BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN QUÂN Y
NGUYỄN GIANG NAM
NGHIÊN CỨU BIẾN ĐỔI LÂM SÀNG, THÔNG KHÍ PHỔI, MỨC ĐỘ KIỂM SOÁT VÀ NỒNG ĐỘ MỘT SỐ CYTOKINE HUYẾT THANH Ở BỆNH NHÂN HEN PHẾ QUẢN ĐIỀU TRỊ KIỂM SOÁT BẰNG ICS VÀ LABA
Chuyên ngành: Nội khoa Mã số: 9720107
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Tạ Bá Thắng
2. PGS.TS. Nguyễn Văn Đoàn
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi với sự hướng
dẫn khoa học của tập thể cán bộ hướng dẫn: PGS.TS.Tạ Bá Thắng và
PGS.TS.Nguyễn Văn Đoàn.
Các kết quả nêu trong luận án là trung thực và được công bố một phần
trong các bài báo khoa học.
Luận án chưa từng được công bố. Nếu có điều gì sai tôi xin hoàn toàn
chịu trách nhiệm.
Tác giả
Nguyễn Giang Nam
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Đốc Học Viện Quân y, Phòng
LỜI CẢM ƠN
Sau đại học Học viện Quân Y đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận án.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến PGS.TS.Tạ Bá Thắng và PGS.TS.
Nguyễn Văn Đoàn, những người Thầy đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt
quá trình học tập và hoàn thành luận án.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn và sự kính trọng tới các Thầy, Cô trong
Hội đồng chấm luận án đã dành nhiều thời gian và công sức chỉ bảo giúp đỡ
tôi trong quá trình hoàn thiện bản luận án này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các Thầy, Cô trong Bộ môn - Trung
tâm Nội hô hấp, Bệnh viện Quân y 103 - Học viện Quân y đã hết lòng dạy
dỗ và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ, nhân viên
Trung tâm Dị ứng Miễn dịch lâm sàng - Bệnh viện Bạch Mai, đã tạo điều
kiện thuận lợi và tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn
thành luận án.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới nhóm các bệnh nhân hen phế quản
là đối tượng nghiên cứu của đề tài đã hợp tác tham gia nghiên cứu để giúp
tôi hoàn thành luận án này.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn Cha, Mẹ, Anh, Chị, Em, Vợ và
các Con đã luôn ở bên tôi những lúc khó khăn, động viên và tạo điều kiện
tốt nhất để tôi yên tâm học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
MỤC LỤC
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các biểu đồ
Danh mục các hình
ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ........................................................ 3
1.1. Định nghĩa, dịch tễ và thực trạng kiểm soát hen phế quản ........................ 3
1.1.1. Định nghĩa ........................................................................................ 3
1.1.2. Dịch tễ .............................................................................................. 3
1.1.3. Thực trạng kiểm soát hen phế quản ................................................. 4
1.2. Chẩn đoán, đánh giá mức độ và phân loại kiểu hình hen phế quản ........... 5
1.2.1. Chẩn đoán hen phế quản .................................................................. 5
1.2.2. Đánh giá mức độ hen phế quản ........................................................ 6
1.2.3. Phân loại theo kiểu hình ................................................................... 8
1.3. Điều trị kiểm soát hen phế quản ............................................................... 10
1.3.1. Các thuốc điều trị kiểm soát hen phế quản .................................... 10
1.3.2. Mục tiêu và chiến lược kiểm soát hen phế quản ........................... 14
1.3.3. Điều trị hen phế quản dựa trên mức độ kiểm soát ......................... 15
1.3.4. Đánh giá kiểm soát hen phế quản .................................................. 17
1.4. Đáp ứng viêm và vai trò của cytokine trong kiểm soát hen phế quản ..... 22
1.4.1. Đáp ứng viêm trong hen phế quản ................................................ 22
1.4.2. Vai trò của một số cytokine trong kiểm soát hen phế quản .......... 25
1.5. Các nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài ....................... 30
1.5.1. Nghiên cứu về biến đổi lâm sàng, thông khí phổi và mức độ
kiểm soát .................................................................................................. 30
1.5.2. Nghiên cứu biến đổi nồng độ IL-4, IL-5, IL-13 và TNF-α theo
mức độ kiểm soát ..................................................................................... 34
CHƢƠNG 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......... 38
2.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................... 38
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân ........................................................... 38
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ ......................................................................... 39
2.2. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 39
2.2.1. Đặc chung của đối tượng nghiên cứu trước điều trị kiểm soát ...... 39
2.2.2. Đánh giá biến đổi lâm sàng, thông khí phổi và mức độ kiểm
soát trong 3 tháng ..................................................................................... 39
2.2.3. Đánh giá biến đổi các nồng độ IL-4, IL-5, IL-13 và TNF-α
huyết thanh theo mức độ kiểm soát ......................................................... 40
2.3. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 40
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu ....................................................................... 40
2.3.2. Kỹ thuật thu thập số liệu ................................................................ 41
2.3.3. Quy trình kỹ thuật ......................................................................... 42
2.3.4. Điều trị kiểm soát hen bằng ICS và LABA ................................... 48
2.3.5. Đánh giá kết quả nghiên cứu ......................................................... 49
2.4. Xử lý số liệu ............................................................................................. 52
2.5. Đạo đức trong nghiên cứu ........................................................................ 53
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................... 55
3.1. Biến đổi lâm sàng, thông khí phổi và mức độ kiểm soát ......................... 55
3.1.1. Đặc điểm bệnh nhân trước điều trị kiểm soát ................................ 55
3.1.2. Biến đổi lâm sàng theo thời gian điều trị kiểm soát ...................... 61
3.1.3. Biến đổi số lượng bạch cầu E và thông khí phổi theo thời gian
điều trị ...................................................................................................... 64
3.1.4. Biến đổi mức độ kiểm soát và một số yếu tố liên quan đến mức
độ kiểm soát ............................................................................................. 72
3.2. Biến đổi nồng độ các cytokine huyết thanh sau điều trị kiểm soát .......... 78
3.2.1. Biến đổi nồng độ các cytokine huyết thanh theo thời gian điều
trị .............................................................................................................. 78
3.2.2. Thay đổi nồng độ các cytokine huyết thanh theo mức độ kiểm
soát ........................................................................................................... 83
3.2.3. Phân tích hồi quy đa biến liên quan giữa biến đổi nồng độ các
cytokine huyết thanh với mức độ kiểm soát sau 3 tháng điều trị ............ 86
CHƢƠNG 4. BÀN LUẬN ............................................................................. 88
4.1. Biến đổi lâm sàng, thông khí phổi và mức độ kiểm soát ......................... 88
4.1.1. Đặc điểm bệnh nhân trước điều trị kiểm soát ................................ 88
4.1.2. Biến đổi lâm sàng theo thời gian điều trị kiểm soát ...................... 96
4.1.3. Biến đổi số lượng bạch cầu E và thông khí phổi theo thời gian
điều trị .................................................................................................... 100
4.1.4. Biến đổi mức độ kiểm soát và một số yếu tố liên quan đến mức
độ kiểm soát ........................................................................................... 106
4.2. Biến đổi nồng độ các cytokine huyết thanh sau điều trị kiểm soát ........ 112
4.2.1. Biến đổi nồng độ các cytokine huyết thanh theo thời gian điều
trị ............................................................................................................ 112
4.2.2. Thay đổi đổi nồng độ các cytokine huyết thanh theo mức độ
kiểm soát ................................................................................................ 117
4.2.3. Phân tích hồi quy đa biến liên quan giữa biến đổi nồng độ các
cytokine huyết thanh với mức độ kiểm soát sau 3 tháng điều trị .......... 122
KẾT LUẬN .................................................................................................. 124
KIẾN NGHỊ ................................................................................................. 126
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN
CỨU CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .................................................................. 127
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT Phần viết tắt Phần viết đầy đủ
ACT Asthma Control Test (Test đánh giá kiểm 1
soát hen)
BMI Body Mass Index (Chỉ số khối cơ thể) 2
Bạch cầu BC 3
N Neutrophils (Bạch cầu đa nhân trung tính) 4
E Eosinophils (Bạch cầu ái toan) 5
FEF Forced Expiratory Flow (Lưu lượng thở ra tối 6
đa)
Maximal expiratory flow when 25% of the 7 FEF25%
remais in the lung - MEF25% or FEF25% (Lưu
lượng thở ra tối đa tại vị trí còn lại 25% thể
tích của FVC)
8 Maximal expiratory flow when 50% of the FEF50%
remais in the lung - MEF55% or FEF55% (Lưu
lượng thở ra tối đa vị trí còn lại 50% thể tích
của FVC)
9 Maximal expiratory flow when 75% of the FEF75%
remais in the lung - MEF75% or FEF75% (Lưu
lượng thở ra tối đa tại vị trí còn lại 75% thể
tích cuả FVC)
10 Forced expiratory flow between 25% and FEF25-75
75% of the FVC (Lưu lượng thở ra tối đa ở
đoạn từ 25%-75% của FVC)
11 Forced Expiratory Volume in 1 second (Thể FEV1
tích thở ra tối đa trong giây đầu tiên)
Phần viết tắt Phần viết đầy đủ TT
FVC Forced Vital Capacity (Dung tích sống gắng 12
sức)
13 GINA Global Initiative for Asthma (Chiến lược toàn
cầu về hen phế quản)
Hen phế quản 14 HPQ
Inhaled corticocorticoid (Corticosteroid 15 ICS
đường hít)
Interleukin 16 IL
17 LABA Long Acting 2 adrenergic Agonist (Thuốc
chủ vận 2 giao cảm tác dụng kéo dài)
Peak Expiratory Flow (Lưu lượng đỉnh) 18 PEF
Rối loạn thông khí 19 RLTK
20 SABA Short Acting 2 adrenergic Agonist (Thuốc
chủ vận 2 giao cảm tác dụng ngắn)
21 SLT Số lý thuyết
22 SLHC Số lượng Hồng cầu
23 SLBC Số lượng Bạch cầu
24 TGHH Trung gian hoá học
25 TKP Thông khí phổi
26 T helper 2 lymphocyte (Tế bào lympho T hỗ Th2
trợ 2)
27 TNF-α Tumor Necrosis Factor alpha (Yếu tố hoại tử
u alpha)
28 VC Vital Capacity (Dung tích sống)
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng Tên bảng Trang
1.1. Tình hình kiểm soát hen phế quản ở một số nước Châu Á
Thái Bình Dương
1.2. Tỷ lệ sử dụng ICS theo mức độ hen giữa các vùng trên thế
giới
1.3. Phân loại mức độ của hen phế quản 1.4. Liều dùng một số ICS 1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến kiểm soát hen phế quản kém 2.1. Các bước điều trị kiểm soát ban đầu theo GINA (2012) 2.2. Sơ đồ tăng, giảm bậc trong điều trị kiểm soát hen phế quản 2.3. Phân bậc hen phế quản theo GINA (2012) 2.4. Mức độ kiểm soát hen phế quản theo GINA (2012) 3.1. Tuổi và giới 3.2. Tiền sử của bệnh nhân và gia đình 3.3. Một số đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân trước điều trị kiểm
soát
3.4. Đặc điểm máu ngoại vi trước điều trị kiểm soát 3.5. Giá trị trung bình các thông số thông khí phổi trước điều trị
kiểm soát
3.6. Nồng độ trung bình các cytokine trước điều trị kiểm soát 3.7. Biến đổi triệu chứng lâm sàng theo thời gian điều trị 3.8. Biến đổi bậc hen theo thời gian điều trị 3.9. Chuyển bậc hen theo thời gian so với trước điều trị 3.10. Biến đổi điểm ACT theo thời gian điều trị 3.11. Biến đổi số lượng bạch cầu E theo thời gian điều trị 3.12. Biến đổi số lượng bạch cầu E theo mức độ kiểm soát sau 1
tháng
3.13. Biến đổi số lượng bạch cầu E theo mức độ kiểm soát sau 2
tháng
3.14. Biến đổi số lượng bạch cầu E theo mức độ kiểm soát sau 3
tháng 4 5 7 16 19 48 49 50 51 55 55 56 58 59 60 61 62 62 63 64 64 65 65
Bảng Tên bảng Trang
3.15. Biến đổi các thông số thông khí phổi theo thời gian điều trị 66
3.16. Mức thay đổi các thông số VC, FVC và FEV1 theo thời gian
so với trước điều trị 67
3.17. Thay đổi các thông số thông khí phổi theo mức độ kiểm soát
sau 1 tháng 68
3.18. Thay đổi các thông số thông khí phổi theo mức độ kiểm soát
sau 2 tháng 69
3.19. Thay đổi các thông số thông khí phổi theo mức độ kiểm soát
sau 3 tháng 70
3.20. % cải thiện các thông số VC, FVC và FEV1 theo mức độ
kiểm soát sau 1 tháng 71
3.21. % cải thiện các thông số VC, FVC và FEV1 theo mức độ
kiểm soát sau 2 tháng 71
3.22. % cải thiện các thông số VC, FVC và FEV1 theo mức độ
kiểm soát sau 3 tháng 72
3.23. Biến đổi mức độ kiểm soát theo thời gian điều trị 72
3.24. Mức độ kiểm soát theo bậc hen sau 1 tháng 73
3.25. Mức độ kiểm soát theo bậc hen sau 2 tháng 73
3.26. Mức độ kiểm soát theo bậc hen sau 3 tháng 74
3.27. Liên quan giữa mức độ kiểm soát với một số đặc điểm lâm
sàng sau 1 tháng 74
3.28. Liên quan giữa mức độ kiểm soát với một số đặc điểm lâm
sàng sau 2 tháng 75
3.29. Liên quan giữa mức độ kiểm soát với một số đặc điểm lâm
sàng sau 3 tháng 76
3.30. Phân tích hồi quy đa biến các yếu tố liên quan đến mức độ
kiểm soát hen sau 3 tháng 77
Bảng Tên bảng Trang
3.31. Biến đổi nồng độ trung bình các cytokine huyết thanh theo
thời gian điều trị 78
3.32. Biến đổi nồng độ IL-4 huyết thanh so với trước điều trị theo
thời gian 79
3.33. Biến đổi nồng độ IL-5 huyết thanh so với trước điều trị theo
thời gian
3.34. Biến đổi nồng độ IL-13 huyết thanh so với trước điều trị theo
thời gian
3.35. Biến đổi nồng độ TNF-α huyết thanh so với trước điều trị
theo thời gian
3.36. Thay đổi nồng độ các cytokine huyết thanh theo mức độ kiểm
soát sau 1 tháng
3.37. Thay đổi nồng độ các cytokine huyết thanh theo mức độ kiểm
soát sau 2 tháng
3.38 Thay đổi nồng độ các cytokine huyết thanh theo mức độ kiểm
soát sau 3 tháng
3.39. Phân tích hồi quy đa biến liên quan giữa biến đổi nồng độ các cytokine huyết thanh với mức độ được kiểm soát tốt sau 3 tháng
3.40. Phân tích hồi quy đa biến liên quan giữa biến đổi nồng độ các cytokine huyết thanh với mức độ kiểm soát 1 phần sau 3 tháng
3.41. Phân tích hồi quy đa biến liên quan giữa biến đổi nồng độ các cytokine huyết thanh với mức độ hen không kiểm soát sau 3 tháng 80 81 82 83 84 85 86 86 87
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ Tên Sơ đồ Trang
1.1. Vai trò của cytokine trong đáp ứng viêm ở hen phế quản 26
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ Tên biểu đồ Trang
Thời gian mắc bệnh 3.1. 56
Phân bậc hen trước điều trị kiểm soát 3.2. 57
Thay đổi giá trị trung bình điểm ACT sau điều trị kiểm 3.3.
soát 63
Biến đổi các thông số VC, FVC, FEV1 theo thời gian 3.4. 67
Biến đổi nồng độ trung bình IL-5 theo thời gian 3.5. 80
Biến đổi nồng độ trung bình IL-13 theo thời gian 3.6. 81
Biến đổi nồng độ trung bình TNF-α theo thời gian 3.7. 82
DANH MỤC CÁC HÌNH
Tên hình Trang Hình
1.1. Chu trình điều trị hen phế quản dựa trên mức kiểm soát 15
2.1. Máy đo thông khí phổi - Microsipro HI 601 42
2.2. Hình ảnh các bước xử lý mẫu máu xét nghiệm nồng độ
cytokine 44
2.3. Nguyên lý phản ứng phát hiện cytokine 46
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hen phế quản (HPQ) là một bệnh mạn tính gặp phổ biến trên thế giới và
có xu hướng ngày càng gia tăng. Hiện tại độ lưu hành chung của HPQ là 7,4%
với khoảng 300 triệu người mắc trên toàn thế giới, ước tính hơn 100 triệu
người bị ảnh hưởng bởi bệnh vào năm 2025 [1], [2], [3].[4].
Diễn biến của HPQ thường xuất hiện những đợt cấp tái diễn, và có thể
dẫn đến các biến chứng nguy hiểm đến tính mạng, nhưng bệnh có thể kiểm
soát được. Điều trị kiểm soát bệnh với mục tiêu là đạt được kiểm soát bệnh tốt
với tiêu chí là giảm tần xuất và mức độ nặng các triệu chứng và giảm các
nguy cơ xuất hiện các đợt cấp trong tương lai [1], [5]. Hướng dẫn điều trị
kiểm soát của chiến lược toàn cầu về hen (GINA) và các hướng dẫn hiện tại
trên thế giới đều cho thấy sử dụng corticosteroid đường hít (ICS) và chủ vận
β2 giao cảm tác dụng kéo dài (LABA) là chủ đạo trong điều trị kiểm soát HPQ
[6], [7]. Điều trị kiểm soát HPQ được thực hiện theo chu trình khép kín bao
gồm các bước: đánh giá tình trạng bệnh; điều trị và đánh giá lại đáp ứng; điều
chỉnh điều trị. Trong đó việc đánh giá lại đáp ứng điều trị sau mỗi 4-6 tuần
(hàng tháng) gồm các bước rất quan trọng: xem lại mức độ kiểm soát và đánh
giá các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ kiểm soát kém, các yếu tố nguy cơ
trong tương lai để điều chỉnh lại điều trị kiểm soát đạt hiệu quả hơn [6]. Hiện
tại các hướng dẫn đánh giá kiểm soát HPQ vẫn dựa vào biến đổi lâm sàng và
chức năng hô hấp là chủ yếu. Các nghiên cứu trước chủ yếu tập chung vào
đánh giá mức độ kiểm soát hen đạt được theo thời gian, nhưng đánh giá sự
biến đổi các triệu chứng lâm sàng và các thông số thông khí phổi như thế nào
và liên quan với biến đổi mức độ kiểm soát ra sao là vấn đề chưa được đề cập
trong các nghiên cứu [6]. Trong khi đó kết quả các nghiên cứu cho thấy tỷ
bệnh nhân không được kiểm soát theo thời gian vẫn còn cao: chiếm tỷ lệ từ
38,5% đến 64,4% tùy theo các nước [3],[4], [8]. Do vậy, việc đánh giá biến
2
đổi lâm sàng, TKP và mức độ kiểm soát cũng như các yếu tố liên quan đến
mức độ kiểm soát vẫn là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong điều trị kiểm
soát HPQ.
Viêm đường thở và nhu mô phổi là cơ chế chủ đạo trong bệnh sinh của
HPQ. Kiểu hình viêm trong HPQ rất đa dạng bao gồm viêm kiểu Th2 (viêm
tăng bạch cầu E), viêm không tăng bạch cầu E, viêm hỗn hợp, trong đó viêm
kiểu Th2 chiếm ưu thế. Các cytokine có vai trò rất quan trọng trong đánh giá
đáp ứng viêm trong HPQ. Các cytokine được sản xuất từ lypmphocyte Th2
như interleukin (IL) 4, 5, 13 và TNF-α là những cytokine đóng vai trò chủ đạo
trong đáp ứng viêm ở bệnh nhân HPQ [5], [9], [10]. Bản chất của điều trị
kiểm soát HPQ chính là kiểm soát tình trạng viêm đường thở và nhu mô phổi.
Các nghiên cứu cho thấy nồng độ các cytokine huyết thanh giúp đánh giá kiểu
hình viêm, diễn biến của bệnh cũng như đánh giá đáp ứng điều trị, đặc biệt
điều trị corticosteroid và ứng dụng các liệu pháp điều trị mới trong HPQ (điều
trị đích phân tử - kháng các cytokine) [11]. Đã có một số nghiên cứu về thay
đổi nồng độ một số cytokine ở dịch phế quản, đờm và huyết trong HPQ
nhưng có rất ít nghiên cứu biến đổi nồng độ các cytokine huyết thanh theo
thời gian và mức độ kiểm soát sau điều trị bằng ICS và LABA [12], [13],
[14], [15], [16].
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu biến đổi lâm sàng,
thông khí phổi, mức độ kiểm soát và nồng độ một số cytokine huyết thanh ở
bệnh nhân hen phế quản điều trị kiểm soát bằng ICS và LABA” với các
mục tiêu sau:
1. Đánh giá biến đổi lâm sàng, thông khí phổi và mức độ kiểm soát ở
bệnh nhân hen phế quản điều trị bằng ICS và LABA sau 3 tháng.
2. Đánh giá biến đổi nồng độ IL-4, IL-5, IL-13 và TNF-α huyết thanh
theo mức độ kiểm soát ở bệnh nhân hen phế quản điều trị bằng ICS và LABA
sau 3 tháng.
3
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. ĐỊNH NGHĨA, DỊCH TỄ VÀ THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT HEN PHẾ QUẢN
1.1.1. Định nghĩa
Định nghĩa HPQ hiện nay chủ yếu dựa vào bản chất của bệnh, các biểu
hiện lâm sàng chính và rối loạn chức năng phổi.
GINA đã cập nhật hàng năm về định nghĩa của HPQ.
GINA (2018) định nghĩa: HPQ là một bệnh không đồng nhất, đặc trưng
bởi các triệu chứng hô hấp là thở khò khè, khó thở, nghẹt lồng ngực và ho
thay đổi về tần suất và cường độ bệnh theo thời gian, kết hợp với tắc nghẽn
lưu lượng khí hồi phục hoàn toàn [17].
1.1.2. Dịch tễ
Với sự gia tăng không ngừng của độ lưu hành, tỷ lệ số tử vong và
những tổn thất do HPQ gây ra trong những thập kỷ gần đây càng nghiêm
trọng. Theo ước tính hiện nay có khoảng 300 triệu người mắc HPQ. Dự kiến
đến năm 2025 sẽ là 400 triệu người bệnh HPQ [2], [18], [19]. Tại Mỹ tỷ lệ
hiện mắc HPQ là 5,8%. Tại Pháp, tỷ lệ mắc HPQ tăng trên 5 lần trong vòng
10 năm trở lại đây. Tại khu vực Châu Á độ lưu hành của HPQ cũng đang có
xu hướng tăng cao, tỷ lệ mắc tăng từ 1- 10 lần trong những năm qua [1], [5].
Tại Việt Nam theo nghiên cứu mới nhất của Trung tâm Dị ứng Miễn
dịch lâm sàng - Bệnh viện Bạch Mai tỷ lệ lưu hành chung của HPQ ở Việt
Nam là 4,1%, trong đó cao nhất ở nhóm tuổi trên 80 (11,9%) và thấp nhất ở
nhóm tuổi 21- 30 tuổi chiếm 1,5% [4], [5].
Tử vong do HPQ hàng năm trên toàn thế giới ước tính 250.000 và
chiếm 1% tổng số gánh nặng bệnh tật toàn cầu [5], [18].
Tại Việt Nam tỷ lệ tử vong trong 7 tỉnh là 5,62 trường hợp/ 100.000 dân
và trung bình trong 5 năm là 3,78 trường hợp/ 100.000 dân [4]. Tuy vậy điều
4
đáng chú ý là phần lớn các trường hợp tử vong có thể phòng ngừa được nếu xã
hội, gia đình, thầy thuốc và bệnh nhân quan tâm hơn tới HPQ [6].
1.1.3. Thực trạng kiểm soát hen phế quản
Mức độ kiểm soát HPQ nói chung trên thế giới còn thấp mặc dù Chiến
lược toàn cầu về HPQ đã được tiến hành ở nhiều nước.
Nghiên cứu tại các nước phát triển và đang phát triển đều ghi nhận
thành công của Chiến lược toàn cầu về HPQ, tuy nhiên thực trạng kiểm soát
hen tại các nước khu vực Châu Á – Thái Bình Dương còn rất thấp, tỷ lệ HPQ
được kiểm soát chỉ đạt khoảng 20% tùy theo các nước và khu vực [5], [20].
Bảng 1.1 Tình hình kiểm soát hen phế quản ở một số nƣớc Châu Á
Thái Bình Dƣơng
Mức kiểm soát Kiểm soát Kiểm soát Không kiểm
tốt (%) 1 phần (%) soát (%) Quốc gia
Australia 13 64 24
Trung Quốc 2 56 42
Hồng Kông 11 73 16
Ấn Độ 0 60 40
Malaysia 6 63 30
Singapore 14 61 26
Hàn Quốc 8 55 37
Đài Loan 6 73 22
* Nguồn: Theo Gold L.S và CS (2014) [20]
Thái Lan 8 58 34
Tỷ lệ bệnh nhân được sử dụng ICS trong điều trị kiểm soát còn thấp.
Rabe K.F. và CS (2004) trong một nghiên cứu cắt ngang về HPQ đối với các
hộ gia đình ở 29 quốc gia ở miền Bắc Mỹ, Châu Âu và Châu Á, thấy việc sử
dụng ICS trong kiểm soát HPQ chỉ từ 26% ở Tây Âu và 9% ở Nhật Bản, đặc
biệt tỷ lệ dùng ICS thấp còn xảy ra ở cả những bệnh nhân HPQ nặng và dai
dẳng [21].
5
Bảng 1.2. Tỷ lệ sử dụng ICS theo mức độ hen giữa các vùng trên thế giới
Mức độ bệnh
Khu vực/ Điều trị
Hen nặng dai dẳng (%) 20 Hen trung bình dai dẳng (%) 18 Hen nhẹ dai dẳng (%) 16 Hen nhẹ ngắt quãng (%) 10 Dự phòng Châu Mỹ Cắt cơn 80 78 70 42
Dự phòng 26 26 30 18 Tây Âu Cắt cơn 76 81 75 44
Dự phòng 19 19 14 13 Châu Á Thái
Bình Dương Cắt cơn 60 66 54 53
Dự phòng 9 11 11 7 Nhật Cắt cơn 48 71 50 24
Dự phòng 16 9 12 13 Trung và
* Nguồn: Theo Rabe K.F và CS ( 2004) [21]
Đông Âu Cắt cơn 68 58 50 33
Tại Việt Nam, theo kết quả nghiên cứu về thực trạng HPQ tại 7 tỉnh
thành trong cả nước năm 2011 cho thấy kết quả kiểm soát HPQ còn thấp, tỷ lệ
bệnh nhân kiểm soát chiếm 41,05% và chưa được kiểm soát còn chiếm tỷ lệ
tương đối cao (58,95%) [4]. Đây cũng là thách thức đặt ra trong thực hành
kiểm soát HPQ tại nước ta và các nước trên thế giới.
1.2. CHẨN ĐOÁN, ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ VÀ PHÂN LOẠI KIỂU HÌNH HEN
PHẾ QUẢN
1.2.1. Chẩn đoán hen phế quản
Chẩn đoán HPQ dựa vào những căn cứ sau [1], [5], [6]:
- Tiền sử và bệnh sử: Các triệu chứng đặc trưng của bệnh có vai trò định
hướng chẩn đoán
Những triệu chứng đặc trưng tăng khả năng chẩn đoán HPQ: Khi bệnh
nhân có một trong các triệu chứng (thở rít, khó thở, ho, nghẹt lồng ngực) với
đặc điểm sau:
6
+ Triệu chứng nặng về đêm và sáng sớm
+ Triệu chứng thay đổi cường độ theo thời gian
+ Triệu chứng xuất hiện khi nhiễm virus, vận động, tiếp xúc dị nguyên,
khói thuốc…
- Những triệu chứng ít khả năng chẩn đoán HPQ:
+ Ho đơn thuần không kèm các triệu chứng hô hấp khác
+ Khạc đờm mạn tính
+ Khó thở kèm chóng mặt, đau đầu hay ngứa …
+ Đau ngực
+ Khó thở khi vận động kèm theo thở rít khi hít vào
- TKP xác định rối loạn thông khí tắc nghẽn có hồi phục và thay đổi: Đây là
tiêu chuẩn xác định chẩn đoán bệnh
+ Rối loạn thông khí tắc nghẽn: Khi FEV1 giảm và FEV1/ FVC < 75%
+ Rối loạn thông khí hồi phục và thay đổi: FEV1 tăng > 12% và > 200ml
so với mức ban đầu sau 10-15 phút xịt 200- 400mcg salbutamol hoặc FEV1
tăng >15% và > 400ml. Dao động PEF trong ngày >10%. Hoặc sau 4 tuần
điều trị ICS: FEV1 tăng > 12% và > 200ml so với mức ban đầu; Dao động
PEF trong ngày > 20% ở người không có nhiễm trùng hô hấp
- Cần chẩn đoán phân biệt HPQ với các bệnh sau:
+ Các bệnh có khó thở kịch phát: Hen tim, phù phổi cấp, nhồi máu phổi,
tắc nghẽn đường thở trên (co thắt thanh quản, liệt dây thanh âm, dị vật đường
thở lớn..)
+ Các bệnh có khó thở dai dẳng: Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, giãn phế
quản lan toả, viêm phổi tăng bạch cầu E
1.2.2. Đánh giá mức độ hen phế quản
Đánh giá mức độ HPQ có vai trò rất quan trọng trong điều trị kiểm soát
giúp phân loại mức độ nặng của bệnh để tiếp cận điều trị ban đầu thích hợp,
7
đánh giá đáp ứng sau điều trị kiểm soát và xác định các yếu tố nguy cơ trong
tương lai để điều chỉnh điều trị kịp thời và thích hợp [5], [6].
Có nhiều cách đánh giá mức độ HPQ:
- Đánh giá mức độ bệnh theo đặc điểm lâm sàng và chức năng phổi: Dựa vào
mức độ triệu chứng, tắc nghẽn đường thở và sự thay đổi của chức năng phổi,
mức độ bệnh được phân thành 4 nhóm: HPQ ngắt quãng (Intermmittent),
HPQ dai dẳng nhẹ (Mild persistent), hen dai dẳng trung bình (Moderate
persistent), HPQ dai dẳng nặng (Severve persistent). Phân loại này thích hợp
cho bệnh nhân chưa điều trị corticosteroid hít bởi mức độ nặng của bệnh phụ
thuộc vào tình trạng nặng và vào đáp ứng với điều trị [1].
Bảng 1.3. Phân loại mức độ của hen phế quản
Triệu chứng Triệu chứng Các mức độ Đợt cấp PEF, FEV1 hàng ngày về đêm
2 lần/ Ngắn 1 lần/ tuần tháng HPQ bậc I (hen ngắt quãng)
HPQ bậc II
> 1 lần/ tuần >2 lần/ tháng (hen dai dẳng nhẹ) Có thể ảnh hưởng đến hoạt động thể lực và giấc ngủ
>1 lần/ tuần HPQ bậc III Hàng ngày (hen dai dẳng trung bình) Sử dụng thuốc chủ vận β2 giao cảm hít hàng ngày PEF, FEV1 80% Dao động của PEF và FEV1 < 20% PEF, FEV1 80% Giao động của PEF và FEV1 20- 30% PEF, FEV1 60- 80% Giao động của PEF và FEV1 >30%
HPQ bậc IV
* Nguồn: Theo GINA 2018 [17]
Hàng ngày Thường xuyên (hen dai dẳng nặng) Thường xuyên Hạn chế hoạt động thể lực PEF, FEV1 60% Giao động của PEF và FEV1 > 30%
8
- Đánh giá mức độ bệnh dựa trên mức độ điều trị yêu cầu để kiểm soát các
triệu chứng và đợt cấp theo GINA 2019 [22].
+ HPQ nhẹ: Bệnh được kiểm soát tốt ở điều trị bước 1 và 2 (chỉ điều trị
kiểm soát đơn thuần theo nhu cầu hoặc với điều trị kiểm soát duy trì ở mức
thấp (ICS liều thấp hay kháng leukotriene hoặc cromone).
+ HPQ trung bình: Bệnh được kiểm soát tốt ở điều trị bước 3 (điều trị
ICS và LABA liều thấp).
+ HPQ nặng: Đòi hỏi yêu cầu điều trị cao (điều trị như bệnh ở bước 4
và 5 theo GINA) để duy trì kiểm soát tốt hoặc kiểm soát tốt không đạt được
mặc dù điều trị ở mức cao. HPQ nặng là một thể của hen khó trị [17].
Mức độ bệnh luôn thay đổi theo thời gian do vậy cần phải đánh giá
mức độ bệnh ở thời điểm ban đầu và trong suốt quá trình điều trị.
1.2.3. Phân loại theo kiểu hình
Sự không đồng nhất giữa biểu hiện bệnh và đáp ứng điều trị đã tạo nên
các kiểu hình của HPQ. Kiểu hình là kết quả của tương tác giữa yếu tố di
truyền của bệnh nhân và yếu tố môi trường. Đánh giá kiểu hình chính là cách
tiếp cận chẩn đoán và điều trị hiện đại trong HPQ giúp cho điều trị bệnh hiệu
quả hơn [145].
Có nhiều phân loại kiểu hình của HPQ [1], [5], [6]:
- Kiều hình theo dấu hiệu lâm sàng:
+ HPQ dị ứng: Bệnh thường khởi phát từ tuổi trẻ (< 30 tuổi), hay gặp ở
trẻ em có cơ địa dị ứng bản thân và gia đình, yếu tố gây triệu chứng là các dị
nguyên, test da với dị nguyên (+); bệnh diễn biến tốt, đáp ứng tốt với điều trị
corticosteroid và giảm mẫn cảm với các dị nguyên [5], [6], [17].
+ HPQ mẫn cảm Aspirin: Thường kèm theo viêm mũi xoang dị ứng,
polyp mũi và xuất hiện các triệu chứng khi dùng thuốc chống viêm không
steroid, tăng bạch cầu E trong máu và đờm, tăng leukotriene, điều trị kháng
leukotriene có hiệu quả tốt.
9
+ HPQ kết hợp với trào ngược dạ dày - thực quản: Có khoảng trên
70% bệnh nhân HPQ khó kiểm soát kèm trào ngược dạ dày - thực quản. Trào
ngược dạ dày - thực quản làm tăng triệu chứng HPQ và ngược lại HPQ làm
tăng nguy cơ trào ngược dạ dày - thực quản hơn 2 lần so với bệnh nhân không
có HPQ.
+ HPQ vận động: Thường ở trẻ em, các triệu chứng (khó thở, thở rít) xuất
hiện ngay sau vận động, test gắng sức (+). Dùng thuốc giãn phế quản trước vận
động giảm sự xuất hiện các triệu chứng khi vận động [1], [5].
+ HPQ nghề nghiệp: Bệnh nhân có tiền sử phơi nhiễm trong nghề
nghiệp (hoá chất, bụi). Triệu chứng khó thở xuất hiện sau làm việc vài phút
đến vài giờ và cải thiện ngay khi rời công việc. Triệu chứng tái diễn khi tiếp
xúc lại với môi trường nghề nghiệp. Test kích thích phế quản đặc hiệu với dị
nguyên (hoặc các yếu tố kích phát không có tính dị nguyên) có ở môi trường
làm việc (+) [23].
+ HPQ mẫn cảm với khí lạnh và khô: Các triệu chứng xuất hiện khi hít
khí lạnh và khô. Bệnh nhân không có cơ địa dị ứng, ít nhạy cảm với
corticosteroid hít [23].
+ HPQ kháng corticosteroid: Bao gồm HPQ đề kháng 1 phần với
corticosteroid (kháng corticosteroid týp I): bệnh nhân được điều trị kiểm soát
chặt chẽ ít nhất 6 tháng và chỉ kiểm soát được khi sử dụng corticosteroid liều
cao. HPQ đề kháng hoàn toàn với corticosteroid (kháng corticosteroid týp II):
bệnh nhân được điều trị kiểm soát chặt chẽ ít nhất 6 tháng và không đáp ứng
với corticosteroid.
+ HPQ khởi phát muộn: Thường gặp HPQ dai dẳng nặng. Chức năng
phổi kém hơn hen dị ứng, bạch cầu E tăng trong máu và đờm, ít có tình trạng
dị ứng, IL-5 tăng. Điều trị ICS đáp ứng kém hơn toàn thân. Điều trị kháng IL-
5 có hiệu quả tốt.
10
+ HPQ và béo phì: Béo phì là yếu tố nguy cơ của HPQ không dị ứng.
Béo phì thường kết hợp với bệnh trào ngược dạ dày - thực quản làm tăng mức
độ nặng của HPQ và đáp ứng điều trị kém hơn.
+ HPQ ở người hút thuốc: Những người hút thuốc không tuân thủ điều
trị hoặc có bệnh tâm thần sẽ ảnh hưởng đến mức độ của HPQ. Hút thuốc sẽ
làm tăng hiện tượng đề kháng với corticosteroid.
- Kiểu hình theo các dấu ấn viêm: Các dấu ấn viêm phản ánh đáp ứng với điều
trị corticosteroid và dự đoán nguy cơ xuất hiện cơn cấp tiếp theo.
+ HPQ tăng bạch cầu E trong đờm và máu: Thường kết hợp với HPQ
khởi phát sớm, liên quan đến cơ địa dị ứng, đáp ứng viêm loại Th2, điều trị
ICS đáp ứng tốt.
+ HPQ không tăng bạch cầu E trong đờm, máu: Liên quan đến béo phì
và hút thuốc, ít cơn cấp hơn nhưng nhiều bệnh đồng mắc.
+ HPQ kết hợp với viêm tăng bạch cầu N: Thường liên quan đến mức
FEV1 thấp.
+ HPQ kết hợp với tăng các cytokine Th2: Thường tăng IL-13,
SERPINB2. Bệnh đáp ứng kém với điều trị ICS, điều trị kháng IL-13 có
hiệu quả tốt.
+ HPQ tăng FeNO: Ở bệnh nhân có tăng FeNO sẽ làm tăng IL-13 gây
đáp ứng viêm theo hướng Th2 và nhạy cảm với điều trị ICS.
1.3. ĐIỀU TRỊ KIỂM SOÁT HEN PHẾ QUẢN
1.3.1. Các thuốc điều trị kiểm soát hen phế quản
Các thuốc kiểm soát HPQ là những thuốc được dùng để điều trị duy trì
đều đặn. Các thuốc này có tác dụng làm giảm viêm đường thở, kiểm soát triệu
chứng và giảm nguy cơ xuất hiện các đợt cấp hay suy giảm chức năng phổi
trong tương lai [1], [5], [6], [23].
11
Các thuốc điều trị kiểm soát gồm: Corticosteroid đường hít (ICS),
thuốc chủ vận β2 adrenergic tác dụng kéo dài (LABA), Cromones (sodium
cromoglycate và neodocromil sodium), kháng thụ thể leukotriene
(Leukotriene receptor antagonists - LTRAs), kháng IgE [23].
1.3.1.1. Corticosteroid đường hít
Corticosteroid đường hít (ICS) hiện tại là thuốc kháng viêm hiệu quả
nhất trong điều trị kiểm soát HPQ [23].
Có 6 loại ICS hiện đang được sử dụng: Beclomethasone dipropionate,
Budesonide, Flunisolide, Fluticasone, Mometasone Furoate, Triamcinolone
[7], [23].
Các loại ống hít được sử dụng khi điều trị bằng ICS: Gồm 3 loại là ống
hít xịt định liều (MDI), ống hít bột khô (DPI), và ống phun dung tích nhỏ [7].
- Ống hít xịt định liều (MDI): Cách thức dùng MDI được đẩy bằng
Chlorofluorocarbon hoặc bằng Hydrofluoroalkane 134a (HFA).
MDI phát ra các phân tử có kích thước khác nhau, buồng chứa thuốc có
van làm gia tăng tỷ lệ các phân tử được hít vào trong đường hô hấp và giữ lại
các phân tử lớn hơn và như vậy ngăn sự lắng đọng của thuốc vào trong hầu -
miệng [7].
- Ống hít bột khô (DPI): Tất cả DPI được khởi động bằng hơi thở vì thế
nó chỉ được sử dụng cho trẻ lớn tuổi và người lớn. Khi được sử dụng đúng
nồng độ phân tử ICS lắng đọng tương đối cao trong đường hô hấp.
- Ống phun dung tích nhỏ: Yêu cầu Mask hoặc miếng vải che miệng
khi người bệnh hít khí dung. Budesonide khi sử dụng phải dùng ống phun
dung tích nhỏ [7].
Cơ chế tác dụng của ICS trên đường thở: ICS khi gắn với thụ thể
corticosteroid sẽ xâm nhập vào trong nhân của tế bào biểu mô đường thở và
các tế bào khác trong đường hô hấp tạo thành phức hợp thụ thể - corticosteroid
trong nhân dẫn đến thúc đẩy phiên mã gen và làm giảm quá trình viêm [7].
12
ICS còn tạo điều kiện thuận lợi cho tác dụng của thuốc chủ vận β2 adrenergic
bằng cách gia tăng mật độ thụ thể β2 adrenergic trên tế bào cơ trơn. ICS còn
ức chế tế bào lympho T làm giảm sự tổng hợp các cytokine và các chất trung
gian gây viêm [7].
Tác dụng của ICS: Điều trị kiểm soát bằng ICS giúp kiểm soát được các
triệu chứng, giảm tần số đợt cấp, giảm số lần nhập viện, cải thiện chất lượng
cuộc sống và chức năng phổi, giảm tình trạng tăng phản ứng tính phế quản và
giảm tình trạng co thắt phế quản do vận động, giảm tỷ lệ tử vong do hen [12].
Tác dụng phụ của ICS: Bao gồm tác dụng phụ tại chỗ như giọng khàn
và khản tiếng, nấm họng. Giọng khàn và khản tiếng liên quan tới liều sử dụng
và có thể do corticosteroid gây bệnh lý ở cơ thanh quản. Nấm Candida ở
miệng liên quan tới liều ICS sử dụng: tần suất xảy ra ở < 5% bệnh nhân được
điều trị ICS [7], [23].
1.3.1.2. Thuốc chủ vận β2 adrenergic tác dụng kéo dài
Thuốc chủ vận β2 adrenergic tác dụng kéo dài (LABA) là thuốc được sử
dụng phổ biến trong điều trị kiểm soát HPQ. Bao gồm các thuốc như
Forrmeterol, Salmeterol [23].
Cơ chế tác dụng: LABA tác động lên bề mặt tế bào gây gia tăng số
lượng AMP vòng trong tế bào thông qua sự hoạt hóa men adenylcyclase,
từ đó ức chế tế bào mast làm giãn cơ trơn phế quản, giảm tính thấm mao
mạch. Hoạt hoá thụ thể β2 adrenergic gây ra giãn cơ trơn, tăng cường sự thanh
thải chất nhày của nhung mao, giảm tính thấm thành mạch [23]. Thuốc chủ
vận β2 adrenergic còn ức chế giải phóng histamin và leukotriene từ tế bào
mast ở phổi, làm tăng chức năng của hệ thống lông mao, giảm tính thấm của
mao mạch phổi và ức chế phospholipase A2 và tăng khả năng chống viêm
của corticosteroid đường hít hay khí dung. LABA gắn vào thụ thể β2 mạnh
hơn SABA, tác dụng giãn phế quản mạnh kéo dài khoảng 12 giờ, khả năng
dung nạp tốt giúp phòng cơn hen về đêm [5].
13
Formoterol tác dụng nhanh (2-3 phút) và đạt hiệu quả tối đa trong 30 -
60 phút sau khi hít. Salmeterol có tác dụng sau 10-20 phút, có tác dụng tối
đa đạt được trong vòng 1-3 giờ. Formeterol khởi phát tác dụng nhanh hơn
Salmeterol, điều này giúp cho Formeterol thích hợp cho cả điều trị ngừa cơn
và cắt cơn [23].
Tác dụng không mong muốn của LABA: Thường gặp như đánh trống
ngực, nhịp tim nhanh, run nhẹ (đặc biệt ở đầu ngón tay), hiếm gặp các triệu
chứng như nhức đầu, mất ngủ, giãn mạch ngoại biên, loạn nhịp tim, hạ kali
máu, tăng glucose trong máu, phản ứng quá mẫn. Sử dụng LABA đường tại
chỗ có ít tác dụng phụ hơn so với đường toàn thân [23].
1.3.1.3. Phối hợp ICS và LABA trong điều trị kiểm soát hen
Sự phối hợp ICS và LABA là bước tiến trong điều trị kiểm soát HPQ
hiện nay. Khi phối hợp ICS và LABA sẽ có tác dụng hiệp đồng và tăng hiệu
quả điều trị kiểm soát, gia tăng số ngày và đêm không có triệu chứng, giảm
tần số sử dụng thuốc, cải thiện chức năng hô hấp và giảm các cơn HPQ kịch
phát nhanh hơn so với tăng gấp đôi liều với liều ICS [7].
Cơ chế tác dụng hiệp đồng khi phối hợp ICS và LABA:
- ICS tăng tổng hợp các thụ thể 2 và ngăn ngừa sự giảm nhạy cảm của
thụ thể 2 đối với LABA [24].
- ICS làm giảm các thụ thể 2 trung gian gây viêm không kết nối và làm
mất chức năng, do đó làm tăng tác dụng của LABA [24].
- LABA hoạt hoá thụ thể ICS nằm trong tế bào chất và tăng hoạt tính
kháng viêm tại chỗ của ICS.
- LABA có thể gia tăng tác dụng chống viêm của ICS và giảm viêm ở
đường hô hấp thông qua tác dụng chống bạch cầu E và bạch cầu N.
Các hướng dẫn hiện nay sử dụng phối hợp ICS và LABA từ bước 3
trong điều trị kiểm soát HPQ [6].
14
1.3.1.4. Thuốc Cromones (sodium cromoglycate và neodocromil sodium)
Cromones được sử dụng như hít điều trị dự phòng cho HPQ nhẹ và
dai dẳng.
Cơ chế tác dụng: Cromones ức chế dưỡng bào của phổi giải phóng các
chất trung gian hoá học do đáp ứng với các kích thích hoặc do tương tác
kháng nguyên – kháng thể IgE.
- Cromones ức chế tác dụng hoạt hoá của các peptit hoá hướng động trên
BC trung tính, BC ái toan hoặc BC đơn nhân, có tác dụng phòng cơn và ngăn
ngừa đáp ứng hen với các kích thích do dị ứng hoặc không do dị ứng [5], [23].
1.3.1.5. Thuốc kháng leukotriene
- Trong điều trị HPQ kháng leukotriene là thuốc lựa chọn thứ 2 sau
ICS. Các thuốc này có thể dùng điều trị phối hợp cùng với ICS ở bệnh nhân
HPQ nhẹ dai dẳng ở người lớn hoặc có thể phối hợp, giảm liều ICS cần thiết
để kiểm soát HPQ từ trung bình đến nặng [5].
- Cơ chế tác dụng: Gồm kháng thụ thể cysteinyl-leukotriene (CysLT1)
và thuốc ức chế men 5-lipoxygenase chúng có tác dụng làm giãn phế quản,
giảm được các triệu chứng HPQ, cải thiện chức năng phổi, giảm viêm đường
thở và cơn HPQ kịch phát [5], [6].
1.3.1.6. Thuốc kháng IgE
- Thuốc được lựa chọn điều trị cho những bệnh nhân HPQ dị ứng nặng,
không kiểm soát được bằng liều cao của ICS và LABA.
- Cơ chế tác dụng: Kháng IgE là một kháng thể đơn dòng có tác dụng
ngăn chặn sự gắn của IgE với các thụ thể có ái lực cao của BC ái toan và các
dưỡng bào, qua đó làm giảm các triệu chứng, giảm nhu cầu sử dụng thuốc cắt
cơn và giảm xuất hiện cơn kịch phát, kiểm soát hen được cải thiện [5], [23].
1.3.2. Mục tiêu và chiến lƣợc kiểm soát hen phế quản
Mục tiêu điều trị kiểm soát bao gồm: Đạt kiểm soát tốt các triệu chứng
và duy trì hoạt động thể lực bình thường cho người bệnh, giảm tối thiểu nguy
cơ đợt cấp, giảm nguy cơ tắc nghẽn đường thở cố định và tác dụng phụ của
thuốc [17], [22], [25].
15
Các chiến lược điều trị kiểm soát hen: - Chiến lược điều trị dựa vào mức độ kiểm soát: Là chiến lược điều trị được khuyến cáo sử dụng rộng rãi bởi chiến lược này đã được chứng minh đem lại hiệu quả cao nhất [17], [26].
- Chiến lược điều trị dựa vào lượng bạch cầu E trong đờm: Chiến lược điều trị này giảm được nguy cơ xuất hiện đợt cấp và có mức kiểm soát hen và chức năng hô hấp tương tự như chiến lược dựa vào mức độ kiểm soát, tuy nhiên chỉ có một số ít cơ sở y tế có xét nghiệm bạch cầu E trong đờm thường quy nên chiến lược này chưa được áp dụng rộng rãi và chỉ được khuyên áp dụng ở một vài trung tâm y tế chuyên khoa sâu.
- Chiến lược điều trị dựa vào nồng độ nồng độ FeNO trong hơi thở ra: Chiến lược này nhìn chung chưa được chứng minh có hiệu quả và không được khuyến nghị sử dụng cho số đông trong cộng đồng [25].
1.3.3. Điều trị hen phế quản dựa trên mức độ kiểm soát
Điều trị HPQ dựa trên mức độ kiểm soát được thực hiện theo một chu trình liên tục bao gồm: Đánh giá tình trạng bệnh, điều chỉnh lại điều trị và đánh giá lại đáp ứng của bệnh nhân sau điều trị [17], [26].
Trong điều trị HPQ dựa trên mức kiểm soát thì phải quan tâm đến cả hai lĩnh vực của kiểm soát hen: Kiểm soát triệu chứng và nguy cơ tương lai của bệnh [22].
ĐÁNH GIÁ
Chẩn đoán Kiểm soát triệu chứng & yếu tố nguy cơ Kỹ thuật hít thuốc & tuân thủ
Triệu chứng Đợt kịch phát Tác dụng phụ Sự hài lòng của bệnh nhân Chức năng phổi
XEM LẠI ĐÁP ỨNG
ĐIỀU CHỈNH ĐIỀU TRỊ
Thuốc hen Phương pháp không dùng thuốc Điều trị yếu tố nguy cơ thay đổi được
Hình 1.1. Chu trình điều trị hen phế quản dựa trên mức kiểm soát
* Nguồn: Theo GINA 2019 [22]
16
Khởi đầu điều trị: Dùng ICS và LABA kiểm soát hàng ngày đều đặn nên
được bắt đầu càng sớm càng tốt ngay sau khi chẩn đoán xác định [5].
Các bước điều trị kiểm soát theo GINA (2019) bao gồm [22]:
- Bước 1: Chọn lựa chính; liều thấp ICS và LABA khi cần. Lựa chọn
khác: dùng ICS liều thấp kết hợp với thuốc cắt cơn khi cần.
- Bước 2: Chọn lựa chính; liều thấp ICS hàng ngày, hoặc ICS và
LABA khi cần. Lựa chọn khác: kháng leukotrien hoặc ICS kết hợp thuốc cắt
cơn khi cần.
- Bước 3: Chọn lựa chính; dùng liều thấp ICS và LABA. Lựa chọn
khác: liều trung bình ICS hoặc liều thấp kết hợp với kháng leukotriene.
- Bước 4: Chọn lựa chính: dùng liều trung bình ICS và LABA. Lựa
chọn khác: liều cao ICS, thêm tiotropium hoặc kháng leukotriene.
- Bước 5: Chọn lựa chính; liều cao ICS và LABA, ưu tiên xác định kiểu
hình của hen và xem xét điều trị thêm tiotropium, kháng IgE, kháng IL-5, IL-4.
Bảng 1.4: Liều dùng một số ICS
ICS Liều thấp Liều trung bình Liều cao
Beclomethasone 200 - 500 > 500 - 1000 > 1000 - 2000 dipropionate
Budesonide 200 - 400 > 400 - 800 > 800 - 1600
Ciclesonide 80 - 160 > 160 - 320 > 320 - 1280
Flunisolide 500 - 1000 > 1000 - 2000 > 2000
Fluticasone 100 - 200 > 250 - 500 > 500 - 1000
Mometasone 200 - 400 > 400 - 800 > 800 - 1200 furoate
Triamcinolone 400 - 1000 > 1000 - 2000 > 2000 acetonide
* Nguồn: Theo GINA 2018 [17]
17
- Tăng bước điều trị:
+ Tăng bước dài hạn (trong ít nhất 2-3 tháng): Một số bệnh nhân không
đáp ứng tốt với điều trị ban đầu thì cần phải nâng bước điều trị, nếu được xác
định chẩn đoán HPQ và kỹ thuật hít thuốc đã đúng, đồng thời bệnh nhân đã
tuân thủ tốt điều trị cũng như các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được (hút
thuốc lá) đã được giải quyết.
+ Tăng bước ngắn hạn (trong 1-2 tuần): Đôi khi cần tăng liều ICS duy trì
ngắn hạn 1-2 tuần để giải quyết một tình trạng xấu đi tạm thời cấp tính của bệnh
nhân như nhiễm virus đường hô hấp hoặc có phơi nhiễm dị nguyên theo mùa.
+ Điều chỉnh từng ngày: Đối với bệnh nhân được kê đơn các thuốc kết
hợp như Budesonide/ Formoterol hoặc Beclometasone/ Formoterol để điều trị
duy trì lẫn cắt cơn thì bệnh nhân được hướng dẫn tự điều chỉnh số lần dùng
thêm thuốc (để cắt cơn ngoài liều duy trì cố định) tuỳ theo nhu cầu của họ.
Nhu cầu này tùy thuộc vào số lượng triệu chứng xảy ra trong ngày và có thể
thay đổi theo từng ngày.
- Giảm bước điều trị:
+ Khi HPQ đã đạt được kiểm soát tốt và duy trì được mức kiểm soát
trong 3 tháng đồng thời chức năng phổi đã đạt đến bình nguyên thì nên giảm
bước điều trị.
+ Phương pháp giảm bước điều trị có thể khác nhau đối với từng bệnh
nhân tùy thuộc vào điều trị hiện tại, yếu tố nguy cơ và sự lựa chọn của chính
người bệnh. Nếu giảm bước quá nhiều hoặc quá nhanh thì nguy cơ bị đợt cấp
có thể tăng lên dù các triệu chứng vẫn còn được kiểm soát. Ngưng hoàn toàn
ICS sẽ đi cùng với nguy cơ bị đợt cấp đáng kể.
1.3.4. Đánh giá kiểm soát hen phế quản
1.3.4.1. Đánh giá kiểm soát dựa trên triệu chứng
Dựa vào triệu chứng bệnh, đánh giá kiểm soát HPQ được chia thành 3
mức gồm: kiểm soát tốt, kiểm soát một phần và không kiểm soát [26].
18
Tiêu chuẩn đánh giá dựa vào triệu chứng ban ngày, triệu chứng ban
đêm, nhu cầu sử dụng thuốc cắt cơn cũng như tình trạng giới hạn vận động
trong 4 tuần vừa qua. Ngoài ra đánh giá kiểm soát triệu chứng còn dựa vào
các bộ câu hỏi ACQ (Asthma Control Questionnaire), ACT (Asthma Control
Test), ACSS (Asthma Control Scoring System) cho người lớn hay bộ câu hỏi
ACQ và C-ACT dùng cho trẻ em [17].
1.3.4.2. Đánh giá nguy cơ diễn biến xấu trong tương lai
Các nguy cơ xấu trong tương lai cần đánh giá bao gồm nguy cơ xuất
hiện đợt cấp, nguy cơ tiến triển thành tắc nghẽn đường thở cố định và nguy
cơ bị tác dụng phụ của thuốc. Bệnh nhân dù đã được kiểm soát triệu chứng tốt
nhưng vẫn có khả năng xuất hiện diễn tiến xấu trong tương lai [1].
- Nguy cơ xuất hiện đợt cấp:
+ Các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được: Triệu chứng HPQ không
kiểm soát, sử dụng thuốc cắt cơn quá nhiều (>1 bình xịt 200 liều/ tháng), dùng
ICS không đủ, FEV1 thấp, phơi nhiễm khói thuốc, dị nguyên hoặc kèm theo
béo phì, viêm mũi xoang, dị ứng thức ăn, bạch cầu E tăng cao [22].
+ Nhóm nguy cơ khác: Từng đặt nội khí quản hoặc ở đơn vị chăm sóc
tích cực vì hen, một hay nhiều hơn đợt kịch phát nặng trong 12 tháng vừa qua.
- Nguy cơ bị tắc nghẽn đường thở cố định: không được điều trị bằng
ICS, phơi nhiễm khói thuốc, hóa chất độc hay nghề nghiệp, FEV1 ban đầu
thấp, tăng tiết dịch nhày phế quản mạn tính, tăng bạch cầu E [27]
- Nguy cơ bị tác dụng phụ của thuốc: Dùng ICS liều cao và/ hoặc trong
một thời gian tương đối dài, kỹ thuật hít thuốc không đúng [28].
1.3.4.3. Các yếu tố liên quan tới kết quả kiểm soát hen phế quản
Các yếu tố liên quan đến thầy thuốc: Để đạt được quản lý HPQ tốt cũng
như kiểm soát HPQ tốt nhất yếu tố quan trọng đầu tiên đối với thầy thuốc là
tư vấn giáo dục bệnh nhân. Ba nội dung chính trong tư vấn của thầy thuốc là:
19
- Hiểu biết cơ bản về bệnh HPQ: Các yếu tố nguy cơ của bệnh, các
triệu chứng đợt cấp và cách phát hiện, các yếu tố bùng phát đợt cấp, các biện
pháp điều trị đợt cấp và kiểm soát bệnh.
- Hướng dẫn sử dụng thuốc điều trị HPQ đúng cách: các loại thuốc,
cách sử dụng các loại thuốc tại chỗ (bình xịt, hít…)
- Biện pháp phòng ngừa và xử trí khi có đợt cấp: Cách xác định các yếu
tố bùng phát đợt cấp (dị nguyên, nhiễm trùng, khói..) và cách giảm thiểu tác
động của các yếu tố này; cách sử trí đợt cấp tại nhà, theo dõi diễn biến đợt cấp,
cách liên hệ với thầy thuốc và bệnh viện khi cần; xây dựng và thực hiện kế
hoạch các nhân về dự phòng và điều trị bệnh [29].
Các yếu tố liên quan đến bệnh nhân: Có rất nhiều yếu tố của bệnh nhân
liên quan đến kết quả kiểm soát HPQ (Bảng 1.5).
Bảng 1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến kiểm soát hen phế quản kém
Nhóm yếu tố Nội dung chi tiết
Yếu tố liên quan đến bệnh nhân:
- Bệnh kết hợp Viêm mũi xoang dị ứng, trào ngược dạ dày-thực
quản, béo phì, ngưng thở tắc nghẽn
- Các yếu tố kích hoạt Phơi nhiễm bụi nhà, động vật nuôi, dị nguyên nghề
nghiệp, các dị nguyên mới, khói thuốc, dung thuốc
aspirin, chẹn bêta.
- Loại hen phế quản Nhạy cảm sspirin, tăng neutrophil, kháng trị nặng
(severe therapy-resistant)
- Yếu tố dân số-xã hội Nữ, học vấn thấp, tuổi vị thành niên, tuổi trẻ
- Sự gắn kết Không quan tâm đến điều trị hoặc điều trị quá mức,
khám bệnh không thường xuyên, không có khả năng
theo dõi các triệu chứng bệnh, không thay đổi lối sống
- Bệnh tâm thần kết hợp Lo lắng hoặc trầm cảm
20
- Đặc điểm tâm lý Khó nhận thức, hoặc nhận thức không đầy đủ
- Nhận thức Xu hướng chấp nhận các triệu chứng, đợt cấp và ảnh
hưởng chất lượng cuộc sống từ bệnh
- Sự kì vọng Kì vọng thấp và hài long về mức độ kiểm soát
- Hành vi Sử dụng các thuốc tại chỗ không đúng
- Kiến thức Nhận thức không đầy đủ về bệnh
Liên quan đến thầy thuốc:
- Chẩn đoán không đúng Nhận thức và đánh giá về bệnh không đầy đủ
- Kiến thức về những Thiếu kiến thức và thành thạo các hướng dẫn hiện
hướng dẫn hiện hành hành
- Thái độ đối với các Khó khăn trong chấp nhận những tài liệu hay những
hướng dẫn khái niệm trong hướng dẫn. Thiếu tin tưởng trong
thực hành
- Thực hiện theo hướng Khó thay đổi các thói quen cũ
* Nguồn: Theo Braido F. 2013) [30]
dẫn
- Đặc điểm thể trạng và bệnh lý: Béo phì, nhiều đợt cấp/ năm, đã có đợt
cấp nặng phải nhập hồi sức hoặc phải thông khí nhân tạo, mang thai, tăng
bạch cầu E trong máu, đờm.
- Các bệnh đồng mắc: Có rất nhiều bệnh đồng mắc (viêm mũi dị ứng,
tăng huyết áp, trào ngược dạ dày thực quản…) làm cho kiểm soát HPQ khó
khăn hơn. Khi điều trị kiểm soát tốt các bệnh đồng mắc sẽ giúp kiểm soát
HPQ tốt hơn.
- Tiếp tục phơi nhiễm với các yếu tố nguy cơ và các yếu tố bùng phát
đợt cấp: hít dị nguyên, hít khói thuốc làm nặng thêm các triệu chứng và xuất
hiện các đợt cấp.
- Một trở ngại khác là sự tuân thủ điều trị kém (quên, không hiểu chế
độ điều trị hoặc kỹ thuật sử dụng thuốc đường tại chỗ không tốt) [30].
21
1.3.4.4. Vai trò của thông khí phổi trong kiểm soát hen phế quản
Đo TKP có vai trò quan trọng trong chẩn đoán và theo dõi HPQ: Giúp
chẩn đoán xác định, chẩn đoán mức độ tắc nghẽn đường thở, theo dõi tiến triển
và đáp ứng điều trị của bệnh, đo lường ảnh hưởng của bệnh lên chức năng của
phổi và giúp đưa ra kế hoạch quản lý, dự phòng các đợt cấp của HPQ [31].
Hai phương pháp đo chức năng phổi phổ biến trong HPQ là đo thông
khí phổi và đo lưu lượng đỉnh [17], [31].
Đặc điểm đặc trưng của RLTK tắc nghẽn trong HPQ: RLTK tắc nghẽn
hồi phục (reversibility) và thay đổi (variability):
- Rối loạn thông khí tắc nghẽn hồi phục: Tình trạng RLTK tắc nghẽn
khi có tỷ lệ FEV1/FVC< 0,75. Hồi phục tình trạng RLTK tắc nghẽn có thể xảy
ra một cách tự nhiên hoặc sau điều trị. Tiêu chuẩn hồi phục khi FEV1 tăng ≥
12% và tăng ≥ 200ml hoặc khi PEF tăng ≥ 60 lít/phút hoặc tăng ≥ 20% sau hít
Salbutamol với liều 200 - 400μg so với giá trị trước hít thuốc (còn gọi là test
Salbutamol dương tính). Cũng được xem là RLTK tắc nghẽn hồi phục dương
tính khi FEV1 sau điều trị kiểm soát hiệu quả (sử dụng corticosteroid hít) vài
ngày đến vài tuần [23], [31].
- Rối loạn thông khí tắc nghẽn thay đổi: Phản ánh sự cải thiện hoặc xấu
đi nhanh, có tính chu kỳ của các triệu chứng hay chức năng hô hấp theo thời
gian (ngày - ngày, tháng - tháng, mùa). Nhận định có RLTK tắc
nghẽn thay đổi bằng biểu hiện giao động của PEF trong ngày ≥ 20%. Xác
định RLTK tắc nghẽn thay đổi còn có giá trị trong đánh giá kiểm
soát HPQ [5].
Đo lưu lượng đỉnh (PEF) có ích trong cả chẩn đoán và theo dõi HPQ: Có
ưu điểm là rẻ, tiện lợi, thích hợp cho bệnh nhân tự đo và theo dõi ở nhà hàng
ngày. Sự thay đổi trong ngày của PEF > 20% được coi là yếu tố chẩn đoán HPQ,
tuy nhiên giá trị của PEF không tương quan cao với FEV1 ở cả người lớn và trẻ
em. PEF đánh giá không chính xác mức độ tắc nghẽn đường thở, đặc biệt khi có
tăng cạm khí và giá trị PEF cũng thay đổi phụ thuộc nhiều vào kỹ thuật. Theo
22
dõi định kì PEF giúp đánh giá đáp ứng điều trị, đánh giá các yếu tố khởi phát đợt
cấp nặng và thiết lập kế hoạch điều trị. Sau điều trị ICS, giá trị PEF tăng dần và
đạt đỉnh mức trung bình 2 tuần, tăng dần sau 3 tháng. Dao động PEF trong ngày
lớn gợi ý HPQ kiểm soát kém và nguy cơ đợt cấp. Theo dõi PEF lâu dài được
khuyến cáo cho tất cả bệnh nhân HPQ nặng [23], [31].
Các thông số TKP tuy không tương quan chặt với các triệu chứng nhưng
vẫn được sử dụng cùng với các triệu chứng trong theo dõi và đánh giá kiểm soát
hen. Riêng FEV1 là yếu tố tiên đoán độc lập nguy cơ đợt cấp của HPQ. Khuyến
cáo của GINA (2019) cần đo TKP cần được thực hiện ở các thời điểm trong quá
trình kiểm soát hen, trước điều trị và định kì mỗi 3-6 tháng [22].
Vai trò của TKP trong đánh giá đáp ứng và theo dõi tiến triển của HPQ
(GINA 2019) [22].
- FEV1 ban đầu thấp: Đây là yếu tố nguy cơ đợt cấp, giảm chức năng phổi
độc lập với các triệu chứng, đặc biệt khi FEV1 < 60% SLT. Khi bệnh nhân có
các triệu chứng kết hợp với FEV1 gợi ý hạn chế chất lượng cuộc sống hoặc có
thể do chưa được điều trị ICS.
- FEV1 ban đầu bình thường kết hợp với các triệu chứng hô hấp xuất
hiện thường xuyên: cần xem xét các nguyên nhân khác như bệnh tim mạch,
viêm mũi-xoang, trào ngược dạ dày - thực quản.
- Sự hồi phục phế quản không thay đổi ở bệnh nhân đang điều trị kiểm
soát hoặc dùng SABA trong vòng 4 giờ hay LABA trong vòng 12 giờ gợi ý hen
không kiểm soát.
1.4. ĐÁP ỨNG VIÊM VÀ VAI TRÒ CỦA CYTOKINE TRONG KIỂM SOÁT
HEN PHẾ QUẢN
1.4.1. Đáp ứng viêm trong hen phế quản
Viêm đường thở là cơ chế chủ yếu, quan trọng nhất trong bệnh sinh của
HPQ. Khi đường thở tiếp xúc với các dị nguyên hoặc các yếu tố khởi phát
bệnh, quá trình viêm xảy ra. Đáp ứng viêm trong HPQ có sự tham gia của các
tế bào viêm và các trung gian hóa học (TGHH) viêm [32], [33].
23
- Các tế bào viêm: Có rất nhiều tế bào tham gia vào quá trình viêm của
đường thở trong HPQ [1], [9], [10]:
+ Tế bào mast (mastocyte): có vai trò chủ yếu trong pha đáp ứng sớm
của HPQ (đáp ứng tăng mẫn cảm typ I). Các TGHH viêm của tế bào mast
gồmhistamin, tryptase, chymase, axít gluconidase, -glucoronidasse, -
galactosidase, leukotriene C4, prostaglandin D2.
+ Bạch cầu ái toan (E): Đây là tế bào có vai rò chủ yếu trong pha đáp
ứng muộn và giai đoạn viêm mạn tính đường thở. Các TGHH viêm gồm
protein cơ bản chủ yếu (major basic protein), eosinophil cationic protein,
eosinophil peroxidase.
+ Bạch cầu ưa kiềm (basophils): Có vai trò giúp tế bào mast trình diện
chức năng chính xác và tham gia vào cả hai pha đáp ứng viêm của HPQ. Các
TGHH viêm chủ yếu là: histamin, prostaglandin D2, trypsin leukotriene C4, D4.
+ Tế bào lympho (lymphocyte): Trong HPQ tế bào lympho T (chủ yếu
là tế bào TCD4 và TCD8) đóng vai trò chủ đạo trong phản ứng viêm đường
thở. Tế bào TCD4 chủ yếu sản xuất interleukin 2, interferon , , yếu tố hoại
tử u , yếu tố kích thích dòng bạch cầu hạt và đại thực bào dẫn đến hoạt hóa
đại thực bào, lympho T và ức chế tổng hợp IgE và duy trì viêm đường thở kéo
dài. Tế bào TCD8 có vai trò ức chế các dị nguyên đặc hiệu, ức chế tổng hợp
IgE [10].
+ Biểu mô phế quản: Là đích tấn công của quá trình viêm trong HPQ
và tổn thương biểu mô phế quản là yếu tố quan trọng làm khuếch đại quá
trình viêm của đường thở. Hiện nay, tế bào biểu mô phế quản được coi như là
một tế bào viêm trong quá trình viêm đường thở trong HPQ. Khi bị tổn
thương các tế bào biểu mô phế quản là nguồn giải phóng các TGHH viêm đa
dạng, phong phú: các cytokine, các chất hóa ứng động (chemokine), các yếu
tố tăng trưởng. Biểu mô phế quản còn là nơi trình diện các thụ thể: các thụ thể
24
tự động (thụ thể -adrenergic và protein hoạt mạch tổ chức kẽ…) và các thụ
thể cho các phân tử kết dính, neurotoxin, elastasse, metalloprotease [5].
+ Các tế bào khác: Đại thực bào, monocyte, tế bào đuôi gai cũng tham
gia vào quá trình viêm đường thở trong HPQ.
- Các trung gian hóa học viêm: Khi các tế bào viêm được hoạt hóa sẽ
gải phòng ra các TGHH làm khuếch đại quá trình viêm. Có rất nhiều TGHH
viêm trong đáp ứng viên ở bệnh nhân HPQ [9].
+ Histamin: Giải phóng từ các tế bào mast và bạch cầu ưu kiềm, tác
dụng gây co thắt phế quản, tăng tính thấm thành mạch, tăng tiết nhày và cảm
ứng sản xuất các TGHH viêm khác.
+ Các prostanoid: Có nguồn gốc từ các tế bào N, mono, lympho, E,
mast, tiểu cầu và biểu mô phế quản. Các TGHH lipid gồm có: leukotriene,
prostaglandin, thromboxan, tác dụng gây co thắt phế quản, tăng tính thấm
thành mạch, tăng tính đáp ứng phế quản và chiêu mộ các tế bào viêm vào
đường thở.
+ Các cytokine: Được giải phóng từ các tế bào viêm và có tác động lẫn
nhau. Trong HPQ các cytokine có vai trò chủ yếu là các interleukin được sản
xuất từ lympho Th2. Sự hoạt động của các cytokine tạo nên mạng cytokine
trong phản ứng viêm của HPQ.
+ Bradykinin: Có nguồn gốc từ huyết tương và tổ chức, có tác dụng co
thắt phế quản, tăng tiết nhày và hoạt hóa phospholipase A2.
+ Các chất hóa ứng động (chemokine hoặc intercrine): Có nguồn gốc từ
các tế bào viêm, bao gồm 2 họ; họ -chemokine (interleukin 8, yếu tố tiểu cầu
4, -thromboglobulin…) và họ -chemokine (monocyte chemotactic protein
1, 2, 3; macrophage inhibitory protein , 1…).
+ Yếu tố hoại tử u (TNF-α): Sản xuất bởi đại thực bào, tế bào mast, E
và biểu mô phế quản, có vai trò quan trọng trong viêm mạn tính đường thở.
25
+ Interferon (INF): Được sản xuất bởi tế bào Th1, có vai trò ức chế hoạt động của tế bào Th2, đối kháng với interleukin 4 và kích thích các tế bào khác giải phóng các cytokine.
+ Các TGHH khác: các gốc tự do (O2, OH), adenosin, endothelin, nitric
oxide (NO), các protein cơ bản.
- Quá trình viêm đường thở trong HPQ xảy ra 3 giai đoạn [33]:
+ Viêm cấp tính: Gồm pha đáp ứng sớm (xảy ra sau 5 - 15 phút sau
kích thích của dị nguyên) và pha đáp ứng muộn (xảy ra sau 6 - 12 giờ sau
kích thích của dị nguyên), kéo dài 60 phút đến 12 giờ với sự tham gia của các
tế bào E, Th2, N và đại thực bào, trong đó hoạt hóa tế bào E là quan trọng nhất. Hậu quả của viêm cấp tính gây phù niêm mạc, co thắt cơ trơn phế quản,
tăng giải phóng các TGHH viêm thứ phát và tăng tính đáp ứng của phế quản.
+ Viêm mạn tính: Là hậu quả của quá trình viêm cấp tính kéo dài và tái
diễn. Quá trình viêm mạn tính liên quan tới tất cả các tế bào viêm trong đường
thở, nhưng chủ yếu là vai trò của các tế bào Th2, E và biểu mô phế quản. Các TGHH viêm chủ yếu là protein cơ bản chủ yếu, các protease, interleukin 2, 4,
5, interferon , yếu tố hoạt hóa tiểu cầu leukotriene C4, các yếu tố tăng trưởng,
các phân tử kết dính và các gốc tự do. Hậu quả của viêm mạn tính: gây rối loạn
quá trình chết theo chương trình (apopptosis) của các tế bào, tái tạo lại cấu trúc
đường thở và tăng tính phản ứng phế quản bền vững [33].
+ Tái tạo lại cấu trúc đường thở: Là hiện tượng tổn thương và hồi phục
lại đường thở bệnh nhân HPQ. Quá trình này xảy ra ở mọi giai đoạn của bệnh
và tiến triển từ từ tuỳ theo từng bệnh nhân. Đặc điểm tái tạo lại cấu trúc
đường thở: dày thành phế quản, dày màng nền, xơ hoá dưới biểu mô, tăng
khối cơ trơn đường thở, tăng tiết nhày đường thở, biến đổi mạch máu của
đường thở [5].
1.4.2. Vai trò của một số cytokine trong kiểm soát hen phế quản
Các cytokine có vai trò chủ đạo trong đáp ứng viêm của HPQ. Sự thay
đổi của các cytokine phản ánh kiểu hình viêm, diễn biến của bệnh cùng như
đánh giá đáp ứng điều trị đặc biệt là điều trị kháng viêm (corticosteroid) và
26
điều trị đích phân tử (kháng IL, kháng TNF-…). Theo Martinovic M. (2013)
cytokines đóng vai trò quan trọng trong việc điều phối viêm ở HPQ bằng cách
tuyển mộ, hoạt hóa và thúc đẩy sự tồn tại của nhiều tế bào viêm ở đường hô
hấp. Hiện nay hơn 50 cytokine đã được xác định tham gia đáp ứng viêm trong
HPQ, bao gồm các lymphokine, các cytokine tiền viêm, các cytokin kháng
viêm, các yếu tố tăng trưởng và các chemokine [9].
Các cytokine chủ đạo tham gia vào quá trình viêm trong HPQ bao gồm
các cytokine được sản xuất từ lymphocyte Th2 như IL-4, IL-5, IL-13 [10]. Cùng với các cytokine này TNF-α cũng là cytokine tiền viêm quan trọng
trong HPQ: khuếch đại quá trình viêm, tăng đáp ứng phế quản và liên quan
đến tiến triển của bệnh (tái tạo lại đường thở trong HPQ). Hiện nay các
cytokine này đang được tập chung nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu các
thuốc kháng lại chúng trong điều trị HPQ khó trị hay HPQ nặng, không kiểm
soát được [34].
Tăng sản tế bào Globlet
Dị nguyên
Tăng sinh cơ trơn
Tăng sinh Fibroblast
Hoạt hóa đại thực bào
Sơ đồ 1.1. Vai trò của cytokine trong đáp ứng viêm ở hen phế quản *Nguồn: Theo Bagnasco D. Và CS (2016) [34]
27
1.4.2.1. Vai trò của IL-4, IL-5, IL-13 và TNF-α trong hen phế quản
- Interleukin-4
+ Cấu trúc và đặc tính sinh học phân tử: IL-4 là porotein có trọng lượng
phân tử khoảng 15,4 kDa. IL-4 điều hoà sự biểu hiện thụ thể của chúng (IL-
4R) trên các tế bào lympho T, B và các tế bào lympho T3, bạch cầu đơn nhân. Ngược lại trong các lympho bào B, IL-4 gây ra tăng nồng độ ion Ca2+
phosphoran và inozytol trong bào tương và tổng hợp kéo dài AMP vòng [36].
+ Nguồn gốc: IL-4 được sản xuất từ tế bào tuyến ức, tế bào lympho T
trưởng thành, một số tế bào lympho B, tế bào mast, bạch cầu ưa kiềm và tế
bào TCD4, tế bào tuỷ xương [37], [38].
+ Vai trò: IL-4 là cytokine chính liên quan đến sinh bệnh học phản ứng
dị ứng, cũng như ảnh hưởng đến thay đổi viêm cấp tính trong HPQ. IL-4 gây
kích thích tế bào sản xuất chất nhầy và nguyên bào sợi, dẫn đến quá trình tái lại
đường thở trong HPQ [37]. IL-4 và IL-13 có vai trò phối hợp quan trọng trong
cơ chế bệnh sinh của HPQ: Vatrella A. và CS (2014) cho rằng, sự tương tác
của IL-4 và IL-13 thông qua phức hợp màng IL-4Rα/IL-13Rα1 kích thích
protein kinase tyrosine, Janus kinase ½ và tyrosine kinase 2 và liên quan với
chuỗi thụ thể IL-4/IL-13 dẫn đến những thay đổi về cấu trúc và viêm điển hình
trong HPQ [39].
- Interleukin-5
+ Cấu trúc và đặc tính sinh học phân tử: IL-5 có trọng lượng phân tử
30-40kDa, gen IL- 5 chứa 4 exon và 3 intron và có số lượng acid amin dạng
tiền thân là 134 acid amin, dạng trưởng thanh là 115 acid amin [36], [38].
Hoạt tính sinh học của IL-5 bao gồm biệt hoá các tiền tế bào, hoạt hoá chúng
và giải phóng protein từ các hạt; Kích thích bài tiết IgA, IgM qua lympho B;
Kích thích giải phóng histamin, bài tiết leukotrien C4 qua tế bào bạch cầu ưa
kiềm [36].
28
+ Nguồn gốc: IL-5 được sản xuất chủ yếu từ lympho T hỗ trợ hoạt hoá,
lympho bào B bị biến hình và bạch cầu ưa acid [36].
+ Vai trò: IL- 5 tham gia chủ yếu vào sản xuất, biệt hóa, trưởng thành
và hoạt hóa bạch cầu E [37]. Kips J.C. (2001) cho thấy có sự gia tăng nồng độ
IL-5mRNA và protein trong niêm mạc đường thở ở bệnh nhân HPQ. Sự hiện
diện của IL-5mRNA cho thấy có sự tương quan với tình trạng nặng của HPQ
[37]. IL-5 đóng một vai trò rất quan trọng trong việc phát triển và bài tiết bạch
cầu E từ tủy xương và kéo dài thời sống của chúng thông qua sự ức chế quá
trình chết tế bào theo chương trình [40].
- Interleukin-13
+ Cấu trúc và đặc điểm sinh học phân tử: IL-13 có khối lượng phân tử
13kDa và gấp thành 4 bó xoắn alpha là A, B, C, D. IL-13 truyền tín hiệu
thông qua một thụ thể chung với IL-4, đó là phức hợp thụ thể heterodimer
gồm thụ thể alpha IL-4 (IL-4Rα) và thụ thể alpha1 IL-13 (IL-13Rα1) [41].
+ Nguồn gốc: IL-13 được sản xuất bởi các tế bào lympho T, tế bào TCD4,
TCD8, tế bào mast, bạch cầu ưa kiềm, bạch cầu E [41], [42].
+ Vai trò: IL-13 có vai trò tăng trưởng tế bào nội mô phế quản, tế bào
chế nhầy, gây tắc nghẽn đường thở [41]. IL-13 cũng có tác động trực tiếp nên
chức năng cơ trơn đường hô hấp bằng cách tăng cường tác dụng acetylcholine,
kích hoạt nguyên bào sợi cơ và tham gia vào lắng đọng chất nền ngoại bào, dẫn
đến dày màng nền và góp phần tái tạo lại đường hô hấp [41].
- Yếu tố hoại tử u-α (TNF-α)
+ Cấu trúc và đặc điểm sinh học phân tử: TNF-α là một polypeptid có
trọng lượng phân tử 17kDa, có ở dạng dimer, trimer, hoặc pentamer bao gồm
157 acid amin [36], [38]. Phản ứng sinh học của TNF-α thông qua thụ thể loại
I (TNFR1; p55 hoặc CD120a ) hoặc thụ thể loại II (TNFR2; p75 hoặc thụ thể
CD120b ). Hai thụ thể này có trên bề mặt của tế bào B và tế bào T [43].
29
+ Nguồn gốc: TNF-α được tiết ra chủ yếu là các đại thực bào, tế bào đơn nhân, tế bào đuôi gai, tế bào lympho B, tế bào TCD4+, bạch cầu N, tế bào
mast và bạch cầu E, nguyên bào sợi, tế bào biểu mô và tế bào cơ trơn [36],
[38], [43].
+ Vai trò: TNF-α đóng một vai trò quan trọng trong cơ viêm của HPQ,
làm tăng đáp ứng của phế quản và tái tạo lại đường thở. TNF-α còn đóng vai
trò khuếch đại viêm đường thở thông qua kích hoạt các yếu tố phiên mã như
NF-κB (yếu tố hạt nhân κB) và AP-1 [38], [43].
1.4.2.2. Điều trị kháng IL-4, IL-5, IL-13 và TNF-α trong hen phế quản
- Kháng IL-4 và IL-13: Theo Vatrella A. và CS (2014) khi điều trị kháng
đồng thời IL-4 và IL-13 làm cải thiện rất nhiều điểm bảng hỏi kiểm soát HPQ,
giảm cơn hen xảy ra vào buổi sáng và tối, giảm đáng kể nồng độ TGHH viêm
liên quan tới Th2 [39]. Ngược lại, các nghiên cứu về kháng IL-4 và IL-13 đơn
thuần cho thấy chỉ cải thiện chức năng phổi nhưng không cải thiện nhiều các
triệu chứng lâm sàng của HPQ và không cải thiện việc giảm sử dụng β2
agonist hoặc cải thiện chất lượng cuộc sống [40]. Walsh G.M. (2013) nghiên
cứu ngẫu nhiên, mù đôi đánh giá hiệu quả của Dupilumab (kháng đồng thời
IL-4 và IL-13) trên bệnh nhân bị hen vừa và nặng, thấy giảm các đợt cấp trên
bệnh nhân (chỉ có 6% có đợt cấp khi dùng dupilumab so với 44% ở nhóm giả
dược), tăng rõ rệt FEV1 sau 2 tuần và được duy trì cho đến tuần thứ 12 mặc
dù các đối tượng ngừng điều trị β - Agonist vào tuần thứ 4 [40].
- Kháng IL-5: Hai kháng thể đơn dòng kháng IL-5 (human-IL-5-specific
monoclonal antibodies) gồm mepolizumab (SB-240, 563), và MEDI-563 đã
được ứng dụng điều trị cho bệnh nhân HPQ. Kết quả cho thấy giảm nhanh số
lượng bạch cầu E trong máu và đờm, nhưng không ảnh hưởng đến tăng đáp
- Kháng TNF-α: Các nghiên cứu cho thấy ICS không làm giảm nồng độ TNF-
ứng của phế quản
α ở đường thở của bệnh nhân HPQ, điều đó có thể giải thích tại sao ICS
30
dường như tác dụng hạn chế trong các thể hen nặng [43]. Nghiên cứu của
Walsh G.M. (2013) khi tiêm dưới da thuốc kháng TNF-α (etanercept 25 mg
hai lần một tuần trong 12 tuần) ở những bệnh nhân hen nặng thấy điểm số
ACQ và FEV1, PEF được cải thiện đáng kể sau điều trị [40]. Trong một phân
tích hồi cứu trên bệnh nhân bị HPQ được điều trị bằng infliximab (kháng
TNF-α), cho thấy có sự cải thiện rõ rệt các triệu chứng lâm sàng, FEV1 và cắt
được ICS [43].
1.5. CÁC NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƢỚC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.5.1. Nghiên cứu về biến đổi lâm sàng, thông khí phổi và mức độ kiểm soát
- Biến đổi lâm sàng sau điều trị ICS và LABA
Từ khi có hướng dẫn GINA trong điều trị kiểm soát, các nghiên cứu
đánh giá kết quả điều trị ICS và LABA trên lâm sàng đã được thực hiện và
thấy kết quả bước đầu đáp ứng tốt trên lâm sàng. Strand A.M. và CS (2004)
đánh giá hiệu quả điều trị của ICS và LABA (Seretide) so với Fluticasone
propionate trên 150 bệnh nhân HPQ có triệu chứng HPQ, các tác giả nhận thấy
tỷ lệ số ngày và đêm không triệu chứng tăng lên có ý nghĩa thống kê ở nhóm
điều trị bằng Seretide so với nhóm chỉ điều trị bằng Fluticasone propionate đơn
thuần ((20% đến 64% so với 24% đến 51%), (p = 0,008 [110]. Nghiên cứu của
Bergmann K.C. và CS (2004) trên 2 nhóm bệnh nhân dùng Salmeterol kết
hợp Fluticasone propionate và chỉ dùng Fluticasone propionate liều gấp đôi,
cũng nhận thấy cả 2 nhóm nghiên cứu đều có cải thiện triệu chứng nhưng
mức độ cải thiện triệu chứng lâm sàng ở nhóm liệu pháp kết hợp cải thiện
triệu chứng, làm tăng tỷ lệ số ngày không triệu chứng (49%) cao hơn so với
liệu pháp Fluticasone propionate liều gấp đôi (38%) (95%CI: 4,0-20,7) với p
< 0,05 [45]. Woodcock A.A. và CS (2007) nghiên cứu phân tầng, ngẫu nhiên,
mù đôi, khi so sánh việc sử dụng Salmeterol và Fluticasone propionate so với
Fluticasone propionate đơn thuần, kết quả sau 52 tuần thấy điểm số triệu chứng
giảm dần (-1,0 so với - 0,8), ngày không có triệu chứng tăng (72,5% so với
31
54,5%), số đêm không thức giấc tăng (31% so với 22%), ngày không dùng
thuốc cấp cứu tăng (87,3 so với 74,7), tỷ lệ các đợt kịch phát nặng hàng năm
giảm (0,02 so với 0,03). Các tác giả kết luận có sự cải thiện các triệu chứng lâm
sàng rõ rệt với nhóm bệnh nhân dùng kết hợp ICS và LABA so với sử dụng
ICS đơn thuần [46]. Markham A. và CS (2016) cho rằng sự kết hợp
Salmeterol-Fluticasone propionate làm giảm triệu chứng ban ngày và ban
đêm, giảm nhu cầu sử dụng SABA cắt cơn, cải thiện chất lượng cuộc sống tốt
hơn so với đơn trị liệu bằng Fluticasone propionate [47]. Gần đây nghiên cứu
của Pearlman D.S. và CS (2017) thấy sử dụng phối hợp ICS và LABA làm
giảm triệu chứng HPQ tốt hơn đơn trị liệu với ICS. Các tác giả nhận thấy tỷ lệ
các triệu chứng ho, khò khè, khó thở, nặng ngực trước điều trị và sau điều trị
1 tháng cho thấy: trước điều trị có 99% bệnh nhân có ít nhất 1 trong các triệu
chứng này, sau 1 tháng điều trị 29% bệnh nhân hết các triệu chứng, những
bệnh nhân còn lại tần số các triệu chứng này cũng giảm rõ rệt [48]. Tại Việt
Nam, theo Dương Quý Sỹ (2016) thấy bệnh nhân HPQ được kiểm soát bằng
ICS giúp làm giảm triệu chứng ban ngày và ban đêm, giảm nguy cơ đợt cấp
và nhập viện, cải thiện chất lượng cuộc sống [26].
- Biến đổi thông khí phổi sau điều trị ICS và LABA
Các nghiên cứu cho thấy có sự cải thiện chức năng phổi khi điều trị
kiểm soát bằng ICS và LABA: Li H.T. và CS (2007) khi kết hợp điều trị
Salmeterol - Fluticasone propionate đã làm tăng PEF và FEV1 so với tăng liều
corticosteroid hít trong 12 tuần điều trị (FEV1 tăng17,86 lít/phút ở nhóm
nghiên cứu với 15,57 lít/phút ở nhóm chứng) [49]. Một nghiên cứu phân tầng,
ngẫu nhiên, mù đôi, nhằm so sánh việc sử dụng ICS và LABA với ICS đơn
thuần, kết quả sau 52 tuần cho thấy cải thiện PEF buổi sáng ở nhóm điều trị
ICS-LABA so với nhóm sử dụng ICS đơn thuần (58,2 lít/phút so với 33,9 lít/
phút ) [46]. Frois C. và CS (2009) cho rằng phác đồ phối hợp Budesonid -
Formoterol và Fluticasone - Salmeterol thường cải thiện chức năng phổi tốt
32
hơn so với phác đồ đơn trị ICS [50]. Theo Ohwada A. và CS (2011) khi so
sánh sự thay đổi các thông số thông khí phổi của 45 bệnh nhân HPQ được
điều trị bằng SABA và ICS và LABA thấy các chỉ tiêu FEV1, PEF, FEF50%,
FEF75%, FEF25–75%, FEV1/FVC tăng ở nhóm dùng ICS và LABA tốt hơn so với
dùng SABA [51]. Verberne A.A. và CS (2010) khi so sánh nhóm bệnh nhân
HPQ được dùng ICS và LABA với nhóm dùng ICS đơn thuần, thời gian trong
26 tuần, kết quả chức năng phổi của cả hai nhóm đều cải tiến đáng kể so với
ban đầu (p < 0,001) [52]. Janeva E.J. và CS (2015) trong nghiên cứu 27 bệnh
nhân điều trị bằng ICS và LABA đều thấy các thông số TKP tăng rõ rệt sau 6
tháng điều trị kiểm soát (p < 0,001) [2]. Markham A. và CS (2016) khi nghiên
cứu điều trị kết hợp ICS và LABA ở HPQ người lớn và thanh thiếu niên sau
12 tuần thấy cải thiện nhanh chóng trong chức năng của phổi so với những
bệnh nhân chỉ điều trị bằng LABA hoặc ICS đơn thuần [47]. Lee M.S. và CS
(2014) thấy không có sự tương quan giữa thay đổi chức năng hô hấp và điểm
ACT trong đánh giá kiểm soát HPQ trẻ em [53].
- Biến đổi mức độ kiểm soát sau điều trị ICS và LABA
Các nghiên cứu cho thấy có sự gia tăng mức độ kiểm soát hen sau điều
trị ICS và LABA [54]. [25]. Kelly H.W. (2009) khi nghiên cứu điều trị kiểm
soát bằng ICS cho HPQ người lớn, kết quả cho thấy hiệu quả điều trị kiểm
soát tương tự nhau và an toàn ở liều ICS từ thấp đến trung bình [55]. Một số
nghiên cứu gần đây cho thấy ở những bệnh nhân HPQ không kiểm soát được
bằng ICS liều thấp hoặc cao nên phối hợp với LABA hơn là tăng liều ICS đơn
thuần. Khi kết hợp ICS và LABA đã kiểm soát HPQ tốt hơn mà không cần
tăng liều ICS hoặc giữ nguyên được tình trạng kiểm soát HPQ tốt khi giảm
liều ICS [5], [6], [46]. Các tác giả Frois C. và CS (2009) và Elkout H. và CS
(2010) cũng cho kết quả tốt về kiểm soát HPQ khi sử dụng ICS và LABA so
với nhóm sử dụng 2 thuốc riêng biệt, làm giảm sử dụng thuốc cắt cơn và
corticosteroid uống [50], [56]. Aalbers R. và CS (2015) cho rằng điều trị duy
33
trì bằng ICS và LABA được khuyến cáo cho những bệnh nhân không được
kiểm soát với liều ICS thấp đến trung bình [57]. Van Den Berg N.J. và CS
(2017) đánh giá hiệu quả và tính an toàn của ICS và LABA (Seretide) sau 12
tuần cho thấy giảm nhu cầu sử dụng thuốc cắt cơn và cải thiện chức năng phổi
ở các bệnh nhân [44]. Tại Việt nam cũng có một số nghiên cứu về mức độ
kiểm soát của bệnh nhân sau điều trị ICS và LABA: Nguyễn Văn Đoàn và CS
(2013) bước đầu đánh giá hiệu quả điều trị dự phòng HPQ của ICS và LABA
(Seretide) cho thấy kiểm soát HPQ từ 0% lên 79,7%; điểm ACT; 25 điểm từ
0% lên 82,3% [58]. Vũ Thị Hồng (2015) khi nghiên cứu kiểm soát HPQ dựa
vào các tiêu chí của GINA (2015), thấy rằng tỷ lệ hen kiểm soát tốt là 26%,
HPQ kiểm soát một phần là 36%, không kiểm soát là 38% [59]. Nguyễn
Hoàng Phương (2018) đánh giá kiểm soát theo GINA sau 3 tỷ lệ bệnh nhân
HPQ được kiểm soát thấp (10%), sau 6 tháng tỷ lệ bệnh nhân được kiểm soát
tăng lên 33,3% [60]. Theo Lê Văn Nhi (2010) so sánh 2 tiêu chuẩn đánh giá
kiểm soát hen: tỉ lệ kiểm soát HPQ hoàn toàn theo tiêu chuẩn GINA cao hơn
so với thang điểm ACT (p = 0,032), trong khi đó tỉ lệ kiểm soát HPQ một
phần theo thang điểm ACT lại cao hơn so với tiêu chuẩn GINA (p = 0,033)
[61]. Nguyen V.N. và CS (2012) khi sử dụng ICS và LABA điều trị kiểm soát
thấy các thang điểm đánh giá kiểm soát HPQ theo các tiêu chuẩn của GINA
và ACT cho kết quả tương tự nhau ở cả nam và nữ [62].
Đánh giá các yếu tố liên quan đến mức độ kiểm soát, các nghiên cứu
cho thấy: Ghanname I. (2018) cho thấy các yếu tố liên quan đến kiểm soát
kém bao gồm nhiễm trùng hô hấp (OR = 5.71), các bệnh kết hợp (OR = 3.36)
và dị ứng với vật nuôi (OR = 2.76), sự gắn kết của bệnh nhân với điều trị (OR
= 0.07), giới (OR = 0.41) [63]. Kebede B. và CS (2019) cho rằng mức độ
kiểm soát HPQ liên quan chặt chẽ với kỹ thuật sử dụng các dụng cụ hít, xịt
[64]. Yıldız F. (2013) thấy kiểm soát HPQ kém liên quan đến bệnh kết hợp
(OR = 0,602; 95% CI: 0,419; 0,863, p = 0,006) và hút thuốc thụ động (OR =
34
0,522; 95% CI, 0,330; 0,825, p = 0,005) [3]. Như vậy các nghiên cứu trong và
ngoài nước đều thấy có sự biến đổi lâm sàng, TKP và mức độ kiểm soát tốt ở
các bệnh nhân được điều trị ICS và LABA, tuy nhiên thời điểm đánh giá, các
tiêu chí đánh giá đáp ứng điều trị chưa đồng nhất và chưa có kết quả cụ thể về
mức biến đổi các chỉ số lâm sàng cũng như TKP và các mức độ kiểm soát ở
các bệnh nhân điều trị ICS và LABA.
1.5.2. Nghiên cứu biến đổi nồng độ IL-4, IL-5, IL-13 và TNF-α theo mức
độ kiểm soát
- Biến đổi IL-4
Một số nghiên cứu cho thấy nồng độ IL-4 trong khí thở ra ở bệnh nhân
HPQ giảm sau điều trị ICS và LABA [65]. Shahid S.K. và CS (2002) cũng
thấy nồng độ IL-4 trong dịch phế quản của bệnh nhân HPQ giảm rõ rệt sau
điều trị bằng ICS so với nhóm chứng (37,5 ± 5,6 pg/ml so với 53,7 ± 4,2
pg/ml, p < 0,05); đặc biệt ở bệnh nhân được điều trị kết hợp giữa ICS và
LABA với liều cao [66]. Theo Chi C.H. và CS (2016) sự gia tăng nồng độ IL-
4 trong khí thở ra đã được ghi nhận ở những bệnh nhân không được dùng ICS
và giảm rõ rệt sau 12 tuần điều trị bằng ICS [67]. Nghiên cứu của Matsunaga
K. và CS (2009) cũng cho kết quả tương tự: nồng độ trung bình của IL-4
trong khí thở ra ở bệnh nhân HPQ sau 12 tuần điều trị bằng ICS đã giảm rõ
rệt so với trước điều trị [68]. Carpagnano G.E. và CS (2005) thấy nồng độ IL-
4 trong huyết thanh bệnh nhân HPQ bắt đầu giảm đáng kể sau khi điều trị
bằng ICS trong 6 tháng [69]. Lee Y.C. và CS (2016) cũng thấy nồng độ trung
bình của IL-4 trong huyết thanh của nhóm bệnh nhân HPQ đợt cấp tăng cao
hơn so với nhóm bệnh nhân được kiểm soát bằng ICS [70]. Theo Robroeks
C.M. và CS (2017) cho rằng nồng độ IL-4 tương quan với mức độ viêm trong
HPQ và giảm rõ rệt sau điều trị kiểm soát bằng ICS. Do vậy các tác giả cho
rằng IL-4 trong khí thở ra rất hữu ích trong đánh giá kiểm soát hen [71].
35
- Biến đổi IL-5
Một nghiên cứu ở những bệnh nhân HPQ trong đợt cấp nồng độ IL-5
huyết thanh thường tăng cao hơn so với những bệnh nhân được kiểm soát tốt
bằng ICS và LABA và mức tăng IL-5 liên quan đến tắc nghẽn đường thở
nặng [70]. Wang K. và CS (2011) thấy khi điều trị ICS và LABA sẽ làm giảm
nồng độ trung bình của IL-5 huyết thanh của bệnh nhân HPQ và tăng mức
kiểm soát [72]. Kotsimbos A.T. và CS (2013) cũng thấy nồng độ IL-5 trong
huyết thanh ở bệnh nhân HPQ giảm rõ rệt sau điều trị kiểm soát bằng ICS và
LABA nhưng không giảm trong trường hợp HPQ nặng dùng corticosteroid
toàn thân [65]. Theo Robinson D.S. và CS (2015) nồng độ IL-5 huyết thanh
bệnh nhân HPQ cấp tính nặng khi điều trị corticosteroid toàn thân sẽ giảm rõ
rệt sau một tuần [73]. Tuy nhiên Joseph J. và CS (2004) cho rằng không có sự
khác biệt rõ rệt về nồng độ trung bình của IL-5 trong huyết thanh ở bệnh nhân
HPQ nhẹ và vừa sử dụng ICS so với bệnh nhân không sử dụng ICS (7,8 pg/ml
so với 10,2 pg/ml ) [74].
- Biến đổi IL-13
Rael E.L. và CS (2011) thấy nồng độ IL-13mRNA giảm ở các mẫu sinh
thiết phế quản của bệnh nhân HPQ đáp ứng với corticosteroid và mức giảm
tương quan với cải thiện các triệu chứng trên lâm sàng. Ở nhóm HPQ kháng
corticosteroid, nồng độ IL-13mRNA không thay đổi và không cải thiện các
triệu chứng trên lâm sàng [41]. Lee Y.C. và CS (2016) thấy nồng độ IL-13
tăng cao trong huyết thanh ở bệnh nhân HPQ trong ĐC và giảm nhanh khi
được kiểm soát tốt (p < 0,001) [70]. Nghiên cứu của Janeva E.J. và CS (2015)
cũng thấy nồng độ trung bình IL-13 giảm rõ rệt sau 6 tháng điều trị ICS-
LABA so với trước điều trị (p < 0,001) [2]. Trong một nghiên cứu khác của
Joseph J. và CS (2004) lại cho kết quả ngược lại: nồng độ IL-13 trong huyết
thanh của bệnh nhân HPQ điều trị ICS là 6,72 pg/ml, cao hơn đáng kể so với
36
không điều trị (6,72 pg/ml so với 3,09 pg/ml) (p < 0,001) và không có sự khác
biệt về nồng độ IL-13 trong huyết thanh giữa nhóm bệnh nhân sử dụng ICS
thường xuyên và nhóm chỉ sử dụng LABA (p = 0,8) [75]. Walsh G.M. (2013)
thấy rằng nồng độ IL-13 trong dịch phế quản như là dấu ấn theo dõi kiểm soát
hen: tăng ở của bệnh nhân không đáp ứng với ICS và giảm rõ rệt ở những
bệnh nhân đáp ứng tốt với ICS [40].
- Biến đổi TNF-α
Basyigit I. và CS (2004) nghiên cứu biến đổi nồng độ TNF-α trên 45
bệnh nhân HPQ sau 12 tuần điều trị ICS nồng độ trung bình TNF-α ở nhóm
HPQ có tăng bạch cầu E sau điều trị là 242 ± 89 pg/ml, giảm rõ rệt so với
trước điều trị (294 ± 102 pg/ml) và ở nhóm HPQ không tăng bạch cầu E cũng
giảm nồng độ trung bình TNF-α so với trước điều trị ICS (391 ± 110 pg/ml so
với 271 ± 97 pg/ml, p < 0,001) [76]. Russo C. và CS (2005) thấy ở những
bệnh nhân HPQ điều trị ICS, nồng độ TNF-α trong dịch phế quản và trong
mảnh sinh thiết phế quản giảm ở những bệnh nhân HPQ nhẹ và vừa, ngược
lại TNF-α không giảm ở những bệnh nhân nặng và kháng với corticosteroid
[43]. Berry M.A. và CS (2006) trong các nghiên cứu in vitro cho thấy điều trị
ICS làm giảm sản xuất TNF-α, nhưng không ảnh hưởng đến hoạt động của
chúng [77]. Sobande P.O. và CS (2008) cho rằng ICS ngăn cản một cách hiệu
quả quá trình viêm ở đường thở ở hầu hết bệnh nhân HPQ thông qua giảm
tổng hợp cytokines nói chung trong đó có TNF-α [7]. Trong một nghiên cứu
khác các tác giả thấy nồng độ TNF-α giảm một nửa sau điều trị ICS liều cao
và giảm nhiều hơn so với nhóm bệnh nhân không dùng ICS (p < 0,01) [78].
Nhìn chung các nghiên cứu đều cho thấy nồng độ TNF-α trong huyết thanh ở
bệnh nhân HPQ giảm sau điều trị ICS.
Tóm lại: Nhiều nghiên cứu cho thấy điều trị kiểm soát bằng ICS đã làm
giảm nồng độ các cytokine trong huyết thanh và dịch phế quản theo thời gian,
37
tuy nhiên cytokine nào giảm rõ rệt, mức giảm như thế nào, thời gian giảm sau
điều trị cũng như mức giảm liên quan như thế nào với mức độ kiểm soát vẫn
còn là vẫn đề cần nghiên cứu rõ thêm để đánh giá vai trò theo dõi đáp ứng
điều trị và tiến triển bệnh của các cytokine, cũng như làm tiền đề cho điều trị
kháng cytokine trong tương lai.
38
CHƢƠNG 2
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
Bao gồm 66 bệnh nhân được chẩn đoán xác định là HPQ, ngoài đợt cấp
và được quản lý, điều trị kiểm soát tại Phòng tư vấn hen thuộc Trung tâm Dị
ứng Miễn dịch lâm sàng - Bệnh viện Bạch Mai thời gian từ tháng 2/2014 -
8/2016.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
- Chẩn đoán xác định HPQ theo tiêu chuẩn GINA (2012) [27]:
+ Ho, khó thở, khò khè và cảm giác tức ngực tái diễn, thay đổi theo
thời gian và cường độ.
+ Các triệu chứng thường xảy ra hay nặng hơn vào ban đêm, khi thay
đổi thời tiết, khi tiếp xúc với dị nguyên, hoặc theo mùa.
+ Nghe phổi có ran rít, ran ngáy lan toả.
+ Đo TKP có RLTK tắc nghẽn có hồi phục: FEV1/FVC < 75%; Test
hồi phục phế quản với Salbutamol dương tính (FEV1 tăng ≥ 12% và ≥ 200ml
sau khí dung hoặc xịt Salbutamol với liều lượng 200 - 400g).
- Tiêu chuẩn xác định HPQ ngoài đợt cấp theo GINA (2012) [27]:
+ Giảm tối đa hoặc hết các triệu chứng lâm sàng.
+ Tần số thở bình thường, nghe phổi hết ran phế quản.
+ Không có triệu chứng về đêm, hoạt động thể lực bình thường.
+ Giảm tối đa sử dụng thuốc giãn phế quản
- Bệnh nhân chưa được điều trị kiểm soát tại các cơ sở y tế khác và
chưa được điều trị ICS và LABA hoặc điều trị < 2 tuần.
- Bệnh nhân chấp thuận nghiên cứu: Chấp nhận đăng kí điều trị ngoại
trú, cam kết thực hiện tái khám định kì và xét nghiệm trong vòng 3 tháng theo
yêu cầu của đề tài nghiên cứu.
39
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân đang có đợt cấp HPQ; đã điều trị ICS và LABA >2 tuần.
- Bệnh nhân đang mắc nhiễm trùng cấp ở đường hô hấp trên: như viêm
mũi, viêm xoang, viêm miệng, nhiễm virus cấp.
- Bệnh nhân đang có các bệnh lý nhiễm trùng cấp ở đường hô hấp dưới
và các bệnh hô hấp khác kèm theo: viêm phế quản cấp, viêm phổi cấp, chồng
lấp HPQ và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, giãn phế quản, lao phổi.
- Bệnh nhân mắc các bệnh phối hợp: Tăng huyết áp, suy tim, viêm gan
cấp và mạn, viêm cầu thận mạn, hội chứng thận hư, suy thận mạn, bệnh hệ
thống, bệnh lý miễn dịch, bệnh ác tính ở các cơ quan.
- Bệnh nhân đang điều trị trong vòng 2 tuần trước đó bằng các thuốc
như kháng histamin, corticosteroid tại chỗ và toàn thân, cromoglycate.
- Bệnh nhân không tuân thủ điều trị, định kì tái khám và xét nghiệm
trong vòng 3 tháng.
2.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.2.1. Đặc chung của đối tƣợng nghiên cứu trƣớc điều trị kiểm soát
- Đặc điểm lâm sàng: Phân bố tuổi, giới; tiền sử dị ứng; tiền sử điều trị;
đặc điểm lâm sàng (thời gian mắc bệnh, các triệu chứng, phân bậc hen).
- Đặc điểm cận lâm sàng: Kết quả công thức máu, các thông số thông
khí phổi, kết quả nồng độ IL-4, IL-5, IL-13 và TNF-α thuyết thanh.
2.2.2. Đánh giá biến đổi lâm sàng, thông khí phổi và mức độ kiểm soát
trong 3 tháng
- Đánh giá biến đổi lâm sàng sau 1, 2, 3 tháng điều trị kiểm soát:
+ Biến đổi triệu chứng lâm sàng.
+ Biến đổi bậc hen.
+ Biến đổi thông số ACT.
- Đánh giá biến đổi số lượng bạch cầu ái toan sau 1, 2, 3 tháng điều trị
kiểm soát.
40
- Đánh giá biến đổi các thông số TKP sau 1, 2, 3 tháng điều trị kiểm soát:
+ Biến đổi giá trị trung bình các thông số thông khí phổi
+ Mức thay đổi các thông số thông khí phổi.
- Đánh giá thay đổi các mức độ kiểm soát sau 1, 2, 3 tháng điều trị:
+ Thay đổi mức độ kiểm soát theo thời gian điều trị.
+ Thay đổi mức độ kiểm soát theo theo bậc hen sau.
+ Đánh giá một số yếu tố liên quan đến kết quả kiểm soát hen phế
quản: liên quan với lâm sàng (BMI, khởi phát bệnh, tiền sử dị ứng, giới), bạch
cầu E liên quan đến kết quả kiểm soát.
2.2.3. Đánh giá biến đổi các nồng độ IL-4, IL-5, IL-13 và TNF-α huyết
thanh theo mức độ kiểm soát
- Biến đổi nồng độ IL-4, IL-5, IL-13 và TNF-α huyết thanh theo thời gian.
- Biến đổi đổi nồng độ các cytokine IL-4, IL-5, IL-13 và TNF-α huyết
thanh theo mức độ kiểm soát.
2.3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, tiến cứu và theo dõi dọc
Cỡ mẫu được tính theo công thức sau:
n = Z2
(1-α/2) x p (1-p)/ d2 (1)
Trong đó: n là cỡ mẫu; p là tỷ hiện mắc HPQ của Việt Nam: chúng tôi
lấy là 4% (0,04) theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Đoàn và CS (2011) [4]; d
là hệ số cho phép trong nghiên cứu là 5%; Độ tin cậy chấp nhận là 95% thì
Z(1-α/2)=1,96. Thay vào công thức (1) ta được n = 60. Trong nghiên cứu này
chúng tôi chọn được 66 bệnh nhân.
Cách chọn mẫu: Chúng tôi chọn mẫu thuận tiện, thu thập số lượng bệnh
nhân trong thời gian nghiên cứu cho đến khi đủ cỡ mẫu theo dự kiến. Nguồn
bệnh nhân lựa chọn để đưa vào nghiên cứu gồm:
41
- Những bệnh nhân đã được chẩn đoán xác định HPQ trước đó tại
Trung tâm Dị ứng Miễn dịch lâm sàng - Bệnh viện Bạch Mai và được đưa vào
điều trị kiểm soát.
- Những bệnh nhân vào viện trong đợt cấp của HPQ tại Trung tâm Dị
ứng Miễn dịch lâm sàng - Bệnh viện Bạch Mai, được chẩn đoán xác định
HPQ và điều trị hết đợt cấp, sau đó lựa chọn đưa vào điều trị kiểm soát.
Các bệnh nhân được khám lâm sàng, làm các xét nghiệm. Sau khi bệnh
nhân được lựa chọn vào đối tượng nghiên cứu sẽ được tư vấn làm các xét
nghiệm, kế hoạch điều trị, gắn kết điều trị và tái khám định kì theo yêu cầu
của nghiên cứu.
Tuyển chọn từ 120 bệnh nhân chúng tôi đã lựa chọn được 66 bệnh nhân
đủ tiêu chuẩn theo yêu cầu của đề tài.
2.3.2. Kỹ thuật thu thập số liệu
2.3.2.1. Lâm sàng
Nghiên cứu sinh trực tiếp khám lâm sàng chi tiết và chỉ định lấy mẫu
xét nghiệm cho tất cả bệnh nhân ở các thời điểm nghiên cứu: Thời điểm điều
trị nội trú tại bệnh viện trong đợt cấp; trước điều trị kiểm soát, sau 1, 2 và 3
tháng điều trị kiểm soát.
Lập mẫu bệnh án thống nhất và đăng kí các chỉ tiêu nghiên cứu bao gồm:
- Tuổi, giới, nghề nghiệp, chiều cao, cân nặng, tính BMI.
- Thời gian mắc bệnh, tiền sử dị ứng; đặc điểm triệu chứng lâm sàng,
giai đoạn bệnh, thể bệnh, bệnh kết hợp.
- Đánh giá test kiểm soát hen ACT: hướng dẫn bệnh nhân trả lời bảng câu
hỏi test kiểm soát hen (phụ lục 2).
2.3.2.2. Cận lâm sàng
Việc đo TKP, lấy mẫu máu, ly tâm chắt lấy huyết thanh, bảo quản và
thực hiện xét nghiệm theo đúng quy trình của Khoa vi sinh, Trung tâm Dị ứng
Miễn dịch lâm sàng - Bệnh viện Bạch Mai và Bộ môn Miễn dịch - Học viện
42
Quân Y, ghi chép số liệu cận lâm sàng theo mẫu thống nhất cho tất cả các
bệnh nhân (phụ lục 3).
2.3.3. Quy trình kỹ thuật
2.3.3.1. Đo thông khí phổi
Tất cả các bệnh nhân nghiên cứu đều được tiến hành đo (TKP) tại 04
thời điểm: Trước điều trị, sau 1, 2, 3 tháng.
Cơ sở và máy đo: Đo TKP bằng máy hô hấp kế tự động loại
MicroSpiro HI - 601 của Nhật Bản, thực hiện tại phòng xét nghiệm của Trung
tâm Dị ứng Miễn dịch lâm sàng - Bệnh viện Bạch Mai.
* Nguồn: Trung tâm Dị ứng Miễn dịch lâm sàng - Bệnh viện Bạch Mai
Hình 2.1. Máy đo thông khí phổi - Microsipro HI 601
Kỹ thuật đo: Thực hiện theo quy trình đo của Hội lồng ngực Hoa Kì
(ATS) và của Việt Nam [31].
Chuẩn bị máy: Trước khi đo máy phải được kiểm tra có đầy đủ điều
kiện để nghiên cứu như: độ ẩm không khí, nhiệt độ phòng, áp suất buồng xét
nghiệm, thử test chuẩn máy. Nhập các dữ liệu của bệnh nhân (tuổi, giới, chiều
cao, cận nặng, chủng tộc)
Chuẩn bị người bệnh:
+ Giải thích mục tiêu đo chức năng TKP
+ Điền đầy đủ các thông tin trước đo chức năng TKP: tuổi giới, chiều
cao, cân nặng
43
+ Không sử dụng thuốc giãn phế quản trước đo 2 giờ
+ Hướng dẫn bệnh nhân đo ở tư thế ngồi
+ Trước khi đo người đo làm mẫu cho bệnh nhân xem trước và hướng
dẫn tỉ mỉ cho bệnh nhân đo rồi sau đó mới tiến hành đo chính thức.
- Thực hành động tác đo: Bệnh nhân được kẹp mũi, ngậm kín ống thở,
giữ kín môi, yêu cầu bệnh nhân hít vào hết sức và nhanh, sau đó hối thúc
bệnh nhân thổi ra thật nhanh, mạnh, liên tục thật dài (động tác này thực hiện
ngay sau khi hít vào tối đa). Nhận xét ngay về việc thực hiện tốt hoặc không
tốt khi kết thúc mỗi động tác. Làm nhắc lại cho đến khi đạt ít nhất 3 kết quả
đo đạt được các tiêu chuẩn chấp nhận được. Chọn kết quả ở bản ghi đúng kỹ
thuật và có giá trị đúng cao nhất.
+ Đo 3 lần với đường cong chấp nhận được: Sự chệnh lệch của FVC,
FEV1 giữa các lần đo không quá 5% hay 150 ml, đo không quá 8 lần.
+ Đảm bảo đủ 7 tiêu chuẩn: Bệnh nhân hiểu và thực hiện được các chỉ
dẫn, bắt đầu đo khi bệnh nhân đúng tư thế, hít vào được thực hiện với gắng
sức cao nhất, thở ra trôi chảy liên tục, khi thở ra có gắng sức cao nhất (có
peak), thời gian thở ra kéo dài tối thiểu 6 giây, kết thúc đo nếu lưu lượng thở
ra có bình nguyên kéo dài tối thiểu 1 giây.
+ Đảm bảo đủ 3 yếu tố lặp lại: Sự chênh lệch giữa FVC lớn nhất và thứ
2 nhỏ hơn 150ml (hoặc 100ml nếu FVC < 1000ml), sự chênh lệch giữa FEV1
lớn nhất và thứ 2 nhỏ hơn 150 ml (hoặc 100ml nếu FEV1 < 1000ml), có bằng
chứng giải thích cho việc thiếu khả năng lặp lại.
- Làm test hồi phục phế quản bằng test salbutamol: Sau khi tiến hành
đo FEV1, cho bệnh nhân hít salbutamol liều 400g (4 nhát xịt), sau 20-30
phút tiến hành đo lại FEV1. Nếu FEV1 lần 2 tăng ≥ 12% và ≥ 200ml so với
trước xịt salbutamol thì test hồi phục phế quản dương tính; nếu FEV1 lần 2
tăng < 12% và < 200ml so với trước xịt salbutamol thì test hồi phục phế
quản âm tính.
44
- Lựa chọn kết quả và in: Hệ thống vi tính trong máy sẽ tự động chọn
kết quả cao nhất trong 3 lần đo, xử lý số liệu và in các kết quả ra giấy (bao
gồm cả các giá trị tuyệt đối và % so với lý thuyết).
- Đánh giá các thông số sau: Dung tích sống (VC), dung tích sống thở
mạnh (FVC), thể tích thở ra tối đa trong 1 giây đầu tiên (FEV1), thông số
Gaensler (FEV1/FVC), lưu lượng đỉnh (PEF), lưu lượng thở ra tối đa ở quãng
giữa của FVC (FEF25-75%), lưu lượng thở ra tối đa tại các thời điểm 25%, 50%,
75% còn lại của FVC (FEF25%, FEF50%, FEF75%).
2.3.3.2. Định lượng các cytokine huyết thanh
Các bệnh nhân được lấy máu tĩnh mạch tách huyết thanh định lượng
nồng độ các cytokine tại Labo xét nghiệm của bộ môn Miễn dịch - Học viện
Quân y ở các thời điểm tương ứng với đánh giá lâm sàng và thông khí phổi:
trước điều trị và sau 1, 2, 3 tháng kiểm soát.
(a) (b)
(d) (c)
(Ống nhựa đựng máu: (a) Trước khi ly tâm; (b) Sau khi ly tâm; c) Hút huyết thanh cho vào ống eppendorf; d) Cố định ống Eppendorf bảo quản -800c)
* Nguồn: Trung tâm Dị ứng Miễn dịch lâm sàng - Bệnh viện Bạch Mai
Hình 2.2. Hình ảnh các bƣớc xử lý mẫu máu xét nghiệm nồng độ cytokine
45
- Quy trình lấy máu xét nghiệm cytokine: Bệnh nhân được lấy 2ml máu tĩnh mạch cho vào ống nghiệm được bảo quản lạnh 6 - 80C, sau đó được ly tâm với tốc độ 1500 vòng/phút, chắt lấy huyết thanh và bảo quản ở nhiệt độ - 800C tại
Khoa vi sinh - Bệnh viện Bạch Mai cho tới khi thực hiện xét nghiệm định
lượng nồng độ các cytokine.
- Định lượng nồng độ các cytokine huyết thanh theo nguyên lý kỹ thuật hấp
phụ miễn dịch vi hạt huỳnh quang (Fluorescence covalent microbead
immunosorbent assay-FCMIA) [35].
+ Nguyên lý kỹ thuật hấp phụ miễn dịch vi hạt huỳnh quang: sử dụng
các hạt từ huỳnh quang có kích thước bằng nhau (tương tự như tế bào) nhưng
phát ra tín hiệu huỳnh quang khác nhau làm giá đỡ để gắn các phân tử sinh học
như kháng thể đặc hiệu lên bề mặt. Các hạt này được phân tích bằng phương
pháp đếm tế bào/ hạt theo dòng chảy (Flow cytometry) với hai nguồn lase và
detector khác nhau để kích thích và nhận hai loại tín hiệu huỳnh quang độc lập
do hạt từ huỳnh quang phát ra (tín hiệu định tính) và từ phản ứng đặc hiệu trên
bề mặt hạt từ phát ra (tín hiệu định lượng). Nhờ phần mềm máy tính có khả
năng phân biệt được nhiều loại hạt từ huỳnh quang khác nhau cho phép gắn
mỗi loại hạt với một kháng thể đặc hiệu khác nhau rồi trộn lại để phát hiện
đồng thời nhiều kháng nguyên khác nhau trong cùng một mẫu xét nghiệm [35].
Cytokine được phát hiện bằng phản ứng miễn dịch huỳnh quang kiểu
sandwich trên bề mặt của các vi hạt từ (hình 2.3). Bề mặt của vi hạt được gắn
sẵn các phân tử kháng thể đơn clon đặc hiệu với một quyết định kháng nguyên
trên phân tử cytokine.
Khi ủ mẫu xét nghiệm với hạt phủ kháng thể, các phân tử cytokine sẽ bị
kháng thể đặc hiệu bắt giữ và bám vào bề mặt hạt.
Sau đó kháng thể đơn clon thứ hai đặc hiệu với một quyết định kháng
nguyên khác của cytokine đã gắn biotin được thêm vào, tạo thành phức hợp
miễn dịch gồm phân tử cytokine kẹp giữa hai kháng thể đơn clon.
46
Cuối cùng phức hợp streptavidin-PE được thêm vào sẽ gắn vào kháng
thể đơn clôn thứ hai qua tương tác streptavidin-biotin.
Dước tác động của tia laser bước sóng tử ngoại PE sẽ phát ra ánh sáng
huỳnh quang chứng tỏ sự có mặt của cytokine trong mẫu xét nghiệm.
Lượng PE gắn vào tỷ lệ thuận với lượng kháng thể thứ hai hay lượng
cytokine có trên bề mặt hạt từ. Dựa vào mật độ huỳnh quang phát ra từ các hạt
được ủ với những nồng độ cytokine đã biết cho phép định lượng được
cytokine.
Hình 2.3: Nguyên lý phản ứng phát hiện cytokine * Nguồn: Theo Đỗ Khắc Đại và CS (2017) [35]
- Nguyên vật liệu:
+ Các hoá chất và sinh phẩm xét nghiệm do hãng R&D (Mỹ) sản xuất bao
gồm: Hỗn hợp với số lượng bằng nhau của các loại hạt từ khác nhau, mỗi loại
hạt từ huỳnh quang được gắn lên bề mặt một loại kháng thể đơn clon đặc hiệu
với 1 cytokine của người là: 9-plex (IL-2, IL-4, IL-5, IL-10, IL-12, IL-13, GM-
CSF, IFN- và TNF-). Hỗn hợp kháng thể phát hiện (detecting antibody) đã
gắn biotin tương ứng tổ hợp cytokine nói trên. Phức hợp chất huỳnh quang PE
gắn streptavidin. Các dung dịch pha mẫu, sinh phẩm, dung dịch rửa.
+ Hệ thống Luminex 200 và phần mềm điều khiển đi kèm do hãng
Luminex (Mỹ) chế tạo và cài đặt.
+ Các vật liệu và thiết bị labô phụ trợ khác như máy lắc, máy hút chân
không, các loại pipét, đầu pipét, giấy bạc, giấy thấm, nước cất, ống nghiệm đều
đạt tiêu chuẩn quốc tế được cung cấp từ chính hãng sản xuất.
47
- Các bước tiến hành [35].
+ Bước 1: Chia đều 50l hỗn hợp các hạt từ đã gắn kháng thể vào các
giếng của một microplate 96 giếng.
+ Bước 2: Cho 50l mẫu cytokine chuẩn với nồng độ khác nhau đã biết
và 50l dung dịch mẫu cần xét nghiệm vào các giếng tương ứng và ủ trong
điều kiện lắc nhẹ bằng máy lắc trong 120 phút tại nhiệt độ phòng. Rửa 3 lần để
loại bỏ các thành phần không bám vào hạt bằng phương pháp lọc qua màng lọc
với máy hút chân không.
+ Bước 3: Cho 50l hỗn hợp kháng thể đơn clôn đặc hiệu cytokine đã
gắn biotin vào và ủ tiếp trong điều kiện như trên trong 60 phút để hình thành
phức hợp miễn dịch kiểu sanhdwich. Rửa 3 lần theo như mô tả ở bước 2.
+ Bước 4: Cho 50l dung dịch streptavidin-PE vào và ủ trong 30 phút
cho gắn vào phức hợp miễn dịch thông qua tương tác biotin-treptavidin. Rửa 3
lần theo như mô tả ở bước 2 để loại bỏ các phức hợp streptavidin-PE tự do.
+ Bước 5: Cho 100l dung dịch rửa vào mỗi giếng sau đó đọc và phân
tích kết quả bằng hệ thống Luminex 200 ở chế độ chọn độ chọn tốc độ dòng
chảy (60l/phút) và thể tích mẫu đọc là 50l.
+ Sau khi máy phân tích kết quả được in, lưu trữ trên hệ thống máy tính
và đánh giá kết quả nồng độ các cytokine sau: Interleukin-4 (IL-4), Interleukin-
5 (IL-5), Interleukin-13 (IL-13) và Tumor Necrosisa Factor-α (TNF-α).
2.3.3.3. Xét nghiệm công thức máu
Các bệnh nhân được xét nghiệm công thức máu ở 04 thời điểm cùng với
thời điểm lấy máu làm xét nghiệm các cytokine.
- Kỹ thuật: Lấy 2ml máu vào tuýp có chống đông bằng EDTA xét nghiệm công
thức máu bằng phương pháp quang học trên máy RUBY tại Khoa huyết học,
Bệnh viện Bạch Mai.
- Đánh giá các chỉ tiêu: Số lượng hồng cầu (SLHC), huyết sắc tố (HST), số
lượng bạch cầu (SLBC), công thức bạch cầu (Bạch cầu N, bạch cầu E).
48
2.3.4. Điều trị kiểm soát hen bằng ICS và LABA
Các bệnh nhân khởi đầu điều trị bằng thuốc phối hợp ICS và LABA:
- ICS: Là Fluticasone propionate trong bình xịt dạng sương mù, với 2
dạng liều: 50g và 125g/ một nhát xịt.
- LABA: Là Salmeterol trong bình xịt dạng sương mù, với liều một
nhát xịt là 25g.
Hai thuốc được đóng trong 1 bình thuốc xịt định liều (tên biệt dược là
Seretide của Hãng GlaxoSmithKline - Anh).
Quy trình điều trị theo các bước: Đánh giá bệnh nhân (bậc hen, các yếu
nguy cơ, yếu khởi phát đợt cấp, tư vấn) trước điều trị Tiến hành điều trị
kiểm soát Xem lại đáp ứng sau 1 tháng Đánh giá lại bệnh nhân Điều
chỉnh điều trị [27].
Điều trị kiểm soát hen thực hiện theo hướng dẫn của GINA (2012) [27].
Bảng 2.1. Các bƣớc điều trị kiểm soát ban đầu theo GINA (2012)
Bƣớc 1 Bƣớc 2 Bƣớc 5
Bƣớc 4 Bƣớc 3 Cường β2 tác dụng nhanh (theo nhu cầu) Chọn một Chọn một thuốc sau thuốc sau
ICS* liều thâp ICS liều thấp cùng với cường β2 TD dài
Thêm một hoặc cả hai Glucocorticoid dạng uống (liều thấp nhất) Liệu pháp kháng IgE Kháng Leukotrien**
Cường β2 tác dụng nhanh (khi có cơn)
Thêm một hoặc hơn ICS liều trung bình hoặc cao cùng cường β2 kéo dài Kháng Leukotrien Theophylin phóng thích chậm
* Nguồn: Theo GINA (2012) [27]
ICS liều trung bình hoặc cao ICS liều thấp cùng kháng Leukotrien ICS liều thấp cùng theophylin phóng thích chậm
49
- Trong quá trình điều trị kiểm soát bệnh nhân xuất hiện đợt cấp được dùng
thuốc cắt cơn Ventolin xịt 200-300g/ lần và lặp lại mỗi 15-20phút/ giờ đầu,
nếu đỡ hoặc hết cơn khó thở sẽ lặp lại điều trị kiểm soát đã được hướng dẫn,
nếu không đỡ sẽ nhập bệnh viện để điều trị ĐC.
- Tăng và giảm bậc điều trị kiểm soát theo hướng dẫn của GINA (2012) [27]:
Bảng 2.2. Sơ đồ tăng, giảm bậc trong điều trị kiểm soát hen phế quản
Mức độ kiểm soát Biện pháp điều trị
Kiểm soát Duy trì, tìm bậc kiểm soát Giảm bậc thấp nhất
Kiểm soát 1 phần Xem xét tăng bậc để đạt được
kiểm soát Tăng bậc Không kiểm soát Tăng bậc đến khi kiểm soát
Đợt cấp Điều trị đợt kịch phát
Giảm bậc Các bƣớc Tăng bậc
điều trị
*Nguồn: Theo GINA (2012) [27]
Bƣớc 3 Bƣớc 1 Bƣớc 2 Bƣớc 4 Bƣớc 5
Các bệnh nhân đều được tư vấn về bệnh và cách sử dụng thuốc dạng hít
trước điều trị và lặp lại tư vấn hoặc kiểm tra cách sử dụng thuốc theo định kì tái
khám. Các bệnh nhân được tham gia câu lạc bộ hen và sinh hoạt định kì theo
lịch sinh hoạt của câu lạc bộ để cùng nhau trao đổi về điều trị, dự phòng bệnh.
2.3.5. Đánh giá kết quả nghiên cứu
2.3.3.1. Đánh giá kết quả lâm sàng
2 W (kg)/H
- Đánh giá chỉ số khối cơ thể (Body mass index - BMI): Theo công thức BMI =
(m), trong đó W là cân nặng (kg), H là chiều cao đo (mét-m). Đánh
giá thay đổi BMI theo tiêu chuẩn BMI của người lớn châu Á [79]:
+ BMI < 18: gầy
50
+ BMI = 18 – 24,9 bình thường
+ BMI = 25 – 29,9: béo phì độ I
+ BMI = 30 – 34,9: béo phì độ II
+ BMI > 35: béo phì độ III
- Đánh giá bậc hen phế quản theo GINA (2012) [27].
Bảng 2.3. Phân bậc hen phế quản theo GINA (2012)
Triệu Triệu Dao động FEV1, Mức độ Đợt cấp chứng về chứng PEF/ PEF hàng ngày đêm ngày
1 lần /tuần Bậc I: Nhẹ, 2 lần/ < 20% 80% triệu chứng cách quãng Ngắn tháng ngắn
Có thể ảnh hưởng Bậc II: Nhẹ, > 2 lần/ > 1lần /tuần đến hoạt động thể 20-30% 80% dai dẳng tháng lực
Bậc III: Sử dụng thuốc cắt > 1 lần/ 60 - Hàng ngày > 30% Vừa,dai dẳng cơn hàng ngày tuần 80%
*Nguồn: Theo GINA (2012) [27]
Liên tục, hạn Bậc IV: Thường xuyên sử chế hoạt Thường Nặng, dụng SABA, > 30% 60% động xuyên dai dẳng Corticosteroid thể lực.
- Đánh giá kết quả thang điểm ACT: Tổng số điểm ACT được tình bằng cộng
dồn số điểm thành phần. Phân chia các mức điểm tương ứng với các mức độ
kiểm soát HPQ như sau [79]:
+ ACT < 20 điểm: HPQ không kiểm soát
+ ACT 20 - 24 điểm: HPQ kiểm soát 1 phần
51
+ ACT 25 điểm: HPQ kiểm soát tốt
- Đánh giá mức độ kiểm soát HPQ theo GINA 2012 [27].
Bảng 2.4. Mức độ kiểm soát hen phế quản theo GINA (2012)
Kiểm Kiểm soát Không Đặc điểm soát tốt một phần kiểm soát
Không (≤ ≥ 2 Các triệu chứng hàng ngày 2 lần/tuần) lần/tuần
Hạn chế các hoạt động Không Bất kì
Triệu chứng về thêm/thức giấc Không Bất kì ≥ 2dấu hiệu của Không (≤ ≥ 2 kiểm soát 1 Nhu cầu dùng thuốc cắt cơn 2 lần/tuần) lần/tuần phần < 80%
Bình SLT hoặc PEF hoặc FEV1 thường giá trị tốt
*Nguồn: Theo GINA (2012) [27]
nhất
- Đánh giá đặc điểm khởi phát bệnh [1]:
+ Khởi phát sớm: Tuổi khởi phát bệnh < 30 tuổi.
+ Khởi phát muộn: Tuổi khởi phát bệnh ≥ 30 tuổi.
2.3.3.2. Đánh giá kết quả cận lâm sàng
- Đánh giá kết quả thông khí phổi:
+ Giá trị các thông số TKP được tính theo % so với SLT
+ Giá trị bình thường các thông số TKP theo tiêu chuẩn của người Việt
Nam [31], [80]: VC, FVC, FEV1 bình thường khi ≥ 80% SLT, giảm khi < 80%
SLT; FEV1/FVC bình thường khi ≥ 75%, giảm khi < 75%; PEF, FEF25-75%,
FEF25%, FEF50%, FEF75% bình thường khi ≥ 60% SLT và giảm khi < 60% SLT.
52
- Đánh giá nồng độ các cytokine huyết thanh: Giá trị bình thường các
cytokine huyết thanh theo Kleiner G và CS (2013) [81].
+ IL-4: bình thường < 8 pg/ml; tăng khi ≥ 8 pg/ml
+ IL-5: bình thường < 5 pg/ml; tăng khi ≥ 5 pg/ml
+ IL-13: bình thường < 9 pg/ml; tăng khi ≥ 9 pg/ml
+ TNF-α: bình thường < 6 pg/ml; tăng khi ≥ 6 pg/ml
- Đánh giá kết quả công thức máu: Giá trị bình thường công thức máu theo số
tham chiếu bình thường theo máy của cơ sở nghiên cứu:
+ Số lượng hồng cầu: bình thường 4,0 - 5,2 (T/l); tăng khi >5,2 T/l;
giảm khi < 4 T/l.
+ Huyết sắc tố: 120 - 160 (g/l); tăng khi >160 g/l; giảm khi < 120 g/l
+ Số lượng BC: 4 - 10 (G/l); tăng khi >10 G/l; giảm khi < 4 G/l.
+ Tỉ lệ BC đa nhân trung tính: 45 - 75 (%); tăng khi >75%; giảm < 45%.
+ Tỉ lệ BC E: 0,5 - 4 (%), tăng khi > 4%.
+ Tỉ lệ BC lympho: 25 - 45 (%), tăng khi > 45%.
+ Số lượng tiểu cầu: 150 - 450 (G/l); tăng khi > 450(G/l); giảm khi <
150 (G/l).
2.4. XỬ LÝ SỐ LIỆU
- Các số liệu được xử lý bằng phương pháp thống kê y học, sử dụng phần
mềm SPPP 22 của tổ chức Y tế thế giới.
- Các thuật toán được sử dụng trong nghiên cứu:
+ Tính số trung bình ( ) và độ lệch chuẩn (SD), số trung vị, giá trị nhỏ
nhất - lớn nhất (min - max)
+ Sử dụng kiểm định Chi - Square test (Chi - bình phương χ2) để so
sánh 2 tỷ lệ khi trong ô dữ liệu có tần suất kỳ vọng lớn hơn hoặc bằng 5.
+ Sử dụng kiểm định Fisher test để so sánh 2 tỷ lệ khi trong ô dữ liệu
có tần suất kỳ vọng nhỏ hơn 5.
53
+ Sử dụng kiểm định Student T- test để so sánh giá trị trung bình của 2
mẫu độc lập có biến tuân theo phân phối chuẩn.
+ Sử dụng kiểm định Mann - Whitney U test để so sánh các giá trị
trung bình giữa hai nhóm độc lập có biến không tuân theo phân phối chuẩn.
+ Sử dụng kiểm định Wilcoxon - signed rank test để so sánh các giá trị
trung bình giữa trước và sau điều trị khi biến không tuân theo phân phối
chuẩn.
+ Xác định sự khác biệt của kiểm định: Khác biệt có ý nghĩa thống khi
giá trị p < 0,05.
2.5. ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU
Đề cương nghiên cứu được Hội đồng đánh giá đề cương của Học viện
Quân y phê duyệt, cho phép thực hiện và được Ban Giám đốc Trung tâm dị
ứng Miễn dịch lâm sàng - Bệnh viện Bạch Mai cho phép thực hiện.
Các bệnh nhân tham gia nghiên cứu được giải thích rõ về mục đích
nghiên cứu. Nghiên cứu chỉ tiến hành khi có sự đồng ý tự nguyện, hợp tác của
bệnh nhân. Mọi thông tin về bệnh nhân và gia đình được giữ bí mật và chỉ
phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
Các khám xét, thuốc và quy trình điều trị trong nghiên cứu đều được
thực hiện đúng theo các Hướng dẫn điều trị của Bộ y tế và đều mang lại lợi
ích trong điều trị bệnh cho bệnh nhân.
54
SƠ ĐỒ NGHIÊN CỨU
Các bệnh nhân HPQ ngoài đợt cấp
66 bệnh nhân
Đánh giá lâm sàng Xét nghiệm nồng độ IL-4, IL-5, IL-13, TNF-α
Đo thông khí phổi, Xét nghiệm công thức máu
Điều trị bằng ICS và LABA trong 3 tháng
Biến đổi mức độ kiểm soát
Biến đổi lâmsàng, thông khí phổi Biến đổi nồng độ IL-4, IL-5, IL-13, TNFα huyết thanh
Kết luận nghiên cứu
55
CHƢƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. BIẾN ĐỔI LÂM SÀNG, THÔNG KHÍ PHỔI VÀ MỨC ĐỘ KIỂM SOÁT 3.1.1. Đặc điểm bệnh nhân trƣớc điều trị kiểm soát 3.1.1.1. Phân bố về tuổi và giới
Bảng 3.1. Tuổi và giới
Giới Nam Nữ Tổng
Tuổi
n 1 3 9 1 2 6 22 % 1,5 4,5 13,6 1,5 3,0 9,1 33,3 n 2 11 18 6 15 14 66 % 3,0 16,7 27,3 9,1 22,7 21,2 100
% n 1,5 1 12,1 8 13,6 9 7,6 5 19,7 13 12,1 8 44 66,7 (45,3 ± 16,82) < 20 20 - 29 30 - 39 40 - 49 50 - 59 ≥ 60 Tổng ( SD)
Tuổi trung bình của bệnh nhân nghiên cứu là (45,3 ± 16,82) tuổi, trong đó nhóm tuổi 30 - 39 chiếm tỷ lệ cao nhất (27,3%) và nhóm tuổi < 20 có tỷ lệ thấp nhất (3,0%). Tỷ lệ nữ chiếm 66,7% cao hơn nam giới rõ rệt (66,7% so với 33,3%).
3.1.1.2. Tiền sử của bản thân và gia đình Bảng 3.2. Tiền sử của bệnh nhân và gia đình (n=66)
Tỷ lệ % Tiền sử
Tiền sử dị ứng
Tiền sử hút thuốc Bản thân Gia đình (Bố, mẹ, vợ, chồng, con) Có Không n (n = 66) 49 22 8 58 74,2 33,33 12,1 87,9
Có 74,2% bệnh nhân có tiền sử dị ứng bản thân (các bệnh dị ứng kèm theo như viêm mũi dị ứng, eczema). Tiền sử dị ứng của gia đình chiếm tỷ lệ thấp (33,33%). Đa số bệnh nhân không có tiền sử không hút thuốc, chiếm 87,9%.
56
3.1.1.3. Đặc điểm lâm sàng
33,3%
< 5 năm
66,7%
>= 5 năm
Thời gian mắc bệnh trung bình ( SD) = (8,44 6,52)
Biểu đồ 3.1. Thời gian mắc bệnh
Thời gian mắc bệnh trung bình của bệnh nhân là (8,44 ± 6,52) năm,
Bảng 3.3: Một số đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân trƣớc điều trị
trong đó tỷ lệ bệnh nhân mắc bệnh ≥ 5 năm gặp nhiều nhất (66,7%). kiểm soát
Tỷ lệ % Đặc điểm lâm sàng
BMI 69,7 24,2 6,1
± SD) n (n = 66) 46 16 4 (21,89 ± 2,95)
Khởi phát
Số lần có triệu chứng ban ngày/tuần
Số lần triệu chứng về đêm
Điểm ACT 21,2 78,8 1,5 68,2 30,3 0 24,2 1,5 37,9 33,3 3,0 69,7 30,3 0,0
Bình thường Béo phì Gầy ( Sớm Muộn Không cơn ≤1lần/tuần >1lần/tuần Hàng ngày Không 1 lần/tuần ≤ 2 lần/tháng > 2lần/tháng Thường xuyên < 20 điểm 20 - 24 điểm 25 điểm ( ± SD) 14 52 1 45 20 0 16 1 25 22 2 46 20 0 (17,71 ± 2,83)
57
Trước điều trị kiểm soát giá trị trung bình BMI của các bệnh nhân là
(21,69 ± 2,95), trong đó bệnh nhân béo phì chiếm tỷ lệ 24,2%. Chủ yếu bệnh
nhân có khởi phát muộn với tỷ lệ 78,8%. Số bệnh nhân có triệu chứng ≤ 1lần/
tuần chiếm tỷ lệ nhiều nhất (68,2%). Tỷ lệ bệnh nhân có triệu chứng về đêm ≤
2 lần/tháng chiếm nhiều nhất (37,9%).
Giá trị trung bình điểm ACT của các bệnh nhân là (17,71 ± 2,83), trong
đó số bệnh nhân có điểm ACT < 20 gặp nhiều nhiều nhất (69,7%) và không
có bệnh nhân có điểm ACT; 25 điểm.
39,4
40
28,8
30
21,2
20
10,6
10
0
Bậc I
Bậc II
Bậc III
Bậc IV
Biểu đồ 3.2. Phân bậc hen trƣớc điều trị kiểm soát
Trước điều trị kiểm soát số bệnh nhân bậc II gặp tỷ lệ nhiều nhất
(39,4%), tiếp đến bệnh nhân bậc IV là 28,8%, bệnh nhân bậc III là 21,2% và
thấp nhất là bệnh nhân bậc I (10,6%).
58
3.1.1.4. Đặc điểm cận lâm sàng
Bảng 3.4. Đặc điểm máu ngoại vi trƣớc điều trị kiểm soát
Số lƣợng
Tỷ lệ
Số lƣợng, tỷ lệ
(n = 66)
(%)
Chỉ tiêu
Giảm
12,1
8
SLHC
Bình thường
77,3
51
Tăng
10,6
7
(4,70 ± 0,51)
Bình thường
37,9
25
SLBC
Tăng
62,1
41
( ± SD) G/l
(11,03 ± 3,60)
Giảm
7,6
5
N
Bình thường
42,4
28
Tăng
50,0
33
( ± SD) (%)
(71,1 ± 20,24)
Bình thường
31,8
21
E
Tăng
68,2
45
( ± SD) (%)
( ± SD)T/l
(7,29 ± 5,31)
Trước điều trị kiểm soát đa số bệnh nhân có số lượng hồng cầu trong
giới hạn bình thường (77,3%). Tỷ lệ bệnh nhân có tăng số lượng bạch cầu là
62,1% trong đó có 68,2% bệnh nhân tăng bạch cầu E và 50% bệnh nhân tăng
bạch cầu N.
59
Bảng 3.5. Giá trị trung bình các thông số thông khí phổi trƣớc điều
trị kiểm soát (n = 66)
Các thông số ( ± SD)
(%SLT) (min-max)
80,15 ± 20,0 VC (36,5 – 125,6)
68,63 ± 17,8 FVC (27,5 – 106)
48,25 ± 13,81 FEV1 (21,5 – 85,8)
FEV1/FVC 57,93 ± 14,86 (31,1 – 93,4)
44,38 ± 16,81 PEF (14 – 85,4)
57,93 ± 14,86 FEF25%- 75% (10,4 – 64,9)
34,55 ± 15,9 FEF25% (9 – 71,5)
30,35 ± 14,66 FEF50% (10 – 61,2)
33,46 ± 16,78 FEF75% (12,8 – 93,8)
Giá trị trung bình các thông số thông khí phổi của các bệnh nhân trước
điều trị kiểm soát gồm FVC, FEV1, FEV1/FVC, FEF25%- 75% , PEF, FEF25%,
FEF50%, FEF75% đều giảm so với bình thường.
60
Bảng 3.6. Nồng độ trung bình các cytokine trƣớc điều trị kiểm soát
Tỷ lệ n %
Cytokine (pg/ml) (n = 66)
Bình thường (< 8) 60 90,9
IL-4 Tăng (≥ 8) 6 9,1
Trung vị (min - max) 1,75 (0,25 - 22,61)
Bình thường (< 5) 61 92,4
IL-5 Tăng (≥ 5) 5 7,6
Trung vị (min - max)
4,2 (0,31 - 31,21)
Bình thường (< 9) 38 57,6
IL-13 Tăng (≥ 9) 28 42,4
Trung vị (min - max) 11,97 (6,73 - 656,69)
Bình thường (< 6) 23 34,8
TNF-α Tăng (≥ 6) 43 65,2
Trung vị (min - max) 8,77(0,5 - 21,12)
Trước điều trị kiểm soát, đa số bệnh nhân có nồng độ IL- 4 và IL-5 trong
giới hạn bình thường với tỷ lệ lần lượt là 90,9% và 92,4%. Số bệnh nhân có
nồng độ IL-13 bình thường chiếm tỷ lệ 57,6% và tăng chiếm 42,4%. Tỷ lệ
bệnh nhân có nồng độ TNF-α tăng chiếm tỷ lệ cao hơn so với bệnh nhân có
nồng độ TNF-α bình thường (65,2% so với 34,8%).
61
3.1.2. Biến đổi lâm sàng theo thời gian điều trị kiểm soát
Bảng 3.7. Biến đổi triệu chứng lâm sàng theo thời gian điều trị
(n=66)
Thời gian Trƣớc Sau 1 Sau 2 Sau 3 p* tháng(2) tháng (3) tháng (4) điều trị (1)
Đặc điểm
n % n % n % n % lâm sàng
p1&2 = 0,079
Số lần 1 Không cơn 1,5 18 27,3 53 80,3 52 78,8
p2&3 = 0,047
có triệu
p3&4 = 0,001
≤ 1lần/tuần 45 68,2 47 71,2 11 16,7 11 16,7 chứng
ban
> 1 lần/tuần 20 30,3 1 1,5 2 3,0 3 4,5 ngày/
0 0,0 tuần Hàng ngày 0 0,0 0 0,0 0 0,0
Không 16 24,2 28 42,4 55 83,3 56 84,8
p1&2 = 0,043
Số lần 1 1,5 > 1lần/tuần 0 0,0 0 0,0 1 1,5 có triệu
p2&3 = 0,122
≤ 2lần/ tháng 25 37,9 27 40,9 10 15,2 4 6,1 chứng về
p3&4 = 0,025
đêm/ > 2 lần/tháng 22 33,3 11 16,7 1 1,5 5 7,6
tháng 3,0 Thường xuyên 2 0 0,0 0 0,0 0 0,0
* Fisher’s Exact test.
Sau điều trị kiểm soát 1, 2 và 3 tháng, tỷ lệ bệnh nhân không có triệu
chứng ban ngày/tuần tăng rõ rệt so với trước điều trị, với tỷ lệ lần lượt là 27,3%,
80,3% và 78,8% (p < 0,05). Số bệnh nhân không có triệu chứng về đêm/tháng
tăng rõ rệt sau 1, 2 và 3 tháng điều trị kiểm soát so với trước điều trị với tỷ lệ
lần lượt là 42,4%, 83,3% và 84,8% (p < 0,05).
62
Bảng 3.8. Biến đổi bậc hen theo thời gian điều trị (n=66)
Thời gian Trƣớc Sau 1 Sau 2 Sau 3 p* điều trị (1) tháng (2) tháng (3) tháng (4)
% n % n % n % n Bậc hen
p1&2 = 0,034 7 I 10,6 22 33,3 53 80,3 56 84,8
p2&3 = 0,004 26 II 39,4 30 45,5 11 16,7 3 4,5
p3&4 = 0,005 14 III 21,2 13 19,7 1 1,5 3 4,5
19 IV 28,8 1 1,5 1 1,5 4 6,1
* Fisher’s Exact test. Số bệnh nhân bậc IV, III, II giảm. Số bệnh nhân bậc I tăng rõ rệt sau 1,
2 và 3 tháng điều trị kiểm soát, với (p < 0,05).
Bảng 3.9. Chuyển bậc hen theo thời gian so với trƣớc điều trị (n=66)
Thời gian Chuyển bậc sau 1 tháng (1) Chuyển bậc sau 2 tháng (2) Chuyển bậc sau 3 tháng (3)
4(57,1) 3(42,8) 0 (0) 6(85,7) 1(14,3) 0 (0) 7(100) 0 (0)
0 (0)
Không đổi Tăng bậc Giảm bậc Không đổi Tăng bậc Giảm bậc Không đổi Tăng bậc Giảm bậc Bậc hen
10(38,5) 4(15,4) 12 (46,1) 3(11,5) 0 (0) 23(88,5) 0 (0) 1(3,8) 25 (96,2)
I
1 (7,1) 0 (0) 13 (92,9) 0 (0)
0 (0) 14 (100) 0 (0) 1 (7,1) 13 (92,9)
II
1 (5,3) 0 (0) 18 (94,7) 1 (5,3) 0 (0) 18 (94,7) 3(15,8) 0 (0) 16 (84,2)
III
IV
p pa&1 < 0,001, pa&2 < 0,001, pa&3 < 0,001
* Fisher’s Exact test. pa: trước điều trị.
Số bệnh nhân hen bậc II, III, IV giảm bậc rõ rệt sau 3 tháng điều trị
kiểm soát, lần lượt là (96,2%, 92,9% và 84,2%, với p < 0,001).
Số bệnh nhân hen tăng bậc giảm có ý nghĩa thống kê sau 3 tháng điều
trị kiểm soát, lần lượt là (3,8% hen bậc II và 7,1% hen bậc III, với p < 0,001).
63
Bảng 3.10. Biến đổi điểm ACT theo thời gian điều trị (n = 66)
Thời gian Trƣớc Sau 1 Sau 2 Sau 3
điều trị (1) tháng (2) tháng (3) tháng (4) p
Điểm ACT n % n % n % n %
p*1&2 = 0,021
p*2&3= 0,019
< 20 điểm 46 69,7 40 60,6 11 16,7 6 9,1
P*3&4 = 0,002
20 - 24 20 30,3 8 12,1 2 3,0 11 16,7
25 điểm 0 0,0 18 27,3 53 80,3 49 74,2
p**1&2 < 0,001
( ± SD) 19,88 ± 3,58 23,64 ± 2,85 23,45 ± 3,54 17,71 ± 2,83
p**2&3 < 0,001
(min - max) (12 – 23) (13 – 25) (15 – 25) (9 – 25)
* Fisher’s Exact test; ** T-test
25
23,64
23,45
19,88
20
17,71
15
10
5
0
Sau 1 tháng
Sau 2 tháng
Sau 3 tháng
Trƣớc điều trị
Biểu đồ 3.3. Thay đổi giá trị trung bình điểm ACT sau điều trị kiểm soát
Tỷ lệ bệnh nhân có ACT; 25 điểm tăng rõ rệt theo thời gian điều trị,
với tỷ lệ tương ứng sau 1, 2 và 3 tháng kiểm soát là: (27,3%, 80,3%, 74,2%),
sự khác biệt với p < 0,05. Giá trị trung bình ACT tăng dần theo thời gian.
64
3.1.3. Biến đổi số lƣợng bạch cầu E và thông khí phổi theo thời gian điều trị
3.1.3.1. Biến đổi số lượng bạch cầu E trong máu
Bảng 3.11. Biến đổi số lƣợng bạch cầu E theo thời gian điều trị (n=66)
Trƣớc Sau 1 Sau 2 Sau 3 Thời gian
điều trị (1) tháng (2) tháng (3) tháng (4) p*
n % n % n % n % Bạch cầu E
Bình thường 21 31,8 28 42,4
45 68,2 56 84,8 p*1&2 = 0,777 p*1&3 = 0,022
Tăng 45 68,2 38 57,6 21 31,8 10 15,2 p*1&4 = 0,024
( ± SD) % 7,29 ± 5,31 6,46 ± 3,23 5,63 ± 4,31 4,44 ± 3,39 p**1&4= 0,039
* Fisher’s Exact test ** T-test
Sau điều trị kiểm soát giá trị trung bình bạch cầu E giảm dần theo thời
gian, đặc biệt ở tháng thứ 3 giảm rõ rệt so với trước điều trị (4,44% ± 3,39% so
với 7,29 ± 5,31%); tỷ lệ bệnh nhân có số lượng bạch cầu E bình thường ở tháng
thứ 3 tăng cao so với trước điều trị, chiếm, 84,8% (p < 0,05).
Bảng 3.12. Biến đổi số lƣợng bạch cầu E theo mức độ kiểm soát sau
1 tháng (n=66)
Mức kiểm soát Không kiểm Kiểm soát 1 Kiểm soát
soát (n=14) phần (n=32) tốt (n=20) p*
n % n % n % Bạch cầu E
Bình thường 5 35,7 12 37,5 11 55 0,393* Tăng 9 64,3 20 62,5 9 45
0,682** ( ± SD) % 6,84 ± 2,79 6,62 ± 3,17 5,94 ± 3,67
* Fisher’s Exact test * * One-way ANOVA
Sau điều trị kiểm soát 1 tháng thay đổi bạch cầu E chưa có sự khác biệt
có ý nghĩa theo mức độ kiểm soát (p > 0,05).
65
Bảng 3.13. Biến đổi số lƣợng bạch cầu E theo mức độ kiểm soát sau
2 tháng (n=66)
Không kiểm Kiểm soát 1 Kiểm soát Mức kiểm soát
soát (n=2) phần (n=11) tốt (n=53) p*
Bạch cầu E n % n % n %
Bình thường 0 0,0 3 27,3 42 79,2 < 0,001* Tăng 2 100 8 72,7 11 20,8
( ± SD) % 8,3 ± 0,14 7,35 ± 4,81 5,17 ± 4,2 0,0214**
* Fisher’s Exact test * * One-way ANOVA
Sau điều trị kiểm soát 2 tháng tỷ lệ bạch cầu E trở về bình thường ở
những bệnh nhân có kiểm soát tốt cao hơn rõ rệt so với những bệnh nhân
không kiểm soát và kiểm soát 1 phần (p < 0,001).
Bảng 3.14. Biến đổi số lƣợng bạch cầu E theo mức độ kiểm soát sau
3 tháng (n=66)
Không kiểm Kiểm soát 1 Kiểm soát Mức kiểm soát
soát (n=7) phần (n=6) tốt (n=53)
p
Bạch cầu E n % n % n %
0,001*
94,3 Bình thường 2 28,5 4 66,6 50
0,002**
5,7 Tăng 5 71,5 2 33,4 3
( ± SD) % 8,4 ± 6,05 5,17 ± 3,11 3,84 ± 2,58
* Fisher’s Exact test * * One-way ANOVA
Sau điều trị kiểm soát 3 tháng tỷ lệ bạch cầu E trở về bình thường ở
những bệnh nhân có kiểm soát tốt cao hơn rõ rệt so với những bệnh nhân
không kiểm soát và kiểm soát 1 phần (p < 0,005).
66
3.1.3.2. Biến đổi thông khí phổi
Bảng 3.15. Biến đổi các thông số thông khí phổi theo thời gian điều trị
( ± SD) %
Thời gian
p*
VC
Chỉ tiêu Trƣớc điều trị (1) (min - max) (n = 66) Sau Sau 2 tháng (3) 1 tháng (2) Sau 3 tháng (4)
FVC
80,15 ± 20,0 (36,5 – 125,6) 84,48 ± 14,94 (49,4 – 121,1) 92,91 ± 13,12 (55,8 - 129) 94,46 ± 14,31 (60,3 – 130)
FEV1
68,63±17,8 (27,5 – 106) 77,51 ± 14,3 (46 – 113,9) 84,52 ± 10,97 (56,5 – 113,2) 89,02 ± 11,8 (62,1 – 124,4)
FEV1/ FVC
48,25 ± 13,81 (21,5 – 85,8) 63,97 ± 16,27 (34,1 – 104,9) 74,89 ± 13,78 (36,9 – 97,9) 82,61 ± 15,08 (37,3 – 109,5)
FEF25% - 75%
57,93 ± 14,86 (31,1 – 93,4) 72,42 ± 13,18 (46 – 112) 82,27 ± 13,58 (53,4 – 115,7) 86,5 ± 13,86 (52,6 – 111,8)
PEF
31,88 ± 14,72 (10,4 – 64,9) 46,5 ± 23,43 (14,7 – 109,4) 58,73 ± 23,1 (14,2 – 113,2) 67,31 ± 30,88 (16,5 – 197,9)
FEF25%
44,38±16,81 (14 – 85,4) 61,72 ± 17,78 (22,6 – 101,4) 67,92 ± 15,32 (31,5 – 107,1) 72,99 ± 18,11 (29,9 – 124,4)
FEF50%
34,55 ± 5,97 (9 – 71,5) 49,65 ± 21,04 (17,1 – 103,4) 56,53 ± 19,72 (17,1 – 113,2) 65,39 ± 23,28 (15,5 – 121,4)
FEF75%
30,35 ± 4,66 (10 – 61,2) 46,36 ± 24,76 (13,1 – 117,2) 55,87 ± 24,61 (12,5 – 121,5) 65,69 ± 29,65 (14,4 – 184,5)
p1&2 = 0,028 p2&3 = 0,001 P3&4 = 0,131 p1&2 = 0,009 p2&3 = 0,024 p3&4 = 0,079 p1&2 = 0,007 p2&3 = 0,003 p3&4 = 0,071 p1&2 = 0,024 p2&3 = 0,109 p3&4 = 0,507 p1&2 = 0,013 p2&3 = 0,001 p3&4 = 0,47 p1&2 = 0,219 p2&3 = 0,054 p3&4 = 0,137 p1&2 = 0,001 p2&3 = 0,001 p3&4 = 0,839 p1&2 = 0,035 p2&3 = 0,003 p3&4 = 0,581 p1&2 = 0,35 p2&3 = 0,024 p3&4 = 0,716
33,46 ± 6,78 (12,8 – 93,8) 44,4 ± 22,08 (13,3 – 108,7) 50,42 ± 22,44 (14,1 – 123,1) 65,76 ± 34,6 (18,8 – 246,6)
* Wilcoxon Test
67
94,46
100
92,91
89,02
84,52
84,48
82,61
80,15
77,51
74,89
80
68,63
63,97
60
VC
48,25
FVC
FEV1
40
20
0
Trước điều trị
Sau 1 tháng
Sau 2 tháng
Sau 3 tháng
Biểu đồ 3.4. Biến đổi các thông số VC, FVC, FEV1 theo thời gian
Giá trị trung bình tất các thông số thông khí phổi đều tăng dần sau 1, 2,
3 tháng kiểm soát và tăng rõ rệt so với trước điều trị (p < 0,05).
Bảng 3.16. Mức thay đổi các thông số VC, FVC và FEV1 theo thời
gian so với trƣớc điều trị
Thời gian Sau 1 tháng (1) (n = 66) Sau 2 tháng (2) (n = 66) Sau 3 tháng (3) (n = 66) p*
n % n % n % % cải thiện so với trƣớc điều trị
< 12% 39 59,1 37 56,1 30
VC (%) ≥ 12% 27 40,9 29 43,9 36 54,5
< 12% 36 54,5 30 45,4 27
FVC (%) ≥ 12% 30 45,5 36 54,5 39 59,1
< 12% 28 42,4 13 19,7 11
FEV1(%) ≥ 12% 38 57,6 53 80,3 55 83,3 45,5 p1&2< 0,001 p2&3 < 0,001 p1&3 = 0,008 40,9 p1&2< 0,001 p2&3 < 0,001 p1&3 = 0,008 16,7 p1&2 = 0,005 p2&3 =0,048 p1&3 = 0,026
* Chi-squared test
68
Tỷ lệ bệnh nhân có VC, FVC, FEV1 tăng ≥ 12% so với trước điều trị
đều tăng dần theo thời gian (p < 0,005), nhưng rõ rệt nhất là tăng FEV1 ở
tháng thứ 2 và 3 (p < 0,05).
Bảng 3.17. Thay đổi các thông số thông khí phổi theo mức độ kiểm
soát sau 1 tháng (n=66)
Mức kiểm soát ( ± SD)%
(min-max)
p*
Không kiểm Kiểm soát 1 Kiểm soát
Các chỉ tiêu soát (n=14) (1) phần (n=32) (2) tốt (n=20) (3)
VC
79,4 ± 19,39 84,99 ± 15,46 87,23 ± 9,46 0,316 (49,4 – 117,7) (61,4– 121,1) (66,7 – 103,8)
FVC
71,7 ± 16,41 77,84 ± 14,16 81,06 ± 12,26 0,17 (47,4 – 101,9) (57,7 – 113,9) (46,0 – 100,6)
FEV1
58,05 ± 16,46 64,52 ± 18,21 67,23 ± 11,88 0,264 (38,5 – 90,6) (34,1 – 104,9) (37,5 – 89,4)
FEV1/FVC
71,54 ± 17,47 73,59 ± 14,16 71,18 ± 7,34 0,787 (46,0 – 112,0) (53,2 – 102,9) (61,9 – 86,9)
FEF25%-75%
42,71 ± 26,17 50,23 ± 25,67 43,18 ± 17,0 0,46 (15,7 – 90,3) (14,7 – 109,4) (18,7 – 92,3)
PEF
57,41 ± 16,7 62,19 ± 20,35 63,97 ± 13,97 0,565 (31,2 – 86,5) (22,6 – 101,4) (32,7 – 87,5)
FEF25%
47,0 ± 24,0 51,35 ± 23,55 48,79 ± 14,29 0,789 (18,6 – 83,1) (17,1 – 103,4) (24,0 – 70,6)
FEF50%
44,32 ± 25,01 49,54 ± 26,62 42,68 ± 21,88 0,594 (16,4 – 83,2) (13,1 – 112,1) (19,0 – 117,2)
FEF75%
45,46 ± 26,73 47,61± 23,64 38,51 ± 14,57 0,35 (13,8 – 108,7) (13,3 – 100,5) (20,0 – 76,5)
* Kruskal-Wallis H
69
Sau 1 tháng điều trị giá trị trung bình các thông số thông khí thay đổi
chưa có sự khác biệt theo mức độ kiểm soát (p > 0,05).
Bảng 3.18. Thay đổi các thông số thông khí phổi theo mức độ kiểm
soát sau 2 tháng (n=66)
p*
Mức kiểm soát Các chỉ tiêu
( ± SD)% (min-max) Kiểm soát 1 phần (n=11) (2) 94,14 ± 13,66 Kiểm soát tốt (n=53) (3) 93,12 ± 13,11 Không kiểm soát (n=2) (1) 80,55 ± 7,0 0,396 VC (75,6 – 85,5) (55,8 – 105,9) (66,1 – 129)
77,25 ± 5,44 85,46 ± 14,44 84,59 ± 10,37 0,626 FVC (73,4 – 81,1) (56,6 – 107,4) (60,1 – 113,2)
61,0 ± 1,27 67,61 ± 19,99 76,93 ± 11,73 0,041 FEV1 (60,1 – 61,9) (36,9 – 90,6) (46,5 – 97,9)
77,15 ± 2,47 75,88 ± 16,96 83,79 ± 12,77 0,018 FEV1/FVC (75,4 – 78,9) (53,4 – 108,0) (58,9 – 115,7)
32,35 ± 2,33 54,75 ± 32,41 60,56 ± 20,77 0,197 FEF25%- 75% (30,7 – 34,0) (14,2 – 109,4) (25,8 – 113,2)
61,8 ± 14,14 63,39 ± 17,83 69,09 ± 14,88 0,459 PEF (51,8 – 71,8) (31,5 – 91,2) (31,5 – 107,1)
42,7 ± 1,13 46,58 ± 23,0 59,11± 18,7 0,095 FEF25% (41,9 – 43,5) (17,1 – 82,0) (25,2 - 113,2)
31,3 ± 1,84 50,78 ± 35,8 57,85 ± 21,86 0,249 FEF50% (30,0 – 32,6) (12,5 – 121,5) (23,7 – 119,2)
33,95 ± 10,68 45,06 ± 27,54 52,15 ± 21,49 0,37 FEF75% (26,4 – 41,5) (14,1 – 108,1) (22,5 – 123,1)
* Kruskal-Wallis H
Sau 2 tháng điều trị giá trị trung bình FEV1 và FEV1/FVC đều tăng rõ
rệt ở những bệnh nhân được kiểm soát so với những bệnh nhân không kiểm
soát và kiểm soát 1 phần (p < 0,05).
70
Bảng 3.19. Thay đổi các thông số thông khí phổi theo mức độ kiểm
soát sau 3 tháng (n=66)
(
Mức kiểm soát ± SD)% (min-max)
p* Các chỉ tiêu Không kiểm soát (n=7) (1) Kiểm soát 1 phần (n=6) (2) Kiểm soát tốt (n=53) (3)
83,69 ± 12,9 91,57 ± 14,62 96,21 ± 14,02 VC 0,03 (65,6 – 107,3) (75,3 – 112,3) (60,3 – 130)
78,51 ± 13,93 85,87 ± 8,58 90,77 ± 11,2 FVC 0,026 (62,1 – 105,4) (76,7 – 100) (63 – 124,4)
63,53 ± 25,61 80,55 ± 14,65 85,36 ± 11,43 0,001 FEV1 (37,3 – 98,4) (61,5 – 103,2) (59,1 – 109,5)
72,2 ± 21,11 86,72 ± 16,13 88,36 ± 11,51 0,013 FEV1/ FVC (52,6 – 110,2) (67,0 – 104,2) (59,5 – 111,8)
42,09 ± 38,59 68,88 ± 26,04 70,47 ± 29,31 0,01 FEF25%- 75% (16,5 – 112,2) (27,7 – 105,7) (20,9 – 197,9)
58,2 ± 23,49 65,88 ± 18,52 75,74 ± 16,44 PEF 0,03 (29,9 – 91,4) (34,2 – 89,8) (33,8 – 124,4)
40,26 ± 29,23 58,52 ± 21,57 69,5 ± 20,64 0,004 FEF25% (15,5 – 86,3) (25,1 – 80,1) (19,2 – 121,4)
49,46 ± 44,27 63,43 ± 28,21 68,09 ± 27,46 0,029 FEF50% (14,4 – 131,0) (27,4 – 107,8) (20,2 – 184,5)
46,54 ± 35,59 68,45 ± 38,26 67,99 ± 33,97 0,030 FEF75% (18,8 – 109,8) (22,9 – 119,3) (22,3 – 246,6)
* Kruskal-Wallis H
Sau 3 tháng điều trị giá trị trung bình các thông số thông khí phổi đều
tăng rõ rệt ở những bệnh nhân được kiểm soát so với những bệnh nhân không
kiểm soát và kiểm soát 1 phần (p < 0,05).
71
Bảng 3.20: % cải thiện các thông số VC, FVC và FEV1 theo mức độ
kiểm soát sau 1 tháng (n=66)
Thời gian Không kiểm Kiểm soát 1 Kiểm soát
soát (n=14) phần (n=32) tốt (n=20) p*
n % n % n %
% cải thiện so với trƣớc điều trị < 12% 9 64,29 19 59,38 11 55,0 VC 0,863 ≥ 12% 5 35,71 13 40,62 9 45,0
< 12% 8 57,14 19 59,38 9 45,0 FVC 0,584 ≥ 12% 6 42,86 13 40,62 11 55,0
≥ 12%
8
57,14
19
59,38
11
55,0
< 12% 6 42,86 13 40,62 9 45,0 0,952 FEV1
*Fisher’s Exact test
12% chưa có sự khác biệt theo mức độ kiểm soát (p > 0,05).
Sau 1 tháng điều trị kiểm soát, tỷ lệ bệnh nhân tăng VC, FVC, FEV1 ≥
Bảng 3.21. % cải thiện các thông số VC, FVC và FEV1 theo mức độ
kiểm soát sau 2 tháng (n=66)
Mức kiểm Soát Không kiểm Kiểm soát 1 Kiểm soát
% cải thiện soát (n =2) phần (n =11) tốt (n =53) p*
so với trƣớc điều trị n % n % n %
< 12% 2 100,0 6 54,55 29 54,72 VC 0,661 ≥ 12% 0 0,0 5 45,45 24 45,28
< 12% 0 0,0 2 18,18 28 52,83 FVC 0,032 ≥ 12% 2 100,0 9 81,82 25 47,17
< 12% 1 50,0 5 45,45 7 13,21 0,019 FEV1 ≥ 12% 1 50,0 6 54,55 46 86,79
*Fisher’s Exact test
72
Sau 2 tháng điều trị kiểm soát, tỷ lệ bệnh nhân tăng FEV1 ≥ 12% ở
nhóm được kiểm soát cao hơn rõ rệt so với nhóm không kiểm soát và kiểm
soát 1 phần (86,79% so với 50% và 54,5%) (p < 0,05).
Bảng 3.22. % cải thiện các thông số VC, FVC và FEV1 theo mức độ
kiểm soát sau 3 tháng (n=66)
Mức kiểm soát
Không kiểm soát (n =7) Kiểm soát 1 phần (n =6) Kiểm soát tốt (n =53) p
n % n % n % % cải thiện so với trƣớc điều trị
< 12% 5 71,42 4 66,66 21 39,62 VC 0,156 ≥ 12% 2 28,58 2 33,34 32 60,38
< 12% 6 85,71 4 66,66 17 32,07 FVC 0,01 ≥ 12% 1 14,29 2 33,34 36 67,93
< 12% 4 57,14 1 16,66 6 11,32 0,015 FEV1 ≥ 12% 3 42,86 5 83,34 47 88,68
*Fisher’s Exact test
Sau 3 tháng điều trị kiểm soát, tỷ lệ bệnh nhân tăng FVC, FEV1 ≥ 12% ở nhóm được kiểm soát cao hơn rõ rệt so với nhóm không kiểm soát và kiểm
soát 1 phần (67,93% và 88,68% so với 14,29% và 42,86%; 33,34% và
83,34%) (p < 0,05).
3.1.4. Biến đổi mức độ kiểm soát và một số yếu tố liên quan đến mức độ kiểm soát
3.1.4.1. Biến đổi mức độ kiểm soát
Bảng 3.23. Biến đổi mức độ kiểm soát theo thời gian điều trị (n=66)
Thời gian
Sau 1 Tháng (1) Sau 2 tháng (2) Sau 3 tháng (3) p*
n % n % % n
Mức kiểm soát
14 21,2 2 3,0 10,6 0,043 7 Không kiểm soát
32 48,5 11 16,7 9,1 0,012 6 Kiểm soát 1 phần
20 30,3 53 80,3 53 80,3 0,004 Kiểm soát tốt
* Chi-square test
73
Tỷ lệ bệnh nhân được kiểm soát tăng dần theo thời gian điều trị, đặc biệt
sau tháng 2 và 3 với tỷ lệ là 80,3% (p < 0,05). Số bệnh nhân kiểm soát 1 phần và
không kiểm soát giảm rõ rệt theo thời gian điều trị (p < 0,05).
Bảng 3.24. Mức độ kiểm soát theo bậc hen sau 1 tháng (n = 66)
Bậc hen I II III IV p* (n=22) (n=30) (n=13) (n=1)
Mức
n % n % n % n % kiểm soát
Không kiểm soát 0 0,0 0 0,0 13 19,7 1 1,5 (n = 14)
0,0001 Kiểm soát 1 phần 2 3,0 30 45,5 0 0,0 0 0,0 (n = 32)
Kiểm soát tốt 20 30,3 0 0,0 0 0,0 0 0,0 (n = 20)
*Fisher’s Exact test
Sau 1 tháng điều trị bậc hen giảm tương ứng theo mức độ kiểm soát (p
< 0,001).
Bảng 3.25. Mức độ kiểm soát theo bậc hen sau 2 tháng (n = 66)
Bậc hen I II III IV p* (n=53) (n=11) (n=1) (n=1) Mức
n % n % n % n % kiểm soát
Không kiểm soát 0 0,0 0 0,0 1 1,5 1 1,5 (n = 2)
0,0002 Kiểm soát 1 phần 1 1,5 10 15,2 0 0,0 0 0,0 (n =11)
Kiểm soát tốt 52 78,8 1 1,5 0 0,0 0 0,0 (n = 53)
*Fisher’s Exact test
74
Sau 2 tháng điều trị bậc hen giảm rõ rệt tương ứng theo mức độ kiểm
soát (p < 0,001).
Bảng 3.26. Mức độ kiểm soát theo bậc hen sau 3 tháng (n = 66)
Bậc hen p* I (n = 56) II (n = 3) III (n = 3) IV (n = 4)
n % n % n % n % Mức kiểm soát
0 0,0 0 0,0 3 4,5 4 6,1 Không kiểm soát (n=4)
0,0001
3 4,5 3 4,5 0 0,0 0 0,0 Kiểm soát 1 phần (n=6)
53 80,3 0 0,0 0 0,0 0 0,0 Kiểm soát (n=53)
*Fisher’s Exact test
Sau 3 tháng điều trị, bậc hen giảm rõ rệt tương ứng theo mức độ kiểm
soát (p < 0.001).
3.1.4.2. Một số yếu tố liên quan đến mức độ kiểm soát
Bảng 3.27. Liên quan giữa mức độ kiểm soát với một số đặc điểm
lâm sàng sau 1 tháng (n = 66)
Không kiểm soát(1) (n=14) Kiểm soát 1 phần(2)(n=32) Kiểm soát tốt (3) (n=20) p
Mức kiểm soát Đặc điểm lâm sàng n % n % n %
Gầy 1 7,1 3 9,4 0 0,0
Bình thường 6 42,9 22 68,8 18 90,9 0,04*
Béo phì 50,0 7 21,9 2 10,0 7 BMI (kg/m2) ± SD) 22,79 ± 3,66 21,85 ± 2,96 21,34 ± 2,32 0,03** (
Sớm 1 7,1 7 21,9 6 30,0 Khởi phát 0,274* Muộn 13 92,9 25 78,1 14 70,0
Có 12 85,7 23 71,9 13 65,0 0,406* Tiền sử dị ứng Không 2 14,3 9 28,1 7 35,0
*Chi-squared test ** Kruskal Wallis test
75
Sau 1 tháng điều trị, ở nhóm bệnh nhân hen được kiểm soát tốt, tỷ lệ béo
phì thấp hơn rõ rệt so với nhóm kiểm soát 1 phần và không kiểm soát (10% so
với 21,9% và 50,0%) (p < 0,05). Tỷ lệ bệnh nhân khởi phát muộn và có tiền sử
dị ứng ở nhóm được kiểm soát thấp hơn so với mức độ kiểm soát 1 phần và
không kiểm soát nhưng chưa có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Bảng 3.28. Liên quan giữa mức độ kiểm soát với một số đặc điểm
lâm sàng sau 2 tháng (n = 66)
Mức kiểm soát Không kiểm Kiểm soát 1 Kiểm soát
soát (1) phần (2) tốt (3) p
(n = 2) (n = 11) (n = 53)
Đặc điểm lâm sàng n % n % n %
Gầy 0 0,0 0 0,0 4 7,5
Bình thường 0 0,0 6 54,5 40 75,5 0,027* BMI
Béo phì 2 100 5 45,45 9 17,0 (kg/m2)
± SD) 26,45 ± 1,77 23,48 ± 3,29 21,39 ± 2,67 0,007** (
Sớm 0 0,0 2 18,2 12 22,64 Khởi phát 0,718* Muộn 2 100 9 81,8 41 77,36
Có 2 100 6 54,4 40 75,5 Tiền sử dị 0,249* ứng Không 0 0,0 5 45,5 13 24,5
*Chi-squared test ** Kruskal Wallis test
Sau 2 tháng điều trị, ở nhóm bệnh nhân hen được kiểm soát tốt tỷ lệ béo
phì thấp hơn rõ rệt so với nhóm kiểm soát 1 phần và không kiểm soát (17% so
với 45,45% và 100,0%) (p < 0,05). Tỷ lệ bệnh nhân khởi phát muộn và có tiền
sử dị ứng chưa có sự khác biệt có ý nghĩa theo mức độ kiểm soát (p > 0,05).
76
Bảng 3.29. Liên quan giữa mức độ kiểm soát với một số đặc điểm
lâm sàng sau 3 tháng (n = 66)
Mức kiểm soát Không kiểm Kiểm soát 1 Kiểm soát
soát (1) phần (2) tốt (3) p (n = 7) (n = 6) (n = 53)
Đặc điểm lâm sàng n % n % n %
Gầy 0 0,0 0 0,0 4 7,7
BMI Bình thường 1 14,3 5 83,33 40 75,5 0,002*
(kg/m2) Béo phì 6 85,7 1 16,67 9 17,0
± SD) ( 24,99 ± 2,93 21,9 ± 2,49 21,49 ± 2,8 0,011**
Sớm 0 0,0 1 16,66 13 24,5 Khởi phát 0,315* Muộn 7 100 5 83,34 40 75,5
Có 7 100 4 66,66 38 69,8 Tiền dị 0,227* ứng Không 0 0,0 2 33,34 15 30,2
*Chi-squared test ** Kruskal Wallis test
Sau 3 tháng điều trị, ở nhóm bệnh nhân hen được kiểm soát tốt tỷ lệ
béo phì thấp hơn rõ rệt so với nhóm không kiểm soát (17% so với 85,7%) (p <
0,05). Tỷ lệ bệnh nhân khởi phát muộn và có tiền sử dị ứng chưa có sự khác
biệt có ý nghĩa theo mức độ kiểm soát (p > 0,05).
77
Bảng 3.30. Phân tích hồi quy đa biến các yếu tố liên quan đến mức
độ kiểm soát hen sau 3 tháng
Mức kiểm soát
Các yếu tố Không kiểm soát (n=7) OR (p, 95%CI) Kiểm soát 1 phần (n=6) Kiểm soát tốt (n=53)
Giới: - Nam - Nữ
1 1,3 (1,0; 0,22 – 7,2) 1 0,5 (0,39; 0,08 - 2,51) 1 1,3 (0,66; 0,37 - 4,65)
BMI: - Bình thường 1 1 1
- Béo phì
0,05 (0,01; 0,006 - 0,46) 2,3 (0,65;0,25-25,22) 3,6 (0,009; 1,02-12,62)
Khởi phát bệnh: - Muộn - Sớm
1 0,36 (0,01; 0,06 - 4,664) 1 0,7 (1,0; 0,07 – 6,74) 1 3,9 (0,18; 0,46-32,94)
Tiền sử dị ứng: - Không - Có 1 0,34
(0,32; 0,04 -2,78) 1 0,7 (0,66; 0,12 - 4,63) 1 0,4 (0,28; 0,46 - 32,94)
Số lƣợng bạch cầu E: - Tăng - Bình thường 1 0,05 (0,007; 0,006 - 0,36) 1 1,35 (0,71; 0,27 - 6,64) 1 7,7 (0,04; 1,12-51,83)
Có mối liên quan giữa những người béo phì với mức độ hen không
được kiểm soát (OR = 0,05 [p = 0,01; %CL = 0,006 - 0,46]). Số lượng bạch
cầu E bình thường có liên quan chặt với mức độ hen được kiểm soát tốt sau 3
tháng (OR = 7,7 [p = 0,04; %CI = 1,12 - 51,83]. Không có mối liên quan giữa
giới, khởi phát bệnh, tiền sử dị ứng ở các bệnh nhân với mức độ kiểm soát
hen sau 3 tháng.
78
3.2. BIẾN ĐỔI NỒNG ĐỘ CÁC CYTOKINE HUYẾT THANH SAU ĐIỀU
TRỊ KIỂM SOÁT
3.2.1. Biến đổi nồng độ các cytokine huyết thanh theo thời gian điều trị
Bảng 3.31. Biến đổi nồng độ trung bình các cytokine huyết thanh
theo thời gian điều trị
Thời gian (n=66) (%)
p
Trƣớc điều trị (1) n % Sau 1 tháng (2) n % Sau 2 tháng (3) n % Sau 3 tháng (4) n % Cytokine (pg/ml)
60 90,9 64 97,0 66 100 65 98,5
Bình thường Tăng 6 9,1 2 3,0 0 0 1 1,5 p1&2 = 1,0 p1&4 = 0,859 IL-4
Trung vị** (min-max) 1,75 (0,25-22,61) 1,01 (0,15-41,23) 1,01 (0,39-5,01) 5,52 (2,26-12,58)
p1&2 = 0,13 p1&3 = 0,035 p1&4 = 0,001
61 92,4 64 97,0 66 100 64 97,0
0,25 (0,075-4,62)
0,075 (0,032-117,45)
Bình thường Tăng 5 7,6 2 3,0 0 0 2 3,0 p1&2 = 1,0 p1&4 = 1,0 IL-5
Trung vị** (min-max) 4,2 (0,31 -31,21) 0,75 (0,02 - 6,46)
38 57,6 32 48,5 1 1,5 60
11,97 (6,73-656,69)
6,73 (1,6-3808,52)
9,97 (7,3-64,91)
Bình thường Tăng 28 42,4 34 51,5 65 98,5 6 9,1 p1&2 = 0,002 p1&3 = 0,011 p1&4 = 0,001 90,9 p1&2 = 0,774 p1&3 = 0,042 p1&4 = 0,001 IL-13
Trung vị** (min -max) 1,6 (0,43-53,22)
23 34,8 52 78,8 61 92,4 63
Bình thường Tăng 43 65,2 13 21,2 5 7,6 3 4,5 p1&2 = 0,801 p1&3 = 0,159 p1&4 = 0,001 95,5 p1&2 = 0,113 p1&3 = 0,651 p1&4 = 0,001
TNF- α
Trung vị** (min -max) 8,77 (0,5-21,12) 4,5 (0,1-262,87) 0,5 (0,04-17,2) 0,1 (0,02 -32,31)
p1&2 = 0,01 p1&3 = 0,03 p1&4= 0,001
*Fisher’s Exact test ** Wilcoxon test
79
Sau điều trị kiểm soát tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ IL- 4 huyết thanh
bình thường và tăng không có sự khác biệt so với trước điều trị (p> 0,05),
nhưng giá trị trung bình nồng độ IL-4 tăng rõ rệt sau 3 tháng so với trước điều
trị (p < 0,05).
Sau điều trị kiểm soát tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ IL- 5 huyết thanh bình
thường và tăng không có sự khác biệt so với trước điều trị (p > 0,05), nhưng giá
trị trung bình nồng độ IL-5 giảm rõ rệt so với trước điều trị (p < 0,05).
Sau điều trị kiểm soát tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ IL- 13 và TNF-α huyết
thanh bình thường tăng rõ rệt so với trước điều trị (p < 0,05), đồng thời giá trị
trung bình nồng độ IL- 13 và TNF-α giảm rõ rệt so với trước điều trị (p < 0,05).
Bảng 3.32. Biến đổi nồng độ IL-4 huyết thanh so với trƣớc điều trị
theo thời gian (n=66)
Sau 1 Sau 2 Sau 3 Thay đổi nồng độ
tháng (1) tháng (2) tháng (3) IL-4 so với trƣớc p
điều trị n % n % % n
p*1&2 = 0,001
Không 38 57,6 60 90,9 0,0 0 thay đổi
p*1&3 = 0,001
P*2&3 = 0,001
Giảm so với 6 6 9,1 6 9,1 9,1 trước điều trị
Tăng so với 22 33,3 0 0,0 60 90,9 trước điều trị
Trung vị **
(min - max) 1,01 (0,15-41,23) 1,01 (0,39-5,01) 5,52 (2,26-12,58) pa&1 = 0,13 pa&2 = 0,035 pa&3 = 0,001
* Chi – square test, ** Wilcoxon test a: IL-4 trước điều trị
Sau 3 tháng điều trị kiểm soát tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ IL-4 tăng so
với trước điều trị gặp cao nhất (90,9%) và nồng độ trung bình IL-4 tăng rõ rệt
so với trước điều trị (p < 0,001).
80
Bảng 3.33. Biến đổi nồng độ IL-5 huyết thanh so với trƣớc điều trị
theo thời gian (n = 66)
Sau 1 tháng (1) Sau 2 tháng (2) Sau 3 tháng (3) p
Thay đổi nồng độ IL-5 so với trƣớc điều trị n % n % n %
Không 34 51,5 55 83,3 0 0,0 thay đổi
Giảm so với 27 40,9 11 16,7 63 95,5 trước điều trị p*1&2= 0,001 p*1&3 = 0,010 p*2&3 = 0,042 Tăng so với 5 7,6 0 0,0 3 4,5 trước điều trị
0,75 (0,02 - 6,46) 0,25 (0,075-4,62) 0,075 (0,032-117,45) Trung vị ** (min – max) pa&1 = 0,002 pa&2 = 0,011 pa&3 = 0,001
* Chi – square test, ** Wilcoxon test , a: IL-5 trước điều trị
5
4,2
4
3
2
1
0,75
0,25
0,075
0
Sau 1 tháng
Sau 2 tháng
Sau 3 tháng
Trƣớc điều trị
Biều đồ 3.5. Biến đổi nồng độ trung bình IL-5 theo thời gian
Sau 3 tháng điều trị kiểm soát, tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ IL-5 giảm so
với trước điều trị gặp cao nhất (95,5%) và nồng độ trung bình IL-5 giảm rõ rệt
so với trước điều trị (p < 0,001).
81
Bảng 3.34. Biến đổi nồng độ IL-13 huyết thanh so với trƣớc điều trị
theo thời gian (n=66)
Sau 1 tháng (1) Sau 2 tháng (2) Sau 3 tháng (3) p Thay đổi nồng độ IL-13 so với trƣớc điều trị n n % % n %
Không 0 13 19,7 0 0 0 thay đổi
p*1&2 = 0,003 p*1&3 = 0,776 p*2&3 = 0,027
Giảm so với 27 40,9 24 36,4 64 97 trước điều trị
Tăng so với 26 39,4 42 63,6 2 3,0 trước điều trị
Trung vị ** (min – max) 6,73 (1,6-3808,52) 9,97 (7,3-64,91) 1,6 (0,43-53,22) pa&1 = 0,801 pa&2 = 0,159 pa&3 = 0,001
* Chi – square test, ** Wilcoxon test , a: IL-13 trước điều trị
14
11,97
12
9,97
10
8
6
6,73
4
2
1,6
0
Sau 1 tháng
Sau 2 tháng
Sau 3 tháng
Trƣớc điều trị
Biều đồ 3.6. Biến đổi nồng độ trung bình IL-13 theo thời gian
Sau 3 tháng điều trị kiểm soát, tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ IL-13 giảm
chiếm 97% và nồng độ trung bình IL-13 huyết thanh giảm rõ rệt so với trước
điều trị (p < 0,05).
82
Bảng 3.35. Biến đổi nồng độ TNF-α huyết thanh so với trƣớc điều
trị theo thời gian (n=66)
p
Sau 1 tháng (1) % n Sau 2 tháng (2) % n Sau 3 tháng (3) % n
9 13,6 7 10,6 0 0,0
p*1&2 = 0,001 p*1&3 = 0,029 p*2&3 = 0,389
48 72,8 53 80,3 62 93,94
9 13,6 6 9,1 4 6,06 Thay đổi nồng độ TNF-α so với trƣớc điều trị Không thay đổi Giảm so với trước điều trị Tăng so với trước điều trị
Trung vị ** (min – max) 4,5 (0,1-262,87) 0,5 (0,04-17,2) 0,1 (0,02 -32,31) pa&1 = 0,01 pa&3 = 0,03 pa&4= 0,001
* Chi – square test, ** Wilcoxon test, a: TNF-α trước điều trị
10
8,77
8
6
4,5
4
2
0,5
0,1
0
Sau 1 tháng
Sau 2 tháng
Sau 3 tháng
Trƣớc điều trị
Biều đồ 3.7. Biến đổi nồng độ trung bình TNF-α theo thời gian
Sau 3 tháng điều trị kiểm soát, tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ TNF-α giảm
chiếm 93,94% và nồng độ trung bình TNF-α huyết thanh giảm rõ rệt so với
trước điều trị (p < 0,001).
83
3.2.2. Thay đổi nồng độ các cytokine huyết thanh theo mức độ kiểm soát
Bảng 3.36. Thay đổi nồng độ các cytokine huyết thanh theo mức độ
kiểm soát sau 1 tháng (n=66)
n (%)
Mức kiểm soát p Không kiểm Kiểm soát 1 Kiểm soát tốt
soát (n=14) phần (n=32) (n=20)
31 (47) Cytokine pg/ml) Bình thường 13 (19,7) 20 (30,3) 0,47* IL-4 1 (1,5) Tăng 1 (1,5) 0 (0)
1,01 Trung vị 2,74 1,01 0,26** (min -max) (1,01 – 41,23) (0,2 – 35,12) (0,15 – 7,64)
31 (47) Bình thường 13 (19,7) 20 (30,3) 0,47* 1 (1,5) Tăng 1 (1,5) 0 (0)
IL-5 0,5 Trung vị 0,75 0,75 0,744** (min -max) (0,075 – 5,41) (0,075 – 6,46) (0,075 – 2,15)
Bình thường 6 (9,1) 13 (19,7) 13 (19,7) 0,225* Tăng 8 (12,1) 19 (28,8) 7 (10,6) IL-13 Trung vị 11,97 19,47 6,73 0,015** (min -max) (1,8 – 3808,52) (1,6 - 2958,57) (1,1 - 101,64)
Bình thường 10 (15,2) 27 (40,9) 15 (22,7) 0,532* Tăng 4 (6,1) 5 (7,6) 5 (7,6) TNF-α Trung vị 0,6 1,5 0,4 0,033** (min -max) (0,02 – 262,87) (0,1 – 29,31) (0,1 – 13,39)
* Fisher’s Exact Test **Kruskal Wallis test Sau 1 tháng điều trị kiểm soát, nồng độ trung bình các IL-13 và TNF-α
huyết thanh ở bệnh nhân hen được kiểm soát tốt giảm rõ rệt so với bệnh nhân
không kiểm soát và kiểm soát 1 phần (p < 0,05); nồng độ trung bình IL-4 và
IL-5 huyết thanh ở các bệnh nhân thay đổi không khác biệt theo mức độ kiểm
soát (p > 0,05).
84
Bảng 3.37. Thay đổi nồng độ các cytokine huyết thanh theo mức độ
kiểm soát sau 2 tháng (n=66)
n (%)
Mức kiểm soát p
Không kiểm soát (n =2) Kiểm soát 1 phần (n =11) Kiểm soát tốt (n =53) Cytokine (pg/ml)
Bình thường 2 (3,0) 11 (16,7) 53 (80,3) 0.5* IL-4 Tăng 0 (0) 0 (0) 0 (0)
Trung vị 1,01 2,01 1,01 1,0** (min -max) (1,01 – 2,01) (0,1 – 3,01) (0,39 – 5,03)
Bình thường 2 (3,0) 11 (16,7) 53 (80,3) 0,45* Tăng 0 (0) 0 (0) 0 (0) IL-5 Trung vị 0,75 0,75 0,34 1,0* (min -max) (0,05 – 0,75) (0,03 – 0,9) (0,075 – 4,62)
Bình thường 0 (0) 0 (0) 52 (78,8) 0,032* IL-13 Tăng 2 (3,0) 11 (16,7) 1 (1,5)
Trung vị 11,97 9,97 6,7 0,01** (min -max) (11,97 – 17,7) (1,97 – 23,94) (1,19 – 64,91)
Bình thường 2 (3,0) 11 (16,7) 48 (72,7) 0,04* Tăng 0 (0) 0 (0) 5 (7,6) TNF-α Trung vị 1,13 0,5 0,5 0,03** (min -max) (0,5 – 1,13) (0,1 – 3,5) (0,2 – 17,21)
* Fisher’s Exact Test **Kruskal Wallis test Sau 2 tháng điều trị kiểm soát, nồng độ trung bình IL-13 và TNF-α
huyết thanh ở bệnh nhân được kiểm soát tốt giảm rõ rệt so với bệnh nhân
không kiểm soát và kiểm soát 1 phần (p < 0,05); nồng độ trung bình IL-4 và
IL-5 huyết thanh ở các bệnh nhân thay đổi không khác biệt theo mức độ kiểm
soát (p > 0,05).
85
Bảng 3.38. Thay đổi nồng độ các cytokine huyết thanh theo mức độ
kiểm soát sau 3 tháng (n=66)
Mức kiểm soát n (%)
p Không kiểm Kiểm soát 1 Kiểm soát tốt Cytokine
soát (n = 7) phần (n = 6) (n = 53) (pg/ml)
Bình thường 7 (10,6) 6 (9,1) 52 (78,8) 1,0* IL-4 Tăng 0 (0) 0 (0) 1 (1,5)
Trung vị 5,52 5,52 4,21 0,661** (min -max) (4,46- 7,64) (4,46 - 6,58) (2,26 -12,58)
Bình thường 6 (9,1) 5 (7,6) 53 (80,3) 0,036* Tăng 1 (1,5) 1 (1,5) 0 (0) IL-5 Trung vị 0,6 0,5 0,1 0,010** (min -max) (0,013-117,45) (0,075-16,65) (0,075-1,82)
4 (6,1) Bình thường 6 (9,1) 50 (75,8) 0,026* IL-13 Tăng 3 (4,5) 0 (0) 3 (4,5)
Trung vị 2,26 1,93 1,6 0,036** (min -max) (1,6- 53,22) (1,6- 2,26) (0,3 - 53,22)
Bình thường 4 (6,1) 6 (9,1) 53 (80,3) 0,001* Tăng 3 (4,5) 0 (0) 0 (0) TNF-α Trung vị 1,0 0,8 0,1 0,014** (min -max) (0,1 - 32,31) (0,02 - 4,65) (0,06 - 1,62)
* Fisher’s Exact Test **Kruskal Wallis test Sau 3 tháng điều trị kiểm soát, nồng độ trung bình IL-5, IL-13 và TNF-
α huyết thanh ở bệnh nhân được kiểm soát tốt giảm rõ rệt so với bệnh nhân
không kiểm soát và kiểm soát 1 phần (p < 0,05); nồng độ trung bình IL-4
huyết thanh ở các bệnh nhân thay đổi không khác biệt theo mức độ kiểm soát
(p > 0,05).
86
3.2.3. Phân tích hồi quy đa biến liên quan giữa biến đổi nồng độ các cytokine huyết thanh với mức độ kiểm soát sau 3 tháng điều trị
Bảng 3.39. Phân tích hồi quy đa biến liên quan giữa biến đổi nồng
Thay đổi cytokine sau điều trị
IL-4: Giảm so với trước điều trị Tăng so với trước điều trị IL-5: Giảm so với trước điều trị Tăng so với trước điều trị IL-13: Giảm so với trước điều trị Tăng so với trước điều trị TNF-α: Giảm so với trước điều trị Tăng so với trước điều trị p 0,08 1,0 0,029 0,67 0,035 0,086 0,015 0,46 OR 1 1,25 9,46 1 4,33 1 0,24 1
độ các cytokine huyết thanh với mức độ đƣợc kiểm soát tốt sau 3 tháng 95%CI 0,123-10,73 0,13-11,72 0,78-113,69 0,52-106,43 0,25-74,31 0,62-67,32 0,04 – 12,73 0,05 – 14,24 Có mối liên quan giữa giảm nồng độ IL-5, IL-13 và TNF-α so với trước
điều trị với mức độ hen được kiểm soát tốt ở bệnh nhân sau 3 tháng.
Bảng 3.40. Phân tích hồi quy đa biến liên quan giữa biến đổi nồng
độ các cytokine huyết thanh với mức độ kiểm soát 1 phần sau 3 tháng
Thay đổi cytokine sau điều trị
IL-4: Giảm so với trước điều trị Tăng so với trước điều trị IL-5: Giảm so với trước điều trị Tăng so với trước điều trị IL-13: Giảm so với trước điều trị Tăng so với trước điều trị TNF-α: Giảm so với trước điều trị Tăng so với trước điều trị OR 1,18 1 1 0,172 1 2,2 1 0,26 p 0,808 0,62 0,085 0,025 0,64 0,027 0,23 0,032 95%CI 0,31 – 4,44 0,61 – 3,78 0,042-2,81 0,013-2,24 0,76 – 8,73 0,53 – 9,15 0,04-3,42 0,02-3,02
87
Có mối liên quan giữa tăng nồng độ IL-5, IL-13, TNF-α so với trước
điều trị với mức độ kiểm soát hen 1 phần ở bệnh nhân sau 3 tháng.
Bảng 3.41. Phân tích hồi quy đa biến liên quan giữa biến đổi nồng
độ các cytokine huyết thanh với mức độ hen không kiểm soát sau 3 tháng
Thay đổi cytokine sau điều trị OR p 95%CI
IL-4:
Giảm so với trước điều trị 1 0,62 0,29 -17,62
Tăng so với trước điều trị 1,8 0,50 0,179 -18,07
IL-5:
Giảm so với trước điều trị 1 0,72 0,08-1,46
Tăng so với trước điều trị 0,211 0,02 0,01-2,67
IL-13:
Giảm so với trước điều trị 1 0,82 0,043 – 1,26
Tăng so với trước điều trị 0,1 0,02 0,006 - 1,87
TNF-α:
Giảm so với trước điều trị 1 0,52 0,16 – 1,82
Tăng so với trước điều trị 0,02 0,041 0,002- 2,7
Có mối liên quan giữa tăng nồng độ IL-5, IL-13, TNF-α so với trước
điều trị với mức độ hen không kiểm soát ở bệnh nhân sau 3 tháng: IL-5
(OR=0,21; p=0,02; 95%CL=0,01-2,67); IL-13 (OR=0,1; p=0,02; 95%CL =
0,006 - 1,87); (OR=0,02; p = 0,04; 95%CL= 0,002- 2,7).
88
CHƢƠNG 4
BÀN LUẬN
4.1. BIẾN ĐỔI LÂM SÀNG, THÔNG KHÍ PHỔI VÀ MỨC ĐỘ KIỂM SOÁT
4.1.1. Đặc điểm bệnh nhân trƣớc điều trị kiểm soát
4.1.1.1. Phân bố về tuổi và giới
Các nghiên cứu cho thấy HPQ có thể gặp ở mọi lứa tuổi, tuy nhiên tỷ lệ
gặp ở các nhóm tuổi cũng khác nhau trong từng nghiên cứu. Nguyễn Văn
Đoàn và CS (2011) khi nghiên cứu thực trạng HPQ ở Việt Nam gặp nhóm
tuổi 21-40 chiếm tỷ lệ 26%, nhiều hơn trong các nhóm tuổi khác [4]. Hsu J.Y.
và CS (2018) nghiên cứu trên 504 bệnh nhân HPQ thấy nhóm (25- 44) tuổi
gặp nhiều nhất, chiếm 29% [82]. Chi C.H. và CS (2016) đa phần gặp HPQ
trong độ tuổi (24-58) [67]. Nghiên cứu của chúng tôi tuổi trung bình của bệnh
nhân nghiên cứu là 45,3 ± 16,82 tuổi, trong đó nhóm tuổi 30-39 chiếm tỷ lệ
cao nhất (27,3%) và nhóm tuổi < 20 có tỷ lệ thấp nhất (3,0%). Như vậy các
bệnh nhân nghiên cứu chủ yếu là trung niên. Kết quả này cũng tương tự với
các tác giả trong và ngoài nước trước đó: Tạ Bá Thắng (2002) các bệnh nhân
có độ tuổi trung bình là 45,2 ± 16,9 tuổi [33]. Nghiên cứu của Lê Văn Nhi
(2010) cũng cho độ tuổi trung bình của bệnh nhân là 42,54 ± 16,64 tuổi [61].
Chi C.H. và CS (2016) thấy tuổi trung bình của bệnh nhân nghiên cứu là 42,7
± 10,0 tuổi [67]. Tuy nhiên Ohwada A. và CS (2011) gặp ở độ tuổi HPQ trẻ
hơn 36,8 ± 10,2 tuổi [51]. Nhìn chung độ tuổi trung bình mắc HPQ thường
gặp là trẻ và trung niên. Theo Sears M.R. và CS (2003) bệnh nhân thường
khởi phát bệnh từ tuổi trẻ, lui bệnh ở tuổi dậy thì, nhưng sau đó lại tái phát ở
tuổi >26 (45%), do vậy độ tuổi trong các nghiên cứu sẽ khác nhau [83].
Về giới: Ảnh hưởng của giới tính lên sự phát triển HPQ đã được chứng
minh qua nhiều nghiên cứu. Các nghiên cứu đều chỉ ra tỷ lệ hen ở nữ cao hơn
nam. Theo Huỳnh Anh Kiệt và CS (2013) nghiên cứu 108 bệnh nhân thấy tỷ
89
lệ nữ là 65,74%, nam là 34,26% [84]. Tô Mỹ Hương và CS (2011) nghiên cứu
138 bênh nhân cũng cho kết quả nữ nhiều hơn nam (tỷ lệ nữ/nam là 67/41)
[85]. Bhat A.C. và CS (2016) trong số 181 bệnh nhân nghiên cứu gặp 62,4%
là nữ, 37,6% là nam giới [86]. Chi C.H và CS (2016) gặp tỷ lệ HPQ ở nữ là
65,2%, nam là 34,7% [67]. Ohwada A. và CS (2011) gặp tỷ lệ HPQ ở nữ là
73,3% và nam là 26,7% [51]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi gặp tỷ lệ nữ
là 66,7% và nam là 33,3%, cũng tương tự như các nghiên cứu. Theo các
nghiên cứu cho thấy nam thường có tỷ lệ mắc HPQ từ nhỏ nhiều hơn, nhưng
đến khi trưởng thành tỷ lệ mắc HPQ ở nữ lại nhiều hơn nam [1].
4.1.1.2. Tiền sử của bản thân và gia đình
HPQ và các bệnh dị ứng có mối liên quan chặt chẽ với nhau, do vậy
khai thác tiền sử dị ứng của bệnh nhân sẽ đóng vai trò quan trọng trong chẩn
đoán, đánh giá kiểu hình và điều trị bệnh [23], [87]. Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi cho thấy tỷ lệ bệnh nhân HPQ có kèm theo các bệnh dị ứng là khá
cao, chiếm 74,2%. Nhìn chung yếu tố cơ địa dị ứng ở bệnh nhân HPQ chiếm
khoảng 30% - 60%, trong đó chủ yếu là viêm mũi dị ứng kèm theo [23].
Nguyễn Văn Đoàn (2013) thấy hơn 80% người mắc HPQ có các bệnh dị ứng
kèm [23]. Theo Howrth P. (2016) sự hiện diện của cơ địa dị ứng làm tăng
nguy cơ nhập viện và tăng dự báo kiểm soát HPQ kém [87]. Tạ Bá Thắng
(2001) nghiên cứu 95 bệnh nhân hen thấy các bệnh dị ứng kèm theo chiếm tới
53,6% [33]. Sở dĩ các bệnh dị ứng kèm theo HPQ chiếm tỷ lệ cao, đặc biệt
viêm mũi dị ứng thường hay đi song hành với HPQ vì chúng có cùng yếu tố
khởi phát, có cơ chế bệnh sinh tương tự HPQ [23], [87].
Về tiền sử dị ứng của người thân trong gia đình: các nghiên cứu hiện
nay cho thấy yếu tố di truyền rất phổ biến trong phát triển HPQ: chiếm tỷ lệ
35 - 70% ở người HPQ [1], [23]. Trong nghiên cứu của chúng tôi tiền sử dị
ứng của gia đình ở các bệnh nhân gặp 33,33%. Theo Nguyễn Hoàng Phương
(2018) thấy bệnh nhân HPQ có tiền sử gia đình mắc HPQ và các bệnh dị ứng
90
khác là 41,67% [60]. Vũ Thị Hồng (2016) khi nghiên cứu 50 bệnh nhân HPQ
thấy có 48% bệnh nhân HPQ có tiền sử gia đình mắc hen và các bệnh dị ứng
khác [59]. Nguyễn Văn Đoàn (2011) nghiên cứu thực trạng HPQ tại Việt
Nam thấy 42,7% thành viên trong gia đình bệnh nhân HPQ có ít nhất một
bệnh dị ứng [4]. Như vậy các nghiên cứu đều cho thấy tiền sử dị ứng của gia
đình ở bệnh nhân HPQ tương đối cao. Yếu tố khói thuốc lá đóng một vai trò
rất lớn trong việc làm khởi phát cơn HPQ và làm cơn HPQ nặng thêm [1].
Theo Nguyễn Văn Đoàn (2011) gặp 23,9% bệnh nhân HPQ có tiền sử hút
thuốc [4]. Tác giả Braido F. (2013) gặp 43% bệnh nhân HPQ có tiền sử hút
thuốc và đây là một trong những yếu tố hàng đầu làm khởi phát hen dị ứng và
làm tình trang bệnh khó kiểm soát hơn [30]. Nghiên cứu của chúng tôi gặp tỷ
lệ bệnh nhân có tiền sử hút thuốc là 12,1%, thấp hơn so với các nghiên cứu
khác. Sự khác biệt này có thể do đối tượng nghiên cứu của chúng tôi đa phần
là gặp ở nữ không hút thuốc, nên tỷ lệ hút thuốc thấp.
4.1.1.3. Đặc điểm lâm sàng
- Thời gian mắc bệnh:
Bệnh nhân HPQ thường bị bệnh từ khi nhỏ, nhiều người bị dai dẳng
cho đến khi trưởng thành, do vậy thời gian mắc của bệnh nhân thường kéo dài
[1]. Thời gian mắc bệnh trung bình của bệnh nhân trong nghiên cứu của
chúng tôi là 8,44 ± 6,52 năm, trong đó tỷ lệ bệnh nhân mắc bệnh ≥ 5 năm gặp
nhiều nhất (66,7%). Các nghiên cứu trong và ngoài nước cũng cho kết quả
tương tự: Holguin F. và CS (2011) cho rằng quá nửa số bệnh nhân hen khởi
phát bệnh trước 12 tuổi [88]. Sears M.R. và CS (2003) thấy có 28,1% bệnh
nhân hen từ nhỏ và duy trì liên tục cho đến năm 26 tuổi, 45% tái phát ở người
trưởng thành [83]. Chu Thị Cúc Hương (2008) thấy bệnh nhân có thời gian
mắc ≥ 5 năm là 81,9% [89]. Theo Reed C.E. (2019) cho rằng ở bệnh nhân có
thời gian mắc bệnh lâu năm thường bệnh nặng (hen bậc III, IV) [90]. Những
bệnh nhân HPQ trong nghiên cứu của chúng tôi đều điều trị tại Trung tâm dị
91
ứng miễn dịch lâm sàng, bệnh viện Bạch Mai thường là những bệnh nhân
nặng, mắc bệnh lâu năm từ các bệnh viện khác chuyển đến, do vậy có thể đây
là lý do chính tỷ tạo nên lệ bệnh nhân có thời gian mắc ≥ 5 năm nhiều hơn.
- Một số đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân trước điều trị kiểm soát:
+ Đặc điểm BMI: mối liên quan giữa béo phì và HPQ đang được quan
tâm nghiên cứu. Theo Mohanan S. và CS (2014) các yếu tố đóng góp vào bệnh
sinh của HPQ ở người béo phì bao gồm các yếu tố cơ học, tình trạng viêm và
đáp ứng miễn dịch bị thay đổi [91]. Kết quả của chúng tôi thấy đa số bệnh
nhân có BMI trong giới hạn bình thường (69,7%), chỉ có 24,2% bệnh nhân
béo phì. Các nghiên cứu cho thấy những người béo phì có nguy cơ bị hen cao
hơn và tỷ lệ kiểm soát thấp hơn so với người có BMI bình thường [92].
Nghiên cứu hồi cứu NHANES I (1971-1975), II (1976-1980) và III (1988-
1994), gặp tỷ lệ béo phì ở nhóm HPQ là 21,3-32,8%, tăng cao hơn so với
nhóm không HPQ (14,6-22,8%) [91]. Một số nghiên cứu khác lại cho thấy
bệnh nhân HPQ có béo phì thường gặp ở kiểu hình hen không dị ứng [1], [5],
[23]. Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi phần lớn có yếu tố dị ứng kèm theo,
chiếm tỷ lệ 69%, có thể đây là lý do gặp bệnh nhân HPQ kèm béo phì chiếm
tỷ lệ thấp.
+ Khởi phát bệnh: hiện nay khởi phát bệnh được đánh giá là một kiểu
hình lâm sàng bởi nó liên quan đến đáp ứng sau điều trị kiểm soát. Những
bệnh nhân kiểu hình khởi phát muộn bệnh thường nặng, điều trị corticosteroid
tại chỗ đáp ứng kém hơn toàn thân. Chúng tôi gặp tỷ lệ bệnh nhân khởi phát
muộn là 78,8%. Kết quả này cao hơn các nghiên cứu của các tác giả: Nguyễn
Văn Đoàn và CS (2011) gặp 43,6% bệnh nhân HPQ có khởi phát muộn [4].
Holguin F. và CS (2011) khi khảo sát 1049 bệnh nhân HPQ, thấy tỷ lệ khởi
phát bệnh sau 12 tuổi là 48% [88]. Mirabelli M.C. và CS (2013) nghiên cứu
12.216 người HPQ thấy 58% là khởi phát muộn [93]. Theo Bhat A.C (2016)
cho rằng ở những bệnh nhân khởi phát muộn bệnh thường nặng [86]. Tỷ lệ
92
khởi phát muộn ở bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi cao có thể do địa điểm
nghiên cứu tại bệnh viện trung ương nên các bệnh nhân thường là nặng, mắc
bệnh lâu năm.
+ Biểu hiện triệu chứng ban ngày và ban đêm: Theo dõi xuất hiện các
triệu chứng ban ngày trên bệnh nhân, chúng tôi nhận thấy trước điều trị có
đến 98,5% bệnh nhân có triệu chứng ban ngày ít nhất 1lần/ tuần. Kết quả này
tương tự với các tác giả trước đó như: Nguyễn Hoàng Phương (2018) trước
điều trị gặp 100% bệnh nhân có triệu chứng ban ngày/ tuần [60]. Vũ Thị Mai
(2007) gặp 83,87% bệnh nhân có triệu chứng ban ngày/ tuần [94]. Nghiên cứu
của Neffen H. và CS (2005) chỉ gặp 56% bệnh nhân HPQ có triệu chứng ban
ngày [95].Về biểu hiện các triệu chứng ban đêm, chúng tôi gặp 75,7% bệnh
nhân có triệu chứng về đêm ít nhất 1lần/ tuần. Theo Kalolella A.B. (2016)
triệu chứng về đêm là rất phổ biến trong những trường hợp kiểm soát HPQ
kém (có đến 61% bệnh nhân HPQ được báo cáo có triệu chứng về đêm, đòi
hỏi bệnh nhân phải uống thuốc vào ban đêm và hạn chế hoạt động của bệnh
nhân vào ngày hôm sau [96]. Neffen H. và CS (2005) thấy có 51% bệnh nhân
bị đánh thức vào ban đêm bởi bệnh và hơn một nửa bệnh nhân phải nhập viện
[95]. Triệu chứng về đêm cũng là một tiêu chí đánh giá HPQ chưa được kiểm
soát bệnh hoặc kiểm soát kém [96]. Tần xuất xuất hiện triệu chứng ban ngày
và đêm còn phụ thuộc vào mức độ bệnh và tình trạng điều trị kiểm soát trước
đó [6]. Bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu là mức độ nặng và
chưa được điều trị kiểm soát nên gặp nhiều triệu chứng về đêm hơn.
+ Về điểm ACT: Khi đánh giá thang điểm ACT ở các bệnh nhân, chúng
tôi nhận thấy giá trị trung bình điểm ACT là (17,71 ± 2,83) điểm, trong đó số
bệnh nhân có điểm ACT < 20 điểm gặp nhiều nhiều nhất (69,7%) và không
có bệnh nhân có điểm ACT; 25 điểm. Kết quả này thấp hơn với tác giả
Nguyễn Hoàng Phương (2018), gặp 100% bệnh nhân hen có điểm ACT dưới
20 trước kiểm soát [60], nhưng cao hơn nghiên cứu của Bùi Thị Hương và CS
93
(2016) gặp 43,33% bệnh nhân HPQ có điểm ACT dưới 20 [97]. Huỳnh Anh
Kiệt và CS (2013) gặp 37,04% bệnh nhân HPQ có điểm ACT dưới 20 [84].
Theo một nghiên cứu thực hiện năm 2008 ở 5 nước Tây Âu là Pháp, Đức,
Italia, Tây Ban Nha và Anh, có tới 56,6% trong số 3619 người bệnh HPQ ≥
18 tuổi có số điểm ACT dưới 20 điểm (chưa đạt được kiểm soát hen) [98].
Như vậy phần lớn bệnh nhân vẫn chưa được kiểm soát trong cộng đồng.
+ Phân bậc hen (Mức độ bệnh): Trước điều trị kiểm soát, kết quả nghiên
cứu của chúng tôi cho thấy số bệnh nhân bậc II gặp tỷ lệ nhiều nhất (39,4%),
tiếp đến bệnh nhân bậc IV là 28,8%, bệnh nhân bậc III là 21,2% và thấp nhất là
bệnh nhân bậc I (10,6%). Chu Thị Cúc Hương (2008) gặp chủ yếu là hen bậc
III và bậc IV, lần lượt chiếm tỷ lệ là 41,5% và 30,9% [89]. Huỳnh Anh Kiệt và
CS (2013) lại gặp phần lớn là HPQ bậc I chiếm tỷ lệ là 43,52%, thấp nhất là
hen bậc IV (15,74%) [84]. Reed C.E. (2019) gặp hen bậc III, IV nhiều hơn so
với hen bậc I, II [90]. Các mức độ nặng nhẹ của HPQ phụ thuộc nhiều yếu tố:
thời điểm phát hiện bệnh, đã được điều trị kiểm soát chưa, đáp ứng với điều trị
kiểm soát. Đa số các tác giả cho rằng vấn đề quan trọng để giảm mức độ nặng
của HPQ là phát hiện và can thiệp điều trị sớm, tích cực các đợt cấp cũng như
điều trị kiểm soát sớm và lâu dài [6], [23], [26], [28].
4.1.1.4. Đặc điểm cận lâm sàng
- Kết quả công thức máu ngoại vi:
Trong công thức máu ở bệnh nhân HPQ, số lượng và công thức bạch cầu
được quan tâm nhiều hơn các thông số khác bởi chúng có vai trò đánh giá
kiểu hình viêm (viêm tăng bạch cầu E hay N) [99]. Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi gặp tỷ lệ bệnh nhân có tăng số lượng bạch cầu là 62,1% và 50% bệnh
nhân tăng bạch cầu N, 68,2% bệnh nhân tăng bạch cầu E. Lê Thị Thu Hương
(2017) gặp 81,6% bệnh nhân HPQ có tăng số lượng bạch cầu, 66,4% bệnh
nhân có tăng bạch cầu N và 32% tăng bạch cầu E [100]. Nguyễn Diệu Thúy
(2015) gặp 81,7% bệnh nhân có tăng số lượng bạch cầu, trong đó 54,8% bệnh
94
nhân tăng bạch cầu N, 30,4% có tăng bạch cầu E [101]. Tác giả Lê Thị Hồng
Hanh (2011) thấy 46,15% bệnh nhân HPQ nhập viện có tăng số lượng bạch
cầu, nhưng chỉ có 18,46% bệnh nhân có tăng bạch cầu E [102]. Tỷ lệ tăng số
lượng bạch cầu E trong nghiên cứu của chúng tôi gặp cao hơn so với nghiên
cứu của các tác giả trên. Theo Shehata I.H. và CS (2017) thấy ở những bệnh
nhân hen có tiền sử dị ứng có sự gia tăng đáng kể số lượng bạch cầu E trong
máu [103]. Norzila M.Z. và CS (2000) cho rằng số lượng bạch cầu E trong
HPQ phụ thuộc vào tình trạng dị ứng của bệnh nhân và tình trạng sử dụng
thuốc chống viêm [16]. Một nghiên cứu khác cho lại cho thấy có đến 50%
bệnh nhân HPQ không có tăng bạch cầu E, 16% bệnh nhân chỉ tăng bạch cầu
N đơn thuần, 28% bệnh nhân vừa có tăng bạch cầu N và bạch cầu E [104].
Như vậy thay đổi của số lượng và công thức bạch cầu không đồng nhất trong
các nghiên cứu, có thể do khác nhau về kiểu hình viêm và sử dụng thuốc
chống viêm của bệnh nhân [5], [10],[16].
- Đặc điểm các thông số thông khí phổi:
Đo TKP có vai trò quan trọng trong HPQ: xác định chẩn đoán, đánh giá
mức độ bệnh làm cơ sở cho lựa chọn điều trị ban đầu thích hợp và theo dõi
đáp ứng điều trị. Do vậy trước khi điều trị kiểm soát TKP là xét nghiệm bắt
buộc đối với các bệnh nhân. Ở các bệnh nhân nghiên cứu, giá trị trung bình
các thông số TKP của các bệnh nhân trước điều trị kiểm soát như FVC, FEV1,
FEV1/FVC, FEF25%- 75% , PEF, FEF25%, FEF50%, FEF75% đều giảm so với bình
thường. Nguyễn Hoàng Phương (2018) nghiên cứu 120 bệnh nhân HPQ ngoài
đợt cấp thấy giá trị trung bình của PEF (%), FEV1 (%), FVC (%) và
FEV1/FVC (%) lần lượt là 42,65 13,84%; 52,01 10,43%; 81,56 14,44%
và 64,55 9,50%, đều giảm so với bình thường [60]. Ohwada A. và CS
(2011) nghiên cứu ngẫu nhiên 45 bệnh nhân HPQ tuổi từ 17 - 62 tuổi, thấy
giá trị FEV1 (%) là 88,96 ± 13,12%, PEF (%) là 68,53 ± 15,07%, FEF50% là
64,44 ± 20,02%, FEF75% là 51,57 ± 23,64% và FEF25–75% là 69,61 ± 21,83%,
95
FEV1/FVC (%) là 80,47 ± 8,86% [51]. Chi C.H. và CS (2016) trong một
nghiên phân tích 23 bệnh nhân HPQ trước điều trị kiểm soát thấy FEV1 là
79,01 ± 17,89%, FEV1/FVC 65,86 ± 10,28%, PEF 85,39 ± 24,14%, FEF50%
41,43 ± 21,17%, FEF75% 37,23 ± 21,61%, MMEF 42,69 ± 22,46%, cũng đều
giảm [67]. Birajdar G.và CS (2017) trong một nghiên cứu chức năng phổi ở
bệnh nhân HPQ trước điều trị kiểm soát cũng cho kết quả tương tự [105]. Hầu
hết các kết quả nghiên cứu đều cho thấy các thông số TKP đều giảm ở những
bệnh nhân chưa được điều trị kiểm soát. Các hướng dẫn hiện nay cho rằng giá
trị FEV1 còn có giá trị tiên đoán kết quả kiểm soát trong tương lai ở bệnh nhân
HPQ [51], [60].
- Nồng độ các cytokine huyết thanh:
Các cytokine đóng vai trò quan trọng trong bệnh sinh và liên quan đến
đánh giá mức độ bệnh, theo dõi tiến triển và đáp ứng điều trị kiểm soát [10].
Các cytokine được sản xuất từ lympho Th2 như IL-4, IL-5, IL-13 là những
cytokine quan trọng trong đáp ứng viêm ở HPQ nói chung, đặc biệt là HPQ dị
ứng [37]. Kết quả ở các bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi cho thấy: trước
điều trị kiểm soát, đa số bệnh nhân có nồng độ IL-4 và IL-5 trong giới hạn
bình thường với tỷ lệ lần lượt là 90,9% và 92,4%. Số bệnh nhân có nồng độ
IL-13 bình thường chiếm tỷ lệ 57,6% và tăng chiếm 42,4%. Số bệnh nhân có
nồng độ TNF-α tăng chiếm tỷ lệ cao hơn so với số bệnh nhân có nồng độ
TNF-α bình thường (65,2% so với 34,8%). Như vậy trước điều trị kiểm soát
nồng độ TNF-α huyết thanh tăng ở chủ yếu ở các bệnh nhân. Lê Thị Thu
Hương và CS (2017) cho thấy nồng độ IL-5 tăng ở bệnh nhân HPQ so với
nhóm chứng khỏe mạnh {1,49 pg/ml (0,005- 2,8) so với 0,08 (0,02- 14,58), p
= 0,0001}[100]. Lee Y.C. (2016) cho rằng nồng độ IL-5 tăng cả ở nhóm HPQ
dị ứng và không dị ứng so với nhóm chứng sau khi kích thích với dị nguyên
[70]. Theo Russo C. và CS (2005) thấy nồng độ IL-4, IL-5 thay đổi rất sau
dùng thuốc chống viêm, chúng thường giảm nhanh ở những bệnh nhân HPQ
96
khi được sử dụng một liều lượng nhỏ corticosteroid [43]. Theo Lama M. và CS
(2011) thấy nồng độ IL-4 tăng ở nhóm HPQ chưa sử dụng corticosteroid so
với nhóm chứng {(52,25 21,91) pg/ml so với (32,81 16,28) pg/ml, p <
0,001)} [106]. Các nghiên cứu chủ yếu đánh giá thay đổi của nồng độ các
cytokine sau điều trị ICS: Lama M. và CS (2011) [106]; Bentley A.M. và CS
(2016) [107]; Robinson D.S. và CS (2015) [73]. Do các bệnh nhân trong
nghiên cứu của chúng tôi đều ngoài đợt cấp nên nồng độ L-4, IL-5, IL-13 trong
giới hạn bình thường chiếm tỷ lệ cao, ngoại trừ tỷ lệ tăng nồng độ TNF-α ở các
bệnh nhân vẫn chiếm chủ yếu. TheoJaneva E.J. và CS (2015) nồng độ IL-13
như là một dấu ấn đánh giá quan trọng trong giám sát sự tiến triển và đánh giá
mức độ nặng nhẹ của hen [2]. Barnes P.J. (2003) cho rằng IL-13 đóng một vai
trò quan trọng trong đáp ứng viêm dị ứng liên quan đến IgE, do vậy nồng độ
IL-13 thường tăng cao và tăng sớm trong HPQ dị ứng [10]. Kips J.C. (2010)
thấy nồng độ TNF-α tăng cao cả trong đờm, huyết thanh và các mẫu sinh thiết
phế quản ở bệnh nhân HPQ kèm viêm mũi dị ứng [37]. Agache I. và CS
(2010) khi nghiên cứu 85 bệnh nhân HPQ dị ứng nhập viện thấy nồng độ
TNF-α > 8,2 pg/ml gặp ở 55 bệnh nhân, chiếm 64,7% [108]. Các tác giả Efren
L. và CS (2011); Shehata I.H. và CS (2011) thấy nồng độ IL-13 trong huyết
thanh tăng cao theo các mức độ nặng của hen [41], [103]. Theo Russo C. và
CS (2005) các yếu tố gây dị ứng như Lipopolysaccharides gây ra tăng nồng
độ TNF-α trong dịch phế nang, huyết thanh ở bệnh nhân HPQ và liên quan
đến tăng phản ứng quá mức của phế quản [43].
4.1.2. Biến đổi lâm sàng theo thời gian điều trị kiểm soát
4.1.2.1. Biến đổi triệu chứng lâm sàng theo thời gian điều trị
Biến đổi các triệu chứng ban ngày và ban đêm là một trong những tiêu
chí quan trọng để đánh giá đáp ứng sau điều trị kiểm soát. Kết quả ở các bệnh
nhân trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy sau điều trị kiểm soát 1, 2, 3
tháng, tỷ lệ bệnh nhân không có triệu chứng ban ngày/ tuần và ban đêm/ tháng
97
đều tăng rõ rệt so với trước điều trị (p < 0,05). Như vậy đa số các bệnh nhân có
đáp ứng tốt trên lâm sàng sau điều trị kiểm soát.
Khổng Thị Ngọc Mai (2011) các triệu chứng lâm sàng biến đổi rõ rệt
sau điều trị kiểm soát: tỷ lệ bệnh nhân còn các triệu chứng ban ngày trước
điều trị 100%, sau 2 tuần điều trị đạt 39,7%, sau 4 tuần đạt 91,2%, sau 8 tuần
đạt 95,6% và sau 12 tuần đạt 98,5% bệnh nhân hết triệu chứng; Tỷ lệ bệnh
nhân còn các triệu chứng ban đêm trước điều trị là 69,1%, sau 2 tuần còn
27,9% (chỉ số hiệu quả đạt 59,6%), sau 4 tuần 100% bệnh nhân không còn
triệu chứng về đêm (p < 0,05) [109]. Bergmann K.C. và CS (2004) nghiên
cứu mù đôi được thực hiện tại 76 trung tâm điều trị với nhóm Salmeterol -
Fluticasone propionate so với nhóm sử dụng Fluticasone propionate đơn
thuần, kết quả sau 12 tuần thấy nhóm Salmeterol - Fluticasone propionate có
tỷ lệ không có triệu chứng/ ngày tăng lên 49% so với 38% ở nhóm sử dụng
Fluticasone propionate đơn thuần. Khi đánh giá kết quả sau 6 tháng điều trị ở
nhóm kết hợp Salmeterol 100µg với Fluticasone 500µg so với nhóm sử dụng
Fluticasone 1000µg hoặc Fluticasone 500µg, kết quả thấy 65% bệnh nhân
không có triệu chứng ban ngày, 95% không có triệu chứng ban đêm ở nhóm
sử dụng kết hợp, cao hơn rõ rệt so với nhóm chỉ sử dụng đơn thuần 1 thuốc
[45]. Strand A.M. và CS (2004) khi so sánh hiệu quả điều trị phối hợp
Salmeterol - Fluticasone propionateso với Fluticasone propionate đơn thuần
trên 150 bệnh nhân thấy tỷ lệ bệnh nhân có số ngày và đêm không triệu chứng
tăng lên có ý nghĩa thống kê ở nhóm điều trị phối hợp (từ 20% tăng lên 64%),
so với nhóm chỉ điều trị bằng Fluticasone propionate (từ 24 tăng lên 51%),
khác biệt điều trị là 15,3% với p = 0,008 [110]. Các nghiên cứu khác trong và
ngoài nước cũng cho thấy điều trị kiểm soát bằng ICS và LABA sẽ gia tăng
số ngày và đêm không có triệu chứng, giảm tần số sử dụng thuốc cắt cơn, và
giảm các đợt cấp của bệnh [4], [59], [61], [60]. Hướng dẫn của GINA và các
hướng dẫn của các quốc gia hiện nay đều thống nhất khuyến cáo nên đánh giá
98
lại đáp ứng lâm sàng sau điều trị kiểm soát mỗi 4- 6 tuần hay tốt nhất là mỗi
hàng tháng để duy trì mức kiểm soát HPQ tốt nhất [22], [17].
4.1.2.2. Biến đổi mức độ bệnh theo thời gian điều trị
Mức độ bệnh được đánh giá theo các bậc hen (mức độ nặng nhẹ tương
ứng với bậc hen từ I đến IV). Sự chuyển bậc là một chỉ tiêu rất quan trọng để
thay đổi cách thức điều trị (tăng hoặc giảm bước điều trị). Trong nghiên cứu
của chúng tôi mức độ nặng của bệnh giảm dần theo thời gian điều trị: tương
ứng là số bệnh nhân bậc II, III, IV giảm và số bệnh nhân bậc I tăng rõ rệt sau
1, 2 và 3 tháng điều trị kiểm soát với (p < 0,05). Đồng thời tỷ lệ bệnh nhân
nặng giảm rõ rệt (Số bệnh nhân tăng bậc ở nhóm bậc II, III giảm có ý nghĩa
thống kê sau 3 tháng điều trị kiểm soát với tỷ lệ lần lượt là 3,8% và 7,1%) và
số bệnh tăng bậc gặp tỷ lệ thấp (Số bệnh nhân bậc II, III, IV giảm bậc rõ rệt
sau 3 tháng điều trị kiểm soát với tỷ lệ lần lượt là 96,2%; 92,9% và 84,2%)
(p< 0,001).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự như các nghiên cứu trên thế
giới: Pearlman D.S. và CS (2017) khi so sánh hiệu quả của sự phối hợp ICS
và LABA trong kiểm soát HPQ, thấy sau 3 tháng điều trị tỷ lệ bệnh nhân
giảm bậc là 80,1% đối với HPQ bậc I, 97,3% với HPQ bậc III và 89,5% đối
với HPQ bậc IV, số bệnh nhân HPQ tăng bậc chiếm 10,2% [48]. Dương Quý
Sỹ (2016) cho rằng HPQ được kiểm soát bằng ICS và LABA sẽ làm giảm tối
ưu mức độ nặng của HPQ, cải thiện chất lượng cuộc sống [26].
Khổng Thị Ngọc Mai (2011) sau 1 tháng điều trị kiểm soát bằng ICS và
LABA, tỷ lệ HPQ bậc IV là 5,9% và HPQ không triệu là 94,1%,sau 2 tháng
và 3 tháng không gặp trường hợp nào HPQ bậc IV, tỷ lệ HPQ không còn triệu
chứng lần lượt là 95,6% và 98,5% [109]. Kết quả kiểm soát trong nghiên cứu
của tác giả đạt cao được lý giải là do đối tượng nghiên cứu ban đầu chủ yếu
bệnh nhân nhẹ, được phát hiện sớm tại cộng đồng. Vũ Thị Mai (2007) đánh giá
99
kết quả sau 3 tháng kiểm soát HPQ bằng ICS và LABA, chỉ gặp HPQ bậc I
nhưng chỉ đạt 33,87% bệnh nhân được kiểm soát [94].
Như vậy các nghiên cứu đều cho thấy có sự giảm mức độ bệnh sau điều
trị kiểm soát bằng ICS và LABA, tuy nhiên mức giảm có sự khác biệt giữa các
nghiên cứu. Theo các nghiên cứu cho thấy những bệnh nhân HPQ nặng thì cần
thời gian điều trị kiểm soát lâu hơn mới đạt được hiệu quả tối ưu, do vậy trong
điều trị cần quan tâm đến cá thể hóa người bệnh [5], [6]. Hướng dẫn của GINA
nhấn mạnh HPQ là một bệnh luôn thay đổi và cần định kỳ điều chỉnh điều trị
kiểm soát dựa trên mức độ nặng của bệnh [6], [17]. Đây cũng là hướng dẫn
điều trị kiểm soát HPQ được áp dụng phổ biến trong những năm gần đây và
đã mang lại những kết quả tốt hơn.
4.1.2.3. Biến đổi điểm ACT theo thời gian điều trị
Có rất nhiều công cụ khác nhau đã được sử dụng để đánh giá mức độ
kiểm soát hen trong thực hành lâm sàng, tuy nhiên mỗi công cụ đều có những
ưu và nhược điểm. Thang điểm ACT được đánh giá dựa vào sự phối hợp
nhiều thông số chủ quan và khách quan (bao gồm cả tự đánh giá của người
bệnh), là những thông số liên tục, có giá trị lượng hóa mức độ kiểm soát
HPQ. Do có nhiều ưu điểm trong việc đánh giá mức độ kiểm soát HPQ, nên
thang điểm này đã được sử dụng phổ biến trên lâm sàng và trong các nghiên
cứu. Đánh giá kết quả thang điểm ACT trên các bệnh nhân nghiên cứu, chúng
tôi nhận thấy tỷ lệ bệnh nhân có điểm ACT; 25 điểm tăng rõ rệt theo thời gian
điều trị, với tỷ lệ tương ứng sau 1, 2 và 3 tháng kiểm soát là: 27,3%, 80,3%,
74,2%, sự khác biệt rõ rệt (p < 0,05). Kết quả này cũng tương tự như một số
nghiên cứu gần đây: Nguyễn Hoàng Phương (2018) đánh giá các bệnh nhân
trước điều trị gặp 100% bệnh nhân có điểm ACT < 20 điểm, sau điều trị kiểm
soát 3 tháng có 10% bệnh nhân, 6 tháng có 33,33%, sau 12 tháng có 85%
bệnh nhân có điểm ACT > 20; Điểm ACT trung bình ở các bệnh nhân đều có
100
xu hướng tăng dần trong quá trình điều trị ở cả 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng
với p < 0,0001 [60]. Khổng Thị Ngọc Mai (2011) thấy tỷ lệ bệnh nhân HPQ
có điểm ACT > 20 sau 4 tuần điều trị kiểm soát là 94,1%, sau 8 tuần điều trị
là 95,6% và sau 12 tuần điều trị là 98,5% [109]. Yatera K. và CS (2014)
nghiên cứu 60 bệnh nhân HPQ được điều trị kiểm soát bằng ICS và LABA
thấy điểm ACT > 20 sau 4 tuần là 66,7%, sau 8 tuần điều trị là 90% [111].
Bateman E.D. và CS (2007) nghiên cứu đánh giá thang điểm ACT ở bệnh
nhân HPQ sau 52 tuần điều trị ở nhóm dùng Salmeterol - Fluticasone
propionate so với nhóm sử dụng Fluticasone propionate thấy điểm số trong
nhóm kiểm soát bằng Salmeterol - Fluticasone propionate cải thiện tốt hơn
[112]. Nhìn chung hiệu quả kiểm soát hen bằng ICS và LABA cải thiện theo
thời gian thể hiện bằng số bệnh nhân có điểm ACT > 20 điểm (HPQ được
kiểm soát) tăng lên theo thời gian điều trị. Theo GINA, hầu hết các bệnh nhân
được điều trị kiểm soát đúng sẽ cải thiện triệu chứng và các thang điểm đánh
giá trong vòng vài ngày sau khi điều trị, nhưng hiệu quả tối ưu chỉ thấy được
rõ sau 3 - 4 tháng điều trị, riêng đối với hen nặng thì cần theo dõi thời gian lâu
hơn [6], [17]. Do vậy việc đánh giá kiểm soát cần được thực hiện một cách
định kì mỗi tháng.
Như vậy đa số các bệnh nhân nghiên cứu có đáp ứng tốt trên lâm sàng sau
điều trị kiểm soát: cải thiện các triệu chứng, giảm mức độ nặng, tăng điểm ACT.
4.1.3. Biến đổi số lƣợng bạch cầu E và thông khí phổi theo thời gian điều trị
4.1.3.1. Biến đổi số lượng bạch cầu E trong máu
HPQ là bệnh có cơ địa dị ứng cao, do vậy kiểu hình viêm chủ yếu là
viêm tăng bạch cầu E (viêm theo kiểu Th2), cho nên việc đánh giá biến đổi
bạch cầu E trong quá trình điều trị có vai trò quan trọng, đặc biệt trong điều
chỉnh liều ICS [16], [37].
101
- Về biến đổi số lượng bạch cầu E theo thời gian điều trị:
Trong nghiên cứu của chúng tôi thấy, sau điều trị kiểm soát bằng ICS và
LABA giá trị trung bình bạch cầu E giảm dần theo thời gian, đặc biệt ở tháng
thứ 3 giảm rõ rệt so với trước điều trị (4,44 ± 3,39)% so với (7,29 ± 5,31)% và
đa số bệnh nhân có số lượng bạch cầu E bình thường (84,8%), với (p < 0,05).
Norzila M. và CS (2000) đánh giá thay đổi số lượng bạch cầu E sau điều trị
ICS thấy giảm đáng kể về số lượng bạch cầu E [16]. Claman D.M. và CS
(2017) thấy có sự khác biệt rõ rệt về số lượng bạch cầu E trong máu ở bệnh
nhân HPQ trước và sau dùng ICS điều trị kiểm soát, với giá trị trung bình lần
lượt là (14,1 ± 5,0)% so với (1,8 ± 0,8)%, (p < 0,005) [113]. Theo Sobande
P.O. và CS (2008) cho rằng khi sử dụng phối hợp ICS và LABA trong điều trị
kiểm soát sẽ làm tăng hiệu quả giảm bạch cầu E do LABA làm tăng tác dụng
chống viêm của ICS hơn là dùng ICS đơn thuần [7]. Khi điều trị kiểm soát
bằng ICS không chỉ làm giảm số lượng bạch cầu E cả trong máu mà còn giảm
cả số lượng bạch cầu E tại đường thở ở bệnh nhân HPQ [5], [17].
- Về biến đổi bạch cầu E theo mức độ kiểm soát:
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy sau 1 tháng điều trị kiểm
soát thay đổi số lượng bạch cầu E chưa khác biệt theo mức độ kiểm soát,
nhưng sau tháng thứ 2 vào tháng thứ 3 tỷ lệ bệnh nhân có số lượng bạch cầu
E trở về bình thường ở những bệnh nhân được kiểm soát cao hơn rõ rệt so
với những bệnh nhân không kiểm soát và kiểm soát 1 phần (p < 0,001). Như
vậy ở tháng thứ 2 và 3 số lượng bạch cầu E giảm tương ứng với mức độ
kiểm soát tốt ở các bệnh nhân. Kết quả nghiên cứu của Norzila M.Z. và CS
(2000) ở những bệnh nhân sau 12 tuần điều trị ICS cho thấy số lượng bạch
cầu E giảm và duy trì hiệu quả chống viêm làm kiểm soát HPQ tốt hơn [16].
Pizzichini M.M. và CS (1997) và Claman D.M. và CS (2017) thấy rằng khi
phối hợp điều trị ICS và LABA đã cải thiện các triệu chứng lâm sàng, giảm
số lượng bạch cầu E trong đờm, nhưng không ảnh hưởng đến tổng số tế bào,
102
tế bào biểu mô, bạch cầu N và tế bào lympho ở bệnh nhân HPQ người lớn
[114], [113].
Theo Alenz F.Q. và CS (2013) tăng bạch cầu E là nguyên nhân gây
tăng phản ứng phế quản, tăng tiết chất nhầy và gây co thắt cơ trơn phế quản,
làm cho HPQ khó kiểm soát hơn, do vậy khi điều trị kiểm soát làm giảm số
lượng bạch cầu E sẽ dẫn đến kết quả kiểm soát HPQ tốt hơn [115]. Ở những
bệnh nhân HPQ có sự gia tăng số lượng bạch cầu E trong máu và đường thở
thường kết hợp với các bệnh dị ứng khác và mức độ nặng của bệnh, khi điều
trị kiểm soát làm giảm bạch cầu E sẽ kết hợp với cải thiện lâm sàng song hành
với tăng hiệu quả kiểm soát hen [5], [23]. Như vậy số lượng bạch cầu E trong
máu và đờm được coi như là dấu ấn viêm trong theo dõi đáp ứng điều trị kiểm
soát ở bệnh nhân HPQ, đặc biệt là bệnh nhân có kiểu hình viêm tăng bạch cầu
E [9], [115].
Tóm lại: kết quả nghiên cứu ở các bệnh nhân cho thấy số lượng bạch
cầu E giảm dần theo thời gian điều trị và tương ứng với mức độ kiểm soát hen
ở tháng thứ 2 và 3 sau điều trị kiểm soát.
4.1.3.2. Biến đổi thông khí phổi
TKP có vai trò quan trọng trong đánh giá đáp ứng điều trị kiểm soát và
theo dõi tiến tiến của HPQ. Theo GINA, chức năng phổi nên được đánh giá
nhiều lần ở bệnh nhân HPQ: lúc chẩn đoán hoặc lúc bắt đầu điều trị, sau khi
điều trị kiểm soát mỗi 3-6 tháng để đánh giá FEV1 tốt nhất của bệnh nhân và
định kỳ sau đó [6], [28].
- Biến đổi các thông số thông khí phổi theo thời gian điều trị:
Trong nghiên cứu của chúng tôi thấy giá trị trung bình các các thông số
TKP đều tăng dần sau 3 tháng điều trị kiểm soát và tăng rõ rệt so với trước
điều trị (p < 0,05). Nghiên cứu của Li H.T. (2007) cũng cho kết quả tương tự:
những bệnh nhân điều trị kết hợp ICS và LABA các thông số PEF sáng, chiều
và FEV1 tăng lần lượt là 17,86 lít/phút, 15,57 lít/phút và 0,09 lít sau 12 tuần
103
điều trị [49]. El Baroudy N.R. (2012) những bệnh nhân sau 8 tuần điều trị
bằng ICS thấy giá trị trung bình FVC tăng từ (93 ± 7,6)% lên (98,6 ± 7,7)% (p
= 0,001), FEV1 tăng từ (82,8 ± 8,1)% lên (89,8 ± 7,7)%, FEV1/FVC tăng từ
(0,8 ± 0,09)% lên (0,9 ± 0,09)% (p = 0,03), PEF tăng từ (57,3 ± 13,1)% lên
(66,4 ± 14.3)% (p = 0,001), FEF25% từ (57,6 ± 10,5)% lên (66,7 ± 12,4)% (p
= 0,001), FEF50% từ (52,3 ± 10,6)% tăng lên (58,4 ± 10,7)% (p = 0.001),
FEF75% từ (39,3 ± 8,9)% tăng lên (45,4 ± 11)% (p = 0,001) [116]. Nguyễn
Hoàng Phương (2018) theo dõi các thông số thông khí ở bệnh nhân điều trị
kiểm soát bằng ICS và LABA thấy FVC (%), FEV1 (%), FEV1/FVC (%) và
PEF (%) đều có xu hướng tăng dần sau 3, 6 và 12 tháng điều trị so với thời
điểm ban đầu (p < 0,001) [60]. Chi C.H. và CS (2016), thấy giá trị trung bình
các thông số FEV1, FEV1/FVC, PEF, FEF50%, FEF75%, MMEF của bệnh nhân
HPQ sau dùng ICS đều tăng tại các thời điểm 4 tuần, 8 tuần, 12 tuần so với
trước điều trị, với sự khác biệt có ý nghĩa (p = 0,001) [67]. Theo GINA
(2018) đánh giá chức năng hô hấp sau điều trị kiểm soát sẽ phản ánh khách
quan nhất tác dụng của ICS trên cơ quan hô hấp của bệnh nhân hen, qua đó có
thể góp phần dự báo đợt cấp của bệnh [17]. Kết quả đo TKP cũng phản ánh
khá rõ rệt sự thay đổi RLTK tắc nghẽn ở bệnh nhân HPQ sau điều trị, do vậy
sự đánh giá chức năng thông khí sau điều trị kiểm soát hen là thực sự cần thiết
để góp phần vào kiểm soát HPQ hiệu quả hơn [27].
- Mức thay đổi các thông số VC, FVC và FEV1 theo thời gian điều trị:
Kết quả ở các bệnh nhân nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có VC,
FVC, FEV1 tăng ≥ 12% so với trước điều trị đều tăng dần theo thời gian điều
trị, nhưng rõ rệt nhất là tăng FEV1 ở tháng thứ 2 và 3 (p < 0,05). Kết quả này
phản ánh tỷ lệ phục hồi phế quản ở các bệnh nhân sau điều trị tăng dần theo
thời gian. Đây là chỉ tiêu rất quan trọng trong mục tiêu kiểm soát HPQ cần đạt
được. Một số nghiên cứu trước đó cũng cho thấy hiệu quả cải thiện chức năng
TKP của điều trị ICS và LABA: Li H.T. và CS (2007) đánh giá trên những
104
bệnh nhân điều trị kết hợp Salmeterol và Fluticasone propionate cho thấy có cải
thiện rõ rệt VC, FEV1 FVC so với những bệnh nhân chỉ tăng liều ICS đơn
thuần [49]. Kerwin E.M. và CS (2008) thấy nhóm bệnh nhân điều trị
Flutication propionat và Salmeterol các thông số TKP được cải thiện rõ rệt so
với dùng giả dược [117]. Các nghiên cứu cho thấy theo dõi sự hồi phục rối
loạn thông khí tắc nghẽn sau điều trị (FEV1 hoặc FVC cải thiện ≥ 12% so với
giá trị ban đầu sau 4 tuần điều trị chống viêm) là một trong những tiêu chí
đánh giá đáp ứng điều trị và theo dõi tiến triển của bệnh [5], [6], [31], [28].
Theo khuyến cáo của Hội lồng ngực Hoa Kì, những biến đổi FEV1, FVC trong
thời gian ngắn sau điều trị vượt quá 12% so với ban đầu là có ý nghĩa trên lâm
sàng, chứng tỏ điều trị kiểm soát hen có hiệu quả [31].
- Biến đổi các thông số thông khí phổi theo mức độ kiểm soát:
Kết quả ở các bệnh nhân nghiên cứu cho thấy sau 1 tháng điều trị các
thông số TKP chưa có sự khác biệt theo mức độ kiểm soát, nhưng sau 2 tháng
điều trị giá trị trung bình FEV1, FEV1/FVC tăng rõ rệt và sau 3 tháng tất cả
các thông số TKP đều tăng ở những bệnh nhân được kiểm soát tốt so với
những bệnh nhân không kiểm soát và kiểm soát 1 phần (p < 0,05). Tương tự,
tỷ lệ bệnh nhân tăng FEV1 ≥ 12% sau 2 tháng và tỷ lệ bệnh nhân tăng FVC,
FEV1 ≥12% sau 3 tháng ở nhóm được kiểm soát tốt cao hơn rõ rệt so với
nhóm không kiểm soát và kiểm soát 1 phần (p < 0,05). Những kết quả này đã
phản ánh sự cải thiện chức năng TKP cũng tương ứng với cải thiện lâm sàng
ở những bệnh nhân sau điều trị kiểm soát.
Opimakh S.G. (2014) cho rằng FEV1 và FEV1/ FVC là những thông số
thay đổi sớm cùng với những thay đổi tích cực trên lâm sàng sau điều trị, nên
đây là những thông số chính theo dõi sau điều trị kiểm soát HPQ [118].
Gallucci M. và CS (2019) cho rằng FVC, FEV1 là thông số TKP được sử dụng
rộng rãi nhất trong theo dõi kiểm soát HPQ. Sự suy giảm FEV1 > 30ml/ năm có
thể là bệnh nhân HPQ kháng costicosteroid, HPQ khó điều trị hoặc không được
105
điều trị đầy đủ, ngược lại tăng FEV1 ≥ 12% đây là tiêu chí góp phần đánh giá
kiểm soát HPQ hiệu quả hơn các tiêu chí khác [119]. Một số tác giả cho rằng
các thông số VC, FVC cũng nên được xem xét để đưa vào theo dõi đáp ứng
điều trị vì một số bệnh nhân có tắc nghẽn nặng khi đáp ứng với thuốc giãn phế
quản thì VC, FVC tăng đáng kể, chúng tỏ HPQ được kiểm soát [119].
Theo Brown K.R. và CS (2017) trong một nghiên cứu HPQ khó kiểm
soát ở trẻ em người Mỹ gốc Phi, thấy sự khác biệt rõ rệt về giá trị FEV1 của
HPQ không được kiểm soát so với HPQ được kiểm soát (87,3% so với
97,4%) (p < 0,001) và FEV1/FVC của HPQ không được kiểm soát so với
HPQ được kiểm soát (73,3% so với 79,5%) (p < 0,001) [120]. Birajdar G. và
CS (2017) đánh giá thay đổi TKP trên 2 nhóm bệnh nhân HPQ: nhóm không
kiểm soát giá trị trung bình các thông số {FVC (2,59 ± 0,63)lít , FEV1 (2,37 ±
0,57)lít, FEV1/FVC (91,76 ± 4,62)%} đều giảm so với nhóm được kiểm soát
{FVC: 1,71 ± 0,78 lít, FEV1: 1,23 ± 0,72 lít, FEV1/FVC: (69,37 ± 18,16)%}
(p < 0,001) [105].
- Về % cải thiện các thông số VC, FVC và FEV1 theo mức độ kiểm soát:
Các nghiên cứu đều cho rằng sự biến đổi TKP thường diễn ra trong một
thời gian dài sau điều trị, tuỳ thuộc vào mức độ bệnh và tình trạng viêm
đường thở và quá trình điều trị và rối loạn thông khí thường hồi phục chậm
hơn, đôi khi ít tương quan với mức độ lâm sàng [121]. Các nghiên cứu đã
chứng tỏ thời gian phản ánh sự thay đổi TKP rõ rệt thường sau 8 tuần trở đi
(sau 2 tháng): El Baroudy N.R. (2012) nhận thấy các bệnh nhân sau 8 tuần
dùng ICS và LABA giá trị trung bình FVC, FEV1 đều tăng rõ rệt ≥ 12% so
với trước điều trị và tương quan với các mức kiểm soát hen tốt [116]. Ostrom
N.K. và CS (2015) khi đánh giá hiệu quả điều trị ICS liều thấp ở bệnh nhân
HPQ dai dẳng trong 12 tuần cho thấy cải thiện rõ rệt hầu hết các thông số
TKP và HPQ được kiểm soát tốt [122].
106
Kết quả nghiên cứu ở các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi sau
1 tháng điều trị chưa thấy liên quan giữa thay đổi TKP với mức độ kiểm soát,
tương tự như nghiên cứu của Melosini L. và CS (2012) khi đánh giá kết quả
kiểm soát HPQ trên 68 bệnh nhân sau 4 tuần dùng ICS thấy các thông số TKP
thay đổi không liên quan đến mức kiểm soát HPQ [123].
Theo các nghiên cứu cho thấy các thông số TKP có thể tăng sau 2 tuần
điều trị kiểm soát, nhưng để đạt tới bình nguyên phải sau 3 tháng kiểm soát
bởi sự hồi phục các thông số TKP tối ưu cần thời gian lâu hơn so với sự thay
đổi các chỉ số lâm sàng, do vậy thời điểm đánh giá kết quả kiểm soát bằng
TKP tốt nhất là sau 3 - 6 tháng [6], [17], [26], [28], [116].
Tóm tại: Kết quả ở các bệnh nhân cho thấy FEV1, FVC tăng dần theo
thời gian và hồi phục tương ứng với mức độ kiểm soát sau 2 và 3 tháng điều trị.
4.1.4. Biến đổi mức độ kiểm soát và một số yếu tố liên quan đến mức độ
kiểm soát
4.1.4.1. Biến đổi mức độ kiểm soát theo thời gian điều trị
Đánh giá biến đổi các mức độ kiểm soát HPQ sau điều trị có vai trò
quan trọng trong việc điều chỉnh lại điều trị cũng như dự báo các nguy cơ đợt
cấp trong tương lai cho bệnh nhân.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ bệnh nhân được kiểm
soát tốt tăng dần theo thời gian điều trị, đặc biệt sau tháng 2 và 3 với tỷ lệ rất
cao (80,3%) và tỷ lệ bệnh nhân kiểm soát 1 phần và không được kiểm soát
giảm rõ rệt theo thời gian điều trị (p < 0,05). Kết quả này phản ánh các bệnh
nhân đa số được kiểm soát sau 2-3 tháng điều trị.
Kết quả kiểm soát của chúng tôi cao hơn so với một số nghiên cứu
trong nước: Vũ Thị Hồng (2015) đánh giá kết quả điều trị kiểm soát bằng
ICS và LABA sau 3 - 6 tháng thấy tỷ lệ bệnh nhân HPQ được kiểm soát tốt
và kiểm soát một phần tăng dần, lần lượt là 26% và 36%, tỷ lệ HPQ không
kiểm soát giảm so với trước điều trị (p < 0,05) [59]. Theo Nguyễn Hoàng
107
Phương (2018) sau điều trị kiểm soát bằng ICS và LABA tỷ lệ bệnh nhân
được kiểm soát có xu hướng tăng dần trong quá trình điều trị tại các thời
điểm 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng so với trước điều trị (10%, 33,33%, 85%
so với 0%) (p < 0,05) [60].
Trong nghiên cứu của Adachi M. và CS (2018) kết quả kiểm soát hen ở
người lớn dựa trên GINA (2012) sau 1 tháng cho thấy có 35,1% bệnh nhân
kiểm soát tốt, 49,8% bệnh nhân kiểm soát một phần và 15,1% bệnh nhân
không được kiểm soát. Các tác giả nhận thấy nguyên nhân của sự kiểm soát
kém là do đánh giá không đầy đủ về mức độ nặng của bệnh, thiếu thuốc hít và
sự tuân thủ điều trị kém của bệnh nhân khi điều trị [124].
Price D. và CS (2014) đã nghiên cứu kiểm soát HPQ dựa trên tiêu chí
GINA ở 8.000 bệnh nhân Châu Âu, kết quả cho thấy mức độ kiểm soát HPQ
thấp (45,1% bệnh nhân không kiểm soát được, 34,8% bệnh nhân được kiểm
soát một phần và chỉ 20,1% bệnh nhân được kiểm soát) [125]. Kết quả nghiên
cứu của chúng tôi có mức độ kiểm soát HPQ tốt hơn ở các bệnh nhân, có thể
do các nguyên nhân sau; sự tuân thủ tốt của bệnh nhân với điều trị, thuốc
được cung cấp đủ, điều trị kiểm soát được thực hiện tại đơn vị quản lý và tư
vấn ngoại trú của bệnh viện tuyến trung ương (bệnh viện Bạch Mai).
Theo O’Byrne B.M. và CS (2005) cho rằng, sau điều trị kiểm soát HPQ
sẽ hiệu quả tối ưu khi bệnh nhân tuân thủ triệt để những tiêu chí kiểm soát
theo hướng dẫn của GINA [126]. Tương tự Braido F. (2013) cũng cho rằng
một trở ngại lớn nhất ảnh hưởng đến kết quả kiểm soát HPQ đó là sự tuân thủ
điều trị kém của bệnh nhân (quên, không hiểu chế độ điều trị hoặc kỹ thuật hít
thuốc không tốt) [30]. Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi đều được tham gia
sinh hoạt trong câu lạc bộ hen của Trung tâm Dị ứng Miễn dịch lâm sàng -
Bệnh viện Bạch Mai và hàng tháng được các Bác sỹ chuyên khoa định kỳ tái
khám, hướng dẫn cách dùng thuốc kiểm soát một cách hữu hiệu. Như vậy có
108
thể thấy việc kiểm soát HPQ theo mô hình sinh hoạt câu lạc bộ hen ở tuyến
chuyên khoa đã cho kết quả rất tốt.
4.1.4.2. Biến đổi mức độ kiểm soát theo bậc hen sau điều trị
Đánh giá biến đổi mức độ HPQ (bậc hen) sau điều trị kiểm soát giúp
đánh giá đáp ứng điều trị và xác định các yếu tố nguy cơ trong tương lai để
điều chỉnh điều trị kịp thời, thích hợp [127], [23].
Kết quả ở các bệnh nhân cho thấy sau điều trị mức độ bệnh (bậc hen)
giảm rõ rệt tương ứng theo mức độ kiểm soát (p < 0,001). Như vậy có sự
giảm rõ rệt mức độ nặng của bệnh theo thời gian điều trị. Một nghiên cứu thử
nghiệm điều trị pha III, sau 8 tuần điều trị kết hợp Salmeterol với Fluticasone
tỷ lệ bệnh nhân bậc I (mức độ nhẹ) tăng từ 17% tại mức cơ sở lên 65% [45].
Theo Nelson H.S. và CS (2000) thực hiện nghiên cứu đa trung tâm, mù đôi
với 447 bệnh nhân HPQ sau 12 tuần điều trị kết hợp Fluticasone propionate
với Salmeterol thấy tỷ lệ bệnh nhân nặng chỉ còn 2% và thấp hơn so với nhóm
chứng (6%) [128]. Maspero J. và CS (2018) nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi,
song song về hiệu quả và khả năng dung nạp của Salmeterol - Fluticasone
propionate trong kiểm soát HPQ trẻ từ 6-14 tuổi sau 12 tuần cho thấy tỷ lệ bệnh
nhân nặng giảm rõ rệt [129]. Một phân tích tổng hợp kết quả chín thử nghiệm
lâm sàng ngẫu nhiên trên 3685 bệnh nhân HPQ được điều trị kết hợp ICS và
LABA, cho thấy số bệnh nhân bậc III, IV giảm, số bệnh nhân HPQ bậc I tăng
48,2%, [45]. Bergmann K.C. và CS (2004) và Aalbers R. và CS (2016) cũng
cho kết quả giảm tỷ lệ bệnh nhân nặng rõ rệt sau điều trị kiểm soát [45], [57].
Một số tác giả cho rằng những bệnh nhân HPQ nặng (bậc III, IV)
thường có thời gian mắc bệnh lâu năm và cần thời gian kiểm soát lâu hơn để
đạt hiệu quả điều trị [90]. Như vậy sau điều trị 3 tháng tỷ lệ cao bệnh nhân
trong nghiên cứu được kiểm soát và giảm mức độ nặng, chứng tỏ hiệu quả điều
trị kiểm soát tốt.
109
4.1.4.3. Một số yếu tố liên quan đến mức độ kiểm soát
- Liên quan giữa mức độ kiểm soát với BMI:
Mối liên quan giữa kiểm soát HPQ và béo phì đang được quan tâm gần
đây: ở những người béo phì thường khó kiểm soát HPQ hơn những người có
BMI bình thường.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy sau 1, 2, 3 tháng điều trị, ở
nhóm bệnh nhân không kiểm soát, tỷ lệ béo phì cao hơn rõ rệt so với nhóm
được kiểm soát (p < 0,05). Khi phân tích đa biến cho thấy có mối liên quan
giữa những người béo phì với mức độ hen không kiểm soát (OR = 0,05; p =
0,01; %CL = 0,006 - 0,46). Kết quả này cũng phù hợp với nhận định của các
nghiên cứu trước đây: Quinto K.B. và CS (2011) cho rằng béo phì có liên
quan đến việc tăng nguy cơ HPQ nặng và tăng các đợt cấp của bệnh [149].
Ross K.R. và CS (2013) thấy BMI càng cao càng thì HPQ càng nặng hơn làm
cho kiểm soát HPQ càng trở lên khó khăn hơn so với người có BMI bình
thường [131]. Một nghiên cứu trên 30.000 bệnh nhân HPQ tại nam California
tìm thấy mối liên quan giữa béo phì với việc tăng cường sử dụng thuốc cắt
cơn, điều đó gợi ý rằng béo phì có liên quan đến nhiều triệu chứng ở bệnh
nhân làm cho việc kiểm soát hen càng trở lên khó khăn hơn [131]. Mohanan
S. và CS (2014) thấy kiểu hình bệnh nhân HPQ béo phì có thể ảnh hưởng xấu
đến phác đồ điều trị chuẩn, và làm giảm hiệu quả của liều phối hợp ICS và
LABA [91]. Boulet L.P. và CS (2007) thấy hiệu quả kiểm soát HPQ bằng ICS
hoặc ICS phối hợp với LABA ở những bệnh nhân HPQ béo phì kém hơn so
với bệnh nhân không béo phì [132].
Có nhiều cơ chế giải thích mối liên quan giữa béo phì và mức độ kiểm
soát ở bệnh nhân HPQ: Boulet L.P. và CS (2007) cho rằng bệnh nhân HPQ
béo phì sẽ làm giảm FEV1, FVC và giảm đáp ứng với ICS do vậy kiểm soát
hen sẽ khó khăn hơn [132]. Một số tác giả thấy ở người béo phì, tình trạng
viêm hệ thống mạn tính không mạnh, nhưng ở mô mỡ thừa bị thâm nhập bởi
110
đại thực bào và là nguồn cytokine gây viêm, đặc biệt là nồng độ TNF-α trong
huyết thanh tăng cao chính là lý do gây HPQ kháng trị corticosteroid [43],
[133]. Một nghiên cứu khác của Novosad S. và CS (2013) cho thấy có hơn 50
adipokine khác nhau được tiết ra bởi tế bào mỡ, trong đó Leptin và
Adiponectin là hai adipokine có mối liên quan với tình trạng viêm trong HPQ:
Leptin tăng, ngược lại Adiponectin giảm ở những bệnh nhân HPQ béo phì.
Tăng Leptin và giảm Adiponectin sẽ làm giảm tác dụng điều trị của
corticosteroid và kiểm soát HPQ trở lên khó khăn hơn [133]. Do vậy trong
đánh giá kiểm soát HPQ cần lưu ý đến những bệnh nhân béo phì và quan tâm
đến điều chỉnh BMI của họ song song với điều trị kiểm soát.
- Liên quan giữa mức độ kiểm soát với khởi phát bệnh:
Kết quả ở các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi chưa thấy mối
liên quan giữa mức độ kiểm soát với tình trạng khởi phát bệnh.
Các nghiên cứu trước đây cho thấy có mối liên quan giữa khởi phát bệnh
muộn với mức độ kiểm soát: Theo Bhat A.C. và CS (2016) nghiên cứu 181
bệnh nhân HPQ thấy tỷ lệ bệnh nhân khởi phát sớm chiếm 62,9% tương ứng
hen mức độ nặng không được kiểm soát là 19,3%, trong khi đó những bệnh
nhân khởi phát trong độ tuổi 20- 40 chiếm 26% và mức độ nặng cao hơn
(23,2%) (p < 0,05) [86]. Hsu J.Y. và CS (2004) phân tích đa biến cho thấy có
mối tương quan giữa khởi phát bệnh muộn với mức kiểm soát HPQ kém, với p
< 0,001 [82]. Theo GINA (2014) cho rằng, HPQ khởi phát muộn thường có
kiểu hình HPQ không dị ứng và đòi hỏi sử dụng ICS liều cao hơn hoặc không
đáp ứng với corticosteroid làm cho bệnh khó kiểm soát hơn [6].
Tuy nhiên theo một số nghiên cứu cho thấy khởi phát bệnh ít có liên
quan đến mức độ nặng của HPQ và mức độ kiểm soát: Tạ Bá Thắng (2002)
thấy thời gian mắc không liên quan tới mức độ nặng của HPQ [33]. Sears M.R.
và CS (2003) nghiên cứu trên 613 trẻ em được chẩn đoán HPQ và theo dõi
định kỳ cho đến năm 26 tuổi thấy thời gian mắc không liên quan đến mức độ
111
kiểm soát HPQ (chỉ có 28,1% số bệnh nhân có triệu chứng HPQ liên tục đến
năm 26 tuổi, và 53% được kiểm soát tốt) [83]. Theo Braido F. (2013) kết quả
kiểm soát HPQ phụ thuộc vào mức độ bệnh, phát hiện và can thiệp sớm các
đợt cấp, duy trì điều trị kiểm soát đều đặn và tuân thủ điều trị của bệnh nhân
hơn là thời gian khởi phát bệnh [30].
- Liên quan giữa mức độ kiểm soát với tiền sử dị ứng:
Kết quả ở các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi chưa thấy mối
liên quan giữa mức độ kiểm soát với tiền sử dị ứng của bản thân.
Các nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa mức độ kiểm soát với
tiền sử dị ứng của bệnh nhân: Ross K.P. và CS (2013) cho rằng yếu tố dị ứng
liên quan mật thiết đến mức độ nặng của HPQ ở trẻ em và ở trẻ có yếu tố dị
ứng tỷ lệ bệnh nặng cao gấp 2,63 lần so với trẻ không kèm dị ứng [131]. Theo
Howrth P. (2016) HPQ kèm tiền sử dị ứng làm tăng gấp đôi nguy cơ đến
phòng cấp cứu, và tiền sử dị ứng là yếu tố dự báo kiểm soát HPQ kém [87].
Ghanname I. (2018), khi phân tích đa biến cho thấy các yếu tố liên quan đến
kiểm soát HPQ kém bao gồm giới (OR = 0.41), các bệnh kết hợp (OR = 3.36)
và tiền sử dị ứng với vật nuôi (OR = 2.76) [63]. Nguyễn Văn Đoàn (2013)
cho rằng HPQ kèm các bệnh dị ứng như viêm mũi, viêm xoang dị ứng có thể
làm cho tình trạng kiểm soát HPQ kém và làm cho bệnh dễ nặng thêm [23].
Theo GINA (2014), bệnh nhân HPQ kèm theo các bệnh dị ứng (HPQ dị ứng)
thường đáp ứng tốt với corticosteroid hít, nếu được phát hiện sớm và điều trị
kịp thời các bệnh dị ừng kèm theo thì kiểm soát HPQ có hiệu quả rõ rệt [6].
Các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi có tiền sử dị ứng cao và
các bệnh nhân này đều được phát hiện và điều trị các bệnh dị ứng kèm, đồng
thời kết quả được kiểm soát sau 3 tháng trên 80%, do vậy chúng tôi chưa thấy
mối liên quan giữa mức độ kiểm soát với tiền sử dị ứng của bệnh nhân.
- Liên quan giữa mức độ kiểm soát với bạch cầu E:
Khi phân tích hồi quy đa biến chúng tôi nhận thấy số lượng bạch cầu E
bình thường có liên quan chặt với mức độ hen được kiểm soát sau 3 tháng
112
(OR=7,7; p=0,04; %CL=1,12-51,83). Kết quả này cũng tương tự như nghiên
cứu của các tác giả trước đó: Norzila M.Z. và CS (2000) thấy số lượng bạch
cầu E giảm có liên quan đến kiểm soát HPQ tốt hơn [16]. Pizzichini M.M.
(1997) và Claman D.M. và CS (2017) thấy rằng ở bệnh nhân HPQ người lớn
sau điều trị ICS và LABA đã làm giảm số lượng bạch cầu E trong đờm và
tương ứng với HPQ được kiểm soát [114], [113]. Yıldız F. (2013) nghiên cứu
572 bệnh nhân HPQ dai dẳng, 76% nữ và 24% nam, được điều trị kiểm soát
theo hướng dẫn của GINA, theo dõi sau 3 tháng kết quả cho thấy kiểm soát
HPQ kém liên quan đến bạch cầu E (OR = 0,01; p = 0,002; 95%CI: 0,32;
0,764) [3].
Ở những bệnh nhân HPQ có sự gia tăng số lượng bạch cầu E trong máu
và đường thở thường kết hợp với các bệnh dị ứng khác và mức độ nặng của
bệnh, khi điều trị kiểm soát làm giảm bạch E sẽ kết hợp với cải thiện lâm sàng
song hành với tăng hiệu quả kiểm soát hen [5], [23]. Theo Alenzi F.Q. và CS
(2013) tăng bạch cầu E là nguyên nhân gây tăng phản ứng phế quản, tăng tiết
chất nhầy và gây co thắt cơ trơn phế quản, làm cho HPQ khó kiểm soát hơn,
do vậy khi điều trị kiểm soát làm giảm số lượng bạch cầu E sẽ dẫn đến kết
quả kiểm soát HPQ sẽ tốt hơn [115].
Như vậy số lượng bạch cầu E trong máu được coi như là dấu ấn viêm
liên quan đến kiểm soát HPQ, đặc biệt là bệnh nhân có kiểu hình viêm tăng
bạch cầu E.
4.2. BIẾN ĐỔI NỒNG ĐỘ CÁC CYTOKINE HUYẾT THANH SAU ĐIỀU
TRỊ KIỂM SOÁT
4.2.1. Biến đổi nồng độ các cytokine huyết thanh theo thời gian điều trị
4.2.1.1. Biến đổi nồng độ IL-4 theo thời gian
Đánh giá biến đổi nồng độ IL-4 huyết thanh ở các bệnh nhân chúng tôi
nhận thấy: sau điều trị kiểm soát tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ IL-4 huyết thanh
bình thường và tăng không có sự khác biệt so với trước điều trị (p > 0,05),
113
nhưng giá trị trung bình nồng độ IL-4 sau 3 tháng tăng so với trước điều trị (p
< 0,05). Tỷ lệ bệnh nhân tăng so với trước điều trị chiếm đa số (90,9%) (Bảng
3.34) nhưng nồng độ IL-4 vẫn ở trong giới hạn bình thường. Như vậy mặc dù
giá trị trung bình của IL-4 sau 3 tháng tăng nhưng tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ
IL-4 huyết thanh ở trong giới hạn bình thường vẫn chiếm đa số (98,5%). Điều
này chúng tỏ sự thay đổi nồng độ IL-4 huyết tương ở các bệnh nhân chưa có
sự khác biệt theo theo gian điều trị.
Một số nghiên cứu trước cho thấy có sự thay đổi nồng độ IL-4 ở khí thở
ra hoặc trong đờm của bệnh nhân HPQ sau điều trị ICS: Shahid S.K. và CS
(2002) trong một nghiên cứu về nồng độ IL-4 trong khí thở ra của 30 trẻ em
HPQ, thấy có sự giảm rõ rệt về nồng độ trung bình của IL-4 sau điều trị ICS so
với trước điều trị (37,5 ± 6,2 pg/ml so với 53,7 ± 4,2 pg/ml, với p < 0,05) [66].
Chi C.H. và CS (2016) thấy nồng độ trung bình IL-4 ở khí thở ra của bệnh
nhân HPQ giảm dần từ (1,92 ± 0,56 pmol/l trước khi điều trị xuống còn 1,79 ±
0,44 pmol/l sau 4 tuần điều trị và 1,60 ± 0,36 pmol/l sau 8 tuần điều trị, với p <
0,05, xuống còn 1,54 ± 0,81 pmol/l sau 12 tuần điều trị, với p < 0,01) [67].
Trên thực nghiệm, các nghiên cứu cũng cho thấy vai trò của corticosteroid có
tác động ngăn cản sản xuất các cytokine, trong đó có IL-4 [73].
Tuy nhiên quá trình nồng độ IL-4 huyết thanh phụ thuộc vào mức tăng
trước điều trị, kiểu hình viêm dị ứng và thời gian điều trị. Carpagnano G.E. và
CS (2005) cho rằng nồng độ IL-4 trong huyết thanh bắt đầu giảm đáng kể sau
12 tuần điều trị bằng ICS [69]. Leung T.F. và CS (2005) thấy nồng độ IL-4
cao hơn ở những bệnh nhân HPQ có nhiều đợt cấp và liên tục phải dùng ICS
liều cao so với những bệnh nhân ít đợt cấp và dùng ICS liều thấp [134]. Sahid
ElRadhi A. và CS (2000) lại thấy nồng độ IL-4 trong huyết thanh của bệnh
nhân HPQ giảm nhanh và nhiều hơn sau điều trị corticosteroid toàn thân hơn
là điều trị ICS [135]. Theo Renauld J.C. (2001) bệnh nhân có cơ địa dị ứng
thường tăng nồng độ IL-4 mà không nhất thiết phải có sự xuất hiện của cơn
114
hen [136]. Nguyễn Văn Đoàn (2013) cho rằng các bệnh nhân HPQ có viêm
mũi dị ứng kèm khi khởi phát viêm mũi dị ứng cũng gây tăng nồng độ IL-4
trong huyết thanh mặc dù cơn hen có hoặc không xuất hiện [23]. Trong
nghiên cứu của chúng tôi thay đổi nồng độ IL-4 chưa khác biệt theo thời gian
điều trị kiểm soát có thể do thời gian nghiên cứu mới chỉ đánh giá trong vòng
3 tháng, do vậy cần đánh giá thời gian dài hơn.
4.2.1.2. Biến đổi nồng độ IL-5 theo thời gian
Sau điều trị kiểm soát tỷ lệ bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi
có nồng độ IL- 5 huyết thanh bình thường và tăng không có sự khác biệt so
với trước điều trị (p > 0,05), nhưng tỷ lệ bệnh nhân giảm nồng độ IL-5 chiếm
đa số (95,5%) (Bảng 3.35) và giá trị trung bình nồng độ IL-5 giảm rõ rệt so
với trước điều trị (p < 0,05). Như vậy nồng độ IL-5 thay đổi có sự khác biệt
theo thời gian điều trị ở các bệnh nhân.
Một số nghiên cứu thấy nồng độ IL-5 huyết thanh giảm ở bệnh nhân sau
điều trị kiểm soát: Sahid El Radhi A. và CS (2000) thấy ở bệnh nhân sử dụng
corticosteroid hít nồng độ IL-5 trong huyết thanh giảm rõ rệt (từ 5,59 pg/ml
xuống 2,19 pg/ml, với p = 0,0001) [135]. Các tác giả Russo C. và CS (2005) và
Wang K. và CS (2011) cũng cho kết quả tương tự: nồng độ trung bình IL-5
giảm rõ rệt khi điều trị kiểm soát bằng ICS và LABA so với trước điều trị [20],
[72]. Sobande P.O. và CS (2008) thấy tác dụng làm giảm tổng hợp cytokine
của ICS trong đó có IL-5 [7]. Các nghiên cứu cho thấy giảm nồng độ IL-5 sẽ đi
song song với cải thiện các triệu chứng lâm sàng ở bệnh nhân HPQ [135]. Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của các tác
giả. Sự tăng, giảm nồng độ của IL-5 trong huyết thanh còn liên quan có ý nghĩa
với tần suất các đợt cấp ở bệnh nhân HPQ [136], [137].
4.2.1.3. Biến đổi nồng độ IL-13 theo thời gian
IL-13 được cho là cytokine trung tâm gây đáp ứng viêm trong HPQ,
cũng là đích quan trọng trong điều trị kiểm soát. Theo Will Karp M. và CS
115
(2010) IL-13 còn liên quan đến mức độ nặng của bệnh và mức độ tăng đáp
ứng đường thở ở bệnh nhân HPQ [42].
Kết quả ở các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nồng
độ IL-13 giảm rõ rệt sau điều trị kiểm soát: Sau điều trị kiểm soát tỷ lệ bệnh
nhân có nồng độ IL- 13 huyết thanh bình thường tăng hơn rõ rệt so với trước
điều trị (p < 0,05), đồng thời có 97% bệnh nhân giảm nồng độ IL-13 và giá trị
trung bình nồng độ IL- 13 giảm rõ rệt so với trước điều trị (p < 0,05).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với một số nghiên cứu
trên thế giới: Theo Russo C. và CS (2005) cho rằng khi điều trị ICS và LABA
nồng độ IL-13 giảm rõ rệt sau 12 tuần điều trị [43]. Nakamura Y. và CS
(2016) đánh giá biến đổi nồng độ IL-13 ở bệnh nhân HPQ sau điều trị ICS
thấy có sự khác biệt rõ rệt về nồng độ trung bình IL-13 của bệnh nhân sau 1
và 2 năm điều trị so với trước điều trị (13,6 ± 2,7 pg/ml và 11,2 ± 0,7 pg/ml
so với 19,6 ± 4,0 pg/ml, p < 0,05) [138]. Janeva E.J. và CS (2015) khi nghiên
cứu 27 bệnh nhân HPQ được điều trị bằng ICS và LABA (25/250 mcg dùng 2
lần hàng ngày), thấy nồng độ trung bình IL-13 trong huyết thanh trước điều trị
là (907,37 ± 601,95) pg/ml và sau 6 tháng điều trị giảm xuống còn (527,47 ±
577,25) pg/ml, với sự khác biệt có ý nghĩa (p = 0,001) [2].
Tuy nhiên một số nghiên cứu chưa thấy sự thay đổi nồng độ IL-13 khác
biệt theo thời gian điều trị: AlDaghri N.M. và CS (2014) thấy sự thay đổi
nồng độ IL-13 trước và sau điều trị kiểm soát bằng ICS không có ý nghĩa
thống kê (4,9 ± 1,3 pg/ml so với 4,3 ± 1,0 pg/ml, p = 0,56) [139]. Các tác giả
Shehata I.H. và CS (2017) cũng nhận thấy không có sự khác biệt về nồng độ
IL-13 trong huyết thanh giữa bệnh nhân HPQ được dùng và không được dùng
corticosteroid hít [103]. Sự thay đổi IL-13 khác nhau trong các nghiên cứu có
thể do thời gian đánh giá hoặc ở bệnh nhân có mức độ kiểm soát khác nhau.
116
4.2.1.4. Biến đổi nồng độ TNF-α theo thời gian
TNF-α đóng một vai trò quan trọng trong đáp ứng viêm của HPQ: khuếch
đại viêm đường thở, tăng đáp ứng của phế quản và tái tạo lại đường thở.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy sau 3 tháng điều trị kiểm
soát, tỷ lệ bệnh nhân có giảm nồng độ TNF-α chiếm đa số (93,94%) và nồng
độ trung bình TNF-α huyết thanh giảm rõ rệt so với trước điều trị (p < 0,001).
Như vậy nồng độ TNF-α huyết thanh giảm rõ rệt theo thời gian điều trị.
Mike A. và CS (2006) trong một nghiên cứu cho thấy rằng điều trị ICS
làm giảm nồng độ TNF-α trong huyết thanh ở bệnh nhân HPQ mà không ảnh
hưởng đến hoạt động của TNF-α [77]. Waserman S. và CS (2000) nhận thấy
nồng độ TNF-α giảm đi một nửa sau khi điều trị ICS và LABA liều cao so với
nhóm chứng với sự khác biệt rõ rệt (p < 0,001) [78]. Basyigit I. và CS (2004)
khi so sánh 45 bệnh nhân HPQ trước và sau 12 tuần điều trị ICS, thấy nồng
độ trung bình của TNF-α sau điều trị kiểm soát giảm rõ rệt so với trước điều
trị (242 ± 89 pg/m so với 1294 ± 102 pg/ml) với p < 0,001 [76]. Kết quả của
chúng tôi cũng phù hợp với các nghiên cứu trên.
Tuy nhiên một số tác giả khác lại không thấy có sự khác biệt về nồng
độ TNF-α huyết thanh giữa các nhóm bệnh nhân HPQ được kiểm soát bằng
ICS [78]. Theo Russo C. và CS (2005) nồng độ TNF-α trong dịch phế nang
và trong mảnh sinh thiết phế quản không giảm ở những bệnh nhân hen nặng
được điều trị bằng ICS, điều đó có thể giải thích lý do tại sao các loại thuốc
chống viêm dường như tác dụng hạn chế trong HPQ nặng [43].
Như vậy kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nồng độ IL-5, IL-
13 và TNF-α huyết thanh giảm ở các bệnh nhân rõ rệt sau 3 tháng điều trị
kiểm soát.
117
4.2.2. Thay đổi đổi nồng độ các cytokine huyết thanh theo mức độ kiểm soát
4.2.2.1. Thay đổi nồng độ IL-4 theo mức độ kiểm soát
Kết quả nghiên cứu trên bệnh nhân cho thấy sau cả 1, 2 và 3 tháng điều
trị kiểm soát, nồng độ trung bình IL-4 ở các bệnh nhân thay đổi không khác
biệt có ý nghĩa theo mức độ kiểm soát (p > 0,05). Như vậy biến đổi nồng độ
IL-4 chưa thấy liên quan đến mức độ kiểm soát ở các bệnh nhân.
Một số nghiên cứu cho thấy nồng độ IL-4 trong khí thở ra ở bệnh nhân
HPQ giảm sau điều trị ICS và LABA tương ứng với mức độ kiểm soát tốt
[65]. Shahid S.K và CS (2002) cũng thấy nồng độ IL-4 trong dịch phế quản
của bệnh nhân HPQ giảm rõ rệt sau điều trị bằng ICS so với nhóm chứng
(37,5 ± 5,6 pg/ml so với 53,7 ± 4,2 pg/ml, p < 0,05), đặc biệt ở bệnh nhân
được điều trị kết hợp giữa ICS và LABA với liều cao và song song với với tỷ
lệ bệnh nhân được kiểm soát [66]. Theo Chi C.H. và CS (2016) sự gia tăng
nồng độ IL-4 trong khí thở ra đã được ghi nhận ở những bệnh nhân không
được dùng ICS và giảm rõ rệt sau 12 tuần điều trị bằng ICS [67]. Nghiên cứu
của Matsunaga K. và CS (2009) cũng cho kết quả tương tự: nồng độ trung
bình của IL-4 trong khí thở ra ở bệnh nhân HPQ sau 12 tuần điều trị bằng ICS
đã giảm rõ rệt so với trước điều trị [68]. Theo Robroeks C.M và CS (2017)
cho rằng nồng độ IL-4 tương quan với mức độ viêm trong HPQ và giảm rõ rệt
sau điều trị kiểm soát bằng ICS. Vì vậy các tác giả cho rằng IL-4 trong khí
thở ra rất hữu ích trong đánh giá kiểm soát hen [71]. Như vậy các nghiên cứu
đều cho thấy sự thay đổi rõ rệt nồng độ IL-4 ở khí thở ra hoặc dịch phế quản
song song với mức độ kiểm soát ở các bệnh nhân.
Các nghiên cứu về thay đổi nồng độ IL-4 trong huyết thanh theo mức
độ kiểm soát còn rất ít, chủ yếu đánh giá thay đổi chung của IL-4 sau điều trị
ICS: Carpagnano G.E và CS (2005) thấy nồng độ IL-4 trong huyết thanh bệnh
nhân HPQ bắt đầu giảm đáng kể sau khi điều trị bằng ICS trong 6 tháng [69].
Lee Y.C và CS (2016) cũng thấy nồng độ trung bình của IL-4 trong huyết
118
thanh của nhóm bệnh nhân HPQ đợt cấp tăng cao hơn so với nhóm bệnh nhân
được kiểm soát bằng ICS [70]. IL-4 là cytokine đặc trưng cho kiểu hình viêm
dị ứng (viêm tăng bạch cầu E) nên thường tăng trong hen dị ứng và giảm khi
điều trị ICS. Trong các bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi chưa thấy biến
đổi nồng độ IL-4 rõ rệt theo mức độ kiểm soát có thể do có cả những bệnh
nhân không có tiền sử dị ứng cũng như thời gian theo dõi chưa dài (mới chỉ
trong 3 tháng). Vấn đề này cần tiếp tục nghiên cứu thêm.
4.2.2.2. Thay đổi nồng độ IL-5 theo mức độ kiểm soát
IL-5 là một cytokine đóng một vai trò trong việc phát triển và bài tiết
bạch cầu E từ tủy xương, tăng độ bám dính của chúng vào tế bào nội mô nằm
sau mao mạch và các tiểu tĩnh mạch, kích hoạt, bài tiết và kéo dài sự sống của
chúng thông qua sự ức chế quá trình chết theo chương trình của tế bào trong
các tổ chức mô [40]. IL-5 cũng là cytokine liên quan mật thiết đến đáp viêm
theo Th2.
Kết quả nghiên cứu trên bệnh nhân cho thấy sau 1 và 2 tháng điều trị
kiểm soát, nồng độ trung bình IL-5 ở các bệnh nhân thay đổi không khác biệt
có ý nghĩa theo mức độ kiểm soát (p > 0,05), nhưng sau 3 tháng nồng độ
trung bình IL-5 ở các bệnh nhân được kiểm soát tốt giảm rõ rệt so với các
bệnh nhân không kiểm soát và kiểm soát 1 phần (0,075 pg/ml so với 0,6
pg/ml và 0,5 pg/ml với p < 0,05). Như vậy có sự giảm tương ứng của nồng độ
IL-5 huyết thanh với mức độ được kiểm soát ở các bệnh nhân sau 3 tháng
điều trị. Một nghiên cứu ở những bệnh nhân HPQ được kiểm soát tốt bằng
ICS và LABA, các tác giả nhận thấy nồng độ IL-5 huyết thanh giảm hơn so
với những bệnh nhân chưa được kiểm soát [70]. Wang K. và CS (2011) thấy
khi điều trị ICS và LABA ở bệnh nhân HPQ sẽ làm giảm nồng độ trung bình
của IL-5 huyết thanh tương ứng với mức kiểm soát [72]. Kotsimbos
A.T., Hamid Q. (2013) cũng thấy nồng độ IL-5 trong huyết thanh ở bệnh nhân
HPQ được kiểm soát giảm rõ rệt sau điều trị bằng ICS và LABA, nhưng
119
không giảm trong trường hợp HPQ nặng [65]. Theo Greenfeder S. và CS
(2001) nồng độ IL-5 trong huyết thanh của bệnh nhân HPQ được kiểm soát
tốt giảm rõ rệt so với bệnh nhân không kiểm soát (2,19 pg/ml so với 5,59
pg/ml, p = 0,0001) [135]. Al Daghri N.M. và CS (2014) cho rằng nồng độ IL-
5 có thể được sử dụng như một dấu ấn sinh học trong kiểm soát HPQ [139].
Theo Robinson D.S và CS (2015) nồng độ IL-5 huyết thanh bệnh nhân
HPQ khi điều trị corticosteroid toàn thân sẽ giảm rõ rệt sau một tuần so với
điều trị ICS [73]. Tuy nhiên Joseph J. và CS (2004) cho rằng nồng độ trung
bình của IL-5 trong huyết thanh ở bệnh nhân HPQ nhẹ và vừa sau điều trị sẽ
thay đổi không rõ rệt so với các bệnh nhân mức độ nặng, do vậy khi so sánh
với mức độ kiểm soát cần lưu ý mức độ nặng nhẹ trước đó của bệnh nhân
[74]. Woodruff P.G. và CS (2009) khi thực hiện phân tích thay đổi cytokine
liên quan đến kiểm soát HPQ thấy sự thay đổi nồng độ IL-5 không liên qua
đến kiểm soát HPQ trên lâm sàng [140]. Sự không tương đồng trong kết quả
nghiên cứu có thể do kiểu hình viêm của bệnh nhân và liều ICS và LABA
được sử dụng, thời gian theo dõi [136].
4.2.2.3. Thay đổi nồng độ IL-13 theo mức độ kiểm soát
Trong đáp ứng viêm ở bệnh nhân HPQ, IL-13 có vai trò chính trong tái
tạo lại đường thở: tăng tế bào nội mô phế quản, tăng sản tế bào chế tiết hình
trụ làm tăng tạo chất nhầy, gây tắc nghẽn đường thở, hậu quả là gây tắc nghẽn
đường thở cố dịnh và gây HPQ dai dẳng, mạn tính [41]. Do đó kiểm soát
viêm đường thở làm giảm IL-13 góp phần chính vào dự phòng tắc nghẽn
đường thở cố định ở bệnh nhân, dự phòng nguy cơ đợt cấp trong tương lại.
Kết quả ở những bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
sau cả 1, 2 và 3 tháng nồng độ trung bình IL-13 ở các bệnh nhân được kiểm
soát tốt giảm rõ rệt so với các bệnh nhân không kiểm soát và kiểm soát 1
phần, đặc biệt ở tháng thứ 3 (1,6 pg/ml so với 2,26 pg/ml và 1,93 pg/ml với p
120
< 0,05). Như vậy là có sự giảm tương ứng của nồng độ IL-13 huyết thanh với
mức độ được kiểm soát ở các bệnh nhân sau 3 tháng điều trị.
Tsilogianni Z. và CS (2015) nghiên cứu trên 217 bệnh nhân HPQ thấy
nồng độ IL-13 trong đờm ở mức 156 pg/ml có giá trị tiên đoán hen không
kiểm soát [141]. Lee Y.C và CS (2016) nghiên cứu nồng độ IL-13 trong huyết
thanh bệnh nhân HPQ thấy IL-13 giảm nhanh sau điều trị và tương ứng với
mức kiểm soát tốt (p < 0,001) [70]. Walsh G.M (2013) thấy nồng độ trung
bình IL-13 tăng ở trong dịch phế quản của bệnh nhân HPQ không đáp ứng
điều trị với ICS và giảm rõ rệt ở những bệnh nhân đáp ứng tốt với ICS [40].
Rael E.L. và CS (2011) nghiên cứu các mẫu sinh thiết phế quản của bệnh
nhân HPQ đáp ứng và kháng corticosteroid một tuần điều trị ICS, kết quả cho
thấy thấy nồng độ IL-13mRNA trong tế bào giảm ở nhóm đáp ứng
corticosteroid và mức giảm tương quan với cải thiện các triệu chứng trên lâm
sàng, ở nhóm HPQ kháng corticosteroid, nồng độ IL-13mRNA trong tế bào
không thay đổi và không được cải thiện các triệu chứng trên lâm sàng [41].
Nghiên cứu của Woodruff P.G. và CS (2009) khi phân tích mức biểu hiện của
các cytokine trên các mảnh sinh thiết thu được đồng thời từ 48 bệnh nhân (14
đối tượng HPQ được kiểm soát tốt, 18 bệnh nhân HPQ kiểm soát 1 phần và
16 bệnh nhân HPQ không được kiểm soát), thấy nồng độ IL-13 có mối tương
quan với các mức kiểm soát HPQ trên lâm sàng (r = 0,58, p < 0,0001) [140].
Janeva E.J. và CS (2015) ở những bệnh nhân điều trị phối hợp ICS và LABA
có kiểm soát bệnh tốt hơn, tương ứng với nồng độ IL-13 huyết thanh giảm rõ
rệt sau 6 tháng so với trước điều trị (252,21 ± 427,23 pg/ml so với 1028,21 ±
621,02 pg/ml với p < 0,001) [2]. Trong một nghiên cứu khác của Joseph J. và
cs (2004) cho kết quả nồng độ IL-13 trong huyết thanh của bệnh nhân HPQ
trước điều trị ICS là 6,72 pg/ml, cao hơn đáng kể so với nhóm người bình
thường (6,72 pg/ml so với 3,09 pg/ml) (p < 0,001), nhưng chưa thấy sự thay
đổi nồng độ IL-13 trong huyết thanh bệnh nhân HPQ sau sử dụng ICS (p =
121
0,8) [75]. Theo Sahid El Radhi A. và CS (2000) khi nghiên cứu trên mô hình
động vật và trên người đã cho thấy IL-13 trong huyết thanh và đờm như là các
mục tiêu quan trọng trong điều trị kiểm soát hen, do vậy việc theo dõi nồng độ
IL-13 trong huyết thanh ở bệnh nhân HPQ có thể giúp dự báo kiểm soát HPQ
được hiệu quả hơn [135].
4.2.2.4. Thay đổi nồng độ TNF-α theo mức độ kiểm soát
TNF-α đóng một vai trò quan trọng trong cơ chế viêm trong HPQ: làm
tăng đáp ứng của phế quản và tái tạo lại đường thở. Các thuốc kháng TNF-α đã
được áp dụng trong điều trị HPQ, đặc biệt trong HPQ nặng và HPQ khó trị.
Kết quả ở những bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
sau cả 1, 2 và 3 tháng nồng độ trung bình TNF-α huyết thanh ở các bệnh nhân
được kiểm soát giảm rõ rệt so với các bệnh nhân không kiểm soát và kiểm
soát 1 phần, đặc biệt ở tháng thứ 3 (0,1 pg/ml so với 0,16 pg/ml và 1,0 pg/ml
với p < 0,05). Như vậy có sự giảm tương ứng của nồng độ TNF-α huyết thanh
với mức độ được kiểm soát ở các bệnh nhân sau 3 tháng điều trị.
Nhìn chung các nghiên cứu đều cho thấy nồng độ TNF-α trong huyết
thanh ở bệnh nhân HPQ giảm sau điều trị ICS và tương ứng với mức độ kiểm
soát: Basyigit I. và CS (2004) nghiên cứu biến đổi nồng độ TNF-α huyết
thanh trên 45 bệnh nhân HPQ sau 12 tuần điều trị ICS nồng độ trung bình
TNF-α ở nhóm HPQ có tăng bạch cầu E và không tăng bạch cầu E đều giảm
so với trước điều trị và tương ứng với HPQ được kiểm soát [76]. Trong một
nghiên cứu khác các tác giả thấy nồng độ TNF-α huyết thanh giảm một nửa
sau điều trị ICS liều cao và giảm nhiều hơn rõ rệt so với nhóm bệnh nhân
không dùng ICS (p < 0,01) [78]. Nghiên cứu của Woodruff P.G. và CS
(2009), khi phân tích mức biểu hiện của TNF-α trên các mảnh sinh thiết ở
bệnh nhân HPQ thấy nồng độ TNF-α có mối tương quan chặt với các mức
kiểm soát HPQ trên lâm sàng (r = 0,58, p < 0,0001) [140]. Ren J. và CS
(2018) khi nghiên cứu 199 bệnh nhân HPQ được điều trị bằng ICS thấy nồng
122
độ TNF-α trong huyết thanh giảm rõ rệt ở bệnh nhân được kiểm soát tốt
[142]. Berry M.A. và CS (2006) cho rằng ICS làm giảm sản xuất TNF-α,
giảm tần xuất các đợt cấp của bệnh rõ rệt [77]. Trong các nghiên cứu in vitro
cho thấy điều trị ICS làm giảm sản xuất TNF-α, nhưng không ảnh hưởng đến
hoạt động của chúng [77].
Theo Russo C. và CS (2005) ở những bệnh nhân HPQ điều trị ICS,
nồng độ TNF-α trong dịch phế quản và trong mảnh sinh thiết phế quản giảm ở
những bệnh nhân HPQ nhẹ và vừa, nhưng không giảm ở những bệnh nhân
nặng và kháng với corticosteroid [43]. Sobande P.O. và CS (2008) cho rằng
ICS ngăn cản một cách hiệu quả quá trình viêm ở đường thở ở hầu hết bệnh
nhân HPQ thông qua giảm tổng hợp cytokines nói chung trong đó có TNF-α
[7]. Nhiều tác giả coi TNF-α như là các mục tiêu quan trọng trong điều trị
kiểm soát HPQ [136].
Tóm lại: Các kết quả trên bệnh nhân nghiên cứu cho thấy nồng độ IL-5,
IL-13 và TNF-α huyết thanh giảm song song với tình trạng HPQ được kiểm
soát trên lâm sàng.
4.2.3. Phân tích hồi quy đa biến liên quan giữa biến đổi nồng độ các
cytokine huyết thanh với mức độ kiểm soát sau 3 tháng điều trị
Phân tích hồi quy đa biến mối liên quan giữa biến đổi nồng độ các
cytokine huyết thanh với mức độ kiểm soát sau 3 tháng ở các bệnh nhân,
chúng tôi nhận thấy:
- Có mối tương quan giữa sự giảm nồng độ IL-5, IL-13, TNF-α so với trước điều
trị với mức độ kiểm soát tốt ở bệnh nhân sau 3 tháng: đối với IL-5: OR= 9,46, p
= 0,029, 95%CI: 0,78-113,69; đối với IL-13: OR = 4,33, p = 0,035, 95%CI:
0,25-74,31; đối với TNF-α: OR = 0,24, p = 0,015, 95%CI: 0,04 - 12,73.
- Có mối tương quan giữa sự tăng nồng độ IL-5, IL-13, TNF-α so với
trước điều trị với mức độ kiểm soát 1 phần và không kiểm soát ở bệnh
nhân sau 3 tháng:
123
+ Mức độ kiểm soát 1 phần: đối với IL-5: OR = 0,17, p = 0,025,
95%CI: 0,013-2,24; đối với IL-13: OR = 2,2, p = 0,027, 95%CI: 0,53 - 9,15;
đối với TNF-α: OR = 0,26, p = 0,032, 95%CI: 0,02-3,02.
+ Mức độ không kiểm soát: đối với IL-5: OR = 0,21, p = 0,02, 95%CI:
0,01-2,67; đối với IL-13: OR = 0,1, p = 0,02, 95%CI: 0,006 - 1,87; đối với
TNF-α: OR = 0,02, p = 0,04, 95%CI: 0,002 - 2,7.
Kết quả của chúng tôi tương đồng với các tác giả Akiki Z. và CS (2017)
khi phân tích mô hình logistic trên 283 bệnh nhân HPQ người lớn thấy có mối
liên quan rõ rệt giữa thay đổi nồng độ IL-5, IL-13 và TNF-α với các mức kiểm
soát hen trên lâm sàng sau điều trị kiểm soát bằng ICS [143]. Sudha S. và CS
(2017) trong một nghiên cứu phân tích trên 20 bệnh nhân HPQ thấy có sự
tương quan giữa IL-5 và IL-13 với HPQ được kiểm soát tốt (r = 0,419, p < 0,01
và r = 0,864, p < 0,001) [130]. Brown K.R. và CS (2017) thấy có mối liên quan
giữa nồng độ IL-13 với HPQ không được kiểm soát và HPQ được kiểm soát
với OR = 0,71; 95% CI = 0,51 - 0,97; p = 0,04 [120].
Brown K.R. và CS (2017), khi phân tích 235 bệnh nhân HPQ thấy không
có mối liên quan giữa nồng độ IL-5 và TNF-α với HPQ không kiểm soát và
được kiểm soát với kết quả tương ứng: OR =1,33; 95%CI = 0,82-2,22; p = 0,25
và OR =1.02; 95%CI] = 0,46 - 2.23; p = 0,96 [120]. Mohamed Y. và CS (2014)
trong một nghiên cứu khác khi phân tích trên 170 bệnh nhân HPQ, tác giả cũng
không thấy mối tương quan giữa IL-13 và TNF-α với HPQ được kiểm soát trên
lâm sàng (r = 0,102, p = 0,6 và r = 0,052, p = 0,45) và giữa IL-5 với HPQ được
kiểm soát tốt (r = 0,104, p = 0,5) [144]. Sự khác nhau trong các kết quả nghiên
cứu có thể được giải thích là đối tượng nghiên cứu và kiểu hình của bệnh nhân
khác nhau, do vậy cần lưu ý vấn đề này khi điều trị kiểm soát [10]. Như vậy kết
quả nghiên cứu trên bệnh nhân cho thấy có mối liên quan giữa giảm nồng độ
IL-5, IL-13, TNF-α với mức độ HPQ được kiểm soát tốt, ngược lại tăng nồng
độ IL-5, IL-13, TNF-α có liên quan đến mức độ HPQ không kiểm soát và kiểm
soát 1 phần.
124
KẾT LUẬN
Qua kết quả nghiên cứu biến đổi lâm sàng, thông khí phổi, mức độ
kiểm soát và một số cytokine huyết thanh ở 66 bệnh nhân HPQ được điều trị
kiểm soát bằng ICS và LABA trong 3 tháng tại Trung dị ứng Miễn dịch lâm
sàng - Bệnh viện Bạch Mai, chúng tôi đưa ra một số kết luận sau:
1. Biến đổi lâm sàng, thông khí phổi và mức độ kiểm soát sau 3 tháng:
- Sau điều trị kiểm soát 3 tháng bệnh nhân có diễn biến tốt về lâm sàng:
+ Tỷ lệ bệnh nhân không có cơn ban ngày và ban đêm tăng lên theo
thời gian điều trị kiểm soát, lần lượt là (27,3%, 80,3% và 78,8% và 42,4%,
83,3% và 84,8%).
+ Giảm tỷ lệ hen mức độ nặng: Tỷ lệ hen bậc I tăng rõ rệt sau 1, 2 và 3
tháng điều trị kiểm soát với tỷ lệ lần lượt là: 33,3%, 80,3% và 84,8%.
+ Tỷ lệ bệnh nhân có điểm ACT: 25 điểm tăng rõ rệt sau 1, 2, 3 tháng
điều trị kiểm soát với tỷ lệ lần lượt là: 27,3%, 80,3%, 74,2% .
- Biến đổi thông khí phổi và số lượng bạch cầu E:
+ Sau 3 tháng điều trị các chỉ số thông khí phổi VC, FVC, FEV1 FEV1/
FVC, FEF25%- 75%, PEF, và FEF25%, FEF50%, FEF75% đều tăng rõ rệt theo các
mức độ kiểm soát (p < 0,05).
12% ở nhóm kiểm soát tốt cao hơn rõ rệt so với nhóm không kiểm soát
+ Sau 3 tháng điều trị kiểm soát, tỷ lệ bệnh nhân tăng FVC, FEV1 ≥
(67,9% và 88,68% so với 14,29% và 42,86%) (p < 0,05).
+ Tỷ lệ bệnh nhân có số lượng bạch cầu E bình thường tăng rõ rệt sau 2
và 3 tháng điều trị, lượt là (68,2% và 84,8%). Có 94,3% bệnh nhân có bạch
cầu E trở về bình thường được kiểm soát hen tốt sau 3 tháng điều trị (p<0,05).
- Biến đổi mức độ kiểm soát:
125
+ Số bệnh nhân được kiểm soát tăng dần sau 1, 2, 3 tháng điều trị, lần
lượt tương ứng với các tỷ lệ 30,3%, 80,3% và 80,3%.
+ Sau 3 tháng điều trị, bậc hen giảm rõ rệt tương ứng theo mức độ kiểm
soát (p < 0,001).
+ Sau 3 tháng điều trị, có mối liên quan giữa những người béo phì với
mức độ hen không được kiểm soát (OR=0,05; p = 0,01; %CL= 0,006 - 0,46)
2. Biến đổi nồng độ IL-4, IL-5, IL-13, TNF-α huyết thanh theo mức độ
kiểm soát:
- Biến đổi nồng độ IL-4, IL-5, IL-13, TNF-α huyết thanh theo thời gian điều
trị kiểm soát:
+ Tỷ lệ bệnh nhân có giảm nồng độ IL-5, IL-13, TNF-α huyết thanh sau
3 tháng chiếm đa số (95,5%, 97%, 93,94%).
+ Nồng độ trung bình IL-5, IL-13 và TNF-α huyết thanh sau 3 tháng
điều trị đều giảm rõ rệt so với trước điều trị (0,075 pg/ml, 1,6 pg/ml, 0,1
pg/ml so với 4,2 pg/ml, 11,97 pg/ml, 8,77 pg/ml) (p < 0,05).
- Biến đổi nồng độ IL-4, IL-5, IL-13, TNF-α huyết thanh theo mức độ kiểm soát:
+ Sau 3 tháng điều trị kiểm soát, nồng độ trung bình IL-5 huyết thanh ở
bệnh nhân được kiểm soát tốt giảm rõ rệt so với bệnh nhân không kiểm soát
và kiểm soát 1 phần (p < 0,05).
+ Sau 1, 2, 3 tháng điều trị kiểm soát, nồng độ trung bình IL-13 và
TNF-α huyết thanh ở bệnh nhân được kiểm soát giảm rõ rệt so với bệnh nhân
không kiểm soát và kiểm soát 1 phần (p < 0,05).
- Có mối liên quan giữa sự giảm nồng độ IL-5, IL-13, TNF-α so với trước
điều trị với mức độ được kiểm soát và mối liên quan giữa sự tăng nồng độ IL-
5, IL-13, TNF-α so với trước điều trị với mức độ kiểm soát 1 phần và không
kiểm soát ở bệnh nhân sau 3 tháng.
126
KIẾN NGHỊ
Từ kết quả nghiên cứu chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau:
- Biến đổi lâm sàng, thống khí phổi và mức độ kiểm soát ở bệnh nhân
điều trị kiểm soát bằng ICS và LABA theo hướng dẫn của GINA đạt hiệu quả
rõ rệt từ tháng 2 và 3, do vậy cần quan tâm đánh giá kết quả kiểm soát ở tháng
thứ 2 và 3 trên các bệnh nhân.
- Nồng độ IL-5, IL-13 và TNF-α huyết thanh biến đổi song song với
mức độ kiểm soát, do vậy ngoài đánh giá bằng biến đổi các triệu chứng lâm
sàng, các thống số thông khí phổi có thể đánh giá thêm biến đổi nồng độ IL-5,
IL-13, TNF-α huyết thanh trong theo dõi đáp ứng điều trị kiểm soát ở bệnh
nhân HPQ khi nơi điều trị có điều kiện xét nghiệm.
127
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Giang Nam, Tạ Bá Thắng, Nguyễn Văn Đoàn (2019). Biến đổi
một số cytokine huyết thanh ở bệnh nhân hen phế quản điều trị kiểm soát
theo GINA sau 3 tháng. Tạp chí y học Việt Nam, 483 (2): 40-43.
2. Nguyen Giang Nam, Tạ Ba Thang, Nguyen Van Đoan (2019). Evaluate
the results of asthma control by ICS and LABA according to GINA.
Journal of Military Pharmaco medicine, 44 (8): 166-172.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ môn Nội Hô hấp, Học viện Quân y (2012). Bệnh hô hấp dùng cho
sau đại học, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 13 - 41.
2. Janeva E.J., Goseva Z., Gjorchev A., et al. (2015). The Effect of
Combined Therapy ICS - LABA and ICS - LABA plus Montelukast in
Patients with Uncontrolled Severe Persistent Asthma Based on the
Serum IL-13 and FEV1. Open Access Macedonian Journal of Medical
Sciences. 3 (2): 268-272.
3. Yıldız F. (2013). Factors influencing asthma control: results of a real-life
prospective observational asthma inhaler treatment (ASIT) study.
Journal of Asthma and Allergy, 36 (9): 693–101.
4. Nguyễn Văn Đoàn, Trần Thuý Hạnh (2011). Nghiên cứu thực trạng Hen
phế quản ở Việt Nam năm 2009 – 2011, Đề tài khoa học công nghệ cấp
bộ, 1-100.
5. Hội Lao và Bệnh Phổi Việt Nam (2015). Hướng dẫn quốc gia xử trí hen
và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 34 - 185.
6. GINA(2014). Global strategy for asthma management and prevention.
www.ginasthma.org.
7. Sobande P.O., Kercsmar C.M (2008). Inhaled Corticosteroids in Asthma
Management. Respir, 53 (5): 652 - 633.
8. Pavord Ian D., Mathieson N., Scowcroft A., et al. (2017). The impact of
poor asthma control among asthma patients treated with inhaled
corticosteroids plus long-acting β2-agonists in the United Kingdom: a
cross-sectional analysis. NPJ Primary Care Respiratory Medicine,
27(5):17-19.
9. Martinovic M. (2013). News in the pathophysiology of asthma.
Vojnosanit Pregl, 70 (8): 768–772.
10. Barnes P.J. (2003). Pathophysiology of asthma. Eur Respir Mon, 23(13):
84- 103.
11. Bagnasco D., Ferrando M., Varricchi G., et al. (2016). A Critical
Evaluation of Anti-IL-13 and Anti-IL-4 Strategies in Severe Asthma. Int
Arch Allergy Immunol, 170: 122-131.
12. Hosoki K., Ying S., Corrigan C., et al. (2019). Analysis of a Panel of 48
Cytokines in BAL Fluids Specifically Identifies IL-8 Levels as the Only
Cytokine that Distinguishes Controlled Asthma from Uncontrolled
Asthma, and Correlates Inversely with FEV1. PloS ONE, 10(5):
e0126035.
13. Seys S., Grabowski M., Adriaensen W., et al. (2013). Sputum cytokine
mapping reveals an “IL-5, IL-17A, IL-25-high” pattern associated with
poorly controlled asthma. Clin. Exp. Allergy J.Br. Soc. Allergy Clin.
Immunol, 43 (9): 1009-1017.
14. Tsilogianni Z., Bakakos P., Papaioannou A.I., et al. (2015). Sputum
interleukin (IL)-13 as a biomarker for the evaluation of asthma control.
Clin. Transl. Allergy, 5: 09.
15. Akiki Z., Rava M., Gil O.D., Pi I. (2017). Serum cytokine profiles as
predictors of asthma control in adults from the EGEA study. Respiratory
Medicine, 125: 57-64.
16. Norzila M.Z., Fakes K., Henry R.L., et al. (2000). Interleukin - 8
secretion and neutrophil recruitment accompanies induced sputum
eosinophil activation in children with acute asthma. Am J Respir Crit
Care Med, 161 (3 Pt 1): 769-774.
17. GINA (2018). Global Strategy for Asthma Management and Prevention.
Revised 2018. Available from: http://www.ginasthma.org.
18. Bateman E.D., Hurd S.S., Barnes P.J., et al. (2008). Global strategy for
asthma management and prevention: GINA executive summary.
European Respiratory Journal, 31: 143-178.
19. To T., Stanojevic S., Moores G., et al. (2012). Global asthma prevalence
in adults: findings from the cross-sectional world health survey. BMC
Public Health, 12: 204.
20. Gold L.S., Thompson P., Salvi S., et al. (2014). Level of asthma control
and health care utilization in Asia-Pacific countries. Respiratory
Medicine, 108: 271- 277.
21. Rabe K.F., Adachi M., Lai C.K., et al. ( 2004). Worldwide severity and
control of asthma in children and adults: the global asthma insights and
reality surveys. The Journal of Allergy and Clinical mmunology, 114 (1):
40-47.
22. GINA (2019). Global strategy for asthma management and prevention.
Revised 2019. Available from: http://www.ginasthma.org.
23. Nguyễn Văn Đoàn (2013). Hiểu biết mới về một số bệnh dị ứng và tự
miễn, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 50 - 112.
24. Tamm M., Richards D.H., Begh B., et al. (2012). Inhaled corticosteroid
and long-acting β2-agonist pharmacological profiles: effective asthma
therapy in practice. Respiratory Medicine, 106 (S1): 9-19.
25. GINA (2006). Global strategy for asthma management and prevention.
National Institutes of health, National Heart, Lung, and Blood Institute.
26. Dương Quý Sỹ (2016). Sổ tay hướng dẫn xử trí và kiểm soát hen phế
quản, Tài liệu dựa trên sáng kiến toàn cầu về hen phế quản, 1 - 16.
27. GINA (2012). Global strategy for asthma management and prevention.
NHLBI/WHO Workshop Report, NIH Publication.
28. GINA (2015). Pocket Guidefor Asthma Management and Prevention.
www.ginasthma.org.
29. Tonnela A.B., Schlattera J. (2010). Control of asthma in 2010. J Fran
Viet Pneu, 01 (01): 19-22.
30. Braido F (2013). Failure in Asthma Control: Reasons and Consequences.
Scientifica (Cairo), Article ID 549252: 1-15.
31. Nguyễn Thanh Hồi (2015). Thực hành đo chức năng thông khí phổi và
một số vấn đề liên quan. Nhà xuất bản y học, Hà Nội, 1 - 200.
32. Agostini C., Saetta M., Gianpietro F. (2010). Lymphocytes Chapter 12.
Asthma and COPD, 23(3): 119 – 128.
33. Tạ Bá Thắng (2002). Nghiên cứu mối liên quan giữa mức độ lâm sàng,
thông khí phổi và một số chỉ tiêu miễn dịch trong đợt cấp của hen phế
quản người lớn, Luận án tiến sỹ Y học, Hà Nội, 1-120.
34. Bagnasco D., Ferrando M., Varricchi G., et al. (2016). A Critical
Evaluation of Anti-IL-13 and Anti-IL-4 Strategies in Severe Asthma. Int
Arch Allergy Immunol, 170: 122-131.
35. Đỗ Khắc Đại, Nguyễn Đặng Dũng, Nguyễn Ngọc Tuấn và CS (2017).
Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật hấp phụ miễn dịch vi hạt huỳnh quang
trong phát hiện đồng thời nhiều cytokine. Tạp chí Y dược học Quân sự,
3(3): 17-23.
36. Vũ Thị Minh Thục, Đái Duy Ban (2009). Cytokine phân tử và ứng dụng
điều trị lâm sàng, Nhà xuất bản Y học , Hà Nội, 1-30.
37. Kips J.C. (2001). Cytokines in asthma. Eur Respir J;18: Suppl, 34: 24s-
33s.
38. Mahajan S., Mehta A.A. (2006). Role of Cytokines in Pathophysiology
of Asthma. Razi Institute for Drug Research (RIDR) IJPT 5: 1-14.
39. Vatrella A., Calabrese C., Maselli R., et al. (2014). Dupilumab: a novel
treatment for asthma. Journal of Asthma and Allergy, 7: 123-130.
40. Walsh G.M. (2013). An Update on Biologic-based Therapy in Asthma.
Immunotherapy, 5 (11):1255-1264.
41. Rael E.L., Lockey R.F. (2011). Interleukin -13 Signaling and Its Role in
Asthma. WAO Journal, 4: 54 - 64.
42. WillsKarp M., Chiaramonte M. (2010). Interleukin -13 in Asthma. Curr
Opin Pulm Med, 9 (1): 21-7.
43. Russo C., Polosa R. (2005). TNF-α as a promising therapeutic target in
chronic asthma.Clinical Science, 109: 135-142.
44. Van den Berg N.J., Ossip M.S., Hederos C.A., et al. (2017).
Salmeterol/Fluticasone propionate (50/100mg) in combination in Diskus
inhaler (Seretide) is effective and safe in children with asthma. Pediatr
Pulmonol, 30 (2): 97-105.
45. Bergmann K.C., Lidemann L., Braun R., et al. (2004). Salmeterol -
Fluticasone propionate (50/250 mcg) combination is superoir to double
dose Fluticasone (500mcg ) for the treatment of symptomatic moderate
asthma. Swiss Med Wkly, 134 (4): 50-58.
46. Woodcock A.A., Boonsawat W., Bagdonas A., et al. (2007).
Improvement in asthma endpoints when aiming for total control:
salmeterol/fluticasone propionate versus fluticasone propionate alone.
Primary Care Respiratory Journal, 16 (3): 155-161.
47. Markham A., Jarvis B. (2016). Inhaledsalmeterol/fluticasone propionate
combination: a review of its use in persistent asthma. Adis International
Limited, Auckland, New Zealand, 60(5): 1207-1233.
48. Pearlman D.S., Stricker W., Weinstein S., et al. (2017). Inhaled
salmeterol and fluticasone: a study comparing monotherapy and
combination therapy in asthma. Ann Allergy Asthma Immunol, 82 (3):
257-265.
49. Li H.T., Zhang T.T., Zhou H., et al. (2007). Combination therapy with
the single inhaler salmeterol/fluticasone propionate versus increased
doses of inhaled corticosteroids in patients with asthma. Respiration, 74
(1): 33-43.
50. Frois C., Wu E.Q., Ray S., et al. (2009). Inhaled corticosteroids or long-
acting β-agonists alone or in fixed-dose combinations in asthma
treatment: Asystematic review of fluticasone/budesonide and
formoterol/salmeterol. Clinical Therapeuti, 31 (12): 2779-2803.
51. Ohwada A., Inami K., Onuma E., et al (2011). Bronchial reversibility
with a short-acting β2-agonist predicts to the FEV1 response
administration of a long-acting β2-agonist with inhaled corticosteroids in
patients with bronchial asthma. Exp Ther Med. Jul-Aug, 2(4): 619–623.
52. Verberne A.A., Van den Berg N.J., Van Nierop J.C., et al. (2010).
Combination Therapy Salmeterol/Fluticasone versus Doubling Dose of
Fluticasone in Childrenwith Asthma. Am J Respir Crit Care Med, 182:
1221-1227.
53. Lee M.S., Kao J.K., Lee C.H., et al. (2014). Correlations Between
Pulmonary Function and Childhood Asthma Control Test Results in 5 -
11-year-old Children with Asthma. Pediatrics and Neonatology, 55:
218-224.
54. Dương Quý Sỹ (2017). Sổ tay hướng dẫn xử trí và kiểm soát hen phế
quản, Tài liệu dựa trên sáng kiến toàn cầu về hen phế quản, 1 - 30.
55. Kelly H.W. (2009). Comparison of Inhaled Corticosteroids. Ann
Pharmacother, 43(3): 519-527.
56. Elkout H., McLay J.S., Simpson C.R., et al. (2010). A retrospective
observational study comparing rescue medication use in children on
combined versus separate long-acting β-agonists and corticosteroids.
Arch Dis Child, 95 (10): 817-21.
57. Aalbers R., Vogelmeier C., Kuna P. (2015). Achieving asthma control
with ICS-LABA: A review of strategies for asthma management and
prevention. Respir Med Feb,111: 1-7.
58. Nguyễn Văn Đoàn (2013). Bước đầu đánh giá hiệu quả lâm sàng và kinh
tế của điều trị kiểm soát hen phế quản bằng Seretide (Salmeterol/
Fluticasone). Công trình nghiên cứu khoa học Bệnh viện Bạch Mai, Nhà
xuất bản Y học, 1-2.
59. Vũ Thị Hồng (2015). Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và mức độ kiểm
soát hen phế quản theo GINA 2015 tại khoa khám bệnh, bệnh viện đại
học y hải phòng. Tạp chí Y học thực hành số, 914(4): 23-26.
60. Nguyễn Hoàng Phương (2018). Điều trị hen phế quản dị ứng do dị
nguyên dermatophagoides pteronyssinus bằng liệu pháp miễn dịch đặc
hiệu đường dưới lưỡi, Luận án tiến sỹ Y học, Hà Nội, 1-130.
61. Lê Văn Nhi (2010). Đánh giá mức độ kiểm soát hen phế quản bằng bảng
trắc nghiệm ACT. Y học TP Hồ Chí Minh, 14 (phụ bản 2): 232 - 238.
62. Nguyen V.N., Niels Chavannes N., Le L.T., et al. (2012). The Asthma
Control Test (ACT) as an alternative tool to Global Initiative for Asthma
(GINA) guideline criteria for assessing asthma control in Vietnamese
outpatients. Prim Care Respir J, 21 (1): 85-89.
63. Ghanname I., Chaker A., Cherkani Hassani A., et al. (2018). Factors
associated with asthma control: MOSAR study (Multicenter
Observational Study of Asthma in Rabat-Morocco). Apr, 24;18 (1): 61.
64. Kebede B., Mamo G., Molla A (2019). Association of Asthma Control
and Metered-Dose Inhaler Use Technique among Adult Asthmatic
Patients Attending Outpatient Clinic, in Resource-Limited Country: A
Prospective Study. Canadian Respiratory Journa, Article ID 6934040:
1-6.
65. Kotsimbos A.T., Hamid Q. (2013). IL-5 and IL-5 receptor in asthma.
Mem inst oswaldo cruz, 92 (Suppl 2): 75-91.
66. Shahid S.K., Kharitonov S.A., Wilson N.M., et al. (2002). Increased
interleukin 4 and decreased interferon gamma in exhaled breath
condensate of children with asthma. Am J Respir Crit Care Med, 165
(9): 1290 -1293.
67. Chi C.H., Liao J.P., Zhao Y.N., et al. (2016). Effect of Inhaled
Budesonide on Interleukin 4 and Interleukin 6 in Exhaled Breath
Condensate of Asthmatic Patients. Chinese Medical Journal, 129: 819 –
23.
68. Matsunaga K., Ichikawa T., Yanagisawa S., et al. (2009). Clinical
application of exhaled breath condensate analysis in asthma: Prediction
of FEV1 improvement by corticoid therapy. Respiration, 78: 393-398.
69. Carpagnano G.E., Foschino Barbaro M.P., Resta O., et al. (2005).
Exhaled markers in the monitoring of airways inflammation and its
response to corticosteroids treatment in mild persistent asthma. Eur J
Pharmacol, 519: 175 - 81.
70. Lee Y.C., Lee K.H., Lee H.B., et al. (2016). Serum Levels of
Interleukins (IL)-4, IL-5, IL-13, and Interferon-γ in Acute Asthma. J
Asthma. Dec, 38 (8): 665-71.
71. Robroeks C.M., Van de Kant K.D., Jöbsis Q., et al. (2017). Exhaled
nitric oxide and biomarkers in exhaled breath condensate indicate the
presence, severity and control of childhood asthma. Clin Exp
Allergy. Sep, 37 (9): 1303-11.
72. Wang K., Liu C.T., Wu Y.H., et al. (2011). Effects of formoterol-
budesonide on airway remodeling in patients with moderate asthma,
Acta Pharmacologica Sinica, 32: 126-132.
73. Robinson D.S., Durham S.R., Kay A.B., et al. (2015). Cytokines in
asthma. Thorax, 48: 845 - 853.
74. Joseph J., Benedict S., Safa W., et al. (2004). Serum interleukin 5 levels
are elevated in mild and moderate persistent asthma irrespective of
regular inhaled glucocorticoid therapy. BMC Pulmonary Medicine,17(4):
1-4.
75. Joseph J., Benedict S., Al-sowaidi S., et al. (2004). Serum Interleukin -
13 Levels Are Elevated In Mild And Moderate Persistent Asthma. The
Internet Journal of Asthma, Allergy and Immunology, 4(2): 1-7.
76. Basyigit I., Yildiz F., Ozkara S.K., et al (2004). Inhaled corticocorticoid
effects both eosinophilic and non-eosinophilic inflammation in asthmatic
patients. Mediators of Inflammation, 13 (4): 285-291.
77. Berry M.A., Hargadon B., Shelley M., et al. (2006). Evidence of a Role
of Tumor Necrosis Factor alpha in Refractory Asthma. N Engl J Med,
354: 697-708.
78. Waserman S., Dolovich J., Conway M., et al. (2000). TNF-alpha
dysregulation in asthma: relationship to ongoing corticocorticoid
therapy. Can Respir J, 7 (3): 229-237.
79. National Heart Lung and Blood Institute (2007). Guidelines for the
Diagnosis and Management of Asthma. NIH Item No, 3(2): 8 - 70.
80. Đỗ Quyết, Đồng Khắc Hưng (2009). Các kỹ thuật chẩn đoán điều trị
bệnh hô hấp, Nhà xuất bản Y học, 52 - 59.
81. Kleiner G., Marcuzzi A., Zanin V., et al. (2013). Cytokine Levels in the
Serum of Healthy Subjects. Mediators of Inflammation, Article
ID 434010: 1-6.
82. Hsu J.Y., Vua S.L., Kuo B.I., et al. (2018). Age of onset and the
characteristics of asthma. Aug, 9 (3): 369-72.
83. Sears M.R., Greene J.M., WillanA.R., et al. (2003). A Longitudinal,
Population-Based, Cohort Study of Childhood Asthma Followed to
Adulthood. The New England Journal of Medicine, 349: 1414-22.
84. Huỳnh Anh Kiệt, Lê Thị Tuyết Lan (2013). Sự tương quan giữa mức độ
kiểm soát hen phế quản theo ACT và chất lượng cuộc sống liên quan
sức khoẻ theo AQLQ (S). Y học TP Hồ Chí Minh, Chuyên đề Nội I, 17
(Phụ bản số 1): 137 - 141.
85. Tô Mỹ Hương, Raffard M. (2011). Kết quả thử nghiệm với dị nguyên hô
hấp trên bệnh nhân hen phế quản tại TP Hồ Chí Minh Việt Nam. J Fran
Viet Pneu, 02 (05): 76 - 80.
86. Bhat A.C., Vishnu Sharma M., Harsha D.S., et al (2016). Is There A
Relation Between Gender and Age of Onset of Asthma With Severity of
Asthma - A Study of 181 Cases. Indial Journal of Applied Research, 79:
96.
87. Howrth P (2016). Quan hệ nhân quả giữa hen và viêm mũi dị ứng. Hội
thảo khoa học tại TP Hồ Chí Minh: 1-10.
88. Holguin F., Bleecker E., Busse W., et al. (2011). Obesity and asthma: an
association modified by age of asthma onset. J Allergy Clin Immunol,
June, 127(6): 1486-1493.
89. Chu Thị Cúc Hương (2008). Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, thông khí
phổi ở bệnh nhân hen phế quản điều trị tại bệnh viện Bạch Mai, Tạp chí
Y học Việt Nam, 224 (2): 12-14.
90. Reed C.E. (2019). The natural history of asthma in adults: the problem
of irreversibility. The Journal of Allergy & Clinical Immunology, 103
(4): 539-547.
91. Mohanan S., Tapp H., McWilliams A., et al. (2014). Obesity and
asthma: Pathophysiology and implications for diagnosis and
management in primary care. Experimental Biology and Medicine, 239:
1531-1540.
92. Baruwa P., Sarmah K.R. (2013). Obesity and asthma. Jan-Mar, 30(1):
38-46.
93. Mirabelli M.C., Beavers S.F., Chatterjee A.B., et al. (2013). Age at
asthma onset and subsequent asthma outcomes among adults with active
asthma. Respiratory Medicine, 107: 1829-1836.
94. Vũ Thị Mai (2007). Nghiên cứu về sự thay đổi về lâm sàng, thông khí
phổi trong điều trị kiểm soát hen phế quản bằng seretide, Tạp chí Y học
Việt Nam,114 (3): 16-18.
95. Neffen H., Fritscher C., Cuevas Schacht F., et al. (2005). Asthma control
in Latin America: the Asthma Insights and Reality in Latin America
(AIRLA) survey. Rev Panam Salud Publica, 17(3): 191-7.
96. Kalolella A.B (2016). Sleeping position and reported night-time asthma
symptoms and medication. Pan African Medical Journal, 24(59): 19-37.
97. Bùi Thị Hương, Bùi Văn Dân, Hoàng Thị Lâm (2016). Đánh giá mức
độ kiểm soát hen bằng ACT đối với bệnh nhân câu lạc bộ hen bệnh viện
đại học Y Hà Nội. Tạp chí nghiên cứu Y học, 99 (1): 25-32.
98. Demoly P., Gueron B., Annunziata K., et al. (2010). Update on asthma
control in five European countries: results of a 2008 survey. Eur Respir
Rev, 116 (19): 150-157.
99. Bener A., Ehlayel M.S., Hamid Q., et al. (2015). The impact of anemia
and hemoglobin level as a risk factor for asthma and allergic diseases.
Indian J Allergy Asthma Immunol, 29 (2): 72-8.
100. Lê Thị Thu Hương (2017). Nghiên cứu biến đổi một số tế bào viêm và
cytokine trong máu ngoại vi ở trẻ em hen phế quản, Luận án tiến sỹ Y
học, Đại học Y khoa Hà Nội, 1- 150.
101. Nguyễn Diệu Thuý (2015). Nghiên cứu đáp ứng viêm trong máu ngoại
vi ở trẻ em hen phế quản. Hội nghị khoa học hen dị ứng - Miễn dịch lâm
sàng toàn quốc lần thứ hai, 1-6.
102. Lê Thị Hồng Hanh (2011). Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng
và vai trò nhiễm virus hô hấp trong đợt cấp hen phế quản trẻ em, Luận
án tiến sỹ Y học, Học viện Quân y, Hà Nội, 1- 146.
103. Shehata I.H., Mostafa M.M., Ziada K.W., et al. (2017). Role of IL-13 in
the pathogenesis of bronchial asthma.The Egyptian Journal of
Immunology, 14 (2): 19-27.
104. Nguyễn Minh Sang (2016). Hen tăng và không tăng bạch cầu ái toan.
Chuyên đề Hô hấp số 10 (2): 14 - 20.
105. Birajdar G., Amey Paranjape A., Nagavekar M., et al. (2017). Study of
Pulmonary Function Test in Bronchial Asthma Patients. IOSR Journal of
Dental and Medical Sciences, 16(6): 74-77.
106. Lama M., Chatterjee M., Nayak C.R., et al. (2011). Increased
interleukin-4 and decreased interferon-gamma levels in serum of
children with asthma. sep, 55 (3): 335-8.
107. Bentley A.M., Hamid Q., Robinson D.S., et al. (2016). Prednisolone
treatment in asthma. Reduction in the numbers of eosinophils, T cells,
tryptase-only positive mast cells, and modulation of IL-4, IL-5, and
interferon-gamma cytokine gene expression within the bronchial
mucosa. Am J Respir Crit Care Med, 153 (2): 551-556.
108. Agache I., Ciobanu C., Agache C., et al. (2010). Increased serum IL-17
is an independent risk factor for severe asthma. Respiratory Medicine,
104 (16): 1131-1137.
109. Khổng Thị Ngọc Mai (2011). Nghiên cứu thực trạng hen phế quản ở học
sinh tiểu học - trung học cơ sở Thành phố Thái Nguyên và hiệu quả kiểm
soát hen bằng ICS và LABA, Luận án tiến sỹ Y học, Đại học Y dược
Thái Nguyên, 1 - 108.
110. Strand A.M., Luckow A. (2004). Initiation of maintenance treament of
persistent asthma: Salmeterol-Fluticasone propionate combination
treatment is more effective than inhaled corticoid alone. Respiratory
Medicine, 98: 1008-1015.
111. Yatera K., Yamasaki K., Nishida C., et al. (2014). Real-world effects of
two inhaled Corticocorticoid/ Long-acting β₂-agonist combinations in
the treatment of asthma. J Asthma Sep, 51 (7): 762-8.
112. Bateman E.D., Bousquet J., Keech M.L., et al. (2007). The correlation
between asthma control and health status: the GOAL study.European
Respiratory Journal, 29: 56-63.
113. Claman D.M., Boushey H.A., Liu J., et al. (2017). Analysis of induced
sputum to examine the effects of prednisone on airway inflammation in
asthmatic subjects. J Allergy Clin Immunol, 94: 861-9.
114. Pizzichini M.M., Pizzichini E., Clelland L., et al. (1997). Sputum in
severe exacerbations of asthma: kinetics of inflammatory indices after
prednisone treatment. Am J Respir Crit Care Med, 155 (5): 1501-
1508.
115. Alenz F.Q., Alanazi F.B., Faim A.A., et al. (2013). The role of
eosinophils in asthma, 5 (2A): 339-343.
116. ElBaroudy N.R. (2012). Effect of inhaled corticoids on pulmonary function
parameters, and thymocyte activation-regulated chemokine levels in
asthmatic children. Faculty of Medicine Cairo University, 32(2): 1-2.
117. Kerwin E.M., Nathan R.A., Meltzer E.O., et al. (2008). Efficacy and
safety of Fluticasone propionate/ Salmeterol 250/50 mcg Diskus
administered once daily. Respiratory Medicine, 102: 495-504.
118. Opimakh S.G. (2014). Lung ventilation evaluation in patients with
uncontrolled asthma. UDC, 616: 24-007.
119. Gallucci M., Carbonara P., Pacilli A.M.G., et al. (2019). Use of
Symptoms Scores, Spirometry, and Other Pulmonary Function Testing
for AsthmaMonitoring. Front Pediatr, 7: 54.
120. Brown K.R., Krouse R.Z., Calatroni A., et al. (2017). Endotypes of
difficult-to-control asthma in inner-city African American children.
PLoS ONE, 12 (7): 780-788.
121. Lange P., Barnes P.J, Vestbo J., et al. (2000). The course of pulmonary
function in adults with asthma: The osterbro study. Ugeskr. Lacger, 162
(4): 487-490.
122. Ostrom N.K., Decotiis B.A., Lincourt W.R., et al. (2015). Comparative
efficacy and safety of low-dose fluticasone propionate and montelukast
with persistent asthma. J Pediatrics, 147(2): 213-220.
123. Melosini L., Dente L.F., Bacci E., et al. (2012). Asthma Control Test
(ACT): Comparison with Clinical, Functional, and Biological Markers
of Asthma Control. Journal of Asthma, 49: 317-323.
124. Adachi M., Hozawa S., Nishikawa M., et al. (2018). Asthma control and
quality of life in a real-life setting: a cross-sectional study of adult asthma
patients in Japan (ACQUIRE-2). Journal of asthma, 56 (9): 1016-1025.
125. Price D., Fletcher M., Van der Molen T., et al. (2014). Asthma control and
management in 8,000 European patients: the REcognise Asthma and Link
to Symptoms and Experience (REALISE) survey. NPJ Prim Care Respir
Med, 24:14009.
126. O’Byrne P.M., Bisgaard H., Godard P.P., et al. (2005). Budesonide/
Formoterol Combination Therapy as Both Maintenance and Reliever
Medication in Asthma. Am J Respir Crit Care Med, 171: 129-136.
127. Ngô Quý Châu (2011). Bệnh hô hấp, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 190-
202.
128. Nelson H.S., Busse W.W., Kerwin E., et al. (2000). Fluticasone
propionate/salmeterol combination provides more effective asthma
control than low-dose inhaled corticocorticoid plus montelukast. J
allergy clin immunol, 106 (6): 1088-95.
129. Maspero J., Guerra F., Cuevas F., et al (2018). Efficacy and tolerability
of salmeterol/fluticasone propionate versus montelukast in childhood
asthma: Aprospective, randomized, double-blind, double-dummy,
parallel-group study. Clin Ther, 30 (8): 1492-504.
130. Sudha S., Kejal J., Amol M., et al. (2017). Role played by Th2 type
cytokines in IgE mediated allergy and asthma, lung India. Apr-Jun,
27(2): 66–71.
131. Ross K.R., Hart M.A. (2013). Assessing the relationship between
obesity and asthma in adolescent patients:a review. Adolescent Health,
Medicine and Therapeutics, 4: 39-49.
132. Boulet L.P., Franssen E. (2007). Influence of obesity on response to
fluticasone with or without salmeterol in moderate asthma. Respiratory
Medicine, 101: 2240 - 2247.
133. Novosad S., Khan S., Wolfe B., et al. (2013). Role of Obesity in Asthma
Control, the Obesity-Asthma Phenotype. Journal of Allergy, 24(53): 1 -
9.
134. Leung T.F., Wong G.W., Ko F.W., et al. (2017). Analysis of growth
factors and inflammatory cytokines in exhaled breath condensate from
asthmatic. Int Arch Allergy Immunol, 137 (1): 66-72.
135. Sahid El Radhi A., Hogg C.L., Bungre J. K., et al. (2000). Effect of oral
glucocorticoid treatment on serum inflammatory markers in acute
asthma. Arch Dis Child, 83 (2): 158-162.
136. Renauld J.C. (2001). New insights into the role of cytokines in asthma.
JClin Pathol, 54 (8): 577-589.
137. Greenfeder S., Umland S.P., Cuss F.M., et al. (2001). Th2 cytokines and
asthma. The role of interleukin -5 in allergic eosinophilic disease. Respir
Res, 2: 71-79
138. Nakamura Y., Suzuki R., Mizuno T., et al. (2016). Therapeutic
implication of genetic variants of IL-13 and STAT4 in airway
remodeling with bronchial asthma. Clinical & Experimental Allergy, 46:
1152-1161.
139. AlDaghri N.M., Alokail M.S., Draz HM., et al. (2014). Th1/Th2
cytokine pattern in Arab children with severe asthma. Int J Clin Exp
Med, 7 (8): 2286-2291.
140. Woodruff P.G., Modrek, Choy., et al. (2009). T-helper Type 2 - driven
Inflammation Defines Major Subphenotypes of Asthma, Am J Respir
Crit Care Med, 180: 388-395.
141. Tsilogianni Z., Bakakos P., Papaioannou AI., et al. (2015). Sputum
interleukin (IL)-13 as a biomarker for the evaluation of asthma control.
Clin. Transl. Allergy, 5: 09.
142. Ren J., Sun Y., Li G., et al. (2018). Tumor necrosis factor-α, interleukin-
8 and eosinophil cationic protein as serum markers of glucocorticoid
efficacy in the treatment of bronchial asthma. Respir Physiol Neurobiol.
pii, 258: 86-90.
143. Akiki Z., Rava M., Gil O.D., et al. (2017). Serum cytokine profiles
predictors of asthma control in adults from the EGEA study. Respiratory
Medicine, 125: 57-64.
144. Mohamed Y., Howida M. (2014). Role played by T-helper 2 in resetting
the cytokine balance in allergic patients. The Egyptian Society of
Internal Medicine, 26: 124–129.
145. Chung KF (2017). A Severe Asthma Disease Signature from Gene
Expression Profiling of Peripheral Blood from U-BIOPRED Cohorts.
Am J Respir Crit Care Med, 195 (10): 1311–1320.
146. Burke W., Fesinmeyer M., Reed K., et al. (2003). Family History as a
Predictor of Asthma Risk. Am J Prev Med, 24 (2): 160-169.
147. AL Jahdali H.H., AL Jahdali A.I., AL Oltaibi S.T., et al. (2007).
Perception of the role of inhaled corticosteroids and factors affecting
compliance among asthmatic adult patients. Saudi Med J, 28 (4): 569-
573.
148. Gupta P.R. (2015). Addition of LABA to Low dose ICS in asthma-Is it
justified. Journal of Respiratory Medicine Research and Treatment.
http://www.ibimapublishing.com/journals.
149. Quinto K.B., Zuraw B.L., Poon K.Y., et al. (2015). The association of
obesity and asthma severity and control in children. The Journal of
Allergy and Clinical Immunology, 128 (5): 964-969.
PHỤ LỤC
Ngày vào Ngày ra Họ và tên STT Giới Nam Nữ
PHỤ LỤC 1. DANH SÁCH BỆNH NHÂN NGHIÊN CỨU TẠI TRUNG TÂM DỊ ỨNG MIỄN DỊCH LÂM SÀNG - BỆNH VIỆN BẠCH MAI Mã lƣu trữ J45/34 39 30/04/2014 01/05/2014 1 Trịnh Thị Ph
2 Vũ Thị H 24 10/04/2014 11/04/2014 J45/97
3 Nguyễn Thị Ph 61 04/01/2015 13/01/2015 J45/02
4 Duy Thị H 32 15/04/2014 16/04/2014 J45/25
5 Phạm Thị H 36 24/02/2014 27/02/2014 J45/100
6 Nguyễn Cẩm T 35 14/04/2014 23/04/2014 J45/07
7 Nguyễn Bá L 25/03/2015 27/03/2015 J45/120 39
8 Bùi Kim B 58 18/06/2014 26/06/2014 J45/30
9 Lương Hoàng V 11/01/2015 15/01/2015 J45/75 16
10 Nguyễn Văn Kh 23/11/2014 28/11/2014 J45/220 38
11 Nguyễn Xuân Th 09/05/2014 11/05/2014 J45/72 21
12 Nguyễn Thanh T 16/03/2015 18/03/2015 J45/13 26
13 Bùi Thị Thuý H 33 12/04/2015 14/04/2015 J45/133
14 Trần Minh H 03/01/2015 07/01/2015 J45/109 73
15 Phạm Thị Q 29 29/01/2015 03/02/2015 J45/123
16 Lê Thị Hồng V 72 12/06/2014 20/06/2014 J45/55
17 Lê Thị V 38 13/05/2014 26/05/2014 J45/137
18 Hoàng Thị Ng 69 25/03/2014 28/03/2014 J45/74
19 Nguyễn Thị Đ 31 17/05/2015 20/05/2015 J45/136
20 Nguyễn Văn M 27/03/2014 07/04/2014 J45/81 58
21 Phạm Thị Th 43 24/04/2014 09/05/2014 J45/120
22 Phạm Tiến Đ 07/05/2014 09/05/2014 J45/62 20
23 Nguyễn Thị Ph 34 03/08/2014 08/08/2014 J45/173
24 Đoàn Thị Phương H 46 19/08/2014 27/08/2014 J45/156
25 Bạch Thị H 24 09/05/2014 14/05/2014 J45/156
26 Tô Hữu K 25/03/2015 31/03/2015 J45/117 34
27 Nguyễn Thị H 24 03/01/2015 07/01/2015 J45/130
28 Vũ Văn Th 29/05/2015 30/05/2015 J45/33 32
29 Nguyễn Thị V 38 22/03/2015 26/03/2015 J45/138
30 Hoàng Viễn Ph 10/05/2015 13/05/2015 J45/98 38
31 Nguyễn Văn Ph 30/05/2014 05/06/2014 J45/54 30
32 Nguyễn Thị M 61 10/02/2015 14/02/2015 J45/131
33 Nguyễn Văn Ph 04/01/2016 04/02/2016 J45/21 72
34 Nguyễn Quốc V 28/12/2015 06/01/2015 H110/10 65
35 Phạm Phương L 26 15/01/2016 19/01/2016 J45/23
36 Hà Thị Th 27 10/01/2016 15/01/2016 L53/72
37 Trịnh Thị L 52 04/03/2016 08/03/2016 J45/10
38 Nguyễn Thị O 41 27/02/2016 08/03/2016 J45/33
39 Nguyễn Thị T 77 19/01/2016 40/02/2016 J45/31
40 Phạm Đức H 31 10/03/2016 25/03/2016 J45/13
41 Nguyễn Thị M 58 07/03/2016 21/03/2016 J45/20
42 Nguyễn Văn L 72 08/03/2016 21/03/2016 J45/15
43 Phạm Thị Tr 55 17/03/2016 23/05/2016 M32/291
44 Lê Thị T 50 24/03/2016 01/04/2016 M32/344
45 Phạm Thị Bích L 54 22/03/2016 04/04/2016 J45/58
46 Phạm Thị Khánh L 17 28/03/2016 06/04/2016 J45/46
47 Lê Thị L 59 05/04/2016 12/04/2016 J45/56
48 Đỗ Thị L 54 13/04/2016 07/05/2016 E50/49
49 Phan Thị Th 68 25/06/2016 29/06/2016 J45/95
50 Trần Quốc T 20/04/2016 27/04/2016 J45/64 49
69 51 Nguyễn Văn Ch 25/02/2016 02/03/2016 J45/34
39 52 Trần Đức D 26/04/2016 28/04/2016 J45/83
53 Lê Thị X 59 11/03/2016 16/03/2016 M32/386
54 Nguyễn Thị L 57 02/05/2016 12/05/2016 J45/75
55 Vũ Thị M 59 01/05/2016 04/05/2016 L53/92
56 Nguyễn Thị Ph 79 03/05/2016 17/05/2016 J45/108
57 Nguyễn Thị H 45 05/05/2016 17/05/2016 J45/36
58 Ngô Cao Đ 36 23/07/2014 25/07/2014 J45/142
59 Nguyễn Thị Ánh Ng 24 28/05/2016 31/05/2016 J45/63
60 Ngô Thị T 40 08/04/2016 13/04/2016 J45/43
61 Hoàng Thị Th 50 25/04/2016 27/04/2016 J45/05
62 Hà Thị M 62 04/11/2015 10/11/2015 J45/218
63 Nguyễn Thị Nh 24 07/04/2016 14/04/2016 J45/57
64 Trần Xuân Kh 65 17/02/2016 02/03/2016 J45/17
65 Ngô Thị Ch 50 30/06/2015 02/07/2015 J45/54
66 Mai Văn B 53 24/06/2016 28/06/2016 J45/80
Hà Nội, ngày 27 tháng 9 năm 2019
PHÒNG KHTH BỆNH VIỆN BẠCH MAI
4
PHỤ LỤC 2: TEST ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ
KIỂM SOÁT HPQ (ACT)
Câu 1. Trong 4 tuần qua, bao nhiêu ngày bệnh hen làm cho bạn phải
nghỉ làm, nghỉ học hay nghỉ tại nhà?
Hầu Không Tất cả Một số Chỉ một hết các có ngày 5 2 3 4 các ngày 1 ngày ngày ngày nào
Câu 2. Trong 4 tuần vừa qua, bạn có thường gặp cơn khó thở không ?
> 1 = 1 Không 3 - 6 1 - 2 lần/ lần/ có lần 5 4 3 2 1 lần/ tuần lần/tuần ngày ngày nào
Câu 3.Trong 4 tuần vừa qua, bạn bị đánh thức ban đêm hay phải dạy
sớm do các triệu chứng của hen như ho, khò khè, khó thở, nặng ngực?
Không 2 - 3 > 4 1 1 - 2 có lần lần/ 5 4 3 2 1 lần/tuần lần/ tuần lần/tháng nào tuần
Câu 4. Trong 4 tuần vừa qua, bạn có phải sử dụng thuốc cắt cơn dạng
xịt, hít, hay khí dung không?
2 - 3 Không 1 - 2 > 3 1 lần/ có lần lần/ 5 4 1 3 2 lần/ngày lần/tuần tuần nào ngày
Câu 5. Bạn đánh giá bệnh hen của bạn được kiểm soát như thế nào
trong 4 tuần qua?
Không Kiểm Kiểm soát Kiểm Kiểm soát kiểm soát tạm được soát tốt hoàn toàn 4 5 3 2 1 soát (rất kém (tạm được) (tốt) (rất tốt) kém) (kém)
PHỤ LỤC 3. BỆNH ÁN NGHIÊN CỨU
Số vào viện: Số lƣu trữ: Mã số phiếu:
1. Dưới 60 1. Nam: 2. ≥ 60 2. Nữ:
I. THÔNG TIN CÁ NHÂN 1.1. Họ và tên.................................................................................................... 1.2. Tuổi:...... 1.3. Giới: ...... 1.4. Địa chỉ hiện tại: Xóm,Tổ..................................... Xã, Phường................... Huyện, Quận..........................................Tỉnh, Thành phố................................. 1.5. Nghề nghiệp............................................................................................... 1.6. Ngày vào viện………………………….1.7. Ngày ra viện………………
Không
Có Thời gian:......năm Không
1. TIỂN SỬ 1.1. Bản thân - Thời gian mắc bệnh:………………………………………………………… - Mắc các bệnh dị ứng khác: Có (......................) Thời gian: .....năm - Hút thuốc: - Bệnh kết hợp: .................................................................................................... - Thông số BMI:.. ................................................................................................
1.2. Gia đình - Mắc các bệnh dị ứng khác: Có ……………............Thời gian: ....năm Không Có .................................Thời gian:....năm - Hen phế quản Không
1.3. Tiền sử điều trị: - Số lần nhập viện - Số lần nhập HSCC - Điều trị dự phòng: + Không điều trị + Thường xuyên + Không thường xuyên
2. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG
Thời gian Bắt đầu Sau 1 Sau 2 Sau 3
điều trị tháng tháng tháng Dấu hiệu
Cân nặng
Sốt (0C)
Ho
Khạc đờm
Nhẹ
Khó Trung bình thở Nặng
Tức ngực
Tần số thở (l/ p)
Tần số tim (l/ p)
Ran ở phổi
Mức độ cơn
Số TC/tháng
Số TC/tuần
Số TC về đêm
Giai đoạn
Tím niêm mạc
Nhiễm trùng hô hấp
Huyết áp (mmHg)
Điểm ACT
KS theo GINA
3. XÉT NGHIỆM
3.1. Chức năng hô hấp
Thời gian Bắt đầu Sau 1 Sau 2 Sau 3
Chức năng HH điều trị tháng tháng tháng
VC
FVC
FEV1
FEV1/FVC
FEF25-75%
PEF
FEF25%
FEF50%
FEF75%
3.2. Xét nghiệm máu
Thời gian Sau 3 Bắt đầu Sau 1 Sau 2
tháng XN máu điều trị tháng tháng
HC (T/l)
HGB (g/l)
BC (G/l)
N%
E%
B%
M%
L%
PLT(G/l)
3.3. Đánh giá nồng độ các Cytokine
Thời gian
Sau 3 tháng Cytokine Bắt đầu điều trị Sau 1 tháng Sau 2 tháng
IL - 4 pg/ml
IL - 5 pg/ml
IL - 13 pg/ml
pg/ml TNF-
4. TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN KHI ĐIỀU TRỊ
Thời gian Bắt đầu Sau Sau Sau
điều trị 1 tháng 2 tháng 3 tháng Tác dụng
Khàn tiếng
Nấm họng
Khác
Ngày….tháng…năm .....
Xác nhận của cán bộ hƣớng dẫn Ngƣời điều tra