ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
---------------------
PHI THỊ HƯƠNG
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO VẬT LIỆU PEROVSKITE ĐỊNH HƯỚNG
ỨNG DỤNG LÀM ĐIỆN CỰC CHO PIN NHIÊN LIỆU
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Hà Nội - Năm 2018
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
---------------------
PHI THỊ HƯƠNG
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO VẬT LIỆU PEROVSKITE ĐỊNH HƯỚNG
ỨNG DỤNG LÀM ĐIỆN CỰC CHO PIN NHIÊN LIỆU
Chuyên ngành: Vật lý chất rắn
Mã số: 60440104
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VIỆT TUYÊN
Hà Nội - Năm 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung tôi đã trình bày trong luận văn này là kết
quả nghiên cứu của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn của các thầy, cô giáo trong khoa
Vật lý trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội, các thầy cô
tại bộ môn Vật lý chất rắn và đặc biệt là thầy giáo TS. Nguyễn Việt Tuyên. Nội
dung của luận văn này không trùng lặp với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác.
Hà Nội, tháng 12 năm 2018
Học viên
Phi Thị Hương
LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới thầy giáo TS. Nguyễn Việt
Tuyên, PGS.TS. Nguyễn Hoàng Nam và Cô giáo Trần Thị Hà đã định hướng,
tận tình giúp đỡ, chỉ bảo và đưa ra những lời khuyên thẳng thắn, thiết thực để em có
thể hoàn thành luận văn này.
Em xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô, các anh chị và các bạn ở Bộ môn Vật
lý Chất rắn và Trung tâm Khoa Học Vật liệu – Khoa Vật lý - Trường Đại Học Khoa
Học Tự Nhiên đã nhiệt tình giúp đỡ cũng như đã tạo điều kiện về cơ sở vật chất tốt
nhất cho em trong quá trình làm thực nghiệm để hoàn thiện luận văn này.
Em cũng xin cảm ơn các bạn sinh viên Phạm Thùy Linh - K59-Vật lý quốc
tế, Trần Thị Uyên - K60 Sư phạm vật lý và Lã Hạnh Nguyên - K60 Vật lý chuẩn -
Khoa Vật lý - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội là các
cộng sự đã luôn giúp đỡ em trong quá trình làm luận văn.
Cuối cùng em xin chúc quý thầy, cô trong Khoa Vật lý nói chung, Bộ môn
Vật lý Chất rắn nói riêng và đặc biệt là thầy giáo TS. Nguyễn Việt Tuyên dồi dào
sức khỏe, niềm tin để thực hiện sứ mệnh trồng người cao đẹp.
Các nghiên cứu trong luận văn này được được tài trợ bởi Đại học Quốc gia
Hà Nội trong đề tài mã số QG.17. 11.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 12 năm 2018
Học viên thực hiện
Phi Thị Hương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ PIN NHIÊN LIỆU OXIT RẮN VÀ VẬT
LIỆU PEROVSKITE ỨNG DỤNG LÀM CATOT TRONG PIN NHIÊN
LIỆU RẮN ........................................................................................................ 4
1.1. Sơ lược về pin nhiên liệu oxit rắn ............................................................................... 4
1.1.1. Nguyên lý hoạt động của SOFC………………………………………………...9
1.1.2. Thành phần của pin nhiên liệu oxit rắn………………………………………..11
1.2. Vật liệu perovskite ứng dụng làm catot trong pin nhiên liệu .................................... 20
1.2.1. Một vài tính chất vật lý của vật liệu perovskite ứng dụng làm catot………….20
1.2.2. Vật liệu catot trên nền LaMnO3……………………………………………….23
1.2.3. Phương pháp chế tạo vật liệu perovskite ứng dụng làm catot trong pin nhiên liệu……………………………………………………………………………………23
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM ......................................... 30
2.1 Chế tạo vật liệu LaMnO3pha tạp Sr (La1-xSrxMnO3) và Ba (La1-xBaxMnO3) ..... 30
2.1.1. Quy trình chế tạo LaMnO3 (LMO)…………………………………………….30
2.1.2. Quy trình chế tạo La1-xSrxMnO3 (LSMx) và La1-xBaxMnO3 (LBMx)…………31
2.2. Ép viên bột La1-xSrxMnO3 ......................................................................................... 33
2.3. Các phương pháp khảo sát và phân tích ................................................................... 34
2.3.1. Khảo sát cấu trúc vật liệu - Phương pháp nhiễu xạ tia X (XRD)……………...34
2.3.2. Khảo sát hình thái vật liệu - Kính hiển vi điện tử quét (SEM)………………..35
2.3.3. Phân tích thành phần mẫu - Phổ tán sắc năng lượng tia X (EDS)…………….36
2.3.4. Khảo sát tính chất điện của mẫu – Phương pháp đo điện trở bề mặt 4 mũi dò..37
2.3.5. Khảo sát độ xốp của mẫu - Phương pháp Arschimet………………………….38
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VA THẢO LUẬN. ................................................. 46
3.1. Vật liệu LaMnO3 (LMO) .......................................................................................... 46
3.1.1. Cấu trúc của vật liệu LMO…………………………………………………….46
3.1.2. Thành phần mẫu LMO………………………………………………………...47
3.2. Vật liệu LSMx với x = 0.2, 0.3, 0.4 và 0.5. .............................................................. 47
3.2.1. Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu LSMx………………………………………...47
3.2.2 Phổ tán sắc năng lượng của mẫu LSMx………………………………………..52
3.2.3. Ảnh kính hiển vi điện tử quét LSMx…………………………………………..54
3.2.4. Độ xốp của LSMx……………………………………………………………..55
3.2.5. Tính chất điện của LSMx……………………………………………………...55
3.3. Vật liệu LBMx với x = 0.2 ........................................................................................ 56
3.3.1. Khảo sát cấu trúc của LBM0.2………………………………………………….56
3.3.2. Phân tích thành phần mẫu LBM0.2…………………………………………….57
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 60
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
Bảng 3. 1: Các thông số hằng số mạng và kích thước tinh thể của mẫu LSMx với x
= 0,2, 0.3 và 0.4. ................................................................................................... 51
Bảng 3. 2: Thành phần các nguyên tố của các mẫu LSMx với các tỉ lệ x khác nhau. ..... 54
Bảng 3. 3: Bảng thành phần nguyên tố trong mẫu LMB0.2. ................................... 57
Hình 1. 1: Pin nhiên liệu điện phân polymer. .......................................................... 5
Hình 1. 2: Pin nhiên liệu kiềm. ............................................................................... 6
Hình 1. 3: Pin nhiên liệu axit photphoric. ............................................................... 7
Hình 1. 4: Pin nhiên liệu cacbon nóng chảy. ........................................................... 8
Hình 1. 5: Pin nhiên liệu oxit rắn. ........................................................................... 8
Hình 1. 6: Sơ đồ nguyên lý hoạt động của SOFC. ................................................ 10
Hình 1. 7: Biên ba pha tại cực dương của SOFC. ................................................. 12
Hình 1. 8: Biên ba pha tại catot của SOFC. .......................................................... 14
Hình 1. 9: Các cơ chế dẫn cho phản ứng tại catot. ................................................ 15
Hình 1. 10: Tốn hao phân cực khi giảm nhiệt độ của LSM (a) và LSCF (b). ........ 16
Hình 1. 11: Cấu trúc perovskite lý tưởng dạng lập phương ABO3 ........................ 21
Hình 1. 12: Sơ đồ Quy trình chế tạo mẫu bằng phương pháp kích nổ vi sóng ...... 28
Hình 2. 1: Sơ đồ quy trình chế tạo LMO bằng phương pháp kích nổ vi sóng. ...... 30
Hình 2. 2: Sơ đồ quy trình chế tạo LSMx bằng phương pháp kích nổ vi sóng. ..... 31
Hình 2. 3: Sơ đồ quy trình chế tạo LBMx bằng phương pháp kích nổ vi sóng. .... 32
Hình 2. 4: Sơ đồ quy trình ép viên mẫu LSMx. ..................................................... 33
Hình 2. 5: Máy đo nhiễu xạ tia XD5005 của hãng Siemens, Trung tâm Khoa học
Vật liệu, Khoa Vật lý, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên. ................................. 35
Hình 2. 6: Kính hiển vi điện tử quét SEM JMS 5410 của hãng Jeol, Trung tâm
Khoa học Vật liệu - Khoa Vật lý - Trường Đại học Khoa Học Tự Nhiên. ............ 36
Hình 2. 7: Sơ đồ đo độ xốp bằng phương pháp phun thủy ngân. .......................... 39
Hình 2. 8: Sơ đồ đo độ xốp bằng phương pháp giãn nở khí. ................................. 40
Hình 2. 9: Sơ đồ thiết lập hệ đo độ xốp bằng phuognw pháp Acsimet. ................. 42
Hình 2. 10: Hình ảnh minh họa các loại khối lượng trong Phương pháp Acsimet. 43
Hình 2. 11:Cân bằng lực trên mẫu bão hòa ngập trong nước. ............................... 44
Hình 3. 1: Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu LMO chế tạo bằng phương pháp kích
nổ vi sóng với tỉ lệ F = 3. ...................................................................................... 46
Hình 3. 2: Phổ tán sắc năng lượng tia X mẫu LMO với F = 3. .............................. 47
Hình 3. 3: Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu LSM0.4 chế tạo bằng phương pháp kích
nổ vi sóng với tỉ lệ F = 3. ...................................................................................... 48
Hình 3. 4:Giản đồ nhiễu xa tia X mẫu LSM0.4 chế tạo bằng phương pháp kích nổ
vi sóng với các tỉ lệ F khác nhau (F = 3, 4 và 5). .................................................. 49
Hình 3. 5: Giản đồ nhiễu xa tia X mẫu LSM0.4 chế tạo bằng phương pháp kích nổ
vi sóng với các tỉ lệ pha tạp x khác nhau (x = 0, 0.2, 0.3, 0.4 và 0.5). .................. 50
Hình 3. 6: Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu LSM0.2 trước và sau khi nung ở 700
°C. ......................................................................................................................... 51
Hình 3. 7: Phổ tán sắc năng lượng tia X của mẫu LSM0.2 ..................................... 52
Hình 3. 8: Phổ tán sắc năng lượng tia X của mẫu LSM0.3 ..................................... 53
Hình 3. 9: Phổ tán sắc năng lượng tia X của mẫu LSM0.4 ..................................... 53
Hình 3. 10: Ảnh SEM của các mẫu LSMx với x = 0.2, 0.3 và 0.4 tương ứng với
các hình a, b và c. .................................................................................................. 54
Hình 3. 11: Giản đồ nhiễu xạ tia X mẫu LBM0.2 ................................................... 56
BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Năng lượng hóa thạch NLHT
Năng lượng tái tạo NLTT
PEMFC Pin nhiên liệu điện phân Polymer
Pin nhiên liệu kiềm AFC
Pin nhiên liệu axit photphoric PAFC
Pin nhiên liệu cacbon nóng chảy MCFC
Pin nhiên liệu oxit rắn SOFC
Pin nhiên liệu FC
Pin nhiên liệu màng trao đổi bằng proton PEM
Hệ số dãn nở nhiệt TEC
Biên ba pha TPB
LMO LaMnO3
LSMx La1-xSrxMnO3: LaMnO3 pha tạp Sr với tỉ lệ x
LBMx La1-xBaxMnO3: LaMnO3 pha tạp Ba với tỉ lệ x
Nhiễu xạ tia X XRD
Kính hiển vi điện tử quét SEM
Phổ tán sắn năng lượng tia X EDS
MỞ ĐẦU
Một vài thế kỷ qua, năng lượng hóa thạch (NLHT: than đá, dầu mỏ) đã cung
cấp hơn 85% nhu cầu năng lượng cho sự vận hành nền kinh tế (nhu cầu về điện
năng, nhiệt năng, nhiên liệu, động cơ…). Tuy trữ lượng có hạn nhưng NLHT vẫn
còn đóng vai trò quyết định và giữ vị trí hàng đầu, kể cả trong thế kỷ 21. Các dự báo
về NLHT ngày cạn kiệt còn nhiều tranh cãi, song nhìn chung vẫn không đủ cung
cấp cho loài người đến hết thế kỷ.Trước nhu cầu năng lượng sử dụng ngày càng
tăng, loài người đã nghĩ đến việc tìm nguồn năng lượng thay thế cùng tồn tại song
song với NLHT trong thời gian tới. Một vấn đề nghiêm trọng khác là việc sử dụng
NLHT đã tạo ra một lượng lớn khí CO2 - loại khí hấp thụ năng lượng mặt trời và
làm biến đổi khí hậu trái đất. Nhiều năm qua, các nhà khoa học trên toàn thế giới đã
đầu tư công sức tìm kiếm nguồn năng lượng thay thế, hy vọng thay thế một phần và
tiến tới thay thế toàn bộ NLHT. Vào những năm 70 của thế kỷ trước đã bắt đầu có
những ứng dụng năng lượng tái tạo (NLTT) qui mô lớn, có khả năng thay thế từng
phần NLHT.Đến nay, các dạng NLTT như năng lượng mặt trời, năng lượng gió,
năng lượng biển được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn. Khó khăn lớn nhất của các
dạng năng lượng này là phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, nên khó chủ động trong
sản xuất và sử dụng. Để khắc phục nhược điểm đó, người ta đi tìm các phương pháp
tích trữ năng lượng, pin nhiên liệu là một sự lựa chọn để thay thế cho NLHT.
Trong những năm gần đây, pin nhiên liệu đã thực sự thu hút được nhiều sự
chú ý bởi chúng mang lại nhiều ứng dụng to lớn cho lĩnh vực nghiên cứu, đời sống
và xã hội. Nếu như thế kỉ thứ 19 được mệnh danh là thế kỉ của động cơ hơi nước và
thế kỉ thứ 20 là thế kỉ của động cơ đốt trong thì ta có thể nói thế kỉ thứ 21 sẽ là kỉ
nguyên của pin nhiên liệu. Pin nhiên liệu hiện nay đang dần được phổ biến trên thị
trường, dự đoán sẽ tạo nên cuộc cách mạng năng lượng trên thế giới trong tương lai.
Pin nhiên liệu có thể sử dụng hydrogen làm nhiên liệu, mang đến triển vọng cung
cấp cho thế giới một nguồn điện năng sạch và bền vững. Tương tự như ắc quy, pin
nhiên liệu là một thiết bị tạo ra điện năng thông qua cơ chế phản ứng điện hóa.
Điểm khác biệt nằm ở chỗ, pin nhiên liệu có thể tạo ra dòng điện liên tục khi có một
1
nguồn nhiên liệu cung cấp cho nó, trong khi đó ắc quy cần phải được nạp điện lại
sau một thời gian sử dụng. Vì thế mà pin nhiên liệu không chứa năng lượng bên
trong, nó chuyển hóa trực tiếp nhiên liệu thành điện năng, trong khi ắc quy cần phải
được nạp điện lại từ một nguồn bên ngoài. Hiện nay có rất nhiều loại pin nhiên liệu
khác nhau, trong đó có 5 loại pin nhiên liệu chính phân loại dựa theo chất điện
phân: PEMFC (chất điện phân là màng polymer trao đổi proton), AFC (chất điện
phân là dung dịch kiềm, thường dùng KOH), PAFC (chất điện phân là axit
phosphoric), MCFC (chất điện phân là muối carbonate nóng chảy),
SOFC (chất điện phân là oxit kim loại rắn) [6]. Đặc biệt đối với SOFC, đây là loại
pin nhiên liệu với giai đoạn phát triển lâu dài và liên tục bắt đầu từ cuối những năm
1950, trước AFC một vài năm. SOFC nổi trội với ưu điểm là cho hiệu suất sử dụng
cao, nhiên liệu sử dụng có độ an toàn cao hơn so với các nhiên liệu hóa thạch thông
thường mà chi phí cho nhiên liệu sử dụng lại tương đối thấp. Chính vì thế loại pin
này đã được các nhà khoa học tập trung nghiên cứu và đưa vào ứng dụng trong lĩnh
vực sản xuất, đặc biệt là sản xuất ôtô. Cấu tạo của SOFC khá đơn giản và rõ ràng
với 3 thành phần chính là hai điện cực catot (cực âm) – anot (cực dương) và một
chất điện phân nằm giữa hai điện cực [49]. Hiện nay vật liệu phổ biến nhất cho
SOFC là zirconia pha tạp yttri (YSZ), chứa 8% mol Y đóng vai trò là chất điện
xSrxMnO3- làm catot) [13, 60].
phân, một hợp chất composite gốm kim loại (gồm Ni + YSZ làm anot, và La1-
Công nghệ chế tạo vật liệu cho pin nhiên liệu chủ yếu là các phương pháp
truyền thống như: Phương pháp Sol-gel, đồng kết tủa, hóa siêu âm… Quy trình
chung của các công nghệ này là tạo ra phức hợp của các oxit sau đó xử lý nhiệt
nung ủ để hình thành pha perovskite. Vì thế, thời gian để chế tạo 1 mẫu perovskite
là khá lâu. Phương pháp kích nổ có thể hạn chế nhươc điểm này, với ưu điểm là thời
gian phản ứng nhanh và tạo ra vật liệu xốp và có độ đồng đều cao. Trong luận văn
này chúng tôi lựa chọn phương pháp kích nổ dưới sự hỗ trợ của vi sóng (phương
pháp kích nổ vi sóng) để chế tạo các vật liệu perovskite LMO và pha tạp một số ion
kim loại như Sr và Ba định hướng ứng dụng trong điện cực catot của pin nhiên liệu
oxit rắn.
2
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về pin nhiên liệu là hoàn toàn mới mẻ. Một số
nhóm nghiên cứu ở Khoa Vật lý trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc
gia Hà Nội hay Viện Khoa học Vật liệu, Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam nghiên
cứu tính chất của các loại vật liệu perovskite nhưng các nghiên cứu này tập trung ở
tính chất vật lý của vật liệu khối [16, 38, 54].
Chính vì thế chúng tôi lựa chọn đề tài của luận văn này là:”Nghiên cứu chế
tạo vật liệu perovskite định hướng ứng dụng làm điện cực cho pin nhiên liệu”, bố
cục của luận văn ngoài phần mở đầu gồm có:
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ PIN NHIÊN LIỆU OXIT RẮN VÀ VẬT LIỆU
PEROVSKITE ỨNG DỤNG LÀM CATOT TRONG PIN NHIÊN LIỆU RẮN
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP THỰC NHIỆM
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
KẾT LUẬN.
3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ PIN NHIÊN LIỆU OXIT RẮN VÀ VẬT LIỆU PEROVSKITE ỨNG DỤNG LÀM CATOT TRONG PIN NHIÊN LIỆU RẮN
1.1. Sơ lược về pin nhiên liệu oxit rắn
Pin nhiên liệu (FC) là thiết bị chuyển đổi trực tiếp năng lượng hóa học của
nhiên liệu thành điện năng, thông qua phản ứng điện hóa giữa nhiên liệu với chất
oxi hóa. Mặc dù về thành phần và đặc tính của FC tương tự như các loại pin thông
thường khác nhưng chúng có một vài sự khác biệt. Pin thông thường là 1 thiết bị
lưu trữ năng lượng, tuổi thọ của nó được quyết định bởi lượng chất hóa học phản
ứng được lưu bên trong pin đó, do đó khi phản ứng hóa học hết thì pin đó cũng
không sử dụng được nữa. Trong khi FC là thiết bị chuyển đổi năng lượng từ nhiên
liệu (hydrogen hoặc hydrocabon) và chất oxi hóa (thông thường là không khí hoặc
oxi). Khi FC hoạt động, nó không giống như các động cơ nhiệt, nó không bị cản trở
bởi Chu trình Carnot. Pin nhiên liệu không cần sạc định kỳ như các loại pin thông
thường, mà nó tạo ra dòng điện liên tục trong một khoảng thời gian dài khi được
cung cấp nhiên liệu. Vì thế hiệu suất chuyển đổi năng lượng của nó cao hơn. Lượng
khí thải ra môi trường thấp nên nó được coi là một nguồn năng lượng sạch và thân
thiện với môi trường [26, 27, 41].
Năm 1838, nhà khoa học người Đức Chrítian Friedrich Schonbein đã nêu ý
tưởng về một phản ứng nghịch của phản ứng Faraday là có thể sản xuất dòng điện
một chiều từ phản ứng kết hợp hydro và oxy mà không phải là phản ứng cháy.
Năm 1839 nhà khoa học tự nhiên người xứ Wales Sir William Robert Grove đã chế
tạo ra mô hình thực nghiệm đầu tiên của pin nhiên liệu.Mô hình đó bao gồm
hai điện cực platin được bao trùm bởi hai ống hình trụ bằng thủy tinh, một ống
chứa khí hiđrô và ống kia chứa khí ôxy. Hai điện cực được nhúng trong axít
sulfuric loãng là chất điện phân tạo thành dòng điện một chiều.
4
Năm 1959, nhà khoa hoc người Anh, Francis Thomas Bacon chế tạo thành
công FC với công suất 5 KW và đặt tên là Bacon cell. Đến nay, FC được sử dụng
vào nhiều mục đích khác nhau với công suất khác nhau. Có loại công suất nhỏ dùng
cho điện thoại di động, máy nghe nhạc, có loại công suất vừa để làm động cơ các xe
ôtô, hoặc có loại công suất lớn để sản xuất điện như một trạm phát điện độc lập cho
các nhu cầu cấp điện ở các vùng xa mạng điện quốc gia.
Pin nhiên liệu thường được phân loại theo chất điện phân và nhiệt độ hoạt
động. Dựa vào chất điện phân, FC được chia thành 5 loại chính như sau [13]:
Pin nhiên liệu điện phân Polymer (Polymer Electrolyte Fuel Cell - PEFC):
Trong PEFC, chất điện phân là một lớp polymer trao đổi proton H+. Chất
điện phân thường được dùng trong loại pin này là fluorinated sulphonic acid
polymer, chất điện phân này đã được thương mại hóa với tên là NAFION được phát
triển và phân phối bởi General Electric, USA. PEMFC sử dụng màng polymer rắn
làm chất điện giải nên giảm sự ăn mòn và dễ bảo dưỡng. Nhiệt độ hoạt động 50 ºC
– 80 ºC. Loại pin này được ứng dụng nhiều nhất trong các phương tiện vận tải vì
công suất lớn, nhiệt độ vận hành thấp và ổn định. Tuy nhiên, nhiên liệu tham gia
phản ứng phải có độ tinh khiết cao [49]. Sơ đồ cấu tạo của pin nhiên liệu điện phân
polymer được thể hiện như trên Hình 1. 1
Hình 1. 1: Pin nhiên liệu điện phân polymer.
5
Pin nhiên liệu kiềm (Alkaline Fuel Cell - AFC):
Chất điện phân sử dụng cho AFC chủ yếu là KOH được dùng trong chương
trình Không Gian Hoa Kỳ (NASA) từ năm 1960. Năng suất của AFC sẽ bị ảnh
hưởng rất nhiều nếu ô nhiễm. Do đó, AFC cần phải có hydro và oxy tinh khiết. Điện
cực sử dụng cho AFC thì có thể sử dụng rộng rãi hơn như: Ni, Ag, oxit kim loại,
kim loại quý... Nhiệt độ hoạt động từ 65 ºC đến 220 ºC. Thiết kế loại pin này rất tốn
kém cho nên không thể tung ra thị trường cạnh tranh với các loại pin nhiên liệu
khác mặc dù hiệu suất pin cao. Sơ đồ cấu tạo của pin nhiên liệu kiềm được thể hiện
trên Hình 1. 2.
Hình 1. 2: Pin nhiên liệu kiềm.
Pin nhiên liệu axit photphoric (Phosphoric Acid Fuel Cell - PAFC)
Trong pin nhiên liệu này, chất điện phân được sử dụng là axit phosphoric ở
nồng độ cao. Nhiệt độ hoạt động từ 150 ºC đến 220 ºC. Axit phosphoric có độ dẫn
6
ion thấp ở nhiệt độ thấp. Trong PAFC mạng lưới silicon được sử dụng để giữ chất
điện phân và graphit được sử dụng làm hai điện cực. Sơ đồ cấu tạo của pin nhiên liệu axit phosphoric được thể hiện như trên Hình 1. 3 với hạt tải là ion H+.
Hình 1. 3: Pin nhiên liệu axit photphoric.
Pin nhiên liệu carbonat nóng chảy (Molten carbonate fuel cell - MCFC):
Trong MCFC, chất điện phân thường được sử dụng là muối cacbonate của
kim loại kiềm (Li và K) nóng chảy và được giữ trong mạng lưới LiAlO2. Các muối
cacbonate của kim loại kiềm nóng chảy này hoạt động ở nhiệt độ từ 600 ºC đến 700 2- là ion dẫn. Khi hoạt động ở nhiệt độ cao, kim loại quý không ºC. Ion carbonat CO3
đáp ứng được yêu cầu của MCFC, cần sử dụng Ni (anot) và NiO (Catot) làm chất
điện cực để thúc đẩy quá trình điện hóa. MCFC thích hợp cho công nghệ lớn như
nhà máy phát điện, sử dụng hơi nước để chạy turbin. Pin hoạt động ở nhiệt độ cao
nên dễ bị ăn mòn và đánh thủng. Cấu tạo của MCFC được thể hiện trên Hình 1. 4.
7
Hình 1. 4: Pin nhiên liệu cacbon nóng chảy.
Pin nhiên liệu oxit rắn (Solid Oxide Fuel Cell - SOFC):
Như trong tên gọi của pin, SOFC sử dụng một oxit rắn làm vật liệu điện
phân. Nhiên liệu sử dụng cho SOFC có thể có nhiều loại nhiên liệu như hydro,
hyddro cacbon..., nhiệt độ hoạt động cao. Sơ đồ cấu tạo của pin nhiên liệu rắn được
thể hiện trên Hình 1. 5.
Hình 1. 5: Pin nhiên liệu oxit rắn.
8
Năng suất SOFC tương đối cao, có thể sử dụng hơi nước với sức ép cao nạp
vào turbin sản xuất thêm điện năng. SOFC không bị nhiễm độc bởi CO do không sử
dụng chất xúc tác Pt. Ở nhiệt độ cao, quá trình tách hydro ra khỏi nhiên liệu xảy ra
dễ dàng. Yêu cầu về sự tinh khiết đối với nhiên liệu thấp. Loại pin nhiên liệu này
rất thích hợp cho những công nghệ lớn như nhà máy phát điện.
Trong 5 loại pin nhiên liệu chính này mặc dù các nhà khoa học đã đạt được
nhiều thành tựu đáng kể trong những thập kỉ gần đây với các công nghệ pin nhiên
liệu khác nhau. Pin nhiên liệu kiềm có mật độ công suất lớn, nhưng phần lớn các
nhà khoa học cho là không thực tế do các pin loại này đòi hỏi phải loại bỏ hoàn toàn
CO2 khỏi nguồn nhiên liệu và chất oxy hóa để tránh xảy ra phản ứng với chất điện
phân và hình thành hợp chất kiềm carbonat rắn không dẫn điện. Pin nhiên liệu trên
cơ sở axit phosphoric, công nghệ dẫn đầu những năm 1990 gần như đã bị lãng quên
vì không có khả năng phát triển hơn để đạt được mật độ công suất lớn [26]. Do có
nhiệt độ hoạt động cao, các muối carbonat và pin nhiên liệu oxit rắn có khả năng
ứng dụng lớn nhất để làm các máy phát điện tĩnh. Tuy nhiên pin hoạt động trên cơ
sở muối carbonat gặp khó khăn trong việc đóng gói do nó chứa dung dịch điện phân
có tính chất ăn mòn. Đặc biệt, việc phân hủy NiO ở catốt và lắng đọng Ni ở anốt có
thể gây ra nối tắt qua chất điện phân. Do vậy SOFC là một trong những loại pin
nhiên liệu hứa hẹn nhất vì nó có thể chuyển hóa năng lượng hóa học của nhiên liệu
(khí gas sinh học, khí gas, hydro…) trực tiếp thành năng lượng điện với nhiều ưu
điểm như hiệu quả cao, ổn định lâu dài, linh hoạt, khí thải thấp, nhiên liệu linh hoạt
và chi phí tương đối thấp[9, 10].
1.1.1. Nguyên lý hoạt động của SOFC
Thông thường 1 SOFC bao gồm nhiều đơn lớp pin nhiên liệu xếp chồng lên
nhau. Một đơn lớp SOFC thường gồm 3 phần chính: điện cực oxi (Catot – cực âm),
lớp chất điện phân và điện cực nhiên liệu (Anot – cực dương). Nhiên liệu và chất
oxi hóa được cung cấp từ nguồn bên ngoài vào anot và catot tương ứng [41].
Nguyên lý hoạt động của pin nhiên liệu được trình bày như trên Hình 1. 6.
9
Hình 1. 6: Sơ đồ nguyên lý hoạt động của SOFC.
Về phương diện hóa học, quá trình xảy ra trong pin nhiên liệu là phản ứng
ngược lại của sự điện phân. Trong quá trình điện phân nước bị tách ra thành
khí hiđrô và khí ôxy nhờ vào năng lượng điện. Pin nhiên liệu lấy chính hai chất này
biến đổi chúng thành nước và giải phóng năng lượng. Qua đó, trên lý thuyết, chính
phần năng lượng điện đã đưa vào sẽ được giải phóng nhưng thực tế vì những thất
thoát qua các quá trình hóa học và vật lý năng lượng thu được ít hơn. Nguyên lý
hoạt động của pin nhiên liệu oxit rắn được mô tả như sau:
Ở bề mặt cực âm khí oxy bị khử thành ion oxy :
Các ion di chuyển qua cực âm và đi vào trong chất điện phân di chuyển về cực
dương kết hợp với khí hydro và tạo thành nước và sinh ra điện tử:
Tổng cộng:
10
1.1.2. Thành phần của pin nhiên liệu oxit rắn
1.1.2.1: Cực dương trong pin nhiên liệu rắn (điện cực nhiên liệu - Anot)
Vật liệu cho cực dương trong pin nhiên liệu oxit rắn phải là một chất xúc
tác tốt cho quá trình oxy hóa nhiên liệu (H2, CO), ổn định trong môi trường vận
hành pin, dẫn điện tử và phải có độ xốp đủ để cho phép vận chuyển nhiên liệu đến
và đồng thời vận chuyển các sản phẩm oxy hóa đi từ bề mặt lớp điện phân/cực
dương - nơi mà các phản ứng oxy hóa nhiên liệu xảy ra. Một số yêu cầu khác của
cực dương bao gồm hệ số giãn nở nhiệt phù hợp và khả năng tương thích hóa học
với chất điện phân và vật liệu kết nối, tính xúc tác tốt cho phản ứng tại cực dương,
khả năng tương thích nhiệt với các phần khác trong pin.
Trong cực dương, H2 sẽ phản ứng với O2- từ lớp điện phân tạo ra các
electron và nước. Các electron trong phản ứng này sẽ chuyển sang mạch bên ngoài.
Phản ứng trong cực dương có thể được diễn tả như sau:
H2 + O2- → H2O + e2-
Vật liệu phổ biến nhất được sử dụng làm anot trong pin nhiên liệu oxit rắn
là kim loại niken trộn lẫn với vật liệu gốm được sử dụng cho lớp điện phân trong
pin, thường là các chất xúc tác dựa trên vật liệu nano YSZ. Niken là chất xúc tác
hiệu quả cho quá trình oxy hóa nhiên liệu và tăng đtrình oxy hóa nhiên liệu
nanoi/Nanomaterial-based_catalyst2 khuăng đtrình oxy hóa nhiên l. Phần YSZ này
giúp ngăn chặn sự kết tụ của các hạt niken. Các hạt niken lớn sẽ làm giảm diện tích
tiếp xúc mà các ion có thể được dẫn thông qua, điều này sẽ làm giảm hiệu suất của
pin nhiên liệu. Đồng thời YSZ trong cực dương làm giảm sự chêch lệch về hệ số
dãn nở nhiệt, làm cho cực dương và lớp điện phân kết dính tốt hơn. Trong một số
trường hợp khác có thể pha tạp Xeri (Ce) vào YSZ để tăng độ dẫn ion.
Biên ba pha (TPB) của anot là khu vực hoạt động điện hóa, nơi các nhiên liệu, ion O2- (YSZ) và electron (Ni) gặp nhau trên cực dương Ni-YSZ. Nếu có sự
phân tách trong bất kỳ mối liên kết nào, phản ứng điện hóa sẽ không thể xảy ra.
Hình 1. 7 thể hiện sơ đồ của biên ba pha (TPB) trong cực dương Ni-YSZ của một
SOFC.
11
Hình 1. 7: Biên ba pha tại cực dương của SOFC.
1.1.2.2: Lớp chất điện phân trong pin nhiên liệu rắn.
Chất điện phân trong pin nhiên liệu đóng vai trò dẫn ion giữa cực âm và
cực dương, hoạt động như lớp ngăn tách các khí hai bên phản ứng và ngăn dẫn điện
vào bên trong pin, buộc các electron chảy qua mạch bên ngoài. Có ba loại chất điện
phân: ion anion, protonic và hỗn hợp cả hai ion. Tuy nhiên, hầu hết các pin nhiên
liệu oxit rắn hoạt động ở nhiệt độ cao thông qua anion oxy dẫn từ điện cực không
khí đến điện cực nhiên liệu. Vì vậy, chất điện phân phải có độ dẫn ion cao cho phép
anion oxy di chuyển dễ dàng, đồng thời cũng phải là một chất cách điện. Nhiệt độ
hoạt động của SOFC được xác định bởi nhiệt độ cần thiết để đạt đủ độ dẫn ion trong
chất điện phân.
Ngoài ra, lớp điện phân cho SOFC còn có một số tiêu chí như: sự ổn định
hóa học và vật lý tại nhiệt độ hoạt động, chi phí hợp lý của vật liệu nghiên cứu và
chế tạo. Chất điện phân thường sử dụng nhất cho SOFC là Zirconia pha tạp Yttri
(YSZ). Một số oxit khác có tính dẫn điện, chẳng hạn như Xeri oxit pha tạp và
12
perovskite, cũng được xem xét. Tuy nhiên, YSZ vẫn tiếp tục được nhiều người lựa
chọn vì tính ổn định, độ bền cơ học và không tốn kém. Theo các nghiên cứu gần
đây, giảm độ dày của lớp điện phân có thể giảm nhiệt độ hoạt động và đơn giản hóa
vật liệu yêu cầu trong các phần khác của SOFC.
1.1.2.3: Cực âm trong pin nhiên liệu rắn (điện cực oxy - Catot).
Tại cực âm pin, một loạt phản ứng điện hóa O2 và quá trình dịch chuyển
điện tử đòi hỏi vật liệu phải đáp ứng các yêu cầu như: hoạt tính xúc tác cao cho Oxy
phân ly, độ dẫn điện cao (lớn hơn 100 S/cm), hệ số giãn nở nhiệt (TEC) phù hợp
giữa các thành phần trong pin và khả năng tương thích hóa học với chất điện phân
và vật liệu kết nối, độ xốp thích hợp (30 - 40%) để khí oxy dễ dàng khuếch tán qua
cực âm đến bề mặt giữa cực âm và chất điện phân phải ổn định trong quá trình chế
tạo và vận hành pin, đồng thời chi phí sản xuất thấp.
Vì lý do này, chỉ có số ít các loại vật liệu phù hợp cho cực âm pin nhiên
liệu. Trong đó, perovskite lanthanum manganite (LaMnO3) là vật liệu cực âm được
sử dụng rộng rãi vì chúng thỏa mãn hầu hết các điều kiện đưa ra ở bên trên. Tuy
nhiên, độ dẫn điện của LaMnO3 còn thấp nên việc pha tạp các nguyên tố có hóa trị
thấp hơn (Sr, Ba, Ca…) đang là một trong những hướng đi mới cho loại vật liệu
này. Lanthanum manganite (LaMnO3) khi được pha tạp bởi các nguyên tố hóa trị
thấp như Ba hoặc Sr sẽ sinh ra các căp electron- lỗ trống tự do, từ đó vật liệu sẽ có
độ dẫn điện loại p và đồng thời hệ số giãn nở nhiệt phù hợp với YSZ và ổn định
trong môi trường vận hành của cực âm.
Quá trình khử oxy trong cực âm có thể được biểu diễn như sau: ½ O2 (khí) + 2e-(cực âm) → O2- (chất điện phân) (1.1)
Phản ứng điện hóa chỉ có thể xảy ra ở biên ba pha. Đây là vị trí tiếp xúc
của ba pha khác nhau: khí oxy, chất điện phân và catot. Sơ đồ của biên ba pha tại
cực âm được thể hiện trong Hình 1. 8.
13
Hình 1. 8: Biên ba pha tại catot của SOFC.
Động học và cơ chế phản ứng của Catot:
Tại Catot chỉ có O2 phân tử tham gia vào quá trình điện hóa, nhưng trước hết
các phân tử O2 này phải chuyển đổi thành một dạng trung gian tử hoạt động về mặt
điện. Thông thường, quá trình điện hóa này chỉ xảy ra ở gần vị trí biên ba pha [4].
Quá trình điện hóa trong catot bao gồm các bước điện hóa trên bề mặt và trong khối
vật liệu [24]. Các bước cơ bản diễn ra như sau [32]: (1) quá trình khử phân tử O2
bao gồm hấp phụ, phân ly, khử và kết hợp anion oxy vào vật liệu catốt; (2) vận
chuyển ion O2 qua lớp catot xốp về phía chất điện phân; và (3) ion O2 di chuyển vào
lớp chất điện phân. Trong ba bước này, một số bước quyết định tốc độ của quá trình
khử oxy. Quá trình khử oxy có đóng góp lớn nhất vào tổng trở của pin, những cải
tiến về hoạt tính xúc tác của catot làm mở rộng biên ba pha giúp tăng hiệu suất của
pin nhiên liệu [37].
Đối với vật liệu perovskite dẫn điện tử, Fleig [21] đã tổng kết ra ba cơ chế có
thể cho phản ứng tại catot (phương trình 1.1), đó là: Cơ chế dẫn trên bề mặt điện
14
cực, cơ chế dẫn trong khối vật liệu và cơ chế dẫn trên bề mặt lớp điện phân như
trong Hình 1. 9.
Hình 1. 9: Các cơ chế dẫn cho phản ứng tại catot.
Cơ chế dẫn trên bề mặt điện cực bao gồm quá trình khuếch tán (có thể bị phân ly
hoặc ion hóa một phần), hấp thụ oxy trên bề mặt điện cực, sự khuếch tán oxy trên
bề mặt về vị trí biên ba pha. Sau đó, các ion sẽ di chuyển vào lớp chất điện phân. Sự
truyền ion vào chất điện phân không nhất thiết phải xảy ra trực tiếp ở biên ba pha.
Khuếch tán của ion trên bề mặt điện cực dẫn đến sự mở rộng của vùng biên ba pha.
Cơ chế dẫn trong khối vật liệu bao gồm quá trình khuếch tán, hấp thụ khí oxy trên
bề mặt catot, sự phân ly, và sự truyền ion diễn ra trong khối vật liệu catot, ion oxy
di chuyển qua lớp catot và đi vào trong lớp chất điện phân.
Cơ chế dẫn trên bề mặt lớp điện phân bao gồm quá trình khuếch tán, hấp thụ và ion
hóa khí oxy trên bề mặt lớp chất điện phân (với điện tử được cung cấp bởi lớp chất
điện phân), sau đó, sự kết hợp xảy ra trực tiếp trên lớp chất điện phân.
Phản ứng catot có thể đồng thời xảy ra thông qua cả ba cơ chế, mỗi cơ chế
dẫn có một hoặc một số bước quyết định tốc độ của phản ứng. Những bước quyết
định tốc độ phản ứng không phải lúc nào cũng có thể dự đoán được vì chúng phụ
thuộc vào các điều kiện địa phương như nhiệt độ và áp suất hoặc về điều kiện vi cấu
trúc. Bên cạnh đó, có thể có các cơ chế phản ứng khác diễn ra song song và sự
chồng chập của những cơ chế này có thể ảnh hưởng lẫn nhau. Ví dụ, tỷ lệ ion oxy
truyền vào cathode (cơ chế dẫn khối) phụ thuộc vào nồng độ của oxy hấp thụ trên
15
bề mặt và do đó có thể bị ảnh hưởng bởi sự khuếch tán bề mặt thông qua cơ chế của
cơ chế dẫn trên bề mặt lớp điện cực.
Giảm nhiệt độ hoạt động của SOFCs có nhiều lợi ích cho các ứng dụng thực
tế, tuy nhiên, giảm nhiệt độ đồng thời với sự gia tăng tổn hao phân cực, hiện tượng
này được thể hiện trong Hình 1. 10 [2, 30]. Do đó, yêu cầu đặt ra là làm thế nào để
giảm thiểu tổn hao phân cực điện cực đặc biệt là ở phần liên kết giữa catot và lớp
chất điện phân ở vùng nhiệt độ hoạt động thấp hơn.
Hình 1. 10: Tốn hao phân cực khi giảm nhiệt độ của LSM (a) và LSCF (b).
Tổn hao phân cực điện cực thường liên quan đến việc tạo thành và vận
chuyển các ion oxy trong cấu trúc catốt xốp [30]. Mô hình Adler hay còn gọi là mô
hình ALS [2]đã đưa ra một giải pháp để tối ưu hóa thành phần và cấu trúc của các
điện cực để đạt được hiệu suất tốt ở vùng nhiệt độ trung bình. Gọi hệ số khuếch tán
oxy là D* và hệ số trao đổi oxy trên bề mặt là k (cm/s), và coi các thông số vi cấu
trúc là đã biết, hệ số phản ứng hóa học có thể được tính toán bằng mô hình ALS
như được chỉ ra trong phương trình 1.2.
(1.2)
16
Trong đó τ là hệ số chịu đựng của vật liệu (tortuosity); 𝝐 là độ xốp; a là tỉ lệ
của điện tích bề mặt tiếp xúc trên một đơn vị thể tích và là nồng độ oxy trên bề
mặt.
Trao đổi đồng vị là một phương pháp để xác định hệ số khuếch tán oxy trong
các vật liệu vừa dẫn điện vừa dẫn ion [8, 17].Ví dụ, Kilner và cộng sự [15] đã đo
được trao đổi oxy trên bề mặt và hệ số khuếch tán oxy của sử
13cm2/s tại 900°C.
dụng phương pháp trao đổi đồng vị , với k = 1,0x10-8 cm/s và D*=3,2x10-
Thông thường, sự tổn hao phân cực của catot có thể giảm bằng hai cách. Một
cách đó là lựa chọn một vật liệu thích hợp để nâng cao hoạt động của quá trình trao
đổi và khuếch tán oxy [15, 18], nhưng phải đảm bảo TEC của catot vẫn phù hợp với
những thành phần khác. Một cách khác đó là có thể tối ưu cấu trúc của lớp tiếp xúc
giữa catot và lớp điện phân để mở rộng biên ba pha. Endo và các cộng sự [18] đã
nghiên cứu các tính chất điện hóa (mật độ, độ xốp…) của hai loại vật liệu
và . Họ đã chỉ ra rằng diện tích bề mặt
là yếu tố quan trọng trong để tăng tốc độ phản ứng của điện cực LSC và các điện
cực có hiệu suất cao bằng cách sử dụng các điện cực vừa dẫn ion vừa dẫn điện tử
với diện tích bề mặt lớn. Đối với các catot vừa dẫn ion vừa dẫn điện tử (MIEC),
diện tích bề mặt catot lớn sẽ cải thiện hiệu suất của catot vì diện tích bề mặt lớn dẫn
đến biên ba pha được mở rộng hơn. Phản ứng khử oxy sẽ có thể diễn ra ở nhiều vị
trí hơn.
Một phương pháp khác để tăng cường độ hoạt động của catốt là sử dụng
phân cực catot. Phương pháp này cho thấy làm giảm đáng kể thế phản ửng khử oxy
(overpotencial) trên vật liệu LSM [31, 61] và LSM-YSZ [36, 40]. Hiện tượng này
được gọi là hiệu ứng kích hoạt (activation effect hay bản chất hysteretic) của catot
[59]. Nó không chỉ ảnh hưởng đến vi cấu trúc bề mặt và thay đổi cấu trúc của
cathode mà còn gây ra thay đổi hình thái ở lớp tiếp xúc giữa catot và lớp điện phân
dưới sự phân cực. Phản ứng khử oxy (ORR) được tăng cường thông qua sự hình
17
thành nút khuyết oxy liên quan đến các thay đổi bề mặt và thành phần lân cận với
TPB hoặc bằng cách thúc đẩy sự kết hợp trực tiếp oxy từ không khí vào chất điện
phân bởi oxit mangan ở trạng thái khử không hoàn toàn [35].
Trong vài năm gần đây, kỹ thuật thực nghiệm mới đã góp phần làm sáng tỏ
cơ chế phản ứng của catot. Kỹ thuật điện hóa phổ biến như trở kháng và điện thế có
thể đưa ra thông tin chi tiết về tốc độ của quá trình đang xảy ra. Tuy nhiên các kỹ
thuật này không cho biết phản ứng điện hóa liên quan đến các phân tử cụ thể nào.
Ngược lại, phương pháp phổ quang học có khả năng xác định các cấu trúc phân tử
xuất hiện trên bề mặt điện cực SOFC. Lu và các cộng sử [39] đã phát triển một kỹ
thuật phổ biến đổi Fourier hồng ngoại phụ thuộc vào thế (pd-FTIRES) để thu được
thông tin về các oxy hấp phụ trực tiếp trên bề mặt catot, phụ thuộc nhiệt độ, thế, và
áp suất riêng phần của oxy. Mặc dù họ tin rằng có thể có hai hoặc ba gốc có hai
nguyên tử oxy xuất hiện trên bề mặt, tuy nhiên rất khó phân biệt các mode dao động
của phonon khối với các nhóm bề mặt. bằng kỹ thuật chụp ảnh phổ khối lượng ion
thứ cấp Horita và các cộng sự [28] đã chỉ ra các vị trí có thể xảy ra quá trình khử
oxy trên O2 / LSM / YSZ là xung quanh biên ba pha. Kích thước của các vùng như
vậy được ước tính dưới 1 μm.
Ngoài ba thành phần chính để tạo nên một SOFC còn có 2 thành phần phụ đó
là lớp kết nối và chất kết dính.
Chất kết nối
Chất kết nối là phần tiếp xúc với cả hai điện cực, vì thế nó phải ổn định trong
cả môi trường oxi hóa và khử [20]. Hơn nữa nó cũng phải là chất dẫn điện và có
những đặc điểm tương đồng với chất điện phân. Ngoài ra, chúng cũng cần có hệ số
giãn nở nhiệt tương đồng với các thành phần khác của pin để tránh sự ứng suất khi
pin hoạt động. Bên cạnh đó, giá thành của nguyên liệu cũng như chi phí sản suất chất
kết nối cũng là yếu tố quan trọng được chú ý tới khi sản xuất pin nhiên liệu [20].
Vật liệu kết nối trong SOFC có thể là vật liệu gốm hoặc hợp chất của kim
loại và hợp kim. Vật liệu gốm thường sử dụng ở nhiệt độ cao từ 800 đến 1000 °C,
18
còn vật liệu kim loại/hợp kim hoạt động ở nhiệt độ thấp hơn khoảng dưới 750 °C
[5]. Vật liệu LaCrO3 pha tạp là vật liệu thường được sử dụng trong các chất kết nối
thuộc loại gốm. Các chất pha tạp thường được sử dụng đó là Sr và Ca để tăng độ
dẫn của vật liệu nền. Các chất kết nối dạng gốm thường ổn định với chất điện phân
YSZ. Tuy nhiên, hạn chế của chúng đó là giá thành cao và khi nhiệt độ giảm thì độ
dẫn của chúng cũng giảm. Vì thế, chất kêt nối kim loại/hợp kim thường được phát
triển hơn, thường thường đó là các loại hợp kim nền Cr và thiếc. Chúng có nhiều ưu
điểm hơn gốm như độ dẫn điện cao, độ dẫn nhiệt cao và tăng cường khả năng chịu
ứng suất nhiệt [5]. Các hợp kim nền Cr khá ổn định tuy nhiên giá thành để chế tạo
ra chúng cũng khá cao. Gần đây, thép không gỉ là lựa chọn tốt cho lớp tiếp xúc của
SOFC [20]. Tuy nhiên, lớp tiếp xúc bằng kim loại cũng có một vài nhược điểm như
phần tiếp xúc điện giữa kim loại và điện cực gốm, sự tương đồng về giãn nở nhiệt,
bề mặt kim loại bị oxy hóa thành oxit kim loại [5].
Chất kết dính (Sealant)
Các chất kết dính cần phải đáp ứng tất cả các yêu cầu của tất cả các thành
phần. Chúng phải ổn định với không khí và nhiên liệu, đồng thời phải hạn chế tối đa
ứng suất nhiệt khi hoạt động ở nhiệt độ cao. Chất lượng của chất kết dính phải cao
vì chỉ cần một rò rỉ nhỏ trong trong chất bao phủ cũng có thể ảnh hưởng đến hiệu
điện thế của pin, dẫn đến giảm hiệu suất của pin [5]. Việc sản xuất chất kết dính khá
phức tạp bởi vì chúng phụ thuộc vào vật liệu của các thành phần khác.
Các chất kết dính cố định và nén đang được phát triển cho SOFC. Ưu điểm
của chất kết dính nén là không cần cố định với các thành phần khác, do đó yêu cầu
về ứng suất nhiệt không yêu cầu trong suốt quá trình vận hành. Các vật liệu thường
được sử dụng là các đệm kim loại, ví dụ như bạc hoặc các chất trên nền mica [22].
Đối với chất kết dính cố định, ứng suất nhiệt phải phù hợp với tất cả các thành phần
của SOFC [19, 22]. Thủy tinh là vật liệu thường sử dụng cho chất kết dính cố định
[20]. Đa phần ứng suất nhiệt của thủy tinh thấp hơn chất điện phân YSZ, vì thế Ba
19
và Ca thường được pha tạp để hình thành các các pha orthosilicate với ứng suất
nhiệt cao hơn [22].
Trong pin nhiên liệu oxit rắn, thành phần ảnh hưởng lớn nhất đến hiệu suất
của pin là catot. Đồng nghĩa với sự cải thiện catot sẽ cải thiện được hiệu suất của
pin nhiên liệu rắn. Để cải thiện phẩm chất của catot có ba hướng chính: (i) Cải thiện
độ dẫn điện của catot (ví dụ đối với vật liệu LaMnO3 độ dẫn điện tăng lên khi pha
tạp các ion kim loại hóa trị 2 như Sr, Ba, Ca… vào vị trí của La), (ii) Cải thiện độ
dẫn ion của catot (cải thiện hệ số khuếch tán và trao đổi oxy), (iii) Cải thiện đặc tính
xúc tác cho quá trình khử oxy (cải thiện quá trình xúc tác quá trình khử oxy giúp
mở rộng biên ba pha dẫn tới hiệu suất pin cũng tăng lên) [37.
1.2. Vật liệu perovskite ứng dụng làm catot trong pin nhiên liệu
1.2.1. Một vài tính chất vật lý của vật liệu perovskite ứng dụng làm catot.
Vật liệu perovskite đã được sử dụng rộng rãi làm vật liệu catot trong SOFC
[53]. Một perovskite có công thức chung ABO3, trong đó A và B là cation với tổng
hóa trị là +6. Một cation có hóa trị thấp hơn, A (như La, Sr, Ca, và Pb,…) chiếm
không gian lớn hơn và liên kết với mười hai anion oxy, trong khi các cation có hóa
trị cao hơn, B (như Ti, Mn, Cr, Ni, Fe, Co và Zr,…) chiếm không gian nhỏ hơn và
liên kết với sáu anion oxy. Có thể thay thế toàn bộ hoặc một phần của cation A hoặc
B bằng các cation hóa trị khác nhau. Khi tổng hóa trị của các vị trí A và B (n + m)
cộng lại nhỏ hơn sáu, phần hóa trị thiếu được tạo thành bởi các vị trí nút khuyết
trong mạng oxy [53].Hình 1. 11 cho thấy cấu trúc lý tưởng của khối perovskite
dạng lập phương ABO3 [11]
20
Hình 1. 11: Cấu trúc perovskite lý tưởng dạng lập phương ABO3
Nhiều cấu trúc perovskite bị bóp méo và không có đối xứng khối. Các biến
dạng phổ biến như sự dịch chuyển cation trong hình bát giác và độ nghiêng của hình
bát giác có liên quan đến các thuộc tính của các nguyên tử thay thế A và B. Mức độ
biến dạng trong perovskit ABO3 có thể được xác định theo thừa số dung sai
Goldschmidt (t) như sau:
(1.3)
Trong đó, tương ứng là các bán kính ion hiệu dụng của các ion
A, B và O. Thông thường, yếu tố này được đánh giá từ bán kính ion Shannon [42]
cho các số phối trí tương ứng. Cấu trúc perovskite lý tưởng có cấu trúc lập phương.
Tuy nhiên, cation nhỏ hơn A hoặc cation lớn hơn B làm tăng hệ số dung sai với sự
dịch chuyển cation và nghiêng góc BO6 octahedra thành đối xứng trực giao [42].
Đối với hầu hết các vật liệu perovskite được sử dụng như các cực âm trong
SOFC, cation A có thể sử dụng đất hiếm và kiềm (như La và Sr, Ca hoặc Ba), trong
khi đó vị trí B là một kim loại chuyển tiếp có thể bị khử như Mn, Fe, Co hoặc Ni
(hoặc hỗn hợp của chúng). Do đó, trong hầu hết các trường hợp, cơ chế xúc tác khử
21
oxi hóa thường được cung cấp bởi các cation ở vị trí B. Các đối xứng bát diện xung
quanh kim loại chuyển tiếp thường thúc đẩy một cấu trúc kim loại hoặc bán dẫn ở
nhiệt độ cao tạo nên sự dẫn điện tử cao. Với sự lựa chọn hợp lý của các cation A và
B, một số lượng lớn các vị trí ion oxy có thể được đưa vào điều kiện vận hành
SOFC, do đó tạo thuận lợi đáng kể cho việc vận chuyển số lượng lớn ion oxy [2].
Đối với loại perovskite , để có được sự cân bằng oxy – kim loại, có hình
thành nút khuyết oxy ví dụ như trong trường hợp của , nút
khuyết oxy sẽ hình thành từ sự thay thế giữa A3+ với A2+ hoặc hình thành từ sự khử của B3+ thành B2+ và từ B4+ thành B3+. Độ linh động của oxy thông qua nút khuyết
là bản chất của độ dẫn ion. Trong một vài hợp chất perovskite, có độ dẫn ion cao ví
dụ như có độ dẫn ion là 0.133 S/cm tại 800 °C [55-57]. Thông
thường, hầu hết vật liệu catot khi pha tạp vào cả vị trí A và B đều làm tăng độ dẫn
điện và khả năng điện hóa của chúng.
Bên cạnh các tính chất điện và cấu trúc, yếu tố nhiệt động là điều cần thiết để
đánh giá và dự đoán sự ổn định của vật liệu catot có độ bền và tương thích với các
thành phần khác ở nhiệt độ hoạt động của SOFC. Sự ổn định nhiệt động lực học của
vật liệu catôt perovskite đã được thảo luận về các năng lượng ổn định và sự ổn định
hóa trị bởi Yokokawa và các cộng sự [66, 67]. Bằng cách xác định entanpies của sự
hình thành perovskite LaMnO3 (M = Cr, Fe, Co, và Ni) ở nhiệt độ phòng bằng cách
sử dụng nhiệt độ cao của oxit nóng chảybởi Navrotsky và các cộng sự [11] đã kết
luận rằng độ ổn định nhiệt động lực học tương đối của perovskite LaMnO3 giảm
theo thứ tự của M là Cr, Fe, Co, Ni. Bên cạnh đó, Tanasescu và các cộng sự đã tìm
ra mối quan hệ của nhiệt động lực học với các thành phần khác nhau của perovskite
ABO3 (với A = La, Sr; B = Mn, Fe, Co) bằng kỹ thuật chuẩn độ lượng hóa
(coulometric) kết hợp với phép đo EMF [48-50]. Các tính chất nhiệt động lực học
được biểu diễn bằng năng lượng tự do tương đối một phần, entanpies và entropies
của oxy hòa tan trong pha perovskite.
22
1.2.2. Vật liệu catot trên nền LaMnO3
Ngày nay, vật liệu perovskite LaMnO3 pha tạp các ion kim loại hóa trị thấp
như Sr, Ca, Ba...đang thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học trên thế giới. Trong đó, pha tạp ion Sr2+ được coi là phù hợp nhất bởi sự phù hợp về bán
kính ion của chúng. LSM được biết đến là vật liệu catốt cơ bản cho SOFC dựa trên
chất điện phân zirconia pha tạp yttri do tính dẫn điện cao, dẫn nhiệt tốt, tính ổn định
hóa học và khả năng tương thích với chất điện phân zirconia ở nhiệt độ làm việc.
Khi pha tạp Sr trong La1-xSrxMnO3±𝝳 với x≤ 0.5 không làm tăng nồng độ
oxy, một hiện tượng phổ biến trong hầu hết các vật liệu catot perovskite khác được
nghiên cứu mà là oxy hóa ion mangan theo phương trình 1.4 [41]:
(1.4)
Phản ứng này có hiệu quả làm tăng nồng độ lỗ trống -điện tử và cải thiện tính
dẫn điện. Độ dẫn điện của LSM tăng xấp xỉ tuyến tính với nồng độ Sr tăng lên tối
đa khoảng 50 mol % [7]. Ở nhiệt độ cao, LaMnO3 trải qua phản ứng pha rắn với
YSZ để tạo thành La2Zr2O7 (LZ) tại giao diện điện cực - điện phân [50, 51, 52].
thay thế một lượng nhỏ Sr làm giảm quá trình phản ứng của hợp chất LSM với
YSZ. Tuy nhiên, pha SrZrO3 (SZ) sẽ hình thành khi nồng độ Sr cao hơn khoảng 30
% mol [13, 45, 46, 66]. Do đó, hàm lượng Sr là 30 % mol được coi là tối ưu đối với
sự hình thành các pha cách điện không mong muốn. Kết hợp với trạng thái nghèo
nguyên tố A trong vật liệu có thể làm giảm khả năng phản ứng không mong muốn
hơn nữa. Ngoài ra khi pha tạp Sr, còn giúp giảm nhiệt độ hoạt động của pin nhiên
liệu, góp phần làm tăng tuổi thọ của pin và hạ giá thành sản phẩm. Trong luận văn
này chúng tôi lựa chọn vật liệu perovskite LaMnO3 và tiến hành pha tạp Sr và Ba để
cải thiện độ dẫn của chúng.
1.2.3. Phương pháp chế tạo vật liệu perovskite ứng dụng làm catot trong pin nhiên
liệu
Cho đến nay, đã có rất nhiều phương pháp khác nhau để tổng hợp vật liệu
perovskite. Ngoài các phương pháp đơn giản như phương pháp phản ứng pha rắn
23
(phương pháp gốm), phương pháp nghiền phản ứng,…còn có các phương pháp vật
lí như phun tạo màng, bốc bay trong chân không, hay các phương pháp hóa học
như: hóa keo, sol-gel, thủy nhiệt, đồng kết tủa,…
Phương pháp phản ứng pha rắn
Phương pháp phản ứng pha rắn là phương pháp truyền thống để chế tạo các
oxit phức hợp khá đơn giản và được sử dụng khá phổ biến. Các nguyên liệu ban đầu
là các oxit của các kim loại được nghiền trộn trong một thời gian dài để tạo hỗn hợp
đồng nhất. Hỗn hợp này sau đó được ép thành viên và nung thiêu kết ở nhiệt độ cao
để tạo ra phản ứng perovskite hóa. Phản ứng xảy ra khi nung mẫu ở nhiệt độ cao
(khoảng 2/3 nhiệt độ nóng chảy). Ở nhiệt độ này, các chất phản ứng vẫn ở trạng thái
rắn nên phản ứng xảy ra chậm. Để tăng độ đồng nhất trong vật liệu và pha tinh thể
tạo thành có cấu trúc tinh thể như mong muốn, khâu công nghệ nghiền, trộn, ép viên
và nung thường được lặp lại một vài lần và phải kéo dài thời gian nung mẫu.
Phương pháp này có ưu điểm là rẻ tiền, đơn giản, dễ dàng tạo ra vật liệu với khối
lượng lớn. Tuy nhiên phương pháp này bộc lộ nhiều hạn chế khi tổng hợp nhiều vật
liệu cao cấp cho các lĩnh vực điện, điện tử, quang, từ. Trong phương pháp này, hỗn
hợp bột ban đầu thường không đồng đều bởi chúng bao gồm các hạt có kích thước
khoảng từ 1 đến 10 m. Quá trình nghiền trộn để tăng độ đồng đều và giảm kích
thước hạt thường đưa thêm tạp chất vào và khó điều khiển hình dạng hạt. Thêm nữa
các pha không mong muốn có thể xuất hiện trong quá trình xử lý nhiệt.
Phương pháp đồng kết tủa
Đây là một phương pháp hóa học đi từ dung dịch thường dùng để chế tạo các
đơn oxit và đôi khi áp dụng chế tạo các oxit phức hợp. Trong phương pháp này, oxit
phức hợp được điều chế bằng cách kết tủa từ dung dịch muối chứa các cation kim
loại dưới dạng hydroxit, cacbonat, citrat...Khi các dung dịch đạt đến độ bão hòa thì
xuất hiện các mầm kết tủa. Các mầm kết tủa phát triển thông qua sự khuyếch tán vật
chất lên bề mặt mầm. Sau đó hỗn hợp kết tủa được lọc, tách, rửa sạch, sấy khô,
24
nung ở một khoảng nhiệt độ thích hợp, ta thu được mẫu bột với sự đồng đều, mịn và
hạt có kích thước cỡ < 1µm.
Điều kiện đồng kết tủa là tích số hoà tan của các hợp chất này phải xấp xỉ
bằng nhau và tốc độ kết tủa trong suốt quá trình phải như nhau. Nếu chọn được điều
kiện kết tủa tốt thì quãng đường khuyếch tán chỉ còn 10 đến 50 lần kích thước ô
mạng và sản phẩm sinh ra ở nhiệt độ không cao, có độ đồng nhất, độ tinh khiết hoá
học cao và bề mặt riêng lớn. Tuy vậy để chọn lọc được các điều kiện trên là rất khó.
Thêm vào đó, sự kết tủa sẽ kéo theo một số thành phần tạp chất nào đó làm kết tủa
không có thành phần như mong muốn. Đó là một số hạn chế của phương pháp
đồngkết tủa.
Phương pháp phun nung
Trong phương pháp này, oxit phức hợp được điều chế bằng cách hòa tan hỗn
hợp các oxit vào các muối clorua kim loại theo tỉ lệ cần thiết trong dung môi thích
hợp, sau đó phun thành giọt cỡ vài micron vào trong lò ở nhiệt độ cao. Tuy nhiên
trong phương pháp này, quãng đường khuyếch tán còn dài dẫn đến thời gian phản
ứng và nhiệt độ vẫn còn cao. Vì vậy phương pháp này ít được sử dụng rộng rãi.
Phương pháp nghiền phản ứng
Phương pháp nghiền phản ứng (Reaction Milling - RM) là một phương
phápnghiền, trộn các bột thành phần ban đầu theo một tỉ lệ nào đó. Do có sự va
đậpmạnh giữa các viện bi, vật liệu cần nghiền và thành bình trong quá trình nghiền,
trộn mà kích thước hạt của vật liệu giảm xuống. Khi kích thước tinh thể của cácchất
ban đầu giảm xuống cỡ vài nm thì có sự khuyếch tán của các pha phần tử vàonhau
và hìnht hành pha tinh thể của vật liệu mới. Xảy ra đồng thời với quá trìnhphản ứng
tạo pha vật liệu mới là quá trình nghiền nhỏ và trộn đồng đều các các hạtvật liệu.
Hai quá trình này hỗ trợ nhau làm đẩy nhanh quá trình phản ứng tạo phavật liệu có
kích thước hạt phụ thuộc vào thời gian nghiền. Trong phương pháp này, hỗn hợp
bột ban đầu thường không đồng đều, quátrình nghiền trộn để tăng độ đồng đều và
giảm kích thước hạt thường đưa thêm tạpchất vào và khó điều khiển hình dạng hạt.
25
Phương pháp thủy nhiệt
Phương pháp thủy nhiệt được định nghĩa là phản ứng xảy ra do sự kết hợp
của dung dịch hoặc các khoáng chất ở điều kiện nhiệt độ và áp suất cao để hòa tan
và tái kết tinh vật liệu mà không hòa tan được ở nhiệt độ thường. Các dung dịch
được chọn ở nồng độ thích hợp, chúng được trộn với nhau, sau đó cho vào bình
thủy nhiệt để phản ứng xảy ra ở một nhiệt độ và thời gian thích hợp. Sau phản ứng,
quay ly tâm thu được kết tủa rồi lọc rửa vài lần bằng nước cất và cồn. Sấy khô kết
tủa ở nhiệt độ và thời gian sấy hợp lý ta thu được mẫu cần chế tạo. Bằng cách thay
đổi tỉ lệ tiền chất, nhiệt độ, áp suất, thời gian phản ứng có thể điều khiển kích thước,
hình thái hạt theo mong muốn, độ tinh khiết cao, sự phân bố kích thước hạt đồng
đều, ít sai hỏng mạng... Hơn nữa phương pháp này có hiệu suất phản ứng cao, khi
có mặt của dung dịch thì nhiệt độ phản ứng thấp hơn. Nó thích hợp cho công nghệ
thiết kế hạt nano, nghĩa là tổng hợp được các vật liệu có độ tinh khiết cao, chất
lượng cao, độ kết tinh cao, phân bố kích thước hạt hẹp, điều khiển được vi cấu trúc
hạt cũng như các tính chất lý hóa của chúng...
Phương pháp sol-gel
Phương pháp sol-gel là phương pháp do R. Roy đưa ra từ năm 1956 cho
phép trộn lẫn các chất ở quy mô nguyên tử. Đây là một công nghệ tốt sử dụng khi
chế tạo vật liệu oxit phức hợp chất lượng cao. Từ các muối kim loại tương ứng ban
đầu, được tính toán theo một tỉ lệ xác định và được hoà thành dung dịch. Từ dung
dịch này, hệ keo của các hạt rắn phân tán trong chất lỏng được tạo thành, gọi là sol.
Trong quá trình sol-gel, các hợp chất nguyên liệu tạo thành hệ keo là do các nguyên
tố kim loại bị bao quanh bởi các ligan khác nhau mà không phải là các ion kim loại
khác. Khi phản ứng tạo hơn hai liên kết thì phân tử có kích thước không giới hạn
được hình thành và đến một lúc nào đó nó có kích thước lớn chiếm toàn bộ thể tích
dung dịch, tạo thành gel. Khi sấy khô gel ở nhiệt độ cao để loại nước, trong gel xuất
hiện ứng suất mao quản làm co mạng gel. Chất này được gọi là xerogel. Quá trình
già hóa gel là quá trình biến đổi cấu trúc gel theo chiều hướng tạo thành trạng thái
26
tinh thể hoặc vô định hình sít đặc hơn. Quá trình này luôn xảy ra khi gel trở nên linh
động hơn ở nhiệt độ cao hoặc có mặt của dung môi. Khi gia nhiệt ở nhiệt độ thích
hợp thì tạo thành vật liệu gốm có cấu trúc tinh thể và có mật độ cao hơn.
Tuy nhiên tất cả các phương pháp chế tạo trên đều có yêu cầu về nhiệt độ cao
và thời gian chế tạo mẫu dài, thông thường phải mất một vài ngày để hoàn thiện
một mẫu. Vì thế chúng tôi đã lựa chọn một phương pháp chế tạo mẫu có thế rút
ngắn được thời gian chế tạo ra bột Perovskite mà không cần đến quá trình nung ủ ở
nhiệt độ cao đó là phương pháp kích nổ vi sóng.
Phương pháp kích nổ vi sóng
Phương pháp kích nổ vi sóng là phương pháp kích nổ sử dụng hỗ trợ của vi
sóng. Đây một dạng trong phương pháp chế tạo hóa nhanh (Fast Chemistry), ưu
điểm của phương pháp này là đơn giản, dễ chế tạo, thời gian phản ứng nhanh, thân
thiện với môi trường, tạo ra được các sản phẩm đồng nhất, không bị kết tụ, và
không qua bước trung gian hay các qui trình xử lý nhiệt sau khi chế tạo [55]. Vi
sóng sử dụng trong phương pháp này có bước sóng trong khoảng 1m – 1 mm, tương
ứng với dải tần số trong khoảng 0,3 đến 300 GHz. Bước sóng công nghiệp thường
được sử dụng nhất là 12,25 cm (tương ứng 2,45 GHz). Đóng góp quan trọng nhất để
sinh ra nhiệt trong quá trình chế tạo vật liệu sử dụng vi sóng là các sự chuyển pha
của các phân tử lưỡng cực dưới tác dụng của vi sóng, ví dụ các phân tử lưỡng cực như nước tốc độ chuyển pha rất nhanh 2,4 x 109 lần/ giây và trở kháng chuyển động
đó tạo ra một nhiệt lượng đáng kể. Ngoài ra, còn có sự đóng góp của các thành phần
khác như: tổn thất điện môi (dòng dẫn), đốt nhiệt từ, tổn thất từ tính (dòng cảm ứng)
hoặc sự hình thành plasma [56].
Phương pháp kích nổ vi sóng được đặc trưng bởi tốc độ gia nhiệt nhanh và
thời gian phản ứng ngắn [56, 57].Trong phương pháp kích nổ vi sóng, dung dịch
muối của các kim loại được phối trộn với nhiện liệu hữu cơ phù hợp và gia nhiệt
cho đến khi bốc cháy dưới tác dụng của vi sóng nên phản ứng đốt cháy diễn ra rất
nhanh [22, 41]. Có một vài nhiên liệu được sử dụng trong phương pháp kích nổ vi
27
sóng để tổng hợp perovskite như glycine, urea, ctric axit, oxalyl-hydrazine và
sucrose [6, 24, 43, 63] Trong phương pháp kích nổ vi sóng, nhiên liệu đóng vai trò
là nguồn cung cấp năng lượng cho phản ứng đốt cháy dưới dạng nhiệt cũng như tạo
thành các hợp chất phức đồng nhất với các ion kim loại trong dung dịch [41].
Sơ đồ quy trình chế tạo mẫu bằng phương pháp kích nổ vi sóng được trình
bày như trong Hình 1. 12. Trong quy trình này, các bước chuẩn bị cơ bản khá giống
phương pháp sol-gel, nhưng khác với phương pháp sol-gel, sau khi gel hình thành
từ các dung dịch tiền chất sẽ được kích nổ dưới sự hỗ trợ của vi sóng và tạo ra sản
phẩm là mẫu bột xốp.
Hình 1. 12: Sơ đồ Quy trình chế tạo mẫu bằng phương pháp kích nổ vi sóng
Để vật liệu có khả năng đưa vào ứng dụng và thương mại hóa, giá thành sản
phẩm là một trong các yếu tố hàng đầu. Để giảm giá thành sản phẩm, yêu cầu của
28
công nghệ sản xuất phải tạo ra được các sản phẩm chất lượng, đồng nhất và thời
gian chế tạo nhanh. Từ các yếu tố này, phương pháp kích nổ vi sóng hoàn toàn phù
hợp. Vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn phương pháp kích nổ vi sóng để chế tạo vật liệu
LaMnO3 và LaMnO3 pha tạp Sr và Ba.
29
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM 2.1 Chế tạo vật liệu LaMnO3pha tạp Sr (La1-xSrxMnO3) và Ba (La1-xBaxMnO3)
Các hóa chất sử dụng bao gồm: La2O3 (99 %), Sr(NO3)2 (99 %),
Mn(NO3)2.4H2O (99 %), HNO3 (65 %), Glycine (99 %) BaCO3 (99 %) và HCl (36
%).
2.1.1. Quy trình chế tạo LaMnO3 (LMO)
Trước khi chế tạo các mẫu LaMnO3 pha tạp Sr và Ba chúng tôi đã chế tạo
vật liệu nền LaMnO3 bằng phương pháp kích nổ vi sóng, sơ đồ chế tạo được thể
hiện như trên Hình 2. 1.
Hình 2. 1: Sơ đồ quy trình chế tạo LMO bằng phương pháp kích nổ vi sóng.
Quy trình chế tạo LMO bằng phương pháp kích nổ vi sóng cụ thể như sau:
Bước 1: Chuẩn bị các dung dịch muối nitrat của La và Mn với nồng độ 1M.
Bước 2: Phối trộn các dung dịch muối trên với nhiên liệu Glycin theo tỉ lệ mol là
1:1:3, sau đó khuấy đều hỗn hợp trên và gia nhiệt.
30
Bước 3: Sau khi hỗn hợp trên chuyển thành gel, xử lý gel này trong lò vi sóng để
phản ứng tự kích nổ xảy ra và sản phẩm thu được là bột LaMnO3 màu đen.
2.1.2. Quy trình chế tạo La1-xSrxMnO3 (LSMx) và La1-xBaxMnO3 (LBMx)
Quy trình chế tạo mẫu LSMx tương tự như quy trình chế tạo mẫu LMO,
chúng ta chỉ cần bổ sung thêm dung dịch muối tương ứng của từng mẫu, sơ đồ chế
tạo mẫu LSMx và LBMx được thể hiện tương ứng như trong các Hình 2. 2 và Hình
2. 3.
Hình 2. 2: Sơ đồ quy trình chế tạo LSMx bằng phương pháp kích nổ vi sóng.
Quy trình chế tạo mẫu LSMx bằng phương pháp kích nổ vi sóng:
Bước 1: Chuẩn bị các dung dịch muối nitrat của La, Mn và Sr với nồng độ 1M.
31
Bước 2: Phối trộn các dung dịch muối trên với nhiên liệu Glycin với tỉ lệ thích hợp,
sau đó khuấy đều hỗn hợp trên và gia nhiệt.
Bước 3: Sau khi hỗn hợp trên chuyển thành gel, xử lý gel này trong lò vi sóng để
phản ứng tự kích nổ xảy ra và thu được sản phẩm là bột LSMx màu đen
Hình 2. 3: Sơ đồ quy trình chế tạo LBMx bằng phương pháp kích nổ vi sóng.
Quy trình chế tạo mẫu LBMx bằng phương pháp kích nổ vi sóng:
Bước 1: Chuẩn bị các dung dịch muối nitrat của La, Mn và muối BaCl2với nồng độ
1M.
Bước 2: Phối trộn các dung dịch muối trên với nhiên liệu Glycin với tỉ lệ thích hợp,
sau đó khuấy đều hỗn hợp trên và gia nhiệt.
32
Bước 3: Sau khi hỗn hợp trên chuyển thành gel, xử lý gel này trong lò vi sóng để
phản ứng tự kích nổ xảy ra và thu được sản phẩm là bột LBMx màu đen.
2.2. Ép viên bột La1-xSrxMnO3
Các mẫu bột LSMx sau khi chế tạo và khảo sát một số tính chất cơ bản được
đem đi xử ký ép viên để tạo thành viên LSMx. Sơ đồ ép viên được chỉ ra như trong
Hình 2. 4.
Hình 2. 4: Sơ đồ quy trình ép viên mẫu LSMx.
Quy trình ép viên LSMx được tiến hành như sau:
Bước 1: Bột LSMx sau khi chế tạo được nghiền trộn với PVA trong 2 tiếng.
33
Bước 2: Sử dụng khuân hình chữ nhật để ép viên LSMx bằng máy ép thủy lực, lực
ép cỡ khoảng 4 tấn.
Bước 3: Viên LSMx sau khi ép được đem sấy khô trong vòng 8 giờ.
Bước 4: Nung sơ bộ viên LSMx ở 300 °C.
Bước 5: Nung thiêu kết viên LSMx ở nhiệt độ 700 °C trong 2 giờ.
2.3. Các phương pháp khảo sát và phân tích
2.3.1. Khảo sát cấu trúc vật liệu - Phương pháp nhiễu xạ tia X (XRD)
Cấu trúc tinh thể của mẫu được khảo sát bởi phép đo nhiễu xạ tia X được ghi
trên máy D5005 của hãng Siemens tại Trung tâm Khoa học Vật liệu, Khoa Vật lý,
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Hình 2. 5). Chế độ làm việc của ống tia X là:
điện thế 30 40 kV; cường độ dòng điện từ 3 35 mV; sử dụng bức xạ Cu-Kcó
bước sóng là 1,54056 Å, được đo tại nhiệt độ phòng 25oC. Mô tơ bước với bước
đo: 0.03º, thời gian dừng ở mỗi bước là 1s
Phương pháp nhiễu xạ tia X để nghiên cứu tinh thể đã được V. Laue sử dụng
từ năm 1912. Năm 1913, W.L. Bragg đưa ra phương trình Bragg làm cơ sở khoa
học cho phương pháp nhiễu xạ tia X. Nguyên tắc chung của phương pháp phân tích
cấu trúc tinh thể và thành phần pha bằng nhiễu xạ tia X dựa trên hiện tượng nhiễu
xạ tia X của mạng tinh thể khi thỏa mãn định luật Bragg: 2d.sinθ = nλ (trong đó: d
là khoảng cách giữa các mặt nguyên tử phản xạ, θ là góc phản xạ, λ là bước sóng
của tia X và n là số bậc phản xạ). Tia X từ ống phóng tia đi tới mẫu với góc tới θ, tia
nhiễu xạ đi ra khỏi mẫu sẽ tới dầu thu bức xạ (detector) cũng đặt ở góc θ. Tập hợp
các cực đại nhiễu xạ thỏa mãn định luật Bragg dưới các góc 2θ khác nhau cho ta
phổ nhiễu xạ tia X.
Trên cơ sở đó, chúng tôi phân tích được các đặc trưng về cấu trúc tinh thể, độ
đơn pha và tính toán các hằng số mạng của mẫu. Sau khi có được số liệu từ phổ
nhiễu xạ tia X, ta tìm một phổ chuẩn đồng nhất về cấu trúc phổ với mẫu chế tạo.
Dựa vào phổ chuẩn ta có thể xác định được cấu trúc và hằng số mạng của mẫu.
34
Hình 2. 5: Máy đo nhiễu xạ tia XD5005 của hãng Siemens, Trung tâm Khoa học
Vật liệu, Khoa Vật lý, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên.
2.3.2. Khảo sát hình thái vật liệu - Kính hiển vi điện tử quét (SEM)
Phương pháp chụp ảnh hiển vi điện tử quét (SEM) được dùng để đánh giá
hình thái học, kích thước hạt trên bề mặt của đối tượng nghiên cứu nhờ độ phóngđại
đến hàng chục nghìn lần. Kỹ thuật hiển vi điện tử quét cho phép quan sát vàđánh
giá các đặc trưng của các vật liệu vô cơ cũng như hữu cơ trong khoảng kíchthước từ
nm tới µm.
Hai loại tín hiệu điện tử được quan tâm nhiều nhất để tạo ảnh SEM là
cácđiện tử thứ cấp (Secondary electrons) và các điện tử tán xạ ngược
(Backscatteredelectrons). Các điện tử thứ cấp là những điện tử thoát từ bề mặt mẫu
có năng lượngthấp (thường < 50 eV). Hiệu suất phát xạ điện tử thứ cấp lớn vì một
điện tử tớicó thể phát ra nhiều điện tử thứ cấp. Khi điện tử có năng lượng lớn tới
mẫu, chúng sẽ lần lượt tương tác với các nguyên tử trong mẫu. Nếu các điện tử
trongnguyên tử của mẫu nhận được năng lượng lớn hơn công thoát chúng sẽ phá vỡ
liên kết và thoát ra ngoài. Số lượng điện tử thứ cấp phát ra từ mẫu phụ thuộc vào
35
nguyên tử số Z của các nguyên tố trong mẫu, năng lượng của điện tử tới, công thoát
các điện tử trong nguyên tử và hình dạng bề mặt của mẫu.Các điện tử tán xạ ngược
là những điện tử thu nhận được khi chùm điện tử đâm sâu vào mẫu trước khi quay
trở lại bề mặt mẫu và tán xạ ngược [1].
Các mẫu trong luận văn này được chụp ảnh bề mặt bằng kính hiển vi điện tử
quét SEM JMS 5410 của hãng Jeol (Nhật bản) tại Trung tâm Khoa học Vật liệu -
Khoa Vật lý - Trường Đại học Khoa Học Tự Nhiên (Hình 2. 6).
Hình 2. 6: Kính hiển vi điện tử quét SEM JMS 5410 của hãng Jeol, Trung tâm Khoa
học Vật liệu - Khoa Vật lý - Trường Đại học Khoa Học Tự Nhiên.
2.3.3. Phân tích thành phần mẫu - Phổ tán sắc năng lượng tia X (EDS)
Kỹ thuật EDX chủ yếu được sử dụng trong các kính hiển vi điện tử. Ở đó
ảnh vi cấu trúc vật rắn được ghi lại thông qua chùm điện tử có năng lượng cao
tương tác với vật rắn. Khi chùm điện tử có năng lượng lớn chiếu vào vật rắn, nó sẽ
đâm xuyên sâu vào các nguyên tử vật rắn, tương tác với các lớp điện tử bên trong
nguyên tử. Theo định luật Mosley, tương tác này tạo ra các tia X có tần số đặc trưng
36
tỉ lệ với số nguyên tử (Z) của vật rắn, đối với vạch Kα (tương ứng với sự dịch
chuyển từ lớp L xuống lớp K) thì tần số tia X đặc trưng có giá trị được xác định bởi
công thức:
, (2.1)
Trong đó : Z là nguyên tử số
là tần số huỳnh quang tia X đặc trưng.
Dựa vào tần số và cường độ của bức xạ tia X đặc trưng, ta có thể biết được
thành phần và tỉ lệ các nguyên tố có trong vật rắn.
2.3.4. Khảo sát tính chất điện của mẫu – Phương pháp đo điện trở bề mặt 4 mũi
dò
Với màng mỏng dẫn điện có chiều dày không quá lớn, chúng ta có thể dùng
phương pháp đo điện trở bề mặt bốn mũi dò để tính điện trở mặt của màng. Điện trở
vuông là điện trở đo được từ hai dải điện cực tạo trên bề mặt mẫu một diện tích hình
vuông.
Như đã biết, công thức tính điện trở của một vật dẫn điện như sau:
Trong đó: ρ: Điện trở mặt
l: Chiều dài của mẫu
S: Tiết diện cho dòng điện đi qua
Trong trường hợp mẫu đo có diện tích hình vuông thì S = l.d. Do đó ta sẽ có
công thức tính điện trở vuông (điện trở bề mặt) như sau:
37
Vậy ta có : 𝛒 = R.d (2.4)
Tính chất điện của mẫu được thực hiện trên máy đo điện trở mặt 4 mũi dò tại
Trung tâm Nano và Năng lượng – Trường Đại học Khoa học Tự nhiên.
2.3.5. Khảo sát độ xốp của mẫu - Phương pháp Arschimet
Độ xốp của vật liệu được định nghĩa là tỉ lệ của thể tích phần rỗng trong chất
rắn trên thể tích tổng V. Nếu Vs là phần thể tích đặc thì thể tích phần rỗng sẽ được
tính như sau : Vp = V - Vs, độ xốp sẽ được tính theo công thức sau :
(2.5)
Để đo độ xốp người ta có thể dùng nhiều cách : đo trực tiếp, phun thủy ngân,
giãn nở khí, mật độ, phương pháp thạch hóa và phương pháp thể tích khối. Trong
đó phương pháp thể tích khối là được sử dụng nhiều hơn cả.
+ Phương pháp đo trực tiếp :
Trong phương pháp đo trực tiếp, hai giá trị V và Vs trong phương trình 2.4
được xác định trục tiếp. Tuy nhiên, phương pháp này rất ít khi được thực hiện vì để
đo được trực tiếp thì phần đặc phải được hoàn toàn tách rời.
+ Phương pháp phun thủy ngân :
38
Hình 2. 7: Sơ đồ đo độ xốp bằng phương pháp phun thủy ngân.
Vật rắn được nhúng vào thủy ngân, ở áp suất thường thủy ngân sẽ không thể
chui vào trong chất rắn. Áp suất thủy ngân sẽ được tăng dần theo từng bước. Cho
đến khi áp suất đủ cao, thủy ngân sẽ chiếm toàn bộ lỗ rỗng của vật rắn. Sơ đồ đo
được thiết lập như trong Hình 2. 7. Độ xốp được tính từ thể tính của vật và thể tích
của lỗ rỗng. Phương pháp có độ chính xác vừa phải có ưu điểm là có thể được thực
hiện trên các mẫu nhỏ không đều, và nhược điểm là mẫu phải được xử lý an toàn
sau khi thử nghiệm.
+ Phương pháp giãn nở khí :
Phương pháp này dựa trên định luật khí lý tưởng. Vật rắn được đặt trong một
bình có thể thể tích xác định là V1 tại áp suất P1. Bình này được thông với một bình
39
chứa khí khác có thể tích xác định là V2 và áp suất P2, giữa hai bình có một van
điều chỉnh (sơ đồ như trong Hình 2. 8). Khi van mở dần, hệ sẽ dần tiến tới trạng thái
cân bằng tại áp suất P3. Giá trị thể tích phần đặc của vật rắn được tính theo định luật
cân bằng khí lý tưởng :
Thể tích khối đã được xác định trước đó. Bất kì loại khí nào cũng có thể sử
dụng, tuy nhiên loại khí phổ biến và hay dùng nhất là khí He.
Hình 2. 8: Sơ đồ đo độ xốp bằng phương pháp giãn nở khí.
40
+Phương pháp đo mật độ :
Nếu vật rắn là đơn chất, và mật độ của vật chất đã biết, thì thể tích lỗ rỗng và
độ xốp có thể được tính trực tiếp từ mật độ của vật chất và trọng lượng khô của
mẫu.
+ Phương pháp thạch hóa :
Phương pháp này được sử dụng để tính độ xốp hai chiều của mẫu, bằng cách
đếm điểm dưới kính hiển vi quang học hoặc SEM hoặc phân tích hình ảnh tạo ra từ
các kính hiển vi này. Thông thường một môi trường tương phản cao tạo ra giữa lỗ
rỗng và phần đặc của vật, phần mềm sẽ phân tích và xác định được độ xốp tương
đối của vật rắn. Phương pháp này có thể cung cấp tổng độ xốp, nhưng độ chính xác
không cao ngoại trừ những vật rắn có cấu trúc lỗ rỗng đẳng hướng.
+ Phương pháp đo thể tích khối :
Trong phương pháp thể tích khối, có ba phương pháp đươc sử dụng đó là : (i)
bằng cách sử dụng thước kẹp Vernier, (ii) sử dụng dịch chuyển chất lỏng và (iii) sử
dụng phương pháp acsimet.
+ Phương pháp sử dụng thước kẹp Vernier (Vernier Callipers)
Nếu vật rắn có hình dạng trụ lý tưởng và bề mặt nhẵn mịn, thì có thể sử dụng
thước kẹp để đo chiều dài và đường kính và tính ra thể tích khối của vật rắn. Độ lặp
lại và độ chính xác của phép đo này phụ thuộc chủ yếu vào kết cấu bề mặt của mẫu.
Vì vậy độ chính xác của phép đo không cao.
+ Phương pháp sử dụng dịch chuyển chất lỏng
Phương pháp này dựa vào sự dịch chuyển của chất lỏng khi cho vật rắn vào
bình chứa chất lỏng. Nếu chất lỏng tự động chui vào phần rỗng của chất rắn ta sẽ
xác định được độ xốp của chất rắn. Phương pháp này thường được sử dụng với các
chất lỏng không ướt như thủy ngân.
+ Phương pháp Acsimet
41
Độ xốp của vật liệu có thể đo được bằng phương pháp Acsimet với khối
lượng khô, khối lượng bão hòa và khối lượng mẫu đã bão hòa ngâm trong nước
(hoặc thủy ngân, xylen hoặc cồn biến tính). Dựa vào phương pháp này đã xây dụng
được một số tiêu chuẩn chất lượng như ISO 5017, ASTM C20, BS 1902-308 và
Sans 5905 sử dụng thủy ngân.
Trong luận văn này phương pháp acsimet được sử dụng để xác định độ xốp
của mẫu bởi quy trình đo mẫu đơn giản và phù hợp với điều kiện chế tạo của chúng
tôi.
Mô hình đo đô xốp đã được xây dựng theo phương pháp Acsimet như trong
Hình 2. 9:
Hình 2. 9: Sơ đồ thiết lập hệ đo độ xốp bằng phương pháp Acsimet.
Quy trình đo độ xốp của mẫu được tiến hành như sau:
Bước 1: Cân khối lượng của viên LSMx khô
Bước 2: Viên LSMx được ngâm vào trong cốc nước sôi cho tới khi bão hòa
Bước 3: Lắp ráp mô hình cân như hình vẽ, cân khối lượng của LSMx đã bão hòa
42
Bước 4: Thả viên LSMx đã bão hòa vào trong cốc nước và cân khối lượng của viên
LSMx đang nhúng trong nước
Bước 5: Tính toán và xác định độ xốp thông qua công thức:
(2.8)
Trong đó P: Độ xốp; : khối lượng mẫu khô; : khối lượng mẫu bão hòa
và là khối lượng mẫu bão hòa ngập trong nước.
Hình 2. 10: Hình ảnh minh họa các loại khối lượng trong Phương pháp Acsimet.
Chứng minh công thức đo độ xốp bằng phương pháp Acsimet:
Như định nghĩa về độ xốp chính là phần trăm thể tích của lỗ rỗng trên thể
tích khối vật liệu. Ta sẽ đi xác định thể tích lỗ rỗng và thể tích khối vật liệu như sau:
Với là khối lượng khô của mẫu; là khối lượng chất lỏng trong lỗ
rỗng và là khối lượng của mẫu sau khi nhúng nước đến bão hòa.
Ta có (2.9)
Khối lượng riêng của chât lỏng được tính theo công thức:
, (2.10)
43
Trong đó g là gia tốc trọng trường và là mật độ chất lỏng.
Vậy Thể tích của lỗ rỗng được tính như sau:
(2.11)
Với là khối lượng mẫu bão hòa ngập trong nước, V là thể tích khối vật
liệu và là lục đẩy Acsimet.
Theo đinh lý Acsimet ta có:
(2.12)
Cân bằng lực trên mẫu bão hòa ngập trong nước (như trên Hình 2. 11 ) ta có:
(2.13)
Hình 2. 11:Cân bằng lực trên mẫu bão hòa ngập trong nước.
Đặt (2.12) vào (2.13) ta được:
(2.14)
44
Suy ra thể tích khối vật liệu bằng:
(2.15)
Thế (2.11) và (2.15) vào công thươc tính độ xốp (2.5) ta được:
(2.16)
Như vậy công thức đo độ xốp bằng phương pháp acsimet đã được chứng minh.
45
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VA THẢO LUẬN. 3.1. Vật liệu LaMnO3 (LMO)
3.1.1. Cấu trúc của vật liệu LMO
LaMnO3 được chế tạo bằng phương pháp kích nổ vi sóng với tỉ lệ
glycine/kim loại F = 3. Sản phẩm sau chế tạo được đem đo nhiễu xạ tia X để phân
tích cấu trúc của vật liệu.
Hình 3. 1 là giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu với tỉ lệ Glycine/kim
loại (F) = 3 (LMO). Các đỉnh nhiễu xạ đặc trưng của : tại các góc nhiễu xạ
2θ lần lượt là: 22,8 º, 32,5 º, 40 º, 46,6 º, 52,5 º, 57,8 º và 67,9 ºứng với phản xạ từ
các mặt mạng (102), (110), (202), (204), (116), (301) và (208) được quan sát rõ
ràng (phù hợp với phổ chuẩn PDF# 320484). Hằng số mạng của mẫu là: a = 5,52
Å, c = 13,33 Å phù hợp với các công bố khác [60].
Bằng công thức Debye Sherer, kích thước tinh thể trung bình của mẫu
được xác định bằng D = 16,8 nm.
Hình 3. 1: Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu LMO chế tạo bằng phương pháp kích nổ vi sóng với tỉ lệ F = 3.
46
3.1.2. Thành phần mẫu LMO
Để xác định thành phần nguyên tố trong mẫu LMO, chúng tôi đã khảo sát
bằng phổ tán sắc năng lượng tia X.
Hình 3. 2 cho thấy thành phần trong mẫu bao gồm La, Mn và O,
như vậy mẫu chế tạo được hoàn toàn tinh khiết, không chứa tạp chất.
Hình 3. 2: Phổ tán sắc năng lượng tia X mẫu LMO với F = 3.
3.2. Vật liệu LSMx với x = 0.2, 0.3, 0.4 và 0.5.
Đối với mẫu LMO chế tạo với F =3 thu được bột tinh khiết nên chúng tôi
cũng sử dụng tỉ lệ F này để tiến hành pha tạp Sr vào mẫu với các tỉ lệ 20, 30 , 40 và
50 % tương ứng với x = 0.2; 0.3; 0.4 và 0.5
3.2.1. Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu LSMx
Mẫu LSM0.4 chế tạo bằng phương pháp kích nổ vi sóng với tỉ lệ F = 3 xảy ra
hiện tượng cháy không hoàn toàn. Sản phẩm thu được sau khi kích nổ tách ra làm
hai phần cháy và không cháy.
47
Hình 3. 3: Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu LSM0.4 chế tạo bằng phương pháp kích
nổ vi sóng với tỉ lệ F = 3.
Từ giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu LSM0.4 (Hình 3. 3), cho thấy: đối với
phần không cháy sản phẩm chính là muối Sr(NO3)2 không phản ứng, và phần cháy
gồm có pha của LMO và MnO2. Điều đó chứng tỏ nhiệt lượng cung cấp bởi phản
ứng chưa đủ để xảy ra quá trình phân hủy muối nitrate của Strontium cũng như
khuếch tán các ion Sr vào mạng LaMnO3. Trong khi nhiệt lượng tỏa ra trong phản
ứng liên quan chặt chẽ tới lượng nhiên liệu sử dụng [42, 60]. Vì thế, tỉ lệ F được
thay đổi khác nhau (F = 3, 4, 5) để tìm ra tỉ lệ F tối ưu cho mẫu LMO pha tạp Sr.
Chúng tôi đã tiến hành chế tạo các mẫu với tỉ lệ F được thay đổi F = 3, 4 và 5. Kết
quả đo nhiễu xạ tia X của các mẫu với F= 3, 4, 5 được thể hiện trong Hình 3. 4.
48
Hình 3. 4:Giản đồ nhiễu xa tia X mẫu LSM0.4 chế tạo bằng phương pháp kích nổ vi
sóng với các tỉ lệ F khác nhau (F = 3, 4 và 5).
Từ giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu LSM0.4 với các tỉ lệ Glycine/kim loại (F)
khác nhau (Hình 3. 4) cho thấy mẫu F = 3 đã có sự hình thành của pha perovskite,
tuy nhiên còn xuất hiện một số đỉnh của pha thứ cấp như và Sr(NO3)2. Trong
khi đó mẫu F = 4 và F = 5 cho thấy sự hình thành hoàn toàn của pha perovskite có
cấu trúc lục giác với các đỉnh nhiễu xạ đặc trưng. Mẫu F=5 cường độ các đỉnh nhiễu
xạ của pha Perovskite còn yếu và chưa rõ nét do nhiệt lượng sử dụng cho phản ứng
cháy phụ thuộc chủ yếu vào tỉ lệ F, khi tỉ lệ F quá lớn, lượng khí sinh ra nhiều và
lượng khí này cũng làm tiêu hao một phần nhiệt lượng của phản ứng dẫn đến nhiệt
lượng cháy bị giảm đi [42]. Mẫu F = 4 cho thấy sự hình thành pha perovskite tinh
khiết với các đỉnh nhiễu xạ đặc trưng có cường độ mạnh và rõ nét, vì vậy chúng tôi
tiếp tục khảo sát các tính chất của mẫu perovskite tại tỉ lệ F này.
49
Ngoài tỉ lệ pha tạp Sr x = 0.4 chúng tôi có tiến hành chế tạo các mẫu tạp x =
0.2, 0.3 và 0.5, giản đồ nhiễu xạ tia X của các mẫu này được trình bày như trên
Hình 3. 5.
Hình 3. 5: Giản đồ nhiễu xa tia X mẫu LSM0.4 chế tạo bằng phương pháp kích nổ vi
sóng với các tỉ lệ pha tạp x khác nhau (x = 0, 0.2, 0.3, 0.4 và 0.5).
Từ giản giản đồ nhiễu xạ tia X của các mẫu LSMx với x= 0, 0.2, 0.3, 0.4 và 0.5 chúng tôi tính được các hằng số mạng và kích thước tương ứng của các mẫu tương ứng như trong
Bảng 3. 1. Các mẫu pha tạp Sr có kích thước trung bình khoảng 20 nm.
50
Kích thước trung Mẫu LSMx a (Å) c (Å) bình D(nm)
5.53 13.33 16.8 x = 0
5.51 13.37 21.1 x = 0.2
5.48 13.30 19.9 x = 0.3
5.52 13.34 19.4 x = 0 .4
Bảng 3. 1: Các thông số hằng số mạng và kích thước tinh thể của mẫu LSMx với x =
0,2, 0.3 và 0.4.
Để ứng dụng làm điện cực catot trong pin nhiên liệu, tính chất về độ xốp và
điện là các quan trọng, vật liệu từ dạng bột đã được ép viên và nung thiêu kết ở 700
°C để tiến hành các phép đo (như đã được trình bày trong chương 2). Mãu LSM0.2
sau khi được ép và nung thiêu kết đã được khảo sát cấu trúc bằng phép đo nhiễu xạ
tia X như được trình bày trong Hình 3. 6.
Hình 3. 6: Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu LSM0.2 trước và sau khi nung ở 700 °C.
51
Từ Hình 3. 6 có thể nhận thấy nhiệt độ nung ở 700 °C không làm thay đổi
cấu trúc mạng của vật liệu LSM0.2, mẫu sau khi ép và nung vẫn giữ nguyên cấu cấu
trúc lục giác với các vị trí đỉnh đặc trưng của mạng LaMnO3 rõ rang và gần như
không có sự khác biệt so với mẫu LSM0.2 trước khi nung. Hằng số mạng và kích
thước tinh thể trung bình của mẫu LSM0.2 sau khi nung được xác định lần lượt là a
= 5.48 Å, c = 13.53 Å và D = 22 nm. So sánh với hằng số mạng và kích thước tinh
thể trung bình của mẫu LSM0.2 trước khi nung như trên Bảng 3. 1 có thể thấy kích
thước cũng như các thông số mạng không có sự thay đổi nhiều. kích thước trung
bình của hạt cũng trong khoảng 20 nm.
Như vậy có thể thấy quá trình ép và nung ở 700 °C không làm thay đổi tới
cấu trúc cũng như kích thước tinh thể của mẫu LaMnO3 pha tạp Sr.
3.2.2 Phổ tán sắc năng lượng của mẫu LSMx
Các mẫu LSMx sau khi chế tạo cũng được đem đi phân tích thành phần trong
mẫu bằng phổ tán sắc năng lượng tia X (Hình 3. 7, Hình 3. 8 và Hình 3. 9).
Hình 3. 7: Phổ tán sắc năng lượng tia X của mẫu LSM0.2
52
Hình 3. 8: Phổ tán sắc năng lượng tia X của mẫu LSM0.3
Hình 3. 9: Phổ tán sắc năng lượng tia X của mẫu LSM0.4
Từ phổ tán sắc năng lượng tia X của các mẫu LSMx ta nhận thấy mẫu thu
được hoàn toàn tinh khiết. Đồng thời ta nhận thấy sự có mặt của thành phần Sr
trong tất cả các mẫu, kêt hợp với kết quả của phép đo nhiễu xạ tia X không xuất
53
hiện thêm pha lạ nào khác LMO, như vậy có thể thấy Sr đã thay thế La ở trong
mạng tinh thể và hình thành pha Perovskite .
La (%) Sr (%) Mn (%) La : Sr : Mn
LSMx
8.52 2.56 11.08 0.8 : 0.2 : 1 x=0.2
8.23 3.57 11.56 0.7 : 0.3 : 1 x=0.3
5.92 5.38 11.74 0.55 : 0.45 : 1 x=0.4
Bảng 3. 2: Thành phần các nguyên tố của các mẫu LSMx với các tỉ lệ x khác nhau.
Từ Bảng 3. 2 Thành phần các nguyên tố của các mẫu có thể thấy tỉ lệ
La:Sr:Mn:O đều khá phù hợp với thành phần danh định.
3.2.3. Ảnh kính hiển vi điện tử quét LSMx
Hình 3. 10: Ảnh SEM của các mẫu LSMx với x = 0.2, 0.3 và 0.4 tương ứng với các
hình a, b và c.
54
Hình thái của các hạt trong vật liệu thể hiện qua hình ảnh SEM. Các phản
ứng đốt cháy tạo ra vật liệu xốp, cấu tạo từ các hạt có kích thước nhỏ và đồng đều
[12]. Hình 3. 10 thể hiện ảnh SEM của mẫu LSMx với x = 0.2, 0.3 và 0.4 các mẫu
thu được có độ xốp cao và đồng đều. Như vậy, phương pháp kích nổ vi sóng phù
hợp để chế tạo các bột nano xốp.
3.2.4. Độ xốp của LSMx
Sau khi tiến hành đo độ xốp của các mẫu LSMx bằng phương pháp acsimet,
chúng tôi đã thu đươc kết quả độ xốp của các mẫu như sau :
- Mẫu LSM0.2: P = 30.7 % - Mẫu LSM0.3: P = 36.4 % - Mẫu LSM0.4: P = 35.7 %.
Các mẫu LSMx chế tạo được thảo mãn yêu cầu về độ xốp của vật liệu làm
Catot của SOFC. Với độ xốp của các mẫu nằm trong khoảng 30 – 40 % phù hợp và có khả năng định hướng ứng dụng trong điện cực Catot trong pin nhiên liệu oxit rắn.
3.2.5. Tính chất điện của LSMx
Các mẫu LSMx sau khi ép viên, được mang đi đo tính chất điện bằng
phương pháp bốn mũi dò. Kết quả đo điện trở suất sử dụng 4 mũi dò thu được kết
quả như sau:
- Mẫu LSM0.2: 13,4 Ω/ vuông - Mẫu LSM0.3: 14,8 Ω/ vuông - Mẫu LSM0.4: 15,3 Ω/ vuông.
Kết quả cho thấy cả 3 mẫu pha tạp Sr đều cho tín hiệu điện, điều này là một
tín hiệu tốt để chúng tôi có thể tiếp tục cải thiện vật liệu này để định hướng ứng
dụng cho làm điện cực catot của pin nhiên liệu.
Sau khi chế tạo thành công vật liệu LSMx, với một số kết quả sơ lược về khả
năng ứng dụng trong điện cực của pin nhiên liệu. Để chứng minh phương pháp kích
nổ vi sóng có khả năng chế tạo được nhiều loại vật liệu khác nhau đồng thời giúp
góp phần giảm giá thành nguyên liệu, chúng tôi bước đầu tiến hành pha tạp Ba vào
55
vật liệu nền LMO để thay thế cho Sr. Dưới đây là một số kết quả về cấu trúc và
thành phần của vật liệu LMO pha tạp Ba bằng phương pháp kích nổ vi sóng.
3.3. Vật liệu LBMx với x = 0.2
Sau khi chế tạo thành công vật liệu nền LMO chúng tôi đã tiến hành pha tạp
Ba với các tỉ lệ 20 % tương ứng với x là 0.2.
3.3.1. Khảo sát cấu trúc của LBM0.2
Mẫu LBM0.2 sau khi chế tạo bằng phương pháp kích nổ vi sóng được đem đi
khảo sát cấu trúc bằng phương pháp nhiễu xạ tia X.
Hình 3. 11: Giản đồ nhiễu xạ tia X mẫu LBM0.2
Mẫu LaMnO3 pha tạp 20 % Ba được chế tạo bằng phương pháp kích nổ vi
sóng có cấu trúc lục giác với với các các hằng số mạng lần lượt là: a= 5,52 Å và c=
13,51 Å . Từ công thức Debye Sherer chúng tôi xác định được kích thước tinh
thể của mẫu LBM0.2 là DLBM0.2 = 20,2 nm.
56
3.3.2. Phân tích thành phần mẫu LBM0.2
Mẫu LMB0.2 sau khi chế tạo được đem đi phân tích thành phần trong mẫu
bằng phép đo tán sắc năng lượng tia X. Kết quả thành phần mẫu thu được như trong
bảng:
La (%) Ba (%) Mn(%) O (%) Tỉ lệ La : Ba : Mn
13,3 3,16 15,24 68,3 0.81 : 0.19 : 0.93 LBM0.2
Bảng 3. 3: Bảng thành phần nguyên tố trong mẫu LMB0.2.
Ta có thể thấy trong mẫu LBM0.2 hoàn toàn không chứa tạp chất và sự tồn tại
của thành phần Ba có trong mẫu, kết hợp với kết quả của phép đo nhiễu xa tia X
cho thấy đã pha tạp thành công Ba vào trong nền vật liệu Perovskite LMO với thành
phần danh định tương đối chính xác.
57
KẾT LUẬN
Đã xây dựng thành công quy trình chế tạo vật liệu perovsikte bằng phương
pháp kích nổ vi sóng. Đã chế tạo thành công bột nano LaMnO3 và LaMnO3 pha tạp
Sr và Ba. Quy trình chế tạo đơn giản có khả năng ứng dụng cho nhiều loại vật liệu
khác nhau.
Lượng nhiên liệu glycin sử dụng trong phương pháp kích nổ vi sóng có vai
trò quyết định đến sự hình thành sản phẩm bột nano perovskite. Kết quả thực
nghiệm cho thấy tỉ lệ glycine/kim loại tối ưu để pha tạp Sr và Ba vào nền LMO là F
= 4.
Các perovsikte pha tạp thu được đều có cấu trúc lục giác với kích thước
trung bình khoảng 20 nm. Các mẫu perovsikte thu được có độ tinh khiết cao và tỉ lệ
thành phần các nguyên tố phù hợp với thành phần danh định.
Chế tạo được vật liệu LaMnO3 pha tạp Sr có độ xốp cao (30 – 40 %) có khả
năng ứng dụng làm catot cho pin nhiên liệu rắn.
58
Các công trình khoa học đã công bố
1. Tran Thi Ha, Tang Thi Trung Anh, Pham Thuy Linh, Phi Thi Huong, Pham Nguyen Hai, Nguyen Hoang Nam, Bach Thanh Cong, Sai Cong Doanh, Nguyen Quang Hoa, Duong Van Tuan, Le Viet Bau, Ho Khac Hieu, DoanQuoc Khoa, Nguyen Viet Tuyen, “Pulsed electron deposition of LaMnO3 thin films with target made of LaMnO3 nano-powder synthesized by self-combustion method”, Proceedings of International workshop of Nanotechnology and Application, 08-11 November 2017, Phan Thiet, Viet Nam, pp.203-206, 2017.
2. Phi Thị Hương, Phạm Thùy Linh, Trần Thị Uyên, Nguyễn Hoàng Nam, Trần Thị Hà, Nguyễn Việt Tuyên, “Nghiên cứu chế tạo hạt nano Perovskite bằng phương pháp kích nổ vi sóng”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 05(30), 72-77, 2018.
3. Thi Ha Tran, Thuy Linh Pham, Thi Huong Phi, Thi Uyen Tran, Hanh Nguyen La, Thanh Cong Bach, Cong Doanh Sai, Quang Hoa Nguyen, Viet Tuyen Nguyen, Hoang Nam Nguyen, Nguyen Hai Pham, Trong Tam Nguyen, Quoc Khoa Doan, Khac Hieu Ho, “Sr doped LaMnO3 nanoparticles prepared by microwave combustion method: a recyclable visible light photocatalyst”, Ceramic Internation, under review.
59
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Ngọc Long (2007), Vật lý chất rắn, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội.
Tiếng Anh
2. Adler S.B., Lane J.A., Steele B.C.H (1996), "Electrodes kinetics of pouros
mixed-conducting oxygen", Journal of Electrochemical Society, 143 (11),
pp. 3554-3564.
3. Albert T. (2009), "Review Strategies for Lowering Solid Oxide Fuel Cells
Operating Temperature", Energies, 2, pp. 1130-1150.
4. Antoni L. (2004), "Materials for solid oxide fuel ceels: The challenge of their
stability", Materials Science Forum, 446, pp. 1073-1090.
5. Basu R. N. (2003), Recent Trend in Fuel ceel Science and Technology, Spinger,
New York.
6. Berger D. , C. Matei, F. Papa, D. Macovei, V. Fruth, J. P. Deloume (2007),
"Pure and doped lanthanum manganites obtained by combustion method",
Journal of the European Ceramic Society, 27, pp. 4395-4398.
7. Brichzin L., Fleig J., Habermeier H.U., Cristiani G., Maier J. (2002), "The
geometry dependence of the polarization resitance of Sr-doped LaMnO3
microelectrodes on Yttria-stabilized zirconia", Solid state Ionics, 152-153,
pp. 499-507.
8. Burriel M., Garcia G., Santiso J., Kiner J.A, Chater R.J, Skinner S.J. (2008),
"Anisotropic oxygen difusin properties in epitaxial thin films of
La2NiO4+δ", Journal of Materials Chemistry, 18 (11), pp. 416-422.
9. Charmelle D. S., Ernst E. F., Julian S., Holger L. (2016), "A Review of using
spray pyrolysis through Sol-gel materials in the synthesis of cathode
60
materials for lithium-ion batteries", South African Journal of Chemistry, pp.
88-97.
10. Chendong Z., Mingfei L. (2012), Solid oxide Fuel cell, Springer, New York.
11. Cheng J., Navrotsky A., Zhou X-D., Anderson H.U. (2005), "Enthalpies of
formation of LaMO3 perovskites (M = Cr, Fe, Co, and Ni)", Journal of
MAterial Reseach Society, 20 (1), pp. 191-200.
12. Conceic L.D. (2010), “Combustion synthesis of LSCF porous materials for
application as cathode in IT-SOFC”, Material Reseach Bulletin, 46, pp.308-
314.
13. Chunwen S. ,Rob H., Justin R. (2010), "Cathode materials for solid oxide fuel
cells: A review", Solid State Electrochem, 14, pp. 1125-1144.
14. Clausen C., Bagger C., Bilde-Sorensen J.B., Horsewell A. (1994), "Interface
between LaoJr o J4n03 and Y20i-stabrlized Zr02", Solid State Ionics, 70-71,
pp. 59-64.
15. Colomer M. T., Steele B. C. H., Kilner J. A. (2002), "Structural and
electrochemical properties of the Sr0.8Ce0.1Fe0.7Co0.3O3-𝝳 perovskite as
cathode material for ITSOFCs", Solid State Ionics, 147, pp. 41-48.
16. Dang N. V. , T. D. Thanh, L. V. Hong, V. D. Lam, L. P. The (2011), "Structural
optical and magnetic properties of polycrystalline BaTi1-xFexO3 ceramics",
Journal of Applied Physics, 110, pp. 043914-1-7.
17. De S. R. A., Kilner J.A., Walker J.F. (2000), "A SIMS study of oxygen tracer
diffusion and surface exchange in La 0.8 Sr 0.2 MnO 3+𝝳," Materials
Letters, 43, pp. 43-52
18. Endo A., Wada S., Wen C.J., Komiyama H., Yamada K. (1998), "Low
Overvoltage Mechanism of High Ionic Conducting Cathode for Solid Oxide
Fuel Cell", 145 (3), pp. 35-37.
61
19. Fergus J. W. (2005), "Metallic interconnects for solid oxide fuel cells",
Materials Science and Engineering, 397, pp. 271-283.
20. Fergus J. W. (2005), "Sealants for solid oxide fuel cells," Journal of Power
Sources, 147, pp. 46-57.
21. Fergus J. W. (2003), "SOLID OXIDE FUEL CELL CATHODES: Polarization
Mechanisms and Modeling of the Electrochemical Performance", Annual
Review of Materials Research, 33, pp. 361-382.
22. Fergus . F (2007), "Materials challenges for solid-oxide fuel cells", Journal of
the Minerals, Metals and Materials Society, 59, pp. 56-62.
, J. R. Jurado, A. M. Segadães, J. R. Frade (1997),
23. Fumo D. A.
"COMBUSTION SYNTHESIS OF IRON-SUBSTITUTED STRONTIUM
TITANATE PEROVSKlTES", Materials Research Bulletin, 32 (10), pp.
1459-1470.
24. Gellings P.J., Bouwmeester H. J. M. (2000), "Solid state aspects of oxidation
catalysis", Catalysis Today, 58 (1), pp. 1-53.
25. Guo R. S. , Q. T. Wei, H. L. Li, F. H. Wang (2006), "Synthesis and properties of
La0.7Sr0.3MnO3 cathode by gel combustion", Materials Letters, 60 (2), pp.
261-265.
26. Haile M. S. (2003), "Fuel cell materials and components", Acta Materialia, 51,
p. 5981–6000.
27. Hooger G. (2003), Fuel Cell Technology Handbook, CRC Press, New York.
28. Horita T., Yamaji K., Ishikawa M., Sakai N., Yokokawa H., Kawada T., Kato T.
(1998), "Active Sites Imaging for Oxygen Reduction at the
La0.9Sr0.1MnO3 − x/Yttria‐Stabilized Zirconia Interface by Secondary‐Ion
Mass Spectrometry", Electrochemical Society, 145 (9), pp. 3196-3202.
29. Ioroi T.H., Uchimoto T.Y., Ogumi (1998), "Preparation of Perovskite‐Type
La1 − x Sr x MnO3 Films by Vapor‐Phase Processes and Their
62
Electrochemical Properties: II. Effects of Doping Strontium to on the
Electrode Properties", Journal of Electrochemistry Society, 145(6), pp.
1999-2004.
30. Jiang S. P. (2002), "A comparison of O2 reduction reactions on porous
(La,Sr)MnO3 and (La,Sr)(Co,Fe)O3 electrodes", Solid State Ionics, 146, pp.
1-22.
31. Jiang S.P., Love J.G., Zhang J.P., Hoang M., Ramprakash Y., Hughes A.E.,
Badwal S.P.S. (1999), "The electrochemical performance of LSM/zirconia–
yttria interface as a function of a-site non-stoichiometry and cathodic current
treatment", Solid State Ionics, 121, pp. 1-10.
32. Jørgensenz M. J., Mogensen M. (2001), "Impedance of Solid Oxide Fuel Cell
LSMO/YSZ Composite Cathodes", Journal of The Electrochemical Society,
148, pp. A433-A442.
33. Kenjo T., Nishiya M. (1992), "LaMnO3 air cathodes containing ZrO2
electrolyte for high temperature solid oxide fuel cells lT.," Solid State Ionics,
57, pp. 295-302.
34. Koep E., David S. M., Das R., Charles C., Meilin L. (2005), "Characteristic
Thickness for a Dense La0.8Sr0.2MnO3 Electrode", Electrochemical and
Solid-State Letters, vol. 8, no. 11, pp. A592-A595.
35. La O’ G.J., Savinell R.F., Shao-Horn Y. (2009), "Activity Enhancement of
Dense Strontium-Doped Lanthanum Manganite Thin Films under Cathodic
Polarization: A Combined AES and XPS Study", Journal of The
Electrochemical Society, 156 (6) , pp. B771-B781.
36. Lee Y.K, Kim J.Y., Moon K.I., HS P.J.W., Jacobson C.P., Visco S.J. (2003),
"Conditioning effects on La1−xSrxMnO3-yttria stabilized zirconia
electrodes for thin-film solid oxide fuel cells", Journal of Power Sources,
115, p. 219–228.
63
37. Li Y., Gemmen R., Liu X., “Review: Oxygen reduction and transpotation
mechanisms in solid oxide fell cell cathodes”, z, 195, pp. 3345-3358.
38. Linh Nguyen Hoang , Nguyen Thuy Trang, Nguyen Tien Cuong, Pham Huong
Thao, Bach Thanh Cong (2010), "Influence of doped rare earth elements on
electronic properties of the R0.25Ca0.75MnO3 systems", Computational
Materials Science, 50 , pp. 2-5.
39. Lu X., Faguy P.W., Liu M.L. (2002), "In Situ Potential-Dependent FTIR
Emission Spectroscopy A Novel Probe for High Temperature Fuel Cell
Interfaces," Journal of The Electrochemical Society, 149 (10), pp. A1293-
A1298.
40. McIntosh S., Adler S.B., Vohs J.M., Gorte R.J. (2004), "Effect of Polarization
on and Implications for Characterization of LSM-YSZ Composite",
Cathodes Electrochemical and Solid-State Letters, 7 (5), pp. A111-A114.
41. Minh N. Q. , Takahashi T. (1995), Science and Technology of Ceramic Fuel
Cells, Elsevier Science, Amsterdam.
(1997), "Electrical conduction behavior in
42. Nomura K., Tanase S.
(La0.9Sr0.1)MIIIO3−δ(MIII=Al, Ga, Sc, In, and Lu) perovskites", Solid
State Ionics, 98, p. 229–236.
43. Patil K. C. , S. T. Aruna, T. Mimani (2002), "Combustion synthesis: an update,"
Current Opinion in Solid State and Materials Science , 6, pp. 507-512.
44. Pingbo X. , Z. Weiping, Y. Kuo, J. Long, Z. Weiwei, X. Shangda (2000), "Size-
controllable gly–nitrate low temperature combustion synthesis (LCS) of
nanocrystalline La1-xSrxMnO3", Journal of Alloys and Compounds, 311, p.
90–92.
45. Prabhakaran K. , J. Joseph, N. M. Gokhale, S. C. Sharma, R. Lal (2005),
"Sucrose Combustion Synthesis of LaxSr(1-x)MnO3 (x ≤0.2) Powders",
Ceramics International, 1 (2), pp. 327-331.
64
46. Segadães A. M. , M. R. Morelli, R. G. A. Kiminami (1998), "Combustion
Synthesis of Aluminium Titanate", Journal of the European Ceramic
Society, 18 (7), pp. 771-781.
47. Setoguchi T., Inoue T., Takebe H., Eguchi K., Morinaga K., Arai H. (1990),
"Fabrication and evaluation of flat thick film type solid oxide fuel cell,"
Solid State Ionics, 37, pp. 217-221.
48. Stochniol G., Syskakis E., Naoumidis A. (1995), "Chemical Compatibility
between Strontium‐Doped Lanthanum Manganite and Yttria‐Stabilized
Zirconia", Journal of the American Ceramics Society, 78 (4), pp. 929-932.
49. Sujatha P. D., Sharma A. D., Maiti H. S. (2004), "Solid Oxide Fuel Cell
Materials: A Review", Transactions of the Indian Ceramic Society, 63 (2),
pp. 75-98.
50. Tanasescu S., Totir N.D., Marchidan D.I. (1998), "Thermodynamic data of the
perovskite-type LaMnO3±x and La0.7Sr0.3MnO3±x by a solidstate
electrochemical technique", Electrochimica Acta, 43, pp. 1675-1681.
51. Tanasescu S., Totir N.D., Marchidan D.I. (1999), "Thermodynamic properties
of some perovskite type oxides used as SOFC cathode materials", Solid
State Ionics, 119, pp. 311–315.
52. Tanasescu S., Totir N.D., Neiner D. (2001), "CORRELATIONS BETWEEN
THE NONSTOICHIOMETRY AND THE THERMODYNAMIC DATA
OF PEROVSKITE-TYPE COMPOUNDS IN THE La-Sr-Mn-O SYSTEM",
Journal of Optoelectronics and Advanced Materials, 3 (1), pp. 101 – 106.
53. Tao S.W., Irvine J.T.S. (2003), "A redox-stable efficient anode for solid-oxide
fuel cells", Nature Materials, 2, p. 320–323.
54. Thuy Trang Nguyen, Thanh Cong Bach, Huong Thao Pham, The Tan Pham,
Duc Tho Nguyen, Nam Nhat Hoang (2011), "Magnetic state of the bulk,
65
surface and nanoclusters of CaMnO3: a DFT study", Physica B: Physics of
Condensed Matter, 406, pp. 3613-3621.
55. Trofimenko N.E., Ullmann H. (2000), "Oxygen stoichiometry and mixed ionic-
electronic conductivity of Sr1−aCeaFe1−bCobO3−x perovskite-type
oxides," Journal of the European Ceramic Society, 20, pp. 1241-1250.
56. Ullmann H., Trofimenko N. (1999), "Composition, structure and transport
properties of perovskite-type oxides," Solid State Ionics, 119, pp. 1–8.
57. Ullmann H., Trofimenko N., Tietz F., Stöver D., Ahmad-Khanlou A. (2000),
"Correlation between thermal expansion and oxide ion transport in mixed
conducting perovskite-type oxides for SOFC cathodes", Solid State Ionics,
138, pp. 79–90.
, A. S. Rogachev, A. S. Mukasyan, S. Hwang (1998), "
58. Varma A.
COMBUSTION SYNTHESIS OF ADVANCED MATERIALS:
PRINCIPLES AND APPLICATIONS", Advances in Chemical Engineering,
24, pp. 79-226.
59. Vohs J.M., Gorte R.J. (2009), "High-Performance SOFC Cathodes Prepared by
Infiltration", Advanced Materials, 21, pp. 943–956.
60. Wang H. K. , Venkataraman T. (2015), "Challenges and prospects of anode for
solid oxide fuel cells (SOFCs)," Solid State Ionics, 21, pp. 301–318.
61. Wang W., Jiang S.P. (2006), "A mechanistic study on the activation process of
(La, Sr)MnO3 electrodes of solid oxide fuel cells," Solid State Ionics, 177,
pp. 1361–1369.
62. Weifan C., Fengsheng L,, Leili L., Yang L. (2006), "One- Step Synthesis of
Nanocrytalline Perovskite LaMnO3 Powders via Microwave-Induced
Solution Combustion Route", JOURNAL OF RARE EARTHS, 24, pp. 782 –
787.
66
63. Woo L.Y., Glass R.S., Gorte R.J., Orme C.A., Nelson A.J. (2009), "Dynamic
Changes in LSM Nanoparticles on YSZ: A Model System for Non-
Stationary SOFC Cathode Behavior", Journal of The Electrochemical
Society, 156 (5), pp. B602-B608.
64. Yamamoto O., Takeda Y., Kanno R., Noda M. (1987), "Perovskite-type oxides
as oxygen electrodes for high temperature oxide fuel cells", Solid State
Ionics, 22, pp. 241-246.
65. Yang Y. J. , T. L. Wen, H. Tu, D. Q. Wang, J. Yang (2000), "Characteristics of
lanthanum strontium chromite prepared by glycine nitrate process," Solid
State Ionics, 135, pp. 475–479.
66. Yokokawa H., Sakai N., Kawada T., Dokiya M. (1990), "Thermodynamic
analysis on interface between perovskite electrode and YSZ electrolyte",
Solid State Ionics, 40, pp. 398-401.
67. Yokokawa H., Sakai N., Kawada T., Dokiya M. (1992), "Thermodynamic
stabilities of perovskite oxides for electrodes and other electrochemical
materials", Solid State Ionics, 52, pp. 43-56.