. Phong Lê, Về văn học Việt Nam hiện đại nghĩ tiếp… Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2005.
15. Phương Lựu (chủ biên), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, 2003.
16. Nguyễn Đăng Mạnh, Nhà văn Việt Nam hiện đại, chân dung và phong cách,
Nxb văn học, 2006.
17. Nguyễn Đăng Suyền, Nhà văn và cá tính sáng tạo , Nxb Khoa học xã hội, 2002.
18. Trần Đình Sử, Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, 2005.
19. Trần Đình Sử, Tự sự học phần I, NXB Đại học Sư phạm, 2007.
20. Trần Đình Sử, Tự sự học phần II, NXB Đại học Sư phạm, 2008.
21. Trần Hữu Tá, Tô Hoài một đời văn phong phú và độc đáo, Nxb Trẻ hội nghiên
109
cứu và giảng dạy văn học Hồ Chí Minh, 2001.
22. Bùi Việt Thắng, truyện ngắn những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb
Đại học Quốc gia, 2007.
III. KHÓA LUẬN, LUẬN VĂN, LUẬN ÁN
23. Nguyễn Thị Thùy Dương, Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Ba người
khác của Tô Hoài, Đại học KHXH & NV, 2007.
24. Hoàng Minh Đức, Nghệ thuật tự sự trong các tác phẩm của Tô Hoài, Đại học
KHXH & NV, 2007.
25. Đoàn Thị Thúy Hạnh, Nghệ thuật trần thuật của Tô Hoài qua hồi ký, ĐH Sư
phạm Hà Nội, 2001.
26. Tăng Thị Hoàn, Tìm hiểu tự sự về cải cách ruộng đất trong tiểu thuyết Cỏ
thiêng, Đi tìm nhân vật, Ba người khác, Đại học KHXH & NV, 2009.
27. Mai Thị Nhung, Phong cách nghệ thuật Tô Hoài, ĐH Sư phạm Hà Nội, 2005.
28. Trần Thị Mai Phương, Nhân vật kể truyện trong hồi kí và tự truyện của Tô Hoài,
Đại học KHXH & NV, 2009.
29. Phạm Thị Thanh Phượng, Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Thạch Lam, Đại
học KHXH & NV, 2008.
30. Nguyễn Thị Thanh Thủy, Cốt truyện và nhân vật trong tiểu thuyết Ba người
khác, Đại học KHXH & NV, 2007.
IV. BÁO, TẠP CHÍ, WEBSITE
31. Lê Huy Bắc, Giọng và giọng điệu trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, Tạp chí văn
học số 9, 1998.
32. Đặng Anh Đào, Điển hình hóa và tiểu thuyết ngày nay : Ba người khác có nhất
thiết phải là ba người này, www.http://diendan.org.
33. Nguyễn Đăng Điệp, Tô Hoài, Người sinh ra để viết, Tạp chí văn học số 9, 2004.
34. Nguyễn Xuân Khánh, Đọc Ba người khác của bác Tô Hoài, http://talawas.
35. Nguyễn Long, Tô Hoài trên hành trình thế kỷ, Tạp chí văn học số 9, 2000.
36. Vương Trí Nhàn, Tô Hoài và thể hồi ký, Tạp chí văn học, số 8, 2002.
37. Phạm xuân Thạch, Của chuột và người – tiểu thuyết như là diễn ngôn về sự hiển
110
minh của chuột, www.http:// talawas.