
3
cần phải gỡ nhiều nhưng không khó. Theo Nguyễn Hoàng Bắc có
70% thương tổn là do dính, còn theo Strickland (1999) tỷ lệ dính
hoàn toàn là 72%. Tỷ lệ chuyển sang mổ mở của các tác giả nước
ngoài là 12, 5- 45,4%.
Tai biến được các tác giả đề cập nhiều nhất là thủng ruột và tổn
thương rách thanh mạc ruột trong khi mổ. Tỷ lệ thủng ruột thay đổi
từ 3- 17,6%. Theo Strickland có 10% tai biến trong mổ là thủng ruột
non và thương tổn thanh cơ ruột. Wullstein nhận xét số lần mổ trước
càng nhiều thì nguy cơ thủng ruột trong khi mổ càng cao vì do dính
nhiều và gỡ dính khó khăn, số lần mổ cũ tỷ lệ thuận với tai biến xảy
ra trong mổ. Sato cho rằng đa số các trường hợp rách thanh cơ và
thủng ruột non có thể điều trị thành công bằng nội soi.
Theo Bashar Ghosheh tỷ lệ tử vong khi tổng kết 19 bài báo cáo về
PTNS điều trị tắc ruột do dính, tác giả ghi nhận có 16/1046 trường
hợp (1,5%) tử vong sau mổ. Tỷ lệ tử vong trong PTNS thấp hơn mổ
mở. Theo Asbun, tỷ lệ tử vong của mổ mở khoảng 3,8%, còn theo tác
giả Williams là khoảng 2,8%. Trong báo cáo năm 2010 của Grafen,
tỉ lệ tử vong sau gỡ dính ruột nội soi là 5%(3/66), của nhóm chuyển
mổ mở là 8% (2/24) và của nhóm mổ mở ngay từ đầu trong cùng lô
nghiên cứu là 33% (1/3).
1.2 Kết quả lâu dài của phƣơng pháp điều trị TRSM bằng PTNS
Theo nhiều tác giả, phẫu thuật gỡ dính nội soi có thể giúp giảm
thiểu nguy cơ tái phát tắc ruột do mổ mở vì chính vết mở bụng dài sẽ
là nguyên nhân tạo dính, dây chằng và các đợt tắc ruột tái phát.
Franklin (2004) báo cáo có 7/167 bệnh nhân (4,2%) có biến chứng
tắc ruột tái phát. Tác giả Levard và CS báo cáo kết quả hồi cứu các
bệnh nhân được điều trị tắc ruột bằng mổ nội soi hoàn toàn và nhóm
phải chuyển mổ mở cho thấy khi theo dõi lâu dài sau khi ra viện,
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm về tỉ lệ tử
vong, tỷ lệ tắc ruột tái phát cũng như các biến chứng về vết thương.