ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGUYỄN CAO CƯỜNG

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA BỆNH DO LEUCOCYTOZOON SPP. GÂY RA Ở GÀ THẢ VƯỜN TẠI TỈNH LẠNG SƠN VÀ THỬ NGHIỆM

PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ

LLUUẬẬNN VVĂĂNN TTHHẠẠCC SSĨĨ TTHHÚÚ YY

Thái Nguyên, năm 2020

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGUYỄN CAO CƯỜNG

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA BỆNH DO LEUCOCYTOZOON SPP. GÂY RA Ở GÀ THẢ VƯỜN TẠI TỈNH LẠNG SƠN VÀ THỬ NGHIỆM

PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ Ngành: Thú y

Mã số: 8 64 01 01

LLUUẬẬNN VVĂĂNN TTHHẠẠCC SSĨĨ TTHHÚÚ YY

Người hướng dẫn khoa học: TS. Dương Thị Hồng Duyên

Thái Nguyên, năm 2020

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn

này là hoàn toàn trung thực và chưa hề sử dụng cho một học vị nào. Mọi

sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn. Các thông

tin, tài liệu trình bày trong luận văn này được ghi nguồn gốc trong phần

phụ lục.

Thái Nguyên, tháng 08 năm 2020

Tác giả

Nguyễn Cao Cường

ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, ngoài sự nỗ lực phấn đấu của

bản thân, tôi còn nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của nhiều cá

nhân, đơn vị và tập thể khác.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Nông

Lâm Thái Nguyên, Ban Chủ nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y cùng toàn thể

các thầy, cô giáo trong khoa Chăn nuôi Thú y đã tận tình giảng dạy và

giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập tại trường.

Nhân dịp này, cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn và cảm ơn chân

thành tới cô giáo TS. Dương Thị Hồng Duyên người đã tận tình hướng

dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt thời gian thực tập, giúp tôi hoàn thành bản luận

văn này.

Tôi xin gửi lời cảm ơn tới ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ, công

nhân viên tại Chi cục Kiểm dịch động vật vùng Lạng Sơn đã tạo điều kiện

giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.

Qua đây, tôi cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, người

thân và bạn bè đã luôn ủng hộ, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt thời

gian học tập và thực hiện luận văn khoa học này.

Xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày tháng 10 năm 2020

Tác giả

Nguyễn Cao Cường

iii

LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ ii

MỤC LỤC ................................................................................................................. iii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT................................................................................... v

DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................ vi

DANH MỤC CÁC HÌNH ....................................................................................... vii

MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1

2. Mục tiêu đề tài ......................................................................................................... 2

3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài ................................................... 3

Chương 1.TỔNG QUAN TÀI LIỆU .......................................................................... 4

1.2. Đặc điểm của đơn bào Leucocytozoon ký sinh ở gà............................................ 5

1.3. Bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà .................................................................... 11

1.3.7 Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước ...................................................... 19

1.3.7.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước .............................................................. 19

1.3.7.2. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước ............................................................. 21

Chương 2.ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

................................................................................................................................... 26

2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 26

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................... 26

2.1.2. Địa điểm nghiên cứu ...................................................................................... 26

2.2. Vật liệu nghiên cứu ............................................................................................ 26

2.3. Nội dung nghiên cứu .......................................................................................... 27

2.3.1. Thành phần loài đơn bào Leucocytozoon gây bệnh ở gà tại Lạng Sơn ........... 27

2.3.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà tại Lạng Sơn ................ 27

2.3.3. Nghiên cứu bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà tại Lạng Sơn ........................ 27

2.3.4. Nghiên cứu biện pháp trị bệnh ........................................................................ 28

2.4. Bố trí thí nghiệm và phương pháp nghiên cứu................................................... 28

MỤC LỤC

2.4.1. Phương pháp bố trí theo dõi xác định loài Leucocytozoon ký sinh

ở gà tại Lạng Sơn ...................................................................................................... 28

2.4.2. Bố trí lấy mẫu và phương pháp xác định tỷ lệ, cường độ nhiễm

Leucocytozoon ở gà .................................................................................................. 28

2.4.3. Phương pháp xác định quy luật hoạt động của dĩn – véc tơ truyền bệnh

Leucocytozoon cho gà ............................................................................................... 31

2.4.4. Phương pháp bố trí theo dõi và xác định đặc điểm bệnh lý, lâm sàng bệnh

Leucocytozoon ở gà .................................................................................................. 32

2.4.5. Phương pháp đánh giá hiệu lực và độ an toàn của 02 phác đồ điều trị bệnh

Leucocytozoon cho gà ................................................................................................ 34

2.5. Phương pháp xử lý số liệu .................................................................................. 35

Chương 3.KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ................................................................. 37

3.1. Thành phần loài đơn bào Leucocytozoon gây bệnh ở gà tại Lạng Sơn ............. 37

3.2. Một số đặc điểm dịch tễ bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà tại

Lạng Sơn ................................................................................................................... 39

3.2.1. Tình hình nhiễm đơn bào đường máu Leucocytozoon ở gà ........................... 39

3.2.2. Nghiên cứu đặc điểm hoạt động của dĩn – véc tơ truyền Leucocytozoon cho gà . 56

3.3. Bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà tại Lạng Sơn .............................................. 59

3.3.1. Đặc điểm lâm sàng bệnh Leucocytozoon ở gà tại Lạng Sơn .......................... 59

3.3.2. Một số chỉ số máu của gà mắc bệnh Leucocytozoon ...................................... 61

3.3.3. Tổn thương của gà bị bệnh đơn bào Leucocytozoon ...................................... 67

3.4. Phòng và trị bệnh Leucocytozoon cho gà .......................................................... 72

3.4.1. Hiệu lực và độ an toàn của 2 phác đồ điều trị bệnh đơn bào

Leucocytozoon cho gà. .............................................................................................. 72

3.4.2. Đề xuất biện pháp phòng bệnh Leucocytozoon cho gà .................................. 74

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ....................................................................................... 75

1. Kết luận ................................................................................................................. 75

2. Đề nghị .................................................................................................................. 76

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 78

iv

v

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

C. arakawa Culicoides arakawa :

Cộng sự cs. :

Gam g :

Ký chủ trung gian KCTG :

Leucocytozoon caullergyi L. caullergyi :

Leucocytozoon sabrazeis L. sabrazeis :

Dung lượng mẫu n :

Nhà xuất bản Nxb :

Femtolit fl :

Độ tin cậy P :

Simulium S. :

Species pluralis spp. :

Thể trọng TT :

Vệ sinh thú y VSTY :

vi

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1. Thành phần loài Leucocytozoon gây bệnh ở gà tại Lạng Sơn ................ 37

Bảng 3.2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo địa phương ........... 39

Bảng 3.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo mùa ....................... 47

Bảng 3.4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo tuổi ........................ 50

Bảng 3.5. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo tình trạng vệ

sinh thú y ....................................................................................................................... 53

Bảng 3.6. Quy luật hoạt động của các loài dĩn theo tháng trong năm

Tháng dĩn hoạt động .................................................................................................... 56

Bảng 3.7. Quy luật hoạt động trong ngày của các loài dĩn ....................................... 58

Bảng 3.8. Tỷ lệ và các triệu chứng lâm sàng của gà mắc bệnh đơn bào

Leucocytozoon .............................................................................................................. 59

Bảng 3.9. Sự thay đổi một số chỉ số máu của gà bệnh so với gà khỏe ................... 61

Bảng 3.10. So sánh công thức bạch cầu của gà khỏe và gà bệnh ............................ 64

Bảng 3.11. Bệnh tích đại thể của gà bị bệnh đơn bào Leucocytozoon .................... 67

Bảng 3.12. Tỷ lệ tiêu bản có tổn thương vi thể ......................................................... 69

Bảng 3.13. Tổn thương vi thể ở các nội quan và cơ gà ............................................ 71

Bảng 3.14: Hiệu lực của 2 phác đồ điều trị bệnh Leucocytozoon cho gà ............... 72

vii

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 3.1. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tại huyện

Cao Lộc ............................................................................................. 42

Hình 3.2. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tại huyện

Hữu Lũng .......................................................................................... 43

Hình 3.3, 3.4. Biểu đồ cường độ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà

tại huyện Cao Lộc và huyện Hữu Lũng ............................................ 45

Hình 3.5. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tại huyện

Hữu Lũng và huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn theo mùa ....................... 50

Hình 3.6. Đồ thị tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tại huyện

Hữu Lũng và huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn theo tuổi ................... 53

Hình 3.7. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tại huyện

Hữu Lũng và huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn theo tình trạng

vệ sinh thú y ...................................................................................... 56

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong xu thế phát triển kinh tế hiện nay, ngành chăn nuôi đã và đang

góp phần rất lớn vào việc cung cấp thực phẩm, nâng cao chất lượng bữa

ăn hằng ngày cho con người. Tuy nhiên, một trong những trở ngại lớn đối

với công tác chăn nuôi là dịch bệnh thường xuyên xảy ra gây nhiều thiệt

hại làm hạn chế sự phát triển của ngành. Vì thế việc phòng trị bệnh cho

vật nuôi được đặc biệt chú trọng, không chỉ các bệnh truyền nhiễm được

phòng bệnh bằng tiêm phòng vắc xin mà các bệnh ký sinh trùng cũng

được người chăn nuôi hết sức quan tâm phòng trị. Bệnh ký sinh trùng là

một trong các loại bệnh phổ biến ở vùng khí hậu nhiệt đới ẩm như nước

ta, vì nóng và ẩm là hai điều kiện thuận lợi cho ký sinh trùng phát triển.

Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp, hơn 48% dân số gắn với hai

ngành sản xuất chính là chăn nuôi và trồng trọt. Trong đó, chăn nuôi đã và

đang trở thành ngành mũi nhọn trong sản xuất nông nghiệp, góp phần

quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Trong những năm trở lại đây, chăn nuôi gia cầm tương đối phát triển,

được Đảng và Nhà nước quan tâm. Tuy nhiên, vấn đề vệ sinh thú y trong

chăn nuôi gà chưa được quan tâm đúng mức, dịch bệnh thường xảy ra,

gây trở ngại cho việc phát triển chăn nuôi, dẫn đến thiệt hại kinh tế cho

nhiều gia đình và cơ sở chăn nuôi gà.

Theo Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (2002), ngành chăn nuôi gia cầm

nước ta còn nhiều khó khăn do dịch bệnh thường xảy ra, trong đó trước tiên

phải kể đến bệnh ký sinh trùng. Đàn gia cầm quanh năm thường nhiễm ký

sinh trùng với tỷ lệ và cường độ cao, gây thiệt hại kinh tế đáng kể cho các

nông hộ và trang trại chăn nuôi.

Đất nước ta nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới nóng ẩm mưa nhiều

có hệ động, thực vật phong phú và vô cùng đa dạng, thích hợp cho nhiều

2

loài ký sinh trùng phát triển, ký sinh và gây bệnh. Trong các bệnh ký sinh

trùng ở gà, có những bệnh do nhóm đơn bào ký sinh gây ra, chúng chiếm

đoạt chất dinh dưỡng, tiết độc tố và gây ra những biến đổi bệnh lý làm cho

gà gầy yếu, chậm lớn, giảm mạnh sức sản xuất thịt, trứng, trong đó có

bệnh đơn bào đường máu Leucocytozoon.

Leucocytozoon thuộc nhóm nguyên sinh động vật, thuộc bộ huyết

bào tử trùng (Heamosporidia) ký sinh trong máu và cơ quan nội tạng của

nhiều loài gia cầm, trong đó gà là loài mẫn cảm nhất, đặc biệt là gà được

nuôi theo phương thức chuồng hở.

Bệnh do Leucocytozoon ở gà đã được phát hiện ở nhiều nước Châu Á.

Bệnh làm giảm khả năng sản xuất thịt và trứng của gà; giảm số lượng, trọng

lượng trứng và tỷ lệ ấp nở của trứng (Takashi Isobe và cs, 1998; Saif Y. M. và

cs, 2003).

Lạng Sơn là tỉnh miền núi phía Bắc có điều kiện thuận lợi cho chăn

nuôi gà phát triển, đặc biệt là chăn nuôi gà thả vườn. Việc phòng bệnh

bằng vắc xin đã được người dân thực hiện khá nghiêm ngặt, tuy nhiên một

số đàn gà vẫn xuất hiện các triệu chứng như ỉa phân xanh, mặt tái, gà

thiếu máu, gầy yếu. Mổ khám thấy chất chứa trong diều, dạ dày, ruột có

màu xanh, gan sưng to, lách sưng và xuất huyết, cơ đùi xuất huyết. Vấn đề

là những đàn gà đó mắc bệnh có phải do đơn bào Leucocytozoon gây ra?

Vì vậy, việc nghiên cứu xác định sự tồn tại và gây bệnh của đơn bào

Leucocytozoon trên đàn gà tại tỉnh Lạng Sơn để có biện pháp phòng trị hiệu

quả là rất cần thiết. Xuất phát từ nhu cầu cấp bách của thực tế chăn nuôi gà

chúng tôi thực hiện đề tài: "Nghiên cứu một số đặc điểm của bệnh do

Leucocytozoon spp. ở gà thả vườn tại tỉnh Lạng Sơn và thử nghiệm phác

đồ điều trị”.

2. Mục tiêu đề tài

3

- Xác định được các loài Leucocytozoon gây bệnh cho gà và đặc điểm

dịch tễ bệnh do Leucocytozoon gây ra ở đàn gà của một số địa phương thuộc

tỉnh Lạng Sơn.

- Xác định đặc điểm bệnh lý, lâm sàng của bệnh Leucocytozoon ở gà

tại một số địa phương thuộc tỉnh Lạng Sơn.

- Lựa chọn phác đồ điều trị bệnh Leucocytozoon có hiệu quả cho gà.

3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài

3.1. Ý nghĩa khoa học

Nghiên cứu đề tài để có những thông tin khoa học về đặc điểm dịch

tễ, bệnh lý và lâm sàng bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà tại tỉnh Lạng

Sơn, đồng thời có cơ sở khoa học để xây dựng quy trình phòng trị bệnh

đơn bào Leucocytozoon cho gà có hiệu quả cao.

3.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả của đề tài là cơ sở để khuyến cáo người chăn nuôi gà áp

dụng các biện pháp phòng trị bệnh đơn bào Leucocytozoon, nhằm hạn chế

tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon cho gà, hạn chế thiệt hại do Leucocytozoon

gây ra, góp phần nâng cao năng suất chăn nuôi, thúc đẩy chăn nuôi gà nói

riêng và chăn nuôi gia cầm nói chung phát triển.

4

Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

Ký sinh trùng là những sinh vật sinh trưởng và phát triển trong hoặc

trên cơ thể một sinh vật khác - gọi là ký chủ, chiếm đoạt chất dinh dưỡng

của ký chủ mà nó ký sinh. Trong phân loại học, dựa theo cấu trúc cơ thể

của ký sinh trùng mà người ta chia những ký sinh trùng động vật ra làm 3

ngành: nguyên trùng, giun sán và tiết túc. Trong đó, nguyên trùng là ký

sinh trùng đơn bào (protozoa), cơ thể chỉ gồm một tế bào, thường ký sinh

trong máu (Trypanosoma, Histomonas, Leucocytozoon…) hoặc trong ruột

ký chủ (cầu trùng) (Dương Công Thuận, 1995).

Bệnh do đơn bào Leucocytozoon gây ra có ở nhiều nước trên thế

giới. Tỷ lệ lưu hành Leucocytozoon trên đàn gà ở một số nước Châu Á

khá cao: ở Trung Quốc (7,1%), Thái Lan (13 - 18%), Malaysia (15 - 31%).

Leucocytozoon ký sinh trong hồng cầu gà, đôi khi ký sinh trong bạch cầu

(tùy theo loài), làm tan vỡ hồng cầu, gây bần huyết và gây chết gà với tỷ

lệ cao, ảnh hưởng đến thu nhập của người chăn nuôi gà. Bệnh cũng được

phát hiện ở nhiều loài chim hoang dã.

1.1. Sơ lược điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng tại tỉnh

Lạng Sơn

Lạng Sơn là một tỉnh miền núi, biên giới, thuộc vùng Đông

Bắc với diện tích tự nhiên 8.310,09 km2, nằm ở vị trí đường quốc lộ

1A, 1B, 4A, 4B, 279 đi qua, là điểm nút của sự giao lưu kinh tế với

các tỉnh phía Tây như Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Kạn, phía Đông

như tỉnh Quảng Ninh, phía Nam như Bắc Giang, Bắc Ninh, thủ đô Hà

Nội và phía Bắc tiếp giáp với Trung Quốc.

* Địa hình:

Huyện Cao Lộc nằm ở phía đông bắc tỉnh Lạng Sơn, có diện tích

643,8 km², Cao Lộc có địa hình cao nhất trong số các huyện thị của tỉnh

Lạng Sơn, độ cao trung bình của toàn huyện khoảng 260m. Khu vực có

5

địa hình thung lũng là nơi cư trú và sản xuất của hàng nghìn hộ dân cư

trong huyện.

Huyện Hữu Lũng là huyện miền núi nằm ở phía Nam của thành phố

Lạng Sơn, có diện tích 804 km². Hữu Lũng thuộc vùng núi thấp của tỉnh

Lạng Sơn, địa hình được phân chia rõ giữa vùng núi đá và vùng núi đất.

Phần lớn diện tích ở vùng núi đá vôi.

*Khí hậu: Khí hậu của huyện Cao Lộc và Hữu Lũng chia bốn mùa rõ rệt, nhiệt độ trung bình năm từ 21 - 22,70C, nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất 270C - 320C, nhiệt độ trung bình mùa đông là 130C, nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất 90C, có nơi, có ngày nhiệt độ xuống dưới -10C. Độ ẩm trung bình cả năm là 82%.

*Điều kiện kinh tế - xã hội:

Đặc điểm kinh tế - xã hội của hai huyện Cao Lộc và Hữu Lũng mang

nét đặc trưng của các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam. Dân số hai huyện

201.608 người với thành phần dân tộc đa dạng như: Tày, Nùng, Kinh,

Dao, Hoa… tương ứng với nhiều văn hóa, phong tục tập quán cũng như

phương thức canh tác và chăn nuôi khác nhau.

1.2. Đặc điểm của đơn bào Leucocytozoon ký sinh ở gà

1.2.1. Vị trí của đơn bào Leucocytozoon trong hệ thống phân loại động vật

Đơn bào nói chung là những nguyên sinh động vật không có khí

quan di động, thân thể khi thì trần và có thể biến dạng được, khi thì có

màng bọc và có hình dạng nhất định. Đơn bào sống ký sinh ở các tế bào,

các mô hay dịch thể, có thể suốt đời hoặc những giai đoạn đầu của nó.

Chúng tự nuôi dưỡng bằng cách thẩm thấu dinh dưỡng chiếm đoạt của ký

chủ qua bề mặt cơ thể.

Các loài đơn bào thuộc giống Leucocytozoon ký sinh trong máu của

nhiều loài gia cầm, thủy cầm, chim và nhiều loài chim hoang dã. Gà là vật

chủ cảm thụ đơn bào Leucocytozoon mạnh nhất. Bệnh được Ziemann phát

6

hiện lần đầu tiên vào năm 1898. Từ đó đến nay, trên thế giới đã có nhiều

công trình nghiên cứu về bệnh.

Theo Levine N. D. (1985), Leucocytozoon gây bệnh cho gà có vị trí

trong hệ thống phân loại như sau:

Ngành Protozoa

Lớp Sporozoa

Bộ Haemosporidia

Họ Leucocytozoidae

Giống Leucocytozoon

Loài L. caullergyi (Mathis et Leger, 1909)

L. sabrazeis (Mathis et Leger, 1910)

L. simondi (Mathis et Leger, 1910)

L. smithi (Laveran et Lucet, 1905)

L. andrewsi (Atchley, 1951)

L. schufneri (Prowazek, 1912)

L. schoutedeni (Rodham Pons et Bequaert, 1913)

Wiliam H. M. (2004) cho biết: hiện nay có khoảng 70 loài thuộc giống

Leucocytozoon ký sinh và gây bệnh cho gia cầm. Đơn bào này ký sinh ở cả

hồng cầu và bạch cầu. Tác giả còn cho rằng Leucocytozoon caulleryi là loài

đơn bào phổ biến nhất, ký sinh và gây bệnh cho gà ở khu vực Đông Nam Á và

Châu Phi. Ngoài ra, loài L. simondi thường ký sinh ở thủy cầm và một số loài

chim hoang dã ở châu Âu, Bắc Mỹ và Đông Nam Á.

1.2.2. Đặc điểm hình thái các loài Leucocytozoon ở gà

Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999); Nguyễn Thị Kim Lan

(2012), cơ thể đơn bào thường do một tế bào rất nhỏ cấu thành, tổ chức

của đơn bào gồm màng tế bào, chất nguyên sinh, hạt hoặc nhân tế bào.

Đơn bào Leucocytozoon ký sinh ở hồng cầu, bạch cầu, các nội tạng

của gà và các loài chim ở hai dạng: dạng tiểu thể hình dùi trống, hoặc hình

thoi nhọn hai đầu với kích thước từ 15 - 20 µm; dạng bào tử hình trứng

với kích thước từ 20 - 25 µm.

7

Phạm Sỹ Lăng và cs (2005) cho biết: trong quá trình phát triển ở ký

chủ cũng như ở vector trung gian truyền bệnh, các loài Leucocytozoon có

nhiều hình dạng khác nhau. Kích thước của chúng thay đổi tuỳ thuộc dạng

và loài đơn bào Leucocytozoon.

- Dạng bào tử (Sporozoite): hình thuẫn, hình elip nhọn 2 dầu, kích thước

10 - 15 µm. Thể này thấy ở tuyến nước bọt của dĩn (vector trung gian truyền

bệnh).

- Dạng tiểu thể (Merozoite): hình tròn, hình trứng, kích thước 15 - 20 µm.

- Dạng giao tử (Schizont): hình elip, thon nhỏ 2 đầu, kích thước 20 - 45

µm.

- Dạng đại giao tử (Macrogametocyte): hình đa giác, gần tròn, kích

thước 350 - 400 µm.

- Dạng tiểu phối tử (Microgametocyte): hình thuẫn, hình trứng, kích

thước 20 - 25 µm.

Theo Phạm Sỹ Lăng và Tô Long Thành (2006); Phạm Sỹ Lăng và cs

(2008), hai loài L. caullergyi và L. sabrazeis có hình dạng gần giống nhau,

chỉ khác về tính chất gây bệnh. Chúng có dạng hình cầu, hình bầu dục,

hình lưỡi liềm; kích thước 20 x 5 µm, không có sắc tố khi nhuộm Giemsa,

ký sinh ở hồng cầu của gà, gà rừng.

1.2.3. Vòng đời của Leucocytozoon ở gà

Saif Y. M. (2003) cho rằng: giai đoạn sinh bào tử diễn ra trên vật chủ

trung gian và có thể được hoàn thành sau 3 - 4 ngày. Noãn nang phát triển

và có thể tìm thấy trong đường tiêu hóa của dĩn (véc tơ trung gian truyền

bệnh) trong vòng 12 giờ sau khi dĩn hút máu. Sau đó các noãn nang này di

chuyển đến tuyến nước bọt của dĩn, có thể tìm thấy noãn nang ở tuyến

nước bọt dĩn sớm nhất sau khi dĩn hút máu gà bệnh 18 ngày.

Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2005), các loài Leucocytozoon có vòng

đời rất phức tạp, cần vector trung gian truyền bệnh là các loài dĩn thuộc

giống Simulium spp. và Culiloides spp. Tùy đặc điểm thời tiết, khí hậu của

từng vùng sinh thái khác nhau mà thành phần loài dĩn cũng thay đổi.

8

Sau khi mầm bệnh xâm nhập vào dĩn do dĩn hút máu gà bệnh, các tiểu

thể (Merozoite) phát triển qua một số giai đoạn ở vách dạ dày của dĩn thành

noãn nang và cuối cùng thành thể bào tử (Sporozoite). Thể bào tử chuyển lên

tuyến nước bọt của dĩn sau thời gian phát triển khoảng 25 ngày. Khi dĩn hút

máu các loài vật chủ (gà, các loài gia cầm khác và chim hoang dã) sẽ truyền

mầm bệnh vào máu của vật chủ.

Các bào tử từ máu xâm nhập vào các tế bào nội quan như: gan, lách,

phổi, thận, tổ chức cơ để trở thành giao tử (Schizont). Các giao tử vào

hồng cầu phát triển thành tiểu thể (Merozoite), giao tử thể (Gametocyte), đại

giao tử (Marcrogametocyte) và tiểu giao tử (Mircrogametocyte).

Khi dĩn hút máu gia cầm bệnh, vào cơ thể dĩn, các tiểu thể lại phát

triển thành noãn nang (Oocyste), rồi bào tử (Sporozoite) trong vách dạ dày

dĩn và vòng đời lại được lặp lại.

Tuy nhiên, Lê Văn Năm (2011) lại cho rằng: chu kỳ phát triển sinh

học của Leucocytozoon gồm 2 giai đoạn chính. Giai đoạn thứ nhất là giai

đoạn phát triển trong cơ thể ký chủ trung gian truyền bệnh và giai đoạn

hai là giai đoạn phát triển trong cơ thể vật chủ:

* Giai đoạn phát triển trong cơ thể ký chủ trung gian truyền bệnh

(dĩn). Đây là giai đoạn hình thành bào tử nang (Sporogony), giai đoạn này

kết thúc trong vòng 3 - 4 ngày. Vì trong máu của gia cầm bệnh đã có sẵn

giao tử đực và giao tử cái, hoặc hợp tử của Leucocytozoon, nên ngay sau

khi hút máu gia cầm bệnh, các tế bào máu chứa mầm bệnh bị dịch tiêu

hóa của ký chủ trung gian (dĩn) làm tan vỡ và giải phóng ra các giao tử và

các hợp tử. Chúng nhanh chóng bám vào thành dạ dày và chui vào các tế

bào niêm mạc dạ dày, ruột của dĩn. Ở đó chúng bắt đầu phát triển thành

bào tử nang (Oocyst). Toàn bộ quá trình này chỉ diễn ra trong vòng 12 giờ

kể từ thời điểm dĩn hút máu gia cầm bệnh lần cuối.

Trong mỗi bào tử nang bắt đầu có quá trình sinh trưởng và phát triển

thành 4 thoi trùng (Sporozoite). Các thoi trùng này nhanh chóng lớn lên và

di hành đến cư trú trong tuyến nước bọt của ký chủ trung gian truyền

9

bệnh. Chỉ có các thoi trùng này mới có khả năng truyền bệnh. Ký chủ

trung gian truyền bệnh cho gia cầm thụ cảm thông qua việc hút máu của

gia cầm bệnh, sau đó hút máu của gia cầm khỏe và truyền nước bọt kèm

theo thoi trùng gây bệnh vào cơ thể gia cầm khỏe. Như vậy, kể từ khi dĩn

hút máu gia cầm bệnh lần cuối đến lúc có khả năng truyền bệnh phải mất

18 ngày.

* Giai đoạn phát triển của Leucocytozoon trong cơ thể gia cầm thụ

cảm. Ngay sau khi thoi trùng theo nước bọt của ký chủ trung gian truyền

bệnh xâm nhập vào cơ thể gia cầm, chúng lột xác và hình thành nên các

thể phân lập trung gian (Merozoite), các thể phân lập trung gian này bám

ngay vào các tế bào máu và theo máu đi khắp cơ thể. Từ đây, chúng phát

triển theo hai hướng:

Hướng thứ nhất: Chúng chui vào và ký sinh trong các tế bào máu, sinh

trưởng và phát triển theo phương thức tự nhân đôi để tạo ra các thể phân lập

thế hệ 1 (Schizont - 1). Các Schizont thế hệ 1 này lớn lên nhanh chóng và tiết

ra một chất làm tan hồng cầu, chất đó được gọi là chất kháng hồng cầu (anti -

erythrocyte). Dưới tác động cơ học của nhiều thể phân lập đã sinh ra trong

mỗi hồng cầu, và dưới tác động của chất kháng hồng cầu, một số lượng lớn

hồng cầu bị phá vỡ và giải phóng ra nhiều thể phân lập thế hệ 1, đây là nguyên

nhân chính dẫn đến thiếu máu, tăng Hemobilirubin, máu trở nên loãng, nhớt

và khó đông. Các thể phân lập thế hệ 1 lập tức tấn công và ký sinh tiếp vào

các tế bào hồng cầu mới, chúng lớn lên và lại nhân đôi để hình thành thể phân

lập thế hệ 2 (Schizont - 2), cứ tiếp tục như vậy chúng hình thành thể phân lập

thế hệ 3 (Schizont - 3) thì dừng lại và bắt đầu hình thành các giao tử

(Gametocyte). Giao tử đực có kích thước nhỏ gọi là Microgametocyte và giao

tử cái có kích thước lớn hơn gọi là Macrogametocyte. Kết thúc giai đoạn sinh

sản vô tính và bắt đầu giai đoạn sinh sản hữu tính.

Giai đoạn sinh sản hữu tính xảy ra trong các tế bào hồng cầu. Giao tử đực

chui vào giao tử cái để thụ tinh và hình thành nên hợp tử. Hợp tử được bọc bởi

một màng và được gọi là bào tử, có kích thước trung bình 5,5 - 14,5 µm. Sau

10

đó, chúng phát triển thành các bào tử hình thoi, có kích thước lên đến 45 µm.

Chỉ có các thoi trùng này mới có khả năng lây truyền thông qua côn trùng hút

máu gia cầm bệnh và truyền thoi trùng gây bệnh cho gia cầm khỏe.

Hướng thứ hai: Sau khi các thoi trùng theo máu di hành khắp các nơi

trong cơ thể, một phần chúng cư trú tại các cơ quan như lách, thận, phổi,

gan, dạ dày tuyến, dạ dày cơ, ruột non, buồng trứng, ống dẫn trứng và

não. Tại đây, chúng lột xác và chui vào ký sinh trong các tế bào nội mô, tế

bào lưới và đại thực bào của các cơ quan kể trên của gia cầm thụ cảm.

Trong các tế bào đó chúng bắt đầu sinh trưởng, lớn lên và sinh sản theo

phương thức tự nhân đôi, làm vỡ nát các tế bào của các cơ quan nội tạng

ký chủ. Sau đó chúng phát triển và tạo nên thể phân lập cực đại gọi là

Megaloschizont với kích thước lên đến 400 µm và làm tắc nhiều mao

mạch của các cơ quan ký chủ. Để tiếp tục phát triển, trong mỗi

Megaloschizont hình thành nên 2 thể phân lập trung gian Merozoite,

chúng lớn lên và rời khỏi Megaloschizont, rời khỏi tế bào của cơ quan ký

chủ, chui vào các tế bào máu để ký sinh và quá trình phát triển được tiếp

tục lặp lại như hướng thứ nhất - kết thúc giai đoạn sinh sản vô tính trong

các tế bào nội mô ở các cơ quan nội tạng của gia cầm thụ cảm.

* Tính chuyên biệt của Leucocytozoon

Theo Johannes Kaufmann (1996), mỗi loài Leucocytozoon chỉ ký

sinh trong một hoặc một số ký chủ nhất định.

11

Sơ đồ minh họa vòng đời Leucocytozoon ở gà

1.3. Bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà

1.3.1. Những thiệt hại kinh tế do bệnh Leucocytozoon gây ra

Bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà không gây thành ổ dịch lớn nguy

hiểm, ít làm cho gà chết đột ngột và chết hàng loạt (trừ trường hợp đặc biệt).

Song, đơn bào này đã gây tác hại nghiêm trọng, làm cho sự sinh trưởng và

phát triển của gà bị ngừng trệ, cơ thể gầy còm, thiếu máu, khả năng tăng

trọng giảm, số lượng và chất lượng của thịt, trứng giảm, dẫn đến năng suất

chăn nuôi giảm thấp.

Olsen O. W. (1986), cho biết: ngoài gà (tỷ lệ nhiễm cao và mắc bệnh

nặng nhất), vịt nhiễm Leucocytozoon cũng thường bị bệnh ở thể nặng, các

triệu chứng lâm sàng thể hiện rõ rệt, tỷ lệ tử vong cao.

Shane S. M. (2005) cho rằng: Leucocytozoonosis thường gặp ở các

nước nhiệt đới, đặc biệt là ở những nơi mà các trang trại nằm gần ao, hồ.

Đàn gia cầm mắc bệnh giảm mạnh tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ chết cao có

thể lên đến 100% nếu không được chữa trị kịp thời.

Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2005): gà bị bệnh đơn bào đường máu

Leucocytozoon ở thể cấp tính có thể chết đột ngột do xuất huyết các nội

quan và thiếu máu cấp. Gà mái giảm đẻ hoặc ngừng đẻ, kém ăn, giảm tăng

trọng và gầy yếu nhanh. Gà mắc bệnh sẽ chết sau 3 - 6 ngày với tỷ lệ tới

trên 50% số gà bị bệnh.

1.3.2. Dịch tễ học bệnh Leucocytozoon ở gà

12

Lê Đức Quyết và cs (2009) cho biết: tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon phụ

thuộc vào rất nhiều yếu tố như: tuổi gia cầm, giống, địa hình, vùng sinh

thái, phương thức chăn nuôi...

Theo Lê Văn Năm (2011), bệnh do Leucocytozoon gây ra có tính

chu kỳ rõ rệt, phụ thuộc vào mùa sinh sản và phát triển của côn trùng

hút máu truyền bệnh.

Loài gây bệnh và động vật mắc bệnh

Trong tự nhiên, gà, gà rừng, chim trĩ và các loài chim thuộc bộ gà

(Galliformes) đều có thể bị bệnh. Bệnh từ gà nhà có thể truyền lây sang gà

rừng qua ký chủ trung gian và ngược lại.

Phạm Sỹ Lăng và cs (2005), (2010) cho rằng: có 4 loài đơn bào

giống Leucocytozoon chủ yếu ký sinh và gây bệnh cho gà:

* L. caulleryi (Mathis et Leger, 1909)

Loài này ký sinh và gây bệnh cho gà nhà, gà rừng ở các nước thuộc

Đông và Đông Á: Nhật Bản, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam, các bang

thuộc khu vực Bắc Mỹ.

Vật chủ trung gian của L. caulleryi là các loài dĩn thuộc giống

Culicoides như: C. arakava, C. circumscriptus, C. odibilis.

Lương Văn Huấn và Lê Hữu Khương (1997) cho biết, loài L.

caullergyi có đặc điểm: cơ thể đơn bào hơi tròn, kích thước 15,0 - 15,5

µm. Tế bào vật chủ cũng tròn, kích thước 20 µm. Ở trong cơ thể dĩn -

KCTG, Zygote có dạng tròn đường kính 14 µm, sau đó kéo dài, kích

thước 21 µm, chúng xuyên qua vách ruột tạo thành Oocyst hình gần tròn,

kích thước 4 - 14 x 5 - 14 µm. Oocyst phát triển thành thoi trùng

(Sporozoite). Các thoi trùng đến tuyến nước bọt của dĩn có kích thước 7 -

11 x 1 - 2 µm.

* L. sabrazeis (Mathis et Leger, 1910)

Loài này ký sinh và gây bệnh cho gà và chim hoang dã ở các nước

Đông Nam Á: Philippine, Thái Lan, Malaysia, Việt Nam.

13

Vật chủ trung gian của L. sabrazeis: các loài dĩn Culicoides spp. và Simulium

spp.

* L. simondi (Mathis et Leger, 1910)

L. simondi ký sinh và gây bệnh cho vịt nhà và vịt trời, ngỗng nhà và

ngỗng trời, các loài thuỷ cầm nuôi và hoang dã ở Mỹ, Canada, các nước

vùng Balkan và Việt Nam.

Vật chủ trung gian: các loài dĩn Simulium spp.

* L. smithi (Laveran et Lucet, 1905)

Loài này ký sinh ở gà tây tại các bang thuộc vùng Đông Mỹ (Bắc

Dakota, Nebraska), CHLB Đức, các nước vùng Balkan...

Vật chủ trung gian của L. smithi là các loài dĩn Simulium spp.

Mùa vụ: Gà mắc bệnh ở tất cả các mùa trong năm, nhưng nhiễm

nhiều và nặng hơn ở vụ Xuân và vụ Hè hàng năm.

Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs. (2009), bệnh do Leucocytozoon

gây ra thường xảy ra thành dịch tại một số khu vực vùng núi và trung du

thuộc các nước Đông Nam Á, nhất là vào mùa Hè và mùa Xuân, khi các

loài dĩn - ký chủ trung gian phát triển và hoạt động mạnh.

Lê Văn Năm (2011) cho rằng, bệnh do Leucocytozoon gây ra trên gia

cầm, đặc biệt là gà có tính chất mùa rõ rệt, liên quan chặt chẽ tới mùa phát

triển của dĩn – véc tơ truyền bệnh.

Phạm Sỹ Lăng và cs. (2011) cho biết: bệnh thường bùng phát vào các

tháng mùa Hè, đặc biệt là ở khu vực mà xung quanh trại chăn nuôi gà có

cây cỏ um tùm, nhiều ao, hồ, nước đọng; đồng thời không thực hiện sát

trùng chuồng trại và phun thuốc diệt dĩn.

Địa hình: Để xác định ảnh hưởng của địa hình đến tỷ lệ nhiễm

Leucocytozoon ở gia cầm, Rooyen J. V. và cs. (2013) đã xét nghiệm mẫu

máu của gia cầm tại một số địa phương ở miền tây Thụy Sĩ. Tác giả nhận

thấy, yếu tố địa hình có ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ nhiễm đơn bào

Leucocytozoon ở gia cầm. Theo tác giả, ở những địa hình khác nhau thì sự

phân bố của các loài dĩn - ký chủ trung gian truyền bệnh cũng khác nhau,

14

đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự khác nhau về tỷ lệ

nhiễm bệnh ở gia cầm.

Điều kiện vệ sinh thú y: Điều kiện vệ sinh thú y đối với chuồng trại

và khu vực xung quanh chuồng trại, dụng cụ và môi trường chăn nuôi là

một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn tới khả năng nhiễm bệnh

Leucocytozoon ở gà, bởi điều này có liên quan mật thiết tới sự tồn tại và

phát triển của các loài dĩn hút máu - ký chủ trung gian truyền bệnh.

Yếu tố stress: Các yếu tố strees như chuồng trại chật chội, ẩm thấp,

khí hậu nóng ẩm, thức ăn thiếu thốn, dinh dưỡng không đầy đủ và cân

đối... luôn đóng vai trò thúc đẩy quá trình lây lan bệnh Leucocytozoon ở

gà.

1.3.3. Cơ chế sinh bệnh của bệnh Leucocytozoon

Bệnh lây truyền từ gà bệnh sang gà khoẻ qua đường máu nhờ vật chủ

trung gian là các loài dĩn thuộc họ Culicoides spp. và Simulium spp.. Dĩn

hút máu của gà bệnh có đơn bào ký sinh trong máu. Vào cơ thể dĩn, đơn

bào phát triển qua 3 giai đoạn, cuối cùng thành bào tử nằm ở tuyến nước

bọt của dĩn. Khi dĩn mang mầm bệnh hút máu gà khoẻ, bào tử sẽ được

truyền cho gà khoẻ và gây bệnh cho gà.

Các bào tử xâm nhập vào các tế bào nội quan như: gan, lách, phổi,

thận, tổ chức cơ để trở thành bào tử (Schizont); các bào tử vào hồng cầu

phát triển thành tiểu thể (Merozoite), giao tử thể (Gametocyte), đại giao tử

(Marcrogametocyte) và tiểu giao tử (Mircrogametocyte). Chúng phát

triển, phá huỷ tế bào hồng cầu và gây hoại tử các cơ quan tổ chức, đặc biệt

là lách và gan. Đồng thời chúng tiết ra chất antierythrocyte làm tan hồng

cầu.

1.3.4. Triệu chứng và bệnh tích bệnh Leucocytozoon

* Triệu chứng bệnh Leucocytozoon

Orlov F. M. (1975) cho biết: gà tây thường mắc bệnh trước 12 tuần

tuổi. Gà bệnh bỏ ăn, suy yếu toàn thân, ít vận động, rối loạn vận động. Gà

15

tây bắt đầu chết từ 2 - 3 ngày sau khi xuất hiện những triệu chứng đầu tiên

(dẫn theo Nguyễn Thị Kim Lan (2012)).

Theo tài liệu của Viện Thú y Quốc gia (2001), (2002), những triệu

chứng chủ yếu của gà mắc bệnh do đơn bào Leucocytozoon gây ra là:

- Ho ra máu và chết đột ngột

- Thiếu máu, đặc biệt mào và tích do thiếu máu nên có màu tím tái

- Nhịp thở nhanh

- Phân có mầu xanh

- Giảm sản lượng trứng và trứng có vỏ mỏng (với gà mái đẻ)

- Xuất huyết da chân.

Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2009) cho biết: Bệnh thường xảy ra

thành dịch tại một số khu vực vùng núi và trung du thuộc các nước Đông Nam

Á, nhất là vào mùa hè và mùa xuân, khi mà các loài dĩn - ký chủ trung gian phát

triển và hoạt động mạnh.

Thời gian ủ bệnh từ 4 - 7 ngày.

Gà bệnh thể hiện các triệu chứng đặc trưng sau:

Thể cấp tính: gà ở lứa tuổi từ 1 - 3 tháng chết đột ngột do xuất huyết

các nội tạng, hồng cầu tan vỡ hàng loạt, gây bần huyết cấp tính; ỉa chảy

nặng, phân có màu xanh lá cây, thường có lẫn máu. Gà mái đang đẻ bị

bệnh sẽ giảm đẻ hoặc ngừng đẻ do đơn bào tác động vào cơ quan sinh sản.

Gà trưởng thành mắc bệnh sẽ giảm tăng trọng, gầy yếu nhanh, nhưng chết

ít hơn gà con. Gà ở lứa tuổi từ 1 - 3 tháng bị bệnh sẽ chết sau 3 - 6 ngày

với tỷ lệ cao.

* Bệnh tích bệnh Leucocytozoon

Mổ khám gà bệnh thấy: xuất huyết đỏ sẫm ở tất cả các phủ tạng (tim, lách,

phổi, thận) và tổ chức cơ. Đôi khi cũng có các điểm hoại tử trắng trên mặt gan

giống như bệnh tụ huyết trùng gia cầm. Ngoài ra, có thể thấy bệnh tích ở đường

tiêu hóa như: niêm mạc đường tiêu hoá bị tổn thương và xuất huyết.

Olsen O. W. (1986) cho biết, gà bị nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở

cường độ nặng, có các bệnh tích điển hình thì tỷ lệ tử vong cao. Các cơ

16

quan nội tạng ký chủ có số lượng đơn bào ký sinh khác nhau. Các đơn bào

ký sinh trong các cơ quan được bao bọc bởi một lớp do tế bào lympho và

bạch cầu đơn nhân lớn tạo nên thể Megaloschizont.

Lê Văn Năm (2011) cho biết: bệnh tích đại thể của bệnh do đơn bào

Leucocytozoon gây ra ở gà rất điển hình, được quan sát thấy trong nhiều

cơ quan nội tạng như: gan, lách, thận, tim, phổi, ruột non, não, buồng

trứng và ống dẫn trứng...Những biến đổi đại thể ở các cơ quan nội tạng

như sau:

Gan: sưng to, mềm nhũn và dễ vỡ, trên bề mặt gan thấy nhiều điểm

trắng. Đây là kết quả của các thể phân lập của Leucocytozoon ở gan tạo

nên, làm ròn, xốp và tắc nghẽn các mao mạch, dẫn đến xuất huyết tràn

lan, thậm chí vỡ mao mạch, dẫn đến vỡ gan, chảy máu vào xoang bụng.

Lách: sưng to, ròn, dễ vỡ, trên bề mặt lách có nhiều điểm xuất huyết

hoặc hoại tử.

Thận: sưng to, xuất huyết.

Buồng trứng và ống dẫn trứng: buồng trứng bị viêm, thoái hóa; ống

dẫn trứng sưng, dầy lên và có nhiều điểm xuất huyết.

Tim: tim to, cơ tim dầy lên nhưng trương lực cơ bị giảm, cơ trở nên mềm

nhão.

Phổi: sung huyết nặng.

Ruột non, dạ dày tuyến, dạ dày cơ: viêm tăng sinh, dầy lên, đôi khi

thấy các điểm hoại tử hoặc nốt loét.

Não: các đại hợp bào phát triển ở não gây tắc nghẽn các mao mạch,

dẫn đến bị phù nề, sung huyết và xuất huyết não.

1.3.5. Chẩn đoán bệnh Leucocytozoon

* Với gà còn sống

Nguyễn Xuân Bình và cs (2002) cho biết: hiện nay, có nhiều bệnh

mới ở gia cầm có triệu chứng lâm sàng và bệnh tích giống nhau, nhưng

nguyên nhân gây bệnh lại khác nhau, làm cho việc chẩn đoán lâm sàng và

điều trị bệnh dễ bị sai lầm, gây nên những tổn thất đáng kể cho chăn nuôi.

17

Do vậy, để chẩn đoán một cách chính xác bệnh có phải do ký sinh

trùng đường máu Leucocytozoon gây ra hay không, người ta thường sử

dụng kết hợp các phương pháp chẩn đoán để mang lại hiệu quả cao hơn.

Chẩn đoán lâm sàng: Gà lứa tuổi 1 - 3 tháng chết đột ngột, các

phủ tạng đều bị xuất huyết; ỉa chảy, phân xanh có lẫn máu làm cho gà

chết với tỷ lệ cao.

Chẩn đoán xét nghiệm: Lấy mẫu máu và phủ tạng, dàn tiêu bản,

nhuộm Giemsa và soi kính để tìm đơn bào gây bệnh.

Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) cho rằng: có thể sử dụng phương pháp

làm tiêu bản máu, dàn mỏng, nhuộm Giemsa, kiểm tra dưới kính hiển vi

tìm ký sinh trùng, và sử dụng phương pháp ngưng kết trên gel thạch để

phát hiện kháng thể kháng Leucocytozoon spp.

Lê Đức Quyết và cs (2009) cho biết: gần đây, các phương pháp huyết

thanh học cũng đã được áp dụng để chẩn đoán bệnh như phương pháp

Latex -agglutination, phương pháp khuyếch tán trên thạch.

Chẩn đoán phân biệt:

Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2009) cho biết: cần chẩn đoán phân biệt

với bệnh tụ huyết trùng gia cầm. Triệu chứng và bệnh tích của bệnh đơn

bào đường máu ở gia cầm cũng giống như bệnh tụ huyết trùng gia cầm.

Nhưng bệnh đơn bào đường máu chỉ làm chết gà ở lứa tuổi 1 - 3 tháng.

Tuy nhiên, bệnh tụ huyết trùng làm gà chết ở tất cả các lứa tuổi. Bệnh tụ

huyết trùng gia cầm điều trị bằng Streptomycin có hiệu quả nhưng bệnh

do đơn bào đường máu điều trị bằng Streptomycin lại không có hiệu quả.

Theo Lê Văn Năm (2011), cần chẩn đoán phân biệt bệnh do đơn bào

Leucocytozoon gây ra với bệnh Marek, bệnh bạch huyết (Leucosis), bệnh

sốt rét gà.

* Với gia cầm chết:

Phương pháp chẩn đoán sau khi gia cầm chết là phương pháp chính

xác nhất. Việc chẩn đoán được tiến hành qua phương pháp mổ khám,

18

kiểm tra bệnh tích kết hợp với việc lấy các cơ quan nội tạng như gan, lách,

phổi, thận để tìm đơn bào Leucocytozoon ký sinh.

1.3.6. Phòng trị bệnh Leucocytozoon cho gà

* Phòng bệnh

- Phát hiện sớm gà mắc bệnh và gà mang trùng để điều trị kịp thời,

tránh lây lan bệnh trong đàn gà.

- Gà chết không được mổ thịt mà phải xử lý như gà ốm chết do các

bệnh truyền nhiễm, sử dụng thuốc sát trùng khi xử lý.

- Định kỳ phun thuốc diệt côn trùng để diệt dĩn hút máu và truyền bệnh

cho gà. Có thể dùng Hantox-spray hoặc Iodin 1%, 2 - 3 tuần/ lần, đặc biệt là

vào mùa hè và mùa thu khi dĩn hoạt động mạnh để không làm ảnh hưởng

đến sức khỏe của đàn gà.

- Không nên xây chuồng ở những vùng gần đồng ruộng, vùng có ao

hồ hay vùng có diện tích mặt nước lớn, vì đây là môi trường thích hợp cho

ký chủ trung gian phát triển.

Chuồng trại nuôi gia cầm đủ tiêu chuẩn phải đảm bảo những yêu cầu như

sau:

- Phải chuẩn bị đầy đủ chuồng nuôi, rèm che, kho đựng thức ăn, bể

chứa nước, dụng cụ chăn nuôi, thuốc thú y, các phương tiện sưởi ấm, làm

mát...đảm bảo cho số lượng gà định nuôi.

- Chuồng nuôi, hệ thống cống rãnh, khu vực kho chứa thức ăn, dụng

cụ chăn nuôi phải được vệ sinh đảm bảo, sát trùng triệt để.

- Cây xanh, cỏ dại cách chuồng 10 - 15 mét phải được phát quang.

Các động vật cư trú truyền bệnh cho đàn gà như chuột, cáo, chồn, côn

trùng, chim tự nhiên... phải được tiêu diệt.

- Có phòng mổ khám, chẩn đoán bệnh và thiêu xác hoặc hố tự hoại

cách xa khu vực chăn nuôi và cuối hướng gió.

* Trị bệnh

Có thể sử dụng một trong các loại Sulfonamide sau để điều trị gà bệnh:

19

- Pyrimethamin: dùng liều 0,5 - 1 ppm/ kg thức ăn, cho gà ăn 2 tuần liên

tục.

- Sulfadimethoxin: dùng liều 50 – 75 mg/ kg thức ăn, cho gà ăn liên tục 1 - 2

tuần.

- Sulfaquinoxalin: dùng liều 50 mg/ kg thức ăn, cho gà ăn liên tục 1 - 2

tuần.

- Trimethoxin: dùng liều 1g/ 1kg thức ăn, cho gà ăn 3 - 5 ngày liên

tục.

- SU 99: dùng liều 1g/ 5 lít nước, điều trị 3 – 5 ngày

- Amoxcol-50: dùng liều 0,1g/ kg thể trọng, cho gà ăn liên tục 3 – 5

ngày.

Để nâng cao hiệu quả điều trị, dùng phối hợp thuốc Sulfamonomethoxine

với Vitamin B1, Vitamin C, giải độc gan, hạ sốt.

Để nâng cao hiệu quả điều trị, dùng phối hợp thuốc Sulfonamide với

Vitamin B1, Vitamin C.

Theo Lê Văn Năm (2011): Các loại thuốc có chứa các nguyên liệu

như: Sulfamonomethoxin, Salfadimethoxin, Clopidol đều có tác dụng

phòng trị tốt bệnh do Leucocytozoon gây ra. Tác giả cho biết thêm, hiện

nay bệnh ký sinh trùng đường máu thường bị bội nhiễm và ghép với nhiều

bệnh khác. Do đó, cần phải phối hợp các phác đồ điều trị thì mới có hiệu

quả điều trị cao.

1.3.7 Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước

1.3.7.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước

Theo Hoàng Thạch (2004), nếu nhiễm Leucocytozoon ở cường độ nhẹ

thì chưa thấy biến đổi gì ở các cơ quan nội tạng, nhưng nếu nhiễm vừa và

nặng (3 - 6 ký sinh trùng trên 1 vi trường) thì xuất hiện sự thoái hoá, biến

màu, thậm chí hoại tử từng đám nhỏ; nếu kéo dài thì tăng sinh, làm giảm

chức năng hoạt động hoặc bị phá hủy, rõ nhất là gan và lách.

20

Lâm Thị Thu Hương và cs (2005) cho biết: tần suất xuất hiện các

nang Leucocytozoon trên một số cơ quan phủ tạng của gà như sau: ở cơ là

96,22%, phổi là 92,45%, thận là 86,80%, gan là 81,13%.

Theo Lâm Thị Thu Hương và cs (2005), khi mổ khám và quan sát

bằng mắt thường, thấy trên cơ thể gà có những nốt mầu trắng đục hay vàng,

đỏ hoặc chuyển sang đen, có kích thước từ 0,2 - 0,5 mm, đôi khi lên đến

1mm. Những nốt này là bệnh tích do một giai đoạn phát triển của đơn bào

L. caulleryi gây ra. Đơn bào Leucocytozoon được phát hiện ở nhiều vị trí

trên cơ thể gà. Một gà có thể nhiễm Leucocytozoon cùng lúc trên 6 cơ quan

phủ tạng. Sự nhiễm Leucocytozoon thường gặp nhiều nhất ở các cơ quan như

phổi, gan, thận, mô cơ.

Theo Lê Đức Quyết và cs (2009): tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon phụ

thuộc vào rất nhiều yếu tố như: tuổi gia cầm, giống, địa hình, vùng sinh

thái, phương thức chăn nuôi… Kết quả nghiên cứu của tác giả về

Leucocytozoon ở gà tại một số tỉnh Nam Trung Bộ như sau:

Tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon chung là 13,29%, cụ thể ở Phú Yên tỷ lệ

nhiễm là 20%, Bình Định 9,54%, Khánh Hoà 12,04%.

Tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon cao ở vùng núi (27,34%) và thấp ở vùng

đồng bằng (12,46%).

Tỷ lệ lưu hành Leucocytozoon ở gà địa phương là 12,46%, cao hơn

nhiều so với gà ngoại (7,61%).

Tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon cao nhất là ở gà giai đoạn > 6 tuần tuổi

(15,6%), kế đến là ở độ tuổi 4 - 6 tuần (13,5%) và thấp nhất là ở độ tuổi

dưới 4 tuần (7,6%).

Bằng phương pháp nhuộm Giemsa và định loại đơn bào

Leucocytozoon ký sinh trên đàn gà ở một số tỉnh Nam Trung Bộ (căn cứ

vào hình thái, vị trí, màu sắc, kích thước của các giao tử Gametocyt ký

sinh trong máu gà), tác giả cũng đã xác định có 2 loài ký sinh trên đàn gà

là L. caullergyi và L. sabrazesi. Khi khảo sát tình hình nhiễm ký sinh

21

trùng đường máu trên gà thịt tại hai tỉnh Vĩnh Long và Sóc Trăng,

Nguyễn Hữu Hưng (2011) cho biết: đàn gà thịt nhiễm ký sinh trùng

đường máu với tỷ lệ khá cao (30,47%). Trong đó tỷ lệ nhiễm ở Vĩnh Long

là 32,38% và ở Sóc Trăng là 28,22%. Tác giả cũng cho biết gà Tam

Hoàng có tỷ lệ nhiễm cao hơn hai giống Newlohman và Brown AAA. Gà

nuôi nuôi theo kiểu chuồng hở tỷ lệ nhiễm cao hơn so với kiểu chuồng

kín.

Nguyễn Thị Kim Lan và Dương Thị Hồng Duyên (2011) cho biết: gà

bị bệnh Leucocytozoon có bệnh tích chủ yếu là: xuất huyết gan, lách, thận,

phổi, cơ; gan, thận và lách sưng to có thể gấp 2 – 3 lần so với bình

thường. Tỷ lệ cơ quan có Leucocytozoon ký sinh biến động từ 17,39% –

78,26%.

1.3.7.2. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước

Liên Xô (cũ), Nikitin N. K. và Artemenko M. N. (1927) đã kiểm tra

máu chim trời ở Ucrain và tìm thấy Leucocytozoon ở 7% số chim (dẫn

theo Orlov F. M, 1975.

Huchzermeyer F. W. và Sutherland B. (1978) lần đầu tiên đã phát

hiện được Leucocytozoon smithi ở phía Bắc Châu Phi, tác giả cho rằng

Simulium nigritarse là ký chủ trung gian của ký sinh trùng này.

Morii T. và cs (1984) đã thử nghiệm lây nhiễm những thoi trùng

Leucocytozoon được chiết từ tuyến nước bọt của dĩn, kết quả cho thấy:

các thoi trùng được phân lập vào ngày thứ 2 sau khi dĩn hút máu gia cầm

bệnh thì không gây nhiễm được cho gà. Các thoi trùng được phân lập vào

ngày thứ 3 thì có khả năng gây nhiễm cho gà.

Nakamura K. và cs (2001) đã nghiên cứu ảnh hưởng có hại của

Leucocytozoon đến khả năng sản xuất trứng của gà, thậm chí có thể làm gà

ngừng đẻ. Tác giả đã phát hiện thấy một số lượng lớn thể phân liệt thế hệ 2

trong buồng trứng và ống dẫn trứng của gà bệnh, gây phù và làm giảm áp

lực của các mô lân cận các mô có đơn bào ký sinh.

22

Steele E. J. và cs (2001) cho biết: sự phát triển của Leucocytozoon

smithi có những nét tương đồng với sự phát triển của các loài Plasmodium

và Haemoproteus trong ký chủ trung gian.

Peter Shurulinkov và Vassil Golemansky (2003) đã phát hiện có 6

loài Leucocytozoon trong máu của 9/ 17 loài chim được nghiên cứu.

Bằng phương pháp PCR để định loại đơn bào ký sinh ở gà, Hellgren O. và cs

(2004) đã tìm thấy 22 loài ký sinh trùng khác nhau, gồm 4 loài Haemoproteus, 8

loài Plasmodium và 10 loài Leucocytozoon trong 6 loài chim tước mà tác giả

nghiên cứu.

Sehgal R. N. và cs (2006) đã xét nghiệm máu của 148 gà ở làng Uganda

và Cameroon, xác định được tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon schoutedeni là

18,3%.

Hill A. G và cs (2010) sử dụng phương pháp PCR để kiểm tra 107

mẫu máu chim cánh cụt mắt vàng từ 4 khu vực khác nhau ở phía Nam đảo

Oamaru. Kết quả thấy, 83% số mẫu kiểm tra dương tính với

Leucocytozoon.

Cũng bằng phản ứng PCR, Imura T. và cs. (2012) đã kiểm tra máu

của 415 loài chim hoang dã ở vùng núi Chichibu, Nhật Bản. Kết quả

thấy, có 62 trong số 415 (chiếm tỷ lệ 14,9%) số loài chim rừng dương

tính với Leucocytozoon. Tác giả cũng thấy rằng, trong 62 loài chim này

có 2 loài nhiễm Leucocytozoon với tỷ lệ cao nhất, đó là loài Parus ater

(tỷ lệ nhiễm là 64,3 %) và loài Parus montanus (tỷ lệ nhiễm là 81,8 %).

Astudillo V. G. và cs. (2013) đã tiến hành kiểm tra 786 mẫu máu

chim sẻ tại 6 địa điểm thuộc hai lưu vực sông Georgia (Mỹ) trong giai

đoạn 2010 – 2011. Tác giả cho biết, có 4 loại ký sinh trùng đường máu ký

sinh ở gia cầm là Plasmodium, Leucocytozoon, Trypanosoma và

Haemoproteus. Ngoài ra, theo tác giả thì những loài chim tìm kiếm thức

ăn trên mặt đất thường nhiễm đơn bào Leucocytozoon cao, đặc biệt là loài

chim sẻ họng trắng.

23

Lei B. và cs. (2013) cho biết, có tới 59% trong tổng số chim ở Nam

Phi được xét nghiệm máu thấy bị nhiễm loài đơn bào L. toddi.

Kiểm tra 825 mẫu máu của một số loài gia cầm ở phía Tây Nam của

Iran, Dezfoulian O. và cs. (2013) cho biết: có 8,0% số gà; 4,3% số ngỗng;

3,6% số vịt kiểm tra thấy nhiễm đơn bào đường máu Leucocytozoon.

Hellgren O. và cs. (2013) cho biết, có 39% số chim tại Thụy Điển

kiểm tra máu vào mùa Xuân, mùa Hè và đầu mùa Thu nhiễm các loại ký

sinh trùng đường máu, trong đó có đơn bào Leucocytozoon.

Ở Nam Á, Synek P. và cs. (2013) cho biết: có 14 % trong tổng số

240 mẫu máu chim ở khu vực này kiểm tra dương tính với

Leucocytozoon. Tác giả cũng cho biết, các loài chim ở khu vực Nam Á

nhiễm 5 loài đơn bào thuộc giống Leucocytozoon.

Kiểm tra máu của chim cánh cụt mắt vàng trên hai đảo Campbell và

Enderby của New Zealand, kết quả được Argilla L. S. và cs. (2013) báo

cáo như sau: tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở chim cánh cụt mắt

vàng ở hai đảo biến động từ 11% đến 21%, trong đó tỷ lệ nhiễm ở đảo

Campbell là 21%, cao hơn 10 % so với đảo Enderby (11%).

Bằng cách kiểm tra tiêu bản máu trên kính hiển vi và sử dụng

phương pháp PCR, Ingrid A. Lotta và cs. (2013) đã phát hiện được hai

loài đơn bào thuộc giống Leucocytozoon ký sinh trong máu của một số

loài chim cư trú ở Colombia, đó là loài L. dubreuili và L. fringillinarum.

Nghiên cứu về tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon tại Vương Quốc

Anh, Dunn J. C. và cs. (2014) cho biết, tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon giảm

dần và thường nhiễm ở thể mạn tính trong mùa Đông, nhưng vào thời gian

cuối mùa Đông tỷ lệ nhiễm lại tăng dần. Theo tác giả, nguyên nhân có thể

là do trong thời gian này thức ăn khan hiếm, dẫn đến sức đề kháng của

con vật giảm sút và bệnh lại bùng phát trở lại.

Elahi R. và cs. (2014) cho biết: xét nghiệm 319 mẫu máu thủy cầm

ở Bangladesk, phát hiện có 0,6% số mẫu dương tính với đơn bào

24

Leucocytozoon. Tác giả cũng nhận thấy rằng, có sự khác nhau rõ rệt về

tỷ lệ nhiễm giữa các loài thủy cầm được xét nghiệm máu.

Phân tích 243 mẫu máu của 14 loài chim di cư tại miền Bắc Nhật

Bản bằng phương pháp PCR, Yoshimura A. và cs. (2014) đã xác định

được tỷ lệ nhiễm đơn bào đường máu Leucocytozoon. Tác giả cho biết,

có 7/14 loài chim dương tính với Leucocytozoon.

Dunn J. C. và cs. (2014) đã sử dụng phương pháp PCR để kiểm tra

các mẫu máu của gia cầm thu thập từ tháng 12 đến tháng 4 trong hai năm

liên tiếp tại Vương Quốc Anh, tác giả phát hiện được trên 50% số mẫu

máu xét nghiệm dương tính với Leucocytozoon.

Ramey A. M. và cs. (2014) cho biết, trong số 878 mẫu máu được thu

thập từ các loài chim ở Alaska (Mỹ), California (Mỹ) và Hokkaido (Nhật

Bản) đã phát hiện được 555 mẫu dương tính với Leucocytozoon, chiếm

63%.

Theo Imura T. và cs. (2014), L. caulleryi là một trong những loài ký

sinh trùng đường máu phổ biến ở gà và thường gây cho gà tử vong với tỷ

lệ cao. Phân tích bộ gen của L. caulleryi, tác giả đã xác định được trình tự

nucleotide của toàn bộ hệ gen của đơn bào này. Đây là báo cáo đầu tiên và

khá đầy đủ về trình tự nucleotide của đơn bào L. caulleryi.

Matta N. E. và cs. (2014) đã tìm thấy loài đơn bào L. quynzae trong

máu của các loài chim tại Vườn quốc gia tự nhiên ở Colombia thuộc khu

vực Nam Mỹ. L. quynzae là loài Leucocytozoon lần đầu tiên được phát

hiện ở chim Nam Mỹ. Tác giả còn cho biết, tỷ lệ nhiễm L. quynzae ở chim

phụ thuộc vào vai trò và mật độ của dĩn Gigantodax spp. - những loài dĩn

được coi là véc tơ truyền bệnh Leucocytozoon cho các loài chim tại khu

vực này.

Sử dụng kỹ thuật sinh học phân tử, Lutz H. L. và cs. (2015) đã kiểm

tra mẫu máu của 201 cá thể chim ở miền Bắc Malawi, kết quả cho thấy:

có 79,10% số mẫu máu kiểm tra dương tính với đơn bào Leucocytozoon.

25

Ngoài ra, tác giả nhận thấy, môi trường sống có liên quan mật thiết đến tỷ

lệ nhiễm đơn bào này ở chim.

Bằng kỹ thuật PCR định lượng khuếch đại ADN của Leucocytozoon,

Smith M. M. và cs. (2015) đã xác định được: có 91% trong số 105 mẫu

máu thủy cầm thu thập ở Alaska vào cuối mùa Hè và mùa Thu dương tính

với đơn bào Leucocytozoon. Từ kết quả xét nghiệm tác giả cũng nhận thấy

rằng phương pháp này có độ đặc hiệu là 100% trong việc phát hiện ADN

Leucocytozoon trong mẫu máu vật chủ.

Theo Von Rönn J. A. và cs. (2015), các loài chim di cư đóng vai trò

quan trọng trong việc phát tán đơn bào Leucocytozoon giữa các nước

thuộc khu vực châu Âu.

Khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa ký chủ cuối cùng và ký chủ

trung gian truyền bệnh Leucocytozoon cho gia cầm, Lotta I. A. và cs.

(2015) cho rằng: bệnh do đơn bào Leucocytozoon xảy ra chủ yếu ở vùng

núi của các nước thuộc khu vực nhiệt đới, nơi có sự đa dạng về loài và số

lượng ký chủ trung gian truyền bệnh.

Kiểm tra tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon trong máu của 125 gà tại vùng

Baku, Azerbaijan, Ahmadov E.I. và cs (2019) cho biết có 12,8% số gà bị

nhiễm bệnh.

26

Chương 2

ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN

CỨU

2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu

- Gà nuôi thả vườn tại huyện Cao Lộc và huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng

Sơn.

- Bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà.

2.1.2. Địa điểm nghiên cứu

2.1.2.1. Địa điểm triển khai

Đề tài được thực hiện ở các nông hộ, các trại chăn nuôi gà gia đình

và tập thể với các quy mô khác nhau ở 10 xã, thị trấn của hai huyện Cao

Lộc và Hữu Lũng thuộc tỉnh Lạng Sơn.

2.1.2.2. Địa điểm xét nghiệm mẫu:

+ Phòng thí nghiệm Khoa Chăn nuôi Thú y - Trường Đại học Nông

Lâm Thái Nguyên.

+ Phòng Vi sinh vật - Chi cục Kiểm dịch động vật vùng Lạng Sơn.

+ Bệnh viện Đa khoa Trung ương - Thái Nguyên

* Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1 năm 2019 đến tháng 8 năm

2020.

2.2. Vật liệu nghiên cứu

* Vật liệu nghiên cứu

- Mẫu máu gà (để xét nghiệm đơn bào Leucocytozoon và các chỉ

số huyết học).

- Gà chết và gà bị bệnh do đơn bào Leucocytozoon (để mổ khám

bệnh tích, xác định cơ quan có đơn bào ký sinh và thu thập bệnh phẩm).

- Các cơ quan có bệnh tích điển hình của bệnh Leucocytozoon (để

làm tiêu bản vi thể).

27

- Gà bệnh để thử nghiệm hiệu quả điều trị của hai phác đồ điều trị

bệnh

- Hoá chất và thuốc : Thuốc nhuộm giemsa, nước cất, dầu bạch

dương, cồn methanol, dung dịch EDTA 1%, thuốc điều trị Leucocytozoon,

thuốc phun diệt dĩn,...

- Dụng cụ thí nghiệm : Lamen và lam kính, xi lanh, kim tiêm, kính

hiển vi quang học, pipet, pince kẹp, đũa thủy tinh, giấy lọc,...

2.3. Nội dung nghiên cứu

2.3.1. Thành phần loài đơn bào Leucocytozoon gây bệnh ở gà tại Lạng Sơn

- Thành phần loài đơn bào Leucocytozoon gây bệnh ở gà tại Lạng

Sơn

2.3.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà tại Lạng Sơn

* Tình hình nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tại hai huyện thuộc

tỉnh Lạng Sơn

- Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà tại các địa phương

- Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo mùa vụ

- Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon theo tuổi gà

- Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon theo điều kiện vệ sinh thú y

* Nghiên cứu đặc điểm hoạt động của các loài dĩn – véc tơ truyền bệnh

Leucocytozoon cho gà

- Quy luật hoạt động của các loài dĩn theo tháng trong năm

- Quy luật hoạt động của các loài dĩn theo giờ trong ngày

2.3.3. Nghiên cứu bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà tại Lạng Sơn

- Triệu chứng của gà mắc bệnh đơn bào Leucocytozoon

- Một số chỉ số máu của gà mắc bệnh Leucocytozoon so với gà khỏe

cùng tuổi

- Bệnh tích đại thể do đơn bào Leucocytozoon gây ra ở gà

- Bệnh tích vi thể do đơn bào Leucocytozoon gây ra ở gà và tỷ lệ tiêu

bản có bệnh tích vi thể

28

2.3.4. Nghiên cứu biện pháp trị bệnh

Xác định hiệu lực và độ an toàn của 2 phác đồ điều trị bệnh

Leucocytozoon cho gà

2.4. Bố trí thí nghiệm và phương pháp nghiên cứu

2.4.1. Phương pháp bố trí theo dõi xác định loài Leucocytozoon ký sinh ở gà

tại Lạng Sơn

Các tiêu bản máu sau khi xét nghiệm thấy có đơn bào đường máu ký

sinh, chúng tôi tiến hành phân loại theo căn cứ vào hình thái của các loại

đơn bào đã phát hiện được theo khóa định loại của Levine N. D. (1985);

Martinsen E. S. và cs (2008).

2.4.2. Bố trí lấy mẫu và phương pháp xác định tỷ lệ, cường độ nhiễm

Leucocytozoon ở gà

2.4.2.1. Bố trí thu thập mẫu

Bố trí lấy mẫu máu gà theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên, mẫu

chùm 3 bậc. (Nguyễn Như Thanh (2001)).

Chọn 2 huyện, mỗi huyện chọn 5 xã, mỗi xã chọn 5 thôn, mỗi xã lấy

50 mẫu ngẫu nhiên ở các thôn.

Mỗi gà làm 3 tiêu bản máu.

2.4.2.2. Phương pháp xác định tỷ lệ và cường độ nhiễm Lecocytozoon ở

gà tại các địa phương

* Phương pháp thu thập mẫu

Mẫu máu được thu thập ngẫu nhiên từ gà nuôi thả vườn tại các nông hộ,

các trại chăn nuôi gà ở các địa phương của huyện Cao Lộc và Huyện Hữu

Lũng, tỉnh Lạng Sơn.

Chuẩn bị những phiến kính mới đã được tẩy mỡ bằng cách ngâm và rửa

xà phòng, sau đó ngâm trong cồn 960 trong 3 giờ rồi lau khô bằng khăn mềm

không có xơ. Đồng thời, chọn những lamen kích thước 2 x 2 cm, rìa thật

phẳng và nhẵn.

29

Trước khi lấy mẫu máu xét nghiệm, quan sát kỹ các biểu hiện lâm

sàng của gà. Dùng kim lấy 1 giọt máu tươi của gà tại tĩnh mạch cánh, đặt

lên phiến kính, cách bờ phiến kính khoảng 1 cm. Đặt cạnh của một lamen

lên giọt máu, nghiêng 450 với phiến kính. Khi giọt máu đã tràn ra khắp

cạnh của lamen thì đẩy lamen về phía trước, làm cho máu được dàn thành

một lớp mỏng và đều trên phiến kính. Cố định tiêu bản bằng cồn

methanol. Làm 3 tiêu bản máu/ gà. Tiêu bản được ghi số thứ tự bằng bút

chì mỡ. Ghi nhật ký thí nghiệm các thông tin: chủ hộ, địa chỉ, ngày lấy

mẫu, tuổi gà, phương thức chăn nuôi, trạng thái và màu sắc phân, điều

kiện vệ sinh thú y, các biểu hiện lâm sàng (nếu có).

* Chuẩn bị thuốc nhuộm giemsa cơ bản

Dung dịch giemsa cơ bản bao gồm:

- Giemsa bột: 3,8 gam

- Cồn etylic tuyệt đối: 375 ml

- Glycerin: 125 ml

Dùng đũa thủy tinh khuấy kỹ rồi để vào tủ ấm 37oC với thời gian 48 h,

sau đó lọc qua giấy lọc, bỏ cặn và bảo quản trong lọ thủy tinh màu trung

tính, có nút kín.

* Phương pháp nhuộm giemsa

Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2008) cho biết: Nhuộm tiêu bản máu

bằng thuốc nhuộm giemsa gồm 3 bước như sau:

- Bước 1: Pha thuốc nhuộm giemsa

+ Giemsa cơ bản: 1 phần

+ Nước cất trung tính (pH = 7,2): 9 phần

Nước cất để sẵn trong 1 cốc nhỏ có mỏ (100 ml), lấy dung dịch giemsa cơ

bản bằng 1 pipet, nhỏ chậm giemsa vào cốc nước, không được lắc cốc.

- Bước 2: Đổ chậm dung dịch nhuộm vào hộp nhuộm cho ngập các

tiêu bản, đậy nắp hộp nhuộm để tránh bụi

Thời gian nhuộm 45 - 50 phút

30

- Bước 3: lấy tiêu bản

Dùng 1 pince kẹp, cặp lần lượt từng tiêu bản và để nghiêng dưới vòi nước

cất chảy nhẹ (pH = 7,2) cho trôi hết thuốc nhuộm dư thừa. Sau đó dựng

nghiêng tiêu bản vào cạnh 1 cái hộp, để khô tự nhiên.

* Phương pháp kiểm tra tìm Leucocytozoon trên tiêu bản máu nhuộm

giemsa

Nhỏ 1 giọt dầu bạch dương lên tiêu bản, kiểm tra tiêu bản dưới kính

hiển vi vật kính dầu, độ phóng đại 10 x 90 hoặc 10 x 100 để tìm

Leucocytozoon.

Những mẫu máu tìm thấy đơn bào Leucocytozoon được xác định là

có nhiễm, ngược lại là không nhiễm.

Cường độ nhiễm được xác định bằng tỷ lệ % số hồng cầu có đơn bào

ký sinh và quy định các mức cường độ nhiễm: nhẹ, trung bình và nặng.

Nhiễm mức độ nhẹ: ≤ 5% số hồng cầu có đơn bào ký sinh, đồng thời

gà không có biểu hiện lâm sàng.

Nhiễm mức độ trung bình: > 5% - 10% số hồng cầu có đơn bào ký

sinh, đồng thời gà có một số triệu chứng lâm sàng nhưng chưa rõ rệt.

Nhiễm mức độ nặng: > 10% số hồng cầu có đơn bào ký sinh, đồng

thời gà có triệu chứng lâm sàng rõ rệt.

2.4.2.3. Quy định một số yếu tố dịch tễ liên quan đến tình hình nhiễm đơn

bào Leucocytzoon ở gà

* Mùa: Thu thập 500 mẫu máu gà tại các địa phương theo các mùa

trong năm, số lượng mẫu thu thập theo từng mùa như sau:

- Mùa Xuân (từ tháng 2 đến tháng 4)

- Mùa Hè (từ tháng 5 đến tháng 7)

- Mùa Thu (từ tháng 8 đến tháng 10)

- Mùa Đông (từ tháng 11 đến tháng 01 năm sau)

* Lứa tuổi gà: Thu thập 500 mẫu máu gà tại các địa phương theo 4

lứa tuổi, số lượng mẫu máu gà thu thập theo từng lứa tuổi như sau:

31

≤ 2 tháng tuổi

> 2 – 4 tháng tuổi

> 4 – 6 tháng tuổi

> 6 tháng tuổi

* Tình trạng vệ sinh thú y: Thu thập mẫu máu gà tại các địa phương

theo các tình trạng VSTY như sau:

- VSTY tốt: chuồng trại cao ráo, thoáng mát, sạch sẽ, thường xuyên quyét

dọn chuồng nuôi, khu vực xung quanh chuồng nuôi và bãi chăn thả, định kỳ

phun thuốc khử trùng, thuốc diệt muỗi, dĩn, tiêu độc chuồng trại, dụng cụ chăn

nuôi, phát quang cây cỏ, khơi thông cống rãnh.

- VSTY trung bình: không thường xuyên quét dọn chuồng nuôi, khu vực

xung quanh chuồng nuôi, bãi chăn thả còn có những vũng nước đọng, thỉnh

thoảng phun thuốc diệt muỗi, dĩn; không thường xuyên tiêu độc chuồng trại,

dụng cụ chăn nuôi và phát quang cây cỏ, không thường xuyên khơi thông cống

rãnh ở gần khu vực chăn nuôi.

- VSTY kém: Chuồng nuôi, khu vực xung quanh chuồng nuôi và bãi chăn

thả ẩm thấp, có nhiều vũng nước đọng, có nhiều bụi cây rậm rạp, không tiêu độc

chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi, không khơi thông cống rãnh.

2.4.3. Phương pháp xác định quy luật hoạt động của dĩn – véc tơ truyền bệnh

Leucocytozoon cho gà

* Phương pháp xác định quy luật hoạt động theo các tháng trong

năm

Theo dõi sự xuất hiện và hoạt động của dĩn để xác định quy luật hoạt

động của dĩn ở tất cả các tháng trong năm, từ đó xác định được tháng dĩn

bắt đầu hoạt động, những tháng dĩn hoạt động mạnh và những tháng dĩn

ngừng hoạt động. Kết quả này sẽ là cơ sở khoa học khuyến cáo người

chăn nuôi có biện pháp diệt dĩn – véc tơ truyền Leucocytozoon cho gà phù

hợp, hạn chế tác hại do bệnh Leucocytozoon gây ra ở gà.

32

Những tháng dĩn hoạt động nhiều được kí hiệu (+++), tháng dĩn hoạt

động bình thường thì ký hiệu (++), tháng dĩn hoạt động ít thì ký hiệu (+),

dĩn ngừng hoạt động ký hiệu (-).

* Phương pháp xác định quy luật hoạt động theo giờ trong ngày

Qua theo dõi, chúng tôi thấy dĩn hoạt động nhiều vào thời gian từ tháng

4 đến tháng 9 hàng năm. Do vậy, chúng tôi tiến hành theo dõi sự hoạt động

theo giờ trong ngày của dĩn ở các tháng này. Thời gian trong ngày chia theo

các khoảng như sau: từ 6 – 8 h, 8 – 11 h, 11 – 13 h, 13 – 16 h, 16 – 18 h.

Những khoảng thời gian trong ngày dĩn hoạt động nhiều được kí hiệu

(+++), hoạt động bình thường thì ký hiệu (++), hoạt động ít ký hiệu (+),

ngừng hoạt động ký hiệu (-).

2.4.4. Phương pháp bố trí theo dõi và xác định đặc điểm bệnh lý, lâm sàng

bệnh Leucocytozoon ở gà

2.4.4.1. Phương pháp xác định những biến đổi lâm sàng của gà

Theo dõi tất cả những gà có kết quả kiểm tra tiêu bản máu dương tính

với đơn bào Leucocytozoon.

Xác định những biến đổi lâm sàng của gà bệnh bằng cách trực tiếp

quan sát: mào, tích, thể trạng, phân, ăn uống, vận động... kết hợp với hỏi

chủ hộ nuôi gà.

2.4.4.2. Bố trí lấy mẫu và phương pháp xét nghiệm một số chỉ số máu của

gà khỏe và gà bị bệnh

* Bố trí lấy mẫu xét nghiệm

Dự kiến xét nghiệm lấy mẫu máu của 10 gà khỏe và 10 gà bị bệnh

đơn bào Leucocytozoon.

Lấy máu gà ở tĩnh mạch cánh (2 ml/ con) vào ống nghiệm có tráng

dung dịch EDTA 1% để chống đông máu.

* Phương pháp xét nghiệm một số chỉ số máu của gà khỏe và gà bị

bệnh Leucocytozoon:

33

- Số lượng hồng cầu, số lượng bạch cầu, số lượng tiểu cầu, hàm

lượng huyết sắc tố và công thức bạch cầu được xác định trên máy Cellta -

Mek - 6420k - Nihon Kohden (Nhật Bản).

- Thời gian đông máu được xác định bằng phương pháp sau: chuẩn

bị một lam kính khô, sạch, không mỡ, nhỏ lên lam kính một giọt máu tươi

và ghi lại thời gian. Sau đó, cứ 30 giây lấy đầu kim vạch lên giọt máu, nếu

giọt máu xuất hiện sợi tơ nhỏ thì từ khi nhỏ giọt máu lên phiến kính cho

đến thời điểm đó được tính là thời điểm đông máu (Chu Đức Thắng và

cs., 2008).

2.4.4.3. Phương pháp xác định những tổn thương ở phủ tạng và cơ của

gà, tỷ lệ cơ quan nội tạng có đơn bào Leucocytozoon ký sinh

* Phương pháp bố thí theo dõi

Theo dõi trên những gà có triệu chứng của bệnh và khi xét nghiệm máu

thấy có Leucocytozoon trong máu ở cường độ nặng.

*Phương pháp xác định bệnh tích đại thể

Mổ khám gà theo hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông

thôn (2016), để xác định những biến đổi đại thể ở các phủ tạng và cơ do

đơn bào Leucocytozoon gây ra.

Quan sát bằng mắt thường và kính lúp cơ và các nội quan như thận, lách,

tim, phổi, ruột... Ghi lại những tổn thương quan sát được của gà mổ khám.

Chụp ảnh vùng có bệnh tích điển hình.

* Phương pháp xác định bệnh tích vi thể

Nghiên cứu biến đổi bệnh lý vi thể bằng phương pháp làm tiêu bản tổ

chức học theo quy trình tẩm đúc parafin, nhuộm Hematoxilin - Eosin, đọc

kết quả dưới kính hiển vi quang học và chụp ảnh bằng máy ảnh kỹ thuật

số các hình ảnh dưới kính hiển vi, gồm các bước sau:

Bước 1: Lấy mẫu bệnh phẩm

Bước 2: Cố định bệnh phẩm bằng dung dịch formol 10%

Bước 3: Tẩy nước làm trong

Bước 4: Tẩm parafin

34

Bước 5: Đúc Block

Bước 6: Cắt và dán mảnh

Bước 7: Nhuộm tiêu bản

Bước 8: Dán nhãn và đọc kết quả dưới kính hiển vi quang học, độ

phóng đại từ 200 - 400 lần

* Phương pháp xác định tỷ lệ cơ quan nội tạng của gà có đơn bào ký

sinh

Xác định tỷ lệ cơ quan nội tạng có đơn bào ký sinh bằng phương

pháp làm tiêu bản tổ chức học và đọc kết quả dưới kính hiển vi quang học

(Jones T. C. và Gleiser C. A. (1954)).

2.4.5. Phương pháp đánh giá hiệu lực và độ an toàn của 02 phác đồ điều trị

bệnh Leucocytozoon cho gà

* Bố trí thí nghiệm

Bố trí thí nghiệm sử dụng 2 phác đồ điều trị cho những gà có kết quả

xét nghiệm máu là nhiễm Leucocytozoon theo sơ đồ sau:

Diễn giải

Lô 1

Lô 2

Số gà

thí

30

30

nghiệm

- Trimethoxin wsp

- SU 99 (1g/ 5 lít nước)

(1g/ 1,5 lít nước)

- TOP-PHOSRETIC

- TOP-PHOSRETIC

Phác đồ sử

(Giải độc gan) (1g/1 lít nước)

(Giải độc gan) (1g/1 lít nước)

dụng và liều

- TOP-C 20%

- TOP-C 20%

lượng

(1g/ 2 lít nước)

(1g/ 2 lít nước)

- Vitamino (1ml/ 2 lít nước)

- Vitamino (1ml/ 2 lít nước)

- Paradol K + C (hạ sốt) (1g/ 2 lít

- Paradol K + C (hạ sốt) (1g/ 2 lít

nước)

nước)

Liệu

trình

10

10

(ngày)

* Thành phần thuốc có trong các phác đồ điều trị như sau:

- Trimethoxin: Sulfamonomethoxine Sodium 50g

35

Trimethoprim 10g

Tá dược vừa đủ 100g

- SU 99: Sulfamonomethoxine Sodium 99g

Tá dược vừa đủ 100gam

- TOP-PHOSRETIC (Giải độc gan): Vitamin A (min) 500.000 UI

Vitamin K3 (min) 500mg

- TOP-C 20%: Vitamin C (min) 200.000 mg

Độ ẩm (max) 10%

Tá dược vừa đủ 1kg

- Vitamino: Vitamin E (min) 4.000 IU

Methionine (min) 10.000 mg

- Paradol K + C (hạ sốt): Paracetamol 20g

Vitamin C 10g

Tá dược vừa đủ 100g

* Phương pháp xác định hiệu lực và độ an toàn của phác đồ điều trị

Sử dụng 2 phác đồ điều trị cho những gà bị bệnh Leucocytozoon. Sau

khi cho gà uống thuốc, hàng ngày lấy máu xét nghiệm bằng phương pháp

dàn tiêu bản máu, nhuộm Giemsa, kiểm tra dưới kính hiển vi để xác định

hiệu quả của từng phác đồ điều trị. Tiếp tục theo dõi như vậy đến ngày

thứ 10 sau dùng thuốc, nếu không tìm thấy đơn bào Leucocytozoon trong

máu thì đánh giá thuốc có hiệu lực triệt để đối với Leucocytozoon, nếu

vẫn tìm thấy Leucocytozoon trong máu nhưng với số lượng giảm rõ rệt thì

đánh giá thuốc có hiệu lực với Leucocytozoon nhưng chưa triệt để. Nếu số

lượng Leucocytozoon trong máu không giảm hoặc giảm không đáng kể so

với trước khi dùng thuốc thì đánh giá thuốc không có hiệu lực với

Leucocytozoon.

Theo dõi gà sau dùng thuốc về các chỉ tiêu: ăn uống, vận động, màu

sắc mào yếm, và các phản ứng khác để xác định thuốc có an toàn hay

không.

2.5. Phương pháp xử lý số liệu

36

Số liệu thu thập được xử lý theo phương pháp thống kê sinh học

(Nguyễn Văn Thiện, 2008) và trên phần mềm Minitab 14.0.

37

Chương 3

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. Thành phần loài đơn bào Leucocytozoon gây bệnh ở gà tại Lạng

Sơn

Để xác định loài đơn bào Leucocytozoon gây bệnh cho gà thả vườn

tại huyện Hữu Lũng và huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, chúng tôi đã làm

tiêu bản máu, nhuộm Giemsa, đọc kết quả dưới kính hiển vi. Căn cứ theo

mô tả của Levine N. D. (1985); Martinsen E. S. và cs (2008) về hình thái của

các loài đơn bào, chúng tôi đã xác định được 01 loài đơn bào ký sinh và gây

bệnh cho gà tại 2 huyện của tỉnh Lạng Sơn. Kết quả được trình bày ở bảng

3.1

Bảng 3.1. Thành phần loài Leucocytozoon gây bệnh ở gà tại Lạng Sơn

Loài Leucocytozoon Số

loài Địa phương

phát (huyện) Loài khác L. caulleryi

hiện

Huyện Cao Lộc + - 1

Huyện Hữu Lũng + - 1

Tần suất xuất hiện 100 0 1 (%)

Bảng 3.1 cho thấy:

Đã định danh được 01 loài đơn bào thuộc giống Leucocytozoon gây

bệnh cho gà tại huyện Cao Lộc và huyện Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn, đó là

loài L. caulleryi. Loài L. caulleryi phân bố rộng rãi và phổ biến, xuất hiện

ở tất cả các địa phương nghiên cứu. Trong các mẫu định loài tại hai địa

phương này không thấy xuất hiện các loài Leucocytozoon khác.

38

Loài đơn bào thấy ở huyện Hữu Lũng và huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng

Sơn có vị trí phân loại như sau:

Loài Leucocytozoon caulleryi (Mathis et Leger, 1909) thuộc giống

Leucocytozoon (Sambon, 1908), họ Leucocytozoidae (Doflein, 1916), bộ

Haemosporoda (Jacques Euzéby, 1988), lớp Aconoidasida (Mehlhorn,

1980), ngành Apicomplexa (Levine, 1970).

Loài L. caulleryi: Đơn bào có dạng hình cầu, khi ký sinh trong tế bào

hồng cầu của gà, đơn bào này luôn làm cho nhân hồng cầu lệch sang một

bên và hồng cầu của gà có hình gần tròn.

Hình thái của loài đơn bào mà chúng tôi phát hiện được trên gà ở Lạng Sơn

hoàn toàn phù hợp với mô tả của Levine N. D. (1985); Martinsen E. S. và cs

(2008).

Khi tiến hành định danh loài đơn bào ký sinh và gây bệnh cho gà tại

tại tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, Wenting Zhao và cs. (2015) đã kiểm tra

hình thái của đơn bào Leucocytozoon trên tiêu bản máu thu thập ở gà, thấy

có hai loài đơn bào là L. sabrazesi và L. caulleryi. Theo tác giả, loài L.

caulleryi có hình tròn. Khi định danh loài đơn bào Leucocytozoon tại tỉnh

Lạng Sơn, chúng tôi cũng thấy loài đơn bào trên có hình thái phù hợp với

mô tả của Wenting Zhao và cs. (2015).

Theo Phạm Sỹ Lăng (2010): Ở Việt Nam có 4 loài Leucocytozoon ký

sinh và gây bệnh chủ yếu cho đàn gà là L. caulleryi, L. sabrazesi, L.

simondi và L. smithi. Kết quả nghiên cứu trên những mẫu máu gà thu thập

tại 2 huyện thuộc tỉnh Lạng Sơn chỉ thấy xuất hiện 1 loài đơn bào ký sinh

và gây bệnh cho gà là L. caulleryi.

Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2012), ngoài ký sinh trong hồng cầu,

đôi khi còn thấy đơn bào Leucocytozoon ký sinh trong bạch cầu của

gà. Tuy nhiên, trên những tiêu bản máu gà kiểm tra tại các địa phương

của tỉnh Lạng Sơn, chúng tôi chỉ phát hiện thấy đơn bào

Leucocytozoon ký sinh trong hồng cầu, không thấy tiêu bản nào có

đơn bào Leucocytozoon ký sinh trong bạch cầu.

39

3.2. Một số đặc điểm dịch tễ bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà tại

Lạng Sơn

3.2.1. Tình hình nhiễm đơn bào đường máu Leucocytozoon ở gà

3.2.1.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo địa phương

Để đánh giá được tỷ lệ và cường độ nhiễm đơn bào Leucocytozoon

theo địa phương, chúng tôi đã tiến hành thu thập và xét nghiệm 500 mẫu

máu gà ở 10 xã, thị trấn thuộc hai huyện Cao Lộc và huyện Hữu Lũng.

Kết quả được trình bày ở bảng 3.2 và hình 3.1, 3.2, 3.3, 3.4.

Bảng 3.2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo địa

phương

Số

Cường độ nhiễm

Tỷ

Số gà

(% số hồng cầu có đơn bào)

Địa

lệ

xét

nhi

≤ 5

> 5 - 10

> 10

phư

nhi

nghiệm

ễm

n

%

n

%

n

%

ơng

ễm

(con)

(co

(%)

n)

* H.

2

51

20,

2

50,

1

35,

7

13,

Cao

5

40

6

98

8

29

73

Lộc

0

TT.

6

12,

3

50,

3

50,

0

0,0

Đồn

00

00

00

0

g

5

Đăng

0

5

12

24,

6

50,

4

33,

2

16,

Công

0

00

00

33

67

Sơn

5

8

16,

5

62,

2

25,

1

12,

Phú

0

00

50

00

50

5

11

22,

5

45,

4

36,

2

18,

Hồn

0

00

45

36

18

g

Phon

g

14

5

7

50,

28,

5

35,

2

14,

Bảo

0

00

00

71

29

Lâm

40

* H.

41

2

56,

16,

1

29,

6

14,

Hữu

2

3

10

40

2

27

63

Lũn

5

g

0

TT.

4

3

75,

8,0

1

25,

0

0,0

Hữu

5

00

0

00

0

Lũng

0

7

4

57,

14,

2

28,

1

14,

Đồn

14

00

57

29

g

5

Tân

0

11

5

45,

22,

4

36,

2

18,

Thiệ

45

00

36

18

n

5

Tân

0

10

5

50,

20,

3

30,

2

20,

Yên

5

00

00

00

00

Bình

0

9

6

66,

18,

2

22,

1

11,

Vân

67

00

22

11

Nha

5

m

0

Tính

92

5

4

53,

18,

3

32,

1

14,

chun

0

9

26

40

0

61

3

13

41

g

0

Qua điều tra cho thấy: gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon đều xuất

hiện ở các địa phương nghiên cứu. Tuy nhiên tỷ lệ và cường độ nhiễm của

gà tại các địa phương lại không giống nhau. Nguyên nhân là do hai huyện

được nghiên cứu phân bố trên địa hình tương đối phức tạp, các vùng có

núi đồi cao thấp xen kẽ lẫn nhau, có vùng tương đối bằng phẳng. Đặc

điểm địa hình này dẫn đến sự khác nhau về khí hậu giữa các vùng.

Cụ thể như sau:

- Huyện Cao Lộc nằm ở phía Đông Bắc và huyện Hữu Lũng là huyện

miền núi nằm ở phía Nam của tỉnh Lạng Sơn. Hệ thống núi cao và đồi

thấp cùng với hệ thống sông ngòi dày đặc xen kẽ, phân bố trải dài trên

khu vực địa bàn tỉnh dẫn đến thời tiết khí hậu phân hóa rõ rệt.

- Lượng mưa trung bình năm của huyện Cao Lộc tương đối thấp đạt

1.320mm, 70% lượng mưa từ tháng 5 đến tháng 9, nhiều xã mùa khô thiếu

nước như Thuỵ Hùng, Phú Xá, Hồng Phong, Lộc Yên. Tốc độ gió trung

bình năm là 2,0 m/s, mùa đông có gió mùa Đông Bắc, hiện tượng sương

muối xảy ra ảnh hưởng mạnh đến sản xuất nông nghiệp.

- Hữu Lũng chịu sự ảnh hưởng của khí hậu vùng núi phía Bắc, khô

lạnh và ít mưa về mùa Đông, nóng ẩm, mưa nhiều về mùa hè. Lượng mưa

trung bình năm là 1.488,2mm với 135 ngày mưa trong năm và phân bố từ

13 - 17 ngày/tháng, tăng dần từ tháng 5 đến tháng 8. Mùa mưa kéo dài từ

tháng 4 đến tháng 10 và chiếm trên 90% lượng mưa cả năm. Mùa khô kéo dài

từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau và chiếm trên 9% lượng mưa cả năm.

Với điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế xã hội đã trình bày có ảnh

hưởng lớn đến sự phân bố dĩn – véc tơ truyền bệnh đơn bào

Leucocytozoon. Đây chính là những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp

dẫn đến sự khác nhau về tỷ lệ và cường độ nhiễm giữa các địa phương.

42

Trong tổng số 500 gà được xét nghiệm máu có 92 gà nhiễm đơn bào

Leucocytozoon, tỷ lệ nhiễm chung ở 2 huyện là 18,40%; biến động từ

8,00% - 28,00% theo từng địa phương. Trong đó, gà ở huyện Cao Lộc

nhiễm với tỷ lệ là 20,40%, ở huyện Hữu Lũng là 16,40%.

Qua điều tra cho thấy, đa số các hộ chăn nuôi gà tại huyện Hữu Lũng

và huyện Cao Lộc đều chưa chú ý xây dựng chuồng trại hợp vệ sinh, một

số hộ còn làm chuồng tạm bợ, khu vực xung quanh chuồng nuôi còn

nhiều rãnh nước đọng... Các hộ dân cũng chưa chú ý tới việc vệ sinh

chuồng, khu vực xung quanh chuồng. Đặc biệt số hộ chăn nuôi gà sử dụng

thuốc phun diệt dĩn và dùng thuốc phòng bệnh đơn bào Leucocytozoon

cho gà còn rất ít. Chính những nguyên nhân này làm cho tỷ lệ gà mắc

bệnh Leucocytozoon ở hai địa phương tương đối cao.

Hình 3.1. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tại huyện Cao

Lộc

43

Hình 3.2. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tại huyện Hữu

Lũng

Biểu đồ hình 3.1 và hình 3.2 cho ta thấy rõ hơn về tỷ lệ nhiễm đơn

bào Leucocytozoon tại các xã thuộc hai huyện Cao Lộc và huyện Hữu

Lũng.

- Về cường độ nhiễm:

Gà ở hai huyện Cao Lộc và huyện Hữu Lũng đều nhiễm Leucocytozoon.

Tính chung trong tổng số 92 gà nhiễm thì chủ yếu là nhiễm ở cường độ nhẹ

với 53,26%, gà nhiễm ở cường độ trung bình chiếm tỷ lệ 32,61%, cường độ

nặng chiếm 14,13%. Cụ thể như sau:

- Tại huyện Cao Lộc:

Gà ở 5 xã và thị trấn nghiên cứu đều nhiễm đơn bào Leucocytozoon.

Tính chung trong tổng số 51 gà nhiễm có 26 gà nhiễm ở cường độ nhẹ,

chiếm 50,98%; 18 gà nhiễm ở cường độ trung bình, chiếm 35,29%; 7 gà

nhiễm ở cường độ nặng, chiếm 13,73%. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ở mỗi

địa phương cụ thể như sau:

44

+ Thị trấn Đồng Đăng: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon thấp

nhất (12,00%); trong đó có 50% nhiễm ở cường độ nhẹ; 50% nhiễm ở

cường độ trung bình, không có gà nào nhiễm ở cường độ nặng.

+ Xã Bảo Lâm: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon cao nhất

(28,00%); trong đó có 50% nhiễm ở cường độ nhẹ; 35,71% nhiễm ở

cường độ trung bình; 14,29% nhiễm ở cường độ nặng.

+ Xã Công Sơn: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon là 24,00%;

trong đó có 50,00% nhiễm ở cường độ nhẹ; 33,33% nhiễm ở cường độ

trung bình; 16,67% nhiễm ở cường độ nặng.

+ Xã Phú Xá: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon là 16,00%;

trong đó có 62,50% nhiễm ở cường độ nhẹ; 25,00% nhiễm ở cường độ

trung bình; 12,50% nhiễm ở cường độ nặng.

+ Xã Hồng Phong: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon là 22%;

trong đó có 45,45% nhiễm ở cường độ nhẹ; 36,36% nhiễm ở cường độ

trung bình; 18,18% nhiễm ở cường độ nặng.

- Huyện Hữu Lũng: Gà nuôi thả vườn ở 5 xã và thị trấn nghiên cứu

đề nhiễm đơn bào Leucocytozoon. Trong đó có 56,10% nhiễm ở cường độ

nhẹ, 29,27% gà nhiễm ở cường độ trung bình. Có 14,63% gà nhiễm ở

cường độ nặng. Cụ thể ở từng địa phương như sau:

+ Thị trấn Hữu Lũng: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon thấp

nhất (8%); trong đó có 75,00% nhiễm ở cường độ nhẹ; 25,00% nhiễm ở

cường độ trung bình, không có gà nhiễm ở cường độ nặng.

+ Xã Thiện Tân: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon cao nhất

(22%); trong đó có 45,45% nhiễm ở cường độ nhẹ; 36,36% nhiễm ở

cường độ trung bình; 18,18% nhiễm ở cường độ nặng.

+ Xã Đồng Tân: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon là 14%;

trong đó có 57,14% nhiễm ở cường độ nhẹ; 28,57% nhiễm ở cường độ

trung bình; 14,29% nhiễm ở cường độ nặng.

45

+ Xã Yên Bình: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon là 20%; trong

đó có 50% nhiễm ở cường độ nhẹ; 30% nhiễm ở cường độ trung bình;

20% nhiễm ở cường độ nặng.

+ Xã Vân Nham: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon là 18%;

trong đó có 66,67% nhiễm ở cường độ nhẹ; 22,22% nhiễm ở cường độ

trung bình; 11,11% nhiễm ở cường độ nặng.

Hình 3.3, 3.4. Biểu đồ cường độ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà

tại huyện Cao Lộc và huyện Hữu Lũng

Biểu đồ ở hình 3.3, 3.4 cho thấy, các múi biểu thị cường độ nhiễm đơn

bào Leucocytozoon có độ lớn khác nhau. Trong đó, múi biểu thị cường độ

nhiễm nhẹ lớn nhất, phần biểu thị cường độ nhiễm nặng nhỏ nhất.

Như vậy, 2 loại biểu đồ trên cho thấy rõ ràng hơn biến động về tỷ lệ

cường độ nhiễm Leucocytozoon của gà ở hai huyện đang nghiên cứu.

Theo Lê Văn Năm (2011) và Nguyễn Thị Kim Lan (2012), mức độ

nặng nhẹ của bệnh Leucocytozoon phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: tuổi gia

cầm thụ cảm, mùa vụ, phương thức chăn nuôi, điều kiện vệ sinh thú y, kỹ

thuật chăm sóc nuôi dưỡng…

Kết quả điều tra cho thấy, Cao Lộc và Hữu Lũng là hai huyện miền

núi thuộc tỉnh Lạng Sơn chịu sự ảnh hưởng của khí hậu vùng núi phía

46

Bắc, khô lạnh và ít mưa về mùa Đông, nóng ẩm, mưa nhiều về mùa Hè.

Đây là điều kiện rất thuận lợi cho các loại dĩn hút máu cư trú và phát triển.

Ngoài ra, điều kiện kinh tế xã hội của hai huyện cũng có những nét riêng.

Nhìn chung, nhiều xã vùng núi của huyện Cao Lộc (xã Bảo Lâm, xã Công

Sơn) và huyện Hữu Lũng (xã Thiện Tân) xa khu vực trung tâm tỉnh và

huyện, các điều kiện về chăn nuôi và vệ sinh thú y còn yếu kém, người

dân vẫn chưa ý thức được việc phòng trị bệnh cho vật nuôi, nhiều hộ chăn

nuôi gà chủ yếu theo phương thức chăn thả và bán chăn thả, mang tính tận

dụng. Một số hộ chăn nuôi với quy mô lớn trên diện tích đồi có thảm thực

vật phong phú. Ngược lại, thị trấn Đồng Đăng (huyện Cao Lộc) và thị trấn

Hữu Lũng (huyện Hữu Lũng) có điều kiện kinh tế khá phát triển, địa hình

bằng phẳng, giao thông thuận lợi, ý thức việc phòng trị bệnh cho vật nuôi

của người dân được chú trọng hơn.

Như vậy, gà nuôi ở những địa phương có điều kiện thuận lợi cho dĩn hút

máu - véc tơ truyền đơn bào Leucocytozoon phát triển như: thảm thực vật dày

và đa dạng, tình trạng vệ sinh thú y kém, phương thức chăn nuôi lạc hậu, công

tác phòng trị bệnh cho gà chưa được chú trọng sẽ có tỷ lệ và cường độ nhiễm

đơn bào Leucocytozoon ở gà tăng lên. Do đó, người chăn nuôi cần thực hiện

thường xuyên các biện pháp tiêu diệt dĩn hút máu, tăng cường công tác vệ

sinh thú y và chăm sóc nuôi dưỡng sẽ góp phần hạn chế nhiễm Leucocytozoon

ở gà.

3.2.1.2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo mùa

Để xác định các mùa trong năm có ảnh hưởng như thế nào đến tỷ lệ

và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà, chúng tôi đã tiến hành lấy mẫu

máu gà ở ở một số địa phương thuộc huyện Cao Lộc và huyện Hữu Lũng

theo 4 mùa trong năm (Xuân, Hè, Thu, Đông) để kiểm tra tỷ lệ và cường

47

độ nhiễm Leucocytozoon theo mùa. Kết quả xét nghiệm được trình bày ở

bảng 3.3 và hình 3.5.

Bảng 3.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo mùa

Cường độ nhiễm (% số hồng cầu có đơn bào)

≤ 5 > 5 - 10 > 10

M ùa n % n % n % Số gà xét nghiệm (co n) Số gà nhiễ m (con)

Tỷ lệ nh iễ m (% )

14 58 29 11 Xu 1 115 17 ,7 ,8 ,4 5 ,7 2 ân 0 8 2 1 6

25 50 32 17 1 1 Hè 135 34 ,1 ,0 ,3 ,6 6 7 1 9 0 5 5

21 53 33 13 Th 1 1 138 30 ,7 ,3 ,3 ,3 4 u 6 0 4 3 3 3

54 36 Đô 9, 9, 112 11 6 ,5 ,3 4 1 ng 82 09 5 6

500 92 4 9 3 0 1 3 18 ,4 0 53 ,2 6 32 ,6 1 14 ,1 3

Tí nh ch un g

Qua bảng 3.3 cho thấy: tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở các

mùa vụ trong năm là khác nhau. Gà nhiễm Leucocytozoon nhiều ở mùa Hè và

mùa Thu, nhiễm ít ở mùa Đông và Xuân. Cụ thể như sau:

48

- Về tỷ lệ nhiễm: gà ở mùa Hè nhiễm Leucocytozoon nhiều nhất

(25,19%), kế tiếp là mùa Thu (21,74%), mùa Xuân (14,78%) và thấp nhất

ở mùa Đông (9,82%).

- Về cường độ nhiễm:

+ Ở mùa Xuân: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon là 14,78%, trong

đó có 58,82% gà nhiễm ở cường độ nhẹ, 29,41% gà nhiễm ở cường độ trung

bình và 11,76% gà nhiễm ở cường độ nặng.

+ Ở mùa Hè: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon cao nhất (25,19%).

Gà nhiễm ở cường độ nhẹ chiếm 50%, nhiễm ở cường độ trung bình chiếm

32,35%, nhiễm ở cường độ nặng chiếm 17,65%.

+ Ở mùa Thu: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon là 21,74%. Trong

đó gà nhiễm ở cường độ nhẹ là 53,33%, ở cường độ trung bình là 33,33 và

nhiễm ở cường độ nặng là 13,33%.

+ Ở mùa Đông: đây là mùa vụ có tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon

thấp nhất trong năm (9,82%), chủ yếu là nhiễm ở cường độ nhẹ và cường độ

trung bình (90,91%), chỉ có 9,09% gà nhiễm ở cường độ nặng.

Như vậy, gà nuôi ở mùa Hè và mùa Thu nhiễm đơn bào Leucocytozoon

nhiều và nặng hơn so với mùa Xuân và mùa Đông.

Dương Thị Hồng Duyên và cs (2015) xét nghiệm 572 mẫu máu gà tại

tỉnh Thái Nguyên và Bắc Giang cho biết: Mùa Hè gà nhiễm Leucocytozoon

nhiều nhất (27,92%), kế tiếp là mùa Thu (22,14%), mùa Xuân (18,44%) và

thấp nhất là mùa Đông (10,22%). Tác giả cũng cho rằng: Các tháng có khí hậu

nóng ẩm sẽ thích hợp cho các loài dĩn hút máu sinh sản và hoạt động mạnh.

Nghiên cứu của chúng tôi trên các địa phương thuộc tỉnh Lạng Sơn có kết quả

tương đồng với nghiên cứu của tác giả.

Nguyên nhân là do, thời tiết ngày càng khác nghiệt, dẫn đến mùa Đông

và mùa Xuân thời tiết vẫn còn khô và lạnh, ánh sáng ít dẫn đến số lượng và

tần suất hoạt động của dĩn giảm đáng kể. Tương tự như vậy, vào mùa Hè và

49

mua Thu thời tiết nóng ẩm kéo dài, là điều kiện thuận lợi cho dĩn sinh trưởng

và hoạt động với cường độ mạnh. Do đó vào thời điểm này gà bị nhiễm

Leucocytozoon nhiều hơn và cường độ nhiễm nặng hơn. Vì vậy người chăn

nuôi cần tăng cường công tác vệ sinh thú y, thường xuyên dọn dẹp vệ sinh

chuồng trại, khơi thông cống rãnh, phát quang bờ bụi, phun thuốc diệt dĩn

nhằm hạn chế tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon trên đàn gà.

Theo Lê Văn Năm (2011), bệnh do Leucocytozoon gây ra mang tính

chu kỳ rõ rệt, phụ thuộc vào mùa sinh sản và phát triển của ký chủ trung

gian truyền bệnh. Ở miền Bắc nước ta bệnh xuất hiện hàng năm vào mùa

Xuân – Hè. Theo dõi trong suốt 3 năm (2009, 2010, 2011), tác giả đã ghi

nhận, bệnh thường xuất hiện ngay sau tết Nguyên đán, bệnh nặng dần lên

trong các tháng 2, 3, 4, 5 dương lịch rồi giảm dần vào các tháng 6, 7, 8 và

hầu như ít sảy ra vào các tháng 9, 10, 11, 12 và tháng 1 trong năm. Kết

quả nghiên cứu của chúng tôi khác nhận xét trên ở chỗ, trong mùa Hè (từ

tháng 5 - 7) tỷ lệ và cường độ nhiễm đơn bào Leucocytozoon của đàn gà

trên các địa phương nghiên cứu cao hơn so với mùa Xuân (tháng 2 – 4). Kết

quả này phù hợp với mùa sinh sản và phát triển của dĩn (mùa Xuân dĩn hoạt

động ít hơn so với mùa Hè).

50

Hình 3.5. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tại huyện Hữu

Lũng và huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn theo mùa

Biểu đồ hình 3.5 thể hiện rõ hơn sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm đơn

bào Leucocytozoon ở gà theo mùa.

3.2.1.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon theo tuổi gà

Việc xác đinh tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon theo từng lứa

tuổi gà để có kế hoạch phòng trị bệnh thích hợp, nhằm nâng cao năng suất

chăn nuôi gà là cần thiết. Chúng tôi đã xét nghiệm máu của 500 gà ở 4 lứa

tuổi khác nhau. Kết quả được trình bày ở bảng 3.4.

Bảng 3.4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo tuổi

Cường độ nhiễm (% số hồng cầu có đơn bào) > 5 - 10 ≤ 5 > 10

Số gà xét nghiệm (con) n % n % n % Tuổi gà (thán g) Tỷ lệ nhi ễm (% ) Số gà nh iễ m (co n)

51

7 4 0 ≤ 2 113 11 9,7 3 0, 0 0

6 3 142 22 15, 49 1 3 > 2 – 4

5 131 30 22, 90 1 5 1 0 > 4 – 6

5 > 6 114 29 25, 44 1 4 1 0

500 92 18, 40 4 9 3 0 1 3

6 3, 6 4 5 9, 0 9 5 0, 0 0 4 8, 2 8 5 3, 2 6 3 6, 3 6 2 7, 2 7 3 3, 3 3 3 4, 4 8 3 2, 6 1 1 3, 6 4 1 6, 6 7 1 7, 2 4 1 4, 1 3 Tín h chu ng

Bảng 3.4 cho thấy:

- Về tỷ lệ nhiễm: Trong tổng số 500 gà kiểm tra có 92 gà nhiễm đơn bào

Leucocytozoon. Tỷ lệ nhiễm bệnh tăng dần theo tuổi gà. Nhiễm thấp nhất ở

giai đoạn gà dưới 2 tháng tuổi (9,73%), tiếp theo là giai đoạn > 2 - 4 tháng

tuổi (15,49%), giai đoạn > 4 - 6 tháng tuổi (22,90%) và cao nhất là gà trên 6

tháng tuổi (25,44%). Như vậy, tỷ lệ nhiễm bệnh của gà ở giai đoạn dưới 2

tháng tuổi và giai đoạn trên 6 tháng tuổi khác nhau. Sở dĩ có sự khác biệt này

là do gà dưới 2 tháng tuổi được chăm sóc tốt, vệ sinh chuồng trại đảm bảo

hơn. Mặt khác, gà ở lứa tuổi này có thời gian tiếp xúc với các loài dĩn hút

máu chưa nhiều, vì vậy tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh ở lứa tuổi này thấp.

Khi tuổi gà tăng, thời gian tiếp xúc với dĩn tăng thì tỷ lệ và cường độ nhiễm

bệnh cũng tăng lên.

52

-Về cường độ nhiễm: Gà ở các lứa tuổi khác nhau đều nhiễm đơn bào

Leucocytozoon ở các cường độ khác nhau. Tuổi gà càng cao thì cường độ

nhiễm nặng càng tăng. Chi tiết như sau:

Gà ≤ 2 tháng tuổi: 100% số gà kiểm tra nhiễm ở cường độ nhẹ và

trung bình, không có gà nhiễm ở cường độ nặng.

Gà giai đoạn > 2 - 4 tháng tuổi: có 59,09% nhiễm ở cường độ nhẹ, ở

cường độ nặng là 13,64%.

Gà giai đoạn > 4 – 6 tháng tuổi: tỷ lệ nhiễm nặng là 16,67%.

Gà nhiễm nhiều và nặng nhất ở giai đoạn > 6 tháng tuổi tương ứng

25,44%.

Như vậy, tỷ lệ gà có cường độ nhiễm nặng tăng từ 0% ở gà ≤ 2 tháng

tuổi lên 17,24% ở gà > 6 tháng, chênh lệch 17,24%.

Dương Thị Hồng Duyên và cs (2015) cho biết: trong 482 gà kiểm tra

tại Thái Nguyên và Bắc giang có 96 gà nhiễm đơn bào chiếm 19,92%. Tỷ

lệ và cường độ nhiễm tăng dần theo tuổi gà. Gà nhiễm cao nhất ở gà trên

6 tháng tuổi. Kết quả kiểm tra trên gà tại huyện Cao Lộc và huyện Hữu

Lũng, tinh Lạng Sơn của chúng tôi tương đồng với nghiên cứu của tác giả.

Biến động tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon theo tuổi gà được thể

hiện ở hình 3.6.

53

Hình 3.6. Đồ thị tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tại huyện Hữu

Lũng và huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn theo tuổi

Đồ thị ở hình 3.6 biểu diễn quy luật nhiễm đơn bào Leucocytozoon

tăng dần theo tuổi gà, tuổi gà cao thì tỷ lệ nhiễm tăng và ngược lại.

3.2.1.4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo tình trạng vệ

sinh thú y

Điều kiện vệ sinh thú y có vai trò vô cùng quan trọng đối với

chăn nuôi nói chung và chăn nuôi gia cầm nói riêng. Kết quả đánh

giá về tình trạng vệ sinh thú y có ảnh hưởng như thế nào đến tỷ lệ và

cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà được trình bày ở bảng 3.5.

Bảng 3.5. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà

theo tình trạng vệ sinh thú y

Cường độ nhiễm (% số hồng cầu có đơn bào) > 5 - 10 ≤ 5 > 10

Tỷ lệ nhiễm (%) Số gà xét nghiệm (con) n % n % n %

Tìn h trạn g VST Y Số gà nhi ễm (co n)

54

Tốt 15 4 1 1 0 1 5 1 9, 9 3 6, 6 6

33 5 1 8 1 0 1 8 6 Tru ng bình

44 7 Ké m 2 1 1 6 1 6 3

92 4 9 3 0 1 3 5 0 0 Tín h chun g 1 7, 7 4 2 6, 9 9 1 8, 4 0 6 6, 6 7 5 4, 5 5 4 7, 7 3 5 3, 2 6 2 6, 6 7 3 0, 3 0 3 6, 3 6 3 2, 6 1 1 5, 1 5 1 5, 9 1 1 4, 1 3

Bảng 3.5 cho thấy: Tỷ lệ và cường độ nhiễm đơn bào Leucocytozoon

ở gà nuôi trong tình trạng vệ sinh thú y khác nhau thì khác nhau.

- Về tỷ lệ nhiễm: tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon biến động từ

9,93% - 26,99%. Cao nhất là gà được nuôi ở trong điều kiện vệ sinh thú y

kém (26,99%), thấp nhất là gà được nuôi trong điều kiện vệ sinh thú y tốt

(9,93%).

- Về cường độ nhiễm: gà được nuôi trong tình trạng vệ sinh thú y

kém nhiễm Leucocytozoon chủ yếu ở cường độ trung bình và nặng,

trong khi ở điều kiện vệ sinh thú y tốt, gà chủ yếu nhiễm ở cường độ

nhẹ. Cụ thể như sau:

+ Ở tình trạng vệ sinh thú y tốt: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào

Leucocytozoon thấp nhất (9,93%), trong đó nhiễm ở cường độ nhẹ là chủ

yếu (66,67%), nhiễm ở cường độ trung bình chiếm 26,67%, chỉ có 1 con

nhiễm ở cường độ nặng, chiếm 6,66%.

55

+ Ở tình trạng vệ sinh thú y trung bình: tỷ lệ nhiễm đơn bào

Leucocytozoon là 17,74% (cao hơn 7,81% so với tình trạng vệ sinh thú y

tốt). trong đó gà nhiễm ở cường độ nhẹ chiếm 54,55%, gà nhiễm ở cường

độ trung bình chiếm 30,30% và nhiễm ở cường độ nặng chiếm 15,15%.

+ Ở tình trạng vệ sinh thú y kém: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào

Leucocytozoon cao nhất (26,99%). Trong đó, gà nhiễm ở cường độ nhẹ

chiếm 47,73%, nhiễm ở cường độ trung bình chiếm 36,36%, nhiễm ở

cường độ nặng chiếm 15,91%.

Như vậy, gà được nuôi trong điều kiện vệ sinh thú y tốt có tỷ lệ và

cường độ nhiễm đơn bào đường máu Leucocytozoon thấp hơn rất nhiều so

với gà được nuôi trong điều kiện vệ sinh thú y kém. Điều này cho thấy,

người chăn nuôi cần quan tâm hơn nữa đến vấn đề vệ sinh thú y trong

chăn nuôi nói chung và chăn nuôi gà nói riêng để hạn chế tỷ lệ và cường

độ nhiễm Leucocytozoon ở gà, bằng các biện pháp: chuồng trại xây nơi

cao ráo, thoáng mát, sạch sẽ, thường xuyên quét dọn chuồng nuôi, định kỳ

khử trùng tiêu độc chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi, phát quang cây cỏ,

khơi thông cống rãnh nhằm tạo điều kiện bất lợi cho sự phát triển của dĩn

hút máu.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nhận xét của Kissam

J. B và cs (1975), khi tác giả cho rằng: việc thực hiện biện pháp loại bỏ

côn trùng môi giới hút máu trong môi trường sống của gà sẽ làm hạn chế

và tiến tới khống chế được bệnh do Leucocytozoon caulleryi gây ra.

Nguyễn Thị Kim Lan và Dương Thị Hồng Duyên (2012) cho biết: Tỷ lệ

và cường độ nhiễm Leucocytozoon khác nhau theo tình trạng vệ sinh thú y

trong chăn nuôi. Gà được nuôi trong điều kiện vệ sinh thú y tốt có tỷ lệ và

cường độ nhiễm thấp hơn rất nhiều so với gà được nuôi trong tình trạng vệ

sinh thú y kém. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nhận xét của

tác giả.

56

Hình 3.7. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tại huyện Hữu

Lũng và huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn theo tình trạng vệ sinh thú y

3.2.2. Nghiên cứu đặc điểm hoạt động của dĩn – véc tơ truyền

Leucocytozoon cho gà

3.2.2.1. Quy luật hoạt động của các loài dĩn ở các địa phương nghiên

cứu

Để có cơ sở phòng bệnh đơn bào Leucocytozoon, chúng tôi đã nghiên

cứu hoạt động của dĩn – côn trùng hút máu truyền đơn bào Leucocytozoon

cho gà qua các tháng trong năm. Kết quả được thể hiện ở bảng 3.6.

Bảng 3.6. Quy luật hoạt động của các loài dĩn theo tháng trong năm

Tháng dĩn hoạt động Địa

phương 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11

Cao - - ++ +++ +++ +++ +++ ++ ++ + - Lộc

Hữu - - + ++ +++ +++ +++ ++ ++ + - Lũng

57

Ghi chú: (+++): Hoạt động với cường độ mạnh (++): Hoạt động với cường độ trung bình (+): Hoạt động ít (-): Không hoạt động

Qua bảng 3.6 cho thấy:

Trong các tháng 11, 12, 1, 2 thời tiết lạnh, khô nên hầu như dĩn không

hoạt động. Từ tháng 4 đến tháng 9 khí hậu ấm áp kèm theo mưa phùn ẩm

ướt là môi trường thuận lợi cho dĩn sinh trưởng và phát triển, vì vậy cho nên

vào khoảng thời gian này dĩn hoạt động mạnh hơn, đặc biệt vào các tháng

5,6,7. Ngoài ra tình trạng vệ sinh thú y kém cũng góp phần làm gia tăng số

lượng dĩn dẫn đến hoạt động hút máu diễn ra mạnh hơn.

Ở các địa phương như thị trấn Đồng Đăng (huyện Cao Lộc) và thị

trấn Hữu Lũng (huyện Hữu Lũng), các hộ chăn nuôi đã áp dụng các biện

pháp vệ sinh thú y như: phát quang bờ bụi, khơi thông cống rãnh, phun

thuốc diệt muỗi, dĩn nên ở các địa phương này dĩn hoạt động ít hơn.

Ngược lại, ở các xã vùng núi của huyện Cao Lộc (xã Bảo Lâm, xã Công

Sơn) và huyện Hữu Lũng (xã Thiện Tân), các hộ chăn nuôi hầu như

không phun thuốc diệt dĩn hút máu, ngoài ra địa hình khá phức tạp, cây

cối rậm rạp đó là những điều kiện thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát

triển của dĩn, vì vậy dĩn hoạt động mạnh ở các địa phương này với số

lượng nhiều hơn. Đối chiếu với kết quả xác định tỷ lệ và cường độ

nhiễm đơn bào Leucocytozoon của gà ở các địa phương (bảng 3.2) và tỷ

lệ nhiễm theo mùa (bảng 3.3), chúng tôi nhận thấy: mật độ và cường độ

hoạt động của dĩn tỷ lệ thuận với tỷ lệ và cường độ nhiễm đơn bào

Leucocytozoon ở gà theo các địa phương và theo mùa.

3.2.2.2. Quy luật hoạt động của các loài dĩn ở các địa phương nghiên

cứu theo giờ

58

Ngoài theo dõi quy luật hoạt động của dĩn trong năm, chúng tôi còn

theo dõi cường độ hoạt động của dĩn trong ngày. Thực tế quan sát cho thấy,

dĩn bắt đầu hoạt động từ 6 giờ đến 18 giờ trong ngày. Nhìn chung, dĩn

thường hoạt động tần suất cao vào thời điểm ấm áp và có ánh nắng.

Bảng 3.7. Quy luật hoạt động trong ngày của các loài dĩn

Thời điểm dĩn hoạt động (giờ)

Tháng theo dõi 6 – 8 8 - 11 11 - 13 13 - 16 16 - 18

Tháng 3 - - ++ ++ ++

Tháng 4 + + ++ ++ +++

Tháng 5 + ++ ++ +++ +++

Tháng 6 + ++ ++ +++ +++

Tháng 7 + ++ ++ +++ +++

Tháng 8 + ++ ++ +++ +++

Tháng 9 + + ++ + ++

Tháng 10 - + ++ + -

Ghi chú: (+++): Hoạt động với cường độ mạnh

(++): Hoạt động với cường độ trung bình

(+): Hoạt động ít

(-): Không hoạt động

Kết quả ở bảng 3.7 cho thấy:

Từ tháng 5 đến tháng 8 dĩn hoạt động mạnh trong khoảng từ 8 – 16

giờ trong ngày, đó là khoảng thời gian có cường độ ánh sáng mạnh

trong ngày, từ 6 – 8 giờ sáng và 16 – 18 giờ chiều là khoảng thời gian

cường độ ánh sáng yếu hơn nên mức độ hoạt động của dĩn thấp.

Vào các tháng 3, 4, 9 và 10 nhiệt độ thấp đan xen cùng với thời

tiết lạnh và khô, cường độ ánh sáng yếu dẫn đến số lượng và mức độ

hoạt động của dĩn giảm.

59

Từ kết quả trên cho ta thấy: để hạn chế gà nhiễm đơn bào

Leucocytozoon do dĩn hút máu và truyền bệnh, người chăn nuôi cần áp

dụng biện pháp ngăn cản sự tiếp xúc giữa gia cầm với dĩn như: làm tốt

công tác vệ sinh thú y, khơi thông cống rãnh, phát quang bụi rậm thường

xuyên, phun thuốc diệt dĩn và các loại côn trùng khác…

3.3. Bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà tại Lạng Sơn

3.3.1. Đặc điểm lâm sàng bệnh Leucocytozoon ở gà tại Lạng Sơn

Mức độ nặng, nhẹ của bệnh phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: tuổi,

sức đề kháng của cơ thể vật chủ, số lượng đơn bào Leucocytozoon ký

sinh, điều kiện vệ sinh thú y, điều kiện thời tiết khí hậu….

Theo dõi 92 gà nhiễm Leucocytozoon, để xác định triệu chứng lâm

sàn chủ yếu của bệnh. Kết quả được trình bày ở bảng 3.8.

Bảng 3.8. Tỷ lệ và các triệu chứng lâm sàng của gà mắc

bệnh đơn bào Leucocytozoon

Kết quả theo dõi Số gà Số gà có Số nhiễ Tỷ lệ triệu chứng Biểu hiện lâm gà Tỷ lệ m (%) (con) sàng chủ yếu (co (%) (con) n)

Mào, tích nhợt 28 100 nhạt

15 55,57 Gày yếu

18 64,29 Sốt trên 430C 92 28 30,43 Ủ rũ, vận động 18 64,29 chậm chạp

24 85,71 Kém ăn

26 92,86 Ỉa chảy, phân

60

màu xanh lá cây

Kết quả ở bảng 3.8 cho thấy: trong 92 gà theo dõi có 28 gà xuất hiện

triệu chứng, chiếm 30,43%. Các triệu chứng chủ yếu thường thấy ở gà

mắc bệnh do đơn bào Leucocytozoon gây ra là: thiếu máu, mào tích nhợt

nhạt, ủ rũ, kém ăn, gày yếu, ỉa chảy phân màu xanh lá cây. Cụ thể:

Tỷ lệ gà mắc bệnh có biểu hiện thiếu máu, mào tích nhợt nhạt,

chiếm 100% trong số gà có triệu chứng; 64,29% gà có triệu chứng sốt

trên 430C, ủ rũ, vận động chậm chạp; 92,86% gà có triệu chứng ỉa chảy,

phân xanh màu lá cây.

Nguyên nhân dẫn đến các triệu chứng trên là do đơn bào

Leucocytozoon ký sinh trong hồng cầu, lớn dần về kích thước, đồng thời

tiết ra một chất làm tan hồng cầu, gọi là chất kháng hồng cầu (anti -

erythrocyte) gây phá vỡ hồng cầu hàng loạt, dẫn đến hiện tượng thiếu

máu. Hồng cầu bị phá vỡ dẫn đến có một lượng lớn huyết sắc tố tự do

được giải phóng trong máu, đến gan và được gan chuyển hóa thành

biliverdin. Tuy nhiên, do đơn bào tác động đến gan gây phá hủy tế bào

gan, làm cho lượng biliverdin kết hợp tăng cao, theo ống dẫn mật xuống

ruột dẫn đến hiện tượng gà ỉa chảy, phân màu xanh lá cây. Hiện tượng gà

ỉa chảy phân xanh màu lá cây được coi là một trong những biểu hiện lâm

sàng quan trọng trong chẩn đoán bệnh do đơn bào Leucocytozoon gây ra.

Số gà mắc bệnh có triệu chứng kém ăn, chiếm 85,71%. Biểu hiện

gày yếu chiếm 55,57% số gà có triệu chứng.

Theo dõi 730 gà tại tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, Lê Đức Quyết và

cs (2009) cho biết: một số triệu chứng của gà nhiễm Leucocytozoon là

thiếu máu, ỉa chảy, gầy còm, kém ăn.

Dương Thị Hồng Duyên và cs (2018) khi theo dõi triệu chứng lâm sàng

của 619 gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon thấy có 29,73% gà có triệu chứng

lâm sàng. Các triệu chứng chủ yếu là sốt cao, mắt đỏ, ủ rũ, kém ăn, ỉa chảy

phân xanh màu lá cây, gà thiếu máu, mào tích nhợt nhạt. Tuy nhiên, trên

61

những gà bị bệnh ở Thái Nguyên tác giả còn thấy có một số gà có triệu chứng

khó thở và triệu chứng thần kinh. Trên những gà bị bệnh chúng tôi theo dõi ở

tỉnh Lạng Sơn không thấy xuất hiện những triệu chứng trên.

3.3.2. Một số chỉ số máu của gà mắc bệnh Leucocytozoon

3.3.2.1. Sự thay đổi một số chỉ tiêu huyết học của gà bị bệnh đơn bào

Leucocytozoon

Để xác định sự thay đổi một số chỉ tiêu huyết học của gà bị bệnh đơn

bào đường máu Leucocytozoon so với gà khỏe, xét nghiệm 10 mẫu máu

gà khỏe và 10 mẫu máu gà bị bệnh. Sự thay đổi một số chỉ tiêu huyết học

của gà khỏe so với gà bị nhiễm đơn bào Leucocytozoon được trình bày ở

bảng 3.9, 3.9, 3.10.

Bảng 3.9. Sự thay đổi một số chỉ số máu của gà bệnh so với gà khỏe

Chỉ số máu

Gà khỏe ) (

Gà bệnh ) (

Số mẫu nghiên cứu

10

10

Mức ý nghĩa (P)

Số lượng hồng cầu (triệu/mm3

P =

3,15 

2,22 

máu)

0,000

0,06

0,17

P =

126,29 

130,87 

Thể tích trung bình hồng cầu

0,000

1,19

0,94

Dải phân bố kích thước hồng cầu

P =

12,38 

15,08 

(%)

0,000

0,63

0,39

Số lượng bạch cầu (nghìn/mm3

P =

30,14 

36,02 

máu)

0,000

0,43

0,50

Số lượng tiểu cầu (nghìn/mm3

P =

311,30 

158,39 

máu)

0,000

3,05

3,14

Hàm lượng huyết sắc tố (gam

P =

8,33 

12,56 

%)

0,000

0,43

0,48

P =

2,43 

7,60 

Thời gian đông máu (phút)

0,000

0,26

0,92

62

Qua kết quả ở bảng 3.9 cho thấy:

Xét nghiệm máu của gà khỏe số lượng hồng cầu trung bình là 3,15 

0,06 triệu/ mm3 máu, số lượng bạch cầu là 30,14  0,43 nghìn/ mm3 máu,

số lượng tiểu cầu là 311,30  3,05 nghìn/ mm3 máu, hàm lượng huyết sắc

tố 12,56  0,43 gam %, dải phân bố kích thước hồng cầu 12,38  0,63%,

thời gian đông máu là 2,43  0,26 phút.

Hoàng Toàn Thắng và Cao Văn (2006) cho biết: số lượng hồng cầu

gà trung bình là 3,0 - 3,2 triệu/ mm3 máu, số lượng bạch cầu là 30 nghìn/

mm3 máu, số lượng tiểu cầu là 300 nghìn/ mm3 máu và hàm lượng huyết

sắc tố là 12,7g%.

Theo Hồ Văn Nam (1982), thể tích trung bình của hồng cầu gà khỏe là

), thời gian đông máu từ 1,5 – 2,5 phút.

127 fl (1 fl = 1 µm3

Như vậy, các chỉ số máu của gà khỏe trong thí nghiệm đều nằm trong

giới hạn bình thường.

Xét nghiệm máu của gà bị bệnh đơn bào Leucocytozoon với các chỉ

tiêu huyết học tương ứng thấy có sự thay đổi rõ rệt như sau:

Số lượng hồng cầu trung bình của gà bị bệnh Leucocytozoon là 2,22

 0,17 triệu/ mm3 máu, giảm 0,93 triệu hồng cầu/ mm3 máu so với gà

khỏe. Như vậy số lượng hồng cầu trung bình của gà bị nhiễm

Leucocytozoon giảm đi rõ rệt so với lượng hồng cầu trung bình của gà

khỏe. Sự giảm rõ rệt số lượng hồng cầu ở gà bệnh là do đơn bào ký sinh

trong hồng cầu, phát triển và tiết độc tố làm phá vỡ hàng loạt hồng cầu,

gây tình trạng thiếu máu, thiếu hồng cầu ở gà bệnh.

Hàm lượng huyết sắc tố trung bình ở gà bị nhiễm đơn bào

Leucocytozoon là 8,33  0,48 gam %, giảm đi rõ rệt so với gà khỏe. Như vậy,

63

khi hồng cầu gà bị phá vỡ, số lượng hồng cầu giảm thì hàm lượng huyết sắc tố

cũng giảm.

Dải phân bố kích thước hồng cầu phán ánh mức độ đồng đều về kích

thước của các tế bào hồng cầu trong máu, khi dải phân bố kích thước hồng

cầu càng tăng thì mức độ đồng đều về kích thước của hồng cầu càng

giảm. Kết quả xét nghiệm cho thấy, đối với gà khỏe, dải phân bố kích

thước hồng cầu trung bình là 12,38  0,63%, ở gà nhiễm đơn bào

Leucocytozoon là 15,08  0,39%, tăng cao rõ rệt so với gà khỏe. Như vậy,

đơn bào Leucocytozoon ký sinh đã làm thay đổi kích thước của nhiều tế

bào hồng cầu, làm cho mức độ đồng đều về kích thước của hồng cầu bị

thay đổi.

Số lượng bạch cầu ở gà khỏe là 30,14  0,43 nghìn/mm3 máu, ở gà

nhiễm đơn bào Leucocytozoon là 36,02  0,50 nghìn/mm3 máu, tăng 5,88

nghìn/mm3 máu so với gà khỏe. Số lượng bạch cầu tăng khi cơ thể mắc

bệnh bởi cơ thể sẽ chống lại mầm bệnh bằng cách tăng sinh bạch cầu. Khi

đơn bài Leucocytozoon ký sinh ở các cơ quan của cơ thể sẽ gây phản ứng

viêm cục bộ, làm tăng số lượng bạch cầu trong máu.

Số lượng tiểu cầu của gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon là 158,39

 3,14 nghìn/mm3 máu, thấp hơn rất nhiều so với gà khỏe (311,30 

3,05 nghìn/mm3 máu).

Thời gian đông máu trung bình của gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon

dài hơn rõ rệt so với gà khỏe (7,60 phút và 2,43 phút). Tiểu cầu đóng vai

trò quan trọng trong quá trình đông máu, số lượng tiểu cầu trong máu

giảm mạnh dẫn đến hiện tượng máu khó đông ở gà bệnh.

Theo Chu Đức Thắng và cs. (2008), số lượng hồng cầu, hàm lượng

huyết sắc tố giảm trong các trường hợp vật nuôi bị thiếu máu, dinh dưỡng

kém và trong một số trường hợp bệnh lý khác.

64

Hàm lượng huyết sắc tố tỷ lệ thuận với số lượng hồng cầu. Khi số

lượng hồng cầu giảm, hàm lượng huyết sắc tố cũng giảm (Đoàn Thị Thảo và

cs., 2014).

Theo Cao Văn và Hoàng Toàn Thắng (2006), bạch cầu bảo vệ cơ

thể bằng hai cách: thực bào và sinh kháng thể. Số lượng bạch cầu tăng

lên là một chỉ tiêu phản ánh chức năng bảo vệ cơ thể trước những yếu tố

bệnh lý. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với những nhận xét

của các tác giả trên, trong trường hợp này, yếu tố bệnh lý là đơn bào

Leucocytozoon ký sinh ở gà.

Theo Hoàng Văn Tiến và cs. (1995), tiểu cầu giảm khi cơ thể gia

súc, gia cầm bị thiếu máu. Trong nghiên cứu của chúng tôi, gà bị bệnh

Leucocytozoon thường ở tình trạng thiếu máu nặng nên số lượng tiểu

cầu giảm dẫn đến máu khó đông.

3.3.2.2. Sự thay đổi công thức bạch cầu của gà bị bệnh so với gà khỏe

Sự thay đổi số lượng bạch cầu và tỷ lệ phần trăm các loại bạch cầu

trong máu là chỉ tiêu phi lâm sàng có ý nghĩa trong công tác chẩn đoán

bệnh, đặc biệt là bệnh ký sinh trùng. Chúng tôi đã xác định số lượng bạch

cầu và tỷ lệ phần trăm (%) các loại bạch cầu trong máu gà mắc

Leucocytozoonosis để có cơ sở khoa học chẩn đoán bệnh đơn bào đường

máu ở gà. Kết quả được thể hiện ở bảng 3.10.

Bảng 3.10. So sánh công thức bạch cầu của gà khỏe và gà bệnh

Công thức bạch cầu Gà khỏe ) ( Gà bệnh ) (

* Số mẫu nghiên Mức ý nghĩa (P) 10 10 cứu

65

Bạch cầu trung P = 27,58  0,30 37,74  1,18 tính 0,000

P = Bạch cầu ái toan 3,59  0,28 5,86  0,32 0,000

P = Bạch cầu ái kiềm 4,31  0,19 1,13  0,11 0,000

P = Bạch cầu Lympho 58,24  0,51 53,49  1,02 0,000

Bạch cầu đơn nhân P = 6,25  0,56 1,75  0,54 lớn 0,000

Kết quả ở bảng 3.10 cho thấy:

Đối với gà khỏe: tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung tính trong máu gà khỏe

là 27,58  0,30%, bạch cầu ái toan là 3,59  0,28%, bạch cầu ái kiềm là 4,31 

0,19%, lâm ba cầu là 58,24  0,51% và bạch cầu đơn nhân lớn là 58,24 

0,51%.

Hoàng Văn Tiến và cs. (1995) cho biết: ở gà, tỷ lệ bạch cầu đa

nhân trung tính là 27 %, bạch cầu ái toan là 4 %, bạch cầu ái kiềm là 4

%, lâm ba cầu là 59 % và bạch cầu đơn nhân lớn là 6 %.

Như vậy, tỷ lệ các loại bạch cầu trong máu của gà khỏe đều nằm

trong giới hạn sinh lý bình thường.

Xét nghiệm máu của gà bị nhiễm đơn bào Leucocytozoo, ta thấy có

sự thay đổi ở công thức bạch cầu: tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung tính là

37,74  1,18%, bạch cầu ái toan 5,86  0,32%, bạch cầu ái kiềm 1,13 

0,11%, lâm ba cầu là 53,49  1,02% và bạch cầu đơn nhân lớn là 1,75 

0,54%.

66

So sánh công thức bạch cầu của gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon

với gà khỏe thấy có sự khác nhau rõ rệt, chi tiết như sau:

- Những loại bạch cầu có tỷ lệ giảm rõ rệt (P < 0,001) gồm:

+ Bạch cầu ái kiềm (1,13% so với 4,31%)

+ Lâm ba cầu (53,49% so với 58,24%)

+ Bạch cầu đơn nhân lớn (1,75% so với 6,25%)

- Những loại bạch cầu có tỷ lệ tăng rõ rệt (P < 0,001) gồm:

+ Bạch cầu đa nhân trung tính (37,74% so với 27,58%)

+ Bạch cầu ái toan (5,86% so với 3,59%)

Khi gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon thì phản ứng phòng vệ của cơ

thể trở nên nhạy cảm, bạch cầu tăng số lượng nhằm chống lại tác hại của

đơn bào Leucocytozoon, đặc biệt là bạch cầu ái toan.

Theo Trịnh Văn Thịnh và cs. (1978), gia súc và gia cầm chống lại

ký sinh trùng bằng những phản ứng tế bào như viêm, thực bào và tăng

bạch cầu ái toan. Tác giả nhận xét, hiện tượng tăng bạch cầu ái toan

được xem như một chỉ tiêu để chẩn đoán bệnh ký sinh trùng.

Theo Nguyễn Xuân Hoạt và Phạm Đức Lộ (1980), bạch cầu ái toan

tham gia vào quá trình bảo vệ cơ thể, chống cảm nhiễm. Khi cơ thể cảm

nhiễm ký sinh trùng thì bạch cầu ái toan tăng lên.

Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) cho biết, cơ thể phản ứng lại tác

động do độc tố của ký sinh trùng bằng phản ứng viêm, tăng sinh cục bộ và

tăng bạch cầu ưa axít.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi hoàn toàn phù hợp với nhận xét

của các tác giả trên.

Từ kết quả ở bảng 3.9 và 3.10 cho ta thấy như sau: gà bị nhiễm đơn

bào Leucocytozoon có sự thay đổi rõ rệt về một số chỉ tiêu huyết học so

67

với gà khỏe. Các chỉ tiêu huyết học thay đổi chứng tỏ tình trạng bệnh lý

do đơn bào ký sinh trong máu gây ra cho gà là rất rõ rệt.

3.3.3. Tổn thương của gà bị bệnh đơn bào Leucocytozoon

* Tổn thương đại thể của gà bị bệnh đơn bào Leucocytozoon

Mổ khám bệnh tích là phương pháp thường được tiến hành trong

chẩn đoán bệnh thú y. Thông qua mổ khám có thể phát hiện ra những biến

đổi bất thường ở các cơ quan, phủ tạng để chẩn đoán nguyên nhân gây

bệnh.

Tiến hành mổ khám 20 gà bị nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở các lứa

tuổi khác nhau tại hai huyện Cao Lộc và Hữu Lũng, chúng tôi đã xác định

những bệnh tích đại thể chủ yếu của gà do đơn bào Leucocytozoon gây ra.

Kết quả được trình bày ở bảng 3.11.

Bảng 3.11. Bệnh tích đại thể của gà bị bệnh đơn bào Leucocytozoon

Kết quả mổ khám

Bệnh tích đại thể chủ yếu Số gà (con) Tỷ lệ (%)

Số gà có bệnh tích (con) Tỷ lệ ( % ) Số gà mổ khá m (con )

Cơ xuất huyết 12 80,00

Gan xuất huyết 7 46,67

Gan sưng, mềm nhũn, dễ 11 73,33 vỡ 15 75 20

Máu loãng, khó đông 13 86,67

Thận sưng và xuất huyết 12 80,00

Lách sưng và xuất huyết 8 53,33

68

Tụy xuất huyết 11 73,33

Phổi xuất huyết 8 53,33

Niêm mạc ruột xuất 8 53,33 huyết

Chất chứa trong đường 13 86,67 tiêu hóa màu xanh lá cây

Kết quả ở bảng 3.11 cho thấy:

Mổ khám 20 gà bị Leucocytozoon phát hiện 15 gà có bệnh tích, chiếm

75%. Bệnh tích chủ yếu là hiện tượng máu loãng khó đông, thận sưng và xuất

huyết, cơ xuất huyết, chất chứa trong đường tiêu hóa màu xanh lá cây. Chi tiết

như sau:

Trong 15 gà phát hiện bệnh tích, bệnh tích phổ biến và chiếm tỷ lệ

cao nhất là chất chứa trong đường tiêu hóa có màu xanh (86,67%), máu

loãng khó đông (86,67%), thân sưng xuất huyết (80%), cơ xuất huyết

(80%), gan sưng mêm nhũn dễ vỡ (73,33%), tụy xuất huyết (73,33%),

xuất huyết niêm mạc ruột (53,33%).

Giải thích về bệnh tích thận sưng; gan sưng, mềm nũn, dễ vỡ, Lê

Văn Năm (2011) cho rằng: khi các đơn bào ký sinh trong tế bào nội mô

của các cơ quan này, chúng sinh trưởng, lớn lên và sản sinh theo phương

thức tự nhân đôi, làm vỡ nát tế bào của cơ quan nội tạng ký chủ. Để bù lại

các tế bào bị phá hủy, cơ thể huy động khả năng phục hồi bằng sự kích

thích quá trình tăng sinh, làm cho hầu hết các cơ quan nội tạng của gia

cầm đều trở lên phì đại, ròn xốp và dễ dập vỡ.

69

Mổ khám gà bị bệnh Leucocytozoon ở khu vực Nam Triều Tiên,

Dong Hun Lee và cs. (2014) cho biết, gà bị xuất huyết ở nhiều cơ quan

như cơ ngực, cơ đùi, thận, tụy, gan và lách.

Kết quả nghiên cứu cho thấy những tổn thương đại thể do đơn bào

Leucocytozoon gây ra trên gà ở hai huyên Cao Lộc và Hữu Lũng tại tỉnh

Lạng Sơn là phù hợp với nhận xét của Lê Văn Nam (2011) và nghiên cứu

của Dong Hun Lee và cs. (2014).

* Tỷ lệ tiêu bản có tổn thương vi thể

Ngoài ký sinh trong máu, đơn bào Leucocytozoon còn ký sinh trong

các cơ quan nội tạng của gà. Để xác định được tổn thương vi thể, chúng

tôi đã làm tiêu bản tổ chức học các cơ quan nội tạng. Tỷ lệ tiêu bản có tổn

thương vi thể được trình bày ở bảng 3.12.

Bảng 3.12. Tỷ lệ tiêu bản có tổn thương vi thể

Số tiêu bản có Nguồn gốc Số tiêu bản Tỷ lệ tổn thương vi tiêu bản nghiên cứu (%) thể

40,00 2 Tim 5

100 5 Gan 5

100 5 Lách 5

100 5 Thận 5

60,00 3 Phổi 5

80,00 20 Tính chung 25

Kết quả xét nghiệm cho thấy:

70

Qua kiểm tra 5 tiêu bản trên 1 loại cơ quan nội tạng cho thấy 80% số

tiêu bản có tổn thương vi thể.

Ở tim: có 2/5 tiêu bản có tổn thương vi thể, chiếm 40%.

Ở gan, lách và thận: tỷ lệ tổn thương vi thể là 100%.

Ở phổi: 3/5 tiêu bản có tổn thương vi thể, chiêm 60%.

Như vậy, gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon có tổn thương vi thể ở cả

5 cơ quan nghiên cứu là tim, gan, lách, thận, phổi. Đây đều là những cơ

quan có

71

* Tổn thương vi thể của gà bị bệnh đơn bào Leucocytozoon

Bảng 3.13. Tổn thương vi thể ở các nội quan và cơ gà

do Leucocytozoon gây ra

Kết quả theo dõi

Bệnh tích vi thể chủ yếu Tỷ lệ % Số tiêu bản có bệnh tích Nguồn gốc tiêu bản

Mô tim xuất huyết Số tiêu bản 2 100 2 Tim Tế bào viêm xâm nhập 1 50,00

Mô gan thoái hóa 2 40,00 5 Gan Mô gan xuất huyết 5 100

Các xoang lách giãn rộng, 3 60,00 chứa đầy tế bào máu 5 Lách Mô lách xuất huyết thoái 4 80,00 hóa

Mô thận xuất huyết 5 100 5 Thận Ống thận giãn rộng 4 80,00

Mô phổi xuất huyết 2 66,67 3 Phổi Phế quản phổi xuất huyết 1 33,33

Bảng 3.13 cho thấy:

Ở tim: có 50 – 100% số tiêu bản xuất hiện bệnh tích, các bệnh tích

xuất hiện là mô tim bị xuất huyết và có hiện tượng xâm nhập tế bào viêm.

Ở gan: 100% tiêu bản có bệnh tích mô gan xuất huyết, 40% tiêu bản

có bệnh tích mô gan thoái hóa.

Ở lách: gà nhiễm Leucocytozoon thường xuất huyết mô lách thoái

hóa, các xoang lách giãn rộng chứa đầy tế bào máu. Tỷ lệ tiêu bản xuất

hiện bệnh tích từ 60 - 80%.

72

Ở thận: xuất hiện bệnh tích mô thận giãn rộng kèm ống thận xuất

huyết. Tỷ lệ xuất hiện bệnh tích từ 80 – 100%.

Ở phổi: 66,67% mô phổi xuất huyết; 33,33% phế quản phổi xuất

huyết.

Như vậy, hầu hết các cơ quan nội tạng của gà nhiễm đơn bào

Leucocytozoon đều bị tổn thương.

3.4. Phòng và trị bệnh Leucocytozoon cho gà

3.4.1. Hiệu lực và độ an toàn của 2 phác đồ điều trị bệnh đơn bào

Leucocytozoon cho gà.

Để xác định phác đồ điều trị bệnh Leucocytozoon hiệu quả cho gà,

chúng tôi đã lựa chọn 2 phác đồ để điều trị bệnh cho gà. Kết quả điều trị

được trình bày ở bảng 3.14.

Bảng 3.14: Hiệu lực của 2 phác đồ điều trị bệnh Leucocytozoon cho gà

Hiệu lực

Trước khi dùng thuốc

Thuốc và liều lượng

Phác đồ điều trị

Tỷ lệ (%)

Số gà nhiễm (con)

Số gà nhiễm (con)

% số hồng cầu có đơn bào (min – max)

Sau khi dùng thuốc 10 ngày % số hồng cầu có đơn bào (min – max)

Số gà sạch đơn bào (con)

30

4 - 12

1

2

29

96,67

1

- Trimethoxin wsp ( 1g/ 1,5 lít nước) - TOP-PHOSRETIC (Giải độc gan) (1g/1 lít nước) - TOP-C 20% (1g/ 2 lít nước) - Vitamino (1ml/ 2 lít nước) - Paradol K + C (hạ sốt) (1g/ 2 lít nước)

30

2 - 12

4

1 - 3

26

86,67

73

2

- SU 99 (1g/ 5 lít nước) - TOP-PHOSRETIC (Giải độc gan) (1g/1 lít nước) - TOP-C 20% (1g/ 2 lít nước) - Vitamino (1ml/ 2 lít nước) - Paradol K + C (hạ sốt) (1g/ 2 lít nước)

An toàn: Số gà an toàn/ số gà dùng thuốc =100%

Kết quả điều trị cho thấy: phác đồ 1 và 2 đều có thể sự dụng điều trị

bệnh cho gà. Hiệu lực điều trị đạt từ 86,67 – 96,67%. Phác đồ 1 với

Trimethoxin wsp (1g/ 1,5 lít nước) cho hiệu lực điều trị cao hơn phác đồ 2

với SU 99 (1g/ 5 lít nước).

- Phác đồ 1: Tiến hành điều trị cho 30 gà, nhiễm ở cường độ từ nhẹ

đến nặng. Cường độ nhiễm đơn bào của gà trước điều trị giao động từ 4 –

12% số hồng cầu bị đơn bào ký sinh. Sau điều trị 10 ngày, kiểm tra lại

máu của những gà điều trị, thấy chỉ còn 1 gà còn đơn bào trong máu, tuy

nhiên cường độ nhiễm giảm chỉ còn 1% số hồng cầu bị đơn bào ký sinh.

Như vậy, hiệu lực của phác đồ 1 là 100%, hiệu lực triệt để đạt 96,67%

- Phác đồ 2: sử dụng điều trị cho 30 gà nhiễm đơn bào

Leucocytozoon với cường độ nhiễm giao động từ 2 - 12 (% hồng cầu có

đơn bào). Sau 10 ngày dùng thuốc, kiểm tra lại máu của 30 gà điều trị

thấy 26 gà trong hồng cầu không còn đơn bào Leucocytozoon, 4 gà còn

đơn bào, số hồng cầu có đơn bào ký sinh đã giảm xuống chỉ còn từ 1 - 3

%. Như vậy, hiệu lực triệt để của phác đồ đạt 86,67%.

Theo dõi gà trước khi dùng thuốc, sau đó theo dõi các phản ứng của

gà trong và sau khi dùng thuốc. Kết quả về độ an toàn của các phác đồ

điều trị bệnh Leucocytozoon cho gà là 100%.

74

3.4.2. Đề xuất biện pháp phòng bệnh Leucocytozoon cho gà

Từ kết quả điều tra và điều trị bệnh Leucocytozoon cho gà, chúng tôi

đề xuất một số biện pháp phòng bệnh Leucocytozoon cho gà như sau:

1. Diệt đơn bào Leucocytozoon trên cơ thể gà

Khi đàn gà có triệu chứng và bệnh tích của bệnh Leucocytozoon

(mào, tích nhợt nhạt, gày yếu, ủ rũ, vận động chậm chạp, kém ăn, ỉa chảy

phân có màu xanh lá cây, cơ xuất huyết, gan sưng, mềm nhũn, dễ vỡ và

xuất huyết, máu loãng, khó đông, thận, lách sưng và xuất huyết, chất chứa

dọc đường tiêu hóa có màu xanh lá cây) phải tiến hành điều trị cho cả đàn

bằng phác đồ gồm: Trimethoxin wsp (1g/ 1,5 lít nước), TOP-

PHOSRETIC (Giải độc gan) liều 1g/1 lít nước, TOP-C 20% ( 1g/ 2 lít

nước), Vitamino (1ml/ 2 lít nước), Paradol K + C (hạ sốt) (1g/ 2 lít nước);

cho uống trong 5 ngày liên tục.

2. Diệt ký chủ trung gian truyền bệnh

- Xây dựng chuồng trại đảm bảo vệ sinh thú y, cách xa khu vực ao, hồ,

đầm.

- Bãi chăn thả có cây bóng mát, có thể làm lán tạm để treo thêm

máng ăn và máng uống cho gà trong thời gian chăn thả. Khu vực vườn

chăn thả phải san lấp bằng phẳng, dễ thoát nước, không có vũng nước tù

đọng, không có phân rác bẩn, định kỳ thu dọn lông gà vương vãi trên bề

mặt vườn.

- Định kỳ 1 lần/ tháng phát quang cây cỏ, cuốc xới, rắc vôi, khơi thông

cống rãnh để môi trường chăn nuôi gà luôn sạch sẽ, khô ráo.

- Định kỳ phun thuốc chống côn trùng để diệt dĩn hút máu.

- Thu gom phân, rác và đệm lót ở nền chuồng, xung quanh chuồng

và vườn chăn thả gà, ủ để diệt trứng của các loài dĩn.

3. Vệ sinh chuồng trại và vườn chăn thả gà

75

4. Thực hiện tốt nguyên tắc “cùng vào, cùng ra”, để trống chuồng sau

mỗi đợt xuất bán gà, tiến hành vệ sinh, sát trùng tiêu độc cẩn thận trước khi

nhập đàn gà mới.

5. Tăng cường chăm sóc, nuôi dưỡng đàn gà

Tăng cường chăm sóc nuôi dưỡng gà, nhằm nâng cao sức đề kháng

của gà đối với bệnh đơn bào Leucocytozoon.

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

1. Kết luận

1.1. Về đặc điểm dịch tễ

Gà ở hai huyện Cao Lộc và huyện Hữu Lũng nghiên cứu đều nhiễm

Leucocytozoon.

Tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tại huyện Cao Lộc là

20,4%; trong đó cường độ nhiễm nặng là 13,73%, huyện Hữu Lũng tỷ lệ

nhiềm là 16,4%; trong đó cường độ nhiễm nặng là 14,63%.

Tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tăng cao vào mùa Hè và

mùa Thu so với mùa Đông và mùa Xuân (25,19% và 21,74% so với

9,82% và 14,78%), trong đó cường độ nhiễm lần lượt là 17,65% và

13,33% so với 11,76% và 9,09%.

Tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon tăng dần theo tuổi của gà, cao nhất là gà

trên 6 tháng tuổi (25,44%), trong đó cường độ nhiễm là 17,24%.

76

Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà được nuôi ở tình trạng

vệ sinh thú y tốt thấp hơn nhiều gà được nuôi ở tình trạng vệ sinh thú y

kém.

Dĩn thường hoạt động tần suất cao vào khoảng tháng 5 đến tháng 7 và

từ 8 giờ đến 18 giờ trong ngày.

1.2. Bệnh Leucocytozoon ở gà tại huyện Cao Lộc và huyện Hữu Lũng

tại tỉnh Lạng Sơn.

Định danh được 01 loài đơn bào thuộc giống Leucocytozoon gây

bệnh cho gà tại huyện Cao Lộc và huyện Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn là L.

caulleryi

Triệu chứng điển hình ở gà mắc bệnh do đơn bào Leucocytozoon gây

ra như: thiếu máu, mào tích nhợt nhạt, ủ rũ, kém ăn, gày yếu, ỉa chảy phân

màu xanh lá cây.

Bệnh tích chủ yếu của gà bị nhiễm đơn bào Leucocytozoon là: xuất

huyết ở cơ, gan, thận, lách, phổi, ruột; thận, gan và lách sưng.

Các cơ quan nội tạng của nhiễm đơn bào Leucocytozoon đều có tổn

thương vi thể rõ rệt: mô tim, mô phổi và phế nang phổi xuất huyết, xoang

lách giản rộng, mô gan thoái hóa và xuất huyết. mô thận xuất huyết.

1.3. Biện pháp phòng trị bệnh Leucocytozoon cho gà

Hiệu lực điều trị bệnh Leucocytozoon của 2 phác đồ đạt từ 86,67 –

96,67%. Trong đó, phác đồ 1 gồm Trimethoxin wsp (1g/ 1,5 lít nước) kết

hợp với hạ sốt, trợ sức trợ lực, giải độc gan thận… cho hiệu lực điều trị

cao nhất, đồng thời rất an toàn với gà.

2. Đề nghị

Các hộ chăn nuôi gà cần thực hiện các biện pháp phòng bệnh

Leucocytozoon cho gà như: chuồng trại xây ở nơi khô ráo, thoáng mát,

cách xa ao, hồ, đầm; thường xuyên vệ sinh chuồng trại và khu vực xung

77

quanh chuồng trại; khơi thông cống rãnh, phát quang bụi rậm; định kỳ

phun thuốc tiêu diệt dĩn – véc tơ truyền bệnh; tăng cường công tác chăm

sóc nuôi dưỡng để nâng cao sức đề kháng cho đàn gà.

Sử dụng phác đồ 1 để điều trị cho gà nhiễm hoặc có nguy cơ nhiễm đơn

bào Leucocytozoon.

78

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn (2016), Thông tư quy định về

kiểm soát giết mổ và kiểm tra vệ sinh thú y (số 09/2016/TT-BNNPTNT

ngày 01/6/2016).

2. Nguyễn Xuân Bình, Trần Xuân Hạnh, Tô Thị Phấn (2002), 66 bệnh gia

cầm và cách phòng trị, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, tr, 3,

3. Dương Thị Hồng Duyên, Nguyễn Thị Kim Lan, Lê Văn Năm, Nguyễn

Đình Hải (2015), “Tình hình nhiễm đơn bào đường máu Leucocytozoon

spp. ở gà tại tỉnh Thái Nguyên và Bắc Giang”, Tạp chí Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn, số 273, tr. 88 – 92.

4. Dương Thị Hồng Duyên, Nguyễn Thị Kim Lan, Lê Văn Năm (2018),

“Bệnh do Leucocytozoon ở gà tại tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang”, Tạp

chí Khoa học Kỹ thuật thú y, Tập XXV, số 7, tr. 63 – 71.

5. Nguyễn Xuân Hoạt, Phạm Đức Lộ (1980), Tổ chức phôi thai học, Nxb

Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, tr. 162, 172, 184 - 185.

6. Lương Văn Huấn, Lê Hữu Khương (1997), Ký sinh và bệnh ký sinh ở gia

súc gia cầm (tập II, phần động vật chân đốt và nguyên bào), Nxb Viện

Đại học Quốc gia Tp, Hồ Chí Minh, tr, 413 – 414,

7. Nguyễn Hữu Hưng (2011), “Khảo sát tình hình nhiễm ký sinh trùng

đường máu trên gà thịt tại hai tỉnh Vĩnh Long và Sóc Trăng”, Tạp chí

khoa học kỹ thuật thú y, tập XVIII, số 4, tr, 44 – 48,

8. Lâm Thị Thu Hương (2005), “Khảo sát bệnh tích đại thể và vi thể trên gà nhiễm

Leucocytozoon”, Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, tập XII, số 5, tr, 39 - 44,

9. Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996), Ký sinh trùng thú y, Nxb Nông

Nghiệp, Hà Nội, tr. 287.

79

10. Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Quang Tuyên (1999),

Giáo trình ký sinh trùng thú y, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, tr, 181 - 183,

11. Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Thị Lê, Phạm Sỹ Lăng, Nguyễn Văn Quang

(2008), Ký sinh trùng học thú y (giáo trình dùng cho bậc cao học), Nxb

Nông Nghiệp, Hà Nội, tr, 118 - 119,

12. Nguyễn Thị Kim Lan, Phạm Sỹ Lăng, Nguyễn Văn Quang, Lê Minh

(2009), Các bệnh phổ biến gây hại cho gia cầm và biện pháp phòng trị,

Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, tr, 118 – 120,

13. Nguyễn Thị Kim Lan (2012), Ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng, Nxb

Nông Nghiệp, Hà Nội, tr, 267 – 272,

14. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (2002), Bệnh ký sinh trùng ở gia cầm và

biện pháp phòng trị, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, tr, 3,

15. Phạm Sỹ Lăng, Tô Long Thành, Cù Hữu Phú, Nguyễn Hoài Nam (2005),

Bệnh mới ở gia cầm và kỹ thuật phòng trị, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội,

tr, 149 - 154,

16. Phạm Sỹ Lăng, Tô Long Thành (2006), Bệnh đơn bào ký sinh ở vật nuôi,

Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, tr, 111 - 114,

17. Phạm Sỹ Lăng, Hoàng Văn Năm, Bạch Quốc Thắng (2008), Sổ tay thầy

thuốc thú y ( tập II), Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, tr, 105 - 108,

18. Phạm Sỹ Lăng, Nguyễn Thị Kim Lan, Lê Ngọc Mỹ, Nguyễn Thị Kim

Thành, Nguyễn Văn Thọ, Chu Đình Tới (2009), Ký sinh trùng và bệnh

ký sinh trùng ở vật nuôi, Nxb Giáo dục Hà Nội, tr, 18 - 19,

19. Phạm Sỹ Lăng (2010), 10 bệnh quan trọng của gia cầm, Nxb Nông

Nghiệp, Hà Nội, tr, 138 – 144,

20. Phạm Sỹ Lăng, Nguyễn Bá Hiên, Trần Xuân Hạnh, Nguyễn Hữu Hưng,

Huỳnh Thị Mỹ Lệ, Lê Ngọc Mỹ, Phạm Quang Thái, Phạm Ngọc

Thạch, Đỗ Ngọc Thúy, Nguyễn Văn Thọ (2011), Bệnh gia cầm ở Việt

Nam, Nxb Nông nghiệp Hà Nội, tr. 246 - 251.

80

21. Hồ Văn Nam (1982), Giáotrình chẩn đoán bệnh không lây ở gia súc, Nxb

Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 82 - 84.

22. Lê Văn Năm (2011), “Bệnh do ký sinh trùng Leucocytozoon”, Tạp chí

khoa học kỹ thuật thú y, tập XVIII, số 4, tr, 77 – 84,

23. Orlov F, M (1975), Bệnh gia cầm (tập 1) (Nguyên Phát dịch), Nxb Khoa

học kỹ thuật, tr, 368 – 375,

24. Lê Đức Quyết, Nguyễn Đức Tân, Lê Hứa Ngọc Lực, Huỳnh Vũ Vỹ,

Nguyễn Văn Thoại, Nguyễn Thị Sâm (2009), “Điều tra tình hình nhiễm

đơn bào Leucocytozoon trên gà tại một số tỉnh Nam Trung Bộ”, Tạp chí

khoa học kỹ thuật thú y, tập XVI, số 5, tr, 62 - 68,

25. Hoàng Thạch (2004), “Bước đầu tìm hiểu tình hình nhiễm Leucocytozoon

trên đàn gà nuôi tại TP, Hồ Chí Minh”, Tạp chí khoa học kỹ thuật thú

y, tập XI, số 3, tr, 60 - 61,

26. Nguyễn Như Thanh (2001), Dịch tễ học thú y, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

27. Đoàn Thị Thảo, Trần Đức Hoàn, Nguyễn Hữu Nam, Nguyễn Vũ Sơn

(2014), “Một số chỉ tiêu của gà mắc bệnh cầu trùng thực nghiệm”, Tạp

chí Khoa học và Phát triển, tập 12, số 4, tr. 567 - 573.

28. Chu Đức Thắng, Hồ Văn Nam, Phạm Ngọc Thạch (2008), Giáo trình

Chẩn đoán bệnh gia súc, Nxb Nông nghiệp Hà Nội, tr. 111 - 157.

29. Hoàng Toàn Thắng, Cao Văn (2006), Giáo trình sinh lý học vật nuôi, Nxb

Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 77 - 94.

30. Nguyễn Văn Thiện (2008), Thống kê sinh vật học ứng dụng trong chăn

nuôi, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội,

31. Trịnh Văn Thịnh, Phạm Xuân Dụ, Phạm Văn Khuê, Phan Địch Lân, Bùi

Lập, Dương Công Thuận (1978), Công trình nghiên cứu ký sinh trùng ở

Việt Nam (tập II), Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội, tr. 80 - 82.

32. Hoàng Văn Tiến, Trịnh Hữu Bằng, Bùi Đức Lũng, Nguyễn Tuấn Anh, Lê

Viết Ly, Lê Văn Thọ (1995), Sinh lý gia súc, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội,

tr. 142 - 143.

81

33. Dương Công Thuận (1995), Phòng và trị bệnh ký sinh trùng cho gà nuôi

gia đình, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, tr, 3,

34. Cao Văn, Hoàng Toàn Thắng (2006), Sinh lý học gia súc, Nxb Nông

Nghiệp, Hà Nội, tr. 67 - 72.

35. Viện Thú y Quốc gia - Tổ chức hợp tác Quốc tế Nhật Bản (2001), Tập

ảnh mầu về bệnh gia súc, Dự án tăng cường năng lực thú y viên thú y

Quốc gia, Phòng vệ sinh gia súc, Cục chăn nuôi bộ Nông Lâm Ngư

Nghiệp Tokyo Nhật Bản, tr, 82,

36. Viện thú y Quốc gia (2002), Cẩm nang chẩn đoán tiêu chuẩn về các bệnh gia

súc ở Việt Nam – Dự án tăng cường năng lực nghiên cứu, tr, 196 – 197,

Tài liệu tiếng anh

Topchiyeva S. A. (2019), “Leucocytozoonosis in Chickens (Gallus Gallus

Domesticus)”, Institute of Zoology National Academy of sciences of

Azerbaijan, Azerbaijan, 3(2), pp. 110 – 112.

37. Аhmadov E. I., Hasanova J. V., Mammadova F. Z., Samadova S. O.,

38. Argilla L. S., Howe L., Gartrell B. D., Alley M. R. (2013), “High

prevalence of Leucocytozoon spp. in the endangered yellow-eyed

penguin (Megadyptes antipodes) in the sub-Antarctic regions of New

Zealand”, Parasitology 140 (5), pp. 672 - 682.

39. Astudillo V. G., Hernández S. M., Kistler W. M., Boone S. L., Lipp E.

K., Shrestha S., Yabsley M. J. (2013), “Spatial, temporal, molecular,

and intraspecific differences of haemoparasite infection and relevant selected

physiological parameters of wild birds in Georgia, USA”, International

Journal for Parasitology: Parasites and Wildlife, pp. 178 - 189.

40. Dong Hun Lee, Jun Hyuk Jang, Byoung Yoon Kim, Yong Kuk Kwon,

Susantha Gomis, Joong Bok Lee, Seung Yong Park, In Soo Choi, and

Chang Seon Song (2014), “Diagnosis of Leucocytozoon

caulleryi infection in commercial broiler breeders in South Korea”,

Avian Diseases 58(1), pp. 183 - 186.

82

41. Dezfoulian O., Zibaei M., Nayebzadeh H., Haghgoo M., Emami Razavi

A., Kiani K. (2013), “Leucocytozoonosis in domestic birds in

southwestern iran: an ultrastructural study”, Iranian Journal

of Parasitology 8(1), pp. 171 - 176.

42. Dunn J. C., Goodman S. J., Benton T. G., Hamer K. C. (2014), “Active

blood parasite infection is not limited to the breeding season in a declining

farmland bird”, Journal of Parasitology In-Press., pp. 213 - 256.

43. Elahi R., Islam A., Hossain M. S., Mohiuddin K., Mikolon A., Paul S.

K., Hosseini P. R., Daszak P., Alam M. S. (2014), “Prevalence and

diversity of avian haematozoan parasites in wetlands of Bangladesh”,

Journal of Parasitology Research, pp. 1 - 12.

44. Eldridge B, F,, Adman J, D, (2004), Medical Entomology, Kluwer

Academic Publishers, pp, 451 – 649,

45. Hill A. G., Howe L., Gartrell B. D., Alley M. R. (2010), “Prevalence of

Leucocytozoon spp. in the endangered yellow-eyed penguin

Megadyptes antipodes”, Journal of Parasitology, 137 (10), pp. 77 – 85.

46. Hellgren O., Waldenstrom J., Bensch S. (2004), “A new PCR assay for

simultaneous studies of Leucocytozoon, Plasmodium and

Haemoproteus from

avian blood”, Journal of Parasitology, 90(4), pp. 797 - 802.

47. Hellgren O., Wood M. J., Waldenstrom J., Hasselquist D., Ottosson U.

Stervander M., Bensch S. (2013), “Circannual variation in blood

parasitism in a sub-Saharan migrant passerine bird, the garden

warbler”, Journal of Evolutionary Biology, 26 (5), pp. 1047 - 1059.

48. Huchzermeyer F. W., Sutherland B. (1978), “Leucocytozoon smithi in

South African Turkeys”, Avian Pathology, 7 (4), pp. 645 - 649.

49. Imura T., Suzuki Y., Ejiri H., Sato Y., Ishida K., Sumiyama D., Murata

K., Yukawa M. (2012), “Prevalence of avian haematozoa in wild birds

in a high-altitude forest in Japan”, Veterinary Parasitology, 183 (3 - 4),

pp. 244 - 248.

83

50. Morii T., Massui T., Iijima T., Fiotnaoa F. (1984), “Infectivity of

Leucocytozoon caulleryi sporozoites developed in vitro and in vivo”,

International Journal for Parasitology, 14 (2), pp. 135 – 139.

51. Matta N. E., Lotta I. A., Valkiūnas G., González A. D., Pacheco M. A.,

Escalante A. A., Moncada L. I., Rodríguez Fandiño O. A. (2014),

“Description of Leucocytozoon quynzae spp. (Haemosporida,

Leucocytozoidae) from humming birds, with remarks on distribution and

possible vectors of Leucocytozoids in South America”,

Parasitology Research, 113 (2), pp. 457 - 468.

52. Martinsen E. S., Blumberg B. J., Eisen R. J., Schall J. J. (2008), “Avian

haemosporidian parasites from Northern California oak woodland and

chaparral habitats”, Journal of wildlife diseases, 44 (2), pp. 260 - 268.

53. Wenting Zhao, Jianwen Liu, Ruixue Xu, Cui Zhang, Qin Pang, Xin Chen,

Shengfa Liu, Lingxian Hong, Jing Yuan, Xiaotong Li, Yixin Chen, Jian

Li, Xin-zhuan Su (2015), “The Gametocytes of Leucocytozoon

sabrazesi infect chicken thrombocytes, not other blood cells”, PloS one,

pp. 1317.

54. William H. Marquardt (2004), Biology of Disease Vectors, Academic

Press, pp. 125.

55. Yoshimura A., Koketsu M., Bando H., Saiki E., Suzuki M., Watanabe Y.,

Kanuka H., Fukumota S. (2014), “Phylogenetic compasison of avian

haemosporidian parasites from resident and migratory birds in northern

Japan”, Journal of wildlife diseases, pp. 235 - 242.