ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
NGUYỄN CAO CƯỜNG
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA BỆNH DO LEUCOCYTOZOON SPP. GÂY RA Ở GÀ THẢ VƯỜN TẠI TỈNH LẠNG SƠN VÀ THỬ NGHIỆM
PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ
LLUUẬẬNN VVĂĂNN TTHHẠẠCC SSĨĨ TTHHÚÚ YY
Thái Nguyên, năm 2020
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
NGUYỄN CAO CƯỜNG
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA BỆNH DO LEUCOCYTOZOON SPP. GÂY RA Ở GÀ THẢ VƯỜN TẠI TỈNH LẠNG SƠN VÀ THỬ NGHIỆM
PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ Ngành: Thú y
Mã số: 8 64 01 01
LLUUẬẬNN VVĂĂNN TTHHẠẠCC SSĨĨ TTHHÚÚ YY
Người hướng dẫn khoa học: TS. Dương Thị Hồng Duyên
Thái Nguyên, năm 2020
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là hoàn toàn trung thực và chưa hề sử dụng cho một học vị nào. Mọi
sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn. Các thông
tin, tài liệu trình bày trong luận văn này được ghi nguồn gốc trong phần
phụ lục.
Thái Nguyên, tháng 08 năm 2020
Tác giả
Nguyễn Cao Cường
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, ngoài sự nỗ lực phấn đấu của
bản thân, tôi còn nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của nhiều cá
nhân, đơn vị và tập thể khác.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên, Ban Chủ nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y cùng toàn thể
các thầy, cô giáo trong khoa Chăn nuôi Thú y đã tận tình giảng dạy và
giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập tại trường.
Nhân dịp này, cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn và cảm ơn chân
thành tới cô giáo TS. Dương Thị Hồng Duyên người đã tận tình hướng
dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt thời gian thực tập, giúp tôi hoàn thành bản luận
văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ, công
nhân viên tại Chi cục Kiểm dịch động vật vùng Lạng Sơn đã tạo điều kiện
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Qua đây, tôi cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, người
thân và bạn bè đã luôn ủng hộ, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt thời
gian học tập và thực hiện luận văn khoa học này.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày tháng 10 năm 2020
Tác giả
Nguyễn Cao Cường
iii
LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ ii
MỤC LỤC ................................................................................................................. iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT................................................................................... v
DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................ vi
DANH MỤC CÁC HÌNH ....................................................................................... vii
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1
2. Mục tiêu đề tài ......................................................................................................... 2
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài ................................................... 3
Chương 1.TỔNG QUAN TÀI LIỆU .......................................................................... 4
1.2. Đặc điểm của đơn bào Leucocytozoon ký sinh ở gà............................................ 5
1.3. Bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà .................................................................... 11
1.3.7 Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước ...................................................... 19
1.3.7.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước .............................................................. 19
1.3.7.2. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước ............................................................. 21
Chương 2.ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
................................................................................................................................... 26
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 26
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................... 26
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu ...................................................................................... 26
2.2. Vật liệu nghiên cứu ............................................................................................ 26
2.3. Nội dung nghiên cứu .......................................................................................... 27
2.3.1. Thành phần loài đơn bào Leucocytozoon gây bệnh ở gà tại Lạng Sơn ........... 27
2.3.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà tại Lạng Sơn ................ 27
2.3.3. Nghiên cứu bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà tại Lạng Sơn ........................ 27
2.3.4. Nghiên cứu biện pháp trị bệnh ........................................................................ 28
2.4. Bố trí thí nghiệm và phương pháp nghiên cứu................................................... 28
MỤC LỤC
2.4.1. Phương pháp bố trí theo dõi xác định loài Leucocytozoon ký sinh
ở gà tại Lạng Sơn ...................................................................................................... 28
2.4.2. Bố trí lấy mẫu và phương pháp xác định tỷ lệ, cường độ nhiễm
Leucocytozoon ở gà .................................................................................................. 28
2.4.3. Phương pháp xác định quy luật hoạt động của dĩn – véc tơ truyền bệnh
Leucocytozoon cho gà ............................................................................................... 31
2.4.4. Phương pháp bố trí theo dõi và xác định đặc điểm bệnh lý, lâm sàng bệnh
Leucocytozoon ở gà .................................................................................................. 32
2.4.5. Phương pháp đánh giá hiệu lực và độ an toàn của 02 phác đồ điều trị bệnh
Leucocytozoon cho gà ................................................................................................ 34
2.5. Phương pháp xử lý số liệu .................................................................................. 35
Chương 3.KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ................................................................. 37
3.1. Thành phần loài đơn bào Leucocytozoon gây bệnh ở gà tại Lạng Sơn ............. 37
3.2. Một số đặc điểm dịch tễ bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà tại
Lạng Sơn ................................................................................................................... 39
3.2.1. Tình hình nhiễm đơn bào đường máu Leucocytozoon ở gà ........................... 39
3.2.2. Nghiên cứu đặc điểm hoạt động của dĩn – véc tơ truyền Leucocytozoon cho gà . 56
3.3. Bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà tại Lạng Sơn .............................................. 59
3.3.1. Đặc điểm lâm sàng bệnh Leucocytozoon ở gà tại Lạng Sơn .......................... 59
3.3.2. Một số chỉ số máu của gà mắc bệnh Leucocytozoon ...................................... 61
3.3.3. Tổn thương của gà bị bệnh đơn bào Leucocytozoon ...................................... 67
3.4. Phòng và trị bệnh Leucocytozoon cho gà .......................................................... 72
3.4.1. Hiệu lực và độ an toàn của 2 phác đồ điều trị bệnh đơn bào
Leucocytozoon cho gà. .............................................................................................. 72
3.4.2. Đề xuất biện pháp phòng bệnh Leucocytozoon cho gà .................................. 74
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ....................................................................................... 75
1. Kết luận ................................................................................................................. 75
2. Đề nghị .................................................................................................................. 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 78
iv
v
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
C. arakawa Culicoides arakawa :
Cộng sự cs. :
Gam g :
Ký chủ trung gian KCTG :
Leucocytozoon caullergyi L. caullergyi :
Leucocytozoon sabrazeis L. sabrazeis :
Dung lượng mẫu n :
Nhà xuất bản Nxb :
Femtolit fl :
Độ tin cậy P :
Simulium S. :
Species pluralis spp. :
Thể trọng TT :
Vệ sinh thú y VSTY :
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Thành phần loài Leucocytozoon gây bệnh ở gà tại Lạng Sơn ................ 37
Bảng 3.2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo địa phương ........... 39
Bảng 3.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo mùa ....................... 47
Bảng 3.4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo tuổi ........................ 50
Bảng 3.5. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo tình trạng vệ
sinh thú y ....................................................................................................................... 53
Bảng 3.6. Quy luật hoạt động của các loài dĩn theo tháng trong năm
Tháng dĩn hoạt động .................................................................................................... 56
Bảng 3.7. Quy luật hoạt động trong ngày của các loài dĩn ....................................... 58
Bảng 3.8. Tỷ lệ và các triệu chứng lâm sàng của gà mắc bệnh đơn bào
Leucocytozoon .............................................................................................................. 59
Bảng 3.9. Sự thay đổi một số chỉ số máu của gà bệnh so với gà khỏe ................... 61
Bảng 3.10. So sánh công thức bạch cầu của gà khỏe và gà bệnh ............................ 64
Bảng 3.11. Bệnh tích đại thể của gà bị bệnh đơn bào Leucocytozoon .................... 67
Bảng 3.12. Tỷ lệ tiêu bản có tổn thương vi thể ......................................................... 69
Bảng 3.13. Tổn thương vi thể ở các nội quan và cơ gà ............................................ 71
Bảng 3.14: Hiệu lực của 2 phác đồ điều trị bệnh Leucocytozoon cho gà ............... 72
vii
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 3.1. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tại huyện
Cao Lộc ............................................................................................. 42
Hình 3.2. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tại huyện
Hữu Lũng .......................................................................................... 43
Hình 3.3, 3.4. Biểu đồ cường độ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà
tại huyện Cao Lộc và huyện Hữu Lũng ............................................ 45
Hình 3.5. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tại huyện
Hữu Lũng và huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn theo mùa ....................... 50
Hình 3.6. Đồ thị tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tại huyện
Hữu Lũng và huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn theo tuổi ................... 53
Hình 3.7. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tại huyện
Hữu Lũng và huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn theo tình trạng
vệ sinh thú y ...................................................................................... 56
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế phát triển kinh tế hiện nay, ngành chăn nuôi đã và đang
góp phần rất lớn vào việc cung cấp thực phẩm, nâng cao chất lượng bữa
ăn hằng ngày cho con người. Tuy nhiên, một trong những trở ngại lớn đối
với công tác chăn nuôi là dịch bệnh thường xuyên xảy ra gây nhiều thiệt
hại làm hạn chế sự phát triển của ngành. Vì thế việc phòng trị bệnh cho
vật nuôi được đặc biệt chú trọng, không chỉ các bệnh truyền nhiễm được
phòng bệnh bằng tiêm phòng vắc xin mà các bệnh ký sinh trùng cũng
được người chăn nuôi hết sức quan tâm phòng trị. Bệnh ký sinh trùng là
một trong các loại bệnh phổ biến ở vùng khí hậu nhiệt đới ẩm như nước
ta, vì nóng và ẩm là hai điều kiện thuận lợi cho ký sinh trùng phát triển.
Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp, hơn 48% dân số gắn với hai
ngành sản xuất chính là chăn nuôi và trồng trọt. Trong đó, chăn nuôi đã và
đang trở thành ngành mũi nhọn trong sản xuất nông nghiệp, góp phần
quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong những năm trở lại đây, chăn nuôi gia cầm tương đối phát triển,
được Đảng và Nhà nước quan tâm. Tuy nhiên, vấn đề vệ sinh thú y trong
chăn nuôi gà chưa được quan tâm đúng mức, dịch bệnh thường xảy ra,
gây trở ngại cho việc phát triển chăn nuôi, dẫn đến thiệt hại kinh tế cho
nhiều gia đình và cơ sở chăn nuôi gà.
Theo Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (2002), ngành chăn nuôi gia cầm
nước ta còn nhiều khó khăn do dịch bệnh thường xảy ra, trong đó trước tiên
phải kể đến bệnh ký sinh trùng. Đàn gia cầm quanh năm thường nhiễm ký
sinh trùng với tỷ lệ và cường độ cao, gây thiệt hại kinh tế đáng kể cho các
nông hộ và trang trại chăn nuôi.
Đất nước ta nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới nóng ẩm mưa nhiều
có hệ động, thực vật phong phú và vô cùng đa dạng, thích hợp cho nhiều
2
loài ký sinh trùng phát triển, ký sinh và gây bệnh. Trong các bệnh ký sinh
trùng ở gà, có những bệnh do nhóm đơn bào ký sinh gây ra, chúng chiếm
đoạt chất dinh dưỡng, tiết độc tố và gây ra những biến đổi bệnh lý làm cho
gà gầy yếu, chậm lớn, giảm mạnh sức sản xuất thịt, trứng, trong đó có
bệnh đơn bào đường máu Leucocytozoon.
Leucocytozoon thuộc nhóm nguyên sinh động vật, thuộc bộ huyết
bào tử trùng (Heamosporidia) ký sinh trong máu và cơ quan nội tạng của
nhiều loài gia cầm, trong đó gà là loài mẫn cảm nhất, đặc biệt là gà được
nuôi theo phương thức chuồng hở.
Bệnh do Leucocytozoon ở gà đã được phát hiện ở nhiều nước Châu Á.
Bệnh làm giảm khả năng sản xuất thịt và trứng của gà; giảm số lượng, trọng
lượng trứng và tỷ lệ ấp nở của trứng (Takashi Isobe và cs, 1998; Saif Y. M. và
cs, 2003).
Lạng Sơn là tỉnh miền núi phía Bắc có điều kiện thuận lợi cho chăn
nuôi gà phát triển, đặc biệt là chăn nuôi gà thả vườn. Việc phòng bệnh
bằng vắc xin đã được người dân thực hiện khá nghiêm ngặt, tuy nhiên một
số đàn gà vẫn xuất hiện các triệu chứng như ỉa phân xanh, mặt tái, gà
thiếu máu, gầy yếu. Mổ khám thấy chất chứa trong diều, dạ dày, ruột có
màu xanh, gan sưng to, lách sưng và xuất huyết, cơ đùi xuất huyết. Vấn đề
là những đàn gà đó mắc bệnh có phải do đơn bào Leucocytozoon gây ra?
Vì vậy, việc nghiên cứu xác định sự tồn tại và gây bệnh của đơn bào
Leucocytozoon trên đàn gà tại tỉnh Lạng Sơn để có biện pháp phòng trị hiệu
quả là rất cần thiết. Xuất phát từ nhu cầu cấp bách của thực tế chăn nuôi gà
chúng tôi thực hiện đề tài: "Nghiên cứu một số đặc điểm của bệnh do
Leucocytozoon spp. ở gà thả vườn tại tỉnh Lạng Sơn và thử nghiệm phác
đồ điều trị”.
2. Mục tiêu đề tài
3
- Xác định được các loài Leucocytozoon gây bệnh cho gà và đặc điểm
dịch tễ bệnh do Leucocytozoon gây ra ở đàn gà của một số địa phương thuộc
tỉnh Lạng Sơn.
- Xác định đặc điểm bệnh lý, lâm sàng của bệnh Leucocytozoon ở gà
tại một số địa phương thuộc tỉnh Lạng Sơn.
- Lựa chọn phác đồ điều trị bệnh Leucocytozoon có hiệu quả cho gà.
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu đề tài để có những thông tin khoa học về đặc điểm dịch
tễ, bệnh lý và lâm sàng bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà tại tỉnh Lạng
Sơn, đồng thời có cơ sở khoa học để xây dựng quy trình phòng trị bệnh
đơn bào Leucocytozoon cho gà có hiệu quả cao.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài là cơ sở để khuyến cáo người chăn nuôi gà áp
dụng các biện pháp phòng trị bệnh đơn bào Leucocytozoon, nhằm hạn chế
tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon cho gà, hạn chế thiệt hại do Leucocytozoon
gây ra, góp phần nâng cao năng suất chăn nuôi, thúc đẩy chăn nuôi gà nói
riêng và chăn nuôi gia cầm nói chung phát triển.
4
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Ký sinh trùng là những sinh vật sinh trưởng và phát triển trong hoặc
trên cơ thể một sinh vật khác - gọi là ký chủ, chiếm đoạt chất dinh dưỡng
của ký chủ mà nó ký sinh. Trong phân loại học, dựa theo cấu trúc cơ thể
của ký sinh trùng mà người ta chia những ký sinh trùng động vật ra làm 3
ngành: nguyên trùng, giun sán và tiết túc. Trong đó, nguyên trùng là ký
sinh trùng đơn bào (protozoa), cơ thể chỉ gồm một tế bào, thường ký sinh
trong máu (Trypanosoma, Histomonas, Leucocytozoon…) hoặc trong ruột
ký chủ (cầu trùng) (Dương Công Thuận, 1995).
Bệnh do đơn bào Leucocytozoon gây ra có ở nhiều nước trên thế
giới. Tỷ lệ lưu hành Leucocytozoon trên đàn gà ở một số nước Châu Á
khá cao: ở Trung Quốc (7,1%), Thái Lan (13 - 18%), Malaysia (15 - 31%).
Leucocytozoon ký sinh trong hồng cầu gà, đôi khi ký sinh trong bạch cầu
(tùy theo loài), làm tan vỡ hồng cầu, gây bần huyết và gây chết gà với tỷ
lệ cao, ảnh hưởng đến thu nhập của người chăn nuôi gà. Bệnh cũng được
phát hiện ở nhiều loài chim hoang dã.
1.1. Sơ lược điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng tại tỉnh
Lạng Sơn
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi, biên giới, thuộc vùng Đông
Bắc với diện tích tự nhiên 8.310,09 km2, nằm ở vị trí đường quốc lộ
1A, 1B, 4A, 4B, 279 đi qua, là điểm nút của sự giao lưu kinh tế với
các tỉnh phía Tây như Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Kạn, phía Đông
như tỉnh Quảng Ninh, phía Nam như Bắc Giang, Bắc Ninh, thủ đô Hà
Nội và phía Bắc tiếp giáp với Trung Quốc.
* Địa hình:
Huyện Cao Lộc nằm ở phía đông bắc tỉnh Lạng Sơn, có diện tích
643,8 km², Cao Lộc có địa hình cao nhất trong số các huyện thị của tỉnh
Lạng Sơn, độ cao trung bình của toàn huyện khoảng 260m. Khu vực có
5
địa hình thung lũng là nơi cư trú và sản xuất của hàng nghìn hộ dân cư
trong huyện.
Huyện Hữu Lũng là huyện miền núi nằm ở phía Nam của thành phố
Lạng Sơn, có diện tích 804 km². Hữu Lũng thuộc vùng núi thấp của tỉnh
Lạng Sơn, địa hình được phân chia rõ giữa vùng núi đá và vùng núi đất.
Phần lớn diện tích ở vùng núi đá vôi.
*Khí hậu: Khí hậu của huyện Cao Lộc và Hữu Lũng chia bốn mùa rõ rệt, nhiệt độ trung bình năm từ 21 - 22,70C, nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất 270C - 320C, nhiệt độ trung bình mùa đông là 130C, nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất 90C, có nơi, có ngày nhiệt độ xuống dưới -10C. Độ ẩm trung bình cả năm là 82%.
*Điều kiện kinh tế - xã hội:
Đặc điểm kinh tế - xã hội của hai huyện Cao Lộc và Hữu Lũng mang
nét đặc trưng của các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam. Dân số hai huyện
201.608 người với thành phần dân tộc đa dạng như: Tày, Nùng, Kinh,
Dao, Hoa… tương ứng với nhiều văn hóa, phong tục tập quán cũng như
phương thức canh tác và chăn nuôi khác nhau.
1.2. Đặc điểm của đơn bào Leucocytozoon ký sinh ở gà
1.2.1. Vị trí của đơn bào Leucocytozoon trong hệ thống phân loại động vật
Đơn bào nói chung là những nguyên sinh động vật không có khí
quan di động, thân thể khi thì trần và có thể biến dạng được, khi thì có
màng bọc và có hình dạng nhất định. Đơn bào sống ký sinh ở các tế bào,
các mô hay dịch thể, có thể suốt đời hoặc những giai đoạn đầu của nó.
Chúng tự nuôi dưỡng bằng cách thẩm thấu dinh dưỡng chiếm đoạt của ký
chủ qua bề mặt cơ thể.
Các loài đơn bào thuộc giống Leucocytozoon ký sinh trong máu của
nhiều loài gia cầm, thủy cầm, chim và nhiều loài chim hoang dã. Gà là vật
chủ cảm thụ đơn bào Leucocytozoon mạnh nhất. Bệnh được Ziemann phát
6
hiện lần đầu tiên vào năm 1898. Từ đó đến nay, trên thế giới đã có nhiều
công trình nghiên cứu về bệnh.
Theo Levine N. D. (1985), Leucocytozoon gây bệnh cho gà có vị trí
trong hệ thống phân loại như sau:
Ngành Protozoa
Lớp Sporozoa
Bộ Haemosporidia
Họ Leucocytozoidae
Giống Leucocytozoon
Loài L. caullergyi (Mathis et Leger, 1909)
L. sabrazeis (Mathis et Leger, 1910)
L. simondi (Mathis et Leger, 1910)
L. smithi (Laveran et Lucet, 1905)
L. andrewsi (Atchley, 1951)
L. schufneri (Prowazek, 1912)
L. schoutedeni (Rodham Pons et Bequaert, 1913)
Wiliam H. M. (2004) cho biết: hiện nay có khoảng 70 loài thuộc giống
Leucocytozoon ký sinh và gây bệnh cho gia cầm. Đơn bào này ký sinh ở cả
hồng cầu và bạch cầu. Tác giả còn cho rằng Leucocytozoon caulleryi là loài
đơn bào phổ biến nhất, ký sinh và gây bệnh cho gà ở khu vực Đông Nam Á và
Châu Phi. Ngoài ra, loài L. simondi thường ký sinh ở thủy cầm và một số loài
chim hoang dã ở châu Âu, Bắc Mỹ và Đông Nam Á.
1.2.2. Đặc điểm hình thái các loài Leucocytozoon ở gà
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999); Nguyễn Thị Kim Lan
(2012), cơ thể đơn bào thường do một tế bào rất nhỏ cấu thành, tổ chức
của đơn bào gồm màng tế bào, chất nguyên sinh, hạt hoặc nhân tế bào.
Đơn bào Leucocytozoon ký sinh ở hồng cầu, bạch cầu, các nội tạng
của gà và các loài chim ở hai dạng: dạng tiểu thể hình dùi trống, hoặc hình
thoi nhọn hai đầu với kích thước từ 15 - 20 µm; dạng bào tử hình trứng
với kích thước từ 20 - 25 µm.
7
Phạm Sỹ Lăng và cs (2005) cho biết: trong quá trình phát triển ở ký
chủ cũng như ở vector trung gian truyền bệnh, các loài Leucocytozoon có
nhiều hình dạng khác nhau. Kích thước của chúng thay đổi tuỳ thuộc dạng
và loài đơn bào Leucocytozoon.
- Dạng bào tử (Sporozoite): hình thuẫn, hình elip nhọn 2 dầu, kích thước
10 - 15 µm. Thể này thấy ở tuyến nước bọt của dĩn (vector trung gian truyền
bệnh).
- Dạng tiểu thể (Merozoite): hình tròn, hình trứng, kích thước 15 - 20 µm.
- Dạng giao tử (Schizont): hình elip, thon nhỏ 2 đầu, kích thước 20 - 45
µm.
- Dạng đại giao tử (Macrogametocyte): hình đa giác, gần tròn, kích
thước 350 - 400 µm.
- Dạng tiểu phối tử (Microgametocyte): hình thuẫn, hình trứng, kích
thước 20 - 25 µm.
Theo Phạm Sỹ Lăng và Tô Long Thành (2006); Phạm Sỹ Lăng và cs
(2008), hai loài L. caullergyi và L. sabrazeis có hình dạng gần giống nhau,
chỉ khác về tính chất gây bệnh. Chúng có dạng hình cầu, hình bầu dục,
hình lưỡi liềm; kích thước 20 x 5 µm, không có sắc tố khi nhuộm Giemsa,
ký sinh ở hồng cầu của gà, gà rừng.
1.2.3. Vòng đời của Leucocytozoon ở gà
Saif Y. M. (2003) cho rằng: giai đoạn sinh bào tử diễn ra trên vật chủ
trung gian và có thể được hoàn thành sau 3 - 4 ngày. Noãn nang phát triển
và có thể tìm thấy trong đường tiêu hóa của dĩn (véc tơ trung gian truyền
bệnh) trong vòng 12 giờ sau khi dĩn hút máu. Sau đó các noãn nang này di
chuyển đến tuyến nước bọt của dĩn, có thể tìm thấy noãn nang ở tuyến
nước bọt dĩn sớm nhất sau khi dĩn hút máu gà bệnh 18 ngày.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2005), các loài Leucocytozoon có vòng
đời rất phức tạp, cần vector trung gian truyền bệnh là các loài dĩn thuộc
giống Simulium spp. và Culiloides spp. Tùy đặc điểm thời tiết, khí hậu của
từng vùng sinh thái khác nhau mà thành phần loài dĩn cũng thay đổi.
8
Sau khi mầm bệnh xâm nhập vào dĩn do dĩn hút máu gà bệnh, các tiểu
thể (Merozoite) phát triển qua một số giai đoạn ở vách dạ dày của dĩn thành
noãn nang và cuối cùng thành thể bào tử (Sporozoite). Thể bào tử chuyển lên
tuyến nước bọt của dĩn sau thời gian phát triển khoảng 25 ngày. Khi dĩn hút
máu các loài vật chủ (gà, các loài gia cầm khác và chim hoang dã) sẽ truyền
mầm bệnh vào máu của vật chủ.
Các bào tử từ máu xâm nhập vào các tế bào nội quan như: gan, lách,
phổi, thận, tổ chức cơ để trở thành giao tử (Schizont). Các giao tử vào
hồng cầu phát triển thành tiểu thể (Merozoite), giao tử thể (Gametocyte), đại
giao tử (Marcrogametocyte) và tiểu giao tử (Mircrogametocyte).
Khi dĩn hút máu gia cầm bệnh, vào cơ thể dĩn, các tiểu thể lại phát
triển thành noãn nang (Oocyste), rồi bào tử (Sporozoite) trong vách dạ dày
dĩn và vòng đời lại được lặp lại.
Tuy nhiên, Lê Văn Năm (2011) lại cho rằng: chu kỳ phát triển sinh
học của Leucocytozoon gồm 2 giai đoạn chính. Giai đoạn thứ nhất là giai
đoạn phát triển trong cơ thể ký chủ trung gian truyền bệnh và giai đoạn
hai là giai đoạn phát triển trong cơ thể vật chủ:
* Giai đoạn phát triển trong cơ thể ký chủ trung gian truyền bệnh
(dĩn). Đây là giai đoạn hình thành bào tử nang (Sporogony), giai đoạn này
kết thúc trong vòng 3 - 4 ngày. Vì trong máu của gia cầm bệnh đã có sẵn
giao tử đực và giao tử cái, hoặc hợp tử của Leucocytozoon, nên ngay sau
khi hút máu gia cầm bệnh, các tế bào máu chứa mầm bệnh bị dịch tiêu
hóa của ký chủ trung gian (dĩn) làm tan vỡ và giải phóng ra các giao tử và
các hợp tử. Chúng nhanh chóng bám vào thành dạ dày và chui vào các tế
bào niêm mạc dạ dày, ruột của dĩn. Ở đó chúng bắt đầu phát triển thành
bào tử nang (Oocyst). Toàn bộ quá trình này chỉ diễn ra trong vòng 12 giờ
kể từ thời điểm dĩn hút máu gia cầm bệnh lần cuối.
Trong mỗi bào tử nang bắt đầu có quá trình sinh trưởng và phát triển
thành 4 thoi trùng (Sporozoite). Các thoi trùng này nhanh chóng lớn lên và
di hành đến cư trú trong tuyến nước bọt của ký chủ trung gian truyền
9
bệnh. Chỉ có các thoi trùng này mới có khả năng truyền bệnh. Ký chủ
trung gian truyền bệnh cho gia cầm thụ cảm thông qua việc hút máu của
gia cầm bệnh, sau đó hút máu của gia cầm khỏe và truyền nước bọt kèm
theo thoi trùng gây bệnh vào cơ thể gia cầm khỏe. Như vậy, kể từ khi dĩn
hút máu gia cầm bệnh lần cuối đến lúc có khả năng truyền bệnh phải mất
18 ngày.
* Giai đoạn phát triển của Leucocytozoon trong cơ thể gia cầm thụ
cảm. Ngay sau khi thoi trùng theo nước bọt của ký chủ trung gian truyền
bệnh xâm nhập vào cơ thể gia cầm, chúng lột xác và hình thành nên các
thể phân lập trung gian (Merozoite), các thể phân lập trung gian này bám
ngay vào các tế bào máu và theo máu đi khắp cơ thể. Từ đây, chúng phát
triển theo hai hướng:
Hướng thứ nhất: Chúng chui vào và ký sinh trong các tế bào máu, sinh
trưởng và phát triển theo phương thức tự nhân đôi để tạo ra các thể phân lập
thế hệ 1 (Schizont - 1). Các Schizont thế hệ 1 này lớn lên nhanh chóng và tiết
ra một chất làm tan hồng cầu, chất đó được gọi là chất kháng hồng cầu (anti -
erythrocyte). Dưới tác động cơ học của nhiều thể phân lập đã sinh ra trong
mỗi hồng cầu, và dưới tác động của chất kháng hồng cầu, một số lượng lớn
hồng cầu bị phá vỡ và giải phóng ra nhiều thể phân lập thế hệ 1, đây là nguyên
nhân chính dẫn đến thiếu máu, tăng Hemobilirubin, máu trở nên loãng, nhớt
và khó đông. Các thể phân lập thế hệ 1 lập tức tấn công và ký sinh tiếp vào
các tế bào hồng cầu mới, chúng lớn lên và lại nhân đôi để hình thành thể phân
lập thế hệ 2 (Schizont - 2), cứ tiếp tục như vậy chúng hình thành thể phân lập
thế hệ 3 (Schizont - 3) thì dừng lại và bắt đầu hình thành các giao tử
(Gametocyte). Giao tử đực có kích thước nhỏ gọi là Microgametocyte và giao
tử cái có kích thước lớn hơn gọi là Macrogametocyte. Kết thúc giai đoạn sinh
sản vô tính và bắt đầu giai đoạn sinh sản hữu tính.
Giai đoạn sinh sản hữu tính xảy ra trong các tế bào hồng cầu. Giao tử đực
chui vào giao tử cái để thụ tinh và hình thành nên hợp tử. Hợp tử được bọc bởi
một màng và được gọi là bào tử, có kích thước trung bình 5,5 - 14,5 µm. Sau
10
đó, chúng phát triển thành các bào tử hình thoi, có kích thước lên đến 45 µm.
Chỉ có các thoi trùng này mới có khả năng lây truyền thông qua côn trùng hút
máu gia cầm bệnh và truyền thoi trùng gây bệnh cho gia cầm khỏe.
Hướng thứ hai: Sau khi các thoi trùng theo máu di hành khắp các nơi
trong cơ thể, một phần chúng cư trú tại các cơ quan như lách, thận, phổi,
gan, dạ dày tuyến, dạ dày cơ, ruột non, buồng trứng, ống dẫn trứng và
não. Tại đây, chúng lột xác và chui vào ký sinh trong các tế bào nội mô, tế
bào lưới và đại thực bào của các cơ quan kể trên của gia cầm thụ cảm.
Trong các tế bào đó chúng bắt đầu sinh trưởng, lớn lên và sinh sản theo
phương thức tự nhân đôi, làm vỡ nát các tế bào của các cơ quan nội tạng
ký chủ. Sau đó chúng phát triển và tạo nên thể phân lập cực đại gọi là
Megaloschizont với kích thước lên đến 400 µm và làm tắc nhiều mao
mạch của các cơ quan ký chủ. Để tiếp tục phát triển, trong mỗi
Megaloschizont hình thành nên 2 thể phân lập trung gian Merozoite,
chúng lớn lên và rời khỏi Megaloschizont, rời khỏi tế bào của cơ quan ký
chủ, chui vào các tế bào máu để ký sinh và quá trình phát triển được tiếp
tục lặp lại như hướng thứ nhất - kết thúc giai đoạn sinh sản vô tính trong
các tế bào nội mô ở các cơ quan nội tạng của gia cầm thụ cảm.
* Tính chuyên biệt của Leucocytozoon
Theo Johannes Kaufmann (1996), mỗi loài Leucocytozoon chỉ ký
sinh trong một hoặc một số ký chủ nhất định.
11
Sơ đồ minh họa vòng đời Leucocytozoon ở gà
1.3. Bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà
1.3.1. Những thiệt hại kinh tế do bệnh Leucocytozoon gây ra
Bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà không gây thành ổ dịch lớn nguy
hiểm, ít làm cho gà chết đột ngột và chết hàng loạt (trừ trường hợp đặc biệt).
Song, đơn bào này đã gây tác hại nghiêm trọng, làm cho sự sinh trưởng và
phát triển của gà bị ngừng trệ, cơ thể gầy còm, thiếu máu, khả năng tăng
trọng giảm, số lượng và chất lượng của thịt, trứng giảm, dẫn đến năng suất
chăn nuôi giảm thấp.
Olsen O. W. (1986), cho biết: ngoài gà (tỷ lệ nhiễm cao và mắc bệnh
nặng nhất), vịt nhiễm Leucocytozoon cũng thường bị bệnh ở thể nặng, các
triệu chứng lâm sàng thể hiện rõ rệt, tỷ lệ tử vong cao.
Shane S. M. (2005) cho rằng: Leucocytozoonosis thường gặp ở các
nước nhiệt đới, đặc biệt là ở những nơi mà các trang trại nằm gần ao, hồ.
Đàn gia cầm mắc bệnh giảm mạnh tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ chết cao có
thể lên đến 100% nếu không được chữa trị kịp thời.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2005): gà bị bệnh đơn bào đường máu
Leucocytozoon ở thể cấp tính có thể chết đột ngột do xuất huyết các nội
quan và thiếu máu cấp. Gà mái giảm đẻ hoặc ngừng đẻ, kém ăn, giảm tăng
trọng và gầy yếu nhanh. Gà mắc bệnh sẽ chết sau 3 - 6 ngày với tỷ lệ tới
trên 50% số gà bị bệnh.
1.3.2. Dịch tễ học bệnh Leucocytozoon ở gà
12
Lê Đức Quyết và cs (2009) cho biết: tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố như: tuổi gia cầm, giống, địa hình, vùng sinh
thái, phương thức chăn nuôi...
Theo Lê Văn Năm (2011), bệnh do Leucocytozoon gây ra có tính
chu kỳ rõ rệt, phụ thuộc vào mùa sinh sản và phát triển của côn trùng
hút máu truyền bệnh.
Loài gây bệnh và động vật mắc bệnh
Trong tự nhiên, gà, gà rừng, chim trĩ và các loài chim thuộc bộ gà
(Galliformes) đều có thể bị bệnh. Bệnh từ gà nhà có thể truyền lây sang gà
rừng qua ký chủ trung gian và ngược lại.
Phạm Sỹ Lăng và cs (2005), (2010) cho rằng: có 4 loài đơn bào
giống Leucocytozoon chủ yếu ký sinh và gây bệnh cho gà:
* L. caulleryi (Mathis et Leger, 1909)
Loài này ký sinh và gây bệnh cho gà nhà, gà rừng ở các nước thuộc
Đông và Đông Á: Nhật Bản, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam, các bang
thuộc khu vực Bắc Mỹ.
Vật chủ trung gian của L. caulleryi là các loài dĩn thuộc giống
Culicoides như: C. arakava, C. circumscriptus, C. odibilis.
Lương Văn Huấn và Lê Hữu Khương (1997) cho biết, loài L.
caullergyi có đặc điểm: cơ thể đơn bào hơi tròn, kích thước 15,0 - 15,5
µm. Tế bào vật chủ cũng tròn, kích thước 20 µm. Ở trong cơ thể dĩn -
KCTG, Zygote có dạng tròn đường kính 14 µm, sau đó kéo dài, kích
thước 21 µm, chúng xuyên qua vách ruột tạo thành Oocyst hình gần tròn,
kích thước 4 - 14 x 5 - 14 µm. Oocyst phát triển thành thoi trùng
(Sporozoite). Các thoi trùng đến tuyến nước bọt của dĩn có kích thước 7 -
11 x 1 - 2 µm.
* L. sabrazeis (Mathis et Leger, 1910)
Loài này ký sinh và gây bệnh cho gà và chim hoang dã ở các nước
Đông Nam Á: Philippine, Thái Lan, Malaysia, Việt Nam.
13
Vật chủ trung gian của L. sabrazeis: các loài dĩn Culicoides spp. và Simulium
spp.
* L. simondi (Mathis et Leger, 1910)
L. simondi ký sinh và gây bệnh cho vịt nhà và vịt trời, ngỗng nhà và
ngỗng trời, các loài thuỷ cầm nuôi và hoang dã ở Mỹ, Canada, các nước
vùng Balkan và Việt Nam.
Vật chủ trung gian: các loài dĩn Simulium spp.
* L. smithi (Laveran et Lucet, 1905)
Loài này ký sinh ở gà tây tại các bang thuộc vùng Đông Mỹ (Bắc
Dakota, Nebraska), CHLB Đức, các nước vùng Balkan...
Vật chủ trung gian của L. smithi là các loài dĩn Simulium spp.
Mùa vụ: Gà mắc bệnh ở tất cả các mùa trong năm, nhưng nhiễm
nhiều và nặng hơn ở vụ Xuân và vụ Hè hàng năm.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs. (2009), bệnh do Leucocytozoon
gây ra thường xảy ra thành dịch tại một số khu vực vùng núi và trung du
thuộc các nước Đông Nam Á, nhất là vào mùa Hè và mùa Xuân, khi các
loài dĩn - ký chủ trung gian phát triển và hoạt động mạnh.
Lê Văn Năm (2011) cho rằng, bệnh do Leucocytozoon gây ra trên gia
cầm, đặc biệt là gà có tính chất mùa rõ rệt, liên quan chặt chẽ tới mùa phát
triển của dĩn – véc tơ truyền bệnh.
Phạm Sỹ Lăng và cs. (2011) cho biết: bệnh thường bùng phát vào các
tháng mùa Hè, đặc biệt là ở khu vực mà xung quanh trại chăn nuôi gà có
cây cỏ um tùm, nhiều ao, hồ, nước đọng; đồng thời không thực hiện sát
trùng chuồng trại và phun thuốc diệt dĩn.
Địa hình: Để xác định ảnh hưởng của địa hình đến tỷ lệ nhiễm
Leucocytozoon ở gia cầm, Rooyen J. V. và cs. (2013) đã xét nghiệm mẫu
máu của gia cầm tại một số địa phương ở miền tây Thụy Sĩ. Tác giả nhận
thấy, yếu tố địa hình có ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ nhiễm đơn bào
Leucocytozoon ở gia cầm. Theo tác giả, ở những địa hình khác nhau thì sự
phân bố của các loài dĩn - ký chủ trung gian truyền bệnh cũng khác nhau,
14
đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự khác nhau về tỷ lệ
nhiễm bệnh ở gia cầm.
Điều kiện vệ sinh thú y: Điều kiện vệ sinh thú y đối với chuồng trại
và khu vực xung quanh chuồng trại, dụng cụ và môi trường chăn nuôi là
một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn tới khả năng nhiễm bệnh
Leucocytozoon ở gà, bởi điều này có liên quan mật thiết tới sự tồn tại và
phát triển của các loài dĩn hút máu - ký chủ trung gian truyền bệnh.
Yếu tố stress: Các yếu tố strees như chuồng trại chật chội, ẩm thấp,
khí hậu nóng ẩm, thức ăn thiếu thốn, dinh dưỡng không đầy đủ và cân
đối... luôn đóng vai trò thúc đẩy quá trình lây lan bệnh Leucocytozoon ở
gà.
1.3.3. Cơ chế sinh bệnh của bệnh Leucocytozoon
Bệnh lây truyền từ gà bệnh sang gà khoẻ qua đường máu nhờ vật chủ
trung gian là các loài dĩn thuộc họ Culicoides spp. và Simulium spp.. Dĩn
hút máu của gà bệnh có đơn bào ký sinh trong máu. Vào cơ thể dĩn, đơn
bào phát triển qua 3 giai đoạn, cuối cùng thành bào tử nằm ở tuyến nước
bọt của dĩn. Khi dĩn mang mầm bệnh hút máu gà khoẻ, bào tử sẽ được
truyền cho gà khoẻ và gây bệnh cho gà.
Các bào tử xâm nhập vào các tế bào nội quan như: gan, lách, phổi,
thận, tổ chức cơ để trở thành bào tử (Schizont); các bào tử vào hồng cầu
phát triển thành tiểu thể (Merozoite), giao tử thể (Gametocyte), đại giao tử
(Marcrogametocyte) và tiểu giao tử (Mircrogametocyte). Chúng phát
triển, phá huỷ tế bào hồng cầu và gây hoại tử các cơ quan tổ chức, đặc biệt
là lách và gan. Đồng thời chúng tiết ra chất antierythrocyte làm tan hồng
cầu.
1.3.4. Triệu chứng và bệnh tích bệnh Leucocytozoon
* Triệu chứng bệnh Leucocytozoon
Orlov F. M. (1975) cho biết: gà tây thường mắc bệnh trước 12 tuần
tuổi. Gà bệnh bỏ ăn, suy yếu toàn thân, ít vận động, rối loạn vận động. Gà
15
tây bắt đầu chết từ 2 - 3 ngày sau khi xuất hiện những triệu chứng đầu tiên
(dẫn theo Nguyễn Thị Kim Lan (2012)).
Theo tài liệu của Viện Thú y Quốc gia (2001), (2002), những triệu
chứng chủ yếu của gà mắc bệnh do đơn bào Leucocytozoon gây ra là:
- Ho ra máu và chết đột ngột
- Thiếu máu, đặc biệt mào và tích do thiếu máu nên có màu tím tái
- Nhịp thở nhanh
- Phân có mầu xanh
- Giảm sản lượng trứng và trứng có vỏ mỏng (với gà mái đẻ)
- Xuất huyết da chân.
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2009) cho biết: Bệnh thường xảy ra
thành dịch tại một số khu vực vùng núi và trung du thuộc các nước Đông Nam
Á, nhất là vào mùa hè và mùa xuân, khi mà các loài dĩn - ký chủ trung gian phát
triển và hoạt động mạnh.
Thời gian ủ bệnh từ 4 - 7 ngày.
Gà bệnh thể hiện các triệu chứng đặc trưng sau:
Thể cấp tính: gà ở lứa tuổi từ 1 - 3 tháng chết đột ngột do xuất huyết
các nội tạng, hồng cầu tan vỡ hàng loạt, gây bần huyết cấp tính; ỉa chảy
nặng, phân có màu xanh lá cây, thường có lẫn máu. Gà mái đang đẻ bị
bệnh sẽ giảm đẻ hoặc ngừng đẻ do đơn bào tác động vào cơ quan sinh sản.
Gà trưởng thành mắc bệnh sẽ giảm tăng trọng, gầy yếu nhanh, nhưng chết
ít hơn gà con. Gà ở lứa tuổi từ 1 - 3 tháng bị bệnh sẽ chết sau 3 - 6 ngày
với tỷ lệ cao.
* Bệnh tích bệnh Leucocytozoon
Mổ khám gà bệnh thấy: xuất huyết đỏ sẫm ở tất cả các phủ tạng (tim, lách,
phổi, thận) và tổ chức cơ. Đôi khi cũng có các điểm hoại tử trắng trên mặt gan
giống như bệnh tụ huyết trùng gia cầm. Ngoài ra, có thể thấy bệnh tích ở đường
tiêu hóa như: niêm mạc đường tiêu hoá bị tổn thương và xuất huyết.
Olsen O. W. (1986) cho biết, gà bị nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở
cường độ nặng, có các bệnh tích điển hình thì tỷ lệ tử vong cao. Các cơ
16
quan nội tạng ký chủ có số lượng đơn bào ký sinh khác nhau. Các đơn bào
ký sinh trong các cơ quan được bao bọc bởi một lớp do tế bào lympho và
bạch cầu đơn nhân lớn tạo nên thể Megaloschizont.
Lê Văn Năm (2011) cho biết: bệnh tích đại thể của bệnh do đơn bào
Leucocytozoon gây ra ở gà rất điển hình, được quan sát thấy trong nhiều
cơ quan nội tạng như: gan, lách, thận, tim, phổi, ruột non, não, buồng
trứng và ống dẫn trứng...Những biến đổi đại thể ở các cơ quan nội tạng
như sau:
Gan: sưng to, mềm nhũn và dễ vỡ, trên bề mặt gan thấy nhiều điểm
trắng. Đây là kết quả của các thể phân lập của Leucocytozoon ở gan tạo
nên, làm ròn, xốp và tắc nghẽn các mao mạch, dẫn đến xuất huyết tràn
lan, thậm chí vỡ mao mạch, dẫn đến vỡ gan, chảy máu vào xoang bụng.
Lách: sưng to, ròn, dễ vỡ, trên bề mặt lách có nhiều điểm xuất huyết
hoặc hoại tử.
Thận: sưng to, xuất huyết.
Buồng trứng và ống dẫn trứng: buồng trứng bị viêm, thoái hóa; ống
dẫn trứng sưng, dầy lên và có nhiều điểm xuất huyết.
Tim: tim to, cơ tim dầy lên nhưng trương lực cơ bị giảm, cơ trở nên mềm
nhão.
Phổi: sung huyết nặng.
Ruột non, dạ dày tuyến, dạ dày cơ: viêm tăng sinh, dầy lên, đôi khi
thấy các điểm hoại tử hoặc nốt loét.
Não: các đại hợp bào phát triển ở não gây tắc nghẽn các mao mạch,
dẫn đến bị phù nề, sung huyết và xuất huyết não.
1.3.5. Chẩn đoán bệnh Leucocytozoon
* Với gà còn sống
Nguyễn Xuân Bình và cs (2002) cho biết: hiện nay, có nhiều bệnh
mới ở gia cầm có triệu chứng lâm sàng và bệnh tích giống nhau, nhưng
nguyên nhân gây bệnh lại khác nhau, làm cho việc chẩn đoán lâm sàng và
điều trị bệnh dễ bị sai lầm, gây nên những tổn thất đáng kể cho chăn nuôi.
17
Do vậy, để chẩn đoán một cách chính xác bệnh có phải do ký sinh
trùng đường máu Leucocytozoon gây ra hay không, người ta thường sử
dụng kết hợp các phương pháp chẩn đoán để mang lại hiệu quả cao hơn.
Chẩn đoán lâm sàng: Gà lứa tuổi 1 - 3 tháng chết đột ngột, các
phủ tạng đều bị xuất huyết; ỉa chảy, phân xanh có lẫn máu làm cho gà
chết với tỷ lệ cao.
Chẩn đoán xét nghiệm: Lấy mẫu máu và phủ tạng, dàn tiêu bản,
nhuộm Giemsa và soi kính để tìm đơn bào gây bệnh.
Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) cho rằng: có thể sử dụng phương pháp
làm tiêu bản máu, dàn mỏng, nhuộm Giemsa, kiểm tra dưới kính hiển vi
tìm ký sinh trùng, và sử dụng phương pháp ngưng kết trên gel thạch để
phát hiện kháng thể kháng Leucocytozoon spp.
Lê Đức Quyết và cs (2009) cho biết: gần đây, các phương pháp huyết
thanh học cũng đã được áp dụng để chẩn đoán bệnh như phương pháp
Latex -agglutination, phương pháp khuyếch tán trên thạch.
Chẩn đoán phân biệt:
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2009) cho biết: cần chẩn đoán phân biệt
với bệnh tụ huyết trùng gia cầm. Triệu chứng và bệnh tích của bệnh đơn
bào đường máu ở gia cầm cũng giống như bệnh tụ huyết trùng gia cầm.
Nhưng bệnh đơn bào đường máu chỉ làm chết gà ở lứa tuổi 1 - 3 tháng.
Tuy nhiên, bệnh tụ huyết trùng làm gà chết ở tất cả các lứa tuổi. Bệnh tụ
huyết trùng gia cầm điều trị bằng Streptomycin có hiệu quả nhưng bệnh
do đơn bào đường máu điều trị bằng Streptomycin lại không có hiệu quả.
Theo Lê Văn Năm (2011), cần chẩn đoán phân biệt bệnh do đơn bào
Leucocytozoon gây ra với bệnh Marek, bệnh bạch huyết (Leucosis), bệnh
sốt rét gà.
* Với gia cầm chết:
Phương pháp chẩn đoán sau khi gia cầm chết là phương pháp chính
xác nhất. Việc chẩn đoán được tiến hành qua phương pháp mổ khám,
18
kiểm tra bệnh tích kết hợp với việc lấy các cơ quan nội tạng như gan, lách,
phổi, thận để tìm đơn bào Leucocytozoon ký sinh.
1.3.6. Phòng trị bệnh Leucocytozoon cho gà
* Phòng bệnh
- Phát hiện sớm gà mắc bệnh và gà mang trùng để điều trị kịp thời,
tránh lây lan bệnh trong đàn gà.
- Gà chết không được mổ thịt mà phải xử lý như gà ốm chết do các
bệnh truyền nhiễm, sử dụng thuốc sát trùng khi xử lý.
- Định kỳ phun thuốc diệt côn trùng để diệt dĩn hút máu và truyền bệnh
cho gà. Có thể dùng Hantox-spray hoặc Iodin 1%, 2 - 3 tuần/ lần, đặc biệt là
vào mùa hè và mùa thu khi dĩn hoạt động mạnh để không làm ảnh hưởng
đến sức khỏe của đàn gà.
- Không nên xây chuồng ở những vùng gần đồng ruộng, vùng có ao
hồ hay vùng có diện tích mặt nước lớn, vì đây là môi trường thích hợp cho
ký chủ trung gian phát triển.
Chuồng trại nuôi gia cầm đủ tiêu chuẩn phải đảm bảo những yêu cầu như
sau:
- Phải chuẩn bị đầy đủ chuồng nuôi, rèm che, kho đựng thức ăn, bể
chứa nước, dụng cụ chăn nuôi, thuốc thú y, các phương tiện sưởi ấm, làm
mát...đảm bảo cho số lượng gà định nuôi.
- Chuồng nuôi, hệ thống cống rãnh, khu vực kho chứa thức ăn, dụng
cụ chăn nuôi phải được vệ sinh đảm bảo, sát trùng triệt để.
- Cây xanh, cỏ dại cách chuồng 10 - 15 mét phải được phát quang.
Các động vật cư trú truyền bệnh cho đàn gà như chuột, cáo, chồn, côn
trùng, chim tự nhiên... phải được tiêu diệt.
- Có phòng mổ khám, chẩn đoán bệnh và thiêu xác hoặc hố tự hoại
cách xa khu vực chăn nuôi và cuối hướng gió.
* Trị bệnh
Có thể sử dụng một trong các loại Sulfonamide sau để điều trị gà bệnh:
19
- Pyrimethamin: dùng liều 0,5 - 1 ppm/ kg thức ăn, cho gà ăn 2 tuần liên
tục.
- Sulfadimethoxin: dùng liều 50 – 75 mg/ kg thức ăn, cho gà ăn liên tục 1 - 2
tuần.
- Sulfaquinoxalin: dùng liều 50 mg/ kg thức ăn, cho gà ăn liên tục 1 - 2
tuần.
- Trimethoxin: dùng liều 1g/ 1kg thức ăn, cho gà ăn 3 - 5 ngày liên
tục.
- SU 99: dùng liều 1g/ 5 lít nước, điều trị 3 – 5 ngày
- Amoxcol-50: dùng liều 0,1g/ kg thể trọng, cho gà ăn liên tục 3 – 5
ngày.
Để nâng cao hiệu quả điều trị, dùng phối hợp thuốc Sulfamonomethoxine
với Vitamin B1, Vitamin C, giải độc gan, hạ sốt.
Để nâng cao hiệu quả điều trị, dùng phối hợp thuốc Sulfonamide với
Vitamin B1, Vitamin C.
Theo Lê Văn Năm (2011): Các loại thuốc có chứa các nguyên liệu
như: Sulfamonomethoxin, Salfadimethoxin, Clopidol đều có tác dụng
phòng trị tốt bệnh do Leucocytozoon gây ra. Tác giả cho biết thêm, hiện
nay bệnh ký sinh trùng đường máu thường bị bội nhiễm và ghép với nhiều
bệnh khác. Do đó, cần phải phối hợp các phác đồ điều trị thì mới có hiệu
quả điều trị cao.
1.3.7 Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
1.3.7.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Theo Hoàng Thạch (2004), nếu nhiễm Leucocytozoon ở cường độ nhẹ
thì chưa thấy biến đổi gì ở các cơ quan nội tạng, nhưng nếu nhiễm vừa và
nặng (3 - 6 ký sinh trùng trên 1 vi trường) thì xuất hiện sự thoái hoá, biến
màu, thậm chí hoại tử từng đám nhỏ; nếu kéo dài thì tăng sinh, làm giảm
chức năng hoạt động hoặc bị phá hủy, rõ nhất là gan và lách.
20
Lâm Thị Thu Hương và cs (2005) cho biết: tần suất xuất hiện các
nang Leucocytozoon trên một số cơ quan phủ tạng của gà như sau: ở cơ là
96,22%, phổi là 92,45%, thận là 86,80%, gan là 81,13%.
Theo Lâm Thị Thu Hương và cs (2005), khi mổ khám và quan sát
bằng mắt thường, thấy trên cơ thể gà có những nốt mầu trắng đục hay vàng,
đỏ hoặc chuyển sang đen, có kích thước từ 0,2 - 0,5 mm, đôi khi lên đến
1mm. Những nốt này là bệnh tích do một giai đoạn phát triển của đơn bào
L. caulleryi gây ra. Đơn bào Leucocytozoon được phát hiện ở nhiều vị trí
trên cơ thể gà. Một gà có thể nhiễm Leucocytozoon cùng lúc trên 6 cơ quan
phủ tạng. Sự nhiễm Leucocytozoon thường gặp nhiều nhất ở các cơ quan như
phổi, gan, thận, mô cơ.
Theo Lê Đức Quyết và cs (2009): tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố như: tuổi gia cầm, giống, địa hình, vùng sinh
thái, phương thức chăn nuôi… Kết quả nghiên cứu của tác giả về
Leucocytozoon ở gà tại một số tỉnh Nam Trung Bộ như sau:
Tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon chung là 13,29%, cụ thể ở Phú Yên tỷ lệ
nhiễm là 20%, Bình Định 9,54%, Khánh Hoà 12,04%.
Tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon cao ở vùng núi (27,34%) và thấp ở vùng
đồng bằng (12,46%).
Tỷ lệ lưu hành Leucocytozoon ở gà địa phương là 12,46%, cao hơn
nhiều so với gà ngoại (7,61%).
Tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon cao nhất là ở gà giai đoạn > 6 tuần tuổi
(15,6%), kế đến là ở độ tuổi 4 - 6 tuần (13,5%) và thấp nhất là ở độ tuổi
dưới 4 tuần (7,6%).
Bằng phương pháp nhuộm Giemsa và định loại đơn bào
Leucocytozoon ký sinh trên đàn gà ở một số tỉnh Nam Trung Bộ (căn cứ
vào hình thái, vị trí, màu sắc, kích thước của các giao tử Gametocyt ký
sinh trong máu gà), tác giả cũng đã xác định có 2 loài ký sinh trên đàn gà
là L. caullergyi và L. sabrazesi. Khi khảo sát tình hình nhiễm ký sinh
21
trùng đường máu trên gà thịt tại hai tỉnh Vĩnh Long và Sóc Trăng,
Nguyễn Hữu Hưng (2011) cho biết: đàn gà thịt nhiễm ký sinh trùng
đường máu với tỷ lệ khá cao (30,47%). Trong đó tỷ lệ nhiễm ở Vĩnh Long
là 32,38% và ở Sóc Trăng là 28,22%. Tác giả cũng cho biết gà Tam
Hoàng có tỷ lệ nhiễm cao hơn hai giống Newlohman và Brown AAA. Gà
nuôi nuôi theo kiểu chuồng hở tỷ lệ nhiễm cao hơn so với kiểu chuồng
kín.
Nguyễn Thị Kim Lan và Dương Thị Hồng Duyên (2011) cho biết: gà
bị bệnh Leucocytozoon có bệnh tích chủ yếu là: xuất huyết gan, lách, thận,
phổi, cơ; gan, thận và lách sưng to có thể gấp 2 – 3 lần so với bình
thường. Tỷ lệ cơ quan có Leucocytozoon ký sinh biến động từ 17,39% –
78,26%.
1.3.7.2. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước
Liên Xô (cũ), Nikitin N. K. và Artemenko M. N. (1927) đã kiểm tra
máu chim trời ở Ucrain và tìm thấy Leucocytozoon ở 7% số chim (dẫn
theo Orlov F. M, 1975.
Huchzermeyer F. W. và Sutherland B. (1978) lần đầu tiên đã phát
hiện được Leucocytozoon smithi ở phía Bắc Châu Phi, tác giả cho rằng
Simulium nigritarse là ký chủ trung gian của ký sinh trùng này.
Morii T. và cs (1984) đã thử nghiệm lây nhiễm những thoi trùng
Leucocytozoon được chiết từ tuyến nước bọt của dĩn, kết quả cho thấy:
các thoi trùng được phân lập vào ngày thứ 2 sau khi dĩn hút máu gia cầm
bệnh thì không gây nhiễm được cho gà. Các thoi trùng được phân lập vào
ngày thứ 3 thì có khả năng gây nhiễm cho gà.
Nakamura K. và cs (2001) đã nghiên cứu ảnh hưởng có hại của
Leucocytozoon đến khả năng sản xuất trứng của gà, thậm chí có thể làm gà
ngừng đẻ. Tác giả đã phát hiện thấy một số lượng lớn thể phân liệt thế hệ 2
trong buồng trứng và ống dẫn trứng của gà bệnh, gây phù và làm giảm áp
lực của các mô lân cận các mô có đơn bào ký sinh.
22
Steele E. J. và cs (2001) cho biết: sự phát triển của Leucocytozoon
smithi có những nét tương đồng với sự phát triển của các loài Plasmodium
và Haemoproteus trong ký chủ trung gian.
Peter Shurulinkov và Vassil Golemansky (2003) đã phát hiện có 6
loài Leucocytozoon trong máu của 9/ 17 loài chim được nghiên cứu.
Bằng phương pháp PCR để định loại đơn bào ký sinh ở gà, Hellgren O. và cs
(2004) đã tìm thấy 22 loài ký sinh trùng khác nhau, gồm 4 loài Haemoproteus, 8
loài Plasmodium và 10 loài Leucocytozoon trong 6 loài chim tước mà tác giả
nghiên cứu.
Sehgal R. N. và cs (2006) đã xét nghiệm máu của 148 gà ở làng Uganda
và Cameroon, xác định được tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon schoutedeni là
18,3%.
Hill A. G và cs (2010) sử dụng phương pháp PCR để kiểm tra 107
mẫu máu chim cánh cụt mắt vàng từ 4 khu vực khác nhau ở phía Nam đảo
Oamaru. Kết quả thấy, 83% số mẫu kiểm tra dương tính với
Leucocytozoon.
Cũng bằng phản ứng PCR, Imura T. và cs. (2012) đã kiểm tra máu
của 415 loài chim hoang dã ở vùng núi Chichibu, Nhật Bản. Kết quả
thấy, có 62 trong số 415 (chiếm tỷ lệ 14,9%) số loài chim rừng dương
tính với Leucocytozoon. Tác giả cũng thấy rằng, trong 62 loài chim này
có 2 loài nhiễm Leucocytozoon với tỷ lệ cao nhất, đó là loài Parus ater
(tỷ lệ nhiễm là 64,3 %) và loài Parus montanus (tỷ lệ nhiễm là 81,8 %).
Astudillo V. G. và cs. (2013) đã tiến hành kiểm tra 786 mẫu máu
chim sẻ tại 6 địa điểm thuộc hai lưu vực sông Georgia (Mỹ) trong giai
đoạn 2010 – 2011. Tác giả cho biết, có 4 loại ký sinh trùng đường máu ký
sinh ở gia cầm là Plasmodium, Leucocytozoon, Trypanosoma và
Haemoproteus. Ngoài ra, theo tác giả thì những loài chim tìm kiếm thức
ăn trên mặt đất thường nhiễm đơn bào Leucocytozoon cao, đặc biệt là loài
chim sẻ họng trắng.
23
Lei B. và cs. (2013) cho biết, có tới 59% trong tổng số chim ở Nam
Phi được xét nghiệm máu thấy bị nhiễm loài đơn bào L. toddi.
Kiểm tra 825 mẫu máu của một số loài gia cầm ở phía Tây Nam của
Iran, Dezfoulian O. và cs. (2013) cho biết: có 8,0% số gà; 4,3% số ngỗng;
3,6% số vịt kiểm tra thấy nhiễm đơn bào đường máu Leucocytozoon.
Hellgren O. và cs. (2013) cho biết, có 39% số chim tại Thụy Điển
kiểm tra máu vào mùa Xuân, mùa Hè và đầu mùa Thu nhiễm các loại ký
sinh trùng đường máu, trong đó có đơn bào Leucocytozoon.
Ở Nam Á, Synek P. và cs. (2013) cho biết: có 14 % trong tổng số
240 mẫu máu chim ở khu vực này kiểm tra dương tính với
Leucocytozoon. Tác giả cũng cho biết, các loài chim ở khu vực Nam Á
nhiễm 5 loài đơn bào thuộc giống Leucocytozoon.
Kiểm tra máu của chim cánh cụt mắt vàng trên hai đảo Campbell và
Enderby của New Zealand, kết quả được Argilla L. S. và cs. (2013) báo
cáo như sau: tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở chim cánh cụt mắt
vàng ở hai đảo biến động từ 11% đến 21%, trong đó tỷ lệ nhiễm ở đảo
Campbell là 21%, cao hơn 10 % so với đảo Enderby (11%).
Bằng cách kiểm tra tiêu bản máu trên kính hiển vi và sử dụng
phương pháp PCR, Ingrid A. Lotta và cs. (2013) đã phát hiện được hai
loài đơn bào thuộc giống Leucocytozoon ký sinh trong máu của một số
loài chim cư trú ở Colombia, đó là loài L. dubreuili và L. fringillinarum.
Nghiên cứu về tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon tại Vương Quốc
Anh, Dunn J. C. và cs. (2014) cho biết, tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon giảm
dần và thường nhiễm ở thể mạn tính trong mùa Đông, nhưng vào thời gian
cuối mùa Đông tỷ lệ nhiễm lại tăng dần. Theo tác giả, nguyên nhân có thể
là do trong thời gian này thức ăn khan hiếm, dẫn đến sức đề kháng của
con vật giảm sút và bệnh lại bùng phát trở lại.
Elahi R. và cs. (2014) cho biết: xét nghiệm 319 mẫu máu thủy cầm
ở Bangladesk, phát hiện có 0,6% số mẫu dương tính với đơn bào
24
Leucocytozoon. Tác giả cũng nhận thấy rằng, có sự khác nhau rõ rệt về
tỷ lệ nhiễm giữa các loài thủy cầm được xét nghiệm máu.
Phân tích 243 mẫu máu của 14 loài chim di cư tại miền Bắc Nhật
Bản bằng phương pháp PCR, Yoshimura A. và cs. (2014) đã xác định
được tỷ lệ nhiễm đơn bào đường máu Leucocytozoon. Tác giả cho biết,
có 7/14 loài chim dương tính với Leucocytozoon.
Dunn J. C. và cs. (2014) đã sử dụng phương pháp PCR để kiểm tra
các mẫu máu của gia cầm thu thập từ tháng 12 đến tháng 4 trong hai năm
liên tiếp tại Vương Quốc Anh, tác giả phát hiện được trên 50% số mẫu
máu xét nghiệm dương tính với Leucocytozoon.
Ramey A. M. và cs. (2014) cho biết, trong số 878 mẫu máu được thu
thập từ các loài chim ở Alaska (Mỹ), California (Mỹ) và Hokkaido (Nhật
Bản) đã phát hiện được 555 mẫu dương tính với Leucocytozoon, chiếm
63%.
Theo Imura T. và cs. (2014), L. caulleryi là một trong những loài ký
sinh trùng đường máu phổ biến ở gà và thường gây cho gà tử vong với tỷ
lệ cao. Phân tích bộ gen của L. caulleryi, tác giả đã xác định được trình tự
nucleotide của toàn bộ hệ gen của đơn bào này. Đây là báo cáo đầu tiên và
khá đầy đủ về trình tự nucleotide của đơn bào L. caulleryi.
Matta N. E. và cs. (2014) đã tìm thấy loài đơn bào L. quynzae trong
máu của các loài chim tại Vườn quốc gia tự nhiên ở Colombia thuộc khu
vực Nam Mỹ. L. quynzae là loài Leucocytozoon lần đầu tiên được phát
hiện ở chim Nam Mỹ. Tác giả còn cho biết, tỷ lệ nhiễm L. quynzae ở chim
phụ thuộc vào vai trò và mật độ của dĩn Gigantodax spp. - những loài dĩn
được coi là véc tơ truyền bệnh Leucocytozoon cho các loài chim tại khu
vực này.
Sử dụng kỹ thuật sinh học phân tử, Lutz H. L. và cs. (2015) đã kiểm
tra mẫu máu của 201 cá thể chim ở miền Bắc Malawi, kết quả cho thấy:
có 79,10% số mẫu máu kiểm tra dương tính với đơn bào Leucocytozoon.
25
Ngoài ra, tác giả nhận thấy, môi trường sống có liên quan mật thiết đến tỷ
lệ nhiễm đơn bào này ở chim.
Bằng kỹ thuật PCR định lượng khuếch đại ADN của Leucocytozoon,
Smith M. M. và cs. (2015) đã xác định được: có 91% trong số 105 mẫu
máu thủy cầm thu thập ở Alaska vào cuối mùa Hè và mùa Thu dương tính
với đơn bào Leucocytozoon. Từ kết quả xét nghiệm tác giả cũng nhận thấy
rằng phương pháp này có độ đặc hiệu là 100% trong việc phát hiện ADN
Leucocytozoon trong mẫu máu vật chủ.
Theo Von Rönn J. A. và cs. (2015), các loài chim di cư đóng vai trò
quan trọng trong việc phát tán đơn bào Leucocytozoon giữa các nước
thuộc khu vực châu Âu.
Khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa ký chủ cuối cùng và ký chủ
trung gian truyền bệnh Leucocytozoon cho gia cầm, Lotta I. A. và cs.
(2015) cho rằng: bệnh do đơn bào Leucocytozoon xảy ra chủ yếu ở vùng
núi của các nước thuộc khu vực nhiệt đới, nơi có sự đa dạng về loài và số
lượng ký chủ trung gian truyền bệnh.
Kiểm tra tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon trong máu của 125 gà tại vùng
Baku, Azerbaijan, Ahmadov E.I. và cs (2019) cho biết có 12,8% số gà bị
nhiễm bệnh.
26
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- Gà nuôi thả vườn tại huyện Cao Lộc và huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng
Sơn.
- Bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà.
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu
2.1.2.1. Địa điểm triển khai
Đề tài được thực hiện ở các nông hộ, các trại chăn nuôi gà gia đình
và tập thể với các quy mô khác nhau ở 10 xã, thị trấn của hai huyện Cao
Lộc và Hữu Lũng thuộc tỉnh Lạng Sơn.
2.1.2.2. Địa điểm xét nghiệm mẫu:
+ Phòng thí nghiệm Khoa Chăn nuôi Thú y - Trường Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên.
+ Phòng Vi sinh vật - Chi cục Kiểm dịch động vật vùng Lạng Sơn.
+ Bệnh viện Đa khoa Trung ương - Thái Nguyên
* Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1 năm 2019 đến tháng 8 năm
2020.
2.2. Vật liệu nghiên cứu
* Vật liệu nghiên cứu
- Mẫu máu gà (để xét nghiệm đơn bào Leucocytozoon và các chỉ
số huyết học).
- Gà chết và gà bị bệnh do đơn bào Leucocytozoon (để mổ khám
bệnh tích, xác định cơ quan có đơn bào ký sinh và thu thập bệnh phẩm).
- Các cơ quan có bệnh tích điển hình của bệnh Leucocytozoon (để
làm tiêu bản vi thể).
27
- Gà bệnh để thử nghiệm hiệu quả điều trị của hai phác đồ điều trị
bệnh
- Hoá chất và thuốc : Thuốc nhuộm giemsa, nước cất, dầu bạch
dương, cồn methanol, dung dịch EDTA 1%, thuốc điều trị Leucocytozoon,
thuốc phun diệt dĩn,...
- Dụng cụ thí nghiệm : Lamen và lam kính, xi lanh, kim tiêm, kính
hiển vi quang học, pipet, pince kẹp, đũa thủy tinh, giấy lọc,...
2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1. Thành phần loài đơn bào Leucocytozoon gây bệnh ở gà tại Lạng Sơn
- Thành phần loài đơn bào Leucocytozoon gây bệnh ở gà tại Lạng
Sơn
2.3.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà tại Lạng Sơn
* Tình hình nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tại hai huyện thuộc
tỉnh Lạng Sơn
- Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà tại các địa phương
- Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo mùa vụ
- Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon theo tuổi gà
- Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon theo điều kiện vệ sinh thú y
* Nghiên cứu đặc điểm hoạt động của các loài dĩn – véc tơ truyền bệnh
Leucocytozoon cho gà
- Quy luật hoạt động của các loài dĩn theo tháng trong năm
- Quy luật hoạt động của các loài dĩn theo giờ trong ngày
2.3.3. Nghiên cứu bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà tại Lạng Sơn
- Triệu chứng của gà mắc bệnh đơn bào Leucocytozoon
- Một số chỉ số máu của gà mắc bệnh Leucocytozoon so với gà khỏe
cùng tuổi
- Bệnh tích đại thể do đơn bào Leucocytozoon gây ra ở gà
- Bệnh tích vi thể do đơn bào Leucocytozoon gây ra ở gà và tỷ lệ tiêu
bản có bệnh tích vi thể
28
2.3.4. Nghiên cứu biện pháp trị bệnh
Xác định hiệu lực và độ an toàn của 2 phác đồ điều trị bệnh
Leucocytozoon cho gà
2.4. Bố trí thí nghiệm và phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp bố trí theo dõi xác định loài Leucocytozoon ký sinh ở gà
tại Lạng Sơn
Các tiêu bản máu sau khi xét nghiệm thấy có đơn bào đường máu ký
sinh, chúng tôi tiến hành phân loại theo căn cứ vào hình thái của các loại
đơn bào đã phát hiện được theo khóa định loại của Levine N. D. (1985);
Martinsen E. S. và cs (2008).
2.4.2. Bố trí lấy mẫu và phương pháp xác định tỷ lệ, cường độ nhiễm
Leucocytozoon ở gà
2.4.2.1. Bố trí thu thập mẫu
Bố trí lấy mẫu máu gà theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên, mẫu
chùm 3 bậc. (Nguyễn Như Thanh (2001)).
Chọn 2 huyện, mỗi huyện chọn 5 xã, mỗi xã chọn 5 thôn, mỗi xã lấy
50 mẫu ngẫu nhiên ở các thôn.
Mỗi gà làm 3 tiêu bản máu.
2.4.2.2. Phương pháp xác định tỷ lệ và cường độ nhiễm Lecocytozoon ở
gà tại các địa phương
* Phương pháp thu thập mẫu
Mẫu máu được thu thập ngẫu nhiên từ gà nuôi thả vườn tại các nông hộ,
các trại chăn nuôi gà ở các địa phương của huyện Cao Lộc và Huyện Hữu
Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
Chuẩn bị những phiến kính mới đã được tẩy mỡ bằng cách ngâm và rửa
xà phòng, sau đó ngâm trong cồn 960 trong 3 giờ rồi lau khô bằng khăn mềm
không có xơ. Đồng thời, chọn những lamen kích thước 2 x 2 cm, rìa thật
phẳng và nhẵn.
29
Trước khi lấy mẫu máu xét nghiệm, quan sát kỹ các biểu hiện lâm
sàng của gà. Dùng kim lấy 1 giọt máu tươi của gà tại tĩnh mạch cánh, đặt
lên phiến kính, cách bờ phiến kính khoảng 1 cm. Đặt cạnh của một lamen
lên giọt máu, nghiêng 450 với phiến kính. Khi giọt máu đã tràn ra khắp
cạnh của lamen thì đẩy lamen về phía trước, làm cho máu được dàn thành
một lớp mỏng và đều trên phiến kính. Cố định tiêu bản bằng cồn
methanol. Làm 3 tiêu bản máu/ gà. Tiêu bản được ghi số thứ tự bằng bút
chì mỡ. Ghi nhật ký thí nghiệm các thông tin: chủ hộ, địa chỉ, ngày lấy
mẫu, tuổi gà, phương thức chăn nuôi, trạng thái và màu sắc phân, điều
kiện vệ sinh thú y, các biểu hiện lâm sàng (nếu có).
* Chuẩn bị thuốc nhuộm giemsa cơ bản
Dung dịch giemsa cơ bản bao gồm:
- Giemsa bột: 3,8 gam
- Cồn etylic tuyệt đối: 375 ml
- Glycerin: 125 ml
Dùng đũa thủy tinh khuấy kỹ rồi để vào tủ ấm 37oC với thời gian 48 h,
sau đó lọc qua giấy lọc, bỏ cặn và bảo quản trong lọ thủy tinh màu trung
tính, có nút kín.
* Phương pháp nhuộm giemsa
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2008) cho biết: Nhuộm tiêu bản máu
bằng thuốc nhuộm giemsa gồm 3 bước như sau:
- Bước 1: Pha thuốc nhuộm giemsa
+ Giemsa cơ bản: 1 phần
+ Nước cất trung tính (pH = 7,2): 9 phần
Nước cất để sẵn trong 1 cốc nhỏ có mỏ (100 ml), lấy dung dịch giemsa cơ
bản bằng 1 pipet, nhỏ chậm giemsa vào cốc nước, không được lắc cốc.
- Bước 2: Đổ chậm dung dịch nhuộm vào hộp nhuộm cho ngập các
tiêu bản, đậy nắp hộp nhuộm để tránh bụi
Thời gian nhuộm 45 - 50 phút
30
- Bước 3: lấy tiêu bản
Dùng 1 pince kẹp, cặp lần lượt từng tiêu bản và để nghiêng dưới vòi nước
cất chảy nhẹ (pH = 7,2) cho trôi hết thuốc nhuộm dư thừa. Sau đó dựng
nghiêng tiêu bản vào cạnh 1 cái hộp, để khô tự nhiên.
* Phương pháp kiểm tra tìm Leucocytozoon trên tiêu bản máu nhuộm
giemsa
Nhỏ 1 giọt dầu bạch dương lên tiêu bản, kiểm tra tiêu bản dưới kính
hiển vi vật kính dầu, độ phóng đại 10 x 90 hoặc 10 x 100 để tìm
Leucocytozoon.
Những mẫu máu tìm thấy đơn bào Leucocytozoon được xác định là
có nhiễm, ngược lại là không nhiễm.
Cường độ nhiễm được xác định bằng tỷ lệ % số hồng cầu có đơn bào
ký sinh và quy định các mức cường độ nhiễm: nhẹ, trung bình và nặng.
Nhiễm mức độ nhẹ: ≤ 5% số hồng cầu có đơn bào ký sinh, đồng thời
gà không có biểu hiện lâm sàng.
Nhiễm mức độ trung bình: > 5% - 10% số hồng cầu có đơn bào ký
sinh, đồng thời gà có một số triệu chứng lâm sàng nhưng chưa rõ rệt.
Nhiễm mức độ nặng: > 10% số hồng cầu có đơn bào ký sinh, đồng
thời gà có triệu chứng lâm sàng rõ rệt.
2.4.2.3. Quy định một số yếu tố dịch tễ liên quan đến tình hình nhiễm đơn
bào Leucocytzoon ở gà
* Mùa: Thu thập 500 mẫu máu gà tại các địa phương theo các mùa
trong năm, số lượng mẫu thu thập theo từng mùa như sau:
- Mùa Xuân (từ tháng 2 đến tháng 4)
- Mùa Hè (từ tháng 5 đến tháng 7)
- Mùa Thu (từ tháng 8 đến tháng 10)
- Mùa Đông (từ tháng 11 đến tháng 01 năm sau)
* Lứa tuổi gà: Thu thập 500 mẫu máu gà tại các địa phương theo 4
lứa tuổi, số lượng mẫu máu gà thu thập theo từng lứa tuổi như sau:
31
≤ 2 tháng tuổi
> 2 – 4 tháng tuổi
> 4 – 6 tháng tuổi
> 6 tháng tuổi
* Tình trạng vệ sinh thú y: Thu thập mẫu máu gà tại các địa phương
theo các tình trạng VSTY như sau:
- VSTY tốt: chuồng trại cao ráo, thoáng mát, sạch sẽ, thường xuyên quyét
dọn chuồng nuôi, khu vực xung quanh chuồng nuôi và bãi chăn thả, định kỳ
phun thuốc khử trùng, thuốc diệt muỗi, dĩn, tiêu độc chuồng trại, dụng cụ chăn
nuôi, phát quang cây cỏ, khơi thông cống rãnh.
- VSTY trung bình: không thường xuyên quét dọn chuồng nuôi, khu vực
xung quanh chuồng nuôi, bãi chăn thả còn có những vũng nước đọng, thỉnh
thoảng phun thuốc diệt muỗi, dĩn; không thường xuyên tiêu độc chuồng trại,
dụng cụ chăn nuôi và phát quang cây cỏ, không thường xuyên khơi thông cống
rãnh ở gần khu vực chăn nuôi.
- VSTY kém: Chuồng nuôi, khu vực xung quanh chuồng nuôi và bãi chăn
thả ẩm thấp, có nhiều vũng nước đọng, có nhiều bụi cây rậm rạp, không tiêu độc
chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi, không khơi thông cống rãnh.
2.4.3. Phương pháp xác định quy luật hoạt động của dĩn – véc tơ truyền bệnh
Leucocytozoon cho gà
* Phương pháp xác định quy luật hoạt động theo các tháng trong
năm
Theo dõi sự xuất hiện và hoạt động của dĩn để xác định quy luật hoạt
động của dĩn ở tất cả các tháng trong năm, từ đó xác định được tháng dĩn
bắt đầu hoạt động, những tháng dĩn hoạt động mạnh và những tháng dĩn
ngừng hoạt động. Kết quả này sẽ là cơ sở khoa học khuyến cáo người
chăn nuôi có biện pháp diệt dĩn – véc tơ truyền Leucocytozoon cho gà phù
hợp, hạn chế tác hại do bệnh Leucocytozoon gây ra ở gà.
32
Những tháng dĩn hoạt động nhiều được kí hiệu (+++), tháng dĩn hoạt
động bình thường thì ký hiệu (++), tháng dĩn hoạt động ít thì ký hiệu (+),
dĩn ngừng hoạt động ký hiệu (-).
* Phương pháp xác định quy luật hoạt động theo giờ trong ngày
Qua theo dõi, chúng tôi thấy dĩn hoạt động nhiều vào thời gian từ tháng
4 đến tháng 9 hàng năm. Do vậy, chúng tôi tiến hành theo dõi sự hoạt động
theo giờ trong ngày của dĩn ở các tháng này. Thời gian trong ngày chia theo
các khoảng như sau: từ 6 – 8 h, 8 – 11 h, 11 – 13 h, 13 – 16 h, 16 – 18 h.
Những khoảng thời gian trong ngày dĩn hoạt động nhiều được kí hiệu
(+++), hoạt động bình thường thì ký hiệu (++), hoạt động ít ký hiệu (+),
ngừng hoạt động ký hiệu (-).
2.4.4. Phương pháp bố trí theo dõi và xác định đặc điểm bệnh lý, lâm sàng
bệnh Leucocytozoon ở gà
2.4.4.1. Phương pháp xác định những biến đổi lâm sàng của gà
Theo dõi tất cả những gà có kết quả kiểm tra tiêu bản máu dương tính
với đơn bào Leucocytozoon.
Xác định những biến đổi lâm sàng của gà bệnh bằng cách trực tiếp
quan sát: mào, tích, thể trạng, phân, ăn uống, vận động... kết hợp với hỏi
chủ hộ nuôi gà.
2.4.4.2. Bố trí lấy mẫu và phương pháp xét nghiệm một số chỉ số máu của
gà khỏe và gà bị bệnh
* Bố trí lấy mẫu xét nghiệm
Dự kiến xét nghiệm lấy mẫu máu của 10 gà khỏe và 10 gà bị bệnh
đơn bào Leucocytozoon.
Lấy máu gà ở tĩnh mạch cánh (2 ml/ con) vào ống nghiệm có tráng
dung dịch EDTA 1% để chống đông máu.
* Phương pháp xét nghiệm một số chỉ số máu của gà khỏe và gà bị
bệnh Leucocytozoon:
33
- Số lượng hồng cầu, số lượng bạch cầu, số lượng tiểu cầu, hàm
lượng huyết sắc tố và công thức bạch cầu được xác định trên máy Cellta -
Mek - 6420k - Nihon Kohden (Nhật Bản).
- Thời gian đông máu được xác định bằng phương pháp sau: chuẩn
bị một lam kính khô, sạch, không mỡ, nhỏ lên lam kính một giọt máu tươi
và ghi lại thời gian. Sau đó, cứ 30 giây lấy đầu kim vạch lên giọt máu, nếu
giọt máu xuất hiện sợi tơ nhỏ thì từ khi nhỏ giọt máu lên phiến kính cho
đến thời điểm đó được tính là thời điểm đông máu (Chu Đức Thắng và
cs., 2008).
2.4.4.3. Phương pháp xác định những tổn thương ở phủ tạng và cơ của
gà, tỷ lệ cơ quan nội tạng có đơn bào Leucocytozoon ký sinh
* Phương pháp bố thí theo dõi
Theo dõi trên những gà có triệu chứng của bệnh và khi xét nghiệm máu
thấy có Leucocytozoon trong máu ở cường độ nặng.
*Phương pháp xác định bệnh tích đại thể
Mổ khám gà theo hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông
thôn (2016), để xác định những biến đổi đại thể ở các phủ tạng và cơ do
đơn bào Leucocytozoon gây ra.
Quan sát bằng mắt thường và kính lúp cơ và các nội quan như thận, lách,
tim, phổi, ruột... Ghi lại những tổn thương quan sát được của gà mổ khám.
Chụp ảnh vùng có bệnh tích điển hình.
* Phương pháp xác định bệnh tích vi thể
Nghiên cứu biến đổi bệnh lý vi thể bằng phương pháp làm tiêu bản tổ
chức học theo quy trình tẩm đúc parafin, nhuộm Hematoxilin - Eosin, đọc
kết quả dưới kính hiển vi quang học và chụp ảnh bằng máy ảnh kỹ thuật
số các hình ảnh dưới kính hiển vi, gồm các bước sau:
Bước 1: Lấy mẫu bệnh phẩm
Bước 2: Cố định bệnh phẩm bằng dung dịch formol 10%
Bước 3: Tẩy nước làm trong
Bước 4: Tẩm parafin
34
Bước 5: Đúc Block
Bước 6: Cắt và dán mảnh
Bước 7: Nhuộm tiêu bản
Bước 8: Dán nhãn và đọc kết quả dưới kính hiển vi quang học, độ
phóng đại từ 200 - 400 lần
* Phương pháp xác định tỷ lệ cơ quan nội tạng của gà có đơn bào ký
sinh
Xác định tỷ lệ cơ quan nội tạng có đơn bào ký sinh bằng phương
pháp làm tiêu bản tổ chức học và đọc kết quả dưới kính hiển vi quang học
(Jones T. C. và Gleiser C. A. (1954)).
2.4.5. Phương pháp đánh giá hiệu lực và độ an toàn của 02 phác đồ điều trị
bệnh Leucocytozoon cho gà
* Bố trí thí nghiệm
Bố trí thí nghiệm sử dụng 2 phác đồ điều trị cho những gà có kết quả
xét nghiệm máu là nhiễm Leucocytozoon theo sơ đồ sau:
Diễn giải
Lô 1
Lô 2
Số gà
thí
30
30
nghiệm
- Trimethoxin wsp
- SU 99 (1g/ 5 lít nước)
(1g/ 1,5 lít nước)
- TOP-PHOSRETIC
- TOP-PHOSRETIC
Phác đồ sử
(Giải độc gan) (1g/1 lít nước)
(Giải độc gan) (1g/1 lít nước)
dụng và liều
- TOP-C 20%
- TOP-C 20%
lượng
(1g/ 2 lít nước)
(1g/ 2 lít nước)
- Vitamino (1ml/ 2 lít nước)
- Vitamino (1ml/ 2 lít nước)
- Paradol K + C (hạ sốt) (1g/ 2 lít
- Paradol K + C (hạ sốt) (1g/ 2 lít
nước)
nước)
Liệu
trình
10
10
(ngày)
* Thành phần thuốc có trong các phác đồ điều trị như sau:
- Trimethoxin: Sulfamonomethoxine Sodium 50g
35
Trimethoprim 10g
Tá dược vừa đủ 100g
- SU 99: Sulfamonomethoxine Sodium 99g
Tá dược vừa đủ 100gam
- TOP-PHOSRETIC (Giải độc gan): Vitamin A (min) 500.000 UI
Vitamin K3 (min) 500mg
- TOP-C 20%: Vitamin C (min) 200.000 mg
Độ ẩm (max) 10%
Tá dược vừa đủ 1kg
- Vitamino: Vitamin E (min) 4.000 IU
Methionine (min) 10.000 mg
- Paradol K + C (hạ sốt): Paracetamol 20g
Vitamin C 10g
Tá dược vừa đủ 100g
* Phương pháp xác định hiệu lực và độ an toàn của phác đồ điều trị
Sử dụng 2 phác đồ điều trị cho những gà bị bệnh Leucocytozoon. Sau
khi cho gà uống thuốc, hàng ngày lấy máu xét nghiệm bằng phương pháp
dàn tiêu bản máu, nhuộm Giemsa, kiểm tra dưới kính hiển vi để xác định
hiệu quả của từng phác đồ điều trị. Tiếp tục theo dõi như vậy đến ngày
thứ 10 sau dùng thuốc, nếu không tìm thấy đơn bào Leucocytozoon trong
máu thì đánh giá thuốc có hiệu lực triệt để đối với Leucocytozoon, nếu
vẫn tìm thấy Leucocytozoon trong máu nhưng với số lượng giảm rõ rệt thì
đánh giá thuốc có hiệu lực với Leucocytozoon nhưng chưa triệt để. Nếu số
lượng Leucocytozoon trong máu không giảm hoặc giảm không đáng kể so
với trước khi dùng thuốc thì đánh giá thuốc không có hiệu lực với
Leucocytozoon.
Theo dõi gà sau dùng thuốc về các chỉ tiêu: ăn uống, vận động, màu
sắc mào yếm, và các phản ứng khác để xác định thuốc có an toàn hay
không.
2.5. Phương pháp xử lý số liệu
36
Số liệu thu thập được xử lý theo phương pháp thống kê sinh học
(Nguyễn Văn Thiện, 2008) và trên phần mềm Minitab 14.0.
37
Chương 3
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thành phần loài đơn bào Leucocytozoon gây bệnh ở gà tại Lạng
Sơn
Để xác định loài đơn bào Leucocytozoon gây bệnh cho gà thả vườn
tại huyện Hữu Lũng và huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, chúng tôi đã làm
tiêu bản máu, nhuộm Giemsa, đọc kết quả dưới kính hiển vi. Căn cứ theo
mô tả của Levine N. D. (1985); Martinsen E. S. và cs (2008) về hình thái của
các loài đơn bào, chúng tôi đã xác định được 01 loài đơn bào ký sinh và gây
bệnh cho gà tại 2 huyện của tỉnh Lạng Sơn. Kết quả được trình bày ở bảng
3.1
Bảng 3.1. Thành phần loài Leucocytozoon gây bệnh ở gà tại Lạng Sơn
Loài Leucocytozoon Số
loài Địa phương
phát (huyện) Loài khác L. caulleryi
hiện
Huyện Cao Lộc + - 1
Huyện Hữu Lũng + - 1
Tần suất xuất hiện 100 0 1 (%)
Bảng 3.1 cho thấy:
Đã định danh được 01 loài đơn bào thuộc giống Leucocytozoon gây
bệnh cho gà tại huyện Cao Lộc và huyện Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn, đó là
loài L. caulleryi. Loài L. caulleryi phân bố rộng rãi và phổ biến, xuất hiện
ở tất cả các địa phương nghiên cứu. Trong các mẫu định loài tại hai địa
phương này không thấy xuất hiện các loài Leucocytozoon khác.
38
Loài đơn bào thấy ở huyện Hữu Lũng và huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng
Sơn có vị trí phân loại như sau:
Loài Leucocytozoon caulleryi (Mathis et Leger, 1909) thuộc giống
Leucocytozoon (Sambon, 1908), họ Leucocytozoidae (Doflein, 1916), bộ
Haemosporoda (Jacques Euzéby, 1988), lớp Aconoidasida (Mehlhorn,
1980), ngành Apicomplexa (Levine, 1970).
Loài L. caulleryi: Đơn bào có dạng hình cầu, khi ký sinh trong tế bào
hồng cầu của gà, đơn bào này luôn làm cho nhân hồng cầu lệch sang một
bên và hồng cầu của gà có hình gần tròn.
Hình thái của loài đơn bào mà chúng tôi phát hiện được trên gà ở Lạng Sơn
hoàn toàn phù hợp với mô tả của Levine N. D. (1985); Martinsen E. S. và cs
(2008).
Khi tiến hành định danh loài đơn bào ký sinh và gây bệnh cho gà tại
tại tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, Wenting Zhao và cs. (2015) đã kiểm tra
hình thái của đơn bào Leucocytozoon trên tiêu bản máu thu thập ở gà, thấy
có hai loài đơn bào là L. sabrazesi và L. caulleryi. Theo tác giả, loài L.
caulleryi có hình tròn. Khi định danh loài đơn bào Leucocytozoon tại tỉnh
Lạng Sơn, chúng tôi cũng thấy loài đơn bào trên có hình thái phù hợp với
mô tả của Wenting Zhao và cs. (2015).
Theo Phạm Sỹ Lăng (2010): Ở Việt Nam có 4 loài Leucocytozoon ký
sinh và gây bệnh chủ yếu cho đàn gà là L. caulleryi, L. sabrazesi, L.
simondi và L. smithi. Kết quả nghiên cứu trên những mẫu máu gà thu thập
tại 2 huyện thuộc tỉnh Lạng Sơn chỉ thấy xuất hiện 1 loài đơn bào ký sinh
và gây bệnh cho gà là L. caulleryi.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2012), ngoài ký sinh trong hồng cầu,
đôi khi còn thấy đơn bào Leucocytozoon ký sinh trong bạch cầu của
gà. Tuy nhiên, trên những tiêu bản máu gà kiểm tra tại các địa phương
của tỉnh Lạng Sơn, chúng tôi chỉ phát hiện thấy đơn bào
Leucocytozoon ký sinh trong hồng cầu, không thấy tiêu bản nào có
đơn bào Leucocytozoon ký sinh trong bạch cầu.
39
3.2. Một số đặc điểm dịch tễ bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà tại
Lạng Sơn
3.2.1. Tình hình nhiễm đơn bào đường máu Leucocytozoon ở gà
3.2.1.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo địa phương
Để đánh giá được tỷ lệ và cường độ nhiễm đơn bào Leucocytozoon
theo địa phương, chúng tôi đã tiến hành thu thập và xét nghiệm 500 mẫu
máu gà ở 10 xã, thị trấn thuộc hai huyện Cao Lộc và huyện Hữu Lũng.
Kết quả được trình bày ở bảng 3.2 và hình 3.1, 3.2, 3.3, 3.4.
Bảng 3.2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo địa
phương
Số
Cường độ nhiễm
Tỷ
Số gà
gà
(% số hồng cầu có đơn bào)
Địa
lệ
xét
nhi
≤ 5
> 5 - 10
> 10
phư
nhi
nghiệm
ễm
n
%
n
%
n
%
ơng
ễm
(con)
(co
(%)
n)
* H.
2
51
20,
2
50,
1
35,
7
13,
Cao
5
40
6
98
8
29
73
Lộc
0
TT.
6
12,
3
50,
3
50,
0
0,0
Đồn
00
00
00
0
g
5
Đăng
0
Xã
5
12
24,
6
50,
4
33,
2
16,
Công
0
00
00
33
67
Sơn
Xã
5
8
16,
5
62,
2
25,
1
12,
Phú
0
00
50
00
50
Xá
Xã
5
11
22,
5
45,
4
36,
2
18,
Hồn
0
00
45
36
18
g
Phon
g
Xã
14
5
7
50,
28,
5
35,
2
14,
Bảo
0
00
00
71
29
Lâm
40
* H.
41
2
56,
16,
1
29,
6
14,
Hữu
2
3
10
40
2
27
63
Lũn
5
g
0
TT.
4
3
75,
8,0
1
25,
0
0,0
Hữu
5
00
0
00
0
Lũng
0
Xã
7
4
57,
14,
2
28,
1
14,
Đồn
14
00
57
29
g
5
Tân
0
Xã
11
5
45,
22,
4
36,
2
18,
Thiệ
45
00
36
18
n
5
Tân
0
Xã
10
5
50,
20,
3
30,
2
20,
Yên
5
00
00
00
00
Bình
0
Xã
9
6
66,
18,
2
22,
1
11,
Vân
67
00
22
11
Nha
5
m
0
Tính
92
5
4
53,
18,
3
32,
1
14,
chun
0
9
26
40
0
61
3
13
41
g
0
Qua điều tra cho thấy: gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon đều xuất
hiện ở các địa phương nghiên cứu. Tuy nhiên tỷ lệ và cường độ nhiễm của
gà tại các địa phương lại không giống nhau. Nguyên nhân là do hai huyện
được nghiên cứu phân bố trên địa hình tương đối phức tạp, các vùng có
núi đồi cao thấp xen kẽ lẫn nhau, có vùng tương đối bằng phẳng. Đặc
điểm địa hình này dẫn đến sự khác nhau về khí hậu giữa các vùng.
Cụ thể như sau:
- Huyện Cao Lộc nằm ở phía Đông Bắc và huyện Hữu Lũng là huyện
miền núi nằm ở phía Nam của tỉnh Lạng Sơn. Hệ thống núi cao và đồi
thấp cùng với hệ thống sông ngòi dày đặc xen kẽ, phân bố trải dài trên
khu vực địa bàn tỉnh dẫn đến thời tiết khí hậu phân hóa rõ rệt.
- Lượng mưa trung bình năm của huyện Cao Lộc tương đối thấp đạt
1.320mm, 70% lượng mưa từ tháng 5 đến tháng 9, nhiều xã mùa khô thiếu
nước như Thuỵ Hùng, Phú Xá, Hồng Phong, Lộc Yên. Tốc độ gió trung
bình năm là 2,0 m/s, mùa đông có gió mùa Đông Bắc, hiện tượng sương
muối xảy ra ảnh hưởng mạnh đến sản xuất nông nghiệp.
- Hữu Lũng chịu sự ảnh hưởng của khí hậu vùng núi phía Bắc, khô
lạnh và ít mưa về mùa Đông, nóng ẩm, mưa nhiều về mùa hè. Lượng mưa
trung bình năm là 1.488,2mm với 135 ngày mưa trong năm và phân bố từ
13 - 17 ngày/tháng, tăng dần từ tháng 5 đến tháng 8. Mùa mưa kéo dài từ
tháng 4 đến tháng 10 và chiếm trên 90% lượng mưa cả năm. Mùa khô kéo dài
từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau và chiếm trên 9% lượng mưa cả năm.
Với điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế xã hội đã trình bày có ảnh
hưởng lớn đến sự phân bố dĩn – véc tơ truyền bệnh đơn bào
Leucocytozoon. Đây chính là những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp
dẫn đến sự khác nhau về tỷ lệ và cường độ nhiễm giữa các địa phương.
42
Trong tổng số 500 gà được xét nghiệm máu có 92 gà nhiễm đơn bào
Leucocytozoon, tỷ lệ nhiễm chung ở 2 huyện là 18,40%; biến động từ
8,00% - 28,00% theo từng địa phương. Trong đó, gà ở huyện Cao Lộc
nhiễm với tỷ lệ là 20,40%, ở huyện Hữu Lũng là 16,40%.
Qua điều tra cho thấy, đa số các hộ chăn nuôi gà tại huyện Hữu Lũng
và huyện Cao Lộc đều chưa chú ý xây dựng chuồng trại hợp vệ sinh, một
số hộ còn làm chuồng tạm bợ, khu vực xung quanh chuồng nuôi còn
nhiều rãnh nước đọng... Các hộ dân cũng chưa chú ý tới việc vệ sinh
chuồng, khu vực xung quanh chuồng. Đặc biệt số hộ chăn nuôi gà sử dụng
thuốc phun diệt dĩn và dùng thuốc phòng bệnh đơn bào Leucocytozoon
cho gà còn rất ít. Chính những nguyên nhân này làm cho tỷ lệ gà mắc
bệnh Leucocytozoon ở hai địa phương tương đối cao.
Hình 3.1. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tại huyện Cao
Lộc
43
Hình 3.2. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tại huyện Hữu
Lũng
Biểu đồ hình 3.1 và hình 3.2 cho ta thấy rõ hơn về tỷ lệ nhiễm đơn
bào Leucocytozoon tại các xã thuộc hai huyện Cao Lộc và huyện Hữu
Lũng.
- Về cường độ nhiễm:
Gà ở hai huyện Cao Lộc và huyện Hữu Lũng đều nhiễm Leucocytozoon.
Tính chung trong tổng số 92 gà nhiễm thì chủ yếu là nhiễm ở cường độ nhẹ
với 53,26%, gà nhiễm ở cường độ trung bình chiếm tỷ lệ 32,61%, cường độ
nặng chiếm 14,13%. Cụ thể như sau:
- Tại huyện Cao Lộc:
Gà ở 5 xã và thị trấn nghiên cứu đều nhiễm đơn bào Leucocytozoon.
Tính chung trong tổng số 51 gà nhiễm có 26 gà nhiễm ở cường độ nhẹ,
chiếm 50,98%; 18 gà nhiễm ở cường độ trung bình, chiếm 35,29%; 7 gà
nhiễm ở cường độ nặng, chiếm 13,73%. Tỷ lệ và cường độ nhiễm ở mỗi
địa phương cụ thể như sau:
44
+ Thị trấn Đồng Đăng: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon thấp
nhất (12,00%); trong đó có 50% nhiễm ở cường độ nhẹ; 50% nhiễm ở
cường độ trung bình, không có gà nào nhiễm ở cường độ nặng.
+ Xã Bảo Lâm: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon cao nhất
(28,00%); trong đó có 50% nhiễm ở cường độ nhẹ; 35,71% nhiễm ở
cường độ trung bình; 14,29% nhiễm ở cường độ nặng.
+ Xã Công Sơn: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon là 24,00%;
trong đó có 50,00% nhiễm ở cường độ nhẹ; 33,33% nhiễm ở cường độ
trung bình; 16,67% nhiễm ở cường độ nặng.
+ Xã Phú Xá: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon là 16,00%;
trong đó có 62,50% nhiễm ở cường độ nhẹ; 25,00% nhiễm ở cường độ
trung bình; 12,50% nhiễm ở cường độ nặng.
+ Xã Hồng Phong: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon là 22%;
trong đó có 45,45% nhiễm ở cường độ nhẹ; 36,36% nhiễm ở cường độ
trung bình; 18,18% nhiễm ở cường độ nặng.
- Huyện Hữu Lũng: Gà nuôi thả vườn ở 5 xã và thị trấn nghiên cứu
đề nhiễm đơn bào Leucocytozoon. Trong đó có 56,10% nhiễm ở cường độ
nhẹ, 29,27% gà nhiễm ở cường độ trung bình. Có 14,63% gà nhiễm ở
cường độ nặng. Cụ thể ở từng địa phương như sau:
+ Thị trấn Hữu Lũng: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon thấp
nhất (8%); trong đó có 75,00% nhiễm ở cường độ nhẹ; 25,00% nhiễm ở
cường độ trung bình, không có gà nhiễm ở cường độ nặng.
+ Xã Thiện Tân: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon cao nhất
(22%); trong đó có 45,45% nhiễm ở cường độ nhẹ; 36,36% nhiễm ở
cường độ trung bình; 18,18% nhiễm ở cường độ nặng.
+ Xã Đồng Tân: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon là 14%;
trong đó có 57,14% nhiễm ở cường độ nhẹ; 28,57% nhiễm ở cường độ
trung bình; 14,29% nhiễm ở cường độ nặng.
45
+ Xã Yên Bình: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon là 20%; trong
đó có 50% nhiễm ở cường độ nhẹ; 30% nhiễm ở cường độ trung bình;
20% nhiễm ở cường độ nặng.
+ Xã Vân Nham: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon là 18%;
trong đó có 66,67% nhiễm ở cường độ nhẹ; 22,22% nhiễm ở cường độ
trung bình; 11,11% nhiễm ở cường độ nặng.
Hình 3.3, 3.4. Biểu đồ cường độ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà
tại huyện Cao Lộc và huyện Hữu Lũng
Biểu đồ ở hình 3.3, 3.4 cho thấy, các múi biểu thị cường độ nhiễm đơn
bào Leucocytozoon có độ lớn khác nhau. Trong đó, múi biểu thị cường độ
nhiễm nhẹ lớn nhất, phần biểu thị cường độ nhiễm nặng nhỏ nhất.
Như vậy, 2 loại biểu đồ trên cho thấy rõ ràng hơn biến động về tỷ lệ
cường độ nhiễm Leucocytozoon của gà ở hai huyện đang nghiên cứu.
Theo Lê Văn Năm (2011) và Nguyễn Thị Kim Lan (2012), mức độ
nặng nhẹ của bệnh Leucocytozoon phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: tuổi gia
cầm thụ cảm, mùa vụ, phương thức chăn nuôi, điều kiện vệ sinh thú y, kỹ
thuật chăm sóc nuôi dưỡng…
Kết quả điều tra cho thấy, Cao Lộc và Hữu Lũng là hai huyện miền
núi thuộc tỉnh Lạng Sơn chịu sự ảnh hưởng của khí hậu vùng núi phía
46
Bắc, khô lạnh và ít mưa về mùa Đông, nóng ẩm, mưa nhiều về mùa Hè.
Đây là điều kiện rất thuận lợi cho các loại dĩn hút máu cư trú và phát triển.
Ngoài ra, điều kiện kinh tế xã hội của hai huyện cũng có những nét riêng.
Nhìn chung, nhiều xã vùng núi của huyện Cao Lộc (xã Bảo Lâm, xã Công
Sơn) và huyện Hữu Lũng (xã Thiện Tân) xa khu vực trung tâm tỉnh và
huyện, các điều kiện về chăn nuôi và vệ sinh thú y còn yếu kém, người
dân vẫn chưa ý thức được việc phòng trị bệnh cho vật nuôi, nhiều hộ chăn
nuôi gà chủ yếu theo phương thức chăn thả và bán chăn thả, mang tính tận
dụng. Một số hộ chăn nuôi với quy mô lớn trên diện tích đồi có thảm thực
vật phong phú. Ngược lại, thị trấn Đồng Đăng (huyện Cao Lộc) và thị trấn
Hữu Lũng (huyện Hữu Lũng) có điều kiện kinh tế khá phát triển, địa hình
bằng phẳng, giao thông thuận lợi, ý thức việc phòng trị bệnh cho vật nuôi
của người dân được chú trọng hơn.
Như vậy, gà nuôi ở những địa phương có điều kiện thuận lợi cho dĩn hút
máu - véc tơ truyền đơn bào Leucocytozoon phát triển như: thảm thực vật dày
và đa dạng, tình trạng vệ sinh thú y kém, phương thức chăn nuôi lạc hậu, công
tác phòng trị bệnh cho gà chưa được chú trọng sẽ có tỷ lệ và cường độ nhiễm
đơn bào Leucocytozoon ở gà tăng lên. Do đó, người chăn nuôi cần thực hiện
thường xuyên các biện pháp tiêu diệt dĩn hút máu, tăng cường công tác vệ
sinh thú y và chăm sóc nuôi dưỡng sẽ góp phần hạn chế nhiễm Leucocytozoon
ở gà.
3.2.1.2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo mùa
Để xác định các mùa trong năm có ảnh hưởng như thế nào đến tỷ lệ
và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà, chúng tôi đã tiến hành lấy mẫu
máu gà ở ở một số địa phương thuộc huyện Cao Lộc và huyện Hữu Lũng
theo 4 mùa trong năm (Xuân, Hè, Thu, Đông) để kiểm tra tỷ lệ và cường
47
độ nhiễm Leucocytozoon theo mùa. Kết quả xét nghiệm được trình bày ở
bảng 3.3 và hình 3.5.
Bảng 3.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo mùa
Cường độ nhiễm (% số hồng cầu có đơn bào)
≤ 5 > 5 - 10 > 10
M ùa n % n % n % Số gà xét nghiệm (co n) Số gà nhiễ m (con)
Tỷ lệ nh iễ m (% )
14 58 29 11 Xu 1 115 17 ,7 ,8 ,4 5 ,7 2 ân 0 8 2 1 6
25 50 32 17 1 1 Hè 135 34 ,1 ,0 ,3 ,6 6 7 1 9 0 5 5
21 53 33 13 Th 1 1 138 30 ,7 ,3 ,3 ,3 4 u 6 0 4 3 3 3
54 36 Đô 9, 9, 112 11 6 ,5 ,3 4 1 ng 82 09 5 6
500 92 4 9 3 0 1 3 18 ,4 0 53 ,2 6 32 ,6 1 14 ,1 3
Tí nh ch un g
Qua bảng 3.3 cho thấy: tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở các
mùa vụ trong năm là khác nhau. Gà nhiễm Leucocytozoon nhiều ở mùa Hè và
mùa Thu, nhiễm ít ở mùa Đông và Xuân. Cụ thể như sau:
48
- Về tỷ lệ nhiễm: gà ở mùa Hè nhiễm Leucocytozoon nhiều nhất
(25,19%), kế tiếp là mùa Thu (21,74%), mùa Xuân (14,78%) và thấp nhất
ở mùa Đông (9,82%).
- Về cường độ nhiễm:
+ Ở mùa Xuân: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon là 14,78%, trong
đó có 58,82% gà nhiễm ở cường độ nhẹ, 29,41% gà nhiễm ở cường độ trung
bình và 11,76% gà nhiễm ở cường độ nặng.
+ Ở mùa Hè: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon cao nhất (25,19%).
Gà nhiễm ở cường độ nhẹ chiếm 50%, nhiễm ở cường độ trung bình chiếm
32,35%, nhiễm ở cường độ nặng chiếm 17,65%.
+ Ở mùa Thu: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon là 21,74%. Trong
đó gà nhiễm ở cường độ nhẹ là 53,33%, ở cường độ trung bình là 33,33 và
nhiễm ở cường độ nặng là 13,33%.
+ Ở mùa Đông: đây là mùa vụ có tỷ lệ gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon
thấp nhất trong năm (9,82%), chủ yếu là nhiễm ở cường độ nhẹ và cường độ
trung bình (90,91%), chỉ có 9,09% gà nhiễm ở cường độ nặng.
Như vậy, gà nuôi ở mùa Hè và mùa Thu nhiễm đơn bào Leucocytozoon
nhiều và nặng hơn so với mùa Xuân và mùa Đông.
Dương Thị Hồng Duyên và cs (2015) xét nghiệm 572 mẫu máu gà tại
tỉnh Thái Nguyên và Bắc Giang cho biết: Mùa Hè gà nhiễm Leucocytozoon
nhiều nhất (27,92%), kế tiếp là mùa Thu (22,14%), mùa Xuân (18,44%) và
thấp nhất là mùa Đông (10,22%). Tác giả cũng cho rằng: Các tháng có khí hậu
nóng ẩm sẽ thích hợp cho các loài dĩn hút máu sinh sản và hoạt động mạnh.
Nghiên cứu của chúng tôi trên các địa phương thuộc tỉnh Lạng Sơn có kết quả
tương đồng với nghiên cứu của tác giả.
Nguyên nhân là do, thời tiết ngày càng khác nghiệt, dẫn đến mùa Đông
và mùa Xuân thời tiết vẫn còn khô và lạnh, ánh sáng ít dẫn đến số lượng và
tần suất hoạt động của dĩn giảm đáng kể. Tương tự như vậy, vào mùa Hè và
49
mua Thu thời tiết nóng ẩm kéo dài, là điều kiện thuận lợi cho dĩn sinh trưởng
và hoạt động với cường độ mạnh. Do đó vào thời điểm này gà bị nhiễm
Leucocytozoon nhiều hơn và cường độ nhiễm nặng hơn. Vì vậy người chăn
nuôi cần tăng cường công tác vệ sinh thú y, thường xuyên dọn dẹp vệ sinh
chuồng trại, khơi thông cống rãnh, phát quang bờ bụi, phun thuốc diệt dĩn
nhằm hạn chế tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon trên đàn gà.
Theo Lê Văn Năm (2011), bệnh do Leucocytozoon gây ra mang tính
chu kỳ rõ rệt, phụ thuộc vào mùa sinh sản và phát triển của ký chủ trung
gian truyền bệnh. Ở miền Bắc nước ta bệnh xuất hiện hàng năm vào mùa
Xuân – Hè. Theo dõi trong suốt 3 năm (2009, 2010, 2011), tác giả đã ghi
nhận, bệnh thường xuất hiện ngay sau tết Nguyên đán, bệnh nặng dần lên
trong các tháng 2, 3, 4, 5 dương lịch rồi giảm dần vào các tháng 6, 7, 8 và
hầu như ít sảy ra vào các tháng 9, 10, 11, 12 và tháng 1 trong năm. Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi khác nhận xét trên ở chỗ, trong mùa Hè (từ
tháng 5 - 7) tỷ lệ và cường độ nhiễm đơn bào Leucocytozoon của đàn gà
trên các địa phương nghiên cứu cao hơn so với mùa Xuân (tháng 2 – 4). Kết
quả này phù hợp với mùa sinh sản và phát triển của dĩn (mùa Xuân dĩn hoạt
động ít hơn so với mùa Hè).
50
Hình 3.5. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tại huyện Hữu
Lũng và huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn theo mùa
Biểu đồ hình 3.5 thể hiện rõ hơn sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm đơn
bào Leucocytozoon ở gà theo mùa.
3.2.1.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon theo tuổi gà
Việc xác đinh tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon theo từng lứa
tuổi gà để có kế hoạch phòng trị bệnh thích hợp, nhằm nâng cao năng suất
chăn nuôi gà là cần thiết. Chúng tôi đã xét nghiệm máu của 500 gà ở 4 lứa
tuổi khác nhau. Kết quả được trình bày ở bảng 3.4.
Bảng 3.4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo tuổi
Cường độ nhiễm (% số hồng cầu có đơn bào) > 5 - 10 ≤ 5 > 10
Số gà xét nghiệm (con) n % n % n % Tuổi gà (thán g) Tỷ lệ nhi ễm (% ) Số gà nh iễ m (co n)
51
7 4 0 ≤ 2 113 11 9,7 3 0, 0 0
6 3 142 22 15, 49 1 3 > 2 – 4
5 131 30 22, 90 1 5 1 0 > 4 – 6
5 > 6 114 29 25, 44 1 4 1 0
500 92 18, 40 4 9 3 0 1 3
6 3, 6 4 5 9, 0 9 5 0, 0 0 4 8, 2 8 5 3, 2 6 3 6, 3 6 2 7, 2 7 3 3, 3 3 3 4, 4 8 3 2, 6 1 1 3, 6 4 1 6, 6 7 1 7, 2 4 1 4, 1 3 Tín h chu ng
Bảng 3.4 cho thấy:
- Về tỷ lệ nhiễm: Trong tổng số 500 gà kiểm tra có 92 gà nhiễm đơn bào
Leucocytozoon. Tỷ lệ nhiễm bệnh tăng dần theo tuổi gà. Nhiễm thấp nhất ở
giai đoạn gà dưới 2 tháng tuổi (9,73%), tiếp theo là giai đoạn > 2 - 4 tháng
tuổi (15,49%), giai đoạn > 4 - 6 tháng tuổi (22,90%) và cao nhất là gà trên 6
tháng tuổi (25,44%). Như vậy, tỷ lệ nhiễm bệnh của gà ở giai đoạn dưới 2
tháng tuổi và giai đoạn trên 6 tháng tuổi khác nhau. Sở dĩ có sự khác biệt này
là do gà dưới 2 tháng tuổi được chăm sóc tốt, vệ sinh chuồng trại đảm bảo
hơn. Mặt khác, gà ở lứa tuổi này có thời gian tiếp xúc với các loài dĩn hút
máu chưa nhiều, vì vậy tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh ở lứa tuổi này thấp.
Khi tuổi gà tăng, thời gian tiếp xúc với dĩn tăng thì tỷ lệ và cường độ nhiễm
bệnh cũng tăng lên.
52
-Về cường độ nhiễm: Gà ở các lứa tuổi khác nhau đều nhiễm đơn bào
Leucocytozoon ở các cường độ khác nhau. Tuổi gà càng cao thì cường độ
nhiễm nặng càng tăng. Chi tiết như sau:
Gà ≤ 2 tháng tuổi: 100% số gà kiểm tra nhiễm ở cường độ nhẹ và
trung bình, không có gà nhiễm ở cường độ nặng.
Gà giai đoạn > 2 - 4 tháng tuổi: có 59,09% nhiễm ở cường độ nhẹ, ở
cường độ nặng là 13,64%.
Gà giai đoạn > 4 – 6 tháng tuổi: tỷ lệ nhiễm nặng là 16,67%.
Gà nhiễm nhiều và nặng nhất ở giai đoạn > 6 tháng tuổi tương ứng
25,44%.
Như vậy, tỷ lệ gà có cường độ nhiễm nặng tăng từ 0% ở gà ≤ 2 tháng
tuổi lên 17,24% ở gà > 6 tháng, chênh lệch 17,24%.
Dương Thị Hồng Duyên và cs (2015) cho biết: trong 482 gà kiểm tra
tại Thái Nguyên và Bắc giang có 96 gà nhiễm đơn bào chiếm 19,92%. Tỷ
lệ và cường độ nhiễm tăng dần theo tuổi gà. Gà nhiễm cao nhất ở gà trên
6 tháng tuổi. Kết quả kiểm tra trên gà tại huyện Cao Lộc và huyện Hữu
Lũng, tinh Lạng Sơn của chúng tôi tương đồng với nghiên cứu của tác giả.
Biến động tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon theo tuổi gà được thể
hiện ở hình 3.6.
53
Hình 3.6. Đồ thị tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tại huyện Hữu
Lũng và huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn theo tuổi
Đồ thị ở hình 3.6 biểu diễn quy luật nhiễm đơn bào Leucocytozoon
tăng dần theo tuổi gà, tuổi gà cao thì tỷ lệ nhiễm tăng và ngược lại.
3.2.1.4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo tình trạng vệ
sinh thú y
Điều kiện vệ sinh thú y có vai trò vô cùng quan trọng đối với
chăn nuôi nói chung và chăn nuôi gia cầm nói riêng. Kết quả đánh
giá về tình trạng vệ sinh thú y có ảnh hưởng như thế nào đến tỷ lệ và
cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà được trình bày ở bảng 3.5.
Bảng 3.5. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà
theo tình trạng vệ sinh thú y
Cường độ nhiễm (% số hồng cầu có đơn bào) > 5 - 10 ≤ 5 > 10
Tỷ lệ nhiễm (%) Số gà xét nghiệm (con) n % n % n %
Tìn h trạn g VST Y Số gà nhi ễm (co n)
54
Tốt 15 4 1 1 0 1 5 1 9, 9 3 6, 6 6
33 5 1 8 1 0 1 8 6 Tru ng bình
44 7 Ké m 2 1 1 6 1 6 3
92 4 9 3 0 1 3 5 0 0 Tín h chun g 1 7, 7 4 2 6, 9 9 1 8, 4 0 6 6, 6 7 5 4, 5 5 4 7, 7 3 5 3, 2 6 2 6, 6 7 3 0, 3 0 3 6, 3 6 3 2, 6 1 1 5, 1 5 1 5, 9 1 1 4, 1 3
Bảng 3.5 cho thấy: Tỷ lệ và cường độ nhiễm đơn bào Leucocytozoon
ở gà nuôi trong tình trạng vệ sinh thú y khác nhau thì khác nhau.
- Về tỷ lệ nhiễm: tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon biến động từ
9,93% - 26,99%. Cao nhất là gà được nuôi ở trong điều kiện vệ sinh thú y
kém (26,99%), thấp nhất là gà được nuôi trong điều kiện vệ sinh thú y tốt
(9,93%).
- Về cường độ nhiễm: gà được nuôi trong tình trạng vệ sinh thú y
kém nhiễm Leucocytozoon chủ yếu ở cường độ trung bình và nặng,
trong khi ở điều kiện vệ sinh thú y tốt, gà chủ yếu nhiễm ở cường độ
nhẹ. Cụ thể như sau:
+ Ở tình trạng vệ sinh thú y tốt: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào
Leucocytozoon thấp nhất (9,93%), trong đó nhiễm ở cường độ nhẹ là chủ
yếu (66,67%), nhiễm ở cường độ trung bình chiếm 26,67%, chỉ có 1 con
nhiễm ở cường độ nặng, chiếm 6,66%.
55
+ Ở tình trạng vệ sinh thú y trung bình: tỷ lệ nhiễm đơn bào
Leucocytozoon là 17,74% (cao hơn 7,81% so với tình trạng vệ sinh thú y
tốt). trong đó gà nhiễm ở cường độ nhẹ chiếm 54,55%, gà nhiễm ở cường
độ trung bình chiếm 30,30% và nhiễm ở cường độ nặng chiếm 15,15%.
+ Ở tình trạng vệ sinh thú y kém: tỷ lệ gà nhiễm đơn bào
Leucocytozoon cao nhất (26,99%). Trong đó, gà nhiễm ở cường độ nhẹ
chiếm 47,73%, nhiễm ở cường độ trung bình chiếm 36,36%, nhiễm ở
cường độ nặng chiếm 15,91%.
Như vậy, gà được nuôi trong điều kiện vệ sinh thú y tốt có tỷ lệ và
cường độ nhiễm đơn bào đường máu Leucocytozoon thấp hơn rất nhiều so
với gà được nuôi trong điều kiện vệ sinh thú y kém. Điều này cho thấy,
người chăn nuôi cần quan tâm hơn nữa đến vấn đề vệ sinh thú y trong
chăn nuôi nói chung và chăn nuôi gà nói riêng để hạn chế tỷ lệ và cường
độ nhiễm Leucocytozoon ở gà, bằng các biện pháp: chuồng trại xây nơi
cao ráo, thoáng mát, sạch sẽ, thường xuyên quét dọn chuồng nuôi, định kỳ
khử trùng tiêu độc chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi, phát quang cây cỏ,
khơi thông cống rãnh nhằm tạo điều kiện bất lợi cho sự phát triển của dĩn
hút máu.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nhận xét của Kissam
J. B và cs (1975), khi tác giả cho rằng: việc thực hiện biện pháp loại bỏ
côn trùng môi giới hút máu trong môi trường sống của gà sẽ làm hạn chế
và tiến tới khống chế được bệnh do Leucocytozoon caulleryi gây ra.
Nguyễn Thị Kim Lan và Dương Thị Hồng Duyên (2012) cho biết: Tỷ lệ
và cường độ nhiễm Leucocytozoon khác nhau theo tình trạng vệ sinh thú y
trong chăn nuôi. Gà được nuôi trong điều kiện vệ sinh thú y tốt có tỷ lệ và
cường độ nhiễm thấp hơn rất nhiều so với gà được nuôi trong tình trạng vệ
sinh thú y kém. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nhận xét của
tác giả.
56
Hình 3.7. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tại huyện Hữu
Lũng và huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn theo tình trạng vệ sinh thú y
3.2.2. Nghiên cứu đặc điểm hoạt động của dĩn – véc tơ truyền
Leucocytozoon cho gà
3.2.2.1. Quy luật hoạt động của các loài dĩn ở các địa phương nghiên
cứu
Để có cơ sở phòng bệnh đơn bào Leucocytozoon, chúng tôi đã nghiên
cứu hoạt động của dĩn – côn trùng hút máu truyền đơn bào Leucocytozoon
cho gà qua các tháng trong năm. Kết quả được thể hiện ở bảng 3.6.
Bảng 3.6. Quy luật hoạt động của các loài dĩn theo tháng trong năm
Tháng dĩn hoạt động Địa
phương 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
Cao - - ++ +++ +++ +++ +++ ++ ++ + - Lộc
Hữu - - + ++ +++ +++ +++ ++ ++ + - Lũng
57
Ghi chú: (+++): Hoạt động với cường độ mạnh (++): Hoạt động với cường độ trung bình (+): Hoạt động ít (-): Không hoạt động
Qua bảng 3.6 cho thấy:
Trong các tháng 11, 12, 1, 2 thời tiết lạnh, khô nên hầu như dĩn không
hoạt động. Từ tháng 4 đến tháng 9 khí hậu ấm áp kèm theo mưa phùn ẩm
ướt là môi trường thuận lợi cho dĩn sinh trưởng và phát triển, vì vậy cho nên
vào khoảng thời gian này dĩn hoạt động mạnh hơn, đặc biệt vào các tháng
5,6,7. Ngoài ra tình trạng vệ sinh thú y kém cũng góp phần làm gia tăng số
lượng dĩn dẫn đến hoạt động hút máu diễn ra mạnh hơn.
Ở các địa phương như thị trấn Đồng Đăng (huyện Cao Lộc) và thị
trấn Hữu Lũng (huyện Hữu Lũng), các hộ chăn nuôi đã áp dụng các biện
pháp vệ sinh thú y như: phát quang bờ bụi, khơi thông cống rãnh, phun
thuốc diệt muỗi, dĩn nên ở các địa phương này dĩn hoạt động ít hơn.
Ngược lại, ở các xã vùng núi của huyện Cao Lộc (xã Bảo Lâm, xã Công
Sơn) và huyện Hữu Lũng (xã Thiện Tân), các hộ chăn nuôi hầu như
không phun thuốc diệt dĩn hút máu, ngoài ra địa hình khá phức tạp, cây
cối rậm rạp đó là những điều kiện thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát
triển của dĩn, vì vậy dĩn hoạt động mạnh ở các địa phương này với số
lượng nhiều hơn. Đối chiếu với kết quả xác định tỷ lệ và cường độ
nhiễm đơn bào Leucocytozoon của gà ở các địa phương (bảng 3.2) và tỷ
lệ nhiễm theo mùa (bảng 3.3), chúng tôi nhận thấy: mật độ và cường độ
hoạt động của dĩn tỷ lệ thuận với tỷ lệ và cường độ nhiễm đơn bào
Leucocytozoon ở gà theo các địa phương và theo mùa.
3.2.2.2. Quy luật hoạt động của các loài dĩn ở các địa phương nghiên
cứu theo giờ
58
Ngoài theo dõi quy luật hoạt động của dĩn trong năm, chúng tôi còn
theo dõi cường độ hoạt động của dĩn trong ngày. Thực tế quan sát cho thấy,
dĩn bắt đầu hoạt động từ 6 giờ đến 18 giờ trong ngày. Nhìn chung, dĩn
thường hoạt động tần suất cao vào thời điểm ấm áp và có ánh nắng.
Bảng 3.7. Quy luật hoạt động trong ngày của các loài dĩn
Thời điểm dĩn hoạt động (giờ)
Tháng theo dõi 6 – 8 8 - 11 11 - 13 13 - 16 16 - 18
Tháng 3 - - ++ ++ ++
Tháng 4 + + ++ ++ +++
Tháng 5 + ++ ++ +++ +++
Tháng 6 + ++ ++ +++ +++
Tháng 7 + ++ ++ +++ +++
Tháng 8 + ++ ++ +++ +++
Tháng 9 + + ++ + ++
Tháng 10 - + ++ + -
Ghi chú: (+++): Hoạt động với cường độ mạnh
(++): Hoạt động với cường độ trung bình
(+): Hoạt động ít
(-): Không hoạt động
Kết quả ở bảng 3.7 cho thấy:
Từ tháng 5 đến tháng 8 dĩn hoạt động mạnh trong khoảng từ 8 – 16
giờ trong ngày, đó là khoảng thời gian có cường độ ánh sáng mạnh
trong ngày, từ 6 – 8 giờ sáng và 16 – 18 giờ chiều là khoảng thời gian
cường độ ánh sáng yếu hơn nên mức độ hoạt động của dĩn thấp.
Vào các tháng 3, 4, 9 và 10 nhiệt độ thấp đan xen cùng với thời
tiết lạnh và khô, cường độ ánh sáng yếu dẫn đến số lượng và mức độ
hoạt động của dĩn giảm.
59
Từ kết quả trên cho ta thấy: để hạn chế gà nhiễm đơn bào
Leucocytozoon do dĩn hút máu và truyền bệnh, người chăn nuôi cần áp
dụng biện pháp ngăn cản sự tiếp xúc giữa gia cầm với dĩn như: làm tốt
công tác vệ sinh thú y, khơi thông cống rãnh, phát quang bụi rậm thường
xuyên, phun thuốc diệt dĩn và các loại côn trùng khác…
3.3. Bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà tại Lạng Sơn
3.3.1. Đặc điểm lâm sàng bệnh Leucocytozoon ở gà tại Lạng Sơn
Mức độ nặng, nhẹ của bệnh phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: tuổi,
sức đề kháng của cơ thể vật chủ, số lượng đơn bào Leucocytozoon ký
sinh, điều kiện vệ sinh thú y, điều kiện thời tiết khí hậu….
Theo dõi 92 gà nhiễm Leucocytozoon, để xác định triệu chứng lâm
sàn chủ yếu của bệnh. Kết quả được trình bày ở bảng 3.8.
Bảng 3.8. Tỷ lệ và các triệu chứng lâm sàng của gà mắc
bệnh đơn bào Leucocytozoon
Kết quả theo dõi Số gà Số gà có Số nhiễ Tỷ lệ triệu chứng Biểu hiện lâm gà Tỷ lệ m (%) (con) sàng chủ yếu (co (%) (con) n)
Mào, tích nhợt 28 100 nhạt
15 55,57 Gày yếu
18 64,29 Sốt trên 430C 92 28 30,43 Ủ rũ, vận động 18 64,29 chậm chạp
24 85,71 Kém ăn
26 92,86 Ỉa chảy, phân
60
màu xanh lá cây
Kết quả ở bảng 3.8 cho thấy: trong 92 gà theo dõi có 28 gà xuất hiện
triệu chứng, chiếm 30,43%. Các triệu chứng chủ yếu thường thấy ở gà
mắc bệnh do đơn bào Leucocytozoon gây ra là: thiếu máu, mào tích nhợt
nhạt, ủ rũ, kém ăn, gày yếu, ỉa chảy phân màu xanh lá cây. Cụ thể:
Tỷ lệ gà mắc bệnh có biểu hiện thiếu máu, mào tích nhợt nhạt,
chiếm 100% trong số gà có triệu chứng; 64,29% gà có triệu chứng sốt
trên 430C, ủ rũ, vận động chậm chạp; 92,86% gà có triệu chứng ỉa chảy,
phân xanh màu lá cây.
Nguyên nhân dẫn đến các triệu chứng trên là do đơn bào
Leucocytozoon ký sinh trong hồng cầu, lớn dần về kích thước, đồng thời
tiết ra một chất làm tan hồng cầu, gọi là chất kháng hồng cầu (anti -
erythrocyte) gây phá vỡ hồng cầu hàng loạt, dẫn đến hiện tượng thiếu
máu. Hồng cầu bị phá vỡ dẫn đến có một lượng lớn huyết sắc tố tự do
được giải phóng trong máu, đến gan và được gan chuyển hóa thành
biliverdin. Tuy nhiên, do đơn bào tác động đến gan gây phá hủy tế bào
gan, làm cho lượng biliverdin kết hợp tăng cao, theo ống dẫn mật xuống
ruột dẫn đến hiện tượng gà ỉa chảy, phân màu xanh lá cây. Hiện tượng gà
ỉa chảy phân xanh màu lá cây được coi là một trong những biểu hiện lâm
sàng quan trọng trong chẩn đoán bệnh do đơn bào Leucocytozoon gây ra.
Số gà mắc bệnh có triệu chứng kém ăn, chiếm 85,71%. Biểu hiện
gày yếu chiếm 55,57% số gà có triệu chứng.
Theo dõi 730 gà tại tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, Lê Đức Quyết và
cs (2009) cho biết: một số triệu chứng của gà nhiễm Leucocytozoon là
thiếu máu, ỉa chảy, gầy còm, kém ăn.
Dương Thị Hồng Duyên và cs (2018) khi theo dõi triệu chứng lâm sàng
của 619 gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon thấy có 29,73% gà có triệu chứng
lâm sàng. Các triệu chứng chủ yếu là sốt cao, mắt đỏ, ủ rũ, kém ăn, ỉa chảy
phân xanh màu lá cây, gà thiếu máu, mào tích nhợt nhạt. Tuy nhiên, trên
61
những gà bị bệnh ở Thái Nguyên tác giả còn thấy có một số gà có triệu chứng
khó thở và triệu chứng thần kinh. Trên những gà bị bệnh chúng tôi theo dõi ở
tỉnh Lạng Sơn không thấy xuất hiện những triệu chứng trên.
3.3.2. Một số chỉ số máu của gà mắc bệnh Leucocytozoon
3.3.2.1. Sự thay đổi một số chỉ tiêu huyết học của gà bị bệnh đơn bào
Leucocytozoon
Để xác định sự thay đổi một số chỉ tiêu huyết học của gà bị bệnh đơn
bào đường máu Leucocytozoon so với gà khỏe, xét nghiệm 10 mẫu máu
gà khỏe và 10 mẫu máu gà bị bệnh. Sự thay đổi một số chỉ tiêu huyết học
của gà khỏe so với gà bị nhiễm đơn bào Leucocytozoon được trình bày ở
bảng 3.9, 3.9, 3.10.
Bảng 3.9. Sự thay đổi một số chỉ số máu của gà bệnh so với gà khỏe
Chỉ số máu
Gà khỏe ) (
Gà bệnh ) (
Số mẫu nghiên cứu
10
10
Mức ý nghĩa (P)
Số lượng hồng cầu (triệu/mm3
P =
3,15
2,22
máu)
0,000
0,06
0,17
P =
126,29
130,87
Thể tích trung bình hồng cầu
0,000
1,19
0,94
Dải phân bố kích thước hồng cầu
P =
12,38
15,08
(%)
0,000
0,63
0,39
Số lượng bạch cầu (nghìn/mm3
P =
30,14
36,02
máu)
0,000
0,43
0,50
Số lượng tiểu cầu (nghìn/mm3
P =
311,30
158,39
máu)
0,000
3,05
3,14
Hàm lượng huyết sắc tố (gam
P =
8,33
12,56
%)
0,000
0,43
0,48
P =
2,43
7,60
Thời gian đông máu (phút)
0,000
0,26
0,92
62
Qua kết quả ở bảng 3.9 cho thấy:
Xét nghiệm máu của gà khỏe số lượng hồng cầu trung bình là 3,15
0,06 triệu/ mm3 máu, số lượng bạch cầu là 30,14 0,43 nghìn/ mm3 máu,
số lượng tiểu cầu là 311,30 3,05 nghìn/ mm3 máu, hàm lượng huyết sắc
tố 12,56 0,43 gam %, dải phân bố kích thước hồng cầu 12,38 0,63%,
thời gian đông máu là 2,43 0,26 phút.
Hoàng Toàn Thắng và Cao Văn (2006) cho biết: số lượng hồng cầu
gà trung bình là 3,0 - 3,2 triệu/ mm3 máu, số lượng bạch cầu là 30 nghìn/
mm3 máu, số lượng tiểu cầu là 300 nghìn/ mm3 máu và hàm lượng huyết
sắc tố là 12,7g%.
Theo Hồ Văn Nam (1982), thể tích trung bình của hồng cầu gà khỏe là
), thời gian đông máu từ 1,5 – 2,5 phút.
127 fl (1 fl = 1 µm3
Như vậy, các chỉ số máu của gà khỏe trong thí nghiệm đều nằm trong
giới hạn bình thường.
Xét nghiệm máu của gà bị bệnh đơn bào Leucocytozoon với các chỉ
tiêu huyết học tương ứng thấy có sự thay đổi rõ rệt như sau:
Số lượng hồng cầu trung bình của gà bị bệnh Leucocytozoon là 2,22
0,17 triệu/ mm3 máu, giảm 0,93 triệu hồng cầu/ mm3 máu so với gà
khỏe. Như vậy số lượng hồng cầu trung bình của gà bị nhiễm
Leucocytozoon giảm đi rõ rệt so với lượng hồng cầu trung bình của gà
khỏe. Sự giảm rõ rệt số lượng hồng cầu ở gà bệnh là do đơn bào ký sinh
trong hồng cầu, phát triển và tiết độc tố làm phá vỡ hàng loạt hồng cầu,
gây tình trạng thiếu máu, thiếu hồng cầu ở gà bệnh.
Hàm lượng huyết sắc tố trung bình ở gà bị nhiễm đơn bào
Leucocytozoon là 8,33 0,48 gam %, giảm đi rõ rệt so với gà khỏe. Như vậy,
63
khi hồng cầu gà bị phá vỡ, số lượng hồng cầu giảm thì hàm lượng huyết sắc tố
cũng giảm.
Dải phân bố kích thước hồng cầu phán ánh mức độ đồng đều về kích
thước của các tế bào hồng cầu trong máu, khi dải phân bố kích thước hồng
cầu càng tăng thì mức độ đồng đều về kích thước của hồng cầu càng
giảm. Kết quả xét nghiệm cho thấy, đối với gà khỏe, dải phân bố kích
thước hồng cầu trung bình là 12,38 0,63%, ở gà nhiễm đơn bào
Leucocytozoon là 15,08 0,39%, tăng cao rõ rệt so với gà khỏe. Như vậy,
đơn bào Leucocytozoon ký sinh đã làm thay đổi kích thước của nhiều tế
bào hồng cầu, làm cho mức độ đồng đều về kích thước của hồng cầu bị
thay đổi.
Số lượng bạch cầu ở gà khỏe là 30,14 0,43 nghìn/mm3 máu, ở gà
nhiễm đơn bào Leucocytozoon là 36,02 0,50 nghìn/mm3 máu, tăng 5,88
nghìn/mm3 máu so với gà khỏe. Số lượng bạch cầu tăng khi cơ thể mắc
bệnh bởi cơ thể sẽ chống lại mầm bệnh bằng cách tăng sinh bạch cầu. Khi
đơn bài Leucocytozoon ký sinh ở các cơ quan của cơ thể sẽ gây phản ứng
viêm cục bộ, làm tăng số lượng bạch cầu trong máu.
Số lượng tiểu cầu của gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon là 158,39
3,14 nghìn/mm3 máu, thấp hơn rất nhiều so với gà khỏe (311,30
3,05 nghìn/mm3 máu).
Thời gian đông máu trung bình của gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon
dài hơn rõ rệt so với gà khỏe (7,60 phút và 2,43 phút). Tiểu cầu đóng vai
trò quan trọng trong quá trình đông máu, số lượng tiểu cầu trong máu
giảm mạnh dẫn đến hiện tượng máu khó đông ở gà bệnh.
Theo Chu Đức Thắng và cs. (2008), số lượng hồng cầu, hàm lượng
huyết sắc tố giảm trong các trường hợp vật nuôi bị thiếu máu, dinh dưỡng
kém và trong một số trường hợp bệnh lý khác.
64
Hàm lượng huyết sắc tố tỷ lệ thuận với số lượng hồng cầu. Khi số
lượng hồng cầu giảm, hàm lượng huyết sắc tố cũng giảm (Đoàn Thị Thảo và
cs., 2014).
Theo Cao Văn và Hoàng Toàn Thắng (2006), bạch cầu bảo vệ cơ
thể bằng hai cách: thực bào và sinh kháng thể. Số lượng bạch cầu tăng
lên là một chỉ tiêu phản ánh chức năng bảo vệ cơ thể trước những yếu tố
bệnh lý. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với những nhận xét
của các tác giả trên, trong trường hợp này, yếu tố bệnh lý là đơn bào
Leucocytozoon ký sinh ở gà.
Theo Hoàng Văn Tiến và cs. (1995), tiểu cầu giảm khi cơ thể gia
súc, gia cầm bị thiếu máu. Trong nghiên cứu của chúng tôi, gà bị bệnh
Leucocytozoon thường ở tình trạng thiếu máu nặng nên số lượng tiểu
cầu giảm dẫn đến máu khó đông.
3.3.2.2. Sự thay đổi công thức bạch cầu của gà bị bệnh so với gà khỏe
Sự thay đổi số lượng bạch cầu và tỷ lệ phần trăm các loại bạch cầu
trong máu là chỉ tiêu phi lâm sàng có ý nghĩa trong công tác chẩn đoán
bệnh, đặc biệt là bệnh ký sinh trùng. Chúng tôi đã xác định số lượng bạch
cầu và tỷ lệ phần trăm (%) các loại bạch cầu trong máu gà mắc
Leucocytozoonosis để có cơ sở khoa học chẩn đoán bệnh đơn bào đường
máu ở gà. Kết quả được thể hiện ở bảng 3.10.
Bảng 3.10. So sánh công thức bạch cầu của gà khỏe và gà bệnh
Công thức bạch cầu Gà khỏe ) ( Gà bệnh ) (
* Số mẫu nghiên Mức ý nghĩa (P) 10 10 cứu
65
Bạch cầu trung P = 27,58 0,30 37,74 1,18 tính 0,000
P = Bạch cầu ái toan 3,59 0,28 5,86 0,32 0,000
P = Bạch cầu ái kiềm 4,31 0,19 1,13 0,11 0,000
P = Bạch cầu Lympho 58,24 0,51 53,49 1,02 0,000
Bạch cầu đơn nhân P = 6,25 0,56 1,75 0,54 lớn 0,000
Kết quả ở bảng 3.10 cho thấy:
Đối với gà khỏe: tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung tính trong máu gà khỏe
là 27,58 0,30%, bạch cầu ái toan là 3,59 0,28%, bạch cầu ái kiềm là 4,31
0,19%, lâm ba cầu là 58,24 0,51% và bạch cầu đơn nhân lớn là 58,24
0,51%.
Hoàng Văn Tiến và cs. (1995) cho biết: ở gà, tỷ lệ bạch cầu đa
nhân trung tính là 27 %, bạch cầu ái toan là 4 %, bạch cầu ái kiềm là 4
%, lâm ba cầu là 59 % và bạch cầu đơn nhân lớn là 6 %.
Như vậy, tỷ lệ các loại bạch cầu trong máu của gà khỏe đều nằm
trong giới hạn sinh lý bình thường.
Xét nghiệm máu của gà bị nhiễm đơn bào Leucocytozoo, ta thấy có
sự thay đổi ở công thức bạch cầu: tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung tính là
37,74 1,18%, bạch cầu ái toan 5,86 0,32%, bạch cầu ái kiềm 1,13
0,11%, lâm ba cầu là 53,49 1,02% và bạch cầu đơn nhân lớn là 1,75
0,54%.
66
So sánh công thức bạch cầu của gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon
với gà khỏe thấy có sự khác nhau rõ rệt, chi tiết như sau:
- Những loại bạch cầu có tỷ lệ giảm rõ rệt (P < 0,001) gồm:
+ Bạch cầu ái kiềm (1,13% so với 4,31%)
+ Lâm ba cầu (53,49% so với 58,24%)
+ Bạch cầu đơn nhân lớn (1,75% so với 6,25%)
- Những loại bạch cầu có tỷ lệ tăng rõ rệt (P < 0,001) gồm:
+ Bạch cầu đa nhân trung tính (37,74% so với 27,58%)
+ Bạch cầu ái toan (5,86% so với 3,59%)
Khi gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon thì phản ứng phòng vệ của cơ
thể trở nên nhạy cảm, bạch cầu tăng số lượng nhằm chống lại tác hại của
đơn bào Leucocytozoon, đặc biệt là bạch cầu ái toan.
Theo Trịnh Văn Thịnh và cs. (1978), gia súc và gia cầm chống lại
ký sinh trùng bằng những phản ứng tế bào như viêm, thực bào và tăng
bạch cầu ái toan. Tác giả nhận xét, hiện tượng tăng bạch cầu ái toan
được xem như một chỉ tiêu để chẩn đoán bệnh ký sinh trùng.
Theo Nguyễn Xuân Hoạt và Phạm Đức Lộ (1980), bạch cầu ái toan
tham gia vào quá trình bảo vệ cơ thể, chống cảm nhiễm. Khi cơ thể cảm
nhiễm ký sinh trùng thì bạch cầu ái toan tăng lên.
Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) cho biết, cơ thể phản ứng lại tác
động do độc tố của ký sinh trùng bằng phản ứng viêm, tăng sinh cục bộ và
tăng bạch cầu ưa axít.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi hoàn toàn phù hợp với nhận xét
của các tác giả trên.
Từ kết quả ở bảng 3.9 và 3.10 cho ta thấy như sau: gà bị nhiễm đơn
bào Leucocytozoon có sự thay đổi rõ rệt về một số chỉ tiêu huyết học so
67
với gà khỏe. Các chỉ tiêu huyết học thay đổi chứng tỏ tình trạng bệnh lý
do đơn bào ký sinh trong máu gây ra cho gà là rất rõ rệt.
3.3.3. Tổn thương của gà bị bệnh đơn bào Leucocytozoon
* Tổn thương đại thể của gà bị bệnh đơn bào Leucocytozoon
Mổ khám bệnh tích là phương pháp thường được tiến hành trong
chẩn đoán bệnh thú y. Thông qua mổ khám có thể phát hiện ra những biến
đổi bất thường ở các cơ quan, phủ tạng để chẩn đoán nguyên nhân gây
bệnh.
Tiến hành mổ khám 20 gà bị nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở các lứa
tuổi khác nhau tại hai huyện Cao Lộc và Hữu Lũng, chúng tôi đã xác định
những bệnh tích đại thể chủ yếu của gà do đơn bào Leucocytozoon gây ra.
Kết quả được trình bày ở bảng 3.11.
Bảng 3.11. Bệnh tích đại thể của gà bị bệnh đơn bào Leucocytozoon
Kết quả mổ khám
Bệnh tích đại thể chủ yếu Số gà (con) Tỷ lệ (%)
Số gà có bệnh tích (con) Tỷ lệ ( % ) Số gà mổ khá m (con )
Cơ xuất huyết 12 80,00
Gan xuất huyết 7 46,67
Gan sưng, mềm nhũn, dễ 11 73,33 vỡ 15 75 20
Máu loãng, khó đông 13 86,67
Thận sưng và xuất huyết 12 80,00
Lách sưng và xuất huyết 8 53,33
68
Tụy xuất huyết 11 73,33
Phổi xuất huyết 8 53,33
Niêm mạc ruột xuất 8 53,33 huyết
Chất chứa trong đường 13 86,67 tiêu hóa màu xanh lá cây
Kết quả ở bảng 3.11 cho thấy:
Mổ khám 20 gà bị Leucocytozoon phát hiện 15 gà có bệnh tích, chiếm
75%. Bệnh tích chủ yếu là hiện tượng máu loãng khó đông, thận sưng và xuất
huyết, cơ xuất huyết, chất chứa trong đường tiêu hóa màu xanh lá cây. Chi tiết
như sau:
Trong 15 gà phát hiện bệnh tích, bệnh tích phổ biến và chiếm tỷ lệ
cao nhất là chất chứa trong đường tiêu hóa có màu xanh (86,67%), máu
loãng khó đông (86,67%), thân sưng xuất huyết (80%), cơ xuất huyết
(80%), gan sưng mêm nhũn dễ vỡ (73,33%), tụy xuất huyết (73,33%),
xuất huyết niêm mạc ruột (53,33%).
Giải thích về bệnh tích thận sưng; gan sưng, mềm nũn, dễ vỡ, Lê
Văn Năm (2011) cho rằng: khi các đơn bào ký sinh trong tế bào nội mô
của các cơ quan này, chúng sinh trưởng, lớn lên và sản sinh theo phương
thức tự nhân đôi, làm vỡ nát tế bào của cơ quan nội tạng ký chủ. Để bù lại
các tế bào bị phá hủy, cơ thể huy động khả năng phục hồi bằng sự kích
thích quá trình tăng sinh, làm cho hầu hết các cơ quan nội tạng của gia
cầm đều trở lên phì đại, ròn xốp và dễ dập vỡ.
69
Mổ khám gà bị bệnh Leucocytozoon ở khu vực Nam Triều Tiên,
Dong Hun Lee và cs. (2014) cho biết, gà bị xuất huyết ở nhiều cơ quan
như cơ ngực, cơ đùi, thận, tụy, gan và lách.
Kết quả nghiên cứu cho thấy những tổn thương đại thể do đơn bào
Leucocytozoon gây ra trên gà ở hai huyên Cao Lộc và Hữu Lũng tại tỉnh
Lạng Sơn là phù hợp với nhận xét của Lê Văn Nam (2011) và nghiên cứu
của Dong Hun Lee và cs. (2014).
* Tỷ lệ tiêu bản có tổn thương vi thể
Ngoài ký sinh trong máu, đơn bào Leucocytozoon còn ký sinh trong
các cơ quan nội tạng của gà. Để xác định được tổn thương vi thể, chúng
tôi đã làm tiêu bản tổ chức học các cơ quan nội tạng. Tỷ lệ tiêu bản có tổn
thương vi thể được trình bày ở bảng 3.12.
Bảng 3.12. Tỷ lệ tiêu bản có tổn thương vi thể
Số tiêu bản có Nguồn gốc Số tiêu bản Tỷ lệ tổn thương vi tiêu bản nghiên cứu (%) thể
40,00 2 Tim 5
100 5 Gan 5
100 5 Lách 5
100 5 Thận 5
60,00 3 Phổi 5
80,00 20 Tính chung 25
Kết quả xét nghiệm cho thấy:
70
Qua kiểm tra 5 tiêu bản trên 1 loại cơ quan nội tạng cho thấy 80% số
tiêu bản có tổn thương vi thể.
Ở tim: có 2/5 tiêu bản có tổn thương vi thể, chiếm 40%.
Ở gan, lách và thận: tỷ lệ tổn thương vi thể là 100%.
Ở phổi: 3/5 tiêu bản có tổn thương vi thể, chiêm 60%.
Như vậy, gà nhiễm đơn bào Leucocytozoon có tổn thương vi thể ở cả
5 cơ quan nghiên cứu là tim, gan, lách, thận, phổi. Đây đều là những cơ
quan có
71
* Tổn thương vi thể của gà bị bệnh đơn bào Leucocytozoon
Bảng 3.13. Tổn thương vi thể ở các nội quan và cơ gà
do Leucocytozoon gây ra
Kết quả theo dõi
Bệnh tích vi thể chủ yếu Tỷ lệ % Số tiêu bản có bệnh tích Nguồn gốc tiêu bản
Mô tim xuất huyết Số tiêu bản 2 100 2 Tim Tế bào viêm xâm nhập 1 50,00
Mô gan thoái hóa 2 40,00 5 Gan Mô gan xuất huyết 5 100
Các xoang lách giãn rộng, 3 60,00 chứa đầy tế bào máu 5 Lách Mô lách xuất huyết thoái 4 80,00 hóa
Mô thận xuất huyết 5 100 5 Thận Ống thận giãn rộng 4 80,00
Mô phổi xuất huyết 2 66,67 3 Phổi Phế quản phổi xuất huyết 1 33,33
Bảng 3.13 cho thấy:
Ở tim: có 50 – 100% số tiêu bản xuất hiện bệnh tích, các bệnh tích
xuất hiện là mô tim bị xuất huyết và có hiện tượng xâm nhập tế bào viêm.
Ở gan: 100% tiêu bản có bệnh tích mô gan xuất huyết, 40% tiêu bản
có bệnh tích mô gan thoái hóa.
Ở lách: gà nhiễm Leucocytozoon thường xuất huyết mô lách thoái
hóa, các xoang lách giãn rộng chứa đầy tế bào máu. Tỷ lệ tiêu bản xuất
hiện bệnh tích từ 60 - 80%.
72
Ở thận: xuất hiện bệnh tích mô thận giãn rộng kèm ống thận xuất
huyết. Tỷ lệ xuất hiện bệnh tích từ 80 – 100%.
Ở phổi: 66,67% mô phổi xuất huyết; 33,33% phế quản phổi xuất
huyết.
Như vậy, hầu hết các cơ quan nội tạng của gà nhiễm đơn bào
Leucocytozoon đều bị tổn thương.
3.4. Phòng và trị bệnh Leucocytozoon cho gà
3.4.1. Hiệu lực và độ an toàn của 2 phác đồ điều trị bệnh đơn bào
Leucocytozoon cho gà.
Để xác định phác đồ điều trị bệnh Leucocytozoon hiệu quả cho gà,
chúng tôi đã lựa chọn 2 phác đồ để điều trị bệnh cho gà. Kết quả điều trị
được trình bày ở bảng 3.14.
Bảng 3.14: Hiệu lực của 2 phác đồ điều trị bệnh Leucocytozoon cho gà
Hiệu lực
Trước khi dùng thuốc
Thuốc và liều lượng
Phác đồ điều trị
Tỷ lệ (%)
Số gà nhiễm (con)
Số gà nhiễm (con)
% số hồng cầu có đơn bào (min – max)
Sau khi dùng thuốc 10 ngày % số hồng cầu có đơn bào (min – max)
Số gà sạch đơn bào (con)
30
4 - 12
1
2
29
96,67
1
- Trimethoxin wsp ( 1g/ 1,5 lít nước) - TOP-PHOSRETIC (Giải độc gan) (1g/1 lít nước) - TOP-C 20% (1g/ 2 lít nước) - Vitamino (1ml/ 2 lít nước) - Paradol K + C (hạ sốt) (1g/ 2 lít nước)
30
2 - 12
4
1 - 3
26
86,67
73
2
- SU 99 (1g/ 5 lít nước) - TOP-PHOSRETIC (Giải độc gan) (1g/1 lít nước) - TOP-C 20% (1g/ 2 lít nước) - Vitamino (1ml/ 2 lít nước) - Paradol K + C (hạ sốt) (1g/ 2 lít nước)
An toàn: Số gà an toàn/ số gà dùng thuốc =100%
Kết quả điều trị cho thấy: phác đồ 1 và 2 đều có thể sự dụng điều trị
bệnh cho gà. Hiệu lực điều trị đạt từ 86,67 – 96,67%. Phác đồ 1 với
Trimethoxin wsp (1g/ 1,5 lít nước) cho hiệu lực điều trị cao hơn phác đồ 2
với SU 99 (1g/ 5 lít nước).
- Phác đồ 1: Tiến hành điều trị cho 30 gà, nhiễm ở cường độ từ nhẹ
đến nặng. Cường độ nhiễm đơn bào của gà trước điều trị giao động từ 4 –
12% số hồng cầu bị đơn bào ký sinh. Sau điều trị 10 ngày, kiểm tra lại
máu của những gà điều trị, thấy chỉ còn 1 gà còn đơn bào trong máu, tuy
nhiên cường độ nhiễm giảm chỉ còn 1% số hồng cầu bị đơn bào ký sinh.
Như vậy, hiệu lực của phác đồ 1 là 100%, hiệu lực triệt để đạt 96,67%
- Phác đồ 2: sử dụng điều trị cho 30 gà nhiễm đơn bào
Leucocytozoon với cường độ nhiễm giao động từ 2 - 12 (% hồng cầu có
đơn bào). Sau 10 ngày dùng thuốc, kiểm tra lại máu của 30 gà điều trị
thấy 26 gà trong hồng cầu không còn đơn bào Leucocytozoon, 4 gà còn
đơn bào, số hồng cầu có đơn bào ký sinh đã giảm xuống chỉ còn từ 1 - 3
%. Như vậy, hiệu lực triệt để của phác đồ đạt 86,67%.
Theo dõi gà trước khi dùng thuốc, sau đó theo dõi các phản ứng của
gà trong và sau khi dùng thuốc. Kết quả về độ an toàn của các phác đồ
điều trị bệnh Leucocytozoon cho gà là 100%.
74
3.4.2. Đề xuất biện pháp phòng bệnh Leucocytozoon cho gà
Từ kết quả điều tra và điều trị bệnh Leucocytozoon cho gà, chúng tôi
đề xuất một số biện pháp phòng bệnh Leucocytozoon cho gà như sau:
1. Diệt đơn bào Leucocytozoon trên cơ thể gà
Khi đàn gà có triệu chứng và bệnh tích của bệnh Leucocytozoon
(mào, tích nhợt nhạt, gày yếu, ủ rũ, vận động chậm chạp, kém ăn, ỉa chảy
phân có màu xanh lá cây, cơ xuất huyết, gan sưng, mềm nhũn, dễ vỡ và
xuất huyết, máu loãng, khó đông, thận, lách sưng và xuất huyết, chất chứa
dọc đường tiêu hóa có màu xanh lá cây) phải tiến hành điều trị cho cả đàn
bằng phác đồ gồm: Trimethoxin wsp (1g/ 1,5 lít nước), TOP-
PHOSRETIC (Giải độc gan) liều 1g/1 lít nước, TOP-C 20% ( 1g/ 2 lít
nước), Vitamino (1ml/ 2 lít nước), Paradol K + C (hạ sốt) (1g/ 2 lít nước);
cho uống trong 5 ngày liên tục.
2. Diệt ký chủ trung gian truyền bệnh
- Xây dựng chuồng trại đảm bảo vệ sinh thú y, cách xa khu vực ao, hồ,
đầm.
- Bãi chăn thả có cây bóng mát, có thể làm lán tạm để treo thêm
máng ăn và máng uống cho gà trong thời gian chăn thả. Khu vực vườn
chăn thả phải san lấp bằng phẳng, dễ thoát nước, không có vũng nước tù
đọng, không có phân rác bẩn, định kỳ thu dọn lông gà vương vãi trên bề
mặt vườn.
- Định kỳ 1 lần/ tháng phát quang cây cỏ, cuốc xới, rắc vôi, khơi thông
cống rãnh để môi trường chăn nuôi gà luôn sạch sẽ, khô ráo.
- Định kỳ phun thuốc chống côn trùng để diệt dĩn hút máu.
- Thu gom phân, rác và đệm lót ở nền chuồng, xung quanh chuồng
và vườn chăn thả gà, ủ để diệt trứng của các loài dĩn.
3. Vệ sinh chuồng trại và vườn chăn thả gà
75
4. Thực hiện tốt nguyên tắc “cùng vào, cùng ra”, để trống chuồng sau
mỗi đợt xuất bán gà, tiến hành vệ sinh, sát trùng tiêu độc cẩn thận trước khi
nhập đàn gà mới.
5. Tăng cường chăm sóc, nuôi dưỡng đàn gà
Tăng cường chăm sóc nuôi dưỡng gà, nhằm nâng cao sức đề kháng
của gà đối với bệnh đơn bào Leucocytozoon.
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận
1.1. Về đặc điểm dịch tễ
Gà ở hai huyện Cao Lộc và huyện Hữu Lũng nghiên cứu đều nhiễm
Leucocytozoon.
Tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tại huyện Cao Lộc là
20,4%; trong đó cường độ nhiễm nặng là 13,73%, huyện Hữu Lũng tỷ lệ
nhiềm là 16,4%; trong đó cường độ nhiễm nặng là 14,63%.
Tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tăng cao vào mùa Hè và
mùa Thu so với mùa Đông và mùa Xuân (25,19% và 21,74% so với
9,82% và 14,78%), trong đó cường độ nhiễm lần lượt là 17,65% và
13,33% so với 11,76% và 9,09%.
Tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon tăng dần theo tuổi của gà, cao nhất là gà
trên 6 tháng tuổi (25,44%), trong đó cường độ nhiễm là 17,24%.
76
Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà được nuôi ở tình trạng
vệ sinh thú y tốt thấp hơn nhiều gà được nuôi ở tình trạng vệ sinh thú y
kém.
Dĩn thường hoạt động tần suất cao vào khoảng tháng 5 đến tháng 7 và
từ 8 giờ đến 18 giờ trong ngày.
1.2. Bệnh Leucocytozoon ở gà tại huyện Cao Lộc và huyện Hữu Lũng
tại tỉnh Lạng Sơn.
Định danh được 01 loài đơn bào thuộc giống Leucocytozoon gây
bệnh cho gà tại huyện Cao Lộc và huyện Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn là L.
caulleryi
Triệu chứng điển hình ở gà mắc bệnh do đơn bào Leucocytozoon gây
ra như: thiếu máu, mào tích nhợt nhạt, ủ rũ, kém ăn, gày yếu, ỉa chảy phân
màu xanh lá cây.
Bệnh tích chủ yếu của gà bị nhiễm đơn bào Leucocytozoon là: xuất
huyết ở cơ, gan, thận, lách, phổi, ruột; thận, gan và lách sưng.
Các cơ quan nội tạng của nhiễm đơn bào Leucocytozoon đều có tổn
thương vi thể rõ rệt: mô tim, mô phổi và phế nang phổi xuất huyết, xoang
lách giản rộng, mô gan thoái hóa và xuất huyết. mô thận xuất huyết.
1.3. Biện pháp phòng trị bệnh Leucocytozoon cho gà
Hiệu lực điều trị bệnh Leucocytozoon của 2 phác đồ đạt từ 86,67 –
96,67%. Trong đó, phác đồ 1 gồm Trimethoxin wsp (1g/ 1,5 lít nước) kết
hợp với hạ sốt, trợ sức trợ lực, giải độc gan thận… cho hiệu lực điều trị
cao nhất, đồng thời rất an toàn với gà.
2. Đề nghị
Các hộ chăn nuôi gà cần thực hiện các biện pháp phòng bệnh
Leucocytozoon cho gà như: chuồng trại xây ở nơi khô ráo, thoáng mát,
cách xa ao, hồ, đầm; thường xuyên vệ sinh chuồng trại và khu vực xung
77
quanh chuồng trại; khơi thông cống rãnh, phát quang bụi rậm; định kỳ
phun thuốc tiêu diệt dĩn – véc tơ truyền bệnh; tăng cường công tác chăm
sóc nuôi dưỡng để nâng cao sức đề kháng cho đàn gà.
Sử dụng phác đồ 1 để điều trị cho gà nhiễm hoặc có nguy cơ nhiễm đơn
bào Leucocytozoon.
78
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn (2016), Thông tư quy định về
kiểm soát giết mổ và kiểm tra vệ sinh thú y (số 09/2016/TT-BNNPTNT
ngày 01/6/2016).
2. Nguyễn Xuân Bình, Trần Xuân Hạnh, Tô Thị Phấn (2002), 66 bệnh gia
cầm và cách phòng trị, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, tr, 3,
3. Dương Thị Hồng Duyên, Nguyễn Thị Kim Lan, Lê Văn Năm, Nguyễn
Đình Hải (2015), “Tình hình nhiễm đơn bào đường máu Leucocytozoon
spp. ở gà tại tỉnh Thái Nguyên và Bắc Giang”, Tạp chí Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, số 273, tr. 88 – 92.
4. Dương Thị Hồng Duyên, Nguyễn Thị Kim Lan, Lê Văn Năm (2018),
“Bệnh do Leucocytozoon ở gà tại tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang”, Tạp
chí Khoa học Kỹ thuật thú y, Tập XXV, số 7, tr. 63 – 71.
5. Nguyễn Xuân Hoạt, Phạm Đức Lộ (1980), Tổ chức phôi thai học, Nxb
Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, tr. 162, 172, 184 - 185.
6. Lương Văn Huấn, Lê Hữu Khương (1997), Ký sinh và bệnh ký sinh ở gia
súc gia cầm (tập II, phần động vật chân đốt và nguyên bào), Nxb Viện
Đại học Quốc gia Tp, Hồ Chí Minh, tr, 413 – 414,
7. Nguyễn Hữu Hưng (2011), “Khảo sát tình hình nhiễm ký sinh trùng
đường máu trên gà thịt tại hai tỉnh Vĩnh Long và Sóc Trăng”, Tạp chí
khoa học kỹ thuật thú y, tập XVIII, số 4, tr, 44 – 48,
8. Lâm Thị Thu Hương (2005), “Khảo sát bệnh tích đại thể và vi thể trên gà nhiễm
Leucocytozoon”, Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, tập XII, số 5, tr, 39 - 44,
9. Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996), Ký sinh trùng thú y, Nxb Nông
Nghiệp, Hà Nội, tr. 287.
79
10. Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Quang Tuyên (1999),
Giáo trình ký sinh trùng thú y, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, tr, 181 - 183,
11. Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Thị Lê, Phạm Sỹ Lăng, Nguyễn Văn Quang
(2008), Ký sinh trùng học thú y (giáo trình dùng cho bậc cao học), Nxb
Nông Nghiệp, Hà Nội, tr, 118 - 119,
12. Nguyễn Thị Kim Lan, Phạm Sỹ Lăng, Nguyễn Văn Quang, Lê Minh
(2009), Các bệnh phổ biến gây hại cho gia cầm và biện pháp phòng trị,
Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, tr, 118 – 120,
13. Nguyễn Thị Kim Lan (2012), Ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng, Nxb
Nông Nghiệp, Hà Nội, tr, 267 – 272,
14. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (2002), Bệnh ký sinh trùng ở gia cầm và
biện pháp phòng trị, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, tr, 3,
15. Phạm Sỹ Lăng, Tô Long Thành, Cù Hữu Phú, Nguyễn Hoài Nam (2005),
Bệnh mới ở gia cầm và kỹ thuật phòng trị, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội,
tr, 149 - 154,
16. Phạm Sỹ Lăng, Tô Long Thành (2006), Bệnh đơn bào ký sinh ở vật nuôi,
Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, tr, 111 - 114,
17. Phạm Sỹ Lăng, Hoàng Văn Năm, Bạch Quốc Thắng (2008), Sổ tay thầy
thuốc thú y ( tập II), Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, tr, 105 - 108,
18. Phạm Sỹ Lăng, Nguyễn Thị Kim Lan, Lê Ngọc Mỹ, Nguyễn Thị Kim
Thành, Nguyễn Văn Thọ, Chu Đình Tới (2009), Ký sinh trùng và bệnh
ký sinh trùng ở vật nuôi, Nxb Giáo dục Hà Nội, tr, 18 - 19,
19. Phạm Sỹ Lăng (2010), 10 bệnh quan trọng của gia cầm, Nxb Nông
Nghiệp, Hà Nội, tr, 138 – 144,
20. Phạm Sỹ Lăng, Nguyễn Bá Hiên, Trần Xuân Hạnh, Nguyễn Hữu Hưng,
Huỳnh Thị Mỹ Lệ, Lê Ngọc Mỹ, Phạm Quang Thái, Phạm Ngọc
Thạch, Đỗ Ngọc Thúy, Nguyễn Văn Thọ (2011), Bệnh gia cầm ở Việt
Nam, Nxb Nông nghiệp Hà Nội, tr. 246 - 251.
80
21. Hồ Văn Nam (1982), Giáotrình chẩn đoán bệnh không lây ở gia súc, Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 82 - 84.
22. Lê Văn Năm (2011), “Bệnh do ký sinh trùng Leucocytozoon”, Tạp chí
khoa học kỹ thuật thú y, tập XVIII, số 4, tr, 77 – 84,
23. Orlov F, M (1975), Bệnh gia cầm (tập 1) (Nguyên Phát dịch), Nxb Khoa
học kỹ thuật, tr, 368 – 375,
24. Lê Đức Quyết, Nguyễn Đức Tân, Lê Hứa Ngọc Lực, Huỳnh Vũ Vỹ,
Nguyễn Văn Thoại, Nguyễn Thị Sâm (2009), “Điều tra tình hình nhiễm
đơn bào Leucocytozoon trên gà tại một số tỉnh Nam Trung Bộ”, Tạp chí
khoa học kỹ thuật thú y, tập XVI, số 5, tr, 62 - 68,
25. Hoàng Thạch (2004), “Bước đầu tìm hiểu tình hình nhiễm Leucocytozoon
trên đàn gà nuôi tại TP, Hồ Chí Minh”, Tạp chí khoa học kỹ thuật thú
y, tập XI, số 3, tr, 60 - 61,
26. Nguyễn Như Thanh (2001), Dịch tễ học thú y, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
27. Đoàn Thị Thảo, Trần Đức Hoàn, Nguyễn Hữu Nam, Nguyễn Vũ Sơn
(2014), “Một số chỉ tiêu của gà mắc bệnh cầu trùng thực nghiệm”, Tạp
chí Khoa học và Phát triển, tập 12, số 4, tr. 567 - 573.
28. Chu Đức Thắng, Hồ Văn Nam, Phạm Ngọc Thạch (2008), Giáo trình
Chẩn đoán bệnh gia súc, Nxb Nông nghiệp Hà Nội, tr. 111 - 157.
29. Hoàng Toàn Thắng, Cao Văn (2006), Giáo trình sinh lý học vật nuôi, Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 77 - 94.
30. Nguyễn Văn Thiện (2008), Thống kê sinh vật học ứng dụng trong chăn
nuôi, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội,
31. Trịnh Văn Thịnh, Phạm Xuân Dụ, Phạm Văn Khuê, Phan Địch Lân, Bùi
Lập, Dương Công Thuận (1978), Công trình nghiên cứu ký sinh trùng ở
Việt Nam (tập II), Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội, tr. 80 - 82.
32. Hoàng Văn Tiến, Trịnh Hữu Bằng, Bùi Đức Lũng, Nguyễn Tuấn Anh, Lê
Viết Ly, Lê Văn Thọ (1995), Sinh lý gia súc, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội,
tr. 142 - 143.
81
33. Dương Công Thuận (1995), Phòng và trị bệnh ký sinh trùng cho gà nuôi
gia đình, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, tr, 3,
34. Cao Văn, Hoàng Toàn Thắng (2006), Sinh lý học gia súc, Nxb Nông
Nghiệp, Hà Nội, tr. 67 - 72.
35. Viện Thú y Quốc gia - Tổ chức hợp tác Quốc tế Nhật Bản (2001), Tập
ảnh mầu về bệnh gia súc, Dự án tăng cường năng lực thú y viên thú y
Quốc gia, Phòng vệ sinh gia súc, Cục chăn nuôi bộ Nông Lâm Ngư
Nghiệp Tokyo Nhật Bản, tr, 82,
36. Viện thú y Quốc gia (2002), Cẩm nang chẩn đoán tiêu chuẩn về các bệnh gia
súc ở Việt Nam – Dự án tăng cường năng lực nghiên cứu, tr, 196 – 197,
Tài liệu tiếng anh
Topchiyeva S. A. (2019), “Leucocytozoonosis in Chickens (Gallus Gallus
Domesticus)”, Institute of Zoology National Academy of sciences of
Azerbaijan, Azerbaijan, 3(2), pp. 110 – 112.
37. Аhmadov E. I., Hasanova J. V., Mammadova F. Z., Samadova S. O.,
38. Argilla L. S., Howe L., Gartrell B. D., Alley M. R. (2013), “High
prevalence of Leucocytozoon spp. in the endangered yellow-eyed
penguin (Megadyptes antipodes) in the sub-Antarctic regions of New
Zealand”, Parasitology 140 (5), pp. 672 - 682.
39. Astudillo V. G., Hernández S. M., Kistler W. M., Boone S. L., Lipp E.
K., Shrestha S., Yabsley M. J. (2013), “Spatial, temporal, molecular,
and intraspecific differences of haemoparasite infection and relevant selected
physiological parameters of wild birds in Georgia, USA”, International
Journal for Parasitology: Parasites and Wildlife, pp. 178 - 189.
40. Dong Hun Lee, Jun Hyuk Jang, Byoung Yoon Kim, Yong Kuk Kwon,
Susantha Gomis, Joong Bok Lee, Seung Yong Park, In Soo Choi, and
Chang Seon Song (2014), “Diagnosis of Leucocytozoon
caulleryi infection in commercial broiler breeders in South Korea”,
Avian Diseases 58(1), pp. 183 - 186.
82
41. Dezfoulian O., Zibaei M., Nayebzadeh H., Haghgoo M., Emami Razavi
A., Kiani K. (2013), “Leucocytozoonosis in domestic birds in
southwestern iran: an ultrastructural study”, Iranian Journal
of Parasitology 8(1), pp. 171 - 176.
42. Dunn J. C., Goodman S. J., Benton T. G., Hamer K. C. (2014), “Active
blood parasite infection is not limited to the breeding season in a declining
farmland bird”, Journal of Parasitology In-Press., pp. 213 - 256.
43. Elahi R., Islam A., Hossain M. S., Mohiuddin K., Mikolon A., Paul S.
K., Hosseini P. R., Daszak P., Alam M. S. (2014), “Prevalence and
diversity of avian haematozoan parasites in wetlands of Bangladesh”,
Journal of Parasitology Research, pp. 1 - 12.
44. Eldridge B, F,, Adman J, D, (2004), Medical Entomology, Kluwer
Academic Publishers, pp, 451 – 649,
45. Hill A. G., Howe L., Gartrell B. D., Alley M. R. (2010), “Prevalence of
Leucocytozoon spp. in the endangered yellow-eyed penguin
Megadyptes antipodes”, Journal of Parasitology, 137 (10), pp. 77 – 85.
46. Hellgren O., Waldenstrom J., Bensch S. (2004), “A new PCR assay for
simultaneous studies of Leucocytozoon, Plasmodium and
Haemoproteus from
avian blood”, Journal of Parasitology, 90(4), pp. 797 - 802.
47. Hellgren O., Wood M. J., Waldenstrom J., Hasselquist D., Ottosson U.
Stervander M., Bensch S. (2013), “Circannual variation in blood
parasitism in a sub-Saharan migrant passerine bird, the garden
warbler”, Journal of Evolutionary Biology, 26 (5), pp. 1047 - 1059.
48. Huchzermeyer F. W., Sutherland B. (1978), “Leucocytozoon smithi in
South African Turkeys”, Avian Pathology, 7 (4), pp. 645 - 649.
49. Imura T., Suzuki Y., Ejiri H., Sato Y., Ishida K., Sumiyama D., Murata
K., Yukawa M. (2012), “Prevalence of avian haematozoa in wild birds
in a high-altitude forest in Japan”, Veterinary Parasitology, 183 (3 - 4),
pp. 244 - 248.
83
50. Morii T., Massui T., Iijima T., Fiotnaoa F. (1984), “Infectivity of
Leucocytozoon caulleryi sporozoites developed in vitro and in vivo”,
International Journal for Parasitology, 14 (2), pp. 135 – 139.
51. Matta N. E., Lotta I. A., Valkiūnas G., González A. D., Pacheco M. A.,
Escalante A. A., Moncada L. I., Rodríguez Fandiño O. A. (2014),
“Description of Leucocytozoon quynzae spp. (Haemosporida,
Leucocytozoidae) from humming birds, with remarks on distribution and
possible vectors of Leucocytozoids in South America”,
Parasitology Research, 113 (2), pp. 457 - 468.
52. Martinsen E. S., Blumberg B. J., Eisen R. J., Schall J. J. (2008), “Avian
haemosporidian parasites from Northern California oak woodland and
chaparral habitats”, Journal of wildlife diseases, 44 (2), pp. 260 - 268.
53. Wenting Zhao, Jianwen Liu, Ruixue Xu, Cui Zhang, Qin Pang, Xin Chen,
Shengfa Liu, Lingxian Hong, Jing Yuan, Xiaotong Li, Yixin Chen, Jian
Li, Xin-zhuan Su (2015), “The Gametocytes of Leucocytozoon
sabrazesi infect chicken thrombocytes, not other blood cells”, PloS one,
pp. 1317.
54. William H. Marquardt (2004), Biology of Disease Vectors, Academic
Press, pp. 125.
55. Yoshimura A., Koketsu M., Bando H., Saiki E., Suzuki M., Watanabe Y.,
Kanuka H., Fukumota S. (2014), “Phylogenetic compasison of avian
haemosporidian parasites from resident and migratory birds in northern
Japan”, Journal of wildlife diseases, pp. 235 - 242.