BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

NCS. ĐỖ THỊ LAN PHƯƠNG NGHIÊN CỨU BỆNH GẠO LỢN DO ẤU TRÙNG Cysticercus cellulosae GÂY RA TẠI TỈNH SƠN LA, ĐIỆN BIÊN VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG

Ngành: Ký sinh trùng và Vi sinh vật học Thú y Mã số: 9.64.01.04

Thái Nguyên, 2020

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

NCS. ĐỖ THỊ LAN PHƯƠNG NGHIÊN CỨU BỆNH GẠO LỢN DO ẤU TRÙNG Cysticercus cellulosae GÂY RA TẠI TỈNH SƠN LA, ĐIỆN BIÊN VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG Ngành: Ký sinh trùng và Vi sinh vật học Thú y Mã số: 9.64.01.04

LUẬN ÁN TIẾN SĨ THÚ Y

Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS. Nguyễn Thị Kim Lan 2. PGS.TS. Nguyễn Thị Ngân Thái Nguyên, 2020

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi và người hướng dẫn

khoa học. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận án này là hoàn toàn

trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Mọi sự giúp

đỡ cho việc thực hiện đề tài đều đã được cảm ơn. Mọi thông tin trích dẫn trong

Luận án đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.

TÁC GIẢ

Đỗ Thị Lan Phương

ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành Luận án này, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc

tới GS.TS. Nguyễn Thị Kim Lan và PGS.TS. Nguyễn Thị Ngân - những Nhà

khoa học đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tôi hết sức tận tình trong suốt quá trình

nghiên cứu và hoàn thành Luận án.

Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ và tạo điều kiện to lớn về cơ sở

vật chất, nhân lực, vật lực của Ban Giám đốc, Ban Đào tạo - Đại học Thái Nguyên;

Đảng ủy, Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo, Ban chủ nhiệm Khoa Chăn nuôi thú y, Bộ

môn Thú y trường Đại học Nông Lâm - Đại học Thái Nguyên, tập thể cán bộ giảng

dạy, học viên cao học Nguyễn Thị Thùy và sinh viên các khóa 45, 46, 47, Khoa

Chăn nuôi Thú y - Trường Đại học Nông Lâm - Đại học Thái Nguyên. Tôi xin trân

trọng cảm ơn Chi cục Thú y tỉnh Sơn La, Điện Biên; trung tâm Dịch vụ Nông

nghiệp; các cán bộ, nhân dân địa phương của các huyện ở tỉnh Sơn La và Điện Biên

đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Tôi vô cùng biết ơn các

thành viên trong gia đình và bạn bè đã luôn ở bên tôi, giúp đỡ và động viên tôi trong

suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận án.

Thái Nguyên, ngày 30 tháng 3 năm 2020

NGHIÊN CỨU SINH

Đỗ Thị Lan Phương

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ......................................................................................................... ii

MỤC LỤC .............................................................................................................iii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .............................................................................. vi

DANH MỤC CÁC BẢNG .................................................................................... vii

DANH MỤC CÁC HÌNH ...................................................................................... ix

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................... 1

2. Mục tiêu của đề tài .......................................................................................... 2

3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài ............................................. 3

4. Những đóng góp mới của đề tài ....................................................................... 3

Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ................................................................... 4

1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI ................................................................. 4

1.1. Một số đặc điểm của sán dây Taenia solium và ấu trùng Cysticercus

cellulosae..................................................................................................... 4

1.1.1. Vị trí của sán dây Taenia solium trong hệ thống phân loại động vật ...... 4

1.1.2. Đặc điểm của sán dây Taenia solium ..................................................... 4

1.1.3. Đặc điểm của ấu trùng Cysticercus cellulosae ....................................... 10

1.2. Đặc điểm bệnh do ấu trùng Cysticercus cellulosae gây ra ở lợn và người ..... 12

1.2.1. Đặc điểm dịch tễ của bệnh ................................................................... 12

1.2.2. Cơ chế sinh bệnh ................................................................................. 14

1.2.3. Triệu chứng, bệnh tích ......................................................................... 14

1.2.4. Chẩn đoán ........................................................................................... 16

1.2.5. Biện pháp phòng trị bệnh..................................................................... 17

1.3. Một số đặc điểm của tỉnh Sơn La và Điện Biên .......................................... 20

2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC .......................... 22

2.1. Nghiên cứu trong nước ............................................................................... 22

2.1.1. Bệnh gạo lợn do ấu trùng Cysticercus cellulosae gây ra ...................... 22

2.1.2. Bệnh ấu trùng Cysticercus cellulosae ở người ..................................... 23

2.2. Nghiên cứu ở nước ngoài............................................................................ 26

2.2.1. Bệnh gạo lợn do ấu trùng Cysticercus cellulosae gây ra ........................ 26

2.2.2. Bệnh ấu trùng Cysticercus cellulosae trên người ................................. 33

iv

CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG

PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................................... 37

2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu .............................................. 37

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu .......................................................................... 37

2.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ........................................................ 37

2.2. Vật liệu nghiên cứu .................................................................................... 37

2.2.1. Động vật và các loại mẫu nghiên cứu .................................................. 37

2.2.2. Dụng cụ, thiết bị và hóa chất ............................................................... 38

2.3. Nội dung nghiên cứu .................................................................................. 38

2.3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh gạo lợn do ấu trùng

Cysticercus cellulosae gây ra tại tỉnh Sơn La và Điện Biên ................. 38

2.3.2. Nghiên cứu bệnh gạo trên lợn gây nhiễm............................................. 39

2.3.3. Nghiên cứu một số biện pháp phòng chống bệnh gạo cho lợn.............. 39

2.4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 40

2.4.1. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh gạo lợn ở tỉnh Sơn

La và Điện Biên ................................................................................ 40

2.4.2. Nghiên cứu bệnh gạo lợn do ấu trùng Cysticercus cellulosae gây ra ...... 46

2.4.3. Nghiên cứu biện pháp phòng chống bệnh gạo cho lợn ......................... 48

Chương 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ........................................................... 54

3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh gạo lợn do ấu trùng

Cysticercus cellulosae gây ra tại tỉnh Sơn La và Điện Biên ......................... 54

3.1.1. Thực trạng nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae ở lợn tại tỉnh Sơn La

và Điện Biên ...................................................................................... 54

3.1.2. Thực trạng nhiễm sán dây Taenia solium ở người tại một số huyện

của tỉnh Sơn La và Điện Biên ............................................................ 66

3.1.3. So sánh nguy cơ lợn bị nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae theo

tập quán chăn nuôi của người dân ở tỉnh Sơn La và Điện Biên .......... 74

3.1.4. So sánh nguy cơ người bị nhiễm sán dây Taenia solium theo thói

quen ăn uống ở tỉnh Sơn La và Điện Biên ......................................... 76

3.1.5. Xác định tương quan giữa tỷ lệ nhiễm sán dây Taenia solium ở

người và tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae ở lợn tại Sơn

La và Điện Biên ................................................................................ 77

3.2. Nghiên cứu bệnh gạo trên lợn gây nhiễm .................................................... 79

3.2.1. Thẩm định loài sán dây Taenia solium ký sinh ở người để gây

nhiễm bệnh gạo cho lợn .................................................................... 79

v

3.2.2. Kết quả gây nhiễm cho lợn .................................................................. 83

3.3. Nghiên cứu biện pháp phòng chống bệnh gạo trên lợn ................................ 92

3.3.1. Theo dõi thời gian chết của ấu trùng Cysticercus cellulosae ở

ngoại cảnh ........................................................................................ 92

3.3.2. Theo dõi thời gian chết của ấu trùng Cysticercus cellulosae trong thịt

khi xử lý bằng nhiệt độ cao (luộc thịt) ............................................... 93

3.3.3. Theo dõi thời gian chết của ấu trùng Cysticercus cellulosae trong thịt

khi xử lý thịt ở nhiệt độ thấp ............................................................. 94

3.3.4. Theo dõi thời gian chết của ấu trùng khi chế biến thịt hun khói ........... 96

3.3.5. Thử nghiệm thuốc điều trị bệnh gạo cho lợn ........................................ 97

3.3.6. Xây dựng bản đồ dịch tễ sự lưu hành bệnh gạo lợn ở 2 tỉnh Sơn La và

Điện Biên ........................................................................................ 103

3.3.7. Đề xuất biện pháp phòng chống bệnh gạo cho lợn ............................. 107

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ................................................................................ 109

1. Kết luận ....................................................................................................... 109

2. Đề nghị........................................................................................................ 111

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 113

vi

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Cysticercus cellulosae: C. cellulosae

Taenia solium: T. solium

Taenia saginata: T. saginata

Taenia asiatica T. asiatica

Cộng sự cs:

thể trọng TT:

BNN & PTNT: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

thí nghiệm TN:

Aspartate Aminotrasferase GOT:

Alanine Aminotransferase GPT:

Ký chủ trung gian KCTG:

Ký chủ cuối cùng KCCC:

Đối chứng ĐC:

Optical density OD:

H.:

Odds ratio OR:

NN & PTNT:

Huyện

Nông nghiệp và phát triển nông thôn

09 - BNN & PTNT: Thông tư 09 Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn

Hb: Hemoglobin

Nxb: Nhà xuất bản

vii

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Số lợn đã mổ khám theo các chỉ tiêu nghiên cứu ................................... 41

Bảng 3.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở một số huyện

của tỉnh Sơn La và Điện Biên ................................................................ 54

Bảng 3.2. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae theo tuổi lợn .................................... 57

Bảng 3.3. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae theo mùa vụ .................................... 59

Bảng 3.4. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae theo phương thức chăn nuôi ............ 61

Bảng 3.5. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn địa phương và lợn lai ............. 62

Bảng 3.6. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng ở lợn địa phương và lợn lai cùng được nuôi

theo phương thức thả rông ..................................................................... 64

Bảng 3.7. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn theo địa hình .......................... 65

Bảng 3.8. Thực trạng một số tập quán chăn nuôi và sinh hoạt của nhân dân ở

tỉnh Sơn La và Điện Biên ...................................................................... 67

Bảng 3.9. Thực trạng tập quán ăn uống của nhân dân ở tỉnh Sơn La và Điện Biên ........ 68

Bảng 3.10. Tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium trong số người điều tra tại 2 tỉnh .......... 69

Bảng 3.11. Tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở người theo nhóm tuổi ........................ 71

Bảng 3.12. Tỷ lệ nhiễm sán dây ở người theo giới tính .......................................... 73

Bảng 3.13. So sánh nguy cơ lợn bị nhiễm ấu trùng C. cellulosae theo tập

quán chăn nuôi tại tỉnh Sơn La .............................................................. 74

Bảng 3.14. So sánh nguy cơ lợn bị nhiễm ấu trùng C. cellulosae theo tập

quán chăn nuôi tại tỉnh Điện Biên .......................................................... 75

Bảng 3.15. So sánh nguy cơ người bị nhiễm sán dây T. solium .............................. 76

Bảng 3.16. Tương quan giữa tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở người và tỷ lệ

nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn ........................................................ 78

Bảng 3.17. Kết quả BLAST trình tự CO1 của các mẫu nghiên cứu ........................ 81

Bảng 3.18. Khoảng cách di truyền giữa các quần thể loài T. solium dựa trên

phân tích trình tự gen CO1 .................................................................... 82

Bảng 3.19. Kết quả gây nhiễm trứng sán dây T. solium cho lợn ............................. 84

Bảng 3.20. Triệu chứng lâm sàng chủ yếu của lợn mắc bệnh gạo do gây nhiễm .......... 85

viii

Bảng 3.21. Sự thay đổi một số chỉ tiêu hệ hồng cầu của lợn mắc bệnh gạo do

gây nhiễm .............................................................................................. 86

Bảng 3.22. Sự thay đổi một số chỉ tiêu hệ bạch cầu của lợn mắc bệnh gạo do

gây nhiễm .............................................................................................. 87

Bảng 3.23. Sự thay đổi một số chỉ tiêu sinh hóa máu của lợn mắc bệnh gạo

do gây nhiễm ......................................................................................... 89

Bảng 3.24. Tổn thương đại thể của lợn mắc bệnh gạo do gây nhiễm ...................... 90

Bảng 3.25. Số lợn có tổn thương vi thể trong 14 lợn gây nhiễm ............................. 91

Bảng 3.26. Thời gian chết của ấu trùng C. cellulosae ở ngoại cảnh ........................ 92

Bảng 3.27. Thời gian chết của ấu trùng C. cellulosae trong thịt khi xử lý bằng

nhiệt độ cao (luộc thịt) ........................................................................... 93

Bảng 3.28. Thời gian chết của ấu trùng C. cellulosae khi xử lý thịt ở nhiệt độ thấp ....... 95

Bảng 3.29. Thời gian chết của ấu trùng C. cellulosae trong thịt hun khói............... 96

Bảng 3.30. Độ an toàn của phác đồ điều trị bệnh gạo cho lợn ................................ 97

Bảng 3.31. Hiệu lực của phác đồ điều trị bệnh gạo trên lợn gây nhiễm ........................ 98

Bảng 3.32. Tỷ lệ mẫu huyết thanh xét nghiệm ELISA dương tính (có kháng thể

kháng kháng nguyên của ấu trùng C. cellulosae) ................................. 100

Bảng 3.33. Triệu chứng lâm sàng của lợn có huyết thanh dương tính .................... 99

Bảng 3.34. Hiệu lực của phác đồ III điều trị bệnh gạo lợn trên thực địa ............... 102

Bảng 3.35. Tỷ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn tại các xã, thị trấn thuộc 3

huyện của tỉnh Sơn La ......................................................................... 103

Bảng 3.36. Tỷ nhiễm ấu trùng C .cellulosae ở lợn tại các xã thuộc 3 huyện

của tỉnh Điện Biên ............................................................................... 105

ix

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 1.1: Đốt trưởng thành T. solium .................................................................... 7

Hình 1.2: Đầu sán dây T. solium .............................................................................. 7

Hình 1.3: Vòng đời của sán dây T. solium ............................................................... 9

Hình 1.4: Sán non trong bọc ấu trùng .....................................................................11

Hình 1.5: Ấu trùng hoàn chỉnh ...............................................................................11

Hình 3.1a. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở 3 huyện thuộc tỉnh

Sơn La ....................................................................................................55

Hình 3.1b. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở 3 huyện thuộc tỉnh

Điện Biên ...............................................................................................55

Hình 3.2. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae theo tuổi lợn .........................58

Hình 3.3. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae theo mùa vụ ..........................59

Hình 3.4. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae theo phương thức chăn nuôi ........61

Hình 3.5. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn địa phương và lợn lai ............63

Hình 3.6. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn địa phương và lợn

lai cùng được nuôi theo phương thức thả rông.......................................... 64

Hình 3.7. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae theo địa hình .........................65

Hình 3.8a. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium trong số người được điều

tra tại Sơn La ..........................................................................................70

Hình 3.8b. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium trong số người được điều

tra tại Điện Biên ......................................................................................70

Hình 3.9. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở người theo tuổi tại Sơn La

và Điện Biên ..........................................................................................72

Hình 3.10. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở nam và nữ tại Sơn La và

Điện Biên ...............................................................................................73

Hình 3.11a: Đồ thị tương quan giữa sán dây T. solium ở người và tỷ lệ

nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn tại tỉnh Sơn La .................................78

Hình 3.11b: Đồ thị tương quan tỷ lệ nhiễm giữa sán dây T. solium ở người

và tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn tại tỉnh Điện Biên ................79

x

Hình 3.12. Kết quả so sánh trình tự CO1 của 6 mẫu sán dây thu tại Sơn La

và Điện Biên ..........................................................................................80

Hình 3.13. Cây phát sinh chủng loại được xây dựng từ trình tự gen CO1

bằng phương pháp Maximum Likekliwood ............................................82

Hình 3.14. Biểu đồ sự thay đổi một số chỉ tiêu hệ hồng cầu của lợn nhiễm ấu

trùng C. cellulosae..................................................................................87

Hình 3.15. Biểu đồ tỷ lệ các loại bạch cầu của lợn gây nhiễm và đối chứng ...........88

Hình 3.16. Bản đồ dịch tễ sự lưu hành bệnh gạo lợn tại ba huyện thuộc tỉnh

Sơn La .................................................................................................. 104

Hình 3.17. Bản đồ dịch tễ sự lưu hành bệnh gạo lợn tại ba huyện thuộc tỉnh

Điện Biên ............................................................................................. 106

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Bệnh gạo lợn do ấu trùng Cysticercus cellulosae (C. cellulosae) là một bệnh

truyền lây giữa động vật và người. Ở Việt Nam, bệnh do ấu trùng C. cellulosae có ở

hầu hết các tỉnh, thành trong cả nước, đặc biệt là các tỉnh miền núi phía Bắc. Tỷ lệ

lợn nhiễm ấu trùng C. cellulosae bình quân ở miền Bắc Việt Nam là 1,0 - 7,2%, ở miền

Nam là 4,3% (De N.V., 2004 [71], De N.V. and Le T. H. 2010 [72]).

Khi lợn mắc bệnh, ấu trùng C. cellulosae gây tác hại rõ rệt tới sức khỏe của lợn.

Phần lớn lợn mắc bệnh bị còi cọc và chậm lớn. Nếu ấu trùng ký sinh ở não thì lợn có

triệu chứng thần kinh, lợn đi lại mất thăng bằng. Nếu ấu trùng ký sinh ở lưỡi, có thể

thấy liệt lưỡi và hàm (Nguyễn Thị Kim Lan và cs., 1999 [17], Phạm Sỹ Lăng và Phan

Địch Lân, 2011 [22]).

Sán dây Taenia solium (T. solium) là mối đe dọa không chỉ đối với lợn mà còn là

mối đe dọa lớn đối với con người. Ở Việt Nam, tỷ lệ người nhiễm sán dây T. solium ở

vùng đồng bằng là 0,5 - 2%, ở khu vực trung du miền núi là 2 - 6%. Đặc biệt tại một

số địa điểm của tỉnh Phú Thọ tỷ lệ nhiễm lên tới 7 - 8%, Yên Bái 9%, Bắc Ninh là

12% (Bộ Y tế, 2019 [3]).

Ngoài bệnh do sán dây trưởng thành T. solium ký sinh ở ruột non, người còn

bị bệnh do ấu trùng của nó gây ra. Ấu trùng C. cellulosae ký sinh ở nhiều vị trí khác

nhau trong cơ thể: cơ, mắt, tim, não… Nguy hiểm nhất là neurocysticercosis - một

chứng bệnh gây tỷ lệ tử vong cao ở người do ấu trùng sán dây T. solium ký sinh ở

não gây ra. Người bị bệnh thường đau đầu dữ dội, suy nhược thần kinh nhanh

chóng, chóng mặt, buồn nôn và nôn mửa, thị lực và trí nhớ giảm sút, co giật, rối

loạn cảm giác, tê liệt, hôn mê và chết.

Theo điều tra của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương, vùng

núi và cao nguyên là những nơi có người mắc bệnh ấu trùng C. cellulosae cao (3,8 -

6%), vùng đồng bằng thấp hơn (0,5 - 2%) (Lê Thị Xuân, 2015 [51]).

Lê Thành Đồng (2018) cho biết: Giữa năm 2018, có một vụ dịch đã xảy ra ở

huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước với 108 người nhiễm ấu trùng sán lợn, chiếm

tỷ lệ 11,95% trong số người được xét nghiệm. Mổ khám những lợn mắc bệnh gạo,

thấy có tới 50 - 70 ấu trùng C. cellulosae trong 1 kg thịt lợn - một cường độ nhiễm rất

nặng (dẫn theo Báo tuổi trẻ online, Thông tấn xã Việt Nam [10]).

2

Ở thời điểm tháng 3/2019 do nghi ngờ trẻ em mẫu giáo ăn thịt lợn gạo, một số

lượng lớn các cháu mẫu giáo tại huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh đã đi xét

nghiệm bệnh sán dây và có khoảng 7 - 8% các cháu có kết quả dương tính với

kháng thể kháng ấu trùng sán dây (Bộ Y tế, 2019 [3]).

Trong những năm gần đây, nghề chăn nuôi lợn rất phát triển ở các tỉnh, thành

phố trong cả nước. Tuy nhiên, nhiều hộ gia đình ở miền núi vẫn nuôi lợn theo phương

thức nhỏ lẻ, tận dụng và thả rông, nhiều hộ gia đình vẫn chưa có nhà tiêu. Ngoài ra, do

tình trạng giết mổ lợn phần lớn thực hiện tại các cơ sở giết mổ nhỏ lẻ hoặc tại hộ gia

đình nên việc kiểm soát giết mổ lợn ở các địa phương chưa được thực hiện nghiêm

ngặt, đồng thời việc kiểm tra, phát hiện người mắc bệnh sán dây để điều trị còn chưa

được tiến hành triệt để khiến bệnh vẫn lưu hành ở nhiều địa phương trong cả nước, đặc

biệt là ở các tỉnh miền núi, trong đó có tỉnh Sơn La và Điện Biên.

Theo số liệu thống kê của tỉnh Sơn La (2018) [46], tính ở thời điểm ngày 31

tháng 12 năm 2018, tỉnh Sơn La có 700.564 con lợn. Theo Sở Nông nghiệp và Phát

triển Nông thôn (Sở NN & PTNT) tỉnh Điện Biên (2018) [41], ở thời điểm trên, tỉnh

Điện Biên có 401.413 con lợn.

Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [19] cho biết, nhiều người dân ở các địa phương

miền núi thường có tập quán nuôi lợn thả rông, vì vậy lợn ở miền núi dễ mắc bệnh

gạo, người miền núi lại hay ăn thịt sống hoặc thịt tái. Tập quán chăn nuôi và thói

quen ăn uống như vậy đã tạo điều kiện cho sán dây T. solium hoàn thành vòng đời và

làm cho bệnh lây truyền dễ dàng giữa lợn và người. Bệnh do ấu trùng C. cellulosae

của sán dây T. solium trên lợn (bệnh gạo lợn) là loại bệnh khó phát hiện, việc chẩn

đoán bệnh trên con vật sống rất khó khăn vì triệu chứng bệnh không điển hình, bệnh

gây thiệt hại về kinh tế và nguy hiểm hơn là dễ truyền lây sang người.

Những vấn đề trên cho thấy, việc nghiên cứu bệnh gạo lợn và biện pháp phòng

chống hiệu quả và phù hợp với các địa phương miền núi là rất cần thiết.

Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết trên, chúng tôi thực hiện đề tài "Nghiên cứu

bệnh gạo lợn do ấu trùng Cysticercus cellulosae gây ra tại tỉnh tỉnh Sơn La, Điện

Biên và biện pháp phòng chống”.

2. Mục tiêu của đề tài

- Xác định đặc điểm bệnh gạo lợn do ấu trùng C. cellulosae gây ra tại tỉnh Sơn

La và Điện Biên.

- Xác định nguy cơ lợn nhiễm bệnh gạo do ấu trùng C. cellulosae gây ra theo

tập quán chăn nuôi tại tỉnh Sơn La và Điện Biên.

3

- Đề xuất được biện pháp phòng chống bệnh gạo lợn do ấu trùng C. cellulosae

gây, từ đó phòng chống bệnh sán dây và bệnh ấu trùng sán dây cho người.

Kết quả của đề tài góp phần làm thay đổi nhận thức và tập quán sinh hoạt,

phương thức chăn nuôi của bà con các dân tộc vùng núi phía Tây Bắc.

3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài

3.1. Ý nghĩa khoa học

Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học về đặc điểm dịch tễ bệnh gạo

tại tỉnh Sơn La và Điện Biên, về những đặc điểm về bệnh lý và lâm sàng của bệnh

gạo lợn do ấu C. cellulosae gây ra, về biện pháp phòng chống bệnh hiệu quả, xây

dựng được bản đồ dịch tễ sự lưu hành bệnh gạo lợn, có một số đóng góp mới cho

khoa học.

3.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học để khuyến cáo người chăn nuôi lợn áp

dụng các biện pháp phòng chống bệnh gạo lợn, nhằm hạn chế tỷ lệ mắc bệnh, góp

phần phát triển đàn lợn, đồng thời giảm nguy cơ mắc bệnh sán dây và bệnh ấu trùng

sán dây ở người.

4. Những đóng góp mới của đề tài

- Đề tài là công trình nghiên cứu có hệ thống về đặc điểm dịch tễ, bệnh lý và

lâm sàng bệnh gạo lợn tại tỉnh Sơn La và Điện Biên.

- Đề xuất được biện pháp phòng chống bệnh gạo cho lợn có hiệu quả, khuyến

cáo và áp dụng rộng rãi tại các hộ chăn nuôi lợn trên địa bản tỉnh Sơn La, Điện Biên

và các tỉnh khác.

- Xây dựng được bản đồ dịch tễ sự lưu hành bệnh gạo lợn tại tỉnh Sơn La và

Điện Biên.

4

Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Một số đặc điểm của sán dây Taenia solium và ấu trùng Cysticercus cellulosae

1.1.1. Vị trí của sán dây Taenia solium trong hệ thống phân loại động vật

Theo Phan Thế Việt và cs. (1977) [50], Nguyễn Thị Lê và cs. (1996) [24], sán

dây T. solium - thường gọi là sán dây lợn - có vị trí trong hệ thống phân loại như sau:

Lớp sán dây Cestoda Rudolphi, 1808

Phân lớp Cestoda Carus, 1863

Bộ Cyclophyllidae Beneden in Braun, 1900

Phân bộ Taeniata Skrjabin et Schulz, 1973

Họ Taeniidae Ludwig, 1886

Giống Taenia Liunaeus, 1758

Loài Taenia solium Liunaeus, 1758

1.1.2. Đặc điểm của sán dây Taenia solium

1.1.2.1. Đặc điểm chung của sán dây

Phan Thế Việt (1977) [50], Nguyễn Thị Kỳ (1994) [15] cho biết:

Sán dây T. solium có những đặc điểm của lớp sán dây nói chung: cơ thể có

hình dải băng màu trắng hoặc trắng ngà. Cơ thể dẹt theo hướng lưng bụng, chia

thành ba phần: đầu, cổ, thân.

Đầu sán thường có dạng hình cầu, có giác bám dùng để bám vào thành ruột

vật chủ, nên có những hình dạng, kích thước và các cơ quan bám đặc trưng. Chiều

rộng của đầu thường chỉ nhỏ hơn 1 mm. Cơ quan bám nằm trên đầu là các giác bám

và nhiều móc. Giác bám là bộ phận đặc trưng của sán dây. Móc bám nằm ngay trên

đầu sán dây, sắp xếp thành một hay hai hàng.

Cổ là những đốt sán nối tiếp sau đầu. Đốt cổ của sán dây là đốt sinh trưởng, từ

đốt cổ sinh ra các đốt thân, cơ quan sinh sản ở các đốt cổ chưa hình thành rõ.

Thân sán dây gồm nhiều đốt. Các đốt ở phần thân sán dây chia làm 3 loại: đốt

chưa thành thục, đốt thành thục và đốt già. Đốt chưa thành thục là những đốt giáp

với các đốt cổ, cơ quan sinh dục ở mỗi đốt này chưa phát triển đầy đủ và chỉ có cơ

quan sinh dục đực. Đốt thành thục (ở giữa thân sán) là những đốt có cơ quan sinh

dục đã phát triển đầy đủ, có cả cơ quan sinh dục đực và cái, có hệ bài tiết (mỗi đốt

5

đều có cấu tạo như một cơ thể sán dây độc lập, nhưng không có hệ tiêu hóa). Đốt

già (ở cuối thân sán) là những đốt mà các khí quan khác đã teo đi, chỉ còn tử cung

chứa đầy trứng sán. Đốt già thường xuyên tách khỏi cơ thể sán dây và theo phân ra

ngoài. Đốt sán già có hình 4 cạnh (chiều dài lớn hơn chiều rộng).

Cơ thể sán dây được bao bọc bởi 3 lớp: lớp vỏ, lớp dưới vỏ và lớp cơ, bên

dưới lớp cơ là các khí quan nội tạng. Sán dây không có hệ tiêu hóa, sán lấy dinh

dưỡng bằng phương thức thẩm thấu qua bề mặt cơ thể.

Theo Nguyễn Thị Lê và cs. (1996) [24], Nguyễn Thị Kỳ (2003) [16], hệ thần

kinh ở sán dây kém phát triển, gồm có hạch thần kinh nằm ở đầu sán, từ đó có các

dây thần kinh chạy dọc cơ thể. Có hai dây phát triển hơn nằm bên ngoài ống bài tiết

và mỗi đốt nối với nhau bởi các cầu nối ngang.

Hệ tuần hoàn và hệ hô hấp của sán dây đã tiêu giảm. Sán dây hô hấp theo kiểu

yếm khí.

Hệ bài tiết của sán dây cấu tạo theo kiểu nguyên đơn thận, gồm 2 ống chính từ

đầu sán đi về cuối thân và thông với lỗ bài tiết. Ngoài ra, ở mỗi đốt sán còn có

những ống ngang nối liền với 2 ống chính.

Hệ sinh dục đực gồm tinh hoàn, ống dẫn tinh và các tuyến sinh dục. Số lượng tinh

hoàn trong mỗi đốt có từ một đến hàng trăm. Từ tinh hoàn có nhiều ống dẫn tinh nhỏ đi

ra và hợp lại với nhau thành ống dẫn tinh, ống này đổ vào cơ quan giao phối là lông gai.

Lông gai nằm trong nang lông gai. Phần cuối ống dẫn tinh có thể phình ra gọi là túi tinh.

Nếu túi tinh ở ngoài nang lông gai gọi là túi tinh ngoài, còn ở trong nang lông gai thì gọi

là túi tinh trong. Lông gai dùng để đưa vào lỗ sinh dục cái khi giao phối.

Hệ sinh dục cái có cấu tạo phức tạp, gồm có buồng trứng, ống dẫn trứng,

ootyp, tuyến noãn hoàng, túi nhận tinh, tuyến vỏ (thể Melis) và tử cung. Sán dây

thường có hai buồng trứng nằm giữa hoặc phía sau đốt sán, ít khi ở phía trước.

Trong buồng trứng hình thành các tế bào sinh dục cái (tế bào trứng). Từ buồng

trứng có ống gắn nối với âm đạo, mở ra ở huyệt sinh dục. Ống này phình rộng ra

gọi là túi nhận tinh. Trứng thụ tinh được đưa vào ootyp. Tuyến noãn hoàng gồm

nhiều bao noãn bé nằm trong nhu mô hoặc thành khối nằm hai bên đốt hoặc phía

sau buồng trứng. Từ tuyến noãn hoàng, các chất dinh dưỡng đổ vào ootyp giúp cho

việc hình thành trứng. Tuyến vỏ tiết ra các sản phẩm cần thiết để hình thành trứng.

Trong ootyp, trứng thụ tinh được hình thành, sau đó trứng rơi vào tử cung, tử cung

chứa đầy trứng trong đốt già và mỗi đốt thực chất biến thành một cái túi chứa trứng.

6

Trứng được rơi ra ngoài bằng các nút thắt cơ thể của đốt. Quá trình này thường thực

hiện ở môi trường ngoài, ở nơi mà các đốt sán dây già được thải ra cùng với phân

vật chủ.

Sán dây sinh sản lưỡng tính, sự thụ tinh có thể xảy ra trong cùng một đốt sán

(tự thụ tinh) hoặc giữa hai đốt khác nhau trong cùng một con hoặc giữa hai con (thụ

tinh chéo). Sán tiêu hóa bằng cách, chất dinh dưỡng đi qua vỏ để thẩm thấu vào

thân sán. Dịch tiêu hóa không thể thẩm thấu vào thân sán khi sán còn sống, nhờ đó

mà sán không bị tiêu diệt khi sống trong đường tiêu hóa của ký chủ.

1.1.2.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo của sán dây Taenia solium

Nhiều tác giả nghiên cứu về sán dây T. solium đều cho rằng, sán dây có đặc

điểm hình thái, cấu tạo như sau: Sán dây dài, dẹp theo hướng lưng - bụng, màu

trắng hoặc hơi vàng. Cơ thể bao gồm: đầu, cổ và các đốt. Số lượng các đốt dao động

từ vài trăm đốt đến hàng nghìn đốt. Các đốt phía trước là đốt non và bé, càng về sau

các đốt càng lớn và già, đốt già nhất ở cuối cơ thể.

Nguyễn Thị Lê và cs. (2000) [25] khi mô tả về hình thái của sán dây đã cho

rằng: sán dây T. solium có hình dạng bên ngoài giống sán dây T. saginata (thường

gọi là sán dây bò hoặc sán sơ mít), nhưng ngắn hơn.

Sán dây T. solium trưởng thành ký sinh ở ruột non của người, dài 2 - 7 mét,

tuy nhiên có trường hợp chiều dài lên đến 9 m. Đốt đầu hình cầu, có 4 giác bám, có

đỉnh đầu và hai hàng móc đỉnh gồm 22 - 32 móc. Các đốt cổ ngắn và hẹp. Đốt chưa

thành thục có chiều dài lớn hơn chiều rộng. Các đốt càng về sau thân càng lớn, đốt

già hình chữ nhật, tử cung phân thành 7 - 12 nhánh (Phạm Sỹ Lăng và cs., 2006

[20], Chu Thị Thơm và cs., 2006 [40].

Cổ của sán dây mảnh, nối tiếp với đầu, là nơi sản sinh ra đốt sán. Thân gồm

nhiều đốt. Các đốt già cơ quan sinh dục đực tiêu biến chỉ còn thấy tử cung chứa

trứng sán. Một đốt sán có khoảng 55.000 trứng, những đốt già ở cuối thân thường

rụng thành từng đoạn ngắn, 5 - 6 đốt dính nhau rồi theo phân ra ngoài và không di

động (Nguyễn Mạnh Hùng và cs., 2013 [12], Nguyễn Văn Đề, 2013 [8], Lê Thị

Xuân, 2015 [51]).

Kích thước của sán dây T. solium không thuần nhất, tuy sán đã ký sinh nhiều

năm trong cơ thể người (Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh, 1976 [34]). Điều

đáng chú ý là những người nhiễm nhiều sán dây thì kích thước mỗi con sán dây

thường nhỏ, có con chỉ dài chừng 20 cm (Đỗ Dương Thái và cs., 1974 [33]).

7

Có thể giả thuyết rằng, chế độ ăn uống của bệnh nhân có liên quan đến sự phát

triển của đốt sán và chiều dài của sán dây T. solium. Ở những người bệnh có chế độ

ăn uống đầy đủ, có nhiều thức ăn giàu protein, đốt sán phát triển nhanh và được thải

tương đối đều đặn theo phân. Ngược lại, ở những người ăn thức ăn thiếu protein,

đốt sán phát triển chậm và có những thời gian dài đốt sán không rụng theo phân (Đỗ

Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh, 1976 [34]).

Trước đây, người ta quan niệm người bị bệnh sán dây T. solium chỉ nhiễm đơn

độc một sán dây. Hiện tượng này được giải thích theo nhu cầu dinh dưỡng của sán,

nếu số lượng sán quá nhiều, nhu cầu dinh dưỡng sẽ không được giải quyết và chỉ

còn sót lại một sán sống. Tuy nhiên, hiện nay vẫn thấy nhiều người có 2 - 5 sán dây

ký sinh, cá biệt có người có tới 17 sán dây T. solium trưởng thành ký sinh trên cơ

thể (Đỗ Dương Thái và cs., 1974 [33], Lê Bách Quang và cs., 2008 [32]).

Ở Việt Nam, bệnh sán dây T. solium ở người khá phổ biến, có khoảng 10%

bệnh nhân nhiễm từ 2 sán dây trở lên (Lê Bách Quang và cs., 2008 [32]). Nhiều

trường hợp trên một bệnh nhân nhiễm cả sán dây T. solium trưởng thành và ấu trùng

của nó. Tuy nhiên, trên thực tế, bệnh ấu trùng C. cellulosae ở người thường là bệnh

thứ phát sau tiền sử có mắc bệnh sán dây trưởng thành T. solium (Nguyễn Văn Đề

và cs., 2016 [9]).

Hình 1.1: Đốt trưởng thành T. solium Hình 1.2: Đầu sán dây T. solium

(Nguồn: Prayong Radomyos và cs. 2016) (Nguồn: Borkataki S. và cs. 2013)

Trứng của sán dây T. solium có hình cầu hoặc hình tròn, màu vàng xám hoặc

nâu sẫm. Bên trong là khối có hạt chiết quang nằm trong nhân, đường kính từ 31 -

56 µm, có màu nâu sẫm. Vỏ trứng dày, có 2 lớp và có vạch hướng tâm từ trong ra

ngoài, bên trong chứa một phôi 6 móc và không nhìn thấy bằng mắt thường (Phạm

Văn Thân, 2009 [36], Phan Anh Tuấn, 2013 [42], Lê Thị Xuân, 2015 [51]).

8

Lớp ngoài của vỏ trứng sán dây T. solium rất mỏng nên khi trứng ra bên ngoài

môi trường thì vỡ ngay, lớp vỏ sát phôi 6 móc rất dày, có khía ngang như nan hoa

(Lê Bách Quang và cs., 2008 [32]).

Trứng sán dây T. solium nằm trong đốt sán nên chỉ khi nào đốt sán bị phân hủy mới giải phóng trứng. Ở môi trường bên ngoài, nhiệt độ trên 70oC mới có khả năng diệt được trứng sán (Lê Bách Quang và cs., 2008 [32], Phan Anh Tuấn, 2013

[42], Lê Thị Xuân, 2015 [51]).

Sau khi đốt sán phân hủy, giải phóng trứng sán thì trứng sán có thể sống 1

tháng ở môi trường bên ngoài. Trứng sán dây T. solium không cần thời gian phát

triển ở ngoại cảnh. Trứng có sức đề kháng cao với các hóa chất thông thường. Tuy

nhiên, trong dung dịch formol và cresyl nồng độ 5%, trứng bị diệt sau 2 giờ

(Nguyễn Văn Đề và cs., 2016 [9]).

1.1.2.3. Chu kỳ sinh học của sán dây Taenia solium

Như đã nói ở trên, sán dây T. solium trưởng thành không đẻ trứng. Trứng nằm

sát nhau trong các đốt già, đốt già rụng ra khỏi thân sán. Thông thường, các đốt già

của sán dây T. solium thường thụ động theo phân ra ngoài (Đỗ Dương Thái và cs.,

1974 [33], Nguyễn Văn Đề và cs., 2016 [9]).

Sán dây T. solium có chu kỳ sống phức tạp. Người là vật chủ cuối cùng duy

nhất mà sán dây T. solium có thể ký sinh và trưởng thành. Tuy nhiên, cả người và

lợn đều đóng vai trò là ký chủ trung gian.

Ở những nơi điều kiện vệ sinh kém, lợn hoặc người tiếp xúc với trứng sán dây

T. solium, trứng được nuốt vào đường tiêu hóa, phôi được giải phóng khỏi trứng, di

chuyển qua niêm mạc ruột vào mạch máu, từ mạch máu chúng tới các mô ngoại vi

để ký sinh và phát triển thành ấu trùng có sức gây bệnh (Nguyễn Thị Lan Anh và

cs., 2004 [1]), Del Brutto O.H., 2013 [70]).

Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [14], Phạm Văn Thân (2009) [36],

Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [19], sán dây trưởng thành ký sinh ở ruột non của

người. Đốt sán già theo phân người ra ngoài vỡ ra, giải phóng trứng sán. Nếu đốt

sán hoặc trứng sán lẫn vào thức ăn, nước uống, lợn (hoặc người) ăn phải thì nhiễm

bệnh. Ở ruột non, trứng sán nở ra ấu trùng 6 móc. Sau 24 - 72 giờ, ấu trùng vào

mạch máu, vào ống lâm ba ruột rồi theo tuần hoàn về vị trí ký sinh như cơ, não,

tim... và phát triển thành một bọc có nước, sau 60 ngày có móc và giác bám trên

đầu, lúc đó hình thành “gạo lợn” hoàn chỉnh. Ấu trùng có thể sống ở cơ, não, tim...

của lợn hoặc người trong nhiều năm.

9

Khi người ăn phải ấu trùng C. cellulosae còn sống trong thịt lợn, ấu trùng vào ruột

và phát triển thành sán dây trưởng thành. Lúc mới phát triển, sán dây chỉ có đầu và một

đoạn cổ nhỏ. Sán dây thẩm thấu dinh dưỡng, lớn lên và dài dần ra tới hàng mét. Thời

gian phát triển thành sán dây trưởng thành là 2,5 đến 4 tháng (Đỗ Dương Thái và cs,

1974 [33], Nguyễn Văn Đề, 2013 [8], Nguyễn Thị Kim Lan, 2012 [19]).

Người đóng vai trò là ký chủ trung gian khi nuốt phải trứng sán dây T. solium,

trường hợp này người sẽ bị bệnh gạo, có nơi gọi là “sán cơ”, “sán não”. Sau khi

nuốt phải trứng sán dây, vào dạ dày và ruột, trứng nở ra ấu trùng, ấu trùng xuyên

qua thành ống tiêu hóa vào máu và di chuyển đến ký sinh ở cơ vân, ở mắt, ở não…

Những người bị bệnh do nuốt phải trứng sán dây lợn từ môi trường bên ngoài

thường có ít ấu trùng ký sinh (trừ trường hợp nuốt phải cả đốt sán). Ngược lại,

những người có sán dây trưởng thành T. solium trong ruột, khi đốt già rụng, do nhu

động ruột mà đốt sán trào ngược lên dạ dày, đốt sán bị vỡ ra và giải phóng rất nhiều

trứng sán dây nên số lượng ấu trùng ký sinh ở người rất nhiều, có người không đếm

nổi (trường hợp này gọi là tự nhiễm). Như vậy, người vừa là vật chủ cuối cùng vừa

là vật chủ trung gian của sán dây này (Phan Lục, 2006 [26], Phạm Văn Thân, 2009

[36], Nguyễn Văn Đề, 2013 [8]).

Sán dây trưởng thành có thể sống 10 - 20 năm, có khi tới 25 năm trong ruột

Đầu sán dây bám vào niêm mạc ruột non

Người ăn thịt lợn có ấu trùng chưa nấu chín

Ấu trùng ký sinh ở cơ

Sán dây trưởng thành ký sinh ở ruột non người

Vật nuôi ăn thức ăn có lẫn trứng sán

Trứng nở thành ấu trùng

của người (Lê Bách Quang và cs., 2008 [32], Nguyễn Văn Đề và cs., 2016 [9]).

Hình 1.3: Vòng đời của sán dây T. solium (Nguồn: Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương, impe - qn.org.vn)

10

1.1.2.4. Đặc điểm sinh sản của sán dây Taenia solium

Sán dây T. solium sinh sản lưỡng tính, có thể tự thụ tinh và thụ tinh chéo. Sau khi thụ tinh, các đốt sán già chứa đầy trứng rụng và theo nhu động ruột ra ngoài. Hiện tượng rụng đốt của sán dây làm cho người ta nghĩ rằng cơ thể sán dây sẽ dần dần ngắn lại. Song, không phải như vậy, bởi các đốt mới sẽ được sinh ra thay thế các đốt già đã rụng, làm cho sán dây trở nên “trẻ lại”. Sau đốt đầu là đốt cổ, đốt cổ là đốt sinh trưởng, từ đó sẽ sinh ra các đốt thân. Các đốt mới sinh ra đẩy các đốt cũ lùi dần lại phía sau (Phan Thế Việt, 1977 [50], Nguyễn Thị Kim Lan và cs., 2008 [18], Phạm Văn Thân, 2009 [36]).

Những đốt sán dây hầu như là những cơ thể độc lập với nhiều cơ quan riêng biệt và hoàn toàn độc lập. Nhờ có sự hóa đốt mà khả năng sinh sản của sán dây tăng lên gấp bội. Trong cùng một lúc, ở những đốt thành thục của sán dây có thể sinh ra hàng chục triệu trứng. Ngoài ra, sự hóa đốt còn có lợi cho sán dây về những mặt khác. Đó là, do đốt sán già lần lượt đứt và thải ra môi trường bên ngoài mà sự reo rắc trứng ở đó thuận lợi hơn, bản thân sán dây sau khi thải đi những đốt già thì nó hầu như được trẻ lại, có năng lượng mới để phát triển những loạt đốt thành thục mới (Nguyễn Thị Kim Lan, 2008 [18]). 1.1.2.5. Đặc điểm dinh dưỡng của sán dây Taenia solium

Sán dây T. solium không có hệ tiêu hóa. Sán lấy dưỡng chấp ở ruột non người bằng cách thẩm thấu qua bề mặt cơ thể, làm cho vật chủ gầy yếu và suy nhược (Đỗ Dương Thái và cs., 1974 [33]).

Toàn bộ bề mặt của sán dây là một cái “mồm” khổng lồ. Thức ăn ngấm qua “da” của sán dây. Các loài sán dây thường tắm trong nguồn thức ăn giàu có của cơ thể vật chủ. Cái mồm đã không cần thì hệ tiêu hoá của chúng cũng không có. “Ăn” và “tiêu hoá” đều tiến hành qua bề mặt cơ thể của sán dây (Phan Thế Việt, 1977 [50]). 1.1.2.6. Tác hại của sán dây đối với vật chủ

Sán dây T. solium trưởng thành ký sinh trong ruột non của người chiếm đoạt chất dinh dưỡng làm cho vật chủ thiếu dinh dưỡng, dẫn đến gầy yếu và thiếu máu. Sán dây bám vào niêm mạc ruột làm tổn thương niêm mạc, tạo điều kiện cho vi khuẩn có sẵn trong ruột xâm nhập và gây viêm ruột. Trong quá trình ký sinh, sán dây còn tiết độc tố, gây nhiễm độc thần kinh và rối loạn tiêu hóa cho vật chủ (Phạm Sỹ Lăng và cs., 2006 [20], Phạm Văn Thân, 2009 [36], Nguyễn Văn Đề, 2013 [8]).

1.1.3. Đặc điểm của ấu trùng Cysticercus cellulosae * Đặc điểm hình thái, cấu tạo của ấu trùng Ấu trùng C. cellulosae hay còn gọi là “gạo lợn”, là một bọc màu trắng, bên trong chứa dịch hơi đục, dài 5 - 10 mm, rộng 3 - 5 mm, giống hình hạt gạo. Tuy nhiên, cũng có những ấu trùng kích thước lớn hơn nhưng loại này hiếm gặp. Trên

11

màng bên trong của bọc có một đầu sán màu trắng, cấu tạo giống như đầu sán dây T. solium trưởng thành. Đầu sán nằm trong môi trường lỏng, thể tích chất lỏng thường dưới 0,5 ml, trên đầu có 4 giác bám, vòi ngắn có 2 hàng móc, mỗi hàng có 14 - 16 móc. Chiều dài móc ở hàng thứ nhất là 0,166 - 0,18 mm, ở hàng thứ hai là 0,11 - 0,14 mm (Nguyễn Thị Lê và cs., 1996 [24], Nguyễn Thị Kim Lan và cs., 1999 [17], Nguyễn Văn Đề, 2013 [8]).

Tùy theo vị trí ký sinh mà hình dạng của ấu trùng có thể thay đổi. Nếu ký sinh ở những cơ chắc thì ấu trùng có hình kéo dài, nhưng khi ký sinh ở những tổ chức lỏng lẻo thì ấu trùng có hình cầu (Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh, 1976 [34], Nguyễn Văn Đề, 2013 [8]).

Theo Nguyễn Văn Đề (2013) [8]: khi ở cơ, ấu trùng có hình bầu dục giống như

hạt gạo, khi ở mô dưới da thì ấu trùng có hình hạt đậu.

Theo thời gian ký sinh mà hình dạng của ấu trùng có sự thay đổi rất nhiều. Những ấu trùng đã ký sinh nhiều năm, có mô xơ hóa và có mô vôi hóa rõ rệt quanh bọc. Những ấu trùng mới ký sinh có mô bọc tiếp giáp trực tiếp với những mô phụ cận mà không có những mô xơ và vôi hóa.

Dịch bên trong ấu trùng chủ yếu là nước (chiếm 95,5%), các thành phần khác ít hơn: albumim 2,5%, muối 0,65, còn lại là một số ancaloit (Đỗ Dương Thái và cs., 1974 [33]).

Theo Nguyễn Văn Đề (2013) [8], Nguyễn Mạnh Hùng và cs. (2013) [12], dịch trong ấu trùng C. cellulosae gồm nước, albumin và các thành phần khác nên có màu trắng đục.

Hình 1.4: Sán non trong bọc Hình 1.5: Ấu trùng hoàn chỉnh

(Nguồn: Borkataki S. và cs, 2013) (Nguồn: Miyazaki I, 1991)

* Vị trí ký sinh

Ấu trùng C. cellulosae có thể ký sinh ở bất cứ vị trí nào trong cơ thể lợn hoặc

người, như: tổ chức liên kết, tổ chức mỡ, cơ cổ, cơ mông, cơ tim, cơ liên sườn, cơ

lưỡi, não, mắt, ít gặp ở cơ quan nhu mô. Trường hợp nhiễm nặng thấy ấu trùng ở cả

các cơ quan nhu mô của cơ thể vật chủ (Phạm Văn Khuê và Phan Lục, 1996 [14],

Chu Thị Thơm và cs., 2006 [40], Phan Lục, 2006 [26]).

12

* Sự phân bố của ấu trùng trong cơ thể

Ấu trùng C. cellulosae ký sinh nhiều nhất ở tổ chức cơ, dưới da và tổ chức

thần kinh (Đỗ Dương Thái và cs., 1974 [33], Phạm Sỹ Lăng và cs., 2009 [21]).

Sự phân bố của ấu trùng có tính chất đối xứng tương đối trong cơ thể

(Borkataki S. và cs., 2013 [62]).

Trong trường hợp người bệnh bị nhiễm nhiều ấu trùng C. cellulosae, ở mọi bộ

phận cơ thể đều có ấu trùng. Nhiều nhất là hệ thống cơ bắp và tổ chức dưới da của

ngực rồi đến các trung tâm thần kinh, ít thấy hơn ở tim, đôi khi ở các xoang, ở phổi

và các cơ quan nhu mô khác (Đỗ Dương Thái và cs., 1974 [33]).

* Thời gian sống của ấu trùng

Ấu trùng C. cellulosae có thể sống rất lâu trong cơ thể nhưng ấu trùng cũng có

thể tự chết. Nếu ấu trùng chết sẽ có hiện tượng thâm nhiễm nhiều hạt vôi nhỏ. Sự

vôi hóa này chưa biết rõ nguyên nhân là do ấu trùng chết gây nên hoặc do phản ứng

tự vệ của cơ thể.

Tuổi thọ của ấu trùng C. cellulosae thay đổi tùy theo vị trí ký sinh. Những ấu

trùng ký sinh ở não sống trung bình từ 3 - 6 năm. Có những trường hợp ấu trùng ký

sinh ở mắt có tuổi thọ đến 20 năm. Những ấu trùng ký sinh ở cơ và da có tuổi thọ

ngắn hơn. Nếu ấu trùng tiếp xúc với dịch mật pha loãng, đầu sán sẽ dễ dàng lộn ra

khỏi bọc (Đỗ Dương Thái và cs., 1974 [33]).

Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [14]: Ấu trùng C. cellulosae chết ở - 2oC, nhưng nếu ở nhiệt độ từ 0oC đến - 2oC, ấu trùng sống được gần 2 tháng và ở nhiệt độ phòng thí nghiệm sống được 26 ngày. Nếu muốn dùng thịt lợn sống, phải để thịt ở -10oC trong 4 ngày mới đảm bảo. Ấu trùng chết ở nhiệt độ từ 45 - 50oC, do đó để đảm bảo an toàn thì cắt thịt thành từng miếng khoảng 0,5 kg, đun sôi trong

vòng 1 giờ. Ngoài ra, ấu trùng có thể sống được 22 ngày khi ngâm thịt trong dung

dịch nước muối bão hòa.

1.2. Đặc điểm bệnh do ấu trùng Cysticercus cellulosae gây ra ở lợn và người

1.2.1. Đặc điểm dịch tễ của bệnh

Mùa vụ ảnh hưởng đến tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae

Ảnh hưởng của yếu tố mùa vụ đến tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn

còn chưa thống nhất, có tác giả cho rằng lợn nhiễm ấu trùng C. cellulosae cao hơn

vào mùa mưa (Karshima N.S. và cs., 2013 [86], Porphyre V. và cs., 2015 [108]), có

tác giả cho rằng các mùa trong năm không ảnh hưởng đến tỷ lệ nhiễm ấu trùng

C. cellulosae (Onah D.N. và Chiejina S.N. 1995 [104].

13

Tuổi ký chủ cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ nhiễm ấu trùng

Theo Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1976) [34]), tuổi của ký chủ có ảnh

hưởng đến tỷ lệ nhiễm ấu C. cellulosae ở lợn. Lợn con ít tiếp xúc với trứng và đốt

sán dây nên khả năng nhiễm bệnh thấp. Những lợn nuôi thời gian dài có nguy cơ

nhiễm ấu trùng cao, tỷ lệ nhiễm nặng (Sarti E. và cs., 1994 [116], Pouedet M.S. và

cs., 2002 [107]).

Theo thống kê của Bộ môn Ký sinh trùng, trường Đại học Y khoa Hà Nội,

những bệnh nhân mắc bệnh ấu trùng C. cellulosae thuộc nhiều địa phương khác

nhau, thuộc nhiều lứa tuổi khác nhau và có nghề nghiệp khác nhau (dẫn theo Đỗ

Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh, 1976 [34]).

Vùng là yếu tố liên quan đến tỷ lệ nhiễm ấu trùng

Bệnh do ấu trùng C. cellulosae ở lợn có ở khắp mọi nơi trên thế giới, những

vùng có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất là châu Mỹ La Tinh, Đông Nam Á, bán đảo Triều

Tiên, Trung và Đông Phi, Đông Âu. Quá trình nhiễm bệnh thường liên quan đến

cuộc di dân đến các vùng nói trên. Bệnh rất hiếm gặp ở Mỹ, Canada, Anh và các

nước Bắc Âu. Tuy nhiên, một số công trình nghiên cứu ở Mỹ cho thấy, một số

người Mỹ mắc bệnh do di cư từ các nước khác vào (Bùi Quý Huy, 2006 [13], Phạm

Sỹ Lăng và cs., 2009 [21]).

Tuy nhiên, vấn đề địa lý chỉ là thứ yếu. Sự phát sinh bệnh liên quan chủ yếu tới

thói quen ăn thịt lợn chưa nấu chín, tập quán nuôi lợn thả rông và sử dụng phân tươi

của người trong trồng trọt. Bệnh gặp nhiều ở những vùng dân cư sống trong điều kiện

vệ sinh môi trường kém, xử lý chất thải không hợp vệ sinh, chăn nuôi súc vật thả rông

hoặc cho súc vật sống chung với người (Nguyễn Văn Đề và cs., 2013 [8]).

Các tỉnh miền núi có diện tích đất rộng, dân cư thưa, hiện tượng thả rông lợn

còn phổ biến, lợn dễ nhiễm ấu trùng C. cellulosae. Lợn ở vùng núi nhiễm ấu trùng

thường nặng, số lượng ấu trùng rất nhiều. Ở vùng đồng bằng, nếu lợn nhiễm ấu trùng

thì thường nhiễm nhẹ, khó phát hiện.

Ở vùng đồng bằng và các thành phố do ít người có thói quen ăn thịt lợn sống

nên tỷ lệ nhiễm sán dây thấp và tỷ lệ lợn mắc bệnh gạo cũng thấp (Nguyễn Văn Đề

và cs., 1998 [7], Phạm Sỹ Lăng và Hoàng Văn Năm, 2012 [23], Nguyễn Thị Kim Lan,

2012 [19]).

14

Phương thức chăn nuôi lợn có liên quan đến tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus

cellulosae

Ở những nơi có tập quán nuôi lợn thả rông và cho lợn ăn rau sống làm cho lợn có

nguy cơ tiếp xúc với đốt và trứng sán dây nên nguy cơ mắc bệnh gạo cao (Nguyễn

Phước Tương, 2002 [43], Bùi Quý Huy, 2006 [13], Nguyễn Thị Kim Lan, 2012 [19]).

Bệnh ấu trùng sán dây ở lợn còn tồn tại khá phổ biến ở các tỉnh miền núi và

vùng trung du do trình độ dân trí thấp và điều kiện vệ sinh kém, đồng thời còn tình

trạng người thải phân ra ngoài môi trường (Phạm Sỹ Lăng và cs., 2009 [21]).

1.2.2. Cơ chế sinh bệnh

Khi lợn nuốt phải trứng sán dây T. solium, trứng nở thành ấu trùng ở ruột. Ấu

trùng xâm nhập vào niêm mạc ruột, theo hệ bạch huyết hoặc xuyên qua các lớp tổ

chức để đi đến ký sinh ở cơ vân và não của lợn. Ấu trùng sán dây C. cellulosae

thường ký sinh nhiều tại các cơ hoành, cơ lưỡi của lợn (Phan Lục, 2006 [26]).

Người mắc bệnh gạo do nuốt phải trứng sán dây lẫn vào thức ăn, nước uống,

hoặc do tự nhiễm (đốt sán già trong ruột người, do nhu động ngược được chuyển từ

ruột non lên dạ dày, ở đó đốt sán phân hủy giải phóng ra trứng sán, trứng nở ra ấu

trùng và di chuyển đến các tổ chức cơ, não... và phát triển thành ấu trùng có sức gây

bệnh C. cellulosae (Nguyễn Văn Đề và cs., 2016 [9]).

Ấu trùng 6 móc khi di chuyển thường gây tắc mao mạch, chèn ép vào thần

kinh vận động, làm liệt từng bộ phận của cơ thể. Đặc biệt, khi ấu trùng đã ký sinh ở

não và phát triển hoàn chỉnh thì gây chèn ép, kích thích làm ký chủ có triệu chứng

thần kinh, nếu nặng gây co giật (Phạm Sỹ Lăng và cs., 2009 [21], Phạm Sỹ Lăng và

Hoàng Văn Năm, 2012 [23]).

1.2.3. Triệu chứng, bệnh tích

1.2.3.1. Triệu chứng bệnh

* Triệu chứng ở lợn:

Nếu số lượng ấu trùng ký sinh ít, lợn bệnh có triệu chứng không rõ rệt. Người

chăn nuôi chỉ thấy lợn xù lông, chậm lớn, đôi khi hay nghiến răng, lợn vẫn ăn uống

bình thường.

Nếu số lượng ấu trùng nhiều, bệnh phát triển ngay từ những ngày đầu nhiễm ấu

trùng, với các triệu chứng như: giảm ăn, tính mẫn cảm tăng, dễ bị kích thích, lợn sốt 41 - 41,7oC, niêm mạc mắt, miệng đỏ ửng. Một số lợn ỉa lỏng trong 7 - 10 ngày, các biểu hiện trên dần dần mất đi nhưng lợn ăn kém. Sau 1 tháng, do xuất hiện các ổ viêm

ở cơ vân và các cơ quan nội tạng nên lợn đứng lên, nằm xuống và đi lại rất khó khăn.

Các dấu hiệu khác như thở khó, nhai khó, nuốt khó bắt đầu xuất hiện và nặng dần.

15

Bệnh kéo dài 1 - 2 tháng, ấu trùng C. cellulosae gây tác hại rõ rệt tới sức khỏe

của lợn. Phần lớn lợn mắc bệnh bị còi cọc, gầy yếu hoặc chết vì suy nhược và rối

loạn chức năng các cơ quan. Triệu chứng của lợn thay đổi theo vị trí ký sinh của ấu

trùng: Nếu ấu trùng C. cellulosae ký sinh ở não thì thấy triệu chứng thần kinh, lợn

đi lại mất thăng bằng, có những cơn động kinh, co giật, đi vòng tròn. Nếu ấu trùng

ký sinh ở lưỡi, có thể thấy liệt lưỡi và hàm dưới. Nếu ấu trùng ký sinh ở cơ chân thì

thấy con vật đi lại khó khăn. Nếu lợn bị nhiễm nặng, ấu trùng ký sinh ở toàn thân

thì con vật lờ đờ, thở dốc, không ăn, ỉa chảy, gầy rạc dần rồi chết (Nguyễn Thị Kim

Lan và cs., 1999 [17], Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân, 2011 [22]).

* Triệu chứng ở người:

Bệnh do ấu trùng C. cellulosae gây nhiều loại triệu chứng ở người. Những

triệu chứng chủ yếu thường là viêm và đau. Triệu chứng lâm sàng của bệnh thay đổi

phụ thuộc vào số lượng và vị trí ký sinh của ấu trùng. Các vị trí ấu trùng ký sinh

nhiều là cơ bắp, mô dưới da, hệ thần kinh trung ương và mắt.

Nếu ấu trùng ở não, sẽ chèn ép, gây cản trở tuần hoàn ở não, gây tụ máu não

và có thể dẫn tới nhũn não, gây động kinh, co giật, sùi bọt mép và hôn mê. Nếu ấu

trùng ở mắt sẽ gây những rối loạn về thị giác. Bệnh nhân thường bị lóa mắt, nhìn

thấy những điểm tối, dễ chảy nước mắt, đau mắt và có thể bị mù. Ở người, triệu

chứng nghiêm trọng nhất vẫn là ở não và mắt. Nếu ấu trùng ký sinh ở tim và van

tim gây giãn cơ tim. Sau khi ấu trùng chết và bị vôi hóa có thể thấy hiện tượng hẹp

và hở van tim.

Khi ấu trùng ký sinh ở cơ, người bệnh thấy hiện tượng đau nhức cơ thất

thường. Ấu trùng ký sinh ở dưới da bệnh nhân gây hiện tượng đau đớn, khó chịu,

những ấu trùng này có thể di chuyển dưới da (Đỗ Dương Thái và cs., 1974 [33],

Bouteille B. 2004 [63]).

Theo Lê Bách Quang (2008) [32], Phạm Văn Thân (2009) [36], bệnh nhân

xuất hiện những nang dưới da kích thước 0,5 - 2 cm, di động dễ và không ngứa,

thường ở vùng cơ bắp tay, cơ chân hoặc cơ liên sườn, cơ lưng, cơ ngực... Khi ấu

trùng ký sinh ở mô cơ gây đau cơ. Sau nhiều năm ký sinh ấu trùng chết và bị vôi hóa.

Bạch cầu ái toan trong dịch não tủy tăng.

Nguyễn Văn Đề (2013) [8] cho biết: khi ký sinh ở mắt ấu trùng có thể nằm

trong hốc mắt, trong mí mắt, trong kết mạc, hoặc trong thủy tinh thể… Những rối

loại thị giác cũng rất đa dạng, tùy theo vị trí của ấu trùng ở mắt mà bệnh nhân có

triệu chứng do ấu trùng chèn ép sau nhãn cầu, gây tăng nhãn áp, giảm thị lực hoặc

16

mù. Ấu trùng ở cơ tim có thể làm tim đập nhanh, tiếng tim biến đổi, bệnh nhân khó

thở, có thể bị ngất.

Theo Bùi Quý Huy (2006) [13]: bệnh nhân bị ấu trùng C. cellulosae ký sinh có

triệu chứng rõ rệt, kéo dài từ vài tuần đến nhiều năm sau khi nhiễm ấu trùng.

1.2.3.2. Bệnh tích ở lợn mắc bệnh

Mổ khám lợn bị bệnh thường thấy ấu trùng ký sinh ở tổ chức cơ vân, chèn ép

các mao mạch, gây trở ngại tuần hoàn, gây tụ huyết; chèn ép thần kinh gây bại

liệt. Ấu trùng cũng gây ra các ổ viêm xơ hóa ở cơ và các tổ chức mà nó ký sinh

(Nguyễn Thị Kim Lan, 2012 [19]).

Ấu trùng phát triển, chèn ép làm cho các mô bị teo, thoái hóa và hoại tử, mô

bào và các cơ bị tổn thương, bên trong có nhiều bạch cầu ái toan, bạch cầu trung

tính và các tổ chức xơ (Phạm Sỹ Lăng và cs., 2006 [20]).

Với bệnh ấu trùng C. cellulosae, các tổn thương bệnh học của lợn bệnh thể

hiện rất rõ. Những tổn thương này dẫn tới rối loạn chức năng của các cơ quan (Đỗ

Dương Thái và cs., 1974 [33]).

1.2.4. Chẩn đoán

Chẩn đoán bệnh do ấu trùng C. cellulosae gây ra ở lợn không thể căn cứ vào

triệu chứng lâm sàng, vì triệu chứng của bệnh không điển hình, vì vậy rất khó chẩn

đoán khi con vật còn sống. Để chẩn đoán chính xác bệnh gạo ở lợn, cần mổ khám

tìm ấu trùng ký sinh ở các cơ của lợn bằng phương pháp mổ khám toàn diện của

Skrjabin (1928) [124], tìm ấu trùng ở cơ đùi, cơ lưỡi và cơ tim của lợn (Nguyễn Thị

Kim Lan, 2012 [19]).

Có thể chẩn đoán bệnh gạo lợn bằng phương pháp huyết thanh học (Nguyễn

Thị Kim Lan và cs., 2008 [18], Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân, 2011 [22]).

Một số đặc điểm dịch tễ học của bệnh như: ở khu vực đó người có ăn thịt

sống, thịt tái không, người có bị sán dây trưởng thành ký sinh không... cũng là

những thông tin cần lưu ý trong khi chẩn đoán bệnh gạo.

Chẩn đoán bằng phương pháp biến thái nội bì cũng có thể áp dụng đối với

bệnh lợn gạo: lấy các đốt sán dây T. solium để chế kháng nguyên, tiêm nội bì 0,2 ml.

Sau khi tiêm 15 - 45 phút, nếu nơi tiêm sưng và đỏ (thể hiện có sự kết hợp giữa

kháng nguyên và kháng thể) thì phản ứng dương tính. Tuy nhiên, phương pháp này

độ chính xác không cao vì kháng nguyên đưa vào có thể gây phản ứng chéo với

kháng thể do giun, sán khác kích thích cơ thể sinh ra (Nguyễn Thị Kim Lan và cs.,

2008 [18], Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân, 2011 [22]).

17

Ứng dụng kỹ thuật ELISA tìm kháng thể kháng ấu trùng C. cellulosae trong

huyết thanh của vật chủ là phương pháp cho kết quả chẩn đoán tương đối tin cậy

trên con vật còn sống (theo Phạm Sỹ Lăng và cs., 2009 [21], Nguyễn Thị Kim Lan,

2012 [19]).

1.2.5. Biện pháp phòng trị bệnh

1.2.5.1. Phòng bệnh

Để phòng bệnh ấu trùng C. cellulosae cần thực hiện tốt các biện pháp sau:

Người mắc bệnh sán dây không phóng uế bừa bãi ra môi trường. Ở khu vực

nông thôn, cần xây nhà vệ sinh hai ngăn hoặc tự hoại để quản lý phân người mắc

bệnh sán dây (Bùi Quý Huy, 2006 [13], Nguyễn Văn Đề và cs., 2016 [9]).

Thực hiện nuôi lợn nhốt hoàn toàn, không thả rông làm cho lợn tiếp xúc với

phân người mắc bệnh sán dây, hạn chế sự ô nhiễm trứng sán dây vào thức ăn và

nước uống của lợn (Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân, 2011 [22]).

Tăng cường kiểm soát giết mổ lợn tại các lò mổ. Những lợn có ấu trùng

C. cellulosae ký sinh phải hủy bỏ, không được dùng thịt của những lợn đó làm thực

phẩm cho người (Lê Bách Quang, 2008 [32]).

Để phòng bệnh ấu trùng C. cellulosae cho lợn, một mặt áp dụng các biện pháp

đối với lợn, mặt khác bảo vệ người để không bị lây nhiễm sán dây. Người nhiễm

sán dây phải được điều trị kịp thời, khi sán dây bị tẩy ra ngoài phải đốt ngay. Người

không ăn thịt lợn sống hay chưa nấu chín, không ăn rau sống, uống nước lã (Phạm

Sỹ Lăng và Phan Địch Lân, 2011 [22], Nguyễn Văn Đề và cs., 2016 [9]).

Theo Lê Bách Quang (2008) [32], Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [19], Nguyễn

Văn Đề và cs. (2016) [9], để phòng bệnh gạo cho lợn và bệnh trên người cần thực

hiện tốt các vấn đề sau:

* Xây dựng, củng cố và thực hiện nghiêm ngặt quy định kiểm nghiệm thịt

Để bảo vệ sức khỏe cho người, phòng cho người không bị nhiễm sán dây T. solium

thì cần kiểm nghiệm thịt nghiêm ngặt trong các nhà máy chế biến thịt, các lò mổ ở các xã, huyện, tỉnh. Nếu trên 40 cm2 lát cắt thịt có nhiều hơn 3 ấu trùng thì phải hủy bỏ hoặc chế biến chín làm thức ăn cho gia súc; nếu trên 40 cm2 lát cắt thịt có dưới 3 ấu trùng thì xử lý bằng một trong ba biện pháp sau:

Luộc chín: Cắt thịt thành miếng 1 - 2 kg, dày 5 - 6 cm, luộc trong 45 phút đến 1

giờ (nếu thịt cắt to và dày quá thì nhiệt độ bên trong không đủ để diệt ấu trùng).

Ướp muối: ngâm thịt trong nước muối đặc, sau 3 tuần thì ấu trùng chết. Ướp lạnh ở nhiệt độ -10oC đến - 15oC trong 10 - 15 ngày. Sau đó phải thử

sức sống của ấu trùng trước khi dùng thịt này làm thực phẩm. Cách làm: tách

18

một số ấu trùng ở thịt, cho vào đĩa petri chứa dịch mật bò (80%) pha với nước sinh lý (20%), để ở tủ ấm 39 - 40oC khoảng 15 phút. Kết quả: màng ngoài của ấu

trùng bị phân hủy giải phóng đầu sán dây, nếu thấy đầu sán dây không chuyển

động thì ấu trùng đã chết.

Ngoài ra, cán bộ thú y cần kiểm tra thịt lợn bán ở các chợ hoặc các cơ sở giết

mổ lợn tư nhân.

* Đẩy mạnh phong trào vệ sinh phòng bệnh cho người và gia súc

Xây dựng hố xí hai ngăn hoặc hố xí tự hoại để quản lý phân người, ngăn

ngừa không để lợn ăn phải đốt hoặc trứng sán dây từ phân người phát tán ra ngoại cảnh.

Nâng cao ý thức vệ sinh phòng bệnh của nhân dân, tuyên truyền giáo dục cho

mọi người hiểu những kiến thức cơ bản và tác hại của bệnh, chỉ ăn thức ăn đã được

rửa sạch, nấu chín, không ăn thịt lợn nghi là lợn gạo. Trước khi ăn và sau khi đại

tiện phải rửa tay bằng xà phòng và nước sạch.

* Chẩn đoán bệnh cho nhân dân ở vùng có dịch bằng cách hỏi bệnh, kết hợp với

xét nghiệm phân tìm đốt sán, sau đó tẩy sán cho những bệnh nhân có sán ký sinh.

Phát hiện và điều trị sớm cho những người mắc bệnh sán dây. Việc điều trị

bệnh sán dây cho người nên thực hiện ở các cơ sở y tế, có phương tiện tốt, có bác sỹ

theo dõi trong quá trình điều trị (Phan Anh Tuấn, 2013 [42]).

1.2.5.2. Điều trị bệnh ấu trùng C. cellulosae

* Ở lợn

Trước đây, khi lợn mắc bệnh gạo thì quá trình điều trị bệnh gặp nhiều khó

khăn do ấu trùng ký sinh ở sâu trong các cơ của lợn. Hiện nay, theo một số tác giả,

có thể điều trị bệnh gạo lợn bằng thuốc chống sán dây với liều cao và lặp lại.

Theo Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (2011) [22], khi phát hiện lợn mắc

bệnh gạo cần phải xử lý ngay, có sự giám sát của cơ quan thú y để tránh sử dụng

thịt tùy tiện, làm lây lan bệnh sang người. Nếu điều trị, có thể dùng hai loại thuốc

điều trị với liều lượng như sau: albendazol: liều 30 mg/kg TT và oxfendazol: liều

30 mg/kg TT. Cho lợn uống trong 3 ngày liên tục, sau 24 ngày ấu trùng sẽ chết.

* Ở người

Theo Lê Bách Quang (2008) [32], Nguyễn Văn Đề và cs. (2016) [9], hiện nay

điều trị bệnh ấu trùng C. cellulosae trên người vẫn là vấn đề nan giải. Trước khi

điều trị bệnh phải tẩy sán dây T. solium trưởng thành ở ruột (nếu có) để loại trừ khả

năng tiếp tục chuyển thành bệnh ấu trùng. Có thể phẫu thuật lấy ấu trùng ở mắt, ở tổ

chức dưới da, cơ. Tuy nhiên, đây là vấn đề khó khăn và phức tạp.

19

Các phương pháp điều trị bệnh ấu trùng C. cellulosae ở người như chiếu tia

phóng xạ, tiêm dung dịch iốt vào bọc ấu trùng, nếu có kết quả cũng chỉ là giải quyết

được những bọc ấu trùng ở ngay dưới da. Phương pháp điều trị bằng tiêm can xi

nhằm làm cho ấu trùng vôi hóa cũng không đem lại kết quả chắc chắn (Đỗ Dương

Thái, 1974 [33]).

Theo Nguyễn Văn Đề và cs. (2016) [9], để điều trị bệnh do ấu trùng C. cellulosae

gây ra ở người, có thể thực hiện theo một trong hai phác đồ sau: i) praziquantel: liều

30 mg/kg TT/ngày x 15 ngày, chia thành 2 - 3 đợt (mỗi đợt cách nhau 10 - 20 ngày); ii)

praziquantel: liều 15 - 20 mg/kg TT ngày đầu, những ngày sau dùng albendazole liều

15 mg/kg TT/ngày x 30 ngày, chia thành 2 - 3 đợt (mỗi đợt cách nhau 20 ngày).

1.2.5.3. Tác dụng của thuốc praziquantel và albendazole

Theo Đào Văn Phan (2018) [31], thuốc albendazole và praziquantel có tác

dụng như sau:

* Thuốc albendazole

Albendazole là một dẫn xuất của benzimidazole carbamin. Thuốc có tác dụng

tẩy tốt đối với nhiều loại giun tròn, sán lá và sán dây. Albendazole có tác dụng trên

cả giai đoạn trưởng thành và giai đoạn ấu trùng của các loại giun, sán ký sinh ở

nhiều loài gia súc, trong đó có lợn.

Cơ chế tác dụng: albendazole liên kết với các tiểu quản của ký sinh trùng, qua

đó ức chế sự trùng hợp hóa các tiểu quản thành các vi tiểu quản của bào tương là

những bào quan cần thiết cho hoạt động bình thường của tế bào ký sinh trùng, làm

giảm hấp thu glucose, giảm ATP (nguồn cung cấp năng lượng cho ký sinh trùng).

Cuối cùng ký sinh trùng bị tê liệt và chết.

* Thuốc praziquantel

Praziquantel là dẫn xuất của isoquinolein - pyrazin tổng hợp, có phổ tác dụng

rộng, thường được lựa chọn để điều trị các bệnh sán lá và sán dây.

Thuốc có hiệu lực cao đối với giai đoạn trưởng thành và ấu trùng của các loại

sán lá (sán lá gan nhỏ, sán lá phổi, sán lá ruột), sán dây ở cá, ở chó, mèo, lợn, trâu,

bò và cả ở người.

Cơ chế tác dụng: Thuốc làm tăng tính thấm của màng tế bào sán với ion calci,

làm sán co cứng và cuối cùng làm liệt cơ của sán.

Khi tiếp xúc với praziquantel, vỏ sán xuất hiện các mụn nước, sau đó vỡ tung

ra và phân hủy. Cuối cùng sán bị chết và bị tống ra ngoài.

20

1.3. Một số đặc điểm của tỉnh Sơn La và Điện Biên

* Tỉnh Sơn La

Sơn La là tỉnh miền núi thuộc khu vực Tây Bắc của nước ta. Tỉnh Sơn La tiếp

giáp với các tỉnh như sau: phía Bắc giáp tỉnh Yên Bái và Lai Châu; phía Đông giáp

tỉnh Hòa Bình và Phú Thọ; phía Tây giáp tỉnh Điện Biên; phía Nam giáp với tỉnh

Thanh Hóa và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (Tỉnh Ủy Sơn La, tháng

7/2019 [47])

Tỉnh Sơn La chia thành những vùng có đặc trưng sinh thái khác nhau. Địa

hình bị chia cắt mạnh, hình thành nhiều tiểu vùng khí hậu cho phép phát triển một

nền sản xuất nông - lâm nghiệp phong phú. Cao nguyên Mộc Châu rất phù hợp với

cây trồng và vật nuôi vùng ôn đới. Vùng dọc sông Đà phù hợp với cây rừng nhiệt

đới quanh năm.

Khí hậu của Sơn La chia làm hai mùa rõ rệt là mùa khô và mùa mưa. Nhiệt độ trung bình năm là 21,4oC (trung bình tháng cao nhất 27oC, tháng thấp nhất 16oC).

Lượng mưa trung bình hàng năm là 1.200 - 1.600 mm. Độ ẩm không khí trung bình

là 81%. Số ngày có gió tây khô và nóng ở thành phố Sơn La bình quân là 4,3

ngày/năm và ở Yên Châu là 37,2 ngày/năm.

21

Tỉnh Sơn La có số dân trên 1,2 triệu người với 12 dân tộc anh em cùng sinh

sống. Trong đó, dân tộc Thái chiếm 54%, dân tộc Kinh 18%, dân tộc H’Mông 12%,

dân tộc Mường 8,4%, dân tộc Dao 2,5%, còn lại là các dân tộc: Khơ Mú, Xinh

Mun, Kháng, La Ha, Tày và Hoa.

Tỉnh Sơn La có 11 huyện và 1 thành phố, có 204 đơn vị hành chính (188 xã,

07 phường, 09 thị trấn) (Tỉnh Ủy Sơn La, tháng 7/2019 [47]).

* Tỉnh Điện Biên

Điện Biên cũng là một trong những tỉnh miền núi thuộc khu vực Tây Bắc. Phía

Đông và Đông Bắc của tỉnh tiếp giáp với tỉnh Sơn La; phía Bắc giáp tỉnh Lai Châu;

phía Tây Bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc); phía Tây và Tây Nam giáp nước

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (Tỉnh Ủy Điện Biên, tháng 6/2019 [45]).

Địa hình của tỉnh Điện Biên rất phức tạp, chủ yếu là đồi núi dốc, hiểm trở và

chia cắt mạnh, thấp dần từ Bắc xuống Nam và nghiêng dần từ Tây sang Đông.

Điện Biên có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Mùa Đông thời tiết lạnh và ít mưa,

mùa hè nóng ẩm và mưa nhiều, thời tiết diễn biến thất thường do chịu ảnh hưởng của gió tây khô và nóng. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 21oC - 23oC, nhiệt độ trung bình thấp nhất từ tháng 12 năm trước đến tháng 2 năm sau (14oC -18oC), các tháng có nhiệt độ trung bình 25oC là từ tháng 4 đến tháng 9 và chỉ xảy ra ở các khu

vực có độ cao thấp hơn 500 m. Lượng mưa hàng năm trung bình từ 1.300 - 2.000

mm. Độ ẩm trung bình hàng năm từ 76 - 84%.

Tỉnh Điện Biên có trên 57 vạn người với 19 dân tộc anh em. Trong đó, dân

tộc Thái chiếm 38%, dân tộc H’Mông chiếm 34,8%, dân tộc Kinh chiếm 18,4%, còn

lại là các dân tộc khác

Điện Biên có 10 đơn vị hành chính cấp huyện (08 huyện, 01 thành phố và 01

thị xã), có 130 xã, phường, thị trấn (Tỉnh Ủy Điện Biên, tháng 6/2019 [45]).

Điều kiện kinh tế - xã hội của nhân dân ở tỉnh Sơn La và Điện Biên vẫn còn

nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao, trình độ dân trí giữa các vùng, các dân tộc

không đồng đều; tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp, tình hình dịch bệnh, ô nhiễm môi

trường, an toàn vệ sinh thực phẩm vẫn chưa được quan tâm đúng mức.

Chăn nuôi ở tỉnh Sơn La và Điện biên tương đối phát triển. Ngoài chăn nuôi

trâu, bò, bà con còn chăn nuôi lợn khá phổ biến. Ở thời điểm ngày 31 tháng 5 năm

2018, tỉnh Sơn La có 700.564 con lợn, tỉnh Điện Biên có 401.413 con. Lợn chủ yếu

được nuôi theo hình thức nông hộ nhỏ lẻ, phần lớn mang tính tự cấp, tự túc là chính.

22

Một số hộ gia đình ở gần đường giao thông, diện tích đất rộng và bằng phẳng đã

đầu tư xây dựng các trại chăn nuôi lợn với số lượng lớn. Hiện nay, tỉnh Sơn La và

Điện Biên có 14 trại chăn nuôi lợn ở mỗi tỉnh.

Giống lợn nuôi ở tỉnh Sơn La và Điện Biên chủ yếu là giống lợn địa phương,

(chiếm trên 80%), còn lại là lợn lai và lợn ngoại. Các hộ chăn nuôi lợn theo phương

thức thả rông và bán chăn thả là chủ yếu, một số hộ nuôi lợn nhốt. Ở các địa

phương vùng sâu, vùng xa, thức ăn cho lợn chủ yếu là phế phụ phẩm nông nghiệp.

Vì vậy, lợn thường chậm lớn, thời gian nuôi kéo dài. Phương thức chăn nuôi lợn

như trên đã làm cho lợn dễ nhiễm giun sán. Đồng thời, lợn nuôi thả rông dễ tiếp xúc

với phân của người mắc bệnh sán dây T. solium và có nguy cơ mắc bệnh gạo.

Tập quán sinh hoạt của nhân dân các dân tộc ở Sơn La và Điện Biên và có

những nét đặc trưng riêng. Có nhiều hộ gia đình rất ưa thích các món ăn là thịt sống

hoặc thịt tái, thịt hun khói. Điều kiện kinh tế của nhiều gia đình còn rất khó khăn,

nhận thức còn hạn chế nên điều kiện sinh hoạt còn tạm bợ. Nhiều hộ nhà cửa sơ sài,

không có chuồng nuôi lợn, đồng thời không có nhà vệ sinh hoặc nhà vệ sinh làm

tạm bằng tre nứa quây lại... Điều kiện sinh hoạt như trên làm cho người dễ nhiễm

sán dây, theo đó dễ làm đốt sán phát tán ra ngoại cảnh, làm tăng nguy cơ lợn mắc

bệnh gạo. Những nguyên nhân trên dẫn đến lợn ở các xã vùng sâu, vùng xa của tỉnh

Sơn La và Điện Biên vẫn có khả năng mắc bệnh gạo, người ở các tỉnh này vẫn có

khả năng mắc bệnh sán dây.

2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC

2.1. Nghiên cứu trong nước

2.1.1. Bệnh gạo lợn do ấu trùng Cysticercus cellulosae gây ra

Ở Việt Nam, bệnh gạo lợn thấy ở hầu hết các tỉnh, thành trong cả nước, đặc

biệt là các tỉnh miền núi phía Bắc. Tỷ lệ lợn nhiễm ấu trùng C. cellulosae bình quân ở

miền Bắc Việt Nam là 1,0 - 7,2%, ở miền Nam là 4,3% (De N.V., 2004 [71], De N.V.

and Le T. H. 2010 [72]).

Tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae trên lợn ở các tỉnh miền núi phía Bắc tuy

không cao, nhưng chỉ cần một lợn nhiễm bệnh thì có thể phát tán và gây nhiễm sán

dây T. solium cho nhiều người (Lê Ngọc Mỹ và cs., 2004 [30]).

Theo Phan Trịnh Chức (1970), tỷ lệ lợn nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lò mổ

tại một số tỉnh như sau: tỉnh Lạng Sơn, tỷ lệ nhiễm là 3,89%; tỉnh Thái Nguyên là

23

1,49%; tỉnh Hòa Bình là 0,524%; thành phố Hà Nội là 0,187%; tỉnh Hà Nam không

có lợn nhiễm ấu trùng tại thời điểm điều tra (dẫn theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục,

1996 [14]).

Nguyễn Quốc Doanh và cs. (2004) [6] đã kiểm tra 172.087 lợn mổ khám ở 5

tỉnh miền núi và trung du, cho biết: ở các tỉnh miền núi và trung du, lợn vẫn nhiễm

ấu trùng C. cellulosae, lợn nhiễm bệnh thường tập trung ở các xã vùng sâu, vùng xa.

Ở tỉnh Yên Bái, lợn nhiễm ấu trùng cao nhất 0,31%, lợn ở tỉnh Bắc Giang nhiễm ấu

trùng thấp nhất 0,02%.

Kiểm tra 2.237.000 lợn giết mổ tại các lò mổ ở Hà Nội thấy, có 835 lợn nhiễm

ấu trùng C. cellulosae; chiếm tỷ lệ 0,04%. Ở các lò mổ của các tỉnh phía bắc, lợn

nhiễm ấu trùng C. cellulosae với tỷ lệ nhiễm là 0,06%. Ở các lò mổ tại các tỉnh phía

nam, tỷ lệ này là 0,9%, tương ứng với 8 lợn nhiễm bệnh trong tổng số 891 lợn điều

tra (De N.V. and Le T. H. 2010 [72]).

Nguyễn Quốc Doanh và cs. (2004) [6] đã kiểm tra ấu trùng C. cellulosae trên

lợn ở Bắc Ninh bằng kỹ thuật ELISA, thấy tỷ lệ nhiễm là 9,91%, biến động từ 6,06

đến 15,49%.

Theo Nguyễn Quốc Doanh và cs. (2003) [5], bằng phản ứng PCR (Polymerase

Chain reaction) đã chứng minh, chuỗi Cob (Cytochrome oxidase b) trong hệ gen ty

thể của ấu trùng C. cellulosae ở Việt Nam hoàn toàn thuộc về loài T. solium. Điều

này có nghĩa là, ấu trùng phân lập từ cơ lợn ở Việt Nam là ấu trùng của sán dây

trưởng thành T. solium.

Qua điều tra về bệnh ấu trùng C. cellulosae ở lợn, tỷ lệ nhiễm mặc dù thấp hơn

so với các điều tra trước đây, song bệnh vẫn còn lưu hành và cần áp dụng phương

pháp huyết thanh học trong điều tra dịch tễ (Lê Ngọc Mỹ và cs., 2004 [30]).

Theo Nguyen D. và cs. (2017) [101], hầu hết các thông tin liên quan đến sự

phân bố và tỷ lệ lưu hành của bệnh gạo lợn đều được thu thập ở các lò giết mổ lợn.

2.1.2. Bệnh ấu trùng Cysticercus cellulosae ở người

Bệnh ấu trùng C. cellulosae trên người phân bố rải rác ở nhiều nước trên thế

giới với khoảng 100 triệu người mắc bệnh. Tại Việt Nam, bệnh ấu trùng phân bố ở

nhiều nơi trong khu vực miền núi phía Bắc (Nguyễn Văn Đề, 2013 [8]).

Theo thống kê của Viện sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương, số

người mắc bệnh gạo trên cả nước năm 2011 lên tới 10.834 người. Năm 2012 là

24

7.471 người; năm 2013 là 5.356 người. Con số này năm 2014 và 2015 đã giảm

xuống còn 2.138 và 2.820 người mắc bệnh. Trong năm 2016 đã có 4.048 người;

năm 2017 là 6.984 người và năm 2018 có khoảng 7.500 người mắc bệnh. Như vậy

tổng số người bị bệnh từ năm 2011 đến 2018 lên tới 47.232 người (Bộ Y tế, 2019 [3]).

Nguyễn Quốc Doanh và cs. (2004) [6] cho biết, bệnh ấu trùng C. cellulosae ở

người vẫn tồn tại ở các vùng sâu của các tỉnh trung du, miền núi, tỷ lệ nhiễm trung

bình là 0,12%. Tại một số địa phương thuộc tỉnh Bắc Ninh, tỷ lệ nhiễm ấu trùng ở

người được xét nghiệm là 2,2 - 7,2%.

Theo điều tra của Viện sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương, ở vùng

núi và cao nguyên là những nơi có người mắc bệnh ấu trùng C. cellulosae cao: 3,8%

- 6%, vùng đồng bằng tỷ lệ nhiễm thấp: 0,5% - 2%. Bệnh gặp ở hầu hết các tỉnh

thành, kể cả Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh (Lê Thị Xuân, 2015 [51]).

Nguyễn Văn Đề (2013) [8], đã phát hiện ít nhất 50 tỉnh có ca bệnh ấu trùng

sán dây lưu hành ở người. Trong số bệnh nhân nhiễm ấu trùng C. cellulosae có 75%

là nam giới, trong đó có 30% nhiễm sán dây trưởng thành.

Lê Thị Xuân (2015) [51]) cho biết, bệnh nhân nhiễm ấu trùng C. cellulosae

phân bố ở 30 tỉnh phía Bắc: từ Bắc Kạn, Bắc Giang, Bắc Ninh… đến Nghệ An, Hà

Tĩnh, Quảng Bình. Chưa thống kê được tỷ lệ nhiễm bệnh ở các tỉnh phía Nam.

Bệnh ấu trùng C. cellulosae lợn liên quan đến bệnh sán dây ở T. solium người.

Ở miền núi và cao nguyên là những nơi có người mắc bệnh ấu trùng cao: 3,8 - 4%,

có nơi lên tới 6% (Nguyễn Văn Đề, 2016 [9]).

Theo Nguyen D. và cs. (2017) [101], tỷ lệ mắc bệnh ấu trùng C. cellulosae ở

người sống tại các vùng nông thôn được xét nghiện huyết thanh là 13%.

Nghiên cứu của Bộ môn Ký sinh trùng, trường Đại học Y Hà Nội trên những

người mắc bệnh cho thấy: ấu trùng C. cellulosae có thể ký sinh ở nhiều nơi trong cơ

thể trừ xương. Ấu trùng ký sinh ở tổ chức cơ với tỷ lệ phân bố, tay 26,2%, bụng và

ngực 24,5%, lưng 9,3%, chi dưới 20,2%, đầu và mặt 10,5%, cổ 9,3% (dẫn theo Đỗ

Dương Thái, Trịnh Văn Thịnh, 1976 [34])

Vosgien đã thống kê từ 807 người mắc bệnh ấu trùng C. cellulosae, thấy sự

phân bố như sau: ở mắt chiếm tỷ lệ tới 46%, ở hệ thần kinh 40,9%, da và các tổ

chức dưới da là 6,32%, cơ bắp là 3,47% và các bộ phận khác là 3,22% (dẫn theo Đỗ

Dương Thái và cs., 1974 [33]).

25

De N.V. và Le T. H. (2010) [72] cho biết, ấu trùng C. cellulosae ký sinh trong

cơ thể với tỷ lệ nhiễm ở các vị trí như sau: ở mắt 31,0%, ở cơ hàm 14,2%, ở cơ lưỡi

9,3%, ở cơ vai 8,3%, ở cơ cổ 6,3%, ở cơ ngực 6,3%, ở cơ mông 4,6% và cơ hoành

là 2,3%.

Thông thường ấu trùng phân bố ở vùng lưng và ngực là 36,6%, ở đầu - mặt -

cổ là 18,2% và ở chân là 17,4%... Đa số bệnh nhân có ấu trùng ở cơ (98%) kèm theo

có ấu trùng ở não (Nguyễn Văn Đề, 2013 [8]).

Theo Nguyen D. và cs. (2017) [101], viêm da cơ địa do ấu trùng C. cellulosae

xảy ra ở 60 trong số 63 tỉnh thành của Việt Nam.

Lấy mẫu máu người để chẩn đoán huyết thanh bệnh ấu trùng sán dây tại xã

Phú Nghĩa, xã Đak Ơ và Bù Gia Mập của huyện Bù Gia Mập - tỉnh Bình Phước, kết

quả cho thấy: có 108/904 mẫu máu dương tính, chiếm tỷ lệ 11,95%. Trong đó xã Phú

Nghĩa 9,19 % (26/283 mẫu xét nghiệm); xã Đăk Ơ 14,9 % (48/322 mẫu xét nghiệm);

xã Bù Gia Mập 11,37 % (34/299 mẫu xét nghiệm) (Lê Thành Đồng, 2018 [10]).

Thông qua phỏng vấn 342 người từ 190 hộ gia đình ở 6 làng thuộc 3 huyện

của tỉnh Đăk Lăk. Kết quả như sau: Có 47/190 hộ có nhà vệ sinh, chiếm tỷ lệ 25%

(biến động từ 19% đến 32%, khoảng tin cậy 95%); có 48/190 hộ sử dụng nước sinh

hoạt hàng ngày từ hồ, suối hoặc ao, chiếm tỷ lệ 25% (biến động từ 19% đến 32%),

có 193/342 người làm nông nghiệp, chiếm tỷ lệ 87% (biến động từ 80% đến 88%)

(Nguyen D. và cs., 2018 [102]).

Từ năm 2000 đến 2004 Viện sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương

đã khám và điều trị trên 700 trường hợp bệnh mắc bệnh ấu trùng C. cellulosae.

Trong đó, 84% số trường hợp có các biểu hiện: động kinh, liệt, mù mắt, tăng áp lực

nội sọ hoặc tử vong do bại não (Lê Bách Quang, 2008 [32]).

Theo Bộ Y tế (2019) [3], trong những năm gần đây, tỷ lệ người nhiễm ấu

trùng C. cellulosae có khuynh hướng tăng lên, do điều kiện vệ sinh môi trường việc

quản lý giết mổ lợn chưa chặt chẽ. Những người đã nhiễm sán dây T. solium vừa

phát tán mầm bệnh ra môi trường, vừa có nguy cơ tự gây nhiễm bệnh ấu trùng cho

bản thân. Từ năm 2013 đến 2018 đã có 2.123 bệnh nhân điều trị ấu trùng sán dây ở

Viện sốt rét - Ký sinh trùng - Công trùng Trung ương. Các bệnh nhân đến từ 31 tỉnh

thành, chủ yếu là các tỉnh phía Bắc như tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Thanh Hóa,

Lạng Sơn, Hà Nội và Sơn La.

26

Xét về mặt kinh tế, điều trị cho một bệnh nhân mắc bệnh gạo rất tốn kém, có

thể gấp 140 lần kinh phí để điều trị cho một bệnh nhân mắc bệnh sán dây trưởng

thành (Nguyễn Văn Đề, 2013 [8]).

2.2. Nghiên cứu ở nước ngoài

2.2.1. Bệnh gạo lợn do ấu trùng Cysticercus cellulosae gây ra

Theo Andriantsimahavandy A. (2003) [55], Garcia H.H. (2014) [79], bệnh ấu

trùng C. cellulosae ở lợn phân bố cả ở các vùng nông thôn và thành thị của các nước

đang phát triển.

Lợn nhiễm ấu trùng C. cellulosae do ăn thức ăn, nước uống có lẫn đốt hoặc

trứng sán dây T. solium được thải ra theo phân của những người nhiễm sán dây

(Bouteille B., 2004 [63], Satyaprakash K., 2018 [117].

* Sự lưu hành bệnh gạo lợn ở các vùng, các khu vực thường khác nhau theo

thời gian nghiên cứu

Gamble H.R. (1997) [76] cho biết: tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn

năm 1962 là 14,9%, năm 1989 là 9,9%, năm 1997 là l,l% - 2,6%.

Theo Phiri I.K. (2003) [106], tại phía tây nam của Kenya, tỷ lệ nhiễm ấu trùng

C. cellulosae ở lợn biến động từ 10% đến 14%. Các cuộc điều tra năm 1998 và

1999 ở Kampala cho thấy, tỷ lệ nhiễm ấu trùng ở lợn là 0,12 - 1,2%. Năm 2002,

điều tra 297 lợn tại huyện Lira của Kampala thấy, tỷ lệ nhiễm ấu trùng là 33,7%. Ở

Mozambique, tỷ lệ lợn nhiễm ấu trùng C. cellulosae là 15%. Tại Zimbabwe, các

cuộc điều tra từ năm 1994 đến năm 2001 cho thấy, tỷ lệ lợn nhiễm ấu trùng

C. cellulosae là 0,34%.

Phiri I. K. (2003) [106] đã kiểm tra 1.316 lợn giết mổ tại lò mổ ở Lusaka thấy:

20,6% số lợn có các nốt sần do ấu trùng C. cellulosae gây ra trên da. Xét nghiệm huyết

thanh của 874 lợn, có 56,6% số lợn có kháng thể kháng ấu trùng trong huyết thanh.

Borkataki S. và cs. (2011) [61] đã kiểm tra 980 lợn bằng phương pháp ELISA,

trong đó có 93 con lợn dương tính với ấu trùng C. cellulosae, tỷ lệ nhiễm là 9,5%.

Tỷ lệ nhiễm ấu trùng cao ở quận KarbiAnglong của Ấn Độ là 13,7% và tỷ lệ nhiễm

thấp hơn ở quận Nagaon là 7,55%.

Ana-Maria Oleleu và cs. (2016) [54] đã kiểm tra huyết thanh của lợn ở phía

tây Bắc Romania bằng phương pháp ELISA, có 6,4% lợn dương tính với ấu trùng

C. cellulosae.

Khaing T.A. và cs. (2015) [88] kiểm tra 300 lợn tại các lò mổ, 364 lợn tại các

cơ sở tự do và 203 hộ gia đình trong khu vực Nay Pyi Taw, Myanmar. Tác giả thấy

27

tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae tại các lò mổ là 23,67%, tại các cơ sở tự do là

15,93%, tỷ lệ nhiễm ấu trùng theo hệ thống chăn nuôi là 5,1%, theo loại thức ăn

chăn nuôi là 16,5%.

Vị trí ký sinh của ấu trùng cũng được một số tác giả nghiên cứu và báo cáo

Theo Borkataki S. và cs. (2013) [62], ở lợn mắc bệnh ấu trùng C. cellulosae có thể

quan sát thấy có sự tăng tiết nước bọt nhưng không thấy có nốt sần dưới da. Tác giả đã gây nhiễm trứng sán dây T. solium cho lợn con với liều 1 x 105 trứng /con. Theo dõi lợn gây nhiễm thấy: ở ngày thứ 65 sau gây nhiễm, lợn có biểu hiện tăng trương lực của mắt

và chảy nước mắt, tăng lympho bào, tăng bạch cầu ái toan và bạch cầu trung tính. Khi

lợn nhiễm ấu trùng C. cellulosae nhẹ thường ít quan sát thấy dấu hiệu lâm sàng, lợn

dường như vẫn khỏe mạnh bình thường (Trevisan C. và cs., 2016 [128]).

Theo dõi trên 16 lợn mắc bệnh và 15 lợn không mắc bệnh (đối chứng) ở

Tanzania (Trevisan C. và cs., 2016 [128]) thấy: có 2 lợn mắc bệnh biểu hiện động

kinh, đi vòng tròn, một số lợn có biểu hiệu chảy nước dãi, vã mồ hôi. Mổ khám 2

lợn có biểu hiện động kinh tìm thấy nhiều ấu trùng ký sinh ở não. Những lợn mắc

bệnh khác khi mổ khám đều thấy có ấu trùng trong não.

Trevisan C. và cs. (2017) [129] đã theo dõi 13 lợn nái bị nhiễm ấu trùng C.

cellulosae tự nhiên và 15 lợn nái không bị nhiễm ấu trùng ở Tanzania trong 2

tuần liên tiếp, thấy: lợn nái mắc bệnh có biểu triệu chứng thần kinh, ăn ít hơn,

biểu hiện thụ động hơn, nằm và đứng yên nhiều hơn trong ngày, thường tách

đàn. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy, triệu chứng thần kinh đã làm thay đổi

vận động của lợn nái bị mắc bệnh. Những thay đổi về vận động thấy ở tất cả số

lợn nái mắc bệnh.

* Ngoài gây tổn thương não, ấu trùng C. cellulosae còn gây tổn thương nhiều

khí quan khác của lợn

Kaur M. (1995) [87] cho biết: ấu trùng C. cellulosae gây tổn thương gan, phổi

và cơ bắp của lợn.

De Aluja A.S. và cs. (1998) [67] đã mổ khám lợn mắc bệnh gạo ở các lứa tuổi.

Kết quả thấy: lợn từ 2 đến 4 tuần tuổi ấu trùng gây tổn thương nhiều ở gan. Lợn từ 4

đến trên 6 tháng tuổi, ấu trùng gây tổn thương nhiều ở cơ bắp.

Ấu trùng C. cellulosae có thể nhiễm vào lợn rất sớm. Một nghiên cứu cho

thấy, lợn giết mổ ở 90 ngày tuổi đã thấy ấu trùng phát triển và gây bệnh tích ở gan,

phổi, lách và cơ. Các vùng tổn thương ở lợn bệnh dần bị thoái hóa, xung quanh vị

trí ấu trùng ký sinh hình thành các u hạt. Khi ấu trùng C. cellulosae ký sinh ở mắt

28

gây tăng nhãn áp, tạo màng nhầy và làm chảy nước mắt, làm mờ mắt hoặc mù mắt

(Borkataki S. và cs., 2013 [62]).

* Sự lưu hành bệnh gạo lợn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như tình

trạng vệ sinh thú y, giống lợn, thời tiết, khí hậu, tuổi, tính biệt...

Assana E. và cs. (2010) [56] đã điều tra ở 150 hộ gia đình chăn nuôi với số

lượng là 1.756 lợn tại khu vực nông thôn của phân khu Mayo-Danay, phía Bắc của

Cameroon để thu thập thông tin về chăn nuôi lợn và xác định các yếu tố nguy cơ

mắc bệnh ấu trùng C. cellulosae ở lợn. Kết quả điều tra cho thấy: 42,7% số hộ nuôi

lợn ở khu vực nông thôn không có nhà vệ sinh; 76% số người thường đi đại tiện

ngoài trời. Số liệu điều tra phản ánh thực trạng tập quán sinh hoạt của người dân

còn rất lạc hậu, từ đó dẫn đến người dễ mắc bệnh sán dây và lợn dễ mắc bệnh gạo.

Hiện nay, bệnh do ấu trùng C. cellulosae ở lợn tại các nước phát triển đã cơ bản

được khống chế, song vẫn còn khá phổ biến ở các nước đang phát triển, điều kiện kinh tế

khó khăn, trình độ dân trí chưa cao, tình trạng vệ sinh thú y còn nhiều hạn chế (García H.

H. và cs., 2011 [77], Pray I.W. và cs., 2016 [109], Nativel P. và cs., 2016 [99]).

Khi nghiên cứu về bệnh ấu trùng C. cellulosae ở lợn tại huyện Soroti của

Uganda, thấy lợn mắc bệnh chủ yếu do người chăn nuôi đầu tư cho quá trình chăn

nuôi và công tác thú y chưa tốt, tình trạng nuôi lợn thả rông vẫn còn phổ biến đã tạo

điều kiện cho sán dây T. solium hoàn thành vòng đời, từ đó gây bệnh sán dây ở

người và gây bệnh gạo ở lợn (Zirintunda G. và Ekou J., 2015 [132]).

Lợn trưởng thành có nguy cơ bị nhiễm ấu trùng C. cellulosae cao, những lợn

nuôi lâu có điều kiện tiếp xúc với trứng của sán dây T. solium nhiều hơn những lợn

nhỏ. Có nghiên cứu cho rằng, lợn nhỏ có thời gian tiếp xúc với môi trường sống

chưa nhiều, đồng thời thời gian tiếp xúc với môi trường có trứng sán dây ít hơn nên

tỷ lệ mắc bệnh thấp hơn (Sarti E. 1994 [116], Pouedet M.S., 2002 [107], Jayashi

C.M., 2012 [84]).

Theo Onah D.N. và Chiejina S.N. (1995) [104], mùa vụ trong năm không ảnh

hưởng nhiều đến tỷ lệ mắc bệnh ấu trùng C. cellulosae ở lợn. Tuy nhiên, De. Aluja

A.S. và cs. (1998) [67], Porphyre V. và cs. (2015) [108] cho biết: mùa vụ trong năm

có ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ lợn nhiễm ấu trùng C. cellulosae. Lợn mắc bệnh ấu

trùng nhiều hơn vào mùa mưa.

Karshima N.S. cs. (2013) [86] cho biết: lợn ở bang Taraba, Nigeria mắc bệnh

ấu trùng C. cellulosae tập trung vào tháng 7 và tháng 9 trong năm (tháng 7 là

0,82%, tháng 9 là 0,84%). Các tháng 1, 2, 4, 5 và 6, tỷ lệ mắc bệnh lần lượt là 0,5%,

29

0,39%, 0,78% và 0,71%. Tỷ lệ mắc bệnh ở tháng 10, 11 và 12 lần lượt là 0,41%,

0,37% và 0,27%.

Borkataki S và cs. (2011) [61] kiểm tra 980 lợn ở quận Morigaon, huyện

Nagaon và Kabianglong bang Assam của Ấn Độ bằng phương pháp ELISA, có 93

con lợn dương tính với ấu trùng C. cellulosae, tỷ lệ là 9,5%. Lợn từ 7 - 12 tháng

tuổi mắc bệnh với tỷ lệ 11,41%, ở lợn từ 19 - 24 tháng tuổi là 7,6%. Tỷ lệ nhiễm ấu

trùng C. cellulosae ở lợn đực và lợn cái lần lượt là 9,15 và 10,39%.

Onah D.N. và Chiejina S.N. (1995) [104], Chummy S. và cs. (2008) [65] cho

biết, tuổi lợn và tính biệt của lợn có ảnh hưởng không nhiều đến tỷ lệ mắc ấu trùng

C. cellulosae ở lợn. Tuy nhiên, nghiên cứu của Madinga J. và cs. (2017) [92] lại chỉ

ra rằng, tuổi lợn có ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ mắc bệnh ấu trùng C. cellulosae.

Biu A. A. và Ljudai J. (2012) [58] cho biết, trong số 247 lợn giết mổ ở

bang Adamawa của Nigeria có 8 lợn nhiễm ấu trùng, chiếm tỷ lệ 3,2%. Có 5 lợn

đực nhiễm ấu trùng C. cellulosae với tỷ lệ là 2,7% và 3 lợn cái với tỷ nhiễm ấu

trùng với tỷ lệ là 5,1%.

Karshima N.S. cs. (2013) [86] đã kiểm tra 4380 lợn ở Taraba Nigeria, có 274

lợn mắc bệnh ấu trùng C. cellulosae, tỷ lệ nhiễm là 6,25%. Tỷ lệ mắc bệnh ở lợn cái là

3,72% (163/4380) và lợn đực là 2,54% (111/4380).

Nghiên cứu trên 947 lợn tại Patna, Singh G và cs. (2013) [121] cho biết, có 24

lợn bị nhiễm ấu trùng C. cellulosae, chiếm tỷ lệ 2,53%. Lợn đực mắc bệnh ấu trùng

nhiều hơn so với lợn cái.

Chummy S. và cs. (2008) [65] đã kiểm tra huyết thanh lợn tại các tỉnh phía

Đông, Nam và Tây của nước cộng hòa Zambia bằng phương pháp ELISA, thấy tỷ lệ

mắc bệnh ấu trùng C. cellulosae của giống lợn lai có tỷ lệ nhiễm bệnh cao hơn 72%

so với giống lợn địa phương.

Karshima N.S. và cs. (2013) [86] cho biết: giống lợn địa phương ở bang

Tazaba, Nigeria mắc bệnh ấu trùng C. cellulosae với tỷ lệ 5,32% (233/4380) và

0,94% (41/4380) ở các giống lợn khác.

Nghiên cứu về tỷ lệ mắc bệnh trên lợn ngoại và lợn bản địa, Porphyre V. và

cs. (2015) [108] nhận thấy: lợn bản địa mắc bệnh ấu trùng C. cellulosae nhiều hơn

so với lợn ngoại.

30

Singh S.P. (2018) [123], Rojas R.G. (2019) [113] đã mổ khám 19 lợn mắc

bệnh ấu trùng C. cellulosae, thấy lợn có thể có từ 526 đến 1964 ấu trùng/lợn, trung

bình có 897 ấu trùng trên mỗi lợn mổ khám.

Theo Sekar M. và cs. (2018) [118], ở Ấn Độ, tỷ lệ lợn mắc bệnh ấu trùng

C. cellulosae biến động từ 2 đến 38%, tỷ lệ này phụ thuộc vào tình trạng vệ sinh

chăn nuôi và điều kiện kinh tế của người dân.

* Chẩn đoán bệnh gạo cho lợn

Kaur M. (1995) [87] đã phát hiện được kháng thể kháng kháng nguyên của ấu

trùng C. cellulosae trong huyết thanh của lợn gây nhiễm vào ngày thứ 25, 45 và 55.

Từ đó, tác giả cho rằng có thể sử dụng phương pháp huyết thanh học để chẩn đoán

bệnh ấu trùng C. cellulosae trên lợn.

* Phòng chống bệnh gạo cho lợn

Để phòng chống bệnh gạo trên lợn, trước hết cần có những biện pháp tác động

trên con người, nhằm làm cho người không bị bệnh sán dây T. solium. Một trong các

biện pháp rất quan trọng là người không ăn thịt lợn mắc bệnh gạo chưa nấu chín,

hoặc không ăn thịt lợn mắc bệnh gạo chưa được xử lý để làm chết ấu trùng.

Sotelo J. (1986) [125] đã nghiên cứu và cho biết thời gian sống của ấu trùng C. cellulosae ở một số mức nhiệt độ như sau: Ở nhiệt độ - 5oC ấu trùng sống được 4 ngày, -15oC ấu trùng sống được 3 ngày và ở - 24oC ấu trùng sống được 1 ngày. Theo tác giả, vấn đề xử lý thịt với nhiệt độ thích hợp để tiêu diệt ấu trùng là biện

pháp đơn giản để phòng bệnh sán dây T. solium cho người.

Theo Rodriguez - Canul R. (2002) [112], do nhu cầu sử dụng thịt lợn ngày càng

tăng nên khâu kiểm tra và bảo quản thực phẩm rất quan trọng. Thịt lợn mắc bệnh ấu

trùng C. cellulosae nếu ngâm trong nước muối đặc thì ấu trùng chết sau 12 - 24 giờ.

Các món ăn chế biến từ thịt lợn được làm chín cũng đều diệt được ấu trùng.

Để kiểm soát thành công bệnh gạo lợn cần thực hiện tốt các nội dung sau:

Cung cấp thông tin về dịch tễ của bệnh sán dây T. solium tới người dân, người tiêu

dùng, các nhà hoạch định chính sách của Chính phủ và các Ủy ban liên quan đến

phân bổ nguồn lực và đào tạo; Thực hiện các cuộc điều tra dịch tễ ở lợn và người tại

các vùng khác nhau của các Quốc gia; Sử dụng thuốc điều trị bệnh sán dây cho

người dưới sự hướng dẫn của nhân viên Y tế và bệnh ấu trùng C. cellulosae cho lợn

với sự hướng dẫn của cán bộ Thú y; Thiết lập các tiêu chuẩn về vệ sinh thịt và kiểm

tra, cung cấp các kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực chăn nuôi thú y, cải thiện

31

điều kiện chăn nuôi lợn và thực hành giết mổ theo đúng quy trình sẽ là những biện

pháp hữu ích trong việc giảm thiểu tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở người và tỷ lệ

nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn và người (Kungu J. M., 2015 [89]).

Johasen M.V. và cs. (2016) [85], Gabriel S. và cs. (2017) [75] cho rằng: thông

qua giáo dục sức khỏe cộng đồng có thể làm thay đổi thói quen ăn thịt sống, thịt tái

của con người, từ đó giảm nguy cơ lây nhiễm bệnh, nhằm hạn chế thấp nhất nguy

cơ lợn mắc bệnh gạo.

Quản lý lợn giết mổ tại lò mổ là biện pháp tốt nhất để hạn chế thịt lợn gạo lưu

hành ra thị trường. Meester M. (2019) [95] cho biết, lợn giết mổ tại các hộ gia

đình chăn nuôi nhỏ lẻ tại 5 quốc gia Châu Âu là: Bulgazia, Đức, Ba Lan,

Romaria và Tây Ban Nha có tỷ lệ mắc ấu trùng C. cellulosae cao hơn 13,8 lần so

với lợn được giết mổ tại các lò mổ tập trung. Lợn nuôi theo quy trình an toàn

sinh học thì tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae đã giảm thấp hơn nhiều so với lợn

nuôi không đảm bảo an toàn sinh học. Thông qua kiểm soát giết mổ lợn tập trung

tại lò mổ đã làm giảm nguy cơ mắc bệnh sán dây T. solium ở người, từ đó hạn

chế người mắc bệnh gạo.

Cai X. và cs. (2008) [66] đã thử nghiệm vắc xin phòng bệnh gạo cho lợn, kết

quả cho thấy: vắc xin chế từ kháng nguyên TSOL18 tái tổ hợp đã làm giảm từ 94%

đến 100% số lợn mắc bệnh bệnh gạo so với đối chứng. Đây là những kết quả rất hứa

hẹn trong việc phát triển hiệu quả công cụ để kiểm soát bệnh C. cellulosae ở Châu Á.

Theo Lightowlers M.W. và cs. (2016) [90], phản ứng kháng thể được đánh giá

ở lợn được tiêm phòng bằng vắc xin Taenia solium TSOL18. Phản ứng chống lại

vắc xin TSOL18 được so sánh 2 tuần sau khi chủng ngừa thứ cấp, trong đó khoảng

cách giữa chủng ngừa tiên phát và thứ phát là 4, 8, 12, 16 hoặc 20 tuần. Tất cả lợn

được tiêm phòng đã phản ứng với vắc-xin và không có sự giảm bớt trong các phản

ứng kháng thể ở động vật được tiêm mũi thứ hai sau một khoảng thời gian lên đến

20 tuần. Lợn được tiêm vắc xin trong khoảng thời gian 12 tuần đã xuất hiện các

phản ứng kháng thể tăng đáng kể so với các động vật được tiêm phòng cách nhau 4

tuần. Do đó, khả năng tiêm phòng vắc xin TSOL18 hiệu quả trong đó lịch trình tái

xác định có thể bị trì hoãn đến 12 - 16 tuần ở lợn làm tăng các lựa chọn có sẵn để

thiết kế các biện pháp can thiệp kiểm soát T. solium kết hợp tiêm vắc xin TSOL18.

Ấu trùng cũng có thời gian sống nhất định trên cơ thể ký chủ.

Theo Nash T.E. (2008) [98], ấu trùng C. cellulosae có thể tồn tại nhiều năm

trong cơ thể vật chủ (lợn hoặc người), nhưng cuối cùng chúng cũng dần bị thoái hóa.

32

Sau nhiều năm ấu trùng ký sinh, chất lỏng trong nang dần trở nên đặc và đục. Lúc này

ấu trùng chết và không còn khả năng gây bệnh sán dây cho người.

Về nguyên nhân mắc bệnh gạo ở lợn, De Aluja A.S. và cs. (1998) [67],

Madinga J. và cs. (2017) [92] cho biết: quản lý đàn lợn không chặt chẽ là nguyên

nhân lợn mắc bệnh ấu trùng C. cellulosae. Từ đó mà sự hiểu biết về mối liên hệ lây

nhiễm giữa lợn và người rất quan trọng để xây dựng chiến lược kiểm soát bệnh một

cách hiệu quả.

Để phòng bệnh gạo cho lợn nuôi ở phía Đông, Nam và Tây của Zambia, cần

hạn chế làm nhà vệ sinh cho người một cách tạm bợ ở những nơi gần bụi rậm, vì

lợn có thể tiếp cận dễ dàng với phân người và mắc bệnh ấu trùng sán dây

(Sikasunge C.S. và cs., 2008 [119]).

Ngoài ra, nuôi nhốt lợn trong chuồng, đồng thời xây dựng chuồng nuôi lợn

cách xa khu nhà ở cũng là biện pháp phòng bệnh gạo cho lợn một cách hiệu quả ở

huyện Sorito, Ugandan (Zirintunda G. và Ekou J., 2015 [132]).

Gonzalez A.E. (2001) [80] đã điều trị cho 20 lợn mắc bệnh gạo bằng thuốc

oxfendazole. Sau điều trị, kiểm tra lợn thấy ấu trùng C. cellulosae đã chết và thoái

hóa ở trong cơ. Như vậy, thuốc oxfendazole đã có tác dụng diệt ấu trùng ở lợn.

Liu Y.J. và cs. (2003) [91] đã điều trị cho lợn mắc bệnh gạo bằng thuốc

oxfendazole với một liều duy nhất (30 mg/kg TT), theo dõi thấy: ở ngày thứ nhất

sau khi điều trị, không có sự thay đổi về hình dạng và cấu tạo của ấu trùng. Sau 5

ngày điều trị, ấu trùng C. cellulosae đã có sự thoái hóa tiến triển. Sau 45 ngày điều

trị, tất cả các ấu trùng đều bị vôi hóa. Những kết quả này cũng cho thấy, thuốc

oxfendazole có hiệu quả cao trong điều trị bệnh ấu trùng C. cellulosae ở lợn.

Assana E. và cs. (2010) [56] đã điều trị bệnh ấu trùng C. cellulosae bằng thuốc

praziquantel liều 15 mg/ kg thể trọng, liệu trình 30 ngày trên lợn gây nhiễm trứng

sán dây T. solium. Kết quả mổ khám sau điều trị cho thấy thuốc có tác dụng tốt

trong điều trị bệnh ấu trùng cho lợn.

Các nỗ lực để kiểm soát và khống chế bệnh gạo lợn đang được tiến hành thông

qua các biện pháp như: dùng thuốc steroid để điều trị triệu chứng; dùng thuốc để

tiêu diệt ấu trùng ký sinh trong cơ thể; chế tạo vắc xin phòng bệnh cho lợn và các

biện pháp khác (García H. H. và cs., 2011 [77]).

Singh A. (2015) [120] đã tiến hành điều trị cho lợn mắc bệnh gạo ở nhóm 1

bằng thuốc albendazole và lợn ở nhóm 2 bằng albendazole kết hợp với steroid

33

(prednisone). Theo dõi lợn ở nhóm 1 và nhóm 2 bằng chụp cộng hưởng từ ở tuần

thứ 6 và tuần thứ 12 sau điều trị. Kết quả thấy, dùng thuốc albendazole để điều

trị có tác dụng tốt hơn so với dùng thuốc albendazole kết hợp với steroid (tỷ lệ

khỏi bệnh 94,11% so với 70,96%). Những lợn có nhiều ấu trùng ở não được điều

trị bằng thuốc albendazole kết hợp với steroid không diệt được hết ấu trùng, một

số ấu trùng vẫn sống sót sau điều trị. Ngược lại, thuốc albendazole có tác dụng

tốt trong điều trị bệnh.

Sau kết quả nghiên cứu thuốc điều trị bệnh gạo lợn, Zirintunda G. và Ekou J.

(2015) [132] đã khuyến cáo, khi lợn mắc bệnh ấu trùng C. cellulosae có thể điều trị

bằng thuốc albendazole và oxfendazole để hạn chế tác hại của ấu trùng trên lợn.

Sử dụng thuốc điều trị bệnh ấu trùng C. cellulosae ở lợn, Vargas - Callal A. và cs.

(2016) [130] cho biết: thuốc albendazol liều 30 mg /kg TT, lặp lại 3 lần được dùng

điều trị cho lô thí nghiệm 1; thuốc oxfendazole liều 30 mg/kg một lần duy nhất cho

lô thí nghiệm 2. Sau 17 tuần điều trị thấy, lợn được điều trị bằng thuốc oxfendazole

với liều duy nhất thì thấy ấu trùng chết và thoái hóa, thuốc albendazol liều gấp 3 lần

thấy tác dụng diệt ấu trùng kém hơn.

2.2.2. Bệnh ấu trùng Cysticercus cellulosae trên người

* Tỷ lệ mắc bệnh ấu trùng C. cellulosae liên quan đến yếu tố vùng, miền

Theo Amatya B.M. và Kimula Y. (1999) [53], bệnh do ấu trùng C. cellulosae gây

ra ở người là một vấn đề báo động tới sức khỏe của cộng đồng ở nhiều nước đang phát

triển trên thế giới.

Andriantsimahavandy A. (2003) [55]; Bouteille B. (2004) [63] cho biết: ở bán

đảo Madagascar, người mắc bệnh ấu trùng C. cellulosae do ăn hoặc uống nước có

lẫn trứng hoặc đốt sán dây khá nhiều. Việc chế biến thực phẩm không đảm bảo vệ

sinh có thể làm đốt hoặc trứng sán lẫn vào thực phẩm. Tỷ lệ mắc bệnh biến động

từ 7 đến 21% ở các tỉnh khác nhau, các vùng ven biển tỷ lệ mắc dưới 10%, các

khu vực khác có tỷ lệ nhiễm là 20%.

Ấu trùng ký sinh gây tác hại lớn đến sức khỏe của người và là nguyên nhân

hàng đầu gây bệnh động kinh. Hiện nay, bệnh do ấu trùng C. cellulosae ở người tại

các nước phát triển đã cơ bản được khống chế, song vẫn còn khá phổ biến ở các

nước đang phát triển, điều kiện kinh tế khó khăn, trình độ dân trí chưa cao (García

H. H. và cs., 2011 [77], Pray I.W. và cs., 2016 [109], Nativel P. và cs., 2016 [99]).

34

* Sự lưu hành bệnh ấu trùng sán dây trên người phụ thuộc vào tập quán

sinh hoạt, tuổi, giới tính...

Sự liên quan giữa bệnh ấu trùng C. cellulosae ở người với giới tính và các giai

đoạn tuổi vẫn còn chưa thống nhất. Amatya B.M. và Kimula Y. (1999) [53] cho

biết, hầu như không có sự khác biệt về tỷ lệ mắc bệnh giữa nam và nữ (tỷ lệ mắc ở

nam là 0,28% và ở nữ là 0,24%). Tuy nhiên, Andriantsimahavandy A. (2003) [55],

Madinga J. và cs. (2017) [92] cho rằng, bệnh do ấu trùng C. cellulosae thấy ở mọi

lứa tuổi, tỷ lệ mắc bệnh ở phụ nữ cao hơn nam giới. Del Brutto O.H. (2013) [70]

cho biết, tỷ lệ mắc bệnh ấu trùng C. cellulosae ở người từ 20 đến 50 tuổi cao hơn ở

các lứa tuổi khác.

Đánh giá các yếu tố nguy cơ liên quan đến lây truyền bệnh sán dây T. solium

và bệnh ấu trùng C. cellulosae trong cộng đồng tại Venezuela, Rojas R.G. (2019)

[113] cho biết: 100% số hộ gia đình thiếu nước máy; 87% số hộ gia đình không có

nhà vệ sinh; 88% số người dân thường xuyên đi đại tiện ngoài môi trường; 19,05%

số người thấy có đốt sán trong phân.

* Vị trí ký sinh của ấu trùng trong cơ thể người

Ấu trùng có thể ký sinh ở tổ chức dưới da. Theo thống kê của Amatya

B.M., và Kimula Y. (1999) [53], có tới 82% số bệnh nhân có các nốt sần dưới da,

10% có các nốt ở niêm mạc miệng và 8% có nốt sần ở vú.

Ấu trùng C. cellulosae ký sinh ở phổi và tim của người là những trường hợp

rất hiếm và thường có triệu chứng không rõ rệt. Tuy nhiên, có trường hợp một

thanh niên 19 tuổi có biểu hiện đau đầu và nôn, người ta phát hiện thấy ấu trùng

C. cellulosae ký sinh ở phổi và tim. Đây là trường hợp hiếm xảy ra và là minh

chứng cho vị trí đa dạng mà ấu trùng có thể ký sinh (Bharat K., 2010 [59]).

Sự phân bố của ấu trùng C. cellulosae trong cơ thể người theo thứ tự giảm dần

từ cơ bắp, cơ bụng, cơ ngực, cơ lưỡi và cơ tim (Borkataki S. và cs., 2013 [62]).

Ngoài ra, ấu trùng còn ký sinh ở các vị trí khác nhau như mô dưới da, tim, gan, phổi

và phúc mạc (Malik S. 2017 [93]).

* Biểu hiện lâm sàng của người mắc bệnh ấu trùng sán dây

Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), bệnh ở hệ thần kinh của người do ấu trùng

C. cellulosae là một bệnh nhiệt đới bị bỏ quên. Ước tính có khoảng 50 triệu người

trên toàn thế giới mắc bệnh thần kinh và gây ra khoảng 50.000 ca tử vong mỗi năm.

Biểu hiện lâm sàng thường gặp nhất của bệnh nhân mắc bệnh ấu trùng là co giật,

tăng huyết áp nội sọ và đôi khi là các biểu hiện tâm thần. Các biểu hiện lâm sàng

35

của bệnh ấu trùng C. cellulosae khi mới nhiễm và khi ấu trùng đã phát triển hoàn

thiện trong cơ thể rất khác nhau. Biểu hiện lâm sàng của bệnh nhân thường phụ

thuộc vào số lượng ấu trùng và vị trí ấu trùng ký sinh, cũng như đáp ứng miễn dịch

của vật chủ với ký sinh trùng (dẫn theo Bouteille B., 2004 [63]).

Ở người, khi bị ấu trùng C. cellulosae ký sinh ở não thì 30% số người bệnh có

triệu chứng thần kinh. Như vậy, tỷ lệ người bệnh có ấu trùng ký sinh ở não khá phổ

biến (Montano S.M., 2005 [96], Del Brutto O.H., 2005 [68], Ndimubanzi P.C., 2010

[100], Medina M.T., 2011 [94]).

Chứng rối loạn thần kinh do ấu trùng C. cellulosae ký sinh trong não thấy ở

những người lớn tuổi. Triệu chứng viêm, rối loạn thần kinh thường gặp ở trẻ em và

phụ nữ với mức độ nghiêm trọng hơn (Fleury A., 2010 [73], Del Brutto V.J., 2012 [69]).

Theo Del Brutto O.H. (2013) [70], biểu hiện lâm sàng của người mắc bệnh ấu

trùng C. cellulosae ở các giai đoạn tuổi cũng có sự khác nhau.

Trevisan C. và cs. (2016) [128], Ahmad R. và cs. (2017) [52], Singhi P. (2019)

[122] cho biết, bệnh do ấu trùng C. cellulosae gây ra ở người có triệu chứng rối loạn

thần kinh nghiêm trọng. Fleury A. (2011) [74]) cho rằng: khi ấu trùng ký sinh trong

não thì tiên lượng rất xấu vì có nguy cơ tử vong cao. Khi ký sinh ở não, ấu trùng

gây tổn thương não.

Hobbs E.C. (2018) [83], Mwape K.E. (2018) [97] đã điều tra 271 người mắc

bệnh. Kết quả như sau: có 12% số người có các cơn co giật; 36% số người thường

xuyên đau đầu; 23% số người có vấn đề về thị lực.

* Chẩn đoán bệnh ấu trùng sán dây ở người

Bệnh do ấu trùng C. cellulosae ở người có thể được chẩn đoán bằng hình ảnh

X quang hoặc chụp cộng hưởng từ MRI (Magnetic resonance imaging). Tuy nhiên,

việc phát hiện ấu trùng bằng phương pháp tế bào học hoặc mô bệnh học vẫn là tiêu

chuẩn vàng. Xét nghiệm tế bào học bằng kỹ thuật chọc kim mịn (Fine needle

aspiration cytology - FNAC) đóng vai trò quan trọng trong chẩn đoán kịp thời căn

bệnh này (Malik S., 2017 [93], Youfei Chen và cs., 2017 [131], Bhardwaj S., Rather

G., 2019 [60]).

* Phòng và điều trị bệnh ấu trùng sán dây ở người

Gascon J. và cs. (1989) [81] đã sử dụng thuốc praziquantel với liều 20 mg/kg

thể trọng x 3 lần trong ngày cho người mắc bệnh ấu trùng C. cellulosae. Kết quả cho

thấy, thuốc có tác dụng tốt với ấu trùng ký sinh ở dưới da và cơ bắp.

36

Theo Hồ Sỹ Triều (2012) [48], sử dụng thuốc praziquantel với liều 20 mg/kg

thể trọng, dùng liều duy nhất vào ngày đầu tiên và albendazol với liều 20 mg/kg thể

trọng, chia 2 lần/ngày x 20 ngày tiếp theo x 3 đợt, mỗi đợt cách nhau 20 ngày. Kết

quả điều trị khỏi bệnh đối với bệnh nhân mắc ấu trùng C. cellulosae ký sinh dưới da -

cơ là 91,5%; ấu trùng ký sinh ở não là 54,7%.

Năm 2012 Tanzania đã chi 5 triệu USD cho công tác phòng và trị bệnh cho

người nhiễm ấu trùng C. cellulosae và 3 triệu USD cho người bị nhiễm sán dây

T. solium (dẫn theo Trevisan C., 2017 [129]).

37

CHƯƠNG 2

ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu

Lợn các lứa tuổi nuôi ở nông hộ tại 6 huyện thuộc tỉnh Sơn La và Điện Biên.

Bệnh gạo lợn.

2.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu

* Địa điểm nghiên cứu:

- Địa phương lấy mẫu:

Đề tài được thực hiện ở 3 huyện của tỉnh Sơn La (Bắc Yên, Mường La, Mai

Sơn) và 3 huyện của tỉnh Điện Biên (Mường Ảng, Tủa Chùa, Nậm Pồ).

- Địa điểm xét nghiệm mẫu:

+ Phòng thí nghiệm Khoa Chăn nuôi Thú y - Trường ĐH Nông Lâm Thái Nguyên.

+ Viện Công nghệ sinh học.

+ Viện Khoa học sự sống - Đại học Thái Nguyên.

+ Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên.

* Thời gian nghiên cứu: 2016 - 2019.

2.2. Vật liệu nghiên cứu

2.2.1. Động vật và các loại mẫu nghiên cứu

* Động vật nghiên cứu:

- Lợn các lứa tuổi nuôi ở nông hộ tại tỉnh Sơn La và Điện Biên (xác định tỷ lệ

nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn).

- Lợn lai F1 (Landrace x Móng Cái), 2 tháng tuổi, khỏe mạnh, khối lượng 17 -

18 kg/con: 41 con (trong đó có 21 lợn bố trí thí nghiệm nghiên cứu đặc điểm bệnh

lý và lâm sàng; 20 lợn bố trí thử nghiệm thuốc điều trị bệnh gạo).

Toàn bộ số lợn thí nghiệm được sinh ra từ lợn mẹ khỏe mạnh, nuôi dưỡng

trong môi trường đảm bảo vệ sinh thú y, ăn hoàn toàn thức ăn tổng hợp; lợn con

sinh ra được quản lý, nuôi dưỡng và vệ sinh thú y nghiêm ngặt, kết quả xét nghiệm

huyết thanh âm tính với kháng nguyên của sán dây T. solium.

* Mẫu nghiên cứu:

- Sán dây T. solium

38

- Mẫu máu lợn gây nhiễm và mẫu máu lợn khỏe.

- Mẫu tim, gan, phổi, thận, lách, ruột, não, mắt của lợn gây nhiễm và các mẫu

tương ứng ở lợn khỏe.

2.2.2. Dụng cụ, thiết bị và hóa chất

- Máy giải trình tự gen tự động ABI Prism 3130 Genetic Analyser (Applied

Biosystem).

- Máy cắt tế bào Microtom.

- Máy Celltac F (Nhật Bản) phân tích các chỉ tiêu sinh lý máu.

- Máy AU 480 (Nhật Bản) xét nghiệm sinh hóa máu.

- Máy đọc plate ELISA với bước sóng 450 nm và 650 nm đến 620 nm.

- Tủ lạnh điều chỉnh được nhiệt độ âm.

- Kính hiển vi quang học, kính lúp.

- Đĩa petri, pipet, tube có tráng chất chống đông, xi lanh nhựa 5 ml và 10 ml, giá

đựng ống nghiệm, bông, cồn, cốc thủy tinh, panh, kéo, khay men, túi đựng bệnh

phẩm, dung dịch formol 10%.

- Bộ hóa chất làm tiêu bản tế bào, thuốc nhuộm Hematoxilin - Eosin, cồn 70o, 90o.

- Bộ kit ELISA Taenia solium của hãng Scimedx/Mỹ. Bộ kit này dùng để phát

hiện kháng thể IgG kháng với Taenia solium có trong huyết thanh lợn bằng kỹ thuật

miễn dịch hấp phụ men (ELISA) (thành phần bộ kit ở phần Phụ lục). Theo khuyến

cáo của hãng Scimedx/Mỹ, kit ELISA Taenia solium có độ nhạy là 88%, độ đặc

hiệu là 96%

- Chai có nắp để đựng nước rửa dụng cụ, ống đong có vạch, tube pha loãng

huyết thanh, giấy thấm.

- Các hóa chất, các thiết bị và dụng cụ thí nghiệm khác. * Hóa dược: praziquantel, albendazole.

2.3. Nội dung nghiên cứu

2.3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh gạo lợn do ấu trùng Cysticercus

cellulosae gây ra tại tỉnh Sơn La và Điện Biên

2.3.1.1. Thực trạng nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae ở lợn tại một số huyện của

tỉnh Sơn La và Điện Biên

+ Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng C. cellulosae tại các địa phương.

+ Tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulose ở lợn theo tuổi.

+ Tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn theo mùa vụ.

39

+ Tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn theo phương thức chăn nuôi.

+ Tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn địa phương và lợn lai.

+ Tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn theo địa hình.

2.3.1.2. Thực trạng nhiễm sán dây Taenia solium ở người tại một số huyện của tỉnh

Sơn La và Điện Biên

+ Thực trạng một số tập quán chăn nuôi và sinh hoạt của nhân dân ở tỉnh

Sơn La và Điện Biên.

+ Thực trạng tập quán ăn uống của nhân dân ở một số huyện thuộc tỉnh Sơn

La và Điện Biên.

+ Tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở người trong số người điều tra.

+ Tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở người theo nhóm tuổi.

+ Tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở người theo giới tính.

2.3.1.3. So sánh nguy cơ lợn nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae theo tập quán

chăn nuôi của nhân dân ở tỉnh Sơn La và Điện Biên 2.3.1.4. So sánh nguy cơ người bị nhiễm sán dây T. solium theo thói quen ăn uống ở Sơn La và Điện Biên 2.3.1.5. Xác định tương quan giữa tỷ lệ nhiễm sán dây Taenia solium ở người và tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae ở lợn tại Sơn La và Điện Biên

2.3.2. Nghiên cứu bệnh gạo trên lợn gây nhiễm

- Thẩm định loài sán dây để gây nhiễm cho lợn. - Gây nhiễm trứng sán dây T. solium cho lợn. - Theo dõi triệu chứng lâm sàng của lợn mắc bệnh gạo. - Nghiên cứu sự thay đổi một số chỉ tiêu hệ hồng cầu, hệ bạch cầu và sinh hóa

máu của lợn mắc bệnh gạo.

- Xác định tổn thương đại thể và vi thể của lợn mắc bệnh gạo.

2.3.3. Nghiên cứu một số biện pháp phòng chống bệnh gạo cho lợn 2.3.3.1. Xác định thời gian chết của ấu trùng Cysticercus cellulosae

Mục đích nghiên cứu: phòng bệnh sán dây T. solium trên người, từ đó phòng

bệnh gạo cho lợn.

- Theo dõi thời gian chết của ấu trùng C. cellulosae phân lập từ thịt.

Gồm những nội dung sau:

- Theo dõi thời gian chết của ấu trùng C. cellulosae trong thịt khi xử lý bằng

nhiệt độ cao (luộc thịt).

- Theo dõi thời gian chết của ấu trùng C. cellulosae trong thịt khi xử lý ở nhiệt

độ thấp (- 15oC).

- Theo dõi thời gian chết của ấu trùng C. cellulosae trong thịt hun khói.

40

2.3.3.2. Thử nghiệm thuốc điều trị bệnh gạo cho lợn gây nhiễm

- Xác định hiệu lực của thuốc điều trị bệnh gạo trên lợn gây nhiễm. - Xác định độ an toàn của thuốc điều trị.

2.3.3.3. Thử nghiệm thuốc điều trị bệnh gạo cho lợn trên thực địa

- Xác định một số lợn có huyết thanh dương tính (có kháng thể kháng kháng

nguyên của ấu trùng C. cellulosae).

- Xác định hiệu lực của thuốc điều trị bệnh gạo cho lợn có huyết thanh

dương tính. 2.3.3.4. Xây dựng bản đồ dịch tễ sự lưu hành bệnh gạo lợn ở tỉnh Sơn La và Điện Biên 2.4. Phương pháp nghiên cứu 2.4.1. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh gạo lợn ở tỉnh Sơn La và Điện Biên 2.4.1.1. Phương pháp nghiên cứu dịch tễ

Sử dụng các phương pháp nghiên cứu dịch tễ học mô tả, dịch tễ học phân tích

và dịch tễ học thực nghiệm (Nguyễn Như Thanh, 2011 [35]).

* Thu thập mẫu: - Thu mẫu theo phương pháp ngẫu nhiên, lấy mẫu chùm nhiều bậc. Dung

lượng mẫu được tính theo công thức sau: n = Z2 x p x (1- p) E2 Trong đó:

Z: độ tin cậy (95%) E: sai số ước đoán (5%) p: tỷ lệ hiện mắc (dự kiến ở Sơn La là 2,6%, ở Điện Biên là 2,7%) Kết quả tính toán theo công thức cụ thể như sau: Ở tỉnh Sơn La: với độ tin cậy 95%, sai số là 5%, tỷ lệ nhiễm dự kiến là 2,60%

thì số lợn mổ khám là 973 con. Thực tế chúng tôi đã mổ khám 1.040 lợn.

Ở tỉnh Điện Biên: với độ tin cậy 95%, sai số là 5%, tỷ lệ nhiễm dự kiến là

2,70% thì số lợn mổ khám là 1.010 con. Thực tế chúng tôi đã mổ khám 1.038 lợn.

* Phương pháp xác định nguy cơ tương đối (Relative Risk - RR): Xác định nguy cơ gia súc bị mắc bệnh bằng cách tính nguy cơ tương đối (RR)

theo Nguyễn Như Thanh (2011) [35]. 2.4.1.2. Phương pháp nghiên cứu tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng

* Dung lượng mẫu và một số diễn giải về các chỉ tiêu nghiên cứu dịch tễ học Đã kiểm tra 2.078 lợn giết mổ ở 2 tỉnh Sơn La và Điện Biên; mỗi tỉnh 3

huyện; mỗi huyện 5 xã. Ở mỗi xã lợn giết mổ được kiểm tra ngẫu nhiên.

Cụ thể như sau:

41

Bảng 2.1. Số lợn giết mổ đã kiểm tra theo các chỉ tiêu nghiên cứu

TT Chỉ tiêu nghiên cứu

Tổng số lợn giết mổ đã kiểm tra Số lượng (con) 2.078

Số lợn ở mỗi tỉnh

1. 1.1. Tỉnh Sơn La 1.2. Tỉnh Điện Biên 1.040 1.038

2. Số lợn ở các lứa tuổi

2.1. ≤ 2 tháng tuổi 2.2. > 2 - 6 tháng tuổi 48 586

2.3. > 6 - 12 tháng tuổi 830

614

2.4. > 12 tháng tuổi 3. Số lợn ở các mùa vụ

1.025 1.053

Số lợn theo phương thức chăn nuôi

605 3.1. Vụ Đông - Xuân (tháng 11 đến tháng 4 năm sau) 3.2. Vụ Hè - Thu (tháng 5 đến tháng 10) 4. 4.1. Nuôi nhốt hoàn toàn (lợn được nuôi hoàn toàn trong chuồng)

617 856 4.2. Nuôi bán chăn thả (lợn vừa được nuôi trong chuồng, vừa được thả ra ngoài) 4.3. Nuôi thả rông (lợn hoàn toàn nuôi ở bên ngoài, không có chuồng nuôi)

Số lợn (lợn địa phương và lợn lai) (*)

1.120 958 5. 5.1 Lợn lai (là con lai giữa một số loại lợn ngoại với lợn Móng cái hoặc với lợn địa phương) 5.2 Lợn địa phương (gồm tất cả các loại lợn nội được nuôi tại địa phương)

6. Số lợn (lợn địa phương và lợn lai) khi lợn được nuôi theo phương thức thả rông

6.1. Lợn lai (là con lai giữa một số loại lợn ngoại với lợn móng cái hoặc với 350

lợn địa phương)

506 6.2. Lợn địa phương (gồm tất cả các loại lợn nội được nuôi tại địa phương)

Số lợn ở các loại địa hình (**)

875 575 7. 7.1. Vùng núi cao 7.2. Vùng đồi núi thấp

628 7.3. Vùng bằng phẳng

Ghi chú: (*) Lợn địa phương là các loại lợn được nuôi phổ biến ở các địa phương miền núi, có da và lông màu đen hoặc khoang trắng đen. Khối lượng lợn nhỏ, chậm lớn, dễ nuôi. Thịt chắc và rất thơm ngon.

Lợn lai là con lai giữa lợn địa phương và lợn ngoại, có da và lông màu trắng

hoặc màu trắng có khoang đen.

42

(**) Dựa vào bản đồ địa lý của tỉnh phân thành 3 loại địa hình khác nhau: vùng núi cao, vùng đồi núi thấp, vùng bằng phẳng. Cụ thể: ở tỉnh Điện Biên chọn huyện Mường Ảng là vùng bằng phẳng, huyện Tủa Chùa là vùng đồi núi thấp và huyện Nậm Pồ là vùng núi cao. Ở tỉnh Sơn La chọn huyện Mai Sơn là vùng đồng bằng, huyện Mường La là vùng bán sơn địa, huyện Bắc Yên là vùng núi cao. 2.4.1.3. Phương pháp xác định lợn mắc bệnh gạo và thu thập mẫu

- Mổ khám lợn bằng phương pháp mổ khám toàn diện của Skrjabin (1928)

[124], kiểm tra cơ, tim, não, thận, gan, lách... để phát hiện ấu trùng C. cellulosae.

Khi mổ khám lợn, tìm ấu trùng ở cơ, cơ lưỡi, tim, thận, não và mắt của lợn. Những lợn phát hiện có ấu trùng ký sinh ở các vị trí trên trong cơ thể được được xác định là lợn mắc bệnh gạo.

Việc mổ khám lợn và thu thập ấu trùng C. cellulosae được tiến hành tại các nông hộ và các cơ sở giết mổ lợn nhỏ lẻ ở các thôn. Mỗi lợn mổ khám đều được ghi lại các thông tin: địa phương, tuổi lợn, thời gian mổ khám, loại lợn, phương thức chăn nuôi, biểu hiện của lợn.

- Ấu trùng thu thập được để trong lọ nhựa có nắp, đánh số thứ tự trên lọ theo

số thứ tự của lợn mổ khám.

- Mẫu huyết thanh sử dụng để xác định huyết thanh dương tính với kháng thể kháng kháng nguyên của ấu trùng C. cellulosae được thu thập từ những lợn có thể trạng gầy yếu ở các địa phương (làm cơ sở cho việc thử nghiệm thuốc điều trị) với số lượng 150 mẫu ở tỉnh Sơn La và 150 mẫu ở tỉnh Điện Biên.

Tất cả các mẫu bệnh phẩm được bảo quản vô trùng ở điều kiện 4oC và được

chuyển ngay về phòng thí nghiệm.

Đánh giá tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn: Tỷ lệ nhiễm ấu trùng được xác định trên cơ sở đã xác định được những lợn

mắc bệnh trong tổng số 2.078 lợn đã mổ khám.

Cường độ nhiễm ấu trùng được xác định bằng số lượng ấu trùng ký sinh/40 cm2 lát cắt cơ của lợn (dựa theo thông tư số 09 - BNN & PTNT ngày 01/6/2016) [2]:

Trên 40 cm2 lát cắt cơ có ≤ 2 ấu trùng: nhiễm cường độ nhẹ (+). Trên 40 cm2 lát cắt cơ có 3 - 6 ấu trùng: nhiễm cường độ trung bình (++). Trên 40 cm2 lát cắt cơ có > 6 ấu trùng: nhiễm cường độ nặng (+++). Riêng ở não, thận, tim: cường độ nhiễm được tính bằng số ấu trùng C. cellulosae

có trên toàn bộ não, thận, tim của mỗi lợn. 2.4.1.4. Phương pháp định danh sán dây Taenia solium bằng kỹ thuật hình thái học Căn cứ vào khóa định loại của Nguyễn Thị Kỳ (1994) [15] để xác định sơ bộ loài của 10 mẫu sán dây đã thu thập (dựa vào hình thái, cấu tạo đầu sán dây và các đốt sán dây trên tiêu bản nhuộm carmin). Từ đó đã xác định được trong 10 mẫu có 6 mẫu là loài T. solium.

43

2.4.1.5. Phương pháp định danh sán dây Taenia solium bằng kỹ thuật phân tử

6 mẫu sán dây đã xác định sơ bộ là loài T. solium bằng kỹ thuật hình thái học

được ký hiệu là SL1, SL2, SL3, ĐB1, ĐB2, ĐB3 và tiếp tục được phân tích phân tử. Các mẫu sán dây này được bảo quản trong cồn 70o đến khi sử dụng.

Phân tích phân tử được thực hiện theo các bước sau:

- Tách chiết ADN tổng số: Mẫu sán dây bảo quản trong cồn được rửa sạch

bằng nước cất, cắt một miếng nhỏ cho vào ống eppendoft để tách chiết ADN tổng

số bằng DNeasy Tissue Kit (QIAgen) theo quy trình của nhà sản xuất như sau:

+ Cho mẫu cần tách chiết vào ống eppendoft 1,5 ml.

+ Bổ sung 180 µl dung dịch đệm ATL và 20 µl Proteinase K. + Ủ hỗn dịch ở 55oC/3 giờ cho đến khi mẫu tan hoàn toàn. + Bổ sung thêm 200 µl đệm AL rồi trộn đều. + Ủ hỗn dịch ở 70oC trong 10 phút rồi trộn đều. + Thêm 200 µl Ethanol 100% và chuyển toàn bộ hỗn dịch vào cột lọc spin.

+ Ly tâm 8000 vòng/phút, chuyển cột spin sang ống eppendoft mới.

+ Thêm 500 µl đệm AW1, ly tâm 8000 vòng/phút trong 1 phút.

+ Thêm tiếp 500 µl đệm AW2 rồi ly tâm 13000 vòng/phút trong 3 phút.

+ Đặt cột spin vào ống eppendoft 1,5 ml, thêm 200 µl dung dịch đệm AE, để

yên tại nhiệt độ phòng trong 1 phút, sau đó ly tâm 8000 vòng/phút trong 1 phút.

- Nhân bản trình tự CO1 bằng kỹ thuật PCR tiêu chuẩn, sử dụng cặp mồi JB3 (5’-

TTT TTT GGG CAT CCT GAG GTT TAT- 3’) và JB4 (5’- TAA AGA AAG AAC

ATA ATG AAA ATG - 3’) để nhân bản đoạn gen CO1 có kích thước khoảng 400bp

(Bowles và cs., 1994 [64]) với thành phần hỗn hợp phản ứng PCR như sau:

TT Thành phần Thể tích (µl)

1 PCR bufer 10X 2,5

2 dNTP 10 mM 0,5

1 3 MgSO4 50 mM

4 Primer mix (10 pmol/µl) 1

5 Taq ADN polymerase 0,2

6 Nước cất khử ion 18,8

7 ADN khuôn mẫu 1

Tổng thể tích 25

44

- Chu trình nhiệt của phản ứng PCR như sau: biến tính ở 95oC/1 phút, tiếp theo là 35 chu kỳ - 95oC/30 giây, 50oC/1 phút, 72oC/1 phút, và kết thúc 72oC/5 phút. - Điện di kiểm tra kết quả PCR trên gel agarose 1%, nhuộm ethidium bromide

và soi đèn UV.

- Tinh khiết sản phẩm PCR bằng bộ hóa chất QIAquick PCR purification kit

(QIAGEN Inc. Mỹ) theo quy trình như sau:

+ Thêm 200 µl PB vào 40 µl sản phẩm rồi trộn đều.

+ Chuyển cột, ly tâm 13000 vòng/phút trong 1 phút, bỏ dịch qua cột.

+ Thêm 750 µl PE, ly tâm 13000 vòng/phút trong 1 phút, bỏ dịch qua cột.

+ Ly tâm tiếp 13000 vòng/1 phút trong 1 phút, bỏ dịch qua cột.

+ Chuyển cột sang ống eppendorf mới, thêm 30 µl dung dịch EB, ly tâm 13000 vòng/phút trong 1 phút. Sản phẩm PCR tinh sạch thu nhận và giữ ở - 20oC cho đến khi sử dụng.

- Sản phẩm PCR được gửi đi giải trình tự tại công ty Macrogen, Hàn Quốc

bằng máy tự động ABI Prism 3130 Genetic Analyser (Applied Biosystem) sử dụng

BigDye Terminator Cycle Sequencing Kit (Applied Biosystem). Mỗi mẫu được giải

trình tự 2 sợi xuôi và ngược.

- Phân tích, so sánh, vẽ cây phát sinh chủng loại bằng phương pháp Maximum

Likeklihood trên phần phần mềm MEGA 6.0 (theo Tamura và cs., 2013 [127]).

2.4.1.6. Phương pháp nghiên cứu các yếu tố nguy cơ nhiễm sán dây T. solium ở người

và nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae ở lợn

Bước 1. Phát phiếu điều tra các hộ dân trên địa bàn nghiên cứu, trong phiếu

điều tra có các thông tin cần thu thập (Phụ lục 2).

Bước 2. Kết hợp với các cơ sở y tế địa phương để xác định người bị nhiễm

sán dây T. solium.

Bước 3. Tổng hợp phiếu điều tra và kết quả từ cơ sở y tế địa phương về 2 nội

dung: Một là, các yếu tố nguy cơ dẫn đến nhiễm sán dây T. solium ở người; Hai là,

tỷ lệ người đã bị nhiễm sán dây T. solium trong tổng số người điều tra tại các huyện

Bắc Yên, Mường La và Mai Sơn (tỉnh Sơn La); huyện Mường Ảng, Tủa Chùa và

Nậm Pồ (tỉnh Điện Biên).

Bước 4. So sánh nguy cơ người bị nhiễm sán dây T. solium và nguy cơ lợn bị

nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở các địa phương nghiên cứu.

Dùng chỉ số nguy cơ tương đối (Relative Risk - RR) và tỷ số giữa 2 xác suất

(Odds ratio - OR) để so sánh các nguy cơ nói trên.

45

* So sánh nguy cơ lợn bị nhiễm ấu trùng C. cellulosae theo tập quán chăn nuôi

tại tỉnh Sơn La và Điện Biên.

* So sánh nguy cơ người bị nhiễm sán dây T. solium theo thói quen ăn thịt

sống/tái, ăn thịt hun khói.

Theo tài liệu của Nguyễn Như Thanh (2011) [35], khả năng nhiễm bệnh của

các nhóm đối tượng với một yếu tố nguy cơ được tính toán qua bảng sau:

Khả năng nhiễm bệnh Yếu tố nguy cơ Cộng Có Không

Có tiếp xúc với yếu tố nguy cơ a b a + b

Không tiếp xúc với yếu tố nguy cơ c d c + d

Cộng a + c b + d a + b + c + d

Trong đó:

a: Số lợn nhiễm ấu trùng, có tiếp xúc với yếu tố nguy cơ

b: Số lợn không nhiễm ấu trùng, nhưng có tiếp xúc với yếu tố nguy cơ

c: Số lợn nhiễm ấu trùng, nhưng không tiếp xúc với yếu tố nguy cơ

d: Số lợn không nhiễm ấu trùng, và không tiếp xúc với yếu tố nguy cơ

Nguy cơ tương đối được tính theo công thức sau:

a/(a+b) RR = c/(c+d)

Trong đó:

a: Số lợn nhiễm ấu trùng, có tiếp xúc với yếu tố nguy cơ

b: Số lợn không nhiễm ấu trùng, nhưng có tiếp xúc với yếu tố nguy cơ

c: Số lợn nhiễm ấu trùng, nhưng không tiếp xúc với yếu tố nguy cơ

d: Số lợn không nhiễm ấu trùng, và không tiếp xúc với yếu tố nguy cơ

Đánh giá kết quả:

+ Nếu RR >: 1 yếu tố nguy cơ làm tăng khả năng nhiễm bệnh.

+ Nếu RR = 1: không có mối liên hệ giữa yếu tố nguy cơ và khả năng nhiễm bệnh.

+ Nếu RR < 1: yếu tố nguy cơ làm giảm khả năng nhiễm bệnh.

+ OR > 1: khả năng nhiễm bệnh cao hơn khả năng không nhiễm bệnh.

+ OR = 1: khả năng nhiễm bệnh tương đương với khả năng không nhiễm bệnh.

+ OR < 1: khả năng nhiễm bệnh thấp hơn khả năng không nhiễm bệnh.

46

Bước 5. Xác định tương quan giữa tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở người với

tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn.

Xác định tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở người và tỷ lệ nhiễm ấu trùng C.

cellulosae ở lợn tại 3 huyện của tỉnh Sơn La và Điện Biên, sau đó nhập số liệu vào

phần mềm Excel 2010 để xác định hệ số tương quan và vẽ đồ thị.

2.4.2. Nghiên cứu bệnh gạo lợn do ấu trùng Cysticercus cellulosae gây ra

2.4.2.1. Phương pháp gây nhiễm trứng sán dây Taenia solium cho lợn

Mục đích: theo dõi về sự phát triển của ấu trùng C. cellulosae theo thời gian

sau gây nhiễm, triệu chứng lâm sàng và tổn thương của lợn mắc bệnh gạo. Đồng

thời theo dõi ảnh hưởng của liều gây nhiễm đến tình trạng bệnh lý của lợn.

Lấy các đốt sán dây T. solium già nghiền nát để giải phóng trứng trong nước

muối sinh lý 0,9%. Đếm số trứng sán dây trong 1 ml dung dịch nước muối sinh lý

dưới kính hiển vi quang học. Tính số lượng trứng gây nhiễm cho mỗi lợn ở lô thí

nghiệm tương ứng với số ml dung dịch nước muối sinh lý có chứa trứng.

Bố trí 3 lô thí nghiệm, mỗi lô gồm 7 lợn (trong đó có 2 lô gây nhiễm và 1 lô đối chứng). Lô gây nhiễm I: cho mỗi lợn nuốt 100.000 trứng; lô gây nhiễm II mỗi lợn nuốt 150.000 trứng sán dây T. solium. Dùng xi lanh nhựa 5 ml hút dung dịch

nước muối sinh lý có trứng sán dây T. solium, bơm vào miệng cho lợn nuốt. Lô đối

chứng gồm 7 lợn cho nuốt số ml dung dịch nước muối sinh lý tương đương với lô gây nhiễm. 2.4.2.2. Phương pháp nghiên cứu thời gian hoàn thành giai đoạn phát triển của

ấu trùng Cysticercus cellulosae trong cơ thể lợn gây nhiễm

- Theo dõi thời gian phát triển của ấu trùng trong cơ thể lợn gây nhiễm: sau khi cho lợn nuốt trứng sán dây T. solium, nhốt lợn của mỗi lô thí nghiệm và đối chứng trong 1 ô chuồng, cho lợn ăn thức ăn không có thuốc chống giun sán. Mổ

khám 1 lợn ở mỗi lô vào các thời điểm 15, 30, 45, 60, 75, 90 và 120 ngày để kiểm

tra bệnh tích và tìm ấu trùng C. cellulosae. Theo dõi thời gian hoàn thành giai đoạn

phát triển của ấu trùng trong cơ của lợn gây nhiễm.

2.4.2.3. Phương pháp nghiên cứu sự thay đổi một số chỉ tiêu huyết học và một số

chỉ tiêu sinh hóa máu của lợn mắc bệnh gạo do gây nhiễm

- Lấy mẫu máu: Mỗi lợn lấy 01 mẫu máu. Đối với lợn gây nhiễm: Bắt đầu từ

ngày thứ 45 sau gây nhiễm, lấy mẫu máu của tất cả số lợn còn sống tại các thời điểm

giết mổ để xác định sự thay đổi một số chỉ tiêu sinh lý và sinh hóa máu của lợn. Cụ thể:

lấy 10 mẫu máu của 10 lợn gây nhiễm vào ngày thứ 45; 8 mẫu máu ở ngày thứ 60; 6

mẫu máu ở ngày thứ 75; 4 mẫu máu ở ngày thứ 90 và 2 mẫu máu ở ngày thứ 120 sau

gây nhiễm (tổng số 30 mẫu máu).

47

Đối với lợn đối chứng: Lấy 5 mẫu máu ở ngày thứ 45 sau gây nhiễm; 4 mẫu máu

ở ngày thứ 60; 3 mẫu máu ở ngày thứ 75; 2 mẫu máu ở ngày thứ 90 và 1 mẫu máu ở

ngày thứ 120 (tổng số 15 mẫu). Các mẫu máu được xét nghiệm ngay trong ngày.

Bảng 2.2. Số lợn mổ khám và lấy mẫu máu xét nghiệm

Thời gian sau khi gây nhiễm (ngày)

Số lợn mổ khám (con) Lô gây nhiễm II 1 1 1 1 1 1 1 7 Lô gây nhiễm I 1 1 1 1 1 1 1 7 Lô đối chứng 1 1 1 1 1 1 1 7 Số lợn lấy mẫu máu (con) Lô gây Lô gây nhiễm II nhiễm I - - - - 5 5 4 4 3 3 2 2 1 1 15 15 Lô đối chứng - - 5 4 3 2 1 15 15 30 45 60 75 90 120 Tổng

- Phương pháp xét nghiệm máu: + Một số chỉ tiêu hệ hồng cầu như: số lượng hồng cầu, hàm lượng hemoglobin, tỷ khối hồng cầu, thể tích bình quân của hồng cầu, nồng độ huyết sắc tố bình quân và hàm lượng hemoglobin bình quân trong một hồng cầu được phân tích trên máy

Celltac F (Nhật Bản).

+ Một số chỉ tiêu hệ bạch cầu như: số lượng bạch cầu; tỷ lệ bạch cầu trung tính, bạch cầu ái toan, bạch cầu ái kiềm, bạch cầu lympho và bạch cầu đơn nhân lớn cũng được phân tích trên máy Celltac F (Nhật Bản).

+ Một số chỉ tiêu sinh hóa máu như: GOT, GPT, bilirubin máu, protein toàn

phần, albumin máu và ure máu được phân tích trên máy AU 480 (Nhật Bản). 2.4.2.4. Phương pháp xác định triệu chứng lâm sàng, tổn thương đại thể và vi thể ở lợn gây nhiễm

- Triệu chứng lâm sàng được xác định bằng cách quan sát những biểu hiện của

14 lợn trong quá trình thí nghiệm (thể trạng, ăn uống, da và niêm mạc, vận động, trạng

thái phân, thân nhiệt…). So sánh biểu hiện của lợn gây nhiễm với lợn đối chứng.

- Tổn thương đại thể: Sau khi gây nhiễm, mỗi lô mổ khám 1 lợn vào ngày thứ

15, 30, 45, 60, 75, 90 và 120 sau gây nhiễm. Lô đối chứng cũng mổ khám 1 lợn vào

các thời điểm trên. Tìm ấu trùng C. cellulosae ký sinh ở cơ và các khí quan khác

trong cơ thể. Quan sát tổn thương bằng mắt thường và kính lúp, chụp ảnh vùng có tổn thương điển hình. So sánh với lợn đối chứng mổ khám cùng thời điểm để thấy

sự khác biệt giữa lợn bệnh và lợn khỏe.

48

- Tổn thương vi thể: Nghiên cứu tổn thương vi thể bằng phương pháp làm tiêu

bản tổ chức học theo quy trình tẩm đúc paraffin của Robert (1969), Burn (1974),

nhuộm Hematoxilin - Eosin, đọc kết quả dưới kính hiển vi quang học và chụp ảnh.

Phương pháp làm tiêu bản vi thể cơ và các cơ quan nội tạng được thực hiện theo thứ

tự các bước sau:

+ Lấy bệnh phẩm: Cắt phần bệnh phẩm có ấu trùng C. cellulosae ký sinh.

+ Cố định bệnh phẩm bằng dung dịch formol 10%.

+ Rửa nước 12 - 24 giờ (rửa dưới dòng nước chảy nhẹ) để trôi hết formol.

+ Khử nước: Dùng cồn tuyệt đối để rút nước từ trong bệnh phẩm ra.

+ Làm trong tiêu bản: Ngâm bệnh phẩm qua hệ thống xylen.

+ Tẩm parafin: Ngâm bệnh phẩm đã làm trong vào các cốc đã đựng parafin

nóng chảy, để ở tủ ấm nhiệt độ 56oC.

+ Đổ Block: Rót parafin nóng chảy vào khuôn giấy rồi đặt miếng tổ chức

(bệnh phẩm) đã tẩm parafin vào. Khi parafin đã đông đặc hoàn toàn thì bóc khuôn.

Sửa lại block cho vuông vắn.

+ Cắt và dán mảnh: Cắt bệnh phẩm trên máy cắt Microtom, độ dày mảnh cắt 3

- 4 µm. Dán mảnh cắt lên lam kính bằng dung dịch Mayer (gồm: lòng trắng trứng 1

phần, glyxerin 1 phần; 1 ml hỗn hợp trên pha trong 19 ml nước cất).

+ Nhuộm tiêu bản bằng thuốc nhuộm Hematoxilin - Eosin.

+ Gắn lamen bằng Baume - Canada, dán nhãn và đọc kết quả dưới kính hiển vi

quang học, độ phóng đại 200 - 400 lần.

2.4.3. Nghiên cứu biện pháp phòng chống bệnh gạo cho lợn

2.4.3.1. Nghiên cứu khả năng sống của ấu trùng Cysticercus cellulosae

Mục đích: đánh giá được thời gian chết của ấu trùng đã phân lập từ thịt lợn ở

phòng thí nghiệm; thời gian chết của ấu trùng trong thịt khi xử lý thịt ở nhiệt độ cao và

nhiệt độ thấp, từ đó có khuyến cáo về cách xử lý thịt lợn mắc bệnh gạo với cường độ

nhẹ một cách hợp lý và an toàn cho người tiêu dùng (vì theo thông tư số 09 - Bộ NN &

PTNT ngày 01/6/2016): nếu lợn mắc bệnh gạo ở mức độ nhẹ thì thịt có thể xử lý làm

chết gạo và người vẫn có thể ăn được). Từ đó phòng được bệnh sán dây cho người. Khi

người không bị bệnh sán dây thì cũng phòng được bệnh gạo cho lợn và bệnh ấu trùng

trên người.

Triển khai 4 thí nghiệm, các thí nghiệm được thực hiện trên các mẫu thịt của

14 con lợn mắc bệnh gạo do gây nhiễm.

49

* Xác định thời gian chết của ấu trùng C. cellulosae ở ngoại cảnh trong mùa

hè và mùa đông (đợt 1: mùa hè, đợt 2: mùa đông)

Mỗi đợt thí nghiệm gồm 3 lô, mỗi lô 120 ấu trùng (chia vào 4 đĩa petri, mỗi

đĩa 30 ấu trùng). Ở mỗi thời điểm mùa hè, sau 1, 2, 3 và 4 giờ và ở mỗi thời điểm

mùa đông sau 1, 2, 3, 4 và 5 giờ lấy số ấu trùng trong 1 đĩa petri để kiểm tra ấu

trùng còn sống hay đã chết.

Cách kiểm tra ấu trùng còn sống hay đã chết: Cho ấu trùng vào đĩa petri có chứa dịch mật bò (80%) pha với nước sinh lý (20%), để ở tủ ấm 39 - 40oC khoảng 15 phút. Kết quả: màng ngoài của ấu trùng bị phân hủy giải phóng đầu sán dây, nếu

thấy đầu sán dây không chuyển động thì ấu trùng đã chết. Từ đó xác định được thời

gian chết của ấu trùng ở ngoại cảnh (Nguyễn Thị Kim Lan, 2012 [19]).

* Xác định thời gian chết của ấu trùng C. cellulosae trong thịt khi xử lý bằng

nhiệt độ cao (luộc thịt)

Cắt thịt thành 9 mẫu có độ dày 5 cm và 15 mẫu có độ dày 8 cm, khối lượng

1,5 - 2 kg. Luộc thịt và kiểm tra ấu trùng trong thịt còn sống hay đã chết kể từ thời

gian nước luộc thịt bắt đầu sôi (30, 45 và 60 phút đối với các mẫu thịt dày 5 cm; 45,

60, 75, 90 và 105 phút đối với các mẫu thịt dày 8 cm). Mỗi mức thời gian như trên

xử lý 3 mẫu thịt (8 mức thời gian cần 24 mẫu thịt).

Cách kiểm tra: sau khi nước luộc thịt sôi với mỗi mức thời gian trên, vớt mẫu

thịt ra, phân lập những ấu trùng ở sâu trong mẫu thịt, kiểm tra ấu trùng còn sống hay

đã chết theo phương pháp trên.

* Xác định thời gian chết của ấu trùng C. cellulosae bằng cách bảo quản thịt

ở nhiệt độ thấp (-15oC)

Bố trí 2 lô thí nghiệm, một lô gồm 12 mẫu thịt của lợn mắc bệnh gạo do gây

mhiễm, mỗi mẫu có độ dày 5 cm; một lô gồm 12 mẫu có độ dày 8 cm; khối lượng

mỗi mẫu khoảng 1,5 đến 2 kg. Để các mẫu thịt vào tủ lạnh, điều chỉnh ở mức nhiệt độ -15oC. Duy trì mức nhiệt độ này trong 2 ngày, 3 ngày, 4 ngày và 5 ngày. Sau mỗi thời điểm trên, lấy 3 mẫu thịt ở mỗi lô thí nghiệm ra, phân lập 30 ấu trùng nằm sâu

trong mỗi mẫu thịt, cho ấu trùng vào đĩa petri chứa dịch mật bò (80%) pha với nước sinh lý (20%), để ở tủ ấm 39 - 40oC khoảng 15 phút. Kết quả: màng ngoài của ấu trùng bị phân hủy giải phóng đầu sán dây, nếu thấy đầu sán dây không chuyển động

thì ấu trùng đã chết (theo Nguyễn Thị Kim Lan, 2012 [19]). Từ đó xác định được thời gian cần thiết để diệt hết ấu trùng trong thịt ở nhiệt độ -15oC.

Từ 4 thí nghiệm trên, có những phân tích, khuyến cáo về biện pháp xử lý thịt

lợn mắc bệnh gạo để đảm bảo an toàn thực phẩm, bảo vệ sức khỏe cộng đồng.

50

* Nghiên cứu sức sống của ấu trùng trong thịt hun khói

- Theo dõi thời gian sống của ấu trùng theo cách treo thịt gác bếp tại gia đình

người Thái. Cụ thể như sau:

Thái dọc thớ cơ thịt nạc thành miếng dày 5 cm, dài 20 - 25 cm. Cho thịt vào

chậu và ướp muối 4%, trộn đều thịt cho ngấm muối khoảng 25 - 30 phút.

Đặt thịt lên trên giá sắt cách bếp củi khoảng 50 - 60 cm rồi đốt củi để tạo khói

hun thịt phía dưới khoảng 4 - 5 giờ sau đó treo thịt lên cao khoảng 1,2 m và tiếp tục

hun khói 5 ngày. Đến khi miếng thịt khô, sờ không ướt tay là được.

Số lượng thịt hun khói là 15 miếng (mỗi ngày kiểm tra 3 mẫu). Thời gian kiểm

tra sức sống của ấu trùng trong thịt hun khói là sau 1 ngày, sau 2 ngày, sau 3 ngày,

sau 4 ngày và sau 5 ngày.

Cách kiểm tra: Sau mỗi ngày hun khói, lấy thịt ra, tách ấu trùng, kiểm tra ấu

trùng còn sống hay đã chết theo phương pháp trên.

- Theo dõi thời gian sống của ấu trùng hun khói trong lò tại cơ sở sản xuất thịt

hun khói. Cụ thể như sau:

Thịt lợn nạc thái dọc thớ, dày 5 cm, dài 20 - 25 cm. Cho thịt vào chậu và ướp

muối 4%, trộn đều thịt cho ngấm muối khoảng 30 phút. Cho thịt vào lò hun khói củi với nhiệt độ 60 - 65oC, trong 24, 48, 72, 96 và 120 giờ, đảm bảo độ ẩm của thịt là 45%.

Số lượng thịt hun khói kiểm tra là 15 mẫu (mỗi ngày kiểm tra 3 mẫu). Thời

điểm kiểm tra sức sống của ấu trùng là sau 1 ngày, 2 ngày 3 ngày, 4 ngày và sau 5

ngày hun khói.

Cách kiểm tra: kiểm tra ấu trùng trong thịt còn sống hay đã chết sau mỗi ngày

hun khói theo phương pháp trên.

2.4.3.2. Nghiên cứu phác đồ điều trị bệnh gạo cho lợn

Theo một số tác giả, thuốc praziquantel và albendazole có tác dụng điều trị

bệnh gạo lợn. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu khoa học trong

nước nào công bố về hiệu lực điều trị bệnh gạo lợn của các thuốc này. Vì vậy,

chúng tôi thử nghiệm 3 phác đồ điều trị bệnh gạo lợn, gồm: Phác đồ 1 sử dụng

thuốc praziquantel; Phác đồ 2 sử dụng thuốc albendazole; Phác đồ 3 sử dụng kết

hợp thuốc praziquantel và albendazole. Cả 3 phác đồ đều được sử dụng loại thuốc

diệt ấu trùng sán dây nói trên kết hợp với thuốc hỗ trợ điều trị như: vitamin C, cafein.

51

* Phương pháp đánh giá hiệu lực của phác đồ điều trị bệnh gạo lợn

a) Đánh giá hiệu lực của phác đồ điều trị bệnh gạo trên lợn gây nhiễm

Bố trí thí nghiệm trên 20 lợn gây nhiễm ấu trùng C. cellulosae. Sau 60 ngày

gây nhiễm, dùng bộ kit ELISA Taenia solium của hãng Scimedx/Mỹ để xét nghiệm

huyết thanh. Kết quả thấy cả 20 lợn đều có huyết thanh dương tính với kháng nguyên

của ấu trùng Cys. cellulosae. Từ đó, bố trí thử nghiệm phác đồ điều trị bệnh gạo cho lợn

gây nhiễm.

+ Lô I: gồm 5 lợn, sử dụng thuốc praziquantel, liều 20 mg/kg TT/ngày x 2

ngày. Cho uống.

Lô II: gồm 5 lợn, sử dụng thuốc albendazole, liều 15 mg/kg TT/ngày x 3 ngày.

Cho uống.

Lô III: gồm 5 lợn, sử dụng thuốc praziquantel, liều 20 mg/kg TT/ngày trong

ngày đầu. Sau đó dùng thuốc albendazol, liều 15 mg/kg/ngày trong 2 ngày tiếp theo.

Cho uống.

Lô đối chứng: gồm 5 lợn, không dùng thuốc điều trị.

Mổ khám lợn ở 3 lô thí nghiệm và lô đối chứng vào các ngày 11, 12, 13, 14 và

ngày 15 sau khi dùng thuốc. Mỗi ngày mổ khám 1 lợn ở mỗi lô thí nghiệm và 1 lợn

ở lô đối chứng (tổng số 4 con), phân lập và kiểm tra sức sống của 30 ấu trùng ký

sinh ở các vị trí khác nhau trong mỗi lợn như phương pháp đã trình bày ở trên.

Đánh giá hiệu lực thuốc như sau: nếu thấy ấu trùng còn sống thì chứng tỏ thuốc

không có hiệu lực diệt ấu trùng; nếu ấu trùng đã chết với số lượng trên 80% thì đánh

giá thuốc có hiệu lực diệt ấu trùng tốt.

Đánh giá độ an toàn của phác đồ điều trị bệnh gạo

Độ an toàn của phác đồ điều trị bệnh gạo lợn được đánh giá bằng kết quả theo dõi

trạng thái cơ thể, sự vận động, ăn uống của 15 lợn ở 3 lô thí nghiệm trước và sau khi

dùng thuốc điều trị trong vòng 24 giờ.

b) Đánh giá hiệu lực của phác đồ điều trị bệnh gạo lợn trên thực địa

* Xác định những lợn nhiễm ấu trùng C. cellulosae để điều trị (thông qua

việc xác định những lợn có huyết thanh dương tính - có kháng thể kháng ấu

trùng C. cellulosae)

Sử dụng bộ kit ELISA Taenia solium của hãng Scimedx/Mỹ để xét nghiệm các

mẫu huyết thanh của 150 lợn có thể trạng gày yếu tại Sơn La và 150 lợn có thể trạng

gày yếu ở Điện Biên để phát hiện những lợn có huyết thanh dương tính với kháng

52

nguyên của ấu trùng C. cellulosae. Những lợn có huyết thanh dương tính được coi là

những lợn mắc bệnh gạo để sử dụng phác đồ điều trị.

* Theo dõi triệu chứng lâm sàng của những lợn có huyết thanh dương tính

trên thực địa

Quan sát triệu chứng lâm sàng của những lợn ở Sơn La và Điện Biên có kết

quả xét nghiệm huyết thanh dương tính bằng bộ kit ELISA. Kết hợp các triệu chứng

quan sát được trên lợn mắc bệnh gạo tự nhiên với triệu chứng của lợn mắc bệnh gạo

do gây nhiễm, từ đó rút ra một số triệu chứng tương đối đặc thù của lợn mắc bệnh

gạo để có khuyến cáo phục vụ công tác chẩn đoán, phát hiện lợn mắc bệnh ở các địa

phương thông qua triệu chứng lâm sàng của bệnh.

* Xác định hiệu lực của phác đồ điều trị bệnh gạo lợn trên thực địa

Điều trị thử nghiệm cho những lợn có huyết thanh dương tính bằng phác đồ có

hiệu lực cao nhất (lựa chọn từ kết quả thử nghiệm trên lợn gây nhiễm).

Sau khi dùng thuốc 20 và 30 ngày, lấy mẫu huyết thanh của những lợn điều trị xét

nghiệm lại bằng bộ kit ELISA Taenia solium. Từ đó đánh giá được hiệu lực của phác

đồ điều trị bệnh.

2.4.3.3. Đề xuất biện pháp phòng chống bệnh gạo cho lợn

Biện pháp phòng chống bệnh gạo cho lợn được xây dựng dựa vào đặc điểm dịch

tễ, đặc điểm bệnh lý, lâm sàng và kết quả thử nghiệm phòng trị bệnh mà đề tài đã

nghiên cứu.

2.4.3.4. Phương pháp xây dựng bản đồ dịch tễ

Bản đồ dịch tễ sự lưu hành bệnh gạo lợn ở các huyện thuộc 2 tỉnh nghiên cứu

được xây dựng theo kỹ thuật GPS và GIS. Gồm:

* Xây dựng phần mềm bản đồ:

- Thu thập thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu bản đồ.

- Xây dựng phần mềm biên dịch dữ liệu thu thập.

- Xây dựng phần mềm hiển thị thông tin trên bản đồ.

* Biên tập bản đồ giấy:

- Biên tập và in bản đồ giấy tỷ lệ 1:100.000.

Tiến hành xây dựng bản đồ dịch tễ sự lưu hành bệnh gạo tại 30 xã, thị trấn của

6 huyện thuộc tỉnh Sơn La và Điện Biên.

Quy trình xây dựng dữ liệu bản đồ dịch tễ sự lưu hành bệnh gạo lợn bằng

công nghệ GIS được tiến hành theo trình tự sau:

53

Nguồn dữ liệu - Bản đồ - Tài liệu, số liệu thực địa

Chuẩn hóa dữ liệu - Phân lớp đối tượng bản đồ - Làm sạch dữ liệu

Thiết kế Geodatabase

Tạo cơ sở dữ liệu bản đồ

* Dữ liệu đầu vào Căn cứ vào thực trạng các loại tài liệu bản đồ, trên cơ sở bản đồ hiện trạng sử dụng đất, tỷ lệ 1:100.000 của các huyện, tiến hành đánh giá về tư liệu chuẩn bị cho việc xây dựng bản đồ, kết hợp với kết quả điều tra thực địa về vị trí các khu vực lợn nhiễm bệnh trên địa bàn các xã. Đây là những căn cứ dữ liệu đầu vào để tiến hành xây dựng bản đồ.

* Chuẩn hóa dữ liệu không gian bằng phần mềm Micrrostation Từ dữ liệu bản đồ đã thu thập được, sử dụng các phần mềm Microstation chọn các đối tượng bản đồ có cùng thuộc tính để phân theo các nhóm đối tượng, thực hiện việc làm sạch dữ liệu, kiểm tra và sửa lỗi các đối tượng bản đồ bằng các công cụ trong phần mềm Microstation.

Dữ liệu bản đồ phải được kiểm tra, sửa lỗi và được chuẩn hóa về các nội

dung sau:

- Chuẩn mô hình dữ liệu: phân loại các đối tượng kiểu điểm (point), kiểu

đường (line), kiểu vùng (polygone), kiểu mô tả (annotation).

- Chuẩn về nội dung bản đồ thể hiện sự lưu hành bệnh gạolợn trên địa bàn các

địa phương nghiên cứu.

Sau khi nhập đầy đủ các thông tin về tỷ lệ mắc bệnh gạo ở lợn vào cơ sở dữ liệu, trình bày các nội dung của bản đồ. Kết quả là vị trí các khu vực có lợn mắc bệnh đồng thời được cập nhật lên bản đồ. 2.4.3.5. Phương pháp xử lý số liệu

Số liệu thu được được xử lý bằng các công thức toán học thông dụng và phương pháp thống kê sinh học (Nguyễn Văn Thiện, 2008 [38]), trên phần mềm Excel 2008 và phần mềm Minitab 16.0.

54

Chương 3

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh gạo lợn do ấu trùng Cysticercus cellulosae gây ra tại tỉnh Sơn La và Điện Biên 3.1.1. Thực trạng nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae ở lợn tại tỉnh Sơn La và Điện Biên 3.1.1.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae ở lợn tại một số huyện trên địa bàn tỉnh Sơn La và Điện Biên

Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn nuôi tại các địa phương là một chỉ tiêu đánh giá cụ thể về tình hình nhiễm ấu trùng của đàn lợn, từ đó có biện pháp phòng và trị bệnh cho lợn. Qua mổ khám 1.040 lợn ở tỉnh Sơn La và 1.038 lợn ở tỉnh Điện Biên, kiểm tra ấu trùng ký sinh ở cơ, não, thận và tim của lợn. Kết quả về tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng được trình bày ở bảng 3.1 và biểu đồ hình 3.1a và 3.1b.

Bảng 3.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng C. cellulosae

ở một số huyện của tỉnh Sơn La và Điện Biên

Số lợn nhiễm/cường độ nhiễm

Số lợn

Số lợn

Tỷ lệ

Địa phương

(min - max) ấu trùng

mổ khám

nhiễm

nhiễm

(tỉnh, huyện)

(con)

(con)

Ở cơ

Ở não Ở thận Ở tim

* Tỉnh Sơn La

1.040

27

(%) 2,59a 27/(1 - 9) 26/(1 - 7) 22/(1 - 4) 19/(1 - 3)

Huyện Bắc Yên

351

11

3,13 11/(1 - 9) 11/(2 - 7) 10/(1 - 4) 8/(1- 3)

Huyện Mường La

337

9

2,67

9/(1 - 7) 8/(1 - 6) 7/(1 - 3) 5/(1 - 2)

Huyện Mai Sơn

352

7

* Tỉnh Điện Biện

1.038

35

1,99 7/(1 - 9) 7/(1 - 4) 5/(1 - 3) 6/(1 - 2) 3,37a 35/(1 - 10) 32/(1 - 7) 32/(1 - 4) 34/(1 - 4)

Huyện Mường Ảng

350

10

2,86 10/(1 - 9) 9/(1 - 4) 9/(1 - 3) 9/(1 - 2)

Huyện Tủa Chùa

345

12

3,48 12/(1 - 10) 10/(1 - 5) 10/(1 - 3) 12/(1 - 4)

Huyện Nậm Pồ

343

13

3,79 13/(1 - 10) 13/(1 - 7) 13/(1 - 4) 13/(1 - 3)

62

Tính chung

2.078

2,98 62/(1 - 10) 58/(1 - 7) 54/(1 - 4) 53/(1 - 4)

* Ghi chú: - Ở tỉnh Sơn La (H. Bắc Yên: Trong 11 lợn nhiễm có 11 con thấy ấu trùng ở

cơ và não, 10 ở thận, 8 ở tim. Tương tự như vậy với 2 huyện Mường La và Mai Sơn).

Ở tỉnh Điện Biên (H. Mường Ảng: Trong 10 lợn nhiễm có 10 con thấy ấu trùng ở cơ

9 con thấy ở não, thận và tim. Tương tự như vậy với 2 huyện Tủa Chùa và Nậm Pồ).

- Theo hàng dọc, các tỷ lệ nhiễm mang chữ cái giống nhau thì khác nhau

không rõ rệt (P > 0,05).

55

Tỷ lệ nhiễm (%)

4

3,13

2,67

2,59

3

1,99

2

1

0

H. Bắc Yên

H.Mường La

H. Mai Sơn

Tính chung Địa phương

Hình 3.1a. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae

ở 3 huyện thuộc tỉnh Sơn La

Tỷ lệ nhiễm (%)

5

3,79

3,48

3,37

4

2,86

3

2

1

0

H.Mường Ảng

H.Tủa Chùa

H.Nậm Pồ

Tính chung Địa phương

Hình 3.1b. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae

ở 3 huyện thuộc tỉnh Điện Biên

Bảng 3.1 và các biểu đồ trên cho thấy:

- Về tỷ lệ nhiễm:

Lợn ở hai tỉnh Sơn La và Điện Biên nhiễm ấu trùng với tỷ lệ 2,98%.

Ở tỉnh Sơn La: Trong tổng số 1.040 lợn mổ khám có 27 lợn nhiễm ấu trùng

C. cellulosae, tỷ lệ nhiễm chung là 2,59%; biến động 1,99% - 3,13%. Trong đó:

lợn nuôi ở huyện Bắc Yên có tỷ lệ nhiễm ấu trùng cao nhất (3,13%), tiếp theo là

lợn ở huyện Mường La (2,67%) và thấp nhất là lợn ở huyện Mai Sơn (1,99%).

56

Ở tỉnh Điện Biên: Trong tổng số 1.038 lợn mổ khám có 35 lợn nhiễm ấu trùng

Cys. cellulosae, tỷ lệ nhiễm chung là 3,37%; biến động 2,86% - 3,79%. Trong đó: lợn

nuôi ở huyện Nậm Pồ có tỷ lệ nhiễm ấu trùng cao nhất (3,79%), tiếp theo là lợn ở

huyện Tủa Chùa (3,48%) và thấp nhất là lợn ở huyện Mường Ảng (2,86%).

Tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn của tỉnh Điện Biên và tỉnh Sơn La có

sự khác khau không rõ rệt (P > 0,05).

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi về tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae trên lợn ở tỉnh Sơn La và Điện Biên thấp hơn kết quả nghiên cứu của Nguyễn Quốc Doanh và cs. (2002) [4]. Theo tác giả, khi kiểm tra ấu trùng C. cellulosae trên lợn ở Bắc Ninh và Bắc Kạn bằng phương pháp ELISA, thấy tỷ lệ nhiễm ở lợn là 9,91%, biến động từ 6,06 đến 15,49%. Chúng tôi nhận thấy, tập quán sinh hoạt và phương thức nuôi lợn ở các vùng có sự khác nhau nên có tỷ lệ nhiễm ấu trùng khác nhau. Sự khác nhau về kết quả trên có thể do phương pháp nghiên cứu khác nhau, phương pháp phát hiện ấu trùng mà chúng tôi thực hiện là phương pháp mổ khám lợn, đây là phương pháp có độ chính xác rất cao, loại trừ được khả năng phản ứng chéo mà các phương pháp khác, trong đó có kỹ thuật ELISA gặp phải.

Theo De N.V. (2004) [71], De N.V. và Le T.H. 2010 [72], tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae bình quân ở miền Bắc Việt Nam là 1% đến 7,2%, ở miền Nam là 4,3%. Kết quả về tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn tại Sơn La và Điện Biên trong nghiên cứu của chúng tôi cũng nằm trong giới hạn trên.

Những lợn mổ khám thấy nhiễm ấu trùng ở 2 tỉnh Sơn La và Điện Biên đều có ấu trùng C. cellulosae ký sinh tập trung ở cơ, ở não, ở thận và ở tim của lợn, không thấy ấu trùng ở các cơ quan nội tạng khác.

Cường độ nhiễm chung trên lợn mổ khám tại tỉnh Sơn La là 1 - 9 ấu trùng/40 cm2

lát cắt cơ, ở não là 1 - 7 ấu trùng, ở thận là 1 - 4 ấu trùng, ở tim là 1 - 3 ấu trùng.

Cường độ nhiễm chung trên lợn mổ khám tại tỉnh Điện Biên là 1 - 10 ấu

trùng/40 cm2 lát cắt cơ, ở não là 1 - 7 ấu trùng, ở thận và tim là 1 - 4 ấu trùng.

So sánh thấy, cường độ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở những lợn mắc bệnh

tại tỉnh Điện Biên và Sơn La nhìn chung không có sự sai khác.

Như vậy, tình trạng lợn nhiễm ấu trùng C. cellulosae vẫn còn thấy ở tất cả các

huyện nghiên cứu.

Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi nhận thấy: Sơn La và Điện Biên là 2 tỉnh miền núi có địa hình phức tạp, đường giao thông đi đến các huyện khó khăn, đường quanh co, nhiều đèo và vực sâu. Tính chất phức tạp của địa hình dẫn đến sự khác nhau về khí hậu giữa các vùng.

Đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Sơn La và Điện Biên cũng đặc trưng cho đặc điểm kinh tế - xã hội của các tỉnh miền núi Tây Bắc. Thành phần dân tộc đa

57

dạng, phần lớn là bà con dân tộc Thái sinh sống. Mỗi dân tộc đều có phong tục, tập quán riêng. Thói quen sinh hoạt và tập quán chăn nuôi cũng khác nhau. Lợn ở các huyện vùng sâu, vùng xa chủ yếu được nuôi theo phương thức thả rông, bán chăn thả. Những lợn được nuôi nhốt hoàn toàn thấy ở khu vực thị trấn huyện và trung tâm các xã. Tình trạng không có nhà vệ sinh cho người hoặc có nhà vệ sinh tạm bợ còn khá phổ biến ở các địa phương.

Qua điều tra chúng tôi thấy hiểu biết của bà con ở các địa phương về bệnh gạo

lợn do ấu trùng C. cellulosae gây ra còn rất hạn chế.

Điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế - xã hội, phong tục tập quán và sinh hoạt của nhân dân tại một số địa phương của tỉnh Sơn La và Điện Biên như đã nói ở trên sẽ ảnh hưởng tới tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng ở lợn. Khi lợn nuôi thả tự do ngoài môi trường, lợn rất dễ nuốt phải trứng hoặc đốt sán dây do người thải ra lẫn trong thức ăn, nước uống và bị nhiễm ấu trùng. Những lý do trên giải thích tại sao lợn nuôi ở Sơn La và Điện Biên nhiễm ấu trùng C. cellulosae khá nhiều và cường độ nhiễm cũng khá nặng. 3.1.1.2. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae theo tuổi lợn

Tuổi của gia súc là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến tính cảm thụ đối với bệnh giun, sán. Vì vậy, tỷ lệ nhiễm theo tuổi là một chỉ tiêu xác định lợn ở lứa tuổi nào dễ nhiễm bệnh nhất, từ đó có kế hoạch phòng trừ bệnh thích hợp. Để đánh giá tỷ lệ nhiễm ấu trùng ở lợn theo tuổi, chúng tôi đã mổ khám lợn ở các lứa tuổi. Kết quả xác định tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae theo tuổi lợn được trình bày ở bảng 3.2 và biểu đồ hình 3.2.

Bảng 3.2. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae theo tuổi lợn

Địa phương (tỉnh) Tuổi lợn (tháng) Tỷ lệ nhiễm (%)

Sơn La

Điện Biên

Tính chung

Số lợn mổ khám (con) 24 310 420 286 24 276 410 328 48 586 830 614 Số lợn nhiễm (con) 0 4 13 10 0 4 9 22 0 8 22 32 ≤ 2 > 2 - 6 > 6 - 12 > 12 ≤ 2 > 2 - 6 > 6 - 12 > 12 ≤ 2 > 2 - 6 > 6 - 12 > 12 0,00 1,29 3,11 3,49 0,00 1,45 2,19 6,70 0,00 1,36a 2,65ab 5,21b

* Ghi chú: Trong cùng một cột, các tỷ lệ nhiễm mang chữ cái khác nhau thì

khác nhau có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).

58

Tỷ lệ (%)

6,70

8 7

5,21

3,49

3,11

2,65

2,19

6 5 4 3

1,36

1,45

1,29

0

0

0

2 1 0

Sơn La

Điện Biên

Tính chung

Địa phương

≤ 2

> 2 - 6

> 6 - 12

> 12

Hình 3.2. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae theo tuổi lợn

Kết quả bảng 3.2 và biểu đồ hình 3.2 cho thấy: Tỷ lệ nhiễm ấu trùng của lợn ở

các lứa tuổi có sự khác nhau rõ rệt.

Tính chung, lợn dưới 2 tháng tuổi chưa thấy nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae. Lợn ở giai đoạn 2 - 6 tháng tuổi nhiễm ấu trùng với tỷ lệ thấp, trung bình là 1,36%; lợn 6 - 12 tháng tuổi nhiễm ấu trùng với tỷ lệ cao hơn (2,65%), lợn trên 12 tháng tuổi tỷ lệ nhiễm ấu trùng cao nhất (5,21%).

Như vậy, tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae tăng dần theo tuổi lợn. Quy luật này thấy rõ ở cả những lợn mổ khám tại tỉnh Sơn La và những lợn mổ khám ở tỉnh Điện Biên. Sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn giữa các lứa tuổi là rõ rệt (P < 0,05).

Gavidia C.M và cs. (2013) [78] cho biết, tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae

tăng dần theo tuổi của lợn. Lợn trưởng thành nhiễm ấu trùng nặng hơn so với lợn nhỏ.

Theo Ana-Maria Oleleu và cs. (2016) [54], lợn nhỏ nhiễm ấu trùng C. cellulosae với tỷ lệ 3,1%, lợn trưởng thành nhiễm 7,1%. Tuy nhiên, Borkataki S và cs. (2011) [61] lại cho rằng, lợn 7 - 12 tháng tuổi mắc bệnh với tỷ lệ 11,41%, lợn 19 - 24 tháng tuổi mắc bệnh 7,60%.

Theo Sarti E. 1994 [116], Pouedet M.S. 2002 [107], Jayashi C.M. 2012 [84], lợn trưởng thành có nguy cơ nhiễm ấu trùng C. cellulosae cao, những lợn nuôi lâu có điều kiện tiếp xúc với trứng của sán dây T. solium nhiều hơn lợn con. Lợn con có thời gian tiếp xúc với môi trường sống chưa nhiều nên thời gian tiếp xúc trứng sán dây ít, dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh thấp hơn.

So sánh chúng tôi thấy: quy luật nhiễm ấu trùng theo tuổi lợn tại tỉnh Sơn La và Điện Biên tương đồng với nhận xét và kết quả nghiên cứu của Gavidia C.M và cs. (2013) [78], Ana-Maria Oleleu và cs. (2016) [54], nhưng khác kết quả nghiên cứu của Borkataki S. và cs. (2011) [61].

59

Từ kết quả trên cho thấy: để hạn chế tỷ lệ lợn nhiễm ấu trùng C. cellulosae thì

cần quản lý tốt đàn lợn. Ngoài các biện pháp phòng bệnh chung cho lợn, cần quan

tâm phát hiện những lợn trên 6 tháng tuổi, đặc biệt là lợn trên 12 tháng tuổi mắc

bệnh gạo để có biện pháp xử lý hợp lý và kịp thời.

3.1.1.3. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae ở lợn theo mùa vụ

Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn theo mùa vụ có ý nghĩa trong

nghiên cứu dịch tễ học của bệnh. Để xác định ảnh hưởng của yếu tố mùa vụ đến tỷ lệ

nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae, chúng tôi đã mổ khám 1.053 lợn vào vụ Hè - Thu và

1.025 lợn vào vụ Đông - Xuân ở 6 huyện của 2 tỉnh Sơn La và Điện Biên. Kết quả về tỷ

lệ nhiễm theo mùa vụ được trình bày qua bảng 3.3 và biểu đồ hình 3.3.

Bảng 3.3. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae theo mùa vụ

Mùa vụ Số lợn nhiễm (con) Địa phương (tỉnh) Số lợn mổ khám (con) Tỷ lệ nhiễm (%)

Hè - Thu 594 18 3,03 Sơn La Đông - Xuân 446 9 2,02

Hè - Thu 459 22 4,79 Điện Biên Đông - Xuân 579 13 2,24

Hè - Thu 1.053 40 3,80a Tính chung Đông - Xuân 1.025 22 2,15b

* Ghi chú: Theo hàng dọc, các tỷ lệ nhiễm mang chữ cái khác nhau thì khác

nhau có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).

Tỷ lệ (%)

4,79

5

3,80

4

3,03

3

2,24

2,15

2,02

2

1

0

Sơn La

Điện Biên

Tính chung Địa phương

Hè - Thu

Đông - Xuân

Hình 3.3. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae theo mùa vụ

60

Bảng 3.3 và biểu đồ hình 3.3 cho thấy: mùa vụ có ảnh hưởng tới tỷ lệ nhiễm

ấu trùng C. cellulosae ở lợn của 2 tỉnh Sơn La và Điện Biên. Cụ thể như sau:

Tính chung, tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở vụ Hè - Thu là 3,8%, vụ

Đông - Xuân là 2,15%.

Tính riêng, Ở tỉnh Sơn La: vụ Hè - Thu, lợn nhiễm ấu trùng C. cellulosae với tỷ lệ 3,03%; vụ Đông - Xuân, lợn nhiễm ấu trùng với tỷ lệ 2,02%. Ở tỉnh Điện Biên: vụ Hè - Thu, lợn nhiễm ấu trùng C. cellulosae với tỷ lệ 4,79%; vụ Đông - Xuân, lợn nhiễm ấu trùng với tỷ lệ 2,24%.

Như vậy, lợn nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở vụ Hè - Thu cao hơn so với vụ

Đông - Xuân. Sự khác nhau này có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).

Sơn La và Điện Biên là hai tỉnh khí hậu nhiệt đới gió mùa, do hậu quả của tình trạng biến đổi khí hậu nên trong vài năm gần đây thời tiết có sự thay đổi rõ rệt: mùa Đông thường đến muộn; mùa Hè mưa nhiều, ẩm độ không khí cao; mùa Thu vẫn còn nóng, nắng và mưa nhiều. Thời tiết như vậy rất thuận lợi cho trứng sán dây tồn tại ở ngoại cảnh. Nếu người mắc bệnh sán dây T. solium thải phân có đốt sán ra ngoài môi trường, đốt sán phân hủy giải phóng trứng, trứng sán dây tồn tại thời gian khá dài ở ngoại cảnh. Nếu lợn nuốt trứng hoặc đốt sán thì bị bệnh gạo.

Theo Lê Bách Quang và cs. (2008) [32], Phan Anh Tuấn (2013) [42], Lê Thị Xuân (2015) [51], Nguyễn Văn Đề (2013) [8], ở môi trường bên ngoài vào mùa hè, thời tiết nóng ẩm, mưa nhiều trứng sán dây được giải phóng khỏi đốt sán và có thể sống được 1 tháng. Ở nhiệt độ trên 70oC mới có khả năng diệt được trứng sán, do đó vụ Hè - Thu lợn có điều kiện tiếp xúc với trứng sán dây nhiều hơn vào vụ Đông - Xuân.

Theo Onah D.N. và Chiejina S.N. (1995) [104], mùa vụ trong năm không ảnh hưởng nhiều đến tỷ lệ mắc bệnh ấu trùng C. cellulosae ở lợn. Tuy nhiên, De Aluja A.S. và cs. (1998) [67], Porphyre V. và cs. (2015) [108] cho rằng mùa vụ trong năm có ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ lợn nhiễm ấu trùng Cys. cellulosae.

Ana-Maria Oleleu và cs. (2016) [54] đã kiểm tra huyết thanh của lợn ở phía tây Bắc Romania bằng phương pháp ELISA, thấy mùa thu lợn nhiễm ấu trùng là 9,3%, mùa Đông 11,8%; mùa Xuân 3,4% và mùa Hè là 1,2%.

Kết quả nghiên cứu biến động nhiễm ấu trùng C. cellulosae theo mùa vụ tại tỉnh Sơn La và Điện Biên khác với nhận xét của Onah D.N. và Chiejina S.N. (1995) [104] và kết quả nghiên cứu của Ana-Maria Oleleu và cs. (2016) [54], song phù hợp với nhận xét của De Aluja A.S. và cs. (1998) [67], Porphyre V. và cs. (2015) [108]. Từ kết quả nghiên cứu ở trên, chúng tôi có nhận xét rằng các hộ chăn nuôi cần quan tâm, nuôi dưỡng lợn vào vụ Hè - Thu để giảm tỷ lệ lợn mắc bệnh ấu trùng C. cellulosae.

61

3.1.1.4. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae ở lợn theo phương thức chăn nuôi Ở nước ta nói chung, ở tỉnh Sơn La và Điện Biên nói riêng, chăn nuôi lợn đang tồn tại 3 phương thức là: nuôi thả rông, nuôi bán chăn thả và nuôi nhốt hoàn toàn. Tùy điều kiện của từng gia đình mà lợn được nuôi theo một trong 3 phương thức trên. Những gia đình ở khu vực thị xã và thành phố hoặc những gia đình có điều kiện thì lợn được nuôi nhốt và chăm sóc tốt hơn, trong khi những gia đình ở vùng sâu, vùng xa thì chủ yếu nuôi lợn bán chăn thả hoặc thả rông, tận dụng thức ăn sẵn có của địa phương.

Khi lợn được nuôi theo các phương thức khác nhau thì tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae có thể khác nhau. Mổ khám 605 lợn nuôi nhốt hoàn toàn, 617 lợn nuôi theo phương thức bán chăn thả và 856 lợn nuôi thả rông ở 2 tỉnh Sơn La và Điện Biên. Kết quả thu được được trình bày ở bảng 3.4 và biểu đồ hình 3.4.

Bảng 3.4. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae theo phương thức chăn nuôi

Địa phương (tỉnh)

Số lợn mổ khám (con)

Số lợn nhiễm (con)

Tỷ lệ nhiễm (%)

Phương thức chăn nuôi

Sơn La

Điện Biên

Tính chung

Nhốt hoàn toàn Bán chăn thả Thả rông Nhốt hoàn toàn Bán chăn thả Thả rông Nhốt hoàn toàn Bán chăn thả Thả rông

309 303 428 296 314 428 605 617 856

2 4 21 2 8 25 4 12 46

0,65 1,32 4,91 0,67 2,55 5,84 0,66a 1,94b 5,37c

* Ghi chú: Theo hàng dọc, các tỷ lệ mang chữ cái khác nhau thì khác nhau có

Tỷ lệ (%)

5,84

5,37

6

4,91

5

4

2,55

3

1,94

1,32

2

0,65

0,67

0,66

1

0

Sơn La

Điện Biên

Tính chung

Địa phương

Nhốt hoàn toàn

Bán chăn thả

Thả rông

ý nghĩa thống kê (P < 0,05).

Hình 3.4. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae theo phương thức chăn nuôi

62

Kết quả bảng 3.4 và biểu đồ hình 3.4 cho thấy: Tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae cao nhất ở lợn được nuôi theo phương thức thả rông (5,37%); tiếp đến là lợn được nuôi theo phương thức bán chăn thả, tỷ lệ nhiễm ấu trùng là 1,94%. Tỷ lệ nhiễm thấp nhất ở lợn được nuôi theo phương thức nuôi nhốt hoàn toàn (0,66%). Quy luật này cũng thấy trên những lợn mổ khám riêng ở mỗi tỉnh.

Tỷ lệ nhiễm ấu trùng ở lợn được nuôi theo các phương thức chăn nuôi khác

nhau có sự khác nhau rõ rệt (P < 0,05).

Chúng tôi nhận thấy rằng: so với lợn được nuôi nhốt hoàn toàn thì lợn nuôi theo phương thức thả rông và bán chăn thả có nguy cơ tiếp xúc nhiều hơn với trứng sán dây do người mắc bệnh sán dây T. solium thải ra, dẫn đến tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae cao hơn.

Theo De Aluja A.S. và cs. (1998) [67], Madinga J. và cs. (2017) [92], việc

quản lý đàn lợn không chặt chẽ là nguyên nhân lợn mắc bệnh ấu trùng sán dây.

Kết quả về tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae theo phương thức chăn nuôi tại tỉnh Sơn La và Điện Biên như đã trình bày ở trên tương đồng với nhận xét của các tác giả trên.

Hình 3.4 đã minh họa rõ hơn những kết quả được trình bày ở bảng 3.4, thông qua sự cao thấp của các cột biểu thị tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae theo phương thức nuôi, trong đó cột biểu thị tỷ lệ nhiễm ở lợn nuôi theo phương thức thả rông là cao nhất, thấp nhất là cột biểu thị tỷ lệ nhiễm ở lợn nuôi nhốt hoàn toàn. 3.1.1.5. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae ở lợn địa phương và lợn lai

Các loại lợn khác nhau có sức đề kháng khác nhau, vì vậy có khả năng nhiễm bệnh khác nhau. Kết quả về tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae trên 1.120 lợn địa phương và 958 lợn lai ở 6 huyện của 2 tỉnh Sơn La và Điện Biên được thể hiện ở bảng 3.5 và biểu đồ ở hình 3.5.

Bảng 3.5. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn địa phương và lợn lai

Đối tượng

Số lợn nhiễm (con)

Tỷ lệ nhiễm (%)

Địa phương (tỉnh)

Số lợn mổ khám (con)

Lợn địa phương

563

18

3,19

Sơn La

Lợn lai

477

9

1,89

Lợn địa phương

557

25

4,49

Điện Biên

Lợn lai

481

Lợn địa phương

1.120

Tính chung

Lợn lai

958

10 43 19

2,08 3,84a 1,98b

* Ghi chú: Theo hàng dọc, các tỷ lệ nhiễm mang chữ cái khác nhau thì khác

nhau có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).

63

Tỷ lệ (%)

4,49

5

3,84

4

3,19

3

2,08

1,98

1,89

2

1

0

Sơn La

Điện Biên

Tính chung

Địa phương

Lợn địa phương

Lợn lai

Hình 3.5. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn địa phương và lợn lai

Kết quả bảng 3.5 và biểu đồ hình 3.5 cho thấy:

Tính chung 2 tỉnh, tỷ lệ nhiễm ấu trùng ở lợn địa phương cao hơn so với lợn

lai (3,84% so với 1,98%).

Tính riêng từng tỉnh: Ở Sơn La, tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn địa

phương là 3,19%, ở lợn lai là 1,89%.

Ở Điện Biên, tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn địa phương là 4,49% ở

lợn lai là 2,08%.

Kết quả xử lý thống kê cho thấy, tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở những

lợn địa phương và lợn lai mổ khám tại Sơn La và Điện Biên có sự khác nhau rõ rệt

(P < 0,05).

Biểu đồ trên cho thấy, các cột biểu thị tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae của

lợn lai thấp hơn so với lợn địa phương.

Như vậy, theo bảng trên thì tỷ lệ nhiễm ấu trùng của lợn địa phương và lợn lai

khác nhau. Tuy nhiên, khảo sát thực tế cho thấy: lợn địa phương được nuôi bằng

phương thức thả rông và bán chăn thả là chính, trong khi lợn lai chủ yếu là nuôi

nhốt. Vì vậy, lợn địa phương nhiễm ấu trùng cao hơn so với lợn lai là do phương

thức chăn nuôi quyết định. Do đó, để xác định tỷ lệ nhiễm ấu trùng có phụ thuộc

vào giống lợn hay không, chúng tôi tiếp tục theo dõi tỷ lệ nhiễu ấu trùng ở lợn lai và

lợn địa phương cùng được nuôi theo phương thức thả rông. Kết quả được thể hiện ở

bảng 3.6 và biểu đồ hình 3.6.

64

Bảng 3.6. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng ở lợn địa phương và lợn lai

cùng được nuôi theo phương thức thả rông

Đối tượng Địa phương (tỉnh) Số lợn mổ khám (con) Số lợn nhiễm (con) Tỷ lệ nhiễm (%)

Sơn La

Điện Biên Lợn địa phương Lợn lai Lợn địa phương Lợn lai

Tính chung Lợn địa phương

4,89 4,94 5,77 5,95 5,33a 5,43a 12 9 15 10 27 19 Lợn lai

246 182 260 168 506 350 * Ghi chú: Theo hàng dọc, các tỷ lệ nhiễm mang chữ cái khác nhau thì khác

nhau có ý nghĩa thống kê (P >0,05).

Tỷ lệ (%)

5,77 5,95

6

5,33 5,43

4,89 4,94

5

4

3

2

1

0

Sơn La

Điện Biên

Tính chung

Địa phương

Lợn địa phương

Lợn lai

Hình 3.6. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn địa phương và lợn lai cùng được nuôi theo phương thức thả rông

Kết quả bảng 3.6 và biểu đồ hình 3.6 cho thấy: Tính chung 2 tỉnh, tỷ lệ nhiễm ấu trùng ở lợn lai và lợn địa phương tương

đương nhau khi cùng được nuôi theo phương thức thả rông (5,43% so với 5,33%).

Tính riêng từng tỉnh: Ở Sơn La; tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn lai là

4,94%, ở lợn địa phương là 4,89%.

Ở Điện Biên, tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn lai là 5,95% ở lợn địa

phương là 5,77%.

Kết quả xử lý thống kê cho thấy, tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở những lợn lai và lợn địa phương mổ khám tại Sơn La và Điện Biên khác nhau không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05).

Borkataki S và cs. (2011) [61] cho biết, tỷ lệ nhiễm ấu trùng ở các loại lợn lai

là 12,53% và các loại lợn địa phương là 7,49%.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi khác với kết quả nghiên cứu của các tác

giả trên.

65

Theo chúng tôi, khi được nuôi cùng phương thức chăn nuôi thì yếu tố giống

hầu như không ảnh hưởng đến tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae.

3.1.1.6. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae ở lợn theo địa hình

Ba huyện Bắc Yên, Mường La và Mai Sơn của tỉnh Sơn La và ba huyện

Mường Ảng, Tủa Chùa và Nậm Pồ của tỉnh Điện Biên được phân thành 3 loại địa

hình (căn cứ vào bản đồ địa hình của tỉnh Sơn La, Điện Biên và bản đồ của mỗi

huyện). Kết quả về tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn theo địa hình được trình

bày ở bảng 3.7 và và biểu đồ hình 3.7.

Bảng 3.7. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn theo địa hình

Số lợn mổ khám Số lợn nhiễm Tỷ lệ nhiễm Địa phương Loại địa hình (tỉnh)

Vùng núi cao (con) 462 (con) 18 (%) 3,89

Vùng đồi núi thấp 258 6 2,33 Sơn La

Vùng bằng phẳng 320 3 0,94

Vùng núi cao 413 22 5,32

Vùng đồi núi thấp 317 9 2,84 Điện Biên

Vùng bằng phẳng 4

Vùng núi cao 40

Tính chung Vùng đồi núi thấp 15

Vùng bằng phẳng 308 875 575 628 7 1,30 4,57a 2,61b 1,11c

* Ghi chú: Theo hàng dọc, các tỷ lệ mang chữ cái khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê (P <0,05).

Tỷ lệ (%)

Vùng núi cao

6

5,32

Vùng đồi núi thấp

4,57

Vùng bằng phẳng

5

3,89

4

2,84

2,61

2,33

3

2

1,30

1,11

0,94

1

0

Sơn La

Điện Biên

Tính chung

Địa phương

Hình 3.7. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae theo địa hình

66

Bảng 3.7 và hình 3.7 cho thấy: trong số lợn mổ khám nuôi ở các địa hình khác

khau đều có những lợn nhiễm ấu trùng. Tỷ lệ lợn nhiễm ấu trùng cao nhất ở lợn

nuôi tại khu vực núi cao (4,57%), ở khu vực đồi núi thấp là 2,61% và thấp nhất ở

những lợn nuôi ở khu vực bằng phẳng (1,11%).

Kết quả xử lý thống kê tỷ lệ nhiễm ấu trùng ở lợn được nuôi tại các loại địa

hình khác nhau có sự sai khác rõ rệt (P <0,05).

Theo chúng tôi, có sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn

theo địa hình là do một số nguyên nhân sau: i) tập quán nuôi lợn thả rông ở khu vực

núi cao hiện nay còn rất phổ biến; ii) rất nhiều hộ dân ở khu vực này còn có tập

quán sinh hoạt lạc hậu, điều kiện sống thấp (không có nhà vệ sinh cho người, người

thải phân ra môi trường bên ngoài); iii) nhiều người thích ăn thịt sống, thịt tái, thịt

hun khói. Đó là những nguyên nhân làm cho người dễ bị bệnh sán dây trưởng thành

T. solium, đồng thời do không có nhà vệ sinh hoặc nhà vệ sinh tạm bợ tạo điều kiện

thuận lợi cho lợn tiếp xúc và nhiễm trứng sán dây do người thải ra hơn so với lợn

nuôi ở hai loại địa hình còn lại. Ở khu vực đồi núi thấp và khu vực bằng phẳng có

nhiều nông hộ nuôi lợn theo phương thức bán chăn thả và nuôi nhốt nên khả năng

lợn tiếp xúc với mầm bệnh ít hơn, từ đó mà tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae thấp

hơn rõ rệt so với lợn nuôi ở khu vực núi cao.

Từ kết quả nghiên cứu về tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae theo phương thức

chăn nuôi và theo địa hình như đã trình bày ở bảng 3.4 và 3.7, chúng tôi thấy rằng:

các hộ chăn nuôi lợn đang sinh sống ở cả 3 loại địa hình trên đều cần có biện pháp

phòng chống bệnh gạo cho lợn, đặc biệt là khu vực núi cao. Các biện pháp có thể

làm là: nuôi lợn nhốt, vệ sinh thức ăn nước uống cho lợn, có nhà vệ sinh cho người,

người phải định kỳ xét nghiệm sán dây, không ăn thịt lợn sống/tái. Đó là các biện

pháp hữu hiệu để hạn chế tỷ lệ mắc bệnh gạo ở lợn và tỷ lệ mắc bệnh sán dây và

bệnh gạo trên người.

3.1.2. Thực trạng nhiễm sán dây Taenia solium ở người tại một số huyện của

tỉnh Sơn La và Điện Biên

3.1.2.1. Kết quả điều tra thực trạng tập quán chăn nuôi và sinh hoạt của nhân dân

ở một số huyện thuộc tỉnh Sơn La và Điện Biên

Kết quả điều tra về tập quán chăn nuôi và sinh hoạt của nhân dân liên quan

đến tỷ lệ mắc bệnh gạo lợn và bệnh sán dây T. solium của người được thể hiện ở

bảng 3.8.

67

Bảng 3.8. Thực trạng một số tập quán chăn nuôi và sinh hoạt của nhân dân

ở tỉnh Sơn La và Điện Biên

Tỉnh Sơn La

Tập quán chăn nuôi và sinh hoạt

Số người điều tra ở mỗi tỉnh

Số người thực hiện

Tỉnh Điện Biên Số người thực hiện

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

36,27

272

240

32,00

Nuôi lợn thả rông

35,07

263

313

41,73

Nuôi lợn bán chăn thả

28,66

215

197

26,27

Nuôi lợn nhốt

750 người

Người trong hộ gia đình có

484

64,53

440

58,67

nhà vệ sinh

Người trong hộ gia đình

266

35,47

310

41,33

không có nhà vệ sinh

Kết quả ở bảng 3.8 cho thấy:

Ở tỉnh Sơn La: tỷ lệ hộ nuôi lợn thả rông là 36,27%, nuôi lợn bán chăn thả là

35,07%, lợn được nuôi nhốt hoàn toàn là 28,66%. Tỷ lệ hộ có nhà vệ sinh là 64,53%,

tuy nhiên trong đó có nhiều hộ nhà vệ sinh rất sơ sài, tạm bợ.

Ở tỉnh Điện Biên: tỷ lệ hộ nuôi lợn thả rông là 32%, nuôi lợn bán chăn thả là

41,73%, lợn được nuôi nhốt hoàn toàn chiếm tỷ lệ 26,27%. Tỷ lệ người dân có nhà

vệ sinh là 58,67%.

Tỉnh Sơn La và Điện Biên có nhiều dân tộc anh em chung sống, trong đó dân

tộc Thái chiếm tỷ lệ cao. Phương thức chăn nuôi lợn của bà con các dân tộc chủ yếu

là nuôi thả rông hoặc bán chăn thả, số hộ nuôi lợn nhốt hoàn toàn chiếm tỷ lệ thấp

và tập trung chủ yếu ở khu vực thành phố, thị trấn và khu vực trung tâm của các xã.

Do thói quen sinh hoạt đơn giản và điều kiện kinh tế còn khó khăn nên còn

nhiều hộ gia đình không hoặc có nhà vệ sinh rất sơ sài, một số hộ không có nhà vệ

sinh nên đi đại tiện ra ngoài môi trường. Chúng tôi đã gặp trường hợp trong phân

người thải ra có đốt sán và bản thân người đó có những nốt sần dưới da, gây ngứa

ngáy nhưng không đến cơ sở y tế để xét nghiệm chẩn đoán và điều trị bệnh. Tình

trạng này làm tăng sự phát tán đốt và trứng sán dây, từ đó làm tăng nguy cơ lợn mắc

bệnh gạo ở các địa phương.

Nhìn chung các chỉ tiêu điều tra cho thấy: tập quán chăn nuôi và sinh hoạt của

người nhân dân ở các địa phương còn nhiều bất cập, từ đó tạo điều kiện cho sự lây truyền

các bệnh ký sinh trùng nói chung, bệnh gạo lợn và bệnh sán dây T. solium nói riêng.

68

Theo kết quả nghiên cứu ở phía Bắc Cameroon của Assana E. và cs. (2010) [56], 42,7% số hộ nuôi lợn ở khu vực nông thôn không có nhà vệ sinh, 76% các thành viên trong gia đình đi đại tiện ngoài môi trường.

Nghiên cứu của Rojas R.G. (2019) [113] tại bang Portuguesa của Venezuala cho biết: 87% số hộ gia đình không có nhà vệ sinh; 88% số người dân thường xuyên đi đại tiện ngoài môi trường; 19,05% số người dân thấy các đốt sán trong phân của họ. Nguyen D. và cs. (2018) [102], đã điều tra từ 190 hộ gia đình ở 6 làng thuộc 3

huyện của tỉnh Đăk Lăk, có 47/190 hộ gia đình có nhà vệ sinh, chiếm tỷ lệ 25%.

Kết quả điều tra tập quán chăn nuôi và sinh hoạt của người dân ở tỉnh Sơn La và Điện Biên như đã trình bày ở trên phù hợp với nhận xét của Assana E. và cs. (2010) [56], nhưng khác so với kết quả nghiên cứu của Rojas R.G. (2019) [113], Nguyen D. và cs. (2018) [102]. Như vậy, điều kiện tự nhiên của các vùng, miền, điều kiện kinh tế - xã hội và tập quán chăn nuôi, sinh hoạt của nhân dân có sự khác nhau rất nhiều. Điều này sẽ dẫn đến sự khác nhau về tỷ lệ mắc bệnh ở lợn và người giữa các địa phương. 3.1.2.2. Kết quả điều tra thực trạng tập quán ăn uống của người dân ở một số huyện của tỉnh Sơn La và Điện Biên

Kết quả điều tra tập quán ăn uống của nhân dân liên quan đến tỷ lệ mắc bệnh ấu trùng C. cellulosae ở lợn và bệnh sán dây T. solium của người, được thể hiện ở bảng 3.9.

Bảng 3.9. Thực trạng tập quán ăn uống của nhân dân

ở tỉnh Sơn La và Điện Biên

Tỉnh Sơn La

Tập quán ăn uống

Số người điều tra ở mỗi tỉnh

Số người thực hiện

Tỷ lệ (%)

Tỉnh Điện Biên Số người thực hiện

Tỷ lệ (%)

Người ăn thịt sống/tái

332

44,27

309

41,20

Người không ăn thịt sống/tái

418

55,73

441

58,80

750 người

Người ăn thịt hun khói

518

69,07

608

81,07

Người không ăn thịt hun khói

232

30,93

142

18,93

Kết quả ở bảng 3.9 cho thấy: Ở tỉnh Sơn La: tỷ lệ người ăn thịt sống/thịt tái, thịt

hun khói chiếm tỷ lệ cao, lần lượt là 44,27%; 69,07%. Ở tỉnh Điện Biên các tỷ lệ này

lần lượt là 41,2%, 81,07%.

Trong số người điều tra cho thấy: tra ở hai tỉnh Sơn La và Điện Biên có nhiều

người ăn thịt sống hoặc thịt tái. Theo nhiều tác giả thì thói quen ăn thịt sống hoặc

thịt tái là nguy cơ làm cho người dễ mắc bệnh sán dây, đồng thời khi người mắc

bệnh sán dây thì dễ dẫn đến người mắc bệnh ấu trùng và lợn dễ mắc bệnh gạo lợn.

69

Sơn La và Điện Biên là hai tỉnh có nhiều dân tộc anh em chung sống, trong đó

dân tộc Thái chiếm tỷ lệ cao. Nhiều người dân ở các địa phương nghiên cứu có sở

thích ăn thịt tái, thịt sống, các món gỏi, nem chua. Ngoài ra, món thịt lợn treo gác

bếp (thịt hun khói) cũng là món ăn khoái khẩu không thể thiếu được ở các gia đình

bà con dân tộc. Nhiều hộ gia đình thường hun khói bằng cách treo thịt lợn trên gác

bếp đun củi trong vài ngày, vài tuần, hoặc vài tháng. Tuy nhiên, cũng có nhiều

người chỉ treo thịt trong vài giờ đồng hồ trên gác bếp rồi mang ra sử dụng ở các

dạng chế biến khác nhau, kể cả dạng chế biến chưa chín.

Theo Johasen M.V. và cs. (2016) [85], Gabriel S. và cs. (2017) [75], thông qua

giáo dục sức khỏe cộng đồng có thể làm thay đổi thói quen ăn thịt sống, thịt tái của

con người, giảm nguy cơ mắc bệnh sán dây ở người, từ đó hạn chế thấp nhất nguy

cơ lợn mắc bệnh gạo.

Từ kết quả trên, chúng tôi nhận thấy rằng: các địa phương cần tuyên truyền để

bà con các dân tộc thay đổi thói quen ăn uống đã có từ xưa, không ăn thịt tái hoặc

thịt sống; khi sử dụng thịt hun khói phải chế biến chín để giảm tỷ lệ nhiễm sán dây

trên người, đồng thời phòng bệnh sán dây cho người là biện pháp chủ động phòng

bệnh gạo cho lợn.

3.1.2.3. Tỷ lệ nhiễm sán dây trong số người điều tra tại một số địa phương của tỉnh

Sơn La và Điện Biên

Để xác định tình hình nhiễm sán dây T. solium trên người tại tỉnh Sơn La và

tỉnh Điện Biên, chúng tôi đã tiến hành điều tra 750 người dân tại 6 huyện của tỉnh

Sơn La và Điện Biên. Kết quả được trình bày ở bảng 3.10 và hình 3.8a, 3.8b.

Bảng 3.10. Tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium trong số người điều tra tại 2 tỉnh

Số người điều tra (người) Số người nhiễm sán dây (người) Địa phương (huyện, tỉnh)

* Tỉnh Sơn La 750 Tỷ lệ (%) 3,07a 23

Huyện Bắc Yên Huyện Mường La Huyện Mai Sơn

* Tỉnh Điện Biên Huyện Mường Ảng Huyện Tủa Chùa Huyện Nậm Pồ 250 250 250 750 250 250 250 4,00 3,20 2,00 3,86b 3,20 4,00 4,40 10 8 5 29 8 10 11

* Ghi chú: Theo hàng dọc, các tỷ lệ nhiễm mang chữ cái khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê (P <0,05).

70

Tỷ lệ (%)

5,00

4,00

4,00

3,20

3,07

3,00

2,00

2,00

1,00

0,00

Địa phương

H. Bắc Yên H. Mường La H. Mai Sơn

Tính chung

Tỷ lệ (%)

5,00

4,40

4,00

3,86

4,00

3,20

3,00

2,00

1,00

0,00

H. Tủa Chùa H. Nậm Pồ Tính chung

Hình 3.8a. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium trong số người được điều tra tại Sơn La

Địa phương

H. Mường Ẳng

Hình 3.8b. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium trong

số người được điều tra tại Điện Biên

Qua bảng 3.10, biểu đồ 3.8a và 3.8b cho thấy: Tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium trong số người được điều tra tại 3 huyện của tỉnh Sơn La là 3,07%. Trong đó, huyện Bắc Yên có tỷ lệ nhiễm sán dây cao nhất (4%) tương ứng với 10 người trong số 250 người điều tra; huyện Mường La có 8 người nhiễm sán dây, chiếm tỷ lệ 3,2%; huyện Mai Sơn có 5 người nhiễm sán dây T. solium, chiếm tỷ lệ 2%.

Tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium trong số người được điều tra tại 3 huyện của tỉnh Điện Biên là 3,86%. Trong đó, huyện Nậm Pồ có tỷ lệ nhiễm sán dây nhiều nhất (4,4%) tương ứng với 11 người trong số 250 người điều tra; huyện Tủa Chùa có 10 người nhiễm sán dây, chiếm tỷ lệ 4%; huyện Mường Ảng có 8 người nhiễm sán dây T. solium, chiếm tỷ lệ 3,2%.

Sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm sán dây trong số người được điều tra tại tỉnh Sơn

La và Điện Biên có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).

71

Qua khảo sát chúng tôi thấy, huyện Bắc Yên của tỉnh Sơn La và huyện Nậm Pồ của tỉnh Điện Biên là những huyện vùng sâu, vùng xa của hai tỉnh này, điều kiện kinh tế, giao thông đi lại khó khăn, hiểu biết về bệnh sán dây T. solium ở người và bệnh gạo ở lợn còn rất hạn chế, vấn đề phòng chống bệnh không được thực hiện nên tỷ lệ người mắc bệnh sán dây cao hơn so với các huyện còn lại.

Nguyễn Quốc Doanh và cs. (2004) [6] cho biết, qua điều tra tại một số địa

phương thuộc tỉnh Bắc Ninh thấy tỷ lệ nhiễm sán dây ở người là 1 - 12,6%.

Kết quả điều tra của Phạm Hoàng Thể và Phạm Trí Tuệ cho thấy: ở vùng núi và cao nguyên, tỷ lệ người mắc bệnh sán dây T. solium là 3,8 - 4%, có nơi lên đến 6%; tỷ lệ nhiễm của người ở các tỉnh đồng bằng thấp hơn (0,5 - 2%) (dẫn theo Nguyễn Văn Đề và cs, 2016 [9].

Theo Bộ Y tế (2019) [3], tỷ lệ nhiễm sán dây ở người tại các vùng trung du

miền núi là 2 - 6%.

Như vậy, kết quả điều tra về tỷ lệ nhiễm sán dây ở người tại tỉnh Sơn La và

Điện Biên cũng nằm trong giới hạn tỷ lệ mà các tác giả trên đã công bố.

Hình 3.8a và 3.8b minh họa rõ hơn những kết quả được trình bày ở bảng 3.10, thông qua sự cao thấp của các cột biểu thị tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium trong số người đã điều tra ở Sơn La và Điện Biên một số địa phương của 2 tỉnh. 3.1.2.4. Tỷ lệ nhiễm sán dây ở người theo nhóm tuổi

Tuổi có thể cũng là một yếu tố ảnh hưởng tới tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở người. Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm sán dây theo nhóm tuổi có ý nghĩa quan trọng trong dịch tễ học và việc phòng trị bệnh sán dây cho người. Kết quả điều tra về tỷ lệ nhiễm sán dây theo tuổi trên người ở 3 huyện của tỉnh Sơn La và Điện Biên được trình bày ở bảng 3.11 và biểu đồ hình 3.9.

Bảng 3.11. Tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở người theo nhóm tuổi

Tuổi Địa phương (tỉnh)

Tỉnh Sơn La

Tỉnh Điện Biên

Tính chung

Tỷ lệ nhiễm (%) 0,00 1,29 4,45 0,00 1,82 6,18 0,00b 1,58b 5,25a < 15 tuổi 16 - 30 tuổi 31 - 50 tuổi < 15 tuổi 16 - 30 tuổi 31 - 50 tuổi < 15 tuổi 16 - 30 tuổi 31 - 50 tuổi Số người nhiễm 0 3 20 0 5 24 0 8 44

Số người điều tra 69 232 449 87 275 388 156 507 837 * Ghi chú: Theo hàng dọc, các tỷ lệ nhiễm mang chữ cái khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê (P <0,05)

<15 tuổi

72

Tỷ lệ (%)

16 - 30 tuổi

7

31 - 50 tuổi

6,18

6

5,25

4,45

5

4

3

1,82

1,58

2

1,29

1

0

0

0

0

Sơn La

Điện Biên

Tính chung

Địa phương

.

Hình 3.9. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở người theo tuổi tại Sơn La và Điện Biên

Qua bảng 3.11 và biểu đồ hình 3.9 cho thấy: Tính chung trong số người được điều tra ở cả 2 tỉnh thì tỷ lệ người 31 - 50 tuổi nhiễm sán dây nhiều nhất (5,25%), sau đó đến những người 16 - 30 tuổi với tỷ lệ là 1,58%. Trẻ em dưới 15 tuổi không có ai bị nhiễm sán dây T. solium (Phụ lục 4).

Tính riêng trong số người được điều tra ở mỗi tỉnh: - Ở tỉnh Sơn La, không có người nào dưới 15 tuổi bị nhiễm sán dây, có 3 người 16 - 30 tuổi nhiễm sán dây, chiếm tỷ lệ 1,29%. Tỷ lệ nhiễm sán dây ở những người 31 - 50 tuổi cao nhất (4,45%).

- Ở tỉnh Điện Biên, không có trẻ em nào dưới 15 bị nhiễm sán dây, có 5 người 16 - 30 tuổi nhiễm sán dây, chiếm tỷ lệ 1,82%. tỷ lệ nhiễm sán dây ở những người 31- 50 tuổi cao nhất (6,18%).

Kết quả xử lý thống kê cho thấy, tỷ lệ nhiễm sán dây ở những người 16 - 30

tuổi và 31 - 50 tuổi có sự khác nhau rõ rệt (P <0,05).

Giải thích cho kết quả trên chúng tôi thấy rằng: ở các địa phương của 2 tỉnh Sơn La và Điện Biên sự hiểu biết của bà con các dân tộc về các bệnh lây truyền giữa động vật và người còn hạn chế. Những người 31 - 50 tuổi thường hay uống rượu với các món từ thịt sống, thịt tái và thịt hun khói. Trẻ em dưới 15 tuổi và những thanh niên 16 - 30 tuổi hiện nay đã được trang những bị kiến thức nhất định về phòng chống bệnh ký sinh trùng từ lúc ngồi trên ghế Nhà trường hoặc đã thu nhận được các thông tin về bệnh trên sách vở hoặc trên báo đài và truyền thông nên phần nào đã biết cách phòng tránh bệnh. Bản thân họ ít khi ăn thịt tái, thịt sống hoặc thịt hun khói. Mặt khác, hiện nay có cơ sở chế biến thịt hun khói nên thịt đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm hơn so với trước đây. Những nguyên nhân trên làm cho tỷ lệ nhiễm sán dây ở 2 nhóm tuổi này giảm nhiều so với nhóm tuổi từ 31 đến 50 tuổi.

73

Kết quả nghiên cứu của Sarti E. và cs. (1992) [115] cho thấy: qua xét nghiệm

huyết thanh, tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở người tăng dần theo tuổi, tỷ lệ nhiễm

cao nhất ở những người 45 - 55 tuổi.

Kết quả điều tra của chúng tôi về tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium theo nhóm tuổi

ở người phù hợp với kết quả nghiên cứu của tác giả trên.

Biểu đồ ở hình 3.9 cho thấy rõ hơn sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm sán dây theo nhóm tuổi, thông qua sự cao thấp của các cột biểu thị tỷ lệ nhiễm sán dây của người các lứa tuổi khác nhau. 3.1.2.5. Tỷ lệ nhiễm sán dây ở người theo giới tính

Để xác định tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở nam giới và nữ giới tại Sơn La và Điện Biên, chúng tôi đã tiến hành điều tra 1.001 nam giới và 499 nữ giới. Kết quả được trình bày ở bảng 3.12 và biểu đồ ở hình 3.10.

Bảng 3.12. Tỷ lệ nhiễm sán dây ở người theo giới tính

Giới tính Tỷ lệ (%) Địa phương (tỉnh) Số người điều tra

Tỉnh Sơn La

Tỉnh Điện Biên

Tính chung Số người nhiễm bệnh sán dây 21 2 24 5 45 7 3,57 1,23 5,81 1,48 4,50a 1,40b Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ 588 162 413 337 1.001 499

* Ghi chú: Theo hàng dọc cột, các tỷ lệ nhiễm mang chữ cái khác nhau thì

Tỷ lệ (%)

5,81

6

4,50

5

3,57

Nam Nữ

4

3

1,48

1,40

2

1,23

1

0

Sơn La

Điện Biên

Tính chung

khác nhau có ý nghĩa thống kê (P <0,05).

Địa phương

Hình 3.10. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở nam và nữ

tại Sơn La và Điện Biên

74

Bảng 3.12. và biểu đồ ở hình 3.10 cho thấy: Tính chung, tỷ lệ nhiễm sán dây ở nam và nữ khác nhau rất rõ rệt, tỷ lệ nhiễm ở nam là 4,50%, ở nữ là 1,40%. Sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm sán dây giữa nam và nữ như vậy cũng thấy trên số người được điều tra ở mỗi tỉnh (Phụ lục 4). Cụ thể như sau:

Ở tỉnh Sơn La, điều tra 588 nam giới, có 21 người nhiễm sán dây, chiếm tỷ lệ

3,75%; có 2 trong số 162 phụ nữ nhiễm sán dây, chiếm tỷ lệ 1,23%.

Ở tỉnh Điện Biên, có 24 trong 413 nam giới nhiễm sán dây, chiếm tỷ lệ 5,81%;

có 5 trong số 337 phụ nữ nhiễm sán dây T. solium, chiếm tỷ lệ 1,48%.

Sở dĩ có sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm sán dây ở nam và nữ là do: nam giới ở các địa phương miền núi có vai trò trụ cột trong gia đình. Trong những dịp tết và các ngày hội do địa phương tổ chức, nam giới tham gia nhiều hơn so với phụ nữ. Đồng thời, trong các dịp này, nam giới thường uống rượu với các món ăn tái, sống. Vì vậy tỷ lệ nam giới nhiễm sán dây cao hơn rõ rệt so với phụ nữ (P <0,05).

Hồ Sỹ Triều (2012) [48] cho biết: Những người bị nhiễm sán dây T. solium được điều trị ở Viện sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung Ương thì phần lớn là nam giới (68,2%), trong khi nữ giới chiếm tỷ lệ thấp hơn (31,8%).

Theo Hà Viết Viên và cs. (2016) [49], tỷ lệ nhiễm sán dây chung ở nam giới

tại Tân Sơn (Phú Thọ) là 12,68%, ở nữ giới là 2,32%.

Nguyễn Văn Đề và cs. (2013) [8] đã nhận xét: người mắc bệnh sán dây chủ

yếu là nam giới. 3.1.3. So sánh nguy cơ lợn bị nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae theo tập quán chăn nuôi của người dân ở tỉnh Sơn La và Điện Biên

Từ kết quả ở bảng 3.4, chúng tôi đã so sánh nguy cơ lợn nhiễm ấu trùng C. cellulosae theo tập quán chăn nuôi tại 2 tỉnh Sơn La và Điện Biên. Kết quả được trình bày ở bảng 3.13 và 3.14.

Bảng 3.13. So sánh nguy cơ lợn bị nhiễm ấu trùng C. cellulosae

theo tập quán chăn nuôi tại tỉnh Sơn La

Tập quán chăn nuôi Tổng RR OR Có nhiễm ấu trùng

*Tỉnh Sơn La

Lợn nuôi thả rông Lợn nuôi bán chăn thả 3,72 3,86

Tổng

7,58 7,92

Lợn nuôi thả rông Lợn nuôi nhốt hoàn toàn Tổng

2,04 2,05

Lợn nuôi bán chăn thả Lợn nuôi nhốt hoàn toàn Tổng 21 4 25 21 2 23 4 2 6 Không nhiễm ấu trùng 407 299 706 407 307 714 299 307 606 428 303 731 428 309 737 303 309 612

75

Bảng 3.13 cho thấy: * Với cặp so sánh 1: chỉ số RR = 3,72 phản ánh, nuôi lợn thả rông là yếu tố làm tăng nguy cơ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn. Những lợn nuôi thả rông có nguy cơ nhiễm ấu trùng cao gấp 3,72 lần so với lợn được nuôi bán chăn thả. Chỉ số OR = 3,86 cho thấy, khả năng lợn nuôi thả rông bị nhiễm ấu trùng cao gấp 3,86 lần so với những lợn không nhiễm ấu trùng khi được nuôi theo phương thức này.

* Với cặp so sánh 2: chỉ số RR = 7,58 phản ánh, nguy cơ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn nuôi thả rông cao gấp 7,58 lần so với lợn nuôi nhốt hoàn toàn. Chỉ số OR = 7,92 cũng cho thấy, khả năng lợn nuôi thả rông bị nhiễm ấu trùng cao gấp 7,92 lần so với lợn không bị nhiễm khi nuôi theo phương thức này.

* Với cặp so sánh 3: chỉ số RR = 2,04 cho thấy, phương thức nuôi lợn bán chăn thả cũng là yếu tố làm tăng nguy cơ nhiễm ấu trùng C. cellulosae cho lợn. Những lợn nuôi bán chăn thả có nguy cơ nhiễm ấu trùng cao hơn so với lợn nuôi nhốt hoàn toàn 2,04 lần. Chỉ số OR = 2,05 phản ánh khả năng lợn nuôi bán chăn thả bị nhiễm ấu trùng cao gấp 2,05 lần so với những lợn không nhiễm, nhưng vẫn nuôi theo phương thức này.

Như vậy, nuôi lợn theo phương thức thả rông và bán chăn thả là yếu tố làm tăng nguy cơ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn từ 2,04 đến 7,58 lần so với lợn nuôi nhốt hoàn toàn, chỉ số OR cho thấy, lợn nuôi theo phương thức này có khả năng nhiễm bệnh cao hơn khả năng không nhiễm bệnh từ 2,05 đến 7,92 lần.

Bảng 3.14. So sánh nguy cơ lợn bị nhiễm ấu trùng C. cellulosae

theo tập quán chăn nuôi tại tỉnh Điện Biên

Tập quán chăn nuôi Tổng RR OR Có nhiễm ấu trùng

*Tỉnh Điện Biên

Lợn nuôi thả rông Lợn nuôi bán chăn thả 2,29 2,37

Tổng

8,64 9,12

Lợn nuôi thả rông Lợn nuôi nhốt hoàn toàn Tổng

3,77 3,84

Lợn nuôi bán chăn thả Lợn nuôi nhốt hoàn toàn Tổng 25 8 33 25 2 27 8 2 10 Không nhiễm ấu trùng 403 306 709 403 294 697 306 294 600 428 314 742 428 296 724 314 296 610

Bảng 3.14 cho thấy:

* Với cặp so sánh 1: chỉ số RR = 2,29 phản ánh, nuôi lợn thả rông là yếu tố

làm tăng nguy cơ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn. Những lợn nuôi thả rông có

76

nguy cơ nhiễm ấu trùng cao 2,29 lần so với lợn được nuôi bán chăn thả. Chỉ số OR

= 2,37 cho thấy, khả năng lợn nuôi thả rông bị nhiễm ấu trùng cao gấp 2,37 lần so

với những lợn không nhiễm ấu trùng khi được nuôi theo phương thức này.

* Với cặp so sánh 2: chỉ số RR = 8,64 phản ánh, nguy cơ nhiễm ấu trùng

C. cellulosae ở lợn nuôi thả rông cao gấp 8,64 lần so với lợn nuôi nhốt hoàn toàn.

Chỉ số OR = 9,12 cũng cho thấy, khả năng lợn nuôi thả rông bị nhiễm ấu trùng cao

gấp 9,12 lần so với lợn không bị nhiễm khi nuôi theo phương thức này.

* Với cặp so sánh 3: chỉ số RR = 3,77 cho thấy, phương thức nuôi lợn bán

chăn thả cũng là yếu tố làm tăng nguy cơ nhiễm ấu trùng C. cellulosae cho lợn.

Những lợn nuôi bán chăn thả có nguy cơ nhiễm ấu trùng cao hơn so với lợn nuôi

nhốt hoàn toàn 3,77 lần. Chỉ số OR = 3,84 phản ánh khả năng lợn nuôi bán chăn thả

bị nhiễm ấu trùng cao gấp 3,84 lần so với những lợn không nhiễm, nhưng vẫn nuôi

theo phương thức này.

Như vậy, nuôi lợn theo phương thức thả rông và bán chăn thả là yếu tố làm

tăng nguy cơ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn từ 2,29 đến 8,64 lần so với lợn

nuôi nhốt hoàn toàn, chỉ số OR cho thấy, lợn nuôi theo phương thức này có khả

năng nhiễm bệnh cao hơn khả năng không nhiễm bệnh từ 2,37 đến 9,12 lần.

3.1.4. So sánh nguy cơ người bị nhiễm sán dây Taenia solium theo thói quen ăn

uống ở tỉnh Sơn La và Điện Biên

Từ kết quả ở bảng 3.9, chúng tôi đã so sánh nguy cơ người bị nhiễm sán dây theo

thói quen ăn uống ở tỉnh Sơn La và Điện Biên. Kết quả được trình bày ở bảng 3.15.

Bảng 3.15. So sánh nguy cơ người bị nhiễm sán dây T. solium

Thói quen ăn uống Tổng RR OR Địa phương (tỉnh)

Ăn thịt sống/tái Không ăn thịt sống/tái 8,39 8,87

Sơn La

Tổng Ăn thịt hun khói Không ăn thịt hun khói Có nhiễm sán dây 20 3 23 20 3 Không nhiễm sán dây 312 415 727 498 229 332 418 750 518 232 2,99 3,07

Tổng Ăn thịt sống/tái Không ăn thịt sống/tái 2,71 2,82 Điện Biên

Tổng Ăn thịt hun khói Không ăn thịt hun khói 6,54 6,81 Tổng 23 19 10 29 28 1 29 727 290 431 721 580 141 721 750 309 441 750 608 142 750

77

Bảng 3.15 cho thấy:

* Ở tỉnh Sơn La:

- Với cặp so sánh 1:chỉ số RR = 8,39 cho thấy, thói quen ăn thịt sống hoặc tái sẽ

làm tăng nguy cơ nhiễm sán dây T. solium ở người. Những người ăn thịt sống hoặc tái

bị nhiễm sán dây cao gấp 8,39 lần so với những người không ăn. Chỉ số OR = 8,87

phản ánh, khả năng người ăn thịt sống/thịt tái bị nhiễm sán dây cao gấp 8,87 lần so với

những người không nhiễm sán dây nhưng cũng ăn loại thịt này.

- Với cặp so sánh 2: chỉ số RR = 2,99 phản ánh, thói quen ăn thịt hun khói

cũng làm tăng nguy cơ nhiễm sán dây T. solium ở người. Những người ăn thịt hun

khói bị nhiễm sán dây cao hơn so với những người không ăn 2,99 lần. Chỉ số

OR = 3,07 cho thấy, khả năng người ăn thịt hun khói bị nhiễm sán dây cao gấp

3,07 lần so với những người không nhiễm sán dây song cũng ăn loại thịt này.

* Ở tỉnh Điện Biên:

Kết quả xác định nguy cơ người tại Điện Biên bị nhiễm sán dây T. solium do

thói quen ăn uống cũng thể hiện khá rõ rệt và phù hợp với kết quả ở Sơn La.

Kết quả ở bảng 3.13, 3.14, 3.15 cho phép chúng tôi nhận xét rằng: tình trạng

nuôi lợn thả rông, nuôi lợn bán chăn thả và thói quen ăn uống của người tại các địa

phương của tỉnh Sơn La và Điện Biên khá phổ biến, tạo điều kiện thuận lợi cho sán

dây T. solium hoàn thành vòng đời trên hai loại ký chủ (KCTG: lợn, người; KCCC:

người). Từ đó làm tăng nguy cơ người bị bệnh sán dây trưởng thành, đồng thời làm

tăng nguy cơ lợn và người mắc bệnh gạo. Vì vậy, vấn đề phòng chống để hạn chế

thực trạng này là hết sức cấp bách.

3.1.5. Xác định tương quan giữa tỷ lệ nhiễm sán dây Taenia solium ở người và tỷ

lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae ở lợn tại Sơn La và Điện Biên

Số liệu về tỷ lệ nhiễm sán dây trưởng thành T. solium ở người và tỷ lệ nhiễm

ấu trùng C. cellulosae ở lợn được chúng tôi xử lý trên phần mềm Minitab 16.0 để

xác định hệ số tương quan và vẽ đồ thị.

Kết quả được trình bày ở bảng 3.16 và đồ thị hình 3.11a, 3.11b.

78

Bảng 3.16. Tương quan giữa tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở người

và tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn

Tỷ lệ nhiễm Tỷ lệ nhiễm ấu

Địa phương sán dâyTaenia trùng Cysticercus Đánh giá

solium ở người cellulosae ở lợn tương quan

(%) (%)

* Tỉnh Sơn La

H. Bắc Yên (5 xã) 3,13 4,00 y = 0,2973 +1,0525 x

(R = 0,929) H. Mường La (5 xã) 2,67 3,20

Tương quan thuận, chặt H. Mai Sơn (5 xã) 1,99 2,00

*Tỉnh Điện Biên

y = - 0,490 + 1,29 x H. Mường Ẳng (5 xã) 2,86 3,20

(R = 0,74) H. Tủa Chùa (5 xã) 3,48 4,00

Tương quan thuận,

8

7

6

i ờ ư g n

5

4

y â d n á s m ễ i h n ệ l

3

ỷ T

2

1

0

0

1

2

3

4

5

6

7

8

Tỷ lệ nhiễm ấu trùng ở lợn

H. Nậm Pồ (5 xã) 3,79 4,40 khá chặt

Hình 3.11a: Đồ thị tương quan giữa sán dây T. solium ở người và tỷ lệ nhiễm

ấu trùng C. cellulosae ở lợn tại tỉnh Sơn La

8,0 8 7,0 7

6,0 6

i ờ ư g n ở

5,0 5

y â d n á s

4,0 4

3,0 3

m ễ i h n ệ l

ỷ T

2,0 2

1,0 1

0,0 0

0

1

2

3

4

5

6

7

8

Tỷ lệ nhiễm ấu trùng ở lợn

79

Hình 3.11b: Đồ thị tương quan tỷ lệ nhiễm giữa sán dây T. solium ở người và

tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn tại tỉnh Điện Biên

Bảng 3.16 và đồ thị ở hình 3.11a, 3.11 b và 3.12 cho thấy: Kết quả tính toán trên máy vi tính ở bảng 3.16 như sau: * Tỉnh Sơn La: Hệ số tương quan R = 0,929 biểu thị tương quan giữa tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở người và tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn là tương quan thuận. Hệ số tương quan R tiến sát tới 1 chứng tỏ tương quan này rất chặt.

* Tỉnh Điện Biên: Hệ số tương quan R = 0,74 biểu thị tương quan giữa tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở người và tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn là tương quan thuận. Hệ số tương quan R cho thấy tương quan này tương đối chặt.

Phương trình hồi quy tuyến tính xác định tương quan giữa tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở người và tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Từ phương trình tương quan này, khi biết tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn ta có thể dự đoán được giá trị tương ứng về tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở người và ngược lại. Khi tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở người tăng thì tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn cũng tăng lên và ngược lại. 3.2. Nghiên cứu bệnh gạo trên lợn gây nhiễm 3.2.1. Thẩm định loài sán dây Taenia solium ký sinh ở người để gây nhiễm bệnh gạo cho lợn

* Kết quả so sánh độ tương đồng về trình tự nucleotide của các mẫu sán dây

và mẫu chuẩn

Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã phân tích gen CO1 để định loại sán dây

T. solium, đồng thời xác định mối quan hệ tiến hóa phân tử của chúng.

80

Các trình tự gen CO1 của 6 mẫu sán dây có độ dài 396 bp. Kết quả so sánh cho

T. solium SL1 GTG TTA ATT CTT CCG GGG TTT GGT ATA ATT AGT CAT ATA TGT TTG AGT ATA AGT ATG TGT [ 60]

T. solium SL2 GTG TTA ATT CTT CCG GGG TTT GGT ATA ATT AGT CAT ATA TGT TTG AGT ATA AGT ATG TGT [ 60]

T. solium SL3 GTG TTA ATT CTT CCG GGG TTT GGT ATA ATT AGT CAT ATA TGT TTG AGT ATA AGT ATG TGT [ 60]

T. solium DB1 GTG TTA ATT CTT CCG GGG TTT GGT ATA ATT AGT CAT ATA TGT TTG AGT ATA AGT ATG TGT [ 60]

T. solium DB2 GTG TTA ATT CTT CCG GGG TTT GGT ATA ATT AGT CAT ATA TGT TTG AGT ATA AGT ATG TGT [ 60]

T. solium DB3 GTG TTA ATT CTT CCG GGG TTT GGT ATA ATT AGT CAT ATA TGT TTG AGT ATA AGT ATG TGT [ 60]

T. solium SL1 TCT GAT GCT TTT GGC TTT TAT GGG TTA TTG TTT GCT ATG TTT TCA ATA GTA TGT TTA GGA [120]

T. solium SL2 TCT GAT GCT TTT GGC TTT TAT GGG TTA TTG TTT GCT ATG TTT TCA ATA GTA TGT TTA GGA [120]

T. solium SL3 TCT GAT GCT TTT GGC TTT TAT GGG TTA TTG TTT GCT ATG TTT TCA ATA GTA TGT TTA GGA [120]

T. solium DB1 TCT GAT GCT TTT GGC TTT TAT GGG TTA TTG TTT GCT ATG TTT TCA ATA GTA TGT TTA GGA [120]

T. solium DB2 TCT GAT GCT TTT GGC TTT TAT GGG TTA TTG TTT GCT ATG TTT TCA ATA GTA TGT TTA GGA [120]

T. solium DB3 TCT GAT GCT TTT GGC TTT TAT GGG TTA TTG TTT GCT ATG TTT TCA ATA GTA TGT TTA GGA [120]

T. solium SL1 AGA AGT GTG TGA GGA CAT CAT ATG TTT ACG GTT GGG TTA GAT GTT AAG ACG GCT GTA TTT [180]

T. solium SL2 AGA AGT GTG TGA GGA CAT CAT ATG TTT ACG GTT GGG TTA GAT GTT AAG ACG GCT GTA TTT [180]

T. solium SL3 AGA AGT GTG TGA GGA CAT CAT ATG TTT ACG GTT GGG TTA GAT GTT AAG ACG GCT GTA TTT [180]

T. solium DB1 AGA AGT GTG TGA GGA CAT CAT ATG TTT ACG GTT GGG TTA GAT GTT AAG ACG GCT GTA TTT [180]

T. solium DB2 AGA AGT GTG TGA GGA CAT CAT ATG TTT ACG GTT GGG TTA GAT GTT AAG ACG GCT GTA TTT [180]

T. solium DB3 AGA AGT GTG TGA GGA CAT CAT ATG TTT ACG GTT GGG TTA GAT GTT AAG ACG GCT GTA TTT [180]

T. solium SL1 TTT AGT TCT GTT ACT ATG ATA ATT GGA GTG CCT ACG GGG ATT AAG GTT TTT ACT TGG CTT [240]

T. solium SL2 TTT AGT TCT GTT ACT ATG ATA ATT GGA GTG CCT ACG GGG ATT AAG GTT TTT ACT TGG CTT [240]

T. solium SL3 TTT AGT TCT GTT ACT ATG ATA ATT GGA GTG CCT ACG GGG ATT AAG GTT TTT ACT TGG CTT [240]

T. solium DB1 TTT AGT TCT GTT ACT ATG ATA ATT GGA GTG CCT ACG GGG ATT AAG GTT TTT ACT TGG CTT [240]

T. solium DB2 TTT AGT TCT GTT ACT ATG ATA ATT GGA GTG CCT ACG GGG ATT AAG GTT TTT ACT TGG CTT [240]

T. solium DB3 TTT AGT TCT GTT ACT ATG ATA ATT GGA GTG CCT ACG GGG ATT AAG GTT TTT ACT TGG CTT [240]

T. solium SL1 TAT ATG CTT TTA AAA TCT CGT ATT AAT AAG AGT GAT CCG GTT TTA TGA TGA ATA ATT TCG [300]

T. solium SL2 TAT ATG CTT TTA AAA TCT CGT ATT AAT AAG AGT GAT CCG GTT TTA TGA TGA ATA ATT TCG [300]

T. solium SL3 TAT ATG CTT TTA AAA TCT CGT ATT AAT AAG AGT GAT CCG GTT TTA TGA TGA ATA ATT TCG [300]

T. solium DB1 TAT ATG CTT TTA AAA TCT CGT ATT AAT AAG AGT GAT CCG GTT TTA TGA TGA ATA ATT TCG [300]

T. solium DB2 TAT ATG CTT TTA AAA TCT CGT ATT AAT AAG AGT GAT CCG GTT TTA TGA TGA ATA ATT TCG [300]

T. solium DB3 TAT ATG CTT TTA AAA TCT CGT ATT AAT AAG AGT GAT CCG GTT TTA TGA TGA ATA ATT TCG [300]

T. solium SL1 TTT ATA GTA TTG TTT ACA TTT GGT GGT GTA ACC GGT ATT ATT CTA TCT GCT TGT GTA TTA [360]

T. solium SL2 TTT ATA GTA TTG TTT ACA TTT GGT GGT GTA ACC GGT ATT ATT CTA TCT GCT TGT GTA TTA [360]

T. solium SL3 TTT ATA GTA TTG TTT ACA TTT GGT GGT GTA ACC GGT ATT ATT CTA TCT GCT TGT GTA TTA [360]

T. solium DB1 TTT ATA GTA TTG TTT ACA TTT GGT GGT GTA ACC GGT ATT ATT CTA TCT GCT TGT GTA TTA [360]

T. solium DB2 TTT ATA GTA TTG TTT ACA TTT GGT GGT GTA ACC GGT ATT ATT CTA TCT GCT TGT GTA TTA [360]

T. solium DB3 TTT ATA GTA TTG TTT ACA TTT GGT GGT GTA ACC GGT ATT ATT CTA TCT GCT TGT GTA TTA [360]

T. solium SL1 GAT AAA GTT CTT CAT GAT ACT TGG TTT GTT GTT GCT [396]

T. solium SL2 GAT AAA GTT CTT CAT GAT ACT TGG TTT GTT GTT GCT [396]

T. solium SL3 GAT AAA GTT CTT CAT GAT ACT TGG TTT GTT GTT GCT [396]

T. solium DB1 GAT AAA GTT CTT CAT GAT ACT TGG TTT GTT GTT GCT [396]

T. solium DB2 GAT AAA GTT CTT CAT GAT ACT TGG TTT GTT GTT GCT [396]

T. solium DB3 GAT AAA GTT CTT CAT GAT ACT TGG TTT GTT GTT GCT [396]

thấy các trình tự hoàn toàn tương đồng với nhau được trình bày ở hình 3.12.

Hình 3.12. Kết quả so sánh trình tự CO1 của 6 mẫu sán dây thu tại

Sơn La và Điện Biên

81

Đối chiếu với các trình tự trên Genbank (Basic Local Alinment Search Tool)

bằng chương trình BLAST, đã xác định được các trình tự này có độ tương đồng cao

(100%) với loài T. solium và được trình bày ở bảng 3.17.

Bảng 3.17. Kết quả BLAST trình tự CO1 của các mẫu nghiên cứu

Max

Total

Query

E

Description

Ident Accession

score

score

cover

value

Taenia solium mitochondrial COX1 gene

732

732

100%

0.0

100 % AB781356

Taenia solium mitochondrial COX1 gene

732

732

100%

0.0

100 % AB781357

Taenia solium isolate TAE20 cytochrome

732

732

100%

0.0

100 % KC709810

c oxidase subunit 1 (COX1) gene

Taenia solium isolate TAE11 cytochrome

732

732

100%

0.0

100 % KC709809

c oxidase subunit 1 (COX1) gene

Taenia solium isolate TAE4 cytochrome

732

732

100%

0.0

100 % KC709807

c oxidase subunit 1 (COX1) gene

Taenia solium isolate DL2 cytochrome

732

732

100%

0.0

100 % GU097653

c oxidase subunit 1 (COX1) gene

Theo kết quả BLAST, trình tự gen CO1 của các mẫu nghiên cứu tương đồng

100% với loài T. solium.

Phân tích khoảng cách di truyền cho thấy, các trình tự gen CO1 của 6 mẫu

sán dây T. solium thu thập ở Sơn La và Điện Biên (Việt Nam) thể hiện sự tương

đồng cao (100%) với các trình tự của loài này ở Trung Quốc, Indonesia và Ấn Độ,

chỉ sai khác ở 0 - 3 vị trí nucleotid, tương ứng với khoảng cách di truyền là 0 - 0,5%,

sai khác với các trình tự từ châu Mỹ và châu Phi ở 3 - 7 vị trí nucleotid, tương ứng

với khoảng cách di truyền là 0,8 - 1,5%, sai khác với các trình tự của châu Phi và

châu Mỹ là 0,1%. So sánh với 2 loài T. saginata và T. asiatica, khoảng cách di

truyền của loài T. solium với loài T. asiatica là 14,1% và với loài T. saginata là

15%. Trong khi loài T. saginata và T. asiatica có quan hệ rất gần nhau với khoảng

cách di truyền là 2,8%.

82

Bảng 3.18. Khoảng cách di truyền giữa các quần thể loài T. solium

dựa trên phân tích trình tự gen CO1

Trên cây phát sinh loài, các trình tự gen CO1 của loài T. solium ở Việt Nam

cùng nhánh với các trình tự gen CO1 của sán dây T. solium ở Trung Quốc,

Indonesia và Ấn Độ (hình 3.13).

Hình 3.13. Cây phát sinh chủng loại được xây dựng từ trình tự gen CO1

bằng phương pháp Maximum Likekliwood

83

Các trình tự thu được trong nghiên cứu này được in đậm. Các trình tự tải từ

ngân hàng gen Genbank gồm mã số truy cập (accession number), tên loài, tên nước

viết tắt theo mã số 2 chữ cái (CN = Trung Quốc, ID = Indonesia, IN = Ấn Độ,

TZ = Tanzania, HT = Haiti, KE = Kenya, ET = Ethiopia, AU = Australia, BR = Brazil,

PL = Poland, JP = Japan, PH = Phillipines, MG= Madagascar, NZ = New Zealand,

IR = Iran, ZA = South Africa). Giá trị bootrap được đặt ở mỗi nhánh.

Gen ty thể được đánh giá là chỉ thị tốt nhất để nghiên cứu đa dạng di truyền,

có mức độ biến đổi cao, dễ dàng đánh giá mà không chịu áp lực chọn lọc từ vật chủ.

Gen ty thể Cytochrome C oxidase 1 (CO1) của các loài thuộc giống Taenia spp. đã

được phân tích và đã thể hiện mối quan hệ giữa 3 loài T. solium, T. saginata và

T. asiatica (Queiroz D.A và cs., 1998 [110]).

Phân tích di truyền phân tử của sán dây T. solium dựa vào chỉ thị gen ty thể đã

chứng minh mức độ đa dạng di truyền thấp. Phân tích các gen CO1, Cob và nad1 cho

thấy có sự biến đổi rất ít giữa các chủng phân lập từ các quốc gia khác nhau (Gasser R.B

và cs., 1999 [82]). Hơn nữa, trình tự gen CO1 có sự khác biệt nhỏ giữa các chủng T.

solium ở châu Mỹ La tinh, chỉ có 1 - 4 vị trí nucleotide khác nhau, các chủng phân lập

từ châu Á (Ấn Độ, Trung Quốc) có đặc trưng riêng (Okamoto và cs., 2001 [103]).

Phân tích phát sinh chủng loại gần đây về các chuỗi gen CO1 và Cob từ 13

chủng T. solium trên thế giới cho thấy có 2 kiểu gen của T. solium, tương ứng với

nguồn gốc châu Á hoặc châu Mỹ La tinh/châu Phi. Khoảng cách di truyền giữa các

chủng châu Á là 0,1 - 0,8% (Okamoto M. và cs., 2001 [103]).

Ở Việt Nam, các nghiên cứu về phân tử của sán dây T. solium còn ít, hiện mới

chỉ có 2 trình tự gen Cytochrome b trên GenBank. Trong nghiên cứu này, gen CO1

của 6 mẫu sán dây thu thập từ tỉnh Sơn La và Điện Biên cũng cho kết quả tương tự

các công bố trước đây. Các trình tự gen thu từ sán dây ở Sơn La và Điện Biên hoàn

toàn tương đồng với nhau và tương đồng cao với các trình tự ở khu vực châu Á, hơi

khác so với các trình tự thu từ châu Mỹ La tinh và châu Phi.

3.2.2. Kết quả gây nhiễm cho lợn

Sau khi xác định chính xác các mẫu sán dây thu thập từ người mắc bệnh là

loài T. solium, chúng tôi đã thu nhận trứng từ các đốt sán dây già để gây nhiễm cho

14 lợn, sử dụng 7 lợn ở lô đối chứng để tham chiếu.

Kết quả gây nhiễm được trình bày ở bảng 3.19.

84

Bảng 3.19. Kết quả gây nhiễm trứng sán dây T. solium cho lợn

Lô TN

STT lợn

Số trứng gây nhiễm

Sự phát triển của ấu trùng

Mổ khám sau gây nhiễm (ngày) 15 30

1 2

3

45

4

60

10.000

Lô gây nhiễm I

5

75

6

90

7

120

1 2

15 30

3

45

4

60

15.000

Lô gây nhiễm II

5

75

6

90

7

120

Chưa thấy ấu trùng ở các vị trí ký sinh Chưa thấy ấu trùng ở các vị trí ký sinh Ấu trùng là những điểm trắng bằng đầu đinh ghim ở các vị trí ký sinh Ấu trùng là những điểm trắng lớn hơn ở các vị trí ký sinh Ấu trùng nhỏ, có màng bọc và ít dịch bên trong bọc Nhiều ấu trùng đã phát triển hoàn thiện, một số ấu trùng chưa hoàn thiện Tất cả các ấu trùng đều đã hoàn thiện ở vị trí ký sinh Chưa thấy ấu trùng ở các vị trí ký sinh Chưa thấy ấu trùng ở các vị trí ký sinh Ấu trùng là những điểm trắng bằng đầu đinh ghim ở các vị trí ký sinh Ấu trùng là những điểm trắng lớn hơn ở các vị trí ký sinh Ấu trùng nhỏ, có màng bọc và ít dịch bên trong bọc Nhiều ấu trùng đã phát triển hoàn thiện, một số ấu trùng chưa hoàn thiện Tất cả các ấu trùng đều đã hoàn thiện ở vị trí ký sinh

7

Không có ấu trùng ở vị trí nào trong cơ thể

0

Lô đối chứng

7 thời điểm trên

Qua bảng 3.19 cho thấy: - Ở lô thí nghiệm I và II: Mổ khám mỗi lô 1 lợn để theo dõi sự phát triển của ấu trùng C. cellulosae sau gây nhiễm vào ngày thứ 15, 30, 45, 60, 75, 90 và 120 ngày tuổi thấy: sau 15 - 30 ngày gây nhiễm, chưa thấy ấu trùng ở các vị trí ký sinh; sau 45 - 60 ngày thấy ấu trùng là những điểm trắng lớn nhỏ khác nhau; sau 90 ngày gây nhiễm, nhiều ấu trùng đã phát triển hoàn thiện và sau 120 gây nhiễm thấy tất cả các ấu trùng đều đã hoàn thiện ở vị trí ký sinh của lợn. Lợn ở lô đối chứng không có ấu trùng ký sinh.

Như vậy, lợn ở lô thí nghiệm I và II sau khi gây nhiễm 90 - 120 ngày, tất cả các ấu trùng đều đã phát triển hoàn thiện ở vị trí ký sinh, nghĩa là thời gian hoàn thành sự phát triển của ấu trùng sán dây ở lợn là 90 - 120 ngày. Với số lượng trứng sán dây gây

85

nhiễm ở lô I và lô II khác nhau nên số lượng ấu trùng ký sinh ở các vị trí cũng khác nhau. Các lợn ở lô II có số lượng ấu trùng ký sinh ở các vị trí nhiều hơn lô I.

Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [14], Phạm Văn Thân (2009) [36], Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [19], thời gian hoàn thành sự phát triển của ấu trùng C. cellulosae ở lợn là 60 ngày.

Như vậy, thời gian phát triển của ấu trùng theo kết quả của chúng tôi dài hơn

so với tài liệu mà các tác giả trên đã công bố. 3.2.2.1. Triệu chứng lâm sàng của lợn mắc bệnh gạo do gây nhiễm

Để có cơ sở khoa học cho việc chẩn đoán lâm sàng bệnh ấu trùng C. cellulosae ở lợn, hàng ngày chúng tôi quan sát biểu hiện của từng lợn ở lô gây nhiễm so với đối chứng. Kết quả về triệu chứng lâm sàng của lợn mắc bệnh gạo được trình bày ở bảng 3.20.

Bảng 3.20. Triệu chứng lâm sàng chủ yếu của lợn mắc bệnh gạo do gây nhiễm

Triệu chứng lâm sang

Lô TN

Số lợn (con)

Các triệu chứng chủ yếu

Số lợn (con)

Tỷ lệ (%)

Số lợn có biểu hiện lâm sàng (con)

Tỷ lệ có biểu hiện lâm sàng (%)

Sốt

4

57,14

Ho

5

71,43

Tiêu chảy

4

57,14

7

7

100

Lô gây nhiễm I

Đau mắt, mắt có dử

5

71,43

Ăn kém, vận động chậm chạp

4

57,14

Co giật, sùi bọt mép

2

28,57

Gầy, niêm mạc nhợt nhạt, lông xù

7

100

7

100

Lông gáy dựng, run rẩy, nghiến răng

Đi lại khó khăn, tập tễnh

3

42,85

Sốt

7

100

Khó thở, ho

6

85,71

Tiêu chảy

5

73,43

7

7

100

Lô gây nhiễm II

Đau mắt, mắt có dử

7

100

Ăn kém

6

85,71

Co giật, sùi bọt mép

4

57,14

Gầy, niêm mạc nhợt nhạt, lông xù

7

100

7

100

Lông gáy dựng, run rẩy, nghiến răng

Đi lại khó khăn, tập tễnh

5

71,43

0

0,00

Lô ĐC

7

0

0

0

Kết quả bảng 3.20 cho thấy:

86

Ở lô gây nhiễm I và II: sau gây nhiễm từ 1 - 10 ngày lợn có biểu hiện triệu

chứng lâm sàng như sốt, ho, gầy, niêm mạc nhợt nhạt, lông xù, tiêu chảy, đau mắt,

co giật, sùi bọt mép, lông gáy dựng, run rẩy, nghiến răng, đi lại khó khăn, tập tễnh.

Tỷ lệ các triệu chứng biến động từ 28,57% - 100%. Ở lô đối chứng 7/7 lợn không

có biểu hiện lâm sàng. So sánh giữa 2 lô gây nhiễm thấy: lợn ở lô gây nhiễm II mắc

bệnh với biểu hiện nặng hơn so với lô I ở tất cả các triệu chứng đã nêu.

Qua kết quả trên cho thấy, khi lợn mắc bệnh gạo thể hiện một số triệu chứng

lâm sàng của bệnh. Trong các triệu chứng trên, đáng lưu ý nhất là triệu chứng: lợn

gầy, lông gáy dựng từng cơn (khoảng 15 - 20 lần trong một ngày), mỗi lần lông gáy

dựng lên là lợn lại run rẩy, nghiến răng; hầu hết lợn gây nhiễm đi lại khó khăn, tập

tễnh. Triệu chứng này thấy ở tất cả số lợn mắc bệnh gạo do gây nhiễm. Chúng tôi

cho rằng, có thể căn cứ vào các triệu chứng tương đối đặc trưng này để chẩn bệnh

gạo lợn trên thực địa.

Tuy nhiên để chẩn đoán bệnh vẫn cần kết hợp việc theo dõi triệu chứng lâm

sàng với mổ khám lợn tìm ấu trùng ở các vị trí ký sinh, vì các triệu chứng quan sát

được trên lợn gây nhiễm là những triệu chứng không điển hình của bệnh.

3.2.2.2. Sự thay đổi một số chỉ tiêu hệ hồng cầu của lợn mắc bệnh gạo do gây nhiễm

Kết quả về sự thay đổi một số chỉ tiêu hệ hồng cầu của lợn mắc bệnh gạo được

trình bày ở bảng 3.21 và hình 3.14.

Bảng 3.21. Sự thay đổi một số chỉ tiêu hệ hồng cầu

của lợn mắc bệnh gạo do gây nhiễm

Mức ý

Chỉ tiêu

Chỉ tiêu hệ hồng cầu

nghĩa

sinh lý

gây nhiễm  X 

đối chứng  X 

mx

mx

(P)

(*)

30

15

Số mẫu máu Số lượng hồng cầu (triệu/mm3)

5,68 ± 0,06

7,23 ± 0,03

< 0,05

6 - 8

Hàm lượng hemoglobin (g%)

9,76 ± 0,08

12,06 ±0,26

< 0,05

11,50

Tỷ khối hồng cầu (%)

33,17 ± 0,34

36,23 ± 0,04 < 0,05

35,65

Thể tích bình quân của hồng cầu (µm3) 55,91 ± 0,22

63,26 ± 0,27 < 0,05

63,42

Nồng độ huyết sắc tố bình quân (%)

27,84 ± 0,12

32,67 ± 0,46

< 0,05

33,20

Lượng Hb bình quân/hồng cầu (Pg)

16,85 ± 0,07

18,24 ± 0,20 < 0,05

18,15

Ghi chú: (*) Chỉ tiêu sinh lý theo tài liệu của Hoàng Toàn Thắng và Cao Văn (2006) [37], Phạm Thị Hiền Lương và Phan Đình Thắm (2009) [28], Nguyễn Đức Lưu và Nguyễn Hữu Vũ (2003) [27].

87

Tỷ lệ (% )

70

63,26

60

55,91

50

36,23

40

32,67

33,17

27,84

30

\

18,24

16,85

20

12,06

9,76

7,23

5,68

10

0

Hồng cầu Hemoglobin

Huyết cầu

Huyết s ắc tố Lượng Hb

(Hb)

Thể tích bq của HC

bình quân/HC (Pg)

Chỉ số huyết học

Lô gây nhiễm

Lô đối chứng

Hình 3.14. Biểu đồ sự thay đổi một số chỉ tiêu hệ hồng cầu của lợn

nhiễm ấu trùng C. cellulosae

Kết quả bảng 3.21 và biểu đồ hình 3.14 cho thấy: Xét nghiệm 30 mẫu máu của lợn gây nhiễm và 15 mẫu máu của lợn ở lô đối chứng thấy: các chỉ tiêu hệ hồng cầu của lợn đối chứng đều nằm trong giới hạn sinh lý máu bình thường (so sánh với chỉ tiêu sinh lý máu theo Cao Văn và Hoàng Toàn Thắng và (2003) [44], Nguyễn Đức Lưu và Nguyễn Hữu Vũ (2003) [27], Phạm Thị Hiền Lương và Phan Đình Thắm (2009) [28]. Trong khi các chỉ tiêu này của lợn ở lô gây nhiễm đều giảm thấp so với lô đối chứng. Sự khác nhau giữa hai lô là rõ rệt (P < 0,05).

Theo Pathak K. M. và cs. (1984) [105], Radfar M. H. và cs. (2014) [114], lợn bị bệnh ấu trùng C. cellulosae có số lượng hồng cầu giảm. Kết quả của chúng tôi phù hợp với nhận xét của các tác giả trên. Tuy nhiên, chúng tôi chưa tham khảo được kết quả nghiên cứu nào về sự thay đổi chỉ tiêu khác để so sánh và bàn luận. 3.2.2.3. Sự thay đổi một số chỉ tiêu hệ bạch cầu của lợn mắc bệnh gạo do gây nhiễm Kết quả về sự thay đổi một số chỉ tiêu hệ bạch cầu của lợn mắc bệnh gạo so

với lợn đối chứng được trình bày ở bảng 3.22 và hình 3.15.

Bảng 3.22. Sự thay đổi một số chỉ tiêu hệ bạch cầu

của lợn mắc bệnh gạo do gây nhiễm

Chỉ tiêu hệ bạch cầu

Chỉ tiêu sinh lý (*)

Mức ý nghĩa (P)

Lô gây nhiễm  X 

Lô đối chứng  X 

mx

mx

Số mẫu máu

Số lượng bạch cầu (nghìn mm3) Tỷ lệ bạch cầu trung tính (%) Tỷ lệ bạch cầu ái toan (%) Tỷ lệ bạch cầu ái kiềm (%) Tỷ lệ bạch cầu lympho (%) Tỷ lệ bạch cầu đơn nhân lớn (%)

30 27,12 ± 0,13 36,12 ± 0,09 8,38 ± 0,05 1,58 ± 0,02 51,32 ± 0,09 2,60 ± 0,03

15 20,27 ± 0,12 42,95 ± 0,05 4,01 ± 0,04 1,40 ± 0,02 48,66 ± 0,05 2,98 ± 0,03

< 0,05 < 0,05 < 0,05 < 0,05 < 0,05 < 0,05

20,00 43,00 4,00 1,40 48,60 3,00

Ghi chú: (*) Chỉ tiêu sinh lý theo tài liệu của Hoàng Toàn Thắng và Cao Văn (2006) [37]

88

Hình 3.15. Biểu đồ tỷ lệ các loại bạch cầu của lợn gây nhiễm và đối chứng

Bảng 3.22 và biểu đồ hình 3.15 cho thấy:

Một số chỉ tiêu của hệ bạch cầu của lợn đối chứng đều nằm trong giới hạn sinh

lý bình thường. Các chỉ tiêu của lợn bệnh tăng hơn so với lợn đối chứng như: số lượng bạch cầu (27,12 ± 0,13 nghìn mm3 so với 20,27 ± 0,12 nghìn mm3); tỷ lệ bạch cầu ái toan tăng cao (8,38 ± 0,05% so với 4,01 ± 0,04%); tỷ lệ bạch cầu ái kiềm

(1,58 ± 0,02% so với 1,4 ± 0,02%); tỷ lệ bạch cầu lympho (51,32 ± 0,09% so với

48,66 ± 0,05%). Trong khi, một số chỉ tiêu lại giảm hơn so với đối chứng như: tỷ lệ

bạch cầu trung tính (36,12 ± 0,09% so với 42,6 ± 0,03%), tỷ lệ bạch cầu đơn nhân

lớn (2,6 ± 0,03% so với 2,98 ± 0,03%). Sự khác nhau về các chỉ tiêu nói trên giữa

lợn bệnh và lợn đối chứng là rõ rệt (P < 0,05).

Trịnh Văn Thịnh và cs. (1978) [39], Bamorovat M. và cs., (2014) [57], Radfar

M. H. (2014) [114] cho biết: gia súc và gia cầm chống lại ký sinh trùng bằng những

phản ứng tế bào như phản ứng viêm, chức năng thực bào, hiện tượng tăng bạch cầu ái

toan, tăng bạch cầu lympho và giảm bạch cầu trung tính. Tác giả nhận xét: hiện tượng

tăng bạch cầu ái toan được coi là một chỉ tiêu quan trọng để chẩn đoán bệnh giun, sán.

Theo Phạm Sỹ Lăng và cs. (2006) [20], ấu trùng phát triển, chèn ép làm cho các

các cơ và tổ chức bị tổn thương, bên trong có nhiều bạch cầu ái toan, bạch cầu trung tính.

Bạch cầu ái toan tham gia vào quá trình bảo vệ cơ thể, chống cảm nhiễm. Khi

cơ thể cảm nhiễm ký sinh trùng thì bạch cầu ái toan tăng lên (Phạm Thị Hiền Lương

và Phan Đình Thắm, 2009 [28]).

Kết quả của chúng tôi phù hợp với nhận xét của các tác giả trên.

3.2.2.4. Sự thay đổi một số chỉ tiêu sinh hóa máu của lợn mắc bệnh gạo do gây nhiễm

Thông qua sự thay đổi một số chỉ tiêu trong xét nghiệm sinh hóa máu sẽ giúp

đánh giá chức năng của các cơ quan trong cơ thể vật nuôi. Kết quả về sự thay đổi

một số chỉ tiêu sinh hóa máu của lợn gây nhiễm được trình bày ở bảng 3.23.

89

Bảng 3.23. Sự thay đổi một số chỉ tiêu sinh hóa máu

của lợn mắc bệnh gạo do gây nhiễm

Lô thí nghiệm

Lô đối chứng

Chỉ tiêu sinh hóa máu

Mức ý nghĩa (P)

Chỉ tiêu sinh lý (*)

 X 

 X 

mx

mx

Số mẫu máu

30

15

GOT (U/I)

65,08 ± 0,20

36,05 ± 0,19

< 0,05

37,05

GPT (U/I)

48,11 ± 0,20

35,87 ± 0,23

< 0,05

36,90

Bilirubin máu (mg/dl)

0,79 ± 0,01

0,23 ± 0,01

< 0,05

0,06 - 0,69

Protein toàn phần (g/dl)

4,55 ± 0,03

5,79 ± 0,62

< 0,05

5,07 - 8,65

Albumin máu (g/dl)

2,80 ± 0,03

3,81 ± 0,07

< 0,05

3,15 - 5,03

Ure máu (mg/dl)

4,56 ± 0,04

6,27 ± 0,13

< 0,05

4,91 - 20,87

Ghi chú (*): Chỉ tiêu sinh lý theo tài liệu của Nguyễn Thị Hồng Minh và

cs., 2013, [29], Hoàng Toàn Thắng và Cao Văn, 2006 [37], Su-Cheong Yeom và cs., 2012 [126].

Bảng 3.23 cho thấy:

Hàm lượng GOT - GPT trong máu của lợn gây nhiễm cao hơn so với lợn đối

chứng. Sự khác nhau về các chỉ tiêu trên giữa 2 lô gây nhiễm và đối chứng có sự

khác nhau rõ rệt (P < 0,05). Theo Nguyễn Hồng Minh và cs. (2013) [29], hàm lượng

của enzym GOT và GPT trong máu của lợn có triệu chứng viêm tăng cao hơn so

với lợn khỏe mạnh.

Hàm lượng protein toàn phần phản ánh tình trạng dinh dưỡng của con vật. Lợn

ở lô gây nhiễm có hàm lượng protein toàn phần giảm so với lợn đối chứng (4,55 ±

0,03 g/dl so với 5,79 ± 0,62 g/dl), với P < 0,05.

Hàm lượng albumin và ure máu của lợn ở lô gây nhiễm giảm rõ rệt so với lô đối

chứng (2,8 ± 0,03 g/dl; 4,56 ± 0,04 mg/dl so với 3,81 ± 0,07 g/dl; 6,27 ± 0,13 mg/dl).

Hàm lượng bilirubin, albumin và ure máu phản ánh chức năng gan, thận và sự hấp thu

dinh dưỡng của con vật, nếu gan tổn thương hoặc hấp thu dinh dưỡng không tốt dẫn đến

albumin và ure máu giảm đi, đồng thời bilirubin tăng trong máu (P < 0,05).

3.2.2.5. Tổn thương đại thể và vi thể của lợn mắc bệnh gạo do gây nhiễm

* Tổn thương đại thể

Mổ khám 14 lợn nhiễm ấu trùng C. cellulosae chúng tôi đã thấy xuất hiện

những tổn thương đại thể ở cơ và nhiều khí quan có ấu trùng C. cellulosae ký sinh.

Kết quả được trình bày ở bảng 3.24.

90

Bảng 3.24. Tổn thương đại thể của lợn mắc bệnh gạo do gây nhiễm

Lô TN

Bệnh tích đại thể

Số TT lợn

Thời gian mổ khám sau GN (ngày)

1

15

2 3 4

30 45 60

Lô gây nhiễm I

5

75

6 7

90 120

1

15

Lô gây nhiễm II

2 3 4 5

30 45 60 75

6

90

7

120

Ruột non, phổi, gan có một số điểm sung huyết. Chưa có ấu trùng ký sinh ở cơ, lưỡi, não, thận, tim Chưa có ấu trùng ký sinh ở cơ, lưỡi, não, thận, tim Chưa có ấu trùng ký sinh ở cơ, lưỡi, não, thận, tim Có những điểm trắng ở cơ, lưỡi Có ấu trùng kích thước nhỏ ở cơ, lưỡi và não và một số ấu trùng lớn hơn. Cơ, lưỡi, tim, não có ấu trùng ký sinh Cơ, cơ lưỡi, não có ấu trùng ký sinh Ruột non, phổi, gan có một số điểm sung huyết. Chưa có ấu trùng ký sinh ở cơ, lưỡi, não, thận, tim Chưa có ấu trùng ký sinh ở cơ, lưỡi, não, thận, tim Chưa có ấu trùng ký sinh ở cơ, lưỡi, não, thận, tim Có nhiều điểm trắng ở cơ và lưỡi Có nhiều ấu trùng ký sinh ở cơ, lưỡi, tim, thận và não Cơ, lưỡi, não, tim, thận có nhiều ấu trùng ký sinh, viêm kết mạc mắt Cơ, lưỡi, não tim, thận có nhiều ấu trùng, gan có những điểm trắng, viêm kết mạc mắt Không có bệnh tích

Lô ĐC

7 con

15 - 120

Qua bảng 3.24 cho thấy:

Mổ khám mỗi lô 1 lợn vào các ngày 15, 30, 45, 60, 75, 90 và 120 ngày, quan

sát thấy: ở lợn sau 15 ngày gây nhiễm ruột non, phổi, gan có một số điểm sung

huyết; ở ngày thứ 75 - 120 sau gây nhiễm, có ấu trùng ở cơ, lưỡi, não, thận, tim và

gây viêm kết mạc mắt... Tùy theo số lượng trứng sán dây gây nhiễm ở các lô, giai

đoạn phát triển của ấu trùng, sức đề kháng của lợn mà có mức độ tổn thương khác

nhau, lợn có tổn thương tập trung ở cơ, não, thận và tim. Các tổn thương chủ yếu

gồm: sung huyết và xuất huyết, viêm và thoái hóa ở cơ và nhiều khí quan trong cơ

thể lợn. Lợn ở lô II có tổn thương đại thể nặng hơn so với lô I. Lợn ở lô đối chứng

không có tổn thương.

De Aluja A.S. và cs. (1998) [67] đã mổ khám lợn các lứa tuổi cho thấy, lợn

từ 2 đến 4 tuần tuổi ấu trùng gây tổn thương nhiều ở gan. Lợn từ 4 đến trên 6 tháng

tuổi, ấu trùng gây tổn thương nhiều ở cơ bắp.

91

Borkataki S. và cs. (2013) [62] cho biết, ấu trùng có thể nhiễm vào lợn rất

sớm. Một nghiên cứu cho thấy, lợn giết mổ ở 90 ngày tuổi đã thấy ấu trùng phát

triển và gây bệnh tích ở gan, phổi, lách và cơ.

Theo Rodrigues A. và cs. (2018) [111], ấu trùng sán dây lợn thường ký sinh và

gây tổn thương ở hệ thần kinh trung ương, dưới da, cơ vân, cơ tim và mắt lợn. Ngoài

ra, ấu trùng còn ký sinh ở cơ vùng hốc mắt, vị trí này là nơi dễ tìm thấy ấu trùng hơn

các nơi khác

Singh S.P. (2018) [123], Rojas R.G. (2019) [113] đã mổ khám 19 lợn mắc

bệnh ấu trùng C. cellulosae. Tác giả cho biết, lợn có thể có từ 526 đến 1964 ấu

trùng/lợn, trung bình có 897 ấu trùng trên mỗi lợn mổ khám. Có tổn thương ở

những vị trí ấu trùng ký sinh.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu và nhận xét của

các tác giả trên.

* Tổn thương vi thể của lợn mắc bệnh gạo do gây nhiễm

Ấu trùng C. cellulosae ký sinh có thể gây ra những tổn thương vi thể các cơ

quan tổ chức của lợn. Kết quả nghiên cứu các tiêu bản có tổn thương vi thể được thể

hiện ở bảng 3.25.

Bảng 3.25. Số lợn có tổn thương vi thể trong 14 lợn gây nhiễm

Tổn thương vi thể

Số lợn gây nhiễm (con)

Số lợn có tổn thương Tỷ lệ (%)

Sung huyết cơ, phì đại, giãn cơ

14

100

Sung huyết, xuất huyết não

8

57,14

Sung huyết thận, teo mô thận

5

35,71

Sung huyết và giãn cơ tim

7

50,00

14

Sung huyết và xuất huyết mô phổi

6

42,86

Sung huyết, xuất huyết và xơ

8

57,14

gan, thoái hóa nhu mô gan

Niêm mạc ruột non sung huyết,

4

28,57

xuất huyết

Bảng 3.25 cho thấy:

Tiêu bản tổ chức của lợn mắc bệnh gạo có những tổn thương như: sung huyết,

phì đại, giãn cơ; sung huyết và xuất huyết não; sung huyết và teo mô thận; sung

huyết và giãn cơ tim; sung huyết, xuất huyết mô phổi; sung huyết, xuất huyết, xơ và

thoái hóa nhu mô gan; niêm mạc ruột non sung huyết, xuất huyết (tỷ lệ có tổn

thương dao động từ 28,57 đến 100%). Tổn thương ở cơ thấy ở cả 14 lợn.

92

Theo Đỗ Dương Thái và cs. (1974) [33], các tổn thương bệnh học của lợn mắc bệnh gạo thể hiện rất rõ. Ấu trùng gây các tình trạng xơ hóa, viêm, chèn ép tại nơi ký sinh. Những tổn thương này có thể dẫn tới rối loạn chức năng của các cơ quan.

Gamble H.R. (1997) [76] cho biết, khi ấu trùng ký sinh gây có tổn thương cơ

học ở các mô như phản, xơ hóa.

Theo Phạm Sỹ Lăng và cs. (2006) [20]), ấu trùng phát triển, chèn ép làm cho

các mô bị teo, thoái hóa và hoại tử, mô bào và các cơ bị tổn thương.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi về tổn thương vi thể ở các tổ chức của lợn

mắc bệnh gạo tương đối phù hợp với nhận xét của các tác giả trên.

* Từ kết quả ở các bảng 3.23, 3.24 và 3.25 chúng tôi có nhận xét sau: Khi gây nhiễm bệnh gạo cho lợn bằng liều gây nhiễm khác nhau, lợn ở 2 lô thí nghiệm có sự khác nhau về số lượng ấu trùng ký sinh, về triệu chứng lâm sàng và bệnh tích. Cụ thể như sau:

i). Với liều gây nhiễm 150.000 trứng/lợn, số lượng ấu trùng ở các vị trí ký sinh

trên lợn nhiều hơn rõ rệt so với lợn ở lô gây nhiễm 100.000 trứng.

ii). Với liều gây nhiễm 150.000 trứng/lợn, biểu hiện triệu chứng lâm sàng của

lợn nặng hơn so với lợn ở lô gây nhiễm 100.000 trứng.

iii). Với liều gây nhiễm 150.000 trứng/lợn, tổn thương đại thể của lợn nặng

hơn so với lợn gây nhiễm 100.000 trứng. 3.3. Nghiên cứu biện pháp phòng chống bệnh gạo trên lợn 3.3.1. Theo dõi thời gian chết của ấu trùng Cysticercus cellulosae ở ngoại cảnh

Kết quả theo dõi thời gian chết của ấu trùng đã phân lập khỏi thịt ở ngoại cảnh

vào mùa Đông và mùa Hè được trình bày ở bảng 3.26.

Bảng 3.26. Thời gian chết của ấu trùng C. cellulosae ở ngoại cảnh

Nội dung theo dõi

Lô I

Lô II

Lô III

Đợt thí nghiệm

Số ấu trùng theo dõi

120

120

120

Số ấu trùng chết sau 1 giờ

0/30 (0%)

0/30 (0%)

0/30 (0%)

Số ấu trùng chết sau 2 giờ

0/30 (0%)

0/30 (0%)

0/30 (0%)

Đợt I (Mùa Hè)

Số ấu trùng chết sau 3 giờ

23/30 (76,66%) 19/30 (63,33%) 18/30 (60,0%)

Số ấu trùng chết sau 4 giờ

30/30 (100%) 30/30 (100%) 30/30 (100%)

Số ấu trùng theo dõi

120

120

120

Số ấu trùng chết sau 1 giờ

0/30 (0%)

0/30 (0%)

0/30 (0%)

Số ấu trùng chết sau 2 giờ

0/30 (0%)

0/30 (0%)

0/30 (0%)

Đợt II

Số ấu trùng chết sau 3 giờ

0/30 (0%)

0/30 (0%)

0/30 (0%)

(Mùa Đông)

Số ấu trùng chết sau 4 giờ

12/30 (40,0%) 17/30 (56,66%) 11/30 (36,66%)

Số ấu trùng chết sau 5 giờ

30/30 (100%) 30/30 (100%) 30/30 (100%)

Ghi chú: Kiểm tra 30 ấu trùng ở mỗi thời điểm sau 1, 2, 3, 4 và 5 giờ

93

Bảng 3.26 cho thấy: Ở mùa Hè, sau 1 giờ và 2 giờ kiểm tra ấu trùng ở lô I, lô II và lô III chưa thấy có ấu trùng chết. Sau 3 giờ, tỷ lệ chết của ấu trùng ở lô I, lô II và lô III lần lượt là 76,66%, 63,33% và 60%. Sau 4 giờ ấu trùng ở lô 1, lô 2 và lô 3 đều chết hết, tỷ lệ chết là 100%.

Ở mùa Đông, sau 1 giờ và 2 và 3 giờ kiểm tra ấu trùng ở lô I, lô II và lô III chưa có ấu trùng chết. Sau 4 giờ, tỷ lệ chết của ấu trùng ở lô I, lô II và lô III lần lượt là 40%, 56,66% và 36,66%. Sau 5 giờ ấu trùng ở lô I, lô II và lô III đều chết hết, tỷ lệ chết là 100%.

Như vậy, mùa Hè do nhiệt độ không khí cao hơn nên ấu trùng đã phân lập từ thịt chết nhanh hơn so với mùa Đông. Mùa Hè ấu trùng chết hoàn toàn sau khi tách khỏi thịt 3 giờ và mùa Đông là 4 giờ. 3.3.2. Theo dõi thời gian chết của ấu trùng Cysticercus cellulosae trong thịt khi xử lý bằng nhiệt độ cao (luộc thịt)

Thời gian chết của ấu trùng trong thịt khi sử lý bằng nhiệt độ cao phụ thuộc vào độ dày của thịt. Kết quả theo dõi thời gian chết của ấu trùng trong thịt khi xử lý bằng nhiệt độ cao được trình bày ở bảng 3.27. Bảng 3.27. Thời gian chết của ấu trùng C. cellulosae trong thịt khi xử lý bằng nhiệt độ cao (luộc thịt)

Độ dày của thịt Số mẫu thịt xử lý (mẫu) Thời gian xử lý thích hợp (phút)

45 5 cm

90 8 cm

Thời gian luộc kể từ khi nước bắt đầu sôi (phút) 30 45 60 45 60 75 90 105 3 3 3 3 3 3 3 3 Số mẫu thịt có ấu trùng chết hoàn toàn (mẫu) 0/3 3/3 3/3 0/3 0/3 0/3 3/3 3/3

Bảng 3.27 cho thấy: Thịt có độ dày 5 cm, sau 30 phút kể từ khi nước bắt đầu sôi những ấu trùng ở rìa thịt chết, nhưng những ấu trùng nằm sâu trong thịt không chết. Sau 45 và 60 phút, số ấu trùng có ở sâu trong thịt cũng chết hoàn toàn.

Thịt có độ dày 8 cm, sau 45, 60 và 75 phút kể từ khi nước bắt đầu sôi thì trong 3 mẫu thịt vẫn còn nhiều ấu trùng nằm sâu trong thịt chưa chết. Sau 90 và 105 phút, ấu trùng trong 3 mẫu thịt đều chết hoàn toàn.

94

Như vậy, với thịt có độ dày 5 cm, thời gian luộc thịt tính từ khi nước bắt đầu

sôi là 45 phút. Thịt có độ dày 8 cm thời gian luộc thịt tính từ khi nước bắt đầu sôi là

90 phút. Với thời gian này sẽ đảm bảo ấu trùng trong thịt chết hoàn toàn.

Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [14], để đảm bảo an toàn thì cắt

thịt thành từng miếng khoảng 0,5 kg và phải đun sôi trong vòng 1 giờ.

Lê Bách Quang (2008) [32], Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [19], Nguyễn Văn

Đề và cs. (2016) [9] cho biết: cắt thịt thành miếng 1 - 2 kg, dày 5 - 6 cm, luộc trong

45 phút đến 1 giờ (nếu thịt cắt to và dày quá thì nhiệt độ bên trong không đủ để diệt

ấu trùng).

Từ kết quả bảng trên chúng tôi có nhận xét sau: i) Với thịt có độ dày 5 cm, chỉ

cần luộc 45 phút kể từ khi nước bắt đầu sôi; thịt có độ dày 8 cm thì thời gian này là 90

phút. Như vậy, không cần quá nhiều thời gian để xử lý thịt, tránh tình trạng tốn

than/củi/ga và thịt chín nhừ quá, giảm chất lượng thịt; ii) Phương pháp xử lý thịt bằng

nhiệt độ cao như trên dễ áp dụng ở các địa phương, kể cả các địa phương vùng núi sâu,

xa. Để đỡ tốn nguyên liệu, khi nước sôi có thể điều chỉnh lửa nhỏ để nước sôi âm ỉ với

thời gian như trên là được; iii) Phương pháp này chỉ xử lý với thịt có dưới 6 ấu trùng trên 40 cm2 mặt cắt thịt (theo đúng quy định của thông tư 09 - Bộ NN & PTNT, ngày 01/06/2016). Thịt có nhiều hơn 6 ấu trùng trên 40 cm2 mặt cắt thịt thì phải hủy bỏ.

Theo thông tư 09 - Bộ NN & PTNT, ngày 01/06/2016, đối với thịt lợn trước

khi luộc phải cắt thành từng miếng, dày không quá 8 cm, nặng không quá 2 kg và

luộc sôi trong vòng 2 giờ.

Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, khi xử lý thịt ở nhiệt độ cao (luộc thịt)

với thịt có độ dày 8 cm, thời gian luộc từ khi nước bắt đầu sôi đến khi ấu trùng chết

hoàn toàn là 90 phút.

Như vậy, để diệt hết ấu trùng trong thịt có độ dày 8 cm, khối lượng khoảng 1,5

đến 2 kg, người tiêu dùng chỉ cần luộc sôi trong vòng 90 phút (giảm được 30 phút

so với quy định của thông tư 09).

3.3.3. Theo dõi thời gian chết của ấu trùng Cysticercus cellulosae trong thịt khi xử

lý thịt ở nhiệt độ thấp

Theo Rodriguez - Canul R. (2002) [112], do nhu cầu sử dụng thịt lợn ngày càng

tăng nên khâu kiểm tra và bảo quản thực phẩm rất quan trọng.

Chúng tôi đã bố trí theo dõi thời gian bảo quản thịt ở 1 mức nhiệt độ duy nhất là - 15oC để xác định thời gian chết của ấu trùng trong thịt. Kết quả theo dõi thời gian chết của ấu trùng khi xử lý ở nhiệt độ thấp được thể hiện ở bảng 3.28.

95

Bảng 3.28. Thời gian chết của ấu trùng C. cellulosae khi xử lý thịt ở nhiệt độ thấp

Thịt dày 5 cm Thịt dày 8 cm

Nhiệt độ Số mẫu thịt/loại Thời gian bảo quản (ngày) Số mẫu có ấu trùng chết hoàn toàn Số mẫu có ấu trùng chết hoàn toàn

2 3 0/3 0/3

3 3 3/3 0/3 - 15oC 4 3 3/3 0/3

5 3 3/3 3/3

Thời gian và nhiệt độ - 15oC trong 5 ngày

- 15oC trong 2 ngày bảo quản thích hợp

Kết quả bảng 3.28 thấy: Đối với thịt có độ dày 5 cm: Bảo quản ở - 15oC trong 2 ngày ấu trùng chưa

chết hoàn toàn; song sau 3 ngày, kiểm tra thấy ấu trùng trong các mẫu thịt đã bị chết hoàn toàn. Như vậy, với thịt có độ dày 5 cm có thể bảo quản ở - 15oC trong 3 ngày

thì có thể sử dụng được.

Đối với thịt có độ dày 8 cm: Sau 4 ngày bảo quản ở nhiệt độ - 15oC, kiểm tra

ấu trùng trong các mẫu thịt thấy một số ấu trùng ở tâm miếng thịt vẫn còn sống.

Đến hết ngày thứ 5, kiểm tra thấy ấu trùng đã chết hoàn toàn. Như vậy, với thịt có độ dày 8 cm có thể bảo quản ở - 15oC trong 5 ngày thì có thể sử dụng được.

Theo Sotelo J. (1986) [125], ở nhiệt độ - 10oC ấu trùng sống được 4 ngày, ở -

15oC ấu trùng sống được 3 ngày và ở - 24oC ấu trùng sống được 1 ngày.

Gamble H.R. (1997) [76] cho biết, nhiều Quốc gia đã tìm thấy ấu trùng còn

sống khi bảo quản thịt ở - 10oC trong nhiều ngày.

Theo Lê Bách Quang (2008) [32], Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [19], Nguyễn Văn Đề và cs. (2016) [9], có thể để thịt ở nhiệt độ -10oC đến - 15oC, với thời gian từ 10

- 15 ngày. Sau đó phải thử sức sống của ấu trùng trước khi dùng thịt làm thực phẩm.

Từ kết quả trên, chúng tôi thấy thời gian và nhiệt độ cần thiết để làm chết ấu trùng

phụ thuộc rất nhiều vào độ dày của thịt. Trong nghiên cứu của chúng tôi, thịt có độ dày 5 cm, thời gian bảo quản thịt ở - 15oC là 2 ngày. Thịt có độ dày 8 cm, thời gian bảo quản ở - 15oC là 5 ngày. Kết quả này khác với công bố của các tác giả trên.

96

3.3.4. Theo dõi thời gian chết của ấu trùng khi chế biến thịt hun khói

Kết quả theo dõi thời gian chết của ấu trùng theo phương pháp hun khói tại gia

đình người Thái và tại cơ sở sản xuất thịt hun khói được trình bày ở bảng 3.29.

Bảng 3.29. Thời gian chết của ấu trùng C. cellulosae trong thịt hun khói

(thịt trước khi sấy: dầy 5 cm, dài 20 - 25 cm)

Phương thức hun khói Thời gian hun khói (ngày) Số mẫu có ấu trùng theo dõi (mẫu) Số mẫu có ấu trùng chết hết (mẫu) Thời gian hun khói thích hợp (ngày)

1 3 0/3

Treo thịt gác bếp 2 3 0/3

3 3 0/3 5

4 3 0/3 tại gia đình người Thái (nhiệt độ 40 - 50oC)

5 3 3/3

1 3 0/3

2 3 3/3 Hun khói trong lò tại cơ sở

3 3 3/3 2

4 3 3/3

sản xuất thịt hun khói (nhiệt độ 60 - 65oC) 5 3 3/3

Bảng 3.29 cho thấy:

Theo cách hun khói treo thịt gác bếp tại gia đình người Thái, ở ngày thứ 1, 2, 3 và 4

kiểm tra 3/3 mẫu thịt thấy ấu trùng trong cả 3 mẫu đều chưa chết hoàn toàn. Ở ngày thứ 5

cả 3/3 mẫu thịt ấu trùng đều chết hết.

Theo cách hun khói trong lò tại cơ sở sản xuất thịt hun khói, ở ngày đầu tiên kiểm

tra 3 mẫu thịt thì ấu trùng trong các mẫu đều chưa chết hoàn toàn. Ở ngày thứ 2, 3, 4 và 5

thì toàn bộ ấu trùng ở các mẫu thịt đều chết hết.

Như vậy, theo cách hun khói treo thịt gác bếp của gia đình người Thái thì thời gian

hun khói để ấu trùng chết hết trong thịt dày 5 cm là 5 ngày, tại cơ ở sản xuất thịt thì thời

gian hun khói trong lò là 2 ngày.

Qua kết quả trên chúng tôi thấy rằng, cần đảm bảo nhiệt độ và thời gian hun

khói hợp lý, độ dày thịt vừa phải để ấu trùng trong thịt chết. Món thịt hun khói là

món ăn ưa thích của đồng bào dân tộc. Vì vậy, cần thực hiện tốt việc chế biến thịt

theo cách hun khói để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.

97

3.3.5. Thử nghiệm phác đồ điều trị bệnh gạo cho lợn

3.3.5.1. Điều trị thử nghiệm trên lợn gây nhiễm

* Độ an toàn của các phác đồ điều trị:

Chúng tôi đã thử nghiệm 3 phác đồ điều trị trên 15 lợn gây nhiễm bệnh gạo và

5 lợn gây nhiễm làm đối chứng (lợn đối chứng cho uống dung dịch NaCl 0,9% và

không dùng thuốc). Để có cơ sở đánh giá độ an toàn của phác đồ điều trị, chúng tôi

đã theo dõi phản ứng của lợn trước và sau khi sử dụng thuốc 2 giờ rồi so sánh với

những lợn đối chứng

Kết quả đánh giá độ an toàn của phác đồ điều trị bệnh gạo cho lợn được trình

bày ở bảng 3.30.

Bảng 3.30. Độ an toàn của phác đồ điều trị bệnh gạo cho lợn

Số lợn Tỷ lệ Số lợn không có Phác đồ Phác đồ và thuốc sử dụng an toàn (con) phản ứng (%) (con)

I Praziquantel 20 mg/kg/ngày x 2 ngày 5 5 100

II 5 5 100 Albendazole 15 mg/kg/ngày x 3 ngày

Praziquantel 20 mg/kg trong ngày

III 5 5 100 đầu, albendazole 15 mg/kg/ngày

trong 2 ngày tiếp theo

Đối chứng Dung dịch NaCl 0,9% 5 5 100

Ghi chú: Thuốc và dung dịch NaCl 0,9% đều cho lợn uống

Kết quả ở bảng 3.30 cho thấy: sau khi dùng thuốc trong vòng 2 giờ, không lợn

nào ở lô I, II và III có phản ứng khác thường so với trước khi sử dụng thuốc. Kết

quả này tương tự như lợn ở lô đối chứng.

Như vậy, các phác đồ trên đều rất an toàn đối với lợn.

* Hiệu lực của các phác đồ điều trị:

Kết quả theo dõi hiệu lực của 3 phác đồ điều trị bệnh gạo cho lợn được trình

bày ở bảng 3.31.

98

Bảng 3.31. Hiệu lực của phác đồ điều trị bệnh gạo trên lợn gây nhiễm

Kết quả mổ khám sau điều trị (+/-) STT lợn Phác đồ Phác đồ và thuốc sử dụng Số lợn (-) (con) Ngày 11 Ngày 12 Ngày 13 Ngày 14 Ngày 15

1 -

2 + Praziquantel 20 I 3 - 4/5 mg/kg/ngày x 2 ngày 4 -

5 -

1 +

2 - II Albendazole 15 3 - 4/5 mg/kg/ngày x 3 ngày 4 -

5 -

1 - Praziquantel 20

2 - mg/kg trong ngày III đầu, albendazole 15 3 - 5/5

mg/kg/ngày trong 2 4 -

ngày tiếp theo 5 -

1 +

2 +

ĐC Không dùng thuốc 3 + 0/5

4 +

5 +

* Ghi chú: (+): ấu trùng còn sống, (-): ấu trùng đã chết

Qua bảng 3.31 cho thấy:

Phác đồ III sử dụng thuốc praziquantel 20 mg/kg/ngày trong ngày đầu, sau đó

dùng albendazole 15 mg/kg/ngày trong 2 ngày tiếp theo, mổ khám lợn vào ngày 11,

12, 13, 14 và ngày thứ 15 sau điều trị, thấy ấu trùng ở cả 5 lợn đều chết hết. Trong

khi phác đồ I và II vẫn còn 1 lợn có nhiều ấu trùng chưa chết. Mổ khám lợn ở lô đối

chứng thấy ấu trùng ở cả 5 lợn vẫn còn sống bình thường.

99

Như vậy, khi điều trị bệnh gạo cho lợn bằng 1 loại thuốc thì không có hiệu quả

bằng điều trị kết hợp 2 loại thuốc trong cùng 1 phác đồ.

Assana E. và cs. (2010) [56] đã điều trị bệnh ấu trùng C. cellulosae bằng thuốc

praziquantel (liều 15 mg/ kg thể trọng, liệu trình 30 ngày) trên lợn gây nhiễm trứng

T. solium. Kết quả mổ khám sau điều trị cho thấy thuốc có tác dụng tốt trong điều

trị bệnh cho lợn

Vargas Callal A. và cs. (2016) [130] cho biết: thuốc albendazol liều 30 mg /kg TT

lặp lại 3 lần được dùng điều trị cho lô thí nghiệm 1; thuốc oxfendazole liều 30 mg /kg

một lần duy nhất cho lô thí nghiệm 2. Sau 17 tuần điều trị thấy, lợn được điều trị bằng

thuốc oxfendazole với liều duy nhất thấy ấu trùng chết và thoái hóa. Ngược lại,

thuốc albendazol liều gấp 3 lần thấy tác dụng diệt ấu trùng kém hơn.

Qua kết quả điều trị bệnh ấu trùng C. cellulosae ở lợn của các tác giả trên,

chúng tôi thấy: Assana E. và cs. (2010) [56] đã sử dụng thuốc praziquantel với liều

thấp hơn so với nghiên cứu của chúng tôi và thời gian điều trị dài hơn. Vargas -

Callal A. và cs. (2016) [130] dùng thuốc albendazol liều 30 mg/kg lặp lại 3 lần, tác

dụng diệt ấu trùng kém hơn.

Từ các nghiên cứu trên và theo một số tác giả thì thuốc albendazol và

praziquantel đều có tác dụng nhất định trong điều trị bệnh gạo cho lợn. Tuy nhiên,

hiệu lực của mỗi phác đồ điều trị khác nhau. Trong nghiên cứu của chúng tôi, phác

đồ III sử dụng kết hợp thuốc praziquantel và albendazol có hiệu lực điều trị bệnh

gạo cao nhất (100%).

3.3.5.2. Điều trị thử nghiệm bệnh gạo cho lợn trên thực địa

* Chẩn đoán lợn mắc bệnh trên thực địa bằng bộ kít ELISA Taenia solium

Xác định lợn mắc bệnh gạo để điều trị thông qua việc xác định huyết thanh lợn

dương tính với kháng nguyên của ấu trùng C. cellulosae.

Trước khi điều trị thử nghiệm bệnh gạo cho lợn trên thực địa, chúng tôi đã sử

dụng bộ kit ELISA Taenia solium của hãng Scimedx/Mỹ để xác định tỷ lệ lợn có

huyết thanh dương tính trong 300 con lợn có thể trạng gày yếu tại tỉnh Sơn La và

Điện Biên. Kết quả được trình bày ở bảng 3.32.

100

Bảng 3.32. Tỷ lệ mẫu huyết thanh xét nghiệm ELISA dương tính (có kháng thể

kháng kháng nguyên của ấu trùng C. cellulosae)

Tỷ lệ mẫu huyết thanh dương tính Địa phương (tỉnh, huyện) Số lợn xét nghiệm huyết thanh (con) Số lợn (con) Tỷ lệ (%)

* Tỉnh Sơn La 150 11 7,33

Huyện Bắc Yên 50 5 10,00

Huyện Mai Sơn 50 2 4,00

Huyện Mường La 50 4 8,00

* Điện Biên 150 13 8,66

Huyện Mường Ảng 50 3 6,00

Huyện Tủa Chùa 50 4 8,00

Huyện Nậm Pồ 50 6 12,00

Bảng 3.32 cho thấy:

Ở tỉnh Sơn La, có 11/150 mẫu huyết thanh của lợn dương tính với kháng

nguyên của ấu trùng Cys. cellulosae, tỷ lệ dương tính là 7,33%, biến động từ 4 - 10%.

Ở tỉnh Điện Biên có 13/150 mẫu huyết thanh của lợn dương tính với kháng

nguyên của ấu trùng Cys. cellulosae, tỷ lệ dương tính là 8,66%, biến động từ 6 - 12%.

Như vậy, bộ kít ELISA đã sử dụng phát hiện được từ 7,33% đến 8,66% số lợn

được xét nghiệm trong huyết thanh có kháng thể kháng kháng nguyên của ấu trùng

C. cellulosae.

So sánh với kết quả mổ khám lợn thì kết quả xác định huyết thanh dương tính

cao hơn nhiều. Sở dĩ như vậy là do lợn mổ khám là lợn giết mổ ngẫu nhiên ở các

địa phương, trong khi lợn lấy máu để xét nghiệm ELISA đều là những lợn gày yếu

được lựa chọn. Vì vậy, tỷ lệ lợn có huyết thanh dương tính cao hơn so với tỷ lệ lợn

mắc bệnh khi mổ khám là phù hợp.

* Kết quả theo dõi triệu chứng lâm sàng của những lợn có huyết thanh

dương tính

Chúng tôi đã quan sát triệu chứng lâm sàng của 11 con lợn ở Sơn La và 13

con lợn ở Điện Biên có kết quả xét nghiệm huyết thanh dương tính bằng bộ kit

ELISA, mục đích để có nhận xét chính xác hơn về triệu chứng lâm sàng của bệnh

gạo lợn, từ đó có những khuyến cáo phục vụ công tác chẩn đoán bệnh ở các địa

phương. Kết quả theo dõi biểu hiện của lợn được trình bày ở bảng 3.33.

101

Bảng 3.33. Triệu chứng lâm sàng của lợn có huyết thanh dương tính

Triệu chứng lâm sàng

Địa phương (tỉnh, huyện) Số lợn theo dõi (con) Các triệu chứng chủ yếu

* Tỉnh Sơn La 11 (+)

* Điện Biên 13 (+)

Sốt, ho Tiêu chảy Lông gáy dựng, run rẩy Nghiến răng Đi lại khó khăn, tập tễnh Sốt, ho Tiêu chảy Lông gáy dựng, run rẩy Nghiến răng Đi lại khó khăn, tập tễnh Số lợn (con) 2 3 11 11 8 1 4 13 13 12 Tỷ lệ (%) 18,18 27,27 100 100 72,73 7,69 30,77 100 100 92,31

Kết quả bảng 3.33 cho thấy: Ở tỉnh Sơn La: theo dõi triệu chứng lâm sàng của 11 lợn dương tính khi sử dụng bộ Kit ELISA, thấy cả 11 lợn có biểu hiện triệu chứng lâm sàng như: lông gáy dựng từng cơn, run rẩy, nghiến răng, đi lại khó khăn, tập tễnh. Tỷ lệ các triệu chứng biến động từ 72,73% đến 100%.

Ở tỉnh Điện Biên, theo dõi 13 lợn dương tính, thấy lợn cũng có các biểu hiện lâm sàng giống như số lợn theo dõi tại Sơn La. Tỷ lệ các triệu chứng biến động từ 92,31% đến 100%

Như vậy, những lợn có huyết thanh dương tính với kháng thể kháng ấu trùng C. cellulosae đều có triệu chứng lâm sàng. Các triệu chứng này tương tự như các triệu chứng của lợn mắc bệnh gạo do gây nhiễm (Bảng 3.20). Đặc biệt, 100% số lợn gây nhiễm và số lợn dương tính trên thực địa đều có những biểu hiện khá đặc trưng: lông gáy dựng đứng từng cơn nhiều lần trong ngày, mỗi lần như vậy lợn đều run rẩy và nghiến răng.

Kết quả trên cho phép chúng tôi nhận xét rằng: trong thực tế, để chẩn đoán lợn mắc bệnh gạo có thể căn cứ vào các triệu chứng đặc thù trên. Ngoài ra, một số lợn còn bị sốt, ho và tiêu chảy, đi tập tễnh. Đó là các dấu hiệu lâm sàng của bệnh gạo lợn mà cán bộ thú y và người chăn nuôi cần lưu ý.

* Hiệu lực của phác đồ III điều trị bệnh gạo cho lợn trên thực địa Sau khi điều trị cho lợn gây nhiễm, thấy phác đồ III (dùng thuốc praziquantel, cho uống liều 20mg/ kgTT/ ngày trong ngày đầu, sau đó cho uống thuốc albendazole liều 15mg/ kgTT /ngày trong 2 ngày tiếp theo) cho kết quả điều trị bệnh gạo lợn tốt nhất. Vì

102

vậy, chúng tôi đã sử dụng phác đồ III để điều trị cho những lợn có huyết thanh dương tính và có triệu chứng lâm sàng của bệnh gạo lợn trên thực địa. Kết quả điều trị thử nghiệm bệnh gạo lợn bằng phác đồ III được trình bày ở bảng 3.34.

Bảng 3.34. Hiệu lực của phác đồ III điều trị bệnh gạo lợn trên thực địa

Kết quả kiểm tra huyết thanh (-)

Sau điều trị 30 ngày Địa phương (tỉnh, huyện) Số lợn điều trị (con)

* Tỉnh Sơn La Huyện Bắc Yên 5 Sau điều trị 20 ngày Số lợn (con) 1 Tỷ lệ (%) 20,0 Số lợn (con) 4 Tỷ lệ (%) 80,00

Huyện Mai Sơn 2 0 0,0 2 100

Huyện Mường La 4 0 0,0 3 75,00

Tính chung 11 1 9,1 9 81,82

* Tỉnh Điện Biên

Huyện Mường Ảng 3 0 0,0 3 100

Huyện Tủa Chùa 4 1 25,0 4 100

Huyện Nậm Pồ 6 1 16,66 5 83,33

Tính chung 13 2 15,38 12 92,30

Bảng 3.34 cho thấy: Ở Sơn La: Sau khi điều trị 20 ngày, kiểm tra các mẫu huyết thanh lợn bằng bộ kit ELISA, thấy chỉ có 1/11 lợn âm tính, chiếm 9,1%. Kết quả kiểm tra ở ngày thứ 30 thấy có 9/11 lợn âm tính, chiếm tỷ lệ 81,82%.

Ở tỉnh Điện Biên: Sau khi điều trị 20 ngày, kiểm tra các mẫu huyết thanh lợn bằng bộ kit ELISA, thấy chỉ có 2/13 lợn âm tính, chiếm 15,38%. Kết quả kiểm tra ở ngày thứ 30 thấy có 12/13 lợn âm tính, chiếm tỷ lệ 92,3%.

Sau khi điều trị và kiểm tra huyết thanh, chúng tôi đã mổ khám 1 lợn trong số lợn âm tính và 1 lợn trong số lợn còn dương tính của Sơn La và Điện Biên. Kết quả mổ khám cho thấy: ấu trùng ở lợn âm tính đã teo đi, màu đục và vàng, kiểm tra trong dịch mật bò thì ấu trùng không cử động, trong khi ở lợn dương tính thấy ấu trùng vẫn bình thường, kiểm tra trong dịch mật bò ấu trùng vẫn cử động.

Như vậy, phác đồ III sử dụng kết hợp thuốc praziquantel và albendazole theo liệu trình trên đã có tác dụng tương đối tốt trong điều trị bệnh gạo cho lợn trên thực địa.

Từ kết quả thử nghiệm điều trị bệnh gạo cho lợn, chúng tôi có 2 nhận xét sau:

i) Thuốc praziquantel kết hợp với albendazole với liều đã sử dụng có tác dụng tương đối tốt trong điều trị bệnh gạo cho lợn; ii) Sau điều trị 20 ngày, kháng thể kháng ấu trùng C. cellulosae vẫn tồn lưu trong huyết thanh của lợn và hết hẳn vào ngày thứ 30 sau điều trị.

103

3.3.6. Xây dựng bản đồ dịch tễ sự lưu hành bệnh gạo lợn ở 2 tỉnh Sơn La và Điện Biên

Để có cơ sở cho việc quản lý, giám sát bệnh gạo trên đàn lợn của tỉnh Sơn La

và tỉnh Điện Biên, chúng tôi đã tiến hành xây dựng bản đồ dịch tễ sự lưu hành bệnh

gạo lợn tại 30 xã, thị trấn trên địa bàn 3 huyện của tỉnh Sơn La và 3 huyện của tỉnh

Điện Biên. Các số liệu về tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae trên đàn lợn tại các địa

điểm nghiên cứu trình bày ở bảng 3.35 và 3.36 dưới đây được nhập trực tiếp thông

qua bàn phím máy tính. Bản đồ sự lưu hành bệnh gạo lợn tại tỉnh Sơn La được trình

bày ở hình 3.16, bản đồ sự lưu hành bệnh gạo lợn tại tỉnh Điện Biên được trình bày

ở hình 3.17.

Bảng 3.35. Tỷ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn tại các xã, thị trấn thuộc 3 huyện của tỉnh Sơn La

STT Huyện, Xã Số lợn mổ khám (con) Số lợn nhiễm ấu trùng (con) Tỷ lệ nhiễm (%)

Huyện Mai Sơn 352 7 1,99

TT Hát Lót 55 0 0,00

Xã Cò Nòi 68 0 0,00 1 Xã Chiềng Mung 80 2 2,50

Xã Chiềng Chung 86 3 3,49

Xã Chiềng Ban 63 2 3,17

Huyện Mường La 337 9 2,67

Xã Mường Chùm 67 3 4,48

Xã Nặm Păm 73 3 4,12

2 Xã Tạ Bú 67 2 2,99

Xã Mường Bú 57 1 1,75

Xã Ít Ong 73 0 0,00

Huyện Bắc Yên 351 11 3,13

Xã Song Pe 55 1 1,82

3 Xã Chim Vàn 59 2 3,39

Xã Háng Đồng 44 3 6,82

Xã Hồng Ngài 81 4 4,94

Xã Phiêng Ban 112 1 0,89

Tính chung 1.040 27 2,59

104

Hình 3.16. Bản đồ dịch tễ sự lưu hành bệnh gạo lợn tại ba huyện

thuộc tỉnh Sơn La

105

Bảng 3.36. Tỷ nhiễm ấu trùng C .cellulosae ở lợn tại các xã

thuộc 3 huyện của tỉnh Điện Biên

Số lợn mổ Số lợn nhiễm ấu Tỷ lệ nhiễm STT Huyện (xã) khám (con) trùng (con) (%)

Mường Ảng 350 10 2,86

Xã Mường Đăng 3 72 4,16

Xã Xuân Lao 0 75 0,00

1 Xã Búng Lao 1 75 1,33

Xã Nặm Lịch 2 61 3,28

Xã Mường Lạn 4 67 5,97

Tủa Chùa 345 12 3,48

Xã Tả Xìn Thàng 4 74 5,40

Xã Tủa Thàng 3 78 3,84

2 Xã Mường Đun 1 64 1,56

Xã Xá Nhè 3 70 4,28

Xã Mường Báng 1 59 1,69

Nậm Pồ 343 13 3,79

Xã Nà Hỳ 2 64 3,12

Xã Nậm Chua 1 75 1,33

3 Xã Si Pa Pìn 5 70 7,14

Xã Chà Cang 3 71 4,22

Xã Pa Tần 2 63 3,17

Tính chung 1.038 35 3,37

106

Hình 3.17. Bản đồ dịch tễ sự lưu hành bệnh gạo lợn tại ba huyện

thuộc tỉnh Điện Biên

107

Bản đồ dịch tễ ở hình 3.16 và 3.17 thể hiện: ở cả 6 huyện trên địa bàn tỉnh Sơn

La và Điện Biên đều có một tỷ lệ nhất định lợn mắc bệnh gạo. Những hình tam giác

màu đỏ đậm dần theo tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae tăng dần tại các địa điểm

lấy mẫu. Những hình tam giác màu xanh thể hiện những địa điểm lấy mẫu không có

lợn nhiễm ấu trùng.

Bản đồ sự lưu hành bệnh gạo lợn ở tỉnh Sơn La và Điện Biên là tư liệu giúp

các nhà quản lý về lĩnh vực nông nghiệp, lĩnh vực chăn nuôi - thú y, lĩnh vực y tế,

các nhà chuyên môn và người chăn nuôi tăng cường công tác quản lý đàn lợn không

những ở những xã, thị trấn trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, mà còn ở các

địa phương khác trên địa bàn hai tỉnh, từ đó có biện pháp giám sát và phòng chống

bệnh hiệu quả. Bản đồ này cũng là tư liệu giúp các cơ quan y tế và nhân dân ở các

địa phương có biện pháp phòng chống bệnh sán dây trên người nhằm bảo vệ sức

khỏe cộng đồng.

3.3.7. Đề xuất biện pháp phòng chống bệnh gạo cho lợn

Bệnh gạo lợn là bệnh truyền lây giữa lợn và người, do đó phải kết hợp chặt

chẽ giữa thú y và y tế, có thể áp dụng các biện pháp phòng trừ tổng hợp như sau:

3.3.7.1. Các biện pháp thuộc lĩnh vực Thú y

- Phát hiện lợn mắc bệnh gạo qua triệu chứng lâm sàng của bệnh. Nếu có điều

kiện thì sử dụng bộ kit ELISA Taenia solium để xét nghiệm huyết thanh của lợn. Từ

đó điều trị cho lợn mắc bệnh gạo bằng phác đồ III (gồm: thuốc praziquantel, liều 20

mg/kg TT uống trong ngày đầu, sau đó uống albendazole liều 15 mg/kg TT trong 2

ngày tiếp theo).

- Kiểm soát giết mổ lợn chặt chẽ. Chỉ đưa ra thị trường thịt của những lợn

không mắc bệnh.

Xây dựng, củng cố và thực hiện nghiêm ngặt quy định kiểm nghiệm thịt.

Không giết mổ lợn bừa bãi. Để bảo vệ sức khoẻ cho người, phòng cho người

không bị nhiễm sán dây T. solium thì cần kiểm nghiệm thịt nghiêm ngặt trong các

cơ sở giết mổ lợn tập trung và tư nhân, các nhà máy chế biến thịt ở các địa phương.

Nếu thấy lợn mắc bệnh gạo thì tuỳ mức độ nặng, nhẹ để xử lý. Cụ thể như sau: Nếu trên 40 cm2 mặt cắt thịt có 1 - 6 ấu trùng thì thịt, thực quản, tim phải luộc chín kỹ trước khi sử dụng; gan, lách, dạ dày không phải xử lý; Nếu trên 40 cm2 mặt cắt thịt

có trên 6 ấu trùng thì thịt phải hủy bỏ, thực quản và tim phải luộc chín; gan, lách,

dạ dày không phải xử lý trước khi sử dụng.

108

Ngoài kiểm tra thịt ở các cơ sở giết mổ và các nhà máy chế biến thực phẩm, cán

bộ thú y cần kiểm tra thịt bán ở các chợ tại các địa phương.

Đẩy mạnh phong trào vệ sinh phòng bệnh cho gia súc

Không nuôi lợn thả rông; vệ sinh thức ăn, nước uống cho lợn

Không cho lợn tiếp xúc với phân người.

3.3.7.2. Các biện pháp thuộc lĩnh vực Y tế

Xử lý thịt mắc bệnh gạo lợn

Khi phát hiện lợn mắc bệnh gạo ở mức độ cho phép thì cần xử lý thịt bằng các

phương pháp sau:

- Luộc chín: cắt thịt thành miếng 1,5 - 2 kg, dày 5 cm, luộc trong 45 phút kể từ

khi nước bắt đầu sôi; đối với thịt có độ dày 8 cm, luộc trong 90 phút kể từ khi nước

bắt đầu sôi.

- Xử lý bằng nhiệt độ thấp: thịt có độ dày 5 cm, thời gian bảo quản thịt ở - 15oC là 2 ngày thì ấu trùng chết hoàn toàn Thịt có độ dày 8 cm, thời gian bảo quản ở - 15oC

là 5 ngày thì ấu trùng chết hoàn toàn.

- Hun khói: theo cách hun khói của gia đình người Thái thì thời gian ấu trùng chết

hết trong thịt dày 5 cm tối thiểu là 5 ngày, tại cơ sở sản xuất thịt thì thời gian hun

khói trong lò tối thiểu là 2 ngày.

Đẩy mạnh phong trào vệ sinh phòng bệnh cho người

Ở nông thôn hoặc miền núi cần xây dựng nhà tiêu hợp vệ sinh đảm bảo để

ngăn ngừa không cho lợn ăn phải đốt sán dây trong phân người.

- Nâng cao ý thức vệ sinh của nhân dân, tuyên truyền giáo dục cho mọi người

hiểu những kiến thức cơ bản và tác hại của bệnh sán dây, chỉ ăn thức ăn đã được rửa

sạch, nấu chín, không ăn thịt lợn nghi mắc bệnh gạo, trước khi ăn và sau khi đại tiện

phải rửa tay bằng nước sạch và xà phòng.

Chẩn đoán và điều trị bệnh sán dây cho người

Chẩn đoán bệnh cho nhân dân bằng cách hỏi bệnh, kết hợp với xét nghiệm

phân tìm đốt hoặc trứng sán dây. Sau đó tẩy sán dây cho những bệnh nhân có sán

dây ký sinh.

Việc tẩy sán dây cho người nên thực hiện ở các cơ sở y tế, vừa có điều kiện

tốt, vừa có bác sỹ theo dõi trong quá trình điều trị.

109

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

1. Kết luận

Từ kết quả của đề tài, chúng tôi có một số kết luận sau:

1.1. Về đặc điểm dịch tễ bệnh gạo ở lợn trên địa bàn thuộc 2 tỉnh Sơn La và

Điện Biên

* Về thực trạng nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae ở lợn

- Tỷ lệ mắc bệnh gạo trong số lợn mổ khám tại tỉnh Sơn La là 2,59%, tại tỉnh Điện

Biên là 3,37%. Ấu trùng C. cellulosae ký sinh ở cơ, não, tim và thận của lợn.

- Tỷ lệ mắc bệnh gạo ở lợn tại tỉnh Sơn La và Điện Biên tăng dần theo tuổi

của lợn.

- Tỷ lệ mắc bệnh gạo của lợn nuôi trong vụ Hè - Thu nhiễm cao hơn vụ Đông

- Xuân (3,8% so với 2,15%).

- Tỷ lệ mắc bệnh gạo ở lợn nuôi thả rông cao hơn lợn nuôi bán chăn thả và

nuôi nhốt (lợn thả rông: 5,37%; lợn bán chăn thả: 1,94% và lợn nuôi nhốt: 0,66%).

- Không cùng phương thức chăn nuôi thì tỷ lệ mắc bệnh gạo ở lợn địa phương

cao hơn lợn lai. Cùng phương thức nuôi thả rông thì giống lợn hầu như không ảnh

hưởng tới tỷ lệ mắc bệnh gạo.

- Tỷ lệ mắc bệnh gạo lợn khác nhau theo địa hình (vùng núi cao: 4,57%; vùng

đồi núi thấp: 2,61% ; vùng bằng phẳng: 1,11%).

* Về thực trạng nhiễm sán dây Taenia solium ở người

- Tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium trong số người được điều tra tại Sơn La là

3,07% ; tại Điện Biên là 3,86%.

- Tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở người tăng dần theo tuổi.

- Tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở nam giới cao hơn so với phụ nữ (4,5% so

với 1,4%).

- Nuôi lợn thả rông và nuôi lợn bán chăn thả làm tăng nguy cơ mắc bệnh gạo

lợn từ 2,04 đến 7,58 lần so với lợn nuôi nhốt hoàn toàn (ở Sơn La) và từ 2,29 đến

8,64 lần (ở Điện Biên).

- Ăn thịt lợn sống hoặc tái làm tăng nguy cơ nhiễm sán dây T. solium ở người

từ 2,99 đến 8,39 lần (ở Sơn La) và từ 2,71 đến 6,54 lần (ở Điện Biên).

110

- Tương quan giữa tỷ lệ mắc bệnh gạo ở lợn và tỷ lệ mắc bệnh sán dây ở người là tương quan thuận rất chặt, hệ số tương quan R = 0,929 (ở Sơn La) và R = 0,74 (ở

Điện Biên).

1.2. Về bệnh gạo ở lợn trên địa bàn thuộc 2 tỉnh Sơn La và Điện Biên

- Thời gian ấu trùng phát triển hoàn chỉnh ở các vị trí ký sinh trên lợn gây

nhiễm là 90 đến 120 ngày. Số lượng ấu trùng ký sinh nhiều hay ít phụ thuộc vào số

trứng sán dây gây nhiễm cho lợn.

- 100% số lợn mắc bệnh gạo do gây nhiễm và trên thực địa đều có các triệu

chứng: gầy, lông gáy dựng đứng nhiều đợt trong ngày, run rẩy, nghiến răng. Một số

lợn sốt, ho, gầy, tiêu chảy, đau mắt, đi lại khó khăn.

- Số lượng hồng cầu, hàm lượng hemoglobin, tỷ khối hồng cầu, thể tích bình

quân hồng cầu của lợn mắc bệnh đều thấp hơn so với lợn khỏe.

- Số lượng bạch cầu, tỷ lệ bạch cầu ái toan, bạch cầu limpho, đặc biệt là tỷ lệ

bạch cầu ái kiềm của lợn mắc bệnh tăng cao; tỷ lệ bạch cầu đơn nhân lớn và tỷ lệ

bạch cầu trung tính giảm so với lợn khỏe.

- Hàm lượng protein toàn phần, albumin và ure trong máu của lợn mắc bệnh

gạo giảm; hàm lượng bilirubin, GOT và GPT tăng so với lợn khỏe.

- Lợn mắc bệnh gạo có bệnh tích sung huyết, xuất huyết, viêm và thoái hóa

tổ chức.

1.3. Về biện pháp phòng chống bệnh gạo trên lợn

* Xử lý thịt để diệt ấu trùng

- Thịt có độ dày 5 cm, khối lượng 1,5 - 2 kg, thời gian luộc thịt kể từ khi nước

bắt đầu sôi là 45 phút; thịt có độ dày 8 cm, thời gian luộc sôi là 90 phút.

- Thịt có độ dày 5 cm, khối lượng 1,5 - 2 kg, bảo quản ở - 15oC cần 2 ngày;

thịt có độ dày 8 cm, bảo quản ở - 15oC cần 5 ngày để diệt hết ấu trùng.

- Thịt hun khói bằng cách treo gác bếp tại gia đình người Thái (nhiệt độ 40 - 50oC) ấu trùng trong thịt chết hết sau 5 ngày. Thịt hun khói trong lò tại cơ sở sản xuất thịt hun khói (nhiệt độ 60 - 65oC) ấu trùng trong thịt chết hết sau 2 ngày.

* Thử nghiệm phác đồ điều trị bệnh gạo

- Cả 3 phác đồ điều trị bệnh gạo lợn đều an toàn đối với lợn.

- Phác đồ III với thuốc praziquantel, cho uống 20 mg/kg/ngày trong ngày đầu,

albendazole 15 mg/kg/ngày cho uống trong 2 ngày tiếp theo có hiệu lực điều trị

bệnh gạo lợn cao nhất trong 3 phác đồ đã thử nghiệm (từ 81,82% đến 92,3%).

111

* Đã đề xuất được biện pháp phòng chống bệnh gạo cho lợn, từ đó phòng

chống được bệnh sán dây và bệnh gạo trên người.

* Đã xây dựng được bản đồ dịch tễ sự lưu hành bệnh gạo lợn ở các địa

phương nghiên cứu tại tỉnh Sơn La và Điện Biên.

2. Đề nghị

Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Sơn La, tỉnh Điện Biên và Trung tâm dịch

vụ Nông nghiệp các huyện, thành phố trong tỉnh áp dụng biện pháp chẩn đoán lâm

sàng, phác đồ điều trị và biện pháp phòng chống tổng hợp bệnh gạo cho lợn.

Các cơ quan quản lý Nhà nước về Thú y và Y tế sử dụng bản đồ sự lưu hành

bệnh gạo lợn tại các địa phương nghiên cứu để tập trung giám sát bệnh gạo trên lợn và

bệnh sán dây trên người.

112

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

1. Đỗ Thị Lan Phương, Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Thị Ngân (2019), “Tình hình

mắc bệnh gạo (Swine Cysticercosis) trên đàn lợn tại một số huyện của tỉnh Điện

Biên”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Thái Nguyên, tập 202, số 9,

tr. 23 - 28.

2. Nguyễn Thị Kim Lan, Đỗ Thị Lan Phương, Phan Thị Hồng Phúc, Nguyễn Thị

Ngân, Phạm Diệu Thùy (2018), “Nghiên cứu nhiễm ấu trùng Cysticercus

cellulosae trên lợn tại tỉnh Sơn La”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, tập

XXV, số 5, tr. 56 - 64.

3. Nguyen Thi Kim Lan, Do Thi Lan Phuong, Phan Thi Hong Phuc, Pham Dieu

Thuy, Đao Van Cuong (2018), “A Study on the prevalence of Cysticercus

cellulosae in pig of Son La Province, Viet Nam”, Saudi J. Med. Pharm. Sci. 4

(5), pp. 587 - 591.

.

113

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT 1. Nguyễn Thị Lan Anh, Pierre Dorny, Dirk Geysen, Raf Somer, Nguyễn Viết

Không, Trần Văn Thắng (2004), “Định loại sán dây bằng phương pháp

kiểm tra hình thái học và phương pháp PCR - RFLP”, Báo cáo khoa học

Chăn nuôi Thú y (Phần thú y), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 237 - 243.

2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2016), Thông tư 09 ngày 1/6/2016 Quy

định về kiểm soát giết mổ và kiểm tra vệ sinh thú y.

3. Bộ Y tế (2019), Tổng kết công tác phòng chống bệnh Ký sinh trùng giai đoạn

2016 - 2018 và kế hoạch hoạt động giai đoạn 2020 - 2025.

4. Nguyễn Quốc Doanh, Nguyễn Trọng Kim, Nguyễn Văn Đề, Nguyễn Nhân Lừng

(2002), “Kết quả điều tra bệnh sán dây (Taeniasis) và ấu trùng sán dây

(Cysticercosis) ở lợn và người tại Bắc Ninh, Bắc Kạn và quy trình phòng

bệnh”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, Tập IX, số 1, tr. 46 - 49.

5. Nguyễn Quốc Doanh, Lê Thanh Hòa, Nguyễn Văn Đề (2003), “Giám định ấu

trùng sán dây lợn Việt Nam bằng phương pháp sinh học phân tử sử dụng hệ

gen ty thể”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, Tập X, số 2, tr. 33 - 40.

6. Nguyễn Quốc Doanh, Wicher Holland, Phạm Thị Tâm, Nguyễn Văn Đề, Lê

Thanh Hòa, Đào Hữu Hoàn (2004), “Kết quả nghiên cứu tình hình nhiễm

sán dây (Taenia), ấu trùng sán dây (Cysticerci) ở lợn, ở người thuộc một số

tỉnh phía Bắc”, Báo cáo khoa học Chăn nuôi Thú y (Phần thú y), Nxb Nông

nghiệp, Hà Nội, tr. 275 - 280.

7. Nguyễn Văn Đề, Kiều Tùng Lâm, Lê Văn Châu, Lê Đình Công, Đặng Thanh Sơn,

Hà Viết Viên, Nguyễn Thị Tân (1998), “Nghiên cứu bệnh sán lá, sán dây”,

Thông tin phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, số 2, tr. 29 - 32.

8. Nguyễn Văn Đề (2013), Ký sinh trùng trong lâm sàng, Nxb Y học, Hà Nội, tr.

88 - 94.

9. Nguyễn Văn Đề, Phạm Văn Thân, Phạm Ngọc Minh (2016), Ký sinh trùng y

học (Giáo trình đào tạo Bác sỹ đa khoa), Nxb Y học, Hà Nội.

10. Lê Thành Đồng (2018), “Phát hiện ổ bệnh 108 người nhiễm sán dây ở Bình

Phước”, Tuổi trẻ, Online, Thông tấn xã Việt Nam.

11. Lê Khắc Hiếu và Lê Thị Ngọc Diệp (1997), Dược lý học thú y, Nxb Nông

nghiệp Hà Nội.

114

12. Nguyễn Mạnh Hùng, Trần Thanh Dương, Đỗ Trung Dũng, Nguyễn Thu Hương,

Nguyễn Thị Hợp, Vũ Thị Lâm Bình, Hoàng Quang Vinh (2013), "Cẩm nang

xét nghiệm chẩn đoán giun, sán", Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

13. Bùi Quý Huy (2006), Phòng chống các bệnh ký sinh trùng từ động vật lây sang

người, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 78 - 81.

14. Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996), Ký sinh trùng thú y, Nxb Nông Nghiệp, Hà

Nội, tr. 81 - 83, 98 - 101.

15. Nguyễn Thị Kỳ (1994), Sán dây (Cestoda) ký sinh ở động vật nuôi Việt Nam,

Tập I, Nxb khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.

16. Nguyễn Thị Kỳ (2003), Động vật chí Việt Nam, tập 13, Nxb Khoa học và kỹ

thuật, Hà Nội.

17. Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Quang Tuyên (1999), Giáo trình

ký sinh trùng thú y, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 72 - 76, 83 - 85, 115 - 120.

18. Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Thị Lê, Phạm Sỹ Lăng, Nguyễn Văn Quang

(2008), Ký sinh trùng học thú y (Giáo trình dùng cho bậc Cao học), Nxb

Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 69 - 74.

19. Nguyễn Thị Kim Lan (2012), Ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng thú y (Giáo trình

dùng đào tạo bậc Đại học), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 91 - 94, 116 - 119.

20. Phạm Sỹ Lăng, Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Văn Thọ (2006), Các bệnh ký

sinh trùng và bệnh nội sản khoa thường gặp ở lợn và biện pháp phòng trị,

Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 74 - 78.

21. Phạm Sỹ Lăng, Phạm Ngọc Đình, Nguyễn Bá Hiên, Phạm Quang Thái, Văn

Đăng Kỳ (2009), 8 bệnh chung quan trọng truyền lây giữa người và động

vật, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, tr. 91 - 98.

22. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (2011), Bệnh ký sinh trùng ở gia súc và biện

pháp phòng trị, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội.

23. Phạm Sỹ Lăng, Hoàng Văn Năm (2012), Bệnh truyền lây từ động vật sang

người, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, tr. 254 - 256.

24. Nguyễn Thị Lê, Phạm Văn Lực, Hà Duy Ngọ, Nguyễn Văn Đức, Nguyễn Thị

Minh (1996), Giun sán ký sinh ở gia súc Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học

và kỹ thuật, Hà Nội, tr. 50 - 51.

25. Nguyễn Thị Lê, Nguyễn Ngọc Châu, Phạm Văn Lực, Hà Duy Ngọ (2000),

Giun sán học đại cương, Nxb Khoa học kỹ thuật, tr. 21 - 35.

26. Phan Lục (2006), Giáo trình bệnh ký sinh trùng thú y, Nxb Nông nghiệp, Hà

Nội, tr. 79 - 81.

115

27. Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ (2003), Thuốc thú y và cách sử dụng, Nxb

Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 392.

28. Phạm Thị Hiền Lương, Phan Đình Thắm (2009), Tổ chức và phôi thai học, Nxb

Nông nghiệp, Hà Nội.

29. Nguyễn Thị Hồng Minh, Nguyễn Văn Thanh, Trịnh Đình Thâu, Phạm Kim

Đăng (2013), “Biểu hiện lâm sàng và một số chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu

của lợn mắc hội chứng viêm vú, viêm tử cung, mất sữa, Tạp chí Khoa học và

Phát triển, tập 11, số 5, tr. 641 - 647.

30. Lê Ngọc Mỹ, Nguyễn Quốc Doanh, Nguyễn Anh Dũng, Đỗ Thu Thúy, Đoàn Hữu

Hoàn, Bùi Khánh Linh (2004), “Điều tra thực trạng một số bệnh ký sinh trùng

truyền lây giữa người và gia súc trong những năm gần đây”, Báo cáo khoa học

Chăn nuôi Thú y (Phần thú y), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 230 - 237.

31. Đào Văn Phan (2018), Dược lý học lâm sàng, Nxb Y học, Hà Nội.

32. Lê Bách Quang, Nguyễn Khắc Lực, Phạm Văn Minh, Lê Trần Anh, Lê Quốc

Tuấn, Nguyễn Ngọc San (2008), Ký sinh trùng và côn trùng y học (Giáo trình

giảng dạy Đại học), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

33. Đỗ Dương Thái, Nguyễn Thị Minh Tâm, Phạm Văn Thân, Phạm Trí Tuệ, Đinh Văn

Bền (1974), Ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng ở người, Quyển 2, tr. 563 - 574.

34. Đỗ Dương Thái, Trịnh Văn Thịnh (1976), Công trình nghiên cứu ký sinh trùng

ở Việt Nam (tập I, Giun sán trên người), Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

35. Nguyễn Như Thanh, Lê Thanh Hòa, Trương Quang (2011), Phương pháp

nghiên cứu dịch tễ học thú y, Nxb Khoa học Tự nhiên và Công nghệ.

36. Phạm Văn Thân (2009), Ký sinh trùng đường ruột, Nxb Y học, Hà Nội.

37. Hoàng Toàn Thắng, Cao Văn (2006), Giáo trình sinh lý học vật nuôi, Nxb Nông

nghiệp, Hà Nội, tr. 44 - 53.

38. Nguyễn Văn Thiện (2008), Phương pháp nghiên cứu trong chăn nuôi, Nxb

Nông nghiệp, Hà Nội.

39. Trịnh Văn Thịnh, Phan Trọng Cung, Phạm Văn Khuê, Phan Địch Lân, Bùi Lập, Dương Công Thuận (1978), Công trình nghiên cứu ký sinh trùng ở Việt Nam, tập II, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tr. 65, 73, 80 - 82, 93.

40. Chu Thị Thơm, Phan Thị Lài, Nguyễn Văn Tó (2006), Phương pháp phòng

chống bệnh giun sán ở vật nuôi, Nxb Lao động, Hà Nội, tr. 103 -110.

41. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Điện Biên (2019), “Kết quả thực

hiện nhiệm vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn năm 2018, triển khai kế

hoạch năm 2019”, số 199/BC - SNN, ngày 11 tháng 2 năm 2019.

116

42. Phan Anh Tuấn (2013), Ký sinh trùng y học, Nxb Y học, Hà Nội, tr. 253 - 261, 273 - 276. 43. Nguyễn Phước Tương (2002), Bệnh ký sinh trùng ở vật nuôi và thú hoang lây

sang người, tập 2, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội.

44. Cao Văn, Hoàng Toàn Thắng (2003), Sinh lý học gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà

Nội, tr. 67 - 72.

45. Tỉnh Ủy Điện Biên (2019), Báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 37 - NQ/TW, ngày 01/7/2004 của Bộ chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh Vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2020, số 336 - BC/TƯ, ngày 28/6/2019.

46. Tỉnh Sơn La (2018), “Báo cáo tổng kết nông nghiệp, nông thôn năm 2018, Nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn năm 2019”, số 832 - BC/UBND, ngày 19/12/2018.

47. Tỉnh Ủy Sơn La (2019), Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 37 - NQ/TW của Bộ chính trị về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030, số 562 - BC/TƯ, ngày 19/7/2019.

48. Hồ Sỹ Triều (2012), “ Nghiên cứu kiểu gen mầm bệnh, lâm sàng, cận lâm sàng, kết quả điều trị bệnh sán dây Taenia và ấu trùng sán dây lợn trên bệnh nhân tại Viện sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung Ương 2007 - 2010, Luận án Tiến sĩ Y học, Trường Đại học Y, Hà Nội.

49. Hà Viết Viên, Nguyễn Mạnh Hùng, Đặng Thị Cẩm Thạch, Lê Khánh Thuận, Đỗ Trung Dũng, Nguyễn Thị Hợp, Trương Hữu Hoài (2012), “Nghiên cứu thực trạng nhiễm sán dây tại hai xã thuộc huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ”, Tạp chí Phòng chống sốt rét, số 1.

50. Phan Thế Việt, Nguyễn Thị Kỳ, Nguyễn Thị Lê (1977), Giun sán ký sinh ở động

vật Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học & Kỹ thuật, Hà Nội, tr. 153 - 221, 218.

51. Lê Thị Xuân (2015), Ký sinh trùng thực hành (Dùng đào tạo cử nhân kỹ thuật

xét nghiệm y học), Nxb Giáo dục Việt Nam, tr. 143 - 145, 154.

II. TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI 52. Ahmad R.., Khan T., Ahmad B., Misra A., Balapure A.K.

(2017), “Neurocysticercosis: a review on status in India, management, and current therapeutic interventions”, Parasitol Red, 116 (1), pp. 21 - 33.

53. Amatya B.M., Kimula Y. (1999), “Cysticercosis in Nepal: a histopathologic

study of sixty-two cases”, Am. J. Surg. Pathol, 23 (10). 1276 - 9.

54. Ana-Maria Oleleu., Călin Mircea Gherman., Radu Blaga., Adriana Györke., Vasile Cozma. (2016), “Seroprevalence of porcine cysticercosis and influence of some associated risk factors in Northwestern Romania”, Acta Vet. Brno. 85, pp.121 -126

117

55. Andriantsimahavandy A., Ravaoalimalala V.E., Rajaonarison P., Ravoniarimbinina

P., Rakotondrazaka M., Raharilaza N., Rakotoarivelo D., Ratsitorahina

M., Rabarijaona L.P., Ramarokoto C.E., Leutscher P., Migliani R. (2003), “The

current epidemiological situation of cysticercosis in Madagascar”, 69 (1 - 2), pp.

46 - 51.

56. Assana E., Amadou F., Thys E., Lightowlers M.W., Zoli A.P., Dorny P., Geerts

S. (2010), “Pig-farming systems and porcine cysticercosis in the north of

Cameroon”, J. Helminthol, 84 (4), pp. 441- 6.

57. Bamorovat M., Radfar M. H., Derakhshanfar A., Molazadeh M., Zarandi M. B.

(2014), “A comparative evaluation of hematological, biochemical and

pathological changes among infected sheep with C. tenuicollis and non-

infected control group”, Journal of Parasitic Diseases, pp. 399 - 403.

58. Biu A. A., Ljudai J. (2012) “Prevalence and morphometric studies on porcine

cysticercosis in Adamawa State, Nigeria”, Journal Home. 10: 1.

59. Bharat K. Jain., Shilpa S. Sankhe., Mukta D. Agrawal., Prashant S. Naphade.

(2010), “Disseminated cysticercosis with pulmonary and cardiac

involvement”, Indian J. radiol Imaging, 20 (4), pp. 310 - 313.

60. Bhardwaj S., Rather G., (2019), “Fine Needle Aspiration Cytology of

Cysticercosis: A Study of 30 Cases”, Jcyto, 36 (1), pp. 18 - 21.

61. Borkataki S., Islam S., Borkakati M.R., Goswami P., Deka D.K. (2011),

“Prevalence of porcine cysticercosis in Nagaon, Morigaon and Karbianglong

district of Assam, India”, Vet. world., pp. 86 - 90.

62. Borkataki S., Islam S. and Goswami P. (2013), “Haematological and

Pathological changes in Piglets infected with Taenia solium eggs”, College

of Veterinary Sciences, Assam Agricultural University, Khanapara, Assam. 7

(1), pp. 2 - 11.

63. Bouteille B. (2004), “Epidemiology of cysticercosis and neurocysticercosis”,

Med. Sante. Trop, 24 (4), pp. 367 - 74.

64. Bowles J., McManus D.P. (1994), “Genetic characterisation of the Asian

Taenia, a newly described taenia cestode of humans”, Am. J. Trop. Med.

Hyg, 50, pp. 33 - 44.

65. Chummy S., Sikasunge A., Isaac K., Piri A., Andrew M., Seter Siziya B.,

Pierre Dorny C., Arve L., Willingham III. (2008), “Prevalence of Taenia

solium porcine cysticercosis in the Eastern, Southerm and Western porcine

of Zambia”, Veterinary Journal, 176, pp. 240 - 244.

118

67. De. Aluja A.S., Martinez M.J.J., Villalobos A.N. (1998),

66. Cai X., Yuan G., Zheng Y., Luo X., Zhang S., Ding J., Jing Z., Lu C. (2008), “Effective production and purification of the glycosylated TSOL18 antigen, which is protective against pig cysticercosis”, Infect Immun.,76 (2) pp:767 - 70. “Taenia solium cysticercosis in young pigs: age at first infection and histological characteristics”, Vet. Parasitol. : 76 (1 - 2), pp. 71- 9.

68. Del Brutto O. H., Santibáñez R., Idrovo L., Rodrìguez S., Díaz-Calderón, E., Navas C., Gilman, R. H., Cuesta F., Mosquera A., Gonzalez A. E., Tsang V. C. and García H. H. (2005), “Epilepsy and neurocysticercosis in Atahualpa: a door-to-door survey in rural coastal Ecuador”, Epilepsia. 46 (4), pp. 583 - 587.

69. Del Brutto V.J., Del Brutto O.H., Ochoa E. and García H.H. (2012), “Single parenchymal brain cysticercus: relationship between age of patients and evolutive stage of parasites", Neurol. Res, 34 (10), pp. 967 - 970.

70. Del Brutto O. H. (2013), “Neurocysticercosis in infants and toddlers: report of seven cases and review of published patients”. Pediatr. Neurol. 48, pp. 432 - 435. 71. De N.V. (2004), “Taenia and cysticercosis in Vietnam”, Joint international

Medicine Meeting, 29 November - 1 December; Bangkok Thailand.

72. De N.V. and Le T.H. (2010), “Taenia/cysticercosis and molecular application

(textbook), Hanoi, Viet Nam”, Medical Publishing House.

73. Fleury A., Escobar A., Fragoso G., Sciutto E. and Larralde C. (2010), “Clinical heterogeneity of human neurocysticercosis results from complex interactions among parasite, host and environmental factors”, Trans. R. Soc. Trop. Med. Hyg. 104 (4), pp. 243 - 250.

74. Fleury A., Carrillo-Mezo R., Flisser A., Sciutto E. and Corona T. (2011), “Subarachnoid basal neurocysticercosis: a focus on the most severe form of the disease”, Expert Rev. Anti. Infect. Ther. 9 (1), pp. 123 -133.

75. Gabriël S., Dorny P., Mwape K.E., Trevisan C., Braae U.C., Magnussen P., Thys S., Bulaya C., Phiri I. K., Sikasunge C. S., Makungu C., Afonso S., Nicolau Q. and Johansen M.V. (2017), “Control of Taenia solium taeiasis/cysticercosis: The best way forward for sub - Saharan Africa ”, Acta Trop. 165, pp. 252 - 260.

76. Gamble H.R. (1997), “Parasites associated with pork and pork products, Rev. sci.

tech”, 16 (2), pp. 496 - 506.

77. Garcia H.H., Gonzalez A.E., Evans C.A.W. and Gilman R.H. (2011), “Taenia

solium cysticercosis”, Lancet, 362 (9383), pp. 547 - 556.

78. Gavidia C.M., Verastegui M.R., Garcia H.H., Lopez - Urbina T., Tsang V.C., Pan W., Gilman R.H., Gonzalez A.E. (2013) “Cysticercosis Working Group in Peru”, PLoS. Negl. Trop. Dis. 2: 7 (5).

119

79. Garcia H.H., Rodriguez S., Friedland J.S. (2014), “Immunology of Taenia solium taeniasis and human cysticercosis”, Parasite Immunol, 36 (8), pp. 388 - 96.

80. Gonzalez A.E., Gavidia C., Falcon N., Bernal T., Verastegui M., Garcia H.H., Gilman R.H., Tsang V.C. (2001), “Protection of pigs with cysticercosis from further infections after treatment with oxfendazole”, Am. J. Trop, 65 (1), pp. 15 - 8. 81. Gascon J., Corachan M., Ramirez J. (1989), “5 cases of cysticercosis in

Rwanda”, Med. Trop., 49 (1), pp. 77 - 80.

82. Gasser R.B., Zhu X., McManus D.P. (1999), “NADH dehydrogenase subunit 1 and cytochrome c oxidase subunit I sequences compared for members of the genus Taenia (Cestoda)”. Int. J. Parasitol. 29, pp. 1965 - 70.

83. Hobbs E.C., Mwape K.E., Devleesschauwer B., Gabriël S., Chembensofu M., Mambwe M., Phiri I.K., Masuku M., Zulu G., Colston A., Willingham A.L., Berkvens D., Dorny P., Bottieau E., Speybroeck N. (2018), “Taenia solium from a community perspective: Preliminary costing data in the Katete and Sinda districts in Eastern Zambia”, Vet. Parasitol., Feb. 15; 251, pp. 63-67

84. Jayashi C.M., Arroyo G., Lightowlers M.W., García H.H., Rodríguez S. and Gonzalez A. E. (2012), “Seroprevalence and risk factors for Taenia solium cysticercosis in rural pigs of Northern Peru”, PloS. Negl. Trop. Dis. 6 (7), pp. 1733.

85. Johasen M.V., Trevisan C., Gabriel S., Magnussen P. and Braae U.C. (2016), “Are we ready for Teania solium cysticercosis elimination in sub - Saharan Africa”, Parasitology, 144 (1), pp. 59 - 64.

the larvae of Taenia

86. Karshima N.S., Bobbo A.A., Udokainyang A.D. and Salihu A.A. (2013), “Taenia Solium Cysticercosis in Pigs Slaughtered in IBI Local Government Area of Taraba State, Nigeria”, J. Anim. Sci. Adv. 3 (3), pp. 109 - 113. 87. Kaur M., Joshi K., Ganguly NK., Mahajan RC., Malla N. (1995), “Evaluation of the efficacy of albendazole against solium in experimentally infected pigs, and kinetics of the immune response”, Int. J. Parasitol, 25 (12), pp. 1443 - 50.

88. Khaing T. A., Bawm S., Wai S. S., Htut Y., Htun L. L.

(2015), “Epidemiological Survey on Porcine Cysticercosis in Nay Pyi Taw Area, Myanmar”, J. Vet. Med.

89. Kungu J.M., Dione M.M., Ocaido M. and Ejobi, F. (2015), “Status of Taenia solium cysticercosis and predisposing factors in developing countries involved in pig farming”, International Journal of One Health, 1, pp. 6 - 13.

120

90. Lightowlers M.W., Donadeu M.,

Elaiyaraja M., Maithal K., Kumar K.A., Gauci C.G., Firestone S.M., Sarasola P., Rowan T.G. (2016), “Anamnestic responses in pigs to the Taenia solium TSOL18 vaccine and implications for control strategies”, Paraditologi, 143 (4), pp. 416 - 20.

91. Liu Y.J., Li Q.Z., Hao Y.H. (2003), “Morphological changes

to early stage Taenia solium cysticerci following oxfendazole treatment”, Vet. J., 165 (1), pp. 73 - 7.

92. Madinga J., Kanobana K., Lukanu P., Abatih E., Baloji S., Linsuke S., Praet N., Kapinga S., Polman K., Lutumba P., Speybroeck N., Dorny P., Harrison W. and Gabriel S. (2017), “Geospatial and age-related patterns of Taenia solium taeniasis in the rural health zone of Kimpese”, Democratic Republic of Congo, Acta. Trop. 165: 100 - 109.

93. Malik S., Singh G., Kaur G. (2017), “Temporalis cysticercosis - A diagnostic dilemma and review of literature”, J. Stomatol Oral Maxillofac Sung, 118 (6), pp. 371 - 375.

(2011), “Reduction rate of epilepsy in

94. Medina M.T., Aguilar-Estrada R.L., Alvarez A., Durón R.M., Martínez S., Estrada A.L., Zúniga C., Cartagena D., Thompson, L., Dubón A., Ramirez E., Banegas L., Osorio J.R., Delgado-Escueta A.V., Collins, J.S. and Holden K.R. from neurocysticercosis by community interventions: the Salamá, Honduras study”, Epilepsia, 52 (6), pp. 1177 - 1185

95. Meester M., Swart A., Deng H., van Roon A., Trevisan C., Dorny P., Gabriël S., Vieira-Pinto M., Johansen MV., van der Giessen J (2019), “A quantitative risk assessment for human Taenia solium exposure from home slaughtered pigs in European countries”, Parasit Vectors, 12 (1), pp. 82.

96. Montano S.M., Villaran M.V., Ylquimiche L., Figueroa

J.J., Rodriguez S., Bautista C.T., Gonzalez A. E., Tsang V.C., Gilman R. H. and Garcia H.H. (2005), “Neurocysticercosis: association between seizures, serology, and brain CT in rural Peru”, Neurology. 65 (2), pp. 229 - 233.

97. Mwape K.E., Devleesschauwer B., Gabriël S., Chembensofu M., Mambwe M., Phiri I.K., Masuku M., Zulu G., Colston A., Willingham A.L., Berkvens D., Dorny P., Bottieau E., Speybroeck N. (2018), “Taenia solium from a community perspective: Preliminary costing data in the Katete and Sinda districts in Eastern Zambia”, Vet. Parasitol., 15; 251, pp. 63 - 67.

98. Nash T.E., Pretell E.J., Lescano A.G., Bustos J.A., Gilman R.H., Gonzalez A.E. and Garcia H.H. (2008), “Perilesional brain oedema and seizure activity in patients with calcified neurocysticercosis: a prospective cohort and nested case-control study”, Lancet Neurol. 7 (12), pp. 1099 - 1105.

121

99. Nativel P., Rahantamalala A., Ramiandrisoa S., Rasoamampianinaa V., Duchateau M,, Chamot-Rooke J., Guebey R., Rasamoelina-Andriamanivo H., Jambou R. (2016), “Bio-guided identification of proteins for the diagnosis of cysticercosis in swine”, Vet. Parasitol, Apr. 15; 220, pp. 23 - 27.

100. Ndimubanzi P.C., Carabin H., Budke C.M., Nguyen H., Qian Y.J., Rainwater E., Dickey M., Reynolds S. and Stoner J.A. (2010), “A systematic review of the frequency of neurocyticercosis with a focus on people with epilepsy”, PloS. Negl. Trop. Dis. 4 (11), pp. 870.

101. Nguyen D., Stevenson M.A., Traub R.J. (2017), “A systematic review of taeniasis, cysticercosis and trichinellosis in Vietnam”, Parasit. Dectors, 10 (1), pp. 150. 102. Nguyen D., Mark Anthony Stevenson, Kathleen Breen, Trong Van Phan, Van- Anh Thi Nguyen, Tinh Van Vo and Rebecca Justine Traub (2018), “The epidemiology of Taenia spp. infection and Taenia solium cysticerci exposure in humans in the Central Highlands of Vietnam”, Published online, 18, pp. 527. 103. Okamoto M., Nakao M., Sako Y., Ito A. (2001), “Molecular variation of Taenia solium in the world. Southeast Asian”, J. Trop. Med. Publ. Health. 32, pp. 90-3. 104. Onah D.N., Chiejina S.N. (1995), “Taenia solium cysticercosis and human taeniasis in the Nsukka area of Enugu State Nigeria”, Ann. Trop. Med. Parasitol., 89 (4), pp. 399 - 407.

105. Pathak K. M., Gaur S. N., Kumar M. (1984), “Changes in blood cellular components, serum proteins and serum enzyme activities in pigs naturally infected with C. tenuicollis”, Research in Veterinary Science, 36 (3), pp. 263 - 265.

106. Phiri I.K., Ngowi H., Afonso S., Matenga E., Boa M., Mukaratirwa S., Githigia S., Saimo M., Sikasunge C., Maingi N., Lubega G. W., Kassuku A., Michael L., Siziya S., Krecek R. C., Noormahomed E., Vilhena M., Dorny P. and Willingham A. L. (2003), “The emergence of Taenia solium cysticercosis in Eastern and Southern Africa as a serious agricultural problem and public health risk”, Acta. Trop. 87 (1), pp. 13 - 23.

107. Pouedet M.S., Zoli A. P., Nguekam Vondou L., Assana E., Speybroeck N., Berkvens D., Dorny P., Brandt J. and Geerts S. (2002), “Epidemiological survey of swine cysticercosis in two rural communities of West-Cameroon”, Vet. Parasitol. 106 (1), pp. 45 - 54.

108. Porphyre V., Rasamoelina-Andriamanivo H., Rakotoarimanana A., Rasamoelina O., Bernard C., Jambou R., Cardinale E. (2015), “Spatio-temporal prevalence of porcine cysticercosis in Madagascar based on meat inspection”, Parasit Vectors, 25 (8), pp. 391.

122

109. Pray I.W., Swanson D.J., Ayvar V., Muro C., Moyano L.M., Gonzalez

A.E., Garcia H.H. and O'Neal S.E. (2016), “GPS Tracking of Free-Ranging

Pigs to Evaluate Ring Strategies for the Control of Cysticercosis/Taeniasis in

Peru”, Plos. Negl. Trop. Dis. 10 (4): 0004591.

110. Queiroz D.A., Alkire N.L. (1998), “The phylogenetic placement of Taenia

cestodes that parasitize humans”, J. Parasitol., 84:379. 83.

111. Rodrigues A., Neves D., Maury I., Sargento D., Pereira A., (2018), “A Classic

Neurocysticercosis Case with an Unusual Complication”, Eur. J. Case. Rep

Intern. Med., 31; 5 (1).

112. Rodriguez-Canul R., Argaez-Rodriguez F., de L.G., Villegas-Perez S., Fraser

A., Craig P.S., Cob-Galera L., Dominguez-Alpizar J.L. (2002), “Taenia

solium metacestode viability in infected pork after preparation with salt

pickling or cooking methods common in Yucatan”, Mexico, J. Food. Prot,

65 (4), pp. 666 - 669.

113. Rojas R.G., Patiño F., Pérez J., Medina C., Lares M., Méndez C., Aular

J., Parkhouse R.M.E., Cortéz M.M. (2019), “Transmission of porcine

cysticercosis in the Portuguesa state of Venezuela”, Trop. Amin. Health.

Prod, 51(1), pp. 165 - 169.

114. Radfar M. H., Zarandi M. B., Bamorovat M., Kheirandish R., Sharifi I. (2014),

“Hematological, biochemical and pathological findings in goats naturally

115. Sarti E., Schantz P.M., Plancarte A., Wilson M., Gutierrez

(1992), “Prevalence and J., Flisser A. risk

infection with C. tenuicollis”, Journal of Parasitic Diseases, 38 (1), pp. 68 - 72 I.O., Lopez factors A.S., Roberts for Taenia solium taeniasis and cysticercosis in humans and pigs in a village in Morelos, Mexico”, Am. J. Trop. Med. Hyg, 46 (6), pp. 677 - 85.

116. Sarti E., Schantz P.M., Plancarte A., Wilson M., Gutierrez O.I., Aguilera J., Roberts J. and Flisser A. (1994), “Epidemiological investigation of Taenia

solium taeniasis and cysticercosis in a rural village of Michoacan State,

Mexico”, Trans. R. Soc. Trop. Med. Hyg. 88 (1), pp. 49 - 52.

117. Satyaprakash K., Khan W.A., Chaudhari SP., Shinde S.V., Kurkure

N.V., Kolte S.W (2018), “Pathological and molecular identification of

porcine cysticercosis in Maharashtra, India”, Acta Parasitol, 19; 63 (4), pp.

784 -790.

118. Sekar M., Shanbhag NU., Sahana N. (2018), “Cysticercosis Masquerading as

Lipo-Dermoid”, Neapal Ophthalmol, 10 (19), pp. 73-76.

123

119. Sikasunge C.S., Phiri I.K., Phiri A.M., Siziya S., Dorny P. and Willingham A.L.

(2008), “Prevalence of Taenia solium porcine cysticercosis in the Eastern,

Southern and Western provinces of Zambia”, Vet. J. 176 (2), pp. 240 - 244.

120. Singh A., Gupta K.K., Khatoon

J., Prasad A., Rai R.P., Gupta R.K., Tripathi M., Husain N., Prasad K.N. (2015), “Immune response

to Taenia solium cysticerci after anti-parasitic therapy”, Int. J. Paraditol.,

45 (12), pp. 749 - 59.

121. Singh G., Burneo J. G. and Sander J. W. (2013), “From seizures to epilepsy

and its substrates: neurocysticercosis”, Epilepsia. 54 (5): 783 -792.

122. Singhi P., Saini A.G. (2019), “Pediatric Neurocysticercosis”, Indian J.

Pediatr., 86 (1), pp. 76 - 82.

123. Singh S.P., Singh B.B., Kalambhe D.G., Pathak D., Aulakh R.S.., Dhand N.K. (2018), “Prevalence and distribution of Taenia solium cysticercosis in

naturally infected pigs in Punjab, India”, PloS. Negl. Trop. Dis, 15; 12 (11).

124. Skrjabin K. I. (1928), Methods of Compelete Helminthological Dissections of Vertebrate Animals Including Humans, Moscow State University Moscow, Pulishing House of 1 st. Moscow State University, Moscow, pp. 45.

125. Sotelo J., Rosas N., Palencia G. (1986), Freezing of infested pork muscle kills

cysticerci, Jama, 256 (7), pp. 893 - 4.

126. Su-Cheong Yeom., Seong-Yong Cho, Chung-Gyu Park., and Wang-Jae Lee, (2012), “Analysis of reference interval and age-related changes in serum

biochemistry and hematology in the specific pathogen free miniature pig”, Lab. Anim. Res., Dec; 28 (4), pp. 245-253.

127. Tamura K., Stecher G., Peterson D., Filipski A. and Kumar S. (2013), “MEGA6: Molecular evolutionary genetics analysis version 6.0”, Mol. Biol. Evol. 30, pp. 2725 - 2729.

128. Trevisan C., Devleesschauwer B., Schmidt, Winkler A.S., Harrison W., Johansen M.V. (2016), “The societal cost of Taenia solium cysticercosis in Tanzania”, Cta. Trop. (15), 30199 - 6.

129. Trevisan C., Johansen M.V., Mkupasi E. M., Ngowi H.A. and Forkman B. (2017), “Disease behaviours of sows naturally infected with Taenia solium in Tanzania”, Vet. Parasitol. 235, pp. 69 - 74.

130. Vargas-Calla A., Gomez-Puerta L.A., Calcina J., Gonzales-Viera O., Gavidia C., Lopez-Urbina M.T., Garcia H. H. and Gonzalez A.E. (2016), “Evaluation of activity of triclabendazole against Taenia solium metacestode in naturally infected pigs”, Asian Pac. J. Trop. Med. 9 (1), pp. 23 - 26.

124

131. Youfei Chen, Pingli Wang, Liren Ding (2017), “Two cases of pulmonary cysticercosis manifesting as pleural effusion: case report and literature review”, J. thorac. Dis, 9 (8), pp. 677 - 681.

132. Zirintunda G. and Ekou J. (2015), “Occurrence of porcine cysticercosis in free-ranging pigs delivered to slaughter points in Arapai, Soroti district, Uganda”, Onderstepoort J. Vet. Res. 82: 888.

125

PHỤ LỤC 2

1. Tên chủ hộ……………………………………………………….

2. Tuổi:…………Giới tính:………… Nghề nghiệp:………………SĐT:………………......

2. Địa chỉ: (xóm, xã, huyện):…………………………………………………………………

MẪU PHIẾU ĐIỀU TRA

I. PHƯƠNG THỨC CHĂN NUÔI LỢN

1.1. Hình thức chăn nuôi lợn của gia đình?

Nuôi nhốt

Thả rông

Nuôi bán chăn thả

1.2. Thức ăn cho lợn của gia đình?

Thức ăn tổng hợp Thức ăn tận dụng

Cho ăn rau sống

1.3. Tuổi lợn mà (Anh) chị đang nuôi?

Dưới 2 tháng

2 - 6 tháng

6- 12 tháng tuổi

1.4. Số lượng lợn và loại lợn gia đình anh, chị đang nuôi?

Loại lợn

Lợn lai

Lợn địa phương

Lợn ngoại

Số lượng (con)

1.5. Lợn của gia đình Anh (chị) đã từng nuôi có con nào bị bệnh gạo chưa?

Không

II. TẬP QUÁN SINH HOẠT

2.1. Gia đình Anh (chị) giết mổ lợn tại nhà hay bán cho người khác mang về giết mổ?

Giết mổ tại nhà Bán cho người giết mổ

2.2. Gia đình (Anh) chị có bao nhiêu người?............................................................

2.3. Gia đình Anh (chị) có nhà vệ sinh không?

Có Không

2.4. Nhà vệ sinh xây dựng theo hình thức nào?

Hố xí tự hoại Hố xí 1 ngăn Hố xí 2 ngăn Không có

2.5. Gia đình (Anh) chị có ăn thịt sống/ thịt tái không?

Có Không

2.6. Gia đình Anh (chị) có ăn rau sống không?

Có Không

2.7. Anh (chị) có bao giờ đến bệnh viện xét nghiệm xem có bị bệnh sán dây không?

Có Không

126

2.8. Gia đình Anh (chị) có ai bị bệnh sán dây không?

Có Không

2.9. Người trong gia đình mắc bệnh sán dây (nếu có) là nam hay nữ?

Nam Nữ

2.10. Người mắc bệnh sán dây trong gia đình (nếu có) bao nhiêu tuổi?

Dưới 15 tuổi Từ 16 - 30 tuổi Từ 31 - 50 tuổi

2.11. Những người trong gia đình Anh (chị) có được tẩy sán dây định kỳ không?

Có Không

Ngày…..tháng…..năm 2019

UBND xã xác nhận Trưởng xóm xác nhận

Chủ hộ Người lập phiếu

127

PHỤ LỤC 4

PHƯƠNG TRÌNH HỒI QUY TUYẾN TÍNH

1. Tỉnh Sơn La

Phương trình hồi quy tuyến tính: y = a + bx Trong đó: y: tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. cellulosae ở lợn

b = 1,0525x

x: tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở người. a = 0,2973 → y = 0,2973 + 1,0525x R2 = 0,8631 → R = 0,929 Trong đó:

2. Tỉnh Điện Biên

Phương trình hồi quy tuyến tính y = - 0,490 + 1,29 x R2 = 0,5476 → R = 0,74

128

PHỤ LỤC 5

XỬ LÝ SỐ LIỆU TRÊN PHẦN MỀM MINITAB 16.0

1. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae ở tỉnh Sơn La và Điện Biên Results for: Worksheet 2 General Linear Model: Tỷ lệ nhiễm versus Tỉnh Factor Type Levels Values Tỉnh fixed 2 Điện Biên, Sơn La Analysis of Variance for Tỷ lệ nhiễm, using Adjusted SS for Tests Source DF Seq SS Adj SS Adj MS F P Tỉnh 1 0.9066 0.9066 0.9066 3.25 0.146 Error 4 1.1149 1.1149 0.2787 Total 5 2.0216 S = 0.527950 R-Sq = 44.85% R-Sq (adj) = 31.06% Grouping Information Using Tukey Method and 95.0% Confidence Tỉnh N Mean Grouping Điện Biên 3 3.4 A Sơn La 3 2.6 A Means that do not share a letter are significantly different.

2. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae theo tuổi lợn

————— 2/19/2019 11:12:00 PM ———————————————— Results for: Worksheet 2

General Linear Model: Tỷ lệ (%) versus Tuôi lợn Factor Type Levels Values Tuôi lợn fixed 3 > 12, > 6 - 12, ≤ 2 Analysis of Variance for Tỷ lệ (%), using Adjusted SS for Tests Source DF Seq SS Adj SS Adj MS F P Tuổi lợn 2 32.042 32.042 16.021 14.39 0.008 Error 5 5.568 5.568 1.114 Total 7 37.610 S = 1.05526 R-Sq = 85.20% R-Sq (adj) = 79.27%

129

Grouping Information Using Tukey Method and 95.0% Confidence Tuổi lợn N Mean Grouping > 12 3 5.1 A > 6 - 12 3 2.6 A B ≤ 2 2 0.0 B Means that do not share a letter are significantly different. 2. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae theo mùa vụ

General Linear Model: Tỷ lệ nhiễm versus Mùa vụ Factor Type Levels Values Mùa vụ fixed 2 Đông - Xuân, Hè - Thu Analysis of Variance for Tỷ lệ nhiễm, using Adjusted SS for Tests Source DF Seq SS Adj SS Adj MS F P Mùa vụ 1 4.5283 4.5283 4.5283 11.41 0.028 Error 4 1.5881 1.5881 0.3970 Total 5 6.1164 S = 0.630098 R-Sq = 74.04% R-Sq (adj) = 67.54% Grouping Information Using Tukey Method and 95.0% Confidence Mùa vụ N Mean Grouping Hè - Thu 3 3.9 A Đông - Xuân 3 2.1 B Means that do not share a letter are significantly different. 3. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae theo phương thức chăn nuôi

————— 2/19/2019 11:12:00 PM ————————————————— Results for: Worksheet 3 General Linear Model: Tỷ lệ nhiễm versus Phương thức chăn nuôi Factor Type Levels Values Phương thức chăn nuôi fixed 3 Bán chăn thả, Nhốt hoàn toàn, Thả rông Analysis of Variance for Tỷ lệ nhiễm, using Adjusted SS for Tests

130

Source DF Seq SS Adj SS Adj MS F P Phương thức chăn nuôi 2 35.644 35.644 17.822 89.80 0.000 Error 6 1.191 1.191 0.198 Total 8 36.835 S = 0.445487 R-Sq = 96.77% R-Sq (adj) = 95.69% Grouping Information Using Tukey Method and 95.0% Confidence Phương thức chăn nuôi N Mean Grouping Thả rông 3 5.4 A Bán chăn thả 3 1.9 B Nhốt hoàn toàn 3 0.7 C Means that do not share a letter are significantly different. 4. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae ở lợn địa phương và lợn lai

————— 2/19/2019 11:12:00 PM ———————————————————— General Linear Model: Tỷ lệ nhiễm versus loại lợn Factor Type Levels Values Loại lợn fixed 2 Lợn địa phương, Lợn Lai Analysis of Variance for Tỷ lệ nhiễm, using Adjusted SS for Tests Source DF Seq SS Adj SS Adj MS F P Loại lợn 1 5.1814 5.1814 5.1814 24.32 0.008 Error 4 0.8520 0.8520 0.2130 Total 5 6.0334 S = 0.461531 R-Sq = 85.88% R-Sq(adj) = 82.35% Grouping Information Using Tukey Method and 95.0% Confidence Loại lợn N Mean Grouping Lợn địa phương 3 3.8 A Lợn Lai 3 2.0 B Means that do not share a letter are significantly different.

131

——— 7/31/2019 11:27:22 PM ——————————————————

Welcome to Minitab, press F1 for help. General Linear Model: Tỷ lệ nhiễm versus loại lợn Factor Type Levels Values Loại lợn fixed 2 Lợn địa phương, Lợn Lai Analysis of Variance for Tỷ lệ nhiễm, using Adjusted SS for Tests Source DF Seq SS Adj SS Adj MS F P Loại lợn 1 0.0132 0.0132 0.0132 0.03 0.879 Error 2 0.8972 0.8972 0.4486 Total 3 0.9105 S = 0.669795 R-Sq = 1.45% R-Sq(adj) = 0.00% Grouping Information Using Tukey Method and 95.0% Confidence Loại lợn N Mean Grouping Lợn Lai 2 5.4 A Lợn địa phương 2 5.3 A Means that do not share a letter are significantly different.

5. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae ở lợn địa phương và lợn lai được nuôi theo phương thức thả rông

————— 2/19/2019 11:12:00 PM ———————————————————— Results for: Worksheet 4 General Linear Model: Tỷ lệ nhiễm versus Loại địa hình Factor Type Levels Values Loại địa hình fixed 3 Vùng bằng phẳng, Vùng đồi núi thấp, Vùng núi cao Analysis of Variance for Tỷ lệ nhiễm, using Adjusted SS for Tests

6. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae ở lợn theo địa hình

132

Source DF Seq SS Adj SS Adj MS F P Loại địa hình 2 18.3199 18.3199 9.1600 44.97 0.000 Error 6 1.2222 1.2222 0.2037 Total 8 19.5421 S = 0.451329 R-Sq = 93.75% R-Sq(adj) = 91.66% Grouping Information Using Tukey Method and 95.0% Confidence Loại địa hình N Mean Grouping Vùng núi cao 3 4.6 A Vùng đồi núi thấp 3 2.6 B Vùng bằng phẳng 3 1.1 C Means that do not share a letter are significantly different. 7. Tỷ lệ nhiễm sán dây Taenia solium ở người tại 2 tỉnh Sơn La và Điện Biên

————— 2/19/2019 11:12:00 PM ———————————————————— Results for: Worksheet 6 General Linear Model: Tỷ lệ versus Tỉnh Factor Type Levels Values Tỉnh fixed 2 Điện Biên, Sơn La Analysis of Variance for Tỷ lệ, using Adjusted SS for Tests Source DF Seq SS Adj SS Adj MS F P Tỉnh 1 0.9600 0.9600 0.9600 1.38 0.305 Error 4 2.7733 2.7733 0.6933 Total 5 3.7333 S = 0.832666 R-Sq = 25.71% R-Sq(adj) = 7.14% Grouping Information Using Tukey Method and 95.0% Confidence Tỉnh N Mean Grouping Điện Biên 3 3.9 A Sơn La 3 3.1 A Means that do not share a letter are significantly different.

133

8. Tỷ lệ nhiễm sán dây Taenia solium ở người theo nhóm tuổi

————— 2/19/2019 11:12:00 PM ———————————————————— Results for: Worksheet 7 General Linear Model: Tỷ lệ nhiễm versus Tuổi Factor Type Levels Values Tuổi fixed 3 < 15 tuổi, 16 - 30 tuổi, 31 - 50 tuổi Analysis of Variance for Tỷ lệ nhiễm, using Adjusted SS for Tests Source DF Seq SS Adj SS Adj MS F P Tuổi 2 29.928 29.928 14.964 27.43 0.012 Error 3 1.636 1.636 0.545 Total 5 31.564 S = 0.738562 R-Sq = 94.82% R-Sq(adj) = 91.36% Grouping Information Using Tukey Method and 95.0% Confidence Tuổi N Mean Grouping 31 - 50 tuổi 2 5.3 A 16 - 30 tuổi 2 1.6 B < 15 tuổi 2 0.0 B Means that do not share a letter are significantly different. 9. Tỷ lệ nhiễm sán dây Taenia solium ở người theo giới tính

————— 2/19/2019 11:12:00 PM ———————————————————— Results for: Worksheet 8 General Linear Model: Tỷ lệ versus Giới tính Factor Type Levels Values Giới tính fixed 2 Nam, Nữ Analysis of Variance for Tỷ lệ, using Adjusted SS for Tests

Source DF Seq SS Adj SS Adj MS F P Giới tính 1 15.867 15.867 15.867 24.73 0.008 Error 4 2.566 2.566 0.642 Total 5 18.433 S = 0.800937 R-Sq = 86.08% R-Sq(adj) = 82.60% Grouping Information Using Tukey Method and 95.0% Confidence Giới tính N Mean Grouping Nam 3 4.6 A Nữ 3 1.4 B

134

10. So sánh nguy cơ lợn bị nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae theo tập quán

chăn nuôi tại tỉnh Sơn La

+ Lợn nuôi thả rông, bán chăn thả

Risk-Based* Estimates and 95% Confidence Intervals (Not valid for Case-Control studies)

Point Estimates Confidence Limits

Type Value Lower, Upper Type

4.907% 1.32% 3.42% 3.717 3.586% 3.193, 7.422 Taylor series 0.3904, 3.469 Taylor series 2.305, 5.022 Taylor series 1.289, 10.72¹ Taylor series 1.17, 6.003° Taylor series fraction in 61.4% 27.03, 95.77

fraction in 73.09% 22.42, 90.67

Risk in Exposed Risk in Unexposed Overall Risk Risk Ratio Risk Difference Etiologic pop.(EFp) Etiologic exposed(EFe)

135

Odds-Based Estimates and Confidence Limits

Point Estimates Confidence Limits

Value Type Type Lower, Upper

3.851 3.857 1.393, 13.23¹ Mid-P Exact 1.281, 15.59¹ Fisher Exact 1.31, 11.35¹ Taylor series

fraction in 62.22% 28.14, 96.31

fraction in 74.07% 23.69, 91.19

CMLE Odds Ratio* Odds Ratio Etiologic pop.(EFp|OR) Etiologic exposed(EFe|OR) + Lợn nuôi thả rông, nhốt hoàn toàn

Risk-Based* Estimates and 95% Confidence Intervals (Not valid for Case-Control studies)

Point Estimates Confidence Limits

Value Type

4.907% Risk in Exposed 3.193, 7.422

0.6472% Risk in Unexposed 0.02057, 2.486

3.121% Overall Risk 2.066, 4.662

7.581 Risk Ratio 1.791, 32.09¹

4.259% Risk Difference 2.026, 6.492° Lower, Upper Type Taylor series Taylor series Taylor series Taylor series Taylor series

fraction in 79.26% 51.92, 100

fraction in 86.81% 44.16, 96.88 Etiologic pop.(EFp) Etiologic exposed(EFe)

136

Odds-Based Estimates and Confidence Limits

Point Estimates Confidence Limits

Type Value Lower, Upper Type

2.135, 50.3¹ Mid-P Exact Fisher Exact 1.909, 70.05¹ Taylor series 1.843, 34.03¹ 52.94, 100 45.75, 97.06

7.905 CMLE Odds Ratio* 7.92 Odds Ratio Etiologic fraction in pop.(EFp|OR) 79.78% Etiologic fraction in exposed(EFe|OR) 87.37% + Lợn nuôi bán chăn thả, nhốt hoàn toàn

Risk-Based* Estimates and 95% Confidence Intervals (Not valid for Case-Control studies)

Point Estimates Confidence Limits

Type Value Lower, Upper Type

1.32% 0.6472% 0.9804% 2.04 0.6729% 0.3904, 3.469 Taylor series 0.02057, 2.486 Taylor series 0.3963, 2.176 Taylor series 0.3764, 11.05¹ Taylor series -0.8926, 2.238° Taylor series fraction in 33.98% -40.42, 100

fraction in 50.97% -100, 90.95

Risk in Exposed Risk in Unexposed Overall Risk Risk Ratio Risk Difference Etiologic pop.(EFp) Etiologic exposed(EFe)

Odds-Based Estimates and Confidence Limits

Point Estimates Confidence Limits

Type Value Lower, Upper Type

0.3613, 16.11¹ Mid-P Exact Fisher Exact 0.2915, 22.83¹ 0.3734, 11.29¹ Taylor series

-40.43, 100 -100, 91.15 2.051 2.054 34.2% 51.3%

CMLE Odds Ratio* Odds Ratio Etiologic fraction in pop.(EFp|OR) Etiologic fraction in exposed(EFe|OR)

137

11. So sánh nguy cơ lợn nhiễm ấu trùng Cysticercus cellulosae theo tập quán

chăn nuôi tại tỉnh Điện Biên

+ Lợn nuôi thả rông, bán chăn thả

Risk-Based* Estimates and 95% Confidence Intervals (Not valid for Case-Control studies)

Point Estimates Confidence Limits

Type Value Lower, Upper Type

5.841% 3.954, 8.514 Taylor series

2.548% 1.21, 5.033 Taylor series

4.447% 3.166, 6.198 Taylor series

2.293 1.048, 5.015¹ Taylor series

3.293% 0.4697, 6.117° Taylor series

fraction in 42.71% 8.714, 76.71 Risk in Exposed Risk in Unexposed Overall Risk Risk Ratio Risk Difference Etiologic pop.(EFp)

fraction in 56.38% 4.595, 80.06 Etiologic exposed(EFe)

Odds-Based Estimates and Confidence Limits

Point Estimates Confidence Limits

Type Value Lower, Upper Type

CMLE Odds Ratio* 2.37 1.08, 5.662¹ Mid-P Exact

1.019, 6.166¹ Fisher Exact

Odds Ratio 2.373 1.056, 5.333¹ Taylor series

Etiologic fraction in pop.(EFp|OR) 43.83% 9.624, 78.04

Etiologic fraction in exposed(EFe|OR) 57.86% 5.279, 81.25

+ Lợn nuôi thả rông, nhốt hoàn toàn

138

Risk-Based* Estimates and 95% Confidence Intervals (Not valid for Case-Control studies)

Point Estimates Confidence Limits

Type Value Lower, Upper Type

3.954, 8.514

Risk in Exposed Risk in Unexposed Overall Risk Risk Ratio Risk Difference Etiologic fraction in pop.(EFp) Etiologic fraction in exposed(EFe) 5.841% 0.6757% 3.729% 8.645 5.165% 81.88% 88.43% Taylor series 0.02181, 2.593 Taylor series Taylor series Taylor series Taylor series 2.554, 5.392 2.064, 36.22¹ 2.756, 7.575° 57.83, 100 51.54, 97.24

Odds-Based Estimates and Confidence Limits

Point Estimates Confidence Limits

Type Value Lower, Upper Type

CMLE Odds Ratio* 9.101 Odds Ratio 9.119 82.44% Etiologic fraction in pop.(EFp|OR) Etiologic fraction in exposed(EFe|OR) 89.03% 2.497, 57.4¹ Mid-P Exact Fisher Exact 2.24, 79.89¹ Taylor series 2.143, 38.8¹ 58.97, 100 53.34, 97.42

+ Lợn nuôi bán chăn thả, nhốt hoàn toàn

Risk-Based* Estimates and 95% Confidence Intervals (Not valid for Case-Control studies)

Point Estimates Confidence Limits

Type Value Lower, Upper Type

1.21, 5.033

Taylor series 0.02181, 2.593 Taylor series 0.8504, 3.034 Taylor series 0.8074, 17.61¹ Taylor series -0.1048, 3.849° Taylor series

Risk in Exposed Risk in Unexposed Overall Risk Risk Ratio Risk Difference Etiologic fraction in pop.(EFp) Etiologic fraction in exposed(EFe)

2.548% 0.6757% 1.639% 3.771 1.872% 7.93, 100 58.78% -23.86, 94.32 73.48% Odds-Based Estimates and Confidence Limits

139

Point Estimates Confidence Limits

Type Value Lower, Upper Type

0.8785, 26.63¹ Mid-P Exact 0.7569, 37.37¹ Fisher Exact 0.8095, 18.25¹ Taylor series

8.482, 100 -23.53, 94.52

CMLE Odds Ratio* 3.836 Odds Ratio 3.843 59.18% Etiologic fraction in pop.(EFp|OR) Etiologic fraction in exposed(EFe|OR) 73.98% 12. So sánh nguy cơ nhiễm sán dây Taenia solium ở người theo thói quen ăn uống ở tỉnh Sơn La và Điện Biên

* Tỉnh Sơn La + Ăn thịt sống/tái

Risk-Based* Estimates and 95% Confidence Intervals (Not valid for Case-Control studies)

Point Estimates Confidence Limits

Value Type Lower, Upper Type

3.886, 9.169 Taylor series 0.1419, 2.191 Taylor series 2.03, 4.582 Taylor series Taylor series 2.516, 28¹ 2.622, 7.99° Taylor series 52.04, 100 6.024% 0.7177% 3.067% 8.394 5.306% 76.6% Risk in Exposed Risk in Unexposed Overall Risk Risk Ratio Risk Difference Etiologic fraction in pop.(EFp) fraction in exposed 88.09% 60.25, 96.43

Etiologic (EFe)

Odds-Based Estimates and Confidence Limits

Point Estimates

Confidence Limits

Type

Value

Lower, Upper Type

8.846 8.868 77.15% 88.72%

2.851, 37.68¹ Mid-P Exact Fisher Exact 2.59, 46.89¹ Taylor series 2.612, 30.1¹ 53, 100 61.72, 96.68

CMLE Odds Ratio* Odds Ratio Etiologic fraction in pop.(EFp|OR) Etiologic fraction in exposed(EFe|OR)

+ Ăn thịt hun khói

140

Point Estimates Type

Confidence Limits Type Lower, Upper Taylor series 2.48, 5.922 Taylor series 0.2623, 3.91 Taylor series 2.03, 4.582 0.8962, 9.948¹ Taylor series 0.3621, 4.774° Taylor series

Risk-Based* Estimates and 95% Confidence Intervals (Not valid for Case-Control studies) Value 3.861% 1.293% 3.067% 2.986 2.568% 57.83% 66.51% 13.69, 100 -11.59, 89.95

Risk in Exposed Risk in Unexposed Overall Risk Risk Ratio Risk Difference Etiologic fraction in pop.(EFp) Etiologic fraction in exposed(EFe)

Odds-Based Estimates and Confidence Limits

Confidence Limits

Point Estimates Type Type

0.9852, 13.06¹ Mid-P Exact 0.8948, 16.25¹ Fisher Exact 0.9019, 10.42¹ Taylor series

14.67, 100 -10.87, 90.4

Value Lower, Upper 3.062 CMLE Odds Ratio* 3.066 Odds Ratio 58.59% Etiologic fraction in pop.(EFp|OR) Etiologic fraction in exposed(EFe|OR) 67.38%

* Điện Biên

+ Ăn thịt sống/tái

Risk-Based* Estimates and 95% Confidence Intervals (Not valid for Case-Control studies)

Point Estimates Confidence Limits

Type Value Lower, Upper Type

6.149% 2.268% 3.867% 2.712 3.881% 3.919, 9.455 Taylor series 1.179, 4.18 Taylor series 2.686, 5.517 Taylor series 1.279, 5.751¹ Taylor series 0.8641, 6.899° Taylor series fraction in 41.36% 12.4, 70.31

fraction 63.12% 21.79, 82.61

Risk in Exposed Risk in Unexposed Overall Risk Risk Ratio Risk Difference Etiologic pop.(EFp|OR) Etiologic exposed(EFe|OR)

141

Odds-Based Estimates and Confidence Limits

Point Estimates Type Type

Value 2.82 CMLE Odds Ratio* 2.824 Odds Ratio Etiologic fraction in pop.(EFp|OR) 42.32% Etiologic fraction in exposed(EFe|OR) 64.59% Confidence Limits Lower, Upper 1.302, 6.403¹ Mid-P Exact Fisher Exact 1.227, 6.893¹ Taylor series 1.294, 6.16¹ 13.17, 71.46 22.75, 83.77

+ Ăn thịt hun khói

Risk-Based* Estimates and 95% Confidence Intervals (Not valid for Case-Control studies)

Point Estimates Confidence Limits

Type Value Lower, Upper Type

Risk in Exposed 3.181, 6.599 Taylor series 4.605% Risk in Unexposed Taylor series 0.0, 4.276 0.7042% Overall Risk 2.686, 5.517 Taylor series 3.867% Risk Ratio 6.539 0.8974, 47.66¹ Taylor series Risk Difference 3.901% 1.741, 6.061° Taylor series 81.79% Etiologic fraction in pop.(EFp|OR) Etiologic fraction in exposed(EFe|OR) 84.71% 46.86, 100 -11.44, 97.9

Odds-Based Estimates and Confidence Limits

Point Estimates Confidence Limits

Type Value Lower, Upper Type

CMLE Odds Ratio* 6.797 1.27, 141.6¹

1.104, 280.3¹

6.807 0.9184, 50.45¹ Odds Ratio

82.37% 85.31% 48.31, 100 -8.88, 98.02 Mid-P Exact Fisher Exact Taylor series

Etiologic fraction in pop.(EFp|OR) Etiologic fraction in exposed(EFe|OR)

142

13. Tính dung lượng mẫu

* Tỉnh Sơn La

Data Target is to determine needed sample size to estimate percentage with an establisehd margin of error:

Confidence level % : 95%

Population size : 700564

Expected prevalence % : 2.60%

Accepted error % : 1.00%

Results

Sample size : 973

Sampling fraction : 0.14%

Adjusted sample size: 972

Adjusted sampling fraction : 0.14%

* Tỉnh Điện Biên

Data Target is to determine needed sample size to estimate percentage with an establisehd margin of error:

Confidence level % : 95%

Population size : 401413

Expected prevalence % : 2.70%

Accepted error % : 1.00%

Results

Sample size : 1010

Sampling fraction : 0.25%

Adjusted sample size: 1007

Adjusted sampling fraction : 0.25%

143

PHỤ LỤC 6

SỐ LIỆU TỶ LỆ NGƯỜI NHIỄM SÁN DÂY Taenia solium

THEO TUỔI VÀ GIỚI TÍNH

1. Tỷ lệ nhiễm sán dây ở người theo tuổi

Bảng 1. Tỷ lệ người nhiễm bệnh sán dây Taenia solium theo tuổi

Số người Số người Tỷ lệ nhiễm Địa phương Tuổi điều tra nhiễm (tỉnh, huyện) (%)

* Tỉnh Sơn La

< 15 tuổi 0 0 0,00

Huyện Bắc Yên 16 - 30 tuổi 43 0 0,00

31 - 50 tuổi 207 10 4,83

< 15 tuổi 7 0 0,00

Huyện Mường La 16 - 30 tuổi 73 1 1,37

31 - 50 tuổi 170 7 4,12

< 15 tuổi 62 0 0,00

Huyện Mai Sơn 16 - 30 tuổi 116 2 1,20

31 - 50 tuổi 72 3 4,17

< 15 tuổi 69 0 0,00

232 Tính chung 16 - 30 tuổi 3 1,29

449 31 - 50 tuổi 20 4,45

* Tỉnh Điện Biên

Huyện Mường < 15 tuổi 31 0 0,00

Ảng 16 - 30 tuổi 86 1 1,16

31 - 50 tuổi 133 7 5,26

< 15 tuổi 24 0 0,00 Huyện Tủa Chùa 16 - 30 tuổi 91 2 2,20

31 - 50 tuổi 135 8 5,92

< 15 tuổi 32 0 0,00

Huyện Nậm Pồ 16 - 30 tuổi 98 2 2,04

31 - 50 tuổi 120 9 7,50

Tính chung < 15 tuổi 87 0 0,00

16 - 30 tuổi 275 5 1,82

31 - 50 tuổi 388 24 6,18

144

2. Tỷ lệ nhiễm sán dây ở người theo giới tính

Bảng 2. Tỷ lệ nhiễm sán dây T. solium ở người theo giới tính

Số người Số người mắc Địa phương Giới tính Tỷ lệ (%) điều tra bệnh (tỉnh, huyện)

* Tỉnh Sơn La

Nam 195 9 4,62 Huyện Bắc Yên Nữ 55 1 1,82

Nam 178 7 3,93 Huyện Mường La Nữ 72 1 1,39

Nam 215 5 2,32 Huyện Mai Sơn Nữ 35 0 0,00

Nam 588 21 3,57 Tính chung Nữ 162 2 1,23

* Tỉnh Điện Biên

Nam 135 7 5,18 Huyện Mường Ảng Nữ 115 1 0,86

Nam 141 9 6,38 Huyện Tủa Chùa Nữ 109 1 0,92

Nam 137 8 5,84 Huyện Nậm Pồ Nữ 113 3 2,65

Nam 413 24 5,81 Tính chung Nữ 5 1,48

337