TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP
NGUYỄN THU TÂM
NGHIÊN CỨU BỆNH NHIỄM ĐỘC TỐ BOTULIN
CỦA VI KHUẨN Clostridium botulinum TRÊN VỊT
TẠI MỘT SỐ TỈNH ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH BỆNH LÝ HỌC VÀ CHỮA BỆNH VẬT NUÔI
NĂM 2020
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH BỆNH LÝ HỌC VÀ CHỮA BỆNH VẬT NUÔI
MÃ NGÀNH: 62.64.01.02
NGHIÊN CỨU BỆNH NHIỄM ĐỘC TỐ BOTULIN
CỦA VI KHUẨN Clostridium botulinum TRÊN VỊT
TẠI MỘT SỐ TỈNH ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG
Cán bộ hướng dẫn khoa học
PGS. TS. NGUYỄN ĐỨC HIỀN
Nghiên cứu sinh thực hiện
Nguyễn Thu Tâm
NĂM 2020
CHẤP THUẬN CỦA HỘI ĐỒNG
Luận án đính kèm theo đây, với tên đề tài: “Nghiên cứu bệnh nhiễm
độc tố botulin của vi khuẩn Clostridium botulinum trên vịt tại một số tỉnh
Đồng bằng Sông Cửu Long” do Nghiên cứu sinh Nguyễn Thu Tâm thực hiện
và báo cáo đã được hội đồng chấm luận án thông qua.
Ủy viên Thư ký
Phản biện 1 Phản biện 2
Cán bộ hướng dẫn 1 Chủ tịch Hội đồng
i
LỜI CẢM TẠ
Trong suốt quá trình học tập và làm luận án tiến sĩ, tôi đã nhận được sự
quan tâm, giúp đỡ từ quý thầy cô, gia đình và bạn bè. Hôm nay, tôi đã hoàn
thành luận án, tôi xin chân thành gởi lời cảm ơn.
Trước hết tôi xin cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Cần Thơ, Ban
chủ nhiệm khoa Nông nghiệp, Ban chủ nhiệm Bộ môn Thú Y đã chấp thuận,
tạo điều kiện thuận lợi và có chính sách ưu đãi cho tôi được học tập nâng cao
trình độ chuyên môn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy hướng dẫn – PGS. TS.
Nguyễn Đức Hiền đã tận tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ và tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho tôi được học tập, nghiên cứu, bổ sung kiến thức và hoàn
thành luận án.
Xin cảm ơn đến quý thầy cô thuộc Bộ môn Thú Y, trường Đại học Cần
Thơ đã nhiệt tình giảng dạy và chia sẻ nhiều kinh nghiệm quý báu cho tôi
trong quá trình học tập cũng như làm việc.
Xin gởi lời cảm ơn đến thầy PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hải – Trường Đại
học Nông lâm thành phố Hồ Chí Minh và các nhân viên phòng thí nghiệm
Việt-Hàn – Thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình hướng dẫn, hỗ trợ kỹ thuật
chuyên môn cho tôi trong quá trình nghiên cứu.
Tôi cũng xin đặc biệt cảm ơn đến các anh chị và em là cựu sinh viên của
ngành Chăn nuôi, ngành Thú Y và các anh chị làm công tác thú y tại các tỉnh
An Giang, Hậu Giang, Kiên Giang và thành Phố Cần Thơ đã nhiệt tình giúp
đỡ, hỗ trợ tôi trong việc thu thập mẫu được kịp thời và chính xác. Tôi xin chân
thành cảm ơn các chủ hộ chăn nuôi vịt đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong việc lấy
mẫu và lấy thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn các cán bộ thuộc Trạm chẩn đoán xét nghiệm và
điều trị bệnh động vật – Chi cục chăn nuôi và Thú Y thành phố Cần Thơ, Ban
lãnh đạo Công ty TNHH Một thành viên chăn nuôi Vemedim đã tạo điều kiện
thuận lợi và giúp đỡ cho tôi hoàn thành một số thí nghiệm trong nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn đồng nghiệp, bạn bè và gia đình đã động viên,
khích lệ, giúp đỡ và chia sẻ những buồn vui trong học tập, công việc và trong
cuộc sống để tôi có thêm nghị lực, niềm tin và điểm tựa để phấn đấu và hoàn
thành luận án của mình.
Xin chân thành cám ơn!
Tác giả luận án
Nguyễn Thu Tâm
ii
TÓM TẮT
Luận án “Nghiên cứu bệnh nhiễm độc tố botulin của vi khuẩn Clostridium
botulinum trên vịt tại một số tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long” được thực hiện từ
năm 2013 đến 2017, tại các tỉnh, thành phố gồm An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang
và thành phố Cần Thơ (TPCT) với mục tiêu chung là đánh giá tần suất lưu hành
bệnh botulism trên đàn vịt chạy đồng của Đồng bằng sông Cửu Long; xác định sự
hiện diện vi khuẩn C. botulinum cũng như type độc lực của botulin trên vịt bệnh và
môi trường chăn nuôi; đồng thời đánh giá khả năng gây bệnh của các chủng C.
botulinum phân lập được tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
Điều tra 187.505 vịt chạy đồng (VCĐ) được nuôi dưỡng tại tỉnh An Giang,
Kiên Giang, Hậu Giang và thành phố Cần Thơ (TPCT), trong đó có 108.505 con vịt
đẻ và 79.000 con vịt thịt. Kết quả cho thấy, 2.253 con VCĐ được nuôi dưỡng tại
ĐBSCL mắc bệnh botulism chiếm 1,19 %. Tỷ lệ vịt đẻ mắc bệnh 1,52% cao hơn vịt
thịt (0.91%) và khác nhau có ý nghĩa thống kê. Triệu chứng lâm sàng của bệnh
botulism trên VCĐ là liệt cổ, liệt mí mắt - đồng tử dãn và liệt chân xuất hiện ở tần
suất khá cao lần lượt là 87,92%, 90,07%, 79,78%, triệu chứng vịt giảm ăn ủ rũ, xù
lông, kém vận động với tỷ lệ 68,55%; tiêu chảy phân trắng - xanh 70,96% và tiêu
chảy máu là 34,30%. Bệnh tích gan, phổi xuất huyết chiếm tỷ lệ cao lần lượt là
95,48%, 86,19%, bệnh tích ruột trống thức ăn và sinh hơi cũng chiếm tỷ lệ 92,14%.
Phân lập vi khuẩn C. botulinum trên bệnh phẩm của vịt bệnh theo Lindstrom
and Korkeala (2006) và qui trình có cải tiến, kết quả cho thấy tỷ lệ hiện diện vi
khuẩn C. botulinum trên mẫu phân vịt bệnh chiếm tỷ lệ cao hơn trên mẫu gan với tỷ
lệ lần lượt là 50,72% và 43,13%. Xác định độc tố trong 200 mẫu huyết thanh của vịt
bệnh botulism bằng thử nghiệm trên chuột bạch theo tiêu chuẩn CDC - Hoa Kỳ
(1998) với kết quả của huyết thanh không xử lý nhiệt xuất hiện 63% chuột chết và
37% chuột có triệu chứng bất thường. Định type độc tố botulin bằng phản ứng trung
hòa với huyết thanh chuẩn, kết quả thể hiện tỷ lệ mẫu huyết thanh chứa độc tố
botulin type C là khá cao, chiếm 40,48%; kế đến là mẫu huyết thanh chứa độc tố
botulin type E với tỷ lệ 28,57%, thấp nhất là mẫu huyết thanh chứa độc tố botulin
type D với 25,40%; Đặc biệt, kết quả thí nghiệm còn có sự hiện diện kết hợp giữa
type C + type D là 3,97% và giữa type C + type E là 1,59%.
Xác định các các yếu tố nguy cơ gây bệnh botulism trên VCĐ ở ĐBSCL bằng
cách phân lập vi khuẩn C. botulinum trên đất ruộng, nước trên mặt ruộng, cua và ốc
trên ruộng nuôi có vịt bệnh theo qui trình nuôi cấy, phân lập vi khuẩn Clostridium
iii
botulinum của Lindstrom and Korkeala (2006) và qui trình có cải tiến. Kết quả cho
thấy sự hiện diện của vi khuẩn C. botulinum trên đất 17,5%, nước trên mặt ruộng
19,67%; trên cua (8,33%) cao hơn trên ốc (3,00%) và sự sai khác của hai tỷ lệ này
rất có ý nghĩa về mặt thống kê với P<0,01.
Đánh giá tính gây bệnh của vi khuẩn C. botulinum phân lập được bằng cách
xác định LD50 trên vịt được tiêm truyền độc tố botulin vào tĩnh mạch và đường uống.
Sau 7 ngày theo dõi, kết quả cho thấy 23/32 mẫu làm vịt chết, chiếm 71,88% và vịt
có biểu hiện triệu chứng bất thường 28,12%. Vịt xuất hiện các triệu chứng lâm sàng
như ủ rủ, ít đi lại, xù lông, giảm ăn, giảm đẻ chiếm tỷ lệ 100%; triệu chứng liệt cổ
chiếm 92,19%; liệt mí mắt, dãn đồng tử với tỷ lệ 76,19%; liệt chân chiếm 60,94%;
tiêu chảy phân trắng - xanh chiếm 35,94%. Mổ khám bệnh tích cho thấy gan xuất
huyết chiếm 92,19%, bệnh tích ruột trống thức ăn, sinh hơi chiếm 89,06%, phổi tụ
huyết với tỷ lệ 81,25%.
Từ khóa: Botulin, Clostridium botulinum, limberneck, đồng bằng sông Cửu Long.
iv
ABSTRACT
The thesis named “Study on botulin poisonging disease of Clostridium
botulinum on ducks in the Mekong Delta” was conducted from 2013 to 2017 in An
Giang, Hau Giang, Kien Giang and Can Tho to clarify the frequency of the botulism
disease on the free-grazing ducks of the Mekong Delta; the prevalence and botulin
toxin types of C. botulinum isolated from infected ducks and the environment; the
evaluation of pathogenicity of isolated C. botulinum strains in the Mekong Delta.
A total of 187,505 free-grazing ducks were examined in An Giang, Hau Giang,
Kien Giang and Can Tho including 108,505 laying ducks and 79,000 meat ducks.
The results indicated that 2,253 ducks were infected with botulism disease with 1.19
% in a total of ducks. Laying ducks were infected disease (1.52%) higher than meat
ducks were (0.91%) with a significant statistical difference. The clinical symptoms of
botulism infected ducks were neck paralysis, eyelids paralysis – mydriasis, leg
paralysis at high rates of 87.92%, 90.07%, 79.78% respectively; ducks were less
eating, moody, ruffled feathers, less activities 68.55%; greenish diarrhea and blood
diarrhea were 70.96% and 34.30%. The lesions of liver and haemorrhage lung were
also high at 95.48%, 86.19%; and gas in the intestine was 92.14%.
The isolation of C. botulinum from duck specimens was followed the method of
Lindstrom and Korkeala (2006) and had modification. The prevalence of C.
botulinum was in feces (50.72%) higher than that in liver (43.13%). The
determination of botulin toxin with 200 serum samples from infected ducks was
examined on mice following the standard of CDC (1998); the result in without heat
treatment Group showed that mice were died at 63% and abnormal at 37%. By the
neautral reaction, the sera were with botulin type C at a relatively high rate
(40.48%), followed by type E (28.57%), type D (25.40%); especially, there were the
combination types of type C + type D (3.97%) and type C+ type E (1.59%).
The risk factors of the botulism disease in the free-grazing ducks were
determined via the isolation of C. botulinum from soil, water, crabs and snails at the
fields with infected ducks. It was also done by following the modified method of
Lindstrom and Korkeala (2006). The prevalence of C. botulinum was 17.5% in soil,
19.67% in water; especially, C. botulinum was present in crabs (8.33%) higher than
in snails (3.00%) (P<0,01).
The pathogenicity of isolated C. botulinum strains was examined the LD50 on
ducks by injection of toxin suspension via intravenous and oral route. Ater 7
v
observed days, it showed that 23/32 samples made ducks die (71.88%) and abnormal
ducks was 28.12%. Ducks exhibited the clinical symptoms such as moody, less
movement, ruffled fearthers, less eating and laying (100%); neck paralysis (92.19%);
eyelids paralysis and mydriasis (76.19%); leg paralysis (60.94%); greenish diarrhea
(35.94%). The lesions were heamorrhage liver (92.19%), the empty and gas
producing in intestine (89.06%), and haemorrhage lung (81.25%).
Key words: Botulin, Clostridium botulinum, limberneck, Mekong delta.
vi
TRANG CAM KẾT KẾT QUẢ
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và chưa
từng dùng để bảo vệ ở bất kỳ học vị nào. Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp
đỡ cho việc thực hiện luận án đã được cám ơn, các thông tin trích dẫn trong
luận án này đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Cán bộ hướng dẫn Tác giả luận án
PGS. TS. Nguyễn Đức Hiền
Nguyễn Thu Tâm
vii
MỤC LỤC
CHẤP THUẬN CỦA HỘI ĐỒNG .................................................................. i
LỜI CẢM TẠ ................................................................................................... ii
TÓM TẮT ........................................................................................................ iii
ABSTRACT ...................................................................................................... v
TRANG CAM KẾT KẾT QUẢ .................................................................... vii
MỤC LỤC ..................................................................................................... viii
DANH SÁCH BẢNG ..................................................................................... xii
DANH SÁCH HÌNH ..................................................................................... xiv
DANH SÁCH CHỮ VIẾT TẮT .................................................................. xvi
Chương 1: GIỚI THIỆU ................................................................................. 1
1.1 Đặt vấn đề .................................................................................................... 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài .................................................................... 2
1.3 Những đóng góp mới về khoa học ............................................................... 2
Chương 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................. 3
2.1 Giới thiệu về bệnh nhiễm độc tố botulin của vi khuẩn Clostridium
botulinum ........................................................................................................... 3
2.2 Tác nhân gây bệnh nhiễm độc tố botulin ..................................................... 4
2.3 Đặc tính sinh học của vi khuẩn C. botulinum .............................................. 4
2.3.1 Phân loại, đặc điểm hình thái .................................................................... 4
2.3.2 Đặc tính nuôi cấy ...................................................................................... 6
2.3.3 Đặc tính sinh hóa ...................................................................................... 6
2.3.4 Khả năng hình thành bào tử của Clostridium ........................................... 7
2.3.5 Sức đề kháng ............................................................................................. 8
2.3.6 Sự phân bố và ảnh hưởng của vi khuẩn C. botulinum trong tự nhiên ...... 8
2.3.7 Độc tố của vi khuẩn ................................................................................ 10
2.3.7.1 Độc tố botulin ...................................................................................... 10
2.3.7.2 Cơ chế gây bệnh của độc tố botulin ..................................................... 13
2.4 Bệnh do nhiễm độc tố của Clostridum botulinum ..................................... 15
2.4.1 Bệnh ở người .......................................................................................... 15
viii
2.4.2 Bệnh ở động vật hữu nhũ ........................................................................ 17
2.4.3 Bệnh do độc tố của Clostridium botulinum ở loài gia cầm .................... 18
2.4.4 Ảnh hưởng của độc tố botulin trên cá ..................................................... 24
2.4.5 Ảnh hưởng của độc tố botulin trên chuột ............................................... 24
2.5 Phương pháp xác định độc tố botulin của vi khuẩn Clostridium botulinum25
2.5.1 Phương pháp tiêm truyền cho chuột bạch (Mouse bioassay) ................. 26
2.5.2 Xác định độc tố botulin bằng sinh học phân tử ...................................... 29
2.5.3 Phương pháp nuôi cấy, phân lập vi khuẩn Clostridium botulinum ........ 29
2.5.3.1 Phương pháp lấy mẫu .......................................................................... 29
2.5.3.2 Phương pháp nuôi cấy, phân lập vi khuẩn C. botulinum ..................... 31
2.6 Những ứng dụng của độc tố botulin của vi khuẩn C. botulinum ............... 31
2.6.1 Trong y học ............................................................................................. 31
2.6.2 Trong thẩm mỹ........................................................................................ 33
2.7 Tình hình nghiên cứu về vi khuẩn C. botulinum trong và ngoài nước ...... 33
2.7.1 Tình hình nghiên cứu về vi khuẩn C. botulinum trên thế giới ................ 33
2.7.2 Tình hình ngộ độc do độc tố của vi khuẩn C. botulinum trên thế giới .. 41
2.7.3 Tình hình nghiên cứu về vi khuẩn C. botulinum ở Việt Nam ................ 43
2.8 Một số đặc điểm sinh học của vịt đẻ .......................................................... 44
2.8.1 Nguồn gốc, đặc điểm của vịt .................................................................. 44
2.8.2 Đặc điểm tiêu hóa, hấp thu thức ăn của vịt ............................................. 45
2.8.3 Nuôi vịt đẻ .............................................................................................. 47
2.8.4 Những điều lưu ý khi nuôi vịt đẻ ............................................................ 47
Chương 3: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................. 49
3.1 Phương tiện nghiên cứu ............................................................................ 49
3.1.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu .......................................................... 49
3.1.2 Địa điểm nghiên cứu ............................................................................... 49
3.1.2.1 Địa điểm thu thập mẫu ......................................................................... 49
3.1.2.2 Phân tích mẫu và nuôi chuột thí nghiệm ............................................. 49
3.1.2.3 Thí nghiệm trên thực địa ...................................................................... 49
3.2 Trang thiết bị dụng cụ và hóa chất ............................................................. 49
3.3 Nội dung nghiên cứu .................................................................................. 50
ix
3.3.1 Nội dung 1 .............................................................................................. 50
3.3.1.1 Mục tiêu ............................................................................................... 50
3.3.1.2 Đối tượng nghiên cứu .......................................................................... 50
3.3.1.3 Phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 51
3.3.1.4 Chỉ tiêu theo dõi ................................................................................... 52
3.3.2 Nội dung 2 .............................................................................................. 52
3.3.2.1 Mục tiêu ............................................................................................... 52
3.3.2.2 Đối tượng nghiên cứu .......................................................................... 52
3.3.2.3 Phương pháp tiến hành ........................................................................ 53
3.3.2.4 Chỉ tiêu theo dỏi ................................................................................... 60
3.3.3 Nội dung 3 .............................................................................................. 60
3.3.3.1 Mục tiêu ............................................................................................... 60
3.3.3.2 Đối tượng nghiên cứu: môi trường chăn nuôi: đất, nước, cua, ốc ....... 60
3.3.3.3 Phương pháp thực hiện ........................................................................ 60
3.3.3.4 Chỉ tiêu theo dõi ................................................................................... 61
3.3.4 Nội dung 4 .............................................................................................. 62
3.3.4.1 Mục tiêu ............................................................................................... 62
3.3.4.2 Đối tượng nghiên cứu .......................................................................... 62
3.3.4.3 Phương pháp tiến hành ........................................................................ 62
3.3.4.4 Chỉ tiêu theo dõi ................................................................................... 66
3.4 Xử lý số liệu ............................................................................................... 66
Chương 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN .................................................... 67
4.1 Tình hình bệnh botulism trên vịt chạy đồng (VCĐ) Đồng bằng sông Cửu
Long (ĐBSCL) ................................................................................................ 67
4.1.1 Điều kiện tự nhiên của các tỉnh An Giang, Hậu Giang, Kiên Giang và
thành phố Cần Thơ........................................................................................... 67
4.1.2 Tình hình chăn nuôi vịt chạy đồng ở ĐBSCL ........................................ 70
4.1.3. Tình hình bệnh botulism trên vịt chạy đồng ở (ĐBSCL) ...................... 72
4.1.4 Tình hình vịt bệnh botulism theo mục đích nuôi .................................... 74
4.1.5 Triệu chứng lâm sàng đặc trưng của bệnh botulism trên vịt chạy đồng . 75
4.1.6 Bệnh tích đại thể trên vịt bệnh botulism ................................................. 76
x
4.2 Phân lập vi khuẩn C. botulinum và xác định độc tố botulin trên vịt chạy
đồng mắc bệnh botulism .................................................................................. 77
4.2.1 Phân lập vi khuẩn C. botulinum trên bệnh phẩm của vịt bệnh botulism 77
4.2.2 Xác định độc tố trong huyết thanh của vịt bệnh botulism bằng thử
nghiệm trên chuột bạch .................................................................................... 79
4.2.2.1 Kết quả gây độc trên chuột .................................................................. 79
4.2.2.2 Kết quả xác định type độc tố botulin ................................................... 82
4.3 Xác định các các yếu tố nguy cơ gây bệnh botulism trên vịt chạy đồng ở
ĐBSCL có bệnh botulism ................................................................................ 84
4.3.1 Tình hình nhiễm vi khuẩn C. botulinum từ các mẫu đất và nước trên
ruộng ................................................................................................................ 84
4.3.2 Tình hình nhiễm vi khuẩn C. botulinum từ mẫu cua và ốc trên ruộng ... 87
4.4 Tính gây bệnh của vi khuẩn C. botulinum phân lập được trên vịt bệnh và
môi trường........................................................................................................ 88
4.4.1 Kiểm tra độ mẫn cảm kháng sinh của vi khuẩn C. botulinum ................ 88
4.1.2 Sự đa kháng của vi khuẩn C. botulinum phân lập được với một số loại
kháng sinh ........................................................................................................ 91
4.4.3 Thử nghiệm độc tố botulin trên vịt ......................................................... 93
4.4.4 Những triệu chứng lâm sàng trên vịt thử nghiệm độc tố ........................ 94
4.4.5 Khảo sát bệnh tích đại thể trên vịt thử nghiệm độc tố botulin ................ 96
Chương 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ........................................................ 99
5.1 Kết Luận .................................................................................................... 99
5.2 Đề nghị ..................................................................................................... 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 100
PHỤ LỤC MẪU ĐIỀU TRA DỊCH BỆNH TRÊN ĐÀN VỊT ................. 119
KẾT QUẢ XỬ LÝ THỐNG KÊ CÁC SỐ LIỆU ...................................... 120
xi
DANH SÁCH BẢNG
Bảng 2.1 Đặc trưng tổng quát hệ gen một số loài Clostridium ......................... 5
Bảng 2.2 Một số phản ứng sinh hóa của các Clostridium ................................. 6
Bảng 2.3 Sự hiện diện của vi khuẩn Clostridium trong một số loại mẫu .......... 9
Bảng 2.4 Quan hệ giữa các nhóm của độc tố botulin và một số ký chủ .......... 13
Bảng 2.5 Phương pháp xác định độc tố botulin bằng sinh học phân tử theo loại
mẫu ................................................................................................................... 29
Bảng 2.6 Bảng hướng dẫn lấy mẫu bệnh phẩm để xác định bệnh botulism.... 30
Bảng 3.1 Phân bố mẫu khảo sát tại 4 địa điểm lấy mẫu .................................. 51
Bảng 3.2 Đặc tính sinh hóa của vi khuẩn C. botulinum trong bộ API 20A..... 55
Bảng 3.3 Sơ đồ bố trí thí nghiệm ..................................................................... 56
Bảng 3.4 Bố trí thí nghiệm Định type độc tố botulin ...................................... 57
Bảng 3.5 Phân bố mẫu trên môi trường nuôi ................................................... 60
Bảng 3.6 Tiêu chuẩn đường kính vòng vô khuẩn của một số loại kháng sinh 62
Bảng 3.7 Bố trí thí nghiệm để xác định liều LD50 của độc tố botulin ............ 64
Bảng 4.1 Số lượng VCĐ nuôi tại tỉnh An Giang, Hậu Giang, Kiên Giang và
thành phố Cần Thơ........................................................................................... 71
Bảng 4.2 Tỷ lệ vịt bệnh botulism tại Đồng bằng sông Cửu Long ................... 72
Bảng 4.3 Tỷ lệ bệnh botulism trên vịt đẻ và vịt thịt ........................................ 74
Bảng 4.4 Tần suất xuất hiện triệu chứng lâm sàng trên vịt bệnh botulism ..... 76
Bảng 4.5 Tần suất xuất hiện bệnh tích đại thể trên vịt bệnh botulism............. 77
Bảng 4.6 Tỷ lệ vi khuẩn C. botulinum hiện diện trên bệnh phẩm của vịt bệnh
botulism ........................................................................................................... 77
Bảng 4.7 Tỷ lệ chuột bị nhiễm độc botulin trong huyết thanh của vịt bệnh
botulism ........................................................................................................... 79
Bảng 4.8 Tần suất xuất hiện các biểu hiện bất thường trên chuột thí nghiệm. 80
Bảng 4.9 Các bệnh tích đại thể trên chuột thí nghiệm ..................................... 81
Bảng 4.10 Xác định type độc tố botulin .......................................................... 83
Bảng 4.11 Tỷ lệ nhiễm vi khuẩn C. botulinum từ các mẫu đất và nước trên
ruộng ................................................................................................................ 85
Bảng 4.12 Tỷ lệ nhiễm vi khuẩn C. botulinum từ các mẫu cua và ốc ruộng ... 87
xii
Bảng 4.13 Tỷ lệ độ nhậy của vi khuẩn C. botulinum phân lập được với một số
loại kháng sinh ................................................................................................. 89
Bảng 4.14 Kết quả khảo sát tính đa kháng của vi khuẩn C. botulinum với một
số loại kháng sinh ............................................................................................ 91
Bảng 4.15 Tỷ lệ vịt chết sau 7 ngày thử độc tố botulin ................................... 93
Bảng 4.16 Triệu chứng lâm sàng trên vịt thử nghiệm độc tố botulin .............. 94
Bảng 4.17 Kết quả khảo sát bệnh tích đại thể trên vịt thử nghiệm độc tố
botulin .............................................................................................................. 96
xiii
DANH SÁCH HÌNH
Hình 2.1 Hình dạng vi khuẩn C. botulinum và nha bào .................................... 5
Hình 2.2 Cấu trúc bào tử của vi khuẩn Clostridium spp. .................................. 8
Hình 2.3 Cơ chế tác động của độc tố botulin................................................... 14
Hình 2.4 Triệu chứng ngộ độc ở cáo ............................................................... 18
Hình 2.5. Triệu chứng ngộ độc ở bò ................................................................ 18
Hình 2.6 Chu trình lan truyền botulism ở gia cầm .......................................... 20
Hình 2.7 Liệt mí mắt ở vịt ............................................................................. 22
Hình 2.8 Cổ vịt liệt .......................................................................................... 22
Hình 2.9 Vịt nhiễm độc tố botulin không nâng đầu được khỏi mặt nước ....... 22
Hình 2.10 Vai trò của C. botulinum trong một hệ sinh thái nước ngọt .......... 41
Hình 3.1 Vịt bị liệt mềm cổ ............................................................................. 52
Hình 3.2 Sơ đồ qui trình nuôi cấy, phân lập vi khuẩn Clostridium botulinum có
cải tiến .............................................................................................................. 53
Hình 3.3 Khuẩn lạc của vi khuẩn C. botulinum trên thạch máu ...................... 54
Hình 3.4 Khuẩn lạc của vi khuẩn C. botulinum trên môi trường SFP ............. 54
Hình 3.5 Hình ảnh nha bào của vi khuẩn C. botulinum dưới KHV ................ 54
Hình 3.6 Đặc tính sinh hóa theo API 20A của vi khuẩn C. botulinum............ 55
Hình 3.7: Kháng độc tố chuẩn ......................................................................... 58
Hình 3.8 Sơ đồ xác định type độc tố botulin trong huyết thanh vịt ................. 59
Hình 3.9 Sơ đồ qui trình nuôi cấy, phân lập vi khuẩn Clostridium botulinum
trên môi trường nuôi có cải tiến ....................................................................... 61
Hình 3.10 Sơ đồ quy trình chuẩn bị canh khuẩn chứa độc tố botulin ............. 63
Hình 4.1 Bản đồ các tỉnh ĐBSCL ................................................................... 68
Hình 4.2 Vịt chạy đồng .................................................................................... 72
Hình 4.3 Vịt chạy đồng bị liệt mềm cổ ............................................................ 74
Hình 4.4 Phổi chuột xuất huyết ....................................................................... 82
Hình 4.5 Gan chuột xuất huyết ........................................................................ 82
Hình 4.6 Mí mắt chuột sung có ghèn ............................................................... 82
Hình 4.7 Dạ dày, ruột chuột trồng thức ăn ...................................................... 82
Hình 4.8 Lông xù, rụng lông ........................................................................... 95
xiv
Hình 4.9 Liệt mi mắt ........................................................................................ 95
Hình 4.10 Phân chảy trắng- xanh .................................................................... 95
Hình 4.11 Liệt mềm cổ .................................................................................... 95
Hình 4.12 Phổi vịt tụ huyết .............................................................................. 98
Hình 4.13 Gan vịt xuát huyết ........................................................................... 98
Hình 4.14 Ruột vịt trống thức ăn ..................................................................... 98
Hình 4.15 Ruột vịt sinh hơi ............................................................................. 98
xv
DANH SÁCH CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tăt Từ viết nguyên văn Ý nghĩa
Vịt chạy đồng VCĐ
Acid ribonucleotid ARN
Analytical Profile Index API
Botulinum neurotoxins Độc tố thần kinh BoNTs
Control of Disease Center Trung tâm kiểm soat bệnh tật CDC
C. bifermentans Clostridium bifermentans
C. botulinum Clostridium botulinum
C. butyticum Clostridium butyticum
C. carnis Clostridium carnis
C. chauvoei Clostridium chauvoei
C. colinum Clostridium colinum
C. difficile Clostridium difficile
C. fallax Clostridium fallax
C. histolyticum Clostridium histolyticum
C. novji Clostridium novji
C. perfringens Clostridium perfringens
C. septicum Clostridium septicum
C. sordellii Clostridium sordellii
C. spiroforme Clostridium spiroforme
C. sporogenes Clostridium sporogenes
Clostridium tetani C. tetani
Acid dipicolinic- calcium DPA-Ca
Đồng bằng sông Cửu Long ĐBSCL
Enzyme-linked ELISA
Immunosorbent assay
FDA Food and Drug Cục Quản lý Thực phẩm và
Administration Dược phẩm
LD Lethal dose Liều gây chết
xvi
MLD Minimum Lethal Dose Liều gây chết tối thiểu
PCR Polemerase Chain Reaction phản ứng chuỗi polymerase
SNAREs Soluble N-ethyl maleimide Protein SNARE
(NEM)-sensitive factor
attachment protein receptor
Synaptosomal-associated
SNAP
protein
protein family
xvii
Chương 1: GIỚI THIỆU
1.1 Đặt vấn đề
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) với hệ thống sông ngòi chằng chịt
và khí hậu nóng ẩm, diện tích trồng lúa lớn, và nguồn động thực vật thủy sinh
phong phú; đây là những điều kiện thuận lợi để có thể chăn nuôi vịt quanh
năm, đặc biệt là nuôi vịt chạy đồng. Số lượng vịt nuôi theo phương thức chạy
đồng ở ĐBSCL khoảng 31,5 triệu con, chiếm hơn 70% đàn vịt trong vùng và
chiếm 40% trong tổng đàn vịt cả nước (Niên giám thống kê, 2019). Phương
thức chăn nuôi này có ưu điểm là tận dụng được thức ăn tự nhiên có sẵn của
vùng sông nước, lúa rơi vãi sau thu hoạch của nông dân nhằm giảm đáng kể
chi phí trong chăn nuôi. Nhưng điều này cũng là một mối đe dọa lớn cho
ngành thú y vì không thể kiểm soát được môi trường chăn thả dẫn đến nguy cơ
xảy ra dịch bệnh rất cao. Một trong những bệnh phổ biến trên đàn vịt chạy
đồng ở Đồng bằng Sông Cửu Long hiện nay là bệnh “limberneck” hay bệnh
“cúm cần” theo cách đặt tên của địa phương. Bệnh cúm cần là bệnh trên thủy
cầm do ngoại độc tố botulin của vi khuẩn Clostridium botulinum gây ra; thế
nên, bệnh còn được gọi là bệnh botulism.
Vi khuẩn Clostridium botulinum là vi khuẩn kị khí tuyệt đối, sinh bào tử
hình oval và có nha bào, thường tồn tại trong đất, nhất là các vùng bùn lắng
trầm tích, trong xác các loài nhuyễn thể, trong ruột các loài động vật trên cạn và
dưới nước, sinh độc tố thần kinh botulinum neurotoxin rất mạnh, phá huỷ hoàn
toàn thần kinh trung ương (Todar, 2009). Vịt ăn phải độc tố này sẽ xuất hiện các
triệu chứng là liệt mềm cổ, liệt mí mắt, liệt cánh, liệt chân và tử số cao, gây thiệt
hại kinh tế nặng nề cho người chăn nuôi (Rocke and Friend, 1998).
Hiện nay, những trong nhân y và thú y trên thế giới đã và đang nghiên
cứu bệnh botulism trên con người và trên các loại gia cầm. Tuy nhiên, những
nghiên cứu và thông tin về tình hình về bệnh botulism, yếu tố nguy cơ cũng
như đặc điểm sinh học của vi khuẩn Clostridium botulinum tại Việt Nam nói
chung, Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng còn khá hạn chế. Với mong muốn
thông qua nghiên cứu này sẽ cung cấp thông tin khá toàn diện về vi khuẩn
Clostridium botulinum và bệnh do vi khuẩn gây ra trên vịt chạy đồng ở Đồng
bằng sông Cửu Long. Từ đó, đề tài “Nghiên cứu bệnh nhiễm độc tố botulin
1
của vi khuẩn Clostridium botulinum trên vịt tại một số tỉnh Đồng bằng
sông Cửu Long” được tiến hành.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Tình hình bệnh botulism trên vịt chạy đồng (VCĐ) ở Đồng bằng sông
Cửu Long.
- Xác định sự hiện diện vi khuẩn C. botulinum và xác định type độc lực
của botulin trên vịt mắc bệnh botulsim.
- Đánh giá sự lưu hành của vi khuẩn C. botulinum trên môi trường chăn
nuôi VCĐ ở ĐBSCL.
- Xác định khả năng gây bệnh của các chủng C. botulinum phân lập được.
1.3 Những đóng góp mới về khoa học
- Đã đưa ra những bằng chứng khoa học xác thực đầu tiên về bệnh liệt
mềm cổ trên vịt ở một số tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.
- Khẳng định sự hiện diện của bệnh nhiễm độc tố botulin trên vịt chạy
đồng ở Đồng bằng sông Cửu Long.
- Xác định được các type độc tố của vi khuẩn Clostridium botulinum gây
bệnh liệt cổ trên vịt.
- Kỹ thuật mouse bioassay lần đầu tiên được áp dụng để xác định bệnh
nhiễm độc tố vi khuẩn Clostridium botulinum trên vịt ở Việt Nam.
1.4 Ý nghĩa khoa học của luận án
Đây là công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu một cách cơ bản có hệ
thống về bệnh botulism trên vịt chạy đồng ở Đồng bằng sông Cửu Long. Từ
đó xây dựng được quy trình khoa học trong chẩn đoán xác định bệnh, đồng
thời là cơ sở khoa học trong việc xây dựng qui trình phòng trị bệnh botulism
trên vịt chạy đồng ở Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng, cả nước nói chung.
2
Chương 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Giới thiệu về bệnh nhiễm độc tố botulin của vi khuẩn Clostridium
botulinum
Botulism được báo cáo lần đầu ở gà năm 1917 (Dickson, 1917) còn ở vịt
được phát hiện lần đầu ở Hoa Kỳ vào những năm 1900 và sau đó vào năm
1923, bệnh được phát hiện ở gà khi ăn giòi (ấu trùng ruồi xanh) và đây là lần
đầu tiên C. botulinum type C được phân lập từ loài thân mềm này (Bengtson,
1922). Đến năm 1930, nhiều tác giả như Giltner and Couch, Gunderson and
Hobmairer đã phân lập được C. botulinum type C từ thủy cầm hoang dã bị
bệnh tại Hoa Kỳ (Shaw and Simpson, 1936).
Ở gia cầm, bệnh còn được gọi là bệnh liệt cổ (limberneck) và bệnh vịt
phương Tây (Western duck sickness). Hầu hết gia cầm bị nhiễm C.
botulinum type C và trong ổ dịch thì vịt là loài cảm nhiễm nhất (Rosen,
1971). Bệnh xảy ra nhiều vào những tháng thời tiết nóng hơn là những tháng
lạnh (Rocke and Bollinger, 2007). Người không bị ảnh hưởng bởi type C, tuy
nhiên thí nghiệm cho thấy khỉ chết sau khi cho ăn gà nhiễm độc tố type C
(Giltner and Couch, 1930).
Đối với gia cầm, C. botulinum type E và C được xem là tác nhân chính
gây ra bệnh mặc dù một số type khác cũng có khả năng gây bệnh cho gia cầm
(Dohms, 1987). Bình thường vi khuẩn sống cộng sinh trong đường ruột gia
cầm và không gây bệnh nhưng khi con vật chết thì vi khuẩn sẽ phát triển và
sản sinh độc tố. Khi xác động vật phân hủy, ruồi đẻ trứng vào nở ra những ấu
trùng (giòi) mang độc tố. Trên mô xác gia cầm chết đã xác định được lượng
độc tố type C lớn hơn 2000 liều gây chết tối thiểu (MLD) và trong con giòi
chứa lượng độc tố lên đến 104 – 105 liều MLD. Do đó khi gà, chim, vịt ăn giòi
hoặc xác động vật chết sẽ dễ dàng bộc phát bệnh.
Trong môi trường nước, các động vật giáp xác nhỏ và ấu trùng côn trùng
có thể chứa Clostridium botulinum trong ruột. Khi các loài động vật này chết
xác động vật phân hủy sẽ cung cấp một nguồn protein thúc đẩy việc sản xuất
các loại độc tố botulin type C trong thịt, trầm tích hoặc vùng đất ngập nước
(Bell et al., 1955 ; Soos & Wobeser, 2006). Botulism gây ra bởi type A và E ở
3
gia cầm hiếm xảy ra và nó thường liên quan với việc sử dụng thức ăn hư hỏng
của người để nuôi gà nhà.
Do đặc điểm trên, bệnh thường xảy ra ở những vùng ngập nước vừa rút
cạn, nơi có điều kiện ấm áp, môi trường có nhiều xác động vật chết và phân
hủy. Các nghiên cứu cho thấy bệnh là nguyên nhân gây chết chủ yếu đối với
các loài chim di cư trên toàn thế giới (Wobeser, 1997).
2.2 Tác nhân gây bệnh nhiễm độc tố botulin
Năm 1895, Emile Van Ermengem là người đầu tiên phát hiện người ngộ
độc và chết do ăn dăm bông, gọi là bệnh ngộ độc thịt và năm 1896 tác giả đã
xác định được nguyên nhân là Clostridium botulinum, một loại vi khuẩn kỵ
khí, có nha bào, rất khó bị tiêu diệt. Sau này, các nhà khoa học khác còn thấy
chúng trong đất, ruột cá, đồ hộp thịt cá, phân người. Năm 1928, Tessmer
Snipe & Hermann Sommer chiết tách được độc tố từ C.botulinum. Năm 1949,
Arnold Burgen phát hiện độc tố của C. botulinum làm tổn thương hệ thần kinh
trung ương (đặc biệt là đến các tín hiệu từ não đến cơ bắp), gây liệt cơ rõ nhất
là liệt cơ mắt (không có phản ứng với ánh sáng, song thị), liệt cơ vòm miệng,
lưỡi hầu, gây nên biến dạng mặt, nguy hiểm nhất là gây liệt trung tâm hô hấp,
tim dẫn đến tử vong cao. Năm 1960, Alan Scott & Edward Schantz sử dụng
độc tố botulin cho các mục đích điều trị (Dressler, 2006)
2.3 Đặc tính sinh học của vi khuẩn C. botulinum
2.3.1 Phân loại, đặc điểm hình thái
Vi khuẩn Clostridium botulinum thuộc chi Clostridium, họ Clostridiaceae,
bộ Clostridiales, lớp Clostridia, ngành Firmicutes.
Clostridium botulinum cũng được gọi với nhiều tên là Botulobacillus
botulinus, Ermengemillus botulinus, Bacillus botulinus, Bacillus putrificus,
Pacinia putrifica, Clostridium putrificum, Bacillus putrificus, Pacinia putrifica,
Clostridium putrificum, Botulobacillus botulinus, Ermengemillus botulinus.
Clostridium botulinum có thể phân biệt với các Clostridium khác dựa vào
các đặc trưng cấu trúc phân tử theo bảng 2.1.
4
Bảng 2.1 Đặc trưng tổng quát hệ gen một số loài Clostridium
Các loài Clostridium
Đặc điểm
botulinum
difficile acetobutylicum perfringens
tetani
Kích thước(bp)
3.886.916 4.290.252
3.940.880
3.031.430
2.799.250
G+C (%)
28,24
29,06
30,93
28,60
28,75
Chuỗi mã hoá
3650
3774
3740
2660
2368
Mật độ mã hoá
0,93
0,87
0,93
0,87
0,85
Kích thước gen
875
943
920
946
1011
trung bình (bp)
r ARN
9
11
11
10
6
t ARN
80
87
73
96
54
(Mohammed Sebaihial et al., 2007)
Vi khuẩn C. botulinum là một trực khuẩn thẳng hai đầu tròn, dài từ 4–6
µm, rộng từ 0,9–1.2 µm, có thể đứng riêng lẻ hay tập trung thành song trực
khuẩn, có khi thành chuỗi ngắn. Trong canh khuẩn có đường glucose vi khuẩn
có dạng sợi dài, vi khuẩn có nha bào.
Nha bào có tính đề kháng cao nhưng bị tiêu diệt ở nhiệt độ 1200C trong
15 phút trong khi độc tố bị phá hủy ở nhiệt độ 1000C trong 20 phút. Nha bào
có hình trứng nằm ở một đầu vi khuẩn. Vi khuẩn có 4 – 8 lông quanh thân,
Hình 2.1 Hình dạng vi khuẩn C. botulinum và nha bào (mũi tên)
(Nguồn: Yeh et al., 2014)
nhưng di động không mạnh (Quinn et al, 1994).
5
2.3.2 Đặc tính nuôi cấy
C. botulinum là loại vi khuẩn yếm khí tuyệt đối. Nhiệt độ nuôi cấy thích
hợp 28–30oC, độ pH 8,2–8,5. Trong nước thịt yếm khí có đường glucose: canh
khuẩn mọc đều, sản sinh nhiều hơi, có cặn lắng dưới đáy, sau đó canh khuẩn
trở nên trong và có mùi butyric. Thạch Vaillon hình thành những khuẩn lạc
trong suốt, dần dần trở nên đục, màu nâu nhạt, vi khuẩn sản sinh nhiều hơi làm
nứt thạch hoặc vỡ thạch, môi trường có mùi butyric. Môi trường Gelatin có
glucose: cấy chích sâu vi khuẩn mọc tốt theo đường cấy, sản sinh nhiều hơi và
làm tan chảy chậm. Nước thịt yếm khí có óc: làm đen óc. Thạch máu: dung
huyết sau khi nuôi cấy 3–4 ngày.
2.3.3 Đặc tính sinh hóa
Vi khuẩn lên men có sinh hơi glucose, mantose, levulose, dextrin. Lên
men không đều galactose, saccarose, lactose, raffinose, xylose, dunxit,
maltose, arabinose, salixin. Trực khuẩn hóa lỏng nhanh gelatin. Không sinh
Bảng 2.2 Một số phản ứng sinh hóa của các Clostridium (Quinn et al., 1994)
Thạch lòng
Sinh axit
đỏ trứng gà
Loài
Clostridium
e
s
o
t
l
a
l
o
d
n
I
h
n
i
s
n
ả
S
e
s
o
c
u
l
G
e
s
o
t
c
a
L
e
s
o
r
c
u
S
M
e
s
a
p
i
L
e
s
a
n
i
h
t
i
c
e
L
n
i
e
s
a
C
a
ó
h
u
ê
i
T
v
-
-
-
-
C. tetani
-
-
+
-
-
+
-
-
+
C. botulinum I
-
+
+
+
-
+
-
-
+
II
-
+
+
-
v
+
-
-
v
III
V
+
+
-
-
-
.
-
.
IV
-
-
+
+
Chú thích:
(+): Phản ứng dương tính
(v): Phản ứng thay đổi
(-): Phản ứng âm tính
(.): Không có dữ kiện
indole nhưng sinh H2S (Nguyễn Như Thanh et al., 2001)
6
2.3.4 Khả năng hình thành bào tử của Clostridium
Vào cuối thời kỳ sinh trưởng, khi chất dinh dưỡng trong môi trường cạn
kiệt, các Clostridia sẽ thay đổi điều kiện sinh trưởng bằng cách hình thành một
thể nghỉ ở bên trong tế bào có dạng hình cầu hay hình bầu dục là nội bào tử
(endospore), nha bào hay gọi chung là bào tử (spore). Bào tử có tính kháng
nhiệt, kháng bức xạ, kháng hóa chất, kháng áp suất thẩm thấu. Bào tử được
hình thành từ trong tế bào vi khuẩn qua nhiều giai đoạn và mỗi tế bào chỉ sinh
ra một bào tử. Các tế bào có khả năng tạo bào tử gọi là tế bào sinh dưỡng.
Trong tế bào này, bào tử dần được hình thành đồng thời tế bào sinh dưỡng tự
tiêu hủy dần đến cuối cùng chỉ còn lại nha bào tự do. Cấu tạo từ ngoài vào
trong gồm:
Màng ngoài: Là phần còn sót lại của tế bào sinh dưỡng, khi có khi
không, khi dày khi xốp và gồm 2 lớp, thành phần chủ yếu là lipoprotein, một
lượng nhỏ acid amin, tính thẩm thấu kém.
Lớp áo bào tử: Nằm dưới màng ngoài, cấu tạo chủ yếu là các protein
sừng và một ít phospholipoprotein. Có sức đề kháng rất cao với lysozyme,
proteinase, các chất hoạt động bề mặt.
Lớp vỏ bào tử: Nằm dưới lớp áo, chứa một lượng lớn peptidoglycan,
không có acid teichoic. Ngoài ra còn chứa nhiều calcium, dưới dạng muối
calcium dipicolinate. Acid dipicolinic là chất đặc hiệu của nha bào và chính
nhờ calcium dipicolinate (DPA-Ca) quyết định khả năng chịu đựng của nha
bào đối với sức nóng. Áp suất thẩm thấu của lớp vỏ này cao tới 20 atm.
7
Hình 2.2 Cấu trúc bào tử của vi khuẩn Clostridium spp.
(Thomas Mark Corrol II, 2008)
Lõi bào tử: Dưới lớp vỏ, được cấu tạo bởi 4 thành phần như một tế bào
bình thường của vi khuẩn: thành bào tử màng bào tử, bào tử chất và vùng nhân.
Tuy nhiên, người ta nhận thấy rằng không có sự hiện diện của acid teichoic mà
lại có DPA-Ca trong bào tử chất. Tuổi thọ của bào tử gần như vô hạn. Các nhà
khoa học đã phân lập được bào tử sống từ mật ong hóa thạch có tuổi 25 triệu
năm và thậm chí từ một tinh thể muối 250 triệu năm tuổi (Talaro, 2002).
2.3.5 Sức đề kháng
Nha bào có sức đề kháng rất cao, ở nhiệt độ bình thường nó sống được
nhiều năm, ở nhiệt độ 110oC trong 10 phút chưa đủ để diệt nó. Nếu sấy ướt
1150C thì mới diệt được 80% nha bào, 8 phút mới diệt được 95%, phải ở nhiệt
độ 1200C trong 10 phút mới diệt được hoàn toàn nha bào, trong môi trường có
10% NaCl thì khả năng ngăn cản hình thành nha bào (Lê Huy Chính, 2003).
2.3.6 Sự phân bố và ảnh hưởng của vi khuẩn C. botulinum trong tự nhiên
Theo Nguyễn Như Thanh (2004), C. botulinum phát triển thích hợp trong
những đất có độ ẩm tuyệt đối. Chúng phát triển nhiều trong lớp đất canh tác vì
8
ở đó có nhiều chất hữu cơ. Phospho và kali cũng là hai yếu tố cần thiết cho
quá trình sinh trưởng và phát triển của vi khuẩn Clostridium spp. không quá
mẫn cảm với nồng độ calci trong đất, tuy nhiên calci rất cần cho việc tạo thành
bào tử Clostridium.
Haagsma (1991) nói về sự hiện diện của vi khuẩn Clostridium spp. trong
một số loại mẫu như phân, đất (nước), trầm tích biển, thức ăn, cho thấy rằng vi
khuẩn Clostridium spp. xuất hiện nhiều nhất trong phân, tiếp đến là trong đất
Bảng 2.3 Sự hiện diện của vi khuẩn Clostridium trong một số loại mẫu (Haagsma 1991)
Loại mẫu
Loài Clostridium
Phân
Đất (nước)
Trầm tích biển
Thức ăn
C. bifermentans
+
+
+
C. botulinum
+
+
+
+
C. butyticum
+
+
+
C. carnis
+
+
C. chauvoei
+
C. colinum
+
C. difficile
+
C. fallax
+
C. histolyticum
+
C. novji
+
+
+
C. perfringens
+
+
+
+
C. septicum
+
+
C. sordellii
+
C. spiroforme
+
C. sporogenes
+
+
+
C. tetani
+
+
(nước), thấp nhất là trong các mẫu trầm tích biển và thức ăn.
Theo kết quả nghiên cứu của Johnson et al.,2007, có thể thấy rằng vi
khuẩn Clostridium spp. tập trung chủ yếu ở đất, nước thải và trầm tích biển,
9
đôi khi có ở ruột của cả động vật và con người. Ở một số loài khác của
Clostridium có thể hiện diện trong các vật liệu mục nát, xác các loài gặm
nhấm nhỏ, xác chết chim hoặc trong phân bón. Vì thế, việc phân lập vi khuẩn
Clostridium spp. từ nhiều nguồn khác nhau là rất cần thiết trong chăn nuôi thú
y, nó hạn chế giảm bớt một phần ảnh hưởng to lớn đến sức khỏe của vật nuôi.
Sự khuếch tán oxy trong đất là điều kiện quan trong ảnh hưởng đến sự
phát triển của vi khuẩn yếm khí. Đặc biệt, đối với vi khuẩn Clostridium spp.
thì lại không phát triển khi có sự hiện diện của oxy, tùy thuộc vào từng chủng
mà nồng độ oxy thay đổi khác nhau thì chúng mới có thể tăng trưởng và phát
triển. Một số chủng có thể chịu được nồng độ oxy cao đến 3%.Trong các loại
đất thì sự khuếch tán oxy trong đất tốt là đất ruộng, đất phù sa.
2.3.7 Độc tố của vi khuẩn
2.3.7.1 Độc tố botulin
Botulin là tên gọi chung của một loại ngoại độc tố do vi khuẩn
Clostridium botulinum sản sinh (viết tắt là BoNTs), gồm có 8 type độc tố là A,
B, C, D, E, F, G và H. Các loại độc tố được phân biệt bằng đặc tính kháng
nguyên. Trong đó 3 type gây độc đáng chú ý là A, B, E (độc nhất là A, kế là
B). Botulin có độc tính mạnh nhất trong các chất độc sinh học đã biết. Nó độc
gấp 7 lần so với độc tố uốn ván, 1mg có thể giết chết 100 triệu chuột nhắt
(Hall et al., 1985; McCroskey et al., 1991). Trong 8 type độc tố thì đã có 6
loại độc tố có đến 05 phân nhóm. Tuy nhiên, không phải tất cả các chủng C.
botulinum đều sản sinh độc tố. Độc tố được hấp thụ ở ruột vào máu đi đến các
khớp nối thần kinh cơ ngoại vi tấn công các protein dung hợp (SNAP-25,
syntaxin hoặc synaptobrevin) tại điểm tiếp hợp thần kinh cơ gây ức chế sản
sinh acetylcholine từ đó gây cản trở quá trình dẫn truyền xung thần kinh gây
liệt cơ bắp, trái ngược với tình trạng co cơ trong các bệnh uốn ván (độc tố của
C. botulinum tác động trên thần kinh ngoại vi gây hiện tượng “liệt mềm”,
trong khi đó độc tố C. tetani tác động lên hệ thần kinh trung ương gây “liệt
cứng”) (MacKenzie and Debora, 2013).
Biểu hiện của ngộ độc ở người bắt đầu 18–36 giờ sau khi nhiễm độc là
chóng mặt, khô miệng, nôn ói có thể xảy ra. Các thần kinh chức năng bị ức
chế gây mờ mắt, mất khả năng nuốt, liệt vận động và liệt hô hấp. Độc tố
10
botulin có thể tác động vào thần kinh trung ương, tuy nhiên triệu chứng thần
Miễn dịch đối với ngộ độc botulin không phát triển vì lượng độc tố cần
kinh trung ương rất hiếm (MacKenzie and Debora, 2013).
thiết để tạo ra một đáp ứng miễn dịch sẽ gây tử vong. Dù chất độc không bền
với nhiệt nhưng các bào tử của C. botulinum có thể sống sót nhiệt độ sôi
(100oC) trong 1 giờ cho nên để phòng chống ngộ độc thực phẩm cần có biện
pháp xử lý thích hợp.
Các loại độc tố có cấu trúc và đặc tính riêng: Botulin type A thì phân giải
protein, gây ngộ độc thịt cho người (gồm ngộ độc vết thương và ngộ độc trẻ sơ
sinh), thường tìm thấy trong thịt cá, rau củ, thịt đóng hộp, các sản phẩm lên
men. Trong khi đó botulin type B cũng phân giải protein, thường tìm thấy
trong thịt, đặc biệt là thịt heo. Loại độc tố này ngoài việc gây ngộ độc thịt cho
người nó còn gây bệnh cho ngựa và bò. Botulin type C không phân giải
protein, gây độc cho các loài chim và gia cầm, tìm thấy trong thực vật đầm
lầy, sinh vật thủy sinh. Botulin type D không phân giải protein, gây ngộ độc
cho các loài động vật như: bò, lừa, ngựa… có thể tìm thấy trong gia súc nhiễm
độc. Botulin type E không phân giải protein, gây ngộ độc cho người, cá, chim
biển, thường tìm thấy trong thủy sản và các sản phẩm thủy sản. Botulin type F
gây độc cho người đặc biệt là trẻ em, tìm thấy trong các sản phẩm thịt. Riêng
botulin type G phân giải protein, hiện chưa có thông tin đầy đủ về tính gây
bệnh của type này, tìm được trong đất (MacKenzie and Debora, 2013).
Năm 2013, các nhà nghiên cứu tại Khoa Y tế cộng đồng California đã
phát hiện một độc tố thứ tám, đó là type H. Botulin type H được coi là độc tố
mạnh nhất, chỉ cần một mũi tiêm với liều 2 nanogram hoặc hít phải 13
nanogram có độc tố botulin này cũng có thể giết chết một người trưởng thành
(MacKenzie and Debora, 2013).
Tất cả các độc tố trên đều bị trung hoà bởi kháng độc tố tương tứng
(riêng type H hiện nay chưa có kháng độc tố). Mặc dù các botulin này có tính
độc cao nhưng chúng có sức đề kháng kém với nhiệt độ, chỉ cần đun 60–80oC
trong 10 phút thì độc tố sẽ bị phá huỷ, chúng cũng không bền khi ở ngoài môi
trường quá lâu. Nhưng chúng lại có sức đề kháng mạnh với men tiêu hoá,
chúng hầu như không bị phân huỷ bởi dịch vị và men tiêu hoá trong dạ dày.
11
Độc tố botulin là một protein và là chất độc thần kinh, botulin có thể gây ngộ
độc nghiêm trọng và đe dọa tính mạng của con người và động vật (Miia
Lindstrom and Hannu Korkeala, 2006).
Vi khuẩn được chia thành 4 nhóm (I – IV) dựa trên các đặc điểm nuôi
cấy và 8 nhóm độc tố khác nhau (A, B, Cα, Cβ, D, E, F, và G). Bệnh ở người
chủ yếu do các type A, B, E, F. Bệnh ở loài chim thì chủ yếu do các type A, C,
E (Miia Lindstrom and Hannu Korkeala, 2006).
Nhóm I
Bao gồm các chủng độc tố type A, những biến dạng thủy phân protein
của độc tố type B và F và những kiểu độc tố kép AB, AF, BF. Đặc điểm chính
của nhóm này là những trực khuẩn hơi cong với lông roi có lông rung rải rác,
nhiệt độ sinh trưởng tối ưu là 35 – 40oC, sản xuất bào tử chịu nhiệt cao, độ pH
tối thiểu có thể ức chế hoạt động của vi khuẩn trong nước là 0,94–4,6.
Nhóm II
Bao gồm chủng độc tố type E và những biến dạng không thủy phân
protein nhưng phân giải đường của độc tố type B và F. Đặc điểm chính của
nhóm này là những trực khuẩn với lông roi rải rác, là nhóm ưa lạnh nhiệt độ
sinh trưởng tối ưu là 18 – 25oC, sản xuất bào tử chịu nhiệt thấp, độ pH tối
thiểu có thể ức chế hoạt động của vi khuẩn là 0,97–5.
Nhóm III
Bao gồm chủng độc tố type C và D và những sự biến dạng nói chung là
không có thủy phân protein. Đặc điểm chính của nhóm này là những trực
khuẩn với lông roi có lông rung rải rác, nhiệt độ sinh trưởng tối ưu là 35 –
40oC, sản xuất những bào tử với khả năng chịu nhiệt trung gian, độ pH tối
thiểu có thể ức chế hoạt động của vi khuẩn trong nước vẫn chưa biết.
Nhóm IV
Bao gồm những chủng thủy phân protein của chủng độc tố type G. Đặc
điểm chính của nhóm này bao gồm: những trực khuẩn với lông roi có lông
rung rải rác, nhiệt độ sinh trưởng tối ưu là 35 – 40oC, sản sinh những bào tử
với khả năng chịu nhiệt trung gian, độ pH tối thiểu có thể ức chế hoạt động
của vi khuẩn trong nước vẫn chưa biết.
12
Bảng 2.4 Quan hệ giữa các nhóm của độc tố botulin và một số ký chủ (Haagsma 1991)
Nhóm
Nhóm I
Nhóm II
Nhóm III
Nhóm IV
Các type độc tố
A B, F
B, E, F
C, D
G
Phân giải protein
+
-
yếu
-
Phân giải đường
-
+
-
-
Bệnh chủ
con người
con người
động vật
-
Gen độc tố
nhiễm sắc thể nhiễm sắc thể
bacteriophage
plasmid
C. porogenes,
C. butyricum,
C.haemolyticum
C. subterminale,
Quan hệ gần
C. putrificum
C. beijerinicki
C. novyi type A
C. aemolyticum
2.3.7.2 Cơ chế gây bệnh của độc tố botulin
Độc tố của C. botulinum (botulin) được tổng hợp từ một chuỗi
polypeptid có trọng lượng phân tử khoảng 150.000 dalton. Ở cấu trúc này,
độc tố có hoạt lực tương đối thấp, nhưng dưới tác động của một số enzym
của vi khuẩn và trypsin thì chuỗi này tách ra thành hai chuỗi, chuỗi nặng
(100.000 dalton) và chuỗi nhẹ (50.000 dalton) nối với nhau bằng cầu nối
disulfur (Todar, 2009). Với cấu tạo này, botulin có tác dụng ức chế sự dẫn
truyền thần kinh cơ. Diễn tiến tác động của botulin gồm 3 giai đoạn: kết nối,
thâm nhập và ức chế sự phóng thích chất dẫn truyền thần kinh. Botulin
không có ảnh hưởng đến sự tổng hợp hay dự trữ acetylcholine nhưng ảnh
hưởng đến sự phóng thích chất này ở nơi tiếp giáp giữa thần kinh và cơ.
Chuỗi nặng có khả năng kết nối, còn chuỗi nhẹ là cấu trúc gây độc nội bào
(Pirazzini et al., 2013).
Khi hoạt động thần kinh vận động tạo nên sự khử cực ở đầu cuối của sợi
trục (axon), acetylcholine sẽ đươc phóng thích từ tế bào chất vào khe synapse.
Acetylcholine được chuỗi protein vận chuyển phóng thích. Khi botulin xâm
nhập vào mô thì chuỗi nặng của botulin gắn chuyên biệt với cấu trúc
glycoprotein ở đầu thần kinh dẫn truyền acetylcholine và chuỗi nhẹ của
botulin sẽ gắn lên protein đích. Tuỳ vào loại botulin khác nhau sẽ có các
protein đích khác nhau. Sự gắn kết chuỗi nhẹ với protein đích sẽ ngăn cản quá
trình chuyển acetylcholine ở các lỗ trên bề mặt trong của màng tế bào dẫn đến
13
sự khoá chặt các lỗ vận chuyển này. Khi đích là cơ thì sẽ xảy ra sự liệt cơ (liệt
nặng hay nhẹ tuỳ vào lượng độc tố) do bị ức chế dẫn truyền thần kinh. Khi
đích là các tuyến ngoại tiết thì sự tiết ở các tuyến này bị khoá chặt (Dickenson
and Janda, 2006). Nếu các liên kết disulfur nối hai chuỗi bị hỏng trước khi các
độc tố xâm nhập vào trong các tế bào, các chuỗi polypeptid không thể tiếp
nhận các thiết bị đầu cuối sợi trục màng, và khi đó độc tố sẽ mất hoàn toàn độc
tiếp hợp thần kinh cơ
điểm tiếp nối
Dẫn truyền giải phóng
bình thường
Hoạt động của
độc tố botulin
Chuỗi nặng
Chuỗi nhẹ
tế bào cơ
Túi Synapp
Botulinum
cắt phức hợp
protein
SNARE
Thụ thể độc
tố
botulin
Phóng giải
acetycholine
độc tố
botulin
Khe khớp
thần kinh
thụ thể
acetycholine
tế bào cơ
Hình 2.3 Cơ chế tác động của độc tố botulin
(Dickenson and Janda, 2006)
tính (Peck et al., 2010).
Khi botulin được sử dụng để điều trị tăng tiết mồ hôi (Bushara and Park,
1994), sự tăng tiết nước bọt, sự tiết nước mắt, hay khi những tác động đối lập
của độc tố loại B như là khô mắt hay sự khô niêm mạc xuất hiện, mô tuyến
ngoại tiết cũng bị ảnh hưởng bởi botulin. Do đó, botulin cũng ảnh hưởng đến
các sợi thần kinh ly tâm của hệ thần kinh tự chủ.
14
2.4 Bệnh do nhiễm độc tố của Clostridum botulinum
2.4.1 Bệnh ở người
Ở người ngộ độc do nhiễm độc tố botulin (botulism) thường xảy ra ở
ba dạng:
Ngộ độc thực phẩm
Ngộ độc thực phẩm là việc tiêu thụ thực phẩm có chứa chất độc thần kinh
được hình thành từ trước, tùy thuộc vào liều lượng chất độc và tình trạng cơ
thể mà thời gian ủ bệnh có thể thay đổi từ 12 đến 72 giờ. Ngoài các dấu hiệu
chung của bệnh ngộ độc, các triệu chứng về tiêu hóa như nôn mửa, mệt mỏi,
đầu quay cuồng, nhức đầu, mắt nhìn mờ không rõ (thấy ảnh đôi), khô họng,
khô mũi, khó nuốt, sụp mí mắt, ăn nói khó khăn, các cơ yếu đi bắt đầu từ trên
vai đi lần xuống phần cánh tay. Tiếp đến là các cơ giúp hô hấp bị liệt nên bệnh
nhân thở rất khó khăn và nếu không chữa trị kịp thời sẽ chết vì liệt hô hấp.
Việc điều trị chủ yếu là điều trị triệu chứng như hỗ trợ hô hấp.
Nghiên cứu của Sobel et al.,(2004) cho thấy ở các nước phát triển, tỷ lệ
tử vong của bệnh ngộ độc thực phẩm là từ 5 đến 10%. Năm 1995, Hatheway
khảo sát về nguyên nhân các trường hợp ngộ độc thực phẩm trên toàn thế giới.
Kết quả cho thấy hơn một nửa các trường hợp (52%) là do độc tố type B, type
A chiếm 34% và type E chiếm 12%. Type F ít có liên quan đến ngộ độc thực
phẩm (Harvey et al., 2002).
Hai kháng độc tố botulin chính có sẵn để điều trị ngộ độc thực phẩm gồm
một loại có nguồn gốc từ các nguồn kháng thể ngựa (Fab và Fc). Loại kháng
độc tố thứ hai là Heptavalent (A, B, C, D, E, F, G). Kháng độc tố này có sẵn từ
các cơ sở y tế địa phương thông qua CDC tại Mỹ
Ngộ độc trẻ sơ sinh
Trong hầu hết các trường hợp ngộ độc ở trẻ sơ sinh, nguyên nhân gây độc
chưa rõ nhưng với nghiên cứu của Franciosa (2002) cho thấy 15% các trường
hợp có liên quan đến mật ong, mật ong có thể chứa một số lượng lớn bào tử C.
botulinum. Có nhiều báo cáo từ các nước trên thế giới, hầu hết các trường hợp
được báo cáo ở Mỹ, các độc tố chủ yếu là type A và B. Ngộ độc thường xảy ra
ở trẻ em dưới một tuổi và chủ yếu là những trẻ từ sáu tháng tuổi trở xuống. Do
15
ruột của trẻ còn yếu chưa hoạt động mạnh, vì thế bào tử C. botulinum có thể
nảy mầm và hình thành độc tố trong ruột.
Trẻ em nhiễm bệnh thường thấy có những triệu chứng như: Có vẻ uể oải
yếu ớt, táo bón kinh niên, tay, chân và cổ đều yếu ớt không còn một sức co
thắt nào cả. Tiếng khóc yếu, nhè. Mút bú rất yếu. Bệnh có thể biến chuyển đưa
đến sự liệt tứ chi cũng như liệt các vùng khác của cơ thể để cuối cùng chết vì
liệt hô hấp.
Báo cáo của Johnson et al. (1979) cho thấy các biểu hiện lâm sàng của
ngộ độc botulin ở trẻ sơ sinh thay đổi từ cận lâm sàng đến chết đột ngột, triệu
chứng thường bắt đầu với táo bón, có thể kéo dài nhiều ngày, tiếp theo là liệt
mềm, biểu hiện đặc biệt là sự giảm ăn do suy yếu cơ bắp ở miệng và cổ họng,
liệt cơ mặt và liệt mí mắt.
Điều trị
Không khuyến khích sử dụng thuốc kháng sinh ở trẻ sơ sinh bị ngộ độc,
bởi vì như thế sẽ làm tăng hàm lượng độc tố trong máu. Trong thí nghiệm mô
hình chuột và dựa trên kinh nghiệm, Wang et al. (1984) cho kết quả kháng
sinh aminoglycosid sẽ làm tăng sự phong tỏa thần kinh cơ. Bên cạnh đó, thuốc
có chứa magie nên tránh dùng vì nó có thể làm tăng tác động của độc tố
botulin (Shapiro et al., 1998).
Việc điều trị chủ yếu cho bệnh ngộ độc ở trẻ sơ sinh là chăm sóc hỗ trợ,
đặc biệt chú ý tập trung vào dinh dưỡng của trẻ và hô hấp (CDC, 1998:
Control of Disease Center)
Ngộ độc vết thương
Trong số 40 trường hợp được công bố trong các tài liệu của Mechem và
Walter, (1994) về ngộ độc botulin ở người cho thấy 78% nguyên nhân liên
quan đến vết thương, trong đó có trầy xước, gãy xương hỡ, vết rách, vết
thương đâm thủng và áp- xe. Khi nạn nhân bị vết thương sâu hoặc vết áp-xe,
nơi vết thương sẽ hình thành môi trường yếm khí, tạo điều kiện thích hợp cho
bào tử C. botulinum nảy mầm và phát triển. Kết quả lâm sàng tương tự như
ngộ độc thực phẩm nhưng không có biểu hiện của đường tiêu hóa. Thời gian ủ
bệnh trung bình là 7 ngày. Khi điều trị, ngoài việc hỗ trợ hô hấp còn phải thực
16
hiện việc phẫu thuật mở rộng vết thương, thuốc kháng sinh và thuốc kháng
độc. Ước tính tỷ lệ tử vong là 15% (Hatheway, 1995). Giai đoạn phục hồi
chậm, kháng độc tố có thể cần phải sử dụng nhiều lần (CDC, 2008).
Ngộ độc vô ý
Trường hợp này đã được báo cáo ở những bệnh nhân đã từng có lịch sử
tiêm độc tố botulin type A vào cơ thể, đặc biệt là vào các bắp thịt lớn cho tác
dụng toàn thân. Hơn thế, theo Cherington (1998) thì nhiều trường hợp gần đây
của ngộ độc gây ra bởi việc sử dụng chất độc botulin để điều trị chứng loạn
ngôn ngữ và các rối loạn vận động khác. Ở những trường hợp khi bệnh nhân
có tật vẹo cổ và có sử dụng độc tố botulin type A để điều trị, khi tiêm độc tố
vào cơ bắp cổ có thể độc tố thâm nhập vào các cơ bắp hầu xung quanh.
Việc sử dụng điều trị của độc tố botulin cần thận trọng đặc biệt ở những
bệnh nhân bị rối loạn cơ dẫn truyền thần kinh và ở những bệnh nhân được điều
trị đồng thời với aminoglycosid. Các trường hợp khác của ngộ độc botulin là
do sự hít vào và có thể do khí dung của các chất độc thần kinh (Holzer, 1962).
2.4.2 Bệnh ở động vật hữu nhũ
Bệnh lâm sàng thường thấy xảy ra ở chồn, bò, cừu, ngựa. Đôi khi bệnh
xảy ra ở chó và heo nhưng bệnh chưa thấy nói đến bệnh ở mèo.
Ủ bệnh: 2 giờ đến 2 tuần (đa số trường hợp xuất hiện sau 12 – 24 giờ).
Bệnh tích: Không có bệnh tích đặc trưng; các tổn thương thường là kết
quả của tình trạng tê liệt cơ bắp nói chung. Tê liệt hô hấp có thể gây ra dấu
hiệu không đặc hiệu như màng ngoài tim chứa nhiều dịch fibrin, phổi phù nề
và xung huyết.
Triệu chứng: Bệnh thể hiện ở một số loài có thể quan sát được.
Ở trâu bò và ngựa: Con vật không cử động, các khớp co gập, lưỡi tê liệt,
chảy nước dãi, bí tiểu tiện, khó nuốt, cơ bắp tê liệt bắt đầu từ chân sau ra trước
đến đầu và cổ, con vật bệnh nằm úp bụng.
Khi gia súc bệnh nằm nghiêng một bên là dấu hiệu sắp chết, sẽ xảy ra
trong vòng 6 – 72 giờ.
17
Ở những gia súc dưới 4 tuần tuổi nhiễm bệnh: con vật đi xiêu vẹo, run
rẩy và không có khả năng đứng lâu hơn 4 – 5 phút. Các triệu chứng thể hiện
là: chứng khó nuốt, táo bón, dãn đồng tử, đi tiểu thường xuyên; nhịp tim
nhanh và khó thở ở các giai đoạn. Cái chết xảy ra trong vòng 24 – 72 giờ sau
khi vật thể hiện triệu chứng ban đầu do tê liệt hô hấp.
Ở cừu: Triệu chứng chung là chảy nước mũi, nước dãi. Thở thể bụng.
Rối loạn vận động, bước chân cứng nhắc. Tê liệt 4 chân. Đuôi ngoặt sang
một bên.
Ở heo, chó và mèo: Các loài này đề kháng bệnh tương đối tốt, đặc biệt là
mèo. Các triệu chứng bệnh (ở chó và heo) là biếng ăn, biếng uống, ói mữa, cơ
bắp tê liệt. Hầu hết chó bệnh tự hồi phục bệnh trong vòng 2 tuần.
Ở cáo và chồn: Con vật thường chết do tê liệt và khó thở với các mức
Hình 2.4 Triệu chứng ngộ độc ở cáo
Hình 2.5. Triệu chứng ngộ độc ở bò
(Nguồn: www.cfsph.iastate.edu)
(Nguồn: www.cfsph.iastate.edu)
độ khác nhau.
2.4.3 Bệnh do độc tố của Clostridium botulinum ở loài gia cầm
Ký chủ tự nhiên và trong phòng thí nghiệm
Bệnh do C. botulinum type C xảy ra ở nhiều loài bao gồm gà, gà tây, vịt,
chim trĩ, đà điểu. Trong tự nhiên 117 loài thuộc 22 họ chim bị ảnh hưởng bởi
bệnh này (Giltner & Couch, 1930).
18
Các loài hữu nhũ bị tác động bởi độc tố type C bao gồm chồn, trâu bò,
heo, chó, ngựa và nhiều loài khác. Con người, chó và mèo thường được coi là
đề kháng với type C gây ngộ độc ở gia cầm. Cá cũng ảnh hưởng bởi type C
(Smith, 1987).
Trong phòng thí nghiệm, loài gậm nhấm cảm nhiễm mạnh mẽ với độc tố
type C, cho nên chuột là động vật hữu ích trong sự dò tìm sinh học để phát
hiện các type độc tố. Trong phòng thí nghiệm khi tiêm tĩnh mạch hay dưới da
cho chuột lang liều 0,5ml canh khuẩn, chuột chết sau 3–4 ngày với các triệu
chứng chảy nước dãi, khó thở, liệt chi sau.
Gà 2 – 8 tuần tuổi dễ bị bệnh hơn gà lớn, gà bị bệnh thường ở lứa tuổi
6,2 ± 1,7 tuần (Dohms, Allen & Rosenberger, 1982). Gà lớn hơn đôi khi
cũng xảy ra bệnh cho dù gà lớn được xác định là rất đề kháng với C1. Gà, gà
tây, chim trĩ, công cảm nhiễm với độc tố type A, B, C, D nhưng không cảm
nhiễm type F (Gross and Smith, 1971). Gà broiler ít cảm nhiễm với độc tố
type C1. Ngược lại, vịt và chim trĩ rất mẫn cảm với type C1. Gà mới nở với
liều LD50 qua đường uống là 103 LD50/kgP, gà 8 tuần là 106.3 LD50/kgP
(Dohms & Cloud, 1982).
Tiêm tĩnh mạch cho vịt và ngỗng với độc tố C2 thấy có bệnh tích ở tim -
phổi. Tuy nhiên vai trò của độc tố C2 trong các ổ dịch tự nhiên thì không rõ
ràng (Jensen & Duncan, 1980).
Lan truyền bệnh
Clostridium botulinum rất phổ biến trong đất bề mặt của cả trên cạn lẫn
môi trường nước. Tuy nhiên độc tố chỉ được chỉ sản sinh khi vi khuẩn có điều
kiện thuận lợi cho phát triển và nhân rộng. Theo Locke & Friend, 1989 thì một
ổ dịch do C. botulinum type C gây ra là do các chuỗi sự kiện sau:
Khi mức nước hạ thấp làm tăng nhiệt độ nên làm cho một số loài động
vật không xương sống là ký chủ của C. botulinum sẽ bị chết. Những xác chết
của động vật không xương sống sẽ là môi trường tốt cho sự phát triển của vi
khuẩn và các vi khuẩn sẽ sản sinh nhiều độc tố. Khi vịt ăn xác các động vật
không xương sống chết ở trong lớp bùn trầm tích sẽ bị nhiễm độc và chết.
19
Giòi sản sinh từ xác vịt chết sẽ là vật mang bệnh, khi các con vịt khác
hay chim hoang ăn phải những con giòi này sẽ mắc bệnh và làm cho dịch bệnh
bùng nổ.
Các Clostridium botulinum type E cũng phân lập được từ bùn đáy, trong
động vật không xương sống dưới nước. Cá nhiễm bệnh do ăn các loại vi khuẩn
một cách trực tiếp từ bùn đáy, hoặc do ăn động vật không xương sống. Khi
chết, xác cá sẽ là một môi trường tốt cho sự phát triển của vi khuẩn và sản sinh
độc tố. Chim và động vật có vú bị nhiễm độc do ăn cá chết. Theo cách truyền
O
F
lây này thì chim và động vật có vú chết sẽ đồng thời với cá.
Chu trình lan truyền Botulism ở gia cầm
Quá trình chết diễn ra nhanh chóng
Hình 2.6 Chu trình lan truyền botulism ở gia cầm
(Nguồn: Locke & Friend, 1989)
Chu trình này được giải thích như sau: Hầu hết các loài thủy cầm đều có
ăn ốc, ấu trùng côn trùng và các động vật không xương sống khác trong môi
trường nước và các loài này khi chết thì độc tố botulin type C phát triển
trong xác chúng rất nhiều, khi thủy cầm ăn phải xác chết của những loài này
20
sẽ nhiễm độc và chết. Khi vịt chết, giòi sẽ hình thành trên xác chết thối rữa,
chúng hấp thu một lượng lớn độc tố từ xác vịt thối rữa nhưng không bị ảnh
hưởng. Khi những vịt khác ăn phải giòi sẽ phát bệnh, từ đó vịt bệnh lan rộng
trong quần thể. Nếu các loài chim hoang, thủy cầm di cư ăn phải những con
giòi này chúng sẽ chết trong một địa bàn rộng lớn, xác chết thối rữa lại hình
thành giòi, chu trình tiếp tục và bệnh lan rộng trong phạm vi rất lớn.
Leighton (2000), cho rằng lượng độc tố chứa trong 5 con giòi đã đủ để làm
chết 1 con vịt.
Triệu chứng và bệnh tích
Thí nghiệm tiêm dưới da, tiêm tĩnh mạch hoặc cho uống độc tố type C
cho gà và vịt thấy triệu chứng lâm sàng giống với các ổ dịch trong tự nhiên. Số
bệnh và số chết có liên quan đến liều sử dụng.
Với mức độ độc tố cao, bệnh xuất hiện trong vài giờ, với mức độc tố thấp
bệnh có thể xuất hiện trong vòng 1–2 ngày.
Ở gà, gà tây, chim trĩ và vịt thì tương tự nhau. Ở gà triệu chứng liệt chân,
cánh, cổ và mí mắt là những dấu hiệu đặc trưng của bệnh. Đầu tiên có thể thấy
gà không đứng được, ít đi lại, nếu bị đuổi đi thì chúng có biểu hiện liệt chân,
cánh sã xuống. Mí mắt thường khép lại, tiếp theo là cơ cổ bị liệt, gà không
ngẩng đầu lên được nên ban đầu bệnh được đặt tên là “liệt cổ”. Những gà bị
bệnh có lông xơ xác, khi bắt lông dễ bị rụng. Gà thịt thể hiện triệu chứng tiêu
chảy, phân có nhiều chất tiết urates.
Ở vịt: triệu chứng đầu tiên là không có khả năng bay hoặc lặn, một số
con có biểu hiện tiêu chảy, chân liệt, vịt không thể bơi và dùng cánh để đẩy
mình trên mặt nước, mí mắt sụp xuống, cổ mềm không giữ được đầu làm mỏ
chìm xuống nước dẫn tới vịt ngộp thở và chết.
21
Hình 2.7 Liệt mí mắt ở vịt
Hình 2.8 Cổ vịt liệt
(Worbeser, 1997)
(Worbeser, 1997)
Số vịt bị bệnh và số chết có liên quan đến lượng độc tố được thu nhận.
Mức độc tố thấp làm số con bị bệnh và chết trong đàn thấp và việc này có thể
gây nhầm lẫn trong chẩn đoán bệnh. Trong những trường hợp nhiễm nặng số
bị chết đối với gà thịt lên đến 40%. Ở thủy cầm thì đây là một trong những
Hình 2.9 Vịt nhiễm độc tố botulin không nâng đầu được khỏi mặt nước
(Nguồn: Worbeser, 1997)
bệnh gây thiệt hại nặng nề cho dù số bị chết chưa được đánh giá cụ thể.
22
Bệnh tích
Bệnh tích đại thể và vi thể của bệnh ngộ độc do độc tố của vi khuẩn
C.botulinum type C gây ra ở thủy cầm chưa được nghiên cứu đầy đủ, thỉnh
thoảng những con giòi hoặc lông có thể tìm thấy trong phân thủy cầm
nhiễm bệnh. Do khi nhiễm độc vịt thường bị liệt cổ, chúi đầu xuống nước
nên bệnh tích thường có liên quan đến chết ngạt, có thể thấy phổi tích nước,
tim tụ huyết. Những bệnh tích khác không điển hình thường là của những
bệnh bội nhiễm.
Những gà và vịt phục hồi sau khi bị bệnh thì không có miễn dịch. Tuy
nhiên, những con chim kên kên ăn xác chết và gà tây có kháng thể chống lại
độc tố botulin. Điều này có thể giải thích một phần tại sao những con chim kên
kên thì đề kháng trong các thí nghiệm tiêm độc tố.
Phòng bệnh
Các thí nghiệm sử dụng vaccine giải độc tố để tiêm phòng cho một số
loài cầm như chim trĩ, gà, vịt đã đem lại hiệu quả nhất định. Tuy nhiên việc sử
dụng để phòng bệnh cho chăn nuôi thương mại thì rất tốn kém và không thực
tế mà chủ yếu là áp dụng phương pháp an toàn sinh học như:
Loại bỏ những nguồn chứa vi khuẩn hoặc độc tố tiềm tàng trong môi
trường. Xử lý xác gia cầm chết và phát hiện ra những gia cầm bệnh để xử lý là
vấn đề quan trọng trong phòng bệnh và kiểm soát dịch bệnh.
Việc xử lý chất thải và tiêu độc cần thực hiện. Có thể sử dụng các hoá
chất như calcium hypochlorite, iodophor, formalin để diệt bào tử trong môi
trường, tuy nhiên trong điều kiện chuồng nuôi dơ bẩn, nhiều chất hữu cơ thì sự
phá huỷ các bào tử này khó thực hiện. Cần chú ý là bào tử có thể tồn tại trong
đất bên ngoài chuồng nuôi và có thể lây nhiễm vào chuồng nuôi qua phương
tiện vận chuyển, ruồi, giòi, cho nên việc định kỳ tiêu độc, sát trùng cũng cần
thực hiện bên ngoài chuồng nuôi là rất cần thiết.
Trong thời gian xảy ra dịch cần cho ăn khẩu phần ít năng lượng sẽ làm
giảm số lượng gia cầm chết. Chú ý việc bổ sung sắt vào khẩu phần thức ăn,
nước uống làm gia tăng sự phát triển của nhiều vi khuẩn đường ruột trong
đó có Clostridium botulinum. Sự acid hóa nước uống bằng acid citric sẽ
23
làm pH đường ruột giảm, có tác dụng kích thích sự phát triển của hệ vi sinh
bình thường ở đường ruột tạo sự cạnh tranh ức chế Clostridium botulinum
phát triển.
Điều trị
Nhiều gia cầm bệnh nếu được cách ly, cung cấp nước và thức ăn sẽ dần
hồi phục. Nếu số lượng lớn thì cần dùng kháng sinh như bacitracin,
streptomycin hay chlortetracycline (Sato,1987) cũng làm giảm số chết. Tuy
nhiên sự thành công của những phương pháp này thì khó đưa thành một qui
trình cố định trong sản xuất vì sự tái nhiễm của bệnh thường xảy ra.
Phương pháp tiêm kháng độc tố đặc hiệu để trung hòa độc tố ngoài tế bào
chỉ có thể áp dụng cho các loài chim quí hiếm và hiệu quả rất nhanh trong
vòng 24 giờ.
2.4.4 Ảnh hưởng của độc tố botulin trên cá
Cá nhạy cảm với botulin type E chúng có thể bị ảnh hưởng đến trạng thái
cân bằng, một con cá bị nhiễm thường chúng bơi gần mặt nước và sẽ nổi với
cái đầu của nó hướng lên bề mặt và đuôi hạ xuống bên dưới. Cá nhiễm thường
chết rất nhanh và có thể nhìn thấy chúng trôi dạt vào bờ.
2.4.5 Ảnh hưởng của độc tố botulin trên chuột
Nghiên cứu của CDC (1998) cho thấy những con chuột với các dấu hiệu
điển hình của ngộ độc botulin bao gồm yếu cơ và suy hô hấp, những triệu
chứng này thường xuất hiện trong vòng một ngày nhưng có khi cũng có thể
vài ngày mới xuất hiện. Bên cạnh đó, với nghiên cứu về độc lực của botulin
trên chuột của Nguyễn Đức Hiền (2012) cho kết quả 15% gây ảnh hưởng tới
tim và 10% liên quan vấn đề ở phổi.
Theo Deprez (2006) các biểu hiện khác có thể xảy ra như khô miệng, tắc
ruột hoặc tiêu chảy, bí tiểu và thay đổi của nhịp tim. Ngoài ra nghiên cứu của
Johnson et al. (2010) cho thấy ngộ độc type C có thể xuất hiện các triệu chứng
rõ hơn như giãn đồng tử với mức độ nhiều hơn, dấy hiệu khó thở nặng hơn các
type khác.
24
2.5 Phương pháp xác định độc tố botulin của vi khuẩn Clostridium
botulinum
Chẩn đoán của botulism dựa trên triệu chứng lâm sàng thường không
chính xác, các bệnh tích đại thể và vi thể thường không đặc trưng. Vì thế, dựa
vào bệnh sử và các triệu chứng đôi khi có thể nhầm lẫn với nhiều bệnh khác.
Để chẩn đoán chính xác cần xác định được sự hiện diện của độc tố botulin
trong huyết thanh hoặc chất chứa lấy ra trong dạ dày, ruột của gia cầm bệnh.
Huyết thanh là mẫu chẩn đoán thích hợp hơn vì C. botulinum có thể được
tìm thấy ở ruột gia cầm khoẻ bình thường, do độc tố có thể là những chất sản
sinh từ mô cơ thể phân huỷ. Do vậy tìm thấy độc tố trong mô gia cầm chết
không xác định là gia cầm chết do botulism. Phương pháp thử nghiệm trên
chuột mẫn cảm thì đáng tin cậy để xác định độc tố chịu nhiệt trong huyết
thanh. Những nhóm chuột được tiêm huyết thanh nghi bệnh, sau đó từng
nhóm sẽ được tiêm kháng huyết thanh với những type gây bệnh đặc trưng.
Nếu độc tố hiện diện trong mẫu, những chuột không được tiêm kháng huyết
thanh sẽ xuất hiện dấu hiệu của bệnh trong vòng 48 giờ và chuột được tiêm
kháng huyết thanh đặc hiệu thì được bảo vệ.
Phương pháp ELISA cũng được dùng phát hiện kháng nguyên C.
botulinum type C nhưng không nhạy bằng phương pháp thử trên chuột (phát
hiện được 0,25ng/ml so với 0,12ng/ml khi dùng phương pháp tiêm chuột mẫn
cảm). Trong khi đó phương pháp PCR có kết quả tương đương với phương
pháp thử trên chuột cảm nhiễm (Franciosa et al., 1996).
Trong các ổ dịch trên thủy cầm và một số gia cầm, mức độc tố có thể quá
thấp không sinh được tiến trình bệnh ở chuột. Khi đó cần làm giàu mẫu bằng
cách cô đặc huyết thanh nghi ngờ và tiêm truyền lập lại ở chuột để khẳng định
kết quả.
Trong những giai đoạn tiến triển của bệnh, các triệu chứng lâm sàng rất
điển hình, trong thời gian nhiễm độc nhẹ chỉ có chứng liệt chân là có thể
quan sát được. Dạng bệnh thể nhẹ cần phân biệt với bệnh Marek, ngộ độc
thuốc và hoá chất hoặc những vấn đề về xương khớp. Trong những trường
hợp này thì chẩn đoán bằng phương pháp gây bệnh cho chuột mẫn cảm là rất
hữu hiệu. Chứng liệt mí mắt là một dấu hiệu điển hình dùng phân biệt bệnh
25
botulism với những bệnh khác. Botulism ở thủy cầm cần phân biệt với bệnh
tụ huyết trùng và nhiễm độc hoá chất. Ngộ độc chì của thủy cầm thường bị
nhầm với botulism.
Phân lập Clostridium botulinum đòi hỏi môi trường yếm khí. Vi khuẩn
phân bố rộng ở ruột, gan, lách của gia cầm bình thường. Tuy nhiên việc phát
hiện mầm bệnh trong mẫu thức ăn, môi trường có thể hữu ích trong nghiên
cứu về dịch tễ học. Mầm bệnh có thể được thể hiện trong mẫu ủ trong môi
trường nước thịt yếm khí ở 30oC. Sau 3–5 ngày ủ độc tố có thể được phát hiện
bằng phương pháp tiêm chuột cảm nhiễm kết hợp trung hoà với kháng độc tố
đặc trưng.
2.5.1 Phương pháp tiêm truyền cho chuột bạch (Mouse bioassay)
- Chọn chuột bạch đực có trọng lượng 20-30g
- Kháng độc tố: đơn dòng (type A, B, C, D, E và F)
- Tiêm vào xoang bụng của chuột bạch, có thể dùng huyết thanh hoặc
dịch chiết từ bệnh phẩm (dịch ruột hoặc mẫu từ môi trường xung quanh). Các
dịch bệnh phẩm chia làm 2 lô thí nghiệm: lô 1 tiêm bệnh phẩm có trộn với
kháng độc tố, lô 2 tiêm bệnh phẩm đã qua xử lý nhiệt (đun cách thủy trong 10
phút để loại bỏ độc tố) và kèm theo lô đối chứng dịch bệnh phẩm không qua
xử lý.
- Chỉ tiêu theo dõi:
+ Quan sát biểu hiện của chuột sau 4, 8, 12, 18 và 24 giờ, sau đó quan sát
mỗi ngày trong vòng 4 ngày. Nếu lượng độc tố nhiều các chuột được tiêm sẽ
bị chết, riêng nghiệm thức có xử lý nhiệt đối với dịch bệnh phẩm thì chuột còn
sống bình thường
+ Các dấu hiệu bất thường ở chuột như: xù lông, thở bụng, kém vận
động, liệt toàn thân, suy hô hấp rồi chết (CDC, 1998).
Mẫu là huyết thanh của vịt nghi bệnh
Lấy trực tiếp huyết thanh để tiêm truyền cho chuột, phương pháp xử lý
huyết thanh như sau:
26
- Dùng 6 ống nghiệm sạch đánh số từ 1 – 6, cho vào mỗi ống nghiệm 1ml
huyết thanh, tiếp tục cho vào mỗi ống 0.25ml kháng huyết thanh, riêng ống số
1 không cho kháng huyết thanh vào.
- Trộn đều (tránh làm nổi bọt khí) hỗn hợp huyết thanh và kháng
huyết thanh.
- Để yên hỗn hợp trên ở nhiệt độ phòng 30 – 60 phút.
- Đánh dấu chuột bằng cách cắt lông hoặc sơn màu trên lông để dễ
theo dõi.
- Tiêm vào chuột, sau đó theo dõi và quan sát chuột dựa theo các chỉ tiêu
nêu trên (CDC, 1998).
Mẫu là dịch ruột, phân hoặc vi khuẩn sau khi nuôi cấy
Chuẩn bị dịch chiết
- Cân và nghiền 1g mẫu với 1ml dung dịch gelatin đã làm lạnh (40C)
(dung dịch gelatin: 0.2% gelatin, 0.4% Na2PO4; pH 6.4). Trộn cho hỗn hợp
đều hoàn toàn.
- Trữ trong tủ mát (4oC) trong 30 phút hoặc trữ trong vài ngày.
- Ly tâm lạnh hỗn hợp trên với vận tốc 12.000 v/phút trong 20 phút, loại
bỏ cặn. Có thể ly tâm phần nước bên trên thêm 1 lần nữa để được dung dịch ly
trích dùng tiêm truyền cho chuột.
Tiêm truyền cho chuột
- Tiêm truyền giống như trên mẫu huyết thanh nhưng dịch chiết được xử
lý bằng nhiệt hoặc dùng trypsin
- Đối với mẫu xử lý bằng nhiệt (để làm bất hoạt độc tố): cho 1ml dịch
chiết vào ống nghiệm, đậy nắp lại rồi đun cách thủy ở 100oC trong 10 phút.
- Đối với mẫu xử lý bằng trypsin hoặc kháng độc tố: cho 1ml dịch chiết
vào ống nghiệm, thêm vào 0.25ml trypsin 0.5% (hoặc kháng độc tố), để ở
nhiệt độ phòng 30 – 60 phút rồi tiêm cho chuột.
27
Sau khi tiêm truyền, theo dõi và quan sát chuột dựa theo các chỉ tiêu
nêu trên.
Nuôi cấy vi khuẩn C. botulinum từ dịch chiết
Trước khi nuôi cấy vào môi trường, ta làm tiêu bản dịch chiết ở trên, tiến
hành nhuộm Gram để xem hình dạng vi khuẩn và nha bào (nếu có)
- Mỗi mẫu dịch chiết được cấy vào 2 ống môi trường CMM/CMGS, mỗi
ống cấy 0.5 – 1ml dịch chiết, khử không khí rồi ủ 1 ống ở 80oC trong 10 phút,
làm lạnh nhanh. Sau đó đặt cả 2 ống vào tủ ấm CO2 ở 30oC trong 4 ngày.
Sau khi ủ, ly tâm canh trùng từ môi trường CMM/CMGS, loại bỏ cặn rồi
xử lý nhiệt, xử lý trypsin như thí nghiệm bên trên và tiêm truyền cho chuột thí
nghiệm (CDC, 1998).
Mẫu là độc tố từ vi khuẩn Clostridium botulinum phân lập được
Chọn lấy khuẩn lạc của C. botulinum trên môi trường TSA hòa vào ống
môi trường TPGY broth. Ủ yếm khí canh khuẩn ở 37oC trong 24 giờ. Sau đó
lấy 1ml cấy vào các ống chứa môi trường MCMM và ủ tiếp ở 35oC trong 5
ngày trong điều kiện yếm khí.
Lấy 10ml huyễn dịch canh trùng sau khi ủ 5 ngày cho vào các ống
nghiệm, đem ly tâm ở 12.000 vòng/phút trong 15 phút ở nhiệt độ 4oC. Lấy
phần nước trong (phần trên của ống ly tâm) pha loãng với dung dịch đệm
Gelatin Phosphate Buffer, tỷ lệ 1:10.
Sau đó chia ra làm 2 phần, một phần đem đun 100oC trong 10 phút, một
phần không đun, sau đó đem tiêm cho chuột. Mỗi lô 2 con chuột được tiêm
vào màng bụng liều 0,5ml/con. Theo dõi diễn biến đối với chuột thí nghiệm
trong 48 giờ sau khi tiêm. Nếu mẫu xét nghiệm có độc tố của C. botulinum thì
2 chuột lô I sống và 2 chuột ở lô II chết trong vòng 48 giờ với triệu chứng của
ngộ độc botulin (Cook et al., 1998).
28
2.5.2 Xác định độc tố botulin bằng sinh học phân tử
Kỹ thuật sinh học phân tử tương ứng với từng loại mẫu được thể hiện ở
Bảng 2.5 Phương pháp xác định độc tố botulin bằng sinh học phân tử theo loại mẫu
Loại mẫu
Loại kỹ thuật
Loại độc tố
DNA từ môi trường tinh khiết PCR, Real time-PCR,
A, B, C, D, E, F
Multiplex PCR
DNA từ thực phẩm
PCR
A, B, E, F, G
DNA từ thực phẩm, môi
PCR
A, B, E
trường và bệnh phẩm
DNA từ phân
PCR, Real time-PCR
A, B, E
(Miia Lindstrom và Hannu Korkeala, 2006)
bảng sau:
Kỹ thuật PCR, Real time-PCR
Ly trích DNA bằng một số kit sau: Chelex®100 matrix, Phenol-
Cloroform-Isoamyl alcohol, NucliSENS® magnetic extraction, DNeasy®Blood
& Tissue.
Những kỹ thuật sinh học phân tử khác
Xác định đặc điểm về gen của Clostridium botulinum bằng kỹ thuật
PFGE (Pulsed-field gel electrophoresis), hoặc kỹ thuật AFLP (Amplified
fragment length polymorphism) (Dario et al., 2013)
2.5.3 Phương pháp nuôi cấy, phân lập vi khuẩn Clostridium botulinum
2.5.3.1 Phương pháp lấy mẫu
Hướng dẫn lấy mẫu để xác định bệnh do độc tố botulin được thể hiện qua
bảng sau:
29
Bảng 2.6 Bảng hướng dẫn lấy mẫu bệnh phẩm để xác định bệnh botulism
Kiểm tra độc
Loại bệnh
Điều kiện
Loại mẫu
Số lượng yêu cầu
tố (T) hoặc
do botulin
bảo quản
nuôi cấy (C)
Huyết thanh
Trữ lạnh
T
5-10ml
Dich nôn, ói
Trữ lạnh
T, C
20ml
Ngộ độc
thực phẩm
Phân
Trữ lạnh
T, C
10-50g
Thức ăn thừa
Trữ lạnh
T, C
50g
Phân
Trữ lạnh
T, C
≥ 0.2g
Ngộ độc ở
Dịch nôn, hoặc
≥ 5ml
Trữ lạnh
T, C
trẻ em
dịch thụt rửa
Huyết thanh
Trữ lạnh
T
≥ 2ml
Huyết thanh
Trữ lạnh
T
5-10ml
Ngộ độc ở
Phân
Trữ lạnh
T, C
10-50g
các vết
Dịch rỉ ra từ
Thấm bằng tampon và
Nhiệt độ
thương
T
vết thương
trữ bằng môi trường
phòng
chuyên chở
(Alaska State Public Health Laboratory, 2011)
Đối với mẫu vịt
Sau khi thu thập được những vịt có biểu hiện triệu chứng của bệnh thì
tiến hành lấy mẫu gồm: huyết thanh và toàn bộ đường tiêu hóa (chất chứa
trong thực quản- diều-mề, ruột, gan, lách). Cách tiến hành như sau:
Cắt cổ vịt để lấy máu chắt huyết thanh đồng thời làm chết vịt. Đặt vịt
nằm ngữa, dùng kéo cắt da vùng sát hậu môn, cắt cơ ở xoang bụng, sau đó cắt
lên hai bên sườn để mở xoang bụng và ngực. Kiểm tra tổng quát các cơ quan,
sau đó tiến hành lấy mẫu đường tiêu hóa. Dùng dây thun cột hai đầu đường
tiêu hóa: phía trên giáp với hầu, phía dưới giáp với lỗ huyệt. Dùng kéo cắt rời
đường tiêu hóa đã được cột, sát trùng bằng cồn 70o, sau đó cho vào môi trường
chuyên chở Thyoglycolate đã được hấp tiệt trùng và đuổi oxy, trữ lạnh và đem
về phòng thí nghiệm trong 24 giờ.
30
Đối với mẫu bùn đất và nước
Đất được lấy ở độ sâu 10-20 cm so với mặt đất đối với đất khô, đối với
đất bị ngập nước có bùn lắng bên trên thì lớp bùn trên mặt ruộng, rơm rạ mục,
cây thủy sinh chết và thối – mục cũng được thu thập. Mỗi mẫu có khối lượng
khoảng 25 – 30g, cho vào lọ thủy tinh đưa về phòng thí nghiệm. Đối với mẫu
nước thì dùng chai thủy tinh vô trùng lấy khoảng 50 – 100ml nước ở các vũng
nước đọng trên ruộng hoặc đường nước nhỏ trên ruộng, mang về phòng thí
nghiệm (Giovanna Franciosa et al., 1996)
2.5.3.2 Phương pháp nuôi cấy, phân lập vi khuẩn C. botulinum
Phương pháp nuôi cấy, phân lập vi khuẩn C. botulinum
Các mẫu sau khi đem về phòng thí nghiệm sẽ tiến hành nuôi cấy, phân lập:
- Đối với mẫu chất chứa trong ruột, dịch dạ dày, gan, lách: sát trùng mặt
ngoài các mẫu rồi dùng kéo vô trùng cắt sâu bên trong, dùng tampon vô trùng
lấy bên trong mẫu và cấy trên mặt thạch máu, sau đó đem ủ trong tủ ấm CO2 ở
37o trong 24 giờ, chọn khuẩn lạc điển hình nhuộm Gram để xem hình dạng,
cách bắt màu, dạng nha bào, độ thuần nhất của vi khuẩn. Sau đó, có thể kiểm
tra đặc tính sinh hóa của vi khuẩn bằng bộ API 20A.
- Đối với mẫu là đất, bùn, cây thủy sinh chết, rơm rạ mục, nước đọng: lấy
khoảng 1g hoặc1ml mẫu cho vào lọ môi trường Cooked Meat Medium
(CMM), tạo môi trường yếm khí, ủ trong tủ ấm CO2 ở 37o trong 24 giờ. Cấy
chuyển canh trùng sang thạch máu và qui trình giống như trên.
2.6 Những ứng dụng của độc tố botulin của vi khuẩn C. botulinum
2.6.1 Trong y học
Chữa chứng co giật mi mắt: Vào cuối những năm 1960, bác sĩ nhãn
khoa ở San Francisco là Alan Scott và Edward Schantz là những người đầu
tiên đưa độc tố botulin vào các mục đích điều trị. Năm 1973, Scott đã sử dụng
độc tố botulin type A (BTX-A) cho các thí nghiệm trên khỉ. Năm 1980, ông
chính thức sử dụng BTX-A lần đầu tiên ở người để điều trị bệnh co that mi
mắt (bleppharospasm), một tình trạng mà mắt không tự mở mắt được và
không kiểm soát được việc nháy mắt. Năm 1986, Scott và nhà phân phối của
BTX-A đã ngưng cung cấp thuốc vì không đảm bảo được an toàn trong thử
31
nghiệm. Mãi tới tháng 12/1989, Botox được sản xuất bởi Allergan, Inc… được
sự chấp thuận của Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) để điều
trị bệnh co thắt mi (bleppharospasm) cho những bệnh nhân trên 12 tuổi.
Chữa chứng tiết nhiều nước bọt: Trong các bệnh thần kinh như
Parkinson, bại não, thoái hóa thần kinh, đột quỵ, xơ cứng teo cơ một bên
(amyotrophic lateral sclerosis) thường có chứng tiết nhiều nước bọt, ảnh
hưởng không tốt đến hình ảnh, hoạt động giao tiếp của người bệnh. Lần lượt
có nhiều tác giả Friedman, Potuska, Jongerius (2001), Suskin, Tuilon đã sử
dụng BoTX-A và BoTX-B để chữa chứng này. Các nghiên cứu này tuy chưa
lớn, nhưng đều nhận thấy có hiệu quả, chưa ghi nhận tai biến, trừ trường hợp
trong bệnh xơ cứng teo cơ một bên. Tuy nhiên, trong bệnh xơ cứng teo cơ một
bên, nếu tiêm vào tuyến mang tai hay các tuyến dưới hàm cũng giảm thiểu
được được tai biến này.
Chữa chứng tiết mồ hôi khu trú nguyên phát: Nghiên cứu của
Naumann (2001 và 2002) cho biết: trong trường hợp đổ mồ hôi vừa và nặng,
dùng BoTX-A tiêm dưới da cho hiệu quả tới 94% trong khi ở nhóm đối chứng
chỉ đạt 36%. Trong thử nghiệm này, nhóm đối chứng cho tác dụng phụ nhiễm
khuẩn cao hơn nhóm tiêm BoTX-A. Các tác giả Dressler et al., (2003) sau đó
cũng lặp lại thử nghiệm này với BoTX-B cho kết quả tương đương, tuy nhiên
có gặp tác dụng phụ là làm khô miệng, gây khó khăn trong điều tiết mắt. Hiện
BoTX-A được chỉ định chính thức dùng cho chứng tiết mồ hôi lưu trú vừa và
nặng tại nhiều nước như Canada, Australia, Vương Quốc Anh.
Chữa chứng đau cơ xương: Foster (2001) đã thử nghiệm dùng BoTX-A
điều trị đau cơ xương thắt lưng mạn tính. Các kết quả cho thấy BoTX-A có
73% người dùng giảm được 50% các triệu chứng (tính theo thang điểm nhìn)
và có 67% giảm được sự tàn tật (đánh giá bằng bộ thang điểm câu hỏi đau thắc
lưng OLBPD), trong khi trên nhóm đối chứng các tỷ lệ tương ứng này chỉ là
25-19%. Lang (2003) cũng đề nghị dùng BoTX-A để cải thiện đau do làm
giảm trương lực, giảm hoạt động quá mức của cơ, coi như một liệu pháp giảm
đau đa phương thức, có lợi hơn trước đó là làm hồi phục chiều dài bình thường
và sự cân bằng sinh học của cơ.
32
2.6.2 Trong thẩm mỹ
Sự co các cơ đã làm cho trán có các vết nhăn gợn sóng, vết nhăn chân
chim ở khóe mắt. Trước cả khi ứng dụng vào y học, các thầy thuốc thẩm mỹ
đã táo bạo tiêm vào các cơ trên mặt, làm liệt có mức độ các cơ này, xóa vết
nhăn. Mãi đến tháng 4/2002, FDA (Mỹ) mới chính thức cho lưu hành, nhưng
ngay từ năm 2001 đã có 1,6 triệu người Mỹ tự nguyện dùng thử, doanh số bán
ra hàng năm lúc ấy là 301 triệu USD và đến năm 2006 thì vượt qua mức 1 tỷ
USD. Đối với việc dùng BoTX-A, nếu trong y học từng bước thăm dò, dè dặt
thì trong thẩm mỹ lại sớm được ưa chuộng và sử dụng phổ biến.
Năm 2002, FDA đã phê chuẩn việc sử dụng Botox (Botulinum toxin-A)
với mục đích thẩm mỹ bằng việc giảm đường nhăn giữa trán thông qua việc
làm liệt cơ mặt.
2.7 Tình hình nghiên cứu về vi khuẩn C. botulinum trong và ngoài nước
2.7.1 Tình hình nghiên cứu về vi khuẩn C. botulinum trên thế giới
Các nghiên cứu về C. botulinum trên vịt ở nước ngoài cũng không nhiều,
các công bố chủ yếu là ghi nhận các trường hợp ngộ độc do nhiễm độc tố của
C. botulinum ở thủy cầm hoang dã. Một số nghiên cứu tiêu biểu là:
Khảo sát của Leighton (2000), trên thủy cầm ở Canada cho thấy C.
botulinum type C là nguyên nhân gây ngộ độc ở vịt và các loài chim ăn cá tại
các vùng đất ngập nước. Ở những nơi có nhiều đồng cỏ và C. botulinum type
E thì ảnh hưởng đến loài chim ăn cá, đặc biệt là khu vực Great Lakes đã có 22
loài thủy cầm được xác nhận là ngộ độc bởi C. botulinum type E . Hàng năm
vào mùa hè và mùa thu có hàng ngàn thủy cầm hoang dã chết do nhiễm độc tố
C. botulinum type E tại khu vực này. Riêng năm 1998, có trên một triệu thủy
cầm hoang dã chết tại hồ Old Wives do ngộ độc C. botulinum type C.
Khảo sát về mối tương quan bệnh học giữa cá và thủy cầm ăn cá, Yule et
al., (2006) gây nhiễm cho cá bằng C. botulinum type E cho thấy những cá chết
(có độc tố hình thành trong quá trình thối rữa) hay còn sống (độc tố đang có
trong cơ thể do gây nhiễm) đều gây ngộ độc cho các loài thủy cầm ăn cá thí
nghiệm. Tác giả nhận định sẽ có nguy cơ đối với người khi tiêu thụ chim hoặc
33
cá tại thời điểm cá chết vì rất khó để phát hiện độc tố trong cá. Tuy nhiên nguy
cơ này thấp vì chất độc sẽ bị phá huỷ khi chế biến nấu chín trước khi ăn.
Để xác định thời điểm độc tố đạt cao nhất sau khi gây nhiễm, Notermans
et al. (1980) khảo sát đối với vịt Bắc Kinh cho thấy độc tố C. botulinum type
B, C và E có nồng độ cao nhất trong cơ thể vịt sau khi uống 40 phút và nếu xét
nghiệm sau 4 giờ chỉ còn một lượng nhỏ hoặc không tìm thấy độc tố trong
mẫu xét nghiệm. Khảo sát này cũng cho thấy vịt Bắc Kinh nhạy cảm với type
C qua đường uống liều 9,6 x 104 LD50 của chuột và ít nhạy với type B và E.
Khảo sát về khả năng gây chết khi ngộ độc Clostridium botulinum type C
trong tự nhiên, Locke & Friend (1989) cho thấy vẫn có 10 – 20% thủy cầm
còn sống trong các ổ dịch với các mức độ tê liệt khác nhau, và các tác giả nhận
định rằng nếu được điều trị thì khả năng hồi phục có thể từ 75 – 90%. Trong
khi đó Schettler (1979) nhận thấy trong ổ dịch nếu sử dụng khẩu phần có năng
lượng thấp cũng làm giảm tỷ lệ chết do ngộ độc.
Nghiên cứu qui trình điều trị khi thủy cầm nhiễm độc tố C. botulinum theo
Wobeser (1987) là cung cấp nước sạch, đưa vịt vào bóng râm và tiêm kháng
độc tố type C. Tuy nhiên do kháng độc tố được quản lý nghiêm và rất đắt tiền,
cho nên chỉ được áp dụng cho những loài thủy cầm có nguy cơ tiệt chủng.
Nghiên cứu về miễn dịch chủ động của Haagsma (1987) cho thấy những
thủy cầm ngộ độc sau khi được điều trị khỏi bệnh không có miễn dịch, do đó
chúng có thể tiếp tục ngộ độc và chết khi ăn phải chất độc lần sau. Do đó cần
tiêm vaccine để giảm tác động của độc tố và tăng tỷ lệ thành công khi điều trị.
Thử nghiệm khả năng hấp thu của độc chất khi gây bệnh qua đường hô
hấp, Dembak et al., (2007) đã chứng minh rằng ở động vật linh trưởng, bệnh
xảy ra từ 12 đến 80 giờ sau khi tiếp xúc và ở chuột thì nồng độ tối đa trong
máu của độc tố botulin đạt được lúc 2 giờ sau phơi nhiễm.
Nghiên cứu về khả năng độc tố botulin có thể “qua mùa đông” trong các
ấu trùng ruồi hay không, Hubálek & Halouka (1991) đã kiểm tra độc tố có
trong hai nhóm mẫu của ấu trùng ruồi. Kết quả cho thấy sau 131 ngày, nồng
độ độc tố giảm 25 lần và 40 lần, tuy nhiên lượng độc tố này vẫn còn cao và
vẫn có thể gây chết gia cầm khi ăn phải vào mùa xuân.
34
Nghiên cứu về khả năng sử dụng kháng sinh can thiệp trong các trường
hợp bệnh do C. boltulinum. Nantel (2002) cho rằng các kháng sinh
aminoglycoside làm tăng thêm sự ức chế thần kinh cơ gây ra bởi độc tố. Vì
vậy, khi nghi ngờ ngộ độc do độc tố C. botulinum thì tránh dùng các thuốc
chứa magiê mà phải dùng ngay kháng độc tố theo chỉ định.
Từ năm 1975 – 2003, khảo sát về các nguyên nhân gây chết thủy cầm
hoang dã tại Hoa Kỳ, Skerratt et al., (2005) cho thấy có 59% số mẫu có
Pasteurella multocida và Clostridium botulinum type E và tác giả cho rằng
đây là nguyên nhân chính gây chết thủy cầm trong những trận dịch lớn hoặc
những trường hợp dịch xảy ra đột xuất.
Tổng hợp tài liệu nghiên cứu của nhiều tác giả về các độc tố của
Clostridium botulinum Dennis et al.,(2003) cho biết: canh khuẩn type Cα sản
sinh 3 độc tố là C1, C2 và một lượng nhỏ type D. Độc tố C1 và D thì được sản
sinh bởi gene thực khuẩn thể. Các type C được sinh ra trong giai đoạn tiền
thực khuẩn thể và có thể được chuyển đổi thành thành type D bằng việc nhiễm
vào các thực khuẩn thể từ các loài type D như là một sự hỗ tương.
Các type Cβ thì thiếu thực khuẩn thể mã hoá cho độc tố C1 và D và chỉ
sản sinh độc tố C2. Các độc tố C1, D, A, B, E, F tổng hợp từ những polypeptid
ban đầu không độc sau đó nhờ sự gắn kết của protease tạo thành chuỗi độc tố
thần kinh có trọng lượng phân tử 150-kD. Khởi đầu của độc tố type C thì
không độc mà chỉ làm gia tăng sự đề kháng với acid và protease. Tuy nhiên ở
pH hơi kiềm của ruột non, một protease sẽ xúc tác kết hợp chuỗi nặng 100-kD
(Heavy chain H) và chuỗi nhẹ 50 kD (Light chain L) với nhau thành một chuỗi
đôi bằng liên kết disulfide.
Độc tố C2 mặc dù không có độc tính thần kinh nhưng những yêu cầu
kích hoạt trypsin đã gây ra tăng tính thấm đa dạng ở màng mô. Tác động của
độc tố chứa 2 protein phân biệt rõ ràng, một là thành phần liên kết và dịch mã
(C2II) và một là thành phần enzyme actin-ADP-ribosylating. Chuỗi acid
nucleic của độc tố C2 tương tự với chuỗi độc tố ribosylating từ các loài
Clostridium và Bacillus khác, ví dụ như Bacillus anthracis.
35
Độc tố của vi khuẩn không chỉ ảnh hưởng nguy hiểm đến sức khỏe của
con người mà còn nguy hại đến các loài động vật khác, đặc biệt là các loài
động vật quý hiếm.
Năm 1895, Emile Van Ermengem tìm ra bệnh ngộ độc thịt do vi khuẩn
C. botulinum. Một số loại vi khuẩn kị khí, có nha bào và rất khó bị tiêu diệt. Ở
Thuỵ Điển và các vùng biển lân cận, C. botulinum type E đã rất phổ biến, nó
có nguồn gốc trong đất và tồn tại nhiều trên lưu vực của Baltic. Do đó Baltic
là hồ chứa C. botulinum type E tồn tại và lây lan đến các vùng nước lân cận
(Johansen.A, 1963).
Nghiên cứu của Bunei và ctv (1977) đã phân lập và xác định botulin type
C bằng kỹ thuật gen tại Nhật Bản. Ông nhận thấy rằng khối lượng phân tử của
botulin type C khoảng 14000bp, trong đó chuỗi nặng có khối lượng khoảng
98000bp và chuỗi nhẹ có khối lượng 50000bp. Các loại độc tố khác có khối
lượng từ 14000 đến 16000bp. Đây là thông tin rất hữu ích cho những nghiên
cứu tiếp theo nhằm xác định các loại độc tố botulin bằng sinh học phân tử.
Tiếp theo, năm 1989 nhà khoa học người Nhật tên là Kasthuri và ctv đã
phân lập và xác định độc tố botulin trong đất. Kết quả cho thấy có 12% (3/26)
số mẫu đất có vi khuẩn Clostridium botulinum, trong đó có 1 mẫu chứa
botulin type C.
Ghi nhận ở Trung Quốc năm 1989 của Gao và ctv tại 15 tỉnh cho thấy
ngộ độc botulin xảy ra do các type khác nhau của vi khuẩn C. botulinum.
Trong 745 vụ ngộ độc bùng phát được ghi nhận, có đến 421 ca tử vong trong
số 2861 ca ngộ độc (chiếm tỷ lệ 14,7%). Nguyên nhân các vụ ngộ độc trên là
do tất các type của vi khuẩn C. botulinum (ngoại trừ type G).
Năm 1996, tại bờ biển Salton ở California, đã ghi nhận sự chết đi với số
lượng lớn của loài Bồ Nông Trắng của Mỹ và chiếm tỷ lệ 15-20% của quần thể
đa dạng loài ở Phương Tây. Đáng chú ý nhất trong vụ ngộ độc này là lần đầu
tiên cá, đặc biệt là cá Rô Phi (Oreochromis mossambicus) được xem như là
nguồn gốc của sự ngộ độc botulin type C ở các loài chim (Rocke và ctv 2005).
Năm 1996, Fransico và ctv đã so sánh kỹ thuật PCR và kỹ thuật tiêm
truyền cho chuột (mouse bioassay) để xác định botulin type C trong mẫu vịt
nước bị bệnh liệt mềm cổ chết và môi trường xung quanh nơi các vịt này sinh
36
sống. Kết quả cho thấy phương pháp PCR khá nhạy, nhanh chóng. Đây là kết
luận rất thiết thực cho nhưng nghiên cứu về sau về botulin.
Tiếp theo, Lindstrom và ctv (2001) đã dùng phương pháp Multiplex PCR
để xác định các độc tố botulin A, B, E và F trong thực phẩm và trong phân của
những bệnh nhân ngộ độc botulin ở Phần Lan. Kết quả cho thấy botulin type
A, E, F hơn type F.
Từ năm 2000 đến 2004, hơn 10.000 loài chim biển, chủ yếu là mòng
biển (Larus argentatus) đã chết không rõ nguyên nhân trong quần đảo
Blekinge ở Đông Nam Thụy Điển. Khi tiến hành nghiên cứu, người ta đã phát
hiện được độc tố botulin type C ở 11/16 (69%) mẫu huyết thanh của mòng
biển bị ngộ độc và đã được kiểm tra trên chuột (Neimanis và ctv, 2007).
Tại Hàn Quốc, 5 vụ ngộ độc ở thuỷ cầm đã xảy ra từ năm 2004-2008.
Trong tháng 10/2008, một đợt cúm đã xảy ra làm chết khảng 2000 thuỷ cầm.
Trong đợt dịch này, độc tố type C của vi khuẩn C. botulinum đã được phát
hiện trong huyết thanh vịt, dịch ruột vịt và dòi từ xác thuỷ cầm. Ngoài ra,
85% mẫu trầm tích trong khu vực dương tính với độc tố botulin (NariShin và
ctv, 2010).
Tại Thái Lan, Wangroongsarb và ctv năm 2010 đã khảo sát sự hiện của
các độc tố botulin trong 19 vụ ngộ độc thực phẩm bằng sinh học phân tử. Kết
quả cho thấy phần lớn các type botulin là A và B.
Năm 2011, ở Miền Bắc nước Ý đã bùng phát vụ ngộ độc ở các loài chim
hoang dã và các động vật khác tại bờ suối Crostolo (Ý). 20/28 mẫu dạ dày của
vịt trời chết có giòi (ấu trùng ruồi xanh) và được thu thập để nghiên cứu. Kết
quả cho thấy trong các mẫu kiểm tra có sự hiện diện của độc tố C. botulinum
type C, độc tố được xác định thử nghiệm trên chuột (Defilippo và ctv, 2013).
Fereshteh và ctv (2013) đã khảo sát sự hiện diện của độc tố botulin từ
1140 mẫu gồm huyết thanh, phân của bệnh nhân và thực phẩm (cá, phomat,
thịt) thu thập từ 21 huyện của Iran. Bằng phương pháp tiêm truyền cho chuột,
ông thu được kết quả 21.8% là botulin type A, 11% botulin type B, 34.3% là
botulin type E và 11% là botulin type AB, còn lại 21.8% chưa xác định được.
Kết quả cho thấy botulin type E ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của con người.
37
Những nghiên cứu về vi khuẩn C. botulinum trong môi trường
Ngộ độc botulin của vi khuẩn Clostridium botulinum đã diễn ra đều đặn
và nghiêm trọng ở nhiều nơi trên thế giới, nhiều nhà khoa học đã khẳng định
vi khuẩn Clostridium botulinum tồn tại nhiều trong môi trường sống như đất,
nước, xác nhuyễn thể, các động vật chết kể cả giòi. Vì thế, có nhiều nghiên
cứu về Clostridium botulinum trong môi trường.
Đầu tiên là nghiên cứu của Smith năm 1978 ở nhiều vùng đất của Vương
quốc Anh và Ireland. Đất từ các ao, hồ, đầm lầy, bãi bùn, suối, sông ngòi,
kênh rạch và mẫu tại nơi cư trú và khu bảo tồn của các loài chim đã được lấy
để khảo sát. Kết quả thu được tỷ lệ vi khuẩn C. botulinum hiện diện trong các
mẫu đất là 35,0% (194/554), trong đó cao nhất là type B (30,1%), tiếp theo là
type C (3,4%), type E (2,7%) và thấp nhất là type D (1.1%). Với tỷ lệ nhiễm
ghép hơn một type là 2,3% (Smith và ctv, 1978).
Tại Đan Mạch, qua kiểm tra 684 mẫu đất. C. botulinum type E được tìm
thấy trong 90% các mẫu từ môi trường nước của Đan Mạch, bao gồm bùn từ
hồ nhân tạo trẻ, và trong 86% các mẫu từ môi trường biển Greenland. Đất
canh tác và đất rừng, đất trồng từ đáy biển khai hoang không phát hiện C.
botulinum type E nhưng type B đã được chứng minh xuất hiện thường xuyên
trong môi trường này. C. botulinum type A, B, hoặc E được tìm thấy trong
2,6% các mẫu từ các môi trường ở quần đảo Faroe và Iceland, trong khi các
type C hay type D có trong 42% các mẫu từ Bangladesh. C. botulinum type E
trong trầm tích thủy sản cá hoặc động vật thuỷ sinh chiếm tỉ lệ cao. Dựa trên
những phát hiện này, C. botulinum type E được đề nghị xem như là một sinh
vật thủy sinh thật, bởi vì môi trường này cung cấp những điều kiện tốt nhất
cho sự sống còn của các bào tử trong tự nhiên (Hush, 1980).
Đất từ 98 địa điểm trong toàn bộ hệ thống sông của Nhật Bản đã được
kiểm tra sự hiện diện của vi khuẩn Clostridium botulinum. Botulin type E
chiếm tỉ lệ cao trong những mẫu đã được phân lập 33 – 82%, type B 7% và
type C 9%.
Năm 1986, sau khi phân lập được chủng vi khuẩn C. botulinum tiết ra
độc tố botulin ở hai em bé tại Rome bị ngộ độc, các nghiên cứu được thực
hiện để tìm nguồn có độc tố. Kết quả cho thấy vi khuẩn C. botulinum type A
38
và type B phân lập từ đất lấy ở các vùng lân cận của Rome chiếm tỉ lệ 1,3%
(7/520) (Aureli et al., 1986).
Năm 1987, ở Saskatchewan miền tây Canada, độc tố gây chết chuột được
xác định là của C. botulinum type C, các nhà khoa học phân lập và phát hiện
C. botulinum type C có trong 38,0% của 326 mẫu đất thu thập từ 28 vùng đất
ngập nước ở Saskatchewan. Trong đó C. botulinum type C có trong 59,2%
mẫu lấy từ những nơi có tiền sử bệnh ngộ độc và 6,2% của số mẫu lấy từ
những đầm lầy không có tiền sử ngộ độc. Từ đó cho thấy ở bất kì vùng đất
ngập nước nào đã có tiền sử bệnh ngộ độc, tỉ lệ ngộ độc sẽ xuất hiện lại rất cao
do sự tồn tại bào tử của vi khuẩn (Wobeser, et al., 1987).
Mặc dù cũng có trường hợp nó được tìm thấy ở đường tiêu hoá của loài
chim và động vật có vú, nhưng C. botulinum bản chất là một vi khuẩn hoại
sinh sống trong đất. C. botulinum phân bố khắp nơi trong đất, đặc biệt những
nơi như đất vườn, nghĩa trang, nơi chăn nuôi gia súc, gia cầm. Trong các loại
rau quả, kể cả mật ong. Chúng cũng có trong ruột của các động vật nuôi trong
nhà, trong ruột cá, đôi khi có cả trong ruột người, ở nơi nước bị ô nhiễm. Do
vi khuẩn phổ biến trong tự nhiên nên thực phẩm dễ bị nhiễm trong quá trình
sản xuất, chế biến, vận chuyển và bảo quản. Đặc biệt chúng có khả năng lây
nhiễm và phát triển mạnh trong các loại thực phẩm như thịt cá ướp muối, ướp
lạnh, hun khói, đồ hộp, xúc xích, lạp xưởng, pho mát bị đóng kín hoặc có độ
dày lớn,…vì các loại thực phẩm này là môi trường thuận lợi về các điều kiện
kỵ khí, nhiệt độ, độ pH, đầy đủ chất dinh dưỡng cần thiết cho chúng sinh
trưởng và phát triển (Wobeser, et al., 1987).
Bùn cũng là nơi phân bố của vi khuẩn C. botulinum. Bùn cung cấp độ
ẩm, kỵ khí, môi trường giàu chất dinh dưỡng do đó C. botulinum có thể phát
triển, vì vậy việc phân lập các C. botulinum từ nguồn này là nhiều hơn các loại
đất. Độc tố type E ưa lạnh đã được đặc biệt liên quan đến môi trường trong
khu vực như miền tây Bắc Mỹ, Nhật Bản và bờ biển Baltic. Kết quả là, type E
thường là nguyên nhân về sự bùng phát của bệnh ngộ độc mà cá là phương
tiện lây nhiễm chủ yếu (Wobeser, et al., 1987).
Tại châu Á: Phổ biến bởi C. botulinum type A tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc.
C. botulinum type A và B ở tỉnh Saraburi và Maehongson, type F ở tỉnh
39
Lampang, Thái Lan. C. botulinum type E thì ở Nhật Bản. C. botulinum type C
cũng được tìm thấy trong xác thuỷ cầm và chim hoang dã ở Incheon, Hàn
Quốc. Trong khi các type C hay D đã được chứng minh trong 42% các mẫu
đất từ Bangladesh (Gye-Hyeong Woo et al., 2010).
Tại Úc: C. botulinum type A được tìm thấy có mặt trong mẫu đất khu
vực Victoria, ngoại ô Sydney, type B trong bùn biển Tasmania, cả 2 type A
và B được phân lập từ khu vực đô thị (Eales and Gillespie, 1947; Ohye and
Scott, 1957).
Tại châu Âu: Sự phân bố của vi khuẩn C. botulinum trong môi trường tự
nhiên của Đan Mạch, Quần đảo Faroe, Iceland và Greenland. Type E được tìm
thấy trong 90% các mẫu từ môi trường nước của Đan Mạch, bao gồm bùn từ
hồ nhân tạo và trong 86% các mẫu từ môi trường biển Greenland. Type B đã
được tìm thấy trong đất canh tác và rừng ở Đan Mạch, bao gồm đất trồng từ
đáy biển khai hoang. C. botulinum type A, B, type E được tìm thấy trong 2,6%
các mẫu từ các môi trường của quần đảo Faroe và Iceland. Type E cũng được
tìm thấy trong các trầm tích thuỷ sản ở Na Uy, Thuỵ Điển, Hà Lan, Ba Lan
(Huss, 1980).
Bắc Mỹ: Khảo sát tiến hành tại Hoa Kỳ tìm thấy độc tố type A là phổ biến
nhất ở phía Tây, hiếm có ở thung lũng Mississippi, rất ít ở vùng dọc theo ven
biển phía Đông, nơi độc tố type B chiếm ưu thế. Phân phối này đã được phản
ánh trong các dịch bệnh ngộ độc tại Hoa Kỳ trong giai đoạn 1950 – 1979, khi
85% những người ở phía tây sông Mississippi bị ngộ độc do loại độc type A và
63% những người phía đông bị ngộ độc do type B (Hauschild, 1989).
Sự phân bố của vi khuẩn C. botulinum type E được xác định trong trầm
tích dọc theo bờ biển của Nunavik, eo biển Hudson, vịnh Hudson, và khu vực
vịnh Ungava, Bắc Quebec, Canada. Sông Koksoak chứa hàm lượng cao của C.
botulinum type E. C. botulinum type E được tìm thấy trong ruột (4,4%) và da
(1,4%) của hải cẩu (Daniel Leclaira và ctv, 2012).
Nam Mỹ: Sự hiện diện của Clostridia tiết độc tố botulinum trong 2.009
mẫu đất từ năm khu vực địa lý của Argentina. Các tỷ lệ là 23,5%, và sự phân
bố không đồng đều giữa các vùng (Carolina Lúquez và ctv, 2004).
40
Và gần đây nhất là một công trình nghiên cứu của Espelund và Klaveness
(2014) về vai trò của C. botulinum trong hệ sinh thái nước ngọt đã tạo ra một
“Vòng sinh thái” khép kín. Trong đó, mỗi yếu tố, mỗi vai trò đều đã được
Yếu tố truyền lây
Làm mồi cho
Động vật không
xương sống
Các loài chim
Thực vật
Vật chủ chết
Cá
Tảo
Bào tử
Đất
Bụi
Trầm tích
Môi trường
Vùng đất ngập
nước
Nước
Hình 2.10 Vai trò của C. botulinum trong một hệ sinh thái nước ngọt
(Nguồn: Espelund và Klaveness, 2014)
nghiên cứu và trình bài trong nhiều báo cáo khoa học.
2.7.2 Tình hình ngộ độc do độc tố của vi khuẩn C. botulinum trên
thế giới
Theo số liệu của CDC Hoa Kỳ, hàng năm trên thế giới có tới trên 76
triệu người bị ngộ độc thực phẩm và hàng nghìn ca do độc tố của vi khuẩn
Clostridium botulinum gây ra, nhiều ca nặng có thể dẫn đến tử vong. Từ khi
được biết đến thì bệnh đã gây ra nhiều trận dịch, trong đó một số trận dịch
bùng phát nổi bật đã được ghi nhận trên thế giới.
Theo Dolman (1974), kể từ năm 1919 ở Canada có 62 vụ ngộ độc được
xác định là do ngộ độc botulin đã làm 83 người tử vong trong số 181 người bị
ngộ độc (chiếm 46%). Trong số này, 41 vụ xác định là do vi khuẩn
Clostridium botulinum (type A là 6 vụ, type B là 4 vụ, 1 vụ gồm cả hai type A
và B, và 30 vụ do type E) gây ra. Người Eskimo chiếm khoảng hai phần ba số
người trong các vụ dịch và tử vong và những người sống ven bờ biển Thái
41
Bình Dương do tiêu thụ các sản phẩm động vật có vú ở biển và trứng cá hồi.
Tháng 1 năm 1961 có 38 vụ dịch làm 33 người chết trong số 94 người bị ngộ
độc. Mười tám vụ ngộ độc xảy ra ở người Eskimo sống ở Labrador, đảo phía
Nam Baffin, bắc Quebec, và các khu vực Mackenzie. Ngoài ra, bờ biển Thái
Bình Dương đã xảy ra 15 vụ ngộ độc do người dân ăn phải trứng cá hồi thối.
Các vụ ngộ độc liên tục xảy ra ở xung quanh khu vực bờ biển Thái bình
Dường. Theo ghi nhận của Hauschild và ctv (1985) thì ở Canada từ năm 1971
đến năm 1984 đã xuất hiện 122 vụ ngộ độc trong đó có 61 vụ ngộ độc do
botulin, làm 21 người chết. Hầu hết xảy ra ở miền bắc Quebec, phía Tây bắc
Territories hoặc British Columbia. Trong số 122 nạn nhân có 113 là người dân
bản địa, chủ yếu là người Eskimo. Nguyên nhân là do người dân ở đây đã ăn
các sản phẩm lên men từ gạo hay thịt các động vật, trứng cá hồi lên men hoặc
các loại cá khác. Các type Clostridium botulinum chủ yếu trong các vụ dịch là
type E (nhiều nhất), type B và type A.
Trong thời gian 1985 – 2005, có tổng cộng 91 phòng thí nghiệm đã tiếp
nhận và xác nhận có sự bùng phát của bệnh ngộ độc botulism xảy ra ở Canada.
Trong tổng số 205 trường hợp ngộ độc thì 11 trường hợp tử vong. Nguyên
nhân chủ yếu là do vi khuẩn Clostridium botulinum type E, type A và type B
gây ra. Khoảng 85% các ổ dịch xảy ra trong cộng đồng bản xứ Alaska, đặc
biệt là người Inuit của Nunavik ở miền bắc Quebec và là những cư dân đầu
tiên của British Columbia (thuộc Canada) của bờ biển Thái Bình Dương. Các
trường hợp bị ngộ độc chủ yếu là tiếp xúc với độc tố botulinum type E thông
qua việc tiêu thụ các động vật có vú và sản phẩm cá biển được chế biến theo
truyền thống. Hai ổ dịch ngộ độc là do thực phẩm chế biến sẵn để ăn từ các
sản phẩm thịt để phục vụ trong các nhà hàng (Leclair và ctv, 2013).
Vào tháng tư năm 1991, 91 bệnh nhân nhập viện ở Cairo (Ai Cập).
Bệnh nhân nhập viện có triệu chứng giống như bệnh ngộ độc botulin, kết quả
đã làm 18 người chết (20%). Những bệnh nhân này đã ăn mắm cá đối
(faseikh), đa số các trường hợp là do các gia đình này đã mua mắm từ một
cửa hàng. Khi kiểm tra đã phát hiện hàm lượng độc tố của Clostridium
botulinum type E rất cao trong mắm. Ngoài ra, người ta cũng đã phân lập vi
khuẩn Clostridium botulinum type E những bệnh nhân. Đây là ổ dịch đầu tiên
42
của bệnh ngộ độc botulin được ghi nhận ở Ai Cập và là dịch do type E lớn
nhất từng được báo cáo.
Giữa năm 1943, ngộ độc vết thương lần đầu tiên được công nhận và báo
cáo tại Hoa Kỳ. Năm 1990, 47 phòng thí nghiệm đã tiếp nhận các trường hợp
tổn thương liên quan đến vết thương. Tại Cộng hòa Georgia, theo các ghi chép
tóm tắt của bệnh nhân bị ngộ độc botulism từ năm 1980 đến năm 2002 thì có
879 trường hợp bị ngộ độc đã được phát hiện. Tám mươi phần trăm các trường
hợp các bệnh nhân ăn phải rau được bảo quản tại nhà, các trường hợp còn lại
là do ăn xúc xích và thịt lợn xông khói. Georgia được báo cáo là có ngộ độc
thực phẩm cao nhất trên thế giới. Ở Vương quốc Anh, sáu mươi hai trường
hợp ngộ độc đã xảy ra từ năm 1922 đến năm 2005. (McLauchlin và ctv, 2006).
Ở Thái Lan, vụ ngộ độc lớn nhất từ trước đến nay xảy ra miền bắc nước
này vào ngày 14 tháng ba năm 2006 làm 209 người ngộ độc sau ăn măng tây.
Các triệu chứng lâm sàng điển hình là đau bụng, buồn nôn và nôn mửa, tiêu
chảy, nuốt khó hoặc loạn vận ngôn, song thị, suy nhược tổng quát, bí tiểu và
suy hô hấp (Kongsaengdao và ctv, 2006).
Gao và ctv, 1990 ghi nhận ở Trung Quốc vào những năm 1989 cho thấy
đã xuất hiện ngộ độc do các type khác nhau của vi khuẩn C. botulinum. Trong
745 vụ ngộ độc bùng phát được ghi nhận, có đến 421 ca tử vong trong số
2.861 ca ngộ độc (chiếm tỷ lệ 14,7%). Nguyên nhân các vụ ngộ độc trên là do
tất các type của vi khuẩn C. botulinum (ngoại trừ type G). Các đặc điểm dịch
tễ chính và sự phân bố của các type ở Miền Bắc và Nam Trung Quốc.
2.7.3 Tình hình nghiên cứu về vi khuẩn C. botulinum ở Việt Nam
Theo thống kê của tổ chức y tế thế giới, mỗi năm Việt Nam có khoảng 8
triệu người (chiếm gần 1/10 tổng dân số) bị ngộ độc thực phẩm hoặc ngộ độc
có liên quan đến thực phẩm. Ngộ độc thực phẩm do nhiều nguyên nhân gây ra,
trong đó do vi sinh vật gây ra trên 50% các vụ ngộ độc thực phẩm. Còn về ngộ
độc do nhiễm độc tố của vi khuẩn Clostridium botulinum thì chưa có số liệu
thống kê cụ thể (Trần Linh Thước, 2010).
Nghiên cứu về botulin hiện có rất ít tại Việt Nam. Điển hình có nghiên
cứu về vi khuẩn vi khuẩn C. botulinum.
43
Đầu tiên là nghiên cứu của Nguyễn Đức Hiền (2012) trên mẫu ruột vịt và
bùn tại nơi chăn nuôi có vịt bệnh liệt mềm cổ. Tỷ lệ mẫu nhiễm vi khuẩn C.
botulinum: trên ruột vịt là 14,77% (52/252) và bùn là 25,71% (27/105). Khi
khảo sát tính nhạy cảm của vi khuẩn đối với kháng sinh thì cho kết quả: 100%
vi khuẩn nhạy cảm với ceftiofur, fosformycin và cephalexin và tất cả đều đề
kháng với ampicillin.
Tiếp theo là nghiên cứu của Nguyễn Đức Hiền và Phạm Mạnh Hùng
(2012) về độc tố từ vi khuẩn C. botulinum phân lập được từ mẫu ruột vịt và
bùn, được tiến hành trên vịt và chuột thí nghiệm tại thành phố Cần Thơ. Ghi
nhận kết quả: Với liều 1ml dịch nổi ly tâm canh khuẩn pha loãng 1/10 gây
chết 100% chuột thí nghiệm sau khi tiêm vào xoang bụng, trong khi tất cả
chuột được tiêm bởi dịch này sau xử lý nhiệt vẫn bình thường. Khi tiêm dịch
nổi qua đường tĩnh mạch với liều 5ml/vịt gây chết 70% (7/10) và 10ml/vịt gây
chết 100% (10/10) vịt thí nghiệm. cùng với đó là triệu chứng lâm sàng chủ yếu
được ghi nhận: vịt ủ rũ, kém vận động (100%), liệt chân, cổ và mí mắt (80%).
Vịt chết không có bệnh tích đặc trưng, ở một số vịt chết có bệnh tích xuất
huyết tim (15%) và phổi (10%).
2.8 Một số đặc điểm sinh học của vịt đẻ
2.8.1 Nguồn gốc, đặc điểm của vịt
Vịt là tên gọi phổ thông cho một số loài thuộc họ vịt (Anatidae), bộ
ngỗng (Anseriformes). Các loài này được chia thành một số phân họ trong
toàn bộ các phân họ thuộc họ Anatidae (Phùng Đức Tiến, 2013). Vịt là loài
chim nước, thuộc loại thủy cầm có nguồn gốc từ vịt trời (Anas platyrhynchos),
sống được ở cả vùng nước ngọt lẫn nước mặn, có kích thước nhỏ hơn so với
những loài khác trong họ là ngan, ngỗng và thiên nga.
Vịt cỏ là một trong những giống vịt nuôi lâu đời nhất và phổ biến nhất ở
nước ta. Vịt cỏ có nguồn gốc từ vịt trời được thuần hoá tự nhiên. Nuôi vịt cỏ
để lấy trứng và kết hợp lấy thịt theo thời vụ (vịt chạy đồng). Vịt cỏ có nhiều
màu lông khác nhau, con mái có màu lông chủ yếu là cánh sẻ, ngoài ra còn có
màu xám, lông trắng đen, trắng tuyền. Con trống lông ở cổ có màu xanh đen,
màu vàng xanh. Vịt cỏ tầm vóc nhỏ bé, bắt đầu đẻ trứng sau 140 ngày tuổi, vịt
trống nặng 1,5 – 1,7kg, vịt mái nặng 1,4 – 1,5kg. Sản lượng trứng 200 – 225
44
quả/mái/năm. Trứng nhỏ, khối lượng 64-65 gr/quả.Trứng có tỷ lệ phôi cao
(Phùng Đức Tiến, 2013).
2.8.2 Đặc điểm tiêu hóa, hấp thu thức ăn của vịt
Bộ máy tiêu hóa của vịt có những cấu tạo đặc trưng phù hợp với chức
năng lấy thức ăn, tiêu hóa thức ăn thô và cứng. Thức ăn cần thiết cho những
hoạt động sống, sinh trưởng, sinh sản được tiêu hóa và hấp thụ qua bộ máy
tiêu hóa gồm: miệng, diều, dạ dày tuyến, dạ dày cơ, ruột non, ruột già, tuyến
tụy, túi mật và ống mật (Bùi Xuân Mến, 2014).
Miệng: Vịt không có răng nên dùng mỏ để lấy thức ăn. Mỏ vịt dẹt và dài,
bên trong có các mẫu nhỏ để lọc và giữ thức ăn. Mỏ cấu tạo bởi lớp sừng,
trong có nhiều sợi thần kinh bao bọc. Dây thần kinh còn ở trên vòm miệng
cứng và dưới lớp sừng biểu bì của lưỡi.
Lưỡi vịt ở đáy khoang miệng, toàn bộ mặt dưới được phủ bởi một lớp
biểu mô hình vảy, xếp thành lớp hướng vào trong cổ họng để làm chức năng
chuyển thức ăn xuống thực quản. Vịt dùng mỏ để lấy thức ăn và nuốt nhờ lưỡi
chuyển động nhanh, thức ăn xuống lưỡi được đẩy nhanh xuống thực quản. Vịt
có đặc điểm vừa ăn, vừa uống nước để làm ướt và trơn thức ăn giúp cho quá
trình nuốt được dễ dàng. Mặt trong thực quản phủ lớp cơ dày, gấp nếp, trong
đó có các tuyến tiết chất nhầy để bôi trơn thức ăn.
Diều: Là bộ phận phình to của phần cuối thực quản. Diều ở vị trí tiếp
giáp giữa ngực và cổ, nằm phía ngoài xoang ngực. Diều được gắn với lớp da
cổ và ngực, có tính đàn hồi lớn giúp cho thức ăn giữ lại đó dễ dàng. Thức ăn
được giữ lại diều không lâu, tùy thuộc vào loại thức ăn. Diều không có tuyến
tiết dịch nhầy.
Sự co bóp của diều thực hiện ngay sau khi thức ăn xuống diều. Độ pH
của diều khoảng 4,5-6,0. Nhịp và đợt co bóp của diều phụ thuộc vào lượng
thức ăn trong diều. Điều hòa sự co bóp của diều do dây thần kinh phế vị và
thần kinh phó giao cảm.
Dạ dày tuyến: Dạ dày tuyến nằm ở giữa diều và dạ dày cơ, dạ dày tuyến
tiết ra dịch và men tiêu hóa sơ bộ. Cơ vòng của dạ dày tuyến phát triển mạnh và
chắc. Thức ăn không được giữ lâu ở dạ dày tuyến mà được thấm dịch chứa men
45
pepsin rồi chuyển xuốn dạ dày cơ. Các dây thần kinh phế vị, dây thần kinh giao
cảm và hệ thần kinh trung ương điều khiển sự chế tiết dịch ở dạ dày tuyến.
Dạ dày cơ: Tập trung một số lượng lớn của cơ, phía trong phủ một lớp
màng nhày rất dày, có tác dụng chống lại sự ăn mòn của dịch tiêu hóa và khi
dạ dày co bóp nghiền nhỏ thức ăn thì sỏi, sạn không làm tổn thương dạ dày cơ.
Màng nhầy dạ dày cơ có cấu tạo gồm 2 lớp tế bào biểu bì phủ lớp màng và
một lớp nhầy với mô liên kết chặc phía dưới gồm nhiều tuyến hình ống tiết ra
dịch nhầy thấm ướt thức ăn trong khi co bóp nghiền nhỏ thức ăn. Hệ thần kinh
thực vật chi phối hoạt động của dạ dày cơ.
Ruột non: Đoạn trên của ruột non liền với dạ dày cơ. Bên trong của
khoang ruột non là tuyến dịch tiêu hóa và lớp nhung mao nằm khắp bề mặt
trong của ruột non. Thành ruột được cấu tạo bởi 2 lớp cơ: cơ vòng và cơ dọc.
Có hai dạng nhu động ruột - nhu động thuận và nhu động ngược nhờ hệ cơ
vòng và cơ dọc. Có ba tác dụng chủ yếu là: đảo trộn, tiêu hóa và hấp thu thức
ăn.Điều hòa hoạt động của ruột là hệ thần kinh đám rối mặt trời, dây thần kinh
phế vị và hormones tuyến thượng thận.
Ruột già: Ruột già bao gồm manh tràng và trực tràng. Manh tràng là 2
ống tận cùng tịt – chúng bắt đầu từ điểm gặp nhau giữa ruột non và ruột già,
phần tiếp theo là trực tràng và cuối cùng ra lổ huyệt.
Tuyến tụy: Ba thùy của tuyến tụy nằm giũa đoạn cong của tá tràng, ống
tụy đổ vào đoạn cuối của tá tràng có chức năng phân giải lipit thành glycerin
và axit béo.
Túi mật và ống mật: Ống dẫn mật bắt đầu từ thành phải của gan mang túi
mật. Ống dẫn của gan lưu dịch mật từ thành trái tới ống dãn mật. Ống dẫn mật
đi dọc theo tá tràng cùngống dẫn tụy. Dịch mật được đẩy vào tá tràng do sự co
bóp của túi mật.
Do bộ máy tiêu hóa của vịt nói riêng và gia cầm nói chung là khác với
các loài động vật khác nên khả năng tiêu hóa của vịt rất tốt. Vịt là loại động
vật có sức chống chịu đặc biệt với bệnh tật, đồng thời cũng là cái máy sử dụng
côn trùng, ốc, cua... có hiệu quả nhất. Vịt có thể tìm kiếm thức ăn trên cạn,
dưới nước rất tốt, chuyển hóa những loại côn trùng và vi sinh vật thành những
chất dinh dưỡng phục vụ cho sự phát triển và sản xuất.
46
2.8.3 Nuôi vịt đẻ
Trong tháng đầu khi vịt đang đẻ, cần theo dõi và loại thải những vịt
không đẻ bằng cách chỉ chọn những mái có đầu hơi nhỏ, mỏ dài rộng, cổ dài,
lông mướt, thân dài và bụng hơi sệ. Mắt sáng, tiếng kêu to và thanh. Khi chăn
thả vịt đẻ, cần chọn những khu đồng có nhiều thức ăn, đặc biệt có nhiều mồi,
có nước sạch để vịt tắm rửa và phối giống (nếu lấy trứng ấp). Đến chiều lùa
vịt về cho ăn gần chuồng và cho vịt tắm rỉa lông, nhưng đến sụp tối mới cho
vô chuồng. Chuồng vịt đẻ cần làm ở những nơi khô ráo có sân mở ra ao nước
sạch và lối lên xuống dễ dàng. Trong chuồng bố trí đèn thắp đủ sáng vào đầu
buổi tối. Có máng nước sạch cho vịt uống ban đêm, bố trí các ổ đẻ bên trong
lót chất độn khô sạch để vịt đẻ trứng không bị dơ. Cuối kỳ đẻ vịt thường hay
đẻ trễ vì thế không nên chăn thả vịt quá sớm sẽ làm vịt đẻ ở ngoài, mất trứng.
Trong thời gian vịt đẻ cần chăm sóc cẩn thận, hết sức tránh các stress chăn thả
ở những nơi thiếu thức ăn hoặc trong những khu vực có tình trạng ô nhiễm.
Vịt nuôi chăn thả ở Đồng bằng sông Cửu Long có thể cho đẻ liên tục hoặc
theo đợt đẻ trong năm. Do vậy, người nuôi vịt có thể cho vịt thay lông, hoặc cho
đẻ vào thời gian nào có lợi. Một số phương pháp thay lông vịt gồm có thay lông
chuyền bằng cách để cho vịt tự thay lông mà không cần tác động gì, phương
pháp này áp dụng cho những đàn nhỏ nuôi sau nhà lấy trứng ăn quanh năm.
Thay lông cưỡng bức bằng hình thức bỏ vịt đói 1 ngày sau lùa xuống bãi sình
đã rãi thức ăn, vịt đói tranh ăn làm lông dính bếch sình, rồi là lên nhốt vài ngày
vịt tự rỉa lông và bứt lông, sau mới cho tắm. Cũng có thể cho vịt nhịn ăn, ngày
hôm sau bắt vịt nhổ lông cánh và lông đuôi và sau đó để vịt tự thay lông. Cho
vịt ăn lại khẩu phần vịt đẻ sau khi thay lông 1 tháng (Bùi Xuân Mến, 2014).
2.8.4 Những điều lưu ý khi nuôi vịt đẻ
Ở Đồng bằng sông Cửu Long vịt thường đẻ một năm ba vụ, mỗi vụ đẻ
liền hai tháng rưỡi đến 3 tháng, sau mỗi vụ vịt ngừng đẻ và thay lông. Trong 3
vụ đẻ đó vụ đẻ thứ hai thường đẻ nhiều trứng nhất, trứng có chất lượng tốt; tỷ
lệ đẻ đạt 90 – 95%, có khi 100%.
Người chăn vịt có kinh nghiệm thường đi theo đàn vịt bằng chiếc thuyền
con, chiếc thuyền này có thể vác lên vai một cách nhẹ nhàng, do đó mà có thể
theo đàn vịt qua sông, hồ được. Người chăn vịt phải biết là vịt kiếm được
47
nhiều mồi hay ít mồi ngoài đồng để rồi cho vịt ăn thêm nhiều hay ít khi vịt về
chuồng. Ví dụ: Khi thấy vịt mò mải miết, đó là đồng nhiều mồi, ngược lại khi
thấy vịt chạy nhiều, đó là đồng ít mồi… Hoặc là vịt ăn no đủ thì đẻ nhiều,
ngược lại vịt đẻ ít là thiếu ăn; phải chú ý đến số lượng và chất lượng thức ăn
cần bổ sung cho vịt hàng ngày.
Tuyệt đối tránh không làm cho vịt sợ hãi. Lùa vịt đẻ từ ruộng này sang
ruộng khác phải nhẹ nhàng, từ từ để cho vịt đi một cách tự nhiên. Vịt đang đẻ
cần chú ý đừng để chúng phải leo dốc có thể bị đẻ non hoặc ngừng đẻ. Trong
khi đi chăn vịt, đi hết diện tích này đến diện tích khác (phải qua nhiều sông
ngòi, ao, hồ, đầm, kênh…), nếu người chăn nuôi không có kinh nghiệm để vịt
sa vào một nơi không có mồi (nước phèn mặn) thì sẽ làm giảm đẻ.
Vịt mái đẻ không thích những nơi ồn ào, không ưa những nơi đất đầy
bùn, đất quá khô, quá dốc. Vịt không thích sự có mặt của những người lạ và
nhất là chó, vì nếu bị chó rượt đuổi thì ngày hôm sau đó sản lượng trứng sẽ bị
giảm ngay. Đặc điểm của vịt, nhất là vịt mái đẻ, có “phản ứng stress” rất nhạy
bén, nên những gì làm cho vịt hoảng sợ, hoặc làm thay đổi điều kiện sống, đều
có ảnh hưởng xấu đến tỷ lệ đẻ ngay
Ban đêm nếu người chăn nuôi ra thăm nơi nhốt vịt thì phải hết sức cẩn
thận, đêm nào cũng chỉ nên làm đúng những cử chỉ thật cần thiết để cho vịt
quen. Bóng người lạ, tiếng động lạ đều làm cho vịt kêu “thất thanh” làm cho
vịt nhảy loạn xạ, chất đống lên nhau ở một góc chuồng, chúng có thể bị
thương hoặc đè lên nhau mà chết, một số lớn vịt ngày hôm sau sẽ ngừng đẻ.
Có nơi người ta thắp một ngọn đèn để giữa chuồng và chi riêng người chăn vụ
được đi vào khi nhặt trứng, không cho người lạ vào. Buổi trưa phải cho vịt ở
chỗ mát để nghỉ ngơi, nhất là ở bên hồ nước trong sạch, có bóng cây mát (Bùi
Xuân Mến, 2014).
48
Chương 3: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Phương tiện nghiên cứu
3.1.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 10 năm 2013 đến tháng 10 năm 2017
3.1.2 Địa điểm nghiên cứu
3.1.2.1 Địa điểm thu thập mẫu
Mẫu được thu thập tại 3 tỉnh và 1 thành phố của vùng Đồng bằng sông
Cửu Long (ĐBSCL) bao gồm tỉnh An Giang, Hậu Giang, Kiên Giang và thành
phố Cần Thơ.
3.1.2.2 Phân tích mẫu và nuôi chuột thí nghiệm
Nuôi cấy, phân lập vi khuẩn và thử độc tố trên chuột tại phòng thí
nghiệm Thú y chuyên ngành 3, Bộ môn Thú Y, Khoa Nông nghiệp, Trường
Đại học Cần Thơ
3.1.2.3 Thí nghiệm trên thực địa
Thử nghiệm độc tố của vi khuẩn C. botulinum trên vịt đẻ được thực hiện
tại Công ty TNHH Một thành viên chăn nuôi Vemedim, xã Thới Thạnh, huyện
Thới Lai, Thành phố Cần Thơ.
3.2 Trang thiết bị dụng cụ và hóa chất
Dụng cụ và thiết bị
- Ống đong, ống hút, lame, kính hiển vi, kẹp, dao, kéo, que cấy, găng tay,
đèn cồn, giấy lau kính, tăm bông vô trùng, túi nilong, thùng đá, bình yếm khí,
túi dùng để tạo môi trường yếm khí (Anaerocult C), ống nghiệm Vial,
micropipet, eppendorf, lồng nuôi chuột, chuồng nuôi vịt và dụng cụ chăn nuôi
chuyên biệt cần thiết trong chăn nuôi động vật thí nghiệm.
- Tủ ấm, tủ ấm CO2, tủ sấy, tủ lạnh, autoclave, water bath,
Hóa chất và môi trường
- Cồn 96o, cồn 70o, nước cất, dầu cedar, Crystal violet, Lugol, Safranine,
Bromocresole purple, Gelatin Phosphat Buffer… (Merck, Đức).
- Kháng sinh: sử dụng các loại kháng sinh amikacin, ampicillin,
amoxicillin, ceftiofur, cephalexin, doxycycline, florfenicol, fosfomycin,
marbofloxacin, norfloxacin (Oxoid, Anh).
- Ống chuẩn Mac Farland 0, 5 và 3 (Biorad)
49
- Môi trường
Môi trường NB: Nutrient broth (Merck, Đức)
Môi trường TSA: Tryptis Soy Agar (Merck, Đức)
Môi trường CMM: Cooked Meat Media (Oxoid, Anh)
Môi trường EYA: Egg Yorlk Agar (Merck, Đức)
Môi trường Thioglycollate (MERCK, Đức).
Môi trường SFP Agar Base (Difco, Mỹ).
Môi trường MHA: Mueller Hinton Agar (Merck, Đức)
Các loại đường: Lactose, glucose, maltose, saccarose (Merck, Đức)
Bộ phản ứng sinh hóa API 20A (Biorad)
Máu cừu (công ty Nam Khoa- TP HCM)
Môi trường TPGY broth: 5% Trypticase, 0.5% Pepton, 0.4% Glucose,
2% Yeast extract, 0.1% Sodium thioglycolate
Môi trường CMM (Cooked Meat Medium) (Oxoid, Anh)
Serum Institut, Đan Mạch)
Kháng độc tố dạng lỏng (antitoxins) type C, D, E (10UI/ml) (Statens
3.3 Nội dung nghiên cứu
3.3.1 Nội dung 1: Tình hình bệnh botulism trên vịt chạy đồng (VCĐ) ở
Đồng bằng sông Cửu Long.
3.3.1.1 Mục tiêu
Đánh giá tần suất lưu hành bệnh botulism trên đàn vịt chạy đồng của
Đồng bằng sông Cửu Long.
3.3.1.2 Đối tượng nghiên cứu
Vịt chạy đồng mắc bệnh botuism được nuôi dưỡng tại Đồng bằng sông
Cửu Long. Đối tượng nghiên cứu có đặc điểm sau:
Vịt bệnh botulism được chia theo mục đích nuôi bao gồm vịt thịt và vịt
đẻ. Vịt thịt được nuôi thả đồng từ 4 – 12 tuần tuổi, đến tuần thứ 12, người dân
bắt đầu tuyển chọn những con vịt mái đủ tiêu chuẩn để tiếp tục nuôi dưỡng
kéo dài trong nhiều năm theo hướng khai thác trứng, những con vịt còn lại thì
được bán thịt. Như vậy, vịt đẻ sẽ bắt đầu tính tuổi sau 24 tuần tuổi (240 – 255
ngày) vịt sẽ rớt trứng đầu tiên.
50
3.3.1.3 Phương pháp nghiên cứu
a. Tình hình chăn nuôi VCĐ ở ĐBSCL
Điều tra hồi cứu tình hình chăn nuôi vịt chạy đồng tại Phòng thống kê
của Chi cục Thú y ở 4 địa điểm thu thập mẫu. Tại đây, nhóm nghiên cứu sẽ
thu thập thông tin về điều kiện tự nhiên cũng như tổng đàn VCĐ của từng tỉnh,
ghi nhận những thuận lợi và bất lợi về điều kiện tự nhiên trong chăn nuôi vịt
theo phương thức chạy đồng từ năm 2012 – 2014.
b. Tình hình bệnh botulism trên vịt chạy đồng (VCĐ) ở Đồng bằng
sông Cửu Long
- Điều tra cắt ngang và tiến cứu về tình hình bệnh botilism trên VCĐ tại 4
địa điểm thu thập mẫu.
- Cỡ mẫu nghiên cứu: Phân bố mẫu mỗi tỉnh cần khảo sát được trình bày
Bảng 3.1 Phân bố mẫu khảo sát tại 4 địa điểm lấy mẫu
Vịt thịt (con)
Vịt đẻ (con)
Địa điểm
Tỉnh An Giang
20.000
25.800
Thành phố Cần Thơ
19.000
28.700
Tỉnh Hậu Giang
18.000
25.350
Tỉnh Kiên Giang
22.000
31.200
Tổng
79.000
108.505
trong Bảng 3.1.
Xác định tình hình bệnh botulism trên vi khuẩn C. botulinum trên vịt
chạy đồng ở ĐBSCL được tiến hành theo các bước sau
Bước 1: Điều tra
Trong quá trình điều tra và thu mẫu trên từng địa bàn luôn hợp tác với
thú y địa phương để biết tình hình đàn VCĐ ở địa bàn quản lý, hỏi chủ nuôi về
tình hình sức khỏe của đàn vịt đồng thời quan sát trạng thái thần kinh cũng
như quá trình vận động của vịt. Nếu đàn vịt có xuất hiện các triệu chứng của
bệnh botulism như xù lông, giảm ăn, yếu chân, liệt mềm cổ, liệt mí mắt, liệt
cánh, liệt chân thì tiến hành lập phiếu điều tra (Phụ lục 1), đồng thời thương
lượng mua mẫu vịt bệnh để nghiên cứu.
Bước 2: Lấy mẫu
Mẫu bệnh phẩm được lấy trên vịt bệnh còn sống hoặc vừa chết. (1) Trên
vịt bệnh còn sống, lấy khoảng 5-10 ml máu từ tỉnh mạch cổ, trữ trong ống
51
nghiệm vô trùng và bảo quản ở nhiệt độ từ 4-6oC trong vòng 8 giờ, chắt lấy
huyết thanh và trữ huyết thanh ở -80oC; Sau đó, mổ khảo sát bệnh tích đại thể
của nội quan, thu bệnh phẩm là chất chứa trong ống tiêu hóa bằng cách khóa
kín đoạn hầu và đoạn giáp với hậu môn bằng kẹp nhựa, cắt lấy ống tiêu hóa,
giữ trong túi vô trùng, bảo quản lạnh và phân tích tại phòng thí nghiệm. (2)
trường hợp vịt vừa chết thì tiến hành mổ kháo sát và lấy mẫu giống như trên.
Hình 3.1 Vịt bị liệt mềm cổ
Mỗi đàn vịt lấy từ 1-5 bệnh phẩm.
3.3.1.4 Chỉ tiêu theo dõi
+ Tỷ lệ bệnh botulism trên VCĐ ở ĐBSCL.
+ Tần suất xuất hiện triệu chứng lâm sàng của bệnh botulism.
+ Tần suất xuất hiện bệnh tích của bệnh botulism.
3.3.2 Nội dung 2
Phân lập vi khuẩn C. botulinum và xác định độc tố botulin trên VCĐ
mắc bệnh botulism
3.3.2.1 Mục tiêu: Xác định sự hiện diện vi khuẩn C. botulinum và xác
định type độc lực của botulin trên VCĐ.
3.3.2.2 Đối tượng nghiên cứu
Huyết thanh và bệnh phẩm của VCĐ bệnh botulism ở nội dung 1.
52
3.3.2.3 Phương pháp tiến hành
a. Phân lập vi khuẩn C. botulinum trên bệnh phẩm của vịt bệnh theo
MiiaLindstrom and Hannu Korkeala (2006) và qui trình có cải tiến
Phân lập vi khuẩn C. botulinum trên bệnh phẩm của vịt bệnh theo
Lindstrom and Korkeala (2006) và qui trình có cải tiến được trình bày trong
Mẫu
(chất chứa trong ruột, gan)
Cấy trực tiếp lên môi trường
thạch máu và SFP
Ủ yếm khí ở 370C/24h
Chọn khuẩn lạc điển hình
Ủ yếm khí ở 370C/24h
Nhuộm Gram
(trực khuẩn, Gr+,
có nha bào, thuần)
Cấy thuần
(các khuẩn lạc
đồng nhất)
Kiểm tra đặc tính sinh hóa bằng
API 20A
Ủ yếm khí ở 370C/24-48h
Xác định vk Clostridium botulinum và
giữ giống trong CMM/ thioglycolate
Hình 3.2 Sơ đồ qui trình nuôi cấy, phân lập vi khuẩn Clostridium botulinum
(Lindstrom and Korkeala, 2006) và qui trình có cải tiến
Hình 3.2.
Bệnh phẩm ruột, gan, được lấy vô trùng và cấy trực tiếp trên thạch máu
và thạch SFP, sau đó đem ủ trong tủ ấm kỵ khí ở 37oC trong 24 giờ. Trên môi
trường thạch máu, khuẩn lạc của vi khuẩn C. botulinum không tròn đều, khô,
53
dẹt hoặc hình dạng không ổn định. Trên môi trường SFP khuẩn lạc C.
botulinum có màu đen, nhỏ, tròn đều, chọn khuẩn lạc điển hình nêu trên
nhuộm Gram để xem hình dạng, cách bắt màu, dạng nha bào, độ thuần nhất
của vi khuẩn. Sau đó, kiểm tra đặc tính sinh hóa của vi khuẩn bằng bộ sinh
hóa API 20A. Phân lập vi khuẩn C. botulinum trên bệnh phẩm của vịt bệnh
theo Lindstrom and Korkeala (2006) và qui trình có cải tiến được trình bày
Hình 3.3 Khuẩn lạc của vi khuẩn
Hình 3.4 Khuẩn lạc của vi khuẩn
C. botulinum trên thạch máu
C. botulinum trên môi trường SFP
Hình 3.5 Hình ảnh nha bào của vi khuẩn C. botulinum dưới KHV (X 100)
trong Hình 3.3.
54
b. Kiểm tra đặc tính sinh hóa bằng bộ API 20A (theo hướng dẫn của
nhà sản xuất)
Chuẩn bị canh khuẩn
C. botulinum được nuôi cấy trên môi trường thạch máu và ủ yếm khí
trong 18 – 24 giờ.
Khuẩn lạc C. botulinum được cho vào dung dịch NaCl 9‰ và so độ
đục với ống McFarland 3 để tạo thành huyễn dịch vi khuẩn.
Chuẩn bị test kit API 20A
Cho 5 ml nước cất vô trùng vào các giếng tổ ong (honeycomb) của
khay để tạo độ ẩm không khí.
Ghi số bệnh phẩm trên khay; đặt thanh API 20A vào khay nước.
Cho huyễn dịch vi khuẩn vào các giếng, tránh tạo thành bọt khí và
nghiêng thanh nhẹ nhàng về phía trước.
- Với test GEL, phủ đầy cả ống và phần hình chén.
- Với test IND, chỉ phủ đầy giếng với môi trường API 20A và làm đầy
phần hình chén với dầu khoáng để ngăn cản sự bốc hơi.
Ủ thanh API 20A trong trong tủ ấm CO2 ở 36oC ± 2oC trong 24 giờ, sau
đó đọc kết quả. Kết quả được thể hiện trên Bảng 3.2.
Hình 3.6 Đặc tính sinh hóa theo API 20A của vi khuẩn C. botulinum
Bảng 3.2 Đặc tính sinh hóa của vi khuẩn C. botulinum trong bộ API 20A
55
c. Xác định độc tố botulin của vi khuẩn C. botulinum
Xác định độc tố botulin của vi khuẩn C. botulinum trong huyết thanh của
VCĐ bệnh botulism theo quy trình của Cook et al. (1998), được trình bày
trong Hình 3.7.
- Chuẩn bị huyết thanh: Huyết thanh được rả đông, lọc qua màng lọc
0,45µm và thu dịch lọc vô trùng.
- Chuẩn bị động vật thí nghiệm: chuột SPF có nguồn gốc từ viện
Pasteur thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục nuôi 3 ngày để thích nghi với môi
trường sống trước khi tiến hành thí nghiệm.
- Bố trí thí nghiệm
- Chuột được chia làm 3 lô thí nghiệm bao gồm I, lI và đối chứng, mỗi
chuồng nuôi 2 con được phân biệt bằng cách dùng bút lông đánh dấu trên
lưng, trên nắp chuồng đều có đánh code mẫu và 2 con chuột cùng chuồng
được tiêm vào xoang bụng mẫu huyết thanh của 1 con vịt đã lấy mẫu ở trên.
Thí nghiệm I: Tiêm huyết thanh qua lọc, nhưng không xử lý nhiệt.
Thí nghiệm II: Tiêm huyết thanh qua lọc, qua xử lý nhiệt 100oC trong
vòng 10 phút để bất hoạt độc tố (nếu có).
Thí nghiệm III: Tiêm nước muối sinh lý 0,9%. Bố trí thí nghiệm được
Bảng 3.3 Sơ đồ bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm
Số lượng (con)
Liều (ml/con)
Thí nghiệm I
400
0,5
Thí nghiệm II
400
0,5
Đối chứng
20
0,5
trình bày trong Bảng 3.3.
Dịch lọc huyết thanh được kiểm tra không có sự hiện diện của vi khuẩn
bằng cách cáy trên môi trường thạch máu và môi trường SFP, ủ trong điều
kiện hiếu khí và kỵ khí ở 37oC trong 24 giờ. Mẫu huyết thanh được sử dụng
trong thí nghiệm phải đảm bảo vô trùng.
56
Cách đọc kết quả
Nếu chuột thí nghiệm I xuất hiện các triệu chứng liệt chân, liệt mí mắt,
xù lông, thở bụng hoặc chết, đồng thời chuột ở thí nghiệm II và III khỏe mạnh
và không biểu hiện bệnh lý thì kết luận trong mẫu huyết thanh có độc tố
botulin.
d. Định type độc tố botulin
Huyết thanh được xác định có mang độc tố ở thí nghiệm trên được chọn
ra để định type độc tố. Mỗi mẫu huyết thanh qua lọc được chia ra làm 3 phần
bằng nhau, thử lần lượt với 3 loại kháng độc tố type C, D và E theo tỷ lệ 1:1,
mỗi loại hỗn hợp huyết thanh và kháng độc tố tiêm cho 2 con chuột. Kháng
độc tố chuẩn được pha với nước sinh lý theo tỷ lệ 1/100 trước khi tiến hành thí
nghiệm. Bố trí chuột thí nghiệm định type độc tố botulin được trình bày trong
Bảng 3.4.
Số mẫu TN type C
TN type D
TN type E
TN đối chứng
Liều tiêm/con
(con)
(con)
(con)
(con)
(ml)
1
2
2
2
2
1
TN: Thí nghiệm
TN type C: Tiêm huyết thanh + kháng độc tố type C; TN type D: Tiêm huyết thanh + kháng độc tố
type D; TN type E: Tiêm huyết thanh + kháng độc tố type E; Để yên hỗn hợp trên ở nhiệt độ phòng
30-60 phút (CDC, 1998; TN đối chứng (không có kháng độc tố): Tiêm nước muối sinh lý 0,9%.
Bảng 3.4 Bố trí thí nghiệm Định type độc tố botulin
Cách đọc kết quả
Sau 7 ngày nếu chuột ở thí nghiệm nào còn khỏe mạnh bình thường thì
kết luận huyết thanh đã mang type độc tố tương ứng; nghĩa là độc tố trong
huyết thanh đã bị trung hòa bởi kháng độc tố tương ứng thêm vào.
Chuột ở thí nghiệm đối chứng: luôn luôn khỏe mạnh và không có biểu
hiện khác thường. Phương pháp xác định type độc tố botulin trong huyết thanh
vịt theo CDC (1998) được trình bày trong Hình 3.7.
57
Hình 3.7 Kháng độc tố chuẩn
Phân lập vi khuẩn C. botulinum và xác định độc tố botulin trên huyết
thanh VCĐ mắc bệnh botulism được tóm tắt trong Hình 3.8.
58
Mẫu huyết thanh của vịt (liệt và mềm cổ)
Lọc (màng lọc 0,45 µm), chia làm 2 phần bằng nhau
9(qua lưới lọc
Dịch bệnh phẩm
Không xử lý nhiệt
Xử lý nhiệt 1000C/10 phút
Lô I dịch bệnh phẩm tiêm vào xoang bụng
của chuột bạch 0,5 ml/con
(2 con/ mẫu)
Lô II dịch bệnh phẩm tiêm vào xoang
bụng của chuột bạch 0,5 ml/con
(2 con/ mẫu)
Giai
đoạn
1
Chuột bình thường
Chuột chết hoặc biểu hiện bất thường
Độc tố botulin trong dịch bệnh phẩm bị
phá hủy bởi nhiệt
Mổ khám, ghi nhận triệu chứng bất
thường và kiểm tra độ vô trùng của dịch
qua lọc.
Dương tính (hay mẫu huyết thanh của vịt
có chứa độc tố)
Những mẫu huyết thanh dương tính ở thí nghiệm 1, lọc qua màng lọc
0,45 µm, chia làm 3 phần bằng nhau để thử nghiệm với kháng độc tố.
Huyết thanh + KĐT type C
Huyết thanh + KĐT type D
Huyết thanh + KĐT type E
Giai
đoạn
2
Tiêm xoang bụng cho 2 con
chuột (1ml/con)
Tiêm xoang bụng cho 2 con
chuột (1ml/con)
Tiêm xoang bụng cho 2 con
chuột (1ml/con)
Chuột bình thường
Chuột bình thường
Chuột bình thường
Bệnh phẩm có chứa độc tố
C. botulinum type C
Bệnh phẩm có chứa độc tố
C. botulinum type D
Bệnh phẩm có chứa độc tố
C. botulinum type E
Hình 3.8 Sơ đồ xác định type độc tố botulin trong huyết thanh vịt
(CDC, 1998)
59
3.3.2.4 Chỉ tiêu theo dỏi
- Tỷ lệ hiện diện vi khuẩn trong bệnh phẩm.
- Tỷ lệ huyết thanh có độc tố.
- Tỷ lệ lưu hành của các type độc tố.
- Tần suất xuất hiện các triệu chứng lâm sàng đặc trưng trên chuột bị
nhiểm độc tố botulin.
- Tần suất xuất hiện bệnh tích đại thể trên chuột bị nhiểm độc tố botulin
3.3.3 Nội dung 3
Xác định các các yếu tố nguy cơ gây bệnh botulism trên VCĐ ở ĐBSCL.
3.3.3.1 Mục tiêu
Đánh giá sự lưu hành của vi khuẩn C. botulinum trên môi trường chăn
nuôi VCĐ ở ĐBSCL
3.3.3.2 Đối tượng nghiên cứu: môi trường chăn nuôi: đất, nước, cua, ốc
3.3.3.3 Phương pháp thực hiện
a. Thu thập mẫu
Song song với việc lấy mẫu VCĐ bệnh botulism thì mẫu ở môi trường
nuôi có đàn vịt bệnh cũng được thu thập bao gồm đất, nước, cua, ốc. Cỡ mẫu
được phân bố trong bảng 3.5
Địa điểm
Bùn đất (mẫu) Nước (mẫu) Cua (mẫu)
Ốc (mẫu)
Tổng
An Giang
159
63
106
645
159
Cần Thơ
141
42
94
563
141
Hậu Giang
144
50
96
582
144
Kiên Giang
156
61
104
646
156
Tổng cộng
600
216
400
2.436
600
Bảng 3.5 Phân bố mẫu trên môi trường nuôi
Mẫu đất và nước, số lượng mẫu cần lấy là 3 mẫu. Đất ngập nước lấy mẫu
ở độ sâu 5 – 10cm. Mỗi mẫu có khối lượng khoảng 25 – 30g. Mẫu nước lấy
khoảng 50 – 100ml bằng lọ vô trùng.
60
Mẫu cua, ốc: lấy 2 – 3 mẫu cua, ốc. Trữ lọ vô trùng, chọn những cua, ốc
mới chết hoặc cua nhỏ, ốc nhỏ còn sống (vịt có thể nuốt được). Tất cả mẫu
được bảo quản lạnh (Franciosa et al., 1996).
b. Phân lập vi khuẩn C. botulinum từ đất, nước, cua, ốc
Phương pháp thực hiện được tiến hành như mô tả phân lập vi khuẩn
Mẫu
(Đất, nước, cua, ốc)
Cấy trực tiếp lên môi trường
thạch máu và SFP
Ủ yếm khí ở 37oC/24h
Chọn khuẩn lạc điển hình
Ủ yếm khí ở 370C/24h
Nhuộm Gram
(trực khuẩn, Gr+,
có nha bào, thuần)
Cấy thuần
(các khuẩn lạc
đồng nhất)
Kiểm tra đặc tính sinh hóa bằng
API 20A
Ủ yếm khí ở 370C/24-48h
Xác định vk Clostridium botulinum và
giữ giống trong CMM/ thioglycolate
Hình 3.9 Sơ đồ qui trình nuôi cấy, phân lập vi khuẩn Clostridium botulinum trên môi
trường nuôi (Lindstrom and Korkeala (2006) và qui trình có cải tiến)
C. botulinum ở mục 3.3.2.3 và được trình bày tóm tắt theo sơ đồ trong Hình 3.9.
3.3.3.4 Chỉ tiêu theo dõi
- Tỷ lệ hiện diện vi khuẩn trong mẫu đất và nước ruộng.
- Tỷ lệ hiện diện vi khuẩn trong mẫu cua, ốc.
61
3.3.4 Nội dung 4
Tính gây bệnh của vi khuẩn C. botulinum phân lập được trên vịt bệnh.
3.3.4.1 Mục tiêu: Xác định khả năng gây bệnh của các chủng C. botulinum
phân lập được
3.3.4.2 Đối tượng nghiên cứu: Các chủng C. botulinum phân lập được.
3.3.4.3 Phương pháp tiến hành
a. Kiểm tra độ mẫn cảm kháng sinh của vi khuẩn C. botulinum
Sử dụng phương pháp kháng sinh đồ dựa trên sự khuếch tán của kháng
sinh trên thạch đĩa của Kirby-Bauer (Bauer et al., 1966). Đánh giá mức độ
nhạy cảm kháng sinh dựa trên đường kính vòng vô khuẩn theo tiêu chuẩn theo
Clinical and Laboratory Standards Institute (2019) của nhóm trực khuẩn
đường ruột.
- Phương pháp thực hiện kháng sinh đồ: Chuẩn bị canh trùng của vi
khuẩn Clostridium botulinum thuần sao cho đạt nồng độ 108 CFU/ml (bằng
cách so độ đục với ống chuẩn Mc Farland 0,5). Dùng que tăm bông vô trùng
nhúng vào canh trùng, ép vào thành ống nghiệm cho bớt nước rồi ria đều khắp
Bảng 3.6 Tiêu chuẩn đường kính vòng vô khuẩn của một số loại kháng sinh (CLSI, 2019)
Đường kính vòng vô khuẩn (mm)
Hàm lượng
STT Loại kháng sinh
(μg)
Nhạy Mẫn cảm trung bình
Kháng
1 Amikacin
30
≥ 17
15-16
≤ 14
2 Ampicillin
10
≥ 17
14-16
≤ 13
3 Amoxicillin
25
≥ 18
14-17
≤ 13
4 Ceftiofur
30
≥ 21
18-20
≤ 17
5 Cephalexin
30
≥ 18
15-17
≤ 14
6 Doxycycline
30
≥13
10-12
≤9
7 Florfenicol
30
≥19
15-18
≤14
8 Fosformycin
200
≥16
13-15
≤12
9 Marbofloxacin
5
≥18
16-17
≤15
10 Norfloxacin
10
≥17
13-16
≤12
mặt thạch MHA.
62
Dùng kẹp vô trùng đặt các đĩa kháng sinh đã chọn lên mặt thạch, các đĩa
kháng sinh cách nhau 2,5-3,5cm và cách rìa đĩa thạch 2cm. Đĩa được ủ trong
tủ ấm CO2 ở nhiệt độ 37oC, sau 24 giờ đọc kết quả. Đường kính vòng vô
khuẩn của các kháng sinh thử nghiệm được đo và đối chiếu với bảng tiêu
chuẩn để đánh giá. Tiêu chuẩn đường kính vòng vô khuẩn của một số loại
kháng sinh theo CLSI (2019) được trình bày trong Bảng 3.6.
b. Thử nghiệm độc tố botulin trên vịt
- Chuẩn bị canh khuẩn chứa độc tố botulin
Các chủng C. botulinum có khả năng gây chết chuột thí nghiệm trong nội
dung 1, được tăng sinh trong môi trường TPGY broth. Ủ yếm khí canh khuẩn
ở 37oC trong 24 giờ, sau đó cấy vào các ống chứa môi trường CMM và ủ tiếp
ở 37oC trong 5 ngày trong điều kiện yếm khí để vi khuẩn sản sinh độc tố.
Sau khi ủ 5 ngày đem ly tâm canh khuẩn ở 12.000 vòng/phút trong 15
phút ở nhiệt độ 5oC và lấy nước trong lọc qua màng lọc 0,45 µm thu được độc
tố botulin để gây bệnh thực nghiệm (Cook et al., 1998).
Quy trình chuẩn bị canh khuẩn chứa độc tố botulin theo Cook et al.
Chọn vài khuẩn lạc của Clostridium botulinum trên môi trường TSA
(khuẩn lạc của các mẫu đã được giám định khả năng gây chết chuột thí nghiệm
Cấy
Môi trường TPGY broth
Ủ yếm khí canh khuẩn ở 37oC/24giờ
(1998) được trình bày trong Hình 3.10.
Ủ yếm khí 37oC/5 ngày
Môi trường CMM (Cooked Meat Medium)
Ly tâm ở 12.000 vòng/phút, 15 phút/5oC
Lấy 10 ml huyễn dịch CMM
Thu phần nước trong và lọc qua màng lọc 0,45 µm
Hình 3.10 Sơ đồ quy trình chuẩn bị canh khuẩn chứa độc tố botulin
Dung dịch mẫu có chứa độc tố botulin
63
- Thí nghiệm xác định LD50 (liều gây chết 50% vịt)
Dịch có chứa độc tố được chuẩn bị theo Hình sơ đồ 3.4 ở trên.
Thí nghiệm với 3 mẫu dịch có chứa độc tố trên 90 vịt để xác định liều
LD50 qua hai đường tiêm và uống, mỗi đường cấp là một ô chuồng thử
nghiệm. Những vịt trong cùng một ô được phân biệt nhau bằng cách dùng sơn
xịt vào lông trên lưng và cánh vịt và buộc dây rút, trong đó:
Lô I là thử nghiệm độc tố C. botulinum qua đường uống với liều 3ml, 5ml,
7 ml, 10 ml. Mỗi nồng độ được tiến hành với 3 con vịt trên 1 mẫu canh khuẩn.
Lô II là thử nghiệm độc tố C. botulinum qua đường tiêm tĩnh mạch cánh
với các liều 1 ml, 2 ml, 3 ml, 4 ml, 5 ml, 6 ml được tiêm trực tiếp vào tĩnh mạch
cánh vịt. Mỗi nồng độ được tiến hành với 3 con vịt trên 1 mẫu canh khuẩn. Bố
Bảng 3.7 Bố trí thí nghiệm để xác định liều LD50 của độc tố botulin
Đường cấp
Thí nghiệm
Đường tiêm tĩnh mạch
Đường uống
1
2
3
4
5
6
3
5
7
10
Liều (ml)
3
3
3
3
3
3
3
3
3
3
Số mẫu canh khuẩn thí nghiệm
9
9
9
9
9
9
9
9
9
9
Số vịt thí nghiệm
trí thí nghiệm thử độc tố botulin trên vịt được trình bày trong Bảng 3.7
Xác định liều gây chết 50% động vật thí nghiệm của từng mẫu canh
khuẩn và lấy giá trị trung bình.
Công thức xác định liều gây chết 50% động vật thí nghiệm theo Reed và
Muench (1938).
x (b-a) + a LD50 = -
A: Tỉ lệ phần trăm (%) chết sát trên 50%.
B: Tỉ lệ phần trăm (%) chết sát dưới 50%.
a: Nồng độ pha loãng tại A
b: Nồng độ pha loãng tại B
64
Chuẩn bị vịt thí nghiệm
Vịt khỏe mạnh: Vịt cò khỏe mạnh được chọn từ đàn vịt hậu bị của Công
ty chăn nuôi Vemedim được đưa vào chuồng thí nghiệm theo bố trí thí
nghiệm. Vịt có tầm vóc nhỏ, lông mướt, mắt tinh anh, nhanh nhẹn. Chuồng
trại và môi trường nuôi đảm bảo điều kiện tốt nhất cho vịt sinh sống và phát
triển. Trước khi thực hiện thí nghiệm, vịt được đưa vào ô chuồng thí nghiệm
ổn định 2 ngày cho quên với điều kiện chuồng.
Tiêm truyền độc tố botulin cho vịt
Vi khuẩn C. botulinum nuôi cấy và xử lý giống như Sơ đồ 3.4. Độc tố
được tiêm vào tĩnh mạch cánh của vịt với liều thí nghiệm, mỗi mẫu tiêm cho 2
con vịt, tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng và theo dõi tình trạng sức khỏe của vịt
Hình 3.11 Tiêm độc tố cho vịt qua đường tĩnh mạch cánh
trong 7 ngày.
Khảo sát triệu chứng
Vịt thí nghiệm sau khi được tiêm hoặc cho uống độc tố botulin được
quan sát, ghi nhận tình trạng sức khỏe thông qua việc quan sát biểu hiện lâm
sàng. Nhưng thông tin này được ghi chép vào phiếu theo dõi từng cá thể 3
lần/ngày (6 giờ, 12 giờ, 18 giờ sau tiêm hoặc uống đến khi vịt chết).
65
Ghi nhận các biểu hiện bên ngoài của vịt như: tình trạng đi đứng, hoạt
động, bộ lông, tiếng kêu, phản ứng khi bị dồn đuổi, tình hình ăn uống, quan
sát nhịp thở, tình trạng phân, tình trạng bơi lội.
Khảo sát bệnh tích
Vịt thí nghiệm được mổ khám khi sắp chết hoặc vừa chết, quan sát và
ghi vào biên bản mổ khám để tìm dấu hiệu bệnh tích trên từng hệ thống như
thần kinh (não), hô hấp (khí quản, phổi), tuần hoàn (tim), tiêu hóa (thực quản,
dạ dày tuyến, dạ dày cơ, ruột non, ruột già, hậu môn), da, cơ, mô liên kết, mô
lympho và các cơ quan nội tạng khác như gan, lách, thận. Chụp hình bệnh tích
điển hình của bệnh do nhiễm độc tố botulin ở vịt để làm tài liệu.
3.3.4.4 Chỉ tiêu theo dõi
- Tỷ lệ vịt chết trong 7 ngày sau gây độc.
- Tần suất xuất hiện triệu chứng lâm sàng đặc trưng của vi khuẩn C.
botulinum bệnh botulism.
- Tần suất xuất hiện bệnh tích trên nội tạng.
3.4 Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phương pháp thống kê phân tích và sử dụng
phần mềm Excel (Chi-quare Yates và Fixer’s), Minitab 16.0.
66
Chương 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Tình hình bệnh botulism trên vịt chạy đồng (VCĐ) Đồng bằng
sông Cửu Long (ĐBSCL)
4.1.1 Điều kiện tự nhiên của các tỉnh An Giang, Hậu Giang, Kiên
Giang và thành phố Cần Thơ
An Giang là tỉnh có dân số đông nhất đồng bằng sông Cửu Long, thuộc
miền Nam Việt Nam. Một phần của An Giang nằm trong tứ giác Long Xuyên.
Đây là tỉnh có dân số đông nhất khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. An
Giang có diện tích 3536,7km², đứng thứ 4 trong khu vực đồng bằng sông cửu
long về diện tích sau tỉnh Kiên Giang, tỉnh Cà Mau và tỉnh Long An, phía
đông và phía bắc giáp tỉnh Đồng Tháp, phía tây Bắc giáp Campuchia, phía
nam và Tây Nam giáp tỉnh Kiên Giang, phía đông nam giáp thành phố Cần
Thơ. Tỉnh An Giang gồm 9 quận, một thị xã và một thành phố. An Giang có
37 loại đất khác nhau, hình thành 6 nhóm đất chính, trong đó chủ yếu là nhóm
đất phù sa trên 151.600ha, chiếm 44,5%. Phần lớn đất đai đều màu mỡ vì 72%
diện tích là đất phù sa hoặc có phù sa, địa hình bằng phẳng, thích nghi đối với
nhiều loại cây trồng.
An Giang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, trong năm có 2
mùa rõ rệt gồm mùa mưa và mùa khô. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng
27oC, lượng mưa trung bình năm khoảng 1.130mm. Độ ẩm trung bình 75 –
80%, khí hậu cơ bản thuận lợi cho phát triển nông nghiệp.
67
Hình 4.1 Bản đồ các tỉnh ĐBSCL
Khác với An Giang, Hậu Giang là tỉnh nằm ở phần cuối Đồng bằng châu
thổ sông Cửu Long, địa hình thấp, độ cao trung bình dưới 2 mét so với mực
nước biển. Địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang Tây. Khu
vực ven sông Hậu cao nhất, trung bình khoảng 1 – 1,5 mét, độ cao thấp dần về
phía Tây. Bề mặt địa hình bị chia cắt mạnh bởi hệ thống kênh rạch nhân tạo.
Hậu Giang có 5 huyện, 1 thị xã và 1 thành phố. Tính đến năm 2011, dân số
toàn tỉnh Hậu Giang đạt gần 769.200 người, mật độ dân số đạt 480 người/km².
Hậu Giang có nhiều dân tộc khác nhau cư trú trên địa bàn tỉnh, trong đó nhiều
nhất là đồng bào dân tộc Khmer, dân tộc Hoa…
Tương tự như An Giang, tỉnh Hậu Giang nằm trong vòng đai Bắc bán
cầu, gần xích đạo, có khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia thành hai mùa rõ rệt.
Mùa mưa có gió Tây Nam từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô có gió Đông Bắc
từ tháng 12 đến tháng 4 hàng năm. Nhiệt độ trung bình là 27oC không có sự
chênh lệch quá lớn qua các năm. Tháng có nhiệt độ cao nhất (35oC) là tháng 4
và thấp nhất vào tháng 12 (20,3oC). Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 hàng
68
năm, chiếm từ 92 – 97% lượng mưa cả năm. Lượng mưa ở Hậu Giang thuộc
loại trung bình, khoảng 1800 mm/năm, lượng mưa cao nhất vào khoảng tháng
9 (250,1mm). Ẩm độ tương đối trung bình trong năm phân hoá theo mùa một
cách rõ rệt, chênh lệch độ ẩm trung bình giữa tháng ẩm nhất và tháng ít ẩm
nhất khoảng 11%. Độ ẩm trung bình thấp nhất vào khoảng tháng 3 và 4 (77%)
và giá trị độ ẩm trung bình trong năm là 82%. Tỉnh Hậu Giang có một hệ
thống sông ngòi kênh rạch chằng chịt, mật độ sông rạch khá lớn. Hậu Giang
nằm trong vùng trũng của khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long.
Với điều kiện tự nhiên đặc biệt, Kiên Giang là một tỉnh ven biển thuộc
Đồng bằng sông Cửu Long. Trung tâm tỉnh là thành phố Rạch Giá. Kiên
Giang tiếp giáp Campuchia ở phía Bắc và vịnh Thái Lan ở phía Tây. Ngoài ra,
Kiên Giang có hơn 100 đảo lớn nhỏ ngoài biển. Kiên Giang có vị trí chiến
lược quan trọng, nằm trong vùng vịnh Thái Lan, gần với các nước thuộc Đông
Nam Á như Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Singapore. Kiên Giang có đủ các
dạng địa hình từ đồng bằng, núi rừng và biển đảo. Trong đó, phần đất liền có
địa hình tương đối bằng phẳng, thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam. Kiên
Giang có 4 vùng đất đai chính là vùng phù sa ngọt thuộc tây sông Hậu, vùng
phèn ngập lũ thuộc tứ giác Long Xuyên, vùng nhiễm mặn thuộc bán đảo Cà
Mau và vùng đồi núi, hải đảo ở hai huyện Phú Quốc và Kiên Hải.
Do nằm ở vĩ độ thấp và giáp biển nên Kiên Giang có khí hậu nhiệt đới
gió mùa, nóng ẩm quanh năm nhiệt độ trung bình hàng tháng từ 27 – 27,5oC.
Kiên Giang không chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão nhưng lượng nước mưa
do bão chiếm một tỷ trọng đáng kể, nhất là vào cuối mùa mưa. Mùa mưa bắt
đầu từ tháng 4 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Lượng
mưa trung bình hàng năm khoảng 1.600 – 2.000mm ở đất liền và 2.400 –
2.800mm ở vùng đảo Phú Quốc. Khí hậu Kiên Giang rất ít thiên tai, không rét,
không có bão đổ bộ trực tiếp, ánh sáng và nhiệt lượng dồi dào, nên rất thuận
lợi cho nhiều loại cây trồng và vật nuôi sinh trưởng.
Đặc biệt, khác với ba tỉnh nêu trên thì thành phố Cần Thơ nằm trong
vùng trung – hạ lưu và ở vị trí trung tâm châu thổ Đồng bằng sông Cửu Long.
Phía Bắc giáp tỉnh An Giang; phía Đông giáp tỉnh Đồng Tháp và tỉnh Vĩnh
Long; phía Tây giáp tỉnh Kiên Giang; phía Nam giáp tỉnh Hậu Giang. Đơn vị
69
hành chính của thành phố gồm 5 quận (Ninh Kiều, Cái Răng, Bình Thủy, Ô
Môn, Thốt Nốt) và 4 huyện (Phong Điền, Cờ Đỏ, Vĩnh Thạnh, Thới Lai). Cần
Thơ nằm ở khu vực bồi tụ phù sa nhiều năm của sông Mê Kông, có địa hình
rất đặc trưng cho dạng địa hình đồng bằng. Nơi đây có hệ thống sông ngòi,
kênh rạch chằng chịt. Trong đó: Sông Hậu là con sông lớn nhất với tổng chiều
dài chảy qua thành phố là 65km, sông Cái Lớn dài 20km, sông Cần Thơ dài
16km, đổ ra sông Hậu tại bến Ninh Kiều, nước ngọt suốt hai mùa mưa nắng,
tạo điều kiện cho nhà nông làm thuỷ lợi và cải tạo đất. Cần Thơ có nguồn tài
nguyên đất đai màu mỡ, nhất là khu vực phù sa ngọt được bồi đắp thường
xuyên, thích hợp cho canh tác lúa, cây hoa màu, cây lương thực, cây công
nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả đặc sản nhiệt đới, tạo điều kiện thuận lợi để Cần
Thơ phát triển nông nghiệp theo hướng toàn diện.
Cần Thơ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới – gió mùa, ít bão, quanh
năm nóng ẩm, không có mùa lạnh. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11,
mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm khoảng
28ºC. Độ ẩm trung bình năm: 82% – 87% (thay đổi theo các năm).
4.1.2 Tình hình chăn nuôi VCĐ ở ĐBSCL
Nuôi vịt chạy đồng (VCĐ) là nghề từ lâu đã gắn chặt với cuộc sống của
dân Vùng đồng bằng sông Cửu Long, là phương thức chăn nuôi du canh.
Trong mùa thu hoạch lúa, đàn vịt được lùa từ đồng lúa này sang đồng lúa khác
vừa mới thu hoạch, chúng ăn vét những hột lúa rụng và những động vật sống ở
đồng ruộng như cua, ốc,... Nhờ vậy mà người nuôi không tốn hoặc tốn rất ít
thức ăn cho vịt, giúp nhiều hộ tiết kiệm đáng kể chi phí mua thức ăn, từ đó
tăng thêm lợi nhuận. Giống vịt được chuộng nuôi chạy đồng phổ biến là vịt
tàu (vịt cỏ), là loại vịt nhỏ con, đầu nhỏ, mỏ khỏe mạnh, cổ dài, chân vàng
thấp, nhanh nhẹn, khả năng kiếm mồi tốt và vừa cho thịt, vừa cho trứng.
Chúng chống chịu tốt với điều kiện chăn thả ngoài đồng, có khả năng kháng
nhiều bệnh, tăng trưởng tốt. Giống này lông nhiều màu sắc, nuôi từ 140 đến
150 ngày thì đẻ, mỗi năm đẻ từ 180 đến 220 trứng/con. Thịt vịt nuôi chạy
đồng luôn bán giá cao hơn vịt nuôi công nghiệp vì thịt ngon thơm. Trứng có
nhiều lòng đỏ nên rất được người tiêu dùng ưa chuộng, nhất là được các cơ sở
sản xuất trứng vịt muối luôn chọn mua để làm nguyên liệu xuất khẩu. Thông
70
qua điều tra hồi cứu tình hình chăn nuôi VCĐ ở 4 địa điểm nghiên cứu từ năm
2012 đến 2014 cho thấy số lượng VCĐ của 4 địa phương này rất lớn và được
trình bày trong Bảng 4.1.
phố Cần Thơ (20112 –20114)
Năm 2012
Năm 2013
Năm 2014
Tỉnh/thành
Số lượng
Tỷ lệ
Số lượng
Tỷ lệ
Số lượng
Tỷ lệ
(con)
(%)
(con)
(%)
(con)
(%)
An Giang
3.047.000
30,37 3.125.300
31,46
3.351.850
32,64
Cần Thơ
1.250.000
12,46 1.273.400
12,82
1.191.383
11,59
Hậu Giang
2.626.000
26,17 2.429.200
24,46
2.562.760
24,96
Kiên Giang
3.111.000
31,00 3.105.200
31,26
3.164.530
30,81
Tổng cộng
10.034.000 100,00 9.933.100
100,00 10.269.523
100,00
Bảng 4.1 Số lượng VCĐ nuôi tại tỉnh An Giang, Hậu Giang, Kiên Giang và thành
Bảng 4.1 cho thấy tổng đàn vịt ở tỉnh An Giang và Kiên Giang cao hơn
hai địa phương còn lại. Bởi lẽ, 2 tỉnh này có tổng diện tích trồng lúa lớn nhất
ĐBSCL, đặc biệt tỉnh Kiên Giang với diện tích trồng lúa là 168.782 ha và hiện
đang là tỉnh dẫn đầu cả nước về sản lượng lúa, chiếm 10,10% sản lượng lúa cả
nước và 17,90% sản lượng lúa ĐBSCL (Ủy ban Nhân dân tỉnh Kiên Giang).
Theo tập quán chăn nuôi VCĐ của người dân, nơi nào có đồng lúa nhiều thì
đàn vịt sẽ tập trung ở đấy nhiều, vì vậy số lượng VCĐ ở Kiên Giang, An
Giang chiếm tỷ lệ cao. Trong khi đó, thành phố Cần Thơ là trung tâm của
Đồng bằng sông Cửu Long, dân cư ngày càng tập trung đông đúc, không thích
hợp cho việc chăn nuôi vịt chạy đồng. Qua số liệu thống kê từ 2012 đến 2014
cho ta thấy số lượng vịt nuôi trên địa bàn thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu
Giang đang có chiều hướng giảm nhẹ qua các năm là do từ năm 1997, dịch
cúm H5N1 bắt đầu lan rộng, nhiều đàn vịt bị tiêu hủy đã làm ảnh hưởng rất
lớn đến tình hình phát triển đàn vịt nuôi của toàn khu vực ĐBSCL.
Bên cạnh đó, nuôi vịt chạy đồng càng trở nên khó khăn hơn, do phải di
chuyển đồng xa, trả tiền thuê đồng (trước đây không có), phải thông qua chính
quyền địa phương để kiểm soát sự an toàn của đàn vịt từ nơi khác đến. Trong
tình hình dịch bệnh, người nuôi không thể biết trước cánh đồng nào có dịch
71
bệnh, nhiều nguy cơ rình rập, và việc bị bắt giữ, tiêu hủy do “di chuyển trái
phép từ nơi khác đến”. Mặt khác, đàn vịt dễ suy giảm sức khỏe khi di chuyển
xa, đến cánh đồng mới – môi trường mới dẫn đến stress, sức đề kháng giảm đễ
bị nhiễm bệnh nên một số nông dân bỏ nghề nuôi vịt chạy đồng vì những
Hình 4.2 Vịt chạy đồng
thách thức trên.
4.1.3 Tình hình bệnh botulism trên vịt chạy đồng ở (ĐBSCL)
Bệnh botulism trên vịt chạy đồng ở Đồng bằng sông Cửu Long được
Bảng 4.2 Tỷ lệ vịt bệnh botulism tại Đồng bằng sông Cửu Long
Vịt bệnh botulism
Số khảo sát
Địa điểm
Số đàn
(con)
Số lượng (con)
Tỷ lệ (%)
An Giang
53
558
45.800
1,22
Cần Thơ
47
497
44.700
1,11
Hậu Giang
48
547
43.350
trình bày trong Bảng 4.2
1,26
Kiên Giang
52
633
53.200
1,19
Tổng
200
187.050
2.235
1,19
72
Bảng 4.2 thể hiện, VCĐ mắc bệnh botulism xuất hiện trên cả 4 tỉnh trong
nghiên cứu. Botulism là bệnh do botulin của vi khuẩn C. botulinum gây ra.
Bệnh xảy ra trên toàn thế giới và đã được xác định ở ít nhất 117 loài chim
hoang dã, đại diện cho 22 họ, bệnh phổ biến nhất ở là loài thủy cầm với tỷ lệ
tử vong cao. Vi khuẩn C. botulinum gặp điều kiện sống bất lợi bào tử của
chúng sẽ chuyển sang dạng nghỉ và có thể tồn tại ở dạng này trong thời gian
khoảng 30 năm hoặc hơn; Khi gặp được điều kiện thuận lợi chúng lại phát
triển bình thường và có khả năng sinh nhiều loại độc tố nhưng quan trọng nhất
là độc tố thần kinh. Trong số đó, độc tố C và D gây độc trên thủy cầm; đối với
độc tố C, sự tăng trưởng tối ưu xảy ra trong khoảng từ 25°C đến 40°C. Vi
khuẩn C. botulinum phân bố khắp nơi trong tự nhiên như xác động thực vật,
trong đất, đặc biệt ở đất bùn trầm tích, đầm lầy, đất nuôi gia súc gia cầm ngập
nước (Abdul-Aziz, 2018). Đồng bằng sông Cửu Long với đặc điểm địa hình
và khí hậu thuận lợi cho vi khuẩn C. botulinum tồn tài và phát triển. Tại khu
vực này, mùa khô bắt đầu từ cuối tháng 11 đến tháng 4 năm sau và vụ lúa
đông xuân gieo sạ vào tháng 11 – 12, gặt vào tháng 2 – 3. Điều này cho thấy
vụ lúa mùa và vụ đông xuân rơi vào mùa khô, mùa này lượng nước ở những
hồ ao, ruộng đồng nơi chăn thả vịt xuống thấp, kết hợp với nhiệt độ tăng tạo
điều kiện cho xác động thực vật phân hủy và thối rữa nhanh hơn, là môi
trường tốt cho Clostridium botulinum phát triển. Phương thức chăn nuôi thủy
cầm phổ biến Vùng ĐBSCL là nuôi vịt chạy đồng, đây là hình thức nuôi
truyền thống mang lại nguồn thu nhập cao cho người dân, vì vậy tổng đàn
VCĐ ở đây chiếm 70% đàn thủy cầm của ĐBSCL và 52% trên cả nước (FAO,
2015). Đến mùa thu hoạch lúa, người dân lùa vịt từ cánh đồng này sang cánh
đồng khác, vịt được thả tìm thức ăn suốt ngày ngoài ruộng, đến tối vịt được
nhốt giữ trong chồi tạm bợ ở bờ kinh. Thế nên, vịt chạy đồng mắc bệnh
botulism là điều tất yếu khách quan. Qua điều tra cho thấy, tỷ lệ bệnh botulism
trên VCĐ ở tỉnh Hậu Giang cao nhất (1,26%). Tuy nhiên, tỷ lệ vịt bệnh của 4
tỉnh khảo sát khác nhau không có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Điều này có
thể kết luận rằng vịt chạy đồng tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long có khả
năng mắc phải bệnh bitulism do vi khuẩn C. botulinum, gây ra triệu chứng liệt
cổ, liệt mi mắt, liệt cánh và liệt chân mà người dân địa phương gọi là bệnh
cúm cần.
73
Hình 4.3 Vịt chạy đồng bị liệt mềm cổ
4.1.4 Tình hình vịt bệnh botulism theo mục đích nuôi
Tỷ lệ bệnh botulism trên vịt đẻ và vịt thịt được trình bày trong Bảng 4.3.
Mục đích nuôi
SL khảo sát (con)
SL bệnh (con)
Tỷ lệ (%)
0,91a
Vịt thịt
99.676
905
1,52b
Vịt đẻ
87.374
1.330
1,19
Tổng
187.050
2.235
SL : Số lượng
Bảng 4.3 Tỷ lệ bệnh botulism trên vịt đẻ và vịt thịt
Bảng 4.3 thể hiện tỷ lệ vịt đẻ mắc bệnh botulism (1,52%) cao hơn vịt thịt
(0,91%). Vịt thịt được nuôi thả đồng từ 4-18 tuần tuổi, đến tuần thứ 18 (bán
thịt) người dân bắt đầu tuyển chọn vịt đẻ từ những bầy vịt thit này nuôi kéo
dài trong nhiều năm để khai thác trứng.
Trong kỹ thuật nuôi vịt chạy đồng, vịt sẽ được thả ra đồng để tự tìm thức
ăn tự nhiên sau khi đã bắt đầu biết ăn lúa, vịt sục mỏ vào lớp trầm tích, bùn đất
dưới đáy ao, ruộng để tìm mồi nên cơ hội tiếp xúc với mầm bệnh rất nhiều. Vịt
74
nuôi đến khoảng 24 tháng là bắt đầu đẻ trứng, vịt đẻ có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn
vịt thịt là vì vịt đẻ có thời gian nuôi dài, có cơ hội tiếp xúc với mầm bệnh
nhiều hơn nên khả năng chúng bị ngộ độc và chết khi ăn phải thức ăn nhiễm
độc cao hơn. Hơn nữa, vịt ngộ độc botulin, sau khi được điều trị khỏi bệnh
không có miễn dịch (Haagsma, 1987). Kết quả nghiên cứu này khá phù hợp
với nhận định của Boroff and Reilly (1959), Gross and Smith (1971).
Ngoài ra, chăn nuôi vịt chạy đồng cũng tiềm ẩn nguy cơ dịch bệnh vì vịt
có thể tiếp xúc với nhiều mầm bệnh trong tự nhiên trong đó có độc tố botulin
của vi khuẩn C. botulinum. Friend (1999) cho rằng C. botulinum là nguyên
nhân gây bệnh quan trọng của loài di chim cư trên thế giới, trong đó C.
botulinum type C là nguyên nhân gây chết ở loài thủy cầm sục mỏ vào bùn đất
tìm thức ăn. Ngoài ra khi chạy đồng, vịt cũng có nguy cơ ăn phải xác cá chết
có thể chứa độc tố C. botulinum type E hoặc type C (Smith, 1987) hoặc vịt thả
đồng cũng có điều kiện ăn giòi từ xác động vật phân huỷ có chứa độc tố C.
botulinum type C. Những cánh đồng chăn thả vịt – nơi lấy mẫu chủ yếu là
ruộng lúa vừa được cắt lúa xong, cho nước vào và chăn thả vịt. Những vịt bị
chứng liệt mềm cổ xảy ra thường xuyên trong năm, trong đó tập trung vào lúc
giao mùa giữa mùa khô và mùa mưa từ tháng 5-tháng 10 hàng năm với thời
tiết nóng ẩm. Kết quả này phù hợp với khảo sát của Rocke and Bollinger
(2007), tác giả cho rằng bệnh xảy ra nhiều vào những tháng có thời tiết nóng
hơn là thời tiết lạnh trong năm. Thêm vào đó, nghiên cứu của Friend (1973),
tại Hoa Kỳ và Canada tác giả cũng cho rằng bệnh C. botulinum type C xảy ra
chủ yếu từ tháng nóng.
4.1.5 Triệu chứng lâm sàng đặc trưng của bệnh botulism trên VCĐ
Độc tố botulin là độc tố protein tự nhiên với độc lực khá mạnh, với lượng
ước tính khoảng 30 – 100ng đủ để gây ngộ độc trên gia cầm. Chúng là những
chất độc thần kinh có ái lực với tế bào thần kinh vận động. Sau khi hấp thụ,
độc tố liên kết với màng trước thần kinh của các đầu dây thần kinh
cholinergic. Độc tố xâm nhập vào tế bào và ngăn chặn sự giải phóng
acetylcholine qua các mối nối thần kinh cơ, dẫn đến tê liệt và cuối cùng chết
do suy tim và suy hô hấp (Burgen et al.,1949). Tần suất xuất hiện các triệu
chứng lâm sàng trên VCĐ mắc bệnh botulism được trình bày trong Bảng 4.4.
75
Bảng 4.4 Tần suất xuất hiện triệu chứng lâm sàng trên vịt bệnh botulism (n=2.235)
Triệu chứng
Số lượng (con)
Tỷ lệ (%)
Giảm ăn, ủ rũ, Xù lông, kém vận động
1.532
68,55
Liệt cổ
1.965
87,92
Liệt mí mắt, đồng tử dãn
2.013
90,07
Liệt chân
1.783
79,78
Tiêu chảy phân trắng- xanh
1.098
49,13
Tiêu chảy máu
768
34,36
Bảng 4.4 thể hiện triệu chứng liệt cổ, liệt mí mắt đồng tử dãn và liệt chân
xuất hiện ở tần suất khá cao lần lượt là 87,92%, 90,07%, 79,78%. Tác giả Shin
et al. (2010) đã mô tả về một trận dịch ngộ độc botulin trên vịt và chim hoang
dã ở Australia, qua khảo sát 2.000 trường hợp vịt ngộ độc gần như 100% xuất
hiện triệu chứng liệt cổ, liệt mí mắt. Tác giả cho rằng độc tố botulin phá hủy
thần kinh trung ương, gây ức chế các dây thần kinh cơ, thần kinh cơ vận động
trong đó có cả cơ miệng, cơ mắt làm cho vịt từ yếu chân giảm vận động đến
bại liệt, cơ cổ, cơ mắt bị mềm. Triệu chứng giảm ăn, xù lông, yếu chân, kém
vận động chiếm tỷ lệ 68,55%. Yếu chân hoặc tê liệt có thể là dấu hiệu duy
nhất trong nhiễm độc nhẹ hoặc bệnh ở giai đoạn đầu (Abdul-Aziz, 2018).
Triệu chứng trên hệ tiêu hóa gây tiêu chảy phân trắng – xanh, và tiêu chảy
máu xuất hiện với tỷ lệ lần lượt 49,13% và 34,36%. Kết quả nghiên cứu này
khá phù hợp với nhận định của Shin (2010), tác giả cho rằng, triệu chứng tiêu
chảy máu và vài con có chất nhày chảy ra từ miệng chiếm 48,1% trong vịt mắc
bệnh botulism.
4.1.6 Bệnh tích đại thể trên vịt bệnh botulism
Độc tố của vi khuẩn C. botulinum có độc lực mạnh; khi vịt ăn phải độc tố
có sẵn trong thức ăn hoặc ở môi trường sống của chúng hoặc ăn phải độc tố
vừa tiết ra ở đường tiêu hóa và các mô do vi khuẩn mới xâm nhập. Khi vào dạ
dày độc tố không bị dịch vị phá hủy cho nên chúng ngấm nhanh vào máu và
phân tán khắp cơ thể, vào các tế bào của các mô khác nhau, trước hết vào tế
bào của hệ thần kinh trung ương rồi gây ra những biểu hiện lâm sàng phát sinh
từ hành tủy. Thời kỳ ủ bệnh từ 6 – 8 giờ vịt có thể chết đột ngột và ít xuất hiện
76
bệnh tích. Trường hợp thời gian ủ bệnh dài hơn (8 – 10 ngày) bệnh tích xuất
Bảng 4.5 Tần suất xuất hiện bệnh tích đại thể trên vịt bệnh botulism
Bệnh tích
Số lượng (con)
Tỷ lệ (%)
Phổi phù - xuất huyết
362
hiện ở nội quan khá phổ biến.
86,19
Gan xuất huyết
401
95,48
Thận xuất huyết
57
13,57
Lách sưng - xuất huyết
40
9,52
Ruột sinh hơi, trống thức ăn
387
92,14
Bảng 4.5 cho thấy, bệnh tích gan, phổi xuất huyết chiếm tỷ lệ cao lần
lượt là 95,48%, 86,19%, bệnh tích ruột sinh hơi cũng chiếm tỷ lệ khá cao
92,14%. Kết quả này khá phù hợp với kết quả nghiên cứu của Jensen and
Duncan (1980), tác giả nghiên cứu về độc tố botulin ở thuỷ cầm hoang dã đã
gây nhiễm cho vịt trời bằng độc tố botulin thì thấy hầu hết các trường hợp vịt
chết bởi ngộ độc botulin là do liệt hô hấp, xuất huyết phổi, gan, phù phổi.
4.2 Phân lập vi khuẩn C. botulinum và xác định độc tố botulin trên
VCĐ mắc bệnh botulism
4.2.1 Phân lập vi khuẩn C. botulinum trên bệnh phẩm của vịt bệnh
botulism
Kết quả phân lập vi khuẩn Clostridium botulinum từ bệnh phẩm là gan
và phân vịt bệnh botulism trong nội dung 1 được trình bày ở Bảng 4.6.
Kết quả Bảng 4.6 cho thấy tỷ lệ hiện diện vi khuẩn C. botulinum trên
mẫu phân vịt bệnh chiếm tỷ lệ 50,72%. Kết quả này phù hợp với kết quả
nghiên cứu của Dolor (2013), tác giả nghiên cứu về sự tồn tại của vi khuẩn C.
botulinum trong đường tiêu hóa trên thủy cầm với kết quả là vi khuẩn C.
botulinum hiện diện ở đường tiêu hóa dưới như manh tràng và ruột già (14/26
Bảng 4.6 Tỷ lệ vi khuẩn C. botulinum hiện diện trên bệnh phẩm của vịt bệnh botulism
mẫu, chiếm 54%).
77
Loại mẫu
Phân
Gan
Địa điểm
SL DT
SLPL
Tỷ lệ
SLPL
SL DT
Tỷ lệ
(mẫu)
(mẫu)
(%)
(mẫu)
(mẫu)
(%)
An Giang
52
28
53
26
53,05
49,06
Cần Thơ
49
21
42,86
49
42,86
21
Hậu Giang
50
27
54,00
50
38,00
19
Kiên Giang
58
30
51,72
59
42,37
25
91
Tổng
209
106
116
43.13
50.72
SLPL: Số lượng phân lập, SLDT: Số lượng dương tính
Thêm vào đó, một số nghiên cứu khác từ giữa những năm 1978-2008,
tại các vùng đất ngập nước của Mancha Húmeda thuộc miền Trung Tây Ban
Nha đã ghi nhận sự bùng phát của 13 vụ ngộ độc botulin làm chết của khoảng
20.000 con chim từ hơn 50 loài, bao gồm cả vịt đầu trắng (Oxyura
leucoceophala) gây nguy cơ tuyệt chủng trên toàn cầu. Các nghiên cứu cho
thấy, có 75 mẫu ruột của vịt đã chết hiện diện của vi khuẩn C. botulinum
chiếm 38,7% (Vidal et al., 2013). Tuy nhiên, tỷ lệ nhiễm loại vi khuẩn này
trên ruột và trên gan (43,13%) khác nhau không có ý nghĩa thống kê (P>0,05).
Có lẽ, do điều kiện tự nhiên về khí hậu, nhiệt độ của bốn địa phương trong
nghiên cứu không có sự khác biệt lớn. Hơn nữa, khi vịt bệnh bị nhiễm vi
khuẩn C. botulinum trong đường ruột thì vi khuẩn này có thể đến gan vì gan là
cơ quan duy nhất trong cơ thể cùng một lúc tiếp nhận máu từ 2 nguồn khác
nhau: 30% từ tim và 70% từ tĩnh mạch cửa (portal vein). Vì gan là cơ quan
đầu tiên, tiếp nhận các chất dinh dưỡng và hóa chất khác nhau hấp thụ từ hệ
thống tiêu hóa, gan đã trở thành “nhà máy lọc máu” chính và quan trọng nhất
trong cơ thể. Thức ăn và tất cả các nhiên liệu, vì thế, sẽ phải đi qua gan trước
để được thanh lọc và biến chế thành những vật liệu khác nhau. Ðây cũng là
nguyên nhân chính mà nguồn bệnh từ nhiều cơ quan và bộ phận khác có thể
lan sang gan một cách dễ dàng (Thái Hà và Đặng Mai, 2011).
78
4.2.2 Xác định độc tố trong huyết thanh của vịt bệnh botulism bằng
thử nghiệm trên chuột bạch
4.2.2.1 Kết quả gây độc trên chuột
Thử nghiệm độc tố trên chuột là phương pháp tiêu chuẩn để phát hiện
trên ELISA hoặc PCR có thể xác định các loại độc tố khác nhưng không phát hiện ra
chất độc thần kinh. Độc tố botulinum không bền với nhiệt và có thể bị phá hủy ở
độc tố thần kinh của vi khuẩn C. botulinum, nhưng các xét nghiệm phân tử dựa
80°C trong 10 phút thế nên huyết thanh phải được làm lạnh hoặc đông lạnh
càng sớm càng tốt sau khi thu thập và vận chuyển lạnh đến phòng thí nghiệm
Bảng 4.7 Tỷ lệ chuột bị nhiễm độc botulin trong huyết thanh của vịt bệnh botulism
Lô I (n = 200)
Lô II (n = 200)
Lô đối chứng (n = 20)
Tình trạng chuột
SL
Tỷ lệ
SL
Tỷ lệ
SL
Tỷ lệ
(con)
(%)
(con)
(%)
(con)
(%)
Chuột chết
0
0
0
0
(Abdul-Aziz, 2019).
126
63
Bất thường (*)
74
37
0
0
0
0
Bình thường
0
0
20
100
200
100
Nhiễm bệnh
200
100
0
0
0
0
SL: số lương, (*): Chuột ủ rũ, bỏ ăn xù lông, tiêu chảy, thở bụng
Kết quả ở Bảng 4.7 cho thấy, Lô I- không xử lý nhiệt xuất hiện 63%
chuột chết và 37% chuột bất thường; Lô II với 100% chuột bình thường. Kết
quả của thí nghiệm này hoàn toàn trùng khớp với giả thuyết ban đầu đặt ra và
phù hợp với mô tả của CDC (1998). Như vậy, vịt có triệu chứng mềm cổ liệt
chân được nuôi chạy đồng ở ĐBSCL do độc tố botulin của vi khuẩn C.
botulinum gây ra.
Việc chẩn đoán bệnh do ngộ độc botulin sẽ cho kết quả chính xác hơn
khi dùng phương pháp huyết thanh học (Franciosa et al., 1996). Trong
nghiên cứu này, huyết thanh của vịt có triệu chứng liệt mềm cổ (nghi trúng
độc tố botulin của vi khuẩn C. botulinum) sẽ được gây bệnh thực nghiệm cho
chuột. Kết quả này cũng góp phần khẳng định việc chẩn đoán bệnh do độc tố
79
botulin bằng phản ứng huyết thanh học hiệu quả hơn việc phân lập vi khuẩn
C. botulinum.
a. Khảo sát những biểu hiện lâm sàng trên chuột thí nghiệm
Những biểu hiện trên chuột bạch sau khi tiêm truyền bệnh phẩm huyết
thanh được ghi nhận ở Bảng 4.8.
Kết quả ở Bảng 4.8 cho thấy, chuột thí nghiệm xuất hiện triệu chứng xù
lông, ủ rủ, kém vận động, giảm ăn chiếm tỷ lệ 100%; tiêu chảy, sưng mí mắt
chiếm 90,40%; chân sau yếu 78,40%; suy hô hấp, thở bụng 55,73%; tiêu chảy
30,13%. Những triệu chứng này chỉ xảy ra vào những ngày đầu sau khi tiêm
Bảng 4.8 Tần suất xuất hiện các biểu hiện bất thường trên chuột thí nghiệm (n=375)
Biểu hiện bất thường
Số con
Tỷ lệ (%)
Ủ rủ, xù lông, kém vận động, ăn ít
100,00
375
Sưng mí mắt
338
90,13
Chân sau yếu
294
78,40
Thở bụng
209
55,73
Tiêu chảy
113
30,13
huyết thanh (1 - 4 ngày).
Kết quả này phù hợp với nhận định của Burgen (1949) độc tố botulin
gây ức chế các dây thần kinh cơ, ảnh hưởng thần kinh trung ương, thần kinh
vận động và cơ miệng, việc này làm xuất hiện triệu chứng chậm vận động,
chân sau yếu. Bên cạnh đó, triệu chứng thở bụng xuất hiện với tỷ lệ tương
đối cao là 55,73%. Johnson (2010) cũng đã chứng minh độc tố botulin gây
khó thở, đặc biệt ở type C trên chuột thí nghiệm. Nghiên cứu của Trung tâm
Kiếm soát và Phòng chống dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) (1998) cho biết những
con chuột với các dấu hiệu điển hình của ngộ độc botulin bao gồm yếu cơ và
suy hô hấp, những triệu chứng này thường xuất hiện trong vòng một ngày.
Bên cạnh đó, tài liệu của Nguyễn Đức Hiền (2017) cũng ghi nhận độc tố
botulin tác động làm cản trở sự phóng thích acetylcholine từ dây thần kinh
ngoại biên tác động gây liệt các bắp thịt, điều này phù hợp với việc xuất hiện
triệu chứng chân sau yếu.
80
b. Khảo sát bệnh tích đại thể trên chuột thí nghiệm
Những chuột sau khi tiêm truyền bị chết hoặc có những biểu hiện bất
thường được mổ khảo sát. Những bệnh tích trên các chuột này được thể hiện
trong Bảng 4.9.
Qua Bảng 4.9 đã ghi nhận một số bệnh tích đại thể xuất hiện trên chuột ở
phổi, tim, gan, lách, thận và ruột. Ở những chuột bị chết, tổng số con mổ khám
là 486 con, trong đó phổ biến nhất là bệnh tích ở phổi là phổi phù-xuất huyết
(85,80%), gan xuất huyết (80,86%), tim sung huyết (80,45%, lách xuất huyết
(70,37%), ruột trống thức ăn (61,93%), thấp nhất là thận sưng xuất huyết
Bảng 4.9 Các bệnh tích đại thể trên chuột thí nghiệm
Chuột chết (n =486)
Bệnh tích
Số con
Tỷ lệ (%)
Phổi phù, xuất huyết, sung huyết
417
85,80
99
80,45
Tim sung huyết
342
70,37
Lách xuất huyết
393
80,86
Gan xuất huyết
257
52,88
Thận xuất huyết - sưng
301
61,93
Ruột trống thức ăn
(52,88%).
Ở những chuột có biểu hiện bất thường, khi mổ khám 375 con ghi nhận
được bệnh tích phổi phù-xuất huyết là 99,2%, các bệnh tích ở gan, lách và tim
lần lượt là 78,93%; 71,73% và 74,13%, ruột trống thức ăn (67,47%), thấp nhất
là thận sưng xuất huyết (43,73%). Qua kết quả đó, những chuột chết hay có
triệu chứng bất thường đều có bệnh tích ở phổi là phổ biến nhất. Đây có thể
được xem là một bệnh tích điển hình của chứng nộ độc botulin trên chuột. Bên
cạnh đó, kết quả từ nghiên cứu của Deprez (2006) cho thấy biểu hiện sự thay
đổi nhịp tim do tác dụng của độc tố botulin. Kết quả nghiên cứu này cũng phù
hợp với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Đức Hiền (2012) cho thấy ảnh hưởng
của độc tố botulin chủ yếu thấy phổ biến ở tim và phổi.
81
Hình 4.4 Phổi chuột xuất huyết
Hình 4.5 Gan chuột xuất huyết
Hình 4.6 Mí mắt chuột sung có ghèn
Hình 4.7 Dạ dày, ruột chuột trồng thức ăn
4.2.2.2 Kết quả xác định type độc tố botulin
Phản ứng huyết thanh học để xác định type độc tố botulin bằng kháng
độc tố chuẩn là phương pháp chuẩn cho kết quả chính xác do tính chuyên biệt
của phản ứng. Những mẫu gây chết chuột sẽ được xác định type độc tố botulin
thông qua phản ứng trung hòa bằng kháng độc tố chuẩn và được trình bày
trong Bảng 4.10.
82
Bảng 4.10 Xác định type độc tố botulin
Type C
Type D
Type E
Type C+D
Type C+E Đối chứng
Kết
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
quả
mẫu
(%)
mẫu
(%)
mẫu
(%)
mẫu
(%)
mẫu
(%)
mẫu
(%)
(1)
49
38,89
72
57,14
65
51,59
-
-
-
0
0
-
(2)
26
20,64
22
17,46
25
19,84
-
-
-
0
0
-
(3)
51
32
36
5
3,97
1,59
12
100
2
40,48a
25,40b
28,57b
(1)Không trung hòa(chuột chết), (2) Trung hòa 1 phần (chuột xuất hiện triệu chứng bệnh lý nhưng
không chết), (3) Chuột khỏe mạnh bình thường
Bảng 4.10 chỉ ra rằng tỷ lệ mẫu huyết thanh chứa độc tố botulin type C là
khá cao, chiếm 40,48%; kế đến là mẫu huyết thanh chứa độc tố botulin type E
với tỷ lệ 28,57% và thấp nhất là mẫu huyết thanh chứa độc tố botulin type D
với 26,19%. Đặc biệt, kết quả thí nghiệm còn có sự kết hiện diện kết hợp của
type C + type D là 3,17% (4/126) và type C + type E là 1,59% (2/126). Sự
khác biệt về tỷ lệ hiện diện của độc tố botulin type C và type C, E là rất có ý
nghĩa (P < 0,05). Điều này có thể kết luận rằng bệnh botulism trên VCĐ ở
ĐBSCL phần lớn do độc lực type C, type D và type E của vi khuẩn C.
botulinum gây ra. Đặc biệt, kết quả thí nghiệm còn có sự kết hiện diện kết hợp
giưa type C + type D là 3,97% và giữa type C + type E là 1,59%.
Kết quả này cũng phù hợp với kết quả nghiên của Leighton (2000), tác
giả khảo sát độc tố botulism trên thủy cầm ở Canada cho thấy C. botulinum
type C là nguyên nhân gây ngộ độc ở vịt và các loài chim ăn cá tại các vùng
đất ngập nước và ở những nơi có nhiều đồng cỏ. Đặc biệt ở khu vực Great
Lakes đã có 22 loài thủy cầm được xác nhận là ngộ độc bởi C. botulinum type
E, hàng ngàn thủy cầm chết do nhiễm độc tố C. botulinum type E, chúng bị
chết nhiều nhất vào mùa hè và mùa thu hàng năm. Riêng năm 1998, hơn một
triệu thủy cầm hoang dã chết tại hồ Old Wives do ngộ độc C. botulinum type
C. Thêm vào đó, Skerratt et al., (2005) cho thấy có 59% số mẫu có C.
botulinum type E và tác giả cho rằng đây là nguyên nhân chính gây chết thủy
cầm trong những trận dịch lớn hoặc những trường hợp dịch xảy ra đột xuất.
Một nghiên cứu tại Hàn Quốc từ năm 2004-2008 cho thấy, 5 vụ ngộ độc ở
83
thuỷ cầm đã xảy ra làm ảnh hưởng 2.000 loài thuỷ cầm. Trong đợt dịch này,
độc tố type C của vi khuẩn C. botulinum đã được phát hiện trong huyết thanh
vịt, dịch ruột vịt và dòi từ xác thuỷ cầm. Ở Thụy Điển, Neimanis et al. (2007)
đã tiến hành một nghiên cứu từ năm 2000 đến năm 2004, tác giả đã khảo sát
hơn 10.000 loài chim biển, chủ yếu là mòng biển (Larus argentatus) chết
trong quần đảo Blekinge ở Đông Nam Thụy Điển. Tác giả đã tiêm truyền
huyết thanh của của con bệnh trên chuột và trung hòa độc tố, kết quả 69%
(11/16) mồng biển bị ngộ độc độc tố botulin type C. Tại Seoul của Hàn Quốc,
đã xảy ra vụ ngộ độc và gây chết trên 93 chim hoang dã, các loài chim đã
được tìm thấy dọc theo bờ của sông Hangang (tháng 10/2008). Các triệu
chứng lâm sàng đã được ghi nhận, khi tiến hành nghiên cứu đã phát hiện độc
tố type C của vi khuẩn C. botulinum trong huyết thanh của những con chim
hoang dã và đã tiến hành xét nghiệm sinh học trên chuột. Điều đáng quan tâm
trong kết quả này là không có vi khuẩn C. botulinum nào phân lập được từ xác
chết của chúng nhưng khi tìm độc tố trong dịch thực quản và dịch ruột thì phát
hiện độc tố type C của vi khuẩn C. botulinum (Woo et al., 2010). Tháng 8 năm
2011, Miền Bắc nước Ý đã bùng phát vụ ngộ độc ở các loài chim hoang dã và
các động vật khác tại bờ suối Crostolo, ở vùng Emilia Romagna, Ý. Nhóm
nghiên cứu đã tiến hành ghi nhận 20/28 mẫu dạ dày của vịt trời chết có giòi
(ấu trùng ruồi xanh giai đoạn 3). Nhóm tiến hành nghiên cứu và xác định:
nguyên nhân gây chết là do độc tố C. botulinum type C gây ra, độc tố được
xác định bằng một thử nghiệm trên chuột và khẳng định: độc tố trong huyết
thanh và ở ấu trùng ruồi xanh trong dạ dày của vịt chết (Defilippo et al., 2013)
4.3 Xác định các các yếu tố nguy cơ gây bệnh botulism trên VCĐ ở
ĐBSCL có bệnh botulism
4.3.1 Tình hình nhiễm vi khuẩn C. botulinum từ các mẫu đất và nước
trên ruộng
Bảng 4.11 cho thấy C. botulinum được tìm thấy trong 105/600 mẫu đất
đất ruộng được kiểm tra với tỷ lệ 17,5%, đồng thời có 118/600 (19,67%) mẫu
nước ruộng có sự hiện diện của vi khuẩn C. botulinum. Tỷ lệ này tương đối
84
cao. Điều này có thể là do môi trường đất và nước ở các khu vực nuôi ô nhiễm
vi khuẩn do xác động thực vật thối rữa, do sự bài xuất vi khuẩn từ một số vật
nuôi. Tất cả tạo điều kiện cho vi khuẩn C. botulinum tăng sinh phát triển. Sự
hiện diện của vi khuẩn trong đất ruộng và nước trên ruộng khác nhau không có
Bảng 4.11 Tỷ lệ nhiễm vi khuẩn C. botulinum từ các mẫu đất và nước trên ruộng
Loại mẫu
Đất ruộng (mẫu)
Nước trên ruộng (mẫu)
SL thí
Địa điểm
(n=600)
(n=600)
nghiệm
(mẫu)
SL dương
Tỷ lệ
SL dương
Tỷ lệ
tính (mẫu)
(%)
tính (mẫu)
(%)
An Giang
20
12,58a
25
15,72
159
Cần Thơ
22
15,60ab
25
17,17
141
Hậu Giang
27
18,75ab
31
21,53
144
Kiên Giang
36
23,08b
37
23,72
156
Tổng cộng
19,67
105
17,5
118
600
SL: số lượng
Những giá trị trong cùng một cột mang chữ số mũ khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê
ý nghĩa.
Kết quả từ bảng trên cho thấy tỷ lệ hiện diện của C. botulinum ở trong
đất ruộng ở Kiên Giang (23,08%) cao hơn đất ruộng thu thập ở các tỉnh khác,
sự khác biệt này rất có ý nghĩa. Điều này có thể là do địa hình tự nhiên của
những phương này tương đối không giống nhau. An Giang với địa hình tương
đối thấp hơn so với mực nước biển. Hàng năm, địa phương luôn đón nhận
những cơn lũ từ thượng nguồn sông Mekong đổ về, đất ruộng có vài tháng bị
ngập sâu trong nước. Đây cũng là thời gian cho đất đặc biệt là vi sinh vật trong
đất cũng bị chết đi và rửa trôi. Trong khi đó, Kiên Giang với địa hình đa dạng,
vừa có đồng bằng vừa có đồi núi và biển đảo. Đặc biệt, phần đất liền tương đối
bằng phẳng có hướng thấp dần từ hướng phía Đông Bắc xuống Tây Nam so
với mặt biển (Cục thống kê, 2012). Vì thế, nhiều vi khuẩn đặc biệt là những vi
khuẩn có nha bào hoặc sống yếm khí có thể được tích tụ, tồn tại và phát triển.
85
Trong nghiên cứu này, mẫu được thu thấp ở 3 huyện của tỉnh Kiên Giang
bao gồm huyện Giồng Riềng, Tân Hiệp và An Biên với tổng diện tích đất
trồng lúa của 3 huyện là 116.086 ha. Theo tỷ lệ trên, ước tính có khoảng
27.721ha diện tích đất trồng lúa của tỉnh bị nhiễm vi khuẩn C. botulinum, gần
bằng diện tích trồng lúa của huyện An Biên (28.436ha) (Ủy Ban Nhân dân
tỉnh Kiên Giang, 2019). Tập quán của người nông dân, vùng nào có đồng lúa
nhiều thì được tập trung chăn thả vịt chạy đồng ở đó để tận dụng lúa rơi vãi
sau thu hoạch và thức ăn thủy sinh trên cánh đồng. Có thể nói, đây là một yếu
tố tiềm ẩn của bệnh tật trên đàn vịt chạy đồng của Vùng đồng bằng sông Cửu
long và cũng là một điều đáng lưu tâm của những người làm công tác thú y.
Sự hiện diện với tỷ lệ của vi khuẩn C. botulinum trong đất ruộng và nước
có thể là hệ quả của sự tích lũy vi khuẩn này nhiều năm trong môi trường. Sự
tồn tại của vi khuẩn này trong môi trường chăn nuôi vịt cao như thế cảnh báo
nguy cơ ngộ độc botulin cho vịt chạy đồng rất cao. Trên thế giới cũng có
nhiều nghiên cứu về sự hiện diện của vi khuẩn C. botulinum trong đất như là
nghiên cứu của Hauschild (1989) phân lập được C. botulinum type A và B ở
các vùng trầm tích tại Bắc Mỹ. Bott et al. (1968) phân lập được C. botulinum
type E khu vực Great Lake, Canada. Các nước như Na Uy và Thụy Điển, Đan
Mạch, Hà Lan, Ba Lan, Nga, Anh đều phân lập có C. botulinum type E ở
những vùng đất ngập nước (Hauschild, 1989). Ý và Úc cũng phân lập được C.
botulinum type A và B trong bùn bã vùng đô thị và bùn biển (Creti et al.,
1990; Eales and Gillespie, 1947; Ohye and Scott, 1957). Khảo sát các ổ dịch
xảy ra trên thủy cầm tại Hoa kỳ, Kalmbach and Gunderson (1934) thuộc Đại
học Alberta cũng đã chứng minh có nguồn độc tố botulin tồn tại trong bùn bã
trầm tích tại nơi xảy ra bệnh. Các nghiên cứu trên cho thấy sự hiện diện của
C. botulinum là rất phổ biến trong đất và bùn bã hữu cơ ở những vùng có thủy
triều lên xuống.
86
4.3.2 Tình hình nhiễm vi khuẩn C. botulinum từ mẫu cua và ốc
Bảng 4.12 Tỷ lệ nhiễm vi khuẩn C. botulinum từ các mẫu cua và ốc ruộng
Loại mẫu
Cua
Ốc
Địa điểm
Số mẫu
Số mẫu
Tỷ lệ
Số mẫu
Số mẫu
Tỷ lệ
kiểm tra
dương
(%)
kiểm tra
dương
(%)
An Giang
63
5
7,94
4
3,77
106
Cần Thơ
42
3
7,14
3
3,19
94
Hậu Giang
50
4
8,00
2
2,08
96
Kiên Giang
61
6
9,84
3
2,88
104
216
18
8,33a
12
3,00b
Tổng cộng
400
Những giá trị trong cùng một hàng mang chữ số mũ khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê
trên ruộng
Bảng 4.12 cho thấy, sự hiện diện của vi khuẩn C. botulinum trên cua
(8,33%) cao hơn trên ốc (3,00%) và sự sai khác của hai tỷ lệ này rất có ý nghĩa
về mặt thống kê vi khuẩn C. botulinum với p<0,01. Bởi lẽ, ốc và cua là động
vật giáp xác có thể chứa vi khuẩn C. botulinum trong ruột do trong môi trường
nước (Dohms, 2008). Hơn nữa, vi khuẩn Clostridium spp. thường xuyên hiện
diện trong các vùng đất trầm tích, đầm lầy, ngập nước thường xuyên. Đây
cũng có thể là nguyên nhân làm ảnh hưởng đến tỷ lệ nhiễm vi khuẩn trên ốc và
cua (Wosbeser et al.,1987). Todar (2009) Giải thích về đặc điểm bệnh gắn liền
với thời tiết nóng ấm, cho rằng C. botulinum tồn tại trong đất, nhất là các vùng
bùn lắng trầm tích và tồn tại trong xác các loài nhuyễn thể. Vào mùa khô nắng,
đáy ao hồ, các lớp bùn trầm tích phơi ra nhiều hơn, khi vịt chạy đồng tìm mồi,
sục mỏ vào các lớp bùn đất trầm tích, tìm mồi trên bãi cạn và ăn phải các loài
ốc hến hay cá chết, làm cho tỷ lệ nghi mắc bệnh do C. botulinum gia tăng.
Những điều kiện tự nhiên thuận lợi trong sản xuất nông nghiệp ở Đồng
bằng Sông Cửu Long đã có nhiều ảnh hưởng quan trọng đến sản xuất gia cầm
truyền thống ở nhiều địa phương. Theo Bùi Xuân Mến và Đỗ Võ Anh Khoa
87
(2014), trên cơ sở canh tác nông nghiệp nhiều hệ thống chăn nuôi gia cầm đã
được người sản xuất áp dụng mà đặc biệt là phương thức sản xuất vịt- lúa kết
hợp ở Đồng bằng Sông Cửu Long là phổ biến nhất. Trong hệ thống này, khi
giai đoạn cây lúa đang sinh trưởng người chăn nuôi có thể thả vịt con vào
ruộng để ăn sâu rầy, ốc nhỏ. Vào thời kỳ thu hoạch lúa, người chăn thả vịt thịt,
vịt đẻ thả vào ruộng vịt tận dụng lúa rơi rụng và tất cả các loài động vật thủy
sinh mà vịt có thể ăn được. Với tỷ lệ phân lập vi khuẩn C. botulinum khá cao
8,33% và 3,00% trên cua và ốc cho thấy tiềm ẩn nguy cơ ngộ độc botulin của
vi khuẩn C. botulinum là có thể xảy ra. Mặt khác, vịt chạy đồng trở thành
nguồn bệnh mang đến các khu vực khác.
Kết quả thu được từ việc khảo sát điều kiện tự nhiên tại nơi chăn thả vịt
chạy đồng và từ phân vịt đã cho thấy C. botulinum luôn tồn tại tiềm ẩn trong
môi trường, và vịt có thể nhiễm bệnh từ môi trường nơi chăn thả.
4.4 Tính gây bệnh của vi khuẩn C. botulinum phân lập được trên vịt
bệnh và môi trường
4.4.1 Kiểm tra độ mẫn cảm kháng sinh của vi khuẩn C. botulinum
Hiện nay, kháng sinh được sử dụng rất phổ biến trong phòng và trị bệnh
trên gia súc gia cầm, lượng kháng sinh được sử dụng tăng lên một cách nhanh
chóng. Song song với việc gia tăng sử dụng kháng sinh về chủng loại và liều
lượng, dẫn đến vi khuẩn đề kháng với kháng sinh cũng ngày càng gia tăng.
Trong thực tế điều trị, kháng sinh ít được sử dụng trong điều trị bệnh do vi
khuẩn C. botulinum, nhưng khi sử dụng kháng sinh không kiểm soát cũng cần
lưu ý đến.
Mười loại kháng sinh được chọn để kiểm tra độ nhạy với hai trăm bốn
mươi mốt phân lập của vi khuẩn C. botulinum phân lập được, kết quả được
trình bày ở Bảng 4.13.
88
kháng sinh
Clostridium botulinum (n=241)
Viết
Nhạy cảm
Trung gian
Đề kháng
Loại kháng sinh
tắt
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
mẫu
(%)
mẫu
(%)
mẫu
(%)
Amikacin
Ak
139
57,68
81
33,61
21
8,71
Ampicillin
Am
0
0
212
29
12,03
Bảng 4.13 Tỷ lệ độ nhậy của vi khuẩn C. botulinum phân lập được với một số loại
87,97
Amoxicillin
Ax
31
12,86
189
21
8,71
78,42
Ceftiofur
Cf
235
6
2,49
0
0
97,51
Cephalexin
Cp
58
24,07
160
66,39
23
9,54
Doxycycline
Dx
237
1,66
0
0
4
98,34
Florfenicol
FFc
0
0
241
0
0
100
Fosformycin
Fos
0
0
241
0
0
100
0
0
241
0
0
Marbofloxacin
Ma
100
0
0
9
Norfloxacin
Nr
232
3,73
96,27
Kết quả ở Bảng 4.13 cho thấy có 6/10 loại kháng sinh được chọn thử độ
nhạy với vi khuẩn C. botulinum phân lập được cho kết quả nhạy cảm (95-
100%). Trong đó, các kháng sinh như florfenicol, fosformycin và
marbofloxacin nhạy 100% với các vi khuẩn C. botulinum. Mặc dù việc điều trị
ngộ độc botulin của vi khuẩn C. botulinum là dùng kháng độc tố botulin thì có
hiệu quả cao nhưng điều này không có ý nghĩa kinh tế trong điều trị bệnh gia
cầm hoặc chim trĩ (Dohms, 2008). Nhưng, người chăn nuôi có thể lựa chọn
các kháng sinh rẻ và phổ biến của địa phương để diệt vi khuẩn sinh độc tố
nguy hiểm đến sức khỏe của gia cầm cũng là điều đáng quan tâm. Kết quả
nghiên cứu này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Đức Hiền (2012),
về sự nhạy cảm của vi khuẩn C. botulinum đối với kháng sinh cũng cho thấy,
vi khuẩn này nhạy cảm hoàn toàn với norfloxacin, fosfomycin, ceftiofur.
89
Sự mẫn cảm và đề kháng của C. botulinum đối với kháng sinh cũng được
nhiều tác giả khảo sát cho thấy sự phụ thuộc vào thời điểm khảo sát, vùng địa
lý. Theo nghiên cứu của nhiều tác giả thì hầu hết C. botulinum kháng với
kháng sinh như nhóm aminoglycosid (Johnson et al., 2007), một số chủng
kháng với tetracycline và cephalosporins (Dezfulian and Dowell, 1980),
Nalidixic acid và sulphamethoxazole/trimethoprim (Fenicia et al., 2003).
Trong khi đó, nghiên cứu của Swenson et al., (1980) về kiểm tra mức độ mẫn
cảm của 224 chủng C. botulinum phân lập từ người bị ngộ độc với 13 loại
kháng sinh là tetracycline, metronidazole, erythromycin, penicillin, rifampin,
chloramphenicol, clindamycin, cephalothin, cefoxitin, vancomycin,
sulfamethoxazol-trimethoprim, acid nalidixic, và gentamicin bằng phương
pháp MIC (nồng độ ức chế vi khuẩn tối thiểu). Kết quả cho thấy có ít nhất
90% số chủng C. botulinum được kiểm tra (trừ các chủng non-proteolytic của
độc tố loại F với penicillin) đều nhạy cảm với tất cả các loại kháng sinh, trừ
trimethoprim-sulfamethoxazole, acid nalidixic và gentamycin.
Bên cạnh các kháng sinh rất nhạy cảm với vi khuẩn C. botulinum phân
lập được thì cũng có những kháng sinh xuất hiện dấu hiệu bị đề kháng. Trong
Bảng 4.13, các chủng vi khuẩn C. botulinum đề kháng với amikacin,
ampicillin, amoxicillin và cephalexin với tỷ lệ lần lượt là 8,71%; 12,03%;
8,71% và 9,54%. Các tỷ lệ này tuy không cao nhưng cũng cảnh báo có sự đề
kháng với kháng sinh của vi khuẩn C. botulinum. Nguyên nhân này có thể giải
thích là do vi khuẩn C. botulinum là vi khuẩn thường trú trong hệ tiêu hoá của
vịt nên các loại kháng sinh đã được sử dụng điều trị bệnh hoặc bổ sung vào
thức ăn để phòng bệnh cho vịt đều có tác dụng kích thích C. botulinum biến
đổi di truyền hình thành khả năng kháng thuốc. Vì thế, những thông tin về tính
nhạy cảm và đề kháng đối với từng loài vi khuẩn Clostridium cụ thể là những
số liệu hữu ích cho những người làm công tác điều trị.
90
4.1.2 Sự đa kháng của vi khuẩn C. botulinum phân lập được với một
số loại kháng sinh
Với đặc điểm biến đổi để thích ứng với môi trường sống khắc nghiệt, vi
khuẩn cũng có những thích nghi trong đó phải kể đến là sự đề kháng lại với
kháng sinh. Bảng 4.14 dưới đây thể hiện sự đa đề kháng của vi khuẩn C.
botulinum phân lập được từ những vịt bị liệt mềm cổ và môi trường chăn nuôi
Bảng 4.14 Kết quả khảo sát tính đa kháng của vi khuẩn C. botulinum với một số loại
kháng sinh (n=241)
Số loại kháng
Số kiểu đa
Kiểu hình đa
Số chủng
Tổng
Tỷ lệ chung
sinh kháng
kháng
kháng
(%)
vi khuẩn
đề kháng
Ak-Am
4
Ak-Ax
3
Ak-Cp
2
2
6
23
9,54
Am-Ax
10
Am-Cp
3
Ax-Cp
1
Ak-Am-Ax
1
Ak-Am-Cp
2
3
4
13
5,39
Ak-Ax-Cp
2
Am-Ax-Cp
8
Ak-Am-Ax-Cp
6
4
1
6
2,49
11
Tổng
42
những vịt này.
Bảng 4.14 chỉ ra rằng có 42 trong tổng số 241 phân lập C. botulinum đề
kháng với từ 2-4 loại kháng sinh trong tổng số 10 loại kháng sinh khảo sát,
gồm 11 kiểu tổ hợp đề kháng kháng sinh. Trong đó, vi khuẩn C. botulinum đề
kháng với 2 loại kháng sinh chiếm tỷ lệ cao nhất (9,54%). Kiểu tổ hợp đề
91
kháng phổ biến nhất là với 2 loại kháng sinh Am-Ax. Trong nghiên cứu này
có 6 phân lập của vi khuẩn kháng đến 4 loại kháng sinh.
Sự đề kháng kháng sinh của vi khuẩn có thể chia làm 2 loại, đó là đề
kháng tự nhiên và đề kháng thu được. Đề kháng tự nhiên là tình trạng chi hoặc
vài loài vi khuẩn nào đó không nhạy với kháng sinh, điều này có thể do vi
khuẩn thiếu cấu trúc đích cho tác động của kháng sinh. Ngoài ra, việc đề
kháng với kháng sinh của vi khuẩn còn có thể do thành tế bào không có kháng
sinh thấm qua. Đề kháng thu được là kết quả của sự thay đổi trong hẹ gene bởi
đột biến hoặc sự truyền nganh thông tin di truyền từ các vi khuẩn khác
(Guardabbasi and Couvalin, 2006). Bên cạnh đề kháng tự nhiên của vi khuẩn
đối với một số loại kháng sinh, đề kháng kháng sinh của vi khuẩn hiện nay
phần lớn là do kết quả của sự đột biến tự nhiên và chuyển gene. Quá trình này
giúp cho vi khuẩn có thể chống lại tác động của một số loại kháng sinh nào đó,
làm cho kháng sinh trở nên mất hiệu lực. Những vi khuẩn này sử dụng nhiều
cơ chế có được để có thể đề kháng với nhiều loại kháng kháng sinh như thay
đổi vách tế bào tránh tác động của kháng sinh, tiết enzyme làm bất hoạt kháng
sinh, giảm tính thấm của màng tế bào ngăn cản xâm nhập của kháng sinh, thay
đổi điểm tiếp nhận làm mất khả năng gắn kết của kháng sinh, đẩy kháng sinh
bằng cơ chế bơm thoát dòng làm giảm nồng độ của kháng sinh trong tế bào vi
khuẩn, gia tăng tỷ lệ đột biến như là cách đáp ứng đối với tình huống bất lợi.
Sự đa đề kháng kháng sinh ở vi khuẩn hầu hết có liên quan đến sự hiện diện
của plasmid có chứa một hay nhiều gene đề kháng, mỗi gene mã hóa cho một
kiểu hình đề kháng với một loại kháng sinh (Clewell, 1981; Fosster, 1983).
Ngoài ra, một số nghiên cứu gần đây cũng cho thấy sự đa đề kháng với kháng
sinh của vi khuẩn cũng có liên quan đến những đột biến gene ở nhiễm sắc thể,
trong đó những đơn vị hoạt động DNA (operon) có chứa những gene mã hóa
cho yếu tố đa đề kháng kháng sinh bao gồm những biến đổi giúp cho vi khuẩn
có thể bơm thoát dòng kháng sinh (Herbert et al., 1991; Sharma et al., 2017).
Sự đa đề kháng với kháng sinh của vi khuẩn C. botulinum có thể là kết quả
của việc gia tăng sử dụng nhiều loại kháng sinh trong phòng và trị bệnh gia
cầm dẫn đến sự tích lũy biến dị chọn lọc làm cho vi khuẩn đề kháng với nhiều
92
loại kháng sinh. Do đó, việc lựa chọn kháng sinh còn hiệu lực tốt với vi khuẩn
C. botulinum là vấn đề cần được chú ý để bảo vệ vật nuôi và giảm thiểu sự đề
kháng với kháng sinh của vi khuẩn.
4.4.3 Thử nghiệm độc tố botulin trên vịt
Trong các nội dung nghiên cứu liên quan đến vi sinh vật, việc kiểm tra
tính gây bệnh của một loại vi sinh vật gây bệnh thực nghiệm là điều cần thiết.
Điều này phục vụ cho việc kiểm chứng một số ảnh hưởng của vi sinh vật gây
bệnh trên vật nuôi, đồng thời kiểm tra một số triệu chứng và bệnh tích trên vật
nuôi thông qua việc tiêm truyền vi khuẩn gây bệnh. Trong nghiên cứu này,
những phân lập của vi khuẩn C. botulinum sau khi được kiểm chứng trên
chuột bạch về tính gây bệnh, các chủng này được chọn để gây bệnh thực
nghiêm trên vịt chạy đồng. Kết quả được ghi nhận như sau:
Để khảo sát khả năng gây bệnh của độc tố botulin của 32 mẫu dịch lọc có
chứa độc tố qua đường tiêm và uống, và ở ô thử nghiệm đối chứng được tiến
hành trên 8 con vịt khỏe mạnh được nuôi dưỡng và chăm sóc trong cùng điều
Bảng 4.15 Tỷ lệ vịt chết sau 7 ngày thử độc tố botulin
Thí
Đường cấp
Số vịt
Số mẫu
Số mẫu
Tỷ lệ
Số mẫu
Tỷ lệ
nghiệm
thí
dịch lọc
dịch lọc
(%)
dịch lọc
(%)
nghiệm
thí
gây chết
gây bất
nghiệm
thường
Lô thí
Đường
90
32
23
71,88
9
28,12
nghiệm
tiêm/uống
Lô đối
Không tác
8
0
0
0
0
chứng
động
kiện kết quả thể hiện ở Bảng 4.15.
Kết quả ở Bảng 4.15 cho thấy 100% (32/32) mẫu thí nghiệm đều có ảnh
hưởng không tốt đến sức khỏe của vịt thí nghiệm, trong đó có 23/32 mẫu làm
vịt chết, chiếm 71,88%. Từ kết quả ghi nhận trên cho thấy khả năng gây bệnh
của botulin thu được từ những phân lập của vi khuẩn C. botulinum là rất cao.
Kết quả trên phù hợp với nghiên cứu trước đó của Nguyễn Đức Hiền và Phạm
93
Mạnh Hùng (2012) và cũng phù hợp với kết quả thí nghiệm của một số tác giả
như Notermans et al. (1980) hay Jensen and Duncan (1980) khi nghiên cứu
gây nhiễm cho vịt qua đường tiêm gây chết nhiều hơn đường uống.
4.4.4 Những triệu chứng lâm sàng trên vịt thử nghiệm độc tố
Kết quả ở Bảng 4.16 cho thấy vịt có những biểu hiện đặc trưng của ngộ
độc botulin như vịt giảm ăn, cũng như có biểu hiện ủ rủ, ít đi lại chỉ đi lại khi
bị dồn đuổi, xù lông, giảm ăn, giảm đẻ chiếm tỷ lệ 100%, đặc biệt triệu chứng
liệt cổ chiếm 92,19%, liệt mí mắt, dãn đồng tử với tỷ lệ 76,19%, liệt chân
chiếm 60,94%, tiêu chảy phân trắng - xanh chiếm 35,94% so với ô đối chứng
Bảng 4.16 Triệu chứng lâm sàng trên vịt thử nghiệm độc tố botulin (n=64)
Triệu chứng
Đối
Số vịt thí nghiệm có
Tỷ lệ
chứng
biểu hiện triệu chứng
(%)
Ủ rũ, kém vận động
90
0/8
thì vịt khỏe mạnh, không có những biểu hiện bất thường nào.
100,00
Xù lông, rụng lông
90
0/8
100,00
Liệt mí mắt, giãn đồng tử
60
67,19
0/8
Liệt cổ
83
0/8
92,19
Liệt chân
55
60,94
0/8
Giảm ăn
90
0/8
100,00
Giảm đẻ
90
0/8
100,00
32
35,94
0/8
Tiêu chảy phân trắng – xanh
Những biểu hiện bất thường trên vịt là do bị tác động bởi độc tố botulin
của vi khuẩn C. botulinum. Kết quả trên phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn
Đức Hiền (2012) là vịt ủ rủ, kém vận động chiếm tỷ lệ 100%, liệt cổ chiếm
80%, liệt chân chiếm 65%, liệt mí mắt chiếm tỷ lệ 50%, tiêu chảy phân xanh
chiếm 15% và chảy nước mũi chiếm 20%. Burgen et al. (1949) cũng đã cho
thấy rằng độc tố botulin gây ức chế các dây thần kinh cơ, ảnh hưởng thần kinh
94
trung ương, thần kinh cơ vận động và cả cơ miệng, cơ mắt, việc này làm xuất
hiện triệu chứng chậm vận động, chân sau yếu.
Kết quả khảo sát về các biểu hiện triệu chứng lâm sàng sau khi gây
nhiễm thực nghiệm ở vịt trong nghiên cứu này phù hợp với một số nghiên cứu
về việc gây nhiễm độc tố botulin trên một số loài gia cầm. Theo tác giả Dohms
(1987) nhận định là triệu chứng lâm sàng ở vịt, gà, gà tây, gà lôi thì tương tự
nhau, chủ yếu là liệt chân, cánh, cổ và mí mắt. Chính vì triệu chứng điển hình
này mà lúc đầu bệnh được đặt tên “chứng cổ mềm” (Limberneck). Và ở gà các
Hình 4.8 Lông xù, rụng lông
Hình 4.9 Liệt mi mắt
Hình 4.10 Phân chảy trắng- xanh
Hình 4.11 Liệt mềm cổ
tài liệu còn mô tả còn có biểu hiện xù lông, rụng lông.
95
4.4.5 Khảo sát bệnh tích đại thể trên vịt thử nghiệm độc tố botulin
Qua theo dõi khả năng gây độc của 32 mẫu canh khuẩn C. botulinum trên
tổng số 64 con vịt sau khi gây bệnh thực nghiệm với đường tiêm tĩnh mạch.
Những vịt chết và vịt có những biến đổi bất thường được tiến hành mổ khám
sau 14 ngày và bệnh tích được ghi nhận qua bảng 4.17.
Bảng 4.17 cho thấy vịt ở ô thử nghiệm độc tố botulin qua đường tiêm
thì xuất hiện bệnh tích nỗi bật như phổi tụ huyết, gan xuất huyết, và ruột sinh
hơi, trống thức ăn còn bệnh tích trên các cơ quan khác chiếm tỷ lệ nhỏ.
Trong khi đó vịt ở ô đối chứng khi mổ khám thì không phát hiện bệnh tích
Bảng 4.17 Kết quả khảo sát bệnh tích đại thể trên vịt thử nghiệm độc tố botulin
(n=64)
Đối chứng
Số vịt thí nghiệm có
Tỷ lệ
Bệnh tích
biểu hiện bệnh tích
(%)
Phổi tụ huyết
52
0/8
nào trên các mô.
81,25a
19
29,69b
0/8
Lách sưng – xuất huyết
Gan xuất huyết
59
0/8
92,19a
Thận xuất huyết
21
32,81b
0/8
Ruột sinh hơi, trống thức ăn
57
0/8
89,06a
Kết quả từ bảng trên cho ta thấy, bệnh tích gan xuất huyết là cao nhất
chiếm 92,19% (59/64), tiếp theo là bệnh tích ruột trống thức ăn, sinh hơi
chiếm 89,06%), kế tiếp là phổi tụ huyết chiếm tỷ lệ 81,25%, còn ruột sinh
hơi, trống thức ăn chiếm 89,06%. Theo nghiên cứu của Nguyễn Đức Hiền
(2012) thì bệnh tích ghi nhận từ vịt chết do nhiễm độc tố C. botulinum là tim
xuất huyết chiếm tỷ lệ 15% và phổi xuất huyết chiếm tỷ lệ 10%. Vào mùa
khô lượng nước ở những hồ ao, ruộng đồng nơi chăn thả vịt xuống thấp, kết
hợp với nhiệt độ tăng tạo điều kiện cho xác động thực vật phân hủy và thối
rữa nhanh hơn, là môi trường tốt cho C. botulinum phát triển và sản sinh
nhiều độc tố.
96
Nghiên cứu này phù hợp với mô tả của Nguyễn Đức Hiền (2017) cũng
như nhiều tài liệu khác cho thấy hầu hết các trường hợp ngộ độc do độc tố
botulin đều không thể hiện bệnh tích đặc trưng. Theo Nguyễn Đức Hiền
(2017) độc tố botulin thường không có bệnh tích đại thể và vi thể được ghi
nhận, chỉ thấy đường tiêu hóa trống không ngoài ra ảnh hưởng của độc tố
botulin chủ yếu thấy phổ biến ở tim và phổi. Và theo Jensen and Duncan
(1980), khi nghiên cứu về độc tố botulin ở thuỷ cầm hoang dã đã gây nhiễm
cho vịt trời bằng độc tố botulin type C, thì thấy hầu hết các trường hợp vịt chết
bởi ngộ độc botulin là do liệt hô hấp, xuất huyết, phù phổi, ngoài ra không
phát hiện bệnh tích đặc trưng nào.
Qua kết quả trên chứng tỏ mẫu canh khuẩn thử nghiệm có sự hiện diện của
độc tố botulin. Các độc tố được hấp thu ở phần trên của ruột non và đi đến mạch
máu thông qua hệ bạch huyết qua đường uống cũng như được tiêm truyền trực
tiếp vào máu qua đường tiêm. Độc tố botulin của vi khuẩn C. botulinum không
giống như độc tố khác có hoạt động cục bộ trong ruột, chúng ảnh hưởng đến
chủ yếu là các dây thần kinh tiết acetylcholine của hệ thần kinh ngoại vi, làm
tổn thương hệ thần kinh trung ương (đặc biệt là đến các tín hiệu từ não đến cơ
bắp), gây liệt cơ rõ nhất là liệt cơ mắt (không có phản ứng với ánh sáng, song
thị), liệt cơ vòm miệng, lưỡi hầu, gây nên biến dạng mặt, nguy hiểm nhất là gây
liệt trung tâm hô hấp, tim dẫn đến tử vong cao (Burgen, 1949).
Từ những triệu chứng lâm sàng và bệnh tích quan sát được trong
những thí nghiệm trên, chúng ta có thể xác định bệnh “liệt mềm cổ” xảy ra
trên vịt chạy đồng trong thời gian qua là do nhiễm phải độc tố botulin của vi
khuẩn C. botulinum.
97
Hình 4.12 Phổi vịt tụ huyết
Hình 4.13 Gan vịt xuát huyết
Hình 4.14 Ruột vịt trống thức ăn
Hình 4.15 Ruột vịt sinh hơi
98
Chương 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
5.1 Kết Luận
Độc tố botulin của vi khuẩn C. botulinum là nguyên nhân chính gây chứng
liệt mềm cổ trên vịt chạy đồng tại một số tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.
Bệnh liệt mềm cổ trên vịt thường xảy ra ở những vịt chạy đồng, trong đó
vịt thịt chiếm 40,48% (170/420) và vịt đẻ chiếm 59,52% (250/420). Bệnh xảy
ra thường xuyên trong năm, đặc biệt là vào mùa nắng (từ tháng 12 của năm
này đến tháng 5 của năm sau) thì bệnh xảy ra nhiều hơn mùa mưa.
Độc tố botulin trong huyết thanh của vịt bệnh được xác định bằng việc
tiêm truyền huyết thanh đã qua lọc cho chuột thu kết quả 100% chuột bị chết
hoặc có biểu hiện bất thường.
Phản ứng trung hòa giữa độc tố trong huyết thanh vịt bệnh với kháng độc
tố chuẩn đã xác định độc tố botulin type C hiện diện cao nhất (40,48%), độc tố
type E và D cũng được phát hiện với tỷ lệ lần lượt là 28,57% và 26,19%. Đặc
biệt, huyết thanh vịt bệnh có sự nhiễm ghép độc tố type C + D 3,97% và type
C + E 1,59%.
Vi khuẩn C. botulinum phân lập từ mẫu phân và gan thu thập từ vịt có
triệu chứng liệt mềm cổ với tỷ lệ lần lượt là 25,24% và 21,37%. Khi kiểm tra
các mẫu môi trường chăn thả vịt thì đều phát hiện sự hiện diện của vi khuẩn
C. botulinum trong đất ruộng, nước trên ruộng, cua vừa chết và ốc với tỷ lệ
lần lượt là 17,5%; 19,67%; 8,33% và 3,99%.
Những phân lập của vi khuẩn C. botulinum từ các mẫu vịt bệnh liệt
mềm cổ và môi trường chăn nuôi vịt đều nhạy cảm hoàn toàn với một số
kháng sinh như florfenicol, fosformycin, marbofloxacin, doxycylin, ceftiofur
và norfloxacin. Vi khuẩn này cũng đề kháng với nhiều loại kháng sinh, trong
đó có 6/42 phân lập của vi khuẩn đề kháng với cùng lúc 6 loại kháng sinh
(chiếm 2,49%).
Gây bệnh thực nghiệm trên chuột bạch bằng độc tố botulin trong huyết
tahnh vịt bệnh và gây bệnh cho vịt đẻ bằng độc tố từ vi khuẩn C. botulinum
phân lập được đều cho kết quả 100% chuột và vịt đều bị ảnh hưởng của độc tố
botulin (bị chết hoặc bất thường). Các triệu chưng thường gặp như con vật ủ
99
rũ, kém vận động, liệt cổ, liệt chi, liệt mí mắt. Bệnh tích thường gặp là phổi
phù- xuất huyết, ruột trống thức ăn, gan – thận – lách xuất huyết.
5.2 Đề nghị
Cần xác định nguồn lây nhiễm mầm bệnh từ môi trường chăn nuôi và vịt
chạy đồng thông qua việc sử dụng các kỹ thuật phân tử để chẩn đoán vi khuẩn
C. botulinum từ vịt bệnh và môi trường chăn nuôi vịt.
Nghiên cứu điều chế kháng độc tố từ nguồn vi khuẩn thực địa tại Đồng
bằng sông Cửu Long để giải độc kịp thời cho vịt bị trúng độc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng việt
100
1. Bùi Bá Bổng, 2008. Cẩm nang phòng chống bệnh cúm gia cầm thể độc lực
cao (H5N1). NXB Nông Nghiệp, Hà Nội.
2. Bùi Xuân Mến, Đỗ Võ Anh Khoa, 2014. Giáo trình Chăn Nuôi Gia Cầm.
NXB Đại học Cần Thơ, Trang 294-307.
3. Cục thống kê, 2017. Niên giám thống kê. NXB thống kê
4. Chi Cục Thú Y thành phố Cần Thơ, 2016. Báo cáo tổng kết công tác thú y
năm 2013 đến năm 2016.
5. Hồ Thị Việt Thu và Nguyễn Đức Hiền, 2017. Giáo trình Bệnh truyền
nhiễm gia súc gia cầm. NXB Đại Học Cần Thơ, trang 151-154.
6. Huỳnh Thị Mỹ Lệ, 2010. Nghiên cứu tình hình nhiễm và vai trò của vi
khuẩn Closridium perfringens trong hội chúng tiêu chảy ở bò, lợn nuôi tại
Hà Nội và một số vùng lân cận. Luận án Tiến sỹ Nông Nghiệp.
7. Lâm Minh Thuận và Chế Minh Hùng, 2004. Kỹ thuật chăn nuôi thủy cầm
(Vịt, ngang, ngỗng). Nhà xuất bản Nông Nghiệp TP. Hồ Chí Minh, trang
25-29.
8. Lê Huy Chính, 2003. Vi sinh y học. NXB Y Học, Hà Nội.
9. Lê Văn Sơn, 2011. Nghiên cứu một số đặt tính của vi khuẩn Clostridium
perfringens gây viêm ruột tiêu chảy ở dê và cừu tại một số tỉnh Nam Trung
Bộ và biện pháp phòng trị. Luận án Tiến sỹ Nông nghiệp, tại Viện Thú y
Quốc gia.
10. Mai Văn Nam, 2008. Hiệu quả chăn nuôi vịt đẻ chạy đồng ở ĐBSCL. Tạp
chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 09: 76-85.
11. Nguyễn Bá Hiên, 2001. Một số vi khuẩn đường ruột thường gặp và biến
động của chúng ở gia súc khỏe mạnh và bị tiêu chảy tại vùng ngoại thành
Hà Nội. Điều trị thử nghiệm. Luận án Tiến sĩ Nông Nghiệp, Trường Đại
Học Nông Nghiệp I.
12. Nguyễn Đức Hiền, 2017. Giáo trình Bệnh Truyền Nhiễm Gia Cầm.
NXB Đại học Cần Thơ, Trang 101-111.
13. Nguyễn Đức Hiền, Phạm Mạnh Hùng, 2012. Độc tính và tính gây bệnh
trên vịt của độc tố vi khuẩn Clostridium botulinum phân lập tại thành phố
Cần Thơ. Tạp chí khoa học 2012 số 22c:40-46.
101
14. Nguyễn Đức Hiền, 2012. Phân lập và xác định tính nhạy cảm kháng sinh
của vi khuẩn Clostridium botulinum trên vịt và môi trường chăn thả tại
thành phố Cần Thơ. Tạp chí khoa học số 2012 số 22c:64-71.
15. Nguyễn Lân Dũng, Đoàn Xuân Mượu, Nguyễn Phùng Tiến, Đặng Đức
Trạch, 1972. Một số phương pháp nghiên cứu vi sinh vật học. NXB
KHKT Hà Nội.
16. Nguyễn Như Thanh, Nguyễn Bá Hiên, Trần Thị Lan Hương, 2001. Vi
sinh vật học thú y. NXB Nông nghiệp Hà Nội.
17. Nguyễn Như Thanh, Nguyễn Đường, Nguyễn Khắc Tuấn, Nguyễn Thị
Bích Lộc, Nguyễn Bá Hiên, 2004. Vi sinh vật đại cương. NXB Nông
nghiệp Hà Nội.
18. Nguyễn Thiện, Lê Xuân Hồng và Nguyễn Công Quốc, 2005. Xóa đói
giảm nghèo bằng phương thức chăn nuôi kết hợp vịt-cá-lúa. Nhà xuất bản
Nông nghiệp, trang 9-19
19. Nguyễn Thượng Chánh, 2007. Tìm hiểu bệnh botulism. Tạp chí Y Dược
Ngày Nay.
20. Nguyễn Vĩnh Phước, 1977. Vi Sinh Vật Học Thú Y. Nhà xuất bản Đại
Học và Trung Học Chuyên Nghiệp – Hà Nội 1977.
21. Phùng Đức Tiến, 2013. Cẩm Nang Chăn Nuôi Vịt Ở Việt Nam. NXB
Nông Nghiệp.
22. Thái Hà- Đặng Mai, 2011. Kỹ thuật nuôi và chăm sóc vịt. NXB
Hồng Đức.
23. Trần Linh Thước, 2010. Xây dựng quy trình và chế tạo các bộ Kit PCR
để xét nghiệm các vi khuẩn gây bệnh, gây ngộ độc thực phẩm. NXB ĐH
Quốc gia Tp.HCM.
24. Trần Thị Dân, 2007. Giáo trình dịch tễ học thú y. Đại Học Nông Lâm
thành phố Hồ Chí Minh.
25. Peck, MW (2009). "Sinh học và phân tích bộ gen của vi khuẩn
Clostridium botulinum". Những tiến bộ trong sinh lý của vi sinh vật.
Những tiến bộ trong vi sinh vật Sinh lý học.
102
Tiếng anh
1. Alvarez-Perez S, Blanco JL, Bouza E, P Alba, Gibert X, Maldonado J,
Garcia ME, 2009. Prevalence of Clostridium difficile in diarrhoeic and
non-diarrhoeic piglets. Vet Microbiol, 137 (3-4): 302-305.
2. Anderson MW, Sharma K, Feeney CM, 1997. Wound botulism associated
with black tar heroin. Acad Emerg Med, 4: pp. 805-809
3. Anonymous, 2006. Investigation into Outbreaks of Clostridium
4. Aureli, P., L. Fenicia, B. Pasolini, M. Gianfranceschi, L. M. McCroskey, and C.
L. Hatheway, 1986. Two cases of type E infant botulism caused by
neurotoxigenic Clostridium butyricumin Italy. J. Infect. Dis. 154: pp. 207–211.
5. Arnon SA, Schecter R, Inglesby TV, Henderson DA, Bartlett JG, et al.,
2001. Botulinum toxin as a biological weapon. JAMA 285: pp. 1059–1070
6. Balauca N, 1978. Experimentelle Untersuchungen über die Clostridien
Infektion und Intoxikation bei Geflügel, unter besonderer
Berücksichtigung der Kokzidiose Arch Vet, 13:127-141.
7. Bauer A.W., Kirby W.M., Sherris J.C., 1966. Antibiotic susceptibility
testing by a standardized single disk method. Am. J. Clin. Pathol., 45, pp.
493-496.
8. Bauer A.W., Kirby W.M., Sherris J.C., Turck M., 1996. Antibiotic
susceptibility testing by a standardized single disk method. American
Journal of Clinical Pathology,45(4): pp.493–496.
9. Bell J.F., George W.S., Hubert A.A., 1955. A microenvironment concept
of the epizoology of avian botulism. Journal Wildlife Management, 19;
pp.352-357
10. Beier, R., G. Amtsberg, and M. Peters, 1994. Bacteriological
investigation of the occurrence and significance of Clostridium difficile
in horses. Pferde-heilkunde 10:3–7
11. Bengtson I.A, 1922. Preliminary note on a toxin-producing anaerobe isolated
from the larvae of Lucilia caesar. Public Health Rep 37: pp.164-170.
12. Berkhoff & H. A , 1991. Ulcerative enteritis (quail disease). p. 258–264.
13. Boroff D.A.., Reilly J.R., 1959. Studies of the toxin of Clostridium
botulinum. V. Prophylactic immunization of pheasants and ducks against
avian botulism. J Bacteriol 77: pp.142-146.
103
14. Bott., 1968. Possible origin of the fish incidences of Clostridium
botulinum type E in an inland bay (Green Bay of Lake Michigan). J.
Bacteriol 95: p.1542.
15. Bruggemann H., Gottschalk G., 2009. Clostridia: Molecular Biology in the
Post-genomic Era”. Caister Academic Press. ISBN 978-1-904455-38-7.
16. Burgen. S. V., Dickến & Zatman. J., 1949. The action of botulinum toxin
on the neuromuscular junction. Journal of Physiology 109, 10-24.
17. Burke, G. S., 1919. The occurrence of Bacillus botulinus in nature. J
Bacteriol, 4, pp. 541–53
18. Bushara K.O., Park D.M., 1994. Botulinum toxin and sweating. Neurol
Neurosurg Psychiatry 1994; p.57
19. Carle, Rattone. G ,1884. Studio Sperimentale sull’ eziologia del tetano.
Gior. R. A cad. Med. Torino 32.174-180.
20. Cato, E. P., W. L. George, and S. M. Finegold, 1986. Genus Clostridium,
p.1141–1200. In P. H. A. Sneath, N. S. Mair, M. E. Sharpe, and J. G.
Holt(ed.), Bergey’s manual of systematic bacteriology, vol. 2. Williams
and Wilkins, Baltimore, Md.
21. Caya, James G; Agni, Rashmi; Miller, Joan E., 2004. Clostridium
botulinum and the Clinical Laboratorian: A Detailed Review of Botulism,
Including Biological Warfare Ramifications Botulinum Toxin.
22. CDC, 1998. ‘Handbook for epidemiologists, clinicans, and laboratory
workers’. Botulism in the United statea, 1899-1996
23. CLSI (Clinical and Laboratory Standards Institute), 2014. Performance
Standards for Antimicrobial Susceptibility Testing; Twenty- Fourth
International Supplement. M100-S24, Vol 34 N1. CLSI, Wayne,
Pennsylvania
24. Cherington M., 1998. Clinical spectrum of botulism. Muscle Nerve, 21:
701-710.
25. Cook L. Victor, Wei Hwa Lee, Charles P. Lattuada and Gerri M.
Ransom, 1998. Methods for the detection of clostridium Botulinum
toxins in meat and poultry products. In USDA/ FSIS Microbiology
Laboratory Guidebook, 3rd edition
104
26. Clark W.E., 1987. Avian botulism” In Eklund M.W., and Dowell V.R.,
(eds.), Avian Botulism: An International Perspective. Charles C.
Thomas: Springfield, IL, pp. 89-105
27. Conrad M.E., and Barton C., 1981. Factors affecting iron balance. Am J
Hematol 10: pp. 199-225.
28. Cordoba, J.J., Collins, M.D. and East, A.K., 1995. Studies on the gene
encoding botulinum neurotoxin type A of Clostridium botulinum from a
variety of sources. Systematic and Applied Microbiology 18, pp. 12–22
29. Creti R., Fenicia J., Aureli P., 1990. Occurrence of Clostridium
botulinum in the soil of the vicinity of Rome. Curr. Microbiol 20: p.317
30. Daniel Leclair, Jeffrey M. Farber, Bill Doidge, Burke Blanchfield, Sandy
Suppa, Franco Pagotto and John W. Austin, 2013. Distribution of
Clostridium botulinum Type E Strains in Nunavik, Northern Quebec,
Canada. Appl. Environ. Microbiol. vol. 79 no. 2, pp. 646–654
31. Dean J.A., 1992. Lange’s handbook of chemistry” 14th edition. McGraw-
Hill: New York.
32. Debast SB, van Leengoed LA, Goorhuis A, Harmanus C, Kuijper EJ,
Bergwerff AA., 2009. Clostridium difficile PCR ribotype 078 toxinotype
V found in diarrhoeal pigs identical to isolates from affected
humans.Environ Microbiol. 11(2):505 – 511.
33. Deprez, P.R., 2006. Tetanus and botulism in animals. In: Mainil, J. (Ed.),
Clostridial in Medical, Veterinary and Food Microbiology- Diagnosis
and Typing. European Commission, Luxembourgy, pp.27-36.
34. Dembek Z.F., Smith L.A., Rusnak J.M., 2007. Botulinum toxin. In:
Dembek ZR, ed. Medical aspects of biological warfare. Washington, DC:
Office of the Surgeon General, Borden Institute, Walter Reed Army
Medical Center, 16: pp. 337-345.
35. Dennis P.Wages, Kenneth Opengar, 2003. Poultry Health Management
Master of Specialized Veterinary Medicine (MSpVM).
36. Dickson E.C., 1917. Botulism, a case of limberneck in chickens”. J Am
Vet Med Assoc 50: pp. 612-613
37. Dickson E.C., 1917. Botulism, a case of limberneck in chickens”. J Am
Vet Med Assoc 50: pp. 612-613
105
38. Dohms J.E., 1987. Laboratory investigation of botulism in poultry. In
Eklund M.W., and Dowell V.R. (eds.), Avian Botulism: An International
Perspective. Charles C. Thomas: Springfield, IL, pp. 295-314.
39. Dohms J.E., Cloud S.S., 1982. Susceptibility of broiler chickens to
Clostridium botulinum type C toxin. Avian Dis.26: pp. 89-96.
40. Dohms J.E., Allen P.H., Rosenberger J.K., 1982. Cases of type C
botulism in broiler chickens. Avian Dis. 26: pp. 204-210
41. Dover, N.; Barash, J. R, J.R.; Hill, K.K.; Xie, G.; Arnon, S.S., January
2014. Molecular characterization of a novel botulinum neurotoxin type H
gene. Journal of Infectious Diseases
42. Dressler D, Benecke R., 2007. Pharmacology of therapeutic botulinum
toxin preparations. J Disability & Rehabilitation 29:1761-86.
43. Droual R, Shivaprasad HL, Chin RP ,1994. Coccidiosis and necrotic
enteritis in turkeys. Avian Dis 38:177–183
44. Droual R, Farver TB, Bickford AA, 1995. Relationship of sex, age, and
concurrent intestinal disease to necrotic enteritis in turkeys. Avian Dis
39:599–605.
45. Dressler D., 2006. Pharmakologische Aspekte therapeutischer
Botulinum-Toxin-Präparationen. Pharmacological aspects of therapeutic
botulinum toxin preparations in German.
46. Dezfulian M., Dowell V.R., 1980. Cultural and physiological
characteristics and antimicrobial suspectibility of Clostridium botulinum
isolates from foodborne and infant botulism cases. Journal of Clinical
Microbiology, 11 (6), pp. 604-609.
47. Dickerson J.T., Janda K.D., 2006. The Use of Small Molecules to
Investigate Molecular Mechanism and Therapeutic Targets for Treatment of
Botulinum Neurotoxin a Intoxication. ACS Chem Biol. 1(6): pp. 359-359
48. Dickson E.C., 1917. Botulism, a case of limberneck in chickens”. J Am
Vet Med Assoc 50: pp. 612-613.
49. Dohms J.E., Allen P.H., Rosenberger J.K., 1982. Cases of type C
botulism in broiler chickens”, Avian Dis. 26: pp. 204-210.
50. Dohms J.E., Cloud S.S., 1982. Susceptibility of broiler chickens to
Clostridium botulinum type C toxin. Avian Dis.26: pp. 89-96.
106
51. Dohms J.E., 2003. Botulism. Diseases of poultry” 11th Edition, Editor-
in-Chief Y.M. Saif produced and distributed by Iowa State Press, A
Blackwell Publishing Company, p. 786 – 790.
52. Dohms J.E., 1987. Laboratory investigation of botulism in poultry. In
Eklund M.W., and Dowell V.R. (eds.), Avian Botulism: An International
Perspective. Charles C. Thomas: Springfield, IL, pp. 295-314.
53. Dowell V.R., Jr., and Hawkins T.M., 1974. Laboratory methods in
anaerobic bacteriology: CDC laboratory manual. U.S. Department of
Health, Education, and Welfare, Atlanta, Ga.
54. Dressler D., 2006. Pharmakologische Aspekte therapeutischer
Botulinum-Toxin-Präparationen. Pharmacological aspects of therapeutic
botulinum toxin preparations in German”.
55. Eales C.E., Gillespie J.M., 1947. The isolation of Clostridium botulinum
type A from Victorian soils. Aust. J. Sci. 10: pp. 20-21
56. Eklund M.W., Peterson M.E., Poysky F.T., Peck L.W., Conrad J.F.,
1984. Botulism in juvenile Coho salmon (Onocorhynchus kisutch). In the
United States. Aquaculture 27: pp. 1-11
57. Fenicia L., Ferrini A.M., Anniballi F., Mannoni V., Aureli, P., 2003.
Considering the antimicrobial sensitivity of the intestinal botulism agent
Clostridium butyricum when treating concomitant infections. European
Journal of Epidemiology, 18 (12), pp. 1153-1154.
58. Foran, P. G., N. Mohammed, G. O. Lisk, S. Nagwaney, G. W. Lawrence,
E. Johnson, L. Smith, K. R. Aoki, and J. O. Dolly, 2003. Evaluation of
the therapeutic usefulness of botulinum neurotoxin B, C1, E, and F
compared with the long lasting type A.
59. Franciosa G., 1996. PCR for Detection of Clostridium botulinum Type C
in Avian and Environmental Samples. JOURNAL OF CLINICAL
MICROBIOLOGY, Apr. 1996, Vol. 34, No. 4 .1996, American Society
for Microbiology, p. 882–885.
60. Friend M., 1996. Increased avian diseases with habitat change. Pages
401-405 in La Roe E.T., Farris G.S., Puckett C.E., Doran P.D., and Mac
M.J. editors. Our living resources: a report to the nation on the
distribution, abundance, and health of U.S. plants, animals, and
107
ecosystems. U.S. Department of the Interior, National Biological Service,
Washington, D.C. p.530.
61. Friend M., Franson J.C., 1999. Field manual of wildlife diseases. General
field procedures and diseases of birds. U.S. Department of the Interior,
U.S. Geological Survey, Information and Technology Report 1999-200 1
62. Friend M., Pearson G.L., 1973. Duck plague (Duck Virus Enteritis) in
wild waterfowl. U.S. Department of Interior, Bureau of Sport Fisheries
and Wildlife. U.S. Government Printing Office, Washington, D.C.
63. Furmanov S., Bezkorovainy A., 1997. Ferrous Iron Oxidation by
Lactobacillus acidophilus and Its Metabolic Products. Agric J. Food
Chem. 1995, 43, 1276 -1282
64. Franciosa G., 1996. PCR for Detection of Clostridium botulinum Type C
in Avian and Environmental Samples. JOURNAL OF CLINICAL
MICROBIOLOGY, Apr. 1996, Vol. 34, No. 4 .1996, American Society
for Microbiology, p. 882–885.
65. Gallagher BA, 1924. Ulcerative enteritis in quail. Am Game Prot Assoc
Bull:14–15.
66. Glover, J. S., 1951. Ulcerative enteritis in pigeons. Can J Comp Med
Vet Sci 15:295—297
67. Ghanem F.M., Ridpath A.C., Moore W.E., Moore L.V., 1991.
Indentification of Clostridium Botulinum, Clostridium argentinase, and
Related Organism by Cellular Fatty Acid Analysis. Journal of Clinical
Microbiology, June 1991. pp. 1114-1124.
68. Giltner L.T., Couch J.F., 1930. Western duck sickness and botulism.
Science 26 December 1930: Vol. 72 no. 1878 p. 660.
69. Gime´nez, D.F. and Cicarelli, A.S., 1970a. Studies on strain 84 of
Clostridium botulinum. Zentralblatt fuer Bakteriologie Parasitenkunde
Infektionskrankheiten und Hygiene, Abt. 1 Orig. Reihe A 215, pp. 212–220.
70. Gimenez, D.F. and Cicarelli, A.S., 1970b. Another type of Clostridium
botulinum. Zentralblatt fuer Bakteriologie Parasitenkunde
Infektionskrankheiten und Hygiene, Abt. 1 Orig. Reihe A 215, pp. 221–224.
71. Gross W.B., Smith L.D.S., 1971. Experimental botulism in gallinaceous
birds. Avian Dis 15: pp. 716-722.
108
72. Giovanna Franciosa, Lucia Fencicia, Carlo Caldiani and Paolo Aureli,
1996. PCR for Detection of Clostridium botunium Type C in Avian and
Environmental Sample. Journal of Clinical Microbiology, Apr. 1996, p.
882-885
73. Gross W.B., Smith L.D.S., 1971. Experimental botulism in gallinaceous
birds. Avian Dis 15: pp. 716-722.
74. Guardabbasi L. and P. Courvalin, 2006. Modes of Antimicrobial Action
and Mechanisms of Bacterial Resistance. In Antimicrobial resistance in
bacteria of animal origin. Amirican Society of Microbiology. ASM Press.
Washington DC. 442 pages
75. Gunnison, J.B. and Meyer, K.F., 1929. Cultural study of an international
collection of Clostridium botulinum and parabotulinum Journal of
Infectious Diseases 45, pp. 119–134
76. Haagsma N., 1987. Laboratory investigation of botulism in wildbirds. In
Eklund M.E., Dowell V. R. (eds.), 1999. Avian Botulism: An International
Perspective. Charles C. Thomas: Springfield, IL, pp. 283 – 293
77. Haim M. Solomon and Timothy Lilly, Jr., 2001. Bacteriologycal
Analytical Manual. Chapter 17 Clostridium botulinum. In Bam:
Clostridium botulinum. U. S. Food and Drug Administration
78. Hall, J. D., L. M. McCroskey, B. J. Pincomb, and C. L. Hatheway,1985.
Isolation of an organism resembling Clostriium baratii which produces
type F botulinal toxin from an infant with botulism. J. Clin. Microbiol.21:
pp. 654–655.
79. Halpern JL, Neale EA ,1995. Neurospecific binding, internalization, and
etrograde axonal transport. Curr Top Microbiol Immunol, 195: 221-241
80. Hauschild A.H.W., 1989. Clostridium botulinum. In M. P. Doyle (ed.),
Food-borne Bacterial Pathogens. Marcel Dekker, New York, pp. 111-189.
81. Hatheway, C.L. and McCroskey, L.M., 1989. Unusual neurotoxigenic
clostridia recovered from human fecal specimens in the investigation of
botulism. In Proceedings of the 5th International Symposium on
Microbial Ecology: Recent Advances in Microbial Ecology ed. Hattori,
T., Ishida, Y., Maruyama, Y., Morita, R.Y. and Uchida, A. pp. 477–481.
Japan Scientific Societies Press.
109
82. Hatheway, C.L., 1990. Toxigenic clostridia. Clinical Microbiology
Reviews 3, pp. 66–98
83. Hatheway, C.L., 1992. Clostridium botulinum and other clostridia that
produce botulinum neurotoxin, In Clostridium botulinum-Ecology and
Control in Foods ed. Hauschild, A.H.W. and Dodds K.L. pp. 3–20. New
York: Marcel Dekker.
84. Hatheway CL, 1995. Botulism: The present status of the disease. Curr
Top Microbiol Immunol, 195: pp. 55–75
85. Harris, A. H.,1961. An outbreak of ulcerative enteritis amongst
bobwhite quail (Colinus virginianus). Vet Rec 73:11—13
86. Harvey, S. M., J. Sturgeon, and D. E. Dassey, 2002. Botulism due to
Clostridium baratii type F toxin. J. Clin. Microbiol. 40:2260-2262
87. Holdeman, L.V. and Brooks, J.B., 1970. Variation among strains of
Clostridium botulinum and related clostridia. In Proceedings of the First
U.S.-Japan Conference of Toxic Microorganisms ed. Herzberg, M. pp.
278–286. Washington DC: US Government Printing Office
88. Holzer, V. E., 1962. Botulism from inhalation. Med. Klin. 57:1735-1738
89. Hopman NE, Keessen EC, Harmanus C, Sanders IM, van Leengoed LA,
Kuijper EJ, Lipman LJ , 2011. Acquisition of Clostridium difficile by
piglets. Vet Microbiol;149(1-2):186 – 192.
90. Huss, H. H., 1980. Distribution of Clostridium botulinum. Appl. Environ.
Microbiol39 (4): 764–769
91. Hubálek Z., Halouka J., 1991. Persistence of Clostridium botulinum type
C toxin in blow fly (Calliphoridae) larvae as a possible cause of avian
botulism in spring. Journal of Wildlife Diseases; 27(1): pp. 81-85.
92. Inglett, P. W., 2005. Stable nitrogen isotopic ratios as an indicator
of wetland eutrophication. A case study in the Florida Everglades. Ph.D.
dissertation, Univ. of Florida
93. Iohansen.A, 1963. Journal of Applied Bacteriology 4/1963
94. Jensen W.I., Duncan R.M., 1980. The susceptibility of the mallard duck
(Anas platyrhynchos) to Clostridium botulinum C2 toxin. Jpn J Med Sci
Biol 1980 Apr; 33(2): pp. 81-6.
110
95. Jeffery J.S., Galey F.D., Meteyer C.V., Kinde H., and Rezvani M., 1994.
Type C botulism in turkeys: Determination of the median toxic dose”. J
Vet Diagn Invest 6: pp. 93-95.
96. Jones, R. L., W. S. Adney, and R. K. Shideler, 1987. Isolation of
Clostridium difficile and detection of cytotoxin in the feces of diarrheic
foals in the absence of antimicrobial treatment. J. Clin. Microbiol.
25:1225–1227.
97. Jones, R. L., R. K. Shideler, and G. L. Cockerell, 1988. Association of
Clostridium difficile with foal diarrhea. In Proc. 5th Int. Conf. Equine
Infect. Dis. The University Press of Kentucky, Lexington.
98. Johnson, R. O., S. A. Clay, and S. S. Arnon, 1979. Diagnosis and
management of infant botulism. Am. J. Dis. Child. 133:586.
99. Johnson E.A., Summanen P., Finegold S.M., 2007. Clostridium. In P.R.
Murray, E. J. Baron, J.H. Jorgensen, M.L. Landry & M.A. Pfaller (Eds.),
Manual of Clinical microbiology, 9th eds., Washington, DC: ASM press.
pp. 889-910.
100. Kalmbach C., Gunderson., 1934. Infectious Diseases of Wild Birds.
Edited by Nancy J. Thomas; D. Bruce Hunter; Carter T. Atkinson.
Blackwell publishing
101. Kang, M. S., A. Kim, B.Y. Jung, M. J. Kim, S. J. Joh, Y. J. Lee, Y.H.
Bong, N.R. Shin, C.B. Yang, and J. H. Kwon, 2008. An outbreak of
botulism in wild ducks in the Tancheon. In Proceedings of the 2008
KSVS Conference and General Meeting, Korean Journal of Veterinary
Science. 25–26 September 2008, Gwangju, Korea, Korean Society of
Veterinary Science, pp. 281.
102. Katiyar, A. K., A. G. R. Pillai, R. P. Awadhiya, and J. L. Vegad, 1986.
An outbreak of ulcerative enteritis in chickens. Indian J Anim Sci
56:859—862
103. Kaufmann, O.W. and L.D. Fay, 1964. Clostridium botulinum type E
toxin in tissues of dead loons and gulls. Michigan State University
Agricultural Experiment Station Quarterly Bulletin. 47(2):236-242
111
104. Kirma, N., J. L. Ferreira, and B. R. Baumstark, 2004. Characterization of
six type A strains of Clostridium botulinum that contain type B toxin
gene sequences. FEMS Microbiol. Lett. 231:159-164.
105. Kitasato. S., 1889. Die Widerstandfihigkeit der Cholerabacterien gegenn
das Eintrocknen und gegen Hitze. Z. H. Infektionskrankh., 6, 134-140
106. Kondo, F., J. Tottori, and K. Soki, 1988. Ulcerative enteritis in broiler
chickens caused by Clostridium colinum and in vitro activity of 19
antimicrobial agents in tests on isolates. Poult Sci 67(10):1424—1430
107. Leighton F.A., 2000. Type C Botulism in Birds. Canadian Corporative of
Wildlife Health Centre.
108. Leslie G. A., L. N. Martin., 1973. Studies on secretory immunologic
system of fow. 3. Serum and secretory IgA of the chicken. J. Immuno.,
110 (1), 1-9
109. Locke L.N., Friend M., 1989. Avian botulism: Geographic Expansion of a
Historic Disease. USGS. National Wildlife Health Research Center. pp. 579.
110. Lúquez C, Bianco MI, de Jong LIT, et al., 2005. Distribution of Botulinum
Toxin-Producing Clostridia in Soils of Argentina. Applied and Environmental
Microbiology.;71(7):4137-4139. doi:10.1128/AEM.71.7.4137-4139.2005.
111. MacDonald KL, Cohen ML, Blake PA, 1986. The changing
epidemiology of adult botulism in the United States. Am J Epidemiol,
124(5): 7949.
112. Maselli RA, Ellis W, Mandler RN, Sheikh F, Senton G, Knox S, Salari-
Namin H, Agius M, Wollmann RL, Richman DP, 1997. Cluster of
wound botulism in California: clinical, electrophysiologic, and
pathologic study. Muscle Nerve, 20: pp. 1284–1295.
113. McCroskey, L.M., Hatheway, C.L., Fenicia, L., Pasolini, B. and Aurelia,
P., 1986. Characterization of an organism that produces type E botulinal
toxin but which resembles Clostridium botulinum from the feces of an
infant with type E botulism. Journal of Clinical Microbiology 23, pp.
201–202.
114. McLauchlin J, Grant KA, Little CL, 2006. Foodborne botulism in the
United Kingdom. J Public Health (Oxf). Dec; 28 (4) :337-42. Epub 2006
Aug 17.
112
115. Mechem CC & Walter FG, 1994. Wound botulism. Vet Human Toxicol,
36(3): pp. 233–237.
116. Megan E. Reller, Richar W. Douce, Susan E. Maslanka, Dawin S.
Torres, Stephen R. Manock and Jeremy Sobel, 2006. Wound botulism
acquired in the Amazonian rain forest of Ecuador. Am J Trop Med Hyg
April vol. 74 no. 4, pp. 628–631 .
117. Meyer, K.F. and Gunnison, J.B., 1929. South African cultures of
Clostridium botulinum and parabotulinum. XXXVIL (with a description
of Cl. botulinum type D, n. sp.). Journal of Infectious Diseases 45, pp.
106–118.
118. Mohammed Sebaihial., et al, 2007. Clostridium novyi, Edited by student
of Rachel Larsen and Kit Pogliano.
119. Miia Lindstrom và Hannu Korkeala, 2006. Laboratory diagnostics of
botulism. Clinical microbiology reviews, Apr. 2006, p. 298-314
120. Mitchell, W. R. and S. Rosendal, 1987. Type C botulism: The agent, host
susceptibility, and predisposing factors. In M. W. Eklund and V. R.
Dowell, Jr. (eds.). Avian Botulism: An International Perspective.
Charles C. Thomas: Springfield, IL, 55—71.
121. Mohammed Sebaihial et al., 2007. Clostridium novyi. Edited by student
of Rachel Larsen and Kit Pogliano.
122. Mengesha et al., 2009. Clostridia in Anti-tumor Therapy. Clostridia:
Molecular Biology in the Post-genomic Era. Caister Academic Press.
ISBN 978-1-904455-38-7
123. Midura T.F., 1996. Infant botulism: identification of Clostridium
botulinum and its toxin in faeces. Lancet II: pp. 934-936.
124. Meites E, Zane S, Gould C, 2010. Fatal Clostridium sordellii infections
after medical abortions. New England Journal of Medicine
125. Magidan M, Martinko J, 2006. Biology of Microorganisms
126. Nantel J.A., 2002. Clostridium botulinum. International Program on
Chemical Safety. World Health Organization 858. Poisons Information
Monograph: Bacteria. pp. 1 – 32.
127. Na-Ri Shin, Seong hwan Byun, Jeong Hoon Chun, Jeong Hwa Shin,
Yun Jeong Kim, Jeong-Hee Kim, Gi-eun Rhie, Hyen Mi Chung, In-Pil
113
Mo, and Cheon-Kwon Yoo., 2010. An Outbreak of Type C Botulism in
Waterbirds: Incheon, Korea. In SHORT COMMUNICATIONS. Journal
of Wildlife Diseases, 46(3), 2010, pp. 912–917
128. Nantel J.A., 2002. Clostridium botulinum. International Program on
Chemical Safety. World Health Organization 858. Poisons Information
Monograph: Bacteria. pp.1–32.
129. Notermans S., Dufrenne J., Kozaki S., 1980. Notermans. Removal and
inactivation of botulinum toxin during production of drinking water from
surface water. Antonie van Leeuwenhoek 46: pp. 511–514.
130. Panada A. K, M. R. Reddy, 2007. Boosting the chick’s immune system
through early nutrition. Poult. Int.,
131. Quinn P.J, Carter M.E., Markey B., Carter G.R., 1994. Clinical
veterinary microbiology. Wolfe Publishing. London, UK, p. 648.
132. Ohye D.F., Scott W.J., 1957. Studies in the physiology of Clostridium
botulinum type. E. Aust. L. Biol. Sci.10: pp. 85–94
133. Pecelunas K.S., Wages D.P., Helm J.D., 1999. Botulism in chickens
associated with elevated iron levels. Avian Dis. 43: pp. 783-787.
134. Quinn P.J, Carter M.E., Markey B., Carter G.R., 1994. Clinical
veterinary microbiology. Wolfe Publishing. London, UK, p. 648.
135. Roblot P, Roblot F, Fauchère JL, Devilleger A, Maréchaud R, Breux JP,
Grollier G, Becq-Giraudon B, 1994. Retrospective study of 108 cases of
botulism in Poitiers, France. J Med Microbiol, 40: pp. 379–384
136. Roberts T.A., Aitken I.D., 1974. Botulism in birds and mammals in Great
Britain and an assessment of the toxicity of Clostridium botulinum type
C toxin in domestic fowl. In Barker A.N., Gould G.W., Wolf J. (eds.).
Spore Research 1973. Academic Press: London, pp. 1- 9.
137. Rocke T.E., Friend M., 1997. Avian Botulism. Madison WI: Department
of the Interior, 1999: pp. 271-286.
138. Rocke T.E., Bollinger T., 2007. Disease Emergence and Reemergence.
The Wildlife – Human Connection U.S. Geological Survey, Reston, VA,
p. 388.
114
139. Rosen M.N., 1971. Botulism. In J. W. Davis, R. C. Anderson, L. Karstad,
and D. O. Trainer (eds.). “Infectious and Parasitic Diseases of Wild
Birds”. Iowa State University Press: Ames, IA, pp. 100 – 117.
140. Runningen J., 1990. Growth and toxigenesis of c botulinum type e in
fishes packaged under modified atmospheres. International Journal of
Food Microbiolgy. May 1990.
141. Ryan K.J., Ray C.G., 2004. Sherris Medical Microbiology. McGraw Hill.
ISBN 0-8385-8529-9.
142. Rocke T.E., Bollinger T., 2007. Disease Emergence and Reemergence.
The Wildlife – Human Connection U.S. Geological Survey, Reston, VA,
p. 388.
143. Rosen M.N., 1971. Botulism. In J. W. Davis, R. C. Anderson, L. Karstad,
and D. O. Trainer (eds.). “Infectious and Parasitic Diseases of Wild
Birds”. Iowa State University Press: Ames, IA, pp. 100 – 117.
144. Sato S., 1987. Control of botulism in poultry flocks. In M. W. Eklund
and V. R.
145. Szabo E.A., J. M. Pemberton, A. M. Gibson, R. J. Thomas, R. R. Pascore
and P. M. Desmarchelier, 1994. Application of PCR to a Clinical and
Enviromental Investigation of a Case of Equine Botulism. Journal of
Clinical microbiology, Aug. p. 1986-1991
146. Shaw R.M., Simpson G.S., 1936. The anaerobic bacteria: their activities
in nature and disease. A Subject Bibliography-By Elizabeth. McCoy and
L. S. McClung.
147. Skerratt L.F., Franson J.C., Meteyer C.U., Hollmen T.E., 2005. Causes of
mortality in sea ducks. (Mergini) necropsied at the USGS-National
Wildlife Health Center. Waterbirds 28: pp. 192-206.
148. Smith G.R., 1987. Botulism in water birds and its relation to comparative
medicine. In Eklund M.E, Dowell V.R. (eds.). Avian Botulism: An
International Perspective. Charles C. Thomas: Springfield, IL, pp. 73-86.
149. Saif Y.M., Barnes H.J, Glisson J.R, Fadly A.M., McDougald L.R.,
Swayne D.E., 2003. Diseases of Poultry 11th Ed. Wiley – Blackwell
Publisher, pp. 785 – 791.
115
150. Sato S., 1987. Control of botulism in poultry flocks. In M. W. Eklund
and V. R. Dowell, Jr. (eds.). Avian Botulism: An International
Perspective. Charles C. Thomas: Springfield, IL, pp. 349 – 356.
151. Schettler C.H., 1979. Clostridium botulinum type C toxin infection in
broiler farms in North West Germany.Berl Munch Tierarztl Wochenschr
92: pp.50-57.
152. Scott K.M., Henn-Sax M., Harmer T.L., Longo D.L, Frame C.H.,
Cavanaugh C.M., 1993. Kinetic isotope effect and biochemical
characterization of from IA RubisCO from the marine cyanobacterium
Prochlorococcus marinus MIT 9313”. Department of Boilogy, University
of South Florida, Tampa, Florida 33620.
153. Segner W.P., Schmidt C.F., 1971. Heat resistance of spores of marine
and terrestrial strains of Clostridium botulinum type C”. Appl Microbiol
22: pp.1030-1033.
154. Seddon, H.R., 1922. The specific identify of Bacillus parabotulinus.
Journal of Comparative Pathology and Therapy 35, pp. 275–280
155. Shaw R.M., Simpson G.S., 1936. The anaerobic bacteria: their activities
in nature and disease. A Subject Bibliography-By Elizabeth. McCoy and
L. S. McClung.
156. Shapiro, Roger L., et al., 1998. Botulism in the United States: A Clinical
and Epidemiologic Review. Ann Internal Med. August 1; 129(3): pp.
221–228.
157. Shelley EB, O'Rourke D, Grant K, McArdle E, Capra L, Clarke A,
McNamara E, Cunney R, McKeown P, Amar CF, Cosgrove C, Fitzgerald
M, Harrington P, Garvey P, Grainger F, Griffin J, Lynch BJ, McGrane G,
Murphy J, Ni Shuibhne N, Prosser J. Infant botulism due to C. butyricum
type E toxin: a novel environmental association with pet terrapins.
158. Skerratt L.F., Garner T.W.J., Hyatt A..D, 2005. Tropical Infectious
Diseases. Research Centre at James Cook University.
159. Skerratt L.F., Franson J.C., Meteyer C.U., Hollmen T.E., 2005. Causes of
mortality in sea ducks, (Mergini) necropsied at the USGS-National
Wildlife Health Center. Waterbirds 28: pp. 192-206.
116
160. Smith G.R, 1987. Botulism in water birds and its relation to comparative
medicine. In Eklund M.E, Dowell V.R. (eds.). Avian Botulism: An
International Perspective. Charles C. Thomas: Springfield, IL, pp. 73-86.
161. Smith L.D.S., 1975. The Pathogenic Anaerobic Bacteria, 2nd ed. Charles
C. Thomas: Springfield, IL, pp.203-229.
162. Snipe T., Hermann S., 1928. Studies on Botulinus Toxin: 3. Acid
Precipitation of Botulinus Toxin. The Journal of Infectious Diseases.
University of Chicago Press, 43 (2): pp. 152–160.
163. Slovis CM, Jones ID, 1998. Botulism and food poisoning. In Clinical
management of poisoning and drug overdose. Eds Haddon, Shannon and
Winchester. 3rd ed. Pp. 399-406, Saunders and Co, Philadelphia.
164. Sobel, J., N. Tucker, A. Sulka, J. McLauchlin, and S. Maslanka, 2004.
Foodborne botulism in the United States, 1990-2000. Emerg. Infect.
Dis.10:1606-1611
165. Soos C., Wobeser G., 2006. Identification of Primary Substrate in the
Initiation of Avian Botulism Outbreaks. The Journal of Wildlife
Management. pp. 43-53.
166. Summanen P, Baron EJ, Citron DM, Strong CA, Wexler HM, Finegold
SM., 1993. Wadsworth Anaerobic Bacteriology Manual. 5th Edition, Star
Publishing Co., Belmont, CA.
167. Suen, J. C., C. L. Hatheway, A. G. Steigerwalt, and D. J. Brenner 1988.
Clostridium argentinense, sp. nov: a genetically homogenous group
composed of all strains of Clostridium botulinum type G and some
nontoxigenic strains previously identified as Clostridium subterminale or
Clostridium hastiforme. Int. J. Syst. Bacteriol. 38:375.
168. Swenson J.M., Thornsberry C., McCroskey L.M., 1980. Susceptibility of
Clostridium botulinium to thirteen antimicrobial agents”. Antimicrobial
Agents and Chemotherapy, 18 (1), pp. 13-19.
169. Tanzi M.G., Gabay M.P., 2002. Association between honey consumption
and infant botulism. Pharmacotherapy 22 (11): pp. 1479-83.
170. Talaro, Talaro., 2002. Microbial Biosorption of Metals. Edited by Pavel
Kotrba, Martina Mackova, Tomas Macek. ISBN-10: 9400704429; ISBN-
13: 978-9400704428
117
171. Tahseen Abdul-Aziz, 2019. Botulism in Poultry. The The Merck
Veterinary Manual
172. Tsai, S. S., P. C. Wang, and C. D. Chang, 1986. Ulcerative enteritis in
replacement chickens. Taiwan J. Vet. Med. Anim. Husb. 47:45–49.
173. Todar K., 2009. Botulism. University of Wisconsin-Madison Department
of Bacteriology. The Microbial World. pp.1 - 4.
174. Tonie E. Rocke and Milton Friend, 1998. Avian Botulism. Field Manual
of Wildlife Diseases, chapter 38
175. Thomas Mark Carroll II, 2008. Germination protease: An atypical
aspartic acid protease in Bacillus and Clostridium. Bio-chemistry,
Doctoral Thesis / Dissertation, University of Connecticut. p. 141.
176. Wobeser G.A., 1997. Diseases of wild waterfowl. ISBN 0-306-45590-0,
1997, 1981 Plenum Press, New York. A division of Plenum Publishing
Corporation.
177. Wobeser G.,1988. Effects of botulism on ducks drinking saline water J
Wildl Dis, 24(2):240-245)
178. Yeh, C., Liang, C., Yang, C., Wey, J., Tsui, P., Wu, H., Yu, C., & Shyu,
R. (2014). Comparison of immunostrips with mouse bioassay and
bacterial culture in detecting botulinum toxins in bottles from suspected
Taiwan high-speed rail bomber. Forensic Toxicology, 32, 258-265.
179. Yule A.M., Austin J.W., Barker I.K., Cadieux B., Moccia R.D., 2006.
Persistence of Clostridium botulinum neurotoxin type E in tissues from
selected freshwater fish species: implications to public health. Journal of
Food Protection 69: pp. 1164-1167
180. Valli E., Summers D., 1990. The Nest Gatherers of Tiger Cave. In
National Geographic.
181. Wells C.L., Wilkins T.D., 1996. Clostridia: Sporeforming Anaerobic
Bacilli in: Baron's Medical Microbiology. (Baron S. et al., eds.) (4th).
Univ of Texas Medical Branch.
182. WHO., 2010. International Programme on Chemical Safety Poisons
Information Monograph 858.
118
183. Wobeser G.A., 1997. Diseases of wild waterfowl. ISBN 0-306-45590-0,
1997, 1981 Plenum Press, New York. A division of Plenum Publishing
Corporation.
184. UK Standards for Microbiology Investigations, 2011. Identification of
Clostridium Species".
185. Vidal D, Anza I, Taggart MA, Pérez Ramírez E, Crespo E, Hofle U,
Mateo R. 2013. Environmental factors influencing the prevalence of a
Clostridium botulinum type C/D mosaic strain in nonpermanent
Mediterranean wetlands. Appl. Environ. Microbiol. July vol. 79 no. 14,
pp. 4264–4271
186. Victor Cook L., Lee W.H., Charles P., Lattuada, Gerri M.R., 1998.
Method for the detection of Clostridium Botulinum toxins in meat and
poultry products. USDA/FSIS Microbiology Laboratory guidebook 3rd
Edition/1998. (14) pp. 1-9.
Website
1. http://www.fao.org
2. http://www.en.wikipedia.org
3. http://www.cfsph.iastate.edu
4. http://www.hpa-standardmethods.org.uk/documents/bsopid/ pdf/
5. http://www.sciencemag.org/content/72/1878/660.citation
6. http://wildpro.twycrosszoo.org/s/0zM_Firmicutes/clostridium/
7. http://www.phac-aspc.gc.ca/lab-bio/res/psds-ftss/clostridium-eng.php
8. http://www.slideshare.net/
9. http://channuoivietnam.com/thong-ke-chan-nuoi/tk-thong-ke-chung
10. http://www. kimicontrol.com
11. http://www.foodnetworksolution.com/vocab/word/695
PHỤ LỤC
MẪU ĐIỀU TRA DỊCH BỆNH TRÊN ĐÀN VỊT
Tỉnh : ......................................Huyện: ………………….Xã: …….......………………
1. Họ tên chủ hộ: ………………………………Điện thoại.………………..….
2. Địa chỉ: ………………………..………………………………….…………
3. Tổng đàn vịt đang nuôi: ……………………. Con. Trong đó:
119
Vịt con (dưới 4 tuần tuổi): ……......con; Vịt đẻ (>12 tuần tuổi): …........ con
Vịt thịt (từ 4-12 tuần tuổi): ……….…........ con Giống vịt : ……………
4. Phương thức nuôi:
Nuôi trang vịt Nuôi thả vườn quanh nhà Nuôi Chạy đồng
5. Thức ăn chăn nuôi
Lúa Vịt tự tìm mồi + Bổ sung lúa, TĂHH
Có
Thức ăn hỗn hợp
6. Hình thức phòng bệnh
- Tiêm vaccine :
- Phun thuốc sát trùng định kỳ: Không
Không Có
7. Tình hình bệnh ở đàn vịt nuôi trong thời gian qua:
Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014
Nội dung điều tra
Tổng đàn nuôi trong năm
Số vịt bệnh trong năm
Số vịt chết trong năm
Nghi bệnh (liệt cổ, liệt chân)
8. Biểu hiện nào sau đây có xảy ra trên đàn vịt nuôi:
Liệt chân: Vịt hay nằm, không đi hoặc đi xiêu vẹo
Liệt cánh: Cánh sã
Tiêu chảy: Tiêu chảy phân xanh, phân trắng…
Liệt cổ: Khi cầm lên, đầu vịt thòng xuống do cổ bị liệt không nâng đầu lên
được
Vịt có biểu hiện liệt cổ sau khi thả tìm mồi nơi bãi bùn khi thủy triều xuống.
Vịt có biểu hiện liệt cổ sau khi thả vào ruộng lúa để tìm mồi
9. Thời gian thường xảy ra dịch bệnh
Đồng sau khi gặt lúa, ngập nước và nước rút cạn
Sau đợt nắng nóng kéo dài
Vịt sụt tìm thức ăn ở vũng nước đọng, ống bọng lúc nước cạn
10. Biện pháp xử lý khi vịt bị bệnh:
Chủ hộ nuôi vịt Người điều tra
KẾT QUẢ XỬ LÝ THỐNG KÊ CÁC SỐ LIỆU
Mục đích nuôi
SL khảo sát (con)
SL bệnh (con)
Tỷ lệ (%)
Vịt thịt
99.676
905
0,91a
Vịt đẻ
87.374
1.330
1,52b
Bảng 4.3 Tỷ lệ bệnh botulism trên vịt đẻ và vịt thịt
120
Tổng
187.050
2.235
1,19
Chi-Square Test: vit thit, vịt đẻ
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
vit thit vịt đẻ Total
1 905 1330 2235
1191.00 1044.00
68.677 78.346
2 98771 86044 184815
98485.00 86330.00
0.831 0.947
Total 99676 87374 187050
Chi-Sq = 148.801, DF = 1, P-Value = 0.000
Bảng 4.10 Xác định type độc tố botulin
Type C
Type D
Type E
Type C+D
Type C+E Đối chứng
Kết
quả
Số
mẫu
Tỷ lệ
(%)
Số
mẫu
Tỷ lệ
(%)
Số
mẫu
Tỷ lệ
(%)
Số
mẫu
Tỷ lệ
(%)
Số
mẫu
Tỷ lệ
(%)
Số
mẫu
Tỷ lệ
(%)
(1)
49
38,89
57,14
65
51,59
72
0
0
-
-
-
-
(2)
26
20,64
17,46
25
19,84
22
0
0
-
-
-
-
(3)
51
36
32
12
100
40,48a
25,40b
28,57b
5
3,97
2
1,59
Chi-Square Test: Type C, Type D, Type E
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
Type C Type D Type E Total
1 51 36 29 116
121
38.67 38.67 38.67
3.934 0.184 2.417
2 75 90 97 262
87.33 87.33 87.33
1.742 0.081 1.070
Total 126 126 126 378
Chi-Sq = 9.428, DF = 2, P-Value = 0.009
Chi-Square Test: Type C, Type D
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
Type C Type D Total
1 51 36 87
43.50 43.50
1.293 1.293
2 75 90 165
82.50 82.50
0.682 0.682
Total 126 126 252
Chi-Sq = 3.950, DF = 1, P-Value = 0.047
Chi-Square Test: Type C, Type E
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
Type C Type E Total
1 51 29 80
40.00 40.00
3.025 3.025
2 75 97 172
86.00 86.00
1.407 1.407
Total 126 126 252
Chi-Sq = 8.864, DF = 1, P-Value = 0.003
122
Chi-Square Test: Type D, Type E
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
Type D Type E Total
1 36 29 65
32.50 32.50
0.377 0.377
2 90 97 187
93.50 93.50
0.131 0.131
Total 126 126 252
Chi-Sq = 1.016, DF = 1, P-Value = 0.313
Bảng 4.11 Tỷ lệ nhiễm vi khuẩn Clostridium botulinum từ các mẫu đất và nước ruộng
Loại mẫu
Mẫu đất ruộng
Mẫu nước trên ruộng
Địa điểm
Số mẫu
kiểm tra
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Số mẫu
dương
Số mẫu
dương
An Giang
159
20
12,58
25
15,72
Cần Thơ
141
22
15,60
25
17,17
Hậu Giang
144
27
18,75
31
21,53
Kiên Giang
156
36
23,08
37
23,72
Tổng cộng
600
105
17,5
118
19,67
Chi-Square Test: AG, CT, HG, KG
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
AG CT HG KG Total
1 23 22 25 35 105
123
27.82 24.68 25.20 27.30
0.837 0.290 0.002 2.172
2 136 119 119 121 495
131.18 116.33 118.80 128.70
0.177 0.062 0.000 0.461
Total 159 141 144 156 600
Chi-Sq = 4.000, DF = 3, P-Value = 0.261
Chi-Square Test: AG, CT
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
AG CT Total
1 23 22 45
23.85 21.15
0.030 0.034
2 136 119 255
135.15 119.85
0.005 0.006
Total 159 141 300
Chi-Sq = 0.076, DF = 1, P-Value = 0.783
Chi-Square Test: AG, HG
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
AG HG Total
1 23 25 48
25.19 22.81
0.190 0.210
2 136 119 255
133.81 121.19
0.036 0.040
Total 159 144 303
Chi-Sq = 0.475, DF = 1, P-Value = 0.491
124
Chi-Square Test: AG, KG
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
AG KG Total
1 23 35 58
29.28 28.72
1.345 1.371
2 136 121 257
129.72 127.28
0.304 0.309
Total 159 156 315
Chi-Sq = 3.330, DF = 1, P-Value = 0.068
Chi-Square Test: CT, HG
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
CT HG Total
1 22 25 47
23.25 23.75
0.067 0.066
2 119 119 238
117.75 120.25
0.013 0.013
Total 141 144 285
Chi-Sq = 0.160, DF = 1, P-Value = 0.689
Chi-Square Test: CT, KG
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
CT KG Total
1 22 35 57
125
27.06 29.94
0.946 0.855
2 119 121 240
113.94 126.06
0.225 0.203
Total 141 156 297
Chi-Sq = 2.230, DF = 1, P-Value = 0.135
Chi-Square Test: HG, KG
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
HG KG Total
1 25 35 60
28.80 31.20
0.501 0.463
2 119 121 240
115.20 124.80
0.125 0.116
Total 144 156 300
Chi-Sq = 1.205, DF = 1, P-Value = 0.272
Chi-Square Test: AG, CT, HG, KG
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
AG CT HG KG Total
1 20 22 25 35 102
27.03 23.97 24.48 26.52
1.828 0.162 0.011 2.712
2 139 119 119 121 498
131.97 117.03 119.52 129.48
0.374 0.033 0.002 0.555
Total 159 141 144 156 600
Chi-Sq = 5.678, DF = 3, P-Value = 0.128
126
Chi-Square Test: AG, KG
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
AG KG Total
1 20 35 55
27.76 27.24
2.170 2.212
2 139 121 260
131.24 128.76
0.459 0.468
Total 159 156 315
Chi-Sq = 5.309, DF = 1, P-Value = 0.021
So sánh tỷ lệ của mẫu nước giữa các địa phương
Chi-Square Test: AG, CT, HG, KG
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
AG CT HG KG Total
1 25 25 31 37 118
31.27 27.73 28.32 30.68
1.257 0.269 0.254 1.302
2 134 116 113 119 482
127.73 113.27 115.68 125.32
0.308 0.066 0.062 0.319
Total 159 141 144 156 600
Chi-Sq = 3.836, DF = 3, P-Value = 0.280
Chi-Square Test: AG, CT
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
AG CT Total
1 25 25 50
127
26.50 23.50
0.085 0.096
2 134 116 250
132.50 117.50
0.017 0.019
Total 159 141 300
Chi-Sq = 0.217, DF = 1, P-Value = 0.642
Chi-Square Test: AG, HG
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
AG HG Total
1 25 31 56
29.39 26.61
0.655 0.723
2 134 113 247
129.61 117.39
0.148 0.164
Total 159 144 303
Chi-Sq = 1.690, DF = 1, P-Value = 0.194
Chi-Square Test: AG, KG
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
AG KG Total
1 25 37 62
31.30 30.70
1.266 1.291
2 134 119 253
127.70 125.30
0.310 0.316
Total 159 156 315
Chi-Sq = 3.184, DF = 1, P-Value = 0.074
128
Chi-Square Test: CT, HG
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
CT HG Total
1 25 31 56
27.71 28.29
0.264 0.259
2 116 113 229
113.29 115.71
0.065 0.063
Total 141 144 285
Chi-Sq = 0.651, DF = 1, P-Value = 0.420
Chi-Square Test: CT, KG
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
CT KG Total
1 25 37 62
29.43 32.57
0.668 0.604
2 116 119 235
111.57 123.43
0.176 0.159
Total 141 156 297
Chi-Sq = 1.607, DF = 1, P-Value = 0.205
Chi-Square Test: HG, KG
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
HG KG Total
1 31 37 68
129
32.64 35.36
0.082 0.076
2 113 119 232
111.36 120.64
0.024 0.022
Total 144 156 300
Chi-Sq = 0.205, DF = 1, P-Value = 0.651
Bảng 4.12 Tỷ lệ nhiễm vi khuẩn C. botulinum từ các mẫu cua và ốc ruộng
Loại mẫu
Cua
Ốc
Địa điểm
Số mẫu
kiểm tra
Số mẫu
dương
Tỷ lệ
(%)
Số mẫu
kiểm tra
Số mẫu
dương
Tỷ lệ
(%)
An Giang
63
5
7,94
106
4
3,77
Cần Thơ
42
3
7,14
94
3
3,19
Hậu Giang
50
4
8,00
96
2
2,08
Kiên Giang
61
6
9,84
104
3
2,88
Tổng cộng
8,33
400
216
18
12
3,00
Chi-Square Test: cua, oc
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
cua oc Total
1 18 12 30
10.52 19.48
5.319 2.873
2 198 388 586
205.48 380.52
0.272 0.147
Total 216 400 616
Chi-Sq = 8.611, DF = 1, P-Value = 0.003
* NOTE * Command canceled.
130
Bảng 4.17 Kết quả khảo sát bệnh tích đại thể trên vịt thử nghiệm độc tố botulin
(n=64)
Bệnh tích
Đối chứng
Tỷ lệ (%)
Số vịt thí nghiệm có
biểu hiện bệnh tích
Phổi tụ huyết
0/8
52
81,25
Lách sưng - xuất huyết
0/8
19
29,69
Gan xuất huyết
0/8
59
92,19
Thận xuất huyết
0/8
21
32,81
Ruột sinh hơi, trống thức ăn
0/8
57
89,06
Chi-Square Test: Phoi xuat hu, Lach xuat hu, Gan xuat huy, Than xuat
hu, Ruot t
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
Phoi xuat Lach xuat Gan xuat Than xuat
Ruot
huyet huyet huyet huyet trong
TA Total
1 52 19 59 21
57 208
41.60 41.60 41.60 41.60
41.60
2.600 12.278 7.278 10.201
5.701
2 12 45 5 43
7 112
22.40 22.40 22.40 22.40
22.40
4.829 22.802 13.516 18.945
10.587
Total 64 64 64 64
64 320
Chi-Sq = 108.736, DF = 4, P-Value = 0.000
Chi-Square Test: Phoi xuat huyet, Lach xuat huyet
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
Phoi xuat Lach xuat
131
huyet huyet Total
1 52 19 71
35.50 35.50
7.669 7.669
2 12 45 57
28.50 28.50
9.553 9.553
Total 64 64 128
Chi-Sq = 34.443, DF = 1, P-Value = 0.000
Chi-Square Test: Phoi xuat huyet, Gan xuat huyet
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
Phoi xuat Gan xuat
huyet huyet Total
1 52 59 111
55.50 55.50
0.221 0.221
2 12 5 17
8.50 8.50
1.441 1.441
Total 64 64 128
Chi-Sq = 3.324, DF = 1, P-Value = 0.068
Chi-Square Test: Phoi xuat huyet, Than xuat huyet
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
Phoi xuat Than xuat
huyet huyet Total
1 52 21 73
36.50 36.50
6.582 6.582
2 12 43 55
27.50 27.50
8.736 8.736
132
Total 64 64 128
Chi-Sq = 30.637, DF = 1, P-Value = 0.000
Chi-Square Test: Phoi xuat huyet, Ruot trong TA
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
Phoi xuat Ruot
huyet trong TA Total
1 52 57 109
54.50 54.50
0.115 0.115
2 12 7 19
9.50 9.50
0.658 0.658
Total 64 64 128
Chi-Sq = 1.545, DF = 1, P-Value = 0.214
Chi-Square Test: Lach xuat huyet, Gan xuat huyet
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
Lach xuat Gan xuat
huyet huyet Total
1 19 59 78
39.00 39.00
10.256 10.256
2 45 5 50
25.00 25.00
16.000 16.000
Total 64 64 128
Chi-Sq = 52.513, DF = 1, P-Value = 0.000
Chi-Square Test: Lach xuat huyet, Than xuat huyet
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
Lach xuat Than xuat
133
huyet huyet Total
1 19 21 40
20.00 20.00
0.050 0.050
2 45 43 88
44.00 44.00
0.023 0.023
Total 64 64 128
Chi-Sq = 0.145, DF = 1, P-Value = 0.703
Chi-Square Test: Lach xuat huyet, Ruot trong TA
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
Lach xuat Ruot
huyet trong TA Total
1 19 57 76
38.00 38.00
9.500 9.500
2 45 7 52
26.00 26.00
13.885 13.885
Total 64 64 128
Chi-Sq = 46.769, DF = 1, P-Value = 0.000
Chi-Square Test: Gan xuat huyet, Than xuat huyet
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
Gan xuat Than xuat
huyet huyet Total
1 59 21 80
40.00 40.00
9.025 9.025
2 5 43 48
24.00 24.00
15.042 15.042
134
Total 64 64 128
Chi-Sq = 48.133, DF = 1, P-Value = 0.000
Chi-Square Test: Gan xuat huyet, Ruot trong TA
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
Gan xuat Ruot
huyet trong TA Total
1 59 57 116
58.00 58.00
0.017 0.017
2 5 7 12
6.00 6.00
0.167 0.167
Total 64 64 128
Chi-Sq = 0.368, DF = 1, P-Value = 0.544
Chi-Square Test: Than xuat huyet, Ruot trong TA
Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected
counts
Than xuat Ruot
huyet trong TA Total
1 21 57 78
39.00 39.00
8.308 8.308
2 43 7 50
25.00 25.00
12.960 12.960
Total 64 64 128
Chi-Sq = 42.535, DF = 1, P-Value = 0.000
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
LÝ LỊCH KHOA HỌC
(Dùng cho Nghiên cứu sinh)
I. LÝ LỊCH SƠ LƯỢC:
135
Họ và tên: NGUYỄN THU TÂM Giới tính: Nữ
Ngày sinh: 14 tháng 11 năm 1976 Nơi sinh: Đồng Tháp
Quê quán: An Khánh, Châu Thành, Đồng Tháp Dân tộc: Kinh
Chức vụ, đơn vị công tác trước khi đi học tập, nghiên cứu: Giảng viên
Chỗ ở riêng hoặc địa chỉ liên lạc: C104, đường 30/4, phường Xuân Khánh,
quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ
Điện thoại cơ quan: Điện thoại DĐ: 0918 150 991
Fax: E-mail: nttamty@ctu.edu.vn
II. QUÁ TRÌNH ĐÀO TẠO:
1. Trung học chuyên nghiệp: không
2. Đại học:
Hệ đào tạo: Chính quy Thời gian đào tạo từ 1996 đến 2001
Nơi học (Trường, thành phố): Trường Đại học Cần Thơ
Ngành học: Chăn nuôi thú y
Tên đồ án, luận án hoặc môn thi tốt nghiệp: Tình hình hiễm vi khuẩn
Salmonella spp. trên chuột đồng tại thành phố Cần Thơ
Ngày và nơi bảo vệ đồ án, luận án hoặc thi tốt nghiệp: Năm 2001 tại Trường
Đại học Cần Thơ
Người hướng dẫn: TS. Trần Thị Phận
3. Thạc sĩ:
Hệ đào tạo: Không tập trung Thời gian đào tạo từ 2005 đến 2008
Nơi học (Trường, thành phố): Trường Đại học Cần Thơ
Ngành học: Thú y
Tên luận văn: Tỷ lệ nhiễm vi khuẩn Salmonella enteritidis và Salmonella
typhimurium trên thịt gà, vịt bán tại một số chợ thuộc thành phố Cần Thơ
Ngày và nơi bảo vệ luận văn: Năm 2008 tại Trường Đại học Cần Thơ
Người hướng dẫn: TS. Trần Thị Phận
4. Tiến sĩ:
Hệ đào tạo: Không tập trung Thời gian đào tạo từ 2013 đến 2017
Tại (Trường, Viện, Nước): Trường Đại học Cần Thơ
136
Tên luận án:“Nghiên cứu bệnh nhiễm độc tố botulin của vi khuẩn Clostridium
botulinum trên vịt tại một số tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long”.
Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Đức Hiền
Ngày và nơi bảo vệ:
5. Trình độ ngoại ngữ (biết ngoại ngữ gì, mức độ): Anh văn B2
6. Chức danh khoa học, học vị, chức vụ kỹ thuật được chính thức cấp, số bằng,
ngày và nơi cấp:
- Kỹ sư chăn nuôi thú y, số bằng B306438, cấp ngày 18/09/2001, nơi cấp
Trường Đại học Cần Thơ
- Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp chuyên ngành Thú y, số bằng A046144, cấp
ngày 04/02/2009, nơi cấp Trường Đại học Cần Thơ
1. Nguyễn Thu Tâm. 2012. Tỷ lệ nhiễm vi khuẩn Actinobaccillus
pleuropnemoniae trên phổi heo và tính nhạy cảm của vi khuẩn phân lập được
với một số loại kháng sinh. CAAB 2012. 1. 323.
2. Nguyễn Thu Tâm. 2012. Định lượng vi khuẩn E. coli và xác định tỷ lệ các
chủng E. coli K88, K99, 987P trên phân . CAAB 2012. 1. 330.
3. Nguyễn Thu Tâm. 2012. Khảo sát một số bệnh tích trên vịt còi cọc và
phân lập vi khuẩn E. coli. CAAB 2012. 1. 339.
4. Nguyễn Phúc Khánh, Trần Ngọc Bích, Nguyễn Thu Tâm. 2014. Bệnh tích đại
thể ở vịt được mổ khám tại lò mổ gia cầm thành phố Cao Lãnh- tỉnh Đồng Tháp.
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Số Nông nghiệp 2014. 96-99.
5. Nguyễn Phúc Khánh, Trần Ngọc Bích, Nguyễn Thu Tâm. 2014. Khảo sát
những bất thường trên đường sinh dục heo cái được giết mổ tại lò mổ thành
phố Cần Thơ. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Số Nông nghiệp
2014. 170-172.
6. Nguyễn Thu Tâm, Đặng Ngọc Lễ. 2014. Khảo sát triệu trứng bệnh tích của
chuột bạch khi tiêm dịch bệnh phẩm dịch ruột từ vịt chạy đồng nghi trúng độc
botulin. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Số Nông nghiệp 2014.
107-110.
7. Nguyễn Thu Tâm, Nguyễn Phúc Khánh, Phan Thị Hồng Nhung. 2014.
Tình hình nhiễm vi khuẩn Vibrio spp. trên tôm bạc (Penaeus merguiensis),
tôm sú (Penaeus monodon), tôm rảo đất (Metapenaeus ensis) tại một số chợ
thuộc quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. Tạp chí Khoa học Trường Đại học
Cần Thơ. Số Nông nghiệp 2014. 111-115.
137
8. Nguyễn Thu Tâm, Trần thị Phận, Nguyễn Đức Hiền. 2016. Phân lập và
định danh vi khuẩn Clostridium botulinum từ vịt bị liệt mềm cổ tại huyện Tân
Phú và Tri Tôn, tỉnh An Giang. NN & PTNT. 147-150.
9. Nguyễn Thu Tâm, Lý Thị Liên Khai, Nguyễn Đức Hiền. 2016. Phân lập và
định danh vi khuẩn Clostridium spp. từ đất ruộng tại huyện Phú Tân và Châu
Phú, tỉnh An Giang. NN & PTNT. tháng 11/2016. 73-77.
10. Lý Thị Liên Khai, Nguyễn Thu Tâm. 2016. Khảo sát sự biến đổi của thịt
heo tại chợ và siêu thị. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Số Nông
nghiệp 2016. 61-68.
11. Nguyễn Thu Tâm, Nguyễn Đức Hiền, Hồ Thị Việt Thu. 2016. Chẩn
đoán bệnh “Cúm cần” ở vịt bằng phương pháp thử nghiệm trên chuột bạch.
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Số Nông nghiệp 2016. 125-130.
12. Nguyễn Thu Tâm, Nguyễn Đức Hiền, Hồ Thị Việt Thu. 2016. Phân lập vi
khuẩn Clostridium botulinum trên ốc bươu (Pila conica) và cua đồng
(Somannia theplusa) tại thành phố Cần Thơ, tỉnh An Giang và Kiên Giang.
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Số Nông nghiệp 2016. 131-134.
III. QUÁ TRÌNH CÔNG TÁC CHUYÊN MÔN KỂ TỪ KHI TỐT
NGHIỆP ĐẠI HỌC:
Thời gian
Nơi công tác
11/2003 - 12/2008 Đại học Cần Thơ
09/2005 - 09/2008 Đại học Cần Thơ
2003 -2009
2009 đến nay Đại học Cần Thơ
Đại học Cần Thơ Công việc đảm nhiệm
Nghiên cứu viên tại BM. Thú y
Học lấy bằng Thạc sỹ ngành
Thú y tại Việt Nam
Nghiên cứu viên tại BM Thú Y
Giảng viên tại BM Thú Y
IV. CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ:
Cần Thơ, Ngày tháng năm 2020
Người khai ký tên
Nguyễn Thu Tâm
138