
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo thống kê trong vòng 20 năm gần đây tỷ lệ ung thư gan tăng lên
đáng kể, tại Mỹ tỷ lệ này tăng từ 1,5 lên 4,5 người/100.000, đồng thời với
tăng 41% tỷ lệ chết hàng năm của căn bệnh này. Ung thư gan nguyên phát
(UTGNP) đứng hàng thứ 3 trong các nguyên nhân chết do ung thư trên thế
giới. Mặc dù tỷ lệ chết tăng lên cùng với tỷ lệ mắc bệnh nhưng tỷ lệ bệnh
nhân sống sau 1 năm tăng lên đáng kể từ 25 lên 47% do khả năng phát hiện
sớm cũng như tiến bộ của các phương pháp điều trị [1],[2].
Tỷ lệ phát hiện ung thư trong nhóm các bệnh nhân xơ gan được theo
dõi khoảng 2 đến 6%. Tất cả các loại xơ gan do các nguyên nhân khác nhau
đều có thể dẫn đến ung thư, trong đó khoảng 80% các bệnh nhân ung thư gan
do viêm gan B hoặc viêm gan C mạn tính, các bệnh nhân phối hợp cả hai loại
vi rút này thì mức độ tiến triển thành ung thư gan nhanh hơn so với chỉ mắc
đơn thuần 1 loại vi rút. Những yếu tố nguy cơ cao khác dẫn đến ung thư như
bệnh gan do rượu, gan nhiễm mỡ không do rượu (NASH), xơ gan đường mật
nguyên phát và suy giảm - alpha-1 antitrypsin, ngộ độc Aflatoxin sinh ra từ
nấm mốc trong ngũ cốc, các loại hạt [3],[4].
Việt Nam là nước nằm trong vùng dịch tễ của viêm gan vi rút B với tỷ
lệ người nhiễm vi rút cao trên thế giới, với tỷ lệ người nhiễm viêm gan B trên
10% [5].
Phẫu thuật ghép gan là phương pháp tốt nhất để điều trị các khối u gan có
chỉ định ghép gan vì phẫu thuật loại bỏ được khối u và gan xơ, phương pháp này
được áp dụng tại các nước phát triển, tuy nhiên hiện nay chưa được áp dụng rộng
rãi tại Việt Nam do hạn chế về nguồn hiến tạng và giá thành còn cao.
Phẫu thuật cắt bỏ khối u được xếp vào điều trị triệt căn khối u, tuy
nhiên chỉ có 20% các trường hợp khi phát hiện khối u gan là còn chỉ định
phẫu thuật, một trong các yếu tố dẫn đến chống chỉ định trong phẫu thuật cắt